text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Cydonia là một khu vực trên hành tinh Sao Hỏa, và đã thu hút được cả mối quan tâm giới khoa học và dân chúng. Tên gọi ban đầu để tính năng suất phản chiếu (khu vực rất đặc trưng của màu) có thể nhìn thấy từ kính viễn vọng Earthbound. Khu vực này giáp với vùng đồng bằng của Acidalia Planitia và vùng cao nguyên Arabia Terra. Khu vực này bao gồm các vùng của Sao Hỏa: "Cydonia Mensae", một khu vực có tính chất giống như mesa đỉnh bằng phẳng, một địa hình albedo trên Sao Hỏa (được đặt tên theo tên của một thành phố cổ ở đảo Crete), ""Cydonia Colles", một vùng đồi hoặc gò đồi nhỏ, và "Cydonia Labyrinthus"", một phức hợp các thung lũng giao nhau. Như với các đặc điểm địa hình albedo trên Sao Hỏa, tên gọi Cydonia được lấy từ tên cổ đại, như trong trường hợp này từ Kydonia, một "polis" lịch sử (hoặc "nhà nước-thành phố") trên đảo Crete. Cydonia chứa "Khuôn mặt trên Sao Hỏa" tính năng nằm ở khoảng cách nửa giữa miệng núi lửa Arandas và miệng núi lửa Bamberg. Kiến tạo "hộp sọ" ESA là có cự ly một vài km về phía nam của "khuôn mặt". Một trong những hình ảnh chụp bởi Viking 1 vào 25 tháng 6 năm 1976, một trong những đỉnh núi bằng ở Cydonian, nằm tại ở 40,75° vĩ bắc và 9,46° kinh tây xuất hiện hình dáng con người là "Khuôn mặt trên Sao Hỏa". Khi nhận được tấm ảnh đầu tiên, vị trưởng khoa học Viking tên là Gerry Soffen đã cho rằng "khuôn mặt" trong ảnh 35A72 như là một "trò lừa bịp" của ánh sáng và bóng tối". Tuy nhiên, một tấm ảnh thứ hai, 70A13, được chụp sau đó lúc góc ánh sáng mặt trời khác so với 35A72 cũng cho thấy "Khuôn mặt". Khám phá thứ hai này được thực hiện độc lập bởi hai kỹ sư máy tính tại Trung tâm không gian Goddarn của NASA là Vincent DiPietro và Gregory Molenaar, họ là người khám phá ra hai tấm ảnh, 35A72 và 70A13 của Viking, trong khi tìm kiếm thông qua các tài liệu lưu trữ của NASA. Sự xuất hiện của một vật trên Sao Hỏa giống với một con người thu hút sự chú ý của các cá nhân và tổ chức quan tâm đến trí thông minh ngoài hành tinh và các cuộc viếng thăm Trái Đất, và tấm hình ảnh này đã được công bố vào năm 1977. Một số lời bình luận, đặc biệt là của Richard Hoagland, tin rằng "Khuôn mặt" là bằng chứng của một nền văn minh đã mất của Sao Hỏa, theo đó những nét địa hình khác được đưa ra như các kim tự tháp, mà họ cho rằng đó là một thành phố đổ nát. Những tấm hình nguyên bản của Viking đã dẫn nhiều nhà nghiên cứu tới chỗ cho rằng "Khuôn mặt" không phải là hình ảnh do sự trùng hợp ngẫu nhiên của các yếu tố ánh sáng và môi trường.
1
null
Schouten là một nhóm đảo bao gồm 6 hòn đảo núi lửa nhỏ, thuộc tỉnh Đông Sepik, Papua New Guinea, là một phần cấu thành nên quần đảo Bismark. Nhóm đảo này còn được gọi là quần đảo Đông Schouten hay quần đảo Le Maire để phân biệt với quần đảo Schouten thuộc Indonesia. Diện tích của quần đảo khoảng 19 mile2 tương đương với 50 km2. Quần đảo Schouten bao gồm các đảo sau:
1
null
Rajesh Khanna (tên lúc sinh Jatin Arora, sinh ngày 29 tháng 12 năm 1942 – 18 tháng 7 năm 2012) là một diễn viên, nhà sản xuất phim Bollywood và nhà chính trị. Ông được gọi là "siêu sao đầu tiên" và "siêu sao gốc" của điện ảnh Ấn Độ. Ông đã giành được những danh hiệu này sau 15 bộ phim hit liên tiếp solo trong năm 1970, một kỷ lục vẫn chưa bị ai khác phá vỡ. Khanna kết hôn với Dimple Kapadia tháng 3 năm 1973, sáu tháng trước khi bộ phim đầu tay Dimple của Bobby đã được phát hành và có hai con gái với bà vợ này. Rajesh Khanna và Dimple Kapadia ly hôn vào năm 1984. Người con gái đầu Twinkle Khanna của họ kết hôn với nam diễn viên Akshay Kumar, trong khi họ cũng có con gái Rinke Khanna. Không giống với nhiều tên tuổi lớn ở Bollywood, Khanna không xuất thân từ một gia đình có truyền thống điện ảnh. Ông sinh năm 1942 ở thành phố Amritsar, Tây Bắc Ấn Độ và xuất hiện trên sân khấu từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Khanna bắt đầu sự nghiệp điện ảnh từ giữa những năm 1960 với nhiều phim lãng mạn rất ăn khách thời đó. Ông từng thủ vai chính trong khoảng 170 phim và đã đoạt nhiều giải thưởng trong 3 thập kỷ sự nghiệp ở Bollywood. Thành công của ông từng là một hiện tượng mới ở Ấn Độ. Người hâm mộ vây quanh Khanna bất cứ khi nào ông xuất hiện trước công chúng. Nhiều người hâm mộ nữ còn thần tượng hóa Khanna tới mức đã kết hôn với ông qua ảnh và viết thư cho ông bằng máu của họ. Ông tham gia diễn xuất trong 163 bộ phim trong đó có 128 bộ phim ông đóng vai nhân vật chính, ông diễn xuất trong 17 bộ phim ngắn nữa. Ông đã giành được ba giải thưởng nam diễn viên xuất sắc nhất Filmfare và được đề cử giải thưởng này 14 lần. Ông đã nhận được giải thưởng BFJA nhất cho Nam diễn viên xuất sắc nhất (Hindi) bốn lần và được đề cử 25 lần. Năm 1991, ông đã được trao giải thưởng Filmfare đặc biệt cho 25 năm trong ngành điện ảnh, diễn xuất trong 106 bộ phim kỷ lục là nhân vật chính duy nhất trong một khoảng thời gian 25 năm. Năm 2005, ông đã được trao giải thưởng Thành tựu suốt đời Filmfare. Ông đã diễn xuấtlần đầu vào năm 1966 với vai Aakhri Khat và nổi danh với vai diễn của mình trong những bộ phim như Raaz, Baharon Ke Sapne, Ittefaq và Aradhana.. Ông đã có 35 Golden Jubilee Hits trong giai đoạn 1966–1975, ba trong giai đoạn năm 1976–1978 và 35 trong giai đoạn 1979–1991 và cho 22 jubilee bạc trong giai đoạn 1966–1991. Ông là diễn viên được trả thù lao cao nhất trả Ấn Độ diễn viên 1970–1979 và chia sẻ danh dự với Amitabh Bachchan 1980–1987. Ông được biết đến là một trong những casanova đầu tiên trong điện ảnh Ấn Độ. Ông cũng là một thành viên Hạ viện Ấn Độ đại diện cho Đảng Quốc Đại Ấn Độ từ đơn vị bầu cử New Delhi giai đoạn 1992–1996. Sau khi bị bệnh nặng, Khanna qua đời vào ngày 18 tháng 7 năm 2012. Tiểu sử. Sinh 29 tháng 12 năm 1942 với tên lúc sinh là Jatin Arora tại Burewala, Ấn Độ thuộc Anh (nay là Pakistan), Khanna đã được nhận làm con nuôi bởi cha mẹ nuôi – Chunni Lal Khanna và Leela Wati Khanna, người thân của cha mẹ đẻ của ông, sau khi cha ông đã di cư đến Amritsar, Ấn Độ, vào năm 1948. Khanna sống trong Thakurdwar gần Girgaon, Mumbai (thời đó được gọi là Bombay) và theo học trường trung học St. Sebastian Goa, cùng với một người bạn của ông Ravi Kapoor, người sau này đã có tên sân khấu là Jeetendra tên, và có mẹ là những người bạn với nhau. Khanna dần dần bắt đầu tham gia quan tâm đến nhà hát và đã làm rất nhiều đến diễn xuất sân khấu và nhà hát trong thời gian học sinh học đại học và giành được nhiều giải thưởng trong cuộc thi kịch nghệ liên đại học. Khanna đã trở thành một người mới hiếm hoi những người nỗ lực lớn của chiếc xe thể thao MG của mình để có được công việc trong nhà hát và phim vào đầu những năm sáu mươi. Khanna đã học hai năm đầu tiên ngành Cử nhân nghệ thuật tại trường Cao đẳng Wadia ở Pune 1959–1961. Cả hai người bạn sau đó học tại K. C. College, Mumbai. Khanna cũng dạy Jeetendra diễn thử cho bộ phim đầu tiên của mình. Chú của Khanna thay đổi tên đầu tiên của Khanna Rajesh Khanna khi quyết định tham gia bộ phim. Bạn bè của mình và vợ của ông gọi ông là "Kaka".
1
null
Natri cloroacetat là một hợp chất hóa học hữu cơ có công thức NaC2H2ClO2. Nó là muối natri của axit cloroacetic, được sử dụng làm nguyên liệu ban đầu hoặc chất trung gian để sản xuất một số lượng lớn hóa chất, chẳng hạn như dược phẩm và chất dẻo. Điều chế. Natri cloroacetat được sản xuất công nghiệp bằng cách cho axit cloroacetic phản ứng với natri cacbonat. Tính chất. Natri cloroacetat là chất rắn màu trắng, dễ cháy, dễ tan trong nước. Nó phân hủy trên 150 °C, tạo ra cacbon monoxit, carbon dioxide, hydro chloride và natri oxit. Sử dụng. Natri cloroacetat được sử dụng làm nguyên liệu thô để sản xuất dược phẩm, chất dẻo và thuốc nhuộm , mỹ phẩm, thuốc diệt cỏ, cacboxymetyl xenlulozơ, axit thioglycolic, glycin và nitrometan. An toàn. Khi đốt hoặc đun nóng natri cloroacetat, hydro chloride được tạo ra, có thể gây ăn mòn.
1
null
Fiat CR.32 là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Ý, nó được sử dụng trong Nội chiến Tây Ban Nha và Chiến tranh thế giới II. Đây là một chiếc máy bay Fiat nhỏ gọn, mạnh mẽ và khả năng thao diễn tốt. CR.32 đã bay ở chiến trước Bắc và Đông Phi, ở Albania và tại Địa Trung Hải. CR.32 đã phục vụ trong biên chế Trung Quốc, Áo, ]], Hungary, Paraguay và Venezuela. Được sử dụng rộng rãi trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, tại đây nó đã được coi như một trong những máy bay tiêm kích hai tầng cánh xuất sắc nhất mọi thời đại. Nhưng ssau đó các thiết kế một tầng cánh nhanh chóng xuất hiện và CR.32 trở nên lỗi thời vào năm 1939. Phát triển. Fiat CR.32 do Celestino Rosatelli thiết kế. Bắt nguồn từ thiết kế của Fiat CR.30. CR.32 là mẫu máy bay tiêm kích hai tầng cánh nhỏ gọn hơn. Mẫu thử MM.201 bay lần đầu ngày 28 tháng 4 năm 1933 từ sân bay của công ty Fiat tại Turin. Xem thêm. Chuỗi định danh. CR.20 - CR.25 - CR.30 - CR.32 - CR.33 - CR.40 - CR.41
1
null
Trần Tuyên công (chữ Hán: 陳宣公; trị vì: 692 TCN - 648 TCN), tên thật là Quy Chử Cữu (媯杵臼 - hay Quy Xử Cữu), là vị vua thứ 16 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Trần Tuyên công là con thứ của Trần Hoàn công – vua thứ 12 nước Trần, em của Trần Lệ công Quy Dược và Trần Trang công – vua thứ 14 và 15 nước Trần. Năm 693 TCN, Trang công mất, Quy Chử Cữu lên nối ngôi, tức là Trần Tuyên công. Sự nghiệp. Năm 681 TCN, nước Tống có loạn. Tống Mẫn công bị Nam Cung Trường Vạn giết. Trường Vạn lập Tử Du lên ngôi. Người nước Tống cùng nhau lập em Mẫn công là Hoàn công lên ngôi và tiến đánh về kinh, giết chết Tử Du. Nam Cung Trường Vạn đẩy xe chở mẹ chạy sang nước Trần, chỉ trong 1 ngày đã tới nơi. Trần Tuyên công dung nạp Nam Cung Trường Vạn. Tống Hoàn công sai người sang đề nghị nộp trả Vạn, kèm theo của biếu. Trần Tuyên công bèn sai đàn bà, con gái chuốc rượu cho Vạn say rồi lấy da tê trói lại, đưa sang nước Tống. Nước Tống giết chết Vạn. Năm 676 TCN, Chu Huệ Vương lập người con gái nước Trần làm hậu. Năm 674 TCN, ông mang quân đánh phá đất Tây Bỉ của nước Lỗ. Trần Tuyên công đã lập con lớn là thế tử Ngự Khấu, nhưng sau đó lấy người vợ thứ sinh được con trai khác là Khoản. Năm 672 TCN, Trần Tuyên công yêu Quy Khoản bèn giết thế tử Ngự Khấu. Người cùng cánh với Ngự Khấu là công tử Quy Hoàn – con thứ của Trần Lệ công, cháu gọi Tuyên công bằng chú, năm đó 33 tuổi – chạy sang nước Tề nương nhờ Tề Hoàn công. Tề Hoàn công thu dụng Quy Hoàn cho làm quan ở đất Điền, con cháu sau này chính là họ Điền Tề thời Chiến Quốc. Năm 656 TCN, bá chủ Tề Hoàn công đánh nước Sái và nước Sở, tiến đến Thiệu Lăng. Khi chư hầu chuẩn bị rút quân về nước, đại phu Viên Đào Đồ nước Trần không muốn quân chư hầu qua nước mình, bèn giả lệnh Tề Hoàn công nói với các đạo quân đi theo hướng đông chứ không qua đường phía bắc là địa phận nước Trần và nước Trịnh. Thân hầu bèn tố cáo với Tề Hoàn công rằng đi đường Trần Trịnh mới sẵn lương thực và không lo bị quân Đông Di đánh úp. Tề Hoàn công hiểu ra dụng ý của Viên Đào Đồ muốn vì lợi riêng cho nước Trần (không phải cung đốn lương thực cho chư hầu), bèn bắt giam Viên Đào Đồ. Cuối năm đó, Tề Hoàn công tập hợp chư hầu kéo sang đánh nước Trần. Trần Tuyên công xin giảng hòa. Tề Hoàn công bèn thả Viên Đào Đồ. Sang năm 655 TCN, Trần Tuyên công đi hội chư hầu do Tề Hoàn công làm chủ ở đất Thủ Chỉ. Trong thời gian làm vua, ông nhiều lần đi hội chư hầu. Năm 648 TCN, Trần Tuyên công qua đời. Ông ở ngôi được 45 năm. Con ông là Quy Khoản lên nối ngôi, tức là Trần Mục công.
1
null
Triệu Huệ (chữ Hán: 兆惠, ; 1708 – 1764), tự Hòa Phủ (和甫), là một đại thần, tướng lĩnh đời Càn Long nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Khởi nghiệp. Ông là người Mãn, thuộc bộ tộc Uya hala (Ô Nhã thị), Chính Hoàng kỳ Mãn Châu. Cha là Phật Tiêu, làm quan đến Đô thống. Xét ra, ông là người cùng bộ tộc với Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu (mẹ của Ung Chính Đế). Năm Ung Chính thứ 9 (1731), Triệu Huệ làm Chương kinh, một chức quan nhỏ phụ trách ghi chép, nhưng là làm việc trong Quân cơ xứ. Từng trải qua các chức vụ Binh bộ Lang trung, Nội các học sĩ, Thịnh Kinh Hình bộ Thị lang. Năm Càn Long thứ 9 (1744), thăng làm Hình bộ Hữu Thị lang. Năm Càn Long thứ 10 (1745) thụ chức Chánh Hoàng kỳ Mãn Châu Phó đô thống. Năm Càn Long thứ 11 (1746), thụ chức Tương Hồng kỳ Hộ quân Thống lĩnh. Năm Càn Long thứ 13 (1748), trong 1 vụ án phiên dịch lầm tiếng Thanh (tức tiếng Mãn), Triệu Huệ bị đàn hặc là kết án quá nhẹ, bị đề nghị cách chức, nhưng được cho lưu nhiệm. Sau đó kiêm lĩnh Hộ bộ Thị lang. Tháng 6, Triệu Huệ đến Kim Xuyên làm Đốc lương vận, rồi dâng sớ bàn việc vận lương, tâu rằng các tướng chỉ có Ô Nhĩ Đăng, Cáp Phàn Long năng nổ, còn lại các hành tỉnh đều phát binh không thật; đề nghị cho Kinh lược Phó Hằng tra xét sự thật. Sau khi quân đội trở về, nhận lệnh tra xét quân nhu. Năm Càn Long thứ 14 (1749), thụ chức Chính Hoàng kỳ Hộ quân Thống lĩnh. Tháng 11, được điều làm Hộ bộ Tả Thị lang. Năm Càn Long thứ 15 (1750), Triệu Huệ đến Sơn Đông bắt bớ những người tham gia sao chép bản sớ giả của Thượng thư Tôn Gia Cam, tạm giữ chức Tuần phủ. Trấn áp bộ tộc Dzungar. Cung ứng hậu cần. Bộ tộc Ööled là bộ tộc mạnh nhất trong các bộ tộc Mông Cổ quy thuận nhà Thanh. Họ được triều Thanh chuyển sang tên gọi Dzungar, mà chữ Hán là Chuẩn Cát Nhĩ ("准噶尔"), để tránh gợi đến những ký ức xung đột Mãn - Mông trong quá khứ; và người Dzungar hưởng quy chế tự trị như một tiểu quốc chư hầu trên lãnh địa riêng của mình. Tuy nhiên, nhà Thanh đang cần một cơ hội để tiêu diệt thế lực hùng mạnh này của thảo nguyên và đưa lãnh địa Mông Cổ vào phạm vi kiểm soát của mình. Năm 1752, hai thủ lĩnh Dzungar là Dawachi (chữ Hán: "達瓦齊", Đạt Ngõa Tề) và Amursana (chữ Hán: "阿睦爾撒納", A Mục Nhĩ Tát Nạp) tranh nhau ngôi vị Hãn. Dawachi thắng thế, tự tuyên bố mình là hãn của Dzungar. Amursana bất phục, khởi binh chống lại, nhưng thất trận, bèn dẫn hơn 2 vạn thủ hạ quy hàng Thanh triều. Nhận thấy đây là cơ hội có một, mặc dù đã công nhận Dawachi là hãn của Dzungar, Càn Long vẫn tiếp nhận Amursana. Năm thứ 18 (1753), Triệu Huệ nhận lệnh đến Tây Tạng phòng bị quân Dawachi. Đến Tạng không lâu, ông dâng sớ xin thay mới chế độ đổi ban của quân Thanh trú phòng: "1000 (binh) tháng 5 năm nay lên đường, tháng 7 đến Tạng; 1000 (binh) tháng 2 năm sau lên đường, tháng 4 đến Tạng". Càn Long phê chuẩn đề nghị này của ông. Năm thứ 19 (1754), Triệu Huệ nhận lệnh làm Hiệp lý Bắc lộ quân vụ, rồi làm Đốc lương vận, chuẩn bị cho quá trình chinh phạt. Năm thứ 20 (1755), Càn Long phong cho Amursana tước vị Thân vương, chức Bắc lộ Phó tướng, cùng một thủ lĩnh Oirat khác là Tsereng, dẫn quân Thanh tấn công lực lượng của Dawachi. Triệu Huệ xin tham gia quân đội chinh phạt, nhưng Càn Long không trả lời. Bấy giờ, bộ lạc của Amursana chăn nuôi ở Uliastai (Ô Lý Nhã Tô Đài), ông nhận lệnh đến đóng quân ở đó. Taiji của người Dzungar là Cát Lặc Tàng Đa Nhĩ Tể hàng, Triệu Huệ nhận lệnh ban cho ông ta gia súc. Tháng 3, quân Thanh tấn công thủ phủ Ghulja và bắt được Dawachi, chiếm Y Lê. Tháng 8, đến lượt Amursana phản Thanh, chiếm Y Lê. Tháng 10, ông nhận lệnh coi sóc toàn bộ đài trạm ở Bắc lộ, duy trì liên lạc giữa Bắc lộ của Thiên Sơn và nội địa. Tháng 11, ông nhận lệnh đến Barkol (Ba Lý Khôn) của Tây lộ làm việc, kiêm coi sóc đài trạm ở Ngạch Lâm Cáp Tất Nhĩ Cát (tên núi, ở phía nam thành phố Ô Tô), nhằm trù bị lương hướng, chuẩn bị thảo phạt Amursana. Bị vây ở Đặc Nột Cách Nhĩ. Tháng giêng năm thứ 21 (1756), nghe tin Định biên hữu phó tướng quân Tát Lạt Nhĩ từ Y Lê trở về, Triệu Huệ tự đến Đặc Nột Cách Nhĩ (hay Đặc Nạp Cách Nhĩ) , cùng ông ta thương nghị việc thảo phạt. Càn Long nghe được rất hài lòng, bèn cho ông sung chức Tham tán đại thần, theo Đạt Nhĩ Đảng A ra trận. Tháng 3, quân Thanh thu phục Y Lê, nhưng lại để sổng Amursana. Nhận lệnh dời từ Ba Lý Khôn đến đóng quân ở Y Lê, tùy nghi chuẩn bị tăng viện cho quân Thanh vẫn còn đuổi bắt Amursana. Tháng 5, triều đình giải chức Định biên hữu phó tướng quân của Trát Lạp Phong A, Triệu Huệ được thụ chức ấy. Trời chuyển lạnh, Đạt Nhĩ Đảng A được lệnh rút về. Bọn Tể tang của các bộ Ách Lỗ Đặc đi theo quân đội bèn mưu làm loạn. Huy bộ Hãn Bayar (Ba Nhã Nhĩ) cướp đi hơn 500 hộ của Trát Cáp Thấm bộ. Xước La Tư bộ Hãn Cát Lặc Tàng Đa Nhĩ Tể tố cáo tội trạng Ba Nhã Nhĩ, nên Triệu Huệ phái Ninh Hạ tướng quân Hòa Khởi đưa hơn 100 người cùng bọn Thổ Lỗ Phiên bộ Tể tang Bá Khắc Mãng A Lý Khắc tập hợp ở Tích Triển, chuẩn bị chinh thảo Ba Nhã Nhĩ. Nhưng bọn Cát Nhĩ Tàng Đa Nhĩ Tể đã sớm tư thông với Ba Nhã Nhĩ. Giữa đường, cháu trai của Cát Nhĩ Tàng Đa Nhĩ Tể là Trát Na Cát Nhĩ Bố cùng bọn Tể tang Ni Mạ, Cáp Tát Khắc Tích Lạt, Đạt Thập Sách Linh và Mãng A Lý Khắc hợp mưu giết chết Hòa Khởi. Triệu Huệ nghe tin, tự đem theo 500 quân, từ Y Lê đi qua thành Tể Nhĩ Cáp Lãng đến Ngạc Lũy Trát Lạp Đồ, trong đêm tối bị Tháp Bản Tập Tái bộ Tể tang Đạt Thập Sách Linh đến tập kích, tuy đẩy lui được địch nhưng thương vong nặng nề. Quân Thanh tiếp tục khổ chiến với phản quân ở Khố Đồ Tề, Đạt Lặc Kỳ. Khi ấy Y Lê đã bị phản quân chiếm mất, ông bèn hướng về Ô Lỗ Mộc Tề mà lui quân. Tháng giêng năm thứ 22 (1757), Triệu Huệ đến được Ô Lỗ Mộc Tề, đẩy lui cuộc tấn công của bọn Cát Lặc Tàng Đa Nhĩ Tể và cháu trai Trát Na Cát Nhĩ Bố. Quân Thanh hết lương thực nên phải ăn thịt ngựa, vừa đi bộ trong tuyết vừa chiến đấu, đến được Đặc Nột Cách Nhĩ thì bị bao vây trùng trùng . Ba Lý Khôn biện sự đại thần Nhã Nhĩ Cáp Thiện sai Thị vệ Đồ Luân Sở soái 800 quân đi cứu viện, ngày thứ 30 thì đến nơi. Triệu Huệ sai Quân hiệu Vân Đa Khắc Đức Lăng Triệt từ trong vòng vây xông ra, phản quân giải vây rút lui. Nhã Nhĩ Cáp Thiện tâu lên tình hình chiến đấu, Càn Long khen ngợi sự dũng cảm của Triệu Huệ, phong làm Nhất đẳng Vũ Nghị bá, thụ Hộ bộ thượng thư, Tương Bạch kỳ Hán quân đô thống, lĩnh Thị vệ nội đại thần. Triệu Huệ có thêm quân của Đồ Luân Sở, quay ra tìm bắt Ba Nhã Nhĩ đến tận đồng bằng sông Mục Lũy, nhưng ông ta đã trốn mất, nên lui về Ba Lý Khôn. Càn Long khen ngợi ông đuổi giặc không nhác, ban cho các thứ đồ ngự là ngọc thiếp , hà bao , tị yên hồ . Diệt chủng Chuẩn Cát Nhĩ. Tháng 3 năm thứ 22 (1757), ông nhận lệnh cùng Định biên tướng quân Thành Cổn Trát Bố chia đường diệt trừ quân Ách Lỗ Đặc. Triệu Huệ quay về cùng bọn Tham tán đại thần Ngạc Thực từ Ngạch Lâm Cáp Tất Nhĩ Cát tiến hành tiễu phạt. Khi ấy Trát Na Cát Nhĩ Bố đã giết Cát Lặc Tàng Đa Nhĩ Tể. Còn Amursana từ Cáp Tát Khắc trộm ngựa trốn về Y Lê, cướp bóc bãi chăn của Trát Na Cát Nhĩ Bố. Triệu Huệ tra xét chứng cứ phản nghịch của những người đứng đầu Hồi bộ ở Thổ Lỗ Phiên là anh em Bố Lạp Ni Đôn và Hoắc Tập Chiêm , nên lệnh cho Tham tán đại thần Phú Đức đuổi bắt Amursana, còn mình đóng quân ở Tể Nhĩ Cáp Lãng để đợi. Càn Long trách ông và Thành Cổn Trát Bố gấp xét Hồi bộ, chậm bắt Amursana, là không biết nặng nhẹ. Triệu Huệ bèn soái quân đi theo Phú Đức lên phía bắc, sai sứ tuyên dụ Tả, Hữu Cáp Tát Khắc, quân tiếp tục tiến đến bờ tây Ngạch Mật Lặc . Phú Đức đến Tháp Nhĩ Ba Cáp Đài, bắt được Ba Nhã Nhĩ cùng nô bộc của ông ta, đóng cũi đưa về kinh sư. Cáp Tát Khắc hãn A Bố Lãi (Ablai Khan) thu lấy ngựa và gia súc của Amursana, ông ta sợ chạy. Người Cáp Tát Khắc bắt cháu trai Đạt Thập Xa Lăng, Tể tang Tề Ba Hãn của ông ta, giao cho Triệu Huệ. Ông đóng cũi bọn chúng đưa về kinh sư. Đài cát Đạt Ngõa Toàn giết Trát Na Cát Nhĩ Bố, các thủ lĩnh Ách Lỗ Đặc thôn tính lẫn nhau, lại thêm dịch bệnh thủy đậu. Triệu Huệ thừa cơ sai các tướng Đồ Luân Sở, Tam Đạt Bảo, Ái Long A đánh bại phản quân Ách Lỗ Đặc, thu hàng cha con Nạp Mộc Kỳ, đưa về kinh sư. Triệu Huệ tiếp tục tiến lên, hợp quân với Phú Đức, dò biết Amursana đã chạy vào Nga La Tư, tâu xin lui quân. Càn Long cho Triệu Huệ thụ chức Định biên tướng quân, muốn ông tiễu phạt Đại, Tiểu Hòa Trác. Triệu Huệ xin đóng đồn làm ruộng ở Ô Lỗ Mộc Tề, đợi đến mùa xuân sẽ ra quân; nếu như không thể thắng trận ngay, thì người ngựa không đến nỗi đói kém. Càn Long trách ông nhút nhát. Tháng giêng năm thứ 23 (1758), Triệu Huệ cho rằng người Ách Lỗ Đặc ở Sa Lạt Bá Lặc có trên vạn hộ, nên tiễu trừ trước, rồi mới tính đến Hồi bộ. Càn Long mệnh cho ông đảm nhiệm việc này. Triệu Huệ cùng bọn Phó tướng quân Xa Bố Đăng Trát Bố phụng mệnh tiêu diệt Ách Lỗ Đặc. Ông chia quân làm 4 lộ: Xa Bố Đăng Trát Bố đi Bác La Tháp Lạp, bọn Phó đô thống Hô Nhĩ Khởi đi Ni Lặc Khách (Ni Lặc Khắc), bọn Thị vệ Đạt Lễ Thiện đi (sông) Tề Cách Đặc, tự mình lĩnh binh đi (núi) Bác La Bố Nhĩ Cát Tô ; cuối cùng hội sư ở Y Lê. Phản quân tan rã bỏ trốn, Triệu Huệ thực hiện chỉ ý của Càn Long, tàn sát quân dân Chuẩn Cát Nhĩ, thiêu hủy toàn bộ tài sản, sinh kế của họ. Người Chuẩn Cát Nhĩ bị giết hoặc chết đói, chết rét, chết bệnh lên đến 7, 8 phần 10, số còn lại chạy thoát sang Nga hay Cáp Tát Khắc . Bình định Hồi bộ. Tiến quân thuận lợi. Càn Long cho rằng bọn thủ lĩnh (nguyên văn: Đầu nhân) Cáp Tát Khắc Tích Lạt, Ngạc Triết Đặc hơn 10 người chưa bị bắt, lệnh cho bọn Triệu Huệ cố gắng hơn nữa. Tháng 4, ông giải Ngạc Triết Đặc đưa về kinh sư, dâng sớ rằng: "Việc Chuẩn Cát Nhĩ sắp xong, xin từ Y Lê dời quân hợp công Hồi bộ." Càn Long vẫn đòi Triệu Huệ bắt bọn Cáp Tát Khắc Tích Lạt. Rồi lại lệnh cho ông đến Khố Xa tra xét việc quân, sau đó về kinh sư. Chiếu chưa đến thì Triệu Huệ đã xuất quân, gặp lúc Nhã Nhĩ Cáp Thiện vây Khố Xa, Hoắc Tập Chiêm đột vây chạy thoát. Càn Long muốn trị tội Nhã Nhĩ Cáp Thiện, cho ông thay làm tướng. Triệu Huệ giữa đường dâng sớ nói: "Đưa 800 người đến Khố Xa, cùng Nhã Nhĩ Cáp Thiện hiệp lực tiễu giặc, không đem bộ mặt hổ thẹn quay về." Càn Long khen ngợi ông là năng nổ, trung thành, ban cho Lông công 2 mắt (Hán việt: song nhãn khổng tước linh). Tháng 10 năm thứ 23 (1758), dò biết Hoắc Tập Chiêm từ Khố Xa chạy vào thành Diệp Nhĩ Khương (sào huyệt của Hoắc Tập Chiêm) cố thủ, bèn soái quân đi bắt. Đến A Khắc Tô, đầu nhân ở đây là Pha Lạp Đặc hàng. Hòa Điền đầu nhân Hoắc Tập Tư khi xưa bắt Đạt Ngõa Tề có công, đến nay cũng xin quy phụ, rồi chiêu dụ Ô Thập đầu nhân cùng hàng, khiến Diệp Nhĩ Khương bị cô lập. Triệu Huệ chỉ có 400 quân, từ Ô Thập đến đây phải đi 1500 dặm, người ngựa đói mệt, tìm chỗ hiểm yếu đóng trại. Hoắc Tập Chiêm ra đánh, 3 lần đều thua, nên không ra nữa. Triệu Huệ sai Phó đô thống Ái Long A đem 800 người chặn Khách Thập Cát Nhĩ (sào huyệt của Bố Lạp Ni Đôn) ngăn trở viện quân của địch, rồi soái quân đến sông Thông Lĩnh Nam bày trận. Thông Lĩnh Nam còn gọi là Khách Lạt Ô Tô, dịch ra tiếng Hán là Hắc Thủy, nên người sau gọi nơi ông bày trận là Hắc Thủy doanh. Bị vây ở Hắc Thủy doanh. Triệu Huệ nghĩ quân ít mà thành lớn, không dốc sức tấn công; dò biết bãi chăn của địch ở núi Anh Nga Kỳ Bàn, bèn soái khinh kỵ đi phá nát chỗ ấy, hòng dụ địch ra ngoài thành mà chiến đấu. 400 kỵ binh vượt Hắc Thủy thì cầu gãy, Hoắc Tập Chiêm đưa mấy ngàn kỵ binh ra đánh, quân Thanh vừa đánh vừa lội sông, ai cũng liều chết chống địch. Sau 5 ngày đêm, các tướng Cao Thiên Hỷ, Ngạc Thực, Tam Cách, Đặc Thông Ngạch đều tử trận. Ngựa của Triệu Huệ ngã lăn ra lần thứ 2, mặt và chân của ông đều bị thương, nên thu quân. Ông cho đào hào, dựng lũy để giữ, quân Hồi cũng đắp lũy giằng co. Bố Lạp Ni Đôn từ Khách Thập Cát Nhĩ đến, giúp Hoắc Tập Chiêm vây khốn quân Thanh. Bọn Tĩnh nghịch tướng quân Nạp Mục Trát Nhĩ đến cứu, giữa đường gặp quân Hồi, đều tử trận. Càn Long trước đó đã gọi Tác Luân, Sát Cáp Nhĩ, Kiện Duệ doanh cùng 6 kỳ binh ở Thiểm, Cam đi giúp Triệu Huệ; nghe tin ông bị vây, vội gọi Phú Đức đi cứu, lại lệnh cho A Lý Cổn tuyển 3000 chiến mã đưa ra tiền tuyến. Triệu Huệ rời khỏi A Khắc Tô, lệnh Thư Hách Đức ở lại. Đến nay Càn Long sai sứ lệnh cho ông ta đem tình hình bị vây tâu lên, lại khen ngợi Triệu Huệ soái quân vào sâu đất giặc, trung thành dũng cảm, tiến phong Vũ Nghị Mưu Dũng nhất đẳng công, ban cho Hồng bảo thạch mạo đính (mũ) và Đoàn long bổ phục (áo). Hoắc Tập Chiêm ở thượng du dẫn nước rót vào doanh quân Thanh, Triệu Huệ ở hạ du đào ngòi để chia sức nước. Hoắc Tập Chiêm lại bắn pháo vào doanh quân Thanh, mà doanh trại này dựa vào rừng bách um tùm, đạn găm vào thân cây, quân Thanh đốn cây làm củi, móc ra được mấy vạn viên, bắn trả lại quân Hồi. Sau 3 tháng, quân Thanh hết lương, phải nấu yên ngựa, hoặc cướp bóc dân Hồi để có cái ăn. Gặp lúc Bố Lỗ Đặc bộ vào cướp Anh Cát Sa Nhĩ (gòn gọi là Anh Cát Tát Nhĩ ), đúng ngày hôm ấy Triệu Huệ soái quân đốt lũy quân Hồi, Bố Lạp Ni Đôn, Hoắc Tập Chiêm ngờ rằng ông và Bố Lỗ Đặc bộ có giao ước, nên sai sứ xin hòa. Triệu Huệ nhân đó bắn thư dụ 2 người quy phục mà vào triều, 2 người bắn thư xin triệt vây để gặp mặt, ông không đáp. Tháng giêng năm thứ 24 (1759), quân Thanh đến cứu viện, giao chiến với quân Hồi. Triệu Huệ thấy ánh lửa ngoài 10 dặm, bụi mù bốc cao thì biết là viện quân đã đến, bèn soái quân phá lũy ra ngoài, gặp được viện quân, rồi quay về A Khắc Tô. Càn Long làm bài phú "Hắc Thủy hành", thuật lại Trận Hắc Thủy, hết lời tán dương Triệu Huệ. Ông dâng sớ từ chối tiến phong và các thứ áo mũ. Càn Long không cho từ chối, còn sai người thăm hỏi mẹ của ông. Trấn áp người Hồi. Tháng 6 năm thứ 24 (1759), Triệu Huệ từ Ô Thập tiến đánh Khách Thập Cát Nhĩ, Phú Đức đi cứu Hòa Điền rồi tiến đánh Diệp Nhĩ Khương. Các thành đều mở cửa ra hàng, anh em Bố Lạp Ni Đôn bỏ trốn. Bọn Triệu Huệ phủ dụ dân chúng, vạch rõ cương giới, định thuế má, đúc tiền tệ, chia quân đội Mãn, Hán đóng đồn phòng thủ. Tháng 7, anh em Bố Lạp Ni Đôn bị giết, Càn Long gia thưởng cho ông phẩm cấp dành cho tước Công của Tông thất, 1 bộ yên, cương mà Càn Long đặc biệt ưa thích, lại cho một con trai của ông làm Tam đẳng thị vệ. Triệu Huệ tiếp tục phủ dụ, an định người Hồi ở 4 thành thuộc về Ngạch Nhĩ Đức Ni Bá Khắc bộ của Hoắc Hãn bộ (Còn gọi là Hạo Hãn bộ) rồi đến các bộ thuộc Bố Lỗ Đặc bộ là Tề Lý Khắc, Ngạch Đức Cách Nạp và A Tể Tất bộ. Tháng 11 năm thứ 24 (1759), Triệu Huệ còn rằng tình hình ở Nam lộ Thiên Sơn vẫn còn chưa yên, cần phải đóng quân nhằm dễ dàng tiến hành đàn áp. Ông xin đóng 1000 quân ở Diệp Nhĩ Khương, đóng 1.000 quân ở Khách Thập Cát Nhĩ, đóng 500 quân ở Anh Cát Sa Nhĩ, cũng đóng quân ở các nơi A Khắc Tô, Ô Thập, rồi lệnh các thành Bá Khắc Luân đổi nhau vào triều kiến. Gia nhập Quân cơ xứ. Tháng 2 năm Càn Long thứ 25 (1760), Triệu Huệ đưa quân về triều, Càn Long Đế ra tận Lương Hương , ở phía nam ngoài thành làm lễ Lao . Triệu Huệ vào yết kiến, được ban Triều châu cùng ngựa tốt, sau đó theo Càn Long Đế về kinh. Trong khi dự tiệc ở vườn Phong Trạch, ông được ban thưởng rất nhiều tiền bạc. Được vẽ tranh treo ở gác Tử Quang. Tháng 7 năm Càn Long thứ 26 (1761), Triệu Huệ làm Hiệp biện Đại học sĩ, kiêm lĩnh Hình bộ. Từ đây ông chính thức là 1 thành viên trong Quân cơ xứ. Tháng 8, ông cùng Đại học sĩ Lưu Thống Huân tra xét việc sông Dương Kiều bị vỡ đê. Năm Càn Long thứ 27 (1762), ông lại cùng Thống Huân tra xét Vận Hà, Giang Nam. Năm Càn Long thứ 28 (1763), Trực Lệ có thủy tai, ông nhận lệnh tra xét hải khẩu, chỉ huy bọn Đồng ngự sử Vĩnh An đào thông suốt đường sông ở các huyện Thiên Tân, Tĩnh Hải, Văn An, Đại Thành. Tháng 12, lại cùng Lưỡng Giang Tổng đốc Doãn Kế Thiện trù hoạch việc đào thông đường sông Kinh Sơn Kiều (còn gọi là Kim Sơn Kiều ). Tháng 11 năm Càn Long thứ 29 (1764), ông mất, thọ 57 tuổi. Càn Long dự lễ tang, tặng Thái bảo, thụy là Văn Tương. Tháng 11 năm Gia Khánh đầu tiên (1796), được thờ cúng trong Thái miếu. Dật sự. Vào kỳ Điện thí năm Càn Long thứ 26 (1761), Triệu Huệ được đặc mệnh làm đại thần đọc Quyển (tức là bài thi). Ông thừa nhận không biết chữ Hán, Càn Long Đế nói rằng các quan đánh chấm tròn lên Quyển, có càng nhiều chấm tròn tức là càng hay. Triệu Huệ chọn Quyển có 9 chấm, là của Triệu Dực, đứng đầu; chọn Vương Kiệt, người Thiểm Tây, đứng thứ 3. Nhưng Thiểm Tây bấy giờ chưa từng có Trạng nguyên, vì thế Càn Long Đế chọn Vương Kiệt đứng đầu, Triệu Dực đứng thứ 3.
1
null
Trong lượng giác, công thức tang góc chia đôi biểu diễn quan hệ giữa các hàm lượng giác của một góc với tang của một nửa góc đó: Phép thế Weierstrass. Trong nhiều bài toán lượng giác, công thức tang góc chia đôi rất có ích trong vi tích phân và bài toán tìm nguyên hàm. Công thức được xây dựng bằng phương pháp hình học như sau: qua điểm (cos φ, sin φ) trên đường tròn đơn vị, kẻ đường thẳng đi qua điểm (−1,0), cắt trục "Oy" tại điểm có tung độ "y" = "t". Có thể chứng minh bằng hình học rằng "t" = tan(φ/2), do đó phương trình của đường thẳng này là "y" = (1 + "x")"t". Điều này cho phép ta viết được các công thức bên dưới theo "t". Ngoài ra tham số "t" còn đại diện cho phép chiếu lập thể của điểm (cos φ, sin φ) lên trục "Oy" với tâm chiếu là (−1,0). Từ đó ta có và formula_4 formula_5 Biến đổi từ các công thức trên, ta có mối liên quan giữa lôgarit tự nhiên và arctang như sau Trong vi tích phân, phép thế Weierstrass được dùng để tìm nguyên hàm của hàm phân thức đối với sin("φ") và  cos("φ"). Sau khi đặt Ta có và do đó Trong hàm hyperbolic. Tương tự đối với hàm hyperbolic, khi chiếu một điểm trên nhánh phải của một hyperbol có tọa độ  (cosh "θ", sinh "θ") lên trục "Oy" qua tâm chiếu (−1, 0) ta có: với và Phép thế này được giới thiệu bởi Karl Weierstrass trong việc tìm nguyên hàm. Các công thức trên khi biến đổi sẽ cho ta mối liên quan giữa lôgarit tự nhiên và arctanh: Hàm Gudermannian. Nếu đặt thì Hàm gd("θ") được gọi là hàm Gudermannian. Hàm Gudermannian cho ta mối quan hệ giữa hàm lượng giác và hàm hyperbolic.
1
null
Chè Tân Cương, hay Trà Tân Cương, là một thương hiệu trà nổi tiếng của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. Thương hiệu trà Tân Cương đã được đăng ký chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam vào tháng 10 năm 2007. Theo đó, chỉ dẫn địa lý "Tân Cương" không chỉ bao gồm phạm vi xã Tân Cương mà còn gồm cả hai xã lân cận là Phúc Xuân và Phúc Trìu. Đặc điểm. Về vẻ bề ngoài, chè Tân Cương có màu xanh đen, xám bạc, cánh chè sau khi chế biến có dặng xoắn, gọn nhỏ, và giòn. Trên bề mặt cánh chè có nhiều phấn trắng. Nước chè rất trong, xanh ngả vàng nhạt như màu cốm non, sánh. Nước chè có vị chát ngọt, dễ chịu, hài hòa, có hậu, gần như không cảm nhận có vị đắng. Mùi chè thơm ngọt, dễ chịu. Chất lượng bao gồm các chỉ tiêu về ngoại hình, màu nước, vị và đặc biệt về mùi thơm của chè Tân Cương không phải xuất phát từ đặc điểm của giống chè mà là kết quả của quá trình chế biến rất tỷ mỷ, công phu. Mùi thơm đặc trưng của chè Tân Cương chủ yếu là mùi thơm do xử lý nhiệt tạo ra. Phân biệt chè ngon. Theo kinh nghiệm truyền thống mà các cụ cao niên xứ trà truyền lại, trà ngon hay không được đánh giá theo bốn tiêu chuẩn gồm: Thanh, Sắc, Vị, Thần. Trà ngon là loại trà có màu nước xanh ánh vàng mật ong (Thanh); cánh cong như móc câu, đều đặn, nhìn thẳng màu đen, nhìn nghiêng thì xanh (Sắc); uống vào có vị đậm đà, bùi, ngầy ngậy, có mùi cốm trong miệng, lúc mới uống có vị chat êm, uống xong có vị ngọt đọng lại rất lâu (Vị); hương thơm quyến rũ, chỉ có ở trà, không thể lẫn vào thức uống nào khác, đem lại sự sảng khoái, thăng hoa cho người thưởng trà (Thần). Sau một ấm trà, người thưởng trà thấy ấm áp trong lòng, tình người thăng hoa, tinh thần sảng khoái, cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát. Lịch sử. Giống chè tại Thái Nguyên được ông Đội Năm, tên thật là Võ Văn Thiệt di thực về vùng này khoảng năm 1920-1922 và vườn chè cổ nay đã 87 tuổi. Điều kiện tự nhiên. Ba xã Tân Cương, Phúc Xuân và Phúc Trìu có tổng diện tích 48,618 km², nằm ở vùng ngoại thành phía tây của thành phố Thái Nguyên, là các xã thuộc vùng trung du bán sơn địa, xen kẽ có nhiều thung lũng hẹp, bằng phẳng; có sông Công chảy qua địa bàn. Ba xã giáp hoặc nằm gần hồ Núi Cốc và nằm ở phía đông của dãy núi Tam Đảo. Về đất đai, đất ở Tân Cương được cho là có chứa những nguyên tố vi lượng với tỷ lệ phù hợp thuộc quyền đặc hữu của cây chè, được hình thành chủ yếu trên nền Feralitic, macma axít hoặc phù sa cổ, đá cát; có độ pH phổ biến từ 5,5 đến dưới 7,0, thuộc loại đất hơi bị chua. Về khí hậu, vùng tiểu khí hậu phía Đông dãy núi Tam Đảo cao trên dưới 1.000m so với mực nước biển được cho là điều kiện lý tưởng cho phẩm chất chè được hoàn thiện.. Các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến yếu tố bức xạ nhiệt tại khu vực, tổng bức xạ nhiệt là 122,4 kcal/cm2/năm, trong đó lượng bức xạ hữu hiệu là 61,2 kcal/cm2/năm đếu thấp hơn so với chè khác, và đây chính là yếu tố quyết định đến chất lượng trà Tân Cương Thái Nguyên. Trồng và thu hái. Thái Nguyên là tỉnh có diện tích trồng chè lớn thứ hai tại Việt Nam. Từ năm 2005 đến năm 2010, diện tích trồng chè tại xã Tân Cương tăng từ 400 ha lên 450 ha. Sản lượng búp khô đạt trên 1.100 tấn/năm. Năm 2010, tổng giá trị từ cây chè đạt trên 70 tỷ đồng, chiếm 79% GDP của xã. Giá trị thu nhập từ cây chè đạt 120 triệu đồng/ha/năm, có nhiều hộ thu nhập từ 350 đến 400 triệu đồng/ha/năm. Thu nhập bình quân đầu người đạt 15,2 triệu đồng/năm. Người trồng chè tại Tân Cương thói quen sử dụng phân hữu cơ chăm bón cho cây chè. Họ hái chè rất non, phần lớn hái búp chè một tôm 2 lá, cả khi hái đến lá thứ 3, lá chè cũng rất non nhưng khi mang về đề chế biến, họ vẫn tách riêng lá thứ 3 để chọn lấy búp 1 tôm 2 lá nhằm đảm bảo chất lượng của sản phẩm. Chế biến, tiêu thụ. Trà Thái Nguyên nói chung và trà Tân Cương nói riêng chủ yếu vẫn được chế biến theo phương pháp thủ công, truyền thống theo quy mô hộ gia đình. Sau khi được hái, chè sẽ được bảo quản tốt và không để dập nát rồi được đưa ngay vào xưởng hay nhà máy để chế biến. Trong thời gian chờ đợi, búp chè sẽ được rũ tơi và rải đều trên các nong bằng tre, quá trình này được gọi là "quá trình héo lá chè". Sau đó chè sẽ được đưa đi xào diệt men, và trong quá trình này, phải có sự đồng đều giữa lượng nhiệt ở đáy chảo và lượng nguyên liệu, đảo đều và nhịp nhàng. Nếu thực hiện quá trình xáo diệt men đúng quy trình, nước sẽ thoát ra khỏi lá chè đều và toàn bộ lá chè trở nên mềm dẻo và không bị quá khô hay quá ướt, là chè vẫn giữ được màu xanh. Sau đó, chè sẽ lại được tại ra nong thành lớp mỏng để làm nguội và sau đó lại tiếp tục đến công đoạn vò. Quá trình vò được thực hiện rất cẩn thận để lá chè xuăn chặt mà các tế bào ít bị dập. Sau khi vò xong, chè được đưa đi sao để làm khô, số lần sao và thời gian sao tùy thuộc yêu cầu của chất lượng chè sản phẩm. Thông thường chè được sao từ 2 đến 4 lần. Hoạt động quảng bá thương hiệu. Tại lễ hội Văn hóa trà Đà Lạt, Lâm Đồng 2006, có năm mẫu trà nhãn hiệu Tân Cương của Thái Nguyên đứng ở Top 10 và được trao cúp vàng chất lượng. Ngoài việc đăng ký chỉ dẫn địa lý, chính quyền Thái Nguyên cũng đã thúc đẩy ngành trà trong tỉnh nói chung và trà Tân Cương nói riêng thông qua việc tổ chức Festival trà Quốc tế lần đầu tiên tại Thái Nguyên vào năm 2011, trong đó có riêng một "không gian văn hóa Trà Tân Cương".
1
null
Natri myreth sunfat là một hỗn hợp hợp chất hữu cơ với cả hai thành phần tẩy rửa và hoạt động bề mặt. Công thức hóa học của hợp chất là CH3(CH2)12CH2(OCH2CH2)nOSO3Na. Nó được tìm thấy trong nhiều loại sản phẩm chăm sóc cá nhân như: xà phòng, dầu gội đầu và kem đánh răng. Đây là một chất tạo bọt rẻ và hiệu quả. Natri myreth sunfat chứa nhiều hợp chất có gần giống với các loại chất giặt rửa khác. Đôi khi số đơn vị ete của etylen glycol (n) được ghi rõ trong tên như myreth-n sunfat, ví dụ myreth-2 sunfat. Sản xuất. Natri myreth sunfat rất giống với natri laureth sunfat; sự khác biệt duy nhất là có thêm hai nguyên tử cacbon trong phần alcohol no của đuôi kị nước. Nó được sản xuất bằng phương pháp etoxi hóa (vì thế nên có đuôi "eth" trong "myreth") alcohol myristylic. Sau đó nhóm OH cuối bị chuyển thành gốc sunfat khi xử lý với axit closunfuric. An toàn. Như các etoxilat khác, natri myreth sunfat có thể trở nên gây ô nhiễm với 1,4-đioxan trong khi sản xuất, được xem là chất nghi ngờ gây ung thư nhóm 2B bởi Cơ quan Nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC). Tuy nhiên, ở nồng độ cho phép, hợp chất này được xem là không độc hại và không gây ăn mòn da.
1
null
Junonia hierta là một loài bướm ngày thuộc họ Bướm giáp được tìm thấy ở Cựu nhiệt đới giới. Nó sinh sống ở môi trường thảo nguyên và cây bụi mở. Khu vực phân bố ở châu Phi và Đông Nam Á. Ấu trùng có màu nâu tối như mặt đất hoặc xám. Nhộng màu hơi đỏ.
1
null
"Black Jesus † Amen Fashion" là một ca khúc của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Lady Gaga trích từ bản đặc biệt album phòng thu thứ hai của cô, "Born This Way" (2011). Cùng với sự phát hành của album, "Black Jesus † Amen Fashion" ra mắt tại vị trí thứ 172 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart vào 4 tháng 7 năm 2011, và vị trí thứ 22 trên Spanish Singles Chart vào 9 tháng 9 năm 2011. Theo Gaga, lời của ca khúc nói về những suy nghĩ mới mẻ của cô khi cô chuyển đến sống tại trung tâm của New York khi cô chỉ mới tròn 19 tuổi. Bối cảnh và thu âm. "Black Jesus † Amen Fashion" được đồng sáng tác và đồng sản xuất bởi Lady Gaga và DJ White Shadow. Gaga giải thích các ý nghĩa đằng sau lời bài hát, cô nói rằng nó là "đại diện của một phong cách sống hoàn toàn mới", mà là dựa trên những sự việc mà cô chứng kiến khi sống tại New York City. Cô nói tiếp, rằng "Tất cả là về một cách suy nghĩ mới mẻ, dễ dàng y như khi mặc lên người một bộ quần áo thôi". Thực hiện. "Black Jesus † Amen Fashion" được viết và sản xuất bởi DJ White Shadow và Lady Gaga. Danh sách ca khúc. Born This Way: Bản Đặc biệt Born This Way: The Remix Xếp hạng. Cùng với sự phát hành của album, "Black Jesus † Amen Fashion" ra mắt tại vị trí thứ 172 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart vào 4 tháng 7 năm 2011. Vào 9 tháng 9 năm 2011, ca khúc đạt vị trí thứ 22 trên Spanish Singles Chart.
1
null
Natri dehydroacetat là một hợp chất hữu cơ có công thức Na(CH3C5HO(O2)(CH3)CO). Nó là muối natri của axit dehydroacetic, là một dẫn xuất của axit acetic. Hợp chất này chủ yếu tồn tại dưới dạng bột màu trắng. Nó có số E là "E266". Ứng dụng. Natri dehydroacetat được dùng làm chất diệt nấm, làm dẻo, kem đánh răng, chất bảo quản trong thực phẩm.
1
null
Natri thiometoxit hay natri metanthiolat (CH3SNa, viết tắt: MeSNa) là muối natri base liên hợp của metanthiol. Hợp chất này có mặt trên thị trường dưới dạng bột trắng, tan tốt trong nước. Nó là chất nucleophin mạnh có thể dùng để điều chế các thiometyl ete. Nó thủy phân trong không khí ẩm sinh ra metanthiol, có mùi nhẹ và độc.
1
null
Trận Schleswig hay Trận Slesvig, còn gọi là Trận Dannevirke là trận đánh thứ hai của cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất, diễn ra vào ngày lễ Phục Sinh 23 tháng 4 năm 1848 giữa Quân đội Phổ và quân Schleswig – Holstein do tướng Phổ là Friedrich von Wrangel thống lĩnh với Quân đội Đan Mạch do Đại tá Frederik Læssøe chỉ huy. Sau một cuộc giao chiến ác liệt, quân Phổ và quân Schleswig – Holstein, với lợi thế lớn về quân số, đã đánh tan tành quân Đan Mạch, buộc đối phương phải rút lui. Chiến thắng toàn diện này đã tạo điều kiện cho quân đội Đức chiếm lĩnh hầu hết vùng Schleswig. Mặt khác, quân đội Đan Mạch vẫn còn tồn tại, dù rằng nhiều thương binh Đan Mạch đã chết sau chiến bại này. Đây là thời khắc để quân Schleswig - Holstein rửa hận cho thất bại của mình trong trận Bov. Quân đội Phổ - vốn chỉ vừa mới tham chiến về phía Schleswig - Holstein, đã cùng với quân Schleswig - Holstein tiến công quân Đan Mạch buổi sáng lạnh lẽo hôm ấy. Mặc dù không trực tiếp tham gia trận chiến, sự hiện diện của một đoàn quân Liên minh các quốc gia Đức đã buộc quân Đan Mạch phải cố thủ. Quân Đan Mạch đã khôn khéo chống trả trước sức tấn công của quân Đức trong trận đánh này. Sau khi buộc đội tiền quân Đan Mạch phải thoái lui, Tướng Wrangel hạ lệnh cho quân cánh trái của ông tiến về hướng Tây, song một số đơn vị của cánh quân này đã thẳng tiến trước khi chỉ huy cánh quân này phát lệnh và giao tranh với quân Đan Mạch tại Bustrup. Đồng thời, Wrangel quyết định tấn công cao điểm về hướng Bắc Bustrup và ông ra lệnh cho quân cánh trái quay lại, song chỉ một phần của cánh quân này là nhận được lệnh. Quân Đan Mạch đã tổ chức phản công, và bất ngờ đội hậu quân cánh trái của Phổ đánh tan tác quân Đan Mạch. Về phía Đông, quân Phổ đã chiếm được Erdbeerenberg và cuộc giao chiến diễn ra ác liệt ở một số vị trí, và cuối cùng quân Đan Mạch phải tiến hành rút lui. Quân Đức đã đột chiếm được tuyến phòng thủ Dannevirke của đối phương. Trận đánh này đã gây ra tâm trạng thất vọng của người Đan Mạch đối với cuộc chiến tranh, trái ngược với thái độ lạc quan tại Copenhagen hồi tháng 3 năm 1848. Đồng thời, trận chiến Schleswig cũng được xem là một bước ngoặt thuận lợi cho đoàn quân Phổ trong chiến dịch này. Quân Đức trong trận chiến này chịu thiệt hại là 461 người, trong khi thiệt hại của phía Đan Mạch là 891 người. Với việc quân đội Đan Mạch phải triệt thoái về hòn đảo Funen, quân đội Phổ dưới quyền tướng Wrangel đã chiếm giữ Jutland. Trận Schleswig đã tạo cảm hứng cho tác giả Carl Ploug sáng tác một bài hát về trận chiến này, "Passkeklokken kimed mildt..." (xem nguyên văn tại đây) Bối cảnh lịch sử. Trong cuộc cuộc chiến tranh ly khai kéo dài ba năm, Schleswig - Holstein được Vương quốc Phổ, Đế quốc Áo và Liên minh các quốc gia Đức ủng hộ đã chống lại Đan Mạch. Không những là vua Đan Mạch, Frederik VII còn là Công tước của Công quốc Schleswig-Holstein nhỏ bé của người Đức, mà người Đan Mạch xem là một phần của nước họ.
1
null
Sông Darling (tiếng Anh: "Darling River") là sông dài thứ ba tại Australia, với chiều dài từ nguồn ở phía bắc New South Wales đến điểm hợp lưu với sông Murray tại Wentworth, New South Wales. Nếu tính theo các chi lưu liền kề dài nhất thì tổng chiều dài hệ thống sông là , khiến nó trở thành hệ thống sông dài nhất tại Australia. Sông Darling là tuyến đường thủy nổi tiếng nhất của vùng hẻo lánh nước Úc.. Lịch sử. Đầu nguồn thuộc Queensland của sông Darling đã dần bị thuộc địa hóa từ năm 1815. Năm 1828, các nhà thám hiểm Charles Sturt và Hamilton Hume đã được Thống đốc New South Wales là Ralph Darling cử đi, nhiệm vụ là khảo sát dòng chảy của sông Macquarie. Họ đã phát hiện ra sông Bogan và đến đầu năm 1829, họ đã tiếp cận vùng thượng du sông Darling, và sông được đặt theo họ của Thống đốc. Năm 1835, thiếu tá Thomas Mitchell đã đi 483 km dọc sông Darling. Ông cùng những người đi cùng đã không bao giờ tiếp cận được điểm hợp lưu giữa sông Darling và sông Murray mặc dù đã nhận định một cách chính xác. Năm 1856, Blandowski Expedition bắt đầu lên đường đến điểm hợp lưu giữa sông Darling và Murray để khám phá và sưu tập các loài cá cho Bảo tàng Quốc gia. Chuyến thám hiểm là một thành công với 17.400 mẫu vật đã được đưa đến Adelaide vào năm sau. Mặc dù dòng chảy của sông Darling không theo quy luật, vào cuối thế kỷ 19, Darling đã trở thành một tuyến giao thông chính, những người chăn nuôi gia súc ở miền tây New South Wales đã sử dụng dòng sông là gửi len của họ bằng các tàu hơi nước từ các cảng sông nhộn nhịp như Bourke và Wilcannia đến các ga đầu cuối tại Nam Australia Morgan và Murray Bridge. Nhưng trong thế kỷ vừa qua, tầm quan trọng về vận chuyển đường thủy của sông đã suy giảm. Năm 1992, sông Darling đã phải hứng chịu nạn tảo lam nghiêm trọng trải dài suốt chiều dài của sông. Sự hiện diện của Phosphor là yếu tố để tảo độc phát triển. Tốc độ chảy, sự nhiễu loạn, độ đục và nhiệt độ là các yếu tố khác góp phần vào sự kiện này. Dòng chảy. Toàn bộ hệ thống sông Murray-Darling, một trong những hệ thống sông lớn nhất thế giới, thoát nước cho toàn bộ lãnh thổ New South Wales ở phía tây Great Dividing Range, nhiều phần ở bắc Victoria và nam Queensland và một số phần của Nam Úc. Dòng chảy quanh co của sông dài hơn ba lần so với khoảng cách trực tiếp mà nó đã chảy qua. Phần lớn vùng đất mà sông Darling chảy qua là các vùng đồng bằng và do đó tương đối bằng phẳng, có độ dốc trung bình 16 mm mỗi km. Theo quan điểm chính thức thì sông Darling bắt đầu giữa Brewarrina và Bourke tại điểm hợp lưu giữa Culgoa và Barwon; các chi lưu này bắt nguồn từ các dãy núi ở phía nam của Queensland và phía bắc New South Wales ở phía tây Great Dividing Range. Phía đông nam của Broken Hill, các hồ Menindee từng được nối với sông Darling qua một sông ngắn. Kế hoạch hồ Menindee đã làm giảm tần suất ngập lụt tại các hồ Menindee. Do vậy có khoảng 13.800 ha Muehlenbeckia florulenta và 8.700 ha Eucalyptus largiflorens đã bị phá hủy. Các đập nước và dòng chảy thấp đã làm phân khúc hệ thống sông và cản trở các loài cá di chuyển. Sông Darling chảy theo hướng nam-tây nam, từ vùng Viễn Tây của New South Wales, đến nơi hợp lưu với sông Murray ở ranh giới New South Wales - Victoria tại Wentworth, New South Wales. Xa lộ Barrier tại Wilcania, xa lộ Silver City tại Wentworth và tuyến đường sắt Broken Hill tại Medindee, tất cả đều phải vượt qua sông Darling. Phần sông ở phía bắc Menindee là ranh giới của vườn quốc gia Kinchega. Phản ứng lại với trận lụt sông Murray 1956 một đập nước đã được xây dựng tại Menindee để làm dịu bớt dòng chảy từ sông Darling. Phía bắc của sông Darling là vùng sinh thái xavan ôn đới Đông Nam Úc và ở phía tây nam của Darling là một phần của vùng sinh thái vùng lõm Murray Darling. Các trung tâm dân cư. Các điểm định cư chính dọc theo sông Darling gồm Brewarrina, Bourke, Louth, Tilpa, Wilcannia, Menindee, Pooncarie và Wentworth. Wentworth là cảng nội địa bận rộn nhất Australia vào cuối thập niên 1880. Việc đi lại bằng tàu hơi nước đến Brewarrina đã lần đầu tiên thành công vào năm 1859. Brewarrina cũng là nơi gặp gỡ liên bộ lạc của những người Australia bản địa nói tiếng Darling và sinh sống trong lưu vực sông. Các bẫy cá cổ xưa trên sông đã cung cấp thực phẩm cho các thổ dân trong các dịp lễ. Những công cụ này được ước tính đã hơn 40.000 năm tuổi và đồ vật do con người tạo ra lâu đời nhất trên hành tinh.
1
null
Chi Cá lăng, tên khoa học Hemibagrus, là một chi cá da trơn (bộ Siluriformes) thuộc họ Cá lăng (Bagridae). Các loài trong chi "Hemibagrus" sinh sống trong khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ và Hoa Nam. Chúng được tìm thấy trong các lưu vực các con sông phía đông sông Hằng-sông Brahmaputra cũng như phía nam sông Dương Tử, và sự đa dạng loài lớn nhất có trong khu vực Sundaland. Chi này chứa các loài cá da trơn có kích thước lớn. "H. wyckioides" là loài cá lăng to lớn nhất tại miền trung Đông Dương và có thể nặng tới 80 kg. Nó bao gồm các loài với đầu bẹp, các tấm khiên đầu nhăn nheo không được da che phủ, và các vây béo khá dài. Tại Đông Nam Á, các loài cá lăng của chi "Hemibagrus" là một nguồn cung cấp protein động vật quan trọng. Loài đã tuyệt chủng, "H. major", được tìm thấy ở dạng hóa thạch có trong hệ động vật ao hồ thuộc thế Miocen trong khu vực ngày nay là Ban Nong Pia, tỉnh Phetchabun, Thái Lan. Các loài. Hiện tại người ta công nhận 45 loài thuộc chi này:
1
null
Rita rita (tên thường gọi: Rita (tiếng Anh), রিঠা (Bengal)) là một loài cá thuộc Họ Cá lăng. Loài cá này phân bố ở Afghanistan, Bangladesh, Ấn Độ, Myanmar, Nepal và Pakistan. Nó là một trong các loài lớn của chi, phát triển đến chiều dài 150 cm. R. rita là một cá ăn thịt, phần lớn trong chế độ ăn uống của nó bao gồm các động vật thân mềm. Ngoài ra, nó ăn cá nhỏ, động vật giáp xác, côn trùng, cũng như các chất hữu cơ phân hủy.
1
null
Fiat CR.42 "Falco" ("Falcon", số nhiều:"Falchi") là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh, được trang bị chủ yếu cho "Regia Aeronautica" (không quân Ý) trước và trong Chiến tranh Thế giới II. Máy bay do hãng Fiat Aviazione tại Turin chế tạo, được đưa vào trang bị số lượng nhỏ cho không quân Bỉ, Thụy Điển và Hungary. Trên 1.088 chiếc được chế tạo, đây là loại máy bay được sản xuất nhiều nhất của Italy tham gia vào Chiến tranh thế giới II. Fiat CR.42 là máy bay tiêm kích hai tầng cánh cuối cùng của Fiat được đưa vào trang bị cho các đơn vị ở tuyến đầu làm máy bay tiêm kích. Tình báo của không quân Anh đánh giá đấy là loại máy bay có khả năng cơ động đặc biệt và nhấn mạnh rằng "máy bay vô cùng mạnh mẽ." Hiệu năng của CR.42 được thể hiện tốt trong biên chế của Không quân Hungary ở Mặt trận phía Đông.
1
null
Bắt nạt là hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng ép, hoặc đe dọa gây tổn thương, ngược đãi, dọa dẫm hoặc chi phối gây hấn đối phương. Hành vi thường có tính chất lặp lại và theo thói quen. Điều kiện tiên quyết cốt lõi là sự nhận thức (của người bắt nạt hoặc của những người khác) về sự mất cân bằng sức mạnh thể chất hoặc quyền lực. Sự mất cân bằng này phân biệt bắt nạt với xung đột. Bắt nạt là một phạm trù con của hành động gây hấn, đặc trưng bởi ba tiêu chí sau: (1) ý định thù địch, (2) mất cân bằng quyền lực và (3) lặp lại trong một khoảng thời gian. Bắt nạt là hành động gây hấn có tính lặp đi lặp lại nhằm gây tổn thương cho các cá nhân khác về mặt thể chất, tinh thần hoặc cảm xúc. Bắt nạt có phạm vi từ bắt nạt cá nhân, một đối một cho đến bắt nạt nhóm (hay còn gọi là bắt nạt tập thể), trong đó bên bắt nạt có thể có một hoặc nhiều "kẻ thế vai" sẵn sàng hỗ trợ kẻ bắt nạt chính trong những hoạt động bắt nạt của họ. Bắt nạt ở trường và công sở cũng được xem là "ngược đãi người đồng trang lứa". Robert W. Fuller đã phân tích bắt nạt nằm trong phạm trù của chủ nghĩa xếp hạng. Nhà nghiên cứu người Na Uy-Thụy Điển Dan Olweus cho rằng bắt nạt xảy ra khi một người "bị đặt vào những hành động tiêu cực, hết lần này đến lần khác bởi một hoặc nhiều người khác", và nhận định rằng những hành động tiêu cực xảy ra "khi một người cố ý gây tổn thương hoặc gây khó chịu cho người khác thông qua tiếp xúc thân thể, bằng lời nói hoặc những cách thức khác". Bắt nạt cá nhân thường đặc trưng bởi một người có lối hành xử nhất định nhằm đoạt lấy quyền lực trước người kia. Văn hóa bắt nạt có thể phát triển trong bất kì hoàn cảnh nào mà nhân loại tương tác với nhau. Tức là nó có thể hiện hữu ở trường học, gia đình, công sở, ngôi nhà và hàng xóm. Không gian bắt nạt chính trong nền văn hóa đương đại nằm trên các trang web mạng xã hội. Trong một nghiên cứu năm 2012 của các nam cầu thủ bóng bầu dục Mỹ ở độ tuổi vị thành niên, "phép dự đoán [bắt nạt] tốt nhất là nhận thức xem liệu người đàn ông giàu ảnh hưởng nhất trong cuộc đời của một cầu thủ có tán thành hành vi bắt nạt không." Một nghiên cứu về sức khỏe thiếu nhi và trẻ vị thành niên của "The Lancet" vào năm 2019 cho thấy mối liên hệ giữa việc các bé gái sử dụng mạng xã hội và việc gia tăng khả năng họ bị bắt nạt. Bắt nạt có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tại Liên hiệp Anh, không có định nghĩa hợp pháp về bắt nạt, trong khi một vài bang ở Mỹ có luật chống lại nó. Bắt nạt được chia làm 4 loại hình ngược đãi cơ bản: tâm lý (đôi khi gọi là cảm xúc hoặc quan hệ), lời nói, thể chất và trên mạng. Những hành vi được dùng để giành lấy sức chi phối như vậy gồm có hành hung hoặc cưỡng bức, quấy rối bằng lời nói hoặc đe dọa, và những hành vi ấy có thể nhắm vào các mục tiêu cụ thể lặp lại nhiều lần. Đôi khi những lý giải cho hành vi ấy gồm có sự khác biệt về giai cấp xã hội, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, khuynh hướng tình dục, ngoại hình, hành vi, ngôn ngữ cơ thể, cá tính, danh tiếng, dòng dõi, sức khỏe, kích cỡ hoặc khả năng. Nếu bắt nạt được thực hiện bởi một nhóm người thì gọi là bắt nạt tập thể. Thuật ngữ. Từ tiếng Anh của bắt nạt là "bully" lần đầu được sử dụng ở thập niên 1530, có nghĩa là "người yêu" (áp dụng cho nam hoặc nữ) có nguồn gốc từ "boel" trong tiếng Hà Lan ("tình nhân, anh em"), có thể nhẹ hơn từ "anh em" "buole" trong tiếng Thượng German Trung Cổ vốn có nguồn gốc chưa rõ ràng (so với từ German "tình nhân" "buhle"). Ý nghĩa của từ bị làm xấu đi ở thế kỉ 17 thông qua "bạn đồng chí tốt", "kẻ dọa nạt" cho đến "kẻ quấy rối kẻ yếu". Đây có thể là ý nghĩa liên hệ giữa "tình nhân" và "côn đồ" như trong "người bảo vệ gái điếm", tức là "bắt nạt" (mặc dù không được chứng thực cụ thể cho đến năm 1706). Động từ "to bully" (bắt nạt) lần đầu được chứng thực vào năm 1710. Trong quá khứ, trong văn hóa Mỹ, thuật ngữ đã được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, giống như một tiếng kêu/hô hào, đặc biệt nổi tiếng gắn liền với Theodore Roosevelt và tiếp tục cho đến ngày nay trong bục giảng bắt nạt, là từ do Roosevelt đặt ra và còn giống như một lời khen mờ nhạt/phản kháng ("bully for him"). Loại hình. Bắt nạt được hội đồng văn học phân làm các loại hình khác nhau. Chúng có thể ở dạng hành vi phi ngôn ngữ, bằng lời nói hoặc thể chất. Một phép phân loại nữa dựa trên những thủ phạm hoặc những người dính líu tới, vì thế các loại hình gồm có bắt nạt cá nhân và tập thể. Còn một cách giải thích khác cũng chỉ ra bắt nạt cảm xúc và quan hệ ngoài việc gây tổn hại thể chất với người khác hay thậm chí là tài sản. Ngoài ra, hiện tượng phổ biến hơn thời gian gần đây gọi là bắt nạt trên mạng. Bắt nạt thể chất, bằng lời nói và quan hệ phổ biến nhất ở trường tiểu học và còn có thể bắt đầu sớm hơn, đồng thời tiếp tục tái diễn trong những giai đoạn sau của cuộc đời con người. Cá nhân. Những thủ đoạn bắt nạt cá nhân do chỉ một người thực hiện nhằm vào một hoặc nhiều đối tượng. Bắt nạt cá nhân có thể được phân làm bốn loại dưới đây: Thể chất. Bắt nạt thể chất là loại bắt nạt làm tổn thương cơ thể của ai đó hoặc làm hư hại tài sản của họ. Trộm cắp, xô đẩy, đánh nhau và cố ý phá hoại tài sản của người khác là những loại bắt nạt thể chất. Hiếm khi bắt nạt thể chất là dạng bắt nạt đầu tiên mà nạn nhân phải trải qua. Thường thì bắt nạt sẽ bắt đầu ở dạng khác và sau đó tiến tới bạo lực thể chất. Trong bắt nạt thể chất, vũ khí bắt nạt chính mà kẻ bắt nạt sử dụng là cơ thể của anh/cô ta, hoặc một vài bộ phận (tay hay chân); hoặc dùng một vật làm vũ khí tấn công đối tượng của anh/cô ta. Đôi khi những nhóm thanh niên mới lớn sẽ nhắm đến và xa lánh một đứa bạn đồng trang lứa vì một vài định kiến của tuổi vị thành niên. Điều này có thể dẫn tới tình huống chúng bị bạn bè cùng lớp chế nhạo, tra tấn và đánh đập. Bắt nạt thể chất thường leo thang theo thời gian và có thể dẫn tới một kết cục tai hại, thậm chí gây chết người, do đó nhiều người cố ngặn chặn nó thật sớm để ngăn cản vụ việc leo thang hơn nữa. Bằng lời nói. Bắt nạt bằng lời nói là một trong những kiểu bắt nạt phổ biến nhất. Đây là loại bắt nạt được thực hiện bằng lời nói, sử dụng giọng nói khác và không có bất cứ dính dáng gì đến thể chất. Bắt nạt bằng lời nói gồm những hình thức sau: Trong bắt nạt bằng lời nói, vũ khí chính mà kẻ bắt nạt sử dụng là lời nói. Trong nhiều trường hợp, bắt nạt bằng lời nói phổ biến ở cả hai giới, nhưng các bé gái thường thực hiện hành vi ấy hơn. Nói chung, các bé gái thường lăng mạ tinh vi hơn các bé trai. Các bé gái sử dụng bắt nạt bằng lời, cũng như những kỹ thuật loại trừ quan hệ, nhằm thống trị và kiểm soát những người khác, thể hiện quyền lực và sức trội của họ. Tuy nhiên, cũng có nhiều bé trai sử dụng những kỹ thuật ngôn từ đủ khôn khéo để thống trị, và cả những bé trai tập sử dụng những câu từ mà họ muốn tránh rắc rối có thể xảy đến khi bắt nạt thể chất với người khác. Quan hệ. Bắt nạt quan hệ (đôi khi gọi là công kích xã hội) là loại bắt nạt sử dụng các mối quan hệ để gây tổn hại những người khác. Thuật ngữ cũng chỉ bất kì hình thức bắt nạt nào được thực hiện với ý định gây tổn hại danh tiếng hoặc địa vị xã hội của người khác (có thể liên quan đến những kĩ thuật đã nêu trong bắt nạt thể chất và bằng lời nói). Bắt nạt quan hệ là dạng bắt nạt phổ biến ở thanh thiếu niên, nhưng đặc biệt là với các bé gái. Loại trừ xã hội (khinh thường hoặc làm người ta cảm thấy "bị bỏ rơi") là một trong những kiểu bắt nạt quan hệ thông dụng nhất. Bắt nạt quan hệ có thể được những kẻ bắt nạt dùng làm công cụ để nâng cao địa vị xã hội của họ và kiểm soát những người khác. Không giống như bắt nạt thể chất vốn thể hiện rõ ràng, bắt nạt quan hệ không công khai và có thể tiếp diễn một thời gian dài mà không bị chú ý tới. Bắt nạt trên mạng. Bắt nạt trên mạng là sử dụng công nghệ để quấy rối, đe dọa, gây xấu hổ hoặc nhắm vào người khác. Khi một người lớn có liên can, nó có thể trở thành định nghĩa của quấy rối trên mạng hay theo dõi trên mạng, một tội hình sự có thể dẫn tới những hậu quả pháp lý và đi tù. Những hình thức bắt nạt trên mạng có thể là sử dụng email, nhắn tin tức thời, các website mạng xã hội (như Facebook), nhắn tin văn bản, gọi điện thoại di động. Bắt nạt trên mạng được cho là phổ biến hơn là trường cấp hai hơn là trường tiểu học. Tập thể. Những thủ đoạn bắt nạt tập thể được nhiều cá nhân sử dụng để nhắm vào một hoặc nhiều đối tượng. Bắt nạt tập thể còn được biết tới là bắt nạt nhóm và có thể gồm bất kỳ loại bắt nạt cá nhân. Hành vi troll trên mạng xã hội (mặc dù thường được độc giả xem là hành vi cá nhân) đôi khi được thực hiện bởi những người được tài trợ ngầm. Bắt nạt nhóm. Bắt nhóm thường chỉ hành vi bắt bạt một cá nhân bởi một nhóm theo bất kì hoàn cảnh nào, như một gia đình, nhóm bạn bè, trường học, công sở, hàng xóm, cộng đồng hoặc trực tuyến. Khi nó xảy ra dưới dạng ngược đãi cảm xúc tại nơi công sử (ví dụ như bị "bao vây" bởi những đồng nghiệp, cấp trên hoặc sếp để ép người ta ra khỏi nơi làm việc thông qua tin đồn, nói bóng gió, hăm dọa, làm nhục, làm mất thể diện và cô lập, nói chung đó là hành vi quấy rối ác ý, phi giới tính, phi chủng tộc/chủng tộc. Đặc điểm. Của những kẻ băt nạt và đồng bọn. Những nghiên cứu chỉ ra đố kị và oán giận có thể là động cơ của bắt nạt. Nghiên cứu về lòng tự trọng của những kẻ bắt nạt đã cho ra đời những kết quả không rõ ràng. Trong khi một vài kẻ bắt nạt thường kiêu ngạo và ái kỷ, chúng cũng có thể dùng bắt nạt như một công cụ để che giấu nỗi xấu hổ hoặc lo âu, hoặc để tăng lòng tự trọng của bản thân bằng cách hạ thấp người khác, khiến kẻ ngược đãi cảm thấy quyền lực hơn. Những kẻ bắt nạt có thể bắt nạt vì đố kị hoặc vì chính chúng bị bắt nạt. Nhà tâm lý học Roy Baumeister khẳng định rằng những người dễ có hành vi lăng mạ thường tỏ ra tự mãn nhưng mang cái tôi mỏng manh. Vì họ nghĩ quá nhiều tới bản thân, họ thường bị xúc phạm bởi những lời chỉ trích và thiếu tôn trọng của người khác, rồi phản ứng sự thiếu tôn trọng này bằng bạo lực và lăng mạ. Những nhà nghiên cứu còn nhận diện những nhân tố rủi ro khác như sầu muộn và rối loạn nhân cách, cũng như dễ nổi cáu và sử dụng vũ lực, chứng nghiện các hành vi gây hấn, lầm tưởng hành động của người khác là đối địch, quan tâm gìn giữ hình ảnh bản thân và dính líu tới những hành động ám ảnh hoặc cứng nhắc. Sự kết hợp của những yếu tố kể trên cũng có thể là nguyên nhân của hành vi bắt nạt. Trong một nghiên cứu về giới trẻ, sự kết hợp của những đặc điểm chống đối xã hội và sầu muộn được xem là yếu tố dự đoán bạo lực ở giới trẻ tốt nhất, trong khi việc tiếp xúc với bạo lực của trò chơi điện tử và trên truyền hình không báo trước được những hành vi này. Bắt nạt còn có thể bắt nguồn từ khuynh hướng về mặt di truyền hoặc một chứng dị tật não ở đối tượng bắt nạt. Trong khi phụ huynh có thể giúp đỡ một đứa bé mới biết đi phát triển khả năng điều tiết và khống chế cảm xúc nhằm hạn chế hành vi gây hấn, một vài trẻ nhỏ không phát triển được những kỹ năng này do gắn bó không bền chặt với gia đình chúng, rèn kỷ luật không hiệu quả và các yếu tố môi trường như đời sống gia đình căng thẳng và có anh/chị em đối địch. Ngoài ra, theo một vài nhà nghiên cứu, những kẻ bât nạt có thể có chiều hướng tiêu cực và làm thành tích học tập giảm sút. Tiến sĩ Cook nhận định: "Một kẻ bắt nạt điển hình thường gặp khó khăn khi giải quyết những vấn đề với người khác và cũng có vấn đề về học hành. Anh hoặc cô ta thường có thái độ và niềm tin tiêu cực về người khác, cảm thấy tiêu cực về chính anh/cô ta, xuất phát từ một môi trường gia đình đặc trưng bởi xung đột và nuôi dạy kém, cảm thấy tiêu cực nơi học đường và bị ảnh hưởng tiêu cực bởi bạn bè đồng trang lứa." Ngược lại, một vài nhà nghiên cứu cho rằng một số kẻ bât nạt là người có tâm lý mạnh nhất và có địa vị xã hội cao trong số các bạn bè của chúng, trong khi những đối tượng chúng nhắm đến là những người đau buồn và bị gạt ra ngoài xã hội. Những nhóm bạn bè thường cổ vũ những hành động của kẻ bắt nạt, và những thành viên trong các nhóm bạn này còn tham gia giúp một tay, như chế giễu, loại trừ, đấm đá và làm nhục người kia như một nguồn giải trí. Những nhà nghiên cứu khác còn nhận định rằng một số ít những kẻ bất nạt (không bị bất nạt) thích đến trường và ít ngày nghỉ ốm hơn. Nghiên cứu chỉ ra rằng những người lớn bắt nạt có tính cách độc đoán, cộng với nhu cầu kiểm soát hoặc thống trị mạnh. Cũng có ý kiến cho biết quan điểm chèn ép người cấp dưới có thể là một yếu đặc biệt tiềm tàng. Trong một nghiên cứu gần đây, những kẻ bắt nạt thể hiện lòng tự trong liên quan đến kết quả học tập ở trường thấp hơn những học sinh không tham gia bắt nạt. Chúng cũng thể hiện lòng tự trọng xã hội cao hơn so với các nạn nhân của tệ nạn bắt nạt truyền thống. Các nghiên cứu về não bộ thì chỉ ra rằng phần não liên quan đến phần thưởng hoạt động khi những kẻ bắt nạt được cho xem một video về một người làm tổn thương người kia. Của những người ngoài cuộc điển hình. Thông thường, bắt nạt diễn ra khi có sự hiện diện của một nhóm đông người ngoài cuộc chẳng liên quan đứng xem. Trong nhiều trường hợp, kẻ bắt nạt có thể tạo ra ảo tưởng rằng chúng đang có sự ủng hộ của số đông người đứng xem, dấy lên nỗi sợ "lên tiếng" phản đối các hoạt động bắt nạt mà nhóm người quan sát. Trừ phi "tâm lý" bị thử thách trong bất kì nhóm nào trong giai đoạn đầu tiên, thông thường nó trở thành chuẩn mực được chấp nhận hoặc ủng hộ trong nhóm. Trừ phi có hành động can thiệp, "văn hóa bắt nạt" thường khắc ghi trong một nhóm trong nhiều tháng, nhiều năm hoặc lâu hơn thế nữa. Những người ngoài cuộc (mà có thể tự lập "nhóm bạn bè" hoặc "nhóm ủng hộ" riêng) được xem là có nhiều khả năng lựa chọn lên tiếng chống hành vi bắt nạt hơn những người không làm thế. Ngoài việc truyền đạt mong chờ rằng những người ngoài cuộc nên can thiệp và tăng niềm tin cá nhân, ngày càng có nhiều nghiên cứu đề xuất rằng những biện pháp can thiệp nên xây dựng trên nền tảng rằng bắt nạt là sai trái về mặt đạo đức. Ở người lớn, việc là người đứng ngoài cuộc xem bắt nạt nơi công sở có liên hệ tới trầm cảm. Của nạn nhân. Tiến sĩ Cook nhận định: "Một nạn nhân điển hình thường tỏ ra hung hăng, thiếu kĩ năng xã hội, suy nghĩ tiêu cực, gặp khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, xuất thân từ một gia đình, môi trường trường học và cộng đồng tiêu cực, đáng lưu ý là bị các bạn đồng trang lứa chối bỏ và cô lập." Những nạn nhân thường có đặc điểm như thể chất và tinh thần yếu, cũng như dễ bị quẫn trí về mặt cảm xúc. Họ còn có thể mang những đặc điểm hình thể biến họ dễ thành đối tượng bị bắt nạt hơn như thừa cân hoặc mang một vài dị tật trên cơ thể. Những bé trai nhiều khả năng trở thành nạn nhân của bắt nạt thể chất, trong khi các bé gái thì có nhiều khả năng bị bắt nạt gián tiếp hơn. Những mức độ tự trọng thấp thường được xem là tiền đề của những nạn nhân bị bắt nạt. Những nạn nhân của bắt nạt truyền thống thường mang lòng tự trọng cảm xúc, liên quan đến cơ thể, xã hội và toàn cầu thấp hơn so với những học sinh không như vậy. Mặt khác, những nạn nhân của bắt nạt trên mạng có thể không có điểm số lòng tự trọng thấp hơn những học sinh không như vậy, nhưng có thể mang lòng tự trọng liên quan đến cơ thể cao hơn cả những nạn nhân của bắt nạt truyền thống. Các kết quả của phân tích tổng hợp do Cook tiến hành (được xuất bản bởi Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ vào năm 2010) kết luận rằng những nhân tố rủi ro chính với trẻ nhỏ và thanh thiếu niên bị bắt nạt (và còn đối với việc trở thành những kẻ bắt nạt) là thiếu các kĩ năng giải quyết vấn đề xã hội. Trẻ nhỏ bị bắt nạt thường thể hiện những dấu hiệu thể chất hoặc cảm xúc như: sợ tới trường, kêu đau đầu hoặc chán ăn, không quan tâm đến các hoạt động ở trường, dành thời gian cùng bạn bè và gia đình, miễn cưỡng ra nơi công cộng vì sợ có thể gặp phải những kẻ bắt nạt mình ở nơi công cộng ngoài trường học, và nhìn chung là có cảm giác buồn. Tác động. Mona O'Moore của Trung tâm chống bắt nạt tại Đại học Trinity ở Dublin đã viết: "Ngày càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các cá nhân, bất kể là trẻ em hay người lớn (thường xuyên là đối tượng bị ngược đãi) có nguy cơ mắc bệnh liên quan đến stress, đôi khi có thể dẫn tới tự sát". Những người từng là đối tượng bị bắt nạt có thể chịu những vấn đề về cảm xúc và hành vi lâu dài. Bắt nạt có thể gây cô đơn, sầu muộn, lo âu, dẫn đến lòng tự trọng thấp và tăng khả năng nhiễm bệnh. Bắt nạt cũng được cho là gây ra tình trạng bất thường ở trẻ nhỏ và những đối tượng bị bắt nạt, thậm chí những người tự bắt nạt chính họ còn phơi bày những vấn đề xã hội lớn hơn. Một báo cáo sức khỏe tâm thần còn phát hiện rằng bắt nạt có liên quan tới rối loạn ăn uống, lo âu, mặc cảm ngoại hình và gây những tác động tâm lý tiêu cực khác. Cả những nạn nhân và kẻ bắt nạt đều được cho là thể hiện mức độ cô đơn cao hơn. Tự sát. Mặc dù có bằng chứng cho thấy bắt nạt làm tăng nguy cơ tự sát, nhưng chỉ mỗi bắt nạt thì không gây tự sát. Sầu muộn là một trong những nguyên nhân chính mà trẻ nhỏ bị bắt nạt tìm đến tự vẫn. Ước tính từ 15 đến 25 trẻ em tự sát mỗi năm chỉ tính riêng ở Liên hiệp Anh vì chúng bị bắt nạt. Một số nhóm có nguy cơ tự sát cao hơn như người Mỹ bản địa, người bản địa Alaska, người Mỹ gốc Á và LGBT. Khi một người cảm thấy không được bạn bè hoặc gia đình ủng hộ, tình hình của nạn nhân có thể diễn biến tệ hơn nhiều. Trong một nghiên cứu tự báo cáo bởi các học sinh từ lớp 9 đến 12 ở New York, những nạn nhân của bắt nạt cho biết có nhiều triệu chứng sầu muộn và tâm lý đau buồn hơn những người không trải qua việc bị bắt nạt. Tất cả những loại hình bắt nạt ở cả các bé trai và gái có liên hệ tới chứng sầu muộn, thậm chí một vài năm sau mới phát sinh. Một nghiên cứu nữa được tiến hành với các thanh thiếu niên của Phần Lan hai năm sau cuộc khảo sát đầu tiên cho thấy thanh thiếu niên có ý định tự sát và sầu muộn cao hơn những người cho biết chưa trải qua việc bị bắt nạt. Một nghiên cứu lên các học sinh tiểu học của Hà Lan theo chiều dọc báo cáo rằng các bé trai từng đóng cả vai trò nạn nhân lẫn kẻ bắt nạt có nhiều khả năng trải qua sầu muộn hoặc có ý tự sát nghiêm trọng hơn những người chỉ là nạn nhân hoặc kẻ bị bắt nạt, trong khi các bé gái có bất kì dính líu nào tới bắt nạt thì sở hữu nguy cơ mắc sầu muộn ở mức cao hơn. Trong một nghiên cứu lên các học sinh trung học được thực hiện tại Boston, những học sinh tự cho biết mình là nạn nhân của bắt nạt có nhiều khả năng cân nhắc tự tử khi so với những bạn không cho biết mình bị bắt nạt. Cũng nghiên cứu này cho thấy nguy cơ tìm đến tự tử cao hơn ở thanh thiếu niên cho biết mình là thủ phạm, nạn nhân, hoặc cả nạn nhân lẫn thủ phạm. Những nạn nhân và nạn nhân-kẻ bắt nạt có liên quan tới nguy cơ tìm đến tự sát cao hơn. Nơi mà thanh thiếu niên sinh sống dường như cũng khác biệt so với những trải nghiệm bắt nạt của họ, vì thế những người sống ở các khu vực thành thị (cho biết mình bị bắt nạt lẫn đi bắt nạt người khác) dường như thể hiện nguy cơ ý định tự tử và thử tự tử ở mức cao hơn. Một nghiên cứu quốc gia được tiến hành với các học sinh từ lớp 6 đến lớp 10 ở Mỹ phát hiện rằng những nạn nhân của bắt nạt trên mạng trải mức độ sầu muộn cao hơn những nạn nhân trải qua các hình thức bắt nạt khác. Điều này có thể liên quan đến chức năng ẩn danh đằng sau mạng xã hội. Nếu một thanh thiếu niên đang bị bắt nạt và thể hiện các triệu chứng của sầu muộn, vấn đề ấy nên được bàn đến và cần có các biện pháp can thiệp. Nghiên cứu của Đan Mạch chỉ ra rằng trẻ nhỏ bị bắt nạt nói chuyện với phụ huynh và giáo viên của chúng về tệ nạn này, một số người báo cáo rằng bắt nạt đã thuyên giảm hoặc bị ngăn chặn sau khi một phụ huynh hoặc giáo viên can thiệp. Nghiên cứu nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc thực hiện chương trình hợp tác ở trường học để lên các công tác và biện pháp chống bắt nạt để ngăn chặn và can thiệp đúng cách khi nó xảy đến. Nghiên cứu còn cho thấy tầm quan trọng của việc phụ huynh và cha mẹ trò chuyện với những kẻ bắt nạt về hành vi bắt nạt của chúng, nhằm đem đến sự hỗ trợ cần thiết cho những người bị bắt nạt. Trong khi một số người thấy rất dễ lờ đi tệ nạn bắt nạt, một số khác lại thấy thật khó khăn và đạt đến ngưỡng mất kiểm soát. Có những trường hợp tự sát vì bắt nạt đã được truyền thông đưa tin chi tiết. Trong số đó phải kể đến những cái chết của Ryan Halligan, Phoebe Prince, Dawn-Marie Wesley, Nicola Ann Raphael, Megan Meier, Audrie Pott, Tyler Clementi, Jamey Rodemeyer, Kenneth Weishuhn, Jadin Bell, Kelly Yeomans, Rehtaeh Parsons, Amanda Todd, Brodie Panlock, Jessica Haffer, Hamed Nastoh, Sladjana Vidovic, April Himes, Cherice Moralez và Rebecca Ann Sedwick. Theo tổ chức giáo dục những tiếng nói nhận thức về tự sát, tự sát là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở thanh thiếu niên từ 15 đến 24 tuổi. Hơn 16% học sinh nghiêm túc tìm đến tự tử, 13% lập một kế hoạch và 8% đã thử tự tử một cách nghiêm túc. Phát triển tích cực. Một số người cho rằng bắt nạt có thể dạy những bài học về cuộc sống và truyền đạt sức mạnh. Helene Guldberg (chuyên gia về phát triển thiếu nhi) đã gây tranh cãi bằng nhận định rằng việc trở thành đối tượng bị bắt nạt có thể dạy cho trẻ "cách quản lý những tranh chấp và làm tăng khả năng tương tác với người khác", và giáo viên không nên can thiệp mà để trẻ tự phản ứng lại bắt nạt. Việc dạy những kĩ năng đối phó chống bắt nạt như vậy cho "những người sẽ trở thành đối tượng" và những người khác được cho là một phương án hiệu quả lâu dài nhằm giảm tỉ lệ bắt nạt và mang lại bộ kỹ năng giá trị cho các cá nhân. Nội tiết tố. Trong thống kê kiểm tra độ tuổi và tình trạng dậy thì, những kết quả chỉ ra rằng trung bình các bé gái bị bắt nạt bằng lời nói cho ra ít testosterone hơn, còn các bé trai bị bắt nạt bằng lời nói lại tạo ra nhiều testosterone hơn những bé không bị bắt nạt.
1
null
Gloster Gauntlet là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Anh. Do hãng Gloster Aircraft thiết kế chế tạo vào thập niên 1930. Đây là loại tiêm kích cuối cùng của RAF có buồng lái mở. Thiết kế và phát triển. Gloster S.S.18 bay lần đầu vào tháng 1/1929. Gauntlet là một phát triển của thiết kế Gloster S.S.19B, ban đầu đặt 6 súng máy (4 khẩu trong cánh và 2 khẩu trong thân). Mẫu thử S.S.19 lắp một động cơ Bristol Mercury VIS, bay lần đầu năm 1933. Khi đang thử nghiệm S.S.19, Bộ Không quân đã đặt mua 24 chiếc vào tháng 9 năm 1933 và đặt tên là "Gauntlet". Tính năng kỹ chiến thuật (Gauntlet Mk II). Gloster Aircraft since 1917
1
null
Cá trích Thái Bình Dương, tên khoa học Clupea pallasii, là một loài cá trích thuộc họ Cá trích có liên quan với môi trường Thái Bình Dương của Bắc Mỹ và Đông Bắc Á. Loài cá này phân bố rộng rãi dọc theo bờ biển California từ Baja California về phía bắc Alaska và biển Bering, ở châu Á thì phạm vi phân bố nằm ở phía nam Nhật Bản. Clupea pallasii đôi khi được coi là một loài yếu tố quyết định vì nó có khả năng sinh sản rất cao và tương tác với một số lượng lớn các loài săn mồi và con mồi. Theo các nguồn tin chính phủ, ngành thủy sản đánh bắt cá trích Thái Bình Dương suy sụp trong năm 1993, và đang dần hồi phục khả năng thương mại trong khu vực Bắc Hoa Kỳ. Loài này được đặt tên theo Peter Simon Pallas, một nhà tự nhiên và thám hiểm nổi bật Đức.
1
null
Danh sách đĩa nhạc của nữ ca sĩ người Canada Carly Rae Jepsen bao gồm 2 album phòng thu, 1 đĩa mở rộng, 8 đĩa đơn và 7 video âm nhạc. Jepsen là một cô gái tài năng, cô đã từng lọt vào top 3 "Canadian Idol", và sau đó nhanh chóng ký hợp đồng với hãng thu âm Fontana và MapleMusic. Album phòng thu đầu tay của cô được phát hành vào tháng 9 năm 2008, với hai đĩa đơn lọt vào Canadian Top 40, "Tug of War" and "Bucket", cả hai đĩa đơn đều được chứng nhận đĩa Vàng bởi CRIA. Tài năng của cô chỉ thực sự được biết đến với bản hit "Call Me Maybe", ca khúc đã giành được vị trí quán quân tại các bảng xếp hạng của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Đĩa mở rộng đầu tiên của cô, "Curiosity" đạt được vị trí thứ 6 ở Canada.
1
null
Đạo hàm của các hàm lượng giác là phương pháp toán học tìm tốc độ biến thiên của một hàm số lượng giác theo sự biến thiên của biến số. Các hàm số lượng giác thường gặp là sin("x"), cos("x") và tan("x"). Biết được đạo hàm của sin("x") và cos("x"), chúng ta dễ dàng tìm được đạo hàm của các hàm lượng giác còn lại do chúng được biểu diễn bằng hai hàm trên, bằng cách dùng quy tắc thương. Phép chứng minh đạo hàm của sin("x") và cos("x") được diễn giải ở bên dưới, và từ đó cho phép tính đạo hàm của các hàm lương giác khác. Việc tính đạo hàm của hàm lượng giác ngược và một số hàm lượng giác thông dụng khác cũng được trình bày ở bên dưới. Chứng minh đạo hàm của hàm sin và cos. Giới hạn của formula_11 khi "θ" → 0. Cho đường tròn tâm "O" bán kính "r" (hình bên). Gọi θ là góc tại "O" tạo bởi "OA" và "OK". Do ta giả định θ tiến dần tới 0, có thể xem θ là một số dương rất nhỏ: . Gọi: "R"1 là diện tích tam giác "OAK", "R"2 là diện tích hình quạt "OAK", "R"3 là diện tích tam giác "OAL". Dễ thấy: Dùng công thức lượng giác, tính được diện tích tam giác "OAK" là Diện tích hình quạt "OAK" là formula_14, còn diện tích tam giác "OAL" là Từ đó ta có: Vì ta chia bất đẳng thức trên cho ½·r2. Ngoài ra, vì dẫn đến , ta có thể chia bất đẳng thức cho sin(θ), từ đó: Theo định lý kẹp ta có Trong trường hợp θ là số âm rất nhỏ là tiến dần tới 0, tức là: , sử dụng tính chất lẻ của hàm sin ta được: Và do đó: Giới hạn của formula_21 khi "θ" → 0. Ta có Vì nên Do đó Đạo hàm của hàm sin. Theo định nghĩa đạo hàm: Dùng công thức biến đổi lượng giác và hai giới hạn vừa chứng minh ở trên, ta được Đạo hàm của hàm cos. Theo định nghĩa: Dùng công thức biến đổi lượng giác và hai giới hạn vừa chứng minh ở trên, ta được Chứng minh đạo hàm của các hàm ngược. Đạo hàm của hàm arcsin. Cho Trong đó Thì ta có Dùng đạo hàm ẩn và giải dy/dx: Thế formula_33, Thế formula_35, Đạo hàm của hàm arccos. Cho Trong đó Thì ta có Dùng đạo hàm ẩn và giải dy/dx: Thế formula_43, Thế formula_45, Đạo hàm của hàm arctang. Cho Trong đó Thì ta có Dùng đạo hàm ẩn và giải dy/dx Thế formula_53, Thế formula_55,
1
null
Đây là danh sách tích phân (nguyên hàm) của các hàm lượng giác. Đối với tích phân của chứa hàm lượng giác và hàm mũ, xem Danh sách tích phân với hàm mũ. Đối với danh sách đầy đủ các tích phân, xem Danh sách tích phân. Đối với danh sách các tích phân đặc biệt của các hàm lượng giác, xem Tích phân lượng giác. Nhìn chung, với formula_1 là đạo hàm của hàm số formula_2, ta có Trong mọi công thức dưới đây, là một hằng số khác không và ký hiệu cho hằng số tích phân. Tích phân chứa hàm sin và cos. Tích phân một hàm hữu tỉ (phân thức) của và có thể được tính bằng quy tắc Bioche.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 37 (tiếng Anh: "Interstate 37" hay viết tắt là I-37) là một xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang dài , nằm hoàn toàn bên trong tiểu bang Texas của Hoa Kỳ. Xa lộ này ban đầu được đặt tên vào năm 1959 như một con đường giao thông giữa thành phố Corpus Christi và San Antonio. Công cuộc xây dựng tại các đô thị Corpus Christi và San Antonio bắt đầu vào thập niên 1960 và các đoạn xa lộ tại các vùng nông thôn được hoàn thành vào thập niên 1980. Trước khi có I-37, lộ trình đi giữa Corpus Christi và San Antonio được hai xa lộ kết hợp phục vụ, đó là Xa lộ Tiểu bang Texas 9 (SH 9) từ Corpus Christi đến Three Rivers và Quốc lộ Hoa Kỳ 281 (US 281) từ Three Rivers đến San Antonio. Khi xây dựng I-37, Xa lộ Tiểu bang Texas 9 bị loại bỏ khỏi Hệ thống xa lộ tiểu bang Texas. Điểm đầu phía nam của xa lộ này nằm tại Quốc lộ Hoa Kỳ 181 và Xa lộ Tiểu bang Texas 35 trong thành phố Corpus Christi. Điểm đầu phía bắc của nó nằm tại Xa lộ Liên tiểu bang 35 trong thành phố San Antonio. Xa lộ được tiếo tục bởi Quốc lộ Hoa Kỳ 281 lên phía bắc thành phố San Antonio trong vai trò một xa lộ cao tốc then chốt. Tại thành phố Corpus Christi, xa lộ tạo lối đi đến khu vực phố chính thành phố, Cảng Corpus Christi và Phi trường Quốc tế Corpus Christi. Tại thành phố San Antonio, xa lộ tạo lối đến khu vực phố chính thành phố San Antonio, Brooks City-Base, Alamodome, Tháp the Americas, Đường đi dạo Sông San Antonio, khu tưởng niệm Alamo. Ngoài ra xa lộ cũng tạo lối đến Phi trường Quốc tế San Antonio qua ngã Quốc lộ Hoa Kỳ 281. Xa lộ cung cấp tuyến giao thông liên kết quan trọng giữa Xa lộ Liên tiểu bang 35 và Duyên hải Vịnh Mexico của tiểu bang Texas cũng như đóng vai trò như một xa lộ di tản tránh bão khẩn cấp khỏi duyên hải miền nam Texas. Mô tả xa lộ. I-37 bẳt đầu trong thành phố Corpus Christi trên Duyên hải Vịnh Mexico thuộc tiểu bang Texas và chạy lên hướng bắc đến thành phố San Antonio. Đây là xa lộ chính yếu giữa Xa lộ Liên tiểu bang 35 và Vịnh Mexico và các thành phố nằm trong Thung lũng Rio Grande là Brownsville và McAllen qua ngã Quốc lộ Hoa Kỳ 281 và Quốc lộ Hoa Kỳ 77. Xa lộ cũng đóng vai trò như một trong số ít xa lộ di tản tránh bão cho vùng duyên hải miền nam tiểu bang Texas. Xa lộ gần như chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 181 và Quốc lộ Hoa Kỳ 281. Trên thực tế, US 181 cùng bắt đầu và kết thúc tại I-37. Không chính thức, I-37 bắt đầu tại giao lộ với Đại lộ Shoreline ở ngoài rìa Vịnh Corpus Christi. Sau đó nó hướng về phía tây như một con đường trên mặt đất cho ba khối nơi nó trở thành lối vào và lối ra dốc nối với đường cao tốc. Điểm đầu phía nam của I-37 nằm tại điểm kết nối với US 181 và SH 35 gần Vịnh Corpus Christi trong thành phố Corpus Christi. I-37 đi hướng tây từ US 181 qua thành phố Corpus Christi, giao cắt hai xa lộ cao tốc là SH 286 (Xa lộ cao tốc Crosstown) và SH 358 (Lộ Đảo Padre). Xa lộ quay hướng tây bắc sau khi qua nút giao thông với SH 358. Ngay trước khi rời địa giới thành phố Corpus Christi, I-37 giùao cắt và có một đoạn trùng ngắn với Quốc lộ Hoa Kỳ 77. Cả hai xa lộ tiếp tục đi hướng bắc và tách nhau sau khi qua Sông Nueces. I-37 tiếp tục theo hướng tây bắc trong khi đó US 77 tiếp tục theo hướng đông bắc. I-37 đi qua vùng nông thôn ngay khi ra khỏi bên ngoài địa giới thành phố Corpus Christi trên đường đến Mathis và Hồ Corpus Christi. Nó tiếp tục đi hướng tây bắc và giao cắt với Quốc lộ Hoa Kỳ 59 ở phía đông George West. I-37 bắt đầu chạy song song với US 281 về phía đông trước khi hai xa lộ cắt nhau và chạy trùng nhau ở phía bắc thành phố Three Rivers gần Hồ chứa nước Choke Canyon. Quốc lộ Hoa Kỳ Thay thế 281 tách ra từ US 281/I-37 gần Sunniland và chạy song song với US281/I-37 trước khi nhập lại ở phía bắc Campbellton. I-37 và US 281 vẫn chạy trùng nhau cho đến khi US 281 tách khỏi để đí đến Pleasanton trong khi đó I-37 đi tránh thành phố về phía đông. Sau khi US 281 rời để đi về hướng tây bắc, I-37 quay hướng bắc để đi đến thành phố San Antonio. Khi I-37 vào địa giới thành phố San Antonio, nó giao cắt điểm đầu phía bắc của Quốc lộ Hoa Kỳ 181. Tiếp tục hướng bắc, I-37 giao cắt I-410, đây là xa lộ vành đai quanh thành phố San Antonio. Tại điểm kết nối này, I-37 một lần nữa chạy trùng với US 281 mà trước đó chay trùng với I-410. Đi hướng bắc qua phía nam thành phố San Antonio, I-37 tạo lối đi đến Brooks City-Base. Sau nút giao thông lập thể tại Xa lộ vành đai Tiểu bang Texas 13, I-37 quay về hướng tây bắc. Xa lộ giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 10 là xa lộ chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 90 và Quốc lộ Hoa Kỳ 87 tại nút giao thông lập thể ở góc đông nam phố chính của San Antonio. Sau nút giao thông, I-37 lần nữa đi về hướng bắc trên phía đông phố chính. Nó đi qua gần Alamodome, Tháp the Americas, Đường đi dạo Sông San Antonio và khu tưởng niệm Alamo. I-37 kết thúc tại gốc đông bắc phố chính tại điểm kết nối với I-35. US 281 tiếp tục đi hướng bắc trong vai trò một xa lộ cao tốc tạo lối đi đến Phi trường Quốc tế San Antonio. I-37 tại San Antonio từ I-410 đến I-10 được đặt tên là Xa lộ cao tốc Lucian Adams để vinh danh cựu chiến binh Chiến tranh thế giới thứ hai. Adams là người gốc thành phố Port Arthur, và nhận được Huân chương Vinh dự vì phục vụ tại Pháp cũng như nhận được Huân chương Ngôi sao Đồng và Trái tim Tím vì sự dũng cảm của ông trong Chiến dịch Cassino. Từ I-10 đến điểm đầu phía bắc nằm tại I-35, xa lộ được đặt tên là Xa lộ cao tốc William J. Bordelon. Bordelon là người gốc thành phố San Antonio đầu tiên nhận Huân chương Vinh dự sau khi tử trận trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Lịch sử. Trước I-37, tuyến đường giữa Corpus Christi và San Antonio được bao phủ bởi SH 9 từ Corpus Christi đến Three Rivers và US 281 từ Three Rivers đến San Antonio. Bắt đầu từ năm 1971, các phần của SH 9 đã được chính thức loại bỏ khỏi Hệ thống Đường cao tốc Tiểu bang khi I-37 được hoàn thành. Không có phần nào của Quốc lộ Hoa Kỳ 281 bị loại khỏi Hệ thống đường cao tốc quốc gia do việc xây dựng I-37, nhưng hai phần này có chung đường thẳng tại hai điểm khác nhau giữa San Antonio và Three Rivers. Ngoài ra, US 281 được chuyển hướng đến I-37 ở San Antonio vào năm 1978. I-37 được chỉ định lần đầu tiên vào năm 1959 để cung cấp một tuyến đường giữa San Antonio và Corpus Christi. Việc xây dựng bắt đầu vào những năm 1960 và tuyến đường được hoàn thành vào những năm 1980. Phần đầu tiên của đường cao tốc hoàn thành là ở Corpus Christi. Xa lộ được hoàn thành từ ga cuối phía nam đến về phía tây tại cầu vượt Port Avenue để bao gồm nút giao SH 286 vào năm 1963. Trong năm 1964, đường cao tốc đã được mở rộng thêm về phía tây với việc hoàn thành của nút giao Nueces Bay Boulevard và Buddy Lawrence Boulevard. Đến năm 1965, đường cao tốc đã được mở rộng thêm về phía tây to Navigation Boulevard. Vào 1966, nút giao với SH 358 đã hoàn thiện, theo các làn chính tới đường Products Road, ở phía tây nút giao SH 358. Đến năm 1968, cao tốc hoàn thành với việc thêm xa hơn về phía tây đến đường Callicoatte. Cầu I-37 hướng nam qua sông Nueces được xây dựng vào năm 1933 cho US 77 (tương lai I-69E) khi nó lần đầu tiên được chuyển qua Corpus Christi. Cầu bắc cầu được xây dựng vào năm 1958 với việc mở rộng US 77 (tương lai I-69E) lên bốn làn xe.
1
null
Ptychocheilus lucius là một loài cá thuộc họ Cá chép. Đây là loài cá lớn nhất trong họ này ở Bắc Mỹ với chiều dài tới 1,83 m (6 ft). Loài này đã từng được tìm thấy ở lưu vực sông Colorado ở tây nam Hoa Kỳ, hiện diện tại Arizona, California, Colorado, Nevada, New Mexico, Utah và Wyoming, cũng như ở Mexico. Việc xây dựng đập và môi trường sống thay đổi đã hạn chế loài này lên thượng lưu sông Colorado, hiện nay, quần thể còn lại được biết đến từ sông Green, sông Gunnison, sông White, sông San Juan, và sông Yampa. Ngoài ra, các nhà quản lý đất đai trong quá khứ đã cố gắng giảm số lượng cá bản địa của lưu vực sông Colorado để hỗ trợ đánh bắt cá thể thao. Trong thập niên 1960, chính phủ liên bang đổ chất độc rotenon vào sông Green và sông San Juan, cố gắng để tạo ra một môi trường hỗ trợ đánh bắt cá thể thao phi bản địa. Chúng đã được đã được di thực vào sông Salt và sông Verde, cả hai con sông đều nằm bên ngoài phạm vi bản địa của chúng.
1
null
Chi Cá thiểu (danh pháp khoa học: Culter) là một chi cá dạng cá chép, bao gồm 4 loài đã được công nhận. Tên gọi khoa học của chi này có nguồn gốc từ tiếng Latinh "culter", nghĩa là "con dao". Việt Nam tự điển định nghĩa cá thiểu là "thứ cá nước ngọt, mình nhỏ và dài" mà không đề cập gì tới đặc điểm mồm rộng như cá ngão. Phân tích phát sinh chủng loài của Tang "et al." (2013) cho thấy "Chanodichthys", "Culter" và "Ancherythroculter" như định nghĩa hiện tại là đa ngành, với mối quan hệ như sau:
1
null
Gloster Gladiator (hay Gloster SS.37) là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh do Anh chế tạo. Nó được trang bị cho không quân Hoàng gia (RAF) và Hải quân Hoàng gia (biến thể Sea Gladiator), ngoài ra nó còn được xuất khẩu rộng rãi tới các quốc gia khác trong thập niên 1930. Tính năng kỹ chiến thuật (Gloster Gladiator Mk I). Gloster Aircraft since 1917
1
null
Chi Cá ngão (danh pháp khoa học: Chanodichthys) là một chi cá dạng cá chép, bao gồm 5 loài đã được công nhận. Tên gọi khoa học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "chanos" nghĩa là "sâu thẳm, miệng mở, rộng lớn", và "ichthys" nghĩa là "cá" và điều này phù hợp với định nghĩa cá ngão (Ngão: Loài cá sông mồm rộng. "Mồm rộng như mồm cá ngão".) của Việt Nam tự điển . "Chanodichthys" có quan hệ họ hàng gần với "Culter" và một số loài đã từng dược di chuyển giữa các chi này. Phân tích phát sinh chủng loài của Tang "et al." (2013) cho thấy "Chanodichthys", "Culter" và "Ancherythroculter" như định nghĩa hiện tại là đa ngành, với mối quan hệ như sau:
1
null
Hầu tử mộc hay trà Vân Nam (danh pháp hai phần: "Camellia yunnanensis") là một loài thực vật thuộc chi Trà. Cây cao 1,3-7 mét. Lá của nó là elip rộng elip hoặc hình trứng, elip, thẳng và nhọn. Cây này có màu xanh lá cây đậm. Hoa đơn màu trắng.
1
null
Grumman F3F là loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh cuối cùng của Hoa Kỳ, nó được trang bị cho Hải quân Hoa Kỳ, và phục vụ giữa 2 cuộc thế chiến. Thiết kế của F3F dựa trên sự cải tiến chiếc F2F, nó được đưa vào trang bị năm 1936. Hoa Kỳ rút F3F khỏi các phi đoàn ở tiền tuyến vào cuối năm 1941 trước khi nó có thể hoạt động trong Chiến tranh thế giới II, loại máy bay thay thế nó là Brewster F2A. F3F kế thừa kết cấu hạ cánh lần đầu tiên được dùng trên Grumman FF, sau này nó được phát triển thành F4F Wildcat. Tính năng kỹ chiến thuật (F3F-3). Great Aircraft of the World
1
null
Một bảng xếp hạng âm nhạc, hay bảng xếp hạng thu âm, là đánh giá những bài hát dựa trên sự phổ biến trong một khoảng thời gian nhất định. Có rất nhiều tiêu chí, được dùng trong những bảng xếp hạng khác nhau, để cho thấy sự phổ biến, thông dụng: lượng đĩa thu âm, băng cassette và đĩa CD bán ra; lượng phát trên radio; và (gần đây) là số lượt tải về. Một số bảng xếp hạng còn dành riêng cho một thể loại âm nhạc và hầu hết phân theo một khu vực địa lý nhất định (mặc dù bảng xếp hạng lượt tải về không dễ dàng phân chia theo cách này). Khoảng thời gian phổ biến nhất được tính trong một bảng xếp hạng thường là một tuần, với việc bảng xếp hạng được in hay phát sóng một thời gian sau đó. Bảng xếp hạng tổng kết cho năm và thập kỉ sau đó được tính từng tuần gộp lại. Những bảng xếp hạng đã trở thành một cách quan trọng để đánh giá sự thành công về mặt thương mại của từng bài hát. Danh sách người đứng đầu trong giới giải trí Việt năm 2017: 1.Đăng Bo 2.Sơn Tùng 3.Chi Pu 4.Hoàng Tùng Sơn Bài hit của bảng xếp hạng. Một "bài hit của bảng xếp hạng" là một bài hát rất phổ biến, được xác định bằng sự có mặt của nó trong bảng xếp hạng bằng doanh thu hay những tiêu chí khác để đánh giá những phát hành phổ biến. "Đứng đầu bảng xếp hạng" hay những thuật ngữ liên quan (như "number 1 hit", "bài hit của bảng xếp hạng", và vân vân) được dùng một cách rộng rãi trong giao tiếp thường ngày, và trong tiếp thị, và được định nghĩa một cách lỏng lẻo. Ở Bắc Mỹ, bảng xếp hạng hàng tuần từ tạp chí "Billboard" thường được nhắc đến nhiều nhất (và cũng cả trên quốc tế nữa), đặc biệt là bảng xếp hạng đĩa đơn "Billboard" Hot 100 và bảng xếp hạng album "Billboard" 200, mặc dù có nhiều bảng xếp hạng và nguồn khác. Bởi giá trị của nó trong việc quảng bá các nghệ sĩ và phát hành, đến trực tiếp với người dùng, và khuyến khích sự bùng nổ trên đài, TV và các phương tiện thông tin đại chúng khác; vị trí trong bảng xếp hạng đã là chủ đề để rà soát và tranh cãi từ lâu. Phương pháp tổng hợp và nguồn dữ liệu thì tùy thuộc, từ những bảng xếp hạng đồn thổi dựa trên ý kiến của nhiều các nhà chuyên môn, tới những bảng xếp hạng phản ánh dữ liệu thực nghiệm như doanh số bán lẻ. Vì vậy, một bài hát "đứng đầu bảng xếp hạng" có thể là sự lựa chọn "đáng tin" cho đến nóng hổi.
1
null
Grumman F2F là loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh, một động cơ, có kết cấu thiết bị hạ cánh có thể thu gọn vào thân, nó làm máy bay tiêm kích tiêu chuẩn cho Hải quân Hoa Kỳ giai đoạn 1936–1940. Nó được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay và trên sân bay đất liền. Thiết kế và phát triển. Sau thành công của Grumman với mẫu tiêm kích hai chỗ FF-1, nó thậm chí còn nhanh hơn so với các loại tiêm kích một chỗ cùng thời, nên quân đội Mỹ tiếp tục ký hợp đồng về mẫu XF2F-1 một chỗ. Nó trang bị 1 khẩu súng máy.30 caliber (7,62 mm), thiết kế mới cũng tích hợp các khoang kín nước để giảm trọng lượng và cải thiện khả năng sống sót khi hạ cánh khẩn cấp xuống nước. Mẫu thử bay lần đầu ngày 18/10/1933, trang bị động cơ thử nghiệm XR-1534-44 Twin Wasp Junior, và đạt vận tốc lớn nhất là trên độ cao - , nhanh hơn so với FF-1 ở cùng độ cao. Khả năng cơ động cũng tốt hơn máy bay hai chỗ trước đó. Lịch sử hoạt động. Hải quân đặt mua 54 chiếc tiêm kích F2F-1 vào ngày 17/5/1934, chiếc đầu tiên giao hàng ngày 19/1/1935. F2F được trang bị cho các phi đoàn ở tiền tuyến từ năm 1935 tới cuối năm 1939, sau đó chúng bị thay thế bởi F3F-3. Sau khi rút khỏi các phi đoàn ở tiền tuyến, chúng được hoán đổi để làm máy bay huấn luyện và các nhiệm vụ khác. Tính năng kỹ chiến thuật (Grumman F2F-1). United States Navy Aircraft since 1911 Xem thêm. Chuối định danh. FF - F2F - F3F - F4F - F5F
1
null
Cá đuối ó phương nam (danh pháp hai phần: Dasyatis americana) là một loài cá đuối ó trong họ Dasyatidae. Loài này được tìm thấy ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đại Tây Dương Tây Dương từ New Jersey đến Brazil. Nó có một đĩa phẳng hình kim cương, với màu nâu bùn, ô liu, và bề mặt lưng màu xám và bụng màu trắng (bề mặt bụng) điểm nhô trên đuôi của nó có răng cưa và được bao phủ trong một chất nhầy có nọc độc, được sử dụng để tự vệ.
1
null
Baratang là một hòn đảo thuộc quần đảo Andaman, Ấn Độ, với diện tích xấp xỉ . Đây là một trong các đảo chính của nhóm Andaman Lớn trong vịnh Bengal, tiếp giáp với biển Andaman. Andaman Giữa nằm ở phía bắc của đảo Baratang, và Andaman Nam nằm ở phía nam. Các đảo của quần đảo Ritchie nằm cách đảo về phía đông. Port Blair, thủ phủ của Lãnh thổ Quần đảo Andaman và Nicobar, nằm cách đảo về phía nam. Baratang có các núi lửa bùn duy nhất được biết đến tại Ấn Độ. Các núi lửa bùn này không phun trào thường xuyên, với các vụ phun trào gần đây nhất vào năm 2005 được cho là có quan hệ với động đất Ấn Độ Dương năm 2004. Vụ phun trào chủ yếu trước đây được ghi nhận là vào ngày 18 tháng 2 năm 2003. Người dân bản địa gọi các núi lửa bùn này là "jalki". Có các núi lửa khác trong khu vực. Núi lửa đảo Barren là núi lửa hoạt động duy nhất tại Nam Á và núi lửa Narcondum được coi là một núi lửa có khả năng hoạt động.
1
null
Đảo Barren là một hòn đảo nằm ở biển Andaman. Hòn đảo này là ngọn núi lửa duy nhất hoạt động được xác nhận ở khu vực Nam Á và là ngọn núi lửa hoạt động duy nhất nằm trên chuỗi núi lửa từ Sumatra đến Myanmar. Nó là một phần của Quần đảo Andaman và Nicobar một đơn vị lãnh thổ liên minh của Ấn Độ, nằm cách thủ phủ Port Blair khoảng 138 km (86 dặm) về phía đông bắc. Vào ngày 27 tháng 2 năm 2019, lúc 16 giờ 21 phút núi lửa Barren phun trào trở lại. Trung tâm tư vấn tro núi lửa (VAAC) Darwin của Úc đã cảnh báo về một đám tro bụi núi lửa cao tới độ cao ước tính 900 m. Tiếp theo sau đó là nhiều trận động đất đã diễn ra. Lịch sử. Lần phun trào đầu tiên được ghi nhận của núi lửa Barren là vào năm 1787. Kể từ đó, ngọn núi lửa này đã phun trào hơn mười lần, lần gần đây nhất là vào năm 2017. Sau lần phun trào đầu tiên được ghi nhận vào năm 1787, các vụ phun trào tiếp theo sau đó được ghi nhận là vào năm 1789, 1795, 1803, 1804 và 1852. Sau gần một thế kỷ rưỡi "ngủ đông", hòn đảo đã phun trào lại vào năm 1991 kéo dài sáu tháng và gây ra thiệt hại đáng kể. Vụ phun trào năm 1991 gây ra thiệt hại lớn cho hệ động vật trên đảo. Một nhóm nhân sự từ Cơ quan Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã đến thăm đảo Barren vào ngày 8 tháng 9 năm 1993 để đánh giá tác động của vụ phun trào đối với sự phân bố, thói quen và sự phong phú của các loài động vật. Báo cáo cho thấy vụ phun trào đã làm giảm số loài chim và số lượng của chúng. Nhóm nghiên cứu chỉ quan sát 6 trong số 16 loài chim được biết đến trên đảo. Chim bồ câu hoàng gia (Ducula bcolor) là loài có nhiều nhất trong số 6 loài được quan sát. Trong một cuộc khảo sát được thực hiện vào ban đêm, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra một loài chuột (Rattus rattus) và 51 loài côn trùng. Báo cáo cũng ghi nhận rằng núi lửa vẫn đang phun ra khí gas. Đã có những vụ phun trào vào năm 1994-1995 và năm 2005-2007, mà sau đó được coi là có liên quan đến trận Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004. Một ngọn hải đăng được xây dựng vào năm 1993 đã bị phá hủy bởi những vụ phun trào gần đây. Một nhóm nghiên cứu của Viện Hải dương học Quốc gia của Ấn Độ đã phát hiện ra ngọn núi lửa phun trào vào ngày 23 tháng 1 năm 2017. Abhay Mudholkar, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết: "Núi lửa đang phun trào trong các đợt nhỏ khoảng năm đến mười phút một lần. Tuy nhiên, sau khi mặt trời lặn, các điểm phun ra dung nham phun ra khói vào khí quyển và những dòng dung nham nóng chảy chảy xuống sườn dốc của núi." Dựa trên phương pháp định tuổi bằng đồng vị phản xạ từ các mẫu lấy ở đảo Barren, người ta đã xác định rằng dòng dung nham lâu đời nhất của núi lửa là 1,6 triệu năm và núi lửa nằm trên lớp vỏ địa chất đại dương có tuổi đời khoảng 106 triệu năm. Tất cả các vụ phun trào được ghi nhận nằm ở mức thấp của Chỉ số bùng nổ núi lửa. Chỉ số vụ phun trào năm 2017 được ghi nhận là 2. Ngày 25 tháng 9 năm 2018, núi lửa phun trào trở lại. Ngày 28 tháng 9 diễn ra một trận động đất 7,5 độ Richter gần Sulawesi, Indonesia khiến 1.500 người thiệt mạng, nguyên nhân được xem là bởi sự phun trào núi lửa - theo Tapan Pal, giám đốc Cơ quan Khảo sát Địa chất Ấn Độ. Địa lý. Hòn đảo núi lửa này nằm ở giữa vành đai núi lửa thuộc phần rìa các mảng kiến tạo là Mảng Ấn Độ và Mảng Burma. Đảo Narcondam là một ngọn núi lửa không hoạt động trong khu vực, một phần của các vỉa núi lửa như Alcock và Sewell. Tất cả các vụ phun trào gần đây (1789 và sau đó) được giới hạn trong và xung quanh một điểm hình nón đang hoạt động nằm trong miệng núi lửa rộng 2 km (1,2 mi) được hình thành do sự sụp lún vào Thế Pleistocen của một điểm hình nón xưa của núi lửa. Phần còn lại của điểm hình nón nguyên thủy đó tạo thành một vách đá quanh đảo (thường được gọi là tường thành hõm chảo), với một phần bị sụp ở hướng tây. Đỉnh núi lửa là độ cao cao nhất trên đảo, cao 353 m (1.158 ft), với hầu hết các phần thân của núi lửa nằm dưới nước, tính từ đáy biển ngọn núi cao 2.250 mét. Đảo có đường kính , với tổng diện tích bề mặt là . Đa dạng sinh học. Đúng như tên gọi của nó, đảo núi lửa có diện tích rộng lớn và phong cảnh cằn cỗi. Đảo không có người ở mà có nhiều dê sinh sống. Cùng các loài chim, dơi giống như loài thuộc Chi Dơi quạ và một vài loài gặm nhấm như chuột sống trên đảo trong điều kiện khắc nghiệt. Du lịch. Vùng biển xung quanh đảo Barren được cho là một trong những điểm lặn ở biển hàng đầu thế giới. Điểm tham quan ở đây có tầm nhìn rõ ràng, cá đuối Manta, thú vị của địa hình bazan, địa hình hình thành bời dung nham chảy trong quá khứ, và san hô. Điểm lặn nằm khá xa nhưng có thể được tiếp cận bằng tàu trực tiếp hoặc từ các nhà điều hành dịch vụ lặn biển có trụ sở tại đảo Havelock. Quản trị. Đảo thuộc khu hành chính Bắc và Trung Andaman, một phần của lãnh thổ liên minh Ấn Độ thuộc quần đảo Andaman và Nicobar. Nhân khẩu học. Hòn đảo không có người ở.
1
null
Bài hát yêu thích là một chương trình truyền hình âm nhạc được xây dựng bởi đài Truyền hình Việt Nam với mục đích tìm ra bài hát nào được ca sĩ thể hiện thành công và đang được khán giả yêu thích nhất tại một thời điểm nhất định, từ đó tạo ra Bảng xếp hạng bài hát được yêu thích hàng Tuần và hàng Tháng. Vai trò của khán giả là thể hiện cảm nhận của mình (thích hay không thích) đối với bài hát được ca sĩ biểu diễn trong chương trình. Danh Tùng và Thuỳ Linh là người dẫn chương trình trong suốt thời gian phát sóng. Hệ thống bảng xếp hạng. Lựa chọn bài hát. Trước khi diễn ra chương trình sẽ có phần bình chọn để tìm ra các bài hát được biểu diễn trong chương trình truyền hình trực tiếp. Trên website www.baihatyeuthich.vn sẽ đăng tải bản Audio của tất cả bài hát được đề cử bởi: Bình chọn bảng xếp hạng. Sau chương trình live show, Các ca khúc biểu diễn trong chương trình sẽ được bình chọn qua hình thức bình chọn duy nhất là từ Hội đồng khán giả đại diện (HĐKGĐD). Hàng tháng BTC sẽ lựa chọn và công bố danh sách thành viên HĐKGĐD (100 thành viên/tuần). Kết quả bình chọn sẽ được công bố công khai trên website www.baihatyeuthich.vn. Những kết quả này sẽ thành lập lên bảng xếp hạng hàng tháng (tổng bình chọn của HĐKGĐD trong các tuần bình chọn trong tháng đó). Mỗi tháng, những bài hát mới được giới thiệu, trong khi những bài hát của những tháng trước vẫn còn đó để bình chọn. Điều này sẽ tiếp tục đến hết năm, khi có bảng xếp hạng hằng năm.
1
null
Núi ngầm Stewart hay bãi ngầm Stewart (tiếng Anh: "Stewart Seamount" hay "Stewart Bank"; ; Hán-Việt: "Quản Sự ám than"​) là một núi ngầm thuộc Biển Đông. Năm 1924, giữa thời gian thực thi nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Philippines, tàu khu trục USS "Stewart" (DD-224) của Hoa Kỳ đã khảo sát và đặt tên cho núi ngầm này. Đài Loan và Trung Quốc đều tuyên bố "chủ quyền" đối với núi ngầm Stewart và xem thực thể địa lý này là một phần của "quần đảo Trung Sa". Philippines cho rằng núi ngầm này thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình. Địa lý. Thực chất Stewart là một "núi ngầm" dù rằng trước đây các nhà hàng hải thường gọi là "bãi ngầm". Núi nằm về phía đông bắc của bãi cạn Scarborough và cách mũi Bolinao của Philippines khoảng 80 hải lý (146 km) về phía tây bắc. Stewart dài 35 hải lý (64,8 km, tính từ tây nam lên đông bắc), rộng từ 3 đến 10 hải lý (5,6 đến 18,5 km), "mọc" dốc lên từ độ sâu khoảng 3.658 m dưới biển và có đỉnh là một điểm nằm dưới mặt nước 447 m. Nếu tàu thuyền được trang bị máy hồi âm đo độ sâu thì hoàn toàn thuận lợi trong việc vượt qua khu vực này để tiếp tục hành trình về đất liền. Nhìn chung độ dốc ở khu vực xung quanh chóp núi khá đồng đều dù có hơi dốc hơn ở phía tây bắc và đông nam. Tuy nhiên, càng đi về phía đông bắc thì độ dốc của hai hướng kia càng hiện rõ, cứ như vậy cho đến một điểm cách chóp núi 10 hải lý (18,5 km) thì khởi phát một rặng núi ngầm dốc về cả hai sườn, rất hẹp (đa phần chỉ rộng khoảng 0,5 hải lý (0,9 km)) nhưng lại dài tới 20 hải lý (37 km).
1
null
Trong lượng giác, tích phân của hàm secant là một trong những "đề tài mở nổi bật giữa thế kỉ XVII", được giải vào năm 1668 nhờ James Gregory. Vào năm 1599, Edward Wright đã tính được tích phân này bằng giải tích số - ngày nay tích phân này được gọi là tổng Riemann. Ông áp dụng kết quả này vào bản đồ học để vẽ chính xác một bản đồ Mercator. Vào những năm 1640, Henry Bond, một giáo viên hàng hải, trắc địa và toán, đã so sánh các giá trị tích phân của hàm secant trong bảng tính của Wright với bảng giá trị lôgarit của hàm tang, và phỏng đoán rằng Sự phỏng đoán này được biết đến rộng rãi, và vào năm 1665, Isaac Newton đã chú ý đến nó. Isaac Barrow là người đã chứng minh được sự phỏng đoán này. Ông đã sử đụng phép đơn giản phân thức trong phép tính tích phân. Theo các ký hiệu ngày nay, chứng minh của Barrow được trình bày như sau: Đến đây việc chứng minh chỉ còn là tìm nguyên hàm của các hàm phân thức bằng việc đơn giản phân thức: Hoán đổi thành hàm số đối với biến "θ": Tích phân trên cũng có thể tính được bằng phép thế Weierstrass, nhưng nó tương đối phức tạp hơn so với các phương pháp trên. Do trong phép chiếu Mercator thông thường, vĩ độ (φ) nằm giữa −π/2 and π/2 nên có thể viết đơn giản:
1
null
Trong toán học, hàm phân thức là một hàm số được viết dưới dạng tỉ số của hai hàm đa thức. Các định nghĩa. Một hàm một biến formula_1 được gọi là một hàm phân thức khi và chỉ khi nó có thể viết được dưới dạng Trong đó formula_3 và formula_4 là các đa thức đối với formula_5 và formula_4 không phải là một đa thức không. Tập xác định của formula_7 là tập hợp các điểm formula_5 mà tại đó mẫu thức formula_9 khác 0. Tất cả các đa thức đều là phân thức với formula_10. Một hàm số không viết được dưới dạng trên thì không phải là một phân thức (ví dụ, formula_11). Một biểu thức có dạng formula_12 được gọi là một "biểu thức phân thức". Trong đại số trừu tượng, formula_13 không bắt buộc là biến số. Một "phương trình phân thức" là một phương trình trong đó hai biểu thức phân thức bằng nhau. Các biểu thức đó cũng phải tuân theo các quy tắc trong phân số. Phương trình này có thể được giải bằng luật ba. Các ví dụ. Hàm phân thức formula_14 không xác định tại formula_15. Hàm phân thức formula_16 xác định với mọi số thực, nhưng không phải với mọi số phức, vì nếu "x" là căn bậc hai của formula_17 (ví dụ như đơn vị ảo), thì sẽ dẫn tới chia cho 0: formula_18, không xác định. Hàm phân thức formula_14, khi x tiến tới vô cùng, thì tiệm cận với đường thẳng formula_20. Một hàm hằng ví dụ như "f"("x") = π là một hàm phân thức vì một hằng số cũng là một đa thức. Hàm phân thức formula_21 bằng 1 với mọi "x" khác 0, trong đó "x" = 0 là một điểm kì dị bỏ được. Tổng, tích, hoặc thương (trừ trường hợp chia cho đa thức không) của hai hàm phân thức cũng là một hàm phân thức. Chuỗi Taylor. Các hệ số của một chuỗi Taylor của một hàm phân thức bất kì thỏa phương trình hồi quy tuyến tính, phương trình này được tìm bằng cách đặt hàm phân thức bằng với chuỗi Taylor và gộp các số hạng đồng dạng với nhau. Ví dụ Nhân hai vế với mẫu thức và phân phối Chỉnh lại chỉ số của tổng để được các số hạng có số mũ bằng nhau, ta có Gộp các số hạng đồng dạng với nhau Do đẳng thức trên đúng với mọi "x" nằm trong bán kính hội tụ của chuỗi Taylor ban đầu, ta cho các hệ số bằng với nhau. Do số hạng không đổi của vế trái phải bằng vế phải, ta có Do không có số hạng có mũ nào ở bên trái nên các hệ số của chúng ở vế phải đều bằng 0, do đó Ngược lại, một dãy số bất kì thỏa mãn một phương trình hồi quy tuyến tính nào đó sẽ xác định một hàm phân thức khi cho chúng làm các hệ số trong một chuỗi Taylor. Điều này rất hữu ích khi giải một phương trình hồi quy, vì bằng phương pháp đơn giản phân thức ta có thể viết một hàm phân thức bất kì dưới dạng tổng của các số hạng có dạng "1 / (ax + b)".
1
null
Sông Mackenzie () là hệ thống sông lớn nhất tại Canada. Sông chảy qua một vùng biệt lập rộng lớn gồm các cánh rừng và lãnh nguyên nằm hoàn toàn trong Các Lãnh thổ Tây Bắc, mặc dù vậy, nhiều chi lưu của sông cũng chảy trên địa bàn bốn tỉnh và lãnh thổ khác của Canada. Dòng chính của sông dài chảy theo hướng bắc rồi đổ ra Bắc Băng Dương, thoát nước cho một khu vực rộng lớn gần tương đương với diện tích của Indonesia. Đây là sông lớn nhất chảy vào Bắc Băng Dương từ Bắc Mỹ, và cùng với các chi lưu thì Mackenzie là một trong số các sông dài nhất trên thế giới. Dòng chảy. Khởi nguồn từ vùng đầm lầy ở cực tây của hồ Great Slave, sông Mackenzie chảy theo hướng chung là tây-tây bắc trong khoảng , qua các làng nhỏ của Fort Providence và Brownings Landing. Tại Fort Simpson sông Mackenzie hợp lưu với sông Liard, chi lưu lớn nhất của nó, sau đó chảy hướng về Bắc Cực, song song với dãy núi Franklin. Sông Keele đổ nước vào từ phía tả, phía trên Tulita, nơi sông Great Bear hợp vào Mackenzie. Ngay trước khi băng qua Vòng Cực Bắc, Mackenzie chảy qua Norman Wells, sau đó tiếp tục theo hướng tây bắc và nhận nước từ Arctic Red và Peel. Sông Mackenzie cuối cùng đổ ra biển Beaufort, một phần của Bắc Băng Dương, qua một đồng bằng Mackenzie rộng lớn. Trong suốt chiều dài, sông Mackenzie là một tuyến đường thủy rộng và chảy chậm; độ cao của sông chỉ hạ từ nguồn đến cửa sông. Đây là một sông có nhiều dải nước trong phần lớn chiều dài, đặc trưng bởi các bãi cát và có nhiều dòng chảy phụ. Lòng sông rộng và sâu ở hầu hết các đoạn, và do đó tàu bè có thể đi lại một cách dễ dàng ngoại trừ khi sông bị đóng băng vào mùa đông. Tuy nhiên, có một số nơi lòng sông bị thu hẹp chỉ còn dưới nửa km (0,3 mi) với dòng chảy khá nhanh, như tại Sans Sault Rapids ở điểm hợp lưu với sông Mountain và "The Ramparts", một hẻm núi sâu ở phía nam của Fort Good Hope. Lưu vực. Với , lưu vực sông Mackenzie là lưu vực sông lớn nhất tại Canada, chiếm gần 20% diện tích đất nước. Từ đầu nguồn xa nhất ở hồ Thutade trên dãy núi Omineca đến cửa sông, Mackenzie trải dài qua miền Tây Canada, khiến nó trở thành hệ thống sông dài nhất Canada và đứng thứ 13 thế giới. Sông đổ ra biển nước mỗi năm, chiếm gần 11% tổng lượng nước mà các sông đổ vào Bắc Băng Dương. Lượng nước mà Mackenzie chảy ra giữ một vai trò quan trọng trong khí hậu địa phương trên vùng Bắc Băng Dương khi mà một lượng lớn nước ngọt ấm hơn sẽ hòa lẫn vào nước biển lạnh giá. Nhiều lưu vực sông lớn của Bắc Mỹ có ranh giới với lưu vực sông Mackenzie. Phần lớn rìa phía tây của lưu vực sông Mackenzie chạy dọc theo đường phân thủy đại lục châu Mỹ. Đường phân thủy này tách biệt lưu vực sông Mackenzie với và các dòng đầu nguồn của các sông Pelly và Stewart thuộc lưu vực của sông Yukon, là sông chảy vào eo biển Bering; và các hệ thống sông sông Fraser và Columbia, cả hai đều chảy vào Thái Bình Dương. Dải đất thấp ở phía bắc phân tách lưu vực sông Mackenzie với các lưu vực sông của Anderson, Horton, Coppermine và Back– tất cả đều đổ vào Bắc Băng Dương. Phần lưu vực phía đông của sông Mackenzie giáp với lưu vực các sông Thelon và Churchill, cả hai đều đổ vào vịnh Hudson. Ở phía nam, lưu vực sông Mackenzie giáp với lưu vực sông Bắc Saskatchewan, một phần của hệ thống sông Nelson đổ ra vịnh Hudson sau khi đã tiêu nước cho hầu hết vùng nam-trung Canada. Thông qua nhiều chi lưu, lưu vực sông Mackenzie nằm trên địa phận năm tỉnh và lãnh thổ của Canada là British Columbia, Alberta, Saskatchewan, Các Lãnh thổ Tây Bắc và Lãnh thổ Yukon. Hai nhánh đầu nguồn lớn nhất là Peace và Athabasca, chúng có lưu vực chiếm phần lớn trung tâm vùng đồng cỏ Alberta và dãy núi Rocky ở phía bắc British Columbia sau đó hợp lưu vào sông Slave tại đồng bằng Peace-Athabasca gần hồ Athabasca, hồ này cũng nhận được các dòng chảy từ tây bắc Saskatchewan. Slave là sông chính của hồ Great Slave (chiếm khoảng 77% lượng nước); các dòng chảy vào hồ khác là Taltson, Lockhart và Hay, sông Hay cũng có dòng chảy trài dài đến Alberta và British Columbia. Các chi lưu trực tiếp của sông Mackenzie từ phía tây như Liard và Peel mang theo dòng nước từ các dãy núi ở miền đông Yukon. Phần phía đông của lưu vực sông Mackenzie được thống trị bởi các rừng taiga rộng mênh mông và có nhiều hồ lớn nhất tại Bắc Mỹ. Cả về dung tích và diện tích bề mặt, hồ Great Bear là hồ lớn nhất trong lưu vực với diện tích bề mặt là và dung tích là . Hồ Great Slave nhỏ hơn một chút, với diện tích bề mặt là và gồm nước, mặc dù nó có độ sâu lớn hơn đáng kể so với hồ Great Bear. Hồ lớn thứ ba là Athabasca, hồ này chỉ nhỏ hơn một phần ba về diện tích so với hai hồ trên với . Sáu hồ khác trong lưu vực có tổng diện tích bề mặt là , chúng gồm cả hồ Williston, hồ nhân tạo lớn thứ hai tại Bắc Mỹ, nằm trên sông Peace. Với dòng chảy trung bình hàng năm là , sông Mackenzie có mức chảy lớn hơn bất kỳ sông nào tại Canada và lớn thứ 14 trên thế giới trong tiêu chí này. Khoảng 60% nước đến từ nửa phía tây của lưu vực, bao gồm các dãy núi Rocky, Selwyn và Mackenzie với các chi lưu chính Peace và Liard, đóng góp tương ứng là 23% và 27% tổng lưu lượng dòng chảy. Còn ở nửa phía đông thì ngược lại, mặc dù vùng này bị chi phối bởi các vùng đầm lầy và hồ nước rộng lớn, song lại chỉ cung cấp 25% tổng lưu lượng cho Mackenzie. Khi dòng chảy đạt đến đỉnh vào mùa xuân, sự khác biệt về lưu lượng giữa hai vùng đầu nguồn này thậm chí còn rõ nét hơn, khi có lượng tuyết và băng tan lớn làm tăng đáng kể mực nước tại các chi lưu ở phía tây của Mackenzie. Việc các đập băng bị vỡ sẽ khiến cho nhiệt độ dòng nước thay đổi đột ngột và khiến cho tình trạng lũ lụt càng trầm trọng.
1
null
Biển Beaufort (, ) là một biển ven lục địa thuộc Bắc Băng Dương, nằm ở phía bắc của Các Lãnh thổ Tây Bắc, Yukon, và Alaska, phía tây quần đảo Bắc Cực thuộc Canada. Biển được đặt tên theo nhà thủy văn học Francis Beaufort. Sông Mackenzie đổ vào phần thuộc Canada của biển, phía tây của Tuktoyaktuk, một trong vài điểm định cư thường xuyên dọc bờ biển. Biển Beaufort có khí hậu khắc nghiệt, bị đóng băng trong hầu hết thời gian trong năm; Chỉ có một khe hẹp được mở ra rộng gần bờ từ tháng 8 đến tháng 9. Vùng bờ biển đã có dân cư sinh sống từ khoảng 30.000 năm trước, song mật độ dân cư rất thấp. Biển có chứa các tài nguyên đáng kể về dầu mỏ và khí thiên nhiên bên dưới thềm lục địa của nó, như mỏ Amauligak. Chúng được phát hiện trong thời gian từ thập niên 1950 đến 1980, và các thăm dò tài nguyên đã trở thành hoạt động chính của con người tại khu vực này từ thập niên 1980. Các ngành nghề truyền thống như thủy sản và săn bắn cá vôi và hải cẩu chỉ được tiến hành ở quy mô địa phương, và không có ý nghĩa về thương mại. Do vậy, biển có một trong những bầy lớn nhất của cá voi trắng, và không có dấu hiệu của việc đánh cá quá mức. Có một tranh chấp lâu dài giữa Hoa Kỳ và Canada về biên giới trên biển, song những bước đi quan trọng đã được tiến hành vào năm 2010 nhằm hướng tới việc giải quyết nó. Định nghĩa. Tổ chức Thủy đạc quốc tế định nghĩa giới hạn của biển Beaufort như sau: "Ở phía bắc." Một đường từ mũi Barrow, Alaska, đến Lands End, đảo Prince Patrick (). "Ở phía Đông." Từ Lands End qua bờ biển tây nam của đảo Prince Patrick đến Griffiths Point, từ đó một đường kéo đến Cape Prince Alfred, cực tây bắc của đảo Banks, qua bờ biển phía tây của nó đến Cape Kellet, điểm Tây Nam, và từ đó kéo một đường đến mũi Bathurst trên lục địa (). Địa lý. Sông chính đổ vào biển Beaufort là Mackenzie, sông dài nhất của Canada, và đổ vào phần thuộc Canada của biển, phía tây của Tuktoyaktuk. Vùng thềm lục địa khá hẹp, đặc biệt là gần và ở phía đông của Point Barrow tại phần thuộc Alaska của biển, và bao gồm một số thung lũng dưới mặt biển. Vùng thềm lục địa trở nên rộng hơn gần đồng bằng của sông Mackenzie song không nơi nào vượt quá . Gần bờ biển, độ sâu nông hơn song nó sẽ tăng lên nhanh chóng cách một vài km về phía bắc, chuyển thành một nền lớn và về mặt địa chất thì tương tự với các đại dương. Có nhiều hòn đảo nhỏ trên biển và ở vùng đồng bằng của sông Mackenzie. Một vài hòn đảo lớn hơn nhằm ở phía tây của sông Mackenzie, như đảo Herschel cách bờ biển ( với diện tích ) và đảo Barter cách bờ biển ( và có diện tích ). Vùng bờ biền thấp với độ cao tối đa là từ . Đất bị đóng băng quanh năm với độ sâu khoảng hoặc ít hơn, tạo thành tầng đất đóng băng vĩnh cửu, và chỉ có trên vài chục cm ở bề mặt là sẽ rã băng vào mùa hè. Do đó, các tòa nhà phải được nâng lên trên mặt đất bằng những chiến cọc gỗ được chôn xuống vùng đất đóng băng vĩnh cửu. Thủy học và khí hậu. Biển Beaufort bị đóng băng quanh năm, ngoại trừ từ tháng 8 đến tháng 9 khi băng bị nứt ra ở gần bờ biển tạo thành một dải nước rộng . Các dòng chảy của sông Mackenzie tan băng sớm hơn, vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6. Việc tan băng này làm tăng lưu lượng dòng chảy bình quân từ khoảng . Thay đổi ẩn trong lớp băng bao phủ biển Beaufort đã được phát hiện ra vào năm 2009. Trong khi khu vực băng vẫn ổn định, thì các vệ tinh quan sát đã phát hiện ra lớp băng trở nên mỏng hơn và có cấu trúc yếu hơn, nguyên nhân được quy là do nhiệt độ và độ mặn của nước biển. Nước biển có nhiệt độ ổn định và được tách thành bốn tầng riêng biệt. phía trên là tầng mặt biển và có nhiệt độ vào mùa hè và vào mùa đông. Tầng tiếp theo được tạo thành bởi các dòng chảy đến từ Thái Bình Dương và biển Bering thông qua eo biển Bering; dòng chảy kéo dài đến tận Bắc Cực. Tầng ấm nhất, tầng Đại Tây Dương sâu có nhiệt độ từ 0 đến 1 °C (32 đến 34 °F), và tầng nước phía dưới có nhiệt độ lạnh hơn đôi chút, từ −0,4 đến −0,8 °C (31,3 đến 30,6 °F). Độ mặn trung bình thay đổi từ 28‰ đến 32‰ từ nam lên bắc. Nhiệt độ không khí điển hình (tại Tuktoyaktuk) là vào tháng 1 và vào tháng 7.
1
null
Củ dền (tiếng Anh: "beet", "beetroot") hay củ dền đỏ (red beet) là một trong nhiều loại củ cải ngọt ("Beta vulgaris") và là loại củ được trồng nhiều nhất tại Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Anh Quốc. Đặc điểm. Củ dền có hai màu: tím than và đỏ thẫm, vỏ đen xù xì. Trong tự nhiên cũng có hai dạng củ: củ dền dài và củ dền tròn. Khi cắt ngang củ thấy ruột củ có nhiều khoang đậm nhạt khác nhau tạo thành các vòng tròn đồng tâm. Sở dĩ dền có màu đỏ là nhờ hợp chất hỗn hợp tự nhiên betacyanin (đỏ) và betasanthin (tím) cấu thành từ hóa tính thực vật. Dinh dưỡng. Củ dền và cả lá của cây chứa nhiều vitamin A, B1, B2, B6 và C. Lá và thân rau dền có chứa nhiều chất sắt hơn so với rau bina (spinach). Chúng cũng chứa rất nhiều chất calci, magnesi , đồng, phosphor, natri và sắt. Củ dền cũng là một nguồn cung cấp đáng kể các chất choline, acid folic, iod, mangan, natri hữu cơ, kali, chất xơ và carbohydrates ở dạng đường tiêu hóa tự nhiên. Hàm lượng chất sắt trong củ dền, mặc dù không cao, nhưng có chất lượng cao nhất và tốt nhất và được xem là một loại thực phẩm có tính bổ máu. Chính vì hàm lượng dinh dưỡng trong củ mà từ lâu củ dền đã nổi tiếng với những lợi ích về sức khỏe cho hầu hết các phần của cơ thể con người, giúp cải thiện tình trạng bệnh tật như nhiễm toan, thiếu máu, xơ vữa động mạch, huyết áp, giãn tĩnh mạch, loét dạ dày, táo bón, nhiễm độc, bệnh gan và mật, gout, ung thư, gàu tóc. Tiêu thụ. Rễ màu đỏ thẫm của củ dền được chế biến bằng cách luộc, nướng, nấu canh để ăn như rau củ nấu chín, hoặc có thể dùng làm salad sau khi nấu và thêm dầu và giấm hoặc cũng có thể ăn sống, ép nước. Lượng lớn củ dền sản xuất thương mại được xử lý bằng cách đun sôi và khử trùng hoặc muối dưa. Ở Đông Âu, súp củ dền ví dụ như món borscht là một món ăn rất phổ biến. Trong ẩm thực Ấn Độ, củ dền xắt nhỏ, nấu chín, tẩm gia vị cũng là một món ăn thêm thông thường. Củ dền màu vàng được trồng với quy mô rất nhỏ phục vụ tiêu dùng gia đình. Phần lá xanh bên trên của củ cũng ăn được. Cách chế biến phổ biến nhất là luộc và hấp, khi đó nó có mùi vị và bề ngoài giống như rau chân vịt. Thông tin khác. Là một trong những giống củ cải ngọt thuộc họ Dền, tuy nhiên củ dền đỏ ít nhiều phân biệt với củ cải đường (sugar beet) chuyên dùng để chiết lấy đường, củ cải đường thường to hơn và có màu trắng. Củ dền cũng phân biệt với củ cải đỏ (radish), một loại củ thuộc họ Cải có hình thức gần tương tự củ dền tuy nhỏ hơn một chút và màu sắc ngoài vỏ tươi hơn (giống màu cánh sen). Củ cải đỏ có ruột màu trắng và hương vị tương tự như củ cải trắng.
1
null
Soundtrack có thể là nhạc đã thu âm sẵn đi kèm và đồng bộ với hình ảnh của một bộ phim, sách, chương trình truyền hình hay video game; một album nhạc phim được phát hành một cách thương mại âm nhạc trong nhạc phim của một bộ phim hoặc show truyền hình; hoặc phần vật lý của một phim mà bao gồm những âm thanh đã được ghi âm và đồng bộ sẵn. Nguồn gốc của từ. Trong thuật ngữ được sử dụng trong nền công nghiệp điện ảnh, một soundtrack trong phim (hay nhạc phim) là một bản ghi âm âm thanh được tạo ra và sử dụng trong sản xuất phim hoặc quá trình hậu sản xuất. Ban đầu lời thoại, hiệu ứng âm thanh, và nhạc trong một bộ phim có phần riêng của nó ("phần hội thoại", "phần các hiệu ứng âm thanh", và "phần nhạc"), và chúng được trộn lại cùng nhau để tạo nên cái gọi là "phần tổng hợp", mà được nghe thấy trong phim. Một "phần lồng tiếng" thường được tạo ra sau đó, khi phim được lồng với một ngôn ngữ khác. Cái này còn được gọi là "phần M & E" ("music and effects", nhạc và các hiệu ứng) bao gồm tất cả thành phần âm thanh ngoại trừ lời thoại, rồi sau đó cung cấp bởi nhà phát hành nước ngoài với ngôn ngữ địa phương của vùng đó. Từ "soundtrack" đến với công chúng với sự ra đời của cái gọi là "album soundtrack" ở đầu những năm 1950. Đầu tiên được hình thành bởi những công ty phim như một mánh lới để quảng cáo cho những bộ phim mới, những bản ghi âm được phát hành một cách thương mại, đặt tên và quảng cáo dưới cái tên "âm nhạc từ "soundtrack" gốc của bộ phim điện ảnh". Cụm từ này nhanh chóng được rút gọn lại thành ""soundtrack" gốc của bộ phim điện ảnh" Chính xác hơn, những bản ghi âm được tạo ra từ một "phần nhạc" của phim, bởi vì chúng thường bao gồm âm nhạc tách biệt với một bộ phim, không phải phần (âm thanh) tổng hợp với lời thoại và các hiệu ứng âm thanh. Từ viết tắt OST thường được dùng để miêu tả album nhạc phim trên các phương tiên đã ghi lại như là CD, cũng nó là viết tắt của Original Soundtrack; tuy nhiên, nó thỉnh thoảng còn được dùng để phân biệt âm nhạc gốc nghe được và ghi âm lại so với việc ghi âm lại hay hát lại của âm nhạc. Các thể loại ghi âm. Trong thể loại soundtrack, có 4 thể loại ghi âm: Soundtrack cho bộ phim "Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn" năm 1937 của Walt Disney là soundtrack đầu tiên được phát hành thương mại. Nó được phát hành vào tháng 1 năm 1938 dưới tên "Songs from Walt Disney's Snow White and the Seven Dwarfs (with the Same Characters and Sound Effects as in the Film of That Title)" ("Các bài hát từ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn của Walt Disney (với cùng các nhân vật và hiệu ứng âm thanh như trong bộ phim có tiêu đề đó") và từ đó đã có rất nhiều bản mở rộng và phát hành lại. Chú thích. 2. OST là gì?
1
null
Văn Ngọc Tú (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1987) hay còn gọi tên thân mật là Tú dừa và được báo giới đặt tên là Nữ hoàng Nhu Đạo của Việt Nam hay Nữ hoàng Nhu Đạo của Đông Nam Á là một võ sĩ thi đấu môn Judo người Việt Nam, Văn Ngọc Tú tham gia vào đội tuyển Judo quốc gia Việt Nam, thi đấu xuất sắc, dành nhiều thành tích cho Việt Nam ở môn võ này trên đấu trường khu vực và quốc tế. Cùng với Cao Ngọc Phương Trinh, Văn Ngọc Tú chính là nữ võ sỹ giàu thành tích bậc nhất của judo Việt Nam trong giai đoạn gần đây và là tượng đài của Judo Việt Nam. Tiểu sử và sự nghiệp. Sinh tại thị xã Sóc Trăng trong một gia đình võ thuật khi cả ba chị em đều là võ sĩ Judo. Biệt danh Tú dừa" của cô vì trước đây luôn búi tóc rất cao giống như "trái dừa" mỗi lần bước lên thảm đấu. Năm 1999, cô bắt đầu tham gia tập luyện những đòn thế cơ bản Judo đầu tiên và vài tháng sau đó, Ngọc Tú đã được triệu tập vào đội tuyển tỉnh Judo Sóc Trăng với sự huấn luyện của ông Lê Quốc Thám (nguyên Huấn luyện viên đội tuyển Judo Việt Nam tại SEA Games 23). Năm 2002, Văn Ngọc Tú giành được 4 huy chương vàng trong năm tại các giải Đồng bằng sông Cửu Long, giải trẻ toàn quốc, Cúp các câu lạc bộ mạnh toàn quốc và Đại hội thể dục thể thao lần thứ 4. Tháng 2 năm 2003, Văn Ngọc Tú chính thức được khoác áo đội đội tuyển quốc gia, những chuyến tập huấn trong và ngoài nước (Trung Quốc, Nhật Bản) đã giúp Tú hoàn thiện khả năng kỹ, chiến thuật của mình hơn, đặc biệt là hai đòn sở trường Moroté (hốt chân) và uchimata (hốt cả hai chân đối phương) được tập luyện thật chu đáo, và đó chính là "tuyệt chiêu" giúp cô lên ngôi SEA Games 22 sau khi liên tục vượt qua nhiều đối thủ mạnh của khu vực bằng điểm Ippon. Khi Việt Nam đăng cai ASIAN Indoor Games 3, Văn Ngọc Tú luyện tập thêm môn Kurash - môn vật truyền thống của người Uzbekistan (ra đời cách đây khoảng 3.500 năm, đây là môn võ có họ hàng với võ vật cổ truyền Thổ Nhĩ Kỳ và võ vật của người Tatar) và bất ngờ đăng quang ngôi vô địch sau khi vượt qua võ sĩ Uzbekistan, Đài Loan – Trung Quốc Ying Ying Yu và Petlada Nuinkaew (Thái Lan) ở vòng loại đến chung kết hạng 52 kg. SEA Games 25 tại Lào, Văn Ngọc Tú giành huy chương vàng chính thức đi vào lịch sử Judo Việt Nam với danh hiệu "võ sĩ giàu thành tích nhất" với 4 tấm Huy chương vàng liên tiếp từ SEA Games 22 đến SEA Games 25. Văn Ngọc Tú là người mang về tấm huy chương đầu tiên ở giải Trẻ châu Á 2005 và 2007. Ngoài ra cô còn giành được tấm huy chương đồng tại giải Vô địch châu Á 2011, Văn Ngọc Tú đi vào lịch sử Judo Việt Nam với thành tích này, Văn Ngọc Tú được cộng thêm 72 điểm vào bảng xếp hạng của Liên đoàn Judo quốc tế. Đạt tổng cộng 160 điểm, Ngọc Tú và dẫn đầu khu vực châu Á.
1
null
Johnny English Reborn (được biết đến ở Việt Nam là Điệp viên không không thấy tái xuất) là bộ phim hành động hài của điện ảnh Anh Quốc phát hành năm 2011 nhại theo phim điệp viên James Bond. Phim là phần kế tiếp của phim "Johnny English" đã được phát hành năm 2003, với nhân vật chính là điệp viên Johnny English (điệp viên Cục tình báo quân sự Anh MI7) do diễn viên hài nổi tiếng Rowan Atkinson thủ vai chính. Phim do Oliver Parker làm đạo diễn. Phim thu về tổng doanh thu 160,078,586 đôla Mỹ trên toàn thế giới và được yêu thích ở nhiều quốc gia bởi phong cách diễn hài hước của Rowan Atkinson. Nội dung. Mật vụ MI7 Johnny English (Rowan Atkinson thủ vai) sau bê bối xảy ra ở Mozambique năm 2006 đã đến Tây Tạng để học võ thuật và rèn luyện tinh thần dưới sự đào tạo của các hòa thượng Tây Tạng. Johnny English đã trở lại MI7 và được giao nhiệm vụ phá vụ án mới từ một mật vụ cũ của CIA tại Hồng Kông. Đây là âm mưu của khủng bố nhằm vào Thủ tướng Trung Quốc để gây rối an ninh giữa các nước. English đã cùng với cộng sự của mình là Colin Tucker (do Daniel Kaluuya thủ vai) khám phá ra âm mưu của một nhóm mang tên Vortex gồm ba thành viên, mỗi người giữ một phần chìa khóa, để mở ra hộp chứa vũ khí bí mật. Cùng với sự trợ giúp của chuyên viên tâm lý học Kate Sumner (do Rosamund Pike thủ vai), Johnny English đã khám phá ra vũ khí bí mật chính là hợp chất timoxeline barbebutenol có thể điều khiển trí não của một người nhằm thực hiện âm mưu khủng bố - cũng chính là vũ khí tạo nên vụ khủng bố ở Mozambique năm 2006 mà Johnny English có mặt và dính bê bối. Chủ mưu chính là mật vụ nằm ngay trong nội bộ MI7 (lúc này là Toshiba British Intelligence), Simon Ambrose (do Dominic West thủ vai) đứng sau vụ việc này, đã tìm cách đoạt vũ khí này, để lợi dụng chính lãnh đạo MI7 ám sát thủ tướng Trung Quốc, với số tiền nhận được là 500 triệu USD từ giới khủng bố. Nhưng một phần vì Ambrose khôn khéo cũng như một phần vì English ngớ ngẩn quá sức mà sự nghi ngờ của MI7 dồn hết vào English. English và Tucker đã cùng nhau thâm nhập vào hệ thống, ngăn chặn việc này của Ambrose nhưng English đã "vô tư" uống thuốc độc timoxeline barbebutenol để bị Ambrose khống chế. Trong khi uống, English cứ lầm bầm học thuộc tên thuốc độc "Timoxeline...bubby, bubby, bub...bub...by" và bị biến thành vũ khí của Ambrose nhằm ám sát thủ tướng Trung Quốc. English cuối cùng đã phải dùng công phu được đào tạo ở Tây Tạng để chống lại sự khống chế này, nhưng suýt mất mạng do tác dụng của thuốc và cuối cùng lại được cứu bởi Kate Sumner - lúc này là người yêu của English. Sau khi được cứu sống, English đã đuổi theo, ngăn chặn cuộc chạy trốn của Ambrose và tiêu diệt Ambrose. Kết thúc phim, English lại một lần nữa được Nữ hoàng Anh phong tước vì có công với đất nước. English suýt mất mạng vì gặp phải bà già sát thủ của Vortex, bà ta giả làm Nữ hoàng Anh để tiêu diệt điệp viên cuối cùng của MI7. English lại một lần nữa... nhầm tay mình với tay bà già. Anh đuổi theo nhưng lại bắt phải "người thật". Bà Nữ hoàng bị English lấy khay đập vào đầu. Phim kết thúc bằng cảnh English "hóa tượng" khi nhìn thấy bà già sát thủ bị bắt, còn tay anh đang siết chặt Nữ hoàng. Đạo cụ. Chiếc xe của điệp viên Johnny English lái trong phim là "Rolls-Royce Phantom Coupé" với động cơ 9.0 lít (V16), loại động cơ khá hiếm hiện nay chỉ có một số xe Rolls-Royce sử dụng trong bản sản xuất thử nghiệm "Phantom Coupé" và không còn được dùng trong các sản phẩm thương mại. Nhà sản xuất phim cùng với Rowan Atkinson đã thương thảo và yêu cầu công ty Rolls-Royce lắp đặt động cơ này vào trong xe và lắp đặt một xe Rolls-Royce Phantom Coupé như yêu cầu riêng. Sản xuất phim. Nhà sản xuất Universal Pictures ban đầu thông báo sẽ sản xuất phần tiếp theo của phim Johnny English vào năm 2010, tức là 7 năm sau khi phần 1 được phát hành. Các cảnh quay bắt đầu được tiến hành từ 11/09/2010 ở Cannon Street, London, và tiếp tục đóng ở Brocket Hall (Hertfordshire), Hawley Woods (Hampshire), Macau và Hồng Kông. Phát hành. Phim bắt đầu được trình chiếu từ ngày 7/10/2011 ở Anh, đạt tổng doanh thu 7,727,025 USD. Phim được trình chiếu ở Mỹ từ ngày 27/10/2011 ở Mỹ và thu được tới 3,833,300 USD chỉ ngay trong tuần đầu tiên và đạt tổng doanh thu 8,305,970 USD. Ở các quốc gia khác, phim đạt doanh thu 2,628,344 USD ở Australia, 3,391,190 USD khi chiếu ở Đức và ở các nước còn lại trên thế giới đạt 151,772,616 USD.
1
null
Vàng anh gáy đen hay đơn giản là Vàng anh (tên khoa học Oriolus chinensis) là một loài chim thuộc họ Vàng anh ("Oriolidae"). Loài này thường được tìm thấy ở một số khu vực châu Á. Chúng được tìm thấy trong rừng, vườn cây và trồng rừng. Nó ăn quả và côn trùng trong tán cây. Chủng "diffusus" sinh sản ở phía đông Siberia, Ussuriland, đông bắc Trung Quốc, Hàn Quốc và miền Bắc Việt Nam và trú đông ở Thái Lan, Miến Điện và các khu vực của Ấn Độ. Chủng, phân loài. Khi được công nhận như là một loài theo nghĩa rộng nhất thì nó có thể bao gồm tới 20 chủng. Tuy nhiên khi đó nó là cận ngành trong mối tương quan với "Oriolus oriolus" và "Oriolus kundoo". Vì thế, giải pháp tốt nhất có lẽ là tách nó ra thành các loài như sau:
1
null
Chim lam hay Chim lam châu Á, tên khoa học Irena puella, là một loài chim thuộc họ Chim lam ("Irenidae"). Loài chim này được tìm thấy trong các khu rừng trên khắp Nam Á nhiệt đới từ dưới chân núi Hymalaya, Ấn Độ và Sri Lanka phía đông thông qua Đông Dương, quần đảo Sunda Lớn và Palawan (Philippines). Chúng đẻ 2 hoặc 3 quả trứng trong một tổ hình bát nhỏ trong một cây. Nó được mô tả bởi nhà nghiên cứu chim của Anh John Latham vào năm 1790. Con trưởng thành dài khoảng 24–27 cm. Con trống có phần trên bóng, óng ánh màu xanh, và phần dưới màu đen và những chiếc lông bay.
1
null
Chim đồ tể xám (danh pháp hai phần: Cracticus torquatus) chim biết hót kích thước trung bình có nguồn gốc từ Úc thuộc họ Nhạn rừng ("Cracticidae") Nó phát triển đến khoảng 35 cm (14 in) và có bộ lông màu đen và trắng. Nó phổ biến trong rừng gỗ và trong môi trường đô thị. Chế độ ăn uống của nó bao gồm chủ yếu là các loài động vật có xương sống nhỏ và côn trùng. Phân bố và môi trường sống. Chim đồ tể xám được tìm thấy ở hầu khắp nước Úc, ngoại trừ phía nam và Tasmania. Nó là một loài chim rừng và cây bụi mở, nhưng tránh xa những môi trường khô cằn. Ăn. Loài này ăn thịt, và ăn động vật có xương sống nhỏ và côn trùng lớn.
1
null
Nhạn rừng ngực trắng (danh pháp hai phần: Artamus leucorynchus) là một loài chim thuộc họ Nhạn rừng có phạm vi khu vực sinh sản từ quần đảo Andaman đến phía đông qua Indonesia và phía bắc Úc. Loài này được mô tả khoa học lần đầu tiên bởi Linnaeus vào năm 1771, tên khoa học chi tiết xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ "leucos" 'trắng', và "rhynchos" 'mỏ'.
1
null
Hậu quả. Mỗi khi 1 cầu thủ bị phạt 1 thẻ đỏ hoặc 2 thẻ vàng (giá trị 2 thẻ đã nói trên) thì thường sẽ bị đuổi khỏi sân và không được thay thế bằng cầu thủ dự bị. Mỗi khi trọng tài rút 1 thẻ vàng cho cầu thủ, có nghĩa là cầu thủ không được phạm lỗi để nhận thêm thẻ, vì khi đó, sau khi trọng tài rút thẻ vàng thứ 2 thì 1 thẻ đỏ sẽ được rút ra. Cầu thủ cũng có thể bị phạt trực tiếp bằng thẻ đỏ. Thẻ đỏ trực tiếp để phạt những cầu thủ phạm những lỗi nặng nhất hay phạm các lỗi được quy định trong luật 12 của Luật bóng đá. Thủ môn có thể nhận thẻ đỏ do lỗi phản ứng, phạm lỗi nặng trong vòng cấm hoặc chơi bóng bằng tay khi đứng ngoài vạch 16,50 m. Thẻ đỏ có thể được rút ra khi xảy ra xô xát giữa các cầu thủ. Một cầu thủ bị phạt thẻ đỏ sẽ bị đuổi khỏi sân và không được thay thế bằng cầu thủ dự bị. Do đó, một đội bị phạt bao nhiêu thẻ đỏ thì số người còn lại trên sân sẽ ít đi bấy nhiêu và ngược lại. Về phần cầu thủ bị thẻ đỏ, cầu thủ đó không được ngồi trên băng ghế dự bị mà phải rời hoàn toàn khỏi khu vực thi đấu. Nếu thủ môn bị phạt thẻ đỏ, một trong những cầu thủ trên sân sẽ được thay bằng thủ môn dự bị, nếu hết lượt thay cầu thủ hoặc hết thủ môn dự bị, một trong những cầu thủ trên sân sẽ buộc phải chuyển sang vị trí thủ môn (gọi là thủ môn bất đắc dĩ) và đội vẫn chơi với 10 người như bình thường hoặc nếu có hai cầu thủ ba cầu thủ bốn cầu thủ bị đuổi khỏi sân thì chỉ còn có 9 người 8 người và 7 người và mỗi một trận chỉ phạt tối đa 4 tấm thẻ đỏ. Nếu bị phạt 4 tấm thẻ đỏ sẽ tương đương với 7 cầu thủ trên sân. Huấn luyện viên, cẩu thủ dự bị và cổ động viên cũng có thể bị phạt thẻ đỏ nếu phạm những lỗi tương tự. Cầu thủ dự bị khi bị phạt thẻ đỏ thì sẽ phải rời khỏi băng ghế dự bị và không được thay thế cho bất kỳ cầu thủ nào khác. Không được phạt thẻ đỏ quá 4 lần. Nếu quá 4 lần thẻ đỏ (tương đương với 4 cầu thủ bị đuổi khỏi sân và trên sân còn lại 7 cầu thủ) thì trận đấu sẽ phải dừng lại. Nếu phạt 5 lần thẻ đỏ được rút ra cho một đội (tương đương với 5 cầu thủ bị đuổi khỏi sân và trên sân còn lại 6 cầu thủ) hoặc nhiều hơn 5 lần thẻ đỏ, chỉ còn lại ít hơn 6 cầu thủ, đội đó sẽ bị xử thua 0-3 (không tính số lượng thẻ đỏ của huấn luyện viên hay cổ động viên hay cầu thủ dự bị). Lịch sử. Trước khi chiếc thẻ vàng và thẻ đỏ ra đời, mỗi khi trọng tài muốn cảnh cáo hoặc phạt nặng bằng cách truất quyền thi đấu của một cầu thủ nào có mặt trên sân, trọng tài phải gọi anh ta đến và nói: "Tôi cảnh cáo anh vì lỗi …!", rồi sau đó báo cho đội trưởng của anh ta biết. Tuy nhiên cái khó cho trọng tài, đặc biệt đối với các trận đấu quốc tế là nhiều khi ngôn ngữ của họ sử dụng khác tiếng nói của cầu thủ trên sân thì vô cùng bất tiện và làm cho huấn luyện viên, khán giả trên sân luôn thắc mắc, không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Có khi cầu thủ dù hiểu ý trọng tài nhưng cứ làm bộ không biết gì, khiến cuộc chơi phải dừng lại khá lâu mỗi khi án phạt được ban ra từ tiếng còi của trọng tài. Ý tưởng bắt nguồn từ trọng tài bóng đá Anh Ken Aston. Aston đã được bổ nhiệm vào Ủy ban Trọng tài FIFA và chịu trách nhiệm cho tất cả các trọng tài tại World Cup 1966. Trong vòng tứ kết, đội tuyển Anh gặp đội tuyển Argentina tại sân vận động Wembley. Sau trận đấu, các tờ báo cho biết trọng tài Rudolf Kreitlein đã cảnh báo cả Bobby và Jack Charlton, cũng như đuổi Antonio Rattin của Argentina ra khỏi sân. Trọng tài đã không đưa ra quyết định rõ ràng trong trận đấu, và HLV người Anh Alf Ramsey đã tiếp cận FIFA sau trận đấu để làm rõ các quyết định này. Sự kiện này khiến Aston suy nghĩ về cách thức để đưa ra quyết định của trọng tài rõ ràng hơn cho cả người chơi và khán giả. Aston nhận ra rằng một chương trình mã hóa màu dựa trên nguyên tắc tương tự được sử dụng trên đèn giao thông (vàng - thận trọng, đỏ - dừng) sẽ vượt qua rào cản ngôn ngữ và làm rõ việc các cầu thủ bị cảnh cáo hoặc đuổi khỏi sân. Đến vòng chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 1970 tại México, FIFA đã cho áp dụng thẻ vàng và thẻ đỏ trên các sân cỏ thế giới. Sự ra đời của nó đã được nhiều người hoan nghênh, ủng hộ. Ban đầu thẻ được làm bằng giấy, nhưng hiện nay, thẻ được làm bằng chất liệu nhựa có thể sử dụng trong điều kiện trời mưa, và chống được ẩm mốc khi tiếp xúc với mồ hôi của trọng tài. Đặc biệt, màu sắc của thẻ được làm nổi bật để có thể dễ nhìn thấy trong mọi điều kiện thời tiết. Loại thẻ này được sản xuất tại Thụy Sĩ theo tiêu chuẩn của FIFA để cung cấp cho các trọng tài quốc tế. Loại thẻ này còn có ưu điểm là mặt sau thẻ có chia sẵn các ô ghi thứ tự số áo của các cầu thủ, và trọng tài chỉ cần thao tác đơn giản là dùng bút chì đánh dấu vào đó. Hiện nay, trang bị chính thức của FIFA dành cho trọng tài gồm thẻ vàng, thẻ đỏ và một cuốn sổ tay có kèm theo bút chì để trọng tài ghi thông tin các cầu thủ đã bị phạt thẻ vào trong sổ. Ngoại lệ. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2006, trọng tài người Anh Graham Poll đã rút tới 3 thẻ vàng dành cho hậu vệ Josep Simunic của đội Croatia trong trận vòng bảng F giữa hai đội Croatia và Australia ở World Cup 2006. Ông Poll cảnh cáo thẻ vàng đầu tiên đối với Josep Simunic ở phút thứ 62. Ở phút 90, ông rút thẻ vàng thứ hai đối với Simunic nhưng lại không rút thẻ đỏ truất quyền thi đấu của cầu thủ này như luật quy định. 3 phút sau thẻ vàng thứ hai của Simunic, Poll thổi còi kết thúc trận đấu. Tỷ số là 2 - 2 đồng nghĩa với Croatia bị loại. Simunic nói gì đó với ông Poll và ông này tỏ vẻ rất giận dữ, đẩy anh ta ra và rút thẻ vàng thứ 3 cảnh cáo hậu vệ này. Sau đó là thẻ đỏ.
1
null
Sơn ca cánh đỏ, tên khoa học Mirafra hypermetra, là một loài chim trong họ Alaudidae.. Phạm vi phân bố của nó khá rộng rãi trong Ethiopia, Kenya, Somalia, Sudan, Tanzania, và Uganda, với tổng diện tích khu vực phân bố ước khoảng 660.000 km2. Tổng dân số của nó vẫn chưa được định lượng, nhưng được tin là lớn. Môi trường sống tự nhiên của nó là thảo nguyên đất thấp khô nhiệt đới và cận nhiệt đới.
1
null
Chim sâu vằn (danh pháp hai phần: Dicaeum aeruginosum) là một loài chim trong họ Chim sâu. Nó là loài đặc hữu của Philippines. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới và rừng núi cao ẩm cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới.
1
null
Chim hói đầu cổ trắng, tên khoa học Picathartes gymnocephalus, là một loài chim trong họ Picathartidae, có cổ và đuôi dài. Loài chim này chủ yếu được tìm thấy tại rừng vùng núi cao ở Tây Phi, từ Guinée tới Ghana. Phạm vi phân bố của chúng khá rời rạc, và các quần thể thường bị tách biệt khỏi nhau. Phân loại. Loài này lần đầu tiên được mô tả bởi Coenraad Jacob Temminck năm 1825 từ một con chim thu thập trên bờ biển Guinea. Ông đã xuất bản mô tả của ông trong quyển 2 của "Nouveau recueil de planches coloriées d'oiseaux" và mô tả nó như "Corvus gymnocephalus", đặt nó trong chi quạ Corvus. Tên loài có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại "gymnos" nghĩa là "trần trụi", và "kephalē" nghĩa là "đầu". Tuy nhiên, chỉ ba năm sau, loài chim này đã được chuyển khỏi chi Corvus và được đặt trong chi Picathartes bởi René-Primevère Lesson vì nó không những đặc điểm chung của các thành viên chi Corvus như đầu có lông. Tên chi xuất phát từ sự kết hợp của "pica" là "ác là" và "cathartes" là " kền kền ". Từ mô tả ban đầu của nó, chi "Picathartes" đã được đặt trong hơn năm họ khác nhau bao gồm cả họ Quạ (Corvidae), họ Sáo (Sturnidae), họ Đớp ruồi (Muscicapidae), họ Họa mi (Timaliidae) và họ Lâm oanh (Sylviidae). Ngày nay, hói đầu cổ trắng và họ hàng chim hói đầu cổ xám ("Picathartes oreas") được cho là bao gồm trong một họ duy nhất, Picathartidae. Nó cũng đã được đề nghị mặc ​​dù không được chấp nhận rằng chim hói đầu đại diện cho những tàn tích của một bộ chim cổ đại. Gần đây phân tích DNA cho thấy họ Picathartidae và những họ họ hàng gần nhất của chúng Chaetopidae của Nam châu Phi và Eupetidae của Đông Nam Á tạo thành một nhánh. Các phân tích cho thấy rằng sự chia rẽ của chim hói đầu từ tổ tiên chung của nhánh từ cách đây 44 triệu năm trước. Người ta tin rằng tổ tiên của nhánh này có nguồn gốc từ châu Úc và lây lan sang châu Phi. Chim hói đầu cổ trắng không có phân loài, nó được cho là hình thành siêu loài với chim hói đầu cổ xám, với bộ lông và hoa văn trên khuôn mặt là sự khác biệt chính giữa hai loài. Đặc điểm. Chim hói đầu thường lựa chọn để sống gần suối và các inselberg (mỏm đồi đơn độc). Chim hói đầu cổ trắng có phía trên màu đen xám và phần dưới màu trắng. Cái đuôi dài khác thường của nó, có màu nâu tối được sử dụng làm thăng bằng, và đùi của nó đầy cơ bắp. Đầu là nó gần như không có lông, mảng da đầu có màu vàng tươi sáng ngoại trừ hai mảng lớn, tròn đen nằm ngay phía sau mắt. Mặc dù loài chim này thường là im lặng, người ta đôi khi vẫn nghe loài chim này kêu. Loài chim này ăn chủ yếu là côn trùng, mặc dù chim bố mẹ nuôi chim con bằng ếch nhái nhỏ.
1
null
Hawker Hart (Hart: hươu đực) là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ hai tầng cánh, hai chỗ của Không quân Hoàng gia (RAF), nó có một vai trò nổi bật ở RAF trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Hart được thiết kế trong thập niên 1920 bởi Sydney Camm và do Hawker Aircraft chế tạo. Nó có vài biến thể, trong đó có cả biến thể cho hải quân. Biến thể. Audax. Hawker Audax là một biến thể của Hart, thiết kế cho lục quân. Audax bay lần đầu cuối năm 1931, trên 700 chiếc Audax đã được sản xuất (bao gồm cả xuất khẩu). Audax rất giống với Hart, dù có một số sửa đổi. Audax trang bị 1 khẩu súng máy hạng nhẹ Lewis.303 in (7,7 mm) và 1 khẩu Vickers.303 in (7,7 mm). Nó trang bị phiên bản động cơ Kestrel và có tốc độ tối đa 170 mph (274 km/h). Một số biến thể của Audax được sản xuất, bao gồm cả Audax India, một phiên bản nhiệt đới hóa của Audax để hoạt động ở Ấn Độ; Audax Singapore dùng cho Singapore. Audax còn phục vụ trong không quân một số nước khác gồm Không quân Hoàng gia Canada, Không quân Hoàng gia Ấn Độ, Không quân Nam Phi, Không quân Hoàng gia Ai Cập, Không quân Hoàng gia Iraq, Không quân Đế quốc Iran, Không quân Nam Rhodesia. Audax tham gia hạn chế trong Chiến tranh thế giới II, nó hoạt động ở châu Phi, tại vùng biên giới Kenya-Abyssinia, vùng này sau đó bị Italy chiếm đóng. Audax cũng tham chiến ở Iraq, thuộc Habbaniya, ở Baghdad, tới năm 1945 thì nó bị thải loại. Một mẫu máy bay xuất phát từ Audax có tên gọi Hawker Hartebees, đây là loại máy bay ném bom hạng nhẹ, chế tạo cho Không quân Nam Phi với vài sửa đổi được làm từ Audax. 65 chiếc được chế tạo, phần lớn ở Nam Phi. Nó tham chiến ở Đông Phi, trong các cuộc đụng độ chống lại Italy. A.V.Roe and Co. chế tạo 287 chiếc Audax, đây là một phần của kế hoạch mở rộng RAF giai đoạn 1935-1937. Giai đoạn 1937-1938, Avro đã chế tạo 24 chiếc Audax hiện đại hóa cho chính phủ Ai Cập, lắp động cơ 750 hp (560 kW) Armstrong Siddeley Panther VIA. Nó được định danh là Avro Type 674. Demon. Hawker Demon là biến thể tiêm kích của máy bay ném bom hạng nhẹ Hart. Nó được phát triển khi Hart đã được đưa vào trang bị, các máy bay tiêm kích của RAF hầu như không thể đánh chặn nó, điều này đã được chứng minh trong các cuộc diễn tập phòng không. Trong các cuộc diễn tập này Demon được yêu cầu hạn chế tốc độ và độ cao để tạo điều kiện cho những chiếc Siskin và Bulldog của RAF có cơ hội bám đuổi. Trong khi Hawker Fury có hiệu năng tốt hơn, nhưng đắt tiền hơn và chỉ có số lượng nhỏ, thì phiên bản tiêm kích của Hart đã được đề nghị, Bộ không quân chọn nó làm máy bay tiêm kích trong thời gian chuyển tiếp cho đến khi máy bay tiêm kích chuyên nhiệm hiệu năng cao có thể được trang bị số lượng lớn. Biến thể tiêm kích mới lắp thêm khẩu Vickers thứ hai, trang bị động cơ Kestrel IS tăng áp. Một lô ban đầu gồm 6 chiếc còn được gọi là Hart Fighter, được đánh giá ở phi đội thuộc Phi đoàn 23 trong năm 1931 đã thành công, tiếp sau đó là các đơn đặt hàng số lượng lớn cho phiên bản tiêm kích Hart, còn được gọi là Hawker Demon. Trên 200 chiếc Hawker Demon đã được chế tạo cho RAF. Demon được trang bị vài kiểu của động cơ Kestrel. Nó lắp 1 khẩu Lewis.303 in (7.7 mm) ở phía sau và 2 khẩu Vickers.303 in (7.7 mm) ở mũi. Demon cũng được bán cho Không quân Hoàng gia Australia. Nó chỉ tham chiến thời gian ngắn trong Chiến tranh Thế giới II. Demon được sản xuất bởi Hawker và Boulton Paul Aircraft, Norwich. Hardy. Hawker Hardy là một biến thể đa dụng của "Hawker Hart" đã được nhiệt đới hóa để đáp ứng Đặc tả kỹ thuật G.23/33 để thay thế Wapiti tại Iraq. Mẫu thử là một chiếc Hart được sửa đổi với bộ tản nhiệt đã thay đổi, két nước và bộ hỗ trợ sinh tồn trong sa mạc. Mẫu thử bay lần đầu ngày 7/9/1934, chiếc máy bay thành phẩm đầu tiên giao cho Phi đoàn 20 vào tháng 1/1935. "Hardy" đã tham gia Chiến tranh thế giới II, ở châu Phi và Trung Đông; "Hardys" thực hiện một số chiến dịch tấn công quân Italy đang chiếm đóng Abyssinia cũng như các khu vực khác ở châu Phi. "Hardy" cũng tham chiến ở Nam Rhodesia. Hind. Hawker Hind là một mẫu máy bay bắt nguồn từ Hart và dự định sẽ thay thế Hart. Hawker Hector là một biến thể của Hind và được dùng trong vai trò hỗ trợ lục quân. Nó tham chiến hạn chế trong Chiến tranh thế giới II. Hector sau này bán cho Ireland. Osprey. Hawker Osprey là phiên bản hải quân của Hart, nó là máy bay trinh sát và tiêm kích trong biên chế hải quân. Osprey có 1 động cơ Rolls-Royce Kestrel II, vận tốc tối đa 168 mph (270 km/h). Trang bị 1 khẩu Vickers.303 in (7,7 mm) và 1 khẩu Lewis.303 in (7,7 mm). Osprey gia nhập không lực hải quân Anh vào năm 1932, chỉ hơn 100 chiếc được chế tạo. Nó bị thải loại năm 1944, sau khi được dùng làm máy bay huấn luyện phi công trong Thế chiến II. Osprey bán lại cho Không quân Thụy Điển, và được trang bị cho tàu tuần dương , tàu này mang 6 chiếc Osprey. Osprey cũng được bán cho không quân Bồ Đào Nha và Cộng hòa Tây Ban Nha. Tính năng kỹ chiến thuật (Hart (phiên bản ném bom ngày lắp động cơ Kestrel IB)). The British Bomber since 1914
1
null
Chim sâu bình nguyên (danh pháp hai phần: Dicaeum minullum) là một loài chim trong họ Chim sâu. Nó được tìm thấy ở dãy Himalaya miền Trung, xuyên qua phía Tây Indonesia đến Đài Loan. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới.
1
null
Quần đảo Tanga là một nhóm đảo thuộc Papua New Guinea, nằm ở phía bắc đảo New Ireland và là một phần cấu thành quần đảo Bismarck. Sự xuất hiện của nhóm đảo Tanga là kết quả của quá trình sụp đổ của một núi lửa dạng tầng. Thủ tướng trước đây của Papua New Guinea là Julius Chan vốn là một dân bản địa của quần đảo Tanga. Các đảo thuộc quần đảo Tanga. Quần đảo Tanga bao gồm 4 hòn đảo:
1
null
Wanda Nara (sinh ngày 09 tháng 12 năm 1986) là một nhân vật truyền thông người Argentina. Wanda Nara là vợ của tiền đạo Mauro Icardi, hiện đang chơi cho Paris Saint Germain. Hai người kết hôn với nhau năm 2014. Đời tư. Trong quá khứ, Wanda có những chuyện không hay với nhiều chi tiết đời tư bí mật của Wanda được Eva Anderson tiết lộ những chuyện xấu của Wanda như chơi bời trác táng thời chưa quen Maxi Lopez. Sau đó, họ kết hôn hồi cuối tháng 5 năm 2008 và đã có với nhau 3 người con: Valentino Gastón (sinh ngày 25 tháng 01 năm 2009), Constantino (sinh ngày 19 tháng 12 năm 2010) và Benedicto (sinh ngày 20 tháng 02 năm 2012). Trước khi đến với Maxi López, siêu mẫu Argentina từng có thời gian cặp kè cùng Maradona. Ngoài ra, tên tuổi cô còn được biết đến nhờ những bức hình phơi bày thân thể cực kỳ nóng bỏng trên khắp các tạp chí thời trang danh tiếng. Trong quá khứ đầy hào quang lấp lánh của một siêu mẫu ngực trần, Wanda Nara cũng để lại một vài vết gợn. Từng có đợt một đoạn clip quay cảnh giường chiếu của cô nàng và bạn trai cũ bị phát tán trên mạng. Song điều đó có vẻ chỉ khiến Wanda Nara thêm phần nổi tiếng.
1
null
Kotor (tiếng Montenegro: Котор / Kotor, phát âm là [kɔ̌tɔr],tiếng Ý: Cattaro) là một thị trấn ven biển ở Montenegro. Nó nằm trong một phần tách biệt của vịnh Kotor. Thị trấn có dân số 13.510 người và là trung tâm hành chính của Đô thị Kotor. Cảng Địa Trung Hải của Kotor được bao quanh bởi công sự ấn tượng được xây dựng trong thời Cộng hòa Venezia và ảnh hưởng Venezia vẫn còn chiếm ưu thế trong kiến trúc của nó. Nó nằm bên bờ Vịnh Kotor, một vịnh nhỏ của biển Adriatic, đôi khi được gọi là vịnh hẹp cực nam châu Âu, nhưng thực chất nó là một cửa cắt khía, một hẻm núi sông ngập nước. Cùng với gần vách núi đá vôi nhô ra gần đó là Orjen và Lovćen, Kotor và khu vực xung quanh tạo thành cảnh quan ấn tượng, đẹp như tranh vẽ. Kể từ năm 2000, Kotor đã chứng kiến sự tăng trưởng khách du lịch tới đây, nhiều người trong số họ đến bằng tàu du lịch. Du khách được thu hút bởi vẻ đẹp tự nhiên của vịnh và cả cảnh quan văn hóa, kiến trúc, lịch sử của thị trấn cổ Kotor. Kotor là một phần của di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 1979 với tên gọi Vùng Tự nhiên và Văn hóa-Lịch sử của Kotor. Ngoài ra, Thành lũy của Kotor cũng được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2017 như là một phần của .
1
null
Quân đội nhà Lê trung hưng là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều vua Lê Chiêu Thống, từ năm 1533 đến năm 1789. Giữa thời kỳ Nam Bắc triều - chiến tranh với nhà Mạc - và thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh có những thay đổi lớn trong tổ chức. Vì sự chia cắt Đàng Ngoài – Đàng Trong kể từ năm 1600, quân đội Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn được hình thành và có cơ cấu tổ chức riêng, phân biệt với quân đội Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh ở Bắc Hà. Quân đội Đàng Ngoài thực chất là quân đội nhà Lê trung hưng từ năm 1600 đến khi chính quyền Lê – Trịnh tan rã. Thời Nam Bắc triều. Chính quyền Lê-Trịnh không có sơ sở vững chắc trong dân lại phải thường xuyên đương đầu với sự uy hiếp từ nhiều phía nên các chúa Trịnh đã sớm có ý thức hình thành một lực lượng quân đội thường trực đủ mạnh để tự vệ. Thời chiến tranh với nhà Mạc, quân đội nhà Lê trung hưng tổ chức theo mô hình như thời Lê Sơ. Quân được chia làm 5 phủ và vẫn đặt chức Đô đốc phủ quân như trước, bên cạnh đó đặt dinh 5 khuông gồm: Trung khuông, Tả khuông, Hữu khuông, Tiền khuông, Hậu khuông. Binh lính chỉ lấy từ Thanh Hóa và Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay), các đinh tráng có sẵn tên trong sổ, khi có việc mới gọi ra. Sau khi thu phục được Thăng Long (1592), nhà Lê tiếp nhận quân 4 vệ của nhà Mạc (Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y và Kim Ngô) về hàng, cho nhập vào trong quân, tổng số quân thủy bộ có 12 vạn người. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Phân loại. Từ năm 1600, Trịnh Tùng chia quân đội làm hai loại: quân thường trực và ngoại binh. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ cung vua, phủ chúa, lực lượng này còn làm nòng cốt trong cuộc chiến với chúa Nguyễn. Do 3 phủ ở Thanh Hóa là căn cứ vững chắc từ thời Nam Bắc triều và cung cấp chủ yếu quân túc vệ nên lực lượng này còn được gọi là lính Tam phủ. Binh lính được đặt ngũ phủ, có Đô đốc đứng đầu. Từ năm 1722, chúa Trịnh Cương đặt thêm 6 quân doanh là Trung dực, Trung uy, Trung thắng, Trung khuông, Trung nhuệ, Trung tiệp, mỗi doanh 800 người, lấy thêm quân tứ trấn vào bổ sung vì quân Thanh Nghệ không đủ cung cấp. Kể từ giữa thế kỷ 18, do phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài, chúa Trịnh còn huy động thêm nhiều dân đinh các làng xã, phiên chế thành đội ngũ gọi là hương binh, phủ binh. Tuy nhiên, lực lượng này chỉ huy động nhằm đối phó trong thời loạn lạc. Quân đội Lê-Trịnh gồm có 4 binh chủng: bộ binh, thủy binh, kỵ binh và pháo binh. Sử sách xác nhận tổng số chính quyền Lê-Trịnh có 413 doanh, cơ, đội, thuyền. Ngoài bộ binh là lực lượng truyền thống, thủy binh được chú trọng phát triển. Đàng Ngoài có khoảng 600 chiến thuyền. Theo giáo sĩ Alexandre de Rhodes có mặt ở Đàng Ngoài: Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời Nam Bắc triều, quân Trịnh theo phò nhà Lê có lực lượng kỵ binh khá mạnh. Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Bắc triều. Năm 1592 ông huy động tới 5000 kỵ binh nặng, trang bị giáp sắt cho cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc. William Dampier, một nhà du hành từng đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Ngựa trung bình cao 140 cm đến vai, kích cỡ tương đương các nòi ngựa để cưỡi hiện đại. Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 nhà chúa có dưới trướng hơn ba mươi vạn bộ binh, hai ngàn thớt voi trận và một trăm lẻ hai ngàn quân kỵ(!). Con số này đáng nghi vấn. Tuy nhiên ghi chép này cũng cho người đời sau thấy được ấn tượng của những người ngoại quốc về 1 quân đội Đại Việt hùng cường toàn diện, từ thủy binh, bộ binh đến kỵ, tượng binh. Trưng tập. Phép tuyển lính về cơ bản giữ theo chế độ thời Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, từ năm 1660 thời Lê Thần Tông, do không tuyển được nhiều lính tốt, phát sinh tệ nạn gian dối nên chính quyền cho thay đổi cách thức rất rắc rối. Nhưng chỉ duy trì được 4 năm, tới năm 1664 thời Lê Huyền Tông lại quay về phép cũ là: Từ tháng 12 năm 1721, Trịnh Cương thống nhất binh chế trong nước theo cùng một chính sách: dù là ngoại binh hay quân thường trực đều cứ 5 đinh lấy 1 lính. Quân Thanh - Nghệ gọi là "ưu binh" và quân tứ trấn gọi là "nhất binh". Đào tạo. Để xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh, chính quyền Lê-Trịnh chú trọng việc mở trường đào tạo sĩ quan. Năm 1721, triều đình đặt ra phép học võ và thi võ, đặt chức Giáo thụ dạy nghề võ. Con cháu công thần và con cháu quan lại đều cho vào học võ và học tập chiến lược. Hàng tháng có tiểu tập, 4 tháng trọng điểm trong năm là tháng 2, 5, 8, 11 thì đại tập. Mùa thu, mùa xuân tập võ nghệ, mùa hè và mùa đông giảng về võ kinh. Do đề cử của giáo thụ, người nào trúng tuyển sẽ được bổ dụng. Chế độ thi võ của triều đình 3 năm 1 kỳ, dân đinh ai có tài cũng được đi thi. Mỗi kỳ thi có 3 lần. Lần 1: hỏi sơ lược về Binh pháp Tôn Tử. Lần 2: Ai thông hiểu về sách nghĩa sẽ được vào dự thi võ: cưỡi ngựa múa đâu mâu, đấu kiếm lăn khiên và múa siêu đao. Lần 3: thi về mưu mẹo trong việc binh. Những người trúng tuyển được vào phủ chúa để thi phúc trạch, tùy theo tài cao thấp mà bổ dụng. Từ năm 1724, Trịnh Cương đặt ra lệ thi võ, chúa Trịnh tự mình xét duyệt và vua Lê tham dự. Lệ thi 3 năm 1 lần, chia làm hai loại: Thi ở các trấn gọi là Sở cử vào các năm tý, ngọ, mão, dậu và thi ở kinh đô gọi là Bác cử vào các năm "thìn, tuất, sửu, mùi". Mỗi khoa thi chia làm 3 trường. Người trúng tuyển trong cả ba trường trong các kỳ thi Sở cử gọi là Cống sĩ, đỗ thấp hơn gọi là Biền sinh; chỉ trúng 2 trường gọi là "Sinh viên". Người trúng tuyển cả ba trường trong kỳ thi Bác cử gọi là "Tạo sĩ", người chỉ trúng 2 trường gọi là "Tạo toát". Học vị Tạo sĩ bên ban võ cũng như học vị tiến sĩ bên ban văn. Tổng số thời Lê trung hưng đã tổ chức 19 kỳ thi võ học lấy đỗ 199 tạo sĩ. Vì phép thi cử này chỉ nặng về văn nên tới năm 1731, chúa Trịnh Giang thay đổi phép thi Bác cử, theo đó lần 1 thi bắn cung, múa siêu đao; lần 2 thi múa kiếm, cưỡi ngựa, bắn tên và lần 3 mới thi văn sách và phương pháp mưu lược nhà binh. Lê Quý Đôn ghi lại rằng nhà Lê Trung Hưng từ năm 1724 trở về sau vẫn còn có môn cưỡi ngựa bắn cung trong thi Bác Cử. Nhưng trong Thượng Kinh Phong Vật Chí, ông cho biết thời đại ông người ta đã bãi bỏ cưỡi ngựa bắn cung, và thay bằng nội dung cưỡi ngựa bắn súng trong khoa cử. Đãi ngộ và mặt trái. Quân thường trực Thanh Nghệ được coi trọng hơn ngoại binh. Ngoại binh chỉ là lực lượng dự trữ trong ngạch, khi có việc và quân thường trực không đủ mới gọi đến. Binh lính Tam phủ được ưu đãi, cấp ruộng đất tại làng xã cao hơn dân thường. Từ năm 1707, Trịnh Cương đặt ra lệ truy tặng tiền tuất cho binh lính tử trận. Năm 1724, Trịnh Cương cho Thanh Hóa, Nghệ An và kinh kỳ là những vùng quan trọng được nới nhẹ tô thuế. Thanh Hóa và Nghệ An chỉ có tiền thuế điệu lá theo tứ nội trấn, còn thuế thân được miễn hết và thuế ruộng thì giảm một nửa. Tại Thăng Long thì tô thuế, thuế dung và thuế điệu đều được giảm so với tứ trấn. Từ năm 1722 khi đặt thêm 6 doanh và bổ sung thêm quân lấy từ tứ trấn thì chế độ ruộng khẩu phần ở làng xã của quân tứ trấn cũng được hưởng như quân Thanh - Nghệ: với ruộng màu mỡ thì cấp 5 mẫu, với ruộng thường thì cấp 6 mẫu. Quân thường trực được coi trọng và được ưu đãi, nên càng ngày càng cậy thế, còn được gọi là ưu binh hay "kiêu binh". Sau này lực lượng này làm nhiều việc trái phép, gây ra nạn kiêu binh ở Đàng Ngoài. Năm 1674 đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính Nghệ đã giết quan Tham tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm 1741 quân kiêu binh lại phá nhà và trực giết quan Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy chúa Trịnh có bắt những người thủ xướng làm tội nhưng quân kiêu binh quen thói, về sau hễ hơi có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn. Đỉnh cao của nạn kiêu binh chính là vụ đảo chính giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo và phế Điện Đô vương Trịnh Cán năm 1782.
1
null
Polo hay còn gọi là Mã cầu (, "chowgan," , "mǎqiú") là một môn thể thao đồng đội. Trong môn này, người chơi ngồi trên lưng ngựa và có nhiệm vụ ghi bàn để giành chiến thắng trước đội đối phương. Người chơi ghi bàn bằng cách dùng một cái vồ có cán dài điều khiển một quả bóng bằng nhựa trắng hoặc bằng gỗ vào cầu môn đối phương. Polo truyền thống được chơi ở tốc độ cao, trên một sân cỏ rộng hình chữ nhật, dài 300 yard, rộng 160 yard. Mỗi đội bao gồm 4 người chơi cưỡi trên bốn con ngựa. Polo trên sân (field polo) được chơi với một quả bóng bằng nhựa cứng thay vì bằng gỗ. Polo chơi trong đấu trường (arena polo) chỉ có ba người chơi mỗi đội, thường là để diễn tập hoặc chỉ là nhưng trận đấu ngắn ở tốc độ thấp hơn do không gian hạn chế của đấu trường; quả bóng được dùng trong thể loại này là một quả bóng nhỏ bơm hơi, tương tụ một quả bóng đá nhỏ. Một trận polo hiện đại kéo dài khoảng 2 giờ và được chia thành những khoảng thời gian gọi là "chukka" (dài 7 phút rưỡi). Polo được chơi chuyên nghiệp ở 16 quốc gia. Polo nhiều khi được coi là môn thể thao quý tộc, "The Sport of Kings". Người Ba Tư chơi môn này đầu tiên và nó rất phổ biến ở Iran cho đến năm 1979, sau đó do cuộc Cách mạng Hồi giáo mà tính phổ biến của nó ở đây đã giảm đi nhiều. Trong quá khứ, polo từng là một môn thể thao Olympic.
1
null
Sự cố bom nguyên tử Goldsboro 1961 hay còn được gọi là vụ tai nạn máy bay B-52 Goldsboro 1961, trên thực tế nó là một vụ tai nạn máy bay B-52 dẫn đến sự cố đáng tiếc liên quan đến bom nguyên tử xảy ra ngày 24 tháng 1 năm 1961 tại Goldsboro, Bắc Carolina, Hoa Kỳ. Vụ tai nạn B-52. Sự việc diễn ra trên bầu trời Goldsboro, Bắc Carolina vào ngày 24 tháng 1 năm 1961 khi một chiếc máy bay B-52 Stratofortress của Không quân Hoa Kỳ có mang bom nguyên tử bị rò rỉ thùng dầu và sau đó đã phát nổ, làm những quả bom gắn trên nó tách ra và rơi thẳng xuống mặt đất. Chiếc máy bay cũng đâm xuống đất ngay sau đó. Sự cố bom nguyên tử. Nó sẽ chỉ là một vụ tai nạn máy bay thông thường của Không quân Hoa Kỳ nếu chiếc máy bay B-52 này không mang theo bom nguyên tử. Hai quả bom nguyên tử rơi ra từ khoang máy bay đều không phát nổ, một trong hai quả bom đã hạ cánh bằng dù xuống mặt đất mà không bị hư hại gì nhiều, quả bom còn lại đâm sầm xuống trang trại của một nông dân. Sau vụ rơi máy bay, các sĩ quan không quân được điều đến Goldsboro để tìm kiếm hai quả bom nguyên tử trong đống tàn tích. Khi được các phóng viên phỏng vấn, họ cho biết rằng họ đến đây để tìm một chiếc ghế dù được phóng ra, nhằm ém nhẹm sự cố trên. Vào thời điểm đó, Bộ quốc phòng Mỹ thông báo rằng hai quả bom chưa được kích hoạt và sẽ không có nguy cơ phát nổ. Tuy nhiên bằng chứng sau này cho thấy sự thật tồi tệ hơn nhiều. Sự thật kinh hoàng. Sau này, các nhà phân tích đã phát hiện ra rằng cả hai quả bom đều đã tự kích hoạt gần hết quá trình kích nổ khi máy bay xảy ra sự cố. Việc kích nổ đòi hỏi trình tự phải đi qua 6 bước và hai quả bom đã đi qua 5 bước đầu tiên do sức ép của vụ nổ thùng dầu. Chỉ một bước chuyển mạch đã ngăn chúng phát nổ. Viện nghiên cứu Hoà bình Quốc tế ở Stockholm đã kết luận: "Đó có lẽ là thời điểm mà thế giới cận kề nhất với một thảm hoạ hạt nhân không chủ ý". Đó không phải là một điều nói ngoa của các nhà phân tích, vì hai quả bom nguyên tử MK 39 rơi xuống Goldsboro có sức công phá mạnh gấp 250 lần quả bom đã phá huỷ Hiroshima. Tổng thống Kennedy mới nhậm chức được 4 ngày sau sự kiện trên đã ra chỉ thị cho quân đội rằng phải trang bị thêm các cơ chế kích hoạt phức tạp trên vũ khí hạt nhân để ngăn ngừa hiện tượng kích nổ ngẫu nhiên.
1
null
Hawker Fury là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Anh, nó được trang bị cho Không quân Hoàng gia vào thập niên 1930. Nó có tên ban đầu là Hornet và là bản sao của loại máy bay ném bom hạng nhẹ Hawker Hart. Tính năng kỹ chiến thuật (Hawker Fury Mk II). The British Fighter since 1912
1
null
Goldsboro là một thành phố quận lỵ quận Wayne, bang North Carolina, Hoa Kỳ. Dân số là 37.597 người theo ước tính điều tra dân số năm 2008. Đây là thành phố chính của và bao gồm trong khu vực thống kê đô thị Goldsboro Bắc Carolina. Thị trấn gần đó Waynesboro được thành lập vào năm 1787 và Goldsboro được thành lập vào năm 1847. Thành phố nằm trong đồng bằng ven biển Bắc Carolina và giáp giới phía nam với sông Neuse và phía tây các sông nhỏ, khoảng 43 dặm về phía tây nam của Greenville và 55 km về phía đông nam của Raleigh, thủ phủ bang và 87 dặm Anh phía tây bắc của Wilmington ở Đông Nam Bắc Carolina. Goldsboro được biết đến nhiều hơn là nơi có căn cứ không quân Seymour Johnson. Đây là nơi xảy ra sự cố bom nguyên tử năm 1961
1
null
Anthemis tinctoria, hay Camomila amarilla, là một loài thực vật thuộc chi "Anthemis" trong họ Cúc. Loài này phân bố ở Địa Trung Hải và Tây Á. Lá có lông, hoa màu vàng như hoa cúc, nở vào mùa hè. Cây cao đến 60 cm. Loài cây này không được sử dụng ẩm thực hoặc sử dụng thương mại hạn chế cho mục đích làm dược phẩm. Tuy nhiên, nó tạo ra màu vàng và đã từng được làm thuốc nhuộm.
1
null
Hawker Nimrod là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh một chỗ, một động cơ của Anh, nó được trang bị cho các tàu sân bay của Hải quân Anh. Nimrod được hãng Hawker Aircraft chế tạo vào đầu thập niên 1930. Tính năng kỹ chiến thuật (Nimrod Mk.II). Holmes, 2005. p. 89.
1
null
Cá mè vinh (danh pháp hai phần: Barbonymus gonionotus) là một loài cá thuộc chi "Barbonymus" (có thể không thuộc về chi này) họ Cá chép. Nó là một trong năm loài cá nuôi quan trọng của Thái Lan. Loài cá này được nuôi ở một số quốc gia Đông Nam Á. Đây nguyên liệu cho món tom yum trong ẩm thực Thái Lan.
1
null
Cá mè lúi hay cá lúi sọc hay đơn giản chỉ là cá mè (danh pháp hai phần: Osteochilus vittatus) là một loài cá thuộc chi Cá mè phương nam trong họ Cá chép. Loài này sinh sống ở Phân bố tại phía nam Myanma, Thái Lan, Sumatra, Borneo và Java. Cũng ghi nhận tại Trung Quốc và lưu vực sông Mê Kông.
1
null
Borsch (còn gọi là borscht, bortsch, borstch, borsh, borshch; ) là một món súp có nguồn gốc ở Ukraina, phổ biến ở nhiều quốc gia Đông và Trung Âu. Ở phần lớn các nước, củ dền là thành phần chính cho món ăn này khiến cho nó có màu đỏ tía. Ở một số nước, cà chua mới là thành phần chính còn củ dền là nguyên liệu thứ hai. Riêng ở Nga thì củ cải đỏ mới là nguyên liệu chính và đây là một món khai vị cho bữa tiệc. Món súp Borsch được ăn kèm với bánh mì đen.
1
null
Heinkel He 51 là một loại máy bay hai tầng cánh một chỗ của Đức, nó được sản xuất với số lượng lớn và có nhiều phiên bản khác nhau. Ban đầu nó được thiết kế làm máy bay tiêm kích, sau đó có thêm các biến thể cường kích và thủy phi cơ. Đây là sự phát triển từ mẫu máy bay He 49 trước đó. Tính năng kỹ chiến thuật (He 51B-1). "Warplanes of the Luftwaffe"
1
null
Dứa Đồng Giao là thương hiệu nông sản của vùng đất Tam Điệp, Ninh Bình. Quả dứa Đồng Giao có mặt trong sách Top 50 trái cây đặc sản nổi tiếng nhất Việt Nam, đã được Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ chỉ dẫn địa lý Dứa Đồng Giao cùng với cá rô Tổng Trường, dê núi và cơm cháy Ninh Bình được coi là những đặc sản ẩm thực tiêu biểu của Ninh Bình. Đặc điểm nhận dạng. Cây dứa được đưa về trồng ở Đồng Giao từ năm 1972 với 2 giống chính là Cayen và Queen. Dứa được trồng ở Đồng Giao ăn rất ngon, vị ngọt đậm, không xơ. Sự thơm ngon nức tiếng của loại quả này được tạo thành từ điều kiện tự nhiên độc đáo ở Tam Điệp là vùng đất bán sơn địa, thành phần đất có hàm lượng sét cao, tầng mặt tơi xốp, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn, lượng bức xạ cao và những kinh nghiệm, bí quyết canh tác của người dân. Dứa Tam Điệp có 2 giống chính là Dứa Cayen xuất khẩu với diện tích trồng khoảng 3000 ha và Dứa Queen Victoria 500ha. Hiện nay, ở Tam Điệp, cây dứa chiếm 60% diện tích trồng các cây ăn quả. Nhờ áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, nên sản lượng dứa thu hoạch hàng năm tăng nhanh từ trên 5.700 tấn dứa quả năm 2000 lên trên 22.800 tấn vào năm 2005 và năm những năm gần đây là trên 30.000 tấn. Cây dứa Đồng Giao thân ngắn, lá dài và cứng với gai mọc ở mép, quả có nhiều mắt; phía trên có một cụm lá. Dứa có quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào tháng 3 tháng 7. Trung bình thời gian từ lúc trồng tới lúc thu hoạch là 18 tháng. Trước khi hái, dứa được thử để ước tính lượng đường của trái. Dứa Cayene Đồng Giao có hình trụ, màu vàng cam nhạt, mùi thơm, vị ngọt đậm, không xơ. Khối lượng quả từ 1,53 đến 1,78 kg. Đường kính quả từ 12,90 đến 13,90 cm. Chiều dài quả từ 19,45 đến 20,39 cm. Số lượng mắt dứa từ 111 đến 115 mắt. Tỷ lệ phần ăn được từ 72 đến 75%. Dứa Queen Đồng Giao có hình trụ, màu vàng rơm, mùi thơm, vị ngọt, không xơ. Khối lượng quả từ 0,54 đến 0,61 kg. Đường kính quả từ 7,71 đến 8,49 cm. Chiều dài quả từ 10,46 đến 11,27 cm. Số lượng mắt dứa từ 92 đến 94 mắt. Tỷ lệ phần ăn được từ 60 đến 74%. Bên cạnh kinh nghiệm và bí quyết canh tác của người dân, các đặc tính này có được là nhờ điều kiện tự nhiên độc đáo của khu vực này: vùng bán sơn địa, có mức độ phân cắt địa hình ít nên tạo sự đồng đều về khí hậu, tiêu thoát nước tốt, thuận lợi cho việc trồng và sản xuất cây dứa. Đất đai nơi đây có hàm lượng sét cao, tầng mặt của đất tơi xốp, phù hợp với đặc điểm của cây dứa là có bộ rễ yếu, ăn nông và cần lượng nước cao.Ngoài ra, đây là khu vực có biên độ nhiệt ngày đêm lớn (4 – 6oC) và lượng bức xạ cao giúp tạo nên đặc điểm đặc thù cho sản phẩm dứa Đồng Giao. Chiến lược phát triển. Cây dứa Đồng Giao được trồng nhiều ở Nông trường Đồng Giao và các hộ dân thuộc vùng đồi núi Tam Điệp. Từ năm 2007, Ninh Bình là tỉnh có sản lượng dứa đứng đầu miền Bắc với 47.400 tấn/năm. Từ những năm 1967, cây dứa được đưa về trồng ở Đồng Giao, cây dứa đã tồn tại và phát triển bền vững và trở thành biểu tượng và sản phẩm chính của Đồng Giao. Hiện tại, toàn Nông trường Đồng Giao có diện tích rộng 5.500ha, với khoảng 1.800 hộ chuyên làm nghề trồng dứa, bình quân mỗi hộ có 1ha đất canh tác trở lên. Tổng sản lượng dứa mỗi năm 30.000-35.000 tấn. Khu vực địa lý của sản phẩm dứa bao gồm các xã Phú Long, Quảng Lạc thuộc huyện Nho Quan; các xã Đông Sơn, Quang Sơn và các phường Trung Sơn, Nam Sơn thuộc thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Điểm du lịch thiên nhiên. Nói đến Ninh Bình, không chỉ có Tràng An, Bái Đính, Cúc Phương, Vân Long, Phát Diệm hay Tuyệt Tình Cốc nữa mà còn có thêm một sự lựa chọn thú vị đó là nông trại dứa Đồng Dao. Mọi góc ở đây đều có thể cho ra đời hàng chục tấm hình sống ảo đẹp.
1
null
Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên (Chosŏn'gŭl: 북조선인민위원회; "Pukchosǒn Inmin Wiwŏnhoe", Hán Việt: Bắc Triều Tiên Nhân dân Ủy viên hội) là một chính phủ được thành lập bởi Kim Nhật Thành sau khi ông tuyên bố tách khỏi Chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc trong thời kỳ mở đầu của Chiến tranh Lạnh cùng với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên (mà tiền thân là Đảng Cộng sản Triều Tiên). Đây là một chính phủ tồn tại được sự hậu thuẫn bởi Liên Xô và luôn ở thế đối đầu với Chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân quốc do Mỹ hậu thuẫn ở phía nam Vĩ tuyến 38 trên bán đảo này. Quốc kỳ của Bắc Triều Tiên ban đầu được sử dụng cờ Takeuga để cho phù hợp với truyền thống quốc gia, nhưng sau này chính phủ Đại Hàn Dân quốc đã sử dụng cờ này và nhằm đảm bảo phù hợp với những quốc gia cộng sản nên khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được thành lập đã sử dụng cờ có ngôi sao năm cánh và nền đỏ tượng trưng cho ý chí đấu tranh cách mạng và tinh thần yêu nước của toàn Đảng toàn dân. Màu trắng của hai viền và bao quanh ngôi sao đỏ tượng trưng cho tính thống nhất và duy nhất của dân tộc, rìa cờ màu xanh da trời biểu thị nguyện vọng thiết tha yêu chuộng hòa bình. Lá cờ này được sử dụng cho đến ngày nay. Tổ chức. Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên được tổ chức trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nhân dân Bắc Triều Tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 12 năm 1947. Phiên họp đã quyết định chuyển quyền lực của Ủy ban Nhân dân lâm thời Bắc Triều Tiên sang Ủy ban Nhân dân Bắc Triều Tiên, và bầu Kim Nhật Thành làm chủ tịch dựa trên đề xuất của người đứng đầu Mặt trận Dân chủ Thống nhất Tổ quốc là Choi Yong-kun. Hội đồng nhân dân đã ủy quyền cho Kim Nhật Thành để tổ chức Ủy ban nhân dân. Giải thể. Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã tuyên bố trên 09 tháng 9 năm 1948, hòa tan một cách hiệu quả các chính phủ lâm thời. Các lực lượng Liên Xô đã rời khỏi Bắc Triều Tiên vào năm 1948.
1
null
Kochyerigin DI-6 (tên định danh ban đầu: TsKB-11; ) là một loại má bay tiêm kích hai tầng cánh do Liên Xô chế tạo vào thập niên 1930. DI-6 được phát triển tại TsKB với vai trò làm máy bay tiêm kích, với khả năng cường kích hạng nhẹ khi được trang bị các loại vũ khí khác nhau. Động cơ ban đầu đã gặp vấn đề nên phải dùng động cơ Wright R-1820 thay thế. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 30 tháng 9 năm 1934, thử nghiệm chính thức bắt đầu vào đầu năm 1935, nghiệm thu cấp nhà nước diễn ra vào giữa tháng 5-tháng 11. Mặc dù có một số điểm yếu, nhưng nó vẫn được đặt chế tạo, và trang bị cho các đơn vị không quân vào mùa xuân năm 1937. Việc sản xuất kéo dài tới tận năm 1939. Tính năng kỹ chiến thuật (DI-6). Shavrov 1985
1
null
Taiji (), hay Thai cát (chữ Hán: 台吉), là một tước hiệu quý tộc Mông Cổ từ thế kỷ 16. Nhiều tài liệu cho rằng tước hiệu này bắt nguồn từ tước hiệu Thái tử của các vương triều Trung Quốc và lần đầu tiên được sử dụng cho các quý tộc Mông Cổ thuộc dòng dõi thừa kế của Batumöngke Dayan Khan (1480 -1517). Tước hiệu ban đầu đồng nghĩa với tước vị Khung Taiji, tuy nhiên từ sau thế kỷ 15, nó chỉ còn ý nghĩa tước hiệu của các hoàng tử thuộc bộ tộc Oirat.
1
null
Polikarpov I-5 là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh một chỗ của Liên Xô, nó được sản xuất trong giai đoạn 1931-1936, khi không còn làm máy bay tiêm kích nữa nó được dùng làm máy bay huấn luyện. Sau Chiến dịch Barbarossa, hầu hết lực lượng của Không quân Xô viết (VVS) đã bị tổn thất nặng, những chiếc I-5 còn sót lại được trang bị 4 khẩu súng máy và rãnh gá bom, nó được dùng làm máy bay cường kích hạng nhẹ và ném bom ban đêm năm 1941. Đến năm 1942, nó bị thải loại, sau khi việc sản xuất máy bay của Liên Xô được khôi phục và các máy bay cường kích hiện đại hơn như Ilyushin Il-2 bắt đầu được trang bị. Tính năng kỹ chiến thuật (). Gordon and Dexter "Polikarpov's Biplane Fighters", p. 22
1
null
Oni là tựa game hành động bắn súng góc nhìn thứ ba được phát triển bởi Bungie West, một công ty con của Bungie. Được phát hành vào năm 2001, nó là game duy nhất của Bungie West. Nhờ kết hợp yếu tố bắn súng góc nhìn thứ ba và đánh giáp lá cà, nó đã tạo nên cách chơi vừa mới, mà quen thuộc đối với người chơi ưa thích game bắn súng góc nhìn thứ ba. Vào năm 1999, "Oni" đã giành Giải Nhà phê bình Game cho game hành động/phiêu lưu xuất sắc nhất, ngay khi còn đang trong giai đoạn phát triển. Do gặp nhiều khó khăn trong chữa lỗi và mạng kết nối đáng tin cậy (ngoài LAN vào thời điểm bấy giờ, yếu tố nhiều người chơi đã bị loại bỏ khi game được phát hành. Thế giới trong game chịu ảnh hưởng nhiều từ anime "Ghost in the Shell" của Mamoru Oshii. Hai nhân vật chính Konoko và Trung tá Griffin khá giống với hai nhân vật chính của phim là Motoko Kusanagi và Daisuke Aramaki. Dark Horse Comics đã xuất bản phiên bản truyện tranh 4 tập cho "Oni", tập đầu tiên có đi kèm với phiên bản Windows dành cho game. Cách chơi. Game có tất cả 14 màn lớn nối tiếp nhau. Không như các game hành động cùng loại thường chỉ chú trọng vào vũ khí, "Oni" chủ yếu hướng người chơi vào các thế võ với những thế đánh mang đầy tính nghệ thuật. Xuyên suốt hành trình của game, người chơi sẽ được học và sử dụng tất cả 18 thế võ. Mỗi thế võ sẽ tương thích với từng hoàn cảnh khác nhau, các tuyệt chiêu sẽ được gửi đến người chơi và lưu giữ trong sổ tay điện tử. "Oni" có tất cả mười loại súng bao gồm các loại súng ngắn, súng trường, súng phóng lựu đạn và vũ khí dùng năng lượng. Các vật phẩm như hộp cứu thương (hypospray), và thiết bị giúp tàng hình (cloaking device) có thể được tìm thấy trong suốt quá trình chơi. Các trận chiến giáp lá cà tỏ ra khá hiệu quả khi người chơi chỉ có thể nhặt và giữ được trong người một loại súng nhất định còn đạn thì khá hiếm trong game. Các chiêu ra đòn trong game gồm có đấm, đá, vật, được học liên tục trong quá trình chơi. Có nhiều loại quân địch trong game, mỗi loại có khả năng và phong cách chiến đấu khác nhau. Mỗi loại quân địch lại được chia thành nhiều cấp độ khác nhau theo sức mạnh và độ khó, mỗi cấp độ được phân biệt bằng một loại màu sắc khác nhau giống như trong tựa game trước đó của Bungie là "Marathon". "Oni" không giới hạn người chơi trong một không gian nhỏ với một nhóm nhỏ quân địch mà khá mở rộng so với thế giới bên ngoài. Có tất cả mười bốn màn chơi với các kích cỡ không gian khác nhau, một số đủ rộng để có thể bao trùm cả một công trình lớn. Bungie đã thuê hai kiến trúc sư để thiết kế không gian cho game. "Oni" có thanh trạng thái sức khỏe nhân vật chính trong game được thiết kế rất trực quan. Dưới góc phải của màn hình có một hình tròn biểu hiện trạng thái sức khỏe của nhân vật chính. Hình tròn này gồm 3 phần: phần thứ nhất là đường màu xanh lá cây nằm giữa vòng tròn tức là cột máu của người chơi. Mỗi lần chạm trán với đối phương nếu bị trúng đòn, đường này sẽ ngắn dần và chuyển dần từ xanh lá sang vàng rồi đỏ. Màu đỏ báo hiệu cột máu của người chơi đã ở mức báo động nhằm cảnh báo người chơi đừng để bị dính đòn nào nữa đồng thời phải tìm bình máu dự trữ để khôi phục thể trạng. Ngoài ra, mỗi lần người chơi lãnh một cú đấm hay dính phải một viên đạn của đối phương, xung quanh nhân vật sẽ có những tia màu phát ra. Các tia này cũng sẽ có màu xanh, vàng hay đỏ tùy vào cột máu của người chơi (hoặc đối thủ) còn nhiều hay ít. Chính đặc điểm này đã làm giảm đi phần nào tính bạo lực của game. Phần thứ hai trong hình tròn này là một số những ô vuông nhỏ nằm theo phía dưới bên trái của vòng tròn. Đây chính là những ô chứa máu dự trữ của người chơi. Những bình máu được cung cấp thêm trong game sẽ nằm rải rác khắp nơi từ góc khuất của căn phòng, nóc tủ, hay của NPC cho và thậm chí có trong người của một tên lính mà chỉ khi người chơi hạ gục mới lấy được. Ngoài ra khi người chơi bơm đầy máu chính đến mức tối đa, xung quanh nhân vật chính sẽ phát ra vầng hào quang màu xanh tím, cung cấp cho người chơi những cú đánh cực mạnh bù lại thời gian tồn tại rất ngắn. Phần thứ ba trong hình tròn này về thanh trạng thái sức khỏe của Oni chính là một đoạn màu hồng nằm ngay góc dưới bên phải của vòng tròn. Đoạn màu hồng này chỉ xuất hiện khi người chơi nhặt hoặc nhận được một thứ gọi là Force Field, là một chiếc áo giáp giúp người chơi giảm bớt tình trạng mất máu khi chiến đấu và có tác dụng phản đòn tấn công của đối phương với số lần hạn chế. Đối xứng với hình tròn biểu thị sức khỏe, phía dưới góc trái của màn hình cũng có một hình tròn biểu hiện tình hình đạn dược. Hình tròn này gồm 4 phần: đạn hiện có; dự trữ; mũi tên chỉ đường và vòng cung biểu thị đường đi. Chính giữa vòng tròn hiển thị số đạn hiện có trong loại súng đang xài. Tùy vào từng loại súng mà hình dạng và số lượng đạn cũng khác nhau, có hai loại đạn hiển thị màu xanh lá cây và đỏ. Bên trái hình tròn là một số ô vuông nhỏ biểu thị số đạn dự trữ. Không như súng chỉ được giữ một loại, người chơi có thể giữ cả hai loại đạn cùng lúc nhưng chỉ có thể xài loại ứng với súng hiện có, còn loại kia thì nằm chờ. Trong vòng tròn này có sự hiện diện rất khiêm tốn của một mũi tên nhỏ màu vàng. Mũi tên này có hai trạng thái lên và xuống chỉ hiện ra mỗi khi cần nhắc người chơi lên hay xuống lầu. Để đi đúng đường, người chơi cần kết hợp quan sát mũi tên này và đường màu vàng ôm theo vòng ngoài của hình tròn. Nếu đúng đường thì nó sẽ dài dần và khép kín khi người chơi đến đích; ngược lại, nó sẽ ngắn dần và lúc ẩn lúc hiện khi sai đường. Thêm vào đấy, engine của "Oni" còn thực hiện một phương pháp bổ sung vào khoảng giữa các khung hình chính, giúp làm mượt các hình ảnh chuyển động tư thế võ thuật phức tạp. Tuy nhiên, việc lệch khung hình là một vấn đề thường gặp khi nhiều nhân vật NPC cứ sáp lại gần người chơi lúc đang tấn công. Quả trứng Phục Sinh. Cái thùng đầu tiên trong màn chơi mở đầu game mang nhãn hiệu "-OMM- TTC 1.1" đây là một tài liệu tham khảo có liên quan tới nhà phát hành web cực kỳ có ảnh hưởng nay không còn tồn tại là Old Man Murray, hãng đã tạo ra một hệ thống đánh giá game hài hước cho rằng sẽ tương quan chất lượng của trò chơi tới thời gian cái thùng đầu tiên sẽ xuất hiện trong game với cái thùng là biểu hiện cho việc thiếu trí tưởng tượng của các nhà thiết kế màn chơi. "-OMM- TTC 1.1" là viết tắt khoảng thời gian tính từ Old Man Murray cho tới cái thùng đầu tiên 1,1 giây. Cốt truyện. "Oni" lấy bối cảnh thế giới vào năm 2032 bị chìm đắm trong sự loạn lạc và sự ô nhiễm trầm trọng đã giới hạn sự sống trong một khu vực nhỏ hẹp. Để giải quyết sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tất cả các quốc gia trên thế giới đã sáp nhập thành một tổ chức duy nhất gọi là Chính phủ Liên Minh Thế giới (World Coalition Government). Chính phủ này thực chất là một tổ chức độc tài chuyên chế, và bằng cách dùng lực lượng cảnh sát của mình, được gọi là Lực lượng Đặc nhiệm Phòng chống Tội phạm Công nghệ cao (Technological Crimes Task Force) viết tắt là TCTF, để đàn áp các tổ chức chống đối. Chính phủ này tuyên bố với người dân rằng các vùng đất đang bị ô nhiễm nặng nề thực chất chính là các khu bảo tồn thiên nhiên (wilderness preserves) và chúng cần được cách li đối với người dân. Nhân vật chính, với mã danh Konoko (được lồng tiếng bởi Amanda Winn-Lee), sau này được biết với tên đầy đủ là Mai Hasegawa, xuất hiện trong game dưới vai trò là một nhân viên đang hoạt động cho TCTF. Dần dần, cô nhận ra rằng những đang người lãnh đạo và chỉ huy của mình, đã và đang giấu giếm bí mật về quá khứ của cô. Cô quay lưng lại với tổ chức của mình và bắt đầu lao vào cuộc hành trình tìm lại bản thân mình. Người chơi sẽ được khám phá về nguồn gốc và gia đình Konoko trong suốt quá trình chiến đấu với TCTF và kẻ thù số một của họ, một tổ chức tội phạm nghiệp đoàn toàn cầu với tên gọi Syndicate. Trong hồi cao trào nhất của game, Konoko khám phá ra một âm mưu của Syndicate là làm cho Trung tâm Chuyển hóa Khí quyển (Atmospheric Conversion Centers), nhà máy trị liệu không khí tối cần thiết cho sự sống còn của gần như toàn bộ dân số thế giới, phát nổ một cách thảm khốc. Konoko đã gần như thành công trong việc ngăn chặn âm mưu đó, và cứu sống một phần của loài người. Đón nhận. Các đánh giá phê bình chủ yếu có xu hướng phân chia game theo các ưu điểm và khuyết điểm. Trên trang web đánh giá Metacritic, Oni đạt tổng điểm 73 trên 100, theo ý kiến của 29 nhà phê bình. Nhiều người nhận xét đã không mấy ngạc nhiên do game có môi trường được đồ họa thấp, AI thiếu thông minh trong vài tình huống, và cốt truyện, đôi khi được đánh giá là còn chưa được hoàn thiện. Mức độ khó trong game cùng với sự thiếu thốn các điểm lưu (savepoint) cũng thường bị xem là những mặt hạn chế. Ngoài ra, nhiều người hâm mộ đã cảm thấy bị hụt hẫng do game đã không truyền tải hết những gì đã được hứa hẹn. Thiếu sót đáng chú ý nhất là sự vắng mặt của yếu tố nhiều người chơi qua LAN, so với phiên bản được giới thiệu tại gian hàng máy cầm tay tại Triển lãm Macworld trong thời kì phát triển Oni, nhưng bị loại bỏ trước ngày phát hành do những lo ngại về sự trì hoãn. Điều ngày cũng đã góp phần vào một vài số điểm thấp từ phía người chơi. Một vài nột dung trong game cũng đã bị cắt bỏ, kể cả Quái vật Sắt (Iron Demon), được cực kì trông đợi, xuất hiện trong một trailer trong game dưới hình thù một cỗ máy lớn. Thêm vào đó, nhiều loại vũ khí xuất hiện trong trailer cũng đã không thấy xuất hiện trong game. Tuy vậy, Oni nhận được phần lớn lời khen ngợi nhờ sự tạo hình (animation) êm mượt cho nhân vật và một hệ thống phong phú các chiêu thức ra đòn, cũng như cách mà game phối hợp hệ thống chiến đấu bằng súng ống với chiến đấu giáp lá cà. Do đó, phần lớn người chơi đã cho Oni các số điểm từ khá đến tốt để ghi nhận yếu tố thưởng thức trong game. Phần đồ họa 3D và âm thanh của game đã được thiết kế hết sức sống động và gây ấn tượng mạnh. Từ các nhân vật cho đến từng loại vũ khí, từ lời nói cho đến các hiệu ứng cháy nổ đều lột tả được những đặc trưng riêng của từng người, từng loại. Các nhân vật và hoạt cảnh trong game được vẽ theo phong cách thường thấy trong các truyện tranh và phim hoạt hình Nhật Bản. Chúng được chăm chút từng ly từng tý một: từ dáng đi đứng, nét mặt đến các thế võ đều thể hiện được tính cách của nhân vật. Nhân vật chính Konoko cứ sau mỗi lần chuyển màn đều được mặc một bộ đồ mới. Ngoài ra, game còn thu hút người chơi bởi những đoạn phim hoạt hình cắt cảnh xuất hiện ở đầu hoặc cuối mỗi màn. Giai đoạn chuyển này vừa giúp người chơi thư giãn sau một thời gian căng thẳng vì chiến đấu, lại vừa mở ra một cánh cửa về cuộc đời của Konoko. Phần lồng tiếng trong lời thoại các nhân vật được phát âm khá chuẩn, rõ ràng, giọng điệu thể hiện được tâm trạng, thái độ của nhân vật. Game cũng hỗ trợ phần phụ đề. Nhìn chung, hiệu ứng âm thanh là một trong những yếu tố không nhỏ làm nên thành công của game.
1
null
Ri Sol-ju (, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1989) là vợ của lãnh tụ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Jong-un. Tình báo Hàn Quốc từng cho rằng bà là Hyon Song-wol, trước đây là một ca sĩ của Nhạc đoàn điện tử Pochonbo, một ban nhạc nổi tiếng của Bắc Triều Tiên. Tiểu sử. Truyền thông Bắc Triều Tiên công bố Kim Jong-un cưới Ri Sol-ju vào ngày 25 tháng 7 năm 2012 sau khi cả hai cùng nhau xuất hiện trước công chúng vào những tuần lễ trước đó. BBC, trích dẫn lời của một nhà phân tích thuật lại với tờ "The Korea Times" của Hàn Quốc, rằng cha của Kim Jong-un, tức Kim Jong-il sau cơn đột quỵ năm 2008 đã vội vã chuẩn bị cho Jong-un lập gia đình. Jong-un và Sol-ju kết hôn năm 2009 và sang năm 2010, Ri Sol-ju đã sinh một đứa con. Thông tin về đời sống của Ri Sol-ju rất giới hạn, tuy nhiên cũng có tin cho biết Ri Sol-ju đã sang Hàn Quốc năm 2005 với nhiệm vụ là một thành viên trong nhóm cổ vũ thanh niên tại Giải vô địch điền kinh châu Á. Theo lời tường thuật, Sol-ju nói với một giảng viên trong chuyến đi này rằng: "Chúng tôi muốn theo học các lớp của các giảng viên miền Nam sau khi thống nhất càng sớm càng tốt." Theo JoongAng Ilbo của Hàn Quốc thì có những chi tiết thêm: Ri Sol-ju nguyên quán ở tỉnh Hamgyong Bắc, cha là giáo sư và mẹ là bác sĩ. Mang thai và làm mẹ. Ri Sol-ju đã sinh con vào khoảng năm 2010, và theo các nguồn tin thì đó là bé trai. Vào tháng 10 năm 2012, đã có những sự suy đoán về việc "mất tích" của bà Ri, và câu hỏi đặt ra liệu đó là kết quả của việc "vi phạm kỷ luật" hay "mang thai", nhưng sau đó bà lại xuất hiện cùng ông Kim Jong-un tại một trường đại học quân sự. Sau đó là các báo cáo tin tức vào tháng 12 năm 2012 rằng bà Ri đang mang thai rõ ràng, tuy nhiên các quan chức Triều Tiên không đưa ra bình luận gì về vấn đề này. Vào tháng 3 năm 2013, cựu cầu thủ bóng rổ NBA Dennis Rodman có chuyến thăm Kim Jong-un ở Triều Tiên và khi trở về đã nói với tờ báo lá cải của Anh "The Sun" rằng bà Ri đã sinh một bé gái. Một nguồn tin của chính phủ Hàn Quốc đã suy đoán rằng "các bác sĩ đã chuyển dạ để đảm bảo đứa trẻ được sinh ra vào năm 2012, đánh dấu kỷ niệm 100 năm của người sáng lập Triều Tiên Kim Nhật Thành", nhưng không có ngày sinh chính xác. Rodman đã nói với tờ "The Guardian" tháng 9 năm 2013 rằng con của họ, một bé gái, đặt tên là Kim Ju-ae (). Ông phát biểu rằng Kim Jong-un có "một gia đình đẹp" và là một "người cha tốt". Cơ quan tình báo Hàn Quốc sau đó đã chính thức thông báo rằng bà Ri đã sinh thêm đứa con thứ ba không rõ giới tính vào tháng 2 năm 2017.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 43 (tiếng Anh: "Interstate 43" hay viết tắt là I-43) là một xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang dài , nằm hoàn toàn bên trong tiểu bang Wisconsin của Hoa Kỳ. Nó kết nối Xa lộ Liên tiểu bang 39 và Xa lộ Liên tiểu bang 90 tại Beloit với Milwaukee và Quốc lộ Hoa Kỳ 41 và Quốc lộ Hoa Kỳ 141 tại Green Bay. I-43 là xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang dài thứ năm trong Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Xa lộ Wisconsin 32 chạy trùng với I-43 trong hai đoạn. Quốc lộ Hoa Kỳ 41, Quốc lộ Hoa Kỳ 45, Xa lộ Liên tiểu bang 94, Xa lộ Liên tiểu bang 894, Quốc lộ Hoa Kỳ 10, Xa lộ Wisconsin 57, và Xa lộ Wisconsin 42 mỗi xa lộ đều có một lần chạy trùng với I-43. Không có xa lộ liên tiểu bang phụ hay thương mại nào kết nối với I-43. I-43 sinh ra từ kết quả của các đề xuất xây xa lộ thu phí gồm có một hành lang xa lộ Milwaukee đến Superior trong đó bao gồm Hurley, Wausau và Green Bay. Chỉ đoạn đường từ Milwaukee đến Green Bay được chấp thuận. Ban đầu xa lộ này được dự tính đi theo lộ trình khoảng nửa đường giữa Quốc lộ Hoa Kỳ 41 và Quốc lộ Hoa Kỳ 141 dọc theo Xa lộ Wisconsin 57. Vấn đề gây tranh cãi về địa điểm này và quyền sử dụng đất dã khiến xa lộ này bị chỉnh đổi sang lộ trình như hiện nay. Lộ trình này đi theo lộ trình thời thập niên 1950 của Quốc lộ Hoa Kỳ 141 từ Milwaukee đến Sheboygan, và một lộ trình mới từ Sheboygan đến Green Bay. Đoạn này được hoàn thành năm 1981. Đoạn Beloit-đến-Milwaukee được phát triển sau khi hai đề xuất riêng biệt được đưa ra. Đề xuất thứ nhất là cho đoạn đường giữa Milwaukee và Beloit và đề xuất kia là giữa giữa Milwaukee và Janesville. Xa lộ Milwaukee-Beloit được chọn, hoàn thành năm 1976 với tên gọi là Xa lộ Wisconsin 15 và được đổi tên thành I-43 năm 1988. Để nối hai đoạn rời nhau, I-43 được cắm biển trùng với đoạn đông-tây của I-894 và đoạn bắc-nam của I-94 trong vùng đô thị Milwaukee từ I-894 đến nút giao thông khác mức Marquette. Nút giao thông này được tái xây dựng hoàn toàn và hoàn tất vào năm 2008. Mô tả xa lộ. I-43 bắt đầu trong Quận Rock tại một nút giao thông lập thể với I-39/I-90 ở phía đông thành phố Beloit. Xa lộ trở thành Xa lộ Wisconsin 81 ở phía tây nút giao thông này. Đoạn Beloit đến Milwaukee của I-43 đi qua phần lớn vùng đất nông trại nằm trên các ngọn đồi trùng điệp, đi quanh tránh các khu đô thị, trừ vùng đô thị Milwaukee là nơi xa lộ đi qua khu dân cư ngoại ô có nhiều cơ sở công nghiệp xen giữa. Xa lộ đi tránh làng Clinton ở phía bắc tại Xa lộ Wisconsin 140 và đi vào Quận Walworth khoảng 5 dặm (8 km) ở phía đông Xa lộ 140. I-43 đi qua phía bắc Darien và cắt ngang Quốc lộ Hoa Kỳ 14 tại điểm đó, sau đó kết nối với WIS 50 ở phía nam Delavan. Tại Elkhorn, I-43 kết nối với Xa lộ Wisconsin 67, Quốc lộ Hoa Kỳ 12, và Xa lộ Wisconsin 11. Xa lộ đi qua East Troy khoảng 10 dặm (16 km) về phía đông bắc Elkhorn và kết nối với Xa lộ Wisconsin 20 và Xa lộ Wisconsin 120. Sau đó nó đi vào Quận Waukesha tại làng Mukwonago. I-43 cắt ngang Xa lộ Wisconsin 83 tại một nútg giao thông ở ngay phía đông nam ngôi làng. Sau khoảng 8 dặm (13 km), xa lộ kết nối với Xa lộ Wisconsin 164 ngay phía bắc Big Bend, và sau đó đi vào thành phố New Berlin là nơi nó có nút giao thông với Phố South Racine và Lộ South Moorland. Sau đó nó quay hướng đông đi vào Quận Milwaukee. Đoạn Beloit đến Milwaukee mang tên "Xa lộ cao tốc Rock" vì nó đi qua Quận Rock và hướng về các thành phố nằm trong thung lũng Sông Rock trong đó có Rockford, Illinois. Tuy nhiên, tên này chỉ áp dụng cho phần xa lộ nằm trong Quận Waukesha và Quận Milwaukee. Toàn tuyến từ Beloit đến New Berlin có 4 làn xe. Đoạn 6 làn xe bắt đầu khi Quốc lộ Hoa Kỳ 45 nhập vào xa lộ liên tiểu bang 43. I-43 kết nối với Quốc lộ Hoa Kỳ 45 đi hướng nam và Xa lộ Wisconsin 100 tại Phố 108 Nam. Quốc lộ Hoa Kỳ 45 nhập xa lộ khoảng 1 dặm (1,6 km), rồi quay hướng bắc đi vào I-894 chiều hướng tây tại Nút giao thông Hale. Trong khi I-43 đi theo I-894 chiều hướng đông dọc theo Xa lộ cao tốc Airport vào trong Greenfield với các nút giao thông với Xa lộ Wisconsin 24, Xa lộ Wisconsin 36 và Xa lộ Wisconsin 241. Tại Nút giao thông Mitchell, I-894 kết thúc trong khi đó I-43 quay hướng bắc đi theo Xa lộ Liên tiểu bang 94 và Quốc lộ Hoa Kỳ 41, cũng còn được gọi tên là Xa lộ cao tốc North–South, đi vào phố chính của thành phố Milwaukee nơi nó gặp I-794 tại Nút giao thông Marquette. Xa lộ đi qua các khu vực công nghiệp và đô thị phức tạp của vùng đô thị Milwaukee với 6 làn xe xuyên suốt, ngoại trừ gần Nút giao thông Marquette có đến 8 làn xe. I-43 tiếp tục hướng bắc từ Nút giao thông Marquette trong khi I-94 và Quốc lộ Hoa Kỳ 41 quay hướng tây. Sau khi đi qua phố chính thành phố Milwaukee, ngay phía đông Đại học Marquette, và cắt ngang Xa lộ Wisconsin 145 tại Nút giao thông Đại lộ McKinley / Đường Fond du Lac. Các làn dẫn ra/vào của Lối ra 72C chiều đi hướng bắc tại phố chính của Milwaukee đi bên dưới tòa án quận qua ngã các đường hầm đến Đường Kilbourn. Trên đường hướng tây ra khỏi thành phố Milwaukee, I-43 đi qua Glendale, kết nối với Xa lộ Wisconsin 190 và Xa lộ Wisconsin 57. Phía bắc Lộ Good Hope có dải cỏ phân cách với một hàng rào dây cáp. WIS 100 và WIS 32 kết nối nhau tại Lộ Brown Deer và WIS 32 theo I-43 chiều hướng bắc đi vào Quận Ozaukee. Khi đi qua các vùng thương mại và dân cư phức tạp ở phía bắc phố chính, xa lộ mang 8 làn xe trong khu vực phố chính, 6 làn xe ở phía bắc Đường North đến Lộ Bender, và 4 làn xe phía bắc Lộ Bender cả đường đến Green Bay. WIS 57 nhập xa lộ I-43 khoảng 3 dặm (5 km) ở phía bắc ranh giới quận trong Mequon tại điểm giao cắt với Xa lộ Wisconsin 167. Xa lộ Wisconsin 60 kết thúc trong làng Grafton tại I-43 khoảng 7 dặm (11 km) xa hơn về phía bắc và WIS 32 đổi hướng về phía Port Washington khoảng 1 dặm (1,6 km) ở phía bắc WIS 60. WIS 33 cắt ngang xa lộ tại Saukville, Wisconsin. WIS 57 quay hướng bắc khỏi I-43 trong khi I-43 quay hướng đông đi quanh Port Washington lên hướng bắc. WIS 32 nhập trở lại vào I-43 bên phía bắc và cả hai xa lộ đi theo bờ Hồ Michigan lên đông bắc vào Quận Sheboygan. WIS 32 rời xa lộ liên tiểu bang tại Cedar Grove và xa lộ liên tiểu bang đi qua Oostburg ở phía đông và Sheboygan ở phía tây. Tại Sheboygan, I-43 liên đổi đường với WIS 28, WIS 23, và WIS 42. I-43 vào Quận Manitowoc khoảng 9 dặm (14 km) ở phía bắc Sheboygan. I-43 đi qua Cleveland trên ranh giới quận. Xa lộ tiếp tục theo bờ hồ, rồi đi qua phía tây Newton, Wisconsin. I-43 kết nối với Quốc lộ Hoa Kỳ 151 và WIS 42. WIS 42 chiều đi hướng bắc theo xa lộ I-43 đi hướng bắc đến nút giao thông lập thể với Quốc lộ Hoa Kỳ 10. WIS 42 rời I-43 để đi hướng dông dọc theo Quốc lộ Hoa Kỳ 10 (hướng đông) trong khi Quốc lộ Hoa Kỳ 10 chiều hướng tây theo I-43 đi hướng bắc đến nút giao thông lập thể với WIS 310. I-43 đi qua Francis Creek và Maribel và quay hướng tây bắc vào Quận Brown. I-43 tại Quận Manitowoc có đoạn đường ít xe cộ nhất với khoảng 17.400 xe đi qua phía nam WIS 147 theo kết quả khảo sát năm 2005. Các con số tăng dần xa về phía nam. I-43 đi qua Denmark và gặp điểm đầu của WIS 96 khoảng 1 dặm (1,6 km) ở phía bắc ranh giới quận. I-43 tiếp tục 7 dặm nữa (11 km) để đến Bellevue là nơi Quốc lộ Hoa Kỳ 141 bắt đầu. Nút giao thông tạo lối đi đến WIS 29. Tại điểm này, xa lộ liên tiểu bang đi vào các khu vực đô thị khi gần đến Green Bay. I-43 kết nối với WIS 172 tại Allouez rồi quay hướng đông bắc để đi tránh thành phố Green Bay. Sau khi quay hướng tây bắc, I-43 có nút giao thông với WIS 54 và WIS 57, rồi đi qua Sông Fox bằng Cầu Tưởng niệm Leo Frigo, đi qua khu công nghiệp nặng gần Cảng Green Bay. I-43 kết thúc tại Quốc lộ Hoa Kỳ 41 và Quốc lộ Hoa Kỳ 141.
1
null
Halicarnassus (tiếng Hy Lạp: Ἁλικαρνᾱσσός, Halikarnassos; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Halikarnas) là một thành phố Hy Lạp cổ đại, hiện nay là thành phố Bodrum của Thổ Nhĩ Kỳ. Nó tọa lạc ở một vị trí rất thuận lợi ở Caria, tren Vịnh Gốm Sứ. Thành phố rất nổi tiếng với khu lăng mộ Mausolus, là nguồn gốc của từ "mausoleum" (lăng mộ), được xây trong những năm 353 - 350 TCN và là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nó trở thành một phần của đế quốc Ba Tư cho đến khi bị Alexander Đại đế vây hãm năm 334 TCN. Halicarnassus ban đầu đã chiếm một hòn đảo nhỏ gần bờ biển được gọi là Zephyria, nơi mà về sau đã diễn ra trận đánh lớn tại St.Peter của quân Hiệp sĩ đảo Rhodes năm 1404 SCN, nhưng theo thời gian, hòn đảo này đã dần thống nhất với đất liền và thành phố được mở rộng đến tận Salmacis, một thị trấn cổ của Leleges và Carians trước đây. Lịch sử. Lịch sử sớm. Việc thành lập thành phố Halicarnassus hiện đang được nhiều nhà sử học truyền thống bình luận rất khác nhau, nhưng đa số họ đồng ý và cho rằng thành phố này là một thuộc địa của người Dorian. Người ta tìm thấy những tư liệu khắc trên đồng tiền của thành phố cổ, chẳng hạn như người đứng đầu của Medusa, Athena, Poseidon, hoặc cây đinh ba, các sự hỗ trợ từ các thành phố mẹ là Argos và Troezen. Những cư dân ở đây đã xuất hiện và đưa Athes, con của thần Poseidon lên ngôi vua và sáng lập thành phố này. Strabo có đề cập đến sự kiện này, gọi vua với danh hiệu là Antheadae. Tên Carian cho thành phố Halicarnassus đã được ​​xác định với chữ "Alosδkarnosδ". Vào thời kỳ đầu Halicarnassus đã là một thành viên của tổ chức thị quốc (Hexapolis) của người Dorian, bao gồm Kos, Cnidus, Lindos, Kameiros và Ialysus (một thành phố nhỏ nằm trên đảo Rhodes), nhưng thành phố này sớm bị loại trừ khi một trong những công dân của mình, Agasicles, đã mang về giải thưởng mà ông đã giành được trong trò chơi Triopian và giữ luôn, thay vì cống hiến nó theo phong tục Apollo Triopian. Cuối thế kỷ VI TCN, Caria được thống nhất dưới thời Lygdamis I (520 - 484 TCN). Đầu thế kỷ V TCN, Halicarnassus cường thịnh dưới sự thống trị của Nữ hoàng Artemisia I xứ Caria (480 - 460 TCN)(còn được gọi là Artemisia xứ Halicarnassus), người được xem như vị chỉ huy hải quân tài ba nhất trong trận chiến vịnh Salamis với quân Hy Lạp. Pisindalis, con trai và người kế nhiệm của bà, ít được biết đến, nhưng Lygdamis II, con trai bà kế ngôi trong những năm 460 - 454 TCN, là một kẻ bạo chúa nổi tiếng. Dưới thời ông ta, nhà thơ Panyasis đã bị sát hại và cùng lúc đó Herodotus, nhà sử học người Halicarnassian nổi tiếng nhất, rời bỏ thành phố quê hương của mình (khoảng 454 trước Công nguyên sau khi cùng với người ủng hộ minh tham gia lật đổ Lygdamis II). Triều đại Hekatomnid. Hecatomnus trở thành vua đầu tiên của Caria, một phần thuộc địa của Đế chế Ba Tư, cai trị từ 391 - 377 trước Công nguyên và thiết lập triều đại Hekatomnid. Ông có ba người con trai là Mausolus, Idrieus và Pixodarus - tất cả đều lần lượt lên nắm chính quyền Caria và hai con gái, Artemisia và Ada, những người đã kết hôn với 2 anh em là Mausolus và Idrieus. Mausolus dời đô từ Mylasa đến Halicarnassus. Người dân của ông đã xây dựng thành phố này thành một cảng biển lớn, sử dụng cát làm vữa để làm đê chắn sóng biển ở phía trước của cảng biển này. Trên mặt đất, họ đã mở đường phố, quảng trường, và xây dựng nhà cửa cho người dân ở. Ở một bên của cảng biển, cư dân đã xây dựng cung điện cho Mausolus ở một vị trí mà ông từ đây có thể trông ra biển và đất liền, quan sát kẻ thù từ xa nếu chúng có tấn công thì sẽ bảo vệ. Đồng thời, họ cũng đã xây tường thành rất cao với nhiều tháp canh, một nhà hát theo kiểu Hy Lạp và một đền thờ để thờ Ares - thần chiến tranh người Hy Lạp. Artemisia và Mausolus đã dành một lượng lớn tiền thuế để tôn tạo thành phố. Họ đã dựng tượng, đền thờ và các tòa nhà lấp lánh bằng đá cẩm thạch. Khi ông qua đời năm 353 trước Công nguyên, em gái, vợ ông và người kế nhiệm, Artemisia II xứ Caria, bắt đầu xây dựng một ngôi mộ tuyệt vời cho anh trai và mình trên một ngọn đồi nhìn xuống thành phố. Bà qua đời năm 351 trước Công nguyên (theo Cicero; Tusculan Disputations 3,31). Theo Pliny "già" thì các thợ thủ công Hy Lạp tiếp tục làm việc trên các ngôi mộ sau cái chết của người bảo trợ của họ, "xem xét rằng đó là cùng một lúc một đài tưởng niệm cho sự nổi tiếng của mình và nghệ thuật của nhà điêu khắc," hoàn thành năm 350 trước Công nguyên. Đây là ngôi mộ của Mausolus đã được biết đến như là Lăng mộ, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Sau Artemisia II, người anh trai của bà là Idrieus (351 - 344 TCN) và vợ của ông, Ada đã kế nhiệm rất thành công và tiếp tục hoàn thành khu Lăng mộ mà người tiền nhiệm còn làm dang dở. Về sau Ada bị một người anh trai khác là Pixodarus soán ngôi vào năm 340 trước Công nguyên. Sau cái chết của Pixodarus, người con trai của ông là Orontobates người Ba Tư, đã nhận chức satrapy xứ Caria từ tay vua Darius III của Ba Tư. Alexander Đại đế và Ada của Caria. Khi Alexander Đại đế tiến vào Caria trong 334 TCN, mặc dù các satrapy của Ba Tư là Orontobates và Memmon xứ Rhodes ra sức chống lại, nhưng Ada II, con gái của Pixadorus và là người sở hữu thành quốc trên đã vì ngôi vua mà đầu hàng. Sau khi chiếm lấy Halicarnassus, Alexander đã trao lại chính quyền của Caria cho Ada, đến lượt mình, Ada chính thức thông qua Alexander như là chồng của mình, bà tuyên bố một cách đảm bảo rằng các quy tắc kế ngôi của Caria sẽ được thông qua vô điều kiện cho ông sau cái chết của bà. Trong cuộc bao vây của Halicarnassus, thành phố đã bị phá hủy do cuộc rút lui của người Ba Tư. Và ông đã không thể vào thành, Alexander đã bị buộc phải phong tỏa thành phố này. Các di tích này thành và hào nước bây giờ là một điểm thu hút khách du lịch ở Bodrum. Lịch sử muộn. Sau khi đế quốc Alexander tan rã, vùng đất này rơi vào tay của Ptolemaios, một vị tướng tài của Alexander. Một tài liệu thời đó viết rằng, người dân ở nơi này đã xây dựng một sân vận động thể thao cho Ptolemaios. Halicarnassus không bao giờ hồi phục hoàn toàn từ những thảm họa của cuộc bao vây, và Cicero mô tả nó như là gần như bỏ hoang. Một nghệ sĩ theo phong cách Baroc là Johann Elias Ridinger đã mô tả một số giai đoạn của cuộc bao vây và các nơi trong một tác phẩm khắc đồng rất lớn, thế nhưng chỉ có hai tác phẩm tồn tại đến ngày nay thể hiện được toàn bộ thời kỳ Alexander xâm chiếm thành phố này. Các vị vua của Halicarnassus: Những ghi chép của khảo cổ học và sự phục hồi. Các phế tích thành phố hiện nay đã chiếm một phần lớn diện tích thành phố Bodrum. Các phế tích bức tường thành cổ xưa còn tồn tai ở gần nhà người dân, vị trí các ngôi đền, các công trình công cộng được bảo vệ một cách chắc chắn. Các di tích của khu Lăng mộ ngày xưa đã được phục hồi rất đáng kể vào năm 1857 bởi Charles Newton, và đã dần hoàn thiện. Việc phục dựng bao gồm 5 phần - tầng hầm hoặc bục cao, một pteron hoặc một số bộ phận (gọi là lớp vỏ bọc) để che chắn các cột trụ, một kim tự tháp, một cái bệ và một nhóm chiến xa có diện tích 114 feet 92, được gia cố lại bằng đá xanh, đá cẩm thạch hoặc chạm khắc bằng sừng bò(?). Quanh chân thành, các nhà khảo cố bắt đầu xử lý các tượng. Pteron bao gồm (theo Pliny) có 36 cột Ionic được sắp xếp trật tự, kèm theo một cena vuông. Giữa các cột có thể dựng lên một bức tượng. Trong lúc phục hồi, người ta đã khai quật tiếp và phát hiện nhiều phù điêu chiến binh Hy Lạp và Amazon. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy nhiều mảnh gốm vỡ có khắc về đời sống của các loài động vật, các kỵ binh, có thể chúng thuộc kiểu nghệ thuật điêu khắc pedimental. Phía trên pteron có kim tự tháp, tiến lên 24 bậc thang thì đến một đỉnh hoặc bệ của thành. Trên đỉnh thành, người ta phát hiện một cỗ chiến xa của Mausolus và các người đanh chiến xa, cùng với bức tượng của ông. Bức tượng của Mausolus cao 9,9 feet(?) (hiện đặt ở Bảo tàng Anh), mà phần chân tóc không rơi xuống trán, tóc rất dày ở mỗi bên khuôn mặt và xuống gần đến vai, râu rất ngắn và có vẻ gần gũi, khuôn mặt vuông vắn (hình chữ điền) và lớn, mắt nằm rất sâu dưới lông mày và nhô ra, miệng thì có vẻ như đang suy nghĩ điềm tĩnh để giải quyết vấn đề. Tất cả mọi phục hồi đó được thực hiện bởi Pullan và Newton, và có nhiều lỗi nhỏ xảy không đáng kể. Một kiến trúc sư thời ấy là Oldfield, mặc dù rất ưa thích sự nhẹ nhàng của nó (khu Lăng như "lơ lửng trong không trung"), phần còn lại đã được những người kế sau đó phục hồi hoàn chỉnh. Vào năm 1900, một kiến trúc sư kỳ cựu người Đức, F. Adlers đã công bộ một tác phẩm nói về công trình kiến trúc cổ xứ này.
1
null
Quần đảo Công tước xứ York (tên Đức: Neu Lauenburg), là một nhóm đảo thuộc tỉnh Đông New Britain, Papua New Guinea. Nằm trong eo biển St. George, giữa đảo New Britain và New Ireland, là một phần cấu tạo nên quần đảo Bismarck. Quần đảo được đặt tên bởi Philip Carteret năm 1767 nhằm tôn vinh hoàng tử Edward, con trai của Frederick, hoàn tử xứ Wales và em trai của vua George III của Anh. Địa lý. Quần đảo Công tước xứ York là một nhóm đảo bao gồm 13 hòn đảo, với tổng diện tích 58 km2. Đảo lớn nhất trong quần đảo là đảo Công tước xứ York, tiếp theo là các hòn đảo: Makada, Kabakon, Kerawara, Ulu, và Mioko. Quần đảo nằm trong một khu vực hoạt động địa chất mạnh, nơi các tầng kiến tạo thường xuyên va vào nhau. Những hòn đảo có độ cao tương đối thấp là một nguy cơ bị nhấn chiềm bởi mực nước biển ngày càng tăng. Ngày 28.11.2000 chính quyền công bố việc sơ tán và tái định cư hàng 1000 người đến đảo New Britain.
1
null
Nhà sản xuất âm nhạc hay nhà sản xuất bản thu () là một cá nhân làm việc trong nền công nghiệp âm nhạc, là người có công việc là giám sát và quản lý thu âm (ví dụ như "sản xuất") âm nhạc của nghệ sĩ. Một nhà sản xuất có nhiều vai trò có thể bao gồm, nhưng không hạn chế là, tập hợp những ý tưởng cho dự án, lựa chọn các bài hát và/hoặc các nghệ sĩ, hướng dẫn nghệ sĩ và nhạc sĩ trong phòng thu, kiểm soát những lần thu âm, và giám sát toàn bộ quá trình thông qua việc trộn lẫn và làm chuẩn. Những nhà sản xuất còn thường được nhận những vai trò kinh doanh lớn hơn, với trách nhiệm về ngân sách, các lịch trình và các cuộc thương lượng. Ngày nay, nền công nghiệp thu âm có 2 kiểu nhà sản xuất: giám đốc sản xuất và nhà sản xuất âm nhạc; họ có vai trò khác nhau. Trong khi một giám đốc sản xuất giám sát tài chính của một dự án, một nhà sản xuất âm nhạc lại giám sát quá trình tạo ra âm nhạc. Một nhà sản xuất nhạc có thể, trong một vài trường hợp, so sánh với đạo diễn làm phim, với người hành nghề được chú ý đến như Phil Ek, tự miêu tả vai trò của mình là "người hướng dẫn một cách sáng tạo hay chỉ đạo quá trình làm một bản ghi âm, giống như một đạo diễn với một bộ phim. Người kỹ sư giống như người quay phim của bộ phim." Công việc của nhà sản xuất nhạc là tạo ra, định hình khuôn cho một bản, đoạn nhạc. Phạm vi trách nhiệm có thể là một hoặc hai bài hát hay là cả album của nghệ sĩ - trong trường hợp này thì nhà sản xuất thường phát triển một tầm nhìn tổng thể cho album và cách các bài hát tương quan với nhau thế nào. Ở Mỹ, trước khi có sự bùng nổ của nhà sản xuất nhạc, một ai đó từ A&R ("Artists and repertoire", các nghệ sĩ và vốn biểu diễn) sẽ giám sát (những lần) thu âm, mặc định đảm nhận trách nhiệm cho sự quyết định về sáng tạo của bản ghi âm. Với sự tiếp cận dễ dàng với công nghệ của ngày nay, một sự thay thế cho nhà sản xuất ghi âm đã vừa được nhắc tới, được gọi là 'nhà sản xuất phòng ngủ'. Với sự tiến bộ trong công nghệ ngày nay, rất dễ dàng để một nhà sản xuất có được những bài chất lượng cao mà không cần dùng đến một nhạc cụ nào; điều đó xảy ra ở trong nhạc đô thị ("urban music") (như hip hop, rap, vân vân.). Nhiều nghệ sĩ có tên tuổi đã lựa chọn cách tiếp cận này. Tiến bộ trong công nghệ này được nhắc đến như là sản xuất âm nhạc điện tử ("Electronic Music Production", hay "EMP". Sản xuất âm nhạc điện tử đơn giản là sản xuất nhạc một cách số hóa hay sản xuất nhạc trên máy tính. Trong hầu hết trường hợp, nhà sản xuất nhạc còn là người có quyền cải biên, soạn nhạc, nhạc sĩ hay người sáng tác, người mà có thể mang ý tưởng mới mẻ tới một dự án. Cũng như là tạo ra bất kỳ sự điều chỉnh về viết nhạc hay cải biên nào, nhà sản xuất con có thể chịu trách nhiệm pha trộn sáng tạo. Anh ấy hoặc cô ấy sẽ liên hệ với kỹ sư âm thanh, người mà tập trung vào khía cạnh kỹ thuật của bản ghi âm trong khi nhà sản xuất nhạc để mắt đến khả năng tiêu thụ được của toàn dự án.
1
null
Biển Labrador (, ) là một nhánh của Bắc Đại Tây Dương, nằm giữa bán đảo Labrador và Greenland. Biển có các thềm lục địa ở phía tây nam, tây bắc và đông bắc. Biển Labrador nối với vịnh Baffin ở phía bắc qua eo biển Davis. Labrador được mô tả là một biển ven bờ của Đại Tây Dương. Biển Labrador được tạo thành sau sự phân tách của mảng Bắc Mỹ và mảng Greenland, bắt đầu từ khoảng 60 triệu năm trước và chấm dứt vào khoảng 40 triệu năm trước. Biển Labrador bao gồm một trong số các hệ thống kênh dòng chảy đục lớn nhất thế giới, Kênh Giữa Đại dương Tây Bắc Đại Tây Dương (Northwest Atlantic Mid-Ocean Channel), kéo dài hàng nghìn km dọc theo đáy biển hướng về Đại Tây Dương. Biển Labrador là nguồn chính của Vùng nước sâu Bắc Đại Tây Dương, một khối nước lạnh chảy ở độ sâu rất lớn dọc theo rìa phía tây của Bắc Đại Tây Dương, tạo thành một khối nước đồng nhất lớn nhất trong các đại dương thế giới. Lịch sử. Biển Labrador được tạo thành sau sự phân tách của mảng Bắc Mỹ và mảng Greenland bắt đầu từ khoảng 60 triệu năm trước (thế Paleocen) và chấm dứt vào khoảng 40 triệu năm trước. Một bể trầm tích, mà nay bị chôn vùi dưới các thềm lục địa, đã được hình thành vào kỷ Phấn trắng. Khởi đầu của tách giãn đáy đại dương mácma đi kèm với các hoạt động phun trào núi lửa đá picrite và bazan trong thế Paleocen tại eo biển Davis và vịnh Baffin. Khoảng từ năm 500 TCN đến năm 1300, vùng bờ biển phía nam của biển Labrador có các khu định cư của người Dorset, Beothuk và Inuit; các bộ lạc Dorset sau đó bị người Thule thay thế. Phạm vi. Tổ chức Thủy văn Quốc tế định nghĩa giới hạn của biển Labrador như sau: Ở phía bắc: giới hạn phía nam của eo biển Davis [song song với [60° B giữa Greenland và Labrador]. Ở phía Đông: một đường từ Mũi Francis (Newfoundland) đến Mũi Farewell (Greenland). Ở phía Tây: Bờ biển phía Đông của Labrador và Newfoundland và giới hạn Đông Bắc của vịnh St. Lawrence – một đường chạy từ Mũi Bauld (điểm phía Bắc của đảo Kirpon, ) đến điểm cực Đông của đảo Belle và đến Northeast Ledge (). Từ đó, một đường nối Northeast Ledge với điểm cực Đông của Mũi St. Charles (52°13'B) tại Labrador.
1
null
Nhiều nghệ sĩ thường được viết tắt là VA hoặc V/A, là từ dùng bởi nền công nghiệp âm nhạc cho những phát hành (các đĩa đơn hoặc các album) mà có những sản phẩm hợp tác. Thay vì liệt kê nhiều, từng ca sĩ hay nghệ sĩ một, cái tên Nhiều nghệ sĩ ("") được dùng thay thế. Nói chung các album tổng hợp chứa những bài hát của một số lượng nghệ sĩ có thể được đặt là nhiều nghệ sĩ. Những album tổng hợp của nhiều nghệ sĩ thì thường được tổng hợp từ một phong cách âm nhạc nhất định hoặc từ khoảng thời gian này đến khoảng thời gian khác. Còn có những bản ghi âm từ thiện được phát hành mà có thể dùng từ này thay vì nhắc đến nghệ sĩ cụ thể, ví dụ như USA for Africa of Band Aid. Một cách dùng khác cho Nhiều nghệ sĩ là một nghệ sĩ nhất định "và nhiều nghệ sĩ", hay "featuring nhiều nghệ sĩ". Điều này rất phổ biển trong các bản remix, khi có nhiều bản phát hành theo một công thức nào đó, như Rihanna ft. nhiều nghệ sĩ cho những bản remix của "What's My Name?". Thực hành này cũng giống như sử dụng từ "and Friends" ("và những người bạn") như ở trong bài hát "That's What Friends Are For", chú thích là "Dionne Warwick & Friends" (thay vì dùng nhiều nghệ sĩ). Từ trong các ngôn ngữ khác. Một vài bản ghi âm có thể dùng ngôn ngữ riêng của địa phương thay vì dùng nghĩa đen là "Nhiều nghệ sĩ". Ví dụ:
1
null
Một thể loại nhạc hay còn gọi là thể loại âm nhạc hay dòng nhạc, là danh mục thông thường để nhận dạng một đoạn nhạc, cũng như là việc nó thuộc về một truyền thống chung hay một tập hợp các tục lệ. Nó được phân biệt với "hình thức âm nhạc" và "phong cách âm nhạc", mặc dù vậy trong thực tế các từ này thỉnh thoảng được dùng thay thế nhau. Âm nhạc có thể phân chia thành các thể loại khác nhau theo một vài cách. Bản tính nghệ thuật của âm nhạc nghĩa là các sự phân loại này thường độc đoán và gây tranh cãi, và một số thể loại còn có thể chồng chéo lên nhau. Có một vài tiếp cận về học thuật với những thể loại. Ở trong quyển "Form in Tonal Music" ("Hình thức trong nhạc âm"), Douglass M. Green liệt kê madrigal, motet, canzona, ricercar, và nhảy là những ví dụ cho những thể loại từ thời kỳ Phục Hưng. Theo Green, "Bản "Op. 61"của Beethoven và "Op. 64" của Mendelssohn có thể loại giống hệt nhau - cả hai đều là những violin concerto - nhưng khác về mặt hình thức. Tuy nhiên, bản "Rondo for Piano, K. 511" của Mozart và bản "Agnus Dei" từ "Mass, K. 317" của ông, lại khá khác ở thể loại nhưng hình như là ở cùng một hình thức." Một vài người, như Peter van der Merwe, coi từ "thể loại" ("genre") và "phong cách" ("style") như nhau, nói rằng "thể loại" nên được định nghĩa là một đoạn nhạc mà có chung một phong cách nhất định hay "ngôn ngữ âm nhạc cơ bản" ("basic musical language"). Những người khác, như Allan F. Moore, cho rằng "thể loại" và "phong cách" là hai từ khác biệt, và cái đặc điểm thứ hai như là chủ để có thể phân biệt giữa các thể loại. Một thể loại âm nhạc hay thể loại con có thể được định nghĩa bằng các kỹ thuật âm nhạc, phong cách, khung cảnh, và nội dung và tinh thần của chủ đề. Nguồn gốc địa lý đôi khi cũng dùng để nhận dạng thể loại nhạc, cho dù một thể loại địa lý đơn lẻ sẽ thường bao gồm nhiều thể loại con khác nhau. Những tiêu chí thường được dùng để phân loại thể loại âm nhạc là: sự phân ba của nghệ thuật, phổ biến và truyền thống; khoảng thời gian; nguồn gốc quốc gia và vùng miền; kỹ thuật và đạo cụ; nguồn gốc hợp nhất; và chức năng xã hội.
1
null
Thọ Lão Nhân hay Thọ Lão Nhơn (chữ Hán: 壽老人, Nhật ngữ: Jurōjin) là một trong Thất Phước Thần Nhật Bản, rút từ Đạo Lão, theo đó ông là vị tiên có phép trường thọ. Trong các tranh vẽ Jurōjin là một ông lão với bộ râu dài bạc trắng, đầu hói, đỉnh đầu nhô cao, một tay chống gậy và một tay cầm quạt. Đầu gậy buộc cuộn giấy trong đó có ghi tuổi thọ của mọi vật. Con hươu -- đối với người Nhật là biểu tượng của sự trường sinh, thường đi theo ông như một sứ giả của thiên đình. Những con vật khác như bạch hạc và rùa dân gian cũng thường vẽ đi cùng với Jurōjin. Theo tín ngưỡng Nhật Bản thì Jurōjin cũng là Fukurokuju (Phước Lộc Thọ) tức là Tam Đa.
1
null
Đảo Ellesmere (Inuit: "Umingmak Nuna", nghĩa là "vùng đất của bò xạ") là một phần của vùng Qikiqtaaluk thuộc lãnh thổ Nunavut của Canada. Nằm trong quần đảo Bắc Cực thuộc Canada, đảo được coi là một phần của quần đảo Nữ hoàng Elizabeth, với mũi Columbia là điểm đất liền cực bắc của Canada. Đảo có diện tích và tổng chiều dài của đảo là , khiến cho đảo trở thành đảo lớn thứ mười trên thế giới và đảo lớn thứ ba của Canada. Hệ thống núi Arctic Cordillera chiếm phần lớn lãnh thổ đảo Ellesmere, khiến nó trở thành đảo nhiều núi nhất tại quần đảo Bắc Cực thuộc Canada. Liễu Bắc Cực là loài cây gỗ duy nhất mọc trên đảo Ellesmere. Địa lý. Đảo Ellesmere bị tách khỏi Greenland bởi eo biển Nares, khỏi đảo Axel Heiberg bởi eo biển Eureka và eo biển Nansen, và khỏi đảo Devon bởi eo biển Jones và eo biển Cardigan. Điểm cực bắc của Canada, Mũi Columbia, có tọa độ 83°6′41″B, 69°57′30″ T.
1
null
Bán đảo Labrador là một bán đảo lớn ở miền đông Canada. Bán đảo giáp với vịnh Hudson ở phía tây, với eo biển Hudson ở phía bắc, biển Labrador ở phía đông, và với vịnh Saint Lawrence ở đông nam. Bán đảo bao gồm vùng Labrador, là một phần của tỉnh Newfoundland và Labrador, và các vùng khác là Saguenay-Lac-Saint-Jean, Côte-Nord, và Nord-du-Québec, thuộc tỉnh Québec. Bán đảo có diện tích , và dân số vào khoảng 150.000 người (điều tra năm 2006). Vị trí và địa lý. Trừ mặt tây nam, bán đảo Labrador được biển bao quanh tất cả các mặt còn lại. Phần phía bắc của bán đảo Labrador có hình dạng tạo thành một bán đảo nhỏ hơn là bán đảo Ungava, được biển Hudson, eo biển Hudson, và biển Ungava bao quanh. Điểm cực bắc của bán đảo Ungava, Mũi Wolstenholme, cũng là điểm cực bắc của bán đảo Labrador và của tỉnh Québec. Bán đảo là một cao nguyên với các thung lũng sông. Cũng có một vài dãy núi như dãy núi Torngat, nằm ở phần phía bắc của bán đảo, bao gồm điểm cao nhất của bán đảo là núi Caubvick, với cao độ (và là điểm cao nhất phần phía đông tỉnh Alberta của Canada). Dãy núi này có vườn quốc gia dãy núi Torngat, vườn quốc gia duy nhất của Canada nằm trên bán đảo Labrador. Vườn nằm ở tỉnh Newfoundland và Labrador, trong khi vườn quốc gia Kuururjuaq liền kề do tỉnh Québec quản lý. Lịch sử. Bán đảo được đặt tên theo nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha João Fernandes Lavrador. Ông đã được vua Manuel I của Bồ Đào Nha vào năm 1499 ban cho đặc quyền mà theo đó sẽ được thám hiểm một phần của Đại Tây Dương theo Hiệp ước Tordesillas. Cùng với Pêro de Barcelos, ông đã lần đầu tiên nhìn thấy Labrador vào năm 1498. Fernandes đã lập bản đồ vùng bờ biển Tây Nam của Greenland và của vùng Đông Bắc Bắc Mỹ lân cận vào khoảng năm 1498 và thông báo về chúng tại Bồ Đào Nha và châu Âu. Tình trạng chủ sở hữu đất đai đã cho phép ông sử dụng tước hiệu lavrador, tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là "người chủ trại" hay "địa chủ" (). Fernandes đã thực sự đặt cho Greenland tên gọi "Terra do Lavrador"để biểu thị đây là vùng đất đầu tiên ông nhìn thấy, song cuối cùng tên gọi này đã mở rộng phạm vi ra tất cả các khu vực và cuối cùng trở thành nguồn gốc cho tên gọi Labrador.
1
null
Bán đảo Alaska là một bán đảo kéo dài khoảng ra phía tây nam từ đại lục Alaska và kết thúc tại quần đảo Aleut. Bán đảo chia tách Thái Bình Dương với vịnh Bristol, một bộ phận của biển Bering. Trong một số tài liệu (đặc biệt là tiếng Nga) thuật ngữ ‘bán đảo Alaska’ được dùng để chỉ phần phía tây bắc của Bắc Mỹ, hay toàn bộ bang Alaska hiện nay ngoại trừ quần đảo Aleut và Vùng cán xoong Alaska. Địa lý. Dãy núi Aleut là một dãy núi nửa hoạt động cao, chạy dọc theo toàn bộ chiều dài bán đảo. Bên trong những nơi trú ẩn của động vật hoang dã, bao gồm Vườn và khu bảo tồn quốc gia Katmai, Khu bảo tồn và kỉ niệm quốc gia Aniakchak và Khu trú ẩn động vật hoang dã quốc gia Becharof, Khu trú ẩn động vật hoang dã Bán đảo Alaska, và Khu trú ẩn động vật hoang dã Izembek. Phần phía nam của bán đảo Alaska có địa hình gồ ghề và đồi núi, được tạo thành bởi hoạt động kiến tạo nâng lên của phần phía bắc mảng Thái Bình Dương lún xuống một phần phía tây của mảng Bắc Mỹ; phần phía bắc tương đối bằng phẳng và nhiều đầm lầy, kết quả của hàng thiên niên kỷ xói mòn và địa chấn nói chung ổn định. Bờ biển phía bắc và phía nam cũng tương tự, hoàn toàn khác nhau. Bờ biển của vịnh Bristol ở phía bắc thường đục và đầy bùn, có mức độ thủy triều lớn, và tương đối nông; bờ biển phía Thái Bình Dương có hoạt động thủy triều tương đối nhỏ, sâu và nước trong. Hành chính. Toàn bộ bán đảo Alaska được tổ chức thành một phần trong bốn quận; Aleut Đông, Bristol Bay, Kodiak Island, và Lake and Peninsula; và cũng bao gồm toàn bộ quận nhỏ Bristol Bay. Quận Lake and Peninsula bao gồm phần lớn lãnh thổ của bán đảo. Khí hậu. Lượng mưa bình quân của bán đảo Alaska dao động từ 24 đến 65 in (610 đến 1.650 mm). Các khu vực ven biển phải chịu các cơn bão, gió và mưa lớn. Nhiệt độ vào mùa đông dao động từ -11 °C đến 1 °C, và vào mùa hè là từ 6 °C đến 15°. Sương giá có thể xảy ra vào bất kỳ ngày nào trong năm ở những nơi có độ cao lớn. Khí hậu của bán đảo có thể so sánh tương ứng với khí hậu của quần đảo Aleut, Iceland, và Tierra del Fuego. Động thực vật. Bán đảo Alaska là nơi cư trú của một số quần thể hoang dã bản địa và không bị ảnh hưởng có số lượng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Ngoài số gấu nâu sông McNeil và Katmai, các bầy có số cá thể lớn của các loài tuần lộc, nai sừng, sói xám và chim nước cũng sinh sống tại khu vực. Các loài gấu trên bán đảo và vịnh Bristol khá đông đảo bởi chúng có thức ăn là loài cá hồi đỏ lớn nhất thế giới, "Oncorhynchus nerka", những con cá này xuất hiện ở đây phần lớn là do nhiều hồ lớn trên bán đảo là một yếu tố quan trọng trong vòng đời của nó. Các cá thể cá hồi này, sau khi trở về từ cuộc sống ngắn ngủi trên biển, sẽ bơi vào trong các hồ và các dòng suối chảy vào hồ để đẻ trứng. Con cái của chúng sẽ qua đông ở vùng nước sâu và có thực phẩm phong phú tại các hồ này cho đến khi di cư ra biển trong một hoặc hai năm. Nửa phía nam gồ ghề của bán đảo, cũng như quần đảo Kodiak ngoài khơi, thậm chí còn là nơi sinh sống của nhiều loài gấu hơn, tạo thành hệ sinh thái rừng taiga núi bán đảo Alaska và bao gồm một số khu vực bảo tồn như vườn quốc gia Katmai. Nhân khẩu. Bên cạnh các cộng đồng ven biển, bán đảo Alaska cũng có một số ngôi làng nổi tiếng như: Cold Bay, King Cove, Perryville, Chignik, Chignik Lake, Chignik Lagoon, và Port Moller. Các ngôi làng này có dân cư chủ yếu là người Alaska bản địa, và phương tiện kiếm sống chủ yếu là đánh cá. Làng Sand Point cũng có thể liệt vào bán đảo Alaska, mặc dù nó nằm trên đảo Popof, một hòn đảo thuộc quàn đảo Sumagin, ngay ngoài khơi phía nam của bán đảo.
1
null
Đông Nam Alaska, đôi khi được gọi là "Cán xoong/Doi đất Alaska" (), là phần đông nam của bang Alaska tại Hoa Kỳ, nằm ở phía tây của nửa phía bắc tỉnh British Columbia của Canada. Phần lớn diện tích Đông Nam Alaska là một phần của Rừng quốc gia Tongass, rừng quốc gia lớn nhất Hoa Kỳ. Tại nhiều nơi, biên giới giữa Hoa Kỳ và Canada chạy dọc theo đỉnh của Boundary Ranges thuộc Dãy núi Coast. Vùng này có khí hậu ôn hòa, mưa nhiều và có phong cảnh đẹp. Đông Nam Alaska là phần phía bắc của Inside Passage, một tuyến đường thủy được bảo vệ trong các tuyến hành lang uốn quanh các đảo và vịnh hẹp, bắt đầu tại vịnh Puget ở bang Washington. Đây là một hành lang di chuyển quan trọng đối với những người Tlingit và Haida bản địa, cũng như các tàu hơi nước vào thời kỳ cao điểm tìm vàng. Trong thời hiện đại, đây là một tuyến quan trọng đối với các phà cũng như tàu du lịch của Alaska Marine Highway. Đông Nam Alaska có diện tích đất (sq), gồm sáu quận và ba khu vực điều tra, thêm vào đó là phần lãnh thổ của Quận Yakutat nằm ở phía đông kinh tuyến 141° T. Mặc dù vùng này chỉ chiếm 6,14% diện tích đất của Alaska, song nó lại lớn hơn cả bang Maine, và gần như tương đương bang Indiana. Bờ biển Đông Nam Alaska có độ dài gần tương ứng với bờ biển phía tây của Canada. Theo điều tra năm 2000, dân số của Đông Nam Alaska là 72.954 người, khoảng 42% trong số đó tập trung tại thành phố Juneau.
1
null
Xa lộ Puerto Rico 52 (PR-52) là một lộ thu phí then chốt tại Puerto Rico. Nó còn được biết với tên gọi ngày nay là "Autopista Luis A. Ferré", trước kia được biết là "Expreso Las Americas". Xa lộ này chạy từ Xa lộ Puerto Rico 1 tại tây nam Río Piedras và đi về phía nam cho đến khi giao cắt với Xa lộ Puerto Rico Highway 2 tại Ponce. Tại điểm đầu phía bắc của nó, xa lộ ngắn PR-18 tiếp tục đi hướng bắc từ PR-52 về phía thành phố San Juan. Đoạn đường ngắn này có tên gọi là "Expreso Las Americas", đây là đoạn duy nhất còn lại của xa lộ vẫn mang tên này một cách không chính thức kể từ khi PR-18 được chính thức đặt tên là "Xa lộ cao tốc Roberto Sanchez Vilella". Hai xa lộ kết hợp là PR-18 và PR-52 cùng chạy trùng với xa lộ liên tiểu bang không biển dấu PRI-1. PR-52 là một xa lộ thu phí. Các trạm thu phí nằm tại Caguas, Salinas, Juana Díaz, và Ponce. Mô tả. PR-52 là xa lộ thu phí dài nhất và có lưu lượng xe nhiều thứ hai tại Puerto Rico. Xa lộ gần như có 2 làn xe mỗi chiều. Đoạn đường giữa trạm thu phí Caguas và thị trấn Salinas thì uốn lượn và nhiều đồi núi hơn các đoạn khác của xa lộ. Đoạn này cũng có nhiều sương mù và tầm nhìn gần hơn so với phần còn lại của xa lộ. Tốc độ giới hạn cũng bị giảm xuống trong khu vực này. Trạm dừng chân/vệ sinh duy nhất của Puerto Rico là nằm trên xa lộ cao tốc này. Lịch sử. Việc xây dựng xa lộ cao tốc dài xảy ra trong thời chính quyền của thống đốc Luis A. Ferré. Bản thân ông được đào tạo là một kỹ sư công chánh. Phí tổn xây dựng xa lộ này là $125 triệu. PR-52 là xa lộ thu phí đầu tiên từng được xây dựng tại Puerto Rico. Công cuộc xây dựng xa lộ bắt đầu vào tháng 10 năm 1968. Sau đó nó được đặt tên là "Autopista Las Americas", và được dự tính chạy từ thành phố San Juan đến Ponce. Ngày 9 tháng 12 năm 1993, Luật 118 được thông qua tái đặt tên xa lộ thành "Autopista Luis A. Ferre". Xa lộ cao tốc này hiện là xa lộ dài nhất trên hòn đảo, nhưng sẽ có thay đổi khi xa lộ PR-22 dài 83 km được nối dài đến Aguadilla. Vào tháng 3 năm 1969, xa lộ trở thành một xa lộ cao tốc thu phí.
1
null
Xa lộ Puerto Rico 22 (cũng là một phần của Xa lộ Liên tiểu bang PRI-2 không biển dấu) là một xa lộ thu phí dài 51 dặm (83-km) tại duyên hải phía bắc của Puerto Rico, kết nối thành phố San Juan và thành phố Hatillo. Xa lộ này cũng có tên là "Xa lộ cao tốc José de Diego" (Tiếng Tây Ban Nha: "Expreso De Diego"). Nó là một xa lộ 4 làn xe suốt phần lớn chiều dài của nó, nhưng mở rộng đến 12 làn xe tại vùng đô thị San Juan. Xa lộ này thường hay kẹt xe, đặc biệt là vào giờ cao điểm. Xa lộ này là một phần thuộc Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Mô tả xa lộ. PR-22 là xa lộ đông đúc xe cộ nhất của Puerto Rico. PR-22 chạy song song với PR-2. Không giống PR-22, PR-2 không phải là một xa lộ cao tốc, và có vô số đèn tín hiệu giao thông xuyên suốt con đường đi của nó. Việc xây dựng xa lộ PR-22 đã giúp giảm kẹt xe trên PR-2. Điểm đầu phía đông của nó nằm tại PR-26 (một xa lộ cao tốc không thu phí) tại Santurce. Xa lộ đi tránh tất cả các thành phố mà PR-2 đi qua. Điểm đầu phía tây của PR-22 nằm ở PR-2 tại Hatillo. Từ đây, PR-2 tiếp tục đi đến Aguadilla và Mayagüez, rồi kết thúc tại Ponce. Sau đây là danh sách các khu tự quản/thị trấn mà PR-22 đi qua, theo thứ tự từ thành phố San Juan đến Hatillo (chiều đi hướng tây): San Juan, Cataño, Guaynabo, Bayamón, Toa Baja, Dorado, Vega Alta, Vega Baja, Manatí, Barceloneta, Arecibo, Hatillo Lịch sử. Việc xây dựng xa lộ này bắt đầu vào năm 1969 và hoàn thành năm 2000. Tương lai. PR-22 được dự tính nối dài đến Aguadilla. Việc nối dài xa lộ này sẽ được thực hiện như một phần của kế hoạch hợp tác giữa chính phủ và tư nhân nhằm bảo trì và điều hành xa lộ PR-22 trong 40 năm tới.
1
null
Cá anh vũ nhỏ, cá anh vũ tối màu, cá thần, ám thần lăng (danh pháp hai phần: "Semilabeo obscurus") là một loài cá thuộc chi Cá anh vũ, họ Cá chép (Cyprinidae). Loài này có khu vực phân bố: lưu vực sông Tây Giang (Ba Mã, Bách Sắc trong tỉnh Quảng Tây cũng như Phú Nguyên, Di Lương trong tỉnh Vân Nam), sông Gâm (tỉnh Tuyên Quang).
1
null
Cá trôi đen, cá trôi ta, cá trôi Tàu, cá linh rìa (danh pháp hai phần: Cirrhinus molitorella) là một loài cá thuộc họ Cá chép. Loài này có trong lưu vực các sông Mekong, Chao Phraya, Nam Theun, Xe Bangfai và Nanpangjiang (sông Nam Bàn) cũng như sông Hồng (Trung Quốc và Việt Nam).
1
null
Súng ngắn CZ 52 (viết tắt của từ Česká zbrojovka 1952) là loại súng ngắn bán tự động do hai nhà thiết kế người Tiệp Khắc là Jan và Jaroslav Kratochvíl thiết kế vào năm 1947. Năm 1952, nó chính thức được biên chế vào Quân đội Tiệp Khắc vì vậy mà nó có tên là CZ 52. Nó còn có tên đầy đủ khác là Česká zbrojovka vz.52, vì vậy nên súng lục CZ 52 cũng có tên là vz.52, do đó nên nó thường bị nhầm lẫn với Súng trường model 1952 cũng do Tiệp Khắc sản xuất vào năm 1952. Phương Tây và NATO gọi nó là súng lục M1952 hay M52. Lịch sử hoạt động. Súng được thiết kế năm 1947 dựa trên nguyên mẫu là khẩu Walther PP của Đức Quốc xã nhằm bổ sung cũng như thay thế trong tương lai mẫu súng lục CZ 50. Một số lượng ít CZ 52 đã được sản xuất trong vòng những năm 1949-1951 nhằm thử nghiệm. Súng bắt đầu sản xuất hàng loạt vào năm 1952 tại nhà máy CZ-Uhersky Brod (hay còn gọi tắt là CZ-UB) khi Quân đội Tiệp Khắc đồng ý sử dụng CZ 52, cùng trong năm nay thì khẩu súng mới có tên chính thức. Ở Tiệp Khắc, súng ngắn CZ 52 nhận được sự đánh giá rất cao, nó được sử dụng tới năm 1982 thì dần bị loại bỏ và thay thế bằng súng lục CZ 82 sử dụng đạn 9x18mm Makarov hiện đại và có hỏa lực mạnh hơn. CZ 52 đã tham gia nhiều cuộc chiến, tuy vậy nhưng nó vẫn phục vụ khá hạn chế. Cuộc chiến đầu tiên mà nó tham gia là Chiến tranh Việt Nam khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được những khẩu CZ 52 đầu tiên từ Tiệp Khắc thông qua việc viện trợ trong khối xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Liên Xô cũng mua một số lượng nhỏ nhằm trang bị cho Hồng quân. Năm 1998, sau khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CZ 52 bắt đầu được xuất khẩu sang Mỹ nhằm phục vụ cho dân sự. Mô tả. Súng dùng đạn 7,62×25mm Tokarev, cùng loại đạn với súng ngắn TT-33 (K-54) do Liên Xô sản xuất. Một số người hay gọi nó là CZ-TT. Là súng ngắn bán tự động, nên CZ 52 chỉ bắn được từng phát một. Cơ chế điểm hỏa của nó là dùng kim hỏa và hạt nổ. Giống với các loại súng lục khác, khi bắn CZ 52 cũng có hiện tượng giật lùi đẩy về của thanh trượt. Bên thân có bộ phận giảm giật. Ban đầu CZ 52 được thiết kế để sử dụng loại đạn 9x19mm Parabellum của Đức Quốc xã (sau đó NATO bắt đầu sử dụng loại đạn này) nhưng do Tiệp Khắc đã chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa nên về mặt quân sự thì họ phải chịu sức ép từ phía Liên Xô và cuối cùng, CZ 52 đã phải chuyển sang dùng loại đạn súng ngắn tiêu chuẩn của khối Đông Âu là 7,62×25mm Tokarev, điều này cũng được chứng tỏ rõ ràng qua bằng chứng CZ 52 cũng có nhiều điểm rất giống với TT-33 về cả hình dáng và đặc điểm kỹ thuật. Hộp đạn của súng dài khoảng 120 mm, chứa được 8 viên. Các quốc gia sử dụng. Theo thống kê sơ bộ thì chỉ có 3 nước sử dụng CZ 52:
1
null
Cá nhám nhu mì hay Cá mập ngựa vằn(danh pháp hai phần: Stegostoma fasciatum, tiếng Anh: Zebra shark) là một loài cá thuộc họ Stegostomatidae. Loài cá này được tìm thấy trên khắp Ấn Độ-Thái Bình Dương nhiệt đới, thường xuyên lui tới các rạn san hô và các bãi cát ở độ sâu 62m. Con trưởng thành có bề ngoài đặc biệt, với các lằn theo chiều dọc trên một cơ thể hình trụ, vây đuôi thấp bao gồm gần một nửa tổng chiều dài, với các chấm đen trên nền nhạt. Con non dài 50–90 cm (20-35) có kiểu màu sắc hoàn toàn khác nhau, bao gồm ánh sáng của các sọc thẳng đứng trên một nền màu nâu, và thiếu các đường gờ. Con trưởng thành loài này đạt chiều dài 2,5m. Cá nhám nhu mì là loài ăn đêm và dành hầu hết các ngày nghỉ ngơi bất động dưới đáy biển. Vào ban đêm, chúng chủ động săn bắt động vật thân mềm, động vật giáp xác, cá xương nhỏ, và có thể loài rắn biển bên trong lỗ và đường nứt rạn san hô. Mặc dù đơn độc nhất trong năm, chúng tạo thành các đàn lớn theo mùa. Cá nhám nhu mì là noan sinh: cá cái đẻ vài chục viên nang trứng lớn, họ neo đậu cho các cấu trúc dưới nước thông qua các tua dính. Vô hại cho con người và khỏe mạnh trong điều kiện nuôi nhốt, cá nhám nhu mì là những đối tượng phổ biến của du lịch sinh thái lặn và hồ công cộng. Liên minh Bảo tồn Thế giới đã đánh giá loài này trên toàn thế giới dễ bị tổn thương, vì nó bị đánh bắt thương mại ở hầu hết các phạm vi của nó (trừ ngoài khơi Úc) để lấy thịt, vây, dầu gan. Có bằng chứng rằng các con số của nó đang giảm dần. Mô tả. Cá nhám nhu mì có cơ thể hình trụ với một cái đầu lớn, hơi dẹt và một đoạn mõm ngắn, thẳng. Đôi mắt nhỏ và đặt ở hai bên của đầu, các lỗ thở được đặt phía sau và lớn hơn mắt. 3 khe cuối cùng của 5 khe mang ngắn nằm trên vây ngực, và các khe thứ tư và thứ năm gần với nhau hơn những khe mang khác. Mỗi lỗ mũi có một đoạn râu ngắn và một đường rãnh chạy từ miệng nó vào. Miệng là gần như thẳng, ba thùy trên môi dưới và rãnh ở các góc. Có 28-33 hàng răng ở hàm trên và 22-32 hàng răng ở hàm dưới, mỗi răng có một đỉnh trung tâm lớn và hai đỉnh khác nhỏ hơn. Có năm rảnh đạc biệt chạy dọc theo cơ thể ở con trưởng thành, một dọc theo đường giữa lưng và hai bên hông. Đường giữa lưng nhập vào trong đầu vây lưng, đặt vào khoảng nửa đường dọc theo cơ thể và hai lần kích thước của vây lưng thứ hai. Vây ngực lớn và rộng, các vùng chậu và vây hậu môn nhỏ hơn nhiều nhưng lớn hơn so với vây lưng thứ hai. Cá nhám nhu mì đạt chiều dài 2,5 m (8,2 ft), với một chiều dài vô căn cứ là 3,5 m (11,5 ft). Cả được và cái không có dị hình kích thước. Phân bố và môi trường sống. Cá nhám xuất hiện ở các vùng biển nhiệt đới của Ấn Độ-Thái Bình Dương từ Nam Phi đến Biển Đỏ và Vịnh Ba Tư (bao gồm cả Madagascar và Maldives), đến Ấn Độ và Đông Nam Á (trong đó có Indonesia, Philippines, và Palau), phía Bắc đến Đài Loan và Nhật Bản, phía đông giáp Nouvelle-Calédonie và Tonga, và về phía nam tới miền bắc Úc.
1
null
Cá trôi trắng Deccan (danh pháp hai phần: "Cirrhinus fulungee") là một loài cá thuộc chi Cá trôi trong họ Cá chép. Loài cá này sinh sống ở khu vực Maharashtra và Karnataka ở Ấn Độ, nhưng có lẽ cũng có ở những nơi khác trong khu vực tiểu lục địa này.
1
null
Trôm (danh pháp hai phần: Sterculia foetida) là một loài thực vật thuộc chi Trôm trong họ Trôm. Loài này được Carl von Linné miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đây là một cây với lá chẻ ra hoa có mùi hôi ít. Loài này có nguồn gốc tự nhiên ở vùng nhiệt đới trên thế giới như Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Miến Điện, Indonesia, Malaysia, Panama, Trung Quốc, Úc, Thái Lan, Philippines, Senegal, Sudan và Việt Nam. Nó có thể được trồng ở các khu vực nhiệt đới khác. Mủ trôm. Mủ trôm, hay còn gọi là nhựa trôm, là dịch tiết ra từ cây trôm. Nhựa trôm là một hợp chất polysaccharide cao phân tử, khi thủy phân sẽ cho ra các đường D-galactose, L-rhamnose và acid D-galacturonic, một vài chất chuyển hóa acetylat và trimethylamin. Nhựa trôm còn chứa khoảng 37% uronic acid, nhiều khoáng tố như calcium và muối magnesium. Khi ngâm trong nước lạnh với tỉ lệ thấp (4-5%) nhựa trôm sẽ trở thành dạng keo. Mủ trôm có màu trắng, dạng thạch đặc, vón thành từng cục như sương sa. Tại Việt Nam, mủ trôm được sử dụng cho mục đích giải khát như một thức uống có vị thuốc. Ngoài ra, nhờ tính dính nên nhựa trôm thường được dùng làm chất để kết dính trong ngành dược và kỹ nghệ. Tính chất. Mủ trôm được sử dụng làm thức uống giải khát, giải độc và chống táo bón do có thành phần chất xơ cao có khả năng trương nở lên gấp từ tám đến mười lần trong nước và kết dính cặn bã độc hại trong ruột già, tăng lượng phân và nhu động ruột. Ngoài ra, mủ trôm góp phần cải thiện độ mỡ trong máu, tăng cảm giác no và điều tiết lượng đường trong máu ở người thừa cân, béo phì hoặc đái tháo đường. Ngoài ra, mủ trôm có thể làm keo dính dùng dán đế giày, cây gỗ, tranh dán. Làm keo công nghệ y dược, viên nang thuốc tây. Người Việt Nam thường sử dụng mủ trôm, mủ gòn đơn độc hoặc kết hợp với một số thực vật khác như hột é, lười ươi để pha chế thức uống có tác dụng làm mát, giải độc cơ thể. Cảnh báo. Mủ trôm không có độc tính. Tuy nhiên, tính mát và nhuận trường, hai ưu điểm của loại mủ này có thể gây ra một số phản ứng phụ. Không sử dụng mủ trôm trong các trường hợp: Pha chế. Mủ trôm có thể ăn chung với nước đường cùng các loại sâm khác, nấu chè, nấu thức uống rất đa dạng. Tinh dầu trôm. Theo một nghiên cứu tại Việt Nam, hạt trôm chứa hàm lượng lipid tổng số là 52,36%, thành phần axit béo trong dầu hạt trôm gồm axit hexadecanoic (42,15%) và axit octadecanoic (32,65%).
1
null
Cá trôi Mrigal, cá trôi trắng, cá mrigan (danh pháp hai phần: "Cirrhinus cirrhosus") là một loài cá thuộc chi Cá trôi trong họ Cá chép. Đây là loài bản địa các con sông lớn tại tiểu lục địa Ấn Độ. Tuy nhiên, do được nuôi ở nhiều nơi cho nên phạm vi phân bố hiện tại khó xác định.
1
null
Nguyễn Văn Thương (1938–2018) là thiếu tá tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Tiểu sử. Nguyễn Văn Thương (hay còn gọi với cái tên thân mật là ông Hai Thương) sinh ra và lớn lên tại xã Lộc Hưng, Trảng Bàng, Tây Ninh trong một gia đình cách mạng. Mới 3 tháng tuổi, ông đã được gửi cho một người cô nuôi dưỡng để ba mẹ đi hoạt động cách mạng. Năm lên 8 tuổi, ông nhận được tin mẹ bị bắt, đày đi Côn Đảo rồi hy sinh. Năm 1959, cha ông hy sinh trong một lần hoạt động quân báo. Tháng 5 năm 1959 Nguyễn Văn Thương quyết định tham gia cách mạng. Năm 1961, ông được chuyển về đơn vị trinh sát và làm bảo vệ cho ông Võ Văn Kiệt (lúc đó là Bí thư thành ủy T4 Sài Gòn – Gia Định). Sau đó, Nguyễn Văn Thương được chuyển sang hoạt động trong ngành tình báo, dưới sự huấn luyện trực tiếp của Mười Nho (đại tá Nguyễn Nho Quý, Trưởng ban tình báo khu Sài Gòn – Chợ Lớn). Trong 10 năm hoạt động chiến đấu từ năm 1959 đến tháng 2.1969 Nguyễn Văn Thương được giao nhiệm vụ giao liên tình báo ở khu vực Bắc Sài Gòn (Sài Gòn – Bến Cát – Bình Dương), đây là thời điểm khó khăn, bởi quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa luôn tỏ ra thận trọng thường xuyên kiểm soát gắt gao trên tuyến hành lang xung yếu này. Nguyễn Văn Thương đã vượt qua khó khăn, gian khổ và nguy hiểm, thực hiện hàng nghìn lần chuyển nhận chỉ thị, tài liệu và đưa đón hàng trăm cán bộ từ ngoài căn cứ vào trong Sài Gòn và từ Sài Gòn ra căn cứ an toàn. Ngày 10/2/1969, trong lần trên đường mang tài liệu từ Sài Gòn ra vùng căn cứ, Nguyễn Văn Thương bị máy bay Mỹ phát hiện, hạ thấp định bắt sống. Ông đã chủ động dùng súng AK-47 bắn rơi một máy bay lên thẳng, diệt 3 tên Mỹ. Quân đội Mỹ phải huy động một lực lượng lớn mới bắt được ông, nhưng ông đã cất giấu tài liệu kỹ trước khi bị bắt. Sau nhiều lần mua chuộc không thành, quân đội Mỹ đã đưa Nguyễn Văn Thương ra đập nát hai bàn chân. Sau đó chỉ trong 3 tháng, họ 6 lần cưa 6 đoạn chân của ông. Hơn 4 năm trong các nhà tù Nguyễn Văn Thương bị tra tấn đủ mọi cực hình nhưng vẫn một mực trung kiên, giữ vững khí tiết. Khi ở trại giam đảo Phú Quốc ông vẫn tiếp tục đấu tranh, tham gia trong cấp ủy nhà tù. Tấm gương bất khuất, kiên cường của ông đã cổ vũ đồng chí, đồng đội trong nhà tù tích cực hăng hái đấu tranh. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, Nguyễn Văn Thương mới được trở về đoàn tụ với gia đình. Sau khi ra tù, ông vẫn tiếp tục với cuộc sống đầy lạc quan, tích cực rèn luyện, học tập, sống giản dị, khiêm tốn được đồng đội, bạn bè kính phục. Ngày 13 tháng 8 năm 2018, ông qua đời tại nhà riêng, hưởng thọ 80 tuổi. Mộ phần của ông được đặt tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương. Những chiến công. Hoạt động trong lòng địch. Trong quá trình chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhiều lần bị quân Mỹ tập trung càn quét vào căn cứ, Nguyễn Văn Thương đều tích cực cùng đồng đội tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ. Có lần quân Mỹ tập kích vào căn cứ, ông trực tiếp chỉ huy một tổ bắn rơi 3 máy bay lên thẳng của Mỹ bằng súng tiểu liên. Quân Mỹ đông, có xe tăng, pháo binh hỗ trợ liên tục tập kích đánh phá vào căn cứ, ông và đồng đội kiên cường, bám vững chiến hào đánh trả quyết liệt hàng tháng, nhiều lần đánh lui cả đại đội quân Mỹ, diệt 50 tên, phá hủy 8 xe tăng, bảo vệ khu căn cứ an toàn. Phá tượng Ngô tổng thống. Ngày 15/10/1958, trong hội chợ triển lãm mang màu sắc chính trị diễn ra tại Biên Hòa. "Tổ công tác phong trào cách mạng của đồn điền cao su Xuân Lộc" gồm Nguyễn Văn Thương, Trịnh Minh Thành, Hai Gáo, Năm Ninh tham gia hoạt động rải truyền đơn. Xong nhiệm vụ chính, Thương và đồng chí của mình hòa vào đám đông đang ngắm nghía chiếc xe bọc vải nhung kết hoa sặc sỡ. Nhìn thấy trên xe là hình nộm Tổng thống Ngô Đình Diệm mặc áo gấm đội khăn, Thương sôi máu bàn với Năm Ninh "phải ngắt cổ Ngô tổng thống để hạ uy tín địch và nâng vị thế Cách mạng". Nguyễn Văn Thương vờ hò hét dọn đường như một lơ xe thứ thiệt và đợi cho tài xế không quan sát phía sau, anh nhảy ngay lên thùng xe. Hàng ngàn cặp mắt đang dõi theo xe diễu hành cứ ngỡ Thương là người bảo vệ hình nộm Ngô tổng thống. Xe chạy chầm chậm đến quãng vắng, Thương bắt đầu nấp sau lưng hình nộm, kiễng chân cắt dây chằng néo hình nộm và dây điện (dùng điều khiển tay chân hình nộm cử động). Phải hơn 15 phút đứng hành động và có khi đứng im sau lưng hình nộm để tránh bị phát hiện, Thương mới hất được cái đầu Ngô tổng thống làm bằng thạch cao rơi xuống thùng xe. Nhanh nhẹn ôm cái đầu hình nộm, Thương chọn quãng đường vắng nhảy xuống đất, lăn mấy vòng dạt vào bụi cỏ ven đường rồi đập nát hình nộm. Câu nói. Những lần bị quân đội Mỹ tra tấn bằng cách "cưa chân", ông kể lại Cuối cùng, người đại tá Mỹ phải thốt ra câu: "Tao thua rồi, mày là sinh vật thép". Khen thưởng. Ngày 6 tháng 11 năm 1978 Nguyễn Văn Thương được Chủ tịch Tôn Đức Thắng phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Để tri ân những hi sinh và cống hiến của Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương, Hoa viên nghĩa trang Bình Dương đã dành tặng mộ phần và dịch vụ chăm sóc mộ phần trọn đời cho vợ chồng Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương.
1
null