text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Sọ 5 là một chiếc sọ 1,8 triệu năm tuổi được phát hiện tại Gruzia. Khi được phát hiện vào năm 2005 tại thị trấn Dmasini, cách Tbilisi 100 km về phía tây nam, Sọ 5 cũng đã gây xôn xao vì đây là "chiếc sọ còn nguyên vẹn nhất của vượn người nguyên thủy từng được tìm thấy". Đây là sọ một cá thể đực trưởng thành, cao khoảng 1,5 m và có thể đã chết do đánh nhau với một con vật ăn thịt hung hãn nào đó, bằng chứng là phần xương hàm "bị tát rời ra".
Hộp sọ là nguyên nhân của một cuộc tranh cãi cổ sinh vật học vẫn đang tiếp diễn tính đến năm 2017: nhiều hóa thạch hominin được cho là từ các loài khác nhau như "Homo rudolfensis" hoặc "Homo habilis" có thể không phải là những loài riêng biệt. Đúng hơn, họ có thể là một dòng dõi tiến hóa duy nhất.
Khám phá.
Vào năm 1991, nhà khoa học người Gruzia David Lordkipanidze đã tìm thấy dấu vết của sự chiếm đóng ban đầu của con người trong hang động tại Dmanisi ở Georgia: một ngôi làng và một địa điểm khảo cổ cách thủ đô Tbilisi của đất nước khoảng 90 km (56 dặm) về phía tây nam. Kể từ đó, năm hộp sọ hominin ban đầu đã được phát hiện tại địa điểm này. Hộp sọ 5, được tìm thấy vào năm 2005, là mẫu vật hoàn chỉnh nhất trong số đó. Sau khi phân tích sâu hơn, nó được kết hợp với thiết bị bắt buộc (D2600) được tìm thấy 5 năm trước đó. Phân tích cuối cùng của khám phá này mất nhiều năm và chỉ được công bố vào năm 2013. | 1 | null |
Lepidogalaxias salamandroides là một loài cá nhỏ ở Tây Australia. Nó là loài duy nhất của chi Lepidogalaxias và họ Lepidogalaxiidae. Mặc dù nó không phải là cá phổi, nhưng trông giống như cá phổi ở một vài điểm, bao gồm cả khả năng sống qua mùa khô hạn bằng cách đào hang vào trong cát.
Tên gọi.
Các tên gọi phổ biến trong tiếng Anh bao gồm "mud minnow" (cá tuế bùn), "long-finned galaxias" (galaxias vây dài), "scaled galaxias" (galaxias có vảy) hay "dwarf pencilfish" (cá bút chì lùn), tuy nhiên mud minnow thường được dùng trong tiếng Anh để chỉ loài "Galaxiella munda".
Các tên gọi khác cho "L. salamandroides" còn có "salamanderfish of Western Australia" (cá kỳ giông Tây Úc), "West Australian salamanderfish" (cá kỳ giông Tây Úc), "salamander fish" (cá kỳ giông), "salmanderfish" (cá kỳ giông) và "Shannon mudminnow" (cá tuế bùn Shannon).
Đặc điểm.
"Lepidogalaxias salamandroides" là cá nhỏ có thể dài tới 7 cm, mặc dù kích thước phổ biến chỉ khoảng 4 cm. Loài này có thân mảnh dẻ, thuôn dài hình ống. Màu lục nâu ở phần trên và ánh bạc với các đốm sẫm màu ở hông, rất nhạt màu ở bụng, và các màng vây trong suốt hay trong mờ. Mắt ánh đỏ, cố định, nhưng nó có thể xoay cổ theo góc tới 90 độ.
Phân bố.
Loài cá này có sự phân bố hạn chế trong các vùng nước chua tại bãi bùn vùng đất thạch nam miền đất phẳng ở tây nam Australia, giữa sông Blackwood và sông Kent. Phạm vi này trải ngang vùng đất khoảng 180 km, và nó là phổ biến trong khu vực Northcliffe. Môi trường sống của nó là các vùng nước bán vĩnh cửu, các vũng nước nhỏ và các sông suối nhỏ chứa nhiều tanin và chua (pH = 3,0-4,5). Chúng chịu được sự thay đổi nhiệt độ của nước trong khoảng từ 17 tới 26 độ C, trong các vũng nước không sâu hơn 0,1 m. Loài cá này sống ở đáy, bơi bằng cách sử dụng các vây chậu thuôn dài và vây đuôi tròn. Các ao hồ nhỏ có thể chứa quần thể khoảng 150 con, nói chung không rộng hơn 600 mét vuông, và bay hơi cạn trong mùa khô. Nó cũng là bất thường vì khả năng sống vượt qua sự khô hạn bằng cách rúc vào hang hốc hình quả lê do chúng đào trong cát, một quá trình ngủ hè, khi vùng nước nó sống bị khô hạn định kỳ. Mùa sinh sản trùng với mùa mưa, từ tháng 5 tới tháng 8.
Phân loại và phát sinh chủng loài.
Loài này được Gerlof Fokko Mees miêu tả lần đầu năm 1961. Tác giả cho rằng nó thuộc họ Galaxiidae, nhưng mối quan hệ với các loài trong họ đó bị nghi vấn và thách thức. "Lepidogalaxias salamandroides" sau đó được đặt trong bộ Osmeriformes, thuộc chi đơn loài "Lepidogalaxias" và họ đơn loài Lepidogalaxiidae vào năm 1991. Vị trí này cũng bị thách thức, nhưng duy trì cho tới gần đây. Đôi khi nó cùng họ Galaxiidae được xếp trong bộ Salmoniformes.
Gần đây hơn, vị trí của "Lepidogalaxias" nằm ở gốc của Euteleostei và làm cho họ Galaxiidae trở thành không đơn ngành cũng đã được đề xuất trong một số nghiên cứu giai đoạn 2010-2012 và được hỗ trợ trong nghiên cứu của Betancur và ctv (2013).
Phát sinh chủng loài của "Lepidogalaxias salamandroides" theo Li và ctv (2010), Betancur và ctv (2013): | 1 | null |
Osterseen là một nhóm hồ nằm về phía Nam của hồ Starnberger See, thuộc huyện Weilheim-Schongau ở Bayern, Đức.
Địa lý.
Những hồ ở phía Nam và nằm chính giữa với hồ Großer Ostersee thuộc xã Iffeldorf, những hồ ở phía Bắc từ hồ Stechsee cũng như Frechensee thuộc xã Seeshaupt. Iffeldorf cách Penzberg 5 km nằm về phía Tây Bắc, 20 km nằm về phía Đông Nam huyện lỵ Weilheim và 50 km Nam-Tây Nam của trung tâm München.
Hồ ở độ cao 588 m, diện tích tổng cộng của 20 hồ lớn là 223.55 mẫu vuông, với độ sâu trung bình là 9 m. | 1 | null |
Le Phénomène Humain (tên tiếng Anh: The Phenomenon of Man, tạm dịch Hiện tượng Con người), là một quyển sách viết bởi nhà triết học, cổ sinh vật học kiêm linh mục dòng Tên là Pierre Teilhard de Chardin, có nội dung xoay quanh thuyết tiến hóa. Tác phẩm mô tả thuyết tiến hóa như một quá trình làm tăng tiến dần sự phức tạp và kết quả chung cùng là sự thống nhất của nhận thức. "Hiện tượng con người" được đánh giá là một thành công lớn và nó đã nhiều lần được Nhà xuất bản Éditions du Seuil tái ấn hành.
Tác phẩm được hoàn tất vào thập niên 1930, tuy nhiên chỉ được xuất bản vào năm 1955 sau khi tác giả Teilhard đã qua đời. Trên thực tế Giáo hội Công giáo La Mã đã từng cấm xuất bản một số tác phẩm của Teilhard với lý do là các tác phẩm này đi ngược lại với giáo lý chính thống của Công giáo.
Lời đề tựa của cuốn sách được viết bởi Julan Huxley, một trong những nhà khoa học nổi tiếng nghiên cứu về tiến hóa và chọn lọc tự nhiên trong thế kỷ 20, và là một trong những người phát triển khái niệm Tiến hóa hiện đại tổng hợp ("modern evolutionary synthesis").
Nội dung.
Trong tác phẩm "Hiện tượng Con người", Teilhard xem tiến hóa là quá trình dẫn tới sự phức tạp càng lúc càng tăng. Từ một tế bào tới một động vật có khả năng tư duy, đó là một quá trình của sự tập trung tâm linh dẫn đến nhận thức càng lúc càng tốt hơn. Sự xuất hiện của loài người ("Homo sapiens") là dấu mốc của thời đại mới, tự vì sức mạnh có được từ nhận thức đã nâng con người lên một tầm cao mới. Vay mượn sự diễn giải của Julian Huxley, Teilhard mô tả con người như là một thực thể tiến hóa càng ngày càng nhận thức được chính bản thân mình.
Theo khái niệm của Teilhard về tiến hóa các loài, một tập thể đồng nhất bắt đầu phát triển khi sự giao thiệp và sự truyền tải ý kiến, quan điểm ngày càng tăng lên. Kiến thức được tích tụ lại và truyền tải đi với cấp độ ngày càng cao dần, ngày càng phức tạp và có chiều sâu hơn. Điều này dẫn tới sự gia tăng của nhận thức và sự hình thành của một "lớp vỏ" tư duy bao phủ trái đất. Teilhard gọi lớp vỏ tư duy này là "trí quyển" ("noosphere", bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "nous" có nghĩa là trí tuệ. Thuật ngữ này thật ra được dùng lần đầu tiên bởi nhà khoa học Xô Viết Vladimir Ivanovich Vernadskiy). Trí quyển chính là nhận thức tập thể của con người, là mạng lưới tư duy và cảm xúc mà mọi cá nhân đều chìm đắm trong đó.
Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của con người càng ngày càng nở rộng, giúp cho một người có thể cùng một lúc tồn tại ở mọi ngóc ngách trên thế giới. Teilhard cho rằng loài người vì thế sẽ trở nên quốc tế hóa, hình thành một tổ chức thống nhất vươn dài khắp trái đất. Teilhard mô tả quá trình này là "một quá trình tâm lý-sinh học khổng lồ, một sự tổng hợp quy mô cực lớn, một sự xếp đặt vĩ đại trong đó tất cả mọi nhân tố tư duy trên trái đất trở thành một chủ thể cá nhân và tập thể." Sự nở rộng nhanh chóng của trí quyển yêu cầu sự bành trướng về tâm linh ở một lãnh vực mới vốn "đang nhìn chăm chăm vào chúng ta tựa hồ như chúng ta chỉ ngẩng đầu lên để nhìn vào nó."
Teilhard cho rằng, tiến hóa sẽ đạt tới đỉnh cao nhất tại điểm Omega, một trạng thái nhận thức tối cao. Các tầng thức về nhận thức sẽ hội tụ ở Omega và hòa quyện vào nhau làm một. Sự tập trung của một vũ trụ nhận thức sẽ tái tổ hợp trong nó tất cả mọi thứ nhận thức trên đời cũng như mọi thứ mà chúng ta nhận thức được. Teilhard nhấn mạnh: mỗi khái cạnh cá nhân của nhận thức sẽ tiếp tục ý thức về bản thân nó vào cuối quá trình này.
Đánh giá.
"Hiện tượng con người" nhận được các nhận xét khen lẫn chê. Năm 1961, nhà miễn dịch học Peter Medawar, người nhận giải thưởng Nobel vào năm trước đó, đã viết một bài chỉ trích cay thậm tệ về quyển sách này trên tờ tạp chi Mind. Medawar gọi "Hiện tượng con người" là ""một đống ngụy biện" và cho rằng tác giả Teilhard đã tự mình lừa dối mình: "phần lớn nội dung của cuốn sách này là ngớ ngẩn, ngụy biện bởi một mớ lý thuyết suông khoa trương, và tác giả của nó có thể bị cáo buộc là thiếu lương thiện chỉ cần dựa trên căn cứ là, trước khi lừa gạt người khác thì ông ta đã tốn nhiều công sức để lừa gạt bản thân mình."
Ngược lại, vào tháng 6 năm 1995, Jennifer Cobb Kreisberg viết trên tạp chí "Wired" rằng "Teilhard nhìn thấy hệ thống Mạng trước khi nó xuất hiện đến hơn nửa thế kỷ":
Vào tháng 7 năm 2009, trong buổi cầu kinh chiều diễn ra tại Thánh đường Aosta miền bắc Ý, Giáo hoàng Biển Đức XVI khi nói về Thư gửi tín hữu Rôma trong đó "Thánh Phaolô viết rằng thế giới tự nó sẽ trở thành một nơi của sự thờ phượng sống động"" đã nhận xét về Teilhard như sau:
Nhà xuất bản Harper Collins đã xếp "Hiện tượng Con người" vào một trong 100 sách về tâm linh hay nhất trong thế kỷ XX. | 1 | null |
Garra rufa là loài cá thuộc họ Cyprinidae. Chúng sống và sinh sản trong các hồ của một số hệ thống sông Thổ Nhĩ Kỳ và suối nước nóng. Hiện tại, chúng đã được tích hợp như một liệu pháp điều trị spa, nơi chúng ăn da của bệnh nhân bị bệnh vẩy nến. Trong khi điều trị, "Garra rufa" đã được chứng minh là làm giảm bớt các triệu chứng của bệnh vẩy nến, nhưng không có nghĩa là một cách điều trị bệnh. Việc sử dụng của cá như là một trị liệu spa rộng rãi cho công chúng vẫn được bàn cãi rộng rãi về tính hiệu quả và hiệu lực, như việc điều trị không thấy có hai tác động tích cực hay tiêu cực.
Sự phổ biến.
Garra rufa xuất hiện ở các lưu vực sông của miền Bắc và Trung Trung Đông, chủ yếu ở Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Iraq và Iran. Nó được bảo vệ một cách hợp pháp từ khai thác thương mại ở Thổ Nhĩ Kỳ do lo ngại khai thác để xuất khẩu quá độ. Garra Rufa có thể được giữ trong một bể cá tại nhà, trong khi không hoàn toàn là một "cá để bắt đầu", nó khá khỏe mạnh. Để điều trị các bệnh ngoài da, hồ mẫu không thích hợp cho hành vi da ăn thể hiện đầy đủ, những điều kiện cung cấp thực phẩm có phần khan hiếm và không thể đoán trước.
Nghỉ dưỡng spa.
Năm 2006, khu nghỉ dưỡng spa "Garra rufa" mở cửa tại Hakone, Nhật Bản, và Umag, Croatia, nơi cá được sử dụng để làm sạch da người tắm tại spa. Ngoài ra còn có spa tại khu nghỉ mát ở Trung Quốc, Bỉ, Hà Lan, Hàn Quốc, Singapore, Bosnia và Herzegovina, Hungary, Rhodes (Hy Lạp), Slovakia, Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Hồng Kông, Bucharest, Praha (Cộng hòa Séc) và Sibiu (România), Madrid và Barcelona (Tây Ban Nha), Israel, Pháp, Thụy Điển, Bahrain, và Trondheim (Na Uy). Năm 2008, "Garra rufa" được biết đến rộng rãi đầu tiên dịch vụ đã được mở cửa tại Hoa Kỳ tại Alexandria, Virginia, và sau đó ở Woodbridge, Virginia. Năm 2010, spa Anh đầu tiên được mở ở Sheffield. | 1 | null |
Bookwriter (tạm dịch "người viết sách") là một thành viên trong nhóm viết kịch bản của một nhà hát nhạc kịch, chuyên viết sách—cốt truyện của vở nhạc kịch, sự phát triển của các nhân vật, và cấu trúc kịch. Về bản chất, người viết sách chính là người viết kịch bản của vở nhạc kịch đó. Họ cộng tác rất chặt chẽ với người viết lời bài hát và nhà soạn nhạc nhằm tạo ra một vở kịch thống nhất.
Có một sự nhận thức không chính xác thường gặp rằng người viết sách chỉ đơn thuần viết các đoạn đối thoại; mặc dù trong cuốn sách đó có chứa lời nói của vở nhạc kịch, nhưng thật ra họ còn làm nhiều hơn thế, họ xác định và tổ chức các hành động của nhân vật trong cả vở kịch, trong đó có cả các hành động đã được nhà soạn nhạc "nhạc hoá". Cho dù là các vở nhạc kịch "sung-through" (không có đoạn đối thoại bằng lời nói nào, toàn bộ là qua các bài hát), "có chất opera," hay "through-composed" (các bài hát được thể hiện liên tục, không bị các lời đối thoại nói gián đoạn), nếu có dù chỉ một chút lời nói nào, đều cần có sự đóng góp của người viết sách; và điều tương tự với các vở nhạc kịch có nhiều cảnh đối thoại lớn.
Người viết sách đôi khi cũng chính là người viết lời bài hát, nhà soạn nhạc hay đạo diễn của vở nhạc kịch đó. | 1 | null |
Cá bốn mắt, tên khoa học Anableps, là một chi cá trong họ Anablepidae. Chúng có đôi mắt lớn lên trên đỉnh đầu và chia thành hai phần khác nhau, để có thể nhìn thấy bên dưới và trên mặt nước cùng một lúc. Chúng sống tại nước ngọt và nước lợ và hiếm khi ra ven biển. Chúng có nguồn gốc từ vùng đất thấp ở miền nam México đến Honduras và miền bắc Nam Mỹ.
Loài.
Hiện tại có ba loài được công nhận trong chi này: | 1 | null |
Cá bốn mắt vảy lớn, tên khoa học Anableps anableps, là một loài cá bốn mắt được tìm thấy trong vùng nước lợ miền bắc Nam Mỹ và Trinidad. Loài này phát triển đến chiều dài 32 cm (13 in). Cá này có thể được tìm thấy trong các hồ cá thương mại. | 1 | null |
Eleanor Catton sinh ngày 24 tháng 9 năm 1985 là nhà văn nữ người New Zealand, đã đoạt Giải Man Booker năm 2013 với tiểu thuyết thứ nhì của chị, quyển "The Luminaries".
Tiểu sử.
Catton sinh tại London, Ontario, Canada nơi người cha gốc New Zealand của chị đang hoàn thành luận án để lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Tây Ontario. Gia đình chị chuyển về Leeds (Anh) và chị học ở Trường Lawnswood một năm. Chị đã mô tả thời gian sống ở đây là "tuyệt vời, nhưng thực sự là nơi mở mắt" do tình trạng khó khăn của môi trường. Sau đó gia đình trở lại Christchurch New Zealand khi chị lên 6 tuổi. Chị học ở trường trung học Burnside, học môn ngôn ngữ Anh ở Đại học Canterbury, rồi hoàn tất bằng thạc sĩ về "Creative Writing" ("viết sáng tạo") tại "Học viện Văn chương hiện đại" của Đại học Victoria tại Wellington.
Năm 2008, Catton được cấp một học bổng tham dự Iowa Writers' Workshop ở Đại học Iowa. Năm 2009 chị được mô tả là "cô gái vàng của văn học hư cấu trong năm". Năm 2011, chị trở thành nhà văn viết tại nơi cư trú ở Đại học Canterbury.
Catton hiện sống ở Auckland và là giáo viên môn viết sáng tạo tại Học viện công nghệ Manukau.
Tác phẩm.
Quyển tiểu thuyết đầu tay năm 2008 của Catton là quyển "The Rehearsal", được viết như bản luận án thạc sĩ của chị đề cập tới những phản ứng đối với cuộc tình giữa một nam giáo viên với một nữ sinh ở trường trung học của mình.
Tiểu thuyết thứ nhì của Catton, quyển "The Luminaries", được xuất bản năm 2013 đặt bối cảnh ở những vùng có mỏ vàng của New Zealand năm 1866. Quyển này được vào chung kết và sau đó đoạt Giải Man Booker năm 2013, làm cho Catton trở thành tác giả trẻ tuổi nhất đoạt giải này ở tuổi 28. Trước đó, vào năm 27 tuổi, chị đã là tác giả trẻ nhất được vào chung kết giải Man Booker.
Quyển "The Luminaries" dày 832 trang, là tác phẩm dài nhất đoạt giải Man Booker trong suốt 45 năm lịch sử của giải. Trưởng ban giám khảo, Robert Macfarlane đã bình luận: "Đây là một tác phẩm sáng chói, một tác phẩm dễ hiểu và đồ sộ nhưng không rườm rà". Catton được nữ công tước Camilla của vùng Cornwall trao giải Man Booker ngày 15.10.2013 tại Guildhall. | 1 | null |
Sân bay Samjiyŏn là một sân bay quân sự nằm gần huyện Samjiyon, tỉnh Ryanggang, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Sân bay tọa lạc gần núi Trường Bạch (Paektu). Các du khách có thể bay đến sân bay này trong lịch trình đến thăm ngọn núi và nơi sinh của Kim Chính Nhật. Mọi chuyến tham quan đến khu vực này đều bao gồm một chuyến hành trình đến đây.
Đường bay duy nhất đến sân bay này là từ sân bay quốc tế Sunan do hãng hàng không duy nhất của Triều Tiên Air Koryo thực hiện. | 1 | null |
Trương Vũ Tước (chữ Hán: 张禹爵, ? – 1868), người thôn Trương Lão Gia, Bạc Châu, tỉnh An Huy , tên gốc là Trương Ngũ Hài, tướng lãnh giai đoạn hậu kỳ của phong trào khởi nghĩa Niệp quân (sau cái chết của thủ lĩnh Ốc vương Trương Nhạc Hành), phong hiệu là Ấu Ốc vương.
Cuộc đời hoạt động.
Ông là cháu họ gần đàng nội của Trương Nhạc Hành, có thuyết cho rằng Vũ Tước là con trai của Mẫn Hành, anh trai Nhạc Hành. Sau khi Nhạc Hành bị làm tội (1863), ông rời quê nhà gia nhập Niệp quân. Vũ Tước được thủ lĩnh Trương Tông Vũ (cháu họ xa của Nhạc Hành) dìu dắt, xem như người kế tự của Nhạc Hành, được tiếp nhận vương hiệu, gọi là Ấu Ốc vương; là người nhỏ tuổi nhất trong các vương của nghĩa quân (kể cả quân Niệp và quân Thái Bình) bấy giờ.
Mùa thu năm 1866, quân Tân Niệp ở Hứa Châu, Hà Nam chia 2 lộ Đông - Tây, Vũ Tước theo Trương Tông Vũ đưa quân Tây Niệp đi Thiểm Tây, là tướng lãnh thân cận của ông ta. Trong hàng ngũ nghĩa quân, Tông Vũ nổi tiếng là "giỏi mưu" (thiện mưu), ông nổi tiếng là "giỏi đánh" (thiện chiến).
Năm sau (1867), quân Tây Niệp từ Nghi Xuyên hồ khẩu vượt Hoàng Hà, đạp lên băng mà sang sông, Vũ Tước làm tiền phong, đốt lũy của quan quân ở bờ bên kia, tiến vào Sơn Tây.
Tháng 3 năm 1868, Vũ Tước tử trận ở Nhiêu Âm thuộc trung bộ Hà Bắc . Có thuyết khác cho rằng ông tử trận vào tháng 6 năm ấy, do bị trúng đạn lạc khi chiến đấu trong khoảng giữa sông Mã Giáp và sông Đồ Hãi. | 1 | null |
Simon Webbe Solomon (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1979) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và quản lý âm nhạc người Anh. Anh được biết đến là một thành viên của ban nhạc Blue, được thành lập vào năm 2000 trước khi tan rã vào năm 2005 và tái hợp trong năm 2009. Ban nhạc đã bán được hơn 15 triệu bản. Webbe sau đó phát hành 2 album solo trong năm 2005 và 2006, bán được hơn 650.000 đĩa và có 5 đĩa đơn nằm trong UK Top 40 tại Anh. | 1 | null |
Cầu Hữu nghị Thái-Lào IV (, ; , ) là một cây cầu bắc qua sông Mê Kông nối huyện Chiang Khong tỉnh Chiang Rai của Thái Lan và muang Huoixai tỉnh Bokèo của Lào.
Kích thước.
Cây cầu dài khoảng 480 mét và rộng khoảng 14,7 mét. Tuy nhiên khu vực thi công rộng 400m.
Kinh phí.
Thái Lan, Lào và Trung Quốc cùng hợp tác đầu tư 1,9 tỉ baht để xây dựng cầu. | 1 | null |
Pascual Rigoberto López Pérez (13 tháng 5 năm 1929 – 21 tháng 9 năm 1956) là một nhà thơ, nhà soạn nhạc và nhạc công người Nicaragua. Ông là người đã nổ súng bắn chết nhà độc tài của Nicaragua là Anastasio Somoza García. Ông được chính phủ Nicaragua phong làm Anh hùng dân tộc theo sắc lệnh số 825 ngày 21 tháng 9 năm 1981. Những thông điệp của ông là cảm hứng cho một số tác phẩm của một số nhóm nhạc ví dụ như Dead Prez.
Thiếu thời.
Pascual Rigoberto López Pérez sinh ngày 13 tháng 5 năm 1929 tại León, Nicaragua. Ông là con trai của Soledad López và Francisco Pérez. Lớn lên ông theo học tại Trường Chẩn tế Thánh Gioan của Thiên chúa ("Hospicio de San Juan de Dios") và chịu sự dạy dỗ của người cha đỡ đầu là linh mục Agustín Hernández. Tại trường này ông học nghề may. Sau đó ông học tại Trường Thương mại Silviano Matamoros ("Escuela de Comercio Silviano Matamoros") và theo học nghề biên tập và đánh máy chữ.
López là bạn trai của Amparo Zelaya Castro, người chị em của nhà báo Armando Zelaya, người lái xe chở López đến "Casa del Obrero" để López ám sát Somoza.
Sự nghiệp âm nhạc.
López xuất bản bài thơ đầu tiên của mình "Lời thú tội của người lính" ("Confesión de un Soldado") vào năm 1946 lúc 17 tuổi. Năm 1948 ông cùng với 5 người bạn thành lập nhóm nhạc "Buenos Aires", trong đó ông làm nhạc công vĩ cầm - loại nhạc cụ và López vừa mới học cùng năm. López biên soạn âm nhạc, phần lớn là nhạc lãng mạn, ví dụ như các bài "Claridad" và "Si el vino me hace llorar", được nhóm "Buenos Aires" biểu diễn và phát sóng trên đài phát thanh Radio Colonial. Âm nhạc của Lopéz chịu nhiều ảnh hưởng của các văn nghệ sĩ như Beethoven, hay Rubén Darío - một nhà thơ Nicaraguan được tôn phong là "Cha đẻ của chủ nghĩa Hiện đại". Lopéz thường tham gia đồng sáng tác các tác phẩm được xuất bản như "El Cronista" và "El Centroamericano".
Hoạt động chính trị.
Mối quan hệ yêu đương với Zelaya Amparo Castro khiến López thường xuyên đến thủ đô Managua chơi, và ở đó ông dần dần tham gia vào các hoạt động chống lại nền độc tài của Anastasio Somoza Garcia. Tại đây ông tham gia Đảng Tự do Độc lập ("Partido Liberal Independiente") - tổ chức chính trị hình thành bởi những người bất mãn với chính quyền độc tài của Somoza và Đảng Tự do Quốc gia ("Partido Liberal Nacionalista") ủng hộ ông ta. Từ năm 1951 đến 1956 López sống ở nước ngoài, ông sang El Salvador để bắt liên lạc với những người cách mạng đang lập kế hoạch ám sát nhà độc tài Somoza nhân lúc ông ta đang tiến hành một chiến dịch vận động tranh cử sâu rộng cho mình. Tuy nhiên ông vẫn thường xuyên trở về Nicaragua để sắp xếp chuyện gia đình, chuyện cá nhân và cả chuyện tình cảm với Amparo, đồng thời nắm bắt tình hình chính trị trong nước. Trong thời gian này ông quen biết với các nhạc sĩ và nhà thơ từ nhiều nước khác, trong đó bao gồm nhà văn El Salvador là Juan Felipe Toruno.
Năm 1954, lực lượng Vệ binh quốc gia ("Guardia Nacional") giết chết hai người bạn của López là Luis và Adolfo Báez Bone cùng với nhiều người khác khi một nhóm người tổ chức ám sát Somoza nhưng không thành. Rigoberto gặp mẹ của hai người này, bà Ruth Bone, và trở thành bạn thân của bà.
Bắn chết nhà độc tài Somoza.
Rigoberto López cho rằng cách duy nhất để chấm dứt nền cai trị của Somoza đó là phải giết chết nhà độc tài này. Ông tính chọn ngày Quốc khánh 14 tháng 9 năm 1956 để ám sát Somoza tại Hacienda San Jacinto, nhưng hủy bỏ vì lo sợ sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng của nhiều người vô tội trong cuộc tuần hành của sinh viên ngày đó. Ngày khởi sự được dời lại vào ngày 21 tháng 9, lúc Somoza tới León để tiến hành tranh cử. Ngày 17 tháng 9 năm 1956, López đến thủ đô Managua và chuẩn bị kế hoạch hạ sát Somoza. Ông gửi thư thông báo với Manuel Díaz y Sotelo, người bạn thân có cùng tư tưởng, và ngày hôm sau đón tàu trở về quê nhà León. Ngày 21 tháng 9, trước khi thực hiện vụ ám sát, ông đến bên cạnh mẹ mình, đọc to bài thơ "Lời thú tội của người lính", rồi vận chiếc sơ mi trắng và quần xanh lên đường. Mẹ của ông sau này kể lại lý do ông mặc bộ đồ trắng-xanh như vậy là vì ông muốn chết khi mặc quần áo mang màu cờ tổ quốc Nicaragua.
López được nhà báo Armando Zelaya, người anh em của bạn gái mình, chở đến Casa del Obrero, nơi nhà độc tài Somoza đang dự một bữa tiệc. Ông rút khẩu súng lục Smith and Wesson cỡ 0,38 rồi nã 5 phát đạn vào ngực Somoza, 4 trong 5 phát đó dính trúng người nhà độc tài, khiến ông tạ bị thương nặng phải chở một đến bệnh viện quân sự Hoa Kỳ ở Vùng Kênh đào Panama rồi chết tại đó vào ngày 29 tháng 9. López cũng nhận phải một tràng đạn từ những cận vệ của Somoza và chết ngay tại chỗ.
Chính quyền nhà Somoza phản ứng ngay. Mẹ của Rigoberto, cùng những anh chị em của ông là Salvador và Margarita, bạn gái Amparo Zelaya và một người bạn khác là María Lourdes đều bị bắt giam, tra tấn và cầm tù tại khu phức hợp nhà ngục "La Aviación" (nay là khu phức hợp "Ajax Delgado"). Trong sách "La saga de los Somoza" xuất bản năm 2000 của Trung uý Agustín Torres Lazo, công tố viên của phiên tòa của Hội đồng chiến tranh đã kết án tù 16 người trong vụ án đó, thì thi thể của Rigoberto López Pérez được đưa về thủ đô và chôn trong khuôn viên trường Đại học Rubén Darío (nay là Đại học Tự trị Quốc gia Nicaragua Thống nhất - Managua) để nấm mồ của ông không trở thành địa điểm "linh thiêng" cho phe đối lập tụ tập. Chính phủ Somoza cũng mở một chiến dịch bôi xấu López, cáo buộc ông đã say rượu khi tiến hành ám sát.
Ảnh hưởng và vinh danh.
Theo đại tá về hưu Lenin Suarez, hành động của Rigoberto López Pérez được cho là đã gây ảnh hưởng lớn đến và củng cố ý chí chiến đấu những người đấu tranh lật đổ chế độ Somoza.
Ở Ý, trong thập niên 1970, Marcello De Angelis đã viết bài hát "Nhà thơ" ("Il poeta") để ca ngợi López.
Khi cuộc khởi nghĩa của Mặt trận giải phóng dân tộc Sandino ("Frente Sandinista de Liberación Nacional - FSLN") nổ ra và lan rộng khắp đất nước, một trong những trung tâm chỉ huy của Mặt trận được đặt tên là "Rigoberto López Pérez". Tuy nhiên trung tâm chỉ huy này đã bị tiêu diệt vào tháng 4 năm 1979 trong một cuộc càn quét đẫm máu của quân chính phủ, các thành viên Oscar Perez Cassar, Roger Deshon, Araceli Perez Darias, Idania Fernandez, Carlos Manuel Jarquin and Edgard Lang Sacasa đều hi sinh. Có điều hành động của quân chính phủ càng khiến người dân bất mãn và đẩy mạnh sự sụp đổ của chính quyền Somoza.
Vào tháng 7, cuộc cách mạng Sandinista thành công, và sân vận động quốc gia Nicaragua tại thủ đô Managua được đặt tên là sân vận động Lopéz. Tuy nhiên vào ngày 20 tháng 11 năm 1998, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập sân, tổng thống Arnoldo Alemán ký sắc lệnh đổi tên sân thành Sân vận động Quốc gia Dennis Martínez ("Estadio Nacional Dennis Martínez") theo tên của một vận động viên nổi tiếng của Nicaragua.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 2006, một đài tưởng niệm được xây dựng Managua, tại bùng binh Rigoberto López Pérez nhằm vinh danh nhà thơ này, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của ông. | 1 | null |
InterContinental Hanoi Landmark 72 là một khách sạn InterContinental tại Hà Nội. Khách sạn này toạ lạc tại các tầng trên cùng của Keangnam Hanoi Landmark Tower. Ở độ cao 346m, đây là khách sạn cao nhất Hà Nội và là một trong những khách sạn cao nhất thế giới.
Vị trí.
InterContinental Hanoi Landmark 72 toạ lạc tại Mỹ Đình, quận Nam Từ Liêm, gần Trung tâm Hội nghị Quốc gia và Bảo tàng Hà Nội. Là một phần của Keangnam Hanoi Landmark Tower, khách sạn này chiếm từ tầng 62 đến 71 của tòa nhà cao thứ nhì Việt Nam.
Tiện ích.
Tại độ cao 346m, InterContinental Hanoi Landmark72 là khách sạn cao nhất Hà Nội.
Khách sạn sở hữu 359 phòng khách sang trọng, với 34 phòng suites, trải dài từ tầng 63 đến tầng 70 của tòa nhà. Tất cả các phòng và suites đều có cửa kính thông suốt, mở ra tầm nhìn toàn cảnh thành phố Hà Nội từ trên cao.
4 nhà hàng và bar (The Hive Lounge, 3 Spoons, Stellar Steakhouse và Q Bar) tại tầng 62 và 62M của khách sạn đem đến không gian sang trọng, sáng tạo và các nền ẩm thực phong phú.
InterContinental Hanoi Landmark72 còn là điểm đến hấp dẫn mới cho các hội nghị và sự kiện tại Hà Nội, với 14 phòng họp linh hoạt và phòng khánh tiệc (Grand Ballroom) có sức chứa tới 1,000 khách. | 1 | null |
James McGill Buchanan, Jr. (; 3 tháng 10 năm 1919 – 9 tháng 1 năm 2013) là một nhà kinh tế học người Mỹ, được biến đến với công trình của ông về lý thuyết lựa chọn công khai, với công trình này ông đã được trao giải Nobel Kinh tế vào năm 1986. Công trình của Buchanan bắt đầu nghiên cứu về lợi ích của các nhà chính khách và lực lượng phi kinh tế ảnh hưởng thế nào đến chinh sách kinh tế của chính phủ. Ông là một thành viên của Hội đồng tư vấn của Viện độc lập, một thành viên cao cấp của Viện Cato và giáo sư tại Đại học George Mason.
Tiểu sử.
Buchanan sinh ra tại Murfreesboro, Tennessee, con cả của James và Lila (Scott) Buchanan. Ông là cháu trai của John P. Buchanan, thống đốc Tennessee trong thập niên 1890. Ông tốt nghiệp Middle Tennessee State Teachers College, nay được gọi là Đại học bang Middle Tennessee vào năm 1940. Ông hoàn thành khóa học thạc sĩ tại Đại học Tennessee vào năm 1941. Ông đã trải qua những năm chiến tranh với tư cách phụ tá cho Đô đốc Nimitz tại Honolulu, trong thời gian đó ông đã gặp và kết hôn với Anne Bakke vào ngày 5 tháng 10 năm 1945; Anne là một người Mỹ gốc Na Uy, lúc đó bà là y tá làm việc cho căn cứ quân sự tại Hawaii.
Buchanan nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Chicago vào năm 1948 cho luận án "Công bằng tài chính trong một nhà nước liên bang", trong luận án của mình ông chịu ảnh hưởng lớn từ Frank H. Knight.
Buchanan là người thành lập trường kinh tế chính trị Virginia mới.
Buchanan mất vào ngày 9 tháng 1 năm 2013, tại Blacksburg, Virginia, ở tuổi 93. Tờ "New York Times" bình luận rằng nhà kinh tế đoạt giải Nobel người đã đấu tranh cho lý thuyết lựa chọn công khai đã ảnh hưởng tới thế hệ suy nghĩ bảo thủ về thâm hụt ngân sách, thuế và kích thước của chính phủ". Tờ "Badische Zeitung" gọi Buchanan, người cho thấy cách các chính trị gia làm suy yếu hệ thống thuế công bằng và đơn giản là "người sáng lập của nền kinh tế chính trị mới". | 1 | null |
Trygve Magnus Haavelmo (13 tháng 12 năm 1911 – 28 tháng 7 năm 1999), sinh tại Skedsmo, Na Uy, là một nhà kinh tế học có ảnh hưởng với nghiên cứu chính tập trung vào các lĩnh vực kinh tế lượng và lý thuyết kinh tế. Ông nhận bằng kinh tế tại Đại học Oslo năm 1930 và gia nhập Viện Kinh tế từ lời giới thiệu của Ragnar Frisch. Haavelmo làm trợ lý Frisch một khoảng thời gian cho đến khi ông được bổ nhiệm là người đứng đầu ngành tính toán cho viện. Năm 1936, Haavelmo nghiên cứu thống kê tại Đại học London và tiếp tục tới Berlin, Geneva, và Oxford cho các nghiên cứu bổ sung. Trygve Haavelmo được mời tới giảng dạy tại Đại học Aarhus năm 1938 trong 1 năm và sau đó ông được nhận học bổng du học tại Hoa Kỳ. Trong Thế chiến II ông làm việc tại Nortraship tại Sở thống kê thành phố New York. Ông nhận bằng tiến sĩ vào năm 1946 nhờ đề tài Phương pháp xác suất trong Kinh tế.
Ông là giáo sư kinh tế và thống kê tại Đại học Oslo giai đoạn 1948–79 và là trưởng khoa thương mại giai đoạn 1947–48. Haavelmo đạt được một vị trí nổi bật trong kinh tế học hiện đại thông qua phê bình logic của ông về một loạt các quan niêm jtuyf chỉnh trong phân tích toán học.
Năm 1989, Haavelmo đã được trao giải Nobel Kinh tế cho "sự làm sáng tỏ của ông về những nền tảng lý thuyết xác suất trong kinh tế lượng và các phân tích của ông về những cấu trúc kinh tế đồng thời."
Haavelmo qua đời vào ngày 28 tháng 7 năm 1999 tại Oslo. | 1 | null |
Harry Max Markowitz (24 tháng 8 năm 1927) là một nhà kinh tế học Hoa Kỳ, ông được trao giải lý luận John von Neumann (1989) và giải Nobel Kinh tế (1990).
Markowitz là một giáo sư tài chính tại Trường quản trị Rady thuộc Đại học California, San Diego (UCSD). Ông được biết đến với công trình tiên phong trong danh mục đầu tư hiện đại, nghiên cứu tác động của rủi ro tài sản, lợi nhuận, tương quan và đa dạng hóa có thể xảy ra tác động trở lại danh mục đầu tư.
Đọc thêm.
http://people.maths.ox.ac.uk/~zhouxy/download/mvjump_part2.pdf
http://home.dacor.net/norton/finance-math/problems_w_Markowitz.pdf | 1 | null |
Merton Howard Miller (16 tháng 5 năm 1923 – 3 tháng 6 năm 2000) là một nhà kinh tế học Hoa Kỳ, và là đồng tác giả của định lý Modigliani–Miller (1958), định lý này để xuất sự không thích hợp của cơ cấu nợ vốn chủ sở hữu. Ông chia sẻ giải Nobel Kinh tế vào năm 1990 cùng với Harry Markowitz và William Sharpe. Miller dành phần lớn sự nghiệp hàn lâm của mình tại trường kinh doanh Booth thuộc Đại Học Chicago.
Tiểu sử.
Miller sinh ra tại Boston, Massachusetts, bố mẹ ông là Joel và Sylvia Miller, một luật sư và bà nội trợ, cả hai đều là người Do Thái. Trong Thế chiến II, ông làm việc với tư cách nhà kinh tế trong bộ phận nghiên cứu thuế của Bộ Tài chính, và nhận được bằng tiến sĩ kinh tế tại Đại học Johns Hopkins vào năm 1952. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông được bổ nhiệm làm giảng viên tại Trường Kinh tế London. | 1 | null |
William Forsyth Sharpe (16 tháng 6 năm 1934) là một nhà kinh tế học Hoa Kỳ. Ông là giáo sư tài chính STANCO 25, Emeritus tại trường kinh doanh Graduate thuộc Đại học Stanford và là người đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1990.
Sharpe là một trong những người đưa ra mô hình định giá tài sản vốn, tạo ra hệ số Sharpe để phân tích hiệu quả đầu tư điều chỉnh rủi ro, đóng góp vào sự phát triển của phương pháp nhị thức cho sự đánh giá các lựa chọn, phương pháp gradient cho tối ưu phân bổ tài sản và phân tích lợi nhuận dựa vào sự phản hồi và hiệu quả của các quỹ đầu tư.
Các tác phẩm.
Bài báo
Sách | 1 | null |
Khoảng cao đều là hằng số dùng để biểu thị chênh lệch độ cao giữa hai đường đồng mức trong bản đồ địa hình.
Bản đồ địa hình tỷ lệ càng lớn (thậm chí đến tỷ lệ 1/100 cho các công tác thiết kế đặc biệt)thì khoảng cao đều càng nhỏ (đến 0.1 hay 0.25m)
Việc lựa chọn khoảng cao đều phụ thuộc vào loại bản đồ, tỷ lệ bản đồ, độ dốc của địa hình, mức độ chi tiết cũng như độ chính xác thể hiện độ cao trên bản đồ.
Để thể hiện những khoảng cao đều nhỏ, đòi hỏi công tác đo đạc cần thực hiện chính xác bằng các máy đo chính xác như máy toàn đạc, máy thủy chuẩn và đo vẽ mô hình lập thể. | 1 | null |
Dokkaebi () là một sinh vật bí ẩn trong văn hóa dân gian hay truyện cổ tích của Triều Tiên. Mặc dù Dokkaebi thường rất đáng sợ, nhưng nó cũng có thể rất hài hước và trông rất lố bịch, giống với goblin trong văn hóa châu Âu. Những sinh vật này thích nghịch ngợm và trêu chọc người xấu nhưng lại ban phước lành và thịnh vượng cho người tốt. Cần tránh nhầm lẫn với Gwisin (; "Quỷ Thần," "hồn ma"), chúng khác nhau ở chỗ Dokkaebi không phải là do linh hồn của người chết mà là sự biến đổi của một đồ vật vô tri vô giác.
Đặc điểm.
Mỗi loại Dokkaebi khác nhau lại có một câu chuyện khác nhau đằng sau chúng. Trong một số trường hợp, chúng được cho là vô hại nhưng lại rất nghịch ngợm, thường hay trêu chọc người khác hoặc thách những người qua đường đấu Ssireum (đấu vật Hàn Quốc) nếu muốn đi qua.
Hầu hết các Dokkaebi luôn mang theo bên mình một cái chày gọi là Dokkaebi Bangmang-i (; tạm dịch: "cây gậy của Dokkaebi"). Nó giống như là một chiếc đũa thần, có thể triệu hồi bất cứ thứ gì nó muốn. Không may thay, mỗi khi nó triệu hồi thứ gì, thì thứ đó sẽ bị ăn cắp từ ai đó, vì chiếc chày chỉ có thể triệu hồi những thứ tồn tại, chứ không thể làm ra đồ vật từ hư vô được.
Dokkaebi còn rất thích chơi trò chơi, nhất là Ssireum như đã nói ở trên. Chúng rất giỏi trò này và không một ai có thể thắng được Dokkaebi nếu cố gắng đẩy nó từ bên trái. Nhưng điểm yếu của Dokkaebi lại chính là bên phải. Trong một câu chuyện khác, để thắng được Dokkaebi, ta phải ngoắc chân của chúng và đẩy ra sau, vì sinh vật này chỉ có một chân.
Dokkaebi còn có một chiếc mũ tên là Dokkaebi Gamtu (). Chiếc mũ được biết tới nhiều nhất nhờ khả năng khiến cho người đội trở nên vô hình.
Trong truyền thuyết.
Gần như tất cả các câu chuyện cổ tích của Hàn Quốc có sự xuất hiện của Dokkaebi. Những câu chuyện đó kể về các Dokkaebi chuyên đi chơi xấu những kẻ có tâm địa xấu xa. Một trong số đó là về một ông lão sông một mình trên một ngọn núi. Một ngày kia có một Dokkaebi đến nhà ông lão. Trong sự ngạc nhiên, ông lão tốt bụng đã mời Dokkaebi cùng uống rượu và họ trở thành bạn với nhau. Cả hai rất hay gặp nhau và cùng nhau nói chuyện, cho đến một ngày, ông lão đi bộ trong rừng cạnh một con suối và thấy hình ảnh mình phản chiếu càng ngày càng giống Dokkaebi. Ông ta sợ hãi nhận ra rằng mình đang dần dần trở thành sinh vật đó. Thế là ông mới nghĩ ra một kế để ngăn chặn việc mình sẽ biến thành Dokkaebi. Đầu tên lão mời Dokkaebi đến nhà. Rồi hỏi: "Ngươi sợ cái gì nhất?", Dokkaebi trả lời: "Ta sợ nhất là máu. Còn ngươi, ngươi sợ cái gì nhất?". Ông lão giả vờ sợ hãi rồi trả lời: "Ta sợ nhất là tiền. Thế nên ta mới sống ở trên ngọn núi này một mình.". Ngày tiếp theo, ông lão giết một con bò, rồi lấy máu đổ khắp nhà. Thấy vậy, Dokkaebi vừa bất ngờ vừa giận dữ chạy đi và nói: "Hãy đợi đấy, ta sẽ trở lại với nỗi sợ lớn nhất của ngươi!". Hôm sau, Dokkaebi quay lại với một bao tiền và ném thẳng vào ông lão. Sau chuyện đó, Dokkaebi không bao giờ quay trở lại còn ông lão trở thành người giàu nhất vùng.
Phân loại.
Dù Dokkaebi không có hình dạng thực sự, người ta vẫn phân nó thành nhiều loại. Sau đây là một số loại điển hình: | 1 | null |
Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs) là những chất hóa học chủ yếu được dùng điều trị bệnh trầm cảm. Thuốc chống trầm cảm ba vòng đầu tiên được tìm thấy vào đầu những năm 1950 và được giới thiệu vào cuối thập niên này; chúng được đặt tên do cấu trúc hóa học chứa ba vòng thơm. Nhóm thuốc chống trầm cảm tetracyclic (TeCAs) chứa bốn vòng thơm có cấu trúc gần giống với nhóm thuốc này.
Danh sách thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs).
Nhóm thuốc chống trầm cảm ba vòng chủ yếu là chất ức chế tái hấp thu serotonin hoặc chất ức chế tái hấp thu norepinephrine: | 1 | null |
Corticosteroid là một nhóm các chất hóa học bao gồm các hoóc-môn steroid được sản xuất từ vỏ thượng thận của động vật có xương sống và các chất tổng hợp tương tự các hoócmôn đó. Corticosteroid liên quan đến rất nhiều quá trình sinh lý bao gồm đáp ứng stress, đáp ứng miễn dịch, viêm, chuyển hóa carbohydrate, quá trình dị hóa protein, các mức chất điện giải trong máu, và hành vi.
Một vài hormone tự nhiên là corticosterone (), cortisone (, 17-hydroxy-11-dehydrocorticosterone) và aldosterone.
Phân loại.
Theo cấu trúc phân tử.
Nhóm A — loại Hydrocortisone.
Hydrocortisone, hydrocortisone axetat, cortisone axetat, tixocortol pivalate, prednisolone, methylprednisolone, và prednisone (glucocorticoids có tác dụng ngắn - trung bình).
Nhóm B — Acetonides (các chất tương tự).
Triamcinolone acetonide, triamcinolone alcohol, mometasone, amcinonide, budesonide, desonide, fluocinonide, fluocinolone acetonide, và halcinonide.
Nhóm C — loại Betamethasone.
Betamethasone, betamethasone sodium phosphate, dexamethasone, dexamethasone sodium phosphate, and fluocortolone.
Nhóm D — Esters.
Nhóm D1 — Halogenated (kém bền vững).
Hydrocortisone-17-valerate, halometasone, alclometasone dipropionate, betamethasone valerate, betamethasone dipropionate, prednicarbate, clobetasone-17-butyrate, clobetasol-17-propionate, fluocortolone caproate, fluocortolone pivalate, và fluprednidene axetat.
Group D2 —Tiền dược esters (kém bề vững).
Hydrocortisone-17-butyrate, hydrocortisone-17-aceponate, hydrocortisone-17-buteprate, và prednicarbate.
Theo cách hấp thụ.
Steroids tác dụng cục bộ.
Sử dụng chủ yếu bên ngoài như da, mắt, và niêm mạc.
Các steroids điển hình được phân loại thành các nhóm I - IV.
Steroids xông hít.
Sử dụng điều trị tại niêm mạc mũi, xoang mũi, phế quản, phổi.
Nhóm này bao gồm:
Dạng bào chế (biệt dược là Advair), chứa fluticasone propionate và
salmeterol xinafoate (thuốc đối kháng thụ thể β2-adrenergic tác dụng kéo dài).
Lịch sử.
Biết đến đầu tiên vào năm 1944. Tadeusz Reichstein cộng tác với Edward Calvin Kendall và Philip Showalter Hench đã đạt giải Nobel cho lĩnh vực sinh lý học và y học năm 1950 nhờ tìm ra hormone ở tuyến thượng thận, khi cô lập được cortisone.
Corticosteroids đã được sử dụng như thuốc đã khá lâu. Cortisone được tổng hợp đầu tiên bởi Lewis Sarett của công ty dược Merck & Co. bằng phương pháp 36 bước từ axit deoxycholic chiết xuất từ mật bò. Giá thành sản xuất cortisone theo quy trình này lên đến 200 USD/g cho đến khi Russell Marker của công ty Syntex tìm ra phương pháp khác với nguyên liệu diosgenin chiết xuất từ khoai. Phương pháp chuyển diosgenin thành progesterone theo quy trình 4 bước là phát minh quan trọng giúp cho việc sản xuất hàng loạt các loại hormone steroid bao gồm cortisone và các chất sử dụng để sản xuất thuốc tránh thai.
Năm 1952, D.H. Peterson và H.C. Murray thực hiện quy trình sử dụng nấm Rhizopus to oxy hóa progesterone thành hợp chất bán thành phẩm sản xuất cortisone. Những phát minh mới khiến sản lượng cortisone tăng nhanh, giá thành hạ xuống đến khoảng 6 USD/g rồi đến tới 0.46 USD/g vào năm 1980.
Sử dụng trong y học.
Các loại dược liệu mang tính chất corticosteroid được sử dụng chữa trị các bệnh từ bệnh ngoài da cho đến u não. Dexamethasone và các dẫn xuất gần như là glucocorticoid nguyên chất trong khi prednisone và các dẫn xuất có các tác động mineralocorticoid kèm với các tác động glucocorticoid.
Fludrocortisone (Florinef) là một loại mineralocorticoid tổng hợp. Hydrocortisone (cortisol) được sử dụng trong liệu pháp hormone thay thế.
Các chất glucocorticoids tổng hợp được sử dụng chữa bệnh đau khớp, viêm động mạch thái dương, viêm da, dị ứng, hen suyễn, viêm gan...
Corticosteroid được sử dụng rộng rãi trong chữa trị chấn thương não. Tuy nhiên một nghiên cứu trên khoảng 12000 bệnh nhân cho thấy việc sử dụng corticosteroid thường xuyên trong chữa trị chấn thương não là một việc làm không nên. | 1 | null |
Bão Lekima là xoáy thuận nhiệt đới mạnh thứ hai trên Trái Đất trong năm 2013, đồng thời là cơn bão thứ 19 được đặt tên và bão cuồng phong thứ 11 của mùa bão. Lekima mạnh lên thành một cơn bão nhiệt đới vào cuối ngày 20 tháng 10. Tiếp theo, sau khi Lekima mạnh lên thành bão cuồng phong và trải qua quá trình tăng cường độ nhanh chóng nhờ điều kiện môi trường rất thuận lợi trong ngày 22, nó đã đạt đỉnh vào ngày hôm sau. Cơn bão duy trì cường độ tối đa trong vòng hơn một ngày, sau đó bắt đầu suy yếu từ ngày 24 khi chịu sự tác động của độ đứt gió theo chiều thẳng đứng lớn và gió Tây ở vĩ độ trung. Vào ngày 26 tháng 10, Lekima chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trên vùng biển phía Đông Nhật Bản.
Lịch sử khí tượng.
Vào sáng sớm ngày 19 tháng 10, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) đã báo cáo về một áp thấp nhiệt đới đang phát triển trên khu vực có độ đứt gió theo chiều thẳng đứng mạnh, cách Pohnpei khoảng 730 km (455 dặm) về phía Đông Bắc. Trong ngày hôm đó, khi mà hệ thống di chuyển chậm về phía Tây, phân kỳ gió trên tầng cao đã giúp bù đắp cho độ đứt gió không phù hợp và làm tăng cường đối lưu xung quanh. Với việc đối lưu tăng lên cùng hoàn lưu mực thấp được củng cố, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) đã ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" vào cuối ngày. Sang ngày 20, hệ thống tiếp tục phát triển khi nó di chuyển quanh rìa phía ngoài của áp cao cận nhiệt. Và đến cuối ngày JTWC đã ban hành những thông báo về hệ thống và họ chỉ định nó là áp thấp nhiệt đới 22W, trước khi JMA đặt tên cho hệ thống là Lekima vào thời điểm 1800 UTC khi họ nhận định nó đã phát triển thành một cơn bão nhiệt đới. Vào sáng sớm ngày 21, JMA nâng cấp Lekima lên thành bão nhiệt đới dữ dội. Mặc dù một rãnh thấp yếu ở phía Đông cơn bão gây ra một sự tác động, nhưng dòng thổi ra mạnh mẽ ở phần phía Đông và Nam đã giúp duy trì đối lưu. Đến cuối ngày hôm đó, JTWC nâng cấp Lekima lên thành bão cuồng phong.
Sau khi JMA nâng cấp Lekima lên thành bão cuồng phong vào sáng sớm ngày 22, hệ thống bắt đầu trải qua quá trình tăng cường độ nhanh chóng, phát triển ra một mắt bão sắc nét cùng thành mắt bão đối xứng và cải thiện hơn nữa những dải đối lưu sâu. Đến cuối ngày, JTWC nâng cấp Lekima lên thành siêu bão cấp 5, khi mà một xoáy nghịch cung cấp đôi kênh dòng thổi ra rất thuận lợi. Sang sáng sớm ngày 23, JMA thông báo Lekima đạt đỉnh với vận tốc gió duy trì 10 phút tối đa 115 knot (130 dặm/giờ; 215 km/giờ) cùng áp suất khí quyển 905 hPa (26,72 inHg). Kể từ đó, cơn bão đã duy trì cường độ tối đa trong hơn một ngày, với một con mắt rộng sắc nét bao quanh bởi thành mắt bão dày đặc đối lưu. Tuy nhiên, những hình ảnh sóng ngắn tích hợp biến đổi tại CIMSS (MIMIC) mô tả rằng Lekima đã trải qua một chu trình thay thế thành mắt bão vào cuối ngày 23 và hoàn thành chu trình này một ngày sau.
Khi Lekima bắt đầu tiếp cận đới gió Tây ở vĩ độ trung và độ đứt gió mạnh hơn, JMA báo cáo cơn bão bắt đầu duy yếu chậm vào buổi trưa ngày 24 trên vùng biển phía Bắc quần đảo Bắc Mariana, nhưng JTWC phân tích rằng Lekima đã suy yếu từ sớm hơn. Dữ liệu theo dõi chuẩn xác nhất của JTWC chỉ ra Lekima đã suy yếu thành bão cuồng phong vào buổi trưa. Vào ngày 25, khi Lekima nằm trên khu vực phía Tây quần đảo Ogasawara, nó đã vượt qua rìa phía Tây của áp cao cận nhiệt và sẵn sàng tăng tốc về phía Đông Bắc. Trong khi đó, tuy xoáy nghịch vẫn tiếp tục cung cấp dòng thổi ra tỏa tròn thuận lợi, nhưng đối lưu ngày một trở nên giảm cấp. Vào buổi chiều, Lekima bắt đầu trải qua quá trình chuyển đổi thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới; do đó cấu trúc thành mắt bão biến mất nhưng nó vẫn duy trì được những dải mây cong chặt chẽ bao bọc lấy một trung tâm được xác định rõ.
Sang sáng sớm ngày 26, tâm hoàn lưu mực thấp của Lekima trở nên bị lộ ra một phần, vị trí ở rìa phía Tây của đối lưu sâu. JMA sau đó mô tả một front nóng đã hình thành trên phần phía Đông cơn bão, còn JTWC thì ban hành một cảnh báo cuối cùng về hệ thống. Đến trưa, Lekima hoàn tất quá trình chuyển đổi trên vùng biển phía Đông Nhật Bản và suy yếu thành một vùng thấp. Sau khi vượt đường đổi ngày quốc tế trong ngày 28, hệ thống cuối cùng bị hấp thụ bởi một vùng thấp đang phát triển khác vào ngày 30 tháng 10.
Tác động.
Những dải mây mưa phía Tây cơn bão đã di chuyển qua phần phía Bắc của Quần đảo Bắc Mariana trong ngày 24 tháng 10 và sau đó là quần đảo Ogasawara trong ngày 25. Mặc dù JMA đã ban hành những cảnh báo về gió mạnh và nước biển dâng tại quần đảo Ogasawara, tuy nhiên không có thiệt hại nào được ghi nhận tại đây.
Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) nhận định vận tốc gió duy trì liên tục trong 10 phút tối đa của bão Lekima năm 2013 là 115 knot (>130 dặm/giờ, gần 220 km/giờ), giúp nó trở thành siêu bão Tây Bắc Thái Bình Dương thứ 4 tính từ đầu thế kỷ 21 đạt được sức gió như vậy sau các cơn bão Jangmi 2008, Nida 2009 và Megi 2010. Vào thời điểm Lekima đang hoạt động, nó là cơn bão mạnh nhất trong năm 2013; tuy nhiên Lekima đã bị bão Haiyan vượt qua hai tuần sau. | 1 | null |
Bộ Cá nhám râu (danh pháp khoa học: Orectolobiformes) là một bộ cá mập. Chúng còn được gọi là "cá mập thảm" (tiếng Anh: "Carpet shark") vì nhiều thành viên có cơ thể được "trang trí công phu" gợi nhớ đến tấm thảm. Đôi khi thuật ngữ "cá mập thảm" được dùng để thay thế cho họ cá mập thảm, mà là một nhóm nhỏ của bộ này. Cá nhám râu có hai vây lưng, không có gai, và một cái miệng nhỏ về phía trước của mắt. Nhiều thành viên của họ này có râu và khe mang nhỏ, với khe thứ năm chồng chéo lên khe thứ tư. Thùy trên của vây đuôi có xu hướng chủ yếu là phù hợp với cơ thể, trong khi các thùy dưới kém phát triển.
Phân bố.
Cá nhám râu được tìm thấy trong tất cả các đại dương của thế giới nhưng chủ yếu ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Chúng phổ biến nhất ở miền tây khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương và thường được tìm thấy trong nước tương đối sâu.
Phân loại.
Bộ này nhỏ với 7 họ trong 13 chi và với tổng số khoảng 43 loài:
Bộ Orectolobiformes | 1 | null |
Hồ Starnberg () — được gọi là hồ Würm () cho tới năm 1962, và cũng được biết tới với tên Fürstensee — là hồ lớn thứ năm của Đức về diện tích sau hồ Bodensee, Müritz, Chiemsee và Schweriner See, nhờ có độ sâu nên hồ này có lượng nước lớn thứ hai.
Huyện thân hữu.
Từ năm 1982 huyện đã kết tình thân hữu với Bad Dürkheim (huyện) ở Rheinland-Pfalz. Từ 1981 nó cũng đã có một huyện thân hữu huyện Đài Bắc (bây giờ là Tân Bắc (New Taipei City)), mà phát triển sau khi một nhóm nhảy dù từ Đài Loan tới ở Starnberg để tham dự giải vô địch nhảy dù thế giới 1980 tại Altenstadt/Schongau. | 1 | null |
Đến ngọn hải đăng () là một cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1927 của tác giả Virginia Woolf. Một cuốn tiểu thuyết mang tính bước ngoặt của chủ nghĩa hiện thực cao độ (high modernism), và nội dung, tập trung vào gia đình Ramsay và các chuyến thăm của họ tới đảo Isle of Skye ở Scotland trong những năm từ 1910 đến 1920, sử dụng thuần thục và khéo léo các yếu tố thời gian và yếu tố tâm lý.
"Đến ngọn hải đăng" tiếp nối và phát triển truyền thống của các nhà văn hiện đại như Marcel Proust và James Joyce, ở đó cốt truyện chỉ là thứ yếu so với việc xem xét và miêu tả thế giới nội tâm, tâm lý, và lời văn có thể rất phức tạp, khó theo dõi. Cuốn tiểu thuyết chỉ có rất ít lời đối thoại và hầu như không miêu tả hành động; phần lớn câu chuyện kể về những suy nghĩ và quan sát.
Cuốn tiểu thuyết gợi lại những cảm xúc của thời thơ ấu và làm nổi bật những mối quan hệ của người lớn. Trong suốt chiều dài cuốn sách, có nhiều phép chuyển nghĩa và đề tài là những thiếu sót, tính chủ quan và các vấn đề nhận thức khác .
Vào năm 1998, Thư viện hiện đại (Modern Library) đã xếp "Đến ngọn hải đăng" ở vị trí thứ 15 trên danh sách 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất của thế kỷ 20. Năm 2005, tạp chí "TIME" bình chọn cuốn sách là một trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến nay.
Tóm tắt cốt truyện.
Phần I: Cánh cửa sổ.
Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh ở ngôi nhà nghỉ mát mùa hè của gia đình Ramsay tại quần đảo Hebrides, trên đảo Isle of Skye. Phần này bắt đầu với việc Bà Ramsay (Mrs Ramsay) bảo đảm với đứa con trai, James, rằng họ có thể tới thăm ngọn hải đăng vào ngày hôm sau. Ông Ramsay (Mr Ramsay) phản đối điều này, quả quyết rằng thời tiết sẽ không thuận lợi, và ý kiến này đã phần nào gây căng thẳng giữa hai ông bà Ramsay, cả giữa Ông Ramsay và James. Chi tiết đặc biệt này được nhắc đến một vài lần trong suốt chương sách, đặc biệt là trong bối cảnh mối quan hệ hiện tại giữa hai ông bà Ramsay.
Gia đình nhà Ramsay có thêm một số bạn bè và đồng nghiệp tới nhà chơi, và một trong số đó là Lily Briscoe, người xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết là một họa sĩ trẻ, ít quyết đoán, mong muốn được vẽ một bức chân dung của Bà Ramsay và James. Trong suốt chiều dài tác phẩm, Briscoe gặp nhiều phiền phức vì những mối nghi ngờ, và phần nhiều trong số chúng đến từ những lời tuyên bố của Charles Tansley, một vị khách khác, người khẳng định rằng phụ nữ không thể sáng tác truyện hay vẽ tranh được. Bản thân Tansley cũng rất khâm phục ông Ramsay và những luận án, ý kiến của ông về triết học.
Phần này kết thúc với một bữa tiệc tối rất lớn. Khi Augustus Carmichael, một nhà thơ đến thăm, hỏi xin thêm một suất súp nữa, ông Ramsay suýt nữa thì quát ông ta. Còn chính Bà Ramsay thì rất khó chịu và bực mình khi Paul Rayley và Minta Doyle, hai người quen được bà giảng hoà trong lúc đính hôn, tới ăn muộn, bởi Minta đánh mất chiếc trâm cài tóc của bà mình ở bãi biển.
Phần II: Thời gian trôi qua.
Phần thứ hai cho người đọc cảm nhận về dòng chảy thời gian, sự chia cách vắng mặt, và cái chết. Mười năm trôi qua, trong đó có bốn năm diễn ra Chiến tranh thế giới thứ nhất. Bà Ramsay qua đời, Prue chết do những biến chứng lúc sinh nở, và Andrew thì thiệt mạng trong chiến tranh. Ông Ramsay một mình phiêu bạt mà không có người vợ cổ vũ và an ủi ông trong suốt những lúc hãi hùng và những nỗi đau đớn, có thể xem như là sự tồn tại lâu dài của những công trình triết học của ông.
Phần III: Ngọn hải đăng.
Trong phần cuối, "Ngọn hải đăng," một số người còn lại của gia đình Ramsay và các vị khách khác quay trở lại ngôi nhà nghỉ mát của họ, mười năm sau những sự kiện xảy ra ở phần I. Ông Ramsay cuối cùng lên kế hoạch cho chuyến đi bị trì hoãn đã lâu tới ngọn hải đăng, cùng với con trai James và con gái Cam(illa). Chuyến đi suýt nữa thì không được thực hiện, do lũ trẻ vẫn chưa sẵn sàng, nhưng cuối cùng họ đã khởi hành. Trên đường đi, bọn trẻ con im thin thít, tỏ ý phản đối việc cha chúng bắt chúng đi. Tuy nhiên, James vẫn tiếp tục vững vàng chèo lái con thuyền và thay vì những lời nói khó nghe anh nghĩ cha sẽ nói với mình, ngược lại anh nhận được những lời khen, tạo nên những phút giây đồng cảm hiếm hoi giữa hai cha con; thái độ của Cam đối với cha mình cũng đã thay đổi, từ bực tức, không bằng lòng sang sự khâm phục, ngưỡng mộ.
Cùng đi với họ có thủy thủ Macalister và con trai, người chuyên bắt cá trong suốt chuyến đi. Đứa con trai cất một miếng thịt từ một con cá anh bắt được làm mồi, rồi ném con cá bị thương xuống biển.
Khi họ bắt đầu chuyến đi tới ngọn hải đăng, Lily cố gắng hoàn thiện bức tranh cô mong ước từ đầu tác phẩm. Cô nhớ lại những hồi ức về ông bà Ramsay xưa, cân bằng lại vô số những ấn tượng từ mười năm trước đây nhằm tiến tới một sự thật khách quan về bà Ramsay và chính cuộc đời. Khi hoàn thành bức tranh (vừa lúc đoàn đi cập bến ngọn hải đăng) và thấy đã hài lòng, cô nhận ra rằng những gì tận mắt mình nhìn thấy được còn quan trọng hơn ý tưởng lưu lại một chút quá khứ nào đó trong tác phẩm của mình.
Chủ đề chính.
Tính phức tạp của những trải nghiệm.
Một khối lượng lớn trong cuốn tiểu thuyết của Woolf không đè cập đến những đối tượng nhìn thấy được một cách trực quan, mà đào sâu đến những phương pháp nhận thức, tìm cách cảm và hiểu con người thông qua cách họ quan sát. Để có thể hiểu được những suy nghĩ, như nhật ký của Woolf đã tiết lộ, tác giả dành đáng kể thời gian nghe chính bản thân mình nghĩ, quan sát từ ngữ và cảm xúc nào, và bằng cách nào đã nở rộ trong suy nghĩ của chính bà để phản ứng lại những điều bà nhìn thấy.
Tính phức tạp trong các mối quan hệ của con người.
Tuy nhiên, bài kiểm tra về nhận thức này không bị giới hạn trong những cuộc đối thoại nội tâm cô lập, mà còn phân tích trong bối cảnh các mối quan hệ của con người và những không gian cảm xúc mãnh liệt cắt qua để thực sự chạm đến một người khác. Hai phần của cuốn sách này là những bức hình xuất sắc tả lại những cố gắng vụng về trong điểm chuyển giao này: sự trao đổi âm thầm giữa ông bà Ramsey khi họ bước qua thời gian một mình cùng nhau ở cuối phần 1, và cuộc đấu tranh của Lily Briscoe để thoả mãn mong ước của ông Ramsay là tìm được sự đồng cảm (và chú ý) ở cuối tác phẩm.
Chủ nghĩa hiện đại.
"Đến ngọn hải đăng" và các nhân vật của nó thường thể hiện các nhân tố của trường phái Hiện đại trong tư tưởng, suy nghĩ. Các nhân vật như bà Ramsay coi nhẹ những hình mẫu lý tưởng của xã hội dưới thời Victoria và nghi ngờ sự tồn tại của Chúa và lòng tốt của con người. Thêm vào đó, tính hay thay đổi của con người được nhấn mạnh như một chủ đề trung tâm cùng với thiên nhiên, một thế lực vĩnh cửu và đôi khi là mối đe doạ với sự diệt vong của lòng nhân đạo, vốn tiềm tàng ở khắp mọi nơi.
Cách dẫn chuyện và quan điểm.
Cuốn tiểu thuyết thiếu đi một người dẫn chuyện nắm được tất cả mọi sự việc và tình tiết xảy ra (ngoại trừ ở phần II: Thời gian trôi qua); thay vì cốt truyện được lật mở qua sự thay đổi quan điểm trong dòng nhận thức của mỗi nhân vật. Sự thay đổi xảy ra ngay cả giữa một câu nói, và theo một cách nào đó chúng giống như chính ánh đèn đang xoay của ngọn hải đăng vậy. Tuy nhiên, không giống James Joyce, Woolf không có xu hướng sử dụng những đổ vỡ đột ngột để tái hiện dòng suy nghĩ của các nhân vật; phương pháp của bà như thể dùng một cách nói khác mang âm hưởng thơ trữ tình vậy. SỰ thiếu đi một người dẫn chuyện vốn nắm được tất cả mọi tình tiết và suy nghĩ của nhân vật như thế có nghĩa là, xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, không có một sự định hướng rõ ràng nào cho người đọc cả và tất cả chỉ qua sự phát triển nhân vật mà chúng ta có thể xác lập quan điểm và cách nhìn của chúng ta bởi vì phần lớn mọi thứ quá mập mờ, khó hiểu.
Trái với ở phần I tiểu thuyết tập trung minh hoạ mối quan hệ giữa nhân vật tự trải nghiệm và trải nghiệm thực sự cùng với mọi thứ xung quanh, thì phần II, 'Thời gian trôi qua' không có nhân vật nào để liên hệ tới, thể hiện những sự kiện cũng rất khác biệt. Thay vào đó, Woolf viết phần này từ quan điểm của một người dẫn chuyện không còn từ chỗ đứng vốn có của họ nữa, không liên quan tới bất kỳ người nào, có ý rằng các sự kiện nên được xem xét trên cơ sở liên hệ với thời gian. Vì lý do đó mà giọng kể ở đây thiếu tập trung và lệch lạc, cho thấy một ví dụ của cái mà Woolf gọi là 'cuộc sống khi chúng ta không có vai trò gì trong đó.'
Liên hệ với đời tư của tác giả và các địa danh có thực.
Woolf bắt đầu viết "Đến ngọn hải đăng" một phần là cách để tìm hiểu và giải quyết các vấn đề đang tồn tại với cha mẹ bà và do đó có rất nhiều điểm tương đồng giữa cốt truyện và đời tư của nữ nhà văn. Các chuyến thăm của bà với bố mẹ và gia đình đến St Ives, Cornwall, nơi cha bà thuê một căn nhà ở đó, có lẽ là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Woolf, nhưng khi bà mười ba tuổi, mẹ bà qua đời, và giống như ông Ramsay, cha bà Leslie Stephen gặp phải những nỗi sầu muộn và tự thấy thương hại chính mình. Chị gái của Woolf Vanessa Bell viết rằng, đọc các đoạn trong tiểu thuyết miêu tả bà Ramsay giống như được thấy mẹ mình trở về từ cõi chết. Anh trai họ Adrian không được phép tham gia cuộc hành trình tới Hải đăng Godrevy, giống như trong tiểu thuyết James luôn ao ước được tới thăm ngọn hải đăng và đã rất thất vọng khi chuyến đi bị huỷ bỏ. Sự trầm tư, suy ngẫm của Lily Briscoe về hội họa là một cách để Woolf khám phá quá trình sáng tạo của chính bản thân mình (và cũng là của người chị gái họa sĩ của bà), bởi vì cách Woolf nghĩ về sáng tác văn học cũng giống như cách Lily nghĩ về hội họa.
Cha của Woolf bắt đầu thuê ngôi nhà Talland House ở St. Ives, vào năm 1882, không lâu sau khi Woolf chào đời. Ngôi nhà được gia đình sử dụng làm điểm đến mùa hè của cả nhà trong suốt mười năm sau đó. Địa điểm diễn ra câu chuyện chính của "Đến ngọn hải đăng", ngôi nhà trên đảo Hebridean, được Woolf sáng tạo trên cơ sở phỏng theo ngôi nhà Talland House. Nhiều chi tiết có thực từ vịnh St Ives cũng được đưa vào truyện, bao gồm những khu vườn hướng ra biển, bản thân bãi biển, và ngọn hải đăng.
Mặc dù trong tiểu thuyết gia đình Ramsay đã quay trở về được ngôi nhà trên đảo Skye sau chiến tranh, nhưng gia đình Stephens lại từ bỏ ngôi nhà Talland House vào thời điểm đó. Sau chiến tranh, Virginia Woolf tới thăm Talland House (khi nó đã có chủ nhân mới) cùng với chị gái Vanessa, và sau đó Woolf đã kể lại cuộc hành trình, nhiều năm sau khi cha mẹ bà qua đời.
Lịch sử xuất bản.
Vào lúc hoàn thành bản nháp của cuốn sách này, cuốn tiểu thuyết liên quan nhiều nhất đến đời tư của mình, Woolf miêu tả nó là 'dễ dàng trở thành cuốn sách hay nhất của tôi' và chồng bà Leonard cho rằng đó là một "'kiệt tác' … một 'bài thơ về tâm lý học' hoàn toàn mới". Họ cùng nhau xuất bản nó tại báo Hogarth Press ở London vào năm 1927. Bản in lại đầu tiên gồm 3000 bản, mỗi cuốn 320 trang với kích thước 7.5 inch/5 inch được bọc trong vải xanh. Số lượng sách bán ra vượt qua tất cả các tiểu thuyết trước đó của Woolf, và số tiền kiếm được cho phép gia đình bà mua một chiếc xe hơi. | 1 | null |
Cá đao thường, tên khoa học Pristis pristis, là một loài cá đao của họ Pristidae, được tìm thấy trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, phía đông Thái Bình Dương và ở miền bắc Úc. Theo tên của nó, nó đã từng phong phú, nhưng có bây giờ giảm mạnh dẫn đến nó được coi là một loài cực kỳ nguy cấp theo IUCN. Chiều dài tối đa của nó là 7,5 mét (25 ft), mặc dù 2,5 m (8,2 ft) phổ biến hơn. Nó là loài đẻ trứng thai.
Việc phân loại giữa cá đao thường với "P. microdon" và "P. perotteti" gây ra sự nhầm lẫn đáng kể, nhưng bằng chứng gần đây cho thấy cả ba là cùng loài (trường hợp này sẽ khiến "P. microdon" và "P. perotteti" trở là danh pháp đồng nghĩa của "P. pristis"), vì thiếu sự khác biệt hình thái và di truyền. | 1 | null |
Possenhofen là một làng thuộc xã Pöcking, huyện Starnberg, tỉnh Oberbayern, Đức. Khoảng 380 người sống tại làng nằm ở bờ phía Tây của hồ Starnberg.
Lịch sử.
Làng này được ghi vào sổ sách lần đầu tiên vào năm 1281/1282,khi công tước Friedrich von Scheyern Wittelsbach đã tặng cho tu viện Schäftlarn nông trại „Pozzenhofen".
1536 Jacob Rosenbusch cho xây lâu đài Schloss Possenhofen. 1538 ông nhận được từ công tước Bayern quyền làm chủ làng Possenhofen vào năm 1545 cả làng Pöcking. Sau nhiều lần đổi chủ, năm 1834 lâu đài trở thành tài sản của công tước Max Joseph ở Bayern. Con gái ông, Elisabeth, mà sau này trở thành nữ hoàng Elisabeth của Áo và hoàng hậu của Hungary (Sisi), đã lớn lên ở đây.
Vua Maximilian II. cho xây ở Possenhofen một nhà ga, mà bây giờ trở thành trạm S-Bahn München. Từ năm 2004 ở đây có bộ sưu tập Heinemann cũng như bảo tàng viện nữ hoàng Elisabeth, mở cửa vào mùa hè, từ thứ sáu cho tới chủ nhật vào buổi chiều.
Possenhofen có một trạm tàu chạy tới các nơi khác chung quanh hồ. | 1 | null |
Tiffany Lynn Alvord (sinh ngày 11 tháng 12 năm 1992 ở Los Angeles) là một ca sĩ cover và là một nhà sáng tác nhạc. Cô đã đăng tải các bài hát cover và các khúc nguyên bản trên YouTube trong hơn 5 năm với hơn 2,9 triệu lượt theo dõi. Video đầu tiên mà cô đăng tải lên YouTube lúc 15 tuổi đã thu hút rất nhiều lượt xem.
Tiểu sử.
Cô tốt nghiệp trung học vào tháng 6 năm 2010 và được học tại Học viện Kết nối từ năm lớp 8 đến lớp 1. Cô còn là một vận động viên thể dục dụng cụ trong 9 năm và có tới 4 năm đi thi đấu. Cô có năm người anh trai và một người em tên là Travis, Tyler, Thomas, Todd, Trent, và Tevin.
Hoạt động âm nhạc.
Tiffany Alvord bắt đầu viết bài hát đầu tiên kể từ khi 10 tuổi. Cô học piano khi còn học tiểu học, và tự học chơi guitar. Cô thích sáng tác các ca khúc về những chuyện xảy đến với mình, đặc biệt là về ước mơ và những điều mà cô tưởng tượng ra. Album đầu tiên với tựa đề "My dream" được phát hành vào tháng 12 năm 2011 và album thứ 2 là "My Heart is" tự sản xuất và phát hành vào 18 tháng 9 năm 2012. Tất cả các ca khúc nằm trong 2 album này đều được cô sáng tác. Cảm hứng của Tiffany Alvord chủ yếu từ Taylor Swift, và các ca sĩ mà cô yêu thích như Maroon 5, One Republic, Shania Twain, Faith Hill, Michael Bublé và Colbie Caillat.
Buổi diễn.
Vào tháng 2 năm 2011, cô khai trương chuyến lưu diễn của Boyce Avenue tại bờ biển phía Tây. Sau đó, cô biểu diễn tại buổi hòa nhạc "TOTALLY TUBE" đầu tiên tại New York vào ngày 22 tháng 5 năm 2011.
Tháng 9 năm 2011, cô đi lưu diễn cùng Alex Goot và Luke Conard tại chuyến lưu diễn Alex Goot 2011 Fall. Tháng 5 năm 2012, Tiffany biểu diễn tại YouTube Stars Concert do YouTube tài trợ ở Singapore cùng với David Choi, Jason Chen, Joseph Vincent, Anna Free, và CLO. Tháng 12 năm 2012, cô biểu diễn trong đêm giao thừa tại New York. | 1 | null |
Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam hay Trung tâm Phim truyền hình - Đài Truyền hình Việt Nam (, viết tắt VFC) là đơn vị sản xuất chương trình truyền hình trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Trung tâm có chức năng chính là sản xuất phim truyền hình (cả chính luận và giải trí) để phát sóng trên các kênh của Đài Truyền hình Việt Nam, đồng thời là nhà sản xuất của một số thể loại chương trình truyền hình khác như hài kịch, talk show, chương trình truyền hình trực tiếp, chương trình truyền hình thực tế, gameshow...
Lịch sử.
Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam có tiền thân là Công ty Nghe nhìn Việt Nam, được thành lập vào năm 1980. Năm 1996, đơn vị này mang tên là Hãng phim truyền hình Việt Nam và được sáp nhập vào Đài Truyền hình Việt Nam. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2003, Hãng phim truyền hình Việt Nam đổi tên thành Trung tâm Sản xuất Phim truyền hình Việt Nam. Từ ngày 8 tháng 9 năm 2022, Trung tâm Sản xuất Phim truyền hình Việt Nam đổi tên thành Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam.
Tranh cãi.
Tập 36, 37 của bộ phim "Lửa ấm" phát sóng năm 2020 đã có những sai sót nghiêm trọng về kiến thức đối với phơi nhiễm và xử lý phơi nhiễm HIV/AIDS. | 1 | null |
Cynocephalus volans (tên tiếng Anh: "Chồn bay Philippines") là một trong hai loài chồn bay duy nhất còn tồn tại của bộ Bộ Cánh da (Dermoptera). Đây là thành viên duy nhất của chi Cynocephalus. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758. Chồn bay Philippines là loài đặc hữu của Philippines. Chúng sống tập trung ở Mindanao và Bohol.
Mô tả.
Mặc dù gọi là chồn bay nhưng chúng không thể bay được. Đây là một trong hai loài chồn bay duy nhất còn tồn tại của bộ Bộ Cánh da (Dermoptera); loài còn lại là chồn bay Sunda.
Một con chồn bay Philippines trung bình nặng 1-1,7 kg và dài 14–17 cm. Nó có đầu to, tai nhỏ và đôi mắt to. Chân chồn to, có vuốt và có màng để giúp trèo nhanh và lướt đi. Cái đuôi dài 36 cm được nối với chi trước qua một mảng dù lượn. Màng này giúp chồn lướt đi xa không dưới 100 m, rất hữu ích cho việc kiếm ăn và chạy trốn kẻ săn mồi, đặc biệt là đại bàng Philippines. Loài này hoạt động về đêm; ban ngày chúng trú trong hốc cây hoặc bám vào tán lá rậm rạp. Chồn cái thường sinh một con sau hai tháng mang thai. Con non yếu và bám vào trong một túi nhỏ được tạo thành từ những vạt da ở bụng chồn mẹ.
Chế độ ăn.
Dù 34 chiếc răng của chồn bay Philippiness tương tự như răng của động vật ăn thịt nhưng chúng lại chủ yếu ăn trái cây mềm, hoa, và lá non.
Tập tính.
Chồn bay Philippines sống trên cây và thường cư trú trong các khu rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh. Tuy nhiên, một số lang thang vào các đồn điền trồng dừa, chuối và cao su. Loài này bị xem là loài gây hại bởi chúng ăn trái cây và hoa, do đó chúng bị con người săn bắn. Người ta nấu thịt chồn làm thức ăn và dùng lông của chúng làm nguyên liệu để sản xuất những cái mũ bản địa. Báo cáo năm 2008 của IUCN nhận định loài này phải đối mặt với sự xuống cấp của môi trường sống, tuy nhiên số lượng cá thể vẫn đủ lớn để không bị xếp vào danh sách loài bị đe dọa. | 1 | null |
Rotten Tomatoes () là một website dành riêng cho các đánh giá phê bình, thông tin, tin tức của các bộ phim, được biết đến rộng rãi với chức năng của một hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá. Tên gọi của website này được dựa theo một hành động phản ứng quá mức của các khán giả, khi họ ném cà chua thối hoặc rau ủng vào các diễn viên trong những màn biểu diễn sân khấu có chất lượng kém mà họ không thích. Công ty này thuộc sở hữu của Flixster, một công ty con của Warner Bros., từ tháng 5 năm 2011, và do Senh Duong sáng lập nên.
Từ năm 2007, tổng biên tập của website này là Matt Atchity.
Lịch sử.
Rotten Tomatoes được sáng lập vào ngày 12 tháng 8 năm 1998, trong một dự án thực hiện vào lúc rảnh rỗi của Senh Duong. Mục đích của anh khi tạo ra Rotten Tomatoes là "để tạo nên một website nơi tất cả mọi người có thể vào xem các bài đánh giá từ nhiều nhà phê bình của Mỹ". Niềm cảm hứng của anh tới khi, là một người hâm mộ của Jackie Chan, Duong bắt đầu sưu tầm tất cả các bài đánh giá về những bộ phim của Chan ngay khi chúng vừa ra mắt ở Mỹ. Bộ phim đầu tiên được đánh giá trên trang Rotten Tomatoes là "Your Friends & Neighbors". Website ngay lập tức gặt hái được nhiều thành công, nhận được sự chú ý từ Yahoo!, Netscape, và "USA Today" trong tuần đầu tiên đi vào hoạt động; và do đó nó đã thu hút được "600 - 1000 lượt người xem mỗi ngày".
Duong cộng tác với hai người bạn cùng lớp tại Đại học California, Berkeley là Patrick Y. Lee và Stephen Wang, những người đã cùng làm việc với anh trước đó tại công ty thiết kế web Design Reactor có trụ sở tại Berkeley, California, để xây dựng Rotten Tomatoes thành một tổ chức hoạt động toàn thời gian (làm việc tất cả các ngày trong tuần như mọi công ty khác), chính thức đi vào hoạt động ngày 1 tháng 4 năm 2000.
Vào tháng 6 năm 2004, IGN Entertainment đề nghị mua lại Rottentomatoes.com với mức giá không được tiết lộ. Tháng 9 năm 2005, IGN được công ty Fox Interactive Media trực thuộc News Corp mua lại. Vào tháng 1 năm 2010, IGN bán lại website này cho Flixster, hãng sản xuất ứng dụng đánh giá phim phổ biến nhất cho máy tính bảng iPad và các thiết bị di động khác. Mức truy cập tổng cộng của cả hai công ty này là 30 triệu lượt một tháng trên mọi nền tảng, theo như họ cho biết. Vào tháng 5 năm 2011, Flixster được Warner Bros. mua lại.
Người dùng Rotten Tomatoes có thể tạo và gia nhập các nhóm cho phép họ thảo luận về những khía cạnh khác nhau của bộ phim, và có một nhóm – "The Golden Oyster Awards" – yêu cầu các thành viên bình chọn phim đoạt các hạng mục giải khác nhau, giống như giải Oscar hay giải Quả cầu vàng. Tuy nhiên, khi Flixster mua lại Rotten Tomatoes, họ đóng cửa các nhóm thảo luận, nói rằng: "Khu vực các nhóm thảo luận đã ngừng hoạt động để dọn đường cho nhiều tính năng cộng đồng sắp ra mắt tới đây. Vào thời điểm hiện tại, vui lòng sử dụng diễn đàn để tiếp tục thảo luận về những chủ đề điện ảnh yêu thích của bạn."
Tính tới tháng 2 năm 2011, nhiều tính năng cộng đồng mới đã được ra mắt và những tính năng còn lại đã bị gỡ bỏ. Ví dụ, người dùng không còn có thể tách các đánh giá "tươi" (fresh) khỏi các đánh giá "thối" (rotten), và ngược lại. Vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, một mục dành riêng cho các series truyền hình với tên gọi TV Zone đã được thiết lập dưới dạng một chuyên mục con của website.
Phương thức hoạt động.
Các nhân viên của Rotten Tomatoes trước hết thu thập các ý kiến đánh giá trên mạng từ các tác giả là thành viên được chứng nhận của các đoàn thể báo chí hoặc những tổ chức phê bình phim. Để trở thành một nhà phê bình của trang này, các đánh giá của nhà phê bình đó phải nhận được một số lượng "thích" nhất định từ cộng đồng. Các nhà phê bình hàng đầu của trang thường là những người đang viết bài cho những tờ báo danh tiếng. Nhân viên của công ty sau đó sẽ xác định xem mỗi bình luận thu thập được là tích cực ("tươi" (fresh), được đánh dấu bằng một biểu tượng nhỏ hình quả cà chua màu đỏ) hay tiêu cực ("thối" (rotten), được đánh dấu bằng một biểu tượng nhỏ hình quả cà chua xanh bị vỡ). Váo cuối năm, một bộ phim sẽ được trao danh hiệu "Golden Tomato" (Cà chua vàng), tức đó là bộ phim được đánh giá cao nhất của năm.
Website cũng theo dõi số lượng phản hồi thu được (có thể đạt mức 300 với các bộ phim quan trọng mới phát hành gần đây—kỷ lục đang được giữ bởi phim "The Dark Knight Rises" (2012) với 304 phản hồi nhận được) và tỷ lệ phần trăm phản hồi tích cực tổng hợp được. Nếu số lượng phản hồi tích cực đạt 60% hoặc hơn, bộ phim được xem là "tươi" bởi lẽ phần lớn các nhà phê bình đều yêu thích bộ phim này. Nếu số lượng phản hồi tích cực nhỏ hơn 60%, bộ phim được xem là "thối". Thêm vào đó, các nhà phê bình phim chủ yếu như Roger Ebert.com, Desson Thomson, Stephen Hunter, Owen Gleiberman, Lisa Schwarzbaum, Peter Travers và Michael Philips được đưa vào một danh sách con có tên là "Những nhà phê bình hàng đầu" (Top Critics), và các đánh giá của họ được tổng hợp riêng, trong khi đó vẫn đưa các ý kiến của họ vào mục đánh giá chung. Khi đã có đủ số đánh giá để có thể đưa ra kết luận cuối cùng, một lời nhận xét thống nhất sẽ được đăng, cho biết những lý do chính khiến họ đưa ra lời bình luận chung như vậy cho bộ phim.
Theo đó, đánh giá này sẽ được đánh dấu bằng một biểu tượng tương ứng khi bộ phim đã được đưa vào danh sách, cho người xem một cái nhìn tổng quan về nhận xét chung của giới phê bình dành cho tác phẩm. Các bộ phim đạt 75% trở lên theo "Thang đo cà chua ("Tomatometer") và ít nhất 40 nhận xét từ các nhà phê bình Tomatometer (bao gồm 5 nhà phê bình hàng đầu) sẽ được gán mác "Chứng nhận tươi" ("Certified Fresh"). Đánh giá này sẽ được giữ nguyên trừ phi tỉ lệ phần trăm số ý kiến nhận xét tích cực giảm xuống dưới 70%. Do quy định về số lượng đánh giá này, có những phim với 100% ý kiến đánh giá tích cực nhưng vẫn không nhận được chứng nhận bởi chưa có đủ số nhận xét để đảm bảo rằng nó "tươi mới".
Cùng với các đánh giá, Rotten Tomatoes cũng quản lý các diễn đàn trao đổi, nơi hàng nghìn người tham gia các cuộc thảo luận về phim ảnh, trò chơi điện tử, âm nhạc và nhiều đề tài khác. Thêm vào đó, các thành viên cũng có thể tự mình đánh giá và bình luận về các bộ phim. Mỗi bộ phim cũng đều có một phần "đánh giá trung bình của người xem", ở đó tính toán tỉ lệ phần trăm số người dùng đánh giá bộ phim tích cực, giống như cách tính toán những đánh giá từ các nhà phê bình. Tuy nhiên, điểm số này có phần cụ thể hơn do người dùng được đánh giá bộ phim trên thang điểm từ 0–10 (so với các nhà phê bình, vốn thường sử dụng thang 4 sao và chỉ mang tính chất định tính). Khi điểm số từ người xem đạt 7 điểm (tương đương với mức 3,5 sao trên thang 5 sao) trở lên sẽ được xem là phản hồi tích cực. Tháng 1 năm 2010, vào dịp kỷ niệm lần thứ 75 của Giới Phê bình phim New York, chủ tịch Armond White, đã dẫn chứng Rotten Tomatoes nói riêng và các hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá phim nói chung, là những ví dụ điển hình của việc "Internet đã phản ứng lại với những ý kiến chủ quan cá nhân" như thế nào bằng cách "đưa tất cả các nhà phê bình lên một trang web và gán điểm số phần trăm không đúng lắm chung cho tất cả những nhận xét riêng lẻ"; và theo White, những trang web như vậy "mang lại những nhận xét thống nhất có thể dùng như một sự thay thế cho việc đánh giá".
Toàn cầu.
Các phiên bản dành riêng cho từng khu vực có mặt ở Anh, Ấn Độ và Australia. Người đọc truy cập trang Rotten Tomatoes từ Pháp và Đức được tự động chuyển hướng sang phiên bản cho thị trường Anh, ở đó cung cấp thông tin về ngày phát hành phim ở khu vực hoặc địa phương, danh sách các rạp chiếu phim, doanh thu phòng vé và đăng các ý kiến nhận xét từ các nhà phê bình người Anh. Phiên bản ở Hoa Kỳ có thể được truy cập qua nút "US site" trên trang chủ. Phiên bản khu vực của trang có chưa tất cả các thông tin đã biên tập cho thị trường Hoa Kỳ, các nhận xét và danh sách phim được tăng cường thêm bằng các nguồn tin địa phương do một công ty biên tập quốc tế có trụ sở tại Los Angeles duy trì và cập nhật.
"The Rotten Tomatoes Show".
Vào đầu năm 2009, Current Television thực hiện một chương trình truyền hình dựa trên trang web, "The Rotten Tomatoes Show", do Brett Erlich và Ellen Fox dẫn chương trình và Mark Ganek viết kịch bản. Chương trình được phát sóng vào thứ năm hàng tuần vào lúc 10 giờ 30 EST trên kênh Current TV. Dựa theo thời gian tập phim được sản xuất và phát sóng mà đánh giá phim trên chương trình có thể khác đánh giá hiện tại trên website. Tập cuối cùng được phát sóng vào ngày 16 tháng 9 năm 2010, và sau đó chương trình đã quay trở lại dưới dạng một phiên bản ngắn hơn nhiều: một phần của chương trình InfoMania. | 1 | null |
Bằng chứng về tổ tiên chung đã được phát hiện bởi các nhà khoa học nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học trong nhiều thế kỷ, đã chứng minh rằng tất cả các sinh vật trên Trái đất tuy có rất nhiều dạng khác nhau, nhưng đều có nguồn gốc chung mà Darwin gọi là "đa dạng trong thống nhất". Những bằng chứng đã góp phần giúp thuyết tiến hóa được cộng đồng khoa học chấp nhận và chứng minh rằng hiện tượng tiến hóa đã và đang xảy ra giúp soi sáng các quá trình tạo ra sự đa dạng sinh học của Trái Đất. Nó cũng hỗ trợ trong việc hình thành thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại (modern evolutionary synthesis) – đây là học thuyết khoa học hiện tại giải thích cách thức và nguyên nhân sự sống biến đổi theo thời gian. Các nhà sinh học tiến hóa đã thu thập các bằng chứng về tổ tiên chung, và tất cả bằng chứng đều cho thấy sự tồn tại của một tổ tiên chung toàn thể cuối cùng (LUCA), bằng cách thiết lập các tiên đoán có thể kiểm chứng bởi thí nghiệm, tiến hành kiểm chứng các giả thuyết, và phát triển các học thuyết có nội dung minh họa và miêu tả căn nguyên của nó.
So sánh trình tự trình tự gen DNA của các sinh vật đã tiết lộ rằng các sinh vật quan hệ họ hàng gần nhau hơn thì có trình tự sắp xếp axit nucleic trên chuỗi DNA sẽ tương đồng nhau hơn so với các sinh vật họ hàng xa. Các đoạn gen như gen giả (Pseudogene), là các vùng của DNA có sự tương đồng với một gen ở sinh vật họ hàng gần với sinh vật đang so sánh, nhưng không còn hoạt động và dường như đang trải qua một quá trình thoái hóa ổn định từ các đột biến tích lũy hỗ trợ tổ tiên chung bên cạnh tổ chức sinh hóa phổ quát và mô hình phương sai phân tử được tìm thấy trong tất cả các sinh vật. Thông tin di truyền bổ sung thêm các kiến thức liên quan đến sự sống và giúp các nhà khoa học (kể từ khi phát hiện ra DNA) phát triển cây sự sống: một sơ đồ mô tả các mối quan hệ tiến hóa giữa các loài sinh vật. Nó cũng đã dẫn đến sự phát triển của các kỹ thuật đồng hồ phân tử để xác định thời gian phân tách của các chủng loài sinh học và tiến hành hiệu chỉnh chúng bằng hồ sơ hóa thạch.
Hóa thạch rất quan trọng để đánh giá khi các dòng giống khác nhau đã phát triển trong các niên đại địa chất. Vì hóa thạch là một trường hợp không phổ biến, thường đòi hỏi các bộ phận cứng của cơ thể và sinh vật phải chết gần một nơi mà trầm tích đang lắng đọng, hồ sơ hóa thạch chỉ cung cấp thông tin thưa thớt và không liên tục về sự tiến hóa của sự sống. Bằng chứng về các sinh vật trước khi phát triển các bộ phận cứng của cơ thể như vỏ, xương và răng, cũng như dấu vết của các sinh vật thân mềm khác nhau đặc biệt khan hiếm, nhưng vẫn có thể tồn tại dưới dạng hóa thạch nhỏ cổ đại. Nghiên cứu so sánh giải phẫu của các nhóm động vật cho thấy các đặc điểm cấu trúc tương tự về cơ bản (tương đồng), chứng minh mối quan hệ gần gũi và phát sinh từ tổ chung với các sinh vật khác, đặc biệt là khi so sánh với hóa thạch của các sinh vật cổ đại đã tuyệt chủng. Vết tích còn sót lại từ tổ tiên và so sánh trong phát triển phôi thai phần lớn là yếu tố cho thấy sự tương đồng về mặt giải phẫu, hoàn toàn phù hợp với việc có chung tổ tiên. Do các quá trình trao đổi chất không để lại hóa thạch, nên nghiên cứu về sự tiến hóa các quá trình cơ bản của tế bào được thực hiện chủ yếu bằng cách so sánh các quá trình sinh lý và sinh hóa của các sinh vật hiện tại. Nhiều chủng loại đã phân tách ở các giai đoạn phát triển khác nhau, vì vậy có thể xác định khi nào các quá trình trao đổi chất nhất định xuất hiện bằng cách so sánh các đặc điểm của các thế hệ con cháu có chung tổ tiên.
Bằng chứng từ màu sắc của động vật được thu thập bởi một số người đương thời của Darwin; ngụy trang, bắt chước và tín hiệu xua đuổi đều được giải thích dễ dàng bằng quá trình chọn lọc tự nhiên. Các trường hợp đặc biệt như sự thay đổi màu bộ lông theo mùa của Lagopus muta, giúp nó ngụy trang tuyết vào mùa đông và ngụy trang trong rừng vào mùa hè cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng chọn lọc tự nhiên là nguyên nhân cho việc này. Bằng chứng chuyên sâu hơn đến từ lĩnh vực địa lý sinh học bởi sự tiến hóa từ tổ tiên chung cung cấp lời giải thích tốt nhất và đầy đủ nhất cho nhiều thực kiện liên quan đến sự phân bố địa lý của thực vật và động vật trên khắp thế giới. Điều này đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực địa lý sinh học đảo. Kết hợp với học thuyết địa chất được xây dựng kỹ càng của thuyết kiến tạo mảng, tổ tiên chung cung cấp một cách để kết hợp thực kiện về sự phân bố hiện tại của các loài với bằng chứng từ hồ sơ hóa thạch để đưa ra lời giải thích hợp lý về cách phân bố của các sinh vật sống thay đổi theo thời gian.
Sự phát triển và lan truyền của kháng thuốc kháng sinh cung cấp bằng chứng cho thấy sự tiến hóa do chọn lọc tự nhiên là một quá trình đang diễn ra trong thế giới tự nhiên. Chọn lọc tự nhiên có mặt khắp nơi trong tất cả các nghiên cứu liên quan đến tiến hóa, xin hãy lưu ý đến thực tế là tất cả các ví dụ sau trong mỗi phần của bài viết đều ghi lại quá trình này. Bên cạnh đó là các trường hợp quan sát thấy sự phân tách các quần thể loài thành tập hợp các loài mới (sự hình thành loài). Sự hình thành loài đã được quan sát trong phòng thí nghiệm và trong tự nhiên. Nhiều hình thức như vậy đã được mô tả và ghi lại như các ví dụ cho các mô hình riêng lẻ về sự hình thành loài. Hơn nữa, bằng chứng về tổ tiên chung đã mở rộng từ các thí nghiệm trực tiếp trong phòng thí nghiệm bằng việc chọn lọc các sinh vật - trong lịch sử và hiện tại - và các thí nghiệm kiểm soát khác liên quan đến nhiều chủ đề trong bài viết. Bài viết này tóm tắt các ngành học khác nhau cung cấp bằng chứng cho sự tiến hóa và tổ tiên chung của mọi sự sống trên Trái đất, kèm theo nhiều ví dụ chuyên biệt, cho thấy một sự ăn khớp của các bằng chứng.
Bằng chứng so sánh sinh lý và sinh hóa.
Di truyền học.
Một trong những bằng chứng vững chắc nhất cho tổ tiên chung đến từ trình tự gen. Thông qua phương pháp bắt cặp trình tự sẽ kiểm tra được mối quan hệ họ hàng giữa các trình tự DNA của các loài khác nhau, nhờ đó cung cấp một số bằng chứng xác nhận giả thuyết ban đầu của Darwin về việc các loài có chung tổ tiên. Nếu giả thuyết về tổ tiên chung là đúng, thì các loài có chung tổ tiên được thừa hưởng trình tự DNA của tổ tiên, cũng như các đột biến đột biến độc nhất vô nhị của tổ tiên đó. Các loài có mối quan hệ gần gũi hơn sẽ có phần lớn trình tự giống hệt nhau và cũng như một sự khác biệt nhiều hơn với các loài có họ hàng xa.
Bằng chứng đơn giản và mạnh mẽ nhất được cung cấp bởi dựng lại sự phát sinh chủng loại (Computational phylogenetics). Việc dựng lại này, đặc biệt là khi được thực hiện bằng cách sử dụng các chuỗi protein tiến hóa chậm, thường khá mạnh mẽ và có thể được sử dụng để dựng lại rất nhiều về lịch sử tiến hóa của các sinh vật hiện đại (và thậm chí trong một số trường hợp về lịch sử tiến hóa của các sinh vật đã tuyệt chủng, như đã phục hồi trình tự gen của voi ma mút hoặc người Neanderthal). Những sự phát sinh chủng loại được dựng lại này tóm tắt lại các mối quan hệ được thiết lập thông qua các nghiên cứu hình thái và sinh hóa. Việc dựng lại chi tiết nhất đã được thực hiện trên cơ sở bộ gen của ty thể được chia sẻ bởi tất cả các sinh vật nhân chuẩn, mà được xem là ngắn và dễ để giải trình tự; việc dựng lại rộng nhất đã được thực hiện bằng cách sử dụng trình tự của một số protein rất cổ xưa hoặc bằng cách sử dụng trình tự RNA ribosome.
Mối quan hệ phát sinh chủng loại mở rộng đến nhiều trình tự gen không chức năng, bao gồm lặp đoạn, gen nhảy, gen giả, và đột biến gen làm thay đổi côđôn nhưng không thay đổi amino acid do côđôn đó mã hoá. Mặc dù một số ít các yếu tố này có thể sau đó được phát hiện thấy có chức năng, nhưng nhìn một cách toàn thể thì chúng rõ ràng là sản phẩm đến từ việc có chung tổ tiên chứ không phải là chung chức năng.
Tất cả tổ chức sinh hóa và mô hình phương sai phân tử.
Tất cả các sinh vật còn tồn tại tới bây giờ đều dựa trên cùng một quá trình sinh hóa: trong đó thông tin di truyền được mã hóa dưới dạng axit nucleic (DNA hoặc RNA đối với nhiều loại virus), được phiên mã thành RNA thông tin, sau đó được dịch mã thành protein (nghĩa là các polyme của amino acid) thông qua các ribosome. Có lẽ dễ hiểu nhất là, Mã di truyền ("bảng dịch" giữa DNA và amino acid) giống nhau cho hầu hết mọi sinh vật, có nghĩa là một mảnh DNA trong vi khuẩn mã hóa cho amino acid tương tự như trong tế bào con người. ATP được sử dụng làm đồng tiền năng lượng bởi tất cả các sinh vật sống còn tồn tại. Một sự hiểu biết chuyên sâu hơn về sinh học phát triển cho thấy rằng hình thái chung, trên thực tế, là sản phẩm của các yếu tố di truyền được kế thừa từ tổ tiên chung. Ví dụ, mặc dù đôi mắt giống như máy ảnh được cho là đã tiến hóa độc lập trong nhiều sự kiện riêng biệt, chúng vẫn có chung một tập hợp các protein cảm nhận ánh sáng (opsin), gợi ý một điểm xuất phát chung cho tất cả các sinh vật có thị giác. Một ví dụ khác là sự tương đồng trong trình tự phát triển cơ thể của động vật có xương sống, mà cấu trúc của nó được kiểm soát bởi họ gen Hox.
Trình tự DNA.
So sánh trình tự DNA cho phép sắp xếp các sinh vật có độ tương đồng trình tự với nhau thành một nhóm và các cây phát sinh chủng loại thường phù hợp với phân loại học, và thường được sử dụng để tăng cường tính chính xác của sự phân loại. So sánh trình tự được coi là một biện pháp đủ mạnh để sửa chữa các giả định sai lầm trong cây phát sinh chủng loại ở các trường hợp khan hiếm các bằng chứng khác. Ví dụ: trình tự DNA trung tính của con người là tách biệt di truyền khoảng 1,2% (do sự thay thế các Nucleotide) từ những họ hàng gần nhất về mặt di truyền là tinh tinh, 1,6% từ khỉ đột và 6,6% từ khỉ đầu chó. Do đó bằng chứng trình tự di truyền cho phép suy luận và định lượng mối quan hệ di truyền giữa con người và vượn. Trình tự gen của RNA Ribosome 16S, là một gen quan trọng mã hóa một phần của ribosome, đã được sử dụng để tìm mối quan hệ rộng phát sinh chủng loài giữa tất cả sinh vật còn tồn tại ngày nay. Phân tích của Carl Woese đã dẫn đến hệ thống ba vực, lập luận cho hai sự phân tách lớn trong sự tiến hóa ban đầu của sự sống. Sự phân tách đầu tiên dẫn đến Vi khuẩn hiện đại và sự phân chia tiếp theo dẫn đến Vi khuẩn cổ và Sinh vật nhân thực hiện đại.
Một số trình tự DNA được chia sẻ chung bởi các sinh vật rất khác nhau. Theo thuyết tiến hóa đã dự đoán, rằng sẽ có sự tương đồng trong trình tự DNA giữa hai sinh vật khác nhau dù có sự khác biệt sinh học giữa chúng theo giải phẫu và dù thời gian đã trôi qua kể từ khi hai sinh vật này tách ra thành hai loài khác nhau trong quá trình tiến hóa, như đã thấy trong bằng chứng hóa thạch. Tốc độ tích lũy những thay đổi như vậy sẽ thấp đối với một số trình tự, cụ thể là những trình tự mã hóa cho RNA hoặc protein then chốt, và cao đối với những loại khác mã hóa cho RNA hoặc protein ít quan trọng hơn; nhưng đối với mỗi trình tự cụ thể, tốc độ thay đổi sẽ gần như không đổi theo thời gian. Những kết quả này đã được xác nhận bằng thực nghiệm. Hai ví dụ là trình tự DNA mã hóa cho rRNA, được bảo tồn cao và trình tự DNA mã hóa cho fibrinopeptide (amino acid bị loại bỏ trong quá trình hình thành fibrin), không được bảo tồn cao.
Protein.
Bằng chứng hệ Protein cũng ủng hộ việc toàn thể sự sống có chung tổ tiên. Các protein quan trọng, chẳng hạn như ribosome, DNA polymerase và RNA polymerase, được tìm thấy trong mọi sinh vật sống, từ vi khuẩn nguyên thủy nhất đến động vật có vú phức tạp nhất. Phần cốt lõi của protein được bảo tồn trên tất cả các dòng dõi của sự sống, phục vụ các chức năng tương tự. Các sinh vật bậc cao đã tiến hóa thêm tiểu đơn vị protein, ảnh hưởng lớn đến sự điều hòa và tương tác protein-protein của sự cốt lõi. Sự tương đồng bao trùm khác giữa tất cả các dòng dõi của các sinh vật còn tồn tại, chẳng hạn như DNA, RNA, amino acid và lớp lipid kép, hỗ trợ cho học thuyết có tổ tiên chung. Phân tích sự cây phát sinh chủng loại của các chuỗi protein từ các sinh vật khác nhau tạo ra các cây tương đồng về mối quan hệ giữa tất cả các sinh vật. Tính bất đối xứng của DNA, RNA và amino acid được bảo tồn trong tất cả sự sống được biết đến. Vì không có lợi thế về chức năng đối với trạng thái phân tử thuận tay phải hoặc tay trái, giả thuyết đơn giản nhất là sự lựa chọn được tạo ra ngẫu nhiên bởi các sinh vật sơ khai và truyền lại cho tất cả sự sống còn tồn tại thông qua việc có chung tổ tiên. Bằng chứng nữa cho việc dựng lại tổ tiên chung đến từ DNA rác, chẳng hạn như gen giả, các gen "chết" tích lũy đột biến.
Gen giả.
Gen giả, còn được gọi là DNA không mã hóa, là phần DNA thừa trong bộ gen không được phiên mã thành RNA để tổng hợp protein. Một số DNA không mã hóa này có các chức năng đã biết, nhưng phần lớn nó không có chức năng nào được biết tới và được gọi là "DNA rác". Đây là một ví dụ về vết tích (vestige) bởi vì việc sao chép các gen này tiêu tốn năng lượng, khiến nó trở thành một sự lãng phí không cần thiết trong nhiều trường hợp. Một gen giả có thể được tạo ra khi một gen mã hóa tích lũy các đột biến khiến nó không được phiên mã, khiến nó không hoạt động. Nhưng vì nó không được phiên mã, nó có thể biến mất mà không ảnh hưởng đến sự thích nghi, trừ khi nó đã cung cấp một số chức năng có lợi như một DNA không mã hóa. Các gen giả không chức năng có thể được truyền lại cho các loài sau này, do đó xác định các loài sau này là hậu duệ của các loài trước đó.
Các cơ chế khác.
Một lượng lớn bằng chứng phân tử ủng hộ việc nhiều cơ chế khác nhau trong những thay đổi tiến hóa lớn, bao gồm: hệ gen và gen nhân đôi, tạo điều kiện cho sự tiến hóa nhanh chóng bằng cách cung cấp một lượng lớn vật liệu di truyền trong điều kiện yếu hoặc không có ràng buộc chọn lọc; chuyển gen ngang, quá trình chuyển vật liệu di truyền sang một tế bào khác không phải là con cháu của sinh vật, cho phép các loài có được các gen có lợi từ nhau; và tái tổ hợp di truyền, có khả năng tập hợp lại số lượng lớn các alen khác nhau và thiết lập phân lập sinh sản. Thuyết nội cộng sinh giải thích nguồn gốc của [[ty thể] và [[lạp thể]] (bao gồm cả [[lục lạp]]), bào quan của tế bào sinh vật nhân thực, như một sự kết hợp của một tế bào [[sinh vật nhân sơ]] sơ khai và tế bào [[sinh vật nhân thực]] sơ khai. Thay vì [[sinh vật nhân thực]] tự phát triển [[bào quan]], lý thuyết này đưa ra một cơ chế cho bước nhảy tiến hóa đột ngột bằng cách kết hợp vật liệu di truyền và thành phần sinh hóa của một loài riêng biệt. Bằng chứng ủng hộ cơ chế này đã được tìm thấy trong [[sinh vật nguyên sinh]] " [[Hatena arenicola|Hatena]] ": như một [[kẻ săn mồi]] nó nuốt chửng một tế bào [[tảo lục]], sau đó hoạt động như một [[sinh vật nội cộng sinh]] (endosymbiosis), nuôi dưỡng "Hatena", dẫn đến việc nó mất khả năng kiếm ăn và hoạt động như một [[sinh vật tự dưỡng]].
Vì các quá trình [[trao đổi chất|chuyển hóa]] không để lại hóa thạch, nghiên cứu về sự tiến hóa của các quá trình cơ bản của tế bào được thực hiện chủ yếu bằng cách so sánh các sinh vật hiện có. Nhiều chủng loài phát sinh khi các quá trình trao đổi chất mới xuất hiện và về mặt lý thuyết có thể xác định khi nào các quá trình trao đổi chất xuất hiện bằng cách so sánh các đặc điểm của con cháu của tổ tiên chung hoặc bằng cách phát hiện các biểu hiện vật lý của chúng. Ví dụ, sự xuất hiện của [[oxy]] trong [[bầu khí quyển của Trái Đất]] có liên quan đến sự tiến hóa của [[quang hợp]].
Ví dụ cụ thể từ so sánh sinh lý và hóa sinh.
Nhiễm sắc thể số 2 ở người.
[[Tập tin:Chromosome 2 merge en.svg|thumb|Hình 1b: Sự hợp nhất của nhiễm sắc thể tổ tiên để lại tàn dư của [[telomere]] và một vết tích [[tâm động]] (centromere)]]
Bằng chứng cho sự tiến hóa của "Homo sapiens" từ một tổ tiên chung với tinh tinh được tìm thấy trong số lượng nhiễm sắc thể ở người so với tất cả các thành viên khác của [[Họ người]]. Tất cả các loài trong họ người có 24 cặp nhiễm sắc thể, ngoại trừ con người, chỉ có 23 cặp. Nhiễm sắc thể số 2 ở người là kết quả của sự hợp nhất từ đầu đến cuối của hai nhiễm sắc thể tổ tiên.
Bằng chứng cho điều này bao gồm:
Do đó, nhiễm sắc thể 2 đưa ra bằng chứng mạnh mẽ cho việc tồn tại tổ tiên chung của con người và các loài [[vượn]] khác. Theo J. W. Ijdo, "Chúng tôi kết luận rằng [[Lô-cut gen]] được nhân bản trong các [[cosmid]] c8.1 và c29B là vết tích của một sự hợp nhất telomere-telomere cổ đại và đánh dấu điểm mà hai nhiễm sắc thể vượn tổ tiên hợp nhất để tạo ra nhiễm sắc thể số 2 của con người."
Sắc tố tế bào c và b.
Một ví dụ kinh điển về bằng chứng sinh hóa cho sự tiến hóa là sự đa dạng trong cơ bản (tức là tất cả các sinh vật sống đều có nó, bởi vì nó thực hiện các chức năng sống rất cơ bản) [[protein]] [[sắc tố tế bào c]] (cytochrome c) trong các tế bào sống. Sự đa dạng của sắc tố tế bào c của các sinh vật khác nhau được xác định bằng số lượng amino acid khác nhau, mỗi loại amino acid khác nhau là kết quả của sự thay thế [[cặp base]], [[đột biến]]. Nếu mỗi amino acid khác nhau được giả định là kết quả của một lần thay thế cặp base, thì có thể tính được hai loài đã phân tách cách đây bao lâu bằng cách nhân số lần thay thế cặp base với thời gian ước tính cho việc thay thế một cặp base của gen sắc tố tế bào c để được truyền thành công. Ví dụ, nếu thời gian trung bình để một cặp gen sắc tố tế nà c đột biến là N năm, số lượng amino acid tạo nên protein sắc tố tế bào c ở khỉ khác với con người, điều này dẫn đến kết luận rằng hai loài đã chuyển hướng N năm trước.
Cấu trúc chính của sắc tố tế bào c bao gồm một chuỗi khoảng 100 [[amino acid]]. Nhiều sinh vật bậc cao sở hữu một chuỗi 104 amino acid.
Phân tử sắc tố tế bào c đã được nghiên cứu rộng rãi đem lại cái nhìn thoáng qua cho sinh học tiến hóa. Cả [[gà]] và [[gà tây]] đều có sự trình tự xác định tương đồng nhau (amino acid cho amino acid), cũng như [[lợn]], [[bò]] và [[cừu]]. Cả [[con người]] và [[Tinh tinh thông thường]] đều có chung một phân tử, trong khi [[Macaca mulatta|khỉ Rhesus]] có chung tất cả trừ một trong các amino acid: amino acid thứ 66 là [[isoleucin]] ở trước và [[threonin]] ở sau.
Điều làm cho những điểm tương đồng tương tự này đặc biệt gợi ý về tổ tiên chung trong trường hợp sắc tố tế bào c, ngoài thực tế là các cây phát sinh chủng loại có nguồn gốc từ nó rất phù hợp với các cây phát sinh chủng loại khác, là mức độ dư thừa chức năng cao của phân tử sắc tố tế bào c. Các hình dạng khác nhau của các amino acid không ảnh hưởng đáng kể đến chức năng của protein, điều này cho thấy rằng sự thay thế cặp base không phải là một phần của thiết kế có chủ đích, mà là kết quả của các đột biến ngẫu nhiên không chịu ảnh hưởng của sự chọn lọc.
Ngoài ra, sắc tố tế bào b thường được sử dụng như một vùng của [[DNA ty thể]] để xác định mối quan hệ [[cây phát sinh chủng loài]] giữa các sinh vật do sự biến đổi trình tự của nó. Nó được coi là hữu ích nhất trong việc xác định mối quan hệ trong [[Họ (sinh học)|họ]] và [[Chi (sinh học)|chi]]. Các nghiên cứu so sánh liên quan đến sắc tố tế bào b đã dẫn đến các sơ đồ phân loại mới và đã được sử dụng để quy định các loài mới được mô tả ở một chi, cũng như hiểu sâu hơn về mối quan hệ tiến hóa.
Retrovirus nội sinh.
[[Retrovirus nội sinh]] (hoặc ERV) là các chuỗi còn sót lại trong bộ gen từ việc nhiễm virus cổ xưa trong một sinh vật. Các retrovirus (hoặc các gen virus) luôn luôn [[di truyền|truyền lại]] cho thế hệ tiếp theo của sinh vật đã bị nhiễm. Điều này khiến gen virus (virogene) còn sót lại trong bộ gen. Bởi vì sự kiện này rất hiếm và ngẫu nhiên, việc tìm thấy các vị trí một virogene giống hệt nhau trong nhiễm sắc thể của ở hai loài khác nhau cho thấy tổ tiên chung. [[Họ mèo]] cho thấy một ví dụ đáng chú ý về trình tự virogene thể hiện tổ tiên chung. Cây phát sinh chủng loài cho họ mèo có những loài mèo nhỏ(" [[Mèo ri]] ", " [[Mèo rừng châu Âu]] ", " [[Mèo chân đen]] " và " [[Mèo|Mèo nhà]] ") phân tách từ những loài mèo lớn hơn như [[Phân họ Báo]] và [[Bộ Ăn thịt|thú ăn thịt]] khác. Thực tế là những loài mèo nhỏ có ERV trong khi những loài mèo lớn không thấy gen này vì nó được chèn vào tổ tiên của những loài mèo nhỏ sau khi chúng phân tách với những loài mèo lớn. Một ví dụ khác về điều này là giữa con người và tinh tinh. Con người chứa nhiều ERV chiếm tỷ lệ đáng kể trong bộ gen. Nguồn thì đa dạng, nhưng chung quy là 1% to 8% được đề xuất. Con người và tinh tinh chia sẻ bảy sự xuất hiện khác nhau của virogen, trong khi tất cả các loài linh trưởng đều có chung retrovirus phù hợp với sự phát sinh chủng loài.
Nguồn gốc châu Phi gần đây của người hiện đại.
Các mô hình toán học của sự tiến hóa, được tiên phong bởi những người như [[Sewall Wright]], [[Ronald Fisher]] và [[J. B. S. Haldane]] và được mở rộng thông qua [[phương trình khuếch tán]] bởi [[Motoo Kimura]], cho phép dự đoán về cấu trúc di truyền của các quần thể tiến hóa. Kiểm tra trực tiếp cấu trúc di truyền của các quần thể hiện đại thông qua giải trình tự DNA đã cho phép xác minh nhiều dự đoán này. Ví dụ, học thuyết nguồn gốc loài người [[Nguồn gốc châu Phi gần đây của người hiện đại|từ châu Phi mà ra]] trong đó tuyên bố rằng con người hiện đại phát triển ở châu Phi và một quần thể nhỏ di cư ra ngoài (trải qua nút thắt dân số), ngụ ý rằng quần thể hiện đại sẽ tồn tại vài vết tích từ quá trình di cư này. Cụ thể, các quần thể sau nút thắt (người châu Âu và châu Á) sẽ cho thấy tổng thể sự đa dạng di truyền thấp hơn và sự phân bố tần số alen đồng đều hơn so với dân số châu Phi. Cả hai dự đoán này đều được đưa ra bởi dữ liệu thực tế từ một số nghiên cứu.
Bằng chứng từ giải phẫu học so sánh.
[[Giải phẫu học so sánh|Nghiên cứu giải phẫu học so sánh]] của các nhóm động vật hoặc thực vật cho thấy rằng các đặc điểm cấu trúc nhất định là tương đồng nhau. Ví dụ: cấu trúc cơ bản của tất cả [[hoa]] bao gồm [[lá đài]], [[cánh hoa]], [[bộ nhụy|đầu nhụy, vòi nhụy, nhụy hoa]]; Tuy nhiên, kích thước, màu sắc, số lượng của các bộ phận và cấu trúc cụ thể là khác nhau đối với từng loài. Giải phẫu thần kinh của hài cốt hóa thạch cũng có thể được so sánh bằng cách sử dụng các kỹ thuật hình ảnh tiên tiến.
Hiện tượng lại tổ.
[[Tập tin:HindlegsOfHumpbackWhale.jpg|thumb|right|160px|Hình 2a:Vào tháng 7 năm 1919, một con cá voi lưng gù có chân đã bị bắt bởi một con tàu hoạt động ở Vancouver long. Hình ảnh này cho thấy chân sau của một con cá voi lưng gù khác được báo cáo vào năm 1921 bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ.]]
Từng được coi là một sự bác bỏ đối với học thuyết tiến hóa, sự lại tổ "hiện được xem là bằng chứng mạnh mẽ về tiềm năng di truyền được giữ lại... sau khi một cấu trúc cụ thể đã biến mất khỏi một loài". "Sự lại tổ là sự xuất hiện trở lại của một đặc tính điển hình đã mất của tổ tiên xa xôi và không được nhìn thấy trong cha mẹ hoặc tổ tiên gần đây..." và là một "[dấu hiệu] về tính mềm dẻo phát triển tồn tại trong phôi..." Sự lại tổ xảy ra do các gen quy định các đặc điểm kiểu hình hiện có trước đây vẫn thường được bảo tồn trong DNA, mặc dù các gen không được biểu hiện ở một số hoặc hầu hết các sinh vật sở hữu chúng. Nhiều ví dụ đã ghi nhận sự xuất hiện của hiện tượng lại tổ cùng với nghiên cứu thực nghiệm kích hoạt sự hình thành của chúng. Do sự phức tạp và liên quan của các yếu tố dính liếu đến sự phát triển của bệnh teo, cả các nhà sinh học và chuyên gia y tế đều cảm thấy "khó khăn, nếu không nói là không thể phân biệt chúng với dị tật."
Một số ví dụ về sự lại tổ được tìm thấy trong các tài liệu khoa học bao gồm:
Sinh học phát triển tiến hóa và phát triển phôi.
Sinh học phát triển tiến hóa là lĩnh vực sinh học so sánh quá trình phát triển của các sinh vật khác nhau để xác định mối quan hệ tổ tiên giữa các loài. Một bộ gen lớn của sinh vật chứa một [[Sinh học phát triển tiến hóa|một phần nhỏ gen]] điều khiển sự phát triển của sinh vật. [[Gen Hox]] là một ví dụ về các loại gen gần như phổ quát trong các sinh vật chỉ ra nguồn gốc của tổ tiên chung. Bằng chứng phôi học đến từ sự phát triển của các sinh vật ở cấp độ phôi được so sánh với phôi của các sinh vật khác nhau cho thấy sự tương đồng. Phần còn lại của các đặc điểm tổ tiên thường xuất hiện và biến mất trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển phôi.
Một số ví dụ bao gồm:
Cơ quan tương đồng và sự phân tách tiến hóa (thích nghi).
Nếu các nhóm sinh vật đa dạng được phân tách có nguồn gốc từ một tổ tiên chung, chúng được dự kiến sẽ có những đặc điểm cơ bản nhất định. Mức độ tương đồng giữa hai sinh vật sẽ cho biết mức độ chặt chẽ trong mối quan hệ gần gũi của chúng trong quá trình tiến hóa:
Khi một nhóm sinh vật có cùng cơ quan tương đồng chuyên thực hiện nhiều chức năng khác nhau để thích nghi với các điều kiện môi trường và chế độ sống khác nhau một cách nhanh chóng, nó được gọi là [[bức xạ thích nghi]] (adaptive radiation). Sự lan truyền dần dần của các sinh vật với bức xạ thích nghi được gọi là [[tiến hóa phân kỳ]] (divergent evolution), là nguyên nhân dẫn tới [[sự hình thành loài]].
Sự lồng nhau của hệ thống phân loại sinh học.
[[Phân loại sinh học]] dựa trên thực tế là tất cả các sinh vật có mối quan hệ họ hàng với nhau trong hệ thống lồng nhau dựa trên các đặc điểm chung. Hầu hết các loài hiện nay có thể được sắp xếp khá dễ dàng trong một hệ thống phân loại lồng nhau. Điều này là hiển nhiên từ sơ đồ phân loại Linnaean. Dựa trên các các đặc tính nguồn gốc được chia sẻ, các sinh vật có mối quan hệ họ hàng gần gũi có thể được đặt trong một nhóm (chẳng hạn như một chi), một số chi có thể được nhóm lại thành một họ, một số họ có thể được nhóm lại thành một bộ, v.v.. Sự tồn tại của các hệ thống phân loại lồng nhau này đã được nhiều nhà sinh học trước Darwin công nhận, nhưng ông đã cho thấy rằng học thuyết tiến hóa của ông với mô hình phân nhánh chung của nó có thể giải thích nguyên nhân của sự phân loại này. Darwin đã mô tả cách tổ tiên chung cung cấp một cơ sở logic để phân loại các sinh vật sống:
Cây tiến hóa.
Một [[cây phát sinh chủng loại]] (của động vật có màng ối (Amniota), là ví dụ, cho tổ tiên chung nhất của động vật có vú và bò sát và tất cả con cháu của nó) minh họa các điều kiện ban đầu gây ra các mô hình tiến hóa tương tự (ví dụ, tất cả các loài động vật có màng ối đẻ một quả trứng có chứa [[màng ối]]) và các mô hình phân tách giữa các chủng loài (ví dụ, động vật có vú và bò sát phân nhánh từ tổ tiên chung là động vật có màng ối). Cây tiến hóa cung cấp các mô hình khái niệm về các hệ thống tiến hóa từng được cho là hạn chế trong lĩnh vực đưa ra dự đoán vượt ngoài học thuyết. Tuy nhiên, phương pháp [[dự đoán phát sinh chủng loại]] được sử dụng để suy ra dự đoán với xác suất lớn hơn nhiều so với các dữ liệu thô mà ta có. Ví dụ, các nhà cổ sinh vật học sử dụng kỹ thuật này để đưa ra dự đoán về các đặc điểm không thể quan sát được ở các sinh vật hóa thạch, như khủng long có lông và các nhà sinh học phân tử sử dụng kỹ thuật này để đưa ra dự đoán về chuyển hóa RNA và chức năng protein. Do đó, cây tiến hóa là giúp đưa ra các giả thuyết tiến hóa đề cập đến các thực kiện cụ thể, chẳng hạn như đặc điểm của sinh vật (ví dụ: vảy, lông, lông), cung cấp bằng chứng cho các mô hình gốc và giải thích nguyên nhân cho sự biến đổi (ví dụ, chọn lọc tự nhiên hoặc trôi dạt trung tính (neutral drift)) trong bất kỳ dòng dõi nhất định (ví dụ động vật có màng ối). Các nhà sinh học tiến hóa kiểm tra học thuyết tiến hóa bằng các phương pháp sử dụng hệ thống phát sinh chủng loại để đo lường mức độ giả thuyết (một kiểu phân nhánh cụ thể trong cây tiến hóa) làm tăng khả năng có thể đúng của bằng chứng (sự phân bố các đặc tính giữa các dòng dõi). Mức độ khốc liệt của các thí nghiệm cho một học thuyết tăng lên nếu các dự đoán thuộc dạng "ít có khả năng được quan sát nhất nếu sự kiện nhân quả không xảy ra." "Khả năng thực nghiệm là thước đo xem giả thuyết tăng bao nhiêu khả năng có thể đúng của bằng chứng."
Cơ quan thoái hóa.
Bằng chứng cho sự tồn tại của tổ tiên chung đến từ sự tồn tại của các cơ quan thoái hóa. Các cấu trúc thô sơ này thường tương đồng với các cấu trúc tương ứng trong các loài họ hàng hoặc tổ tiên. Một loạt các cấu trúc tồn tại như gen đột biến và không hoạt động, các bộ phận của hoa, cơ bắp, cơ quan và thậm chí cả hành vi. Sự đa dạng này có thể được tìm thấy trên nhiều nhóm loài khác nhau. Trong nhiều trường hợp chúng bị thoái hóa hoặc kém phát triển. Sự tồn tại của các cơ quan tiền đình có thể được giải thích dưới dạng những thay đổi trong môi trường hoặc phương thức sống của loài. Các cơ quan đó thường có chức năng trong các loài tổ tiên nhưng bây giờ hoặc là bán chức năng, không chức năng hoặc tái mục đích.
Tài liệu khoa học liên quan đến cơ quan thoái hóa (vestigial structures) rất nhiều. Một nghiên cứu đã đưa ra 64 ví dụ về cơ quan thoái hóa được tìm thấy trong tài liệu trên một loạt các ngành học trong thế kỷ 21. Danh sách không đầy đủ sau đây tóm tắt Senter et al. cùng với nhiều ví dụ khác:
[[Tập tin:Mystice pelvis (whale).png|thumb|right|350px|Hình 2b: Bộ xương của một [[cá voi tấm sừng]] với cấu trúc chân sau và xương chậu được khoanh tròn màu đỏ. Cấu trúc xương này tồn tại bên trong suốt cuộc đời của loài.]]
Ví dụ cụ thể từ giải phẫu so sánh.
Miệng và phần phụ của côn trùng.
Nhiều loài côn trùng khác nhau có phần miệng có nguồn gốc từ cùng một cấu trúc phôi thai, cho thấy phần miệng là những biến đổi của các đặc điểm ban đầu của tổ tiên chung. Chúng bao gồm [[môi trên (côn trùng)|labrum]] (môi trên), một cặp [[dàm dưới (côn trùng)|mandibles]] (hàm dưới), một [[hầu dưới]], một cặp [[hàm trên (côn trùng)|maxillae]] (hàm trên) và [[môi dưới (côn trùng)|labium]] (môi dưới). (Hình 2c) Sự tiến hóa đã gây ra sự tăng cường và biến đổi các cấu trúc này ở một số loài, trong khi nó đã gây ra sự tiêu biến và biến mất chúng ở các loài khác. Các biến đổi cho phép côn trùng khai thác nhiều loại thức ăn khác nhau.
Miệng và râu côn trùng được coi là cơ quan tương đồng của chân côn trùng. Sự phát triển song song được nhìn thấy trong một số loài thuộc [[lớp hình nhện]]: Cặp chân trước có thể được biến đổi thành dạng tương tự của râu, đặc biệt là ở loài [[bọ cạp roi]], đi bằng sáu chân. Những phát triển này cung cấp sự hỗ trợ cho học thuyết rằng các biến đổi phức tạp thường phát sinh từ các bộ phận có sẵn và các bộ phận này sẽ biến đổi theo các hướng khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.
Cấu trúc xương chậu của khủng long.
Tương tự như động vật có vú có chi năm ngón, [[khủng long]] sơ khai được chia thành hai bộ riêng biệt. " [[Khủng long hông thằn lằn]] " (saurischia) và " [[Khủng long hông chim]] " (ornithischia). Chúng được phân loại như thế này hay thế khác dựa vào sự phù hợp với những gì hóa thạch thể hiện. Hình 2d, cho thấy rằng " Khủng long hông thằn lằn " sơ khai giống " Khủng long hông chim ". Mô hình của [[xương chậu]] trong tất cả các loài khủng long là một ví dụ về cấu trúc tương đồng. Mỗi bộ của khủng long có xương chậu gần như giống nhau hoàn toàn cung cấp bằng chứng về tổ tiên chung. Ngoài ra, [[chim]] hiện đại cho thấy sự tương đồng với các cấu trúc xương chậu " Khủng long hông thằn lằn " sơ khai cho thấy [[tiến hóa của chim]] từ khủng long. Điều này cũng có thể được nhìn thấy trong Hình 5c là nhánh [[Chim]] (Aves) bên cạnh phân bộ [[Khủng long chân thú]] (Theropoda).
Chi năm ngón.
Mô hình xương chi gọi là [[chi năm ngón]] là một ví dụ về cấu trúc tương đồng (Hình 2e). Nó được tìm thấy trong tất cả các lớp của [[động vật bốn chân]] (" ví dụ " từ [[động vật lưỡng cư]] đến [[động vật có vú]]). Nó thậm chí có thể được truy trở lại [[vây cá|vây]] của một số [[tiến hóa cá|hóa thạch cá]] mà từ đó loài lưỡng cư đầu tiên tiến hóa như [[tiktaalik]]. Chi có một [[xương cánh tay]], hai [[xương quay]] và [[xương trụ]], một loạt [[xương bàn tay]] và [[xương cổ tay]], theo sau là năm chuỗi [[xương đốt bàn tay]] và [[xương đốt ngón tay]]. Xuyên suốt các động vật bốn chân, các cấu trúc cơ bản của các chi năm ngón là như nhau, cho thấy rằng chúng có nguồn gốc từ một tổ tiên chung. Nhưng trong quá trình tiến hóa, những cấu trúc cơ bản này đã được biến đổi. Chúng đã trở thành những cấu trúc khác nhau và không liên quan đến bề ngoài để phục vụ các chức năng khác nhau để thích nghi với các môi trường và phương thức sống khác nhau. Hiện tượng này được thể hiện trong các chi trước của động vật có vú. Ví dụ:
Dây thần kinh thanh quản quặt ngược ở hươu cao cổ.
[[Dây thần kinh thanh quản quặt ngược]] (recurrent laryngeal nerve) là một nhánh thứ tư của [[dây thần kinh phế vị]], là một [[dây thần kinh sọ]]. Ở động vật có vú, con đường của nó dài bất thường. Là một phần của dây thần kinh phế vị, nó xuất phát từ não, đi qua cổ xuống đến tim, vòng qua [[động mạch chủ]] để rồi một lần nữa đi qua cổ và trở lại [[thanh quản]]. (Hình 2f)
Con đường này là tồi tệ ngay cả đối với con người, nhưng đối với [[hươu cao cổ]] nó thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn. Do chiều dài của cổ của nó, dây thần kinh thanh quản quặt ngược có thể dài lên đến . Mặc dù đích đến của nó chỉ cách vài cm.
Con đường gián tiếp của dây thần kinh này là kết quả của sự tiến hóa của động vật có vú từ cá. Cá không có cổ và có một dây thần kinh tương đối ngắn mà nó đi qua cung mang để tới một khe mang gần đó. Kể từ đó, mang mà là đích đến của nó đã trở thành thanh quản và cung mang đã trở thành động mạch chủ ở động vật có vú. Chỉ có nhánh thứ ba, tư và sáu của cung động mạch vẫn còn trong động vật có vú, nhánh thứ sáu chỉ hoạt động trong bào thai để mang máu tới nhau thai. Dây thần kinh phế vị thứ tư ở động vật có vú (dây thần kinh thanh quản quặt ngược) vòng qua nhánh động mạch thứ sáu giống như nó đã làm trong cơ thể tổ tiên loài cá trước kia, nhưng giờ nó phải đi một quãng đường xa hơn bởi vì nhánh động mạch này giờ nằm ở vùng ngực.
Lộ trình của ống dẫn tinh.
Tương tự như dây thần kinh thanh quản ở hươu cao cổ, [[ống dẫn tinh]] là một phần của [[hệ sinh dục nam|giải phẫu học con đực]] của nhiều [[động vật có xương sống]]; nó vận chuyển tinh trùng từ [[mào tinh]] để chuẩn bị cho sự [[xuất tinh]]. Ở người, ống dẫn tinh di chuyển lên từ [[tinh hoàn]], vòng qua [[niệu quản]] và quay trở lại [[niệu đạo]] và [[dương vật]]. Có ý kiến cho rằng điều này là do sự hạ thấp của tinh hoàn trong quá trình tiến hóa của con người, có khả năng liên quan đến nhiệt độ. Khi tinh hoàn bị hạ thấp, thì ống dẫn tinh dài ra để phù hợp với "cái móc" tình cờ trên niệu quản. (Hình 2h)
Bằng chứng cho cổ sinh vật học.
Khi sinh vật chết, chúng thường [[phân hủy]] nhanh chóng hoặc bị [[động vật ăn xác thối]] tiêu thụ, không để lại bằng chứng bền lâu về sự tồn tại của chúng. Tuy nhiên, đôi khi, một số sinh vật được bảo tồn. Phần còn lại hoặc [[dấu vết hóa thạch|dấu vết]] của các sinh vật từ quá khứ theo [[niên đại địa chất]] được nằm trong [[đá]] bởi các quá trình tự nhiên được gọi là [[hóa thạch]]. Chúng cực kỳ quan trọng để hiểu [[lịch trình tiến hóa của sự sống]] trên Trái đất, vì chúng cung cấp bằng chứng trực tiếp về sự tiến hóa và thông tin chi tiết về tổ tiên của sinh vật. [[Cổ sinh vật học]] là chuyên ngành nghiên cứu về sự sống trong quá khứ dựa trên các ghi chép hóa thạch và mối quan hệ của chúng với các khoảng niên đại địa chất khác nhau.
Để hiện tượng hóa thạch diễn ra, dấu vết và phần còn sót lại của các sinh vật phải được chôn cất nhanh chóng để sự [[phong hóa]] và phân hủy không xảy ra. Cấu trúc xương hoặc các phần cứng khác của sinh vật là hình thức hóa thạch phổ biến nhất. Ngoài ra còn có một số dấu vết "hóa thạch" hiển thị [[khuôn]], đúc hoặc dấu ấn của một số sinh vật trước đó.
Khi một con vật chết đi, các thành phần hữu cơ dần phân rã, khiến cho [[xương]] trở nên xốp. Nếu con vật sau đó bị chôn vùi trong [[bùn]], [[khoáng vật|khoáng chất]] muối xâm nhập vào xương và dần dần lấp đầy lỗ chân lông. Xương cứng lại thành đá và được bảo quản dưới dạng hóa thạch. Quá trình này được gọi là [[sự hóa đá]]. Nếu động vật chết được bao phủ bởi gió [[cát]] (wind-blown sand) và nếu sau đó cát bị biến thành bùn do [[mưa]] hoặc [[lũ]] nặng, thì quá trình xâm nhập khoáng chất tương tự có thể xảy ra. Ngoài việc hóa đá, xác chết của các sinh vật có thể được bảo quản tốt trong [[băng]], trong [[nhựa cây]] cứng của [[ngành thông|cây lá kim]] (hình 3a), trong hắc ín hoặc trong kỵ khí, [[axit]] [[than bùn]]. Hóa thạch đôi khi có thể là một dấu vết, một vết hằn của một hình dạng nào đó. Các ví dụ bao gồm lá và dấu chân, hóa thạch được tạo thành các lớp sau đó cứng lại.
Hồ sơ hóa thạch.
Có thể giải mã làm thế nào một nhóm sinh vật cụ thể tiến hóa bằng cách sắp xếp hồ sơ hóa thạch của nó theo trình tự thời gian. Trình tự như vậy có thể được xác định vì hóa thạch chủ yếu được tìm thấy trong [[đá trầm tích]]. Đá trầm tích được hình thành bởi các lớp [[phù sa]] hoặc bùn chồng lên nhau; do đó, kết quả là đá chứa một loạt các lớp ngang hoặc [[địa tầng]]. Mỗi lớp chứa hóa thạch điển hình cho một [[kỷ (địa chất)|khoảng thời gian]] cụ thể khi chúng hình thành. Tầng thấp nhất chứa đá lâu đời nhất và hóa thạch sớm nhất, trong khi tầng cao nhất chứa đá trẻ nhất và hóa thạch gần đây hơn.
Một sự nối tiếp của động vật và thực vật cũng có thể được nhìn thấy từ những khám phá hóa thạch. Bằng cách nghiên cứu số lượng và độ phức tạp của các hóa thạch khác nhau ở các cấp [[địa tầng]] khác nhau, người ta đã chứng minh rằng các loại đá mang hóa thạch cũ chứa ít loại sinh vật hóa thạch hơn và tất cả chúng đều có cấu trúc đơn giản hơn, trong khi các loại đá trẻ hơn chứa một hóa thạch đa dạng hơn, thường có cấu trúc ngày càng phức tạp.
Trong nhiều năm, các nhà địa chất chỉ có thể ước tính khoảng tuổi của các lớp khác nhau và các hóa thạch được tìm thấy. Họ đã làm như vậy, ví dụ, bằng cách ước tính thời gian hình thành lớp đá trầm tích theo từng lớp. Ngày nay, bằng cách đo tỷ lệ [[phóng xạ]] và độ ổn định của các [[nguyên tố hóa học|nguyên tố]] trong một loại đá nhất định, nhờ đó niên đại hóa thạch có thể được xác định chính xác hơn bởi các nhà khoa học. Kỹ thuật này được gọi là [[định tuổi bằng đồng vị phóng xạ]].
Xuyên suốt hồ sơ hóa thạch, nhiều loài xuất hiện ở cấp độ địa tầng sớm đã biến mất ở cấp độ sau. Điều này chỉ ra thời gian các hình thành và tuyệt chủng loài được giải thích theo thuật ngữ tiến hóa. Các khu vực địa lý và điều kiện khí hậu đã thay đổi trong suốt [[Lịch sử Trái Đất]]. Vì các sinh vật thích nghi với các môi trường cụ thể, các điều kiện thay đổi liên tục khiến các loài sở hữu kiểu hình phù hợp để thích nghi với môi trường mới sẽ tồn tại còn ngược lại sẽ bị tuyệt chủng bởi cơ chế [[chọn lọc tự nhiên]].
Mức độ của hồ sơ hóa thạch.
Bất chấp sự hiếm có tương đối của các điều kiện phù hợp cho sự hóa thạch, ước tính 250.000 loài hóa thạch đã được đặt tên. Số lượng hóa thạch riêng lẻ này đại diện cho rất nhiều loài khác nhau, nhưng nhiều triệu hóa thạch đã được phục hồi: ví dụ, hơn ba triệu hóa thạch từ [[kỷ băng hà]] đã được phục hồi từ các [[hố nhựa đường La Brea]] ở Los Angeles. Nhiều hóa thạch khác vẫn còn ở trong lòng đất, trong các dạng địa chất khác nhau có chứa mật độ hóa thạch cao, cho phép ước tính tổng hàm lượng hóa thạch của sự hình thành. Một ví dụ về điều này xảy ra ở [[Beaufort Formation]] (một phần của [[Karoo Supergroup]], bao gồm hầu hết Nam Phi), nơi có nhiều hóa thạch động vật có xương sống, bao gồm cả [[Bộ Cung thú]] ([[hóa thạch chuyển đổi|hình thức chuyển đổi]] bò sát- động vật có vú). Người ta ước tính rằng hệ tầng này chứa 800 tỷ hóa thạch động vật có xương sống. Các nhà cổ sinh vật học đã ghi nhận nhiều hình thức chuyển đổi và đã xây dựng "một hồ sơ toàn diện đáng kinh ngạc về các sự chuyển đổi quan trọng trong quá trình tiến hóa của động vật". Tiến hành khảo sát các tài liệu cổ sinh vật học, người ta sẽ thấy rằng có "các các bằng chứng phong phú cho việc tất cả các nhóm động vật chính có liên quan với nhau, phần lớn ở dạng hóa thạch chuyển đổi tuyệt vời".
Những giới hạn.
Hồ sơ hóa thạch là một nguồn quan trọng cho các nhà khoa học khi truy tìm lịch sử tiến hóa của các sinh vật. Tuy nhiên, do những hạn chế vốn có trong hồ sơ, không có quy mô tốt của các hình thức trung gian giữa các nhóm loài liên quan. Việc thiếu hóa thạch liên tục trong hồ sơ là một hạn chế lớn trong việc truy tìm nguồn gốc của các nhóm sinh học. Khi [[hóa thạch chuyển đổi]] được tìm thấy hiển thị các dạng trung gian trong những gì mà lúc trước được xem là một lỗ hổng kiến thức, chúng thường được gọi là "các mắc xích bị thiếu".
Có khoảng trống khoảng 100 triệu năm giữa thời điểm bắt đầu [[kỷ Cambri]] và kết thúc [[kỷ Ordovic]]. Kỷ Cambri sớm là thời kỳ mà nhiều hóa thạch của [[động vật thân lỗ]], [[ngành Thích ty bào]] ("ví dụ", [[sứa]]), [[ngành Da gai]] ("ví dụ", [[eocrinoidea]]), [[động vật thân mềm]] ("ví dụ", [[ốc]]) và [[động vật chân khớp]] ("ví dụ", [[bọ ba thùy]]) được tìm thấy. Loài vật đầu tiên sở hữu những đặc điểm tiêu biểu của [[động vật có xương sống]], " [[Arandaspis]] ", đã tồn tại kỷ Ordovic sau. Do đó, rất ít, nếu có, hóa thạch thuộc loại trung gian giữa [[động vật không xương sống]] và [[động vật có xương sống]] đã được tìm thấy, mặc dù các ứng cử viên có thể bao gồm động vật [[Burgess Shale]], " [[Pikaia gracilens]]", và người họ hàng của nó là [[Maotianshan shales]], "[[Myllokunmingia]]", "[[Yunnanozoon]]", "[[Haikouella lanceolata]]", và "[[Haikouichthys]]".
Một số lý do cho sự không hoàn chỉnh của hồ sơ hóa thạch là:
Ví dụ cụ thể từ cổ sinh vật học.
Tiến hóa của ngựa.
[[Tập tin:Horseevolution.svg|325px|thumb|left|Hình 3e: [[Sự tiến hóa của ngựa]] cho thấy sự tái tạo của các loài hóa thạch thu được từ các tầng đá liên tiếp. Các sơ đồ chân là tất cả các hình ảnh phía trước của bàn chân trái. [[Xương gan tay]] (metacarpal bones) thứ ba được tô màu. Các răng được hiển thị trong phần dọc. Trình tự tuyến tính chỉ là một trong nhiều con đường trong cây phát sinh chủng loại ngựa.]]
Do một hồ sơ hóa thạch gần như hoàn chỉnh được tìm thấy trong các trầm tích (sedimentary deposits) Bắc Mỹ từ đầu [[Thế Eocen]] cho đến hiện tại, [[ngựa]] cung cấp một trong những ví dụ tốt nhất về lịch sử tiến hóa ([[cây phát sinh chủng loại]]).
Chuỗi tiến hóa này bắt đầu với một loài động vật nhỏ gọi là " [[Hyracotherium]] " (thường được gọi là " Eohippus "), sống ở Bắc Mỹ khoảng 54 triệu năm trước sau đó lan sang [[Châu Âu]] và [[Châu Á]]. Hóa thạch của " Hyracotherium " cho thấy nó khác với ngựa hiện đại ở ba khía cạnh quan trọng: đó là một con vật nhỏ (kích thước nag một con [[cáo]]), có cấu trúc tương đối nhẹ và thích nghi để chạy; các chi ngắn và thon, và bàn chân thon dài để các ngón gần như thẳng đứng, với bốn ngón ở [[chi trước]] và ba ngón ở [[chi sau]]; và [[răng cửa]] nhỏ, [[răng hàm]] có thân răng thấp với [[đỉnh răng]] hình tròn được phủ một lớp [[men răng]].
Quá trình phát triển tương đối của ngựa từ " Hyracotherium " đến " Equus " (ngựa hiện đại) liên quan đến ít nhất 12 [[chi]] và hàng trăm [[loài]]. Các xu hướng chính được thấy trong sự phát triển của ngựa để thích nghi với điều kiện thay đổi của môi trường có thể được tóm tắt như sau:
Thực vật hóa thạch được tìm thấy ở các tầng khác nhau cho thấy [[đầm lầy]], vùng đất nhiều cây cối (wooded country), nơi " Hyracotherium " sống trở nên khô hơn. Sự sinh tồn bây giờ phụ thuộc vào cái đầu ở vị trí cao để có được cái nhìn rõ hơn về vùng đất (countryside) xung quanh, và tốc độ cao để thoát khỏi [[săn mồi|kẻ săn mồi]], do đó tăng kích thước và thay thế bàn chân rộng (splayed-out foot) bằng chân có móng guốc (hoofed foot). Mặt đất khô hơn, cứng hơn sẽ khiến bàn chân rộng ban đầu không cần thiết và bị loại bỏ. Những thay đổi trong răng có thể được giải thích bằng cách giả định rằng chế độ ăn thay đổi từ [[thảm thực vật]] mềm sang [[cỏ]]. Một chi trội từ mỗi niên đại địa chất đã được chọn (xem hình 3e) để cho thấy sự thay đổi chậm rãi của dòng ngựa từ tổ tiên của nó sang hình thức hiện đại của nó.
Chuyển đổi từ cá sang động vật lưỡng cư.
Trước năm 2004, các nhà cổ sinh vật học đã tìm thấy hóa thạch của động vật lưỡng cư có cổ, tai và bốn chân, trong tảng đá không quá 365 triệu năm tuổi. Trong những tảng đá hơn 385 triệu năm tuổi, họ chỉ có thể tìm thấy cá, không có những đặc điểm lưỡng cư này. Thuyết tiến hóa dự đoán rằng do động vật lưỡng cư tiến hóa từ cá, một dạng trung gian nên được tìm thấy trong đá có niên đại từ 365 đến 385 triệu năm trước. Một dạng trung gian như vậy sẽ có nhiều đặc điểm giống cá, được bảo tồn từ 385 triệu năm trước trở lên, nhưng cũng có nhiều đặc điểm lưỡng cư. Vào năm 2004, một đoàn thám hiểm tới các hòn đảo ở Bắc Cực thuộc Canada, đã tìm ra dạng hóa thạch này trong các tảng đá 375 triệu năm tuổi, loài này được đặt tên là [[Tiktaalik]]. Tuy nhiên, một vài năm sau đó, các nhà khoa học ở [[Ba Lan]] thông báo đã tìm thấy bằng chứng về hóa thạch dấu chân của [[động vật bốn chân]] còn tồn tại trước cả (tracks predating) loài "Tiktaalik".
Bằng chứng từ địa lý sinh học.
Dữ liệu về sự hiện diện hay vắng mặt của các loài trên nhiều [[lục địa]] và [[đảo]] [[địa lý sinh học]]) có thể cung cấp bằng chứng về tổ tiên chung và làm sáng tỏ các mô hình của [[sự hình thành loài]].
Phân bố lục địa.
Tất cả các sinh vật thích nghi với môi trường của chúng ở mức độ cao hơn hoặc thấp hơn khoảng giới hạn. Nếu các yếu tố phi sinh học và sinh học trong [[sinh cảnh|môi trường sống]] có cho phép một loài cụ thể có thể sinh tồn trong một khu vực địa lý, thì người ta có thể cho phỏng đoán rằng cùng một loài sẽ được tìm thấy trong một môi trường tương tự trong một khu vực địa lý tương tự, ví dụ ở [[Châu Phi]] và [[Nam Mỹ]]. Nhưng kết quả thực tế lại không như vậy. Các loài thực vật và động vật được phân bố không đồng đều trên khắp thế giới:
Thậm chí sự khác biệt lớn hơn có thể được tìm thấy nếu xem xét [[châu Úc]], mặc dù nó có cùng [[vĩ độ]] như phần lớn châu Nam Mỹ và châu Phi. [[Thú có túi]] giống như [[kangaroo]], [[bandicoot]] và [[chi mèo túi]] chiếm khoảng một nửa số loài động vật có vú bản địa ở Úc. Ngược lại, thú có túi ngày nay hoàn toàn vắng bóng ở châu Phi và tạo thành một phần nhỏ hơn của hệ động vật có vú ở Nam Mỹ, nơi [[chồn opossum]], [[caenolestidae|chuột chù có túi]] và [[Dromiciops gliroides|khỉ bụi rậm nhỏ]] được tìm thấy. Đại diện sống duy nhất của động vật có vú nguyên thủy ([[bộ đơn huyệt]] là [[tachyglossidae|thú lông nhím]] và [[thú mỏ vịt]]. Loài [[thú lông nhím mỏ ngắn]] và các phân loài của nó sinh sống ở Úc, [[Tasmania]], [[New Guinea]] và [[Đảo Kangaroo]] trong khi loài (" [[Thú lông nhím mỏ dài Tây New Guinea|thú lông nhím mỏ dài]] ") chỉ sống ở New Guinea. Thú mỏ vịt sống ở vùng biển phía đông Australia. Chúng đã được đưa đến Tasmania, [[Đảo King (Tasmania)|Đảo King]] và Đảo Kangaroo. Những sự loài động vật đơn huyệt này hoàn toàn không có ở phần còn lại của thế giới. Mặt khác, Úc đang thiếu nhiều nhóm [[Placentalia|động vật có vú nhau thai]] phổ biến ở các lục địa khác ([[bộ Ăn thịt]], [[bộ Guốc chẵn]], [[họ chuột chù]], [[họ sóc]], [[bộ thỏ]]), mặc dù nó có loài gặm nhấm bản địa như [[bộ dơi]] và [[Murinae|chuột cựu thế giới]]; nhiều thú có nhau khác, chẳng hạn như [[thỏ]] và [[cáo]], đã được con người đem tới đó.
Các ví dụ phân bố động vật khác bao gồm [[gấu]], nằm trên tất cả các lục địa, ngoại trừ Châu Phi, Úc và Nam Cực, và gấu Bắc cực chỉ ở Vòng Bắc Cực và các khối đất liền kề. [[Chim cánh cụt]] chỉ được tìm thấy xung quanh Nam Cực mặc dù Bắc Cực có điều kiện thời tiết tương tự. Các họ của [[bộ bò biển]] được phân bố ở toàn bộ vùng biển trên Trái Đất, nơi [[lợn biển]] nằm ở vùng biển phía tây châu Phi, vùng biển phía Bắc Nam Mỹ và vùng biển Tây Ấn chỉ trong các họ có liên quan, [[cá cúi]], chỉ nằm ở vùng biển [[châu Đại Dương]] phía bắc Úc và bờ biển quanh [[Ấn Độ Dương]]. [[Bò biển Steller]] bây giờ đã tuyệt chủng cư trú tại [[Biển Bering]].
Các loại hóa thạch tương tự được tìm thấy từ các khu vực được biết là liền kề với nhau trong quá khứ, nhưng qua quá trình [[trôi dạt lục địa]], hiện đang ở các vị trí địa lý khác nhau. Ví dụ, hóa thạch cùng loại lưỡng cư cổ đại, động vật chân đốt và dương xỉ được tìm thấy ở Nam Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ, Úc và Nam Cực, có thể có niên đại [[Đại Cổ sinh]] khi các khu vực này được hợp nhất thành một vùng đất rộng lớn được gọi là [[Gondwana]]. Đôi khi con cháu của những sinh vật này có thể được xác định và cho thấy sự tương đồng không thể nhầm lẫn với nhau, mặc dù hiện tại chúng sống ở những vùng và khí hậu rất khác nhau.
Địa lý sinh học đảo.
[[Tập tin:Darwin's finches.jpeg|thumb|Hình 4a: Bốn trong số [[sẻ Darwin|13 loài chim sẻ]] được tìm thấy trên [[Quần đảo Galápagos]], đã tiến hóa bằng một bức xạ thích nghi (adaptive radiation) đa dạng hóa hình dạng [[mỏ]] của chúng để thích nghi với các nguồn thức ăn khác nhau.]]
Các loại loài được tìm thấy trên đảo.
Bằng chứng từ [[địa lý sinh học đảo]] đã đóng một vai trò quan trọng và mang tính lịch sử trong sự phát triển của [[sinh học tiến hóa]]. Theo mục đích của [[địa lý sinh học]], các đảo được chia thành hai loại. Các đảo lục địa là những hòn đảo như [[Vương quốc Anh]] và [[Nhật Bản]] đã có lúc này hay lúc khác là một phần của lục địa. Các đảo đại dương, như [[quần đảo Hawaii]], [[quần đảo Galápagos]] và [[Saint Helena]], mặt khác là những hòn đảo đã hình thành trên đại dương và chưa bao giờ là một phần của bất kỳ lục địa nào. Các đảo đại dương có sự phân bố của thực vật và động vật bản địa không cân bằng theo những cách làm cho chúng khác biệt với [[quần xã sinh vật]] được tìm thấy trên các lục địa hoặc đảo lục địa. Các đảo đại dương không có động vật có vú trên cạn bản địa (đôi khi chúng có dơi và hải cẩu), động vật lưỡng cư hoặc cá nước ngọt. Trong một số trường hợp, chúng có các loài bò sát trên cạn (như cự đà và rùa khổng lồ của Quần đảo Galápagos) nhưng thường (chẳng hạn như ở Hawaii) thì không. Điều này bất chấp thực tế là khi các loài như chuột, dê, lợn, mèo, chuột và [[cóc mía]] được con người đem đến những hòn đảo như vậy thì chúng thường phát triển mạnh. Bắt đầu với [[Charles Darwin]], nhiều nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm và thực hiện các quan sát cho thấy các loại động vật và thực vật được tìm thấy, và không tìm thấy, trên những hòn đảo như vậy phù hợp với học thuyết rằng những hòn đảo này bị thực vật vô tình xâm chiếm và động vật đã có thể tiếp cận chúng. Sự xâm chiếm ngẫu nhiên như vậy có thể xảy ra bằng không khí, chẳng hạn như hạt giống thực vật được mang theo bởi các loài chim di cư, hoặc dơi và côn trùng bị gió thổi ra ngoài biển, hoặc trôi nổi từ lục địa hoặc đảo khác bằng đường biển (ví dụ, bởi một số loại gieo hạt giống như dừa có thể sống sót trong nước mặn) và các loài bò sát có thể tồn tại trong thời gian dài trên bè của thảm thực vật được mang ra biển bởi bão.
Tính đặc hữu.
Nhiều loài được tìm thấy trên các hòn đảo xa xôi là [[đặc hữu]] cho một hòn đảo hoặc một nhóm đảo cụ thể, có nghĩa là chúng không được tìm thấy ở nơi nào khác trên Trái Đất. Ví dụ về các loài đặc hữu của các đảo bao gồm nhiều loài chim không bay của [[New Zealand]], [[vượn cáo]] của [[Madagascar]], [[rồng Komodo]] của [[Komodo (đảo)|Komodo]], cây máu rồng của [[Socotra]], [[Tuatara]] of [[New Zealand]], và các loài khác. Tuy nhiên, nhiều loài đặc hữu như vậy có liên quan đến các loài được tìm thấy trên các đảo hoặc lục địa khác gần đó; mối quan hệ của các loài động vật được tìm thấy trên Quần đảo Galápagos với những loài được tìm thấy ở Nam Mỹ là một ví dụ nổi tiếng. Tất cả những thực kiện này, các loài thực vật và động vật được tìm thấy trên các đảo đại dương, số lượng lớn các loài đặc hữu được tìm thấy trên các đảo đại dương và mối quan hệ của các loài đó với những loài sống trên các lục địa gần nhất, được giải thích dễ dàng nhất nếu các đảo bị thuộc địa bởi các loài từ các lục địa gần đó đã phát triển thành các loài đặc hữu hiện được tìm thấy ở đó.
Nếu không bắt buộc phải là sống trên đảo thì ngoài ra còn có những loài đặc hữu khác. Quần đảo có thể có nghĩa là hồ cô lập hoặc khu vực xa xôi và cô lập. Ví dụ về những điều này sẽ bao gồm vùng cao nguyên [[Ethiopia]], [[Hồ Baikal]], [[fynbos]] của [[cộng hòa Nam Phi]], rừng [[Nouvelle-Calédonie]], và những nơi khác. Ví dụ về các sinh vật đặc hữu sống ở các khu vực bị cô lập bao gồm [[Rhynochetos jubatus]] của Nouvelle-Calédonie, [[chuột mây]] ở [[rừng thông nhiệt đới Luzon]] của [[Philippines]], cây [[Fouquieria columnaris|boojum]] của [[bán đảo Baja California]], [[hải cẩu Baikal]] và [[cá hồi trắng Omul]] của hồ Baikal.
Bức xạ thích nghi.
Các đảo đại dương thường xuyên sinh sống bởi các cụm loài có quan hệ họ hàng chặt chẽ trong các [[hốc sinh thái]], thường các hốc được lấp đầy bởi các loài rất khác nhau trên các lục địa. Những cụm như vậy, giống như chim sẻ của Galápagos, [[sẻ Hawaii]] (Hawaiian honeycreeper), các thành viên của họ hoa hướng dương trên [[Juan Fernandez Archipelago]] và mọt gỗ trên St. Helena được gọi là [[bức xạ thích nghi]] bởi vì chúng là giải thích tốt nhất khi một loài duy nhất xâm chiếm một hòn đảo (hoặc nhóm đảo) và sau đó đa dạng hóa để lấp đầy các hốc sinh thái có sẵn. Bức xạ như vậy có thể là ngoạn mục; 800 loài thuộc chi ruồi giấm ("Drosophila"), gần một nửa tổng số thế giới, là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii. Một ví dụ minh họa khác từ Hawaii là một loạt thành viên của chi [[Argyroxiphium]], đó là một nhóm gồm ba mươi loài chỉ được tìm thấy trên những hòn đảo đó. Các thành viên bao gồm từ hoa [[Argyroxiphium|silversword]] mọc một cách ngoạn mục trên các sườn núi lửa cao đến cây, cây bụi, dây leo và chiếu (mat) mọc ở các độ cao khác nhau từ đỉnh núi đến mực nước biển và trong môi trường sống của Hawaii khác nhau từ sa mạc đến rừng mưa nhiệt đới. Họ hàng gần nhất của chúng bên ngoài Hawaii, dựa trên các nghiên cứu phân tử, là [[Madia|tarweed]] được tìm thấy ở bờ biển phía tây Bắc Mỹ. Những tarweed này có hạt dính tạo điều kiện có thể vận chuyển đi xa bởi các loài chim di cư. Ngoài ra, gần như tất cả các loài trên đảo có thể được lai tạo và các giống lai thường có khả năng sinh sản, và chúng đã được lai tạo thực nghiệm với hai trong số các loài tarweed bờ biển phía tây Bắc Mỹ nói trên. Các đảo lục địa có ít quần xã sinh vật khác biệt, nhưng những hòn đảo đã tách ra từ bất kỳ lục địa nào cũng có các loài đặc hữu và bức xạ thích nghi, chẳng hạn như 75 loài [[vượn cáo]] của [[Madagascar]], và 11 loài [[moa]] đã tuyệt chủng của [[New Zealand]].
[[Tập tin:Ring Species (gene flow around a barrier).png|thumb|left|300px|Hình 4b: Trong một [[loài vành đai]],các cá thể thuộc quần thể lân cận nhau có thể giao phối nhưng quần thể nằm ở hai đầu của vành đai không thể lai giống với nhau được vì sự khác biệt về huyết thống quá xa.]]
Loài vành đai.
Một loài vành đai là một chuỗi các quần thể được liên kết với nhau, mỗi quần thể có thể giao phối với các quần thể lân cận, với ít nhất hai quần thể "kết thúc" ở hai đầu có mối quan hệ họ hàng quá xa để có thể giao phối, mặc dù [[dòng gen]] có khả năng chảy giữa các quần thể. Các loài vành đai đại diện cho [[sự hình thành loài]] và đã được trích dẫn làm bằng chứng của sự tiến hóa. Chúng minh họa những gì xảy ra theo thời gian khi các quần thể phân tách về mặt di truyền, đặc biệt bởi vì chúng đại diện cho các quần thể sống, những gì thường xảy ra theo thời gian giữa các quần thể tổ tiên đã chết và các quần thể sống, trong đó các loài trung gian đã trở thành [[tuyệt chủng]]. [[Richard Dawkins]] nói rằng các loài nhẫn "chỉ cho chúng ta thấy ở chiều không gian một cái gì đó luôn luôn phải xảy ra trong chiều thời gian".
Ví dụ cụ thể từ địa lý sinh học.
Sự phân bố của "Glossopteris".
Sự kết hợp giữa trôi dạt lục địa và tiến hóa đôi khi có thể được sử dụng để dự đoán những gì sẽ được tìm thấy trong hồ sơ hóa thạch. " [[Glossopteris]] " là một loài tuyệt chủng của [[dương xỉ hạt]] từ [[kỷ Permi]]. " Glossopteris " xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch xung quanh đầu kỷ Permi trên lục địa cổ đại [[Gondwana]]. Trôi dạt lục địa giải thích địa lý sinh học hiện tại của cây. Hóa thạch " Glossopteris " ngày nay được tìm thấy ở tầng Permi ở đông nam Nam Mỹ, đông nam châu Phi, tất cả Madagascar, miền bắc Ấn Độ, tất cả Úc, tất cả New Zealand, và nằm rải rác ở rìa phía nam và phía bắc của Nam Cực. Trong kỷ Permi, các lục địa này được kết nối như Gondwana (xem hình 4c) phù hợp với dải từ (magnetic striping), các phân bố hóa thạch khác và các vết nứt thuộc sông băng (glacial scratches) chỉ ra từ khí hậu ôn đới của Nam Cực trong kỷ Permi.
Sự phân bố của Metatheria.
Lịch sử của [[Metatheria]] (nhánh chứa [[thú có túi]] và tổ tiên nguyên thủy đã tuyệt chủng của chúng) cung cấp một ví dụ về cách học thuyết tiến hóa và sự trôi dạt lục địa có thể được kết hợp để đưa ra dự đoán liên quan đến địa tầng hóa thạch và sự phân bố. [[Sinodelphys|hóa thạch metatherian lâu đời nhất]] được tìm thấy ở ngày nay [[Trung Quốc]]. Metatheria lan rộng về phía tây vào Bắc Mỹ hiện đại (vẫn gắn liền với Á-Âu) và sau đó đến Nam Mỹ, được kết nối với Bắc Mỹ cho đến khoảng 65 triệu năm trước. Thú có túi đến Úc qua Nam Cực khoảng 50 triệu năm trước, ngay sau khi Úc tách ra cho thấy một sự kiện phân tán duy nhất của chỉ một loài. Thuyết tiến hóa gợi ý rằng các loài thú có túi ở Úc có nguồn gốc từ những con lớn hơn được tìm thấy ở châu Mỹ. Bằng chứng địa chất cho thấy rằng từ 30 đến 40 triệu năm trước Nam Mỹ và Úc vẫn là một phần của siêu lục địa Nam bán cầu [[Gondwana]] và chúng được kết nối bằng đất liền hiện là một phần của Nam Cực. Do đó, khi kết hợp các mô hình, các nhà khoa học có thể dự đoán rằng thú có túi di cư từ Nam Mỹ ngày nay, qua Nam Cực, và sau đó đến Úc ngày nay từ 30 đến 40 triệu năm trước. Một hóa thạch [[thú có túi]] đầu tiên của họ đã tuyệt chủng [[Polydolopidae]] đã được tìm thấy trên [[đảo Seymour]] thuộc [[bán đảo Nam Cực]] năm 1982. Các hóa thạch tiếp theo sau đó đã được tìm thấy, bao gồm các thành viên của các bộ thú có túi [[Chồn Opossum]] và [[Microbiotheria]], cũng như [[động vật móng guốc]] và một thành viên của bộ bí ẩn đã tuyệt chủng [[Gondwanatheria]], có thể là " [[Sudamerica ameghinoi]]".
Di cư, cô lập và phân bố của lạc đà.
Lịch sử của [[lạc đà]] cung cấp một ví dụ về cách bằng chứng hóa thạch có thể được sử dụng để tái xây dựng sự di cư và tiến hóa theo sau. Hồ sơ hóa thạch chỉ ra rằng sự tiến hóa của [[lạc đà]] bắt đầu ở Bắc Mỹ (xem hình 4e), từ đó, sáu triệu năm trước, chúng di cư qua Eo biển Bering vào Châu Á và sau đó đến Châu Phi, và 3,5 triệu năm trước qua eo đất Panama vào Nam Mỹ. Sau khi bị cô lập, chúng tiến hóa theo thành các dòng riêng, tạo ra [[lạc đà hai bướu]] và [[lạc đà một bướu]] ở Châu Á và Châu Phi và [[Lama (chi lạc đà)|Llama và họ hàng của nó]] ở Nam Mỹ. Lạc đà sau đó bị tuyệt chủng ở Bắc Mỹ vào cuối [[kỷ băng hà]] cuối cùng.
Bằng chứng từ chọn lọc tự nhiên.
Các ví dụ về bằng chứng cho sự tiến hóa thường xuất phát từ quan sát trực tiếp [[chọn lọc tự nhiên]] trong các lĩnh vực và phòng thí nghiệm. Đây là phần độc nhất ở chỗ nó cung cấp một bối cảnh hẹp hơn liên quan đến quá trình chọn lọc. Tất cả các ví dụ được cung cấp trước đó đã mô tả bằng chứng cho thấy sự tiến hóa đã xảy ra, nhưng không cung cấp cơ chế cơ bản chính: chọn lọc tự nhiên. Phần này cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng chọn lọc tự nhiên xảy ra, đã được lặp lại một cách nhân tạo và có thể được lặp lại trong các thí nghiệm ở phòng thí nghiệm.
Các nhà khoa học đã quan sát và ghi lại vô số sự kiện trong đó chọn lọc tự nhiên đang hoạt động. Các ví dụ được biết đến nhiều nhất là tình trạng kháng thuốc kháng sinh trong lĩnh vực y tế cùng với các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm nổi tiếng hơn chứng minh sự xuất hiện của sự tiến hóa. Chọn lọc tự nhiên là nguyên nhân tác động tới tổ tiên chung trong khoảng thời gian lâu dài và dưới áp lực của sự chọn lọc đã dẫn đến sự đa dạng của sự sống trên Trái Đất như ngày nay. Tất cả các sự thích nghi – được ghi chép trong các tài liệu và cả những thay đổi không được ghi chép đề cập đến – đều là kết quả của chọn lọc tự nhiên (và một vài quá trình nhỏ khác). Nó được xác định rõ rằng, "... chọn lọc tự nhiên là một phần luôn luôn có của sự hình thành loài...", và là động lực chính của sự hình thành loài; do đó, các ví dụ sau đây về chọn lọc tự nhiên " và " sự hình thành loài thường sẽ liên quan hoặc tương ứng với nhau. Các ví dụ dưới đây chỉ là một phần nhỏ của các thí nghiệm và quan sát thực tế.
Chọn lọc nhân tạo và thực nghiệm tiến hóa.
[[Tập tin:Big and little dog 1.jpg|thumb|left|300px|Hình 5a: Giống [[chó lai]] [[Chihuahua (chó)|Chihuahua]] và [[Great Dane]] minh họa khoảng kích thước giữa các giống chó lai.]]
[[Chọn lọc nhân tạo]] thể hiện sự đa dạng có thể tồn tại giữa các sinh vật có chung tổ tiên tương đối gần đây. Trong chọn lọc nhân tạo, một loài được lai tạo có chọn lọc ở mỗi thế hệ, chỉ cho phép những sinh vật thể hiện các đặc tính mong muốn được sinh sản. Những đặc điểm này ngày càng phát triển tốt trong các thế hệ kế tiếp. Chọn lọc nhân tạo đã thành công từ lâu trước khi khoa học phát hiện ra cơ sở di truyền. Ví dụ về chọn lọc nhân tạo bao gồm [[nhân giống chó]], [[thực phẩm biến đổi gen]], nhân giống hoa và trồng các loại thực phẩm như [[cải bắp dại]], và những loại khác.
[[Thực nghiệm tiến hóa]] sử dụng các thí nghiệm có kiểm soát để kiểm tra các giả thuyết và học thuyết của tiến hóa. Trong một ví dụ ban đầu, [[William Dallinger]] đã thiết lập một thí nghiệm ngay trước năm 1880, khiến vi khuẩn nóng lên với mục đích buộc thay đổi thích nghi. Thử nghiệm của ông đã diễn ra trong khoảng bảy năm và kết quả được công bố của ông đã được hoan nghênh, nhưng ông đã không tiếp tục thử nghiệm sau khi máy móc bị hỏng.
Một ví dụ quy mô lớn về sự thử nghiệm tiến hóa là [[E. thí nghiệm tiến hóa dài hạn E.coli|thí nghiệm đa thế hệ với " Escherichia coli "]] của [[Richard Lenski]]. Lenski quan sát thấy rằng một số chủng "[[E. coli]]" đã phát triển một khả năng mới phức tạp, khả năng chuyển hóa [[citrate]], sau hàng chục ngàn thế hệ. Nhà sinh vật học tiến hóa Jerry Coyne nhận xét với tư cách là một nhà phê bình sáng tạo luận, nói rằng, "điều tôi thích nhất là nó nói rằng [[những đặc điểm phức tạp]] có thể được phát triển bởi sự kết hợp của những sự kiện không thể xảy ra." Ngoài những thay đổi về trao đổi chất, các quần thể vi khuẩn khác nhau đã được tìm thấy có sự khác biệt về cả hình thái (kích thước tổng thể của tế bào) và thích nghi (được đo lường bằng sự cạnh tranh với tổ tiên). " Thí nghiệm tiến hóa dài hạn của E. coli bắt đầu vào năm 1988 vẫn đang được tiến hành và đã cho thấy sự thích nghi bao gồm cả sự tiến hóa của một chủng " E. coli " có thể phát triển trên môi trường tăng trưởng chứa axit citric. Một đặc điểm vắng mặt trong tất cả các dạng đã biết khác của " E. coli ", bao gồm cả chủng ban đầu.
Động vật không xương sống.
Lịch sử dẫn đến sự chịu đựng ở "Daphnia".
Một nghiên cứu về các loài " [[Daphnia]] " và ô nhiễm chì trong thế kỷ 20 đã dự đoán rằng sự gia tăng ô nhiễm chì sẽ dẫn đến sự chọn lọc mạnh mẽ về khả năng chịu đựng với chì. Các nhà nghiên cứu đã có thể sử dụng "sinh thái phục sinh", bằng cách ấp những quả trứng hàng chục năm tuổi của " Daphnia " từ thời hồ bị ô nhiễm nặng chì. Những con non trong nghiên cứu được so sánh với " Daphnia " ngày nay, và đã chứng minh "sự khác biệt về sự thích nghi mạnh mẽ giữa các kiểu hình cũ và hiện đại khi phải đối mặt với một tác nhân gây stress trong môi trường lịch sử". Về cơ bản, " Daphnia " thời hiện đại không thể chống lại hoặc chịu đựng được lượng chì cao (điều này là do sự giảm ô nhiễm chì rất lớn ở các hồ thế kỷ 21). Tuy nhiên, những con non mới nở ra từ những quả trứng xưa có thể chịu được ô nhiễm chì cao. Các tác giả kết luận rằng "bằng cách sử dụng các kỹ thuật của hệ sinh thái phục sinh, chúng tôi đã có thể cho thấy sự thay đổi kiểu hình rõ ràng trong nhiều thập kỷ...".
Bướm sâu đo bạch dương.
Một ví dụ kinh điển là sự thay đổi kiểu hình, sự thích nghi màu sắc từ sáng đến tối, trong [[Tiến hóa bướm sâu đo bạch dương|bướm sâu đo bạch dương]], do ô nhiễm từ [[cách mạng công nghiệp]] ở Anh. Và ngược lại khi các nhà máy ngừng gây ô nhiễm thì kiểu hình màu sắc sáng tăng trở lại.
Vi sinh vật.
Kháng thuốc kháng sinh ở vi khuẩn.
Sự phát triển và lan truyền của khả năng kháng [[kháng sinh]] ở [[vi khuẩn]] là bằng chứng cho quá trình tiến hóa của các loài. Do đó, sự xuất hiện của kháng thuốc [[vancomycin]] ở " [[Staphylococcus aureus|tụ cầu vàng]] ", và sự nguy hiểm mà nó gây ra cho bệnh nhân nằm tại bệnh viện, là kết quả trực tiếp của tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên. Sự gia tăng của các chủng " [[Shigella]] " kháng với nhóm kháng sinh tổng hợp của [[Sulfonamide (thuốc)|sulfonamide]] cũng cho thấy việc tạo ra thông tin mới như một quá trình tiến hóa. Tương tự như vậy, sự xuất hiện của tính kháng [[DDT]] ở nhiều loài muỗi " [[Anophele]] " và sự xuất hiện của khả năng kháng [[bệnh nấm da ở thỏ|nấm da]] trong quần thể thỏ sinh sản ở Úc, đều là bằng chứng về sự tồn tại của tiến hóa trong các tình huống tiến hóa dưới [[áp lực chọn lọc]] ở các loài qua các thế hệ xảy ra nhanh chóng.
Tất cả các lớp vi sinh vật đều phát triển khả năng đề kháng: bao gồm nấm ([[kháng thuốc kháng nấm]]), [[virus]] ([[kháng thuốc kháng vi rút]]), [[động vật nguyên sinh]] ([[kháng thuốc kháng động vật nguyên sinh]] và [[vi khuẩn]] ([[kháng thuốc kháng sinh]]). Điều này có thể suy luận ra khi tất cả sự sống đang tồn tại đều có chung mã di truyền và do đó phải chịu quá trình tiến hóa thông qua các cơ chế khác nhau của nó.
Vi khuẩn ăn Nylon.
Một ví dụ khác về các sinh vật thích nghi với điều kiện do con người gây ra là [[Vi khuẩn ăn Nylon]]: một chủng " [[Flavobacterium]] " có khả năng tiêu hóa một số sản phẩm phụ của quá trình sản xuất [[nylon 6]]. Có sự đồng thuận khoa học rằng khả năng tổng hợp enzym phân hủy nylon (nylonase) nhiều khả năng đã phát triển bằng một bước đột biến mà vẫn tồn tại vì nó cải thiện khả năng thích nghi của vi khuẩn sở hữu đột biến. Đây được coi là một ví dụ tốt về sự tiến hóa thông qua đột biến và chọn lọc tự nhiên đã được quan sát đã xảy ra và đáng lẽ sẽ không thể xảy ra cho đến khi con người sản xuất nylon.
Thực vật và nấm.
Bức xạ hoa khỉ.
Cả hai phân loài " Mimulus aurantiacus Puniceus " (hoa đỏ) và " Mimulus aurantiacus australis " (hoa vàng) của hoa khỉ đều bị cô lập do sự ưa thích của loài chim ruồi và sự thụ phấn của bướm đêm hawkmoth. Bức xạ của phân loài " M. aurantiacus " hầu hết có màu vàng; tuy nhiên, cả " M. a. " ssp. " Puniceus " và " M. a. " ssp. " flemingii " có màu đỏ. Phân tích phát sinh gen cho thấy hai nguồn gốc độc lập của hoa màu đỏ phát sinh do " cis " - đột biến quy định trong gen " MaMyb2 " có trong tất cả phân loài của " M. aurantiacus. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy rằng không xảy ra hai đột biến độc lập, mà một alen " MaMyb2 " đã được chuyển qua [[lai tạo xâm lấn]] (introgressive hybridization). Nghiên cứu này trình bày một ví dụ về sự kết hợp của nghiên cứu trong các ngành khác nhau. Phân lập gen và " cis " - chức năng điều tiết; phân tích phát sinh chủng loại; vị trí địa lý và ưu tiên thụ phấn; và lai tạo loài và sự hình thành loài chỉ là một số lĩnh vực trong đó dữ liệu có thể được lấy để ghi nhận sự xuất hiện của tiến hóa.
Nấm phóng xạ.
Giống như cá tuyết, ô nhiễm do con người gây ra có thể ở các dạng khác nhau. [[Nấm phóng xạ]] là một ví dụ hoàn hảo về chọn lọc tự nhiên diễn ra sau một tai nạn hóa học. Nấm phóng xạ dường như sử dụng sắc tố [[melanin]] để chuyển đổi [[tia Gamma|bức xạ gamma]] thành năng lượng hóa học để tăng trưởng và được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2007 khi [[nấm mốc]] màu đen mọc bên trong và xung quanh [[Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl]]. Nghiên cứu tại [[Đại học Y Albert Einstein]] cho thấy ba loại nấm có chứa melanin, " [[Cladosporium sphaerospermum]] ", " [[Wangiella dermatitidis]] ", và " [[Cryptococcus neoformans]] ", đã tăng thêm [[sinh khối]] và tích lũy [[axetat]] nhanh hơn trong môi trường có mức [[bức xạ]] cao hơn 500 lần so với trong môi trường bình thường.
Động vật có xương sống.
Cá bảy màu.
Trong khi nghiên cứu [[cá bảy màu]] ("Poecilia reticulata") tại đảo [[Trinidad]], nhà sinh vật học John Endler đã phát hiện ra sự chọn lọc tại nơi sinh sống của quần thể cá. Để loại trừ các khả năng khác, Endler đã thiết lập một thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ để mô phỏng môi trường sống tự nhiên bằng cách xây dựng mười ao trong nhà kính phòng thí nghiệm tại [[Đại học Princeton]]. Mỗi ao chứa sỏi để khớp chính xác với ao tự nhiên. Sau khi bắt được một mẫu cá bảy màu ngẫu nhiên từ các ao ở [[Trinidad]], ông nuôi và trộn chúng để tạo ra các quần thể di truyền đa dạng tương tự và đo từng con cá (chiều dài điểm, chiều cao điểm, diện tích điểm, chiều dài điểm tương đối, chiều cao điểm tương đối, tổng số diện tích vá, và chiều dài cơ thể tiêu chuẩn). Để phục vụ thí nghiệm, ông đã thêm "[[Crenicichla]] alta " (kẻ săn mồi chính của " P. reticulata") trong bốn ao,"[[Rivulus]] hartii" (một loài cá không ăn thịt) trong bốn ao, và bỏ trống hai ao còn lại chỉ có cá bảy màu. Sau 10 thế hệ, các phép đo được thực hiện lại để so sánh giữa các quần thể cá bảy màu của ao và. Endler phát hiện ra rằng quần thể cá bảy màu đã tiến hóa các vẻ ngoài màu sắc sặc sở trong các nhóm chứng (chỉ có cá bảy màu) và nhóm không có động vật ăn thịt còn nhóm có động vật ăn thịt thì có màu nâu xám. Áp lực dự đoán đã gây ra một lựa chọn chống lại nổi bật từ sỏi nền.
[[Tập tin:Guppy CS pair 4 20130113.jpg|thumb|left|300px|Hình 5e: Cá bảy màu Trinidad trong thí nghiệm của Endler ("[[Poecilia reticulata]]")]]
Song song, trong thí nghiệm này, Endler đã tiến hành một thí nghiệm thực địa ở Trinidad, nơi anh bắt được cá bảy màu từ ao nơi chúng có động vật ăn thịt và di chuyển chúng đến ao ở thượng nguồn nơi những kẻ săn mồi không sống. Sau 15 thế hệ, Endler phát hiện ra rằng cá bảy màu được di dời đã tiến hóa thành các vẻ đầy màu sắc và ấn tượng. Về cơ bản, cả hai thí nghiệm đều cho thấy sự hội tụ do áp lực lựa chọn tương tự (nghĩa là sự chọn lọc do động vật ăn thịt chống lại các vẻ ngoài có màu tương phản với môi trường và lựa chọn giới tính cho các vẻ ngoài có màu tương phản).
Trong một nghiên cứu sau đó của David Reznick, quần thể rộng đã được kiểm tra 11 năm sau khi Endler di chuyển cá bảy màu lên những con suối cao. Nghiên cứu cho thấy rằng quần thể đã phát triển theo một số cách khác nhau: hoa văn màu sáng, trưởng thành muộn, kích thước lớn hơn, kích thước lứa nhỏ hơn và con cái lớn hơn trong lứa. Các nghiên cứu sâu hơn về " P. reticulata " và những kẻ săn mồi của chúng trong dòng Trinidad đã chỉ ra rằng các cách chọn lọc khác nhau thông qua việc săn mồi không chỉ thay đổi màu sắc bên ngoài, kích thước và hành vi của cá bảy màu, mà là [[học thuyết lịch sử sự sống|lịch sử sự sống sống]] và vẻ ngoài của lịch sử sự sống].
Con người.
Chọn lọc tự nhiên được quan sát thấy ở các quần thể người đương đại, với những phát hiện gần đây chứng minh rằng dân số có nguy cơ mắc bệnh suy nhược [[kuru (bệnh)|kuru]] nghiêm trọng có sự biểu hiện quá mức đáng kể của một biến thể miễn dịch của [[protein prion]] quy định bởi gen G127V so với các alen không miễn dịch. Các nhà khoa học đưa ra một trong những lý do cho việc chọn lọc nhanh chóng [[Đột biến|biến thể di truyền]] này là mức độ gây tử vong của bệnh ở những người không miễn dịch. Các xu hướng tiến hóa trong các báo cáo khác trong các quần thể khác bao gồm kéo dài thời kỳ sinh sản, giảm mức cholesterol, đường huyết và huyết áp.
Một ví dụ nổi tiếng về sự chọn lọc xảy ra trong quần thể người là dung nạp đường lactose (sữa). [[Hội chứng không dung nạp lactose]] là không có khả năng [[chuyển hóa]] [[lactose]], do thiếu enzyme cần thiết là [[lactase]] trong hệ thống tiêu hóa. Tình trạng bình thường của một loài động vật có vú là để con non nó bị giảm sản xuất lactase vào cuối thời kỳ [[ăn dăm|cai sữa]] (weaning period) (đây là một khoảng thời gian cụ thể của loài). Ở người, trong các xã hội không tiêu thụ sữa, sản xuất lactase thường giảm khoảng 90% trong bốn năm đầu đời, mặc dù mức giảm chính xác theo thời gian rất khác nhau. Sự tồn tại của hoạt động Lactase ở người trưởng thành có liên quan đến hai sự [[đa hình (sinh học)|đa hình]]: C / T 13910 và G / A 22018 nằm trong gen " MCM6 ". Sự khác biệt về gen này giúp loại bỏ việc ngừng sản xuất lactase, khiến các thành viên của các quần thể này có thể tiếp tục tiêu thụ sữa tươi và các sản phẩm sữa tươi và lên men khác trong suốt cuộc đời của họ mà không gặp khó khăn. Đây dường như là một tiến hóa gần đây (khoảng 10.000 năm trước [và 7.500 năm trước ở châu Âu]) thích nghi với sự tiêu thụ sữa, và đã xảy ra độc lập ở cả Bắc Âu và Đông Phi trong các quần thể có lối sống chăn nuôi trong lịch sử.
Thằn lằn tường Ý.
Năm 1971, mười mẫu vật trưởng thành của " [[Podarcis sicula]] " (thằn lằn tường Ý) đã được vận chuyển từ đảo [[Croatia]] thuộc đảo Pod Kopište đến đảo Pod Mrčaru (khoảng 3,5 km đến Đông). Cả hai hòn đảo đều nằm trên [[Biển Adriatic]] gần [[Lastovo]], nơi những con thằn lằn thành lập một [[cổ chai di truyền|quần thể cổ chai]]. Hai hòn đảo có kích thước tương tự nhau, [[độ cao]], [[vi khí hậu]] và sự vắng mặt chung của các loài săn mồi trên cạn và quần thể " P. sicula " đã mở rộng trong nhiều thập kỷ mà không có sự can thiệp của con người, thậm chí còn cạnh tranh với ) quần thể "[[Podarcis melisellensis]]" (hiện loài địa phương này đã tuyệt chủng).
Vào những năm 1990, các nhà khoa học đã quay trở lại Pod Mrčaru và thấy rằng những con thằn lằn ở đó khác rất nhiều so với những con trên Kopište. Trong khi các phân tích [[ty thể DNA]] đã xác minh rằng " P. sicula " hiện tại trên Mrčaru về mặt di truyền rất giống với quần thể nguồn Kopište, quần thể Mrčaru mới của " P. sicula " có kích thước trung bình lớn hơn, chân sau ngắn hơn, tốc độ chạy nước rút tối đa thấp hơn và phản ứng thay đổi đối với các cuộc tấn công săn mồi mô phỏng so với quần thể Kopište ban đầu. Những thay đổi này được quy cho "cường độ săn mồi thoải mái" và bảo vệ tốt hơn từ thảm thực vật trên Mrčaru.
Năm 2008, phân tích sâu hơn cho thấy rằng quần thể Mrčaru của " P. sicula " có hình thái đầu khác nhau đáng kể (đầu dài hơn, rộng hơn và cao hơn) và lực cắn tăng so với quần thể Kopište ban đầu. Sự thay đổi hình dạng đầu này tương ứng với sự thay đổi trong chế độ ăn uống: Kopište " P. sicula " chủ yếu là [[ăn côn trùng]], nhưng những cá thể trên Mrčaru ăn nhiều thực vật hơn. Những thay đổi trong phong cách tìm kiếm thức ăn có thể góp phần vào mật độ quần thể lớn hơn và giảm hành vi lãnh thổ của quần thể Mrčaru.
Một sự khác biệt khác được tìm thấy giữa hai quần thể là sự phát hiện, trong thằn lằn Mrčaru, của [[van hồi - manh tràng]], làm chậm quá trình truyền thức ăn và cung cấp các buồng lên men, cho phép các vi sinh vật [[hội sinh]] chuyển đổi [[cellulose]] thành các chất dinh dưỡng để tiêu hóa. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng [[ngành giun tròn]] là phổ biến trong ruột của thằn lằn Mrčaru, nhưng vắng mặt ở Kopište " P. sicula ", do nó không có van manh tràng. Các van hồi manh tràng, xuất hiện trong ít hơn 1 phần trăm của tất cả các loài bò sát quy mô đã biết, đã được mô tả như là một "bộ phận thích nghi, một tính năng hoàn toàn mới không có trong quần thể tổ tiên và mới được tiến hóa trong những con thằn lằn này ".
Kháng PAH ở cá Killi.
Một nghiên cứu tương tự cũng được thực hiện liên quan đến [[polycyclic aromatic hydrocarbon]] (PAHs) gây ô nhiễm nước của sông Elizabeth ở Portsmouth, Virginia. Hóa chất này là sản phẩm của [[creosote]], một loại nhựa đường. Cá Killi Đại Tây Dương (" [[Fundulus]] heteroclitus ") đã tiến hóa khả năng kháng PAH liên quan đến gen AHR (cùng loại gen liên quan đến cá sương). Nghiên cứu đặc biệt này tập trung vào khả năng chống lại "độc tính cấp tính và quái thai tim" do PAHs gây ra mà đã đột biến trong cá sương ở sông Hudson.
Kháng PCB trong cá tuyết.
Một ví dụ liên quan đến việc quan sát trực tiếp sự biến đổi gen do áp lực chọn lọc là khả năng kháng PCB trong cá tuyết. Sau khi [[General Electric]] đổ [[polychlorination biphenyls]] (PCB) trong [[Sông Hudson]] từ 1947 đến 1976, [[Microgadus tomcod|cá sương]] ("cá sương Microgadus") sống ở sông đã được tìm thấy đã tiến hóa tăng sức đề kháng với các tác dụng độc hại của hợp chất. Khả năng chịu đựng chất độc là do sự thay đổi trong phần mã hóa của gen cụ thể. Các mẫu di truyền được lấy từ cá tuyết sống ở tám con sông khác nhau thuộc vùng New England: sông St. Lawrence, sông Miramichi, sông Margaree, sông Squamscott, sông Niantic, sông Shinnecock, sông Hudson và sông Hackensack. Phân tích di truyền cho thấy trong quần thể cá sương ở bốn con sông cực nam, gen AHR2 ([[thủ thể aryl hydrocarbon|thụ thể aryl hydrocarbon]] 2) hiện diện như một alen với sự khác biệt của hai loại amino acid. Việc mất đoạn ở gen này đã tạo ra khả năng kháng PCB ở các loài cá và được tìm thấy ở 99% cá thể sông Hudson, 92% ở sông Hackensack, 6% ở sông Niantic và 5% ở vịnh Shinnecock. Tính trạng này dọc theo các vùng nước được lấy mẫu có mối tương quan trực tiếp với áp lực chọn lọc dẫn đến sự tiến hóa của tính kháng PCB ở cá sương Đại Tây Dương.
Động vật hoang dã đô thị.
[[Động vật hoang dã đô thị]] là một trường hợp rộng và dễ quan sát thấy áp lực chọn lọc do con người gây ra đối với [[động vật hoang dã]]. Với sự mở rộng môi trường sống của con người, các loài động vật khác nhau đã thích nghi để sinh tồn trong những môi trường đô thị này. Những loại môi trường này có thể gây áp lực chọn lọc lên sinh vật, thường dẫn đến sự thích nghi mới. Ví dụ, cỏ dại [[chi Hoàng nương]], được tìm thấy ở Pháp, có hai loại hạt, nặng và mịn. Những cái nặng rơi xuống gần cây mẹ, trong khi những hạt mịn trôi xa hơn trên gió. Trong môi trường đô thị, hạt giống trôi nổi thường rơi xuống lớp bê tông cằn cỗi. Trong khoảng 5 – 12 thế hệ, cỏ dại tiến hóa để tạo ra hạt nặng hơn đáng kể so với họ hàng của nó sống ở nông thôn. Các ví dụ khác về động vật hoang dã đô thị là chim [[gầm ghì đá]] và các loài quạ thích nghi với môi trường thành phố trên khắp thế giới; Chim cánh cụt châu Phi ở [[thị trấn Simon]]; [[khỉ đầu chó]] ở [[Nam Phi]]; và nhiều loài côn trùng sống trong môi trường của con người. Các nghiên cứu đã được tiến hành và đã tìm thấy những thay đổi đáng chú ý đối với hành vi và kích thước vật lý não của động vật (cụ thể hơn là động vật có vú) do tương tác của chúng với môi trường do con người tạo ra.
Thằn lằn cát trắng.
[[Tập tin:WhiteSandsBleachedEarlessLizard.jpg|thumb|right|300px|Hình 5f: "H. m. ruthveni", một biến thể tông sinh thái của "[[Holbrookia maculata]]" ở đài kỷ niệm cát trắng quốc gia (White Sands National Monument)]]
Động vật thể hiện các biến thể tông sinh thái (ecotone) cho phép nghiên cứu về các cơ chế duy trì sự khác biệt về quần thể. Rất nhiều thông tin về chọn lọc tự nhiên, kiểu gen và biến đổi kiểu hình; thích nghi và [[sinh thái học]]; và tín hiệu xã hội đã được thu lại từ các nghiên cứu của ba loài thằn lằn nằm ở sa mạc White Sands của New Mexico. " [[Holbrookia maculata]] ", " [[Aspidoscelis inornatus]] ", và " [[Sceloporus undulatus]] " đã biểu lộ các tông sinh thái quần thể phù hợp với cả đất đen và cát trắng trong khu vực. Nghiên cứu được thực hiện trên các loài này đã tìm thấy sự khác biệt đáng kể về kiểu hình và kiểu gen giữa các quần thể tối và sáng do áp lực chọn lọc mạnh. Ví dụ: " H. maculata " thể hiện sự khác biệt về kiểu hình mạnh nhất (phù hợp nhất với chất nền) của quần thể màu sáng có dòng gen ít tương đồng nhất giữa các quần thể và sự khác biệt di truyền cao nhất khi so sánh với hai loài thằn lằn khác.
[[Đài tưởng niệm quốc gia White Sands|Cát trắng của New Mexico]] là một hệ tầng địa chất gần đây (khoảng 6000 năm tuổi đến 2000 tuổi). Nguồn gốc gần đây của những đụn cát thạch cao này cho thấy rằng các loài biểu hiện các biến thể màu nhạt hơn đã tiến hóa trong một khung thời gian tương đối ngắn. Ba loài thằn lằn được đề cập trên đây đã được tìm thấy có biểu hiện màu sắc tín hiệu xã hội thay đổi tồn tại cùng với các biến thể tông sinh thái của chúng. Ba loài không chỉ hội tụ tiến hóa các biến thể màu sắc nhạt hơn do áp lực chọn lọc từ môi trường, chúng còn tiến hóa sự khác biệt về hình thái sinh thái: hình thái, hành vi (trong trường hợp này là hành vi chạy thoát) và hiệu suất chung (trong trường hợp này là tốc độ nước rút). Nghiên cứu của Roches đã tìm thấy kết quả đáng ngạc nhiên trong hành vi trốn thoát của " H. maculata " và " S. undulatus ". Khi các hình thái tối được đặt trên cát trắng, phản ứng sợ hãi của chúng đã giảm đáng kể. Kết quả này có thể là do các yếu tố khác nhau liên quan đến nhiệt độ cát hoặc thị lực; tuy nhiên, bất kể nguyên nhân là gì, "… những cá thể thằn lằn không phù hợp với chạy nước rút sẽ có kết quả tồi tệ khi phải đối mặt với kẻ săn mồi".
Bằng chứng từ sự hình thành loài.
Sự hình thành loài là quá trình tiến hóa mà các loài sinh học mới phát sinh. Các nhà sinh vật học nghiên cứu các loài bằng cách sử dụng các lý thuyết khác nhau để định nghĩa xem thế nào là một loài (xem [[vấn đề loài]] và [[loài phức tạp]]) và tồn tại cuộc tranh luận liên quan đến việc định nghĩa. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng, "... sự hình thành loài là một quá trình khác biệt về phả hệ, thay vì sự gián đoạn ảnh hưởng đến tất cả các gen đồng thời " và, trong sự hình thành loài khác khu phân bố (sự hình thành loài phổ biến nhất), "phân lập sinh sản là sản phẩm phụ của sự biến đổi tiến hóa trong quần thể bị cô lập, và do đó có thể được coi là một tai nạn tiến hóa ". Sự hình thành loài xảy ra như là kết quả của việc khác khu phân bố; tuy nhiên, một loạt các tác nhân khác nhau đã được ghi nhận và thường được xác định và phân loại dưới nhiều hình thức khác nhau (ví dụ: gần khu phân bố, ngoài khu phân bố, cùng khu phân bố, thể đa bội, con lai, v.v.). Thể hiện của sự hình thành loài đã được quan sát trong cả tự nhiên và phòng thí nghiệm. A.-B Florin và A. Ödeen lưu ý rằng, "thiếu sót bằng chứng vững chắc trong phòng thí nghiệm cho sự hình thành loài khác khu phân bố..."; tuy nhiên, trái với các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm (đặc biệt tập trung vào các mô hình của sự hình thành loài khác khu phân bố), "sự hình thành loài chắc chắn xảy ra; [và] số lượng lớn bằng chứng từ tự nhiên khiến cho việc tranh luận theo hướng khác là không cần thiết". Coyne và Orr đã biên soạn một danh sách 19 thí nghiệm trong phòng thí nghiệm về " Drosophila " trình bày các ví dụ về sự hình thành loài khác khu phân bố bằng cách chọn lọc phân kỳ (divergent selection) kết luận rằng, "phân lập sinh sản trong khác khu phân bố có thể tiến hóa như một sản phẩm phụ của chọn lọc phân kỳ".
Các tài liệu nghiên cứu sự hình thành loài khá phong phú. Các nhà sinh học đã ghi nhận rất nhiều ví dụ về sự hình thành loài trong tự nhiên - với sự tiến hóa đã tạo ra nhiều loài hơn bất kỳ nhà quan sát nào cho là cần thiết để chứng minh điều này là sự thật. Ví dụ, có hơn 350.000 loài bọ cánh cứng được mô tả. Các ví dụ về sự hình thành loài đến từ các quan sát về địa lý sinh học đảo và quá trình bức xạ thích ứng, cả hai đã được giải thích trên đây. Bằng chứng về tổ tiên chung cũng có thể được tìm thấy thông qua các nghiên cứu cổ sinh vật học về sự hình thành loài trong các tầng địa chất. Các ví dụ được mô tả dưới đây đại diện cho các phương thức hình thành loài khác nhau và cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho tổ tiên chung. Điều quan trọng là phải thừa nhận rằng không phải tất cả các nghiên cứu sự hình thành loài trực tiếp quan sát sự phân kỳ từ "bắt đầu đến kết thúc". Điều này là nhờ vào sự phân định nghiên cứu và sự mơ hồ định nghĩa, và đôi khi dẫn đầu nghiên cứu theo hướng tái thiết lịch sử. Trong bối cảnh này, các ví dụ rất nhiều, và các ví dụ sau đây không có nghĩa là tất cả, mà chỉ bao gồm một phần nhỏ các trường hợp được quan sát. Một lần nữa, hãy lưu ý đến một thực tế đã được khẳng định rằng, "... chọn lọc tự nhiên là một phần phổ biến của sự hình thành loài...", và là động lực chính của sự hình thành loài, vì thế; sau đây, các ví dụ về sự hình thành loài thường sẽ phụ thuộc lẫn nhau và tương ứng với sự chọn lọc.
Hóa thạch.
Hạn chế tồn tại trong hồ sơ hóa thạch khi xem xét khái niệm về những gì cấu thành một loài. Các nhà cổ sinh vật học chủ yếu dựa vào một khuôn khổ khác: khái niệm loài hình thái. Do không có thông tin như hành vi sinh sản hoặc vật liệu di truyền trong hóa thạch, các nhà cổ sinh vật học phân biệt các loài bởi sự khác biệt về kiểu hình của chúng. Điều tra mở rộng về hồ sơ hóa thạch đã dẫn đến nhiều giả thuyết liên quan đến sự hình thành loài (trong bối cảnh cổ sinh vật học) với nhiều nghiên cứu cho thấy sự quá tải dân số, [[cân bằng ngắt quãng|ngắt quãng]] và phân nhánh dòng dõi là phổ biến. Năm 1995, D. H. Erwin, et al. đã xuất bản một công trình lớn - " Phương pháp tiếp cận mới về sự hình thành loài trong Hồ sơ hóa thạch " - trong đó tổng hợp 58 nghiên cứu về sự hình thành loài trong hóa thạch (từ năm 1972 đến năm 1995) tìm thấy hầu hết các ví dụ gợi ý sự quá tải dân số (liên quan đến [[anagenesis]] hoặc ngắt quãng) và 16 nghiên cứu cho thấy sự hình thành loài. Mặc dù sự quá tải dân số dường như là kết luận chiếm ưu thế ngay từ cái nhìn đầu tiên, nghiên cứu có liên quan đặc biệt này đã điều tra sâu hơn, kết luận rằng, "... không có mô hình duy nhất nào thể hiện sự thống trị..." với "... sự ưu tiên của các nghiên cứu minh họa 'cả hai' ' sự quá tải dân số và sự dần dần trong lịch sử của một dòng dõi duy nhất". Nhiều nghiên cứu đã tiến hành sử dụng trầm tích đáy biển có thể cung cấp một lượng dữ liệu đáng kể liên quan đến các hóa thạch nhỏ [[sinh vật phù du]]. Sự kế thừa của hóa thạch trong địa tầng có thể được sử dụng để xác định xu hướng tiến hóa giữa các sinh vật hóa thạch. Ngoài ra, các trường hợp của sự hình thành loài có thể được giải thích từ dữ liệu và nhiều nghiên cứu đã được tiến hành ghi lại cả sự tiến hóa hình thái và sự hình thành loài.
"Globorotalia".
[[Tập tin:Globorotalia Speciation and Phylogeny.png|thumb|right|225px|Hình 6a: Sự thay đổi hình thái của " Globorotalia crassaformis, G. tosaensis và G. truncatulinoides " hơn 3,5 Ma. Phía trên là một cây phát sinh chủng loài của nhóm. Chuyển thể từ Lazarus "et al." (1995).]]
Nghiên cứu mở rộng về sinh vật phù du " [[Globorotalia]] truncatulinoides " đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về nghiên cứu cổ sinh vật học và môi trường học bên cạnh mối quan hệ giữa môi trường và tiến hóa. Trong một nghiên cứu sâu rộng về bản đồ cổ sinh vật học của " G. truncatulinoides ", các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy sự hình thành của một loài mới (thông qua khuôn khổ đặc tả lâm sàng). Lõi lấy từ trầm tích chứa ba loài " G. crassformis ", " G. tosaensis " và " G. truncatulinoides " thấy rằng trước 2,7 Ma, chỉ có " G. crassformis " và " G. tosaensis " đã tồn tại. Một sự kiện hình thành loài xảy ra vào thời điểm đó, theo đó các hình thức trung gian tồn tại khá lâu. Cuối cùng " G. tosaensis " biến mất khỏi hồ sơ hóa thạch (gợi ý sự tuyệt chủng) nhưng tồn tại như một trung gian giữa phần còn lại " G. crassformis " và " G. truncatulinoides ". Hồ sơ về hóa thạch này cũng phù hợp với kiểu phát sinh đã tồn tại được xây dựng bởi các đặc tính hình thái học của ba loài. See figure 6a.
Trùng tia.
Trong một nghiên cứu lớn về năm loài [[trùng tia]] ("[[Calocycletta caepa]] ", " [[Pterocanium prismatium]] ", " [[Pseudocificent vema]] ", " [[Eucyrtidium calvertense]] " và " [[Eucyrtidium matuyamai]]"), các nhà nghiên cứu đã ghi nhận sự thay đổi tiến hóa đáng kể trong mỗi dòng. Cùng với điều này, xu hướng với các loài liên quan chặt chẽ " E. calvertense " và " E. matuyamai " cho thấy khoảng 1.9 Mya " E. calvertense " xâm chiếm một khu vực mới của Thái Bình Dương, trở nên cô lập với quần thể chính. Địa tầng của loài này cho thấy rõ rằng quần thể bị cô lập này đã tiến hóa thành " E. matuyamai ". Sau đó, nó đã trở lại khu vực cũ mà quần thể " E. calvertense " sinh sống và tĩnh điện khi quần thể này giảm kích thước cơ thể đột ngột. Cuối cùng, kẻ xâm lược " E. matuyamai " biến mất khỏi địa tầng (có lẽ là do sự tuyệt chủng) trùng với sự giảm dần kích thước của quần thể " E. calvertense ". Từ thời điểm đó, sự thay đổi kích thước được giữ nguyên. Các tác giả đề xuất rằng sự cạnh tranh đã gây ra [[dịch chuyển đặc tính]].
"Rhizosolenia".
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành đo trên 5.000 loài " [[Rhizosolenia]] " (một sinh vật phù du [[diatom]]) từ tám lõi trầm tích ở Thái Bình Dương. Các mẫu lõi kéo dài hai triệu năm và được sắp xếp theo thứ tự thời gian bằng các phép đo đảo ngược từ trường trầm tích. Tất cả các mẫu cốt lõi đều mang lại một mô hình phân chia loài tương tự: với một dòng duy nhất (" R. bergonii ") xảy ra trước 3.1 Mya và hai dòng dõi khác biệt về hình thái (loài con cái: " R. Praebergonii ") xuất hiện sau đó. Các tham số được sử dụng để đo các mẫu là nhất quán trong mỗi lõi. Một nghiên cứu bổ sung về các loài con cái " R. Praebergonii " nhận thấy rằng, sau khi phân tách loài, nó đã xâm chiếm Ấn Độ Dương.
"Turborotalia".
Một nghiên cứu gần đây đã được thực hiện liên quan đến sinh vật phù du [[Foraminifera|foraminifer]] [[Turborotalia]]. Các tác giả đã trích xuất "51 mẫu được sắp xếp theo địa tầng từ một địa điểm trong vùng nhiệt đới ổn định về mặt đại dương [[Bắc Thái Bình Dương]]". Hai trăm loài riêng lẻ đã được kiểm tra bằng mười đặc điểm hình thái cụ thể (kích thước, chỉ số nén, tỷ lệ khung buồng, lạm phát buồng, tỷ lệ khung hình khẩu độ, chiều cao thử nghiệm, độ mở rộng thử nghiệm, góc rốn, hướng cuộn và số lượng buồng trong vòng cuối cùng). Sử dụng thống kê đa biến [[Phân tích cụm|phương pháp phân cụm]], nghiên cứu cho thấy loài này tiếp tục tiến hóa không theo hướng trong [[Eocene]] từ 45 Ma đến khoảng 36 Ma. Tuy nhiên, từ 36 Ma đến xấp xỉ 34 Ma, các lớp địa tầng cho thấy hai cụm khác biệt với các đặc điểm xác định đáng kể phân biệt nhau với một loài. Các tác giả kết luận rằng sự hình thành loài phải xảy ra và hai loài mới là tổ tiên của loài trước. Giống như trong hầu hết sinh học tiến hóa, ví dụ này đại diện cho tính chất liên ngành của lĩnh vực và bộ sưu tập dữ liệu cần thiết từ các lĩnh vực khác nhau (ví dụ: hải dương học, cổ sinh vật học) và tích hợp phân tích toán học (ví dụ: sinh trắc học).
Động vật có xương sống.
Có bằng chứng cho sự hình thành loài của động vật có xương sống mặc dù những hạn chế được áp đặt bởi hồ sơ hóa thạch. Các nghiên cứu đã được tiến hành ghi lại các mô hình tương tự nhìn thấy ở động vật không xương sống biển. Ví dụ, nghiên cứu sâu rộng tỷ lệ tài liệu về sự thay đổi hình thái, xu hướng tiến hóa và mô hình sự hình thành loài ở động vật có vú nhỏ đã đóng góp đáng kể cho các tài liệu khoa học; một lần nữa, chứng minh rằng sự tiến hóa (và sự hình thành loài) đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ cho bằng chứng về việc tồn tại tổ tiên chung.
Một nghiên cứu về bốn chi động vật có vú: " [[Hyopsodus]] ", " [[Pelycodus]] ", " [[Haplomylus]] " (ba từ Eocene) và " [[Plesiadapis]] " (từ Paleocene) phát hiện ra rằng, qua một số lượng lớn các lớp địa tầng và lấy mẫu mẫu, mỗi nhóm thể hiện, "tiến hóa phát sinh chủng loài dần dần, tăng kích thước tổng thể, tiến hóa lặp lại của các loài nhỏ và phân tách loài đặc tính theo nguồn gốc của mỗi loài mới dòng dõi ". Các tác giả của nghiên cứu này đã kết luận rằng sự đầu cơ là rõ ràng. Trong một nghiên cứu khác liên quan đến xu hướng hình thái và tốc độ tiến hóa đã phát hiện ra rằng loài gặm nhấm châu Âu [[Arvicolinae|arvicolid]] tỏa ra 52 dòng dõi khác nhau trong khung thời gian 5 triệu năm trong khi ghi lại các ví dụ vềphát sinh chủng loài dần dần, sự ngắt quãng và ứ đọng.
Động vật không xương sống.
"Drosophila melanogaster".
[[Tập tin:Drosophila melanogaster - side (aka).jpg|thumb|right|225px|Hình 6b: Một loài ruồi hoa quả phổ biến ("[[Drosophila melanogaster]]")]]
William R. Rice và George W. Salt đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về [[hình thành loài cùng khu phân bố]] (sympatric speciation) ở [[Drosophila melanogaster|ruồi giấm thông thường]]. Họ đã thu thập một quần thể " Drosophila melanogaster " từ [[Davis, California]] và đặt con nhộng vào một mê cung môi trường sống. Ruồi sơ sinh đã phải điều tra mê cung để tìm thức ăn. Những con ruồi có ba lựa chọn để tìm thức ăn. Ánh sáng và bóng tối ([[phototaxis]]), lên và xuống ([[geotaxis]]), và mùi hương của [[acetaldehyd]] và mùi hương của ethanol ([[chemotaxis]]) là ba lựa chọn. Điều này cuối cùng đã chia ruồi thành 42 môi trường sống theo thời gian.
Sau đó, họ nuôi cấy hai chủng chọn môi trường sống đối diện. Một trong những chủng xuất hiện sớm, ngay lập tức bay lên trong bóng tối thu hút [[acetaldehyd]]. Các chủng khác xuất hiện muộn và ngay lập tức bay xuống, thu hút ánh sáng và ethanol. Nhộng từ hai chủng sau đó được đặt cùng nhau trong mê cung và được phép giao phối tại địa điểm thực phẩm. Sau đó chúng được thu thập. Một hình phạt có chọn lọc đã được áp dụng đối với ruồi cái chuyển môi trường sống. Điều này đòi hỏi rằng không ai trong số [[giao tử]] sẽ truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Sau 25 thế hệ của thử nghiệm giao phối này, nó cho thấy sự phân lập sinh sản giữa hai chủng. Họ lặp lại thí nghiệm một lần nữa mà không tạo ra hình phạt chống lại việc chuyển đổi môi trường sống và kết quả là như nhau; cách ly sinh sản đã được hình thành.
Ong bắp cày.
Một nghiên cứu về [[ong bắp cày|hình thành mụn ong]] loài " Belonocnema Treatae " đã phát hiện ra rằng quần thể sinh sống ở các cây vật chủ khác nhau (" [[Quercus geminata]] " và " [[Quercus virginiana|Q. Virginiana]] ") thể hiện kích thước cơ thể khác nhau và hình thái [[mụn]] bên cạnh biểu hiện mạnh mẽ của sự cô lập tình dục. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng quần thể " B. treatae" cư trú ở các cây ký chủ khác nhau sẽ cho thấy bằng chứng về [[tiến hóa phân kỳ|chọn lọc phân kỳ]] thúc đẩy sự hình thành loài. Các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu các loài ong mật và các địa phương của cây sồi, đo kích thước cơ thể (bàn tay phải [[xương chày]] của mỗi con ong bắp cày) và đếm số lượng buồng mật. Ngoài các phép đo, họ đã tiến hành các thử nghiệm giao phối và phân tích thống kê. Phân tích di truyền cũng được tiến hành trên hai địa điểm [[mtDNA]] (416 cặp cơ sở từ cytochrom C và 593 cặp cơ sở từ cytochrom oxydase) để "kiểm soát các tác động gây nhiễu của thời gian kể từ khi phân kỳ giữa [[quần thể dị ứng]]".
Trong một nghiên cứu bổ sung, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu hai loài ong mật " B. Treatae " và " Disholcaspis quercusvirens " và tìm thấy sự thay đổi hình thái và hành vi mạnh mẽ giữa các quần thể liên quan đến vật chủ. Nghiên cứu này tiếp tục giới hạn các điều kiện tiên quyết để sự hình thành loài.
Ruồi giấm.
Một ví dụ về sự tiến hóa tại nơi làm việc là trường hợp ruồi giấm, " [[Rhagoletis pomonella]] ", còn được gọi là ruồi giấm táo, dường như đang trải qua [[hình thành loài cùng khu phân bố]]. Các quần thể khác nhau của ruồi giấm ăn các loại trái cây khác nhau. Một quần thể riêng biệt xuất hiện ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 19 một thời gian sau khi [[táo]], một loài không bản địa, được giới thiệu. Quần thể ăn táo này thường chỉ ăn táo và không ăn trái cây ưa thích trong lịch sử của [[Crataegus|ruồi giấm]]. Quần thể cho ăn táo gai hiện tại thường không ăn táo. Một số bằng chứng, chẳng hạn như sáu trong số mười ba [[allozyme]] khác nhau, ruồi giấm trưởng thành vào cuối mùa và mất nhiều thời gian để trưởng thành hơn ruồi táo; và rằng có rất ít bằng chứng về sự giao hợp (các nhà nghiên cứu đã ghi nhận tỷ lệ lai 4-6%) cho thấy rằng sự hình thành loài đang xảy ra.
Muỗi dưới lòng đất London.
[[Muỗi dưới lòng đất London]] là một loài [[muỗi]] trong chi " [[Culex]] " được tìm thấy [[dưới lòng đất London]]. Nó tiến hóa từ các loài trên mặt đất " Culex pipiens ". Loài muỗi này, mặc dù lần đầu tiên được phát hiện trong hệ thống Tàu điện ngầm Luân Đôn, đã được tìm thấy trong các hệ thống ngầm trên khắp thế giới. Có ý kiến cho rằng nó có thể đã thích nghi với các hệ thống ngầm do con người tạo ra từ thế kỷ trước từ phía trên mặt đất địa phương "Culex pipien", mặc dù nhiều bằng chứng gần đây cho thấy rằng đây là giống muỗi phía nam liên quan đến " Culex pipiens " đã thích nghi với không gian ngầm ấm áp của các thành phố phía bắc.
Hai loài có hành vi rất khác nhau, cực kỳ khó giao phối, và với tần số alen khác nhau, phù hợp với sự trôi dạt di truyền trong [[sự kiện sáng lập]]. Cụ thể hơn, loài muỗi này, " Culex pipiens molestus ", sinh sản quanh năm, không chịu lạnh, và chích chuột và con người, trái ngược với các loài trên mặt đất " Culex pipiens " có khả năng chịu lạnh, ngủ đông vào mùa đông và chỉ chích chim. Khi hai giống được lai chéo, trứng bị vô sinh gợi ý cách ly sinh sản.
Dữ liệu di truyền chỉ ra rằng dạng " molestus "trong muỗi ngầm London dường như có tổ tiên chung, thay vì quần thể ở mỗi trạm có liên quan đến quần thể trên mặt đất gần nhất (nghĩa là dạng "pipiens"). Giả thuyết làm việc của Byrne và Nichols là sự thích nghi với môi trường dưới lòng đất chỉ xảy ra cục bộ ở London một lần. Các quần thể được phân tách rộng rãi này được phân biệt bởi các khác biệt di truyền rất nhỏ, điều này cho thấy dạng molestus đã phát triển: một sự khác biệt mtDNA duy nhất được chia sẻ giữa các quần thể ngầm của mười thành phố của Nga; một sự khác biệt cố định [[microsat Vệ tinh (di truyền học)|microsat Vệ tinh]] trong các quần thể trải dài ở Châu Âu, Nhật Bản, Úc, Trung Đông và các đảo Đại Tây Dương.
Họ Tôm gõ mõ và eo đất Panama.
Tranh luận tồn tại xác định khi [[eo đất của Panama]] đóng lại. Phần lớn các bằng chứng ủng hộ việc đóng lại này là khoảng 2,7 đến 3,5 mya bằng cách sử dụng "... nhiều dòng bằng chứng và khảo sát độc lập ". Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy một cây cầu thoáng qua sớm hơn tồn tại từ 13 đến 15 mya. Bất kể thời điểm của eo đất gần hơn, các nhà sinh học có thể nghiên cứu các loài ở phía Thái Bình Dương và Caribbean, cái được gọi là "một trong những thí nghiệm tự nhiên vĩ đại nhất trong quá trình tiến hóa." Các nghiên cứu về tôm gõ mõ trong chi " [[Alpheus (chi)|Alpheus]] " đã cung cấp bằng chứng trực tiếp về các sự kiện hình thành loài khác khu phân bố (allopatric speciation), và đóng góp cho các tài liệu liên quan đến tốc độ tiến hóa phân tử. Tái tạo gen bằng cách sử dụng "bộ dữ liệu đa điểm và phương pháp phân tích dựa trên sự kết hợp" hỗ trợ mối quan hệ của các loài trong nhóm và các kỹ thuật đồng hồ phân tử hỗ trợ tách 15 cặp loài " Alpheus " từ 3 đến 15 triệu năm trước.
Thực vật.
Nhà thực vật học [[Verne Grant]] đã tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu thực vật với nghiên cứu và các ấn phẩm chính về chủ đề này. Như đã nói trước đây, nhiều nhà sinh học dựa vào khái niệm loài sinh học, với một số nhà nghiên cứu hiện đại sử dụng [[Loài#khái niệm hệ thống phát sinh chủng loại loài]]. Tranh luận tồn tại trong lĩnh vực liên quan đến khuôn khổ nào sẽ được áp dụng trong nghiên cứu. Bất kể, cách ly sinh sản là vai trò chính trong quá trình hình thành loài và đã được nghiên cứu rộng rãi bởi các nhà sinh học trong các chuyên ngành tương ứng của họ.
Cả lai tạo và đa bội cũng đã được tìm thấy là đóng góp chính cho sự hình thành loài của thực vật. Với sự ra đời của các dấu phân tử, "lai tạo [là] thường xuyên hơn đáng kể so với trước đây ". Ngoài hai mô hình này dẫn đến sự hình thành loài, sự ưa thích và sự cô lập của thụ phấn, sự sắp xếp lại nhiễm sắc thể và chọn lọc tự nhiên đã trở nên quan trọng đối với sự hình thành của thực vật. Hơn nữa, nghiên cứu gần đây cho thấy các trình điều khiển [[chọn lọc giới tính]], [[biểu sinh]] và tạo ra các tổ hợp alen không tương thích gây ra bởi [[chọn lọc cân bằng]] cũng góp phần vào việc hình thành các loài mới. Ví dụ của các mô hình này đã được nghiên cứu trong cả phòng thí nghiệm và trong tự nhiên. Các nghiên cứu cũng cho rằng, do "bản chất tự nhiên của thực vật... [nó làm tăng] tầm quan trọng tương đối của sự hình thành loài sinh thái..."
[[Lai (sinh học)|Lai]] giữa hai loài khác nhau đôi khi dẫn đến một kiểu hình khác biệt. Kiểu hình này cũng có thể phù hợp hơn so với dòng dõi của cha mẹ và do đó, chọn lọc tự nhiên sau đó có thể ủng hộ những cá thể này. Cuối cùng, nếu đạt được sự phân lập sinh sản, nó có thể dẫn đến một loài riêng biệt. Tuy nhiên, sự cách ly sinh sản giữa con lai và bố mẹ chúng đặc biệt khó đạt được và do đó [[sự hình thành loài do lai]] được coi là một sự kiện hiếm gặp. Tuy nhiên, lai tạo dẫn đến sự phân lập sinh sản được coi là một phương tiện quan trọng của sự hình thành loài ở thực vật, vì đa bội (có nhiều hơn hai bản sao của mỗi nhiễm sắc thể) được dung nạp ở thực vật dễ dàng hơn ở động vật.
[[Thể đa bội]] rất quan trọng trong các giống lai vì nó cho phép sinh sản, với hai bộ nhiễm sắc thể khác nhau, mỗi bộ có thể ghép với một đối tác giống hệt nhau trong quá trình phân bào. Thể đa bội cũng có sự đa dạng di truyền nhiều hơn, cho phép chúng tránh [[sụt giảm do cận huyết]] trong các quần thể nhỏ. Lai tạo mà không thay đổi số lượng nhiễm sắc thể được gọi là đặc điểm lai đồng hợp tử. Nó được coi là rất hiếm nhưng đã được hiển thị trong [[bướm]]" [[Heliconius]] " và [[hoa hướng dương]]. Sự hình thành đa bội, liên quan đến sự thay đổi số lượng nhiễm sắc thể, là một hiện tượng phổ biến hơn, đặc biệt là ở các loài thực vật.
Thể đa bội là một cơ chế đã gây ra nhiều sự kiện hình thành loài nhanh chóng trong điều trị bằng phương pháp trị liệu vì con cái, ví dụ, giao phối tứ bội x lưỡng bội thường dẫn đến hậu quả vô sinh tam bội. Không phải tất cả các thể đa bội đều được phân lập sinh sản từ cây bố mẹ của chúng, và dòng gen vẫn có thể xảy ra, ví dụ như thông qua các giao tử lưỡng bội lai tạo ra tứ bội, hoặc giao phối giữa [[meiosis|không bị biến đổi gen]] từ giao tử lưỡng bội. Có ý kiến cho rằng nhiều loài thực vật và hầu hết các loài động vật hiện tại đã trải qua một sự kiện đa bội hóa trong lịch sử tiến hóa của chúng. Sinh sản của các loài đa bội thành công đôi khi là vô tính, bởi [[parthenogenesis]] hoặc [[apomixis]], vì không rõ lý do, nhiều sinh vật vô tính là đa bội. Các trường hợp hiếm gặp của động vật có vú đa bội được biết đến, nhưng thường dẫn đến tử vong trước khi sinh.
Các nhà nghiên cứu coi cách ly sinh sản là chìa khóa dẫn đến sự hình thành loài. Một khía cạnh chính của nghiên cứu sự hình thành loài là xác định bản chất của các rào cản ngăn cản sinh sản. Các nhà thực vật học thường coi các phân loại động vật học của các rào cản tiền hợp tử và hậu hợp tử là không đầy đủ. Các ví dụ được cung cấp dưới đây cung cấp cái nhìn sâu sắc về quá trình hình thành loài.
"Mimulus peregrinus".
Việc tạo ra một loài allopolyploid hoa khỉ mới ([[Erythranthe peregrina|" Mimulus peregrinus "]]) đã được quan sát trên bờ sông Shortcleuch Water một con sông ở Leadhills, South Lanarkshire, Scotland. Được phát hiện từ con lai của hai loài [[Erythranthe guttata|" Mimulus guttatus "]] (chứa 14 cặp nhiễm sắc thể) và [[Erythranthe lutea|" Mimulus luteus "]] (chứa 30-31 cặp từ một nhân đôi nhiễm sắc thể), " M. peregrinus " có sáu bản sao nhiễm sắc thể của nó (gây ra bởi sự nhân đôi của thể lai tam bội vô sinh). Do tính chất của các loài này, chúng có khả năng tự thụ tinh. Do số lượng nhiễm sắc thể của nó, nó không thể lai ghép với " M. guttatus ", " M. luteus ", hoặc con cái tam bội vô sinh của chúng. " M peregrinus " sẽ chết, không sinh con hoặc tự sinh sản một cách hiệu quả dẫn đến một loài mới.
"Raphanobrassica".
"[[Raphanobrassica]]" bao gồm tất cả các giống lai giữa các chi " [[Raphanus]] " (củ cải) và " [[Brassica]] " (cải bắp, v.v.). " Raphanobrassica " là một [[allopolyploid]] giao phối giữa [[củ cải]] (" Raphanus sativus ") và [[bắp cải]] (" Brassica oleracea "). Thực vật có nguồn gốc này hiện được gọi là radicole. Hai dạng hữu thụ khác của " Raphanobrassica " đã được biết đến. Raparadish, một giống lai allopolyploid giữa " Raphanus sativus " và " Brassica rapa " được trồng làm cây thức ăn gia súc. "Raphanofortii" là giống lai allopolyploid giữa " [[Brassica tournefortii]] " và " [[Raphanus caudatus]] ". " Raphanobrassica " là một loại cây hấp dẫn, bởi vì (mặc dù bản chất lai của nó), nó không vô sinh. Điều này đã khiến một số nhà thực vật học đề xuất rằng sự lai tạo ngẫu nhiên của một bông hoa bằng phấn hoa của một loài khác trong tự nhiên có thể là một cơ chế của sự hình thành loài phổ biến ở thực vật bậc cao.
"Senecio" (groundsel).
Groundsel xứ Wales là một allopolyploid, một loại cây có chứa bộ nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ hai loài khác nhau. Tổ tiên của nó là " Senecio × baxteri ", một giống lai vô sinh có thể phát sinh một cách tự nhiên khi quan hệ thân thuộc giữa groundsel (" [[Senecio Vulgaris]] ") và Oxford ragwort ("[[Senecio squalidus]]") phát triển cùng nhau. Thỉnh thoảng vào đầu thế kỷ 20, số lượng nhiễm sắc thể tăng gấp đôi trong một " S. × baxteri " thực vật đã dẫn đến sự hình thành một loài hữu thụ mới.
[[York groundsel]] (" Senecio eboracensis ") là một loài lai của [[Không tương thích ở thực vật|không tương thích]] " [[Senecio squalidus]] " (còn được gọi là Oxford ragwort) và tự tương thích " [[Senecio Vulgaris]] " (còn được gọi là groudsel chung). Giống như " S. vulgaris", " S. eboracensis " là tự tương thích; tuy nhiên, nó cho thấy ít hoặc không có sự giao phối tự nhiên với các loài bố mẹ của nó và do đó được phân lập sinh sản, cho thấy rằng các rào cản giống mạnh tồn tại giữa giống lai mới này và bố mẹ của nó. Nó đã dẫn đến một [[lai chéo]] của [[F1 lai]] của bố mẹ nó thành " S. vulgaris ". "S. Vulgaris " có nguồn gốc từ Anh, trong khi " S. squalidus " được giới thiệu từ Sicily vào đầu thế kỷ 18; do đó, " S. eboracensis " đã được hình thành loài từ hai loài đó trong vòng 300 năm qua.
Các giống lai khác có nguồn gốc từ hai cha mẹ được biết đến. Một số là vô sinh, chẳng hạn như " S. " x " baxteri ". Các giống lai hữu thụ khác cũng được biết đến, bao gồm [[Senecio Vulgaris|" S. vulgaris " var. " hibernicus "]], hiện phổ biến ở Anh và [[polyploidy|allohexaploid]] " [[Senecio cambrensis|S. cambrensis]] ", mà theo bằng chứng phân tử có lẽ có nguồn gốc độc lập ít nhất ba lần ở các địa điểm khác nhau. Bằng chứng hình thái và di truyền hỗ trợ tình trạng của " S. eboracensis " tách biệt với các giống lai đã biết khác.
Cải xoong.
[[Tập tin:Arabidopsis thaliana.jpg|thumb|right|150px|Hình 6c: "[[Arabidopsis thaliana]]" (thông thường được gọi là cải xoong, cải xoong tai chuột hoặc arabidopsis)]]
[[Bom Kirsten]] et al. từ [[Viện sinh học phát triển Max Planck]] đã phát hiện ra hai gen trong cây cải xoong, " [[Arabidopsis thaliana]] ". Khi cả hai gen được di truyền bởi một cá nhân, nó sẽ đốt cháy một phản ứng trong cây lai biến hệ thống miễn dịch của chính nó chống lại nó. Ở cha mẹ, các gen không gây bất lợi, nhưng chúng tiến hóa riêng biệt để phản ứng khiếm khuyết khi kết hợp. Để kiểm tra điều này, Bomblies đã vượt qua 280 chủng " Arabidopsis "khác nhau về mặt di truyền theo 861 cách khác nhau và thấy rằng 2 phần trăm các giống lai kết quả là hoại tử. Cùng với việc phân bổ các chỉ số tương tự, 20 cây cũng chia sẻ một bộ sưu tập hoạt động di truyền tương đương trong một nhóm gồm 1.080 gen. Trong hầu hết các trường hợp, Bomblies phát hiện ra rằng chỉ cần hai gen để gây ra phản ứng tự miễn dịch. Bomblies đã xem xét một chi tiết lai và thấy rằng một trong hai gen thuộc về [[Mối quan hệ gen-gen-lớp NB-LRR]], một nhóm gen kháng bệnh phổ biến liên quan đến việc nhận biết nhiễm trùng mới. Khi Bomblies loại bỏ gen có vấn đề, các giống lai phát triển bình thường. Trải qua nhiều thế hệ, những sự không tương thích này có thể tạo ra sự phân chia giữa các chủng thực vật khác nhau, làm giảm cơ hội giao phối thành công và biến các chủng khác biệt thành các loài riêng biệt.
"Tragopogon" (cây củ hạ).
[[Tập tin:Tragopogon porrifolius flower.jpg|thumb|right|150px|Hình 6d:Cây củ hạ tím, "[[Tragopogon porrifolius]]"]]
"[[Tragopogon]]" là một ví dụ trong đó sự hình thành loài lai đã được quan sát. Đầu thế kỷ 20, con người đã đưa ba loài cây củ hạ vào Bắc Mỹ. Những loài này, cây củ hạ phương tây (" Tragopogon dubius "), cây củ hạ đồng cỏ (" Tragopogon pratensis "), và [[Tragopogon porrifolius|cây sò huyết]] (" Tragopogon porrif ") cỏ dại trong đô thị. Vào những năm 1950, các nhà thực vật học đã tìm thấy hai loài mới ở các khu vực [[Idaho]] và [[Washington (tiểu bang Hoa Kỳ)|Washington]], nơi ba loài đã được biết đến chồng chéo. Một loài mới, " [[Tragopogon miscellus]] ", là một [[tứ bội]] lai của " T. dubius " và " T. pratensis ". Một loài mới khác, " [[Tragopogon mirus]] ", cũng là một allopolyploid, nhưng tổ tiên của nó là " T. dubius " và " T. porrifolius ". Những loài mới này thường được gọi là "các giống lai riêng" sau khi nhà thực vật học lần đầu tiên mô tả chúng. Quần thể " T.mirus " tăng trưởng chủ yếu bằng cách sinh sản của chính các thành viên của mình, nhưng các giai đoạn lai tạo bổ sung tiếp tục bổ sung vào quần thể " T. mirus ".
"T. dubius" và "T. pratensis" giao phối ở châu Âu nhưng không bao giờ có thể lai. Một nghiên cứu được công bố vào tháng 3 năm 2011 cho thấy khi hai loài thực vật này được giới thiệu đến Bắc Mỹ vào những năm 1920, chúng đã giao phối và nhân đôi số lượng nhiễm sắc thể trong đó lai " Tragopogon miscellus " cho phép "thiết lập lại" gen của nó, trong đó biến, cho phép biến đổi di truyền lớn hơn. Giáo sư Doug Soltis của [[Đại học Florida]] cho biết: "Chúng tôi đã bắt được sự tiến hóa trong hành động. Các kiểu biểu hiện gen mới và đa dạng có thể cho phép các loài mới thích nghi nhanh chóng trong môi trường mới". Sự kiện hình thành loài có thể quan sát được này thông qua lai tạo tiếp tục thúc đẩy bằng chứng cho sự tồn tại tổ tiên chung của các sinh vật và khung thời gian mà các loài mới phát sinh trong môi trường mới của nó. Các phép lai đã được lặp lại một cách nhân tạo trong các phòng thí nghiệm từ năm 2004 đến ngày nay.
Động vật có xương sống.
Lâm oanh mũ đen.
Những loài chim, "[[Blackcap|Sylvia atricapilla]]", thường được gọi là lâm oanh mũ đen, sống ở Đức và bay về phía tây nam đến Tây Ban Nha trong khi một nhóm nhỏ hơn bay về phía tây bắc đến Vương quốc Anh trong mùa đông. Gregor Rolshausen từ [[Đại học Freiburg]] đã phát hiện ra rằng sự phân tách gen của hai quần thể đang được tiến hành. Sự khác biệt được tìm thấy đã phát sinh trong khoảng 30 thế hệ. Với trình tự DNA, các cá thể có thể được chỉ định vào một nhóm chính xác với độ chính xác 85%. Stuart Bearhop từ [[Đại học Exeter]] đã báo cáo rằng những con chim trú đông ở Anh có xu hướng chỉ giao phối với nhau, và không thường xuyên với những con trú đông ở Mediterran. Vẫn còn suy lý rằng quần thể sẽ trở thành hai loài khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu mong đợi điều đó do sự phân tách di truyền và địa lý tiếp tục.
Cá molly.
Cá molly vây ngắn (" [[Poecilia | Poecilia mexicana]] ") là một loài cá nhỏ sống trong [[Hang Lechuguilla|Hang Sulphur]] của Mexico. Nhiều năm nghiên cứu về loài này đã phát hiện ra rằng hai quần thể động vật thân mềm khác nhau là loài cá nội tâm tối và loài cá nước mặt sáng màu đang trở nên khác biệt về mặt di truyền. Các quần thể không có rào cản rõ ràng ngăn cách hai cá thể; tuy nhiên, người ta phát hiện ra rằng các loài nhuyễn thể bị săn bởi một con bọ nước lớn (" [[Belostomatidae|Belostoma spp]] "). Tobler thu thập con bọ và cả hai loại nhuyễn thể, đặt chúng vào những chai nhựa lớn và đặt chúng trở lại trong hang. Sau một ngày, người ta phát hiện ra rằng, trong ánh sáng, loài cá thích nghi hang động chịu đựng nhiều thiệt hại nhất, với bốn trong số năm vết đâm từ vết nước ở miệng. Trong bóng tối, tình hình là ngược lại. Các giác quan của động vật thân mềm có thể phát hiện mối đe dọa của kẻ săn mồi trong môi trường sống của chúng, nhưng không phải ở những loài khác. Chuyển từ môi trường sống này sang môi trường khác làm tăng đáng kể nguy cơ tử vong. Tobler lên kế hoạch cho các thí nghiệm tiếp theo, nhưng tin rằng đó là một ví dụ tốt về sự trỗi dậy của một loài mới.
Gấu bắc cực.
Chọn lọc tự nhiên, cách ly địa lý và sự hình thành loài đang được minh họa bằng mối quan hệ giữa [[gấu bắc cực]] (" Ursus maritimus ") và [[gấu nâu]] ("Ursus arctos"). Được coi là loài riêng biệt do phạm vi hoạt động của chúng; tuy nhiên, nó đã được ghi nhận rằng chúng có khả năng giao phối và sinh ra những đứa con hữu thụ. [[Sự lai thâm nhập]] này đã xảy ra cả trong tự nhiên và trong điều kiện nuôi nhốt và đã được ghi nhận và được xác minh bằng xét nghiệm DNA. Bằng chứng hóa thạch lâu đời nhất được biết đến của gấu Bắc cực có niên đại khoảng 130.000 đến 110.000 năm trước; tuy nhiên, dữ liệu phân tử đã tiết lộ các ước tính khác nhau về thời gian phân kỳ. Phân tích DNA ti thể đã đưa ra ước tính 150.000 năm trước. while nuclear genome analysis has shown an approximate divergence of 603,000 years ago. Nghiên cứu gần đây sử dụng bộ gen hoàn chỉnh (chứ không phải bộ gen mtDNA hoặc một phần bộ gen hạt nhân) thiết lập sự khác biệt của gấu Bắc cực và gấu nâu giữa 479-343 nghìn năm trước. Mặc dù có sự khác biệt về tốc độ phân kỳ, nghiên cứu phân tử cho thấy các loài chị em đã trải qua một quá trình suy đoán và phối trộn rất phức tạp giữa hai loài.
Gấu Bắc cực đã có được sự khác biệt đáng kể về mặt giải phẫu và sinh lý từ gấu nâu cho phép nó sống sót thoải mái trong điều kiện mà gấu nâu gần như không thể. Ví dụ đáng chú ý bao gồm khả năng bơi sáu mươi dặm hoặc hơn tại một thời điểm trong nước đóng băng, màu lông hòa lẫn với tuyết, và để giữ ấm trong môi trường Bắc Cực, một cổ thon dài mà làm cho nó dễ dàng hơn để giữ đầu trên mặt nước trong khi bơi, và bàn chân có màng quá khổ và nặng nề hoạt động như mái chèo khi bơi. Nó cũng đã phát triển các ống hút nhỏ như nhú và không bào ở đế để làm cho chúng ít bị trượt trên băng, bên cạnh đôi tai nhỏ hơn để giảm mất nhiệt, mí mắt hoạt động như kính râm, phù hợp với chế độ ăn toàn thịt của chúng, dung tích dạ dày lớn để cho phép ăn theo bản chất loài cơ hội và khả năng nhịn ăn tới chín tháng nhờ cơ chế tái chế urê của chúng. Ví dụ này trình bày một sự thay đổi tiến hóa vĩ mô liên quan đến sự hợp nhất của một số lĩnh vực sinh học tiến hóa, ví dụ thích ứng thông qua chọn lọc tự nhiên, cách ly địa lý, sự hình thành loài và lai tạo.
Bằng chứng từ màu sắc động vật.
[[Tập tin:Rock Ptarmigan (Lagopus Muta).jpg|thumb|upright=1.3|[[Chọn lọc tự nhiên]] đã khiến [[Rock ptarmigan|ptarmigan]] thay đổi từ [[ngụy trang tuyết]] vào mùa đông sang [[màu gây rối]] phù hợp với [[moorland]] vào mùa hè.]]
[[Màu sắc động vật]] đã cung cấp bằng chứng ban đầu quan trọng cho sự tiến hóa bằng con đường chọn lọc tự nhiên, tại thời điểm có ít bằng chứng trực tiếp. Ba chức năng chính của màu sắc được phát hiện vào nửa sau của thế kỷ 19, và sau đó được sử dụng làm bằng chứng của sự chọn lọc: [[ngụy trang]] (màu sắc bảo vệ); [[bắt chước]], cả [[Batesian]] và [[Müllerian bắt chước|Müllerian]]; và [[tín hiệu xua đuổi]]. Sau các bằng chứng hoàn cảnh do Darwin cung cấp trong " Về nguồn gốc các loài " và đưa ra sự vắng mặt của các cơ chế biến đổi gen hoặc di truyền vào thời điểm đó, các nhà tự nhiên học bao gồm những người đương thời của Darwin, [[Henry Walter Bates]] và [[Fritz Müller]] tìm kiếm bằng chứng từ những gì họ có thể quan sát trong lĩnh vực này.
Bắt chước và tín hiệu xua đuổi.
Bates và Müller đã mô tả các hình thức bắt chước hiện mang tên của họ, dựa trên những quan sát của họ về loài bướm nhiệt đới. Những kiểu tạo màu đặc biệt này dễ dàng được giải thích bằng cách chọn lọc tự nhiên, vì những kẻ săn mồi như chim săn mồi thường sẽ bắt và tiêu diệt côn trùng ít bắt chước các mô hình khó chịu hơn so với những loài bắt chước tốt hơn; nhưng các mẫu khác thì khó giải thích. Những người theo thuyết Darwin như [[Alfred Russel Wallace]] và [[Edward Bagnall Poulton]], và trong thế kỷ 20 [[Hugh Cott]] và [[Bernard Kelingwell]], đã tìm kiếm bằng chứng cho thấy sự chọn lọc tự nhiên đang diễn ra.
Ngụy trang.
Năm 1889, Wallace đã lưu ý rằng [[ngụy trang tuyết]], đặc biệt là bộ lông và xương chậu thay đổi theo mùa, đã gợi ý một lời giải thích rõ ràng là một sự thích nghi để che giấu. Cuốn sách năm 1890 của Poulton, " [[Màu sắc của động vật]] ", được viết [[Nhật thực của Darwin|trong thời kỳ thấp nhất của Darwinism]], đã sử dụng tất cả các hình thức tô màu để tranh luận về trường hợp chọn lọc tự nhiên. Cott đã mô tả nhiều loại ngụy trang, bắt chước và màu sắc cảnh báo trong cuốn sách năm 1940 của ông " [[Màu thích nghi ở động vật]] ", và đặc biệt là những bức vẽ của ông về [[màu trùng hợp ngẫu nhiên]] ở ếch đã thuyết phục các nhà sinh học khác rằng những dấu hiệu lừa dối này là sản phẩm của chọn lọc tự nhiên. Kelingwell đã thử nghiệm trên [[tiến hóa bướm đêm]], cho thấy loài này có [[sắc tố công nghiệp|thích nghi khi ô nhiễm làm thay đổi môi trường]]; điều này cung cấp bằng chứng thuyết phục về sự tiến hóa của Darwin.
Bằng chứng từ mô hình toán học.
[[Khoa học máy tính]] cho [[phép lặp]] tự thay đổi [[hệ thống phức tạp]] được nghiên cứu, cho phép hiểu biết toán học về bản chất của các quá trình đằng sau quá trình tiến hóa; cung cấp bằng chứng cho các nguyên nhân ẩn của các sự kiện tiến hóa đã biết. Sự phát triển của các cơ chế tế bào cụ thể như [[thể cắt nối]] (spliceosome) có thể biến bộ gen của tế bào thành một xưởng khổng lồ gồm hàng tỷ bộ phận có thể hoán đổi cho nhau có thể tạo ra các công cụ tạo ra chúng ta lần đầu tiên một cách chính xác.
"Phải mất hơn năm thập kỷ, nhưng máy tính điện tử giờ đã đủ mạnh để mô phỏng quá trình tiến hóa", hỗ trợ [[tin sinh học]] trong nỗ lực giải quyết các vấn đề sinh học.
Sinh học tiến hóa tính toán đã cho phép các nhà nghiên cứu theo dõi sự tiến hóa của một số lượng lớn các sinh vật bằng cách đo lường sự thay đổi trong DNA của chúng, thay vì chỉ thông qua phân loại vật lý hoặc quan sát sinh lý. Nó đã so sánh toàn bộ bộ gen cho phép nghiên cứu các sự kiện tiến hóa phức tạp hơn, chẳng hạn như [[sao chép gen]], [[chuyển gen ngang]] và dự đoán các yếu tố quan trọng trong sự hình thành loài. Nó cũng đã giúp xây dựng các mô hình tính toán phức tạp của quần thể để dự đoán kết quả của hệ thống theo thời gian và theo dõi và chia sẻ thông tin về số lượng ngày càng lớn các loài và sinh vật.
Những nỗ lực trong tương lai là tái tạo lại một cây sự sống phức tạp hơn bây giờ.
Christoph Adami, giáo sư tại [[Học viện Keck]] đã đưa ra quan điểm này trong " Sự tiến hóa của sự phức tạp sinh học ":
David J. Earl và Michael W. Deem Nam giáo sư tại [[Đại học Rice]] đã đưa ra quan điểm này trong " Khả năng biến đổi là một đặc điểm có thể lựa chọn ":
"Các mô phỏng trên máy tính về sự tiến hóa của các chuỗi tuyến tính đã chứng minh tầm quan trọng của sự tái tổ hợp các khuôn của chuỗi chứ không phải là đột biến điểm đơn thuần, như protein." Kỹ thuật phân tử tiến hóa, còn được gọi là tiến hóa có hướng hoặc tiến hóa phân tử "trong ống nghiệm" liên quan đến chu kỳ đột biến lặp lại, nhân lên với tái tổ hợp và lựa chọn mạnh nhất các phân tử riêng lẻ (protein, DNA và RNA). Sự tiến hóa tự nhiên có thể được sống lại cho chúng ta thấy những con đường khả thi từ các chu trình xúc tác dựa trên protein từ dựa trên RNA tới dựa trên DNA.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Tiến hóa sinh học]]
[[Thể loại:Sinh học tiến hóa]] | 1 | null |
USS "Biddle" (DD–151) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-114 vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đại tá Hải quân Nicholas Biddle (1750-1778).
Thiết kế và chế tạo.
"Biddle" được đặt lườn vào ngày 22 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 3 tháng 10 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Elise B. Robinson cháu gái năm đời của Đại tá Biddle, và được đưa ra hoạt động vào ngày 22 tháng 4 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân C. T. Blackburn.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi được đưa vào hoạt động, "Biddle" thực hiện một chuyến đi đến Địa Trung Hải, và quay về New York vào ngày 1 tháng 7 năm 1920. Sau khi được phân về Đội khu trục 48 trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, nó hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ cho đến khi được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 20 tháng 6 năm 1922.
Nó bị cho bỏ không cho đến khi được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 16 tháng 10 năm 1939. Cho đến tháng 11 năm 1940, nó hoạt động tuần tra cùng với Đội khu trục 66 trực thuộc Hải đội Đại Tây Dương và nhiệm vụ huấn luyện cùng sĩ quan Hải quân Dự bị. Nó tiến hành tuần tra tại vùng biển Caribe theo lệnh của Tư lệnh Quân khu Hải quân 15 từ tháng 11 năm 1940 đến tháng 5 năm 1941, rồi gia nhập trở lại Đội khu trục 66 để tuần tra ngoài khơi Key West, Florida.
"Biddle" trải qua giai đoạn từ tháng 3 năm 1942 đến tháng 2 năm 1945 làm nhiệm vụ hộ tống vận tải tại vùng biển Caribe, trừ hai giai đoạn ngắn. Nó tham gia vào Đội đặc nhiệm 2 chống tàu ngầm từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 27 tháng 2 năm 1944, và hộ tống một đoàn tàu vận tải đến Bắc Phi từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 11 tháng 5 năm 1944. Trong giai đoạn sau, từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 4, đang khi đánh trả các cuộc không kích, bảy người trong số thủy thủ đoàn của nó đã bị thương do hỏa lực càn quét của máy bay Đức.
"Biddle" hoạt động ngoài khơi vùng bờ Đông từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1945 cho nhiệm vụ thực hành huấn luyện cùng các xuồng phóng lôi. Nó được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-114 vào ngày 30 tháng 6 năm 1945, và đi đến Xưởng hải quân Boston vào ngày 15 tháng 7 để được cải biến. Công việc cải tạo hoàn tất đúng lúc Nhật Bản đầu hàng, và nó tiếp tục ở lại Boston cho đến khi được cho ngừng hoạt động vào ngày 5 tháng 10 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 3 tháng 12 năm 1946.
Phần thưởng.
"Biddle" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Du Pont" (DD–152) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-80 vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Samuel Francis Du Pont.
Thiết kế và chế tạo.
"Du Pont" được đặt lườn vào ngày 2 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 10 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô C. S. Du Pont, cháu gái ba đời của Đô đốc Du Pont, và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 4 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân W. Baggaley.
Lịch sử hoạt động.
Giữa hai cuộc thế chiến.
"Du Pont" khởi hành từ Newport vào ngày 6 tháng 5 năm 1919 để tuần tra ngoài khơi quần đảo Azores trong chuyến bay lịch sử vượt Đại Tây Dương của thủy phi cơ Hải quân NC-4, rồi viếng thăm Brest, Pháp trước khi quay trở về New York vào ngày 15 tháng 6. Nó lên đường đi sang Địa Trung Hải vào ngày 10 tháng 7, và đến ngày 27 tháng 7 đã trình diện để hoạt động cùng Tư lệnh lực lượng Hải quân Hoa Kỳ châu Âu tại Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ. Nó làm nhiệm vụ chuyên chở thư tín và nhân sự trong hoạt động trợ giúp sau chiến tranh, đồng thời khảo sát tình hình tại Liban, Syria, Ai Cập, và Hy Lạp. Quay trở về New York vào ngày 21 tháng 7 năm 1920, nó được đưa về lực lượng dự bị với phân nửa biên chế nhân sự và hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương cho đến khi được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 19 tháng 4 năm 1922.
Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, "Du Pont" hoạt động dọc theo bờ Đông và vùng biển Caribe trong các hoạt động thực hành tập trận và các chuyến đi huấn luyện quân nhân dự bị. Từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm 1931 nó hộ tống thiết giáp hạm , có Tổng thống H. C. Hoover trên tàu, cho chuyến viếng thăm Ponce, Puerto Rico, và St. Thomas, quần đảo Virgin, rồi quay trở lại hoạt động thực tập chiến thuật cùng hạm đội và thỉnh thoảng làm nhiệm vụ canh phòng máy bay. Từ ngày 9 tháng 1 đến ngày 22 tháng 10 năm 1932, "Du Pont" đi sang vùng bờ Tây. Nó quay trở về để gia nhập Hải đội Dự bị Luân phiên 19, hoạt động từ Boston, Massachusetts cho việc huấn luyện Hải quân Dự bị cho đến khi được tạm thời điều sang nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi Cuba từ tháng 9 năm 1933 đến tháng 2 năm 1934.
Vào ngày 15 tháng 8 năm 1934, "Du Pont" quay lại biên chế đầy đủ. Nó rời Charleston, South Carolina ngày 15 tháng 9 để phục vụ nhưng tàu mục tiêu và canh phòng máy bay tại vùng biển Caribe, rồi đi đến San Diego vào ngày 9 tháng 11. Đặt căn cứ tại đây, nó phục vụ vào việc huấn luyện và phát triển chiến thuật cùng với hạm đội, đi đến vùng biển Alaska và Trân Châu Cảng trong một cuộc tập trận hạm đội từ ngày 29 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6 năm 1935. Nó rời vùng bờ Tây vào ngày 27 tháng 4 năm 1936 cho đợt tập trận hạm đội hàng năm tổ chức tại vùng kênh đào Panama, rồi băng qua kênh đào Panama và đi đến Jacksonville, Florida vào ngày 7 tháng 6 để huấn luyện Hải quân Dự bị dọc theo vùng bờ Đông. Đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 29 tháng 9 năm 1936, "Du Pont" được cho xuất biên chế vào ngày 14 tháng 1 năm 1937.
Thế Chiến II.
Sau khi chiến tranh nổ ra tại châu Âu, "Du Pont" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 16 tháng 10 năm 1939 làm nhiệm vụ Tuần tra Trung lập. Nó tuần tra dọc theo vùng bờ Đông, huấn luyện quân nhân dự bị và trải qua nhiều giai đoạn huấn luyện cùng tàu ngầm ngoài khơi New London. Từ ngày 7 tháng 7 năm 1941 đến ngày 26 tháng 2 năm 1942, nó hộ tống năm đoàn tàu vận tải đi đến Argentia, Newfoundland và Iceland, tiếp tục nhiệm vụ hộ tống và tuần tra chống tàu ngầm tại Đại Tây Dương trải rộng lên phía Bắc đến tận Argentia và về phía Nam đến Caribe. Nó cứu vớt 30 người sống sót từ một tàu buôn bị trúng ngư lôi vào ngày 15 tháng 3 năm 1942. Từ ngày 8 tháng 5 năm 1942 đến ngày 19 tháng 1 năm 1943, nó bảo vệ các đoàn tàu vận tải đi từ New York và Norfork đến Key West và vịnh Guantánamo.
Sau khi được đại tu, "Du Pont" quay trở lại vùng biển Caribe hộ tống các đoàn tàu chở dầu đi lại giữa Aruba, Tây Ấn thuộc Hà Lan, và vịnh Guantánamo cho đến ngày 17 tháng 5 năm 1943 khi nó khởi hành từ Aruba đi Địa Trung Hải. Nó đi đến Algiers, Algérie vào ngày 1 tháng 6, và tiến vào Casablanca năm ngày sau đó. Chiếc tàu khu trục khởi hành vào ngày 9 tháng 6 đi New York, hộ tống chiếc tàu sân bay hộ tống , và đã cứu vớt bốn người từ máy bay bị bắn rơi trong các hoạt động tìm-diệt trên đường đi. Nó về đến New York ngày 6 tháng 7.
Từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 12 tháng 9 năm 1943, "Du Pont" thực hiện hai chuyến đi đến Anh Quốc trong nhiệm vụ hộ tống vận tải. Vào ngày 25 tháng 9, nó khởi hành từ Norkfork cho một chuyến tuần tra chống tàu ngầm cùng một đội tìm-diệt tập trung chung quanh tàu sân bay "Card". Vào ngày 6 tháng 10, nó tham gia lực lượng hộ tống cho tàu sân bay trong các cuộc thực tập ngoài khơi vịnh Casco và eo biển Long Island. Đội đã khởi hành từ Norkfork vào ngày 14 tháng 11 để hỗ trợ gần cho một đoàn tàu vận tải hướng đến Gibraltar. Trên đường quay trở về một máy bay của "Bogue" đã phát hiện và ném bom xuống chiếc tàu ngầm U-boat Đức "U-172" đang nổi lên mặt nước vào ngày 12 tháng 12. "Du Pont" cùng với tàu khu trục tiếp tục tấn công, buộc chiếc tàu ngầm phải nổi lên mặt nước vào sáng ngày hôm sau. Các tàu khu trục nổ súng, và sau khi làm nổ tung tháp chỉ huy chiếc tàu ngầm, đã cứu vớt 46 người sống sót bao gồm hạm trưởng của "U-172", khi chiếc tàu ngầm đắm ở tọa độ . "Du Pont" được chia sẻ danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống trao tặng cho đội đặc nhiệm tìm diệt "Bogue" do chiến công nổi bật trong các hoạt động chống tàu ngầm.
"Du Pont" hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Gibraltar và quay trở về Boston từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 9 tháng 3 năm 1944, rồi quay trở lại nhiệm vụ hộ tống tại vùng biển Caribe. Nó rời Norfolk vào ngày 11 tháng 6 trong thành phần hộ tống cho chiếc đi suốt chặng đường từ Casablanca đến Avonmouth, Anh Quốc, đến nơi vào ngày 28 tháng 6. "Du Pont" quay trở về Boston vào ngày 13 tháng 7, cùng với "Albemarle" vốn chuyên chở binh sĩ bị thương trong cuộc đổ bộ Normandy.
Sau khi được đại tu và huấn luyện ôn tập, "Du Pont" đi vào Xưởng hải quân Charleston vào ngày 16 tháng 9 năm 1944 để được cải biến thành một tàu phu trợ. Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AG-80 vào ngày 25 tháng 9 năm 1944, nó khởi hành từ Charleston vào ngày 9 tháng 10, và đi đến Key West hai ngày sau đó để hoạt động như một tàu mục tiêu huấn luyện cho Không đoàn 5 hạm đội. Nó cứu vớt hai phi công bị rơi vào ngày 24 tháng 11, và hai ngày sau đã chuyển vị bác sĩ của nó sang một tàu buôn Na Uy thực hiện điều trị cấp cứu. Nó tiếp tục phục vụ ngoài khơi Florida trợ giúp vào việc huấn luyện các đội bay hải quân cho đến ngày 1 tháng 4 năm 1946 khi nó đi đến Boston. "Du Pont" được cho ngừng hoạt động vào ngày 2 tháng 5 năm 1946 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 12 tháng 3 năm 1947.
Phần thưởng.
Ngoài danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống dành cho Đội đặc nhiệm 21.13, "Du Pont" còn được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Bernadou" (DD–153) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung tá Hải quân John Bernadou.
Thiết kế và chế tạo.
"Bernadou" được đặt lườn vào ngày 4 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 11 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Cora Winslow Bernadou, em gái Trung tá Bernadou, và được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 5 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân L. G. Farley.
Lịch sử hoạt động.
Sau một chuyến đi đến Châu Âu vào mùa Hè năm 1919, "Bernadou" gia nhập Đội 19 trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, và hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ cho đến khi được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 1 tháng 7 năm 1922. Nó được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, và gia nhập Hải đội 7 trực thuộc Lực lượng Tuần tiễu; rồi lại được cho xuất biên chế và bỏ không từ tháng 9 năm 1936 đến tháng 10 năm 1939.
Sau khi chiến tranh nổ ra tại châu Âu, "Bernadou" được huy động trở lại và gia nhập Đội khu trục 6, Hải đội Đại Tây Dương làm nhiệm vụ Tuần tra Trung lập. Nó giúp hộ tống đoàn tàu vận tải chuyển lực lượng Thủy quân Lục chiến đến chiếm đóng Iceland từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 7 năm 1941; và ngoại trừ một chuyến vượt đại dương đến Anh Quốc, nó tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vận tải giữa Newfoundland và Iceland cho đến mùa Thu năm 1942. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1942, nó rời Norfolk, Virginia tham gia cuộc đổ bộ lên Bắc Phi từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 11, đã được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống do thành tích đổ bộ binh lính chiếm đóng bên trong cảng Safi, Maroc.
Quay trở về Boston vào ngày 26 tháng 11, "Bernadou" tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải dọc theo vùng bờ Đông cho đến tháng 2 năm 1943. Nó thực hiện một chuyến đi hộ tống vận tải đến Gibraltar vào tháng 3 và tháng 4, và vào ngày 10 tháng 5, đã rời Norfolk đi Oran, Algérie. Nó hoạt động ngoài khơi Oran cho đến tháng 12 năm 1943, hỗ trợ cho Trận đổ bộ Gela trong giai đoạn chiếm đóng Sicily từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 7, tham gia cuộc đổ bộ lên Salerno trong các ngày 9–10 và 21–23 tháng 9; và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Địa Trung Hải.
"Bernadou" quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1943, rồi hộ tống hai đoàn tàu vận tải đi Bắc Phi vào 22 tháng 2 và 9 tháng 6 năm 1944, trước khi được rút về các hoạt động hộ tống an bình hơn tại vùng bờ Đông cho đến biển Caribe. Từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nó phục vụ như tàu canh phòng máy bay và hộ tống cho các cuộc thực tập tàu sân bay ngoài khơi vùng bờ Đông. Nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 8 tháng 6 năm 1945, được cho ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 7, và bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 11 năm 1945.
Phần thưởng.
Ngoài danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống, "Bernadou" còn được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Ellis" (DD–154) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-115 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo George Henry Ellis.
Thiết kế và chế tạo.
"Ellis" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 7 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 11 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà E. T. Stotesbury, và được đưa ra hoạt động vào ngày 7 tháng 6 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân T. E. Van Metre.
Lịch sử hoạt động.
Chuyến hải hành đầu tiên của "Ellis" diễn ra từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 15 tháng 8 năm 1919 là đi đến Hắc Hải đưa các viên chức của Ủy ban Thực phẩm Hoa Kỳ trong nhiệm vụ cứu trợ, và đưa các sĩ quan quân đội Anh Quốc và Hoa Kỳ đi lại giữa Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ; Varna, Bulgaria và Batum, Georgia. Quay trở về nhà, nó trải qua một năm thực hành dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ và tại vùng biển Caribe. Từ ngày 29 tháng 9 năm 1920 đến ngày 16 tháng 3 năm 1921, nó nằm trong thành phần dự bị tại Charleston. "Ellis" đã đi lên phía Bắc để thử nghiệm tác xạ ngư lôi ngoài khơi Newport, rồi lại trở về lực lượng dự bị tại Charleston từ tháng 10 năm 1921 đến tháng 2 năm 1922. Vào ngày 27 tháng 2, nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 17 tháng 6 năm 1922.
Nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, "Ellis" phục vụ cùng Hạm đội Tuần tiễu dọc theo bờ Đông và ngoài khơi vùng biển Panama và Cuba; rồi từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1932 tham gia các cuộc tập trận giữa San Diego và San Francisco. Nó được đưa về lực lượng dự bị luân phiên tại Norfolk và Boston trong các năm 1932 và 1933. Vào tháng 4 năm 1933, nó tham gia tìm kiếm khí cầu , và đã tìm thấy xác đắm ngoài khơi bờ biển New Jersey. Đặt căn cứ tại New York suốt mùa Hè năm 1933, nó hộ tống cho thuyền buồm của Tổng thống đi dọc theo bờ biển New England cho đến đảo Campobello, Nova Scotia, nơi vào ngày 1 tháng 7, nó đưa Tổng thống Franklin D. Roosevelt cùng đoàn tùy tùng sang Tàu tuần dương hạng nặng , rồi hộ tống "Indianapolis" đi đến Annapolis, nơi một lần nữa Tổng thống viếng thăm "Ellis" vào ngày 4 tháng 7. Nó cũng tham gia huấn luyện nhân sự của Hải quân Dự bị Hoa Kỳ trước khi rời New York vào ngày 8 tháng 9 để đi đến Key West.
Trong năm tiếp theo, "Ellis" thực hiện chuyến đi đến Cuba, một lần nữa hộ tống cho Tổng thống, nhưng lần này trên một chiếc thuyền buồm. Đến ngày 24 tháng 10 năm 1934, nó băng qua kênh đào Panama để đặt căn cứ tại San Diego. Các hoạt động huấn luyện đã đưa nó đến tận các vùng biển Alaska và Hawaii trong một năm rưỡi tiếp theo, và đến ngày 7 tháng 6 năm 1936, nó quay trở về Miami làm nhiệm vụ huấn luyện quân nhân dự bị tại vùng bờ Đông, cho đến khi lại được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 16 tháng 12 năm 1936.
"Ellis" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, tiến hành tuần tra dọc theo bờ Đông từ các căn cứ ở Charleston và Norfolk, chủ yếu tập trung vào việc chống tàu ngầm. Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 21 tháng 7 năm 1941, nó lên đường từ Newport hộ tống các tàu vận tải chuyển quân đưa lực lượng Thủy quân Lục chiến chiếm đóng Iceland, và một tháng sau đã khởi hành đi Argentia, Newfoundland cho nhiệm vụ hộ tống đến Iceland và điểm hẹn gặp giữa đại dương.
Định kỳ quay trở lại Boston để tiếp liệu và sửa chữa, "Ellis" thi hành nhiệm vụ này cho đến tháng 3 năm 1942, khi tầm hoạt động mở rộng đến quần đảo Virgin. Nó hộ tống các đoàn tàu vận tải ven biển; và vào ngày 15 tháng 7 năm 1942 đã tấn công một tàu ngầm ngoài khơi mũi Hatteras. Từ tháng 10 năm 1942 nó còn hộ tống các đoàn tàu vận tải trên tuyến giữa Trinidad và Brasil; và vào tháng 3 năm 1943 được phân công hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1942, "Ellis" cứu vớt và bắt làm tù binh thủy thủ Đức duy nhất còn sống sót từ chiếc tàu ngầm "U-512", vốn bị trôi dạt trên một chiếc bè trong mười ngày.
Từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 25 tháng 6 năm 1943, "Ellis" hộ tống hai đoàn tàu chở dầu ưu tiên chở dầu từ Aruba đến Bắc Phi, rồi hộ tống tàu chuyển quân đến Derry. Từ tháng 8 đến tháng 11, nó hai lần bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống vận chuyển máy bay Lục quân đến Ireland và Bắc Phi. Nó đã hộ tống cho chiếc đi đến Azores vào tháng 1 năm 1944, và đang khi tuần tra tại đây đã cứu vớt hai phi công Anh bị rơi. Quay trở lại nhiệm vụ hộ tống vận tải đến Bắc Phi, "Ellis" thực hiện hai chuyến đi đến bờ biển phía Đông của Casablanca, Algiers và Bizerte từ tháng 2 đến tháng 6. Vào ngày 11 tháng 5 ngoài khơi Bizerte, nó bị bốn máy bay ném bom tấn công, nhưng chiếc tàu khu trục đã góp phần bắn rơi ba chiếc và đánh đuổi chiếc thứ tư.
Trong thời gian còn lại của chiến tranh, "Ellis" bảo vệ cho các tàu sân bay trong nhiệm vụ huấn luyện phi công, thử nghiệm với máy bay ném bom-ngư lôi, từng thực hiện hai chuyến đi hộ tống đến Recife, Brazil. Nó được cho ngừng hoạt động tại Norfolk vào ngày 31 tháng 10 năm 1945, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 20 tháng 6 năm 1947.
Phần thưởng.
"Ellis" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Cole" (DD-155) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-116 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Edward B. Cole, một sĩ quan Thủy quân Lục chiến tử thương trong Trận Belleau Wood.
Thiết kế và chế tạo.
"Cole" được đặt lườn vào ngày 25 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 1 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà E. B. Cole, và được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 6 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân I. F. Dortch.
Lịch sử hoạt động.
"Cole" khởi hành từ New York vào ngày 30 tháng 6 năm 1919 để gia nhập lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ. Trong một năm tiếp theo, nó trợ giúp vào việc triệt thoái người tị nạn đang chạy trốn chiến tranh và đói khổ tại Trung Đông đồng thời biểu dương lực lượng tại khu vực Đông Địa Trung Hải và Hắc Hải trước khi quay về New York vào ngày 4 tháng 6 năm 1920. Nó hoạt động tuần tra tại vùng bờ Đông Hoa Kỳ và vùng biển Caribe, cho đến khi được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 10 tháng 7 năm 1922.
Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, "Cole" gia nhập Hạm đội Tuần tiễu tại Đại Tây Dương. Một lần nữa, nó làm nhiệm vụ tuần tra tại vùng bờ Đông Hoa Kỳ và vùng biển Caribe, và tham gia các cuộc thực tập huấn luyện. Từ ngày 22 tháng 10 năm 1932 đến ngày 24 tháng 3 năm 1933, "Cole" hoạt động với biên chế nhân sự giảm thiểu tại Xưởng hải quân Norfolk trong thành phần hải đội dự bị luân phiên. Vào ngày 4 tháng 4 năm 1933, nó tham gia cuộc tìm kiếm vô vọng những người sống sót của chiếc khí cầu . Từ ngày 3 tháng 2 đến ngày 14 tháng 8 năm 1934, một lần nữa nó được đặt trong tình trạng biên chế nhân sự giảm thiểu trong thành phần hải đội dự bị luân phiên.
Vào ngày 15 tháng 8 năm 1934, "Cole" được điều động về Lực lượng Tuần tiễu tại Thái Bình Dương, và sau các cuộc cơ động tại vùng biển Caribe đã đi đến căn cứ mới của nó là San Diego, California vào ngày 9 tháng 11. Nó tiếp tục ở lại khu vực Thái Bình Dương cho đến ngày 24 tháng 5 năm 1936, khi được chuyển sang New York như một tàu huấn luyện Hải quân Dự bị. Nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 25 tháng 9, và lại được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 7 tháng 1 năm 1937.
Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, "Cole" tham gia hoạt động Tuần tra Trung lập tại Đại Tây Dương. Từ ngày 10 tháng 6 năm 1941, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi Newfoundland và Iceland, thực hiện năm chuyến đi như vậy cho đến ngày 28 tháng 1 năm 1942. Từ ngày 14 tháng 3 đến ngày 28 tháng 9, chiếc tàu khu trục hộ tống các đoàn tàu vận tải ven biển dọc theo bờ Đông, và thực hiện một chuyến đi đến quần đảo Virgin. Nó khởi hành từ Norfork vào ngày 24 tháng 10 cho cuộc đổ bộ chiếm đóng Bắc Phi vào ngày 8 tháng 11, khi nó cho đổ bộ 175 người thuộc Sư đoàn bộ binh 47 dưới hỏa lực đối phương tại bến tàu Safi, Morocco. "Cole" được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống do hoạt động dũng cảm trong nhiệm vụ nguy hiểm này. Quay trở về Boston vào ngày 1 tháng 12, nó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải ven biển, rồi từ ngày 18 tháng 12 năm 1942 đến ngày 16 tháng 2 năm 1943 đã hoạt động giữa vùng bờ Đông, Newfoundland và Nova Scotia, thực hiện một chuyến đi đến Gibraltar trong tháng 3. Chiếc tàu khu trục quay lại vùng biển Địa Trung Hải, đi đến Mers El Kébir, Algérie vào ngày 23 tháng 5.
Cùng với nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tại khu vực Tây Địa Trung Hải, "Cole" còn tham gia cuộc đổ bộ chiếm đóng Sicily vào ngày 10 tháng 7 năm 1943, hoạt động cùng một tàu ngầm Anh như một đội nhận diện bãi đổ bộ, và sau đó bảo vệ cho các tàu vận tải trong cuộc tấn công chiếm đóng Salerno ngày 9 tháng 9. Nó quay trở về Charleston, South Carolina để đại tu vào ngày 24 tháng 12, và sau đó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải dọc theo bờ Đông và vùng biển Caribe, từng thực hiện một chuyến đi đến Casablanca vào tháng 3 năm 1944. Đến ngày 3 tháng 12 năm 1944, nó bắt đầu làm nhiệm vụ tàu canh phòng máy bay khi các tàu sân bay tiến hành các hoạt động huấn luyện không lực ngoài khơi Quonset Point, Rhode Island, vốn kéo dài cho đến ngày 31 tháng 8 năm 1945. "Cole" được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-116 vào ngày 30 tháng 6 năm 1945. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 11 năm 1945, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 6 tháng 10 năm 1947.
Phần thưởng.
Ngoài danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống, "Cole" còn được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "J. Fred Talbott" (DD-156) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-81 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Joshua Frederick Cockey Talbott (1843–1918).
Thiết kế và chế tạo.
"J. Fred Talbott" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 7 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & Sons ở Philadelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 12 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Robert L. Bates, cháu gái Dân biểu Talbott, và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 6 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân T. G. Ellyson.
Lịch sử hoạt động.
"J. Fred Talbott" khởi hành từ Newport, Rhode Island vào ngày 10 tháng 7 năm 1919 để đi sang Địa Trung Hải, nơi nó hoạt động như một tàu căn cứ tại nhiều cảng, góp phần làm bình ổn tình hình tại Châu Âu trong những tháng đầu tiên sau chiến tranh đang điều chỉnh và tái thiết. Sau khi quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 6 năm 1920, nó tham gia tuần tra tại vùng bờ Đông và các cuộc tập trận hạm đội cho đến khi được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 18 tháng 1 năm 1923.
"J. Fred Talbott" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân C. H. Cobb, và bắt đầu chạy thử máy huấn luyện trong vịnh Delaware. Trong mười năm tiếp theo, nó hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe, tham gia các cuộc huấn luyện chống tàu ngầm, tập trận hạm đội cùng nhiều nhiệm vụ đa dạng khác. Nó cũng giúp vào việc huấn luyện quân nhân dự bị và học viên sĩ quan.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra tại châu Âu, các nỗ lực ban đầu của Hoa Kỳ tập trung vào việc bảo vệ tàu bè của mình trong khi vẫn giữ vị thế trung lập. "J. Fred Talbott" được phân công nhiệm vụ Tuần tra Trung lập tại vùng biển tiếp cận lối ra vào kênh đào Panama bên phía Đại Tây Dương. Sau khi cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng đẩy Hoa Kỳ vào chiến tranh, nó làm nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải đi lại giữa New Orleans, Cuba và vùng kênh đào, bảo vệ các tuyến đường hàng hải và vận chuyển các nguồn lực cần thiết cho chiến tranh.
Sau khi được đại tu tại Boston vào tháng 1 năm 1944, "J. Fred Talbott" khởi hành vào ngày 13 tháng 2 cho chuyến vượt đại dương đầu tiên, và sau khi đến được Casablanca an toàn, nó quay trở lại nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu trong khu vực từ Iceland trải về phía Nam đến tận vùng biển Caribe. Quay trở về New York vào ngày 15 tháng 9, nó được cải biến thành một tàu phụ trợ, rồi được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AG-81 vào ngày 25 tháng 9 năm 1944. Nó đi đến Port Everglades, Florida vào ngày 1 tháng 11 để hoạt động như một tàu mục tiêu huấn luyện cho máy bay ném bom-ngư lôi, tiếp tục vai trò quan trọng này cho đến khi chiến tranh kết thúc. "J. Fred Talbott" được cho ngừng hoạt động tại Boston vào ngày 21 tháng 5 năm 1946. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 6 năm 1946, và nó bị bán cho hãng Boston Metals Corporation ở Baltimore, Maryland vào ngày 22 tháng 12 năm 1946 để tháo dỡ. | 1 | null |
Bộ Cá ốt me biển hay bộ Cá quế lạc (danh pháp khoa học: Argentiniformes) là một bộ cá vây tia mà sự khác biệt của nó chỉ được phát hiện tương đối gần đây. Trong quá khứ, chúng được gộp trong bộ Osmeriformes (các loài cá ốt me điển hình và đồng minh) như là phân bộ Argentinoidei. Thuật ngữ này tương đương với phân bộ cá ốt me biển và cá mắt thùng trong phân loại cho tới năm 2009, còn cá đầu trơn (Alepocephalidae) và đồng minh thuộc về phân bộ Alepocephaloidei. Các phân bộ này từng được coi tương ứng là các siêu họ Argentinoidea và Alepocephaloidea khi còn được gộp chung trong Osmeriformes hoặc Salmoniformes.
Bộ này như định nghĩa hiện nay chứa 4 họ với 21 chi và khoảng 87 loài. Tên gọi phổ biến cho nhóm là cá ốt me biển và đồng minh, nhưng điều này dễ gây hiểu nhầm do "cá ốt me nước ngọt" của họ Osmeridae chủ yếu cũng sinh sống ngoài biển.
Miêu tả và sinh thái học.
Argentiniformes là các loài cá nhỏ màu trắng bạc hay sẫm màu và nói chung là cá biển sâu. Một vài loài có vây béo, một điều bất thường đối với Protacanthopterygii là nhóm mà chúng thuộc về. Vây lưng nằm ở nửa sau của thân. Chúng có bong bóng không nối với đường dinh dưỡng hoặc hoàn toàn không có bong bóng; phần lớn các loài không có răng.
Cơ dưới trục mở rộng bất thường về phía trước tại đầu kết thúc trên của nó và gắn với hộp sọ phía dưới cột sống, có lẽ để gập đầu xuống khi đớp mồi. Dây chằng thô sơ gắn về phía sau trên bề mặt trên của mỏm xương mỏ quạ hàm dưới. Xương vòm miệng mở rộng kỳ dị về phía trên và phía dưới tại phần đuôi của nó, và giống như ở một số loài trong nhánh Otocephala, phần đuôi của xương sàng giữa dường như bị ép lại khi nhìn từ phía trên. Giống như ở nhiều loài Teleostei khác, các xương tai cánh và tai cánh da không hợp nhất cùng nhau. Tuy nhiên, đặc điểm khác biệt nhất là "cơ quan mang ngoài" (epibranchial). Nó bao gồm một sụn bổ sung và các cào mang trên xương mang sừng thứ 5, cũng được thấy ở các loài cá xương thật sự khác, nhưng không phát triển tốt như ở bộ này.
Hệ thống học.
Việc coi các loài cá của nhóm Argentiniformes như một bộ khác biệt diễn ra sau phát hiện cho thấy chúng không có quan hệ họ hàng gần với Osmeriformes như người ta từng tin tưởng trước đó.
Johnson và Patterson (1996) định nghĩa lại khái niệm Protacanthopterygii được Greenwood và ctv. (1966) đề xuất lần đầu tiên năm 1966. Protacanthopterygii "nghĩa Johnson và Patterson" bao gồm Salmoniformes nghĩa rộng (Osmeroidei + Salmonoidei) và Argentiniformes (Argentinoidei + Alepocephaloidei (= Alepocephaliformes hiện nay)). Tính đơn ngành của nhóm này kể từ đó luôn bị thách thức bởi các dữ liệu hình thái và phân tử. Các nghiên cứu kế tiếp nhau đã loại bỏ Osmeriformes, Sundasalangidae và Alepocephaloidei ra khỏi Protacanthopterygii.
Trước năm 2009, phân loại của bộ Argentiniformes bao gồm 2 phân bộ:
Họ hóa thạch có thể thuộc về bộ này là Pattersonellidae .
Phát sinh chủng loài.
Quan hệ của Argentiniformes với các bộ/nhánh khác từng là một phần của bộ Osmeriformes theo định nghĩa cũ như sau (vị trí của Argentiniformes và Galaxiiformes trong Li et al (2010) đảo chỗ so với trong cây phát sinh theo Betancur et al (2013):
Ghi chú:
Quan hệ trong nội bộ bộ Argentiniformes như sau: | 1 | null |
Assassin's Creed III là một trò chơi điện tử hành động-phiêu lưu phát hành năm 2012. Trò chơi được Ubisoft Montreal phát triển và phân phối bởi Ubisoft cho các hệ máy PlayStation 3, Xbox 360, Wii U, và hệ điều hành Microsoft Windows. Trò chơi này là phần thứ năm của dòng trò chơi "Assassin's Creed", và là phần tiếp theo của "" (2011). "Assassin's Creed III" được phát hành toàn cầu cho hệ máy PlayStation 3 và Xbox 360, bắt đầu từ Bắc Mỹ vào 30 tháng 10 năm 2012, sau đó đến với người dùng Wii U và Microsoft Windows vào tháng 11 năm 2012.
Trò chơi lấy bối cảnh lịch sử hư cấu từ những sự kiện có thật, tiếp tục khai thác cuộc xung đột hàng thế kỷ giữa những Sát thủ (Assassin), những người đấu tranh vì hòa bình tự do ý chí, với các Hiệp sĩ dòng Đền (Templar)— cho rằng hòa bình đi đôi với thống trị. Câu chuyện bắt đầu ở thời điểm thế kỷ 21, tại đó Desmond Miles — nhân vật chính của dòng trò chơi, tiếp tục dùng cỗ máy Animus hồi tưởng lại ký ức của người tổ tiên mình để tìm cách ngăn chặn thảm họa 2012 xảy ra. Cốt truyện chính lấy bối cảnh thế kỷ 18, vào thời điểm trước, trong, và sau khi diễn ra cuộc Cách mạng Mỹ từ 1753 đến 1783 với nhân vật chính là — hay cũng là Connor, người tổ tiên nửa Anh, nửa Mohawk của Desmond.
Thế giới trong "Assassin's Creed III" là thế giới mở được thể hiện qua góc nhìn người thứ ba, với trọng tâm trò chơi là sử dụng các kỹ năng chiến đấu và ẩn mình của Desmond và Connor để tiêu diệt mục tiêu và khám phá các cảnh quan. Connor được tự do đi lại ở Boston, New York và biên giới Hoa Kỳ thế kỷ 18 để thực hiện các nhiệm vụ phụ nằm ngoài cốt truyện chính. Trò chơi cũng có phần chơi dành cho nhiều người, cho phép người chơi đấu đơn hoặc đội trực tuyến với nhau. Ubisoft đã thiết kế nền game hoàn toàn mới, Anvil Next cho trò chơi. Trò chơi nhận được nhiều phản hồi tích cực và đã bán được 12 triệu bản trên toàn thế giới.
Phiên bản kế tiếp của dòng trò chơi, "", nói về người ông của — Edward Kenway — cướp biển và là một sát thủ hoạt động trên vùng biển Caribe.
Cách chơi.
"Assassin's Creed III" là một trò chơi điện tử hành động-phiêu lưu góc nhìn người thứ ba, lấy bối cảnh một thế giới mở mà người chơi phải kết hợp kỹ năng ẩn giấu, di chuyển và tấn công để hoàn thành các nhiệm vụ. Người chơi vào vai ba nhân vật trong toàn bộ câu chuyện của trò chơi. Nhân vật chính là Desmond Miles, một Sát thủ thế kỷ 21, người khám phá những bí mật về Căn Hầm Của Người Đến Trước (Precursor Vault) có thể giúp Trái Đất tránh khỏi thảm họa vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Để giải đáp những bí mật, Desmond sử dụng cỗ máy Animus để sống lại những ký ức của hai người tổ tiên cùng sống trong khoảng thời gian diễn ra cuộc Cách mạng Mỹ. Tại thời điểm đầu trò chơi, người chơi sẽ vào vai Haytham Kenway, một Hiệp sĩ dòng Đền Anh truy tìm vị trí của Căn Hầm. Người thứ hai, cũng là nhân vật chính của trò chơi, là , con trai của Kenway và vợ của ông — một người thổ dân châu Mỹ. Để hòa nhập vào xã hội thuộc địa đương thời, sử dụng tên . Vào vai Connor, người chơi được tiếp cận với một vùng hoang dã rộng lớn tên là Biên Giới (Frontier, lớn hơn Roma trong "" khoảng 1,5 lần), cùng các thành phố Boston và New York. Người chơi cũng có thể khám phá một phần của Đông Duyên hải Hoa Kỳ và biển Caribe qua các chuyến hải hành của con tàu "Aquila", với thuyền trưởng chính là và người cố vấn là Robert Faulkner.
Các pha giao chiến cũng thay đổi, giờ đây cho phép sử dụng vũ khí đôi để đối phó với nhiều kẻ địch cùng lúc. Connor còn có thể dùng súng hỏa mai, súng lục, các vũ khí thổ dân như rìu tomahawk, cung và tên, móc dây (dùng để kéo kẻ địch về phía người chơi, hoặc treo chúng lên cây). Con dao ẩn dưới tay trái cũng có tính năng chặn các đòn đánh, lột da thú săn hay thực hiện những đòn ám sát nóng. Người chơi có thể tránh được làn đạn của đối phương khi sử dụng một kẻ địch làm lá chắn. Máu sẽ tự hồi sau khi kết thúc giao chiến một thời gian, nên người chơi không còn cần phải mua máu dự trữ. Cơ chế ẩn giấu được làm lại, cho phép người chơi lợi dụng những yếu tố tự nhiên như bụi cỏ hoặc cây, hoặc nhập chung với bất kỳ nhóm hai người nào để giấu mình.
Hệ thống giả lập trong "Assassin's Creed III" mang đến những hiện tượng thiên nhiên mới như tuyết, sương mù và mưa. Các mùa trong năm cũng có thể thay đổi, ví dụ mùa hè và mùa đông. Điều này không chỉ thay đổi khung cảnh của thế giới mà còn ảnh hưởng đến gameplay, bởi vì trong tuyết thì người chơi sẽ thấy mình chạy chậm hơn. Tuyết rơi cũng ảnh hưởng đến tầm nhìn người chơi và kẻ địch. Không như những phần trước, phiên bản này bao gồm nhiều loài động vật từ vật nuôi (ngựa, cừu, chó) đến các loài hoang dã (nai, sói, gấu). Các loài hoang dã này chỉ sống trong khu vực Biên Giới, và người chơi có thể săn chúng lấy da hoặc lấy thịt để bán. Giá bán này phụ thuộc vào chất lượng của sản phẩm săn, vì thế trò chơi khuyến khích người chơi săn bắn bằng vũ khí nhẹ (ví dụ, cung tên, hoặc bẫy dùng với mồi).
Các hoạt động kinh tế diễn ra tại Davenport Homestead, nơi ở mới của . Nơi đây thường có những đoàn xe buôn của những người thợ mộc, thợ may v.v. chịu ảnh hưởng của chiến tranh và rời khỏi quê nhà. Khi người chơi giúp đỡ họ, họ sẽ ở lại và ổn định sinh sống tại Homestead. Sau đó, người chơi có thể làm các món đồ thủ công và trao đổi với họ, rồi bán các sản phẩm đó cho các thành phố thông qua những đoàn xe/tàu hành hương. Qua hệ thống nhiệm vụ, người chơi dần dần làm tăng các mối quan hệ giữa những người dân với nhau và ở Homestead hình thành một ngôi làng nhỏ. Trang viên của người chơi và con tàu Aquila cũng có những tùy chọn nâng cấp.
Tính năng tuyển mộ thành viên của "" cũng được làm lại. Người chơi có thể kết nạp thành viên khi hoàn thành những nhiệm vụ "giải phóng" (Liberation). Những thành viên Sát thủ có bộ kỹ năng nhiều hơn, cho phép người chơi tạo ra một vụ bạo loạn, giả mạo là đội hộ tống tù nhân, hoặc đóng vai bảo vệ. Các nhiệm vụ phụ của trò chơi bao gồm thu thập các trang niên giám, khám phá các đường hầm dưới mặt đất để xác định vị trí những trạm dịch chuyển nhanh, tham gia các câu lạc bộ săn bắn và đánh nhau, điều tra những bí ẩn lan truyền trong người dân khu biên giới về UFO và Sasquatch, các nhiệm vụ "peg-leg" mà đến các thành trì dưới mặt đất hoặc ở những nơi hoang vu để khám phá huyền thoại về kho báu của Thuyền trưởng Kidd, cùng những nhiệm vụ khác.
Bằng con tàu chiến "Aquila", "Assassin's Creed III" mang đến cho người chơi những cuộc viễn chinh trên biển. Trong những chuyến đi, các yếu tố môi trường như hướng gió và tốc gió, bão, sóng cao và đá ngầm đều ảnh hưởng đến việc điều khiển con tàu. Những cuộc chiến trên biển diễn ra với đại bác, đến từ dàn đại bác ở cả hai bên mạn thuyền, và những khẩu đại bác xoay được trên boong tàu. Con tàu "Aquila" được sử dụng cho các nhiệm vụ tàu lùng (Privateer), và cũng xuất hiện trong một số nhiệm vụ chính của trò chơi.
Phiên bản trên hệ máy Wii U của trò chơi có thêm những tính năng khác. Người chơi có thể thay đổi vũ khí khi đang thực hiện hành động khác, và bản đồ luôn hiện trên tay cầm Wii U Gamepad. Phiên bản này cũng hỗ trợ Off TV Play, một tính năng cho phép hiển thị màn hình chính lên màn hình trên tay cầm.
Phiên bản nhiều người chơi trong phần này được phát triển bởi Ubisoft Annecy. Ngoài các chế độ thông thường, ra mắt kiểu chơi Wolfpack, trong đó 1-4 người chơi phải truy lùng và ám sát các NPC nhất định trong một khoảng thời gian cho trước, và có 25 màn như vậy. Chế độ Domination mới là chế độ mà người chơi cùng đồng đội phải nắm giữ các khu vực trên bản đồ và bảo vệ chúng khỏi đội đối phương.
Nội dung.
Bối cảnh.
Tiếp tục "Assassin's Creed: Revelations", Desmond Miles và những người bạn Sát thủ của anh đã đến được Ngôi đền của Những Người Đến Trước, bộ tộc hùng mạnh đã tạo ra loài người trước khi một đại họa khủng khiếp nhiều nghìn năm trước xảy ra khiến họ gần như tuyệt chủng và tàn phá Trái Đất. Để tìm kiếm chiếc chìa khóa có thể kích hoạt ngôi đền và ngăn chặn thảm họa 2012, Desmond dùng chiếc Animus để trở về trong ký ức người tổ tiên mình, hay còn gọi là Connor.
Câu chuyện về diễn ra trong hai thập kỷ, từ năm 1760 đến năm 1783. Trong câu chuyện này, người chơi sẽ được khám phá từ Boston và New York cho đến vùng Biên giới Hoa Kỳ, những cánh rừng, vách núi, con sông, ngôi làng người Mohawk của và những vùng dân cư Lexington, Concord và Charlestown. Người chơi đến được thành phố Philadelphia trong một nhiệm vụ của trò chơi, và xuất hiện trên biển Caribe trong một vài nhiệm vụ hải hành. Người chơi cũng được khám phá vùng biển phía đông bằng con tàu "Aquila", dưới quyền thuyền trưởng .
Nhân vật.
"Assassin's Creed III" có số lượng nhân vật khá lớn. Nhân vật chính là (Noah Watts) hay là Connor, và Desmond Miles (Nolan North), con cháu ở thế kỷ 21 của Connor. Những nhân vật sống ở thời hiện đại còn có bố của Desmond là William Miles (John de Lancie), các sát thủ Shaun Hastings (Danny Wallace) và Rebecca Crane (Eliza Jane Schneider); các Hiệp sĩ Daniel Cross (Danny Blanco Hall) và Warren Vidic (Phil Proctor), người sáng tạo ra cỗ máy Animus.
Những nhân vật ở thế kỷ 18 gồm: Achilles Davenport (Roger Aaron Brown); một sát thủ đã về hưu và là thầy của Connor; mẹ của Connor là Kaniehtí:io hay Ziio (Kaniehtiio Horn); người cố vấn hàng hải Robert Faulkner (Kevin R. McNally); và chủ quán rượu người Pháp Stephane Chapheau (Shawn Baichoo). Các Hiệp sĩ dòng Đền tại vùng thuộc địa được dẫn dắt bởi bố của Connor, quý tộc người Anh Haytham Kenway (Adrian Hough). Kenway được hỗ trợ bởi những nhân vật lịch sử mà trong trò chơi là thành viên của Hội Hiệp sĩ, gồm có Charles Lee (Neil Napier), Thomas Hickey (Allen Leech), John Pitcairn (Robert Lawrenson), Benjamin Church (Harry Standjofski), William Johnson (Julian Casey), và Nicholas Biddle. Một vài nhân vật lịch sử cùng thời khác cũng xuất hiện trong trò chơi, gồm Israel Putnam (Andreas Apergis), George Washington (Robin Atkin Downes), Thomas Jefferson (John Emmet Tracy), Mason Weems (Tod Fennell), Paul Revere (Bruce Dinsmore), Edward Braddock, và Samuel Adams (Mark Lindsay Chapman).
Trong số các nhân vật khác còn có Minerva (Margaret Easley) và Juno (Nadia Verrucci), hai trong số những Người Đến Trước; và Grand Master của Hội Hiệp sĩ dòng Đền Anh ở thế kỷ 18, Reginald Birch (Gideon Emery).
Cốt truyện.
Haytham ám sát một người giám sát tại Nhà hát Opera Hoàng gia và lấy đi một chiếc mề đay — chiếc chìa khóa truy nhập vào gian trong của Ngôi Đền. Haytham sau đó được cử sang khu vực Mười ba thuộc địa để xác định vị trí của Ngôi Đền. Khi ở Boston, ông giết một kẻ buôn bán nô lệ, giải thoát một nhóm người Mohawk, trong đó có người phụ nữ tên Kaniehti:io. Bà giúp Haytham tìm ra ngôi đền, đổi lại thì ông sẽ giết tướng Braddock cho bà. Haytham và Kaniehti:io sau đó phát hiện rằng chiếc chìa khóa không thể mở cửa được Ngôi Đền; rồi sau đó họ nảy sinh tình cảm với nhau. Trò chơi tiếp tục với góc nhìn của vào năm 1760. Mẹ cậu chết trong một cuộc tấn công vào ngôi làng, dẫn đầu bởi Hiệp sĩ Đền Charles Lee. Nhiều năm sau, người Già làng nói với rằng ngôi làng của anh có nhiệm vụ ngăn chặn người ngoài phát hiện ra Ngôi Đền. Bà đưa cho anh một quả cầu trong suốt, để Juno có thể giao tiếp với anh và nói cho anh biết về biểu tượng Assassin. Biểu tượng dẫn anh đến với điền trang của Sát thủ đã nghỉ hưu Achilles Davenport, người mà sau này cũng chấp nhận hướng dẫn trở thành một sát thủ.
Achilles khuyên đổi tên thành "Connor" để có thể tự do đi lại trong thành phố thuộc địa. Khi đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ tại Boston, Connor bị Hội Hiệp sĩ gán ghép vào tội chủ mưu cuộc thảm sát Boston. Trong những năm sau, Connor đã giết nhiều Hiệp sĩ Đền, và đã tham gia giúp đỡ trong cuộc Chiến trang Cách mạng giữa quân đội Hoa Kỳ và quân đội Anh. Connor gặp cha mình, và hai người tạm thời đứng về cùng một phe để tiêu diệt một tên Templar. Sau đó, Haytham tiết lộ lá thư của George Washington nói về ý định xóa bỏ số dân bản địa, gồm cả tộc người của Connor, khỏi biên giới nhằm ngăn chặn họ hỗ trợ quân Loyalist. Connor trở về làng và nhận ra rằng Lee đã chiêu mộ nhiều chiến sĩ người Mohawk để chống lại quân đội Hoa Kỳ được đưa đến để xóa sổ họ. Connor bí mật vô hiệu các chiến sĩ này để tránh gây xung đột, nhưng không thể thuyết phục được người bạn thơ ấu là Kanen'tó:kon, nên Connor đã buộc phải giết người này.
Ở thời hiện đại, Desmond đôi lúc được Animus hướng dẫn đến những địa điểm tại Manhattan và Brazil để tìm kiếm những mảnh sức mạnh, thứ cần thiết để kích hoạt Ngôi Đền, trước khi Hiệp sĩ Daniel Cross có được chúng. William đi một mình để tìm mảnh cuối cùng, nhưng bị liên minh hiện đại của Hội Hiệp sĩ, Abstergo, bắt giữ. Desmond đột kích vào căn cứ của Abstergo, giết Cross và Warren Vidic, và cứu cha mình.
quan tâm đến việc tiêu diệt tất cả các Hiệp sĩ, và hy vọng được đấu tranh cùng Haytham cho hòa bình và tự do. Tuy nhiên, Haytham vẫn tin vào sự hỗn mang của tự do và sự cần thiết của việc kiểm soát đất nước khi thay thế Washington bằng Lee. Washington cảm thấy nhục nhã vì việc Lee cố gắng phá hoại kết quả cuộc chiến tranh và ẩn nấp trong pháo đài George kiên cố. Connor đột nhập vào pháo đài và đối mặt Haytham; họ chiến đấu, và Connor buộc phải giết ông. Connor sau đó giết Lee và lấy được chiếc chìa khóa. Khi đã tiêu diệt các Hiệp sĩ Templar, Connor trở về làng nhưng không còn người nào cả, chỉ còn lại quả cầu. Qua quả cầu, Juno hướng dẫn Connor giấu chiếc chìa khóa ở nơi mà không ai có thể tìm thấy. Connor chôn chiếc chìa khóa dưới mộ của con trai Achilles, Connor Davenport.
Thời điểm 2012, Desmond thu hồi chiếc chìa khóa và dùng nó để đi vào bên trong ngôi đền. Juno nhắc lại với anh ta rằng kích hoạt bệ đá sẽ ngăn chặn thảm họa diệt vong, nhưng Desmond cũng sẽ phải chết. Minerva xuất hiện, phản đối kế hoạch này vì nó sẽ giải thoát cho Juno – bị giam giữ trong ngôi đền để ngăn chặn âm mưu chế ngự nhân loại của bà. Juno và Minerva giải thích rằng nếu như vụ bùng phát năng lượng mặt trời xảy ra, Desmond sẽ là một trong số ít những kẻ sống sót. Khi Desmond chết sau đó, ông sẽ được tôn kính như một vị thánh, và di sản của ông sẽ tiếp tục làm chủ nhân loại. Desmond chọn cách cứu nhân loại và cho họ cơ hội để đấu tranh chống lại Juno thay vì bị hủy diệt. William, Shaun, và Rebecca rời khỏi ngôi đền, còn Desmond ở lại để kích hoạt bệ đá cổ; khi đó một ánh cực quang xuất hiện trên toàn cầu bảo vệ trái đất khỏi năng lượng bùng phát từ mặt trời. Juno khen ngợi lựa chọn của Desmond và tuyên bố đã đến lúc để bà bắt đầu vai trò của mình.
Ở phần kết thúc, Connor chứng kiến chiếc thuyền Anh cuối cùng rời khỏi New York và một thương nhân đang bán nô lệ, nhắc nhở rằng cuộc đấu tranh cho tự do của anh vẫn chưa kết thúc. Connor trở về ngôi làng của mình nhưng tất cả những người Mohawk đã rời đi về phía tây khi Quốc hội mới thành lập bán vùng đất này để giải quyết chiến phí, bởi vì đặt ra thuế phí ngay sau một cuộc chiến tranh đòi giảm sưu thuế là dấu hiệu chính quyền mới nối bước theo chính quyền cũ.
Phát triển.
Khởi nguồn.
Việc phát triển "Assassin's Creed III" bắt đầu vào tháng 1 năm 2010 (gần như ngay sau khi phát hành "Assassin's Creed II"). Trò chơi được triển khai trong vòng hai năm rưỡi và có vòng phát triển dài nhất tính từ phiên bản đầu tiên của "Assassin's Creed". Khi Ubisoft tiết lộ phiên bản "" vào năm 2010, khi các chi tiết dần hé mở, cộng đồng game đã có sự mơ hồ khi không rõ đây có phải là "Assassin's Creed III" hay không. Theo các nhà phát triển, "Brotherhood" không phải là "Assassin's Creed III", và phần ba của loạt trò chơi sẽ không sử dụng lại một nhân vật đã có sẵn". Những nhà phát triển tại Ubisoft Montreal khẳng định rằng "Assassin's Creed III" cũng sẽ được ra mắt.
Jean-François Boivin tại Ubisoft cũng nói thêm rằng trong mỗi phiên bản đánh số của dòng trò chơi sẽ là một nhân vật mới với bối cảnh mới. Patrice Désilets, cựu giám đốc sáng tạo của loạt trò chơi, nói rằng "Assassin's Creed" đã luôn được đặt kế hoạch là gồm ba phần. Ông cũng bình luận về cốt truyện của "Assassin's Creed III", rằng nó sẽ tập trung vào sứ mạng của các Assassin trong việc ngăn chặn thảm họa toàn cầu diễn ra vào năm 2012, và cuộc chạy đua với thời gian của họ để tìm kiếm những ngôi đền cũng như các Quả táo Eden được tạo ra bởi "Những người đến trước". Desmond sẽ phải tìm kiếm manh mối dẫn đến vị trí của những ngôi đền này, qua việc khám phá ký ức của tiền nhân.
Tháng 10 năm 2011, Alexandre Amacio, giám đốc sáng tạo của "" tuyên bố rằng bản tiếp theo của dòng trò chơi sẽ được phát hành trước tháng 12 năm 2012, tuy ông không chỉ đạo sản xuất phần này. Điều này có thể bởi ý tưởng rằng Desmond Miles, nhân vật chính thời hiện đại của dòng trò chơi, sẽ kết thúc sứ mạng của mình vào tháng 12 năm 2012. Amacio nói rằng game thủ không cần phải chơi một trò chơi bối cảnh tương lai khi mà mốc thời gian đó đã qua đi.
Tiền công bố.
CEO của Ubisoft, ông Yves Guillemot xác nhận vào ngày 8 tháng 11 năm 2011, rằng một phiên bản "Assassin's Creed" "lớn" sẽ được phát hành trong năm 2012, tuy nhiên ông từ chối đưa ra thông tin chi tiết. Trả lời MCV, Guillemot bác bỏ quan điểm rằng việc mỗi năm đều có một phiên bản "Assassin's Creed" ra mắt đang làm loãng loạt trò chơi, mà cho rằng họ cần thiết phải "thỏa mãn thị hiếu". Guillemot cũng cho biết trong cùng bài phỏng vấn, rằng trò chơi "Assassin's Creed" của năm nay sẽ là "trò chơi lớn nhất của dòng game".
Tháng 2, 2012, Ubisoft chính thức công bố "Assassin's Creed III" sẽ được phát hành tại Bắc Mỹ vào ngày 30 tháng 10 năm 2012. Guillemot miêu tả "Assassin's Creed III" là "thế hệ tiếp theo của cả dòng trò chơi "Assassin's Creed" lẫn lối kể chuyện/giải trí tương tác nói chung. Chúng tôi sẽ quảng bá trò chơi mạnh mẽ bởi vì nó là một sản phẩm tuyệt vời mà đội ngũ đã hoàn thiện trong vòng ba năm. Những gì chúng tôi đã chứng kiến thật là phi thường". Guillemot tiếp tục cho biết nhà phát hành đầu tư vào trò chơi này nhiều hơn bất cứ phiên bản nào đã ra mắt trước đây.
Rò rỉ.
Việc "Assassin's Creed III" dựa trên bối cảnh cuộc Cách mạng Hoa Kỳ là thông tin được cho là do "nguồn bên trong" Ubisoft hé lộ vào tháng 1 năm 2012. Ngày 29 tháng 2 năm 2012, hình ảnh giới thiệu trò chơi cùng với thông tin rằng toàn bộ thông tin sẽ được hé lộ – được một nhân viên của Best Buy gửi đến Kotaku. Ảnh giới thiệu đưa đến sự nhất trí rộng rãi rằng trò chơi sẽ lấy bối cảnh Bắc Mỹ trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Cùng thời điểm, Ubisoft nói rằng chỉ còn vài ngày nữa sẽ có "công bố chính thức từ "Assassin's Creed"" trên Facebook của loạt trò chơi. Ảnh nền của trang này cũng mô tả một bối cảnh tuyết phủ ảm đạm. Hơn nữa, "Game Informer" cũng sẵn sàng để xác nhận các chi tiết mới nhất qua banner quảng cáo trên trang web của mình, cho thấy assassin mới đang đứng cạnh lãnh tụ giải phóng Hoa Kỳ là George Washington.
Sau các thông tin này, Ubisoft phát hành ảnh bìa chính thức của "Assassin's Creed III" vào ngày 1 tháng 3 năm 2012. Công ty này nói rằng sẽ công bố "mọi chi tiết" vào 17 giờ ngày 5 tháng 3. Thêm vào đó, "Game Informer" hé lộ ảnh bìa mới nhất bao gồm nhiều hình ảnh của nhân vật chính trong trò chơi. Ngày 2 tháng 3, nhiều ảnh chụp màn hình bị rò rỉ và xuất hiện chi tiết gameplay trên "Game Informer".
Hậu công bố.
Trailer của "Assassin's Creed III" được giới thiệu ngày 5 tháng 3 năm 2012. Ubisoft mô tả trò chơi là dự án "tham vọng nhiều nhất" trong lịch sử của công ty, với gấp đôi năng suất sản xuất bất cứ trò chơi nào trước đây. Engine của trò chơi, AnvilNext, mang đến đồ họa, hình mẫu nhân vật và AI cao cấp hơn, cho phép tạo ra những trận chiến lớn. Ubisoft sau đó nói rằng công ty đang hướng đến việc tạo ra "Assassin's Creed III" trông như "một phiên bản thế hệ mới" trên các hệ máy hiện tại sử dụng engine AnvilNext mới.
Ubisoft nói rằng khi Rockstar ra mắt "Red Dead Redemption" khi "Assassin's Creed III" đang ở giữa quá trình phát triển, công ty đã ngạc nhiên khi Rockstar đưa việc săn bắn thú hoang dã và một vùng biên giới rộng lớn để người chơi khám phá vào trò chơi — hai tính năng mà chính công ty cũng áp dụng vào trò chơi của họ. Nhà báo Corey May cho rằng Ubisoft đã quan sát thành công của "Red Dead" và đang cố sử dụng công thức này "theo hướng mới".
Giám đốc sáng tạo Alex Hutchinson nói rằng Ubisoft đã chỉ đạo rõ ràng rằng nhân vật chính của "Assassin's Creed III" không thể là nhân vật nữ bởi vì bối cảnh Cách mạng Hoa Kỳ không phù hợp, mặc dù nhiều người thích nhìn thấy nhân vật assassin nữ.
Ubisoft khuyên người chơi nên sử dụng tay cầm cho phiên bản PC của trò chơi, mặc dù trò chơi vẫn hỗ trợ điều khiển bằng bàn phím và chuột. Alex Hutchinson nói: "Chúng tôi tất nhiên vẫn hỗ trợ PC, chúng tôi yêu PC, nhưng tôi nghĩ nó sẽ là PC với một bộ điều khiển. Chúng tôi không đầu tư mạnh mẽ vào cài đặt bàn phím và chuột. Tôi nghĩ nếu bạn muốn chơi trên PC và chơi "Assassin's Creed", bạn có một bộ điều khiển." | 1 | null |
Muay Lào là một môn võ tay không truyền thống của Lào. Nó tương tự như Kun Khmer của Campuchia và Muay Thái của Thái Lan. Môn võ này có sự kết hợp chặt chẽ giữa các động tác đấm, đá, thúc khủy tay và lên gối. Muay Lào từng được đưa vào Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2009 tổ chức tại Viêng Chăn. | 1 | null |
Tính đến năm 2016, Campuchia đã tham dự chín Thế vận hội Mùa hè nhưng chưa một lần góp mặt tại Thế vận hội Mùa đông. Họ chưa lần nào giành được huy chương Olympic.
Ủy ban Olympic Campuchia được thành lập năm 1983 và được Ủy ban Olympic Quốc tế công nhận năm 1994. | 1 | null |
Ủy ban Olympic Việt Nam (, mã IOC: VIE) là Ủy ban Olympic quốc gia đại diện cho Việt Nam.
Lịch sử.
Ủy ban Olympics được thành lập vào năm 1952, trước đây là Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa đã tham gia liên tục 6 kỳ Đại hội từ năm 1952 cho đến năm 1974.
Năm 1976 Việt Nam không tham gia Olympic.
Năm 1980, Ủy ban Olympics Việt Nam chính thức trở lại Olympics. | 1 | null |
Chó săn là những giống chó nhà hoặc các nhóm chó, dòng chó, cá thể chó bất kỳ được lai giống, huấn luyện, đào tạo dùng cho mục đích săn bắn. Đây cũng là những loại chó dùng để hỗ trợ cho con người trong các cuộc săn bằng cách theo dấu (đánh hơi) hoặc theo đuổi các động vật bị rượt đuổi. Nó có thể giúp thợ săn bằng cách xác định vị trí của con mồi. Các giống chó săn nòi có một tốc độ cao và một sự mẫn cảm giác quan về mùi. Có các kiểu chó săn cơ bản là:
Tổng quan.
Đào tạo chó săn tức là khơi dậy bản năng/năng khiếu săn bắt của chúng khi gặp thú hoang. Tất cả các nước tiên tiến đều có luật điều tiết việc săn bắn, huấn luyện và sử dụng chó biết đi săn. Để phù hợp với nhiệm vụ săn mồi, chó săn chính là những vận động viên chạy siêu hạng do có cấu trúc cơ thể đặc biệt và khả năng xử lý những đoạn đường cong mà không phải giảm tốc độ, chó săn có thể vượt qua đoạn đường cua mà không phải thay đổi sải chân, Chó săn vẫn luôn giữ sải chân đều đặn dù trên đường thẳng hay đường cong, và hoàn toàn chịu được 65% sự gia tăng lực lên các chi. Chó săn đều có tốc độ đỉnh vào khoảng 17 mét/giây, gần gấp đôi tốc độ của con người. Thường con chó săn tốt là con chó có chân to, người thon, lông mượt. Đặc biệt, khi đàn chó con đang ngủ mà con nào ngước mõm lên trên thì đó cũng là một trong những con chó biết săn.
Chó đi săn ở Việt Nam ngày xưa gọi là "mun săn" hay "chó thoóc", "chó đòi". Hồi đầu thế kỷ XX, nhiều người có trang bị có bầy chó săn đông đến 13 con. Trong đó, có con chó săn đầu đàn cực kỳ tinh khôn. Việc mua và nuôi bầy chó săn không đơn giản, phải là những gia đình có điều kiện ít ra họ cũng xuất thân từ tầng lớp trung nông, phú nông. Những chú chó ở đây được chọn cũng rất công phu, chúng phải là những con chó có máu mặt, tai nhỏ và sức rướn, biết đánh hơi và theo sát con mồi. Những chú chó được chọn thường là chó nhà phú nông, hoặc tầng lớp trung lưu thường bị xiềng xích để tạo tính hung dữ và khôn lanh. Trong những khu rừng nhỏ tiếp giáp với đồng cỏ ở Đà Lạt, người Thượng dùng chó, dáo mác để săn nai và heo rừng. Người ta dẫn theo đàn chó săn 4- năm con chó săn để săn heo rừng ở vùng U Minh đây là những con chó lai, mỗi con nặng 30– 40 kg, được huấn luyện để săn thú rừng, nhiều nhất là heo, khi phát hiện con thú rừng, chó sẽ bao vây tấn công, người thợ săn phải nhanh chóng chọn hướng tấn công, dùng mác dâm thẳng vào cổ hoặc kẹt nách để hạ gục con mồi.
Ở Anh và Ireland, thuật ngữ săn nai có lịch sử được dành riêng cho việc theo đuổi hươu với những con chó săn mùi hương (chó săn hươu), với những người theo không mang vũ khí thông thường cưỡi trên lưng ngựa. Đây là một phương pháp dùng chó săn bằng việc sử dụng chó để đuổi theo những con nai. Dưới thời kỳ Pháp thuộc, có những câu chuyện kể cho biết rằng nhiều sơn dân ở miền An Giang bị chết do những cuộc săn bắn của người Tây, người Tây đã giết nhiều người dân mà họ gọi là bắn nhầm hoặc do những con chó săn xé xác.
Ở Việt Nam, từ năm 2010, người săn trộm huấn luyện chó săn rất có nghề, đàn chó khi ở nhà trông hiền lành nhưng khi vào rừng thì trở thành sát thủ đáng sợ. Những vùng rừng nào từng có đàn chó săn này càn quét thì gần như không con thú lớn nhỏ nào còn sinh sống. Những con chó săn dù thể hình nhỏ gọn nhưng khả năng đi rừng, săn thú của chúng rất đáng khâm phục. Mỗi tay săn trộm sở hữu từ 2-3 con chó, có khi phối hợp với nhau thành một đàn chó đông đảo. Thường thì thú nhỏ như chồn, cheo, thỏ… đều trong tầm sát hại của đàn chó, nhưng thú lớn như mang, hoẵng cũng khó thoát nổi nếu bị chó vây quanh, sủa inh ỏi cho đến khi bị đạn súng săn hạ gục. Đàn chó còn có khả năng tìm kiếm, xua đuổi các loài thú trên cây như khỉ, vượn, voọc… khiến chúng hoảng sợ, rớt xuống đất hoặc bị dồn vào tầm bắn của thợ săn.
Để săn được thú dữ và hiếm, chẳng hạn như lợn rừng, ngoài người thợ săn bắn giỏi, họ còn huấn luyện thêm một đội chó săn tinh luyện để cùng hỗ trợ. Nuôi chó săn là công việc khó khăn mà, từ việc chọn mua chó, cách chăm sóc, huấn luyện chúng để trở thành những kẻ trinh sát giỏi. Chó săn phải chọn những con khôn, huấn luyện chúng biết đánh hơi tốt thì mới săn được. Mỗi lần đi săn lợn rừng, phường săn mang theo ít nhất ba con chó săn. Đặc điểm của những chú chó săn đầu đàn là khi phát hiện ra con thú thì chúng lập tức báo cho chủ nhân và đồng loại của chúng biết và bắt đầu hành trình đuổi bắt. Tuy nhiên, cũng có những khi chó săn bị lợn rừng hoặc thú dữ húc chết. Phường săn không làm thịt mà họ đem chôn cất chó hoặc những con chó săn khi vây bắt những con mèo rừng cỡ lớn nặng tới 42 kg, rất nhanh nhẹn và hung dữ, bị chó săn bao vây nó tìm cách tấn công mở đường thoát thân, thậm chí còn cắn trọng thương cả con chó đầu đàn.
Chó Lài là một giống chó xù thuộc dòng chó cỏ ở vùng núi phía bắc Việt Nam với đặc trưng là bộ lông màu đen. Đặc tính trung thành của chó nhà kết hợp với sự nhanh nhẹn, thông minh, sức mạnh và khả năng săn mồi của sói, tạo nên một giống chó quý hiếm. Đây là loài chó săn thông minh, thính nhạy, mạnh mẽ, hung dữ, người chủ có thể cầm cục đá ném qua mấy mái nhà nhưng nó có thể lao theo để tha cục đá đó về, hoặc chỉ cần chủ ra hiệu lệnh, nó sẽ lao nhanh quắp hai cánh con gà, tha về cho chủ. Người Mông cho rằng nếu gia đình nào có được con chó lài, thì khỏi phải lo miếng ăn, vì người chủ sai bảo, nó sẽ tự mò vào rừng, rồi tha về các loại thú, như bìm bịp, gà rừng, con sóc núi, con cầy hương, chuột núi, dúi…
Chó lài còn là sát thủ của các loại rắn độc hoặc nó sẽ tìm dấu vết thú, lùa thú vào trước họng súng cho chủ bắn.. Khi chủ nghe thấy nó sủa ăng ẳng trong rừng, thì có nghĩa là nó đã bắt được rắn độc. Loài chó H’ Mông cộc đuôi là một trong những loài chó săn tốt, với những đặc tính độc đáo và sự thông minh tuyệt vời, chúng có thể lực tốt và bền bỉ. Về hình dáng bên ngoài, ngoại hình của chúng khá đặc trưng với vẻ chắc nịch, đầy cơ bắp và chiếc đuôi cụt ngộ nghĩnh. Nanh của loài chó này thường có từ 6 đến 8 cạnh khác nhau (đây là đặc điểm của loài chó săn cổ xưa, theo kiểu cắn cổ con mồi và xé thịt). Chúng luôn lì lợm, ít cắn và luôn chỉ nghe theo một người chủ duy nhất., người H’ Mông nuôi loại chó này không nằm ngoài mục đích đi săn và trông coi nhà cửa. Tuy nhiên đến thời điểm này những cuộc săn lùng trong rừng sâu không còn nhiều, loài chó này chủ yếu được nuôi để trông nhà.
Các cuộc săn.
Săn lợn rừng.
Khi săn heo việc truy đuổi của những chú chó săn là đặc biệt quan trọng. Những con chó săn đã được sử dụng để săn lợn rừng từ thời cổ đại. Chó săn heo rừng được chia thành hai loại loại chó rượt đuổi, và những con chó vây bắt. Những con chó săn quấy rối và săn lùng heo rừng, giữ nó dồn ở một nơi và sủa ầm ĩ để báo động cho các thợ săn đến địa điểm, do đó các thợ săn có thể bắt kịp và giết heo rừng. Người ta thường sử dụng các loại chó Cur như Leopard Cur, Chó lông xoáy Rhodesia, Blackmouth Cur, Blue Lacy, Catahoula và những chó săn chuyên đánh hơi mùi hương như Walker Hound, Foxhound, Plott Hound và Berner Niederlaufhund.
Những con chó chuyên vây bắt con lợn, chúng bám chặt vào con lợn với hàm của mình, điển hình là việc chúng táp và cấu vào tai của lợn. Một khi nó bắt được con lợn, chúng sẽ giữ chặt con lợn băng cách vít đầu đầu con lợn xuống và ghì chặt cho đến khi các thợ săn đến. Các thợ săn sau đó chạy ra phía sau đít con lợn và giết chết con lợn rừng với một con dao hoặc cây thương, trừ khi mục tiêu là bắt sống, trong trường hợp các thợ săn sẽ tóm và nâng cao một chân phía sau, lật con lợn nằm ngửa và buộc chặt chân của lợn. Những con chó vây bắt thường là các giống chó khỏe như Bully, chẳng hạn như giống như Bulldog Mỹ, Pit Bull, Staffordshire Bull Terrier, Boxer, Bullmastiff, chó ngao, Cane Corso, Dogo Argentino, Dogue de Bordeaux, Great Dane, Neapolitan Mastiff. Ở Việt Nam, tại vùng rừng U Minh Hạ này nhiều thú lắm đặc biệt là heo rừng chạy thành từng đàn trong rừng. Chỉ với một bầy chó săn và một dàn bẫy người ta có thể bắt được hàng chục con heo rừng và các loài thú khác.
Để săn được lợn rừng, ngoài người thợ săn bắn giỏi họ còn huấn luyện thêm một đội chó săn tinh luyện để cùng hỗ trợ. Mỗi lần đi săn lợn rừng, phường săn mang theo ít nhất ba con chó săn để đuổi bắt. Tuy nhiên, cũng có những khi chó săn bị lợn rừng húc chết. Đó là trường hợp những con chó quá liều lĩnh khi tấn công trực tiếp vào heo rừng và bị nó dùng nanh đánh gục. Tại vùng U Minh Hạ có con lợn rừng độc chiếc gọi là Ông Chảng, nặng tới 180 kg, vốn là một con lợn rừng đã trúng bẫy nhưng con này vô cùng hung dữ. Để thoát bẫy, nó tự cắn đứt chân mình và khi bị mất chân, nó càng hung dữ hơn, khi nó kiếm ăn ở khu rừng ven ấp và hễ gặp người là tấn công. Nhiều người chạy thục mạng khi gặp con lợn này. Con lợn độc chiếc tấn công, hai cái răng nanh sắc nhọn như lưỡi dao của nó vô cùng nguy hiểm. Nó đã giết 4 trong số 06 con chó săn, nó đã 4 lần dùng răng nanh húc lòi ruột chó, rồi ngoạm đứt họng chó, sau đó nó tiếp tục húc chết thêm một con chó săn đầu đàn, sau đó thì bị thợ săn giết chết bằng mũi giáo đã thọc ngập mang tai, cụ thể là khi phát hiện con heo rừng đang núp trong lùm mịt mùng chang đước và cây ráng. Bầy chó săn bao vây, sủa vang động báo hiệu thì con lợn từ trong bụi rậm đã nhảy phóc ra ngoài, trực diện tấn công con chó đầu đàn, nó đánh bằng nanh một phát lòi ruột con chó đầu đàn.
Săn hổ.
Người ta sử dụng chó săn để săn hổ theo phương pháp này thì người ta phải huấn luyện một bầy chó săn thuần thục, đặc biệt là khi săn hổ trong rừng taiga. Khi gặp phải con hổ, những con chó sẽ bắt đầu sủa dữ dội, đồng thời cầm chân con hổ bằng việc bu vào cắn vào phía chân sau hoặc mông của con hổ. Con hổ buộc phải quay lại đối đầu. Khi con hổ cuối cùng bị dồn ép và những con chó thường sẽ làm cho tiếng sủa chói tai làm cho con hổ trở nên cực kỳ căng thẳng. Một nửa trong số các con chó sẽ tiếp tục bao quanh con hổ, trong khi những con chó khác được nghỉ ngơi. Mặc dù con hổ có sức mạnh rất gê gớm những con hổ thường không trụ vững trước những con chó trừ khi nó bị dồn ép và nhiều khi phải tháo chạy, điều này liên tưởng đến việc vây đánh hổ của những con sói lửa.
Người Sán Dìu khi đi săn hổ cũng đen theo những con chó để hỗ trợ và nếu nhà nào có đem theo chó săn thì sẽ được thưởng phần thịt hổ khi săn được. Ở Nga, người ta còn dùng chó truy tìm hổ, họ chọn giống chó săn tại Đức, sau khi được đào tạo tại Nga để chuyên đánh hơi phát hiện phân hổ, một con chó nghiệp vụ được đưa tới Campuchia để tìm kiếm dấu vết của hổ tại khu bảo tồn, chúng sẽ kiếm phân hổ tại khu bảo tồn đa dạng sinh học Seima. Nhìn chung, các giống chó săn nội địa ở Việt Nam cũng giống như giống chó nhà rất sợ hổ, khi thấy có khí của hổ trong bán kính gần 1 km, giống chó săn cũng không có con nào dám đến gần những con chó săn khi đánh hơi thấy hổ là đã không dám đánh hơi tiếp nữa mà cứ quanh quẩn bên con người nhất là ở Miền Tây sông nước, khi đang đi rừng mà thấy đàn chó săn cụp đuôi, sợ sệt co cụm lại là dấu hiệu nhận biết con hổ đang ở gần và họ chọn giải pháp là lùa bọn chó xuống xuồng và rời khu vực đó.
Săn thỏ.
Trong những cuộc săn thỏ, chó săn đóng vai trò rất quan trọng, người ta săn những con thỏ đồng với những con chó săn greyhound và hay những con chó săn đuổi khác mà chúng đuổi theo thỏ bằng tầm nhìn chứ không phải bằng việc đánh hơi. Săn thỏ là một môn thể thao cạnh tranh, trong đó những con chó được kiểm tra về khả năng chạy của chúng để có thể rượt kịp và tóm lấy một con thỏ, từ thời cổ đại, đã có hay chơi trò thả hai con chó săn thỏ đuổi theo một con thỏ rừng trên khoảnh đất trống.
Sự rượt đuổi là một kỹ thuật săn bắn lâu đời được thực hành với greyhound, hoặc giống săn đuổi khác. Hình thức lâu đời nhất của săn thỏ chỉ đơn giản là liên quan đến việc hai con chó đuổi theo một con thỏ, kẻ chiến thắng là con chó bắt được thỏ. Săn thỏ ở Anh thì người ta cho thỏ chạy khoảng 40–45 km/h (24-26 mph) sẽ kéo dài khoảng 35-40 giây hơn một phần ba của một dặm (0,5 km), sau đó những con chó săn thỏ sẽ đuổi theo bắt đầu bắt kịp với nó. Nhưng những con greyhound lớn hơn nhiều so với thỏ rừng nhưng ít nhanh nhẹn chúng nhận thấy thỏ một cách khó khăn và khó trong việc để làm theo lần theo dấu thỏ.
Săn cáo.
Săn cáo thường được thực hiện với một gói con chó săn mùi hương hay còn gọi là chó đánh hơi và trong hầu hết trường hợp chúng được nuôi một cách đặc biệt chỉ để dành cho việc săn cáo. Những con chó được huấn luyện để theo đuổi con cáo dựa trên mùi hương của nó. Hai loại chính của Chó săn cáo Anh và chó săn cáo của Mỹ. Việc sử dụng Chó săn đánh hơi để theo dõi con cáo bắt đầu ở Assyria, Babylon, và thời Ai Cập cổ đại cùng với Hy Lạp và La Mã Săn bắn với con chó săn đã được phổ biến trong thời Celtic Anh, ngay cả trước khi người La Mã đến, và đưa vào đây giống Castorian và giống chó săn Fulpine mà họ sử dụng để săn. Việc săn bắn truyền thống đã được đưa đến Anh khi William Kẻ chinh phục đến, cùng với Gascon và chó săn Talbot.
Người ta cũng có thể sử dụng một con chó săn đuổi bằng tầm nhìn như Greyhound hay những con chó săn sẽ đuổi theo con cáo mặc dù thực tế điều này là không phổ biến trong tổ chức săn bắn, và những con chó này thường được sử dụng cho việc rượt đuổi những thỏ rừng trong các cuộc săn thỏ. Săn cáo cũng có thể sử dụng chó săn để xới đất ra hoặc giết cáo đang ẩn dưới lòng đất, như vậy những con chó săn này chúng đủ nhỏ để theo đuổi con cáo thông qua các đoạn đất hẹp. Tuy nhiên điều này không phổ biến tại Hoa Kỳ.
Săn chuột.
Người ta cũng nghiên cứu, huấn luyện loài chó vào mục đích săn chuột, nhằm biến loài chó thành những "cỗ máy" nghiền thịt chuột. Việc huấn luyện chó săn chuột khá đơn giản. Chó vốn không thèm ăn thịt chuột, nhưng nhìn thấy chuột là sẵn sàng cắn chết. Giống chó vốn có sức mạnh, tốc độ, nên nó có thể vồ chuột nhanh như chớp. Việc huấn luyện chó vào mục đích săn chuột đem lại hiệu quả không cao so với mèo. Chó có khả năng đánh hơi cực tốt, phát hiện ra chuột chui rúc ở mọi xó xỉnh, ngóc ngách. Nhưng, muốn tóm được chuột thì lại phải tiến hành công việc đào bới nơi chuột trú ngụ, chó sẽ đánh hơi tìm hang chuột và những người săn chuột sẽ đào bới để truy bắt. Kết quả có thể tóm được chú chuột nhắt bằng quả cau, song cũng phá tan cả bờ bãi, đê điều.
Thông thường, mỗi thợ săn phải dắt chó đi theo, nghe tiếng chó sủa, chuột sợ không dám bò ra khỏi hang, tha hồ đào bắt", chó sẽ đánh hơi ra chỗ ẩn nấp của con mồi, chó săn mũi thính không bỏ sót những hang có chuột lẩn trốn bên trong, người ta xuỵt chú chó lại. Con chó rúc mũi vào hang, sủa mấy tiếng, rồi luôn chân cào bới. Điều đó có nghĩa trong hang đang có chuột. Để chọn được chó săn chuột ưng ý rất khó, trong các tiêu chuẩn chọn chó thì phải chọn được chó có hình dáng ngực nở, mình trắm, phần đầu trán hơi nhô về phía trước, mũi ba ba để ngửi vật.
Những chú chó nghiệp vụ đóng vai trò chủ chốt, Chó nghiệp vụ săn chuột ở Việt Nam thuộc giống chó cỏ nhưng phải qua đào tạo nhiều tháng thì mới hình thành kỹ năng săn chuột. Để huấn luyện một chú chó thành thục đi bắt chuột cũng phải mất hai năm. chó có nhiệm vụ đi khảo sát, nắm tình hình, đánh hơi chuột từ các miệng hang nhan nhản ngoài đồng. Phát hiện ra mục tiêu, chúng khịt khịt mũi hoặc sủa lên để gọi chủ tới. Hai chân trước của chúng bới mạnh vào hang chuột. Nếu chuột chạy ra ngay, chó lập tức đuổi theo và tóm gọn.
Thành phố New York có các bãi rác, hẻm tối, nơi cư trú của hơn hai triệu con chuột, những đống rác thải tồn đọng trong thành phố là nơi sinh sống lý tưởng cho loài động vật gặm nhấm như chuột và mang đến bệnh dịch hạch ở người. Đội săn chuột R.A.T.S (Ryders Alley Trencher Fed Society) thành lập năm 1995. Các thành viên của đội R.A.T.S là những chú chó săn được huấn luyện để chuyên bắt các loại chuột trong thành phố. Người ta thường chọn lựa chó săn chuột từ các giống chó phổ biến như Border, Norfolk, chó săn cáo và giống chó chồn. Các chuyên gia sẽ huấn luyện nhiều kỹ năng theo dõi, đuổi theo, áp sát và tiêu diệt con mồi.
Biệt đội chó săn chuột đang thực hiện nhiệm vụ bắt những con chuột Na Uy nặng 0,5 kg, đầu tiên những con chó nhỏ có nhiệm vụ đánh hơi và xua lũ chuột ra khỏi hang, sau đó những con chó to hơn sẽ bắt chuột, các chú chó hầu như không bị thương khi săn chuột mặc dù loại chuột mà chúng săn có cân nặng tới 0,5 kg. Sau khi chó săn bắt và giết thành công lũ chuột trong thùng rác, chúng sẽ mang chiến lợi phẩm về cho chủ, một khi bản năng săn mồi của loài chó trỗi dậy, chúng sẽ không bao giờ dừng lại, chó săn có thể giết một con chuột chỉ trong hơn một giây, trong khi nếu người dân dùng miếng dán chuột, thời gian có thể lên đến vài ngày, những chú chó săn hiếm khi nhiễm bệnh của chó, ngoại trừ khả năng bị nhiễm khuẩn khi săn chuột. Khi chúng bắt những con mồi đã trúng bả, chúng có thể bị nhiễm độc từ con chuột đó nhiều hơn. | 1 | null |
Ronald Harry Coase (; 29 tháng 12 năm 1910 – 2 tháng 9 năm 2013) là nhà kinh tế và tác giả người Anh. Ông là Giáo sư danh dự Clifton R. Musser tại trường luật đại học Chicago. Sau khi nghiên cứu với chương trình mở rộng của đại học London giai đoạn 1927–29, Coase học Trường Kinh tế London, tại đây ông đã học với Arnold Plant. Ông nhận giải Nobel Kinh tế năm 1991.
Coase được biết đến với hai bài nổi tiếng: "Bản chất của Công ty" (1937), trong đó giới thiệu các khái niệm về chi phí giao dịch để giải thích bản chất và giới hạn của các công ty, và "Vấn đề chi phí xã hội" (1960) cho thấy rằng quyền sở hữu rõ ràng có thể vượt qua những vấn đề của yếu tố bên ngoài. Coase cũng thường được gọi là "cha đẻ" của cải cách trong chính sách phân bổ phổ điện từ dựa trên bài viết "Ủy ban Truyền thông Liên bang" (1959), trong đó ông chỉ trích về li-xăng phổ tần, cho thấy quyền sở hữu hiệu quả hơn khi ấn định phổ tần cho người dùng. Ngoài ra, cách tiếp cận chi phí giao dịch của Coase hiện đang có ảnh hưởng trong các tổ chức kinh tế hiện đại, do Oliver E. Williamson giới thiệu lại. | 1 | null |
Robert William Fogel (1 tháng 7 năm 1926 – 11 tháng 6 năm 2013) là một nhà khoa học và sử gia kinh tế người Hoa Kỳ, ông được trao giải Nobel Kinh tế vào năm 1993 (cùng với Douglass North). Ông là giáo sư xuất sắc gắn danh Charles R. Walgreen của Viện Hoa Kỳ và là giám đốc Trung tâm kinh tế dân số (CPE) thuộc trường kinh doanh Booth Đại học Chicago. Ông được biết đến như một người ủng hộ hàng đầu cho lịch sử kinh tế mới hay cliometrics – việc sử dụng các phương pháp định lượng trong lịch sử.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Fogel được sinh ra ở thành phố New York, là con trai của người nhập cư Nga gốc Do Thái từ Odessa (1922). Ông tốt nghiệp trường trung học Stuyvesant vào năm 1944. Ông học tại Đại học Cornell, tại đây ông học chuyên ngành lịch sử với nền kinh tế nhỏ, và trở thành chủ tịch của Hội thanh niên vì dân chủ Hoa Kỳ, một tổ chức cộng sản. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1948, ông trở thành một nhà tổ chức chuyên nghiệp cho Đảng Cộng sản. Sau khi làm việc tám năm như một nhà tổ chức chuyên nghiệp, ông rời bỏ chủ nghĩa cộng sản và học Đại học Columbia, tại đây ông theo học George Stigler và nhận bằng Thạc sĩ kinh tế vào năm 1960. Ông nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Johns Hopkins vào năm 1963.
Ông bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình với vị trí giảng viên tại Đại học Rochester vào năm 1960. Năm 1964 ông chuyển đến Đại học Chicago đảm nhiệm vị trí phó giáo sư. Từ năm 1968 đến 1975, ông cũng là một giáo sư thỉnh giảng tại Rochester vào học kỳ mùa thu. Trong thời gian này ông đã hoàn thành một số công trình quan trọng nhất của ông, bao gồm Thời gian trên thập giá (cùng viết với Stanley Engerman). Ông cũng là cố vấn cho một nhóm sinh viên và nhà nghiên cứu về lịch sử kinh tế, bao gồm cả đồng nghiệp của ông là Deirdre McCloskey tại Chicago. Năm 1975, ông rời Đại học Harvard, và từ năm 1978 ông làm việc với tư cách nhà nghiên cứu thuộc Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia tại Cambridge, Massachusetts. Năm 1981, ông trở lại Đại học Chicago, tại đây ông trực tiếp sáng lập Trung tâm kinh tế dân số tại Trường Kinh doanh Booth.
Fogel nghiên cứu và viết về nhiều lĩnh vực trong sự nghiệp của mình, bao gồm không chỉ lịch sử kinh tế mà còn gồm nhân khẩu học, sinh lý học, xã hội học gia đình, dinh dưỡng, phát triển kinh tế của Trung Quốc, triết lý của khoa học, và các lĩnh vực liên quan khác. Ông vận dụng những hiểu biết từ các lĩnh vực đa dạng như vậy trong nỗ lực của mình để giải thích hiện tượng lịch sử quan trọng như việc giảm đáng kể tỷ lệ tử vong từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20. Đồng nghiệp cũ của ông là Deirdre McCloskey đã đánh giá Fogel đã "tái thống nhất kinh tế và lịch sử". Ông đã hướng dẫn nhiều sinh viên trở thành các nhà sử gia kinh tế nổi bật.
Fogel kết hôn Enid Cassandra Morgan, một phụ nữ người Mỹ gốc Phi, vào năm 1949 và có hai con. Các cặp vợ chồng phải đối mặt với khó khăn đáng kể vào thời kỳ này do luật chống phối giống lai và sự phản đối phổ biến đối với cuộc hôn nhân giữa các chủng tộc.
Fogel qua đời vào ngày 11 tháng 6 năm 2013, tại một trung tâm dịch vụ y tế ở Oak Lawn, Illinois vì một căn bệnh, ở tuổi 86.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Sinh năm 1926]]
[[Thể loại:Mất năm 2013]]
[[Thể loại:Nhà sử học Hoa Kỳ]]
[[Thể loại:Nhà kinh tế học học Hoa Kỳ]]
[[Thể loại:Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel Kinh tế]]
[[Thể loại:Người đoạt giải Nobel Kinh tế]]
[[Thể loại:Cựu học sinh Trường trung học Stuyvesant]]
[[Thể loại:Cựu sinh viên Đại học Cornell]]
[[Thể loại:Cựu sinh viên Đại học Columbia]]
[[Thể loại:Cựu sinh viên Đại học Johns Hopkins]]
[[Thể loại:Giáo sư Đại học Rochester]]
[[Thể loại:Giảng viên Đại học Harvard]]
[[Thể loại:Giáo sư Đại học Chicago]]
[[Thể loại:Nhà kinh tế thế kỷ 20]]
[[Thể loại:Nhà sử học Mỹ]]
[[Thể loại:Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel]]
[[Thể loại:Nhà văn Thành phố New York]] | 1 | null |
Douglass Cecil North (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1920) là một nhà kinh tế người Mỹ nổi tiếng với các công trình của ông về lịch sử kinh tế. Ông là người cùng nhận giải Nobel Kinh tế năm 1993 với Robert William Fogel. Theo lời của Ủy ban Nobel, North và Fogel được trao giải "cho việc làm thay đổi hoàn toàn phương pháp nghiên cứu sử kinh tế bằng cách áp dụng phương pháp kinh tế lượng".
Tiểu sử.
Douglass North được sinh ra ở Cambridge, Massachusetts, ngày 05 tháng 11 năm 1920. Ông chuyển nơi ở nhiều lần do công viejec của cha ông tại MetLife, ông từng sống ở Cambridge, Ottawa, Lausanne, New York City và Wallingford.
Trong Thế chiến II, ông trở thành hoa tiêu trên các tàu buôn đi lại giữa San Francisco và Australia. Trong thời gian này, ông đọc kinh tế và chọn sở thích của mình là nhiếp ảnh. Ông được học làm hoa tiêu tại trường sĩ quan hàng hải ở Alameda vào năm 1945, ông đã đấu tranh để quyết định nên trở thành một nhà nhiếp ảnh hay một nhà kinh tế.
Giáo dục.
North học tại cao đẳng Ashbury ở Ottawa, Ontario và trường Choate ở Wallingford, Connecticut. Ông được nhận vào Harvard cùng thời điểm cha ông trở thành người đứng đầu MetLife ở bờ tây Hoa Kỳ, do đó North đã chọn đi tới Đại học California, Berkeley. Năm 1942, ông tốt nghiệp với bằng cử nhân. Mặc dù điểm tốt nghiệp của ông trung bình là C, nhưng ông đã hoàn thành gấp 3 lần khối lượng được học bao gồm khoa học chính trị, triết học và kinh tế.
North quyết định trở lại trường học tại Berkeley để theo đuổi bằng tiến sĩ về kinh tế, chứ không phải lịch sử như nhiều người nghĩ. Ông đã hoàn thành nghiên cứu của mình vào năm 1952 và bắt đầu làm việc như giảng viên tại Đại học Washington. | 1 | null |
The Shield là một nhóm đô vật chuyên nghiệp ở WWE, bao gồm Dean Ambrose, Seth Rollins, và Roman Reigns.
Nhóm ra mắt trong tháng 11 năm 2012 tại Pay-Per-View (PPV) Survivor Series, và sau đó tuyên bố ý định của mình để chống lại những gì mà họ cho là "bất công" trong WWE. Ambrose từng nắm giữ WWE United States Championship (Đai vô địch nước Mĩ). Nhóm được biết đến với trang phục màu đen (đặc biệt là áo khoác bảo vệ của nhóm), xu hướng của nhóm là tấn công những đô vật trên ringside. Gimmick của nhóm là tinh thần đoàn kết nhóm và sẵn sàng hy sinh bản thân vì nhóm, và lý đo đó nhóm đạt được chiến thắng bằng cách áp đảo đối thủ với số đông hơn sau khi mất khả năng đồng đội của nhóm. "The Shield" đã đánh bại "The Evolution" vào ngày 3 tháng 6 năm 2014, nhưng vào ngày tiếp theo, 4 tháng 6, Seth Rollins đã bất ngờ phản bội "anh em" của mình (Roman Reigns và Dean Ambrose), dẫn đến sự tan rã của "The Shield".
Nhưng mặc dù vậy, "The Shield" được xem là một trong những nhóm đô vật áp đảo nhất từ trước đến nay, và khán giả vẫn mong "The Shield" sẽ tái hợp một ngày nào đó. Và ngày đó đã đến, ngày 9 tháng 10 năm 2017, Roman Reigns, Seth Rollins và Dean Ambrose thực hiện đòn Triple Powerbomb lên The Miz, đánh dấu sự tái hợp của The Shield, với Reigns trở thành thủ lĩnh nhóm tiếp tục. Đến tháng 12 năm 2017, nhóm tiếp tục tan rã khi Ambrose bị chấn thương và tái hợp vào ngày 20 tháng 8 năm 2018 tại "Raw" để ngăn Braun Strowman cash-in Money in the Bank của anh ta với Reigns. Tuy vậy, tháng 10 cùng năm, một lần nữa nhóm tan rã khi Reigns bị ung thư máu và Ambrose sau đó phản bội Rollins. Khi Reigns trở lại vào tháng 2 năm 2019 và thông báo rằng mình đã thuyên giảm, họ đã tái hợp và chiến thắng trận sự kiện chính tại Fastlane. Dù được quảng bá là trận cuối của The Shield, nhưng họ đã tái hợp tại sự kiện đặc biệt The Shield's Final Chapter, mới là trận cuối sau khi Ambrose chấm dứt hợp đồng với WWE.
Khái niệm.
Ý định của The Shield thường bao gồm chiến đấu những gì nhóm cho là "bất công". Nhóm cũng được biết đến với bộ trang phục màu đen của nhóm (đặc biệt là áo khoác của nhóm), xu hướng của nhóm là tiếp cận mục tiêu từ dưới sàn đấu, và khẩu hiểu quen thuộc của nhóm, và được quay từ một góc nhìn người sử dụng máy quay của WWE. Nhân vật của ba người là một nhóm làm việc theo tính đoàn kết và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của nhóm, và đã đạt được chiến thắng áp đảo trước đối thủ với tính đoàn kết và làm mất khả năng đồng đội của đối thủ. Ngoài ra, nhóm được huấn luyện bởi Joey Mercury là người đứng sau thành công của The Shield.
Lịch sử.
Lính đánh thuê của CM Punk.
Nhóm ra mắt vào ngày 18 tháng 11 năm 2012 tại PPV Survivor Series, khi ra mắt nhóm bao gồm Ambrose, Reigns, và Rollins can thiệp vào sự kiện chính, một trận đấu ba tay ba giữa CM Punk, John Cena, và Ryback tranh đai WWE Championship. Nhóm thực hiện "powerbombed" lên Ryback qua bàn bình luận, và thừa cơ hội ấy Punk pin Cena giành chiến thắng trận đấu và giữ lại đai của mình. Nhóm nhận mình là "The Shield", và tuyên bố sẽ chống lại sự bất công ở WWE. The Shield xuất hiện bằng cách đi bộ xuống qua đám đông. Mặc dù tuyên bố rằng nhóm không hợp tác với CM Punk hay Paul Heyman. Trong vài tuần tới, ở cả RAW và SmackDown, nhóm thường xuyên xuất hiện trong đám đông để tấn công đối thủ của Punk như Ryback, The Miz, và WWE Tag Team Champions Team Hell No (Kane và Daniel Bryan). Nhóm cũng tấn công Randy Orton sau khi anh đánh bại Brad Maddox; Maddox là trọng tài đã giúp Punk đánh bại Ryback trong trận Hell in a Cell tranh WWE Championship. Điều này dẫn đến trận đấu đầu tiên của nhóm tại PPV TLC, nơi nhóm phải đối mặt với Ryback và Team Hell No trong trận đấu Tables, Ladders, và Chairs, và nhóm giành chiến thắng.
Sau TLC,nhóm tấn công bất cứ ai có liên quan đến "Punk và Maddox" như Ric Flair, Brodus Clay, và Sheamus, The Shield nhanh chóng mở rộng cuộc tấn công vào một số nhân vật "face", chẳng hạn như Mick Foley và Ricardo Rodriguez. Trong các cuộc tấn công của The Shield cũng được ghi hình qua TV và làm cho các đô vật chấn thương, chẳng hạn như Randy Orton và Sin Cara, họ bị chấn thương sau cuộc tấn công đó.
Ngày 2 tháng 1 năm 2013 tại NXT, đã được ghi hình trước vào ngày 6 tháng 12 năm 2012, The Shield xuất hiện lần đầu tiên của họ trong NXT, mặc dù Reigns và Rollins vẫn là đô vật có từ trước ở đây và Rollins đang giữ NXT Championship. Rollins bảo vệ đai của mình chống lại Corey Graves, Ambrose và Reigns tấn công Graves làm cho trận đấu bị hủy bỏ, Rollins vẫn giữ được chiếc đai. The Shield sau đó tấn công toàn bộ phòng thay đồ của NXT nhưng đã bỏ qua khi thấy Big E Langston. Ngày 9 tháng 1 của NXT ghi hình sẵn như các tập phim trước, Rollins đối mặt Langston trong trận đấu No Disqualification Match tranh đai NXT. nhóm không được vào NXT khi các thành viên ngăn chặn họ, và Langston đánh bại Rollins giành được đai NXT.
Ngày 7 tháng 1 của RAW, The Shield một lần nữa giúp đỡ CM Punk bằng cách tấn công Ryback trong trận đấu Tables, Ladders and Chairs cho WWE Championship giữa họ, và kết quả là Punk giữ lại danh hiệu của mình. Vào tháng 1 ngày 21, RAW cuối cùng trước khi sự kiện 2013 Royal Rumble, The Shield sử dụng powerbombed lên The Rock, kết quả là Vince McMahon tuyên bố rằng sự can thiệp của nhóm trong trận tranh đai ấy sẽ tước bỏ chiếc đai của Punk. Bốn ngày sau đó trên SmackDown, Punk từ chối liên minh với The Shield và thông báo cho nhóm rằng anh không muốn nhóm can thiệp vào trận tranh đai sắp tới của mình. Tuy nhiên, trong trận tranh đai của Punk tại Royal Rumble, sự cố mất điện xảy ra và The Rock bị tấn công bởi The Shield trong bóng tối, dẫn đến Punk pin The Rock và giữ lại danh hiệu của mình. Trận đấu sau đó đã được tái đấu lại bởi Mr. McMahon, và kết quả The Rock giành được WWE Championship.
Ngày 28 tháng một trong RAW, The Shield tấn công John Cena, Sheamus và Ryback chịu chung số phận khi họ cố gắng cứu Cena. Sau đó trong chương trình, một thông tin được tiết lộ qua đoạn phim do Vince McMahon nói rằng, Paul Heyman và Punk đã yêu cầu The Shield và Brad Maddox làm việc cho họ.
Chuỗi bất bại.
Tại 28 tháng một trong "Raw", The Shield tấn công John Cena; Sheamus và Ryback chịu chung số phận khi cố gắng giải cứu Cena. The Shield phải chống lại tất cả các đô vật của WWE bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu bao gồm có Cena, Ryback và Sheamus. Điều này thiết lập trận đấu six-man tag team vào ngày 17 tháng 2 tại PPV Elimination Chamber, và The Shield giành chiến thắng. The Shield có trận đấu đầu tiên của nhóm trên RAW đêm hôm sau, họ đánh bại Ryback, Sheamus, và Chris Jericho.
Sheamus sau đó thành lập một liên minh với Randy Orton và bắt đầu mối thù với The Shield. Vào ngày 01 tháng 3 của SmackDown, khi tấn công Orton trong trận đấu với Big Show, Shield vô tình bị Show tấn công ngược lại; The Shield do đó bắt đầu một mối thù với Big Show. Vào ngày 11 tháng 3 tại "Raw", trận đấu đớn đầu tiên của The Shield khi Rollins phải đối mặt với Show; Show thắng khi The Shield tấn công ông do đó trận đấu bị hủy bỏ. Mặc dù hai lần giúp Orton và Sheamus chống lại The Shield, nhưng Show đã phản bội lại họ sau đó. The Shield sau đó thách thức Orton và Sheamus tìm thêm một thành viên và có một trận đấu với nhóm tại WrestleMania 29. Show tình nguyện gia nhập, nhưng Orton và Sheamus đã chọn Ryback là thành viên của họ. Trong khi đó, Mark Henry gây mất tập trung cho Ryback dẫn đến The Shield tấn công anh, Và Ryback được thiệt lập một trận đấu với Henry tại WrestleMania. Orton và Sheamus cuối cùng chấp nhận Show vào nhóm mặc dù họ không tin tưởng ông. Ngày 07 tháng 4 tại WrestleMania 29, The Shield đã tận dụng sự bất hòa của ba người kia và giành chiến thắng trong WrestleMania đầu tiên của họ.
Các đêm sau trong "Raw", nhóm đã cố gắng để tấn công The Undertaker, nhưng cuối cùng buộc phải rút lui bởi khi Team Hell No xuất hiện. Trong 22 tháng 4 của "Raw", The Shield đối mặt và đánh bại Undertaker, Kane và Bryan. Bốn ngày sau đó trên SmackDown, Ambrose có trận ra mắt đầu tiền của mình chống lại Undertaker nhưng bị đánh bại bởi submission, sau đó The Shield tấn công Undertaker và sử dụng powerbombed lên một cái bàn. Ba ngày sau trong "Raw", nhóm đánh bại Team Hell No và WWE Champion John Cena trong trận đấu 6-Man Tag Team với kết quả Reigns pin Cena. Ambrose sau đó bắt đầu một mối thù với WWE United States Champion Kofi Kingston sau khi pin Kingston trong trận đấu 6-Man Tag Team có sự góp mặt của TheUsos. vào ngày 13 tháng 5 của "Raw", chuỗi bất bại của The Shield trên truyền hình đã kết thúc khi tham gia 6-Man Tag Team khi Cena pin Rollins và bị tấn công bởi Reigns khiến trận đấu kết thúc bằng disqualifications.
Championship; bảo vệ của Triple H.
Seth Rollins (trái) và Roman Reigns (phải) đã từng là những nhà vô địch đồng đội WWE.
Vào ngày 19 tháng 5 tại Extreme Rules, Ambrose đánh bại Kofi Kingston và trở thành tân vô địch WWE United States Championship. Tối hôm đó, Rollins và Regins đánh bại Tean Hell No và trở thành WWE Tag Team Championship. Ambrose đối mặt Kingston trong một trận tái đấu tranh đai tai SmackDown 24 tháng 5, và giữ lại đai khi Reigns và Rollins can thiệp gây ra Disqualification. Ambrose đánh bại Kingston trong một trận tái đấu tranh đai ba ngày sau đó ở "Raw". Cũng trong đêm, Rollins và Reigns giữ lại đai trong một trận tái đấu tranh đai với Team Hell No. Vào ngày 14 tháng 6 SmackDown, kỉ lục không bị pin/không bị submission của The Shield đã kết thúc khi tham gia 6-Man Tag Team chống lại Team Hell No và Randy Orton, khi Daniel Bryan pin Rollins. Ba ngày sau tại WWE Payback, Ambrose đánh bại Kane thông qua count-out và vẫn giữ lại WWE Unites States Championship, và trong khi Reigns và Rollins đánh bại Bryan và Orton tiếp tục giữ đai. Các đêm sau trong "Raw", Ambrose đã có một trận tái đấu tranh đai chống lại Kane và giữ lại đai nhờ sự giúp đỡ của Reigns và Rollins thông qua disqualification.
Sau khi The Shield tấn công Christian và Usos trở thành nhóm tranh đai WWE Tag Team Champions, sau khi The Shield bị đánh bại bởi họ tại SmackDown ngày 28 tháng 6. Vào ngày 14 tháng 7, tại pre-show Money in the Bank, Reigns và Rollins đánh bại Usos tiếp tục giữ lại WWE Tag Team Championship. Sau đó trong pay-per-view, nhóm can thiệp vào trận World Heavyweight Championship Money in the Bank ladder match nơi mà Ambrose tham gia trận đấu, nhưng họ bị Usos tấn công và Ambrose thất bại trong việc giành chiến thắng trận đấu. The Shield sau đó bắt đầu thù với Mark Henry, đánh bại Henry và Usos hai lần liên tiếp trong 6-Man Tag Team Match, nhưng lại để thua đội của Henry, Big Show và Rob Van Dam. Ambrose giữ lại chức vô địch của mình thông qua disqualification trước Rob Van Dam tại SummerSlam.
Các đêm sau trong Raw, Shield bắt đầu làm việc cho COO Triple H. Nhóm được phân công hỗ trợ WWE Champion và "bộ mặt của WWE " Randy Orton chống lại ứng cử viên, Daniel Bryan họ tấn công anh liên tục để bảo vệ WWE Champions Randy Orton và họ hợp tác với Orton để chống lại Bryan trong quãng thời gian dài. Sau đó Bryan thách đấu với từng thành viên của The Shield và anh có chiến thắng dễ dàng trước Dean và Seith nhưng trận Roman Reigns thì chưa xác định được vì 2 thành viên còn lại của The Shield lên phá khi trận đấu gần kết thúc kế đến là đô vật như Big Show và lên tiếng chống lại chế độ độc tài của Triple H. và cũng bị Shield hành hạ nhiều lần. Tại Night of Champions, tất cả thành viên của The Shield đều thành công giữ đai khi Ambrose đánh bại Ziggler, còn Reigns và Rollins đánh bại The Prime Time Players. Tại WWE Battleground, Cody Rhodes và Goldust có được một hợp đồng trở lại WWE khi đánh bại Rollins và Reigns trong một trận đấu không tranh đai. Vào ngày 14 tháng 10 trong "Raw", Rollins và Reigns sẽ phải đối mặt với anh em nhà Rhodes một lần nữa cho WWE Tag Team Championship trong một trận đấu không có disqualification; nhóm bị mất đai sau khi có sự can thiệp của Big Show. Hai ngày sau tại WWE Maint Event, Ambrose bảo vệ thành công United States Championship trước Dolph Ziggler. Tại Hell in a Cell, Rollins và Reigns để thua trong trận three-way tag match tranh đai Tag Team chống lại anh em Rhodes và The Usos, còn Ambrose vẫn giữ lại chức lại đai của mình khi để thua Big E Langston bằng count-out.
Rạn nứt trong The Shield.
Những mâu thuận đầu tiên của nhóm đã được hiện rõ khi Ambrose khoe khoang việc mình là thành viên duy nhất còn lại có đai vô địch, nhưng từ đó về sau Ambrose thường được thấy trong các trận đấu của The Shield. Tại Survivor Series, The Shield hợp tác với The Real American (Jack Swagger và Antonio Cesaro) đánh bại nhóm Rey Mysterio, anh em nhà Rhodes và The Usos; Ambrose là người đầu tiên bị loại, Rollins là người thứ tư loại còn Reigns là người giành chiến thắng, và với thành tích pin 4 người.
Tiếp theo, sau khi bị chỉ trích từ Triple H, nhóm được kêu gọi tấn công Punk sau đó, nhưng Punk đã trả được thù tại TLC: Tables, Ladders & Chairs khi Punk chống lại The Shield trong Handicap Match sau khi Ambrose bị Spear từ Reigns và pin từ Punk. Bước vào năm 2014, sử sỉ nhục của Punk khiến cho sự bất hòa của nhóm càng tăng thêm, và Reigns và thành viên duy nhất của nhóm đánh bại Punk trong Single Match, mặc dù có sự can thiệp của Ambrose. Tất cả ba thành viên của The Shield đều tham gia 2014 Royal Rumble. Cuối trận đấu, Ambrose đã cố gắng loại bỏ được Reigns, nhưng Reigns đã trả đũa bằng cách loại Ambrose và lẫn Rollins. Reigns đã lập kỷ lục mới tại Royal Rumble, danh hiệu loại nhiều nhất với thành tích loại 12 người; còn Ambrose và Rollins chỉ loại được 3 người, và Rollins đã trụ được lâu nhất trận đấu khi mang số 2.
Trên "Raw" tiếp theo ngày 27 tháng 1 năm 2014, nhóm phải đối mặt với Daniel Bryan, Sheamus và John Cena để có cơ hội để vào trận Elimination Chamber tranh WWE World Heavyweight Championship, và bị thất bại khi có sự can thiệp của The Wyatt Family khi tấn công đối thủ của nhóm, gây ra disqualification. The Shield thề sẽ trả thù, do đó, một trận đấu đã được công bố giữa nhóm và The Wyatt Family tại Elimination Chamber. Ngày 10 tháng 2 trong "Raw", người thách thức Ambrose đã được bật mí đó là Mark Henry, và Ambrose giữ lại đai của mình khi bị disqualification do sự can thiệp của nhóm; Còn Reigns đánh bại Henry mà không cần sự can thiệp của The Shield vào "Raw" tuần sau đó. Với việc The Shield và The Wyatt Family là heel (nhân vật phản diện), WWE đã sắp xếp cho mối thù này bằng việc để The Shield có một cuộc đối đầu với The Wyatt Family, mà hai bên không xảy ra ẩu đả. Tại Elimination Chamber, The Shield thua cho The Wyatt Family; trong trận đấ, Ambrose và Bray đã có cuộc ẩu đã ngoài brawle, nhưng Wyatt trở lại ringside và cũng không thấy Ambrose xuất hiện, khiến Rollins và Reigns bị áp đảo suốt trận đấu. "Raw" 03 tháng 3, Shield để thua Wyatt Family trong trận tái đấu khi có sự bất đồng, và do Rollins từ bỏ trận đấu dẫn đến thua trận; Rollins tuyên bố anh chịu đựng đủ rồi.
Tại WrestleMania 31, Seth Rollins đã dùng Money in the Bank để tham gia trận đấu giữa nhà vô địch hạng nặng thế giới WWE Brock Lesnar với Roman Reigns và Seth Rollins đã lấy được chiếc đai vô địch hạng nặng của Brock Lesnar.
Mối thù với The Authority.
Trên 07 tháng 3 SmackDown, các thành viên của Shield gặp nhau ở ring trong một bầu không khí nóng giận. Rollins có một cuộc nói chuyện ngắn với Ambrose và Reigns nhưng không có điểm chung với nhau. Sau đó Ambrose và Rollins xảy ra cuộc đánh nhau, và nhóm quyết định làm hòa.
Mối thù tiếp theo của The Shield là chống lại Kane, người đang đóng vai trò là "Giám đốc Điều hành" cho WWE. Kane đã ra lệnh The Shield tấn công Jerry "The King" Lawler trên 17 tháng 3 trong "Raw", tuy nhiên The Shield đã từ chối và thay vào đó là tấn công trực tiếp vào Kane, do đó nhóm đã turn face và là lần đầu tiên nhóm chuyển sang vai face. Để trả đũa, Kane và The New Age Outlaws tấn công The Shield với sự giúp đỡ từ các nhóm như RybAxel (Ryback và Curtis Axel) và Real American sau một trận đấu của nhóm vào ngày 21 Tháng 3 trong SmackDown. Điều này thiết lập một trận đấu giữa The Shield chống lại Kane và The New Age Outlaws tại WrestleMania XXX, mà The Shield thắng một cách nhanh chóng.
Đêm tiếp theo trên "Raw" sau WrestleMania, Kane vô tình tiết lộ rằng Triple H chính là chủ mưu đứng đằng sau vụ tấn công Shield vào tháng trước tại SmackDown. Kết quả là, khi Triple H phải đối mặt với WWE World Heavyweight Champion Daniel Bryan trong một trận tranh đai sau khi Bryan bị tấn công bởi Kane, Randy Orton và Batista, Shield làm gián đoạn trận đấu để phản bội Triple H, nhằm đuổi hết tất cả các đô vật có mặt và bảo vệ Bryan. Trong ngày 8 tháng 4 tại Main Event, The Shield cuối cùng cũng đã đánh bại được The Wyatt Family trong một trận đấu 6-Man Tag Team. Trên 14 Tháng 4 trong "Raw", sau khi Shield phục kích Batista và Randy Orton trước đó trong đêm, Shield bị buộc phải đối mặt với 11 đô vật trong một trận 11-on-3 Handicap Match, trận đấu kết thúc không kết quả sau khi Shield có cuộc ẩu đả với các đô vật và bị áp đảo về số lượng. Shield sau đó tiếp tục bị tấn công bởi Triple H, Orton và Batista, nhóm Evolution trở lại trong đêm đó. 11-on-3 trong sự kiện chính vào ngày 25 tháng 4, trước trận đấu, The Shield tấn công sáu trong số 11 đối thủ trong suốt SmackDown và đánh bại năm người còn lại trong trận Handicap. Trên SmackDown tiếp theo, Ambrose giữ lại đai vô địch của mình trong 4-Way match đấu với Alberto Del Rio, Curtis Axel và Ryback.
Tại sự kiện Extreme Rules, The Shield đánh bại Evolution. Tối hôm sau trong "Raw", Ambrose buộc phải bảo vệ đai vô địch của mình trong 20-Man Battle Royal Match trong khi Rollins và Reigns không tham gia trận đấu. Ambrose là một trong hai người còn sót lại cuối cùng và anh để thua bởi Shieamus, kết thúc kỷ lục giữ WWE United States Championship với thanh tích 351 ngày. Một trận tái đấu giữa The Shield và Evolution đã được sắp xếp tại sự kiện Payback, với một quy định No Holds Barred và elimination match; Shield chiếm ưu thế hơn Evolution với việc không có bất kì thành viên bị loại.
Sự phản bội của Rollins và giải tán.
Trên "Raw" sau Payback ngày 2 tháng 6, Triple H có ý định tiếp tục mối thù của Evolution với The Shield, nhưng Batista tuyên bố nghỉ việc do bất mãn với công ty. Trong đêm đó, The Shield đứng trên ring, và Triple H đã tuyên bố rằng ông đã phải dùng đến "kế hoạch B" trong việc phá hủy The Shield. Bằng việc Rollins cầm ghế tấn công tàn bạo vào Ambrose và Reigns, dấu hiệu cho việc Rollins rời nhóm. Tuần sau trong Raw, Rollins nói rằng mối quan hệ của anh với họ chỉ là vì công việc và tuyên bố rằng lý do anh rời nhóm là để tiếp tục lợi ích riêng của mình, với Ambrose và Reigns (vẫn còn trong The Shield) hợp tác với John Cena đánh bại The Wyatt Family.
Trong khi Ambrose và Reigns đã không có dấu hiệu chia rẽ, nhưng họ bắt đầu có những con đường riêng, như Ambrose tuyên bố rằng anh nhất định sẽ trả thù Rollins, trong khi Reigns nhắm tới hai kẻ thù của mình là Triple H và Randy Orton. Trên 20 tháng 6 của SmackDown, Ambrose ra mắt nhạc nền mới và anh không còn mặc trang phục của The Shield nữa. Đến thời điểm này, Rollins cũng đã thay đổi trang phục cũng như nhạc nền của mình, trong khi Reigns giữ lại hoàn toàn trang phục và tiếp tục với nhạc nền của The Shield. Điều này cho thấy Ambrose và Reigns đang làm việc riêng của họ và The Shield đã chính thức kết thúc trong sự im lặng. Trên 24 tháng 6 tại WWE Main Event, Reigns đã xác nhận rằng anh đã đánh độc lập và không còn gì với The Shield.
Các lần tái hợp sau đó (2017—2019).
2017.
Trong tháng 7 năm 2017, Ambrose được draft sang "Raw" sau Superstar Shake-up, và Rollins trêu chọc cuộc hội ngộ tiềm năng giữa hai người, nhưng Ambrose liên tục từ chối lời đề nghị của Rollins để tái hợp, chủ yếu do Ambrose không tin tưởng sau việc Rollins đã phản bội nhóm ba năm trước.
Trong "Raw" ngày 31 tháng 7, Rollins đối mặt WWE Raw Tag Team Championship Cesaro và Sheamus, và giành chiến thắng trước Sheamus khiến nhóm này tấn công anh trước khi Ambrose cứu, dù ở hậu trường anh ta nói sẽ không giúp Rollins nếu bị tấn công một lần nữa. Tuần tiếp trên "Raw", sau khi Rollins thua trận tái đấu với Sheamus và bị tấn công sau trận đấu, Ambrose không giúp anh ta. Sau đó, Ambrose đánh bại Cesaro và bị nhóm này tấn công trước khi Rollins giúp. Vào ngày 14 tháng 8 trong "Raw", cuộc cãi vã giữa họ lên đến đỉnh điểm chỉ để chống lại Cesaro và Sheamus và thực hiện một cú đấm mạnh và loud ovation. Rollins và Ambrose đánh bại các nhà vô địch tại SummerSlam để giành đai.
Tại No Mercy vào ngày 24 tháng 9, Ambrose và Rollins bảo toàn đai trong trận tái đấu với Cesaro và Sheamus. Họ tái hợp với Reigns, người đang thù The Miz. Trong "Raw" ngày 9 tháng 10, Miz mở đầu chương trình cùng Cesaro và Sheamus, nhưng bị gián đoạn bởi The Shield, người sẽ tấn công bộ ba, dẫn tới một trận đấu đồng đội sáu người giữa bọn họ tại . Sau đó, Braun Strowman và Kane được thêm vào đội The Miz. Tuy nhiên, Reigns rút khỏi trận đấu vào ngày 20 tháng 10 vì bệnh và Kurt Angle thay thế anh.
Tại sự kiện, Ambrose, Rollins và Angle giành chiến thắng. Trong thời Reigns dưỡng bệnh, Ambrose và Rollins cũng hợp tác với Triple H một lần như thành viên của đội tại house show vào ngày 1 tháng 11. Ambrose và Rollins để thua đai cho Cesaro và Sheamus khi New Day xuất hiện và gây sao nhãng vào ngày 11 tháng 11 trong "Raw". Reigns trở lại "Raw" tuần sau và thách thức New Day một trận đấu tại Survivor Series ngày 19 tháng 11 mà họ thắng. Tháng 12 năm 2017, Ambrose bị rách cơ tam đầu, khiến The Shield bị gián đoạn một thời gian.
Trong thời gian nhóm không hoạt động, Reigns mất đai Intercontinental Champion cho The Miz vào tháng 1 năm 2018. Tại WrestleMania 34, Rollins đánh bại The Miz và Finn Bálor trong trận đấu ba người để giành đai Intercontinental Champion. Rollins và Reigns cũng thể hiện tình bạn giữa họ trên trên truyền hình sau đó, hợp tác cùng nhau không thường xuyên, dù không hoạt động dưới cái tên The Shield.
2018–2019.
Trong "Raw" ngày 13 tháng 8 năm 2018, Ambrose trở lại sau chấn thương và hợp tác với Rollins trong mối thù với Dolph Ziggler và Drew McIntyre. Rollins sau đó giành đai Intercontinental Champion từ Ziggler, trong khi Reigns giành đai Universal Champion từ Brock Lesnar tại SummerSlam. Trong "Raw" ngày 20 tháng 8, Reigns bảo toàn đai Universal trước Finn Bálor, Braun Strowman theo dõi trên đoạn đường lối vào võ đài. Strowman cố gắng cash-in Money in the Bank, tuy nhiên Rollins và Ambrose đã ngăn chặn, và bộ ba tung powerboom với Strowman sập bàn. Tại Hell in a Cell ngày 16 tháng 9, Ziggler và McIntyre đã đánh bại Rollins và Ambrose để giành đai Raw Tag Team; trong khi trận tranh đai Universal Championship giữa Reigns và Strowman kết thúc không kết quả, do Brock Lesnar can thiệp vào trận đấu. The Shield và đội của Strowman, Ziggler và McIntyre đã có trận đấu tại WWE Super Show-Down ngày 6 tháng 10, mà The Shield thắng. "Raw" ngày 22 tháng 10 năm 2018, Reigns từ bỏ đai Universal Championship do bệnh bạch cầu tái phát trong thực tế, và sau đêm đó, Ambrose tấn công Rollins ngay sau khi họ giành Raw Tag Team. Hai tuần sau, AOP đánh bại Rollins trong trận chấp người để giành Raw Tag Team, và một lần nữa Ambrose tấn công Rollins sau trận đấu.
Vào tháng 1 năm 2019, WWE xác nhận rằng Ambrose không tiếp tục gia hạn hợp đồng của mình nữa, và sẽ hết hạn vào tháng 4. Trong "Raw" ngày 25 tháng 2 năm 2019, Reigns trở lại khi bệnh bạch cầu đã thuyên giảm và hợp tác với Rollins. Cuối đêm đó, họ hỗ trợ Ambrose khi anh bị Elias, Bobby Lashley, Drew McIntyre và Baron Corbin tấn công. Tuần sau, Ambrose cứu Reigns và Rollins khi họ bị Lashley, McIntyre và Corbin tấn công, sau đó thể hiện tư thế đặc trưng của nhóm. Vào ngày 10 tháng 3, The Shield đánh bại đội của Lashley, McIntyre và Corbin tại Fastlane. Trận đấu được bình chọn là trận đấu cuối cùng của nhóm.
Trước khi WWE chính thức kết thúc hợp đồng với Ambrose, The Shield đã xuất hiện tại sự kiện đặc biệt của WWE Network mang tên The Shield's Final Chapter. Trong sự kiện chính, The Shield đánh bại đội của Lashley, McIntyre và Corbin, đây sẽ là trận đấu cuối cùng của nhóm cũng như của Ambrose tại WWE.
Sau ngày 30 tháng 4, hợp đồng của Ambrose chính thức hết hạn, anh tham gia đấu tại All Elite Wrestling và New Japan Pro-Wrestling với cái tên võ đài cũ Jon Moxley. Rollins tiếp tục là nhà vô địch Universal Championship, có mối thù với Lesnar cho đến SummerSlam. Reigns tham gia những mối thù khác trong những tháng tới, với Shane McMahon, Drew McIntyre, Elias và Erick Rowan.
Xem thêm.
Paul Heyman Guy | 1 | null |
Con đường lãng mạn (tiếng Đức: "Romantische Straße") là một trong những con đường du lịch nổi tiếng nhất và được ưa chuộng nhất tại nước Đức. Nó bắt đầu tại sông Main, dẫn từ vùng Franken tới Schwaben, ngang qua một đoạn của tỉnh Oberbayern cho tới chân núi Alpen tại Ostallgäu, trở lại vùng hành chính Schwaben. Con đường này dài 413 km từ Würzburg tới tận Füssen.
Đường xe đạp.
Có một lối đi cho người dùng xe đạp. "Đường xe đạp lãng mạn" thường ở những đường phụ hay đường dành riêng cho người đi xe đạp.
Ấn tượng.
Đường Romantisch tạo nên một hình ảnh cổ truyền của Đức rất được ưa chuộng ở các nước ngoài. Giữa thập niên 1990, 93 % những người Nhật tới tuổi đi du lịch ít nhất biết tới tên con đường này.. | 1 | null |
Neptune () là thủy thần trong tôn giáo La Mã và thần thoại La Mã, tương tự với vị thần Poseidon trong thần thoại Hy Lạp. Dưới ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp, Neptune được diễn giải là em trai của Jupiter và Pluto, hai vị thần cai quản Thiên đàng và Địa ngục. | 1 | null |
, tên đầy đủ là , thuộc Cục Nội vụ Công nghiệp và Lao động Tokyo, là chợ bán buôn cá và hải sản lớn nhất thế giới và cũng là một trong những chợ thực phẩm rộng nhất xét về mọi loại mặt hàng.
Chợ nằm tại quận Tsukiji thuộc trung tâm Tokyo, nằm giữa sông Sumida và khu mua sắm Ginza cao cấp. Trong khi thị trường bán buôn bên trong đã hạn chế việc ra vào cho du khách, thị trường bán lẻ bên ngoài, các nhà hàng và cửa hàng cung cấp các mặt hàng liên quan đến nhà hàng vẫn là một điểm du lịch hấp cho cả du khách trong và ngoài nước.
Vị trí.
Chợ Tsukiji nằm gần các ga Tsukijishijō trên tuyến Toei Ōedo và ga Tsukiji trên tuyến Hibiya của Tokyo Metro. Chợ được chia làm hai khu riêng biệt. "Chợ trong" ("jōnai-shijō") là chợ bán buôn được cấp phép, nơi diễn ra những cuộc đấu giá và phần lớn quá trình sơ chế cá, và đây cũng là nơi có những quầy hàng của những tiểu thương được cấp phép (xấp xỉ 900 đại lý bán buôn). "Chợ ngoài" ("jōgai-shijō") gồm các cửa hàng bán sỉ và lẻ những dụng cụ nhà bếp Nhật Bản, vật tư nhà hàng, tạp phẩm và hải sản, và rất nhiều nhà hàng, đặc biệt là nhà hàng bán sushi. Phần lớn các cửa hàng ở chợ ngoài đóng cửa vào đầu giờ chiều, và các cửa hàng ở chợ trong thậm chí còn đóng cửa sớm hơn.
Kinh doanh.
Chợ buôn bán hơn 400 loại hải sản khác nhau, từ loại rong biển rẻ tiền cho đến loại trứng cá muối đắt tiền nhất, từ cá mòi nhỏ đến cá ngừ 300 kg và những loài cá voi gây tranh cãi. Nhìn chung, hơn 700.000 tấn hải sản được buôn bán mỗi năm tại ba chợ hải sản của Tokyo với tổng giá trị vượt quá 600 tỉ yên Nhật (khoảng 6 tỉ đô la Mỹ). Số lượng nhân công được đăng ký tính đến 25 tháng 1 năm 2010 là khoảng 60.000 đến 65.000 người, bao gồm những tiểu thương, kế toán, người bán đấu giá, nhân viên công ty và những người phân phối.
Hoạt động.
Chợ mở vào hầu hết các buổi sáng (trừ các ngày Chủ Nhật, ngày lễ và một vài ngày thứ Tư) vào 3 giờ sáng, với sự xuất hiện của các sản phẩm từ các tàu thủy, xe tải và máy bay từ khắp nơi trên thế giới. Hoạt động đặc biệt ấn tượng là việc dỡ hàng tấn cá ngừ đông lạnh. Các đơn vị đấu giá (những tiểu thương bán buôn được biết đến ở Nhật Bản với tên gọi "oroshi gyōsha") sau đó ước tính giá trị và chuẩn bị các sản phẩm sắp tới cho các cuộc đấu giá. Những người mua (được cấp phép tham gia các cuộc đấu giá) cũng kiểm tra những con cá để đánh giá con mà họ muốn trả giá cho và mức giá họ muốn trả.
Những buổi đấu giá bắt đầu vào khoảng 5 giờ 20 phút sáng. Việc ngã giá chỉ được thực hiện bởi những người tham gia được cấp phép. Những nhà thầu bao gồm những tiểu thương trung gian ("nakaoroshi gyōsha") quản lý những quầy hàng trong khu chợ và những người bán có giấy phép là đại diện cho các nhà hàng, các công ty xử lý thực phẩm và các nhà bán lẻ lớn.
Các buổi đấu giá thường kết thúc vào khoảng 10 giờ sáng. Sau đó, những con cá được mua được xếp lên xe tải để vận chuyển tới những điểm đến tiếp theo, hoặc trên xe nhỏ và di chuyển đến nhiều cửa hàng trong khu chợ. Ở những nơi này, có những chủ cửa hàng xẻ thịt và chuẩn bị các sản phẩm bán lẻ. Với những con cá lớn, ví dụ như cá ngừ và cá kiếm, việc cắt xẻ thịt và chuẩn bị cần phải rất kĩ lưỡng. Cá ngừ và cá kiếm đông lạnh thường được cắt với những lưỡi cưa vòng lớn, và cá ngừ tươi được xẻ thịt bằng những con dao rất dài (một vài con dao dài hơn một mét) được gọi là "oroshi-hōchō, maguro-bōchō" hoặc "hanchō-hōchō".
Khu chợ đông đúc bận rộn nhất vào khoảng từ 5 giờ rưỡi đến 8 giờ sáng, và các hoạt động thưa dần sau đó. Nhiều cửa hàng bắt đầu đóng cửa vào khoảng 11 giờ sáng, và chợ đóng cửa dọn dẹp vào khoảng 1 giờ chiều. Du khách có thể tham quan khu chợ hàng ngày vào khoảng 5 giờ đến 6 giờ 15 phút sáng, và ngắm nhìn quy trình từ một khu vực định trước, ngoại trừ trong thời gian khi chợ đóng cửa không cho tham quan.
Bởi sự gia tăng khách tham quan và các vấn đề liên quan mà nó gây ra, khu chợ đã cấm tất cả du khách không được tham quan các cuộc đấu giá cá ngừ một vài lần, bao gồm từ ngày 15 tháng 12 năm 2008 đến 17 tháng 1 năm 2009, 10 tháng 12 năm 2009 đến 23 tháng 1 năm 2010, và 8 tháng 4 năm 2010 đến 10 tháng 5 năm 2010. Sau khi lần cấm mới nhất kết thúc vào tháng 5 năm 2010, các cuộc đấu giá cá ngừ được tái mở cửa công khai với tối đa 120 du khách mỗi ngày, người đến trước được vào trước. Du khách bị cấm vào khu chợ trong cho đến sau 9 giờ sáng. Do sự kiện thảm hoạ kép động đất sóng thần tháng 3 năm 2011, tất cả các du khách bị cấm tham quan đấu giá cá ngừ cho tới ngày 26 tháng 7 năm 2011, khi hoạt động này được tái mở cửa.
Thanh tra của Chính quyền thủ đô Tokyo giám sát các hoạt động trên thị trường để thực thi Luật vệ sinh thực phẩm.
Lịch sử.
Khu chợ cá đầu tiên ở Tokyo được thành lập bởi Tokugawa Ieyasu trong thời kỳ Edo để cung cấp thực phẩm cho lâu đài Edo (ngày nay là Tokyo). Tokugawa Ieyasu mời những ngư dân từ Tsukuda, Osaka tới Edo để cung cấp cá cho lâu đài. Cá không được lâu đài mua được bán gần cầu Nihonbashi, ở một khu chợ được gọi là "uogashi" (nghĩa đen là "cầu tàu cá"), là một trong nhiều khu chợ chuyên bán buôn nằm dọc các kênh rạch của Edo (là Tokyo sau thập niên 1870).
Tháng 8 năm 1918, sau sự kiện được gọi là "Cuộc bạo loạn lúa gạo" ("Kome Sōdō"), nổ ra tại hơn 100 thành phố và thị trấn để phản đối tình trạng thiếu lương thực và việc đầu cơ của các nhà bán buôn, chính phủ Nhật Bản buộc phải tạo ra tổ chức mới cho việc quản lý phân phối thực phẩm, đặc biệt là ở các khu vực đô thị. Một Bộ luật Thị trường bán buôn Trung ương được lập nên vào tháng 3 năm 1923.
Đại thảm họa động đất Kantō xảy ra ngày 1 tháng 9 năm 1923 đã tàn phá nhiều phần của trung tâm Tokyo, bao gồm khu chợ cá Nihonbashi. Để khắc phục hậu quả của trận động đất, chợ cá đã được chuyển đến huyện Tsukiji, và sau khi xây dựng một cơ sở chợ hiện đại hoàn thành vào năm 1935, khu chợ cá bắt đầu hoạt động theo các quy định của Bộ luật Thị trường bán buôn Trung ương năm 1923. Ba khu chợ chính ở Tsukiji, Kanda và Koto bắt đầu đi vào hoạt động năm 1935. Ba chi nhánh chợ nhỏ hơn được thành lập ở Ebara, Toshima và Adachi, cùng với những nơi khác. Hiện tại, hệ thống các khu chợ bán buôn của Chính phủ Thủ đô Tokyo bao gồm hơn một tá khu chợ lớn và các chi nhánh, buôn bán các mặt hàng hải sản, chế phẩm, thịt và phân phối hoa.
Xây dựng.
Sau thảm họa động đất Kantō, các kiến trúc sư và kĩ sư từ Ban kiến trúc của Chính phủ Khu đô thị Tokyo đã được gửi sang châu Âu và Mỹ để nghiên cứu cho khu chợ mới. Tuy nhiên, do quy mô của thị trường và số lượng các mặt hàng giao dịch, họ buộc phải tìm tới thiết kế độc đáo của riêng mình. Khối dạng tròn hình rẻ quạt phần tư cho phép việc ra vào và xử lý các tàu chở hàng dễ dàng hơn, và cấu trúc bằng thép cho phép một không gian rộng và liên tục, tự do khỏi các cột trụ và phân khu.
Quá trình lên kế hoạch di dời đến Toyosu.
Chợ cá Tsukiji nằm ở vị trí bất động sản có giá trị ở gần khu trung tâm thành phố. Nguyên Thị trưởng Tokyo Ishihara Shintaro từng nhiều lần kêu gọi di chuyển khu chợ đến Toyosu, Koto. Việc di chuyển đến một khu chợ mới đã được đồn đoán trong một thời gian dài dự kiến được thực hiện vào tháng 11 năm 2016, nhằm phục vụ cho công tác chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè Tokyo 2020, nhưng vào ngày 31 tháng 8 năm 2016, việc di chuyển đã bị hoãn lại. Vị trí mới bị chỉ trí vì bị ô nhiễm nặng nề và cần được dọn dẹp khắc phục. Có những kế hoạch để giữ lại một chợ bán lẻ, khoảng một phần tư quần thể hiện tại, tại Tsukiji. Diện tích còn lại của khu chợ sẽ được xây dựng lại. Trong quá trình xây dựng ở vị trí mới, vẫn còn tồn tại những lo lắng về sự an toàn của vị trí này. | 1 | null |
Phạm Thu Hà tên khai sinh là Phạm Thị Thu Hà (sinh 09 tháng 10 năm 1982 tại Hải Phòng), là nghệ sĩ thanh nhạc biểu diễn chuyên nghiệp được đào tạo tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Ngoài ra, cô đã từng giành được 2 đề cử và 1 giải Cống hiến.
Phạm Thu Hà còn phát triển sự nghiệp kinh doanh riêng. Cô từng đảm nhận cương vị Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty truyền thông TH Media & Communications. Tuy nhiên, gần đây cô nói đã tạm dừng kinh doanh để tập trung cho công việc ca hát.
Tiểu sử.
Phạm Thu Hà sinh ra tại Hải Phòng. Cô là con út trong một gia đình có ba anh chị em, ngay từ nhỏ cô đã thể hiện mình có khả năng về âm nhạc.
Từ năm 2000 đến 2004, cô học hệ trung cấp chính quy (4 năm) khoa thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Năm 2005 đến 2010 học hệ đại học chính quy (5 năm) khoa biểu diễn thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Năm 2011 đến 2013 học và tốt nghiệp cao học chính quy (2 năm) khoa biểu diễn thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Ngày 7/10/2015, Phạm Thu Hà nhận bằng tốt nghiệp Thạc sĩ sau gần hai năm tốt nghiệp. Đây là đợt nhận bằng của toàn khóa tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Ảnh hưởng.
Phạm Thu Hà yêu thích âm nhạc của các nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Phú Quang, Dương Thụ... cũng như yêu thích giọng ca Sarah Brightman, Hồng Nhung.
Hoạt động từ thiện.
Phạm Thu Hà đã tham gia các hoạt động từ thiện: | 1 | null |
Đoàn Phùng (sinh năm 1962 tại Huế) là cựu cầu thủ Đội tuyển Quốc gia Việt Nam, là huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Sự nghiệp thể thao.
Cầu thủ.
Ông là một cầu thủ đa năng. Khởi đầu sự nghiệp cầu thủ, ông thi đấu cho đội bóng quê nhà Thừa Thiên Huế từ 1978-1982.
Huấn luyện viên.
Ông là người dẫn dắt Lâm Đồng giành được thành tích ấn tượng ở thập niên 90 và trở thành huấn luyện viên trẻ tuổi nhất ở tuổi 28.
Đến năm 2000 ông trở lại Huế làm huấn luyện viên và Giám đốc kỹ thuật Câu lạc bộ bóng đá Thừa Thiên Huế. Hiện ông là trưởng đoàn bóng đá Thừa Thiên Huế. | 1 | null |
Ninh Văn Bảo (1945- 23 tháng 9 năm 2002) là một huấn luyện viên bóng đá Việt Nam. Ông là một trong những huấn luyên viên xuất sắc của Việt Nam trong thập niên 90. Ông từng dẫn dắt các đội bóng Nam Định, Thừa Thiên Huế giành ngôi á quân quốc gia và là huấn luyện viên xuất sắc nhất giải vô địch quốc gia Việt Nam mùa bóng 2000-2001.
Ông qua đời vào ngày 23 tháng 9 năm 2002 sau một tai nạn giao thông.
Sự nghiệp.
Thời còn thi đấu, Ninh Văn Bảo là một tiền vệ xuất sắc của đội Thanh niên Nam Hà và Dệt Nam Định, từng vô địch giải A1 toàn quốc trong màu áo Công nghiệp Hà Nam Ninh năm 1985.
Năm 1988, sau khi tốt nghiệp lớp chuyên tu HLV khoá 3 Đại học Thể dục Thể thao Từ Sơn (Bắc Ninh), ông trở về dẫn dắt đội bóng cũ Dệt Nam Định. Năm 1993, ông cùng với đội bóng Long An giành hạng ba chung cuộc tại giải các đội mạnh toàn quốc.
Năm 1995, huấn luyện viên Ninh Văn Bảo đã gây ngạc nhiên cho giới chuyên môn khi đưa đội bóng vừa thăng hạng Thừa Thiên Huế tiến đến trận chung kết giải các đội mạnh toàn quốc và chỉ chịu dừng lại trước Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ngay ở mùa bóng kế tiếp, ông đã phải nói lời chia tay với đội bóng Cố đô sau khi Thừa Thiên Huế xuống hạng.
Năm 1997, ông trở lại Nam Định nắm quyền cho đội bóng quê hương và giúp Nam Định trụ hạng trong hai mùa giải liên tiếp. Mùa giải 2000-2001, với việc dẫn dắt câu lạc bộ Nam Định giành ngôi á quân giải vô địch quốc gia, Ninh Văn Bảo được bình chọn là huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa. Ông cũng có những vai trò đáng kể đối với thành tích của đội bóng khi dẫn dắt đội trở thành một trong những đối thủ cạnh tranh cho chức vô địch hai mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên của V-League.
Thành tích huấn luyện viên.
Với Thừa Thiên Huế
Với Nam Định | 1 | null |
Lao hạch là một thể lao ngoài phổi còn gặp khá phổ biến ở nước ta. Lao hạch có thể gặp là các hạch ở ngoại biên như hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn và các hạch ở nội tạng như hạch trung thất, hạch mạc treo...Trong đó lao hạch ngoại biên là thể lao thường gặp nhất.
Dịch tễ học.
Theo thống kê tại phòng khám Viện lao và bệnh phổi năm 1985, lao hạch ở người lớn chiếm 20% tổng số lao ngoài phổi, ở trẻ em lao hạch chiếm 13% trong các thể lao và đứng thứ 3 sau lao sơ nhiễm và lao màng não. Theo số liệu của trung tâm lao thành phố Hà Nội, từ năm 1989-1990 lao hạch chiếm 83,58% và đứng hàng đầu trong các thể lao ngoài phổi. Trước đây lao hạch gặp chủ yếu ở trẻ em nhưng ngày nay lao hạch cũng hay gặp ở người lớn tuổi và gặp ở nữ nhiều hơn 2 lần so với nam.
Nguyên nhân gây bệnh.
Vi khuẩn gây bệnh lao hạch: Mycobacterium tuberculosis, M.bovis, M.africannun, chủ yếu là M.tuberculosis.
Cơ chế bệnh sinh.
Lao hạch tiên phát.
Vi khuẩn BK xâm nhập qua vùng họng, amidan lan tràn đến hạch. Ví dụ: BK gây một ổ lao tiên phát ở amidan rồi từ đó gây viêm hạch góc hàm. Hạch này được gọi là lao hạch tiên phát.
Lao hạch hậu tiên phát.
Do BK lan đến hạch từ một ổ lao có từ thời kỳ tiên phát. BK lan tràn theo 3 đường: máu, bạch huyết, tiếp cận. Cơ chế bao gồm: tái hoạt động nội lai và tái nhiễm ngoại lai.
Triệu chứng lâm sàng.
Triệu chứng toàn thân.
Bệnh nhân thường ít sốt: sốt nhẹ về chiều hoặc gai gai rét, sốt không rõ nguyên nhân, dùng kháng sinh thông thường không hết sốt.
Người mệt mỏi, gầy sút cân, ra mồ hôi đêm.
Triệu chứng tại chỗ.
Vị trí tổn thương: phần lớn là lao hạch ở vùng cổ (khoảng 80%), hạch ở nách chiếm khoảng 77%, lao hạch toàn thân gặp khoảng 10-15%.
Biểu hiện lâm sàng: hạch không lớn lắm, đường kính khoảng một đến vài centimet, chắc, di động, có thể hơi đau, đôi khi có viêm ở xung quanh hạch.
Thường là một nhóm hạch bị sưng to. Hạch sưng to dần, không đau, không nóng, không tấy đỏ. Nếu không điều trị, hạch bị viêm nhũn ở giữa. Sau đó toàn thể hạch bị nhuyễn hóa, da bên ngoài bị phù nề, màu đỏ, tím rồi vỡ mủ màu vàng.
Sau một thời gian, do được điều trị hay không điều trị, hạch có thể tự liền sẹo nhưng sẹo này xấu xí, dúm dó, thỉnh thoảng lại có đợt rò mủ.
Tiến triển.
– Tiến triển từng đợt: đợt trước cách đợt sau nhiều năm (5-10 năm)
– Hạch rò ra ngoài rất lâu khỏi và để lại từng chỗ sẹo dúm dó, xấu xí
– Nếu được điều trị tốt, bệnh nhân có thể khỏi sớm, ngăn chặn được di chứng.
Chẩn đoán.
Chẩn đoán xác định.
Dựa vào đặc điểm lâm sàng và một số xét nghiệm như:
– Phản ứng Mantoux
– Sinh thiết hạch chẩn đoán mô bệnh
– Cấy BK
– Chọc hạch làm hạch đồ
– X quang
Chẩn đoán phân biệt.
– Viêm hạch cấp hoặc mạn tính do vi khuẩn hoặc virus
– Bệnh Hodgkin và Non-Hodgkin: xét nghiệm huyết-tủy đồ và sinh thiết hạch.
– Hạch di căn ung thư: sinh thiết hạch và biểu hiện lâm sàng của ung thư nguyên phát
– Các u lành tính: u mỡ, u xơ, u thần kinh, u nang bạch huyết...
Điều trị.
Điều trị nội khoa.
Tuân thủ nguyên tắc điều trị bệnh lao nói chung
– Phối hợp các thuốc chống lao, ít nhất từ 3 thuốc trở lên.
– Thời gian điều trị lao hạch nên kéo dài từ 9-12 tháng.
– Đối với bệnh nhân HIV/AIDS: nên dùng phối hợp 4 thuốc RHZE ở giai đoạn tấn công (2-3 tháng), sau đó dùng 2 thuốc chống lao ở giai đoạn củng cố (9-12 tháng).
Hầu hết các thuốc kháng sinh điều trị lao đều gây tổn thương gan, làm tăng men gan do đó nên dùng kết hợp với các thuốc hay sản phẩm có tác dụng bảo vệ gan, hạ men gan (diệp hạ châu, BDD, Phế đan).
Điều trị ngoại khoa.
– Mổ lấy toàn bộ hạch: đối với hạch rò mủ hoặc áp xe lạnh, ít đáp ứng điều trị. cần điều trị lao từ trước khi phẫu thuật để tránh lan tràn.
– Mổ nạo sạch mủ bã đậu và đắp kháng sinh chống lao.
Phòng ngừa.
Tăng cường sức đề kháng của cơ thể (nhàu, sói rừng, sữa ong chúa), ức chế hoạt động của vi khuẩn lao (xuyên tâm liên, Phế đan)
= Tham khảo.
Bệnh học lao, Trường ĐH Y Hà Nội,2006
Bệnh Phổi và Lao, Học viện Quân y, 2008 | 1 | null |
Nguyễn Kim Hằng (1955 – 5 tháng 2 năm 2019) là Trung vệ, huấn luyện viên bóng đá người Việt Nam. Ông sinh ra tại Cái Bè, Tiền Giang, Việt Nam.
Sự nghiệp.
Giai đoạn 1976–1977, ông là trung vệ cho câu lạc bộ Cảng Sài Gòn và Hải Quan sau đó nghỉ hưu và trở thành huấn luyện viên bóng đá.
Ông là người dẫn dắt nhiều đội bóng khác nhau như Hải Quan, Đà Nẵng, Quân khu 7, Thừa Thiên Huế, An Giang, Tiền Giang, Quảng Ngãi
Qua đời.
Ông qua đời ngày 5 tháng 2 năm 2019 nhằm mùng 1 Tết Kỷ Hợi, thọ 65 tuổi. | 1 | null |
Sấm hay sấm sét là âm thanh gây ra bởi tia sét và là một hiện tượng thiên nhiên. Tùy thuộc vào khoảng cách và bản chất của những tia chớp, âm thanh sấm nghe được có thể vào dạng một tiếng nổ lớn đột ngột cho tới một tràng âm trầm kéo dài. Sự tăng đột ngột của áp suất và nhiệt độ từ sét gây ra sự giãn nở tức thì trong không khí, và sự giãn nở này tạo ra một sóng xung kích âm thanh, chính là hiện tượng thường được gọi là "tiếng sấm đùng đùng". Âm thanh sấm đến nơi người quan sát sau ánh sáng của tia chớp lóe lên. Ngành khoa học nghiên cứu về sấm được gọi là "brontology".
Nguyên nhân.
Nguyên nhân của sấm sét trong hàng thế kỷ đã là một chủ đề đáng để suy đoán và truy vấn khoa học. Thời thượng cổ người ta cho rằng nó được gây ra bởi thần thánh, nhưng tới thời Hy Lạp cổ các triết gia đã bắt đầu giải thích rằng nó có nguyên nhân tự nhiên, ví dụ như nó là tiếng động khi gió va chạm vào các đám mây (Anaximander, Aristotle), hay là chuyển động mạnh của không khí bên trong những đám mây (Democritus). Triết gia La Mã Lucretius lại có quan điểm đấy là âm thanh của mưa đá va chạm trong các đám mây.
Đến giữa thế kỷ 19, lý thuyết được chấp nhận phổ biến thời bấy giờ là tia sét tạo ra một môi trường chân không, sự sụp đổ của chân không này tạo ra tiếng sấm.
Vào thế kỷ 20 mới bắt đầu có quan điểm được đồng thuận rằng sấm phải được bắt đầu từ sóng xung kích trong không khí. Do sét là sự phóng điện hay sự di chuyển cực nhanh của các điện tử ma sát vào không khí làm nó trở nên cực nóng có thể hình thành plasma giãn nở trong kênh sét. Nhiệt độ plasma bên trong kênh sét, đo được bằng phép phân tích quang phổ, biến thiên trong thời gian tồn tại chỉ 50 μs của kênh, ban đầu tăng mạnh từ nhiệt độ ban đầu khoảng 20.000 K lên tới 30.000 K, rồi cuối cùng giảm dần đi xuống còn 10.000 K. Trung bình nhiệt độ vào khoảng . Theo thuyết động học thì không khí sẽ bị giãn nở rất mạnh do nhiệt độ và áp suất tăng cao một cách quá nhanh và đột ngột, nó sẽ tác động vào không khí mát hơn ở xung quanh tia sét với tốc độ nhanh hơn tốc độ âm thanh truyền đi. Xung được tạo ra di chuyển ra ngoài xung quanh được gọi là một sóng xung kích, tương tự như sóng xung kích từ một vụ nổ hay phía trước một máy bay siêu thanh, nó lan rộng kèm theo tiếng động. Ở gần nguồn phát là tia sét, mức cường độ âm của sấm vào cỡ 120 dB còn mức áp suất âm thường đạt tới ngưỡng 165-180 dB, nhưng có thể vượt quá 200 dB trong một số trường hợp.
Vì có rất nhiều sóng chấn động được tạo ra liên tiếp nhau khi sét hình thành do có rất nhiều tia sét trên cùng một đường đi nên nó không chỉ có một tiếng mà rền vang trong một khoảng thời gian tùy theo chiều dài của sét và khoảng cách đến người nghe nó. Các đặc tính của sấm rất phức tạp tùy theo yếu tố hình học của sét như chiều dài, có bao nhiêu nhánh, có bao nhiêu các vệt sét trên cùng một đường đi và độ vọng âm thanh từ mặt đất. Các nghiên cứu thực nghiệm mô phỏng sét đã cho kết quả phần lớn phù hợp với mô hình này, mặc dù vẫn còn tranh luận về cơ chế vật lý chính xác của quá trình. Một số nguyên nhân khác đã được đề xuất, dựa trên hiệu ứng điện động lực học của dòng điện rất lớn tác động lên plasma trong tia sét.
Hậu quả.
Sóng xung kích sấm là đủ mạnh để gây tổn hại đến tài sản và thương tích, chẳng hạn như gây bầm tím dưới da cho người đứng ở gần tia sét. Sấm có thể gây thủng màng nhĩ của người đứng xung quanh, dẫn đến thính giác bị suy giảm vĩnh viễn. Thậm chí nếu không thủng màng nhĩ, sấm vẫn có thể làm người bị điếc tạm thời.
Nhận thức và tính toán khoảng cách.
Khi tia chớp lóe lên, theo sau một khoảng thời gian là tiếng sấm, điều này rõ ràng là hệ quả của tốc độ âm thanh chậm hơn so với tốc độ ánh sáng khi truyền trong không khí từ nơi có sét đến nơi quan sát (phân biệt với tốc độ của chính tia sét khi nó hình thành từ đám mây, bằng xấp xỉ 1/3 lần tốc độ ánh sáng). Vì sự khác biệt này, người ta có thể tính toán được tia chớp cách bao xa bằng đo thời gian giữa việc nhìn thấy tia chớp lóe lên và âm thanh sấm nghe được. Tốc độ của âm thanh trong không khí khô xấp xỉ 343 m/s hay 1127 ft/s hay tại 20 °C (68 °F). Điều này có thể tính toán được xấp xỉ 4s trên 1 dặm (mile) (hay 3 s/km). Tốc độ ánh sáng rất cao cho nên được xem là vô cùng trong việc tính toán này vì khoảng cách ánh sáng đi được trong hiện tượng này là khá ngắn. Đây là một phương pháp hữu ích, chỉ bằng cách đếm số giây giữa nhận thức về một tia chớp nhất định và nhận thức về tiếng sấm của nó, ta có thể sử dụng số giây để đánh giá khoảng cách của tia chớp và cơn dông để đảm bảo an toàn.
Một vệt chớp rất sáng kèm theo một tiếng sét nổ ngắn sắc gần như ngay tức thì chỉ ra rằng sét đánh ở ngay rất gần người quan sát.Sấm sinh ra bởi sét đánh gần đã được miêu tả chi tiết đầu tiên là có những tiếng lách cách hay như tiếng vải bị xé rách, sau đó là một tiếng nổ lớn ngắn như đại bác bắn, theo sau là một tiếng sấm rền liên tục. Các âm thanh sấm ban đầu đến từ các phần kênh dẫn của tia sét, sau đó là các phần gần của vệt sét phản hồi sau khi nó được hình thành, và cuối cùng đến các phần xa hơn của vệt sét.
Các loại sấm.
Vavrek và các cộng sự báo cáo rằng các âm thanh của sấm được chia thành các loại dựa theo độ to, thời lượng và độ cao của âm. Tiếng sấm "nổ" (clap, crack) hay "tiếng sét" là các âm thanh đơn cực kỳ to và ngắn, chỉ từ 0,2 đến 2 giây và có âm vực cao hơn, đến từ các tia chớp CG đánh từ đám mây xuống đất ở khoảng cách gần. "Hồi" hay "tràng" "sấm" (peal) là các âm thay đổi cả về cao độ và độ to. Tiếng sấm "lăn" (roll) là sự kết hợp không đều giữa cường độ và cao độ âm. Tiếng sấm "rền" (rumble) nhỏ hơn, nhưng kéo dài hơn (lên tới trên 30 giây) và có âm vực thấp, thường đến từ các tia chớp ở xa hoặc hình thành tại các đám mây trên cao (CC và IC).
Sấm nghịch nhiệt xảy ra khi một tia sét CG hình thành giữa quá trình nghịch nhiệt. Khi đó âm thanh mà nó tạo ra mang năng lượng âm cao hơn rất nhiều so với âm ở cùng khoảng cách trong điều kiện không nghịch nhiệt. Khi nghịch nhiệt, lớp khí ở gần mặt đất lạnh hơn khối khí phía trên; nghịch nhiệt thường xảy ra khi một khối khí nóng ẩm đi qua một frông lạnh. Trong điều kiện nghịch nhiệt, sự phân tán của năng lượng âm thanh theo phương thẳng đứng (xảy ra ở điều kiện thường) bị cản trở và do đó năng lượng được tập trung ở lớp gần mặt đất.
Sét CG thường bao gồm 2 hoặc nhiều hơn các vệt sét phản hồi trở lại từ phía mặt đất lên. Các vệt thứ phát tạo ra năng lượng âm cao hơn vệt đầu. | 1 | null |
Cá tầm mũi xẻng, "Scaphirhynchus platorynchus", là loài cá tầm nhỏ nhất có nguồn gốc từ Hoa Kỳ. Cá tầm mũi xẻng là loài cá tầm phong phúng nhất, được tìm thấy trong các hệ thống sông Missouri và sông Mississippi. Cá tầm mũi xẻng bị đánh bắt thương mại chỉ ở Hoa Kỳ (Pflieger 1997). | 1 | null |
Porichthys là một chi cá. Các loài trong chi này là động vật ăn đêm. Ban ngày, chúng vùi mình trong bùn hoặc cát. Trong những đêm mùa hè, chúng kêu râm ran để thu hút con cái và khuyến khích cá cái đẻ trứng. Tiếng kêu được phát ra từ vùng cơ xung quanh bóng hơi của chúng. Não của những con cá này đã điều chỉnh tiếng kêu sao cho chúng không bị điếc và có thể nghe thấy kẻ thù hoặc con cái đang bơi tới ngay cả khi chúng đang kêu to - một cơ chế tương tự như con người.
Danh sách loài.
Chi này có 14 loài được công nhận. | 1 | null |
Cá tầm thìa Trung Quốc, Psephurus gladius (), còn được gọi là Cá kiếm Trung Quốc, là một trong những cá nước ngọt lớn nhất. Đây là một trong hai loài cá tầm thìa còn tồn tại, loài còn lại là cá tầm thìa Mỹ (Polyodon spathula). Nó cũng được gọi là "cá voi" () vì mõm của nó giống như một cái vòi voi. Nó đôi khi được ghi lại trong cổ điển Trung Quốc như "vị" (). Chất thơ hơn, nó đôi khi được gọi là "gấu trúc của các con sông", không phải vì bất kỳ sự tương đồng vật lý tới gấu trúc, nhưng vì sự hiếm có của nó và tình trạng được bảo vệ.
Bụng của nó là màu trắng và màu xám. Chúng sống chủ yếu ở phần trung hoặc hạ lưu của sông Dương Tử (Trường Giang), đôi khi trong hồ lớn. Chúng ăn các loài cá khác, cũng như một lượng nhỏ cua và tôm. Cá tầm thìa Trung Quốc thành thục khi bảy hay tám tuổi, với chiều dài cơ thể điển hình 2 mét và trọng lượng 25 kg.
Người ta nói rằng nhà động vật học Bỉnh Chí () ghi lại vào những năm 1950, một số ngư dân đã bắt được một con cá tầm thìa dài 7 mét, mặc dù tính xác thực của câu chuyện chưa được xác nhận. Người ta nói rằng cá tầm thìa Trung Quốc có thể tăng trưởng đến 7 mét (23 ft) và nặng 500 cân (1,100 lb), nhưng rất ít nghiên cứu về kích thước tối đa có thể được tiến hành do sự khan hiếm của chúng.
Do đánh bắt quá mức, cá tầm thìa Trung Quốc đã bị tuyệt chủng trong tự nhiên. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận tình trạng cực kì nguy cấp vào năm 1983 để ngăn chặn đánh bắt cá non và trưởng thành. Nó cũng bị đe dọa bởi các đập (như đập Tam Hiệp) bị phân chia dân số thành các nhóm bị cô lập. Cá rất hiếm thấy, gần đây đã dấy lên lo ngại rằng loài này có thể đã bị tuyệt chủng. Trong quá trình tìm kiếm ba năm thực hiện từ 2006-2008 một nhóm nghiên cứu từ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc Thủy sản tại Kinh Châu không tìm thấy ngay cả một mẫu. Xác nhận trông thấy cuối cùng của cá sống xảy ra ngày 24 tháng 1 năm 2003 trên sông Dương Tử. Tuy nhiên, một con cá 3,6 mét, 250 kg bị bắt do đánh bắt cá bất hợp pháp vào ngày 08 tháng 1 năm 2007, tại vùng quê Gia Ngư. Người dân địa phương đã liên lạc với các quan chức, mọi người đổ xô đến vùng đó. Zeb Hogan của Monster Fish trên National Geographic Channel và các nhà bảo tồn khác chuyển cá đến một hồ giữ, hy vọng rằng nó sẽ tồn tại. Nhưng ngay sau đó nó đã chết do chấn thương không thể phục hồi.
Đầu năm 2020. Loài cá này bị tuyệt chủng sau khi cá thể cuối cùng đã chết. Loài này chính thức được IUCN liệt kê là đã tuyệt chủng vào tháng 7 năm 2022. | 1 | null |
Cá chình bụi sậy (tên khoa học Erpetoichthys calabaricus) là một loài cá nước ngọt trong họ Cá nhiều vây. Nó là thành viên duy nhất của chi Erpetoichthys. Nó có nguồn gốc Tây Phi, với môi trường sống tự nhiên của nó trải dài từ Nigeria đến lưu vực sông Congo.
Nó có tổng chiều dài tối đa 40 cm (16 in). Nó di chuyển chậm, sống tại nước lợ hoặc ngọt ấm (22-28 °C), và nó có thể hít thở không khí trong khí quyển (có nghĩa là nó có thể tồn tại trong nước với ít oxy hòa tan) sử dụng một cặp phổi. Cơ quan này có nghĩa là nó có thể tồn tại một số lượng trung gian của thời gian trong nước. Cá chình bụi sậy sống về đêm, và ăn ấu trùng annelid, động vật giáp xác và côn trùng. Đôi khi nó được xuất hiện trong bể nuôi cá. Tên chi của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp từ erpeton (leo) và Ichthys (cá). Chi còn được gọi bằng tên Calamoichthys.
Đặc điểm.
Cá chình bụi sậy có thể dễ dàng phát triển đến chiều tối đa 3 feet trong điều kiện thuận lợi.
Cá chình bụi sậy là tò mò, hiền lành, và có một số "cá tính". Vì cá chình bụi sậy có một bản chất hiền lành, các loài cá khác có thể 'bắt nạt' chúng, mặc dù kích thước lớn của nó, đặc biệt là trong cuộc cạnh tranh về thức ăn hay không gian. Chúng đã được biết đến nhảy ra khỏi bể cá và bị trượt xung quanh, bởi vì nó có phổi cùng với mang của chúng. Mặc dù sống về đêm, chúng sẽ đôi khi đi ra vào ban ngày. Một số cá chình bụi sậy cũng có một khuynh hướng ở gần mặt nước, nơi chúng sẽ được an toàn với các loài cá khác và thậm chí sẽ cho phép hầu hết các cơ quan của chúng rời khỏi nước vào các thời gian.
Thức ăn.
Là loài cá dữ ăn thịt, cá chình bụi sậy có thể ăn được các loại thức ăn từ tôm, cá, ếch nhái, côn trùng, giáp xác hay nhuyễn thể. Dù có nguồn thức ăn đa dạng trong tự nhiên, nhưng giống như nhiều loài cá quý hiếm khác, chúng từng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, do môi trường sống bị xâm phạm. Sau này, cá chình bụi sậy được bảo vệ thông qua dự án phát triển nuôi nhốt, và từ đó trở thành giống cá cảnh được ưa thích trên thế giới. | 1 | null |
Cá mao ếch, cá mang ếch hay cá cóc sạo ("Allenbatrachus grunniens") là một loài cá trong chi "Allenbatrachus", họ Batrachoididae. Loài cá này phân bố ở Ấn Độ, Philippines, Thái Lan, Campuchia và hạ lưu sông Cửu Long, Việt Nam. Là một loài cá nước lợ, thường sống tại khu vực cửa sông và các bờ biển, là một loài cá ăn thịt thức ăn của chúng đa số là các loài tôm, cá nhỏ, chúng thường có xu hướng ẩn mình giữa các lớp đá hoặc san hô để phục kích con mồi. Kích thước tối đa của loài này có thể đạt đến 30cm. Nên cẩn trọng khi bắt cá vì gai lưng loài này có độc, có thể gây đau buốt và dị ứng. Chúng có thể phát ra âm thanh giống ếch khi bị bắt lên bờ | 1 | null |
Giuse Lê Quý Thanh (1900–1974) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục phó Giáo phận Phát Diệm trong suốt hơn 10 năm từ năm 1963 đến năm 1974. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Chúc tụng Chúa".
Giám mục Thanh quê tại Hà Nam, từ nhỏ theo con đường tu trì. Năm 34 tuổi, ông được truyền chức linh mục của Địa phận Phát Diệm. Thời kỳ làm linh mục, ông đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng khác nhau tại địa phận: Giáo sư Tiểu chủng viện Phúc Nhạc, giám đốc trường Thầy giảng Phát Diệm và giáo sư trường Thần học Thượng Kiệm sau đó trở thành linh mục Tổng đại diện địa phận năm 1959.
Giáo phận Phát Diệm thành lập nhờ việc thiết lập hàng giáo phẩm Công giáo tại Việt Nam. Mồng 1 Tết Nguyên Đán năm 1964, giám mục chính tòa Bùi Chu Tạo tấn phong tân giám mục phó tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Trong khoảng thời gian làm giám mục, ông không thể rời Phát Diệm do hoàn cảnh.
Giám mục Lê Quý Thanh được ghi nhận có những bài giảng trở thành tư liệu văn học Công giáo quý giá và sống tư cách giám mục nhưng phải thực hiện nhiều vai trò khác nhau do thiếu nhân sự.
Thân thế.
Giám mục Giuse Lê Quý Thanh sinh ngày 19 tháng 3 năm 1900 tại An Hòa, nay thuộc phường Châu Giang, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, thuộc Tổng giáo phận Hà Nội. Ông là cháu ba đời của bác học Lê Quý Đôn, theo thông tin từ gia đình. Tuy vậy, theo "Kỷ yếu Giáo phận Phát Diệm", thông tin này không thể kiểm chứng.
Thuở thiếu thời, cậu Thanh là nghĩa tử của linh mục Đinh, cựu giám đốc Trường Trung Tiểu học “Cụ Đinh” của địa phận.
Thời kỳ linh mục.
Theo đuổi con đường tu tập từ nhỏ, ngày 17 tháng 3 năm 1934, Phó tế Giuse Lê Quý Thanh tiến đến việc được thụ phong chức vị linh mục. Tân linh mục trở thành thành viên linh mục đoàn Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Sau khi được truyền chức, tân linh mục được bổ nhiệm làm giáo sư lớp 3 Tiểu chủng viện Phúc Nhạc và giữ chức vụ này đến năm 1943. Thời gian ngắn từ năm 1944 đến năm 1945, ông là Giám đốc trường Thầy Giảng.
Năm 1945, linh mục Lê Quý Thanh được chọn làm giám đốc Trường Thử tại Trì Chính. Năm 1947, ông được thuyên chuyển đảm nhận vai trò linh mục chính xứ giáo xứ Hiếu Thuận. Sau khoảng thời gian hơn một thập niên tại giáo xứ này, ông được chọn làm giáo sư chủng sinh chủng viện Phúc Nhạc cũ, đã dời về Thượng Kiệm. Ông chỉ đảm nhận vai trò giáo sư này trong thời gian ngắn từ năm 1958 đến năm 1959.
Ngày 7 tháng 9 năm 1959, linh mục Lê Quý Thanh được bổ nhiệm làm linh mục Tổng quyền (Tổng Đại diện) Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Do thiếu linh mục, ông được điều chuyển làm linh mục chính xứ Văn Hải và đảm nhận vai trò này trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1964.
Thời kỳ giám mục.
Sau đó khi được chọn làm tổng đại diện ít năm, năm 1963, Tòa Thánh loan báo tuyển chọn linh mục Tổng đại diện Lê Quý Thanh làm Giám mục Phó Giáo phận Phát Diệm, với danh hiệu giám mục hiệu tòa Septimunicia.
Ngày 13 tháng 2 năm 1964 đồng thời cũng là ngày Mồng Một tết Nguyên Đán, lễ tấn phong tân giám mục Giuse Lê Quý Thanh được tổ chức, với vị giám mục chủ phong là Giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm Phaolô Bùi Chu Tạo. Lễ tấn phong cử hành tại nhà thờ chính tòa Phát Diệm với các nghi lễ được đơn giản hóa. Đồng tế với giám mục Bùi Chu Tạo còn có hai linh mục khác và đông đảo giáo dân tham dự. Sau lễ tấn phong, giám mục Bùi Chu Tạo mới công bố về việc giáo phận có tân giám mục phó cho tất cả giáo dân giáo phận. Tân giám mục có tầm vóc to cao và khỏe mạnh. Lễ tấn phong được tổ chức sau khi bổ nhiệm giám mục được khá lâu, theo trích dẫn từ tờ The Florida Catholic.
Trong khoảng thời gian làm giám mục phó, giám mục Lê Quý Thanh chỉ định cư tại Phát Diệm. Vì hoàn cảnh thiếu linh mục, ông phải thực hiện mọi nghĩa vụ của giám mục, đồng thời các công việc của những vai trò khác của linh mục quản xứ, thầy giảng, người quản lý sổ sách. Ông cũng phải thực hiện các công việc nội trợ như tự giặt quần áo, quét dọn nhà cửa... Trong thời gian làm giám mục phó, ông sống tại Tòa giám mục và hỗ trợ giám mục Bùi Chu Tạo do giám mục này đã ốm yếu. Ông từng đến tản cư tại giáo xứ Phát Ngoại trong năm 1972 và sinh sống tại đây hơn một năm, do Nhà thờ chính tòa Phát Diệm bị Mỹ ném bom.
Những bài giảng lễ của giám mục Lê Quý Thanh soạn kỹ lượng và tham khảo sách báo tiếng Việt, tiếng Pháp. Những bài soạn này hiện đang lưu trữ tại Nhà Chung (Tòa giám mục) Phát Diệm và được đánh giá là những tài liệu quý giá trong kho tàng văn học Công giáo Việt Nam. Ông có tài hùng biện, thông thạo tiếng Pháp.
Die Apostolische Nachfolge cho rằng giám mục Lê Quý Thanh được biết đến là vị giám mục được tấn phong bí mật đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Giai đoạn cuối đời, Giám mục Lê Quý Thanh mắc bệnh cao huyết áp, vài lần ngất xỉu giữa nhà thờ. Sau ba tuần bệnh liệt giường, giám mục Thanh qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1974 tại Ninh Bình, hưởng thọ 74 tuổi. Thi hài cố giám mục được an táng trong gian cung thánh nhà thờ chính tòa Phát Diệm.
Tông truyền.
Giám mục Giuse Lê Quý Thanh được tấn phong giám mục năm 1964, dưới thời Giáo hoàng Phaolô VI, bởi: | 1 | null |
Cá nhiều vây vạch sọc (tên khoa học Polypterus delhezi) là một loài cá giống rắn từ sông Congo, đặc biệt trong các phần trung và thượng lưu. Loài này là một trong những loài thường được tìm thấy trong các cửa hàng vật nuôi thương mại.
Mô tả.
P. delhezi có lưng và hai bên màu xám, với các vệt màu vàng hoặc màu xanh lá cây. Bề mặt bụng có xu hướng nhạt màu hơn, gần hơn với màu kem hơn màu xám. P. delhezi có miệng nhỏ hơn so với cơ thể của mình và các loài cá khác trong họ chúng, và phân biệt với các loài khác bởi 7-8 dải dọc tối màu, có thể khác nhau về độ dày giữa các cá thể. Nó có 10-13 vây phụ lưng.
Chế độ ăn uống.
Giống như hầu hết polypterids, P. delhezi sẽ dễ dàng ăn thịt bò thăn, nhuyễn thể, Mysida, và thịt viên cá thương mại trong điều kiện nuôi nhốt. | 1 | null |
Đa Minh Đinh Huy Quảng (1921 – 1992) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục phụ tá Giáo phận Bắc Ninh trong khoảng thời gian 17 năm, từ năm 1975 đến năm 1992. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả".
Thời niên thiếu và tu trì.
Giám mục Đinh Huy Quảng sinh ngày 15 tháng 3 năm 1921 tại giáo xứ Tử Nê, Giáo phận Bắc Ninh (thuộc địa phận xã Tân Lãng, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Gia đình ông là một gia đình đạo đức. Từ thuở nhỏ, cậu bé Quảng đã có ý hướng tu trì. Cậu siêng năng thực hiện các hoạt động tôn giáo như tham dự các buổi lễ, buổi nguyện ngắm, cầu nguyện trước khi ngủ và dâng mình sau khi thức dậy. Nhận thấy chí hướng của con mình, gia đình ông quan tâm động viên và cầu nguyện cho cậu bé Quảng đi theo con đường tu trì. Cậu bé Quảng có trí nhớ tốt, dễ thuộc các kinh sách và có thể tóm nội dung trang sách khi chỉ đọc lướt qua.
Quyết định đi theo con đường tu trì, cậu bé Đinh Huy Quảng rời khỏi gia đình và giáo xứ để nhập học tại tiểu chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn tu học. Sau đó, chủng sinh Quảng tiếp tục con đường tu học bằng cách đến học tại chủng viện Anbertô ở Nam Định. Ở chủng viện, các linh mục giảng dạy và các chủng sinh quý mến cậu vì sự thông minh, hóm hỉnh, tính tình hiền hòa, thật thà.
Thời kỳ linh mục.
Từ trẻ, ông đã theo con đường tu tập và được xem là một chủng sinh xuất sắc, được truyền chức linh mục vào ngày 21 hoặc 24 tháng 12 năm 1945 tại Bắc Ninh, khi mới 24 tuổi. Chủ sự nghi thức truyền chức là Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bắc Ninh Eugenio Artaraz Emaldi.
Sau khi được truyền chức linh mục, Tân linh mục Đinh Huy Quảng được bổ nhiệm làm linh mục phó xứ Thái Nguyên giúp trợ giúp linh mục Trọng – người Tây Ban Nha. Sau đó, chính quyền Việt Minh bắt giữ ông. Linh mục Quảng ngồi tù trong khoảng thời gian 7 năm ngồi tù. Sau khi được trả tự do một thời gian, linh mục Quảng được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ Thiết Nham và kiêm nhiệm giáo xứ Bắc Giang.
Sau Hiệp định Genève 1954, nhiều giáo sĩ và giáo dân di cư vào Nam, trong đó có nhiều linh mục trẻ thuộc Hạt Đại diện Tông Tòa Bắc Ninh. Tuy nhiên, ông vẫn ở lại cùng với Giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn coi sóc giáo phận. Ông cũng nhiều lần kêu gọi giáo dân bình tĩnh. Giám mục Hạt Đại diện Tông Tòa Hoàng Văn Đoàn quyết định bổ nhiệm ông làm linh mục chính xứ chính tòa Bắc Ninh, kiêm nhiệm thêm nhiều giáo họ xung quanh và hỗ trợ các công việc quan trọng của giáo phận. Giám mục Đoàn sau đó bị gãy chân và đi Hồng Kông chữa bệnh, không thể trở về Việt Nam sau đó. Chính vì vậy, linh mục Quảng đã hỗ trợ giám mục Giám quản Tông Tòa Phêrô Maria Khuất Văn Tạo coi sóc Hạt đại diện Tông Tòa. Ông thay mặt Giám mục Tạo gửi các linh mục trẻ đi du học.
Năm 1963, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng làm Giám mục chính tòa Bắc Ninh, linh mục Đinh Huy Quảng được chọn làm Tổng đại diện.
Linh mục Đinh Huy Quảng đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo nhân sự cho ban hành giáo và chủng sinh linh mục giáo phận trong những giai đoạn khó khăn. Chính nhờ có ông, mà một lớp 7 linh mục được truyền chức thầm lặng vào đêm 16 tháng 9 năm 1974, trong đó có linh mục trẻ Giuse Nguyễn Quang Tuyến, sau này trở thành vị Giám mục thứ 9 của Giáo phận Bắc Ninh.
Giám mục.
Mật phong.
Ngày 4 hoặc 7 tháng 5 năm 1975, Giám mục Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng đang đảm nhiệm vai trò Giám mục chính tòa Bắc Ninh sức khỏe kém dần, lo sợ có thể qua đời bất kỳ lúc nào. Vì thế, Giám mục Tụng quyết định phong chức Giám mục cho Linh mục Tổng đại diện Đa Minh. Ông lấy khẩu hiệu Giám mục trích từ thư của Thánh Phaolô: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,7). Tham dự buổi lễ ngoài giám mục Tụng, giám mục Quảng còn có linh mục Giuse Trần Đăng Can. Buổi lễ diễn ra trong căn phòng nguyện có diện tích chưa đến 8 m².
Ngày 20 tháng 7 năm 1975, chỉ sau hơn 2 tháng được tấn phong chức Giám mục, ông bị trục xuất khỏi tòa Giám mục Bắc Ninh và bị quản chế tại giáo xứ Đại Lãm, Lục Nam, Bắc Giang.
Ngày 28 tháng 1 năm 1992, sau gần 3 năm bị tai biến não, Giám mục Đa Minh Đinh Huy Quảng qua đời tại Giáo xứ Đại Lãm, sau 17 năm bị quản chế và cư trú bắt buộc. Phần mộ của ông hiện đang tọa lạc tại nghĩa trang giáo xứ Đại Lãm.
Công bố.
Giám mục Đinh Huy Quảng được tấn phong Giám mục thầm lặng nên ít người biết đến. Mọi người chỉ được biết rõ khi năm 2007, Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt làm Giám quản Tông Tòa giáo phận Bắc Ninh công bố công khai tại Nhà thờ chính tòa.
Hiện ông đã chính thức có tên trong Danh sách Giám mục Việt Nam trong cuốn sách "Dấu ấn 350 năm Giáo hội Công giáo Việt Nam" do Ủy ban Văn hóa thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam xuất bản nhân dịp 350 năm thành lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên tại Việt Nam (9/9/1659 – 9/9/2009).
Tông truyền.
Giám mục Đa Minh Đinh Huy Quảng được tấn phong giám mục năm 1975, thời Giáo hoàng Phaolô VI, bởi: | 1 | null |
Musa I (k. 1280 – k. 1337) là "Mansa" (nghĩa là "Sultan" hay "hoàng đế") thứ 10 của Đế quốc Mali giàu có ở Tây Phi. Tại thời điểm Mansa Musa lên ngôi, đế quốc Mali kiểm soát những lãnh thổ trước đây thuộc Đế quốc Ghana ở miền nam Mauritanie và Melle (Mali) ngày nay cùng các vùng đất xung quanh nó. Musa mang nhiều tước hiệu, bao gồm: "Êmia của Melle", "Chúa các mỏ Wangara" và "Người chinh phục Ghanata" và ít nhất cả tá tước hiệu khác. Trong suốt triều đại của mình, Mansa Musa đã cho mở rộng đáng kể lãnh thổ Mali sau khi xâm chiếm 24 thành phố và những khu vực khác. Khi qua đời vào năm 1337, ông tích lũy số của cải lớn đến mức khó có thể tính chi tiết và "nhiều hơn bất cứ ai có thể mô tả". Theo tài liệu ghi chép lại, chỉ riêng số vàng mà vua Musa tiêu xài trong chuyến đi đến Ai Cập khiến thị trường vàng nước này tuột dốc mất 12 năm mới có thể phục hồi.
Vào thế kỷ 14, tên tuổi của Mansa Musa và Đế quốc Mali đã lan rộng khắp thế giới Ả-rập và thu hút sự chú ý cực lớn của những người vẽ bản đồ ở châu Âu, tới mức trong tấm bản đồ ra đời năm 1375, Mansa Musa xuất hiện ở chính giữa Tây Phi với hình ảnh ngồi trên ngai vàng và cầm một thỏi vàng trên tay như để tượng trưng cho sự giàu có của ông.
Tên gọi.
Tên của Musa Keita thường được viết là Mansa Musa trong bản thảo và tài liệu Tây phương. Ngoài ra, tên của ông cũng được viết là Kankou Musa, Kankan Musa hay Kanku Musa. 'Kankou' là một tên nữ giới phổ biến của người Mandinka, do đó có thể hiểu 'Kankou Musa' là "Musa có mẹ tên là Kankou".
Ngoài ra, còn có nhiều cách viết khác như Mali-koy Kankan Musa, Gonga Musa hay Sư tử xứ Mali.
Dòng dõi và lên ngôi.
Tất cả những gì được biết đến về các vị vua của đế quốc Mali được lấy từ các tác phẩm của các học giả Ả Rập, trong đó có Al-Umari, Abu-Sa'id Uthman ad-Dukkali, Ibn Khaldun và Ibn Battuta. Theo Đại cương lịch sử các vua Mali của Ibn-Khaldu, ông nội của Mansa Musa là Abu-Bakr Keita (tên tương đương trong tiếng Ả Rập của tên Bakari hoặc Bogari. Không rõ tên gốc nhưng rõ ràng không phải sahabiyy Abu Bakr), một người anh em của Sundiata Keita, người sáng lập nên Đế quốc Mali theo như những gì được ghi lại thông qua lịch sử truyền miệng. Abu-Bakr chẳng hề lên ngôi và Faga Laye con trai của ông cũng như cha của Musa cũng không có ý nghĩa trong lịch sử Mali.
Mansa Musa Keita lên ngôi sau khi được nhà vua giao triều chính khi ông hành hương về Mecca hay làm điều gì đó khác. Sau đó Musa Keita được nhà vua phong làm thái tử. Theo chính sử, Mansa Musa được tiên vương Abubakari Keita II chỉ định làm người điều hành việc nước trong những lúc nhà vua vắng mặt. Sau đó, ông được kế thừa ngai vàng khi nhà vua Abubakari, người luôn ấp ủ dự định khám phá Đại Tây Dương đích thân dẫn đầu 2000 tàu bè trong cuộc hành trình khám phá đã mãi mãi không quay trở về, chỉ vì ông không tin 199 tàu thuyền do mình điều đi trước đó đã biến mất một cách bí ẩn trong xoáy nước lớn giữa đại dương và chỉ còn duy nhất một con tàu đi cuối đoàn quay lại báo tin. Học giả người Ả Rập Ai Cập Al-Umari đã trích dẫn lời của Mansa Musa như sau:
Con trai và người thừa tự của Musa, Mansa Magha Keita, về sau đã được Musa trao quyền triều chính khi ông hành hương đến Mecca.
Hồi giáo và chuyến hành hương đến Mecca.
Mansa Musa là một vị vua sùng đạo và luôn tin rằng đạo Hồi chính là cửa ngõ để bước vào "thế giới văn hóa của vùng Đông Địa Trung Hải", vì vậy, ông đã ra sức phát triển đạo Hồi trong đế chế của mình. Chuyến hành hương về Thánh địa Mecca vào năm 1324 đã gây được tiếng vang lớn nhất cho ông trong thời gian tại vị.
Chuyến hành hương của Mansa Musa được coi là chuyến đi xa hoa và hoành tráng nhất của một bậc đế vương. Nó diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 1324-1325. Tất cả 60.000 tùy tùng của nhà vua, trong đó có 12.000 nô lệ, 500 sứ giả mặc áo lụa và một hàng dài lạc đà đều phải mang theo vàng thỏi hoặc những chiếc túi chứa đầy vàng để Mansa Musa có thể dễ dàng phân phát cho bất cứ người dân nghèo nào mà ông bắt gặp trên đường đi. Chính điều này đã khiến người ta biết đến ông như là một vị vua rộng lượng và hào phóng. Thậm chí, người dân còn đứng dọc theo các con phố dẫn tới Mecca để chờ đợi sự xuất hiện của Mansa Musa.
Chuyến hành trình của vua Musa đã được ghi chép lại bởi nhiều nhân chứng dọc theo tuyến đường ông đi, những người này đều đã rất ngạc nhiên về sự giàu có cũng như sự hoành tráng của đám rước. Những ghi chép này tồn tại trong nhiều tài liệu khác nhau, bao gồm các nhật ký, lịch sử truyền miệng. Musa được biết là đã đến thăm vua Mamluk Al-Nasir Muhammad của Ai Cập trong tháng 7 năm 1324.
Những hành động hào phóng của Mansa Musa đã vô tình tàn phá nền kinh tế ở những nơi mà ông đi qua. Giá cả hàng hóa và đồ gốm bị thổi phồng lên cao ngất ngưỡng. Tất cả các cửa hàng, các chợ ở Cairo tràn ngập người Mali và việc mua bán đều trả bằng vàng. Thoạt đầu thương nhân Ai Cập rất vui mừng nhưng rồi càng ngày, số vàng do người Mali tung ra càng nhiều mà hàng hóa thì thiếu, dẫn đến vàng xuống giá. Phải mất 12 năm, thị trường vàng Ai Cập mới phục hồi. Theo ước tính của các sử gia, đoàn hành hương đã chi tiêu ở Cairo hết 12,3 tấn vàng.
Sau đó, để sửa chữa sai lầm của mình, Mansa Musa đã mua lại vàng từ những người cho vay nặng lãi ở Cairo. Đây có lẽ là lần đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử tính tới thời điểm này, một cá nhân có thể kiểm soát giá cả của vàng bạc trên khắp vùng Địa Trung Hải rộng lớn.
Khi đến thánh địa Mecca, vua Musa đã dâng tặng 20 tấn vàng để góp phần trùng tu, nâng cấp những đền thờ trong thánh địa. Tại Majisid al-Haram, trung tâm thánh địa, tất cả các hoa văn ở những cây cột trong hang đá, nơi nhà tiên tri Muhammad lần đầu tiên được Thượng đế truyền cho Kinh Qur'an, đều được nạm vàng.
Cuối đời.
Trong chuyền hành trình trở về từ Mecca năm 1325, Musa được tin rằng quân đội của ông đã chiếm lại Gao. Sagmandia, một trong những tướng lĩnh của ông, đã dẫn quân tái chiếm thành phố. Thành phố Gao đã trở thành một phần của đế quốc từ trước đó, dưới triều vua Sakoura Mansa và là một trung tâm thương mại quan trọng nhưng thường hay tạo phản. Musa làm một đường vòng và đến thăm thành phố nơi ông nhận được hai người con trai của vua Gao, Ali Kolon và Suleiman Nar là con tin. Ông quay về Nyeni, đem theo hai người và cho đào tạo trong hoàng cung của mình. Khi Mansa Musa trở về, ông đã mang về nhiều học giả và các kiến trúc sư Ả Rập.
Xây dựng ở Mali.
Sau chuyến hành hương đến Mecca, nhà vua Mansa Musa bắt đầu xây dựng nhiều nhà thờ Hồi giáo lớn, cùng các thư viện khổng lồ, cung điện hoàng gia, và những trường học đạo Hồi trên khắp Đế quốc của mình. Dù luôn chú trọng phát triển đạo Hồi, nhưng trong chính sách cai trị của mình, Mansa Musa lại thiết lập nên một nền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Một số học giả Hồi giáo đến thăm Mali đã không khỏi bất ngờ khi thấy cách ăn mặc đầy màu sắc của người dân địa phương, thậm chí phụ nữ ở đây cũng không cần phải đeo mạng che mặt. Nền giáo dục dưới thời Mansa Musa được miễn phí hoàn toàn và nhận được rất nhiều chính sách khuyến khích, vị vua giàu có còn thành lập trường đại học danh tiếng Sankore Madsarah. Chính những điều này đã thu hút người dân từ khắp mọi nơi trên thế giới đổ về đây để trau dồi kiến thức.
Trong thời gian này, những đô thị lớn của Mali đã có mức sống cao. Sergio Domian, một học giả nghệ thuật và kiến trúc người Ý đã viết về giai đoạn này: "Nó đã đặt nền móng cho một nền văn minh đô thị. Trong thời kỳ đỉnh cao, Mali đã có ít nhất 400 thành phố và khu vực nội địa châu thổ sông Niger tập trung rất đông dân cư."
Kinh tế và giáo dục.
Sử ghi lại rằng Mansa Musa đi qua các thành phố Timbuktu và Gao trên đường đến Mecca và ông đã biến chúng trở thành một phần của đế chế khi ông trở về năm 1325. Ông đã mang kiến trúc sư từ Andalusia, một vùng ở Tây Ban Nha, và Cairo để xây dựng các cung điện lớn ở Timbuktu và Đại giáo đường Djinguereber mà nó vẫn đứng đến ngày hôm nay.
Timbuktu sớm trở thành một trung tâm thương mại, văn hóa, và của Hồi giáo; thương nhân từ Hausaland, Ai Cập, và các vương quốc khác ở Châu Phi đến giao dịch. Một trường đại học được thành lập trong thành phố (cũng như ở các thành phố Mali khác như Djenné và Segou) và đức tin Hồi giáo đã truyền bá thông các khu chợ và các trường đại học. Tin tức về một thành phố giàu có của đế quốc Mali thậm chí lan qua Địa Trung Hải đến Nam Âu, nơi thương nhân từ Venezia, Granada và Genoa sớm bổ sung Timbuktu vào bản đồ thương mại của họ để giao dịch đổi hàng lấy vàng.
Dưới triều đại của Mansa Musa, trường đại học Timbuktu có rất nhiều luật gia, nhà thiên văn học và toán học. Trường đại học trở thành một trung tâm học tập và văn hoá, thu hút nhiều học giả Hồi giáo từ khắp châu Phi và Trung Đông đến Timbuktu.
Năm 1330, vương quốc Mossi xâm lăng và chiếm thành phố Timbuktu. Gao thì đã được tướng của Musa chiếm lại và Musa cũng đã nhanh chóng lấy lại Timbuktu. Ông cho xây dựng một thành lũy và pháo đài bằng đá và đặt một đội quân thường trực để có thể bảo vệ thành phố khỏi những kẻ xâm lược trong tương lai.
Trong khi cung điện của Musa đã biến mất từ lâu nhưng các trường đại học và nhà thờ Hồi giáo hiện vẫn còn hiện diện ở Timbuktu.
Vào cuối triều đại Mansa Musa, đại học Sankoré đã trở thành một trường đại học đầy đủ bộ phận với bộ sưu tập sách lớn nhất ở châu Phi kể từ thời Thư viện Alexandria. Đại học Sankoré có khả năng làm nhà ở cho 25.000 sĩ tử và sở hữu một trong những thư viện lớn nhất trên thế giới với khoảng hơn 1.000.000 bản thảo.
Qua đời.
Ngày chết của Mansa Musa là một đề tài gây tranh cãi giữa các nhà sử hiện đại và các học giả Ả Rập, những người đã ghi chép lại lịch sử Mali. Khi đối chiếu với triều đại của người kế nhiệm ông, con trai Mansa Maghan (cai trị: 1332-1336) và Mansa Suleyman (cai trị: 1336-1360) và khoảng thời gian 25 năm cai trị của Musa được ghi chép lại, thì ngày mất của ông là vào khoảng năm 1332. Các tài liệu khác tuyên bố Musa đã lên kế hoạch thoái vị nhường ngôi cho con trai của ông là Maghan, nhưng ông đã chết ngay sau khi ông quay trở về từ Mecca trong năm 1325. Theo ghi chép của Ibn-Khaldun, Mansa Musa vẫn còn sống khi thành phố Tlemcen ở Algeria bị chinh phục năm 1337, khi ông đã gửi một sứ giả đến Algeria để chúc mừng người thắng trận.
Lịch sử ghi nhận Mansa Musa là người giàu có nhất mọi thời đại với giá trị tài sản tương đương 400 tỉ $ (quy đổi về giá trị hiện tại), một con số khổng lồ vượt xa tổng tài sản của 3 tỷ phú Bill Gates, Warren Buffett và Amancio Ortega cộng lại. Dù hơn 700 năm đã trôi qua, nhưng so về mức độ giàu có và tầm ảnh hưởng thì chưa một ai có thể sánh ngang hàng với Mansa Musa. Cho đến nay, Mansa Musa vẫn được coi là một trong những người quyền lực nhất trong lịch sử, đồng thời cũng là người giàu có nhất thế giới.
Nếu quy đổi tài sản của ông sang hiện vật ông có thể sở hữu toàn bộ đất đai và tài sản ở Châu Phi thời bấy giờ. Gấp 12 lần tổng số cổ phiếu của Bill Gates. Mua lại được bốn lần tài sản của Apple và ba lần Microsoft. Ông có thể nắm được hơn 40% trữ lượng vàng của thế giới. | 1 | null |
z8_GND_5296, được phát hiện vào năm 2013, là thiên hà xa nhất từ trước đến nay được tìm thấy. Nó được sinh ra "chỉ 700 triệu năm sau vụ nổ Big Bang, khi vũ trụ chỉ khoảng 5 phần trăm của tuổi hiện tại (13,8 tỷ năm)". Thiên hà có dịch chuyển đỏ 7,51, và nó là láng giềng với thiên hà xa nhất thứ hai với dịch chuyển đỏ 7,2. Thiên hà này có tốc độ sản sinh sao rất lớn, tương đương với số lượng khoảng 300 mặt trời mỗi năm. Thiên hà này cách Trái Đất khoảng 13,1 tỷ năm ánh sáng theo quãng đường ánh sáng di chuyển, và 30 tỷ năm ánh sáng theo khoảng cách ngoại suy đồng chuyển động hiện tại, theo mô hình giãn nở của vũ trụ .
Nghiên cứu được công bố vào ngày 24 tháng 10 năm 2013 trên tạp chí Nature do một nhóm các nhà thiên văn học từ Đại học California, Riverside do Bahram Mobasher và Naveen Reddy phối hợp với các nhà thiên văn học tại Đại học Texas tại Austin, Đại học Texas A & M, Đài quan sát thiên văn học quang học quốc gia phát hiện thiên hà xa nhất này bằng hình ảnh quang học sâu và hình ảnh hồng ngoại do kính viễn vọng không gian Hubble. Khám phá của họ đã được xác nhận bởi kính viễn vọng Keck tại Hawaii có MOSFIRE (một công cụ mới trên kính viễn vọng Keck cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng hồng ngoại).
Khoảng cách theo quãng đường ánh sáng.
Những gì đang quan sát được theo ánh sáng đến từ z8_GND_5296 là đã diễn ra cách đây khoảng hơn 13,1 tỷ năm ánh sáng. Khoảng cách theo quãng đường ánh sáng được tính bằng tốc độ ánh sáng nhân với thời gian mà ánh sáng đi từ z8_GND_5296 ở trạng thái khoảng 13,1 tỷ năm trước đến được người quan sát trên Trái Đất hiện nay. Như vậy khoảng cách này khoảng 13,1 tỷ năm ánh sáng.
Khoảng cách đồng chuyển động.
Thực tế vào cùng thời điểm hiện tại, z8_GND_5296 đã ở trạng thái khác (so với trạng thái mà chúng ta đang quan sát được, vì những gì chúng ta đang quan sát được diễn ra cách đây 13,1 tỷ năm). Cụ thể, do vũ trụ giãn nở và do chuyển động của z8_GND_5296 so với hệ quy chiếu đồng chuyển động, vị trí của z8_GND_5296 hiện tại khác với vị trí đang quan sát được, và khoảng cách riêng hay khoảng cách đồng chuyển động từ z8_GND_5296 đến Trái Đất khác với khoảng cách theo quãng đường ánh sáng. Có thể ước lượng khoảng cách đồng chuyển động theo mô hình giãn nở vũ trụ và bỏ qua chuyển động bất thường của z8_GND_5296 lệch khỏi hệ quy chiếu đồng chuyển động. Một ước lượng cho thấy khoảng cách đồng chuyển động của z8_GND_5296 so với Trái Đất khoảng 30 tỷ năm ánh sáng. | 1 | null |
Cá Betta là một chi cá nước ngọt nhỏ, thường có màu sắc thuộc lớp Cá vây tia nằm trong họ (Osphronemidae). Loài đặc trưng là Betta Samurai
., tuy nhiên loài nổi tiếng trong chi này lại là nhóm cá xiêm ("Betta splendens, Betta imbellis", "Betta mahachaiensis", "Betta smaragdina").
Đặc điểm.
Tất cả các loài các Betta là loài cá nhỏ nhưng chúng rất khác nhau về kích thước, từ dưới 3.5 cm (1 inch) ở loài "B. chanoides" đến 12.5 cm (5 inch) ở loài "B. akarensis".
Phân loại.
Chi Betta ước có khoảng 73 loài, phần lớn chúng lại hợp thành những nhóm loại lân cận với nhau. Dưới đây là một số nhóm loài chính.
Nhóm "B. akarensis"
Nhóm "B. albimarginata"
Nhóm "B. anabatoides"
Nhóm "B. bellica"
Nhóm "B. coccina"
Nhóm "B. dimidiata"
Nhóm "B. edithae"
Nhóm "B. foerschi"
Nhóm "B. picta"
Nhóm "B. pugnax"
Nhóm "B. splendens"
Nhóm "B. unimaculata"
Nhóm "B. waseri" | 1 | null |
Ngữ hệ Eskimo-Aleut hoặc Eskaleut là ngữ hệ bản xứ tại Alaska, Bắc Canada, Nunavik, Nunatsiavut, Greenland và bán đảo Chukotka ở cực đông Siberia, Nga. Ngữ hệ này được chia làm hai nhánh, gồm nhóm ngôn ngữ Eskimo và nhóm ngôn ngữ Aleut. Nhóm ngôn ngữ Eskimo được chia thành hai nhánh là nhóm ngôn ngữ Yupik - được nói ở tây, tây nam Alaska và cực đông Siberia - và nhóm ngôn ngữ Inuit - được nói ở phía bắc Alaska, ở Canada và ở Greenland. Nhóm Aleut gồm một thứ tiếng duy nhất là tiếng Aleut - được nói tại quần đảo Aleut và quần đảo Pribilof. Tiếng Aleut trải trên một vùng địa lý rất rộng và gồm một số phương ngữ.
Vị trí phù hợp dành cho một ngôn ngữ gọi là tiếng Sireniki vẫn chưa được quyết định. Có một số nhà ngôn ngữ học liệt kê thứ tiếng này như một nhánh của nhóm ngôn ngữ Yupik trong khi người khác xem nó là nhánh riêng của nhóm Eskimo, bình đẳng với nhánh Yupik và Inuit.
Ngữ hệ Eskimo-Aleut là một trong những ngữ hệ bản địa của châu Mỹ (khái niệm mang nghĩa địa lý chứ không phải ngôn ngữ học). Ngữ hệ Eskimo-Aleut không có mối liên hệ rõ ràng với các ngữ hệ Bắc Mỹ khác.
Phân loại.
Ngữ hệ Eskimo-Aleut
Mối quan hệ với các ngữ hệ khác.
Ngữ hệ Eskimo-Aleut không có bất cứ quan hệ di truyền nào với các họ ngôn ngữ được công nhận trên thế giới hiện nay. Có một sự công nhận chung rằng ngữ hệ này không liên quan mật thiết với các ngữ hệ khác của Bắc Mỹ. Đã có những lời đề xuất đáng tin cậy về mối quan hệ bên ngoài của ngữ hệ Eskimo-Aleut với một hoặc nhiều ngữ hệ của miền bắc lục địa Á-Âu, chẳng hạn nhóm Chukchi-Kamchatka ở bên kia eo biển Bering. Một trong số những lời đề xuất đầu tiên thuộc dạng này là lời đề xuất của nhà ngôn ngữ học tiên phong người Đan Mạch là Rasmus Rask vào năm 1818, sau khi ông nhận thấy sự tương đồng giữa tiếng Greenland và tiếng Phần Lan. Có lẽ rằng một trong những đề xuất hoàn chỉnh nhất tính đến nay là giả thuyết của Michael Fortescue về ngữ hệ Ural-Siberia, được xuất bản vào năm 1998. Gần đây hơn có nghiên cứu của Joseph Greenberg đề xuất ghép ngữ hệ Eskimo-Aleut và tất cả các ngữ hệ ở bắc lục địa Á-Âu - trừ ngữ hệ Enisei - thành một ngữ hệ mới gọi là ngữ hệ Á-Âu. Hiện chưa có sự công nhận rộng rãi đối với những đề xuất này.
Vào thập niên 1960, Morris Swadesh gợi ý rằng có một mối liên hệ giữa ngữ hệ Eskimo-Aleut với ngữ hệ Wakash. Holst (2005) đã tiếp thu và mở rộng vấn đề này.
Đặc điểm nổi bật.
Ngữ hệ Eskimo-Aleut mang tính "hỗn nhập phụ tố", cụ thể là hậu tố (trừ trường hợp ngoại lệ về một tiền tố dùng trong đại từ chỉ định của tiếng Inuktitut)
Tất cả mọi từ đều chỉ có một gốc từ (hình vị tự do) luôn nằm ở đầu. Ngữ hệ Eskimo-Aleut có số lượng gốc từ tương đối nhỏ - chỉ cỡ 2.000 gốc trong trường hợp tiếng Yup'ik Trung Alaska. Sau mỗi gốc từ là một số "hậu căn" ("postbase"), tức các hình vị phụ thuộc có chức năng bổ sung nghĩa căn bản của gốc từ. Nếu diễn tả nghĩa của hậu căn một cách đơn độc thì sẽ dùng một gốc từ trung tính đặc biệt (từ "pi" trong trường hợp tiếng Yup'ik Trung Alaska và Inuktitut).
Sau các hậu căn là những hậu tố phi từ vựng có chức năng biểu thị cách của danh từ và người, và trạng của động từ. Số lượng cách tùy ngôn ngữ, tuy nhiên nhóm ngôn ngữ Aleut có số cách ít hơn nhiều so với nhóm ngôn ngữ Eskimo. Nhóm ngôn ngữ Eskimo có tính khiển cách-tuyệt đối cách đối với danh từ và trong tiếng Yup'ik. Cuối mỗi từ có thể có một hình vị "clitic" mang nghĩa, chẳng hạn "nhưng".
Về mặt âm vị học, ngữ hệ Eskimo-Aleut giống với các ngôn ngữ khác của miền bắc Bắc Mỹ và viễn đông Xibia. Thường chỉ có ba nguyên âm , và , trừ các phương ngữ Yup'ik có thêm nguyên âm giữa ə. Các thứ tiếng trong ngữ hệ không có phụ âm tống ra nhưng có âm bật không thành tiếng trong các trường hợp âm đôi môi, âm thân răng ("coronal"), âm vòm mềm ("velar") và âm lưỡi gà ("uvular"), trừ tiếng Aleut - tuy không còn các khoảng dừng âm đôi môi nhưng có giữ lại âm mũi đôi môi. Có các phụ âm xát tương phản nằm cùng vị trí nhưng có thể hữu thanh hoặc vô thanh. Một đặc điểm hiếm tồn tại trong nhiều phương ngữ Yup'ik và Aleut là âm mũi vô thanh tương phản. | 1 | null |
Siegfried & Roy là bộ đôi nhà ảo thuật người Mỹ gốc Đức đương đại. Họ trở trên nổi tiếng trong làng giải trí với sư tử trắng và con hổ trắng. Bộ đôi này bao gồm Siegfried Fischbacher (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1939 - mất ngày 13 tháng 1 năm 2021) và Roy Horn (sinh Uwe Ludwig Horn; 3 tháng 10 năm 1944 - 8 tháng 5 năm 2020).
Từ ngày 1 tháng 2 năm 1990, cho đến khi chấn thương kết thúc sự nghiệp của Horn vào ngày 3 tháng 10 năm 2003, bộ đôi này đã thành lập Siegfried & Roy tại Khu nghỉ mát và Sòng bạc Mirage, được coi là chương trình được truy cập nhiều nhất ở Las Vegas, Nevada. Từ tháng 8 năm 2004 đến tháng 5 năm 2005, Fischbacher và Horn là nhà sản xuất điều hành của sitcom hoạt hình "Father of the Pride".
Vào ngày 8 tháng 5 năm 2020, Horn qua đời vì COVID-19 tại Las Vegas, Nevada hưởng thọ 75 tuổi.
Vào ngày 12 tháng 1 năm 2021, Fischbacher thông báo ông bị Ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối. Ông qua đời vào ngày hôm sau tại Las Vegas vì căn bệnh này hưởng thọ 81 tuổi. | 1 | null |
Joan Miró i Ferrà (; 20 tháng 4 năm 1893 - 25 tháng 12 năm 1983) là một họa sĩ, nhà điêu khác, nghệ nhân gốm xứ, người dân xứ Catalan thuộc Tây Ban Nha, sinh ra ở Barcelona. Bảo tàng Fundació Joan Miró dành riêng cho công việc của ông và được thành lập tại thành phố quê hương ông vào năm 1975. | 1 | null |
Vạc Phổ Minh là một chiếc vạc bằng đồng được đúc vào năm 1262 bởi thượng hoàng Trần Thái Tông, nhà Trần Việt Nam, và đã đặt tại phủ Thiên Trường (nay là Nam Định). Vạc Phổ Minh là một trong An Nam tứ đại khí.
Vạc được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262), nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó.
Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí
Trong văn học, nghệ thuật.
Danh sĩ người xứ Đông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), sống thời Lê–Mạc, đồng thời là một cư sĩ tự nhận (Bạch Vân am cư sĩ), trong một lần qua vùng Sơn Nam Hạ vãn cảnh chùa Phổ Minh chừng hơn một thế kỷ sau loạn giặc Minh xâm lược qua đi, đã để lại bài thơ thất ngôn bát cú "Du Phổ Minh tự" được đưa vào tập thơ chữ Hán "Bạch Vân am thi tập" do chính ông đề tựa: | 1 | null |
Người Mỹ gốc Đức (, ) là công dân của Hoa Kỳ sinh ra ở Đức hay có tổ tiên ở Đức. Với số dân khoảng 50 triệu người, Họ chiếm khoảng 1/3 cộng đồng người Đức lưu tán trên toàn thế giới. Đây là một sắc tộc gốc Âu đông dân nhất và họ đã mang đến một sự ảnh hưởng lớn cho nước Mỹ.
Rất ít bang của Đức có thuộc địa tại Tân thế giới. Vào những năm 1670, những nhóm người Đức nhập cư đáng kể đầu tiên đến các thuộc địa Anh, chủ yếu định cư ở Pennsylvania, New York và Virginia.
Công ty Mississippi của Pháp đã di chuyển hàng nghìn người Đức từ châu Âu đến Louisiana và đến Bờ biển German, Lãnh thổ Orleans từ năm 1718 đến năm 1750.
Dân nhập cư tăng mạnh, với 8 triệu người Đức đến trong thế kỷ 19, bảy triệu rưỡi chỉ trong khoảng thời gian từ 1820 đến 1870.
Có một "vành đai nước Đức" kéo dài khắp Hoa Kỳ, từ đông Pennsylvania đến bờ biển Oregon. Pennsylvania, với 3,5 triệu người gốc Đức, có dân số người Mỹ gốc Đức lớn nhất ở Hoa Kỳ và là quê hương của một trong những khu định cư ban đầu của nhóm, Germantown, được thành lập vào năm 1683 và là nơi ra đời của phong trào chống chế độ nô lệ của Mỹ năm 1688, cũng như trận Germantown mang tính cách mạng.
Họ bị lôi kéo bởi sự hấp dẫn của đất đai và tự do tôn giáo, và bị đẩy ra khỏi nước Đức do thiếu đất và áp bức tôn giáo hoặc chính trị. Nhiều người đến tìm kiếm tự do tôn giáo hoặc chính trị, những người khác tìm kiếm cơ hội kinh tế lớn hơn những người ở châu Âu, và những người khác để có cơ hội bắt đầu mới ở Tân Thế giới. Những người đến trước năm 1850 chủ yếu là những nông dân tìm kiếm vùng đất sản xuất tốt nhất, nơi mà các kỹ thuật thâm canh của họ sẽ thành công. Sau năm 1840, nhiều người đến các thành phố, nơi "Germania" - các hạt nói tiếng Đức - sớm xuất hiện.
Người Mỹ gốc Đức thành lập trường mẫu giáo đầu tiên ở Hoa Kỳ, giới thiệu truyền thống cây Giáng Sinh, và giới thiệu các loại thực phẩm phổ biến như hot dog và hamburger đến Hoa Kỳ.
Phần lớn những người có tổ tiên là người Đức đã bị Mỹ hóa; ít hơn 5% nói tiếng Đức. Rất nhiều xã hội người Mỹ gốc Đức, cũng như các lễ kỷ niệm được tổ chức trên khắp đất nước để kỷ niệm di sản của Đức, trong đó cuộc diễu hành Steuben của người Mỹ gốc Đức ở Thành phố New York là một trong những lễ nổi tiếng nhất và được tổ chức mỗi thứ bảy thứ ba trong tháng chín. Lễ kỷ niệm Oktoberfest và Ngày người Mỹ gốc Đức là những lễ hội phổ biến. Có các sự kiện lớn hàng năm tại các thành phố có di sản Đức bao gồm Chicago, Cincinnati, Milwaukee, Pittsburgh, San Antonio và St. Louis.
Khoảng 180.000 công dân Đức đang sinh sống tại Hoa Kỳ vào năm 2020.
Lịch sử.
Người Đức bao gồm nhiều phân nhóm khá khác biệt với các giá trị tôn giáo và văn hóa khác nhau. Những người theo đạo Luther và Công giáo thường phản đối các chương trình đạo đức hóa của Yankee như cấm bia, và ủng hộ các gia đình gia trưởng với người chồng quyết định vị trí của gia đình trong các vấn đề công cộng. Họ thường phản đối quyền bầu cử của phụ nữ nhưng điều này được sử dụng như một lập luận ủng hộ quyền bầu cử khi người Mỹ gốc Đức trở thành pariah trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Mặt khác, có những nhóm Tin lành nổi lên từ chủ nghĩa áp đặt ở châu Âu như Đức Giám lý và Anh em thống nhất; họ gần giống với những người theo chủ nghĩa Giám lý Yankee trong chủ nghĩa đạo đức của họ.
Thời kỳ thuộc địa.
Những người Anh định cư đầu tiên đến Jamestown, Virginia vào năm 1607, và đi cùng với người Mỹ gốc Đức đầu tiên, Tiến sĩ Johannes Fleischer. Ông được theo dõi vào năm 1608 bởi năm thợ làm thủy tinh và ba thợ mộc hoặc thợ xây nhà. Khu định cư lâu dài đầu tiên của người Đức tại nơi trở thành Hoa Kỳ là Germantown, Pennsylvania, được thành lập gần Philadelphia vào ngày 6 tháng 10 năm 1683.
Một số lượng lớn người Đức di cư từ những năm 1680 đến 1760, với Pennsylvania là điểm đến ưa thích. Họ di cư đến Mỹ vì nhiều lý do. "Các yếu tố thúc đẩy" liên quan đến các cơ hội tồi tệ hơn đối với quyền sở hữu trang trại ở trung tâm Châu Âu, sự đàn áp của một số nhóm tôn giáo và sự tham gia của quân đội; "yếu tố kéo" là điều kiện kinh tế tốt hơn, đặc biệt là cơ hội sở hữu đất đai và tự do tôn giáo. Thông thường, những người nhập cư đã trả tiền cho việc đi lại của họ bằng cách bán sức lao động của họ trong khoảng thời gian nhiều năm với tư cách là lao động có khế ước.
Các khu vực rộng lớn của Pennsylvania, Thượng lưu New York và Thung lũng Shenandoah của Virginia đã thu hút người Đức. Hầu hết là Luther giáo hoặc Cải Cách Đức; nhiều người thuộc các giáo phái tôn giáo nhỏ như Moravia và Mennonite. Công giáo Đức không có số lượng cho đến sau chiến tranh năm 1812.
Palatine.
Năm 1709, những người Đức theo đạo Tin lành từ vùng Pfalz hoặc Palatine của Đức thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đầu tiên đến Rotterdam và sau đó đến London. Nữ vương Anne đã giúp họ đến các thuộc địa của Mỹ. Chuyến đi kéo dài và khó khăn để tồn tại vì chất lượng thức ăn và nước uống trên tàu kém và bệnh truyền nhiễm sốt phát ban. Nhiều người nhập cư, đặc biệt là trẻ em, đã chết trước khi đến Mỹ vào tháng 6 năm 1710.
Cuộc di cư Palatine của khoảng 2100 người sống sót là cuộc di cư đơn lẻ lớn nhất đến Mỹ trong thời kỳ thuộc địa. Đầu tiên, hầu hết được định cư dọc theo sông Hudson trong các trại lao động, để trả ơn cho việc đi lại của họ. Đến năm 1711, bảy ngôi làng đã được thành lập ở New York trên trang viên Robert Livingston. Năm 1723, người Đức trở thành những người châu Âu đầu tiên được phép mua đất ở Thung lũng Mohawk phía tây Little Falls. Một trăm ngôi nhà đã được cấp trong Bằng sáng chế Burnetsfield. Đến năm 1750, quân Đức chiếm một dải dài khoảng dọc theo hai bên sông Mohawk. Đất rất tuyệt vời; khoảng 500 ngôi nhà đã được xây dựng, chủ yếu bằng đá, và khu vực này vẫn thịnh vượng bất chấp các cuộc đột kích của Ấn Độ. Herkimer được biết đến nhiều nhất trong số các khu định cư của người Đức trong khu vực từ lâu được gọi là "căn hộ Đức".
Họ giữ cho riêng mình, kết hôn của riêng họ, nói tiếng Đức, tham dự các nhà thờ Luther, và giữ các phong tục và thực phẩm của riêng họ. Họ nhấn mạnh quyền sở hữu trang trại. Một số thành thạo tiếng Anh để giao tiếp với các cơ hội kinh doanh và luật pháp địa phương. Họ chấp nhận chế độ nô lệ (mặc dù rất ít người đủ giàu để sở hữu một nô lệ).
Người nổi tiếng nhất trong số những người Đức nhập cư Palatine ban đầu là biên tập viên John Peter Zenger, người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh ở thành phố New York thuộc địa cho quyền tự do báo chí ở Mỹ. Một người nhập cư sau này, John Jacob Astor, đến từ Baden sau Chiến tranh Cách mạng, đã trở thành người giàu nhất nước Mỹ từ đế chế buôn bán lông thú và các khoản đầu tư bất động sản ở New York.
Louisiana.
John Law đã tổ chức cuộc thuộc địa đầu tiên của Louisiana với những người nhập cư Đức. Trong số hơn 5.000 người Đức ban đầu nhập cư chủ yếu từ vùng Alsace, có tới 500 người tạo nên làn sóng di cư đầu tiên rời Pháp trên đường đến châu Mỹ. Ít hơn 150 người trong số những nông dân Đức đầu tiên được ký hợp đồng đã đến Louisiana và định cư dọc theo vùng được gọi là Bờ biển Đức. Với sự kiên trì, lòng quyết tâm và sự lãnh đạo của D'arensburg, những người Đức này đã chặt cây, khai khẩn đất và xới đất bằng những dụng cụ cầm tay đơn giản vì không có sẵn súc vật kéo. Những người định cư ở bờ biển Đức đã cung cấp cho thành phố New Orleans vừa chớm nở ngô, gạo, trứng. và thịt trong nhiều năm sau đó.
Công ty Mississippi đã định cư hàng nghìn người Đức tiên phong ở Louisiana thuộc Pháp trong năm 1721. Nó khuyến khích người Đức, đặc biệt là người Đức ở vùng Alsace gần đây đã thuộc quyền của người Pháp cai trị và người Thụy Sĩ nhập cư. Alsace đã được bán cho Pháp trong bối cảnh lớn hơn của Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618–1648).
Dòng Tên Charlevoix đã đi du lịch Tân Pháp (Canada và Louisiana) vào đầu những năm 1700. Bức thư của ông cho biết "9.000 người Đức này, những người lớn lên ở Palatinate (một phần Alsace của Pháp) ở Arkansas. Người Đức rời Arkansas en masse. Họ đến New Orleans và yêu cầu được đi châu Âu. Công ty Mississippi đã cho người Đức những vùng đất trù phú ở hữu ngạn sông Mississippi cách New Orleans khoảng Khu vực này hiện được gọi là 'Bờ Biển German'."
Một số lượng lớn người Đức sống ở thượng lưu từ New Orleans, Louisiana, được gọi là Bờ Biển German. Họ bị thu hút đến khu vực này thông qua các cuốn sách nhỏ như "Louisiana: Một ngôi nhà cho người Đức định cư" của J. Hanno Deiler.
Miền Nam.
Hai làn sóng thực dân Đức vào năm 1714 và 1717 đã thành lập một thuộc địa ở Virginia được gọi là Germanna, nằm gần Culpeper, Virginia ngày nay. Thống đốc Trung ương Virginia Alexander Spotswood, tận dụng lợi thế của hệ thống quyền sở hữu, đã mua đất ở Spotsylvania ngày nay và khuyến khích người Đức nhập cư bằng cách quảng cáo ở Đức để thợ mỏ chuyển đến Virginia và thành lập ngành công nghiệp khai thác tại thuộc địa. Cái tên "Germanna", được chọn bởi Thống đốc Alexander Spotswood, phản ánh cả những người nhập cư Đức đi thuyền qua Đại Tây Dương đến Virginia và nữ vương Anh, Anne, người đang nắm quyền vào thời điểm định cư đầu tiên tại Germanna.
Tại North Carolina, người Morava gốc Đức sống xung quanh Bethlehem, Pennsylvania đã mua gần từ Lãnh chúa Granville (một trong những Chủ sở hữu của Lãnh chúa Anh) ở Piedmont North Carolina vào năm 1753. Họ thiết lập các khu định cư của người Đức trên con đường đó, đặc biệt là ở khu vực xung quanh khu vực bây giờ là Winston-Salem. Họ cũng thành lập khu định cư chuyển tiếp Bethabara, North Carolina, được dịch là House of Passage, cộng đồng người Morava được quy hoạch đầu tiên ở Bắc Carolina, vào năm 1759. Ngay sau đó, người Đức gốc Morava thành lập thị trấn Salem vào năm 1766 (bây giờ là một khu lịch sử ở trung tâm Winston-Salem) và Trường Cao đẳng Salem (một trường cao đẳng nữ đầu tiên) vào năm 1772.
Tại Thuộc địa Georgia, người Đức chủ yếu từ vùng Swabia đến định cư tại Savannah, Đảo St. Simon và Pháo đài Frederica trong những năm 1730 và 1740. Họ được James Oglethorpe tích cực tuyển mộ và nhanh chóng nổi bật nhờ canh tác cải tiến, nâng cao bê tông tabby-kiến trúc và liên doanh lãnh đạo Luther-Anh giáo-Cải cách các dịch vụ tôn giáo cho thực dân.
Những người nhập cư Đức cũng định cư ở các khu vực khác của Nam Mỹ, bao gồm xung quanh khu vực Ngã ba Hà Lan (Deutsch) của Nam Carolina, và Texas, đặc biệt là ở các khu vực Austin và San Antonio.
New England.
Từ năm 1742 đến năm 1753, khoảng 1.000 người Đức định cư ở vịnh Broad, Massachusetts (bây giờ là Waldoboro, Maine). Nhiều người trong số những người thuộc địa đã chạy trốn đến Boston, Maine, Nova Scotia và North Carolina sau khi nhà của họ bị đốt cháy và hàng xóm của họ bị Người Mỹ bản địa giết hoặc bắt giam. Những người Đức ở lại thấy khó tồn tại bằng nghề nông, và cuối cùng chuyển sang ngành vận tải biển và đánh cá.
Pennsylvania.
Làn sóng nhập cư của người Đức đến Pennsylvania tăng cao trong khoảng thời gian từ năm 1725 đến năm 1775, với những người nhập cư đến với tư cách là người cứu chuộc hoặc những người hầu cận. Đến năm 1775, người Đức chiếm khoảng một phần ba dân số của bang. Nông dân Đức nổi tiếng về chăn nuôi và thực hành nông nghiệp năng suất cao. Về mặt chính trị, họ thường không hoạt động cho đến năm 1740, khi họ tham gia Quakers - liên minh lãnh đạo nắm quyền kiểm soát cơ quan lập pháp, sau này ủng hộ Cách mạng Mỹ. Mặc dù vậy, nhiều người định cư ở Đức là người trung thành trong cuộc cách mạng, có thể vì họ sợ các khoản tài trợ đất đai hoàng gia của họ sẽ bị chính phủ cộng hòa mới tước đoạt hoặc vì lòng trung thành với người Đức thuộc Anh chế độ quân chủ đã tạo cơ hội sống trong một xã hội tự do. Người Đức, bao gồm Luther giáo, Thần học Cải cách, Mennonite, Amish, và các giáo phái khác, đã phát triển một đời sống tôn giáo phong phú với một nền văn hóa âm nhạc mạnh mẽ. Nói chung, họ được biết đến với cái tên Người Hà Lan Pennsylvania (từ "Deutsch").
Về mặt từ nguyên, từ tiếng Hà Lan bắt nguồn từ từ tiếng Thượng Đức cổ "diutisc" (từ "diot" "người"), dùng để chỉ "ngôn ngữ của người dân" trong tiếng Đức trái ngược với tiếng Latinh, ngôn ngữ của những người uyên bác (xem thêm theodiscus). Cuối cùng từ này được dùng để chỉ những người nói tiếng Đức, và chỉ trong vài thế kỷ trước, người dân Hà Lan. Các biến thể ngôn tộc Đức khác như "deutsch/deitsch/dutch" là: tiếng Hà Lan "Duits" và "Diét", tiếng Yiddish "daytsh", tiếng Đan Mạch/Na Uy "tysk", hoặc tiếng Thụy Điển "tyska." Tiếng Nhật "ドイツ" (/doitsu/) cũng bắt nguồn từ các biến thể "tiếng Hà Lan" nói trên.
Anh em Studebaker, tổ tiên của các nhà sản xuất toa xe và ô tô, đến Pennsylvania vào năm 1736 từ thị trấn phiến nổi tiếng Solingen. Với kỹ năng của mình, họ đã làm ra những chiếc xe ngựa chở những người lính biên phòng về phía tây; đại bác của họ đã cung cấp cho Quân đội Liên minh pháo trong Nội chiến Hoa Kỳ, và công ty ô tô của họ trở thành một trong những công ty lớn nhất ở Mỹ, mặc dù không bao giờ lu mờ "Big Three", và là một nhân tố trong nỗ lực chiến tranh và trong các cơ sở công nghiệp của Quân đội.
Cách mạng Mỹ.
Vương quốc Anh, có vua George III cũng là Đế hầu của nhà Hanover ở Đức, đã thuê 18.000 người Hesse. Họ là những người lính đánh thuê được thuê bởi những người cai trị một số bang nhỏ của Đức như Hesse để chiến đấu bên phía Anh. Nhiều người đã bị bắt; họ vẫn là tù nhân trong chiến tranh nhưng một số ở lại và trở thành công dân Hoa Kỳ. Trong Cách mạng Mỹ, Mennonite và các giáo phái tôn giáo nhỏ khác là những người theo chủ nghĩa hòa bình trung lập. Luthera giáo của Pennsylvania là đứng về phía yêu nước. Gia đình Muhlenberg, dẫn đầu bởi Rev. Henry Muhlenberg có ảnh hưởng đặc biệt đối với phe Yêu nước. Con trai của ông Peter Muhlenberg, một giáo sĩ Luther ở Virginia trở thành thiếu tướng và sau đó là Nghị sĩ. Tuy nhiên, ở ngoại ô New York, nhiều người Đức trung lập hoặc ủng hộ chính nghĩa người theo chủ nghĩa trung thành.
Từ những cái tên trong cuộc điều tra dân số năm 1790 của Hoa Kỳ, các nhà sử học ước tính người Đức chiếm gần 9% dân số da trắng ở Hoa Kỳ.
Tóm tắt Cuộc nổi dậy Fries là một phong trào chống thuế giữa những người Đức ở Pennsylvania vào năm 1799–1800. | 1 | null |
Các vịnh hẹp là một tính năng đặc trưng địa lý của Na Uy. Chúng được phân biệt bằng cách đặc biệt và ấn tượng với những mặt đá dốc và các thác nước lao thẳng xuống vịnh hẹp. Một vịnh hẹp có thể có nhiều vịnh hẹp khác là nhánh vịnh hẹp chính và các nhánh này cũng được gọi là vịnh hẹp. Nhưng, vịnh hẹp thực sự là do quá trình đại dương và các sông băng cắt giảm vào đất liền. Có những vịnh hẹp hình thành từ thời kỳ Đệ Tứ. Bờ biển Na Uy cho tới nay vẫn tự hào là nơi có những vịnh hẹp dài và đẹp nhất thế giới (chỉ có Greenland là có vịnh hẹp dài hơn), trong đó có Geirangerfjord và Nærøyfjord là hai vịnh hẹp đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Dưới đây là danh sách các vịnh hẹp tại Na Uy. Tổng cộng, có khoảng 1.190 vịnh hẹp tại Na Uy và quần đảo Svalbard. Danh sách phân loại bao gồm độ dài và vị trí của những vịnh hẹp.
Danh sách.
Các vịnh hẹp dài nhất của Na Uy.
Dưới đây là 20 vịnh hẹp dài nhất tại Na Uy: | 1 | null |
P9 là loại súng ngắn bán tự động do công ty vũ khí Heckler & Koch phát triển vào cuối những năm 1960. Sau nhiều thử nghiệm với các mẫu thử gồm cả các mẫu có thể chọn chế độ bắn và gắn thêm báng súng thì việc chế tạo hàng loạt được bắt đầu vào năm 1969. Súng được sử dụng rộng rãi trong lực lượng cảnh sát Đức cũng như các quốc gia khác. Súng được chế tạo tại Đức cho đến năm 1978 còn tại Hy Lạp thì súng vẫn được chế tạo với giấy phép.
Thiết kế.
P9 có một thiết kế khá thú vị dựa trên các sản phẩm súng hk trước, nhất là khẩu HK G3. Khung và khối trượt của súng được làm từ thép ép gia công, vòng bảo vệ cò súng được làm bằng vật liệu tổng hợp, các miếng áp ở tay cầm cũng được làm bằng nhựa. Thiết kế này để tăng tốc độ sản xuất của súng cũng như giảm chi phí sản xuất. Súng sử dụng cơ chế nạp đạn blowback có con lăn hãm được giữ bằng lò xo ấn chắt vào hai rãnh khắc và trong thân súng khi bắn lực ấn sẽ giữ hai con lăn này đứng yên trong một thời gian ngắn lúc áp lực trong nòng rất cao sau đó khi áp lực từ viên đạn tích đủ mạnh nó sẽ đẩy hai con lăn này lùi về sau để tiến hành chu kỳ nạp đạn chống lại lực ấn của lò xo, khi thoi nạp đạn tích đủ động lực để di chuyển thì cũng là lúc áp lực trong nòng đã được giảm xuống mức an toàn. Sau khi chu kỳ nạp đạn hoàn tất hai con lăn này lại được lò xo đẩy trở lại theo dốc rãnh ấn chặt vào khe. Nòng súng được gắn cố định để tăng độ chính xác cũng như dễ dàng cho việc gắn ống hãm thanh.
Búa điểm hỏa của súng nằm bên trong không lộ ra ngoài. Một cái cần ở phía trái súng ngay sau cò là cần lên cò cho búa cũng như đưa búa trở về vị trí an toàn khi thấy không cần. Nút khóa an toàn thì nằm ở khối trượt ngay phía trên cần lên cò. Ban đầu hầu hết súng P9 được chế tạo sử dụng cơ chế hoạt động đơn trước năm 1970, sau đó súng chuyển hoàn toàn sang cơ chế hoạt động kép với mẫu P9S.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi, với mẫu P9S thì điểm ruồi có thể điều chỉnh cho phù hợp với xạ thủ. Hộp đạn rời của súng có một hàng chứa 9 viên 9mm hay 7 viên 11,43mm. | 1 | null |
Y đức (hay còn gọi đầy đủ là "đạo đức y học", tiếng Anh: "Medical ethics") là một hệ thống các nguyên tắc hay luân lý đạo đức, trong đó áp dụng các giá trị và các phán quyết dành cho việc thực hành y học. Y đức là một môn học thực tế và là một nhánh của triết học đạo đức. Y đức bao gồm các ứng dụng thực tiễn trong các cơ sở y tế cũng như các công việc liên quan với lịch sử, triết học, thần học và xã hội học.
Trọng tâm của y đức hiện đại là sự tôn trọng quyền tự chủ của bệnh nhân và các nguyên lý cơ bản của sự thỏa thuận đã được thông báo trước. | 1 | null |
Louis Hà Kim Danh (1913 – 1995) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa thứ hai của Giáo phận Phú Cường trong khoảng thời gian ngắn từ năm 1993 đến năm 1995. Trước đó, ông đảm trách vai trò giám mục phó giáo phận này từ năm 1982. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Kiên nhẫn thắng mọi sự".
Thân thế và tu tập.
Louis Hà Kim Danh sinh ngày 21 tháng 6 năm 1913 tại Cần Thơ. Ông bắt đầu con đường tu học của mình bằng cách nhập học tại Tiểu Chủng viện Cù Lao Giêng, Nam Vang vào ngày 25 tháng 7 năm 1925. Sau khi hoàn tất chương trình tiểu chủng viện, ngày 1 tháng 7 năm 1933, chủng sinh Danh tiếp tục con đường tu học bằng cách chuyển tiếp lên học tại Đại chủng viện Nam Vang. Năm 1937, chủng sinh Danh gia nhập chủng viện Xuân Bích Hà Nội.
Linh mục.
Sau quá trình tu học dài hạn, phó tế Louis Hà Kim Danh được thụ phong linh mục vào ngày 12 tháng 3 năm 1940. Sau ngày thụ phong, vị linh mục trẻ được bổ nhiệm đảm trách vai trò Giáo sư Chủng viện, tham gia giảng dạy tại Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, Nam Vang và giữ chức vu này cho đến hết năm 1947.
Năm 1948, linh mục Hà Kim Danh được chọn làm Tuyên úy Dòng nữ Chúa Quan Phòng, Nam Vang. Một năm sau đó, ông trở thành linh mục Linh hướng Dòng Con Đức Mẹ Russey – Keo.
Năm 1970, linh mục Hà Kim Danh được bổ nhiệm giữ vai trò Giáo sư tại Tiểu chủng viện Phú Cường. Năm 1976, linh mục Danh được giám mục giáo phận trao cho vai trò Giám đốc Đại Chủng viện Phú Cường, kiêm Tổng Đại diện Giáo phận Phú Cường.
Giám mục.
Ngày 8 tháng 6 năm 1982, Toà Thánh bổ nhiệm linh mục Louis Hà Kim Danh, làm Giám mục phó Giáo phận Phú Cường, làm Giám mục phó cho giám mục Giuse Phạm Văn Thiên. Ông thay thế nguyên giám mục phó Giacôbê Huỳnh Văn Của vừa từ chức và đang dưỡng bệnh ở ngoại quốc.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, thánh lễ tấn phong Giám mục được tổ chức tại Phú Cường do Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phaolô Nguyễn Văn Bình làm chủ phong, phụ phong có hai giám mục là Giuse Phạm Văn Thiên, Giám mục chính tòa Giáo phận Phú Cường và Louis Phạm Văn Nẫm, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 10 tháng 5 năm 1993, Giám mục Phạm Văn Thiên từ chức và nghỉ hưu, Giám mục Phó Hà Kim Danh đương nhiên kế vị làm giám mục chính tòa Giáo phận Phú Cường. Ông trở thành giám mục chính tòa khi đã được 80 tuổi.
Sau hơn 10 năm làm Giám mục phó, sức khỏe giám mục Hà Kim Danh suy yếu lại mắc bệnh tim nên phải điều trị ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 22 tháng 2 năm 1995, ông từ trần lúc 11 giờ 10 phút tại Bệnh viện Chợ Rẫy, hưởng thọ 82 tuổi với 55 năm trong sứ vụ linh mục và 13 năm trong cương vị giám mục. Lễ an táng cố giám mục Hà Kim Danh sau đó được cử hành vào ngày 25 tháng 2, do CHủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật chủ tế, cùng đông đảo giám mục, hơn 130 linh mục đồng tế.
Tông truyền.
Giám mục Louis Hà Kim Danh được tấn phong giám mục năm 1982, thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi:
Giám mục Louis Hà Kim Danh là Giám mục Chủ phong cho linh mục: | 1 | null |
Yelena (còn được viết là Elena) Valeryevna Milashina (tiếng Nga: "Елена Валерьевна Милашина"; sinh năm 1978) là nhà báo người Nga làm việc cho tờ báo Novaya Gazeta (Но́вая газе́та), một tờ báo độc lập nổi tiếng ở Nga. Cô từng nói: "Tờ Novaya Gazeta là tờ báo duy nhất ở Nga mà tôi có thể tác nghiệp như một nhà báo thực sự"
Tác nghiệp.
Cô chuyên về các phóng sự điều tra, trong đó có những cuộc điều tra về vi phạm nhân quyền và tham nhũng ở Nga, Chechenya, vùng Bắc Kavkaz, Nam Ossetia và Dagestan cùng cuộc điều tra về vụ người bạn đồng nghiệp Anna Stepanovna Politkovskaya bị ám sát tại Moskva năm 2006.
Bị tấn công.
Sáng sớm ngày 5.4.2012, Milashina cùng với người bạn Ella Asoyan, đã bị 2 kẻ lạ mặt xông vào tấn công tại Balashika, vùng lân cận của Moskva. | 1 | null |
Galaxiidae là một họ cá nhỏ, chứa khoảng 50 loài cá trong 7 chi có bề ngoài giống như cá hồi hay cá tuế, là tương đương về mặt sinh thái ở Nam bán cầu với các loài cá hồi (Salmonidae) hay cá tuế trong khu vực ôn đới Bắc bán cầu.
Phân bố.
Các loài cá trong họ này chủ yếu là cá nước ngọt, nhưng có một số loài với cá bột sinh sống ngoài biển khơi, chúng sinh sống trong vùng nước lạnh vùng cao nguyên ở Australia (11 loài), New Zealand (22 loài), đảo Lord Howe, quần đảo Chatham, quần đảo Auckland và quần đảo Campbell, Nouvelle-Calédonie (1 loài), phần cực nam Nam Phi (1 loài), miền nam Nam Mỹ (4 loài) và quần đảo Falkland. Phần lớn các loài sinh sống ở New Zealand (22 loài) và Tasmania (15 loài). Loài "Galaxias maculatus" có phạm vi phân bố rộng nhất, sinh sống trong phần lớn khu vực thuộc phạm vi phân bố của họ, trừ Nam Phi. Điều này là một trong những chứng cứ giải thích cho thuyết trôi dạt lục địa. Cùng lúc đó, người ta cũng nhận ra rằng các quần thể tại tây và đông Thái Bình Dương là không khác nhau nhiều lắm về mặt di truyền và sự phân bố rộng khắp của các loài trong họ này được giải thích là do sự phát tán trên đại dương trong giai đoạn ấu trùng.
Đặc trưng.
Galaxiidae là cá có hình dáng thuôn dài, không vảy, miệng to hay giống như miệng cá tuế, có chiều dài từ 5 tới 40 cm. Bụng không có sống sừng, có một đường bên. Vây đuôi có 12-14 tia vây chính phân nhánh. Vây lưng và vây hậu môn nằm đối diện nhau và ở phía sau của nửa thân sau. Không có răng trên các xương hàm trên, xương lá mía, xương vòm miệng và xương xương gốc cung mang. Tuyến sinh dục là các cơ quan có cặp đôi. Trong phân họ Lovettinae, các loài có 52-58 đốt sống, chiều dài tối đa khoảng 8 cm; phân họ Aplochitoninae có 64-74 đốt sống, chiều dài tối đa 38 cm; và phân họ Galaxiinae có 37-66 đốt sống.
Galaxiidae sống trong vùng nước lạnh về mùa hè tại vùng ôn đới Nam bán cầu. Thức ăn của chúng là côn trùng thủy sinh và các loại thức ăn động vật có thể tiếp cận được (như các loại côn trùng rơi xuống nước) và là cá có khả năng nhảy tốt lên trên mặt nước. Nhiều loài là cá di cư xuôi dòng ra cửa sông để đẻ trứng (không giống như các loại cá hồi lại ngược dòng từ biển về sông để đẻ trứng). Trứng trôi dạt ra biển và giai đoạn phát triển của cá bột là ở biển. Sau đó cá con di cư ngược trở lại vùng nước ngọt. Nhiều loài có vòng đời ngắn, với một vài loài chỉ sống được một năm.
Phân loại và hệ thống học.
Họ Galaxiidae trước đây từng được xếp trong bộ cá ốt me (Osmeriformes) và cùng với cá ốt me/cá thyman New Zealand (Retropinnidae) và "Lepidogalaxias salamandroides" (họ Lepidogalaxiidae) tạo thành siêu họ Galaxioidea. Tuy nhiên, theo các kết quả phân tích phát sinh chủng loài gần đây thì họ này không có quan hệ họ hàng gần với cá ốt me "nước ngọt" mà là nhóm cá có quan hệ chị-em với Esociformes và Salmoniformes, trong khi cá ốt me "nước ngọt" (không chứa "Lepidogalaxias") có quan hệ chị em với các loài cá biển sâu của bộ Stomiiformes. Vì thế họ Galaxiidae trong sửa đổi gần đây đã được nâng cấp lên thành cấp bộ với danh pháp Galaxiiformes.
Trong sửa đổi này, bộ Galaxiiformes cùng với cá ốt me "biển" (bộ Argentiniformes), cá chó (bộ Esociformes) và cá hồi (bộ Salmoniformes) tạo thành nhóm Protacanthopterygii.
Phân loại nội bộ.
Họ Galaxiidae được chia ra thành 3 phân họ, với 7 chi và khoảng 50 loài:
Phát sinh chủng loài.
Quan hệ với các bộ/nhánh khác từng chứa một phần của bộ Osmeriformes theo định nghĩa cũ như sau (vị trí của Argentiniformes và Galaxiiformes trong Li et al (2010) đảo chỗ so với trong cây phát sinh theo Betancur et al 2013) :
Ghi chú: Các bộ từng thuộc về Osmeriformes được đánh dấu *.
Quan hệ trong nội bộ bộ Galaxiiformes như sau:
Hóa thạch.
Các hóa thạch của cá thuộc chi "Galaxias" được biết đến tại New Zealand. Các hóa thạch của "Stompooria" từ cuối kỷ Creta ở Nam Phi cũng có thể thuộc về họ này. | 1 | null |
Raphael Nguyễn Văn Diệp (1926 – 2007) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phó Giáo phận Vĩnh Long trong khoảng thời gian kéo dài 25 năm, từ năm 1975 đến khi hồi hưu năm 2000. Khẩu hiệu của ông là: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện".
Thân thế và tu tập.
Giám mục Raphael Nguyễn Văn Diệp sinh ngày 20 tháng 10 năm 1926 tại xã Long Thới, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre thuộc họ đạo Cái Nhum, giáo phận Vĩnh Long. Từ thuở nhỏ, cậu bé Diệp đã có chí hướng đi tu, để thực hiện việc đó, cậu gia nhập Tiểu chủng viện Sài Gòn vào ngày 9 tháng 8 năm 1938, khi chưa tròn 12 tuổi. Tốt nghiệp Tiểu chủng viện, cậu được vào Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn ngày 13 tháng 8 năm 1948 và học tại đây hai năm. Chủng sinh Nguyễn Văn Diệp được giám mục giáo phận cho đi du học Roma tại Học viện Giáo hoàng Urbano trong vòng bốn năm từ năm 1951 đến 1955.
Thời kì làm linh mục.
Trong thời gian tu học, chủng sinh Nguyễn Văn Diệp đã được thụ phong linh mục ngày 7 tháng 12 năm 1954 tại Roma. Sau khi thụ phong Linh mục, ông rất tích cực trong việc mục vụ giáo xứ: ông lần lượt đảm nhận các chức vụ: linh mục quản xứ Cái Đôi và Bến Giá từ năm 1955 đến 1956, linh mục phó và Chính xứ giáo họ Bải Xan từ năm 1956 đến 1961.
Năm 1960, linh mục Nguyễn Văn Diệp được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm Công giáo Giáo phận Vĩnh Long, ông giữ chức vụ này đến năm 1964 thì được điều chuyển làm Giám đốc Trung tâm Truyền giáo Giáo phận Vĩnh Long kiêm linh mục Chính xứ Họ đạo Cầu Vòng và ông giữ chức vụ này đến năm 1975.
Giám mục.
Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Nguyễn Văn Diệp, hiện là Giám đốc Trung Tâm Truyền giáo Giáo phận Vĩnh Long, làm giám mục Giám mục phó giáo phận này, với tước vị giám mục hiệu tòa Tubusuptu với quyền kế vị Giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu. Lễ tấn phong diễn ra ngay trong ngày, do Chủ phong là Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, hai giám mục phụ phong cho Tân giám mục là Giám mục Emmanuel Lê Phong Thuận, giám mục Phó Giáo phận Cần Thơ và giám mục Anrê Nguyễn Văn Nam, giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho.
Trong cương vị giám mục phó, Nguyễn Văn Diệp vẫn tiếp tục việc thi hành các công tác mục vụ họ đạo tại Cầu Vòng cho đến năm 2000. Sau khi Toà Thánh đã chấp nhận đơn nghỉ hưu, ông nghỉ hưu tại Dòng Đồng Công Thủ Đức. Sức khỏe ông lúc nào cũng không được tốt.
Ngày 27 tháng 5 năm 2000, Toà thánh đã chấp nhận đơn xin nghỉ hưu của giám mục Diệp khi ông được 75 tuổi, sau 25 năm trong cương vị Giám mục phó Giáo phận Vĩnh Long. Cùng với việc loan báo tin này, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Tôma Nguyễn Văn Tân làm giám mục Phó thay thế ông.
Ngày 17 tháng 12 năm 2007, Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân cử đại diện đến gặp Bề trên dòng Đồng Công là linh mục Gioan Maria Đoàn Phú Xuân. Linh mục Xuân đồng thuận vấn đề giám mục Diệp qua đời sẽ được an táng tại Vĩnh Long. Tuy vậy, hai ngày sau đó, linh mục Xuân báo về việc ý định của giám mục Diệp là được an táng tại Đồng Công. Giám mục Nguyễn Văn Diệp từ trần lúc 21 giờ 30 ngày 20 tháng 12 năm 2007 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Thành phố Hồ Chí Minh. Thánh lễ an táng được cử hành ngày 24 tháng 12 năm 2007, do Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long Tôma Nguyễn Văn Tân chủ tế, tại Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long và thi hài cố giám mục được mai táng tại Đài Đức Mẹ nhà thờ chính toà Vĩnh Long.
Tông truyền.
Giám mục Raphael Nguyễn Văn Diệp được tấn phong giám mục năm 1975, thời Giáo hoàng Phaolô VI, bởi:
Giám mục Raphael Nguyễn Văn Diệp là Giám mục phụ phong trong nghi thức truyền chức giám mục:
Giám mục Raphael Nguyễn Văn Diệp là giám mục truyền chức phó tế cho giám mục: | 1 | null |
Nhà viết ca từ hay người viết lời bài hát () là một người chuyên sáng tác và viết ca từ cho bài hát. Một ca sĩ cũng có thể viết lời cho các bài hát của mình, được gọi là ca sĩ kiêm người sáng tác bài hát (), khác với một ca sĩ kiêm nhà soạn nhạc (), vốn chỉ viết phần giai điệu cho bài hát mà thôi.
Quyền lợi.
Thu nhập của người viết lời bài hát đến từ các đặc quyền của họ với bài hát đó. Quyền lợi của họ có thể chiếm 50% bài hát nếu lời được viết ngay từ đầu và độc lập với nhà soạn nhạc, hoặc thấp hơn nếu bài hát là thành quả cộng tác. Các quyền lợi này giữ bản quyền cho bài hát và giúp ngăn chặn bài hát không bị tái phát hành với phần lời khác mà không được phép.
Sự cộng tác.
Sự cộng tác (hợp tác) có thể diễn ra theo nhiều cách khác nhau: Một số nhà soạn nhạc và nhà viết lời bài hát làm việc chặt chẽ cùng nhau trong một bài hát, mỗi người viết và đưa vào một phần, lời và giai điệu. Thông thường người viết lời bài hát sẽ sáng tác và điền phần lời cho một đoạn nhạc đã được viết hoàn chỉnh. Dorothy Fields làm việc theo cách này. Các nhà viết lời bài hát cũng thường thêm lời cho một giai điệu đã được định hình, như cách Johnny Burke đã làm với phần âm nhạc do Erroll Garner viết cho bài hát "Misty". Cũng có những người cộng tác nhưng lại làm việc gần như độc lập, ví dụ như Bernie Taupin viết lời bài hát sẵn rồi chuyển chúng cho Elton John, người phổ nhạc cho phần lời đó, và giữa họ có rất ít sự trao đổi với nhau.
Các cách viết lời bài hát.
Trong những bài thánh ca truyền thống của người Công giáo, nhiều bài có phần lời ban đầu được viết để phù hợp (khớp) với giai điệu có sẵn. Bài thánh ca Giáng sinh, "What Child Is This", có phần lời được viết cho phù hợp với một giai điệu dân gian Anh cổ, Greensleeves, vốn là lời than vãn của một người tình. Nhà soạn nhạc người Anh Ralph Vaughan Williams nổi tiếng với việc đưa những bài thơ sẵn có của các tác giả như William Cowper và Charles Wesley, vào các bản nhạc dân gian truyền thống, tạo nên những bài hát ca tụng/ thánh ca, nhiều bài trong số đó đã được ông cho xuất bản trong cuốn English Hymnal. Một cách khác để làm việc này là sự kết hợp giữa những bản nhạc và lời bài hát không liên quan gì tới nhau, một ví dụ điển hình là bài "The Star-Spangled Banner", quốc ca của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, với phần lời được viết bởi Francis Scott Key dưới dạng một bài thơ rất chặt chẽ, và sau đó đã được ghép với phần nhạc của một bài hát viết trong lúc say rượu cũ.
Âm nhạc cổ điển.
Trong opera, người viết lời nhạc kịch phụ trách toàn bộ phần lời, dù là lời nói (lời thoại của diễn viên) hay bài hát, dưới dạng hát nói ("recitative") hay bài hát trữ tình đơn ca.
Liên kết ngoài.
Nguồn tài nguyên cho các nhà viết lời bài hát
Các hãng phát hành âm nhạc chính
Các hãng phát hành âm nhạc độc lập chính
Các hiệp hội quyền (bản quyền) tác phẩm âm nhạc ở Hoa Kỳ
Các hiệp hội quyền (bản quyền) kỹ thuật âm nhạc ở Hoa Kỳ | 1 | null |
Genius Loves Company là album phòng thu cuối cùng của huyền thoại nhạc R&B và soul người Mỹ, Ray Charles. Album được phát hành vào ngày 31 tháng 8 năm 2004 bởi Concord Records sau khi ông qua đời. Quá trình thu âm diễn ra rải rác trong giai đoạn từ tháng 6 năm 2003 tới tháng 3 năm 2004. Các ca khúc được trình bày theo các phong cách R&B, đồng quê, pop và blues truyền thống, được Charles thể hiện cùng rất nhiều nghệ sĩ khách mời bao gồm Natalie Cole, Elton John, James Taylor, Norah Jones, B.B. King, Gladys Knight, Diana Krall, Van Morrison, Willie Nelson và Bonnie Raitt.
Album được thực hiện bởi nhà quản lý của Concord A&R, John Burk – người đã trực tiếp thuyết phục Charles thu âm một album song ca hợp tác giữa Concord Records và Hear Music – nhãn đĩa thuộc quyền sở hữu của hãng cà phê Starbucks. Đây là album không-tuyển-tập đầu tiên của Hear Music, và là album thành công nhất về mặt thương mại của Ray Charles. Tới ngày 2 tháng 2 năm 2005, "Genius Loves Company" đã sớm có được chứng chỉ 3x Bạch kim từ RIAA với số lượng 3 triệu bản đã được bán chỉ riêng tại Mỹ. Ngày 13 tháng 2 năm 2005, album được trao tới 8 giải Grammy, trong đó có 2 giải thưởng quan trọng là Album của năm và Thu âm của năm. Phần bìa album là chính bức ảnh kinh điển được chụp bởi Norman Seeff. | 1 | null |
Bài hát sáng tác theo yêu cầu (), hay "bài hát viết cho các cá nhân" thường do một người không có chuyên môn về viết bài hát cung cấp thông tin cho một người viết bài hát để họ chuyển những nội dung ấy vào một bản nhạc thích hợp. Khác với cách chuyển lời bài hát có sẵn vào bản nhạc () của thập niên 1960 và 1970, những bài hát này thường được mua để làm quà tặng và chủ nhân cũng không có ý định dùng cho mục đích thương mại. Những khách hàng cá nhân phần lớn thuộc Thế hệ X, những người tìm cách tỏ ra năng động và sáng tạo trong cách tặng quà. Với Internet, các bài hát có thể được viết, thu âm, và gửi qua email và vì thế các công đoạn trở nên nhanh gọn và tốn rất ít thời gian.
Số lượng dịch vụ cung cấp về mảng này rất rộng lớn. Một số hãng đơn thuần chỉ cung cấp dịch vụ sáng tác một bài hát với chủ đề cụ thể (ví dụ, một dịp kỷ niệm sinh nhật) ghi trên một đĩa CD với nhãn bên ngoài do khách hàng tự chọn. Số khác có những bước tiến lớn hơn, cung cấp một bài hát đã được thu âm sẵn với tên người nhận được đưa vào trong bài hát đó. Tuy nhiên, những trang web phổ biến nhất lại cung cấp những bài hát gốc hoàn toàn được viết và thu âm từ đầu đến cuối dựa theo các thông tin do khách hàng cung cấp. Một số trang web tuyển một nhà soạn nhạc hay nhà viết bài hát riêng nào đó để viết nhạc, trong khi đó số khác sử dụng phương pháp crowdsourcing bằng cách cho một vài nhà viết bài hát và nhà soạn nhạc cạnh tranh với nhau để tham gia vào dự án.
Một ví dụ của loại bài hát này là đĩa mở rộng (EP) năm 2008 của Chris Staples (dưới bút danh "Discover America") "Songs For Sale," trong đó anh viết các bài hát sử dụng phần lời do người hâm mộ gửi đến.
Giá của một bài hát viết theo yêu cầu có thể dao động từ khoảng 99 USD tới vài nghìn USD cho các gói viết bài hát theo yêu cầu dạng "premium" (có phí).
Một ví dụ về một gói bài hát theo yêu cầu dạng premium là "YourPremiumCustomSong.com" của Aurelio Sablone; cùng với bài hát gốc được thu âm chuyên nghiệp, gói này còn có: video bài hát (Song Video), tấm in bài hát bằng gỗ và bạc (Wooden and Silver Song-Plaque), vòng cổ "Bài hát trái tim" ("Heart-Song" Necklace), bản nháp viết tay lời bài hát gốc được đóng khung (Original Framed Handwritten Draft of song lyrics), và video của bình luận của người sáng tác về bài hát này.
Khách hàng cũng có thể lựa chọn thêm các dịch vụ khác, bao gồm cả một màn biểu diễn trực tiếp bài hát theo yêu cầu đó tại một sự kiện đặc biệt nào đó. | 1 | null |
Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải (còn được viết tắt là THACO) là một công ty cổ phần được thành lập từ năm 1997 - với khởi điểm là mua bán, sửa chữa xe đã qua sử dụng. Năm 2003, hưởng ứng và thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, THACO đã đầu tư vào Khu kinh tế mở Chu Lai tại tỉnh Quảng Nam với khởi đầu là sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Trải qua 25 năm hình thành và phát triển, THACO hiện là Tập đoàn công nghiệp đa ngành với 6 Tập đoàn thành viên, trong đó THACO AUTO - điều hành lĩnh vực ô tô, THACO AGRI - điều hành lĩnh vực Nông nghiệp và cơ giới hóa nông nghiệp.THACO INDUSTRIES – điều hành lĩnh vực Cơ khí chế tạo & Công nghiệp hỗ trợ; THADICO – điều hành lĩnh vực Đầu tư - Xây dựng; THISO – điều hành lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ; THILOGI – điều hành lĩnh vực Giao nhận vận chuyển (Logictics). Các ngành bổ trợ cho nhau và có tính tích hợp cao. Với tầm nhìn là Tập đoàn công nghiệp đa ngành hàng đầu khu vực ASEAN, phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập khu vực và Thế giới. THACO đang từng bước thực hiện sứ mệnh "Mang lại giá trị cho khách hàng, đối tác, xã hội và phát triển kinh tế đất nước với tinh thần tận tâm phục vụ" | 1 | null |
Heloderma là chi duy nhất của họ Helodermatidae, bao gồm các loài thằn lằn độc nguồn gốc ở miền tây nam Hoa Kỳ, México, và xa về phía nam như Guatemala. Nó bao gồm hai loài riêng biệt, với sáu phân loài. Họ hàng gần nhất của chúng là Họ Thằn lằn rắn (Anguidae).
Helodermatidae gồm các loài thằn lằn lớn, chắc nịch, di chuyển chậm và thích môi trường sống bán khô cằn. Đuôi của chúng ngắn và được sử dụng như cơ quan lưu trữ chất béo. Chúng được bao phủ bởi vảy nhỏ giống hột cườm, không xếp đè lên nhau, với da xương ở mặt dưới của cơ thể. Cả hai loài trong họ đều sẫm màu, với những mảng màu vàng nhạt hoặc hơi hồng.
Các thành viên của họ có nọc độc. Tuyến nọc độc nằm ở hàm dưới của chúng, không giống như tuyến nọc của rắn nằm ở hàm trên. Ngoài ra, không giống như rắn, Helodermatidae thiếu cơ tiêm nọc. Nọc độc thường chỉ được sử dụng trong phòng thủ, chứ không phải trong chế ngự con mồi, và những con thằn lằn phải nhai nạn nhân của nó để nọc độc vào thịt. Các tuyến nọc được cho là đã phát triển sớm ở dòng dõi dẫn đến Helodermatidae hiện đại, do đã có sự hiện diện của nọc độc ngay cả trong hóa thạch 65 triệu năm tuổi của chi "Paraderma".
Helodermatidae là các loài ăn thịt, săn động vật gặm nhấm và động vật có vú nhỏ khác, và ăn trứng của các loài chim và bò sát. Chúng là loài đẻ trứng.
Phân loại.
Họ Helodermatidae
Trong điều kiện nuôi nhốt.
"H. h. horridum", "H. h. exasperatum", và cả hai phân loài của "H. suspectum" thường được tìm thấy trong điều kiện nuôi nhốt, và khá phổ biến ở các vườn thú tại nhiều nơi ở thế giới. Chúng thường bị giam cầm phục vụ cho buôn bán thú lạ, và có thể bán với giá cao. Hai phân loài khác của "H. horridum" là rất hiếm, và chỉ có một vài mẫu vật bị giam cầm được biết đến. | 1 | null |
Quái vật Gila (tên khoa học: Heloderma suspectum, ) là một loài thằn lằn độc nguồn gốc ở tây nam Hoa Kỳ và tây bắc bang Sonora của Mexico. Nó là một loài thằn lăn nặng nề di chuyển chậm, dài tới 60 cm (2,0 ft), quái vật Gila là thằn lằn có nọc độc bản địa Mỹ và là một trong hai loài thằn lằn có nọc độc đã được biết đến ở Bắc Mỹ, loài còn lại là thằn lằn đính cườm ("H. horridum"). Mặc dù quái vật Gila có nọc độc, nhưng bản chất chậm chạp của nó có nghĩa là con người ít bị nó mối đe dọa. Tuy nhiên, nó có một danh tiếng đáng sợ và đôi khi bị giết chết dù đã được bảo vệ bởi pháp luật bang Arizona.
Phân bố và môi trường sống.
Quái vật Gila được tìm thấy tại tây nam Hoa Kỳ và México, một phạm vi bao gồm Sonora, Arizona, các phần của California, Nevada, Utah và New Mexico (nhưng không bao gồm Baja California). Chúng sinh sống ở bụi rậm, các sa mạc có cây mọng nước và rừng gỗ sồi, tìm nơi trú ẩn trong hang hốc, bụi rậm, và dưới các hốc đá ở vị trí dễ tiếp cận hơi ẩm. Trên thực tế, quái vật Gila có vẻ thích nước và có thể thấy chúng ngâm mình trong vũng nước sau cơn mưa mùa hè. Chúng tránh sống trong khu vực đất phẳng thoáng rộng và đất nông nghiệp.
Sinh thái học.
Quái vật Gila dành 90% thời gian của chúng dưới lòng đất trong hang đá hoặc nơi trú ẩn. Nó hoạt động vào buổi sáng vào mùa khô (mùa xuân và đầu mùa hè), sau đó vào mùa hè, chúng có thể hoạt động vào những đêm ấm áp hoặc sau cơn giông. Nó duy trì một nhiệt độ bề mặt cơ thể khoảng 30 °C (86 °F). Quái vật Gila chạy chậm, nhưng có sức chịu đựng tương đối cao và khả năng háo khí tối đa (VO2 tối đa). Chúng bị cả chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ lẫn các loại chim ăn thịt săn bắt.
Chế độ ăn uống.
Quái vật Gila ăn thịt các loại chim, thú, ếch, thằn lằn, côn trùng nhỏ và xác thối rữa. Quái vật Gila chủ yếu ăn chim và trứng bò sát, và ăn không thường xuyên (chỉ 5-10 lần một năm trong tự nhiên), nhưng khi nó ăn, có thể ăn lên đến một phần ba khối lượng cơ thể của nó.
Con mồi có thể bị nghiền nát đến chết nếu lớn hoặc ăn sống nếu nhỏ, nó bị nuốt đầu vào trước và bị nuốt vào nhờ các cơn co và gập cong cổ. Điều bất thường là ngay sau khi thức ăn đã bị nuốt, quái vật Gila ngay lập tức lại tiếp tục búng lưỡi và thể hiện hành vi tìm kiếm, có thể là kết quả của lịch sử tìm kiếm con mồi ẩn nấp trong bụi như trứng và chim non trong tổ. Quái vật Gila có thể trèo cây và xương rồng để tìm kiếm trứng.
Tình trạng bảo tồn.
Phá hoại môi trường đã tác động xấu đến số lượng quái vật Gila. Năm 1952, chúng trở thành loài động vật có độc đầu tiên được pháp luật bảo vệ. Quái vật Gila được IUCN liệt kê là loài sắp bị đe dọa. Năm 1963, vườn thú San Diego trở thành vườn thú đầu tiên cho quái vật Gila sinh sản thành công trong điều kiện giam cầm. | 1 | null |
Rắn bông súng (tên khoa học: Enhydris enhydris), là một loài rắn có nọc độc nhẹ của châu Á.Gọi là rắn bông súng do chúng thường di chuyển trên lá súng.
Phân bố.
Đông nam Trung Quốc, Indonesia (Bangka, Belitung, Java, Kalimantan, Sulawesi, Sumatra, We);
, Bangladesh; Campuchia; trung nam Ấn Độ; Lào;
, Malaysia (Malaya và Đông Malaysia, Borneo, Pulau Tioman;
, Myanmar (Burma); Nepal; Pakistan;
, Singapore (?); Sri Lanka; Pulau Bangka, Thái Lan; Việt Nam | 1 | null |
Ruth Simon sinh khoảng năm 1962 là một nhà báo người Eritrea đã đoạt Giải Tự do Báo chí Quốc tế năm 1998.
Sự nghiệp.
Simon cộng tác với Mặt trận Giải phóng Nhân dân Eritrea trong thời kỳ Chiến tranh giành độc lập Eritrea, phụ trách việc in ấn bí mật những tài liệu của Phong trào. Bà cũng làm trưởng biên tập viên tạp chí "Bana" của "Hiệp hội Tái hội nhập Nữ chiến binh du kích Eritrea".
Bị giam tù.
Sau chiến tranh, bà bị chính phủ Eritrea bắt ngày 25.4.1997 khi đang làm thông tín viên cho hãn thông tấnAFP. Ủy ban bảo vệ các nhà báo nói rằng bà bị bắt vì tường thuật một tuyên bố được cho là của tổng thống Isaias Afewerki là các binh sĩ Eritrean chiến đấu chung với các nhóm nổi dậy người Sudan. Ngày hôm sau bài tường thuật của bà, Mặt trận Nhân dân vì Dân chủ và Công lý thuộc đảng của Afewerki, đã đưa ra một tuyên bố gọi đó là một "sự xuyên tạc trắng trợn" và nói rằng các lực lượng Eritrea không tham gia vào cuộc Nội chiến Sudan lần thứ hai.
Simon là nhà báo đầu tiên bị bắt giữ ở Eritrea từ khi nước này độc lập 4 năm trước đây. Simon bị giam tù mà không đưa ra tòa án xét xử cho tới tháng 5 năm 1998, khi Afewerki tuyên bố là phóng viên này sẽ bị truy tố ra tòa và rằng Eritrea sẽ kiện hãng thông tấn AFP về tội loan truyền tin sai lầm thông qua "người được gọi là đại diện". Tổ chức Phóng viên không biên giới có trụ sở ở Paris cũng như "Nhóm Công tác Liên Hợp Quốc về việc giam giữ tùy tiện" ("United Nations Working Group on Arbitrary Detention") và "Ủy ban bảo vệ các nhà báo" đã kháng án nhân danh bà. Ngày 29.12.1998, Simon đã được thả ra mà không hề bị truy tố trước tòa án.
Đời tư.
Ruth Simon đã kết hôn và ly dị. Bà có ba người con.
Giải thưởng.
Tháng 11 năm 1988, Simon được Ủy ban bảo vệ các nhà báo trao Giải Tự do Báo chí Quốc tế vắng mặt.. Bà là nhà báo Eritrea đầu tiên đoạt được giải này. | 1 | null |
Cá trà sóc (danh pháp khoa học: Probarbus jullieni) là một loài cá vây tia nước ngọt trong họ Cyprinidae.
Nó được tìm thấy ở Campuchia, Lào, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam.
Nó khá lớn, đạt chiều dài 150 cm (59 in) và cân nặng 70 kg (150 lb), và cư trú chủ yếu ở dòng chính của các con sông lớn như sông Mê Kông, sông Chao Phraya, sông Meklong hay sông Pahang và sông Perak.
Nó được coi là một cá thực phẩm tuyệt vời nhưng đắt tiền do tình trạng khan hiếm. Đánh bắt quá mức được coi là nguyên nhân chính cho tình trạng khan hiếm của nó.
Mô tả.
Đặc điểm xác định.
Loài cá này có nhiều đặc điểm nhận dạng. Đáng chú ý nhất là 5 sọc dọc trên đường bên của nó. Dễ nhận thấy, nó có râu hàm. Những cái râu này được sử dụng như cơ quan xúc giác gần miệng. Vì vậy, các râu này cho nó cảm giác về môi trường xung quanh tốt hơn. Để di chuyển, nó có một vây lưng với 1 gai và 13 tia vây mềm và 8 tia vây hậu môn. Tổng chiều dài tối đa của nó là khoảng 165 cm và cân nặng tối đa là 70 kg. Nó có thể sống tới 50 năm và dần dần phát triển về kích thước theo thời gian.
Tập tính.
Cá trà sóc ăn động vật có vỏ, tôm, và thực vật thủy sinh. Chúng có xu hướng ăn nhiều hơn vào mùa mưa, khi thức ăn dồi dào, và ít hơn vào mùa khô, khi thức ăn khan hiếm. Giống như nhiều loài cá sông khác, vào đời của nó phụ vào mưa gió mùa, có nghĩa là cá trà sóc chiếm các vùng khác nhau trong suốt cả năm tùy theo mùa.
Sinh sản.
Đây là loài cá di cư, và mô hình di cư của nó xoay quanh mùa sinh sản của nó. Cá trưởng thành di cư ngược dòng vào mùa khô để tạo thành cộng đồng sinh sản. Sau khi đẻ trứng xong, cá con mới nở bơi vào đồng bằng ngập lũ suốt mùa mưa. Điều này có nghĩa rằng mô hình di cư của nó xoay quanh sự thay đổi từ mùa khô sang mùa mưa. Mô hình di cư này quan trọng cho sự sống còn của loài nguy cấp này, nhưng có nhiều mối đe dọa tới môi trường sống của nó, chẳng hạn như nuôi trồng thủy sản và thủy điện đe dọa phát triển mô hình di cư này, và do đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của chúng.
Môi trường sống.
Trong lịch sử, loài cá này được tìm thấy ở lưu vực sông sông Mê Kông, sông Irrawaddy, Chao Phraya, Meklong, Phahang, và Perak của Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Myanmar và Malaysia. Hiện nay, cá trà sóc được tìm thấy chủ yếu ở lưu vực sông Mê Kông, tuy nhiên có một số quần thể nhỏ ở Phahang và Perak. Trong các lưu vực sông, cá trà sóc được tìm thấy ở các thác ghềnh chảy nhanh và hồ nước sạch. Vào mùa mưa, chúng sống ở các vùng nước sâu, nhưng vào mùa khô, cũng là của sinh sản mùa, chúng sống trong vùng nước nông. | 1 | null |
Key Finders, được biết đến như một thiết bị tìm kiếm hoặc định vị điện tử, chính là những thiết bị điện tử kích thước nhỏ dùng để tìm kiếm dựa trên định vị địa điểm. Mục đích của Key finder là để tiết kiệm thời gian tìm kiếm chìa khóa hay các vật dụng cá nhân. Một số Key finder kêu tiếng beep để thông báo.
Sản phẩm Key finder thế hệ đầu tiên.
Sản phẩm key finders thế hệ đầu tiên được thiết kế dựa trên cơ sở nhận biết âm thanh khi nghe thấy 1 tiếng vỗ tay hoặc tiếng huýt sáo sau đó chúng kêu tiếng beep để người sử dụng có thể tìm thấy chúng. Việc xác định đâu là tiếng vỗ tay hay tiếng sáo có vẻ khó khăn, dẫn đến hiệu suất kém và báo động sai. Chính vì chất lượng kém và chưa thực tế, những sản phẩm key finder này đã nhanh chóng bị loại bỏ và trở nên kém phổ biến.
Sản phẩm Key Finders thế hệ thứ 2.
Sản phẩm Key finders thế hệ thứ hai loại bỏ các lỗi như cảnh báo sai, một số có tuổi thọ pin dài hơn. Vì thiết bị này trở nên nhỏ hơn và rẻ hơn, người dùng đã có thể sử dụng trong thực tế khi trang bị cho vật dụng 1 máy thu nhỏ. Một máy phát thẻ tín dụng được sử dụng để kích hoạt máy thu. Tất cả các Key finder phải lắng nghe để tìm kiếm nguồn phát truyền dẫn,và dẫn đến việc phải thay pin trong khoảng từ 3 tháng đến 1 năm. Một số nhà phân phối cung cấp dịch vụ hoàn trả chìa khóa có tính phí, giúp hoàn trả lại chìa khóa mà khách hàng làm mất trên taxi, xe buýt hoặc những địa điểm công cộng khác, cung cấp cho khách hàng chi tiết về địa điểm của nó. Thẻ truyền phát tín hiệu cũng giúp cung cấp thông tin để giúp người sở hữu hợp pháp tìm lại được thẻ.
Sản phẩm Key Finders thế hệ thứ 3.
Sản phẩm Key finder thế hệ thứ 3 mới nhất không cần đến cơ sở kết hợp, chúng đều có những chức năng giống nhau và dựa trên hệ thống peer-to-peer. Ví dụ, người dùng có thể dùng 1 chiếc ví để tìm chìa khóa thất lạc và ngược lại, hoặc dùng điện thoại di động để tìm điều khiển tivi. Ngoài ra, vì mỗi người có thể truyền tín hiệu riêng của mình, key finder có thể trả lời bằng tiếng beep hoặc nhấp nháy.
Tính năng.
+ Tìm đồ vật nhanh chỉ bằng một tiếng huýt
+ Móc tròn giúp gắn vào chìa khóa nhà, khóa xe, để trong túi xách hay gắn vào đồ vật khác
+ Âm thanh to, rõ ràng cùng đèn LED nhấp nháy giúp tìm đồ vật dễ dàng ngay cả trong bóng tối.
Thông số kỹ thuật của 1 sản phẩm tiêu biểu.
Chủng loại Electronic Key Finder,Whistle Key Finder
Chất liệu Plastic,Plastic, ABS, Stainess Steel Keyring
Loại nhựa ABS
Xuất xứ Guangdong China (Mainland)
Quảng Đông, Trung Quốc (Đại Lục)
Nhãn hiệu AGETOY
Kích cỡ 57*30*15mm
Cấp giấy chứng nhận ROHS,CE,EN71,SGS
Loại pin: A27 X 2PCS
Tần số 433.92 MHz or 303.875 MHz
Âm thanh 80-95 dB
Khoảng cách: 50~80 feets
Thời lượng pin 1~3 months
Logo In, giấy nhãn dán với lớp phủ epoxy
Weight 13g
Kinh nghiệm của người dùng Key finder.
Một thiết bị tìm kiếm phải được gắn vào các thiết bị mà bạn cần tìm khi chúng bị mất. Và bạn chỉ cần làm hành động như vỗ tay hoặc nhấn nút để tìm kiếm chúng. Các chức năng cơ bản nhất của 1 thiết bị tìm kiếm key finder là kêu tiếng beep, nhấp nhánh ánh đèn hoặc bằng cách nào đó hướng dẫn người dùng tìm các vật bị thất lạc.
Key finder là sản phẩm rất sáng tạo, mới lạ và thực sự hiệu quả với người sử dụng, đặc biệt với những người hay bị quên và mất chìa khóa. | 1 | null |
Sahara (hay còn được biết với tựa đề Desert Storm - "Bão sa mạc") là một bộ phim chiến tranh - hành động Mỹ của đạo diễn Brian Trenchard-Smith thực hiện. Phim phát hành vào năm 1995, có sự tham gia của diễn viên James Belushi trong vai chính. Đây là phiên bản làm lại từ một bộ phim cùng tên năm 1943 của đạo diễn Zoltan Korda và diễn viên Humphrey Bogart.
Nội dung.
Phim lấy bối cảnh tháng 6 năm 1942 ở Bắc Phi, trước khi diễn ra Trận El Alamein thứ nhất trong Thế chiến thứ hai. Trung sĩ Joe Gunn và đồng đội đang điều khiển một chiếc xe tăng M3 Lee đi về phía Nam sa mạc Sahara. Trên đường đi họ gặp một nhóm lính Đồng minh. Nhóm lính Đồng minh, dẫn đầu bởi Đại úy Halliday, quyết định đi theo Gunn. Sau đó họ gặp người lính Anh gốc Sudan tên Tambul và gã tù binh người Ý tên Giuseppe, rồi bắt giữ tên phi công Đức von Schletow sau khi bắn hạ máy bay của hắn.
Cả nhóm dừng chân tại một ngôi nhà hoang to lớn giữa sa mạc, họ tìm nước ở cái giếng gần đó. Sau khi tìm thấy nước, nhóm lính Đồng minh quyết định ở lại bảo vệ cái giếng này, sẵn sàng đối phó với 500 quân Đức đang đến gần. Nhóm lính Đồng minh đã đẩy lùi quân Đức thành công trong đợt tấn công đầu tiên.
Cái giếng bắt đầu trở nên khô cạn. Gunn ra gặp Thiếu tá Hans von Falken - chỉ huy quân đoàn Phi Châu của Đức Quốc Xã - để đàm phán. Gunn giả vờ như cái giếng còn nhiều nước và đàm phán thêm để câu giờ. Quân Đức sau đó tấn công lần nữa, từng người lính Đồng minh hi sinh. Trong lúc giao chiến, von Schletow đã bỏ chạy để thông báo với quân Đức rằng cái giếng đã cạn. Giuseppe vội chạy ra cản lại thì bị làn mưa đạn của quân Đức bắn gục. Tambul liền đuổi theo giết chết von Schletow, nhưng anh bị bắn chết lúc chạy về. Trước lúc lâm chung Tambul vẫn kịp giơ cao huy chương Thập tự của von Schletow để báo cho đồng đội rằng hắn đã bị anh xử lý.
Trong cuộc đàm phán tiếp theo, Jean "Frenchie" Leroux ra gặp von Falken rồi giết chết hắn cùng tên phụ tá đi theo, lúc chạy về anh bị tên lính Đức còn sống bắn chết. Chỉ còn lại Gunn và Osmond Bates, họ kiểm tra số lượng vũ khí đạn dược còn sót lại rồi đứng lên tiếp tục chiến đấu với quân phát xít. Cuối cùng quân Đức quá khát nước nên chấp nhận giao nộp vũ khí rồi chạy đến cái giếng uống nước. Gunn nhận ra cái giếng có nước trở lại là do những phát đạn súng cối của quân Đức đã mở ra mạch nước. Gunn và Bates nhặt hết số vũ khí trong khi quân Đức đang uống nước. Vào cảnh cuối phim, quân đội Anh đã đến nơi và bắt giữ các tù binh Đức. Gunn và Bates, hai người lính Đồng minh duy nhất còn sống sót, lên xe tăng chạy đi.
Quay phim.
Đoàn làm phim đã bấm máy ở Port Stephens, New South Wales, nước Úc để lấy bối cảnh cho sa mạc Sahara. | 1 | null |
Karl Hermann Hugo von Malotki (24 tháng 12 năm 1830 tại Friedrichsfelde, huyện Bublitz – 14 tháng 9 năm 1911 tại Naumburg) là một Trung tướng quân đội Phổ-Đức, đã từng tham gia trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức các năm 1870 – 1871.
Tiểu sử.
Hermann von Trzebiatowski sinh vào tháng 12 năm 1830, trong gia đình quý tộc cổ "Malotki", là con trai của Trung úy Johann Wilhelm von Malotki (1779 – 1831) với bà Karoline Sabine Wilhelmine von Kleist (1788 – 1880). Vào năm 1864, ông thành hôn với bà Helene Julie Pauline von Zastrow (1846 – 1922), con gái Trung tướng Julius von Zastrow (1802 – 1884). Cuộc hôn nhân đã mang lại cho họ 8 người con (4 trai, 4 gái).
Tiểu sử.
Sự nghiệp quân sự của ông khởi đầu vào năm 1843 khi ông trở thành một thiếu sinh quân ở Kulm, nhưng ngay từ năm 1846, ông đã chuyển vào trường thiếu sinh quân tại thủ đô Berlin.
Hai năm sau (1848), ông nhập ngũ quân đội Phổ với cấp hàm Chuẩn úy trong Trung đoàn Bộ binh số 2, sau đó năm 1849 ông trở thành Thiếu úy trong Trung đoàn Bộ binh số 14. Ông làm sĩ quan phụ tá từ năm 1853 cho đến năm 1857, được thăng cấp bậc Thiếu úy vào năm 1858, gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 54 vào năm 1860 rồi được lên chức Đại úy và Đại đội trưởng vào năm 1860.
Trên cương vị này, Malotki đã tham gia chiến dịch Böhmen của cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo vào năm 1866, chiến đấu trong các trận đánh ở Gitschin vào ngày 29 tháng 6 và Königgrätz vào ngày 3 tháng 7.
Hai năm sau (1868), ông được cắt cử sang Trung đoàn Phóng lựu số 89 và được lên quân hàm Thiếu tá vào năm 1870. Cùng năm đó, ông được giao tạm quyền chỉ huy Tiểu đoàn II.
Trong các năm 1870 – 1871, ông tham gia Chiến dịch tấn công Pháp, với các hoạt động quân sự tại Metz, Toul, Paris, Le Mans, Dreux, la Madeleine, Belleme, Villejouan, Morree và Connere.
Vào năm 1871, Malotki được bổ nhiệm làm Tư lệnh tạm quyền Tiểu đoàn III, sau đó ông được nhậm chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn II. Đến năm 1876, ông được thăng hàm Thượng tá và vào năm 1880, ông được lãnh chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh số 69. Malotki được lên cấp Đại tá vào năm 1880 và được ủy nhiệm Chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh số 95 vào năm 1881. Sau đó, vào năm 1885, Malotki được lên chức Thiếu tướng, ba năm sau (1888) ông được gia phong hàm Trung tướng. Ông từ trần vào tháng 9 năm 1911. | 1 | null |
Khoảng cách đồng chuyển động và khoảng cách riêng, trong Vụ Nổ Lớn, là hai khái niệm về khoảng cách có liên hệ với nhau.
Khoảng cách riêng là khoảng cách giữa hai vật thể đo bởi một thước đo nhất định tại cùng một thời điểm vũ trụ nhất định. Khoảng cách này sẽ tăng dần theo thời gian nếu vũ trụ giãn nở. Khoảng cách đồng chuyển động được quy ước là bằng với khoảng cách riêng tại thời điểm hiện tại, và được thiết kế để không thay đổi do sự giãn nở của vũ trụ, nếu hai vật thể vẫn "đứng yên" trong vũ trụ, hay "đồng chuyển động" trong vũ trụ giãn nở. Cụ thể, khoảng cách đồng chuyển động đo trong hệ quy chiếu đồng chuyển động gắn với người quan sát đồng chuyển động với sự giãn nở của vũ trụ. Người quan sát đồng chuyển động là người thấy vũ trụ, gồm phông bức xạ vũ trụ, là luôn đẳng hướng. | 1 | null |
Danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á theo tỉ lệ mặt nước được thống kê dựa trên số liệu của The World FactBook của Mỹ và Liên Hợp Quốc, trong đó có một số cập nhật từ các chính phủ. Bảng thống kê gồm 2 cột chính: Tỉ lệ mặt nước và Tổng diện tích để dễ đối chiếu và so sánh.
Danh sách bao gồm thống kê 55 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, trong đó có 48 quốc gia độc lập và 7 vùng lãnh thổ (Đài Loan, Hông Kông, Ma Cao, Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh, Abkhazia, Nam Ossetia, Nagorno-Karabakh). | 1 | null |
Vạc một loại vật dụng cổ ở Việt Nam, có hình lòng chảo, có thể được dùng để nấu cơm hoặc thức ăn cho nhiều người trong những dịp lê hội. Vạc thường được đúc bằng đồng, và còn thường được gọi là vạc đồng. Vạc có thể được trưng bày ở những nơi công cộng như là tài sản chung của cộng đồng, biểu tượng cho sự thịnh vượng và uy quyền. Trong kinh thành Huế có các vạc của triều Nguyễn. Các thời đại vua khác ở Việt Nam cũng có vạc, như vạc Phổ Minh đời nhà Trần. Vạc cũng có thể được dùng để đun dầu và hành hình những phạm nhân, ví dụ như trong truyền thuyết về địa ngục của Trung Quốc hay thời vua Đinh Tiên Hoàng, trong đó phạm nhân sẽ bị thả vào vạc dầu đang được đun sôi .
Ngoài Việt Nam.
Nhiều vật dụng có hình dạng, cấu tạo và mục đích sử dụng tương tự như vạc đã xuất hiện nhiều nơi trên thê giới, người ta gọi là "nồi hầm". Trong văn hóa châu Âu, vạc được các phù thủy dùng để nấu các loại thuốc có phép lạ. Vật có hình dạng của vạc và bằng đồng, gắn với các biểu tượng văn hóa, được tìm thấy ở Thụy Điển, ứng với thời kỳ đồ đồng, hay Đan Mạch (vạc Gundestrup). | 1 | null |
Infanta María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha (ngày 30 tháng 01 năm 1832 - 02 tháng 02 năm 1897) là Infanta của Tây Ban Nha và Công tước phu nhân xứ Montpensier. Cô là con gái út của vua Fernando VII của Tây Ban Nha và người vợ thứ tư của ông Maria Cristina của Hai Sicilie, vương hậu nhiếp chính, cũng là cháu gái của mình. | 1 | null |
María Isabel của Tây Ban Nha, María Isabel của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón (tiếng Tây ban Nha: "María Isabel de Orleans y Borbón"; tiếng Pháp: "Marie-Isabelle d'Orléans"; 21 tháng 09 năm 1848 - 23 tháng 04 năm 1919), là một thành viên vương thất Tây Ban Nha. Bà cũng là một quý tộc Pháp với tước hiệu Vương tôn nữ của Orléans cũng như Bá tước phu nhân xứ Paris.
Tiểu sử.
María Isabel sinh ra ở Sevilla, cha mẹ cô là Vương tử Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và Infanta María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Antoine là con trai út của Vua Louis-Philippe I, vị vua cuối cùng của Pháp, và Maria Amalia của Napoli và Sicilia. Infanta María Luisa là con gái của Vua Fernando VII của Tây Ban Nha và người vợ thứ tư Maria Cristina của Hai Sicilie. Tất cả 4 ông bà của cô và 7 trong số 8 ông cố của cô đều là thành viên của Vương thất Pháp thuộc Vương tộc Bourbon.
Hôn nhân và hậu duệ.
Vào ngày 30 tháng 5 năm 1864 tại Nhà thờ Thánh Raphael ở Kingston Upon Thames, Vương quốc Anh, María Isabel khi đó mới 18 tuổi đã kết hôn với người anh họ Philippe của Orléans, người thừa kế ngai vàng nước Pháp với tên gọi Philippe VII. Họ có tất cả 8 người con:
Vì vương thất Pháp phải sống lưu vong kể từ khi ông nội của họ là Vua Louis-Philippe I thoái vị vào năm 1848, María Isabel và chồng lần đầu tiên sống tại York House, Twickenham. Năm 1871, gia đình được phép quay trở lại Pháp, nơi họ sống ở Hôtel Matignon ở Paris và ở Château d'Eu ở Normandie.
Bá tước phu nhân xứ Paris được biết đến với thói quen hút xì gà khá nam tính và tham gia các môn thể thao dã ngoại, đặc biệt là bắn súng, nhưng có thể khiến mọi người ngạc nhiên về sự thanh lịch của bà trong những dịp trang trọng. .
Năm 1886, họ buộc phải rời Pháp lần thứ hai. Năm 1894, chồng bà chết lưu vong tại Stowe House ở Buckinghamshire. María Isabel sống ở Château de Randan ở Pháp và qua đời năm 1919 tại cung điện của bà ở Villamanrique de la Condesa, gần Sevilla. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.