text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Nguyễn Hoàng Hải (sinh ngày 30 tháng 4 năm 1982 tại Hà Nội), thường được biết đến với nghệ danh Hoàng Hải, là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh được biết đến khi sở hữu chất giọng nam cao âm vực rộng. Cuộc đời và sự nghiệp. 1985-2004: Bắt đầu sự nghiệp âm nhạc. Năm 1999, Hoàng Hải thi đỗ thủ khoa đầu vào khoa thanh nhạc trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Hà Nội (nay là trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Hà Nội), cũng vào năm này, anh và một số người bạn cùng trường thành lập nhóm nhạc lấy tên là Tình Bạn. Hoàng Hải đóng vai trò là người lĩnh xướng. Mùa hè năm 2000, Hoàng Hải cùng nhóm Tình Bạn tham gia vào cuộc thi Các ban nhóm nhạc trẻ Hà Nội và đoạt giải nhì tại cuộc thi này. Tình Bạn trở thành một trong những nhóm nhạc được giới học sinh sinh viên Hà Nội yêu thích; và Hoàng Hải cũng là một trong những thành viên nổi bật trong nhóm. Năm 2004, Hoàng Hải tách nhóm chuyển sang hát đơn. Năm 2003, Hoàng Hải ký hợp đồng làm ca sĩ độc quyền cho một công ty giải trí âm nhạc lớn tại TP HCM, sau đó anh chuyển vào miền Nam sống và làm việc. Tuy nhiên, thời gian này Hoàng Hải hầu như không có hoạt động gì, chỉ sau đó một năm (2004) anh lại quyết định chia tay với công ty này để quay về Hà Nội tiếp tục ca hát. 2005-2006: Sao mai điểm hẹn. Năm 2005, Hoàng Hải tham gia cuộc thi Sao Mai và lọt vào vòng chung kết. Năm 2006, Hoàng Hải đoạt giải ca sĩ được yêu thích nhất của cuộc thi Sao mai Điểm hẹn do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức. 2008-2014: Bứt phá. Từ năm 2008, Hoàng Hải thay đổi phong cách biểu diễn, từ những bài ca theo dạng ballad tình cảm mà chuyển sang các ca khúc thuộc thể loại R&B theo hướng giải trí với Album Vol.2, bao gồm các bài hát như "Em sẽ là giấc mơ", "Cứ im lặng đi", "Mắt cười", "Nỗi nhớ ngày đông"... Vào thời điểm này Hoàng Hải cùng với ca sĩ Trà My đoạt giải thưởng Ca sĩ trẻ triển vọng Làn Sóng Xanh năm 2008 do Đài tiếng nói TP HCM tổ chức. Đến năm 2009, Hoàng Hải lọt vào danh sách 10 ca sĩ hàng đầu Việt Nam tại chương trình Làn Sóng Xanh. Năm 2010, Hoàng Hải quay trở về Hà Nội để thực hiện MV "Hồ Gươm sáng sớm", một sản phẩm âm nhạc được đánh giá không bị lẫn lộn với bất cứ sản phẩm nào cùng phát hành thời điểm Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. "Hồ Gươm sáng sớm" là sự cộng hưởng của những tên tuổi trẻ viết và thể hiện sức sáng tạo về Hà Nội như: Lưu Thiên Hương, Nguyễn Đức Cường. Năm 2012 là một năm mang đầy dấu ấn của Hoàng Hải bằng phong cách trẻ trung và gần gũi hơn với công chúng cũng như khán giả yêu nhạc cả nước với liên tục những dự án hoạt động âm nhạc sôi nổi nhất từ trước đến nay với điểm nhấn là Album Vol.3 "Tìm Lại Thời Gian". 2023-nay: Trở lại. Sau gần một thập kỷ tạm ngưng các hoạt động âm nhạc, năm 2023, anh tham gia mùa thứ hai của "Ca sĩ mặt nạ" với mascot "Bố Gấu" và đầu quân về công ty giải trí DatVietVAC. Ngày 18 tháng 12 cùng năm, anh chính thức cho ra mắt ca khúc "Câu trả lời duy nhất", đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ trên con đường âm nhạc của anh sau 9 năm vắng bóng. Các giải thưởng. 2005: Vào vòng chung kết cuộc thi Sao Mai 2005 2006: Giải nhất cuộc thi Sao Mai điểm hẹn 2006 2008: Giải ca sĩ Triển Vọng của cuộc thi Làn Sóng Xanh Đài Tiếng Nói Nhân dân TP. HCM 2009: Lọt vào danh sách 10 ca sĩ được yêu thích nhất của Chương trình Làn Sóng Xanh 2009
1
null
Núi Herzl (tiếng Do Thái: הר הרצל Har Hertzel), hay còn gọi là Har Hazikaron (tiếng Do Thái: הר הזכרון - "núi tưởng niệm" Har HaZikaron). Tại Israel, núi Herzl được xem là nghĩa trang quốc gia. Nằm ở phía Tây của Jerusalem và được đặt tên theo Theodor Herzl, người sáng lập ra chủ nghĩa phục quốc Do Thái chính trị hiện đại. Mộ của Herzl nằm trên đỉnh đồi. Ngọn núi cao 834 mét so với mực nước biển. Đài tưởng niệm Yad Vashem, tưởng niệm các nạn nhân Holocaust, nằm ​​ở phía Tây của ngọn núi. Lịch sử. Từ năm 1948 tại Israel, núi Herzl đã được quyết định là nơi chôn cất lính của quân đội Israel ở phía Bắc. Sau đó, vào năm 1951, tại phía Nam núi Herzl đã được quyết định chôn lãnh đạo của đất nước và đặt chỗ trong một nghĩa trang quốc gia Israel. Một vài năm sau, họ cũng quyết định chôn cảnh sát và lực lượng an ninh khác trong nghĩa trang quân đội quốc gia. Núi Herzl đã từng là nghĩa trang quốc gia của Israel kể từ năm 1951, theo quyết định của chính phủ để thiết lập một nghĩa trang cho các lãnh đạo và liệt sĩ Israel. Núi Herzl là nơi chôn cất của bốn thủ tướng Israel: Levi Eshkol, Golda Meir, Yitzhak Shamir và Yitzhak Rabin (người được chôn cất bên cạnh vợ Leah). Tổng thống Israel cũng được chôn cất trên núi Herzl, và các nhân vật nổi bật khác như các nhà lãnh đạo Do Thái và các nhà lãnh đạo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Núi Herzl là địa điểm tổ chức nhiều sự kiện kỷ niệm và lễ kỷ niệm quốc gia. Nghĩa trang Quốc gia dân sự của Nhà nước Israel (Helkat Gedolei Ha'Uma). Nghĩa trang chính của Israel đối với các nhà lãnh đạo của đất nước Đài tưởng niệm các nạn nhân của khủng bố ở Israel. Đài tưởng niệm các nạn nhân của khủng bố ở Israel từ năm 1851 đến nay Nghĩa trang Quốc gia cảnh sát và binh lính. Trung tâm nghĩa trang cho các hậu vệ đã ngã xuống của Israel. Nằm ở phần phía Bắc của núi. Ngôi mộ của ngôi mộ cổ. Hang chôn cất của người Do Thái từ ngôi đền thứ 2 phát hiện tại Nghĩa trang Quốc gia năm 1954. Garden binh sĩ mất tích. Khu vườn cho những người lính mất tích từ năm 1914 cho đến ngày hôm nay. Hal Tưởng niệm Quốc gia. Đài tưởng niệm cho các chiến sĩ vô danh của Israel từ năm 1860 đến nay. Các hội trường mở cửa vào năm 2015 và đài tưởng niệm bên trong.
1
null
Lê Quang Sung (sinh 1905 - mất 1935), tên thật là Lê "Hoàn quê" ở xã Duy Hoà, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông là Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Chợ Lớn, đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân hãng rượu Bình Tây (tháng 8, năm 1930), của công nhân Bình Đăng, Bình Trị Đông đòi giảm sưu thuế Hoạt động cách mạng. Năm 1927, lúc đang học ở trường Quốc Học Huế, đã tham gia cuộc bãi khóa phản đối việc nhà trường đuổi học sinh Võ Nguyên Giáp với lý do " có tư tưởng bài Pháp" theo Quyết định của chánh mật thám Trung Kỳ là Sogny. Nhiều cuộc biểu tình phản đối đã nổ ra và có sự xô xát giữa cảnh sát, lính khố xanh với học sinh. Hơn 300 học sinh bị bắt. Nhà Hội của học sinh Quảng Nam cũng bị khám xét. Nhiều học sinh Quảng Nam bỏ học về quê. Lê Quang Sung về Đà Nẵng, được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sau đó vào Hội An, vừa dạy học tư, vừa gây cơ sở cách mạng tại đây. Giữa năm 1928, Lê Quang Sung cùng Đỗ Quỳ và Cao Hồng Lãnh được cử ra nước ngoài dự khóa huấn luyện chính trị. Về nước, ông vào Sài Gòn làm công nhân ở hãng FACI, chuyên sửa chữa tàu biển. Giữa năm 1930, sau khi thống nhất các nhóm cộng sản thành Đảng cộng sản Đông Dương. Bắt giam. Đầu năm 1931, cơ sở xứ ủy Nam Kỳ, Thành ủy Sài Gòn, Tỉnh ủy Gia Định, Chợ Lớn bị vỡ trước sự đánh phá ác liệt của địch, Lê Quang Sung bị bắt giam cùng với Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Diểu ở Khám Lớn, Sài Gòn. Sau 2 năm bị giam giữ, ngày 9 tháng 5 năm 1933, thực dân Pháp mở phiên tòa xét xử 121 chiến sĩ cộng sản; 9 người bị kết án tử hình, trong đó có Lê Quang Sung. Sau đó ông bị đày ra Côn Đảo. Qua đời. Năm 1935, chị bộ nhà tù tổ chức chuyến vượt biển về đất liền. Lê Quang Sung cùng Ngô Gia Tự được bố trí đi chuyến này. Chẳng may, thuyền gặp bão tố, bị đắm, tất cả những người trên thuyền đều hy sinh..
1
null
Theodor Herzl (, ; 2 tháng 5 năm 1860 – 3 tháng 7 năm 1904), tên khai sinh Benjamin Ze’ev Herzl (, hay còn gọi là חוֹזֵה הַמְדִינָה, "Hozeh HaMedinah". "Người nhìn xa trông rộng của quốc gia") là một nhà báo Áo-Hung gốc Do Thái Ashkenazi và cũng là cha đẻ của chủ nghĩa phục quốc Do Thái chính trị hiện đại và có ảnh hưởng tới Nhà nước Do Thái. Herzl thành lập Tổ chức Phục quốc Do Thái Thế giới và thúc đẩy việc nhập cư của người Do Thái vào Palestine trong nỗ lực hình thành một nhà nước Do Thái. Mặc dù qua đời trước khi thành lập, ông được biết đến như là cha đẻ của Nhà nước Israel. Mặc dù Herzl đã được đề cập cụ thể trong Tuyên ngôn Độc lập của Israel và được gọi chính thức là "người cha thiêng liêng của Nhà nước Do Thái", tức là người nhìn xa trông rộng đưa ra nền tảng, khuôn khổ thực tiễn và khuôn khổ cho chủ nghĩa chính trị Phục quốc Do Thái, ông không phải là lý thuyết gia hoặc nhà hoạt động Phục quốc Do Thái đầu tiên; các học giả, nhiều người trong số họ theo tôn giáo như các rabbi Yehuda Bibas, Zvi Hirsch Kalischer và Judah Alkalai, đã thúc đẩy một loạt các ý tưởng tiền chủ nghĩa Zion trước ông.
1
null
Sỏi là những viên đá dễ vỡ có kích thước từ những viên nhỏ cho đến những tảng lớn. Theo thang Udden-Wentworth, sỏi được phân loại thành "sỏi hạt" (kích thước >2 đến 4 mm) và "sỏi cuội" (kích thước từ >4 đến 64 mm). Khối lượng một mét khối sỏi nặng khoảng 1,8 tấn. Sỏi là một sản phẩm thương mại quan trọng, có nhiều ứng dụng. Nhiều đường giao thông được rải sỏi, nhất là ở khu vực nông thôn, nơi mật độ giao thông không nhiều. Nhìn chung, số lượng đường được rải sỏi nhiều hơn nhiều so với số đường bê tông hay đường nhựa; tính riêng ở Nga đã có trên 400.000 km (250.000 dặm) đường rải sỏi. Sỏi nhỏ và cát cũng quan trọng trong ngành sản xuất bê tông. Sỏi cũng có thể dùng làm vật dụng trang trí.
1
null
Quảng Thủy () là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Tùy Châu, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Thành phố có khoảng 890.000 cư dân vào năm 2004 và nằm gần ranh giới với tỉnh Hà Nam. Thành phố được thành lập vào tháng 12 năm 1988 trên cơ sở huyện Ứng Sơn cũ. Từ ngày 15 tháng 7 năm 2000, Quảng Thủy chuyển sang trực thuộc Tùy Châu. Hành chính. Thành phố cấp huyện Quảng Thủy được chia ra làm 17 đơn vị hành chính cấp hương, trong đó có 4 nhai đạo và 13 trấn. Ngoài ra thành phố này còn quản lí 3 đơn vị ngang cấp hương khác. Quảng Thủy (广水街道), Thành Giao (城郊街道) Đơn vị ngang cấp hương khác
1
null
John Gavin Malkovich (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1953) là diễn viên người Mỹ, nhà sản xuất, đạo diễn và là nhà thiết kế thời trang với nhãn hiệu riêng là Technobohemian. Trong 25 năm cuối sự nghiệp, Malkovich đã xuất hiện trong hơn 70 bộ phim ảnh. Với vai diễn viên trong hai phim "Places in the Heart" và "In the Line of Fire", ông đã nhận được đề cử giải Oscar. Ông cũng đã xuất hiện trong các bộ phim phê bình đánh giá như Empire of the Sun, Cánh đồng chết, Dangerous Liaisons, Of Mice and Men, Con Air, Being John Malkovich, và Red. Ông dự định xuất bản phim dựa theo nội dung cuốn sách The Perks of Being a Wallflower. Thời niên thiếu. Malkovich được sinh ra ở Christopher, Illinois. Ông bà nội là người Croatia, ở Ozalj tại Croatia. Mẹ ông là người gốc Scotland và Đức. Ông lớn lên ở Benton, Illinois trong một ngôi nhà lớn ở đường chính phía Nam. Cha ông, Daniel Leon Malkovich, là một giám đốc bảo tồn nhà nước và nhà xuất bản tạp chí bảo tồn Illinois. Trong suốt những năm trung học, Malkovich tham gia đóng nhiều vở kịch và chương trình âm nhạc. Ông cũng là thành viên của nhóm nhạc folk/rock, và là một thành viên trong nhà hát địa phương/bộ phim hài mùa hè ở Benton năm 1972, nơi ông đồng đóng vai chính trong Jean-Claude van Itallie của American Hurra. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông vào Đại học Đông Illinois, và sau đó chuyển đến Đại học bang Illinois, nơi ông theo học chuyên ngành trong nhà hát. Sự nghiệp. Năm 1976, Malkovich, cùng với Joan Allen, Gary Sinise, và Glenne Headly, đã trở thành một thành viên điều lệ của công ty nhà hát Steppenwolf tại Chicago. Ông đã chuyển đến thành phố New York vào năm 1980 để xuất hiện trong vở kịch Miền Tây thật sự thuộc hãng Steppenwolf của Sam Shepard và ông đã giành được giải thưởng Obie. Đầu năm 1982, ông xuất hiện trong A Streetcar Named Desire tại nhà hát Cầu nối Trí tuệ Chicago.
1
null
Điệp viên không không thấy (tên gốc tiếng Anh: Johnny English) là một bộ phim hành động hài năm 2003 của điện ảnh Anh Quốc nhại theo nhân vật điệp viên James Bond. Nhân vật chính của phim là điệp viên mang tên Johnny English do diễn viên hài nổi tiếng Rowan Atkinson thủ vai, cùng với các diễn viên khác là Natalie Imbruglia, Ben Miller và John Malkovich. Phần kịch bản do các nhà biên kịch của Bond, gồm Neal Purvis và Robert Wade, cùng với William Davies đảm nhiệm, với Peter Howitt ngồi ghế đạo diễn. Đây là phần phim đầu tiên trong loạt phim "Johnny English". "Điệp viên không không thấy" thu về tổng cộng 160 triệu USD toàn cầu. Phim được công chiếu tại Vương quốc Anh vào ngày 11 tháng 4 năm 2003, dẫn đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé trong ba dịp cuối tuần liên tiếp, trước khi bị ' hạ bệ. Phim được công chiếu tại Mỹ vào ngày 18 tháng 7 năm 2003. Tiếp sau bộ phim là hai phần phim tiếp nối là "Điệp viên không không thấy tái xuất" (2011) và ' (2018). Nội dung. Johnny English, một nhân viên của Cục tình báo Anh quốc MI7, mơ mình trở thành một điệp viên số 1 (Agent One), lần lượt vượt qua các hàng rào bảo vệ (với chó bảo vệ, các tay súng bắn tỉa...) và cuối cùng bị một người đàn bà xinh đẹp khống chế bằng súng. Johnny English vô hiệu hóa đối thủ bằng một cử chỉ lãng mạn và cả hai tiến gần nhau chuẩn bị hôn thì English bị đánh thức bởi phụ tá Angus Bough để chuẩn bị tài liệu cho điệp viên Agent One. Sau khi Agent One nhận nhiệm vụ, anh ta kịp báo về trung tâm chỉ huy rằng có một tổ chức tội phạm đang âm mưu nhằm vào vương miện của Nữ hoàng Anh, nhưng chưa kịp điều tra rõ thì bị trừ khử. Trong tang lễ của Agent One, English ngớ ngẩn để lọt một quả bom cài đặt sẵn vào trong nhà tang lễ và phát nổ và toàn bộ các điệp viên của MI7 bị thiệt mạng, ngoại trừ Johnny English và phụ tá Angus Bough. Theo yêu cầu của Thủ tướng Anh, Giám đốc MI7, mật danh Pegasus, đã phải bổ nhiệm điệp viên duy nhất còn lại là Johnny English làm điều tra viên chính cho vụ án này. Trong buổi ra mắt của bộ báu vật Hoàng gia Anh được tài trợ bởi nhà tài phiệt kinh doanh nhà tù, William the Conqueror, Pascal Sauvage, Johnny English đã gặp Lorna Campbell và chứng kiến báu vật hoàng gia, bao gồm vương miện và vương trượng bị đánh cắp. Theo dấu vết của đường hầm đào ngay trong nhà triển lãm ở Tháp London, English và Bough đã tìm được hai nhân viên dưới quyền của Pascal Sauvage đang vận chuyển các báu vật này và truy đuổi họ bằng ôtô nhưng thất bại. English và Bough báo sự việc lên Pegasus nhưng Pegasus đã gạt Pascal ra khỏi nghi vấn vì cho rằng Pascal là người có thế lực lớn, lại là bạn thân của Thủ tướng, đồng thời cấm English và Bough tiến hành các điều tra nhằm vào Pascal. Tuy nhiên, English và Bough vẫn bí mật điều tra về nhân vật này. Pascal chính là hậu duệ của dòng họ nhà William the Conqueror và theo ông ta thì lẽ ra gia đình ông ta mới xứng đáng được hưởng ngôi vị Hoàng gia Anh, và Pascal tiến hành đánh cắp báu vật để âm mưu cướp ngôi. Nhờ việc bí mật nhảy dù vào văn phòng của Pascal, English và Bough phát hiện ra Pascal là kẻ chủ mưu vụ đánh cắp vương miện nhằm âm mưu lên ngôi. Để lên ngôi được, cần có sự chủ trì đăng quang của tổng Giám mục Anh giáo xứ Canterburry. Pascal đã âm mưu nhờ người đóng giả làm tổng Giám mục Canterburry và bị English và Bough phát hiện khi đột nhập. Đồng thời English cũng xem được cuốn băng ghi thuyết trình âm mưu của Pascal biến nước Anh thành một doanh nghiệp nhà tù khổng lồ. Đồng thời, khi đột nhập vào văn phòng của Pascal, English cũng được Lorna Campbell trợ giúp và cô tiết lộ cô là nhân viên đặc vụ của Interpol Pháp đang điều tra Pascal. Tuy nhiên, Pascal phát hiện ra sự đột nhập của nhóm English và báo với Pegasus, và English cùng Bough đã bị đuổi việc ngay tức khắc. English buồn rầu ngồi ở nhà. Do kế hoạch bị lộ với English, Pascal đã thay đổi kế hoạch: thủ tiêu kẻ giả dạng Giám mục Canterburry, vứt trả lại báu vật, đồng thời đột nhập vào lâu đài của Nữ hoàng Elizabeth II, bức bách bà ký vào thư thoái vị và nhường ngôi cho Pascal. Nữ hoàng đã từ chối, nhưng nhóm sát thủ đã bắt chó của Nữ hoàng để đe dọa, buộc bà phải ký. Và Pascal được thông báo chuẩn bị trở thành vua nước Anh, và chuẩn bị ngày đăng quang. Trong lúc đó, Lorna Campbell đã xuất hiện và động viên English trở lại vụ án. Cả hai cùng đến tòa lâu đài của Pascal, nơi Pascal đang cùng họp bàn với các trùm tội phạm lớn trên thế giới. Cả hai bí mật đột nhập vào lâu đài Pascal theo hai đường và gặp nhau bên trong, cùng nghe âm mưu của Pascal, biến nước Anh - một hòn đảo cô lập thành một nhà tù lớn, và kêu gọi các trùm tội phạm góp vốn. English cùng Lorna bàn kế hoạch vào bắt cóc Pascal nhằm chạy trốn và làm kế hoạch của Pascal thất bại, nhưng English rất "vô tình" ấn nút trực tiếp truyền thanh cuộc bàn bạc bí mật của họ trên hệ thống âm thanh nổi trong phòng và cả hai cùng bị bắt. Sau đó, Bough giải cứu cả hai và cả ba cùng quay về London khi Pascal chuẩn bị lễ đăng quang. Trong buổi lễ đăng quang, English đột nhập vào và đóng giả làm linh mục xứ England, phản đối sự lên ngôi của Pascal nhưng thất bại trong việc vạch mặt Pascal vì toàn bộ các chứng cứ mang theo từ lâu đài của Pascal đều bị English làm hỏng một cách hết sức lãng xẹt. English đã cố gắng cướp vương miện từ tay Giám mục xứ Canterburry, khiến Pascal nổi nóng rút súng bắn loạn xạ trong phòng nhưng không trúng. Sau đó English từ trên cao nhảy xuống đã đạp Pascal ra khỏi ngai vàng và khiến Giám mục vô tình đội vương miện lên đầu, tuyên bố phong Vua. English trở thành vua nước Anh, ra lệnh bắt Pascal và điều tra các tội của Pascal, sau đó thoái vị trả lại ngôi vị cho Nữ hoàng Elizabeth II. Nữ hoàng Anh cảm kích trước sự trợ giúp của English và đề nghị tặng thưởng nhưng English đã từ chối và trả lời rằng đó là nghĩa vụ của mình với tổ quốc. Phim kết thúc với cảnh English cùng Lorna Campbell trở thành một cặp đôi và đi du lịch và English đã thổi bay cô ta lên trời vì ấn nhầm nút trên xe. Âm nhạc. Phim đã sử dụng một số bản nhạc và bài hát dưới đây: Đánh giá chuyên môn. "Điệp viên không không thấy" nhận được nhiều ý kiến đánh giá tiêu cực từ giới chuyên môn. Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, phim nhận được 33% lượng đồng thuận dựa theo 121 bài đánh giá, với điểm trung bình là 4,8/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí rằng, "Một trò đùa điệp viên vô vị nhằm cố gắng moi ra những tiếng cười đầy khiên cưỡng." Trên trang Metacritic, phần phim đạt số điểm 51 trên 100, dựa trên 32 nhận xét, chủ yếu là những ý kiến đối nghịch nhau. Phần kế tiếp. Tháng 10 năm 2011, bộ phim tiếp theo trong loạt phim "Johnny English" có tên là "Điệp viên không không thấy tái xuất" được công chiếu. Trong phần này, Johnny English trở lại MI7 sau một thời gian tu luyện tại Tây Tạng và tham gia nhiệm vụ triệt phá đường dây khủng bố quốc tế âm mưu ám sát các nguyên thủ quốc gia. Tháng 5 năm 2017, các nguồn tin xác nhận phần tiền kỳ của của dự án phim thứ ba mang tên "" đã bắt đầu, với lịch khởi chiếu vào tháng 9 năm 2018.
1
null
"So Good" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc hip hop người Mỹ B.o.B. Ca khúc được phát hành kĩ thuật số vào ngày 21 tháng 2 năm 2012, là đĩa đơn thứ hai trích từ album phòng thu thứ hai của anh, "Strange Clouds". Đĩa đơn được phát hành ở Đức vào 4 tháng 5 năm 2012. "So Good" được sản xuất và có sự góp giọng của Ryan Tedder. Video âm nhạc. Vào 14 tháng 2 năm 2012, B.o.B phát hành một đoạn trailer quảng cáo cho video âm nhạc của "So Good". Anh cũng công bố ngày phát hành video là 21 tháng 3 năm 2012. Vào 14 tháng 3 năm 2012, đoạn trailer quảng cao thứ hai được tung ra trên kênh YouTube chính thức của B.o.B. Video âm nhạc chính thức, được đạo diễn bởi Justin Francis, phát hành vào ngày 21 tháng 3 năm 2012. Xếp hạng. "So Good" ra mắt tại bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 của Mỹ vào tuần lễ 10 tháng 3 năm 2012 tại vị trí thứ 11, với 164,000 lượt tải về trong tuần đầu tiên phát hành. Ca khúc cũng đồng thời đạt được vị trí thứ 7 tại bảng xếp hạng UK Singles Chart, khiến "So Good" trở thành đĩa đơn thứ ba của B.o.B lọt vào top 10 ở đây.
1
null
Blériot SPAD S.510 là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Pháp. Phát triển. Được hình thành vào năm 1930, loại máy bay này có buồng lái mở, bay lần đầu năm 1933 và đưa vào trang bị năm 1936. Hiệu năng bay tương tự như loại Gloster Gladiator của Anh. S.510 trang bị thường là 4 khẩu súng máy. Nhờ vậy khả năng tấn công của S.510 bằng với loại Gladiator và Fiat CR.42 Falco của Anh và Ý, đồng thời tăng lên đáng kể so với các loại tiêm kích hai tầng cánh trước đó. Sau khi chiếc S.510 ra đời, nó đã nhanh chóng bị lu mờ trước chiếc Dewoitine D.510 một tầng cánh nhanh hơn, không quân Pháp đã đặt mua 60 chiếc vào tháng 8 năm 1935, sau khi phi công "át" là Louis Massot đã bay thử nghiệm và cho thấy S.510 có khả năng cơ động và tốc độ leo cao tốt. Mặc dù S.510 tốt, nhưng nó nhanh chóng bị thay thế bởi nhiều loại máy bay một tầng cánh xuất hiện sau năm 1936, do Đức, Anh và Pháp phát triển. Lịch sử hoạt động. S.510 đưa vào trang bị đầu năm 1936, đầu tiên là đơn vị GC I/7 vào tháng 5 năm 1937 và GC II/7 vào tháng 7 năm 1938. Đây là một loại máy bay chuyển tiếp giữa Morane-Saulnier MS-225 và Morane-Saulnier MS-406, ngoài ra còn trang bị cho nhóm trình diễn bay quân sự Weiser Circus. Khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, S.510 được đưa về các phi đội dự bị. 27 chiếc đã được giao cho Không quân Cộng hòa Tây Ban Nha trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (đôi khi số lượng là 15 chiếc), nhưng không có bằng chứng rằng chúng đã thực sự được gửi tới Tây Ban Nha. Tính năng kỹ chiến thuật (S.510). Vũ khí. 4 × súng máy 7.5 mm MAC 1934
1
null
Vũ Công Đạo (chữ Hán: 武公道; 1629-1714) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Sự nghiệp. Vũ Công Đạo người xã Mộ Trạch, huyện đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, Hải Dương. Từ nhỏ Vũ Công Đạo đã nổi tiếng là thông minh, học vấn rộng rãi. Năm 1658, Vũ Công Đạo lên đường đi thi Hương nhưng nửa đường được tin mẹ mất liền quay về quê chịu tang. Sang đầu năm sau (1659) triều đình mở khoa thi Hội nhưng vì có việc nên lại hoãn đến mùa đông. Bấy giờ chúa Trịnh Căn xuống chỉ cho phép những người vắng mặt, đi thi thay nếu có văn chương, học giỏi thì đều tha cho cả để thu dụng nhân tài. Vì thế Vũ Công Đạo được miễn lệ (người chịu tang không được thi) và vào thi Hội. Khoa đó triều đình lấy đỗ 20 người, trong đó có Vũ Công Đạo. Tính ông thuần hậu thật thà, cứng cỏi và đứng đắn. Làm quan trong triều, Vũ Công Đạo thường có những lời bàn đanh thép và có những bài văn can gián chúa Trịnh về việc chọi gà. Vũ Công Đạo đi sứ Trung Quốc, khi trở về được thăng chức Đô ngự sử, Nhập thị kinh diên. Ông được người đương thời nhìn nhận là một vị ngự sử chân chính. Ông được cử đi sứ nhà Thanh (1673), khi về được thăng chức Thượng thư Bộ Hộ, tước Thọ Lĩnh bá. Năm 1683, Trịnh Tạc sai Vũ Duy Đoán cùng đoàn sứ bộ lên Cao Bằng để giải quyết việc biên giới với nhà Thanh. Có một viên nội thần là Hán quận công cũng được cử đi, dù chỉ là một thái giám nhưng được chúa ưu ái nên trong danh sách tên của ông ta viết trên tên Vũ Duy Đoán. Duy Đoán tỏ ý bất bình, Vũ Công Đạo lãnh trách nhiệm viết lệnh cũng đập đầu vào cột không chịu cầm bút viết lệnh sắp đặt của chúa Trịnh như vậy. Chúa Trịnh nổi giận hạ lệnh bãi chức ông và Vũ Duy Đoán. Ít lâu sau Trịnh Căn nghĩ đến sự thẳng thắn của ông nên lại khởi dụng làm Hữu thị lang Bộ Hình, Hữu thị lang Bộ Lại. Năm 1714 đời Lê Dụ Tông, Vũ Công Đạo qua đời, thọ 86 tuổi. Học trò. Vũ Công Đạo có nhiều học trò là bậc anh tài, đỗ đạt như Phạm Quang Trạch ở Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội) đỗ bảng nhãn, Vũ Thạnh ở Đan Luân đỗ thám hoa, Nguyễn Danh Dự ở Dương Liễu (Đan Phượng, Hà Nội) đỗ Hội nguyên. Giai thoại. Giai thoại kể rằng Vũ Công Đạo đi thi nửa đường được tin mẹ mất phải trở về chịu tang. Trong lòng ông rất lo buồn. Trên đường về, đêm đó ông vào ngủ nhờ tại chùa Vô Ngại (nay thuộc thôn Vô Ngại, xã Ngọc Lâm, huyện Mỹ Hào, Hưng Yên) và mộng thấy có tiếng gọi: Ông vào gặp người giữ cửa và hỏi rằng: Người giữ cửa nói: Ông liền tiến vào sâu yết kiến và hỏi việc thi cử của mình, bỗng nghe tiếng nói: Bất giác Vũ Công Đạo giật mình tỉnh giấc, ông nghĩ thầm chưa hết tang, lại vắng mặt không được thi thì còn trông mong gì việc đỗ. Nhưng sau đó triều đình hoãn việc thi cử sang mùa đông năm sau và chúa Trịnh xuống cho phép những người vắng mặt, đi thi thay nếu có văn chương, học giỏi thì đều tha cho cả. Vì thế Vũ Công Đạo được dự thi và đỗ tiến sĩ.
1
null
"Cruella de Vil", được viết bởi Mel Leven, là một ca khúc trong bộ phim hoạt hình năm 1961 của hãng Disney có tên "101 Con Chó Đốm". Ca khúc được biểu diễn bởi Bill Lee, trong vai Roger Radcliffe, một nhân vật trong phim. Ca khúc cũng được thu âm lại bởi Lalaine, Hayden Panettiere, và Selena Gomez cho loạt album "Disneymania" Sử dụng trong "101 Con Chó Đốm". Trong bộ phim này, ca khúc được biểu diễn bởi nhân vật Roger Radcliffe (do Bill Lee lồng tiếng), để miêu tả nhân vật cùng tên. Và nó trở thành ca khúc thành công đầu tiên của Roger. Các bản thu âm lại. Ca khúc được thu âm lại lần đầu tiên bởi Dr. John cho bộ phim hành động làm lại năm 1996. Sau đó, ca khúc cũng được thu âm lại bởi Lalaine, Skye Sweetnam, Hayden Panettiere, Selena Gomez cho loạt album "Disneymania" Bản thu âm lại của Selena Gomez. Ca khúc được thu âm lại bởi Selena Gomez và được chọn làm đĩa đơn quảng bá cho album "Disneymania 6". Một video âm nhạc cũng được quay cho đĩa đơn này. Video âm nhạc. Video âm nhạc cho bản thu âm của Selena Gomez được phát hành trên kênh Disney Channel vào 14 tháng 2 năm 2008 và được tặng kèm trong bản 2-Disc Platinum Edition DVD tái phát hành của "101 Con Chó Đốm"
1
null
Bristol Bulldog là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Không quân Hoàng gia (RAF) Anh, nó được hãng Bristol Aeroplane Company thiết kế trong thập niên 1920, có trên 400 chiếc Bulldog đã được chế tạo, trở thành loại máy bay thông dụng nhất của RAF trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến. Thiết kế và phát triển. Tháng 9 năm 1926, Bộ không quân yêu cầu một máy bay tiêm kích một chỗ có khả năng hoạt động cả ngày lẫn đêm; trang bị 2 khẩu súng máy Vickers 0.303 in (7,7 mm) và động cơ bố trí tròn làm mát bằng không khí. Yêu cầu này được đưa ra trong Đặc tả kỹ thuật F9/26. Bulldog được Frank Barnwell thiết kế, đây là nhà thiết kế trưởng của công ty Bristol. Mẫu thử Bulldog có tên gọi Bulldog Mk. I bay lần đầu ngày 17 tháng 5 năm 1927. Sau khi xem xét ban đầu tất cả các kiểu để đáp ứng đặc tả kỹ thuật, Bulldog và Hawker Hawfinch được lựa chọn để đánh giá chi tiết hơn. Khả năng cơ động và sức mạnh của Bulldog được RAF ca ngợi, nó có đặc tính phục hồi quay tròn kém nên có thân kéo dài ở phía sau. Trong cuộc cạnh tranh với Hawfinch, Bulldog đã là mẫu chiến thắng, nó có tốc độ cao hơn, bảo trì dễ dàng, yêu cầu thay đổi trong chế tạo ít hơn để sản xuất ra máy bay so với Hawfinch. Bản sản xuất hoàn chỉnh của Bulldog có tên gọi Mk.II, nó được sửa đổi cấu trúc nhưng về mọi khía cạnh khác là giống với mẫu thử Bulldog ban đầu; có 2 súng máy Vickers 0.303 in (7,7 mm); mang 4 quả bom 20 lb (10 kg); động cơ 450 hp (340 kW) Bristol Jupiter; tốc độ cực đại đạt 180 mph (290 km/h) và tầm bay 300 mi (480 km). Bulldog được đưa vào sản xuất năm 1928, trang bị năm 1929, và là loại máy bay được sử dụng rộng rãi nhất trong RAF vào đầu thập niên 1930. Lịch sử hoạt động. RAF không sử dụng Bulldog để tham chiến, dù trong cuộc khủng hoảng Abyssinia 1935-1936 Bristol Bulldog đã được gửi tới Sudan để hỗ trợ cho Bộ tư lệnh Trung Đông. Phi công Douglas Bader đã mất cả hai chân khi chiếc Bristol Bulldog của ông bị rơi khi đang biểu diễn nhào lộn trên không tại sân bay Woodley gần Reading. Bulldog rút khỏi biên chế của Bộ tư lệnh tiêm kích RAF vào tháng 7 năm 1937, thay thế nó là loại Gloster Gauntlet. Sau khi rút khỏi bộ tư lệnh tiêm kích, nó được sử dụng để làm máy bay huấn luyện. Bulldog đã xuất khẩu tới Australia, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Nhật Bản, Latvia, Xiêm La, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Năm 1936, Latvia để hiện đại hóa không quân của mình, đã bán 11 chiếc Bulldog của họ cho lực lượng dân tộc xứ Basque chiến đấu chống lại lực lượng Cộng hòa Tây Ban Nha trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, nó vẫn được dùng tới khi diễn ra trận Santander. 19 chiếc Bulldog được Không quân Phần Lan sử dụng trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan vào năm 1939. Những chiếc Bulldog đã bắn rơi 6 chiếc máy bay của Liên Xô, gồm 2 chiếc Polikarpov I-16 và 4 chiếc Tupolev SB. Tính năng kỹ chiến thuật (Bulldog II). Bristol Aircraft since 1910
1
null
Sir Bradley Marc Wiggins, CBE (sinh ngày 28 tháng 4 năm 1980) là một cua-rơ người Anh. Anh thuộc biên chế của đội Team Sky. Trong cuộc đua Tour de France 2012, anh đã hoàn tất 20 chặng đua với khoảng cách lên tới 3 phút 21 giây so với người về sau, cũng là một cua-rơ người Anh trong đội Sky Chris Froome. Chung cuộc, tổng thời gian thi đấu của Bradley Wiggins ở giải năm nay là 87 giờ 34 phút 47 giây. Bradley Wiggins bảo vệ thành công chiếc áo vàng và chính thức đi vào lịch sử của giải Tour de France với tư cách cua-rơ đầu tiên của Anh chiến thắng giải đua xe đạp này trong 109 năm tính đến thời điểm năm 2012. Anh sẽ tham gia Olympics London 2012. Đây sẽ là kỳ thế vận hội thứ 4 trong sự nghiệp thi đấu của Bradley Wiggins. Wiggins đã từng giành 6 tấm huy chương, trong đó có ba huy chương vàng cự ly ngắn (4 km) tại Athens 2004 (1) và Thế vận hội Bắc Kinh 2008 (2). Tiểu sử. Là con trai của một tay đua xe đạp chuyên nghiệp của Úc, Gary Wiggins, và mẹ Anh, Linda, Bradley Wiggins sinh ra tại Ghent, Bỉ, vào năm 1980. Linda trở về London với Bradley vào năm 1982 sau khi bà đã chia tay cha của mình. Bradley trải qua thời thơ ấu của mình ở Kilburn, Luân Đôn cùng với mẹ và cha dượng Brendon, em trai, Ryan, và ông bà của mình. Anh bắt đầu đua tại phía nam London của Herne Hill Velodrome ở tuổi 12, và đại diện Camden trong Thế vận hội Thanh niên London lúc còn trẻ. Trong năm 2010, ông được giới thiệu tại London Youth Games Hall of Fame.
1
null
"Give Your Heart a Break" là một ca khúc của nữ ca sĩ người Mỹ Demi Lovato và cũng là đĩa đơn thứ hai trích từ album phòng thu thứ ba của cô "Unbroken". Ca khúc được sáng tác và sản xuất bởi Josh Alexander và Billy Steinberg. Về phần nhạc, "Give Your Heart a Break" là một bản ballad dance-pop có phần nhạc nền với tiếng trống, vĩ cầm, string. Theo các nhà phê bình âm nhạc, "Give Your Heart a Break" gợi nhớ tới ca khúc "Viva la Vida" nổi tiếng của Coldplay. Hãng đĩa Hollywood đã gửi ca khúc này tới đài phát thanh mainstream ở Mỹ vào 23 tháng 1 năm 2012. Về phần lời, ca khúc nói về những nỗ lực của cô gái để giành lấy trái tim người mình yêu sau một mối quan hệ bất đồng. "Give Your Heart a Break" nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình âm nhạc đương đại về việc sản xuất cũng như về giọng hát của Lovato. Đĩa đơn ra mắt tại vị trí thứ 70 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và sau đó vươn lên vị trí thứ 18, khiến cho "Unbroken" trở thành album đầu tiên của Lovato có hai đĩa đơn lọt vào Top 20. Ngoài ra, ca khúc còn đạt được vị trí thứ 39 ở Brazil, vị trí thứ 32 ở Bỉ. Ở New Zealand ca khúc ra mắt ở vị trí 33, nhưng sau đó đã vươn lên vị trí thứ 9, đây là lần đầu tiên Lovato có hai đĩa đơn trong cùng một album đều lọt vào Top 10 ở đất nước này. Video âm nhạc cho "Give Your Heart a Break" nói về việc Lovato cố gắng thuyết phục người yêu của mình quay lại với cô ấy, cô đã đặt những tấm ảnh nhỏ hai người từng chụp với nhau lại và tạo ra một bức ảnh khổng lồ cảnh hai người trong vòng tay của nhau. Lovato đã biểu diễn ca khúc thông qua các buổi biểu diễn, bao gồm buổi biểu diễn tại Z100 Jingle Ball. Đến nay, ca khúc đã trở thành một hit lớn của Demi Lovato. Đội ngũ sản xuất. Phần thực hiện được lấy từ ghi chú trong sách ảnh của album "Unbroken".
1
null
Đời sống Nhân dân Trên hết (kanji: 国民の生活が第一, rōmaji: "Kokumin no seikatsu daiichi", phiên âm Hán-Việt: "Quốc dân sinh hoạt đệ nhất") là một chính đảng ở Nhật Bản. Đảng này được thành lập ngày 11 tháng 7 năm 2012. Đảng được gọi tắt là Sinh hoạt (Seikatsu), tên giao dịch tiếng Anh là People's Life First, viết tắt tiếng Anh là LF) Ngày 26 tháng 6 năm 2012, khi Hạ nghị viện Nhật Bản quyết nghị thông qua dự luật tăng thuế suất tiêu thụ do Nội các của Thủ tướng Noda Yoshihiko đề xuất, một nhóm nghị sĩ và đảng viên đảng Dân chủ cầm quyền do Ozawa Ichirō cầm đầu đã phản ứng lại bằng cách ly khai đảng Dân chủ và thành lập đảng Đời sống Nhân dân Trên hết. Bằng cách này, dù mới thành lập và chưa từng tranh cử, đảng Đời sống Nhân dân Trên hết vẫn chiếm 37/480 ghế ở Hạ nghị viện và 12/242 ghế ở Thượng nghị viện. Chủ trương của đảng Đời sống Nhân dân Trên hết là phản đối tăng thuế tiêu dùng, từ bỏ năng lượng hạt nhân, ủng hộ chủ nghĩa địa phương. Bộ máy lãnh đạo của đảng Đời sống Nhân dân Trên hết gồm:
1
null
"Fly" là một ca khúc của nữ ca sĩ nhạc rap người Mỹ Nicki Minaj với sự góp giọng của nữ ca sĩ thu âm người Barbados Rihanna. Ca khúc được sản xuất bởi J.R. Rotem và đồng sản xuất bởi Kevin Hissink. "Fly" nói về việc vượt qua tất cả những gì khuôn mẫu và tiêu cực để giành lấy chiến thắng. Ca khúc này là đĩa đơn thứ tám và cũng là đĩa đơn cuối cùng của album đầu tay "Pink Friday", nó đã lọt vào nhiều bảng xếp hạng trên toàn thế giới, bao gồm Canada và Anh. Bài hát đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. "Fly" được phát hành ở đài phát thanh rhythmic của Mỹ vào 30 tháng 8 năm 2011. Video âm nhạc cho ca khúc được đạo diễn bởi Sanaa Hamri. Đội ngũ sản xuất. Thông tin được lấy từ ghi chú trong album "Pink Friday". Xếp hạng và chứng nhận. Xếp hạng. Sau khi phát hành đĩa đơn ở Mỹ, ca khúc đã vươn lên vị trí thứ 19 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ tư của "Pink Friday" lọt vào Top 20. Và trước khi "Fly" được phát hành chính thức ở Anh, ca khúc đã đạt vị trí thứ 16 tại bảng xếp hạng UK Singles Chart, trở thành đĩa đơn thứ năm của Minaj lọt vào Top 30 tại Anh. Ngoài ra, "Fly" cũng là đĩa đơn đầu tiên của Minaj đạt vị trí quán quân tại UK R&B Chart. Chứng nhận. !scope="col"|Quốc gia !scope="col"|Chứng nhận
1
null
China Beach là một bộ phim truyền hình Hoa Kỳ phát trên kênh ABC, lấy bối cảnh về một bệnh viện di tản trong chiến tranh Việt Nam. Nhan đề của bộ phim ám chỉ đến bãi biển Mỹ Khê ở thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, là một bãi biển được binh sĩ Hoa Kỳ và Úc trong chiến tranh Việt Nam đặt cho biệt danh tiếng Anh là "China Beach". Bộ phim truyền hình này phát sóng trong bốn mùa, từ năm 1988 đến 1991. Phim do William Broyles, Jr. và John Sacret Young sản xuất, nhìn nhận chiến tranh Việt Nam dưới một góc nhìn độc đáo: đó là từ những phụ nữ, quân nhân và các thường dân, những người đã phải tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh. John Wells đã tiếp quản hầu hết loạt phim bắt đầu từ mùa thứ hai, nhiều diễn viên trong loạt phim này sau đó đã xuất hiện trong loạt phim "ER" do Wells sản xuất.
1
null
Đỗ Thụy Châu (chữ Hán: 杜瑞珠, ? - tháng 1, 1190), là một Hoàng thái hậu nhà Lý. Bà là vợ vua Lý Anh Tông, mẹ vua Lý Cao Tông. Xuất thân. Theo văn bia "Cự Việt quốc thái uý Lý công thạch bi minh tự" (bia mộ Đỗ Anh Vũ, niên đại phỏng đoán là 1159) tại làng Yên Lạc, (Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), Đỗ Thụy Châu là con gái của ông quan Thị trung họ Đỗ, là anh họ của Đỗ Anh Vũ. Bà là cháu gái Đỗ Anh Vũ và Chiêu Hiếu hoàng hậu, mẹ vua Lý Thần Tông. Vào cung. Không rõ năm nào bà làm vợ vua, có một số nguồn cho rằng đó là vào những năm cuối đời Anh Tông. Lúc đó bà vào cung làm cung nữ, phục vụ ở bếp, hầu hạ cho Vũ hoàng hậu. Lúc đó bà là cung nữ hầu hạ hoàng hậu, sau đó được Anh Tông chú ý và trở thành phi tần của ông. Năm 1173, ngày 25 tháng Năm bà sinh ra Hoàng tử Long Trát và được phong làm Thục phi. Năm 1175, Thái tử là Lý Long Xưởng gian dâm với cung phi Từ thị, gây ra tội. Vua Anh Tông bèn phế ngôi của Xưởng và lập Long Trát làm thái tử bèn quyết định. Cuối năm đó, vua Anh Tông băng hà, thái tử Long Trát mới 3 tuổi lên ngôi, tức Lý Cao Tông. Quyền nhiếp chính được giao phó cho Tô Hiến Thành. Bà được tôn làm Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu (照天至理皇太后), còn Vũ hoàng hậu trở thành Chiêu Linh hoàng thái hậu (照靈皇太后). Em trai bà là Đỗ An Di, làm Thái sư đồng bình chương sự, bên cạnh là Thái úy Tô Hiến Thành. Hoàng thái hậu nhà Lý. Khi Cao Tông vừa lên ngôi, Chiêu Linh thái hậu vẫn có ý lật đổ ngôi vua, hòng cướp về cho con mình là phế thái tử Lý Long Xưởng. Nhưng do sự trung thành và cứng rắn của Tô Hiến Thành mà mọi sự đều an bài, Cao Tông giữ được ngôi. Chiêu Linh thái hậu từ đó dần bị siết chặt trong hậu cung và qua đời trong uất hận vào năm 1199. Năm 1179, Tô Hiến Thành ốm nặng, Tham tri chính sự Vũ Tán Đường (武贊唐) ngày đêm hầu bên cạnh, Gián nghị đại phu Trần Trung Tá (陳忠佐) vì bận việc không lúc nào rỗi để tới thăm hỏi. Đến khi bệnh nặng, Đỗ thái hậu thân đến thăm, hỏi Tô Hiến Thành: Hiến Thành trả lời: Thái hậu nói: Hiến Thành trả lời: Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời ấy. Sau khi Tô Hiến Thành mất, bà cho em trai mình là Đỗ An Di (杜安頤) làm phụ chính, nắm quyền triều đình. Đỗ An Di có uy quyền lớn khiến nhiều người khiếp sợ. Về việc này, Sử thần Ngô Sĩ Liên cho rằng: Qua đời. Năm 1190, Mùa xuân, tháng giêng, bà qua đời. Được đặt thụy là Linh Đạo (靈道). Lý Cao Tông khi còn nhỏ là người ngoan lành, song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước lại sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi. Ngay khi Đỗ Thái hậu qua đời, Thái phó Ngô Lý Tín cũng mất, lập em của An Toàn hoàng hậu là Đàm Dĩ Mông làm phụ chính. Dĩ Mông vốn là người không có học nên việc triều chính càng suy sút.
1
null
"A Day in the Life" là ca khúc cuối cùng trong album nổi tiếng "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band" của ban nhạc The Beatles được phát hành vào năm 1967. Ca khúc là một sáng tác chung của Lennon-McCartney, bao gồm 2 đoạn nhạc chưa hoàn thiện của John Lennon xen giữa là 1 đoạn nhạc khác cũng chưa hoàn thiện của Paul McCartney. Mang hơi hướng của psychedelic rock, "A Day in the Life" được coi là siêu phẩm của "Sgt. Pepper". Đây là một trong những thành tựu vô cùng đáng nhớ của Lennon-McCartney bởi phần hòa âm cầu kỳ phức tạp, ca từ mang đậm tính siêu thực cùng với đó là những cải tiến vượt bậc về kỹ thuật thu âm. "A Day in the Life" là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất, thành công nhất và đặc trưng nhất của "thời kỳ phòng thu" của The Beatles. Sáng tác. Thông thường, khi John Lennon và Paul McCartney cùng ngồi bên nhau sáng tác, một người viết sẽ phần sườn để người kia hoàn thiện bằng những đoạn chuyển, ca từ hoặc những ý tưởng mới. ""Paul và tôi đã cùng viết "A Day in the Life". Cách viết của chúng tôi, đó chính là chúng tôi đã tìm được một câu mào rất hay "I read the news today...", hoặc đại loại thế, và khi chúng tôi thấy có chỗ nào đó thực sự khó, thậm chí cần nhấn mạnh, thì chúng tôi bỏ đi. Sau đó, chúng tôi lại làm lại. Tôi hát một nửa bài và điều đó truyền cảm hứng cho Paul viết nốt phần còn lại, và ngược lại"", John giải thích. John bắt đầu viết những dòng đầu tiên khi đọc 2 bài báo trên tờ "Daily Mail" ngày 1 tháng 1 năm 1967. Một trong số chúng nói về cái chết của Tara Browne – người thừa kế của hãng bia Guinness nổi tiếng – sau khi chiếc xe Lotus Elan của anh đâm phải một chiếc xe tải ngày 18 tháng 12 năm 1966. Browne là một người khá thân thiết với The Rolling Stones cũng như The Beatles (từng tham gia cộng tác trong album "Revolver" của họ). Bài báo còn lại nói về tình trạng có khoảng 4000 chiếc ổ gà trên đường phố tại Blackburn vùng Lancashire. Lennon cũng đưa thêm một thông tin rằng "quân đội Anh đã giành chiến thắng" ("The english army had just won the war") lấy từ bộ phim mà anh thủ vai "How I Won the War" phát hành sau đó vào ngày 18 tháng 10 cùng năm. Tuy nhiên, John lại gặp trục trặc ở phần chính giữa ca khúc. Để hoàn thiện nó, Paul đã chèn một đoạn đệm piano lấy từ một ca khúc khác mà anh đang viết dở kể về một cậu bé nghe tiếng chuông tỉnh dậy để đi học. Đó là những kỷ niệm tuổi thơ của chính McCartney: "Tôi nhớ lại những lúc tôi đã từng phải chạy trên phố để bắt được chuyến bus, hút thuốc ở tầng trên của xe trên đường tới trường. Đó chính là những gì tôi có được từ trường học. Tôi hút thuốc, có ai đó nói gì đó và tôi vào cơn mơ." ("Made the bus in seconds flat/ Found my way upstairs and had a smoke/ Somebody spoke and I went into a dream"). Paul cũng là người viết đoạn đáng chú ý nhất của ca khúc: "Chúng tôi đã làm mọi thứ có thể với ca khúc này. Chúng tới từ những cảm xúc từ mọi hướng khác nhau. Tôi bắt đầu với việc lấy đi một vài ý tưởng của John. Chúng tôi sử dụng tới 15 nhịp, rồi sau đó lại muốn tìm một cái gì đó mới..." "Cái gì đó mới" cuối cùng được cả hai lựa chọn là một dàn nhạc thính phòng để đảm bảo giữ vững cao độ của 24 nhịp trong đoạn chuyển giữa 2 đoạn hát bởi John và 1 đoạn hát bởi McCartney. Ban đầu, ý định này bị nhà sản xuất của ban nhạc, George Martin, bác bỏ khi ông cho rằng chi phí để thuê một dàn nhạc tới 90 người là quá cao cho một đoạn nhạc quá ngắn. Nhưng Ringo Starr đã đưa ra tiếng nói quyết định: "Chúng ta chỉ cần thuê một nửa số đó và thu âm làm 2 lần." Tất cả đều thống nhất và phần ghi đè được thực hiện chỉ riêng với đoạn cuối của ca khúc. McCartney cũng là người viết nên câu hát nổi tiếng "I’d love to turn you on" ("Anh nên/phải yêu để làm em thức tỉnh") mà Lennon ngân nga trong đoạn vào của dàn nhạc. John cho rằng câu hát đó thể hiện đặc biệt tinh thần của psychedelic rock và những nguyên nhân nhãn tiền của nó: việc lạm dụng chất kích thích. Thu âm. Giai điệu chính. Ngày 19 tháng 2 năm 1967, The Beatles tại phòng thu số 2 của Abbey Road trong buổi thu âm ca khúc có tên "In the Life of...". Có 4 đoạn nhạc mẫu được ghi, trong đó John Lennon chơi guitar acoustic và hát, Paul McCartney chơi piano, George Harrison với maraca còn Ringo Starr chơi bongo. Theo Geoff Emerick, Lennon và McCartney thực tế đã chuẩn bị rất kỹ cho ca khúc này, vậy nên vai trò của Harrison không quá quan trọng. John cũng là người đếm nhịp "one, two, three, four" cũng như nói "sugarplum fairy, sugarplum fairy". Ngày hôm sau, bốn bản thâu được thực hiện trên cùng một tông chuẩn và được ghi dưới dạng băng từ để sau này tạo nên các bản thu thứ 5, 6 và 7 – những bản thu được chỉnh âm rất khác biệt. Kể từ bản thu thứ 6, bản thu mà ban nhạc cho là hoàn hảo nhất với giọng của John, luôn luôn kèm các tiếng vọng, thì phần bass của Paul và trống của Ringo cũng bắt đầu được thâu kèm. Công việc trở lại vào ngày 3 tháng 2 sau khi The Beatles có những đánh giá đầu tiên về bản thu của họ. Cho rằng phần trống và bass còn nghèo nàn, Paul và Ringo tiến hành thu âm lại bằng việc xóa đi những công việc trước đó. Ringo tìm ra một cách chơi khác hiệu quả hơn khi dùng kick làm nhạc cụ giữ nhịp. George Martin nhớ lại: "Đó là ý tưởng của cậu ấy. Anh ấy có một cảm nhận rất lạ về ca khúc này và anh ấy đã giúp chúng tôi có một nhịp rất chuẩn ngay từ đầu." Các lần ghi đè bắt đầu và phần hát của McCartney được thu âm lại nhiều lần. Dàn nhạc. Khi The Beatles bắt đầu việc thu âm, họ không hề nghĩ tới việc hoàn thiện 24 nhịp nối của 2 phần. Trong những buổi thu đầu tiên, đoạn này chỉ bao gồm một đoạn piano với giọng đếm nhịp của Mal Evans. Âm vọng cũng được cho kèm với giọng của Evans vì ban nhạc rất thích sử dụng nó. Tiếng chuông đồng hồ báo hiệu kết thúc của đoạn chuyển 24 nhịp này và bắt đầu phần vào của dàn nhạc. Đáng lẽ ban nhạc đã nghĩ tới việc tăng hiệu ứng chỉnh âm trong đoạn này, song vì nó lại rất hợp với giọng mở đầu của Paul "woke up, fell out of bed..." nên họ quyết định giữ lại như bản thu gốc. Ngày 10 tháng 2, một dàn nhạc gồm 40 nhạc công, chủ yếu là thành viên của Dàn nhạc Hoàng gia và Dàn nhạc thành phố London, cùng nghệ sĩ kèn trumpet David Mason và nghệ sĩ kèn cor Alan Civil, cùng tới phòng thu Abbey Road. Paul McCartney yêu cầu các nghệ sĩ chơi các nhạc cụ của mình từ nốt thấp nhất lên tới nốt cao nhất, với tốc độ mà anh mong muốn trong suốt 24 nhịp không ngừng. Để làm hài lòng các nghệ sĩ nhạc cổ điển và mong muốn họ có được tinh thần phù hợp nhất, The Beatles đã có một ý tưởng điên rồ. Họ biến phòng thu số 1 của Abbey Road thành một nơi tổ chức tiệc mời các người bạn của họ trong "Swinging London" và gợi ý họ đeo những chiếc mũi hề, tai giả, mũi chóp cao và nhiều phụ kiện giải trí khác. Nhằm có được bản thu của dàn nhạc hợp với mong muốn của The Beatles, và nhất là có thể ghi đè 4 lần thu âm, tương đương với một dàn nhạc 160 người, các kỹ thuật viên của Abbey Road buộc phải tìm ra các phương pháp đặc biệt. George Martin đã đề nghị với Ken Townsend cho chạy song song 2 máy thu 4-băng, một công việc mà họ chưa từng thực hiện. Townsend đã tìm ra một giải pháp bằng cách đồng bộ chúng với một máy giúp họ có thể dễ dàng nhận được tín hiệu: họ thu âm theo tần số 50 Hz trên chiếc máy thứ nhất, sau đó gửi những tín hiệu đó về chiếc thứ hai để đồng bộ, sau đó tăng tần số của máy ampli cho tới khi máy đo độ rung của chiếc máy thu thứ hai hoạt động. Townsend giải thích: "Như mọi lần khác, một ý tưởng hoàn toàn có thể áp dụng được, hoặc không. Lần này thì có. Suốt cả quá trình, chúng tôi đã ghi âm The Beatles trên một máy, và dàn nhạc trên một máy khác, sau đó lại làm lại cho tới khi chúng tôi có trong tay 4 dàn nhạc. Vấn đề duy nhất chính là việc cùng chỉnh âm 2 máy. Một trong 2 chiếc khởi động chậm hơn, và chúng tôi không thể làm cho chúng trở nên đồng bộ, điều làm cho George Martin vô cùng nản lòng." Nhà sản xuất bổ sung: "Việc đồng bộ thực ra không quá kinh khủng, và dàn nhạc đã cố gắng tự điều chỉnh từng chút một. Tuy nhiên, điều đó lại chẳng có ích gì." Hợp âm cuối. Hợp âm piano cuối cùng của ca khúc thực tế thay thế một hòa giọng thu âm từ ngày 10 tháng 2: sau khi những nghệ sĩ cổ điển rời phòng thu, The Beatles quyết định hoàn thành ca khúc bằng một hòa âm tốt, nhưng kể cả khi họ tiến hành nhiều lần ghi đè, họ kết luận rằng thực tế họ muốn một thứ âm thanh dồn nén hơn. Ngày 22 tháng 2, họ tập hợp tất cả các đàn dương cầm tại phòng thu Abbey Road lại. John Lennon, Paul McCartney, Ringo Starr, George Martin và Mal Evans cùng nhau chơi một hòa âm giọng Mi trưởng trên 4 chiếc piano riêng biệt, thực hiện tới 9 lần trước khi đồng bộ hóa tất cả. Cuối cùng, họ có được một hợp âm mạnh rồi nhỏ dần suốt 53 giây – một hợp âm mà thực tế các kỹ thuật viên tin rằng đã kết thúc từ giây 47. George Martin cũng bổ sung một hợp âm của đàn harmonium theo yêu cầu của McCartney nhằm có thêm chút màu mè cho đoạn kết. Nhà sản xuất cũng không quên thực hiện nhiều lần ghi đè cho đoạn kết này. Chỉ riêng với "A Day in the Life", The Beatles cùng các cộng tác viên đã tốn tổng cộng 34 giờ thu âm, một sự tương phản rõ rệt với album đầu tay của họ, "Please Please Me", khi nó chỉ được thực hiện trong vỏn vẹn 10 tiếng đồng hồ của ngày 11 tháng 2 năm 1963. Bản thâu có dàn nhạc được thực hiện với lần thu thứ 6, sau đó là thứ 7. Ngày 23 tháng 2 năm 1967, phần chỉnh âm được hoàn thiện, và có tới chín bản thu nữa được thực hiện. Phần chỉnh âm cuối cùng được làm giữa bản thứ 6, thứ 7 và thứ 9. Nên nhớ, chỉ có hai bản nhạc trộn của The Beatles mà John Lennon và Paul McCartney chung sức hoàn thiện với cùng một ý tưởng: đó là "A Day in the Life" và "Polythene Pam"/"She Came in Through the Bathroom Window" trong medley của album "Abbey Road" (1969). Cấu trúc. "A Day in the Life" được chơi chủ yếu trên giọng Sol trưởng (G), nhưng theo Alan W. Pollack, "thực tế trọng tâm nằm ở giọng Sol thứ và Mi thứ". Trong 2 đoạn chính, giọng chuẩn là Sol trưởng (G) và Mi thứ (Em), còn trong đoạn chuyển là giọng Mi trưởng (E). Toàn bộ ca khúc chơi theo nhịp 4/4. Ca khúc bao gồm 6 đoạn: đoạn đầu là phần hát của John Lennon, phần xuất hiện của dàn nhạc và đoạn của Paul McCartney, rồi tới đoạn thứ hai của John, đoạn vào thứ hai của dàn nhạc, hợp âm piano dài 47 giây, và cuối cùng là một đoạn bè "run-out groove" thu âm mono hát không ngừng cho tới hết bài. Cấu trúc rất phức tạp này được thống nhất bởi cả Lennon lẫn McCartney – những người mà thậm chí còn chưa từng biết tới việc đọc nốt nhạc. George Martin là người giúp họ viết và trình bày các ý tưởng. Ca từ. "A Day in the Life" được mở đầu bằng một giọng rất nhẹ của Lennon "I read the news today, oh boy..." với tiếng đệm của guitar acoustic sau những âm thanh từ ca khúc "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (Reprise)". Ở trong đoạn thứ hai, câu hát "He blew his mind out in a car" là một dòng tin mà Paul McCartney đọc trên tờ "Daily Mail" ngày 18 tháng 12 năm 1966. Đó chính là tin về vụ tai nạn của Tara Browne, người thừa kế của hãng bia Guinness. Tuy nhiên, John thực sự không hề biết câu chuyện nguồn cơn có nên câu hát, và thực tế Tara Browne không bị tai nạn "vỡ sọ", mà bị chấn thương nặng ở hệ thần kinh sau những chấn động mạnh lên não. Hơn nữa, câu hát "He didn't notice that the lights had changed" ("Không hề biết đèn đã chuyển màu") là một sự tưởng tượng. Chính điều đó lại dẫn tới câu chuyện sau này vào năm 1969 về tin đồn về cái chết của Paul McCartney khi cho rằng anh bị tai nạn xe hơi trong quá trình thực hiện "Sgt. Pepper". Trong đoạn tiếp theo, Lennon nói về những trải nghiệm của mình khi thực hiện bộ phim "How I Won the War" (1967) của Richard Lester với câu hát "I saw a film today oh boy/ The English army had just won the war". Ở đoạn thứ 4, John lại trích một bài báo khác của "Daily Mail" nói về những chiếc ổ gà ở Blackburn ("Four thousand holes in Blackburn, Lancashire"). Con số đáng kinh ngạc này là một bài thống kê của chính quyền địa phương. Ở bài báo tiếp theo, anh lại góp nhặt câu chuyện về một ca sĩ hát tại Royal Albert Hall, và Lennon đã cố ý lồng ghép 2 câu chuyện này lại: một bên là 4.000 cái ổ gà, còn một bên là một trong những nơi sang trọng bậc nhất của London. Anh giải thích: ""Còn thiếu duy nhất một từ khi mà chúng tôi muốn thu âm... Tôi đã nhẩm ra câu hát sẽ là "Now they know how many holes it takes to" – cái gì đó – ""the Albert Hall" ("Người ta biết cần bao nhiêu ổ gà để... Albert Hall")". Một từ mà đứng riêng nó vô nghĩa, song trong hoàn cảnh nào đó, nó là từ cần tìm. Mấy cái ổ gà có thể làm được gì ở Albert Hall? Và Terry Doran đã gợi ý cho tôi từ ""fill" ("làm đầy")"."" Phần viết của Paul McCartney ở giữa 2 đoạn của Lennon là những kỷ niệm ấu thơ của anh khi còn sống ở Liverpool: anh hút thuốc trên đường đi xe bus tới trường. Anh viết "Somebody spoke and I went into a dream". Chính trên chiếc xe bus đó mà một lần anh đã gặp George Harrison. Mang nhiều ảnh hưởng của psychedelic rock, ca khúc bị đánh giá mang nặng ca từ của việc lạm dụng chất kích thích. Câu hát nổi tiếng "I’d love to turn you on" ("Anh nên/phải yêu để làm em thức tỉnh") là lý do chính khiến đài BBC quyết định không phát ca khúc này trên sóng phát thanh vì nó khiến liên tưởng tới một khẩu hiệu của Timothy Leary "Turn on, tune in, drop out" ("Thức tỉnh, đón nhận, thư thái"). Người ta cũng cho rằng những đoạn nối trong ca khúc là lúc McCartney hút thuốc, còn khái niệm "four thousand holes", cũng giống trong "Fixing a Hole", lại khiến liên tưởng tới việc hút heroin. Đón nhận của công chúng. "A Day in the Life" được coi là một trong những tuyệt tác lớn nhất của The Beatles nói chung và Lennon-McCartney nói riêng. Paul Grushkin, viết trong cuốn sách "Rockin' Down the Highway: The Cars and People That Made Rock Roll", đã miêu tả ca khúc như "một tác phẩm giàu tham vọng nhất, ảnh hưởng nhất, cải tiến nhất của lịch sử âm nhạc đương đại." Trong "From Craft to Art: Formal Structure in the Music of the Beatles", John Covach đã nói về "A Day in the Life" là "ca khúc quan trọng nhất của lịch sử nhạc rock, cho dù nó chỉ dài 4 phút 45 giây." Trên Allmusic, cây viết nổi tiếng Richie Unterberger ghi khá ngắn gọn: """A Day in the Life" lại là phần coda đầy bất ngờ và mang tính quyết định cho album, như một chút gì đó cô đọng của Summer of Love. Kể từ đây, không còn một quy chuẩn nào nữa, các ban nhạc pop và rock đều đã đi tìm các thử nghiệm, từ những kẻ kém cỏi cho đến những người giỏi nhất. Thật mỉa mai rằng không có mấy ai có thể có được cảm quan âm nhạc như của The Beatles."" Ca khúc xuất hiện trong rất nhiều danh sách các ca khúc xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Nó được xếp ở vị trí "số 1" trong danh sách "50 ca khúc Anh quốc hay nhất mọi thời đại" của tạp chí "Q", trong danh sách "101 ca khúc của The Beatles" của tạp chí "Mojo" và trong danh sách "100 ca khúc của The Beatles" của tạp chí "Rolling Stone". Tờ "Rolling Stone" cũng xếp ca khúc ở vị trí 28 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất" được phát hành vào năm 2004. Đài CBC của Canada xếp ca khúc ở vị trí số 12 trong danh sách "50 bài hát" và là ca khúc đứng thứ hai của The Beatles sau "In My Life". XFM xếp "A Day in the Life" ở vị trí số 38 trong số các ca khúc Anh quốc xuất sắc nhất vào năm 2010. Ca khúc cũng được đề cử giải Grammy vào năm 1967 cho phần hòa âm xuất sắc nhất. Đĩa đơn của "A Day in the Life" được phát hành vào ngày 30 tháng 9 năm 1978. Trong video clip, ngoài ê-kíp của The Beatles và đội ngũ sản xuất, người ta có thể thấy Mick Jagger, Keith Richards và Michael Nesmith – những thành viên trong nhóm "Swinging London". Ngày 27 tháng 8 năm 1992, bản viết tay phần lời của John Lennon được Mal Evans bán đấu giá tại Sotheby's, London với giá 100.000 $. Năm 2006, nó một lần nữa được rao bán bởi Bonhams ở New York. Ngày 18 tháng 6 năm 2010, Sotheby's đã bán đấu giá một lần nữa với giá 1,2 triệu $ trong khi họ không hề dám nghĩ tới việc nó vượt quá được 700.000$. Các bản hát lại. "A Day in the Life" đã được hát lại, một phần hay toàn bộ, bởi rất nhiều nghệ sĩ. Trong số các nghệ sĩ nhạc jazz, ta có thể kể tới tay guitar Wes Montgomery, người đã hát lại ca khúc trong album cùng tên, "A Day in the Life", mà trong đó anh có hát cả ca khúc "Eleanor Rigby" nữa. Cần nói thêm là album này lại được ra mắt chỉ vài ngày sau khi "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band" (1967) được phát hành. Năm 1970, Grant Green cũng hát lại ca khúc này trong album "Green is Beautiful" của mình. Trong những thập kỷ sau, số lượng nghệ sĩ hát lại ca khúc này là vô kể, có thể kể tới Bee Gees năm 1978, The Fall năm 1988, Sting năm 1993 và Phish năm 2002. Năm 2007, The Libertines đã hát lại "A Day in the Life" trong một chương trình về The Beatles của đài BBC. The Rutles – ban nhạc châm biếm The Beatles – đã hát lại ca khúc này với tên gọi "Cheese and Onions". Devo đã hát ca khúc "Some Things Never Change" bằng việc lấy lại câu hát "I read the news today oh boy...". David Bowie cũng hát lại câu này trong ca khúc "Young Americans" nằm trong album cùng tên năm 1975, tương tự với Zack de La Rocha và DJ Shadow với ca khúc "March of Death". Dù có một cấu trúc vô cùng đặc biệt, "A Day in the Life" đã từng được biểu diễn trong các buổi hòa nhạc, bắt đầu từ chính Paul McCartney. Ngày 1 tháng 6 năm 2008, trong chương trình "Liverpool Sound Festival", ông đã hát lại ca khúc này tại Sân vận động Anfield. Ca khúc như một lời tri ân tới John Lennon bởi ngay sau đó, McCartney cũng hát "Give Peace a Chance". Chỉ 1 tháng sau, Neil Young cũng hát "A Day in the Life" trong tour diễn vòng quanh châu Âu của mình. Năm 2009, Easy Star All-Stars thu âm lại toàn bộ album "Sgt. Pepper" theo phong cách reggae với tên "Easy Star Lonely Hearts Dub Band". Phần hát của McCartney (được hát bởi Menny More) có phần lời hoàn toàn khác biệt ("fell out of bed, ran my fingers thru my dreads"). Năm 2010, nhóm nhạc của Québec, Les Bébites, hát lại ca khúc này theo một bản dịch khá hài hước. Trên trang web chính thức của ca sĩ người Ý Zucchero, mục giới thiệu các ca khúc của ông được ghi "A Day in the Life".
1
null
Tổng cục Thuế (tiếng Anh: "General Department of Taxation", viết tắt là GDT) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về các khoản thu nội địa trong phạm vi cả nước, bao gồm: thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước (gọi chung là thuế); tổ chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế được quy định tại Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2018 và Quyết định số 15/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ. Lịch sử phát triển. Chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 27/SL đặt ra "Sở Thuế quan và thuế gián thu" (trực thuộc Bộ Tài chính) dưới quyền điều khiển của một Tổng giám đốc được bổ nhiệm bằng sắc lệnh theo đề nghị của Bộ trưởng bộ Tài chính. Trong cùng ngày, Chính phủ ra sắc lệnh bổ nhiệm ông Trịnh Văn Bính, Giám đốc Sở thương chính Bắc kỳ làm Tổng giám đốc. Để tách biệt với ngành hải quan, ngày 25/3/1946 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành nghị định số 210-TC thành lập Nha Thuế trực thu Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài chính) có nhiệm vụ nghiên cứu, đề nghị thi hành và kiểm soát các công việc liên quan đến các loại thuế trực thu (thuế điền thổ, thuế thổ trạch, thuế môn bài, thuế lương bổng, thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp). Ở mỗi kỳ có Nha thuế trực thu cấp kỳ; ở mỗi tỉnh có phòng thuế trực thu. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951), Chính phủ đã ban hành hệ thống chính sách thuế mới, chủ yếu là thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp. Ngày 14/7/1951, Bộ Tài chính đã ban hành nghị định số 55/NĐ thành lập "Vụ Thuế Nông nghiệp" (trực thuộc Bộ Tài chính) với nhiệm vụ xây dựng và tồ chức chỉ đạo, quản lý thu thuế nông nghiệp. Ở các liên khu, tỉnh, huyện, cơ quan tài chính trực tiếp phụ trách công tác chỉ đạo, quản lý thu thuế nông nghiệp trên địa bàn. Ngày 17/7/1951, Bộ Tài chính đã ban hành nghị định số 63/NĐ thành lập hệ thống tổ chức ngành thuế công thương nghiệp bao gồm: + Ở trung ương: Tổng cục Thuế (Trực thuộc Bộ Tài chính). + Ở tỉnh: Cục thuế. + Ở tuyến có hoạt động xuất nhập khẩu lớn: Chi sở thuế xuất nhập khẩu. + Ở huyện, thị xã: Chi Cục Thuế Sở thuế trung ương có nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện việc quản lý với mọi loại thuế (trừ thuế nông nghiệp và thuế trước bạ). Ngày 7/8/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 218-HĐBT về việc thành lập ngành thuế nhà nước được hợp nhất từ 3 hệ thống tổ chức: Thu quốc doanh, thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp, thực hiện sự đổi mới cơ bản về hệ thống tổ chức thống nhất,kiện toàn bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bảo đảm các mục tiêu cải cách hệ thống thuế mới với hiệu quả cao nhất. Ngành thuế nhà nước được tổ chức qua 3 cấp từ tổng cục thuế, cục thuế đến chi cục thuế; được xác định rõ quyền hạn trách nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế ngành dọc cấp trên và chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc song hành lãnh đạo. Cơ cấu tổ chức. Cơ quan Tổng cục Thuế ở Trung ương. "(Theo Điều 1, Quyết định số 15/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ)" Khối quản trị nội bộ và quản lý chuyên ngành Khối đơn vị sự nghiệp Hệ thống 415 Chi cục Thuế cấp huyện. Ghi chú: Cơ quan "in nghiêng" là bộ phận có thể có tùy theo quy mô cơ quan thuế
1
null
Ngày Xửa Ngày Xưa là một bộ phim kịch cổ tích Mỹ được tạo ra bởi hai tác giả của "" ("Trò chơi Ảo giác") và "Mất tích", Edward Kitsis và Adam Horowitz. Chương trình bắt đầu phát sóng trên kênh ABC. Loạt phim xoay quanh câu chuyện của nữ trinh thám Emma Swan cùng con trai của cô Henry trong quá trình khám phá một thị trấn ở New England, tên là Storybrooke, tiểu bang Maine, miền Đông Bắc Hoa Kỳ, thực sự là vết tích của một thế giới song song bị nguyền rủa bởi Hoàng hậu Độc ác/Regina Mills từ câu chuyện cổ tích "Bạch Tuyết" và mọi nhân vật đến từ thế giới cổ tích không có ký ức về họ là ai, bao gồm cả bố mẹ của nữ trinh thám, Bạch Tuyết/Mary Margaret và Hoàng tử Quyến Rũ/David Nolan, những người gửi cô đến thế giới này để cô có thể cứu thế giới của họ và phá vỡ lời nguyền.
1
null
Trong toán học, độ lệch tâm hay tâm sai, được ký hiệu là "e" hoặc formula_1, là một tham số có liên quan chặt chẽ với đường conic. Nó được xem như là thước đo sự sai khác của một đường cô-nic so với đường tròn. Cụ thể hơn, Ngoài ra, hai đường cô-nic thì đồng dạng với nhau khi và chỉ khi chúng có cùng độ lệch tâm. Các định nghĩa. Đường cô-nic có thể được định nghĩa là quỹ tích các điểm mà tỉ lệ giữa khoảng cách từ điểm đó đến một điểm (được gọi là tiêu điểm) với khoảng cách từ điểm đó đến một đường thẳng (được gọi là đường chuẩn) là một hằng số. Tỉ lệ đó được gọi là độ lệch tâm, thường được ký hiệu là "e". Độ lệch tâm cũng có thể được diễn tả bởi đường cô-nic được tạo thành bởi một mặt phẳng cắt một mặt nón hai đỉnh. Khi đó độ lệch tâm là Trong đó α là góc giữa mặt phẳng đó với mặt phẳng ngang và β là góc giữa trục của mặt nón với mặt phẳng ngang. Bán tiêu cự của một đường cô-nic, được ký hiệu là "c" (hoặc đôi khi là "f" hoặc "e"), là khoảng cách từ tâm điểm đến một trong hai tiêu điểm của nó. Độ lệch tâm lúc này được định nghĩa là tỉ lệ giữa tiêu cự với bán trục lớn "a": tức là, formula_3. Các giá trị. trong đó, "a" là chiều dài của bán trục lớn và "b" là chiều dài của bán trục nhỏ. Nếu đường cô-nic được cho dưới dạng phương trình bậc hai thì công thức sau cho ta độ lệch tâm "e" nếu đường cô-nic đó không phải là một đường parabol hay một đường hyperbol thoái hóa hay một đường elíp thoái, hay một elíp ảo: trong đó formula_6= 1 nếu định thức của ma trận 3x3 mang dấu âm hoặc formula_6= -1 nếu mang dấu dương.
1
null
Thuốc thử Folin hay natri 1,2-naphtoquinon-4-sunfonat là một thuốc thử hoá học dùng để đo nồng độ của các amin hay amino acid. Thuốc thử tạo màu đỏ tươi trong dung dịch kiềm và phát quang. Không nên nhầm lẫn với thuốc thử Folin-Ciocalteu, là một hỗn hợp của natri volframat và natri molybđat dùng để phát hiện hợp chất chứa nhóm phenol.
1
null
Con đường ảo mộng (tên tiếng Anh: Mulholland Drive hay cách điệu hóa Mulholland Dr.) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại neo-noir giật gân, bí ẩn và tâm lý của Mỹ và Pháp ra mắt năm 2001 do David Lynch làm đạo diễn kiêm biên kịch. Với sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên nổi tiếng như Naomi Watts, Laura Harring, Justin Theroux, Ann Miller, Mark Pellegrino cùng Robert Forster, bộ phim theo chân nữ diễn viên giàu khát vọng Betty Elms trên con đường chinh phục ánh hào quang tại Los Angeles. Tại đây, cô gặp và kết bạn với một cô gái bị mất trí nhớ sau vụ tai nạn ô tô. Lúc đầu, ý tưởng của các nhà làm phim là thai nghén một loạt phim truyền hình nhiều phần, mở đầu bằng một tập phim thí điểm. Phần lớn bộ phim bắt đầu được lên lịch quay từ năm 1999. Lynch dự định sẽ để ngỏ một kết thúc mở cho các phần phim tiềm năng sau này. Tuy nhiên, sau khi biết được kế hoạch của ông, những người chịu trách nhiệm sản xuất đã nhất mực từ chối, gián tiếp dẫn đến việc Lynch bỏ hẳn dự án và quyết định chuyển hướng bộ phim lên màn ảnh. Kết cục, một tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa, mang nửa truyền hình, nửa điện ảnh, cộng với chất riêng của vị đạo diễn này ra đời. Lynch không muốn giải thích những điểm khó hiểu trong câu chuyện mà muốn để chính người xem, giới chuyên môn cũng như các thành viên trong đoàn làm phim tự suy đoán lấy. Ông chỉ gợi ý cho khán giả bằng một câu tagline duy nhất, theo đó, bộ phim là "một câu chuyện tình yêu trong thành phố của những giấc mơ". Ngay khi vừa công chiếu, "Mulholland Drive" đã giúp David Lynch giành về giải thưởng cao quý Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes năm 2001, chia sẻ vị trí này cùng với "The Man Who Wasn't There" của Joel Coen. Vinh dự hơn, ông còn nhận đề cử Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim cũng là bàn đạp nâng tầm sự nghiệp của Laura Harring và Naomi Watts, là nơi ghi dấu màn tỏa sáng cuối cùng của nữ minh tinh kỳ cựu Ann Miller trên màn bạc. Về mặt chuyên môn, giới phê bình đánh giá "Mulholland Drive" là tác phẩm xuất chúng nhất trong suốt sự nghiệp đạo diễn của David Lynch và cũng là một trong những phim điện ảnh hay nhất theo nhiều chuyên trang đánh giá có uy tín. Bộ phim vinh dự có mặt trong danh sách 100 phim vĩ đại nhất từ trước đến nay do tạp chí "Sight & Sound" bầu chọn, đồng thời dẫn đầu trong cuộc thăm dò ý kiến năm 2016 của BBC Culture về những phim hay nhất thế kỉ 21. Ngoài ra, đây còn là một trong những tác phẩm khiến nhiều học giả, nhà phê bình cũng như khán giả tốn nhiều giấy mực trong việc đi sâu phân tích nhằm làm rõ ý nghĩa hàm ẩn của nó, như lời khẳng định của A. O. Scott viết trên tờ "The New York Times": "[Tuy bộ phim] chống lại quy luật kể chuyện vốn có... nhưng nó hoàn toàn mang đến sự giải thoát mê say khỏi cảm giác, giúp cho những khoảnh khắc mạnh mẽ hơn lộ diện từ cõi đêm âm u của vô thức". Nội dung. Ban đêm, trên con đường Mulholland quanh co dọc theo Hollywood Hills vắng người qua lại, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Bước ra từ một trong hai chiếc xe vỡ nát là người phụ nữ với mái tóc đen nhánh, người duy nhất may mắn sống sót. Ngay sau đó, người phụ nữ lang thang vô định xuống thành phố Los Angeles. Đi được một đoạn, cô lăn ra bất tỉnh trong mảnh vườn của một khu nhà sang trọng. Sáng hôm sau, khi bắt gặp một người phụ nữ tóc đỏ mang va li ra khỏi một trong các căn phòng của khu trọ, cô gái bí ẩn lẻn vào căn phòng ấy và thiếp đi. Trong lúc này, tại một quán ăn có tên là Winkie's, một người đàn ông kể với người ngồi cùng bàn với mình rằng anh ta gặp một cơn ác mộng. Trong mơ, anh đụng độ với con quái vật kinh khủng đằng sau quán ăn. Khi người bạn kia khuyên anh hãy dũng cảm đối mặt với nỗi sợ đó, họ đứng dậy và ra sau quán ăn điều tra. Ngay lập tức, con quái vật xuất hiện, khiến người đàn ông ngã quỵ vì sợ hãi. Lúc này, chiếc taxi chở nữ diễn viên đầy tham vọng tên Betty Elms đến khu nhà do dì Ruth của cô quản lý. Cô nhận đúng căn phòng mà người phụ nữ tóc đỏ trước đó rời đi. Betty bước vào và giật mình khi thấy một người phụ nữ kỳ lạ trong phòng. Dựa vào những điều cô gái bí ẩn kia thuật lại, Betty kết luận cô bị mất trí nhớ. Ngay sau đó, cô gái nhìn vào tấm áp phích của bộ phim "Gilda" do Rita Hayworth thủ vai treo trên tường. Kể từ lúc ấy, cô tự gọi mình là "Rita". Để giúp Rita nhớ lại danh tính thực của mình, Betty lục tìm trong ví của cô và thấy một khoản tiền rất lớn cùng chiếc chìa khóa bí ẩn màu xanh. Trong một cảnh khác, tại một buổi họp kín bàn về việc tuyển mộ diễn viên cho bộ phim sắp tới, đạo diễn Adam Kesher bị những người quản lý (thực ra là bọn mafia) gây áp lực buộc ông phải chọn một nữ diễn viên vô danh tên Camilla Rhodes làm vai chính cho phim của mình. Adam bực tức từ chối rồi bỏ về. Trước khi lên xe, anh dùng một cây gậy đánh gôn đập nát kính xe của một tên mafia đậu gần đó. Cũng trong lúc này, ở nơi khác, một tên cướp nghiệp dư, hậu đậu lẻn vào một văn phòng với mục đích cướp quyển danh bạ điện thoại và gây ra cái chết cho ba người. Adam về đến nhà và bắt gặp vợ mình đang ngủ với tay lau dọn vệ sinh hồ bơi. Sau một lúc giằng co, anh bị ném ra khỏi chính căn nhà mình. Không còn cách nào khác, Adam tìm đến một quán trọ dơ dáy trong trung tâm thành phố để tá túc qua đêm. Khi thanh toán tiền, anh mới biết thẻ tín dụng của mình đã bị khoá và người chủ quán trọ nói rằng những người mà Adam chạy trốn biết anh đang ở đây. Cùng đường, Adam nghe theo lời khuyên của chủ quán trọ, đồng ý gặp một nhân vật bí ẩn tên là The Cowboy (Gã Cao Bồi), chấp nhận chọn Camilla Rhodes nhằm đổi lấy lợi ích cho mình. Trong khi cố gắng tìm hiểu thêm về tai nạn của Rita, Betty và Rita đến quán Winkie's và được phục vụ bởi một cô hầu bàn tên Diane, khiến Rita bất giác nhớ đến cái tên "Diane Selwyn". Họ tìm thấy số của Diane Selwyn trong danh bạ điện thoại và gọi cho cô, nhưng không ai nhấc máy. Liền sau đó, Betty đến buổi thử vai và có màn trình diễn tuyệt vời khiến mọi người trong phòng khen ngợi không ngớt. Ngay lập tức, một nhân viên đưa cô đến phim trường nơi Adam đang tuyển chọn diễn viên. Khi Camilla Rhodes thử vai, hai tên mafia xuất hiện. Trước áp lực đó, Adam chọn Camilla. Betty và Adam nhìn nhau trong giây lát, sau đó cô chạy trốn trước khi gặp anh ta, nói rằng cô cần đến gặp một người bạn. Betty cùng Rita đột nhập vào căn hộ của Diane Selwyn và tìm thấy xác của một người phụ nữ đã chết trong nhiều ngày. Kinh hoàng, họ trở về căn hộ của mình. Rita cải trang với bộ tóc giả màu vàng giống hệt Betty. Cô và Betty làm tình với nhau đêm đó. Vào lúc 2 giờ sáng, Rita tỉnh dậy, đề nghị Betty đưa mình đến một nhà hát tên là Club Silencio. Trên sân khấu, một người đàn ông liên tục nói luyên thuyên bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, cho đến khi một người phụ nữ lên thế chỗ và bắt đầu hát. Lát sau, người phụ nữ gục xuống trong khi bản thu âm của bài hát vẫn tiếp tục được phát. Ngay lúc đó, Betty bất thình lình phát hiện trong ví mình một chiếc hộp cùng màu với chiếc chìa khóa của Rita. Hai người nhìn nhau không thốt nên lời. Khi trở về căn hộ, nhân lúc Betty không để ý, Rita lấy chiếc chìa khóa của mình, lén mở chiếc hộp, khiến nó rơi xuống sàn. Một lúc sau, Gã Cao Bồi xuất hiện, thì thầm: "Này cô gái xinh đẹp... đến lúc thức dậy rồi". Diane Selwyn thức dậy trên giường trong cùng một căn hộ mà Betty và Rita từng đến điều tra. Có điều cô trông giống hệt Betty, nhưng trái ngược với Betty, Diane lúc này là một nữ diễn viên thất bại, vật lộn với nỗi trầm cảm sâu sắc do mối tình bất thành với Camilla Rhodes, một nữ diễn viên thành công trông giống hệt Rita. Theo lời mời của Camilla, Diane tham dự một bữa tiệc tại nhà của Adam trên đường Mulholland, nơi hai người này sẽ tuyên bố đính hôn. Trong bữa tối, Diane tâm sự về những tháng ngày tập tễnh vào Hollywood, về việc dì Ruth của cô qua đời và để lại cho cô một số tiền. Ngoài ra, cô cũng thuật lại cuộc gặp gỡ với Camilla tại buổi thử vai cho phim "The Sylvia North Story". Đang say sưa nói chuyện, Camilla từ đoạn phim trước đó xuất hiện và hôn "Camilla hiện tại". Cả hai người họ quay lại mỉm cười với Diane. Adam và Camilla sau đó hòa vào tiếng cười vang trong khi Diane kìm nén những dòng nước mắt đầy uất nghẹn. Mối căm thù lên đỉnh điểm, cô tìm gặp người đàn ông lạ mặt tại quán Winkie's, thuê anh ta giết Camilla. Anh ta nói rằng cô sẽ tìm thấy một chiếc chìa khóa màu xanh trong căn hộ của mình khi công việc hoàn thành. Máy quay sau đó chuyển sang cảnh Diane nhìn chằm chằm vào chiếc chìa khóa màu xanh trên bàn cà phê. Quẫn trí, phê ma túy cộng với tinh thần hoảng loạn bởi ảo giác, cô nhảy lên giường, gào thét rồi rút cây súng lục trong ngăn kéo tự kết liễu bản thân mình. Phim kết thúc với hình ảnh người phụ nữ trong rạp hát xuất hiện, thì thầm "Silencio". Sản xuất. Quá trình phát triển. Với ý định xây dựng một bộ phim truyền hình, "Mulholland Drive" ra mắt lần đầu dưới hình thức một tập thí điểm dài 90 phút dành riêng cho hệ thống truyền hình Touchstone và chiếu trên kênh ABC. Tony Krantz, người chịu trách nhiệm phát triển "Twin Peaks", đã "nổi điên" khi biết đoàn làm phim đang dự định bấm máy cho một bộ phim truyền hình khác. Đáp lại, Lynch viết: "Tôi sẽ không bao giờ làm phim truyền hình nữa" rồi đính nó lên miếng gỗ dán. Mọi thứ ban đầu chỉ gói gọn trong phạm vi kịch bản. David Lynch sau đó đã bán ý tưởng này cho các giám đốc điều hành ABC dựa trên câu chuyện Rita sống sót từ vụ tai nạn xe hơi với chiếc ví chứa 125.000 đô la tiền mặt cùng một chiếc chìa khóa màu xanh. Từ đó, Betty sẽ cố gắng giúp Rita tìm ra danh tính thực sự của mình. Một giám đốc điều hành ABC nhớ lại: "Tôi không bao giờ quên được cảm giác đáng sợ toát ra từ người phụ nữ này trong vụ tai nạn vô cùng, vô cùng khủng khiếp đó và David đã gieo rắc vào đầu chúng tôi ý nghĩ rằng có rất nhiều kẻ đang truy lùng cô ấy. Tuy nhiên, cô ta không chỉ gặp rắc rối thôi đâu. Cô ta "chính là" rắc rối. Dĩ nhiên, chúng tôi đã hỏi: 'Vậy điều gì xảy ra tiếp theo?' David đáp: 'Các anh phải trả tiền thì tôi mới nói.'" Rồi Lynch cho ABC xem một đoạn phim đã được cắt bớt. Người xem đoạn phim này, theo Lynch, đã xem vào lúc sáu giờ sáng khi đang uống cà phê, rồi anh ta đứng dậy, tỏ ra không thích thú với đoạn phim. Rốt cuộc, ABC hủy bỏ kế hoạch. May thay, Pierre Edman, bạn của Lynch từ Paris, trong một dịp đến thăm ông đã đề nghị rằng bộ phim nên được chuyển lên màn ảnh rộng. Chẳng mất nhiều thời gian trước khi Edman trở về từ Paris và mang theo một tin vui khi Canal+ bày tỏ sự quan tâm đến dự án và ngỏ ý sẵn sàng chi tiền để Lynch biến nó thành một bộ phim điện ảnh. Lynch từng mô tả sự cuốn hút của ý tưởng liên quan đến một tập phim thí điểm, mặc dù ông ý thức rõ phương tiện truyền hình là một hạn chế: "Tôi là một kẻ nghiện tính liên tục của câu chuyện... Về mặt lý thuyết, bạn có thể có được một cốt truyện rất sâu sắc. Bạn có thể đi đủ sâu để mở ra thế giới đủ đẹp, nhưng yếu tố thời gian là một rào cản". Tác phẩm bao gồm các yếu tố siêu thực, giống như loạt "Twin Peaks" trước đó của Lynch. Nền tảng định hình ban đầu cho toàn bộ cốt truyện là bí ẩn về thân phận của Rita, sự nghiệp của Betty cùng dự án phim của Adam Kesher. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2014, nữ diễn viên Sherilyn Fenn tiết lộ ý tưởng ban đầu xuất hiện khi cả đoàn làm phim còn đang bận bịu với dự án "Twin Peaks". Fenn cũng cho biết thêm rằng ý tưởng đó giống như một ngoại truyện sinh ra dành cho nhân vật Audrey Horne của cô. Thử vai. Lynch bắt đầu để mắt tới Naomi Watts và Laura Harring nhờ những bức ảnh chụp của hai người họ. Hôm thử vai, ông dành ra cho mỗi người 30 phút phỏng vấn và nói với họ ông chưa từng thấy vai diễn nào của cả hai trên màn ảnh lẫn truyền hình. Có một sự trùng hợp nho nhỏ khi vai diễn của Harring có liên quan đến một vụ tai nạn xe hơi bởi vì trước khi đến buổi phỏng vấn, cô cũng gặp phải một vụ va chạm nhẹ. Trong khi đó, sau chuyến bay từ New York, Watts mặc quần jean đến buổi thử vai đầu tiên của mình. Họ trò chuyện về gia đình, về "mọi thứ trừ công việc". Cuối buổi hẹn, Lynch dành tặng cô một cái ôm thắm thiết, đồng thời dặn dò cô nên ăn mặc lịch thiệp hơn. Hôm sau, Watts quay lại, lần này là tại nhà riêng của vị đạo diễn. Rồi hai tuần sau, cô được trao cơ hội. Lynch giải thích về sự lựa chọn này của mình như sau: "Tôi có cảm giác cô gái này có tài năng đặc biệt, một tâm hồn cao quý, thừa sự thông minh để đảm trách nhiều vai trò khác nhau, một miếng ghép hoàn mỹ". Justin Theroux cũng đến gặp trực tiếp vị đạo diễn tương lai của mình ngay khi vừa đáp xuống sân bay sau chuyến bay dài mất ngủ. Anh vận bộ đồ đen với mái tóc còn chưa kịp chải. Lynch sau đó ấn tượng với phong cách này và quyết định lấy nó làm hình mẫu cho nhân vật Adam trong phim. Quay phim. Đoàn làm phim bắt đầu ghi hình cho tập thí điểm vào năm 1999. Sau 6 tuần, việc quay phim hoàn tất. Một tập phim dài 125 phút với ánh mắt dò xét, nghi hoặc từ các nhà phát hành ra đời. ABC yêu cầu Lynch cắt giảm thời lượng xuống còn 88 phút để khớp với kế hoạch phát sóng. Dĩ nhiên, Lynch miễn cưỡng làm theo. Để đối phó, ông loại bỏ đoạn cuối phim, chủ ý giữ lại kịch bản cho tập kế tiếp (nếu có), nhưng ABC nằng nặc đòi đầy đủ nội dung. Hệ quả, Lynch tạo ra một sản phẩm hoàn toàn vô nghĩa, lộn xộn. Chẳng lấy làm ngạc nhiên khi sau đó, nhà phát hành tỏ ra không thiện cảm lắm với tập phim thử nghiệm này và quyết định hoãn vô thời hạn việc trình chiếu. Biết tin, vị đạo diễn buồn rầu nói: "Nó chết ngay từ khi còn trong trứng nước, ngay từ khi còn trong trứng nước, các cô gái ạ". Những phản đối xoay quanh tập phim bao gồm dòng thời gian phi tuyến tính, tuổi tác của hai nhân vật nữ chính trong phim, vấn đề hút thuốc lá của nhân vật do Ann Miller đảm trách cùng phân cảnh chó đại tiện trông quá lộ liễu. Lynch nhớ lại: "Tất cả những điều mà tôi biết là, tôi yêu thích đoạn phim đó, còn ABC thì không. Nói thật tôi chẳng ưa gì đoạn phim mà tôi gửi cho họ. Thậm chí tôi hoàn toàn đồng tình với ABC rằng sẽ là quá chậm để thực hiện một đoạn cắt xén dài hơn, nhưng tôi không có thời gian. Chẳng có thời gian để hoàn thiện bất cứ điều gì. Hệ quả là bộ phim mất hết kết cấu ban đầu, những trường đoạn và cốt truyện. Có tới 300 bản sao của cái phiên bản dở tệ nằm cuộn tròn xung quanh. Biết bao nhiêu kẻ đã xem đoạn phim ấy, điều này thật đáng xấu hổ. Chúng là những đoạn phim kém chất lượng. Tôi thực tình chẳng muốn nghĩ đến nó nữa". Mặc dù vậy, nữ diễn viên Laura Harring vẫn tỏ ra tin tưởng rằng, bằng cách nào đó, bộ phim sẽ lại tái sinh. Hy vọng của Harring hoàn toàn có lý, từ kịch bản cũ vứt đi ban đầu, David Lynch đã biến tấu lại và chuyển thể lên màn ảnh rộng. Ông mô tả lại quá trình chuyển hướng từ một tập phim với kết thúc mở thành một phim chiếu rạp như sau: "Một đêm, khi đang ngồi trong nhà, bỗng nhiên chẳng biết từ đâu những ý tưởng cứ liên tục vụt tới đầu mình. Đấy là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất mà tôi từng trải qua. Mọi thứ như được nhìn từ góc độ hoàn toàn khác vậy... Giờ nghĩ lại, tôi thấy rằng [bộ phim] lẽ ra luôn luôn phải là như thế, chỉ là phải kinh qua trải nghiệm lần đó tôi mới nhận ra được". Kết quả là ông viết thêm tận mười tám trang giấy, trong đó bao gồm những ý tưởng về mối quan hệ tình cảm giữa Rita và Betty cũng như những sự kiện sau khi chiếc hộp màu xanh được mở ra. Lynch sau đó đã gọi điện thoại cho Laura Harring và yêu cầu cô "nói với Naomi rằng đây sẽ là lần cuối, lần này nó sẽ là một phim điện ảnh". Nữ diễn viên hăm dọa: "Nếu lần này không phải là sự thật, tôi không bảo đảm mình có thể giải quyết mọi chuyện theo cách tình cảm nhất đâu". Rồi hai người đến gặp Lynch tại nhà riêng của ông. Vị đạo diễn quả quyết: "Mulholland Drive sẽ trở thành phim điện ảnh tầm cỡ quốc tế... nhưng sẽ có cảnh khỏa thân đấy" – Harring vừa cười, vừa kể lại kỉ niệm "có một không hai" ấy. Sau này, khi nhớ về khoảng thời gian đó, Watts cảm thấy nhẹ nhõm khi ABC quyết định từ bỏ dự án, vì vai diễn Betty mà cô đảm trách sẽ quá một chiều nếu không có bước ngoặt tạo nên những mảng tối cho phim về sau. Hầu hết phân đoạn mới bắt đầu lên lịch quay vào tháng 10 năm 2000, trong đó Hãng sản xuất phim ảnh Công ty Canal tài trợ 7 triệu đô la cho đoàn làm phim. Theroux bật mí cách tiếp cận "đặc biệt", giúp cho cốt truyện phim không bao giờ được tiết lộ như sau: "Bạn có kịch bản toàn cục đấy, nhưng ai dám chắc ông ấy [Lynch] sẽ cho bạn tham gia chứng kiến các phân cảnh khác mà không có bạn trong đó, bởi toàn bộ cốt truyện luôn luôn lúc nào cũng hấp dẫn hơn so với từng phần riêng rẽ. David sẵn sàng tiếp nhận các câu hỏi từ bạn, nhưng ông ấy chẳng bao giờ trả lời... Bạn cứ tưởng tượng đơn giản là chúng tôi đang làm việc theo kiểu 'nửa bịt mắt' vậy. Nếu như đây là lần đầu tiên ông ấy áp dụng phương thức đó, có lẽ tôi sẽ có nhiều khúc mắc, nhưng may là nó hợp với ông ấy". Theroux cho biết câu trả lời duy nhất mà Lynch cung cấp đó là ông khẳng định nhân vật đạo diễn Hollywood (Adam) của Theroux không hề dựa trên hình mẫu về cuộc đời mình. Harring thì ví lối chỉ đạo "ẩn dụ và so sánh" đặc trưng của Lynch giống như "đám mây bao phủ trên đầu", nhấn mạnh rằng nó khiến cô "kinh hãi và khiếp sợ". Về phần Watts, cô vui vẻ tiết lộ việc mình thử lừa Lynch bằng cách nói với ông rằng cô biết trước toàn bộ cốt truyện, nhưng Lynch không hề tỏ vẻ gì là nao núng, trái lại còn rất bình thản, làm cả đoàn làm phim một phen thất vọng. Chủ đề và cách diễn giải. Chỉ với dòng tagline duy nhất: "Một câu chuyện tình yêu trong thành phố của những giấc mơ", cùng việc từ chối bình luận về ý nghĩa, biểu tượng hay bất cứ điều gì, David Lynch dường như đã thành công khi đẩy người xem vào vòng tranh luận không có hồi kết, dẫn đến vô vàn cách diễn giải khác nhau cho phim. Nhà phê bình David Sterritt, viết cho tuần báo "Christian Science Monitor" sau buổi trò chuyện với Lynch hậu Cannes đã khẳng định rằng ông ấy "khăng khăng "Mulholland Drive" sẽ kể một câu chuyện mạch lạc, dễ hiểu", không giống như vài phim trước đây của ông, chẳng hạn như "Lost Highway". Ở một diễn biến khác, Justin Theroux mô tả lại cảm xúc của Lynch khi ông biết được mọi người đang bàn tán về ý nghĩa bộ phim của mình như sau: "Tôi nghĩ rằng ông ấy đơn giản là hạnh phúc vì bất cứ điều gì bạn nghĩ đều có thể là đúng. Ông ấy tỏ ra thích thú trước những giả định kỳ lạ từ mọi người. David dường như làm việc từ tiềm thức của mình". Giấc mơ và thực tại song song. Diễn giải đầu tiên cho cốt truyện của "Mulholland Drive" là sử dụng phương pháp phân tích giấc mơ để cho rằng phần đầu phim là giấc mơ của Diane Selwyn (ngoài đời thực). Theo đó, cô đã vẽ nên một giấc mơ của riêng mình khi trong mơ, cô "vào vai" Betty Elms – một cô gái ngây thơ và tràn đầy hy vọng. Giấc mơ đã tái hiện lại một phần lát cắt cuộc sống cũng như tính cách của cô và biến nó trở thành một thứ giống như băng phim Hollywood cũ. Trong giấc mơ, Betty thành công, quyến rũ, sống đời giả tưởng của một nữ diễn viên dưới ánh hào quang. Một phần năm thời lượng cuối phim lột trần cuộc sống thực của Diane, khi cô lụn bại cả về mặt đời tư lẫn sự nghiệp. Cô lập mưu giết chết người yêu cũ của mình là Camilla. Cuối cùng, vì không thể đương đầu với sự thật nghiệt ngã đó, cô tưởng tượng ra trong mơ một nhân cách khác của Camilla (Rita). Nhân cách này hoàn toàn mất trí nhớ và phụ thuộc, trái ngược với chính Camilla ngoài đời. Dù vậy, những bằng chứng về mối quan hệ đổ vỡ của cả hai vẫn liên tục xuất hiện đi xuất hiện lại trong giấc mơ của Diane, dẫn đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của cô về sau này. Cách giải thích này giống với những gì Naomi Watts từng trình bày trong một cuộc phỏng vấn: "Tôi nghĩ Diane là nhân vật có thật và Betty là hiện thân cho những gì cô ấy luôn khao khát. Về phần Rita, cô ấy giống hình mẫu một "công chúa lâm nguy". Cô ấy cần Betty che chở. Betty lấy cớ đó để điều khiển Rita như một con búp bê. Rita là tưởng tượng của Betty về người mà cô ấy muốn Camilla trở thành". Watts còn chia sẻ thêm rằng những trải nghiệm ban đầu của cô ở Hollywood cũng giống hệt như những gì Diane từng trải qua. Cụ thể, cô đã chịu đựng một vài thất bại trong nghề, thử những vai diễn chẳng mấy tiềm năng, gặp những kẻ bị số phận quay lưng. Hồi tưởng về khoảng thời gian đó, cô bùi ngùi nhắc lại: "Có rất nhiều hứa hẹn, nhưng rồi thực tế chẳng hề có gì xảy ra cả. Tôi rỗng túi và trở nên khá cô đơn". Viết trên tờ "The Chicago Tribune", cây bút Michael Wilmington ví von: ""Mulholland Drive" là một cơn ác mộng. Đó là bức chân dung nơi giấc mơ vàng Hollywood biến thành ôi thiu, hóa thành món hầm độc hại của sự thù hận, đố kị, dàn xếp lôi thôi cùng sự thất bại trong việc hủy hoại tâm hồn. Đây là phần tăm tối nhất trong những mộng mị quyến rũ của chúng ta và mọi thứ mà Lynch phô bày ở đây thật vô cùng sinh động". "The Guardian" đã hỏi sáu nhà phê bình phim nổi tiếng về nhận thức của riêng họ về ý nghĩa tổng thể trong "Mulholland Drive". Neil Roberts của tờ "The Sun" lẫn Tom Charity của tạp chí "Time Out" đều đồng tình với giả thiết cho rằng Betty chính là hình tượng về một cuộc sống hạnh phúc hơn mà Diane hằng mơ ước. Hai nhà phê bình Roger Ebert và Jonathan Ross cũng đồng ý với cách nhận định này. Tuy nhiên, hai người vẫn ngần ngại đi sâu phân tích về bộ phim. Ebert nói: "Chẳng có lời giải thích nào hết. Thậm chí còn chẳng có bí mật nào để giải thích nữa". Ross nhận xét dòng thời gian của phim là một thứ hỗn tạp chẳng đi đến đâu: "Có thể còn sót lại chút dư vị nào đó mà tập thử nghiệm ban đầu dự định làm, hoặc có thể đơn giản những thứ này chỉ là những sự kiện bất ngờ không thể giải thích được, một loại vô thức của giấc mơ". Philip French từ tuần báo chủ nhật "The Observer" thì cho rằng bộ phim là một lời ám chỉ về những thảm kịch đang ngầm hiện hữu tại Hollywood, trong khi Jane Douglas của đài BBC thì phủ nhận giả thiết cuộc đời của Betty chính là giấc mơ của Diane, nhưng lại cảnh báo mọi người đừng phân tích quá nhiều. Nhà lý thuyết phim Siobhan Lyons cũng không đồng ý với lý thuyết về giấc mơ, khẳng định đó là một "sự giải thích hời hợt làm suy yếu sức mạnh của sự phi lý mà thực tế vốn thường diễn ra trong vũ trụ của Lynch". Thay vào đó, Lyons kết luận Betty và Diane bản chất là hai người khác nhau nhưng trông giống nhau, một mô típ phổ biến giữa các ngôi sao Hollywood. Cũng có một lý giải khác khá thú vị, đó là bốn người Betty, Rita, Diane và Camilla thực tế đều tồn tại trong các vũ trụ song song khác nhau, đôi khi nối kết với nhau. Một giả thiết khác cho rằng câu chuyện chỉ là một dải Mobius, một dải xoắn không có điểm đầu và cũng không có điểm cuối. Cũng có thể toàn bộ thời lượng phim chỉ là một giấc mơ, nhưng không rõ của ai. Còn theo phân tích của Murat Akser, người xem có thể hiểu bộ phim theo hai cách: thứ nhất, có một sự kiện bất ngờ nào đó khiến Betty ngây thơ tình cờ gặp một Rita mất trí; thứ hai, cả hai cùng lúc bước vào một vùng biến dạng không thời gian kỳ diệu nơi quá khứ trở thành tương lai, nơi hai cô gái hoán đổi danh tính lẫn địa vị cho nhau. Tuy nhiên, những cảnh tượng liên quan đến giường, phòng và giấc ngủ lặp lại liên tục cho thấy có ảnh hưởng sâu sắc của những giấc mơ lên cốt truyện. Rita rơi vào giấc ngủ vài lần và trong những lần đó, những phân cảnh rời rạc cứ liên tục hiện ra, chẳng hạn cảnh hai người đàn ông trò chuyện ở quán Winkie's, máy bay của Betty đáp xuống Los Angeles, rồi tên sát nhân hậu đậu xuất hiện chứng tỏ Rita mới là người đang mơ. Theo nhà nghiên cứu Ruth Perlmutter, cảnh quay mở đầu của bộ phim tập trung vào chiếc giường nơi một người bí ẩn đang say giấc và điều cần thắc mắc là thứ gì diễn ra sau phân cảnh đó là thực tại. Giáo sư chuyên về giấc mơ Kelly Bulkeley lập luận rằng phân cảnh tại quán ăn lúc đầu phim là nơi duy nhất trong đó giấc mơ hoặc việc đang mơ được đề cập rõ ràng, minh họa cho "sự thật được tiết lộ cũng như nhận thức luận không chắc chắn trong phim của Lynch". Thêm vào đó, việc sinh vật quái dị từ giấc mơ, là đề tài bàn thảo giữa hai người đàn ông ở quán Winkie's bất ngờ lộ diện trở lại vào cuối phim ngay trước và sau khi Diane tự sát. Bulkeley phán đoán rằng chính cuộc trò chuyện về những giấc mơ trong đoạn đầu phim có thể là tiền đề khơi dậy "một cách hiểu mới về mọi thứ xảy ra trong phim". Nhà lý luận Robert Sinnerbrink tương tự cũng cho rằng những hình ảnh sau vụ tự tử của Diane đã làm suy yếu sự hợp lý trong giả thiết "giấc mơ và hiện thực". Sau khi Diane tự bắn mình, chiếc giường ngập tràn trong màn khói. Hình ảnh Betty và Rita cũng liên tục nhập nhằng vào nhau, theo sau đó là cảnh một phụ nữ trên ban công Club Silencio thì thầm "Silencio" rồi màn hình mờ dần thành màu đen. Sinnerbrink viết: "Những hình ảnh kết thúc phim trôi nổi trong một khoảng vô định giữa tưởng tượng và hiện thực có lẽ là chiều siêu hình thực sự của cảnh quay điện ảnh". Đó có thể là "điểm tiếp nối cuối cùng cho những mộng tưởng còn sót lại của ý thức Diane sau khi cô mất, bao gồm cả khoảnh khắc đánh dấu cái chết thực sự xảy ra: "Sự yên lặng cuối cùng"". Cùng ý tưởng như trên, nhà lý thuyết phim Andrew Hageman nhận định rằng: "Chín mươi giây sau cái chết của Betty/Diane là một không gian điện ảnh tồn tại sau khi bức màn trong ý thức sống của cô hoàn toàn buông xuống và vì thế, không gian dai dẳng này là nhà hát nơi ảo ảnh của ảo ảnh liên tục bị vạch mặt". Nhà lý thuyết phim David Roche thì cho rằng phim của Lynch không đơn giản là kể chuyện trinh thám, mà buộc khán giả phải đóng vai trò thám tử để hiểu ý nghĩa câu chuyện. "Mulholland Drive", giống như các phim khác của Lynch, "khiến khán giả thất vọng về một cách trần thuật hợp lý bằng cách chơi đùa trên sai lầm của họ khi cho rằng lời kể đồng nghĩa với trần thuật". Trong các bộ phim của Lynch, khán giả luôn "chậm một bước so với lời kể" và do đó "lời kể chiếm ưu thế hơn so với trần thuật". Roche cũng lưu ý rằng có nhiều bí ẩn trong phim mà cuối cùng vẫn không được giải đáp do các nhân vật hoặc đi vào ngõ cụt như Betty và Rita, hoặc chịu thua trước áp lực như Adam. Dù khán giả có tranh đấu đến mấy để giúp câu chuyện trở nên có ý nghĩa, nhưng việc các nhân vật không được thiết lập cho việc giải quyết những mâu thuẫn của riêng họ đã phá vỡ nỗ lực này. Roche đi đến kết luận "Mulholland Drive" bí ẩn không phải vì nó cho phép khán giả đi tìm lời đáp cho các câu hỏi còn bỏ ngỏ, mà chính bản thân bộ phim đã là một ẩn số vì nó khiến khán giả – những thám tử đích thực trong phim phải sát cánh cùng nhau "dưới mong muốn biến cốt truyện vốn phức tạp của phim thành một điều có ý nghĩa". Viết trên ấn phẩm "New Directions in Cognitive Linguistics", Johanna Rubba đánh giá: "Những giấc mơ trong "Mulholland Drive" dĩ nhiên không phải là những giấc mơ có thật mà chỉ đơn giản là một câu chuyện hư cấu. Tuy nhiên, chúng hoàn toàn thực tế. Giấc mơ thường là phản ánh trực quan về cuộc sống của chính người mơ mộng, nhưng cũng có thể bao gồm cả những cá nhân quen thuộc hoặc thậm chí những người xa lạ mà người đó lướt qua trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Mặc dù vậy, tất cả họ, bằng cách nào đó, đều đóng vai trò đáng kể trong giấc mơ. Các sự kiện xảy ra thường vô lý hoặc phi logic. Sự biến thiên trong các sự kiện ngoài đời hay trong bản thân nhân vật hoàn toàn phù hợp với mục đích của giấc mơ: người thân yêu đã chết của bạn bỗng nhiên sống lại; người rời bỏ bạn mà đi trở về, hối hận, ăn năn. Giấc mơ trong "Mulholland Drive" sở hữu tất thảy những đặc điểm này". Một "món quà Valentine độc hại gửi đến Hollywood". Một chủ đề thu hút sự chú ý không kém đó là cách bộ phim lột tả những mảng tối nơi sân khấu đầy ắp ánh đèn. Stephen Holden từ tờ "The New York Times" viết: ""Mulholland Drive" không đề cập nhiều đến cuộc sống tình yêu hay tham vọng nghề nghiệp của bất kỳ ai mà chỉ tập trung phản ánh một cách sâu sắc nhất những cám dỗ ở Hollywood, sự đa dạng trong nhập vai cũng như sức sáng tạo cá nhân mà kinh nghiệm điện ảnh thầm hứa hẹn... Liệu còn có sức mạnh nào ngoài kia lớn hơn sức mạnh dấn thân và lên kế hoạch cho cuộc sống đáng mơ ước của chúng ta?" J. Hoberman của tờ "The Village Voice" nhắc lại cảm nghĩ này bằng cách gọi bộ phim là "món quà Valentine độc hại gửi đến Hollywood". "Mulholland Drive" cũng thường được đem ra so sánh với phim noir kinh điển "Sunset Boulevard" (1950) của Billy Wilder, một góc nhìn khác về những giấc mơ tan vỡ ở Hollywood. Nhân vật cùng tên Rita trong "Sunset Boulevard" đầu phim cũng băng qua một con đường có tên Đại lộ Sunset trong đêm. Bên cạnh việc hai tiêu đề đều được đặt theo tên những con đường mang danh biểu tượng của thành phố Los Angeles, thì "Mulholland Drive" còn là "một sự tính toán độc nhất vô nhị của Lynch về điều mà Wilder từng chú ý đến: sự đồi bại của con người (một cụm từ mà Lynch đã sử dụng vài lần trong suốt cuộc họp báo ở Liên hoan phim New York năm 2001) trong thành phố của những ảo vọng chết người". David Lynch sống gần đường Mulholland – biểu tượng văn hóa của Hollywood cho nên tiêu đề phim ít nhiều cũng liên quan đến khu vực này, như ông từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Ban đêm, khi bạn di chuyển lên đó, có cảm giác như thể bạn đang ở trên đỉnh của thế giới vậy. Ban ngày cũng thế, có chút sợ hãi vì nó nằm ở một khu tương đối hẻo lánh, nhưng bạn có thể cảm nhận được cả Hollywood trên con đường đó". Watts cũng từng có trải nghiệm khá xúc động về con đường trước khi sự nghiệp của cô thăng tiến. Cô kể: "Nhiều lần lái xe qua đó, tôi thường khóc rất nhiều. Trong tâm khảm lúc ấy, tôi luôn dằn vặt với câu hỏi: 'Mình đang làm gì ở đây?'" Nhà phê bình Gregory Weight cảnh báo người xem về cách giải thích có phần cay độc về nhiều sự kiện xảy ra trong phim, cho rằng Lynch đã phô bày nhiều hơn mức cần thiết "cái bộ mặt mà ông ấy tin chỉ có thể ngự trị điều dối trá và xấu xa". Mặc dù vậy, dưới quan điểm của Weight, bất chấp những tuyên bố về sự thao túng, lừa gạt, dối trá mà Lynch gán cho nền văn hóa Hollywood, ông cũng phần nào gửi gắm vào trong phim của mình những hoài niệm xưa cũ, thừa nhận nghệ thuật đích thực chỉ thăng hoa bởi lối làm phim kinh điển khi sử dụng những nhân vật một thời vàng son như Ann Miller, Lee Grant và Chad Everett như cách để tưởng nhớ họ. Với Naomi Watts, Lynch là người có công chắp cánh cho nhân vật Betty của cô trở thành một vai diễn tài năng xuất chúng khiến những nhân vật quyền lực nhất ngành công nghiệp giải trí phải chú ý đến. Bình luận về sự tương phản giữa cái đồi bại hiện thời với hoài niệm quá khứ ở kinh đô Hollywood, Steven Dillon nhận định cách mà "Mulholland Drive" phê bình văn hóa Hollywood cũng giống hệt như cách người ta thường lên án cái gọi là "cinephilia" (thuật ngữ chỉ sự mê hoặc của việc làm phim và những ảo tưởng đi kèm với nó). Laura Harring từng mô tả cách giải thích của mình sau khi xem bộ phim như sau: "Lần thứ nhất xem phim, tôi đoán đó là câu chuyện về những giấc mơ ở Hollywood, những ảo vọng cùng nỗi ám ảnh. Điều này mang đến ý niệm rằng chẳng có gì tồn tại như vẻ ngoài vốn có của nó, đặc biệt là việc khát khao trở thành một minh tinh Hollywood. Lần thứ hai rồi lần thứ ba, tôi bắt đầu nghĩ có thể có điểm gì đó liên quan đến nhân cách. Liệu chúng ta có thực sự biết mình là ai? Và rồi tôi bắt đầu xem nhiều thứ khác hơn... Chẳng có gì là đúng hay sai về việc mọi người hiểu được và nhận được gì từ bộ phim cả. Bộ phim chỉ đơn thuần khiến bạn phải suy ngẫm liên tục, bắt bạn phải đặt ra câu hỏi. Có một điều mà tôi thường hay nghe đi nghe lại rất nhiều lần về bộ phim là "Đây là bộ phim mà tôi phải xem lại lần nữa" hoặc đại loại là "Đây là bộ phim bạn bắt buộc phải xem lại". Nó hớp hồn bạn, khiến bạn bằng mọi giá phải chạm tay đến, nhưng quả thực tôi không nghĩ đây là bộ phim mà người ta có thể dễ dàng chạm tay vào. Cơ bản bộ phim đã hoàn thành sứ mệnh của mình nếu nó làm bạn phải bận tâm". Trong một bài phỏng vấn khác, nữ diễn viên thừa nhận: "Đối với tôi, "Mulholland Drive" là chuyện đôi khi chúng ta bị lạc trong giấc mơ. Đó là câu chuyện về bóng tối ở Hollywood... Mọi người đều nghĩ rằng nổi tiếng là điều gì đó rất vinh quang và tuyệt vời, nhưng nó chỉ thực sự tuyệt vời khi không có hằng hà sa số những vụ ly hôn cùng việc tiêu thụ quá nhiều bia rượu lẫn ma túy. Khi bạn trở nên cực kỳ nổi tiếng, bạn chỉ cần đi ra ngoài và rồi sẽ có rất nhiều tay săn ảnh xuất hiện. Bạn cảm thấy như thể bản thân là một con khỉ trên dây xích vậy. Thực sự là thế đấy!". Yếu tố đồng giới. Mối quan hệ giữa các tuyến nhân vật Betty và Rita, Diane và Camilla tùy trường hợp mà thay đổi từ "cảm động", "thắm thiết" đến "kích thích". Nhà phê bình phim Glenn Kenny, viết trong một bài phê bình về bộ phim trên tạp chí "Premiere" rằng mối quan hệ giữa Betty và Rita "có thể là mối quan hệ tình cảm lành mạnh nhất, tích cực nhất từng được miêu tả trong một bộ phim của Lynch". Còn nhà phê bình người Pháp Thierry Jousse, trong bài phê bình cho tạp chí điện ảnh "Cahiers du cinéma" đã phải thốt lên rằng thứ tình cảm hai người phụ nữ thể hiện qua phim là thứ "tình cảm cường điệu mà điện ảnh đương thời hoàn toàn vắng bóng". Trong ấn phẩm "Film Comment" số 37, Philip Lopate khẳng định điểm cốt lõi trong mối quan hệ giao thoa lãng mạn giữa Betty và Rita đã trở nên sâu sắc, dịu dàng hơn bởi "ngay lần đầu tiên, với tất cả sự ngạc nhiên của mình, Betty nhận ra rằng tất cả tính có ích của cô, cũng như nỗi tò mò về người phụ nữ kia hoàn toàn có ý nghĩa: [đó là] niềm khao khát... là khoảnh khắc đẹp nơi mọi điều trở nên huyền mặc hơn bởi tình thương mến âu yếm, bởi những điều tồi tệ giờ đây chỉ còn là khoảng cách". Stephanie Zacharek của tạp chí "Salon" mô tả "tính khêu gợi [của khoảnh khắc ấy] mạnh mẽ đến mức phủ kín toàn bộ bộ phim, tô nên bức tranh sống động cho mọi cảnh diễn ra trước và sau nó". Kênh IFC của Mỹ đã bình chọn Betty và Rita là cặp đôi lãng mạn biểu tượng cho thập niên 2000. Đánh giá về lựa chọn này, nhà văn Charles Taylor viết: "Betty và Rita như thể bị đóng khung trong một vùng bóng tối nhẹ nhàng và dịu mượt như một quầng mây lơ lửng. Quầng mây ấy sẵn sàng nuốt chửng hai người nếu họ manh nha tỉnh thức khỏi giấc mơ của bộ phim. Khi bóng tối bủa vây lấy họ, khi màn khói lấp đầy cái khung tựa lưu huỳnh từ địa ngục đang phủ mờ tầm nhìn của chúng ta, thì không chỉ ta cảm thấy một mối tình lãng mạn dần bị phá vỡ, mà như thể toàn bộ cái vẻ đẹp của tạo hóa cũng đang bị nguyền rủa". Một vài nhà lý luận điện ảnh cũng đã tranh luận về những chi tiết đồng giới được lồng ghép vào nội dung thẩm mỹ và chủ đề trong phim. Dòng thời gian phi tuyến tính của phim "không thể duy trì được tính nhất quán trong việc tường thuật câu chuyện", như Lee Wallace lập luận: "Tình dục đồng giới nữ đã phá vỡ các quy ước thông thường về mặt tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực kể chuyện, vận hành như một điểm chuyển tiếp cho thế giới đầy tranh cãi được xây dựng công phu bên trong cốt truyện của phim". Sự hiện diện của những tấm gương cùng các nhân vật song trùng xuyên suốt diễn biến phim "là biểu trưng thông thường cho khát khao tình dục đồng giới nữ". Mối quan hệ đồng phụ thuộc giữa Betty và Rita – mối quan hệ đặt nền móng trên nỗi ám ảnh triệt để cũng thường được đem so sánh với các mối quan hệ tương tự trong hai bộ phim khác là "Persona" (1966) của Ingmar Bergman hay "3 Women" (1977) của Robert Altman. Cả ba bộ phim đều tập trung khai thác những nhân cách khác nhau của từng người phụ nữ dễ tổn thương, để rồi những nhân cách ấy lần lượt đan xen, hoán đổi rồi cuối cùng hòa trộn vào nhau. Theo đó, "những cặp đôi phản chiếu tính cách của nhau bằng mối tương tác tổng hòa nên từ sự tôn sùng cá nhân cùng ham muốn tình dục đồng giới". Lynch tỏ rõ sự ái mộ của mình với "Persona" bằng cách để cho nhân vật Rita đội bộ tóc giả màu vàng, màu tóc của Betty. Sau đó, Rita và Betty nhìn chằm chằm vào bóng hình nhau trong gương. Điều này đã góp phần "thu hút sự chú ý của khán giả về sự tương đồng về mặt vật lý giữa hai người họ, nối kết cảnh tiếp theo đến chủ đề thể xác, sự gắn kết thân thể và ý niệm về sự sáp nhập hoặc nhân đôi" – hai chủ đề nổi bật thấu suốt bộ phim, mang đến cho hình thái hay nội dung phim thứ vượt xa hơn cái đơn thuần gọi là tình yêu đồng giới. Một số nhà lý thuyết đã cáo buộc Lynch duy trì các khuôn mẫu, kịch bản rập khuôn về chủ đề đồng tính nữ. Theo đó, Rita (người phụ nữ nguy hiểm) và Betty (kiểu nhân vật nữ sinh, ngây thơ) đại diện cho hai mẫu hình nhân vật đồng tính nữ cổ điển. Nhà văn Heather Love nhắc đến hai mệnh đề sáo ngữ chính được sử dụng trong phim như sau: "Lynch thể hiện chủ nghĩa đồng tính nữ ở dạng ngây thơ và cởi mở: ham muốn đồng giới ló dạng tựa hồ cuộc phiêu lưu vĩ đại, như cánh cổng dẫn đến một vùng lãnh thổ quyến rũ và vô danh". Nhà văn cũng nói thêm: "Trong câu chuyện của Diane và Camilla, Lynch mang đến cho chúng ta một mối quan hệ tam giác cổ điển", trong đó, một người phụ nữ sẽ "bỏ mặc người phụ nữ còn lại" – người phụ thuộc vào mối quan hệ này hơn chính cô ta để "lao vào vòng tay người đàn ông khác". Maria San Filippo, tác giả cuốn sách nổi tiếng "The B Word: Bisexuality in Contemporary Film and Television", trên bài xã luận của mình đã thẳng thắn nhìn nhận rằng vị đạo diễn chủ yếu dựa vào những mô típ quen thuộc trong các phim noir để hướng nhân vật Camilla đến sự phản bội không thể tránh khỏi. Những mô típ này "trở nên thâm căn cố đế đến mức người xem dễ dàng đoán ra ngay chỉ là vấn đề thời gian trước khi 'Rita' bộc lộ bản chất thực của mình". Theo Love, ham muốn đồng tính nữ độc quyền của Diane là ranh giới "giữa thành công với thất bại, giữa tính dục với sự thấp hèn, thậm chí giữa sự sống và cái chết" nếu cô bị từ chối. Diane là mẫu nhân vật bi kịch, mong muốn thiết tha một tình yêu đồng giới trong mối quan hệ tình dục đơn thuần. Phân tích của Love về bộ phim cũng chỉ ra mối quan tâm đặc biệt của giới truyền thông về nội dung đồng giới. Cụ thể, "các nhà phê bình phấn khích đến từng chi tiết cũng như thời lượng của các cảnh nóng trong phim, cứ như có một cuộc thi xem ai có thể thưởng thức hình tượng đại diện cho khao khát đồng giới này một cách tốt nhất vậy". Bà cũng chỉ ra bộ phim đã sử dụng một chủ đề kinh điển trong văn chương và điện ảnh để miêu tả các mối quan hệ đồng tính nữ. Theo đó, Camilla xinh đẹp, độc thân, đứng giữa hai lựa chọn: một là người đàn ông giàu sang, hai là người phụ nữ bên cạnh mình. Cuối cùng, như ai cũng thấy, cô quyết định rời bỏ Diane để tiến tới với Adam. Ngoài ra, sự tương phản trong mối quan hệ giữa Betty và Rita, Diane và Camilla thường được hiểu theo cách: "Có lúc, hai người họ giống như hai sinh vật nóng bỏng nhất trên Trái Đất, nhưng cũng có lúc, họ nguội lạnh và trở nên buồn rầu", như thể "trật tự dị tính luyến ái đã tự biết cách đòi quyền lợi bằng việc vùi dập những xúc cảm vốn có của một người phụ nữ khi họ bị bỏ rơi". Yếu tố dị tính chủ yếu quan trọng ở nửa sau của bộ phim, khi sự sụp đổ của mối quan hệ Diane-Camilla bắt nguồn từ các sự kiện diễn ra tại bữa tiệc của Adam, nơi anh tuyên bố sẽ kết hôn với Camilla (dù điều này chỉ mang tính thủ tục). Tuy vậy, hai người này vẫn không thể đi đến kết cục viên mãn, bởi như Lee Wallace nhìn nhận, bằng việc lên kế hoạch kết liễu Camilla, "Diane đã ngăn cản mối tình sặc mùi công nghiệp tiến tới hôn nhân chỉ với hành động xuôi theo dòng cốt truyện, thứ gián tiếp kết liễu cả cô lẫn bạn tình của mình. Về cơ bản, mối quan hệ nhân quả trong phim không tương xứng lắm với cốt truyện mang đậm chủ nghĩa đồng giới nữ mà chính bộ phim thể hiện". Còn theo Joshua Bastian Cole, Adam đóng vai trò giống như chướng ngại khiến Camilla rời bỏ cô. Vì lẽ ấy, trong giấc mơ cô vẽ ra, Adam trở thành kẻ xấu có kết cục không mấy tốt đẹp. Nói cách khác, giấc mơ là nơi Diane "báo thù" cho nỗi ghen tuông kìm nén trong tâm trí mình. Cole lập luận đây là một ví dụ về "cái nhìn chuyển đổi" của Diane: "Adam đóng vai trò như một tấm gương – một nhân vật nam mà Diane có thể tự soi chiếu". Ngoài ra, những tiếp xúc thị giác của hai người Diane và Dan ở quán Winkie's là ví dụ khác của "cái nhìn chuyển đổi". Theo Cole, "sự nhìn nhận kỳ lạ của Diane với nhân vật Dan, một bản thể không giống nhân dạng mà là thứ gì đó hoàn toàn khác, dường như tạo cảm giác giống như có sự chuyển đổi nào đó bên trong một lối đi quanh co, được vẽ nên từ việc nhân đôi không thể xảy ra". Mặt khác, ông khẳng định cái tên gần như tương giao giữa họ (Dan/Diane) chắc chắn không thể là một thứ nhầm lẫn, đồng thời nhấn mạnh rằng mong muốn hiểu biết về chủ đề đồng tính nữ đã làm lu mờ đi các diễn giải về chuyển đổi. Hai diễn viên Naomi Watts và Laura Elena Harring cũng có những nhận định trái ngược nhau về mối quan hệ của họ trên màn ảnh. Watts nhận xét về cảnh nóng giữa hai nhân vật trong phim như sau: "Tôi không thấy nó khêu gợi tí nào cả, mặc dù nó được quay theo cách ấy. Lần cuối tôi xem cảnh này, tôi đã khóc rất nhiều vì tôi biết câu chuyện đang đi đến đâu. Nó khiến tim tôi hơi nhói". Tuy nhiên, trong bài phỏng vấn khác, Watts lại phân bua: "Kỳ thực tôi rất lấy làm ngạc nhiên vì độ chân thực của phân cảnh đó trên màn ảnh. Hai người họ dường như rất yêu thương nhau và điều này khêu gợi đến lạ". Còn về phần Harring, cô nhận định: "Phân đoạn tình cảm bỗng chốc hiện ra trước mắt tôi. Rita rất biết ơn sự giúp đỡ mà Betty đã dành cho [cô ấy] vì vậy tôi nói lời tạm biệt, chúc ngủ ngon, cảm ơn cô ấy từ tận đáy lòng, rồi tôi hôn cô ấy và đột nhiên sau đó có một nguồn năng lượng nào đó khiến chúng tôi vượt qua [giới hạn]. Tất nhiên tôi bị mất trí nhớ vì vậy tôi không biết liệu tôi từng làm điều này trước đây chưa, nhưng tôi không nghĩ rằng chúng tôi thực sự là hai kẻ đồng tính". Heather Love cũng phần nào đồng ý với nhận định của Harring khi cô cho rằng danh tính trong "Mulholland Drive" không quan trọng bằng mong muốn: "Chúng ta là ai không quan trọng cho lắm – cái quan trọng là chúng ta sẽ làm gì, chúng ta biết bản thân muốn gì". Nhân vật. Betty Elms (Naomi Watts) là tài năng mới nổi, chân ướt chân ráo đến Los Angeles. Cô được mô tả như người "lành mạnh, lạc quan, quyết tâm gây tiếng vang ở thành phố". Ngoài ra, đây còn là nhân vật "ngây thơ đến lố bịch". Cũng vì thế mà cách tiếp cận có phần dũng cảm, tự đắc của cô trước những điều sai trái để giúp Rita khiến nhiều người nhớ đến hình tượng thám tử Nancy Drew nổi tiếng. Toàn bộ tính cách ban đầu của Betty rõ ràng mô phỏng lại kiểu nhân vật ngây thơ, nhẹ dạ ở vùng thôn quê. Tính cách đó của cô, hoặc ít ra có thể là phần đã mất của tính cách ấy đóng vai trò như trọng tâm trong "Mulholland Drive". Theo nhà phê bình Amy Taubin, Betty là hiện thân cho phần ý thức lẫn vô thức của phim. Chính Naomi Watts – người mà vai Betty của cô lấy cảm hứng từ các nhân vật gạo cội Doris Day, Tippi Hedren và Kim Novak – cũng thẳng thắn thừa nhận rằng Betty là kiểu nhân vật ưa chuộng cảm giác mạnh, một người "thấy mình ở một thế giới không thuộc về mình và sẵn sàng nhận lấy một danh phận mới, thậm chí nếu đó là của người khác". Điều này đi đến kết luận rằng dù trong con người Betty vốn luôn tồn tại niềm ngây thơ, nhưng nỗi thiết tha đặt chân vào thế giới đầy cám dỗ của Hollywood đã biến cô thành một "diễn viên đồng lõa", chấp nhận "nắm lấy những kiến trúc làm nên thành công" mà sau này chính những kiến trúc ấy sẽ hủy diệt cô. Trong một lời giải thích về sự phát triển của nhân vật Betty, Watts cho biết: "Do đó, tôi đã phải đưa ra quyết định của riêng mình liệu điều này có nghĩa là gì và nhân vật này đã trải qua điều gì, cái nào là mơ và cái nào là thực. Giải thích của tôi đến cuối cùng có thể hoàn toàn khác với David lẫn khán giả. Tuy nhiên, tôi chấp nhận tất cả điều đó, và mọi người đều nghĩ nó hợp lẽ." Trong phim, Betty tuy cảm thấy có phần khó tin trước nhân vật mà mình sẽ đảm trách nhưng vẫn thể hiện được chiều sâu đáng kinh ngạc trong buổi thử vai, khác hẳn với buổi tập dượt thất bại trước đó với Rita tại căn hộ của mình. Hôm thử vai, Betty mang nỗi lo âu cùng vẻ can trường vốn có, đi vào trong một căn phòng tù túng để đóng cảnh âu yếm nóng bỏng với người bạn diễn. Nỗi lo lắng trước đó bỗng chốc vụt đi đâu mất, nhường chỗ cho sự thăng hoa đến hoàn hảo trong phân cảnh khêu gợi tới mức cả khán phòng nín lặng. Phân cảnh kết thúc cũng là lúc mọi cảm xúc ùa về như cũ, cô ngại ngùng đứng trước mặt đoàn làm phim chờ đợi sự chấp thuận. Nhà phân tích phim Geogre Toles quả quyết rằng khả năng chưa từng được biết đến này của Betty đã chiếm trọn buổi trình diễn, thu hút tất cả những điều bí ẩn trong con người Rita và gán vào chính bản thân cô. Bằng cách sử dụng phân cảnh này, Lynch đã cho khán giả thấy rõ mánh khóe lừa gạt trong các tuyến nhân vật của mình. Còn Ruth Perlmutter thì thắc mắc liệu kĩ năng diễn xuất của Betty lúc đó là một sự sắp xếp nhằm tái hiện lại hình ảnh chính cô ngoài đời thực – Diane, hay chỉ là một sự sao chép của bộ phim mà sau này diễn biến của nó chính là kết cục cho cuộc đời cô. Rita (Laura Elena Harring) là cô gái với bí ẩn, không nơi nương tựa, mẫu phụ nữ nguy hiểm với vẻ ngoài tăm tối nhưng hấp dẫn. Roger Ebert ấn tượng với Harring đến nỗi ông cho rằng "tất cả những gì cô ta phải làm là đứng đó và rồi cô ta sẽ là đề tài lý tưởng cho cuộc tranh luận về việc [có nên] làm lại phim "Gilda" sau 55 năm [hay không]". Rita đóng vai trò như thế thân của dục vọng, trái ngược hoàn toàn với một Betty tươi sáng và tràn đầy tự tin. Cô cũng là nhân vật đầu tiên mà khán giả nhận định là kiểu người rối rắm, đáng sợ. Họ không thể biết được cô là ai cũng như cô sẽ đi về đâu. Hơn thế nữa, Rita còn là đại diện cho khao khát của khán giả nhằm thấu hiểu toàn bộ câu chuyện chỉ bằng cá tính độc nhất của riêng bản thân cô. Thay vì đe dọa, Rita truyền cảm hứng khiến Betty tự nguyện cung dưỡng, an ủi và giúp đỡ mình. Việc bị mất trí nhớ khiến cho cô chỉ còn là một bản thể hoàn toàn trống rỗng, bản thể chứa đựng "vẻ đẹp khác thường cùng sự sẵn lòng của người xem trong việc đặt vào đó cả thảy ý niệm về thiên thần lẫn ác quỷ". Một phân tích quả quyết rằng hành động của Rita là chân thực nhất trong phần đầu tiên của phim, vì cô bị mất trí nhớ và điều này có nghĩa không có gì có thể sử dụng để dựa vào đó làm khung tham chiếu cho cách ứng xử. Tuy nhiên, Todd McGowan (tác giả của một quyển sách chuyên bàn về những chủ đề trong phim của Lynch) lại cho rằng phần đầu phim có thể cắt nghĩa thành tưởng tượng của Rita, cho đến khi nhân vật chủ chốt Diane Selwyn lộ diện. Về cơ bản, Betty là đối tượng để Rita xua đi mối băn khoăn về việc mất trí nhớ của mình. Còn theo nhà sử học điện ảnh Steven Dillon, Diane đã chủ động chuyển đổi người bạn cùng phòng ngoài đời thực của mình thành Rita trong mơ. Cụ thể, sau cuộc cãi vã về việc người bạn kia muốn dọn nốt những đồ đạc còn sót lại của cô ra khỏi căn hộ, Rita bỗng nhiên xuất hiện ở đó và mỉm cười với Diane. Sau khi Betty và Rita tìm thấy cái xác bị phân hủy, họ bỏ chạy khỏi căn hộ. Ngay lúc đó, hình ảnh của họ bị tách ra và tái hòa nhập với nhau. David Roche lưu ý rằng việc Rita mất đi nhân dạng đã gây ra sự cố "không chỉ xảy ra ở cấp độ của nhân vật mà còn ở cấp độ của khung hình. Cảnh quay chứa nhiều hiệu ứng đặc biệt, âm thanh của các nhân vật bị làm méo và máy quay dường như đang cố tả lại trạng thái tinh thần của các nhân vật". Rồi ngay tức thì, hai người trở về căn hộ của dì Betty nơi Rita đeo bộ tóc giả màu vàng (Rita có ý cải trang giống với Betty hòng khỏi bị nhận ra) nhưng vô tình lại khiến cô giống hệt Betty. Đây là sự chuyển giao mà một nhà phân tích từng gọi là "sự hòa tan của hai bản thể". Nhận định này có phần đúng bởi các manh mối trực quan lúc đó đã chỉ ra các góc máy ảnh dường như đã khiến cho khuôn mặt của Betty và Rita hợp nhất thành một. Điều này được minh họa rõ hơn bởi cảnh thân mật tình dục của hai người họ, tiếp theo sau là thời điểm tính cách của Rita bắt đầu trở nên chiếm ưu thế khi cô nhất định phải đến Club Silencio lúc 2 giờ sáng bằng bất cứ giá nào. Sự thống trị hoàn toàn của Camilla lúc này xem như không thể đảo ngược nữa. Diane Selwyn (Naomi Watts) là người phụ nữ thất vọng và chán nản, náu mình sau những vinh quang của Camilla, người mà cô thần tượng và ngưỡng mộ, nhưng lại không được đáp lại tình cảm. Diane là hiện thực "khó mà tin được" của Betty, hoặc là một phiên bản khác của Betty sau một thời gian dài sống ở Hollywood. Đối với Steven Dillon, cốt truyện của bộ phim "biến Rita thành con tàu trống rỗng hoàn hảo cho những mộng tưởng của Diane", nhưng trớ trêu thay, Rita chỉ là "cái vỏ bọc vô tri vô giác" mà Diane "bỏ công sức trong vô vọng", dẫn đến việc cô suy sụp rồi tự kết liễu sau đó. Bên cạnh đó, Diane còn là hiện thân cho sự bất thỏa mãn, được tỉ mỉ miêu tả khi cô thủ dâm nhưng không tài nào đạt cực khoái, khoảnh khắc mà "bằng sự xuẩn ngốc, mù quáng cùng đường của mình – không chỉ nước mắt và sự nhục nhã mà sự tan vỡ của giấc mơ cũng khao khát báo thù". Một phân tích về Diane cho thấy sự tận tâm của cô dành cho Camilla dựa trên biểu hiện của lòng tự ái, vì Camilla là tất cả mọi thứ Diane muốn chiếm hữu. Mặc dù Diane được miêu tả như một kẻ yếu đuối và thua cuộc, nhưng đối với Jeff Johnson (tác giả của một cuốn sách về đạo đức trong các bộ phim Lynch), Diane là nhân vật duy nhất trong phần sau phim mà các quy tắc về đạo đức vẫn còn nguyên vẹn. Cô ấy là "một người đàng hoàng bị tha hóa bởi những hành vi sai trái vốn cắm rễ rất sâu trong ngành công nghiệp điện ảnh". Cảm giác tội lỗi và hối hận của cô thể hiện rõ trong vụ tự tử cùng những manh mối xuất hiện trong phần đầu tiên phim. Nỗi sợ hãi của Rita, xác chết cùng ảo ảnh tại nhà hát Club Silencio cho thấy có điều gì đó mờ ám và sai trái trong thế giới của Betty và Rita, nên khi tự do khỏi Camilla, những giá trị đạo đức vốn có đã thôi thúc cô kết liễu chính bản thân mình. Camilla Rhodes (Melissa George, Laura Elena Harring) chỉ cần khuôn mặt và cái tên là đã đủ khiến cho những kẻ có quyền lực gây sức ép buộc Adam phải tuyển mộ mình. Vai trò của cô không mấy ấn tượng ở phần đầu phim, thậm chí một nhà phê bình từng ví von nhân vật này giống một "con điếm nhạt nhẽo" hơn là diễn viên. Tuy nhiên, khi chiếc hộp màu xanh được mở ra, Camilla trở lại là chính mình trong thế giới thực, cô lập tức biến thành một kẻ "phản trắc, phóng túng và đáng khinh bỉ". Cô, người đàn bà với sự khêu gợi mãnh liệt, xuất hiện với mục đích "hút hết sinh khí của Diane", không ai khác, chính là nguồn cơn cho nỗi thất vọng tột độ của Diane. Trong cuộc giao hợp ở phần sau phim, ngay khi vừa bảo Diane rằng cô ấy khiến mình hưng phấn tột độ, Camilla lại dìm người bạn tình xuống vực bằng việc buộc cô phải kết thúc mối quan hệ này. Ở một phân cảnh khác tại phim trường, nơi có mặt cả ba người: Adam, Camilla lẫn Diane, trong lúc Adam yêu cầu cả đoàn làm phim giải tán, để anh hướng dẫn một diễn viên nam "cách hôn Camilla sao cho đúng" thì chính cô lại bắt Diane ở lại chứng kiến. Màn tra tấn không thể tồi tệ hơn này cùng với hàng loạt phân cảnh sau đó đã đẩy Diane xuống vực thẳm không lối thoát, buộc cô gái đáng thương phải đưa ra lựa chọn tàn độc là giết chết người mình yêu. Có ý kiến cho rằng hình tượng Rita do Diane dựng nên chính là đại diện cho khao khát yếu đuối của cô đối với Camilla. Adam Kesher (Justin Theroux) đầu phim được định hình như một kẻ "kiêu ngạo không rõ ràng". Nhìn bề ngoài, Adam là một người thành đạt, nhưng sự nghiệp đạo diễn thì khá trắc trở, khi phải hứng chịu hết sự sỉ nhục này tới sỉ nhục khác. Theroux từng nói về vai trò của nhân vật này như sau: "Anh ta đại loại là kiểu nhân vật trong phim mà chẳng biết bất kì cái quái gì đang diễn ra cả. Tôi nghĩ anh ta là kiểu người mà khán giả hay nói 'Tôi khá giống anh bây giờ. Tôi không hiểu tại sao anh phải chịu nỗi đau như vậy'". Sau khi bị tước mất vai trò sáng tạo trong phim, Adam còn chịu thêm một vố khác nữa khi cô vợ cắm sừng anh với một kẻ dọn bể bơi (Billy Ray Cyrus đóng) và tống anh ra khỏi căn biệt thự cao cấp trên đỉnh Hollywood. Không còn cách nào khác, Adam bèn tìm đến một nhà nghỉ rẻ tiền, nhưng dường như cả số phận cũng muốn trêu ngươi khi người quản lý khu nhà nghỉ thông báo thẻ tín dụng của anh ta bị hỏng. Trước mặt Diane, Adam lúc nào cũng thể hiện mình là một kẻ hào hoa, ra vẻ ta đây. Đây cũng là nhân vật mà tính cách dường như không bị ảnh hưởng bởi sự chuyển tiếp giữa mơ và thực trong hai phần của bộ phim. Có ý kiến cho rằng việc Adam chọn Camilla thay cho Diane cho bộ phim trong phân cảnh ngoài thực tại đã ảnh hưởng đến quyết định giúp đỡ cũng như sự sẵn lòng của Betty với Rita trong mơ, khi cô nhận định những thảm kịch mà mình phải chịu đều do lỗi của những kẻ đại diện cho quyền lực mềm trong ngành điện ảnh. Các nhân vật nhỏ khác gồm có Gã Cao Bồi (Monty Montgomery), anh em nhà Castigliani (Dan Hedaya and Angelo Badalamenti) và Lão trùm Roque (Michael J. Anderson). Tất cả bọn họ, bằng cách nào đó đều nhúng tay vào việc gây áp lực buộc Adam phải tuyển mộ Camilla Rhodes cho bộ phim của mình. Những kẻ này đại diện cho cái chết của sự sáng tạo trong lĩnh vực điện ảnh, cũng như phác họa một "góc nhìn khác của ngành công nghiệp nơi hệ thống thứ bậc và quyền lực ngầm chi phối tất cả". Ann Miller vào vai dì Coco, bà chủ nhà trọ của Betty. Phần đầu phim, bà đại diện cho tầng lớp tinh hoa của Hollywood, những người luôn hoan nghênh, chào đón và bảo bọc những người như Betty. Trong phần sau của phim, bà đóng vai trò là mẹ của Adam, người quở trách Diane vì đến muộn, trêu chọc cô trong bữa ăn, thậm chí còn không đoái hoài tới việc Diane đang xấu hổ khi liên tục nhắc tới sự nghiệp diễn xuất không mấy tốt đẹp của cô trong quá khứ. Phong cách. David Lynch là một đạo diễn khét tiếng với phong cách làm phim "vô cùng kỳ quái", "tăm tối" và "lập dị". Theo Todd McGowan, "người ta không thể xem một bộ phim của Lynch theo cách người ta xem một bộ phim thuần Hollywood cũng như những phim cấp tiến nhất". Thật vậy, thông qua sự kết hợp giữa các yếu tố rập khuôn lẫn siêu thực, ác mộng lẫn tưởng tượng cùng cốt truyện phi tuyến tính, đồng thời tận dụng tối đa các góc quay, hiệu ứng âm thanh và ánh sáng, Lynch đã buộc người xem phải nghi ngờ về những trải nghiệm mà họ trải qua trong phim. Mẫu nhân vật chủ yếu thường được ông đưa vào trong phim của mình là kiểu nhân vật giàu khát vọng, người đàn bà nguy hiểm, vị đạo diễn chống lại các khuôn phép có sẵn, những kẻ nắm giữ quyền lực mờ ám mà chính ông còn chưa khám phá hết. Mấu chốt của vấn đề là Lynch biết cách đặt những nhân vật tưởng như nhàm chán này vào những tình huống hiểm nguy khác nhau và tạo ra cho họ những phẩm chất như mơ, sử dụng họ vào những phân cảnh hợp thành bởi trí tưởng tượng cũng như ác mộng, để khán giả tự định đoạt giữa hai thái cực thực và ảo. Nhà phân tích điện ảnh Jennifer Hudson đã thẳng thắn thừa nhận: "Như hầu hết những người theo chủ nghĩa siêu thực khác, thứ ngôn ngữ khó hiểu mà Lynch sử dụng lại là ngôn ngữ vốn tồn tại một cách trôi chảy bên trong những giấc mơ". Trong "Mulholland Drive", Lynch sử dụng nhiều thủ pháp đánh lừa khác nhau. Một trong số đó là việc sử dụng nhân vật theo hướng khôn khéo và đặc biệt. Ông để diễn viên lùn nổi tiếng Michael J. Anderson (người từng tham gia vào "Twin Peaks") vào vai Lão trùm Roque. Nhân vật này là kẻ đứng đầu, thâu tóm cũng như điều khiển các hãng phim. Duy chỉ có vỏn vẹn hai câu thoại, nhưng ấn tượng để lại của ông trong phim là không thể phủ nhận. Chúng ta thấy một nhân vật kì quái ngồi trên chiếc xe lăn gỗ quá khổ, được lắp tay và chân giả lớn hơn thân người nhằm tạo hiệu ứng đánh lừa thị giác khiến ta cảm thấy đầu nhân vật này trông nhỏ bất thường. Ngoài ra, việc lão ta điều khiển hai gã mafia thông qua một thiết bị gắn trên tường cho thấy nhân vật này không khác gì một "vị thần toàn năng". Đây là tưởng tượng của Diane về một kẻ "tộc trưởng quyền lực" có thể kiểm soát cuộc sống của Adam. Trong thuyết phân tâm học Lacan, tên của Lão trùm Roque dịch ra là "pere joissance", mang nghĩa "chế độ phụ quyền", đại diện cho luật gia trưởng. Theo Murat Akser, Diane tạo ra một yếu tố "giả tưởng có tính ngoại lai" mạnh mẽ như vậy để khỏa lấp đi vai trò đóng chính bị tước đoạt trong trong cả hai lần diễn ra trước và sau phim. Ví dụ khác nữa là trong bữa tiệc của Adam và Camilla, Diane chứng kiến từ đầu đến cuối cảnh Camilla (lúc này do Harring đóng) một tay ôm Adam, tay kia với qua, cúi xuống hôn say đắm người phụ nữ vào vai Camilla ở phần đầu phim trước khi chiếc hộp màu xanh được mở ra (Melissa George đóng). Sau đó cả hai quay lại và mỉm cười với Diane. Nhà phê bình phim Franklin Ridgway cho rằng với hành động "tàn nhẫn và thao túng" có chủ đích như vậy, [Lynch] đã khiến người xem rất khó xác định liệu Camilla vốn luôn thất thường như chúng ta vẫn nghĩ hay đơn giản những hoang tưởng của Diane chỉ cho phép khán giả thấy những gì cô ấy cảm nhận. Trong một cảnh ngay sau buổi thử vai của Betty, bộ phim cắt ngang đoạn một người phụ nữ hát mà không có nhạc đệm rõ ràng, nhưng khi máy quay lùi về phía sau, khán giả thấy rằng đó là một phòng thu. Trên thực tế, đó là một sân khấu âm thanh nơi Betty đến để gặp Adam Kesher, khán giả nhận ra rõ hơn khi máy quay lùi xa hơn. Ridgway khẳng định rằng bằng sự lừa dối đầy tinh ranh thông qua cách điều khiển cảnh quay, Lynch đã khiến người xem không chắc chắn về những gì đang được trình bày. "Cứ như thể máy quay, trong sự trôi chảy duyên dáng của nó, trấn an chúng ta rằng nó nhìn thấu tất cả, bắt mọi thứ phải dưới tầm kiểm soát, ngay cả khi chúng ta [lẫn Betty] không hề muốn". Theo Stephen Dillon, bằng cách sử dụng nhiều góc quay khác nhau xuyên suốt bộ phim, chẳng hạn các góc quay cận cảnh, Lynch đã giúp người xem "đồng nhất hóa với góc nhìn của chính nhân vật trong từng phân cảnh cụ thể". Tuy nhiên, cũng có lúc, ông "tách các máy quay khỏi các góc quay thông thường", gây ra sự khó hiểu có chủ đích, tạo ra các góc nhìn đa chiều nhằm ngăn cản mạch truyện của phim trở nên ăn khớp với nhau, làm nhiễu loạn "giác quan phán đoán của con người". Andrew Hageman tương tự cũng đồng ý rằng các máy quay đã "tạo ra cảm giác lo âu cùng cực về không gian và sự hiện diện [của các nhân vật]", chẳng hạn như khung cảnh trong quán Winkie's nơi "máy quay di chuyển một cách hết sức kỳ quặc khi các nhân vật đang thực hiện đối thoại", làm cho "khán giả thấy như các góc quay tưởng chừng thông thường đang dần trở nên bất thường kỳ lạ". Còn theo phân tích của học giả Curt Hersey, một vài kỹ thuật tiên phong được Lynch áp dụng trong phim gồm có chuyển cảnh mập mờ, chuyển tiếp đột ngột, điều chỉnh tốc độ khung hình, di chuyển máy quay vô tội vạ, mô phỏng hình ảnh bằng máy tính, sử dụng hình ảnh ngoài ranh giới chuyện kể, tường thuật phi tuyến tính và liên văn bản. Phần đầu của bộ phim được đánh giá là đoạn phim có tính logic nhất trong sự nghiệp làm phim của Lynch, khi hầu hết thời lượng chủ yếu chỉ xoay quanh việc giới thiệu, miêu tả các nhân vật Betty, Rita và Adam. Phần sau tuy các yếu tố siêu thực đã giảm đi ít nhiều, nhưng cũng kịp giữ lại những thay đổi đáng kể ở hiệu ứng điện ảnh đủ để dung hòa mức độ siêu thực như phần đầu phim. Dáng vẻ của Diane trở nên tiều tụy hơn và hiệu ứng hình ảnh cũng được chỉnh tối đi một ít để miêu tả rõ sự đi xuống trong tinh thần của cô, trái ngược hoàn toàn với phần đầu tiên, khi "ngay cả vật trang trí cũng trở nên lấp lánh", Betty và Rita luôn rực rỡ lạ thường cũng như hiệu ứng chuyển cảnh diễn ra khá mượt mà. Trong phần đầu phim, Lynch di chuyển giữa các cảnh bằng cách sử dụng các góc máy xa ghi lại các hình ảnh về đồi núi, cây cọ cùng các tòa nhà ở Los Angeles, nhưng trong phần sau, hiệu ứng âm thanh được sử dụng nhiều hơn trong việc chuyển cảnh. Cụ thể, tại bữa tiệc của Adam, vào lúc Diane trở nên bẽ mặt nhất, bỗng nhiên có tiếng vỡ của thứ gì đó và ngay lập tức cảnh phim được chuyển sang một quán ăn nơi người xem nhìn thấy một đống đĩa vỡ dưới sàn. Đây cũng là nơi Diane trò chuyện với tay sát thủ sẽ giết chết Camilla sau này. Sinnerbrink cũng lưu ý rằng tại vài phân đoạn, chẳng hạn như ảo ảnh của Diane về Camilla khi cô thức giấc, sinh vật kỳ quái đằng sau quán Winkie's hiện ra sau khi Diane tự sát, hay việc "lặp lại, đảo ngược cũng như thay thế các yếu tố có tính phân định khác nhau" trong phần đầu phim đã tạo ra hiệu ứng đặc biệt nơi những nhân vật và tình huống quen thuộc được phô bày ra trước mắt người xem. Cùng quan điểm, Hageman nhận xét khung cảnh đầu phim ở quán Winkie's là một thứ gì đấy "cực kì bất thường". Nó đã tạo ra một khung cảnh nơi "ranh giới chia tách thực tại lý tính và thực tại siêu hình của vô thức hoàn toàn bị phá vỡ". Theo nhà văn Valtteri Kokko, có ba nhóm "ẩn dụ huyền bí" chính được sử dụng trong phim: một là sử dụng một diễn viên cho nhiều nhân vật khác nhau, hai là yếu tố giấc mơ và ba là sử dụng các vật thể tưởng chừng thông thường nhưng mang yếu tố ẩn dụ cao (chẳng hạn như chiếc hộp màu xanh). Bên cạnh các yếu tố điện ảnh, một yếu tố nghệ thuật quan trọng khác không thể không nhắc đến trong "Mulholland Drive" là phép ẩn dụ dựa trên nhiều màu sắc khác nhau. Theo phân tích của Wilfredo J. Ramos, Lynch "dựa dẫm hầu hết vào màu sắc để tường thuật câu chuyện của mình". Ông "không chỉ tuân theo một mảng màu sắc riêng hạn chế có chủ đích, mà còn tuân theo các quy tắc nhất định trên cơ sở mối tương quan màu sắc cụ thể với từng nhân vật". Việc sử dụng luân phiên giữa các sắc màu đỏ, đen, xanh và hồng đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình cốt truyện phim. Cụ thể, phần lớn thời gian đầu, Betty luôn mặc màu hồng, trong khi Rita khoác lên mình màu đỏ gợi cảm. Ramos cho rằng cách mà Lynch cẩn thận lựa chọn đạo cụ màu đỏ "cung cấp manh mối mạnh mẽ hơn", giúp người xem hiểu cách thức mà vị đạo diễn "tình dục hóa" màu sắc đó. Khi Diane ở trong phòng với cái chao đèn màu đỏ cùng chiếc điện thoại bàn, những phân cảnh sau đó đã ngầm chỉ ra có gì đó liên quan đến mại dâm hay thậm chí là cả một ngành công nghiệp gái gọi. Nhận định này được củng cố thêm khi tại quán ăn tên Pink, người xem nhìn thấy hình ảnh một cây gậy dài màu đỏ xuyên qua vị trí phía sau người đàn ông, vô tình tạo thành một biểu tượng giống như dương vật. Song song đó, màu đỏ còn được sử dụng đồng thời với màu đen, nổi bật nhất là cảnh Rita và Betty nằm cạnh nhau trên giường. Một mặt, sắc đen này biểu lộ sức mạnh quyền lực tại Hollywood (thể hiện trong các phân cảnh có mặt của bọn mafia), mặt khác, nó đóng vai trò như một yếu tố bổ sung cho sắc đỏ, khiến chúng ta tin rằng màu đen cũng đại diện cho tình dục. Tuy nhiên, khía cạnh tình dục này phần nào đó lại mang tính cưỡng ép. Bên cạnh sắc đỏ và đen, màu xanh lam cũng có vai trò chủ đạo, quan trọng không kém xuyên suốt diễn biến câu chuyện. Đó là màu sắc của chiếc vali mà Betty mang theo bên người lúc đầu phim, màu của chiếc hộp màu xanh, màu sắc trùm lên rạp hát bí ẩn Club Silencio. Sắc màu ấy vừa đóng vai trò như "cầu nối giữa hiện thực với giấc mơ", vừa ngầm tiết lộ với Diane rằng những giấc mơ mà cô cố công vun đắp trong nỗ lực tái tạo mối quan hệ rạn nứt của bản thân với Camilla đang dần dần tan biến. Ramos kết luận: "Với tư cách một nhà làm phim siêu thực, David Lynch dùng những sự thật nguyên thủy và hiểm ác nhất nhằm lột tả bản chất của con người. Rồi sau đó, ông khuếch đại những sự thật đó và phản chiếu chúng lên màn ảnh thông qua các nhân vật và những tiếp xúc của họ với môi trường xung quanh. Bằng cách này, các yếu tố trực quan do Lynch thiết lập vừa tiết lộ kết cấu nổi bật, vừa tự kết nối với nhau trên cơ sở thống nhất vững vàng giữa mộng tưởng và logic, từ đó loại bỏ sự hoài nghi của khán giả". Một yếu tố thường kỳ khác nữa trong phim của Lynch là các thử nghiệm của ông với âm thanh. Ông từng trình bày điều này trong một cuộc phỏng vấn: "Khi bạn nhìn vào một cảnh không có âm thanh, dường như mọi thứ đang diễn ra đúng theo trật tự, nhưng thực tế công việc chưa xong. Lúc bắt đầu làm việc, bạn phải làm cho đến khi cảm thấy nó hợp ý bạn thì thôi. Có rất nhiều đoạn âm thanh tồi mà ngay lập tức có thể nhận ra ngay, nhưng thi thoảng cũng có âm thanh huyền diệu biết bao". Trong cảnh mở đầu phim, khi cô gái tóc đen bước đi loạng choạng ở đường Mulholland, sự im lặng chứng tỏ cô ta là kiểu người "vụng về". Tuy nhiên, một khoảnh khắc sau, khi Lynch thêm vào "tiếng hú vang của một chiếc xe [từ vụ tai nạn] trộn lẫn cùng tiếng cười của hai thanh niên", ngay lập tức nhân vật của Laura Elena Harring chuyển từ hậu đậu sang ghê rợn. Không những thế, những tiếng rì rầm âm ỉ, kéo dài liên tục suốt thời lượng phim đã phần nào gây cho người xem cảm giác bất an và rùng mình. Hageman cũng sớm phát hiện ra việc Lynch "sử dụng liên tục các âm thanh quái đản từ môi trường xung quanh" tại vài nơi quan trọng trong phim, thể hiện rõ bằng tiếng ồn nghe như tiếng rống của một con vật nào đó khi người đàn ông bất tỉnh sau quán Winkie's. Tiếng rống này thậm chí lấn át cả âm thanh của môi trường. Ông cho rằng, việc sử dụng những tiếng ồn như vậy đã "tạo ra sự nghịch tai lẫn căng thẳng buộc khán giả phải dấn thân vào vai trò thám tử nhằm sắp xếp lại âm thanh cũng như thiết đặt lại trật tự". Còn theo Ruth Perlmutter, phân cảnh thì thầm của người phụ nữ ở Club Silencio trong trường đoạn cuối cùng của "Mulholland Drive" chính là ví dụ cho việc lừa dối thính giác cũng như áp dụng các yếu tố siêu thực của Lynch vào phim. Ông viết: "Hành động, giấc mơ, việc tìm kiếm danh tính, nỗi sợ hãi khi không định nghĩa được bản thân đều biến mất khi bộ phim kết thúc. Sau cùng, thứ duy nhất còn sót lại chỉ là sự lặng im và khó hiểu". Âm nhạc. Nhạc nền của "Mulholland Drive" do Angelo Badalamenti giám sát chỉ đạo. Bộ phim đã giúp ông giành lấy hai đề cử danh giá của Viện phim Mỹ (AFI) và Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh (BAFTA) cho hạng mục âm nhạc. Ngoài ra, ông cũng là người từng cộng tác với Lynch trong các dự án trước đây như "Blue Velvet" và "Twin Peaks". Trong phim, Badalamenti đảm nhận một vai diễn khách mời nhỏ. Các nhà phê bình cho rằng âm nhạc mang điềm gở của Badalamenti, thứ âm nhạc mà nhiều người mô tả là "đen tối nhất từ trước đến nay" của ông có vai trò rất lớn trong việc tạo ra khung cảnh huyền bí vào đầu phim khi người phụ nữ bí ẩn xuất hiện trong chiếc limousine. Đó là thứ âm nhạc trái ngược hoàn toàn với những giai điệu tươi vui, tràn đầy hy vọng khi Betty lần đầu đặt chân đến Los Angeles, đóng vai trò như một sự kết hợp "mang tính dẫn dắt cảm xúc người xem". Nhà báo Daniel Schweiger bình luận rằng âm nhạc của Badalamenti thay đổi từ "kinh dị gần như bất động sang nhạc jazz noir rồi đến các phản âm", nơi "nhịp điệu đóng vai trò khuếch trương sự gia tăng chóng mặt của bóng tối vô tận". Badalamenti sử dụng một kiểu thiết kế âm thanh riêng biệt để áp dụng vào bộ phim. Theo đó, ông cung cấp cho Lynch nhiều bản nhạc, mỗi bản mang nhịp độ chậm, có thời lượng từ mười đến mười hai phút. Họ gọi những đoạn nhạc này là "củi". Việc của Lynch chỉ là "lấy những mảnh 'củi' đó mang đi thử nghiệm để tạo ra những đoạn nhạc quái đản nhất trong phim". Lynch sử dụng hai bài nhạc pop từ những năm 1960 rồi phát chúng nối tiếp nhau và cho hai nữ diễn viên hát nhép theo trong phân đoạn ở trường quay. Theo một nhà phân tích về âm nhạc thường được sử dụng trong các bộ phim của Lynch, các nữ nhân vật của ông thường không thể giao tiếp qua các kênh đối thoại thông thường do bị bóp nghẹt âm thanh giống như hát nhép. Bài hát đầu tiên trong số này là "Sixteen Reason" của Connie Stevens, được bật trong khi máy quay di chuyển ngược về phía sau. Bài hát thứ hai mang tên "I Told Ev'ry Little Star". Phiên bản gốc của bài hát này thực ra do Jerome Kern sáng tác dưới hình thức một bản song ca, nhưng trong bản tái hiện này, nó được độc diễn bởi Linda Scott. Học giả điện ảnh Eric Gans một mặt coi "I Told Ev'ry Little Star" như một sự trao quyền cho Betty, mặt khác, cho rằng nó đại diện cho âm hưởng đồng tính luyến ái trong "Mulholland Drive". Tuy nhiên, không giống như bản "Sixteen Reason", nhiều đoạn nhạc trong "I Told Ev'ry Little Star" đã bị làm méo, dụng ý mô tả "một sự tách biệt về mặt âm thanh mang tính nhân dạng" trong Camilla. Nhà sản xuất âm nhạc Mike Smaczylo nhận định một trong những phân đoạn "gây ấn tượng sâu sắc nhất" trong phim diễn ra ở nhà của Adam Kesher, nơi anh ta phát hiện vợ mình ngủ với tay lau dọn vệ sinh hồ bơi. Khi Adam dừng xe ở trước sân, phát hiện điều không ổn và bước vào nhà, ngay lập tức, ca khúc "The Beast" của Milt Buckner vang lên. Điều lý thú là đoạn nhạc diễn ra trong một khung cảnh rất đỗi hỗn loạn, trong khi giai điệu bài hát lại vô cùng vui tươi, ý vị. Smaczylo khẳng định bằng sự hòa quyện giữa "bi thảm, ảo ảnh và chất trào phúng tột cùng", "Mulholland Drive" là "nhiều thứ đối với nhiều người, nhưng không thể chối cãi, nó đã thiết lập một hình mẫu ngất trời về tầm vóc mà sự cẩn trọng với âm nhạc lẫn âm thanh có thể nâng tầm nghệ thuật điện ảnh". Bản lề của phim là cảnh trong một nhà hát đêm khuya khác thường có tên Club Silencio, nơi một người biểu diễn thông báo ""No hay banda" (không có ban nhạc nào cả)... nhưng không, dường như có một ban nhạc ở đây". Đoạn phim thay đổi từ tiếng Anh sang tiếng Tây Ban Nha rồi đến tiếng Pháp khiến người xem cảm thấy như đây là "một sự kết hợp độc đáo và cừ khôi nhất trong một bộ phim độc đáo và cừ khôi". Ngoài ra, phiên bản hát chay tiếng Tây Ban Nha của bài hát "Crying" (Llorando) do ca sĩ Rebekah Del Rio trình bày vang lên trên khán phòng thưa thớt không một bóng người ở Club Silencio xuất sắc đến độ "khiến cả buổi diễn như dừng lại... ngoại trừ chẳng có buổi diễn nào để dừng cả". Lynch từng muốn sử dụng phiên bản "Crying" do Roy Orbison trình bày trong "Blue Velvet", nhưng lập tức thay đổi ý định khi nghe "In Dreams". Del Rio kể lại ngày cô nhận được hợp đồng thu âm bản gốc của bài hát, Lynch đã bay đến tận Nashville – quê nhà của nữ ca sĩ để yêu cầu cô hát cho ông nghe thử. Trong lúc hát, cô không hề hay biết rằng Lynch đang lén thu âm lại. Vị đạo diễn chỉ sử dụng ca khúc của Del Rio cho một đoạn duy nhất trong phim. Bài hát giống như một sự chiều chuộng cuối cùng dành cho cặp đôi Betty và Rita đang mê say, khóc lóc bên nhau trước khi hai người bị chia tách vĩnh viễn bởi sự xuất hiện của Diane và Camilla. Theo một học giả điện ảnh, bài hát cùng toàn bộ khung cảnh nơi sân khấu lúc đó chính là điểm đánh dấu cho sự tan rã về mặt nhân cách của Betty và Rita, cũng như mối quan hệ của họ. Bằng cách sử dụng nhiều kênh ngôn từ đa dạng cùng âm nhạc khác nhau trong việc miêu tả những cảm xúc sơ khởi như vậy, Lynch thể hiện sự bất tin vào diễn ngôn trí tuệ bằng cách trừu tượng hóa mọi vật thông qua thanh âm và hình ảnh. Mặt khác, hiệu ứng mất phương hướng còn tồn tại ngay cả khi ca khúc của Del Rio đã kết thúc thường được xem như "một phiên bản khác cho bức vẽ "Ceci n'est pas une pipe" của René Magritte". Phát hành. "Mulholland Drive" công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 2001 và giành được nhiều lời tán thưởng. Tại đây, David Lynch cùng người đồng nghiệp của mình là Joel Coen (với bộ phim "The Man Who Wasn't There") cùng chia nhau giải thưởng Đạo diễn xuất sắc nhất ("Prix de la mise en scène"). Bộ phim cũng nhận được nhiều lời đánh giá tích cực lẫn tiêu cực từ giới chuyên môn. Doanh thu phòng vé. Hãng Universal Pictures bắt đầu công chiếu "Mulholland Drive" tại 66 rạp trên khắp nước Mỹ kể từ ngày 12 tháng 10 năm 2001, thu về 587.591 đô la trong tuần đầu tiên ra mắt. Bộ phim sau đó được mở rộng ra 247 rạp, thu về tổng cộng 7.220.243 đô la trên toàn nước Mỹ. Ngày 26 tháng 10 năm 2001, hãng TVA Films của Canada chính thức mua bản quyền phân phối tác phẩm tại các rạp ở nước này. Bên ngoài nước Mỹ, bộ phim mang về 12.892.096 đô la. Như vậy, tổng doanh thu của "Mulholland Drive" tính trên bình diện toàn cầu là 20.112.339 đô la. Đánh giá chuyên môn. Kể từ khi phát hành, "Mulholland Drive" đã nhận được "nhiều tính ngữ khắc nghiệt nhất lẫn những lời khen ngợi xa hoa nhất lịch sử điện ảnh đương đại". Trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được 83% phản hồi tích cực dựa trên 179 đánh giá, với điểm trung bình là 7,6/10. Các nhận xét trên trang đều đồng thuận rằng: ""Mulholland Drive" đẹp như mơ và bí ẩn của David Lynch là một bộ phim neo-noir có cấu trúc độc đáo cộng hưởng cùng màn trình diễn đầy mê hoặc từ Naomi Watts, nhân vật đóng vai trò một người phụ nữ ở bên rìa bóng tối Hollywood". Trên Metacritic, bộ phim giành được số điểm trung bình 85 trên 100 căn cứ vào 35 đánh giá, cho thấy một sự "hoan nghênh toàn cầu" dành cho Lynch cũng như tác phẩm của ông. Roger Ebert của tờ "Chicago Sun-Times", người từng có nhiều đánh giá tiêu cực về các tác phẩm của Lynch, cũng ngả mũ dành cho "Mulholland Drive" 4 sao trên 4 sao tối đa kèm lời nhận xét: "David Lynch đã dành cả sự nghiệp của mình để tạo ra bộ phim này và giờ đây ông ấy đã đạt tới tầm vóc đủ để tôi bỏ qua cho ông ấy về "Wild at Heart" lẫn "Lost Highway". Ít nhất thì một trong những thử nghiệm của ông ấy đã thành công. Bộ phim là một khung cảnh trong mơ mang tính siêu thực được dựng nên trên hình hài một phim noir cổ điển của Hollywood. Bộ phim càng khó hiểu bao nhiêu, chúng ta càng mong muốn thưởng thức bấy nhiêu". Ebert sau đó đã liệt "Mulholland Drive" vào danh sách "những phim hay nhất" của ông. Viết cho tờ "The New York Times", Stephen Holden nhìn nhận "Mulholland Drive" cùng với "8½" của đạo diễn Federico Fellini và hàng loạt tác phẩm giả tưởng của các tác gia khác giống như một sự "tự phản chiếu hoàng tráng" và nói thêm: "Nhìn sơ qua, đấy là lễ hội điện ảnh đồ sộ, vĩ đại nhất mà khá lâu nữa mới xuất hiện trở lại... nhìn rộng hơn, việc đi sâu khám phá về sức mạnh tiềm tàng của điện ảnh đã tạo ra một khoảng trống nơi bạn có thể nghe thấy tiếng gào thét của một con quỷ hung ác mà cơn đói khát của nó không bao giờ chấm dứt". Edward Guthmann của tờ "San Francisco Chronicle" đánh giá bộ phim "gây phấn khởi... vì khung cảnh như mơ, trí tưởng tượng táo bạo và khốc liệt diễn ra xuyên suốt bộ phim". Ông xuýt xoa: "Có một phẩm chất mê hoặc đi với nhịp độ chậm chạp, cảm giác biết trước, bầu không khí lạc lõng... nó níu giữ, bỏ bùa chúng ta, khiến chúng ta thích thú bởi 146 phút điên rồ, khoái trá xen lẫn bực tức. [Điều này chứng minh] Lynch luôn trong 'trạng thái hoàn hảo nhất' và vẫn mãi là bậc thầy trong việc trêu đùa cảm xúc của người xem". Trên tạp chí "Rolling Stone", Peter Travers ca ngợi: ""Mulholland Drive" khiến nền điện ảnh như thể đang sống lại. Niềm khoái lạc tội lỗi này là một khúc khải hoàn tươi mới cho Lynch và là một trong những bộ phim tiêu biểu cho một năm toàn những chuyện khốn nạn. Với sự khêu gợi táo bạo, dục vọng ngất ngây cùng sắc màu sáng rỡ như son bóng của một con điếm, không dễ gì tìm được thứ gì giống như bộ phim này ở bất cứ đâu". J. Hoberman của "The Village Voice" nói: "Khoái lạc đầy nhục dục này... chắc chắn là khoái lạc mãnh liệt nhất mà Lynch mang lại kể từ "Blue Velvet" hay thậm chí "Eraserhead". Chính những thứ khiến ông thất bại trong "Lost Highway" – bầu không khí bấp bênh bởi mối đe dọa chực chờ, sự lang thang vô định của các linh hồn, những điểm rơi câu chuyện đầy kích thích, những vũ trụ thay thế lòe loẹt. Tất cả những thứ ấy đều được tái hiện hết sức sinh động trong tác phẩm này". Bất chấp những phê bình mang tính khen ngợi, "Mulholland Drive" cũng không tránh khỏi một vài chỉ trích. Rex Reed của "The New York Observer" nói rằng đó là bộ phim tệ nhất mà anh ta đã xem vào năm 2001, gọi đó là "một đống rác rưởi không đâu vào đâu". Peter Rainer của tạp chí "New York" nhận định: "Mặc dù tôi ấn tượng với bộ phim này hơn những giấc mơ quái đản khác của Lynch, [nhưng] đây vẫn là một chuyến đi khá chán nản... Lynch cần phải làm mới mình bằng dòng cảm xúc sâu lắng dành cho tất cả mọi người, cho những kẻ lạc loài và làm ơn hãy dẹp bỏ mấy kiểu người đần độn, ngốc nghếch hay xác sống trong phim một thời gian đi". Desson Howe của tờ "The Washington Post" gọi "Mulholland Drive" là "một vở opera mở rộng dành cho cảm xúc, trong trường hợp bạn cần tìm một nhãn dán nghệ thuật phù hợp để gán cho tác phẩm không mạch lạc chút nào đó". Todd McCarthy của tạp chí "Variety" dành lời khen cho bộ phim: "Lynch nâng tầm mức độ hài hước quái dị, biến cố kịch tính cùng bí ẩn chân thực bằng một loạt phông cảnh để đời, một vài trong số đó là những cảnh xuất sắc nhất của ông ấy", nhưng cũng không quên nhận xét: "Bộ phim nhảy ra khỏi phương thức tường thuật tương đối nhất quán để thả mình vào vùng đất ảo diệu mang đậm phong thái Lynch... trong 45 phút cuối cùng, Lynch dùng tâm trí quái dị của mình để vẽ ra một thực tại khác nơi sợi dây nối kết ý nghĩa với những phần trước đó của bộ phim hoàn toàn tiêu biến. Mặc dù cách tường thuật này đã từng là một điểm nhấn quen thuộc của "Twin Peaks" cũng như nhiều tác phẩm tương tự khác, nhưng việc chuyển hướng một cách đột ngột đến những ảo ảnh này lại phản tác dụng bởi nó đã phần nào phá vỡ đi mối liên kết giữa các phần mà Lynch dày công xây dựng tính cho đến lúc đó". James Berardinelli cũng đồng tình với ý kiến này, cho rằng "Lynch đã lừa dối khán giả của mình, giật tấm thảm ra khỏi chân họ. Ông ta trộn mọi thứ lại với nhau chỉ với mục đích duy nhất là khiến khán giả bối rối. Chẳng có gì là ý nghĩa bởi vốn dĩ ngay từ đầu chẳng có gì là ý nghĩa cả. Không hề có một mục đích hay mối liên kết nào giữa các sự kiện trong phim. Họa chăng, nếu có, thì đó là việc Lynch dùng khán giả như vật thí nghiệm cho trò đùa của ông ta". Còn nhà lý thuyết phim Ray Carney thì nhấn mạnh: "Bạn không cần những cú lật ngược cảm xúc cũng như những cái bẫy tường thuật nếu như bạn muốn thể hiện một điều gì đó. Bạn cũng không cần những nhân vật song trùng cùng những cái bóng tối tăm nếu nhân vật của bạn thực sự tồn tại cái gọi là linh hồn". "Mulholland Drive" được vinh danh là bộ phim xuất sắc nhất thập kỉ bởi Hiệp hội phê bình phim Los Angeles, tạp chí "Cahiers du cinéma", tạp chí Slant, chuyên trang "IndieWire", "Reverse Shot", tờ "The Village Voice" và tạp chí "Time Out" – những người đã đặt ra một câu hỏi liên đới đầy hoa mỹ đến vụ khủng bố 11/9: "Liệu còn một bộ phim nào khác mà có thể nói là cộng hưởng – dù là vô tình – vào thời điểm khủng khiếp đánh dấu thập kỉ của chúng ta hay không?... "Mulholland Drive" là con quái vật nấp sau quán ăn, là giấc mơ nơi sự tự huyễn của con người hóa thành ác mộng". Trong cuộc bầu chọn của "các nhà phê bình, lập trình viên, các học giả, nhà làm phim" trên tạp chí nghệ thuật "Film Comment", bộ phim vinh dự được đánh giá là tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất thập kỉ. Nó cũng góp mặt trong danh sách 10 phim hay nhất thập kỉ của nhiều chuyên trang khác nhau: xếp thứ ba theo đánh giá của tờ "The Guardian", nhà phê bình Peter Travers của "Rolling Stone", hãng thông tấn "Canadian Press"; xếp thứ tư theo đánh giá của Scott Mantz ("Access Hollywood") và xếp thứ tám theo tiêu chí của nhà phê bình Michael Phillips. Năm 2010, "The Guardian" mệnh danh "Mulholland Drive" là phim nghệ thuật hay thứ hai mọi thời đại. Ngoài ra, bộ phim còn đứng ở vị trí thứ 11 trên 25 phim hay nhất lấy bối cảnh tại Los Angeles trong 25 năm qua do một nhóm các nhà văn và biên tập viên của tờ "Los Angeles Times" bình chọn, với tiêu chí chính là truyền đạt một sự thật vốn có về trải nghiệm tại thành phố này. Tạp chí "Empire" đã xếp "Mulholland Drive" ở vị trí 391 trong danh sách 500 phim hay nhất từ trước đến nay của họ. Trong chương trình 50 Films to See Before You Die của kênh Channel 4, bộ phim xếp hạng thứ 38. Năm 2011, tạp chí điện tử "Slate" cũng đã điền tên "Mulholland Drive" vào danh sách "New Classics" (những phim kinh điển thế hệ mới) với tư cách là bộ phim có ảnh hưởng sâu rộng nhất kể từ năm 2000. Trong cuộc bỏ phiếu "Sight & Sound" năm 2012, Viện phim Anh đã ưu ái dành cho "Mulholland Drive" vị trí thứ 28 trong danh sách 100 phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Với 40 phiếu bầu từ các nhà phê bình, đây là một trong hai bộ phim duy nhất của thế kỉ 21 vinh dự có mặt trong danh sách này, cùng với kiệt tác điện ảnh châu Á "Tâm trạng khi yêu" của đạo diễn Vương Gia Vệ. Năm 2018, "Mulholland Drive" một lần nữa được Viện phim Anh điền tên vào danh sách 30 phim LGBTQ+ hay nhất (hạng 22), đồng thời xếp thứ 5 trong danh sách "Từ "Toy Story" đến "Psycho": 100 phim hay nhất mọi thời đại" của thời báo quốc gia Anh "The Daily Telegraph". Còn trong cuộc thăm dò của thông tấn xã BBC năm 2015, bộ phim xếp hạng thứ 21 trên 100 phim hay nhất từ trước đến nay của Mỹ và về nhất trong cuộc bầu chọn một năm sau đó dành cho những phim xuất sắc nhất thế kỉ 21. Băng đĩa tại gia. Ngày 9 tháng 4 năm 2002, Universal Studios Home Video tuyên bố tái phát hành "Mulholland Drive" trên nền tảng VHS và DVD. Tại Hoa Kỳ và Canada, phim được được phát hành mà không có chương dừng, bởi Lynch cho rằng tính năng đó có thể "làm sáng tỏ" bộ phim. Bất chấp lo ngại của Lynch, các nhà phát hành phiên bản DVD đã khéo léo chèn vào một mảnh bìa trong đó cung cấp "10 manh mối để giải mã bộ phim gay cấn này của David Lynch", mặc dù có ý kiến cho rằng đấy chỉ là một thủ thuật "cá trích đỏ" không hơn không kém. Nick Coccellato từ "Eccentric Cinema" chấm bộ phim 9 trên 10 điểm và bản phát hành DVD của nó 8 trên 10 điểm, nhấn mạnh rằng việc thiếu các tính năng đặc biệt "chỉ làm tăng thêm mức độ bí ẩn, sự phong phú vốn có của bộ phim". Vào ngày 13 tháng 9 năm 2010, Optimum Home Entertainment mang "Mulholland Drive" tới thị trường châu Âu dưới định dạng Blu-ray như một phần trong bộ sưu tập của StudioCanal. Các tính năng mới dành riêng cho phiên bản này bao gồm: phần giới thiệu của Thierry Jousse; "In the Blue Box" – một bộ phim tài liệu có sự góp mặt của các đạo diễn và nhà phê bình; hai bộ phim tài liệu: "On the Road to Mulholland Drive" và "Back to Mulholland Drive" cùng một vài cuộc phỏng vấn với đoàn làm phim. Đây là phim thứ hai của David Lynch có mặt trong bộ sưu tập Blu-ray này sau "The Elephant Man". Ngày 15 tháng 7 năm 2015, công ty The Criterion Collection tuyên bố phát hành lại "Mulholland Drive" dưới độ phân giải 4K trên DVD và Blu-ray vào ngày 27 tháng 10 năm 2015. Đây cũng là bộ phim thứ hai của Lynch mà công ty này phát hành (sau "Eraserhead" ra mắt vào tháng 9 năm 2014). Cả hai định dạng đều bao gồm các cuộc phỏng vấn gần đây với đoàn làm phim cũng như giới thiệu về phiên bản năm 2005 của quyển "Lynch on Lynch" do Chris Rodley chấp bút. Bản ra mắt này cũng đi kèm với trailer gốc và các phần bổ sung khác. Giải thưởng và đề cử. "Mulholland Drive" đã giúp David Lynch giành được đề cử tại Giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất cùng bốn đề cử Quả cầu Vàng, bao gồm Phim chính kịch hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Kịch bản hay nhất. Ngoài ra, bộ phim cũng xuất sắc mang về hai giải của Hội phê bình phim New York và Hiệp hội phê bình phim trực tuyến cho hạng mục Phim hay nhất.
1
null
21 Grams là một bộ phim của đạo diễn Alejandro González Iñárritu. Phim có sự tham gia của Sean Penn, Naomi Watts, Danny Huston, và Benicio del Toro. Phim kể về 3 gia đình với 3 hoàn cảnh khác nhau: một gia đình với hai con nhỏ hạnh phúc, một gia đình khác với người cha từng là tội phạm, một gia đình có người đàn ông bị bệnh tim chờ chết. Câu chuyện diễn ra với cách thức đan xem giữa hiện tại, quá khứ đã dẫn người xem từ bất ngờ này đến bất ngờ khác cho đến khi nút thắt dần hé lộ.
1
null
"Boyfriend" là bài hát của ca sĩ người Canada Justin Bieber, phát hành ngày 23 tháng 3 năm 2012 mở đầu cho album phòng thu thứ ba của anh "Believe". Một đoạn nhạc từ "Boyfriend" đã được tiết lộ trong chương trình "The Ellen DeGeneres Show" ngày 1 tháng 3 năm 2012, và cũng trong ngày ấy sau đó bài hát được thông báo sẽ là đĩa đơn mở đầu cho album. "Boyfriend" đạt được thành công về doanh thu, debut tại vị trí số 2 "Billboard" Hot 100 (vị trí quán quân giữ bởi "We Are Young" của fun. & Janelle Monáe), tiêu thụ 521.000 lượt tải về trong tuần đầu. Đĩa đơn đạt thành tích ca khúc có doanh số tải về tuần đầu tiên cao thứ hai trong lịch sử ngành công nghiệp nhạc số Mỹ. Ca khúc cũng đã debut tại vị trí số 1 ở Canada, và số 2 ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (giữ chân bởi "Call Me Maybe" của Carly Rae Jepsen). Bài hát nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới phê bình, cho rằng nó rất khác so với những ca khúc trước đây của Bieber và cho thấy phần nào sự trưởng thành của anh. Video âm nhạc của bài hát đã ra mắt ngày 3 tháng 5 năm 2012, phá kỉ lục video âm nhạc của VEVO được xem nhiều nhất trong 24 giờ sau khi phát hành, với trên 8 triệu lượt. Các kỉ lúc trước đó giữ bởi "Stupid Hoe" của Nicki Minaj (4,8 triệu) và "Where Have You Been" của Rihanna (4,9 triệu). Để quảng bá cho đĩa đơn, Bieber đã thể hiện "Boyfriend" trong một số buổi biểu diễn trực tiếp, trong đó có "The Voice" (Mỹ), và tại Billboard Music Awards 2012.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 49 (tiếng Anh: "Interstate 49" hay viết tắt là I-49) hiện nay là một xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang nằm hoàn toàn bên trong tiểu bang Louisiana tại miền nam Hoa Kỳ. Đầu phía nam của nó nằm trong thành phố Lafayette tại Xa lộ Liên tiểu bang 10 trong khi điểm đầu phía bắc nằm trong thành phố Shreveport tại Xa lộ Liên tiểu bang 20. Xa lộ này sẽ có thay đổi vào cuối năm 2012 khi đoạn đường được nâng cấp của Quốc lộ Hoa Kỳ 71 giữa Kansas City, Missouri và Pineville, Missouri được chấp thuận và có tên chính thức là I-49. Những đoạn còn lại của xa lộ nối liền Kansas City với New Orleans đang trong nhiều giai đoạn hoạch định hoăc xây dựng. Mô tả xa lộ. I-49 bắt đầu lộ trình của nó tại thành phố Lafayette và chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 167 từ I-10 đến Opelousas ở Lối ra 23. Tại Lafayette, xe cộ tiếp tục đi hướng nam sẽ thấy xa lộ liên tiểu bang thay đổi thành Quốc lộ Hoa Kỳ 167 (Xa lộ cao tốc Evangeline), một xa lộ chính đưa xe cộ về phía trung tâm thành phố Lafayette. Phia bắc Lafayette, xe cộ trên I-49 sẽ đi song song bờ sông xưa của Sông Mississippi nằm ở phía bắc Carencro, và đi qua Grand Coteau, ngay phía nam Opelousas. Sau khi rời Opelousas, I-49 đi qua vùng đất nông nghiệp màu mở và tương đối bằng phẳng cho đến khi đến Alexandria. Từ đó, xa lộ gần như đi theo Sông Red và Xa lộ Louisiana 1, đi tránh thành phố lịch sử Natchitoches đến phía tây trên đường đến thành phố Shreveport. Tại Shreveport, xa lộ chạy song song tuyến đường sắt ngay phía tây cho đến khi nó kết thúc tại I-20 ở tây nam thành phố. Giao thông đông nhất trên I-49 xảy ra trong thành phố Shreveport và Opelousas. Đoạn xa lộ cao tốc này tại Shreveport có khoảng 70 ngày xe trung bình mỗi ngày trong đoạn xa lộ giữa Lafayette và Carencro chỉ có khoảng 55 ngàn xe trung bình mỗi ngày, và đoạn qua Opelousas có trung bình 45 ngàn xe mỗi ngày giữa các lối ra đến Đường Judson Walsh và Đường Creswell.
1
null
Dolichophis caspius, đôi khi cũng là Coluber caspius là một loài rắn được tìm thấy ở Balkan và một số nơi khác ở Đông Âu và Tiểu Á. Loài rắn này có thể dài tối đa đến gần . Phân bố. Loài này được tìm thấy trong bán đảo Balkan, các khu vực của Đông Âu và một phần nhỏ của Tiểu Á. Chúng có thể được tìm thấy trong Albania, Bulgaria, Hy Lạp, Macedonia, Serbia, Romania, Croatia, Bosnia và Herzegovina, Slovenia, phía nam Slovakia, châu Âu Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, Montenegro, phía nam Ukraine, phía nam Nga, Kazakhstan, Jordan, và miền nam Hungary. Kết quả từ một cuộc khảo sát cho thấy môi trường sống của chúng có thể được phân bố dọc theo các khu vực thấp gần sông lớn, chẳng hạn như Danube và Sông Olt. Trước đây người ta cho rằng đã tuyệt chủng ở Moldavia (miền đông Romania, miền nam Ukraine, Moldova và Tây), nơi mà chúng chỉ được biết đến từ hai địa điểm, và không quan sát được kể từ năm 1937. Ba mẫu vật được thu thập tháng 5 năm 2007 tại hạt Galaţi, phần nào xua tan niềm tin này. Mặc dù loài này được biết đến là phổ biến trong Dobrudja, hiểu biết về phạm vi phân bố của chúng ở ở các khu vực khác là ít ỏi. Chúng được cho là rất hiếm trong các khu vực này, và cũng có thể bị đe dọa cao. Luật pháp quốc gia đã tuyên bố "D. caspius" là "một có mối quan tâm cộng đồng" và do đó phải được bảo vệ nghiêm ngặt.
1
null
Ngày 20 tháng 7 năm 2012, một vụ xả súng tại buổi công chiếu bộ phim "The Dark Knight Rises" ở thành phố Aurora, tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ khiến ít nhất 12 người thiệt mạng và 58 người khác bị thương. Nạn nhân nhỏ tuổi nhất là một bé trai sơ sinh mới 3 tháng tuổi đang được điều trị tại bệnh viện Colorado. Một tay súng đeo mặt nạ chống độc mô phỏng hình tượng nhân vật phản diện Bane của phần này, và mặc áo chống đạn, ném lựu đạn hơi cay và bắn về phía khán giả, giết chết 12 người và làm bị thương 58 người khác. Kẻ tình nghi duy nhất là 24 tuổi James Holmes Eagan, người đã bị bắt bên ngoài biên rạp chiếu phim. James Holmes từng là sinh viên Y khoa tại Đại học Y Dược Colorado ở Denver, Mỹ. Sau vụ xả súng này, trailer của "Gangster Squad", vốn được chiếu giới thiệu trước "The Dark Knight Rises", đã bị Warner Bros thu hồi vì trong đoạn trailer này cũng có cảnh các băng nhóm xã hội đen xả súng vào khán giả đi xem phim ngoài rạp. Diễn biến. Vụ tấn công xảy ra tại nhà hát 9 tại Century 16 (điều hành bởi Cinemark), nằm tại Town Center của trung tâm mua sắm Aurora. Sát thủ được cho là đã mua một vé vào nhà hát, và ngồi ở hàng ghế đầu. Khoảng 20 phút sau khi chiếu phim, anh ta đã rời khỏi tòa nhà thông qua một cửa thoát hiểm khẩn cấp. Sau đó anh ta đi đến chiếc xe của mình đỗ gần cửa thoát hiểm, thay quần áo bảo hộ, và lấy súng của mình. Khoảng một nửa giờ sau khi chiếu phim, anh ta lại bước vào nhà hát thông qua các cửa thoát hiểm. Anh ta mặc áo chống đạn và mặt nạ phòng hơi độc, một chiếc áo chống đạn và mũ bảo hiểm chống đạn, xà cạp khả năng chống đạn, một bảo vệ cổ họng, một bảo vệ háng và găng tay chiến thuật. Ban đầu, ít khán giả coi sát thủ này là một mối đe dọa. Anh ta dường như mặc một bộ trang phục không phải khác thường do nhiều khán giả khác đã mặc quần áo này trong buổi chiếu phim. Một số tin rằng tay súng này đang chơi trò đùa, trong khi những người khác nghĩ rằng anh ta là một phần của một cài đặt hiệu ứng đặc biệt cho buổi chiếu ra mắt của bộ phim là một diễn viên đóng thế quảng cáo được dàn dựng bởi quản lý studio hoặc quản lý nhà hát.
1
null
Franc (ký hiệu: Fr. hoặc SFr.; tiếng Đức: "Franken", tiếng Pháp và tiếng Romansh: "franc", tiếng Ý: "franco"; mã: CHF) là đồng tiền của Thụy Sĩ và Liechtenstein; nó cũng là đồng tiền thanh toán hợp pháp của Campione d'Italia, Italia. Mặc dù không phải là đồng tiền thanh toán hợp pháp chính thức của Büsingen am Hochrhein, Đức (tiền tệ hợp pháp duy nhất là euro), nó vẫn cứ được sử dụng rộng rãi trong đời sống thường ngày tại đây. Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ có trách nhiệm in tiền giấy còn tiền xu do Xưởng đúc tiền Thụy Sĩ đúc. Franc Thụy Sĩ là đồng franc duy nhất còn được phát hành tại châu Âu. Lưu thông. Cho đến tháng 3 năm 2010, tổng giá trị của cả tiền xu và tiền giấy Thụy Sĩ đã được phát hành là 49.664,2 triệu franc Thụy Sĩ. Combinations of up to 1 cent usual Swiss coins (not including special or commemorative coins) are legal tender; banknotes are legal tender for any amount.
1
null
Danh sách này bao gồm các loại tiền tệ ở hiện tại và trong quá khứ. Tên địa phương của tiền tệ được sử dụng trong danh sách này kèm theo tên quốc gia hoặc tên vùng lãnh thổ. E. Xem thêm: Scudo (bên dưới) S. Xem thêm: Escudo (bên trên)
1
null
(danh pháp khoa học: "Zoothera lunulata") là một loài chim thuộc họ Hoét, chủ yếu ăn côn trùng, có kích thước trung bình được tìm thấy chủ yếu ở đông nam Australia và Tasmania. Loài chim này có thân dài khoảng 27–29 cm, trung bình dài khoảng 28 cm và nặng khoảng 100 gam. Người ta ước tính rằng quần thể phân bố rộng này là lớn, mặc dù không có kiểm đếm chính thức nào đã từng được thiết lập. Chúng sinh sống trong khu vực cây bụi, rừng, và rừng mưa. Đây là loài chim không di cư. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi sự tàn phá của con người đối với môi trường sống tự nhiên của nó, nhưng do phạm vi phân bố là rất lớn nên tác động là không đáng kể. Nó có màu từ màu nâu tới màu ô liu, với một vòng trắng quanh mắt và các sọc màu đen trên lưng, đuôi, đầu. Mặt bụng nhạt màu hơn với các mép viền sẫm màu. Cánh có một dải tối chạy dọc theo chiều dài mặt trong.
1
null
Hoét bụng trắng (danh pháp hai phần: Turdus cardis) là một loài chim thuộc họ Hoét. Chúng được tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Lào, Nga, Đài Loan, Thái Lan, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là khu rừng ôn đới.
1
null
Hoét đa sắc (danh pháp hai phần: Ixoreus naevius) là một loài chim thuộc họ Hoét. Loài này có họ hàng gần với các chi hoét Tân thế giới khác, như nhánh chứa [Cichlopsis+Entomodestes] và nhánh chứa nhóm [Ridgwayia+Hylocichla]+ Catharus. Hoét đa sắc sinh sản ở tây Bắc Mỹ từ Alaska đến bắc California. Nó là loài chim di cư, với các nhóm sinh sản ở miền bắc di chuyển xuống phía nam trong vòng hoặc quá phạm vi sinh sản. Các quần thể ở nơi khác chỉ di chuyển theo độ cao. Tham khảo. [[Thể loại:Ixoreus|N]] [[Thể loại:Zoothera|N]] [[Thể loại:Chim Canada]] [[Thể loại:Chim Mỹ]] [[Thể loại:Chim México]] [[Thể loại:Động vật được mô tả năm 1789]]
1
null
Hoàng Sa là một huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Huyện bao gồm quần đảo Hoàng Sa, được thành lập năm 1982 thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và sau này trực thuộc thành phố Đà Nẵng vào ngày 23 tháng 1 năm 1997 theo Nghị định số 07/1997/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam không quản lý lãnh thổ nào trên quần đảo Hoàng Sa và trên thực tế toàn bộ quần đảo đang chịu sự quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1974 sau cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974 với thất bại của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Từ tháng 7 năm 2012, Trung Quốc tuyên bố Hoàng Sa đặt dưới sự cai quản của thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam. Địa lý. Theo chính phủ Việt Nam, huyện Hoàng Sa có diện tích: 305 km², chiếm 23,76% diện tích thành phố Đà Nẵng, với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là quần đảo Hoàng Sa với các đảo san hô nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km). Huyện bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hoà, cồn Bông Bay, cồn Quan Sát, cồn cát Tây, đá Chim Yến, đá Tháp. Hành chính. Để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, ngày 9 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Nghị quyết ngày 6 tháng 11 năm 1996 tại kỳ họp thứ X Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ), sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 5 phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 có nghị quyết nêu rõ: "Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực". Quốc hội nhấn mạnh: "Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với các vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật biển năm 1982". Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Nghị định số 07/1997/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam chính thức xác định thành lập một đơn vị hành chính cấp huyện là Huyện Hoàng Sa có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là quần đảo Hoàng Sa với các đảo san hô nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km), gồm: đảo Hoàng Sa, đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, Đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp. Trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa tạm thời đóng tại số 132 đường Yên Bái, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Từ năm 2012, đã có nhiều ý kiến đề nghị sáp nhập 2 phường Thọ Quang và Mân Thái đều thuộc quận Sơn Trà vào huyện đảo Hoàng Sa, hình thành những đơn vị hành chính có tên tương ứng, chủ yếu nhằm mục đích khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
1
null
Đội Hoàng Sa hay Hải đội Hoàng Sa (chữ Hán:"黄沙隊"), là tên gọi chung của đội tàu hàng hải do chính quyền chúa Nguyễn xứ Đàng Trong lập ra từ thế kỷ 17 với mục đích ban đầu là hàng năm đi thuyền từ Quảng Ngãi ra các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa để khai thác hải sản và thu nhặt các hàng hóa do các tàu buôn bị đắm và trôi dạt vào các đảo này Theo ghi chép của Lê Quý Đôn (từng làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa thế kỷ 18) thì hải đội phải đi mất 3 ngày 3 đêm từ đất liền mới đến được các đảo tại quần đảo Hoàng Sa này. Cùng với việc lập đội Hoàng Sa để khai thác ở quần đảo Hoàng Sa thì chính quyền chúa Nguyễn đồng thời cũng thành lập đội Bắc Hải từ Bình Thuận có chức năng tương tự là khai thác hải sản và thu nhặt hàng hóa từ đảo đảo Côn Lôn, đảo Phú Quý và các xứ Bắc Hải, đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản Công việc của hải đội. Theo Lê Quý Đôn: Một hoạt động khác của hải đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn được ghi chép trong Đại Nam thực lục vào năm 1754: Việc duy trì hải đội Hoàng Sa được diễn ra liên tục, tới đầu thế kỷ 19 (năm 1816) nhân cuộc đo khoảng cách đường biển giữa các dinh trấn, vua Gia Long đồng thời cũng yêu cầu thủy quân cùng với hải đội Hoàng Sa thăm dò và đo đạc đường thủy tại Hoàng Sa. Thông tin thêm. Trên đảo Lý Sơn, cho đến đầu thế kỉ 21, người dân vẫn lưu truyền những lời ru liên quan đến Hải đội Hoàng Sa: hay:
1
null
Đớp ruồi Nhật Bản (danh pháp hai phần: "Cyanoptila cyanomelana") là một loài chim di cư biết hót. Nó sinh sản tại Nhật Bản, Hàn Quốc, và trong một số khu vực ở Trung Quốc và Nga. Mùa đông ở Đông Nam Á, đặc biệt là tại Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Sumatra và Borneo.
1
null
Cổ đỏ trán xanh (danh pháp hai phần: Cinclidium frontale) là một loài chim thuộc họ Đớp ruồi ("Muscicapidae").. Nó được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Thái Lan và Việt Nam và có thể ở Nepal. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng ôn đới. Nó là loài duy nhất còn lại trong chi "Cinclidium" sau khi những loài khác đã được chuyển đến chi "Myiomela".
1
null
Củ cải ngọt (tên khoa học: Beta vulgaris) là một loài thực vật thuộc họ Chenopodiaceae mà ngày nay thuộc họ Dền. Tùy thuộc vào giống cây trồng mà có thể có các tên khác như "củ cải đường", "củ dền"... Đây là loài có nhiều giống cây trồng khác nhau, dùng để lấy củ để sản xuất đường, lấy củ và lá để làm thức ăn cho người hoặc thức ăn chăn nuôi. Củ cải ngọt nói chung có củ màu đỏ tía đậm nhưng cũng có một số giống có củ màu vàng hoặc sọc đỏ trắng. Khóa phân loại. Có ba phân loài điển hình đã được công nhận. Tất cả các giống cây trồng đều thuộc phân loài "Beta vulgaris" subsp. "vulgaris". Hai phân loài hoang dại là "Beta vulgaris" subsp. "maritima" phân bố ở khu vực Địa Trung Hải, duyên hải Đại Tây Dương thuộc châu Âu, vùng Cận Đông, Ấn Độ và "Beta vulgaris" subsp. "adanensis", phân bố từ Hy Lạp đến Syria. Một số thứ và giống được trồng trọt: Cây củ cải đường. Năm 1747, Andreas Marggraf đã tách được đường từ cây củ cải ngọt với hàm lượng khoảng 1,3-1,6%. Ông đã chứng minh được rằng loại đường này giống như đường từ cây mía. Học trò của ông là Franz Karl Achard đã xác định được 23 thứ "B. v." ssp. "v." convar. "vulgaris" var. "crassa" có chứa đường và đã chọn một dòng địa phường từ Saxony-Anhalt, Đức. Một người tên là Koppy và con trai ông đã chọn tiếp được một dòng có củ hình nón, màu trắng. Dòng này chứa hàm lượng đường đến 6%. Dòng được chọn này là tổ tiên của các giống củ cải đường hiện đại. Năm 1840, khoảng 5% lượng đường trên thế giới được sản xuất từ củ cải đường, đến năm 1880 con số này đã lên đến 50%.
1
null
Kumar Pranab Mukherjee (/ prənəb kʊmɑ ː r mʉkhərdʒi ː /, 11 tháng 12 năm 1935 - 31 tháng 8 năm 2020) là Tổng thống thứ 13 của Ấn Độ. Mukherjee là một nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Quốc Đại Ấn Độ cho đến khi ông từ chức khỏi chức vụ chính trị này trước cuộc bầu cử tổng thống của mình vào ngày 22 tháng 7 năm 2012. Ông sẽ nhậm chức Tổng thống thứ 13 của Ấn Độ ngày 25 tháng 7 năm 2012. Mukherjee đã bắt đầu sự nghiệp chính trị của ông với Đảng Quốc Đại Ấn Độ vào năm 1969 dưới thời Thủ tướng Indira Gandhi. Ông trở thành một trong những phụ tá hàng đầu của Indira Gandhi và thường được mô tả như là "người đàn ông cho tất cả các mùa" của bà. Ông đã được thăng chức nhanh chóng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp và đã trở thành một bộ trưởng trong chính phủ của Indira Gandhi năm 1973. Mukherjee đã đảm trách một loạt các chức vụ trong nội các để trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính của Ấn Độ 1982-1984. Mukherjee là lãnh đạo của Rajya Sabha (Thượng viện) giai đoạn 1980-1985. Mukherjee đã bị loại khỏi Đảng Quốc Đại trong thời kỳ Rajiv Gandhi. Ông đã xem bản thân mình, và không phải là tân binh Rajiv Gandhi, là người thừa kế hợp pháp của Indira Gandhi. Mukherjee bị thua cuộc trong cuộc đấu tranh quyền lực sau đó. Ông đã thành lập đảng chính trị của ông, Đại hội Rashtriya Samajwadi, nhưng sau đó sáp nhập nó với Đảng Quốc đại trong năm 1989 sau khi đạt đến một thỏa hiệp chính trị với Thủ tướng Rajiv Gandhi. Sự nghiệp chính trị của Mukherjee hồi sinh khi Thủ tướng Narasimha Rao đã chọn bổ nhiệm ông là Phó Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch và sau đó là một bộ trưởng liên hiệp trong những năm 1990. Ông đã giữ chứcBộ trưởng Ngoại giao giai đoạn 1995-1996 trong nội các của Rao. Mukherjee là các kiến ​​trúc sư chính của cho Sonia Gandhi tham dự vào đời sống chính trị Ấn Độ vào những năm 1990. Ông đã trở thành các chính khách cao niên của Đại hội bên trong giai đoạn này. Mukherjee đã làm Lãnh đạo Lok Sabha giai đoạn 2004-2012. Ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 2004-2006 và một lần nữa là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 2006-2009. Ông là Bộ trưởng Bộ Tài chính 2009-2012 trong chính phủ của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh.
1
null
Trận chiến đồi Edson, hay còn gọi là Trận chiến Đồi Máu, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và quân Đồng Minh (chủ yếu là Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ) diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9 năm 1942. Đây là một trong ba cuộc tấn công lớn của quân Nhật nhằm tái chiếm sân bay Henderson và đẩy lùi quân Đồng Minh trên đảo Guadalcanal. Trong trận đánh này, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Alexander Vandegrift đã bảo vệ thành công phòng tuyến Lunga bao quanh sân bay Henderson sau khi đánh bại cuộc tấn công của Lữ đoàn Bộ binh số 35 Nhật Bản do Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi chỉ huy. Do đánh giá sai quân số Đồng Minh trên đảo Guadalcanal (khoảng 12.000 quân) mà tướng Kawaguchi đã cho 6.000 quân tấn công trực diện vào phòng tuyến Mỹ nhiều lần vào ban đêm. Địa điểm chính nơi diễn ra trận đánh là ngọn đồi phía nam sân bay Henderson, bảo vệ bởi nhiều đơn vị Thủy quân lục chiến khác nhau, nhưng chủ yếu là Tiểu đoàn 1 Thủy quân lục chiến tuần duyên (Marine Raiders) và Tiểu đoàn 1 Thủy quân lục chiến Nhảy dù (Paramarines) do Thiếu tá Merritt A. Edson chỉ huy. Mặc dù phòng tuyến ở đây gần như đã bị chọc thủng, cuộc tấn công của quân Nhật sau cùng đã bị đánh bại hoàn toàn với tổn thất nặng nề. Vì các đơn vị chủ chốt tham gia phòng thủ tại ngọn đồi trên đều dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Edson, nên ngọn đồi này đã được gọi là "Đồi Edson" trong các sử liệu phương Tây về trận đánh. Sau thất bại này, quân Nhật tiếp tục tăng viện cho Guadalcanal đồng thời tăng cường hoạt động hải quân và không quân để tái chiếm sân bay Henderson. Hoàn cảnh trận đánh. Chiến dịch Guadalcanal. Ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Hoa Kỳ) đã đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi và nhóm đảo Nggela (thường được gọi là "nhóm đảo Florida") thuộc quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ này nhằm mục đích đập tan kế hoạch của người Nhật biến quần đảo này thành căn cứ đe dọa tuyến đường vận tải giữa Úc và Hoa Kỳ, đồng thời cũng chiếm luôn quần đảo để làm nơi xuất phát cho các chiến dịch cô lập căn cứ chính của hải quân Nhật là Rabaul và yểm trợ cho quân Đồng Minh trong Chiến dịch New Guinea. Cuộc đổ bộ này đã chính thức mở đầu cho Chiến dịch Guadalcanal kéo dài 6 tháng sau đó. Lợi dụng sự bất ngờ của quân Nhật, quân Đồng Minh đã hoàn thành cuộc đổ bộ và chiếm được Tulagi cùng một số hòn đảo nhỏ phụ cận cũng như một sân bay đang xây dựng dở tại Lunga Point thuộc Guadalcanal. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12 tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson theo tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18 tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động và lực lượng không quân xuất kích từ sân bay mang tên "Không lực Cactus" (CAF) theo tên mã của Đồng minh cho chiến dịch Guadalcanal. Để bảo vệ sân bay, thủy quân lục chiến (TQLC) Mỹ đã thiết lập một vành đai phòng thủ quanh Lunga Point. Để phản kích lại cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Guadalcanal, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản đã lệnh cho Tập đoàn quân 17 đang đóng tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của trung tướng Harukichi Hyakutake nhiệm vụ tái chiếm Guadalcanal. Vào lúc này, Tập đoàn quân 17 đang bận rộn tham gia hoạt động tại New Guinea nên chỉ có ít đơn vị có thể đưa đến vùng phía nam quần đảo Solomon. Trong số này, Lữ đoàn bộ binh 35 của Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi đang ở Palau, Trung đoàn 4 bộ binh Aoba đang ở Philippines còn Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyonao Ichiki đang trên tàu vận chuyển từ Nhật Bản đến đảo Guam. Các đơn vị khác nhau này lập tức bắt đầu di chuyển về phía Guadalcanal ngang qua Truk và Rabaul, nhưng Trung đoàn Ichiki, vốn là đơn vị ở gần nhất, đã đến khu vực này trước tiên. Một "Lực lượng thứ nhất" của đơn vị Ichiki, với khoảng 917 binh sĩ, đã đổ bộ từ các tàu khu trục lên Taivu Point, phía Đông ngoại vi Lunga vào ngày 19 tháng 8 Đánh giá thấp sức mạnh của Lực lượng Đồng Minh trên đảo Guadalcanal, đơn vị của Ichiki thực hiện một cuộc tấn công trực diện ban đêm vào vị trí của Thủy quân Lục chiến tại lạch Alligator (cũng được gọi là "sông Ilu" trên bản đồ quân Mỹ) phía Đông ngoại vi Lunga vào những giờ đầu tiên của ngày 21 tháng 8. Cuộc tấn công của Ichiki bị đánh bại với tổn thất nặng cho quân Nhật, và được biết đến dưới tên gọi Trận Tenaru. Lúc trời sáng, các đơn vị Thủy quân Lục chiến phản công vào các lực lượng của Ichiki còn sống sót, tiêu diệt thêm nhiều người trong đó có chính Ichiki. Tổng cộng, chỉ còn lại 128 người trong tổng quân số 917 của Lực lượng thứ nhất Trung đoàn Ichiki. Những người sống sót quay trở về Taivu Point, báo cáo cho Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 17 sự thất bại của họ, chờ đợi tăng viện và lệnh từ Rabaul. Đến ngày 23 tháng 8, Lữ đoàn 35 bộ binh của Kawaguchi đến được Truk và được chất lên các tàu vận tải chậm để đi nốt đoạn cuối của hành trình đến Guadalcanal. Những thiệt hại xảy đến cho đoàn tàu vận tải của Tanaka trong trận chiến đông Solomon khiến phía Nhật Bản phải cân nhắc lại việc gửi thêm lực lượng đến Guadalcanal bằng các tàu vận tải. Thay vì vậy, những con tàu chở binh lính của Kawaguchi được cho hướng đến Rabaul. Tại đây, họ có kế hoạch đưa người của Kawaguchi đến Guadalcanal bằng khu trục hạm thông qua một căn cứ hải quân Nhật tại quần đảo Shortland. Những chiếc khu trục hạm Nhật thường có thể thực hiện chuyến đi khứ hồi dọc theo "khe" (eo biển New Georgia) đến Guadalcanal trong một đêm trong suốt thời gian chiến dịch, tối thiểu khả năng phơi ra trước các cuộc không kích Đồng Minh; chúng được lực lượng Đồng Minh biết đến như là những chuyến "Tốc hành Tokyo" trong khi quân Nhật đặt tên cho nó là "Chuyên chở chuột" (Rat Transportation). Do không có khả năng hoặc không có chủ định, các chỉ huy hải quân Đồng Minh đã không thách thức lực lượng Hải quân Nhật vào ban đêm, nên người Nhật kiểm soát vùng biển chung quanh quần đảo Solomon khi trời tối. Dù vậy, mọi tàu bè Nhật ở lại trong phạm vi hoạt động của máy bay từ sân bay Henderson vào ban ngày, khoảng , sẽ gặp nguy hiểm lớn do bị tấn công từ trên không. Tình huống chiến thuật này tồn tại trong nhiều tháng sau đó trong suốt chiến dịch. Sự điều động quân của hai bên. Ngày 28 tháng 8, 600 lính của Lữ đoàn Kawaguchi đã được đưa lên các khu trục hạm "Asagiri", "Amarigi", "Yugiri" và "Shirakumo" (thuộc Phân đội Khu trục hạm số 20). Vì thiếu hụt nhiên liệu, Phân đội Khu trục hạm số 20 không thể đến kịp Guadalcanal ngay trong đêm đòi hỏi tốc độ cao. Do đó, một phương án được tính đến là đoàn tàu sẽ khởi hành sớm trong ngày và đến đảo vào sáng hôm sau với vận tốc chậm hơn dựa vào nhiên liệu dự trữ. Lúc 18 giờ 5 phút, 11 máy bay ném bom bổ nhào Hoa Kỳ từ đơn vị VMSB-232 dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Richard Mangrum xuất phát từ sân bay Henderson đã phát hiện và tấn công Phân đội này ở vị trí phía bắc Guadalcanal, đánh chìm chiếc "Asagiri" và làm hư hại nặng hai chiếc "Yugiri" và "Shirakumo". Chiếc "Shirakumo" được chiếc "Amagiri", rồi tiếp đó là tàu rải mìn "Tsugaru" kéo về đảo Shortland và từ đây được tàu chở dầu "Koa Maru" kéo về Truk để được sửa chữa khẩn cấp và phải bỏ dở cuộc hành quân. Cuộc tấn công này đã giết chết 62 lính Nhật và 94 thủy thủ. Thiệt hại nặng ở lần đổ quân thứ nhất nhưng những chuyến vận tải "tốc hành" tiếp theo của người Nhật đã thành công hơn. Từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9, nhiều tuần dương hạm hạng nhẹ, khu trục hạm và cả tàu tuần tiễu đã được huy động để đưa tiếp 5.000 quân lên Taivu Point, bao gồm toàn bộ Lữ đoàn Bộ binh 35, một tiểu đoàn từ Trung đoàn Aoba và phần còn lại của Trung đoàn Ichiki. Tướng Kawaguchi đổ bộ lên đảo ngày 31 tháng 8 và được giao trọng trách chỉ huy toàn bộ quân Nhật tại Guadalcanal. Trong hai đêm 4 và 5 tháng 9, ba khu trục hạm Nhật Bản "Yudachi", "Hatsuyuki" và "Murakumo" sau khi đổ bộ lính lên đảo và chuẩn bị pháo kích thì phát hiện thấy hai khu trục hạm làm nhiệm vụ chuyển vận của Mỹ, thường dùng để vận chuyển lính Đồng Minh quanh khu vực Guadalcanal/Tulagi (lính Thủy quân lục chiến Mỹ gọi là APD - "AP" có nghĩa vận chuyển còn "D" cho khu trục hạm) là USS "Little" và USS "Gregory" gần đó. Hai chiếc tàu này đã nhanh chóng bị đánh chìm. Mặc dù việc chuyển quân bằng khu trục hạm đã thành công tốt đẹp, tướng Kawaguchi khăng khăng muốn đưa nhiều người lính thuộc lữ đoàn của ông đến Guadalcanal bằng những thuyền máy với tốc độ rất chậm. Do đó, một đoàn chuyển vận đưa 1.100 người lính và vũ khí hạng nặng trên 61 thuyền máy, chủ yếu là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh số 124 của Đại tá Akinosuka Oka đã xuất phát từ bờ biển phía bắc hòn đảo Santa Isabel ngày 2 tháng 9. Ngày 4 và 5 tháng 9, các máy bay từ sân bay Henderson đã tấn công đoàn thuyền máy này, giết chết 90 lính Nhật và phá hủy phần lớn vũ khí hạng nặng. Phần lớn trong số 1.000 lính Nhật còn lại đã đổ bộ lên gần Kamimbo (), phía Tây ngoại vi Lunga trong nhiều ngày sau đó. Đến ngày 7 tháng 9, tướng Kawaguchi đã có trong tay 5.200 quân ở Taivu Point và 1.000 quân ở phía tây phòng tuyến Lunga. Ông tự tin rằng mình có thừa khả năng đánh bại quân Đồng Minh trên đảo và từ chối lời đề nghị tăng viện thêm một tiểu đoàn bộ binh từ Tập đoàn quân 17. Thực ra Kawaguchi đã phán đoán sai về quân số Đồng Minh trên đảo khi ông cho rằng chỉ phải đối mặt với 2.000 lính TQLC Mỹ. Cũng thời điểm này, tướng Vandegrift tiếp tục cho tăng viện và củng cố phòng tuyến Lunga. Từ ngày 21 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9, ông đã cho tái bố trí 3 tiểu đoàn TQLC, trong đó có Tiểu đoàn 1 Thủy quân lục chiến tuần duyên (Marine Raiders) của Thiếu tá Merritt A. Edson và Tiểu đoàn 1 TQLC Nhảy dù từ Tulagi và Gavutu đến Guadalcanal (Tiểu đoàn này đã bị thiệt hại nặng nề trong trận Tulagi và Gavutu-Tanambogo giờ đây cũng được chỉ huy bởi Edson và đến Guadalcanal ngày 2 tháng 9. Lực lượng này có 1.500 người cộng vào quân số ban đầu 11.000 người với nhiệm vụ không đổi là bảo vệ sân bay Henderson. Diễn biến. Triển khai binh lực. Tướng Kawaguchi ấn định thời điểm tấn công vào phòng tuyến Lunga là ngày 12 tháng 9 và ông bắt đầu cho quân của mình rời Taivu hướng về phía Lunga Point dọc theo bờ biển vào ngày 5 tháng 9. Qua vô tuyến, ông liên lạc với Tập đoàn quân 17 và yêu cầu những cuộc không kích vào sân bay Henderson trong ngày 9 tháng 9, còn các chiến hạm Nhật sẽ đến Lunga Point vào ngày 12 tháng 9 để "tiêu diệt mọi lực lượng Mỹ muốn di tản khỏi hòn đảo". Vào ngày 7 tháng 9, Kawaguchi công bố kế hoạch tấn công của ông nhằm "đánh bại và tiêu diệt đối phương tại vùng lân cận sân bay trên đảo Guadalcanal". Kế hoạch tấn công của Kawaguchi là chia lực lượng của ông làm ba mũi giáp công, âm thầm tiếp cận phòng tuyến Lunga và tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào ban đêm. Lực lượng của Đại tá Oka sẽ tấn công vùng ngoại vi sân bay từ phía Tây trong khi Lực lượng thứ hai của Ichiki, giờ đây được đổi tên thành Tiểu đoàn Kuma, sẽ tấn công từ phía Đông. Mũi tấn công chính sẽ được thực hiện bởi lực lượng chủ lực của Kawaguchi, với binh lực lên đến 3.000 người thuộc ba tiểu đoàn, từ phía Nam phòng tuyến Lunga. Đến ngày 7 tháng 9, hầu hết lực lượng của Kawaguchi đã rời Taivu hướng về phía Lunga Point dọc theo bờ biển. Có khoảng 250 lính Nhật ở lại phía sau để bảo vệ căn cứ hậu cần của Lữ đoàn tại Taivu. Cùng lúc đó, lính trinh sát bản địa dưới sự chỉ huy của Martin Clemens, một trinh sát duyên hải nguyên là sĩ quan của Lực lượng Phòng vệ Lãnh thổ Bảo hộ Solomon, và dưới sự chỉ đạo của sĩ quan Anh tại Guadalcanal, đã mang báo cáo đến Bộ chỉ huy Thủy quân Lục chiến về tình hình quân Nhật tại Taivu, gần làng Tasimboko. Đại tá Edson từ đó vạch ra một cuộc đột kích vào lực lượng Nhật Bản đang tập trung tại Taivu. Hai chiếc tàu APD "McKean" và "Manley" cùng hai thuyền máy đã đưa 813 lính Mỹ đến Taivu trong hai chuyến. Edson đi trong đợt đầu tiên cùng 501 lính đã đến Taivu lúc 5 giờ 20 phút sáng (giờ địa phương) ngày 8 tháng 9. Được yểm trợ bởi máy bay từ sân bay Henderson cũng như hỏa pháo từ các khu trục hạm vận chuyển, lính Mỹ tiến về phía làng Tasimboko nhưng đã vấp phải sự kháng cự của quân Nhật. Phải đến 11 giờ, lực lượng còn lại của Edson mới đến nơi. Với lực lượng tăng viện cộng thêm tiếp tục được máy bay yểm trợ, lính Mỹ tiếp tục tấn công ngôi làng. Quân Nhật phòng thủ vì tin rằng cuộc đổ bộ chính của quân Mỹ đang sắp diễn ra do trông thấy một đoàn chuyển vận hạm Đồng Minh đang tiến về Lunga Point nên đã rút lui vào rừng, để lại 27 xác đồng đội. TQLC Mỹ tử trận 2 người. Trong suốt ngày hôm đó, đại tá Gerald C. Thomas, trưởng phòng hành quân trong bộ tham mưu của tướng Vandegrift đã ba lần đánh điện cho Edson và lệnh cho ông phải bỏ nhiệm vụ này và quay lại căn cứ ngay lập tức nhưng Edson đã lờ đi. Tại Tasimboko, lực lượng của Edson tìm thấy kho dự trữ tiếp liệu chính của Kawaguchi, bao gồm lượng thực phẩm dự trữ lớn, đạn dược, thuốc men và cả một điện đài sóng ngắn công suất lớn. Sau khi tiêu hủy tất cả những gì trông thấy ngoại trừ một số tài liệu, thiết bị và thực phẩm có thể mang theo được, TQLC Mỹ quay trở về phòng tuyến Lunga lúc 17 giờ 30 phút. Số lượng lớn hàng tiếp liệu tìm thấy, cùng với tin tức tình báo có được do các tài liệu tịch thu, cho phép Thủy quân Lục chiến biết được có ít nhất 3.000 quân Nhật đang hiện diện trên đảo và rõ ràng đang vạch một kế hoạch tấn công. Edson, cùng với Đại tá Gerald Thomas dự đoán rằng cuộc tấn công của quân Nhật sẽ được thực hiện tại đồi Lunga, một dãy đồi san hô hẹp mọc đầy cỏ, dài khoảng 1.000 m (3.300 ft) chạy song song với sông Lunga ở ngay phía nam sân bay Henderson. Một tuần trước cuộc tấn công vào làng Tasimboko, Edson đã đi thị sát ngọn đồi và ông đã nói với người trợ lý của mình "Chính nơi này. Bọn chúng sẽ tấn công vào nơi này". Dãy đồi này cung cấp một con đường tự nhiên lý tưởng tiếp cận đến sân bay, từ đó khống chế được cả khu vực xung quanh nhưng quan trọng nhất là cho đến lúc đó hầu như không được bảo vệ. Edson và Thomas do đó đã đến gặp và thuyết thục tướng Vandegrift chuyển quân đến bảo vệ ngọn đồi, nhưng Vandegrift đã từ chối vì ông tin rằng quân Nhật sẽ mở cuộc tấn công dọc bờ biển. Cuối cùng, Thomas đã xin được Vandegrift cho lực lượng TQLC tuần duyên của Edson đến "nghỉ ngơi" tại ngọn đồi này sau một tháng chiến đấu ác liệt. Ngày 11 tháng 9, 840 TQLC Mỹ thuộc đơn vị của Edson, bao gồm Tiểu đoàn 1 TQLC Tuần duyên (600 người) và lính Nhảy dù TQLC (214 người) đã đến ngọn đồi và bắt đầu việc phòng thủ. Lực lượng tấn công chính của Kawaguchi (Lực lượng ở vị trí trung tâm) lên kế hoạch tấn công phòng tuyến từ ngọn đồi, mà họ gọi là "con rết" (mukade gata) vì hình dáng của nó. Ngày 9 tháng 9, lính của Kawaguchi rời bờ biển tại Koli Point. Chia thành bốn đội hình, quân Nhật hành quân xuyên qua rừng để tấn công vào vị trí đã định là phía nam và đông nam sân bay. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đã phát sinh. Việc không có bản đồ chi tiết, ít nhất một la bàn không hoạt động và địa hình rừng rậm hiểm trở đã khiến cho các đội hình Nhật phải di chuyển chậm và theo lối zigzag, tốn rất nhiều thời gian quý báu. Cùng thời điểm này, đơn vị của Đại tá Oka đã tiếp cận phòng tuyến Lunga từ phía tây. Oka nhận được một tin tình báo vô cùng quý giá về vị trí phòng thủ của lính TQLC dựa vào khai thác một phi công Mỹ bị bắt sống ngày 30 tháng 8. Trong ngày 12 tháng 9, các lực lượng của tướng Kawaguchi đã băng rừng thành công và đến được địa điểm cho cuộc tấn công đã định vào ban đêm. Mặc dù Kawaguchi muốn ba tiểu đoàn trung tâm của mình có mặt lúc 14 giờ, nhưng đến tận sau 22 giờ họ mới đến nơi tập hợp. Trong khi đó, tại phòng tuyến TQLC phía tây, quân của Đại tá Oka cũng bị chậm bước tiến quân và chỉ có duy nhất tiểu đoàn Kuma ở phía đông báo cáo đến đúng thời gian. Bất chấp những tính toán sai lầm về thời gian đến được vị trí trong kế hoạch tấn công, Kawaguchi vẫn tự tin về thành công sắp tới do ông đã nắm được ngọn đồi này là nơi phòng thủ yếu nhất của TQLC từ lời khai của một phi công Mỹ bị bắt (tên tuổi và số phận người phi công này không được rõ, nhưng không phải là người bị đại tá Oka bắt trước đó). Các máy bay ném bom của Nhật Bản trong hai ngày 11 và 12 tháng 9 cũng đã tấn công ngọn đồi, gây một số thiệt hại, trong đó có hai TQLC chết. Cuộc tấn công đêm đầu tiên. Người Mỹ nắm được bước tiến của quân Nhật thông qua lính trinh sát bản địa và lính trinh sát của họ nhưng không biết chính xác cuộc tấn công sẽ diễn ra tại nơi nào. Ngọn đồi nơi đơn vị Edson trú đóng bao gồm ba đồi nhỏ khác nhau. Ở phía nam, bao bọc cả ba phía bằng rừng rậm dày đặc là Đồi 80 (tên này dựa vào chiều cao 80 feet (24 m) của nó). Tiếp theo 600 yards về phía bắc là Đồi 123 (123 feet (37 m), vị trí cao nhất của ngọn đồi. Ở cực bắc là một đồi không tên, cao khoảng 60 feet (18 m). Edson đưa 5 đại đội từ tiểu đoàn TQLC tuần duyên lên trấn giữ phía tây đồi và ba đại đội Nhảy dù trấn giữ phía đông, chiều sâu là từ phía sau Đồi 80 đến Đồi 123. 2/5 đại đội TQLC tuần duyên, "B" và "C" giữ vị trí giữa ngọn đồi, vụng thủy triều đầm lầy nhỏ và sông Lunga. Đội súng máy của Đại đội "E", đại đội trang bị vũ khí hạng nặng, được bố trí rải rác dọc theo tuyến phòng thủ. Sở chỉ huy của Đại tá Edson đặt trên Đồi 123. 21 giờ 30 phút tối ngày 12 tháng 9, tuần dương hạm Nhật "Sendai" và ba khu trục hạm pháo kích vào phòng tuyến Lunga trong 20 phút và bắn hỏa châu rực sáng cả vùng đồi. Các khẩu pháo của quân Nhật cũng bắt đầu nã đạn vào vị trí TQLC, nhưng không gây được nhiều thiệt hại. Cùng thời điểm đó, các nhóm quân của Kawaguchi cũng bắt đầu chạm trán với TQLC Mỹ quanh ngọn đồi. Tiểu đoàn 1 chỉ huy bởi Thiếu tá Yukichi Kokusho tấn công Đại đội "C" TQLC tuần duyên ở giữa vụng thủy triều và sông Lunga River, đánh tan ít nhất một trung đội, chiếm được ít nhất sáu khẩu súng máy và buộc TQLC phải rút về ngọn đồi. Nhưng đơn vị của Kokusho không nhận được sự phối hợp của Tiểu đoàn 3 dưới quyền Trung tá Kusunichi Watanabe khi mà đơn vị này vẫn chưa đến được vị trí tấn công. Điều này đã khiến cho cuộc tấn công vào ngọn đồi của quân Nhật phải ngừng lại trong đêm hôm ấy. Lữ đoàn của tướng Kawaguchi bị phân tán khắp nơi và ông gần như mất hoàn toàn khả năng kiểm soát đơn vị của mình. Nguyên nhân chính là do địa hình rừng rậm phức tạp đã khiến ông không thể xác định vị trí của mình so với phòng tuyến Mỹ và thực hiện sự hợp đồng tác chiến giữa những cánh quân. Đã có 12 lính TQLC Mỹ tử trận trong đêm, con số này về phía Nhật là không rõ nhưng có lẽ lớn hơn rất nhiều. Mặc dù cả hai đơn vị của Oka (phía tây) và trung đoàn (phía đông) cũng tấn công phòng tuyến TQLC đêm đó, họ không thể liên lạc được với nhau và bị chặn đứng lúc trời gần sáng. Rạng sáng ngày 13 tháng 9, các máy bay của Không lực Cactus và pháo của TQLC pháo kích dữ dội vào vị trí phía nam ngọn đồi, buộc quân Nhật phải rút lui về cánh rừng gần đó. Quân Nhật chịu một số thương vong, trong đó có hai sĩ quan của Tiểu đoàn Watanabe. Lúc 5 giờ 50 phút, tướng Kawaguchi quyết định cho tập hợp lực lượng, chuẩn bị một cuộc tấn công khác trong đêm. Cuộc tấn công đêm thứ hai vào ngọn đồi. Đoán trước quân Nhật sẽ tấn công lần nữa vào ban đêm, Đại tá Edson chỉ đạo lính Mỹ củng cố phòng tuyến ở phía trên và xung quanh ngọn đồi. Hai đại đội TQLC được giao nhiệm vụ tái chiếm lại cánh sườn phía phải đã bị Tiểu đoàn 1 Nhật chiếm trong đêm hôm trước nhưng thất bại. Điều này khiến cho Edson phải tái bố trí lực lượng. Ông dời phòng tuyến lại khoảng 400 yards (370 m) đến một phòng tuyến mới có chiều dài 1.800 yards (1.600 m), bắt đầu từ sông Lunga và qua các sườn đồi khoảng 150 yards (140 m) phía nam Đồi 123. Khu vực xung quanh và phía sau Đồi 123 ông cho bố trí 5 đại đội. Như vậy quân Nhật muốn tràn qua Đồi 80 phải vượt qua 400 yards (370 m) địa hình trống trải để tiếp cận vị trí TQLC Mỹ tại đồi 123. Chỉ còn vài giờ để chuẩn bị, lính TQLC chỉ có thể xây dựng một số công sự sơ sài trong bối cảnh còn ít đạn dược, với mỗi lính TQLC mang trong mình chỉ 1 đến 2 quả lựu đạn. Trước tình hình đó, Tướng Vandegrift đã ra lệnh cho đơn vị dự phòng là Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 5 TQLC (Tiểu đoàn 2/5) đến vị trí phía sau quân của Edson. Ngoài ra, một khẩu đội kháo gồm 4 lựu pháo 105mm của Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 11 cũng được đưa đến vị trí mà từ đó có thể nã đạn trực tiếp vào ngọn đồi và một lính trinh sát pháo binh được cử đến tuyến đầu lực lượng của Edson. Cuối buổi chiều, Edson nói chuyện với những người lính đã kiệt sức của mình: Bài diễn văn của Edson đã "lên tinh thần" cho những người lính TQLC tuần duyên và giúp họ có được sự chuẩn bị về mặt tinh thần cho cuộc tấn công đêm đó. Khi mặt trời đã lặn, cuộc tấn công ban đêm chuẩn bị bắt đầu với 3.000 lính của Kawaguchi đối đầu với 830 lính TQLC của Edson được trang bị pháo hạng nặng. Một màn đêm đen kịt bao trùm trận địa do đêm đó không có trăng. Lúc 21 giờ, bảy khu trục hạm Nhật Bản bắt đầu pháo kích vào ngọn đồi. Cuộc tấn công bắt đầu ngay trước lúc nửa đêm, Tiểu đoàn của Kokusho tấn công Đại đội B TQLC tuần duyên ở cánh phải đội hình phòng ngự của TQLC, ngay phía tây ngọn đồi. Tiếng còi xung phong lẫn tiếng hò hét của quân Nhật vang rền cả phía triền đồi. Đại đội B chống cự không nổi rút chạy về Đồi 123. Bất chấp hỏa lực pháo của TQLC, Kokusho tập hợp quân của mình lại và tiếp tục tấn công. Không dừng lại để triệt hạ các đơn vị TQLC gần kề mà giờ đây cánh sườn đã bị hở, Kokusho tiếp tục cho lính của mình vượt qua một vùng trũng đầm lầy giữa ngọn đồi và sông Lunga để tiến vào sân bay. Hướng tiến của họ bị gián đoạn lại trong một thời gian khá lâu khi vô tình phát giác ra một kho thực phẩm của quân phòng thủ ngoài vòng đai. Lính Nhật sau nhiều ngày không có gì bỏ bụng đã bất chấp quân lệnh dừng lại. Sau khi ăn uống, Kokusho ra lệnh cho đơn vị của mình tiếp tục xung phong. Lúc 3 giờ sáng, quân Nhật đã đến được phía bắc ngọn đồi, ngay rìa sân bay và Đồi 123. Tuy nhiên, sau một cuộc chạm trán dữ dội, Kokusho và 100 người lính dưới quyền đã tử trận, kết thúc cuộc tấn công. Lực lượng TQLC đã ngăn chặn thành công cuộc tấn công cuối cùng của Tiểu đoàn Kokusho có lẽ là Trung đoàn TQLC 11 có sự hỗ trợ của Tiểu đoàn Công binh số 1 và Tiểu đoàn xe kéo lội nước (Amphibious Tractor Battalion) cũng như lính của Edson trên ngọn đồi. Một cánh quân khác thuộc lực lượng của Kawaguchi là Tiểu đoàn 2 do Thiếu tá Masao Tamura cũng tập hợp lực lượng chuẩn bị cho cuộc đột kích vào Đồi 80 từ khu rừng phía nam ngọn đồi. Tuy nhiên, lính trinh sát TQLC đã phát hiện được sự chuẩn bị này và gọi pháo binh chi viện. Khoảng 22 giờ, 12 khẩu pháo 105mm đồng loạt nã đạn vào vị trí của tiểu đoàn Tamura. Hai đại đội của Tiểu đoàn Tamura, khoảng 320 người được yểm trợ bởi súng cối và lựu đạn đã lao lên Đồi 80 tấn công bằng lưỡi lê. Đợt tấn công này nhắm vào Đại đội B của Tiểu đoàn Nhảy dù và cả Đại đội B của TQLC Tuần duyên, đẩy lùi lính nhảy dù ở phía đông ngọn đồi. Để bảo vệ cánh sườn bị hở của Đại đội B TQLC tuần duyên, Edson ngay lập tức ra lệnh cho đơn vị này rút về Đồi 123. Cùng thời điểm đó, một đại đội lính Nhật từ Tiểu đoàn Watanabe đã xâm nhập được vào khe hở giữa phía đông ngọn đồi và Đại đội C Nhảy dù. Tin chắc rằng vị trí của mình không thể giữ được nữa, Đại đội B và C đã leo lên ngọn đồi và rút về phía sau Đồi 123. Trong bóng tối và khung cảnh hỗn loạn của trận đánh, cuộc rút lui nhanh chóng trở nên vô tổ chức. Một số lính TQLC la hét quân Nhật đang tấn công bằng khí độc làm hoảng loạn những người lính TQLC khác không mang mặt nạ phòng khí độc. Sau khi rút về sau Đồi 123, nhiều lính TQLC tiếp tục chạy về hướng sân bay và liên tục kêu gọi đồng đội "rút lui". Ngay trong lúc tưởng chừng như lực lượng TQLC phòng thủ trên đồi sắp tan rã hoàn toàn và tháo chạy tán loạn, Đại tá Edson, Thiếu tá Kenneth D. Bailey, sĩ quan tham mưu của Edson và các sĩ quan TQLC khác xuất hiện kịp thời đã mạnh mẽ ra lệnh cho TQLC Mỹ tái tập trung và ngay lập tức quay lại vị trí phòng thủ quanh Đồi 123. Khi TQLC Mỹ tạo một phòng tuyến hình móng ngựa bao quanh Đồi 123, Tiểu đoàn Tamura bắt đầu mở các cuộc tấn công trực diện từ hai hướng là Đồi 80 và phía đông ngọn đồi. Dưới ánh sáng của hỏa châu được thả bởi ít nhất một thủy phi cơ Nhật, TQLC Mỹ đã đẩy lùi hai cuộc tấn công đầu. Lính Nhật bắt đầu đưa lên đỉnh Đồi 80 một khẩu sơn pháo 75mm với ý định nã pháo trực tiếp vào TQLC Mỹ. Khẩu pháo này có khả năng thay đổi cục diện trận đánh đã bị vô hiệu hóa bởi lỗi kỹ thuật. Lúc nửa đêm, khi chiến sự tạm lắng xuống, Edson lại tiếp tục điều động Đại đội B và C Nhảy dù đến phía sau Đồi 123 để củng cố cánh trái đội hình phòng thủ. Với lưỡi lê, lính nhảy dù TQLC đã tiêu diệt sạch những lính Nhật vượt qua được phòng tuyến đang cố chiếm lấy cánh sườn của TQLC ở phía đông ngọn đồi. TQLC từ các đơn vị khác cũng như các sĩ quan trong bộ chỉ huy của Edson, như thiếu tá Bailey, đã bất chấp làn hỏa lực đưa thêm đạn và lựu đạn đến cho TQLC đang cần gấp quanh Đồi 123. Một Đại úy TQLC là William J. McKennan kể lại, "Quân Nhật tấn công gần như không ngớt, cứ như một cơn mưa cứ lớn dần… Khi một hàng lính bị tàn sát như rạ, hàng lính khác lại tiếp tục lao vào chỗ chết." Lính Nhật đã vào được đến cánh trái của phòng tuyến TQLC ngay sau khi lính nhảy dù chiếm giữ vị trí này nhưng một lần nữa hỏa lực súng trường, súng máy, cối và lựu đạn đã ngăn họ lại. Pháo 105 mm và 75 mm của TQLC cũng gây thương vong nặng nề cho quân Nhật. Một người lính Nhật bị bắt làm tù binh sau đó đã nói đơn vị của anh ta đã bị "xóa sổ" bởi đạn pháo, chỉ có 10% lính đại đội của anh còn sống sót. Trong đêm đó, TQLC Mỹ đã sử dụng 2.800 quả đạn pháo, riêng các khẩu lựu pháo 105 mm của Trung đoàn TQLC 11 đã bắn hết 1.992 quả. Đến 4 giờ sáng, sau khi đẩy lui quân Nhật tấn công trực diện hết đợt này đến đợt khác, đôi khi phải kết thúc bằng những cuộc giáp lá cà, lực lượng của Edson đã được tăng cường Tiểu đoàn 2/5 TQLC giúp đẩy lùi thêm hai cuộc tấn công nữa trước lúc bình minh. Trong suốt đêm hôm đó, khi mà đã có lúc quân Nhật tiến gần đến việc xuyên thủng phòng tuyến, Đại tá Edson vẫn luôn đứng ở vị trí phía sau phòng tuyến trên Đồi 123 khoảng 20 yards (18 m), liên tục động viên những người lính của mình và chỉ huy việc phòng thủ. Một Đại úy TQLC, Tex Smith, người ở vị trí quan sát được Edson gần như cả đêm đã nói, "Tôi có thể nói rằng nếu có một người đàn ông có thể gắn kết cả một tiểu đoàn lại với nhau, đó chính là Edson đêm hôm đó. Ông ấy đứng ở vị trí ngay trước tuyến đầu. Vâng, ông ấy đã đứng, trong khi phần lớn chúng tôi trú vào các hầm hố." Đêm hôm đó ba đại đội Nhật Bản, bao gồm hai từ Tiểu đoàn Tamura và một từ Tiểu đoàn Watanabe đã tiến được đến rìa đường băng thứ hai của sân bay Henderson mặc dù gặp nhiều thương vong. Công binh TQLC đã phản công đánh chặn một đại đội Nhật và buộc đại đội này rút lui. Hai đại đội còn lại đợi quân tăng viện ở bìa rừng vì không dám tấn công vào vùng địa hình trống trải quanh sân bay. Khi đợi mãi không có viện binh đến, cả hai đại đội rút lui về vị trí ban đầu phía nam ngọn đồi trước khi trời sáng. Phần lớn quân số của Tiểu đoàn Watanabe đã không tham gia trận đánh vì mất liên lạc với chỉ huy trưởng của họ suốt đêm. Khi mặt trời bắt đầu lên vào ngày 14 tháng 9, vẫn còn nhiều nhóm lính Nhật rải rác dọc theo hai phía ngọn đồi. Tuy nhiên với việc tiểu đoàn Tamura đã mất ¾ quân số, cả sĩ quan và lính cũng như thương vong nặng nề của các đơn vị tấn công khác, cuộc tấn công vào ngọn đồi đã xem như chấm dứt. Khoảng 100 lính Nhật vẫn còn ở sườn nam Đồi 80 có dấu hiệu chuẩn bị tấn công nữa vào Đồi 123. Phi đoàn Chiến đấu cơ số 67 tại sân bay Henderson nhận được yêu cầu của Thiếu tá Bailey đã cử ba chiến đấu cơ P-400 đến tiêu diệt gần hết số lính Nhật trên, chỉ còn một số sống sót rút chạy về phía khu rừng. Cuộc tấn công của tiểu đoàn Kuma và đại tá Oka. Trong khi trận chiến trên ngọn đồi đang diễn ra, tiểu đoàn Kuma và đơn vị của đại tá Oka cũng tấn công phía đông và phía tây phòng tuyến Lunga. Tiểu đoàn Kuma, do Thiếu tá Takeshi Mizuno chỉ huy tấn công phía đông nam phòng tuyến, phòng thủ bởi Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 TQLC. Cuộc tấn công bắt đầu vào khoảng nửa đêm với một đại đội xung phong xuyên qua hỏa lực pháo và chạm trán giáp lá cà với quân phòng thủ trước khi bị đánh bật trở lại. Thiếu tá Mizuno cũng tử trận sau đợt tấn công. Lúc rạng sáng, lính TQLC cho rằng lực lượng còn lại của Tiểu đoàn Kuma vẫn còn trong khu vực nên cho sáu xe tăng hạng nhẹ M3 Stuart không có bộ binh yểm trợ đi càn quét khu vực phía trước phòng tuyến. Tuy nhiên, bốn khẩu pháo chống tăng 37 mm của quân Nhật đã tiêu diệt hoặc làm vô hiệu hóa ba chiếc xe tăng. Sau khi bỏ chạy khỏi chiếc tăng đang bốc cháy, nhiều lính tăng bị quân Nhật dùng lưỡi lê đâm chết. Một chiếc tăng bị lật nhào xuống dòng sông Tenaru và toàn bộ đội tăng chết đuối. Các khẩu pháo chống tăng Nhật thuộc về Đại đội của Trung đoàn Pháo chống tăng 28 chỉ huy bởi Thiếu úy Yoshio Okubo. Tám lính tăng TQLC chết trong cuộc chạm trán này. 23 giờ ngày 14 tháng 9, tiểu đoàn Kuma lại mở cuộc tấn công vào vị trí cũ và bị đẩy lùi một lần nữa. Đêm ngày 15 tháng 9, cuộc tấn công "yếu ớt" cuối cùng của tiểu đoàn này cũng bị đập tan. Tiểu đoàn của Oka bao gồm 650 người (chủ yếu là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh 124) tấn công vào nhiều vị trí phía tây phòng tuyến Lunga. Khoảng 4 giờ sáng ngày 14 tháng 9, hai đại đội quân Nhật tấn công vào vị trí trấn giữ bởi Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 5 TQLC gần bờ biển và bị đánh bại với thương vong lớn. Một đại đội Nhật khác chiếm giữ một ngọn đồi nhỏ nhưng bị pháo binh TQLC pháo kích suốt trong ngày và phải rút lui với thương vong lớn đêm ngày 14 tháng 9. Phần còn lại của đơn vị này đã không thề tìm ra vị trí phòng tuyến TQLC nên không thể tham gia cuộc tấn công. Ngày 17 tháng 9, tướng Vandegrift điều động hai đại đội từ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn TQLC số 1 làm nhiệm vụ truy đuổi tàn quân Nhật. Tuy nhiên, lực lượng này đã bị hai đại đội Nhật Bản làm nhiệm vụ bọc hậu cho cuộc rút lui phục kích. Một trung đội TQLC bị vây trong khi những người lính TQLC còn lại bỏ chạy. Đại đội trưởng TQLC này đã đề nghị được lệnh cứu trung đội này nhưng Vandegrift đã từ chối. Đến chập tối, quân Nhật đã gần như xóa sổ được trung đội này, giết chết 24 lính TQLC với chỉ một số người bị thương còn sống sót. Ngày 20 tháng 9, một nhóm trinh sát từ TQLC tuần duyên của Edson chạm trán với một nhóm lính Nhật đang rút lui và nhanh chóng gọi pháo chi viện, giết chết 19 lính Nhật. Kết quả. Lúc 13 giờ 5 phút ngày 14 tháng 9, Kawaguchi đã dẫn những người lính của lữ đoàn còn sống sót rút chạy khỏi ngọn đồi vào rừng sâu, tại đây họ nghỉ ngơi và dựng trại để trị thương trong suốt ngày kế tiếp. Đơn vị của Kawaguchi được lệnh rút lui về phía tây đến sông Matanikau để gia nhập đơn vị của Oka. Cuộc rút lui này đòi hỏi đoàn tàn quân phải di chuyển 6 dặm (10 km) qua vùng địa hình hiểm trở. Sáng ngày 16 tháng 9, đơn vị của Kawaguchi bắt đầu di chuyển. Phần lớn số binh sĩ còn đi được phải đỡ thêm những người bị thương. Trên đường đi, những người lính kiệt sức và đói bụng, đã không ăn gì kể từ ngày 14 tháng 9, bắt đầu bỏ các vũ khí hạng nặng và thậm chí cả súng trường lại. Khi đoàn quân đến được vị trí của đơn vị Oka tại Kokumbona năm ngày sau đó, chỉ còn một nửa số binh lính còn mang vũ khí. Những người còn sống sót của tiểu đoàn Kuma cố gắng bám theo tướng Kawaguchi đã bị lạc và lang thang trong rừng suốt ba tuần, gần như chết đói khi đến được trại của đơn vị Kawaguchi. Trong trận đánh này, quân Nhật chết khoảng 830 người, trong đó có 350 người thuộc Tiểu đoàn Tamura, 200 người thuộc Tiểu đoàn Kokusho, 120 người thuộc Tiểu đoàn Oka, 100 người thuộc Tiểu đoàn Kuma và 60 người thuộc Tiểu đoàn Watanabe. Ngoài ra còn nhiều lính Nhật tử thương trên đường rút về Matanikau nhưng không rõ bao nhiêu. Trên và dọc ngọn đồi, Thủy quân lục chiến Mỹ đếm được 500 xác lính Nhật, gồm cả 200 xác tìm thấy tại Đồi 123. TQLC Mỹ chết 80 người từ ngày 12 tháng 9 đến ngày 14 tháng 9. Trong khi quân Nhật tái tập trung ở phía tây Matanikau, quân Mỹ tiếp tục cho củng cố phòng tuyến Lunga. Ngày 14 tháng 9, Vandegrift quyết định đưa thêm Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 2 từ Tulagi đến Guadalcanal. Ngày 18 tháng 9, một đoàn chuyển vận hạm đưa đến thêm 4.157 người thuộc Lữ đoàn 3 Thủy quân Lục chiến (gồm Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến, một tiểu đoàn từ Trung đoàn 11 Thủy quân lục chiến và một số đơn vị hỗ trợ) đến Guadalcanal. Sự tăng viện kịp thời này cho phép Vandegrift, bắt đầu từ ngày 19 tháng 9, thành lập một vành đai phòng thủ liên tục chung quanh ngoại vi Lunga. Trong các ngày 23 đến 27 tháng 9 và 6 đến 9 tháng 10, quân Mỹ và Nhật đã chạm trán với nhau dọc theo sông Matanikau. Ý nghĩa trận đánh. Sau khi đưa thêm quân đến Guadalcanal, quân Nhật vào cuối tháng 10 mở thêm một cuộc tấn công nữa vào sân bay Henderson nhưng tiếp tục thất bại thảm hại. Tướng Vandegrift sau đó đã thừa nhận cuộc tấn công của quân Nhật vào ngọn đồi trong tháng 9 là thời khắc duy nhất trong toàn chiến dịch mà ông cảm thấy lo ngại nhất, "chúng ta sẽ có thể ở trong một tình trạng rất xấu." Sử gia Richard B. Frank nói thêm, "Vào tháng 9 năm 1942, người Nhật chưa bao giờ tiến gần đến chiến thắng trên hòn đảo này như thế. Họ đã tiến hành một mũi tấn công thọc sâu qua rừng rậm vào ngọn đồi và suýt nữa đã chiếm được sân bay. Ngọn đồi này sau đó trở nên nổi tiếng nhất với cái tên Đồi Máu." Ngày 15 tháng 9, tướng Hyakutake tại Rabaul biết được tin tức về thất bại của tướng Kawaguchi và báo cáo tin tức này về Bộ tổng tư lệnh Đế quốc tại Nhật Bản. Trong một cuộc họp khẩn cấp, lãnh đạo cao cấp của Lục quân và Hải quân Nhật đều đưa ra kết luận rằng "Guadalcanal có thể phát triển thành một trận chiến quyết định của cuộc chiến". Kết quả của trận chiến này sẽ có ảnh hưởng chiến lược mạnh mẽ đến các hoạt động tại các khu vực khác của Thái Bình Dương. Hyakutake ý thức rằng để thi hành mệnh lệnh tập trung đầy đủ nhân lực và phương tiện để có thể đánh bại lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal, ông không thể đồng thời hỗ trợ cho chiến dịch tấn công đang diễn ra trên đường mòn Kokoda tại New Guinea. Với sự tán thành của Bộ tổng tư lệnh, tướng Hyakutake đã ra lệnh cho lực lượng của ông tại New Guinea, vốn chỉ còn cách mục tiêu cảng Moresby không đầy 48 km (30 dặm), rút lui cho đến khi "vấn đề Guadalcanal " được giải quyết. Quân Nhật sau đó đã không bao giờ có thể tấn công trở lại cảng Moresby do đó có thể nói thất bại của họ trong trận chiến đồi Edson không chỉ dẫn đến thất bại tại Guadalcanal mà còn cả thất bại chung cuộc trên chiến trường Nam Thái Bình Dương. Chú thích. Ghi chú. a. Con số này là toàn bộ số quân Đồng Minh có mặt trên đảo Guadalcanal chứ không phải là số quân thực tế tham gia trận đánh, bao gồm 11.000 quân đổ bộ lên đảo lúc đầu và ba tiểu đoàn (khoảng 1.500 quân) chuyển từ Tulagi đến sau đó.b. Con số này cũng là toàn bộ số quân Nhật dưới quyền chỉ huy của tướng Kawaguchi tại Guadalcanal chứ không phải là số quân thực tế tham gia trận đánh.c. Lữ đoàn Bộ binh 35, thuộc Sư đoàn 18, có quân số 3.880 người, chủ yếu là từ Trung đoàn Bộ binh 124 với nhiều đơn vị hỗ trợ khác. Trung đoàn Ichiki được mang theo tên người chỉ huy là đại tá Ichiki Kiyonao và là một phần của Sư đoàn 7 từ Hokkaido. Trung đoàn Aoba, thuộc Sư đoàn 2, mang tên của lâu đài Aoba tại Sendai, bởi vì hầu hết quân lính của trung đoàn đều đến từ tỉnh Miyagi. Trung đoàn Ichiki đã từng được giao nhiệm vụ tấn công đánh chiếm đảo Midway nhưng đã phải trở lại Nhật Bản sau khi hạm đội Nhật bị đánh bại trong trận Midway khiến cuộc đổ bộ bị hoãn lại.d. Griffith cho rằng có 400 lính Nhật chết trong khi Frank và Smith đưa ra con số 90. Đại tá Oka vốn là chỉ huy trưởng Trung đoàn 124 do đó ông phải chuyển sang chỉ huy Tiểu đoàn 2 vào thời điểm trên. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 là Thiếu tá Takamatsu đã bị giết chết trong cuộc không kích.e. Khu trục hạm chuyển vận "Colhoun" đã bị máy bay Nhật Bản đánh chìm vào ngày 30 tháng 8 sau khi đưa Đại đội D Thủy quân lục chiến tuần duyên lên bờ. 51 thủy thủ chết.f. Hầu hết những người lính thuộc Lực lượng thứ hai của Ichiki đều đến từ Asahikawa, tỉnh Hokkaidō. "Kuma" là tên của những con gấu xám sống ở khu vực đó.g. Alexander đưa ra con số 833 người, bao gồm 605 lính TQLC tuần duyên và 208 lính Nhảy dù TQLC. Đi theo cuộc đột kích này còn có phóng viên Richard Tregaskis, Robert C. Miller và Jacob C. Vouza; Vouza phải ở trên thuyền suốt vì vết thương gặp phải trong trận Tenaru chưa hồi phục kịp.h. Vào thời điểm đó, Kawaguchi và phần lớn lực lượng của ông đang ở vị trí 6 dặm phía tây Tasimboko gần Tetere và cũng chỉ vừa mới tiến vào bên trong đảo.i. Richard Tregaskis đã tìm ra được phần lớn số tài liệu. Đêm hôm đó, tàu tuần tra Hoa Kỳ YP-346 đã bị tấn công và bị thương bởi đoàn chuyển vận Tốc hành Tokyo.k. Người phi công này là một trong 2 phi công của Lục quân, Chilson hoặc Wyethes, bị bắn rơi ngày 30 tháng 8 (khi đang bay trên chiếc P-400 từ sân bay Henderson) và sau đó được tuyên bố là tử trận (KIA).l. 11 lính TQLC tử trận bị đưa vào danh sách "mất tích" dù không bao giờ thấy họ lần nữa; một số xác lính TQLC tìm thấy sau trận đánh đang trong quá trình phân hủy nên không thể xác định được chính xác là ai. Nhiều lính TQLC còn nghe những tiếng la hét của một hay nhiều đồng đội bị bắt sống trong đêm 12 tháng 9. Robert Youngdeer người đã có mặt ở ngọn đồi đêm đó kể lại "Những âm thanh đó trong bóng đêm mịt mù vẫn còn ám ảnh tôi đến ngày hôm nay. Cả tiểu đoàn của tôi đều có thể nghe thấy tiếng la hét của họ."m. Jersey cho rằng Thiếu tá Kokusho không tử trận vào thời điểm đó, mà tử trận vào ngày 2 tháng 1 năm 1943 trong Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horsen. Tiểu đoàn Tamura thực chất là Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn Bộ binh 4 (Trung đoàn Aoba) trong khi Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn Bộ binh 124 lại thuộc cánh quân của Đại tá Oka tấn công phía tây phòng tuyến Lunga. Alexander đánh vần họ của Tamura là Masuro. Trong trận đánh, Thiếu tá Charles A. Miller, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lính nhảy dù đã không tuân lệnh Edson và bất lực trong việc chỉ huy có hiệu quả quân lính dưới quyền. Miller sau trận đánh đã bị cách chức, bị đưa về Mỹ và bị thải hồi khỏi Thủy quân lục chiến.o. Khói và mùi magiê cháy cộng thêm tiếng hô "Tsu-geki!" (Tấn công!) của lính Nhật có thể đã khiến lính TQLC lầm tưởng là lính Nhật đang sử dụng hơi độc tấn công. Thiếu tá Bailey đã phải dùng súng lục của mình để ngăn chặn làn sóng rút lui hỗn loạn về phía sau và dọa những người lính TQLC còn lại. Đại úy lính nhảy dù Harry Torgerson cũng tham gia vào việc ngăn cuộc rút lui phía sau Đồi 123. Edson đã nói với những người lính TQLC đang bỏ chạy "Điều khác nhau duy nhất giữa các anh và bọn Nhật là lòng dũng cảm. Quay lại ngay."p. Nhiều tài liệu khẳng định chi tiết về khẩu sơn pháo 75 mm của Nhật là không có thật, nhưng Christ dựa vào nhân chứng là một số lính TQLC đã chứng kiến khẩu pháo xuất hiện nhưng không khai hỏa.q. Vì vết thương cũ tái phát, trung tá Watanabe phải bước đi tập tễnh suốt đêm tìm kiếm Kawaguchi trong vô vọng ở khu rừng phía nam ngọn đồi. Vì một lý do không rõ, phần lớn tiểu đoàn Watanabe vẫn giữ nguyên vị trí và không tham gia tấn công theo mệnh lệnh trước đó.r. Ba phi công bao gồm Đại úy John A. Thompson, Bryan W. Brown và B. E. Davis. Hai chiếc trong số đó bị trúng hỏa lực mặt đất của quân Nhật nhưng vẫn trở về được sân bay.s. Alexander đánh vần họ của Mizuno là "Eishi", tên đầy đủ Eishi Mizuno.t. Đại đội trưởng của trung đội bị tiêu diệt là Đại úy Charles Brush, người đã chỉ huy nhóm lính tuần tra TQLC tiêu diệt nhóm lính trinh sát của Đại tá Ichiki trong trận Tenaru.u. Chỉ có 86 lính TQLC nhảy dù trong số 204 ban đầu có thể đi trên ngọn đồi vào buổi sáng sau trận đánh; số còn lại đã tử trận hoặc bị thương rất nặng. Christ cho số liệu 53 lính TQLC chết trên ngọn đồi và 237 người bị thương nặng, trong khi quân Nhật có 1.133 người chết hoặc bị thương. Lính Mỹ chôn lính Nhật trong các hố chôn tập thể hoặc hỏa thiêu.
1
null
"Goin' In" là một ca khúc của nữ ca sĩ thu âm người Mỹ Jennifer Lopez. Ca khúc có mặt trong album nhạc phim "Step Up Revolution" (2012) và album tổng hợp hit của cô, "Dance Again... the Hits" (2012). Ca khúc có sự góp giọng của hai nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ, Flo Rida và Lil Jon, mặc dù Lil Jon không được chính thức cho vào phần hợp tác. "Goin' In" được đồng dáng tác bởi Joseph Angel, Tramar Dillard, David Quiñones, Coleridge Tillman, Warren Michael và Jamahl "GoonRock" Listenbee, người đồng thời cũng là nhà sản xuất của ca khúc. Lopez ra mắt "Goin' In" tại vòng chung kết của "American Idol" mùa thứ 11 vào 23 tháng 5 năm 2012. Thực hiện và phát hành. Vào 27 tháng 4 năm 2012, Digital Spy thông báo rằng, Lopez sẽ thu âm hai ca khúc với nhà sản xuất GoonRock (được biết đến nhiều nhất qua việc hợp tác với bộ đôi LMFAO qua các bản hit "Party Rock Anthem" và "Sexy and I Know It") và được viết bởi Ryan Tedder: "Clothes Off" and "Goin' In". Vào 10 tháng 5, GoonRock viết một tin nhắn lên Twitter rằng: "Crazy day finishing 2012 's Song of the Summer for @jlo and @Official_flo #goinin." (Tạm dịch: "Một ngày điên cuồng, đã hoàn thành Ca khúc Mùa hè 2012 cho @jlo và @Official_flo #goinin."). Ca khúc được phát hành trên đài phát thanh vào 24 tháng 5 năm 2012 trên "On Air with Ryan Seacrest". "Goin' In" được phát hành kĩ thuật số vào 12 tháng 6 năm 2012. Video âm nhạc. Video âm nhạc cho ca khúc được quay vào tháng 6 năm 2012 và được đạo diễn bởi Ace Norton. Flo Rida đã nói về video này: "Tôi đứng hát ca khúc bên cạnh chiếc Lamborghini này. Và nó cũng thực sự khó khăn khi có một cảnh tôi chạy trên chiếc máy chạy bộ và hát phần rap của tôi. Khi xem lại cả video, tôi thấy nó thật tuyệt vời.
1
null
Rajiv Ratna Gandhi (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 - mất ngày 21 tháng 5 năm 1991) là Thủ tướng thứ sáu của Ấn Độ (tại vị: 1984-1989). Ông được đề cử làm Thủ tướng sau khi mẹ ông - Indira Gandhi - bị ám sát vào ngày 31 tháng 10 năm 1984. Bản thân ông bị ám sát vào ngày 21 tháng 5 năm 1991. Khi nhậm chức, ông mới 40 tuổi và trở thành Thủ tướng trẻ nhất của Ấn Độ cho tới nay. Rajiv Gandhi là con trai cả của Indira và Feroze Gandhi. Ông từng học tại Trinity College, Cambridge, và sau đó tại trường Imperial College London, nhưng đều không hoàn thành văn bằng tại cả hai trường này. Khi ở Cambridge, ông đã gặp Antonia Albina Maino - một phụ nữ sinh ra ở Ý, lúc đó một nữ hầu bàn nhà hàng. Sau này hai người đã kết hôn. Sau khi bỏ học đại học, ông đã trở thành một phi công chuyên nghiệp cho các hãng hàng không Ấn Độ. Ông vẫn xa lạ với chính trị, mặc dù là người trong dòng họ nổi bật trên chính trường Ấn Độ. Mãi tới sau em trai ông là Sanjay Gandhi qua đời vào năm 1980, Rajiv mới bắt đầu tham gia vào đời sống chính trị. Sau khi Thủ tướng Indira Gandhi bị ám sát vào năm 1984, các lãnh đạo Đảng Quốc Đại Ấn Độ đề cử ông làm Thủ tướng Chính phủ. Lập tức, Rajiv Gandhi đã lãnh đạo đảng Quốc Đại giành chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử vào năm 1984, giành được tỷ lệ phiếu lớn lớn nhất từng thấy trong Quốc hội Ấn Độ, Đảng Quốc Đại giành 411 ghế trong số 542 ghế. Ông bắt đầu bãi bỏ Licence Raj (Giấy phép Raj - chế độ cấp phép liên quan đến hạn ngạch, thuế quan và điều tiết hoạt động kinh tế), hiện đại hóa ngành viễn thông, hệ thống giáo dục, phát triển các sáng kiến khoa học và công nghệ, và cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ. Thời gian Rajiv Gandhi làm thủ tướng có nhiều mâu thuẫn và tranh cãi; có lẽ khủng hoảng lớn nhất là thảm họa Bhopal và trường hợp của Shah Bano. Năm 1988, ông bảo vệ Tổng thống Gayyoom trong cuộc đảo chính ở Maldives, chống lại các nhóm dân quân Tamil như PLOTE, can thiệp và sau đó gửi binh sĩ gìn giữ hòa bình đến Sri Lanka năm 1987, dẫn tới xung đột với Những con hổ Giải phóng Tamil (LTTE). Vào giữa năm 1987, vụ bê bối Bofors đã phá hỏng hình ảnh không tham nhũng của ông và dẫn đến một thất bại lớn cho đảng của ông trong cuộc bầu cử năm 1989. Vào ngày 30 tháng 7 năm 1987, một ngày sau khi Rajiv Gandhi đến Sri Lanka và ký Hiệp ước Indo-Sri Lanka, một người bảo vệ tên là Vijitha Rohana đánh vào vai ông bằng súng trường; Phản xạ nhanh của Rajiv Gandhi đã cứu ông khỏi bị thương. Người bảo vệ cho biết ý định của ông là giết Rajiv Gandhi vì "những thiệt hại ông đã gây ra" cho Sri Lanka. Rajiv Gandhi vẫn là Chủ tịch Quốc hội cho đến cuộc bầu cử năm 1991. Trong khi vận động bầu cử vào ngày 21 tháng 5 năm 1991, tại Sriperumbudur, một ngôi làng cách Madras khoảng 40 km Vào lúc 10:10 tối, một người phụ nữ sau này được xác định là Thenmozhi Rajaratnam, tiếp cận Rajiv Gandhi trước công chúng và chào đón ông. Sau đó, cô cúi xuống và kích nổ một vành đai chứa 700 g chất nổ RDX giấu dưới váy cô. Vụ nổ đã giết Gandhi, Rajaratnam và ít nhất 25 người khác. Góa phụ của ông Sonia trở thành chủ tịch của Đảng quốc đại vào năm 1998 và lãnh đạo đảng để chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2004 và 2009. Con trai ông Rahul là một thành viên của Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ hiện tại. Năm 1991, chính phủ Ấn Độ đã tặng Rajiv Gandhi giải thưởng Bharat Ratna, giải thưởng dân sự cao nhất của đất nước.
1
null
Finyov Lug () là một làng ("деревня") của Liên bang Nga. Nó là một phần của khu dân cư kiểu đô thị Tyosovo-Netylskoye thuộc huyện Novgorod, tỉnh cùng tên. Từ năm 1940 đến 1967, Finyov Lug là nơi tọa lạc của Финёвский лесопункт Новгородского леспромхоза, cơ quan đảm trách ngành lâm nghiệp và trồng rừng của thị trấn Tyosovo-Netylskiy. Xung quanh làng là một hệ thống đường sắt khổ hẹp (750 mm) chuyên dùng để vận chuyển than bùn, với tổng chiều dài tuyến đường chính từng lên tới 150 cây số. Линия узкоколейной железной дороги пересекалась с линией МПС: Новолисино — Новгород-на-Волхове в разных уровнях.
1
null
London là một thành phố ở Tây Nam Ontario, Canada, nằm ​​dọc theo hành lang thành phố Quebec-Windsor. Thành phố có dân số 366.151 người theo điều tra dân số Canada 2011. London là thủ phủ hạt Middlesex, tại ngã ba của sông Thames không thuận lợi cho tàu bè lưu thông, khoảng nửa chừng giữa Toronto, Ontario và Detroit, Michigan. Thành phố London là một thành phố riêng biệt về chính trị với hạt Middlesex, mặc dù nó vẫn là thủ phủ hạt. London đã có khu định cư lần đầu của châu Âu giữa 1801 và 1804 bởi Peter Hagerman và trở thành một ngôi làng vào năm 1826. Kể từ đó, London đã phát triển thành đô thị lớn nhất Tây Nam tỉnh Ontario, sáp nhập của các cộng đồng nhỏ hơn bao quanh nó. Thành phố đã phát triển một trọng tâm mạnh mẽ đối với sức khỏe, chăm sóc giáo dục, du lịch, và sản xuất. London là nơi có các trường Fanshawe College và Đại học Western Ontario, góp phần vào danh tiếng của thành phố là một trung tâm quốc tế của giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học và hoạt động văn hóa. Thành phố tổ chức một số cuộc triển lãm âm nhạc và nghệ thuật. Lễ hội London đóng góp cho ngành du lịch của thành phố, nhưng hoạt động kinh tế của nó là trung tâm nghiên cứu giáo dục, y tế, bảo hiểm, và công nghệ thông tin. Trường đại học và bệnh viện của London là một trong mười đơn vị hành đầu về sử dụng lao động. London nằm tại ngã ba quốc lộ 401 và 402, kết nối tới Toronto, Detroit, và Sarnia. Nó cũng có một sân bay quốc tế (sân bay quốc tế London và trạm xe buýt.
1
null
Hành lang thành phố Quebec-Windsor là khu vực tập trung đông dân nhất và công nghiệp hóa cao của Canada. Như tên gọi của nó, nó kéo dài từ thành phố Quebec ở phía đông đến Windsor, Ontario ở phía tây, trải dài 1.150 km (710 dặm). Với hơn 18 triệu người, nó chứa 51% dân số của đất nước và ba trong 4 vùng đô thị lớn nhất của Canada theo điều tra dân số năm 2001. Trong tầm quan trọng tương đối của nó đến cơ sở hạ tầng kinh tế và chính trị của đất nước, nó có nhiều điểm tương đồng với Northeast megalopolis Đông Bắc Hoa Kỳ. Tên lần đầu tiên được phổ biến rộng rãi bởi tuyến Via Rail, chuyên chở hành khách bằng đường sắt thường xuyên trong Hành lang thành phố Quebec-Windsor trên tuyến đường của nó có tên là "Hành lang". Địa lý. Hành lang này kéo dài từ thành phố Quebec, Quebec ở đông bắc đến Windsor, Ontario ở tây nam, chạy theo hướng bắc của sông Saint Lawrence, hồ Ontario và hồ Erie. Các khu vực đô thị chính dọc theo hành lang bao gồm: Các khu vực đô thị đáng kể khác gồm có: Lévis, Cornwall, Brockville, Kingston, Belleville, Niagara Falls, Chatham–Kent, Sherbrooke, Laval, Gatineau, Peterborough, Guelph, Brantford, Barrie, và Sarnia.
1
null
Sân bay quốc tế London (tên tiếng Anh: London International Airport hay London Airport) là một sân bay có cự ly về phía đông bắc thành phố London, Ontario, Canada. Năm 2009, sân bay này đã phục vụ 501.836 lượt hành khách và năm 2011 là sân bay bận rộn thứ 20 ở Canada về số lượt chuyến với 94.747 lượt chuyến. Các hãng hàng không hoạt động tại sân bay này gồm có Air Canada Express, United Express (vận hành bởi SkyWest Airlines), và WestJet. Lịch sử. Sân bay này được xây dựng trong gần 1939 Crumlin, trên một địa điểm thời điểm đó nằm ngoài giới hạn thành phố London, nhưng đã được sáp nhập vào thành phố. Đó là một căn cứ không quân dưới sự chỉ huy của Kế hoạch đào tạo hàng không Khối thịnh vượng chung, nơi mà các phi công từ Khối thịnh vượng chung Anh và các thuộc địa cũ đã được đào tạo như là một cống thời gian này. Với việc hãng hàng không WestJet phục vụ tại sân bay này trong thời gian đầu những năm 2000, việc mở rộng nhà ga là cần thiết. Kết quả là, nhà ga của sân bay này đã được cải tạo hoàn toàn và mở rộng để đáp ứng nhu cầu hành khách hoàn thành vào năm 2003.
1
null
Đắk Nông là một tỉnh biên giới của Việt Nam, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía nam giáp các tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, phía đông giáp tỉnh Lâm Đồng, phía tây giáp Vương quốc Campuchia. Trước năm 1975. Tỉnh Đắk Lắk của nước Việt Nam thống nhất từ năm 1976 hình thành từ hai tỉnh Darlac và Quảng Đức, có diện tích lớn thứ hai Việt Nam sau tỉnh Gia Lai - Kon Tum, gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 5 huyện: Đắk Mil, Đắk Nông, Krông Búk, Krông Pắc, Lăk. Tỉnh chỉ lớn nhất nước khi tỉnh Gia Lai - Kon Tum tách làm đôi, khi đó Đắk Lắk diện tích 19.800 km². Số huyện tăng dần cho đến 18 huyện. Năm 1950 - 1978, thành lập một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk Nông. Năm 1984, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk Nông. Năm 1986, chia tách một số xã thuộc huyện Đắk Nông. Cùng năm, chia huyện Đắk Nông thành 2 huyện: Đắk Nông và Đắk R'lấp. Năm 1987, thành lập huyện Krông Nô trên cơ sở tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk Nông và Lắk. Năm 1989, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Nông và Đắk Rlấp. Năm 1990, thành lập huyện Cư Jút trên cơ sở tách ra từ huyện Đắk Mil và thị xã Buôn Ma Thuột. Năm 1992, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Rlấp, Krông Nô, Cư Jút. Năm 1994, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Nông, Đắk Rlấp, Krông Nô. Năm 1995, điều chỉnh địa giới thành phố Buôn Ma Thuột và huyện Cư Jút. Năm 1996, chia tách, thành lập xã, thị trấn thuộc huyện Krông Nô. Năm 1998, chia tách thành lập một số xã, thị trấn thuộc huyện Đắk Nông. Năm 1999, chia tách, thành lập một số xã, thị trấn thuộc huyện Krông Nô. Năm 2001, chia tách, thành lập một số xã thuộc huyện Cư Jút. Cùng năm, thành lập huyện Đắk Song trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Đắk Nông và Đắk Mil. "(Thời kỳ trước khi thành lập tỉnh Đắk Nông, xem Lịch sử hành chính Đắk Lắk để biết thêm thông tin)" Năm 2003, chia tách, thành lập một số xã thuộc các huyện Krông Nô và Đắk R'lấp. Cùng năm, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11 chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đắk Nông. Tỉnh Đắk Nông có 6 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Nông, Đắk R'lấp, Đắk Song, Krông Nô. Năm 2004, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Cư Jút và Krông Nô. Năm 2005, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk R'lấp, Đắk Song, Krông Nô. Cùng năm, thành lập thị xã Gia Nghĩa, thành lập các phường thuộc thị xã Gia Nghĩa, đổi tên huyện Đắk Nông thành huyện Đắk Glong. Năm 2006, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk R'lấp, Đắk Song. Cùng năm, thành lập huyện Tuy Đức. Năm 2007, chia tách một số xã thuộc các huyện Đắk Glong, Đắk R'lấp, Đắk Song, Krông Nô. Năm 2010, giải thể xã Đắk Plao cũ, thành lập xã Đắk Plao mới thuộc huyện Đắk Glong. Năm 2019, thành lập phường Quảng Thành thuộc thị xã Gia Nghĩa và thành lập thành phố Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông. Năm 2021, điều chỉnh địa giới hành chính hai huyện Cư Jút, Đắk Mil và một số xã, thị trấn thuộc huyện Krông Nô.
1
null
Liên kết tam nhị là một liên kết hóa học thiếu điện tử (electron-deficient chemical bond) khi 2 nguyên tử hình thành liên kết có chung 2 electron. Để đơn giản, người ta còn gọi liên kết này là liên kết 3c-2e (3-center 2-electron bond) Hợp chất của Bo. Liên kết 3c-2e được tìm thấy ở các hợp chất của Bo, chẳng hạn như điboran (B2H6). Hai electron trong liên kết B-H-B là minh họa cho liên kết 3c-2e. Cacbocation. Phản ứng chuyển vị cacbocation xảy ra thông qua trạng thái chuyển tiếp liên kết 3 tâm. Các ion carbon thường có liên kết 3c-2e
1
null
Sông Naf (tiếng Myanmar: နတ်မြစ်; tiếng Bengal: নাফ নদী) là con sông nằm giữa huyện Cox's Bazar của Bangladesh và bang Rakhine của Myanmar. Sông Naf bắt nguồn từ dãy núi Arakan của Myanmar rồi đổ ra vịnh Bengal. Sông dài 62 km; chiều rộng thay đổi tuỳ nơi, khoảng từ 1,61 đến 3,22 km. Phần lớn phần hạ lưu của sông phân định nên biên giới Bangladesh-Myanmar. Sông Naf chịu ảnh hưởng của thủy triều. Bangladesh và Myanmar tranh chấp một số quyền lợi liên quan đến dòng sông này. Myanmar từng có kế hoạch xây dựng một con đập tại đây, khiến Bangladesh phải triệu hồi đại sứ của Myanmar để thể hiện mối lo ngại vào đầu năm 2001. Sau đó binh lính hai quốc gia đã có cuộc chạm súng ngắn tại biên giới trên sông Naf.
1
null
Windsor là thành phố cực nam ở Canada và nằm ở Tây Nam Ontario ở cuối phía tây của hành lang đông dân cư, hành lang thành phố Quebec-Windsor. Thành phố nằm bên trong khu vực điều tra dân số Essex, Ontario, mặc dù hành chính tách ra khỏi chính quyền hạt. Ngăn cách bởi sông Detroit, Windsor nằm ở phía nam của Detroit, Michigan ở Hoa Kỳ. Windsor được gọi là Thành phố Hoa hồng và người dân trong tiếng Anh được gọi là Windsorites.
1
null
Hồng Xương Long (sinh 1970) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Anh đã sáng tác nhiều ca khúc trữ tình quê hương mang âm hưởng dân ca nhiều thể loại âm nhạc khác, tình ca, hương ca, dân ca và nhạc trẻ. Thân thế cuộc đời. Hồng Xương Long, tên thật và cũng là bút danh, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1970 tại tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam . Từ nhỏ, Anh sớm biểu lộ tình yêu âm nhạc, bố mất sớm, nên không có điều kiện theo đuổi âm nhạc. Năm 14 tuổi, anh bắt đầu tham gia vào các ban nhạc nghiệp dư ở quê, thường phục vụ trong các đám cưới. Bất chấp gia đình không ủng hộ, anh bước vào con đường trở thành nhạc công. Anh sáng tác ca khúc đầu tiên "Chiếc lá bên đường". Năm 19 tuổi (1989), anh vào TP.HCM để tìm cơ hội lập nghiệp và làm nhiều nghề để mưu sinh... tối đến anh đến lớp học nhạc lý. Năm 1991 anh trở về quê học thêm nghề hớt tóc. Năm 1994, anh trở lại Sài Gòn làm nghề hớt tóc ban ngày, buổi tối đi học tiếng Anh đồng thời học nâng cao về nhạc lý. Anh học Guitar và Organ tại các lớp dạy đêm, học hòa âm và piano tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, anh bước vào con đường chuyên nghiệp với 2 ca khúc đầu tay là "Sài Gòn trong tâm hồn tôi" (Quang Dũng) và "Từ giã mùa đông" (Mỹ Tâm) được khán giả biết đến và ủng hộ. Sau đó anh viết tiếp các bài khác rất thành công như Em gái quê, Mưa chiều miền Trung và Lỡ duyên (do Cẩm Ly thể hiện), Thư cuối và Xe hoa (do Vân Quang Long thể hiện), Lỡ hẹn, Miền Trung yêu dấu (do Đan Trường thể hiện), Thương khúc Bolero, (do Lâm Trí Tú thể hiện). Năm 2002, anh bắt đầu hợp tác với Kim Lợi Studio và HT Production. Hồng Xương Long đã cùng với nhạc sĩ Minh Vy viết chung 3 ca khúc: Chim trắng mồ côi, Trăng vỡ và Đau xót lý con cua. Đặc biệt, bài Chim trắng mồ côi (Đan Trường và Cẩm Ly song ca) đã thực sự chiếm được cảm tình lớn từ khán thính giả và có thể coi đó là một trong những sáng tác hay nhất của anh (và Minh Vy). Được xem là gặt hái nhiều thành công với các ca khúc mang âm hưởng dân ca, tuy nhiên Hồng Xương Long anh có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, trong đó có nhạc trẻ. Từ năm 2010, anh rời Sài Gòn trở về quê nhà. Hiện giờ anh không tham gia nhiều vào thị trường âm nhạc như trước, nhưng vẫn sáng tác dù rất ít. "Hương tình gái quê" là sáng tác mới nhất của anh được thể hiện rất thành công bởi nữ ca sĩ Hương Thủy trong chương trình của Thuy Nga Paris 105. Danh sách đĩa nhạc. 1- Album " Mộng Vàng Son " Hồng Xương Long Sáng tác và trình bày. 2 - Album " Chúc Mừng Năm Mới " Hồng Xương Long Sáng tác và trình bày. 3 - Album " Anh Đi Rồi & Thu Tha hương " Hồng Xương Long Sáng tác và trình bày. 4- Album " Biển Ngàn Năm Ru Mãi " Hồng Xương Long Sáng tác và trình bày. 5 - Album " Quảng Ngãi Yêu Thương " Hồng Xương Long Sáng tác và trình bày Các nhạc phẩm - Tên ca sĩ thể hiện. Hồng Xương Long có trên 200 nhạc phẩm được sử dụng và phát hành rộng rãi. Các ca sĩ nổi tiếng đã từng thể hiện những nhạc phẩm của anh rất nhiều, có thể kể tới: Đan Trường,Cẩm Ly, Như Quỳnh, Quang Lê, Quang Dũng, Mỹ Tâm,Hương Thủy,Hạ Vy, Hà Phương, Dương Ngọc Thái, Vân Quang Long, Lâm Trí Tú Trong đó, có nhiều ca khúc được nhiều người yêu mến như: Em gái quê, Mưa chiều miền Trung, Miền Trung Yêu Dấu, Thư Cuối, Xe Hoa, Gọi Đò, Chim Trắng Mồ Côi, Trăng Vỡ, Thương khúc Bolero... Sự kiện liên quan. Năm 2008, nhạc sĩ Hồng Xương Long gửi đơn đến Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam tìm lại công bằng cho các bài hát bị các công ty sản xuất băng đĩa hải ngoại như Thúy Nga Paris, Tình Production... sử dụng không xin phép tác giả như ca khúc Chim trắng mồ côi, Trăng vỡ và Đau xót lý con cua.
1
null
Quần đảo Bismarck là một nhóm gồm các đảo ở ngoài khơi bờ biển đông bắc của đảo New Guinea tại Tây Thái Bình Dương, là một phần của Vùng Quần Đảo thuộc Papua New Guinea. Lịch sử. Những cư dân đầu tiên của quần đảo đã đến từ khoảng 33.000 năm trước từ New Guinea, bằng thuyền qua biển Bismarck hay qua một cầu lục địa tạm thời, được tạo thành bởi một sự nâng lên của vỏ Trái Đất. Người châu Âu đầu tiên viếng thăm các đảo này là nhà thám hiểm Hà Lan Willem Schouten vào năm 1616. Các hòn đảo vẫn chưa có người Âu định cư cho đến khi chúng được sáp nhập thành một vùng bảo hộ của Đức với cái tên New Guinea thuộc Đức vào năm 1884. Quần đảo được đặt tên theo Thủ tướng Đức Otto von Bismarck. Vào ngày 13 tháng 3 năm 1888, một núi lửa đã phun trào tại đảo Ritter đã tạo ra đại sóng thần. Hầu như 100% núi lửa đã sụp xuống dưới đại dương để lại một hồ miệng núi lửa nhỏ. Sau khi bùng nổ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, quân Úc đã chiếm quần đảo vào năm 1914 và Úc sau đó đã quản lý hòn đảo do được Hội Quốc Liên ủy thác. Ngoại trừ một thời gian ngắn bị Nhật Bản xâm chiếm trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quần đảo vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Úc cho đến khi Papua New Guinea trở thành một nước độc lập vào năm 1975. Địa lý. Quần đảo Bismarck bao gồm chú yếu là các đảo núi lửa với tổng diện tích . Các đảo được liệt kê theo tỉnh:
1
null
New Britain là hòn đảo lớn nhất của Quần đảo Bismarck (được đặt tên theo Otto von Bismarck) tại Papua New Guinea. Hòn đảo tách biệt với đảo chính New Guinea qua các eo biển Dampier và Vitiaz và tách biệt với đảo New Ireland qua eo biển St. George's. Các đô thị chính trên đảo New Britain là Rabaul/Kokopo và Kimbe. Hòn đảo có kích thước tương đương với Đài Loan. Khi đảo còn là một phần của New Guinea thuộc Đức, nó có tên là Neupommern ("Tân Pomerania"). Địa lý. New Britain trải dài từ 148°18'31" đến 152°23'57" độ kinh Đông và từ 4°08'25" đến 6°18'31" độ vĩ Nam. Đảo có hình lưỡi liềm, dài xấp xỉ tính theo bờ biển đông nam, và từ 29 đến 146 km (18–91 miles) chiều rộng, không tính một bán đảo nhỏ ở trung tâm. Khoảng cách theo đường thẳng từ đông sang tây của đảo là . Đây là hòn đảo có diện tích đứng thứ 38 trên thế giới, với diện tích . Các vách đá dựng đứng tạo thành một số phần của bờ biển New Britain; các ngọn núi nằm xa trong vùng nội địa, và các khu vực ven biển có địa hình bằng phẳng và được các rạn san hô bao quanh. Điểm cao nhất của đảo, với cao độ 2.438 m (7.999 ft), là núi Sinewit thuộc dãy Baining ở phía đông. Hầu hết địa hình của hòn đảo được bao phủ bởi các rừng mưa nhiệt đới và một vài con sông lớn bắt nguồn từ lượng mưa lớn của đảo. New Britain phần lớn được tạo thành bởi các quá trình núi lửa, và hiện vẫn còn có một số hoạt động núi lửa trên đảo, bao gồm Ulawun (núi lửa cao nhất tại Papua New Guinea), Langila, nhóm Garbuna, dãy Sulu, và các núi lửa Tavurvur và Vulcan thuộc hõm chảo Rabaul. Một vụ phun trào lớn đã xảy ở Tavurvur vào năm 1994 và đã phá hủy tỉnh lị Rabaul của tỉnh Đông New Britain. Hầu hết thị trấn vẫn còn nằm dưới nhiều mét tro bụi, và tỉnh lị đã được chuyển về Kokopo gần đó. Hành chính. New Britain là một phần của Vùng Quần Đảo, một trong bốn vùng của Papua New Guinea. Đảo là phần chính của hai tỉnh: Lịch sử. William Dampier là người châu Âu đầu tiên được được ghi nhận đã đến thăm New Britain, việc này diễn ra vào ngày 27 tháng 2 năm 1700: ông đặt cho hòn đảo cái tên Latinh "Nova Britannia", (dịch sang tiếng Anh: "New Britain"). Vào tháng 11 năm 1884, Đức đã tuyên bố mình có quyền bảo hộ đối với Quần đảo New Britain; thực dân Đức đã quản lý về mặt hành chính New Britain và New Ireland với các tên gọi tương ứng là Neupommern (hay Neu-Pommern; "Pomerania Mới") và Neumecklenburg (hay Neu-Mecklenburg; "Mecklenburg" Mới), và toàn bộ nhóm đảo được đổi tên thành quần đảo Bismarck. New Britain trở thành một phần của New Guinea thuộc Đức. Năm 1909, số dân bản địa trên đảo được ước tính là 190.000 người; dân cư ngoại quốc là 773 (474 da trắng). Các kiều dân chủ yếu bị giới hạn tại đông bắc bán đảo Gazelle, bao gồm cả thủ phủ Herbertshöhe (nay là Kokopo). Lúc đó, 5.448 ha đã được chuyển thành đồn điền, chủ yếu là trồng dừa, cây bông, cà phê và cao su. Người phương Tây ban đầu tránh khám phá vùng nội địa vì cho rằng các dân tộc bản địa có tính hiếu chiến và sẽ chống lại quyết liệt sự xâm nhập. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1914, New Britain trở thành nơi diễn ra một trong các trận đánh đầu tiên trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất khi Quân Úc đổ bộ lên đảo. Họ đã nhanh chóng áp đảo quân Đức và chiếm được hòn đảo trong thời gian diễn ra chiến tranh. Năm 1920, Hội Quốc Liên đã đặt New Britain cùng với thuộc địa cũ New Guinea của Đức vào trong Lãnh thổ New Guinea, là một lãnh thổ ủy trị của Úc. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân Nhật đã tấn công New Britain ngay sau khi bùng nổ chiến sự tại Thái Bình Dương. Vào tháng 1 năm 1942, Nhật Bản ném bom nặng nề Rabaul. Vào ngày 23 tháng 1, hàng nghìn lính thủy quân lục chiến Nhật Bản đã đổ bộ lên đảo, bắt đầu trận Rabaul. Người Nhật sử dụng Rabaul như một căn cứ lớn cho đến năm 1944; nó trở thành một điểm quan trọng để phục vụ cho cuộc xâm chiếm bất thành Port Moresby. Người dân và văn hóa. Người dân bản địa tại New Britain gồm hai nhóm: người Papua, định cư trên đảo từ hàng chục nghìn năm; và người Nam Đảo, những người đã đến vào khoảng hai nghìn năm trước. Đảo có khoảng 10 ngôn ngữ Papua và khoảng bốn mươi ngôn ngữ Nam Đảo, cũng như Tok Pisin và tiếng Anh. Dân cư Papua phần lớn giới hạn ở một phần ba phía đông của hòn đảo và một vài vùng đất nhỏ ở vùng cao nguyên trung tâm. Tại vịnh Jacquinot, ở đông nam, họ sinh sống cạnh bãi biển nơi có một thác nước đổ thẳng xuống biển. Dân số của New Britain 493.585 trong năm 2010. châu Đại Dương người chiếm đa số trên đảo. Các thành phố lớn là Rabaul / Kokopo ở Đông New Britain và Kimbe West New Britain. Dân số New Britain là 493.585 vào năm 2010. Đa số dân cư trên đảo là người Nam Đảo. Các đô thị chính là Rabaul/Kokopo tại Đông New Britain và Kimbe tại Tây New Britain. New Britain có các nét văn hóa truyền thống đa dạng và phức tạp. Trong khi người Tolai ở vùng Rabaul tại Đông New Britain có một xã hội theo chế độ mẫu hệ, các nhóm khác lại có cấu trúc gia đình theo chế độ phụ hệ. Có rất nhiều nét truyền thống vẫn cón lưu giữ đến ngày nay, như xã hội bí ẩn "dukduk" (cũng gọi là "tubuan") ở vùng Tolai.
1
null
Chiến dịch tấn công hồ Naroch là một trận đánh giữa Quân đội Đế quốc Nga và Quân đội Đế quốc Đức trên Mặt trận phía Đông của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 18 tháng 3 cho đến ngày 14 tháng 4 năm 1916. Trận chiến mở màn với cuộc tiến công của quân Nga nhằm vào quân Đức để giảm áp lực cho quân Pháp trong trận Verdun khi ấy, và kết thúc với thất bại thê lương của quân Nga. Trong khi quân Đức không chuyển binh lực từ Verdun, tinh thần quân đội Nga bị suy sụp do thảm bại này. Chiến dịch tấn công hồ Naroch được xem là một điển hình cho sự yếu kém của nền quân sự Nga cũng như là một trong những thảm họa của nước Nga trong cuộc chiến tranh. Quân đội Nga mở đầu chiến dịch này vào ngày 18 tháng 3 năm 1916 bằng một cuộc pháo kích ác liệt. Tuy nhiên, cuộc công pháo này cơ bản là vô hiệu. Tập đoàn quân số 2 của Nga tham gia trong cuộc tiến công này và có lợi thế về quân số trước Tập đoàn quân số 10 của Đức. Cuộc tập kích của lực lượng Bộ binh Nga sau khi pháo kích đã bị sa lầy trong lúc băng tuyết tan vào mùa xuân, và quân Nga đã trở thành "mồi ngon" cho súng máy của Quân đội Đức. Quân Đức đã đánh cho đối phương tan tành, và các cuộc công kích sau đó của quân Nga vào cuối tháng 3 năm 1916 đều thất bại, ngoại trừ một thắng lợi nhỏ nhoi của tướng Baluyev. Cho đến tháng 4 năm 1916, quân Nga tiếp tục tiến công nhưng cuối cùng quân Đức đã giành lại tất cả những đất đai mà quân Nga chiếm được. Cùng với sự tan băng vào mùa xuân, hỏa lực vượt trội của lực lượng Pháo binh Đức đã bẻ gãy chiến dịch tấn công của người Nga. Quân Nga phải hứng chịu thiệt hại nặng nề (trong số đó có nhiều người bị chết cóng), ngược lại quân Đức chịu tổn thất nhẹ nhàng hơn hẳn. Ngoài thương vong to lớn ra, cuộc tấn công của quân Nga - vốn không hề được chuẩn bị chu đáo - đã không thể làm nên bất cứ điều gì khác. Một Sĩ quan báo chí thuộc Tổng hành dinh "Stavka" của Nga cũng phải thừa nhận sự thất bại thảm hại của quân đội mình trong chiến dịch này. Trận đánh hồ Naroch với chiến bại không nhỏ của quân Nga cũng là nỗ lực đầu tiên cho họ nhằm giải nguy cho quân Pháp khỏi cuộc tàn sát tại Verdun. Những chiến thuật mới mẻ của người Sĩ quan Pháo binh Đức là Georg Bruchmüller được xem là tâm điểm cho chiến thắng vang dội của Quân đội Đức trong một cuộc phản công ở trận chiến hồ Naroch. Ngoài ra, quân Đức cũng một lần nữa sử dụng hơi cay trong khi quân Nga không có gì để tránh khỏi hơi độc. Mặt khác, thất bại của quân Nga trong trận hồ Naroch chỉ đem lại cho Mặt trận phía Đông một giai đoạn tạm thời yên tĩnh. Chú thích.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 39 (tiếng Anh: "Interstate 39" hay viết tắt là I-39) là một xa lộ liên tiểu bang tại Trung Tây Hoa Kỳ. I-39 chạy từ Xa lộ Liên tiểu bang 55 tại Normal, tiểu bang Illinois đến Xa lộ 29 tại Rothschild, Wisconsin, khoảng 6 dặm ở phía nam Wausau. I-39 được thiết kế để thay thế Quốc lộ Hoa Kỳ 51, một trong số các xa lộ 2-làn xe bận rộn nhất tại Hoa Kỳ vào đầu thập niên 1980. I-39 được xây dựng trong thập niên 1980 và thập niên 1990. Tại tiểu bang Illinois, xa lộ có tổng chiều dài là . Tại tiểu bang Wisconsin, I-39 có chiều dài 182 dặm (293 km). Trừ đoạn dài 8 dặm (13 km) quanh thành phố Portage, xa lộ liên tiểu bang này chạy trùng với ít nhất một xa lộ khác trong tiểu bang. Từ tiểu bang Illinois đến Portage, I-39 chạy trùng với Xa lộ Liên tiểu bang 90. Xa lộ Liên tiểu bang 94 nhập vào hai xa lộ này tại Madison cho đến Portage. Với chiều dài , đoạn trùng này là đoạn trùng ba xa lộ dài nhất tại Hoa Kỳ. Từ Portage đi hướng bắc, Quốc lộ Hoa Kỳ 51 được cắm biển chung với xa lộ liên tiểu bang và các lối ra dựa vào số dặm riêng của quốc lộ. Mô tả xa lộ. Illinois. Tại tiểu bang Illinois, I-39 bắt đầu từ Xa lộ Liên tiểu bang 55 ở phía bắc Bloomington-Normal, Illinois, khu vực nằm dọc cạnh bên Xa lộ Illinois 251. Nó chạy phần lớn theo hướng bắc qua các vùng nông thôn từ thành phố Normal. Khoảng ở phía bắc thành phố, I-39 qua Sông Illinois bằng Cầu Tưởng niệm Abraham Lincoln dài . Ngay phía bắc Sông Illinois, I-39 chạy về phía tây của các thành phố LaSalle và Peru trước cắt ngang Xa lộ Liên tiểu bang 80. Phía bắc I-80, các tua bin gió của Nông trại gió Mendota Hills có thể nhìn thấy từ mốc dặm 72 tại Mendota đến phía bắc gần Paw Paw. Xa hơn về phía bắc, I-39 chạy dọc theo phía nam và đông Rockford, và trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 20. Xa lộ Liên tiểu bang nhập vào Xa lộ thu phí Tưởng niệm Jane Addams và Xa lộ Liên tiểu bang 90 gần Cherry Valley. Quốc lộ Hoa Kỳ 51 rời I-39/90 tại South Beloit trong khi đó hai xa lộ trùng I-39/90 tiếp tục đi hướng bắc đến tiểu bang Wisconsin. Ngoại trừ , tất cả đoạn đường mà Xa lộ Liên tiểu bang 39 đi qua tiểu bang Illinois đều chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 51. Điểm đầu phía nam của I-39 nằm cách Xa lộ Liên tiểu bang 74 ít hơn khi nó chạy quanh thành phố Normal. Wisconsin. I-39 đi vào tiểu bang Wisconsin từ tiểu bang Illinois cùng với Xa lộ Liên tiểu bang 90, đi tránh Beloit ở phía đông. Ở phía đông thị trấn này, xa lộ có một nút giao thông khác mức phục vụ các điểm đầu cho cả Xa lộ Wisconsin 81– đi hướng tây vào Beloit– và Xa lộ Liên tiểu bang 43 cung cấp lối đến thành phố Milwaukee. Đoạn trùng I-39/90 tiếp tục đi hướng bắc và nhận thêm Xa lộ Wisconsin 11 tại điểm khoảng 7 dặm (11 km) ở phía bắc nút giao thông lập thể. Xa lộ đi tránh Janesville ở phía đông trong khi đó các nhánh chuyển đường của Quốc lộ Hoa Kỳ 14 và WIS 26 có tạo lối đi đến thị trấn này. Xa lộ tiếp tục theo hướng chính là hướng bắc, qua Sông Rock trước khi có nút giao thông với Xa lộ Wisconsin 59 mà cung cấp lối đi đến Edgerton ở phía tây. Sau đó, xa lộ đi vào Quận Dane khi nó đi qua phía tây Hồ Koshkonong. Quốc lộ Hoa Kỳ 51 nhập vào I-39 và phục vụ như điểm đầu phía nam của WIS 73. US 51 rời xa lộ khoảng 4 mi (6 km) ở phía bắc, khoảng 7 mi (11 km) ở phía đông Stoughton. Xa lộ Liên tiểu bang sau cùng quay hướng tây quanh Utica. Sau đó nó quay trở về hướng bắc và liên đổi đường với Quốc lộ Hoa Kỳ 12 và Quốc lộ Hoa Kỳ 18 tại thành phố Madison. I-39 và I-90 đi tránh thành phố Madison ở phía đông. I-94 nhập vào hai xa lộ trùng tại điểm đầu phía đông của Xa lộ Wisconsin 30. Khoảng 2 mi (3 km) ở phía bắc, xa lộ cắt ngang Quốc lộ Hoa Kỳ 151. Xa lộ liên tiểu bang cắt ngang Xa lộ Wisconsin 60 tại một nút giao thông cách ranh giới quận khoảng 3 dặm (5 km) về phía bắc và ở phía tây Arlington. Sau khi qua Sông Wisconsin, I-39 đi qua nút giao thông lập thể với Xa lộ Wisconsin 16 và quay hướng đông bắc đến nút giao thông với Quốc lộ Hoa Kỳ 51. Quốc lộ nhập vào xa lộ liên tiểu bang và cả hai chạy theo hướng bắc, rồi rời vùng Portage. Xa lộ Wisconsin 23 nhập vào I-39/US 51 chiều đi hướng bắc, cách ranh giới quận khoảng 4 miles (6 km). Ba xa lộ cùng đi dọc theo Hồ Buffalo và đến thị trấn Packwaukee. WIS 23 rời đoạn trùng gần Oxford trong khi đó I-39 theo lộ trình hướng bắc để đi qua Westfield. I-39/US 51 vào Quận Waushara, 6 dặm (10 km) về phía bắc của Westfield. Khoảng 4 dặm ở phía bắc ranh giới quận, I-39 / US 51 giao cắt với Xa lộ Wisconsin 21 tại Coloma. Tại Quận Portage, I-39/US 51 đi thẳng theo hướng bắc. I-39/US 51 đi qua hai nút giao thông khi đi qua Quận Portage: Lộ Casimir cách Stevens Point khoảng 4 dặm (6 km) về hướng tây bắc, và Quốc lộ Hoa Kỳ 10 cách Lộ Casimir 2 dặm (3 km) về hướng bắc. Sau đó, xa lộ chạy song song với Sông Wisconsin khoảng 6 dặm (10 km) đến một nút giao thông nằm ở phía đông Hồ DuBay và cách ranh giới Quận Marathon khoảng 1 dặm (1.6 km) về phía nam. Xa lộ Wisconsin 34 kết thúc tại nút giao thông với I-39/US 51 tại Knowlton khoảng 3 dặm (5 km) ở tây bắc lối vào xa lộ cao tốc nằm trong Quận Marathon. Xa lộ cao tốc quay hướng bắc từ nút giao thông này. Xa lộ Wisconsin 153 cắt ngay xa lộ cao tốc khoảng 4 dặm xa hơn về phía bắc trong Mosinee. Lộ Maple Ridge chạy cắt ngang xa lộ cao tốc khoảng 2 dặm sau đó khi xa lộ cao tốc quay hướng đông bắc vào Rothschild. I-39 kết thúc tại nút giao thông lập thể với Xa lộ Wisconsin 29 ngay tây nam Wausau.
1
null
Kinh giới sần hay kinh giới nhám; kinh giới gân nổi (danh pháp hai phần: Elsholtzia rugulosa) là một loài thực vật thân thảo trong họ Lamiaceae. Phân bố. Kinh giới sần là loài bản địa của khu vực Đông Nam Á, chủ yếu là Myanma, Việt Nam và miền nam Trung Quốc (Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam), tại các vùng đồng cỏ miền núi, các vùng đất bỏ hoang, các khu rừng hay các bụi cây, ở cao độ 1.300-2.800 m. Đặc điểm. Cay thân thảo tới cây bụi nhỏ. Thân cao 30–150 cm, phân nhiều cành, các cành phủ lông măng trắng rậm rạp. Cuống lá dài 0,5-2,5 cm; phiến lá hình elip tới hình trứng dạng thoi, kích thước 2-7,5 × 1-3,5 cm, dạng giấy, phía gần trục có lông lởm chởm, hơi nhăn nheo, phía xa trục có lông măng xám, gốc lá thuôn tròn tới hình nêm rộng bản, mép lá khía răng cưa tù với gốc nguyên, đỉnh nhọn tới hơi tù; 4-6 cặp gân bên, nổi rõ ở phía xa trục. Chùm hoa đầu cành dài 3–12 cm hoặc hơn, chủ yếu có lông măng trắng; các cụm hoa hình xim có cuống, rậm ở đỉnh cụm hoa, lỏng lẻo ở đế cụm hoa; cuống hoa lớn dài 1,2-2,5 cm; các lá bắc trên hình mác tới hình dùi, 1–3 mm, mép nguyên. Cuống hoa nhỏ ngắn hơn 1 mm. Đài hoa hình chuông, khoảng 1,5 × 1 mm, có lông lởm chởm màu trắng; các răng tương đương hay 2 răng phía sau dài hơn, khoảng 0,7 mm. Tràng hoa màu trắng, đôi khi tía hay hơi vàng, khoảng 4 mm, có lông nhung bên ngoài, có đốt có lông tơ xiên bên trong, ống tràng khoảng 3 mm, rộng khoảng 1,5 mm ở họng; môi trên ngắn hơn 1 mm, đỉnh có khía; thùy giữa của môi dưới hình tròn, khoảng 1 × 1 mm, mép khía không đều; các thùy bên hình bán nguyệt. Các nhị trước thò ra; chỉ nhị hơi có lông. Các quả kiên nhỏ màu hơi vàng, thuôn dài, hơi dẹt, khoảng 1 mm, nhẵn. Ra hoa và tạo quả từ tháng 10 tới tháng 12. Tác dụng. "E. rugulosa" được biết đến tại Trung Quốc như là một loại trà thảo dược để chữa trị cảm lạnh và sốt cũng như là loại cây để cung cấp mật hoa cho ong mật. Luteolin chiết từ "Elsholtzia rugulosa" đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ thần kinh trong một mô hình tế bào bệnh Alzheimer. Nó chứa các flavonoit glycoside apigenin 4'-O-alpha-D-glucopyranoside và 5,7,3',4'-tetrahydroxy-5'-C-prenylflavone-7-O-beta-D-glucopyranoside, bên cạnh vài glycoside khác. Nó có tác dụng chống lại vi khuẩn kháng methicillin là "Staphylococcus aureus". Apigenin và luteolin, các hợp chất có trong loài cây này, có thể giúp chống lại virus cúm H3N2.
1
null
Chi Kinh giới (danh pháp khoa học: Elsholtzia) là một chi thực vật thân thảo trong họ Lamiaceae với khoảng 40 loài đã được công nhận. Tại Việt Nam có khoảng 7 loài, với tên gọi có chứa cụm từ kinh giới. Tên gọi các loài còn lại chủ yếu phiên âm từ tiếng Trung (do tại Trung Quốc có tới 33 loài thuộc chi này), đa phần đều được gọi là 香薷 (hương nhu) nhưng tất cả các loài "hương nhu" này đều không có ở Việt Nam. Lưu ý. Tên gọi hương nhu trong tiếng Việt lại dùng để chỉ một vài loài thuộc chi "Ocimum" cùng họ. Tên gọi 荆芥 (kinh giới) trong tiếng Trung lại dùng để chỉ các loài trong chi "Nepeta" (và cả "Schizonepeta" nếu như chi này được coi là tách biệt với "Nepeta") cùng họ. Tên gọi kinh giới trong tiếng Việt cũng được dùng với một vài loài thuộc chi Rau muối ("Chenopodium") không có quan hệ họ hàng gì.
1
null
Trận Artois lần thứ nhất là một trận đánh trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra giữa Quân đội Pháp và Quân đội Đế quốc Đức ở miền Bắc nước Pháp. Là cuộc tiến công của quân Pháp nhằm vào quân Đức, trận chiến này là nỗ lực đầu tiên của cả hai phe nhằm phá vỡ cục diện bế tắc đã tồn tại trên Mặt trận phía Tây sau trận Ypres lần thứ nhất. Tuy nhiên, quân Đức đã ngăn chặn được cuộc tiến công của quân Pháp tại Artois, đánh dấu sự thất bại của nỗ lực này. Sau khi tình trạng bế tắc bắt đầu vào tháng 11 năm 1914, Tổng tư lệnh Quân đội Pháp là Joseph Joffre chủ trương liên tiếp tấn công các hàng phòng ngự của Quân đội Đức. Ông chia rẽ Mặt trận phía Tây thành các khu vực "tích cực" và "bị động", và quyết tâm dồn những nỗ lực của người Pháp vào những khu vực "tích cực" Artois và Champagne, nhằm giáng đòn vào "cái vai" của chỗ lồi của người Đức từ Flanders đến Verdun, cùng với hai tuyến đường xe lửa chính yếu của người Đức. Vào đầu tháng 12 năm 1914, Joffre ra lệnh cho Tập đoàn quân số 10 của Pháp tấn công quân Đức tại Artois và Tập đoàn quân số 4 cũng tấn công đồng loạt ở Champagne. Các vấn đề hậu cần đã ngăn trở những cuộc tấn công nhử mồi của quân Anh, quân Pháp và quân Bỉ mà Joffre mong muốn vào tháng 12 năm ấy. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 12 năm 1914, trận Artois lần thứ nhất được khơi mào khi Tập đoàn quân số 10 của Pháp tiến công các đơn vị thuộc Tập đoàn quân số 6 của Đức dưới quyền Thái tử xứ Bayern tại đồi Vimy. Tuy rằng Quân đoàn dưới quyền Tướng Philippe Pétain đã chiếm được một khoảng đất thuộc tiền tuyến của quân Đức, cuộc tiến công nhìn chung là thất bại do nhiều lý do. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1915, quân Pháp phải chấm dứt tấn công mà không thể thu được thắng lợi nào đáng kể. Không những trận Artois lần thứ nhất mà cuộc tiến công của quân Pháp tại Champagne cũng không thể nào xoay chuyển thế trận. Thất bại của quân Pháp trong trận chiến Artois cũng chứng tỏ họ đã không thể hồi phục hoàn toàn sau những cuộc giao tranh khốc liệt vào mùa thu năm 1914. Song, sau thất bại này, Joffre tiếp tục tổ chức những chiến dịch tấn công dồn dập tại khu vực đó. Bối cảnh lịch sử. Sau khi tình hình bế tắc mở đầu trên Mặt trận phía Tây vào tháng 11 năm 1914, Quân đội Đức giữ thế phòng ngự tại Pháp và Bỉ.
1
null
Fairey Firefly IIM là một loại máy bay tiêm kích của Anh trong thập niên 1930. Đây là loại máy bay có cấu trúc hoàn toàn bằng kim loại, hai tầng cánh, một động cơ, một chỗ ngồi. Do hãng Fairey Aviation Company Limited chế tạo, được trang bị chủ yếu cho Không quân Bỉ từ thập niên 1930 tới khi Chiến tranh thế giới II nổ ra. Thiết kế và phát triển. Firefly là một thiết kế do công ty Fairey Aviation tự thực hiện, Marcel Lobelle là kỹ sư thiết kế chính. Đây là một thiết kế hoàn toàn mới, nó có rất ít điểm chung với loại máy bay Firefly I cùng tên. Firefly II được phát triển nhằm đáp ứng Đặc tả kỹ thuật F.20/27 của Bộ không quân Anh về một loại máy bay tiêm kích đánh chặn một chỗ. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 5 tháng 2 năm 1929. Firefly II cùng Hawker Fury tham gia một cuộc cạnh tranh giành hợp đồng cung cấp máy bay cho RAF, Firefly II có tốc độ cao nhưng lại bị chỉ trích vì hệ thống điều khiển nặng hơn Fury. Quan trọng hơn, nó vẫn tiếp tục dùng cấu trúc chủ yếu bằng gỗ dù yêu cầu của Bộ không quân là mẫu máy bay có cấu trúc bằng kim loại. Điều này dẫn đến Hawker Fury đã giành chiến thằng. Sau đó, mẫu thử Firefly II được làm lại và đổi tên thành Firefly IIM, chữ M có nghĩa là cấu trúc hoàn toàn bằng kim loại của mẫu thử làm lại. Một mẫu thử sửa lại với sải cánh dài hơn có tên gọi là Firefly III đã được chế tạo, bay lần đầu ngày 17 tháng 5 năm 1929. Mẫu Firefly III này là để đáp ứng Đặc tả kỹ thuật N21/26 về một mẫu máy bay tiêm kích trang bị cho tàu sân bay, thay thế cho loại Fairey Flycatcher. Giống như mẫu tiêm kích dành cho không quân, nó cũng được làm lại với các thành phần bằng kim loại nhiều hơn và có tên gọi Firefly IIIM, nhưng cuối cùng Firefly III cũng bị đánh bại bởi mẫu máy bay Hawker Nimrod của Hawker. Mặc dù không được đặt hàng chế tạo, nhưng Firefly IIIM được lắp phao nổi và dùng làm máy bay huấn luyện tại Phi đội tốc độ cao của RAF, chuẩn bị cho cuộc đua Schneider Trophy năm 1931. Lịch sử hoạt động. Một hợp đồng chế tạo 25 chiếc IIM đã được Không quân Bỉ ký với hãng Fairey Aviation, tiếp sau là một hợp đồng khác đặt mua 62 chiếc sẽ do Avions Fairey, một chi nhánh ở Bi của hãng Fairey Aviation thực hiện. Khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, Firefly IIM phục vụ trong quân đội Bỉ một thời gian từ tháng 5 tới tháng 6 năm 1940. 2 chiếc Firefly của Bỉ đã được chuyển đổi thành Firefly IV, trang bị động cơ 785 hp (585 kW) Hispano-Suiza 12Xbrs, nhưng hiệu quả mang lại không nhiều. 1 chiếc Firefly đã được cung cấp cho Liên Xô Tính năng kỹ chiến thuật (Firefly IIM). The Complete Book of Fighters
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 27 (tiếng Anh: "Interstate 27" hay viết tắt là I-27) là một xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang nằm hoàn toàn trong tiểu bang Texas, từ thành phố Lubbock chạy lên hướng bắc đến Xa lộ Liên tiểu bang 40 trong thành phố Amarillo. Hai thành phố này là hai thành phố duy nhất có tên trên bản chỉ dẫn lộ trình trên I-27; các thành phố và thị trấn khác được I-27 phục vụ gồm có New Deal, Abernathy, Hale Center, Plainview, Kress, Tulia, Happy, và Canyon. I-27 chính thức được đặt tên là Xa lộ Tưởng niện Marshall Formby để vinh danh cựu luật sư và Thượng nghị sĩ Tiểu bang Texas, Marshall Formby. Tuy nhiên tên này không được sử dụng rộng rải bằng tên I-27. Toàn tuyến đường của I-27 thay thế cho Quốc lộ Hoa Kỳ 87. Mô tả xa lộ. Một phần lớn lộ trình của I-27 nằm trên cựu Quốc lộ Hoa Kỳ 87, nhưng một vài đoạn đi qua các khu vực đô thị thì bị chuyển hướng để đi tránh. Cũng có hai khu vực dài hơn nơi Quốc lộ Hoa Kỳ 87 vẫn đi theo con đường cũ. Xa lộ bắt đầu tại một điểm dọc theo Quốc lộ Hoa Kỳ 87 ở phía nam khu phố chính của Lubbock. Mốc dặm 0 được cắm gần Phố số 7, khoảng 5 dãy phố ở phía nam Xa lộ vành đai 289. Bề rộng 6 làn xe bắt đầu tại lối ra 1 và giữ nguyên như vậy khi đi qua thành phố Lubbock. Các điểm kết nối và giao cắt chính trong thành phố gồm có Quốc lộ Hoa Kỳ 62/Xa lộ Tiểu bang 114 và Quốc lộ Hoa Kỳ 82. I-27 sau đó đi qua New Deal, đi tránh phần trung tâm của thị trấn ở phía tây. Tại lối ra 15, I-27 bắt đầu đi song song với đường sắt Plainview Sub. Khi xa lộ gần đến Abernathy, I-27 bẻ cong hướng tây ra khỏi tuyến đường sát Plainview Sub. Mặc dù vị trí của I-27 nằm ở phía bắc Abernathy, 1/2 dặm (1 km) phía tây của tuyến đường sắt, tất cả các nút giao thông giữa Abernathy và Hale Center, ngoại trừ một tại Lộ Nông trại đến Chợ (lối ra 24), sử dụng cấu hình tương tự là xa lộ I-27 chạy băng qua bên trên tất cả các con lộ khác. Gần đến Hale Center, I-27 quay lên đông bắc khi nó tách khỏi Lộ Nông trại đến Chợ 1424 (lối ra 36) tại một nút giao thông đơn giản. Xa lộ đi qua thành phố khoảng 1 dãy phố ở phía đông con đường cũ mà hiện nay là Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 27. Khi nó rời Hale Center, I-27 quay lên hướng đông bắc, đi theo phía tây bắc của tuyến đường sắt. Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 27 sinh ra tại lối ra 45 để đi qua Plainview trong khi đó I-27 đi về phía tây của thành phố này trên một con đường tránh. Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 27 kết thúc tại một nút giao thông nằm ở phía bắc Plainview, nơi I-27 lại bắt đầu chạy song song với đường sắt Plainview Sub về hướng tây. Sau khi rời Quốc lộ Hoa Kỳ 87, I-27 không chạy bên cạnh tuyến đường sắt nữa. US 87 lại nhập vào xa lộ cao tốc tại một nút giao thông ở phía bắc Tulia. Sau vài nút giao thông nằm cạnh đường sắt, Quốc lộ Hoa Kỳ 87 lại tách ra ở phía nam thị trấn Happy. I-27 chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 60 và 87 từ lối ra 110 ở phía bắc Canyon đến cuối đường của nó tại thành phố Amarillo.
1
null
Fairey Fox là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ/tiêm kích hai tầng cánh của Anh trong thập niên 1920 và 1930. Ban đầu được chế tạo ở Anh cho Không quân Hoàng gia (RAF), nhưng nó tiếp tục được chế tạo và sử dụng tại Bỉ một thời gian sau khi bị Anh thải loại. Thiết kế và phát triển. Fox I. Năm 1923, người thành lập và là kỹ sư trưởng của Fairey Aviation là Charles Richard Fairey, thất vọng với mẫu máy bay ném bom Fawn của mình, do những hạn chế của các đặc tả kỹ thuật của Bộ không quân, đã chậm hơn so với mẫu Airco DH.9A. Khi nhìn thấy Curtiss CR, trang bị động cơ Curtiss D-12 V-12 giành chiến thắng trong cuộc đua Schneider Trophy năm 1923, Fairey nhận thấy động cơ này sẽ rất thích hợp với một mẫu máy bay ném bom mới, ông đã mua một mẫu động cơ và giấy phép để sản xuất. Fairey bắt đầu thiết kế một máy bay ném bom quanh động cơ này, thiết kế chi tiết được thực hiện bởi một đội ban đầu do Frank Duncanson đứng đầu, về sau là Marcel Lobelle. Kết quả là mẫu máy bay Fairey Fox, đây là một máy bay hai tầng cánh với lớp cánh so le, cấu trúc làm từ gỗ và kim loại. Curtiss D-12 được đặt ở phía đầu, bộ tản nhiệt gắn ở dưới của cánh trên, bộ tản nhiệt thứ hai có thể thu gập vào được trong thân theo yêu cầu. Phi công và xạ thủ ngồi gần nhau trong buồng lái kiểu nối tiếp, xạ thủ trang bị một khẩu súng Lewis tốc độ bắn cao, được thiết kế để giảm lực cản, phi công trang bị súng máy Vickers. Máy bay có thể mang được bom nặng tới 460 lb dưới cánh, xạ thủ được trang bị kính ngắm thả bom. Mẫu thử của Fox bay lần đầu tại Hendon vào ngày 3/1/1925, nó đã thể hiện sự cơ động và khả năng điều khiển tốt. Mặc dù vậy, trong Bộ không quân có nhiều ý kiến phản đổi mẫu máy bay mới, vả lại Fox không được thiết kế theo đặc tả kỹ thuật chính thức và có một số tính năng, ví dụ như thùng nhiên liệu trong thân, đi ngược lại với tiêu chuẩn chính thức. Và quan trọng nhất, nó mang một động cơ của Mỹ. (Mặc dù Fairey đã thương lượng một giấy phép sản xuất D-12 tại Anh, nhưng cuối cùng công ty vận phải nhập 50 chiếc từ Mỹ.) Tuy nhiên, khi chứng kiếm Fox trình diễn vào ngày 28/7/1925, Đại tướng không quân Hugh Trenchard, tham mưu trưởng không quân, đã thông báo rằng "Ông Fairey, tôi đã quyết định đặt hàng một phi đoàn các máy này ", do đó một hợp đồng chính thức mua 18 chiếc Fox đã được ký kết. Fox thế hệ thứ hai. Năm 1926, Bộ không quân đã đưa ra Đặc tả kỹ thuật 12/26 về một loại máy bay ném bom hạng nhẹ mới cho Không quân Hoàng gia Anh. Lúc này, không giống như các đặc tả kỹ thuật trước đó, đặc tả kỹ thuật mới đã nhấn mạnh vào hiệu năng. Lúc đầu, Fairey đã không được thông báo về đặc tả kỹ thuật mới, và được một bản sao sau khi gửi thư phản đối lên Bộ không quân. Để đáp ứng yêu cầu này, đội của Lobelle đã thiết kế ra Fox IIM, một mẫu máy bay mới với cấu trúc kim loại theo yêu cầu của Đặc tả kỹ thuật, trang bị động cơ Rolls-Royce F.XIB (sau này đổi tên thành Rolls-Royce Kestrel). Nó bay lần đầu ngày 25/10/1929. Tuy nhiên, cuộc cạnh tranh giữa mẫu thử Hawker Hart và Avro Antelope đã diễn ra từ một năm trước, và Hart đã nhận được đơn đặt chế tạo ban đầu vào tháng 6/1929. Dù RAF không muốn Fox IIM, Fairey đã trình diễn Fox IIM cho Không quân Bỉ, lúc này Bỉ đang tìm kiếm một loại máy bay ném bom hạng nhẹ thay thế cho Breguet 19; ngoài ra Bỉ cũng đã mua các máy bay tiêm kích Fairey Firefly II từ Fairey, Fairey cũng có một công ty con tại Bỉ là Avions Fairey để chế tạo Firefly. Fox IIM đã thành công và giành một đơn đặt hàng 12 chiếc Fox II trinh sát chế tạo tại Anh, và đơn hàng khác sẽ do Avions Fairey tại Bỉ thực hiện. Lịch sử hoạt động. Fox đưa vào trang bị cho Phi đoàn 12 RAF vào tháng 6/1926. Fox đã chứng minh có hiệu suất bay ngoạn mục, nó bay nhanh hơn Fairey Fawns 50 mph (80 km/h), và bay nhanh gần với các máy bay tiêm kích mới cùng thời. Do tốc độ bay của Fox, nên Phi đoàn 12 đã được yêu cầu phải bay dưới 140 mph (225 km/h) trong cuộc tập trận phòng không hàng năm. Mặc dù vậy, RAF không trang bị Fox cho các phi đoàn khác của mình, chỉ có 28 chiếc được mua, các máy bay sau lắp động cơ Rolls-Royce Kestrel, những chiếc ban đầu lắp động cơ Curtiss về sau cũng chuyển sang lắp động cơ Kestrel. Phi đoàn 12 sau này đã chọn mặt cáo để làm phù hiệu phi đoàn, Fox hoạt động cho đến năm 1931, sau đó bị thay thế bởi Hawker Hart. Fox vẫn được dùng làm máy bay huấn luyện tạ Trường không quân Hoàng gai Cranwell đến năm 1933. 2 chiếc Fox Mk.I cỗ lỗ đã tham dự cuộc đua MacRobertson năm 1934 từ London tới Melbourne. 1 chiếc đã rơi tại Ý, làm chết phi công. Chiếc còn lại do Ray Parer (người Úc) lái, ông là một tay lái từng tham gia cuộc đua từ Anh tới Úc năm 1919. Khi Ray Parer tới Paris thì đã có thông tin về người chiến thắng cuộc đua. Dù vậy Parer và phi công phụ là Geoff Hemsworth tiếp tục cuộc hành trình và sôi động, họ phải mất gần 4 tháng mới đến Melbourne. Những chiếc Fox II đầu tiên đưa vào trang bị của Không quân Bỉ vào đầu năm 1932 trong vai trò trinh sát, với một chiến thắng trong cuộc đua vòng quanh Alp cho máy bay quân sự 2 chỗ tại hội thảo hàng không Zurich năm 1932. Fox tiếp tục được sản xuất tại Avions Fairey ở Gosselies trong thập niên 1930, tạo thành xương sống của không quân Bỉ, được sử dụng trong các nhiệm vụ trinh sát thuần túy, ném bom trinh sát và tiêm kích hai chỗ. Sau này nó được trang bị buồng lái kín và động cơ Hispano-Suiza 12Y mạnh hơn. Hơn 100 chiếc Fox vẫn thuộc các đơn vị tuyến đầu của Không quân Bỉ khi cuộc xâm lăng của Đức bắt đầu ngày ngày 10/5/1940. Dù yếu kém hoàn toàn so với các máy bay của "Luftwaffe", chúng vẫn bay 75 phi vụ và thậm chí còn bắn rơi một chiếc Messerschmitt Bf 109. Tính năng kỹ chiến thuật (Fairey Fox VIR). War Planes of the Second World War: Volume Seven Bombers and Reconnaissance Aircraft
1
null
Bãi cạn Truro (tiếng Anh: "Truro Shoal"; ; Hán-Việt: "Hiến Pháp ám sa"​) là một bãi san hô ngầm thuộc Biển Đông. Thuyền trưởng tàu "Truro", Thomas Joseph Duggan, đã đặt tên cho bãi cạn này vào sáng ngày 30 tháng 9 năm 1857 trên hải trình từ Singapore đến Hồng Kông. Đài Loan và Trung Quốc đều tuyên bố "chủ quyền" đối với bãi cạn Truro và xem thực thể địa lý này là một phần của "quần đảo Trung Sa". Philippines cho rằng bãi này thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình. Bãi cạn Truro nằm riêng biệt ở phía tây bắc của bãi cạn Scarborough và cách bãi cạn Pygmy (tiếng Anh: "Pygmy Shoal") thuộc bãi Macclesfield khoảng 110 hải lý (204 km) về phía đông. Bãi này sâu 18,2 m.
1
null
Rockstar New England, tiền thân là Mad Doc Software là một công ty phát triển trò chơi máy tính do Tiến sĩ Ian Lane Davis thành lập vào năm 1999. Công ty có trụ sở tại New England ở Andover, Massachusetts, phía bắc Boston, Mỹ. Tổng quan. Mad Doc Software ban đầu được thành lập bởi Tiến sĩ Ian Lane Davis, một chuyên gia về trí tuệ nhân tạo. Công ty kết hợp với kết nối mạng, đồ họa, và công nghệ AI vào các trò chơi của họ ("Empire Earth II" sử dụng Engine Mad Doc’s Mad3D và công nghệ MadAI). Lịch sử. Mad Doc Software. Tiến sĩ Davis bắt đầu thành lập Mad Doc Software ở Andover vào năm 1999 ngay trước khi di chuyển tới Lawrence một năm sau đó. Năm 2001, Mad Doc hoàn thành trò "" cho hãng Activision, thêm vào tính năng chơi 3D, AI nâng cao và các tính năng khác. Nhóm Mac Doc cũng cung cấp một game đánh golf thuộc thể loại platform không dây cho điện thoại di động JAMDAT, cũng như thiết kế AI cho phần tiếp theo của trò chơi máy tính từ một nhà xuất bản phần mềm lớn. Vào tháng 3 năm 2002, Mad Doc đã hoàn thành tựa game mô phỏng phi đội thời Thế chiến thứ II mang tên "Jane's Attack Squadron". Vào mùa thu năm 2002, công ty phát hành tựa game "", bản mở rộng chính thức của "Empire Earth" thay cho Sierra Entertainment. Tháng 11 năm 2003, Microsoft Game Studios cho phát hành tựa game "". Mad Doc đã phát triển một bản mở rộng cho "Dungeon Siege" có thêm nhiều tính năng mới và AI cải tiến. Công ty đã lọt vào vòng chung kết cho giải thưởng "Trò chơi nhập vai máy tính của năm" (Computer Role Playing Game of the Year) từ Viện Nghệ thuật và Khoa học Tương tác là nhờ bản mở rộng này. Kế đến vào mùa xuân năm 2005, cho công ty phát hành "Empire Earth II". Họ bổ sung thêm nhiều tính năng mới bao gồm AI cải tiến hiện thực môi trường được tăng cường, nhiều chế độ chơi mới và cải thiện hệ thống quản lý. Game đã giành được giải thưởng Sự lựa chọn của biên tập viên PC Gamer (PC Gamer Editor's Choice Award) và một điểm số đánh giá 94%. PC Gamer nói rằng game là "Vị vua mới của thể loại chiến lược thời gian thực". "", với sự pha trộn lời nhận xét trung bình dành cho bản Xbox 360 và sự tiêu cực nhận được cho bản máy tính. Tựa game "Empire Earth III" của công ty đã là chủ đề của nhiều lời phê bình khắc nghiệt cũng như dấu chấm hết cho dòng game này, như GameSpot nói, ""Empire Earth III" đã lặng xuống điểm không thích hợp". Mad Doc ngay lập tức loại bỏ "Empire Earth III" từ danh sách game trên trang web của họ và bất kỳ dấu vết nào của nó. Mad Doc là hãng đã tạo ra một hệ thống hàng hải xuyên quốc gia tự trị cho Bộ Quốc phòng Mỹ. Mad Doc còn ký hợp đồng hợp tác với Propaganda Games và Threewave Software trong việc thiết kế bản đồ khác nhau cho tựa game năm 2008 "Turok". Ngoài ra, Mad Doc còn chuyển thể trò "Bully" của hãng Rockstar Vancouver sang hệ máy Xbox 360 (bản chuyển thể sang Wii do Rockstar Toronto thực hiện) dưới hình thức của bản "". Rockstar New England. Ngày 4 tháng 4 năm 2008, Rockstar Games thông báo rằng họ đã mua lại studio và đổi tên nó là Rockstar New England. Kể từ khi mua lại, New England chủ yếu để giúp đỡ, hỗ trợ cho tất cả các studio của Rockstar và các tựa game tương ứng của họ. Studio đã bắt tay vào làm việc dưới tên gọi riêng của họ kể từ đó. Giải thưởng. Khi còn là Mad Doc Software:
1
null
New Ireland (Tok Pisin: "Niu Ailan") là một hòn đảo lớn tại Papua New Guinea, với diện tích xấp xỉ 7.404 km². Đây là hòn đảo lớn nhất của tỉnh New Ireland, nằm ở đông bắc của đảo New Britain. Cả hai đảo đều là một bộ phận của quần đảo Bismarck, được đặt theo tên của Thủ tướng Otto von Bismarck, và tách biệt nhau qua qua eo biển Saint George's. Trung tâm hành chính của đảo và của cả tỉnh New Ireland là thị trấn Kavieng nằm ở cực bắc của đảo. Khi đảo còn là một phần của New Guinea thuộc Đức, nó có tên gọi là Neumecklenburg ("Mecklenburg" Mới). Hòn đảo là một phần của quần đảo Bismarck và thường được mô tả là có hình dạng của một súng hỏa mai. Nhiều phần trong 360 km chiều dài, chiều rộng của hòn đảo dao động từ nhỏ hơn 10 km đến 40 km, nhưng phần xương sống đồi núi trung tâm đảo rất dốc và gồ ghề. Đỉnh cao nhất của hòn đảo là núi Taron thuộc dãy Hans Meyer (2.379 mét). Các dãy núi khác trên đảo là Tirpitz, Schleinitz, Verron và Rossel. Hòn đảo nằm từ 2-5 độ vĩ Nam bên dưới đường xích đạo. Đảo vốn được bao phủ chủ yếu bởi những cánh rừng nhiệt đới rậm rạp. New Ireland có biển Bismarck bao quanh ở phía tây nam và Thái Bình Dương nằm ở phía đông bắc.
1
null
Đảo Manus là một phần tỉnh Manus tại bắc Papua New Guinea và là đảo lớn nhất quần đảo Admiralty. Đây là đảo lớn thứ năm Papua New Guinea, với diện tích , . Theo thống kê 2000, toàn tỉnh Manus có dân số 43.387 người, tăng lên 50.321 . Lorengau, tỉnh lỵ tỉnh Manus, nằm trên đảo này. Sân bay Momote nằm trên đảo Los Negros gần đó. Có một cây cầu nối đảo Los Negros với đảo Manus. Ngoài dân định cư, người tị nạn cũng được đưa đến đây từ Úc trong khoảng 2001-2004 và từ năm 2012. Đảo Manus phủ rừng rậm rạp, nói chung là rừng mưa nhiệt đới đất thấp. Điểm cao nhất nơi đây là đỉnh núi Dremsel trên mực nước biển. Đây gốc là một đảo núi lửa, có lẽ trồi lên mặt biển vào cuối thế Miocen, 8-10 triệu năm trước. Đất nền trên đảo hoặc đất núi lửa hoặc là vôi từ san hô. Manus là nơi cư ngụ của "Papustyla pulcherrima", một loài ốc sên vỏ xanh bị đem bán làm trang sức; hoạt động này vẫn tiếp tục, dù ở mức thấp hơn; do đây là loài bị đe dọa, việc buôn bán là bất hợp pháp. Ngày 20 tháng 9, 2018, "The Australian" tuyên bố rằng Úc và Papua New Guinea đang thảo luận việc hỗ trợ cảng biển cho quân đội Hoàng gia Úc (RAN) trên đảo Manus.
1
null
Quần đảo Admiralty là một nhóm gồm mười tám đảo thuộc quần đảo Bismarck, ở phía bắc đảo New Guinea tại Nam Thái Bình Dương. Nhóm đảo này đôi khi cũng được gọi là quần đảo Manus theo tên hòn đảo lớn nhất. Những khu rừng mưa nhiệt đới bao phủ các hòn đảo trong nhóm. Quần đảo là một phần của tỉnh Manus, tỉnh nhỏ nhất và ít cư dân nhất tại Papua New Guinea. Tổng diện tích của quần đảo là . Nhiều hòn "đảo" trong nhóm là rạn san hô vòng và không có người cư trú. Các đảo lớn nhất nằm ở trung tâm của nhóm đảo, gồm đảo Manus và đảo Los Negros. Các hòn đảo lớn khác là Tong, Pak, Rambutyo, Lou, và Baluan ở phía đông, Mbuke ở phía nam và Bipi ở phía tây của đảo Manus. Các đảo khác có ý nghĩa trong lịch sử của Manus bao gồm Ndrova, Pitylu và Ponam. Nhiệt độ của quần đảo Admiralty chỉ biến đổi tương đối nhỏ trong suốt cả năm, nhiệt độ ban ngày cao đến và vào ban đêm. Lượng mưa trung bình hàng năm là và có phần theo mùa, với tháng 6-tháng 8 là những tháng ẩm ướt nhất. Manus có cao độ lớn nhất là và có nguồn gốc núi lửa và có thể đã nổi lên trên mặt biển từ cuối thế Miocen, 8–10 năm trước. Nền đất của các đảo được hình thành trực tiếp từ núi lửa hoặc từ các đá vôi san hô được nâng cao lên. Đô thị chính của quần đảo là Lorengau trên đảo Manus, được kết nối bằng đường bộ đến một sân bay trên đảo Los Negros, và có thể vận chuyển quanh các đảo bằng thuyền. Có rất ít hoạt động du lịch tại quần đảo mặc dù biển ở đây có sức thu hút đối với các thợ lặn, Jean-Michel Cousteau đã dành thời gian tại đảo Wuvulu lân cận vào thập niên 1970.
1
null
Bougainville là đảo chính của Khu tự trị Bougainville tại Papua New Guinea. Khu vực này cũng được biết đến với tên gọi tỉnh Bougainville hay Bắc Solomon. Dân số của khu tự trị là 175.160 (2000), trong đó bao gồm cả đảo Buka và các đảo xa xôi như Carteret. Mặc dù đảo Bougainville về mặt địa lý là một bộ phận của quần đảo Solomon, song đảo không thuộc nước Quần đảo Solomon. Lịch sử. Những con người đầu tiên đã định cư tại Bougainville từ khoảng 28.000 năm trước từ đảo New Ireland. Ba đến bốn nghìn năm trước, người Nam Đảo đã đến, họ đã mang đến các giống lợn, gà, chó đã được thuần hóa và các công cụ lao động. Người châu Âu đầu tiên tiếp xúc với Bougainville là vào năm 1768, khi nhà thám hiểm người Pháp Louis de Bougainville đến, và hòn đảo chính đã được đặt theo tên ông ta. Đế quốc Đức đã tuyên bố chủ quyền với Bougainville vào năm 1899, sáp nhập đảo vào New Guinea thuộc Đức. Ki-tô giáo đã truyền đến đảo vào năm 1902. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ 1, Úc đã xâm chiếm New Guinea thuộc Đức, bao gồm cả Bougainville, và sau đó quản lý lãnh thổ này với vị thế được Hội Quốc Liên ủy trị. Năm 1942, trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã xâm chiếm đảo, song nó đã lại về tay người Úc vào năm 1946. Bougainville trở thành một bộ phận của nước Papua New Guinea độc lập vào năm 1975. Tuy vậy, sau đó một cuộc nổi chiến đã nổ ra, và Bougainville đã hai lần tuyên bố độc lập, một lần vào năm 1975 và một lần vào năm 1990. Một cuộc đàm phán hòa bình do New Zealand làm trung gian đã bắt đầu vào năm 1997, dẫn đến một chế độ tự trị cho hòn đảo. Địa lý. Bougainville là đảo lớn nhất của quần đảo Solomon. Đảo thuộc vùng sinh thái rừng mưa nhiệt đới quần đảo Solomon. Bougainville và hòn đảo Buka lân cận là một lục địa bị tách biệt với nhau bởi một eo biển rộng 300 mét. Hòn đảo có diện tích 9000 km², và có một số núi lửa hoạt động, ngủ hoặc không còn hoạt động cao tới 2400m. Núi Bagana ở phần bắc-trung của Bougainville vẫn còn hoạt động một cách rõ ràng, từ nhiều km cũng có thể nhìn thấy nó đáng phun khói. Động đất xảy ra thường xuyên, song chỉ gây thiệt hại nhỏ. Nhân khẩu. Phần lớn cư dân trên đảo Bougainville là tín hữu Ki-tô giáo, ước tính 70% lá theo Công giáo Rôma và một thiểu số đáng kể theo là Hột Liên hiệp Ki-tô giáo Papua New Guinea từ năm 1975. Rất ít các cư dân phi bản địa còn ở lại do các cuộc nội chiến. Ngôn ngữ. Có một số ngôn ngữ bản địa được sử dụng tại tỉnh Bougainville. Chúng thuộc cả Ngữ hệ Nam Đảo và Nhõm ngôn ngữ Papua. Ngôn ngữ Nam Đảo được sử dụng rộng rãi nhất là tiếng Halia cùng các phương ngữ của nó, được sử dụng trên đảo Buka và bán đảo Selau ở Bắc Bougainville. Các ngôn ngữ Nam Đảo khác gồm có Nehan, Petats, Solos, Saposa/Taiof, Hahon và Tinputz, tất cả được nói ở một phần tư phía bắc của Bougainville, Buka và các đảo xung quanh. Các ngôn ngữ này có quan hệ gần gũi. Banoni và Torau là các ngôn ngữ Nam Đảo không có quan hệ gần gũi với các ngôn ngữ đã kể ở trên, chúng được nói tại các vùng ven biển ở trung và nam Bougainville. Tại các đảo san hô vòng lân cận như quần đảo Mortlock, có một ngôn ngữ Polynesia. Nhóm ngôn ngữ Papuan bị giới hạn tại đảo chính Bougainville. Các ngôn ngữ thuộc nhóm này bao gồm tiếng Rotokas, một ngôn ngữ với một vốn âm vị rất nhỏ, Eivo, Telei (Buin), Keriaka, Nasioi (Kieta), Nagovisi, Korokoro Motuna (Siwai), Baitsi (đôi khi được coi là một phương ngữ của tiếng Korokoro Motuna) Uisai (đôi khi được coi là một phương ngữ của tiếng Telei) và các ngôn ngữ khác. Chúng tạo thành các nhõm ngôn ngữ Bắc Bougainville và Nam Bougainville. Không một ngôn ngữ nào được trên 20% dân cư nói, và các ngôn ngữ lớn là Nasioi, Korokoro Motuna, Telei, và Halia lại được phân thành các phương ngữ và không phải là luôn có thể hiểu lẫn nhau. Để trao đổi, hầu hết người Bougainville sử dụng Tok Pisin như một ngôn ngữ chung, và ít nhất tại khu vực ven biển, Tok Pisin thường được dạy cho trẻ em trong một môi trường song ngữ. Tiếng Anh và Tok Pisin là các ngôn ngữ thương mại và hành chính chính thức.
1
null
Khu tự trị Bougainville, trước đây gọi là "Bắc Solomon", là một đơn vị hành chính tại Papua New Guinea. Hòn đảo lớn nhất là Bougainville (cũng là đảo lớn nhất của quần đảo Solomon), ngoài ra, khu tự trị cũng bao gồm các đảo Buka và các đảo xa xôi như quần đảo Carteret. Tỉnh lị lâm thời đặt tại Buka, mặc dù dự kiến thì Arawa sẽ lại trở thành tỉnh lị. Dân số trong khu tự trị là 175.160 người (điều tra năm 2000). Đảo Bougainville về mặt sinh thái và địa lý là một phần của quần đảo Solomon. Buka, Bougainville, và hầu hết các đảo trong quần đảo Solomon là một phần của vùng sinh thái rừng mưa quần đảo Solomon. Lịch sử. Hòn đảo được đặt tên theo nhà thám hiểm người Pháp Louis Antoine de Bougainville. Năm 1885, đảo nằm dưới quyền quản lý của người Đức và là một phần của New Guinea thuộc Đức. Úc chiếm đảo vào năm 1914 và từ đó kiểm soát đảo do được Hội Quốc Liên ủy trị, quyền quản lý của Úc tạm gián đoạn vào năm 1942 khi các đảo bị Nhật Bản xâm chiếm và được tái khôi phục vào năm 1945 cho đến khi Papua New Guinea độc lập vào năm 1975. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các đảo từng bị các lực lượng Úc, Nhật Bản và Hoa Kỳ chiếm đóng. Đây là một căn cứ quan trọng của Không quân Hoàng gia New Zealand, Đội Không quân Lục quân Hoa Kỳ và Không quan Hoàng gia Úc. Vào ngày 8 tháng 3 năm 1944, trong Thế chiến thứ 2, quân đội Hoa Kỳ đã bị quân Nhật tấn công tại Đồi 700 trên hòn đảo chính. Trận đấu kết thúc với việc Nhật Bản rút lui. Đảo Bougainville giàu trữ lượng về đồng và vàng. Một mỏ lớn đã được hình thành tại Panguna vào đầu thập niên 1970 bởi Bougainville Copper Limited, một chi nhánh của Rio Tinto. Tranh cãi về tác động với môi trường, lợi ích về tài chính và thay đổi xã hội bởi việc khai mỏ đã làm hồi phục một phong trào ly khai từ thập niên 1970. Các nhóm ly khai đã tuyên bố sự độc lập của Bougainville (Cộng hòa Bắc Solomon) vào các năm 1975 và 1990. Năm 1988, Quân đội Cách mạng Bougainville (BRA) đã tăng cường đáng kể các hoạt động của họ. Thủ tướng Rabbie Namaliu đã ra lệnh cho Lực lượng Quốc phòng Papua New Guinea dập tắt cuộc nổi dậy, và xung đột leo thang thành nội chiến. Quân đội TW đã rút lui khỏi các vị trí cố định tại Bougainville vào năm 1990, song vẫn tiếp tục các hoạt động quân sự. Cuộc chiến này được tuyên bố là đã lấy đi từ 15.000 đến 20.000 sinh mạng. Năm 1996, Thủ tướng Julius Chan đã yêu cầu sự giúp đỡ của Sandline International, một công ty quân sự tư nhân từng tham gia trong việc cung cấp lính đánh thuê trong cuộc nội chiến ở Sierra Leone trước đó, nhằm dập tắt cuộc nổi dậy. Điều này đã dẫn đến vấn đề Sandline. Hiệp định hòa bình và tự trị. Cuộc xung đột kết thúc vào năm 1997, sau các cuộc đàm phán do New Zealand làm trung gian. Một thỏa thuận hòa bình được hoàn tất vào năm 2000 và giải trừ vũ khí tạo tiền đề cho việc thành lập chính phủ Bougainville tự trị, và cho một cuộc trưng cầu dân ý trong tương lai về việc có nên độc lập hay không. Cuộc bầu cử để thành lập chính phủ tự trị đã được tổ chức vào tháng 5 và tháng 6 năm 2005, Joseph Kabui được bầu làm Thống đốc. Ông qua đời vào ngày 6 tháng 6 năm 2008. Ngày 25 tháng 7 năm 2005, lãnh đạo phiến quân Francis Ona đã chết vì bệnh tật. Một nhân viên trước đây của Bougainville Copper Limited, Ona, là một nhân vật chủ chốt trong cuộc xung đột ly khai đã từ chối chính thức tham gia tiến trình hòa bình. Các huyện. Mỗi huyện tại Bougainville có một hoặc hơn một huyện, mỗi huyện có một hoặc hơn một khu vực chính quyền cấp địa phương (LLG). Để phục vụ cho mục đích điều tra, các khu vực chính quyền địa phương được chia thành các phân khu.
1
null
Các tỉnh của Papua New Guinea là các đơn vị hành chính cấp một của quốc gia này. Các chính quyền cấp tỉnh là một nhánh của chính quyền Trung ương Papua New Guinea. Quốc gia này có 22 đơn vị cấp tỉnh: 20 tỉnh, một khu tự trị (Bougainville) và thủ đô Port Moresby. Nghị viện Papua New Guinea vào năm 2009 đã phê chuẩn việc thành lập thêm hai tỉnh vào năm 2012: Hela, bao gồm các phần của tỉnh Cao Nguyên Phía Nam, và Jiwaka, được tạo thành từ việc phân chia tỉnh Cao nguyên Phía Tây. Hai tỉnh chính thức hình thành vào ngày 17 tháng 5 năm 2012. Trên phạm vi rộng hơn, Papua New Guinea được chia thành bốn vùng. Các nhóm khu vực này là khá quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, vì nó là cơ sở cho các tổ chức hoạt động của chính phủ, các công ty, thi dấu thể thao, và mục đích chính trị.
1
null
Tỉnh Trung ương (tiếng Anh: "Central Province") là một đơn vị hành chính tại Papua New Guinea, nằm trên bờ biển phía nam của đất nước. Theo điều tra năm 2000, tỉnh có 183.983 cư dân và có diện tích . Nơi đặt trụ sở của tỉnh là Konedobu, thuộc ngoại ô thủ đô Port Moresby. Ngày 9 tháng 10 năm 2007, chính quyền tỉnh Trung ương đã loan báo kế hoạch xây dựng một tỉnh lị mới tại Bautama, cũng gần Port Moresby, mặc dù vậy việc xây dựng có ít tiến triển. Trong khi Tok Pisin là ngôn ngữ chung tại tất cả các đô thị của Papua New Guinea, thì tại vùng bờ biển phía nam và nhất là tại tỉnh Trung ương, Hiri Motu là ngôn ngữ chung phổ biến hơn.
1
null
Simbu, chính tả chính thức là Chimbu, là một tỉnh thuộc Vùng Cao Nguyên của Papua New Guinea. Tỉnh có diện tích 6.100 km² và dân số theo điều tra năm 2000 là 259.703 người. Tỉnh lị của Simbu là Kundiawa. Núi Wilhelm là núi cao nhất tại Papua New Guinea, nằm trên ranh giới của Simbu. Đây là một tỉnh miền núi với địa hình gồ ghề, kinh tế chậm phát triển.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 29 (tiếng Anh: "Interstate 29" hay viết tắt là I-29) là một xa lộ liên tiểu bang tại Trung Tây Hoa Kỳ. I-29 chạy từ một điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 35 và Xa lộ Liên tiểu bang 70 trong thành phố Kansas City, Missouri đến biên giới Canada gần Pembina, North Dakota. Tại nơi đây nó kết nối với Xa lộ Manitoba 75 qua ngã xa lộ ngắn là Xa lộ Manitoba 29. Mô tả xa lộ. Missouri. Gần đầu phía nam của nó, I-29 chạy trùng với Xa lộ Liên tiểu bang 35 và Quốc lộ Hoa Kỳ 71. Xa lộ liên tiểu bang tách khỏi Quốc lộ Hoa Kỳ 71 ngay phía bắc St. Joseph và theo một hành lang ít người dọc theo Sông Missouri đến thành phố Council Bluffs. Trong giai đoạn thiết kế xa lộ, có một lựa chọn là đưa lộ trình của nó xa hơn dọc theo Quốc lộ Hoa Kỳ 71 qua các thị trấn lớn hơn là Maryville, Missouri và Clarinda, Iowa. Trong thời gian có cơn lụt lớn năm 1993, Sông Missouri làm ngập lụt đoạn này và lưu thông được đổi đường đến Quốc lộ Hoa Kỳ 71 qua Maryville và Clarinda. Hầu như cả đường của I-29 tại tiểu bang Missouri nằm trong vùng có tên gọi là "Platte Purchase" (có nghĩa vùng đất mua Platte) mà nguyên thủy không phải là một phần đất của tiểu bang Missouri khi tiểu bang này gia nhập liên bang. Iowa. Xa lộ Liên tiểu bang 29 bắt đầu tại tiểu bang Iowa gần thành phố Hamburg. Nó đi theo hướng tây bắc đến nút giao thông lập thể với Xa lộ Iowa 2, rồi đi hướng bắc cho đến Council Bluffs. Tại Council Bluffs, nó chạy trùng với Xa lộ Liên tiểu bang 80. Nó uốn lượn lộ trình của nó dọc theo rìa phía tây và phía bắc của Council Bluffs sau khi rời I-80. Phía bắc Council Bluffs, I-29 chạy trùng với Xa lộ Liên tiểu bang 680 giữa lối ra 61 và 71. Sau khi Xa lộ Liên tiểu bang 680 tách ra, I-29 tiếp tục hướng tây bắc đến thành phố Sioux City. Tại Sioux City, Xa lộ Liên tiểu bang 129 tách nhánh từ I-29 để đi về phía tây đến South Sioux City, Nebraska. Sau khi tiếp tục đi về phố chính của Sioux City theo hướng bắc, I-29 quay hướng tây và đi vào tiểu bang South Dakota. South Dakota. Xa lộ Liên tiểu bang 29 đi vào tiểu bang South Dakota tại North Sioux City bằng cầu bắt qua Sông Big Sioux. Nó chạy hướng tây bắc cho đến nút giao thông lập thể giữa nó và Xa lộ Nam Dakota 50 gần Vermillion là nơi nó quay lên hướng bắc. Lộ trình của nó đi theo hướng bắc cho đến khi gần đến Sioux Falls. Tại vùng Sioux Falls, I-29 phục vụ phần phía tây của thành phố Sioux Falls trong khi I-229 tách nhánh ra từ nó và phục vụ phía đông thành phố Sioux Falls. Tại tây bắc Sioux Falls, I-29 gặp Xa lộ Liên tiểu bang 90. Sau đó, nó tiếp tục đi hướng bắc qua Brookings và một điểm giao cắt với Quốc lộ Hoa Kỳ 14. Tại điểm giao cắt với Xa lộ Nam Dakota 28, I-29 quay hướng tây bắc về phía Watertown. Sau khi qua Watertown, xa lộ tiếp tục đi hướng bắc và qua một điểm giao cắt với Quốc lộ Hoa Kỳ 12 trước khi đi vào tiểu bang North Dakota. North Dakota. Xa lộ Liên tiểu bang 29 đi vào North Dakota từ phía nam gần Hankinson. Tại thành phố Fargo, nó gặp Xa lộ Liên tiểu bang 94 và tiếp tục hướng bắc dọc theo Sông Red về phía Grand Forks. Tại điểm đầu phía bắc, I-29 đi vào Canada và trở thành Xa lộ Manitoba 29, một xa lộ kết nối ngắn (0,3 dặm) dẫn đến Xa lộ Manitoba 75 để đi đến thành phố Winnipeg của tỉnh bang Manitoba. Lịch sử. Đoạn đường từ thành phố Fargo, North Dakota đến biên giới Canada ban đầu được dự định đặt tên là Xa lộ Liên tiểu bang 31 năm 1957 chớ không phải là I-29 như ngày nay. Ban đầu không có xa lộ cao tốc nào được dự tính xây dựng ở phía nam thành phố Fargo. Tuy nhiên, dần dần có quyết định vào năm 1958 xây xa lộ cao tốc để nối I-29 và I-31 giữa thành phố Sioux Falls và thành phố Fargo. Toàn bộ xa lộ cao tốc này sau đó được hoàn thành và đặt tên là I-29.
1
null
Tanganyika, sau đó chính thức là Cộng hòa Tanganyika, từng là một quốc gia có chủ quyền tại Đông Phi từ năm 1961 đến 1964. Quốc gia này nằm giữa Ấn Độ Dương và các Hồ Lớn châu Phi như hồ Victoria, hồ Malawi và hồ Tanganyika. Quốc gia này giành được độc lập từ Anh Quốc và trở thành một thịnh vượng chung vào ngày 9 tháng 12 năm 1961, rồi trở thành một nước cộng hòa trong Vương quốc Khối thịnh vượng chung đúng một năm sau đó vào ngày 9 tháng 12 năm 1962. Ngày 26 tháng 4 năm 1964, Tanganyika cùng với quốc đảo Zanzibar hình thành nên "Cộng hòa Liên hiệp Tanganyika và Zanzibar", nhà nước mới này đổi tên thành "Cộng hòa Liên hiệp Tanzania" trong vòng một năm. Tanganyika ban đầu bao gồm phần thuộc Anh của thuộc địa Đông Phi thuộc Đức theo ủy thác của Hội Quốc Liên vào năm 1922, sau đó trở thành một Lãnh thổ ủy thác Liên Hợp Quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các phần khác của Đông Phi thuộc Đức được ủy thác cho Bỉ, cuối cùng trở thành hai nước Rwanda và Burundi ngày nay.
1
null
Trong lượng giác, Định lý cos (hay công thức cosine, luật cosine hoặc Định lý al-Kashi) biểu diễn sự liên quan giữa chiều dài của các cạnh của một tam giác với cosin của góc tương ứng. Sử dụng các kí hiệu trong Hình 1, ta có thể phát biểu định lý cos dưới dạng công thức như sau: Định lý cos được biểu diễn tương tự cho hai cạnh còn lại: Định lý cos là trường hợp tổng quát của định lý Pythagoras khi mà định lý này chỉ đúng trong tam giác vuông, khi mà góc "γ" là một góc vuông, từ đó dẫn tới formula_4 và khiến cho định lý cos suy biến trở thành định lý Pythagoras: formula_5 Định lý này được sử dụng để tính một cạnh chưa biết của tam giác - khi biết được hai cạnh còn lại và góc đối cạnh đó. Ứng dụng. Định lý cos được dùng trong phép đạc tam giác để giải một tam giác hoặc một đường tròn. Ví dụ trong Hình 3, định lý cos được dùng để tìm: Công thức thứ ba có được nhờ giải phương trình bậc hai với ẩn "a". Phương trình này có hai nghiệm dương nếu một nghiệm dương nếu hoặc "c" = "b" sin "γ", và vô nghiệm nếu Chứng minh. Sử dụng công thức tính khoảng cách. Trong hệ tọa độ Descartes, cho tam giác "ABC" có ba cạnh "a", "b", "c" và "γ" là góc đối diện cạnh "c" với tọa độ ba đỉnh lần lượt là Sử dụng công thức tính khoảng cách, ta có do đó Công thức này sử dụng được cả trường hợp tam giác nhọn và tam giác tù. Sử dụng công thức lượng giác. Hạ đường cao tương ứng với cạnh "c" như hình 4 ta có (Công thức trên vẫn đúng nếu "α" hoặc "β" là góc tù, khi đó đường cao nằm ngoài tam giác và cos α hoặc cos β mang dấu âm). Nhân hai vế với "c" ta được Tương tự ta có Cộng vế theo vế hai phương trình sau ta có Trừ vế theo vế phương trình đầu ta có đơn giản còn Sử dụng định lý Pytago. Trường hợp tam giác tù. Euclid chứng minh đinh lý bằng cách áp dụng Định lý Pytago cho hai tam giác vuông trong Hình 5. Đặt "CH" = "d" và "BH" = "h", trong tam giác "AHB" ta có và trong tam giác "CHB" ta có Khai triển đa thức phương trình đầu tiên: thế phương trình thứ hai vào: Đây là mệnh đề 12 của Euclid trong tập 2 của bộ "Cơ sở". Chú ý rằng Trường hợp tam giác nhọn. Được chứng minh trong mệnh đề 13 của Euclid ngay sau mệnh đề 12: ông áp dụng Định lý Pytago cho hai tam giác vuông có được bằng cách kẻ đường cao tương ứng với một trong hai cạnh kề góc "γ" và đơn giản bằng nhị thức. Cách khác trong trường hợp tam giác nhọn. Dựa vào Hình 6 ta có: với lưu ý rằng Cũng từ Hình 6 ta có: Công thức này được dùng để tính một góc khi biết hai cạnh và góc xen giữa hai cạnh đó. Sử dụng định lý Ptolemy. Vẽ đường tròn ngoại tiếp tam giác "ABC". Dựng tam giác "ABD" bằng tam giác "ABC" với "AD" = "BC" và "BD" = "AC". Hạ đường cao từ "D" và "C", cắt "AB" lần lượt tại "E" và "F". Ta có: Áp dụng định lý Ptolemy cho tứ giác nội tiếp "ABCD": Trong tam giác cân. Trong tam giác cân, do formula_29 nên formula_30, định lí cos trở thành: hay Sự tương đồng trong hình tứ diện. Cho một tứ diện với "α", "β", "γ", "δ" là diện tích bốn mặt của tứ diện đó. Ký hiệu các góc nhị diện là formula_33 và tương tự, ta có
1
null
Trong lượng giác, định lý tan biểu diễn mối liên quan giữa chiều dài hai cạnh của một tam giác và tan của hai góc đối diện với hai cạnh đó. Với các ký hiệu trong hình bên, định lý tan được biểu diễn: Chứng minh định lý tan dựa vào định lý sin:. Đặt ta có Do đó Dùng công thức lượng giác ta có Hoặc có thể chứng minh theo cách khác bằng công thức sau (xem công thức tang góc chia đôi). Ứng dụng. Từ công thức ta tính được formula_10 nếu biết hai cạnh "a", "b" của một tam giác và góc xen giữa formula_11 hai cạnh đó. Biết formula_12 ta tính được formula_13 và formula_14. Cạnh thứ ba formula_15 có thể tính bằng Định lý sin.
1
null
Trong lượng giác, công thức Mollweide, hay phương trình Mollweide, được đặt tên theo Karl Mollweide, biểu diễn mối quan hệ giữa các cạnh và các góc trong một tam giác. Nó được dùng để kiểm tra lời giải của một bài toán giải tam giác. Với các ký hiệu như hình 1, công thức Mollweide được biểu diễn và Công thức Mollweide sử dụng tất cả sáu tham số của một tam giác - ba cạnh và ba góc của nó.
1
null
Trong lượng giác, định lý cotang biểu diễn mối quan hệ giữa các cạnh, các góc của một tam giác và bán kính đường tròn nội tiếp của tam giác đó. Định lý cotang phát biểu rằng, nếu biết: là bán kính đường tròn nội tiếp và là nửa chu vi của tam giác thì: Điều đó dẫn tới
1
null
Chế độ tam hùng lần thứ hai (tiếng La tinh: "Secundus Triumviratus" hoặc "Alter Triumviratus") là tên do các sử gia đặt cho liên minh chính trị chính thức của Octavian (sau này được gọi là Augustus), Marcus Aemilius Lepidus, và Mark Antony, được hình thành ngày 26 tháng 11, 43 TCN với việc ban hành Lex Titia, đạo luật đặt dấu chấm hết cho Cộng hòa La Mã. Chế độ tam hùng này tồn tại trong 2 nhiệm kỳ 5 năm, từ 43 TCN - 33 TCN. Không giống như Chế độ tam hùng lần thứ 1 thành lập trước đó, Chể độ tam hùng lần thứ hai là một thể chế hợp pháp và chính thức đã được hội nghị công dân La Mã phê chuẩn. Quyền lực không thể lấn át của tam hùng đã vượt qua bất kỳ vị quan nào khác, kể cả quan chấp chính tối cao.
1
null
Liên minh tam hùng lần thứ 1 (tiếng La tinh: "Primus triumviratus") là một liên minh chính trị được thành lập bởi Gaius Julius Caesar, Marcus Licinius Crassus và Gnaeus Pompeius Magnus. Khác với Liên minh tam hùng lần thứ 2, Liên minh tam hùng lần thứ 1 không hề có địa vị chính thức; ảnh hưởng của nó trong Cộng hòa La Mã cũng là không chính thức. Thực tế, liên minh này được giữ bí mật để phục vụ cho các mưu mô chính trị của tam hùng. Liên minh này được tạo lập năm 59 TCN và tồn tại cho đến khi Marcus Licinius Crassus mất năm 53 TCN.
1
null
Sông Rubicon (Latin: "Rubicō", Italian: "Rubicone") là một con sông cạn ở phía bắc Ý, dài khoảng 80 km, chạy từ núi Apennine đến biển Adriatic đi qua phía nam của vùng Emilia-Romagna, giữa 2 thành phố Rimini và Cesena. Từ Latin "rubico" bắt nguồn từ tính từ "rubeus" có nghĩa là "đỏ". Con sông có tên như thế vì nó có màu đỏ của phù sa bồi lắng. Nó như một yết hầu che chở cho thành Rome khỏi các cuộc nội chiến. Thành ngữ trong tiếng Anh "Crossing the Rubicon" ("nghĩa đen": băng qua Rubicon; "nghĩa bóng" - tạm dịch: phóng lao phải theo lao) có nghĩa là đi qua nơi không thể quay đầu lại và nó còn ám chỉ việc Julius Caesar cho quân đội của mình băng qua Rubicon để tiến đánh thành Rome năm 49 TCN, đó được xem như là một hành động nổi dậy.
1
null
Sir Georg Solti (21 tháng 10 năm 1912 - 5 tháng 9 năm 1997) là một nhạc trưởng dàn nhạc và opera nổi tiếng. Sir Georg Solti là người đoạt nhiều giải Grammy nhất từ trước đến giờ, ông đã thắng 31 giải. Ông đã có tổng cộng 74 đề cử Grammy trong sự nghiệp của mình. Ông là một trong những nhạc trưởng lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 và là biểu tượng hàng đầu của nền văn hoá châu Âu và Mĩ. Georg Solti đã có bản ghi âm đầu tiên là với hãng Decca vào năm 1947, với tư cách là nghệ sĩ piano (cùng với nghệ sĩ violin người Đức Georg Kulenkampff chơi Violin Sonata của Brahms, Mozart và Beethoven) và với tư cách chỉ huy dàn nhạc là với Zurich Tonhalle Orchestra (Egmont Overture của Beethoven). Ông tiếp tục ghi âm độc quyền cho Decca trong hơn nửa thế kỉ và để lại một gia tài đồ sộ với hơn 250 bản ghi âm xuất sắc, trong đó có 45 vở opera, chủ yếu là với Vienna Philharmonic, London Philharmonic, Chicago Symphony Orchestra và London Symphony Orchestra. Ông đã giành được rất nhiều giải thưởng quốc tế cho các bản ghi âm của mình, trong đó có 31 giải Grammy, nhiều hơn bất kì một nghệ sĩ cổ điển hay đại chúng nào. Tiểu sử. Georg Solti sinh ngày 21 tháng 10 năm 1912 tại Budapest, Hungary với tên khai sinh ban đầu là György Stern trong một gia đình có nguồn gốc Do Thái. Là một người sùng bái nước Đức một cách kì lạ, bố của György đã đổi tên con mình thành Georg – một cái tên Đức và đổi họ của gia đình thành Solti để tránh những thế lực bài trừ dân Do Thái. Tuy nhiên đến năm 13 tuổi, Georg đã tham dự một buổi hòa nhạc do Erich Kleiber (cha của Carlos Kleiber) chỉ huy và cậu bé chợt cảm thấy mình có một cảm giác kì lạ, một sự cuốn hút không thể diễn tả và Georg hiểu rằng, cậu sẽ trở thành một nhạc trưởng. Trong thập niên 1930, ông là một "répétiteur" tại Nhà hát lớn Nhà nước Hungary và làm việc tại Liên hoan Salzburg cho Arturo Toscanini. Sự nghiệp của ông bị gián đoạn bởi sự nổi lên của Đức quốc xã, và bởi vì ông là một người Do Thái, ông chạy trốn luật chống Do Thái ngày càng hạn chế vào năm 1938. Sau khi tiến hành một mùa giải của ba lê Nga ở London tại Nhà hát opera hoàng gia (Royal Opera House), ông đã tìm thấy nơi trú ẩn ở Thụy Sĩ, nơi ông ở trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Bị cấm tiến hành ở đó, anh kiếm đủ sống là nghệ sĩ dương cầm. Sau khi chiến tranh Solti được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc của Nhà nước Bavarian Opera tại Munich từ năm 1946. Năm 1952, ông chuyển đến Opera Frankfurt, nơi ông vẫn chịu trách nhiệm trong chín năm. Ông đã nhập quốc tịch Đức năm 1953. Năm 1961, ông trở thành giám đốc âm nhạc của Công ty Opera Covent Garden ở London. Trong suốt thời gian mười năm của mình, ông đã giới thiệu những thay đổi đưa ra các tiêu chuẩn cấp quốc tế cao nhất. Theo Giám đốc âm nhạc của mình, tình trạng của công ty đã được công nhận bằng cấp của danh hiệu "Opera Hoàng gia". Ông đã trở thành một người Anh vào năm 1972. Năm 1969, Solti đã được bổ nhiệm làm giám đốc âm nhạc của dàn nhạc giao hưởng Chicago, một chức vụ ông đã đảm trách trong 22 năm. Ông khôi phục lại danh tiếng của dàn nhạc sau khi nó đã bị suy giảm đối với hầu hết các thập kỷ trước. Ông đoạt giải thưởng đạo diễn âm nhạc của dàn nhạc lúc nghỉ hưu vào năm 1991. Trong suốt thời gian của chơi cho dàn nhạc Chicago, ông cũng đã có thời gian ngắn hơn phụ trách các dàn nhạc Orchestre de Paris và London Philharmonic Orchestra. Georg Solti qua đời đột ngột ở tuổi 84 khi đang ngủ khi ông đang đi nghỉ tại Antibes, Pháp vào ngày 5 tháng 9 năm 1997. Một tấm biển trang trọng được để ngoài ngôi nhà nơi Solti sinh ra tại Budapest. Thi hài của ông được chuyển về Hungary, sau một lễ tang cấp nhà nước, ông được hoả táng và tro được chôn cất tại nghĩa trang Farkasréti ở Budapest gần phần mộ của Belá Bartok.
1
null
Gaius Julius Caesar (khoảng 140 TCN–85 TCN) là một nguyên lão La Mã, người ủng hộ và cũng là anh vợ của Gaius Marius, là cha của Julius Caesar, nhà độc tài La Mã. Caesar đã cưới Aurelia Cotta, một thành viên của dòng họ Aurelii và Rutilii. Họ có hai con gái đều tên là Julia (dạng nữ của nomen Julius, theo quy chuẩn đặt tên của người La Mã cổ) và một con trai là Julius Caesar sinh năm 100 TCN. Ông là anh trai của quan chấp chính tối cao năm 91 TCN Sextus Julius Caesar và là con của Gaius Julius Caesar II. Sự thăng tiến của Caesar trên thể hệ thăng tiến La Mã ("cursus honorum") được nhiều người biết đến, tuy nhiên ngày tháng cụ thể của từng chức vụ của ông có thể gây tranh cãi. Theo hai câu khắc trên bia đá ("elogia") tại Roma một thời gian sau khi ông mất, Caesar là một quan đại biểu ở thuộc địa Cercina, quan bảo dân quân sự, quan tài vụ, pháp quan, và quan tổng đốc tỉnh Asia. Ngày tháng cụ thể của từng chức vụ không rõ ràng. Thuộc địa nói trên có thể đã thuộc quyền kiểm soát của Marius năm 103 TCN. Broughton xác định thời gian giữ chức pháp quan là vào năm 92 TCN, và chức quan tài vụ vào đầu những năm 90 TCN. Brennan cho rằng chức pháp quan là vào đầu thập kỷ 90 TCN. Caesar qua đời đột ngột năm 85 TCN ở Roma, khi đang mang giầy vào buổi sáng. Một Caesar khác, có thể là cha ông này, cũng qua đời theo cách tương tự tại Pisa. Cha ông đã chứng kiến ông học thành tài với một trong những nhà hùng biện bậc nhất thành Roma, Marcus Antonius Gnipho. Trong chúc thư, ông để lại cho Caesar phần lớn tài sản, nhưng sau khi đảng phái của Marius bị đánh bại trong nội chiến những năm 80 TCN, số di sản thừa kế này bị quan độc tài Sulla sung công.
1
null
Artjoms Rudņevs (sinh ngày 13 tháng 1 năm 1988) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Latvia thi đấu ở vị trí trung phong. Thống kê. Danh hiệu. Club. Daugavpils Daugava Zalaegerszegi TE Lech Poznań Personal life. Artjoms Rudņevs is married and has a daughter born in 2011.
1
null
Marcus Aemilius Lepidus (),</small> (sinh khoảng 89 hoặc 88 TCN, mất cuối 13 hoặc đầu 12 TCN) là một quý tộc La Mã, là người đã vươn lên trở thành một thành viên của Liên minh tam hùng lần thứ 2 và ông cũng là một đại giáo chủ ("Pontifex Maximus"). Cha ông là Marcus Aemilius Lepidus có liên quan đến một cuộc nổi loạn chống lại Cộng hòa La Mã.
1
null
Cá mương (danh pháp hai phần: "Hemiculter leucisculus") là một loài cá thuộc chi Cá mương. Loài này có nguồn gốc từ con suối lớn, các hồ chứa ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc và lưu vực sông Amur. Nó đã trở thành thành lập như là một loài ngoại lai ở một số nước khác, bao gồm cả Iran, Afghanistan, và Liên Xô cũ, nơi mà nó đã thay thế các loài địa phương. Ban đầu nó được mô tả như là "Culter leucisculus" bởi S. Basilewsky năm 1855, và cũng đã được gọi là Chanodichthys leucisculus và "Hemiculter leucisculus warpachowskii" trong tài liệu khoa học.
1
null
"Epalzeorhynchos frenatum " hay cá chuột Thái cầu vồng, cá mập cầu vồng, cá mập vây đỏ, cá hồng xá là một loài cá nước ngọt Đông Nam Á thuộc họ Cá chép (Cyprinidae). Loài cá này sinh sống ở lưu vực sông Chao Phraya, Xe Bangfai và Mae Klong (Thái Lan) và có thể ở lưu vực sông Mêkông (Rainboth, 1996). Ở Việt Nam, cá phân bố số lượng ít trong các sông suối vùng Sa Bình, Easup, Lak, Dak Rlap ở Tây Nguyên. Chúng sinh sống ở đáy cát.
1
null
Lech Poznań () là câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng của Ba Lan đặt trụ sở tại Poznań. Tên của CLB được lấy theo tên Lech theo một truyền thuyết của Đông Âu có 3 anh em Lech, Séc và Rus. Lech là người lập ra Ba Lan, Czech là Cộng hòa Séc và Rus là Nga, Ukraine và Belarus. Năm 1922 CLB có tên là "Lutnia Dębiec", sau đó có đổi tên vài lần. Từ năm 1933 đến 1994, câu lạc bộ nổi tiếng của Ba Lan này đại diện cho Cục đường sắt Ba Lan (PKP). Câu lạc bộ có biệt danh là Kolejorz (The Railwayman). Đây là câu lạc bộ bóng đá giàu truyền thống nhất của Ba Lan với nhiều tên tuổi như Teodor Anioła, Robert Lewandowski, Artjoms Rudņevs.. Điệu nhảy Poznań. Lech Poznań nổi tiếng với "Điệu nhảy Poznan". Các CĐV của đội bóng này đã khoác vai nhau và đồng loạt nhún nhảy rất đẹp mắt. Rất nhiều CĐV Manchester City đã rất ấn tượng với màn cổ vũ ấy và từ đó về sau, họ đã "bắt chước" các CĐV của Poznan để ăn mừng cùng các cầu thủ đội nhà mỗi khi họ ghi bàn. Fan. Lech Poznań có lực lượng CĐV đông đảo và cuống nhiệt nhất Ba Lan. Cùng với đó Hooligan của đội bóng này cũng nguy hiểm nhất châu Âu cùng với Sao Đỏ Beograd, Liverpool, Millwall, Lazio,Galatasaray, Dinamo Zagreb hay Panathinaikos. Danh hiệu. List of results. "As of ngày 25 tháng 2 năm 2011:"
1
null
Irven Spence (1909–1995) là một diễn viên lồng tiếng xuất sắc người Mỹ. Ông sinh ngày 24 tháng 4 năm 1909 tại Lincoln, Nebraska. Ông là diễn viên lồng tiếng ở xưởng phim Metro-Goldwyn-Mayer (viết tắt là MGM) cho rất nhiều bộ phim, đặc biệt là Tom and Jerry Ông lồng tiếng cho rất nhiều nhân vật trong Tom and Jerry. Ông mất ngày 21 tháng 9 năm 1995 tại Dallas, Texas.
1
null
Notropis stramineus là một loài cá trong họ Cá chép. Chúng sinh sống trong các suối nước mở sạch với đáy cát nơi chúng ăn các đàn côn trùng mặt đất và thủy sinh, bùn đáy và tảo cát. Loài cá này có phạm vi phân bố vô cùng phổ biến, được biết đến từ trung bộ Hoa Kỳ và miền nam Canada. Phạm vi trải dài từ Saint Lawrence-Đại Lakes, vịnh Hudson và lưu vực sông Mississippi là một phần của sông St Lawrence ở Quebec đến Saskatchewan ở Canada. Phạm vi này cũng trải dài về phía nam Tennessee và Texas; phía tây Montana, Wyoming, Colorado và New Mexico, Trinity sông Rio Grande ở Texas và New Mexico, và Mexico.
1
null
John Evans Fifii Atta Mills (21 tháng 7 năm 1944 – 24 tháng 7 năm 2012) là một chính trị gia Ghana, Tổng thống Ghana giai đoạn 2009–2012. Ông đã nhậm chức tổng thống vào ngày 07 Tháng 1 2009, đã đánh bại ứng cử viên đảng cầm quyền Nana Akufo-Addo trong cuộc bầu cử năm 2008. Ông là Phó tổng thống giai đoạn 1997–2001 dưới thời Tổng thống Jerry Rawlings, và thất bại trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 và 2004 dưới danh nghĩa ứng cử viên của Đại hội Dân chủ Quốc gia (NDC). Ông mất vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 tại Bệnh viện Quân y 37 tại Accra. Ông là nguyên thủ quốc gia Ghana đầu tiên qua đời khi đương nhiệm. Tiểu sử. Ông sinh ra ở Tarkwa ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở vùng Tây. Ông học tại trường Achimota, nơi ông tốt nghiệp vào năm 1963, và Đại học Ghana, Legon, nơi ông tốt nghiệp đại học luật trong năm 1967. Mills nghiên cứu tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London, và nhận bằng tiến sĩ luật tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và châu Phi tại Đại học London. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ của ông trong lĩnh vực thuế và phát triển kinh tế. Ông chính thức làm giảng viên lần đầu tại Khoa Luật trường Đại học của Ghana. Ông đã dành gần 25 năm giảng dạy tại Legon và các tổ chức giáo dục đại học khác. Trong năm 1971, ông được chọn cho chương trình học bổng Fulbright tại Trường Luật Stanford ở Mỹ. Ông trở lại Ghana sau khi nhận được bằng tiến sĩ, làm việc tại trường cũ của mình, trường Đại học của Ghana, trong 25 năm.
1
null
Mùa thứ tư của "Thần tượng âm nhạc: Vietnam Idol" được phát sóng vào ngày 17 tháng 8 năm 2012. Năm nay có một số thay đổi lớn trong cấu trúc của chương trình: Ca sĩ Mỹ Tâm tham gia ban giám khảo thay thế cho Siu Black, trong khi nhạc sĩ Quốc Trung và đạo diễn Nguyễn Quang Dũng vẫn tiếp tục làm giám khảo. Huy Khánh là người dẫn chương trình. Người chiến thắng sẽ nhận được 600 triệu đồng tiền mặt, 1 năm giới thiệu trên kênh MTV Việt Nam cũng như hỗ trợ cho việc thực hiện một video âm nhạc từ kênh. Các vòng thi của Thần tượng âm nhạc Việt Nam (mùa 4). Vòng Audition. Thử giọng bắt đầu ngày 4 tháng 7 năm 2012 tại Đà Nẵng và tiếp tục ở nhiều thành phố và thị trấn ở Việt Nam. Tuy nhiên, sẽ chỉ có 60 vé vàng được đưa ra trong buổi thử giọng. Vòng Nhà hát. 60 thí sinh đã được chọn vào vòng nhà hát ở Thành phố Hồ Chí Minh. Sau phần thi đơn ca với Piano, 32 thí sinh còn lại và được chia làm 8 nhóm để bước vào phần thi hát nhóm. Giám khảo chọn ra Top 16, bao gồm 8 nữ và 8 nam cho vòng Studio. 1. Vòng đơn ca với Piano. "(*) Các phần thi của các thí sinh khác trong Top 60 không được phát sóng vì thời lượng có hạn" Vòng Studio. Vòng Studio được chia làm 2 phần: Studio 1 (Top 8 nam) và Studio 2 (Top 8 nữ). Các thí sinh sẽ trình diễn trực tiếp ca khúc với ban nhạc và sự tư vấn chọn bài của giám đốc âm nhạc Huy Tuấn. Vòng này khán giả có quyền nhắn tin bình chọn cho thí sinh mình yêu thích để giúp họ giành 4 vé vào vòng gala. Sau vòng này, đêm công bố Top 10 với nguyên tắc: 2 thí sinh nam và 2 thí sinh nữ được khán giả bình chọn nhiều nhất, cùng với 2 thí sinh nam và 2 nữ được ban giám khảo chọn sẽ tiến thẳng vào vòng gala. Và 4 thí sinh có số phiếu bình chọn thấp nhất phải chia tay với chương trình. 2 trong 4 thí sinh còn lại sẽ được ban giám khảo trình diễn sau khi nghe 4 người trình bày ca khúc do mình tự chọn. Kết quả vòng Studio được công bố vào ngày 28 tháng 9. Các thí sinh do được khán giả và ban giám khảo chọn được tiến thẳng vào vòng gala. Chú giải về màu sắc: Vòng Gala. Bắt đầu từ mùa giải thứ 4 đêm trình diễn và đêm công bố kết quả sẽ cách nhau 1 tuần để khán giả có nhiều thời gian để bình chọn cho thí sinh. BGK có 1 quyền cứu duy nhất 1 thí sinh bị loại trước khi xác định Top 5 chung cuộc. Chú giải về màu sắc: Gala 9: Chung kết. Đêm trình diễn và công bố kết quả chung cuộc. - "Ngày mai nắng lên anh sẽ về" (Anh Khang): Anh Quân, Thanh Tùng, Thanh Hưng, Hồng Phước - "Ơ hay" (Đức Trí, Hà Quang Minh): Thanh Trúc, Bảo Trâm, Thảo My, Hương Giang - "Mưa và nỗi nhớ" (Hồ Hoài Anh): Bảo Trâm & Anh Quân - "Chờ người nơi ấy" (Huy Tuấn, Hà Quang Minh): Uyên Linh - "Anh mang theo mùa xuân" (Phúc Bồ): Văn Mai Hương - "Ngôi sao ước mơ" (Anh Minh): Hồng Phước, Bảo Trâm, Thanh Tùng, Hương Giang, Thảo My, Thanh Hưng, Thanh Trúc, Anh Quân - Liên khúc" Đánh thức bình minh" & "Trắng đen" (Mỹ Tâm, Trần Tuấn Anh): Mỹ Tâm Thứ tự bị loại. "(*)" "Ya Suy xin ngừng cuộc chơi và nhường vé cho Bảo Trâm nhưng không được Ban giám khảo đồng ý." Chỉ trích. Thí sinh nói xấu. Thí sinh Thanh Trúc tại Top 10 cuộc thi đã bị dư luận chỉ trích vì phát ngôn chê bai thí sinh của một cuộc thi khác (thí sinh Bảo Anh của cuộc thi Giọng hát Việt với ca khúc Everytime trong đêm liveshow 1). Giám khảo Quang Dũng ngay sau đó trong đêm công bố Top 10 đã công khai nhắc nhở thí sinh này. Thanh Trúc sau đó đã chính thức đưa ra lời xin lỗi. Tuy nhiên không lâu sau khi rời khỏi cuộc thi, cô lại tiếp tục có những lời bình luận không hay về trang phục trong một phần trình diễn của giám khảo Mỹ Tâm trong ca khúc mới "Trắng đen" diễn đêm công bố kết quả Liveshow 3 tại trang cá nhân của mình. Thí sinh có hoàn cảnh đặc biệt tiến sâu. Mặc dù tạo được sự ấn tượng bởi phong cách trình diễn và sự tiến bộ qua từng đêm thi nhưng việc Hương Giang (thí sinh chuyển giới) và Yasuy (thí sinh là người dân tộc thiểu số) với giọng hát không ấn tượng tiến sâu vào đến Top 4 và nhà vô địch cuộc thi đã làm nhiều người lên án chỉ trích chương trình và hai thí sinh này.
1
null
Chiến sự trên Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma là hoạt động quân sự lớn của Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương diện quân Bryansk của Hồng quân Liên Xô chống lại Cụm Tập đoàn quân Trung Tâm của quân đội phát xít Đức. Tổng cộng có 10 chiến dịch lớn của cả hai bên đã diễn ra trên khu vực Rzhev - Sychyovka - Vyazma, phía Tây Moskva từ ngày 8 tháng 1 năm 1942 đến 31 tháng 3 năm 1943. Hàng trăm sư đoàn của hai bên đã tham gia các chiến dịch tại khu vực này. Hai bên đã huy động vào mặt trận này gần 3.000.000 quân, khoảng 21.700 pháo và súng cối, trên 1.600 xe tăng, khoảng 1.350 máy bay. Đây là mặt trận được huy động nhiều binh lực thứ hai sau mặt trận Tây Nam Liên Xô trong hai năm 1942-1943 và có tỷ lệ thương vong/quân số rất cao trong Chiến tranh Xô-Đức: từ 45% đến 65% quân số tham gia ban đầu. Quân đội Liên Xô. Phương diện quân Kalinin. Do trung tướng I. S. Konev (đến tháng 8 năm 1942), trung tướng M. A. Purkayev (đến 4 năm 1943) chỉ huy. Thành phần bao gồm: Phương diện quân Tây. Do đại tướng G. K. Zhukov (đến tháng 8 năm 1942) và thượng tướng I. S. Konev (đến tháng 2 năm 1943) và trung tướng V. D. Sokolovsky chỉ huy. Thành phần bao gồm: Phương diện quân Bryansk. Do các trung tướng Ya. T. Cherevichenko (đến tháng 4 năm 1942), F. I. Golikov (đến tháng 7 năm 1942), N. E. Chibisov (đến tháng 9 năm 1942), K. K. Rokossovsky (đến tháng 9 năm 1942) và thượng tướng M. A. Reiter lần lượt chỉ huy. Thành phần bao gồm: Quân đội Đức Quốc xã. Cụm tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Gunther von Kluge và thượng tướng Walter Model lần lượt chỉ huy. Biên chế từ tháng 1 năm 1942 đến tháng 1 năm 1943 gồm có: Tập đoàn quân xe tăng 2. Do trung tướng Rudolf Schmidt chỉ huy. Biên chế qua các giai đoạn của chiến dịch gồm có: Tập đoàn quân xe tăng 3. Do trung tướng Georg-Hans Reinhardt chỉ huy. Biên chế qua các giai đoạn của chiến dịch gồm có: Tập đoàn quân xe tăng 4. Do trung tướng Richard Ruoff chỉ huy. Từ tháng 5 năm 1942, nó được rút về lực lượng dự bị trực thuộc OKH, đến tháng 7 năm 1942 được đưa vào biên chế Cụm tập đoàn quân Nam. Biên chế trong giai đoạn tham gia các hoạt động quân sự tại Rzhev-Vyazma gồm có: Tập đoàn quân 2. Tập đoàn quân 2 (Đức) là tập đoàn quân liên tục có mặt tại Mặt trận Xô-Đức từ tháng 6 năm 1941 cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu kết thúc. Qua nhiều lần thay đối biên chế và các đơn vị thành phần, nó vẫn liên tục có mặt trong đội hình Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) từ tháng 6 năm 1941 đến tháng 1 năm 1945. Trong thời gian từ tháng 1 năm 1942 đến tháng 3 năm 1943, tập đoàn quân này do các tướng Maximilian Reichsfreiherr von Weichs, Hans von Salmuth và Walter Weiss lần lượt chỉ huy. Biên chế trong các giai đoạn của chiến dịch gồm có: Tập đoàn quân 4. Đây cũng là tập đoàn quân liên tục có mặt trong Chiến tranh Xô-Đức và luôn thuộc biên chế của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) từ tháng 6 năm 1941 đến tháng 1 năm 1945. Trong giai đoạn tham chiến tại mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma, các tướng Ludwig Kübler, Gotthard Heinrici và Hans von Salmuth đã lần lượt chỉ huy tập đoàn quân này. Biên chế trong thời gian tham chiến tại mặt trận này gồm có: Tập đoàn quân 9. Tập đoàn quân này liên tục có mặt trước cửa ngõ Moskva trên khu vực Rzhev-Viazma từ Chiến dịch Typhoon cho đến mùa hè năm 1943, khi nó được chuyển sang hướng vòng cung Kursk. trong các chiến dịch tại khu vực Rzhev-Sychyovka-Vyazma từ mùa đông 1941 đến mùa xuân 1943, tập đoàn quân này do các tướng Walter Model, Albrecht Schubert, Heinrich von Vietinghoff-Scheel chỉ huy. Và đến tháng 12 năm 1942, tướng Walter Model lại một lần nữa quay lại chỉ huy tập đoàn quân này trong 4 tháng. Thành phần biên chế của nó qua các giai đoạn gồm có:
1
null
Nghiêm Ích Khiêm (嚴益謙; 1459-1499), tên tự là Phúc Lợi, thụy Bình Sơn (屏山); là võ tướng đời Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Thân thế. Nghiêm Ích Khiêm sinh vào năm Kỷ Mão (1459 - thời Lê Nhân Tông Diên Ninh lục niên - tức đời Vua Diên Ninh thứ 6) tại xã Lan Độ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc, nay là làng Quan Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân từ một gia đình, dòng họ có truyền thống vẻ vang, gắn liền với lịch sử nhà Trần, và đặc biệt là thời nhà Lý với nhiều người làm quan và đóng góp lớn cho triều đình. Nghiêm Ích Khiêm là con trai của Nghiêm Khắc Nhượng (thụy Ngũ Khê) và bà Hà Thị (hiệu Từ Nhân). Ông nổi tiếng văn võ song toàn, có sức mạnh và thông hiểu binh pháp. Thuở nhỏ, ông theo học chữ nho, mọi kinh sử ông đều không đạt, khoa thi năm Canh Tuất đời Vua Hồng Đức năm thứ 21 (1490), ông đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ, đứng tên thứ 14, năm đó ông vừa tròn 31 tuổi. Sự nghiệp. Nghiêm Ích Khiêm là người học rộng tài cao, văn võ song toàn. Làm quan tới chức Đạt tín đại phu - Cẩm y vệ Đoán sự ty - Đoán sự - Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ và luôn luôn thường trực tại Điện Kim Quang - nơi Nhà vua làm việc. Trong khi làm quan, ông luôn đề cao phẩm hạnh: Trung nghĩa đức nhân, giữ trọn thần tiết vua, với nước, do vậy ông đã được Nhà vua sủng ái, sĩ phu trọng vọng. Qua đời. Ngày 30/5 năm Kỷ Mùi, đời vua Lê Hiến Tông, năm Cảnh Thống năm thứ hai (1499), ông qua đời, thọ 41 tuổi. Mộ táng tại Xứ Đồng Ngọc - Đại tha ma, thuộc làng Quan Độ nay. Gia quyến. Chính thất phu nhân của ông là người cùng xã, có tên hiệu là Từ Huệ, cũng thuộc dòng thế gia lệnh tộc. Ngày 26/9, bà trở về cõi Phật, mộ tại Đồng Ngọc Xứ - Đại tha ma. Người con trai duy nhất của Nghiêm Ích Khiêm và bà Từ Huệ là Nghiêm Khải (thụy Hòa Phủ). Nghiêm Ích Khiêm có người anh họ (anh nhà bác) là Tiến sĩ Nghiêm Phụ khoa Mậu Tuất (1478). Ngoài ra, Nghiêm Ích Khiêm còn có người em gái là chính thất của Tiến sĩ Đàm Thận Huy cùng khoa thi năm 1490, quê ở xã Ông Mặc liền kề.
1
null
John Dramani Mahama (sinh ngày 29 tháng 11 năm 1958) là một chính trị gia Ghana, là Tổng thống Ghana từ năm 2012. Ông là Phó Tổng thống Ghana giai đoạn 2009-2012, và ông nhậm chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 sau cái chết của người tiền nhiệm, Tổng thống John Atta Mills. Là một chuyên gia truyền thông, nhà sử học, nhà văn, ông là một thành viên của Quốc hội 1997-2009, ông là Bộ trưởng Bộ truyền thông giai đoạn 1998-2001. Tiểu sử. Mahama sinh ra ở Damongo, ở đơn vị bầu cử Damango Daboya của Ghana. Cha Emmanuel Mahama Adama của ông là đại biểu đầu tiên của đơn vị bầu cử Quốc hội cho Tây Gonja Bầu cử và Ủy viên đầu tiên trong khu vực Khu vực phía Bắc trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa Ghana. Ông đã theo học Trường tiểu học Achimota và Đại học Ghana, nhận bằng cử nhân ngành lịch sử vào năm 1981 và bằng sau đại học trong các nghiên cứu truyền thông vào năm 1986. Sau này, Mahama nghiên cứu thêm ở Viện Khoa học Xã hội ở Moskva, Liên Xô. Sau khi học xong, Mahama trở về Ghana và 1991-1996, ông làm cán bộ văn hóa thông tin, và nghiên cứu tại Đại sứ quán Nhật Bản tại Accra. Từ đó, ông chuyển đến cơ quan phi chính phủ (NGO) PLAN Quốc tế Văn phòng Quốc gia của Ghana, nơi ông làm công việc quan hệ quốc tế, truyền thông tài trợ và quản lý tài trợ.
1
null
Ammodytes hexapterus là một loài cá thuộc họ Ammodytidae trong bộ Perciformes. Con đực trưởng thành có chiều dài 30 cm. Loài này phân bố ở Thái Bình Dương (tại Alaska cho đến Biển Nhật Bản và miền nam California) và Đại Tây Dương Tây (từ phía bắc của Quebec đến North Carolina).
1
null
Cá ngân long (danh pháp khoa học: Osteoglossum bicirrhosum), hay cá rồng ngân long,cá rồng, cá rồng bạc, ngân đới, là một loài cá thuộc họ Cá rồng. Loài này được tìm thấy ở lưu vực sông Amazon và sông Rupununi và sông Oyapock trong Nam Mỹ cũng như Guyana. Mô tả. Cá này có kích thước tương đối lớn, cơ thể dài, đầu to và một cái đuôi nhọn, nhỏ, với vây lưng và vây hậu môn kéo dài về phía vây đuôi nhỏ, nơi chúng gần như hợp nhất. Nó có thể phát triển đến một kích thước tối đa .. Khi cá còn non, vây lưng cá có màu phấn hồng, ánh xanh lam. Thân cá màu sáng bạc ánh hồng. Cá trưởng thành vẩy to như vỏ sò, dạng nửa tròn, đường bên cá có 31-35 vẩy. Toàn thân cá là màu trắng như kim loại xen lẫn ánh xanh lam và phấn hồng lấp lánh. Cá ngân long có kỹ năng săn mồi rất tốt trong giới cá rồng nên chúng có thể phát triển mạnh mẽ ngoài tự nhiên. Vật nuôi. Tại Việt Nam, cá ngân long được du nhập từ thập niên 1980, là loài cá rồng du nhập sớm nhất vào Việt Nam. Chúng được xem là một loài cá cảnh phong thủy mang lại tài lộc cho người nuôi nên được hầu hết các chủ doanh nghiệp nuôi tại đại sảnh công ty hoặc tại nhà riêng. Ngoài ra, ngân long còn rất được yêu thích bởi những người mới chơi cá rồng.
1
null
Cá rồng trân châu (danh pháp hai phần: Scleropages jardinii), tên khác gồm Cá trân châu long, kim long Úc, châu long Úc rằn là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá rồng. Loài này có nguồn gốc Australia và New Guinea, một trong hai loài cá đôi khi được gọi là cá rồng Úc, loài còn lại là saratoga (S. leichardti).. Nó có rất nhiều tên gọi thông thường khác, bao gồm bao gồm saratoga phươngb bắc, bonytongue Úc, Toga và cá chẽm (không nên nhầm lẫn với cá chẽm thông thưởng, Lates calcarifer). Nó là một thành viên của phân họ Osteoglossinae, một nhóm teleost (cơ bản) S. jardinii được tìm thấy trong nước chuyển động nhanh và vẫn còn ở miền Bắc Australia và New Guinea. Nó không được coi là có nguy cơ tuyệt chủng hoặc bị đe dọa bởi một trong hai Công ước CITES ước cũng không phải sách đỏ IUCN. Mô tả. Cá này có thân dài, màu tối với bảy hàng vảy, đều có một vài đốm đỏ hoặc hồng nhạt sắp xếp theo một hình dạng trăng lưỡi liềm xung quanh các mép sau của vảy. Nó phát triển đến chiều dài khoảng 90 cm (35 inch). Trọng lượng tối đa của nó được ghi nhận là 17,2 kg (£ 38), nhưng một báo cáo cho thấy nó đã được biết đến cân nặng 27 kg (£ 59).
1
null
"End of Time" là một ca khúc của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Beyoncé từ album phòng thu thứ tư của cô, "4" (2011). Ca khúc được sáng tác bởi Knowles, Terius Nash, Shea Taylor, Dave Taylor trong khi việc sản xuất được giao cho Knowles, The-Dream, Switch và Diplo. Lúc đầu, ca khúc được đặt tên là "Till the End of Time", bản demo của ca khúc được tuồn lên mạng vào 20 tháng 5 năm 2011, nhiều người cho rằng "End of Time" sẽ là đĩa đơn tiếp theo sau "Run the World (Girls)" (2011). Tuy nhiên sau cùng, "Best Thing I Never Had" mới được chọn làm đĩa đơn thứ hai. Vào tháng 2 năm 2012, Knowles thông báo trên trang web chính thức của mình rằng, "End of Time" sẽ là đĩa đơn thứ năm của "4". Đĩa đơn được phát hành tại Anh vào 22 tháng 4 năm 2012. Trong tuần đầu tiên "4" phát hành, ca khúc đã ra mắt tại vị trí 62 ở UK Singles Chart, và vị trí thứ 20 tại UK R&B Chart, chỉ tính riêng theo doanh số tải kĩ thuật số. "End of Time" cũng đã ra mắt ở vị trí thứ 26 tại bảng xếp hạng South Korea Gaon International Singles Chart và vị trí thứ 13 tại bảng xếp hạng "Billboard" Bubbling Under Hot 100 của Mỹ. Rò rỉ ca khúc và cuộc thi phối khí. Một đoạn ngắn của "End of Time" đã bị tuồn lên mạng vào 1 tháng 5 năm 2011. Bản demo đầy đủ của ca khúc đã bị rò rỉ và tuồn lên mạng vào 20 tháng 5 năm 2012. Thời điểm đó, ca khúc có tên là "Till the End of Time". Một số trang web, bao gồm MTV, thông báo rằng ca khúc có thể sẽ được chọn làm đĩa đơn thứ hai sau "Run the World (Girls)". Tuy nhiên, những suy đoán này đã giảm khi Knowles phát hành đĩa đơn quảng bá độc quyền ở Mỹ, "1+1", vào 25 tháng 5 năm 2011. Hãng thu âm Columbia sau đó nhanh chóng thông báo rằng "1+1" sẽ không được gửi đến đài phát thanh và "Best Thing I Never Had" sẽ được chọn làm đĩa đơn thứ hai của "4". "End of Time" được phát hành ở Anh vào 22 tháng 4 năm 2012. Vào 8 tháng 2 năm 2012, hãng đĩa Columbia và trang web chính thức của Knowles thông báo rằng "End of Time" sẽ được chọn làm đĩa đơn thứ năm của "4". Trước khi phát hành đĩa đơn, Knowles kêu gọi những người hâm mộ của cô tham gia vào cuộc thi remix (phối khí) cho ca khúc trên hiệp hội chia sẻ nhạc SoundCloud, và những người tham gia cuộc thi phải có độ tuổi từ 18 trở lên. Cuộc thi được mở rộng tới 25 quốc gia, diễn ra từ 8 tháng 2 năm 2012 đến 9 tháng 3 năm 2012. Theo như trang web của cô, người thắng cuộc sẽ nhận được $4,000 và bản remix của người đó sẽ được xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc tiếp theo của Knowles. Đến 4 tháng 3 năm 2012, hơn 2000 bản remix đã được tải lên SoundCloud, và ngày hôm sau, một thông cáo báo chí được ban hành, công bố các thành viên thuộc ban giám khảo quốc tế để lựa chọn người chiến thắng, ban giám khảo bao gồm Knowles, nhạc sĩ người Anh Isabella Summers của ban nhạc Florence and the Machine, nhà sản xuất âm nhạc và DJ người Hà Lan Afrojack, bộ đôi DJ và cũng là nhà sản xuất ngườiBa Lan, WAWA, nhà sản xuất hàng đầu New York, DJ Jus SKE và cuối cùng là người đoạt giải Oscar, nhà soạn nhạc Giorgio Moroder. Vào 17 tháng 4, người chiến thắng cuộc thi được công bố, đó là Radzimir "Jimek" Debski, đồng thời bản remix của anh cũng được thông báo rằng sẽ xuất hiện trong đĩa mở rộng remix của Knowles, "". Video âm nhạc. Có nhiều nguồn tin cho rằng vào tháng 8 năm 2011, Knowles đã quay video âm nhạc cho một số ca khúc trong "4", trong đó có cả video cho "End of Time", được quay vào 3 tháng 8 năm 2011. Đội ngũ sản xuất. Thông tin được lấy từ ghi chú trong album "4". Xếp hạng. Trước khi được phát hành như một đĩa đơn chính thức, "End of Time" ra mắt tại vị trí 62 ở UK Singles Chart, và vị trí thứ 20 tại UK R&B Chart vào tuần lễ 4 tháng 7 năm 2011. Ca khúc đã bán được 4,488 bản kĩ thuật số trong tuần đầu tiên "4" phát hành. Và ở Nam Triều Tiên, với 18,222 được tiêu thụ, "End of Time" đã vươn lên vị trí thứ 26 tại bảng xếp hạng South Korea Gaon International Singles Chart trong tuần lễ kết thúc vào 2 tháng 7 năm 2011. Ca khúc cũng lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" Bubbling Under Hot 100 của Mỹ ở vị trí thứ 13 vào tuần lễ 16 tháng 7 năm 2011.
1
null