text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Chiến dịch tấn công Rzhev-Vyazma lần thứ hai là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội Đức Quốc xã từ ngày 2 tháng 3 đến 31 tháng 3 năm 1943. Lực lượng tham chiến của quân đội Liên Xô là các Phương diện quân Kalinin và Phương diện quân Tây với nhiệm vụ quét sạch quân Đức khỏi "chỗ lồi" Rzhev-Vyazma mà quân Đức đã đánh chiếm ở đây từ hồi năm 1941. Trong thời gian này, quân Đức cũng bắt đầu cuộc triệt thoái khỏi chỗ lồi Rzhev. Chỗ lồi Rzhev-Vyazma "tọa lạc" ở khu vực phía Tây của mặt trận Xô-Đức và trong một thời gian dài tạo ra mối nguy hiểm đe dọa thủ đô Moskva của Liên Xô. Tại chỗ lồi sâu 160 cây số và dài 200 cây số này, tập trung tới 2 phần 3 binh lực của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm. Điều này khiến nó cũng trở thành một nơi tập trung binh lực rất lớn của quân đội Liên Xô với 12 tập đoàn quân và 2 tập đoàn quân không quân của các Phương diện quân Kalinin, Tây và một phần Phương diện quân Bryansk. Trong suốt năm 1942, đây là nơi xảy ra nhiều chiến dịch và trận đánh đẫm máu giữa quân đội Liên Xô và quân phát xít Đức với tổn thất hết sức nặng nề cho cả hai bên - điều này đã khiến khu vực này mang biệt hiệu "Cối xay thịt Rzhev". Mặc dù đã nhiều lần tấn công quyết liệt và chịu nhiều thương vong nhưng về cơ bản quân đội Liên Xô vẫn chưa trục được quân Đức khỏi khu bàn đạp lợi hại này. Bối cảnh và tình huống mặt trận. Ngày 2 tháng 2 năm 1943, Tập đoàn quân 6 và một phần Tập đoàn xe tăng 4 (Đức) bị tiêu diệt và bắt là tù binh trong trận đánh cuối cùng của Chiến dịch Stalingrad. Ngày 30 tháng 1 năm 1943, Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Volkhov (Liên Xô) phối hợp tác chiến đập tan cái "cổ chai" Shlisselburg, phá vỡ vòng phong tỏa Leningrad. Trong tháng 1, tháng 2 năm 1942, các "bản sao của Stalingrad" đã diễn ra tại Ostrogozhsk-Rossosh và Voronezh-Kastornoye ở phía Nam; tại Velikiye Luki ở phía Bắc đã đặt quân Đức vào tình thế hầu như không còn lực lượng dự bị tại các chiến trường trọng yếu. Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng bị thiệt hại đáng kể sau hơn một năm bám giữ chỗ lồi Rzhev - Vyazma. Quân đội Liên Xô tuy chưa xóa bỏ được bàn đạp Rzhev - Vyazma của quân Đức nhưng cũng lấn thêm được một số vị trí tại phía Tây và phía Bắc Rzhev và giữ được chỗ lồi Sukhinichi. Chiến tranh du kích phát triển mạnh trong các khu tam giác chiến lược Smolensk - Rzhev - Yartsevo và Smolensk - Vyazma - Spas-Demensk đã gây nhiều tổn thất về người và vật chất cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) ngay tại hậu tuyến của nó. Quân đội Liên Xô vẫn duy trì tại mặt trận phía Tây Moskva hai phương diện quân mạnh với từ 10 đến 12 tập đoàn quân (tùy theo tình hình chiến sự). Thế chủ động chiến lược trên chiến trường đã chuyển sang tay quân đội Liên Xô. Tháng 3 năm 1943, Adolf Hitler lệnh cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã chuẩn bị kế hoạch tấn công trong mùa hè nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược. Kế hoạch Thành Trì được thai nghén. Tuy nhiên, để đảm bảo tấn công thắng lợi trên hướng Kursk, Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông cần đến một khối lượng binh lực và phương tiện rất lớn, lên đến vài chục sư đoàn. Trong khi tại thời điểm đó, quân Đức vẫn chưa thể phục hồi sau thất bại Stalingrad. Số quân mới động viên từ những công dân Đức sinh trước năm 1926 còn quá mới mẻ. Cần có những người lính, những sĩ quan, những đơn vị đã dày dạn trận mạc. Giải pháp tối ưu đối với quân đội Đức Quốc xã là rút quân khỏi các mặt trận xa, những chỗ lồi để có thể dành ra một số lực lượng dự bị đủ mạnh. Binh lực và kế hoạch. Quân đội Liên Xô. Đầu năm 1943, Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô bắt đầu lập kế hoạch giải quyết một lần và vĩnh viễn vấn đề Rzhev. Lưc lượng tham gia gồm cánh trái của Phương diện quân Kalinin (bao gồm các Tập đoàn quân số 22, 39, 41, 43 và Tập đoàn quân không quân số 3) và Phương diện quân Tây (Tập đoàn quân số 5, 10, 20, 31, 33, 49, 50 và Tập đoàn quân không quân số 1). Ngày 6 tháng 2 năm 1943, tư lệnh Phương diện quân Kalinin, tướng M. A. Pukaryev và tư lệnh Phương diện quân Tây, tướng V. D. Sokolovsky nhận chỉ thị từ Bộ Tổng tư lệnh Tối cao về việc chuẩn bị một đợt tấn công mới. Mục tiêu chiến dịch này cũng tương tự như các chiến dịch trước đó: bao vây và tiêu diệt chủ lực của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm (Đức). Chiến dịch được dự định bắt đầu từ ngày 15 tháng 2 năm 1943. Kế hoạch dự kiến sử dụng Phương diện quân Tây, Phương diện quân Bryansk và Phương diện quân Trung tâm mở hai mũi tấn công thọc sâu sang hướng Tây và lên hướng Tây Bắc qua Smolensk và Orsha, đẩy cụm quân Đức tại Rzhev - Vyazma vào thế gần như bị bao vây, tạo ra một "vách ngăn" giữa Cụm tập đoàn quân Trung tâm và Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), buộc quân Đức phải đi đường vòng nếu muốn chuyển quân từ cụm Trung tâm sang cụm Nam. Tuy nhiên, sau khi đi kiểm tra mặt trận, I. V. Stalin đồng ý cho lùi thời điểm mở chiến dịch đến ngày 24 tháng 2 do hệ thống đường sắt không đảm bảo vận chuyển người và phương tiện đến mặt trận đúng thời gian. Tuy nhiên, quân đội Đức Quốc xã cũng đã có kế hoạch rút quân khỏi chỗ lồi Rzhev - Vyazma. Ngày 1 tháng 3, phát hiện quân Đức bắt đầu rút bỏ nhiều chốt tiền tiêu trên khu vực phía bắc Rzhev, phía đông Sychyovka, Gzhatsk, Vyazma và phía Tây Yukhnov, Mosalsk, chủ lực Phương diện quân Tây và cánh trái của Phương diện quân Kalinin (Liên Xô) đã phải vội vã chuyển sang chiến thuật tấn công truy kích mà không kịp điều chỉnh kế hoạch. Quân đội Liên Xô tham gia chiến dịch gồm có: Quân đội Đức Quốc xã. Mặc dù Rzhev - Vyazma được coi là nền tảng của mặt trận phía Đông của quân đội Đức Quốc xã nhưng đến mùa xuân năm 1943 thì quân đội Đức không còn đủ lực lượng để duy trì "nền tảng" ấy nữa. Các cuộc chiến ở phía Nam mặt trận Xô - Đức trong các chiến dịch tại khu vực Stalingrad, khu vực trung lưu sông Đông đã làm tiêu hao nhiều sinh lực của cả quân Đức và quân đồng minh của nước Đức Quốc xã. Để phục vụ cho Kế hoạch "Thành trì", Bộ Tổng tư lệnh lục quân Đức buộc phải rút quân tại khu vực Rzhev - Vyazma để tăng cường cho cánh quân phía Bắc Kursk. Quân đội Đức Quốc xã đã có 9 biện pháp trong kế hoạch hành quân mang tên "Con Trâu" để chuẩn bị cho việc rút quân từ tháng 2 năm 1943: Lực lượng của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) phòng ngự tại "chỗ lồi" Rzhev - Vyazma đầu năm 1943 gồm có: Diễn biến. Trinh sát mặt trận của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Kalinin không nắm được kế hoạch rút quân của Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Ngày 2 tháng 3, đã xảy ra trận tao ngộ chiến giữa Tập đoàn quân 30 (Phương diện quân Tây) với các sư đoàn bộ binh 87, 206, 251 (Quân đoàn bộ binh 27 (Đức)) tại khu vực Đông bắc Rzhev. Qua khai thác tù binh, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây mới xác định được chủ lực Tập đoàn quân 9 (Đức) đã khởi hành việc rút khỏi Rzhev từ ngày 1 tháng 3. Cũng với tình trạng đó, khi quân báo Phương diện quân Kalinin phát hiện quân Đức đang di tản khỏi Rzhev thì cuộc rút quân của Tập đoàn quân 9 đã diễn ra trước đó một ngày. Trung tướng V. D. Sokolovsky, tư lệnh mới của Phương diện quân Tây lệnh cho các đơn vị thuộc quyền gấp rút tấn công truy kích và báo cáo tình huống lên Đại bản doanh. Ngày 3 tháng 3 năm 1943, trung tướng M. A. Purkayev, chỉ huy Phương diện quân Kalinin cùng nhận được lệnh chuyển các tập đoàn quân sang tư thế tấn công.. Ngày 3 tháng 3, các cuộc truy kích của Phương diện quân Kalinin diễn ra trên hướng Rzhev. Bùn lầy mùa xuân (raputista) cùng với điều kiện địa hình phức tạp nhiều rừng và đầm lầy cũng như hệ thống chướng ngại vật, các bãi mìn dày đặc của quân Đức trên phòng tuyến phía Bắc và phía Tây Rzhev đã gây nhiều khó khăn cho quân đội Liên Xô. Nhiều mũi truy kích phải chờ đợi công binh gỡ mìn, dọn vật cản mới có thể tiếp tục tấn công với tốc độ hành tiến chỉ 6 đến 7 km/ngày. Do các tập đoàn quân 43 và 50 (Liên Xô) bố trí tại hai bên sườn xa nhất của chỗ lồi Rzhev - Vyazma đã suy yếu, số lượng pháo chỉ có 11 trung đoàn, xe tăng chỉ có 3 lữ đoàn, lại không có kế hoạch tấn công và tích lũy nhiên liệu, đạn dược từ trước nên không thể tạo được các mũi đột kích mạnh và sâu, không thể tấn công vào hậu phương Cụm Tập đoàn quân Trung tâm để bao vây nó. Ngày 3 tháng 3, Tập đoàn quân 39 từ Molodoy Tud tấn công xuống phía Nam, đánh chiếm Olenino ngày 4 tháng 3 và phát triển đến tuyến sông Orsha. Tập đoàn quân 22 cũng mở cuộc tấn công từ khu vực đông Nam Nelidovo tiến sát đến phía bắc Bely. Tại Phương diện quân Tây, Tập đoàn quân 30 đánh chiếm Rzhev ngày 3 tháng 3. Tập đoàn quân 31 từ bàn đạp Zubtsov tấn công Sychyovka. Tập đoàn quân 5 từ Karmanovo tiến ra đánh chiếm Gzhatsk ngày 6 tháng 3. Cùng ngày, Tập đoàn quân 33 đánh chiếm Tokarevo. Các đơn vị chặn hậu của Tập đoàn quân 9 và Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) cố gắng kìm hãm đà tiến công của hai phương diện quân Liên Xô bằng cách thiết lập tuyến phòng ngự lâm thời tại Bely, Sychyovka, Vyazma nhưng không thành công. Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân 31 đánh chiếm Sychyovka. Ngày 10 tháng 3, Tập đoàn quân 30 đánh chiếm Nikitinka. Cùng ngày, Tập đoàn quân 41 và Tập đoàn quân 22 phối hợp đánh chiếm Bely và tiến xuống phía Nam. Ngày 12 tháng 3, Tập đoàn quân 33 và Tập đoàn quân 5 phối hợp đánh chiếm Vyazma. Cùng ngày, các tập đoàn quân 49 và 50 từ các khu vực Yukhnov và Mosalsk cũng phát động tấn công dọc theo tuyến sông Ugra và tiến sát đến Đông Bắc Spas-Demensk. Trong khi truy đuổi quân Đức, các tập đoàn quân Liên Xô đã cố gắng tổ chức các mũi thọc sâu, chủ yếu sử dụng bộ binh nhẹ, bộ binh trượt tuyết và kỵ binh để đột kích vào hai bên sườn các cánh quân Đức đang rút lui. Theo ghi nhận của các tướng lĩnh Đức Quốc xã, từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 3 đã có 8 trận tập kích như vậy. Tuy nhiên, do không có pháo binh và xe tăng yểm hộ, các trận tập kích, phục kích của quân đội Liên Xô diễn ra với binh lực thọc sâu mỏng yếu nên không thể tiêu diệt hoặc gây thiệt hại nặng cho các sư đoàn bộ binh Đức được "bao bọc trong những cái kén" được tạo ra bởi các tiểu đoàn xe tăng. Ngược lại, các đội du kích Liên Xô mà tướng Gotthard Heinrici cho rằng đã bị tiêu diệt trong Chiến dịch Hannover hồi đầu mùa hè năm 1942 đã bất thần "sống lại". Trong tháng 3 năm 1943, 11 đội du kích hoạt động trong vùng đã lật đổ 7 đoàn tàu hỏa chở người và phương tiện quân sự của Đức, tiêu diệt hơn 20 toán công binh Đức đặt mìn phá hoại, bảo vệ 18 cây cầu và hơn 800 km đường sắt. Họ cũng tổ chức các trận đánh tập kích, phục kích như quân đội chính quy, gây thương vong cho hàng nghìn binh lính và sĩ quan Đức trên suốt dọc đường rút quân. Một số đơn vị du kích Liên Xô đã thọc sâu về hướng Yartsevo, Yelnya và Smolensk, phá hủy kho tàng, đường sắt, cầu cống và các tuyến dây điện thoại. Trong khi đó, quân Đức rút lui theo kế hoạch và có trật tự với tốc độ chậm dần đều và tăng cường chặn kích trên các tuyến rút lui phía sau. Ngày 1 tháng 3, 5 sư đoàn bộ binh và 2 sư đoàn xe tăng của Tập đoàn quân 9 (Đức) ở Rzhev lùi về phía sau 10 km. Ngày 7 tháng 3, 7 sư đoàn nói trên và 3 sư đoàn cánh trái của Tập đoàn quân 9 (Đức) đã rút thêm 35 km. Cùng thời điểm, 7 sư đoàn bộ binh và 5 sư đoàn xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng 3 bắt đầu rút khỏi phòng tuyến Gzhatsk - Sychyovka về phía sau 25 km. Ngày 12 tháng 3, đến lượt 1 sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 9 (Đức) bên cánh trái, 2 sư đoàn xe tăng và 4 sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 4 (Đức) trên cánh phải lùi về phía sau 10 km đến tuyến Bely - Vyazma. Ngày 20 tháng 3, các sư đoàn Đức bắt đầu gia tăng sức kháng cự khi còn cách tuyến phòng ngự cuối cùng 12 km. Ngày 22 tháng 3, các tập đoàn quân 9, xe tăng 3 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 4 (Đức) chặn đánh quyết liệt quân đội Liên Xô trên tuyến phòng thủ mới từ Demidov qua Ripshevo, Dukhovshchina, Yartsevo, Safonovo, Dorogobuzh, Yelnya, Spas-Demensk đến Milyatino. Do tiếp tục áp dụng chiến thuật truy kích nên các tướng V. D. Sokolovsky và M. A. Purkayev (Liên Xô) đã dàn đều quân trên toàn bộ chính diện mặt trận. Trong số 9 tập đoàn quân tấn công theo hướng chung đến Yartsevo và Dukhovshchina, không thể thấy được đâu là cánh quân đột kích chủ yếu. Việc áp dụng chiến thuật "đánh bóc vỏ" đã làm cho các tập đoàn quân Liên Xô không thể đột phá qua tuyến phòng thủ của quân Đức trong suốt một tuần giao chiến. Ngày 31 tháng 3 năm 1943, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô lệnh cho các Phương diện quân Tây và Kalinin ngừng tiến công, chuyển sang tư thế phòng ngự. Kết quả và đánh giá. Sau chiến dịch, quân đội Liên Xô đã hoàn toàn xóa bỏ chỗ lồi Rzhev-Vyazma, đẩy trận tuyến ra xa khỏi thủ đô Moskva 130-160 cây số, giải phóng các thành phố quan trọng như Rzhev, Gzhatsk, Sychyovka, Bely, Vyazma. Tuy nhiên, những thành phố này, trải qua hàng trăm trận đánh và hàng chục chiến dịch lớn nhỏ, hầu hết chỉ còn lại những tòa nhà đổ nát và những đống gạch vụn. Như các chiến dịch trước đó,trên khu vực Rzhev-Vyazma, quân đội Liên Xô vẫn tiếp tục chịu những thiệt hại nặng hơn. Tại chiến dịch này, tỷ lệ số người chết của quân đội Liên Xô lên đến 12,7%, cao hơn Chiến dịch Sao Hỏa và Chiến dịch phản công chiến lược Rzhev-Sychyovka. Trong đó, có đến hơn 30% số thương vong là do mìn và chất nổ của quân Đức cài lại gây ra. Đây là bài học rất lớn cho quân đội Liên Xô khi chiếm lại những khu vực do quân Đức chủ động rút lui bỏ lại. Chiến dịch tấn công Rzhev-Vyazma (1943) cũng như Chiến dịch Sao Hỏa đều dược tổ chức một cách vội vàng. Một số chỉ huy Liên Xô đã xuất hiện tư tưởng "lạc quan tếu". Họ cho rằng, sau thắng lợi của quân đội Liên Xô trên Mặt trận Stalingrad, quân đội Liên Xô có thể dễ dàng đánh đuổi quân Đức xâm lược ra khỏi đất nước của họ giống như những gì đã đạt được trong mùa đông 1942-1943. Trên thực tế, quân Đức vẫn còn nhiều nguồn lực dự trữ được huy động từ nước Đức và các nước chư hầu của Đức để mưu tính phục thù cho trận Stalingrad. Trong bức điện số 95 ngày 1 tháng 4 gửi các phương diện quân Tây và Kalinin, Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin cảnh báo rằng: "thắng lợi của các đồng chí tuy to lớn nhưng thực chất, các đồng chí vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. Các đồng chí vẫn chỉ có thể đuổi theo quân Đức chứ chưa tiêu diệt được chúng." Trước đó, trong bản nhật lệnh nhân ngày 23 tháng 2 năm 1943, ngày truyền thống của quân đội và hải quân Liên Xô, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô cũng vạch rõ: Những nhận xét có phần nặng nề nhưng có tính tổng kết và phòng ngừa cao đó dành cho các chỉ huy Liên Xô trong các chiến dịch không thành công tại khu vực Rzhev - Vyazma nói riêng và một số khu vực khác của mặt trận Xô-Đức nói chung. Đáng tiếc, nó đã không được các tướng lĩnh chỉ huy của Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương diện quân Tây Nam (trong Chiến dịch "Bước nhảy vọt" trước đó) coi trọng. Sau chiến dịch thu hồi khu vực Rzhev - Vyazma, thượng tướng M. A. Purkayev được điều sang Viễn Đông, tướng A. I. Yeryomenko nhận trách nhiệm chỉ huy Phương diện quân Kalinin. Tướng V. D. Sokolovsky vẫn được giữ lại làm tư lệnh Phương diện quân Tây. Ngược lại, cuộc hành quân "Con Trâu" của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) được coi là thành công với những thiệt hại được cho là tất yếu trong quá trình rút quân. Mặc dù bị đẩy xa mục tiêu ban đầu (Moskva) thêm 130 đến 160 km nhưng quân Đức đã thu hẹp tuyến mặt trận từ gần 750 km xuống còn hơn 300 km. Nhờ đó, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Đức Quốc xã rút ra được 16 sư đoàn trong đó có 4 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới để góp quân hình thành cánh phía Bắc của quân Đức tại vòng cung Kursk trong quá trình chuẩn bị thực hiện Kế hoạch Thành trì. Tuy nhiên, nếu xét toàn cục mặt trận Xô-Đức thì dù một số sử gia Đức cho rằng "quân đội Đức Quốc xã ở khu vực Rzhev - Vyazma là bất khả chiến bại" thì thắng lợi đó cũng chỉ có tính chiến thuật. Việc phải từ bỏ "nền tảng của mặt trận phía Đông" chính là một thất bại có tính chiến lược của quân đội Đức Quốc xã. Thượng tướng xe tăng, tổng thanh tra các lực lượng xe tăng Đức Quốc xã Heinz Guderian đã có lý khi đặt vấn đề nghi ngại với Hitler về việc bỏ "chỗ lồi" Rzhev - Vyazma để đem quân đánh chiếm một "mẩu đất" ở Kursk là nơi mà cả địa cầu này không ai cần biết đến nó.
1
null
Blackburn B.26 Botha là một loại máy bay ném bom thả ngư lôi/trinh sát 4 chỗ của Anh. Nó được hãng Blackburn Aircraft chế tạo tại nhà máy ở Dumbarton, Scotland, đây là một đối thủ của loại máy bay Bristol Beaufort, đưa vào trang bị của RAF vào năm 1939. Do máy bay gặp nhiều vấn đề nên đã nhanh chóng bị rút khỏi các chiến dịch. Tính năng kỹ chiến thuật (Botha Mk.I). The Hamlyn Concise Guide to British Aircraft of World War II
1
null
Santiago Cazorla González (; sinh ngày 13 tháng 9 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha thi đấu cho câu lạc bộ Al Sadd của giải vô địch quốc gia Qatar. Là một cựu tuyển thủ quốc gia Tây Ban Nha, Cazorla chủ yếu hoạt động ở vị trí tiền vệ công, song cũng có thể chơi tiền vệ cánh, tiền vệ trung tâm hoặc cầu thủ làm bóng lùi sâu. Cazorla bắt đầu sự nghiệp chơi bóng chuyên nghiệp tại Villarreal vào năm 2003 sau khi gây ấn tượng ở lứa trẻ của câu lạc bộ quê nhà Real Oviedo. Anh tiếp tục phát triển tại Villarreal trước một quãng thời gian ngắn gắn bó với câu lạc bộ đối tác Recreativo de Huelva. Sau khi trở thành cầu thủ nổi bật của đội trong mùa giải vô địch Tây Ban Nha 2006–07, góp công đưa đội cán đích trong top 10 và giật giải Cầu thủ Tây Ban Nha của năm, Cazorla trở lại Villarreal với mức phí 1,2 triệu euro ở mùa bóng kế tiếp. Kế đó anh khẳng định chỗ đứng là một nhân tố quan trọng của đội, thường xuyên có tên trong Đội hình tiêu biểu của giải vô địch Tây Ban Nha. Năm 2011, sau 5 mùa giải ở bờ biển Tây Ban Nha, Cazorla chuyển tới đầu quân cho câu lạc bộ Málaga của giải vô địch Tây Ban Nha với mức phí kỷ lục của đội là 21 triệu euro, ở nơi đây anh nổi danh với tốc độ, những cú sút chuẩn xác, khả năng thay đổi nhịp độ lối chơi và giữ bóng tuyệt vời. Sau mùa giải 2011–12, do tình hình tài chính ngặt nghèo của Málaga, anh chuyển tới thi đấu cho câu lạc bộ Arsenal của giải Ngoại hạng Anh với mức phí 10 triệu euro; ở nơi đây anh trở thành nhân tố chủ chốt trong đội hình ở năm đầu tiên của mình tại câu lạc bộ (ghi tới 13 kiến tạo), rồi được bầu chọn là Cầu thủ hay nhất mùa của Arsenal, cũng như được liệt là một trong những cầu thủ bóng đá hay nhất tại châu Âu bởi Bloomberg. Cazorla là nhân tố không thể thiếu trong hành trình chấm dứt 9 năm khát danh hiệu của Pháo thủ, anh ghi một bàn thắng sút phạt quan trọng để đoạt Cúp FA vào năm 2014. Anh dính nhiều chấn thương trong những năm cuối ở Anh, và 6 năm gắn bó với Arsenal của Carzola khép lại vào năm 2018. Tiếp đó anh trở về Villarreal lần thứ ba; trong hai mùa giải đầu tiên, anh lập kỷ lục nhiều trận ra sân nhất, nhiều bàn thắng nhất và kiến tạo nhất cho đội kể từ năm 2015. Năm 2020, anh ký hợp đồng gia nhập câu lạc bộ Al Sadd của Qatar. Cazorla có trận ra mắt tuyển quốc gia Tây Ban Nha trong trận thắng trước Peru vào tháng 5 năm 2008, và luân phiên đá chính trong các chiến dịch chinh phục giải vô địch châu Âu năm 2008 và 2012, cũng như chơi bóng tại giải vô địch thế giới 2014. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong trận giao hữu gặp Chile, rồi sau cùng có được 81 lần ra sân cùng 15 bàn thắng cho đội bóng xứ đấu bò. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ. Villarreal. Chào đời tại Llanera, Asturias, Cazorla bắt đầu nghiệp chơi bóng cho câu lạc bộ địa phương Real Oviedo, rồi được Villarreal chiêu mộ 6 tháng trước khi bước sang tuổi 18, do Oviedo gặp khủng hoảng tài chính trầm trọng, bị rớt hạng hai lần ở cuối mùa giải 2002–03 và thi đấu ở Tercera División. Tiếp đó, Cazorla chen chân vào đội dự bị, có màn ra mắt đội một vào ngày 30 tháng 11 năm 2003 trong chiến thắng 1–0 ở La Liga tại Deportivo de La Coruña, anh chơi một phút thay cho Roger, sau đấy có thêm một lần ra sân từ ghế dự bị trong mùa. Anh ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 3–0 tại Odense Boldklub ở UEFA Intertoto Cup hè năm sau, để rồi "Tàu ngầm vàng" giành chức vô địch giải đấu. Chiếm suất đá chính trong chiến dịch mùa 2004–05, Cazorla ghi 4 bàn để đoạt vé cho đội lọt vào bán kết của Cúp UEFA mùa giải ấy. Ngày 1 tháng 5 năm 2005, anh nắm lấy cơ hội do Juan Román Riquelme dính án treo giò và ghi bàn thắng đầu tiên ở giải quốc gia trong chiến thắng 4–0 trước Getafe tại El Madrigal, rồi một tuần sau anh tiếp tục lập công trong chiến thắng 2–0 tại Málaga. Sau khi góp công giúp "Tàu ngầm vàng" cán đích ở vị trí số 4 chung cuộc, anh còn có hai lần ra không bàn thắng tại UEFA Champions League mùa giải sau mà Villarreal lọt vào bán kết. Recreativo. Ngày 7 tháng 7 năm 2006, đội bóng mới thăng hạng Recreativo de Huelva ký hợp đồng với Cazorla bằng mức phí 600.000 euro trong một bản hợp đồng dài 4 năm, kèm điều khoản cho phép anh có thể trở lại Villarreal (với giá 1,2 triệu euro), anh tiếp tục ghi bàn trong trận ra mắt chính thức trong chiến thắng 1–1 trên sân nhà của đội trước Mallorca vào ngày 27 tháng 8. Ngày 22 tháng 4 năm sau, anh dành tặng một bàn thắng cho cha mình José Manuel, vừa mới qua đời, trong trận thắng 4–2 trên sân nhà trước Racing de Santander; ở vòng đấu áp chót vào ngày 10 tháng 6, anh lập cú đúp trong chiến thắng 5–2 taị Deportivo de La Coruña. Màn trình diễn của anh đã giúp đội bóng vùng Andalusia cán đích ở vị trí thứ 8, đồng thời được vinh danh là Cầu thủ Tây Ban Nha hay nhất năm theo "Don Balón" (một thành viên của European Sports Magazines) với vị trí số một trong danh sách đánh giá. Trở lại Villarreal. Một năm sau, Villarreal kích hoạt điều khoản trong hợp đồng của Cazorla và đem anh trở lại vì đội tin rằng anh đã tự chứng tỏ được bản thân. Ở mùa giải đầu tiên trong lần gắn bó thứ hai, anh là nhân tố trong đội hình giành ngôi á quân chung cuộc của Villarreal, đóng góp những đường kiến tạo cho Nihat Kahveci và Giuseppe Rossi lập công, đồng thời kiếm về 5 bàn thắng cho riêng anh. Ngày 26 tháng 8 năm 2008, Cazorla thông báo rằng Real Madrid đang quan tâm chiêu mộ anh. Rồi anh gây xôn xao trênn phương tiện truyền thông khi từ chối đội bóng Hoàng gia bằng phát ngôn: "Có nhiều thứ khác trong bóng đá ngoài Real Madrid. Rõ ràng là tôi có thể nói 'không' với họ, họ chắc chắn là một đội bóng tuyệt vời, nhưng tôi cũng cảm thấy rất hài lòng và hãnh diện ở câu lạc bộ của mình." Anh chia sẻ thêm: "Tôi hi vọng có thể tiếp tục trưởng thành tại Villarreal vì tôi còn trẻ, và tôi chỉ mới bước đầu thi đấu cho tuyển quốc gia." Trong trận đấu ở giải quốc gia chạm trán Almería vào đầu tháng 4 năm 2009, Cazorla dính chấn thương ở xương mác bên phải sau một pha va chạm với hai cầu thủ đối thương. Anh bỏ lỡ nhiều trận đấu song "el Submarino Amarillo" vẫn đoạt vé dự đấu trường Europa League, do cầu thủ này trở lại sân sớm hơi dự kiến trong trận chung kết của đội, chiến thắng 3–2 tại Mallorca và kết thúc mùa giải với 8 bàn thắng. Cazorla vật lộn với chấn thương trong mùa giải 2009–10, tiếp tục lỡ cơ hội dự giải vô địch bóng đá thế giới 2010. Anh trở lại trạng thái thể lực tốt nhất trong mùa bóng kế tiếp, chỉ lỡ một trận và ghi 5 bàn, đưa Villarreal cán đích ở vị trí thứ 4 và giành quyền dự Champions League. Málaga. Ngày 26 tháng 7 năm 2011, Cazorla rời Villarreal và trở lại xứ Andalusia để đầu quân cho câu lạc bộ Málaga với mức phí 21 triệu euro. Anh ghi bàn trong trận ra mắt chính thức vào ngày 28 tháng 8, lập công từ một cú đá phạt trực tiếp trong trận thua sân khách 1–2 trước đội láng giềng Sevilla. Ngày 12 tháng 9, anh lập cú đúp bàn thắng và kiến tạo một bàn trong một trận derby địa phương khác, chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Granada, 9 hôm sau anh ghi bàn thứ 4 sau chỉ 4 trận (một lần nữa từ chấm đá phạt) trong trận thắng 1–0 trên sân nhà trước Athletic Bilbao. Ngày 18 tháng 3 năm 2012, Cazorla ghi bàn ở chấm đá phạt vào phút bù giờ trong trận hòa 1–1 trên sân khách trước Real Madrid, kết thúc mùa giải ở vị trí số hai trong danh sách chân sút ghi nhiều bàn nhất của đội (chỉ sau Salomón Rondón), giúp Málaga cán đích ở vị trí thứ 4 và đoạt vé dự Champions League lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ. Arsenal. Ngày 7 tháng 8 năm 2012, Cazorla được xác nhận đã chính thức ký một bản hợp đồng dài hạn với câu lạc bộ Arsenal của giải Ngoại hạng Anh kèm mức phí 10 triệu bảng Anh. Anh trở thành bản hợp đồng lớn thứ ba của Arsène Wenger trong mùa hè sau khi chân sút tấn công người Đức Lukas Podolski và tiền đạo người Pháp Olivier Giroud cập bến đội. Cazorla đã giành giải cầu thủ hay nhất trận anh ra mắt câu lạc bộ đối đầu với Sunderland. Anh ghi bàn đầu tiên cho Arsenal trong trận thắng 2–0 trước Liverpool ở Anfield và ghi cú hat-trick đầu tiên cho câu lạc bộ vào lưới Reading, màn trình diễn ấy đã đem về cho anh thêm một giải thưởng cầu thủ hay nhất trận nữa. Mặc cho khởi đầu thành công ở đội bóng mới, Cazorla bị vướng vào tranh cãi trong trận đấu gặp West Bromwich Albion, khi anh kiếm về một quả phạt đền sau khi dường như bị Steven Reid đốn ngã, nâng tỉ số lên 1–0 và kết quả chung cuộc là trận thắng 2–0 trên sân nhà. Tuy nhiên, những đoạn phát lại tình huống trên truyền hình lại cho thấy không hề có tác động giữa Reid và Cazorla; làm cho Wenger đưa ra lời xin lỗi vì Cazorla được hưởng một quả phạt đền và cho biết cầu thủ người Tây Ban Nha có thể đối mặt với án kỷ luật vì ngã vờ xuống đất; vị huấn luyện viên còn tiết lộ Carzola đã nói với ông rằng anh "bị va chạm, mất thăng bằng." Ngày 14 tháng 5 năm 2013, Cazorla kiến tạo cả 4 bàn thắng của Arsenal trong trận thắng 4–1 quan trọng Wigan Athletic, làm đối thủ rớt hạng và đảm bảo vị trí thứ 4 cho Pháo thủ để giành quyền dự Champions League. Cazorla kết thúc mùa giải đầu tiên tại Anh một cách xuất sắc, là cầu thủ Arsenal duy nhất chơi toàn bộ 38 trận ở Ngoại hạng Anh, và vào ngày 31 tháng 5 năm 2013, anh được vinh danh là Cầu thủ hay nhất mùa 2012–13 của Arsenal. Anh khép lại mùa giải đầu tiên tại Arsenal với 12 bàn thắng và 14 kiến tạo sau 49 trận ra sân. "Tôi nghĩ anh ấy là một cầu thủ bị đánh giá thấp quá đà một chút ở giải Ngoại hạng Anh," Wenger chia sẻ với Arsenal. "Khi bạn nghĩ anh ta không có trong đội hình tiêu biểu mùa giải của [PFA] do các cầu thủ lựa chọn, điều đó khá khắc nghiệt. Cá nhân tôi sẽ đưa anh ấy vào đội hình đó." Cazorla trở lại tập huấn tiền mùa giải muộn ít tuần hơn thường lệ do bận tham gia Cúp Liên đoàn các châu lục cùng tuyển Tây Ban Nha. Anh khởi động từ ghế dự bị trong trận gặp Aston Villa, song được đưa vào sân ở giữa hiệp sau chấn thương của Alex Oxlade-Chamberlain. Anh thi đấu mọi phút trong các trận của Arsenal sau đó và đóng vai trò quan trọng trong chuỗi ba chiến thắng liên tiếp của đội ở đầu mùa bóng. Chân sút Tây Ban Nha dính chấn thương mắt cá vào tháng 9 trước trận gặp Sunderland, làm anh phải ngồi ngoài đến hết tháng ấy. Ngày 30 tháng 11 năm 2013, Cazorla có trận đấu thứ 300 trong sự nghiệp ở giải đấu hàng đầu, khi anh đá chính cho Arsenal trong trận thắng 3–0 trước Cardiff City. Cazorla thể hiện những màn trình diễn chói sáng vào tháng 1. Anh góp công giúp Arsenal chiến thắng Tottenham trên sân nhà trước khi ghi một cú đúp trong trận thắng khác trên sân nhà trước đối thủ Fulham. Những bàn thắng tiếp tục tìm đến cầu thủ 29 tuổi với những pha lập công vào lưới Coventry City và Southampton. Cazorla đá mọi phút trong 7 trận đấu của Arsenal vào tháng 3 và cam kết tương lai lâu dài với Pháo thủ bằng việc đặt bút ký một bản hợp đồng mới. Cazorla ghi bàn thắng quyết định trên chấm luân lưu vào lưới Wigan để đưa Arsenal tới trận chung kết của Cúp FA tại sân vận động Wembley. Chân sút người Tây Ban Nha cũng có thêm một pha kiến tạo nữa khi quả phạt góc của anh tạo điều kiện cho Giroud đánh đầu vào lưới West Brom và ghi bàn thắng đầu tiên của Arsenal – một quả đá phạt trực tiếp – trong thế bị dẫn trước 2–0 để hạ Hull City 3–2 chung cuộc trong trận chung kết Cúp FA 2014, qua đó giành cúp bạc đầu tiên cùng câu lạc bộ. Anh kết thúc chiến dịch với 7 bàn thắng và 47 trận đá ở mọi đấu trường. Cazorla bắt đầu chiến dịch mùa 2014–15 với một bàn thắng nữa ở sân Wembley, anh ghi bàn mở điểm cho Arsenal trước Manchester City trong trận Siêu cúp Anh 2014. Ngày 30 tháng 5 năm 2015, Cazorla được lựa chọn đá chính tại Chung kết Cúp FA 2015, anh chơi trọn 90 phút và được bầu là cầu thủ hay nhất trong trận thắng 4–0 trước Aston Villa tại Wembley. Anh kết thúc mùa giải Ngoại hạng Anh với 11 bàn thắng, cao thứ hai giải đấu (sau tiền vệ Cesc Fàbregas của Chelsea) và 7 bàn thắng. Cazorla bắt đầu mùa giải 2015–16 thật mạnh mẽ, đá mọi trận đấu cho Arsenal từ đầu chiến dịch, những phân tích cho thấy anh là chân chuyền chính xác và bận rộn nhất giải. Tuy nhiên vào ngày 30 tháng 11 năm 2015, anh dính chấn thương đầu gối trong trận đấu với Norwich City và ngồi ngoài ít nhất 3 tháng. Thực tế, anh vắng mặt cho tới trận đấu cuối mùa vào ngày 15 tháng 5 năm 2016, khi Cazorla được bầu là cầu thủ hay nhất trận thắng 4–0 trước đối thủ đã xuống hạng Aston Villa, đảm bảo vị trí á quân cho Pháo thủ. Trở lại Villarreal lần thứ hai. Sau khi rời Arsenal, Cazorla dành thời gian ngắn tập cùng đội trẻ tại Alavés. Tiếp đó anh trở về câu lạc bộ cũ Villarreal để tập luyện cùng họ trong phần còn lại của giai đoạn tiền mùa giải và chứng tỏ thể chất của mình. Anh đá trận đầu tiên sau 636 ngày khi xuất hiện trong một trận giao hữu với Hércules. Anh vào sân từ ghế dự bị ở phút thứ 57 và nhận được sự chào đón nồng nhiệt. Ngày 9 tháng 8 năm 2018, bản hợp đồng của anh chính thức được câu lạc bộ thông báo. Cazorla ghi bàn thứ hai cho đội trong trận hủy diệt Real Betis 5–1 vào ngày 27 tháng 9 năm 2019. Với bàn thắng này, anh trở thành tiền vệ ghi nhiều bàn nhất trong lịch sử Villarreal với 46 bàn thắng (kỷ lục cũ từng thuộc về Juan Román Riquelme). Anh kết thúc mùa bóng với 10 kiến tạo, cao thứ ba tại giải đấu. Ngày 19 tháng 7 năm 2020, Cazorla có trận cuối đá cho Villarreal, trong trận thắng 4–0 trước Eibar. Trước khi lên ghế dự bị ở phút thứ 82 của trận đấu, anh kiến tạo bàn mở tỉ số của André-Frank Zambo Anguissa. Anh khép lại mùa giải với 11 bàn thắng (cao đồng hạng 10) và 9 kiến tạo (cao thứ ba) tại giải. Cazorla được các đồng đội và đối thủ xếp hàng theo hình thức bảo vệ danh dự khi anh có mặt trên đường pitch. Al Sadd. Ngày 20 tháng 7 năm 2020, Al Sadd xác nhận rằng Cazorla đã gia nhập câu lạc bộ dưới sự dẫn dắt của đồng đội cũ Xavi. Ngày 30 tháng 8, Cazorla ghi bàn trong trận ra mắt, trận bán kết Qatari Stars Cup thắng đối thủ Al Ahli. 4 hôm sau, anh ghi một cú đúp trong một trận đấu ở giải vô địch Qatar 2020–21 vào lưới Al-Kharaitiyat. Sự nghiệp cấp đội tuyển. Cazorla bắt đầu sự nghiệp thi đấu tuyển ở màu áo U-21 Tây Ban Nha, dưới quyền huấn luyện viên Iñaki Sáez. Anh được gọi lên chuẩn bị cho trận play-off gặp Ý để tranh vé dự Thế vận hội Mùa hè 2004, anh chơi trận lượt đi khép lại với tỉ số 0–1 (bàn thắng thắng duy nhất ghi ở phút thứ 77 bởi Javier Arizmendi), song bỏ lỡ trận lượt về, và đội cuối cùng không giành được vé dự giải. Mặc cho thành công tại câu lạc bộ, Cazorla đã chật vật tìm suất đá chính thường xuyên cho Tây Ban Nha trong giai đoạn hoàng kim và cực thịnh của họ dưới triều đại của Vicente del Bosque. Ngày 17 tháng 5 năm 2008, huấn luyện viên tuyển quốc gia Luis Aragonés làm báo chí Tây Ban Nha bất ngờ khi triệu tập Cazorla và Sergio García chưa từng ra sân vào đội hình dự giải vô địch bóng đá châu Âu 2008, thay vì những tiền vệ cánh thành danh như Joaquín và Albert Riera. Giải thích về quyết định này, Aragonés phát biểu: "Họ [Cazorla và García] là những cầu thủ thể hiện rất tốt và có tiềm năng tỏa sáng. Tự tôi quyết định giữa Riera và Cazorla để xem xét phong độ của từng cầu thủ." Ngày 31 tháng 5 năm 2008, sau màn ra mắt ở trận thắng 2–1 giao hữu trước Peru, Cazorla ngồi ghế dự bị trong các trận đấu vòng bảng của Euro trước Nga, Thụy Điển và Hy Lạp, đồng thời vào sân thay người ở trận tứ kết gặp Ý, anh thực hiện quả phạt đền trong loạt sút luân lưu, kết quả chung cuộc là chiến thắng cho Tây Ban Nha. Trong trận chung kết, anh thi đấu 25 phút cuối thay David Silva, khi Tây Ban Nha đánh bại Đức 1–0 và giúp tuyển giành chức vô địch lớn đầu tiên của họ sau 44 năm. Cazorla được điền tên vào đội hình sơ bộ 30 tuyển thủ Tây Ban Nha dự giải vô địch bóng đá thế giới 2014, và cũng nằm trong danh sách cuối để dự giải. Ngày 19 tháng 6, anh có màn ra mắt giải đấu khi vào sân ở 14 phút cuối thay thế Pedro trong trận gặp Chile tại sân vận động Maracanã ở trận thứ hai của vòng bảng. Tây Ban Nha để thua 2–0 và bị loại. Anh đá chính trong trận đấu thứ ba theo dạng thủ tục, chiến thắng trước Úc. Ngày 9 tháng 10 năm 2015, Cazorla ghi hai bàn trong trận thắng 4–0 trước Luxembourg tại sân Estadio Las Gaunas ở Logroño, kết quả là đưa Tây Ban Nha dự Euro 2016. Anh thi đấu và ghi bàn trong trận thắng giao hữu trước tuyển Anh sau đó một tháng, nhưng không được lựa chọn vào đội hình dự Euro 2016 vì vừa trở lại sau chấn thương, và không lên tuyển vào năm 2016 hay 2017 do những vấn đề chấn thương dài hạn. Sau khi trải qua các vấn đề chấn thương và trở lại thi đấu thường xuyên ở Villarreal, vào tháng 5 năm 2019, Cazorla được gọi lại lên tuyển Tây Ban Nha để chuẩn bị cho các trận vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020. Ngày 7 tháng 6, anh có trận đá đầu tiên cho Tây Ban Nha kể từ tháng 11 năm 2015 (tức dài 1302 ngày), khi đá chính trong trận thắng 4–1 ở vòng loại trước Quần đảo Faroe. Đây cũng là một dấu mốc cho Cazorla khi anh đeo băng đội trưởng tuyển quốc gia lần đầu tiên ở hiệp hai của trận đấu, sau khi thay thế thủ quân thường xuyên của đội là Sergio Ramos. Đời tư. Cazorla nuôi ba chú chó, một trong số chúng có tên là Zlatan đặt theo cầu thủ bóng đá người Thụy Điển. Anh có một cậu con trai tên Enzo và một con gái tên India; tên của chúng được anh xăm trên cánh tay, Cazorla sẽ hôn lên hình xăm sau khi ghi bàn, mặc dù mẫu thiết kế trên cánh tai trái đã bị hủy vào năm 2017 khi da cần được dùng ghép lên gót chân phải bị nhiễm trùng của anh. Thần tượng bóng thuở nhỏ của Cazorla là danh thủ bóng đá người Đan Mạch Michael Laudrup. Tháng 11 năm 2012, cùng với hai ngôi sao đồng hương Michu và Juan Mata ở giải Ngoại hạng Anh, anh đã mua cổ phần ở câu lạc bộ cũ Oviedo khi họ chật vật huy động 2 triệu euro để trụ hạng ở giải hạng ba của Tây Ban Nha. Danh hiệu. Câu lạc bộ. Villarreal Arsenal Al Sadd Đội tuyển. Tây Ban Nha
1
null
Bloch MB.130 và các loại máy bay phát triển từ nó là một loạt máy bay ném bom/trinh sát của Pháp, phát triển trong thập niên 1930. Chúng tham chiến rất hạn chế khi Chiến tranh thế giới II nổ ra nhưng đã lỗi thời và nhanh chóng bị không quân Đức đánh bại. Sau sự sụp đổ của Pháp, vài chiếc bị quân Đức tịch thu và sử dụng. Tính năng kỹ chiến thuật (MB.131RB.4). War Planes of the Second World War: Volume Seven Bombers and Reconnaissance Aircraft
1
null
Bloch MB.170 và các loại máy bay phát triển từ nó là một loại máy bay ném bom/trinh sát của Pháp. Nó được thiết kế và chế tạo ngay trước Chiến tranh thế giới II. Cho tới đầu chiến tranh thế giới II thì chúng là những máy bay tốt nhất thuộc kiểu này của "Armée de l'Air" (không quân Pháp).
1
null
Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang của Hoa Kỳ, ngoài việc là một hệ thống gồm các xa lộ cao tốc, cũng gồm có một số xa lộ thương mại do Hiệp hội Quan chức Giao thông và Xa lộ Tiểu bang Mỹ đặt ra. Các xa lộ này được biểu thị bằng biển dấu là cái khiên màu xanh lá tương tự như biển dấu cái khiên của xa lộ liên tiểu bang. Từ (có nghĩa Thương mại) được dùng thay vì chữ (có nghĩa Liên Tiểu Bang). Bên trên mã số, nơi đôi khi có tên của tiểu bang, có xuất hiện chữ (có nghĩa XA LỘ VÒNG/VÀNH ĐAI) hay (có nghĩa XA LỘ NHÁNH NGẮN). Một xa lộ vòng thương mại có cả hai đầu kết nối vào "xa lộ mẹ" của nó trong khi xa lộ nhánh ngắn thương mại có một điểm đầu không kết nối, đôi khi chạy từ điểm kết nối với xa lộ mẹ và kết thúc tại khu vực phố chính của một thành phố. Vì mục đích chính của một xa lộ thương mại liên tiểu bang là phục vụ một khu vực phố chính nên nó thường có lộ trình trên các đường lộ thông thường. Như thế xa lộ thương mại liên tiểu bang không hội đủ chuẩn mực xa lộ liên tiểu bang. Tuy nhiên AASHTO có áp đặt các chuẩn mực tương tự như đối với các Quốc lộ Hoa Kỳ mới xây là đòi hỏi một xa lộ thương mại liên tiểu bang phải hội đủ một số chuẩn mực thiết kế nào đó. Các xa lộ thương mại liên tiểu bang đôi khi cũng có lộ trình trên các xa lộ cao tốc mà trước đây từng được ấn định là các xa lộ liên tiểu bang dòng chính (thí dụ như Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 40 tại Winston-Salem, North Carolina và Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 80 tại Sacramento, California). Không như các xa lộ liên tiểu bang nhánh ngắn 3-chữ số, xa lộ thương mại liên tiểu bang có thể trùng mã số tại cùng tiểu bang. Danh sách các xa lộ thương mại. † Xa lộ vành đai Thương mại I-40 của Glenrio, Texas thật sự là một xa lộ nhánh ngắn (tại ranh giới tiểu bang New Mexico, nó trở thành một đường lộ nông thôn nhưng được cắm biển là 1 xa lộ vành đai thương mại. ¹ Xa lộ vành đai Phố chính I-24 tại Paducah, Kentucky được đổi thành Xa lộ vành đai Thương mại I-24 vào năm 2002.
1
null
MB.200 là một loại máy bay ném bom của Pháp trong thập niên 1930, được thiết kế và phát triển bởi hãng Societé des Avions Marcel Bloch. Trên 200 chiếc MB.200 đã được chế tạo cho không quân Pháp, ngoài ra nó được cấp giấy phép để sản xuất tại Tiệp Khắc, nhưng nó sớm trở nên lỗi thời và phần lớn đã bị thải loại ngay khi Chiến tranh thế giới II nổ ra.
1
null
Byzantium là tên một màu. Nó là sắc đậm hơn của màu tía. Thông tin về nó được miêu tả trong khung bên phải. Cách dùng từ "byzantium" với tư cách là tên một màu trong tiếng Anh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1926. Nguồn về màu này ở tại: ISCC-NBS Dictionary of Color Names (1955)--Color Sample of Byzantium (color sample #238): . Các dạng màu byzantium. Byzantine. Thông tin về màu byzantine được thể hiện ở bảng bên phải. Màu byzantine là tông màu đậm hơn của màu tím trung bình thiên về màu đỏ tươi. Cách dùng từ "byzantine" với tư cách là tên một màu trong tiếng Anh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1924. Đế quốc. Thông tin về màu đế quốc được thể hiện ở bảng bên phải. Cách dùng từ "đế quốc" với tư cách là tên một màu trong tiếng Anh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1926. Nguồn về màu này ở tại: ISCC-NBS Dictionary of Color Names (1955)--Color Sample of Imperial (color sample #219): . Byzantium đậm. Thông tin về màu byzantium đậm được thể hiện ở bảng bên phải. Màu byzantium đậm chính là tông màu tối của màu byzantium ghi trên danh sách ISCC-NBS ở trang sau: ISCC-NBS Dictionary of Color Names (1955)--Color Sample of Byzantium (color sample #242): .
1
null
Bristol Beaufort (tên định danh công ty Type 152) là một loại máy bay ném bom thả ngư lôi hai động cơ của Anh, do hãng Bristol Aeroplane Company thiết kế chế tạo dựa trên những kinh nghiệm thu được từ loại máy bay ném bom Blenheim trước đó. Tính năng kỹ chiến thuật (Beaufort I). "Beaufort Special"
1
null
Tập chuyển hóa là tập hợp hoàn chỉnh của các chất chuyển hóa tiểu phân tử (như các chất trung gian chuyển hóa, các hormone và các phân tử tín hiệu khác, và các chất chuyển hóa thứ phát) được tìm thấy trong một mẫu vật sinh học, ví dụ như một cơ quan riêng biệt. Giống như tập phiên mã và tập protein, tập chuyển hóa luôn luôn biến động, thay đổi theo từng giây. Mặc dù tập chuyển hóa có thể được xác định một cách nhanh chóng, hiện nay chưa có một phương pháp phân tích đơn thuần nào có thể phân tích được toàn bộ các chất chuyển hóa có mặt (xem trao đổi chất học). Tháng 1 năm 2007, các nhà khoa học tại Đại học Alberta và Đại học Calgary đã hoàn thành một bản phác thảo tập chuyển hóa ở người. Họ đã mô tả và phân loại 2.500 chất chuyển hóa, 1.200 chất thuốc và 3.500 thành phần thức ăn có thể được tìm thấy trong cơ thể người.
1
null
Matthêu Lê Văn Gẫm là một vị thánh Công giáo. Bối cảnh lịch sử. Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Đông Đàng Trong gồm các tỉnh miền Trung Việt Nam, và giáo phận Tây Đàng Trong gồm các tỉnh Miền Nam Việt Nam và lãnh thổ Campuchia có Giám mục là Lefèbvre (tên Việt là Nghĩa, khi đó đã bị triều đình Huế trục xuất và ông tạm lánh sang Singapore). Hàng giáo sĩ giáo phận Tây Đàng Trong muốn đưa Giám mục Lefèbvre Nghĩa về lại giáo phận. Tiểu sử. Lê Văn Gẫm tên thật là Lê Văn Bôi sinh năm 1813 (thời vua Gia Long) tại họ đạo Tắt ở làng Long Đại, tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa (nay thuộc phường Long Phước, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh). Ông sinh ra trong một gia đình theo đạo Công giáo, cha là ông Phaolô Lê Văn Lại và mẹ là bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm; ông là anh cả của năm anh em trai và một em gái út. Năm 15 tuổi, Gẫm xin phép cha mẹ để gia nhập chủng viện Lái Thiêu để tu học làm linh mục. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, Gẫm phải về lại nhà để phụ giúp gia đình. Năm 20 tuổi, Gẫm kết hôn với một thiếu nữ thuộc họ đạo Thành ở làng Long Điền, tổng An Phú Thượng, huyện Phước An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Từ đây, Gẫm bắt đầu làm thương gia bôn ba đó đây. Một lần, Gẫm ngoại tình với một thiếu nữ, nhưng rồi ông đã cương quyết từ bỏ mối tình trái đạo lý ấy. Để chuộc tội, ông yêu vợ nhiều hơn và chú tâm vào việc giáo dục các con, nhất là về đời sống đạo đức. Trong bốn người con của ông thì ngoài con trưởng và con út qua đời vì bệnh thì các con còn lại đều chết vì đức tin Công giáo. Sự nghiệp của ông khá tốt, ông còn quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, chủng sinh Công giáo về vật chất và phương tiện để đi đó đây truyền giáo, học tập khiến cho các quan địa phương theo dõi ông rất sát sao. Năm 1846, vì ông có thuyền riêng nên một linh mục tên Lợi nhờ qua Singapore đón Giám mục Đa Minh Lefèbvre Nghĩa, linh mục Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Ngày 6 tháng 6, ông Gẫm mới vào đến cửa biển Cần Giờ nhưng vì lỡ hẹn với người đón nên ông phải chờ thêm hai ngày mới đi sâu vào Sài Gòn. Bị thuyền tuần tiễu của quan phát hiện và truy bắt, ông Gẫm kêu gọi những người trên thuyền hợp lực chống trả, nhưng Giám mục Nghĩa không đồng ý vì cho rằng làm vậy là trái với tinh thần bác ái của Kitô giáo. Ngày 8 tháng 6 năm 1846, quân lính áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Giám mục Nghĩa và linh mục Lộ bị giam ở Công Quán. Giám mục Nghĩa bị giải ra kinh đô Phú Xuân và bị trục xuất về Singapore, linh mục Lộ qua đời trong tù ngày 17 tháng 7 năm 1846. Riêng ông Gẫm vì tự nhận là người tổ chức chuyến đi nên bị biệt giam ở Sài Gòn. Ngày 11 tháng 5 năm 1847, ông Lê Văn Gẫm bị đưa ra pháp trường Da Còm, là tên một cây đa xứ Chợ Quán (ngày nay là giáo xứ Chợ Đũi), tín hữu và lương dân đến xem rất đông. Sau khi bị xử chém đầu, các người em của ông đến ráp và khâu đầu ông lại với thân mình, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ đạo Chợ Quán. Ngày 27 tháng 5 năm 1900, Giáo hoàng Lêô XIII phong cho ông Mátthêu Lê Văn Gẫm lên bậc chân phước. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong ông lên bậc hiển thánh. Gia đình. Bà Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan, tức Nam Phương hoàng hậu vợ của vua Bảo Đại là cháu 4 đời của Mẹ Thánh Gẫm. Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt, từng là một Sứ thần Tòa Thánh, cũng là cháu 7 đời của Thánh Gẫm.
1
null
Rakion là một game hành động cho phép bạn kết nối trong thời gian thực, do công ty Softnyx sản xuất (cũng là nhà sản xuất của Gunbound) trò chơi có cấu hình mang lịch sử châu âu với đồ họa 3D rất bắt mắt. Cách chơi. người chơi sẽ điều khiển nhân vật chính của mình sử dụng các chiêu thức combo có sẵn để hạ triệt đối phương. Như trong các trò chơi theo lượt, người chơi sẽ được gia tăng sức mạnh nhân vật của mình bằng cách tăng chỉ số tiềm năng cho nhân vật khi đạt đến một cấp độ nhất định. và sức mạnh cho các chiêu thức của nhân vật cũng nhờ tiềm năng tăng khả năng như thao tác nhanh (animation), sức tấn công cao hơn (damage). Người chơi cũng có thể sở hữu các chiến thú trong hệ thống pet. chiến thú có thể sử dụng trong PVP trừ khi phòng đó không cho phép. ngoài ra chế độ PVP người chơi còn có thể tạo phòng đi cảnh (nhiệm vụ) trong lúc khó khăn về mặt tấn công. người chơi có thể sử dụng chiến thú để trợ giúp tiêu diệt quái vật. Trường phái. Rakion phân 5 trường phái bao gồm. Swordsman,Archer,Mage,Ninja,Blacksmith Swordsman là một trong các nhân vật gây sát thương cao trong rakion. nó thuộc nhân vật có kỹ năng cân bằng nhất trong rakion, không giống như Blacksmith. Swordsman có thể gây sát thương cao về mặt cận chiến. nhưng sẽ không chậm hơn Blacksmith mặc dù sức sát thương bằng 2/3 của Blacksmith Archer là một nhân vật tốt nhất trong tấn công tầm xa. Nó có cây cung và một thanh kiếm nhỏ. Lợi thế nhân vật này là tính chính xác và tốc độ của mũi tên. vì vậy. Archer có thể dễ dàng chiến dấu với người chơi khác ở khoảng cách xa. Tuy nhiên, kỹ năng gây sát thương cao của Archer sử dụng kiếm sẽ là một điểm yếu bởi vì đã chiếm quá nhiều thời gian cử động sau khi sử dụng kỹ năng đó. nhưng, điều đó có thể phụ thuộc người chơi tăng điểm ưu tiên về mặt thủ hoặc tấn công. Mage là nhân vật trong giống búp bê và nhỏ nhất trong Rakion. không phải rất mạnh mẽ nhưng được nhanh nhẹn và khéo léo, có thể được HP bằng kỹ năng sau khi cuồng độ. Mage giữ lợi thế về sức tấn công và chính xác rất cao. nhưng bù lại lượng HP cho nhân vật này lại chiếm con số thấp nhất trong 5 nhân vật của rakion, Mage cũng có thể đóng băng kẻ thù phía trước hoặc sử dụng lốc xoáy đẩy kẻ thù ra xa vì vậy đối với game thủ chuyên nghiệp khi chơi Mage sẽ có nhiều lợi thế tốt cho nhóm về mặt cận chiến. Ninja có thể hạ ngục đối thủ bằng mốt số kỹ năng trong vài giây. Ninja thuộc nhân vật máu yếu và phòng thủ yếu, sức tấn công không cao. tốc độ phản ứng nhanh nhất trong các nhân vật rakion. Ninja sử dụng tốc độ của mình để phòng thủ vì nó có sức mạnh đặc biệt của việc sử dụng kỹ năng "lướt" làm cho nó không thể đánh được nếu bạn biết làm thế nào để sử dụng hoàn hảo. Blacksmith là nhân vật có mức độ HP và phòng thủ lẫn tấn công cao nhất trong Rakion. nhưng bù lại tốc độ phản ứng cũng chiếm thấp nhất trong các nhân vật. Blacksmith hay sử dũng kỹ năng gây sát thương cao. chỉ cần 1 hit có thể giảm tới 70% lượng máu của 1 mage, mặc dù Blacksmith cho là nhân vật sử dụng nhiều nhất trong Rakion nhưng về mặt trận chiến Blacksmith mất lợi thế với tốc độ cũng là một nguyên dân khiến nhân vật này it ai quan tâm trong thế giới Rakion. Tham khảo. + Một dạng game RPG rất hay và đáng thử nghiệm
1
null
Xa lộ thương mại (tiếng Anh: "business route") tại Hoa Kỳ và Canada là một loại đường giao thông đặc biệt và ngắn, đóng vai trò kết nối đến xa lộ "mẹ" mang số ngay từ điểm bắt đầu của nó rồi đi qua khu thương mại trung tâm của một thành phố hay thị trấn gần đó, và cuối cùng kết nối trở lại với cùng xa lộ mẹ mang số ở đầu kia của nó. Tên. Các xa lộ thương mại luôn luôn có cùng con số với xa lộ mà nó chạy song song. Thí dụ, Quốc lộ Thương mại Hoa Kỳ 1 là một xa lộ vòng ngoài và chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 1. Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 40 là xa lộ vòng ngoài và chạy song song với Xa lộ Liên tiểu bang 40. Tại một số tiểu bang của Hoa Kỳ, xa lộ thương mại được gắn thêm mẫu tự "B" sau con số thay vì đặt biểu dấu "Business" (thương mại) phía trên con số. Thí dụ, tiểu bang Arkansas cắm biển cho Quốc lộ Thương mại Hoa Kỳ 71 là "US 71B". Trên một số con dấu xa lộ và biển chỉ dẫn đường, từ "business" thường được viết tắt thành "BUS". Từ viết tắt này ít khi được dùng vì để tránh nhầm lẫn với các đường xe buýt (tiếng Anh viết là bus route). Biển dấu. Biển dấu xa lộ thương mại thì đa dạng, tùy thuộc vào loại xa lộ mẹ nào mà một xa lộ thương mại được sinh ra. Các xa lộ thương mại đi song song với các xa lộ tiểu bang và quốc lộ Hoa Kỳ thường thường có biển dấu giống hệt và hình dạng tổng thể gần giống như xa lộ mẹ mà chúng chạy song song. Một biển hình chủ nhật có chữ "BUSINESS" đặt bên trên biển dấu của nó. Để nhận dạng và phân biệt các loại xa lộ nhiệm ý/đặc biệt ("alternate route") với các xa lộ dòng chính mà chúng chạy song song, một số tiểu bang như Maryland bắt đầu sử dụng biển dấu màu xanh lá để chỉ xa lộ thương mại nằm ngoài quốc lộ Hoa Kỳ. Ngoài ra, Maryland cũng sử dụng biển dấu màu xanh lá để chỉ xa lộ thương mại nằm ngoài các xa lộ tiểu bang với chữ "BUSINESS" thay chỗ của chữ "MARYLAND" được dùng cho một xa lộ tiểu bang. Hệ thống Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang sử dụng biển thiết kế hình cái khiêng bốn cạnh tương tự như biển dấu của các xa lộ liên tiểu bang thông thường nhưng thay thế khuôn mẫu màu xanh dương và đỏ bằng màu toàn xanh lá. Chữ BUSINESS (thương mại) cũng xuất hiện trên đỉnh của biển dấu hình cái khiên thay cho chữ INTERSTATE (liên tiểu bang), và chữ LOOP (xa lộ vành đai/vòng) hay SPUR (xa lộ nhánh ngắn) có thể xuất hiện phía trên mã số. Trên các bản đồ, các xa lộ thương mại thường được biểu thị bằng dấu hiệu chuẩn bao gồm mã số xa lộ và từ viết tắt "BUS" (thí dụ như "BUS 81" bên trong biển dấu của một quốc lộ Hoa Kỳ có nghĩa là Quốc lộ Thương mại Hoa Kỳ 81). Đối với các xa lộ thương mại liên tiểu bang, chữ LOOP (xa lộ vành đai/vòng) hay chữ SPUR (xa lộ nhánh ngắn) có thể được thêm vào trong biển dấu (thí dụ như "LOOP 44" nằm bên trong biển dấu một xa lộ).
1
null
Nòng nọc là động vật lưỡng cư khi còn nhỏ thường sống dưới nước tuy nhiên có một số nòng nọc sống trên cạn. Nòng nọc thở bằng mang. Nó không tay hay chân cho đến khi trưởng thành và thường có vi trên lưng và một cái đuôi mà nó dùng để bơi như cá. Khi nó bắt đầu lớn lên, nó biến thái và mọc tứ chi, thường là bắt đầu bằng chân sau rồi đến chân trước. Đuôi bị mất đi do sự chết rụng tế bào. Phổi bắt đầu phát triển cùng lúc với chân và nòng nọc trong giai đoạn cuối cùng thường hay sống gần mặt nước để thở không khí. Sau cùng thì miệng của chúng biến thành rộng ra bằng chiêu ngang của đầu. Ruột non ngắn lại để thích hợp với nguồn thức ăn mới. Phần đông nòng nọc ăn rông rêu và cây cỏ. Một vài loại ăn tạp và có thể ăn cả những nòng nọc nhỏ hơn.
1
null
Trong lĩnh vực dược lý học và hóa sinh, một ‘’’tiểu phân tử’’’ là một hợp chất hữu cơ có khối lượng phân tử nhỏ, do đó theo định nghĩa nó không phải là một polyme. Đặc biệt trong lĩnh vực dược lý học, khái niệm tiểu phân tử thường chỉ giới hạn các phân tử có tính gắn kết cao với các polyme sinh học như protein, axit nucleic, hay polysaccharide và thay thế cho hoạt động hay chức năng của các polyme sinh học đó. Giới hạn khối lượng phân tử tối đa của một tiểu phân tử vào khoảng 800 Dalton, cho phép chúng có thể khếch tán nhanh chóng qua màng tế bào, giúp chúng đi vào trong tế bào và phát huy tác dụng. Đây còn là điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để một loại thuốc có hoạt tính sinh học khi dùng qua đường uống. Tiểu phân tử có thể có nhiều chức năng sinh học, như đóng vai trò làm phân tử tín hiệu tế bào, làm công cụ trong sinh học phân tử, làm thuốc, làm thuốc trừ sâu trong nông nghiệp v.v. Tiểu phân tử có thể có nguồn gốc tự nhiên (như các chất chuyển hóa thứ phát) hay nhân tạo (như các thuốc kháng virus). Chúng có thể có ích trong việc chữa các loại bệnh (như thuốc) hay có hại (như các chất gây ung thư hay các chất gây quái thai). Các polyme sinh học như protein, axit nucleic, hay polysaccharide (như tinh bột hay cellulose) thì không phải là các tiểu phân tử, mặc dù chúng lần lượt là cấu thành của các monome — amino acid, ribo- hoặc deoxyribonucleotide, và monosaccharide. Một số rất nhỏ các oligome cũng được xem là các tiểu phân tử, như các dinucleotide, các peptide như chất chống oxy hóa glutathione, và các disaccharide như sucrose. Thuốc. Phần lớn các thuốc đều là các tiểu phân tử, trừ một số loại thuốc là các protein như insulin. Nhiều loại protein bị phân giải khi được dùng qua đường uống và phần lớn thường không qua được màng tế bào. Các tiểu phân tử thì dễ được hấp thu hơn khi dùng qua đường uống, tuy nhiên cũng có một vài tiểu phân tử chỉ có thể được hấp thu khi được dùng ở dưới dạng tiền thuốc. Các tiểu phân tử thì có ưu thế hơn các ‘’đại phân tử’’ sinh học do chúng có thể dùng được qua đường uống. Nhiều loại thực phẩm bổ sung là các tiểu phân tử (trừ các chiết xuất thảo mộc, ví dụ như bạch quả). Chất chuyển hóa tiên phát và thứ phát. Đối với các loài sinh vật, để tạo nên các tiểu phân tử chúng cần một hoặc nhiều các enzym chuyên biệt, điều này ít phổ biến ở các động vật có xương sống, nhưng rất phổ biến ở các vi khuẩn sống dưới đất (như streptomyces) và các loại nấm, thường tiết ra các chất kháng sinh. Các loài thực vật cũng có nhiều các loại chất chuyển hóa thứ phát, đóng vai trò trong tín hiệu tế bào, làm sắc tố hay để bảo vệ, trong đó nhiều chất đã được dùng để làm thuốc (thuốc chữa bệnh và thuốc giải trí) như: Công cụ nghiên cứu. Các enzym và các thụ thể thường được hoạt hóa hay bị ức chế bởi protein nội sinh, nhưng cũng có thể bị ức chế bởi các chất ức chế tiểu phân tử nội sinh hay ngoại sinh, hoặc chất hoạt hóa mà có thể gắn được vào vùng hoạt động hoặc vùng dị lập thể. Một ví dụ như chất gây ung thư và gây quái thai phorbol 12-myristate 13-axetat vốn là một terpene thực vật kích hoạt protein kinase C gây ung thư, rất hữu ích khi làm công cụ nghiên cứu. Người ta cũng quan tâm đến việc tạo ra các tiểu phân tử làm yếu tố phiên mã nhân tạo để điều hòa sự biểu hiện gene.
1
null
Thuật ngữ (; ) có nghĩa là quý tộc, ban đầu dùng để chỉ một nhóm những gia đình giàu có trong xã hội La Mã cổ đại, bao gồm cả những thành viên dòng dõi lẫn những người được các gia đình này nhận làm con nuôi. Vào cuối thời đế quốc La Mã, tầng lớp này đã được mở rộng và bao gồm cả những viên chức hội đồng cao cấp. Sau khi đế quốc Đông La Mã sụp đổ, nó chỉ còn là một tước hiệu danh dự cao quý trong đế quốc Byzantine. Tầng lớp patricius thời Trung cổ lại một lần nữa chính thức được định nghĩa để chỉ những gia đình giàu trong số những "dân biểu thị xã" (burgess) tại nhiều thành bang của Italy thời Trung cổ, ví dụ như Venice và Genoa. Sau đó, "patrician" đã trở thành một thuật ngữ không chính thức chỉ tầng lớp quý tộc hoặc tầng lớp tư sản ở nhiều quốc gia.
1
null
Breda Ba.88 "Lince" (tiếng Ý: linh miêu) là một loại máy bay cường kích trang bị cho Regia Aeronautica (không quân Italy) trong Chiến tranh thế giới II. Thiết kế hợp lý và càng đáp thu vào được là các kỹ thuật tiên tiến vào thời điểm này, sau khi ra mắt năm 1937, Ba.88 đã thiết lập các kỷ lục tốc độ thế giới. Tuy nhiên, khi các thiết bị quân sự được lắp đặt trên các mẫu máy bay sản xuất, vấn đề về sự bất ổn đã xuất hiện và hiệu suất chung của máy bay đã giảm đi. Do vậy mà sự nghiệp của Ba.88 cũng rất ngắn ngủi, các khung thân còn lại của Ba.88 được dùng làm các mục tiêu giả trên sân bay để đánh lừa trinh sát đối phương. Có lẽ đây là sự thất bại đáng chú ý nhất của bất kỳ máy bay hoạt động trong Chiến tranh thế giới II.
1
null
Axit aspartic (viết tắt là Asp hoặc D) là một α-amino acid với công thức hóa học HOOCCH(NH2)CH2COOH. Anion carboxylat, muối, hoặc este của axit aspartic được gọi là aspartat. Đồng phân của axit aspartic là một trong 20 amino acid sinh protein. Codon của nó là GAU và GAC. Axit aspartic, cùng với axit glutamic, được xếp là loại amino acid có tính axit với pKa bằng 3,9. Axit aspartic khá phổ biến trong các quá trình sinh tổng hợp. Cũng như tất cả các amino acid khác, sự hiện diện của ion H+ của axit phụ thuộc vào môi trường hóa học xung quanh và pH của dung dịch. Phát hiện. Axit aspartic được Plisson phát hiện lần đầu vào năm 1827, dưới dạng dẫn xuất của nó là asparagin (được phát hiện vào năm 1806), khi đun sôi chiết xuất từ nước ép măng tây với một base. Đồng phân và danh pháp. Cụm từ "axit aspartic" chỉ một trong hai dạng của nó hoặc chỉ hỗn hợp của cả hai. Trong hai dạng này, chỉ có đồng phân "-axit aspartic" có nhiều vai trò trong tự nhiên, còn đồng phân "-axit aspartic" thì có vai trò sinh học ít hơn. Quá trình tổng hợp nhờ enzym sẽ cho một trong hai dạng, còn quá trình tổng hợp trong phòng thí nghiệm sẽ cho một hỗn hợp cả hai dạng, "-axit aspartic," được gọi là hỗn hợp racemic. Vai trò trong sinh tổng hợp các amino acid khác. Axit aspartic thì không thiết yếu ở các loài động vật có vú, do nó được tổng hợp từ oxaloacetat nhờ phản ứng chuyển amin. Nó cũng có thể được tạo ra từ ornithin và citrullin trong chu trình ure. Ở các loài thực vật và vi sinh vật, axit aspartic là tiền chất của nhiều amino acid, bao gồm bốn amino acid thiết yếu ở người là methionin, threonin, isoleucin, và lysin. Quá trình chuyển đổi từ axit aspartic thành các amino acid trên bắt đầu bởi sự khử axit aspartic thành"semialdehyd" tương ứng, O2CCH(NH2)CH2CHO. Asparagin là dẫn xuất của axit aspartic được tạo nên từ phản ứng amid hóa: Các vai trò sinh hóa khác. Aspartat cũng là một chất chuyển hóa trong chu trình ure và tham gia vào sự tân tạo đường. Nó tham gia vào kênh vận chuyển malate-aspartat trong ti thể. Aspartat cung cấp một nguyên tử nitơ trong phản ứng sinh tổng hợp của inosine, tiền chất của các base purine. Aspartic là chiếm khoảng 40% trong aspartam, một chất gây ra chứng đau đầu. Những cơn đau đầu có thể xảy ra ở những bệnh nhân có hàm lượng aspartic nhiều ở dạng aspartame. D-Aspartic axit (D-Asp) đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất testosteron trong tuyến tiền liệt của các con đực thuộc nhóm động vật có xương sống. Chất dẫn truyền thần kinh. Aspartat kích thích thụ thể NMDA, mặc dù không mạnh bằng chất dẫn truyền thần kinh glutamat. Nguồn thức ăn. Axit aspartic không phải là một amino acid thiết yếu, nghĩa là nó có thể được tổng hợp trong cơ thể qua các chất trung gian chuyển hóa trung tâm. Axit aspartic được tìm thấy trong: Tổng hợp nhân tạo. Hỗn hợp racemic của axit aspartic có thể được tổng hợp từ dietyl natri phthalimidomalonat, Na+(C6H4(CO)2NC-(CO2Et)2). Nhược điểm lớn của cách làm trên là hỗn hợp thu được gồn cả hai đồng phân của axit aspartic, trong khi cơ thể chỉ sử dụng được đồng phân L. Ngày nay nhờ công nghệ sinh học người ta đã có thể dùng các enzym cố định để tạo ra chỉ một trong hai loại đồng phân dựa trên tính chất quang học của chúng Axit aspartic được tổng hợp từ ammoni fumarate và aspartase từ "E.coli", "E.coli" thường bẻ gãy axit aspartic để làm nguồn nitơ nhưng khi lượng ammoni fumarate quá lớn, phản ứng ngược lại sẽ xảy ra, cho phép tổng được axit aspartic với năng suất cao, từ 98.7 mM đến 1 M.
1
null
Caproni Ca.135 là một loại máy bay ném bom hạng trung của Italy do Cesare Pallavicino thiết tại Bergamo. Nó bay lần đầu vào năm 1935, đưa vào trang bị của Không quân Peru năm 1937 và của "Regia Aeronautica" (không quân Italy) năm 1938. Tính năng kỹ chiến thuật (Ca.135 P.XI). Italian Civil & Military Aircraft 1930-1945
1
null
Dây gối tròn hay Nam xà đằng (danh pháp hai phần: Celastrus orbiculatus)là một loài thực vật thuộc họ Dây gối. Đây là một loại cây dây leo thân gỗ có nguồn gốc từ khu vực Đông Á thường được gọi là Nam xà đằng. Chúng được Carl Peter Thunberg mô tả khoa học đầu tiên năm 1784. Dây gối tròn được đưa vào Bắc Mỹ vào năm 1879, và được coi là một loài xâm lấn ở phía đông Bắc Mỹ. Nó gần giống với loài cây bản địa Bắc Mỹ, "Celastrus scandens", mà nó dễ dàng lai. Cây thường có đường kính 1 đến 4 cm. Khi Dây gối tròn mọc với nhau chúng tạo thành bụi, khi nó mọc gần một cây hoặc cây bụi, chúng là dây leo xoắn xung quanh thân cây. Dây leo dây gối tròn có thể bóp nghẹt cây chủ đến chết. Lá tròn và bóng, dài 2–12 cm, mép có răng cưa và so le dọc theo cây. Hoa nhỏ màu xanh lá cây tạo hạt màu đỏ riêng biệt. Các hạt được bọc trong vỏ màu vàng vỡ ra trong mùa thu. Tất cả các bộ phận của cây có độc.
1
null
Rắn taipan nội địa ("Oxyuranus microlepidotus") là loài bản địa Úc và được xem là loài rắn độc nhất trong tất cả các loài rắn trên cạn căn cứ số chỉ định LD50. Nó là một loài rắn thuộc họ Elapidae. Tuy là rắn độc, nhưng nó rất nhát và hay lẩn lút, luôn luôn tìm cách chạy trốn nếu có sự cố. Đặc biệt chúng có thể thay đổi màu sắc theo mùa. Cụ thể, vào mùa hè nó có màu xanh nhạt và mùa đông sẽ chuyển thành màu nâu sẫm. Việc thay đổi màu sắc này của rắn Taipan là để thích nghi với khí hậu khắc nghiệt tại nơi mà nó sinh sống. Sở dĩ da của chúng có thể đổi màu là do rắn Taipan thay đổi mức độ hấp thụ ánh sáng Mặt trời. và dài khoảng 1,8 m cho đến tối đa là 2,5 m Nó ăn những loài gặm nhắm và chim chóc. Môi trường nó sinh sống là trung tâm Úc, từ đông nam Northern Territory cho đến phía tây Queensland. Nó còn sống phía bắc hồ Eyre và cho đến phía tây của nhánh sông Murray, sông Darling và sông Murrumbidgee.Rắn Taipan thường ăn các loài động vật có vú nhỏ. Chuột là thức ăn ưa thích của chúng. Sự sinh sản của rắn Taipan bị phụ thuộc vào số lượng của quần thể chuột. Khi số lượng chuột nhiều thì rắn Taipan cũng sinh sản nhiều hơn. Mỗi lần sinh sản chúng thường đẻ từ 12 đến 20 quả trứng. Trứng sẽ nở sau 2 tháng. Liều gây chết trung bình (LD50) cho chuột là 2 μg/kg (ppb) nếu là taipoxin tinh chất và 30 μg/kg (ppb) nếu là nọc độc tự nhiên của nó.
1
null
It's You (tiếng Hàn: 너라고) là một đĩa đơn nhạc số của nhóm nhạc nam Hàn Quốc Super Junior. Nó là đĩa đơn quảng bá thứ hai từ album phòng thu thứ ba của nhóm là "Sorry, Sorry" và được phát hành dưới dạng nhạc số vào ngày 11 tháng 5 năm 2009. Có 3 bài hát mới được thêm vào đĩa đơn này vào ngày 14 tháng 5, cùng ngày ra mắt của phiên repackaged của album "Sorry, Sorry". Lịch sử. "It's You" được viết và sản xuất bởi E-Tribe, bộ đôi nhạc sĩ nổi tiếng của Hàn Quốc đã tạo ra được nhiều ca khúc đứng đầu các bảng xếp hạng. Sự hợp tác này được xác nhận vào ngày 21 tháng 4 khi nhóm miêu tả bài hát mới là "vừa nhẹ nhàng lại vừa mang xu hướng của nhạc dance" và cũng rất khác so với các bài hát trước đó mà E-Tribe đã viết cho các nghệ sĩ nữ. Bài hát là sự kết hợp giữa hơi hướng của heavy electronic với MIDI, và nó cũng được mong đợi là sẽ thành công như đĩa đơn đầu tiên trong cùng album này là "Sorry, Sorry". Theo lời trưởng nhóm Leeteuk trong clip hậu trường ghi hình MV thì bài hát này suýt nữa đã trở thành bài hát chủ đề cho album thứ ba thay vì "Sorry, Sorry". "It's you" từng bị dư luận tại Việt Nam cho rằng quá giống với ca khúc ""Chuông gió" của nhạc sĩ Võ Thiện Thanh, thể hiện bởi ca sĩ Thu Minh đã được phát hành từ năm 2006. Sau khi được các nhạc sĩ tên tuổi của Hàn Quốc kiểm định thì đúng là hai ca khúc giống nhau đến hơn 70% từ tiết tấu, giai điệu, chất liệu nhạc và cả cách hòa âm phối khí. Trả lời phóng viên về việc này, E-Tribe cho biết bài "It's you"" được lấy cảm hứng sau khi ông được một người quen ở Anh cho nghe thử một giai điệu người đó tìm được. Do đó, It's you mang âm hưởng châu Âu chứ không phải châu Á, và càng không phải từ Việt Nam (từ "Việt Nam" được ông nhấn mạnh). Còn về phía Việt Nam, nhạc sĩ Võ Thiện Thanh cũng không đưa ra bất kỳ phản hồi nào. Quảng bá và xếp hạng. Vào ngày 9 tháng 5 năm 2009, phiên bản audio đầy đủ của ca khúc "It's You" và một vài cảnh chụp từ music video của nó đã bị rò rỉ trên mạng. Nhưng bất chấp việc bị rò rỉ, đĩa đơn vẫn chính thức được phát hành dưới dạng nhạc số vào ngày 11 tháng 5 năm 2009 và nhanh chóng đứng thứ nhất trên Cyworld chỉ sau 4 tiếng phát hành. Hai ngày sau đó, đĩa đơn đã lọt vào top 5 của Mnet's Top 300 Chart, đứng ở vị trí thứ 4. Buổi trình diễn quảng bá đầu tiên của ""It's You" là vào ngày 17 tháng 5 năm 2009 tại chương trình Inkigayo của đài SBS. Vào ngày 22 tháng 5, "It's You"" được biểu diễn ở "Music Bank" lần đầu tiên, và cũng đồng thời giành được vị trí thứ nhất tại bảng xếp hạng tuần K-chart của "Music Bank" cùng ngày hôm đó. Một tuần sau, ca khúc cũng giành vị trí thứ nhất tại Mutizen song - Take 7 của Inkigayo. Đĩa đơn cũng đứng ở vị trí thứ nhất tại kênh Channel V Countdown Asia Chart của Thái Lan trong 3 tuần liên tiếp. Vào ngày 7 tháng 10 năm 2009, trong bảng xếp hạng hàng ngày MYX của Philippines, ca khúc này đã đứng ở vị trí thứ nhất chỉ với 0.53% chênh lệch so với ca khúc đứng thứ hai là "You Belong With Me" của Taylor Swift. Trong khi đó, tại bảng xếp hạng MYX quốc tế, "It's You" đã đạt đến vị trí thứ 2 - thành tích cao nhất của nhóm tại MYX, sau thành tích của đĩa đơn trước đó "Sorry, Sorry" là vị trí thứ 6. Nó cũng là video đứng ở vị trí thứ 12 tại bảng bình chọn ca khúc cuối năm tại MYX quốc tế, và đứng thứ 19 ở bảng xếp hạng video được bình chọn nhiều nhất của năm tại MYX's hit year-end countdown năm 2009 (và là ca khúc K-pop thứ 3, theo sau "Fire" của 2NE1 và "Nobody" của Wonder Girls). Ca khúc đã đứng thứ 11 tại "Hit Fm Annual Top 100 Singles Chart" của Hit Fm Taiwan cho năm 2009. Music video. Music video được đạo diễn bởi Cho Soo-Hyun và được ghi hình tại studio ở Ilsan, Gyeonggi-do, Hàn Quốc vào cuối tháng 4 năm 2009. Nó đã xuất hiện lần đầu tiên là vào tối ngày 12 tháng 5 năm 2009 trên Cyworld và đã nhận được sự đón nhận khá tích cực. MV lúc đầu đã được lên kế hoạch phát hành vào cùng ngày ra mắt với album repackaged (tức ngày 14 tháng 5), nhưng do phiên bản đầy đủ đã bị rò rỉ trên mạng từ sáng ngày 12 tháng 5, nên SM Entertainment đã quyết định tung ra luôn phiên bản chính thức vào lúc 7 giờ tối cùng ngày (trước đó thì phiên bản audio của ca khúc cũng đã bị rò rỉ từ ngày 9 tháng 5). Có một chút khác biệt giữa hai phiên bản. Trong phiên bản bị rò rỉ trước, có nhiều cảnh mà Han Geng thì thầm cụm từ "Chính là em" (너라고/"Neorago", hay "It's you") bằng tiếng Hàn hơn, và trong phiên bản chính thức thì những cảnh đó được thay bằng cảnh các thành viên Super Junior cùng tập hợp một chỗ và ngồi trên ghế. Ngoài ra, có nhiều cảnh được quay ở những góc độ khác nhau, và có thêm nhiều hiệu ứng đặc biệt ở những phân cảnh nhảy của phiên bản chính thức. Phiên bản của MV này trên kênh youtube chính thức (cũ) của SM Entertainment là sment hiện nay đã đạt khoảng gần 14 triệu lượt xem. Phiên bản thứ hai của MV, được gọi là phiên bản phim truyện (drama version) đã cắt hết các cảnh nhảy, chỉ còn cảnh diễn tình huống của các thành viên, được phát hành ngày 15 tháng 5 năm 2009. Phiên bản này được ghi hình tại Làng tiếng Anh thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, là nơi mà nhóm đã từng quay MV ""U" và "Happiness"". Trong hơn 3 phút của bài hát, các thành viên sẽ di chuyển đi qua nhau và thể hiện những câu chuyện tình của riêng mình cùng với câu hát và không hề có sự cắt cảnh nào suốt cả MV. Để làm được điều đó, cả nhóm đã phải quay đi quay lại rất nhiều lần và chỉ cần một người mắc lỗi thì cả nhóm sẽ phải ghi hình lại từ đầu (điều này đã được các thành viên chia sẻ trong phiên bản hậu trường ghi hình cho MV). MV mở đầu bằng cảnh một cô gái trả lại chiếc nhẫn cho Kibum. Tiếng trái tim đập mở đầu bài hát bắt đầu vang lên khi Kibum đau khổ bước đi với chiếc nhẫn trên tay. Kibum đi qua Han Geng, người đang thẫn thờ nhìn vào chiếc điện thoại trên tay mình và thì thầm "Chính là em, chính là em, với anh chỉ có mình em, chính là em" bằng tiếng Hàn và bước đi. Sau đó các thành viên sẽ lần lượt đi qua nhau khi đến câu hát của mình và thể hiện những câu chuyện riêng của mỗi người: Donghae đi qua Hangeng, rồi lần lượt là sự xuất hiện của Kyuhyun, Yesung, Leeteuk, Siwon, Ryeowook, Kangin. Kyuhyun lại xuất hiện một lần nữa tại phần cuối của điệp khúc trước khi cảnh chuyển sang Eunhyuk, người đang vẽ graffiti lên tường bằng bình phun sơn và lặp đi lặp lại câu hát "Only 4 U". Đến lời 2 của bài hát, vẫn nối tiếp với những cảnh trước đó, Kangin đi vào tiệm cà phê và đi qua Sungmin. Shindong thì đi ra khỏi tiệm cà phê đó, đi qua Ryeowook. Sau đó các thành viên lại tiếp tục xuất hiện một cách liền mạch như vậy. Đến phân đoạn cuối của bài hát, Heechul xuất hiện giữa đường phố, ngồi trên chiếc xe mô tô của mình và cởi bỏ mũ bảo hiểm, lặp lại câu hát "chính là em, chính là em". Các thành viên Super Junior cũng đã hoặc đang di chuyển về cùng một chỗ phía sau Heechul, hoàn thành phần kết của bài. Phiên bản thứ 3, là phiên bản chỉ có những cảnh nhảy (dance version), các thành viên Super Junior trong những bộ trang phục như những sinh viên của thập niên trước, nhảy trong một khung cảnh gần như tối hoàn toàn - ánh sáng chỉ tập trung rọi sáng các thành viên. "It's you" là MV cuối cùng của Super Junior có sự tham gia đầy đủ của cả 13 thành viên, theo sau "U", "Don't Don", "Marry U", và "Sorry, Sorry".
1
null
Môn xe đạp lòng chảo là môn có trong Olympic. Xe đạp lòng chảo gồm rất nhiêu nội dung, một vòng chảo thường là 250m ở đáy chảo, và dài hơn nhiều ở miệng chảo. Đua xe đạp lòng chảo rất khác biệt so với xe đạp đường trường, là môn khá tốn kinh phí và nguy hiểm, xe đạp đua được thiết kế chắc chắn hơn xe đua thường (tất nhiên nặng hơn), bánh thường đặc để triệt tiêu lực cản do căm xe đập vào không khí tạo ra. Vận động viên xe đạp lòng chảo thường tránh dẫn đầu cho đến những phút cuối. Ngoài tốc độ, thể lực và sức bền, còn phải có óc quan sát phán đoán tốt, kỹ năng chạy chậm tốt, biết đưa ra chiến thuật hợp lý một cách nhanh nhất. Các nội dung thi. Đua cá nhân tính giờ. Mỗi vận động viên lên xe một mình hoàn thành cự ly được quy định (thường mấy trăm mét đến vài km tùy nội dung), ai ít thời gian hơn sẽ thắng. Đua tốc độ. Thường 2 vận động viên đấu với nhau, khi ra đường đua họ sẽ đứng kế nhau. Lúc xuất phát họ có khoảng 2 hoặc 3 vòng chạy khởi động làm nóng, giai đoạn này 2 tay đua thường chạy chậm và cố tìm cách chạy sau đối phương. Lúc sắp hết 2 vòng khởi động họ bắt đầu tăng tốc sao cho khi xe cán vào vạch xuất phát màu đen cũng là lúc xe đạt vận tốc cao nhất. Khi xe đầu tiên cán vào vạch xuất phát màu đen thì sẽ có tiếng kẻng báo động bắt đầu chính thức phần thi tăng tốc, phần này chỉ dài có 200m (ít hơn 50m so với 1 vòng đua). Trước khi cán vạch xuất phát, các tay đua sẽ vừa tăng tốc vừa lái xe lên miệng chảo để khi vừa qua vạch xuất phát họ lao xe từ miệng chảo vào đáy chảo, tận dụng trọng lức giúp tăng thêm tốc độ. Kết quả cuộc đua được tính bằng giây từ khi xe cán vạch đen xuất phát đến khi xe cán vạch đích. Tay đua nào cán đích trước thì chiến thắng hiển nhiên nhưng tay đua đến sau cũng còn cơ hội lọt vào vòng tiếp nếu số giây ít hơn những tay đến sau khác. Giai đoạn đầu các tay đua thường cố chạy sau đối phương để tận dụng luồng gió mà đối phương tạo ra làm lực đẩy cho mình, như vậy họ giữ sức cho đôi chân đến những giây cuối mới bung hết sức. Các tay đua chạy trước cũng có chiến thuật, họ có thể "ép" đối phương lên cao hơn khiến đường chạy của đối phương dài hơn mình. Khi vượt đối thủ từ phía sau, tay đua phải ở đúng line của mình không được ép lấn line đối thủ cho đến khi đuôi xe vượt khỏi bánh trước của đối thủ thì mới được ép vào line trong, nếu ép đối thủ trong lúc vượt xem như tự thua. Chống chân xuống đất hoặc ngã xe cũng xem như tự thua. Nội dung đua tốc độ thường được chọn làm vòng loại để lọc vận động viên vào vòng trong các nội dung khác, nó cũng có thể có huy chương, tùy thể lệ. Đua thể lực. Thường đua 4 km nam và 3 km nữ, tức 16 vòng và 12 vòng. 2 tay đua xuất phát cùng lúc từ 2 vị trí đối xứng trên lòng chảo, cố chạy hoàn thành 4 km nhanh nhất có thể. Bị đối phương bắt kịp từ phía sau xem như thua. Kết quả tính bằng giây, so kè từng cặp loại nhau hoặc tính chung tùy thể lệ. Đua thể lực đồng đội nam gồm 4 tay đua 16 km, nữ 3 tay 9 km. Các đồng đội chạy nối đuôi nhau, cứ hết 1 vòng chảo thì người chạy đầu lách lên cao nhường cho người thứ 2 lên chạy đầu, người thứ 3 lên thứ 2… người chạy đầu nối vào vị trí cuối. 2 đội cũng xuất phát từ 2 vị trí đối xứng nhau qua tâm chảo. Đua đường trường. Cự ly đua đường trường thường là 15 km với 60 vòng. Ở nội dung này, nhiều vận động viên xuất phát cùng lúc, ai cán đích trước thắng. Đua tính điểm. Nội dung thường từ 120-160 vòng. Cả đoàn xuất phát, cứ mỗi 10 vòng sẽ có 1 lần chấm điểm tăng tốc, người về nhất cộng 5 điểm, từ nhì-ba-tư được 3-2-1 điểm, nhất chung cuộc cộng 20 điểm. Ai nhiều điểm nhất thắng.
1
null
Barchov là một làng thuộc huyện Hradec Králové, vùng Královéhradecký, Cộng hòa Séc. Địa lý. Barchov nằm trên bàn East Bohemian nằm giữa sông Cidlina và Bystřice ở phía bên trái của con lạch Barchovský. Thị trấn láng giềng là Zdechovice phía bắc, Budín và Zvíkov ở vùng Đông Bắc, Nam Babice và Boharyně phía đông, Chaloupky và Babice ở phía đông nam, Nová Ves và Košický ở phía nam, Kosice ở phía tây nam, Mlékosrby và Bydžovská Lhotka ở phía tây và Barchůvek ở phía tây bắc. Lịch sử. Lần đầu tiên đề cập đến Barchův dvůr diễn ra vào năm 1398. Tên của ngôi làng bắt nguồn từ tên Barech. Vào đầu thế kỷ 15, có hai lễ hội ở Barchov thuộc sở hữu của Hiệp sĩ Barchov. Năm 1412, Nicholas von Barchov đã tặng nhà nguyện của Mary Magdalene cho Lâu đài Prague. Nicholas von Barchov là vào năm 1421 đại biểu của Hội đồng Estates tại Čáslav cho lễ đăng quang của Sigismund với vương miện của Wenceslas. Sau khi Hiệp sĩ Barchov cũng đã có được Dašice, tên Dašický của Barchov. Vào thế kỷ 16 là Dobenský của DobřeniceChủ sở hữu của Barchov. Sau khi 1600 mua Burian Slibovický của Skřivany hàng hóa, ông đã được theo dõi vào năm 1611 Albrecht Bundredký của Poruba. Từ năm 1675, Ferdinand Raschin von Riesenburg là chủ sở hữu của Barchov. Khi ông bán hàng vào năm 1702, lễ hội thứ hai đã tuyệt chủng. Vào thế kỷ 18, các chủ sở hữu đã thay đổi liên tiếp. Họ bao gồm Marie Elisabeth Schaffgotsch - Waldstein, Marie Magdalena Rohrich của Kleinberg, Anna Barbara của Malovec và Norbert Christoph Woracziczky của Pabienitz. Điều này đã để lại các lễ hội vào năm 1737 cho một tu sửa cung điện baroque. Sau đó, Velký Barchov thuộc về Bá tước Kolowrat-Libštejnský. Các chủ sở hữu được theo sau bởi các lãnh chúa của Vlkanov. Trong cuộc nổi dậy của nông dân năm 1777, quân nổi dậy đã cướp phá lâu đài để trả thù chủ sở hữu Josef Bartholomew của Vlkanov và quản trị viên tống tiền Reichenbach và đốt cháy nó. Sau đó, Barchov thuộc về Prague Unlimitedenanstalt cũng như Bá tước Kinský và Czernin của Chudenitz và cuối cùng là Václav Teuchert. Về mặt lãnh thổ, ngôi làng thuộc về quận Đông vùng Bidzhower. Sau khi bãi bỏ Velký Barchov gia trưởng được thành lập vào năm 1850, một đô thị ở quận Nový Bydžov. Năm 1898, nhà máy bia lâu đài trang nghiêm đã ngừng hoạt động. Từ năm 1911, lâu đài và đồ đạc của nó thuộc về Ngân hàng Prague Ground (Pozemková Banka). Từ năm 1919, đô thị này được gọi là Barchov. Năm 1916, Barchov bị phá hủy bởi một làn gió. Trong cùng năm đó đã bùng phát một đám cháy lớn, khiến một phần của ngôi làng bị hủy hoại. Từ bất động sản bị phá sản của Pozemková banka mua vào năm 1924, gia đình Picky bất động sản. Năm 1931 là sự kết nối của nơi này với lưới điện. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, gia đình Picky bị chiếm đoạt vào năm 1948 và lâu đài được chuyển giao cho chính quyền nhà nước Tiệp Khắc. Vào những năm 1950, có một quy định về dòng nước trong làng và tạo ra năm ao. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1961, Barchov thuộc về Okres Hradec Králové. Sau khi được chuyển về gia đình Picky, lâu đài phục vụ như một tài sản đầu cơ. Các vũ trường đã nổi tiếng trong khu vực, với các sự kiện diễn ra vào mỗi thứ Sáu từ tháng Chín đến tháng Năm.
1
null
Vũ Hoàng Hà (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1981 tại Hà Nội), thường được biết đến với nghệ danh Quang Hà là một nam ca sĩ Việt Nam. Quang Hà được khán giả biết đến với ca khúc "Cô bé mắt nai", "Những ngọn nến trong đêm" và "Ngỡ". Thân thế và sự nghiệp. Quang Hà sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, bố là nghệ sĩ chơi cello và sáng tác, chị gái chơi piano. Từng sinh hoạt văn nghệ thường xuyên ở cung thiếu nhi Hà Nội và Nhà Văn hóa Thiếu nhi quận Ba Đình và thường xuyên được tham gia trong các chương trình bông hoa nhỏ của Đài phát thanh - truyền hình Hà Nội. Năm 2000 thì Quang Hà bắt đầu chính thức theo đuổi con đường ca hát chuyên nghiệp. Tháng 6 năm 2003, Quang Hà quyết định vào Miền Nam sinh sống và lập nghiệp. Tham gia rất nhiều các chương trình của Thành phố Hồ Chí Minh và các chương trình của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cũng như các tỉnh phía Nam, Quang Hà dần khẳng định tên tuổi của mình và chiếm được rất nhiều tình cảm của khán giả Miền Nam và các khán giả Miền Tây. Để kỷ niệm 10 năm sự nghiệp, nam ca sĩ chọn hướng đi mới trong âm nhạc: tinh tế sang trọng và trữ tình hơn, Quang Hà đã tổ chức đêm nhạc chủ đề "Quang Hà - Hà Nội trong tôi". Đêm nhạc diễn ra trực tiếp tại Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh và truyền hình trực tiếp trên kênh VTV9, với sự tham gia của các ca sĩ khác như Thanh Lam, Quang Dũng, Tùng Dương, Hiền Thục,nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Sang Năm 2016, Quang Hà cho ra mắt phim truyện Phật Giáo "Nhân Quả Cuộc Đời 2 - Báo Ứng", nhận được sự quan tâm của khán giả, nam ca sĩ tiếp tục cho ra mắt MV Sứ Giả Như Lai là nhạc phim được yêu thích từ bộ phim trên. Tháng 9/2019, ca sĩ Quang Hà cùng ekip đã tổ chức Liveshow "Không thể thay thế" nhân dịp kỷ niệm 19 năm ca hát của anh tại Thủ đô Hà Nội. Được biết, lý do Quang Hà chọn Hà Nội làm điểm dừng chân cho liveshow lần này là vì nam ca sĩ từng sống với thủ đô, rồi cách xa mảnh đất ân tình này. "Chính Hà Nội đã cho tôi tìm thấy niềm đam mê ca hát, để rồi thăng hoa với nó suốt hàng chục năm qua. Lần trở lại này, bằng tâm hồn của một người con xa quê, tôi tin mình cùng các đồng nghiệp sẽ mang đến cho khán giả những cung bậc cảm xúc rất riêng" – Quang Hà nói. Sau 20 năm ca hát, thời điểm hiện tại Quang Hà luôn là gương mặt được các bầu show săn đón. Tuy nhiên, không phải đêm nhạc nào anh cũng nhận lời đi diễn. Quang Hà luôn biết khắt khe, dễ dãi từng thời điểm để giữ giá cát-xê sau nhiều năm đi hát. Năm 2022, nam ca sĩ Quang Hà tiếp tục tổ chức liveshow mang tên "Đánh Thức Tình Yêu". Đặc biệt, đêm nhạc có sự xuất hiện của nữ ca sĩ Siu Black, cô đã đến ủng hộ đàn em thân thiết. Trước đó, Nam ca sĩ cũng cho ra mắt MV ca nhạc "Ngoại Tình" - sáng tác bởi Khắc Việt, đạo diễn MV Phan Nguyên. Tranh cãi. Quang Hà từng gây ra tranh cãi lớn về quyền sở hữu tác phẩm, trong đó vào ngày 25 tháng 6 năm 2019, ca khúc "Ai rồi cũng sẽ khác" do nhạc sĩ Phúc Trường sáng tác và thể hiện bởi chính anh đã bị tố có giai điệu và phần beat giống đến 80% bài Day By Day của nhóm nhạc K-pop T-ara. Ngay sau khi MV "Ai rồi cũng sẽ khác" công chiếu trên Youtube, có không ít cư dân mạng và đặc biệt là fan của T-ara tại Việt Nam bức xúc và chỉ trích Quang Hà và nhạc sĩ Phúc Trường. Sau vài ngày giữ im lặng trước loạt chỉ trích mình đạo nhái trắng trợn, Phúc Trường lên tiếng phủ nhận nhưng tiếp tục gây phẫn nộ với lời lẽ nặng nề. Một bộ phận cư dân mạng yêu cầu Phúc Trường và Quang Hà phải xin lỗi FC của T-ara. Về phần Quang Hà, nam ca sĩ cho biết anh và ê kíp đã thay đổi bản gốc của "Ai rồi cũng sẽ khác" thành bản phối mới của nhạc sĩ Tâm Vinh, sau đó tiếp tục lưu hành. Động thái này là cách thể hiện sự trách nhiệm của Quang Hà và phần nào xoa dịu dư luận. Chiều 4 tháng 7, khi được nghe lại cả hai ca khúc thì Quang Hà nhận lỗi sai của mình. Bên cạnh đó, nam ca sĩ và ê-kíp khẳng định đây không phải là chiêu trò hay tạo scandal gây chú ý.Đúng như lời nói của Quang Hà, anh đã cho hạ MV hơn 3 triệu lượt xem xuống khỏi kênh YouTube cá nhân, đồng thời cũng gỡ ca khúc khỏi một nền tảng nghe nhạc trực tuyến lớn của Việt Nam.
1
null
Český Těšín ("Czeski Cieszyn trong tiếng Ba Lan)" là một thị trấn thuộc huyện Karviná, vùng Moravskoslezský, Cộng hòa Séc. Nó nằm ở phía ₫ông bắc lãnh thổ Cộng Hoà Séc. Nó giáp Ba Lan và 16% dân số là người Ba Lan. Nó nằm ở bờ sông của sông Olše. Thị Trấn này là một trong những chỗ sang biên giới ₫ông người nhất cả nước. Đã có ₫ề nghị ₫ổi tên sang "Těšín" nhưng uỷ ban thị trấn miễn nhiệm vào năm 2007.
1
null
Dražovice là một làng thuộc huyện Vyškov, vùng Jihomoravský, Cộng hòa Séc. Khu tự quản này có diện tích 6,41 km vuông (2,47 sq mi), và có dân số 837 (vào ngày 3 tháng 7 năm 2006). Dražovice nằm cách Vyškov 10 km về phía tây nam, cách Brno 24 km (15 dặm) về phía đông và 208 km (129 dặm) về phía đông nam của Praha.
1
null
Trận St. Quentin, còn gọi là Trận Guise, là một trận đánh trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trận chiến này, Tập đoàn quân số 2 của Đế quốc Đức do tướng Karl von Bülow chỉ huy đã đánh bật cuộc phản kích của Tập đoàn quân số 5 của Pháp do tướng Charles Lanzerac chỉ huy, với thiệt hại nặng nề cho cả hai phía. Tuy thất bại, cuộc phản công của Quân đội Pháp trong trận Guise đã đem lại khoảng thời gian quý báu cho họ, làm chậm lại bước tiến của Quân đội Đức dưới quyền Bülow. Mặt khác, thất bại tại St. Quentin đã tiêu hao phần lớn sức mạnh tấn công của Tập đoàn quân số 5 của Pháp. Sau thảm bại của mình trong trận Charleroi, lực lượng của Lanzerac đã bị đoàn quân chiến thắng của Bülow truy kích. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1914, Tổng tư lệnh Quân đội Pháp là Joseph Joffre phát lệnh cho Lanzerac tiến công quân Đức gần Saint-Quentin, nhằm giải nguy cho Lực lượng Viễn chinh Anh ("BEF") ở cánh trái quân của Lanzerac. Nhiệm vụ của Lanzerac là không dễ, mà một trong những nguyên nhân là do ông sẽ không thể được Quân đội Anh hỗ trợ nên ông do dự. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 8 năm ấy, Joffre đe dọa huyền chức Lanzerac, buộc ông phải tuân lệnh vào ngày hôm sau (29 tháng 8). Ngày hôm đó, cuộc tấn công của quân Pháp không gặp thuận lợi. Đợt phản kích do Bülow thực hiện đã buộc quân cánh trái của Lanzerac phải thoái lui qua sông Oise, tại đây họ sẽ tham gia bảo vệ quân cánh phải tại Guise. Bất chấp chiến bại này, Quân đoàn I của Pháp dưới quyền tướng Louis Franchet d'Esperey đã tiến hành phản công trong đêm tại Guise, làm xoay chuyển chiến cuộc theo chiều hướng có lợi cho quân Pháp. Tập đoàn quân số 2 của Đức bị đẩy lùi ra khoảng 3 dặm Anh, và chịu tổn thất không nhỏ. Tuy nhiên, tối hôm đó, người Đức đã bắt được viên Tham mưu trưởng của một Quân đoàn Pháp có giữ kế hoạch tấn công của quân Pháp, mang lại lợi ích lớn cho người Đức trong ngày hôm sau. Ngoài ra, quân Đức vẫn không chuyển sang cầm cự và sẽ trở lại làm chủ tình hình. Đến ngày 30 tháng 8 năm 1914, cuộc tấn công của Quân đội Pháp đã đuối dần và Quân đội Đức bắt đầu tấn công từ mạn Nam sông Oise tại Guise. Trong khi đó, tình hình của quân Pháp trở nên rất bất lợi. Bộ Chỉ huy Tối cao Pháp cũng nhận thấy sự khó khăn của Lanzerac và buộc phải hạ lệnh triệt thoái ngay từ đêm ngày hôm trước. Trong buổi sáng ngày 30 tháng 8, quân Pháp của Lanzerac phải chịu tổn thất to lớn trong quá trình thu quân và tiếp tục cuộc triệt thoái một cách chậm rãi về hướng Nam. Thái tử Đức là Wilhelm đã ghi nhận về tài dụng binh của dụng binh của tướng Bülow qua việc đánh bật cuộc tấn công của quân Pháp vốn chiếm ưu thế quân số trong trận chiến St. Quentin. Ban đầu, dư luận Pháp chỉ đơn giản coi trận St. Quentin là một chiến bại, song, sau trận đánh này, Bülow đã ra lệnh Tập đoàn quân của ông ngừng tiến bước để chỉnh đốn lại. Ngoài ra, do ông yêu cầu sự hỗ trợ của Tập đoàn quân số 1 của tướng Alexander von Kluck, Kluck đã chuyển quân từ hướng Tây Nam sang Đông Nam. Điều này đã khiến cho quân Đồng minh Anh - Pháp rút lui khá ổn.
1
null
Františkovy Lázně (; ) là một thị trấn spa với dân số khoảng 5.400 người nằm ở huyện Cheb, vùng Karlovarský, Cộng hòa Séc. Cùng với Karlovy Vary và Mariánské Lázně, Františkovy Lázně tạo thành Tam giác spa ở Tây Bohemia. Trung tâm thị trấn được bảo tồn tốt và từ năm 1992 đã được bảo vệ như một di tích đô thị. Năm 2021, thị trấn được UNESCO công nhận là Di sản thế giới như là một phần của "Các thị trấn Spa lớn của châu Âu" nhờ các suối tự nhiên của nó và bằng chứng kiến ​​trúc của nó cho thấy sự phổ biến của các thị trấn spa trên khắp châu Âu trong thế kỷ 18 đến thế kỷ 20. Phân cấp hành chính. Thị trấn bao gồm các đơn vị hành chính gồm Aleje-Zátiší, Dlouhé Mosty, Dolní Lomany, Horní Lomany, Krapice, Slatina và Žírovice. Địa lý. Thị trấn nằm ở vùng Egerland gần biên giới với Đức. Nó nằm ở lưu vực sông Ohře, phía bắc thủ phủ Cheb. Lịch sử. Bác sĩ Georgius Agricola (1494–1555) đã đề cập đến loại nước khoáng dành cho người dân Cheb.
1
null
Vương Túc (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là Cung Ý, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. Thân thế. Vương Túc là hậu duệ của thừa tướng Vương Đạo nhà Đông Tấn. Phả hệ từ Vương Đạo đến Vương Túc như sau: Vương Đạo → Vương Thiệu → Vương Mục → Vương Tăng Lãng → Vương Túy → Vương Hoán → Vương Túc. Vương Túc từ nhỏ khéo biện luận, thông hiểu kinh sử, rất có chí lớn. Ông tự nhận là tuy giỏi "Lễ", "Dịch",… nhưng vẫn chưa nắm hết đại nghĩa của những sách này. Túc từng trải qua các chức vụ Tác lang, Thái tử xá nhân, Tư đồ chủ bộ, Bí thư thừa… của nhà Nam Tề. Năm Thái Hòa thứ 17 (493) nhà Bắc Ngụy, cha là Thượng thư tả bộc xạ, Ung Châu thứ sử Vương Hoán và các anh em của Túc bị Tề Vũ đế Tiêu Trách giết hại, ông từ Kiến Khang trốn thoát sang miền bắc. Trốn sang miền bắc. Khi ấy, cuộc Hán hóa của nhà Bắc Ngụy vẫn còn sơ khai, Hiếu Văn đế Nguyên Hoành đang ở Nghiệp, nghe tin có con cháu họ Vương ở Lang Tà đến hàng, lập tức cho vào gặp. Ông tuy tâm tình xúc động nhưng lời lẽ rõ ràng, đối đáp theo lễ, khiến cho Hiếu Văn đế rất lấy làm thương xót. Đề cập đến đạo trị nước, Túc bàn luận cứng cỏi, diễn tả sống động, Hiếu Văn đế ngồi nghe mê mệt đến nỗi cả người mỏi nhừ. Từ đây ông được đãi ngộ rất hậu, luôn được Đế giữ bên cạnh, trò chuyện đến trời tối không nghỉ. Túc rành rẽ việc xưa, lại dốc lòng trung thành, không chỗ nào giấu giếm, tự cho là vua tôi gặp gỡ cũng như Huyền Đức có được Khổng Minh. Theo Ngụy thư, Bắc sử, lễ nghi của triều đình Bắc Ngụy đều là nhờ ông mà được hoàn thiện. Trần Dần Khác, Tùy Đường chế độ uyên nguyên lược luận cảo nhận xét Vương Túc là viễn tổ của lễ chế Tùy, Đường. Túc được làm Phụ quốc tướng quân, Đại tướng quân trưởng sử, ban tước Khai Dương bá; cố từ chối tước Bá, Đế đồng ý. Tham gia chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy. Triều đình có chiếu sai Túc thảo phạt Nghĩa Dương của Tề. Ông được tạm giữ cờ tiết (Giả tiết), coi việc (Hành) Bình nam tướng quân. Túc đến Nghĩa Dương, nhiều lần phá được quân Tề, thu hàng vạn người. Hiếu Văn đế sai Tán kỵ thị lang đến úy lạo, luận công cho ông tiến hiệu Bình nam tướng quân, ban 1 thớt tuấn mã, chức Trì tiết, Đô đốc Dự, Vi, Đông Dĩnh 3 châu chư quân sự, tướng quân như cũ, Dự Châu thứ sử, Dương Châu đại trung chánh. Túc giỏi vỗ về, được tiếng là giỏi cai trị. Túc có công phá tướng Tề là Bùi Thúc Nghiệp, được tiến hiệu Trấn nam tướng quân, gia Đô đốc Dự, Nam Duyện, Đông Kinh, Đông Dự 4 châu chư quân sự, phong Nhữ Dương huyện Khai quốc tử, thực ấp 300 hộ, Trì tiết, Trung chánh, Thứ sử như cũ. Ông nhiều lần dâng biểu từ chối, Đế không cho, ban thêm 1 bộ nhạc Cổ xuy. Năm thứ 22 (498), quân Ngụy chiếm được Hán Dương, bắt được Phụ quốc tướng quân Hoàng Dao Khởi của nhà Nam Tề, có chiếu đem Dao Khởi giao cho Túc; bởi năm xưa Hoàng Dao Khởi chính là người đã giết Vương Hoán, cha của Túc! Hiếu Văn đế cất quân đánh Hoài Bắc, sai Túc tấn công Nghĩa Dương, chưa hạ được. Tướng Tề là Bùi Thúc Nghiệp cướp Qua Dương, bọn Lưu Tảo đi cứu, bị Thúc Nghiệp đánh bại. Túc dâng biểu xin đi cứu, Đế cho rằng không nên. Ông giải vây cho Nghĩa Dương, đến được Qua Dương thì Thúc Nghiệp đã lui quân. Luận tội thua trận, Túc bị truất làm Bình nam tướng quân, Trung chánh, Thứ sử như cũ. Hiếu Văn đế mất, có chiếu cho Túc làm Thượng thư lệnh, cùng bọn Hàm Dương vương Hi cùng làm Tể phụ, triệu ông đến gặp xa giá ở Lỗ Dương. Trên đường về kinh thành, Túc am hiểu lễ nghi, lo liệu tang sự chu đáo, bọn Hàm Dương vương Hi đều kính trọng và gần gũi ông, chỉ có Nhiệm Thành vương Trừng là tỏ ra đố kỵ. Có chiếu cho Túc cưới Trần Lưu trưởng công chúa, vốn là Bành Thành công chúa, vợ của con trai Lưu Sưởng; cho 20 vạn tiền, 3000 xúc lụa. Bùi Thúc Nghiệp đem Thọ Xuân xin nội phụ, triều đình bái Túc làm Sứ trì tiết, Đô đốc Giang Tây chư quân sự, Xa kị tướng quân, cùng Phiếu kị đại tướng quân, Bành Thành vương Hiệp soái 10 vạn bộ kị thập vạn đi lấy. Dự Châu thứ sử Tiêu Ý nhà Nam Tề soái 3 vạn quân đóng ở Tiểu Hiện, Giao Châu thứ sử Lý Thúc Hiến đóng ở Hợp Phì, muốn giành lại Thọ Xuân. Ý sai bọn Hồ Tùng, Lý Cư Sĩ lĩnh hơn vạn quân đóng ở Tử Hổ. Túc tiến quân tấn công, đại phá quân Tề, bắt được tướng Tề là bọn Kiều Mân, chém đầu mấy ngàn. Ông tiến đánh Hợp Phì, bắt sống Thúc Hiến, Tiêu Ý bỏ Tiểu Hiện mà chạy. Túc về kinh sư, Tuyên Vũ đế ở Đông Đường gọi đến mà úy lạo, lại hỏi thăm tin tức ở Giang Tả. Ông trình lên tình hình động loạn ở Nam Tề. Do Túc nhiều lần thắng trận ở Hoài Nam, thưởng 4750 xúc lụa, tiến vị Khai phủ nghi đồng tam tư, phong Xương Quốc huyện Khai quốc hầu, thực ấp 800 hộ, còn lại như cũ. Ít lâu sau lấy Túc làm Tán kỵ thường thị, Đô đốc Hoài Nam chư quân sự, Dương Châu thứ sử, Trì tiết, quan chức như cũ. Năm Cảnh Minh thứ 2 (501), ông mất ở Thọ Xuân, được 38 tuổi. Tuyên Vũ đế cử ai, cấp Đông Viên bí khí, 1 bộ triều phục, 30 vạn tiền, 1000 xúc lụa, 500 xúc vải, 300 cân nến, còn cho xem bói tìm nơi chôn cất, sai 1 viên Thị ngự sử đến giám hộ tang sự; tặng Thị trung, Tư không công, quan chức như cũ; thụy là Tuyên Giản. Đầu đời Hiếu Minh đế, có chiếu dựng bia ghi nhớ Vương Túc. Gia đình. Sau khi đến Bắc Ngụy, Túc cưới Trần Lưu trưởng công chúa. Khi còn ở Nam Tề, cũng như nhiều thế hệ trước của sĩ tộc họ Vương ở Lang Tà, ông lấy vợ là Tạ Trang Chi của sĩ tộc họ Tạ ở Trần Quận. Về sau Tạ Trang Chi dắt theo con gái là Vương Phổ Hiền, con trai là Vương Thiệu sang miền bắc tìm chồng. Vương Phổ Hiền trở thành phi tử của Tuyên Vũ đế, phong Quý Hoa phu nhân. Vương Thiệu được kế tự. Ngày nay bia mộ của họ vẫn được lưu giữ nguyên vẹn.
1
null
Philípphê Phan Văn Minh (1815 - 1853) là một vị thánh tử đạo Việt Nam. Lịch sử. Ông sinh năm 1815 tại làng Cái Mơn, huyện Mỏ Cày, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, thuộc Giáo phận Vĩnh Long). Ông là người con út trong gia đình gồm 14 người con. Cha mẹ mất sớm nên mọi việc trong nhà đều do người chị lớn lo cho các em về mặt vật chất cũng như tinh thần. Năm 1828, Minh được giám mục Jean-Louis Taberd (tên Việt là Từ) nhận vào chủng viện Lái Thiêu. Nhưng ít lâu sau, vua Minh Mạng ra sắc chỉ cấm đạo Công giáo vào năm 1833, Chủng viện Lái Thiêu phải đóng cửa. Trong thời gian đó, ông được gửi đi du học tại đại chủng viện của Hội Thừa sai Paris ở Penang (Mã Lai). Ở đó, ông hợp tác với giám mục Taberd Từ để biên soạn từ điển Việt-Latinh tại Calcutta (Ấn Độ) cho đến năm 1838, ông được xem là người soạn tự điển đầu tiên của Việt Nam. Năm 1840, ông trở về Việt Nam và được giám mục Cuénot (tên Việt là Thể) truyền chức linh mục tại Gia Hựu. Sau khi vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị lên ngôi, tuy sắc lệnh cấm đạo vẫn còn nhưng không còn gắt gao như trước. Nhờ thế mà ông có thể phục vụ tại các xứ đạo như Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Búng, Ba Dòng, Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi San... Sau hai chiếu chỉ tháng 8/1848 và tháng 3/1851, cuộc bách hại đạo Công giáo càng trở nên khốc liệt hơn. Lúc đó, linh mục Philípphê Phan Văn Minh cùng với một số chủng sinh chuyển xuống Mặc Bắc thay cho linh mục Phêrô Nguyễn Văn Lựu đã chuyển đi Ba Giồng. Ngày 26 tháng 2 năm 1853, quan quân đến bao vây nhà trùm họ tên là Giuse Nguyễn Văn Lựu vì có một người tên Nhẫn (Bếp Nhẫn) tố cáo ông trùm chứa chấp đạo trưởng vì trước đó ông này xin tiền linh mục Lựu nhưng không được nên đã đi tố giác với quan. Khi quan quân tra khảo ông trùm họ dự dội, linh mục Minh liền ra trình diện và tự nhận mình là đạo trưởng. Sau đó binh lính liền trói ông cùng với người nhà ông Lựu giải về Vĩnh Long. Tại đây, quan hỏi linh mục này về các linh mục khác và những nơi mà ông đã từng ở nhưng không thu thập được nhiều. Những ngày sau, quan dùng nhiều phương kế như hăm dọa, dụ dỗ, tra tấn buộc ông phải bước qua thánh giá để bỏ đạo, nhưng ông vẫn cương quyết không thi hành. Lúc đó, ông mới 38 tuổi lại hiền lành học thức, nên quan muốn cứu ông bằng cách ông nói miệng là "đã bỏ đạo" nhưng ông từ chối đề nghị này. Sau cùng, quan truyền lính giam ông tại Tuyên Phong và thảo bản án gửi về kinh đô Huế. Ngày 3 tháng 7 năm 1853, linh mục Phan Văn Minh chịu án trảm quyết tại pháp trường Đình Khao, gần Vĩnh Long. Trước đó, tại pháp trường này có thói quen dọn cho các tử tội bữa ăn cuối cùng trước khi hành hình nhưng ông đã từ chối. Thi hài ông được an táng dưới nền nhà thờ đã bị đốt ở Cái Mơn. Ngày 9 tháng 12 năm 1960, di cốt của ông được dời về Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn trong dịp lễ cung hiến. Giáo hoàng Lêô X suy tôn chân phước cho linh mục Philípphê Phan Văn Minh vào ngày 27 tháng 5 năm 1900. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ông lên bậc hiển thánh. Ngày nay, Tiểu chủng viện Giáo phận Vĩnh Long đã nhận ông là bổn mạng. Phong hóa. Bộ phim cổ trang dã sử "Áo dòng đẫm máu" (Bloody cassock) được quay và trình chiếu chỉ trong năm 1960, là thời điểm thịnh hành dòng phim tông giáo tại Việt Nam Cộng hòa cũng như khắp hoàn cầu. Nội dung kể về cuộc đời linh mục Filipe Phan Văn Minh của giáo phận Cái Mơn (trước thuộc tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc tỉnh Bến Tre), người bị bách hại trong một cuộc bố ráp Công giáo hội dưới triều Tự Đức ; ngài được Giáo hoàng Leo X phong Á thánh vào năm 1900. Đạo diễn của bộ phim là ông Nguyễn Thành Châu (tức soạn giả cải lương Năm Châu), còn kịch bản do linh mục Phê-rô Nguyễn Hoàng Yến viết. Vào giai đoạn thập niên 1960, với kỹ thuật điện ảnh còn rất thô sơ so với hiện nay, việc dàn dựng một xuất phẩm cổ trang với độ chân thực như thấy trong phim đã là cố gắng lớn, cho nên không ngạc nhiên khi bộ phim này khi ra rạp đã gây cơn sốt vé. Nhờ thành công của nó, các tài tử chính và thứ đều vụt biến thành minh tinh trong làng điện ảnh Sài Gòn ; trong dàn diễn viên, ngoài Thẩm Thúy Hằng, Túy Hoa, Năm Châu đã có chút danh tiếng từ trước thì Vân Hùng, Ba Vân, La Thoại Tân, Trang Thiên Kim bấy giờ đều ít được biết đến. Dẫu sao, đây là cuốn phim cổ trang xưa nhất và hoàn hảo nhất còn lại đến giờ. Sau khi phim công chiếu, nó được in thành nhiều cuộn băng và vì nhiều lý do mà lưu lạc khắp nơi. Một cuộn băng được linh mục Yến lưu trữ tại giáo phận của mình (bản gốc là băng nhựa, mãi nhiều năm sau thì được chuyển thành băng từ), nhưng sau rốt cũng thất tán. Bản phim như thấy hiện nay do ông Trần Minh Giàu sao lại từ cuộn băng được lưu trữ tại một viện bảo tàng ở New York.
1
null
Horní Dvořiště là một làng thuộc huyện Český Krumlov, vùng Jihočeský, Cộng hòa Séc. TGM chào mừng. Tại nhà ga xe lửa địa phương vào thứ sáu 20 tháng 12, 1918 khoảng 13 giờ Quốc hội và các đại diện của các huyện Nam Bohemia được tổng thống Tomáš Garrigue Masaryk khánh thành, với âm nhạc, ca sĩ và các bài phát biểu của đại diện của các quốc gia đồng minh (ý, Mỹ, Anh và Pháp) khi trở về chiến thắng của ông về quê hương của ông. Masaryk trả lời một thời gian ngắn và chào đón những người hiện tại, bao gồm cả thống đốc của Kaplice, người cũng đã đưa ra một bài phát biểu chào đón. Ở đó, ông và con gái ông là Olga, đã gặp con trai ông Jan Masaryk một lần nữa sau 4 năm.
1
null
Hostěrádky-Rešov là một làng thuộc huyện Vyškov, vùng Jihomoravský, Cộng hòa Séc. Khu tự quản này có diện tích 4,67 km vuông, và có dân số 782 người (tại thời điểm ngày 28 tháng 8 năm 2006). Hostěrádky-Rešov nằm khoảng 23 km (14 dặm) về phía tây nam của Vyškov, km 16 (10 dặm) về phía đông nam của Brno, và 202 km (126 dặm) về phía đông nam của Praha.
1
null
Hutisko-Solanec là một làng thuộc huyện Vsetín, vùng Zlínský, Cộng hòa Séc. Trong làng Hutisko-Solanec có một tượng đài Charlotte Garrigue-Masaryková. Tượng đài được xây dựng vào năm 1926 bởi giáo viên quản lý C. Mach với học sinh của mình và được tìm thấy trong thung lũng của phần địa phương của Za Kopcem (49 ° 25′14 "N, 18 ° 12'15 " E).
1
null
Basiliscus basiliscus là một loài thằn lằn sống ở Trung Mỹ và Nam Mỹ trong rừng mưa nhiệt đới gần sông và suối. Nó thuộc họ Corytophanidae. Loài này còn có tên gọi là thằn lằn chúa Giê Su vì nó khả năng chạy trên nước. Khi bị de dọa nó giang những ngón chân sau ra, xếp chân trước vào sát mình và phóng nhanh trên nước. Nó phóng như thế được từ 10 đến 20 m rồi mới chìm xuống và bắt đầu bơi. Những con nhỏ có thể chạy xa hơn vì chúng nhẹ hơn. Con cái sinh 10 đến 20 trứng mỗi năm nở ra sau 3 tháng.
1
null
Karmin là một bộ đôi nhạc pop người Mỹ bao gồm Amy Heidemann (sinh 29 tháng 4 năm 1986) và Nick "Louis" Noonan (sinh 27 tháng 4 năm 1986). Họ được biết đến một phần là nhờ ca khúc "Brokenhearted", nó đã lọt vào top 20 bảng xếp hạng ở Mỹ, và top 10 ở Úc, New Zealand và Anh. Bộ đôi còn được biết đến qua việc hát lại các ca khúc nổi tiếng như "Look at Me Now của Chris Brown, "Super Bass" của Nicki Minaj. Ca khúc "Take It Away" của Karmin còn được chọn để quáng bá cho giải bóng rổ 2011 NBA Finals. Tiểu sử. Amy Heidemann và Nick Noonan gặp nhau khi đang tham dự Berklee College of Music tại Boston. Heidemann đã tốt nghiệp trường Trung học Seward ở Nebraska, còn Noonan thì đã tốt nghiệp trường Trung học Old Town ở Maine, nơi anh đã từng là thành viên trong một ban nhạc hòa tấu. Họ phát hành EP đầu tiên, "Inside Out", vào tháng 5 năm 2010. Bộ đôi được biết đến nhiều hơn từ khi xuất hiện trên chương trình "The Ellen DeGeneres Show", và sau đó là nhờ trang YouTube của họ lúc đó, với hơn 200 triệu lượt xem. Tên. Tên của ban nhạc xuất phát từ "carmen" trong tiếng Latin, có nghĩa là "bài hát".
1
null
Kladruby nad Labem là một làng thuộc huyện Pardubice, vùng Pardubický, Cộng hòa Séc. Ngôi làng có khoảng 600 cư dân. Lịch sử. Cho đến năm 1918, thị trấn này là một phần của chế độ quân chủ Áo-Hung. Nó nổi tiếng khi là quê hương của giống ngựa Kladruber, một trong những giống ngựa lâu đời nhất thế giới. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2019, cảnh quan chăn nuôi và huấn luyện ngựa vận chuyển nghi lễ tại Kladruby nad Labem đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
1
null
Kopřivnice là một thị trấn thuộc huyện Nový Jičín, vùng Moravskoslezský, Cộng hòa Séc. Tham khảo. Kopřivnice là một thị trấn ở huyện Nový Jičín vùng Moravia của Cộng hòa Séc. Có khoảng 22.000 cư dân. Cho đến năm 1918, Nesselsdorf - Kopřivnice là một phần của chế độ quân chủ Áo (phía Áo sau thỏa hiệp năm 1867), tại Quận Nový Jičín - Neutitschein, một trong 34 đặc khu hành chính ở Moravia. Một bưu điện được mở vào năm 1870, được đặt tên là Nesselsdorf. Năm 1850, cả hai làng cũ, Drnholec nad Lubinou và Větřkovice, trở thành một phần của quận chính trị Nový Jičín trong quận tư pháp Příbor. Giữa những năm 1939–1945, cả hai ngôi làng đều trực thuộc Đệ tam Đế chế với tên gọi “Nový Jičín Landrat”. Năm 1945, người dân Đức bị trục xuất theo các Nghị định Bene. Kopřivnice và vùng Moravian-Silesian có một di sản công nghiệp mạnh mẽ: các ngành công nghiệp thép, kỹ thuật và ô tô. Công ty xe tải Tatra nổi tiếng có trụ sở tại đây. Trước năm 1990, Công ty Tatra đã từng có tới hơn 16.000 nhân lực (trong đó có hơn 1.000 người quốc tịch Việt Nam). Tatra hiện sử dụng 3.700 nhân lực. Ngày nay, Kopřivnice là một thị trấn trẻ và năng động. Với thiên nhiên hữu tình và những điểm tham quan hấp dẫn du khách, cùng với Štramberk, Příbor và Hukvaldy có phong cảnh tuyệt đẹp lân cận, Kopřivnice là một nơi không chỉ thích hợp để khám phá mà còn dễ chịu để sinh sống và hỗ trợ kinh doanh.
1
null
Lány là một làng thuộc huyện Kladno, vùng Středočeský, Cộng hòa Séc. Lâu đài Lány được đề cập lần đầu vào 1392. Nó đã thay đổi chủ sở hữu nhiều lần và trải qua một tái thiết lớn vào năm 1902 – 1903. Năm 1921, nó được nhà nước Tiệp Khắc mua lại và chỉ định là một dinh thự của tổng thống mùa hè. Kiến trúc sư người Slovene Jože Plečnik được đưa ra để cải tiến cả lâu đài lẫn công viên liền kề. T. G. Masaryk, tổng thống đầu tiên, thích lâu đài và được phép ở lại đó sau khi thoái vị vào năm 1935 cho đến khi ông qua đời vào năm 1937. Từ 1921 phục vụ như là nơi cư trú mùa hè thuận lợi của mình.
1
null
Tim lang hay còn gọi chiếc hoa chùm, lộc vừng hoa chùm (danh pháp hai phần: Barringtonia racemosa) là một loài cây thuộc chi Lộc vừng trong họ Lecythidaceae. Nó được tìm thấy trong các khu rừng đầm lầy ven biển và trên các cạnh của cửa sông ở Ấn Độ Dương, bắt đầu từ bờ biển phía đông của Mozambique và KwaZulu-Natal (Nam Phi) Madagascar, Ấn Độ, Sri Lanka, Malaysia, Thái Lan, Lào, miền nam Trung Quốc, miền bắc nước Úc, quần đảo Ryukyu và nhiều đảo Polynesia.
1
null
Luková là một làng thuộc huyện Ústí nad Orlicí, vùng Pardubický, Cộng hòa Séc. Tham khảo. Trong ngôi làng nhỏ Lukova, cách thủ đô Prague hơn 200 km về phía đông là một nhà thờ cổ đổ nát đã hơn 50 năm - St George. Bề ngoài xuống cấp hoàn toàn đối lập với danh tiếng của nhà thờ. Hiện tại, đây đang là điểm du lịch hút khách ở địa phương. Bước vào bên trong phòng cầu nguyện với ánh sáng le lói, nhiều du khách giật mình khi thấy 32 bóng trắng đứng, ngồi im lặng. Người dân gọi đó là những bóng ma. Trên thực tế, những bóng ma này là tượng làm bằng thạch cao, có kích thước giống người thật. Sau đó, người ta phủ lên chúng những tấm vải màu trắng, tạo vẻ bí ẩn và đôi chút đáng sợ. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1352 nhưng dần bị bỏ hoang từ năm 1968, khi một phần mái bị sập trong một đám tang. Nhiều người tin rằng nơi đây đã bị ma ám và họ dần không đến nơi này. Năm 2012, người dân địa phương và người chăm sóc nhà thờ tình nguyện Petr Koukl muốn gây quỹ để tu sửa lại. Tuy nhiên, mọi người vẫn loay hoay tìm cách quyên góp sao cho hiệu quả nhất. Cùng năm đó, họ đã đồng ý cho chàng sinh viên năm 3 Jakub Hadrava sử dụng nhà thờ cũ để thực hiện một luận án nghệ thuật của mình. Jakub đã tạo ra các bức tượng và đặt vào bên trong. Anh đặt tên cho tác phẩm của mình là My Mind (Tâm trí tôi). Các tác phẩm của Jakub nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Mọi người truyền tai nhau về một nhà thờ kỳ lạ, với những bóng trắng ngồi im lặng vào năm 2014. Một video thậm chí được quay lại và đăng lên YouTube. Điều này nhanh chóng thu hút sự tò mò. Không chỉ người dân ở khắp đất nước, du khách quốc tế cũng tới đây ngày càng đông hơn để tận mắt chiêm ngưỡng những "bóng ma" này. Petr cho biết nhờ bán vé vào tham quan, nhà thờ hiện đã quyên góp được số vốn lên đến 23.500 euro. Số tiền này đã dùng để sửa chữa mái nhà hư hỏng vào năm 2018. Họ cũng tổ chức các buổi hòa nhạc, hội thảo lớn trong nhà thờ. Petr cho biết dù phần lớn du khách đều háo hức vào tham quan nhà thờ, khoảng 2-3 người khách từng đến nhưng không đủ can đảm bước vào. "Họ lén nhìn qua cánh cửa, nhưng quyết định đứng bên ngoài". Hiện tại, nhà thờ chỉ mở cửa vào thứ 7, từ 1h3 đến 16h, thu hút khoảng 150 khách vào dịp cuối tuần. Bạn có thể tới đó bằng cách đi tàu từ Prague, đến thị trấn Ceska Trebova gần đó, rồi tới làng bằng ôtô, taxi hoặc tàu. Hai điểm này cách nhau 16 phút di chuyển. Ở Việt Nam có nhiều hãng lữ hành bán tour du lịch châu Âu, trong đó có ghé thăm Cộng hòa Czech. Giá tour khoảng 55 triệu đồng, cho hành trình 11 ngày 10 đêm.
1
null
Mariánské Lázně (; ) là một thị trấn spa nằm ở huyện Cheb, vùng Karlovarský, Cộng hòa Séc. Thị trấn này có khoảng 13.000 cư dân. Hầu hết các tòa nhà của nó đều có từ "Kỷ nguyên vàng" vào nửa sau thế kỷ 19, khi nhiều người nổi tiếng và các nhà cai trị hàng đầu của châu Âu đến để tận hưởng các suối carbon dioxide để chữa bệnh. Trung tâm thị trấn với cảnh quan văn hóa spa được bảo tồn tốt và được pháp luật bảo vệ như một khu bảo tồn di tích đô thị. Năm 2021, thị trấn trở thành một phần của Di sản thế giới được UNESCO công nhận với tên gọi "Các thị trấn Spa lớn của châu Âu" vì có suối nước và kiến ​​trúc chứng tỏ sự phổ biến của các thị trấn spa ở châu Âu trong suốt thế kỷ 18 đến 20. Lịch sử. Những cư dân Đức đã được các nhà cai trị Bohemia dưới Vương tộc Přemysl kêu gọi đến đây vào thế kỷ 12. Mặc dù bản thân thị trấn này có tuổi đời khoảng hơn 200 năm nhưng đây đã là khu định cư từ lâu hơn nhiều. Bản ghi chép đầu tiên có từ năm 1273, khi có một ngôi làng tên là Úšovice. Các con suối được nhắc đến trong một tài liệu có niên đại từ năm 1341 khi chúng được gọi là "các suối Auschowitzer" thuộc Tu viện Teplá. Nhờ những nỗ lực của Josef Nehr, bác sĩ của tu viện, người từ năm 1779 đến khi qua đời vào năm 1820 đã làm việc chăm chỉ để chứng minh các đặc tính chữa bệnh của suối nước, khi đó mới bắt đầu được sử dụng cho mục đích y học. Thị trấn hiện tại có tên là Marienbad vào năm 1808 và chính thức được công nhận là thị trấn vào năm 1868. Vào đầu thế kỷ 20, khoảng một triệu chai nước khoáng đã được xuất khẩu đi từ thị trấn. Thị trấn spa hiện đại được thành lập bởi các trưởng tu viện của Teplá, cụ thể đó là Karl Kaspar Reitenberger, người cũng đã mua một số khu rừng xung quanh để bảo vệ chúng. Thung lũng đầm lầy hiếu khách đã được thay đổi thành một vùng nông thôn giống như một công viên với hàng cột, các tòa nhà Tân cổ điển và các đình lâu xung quanh suối. Kỷ nguyên vàng của thị trấn bắt đầu từ năm 1870 đến năm 1914 khi nhiều khách sạn mới, hàng cột và các tòa nhà khác đã được xây mới hoặc tái thiết từ những ngôi nhà cũ. Năm 1872, thị trấn được kết nối bằng tuyến đường sắt với thị trấn Cheb, kết nối với toàn bộ Đế quốc Áo-Hung và phần còn lại của châu Âu. Nó nhanh chóng trở thành một trong những thị trấn spa hàng đầu của châu Âu, với những nhân vật nổi tiếng và những nhà cai trị thường ghé tới như Johann Wolfgang Goethe, Frédéric Chopin, Thomas Edison, Richard Wagner, Friedrich của Sachsen, vua Edward VII của Vương quốc Anh, Sa hoàng Nikolai II của Nga, và Hoàng đế Franz Joseph I của Áo cùng nhiều người khác. Vào thời điểm đó, khoảng 20.000 du khách đến đây hàng năm. Nó cũng là một địa điểm nghỉ ngơi và nghỉ mát nổi tiếng cho các giáo sĩ Do Thái châu Âu và những người theo đạo Do Thái giáo Hasidim, đáp ứng nhu cầu bằng các nhà hàng phục vụ ăn kiêng, dịch vụ cầu nguyện tôn giáo. Marienbad vẫn là một điểm đến nổi tiếng vào khoảng thời gian giữa hai Thế chiến thứ nhất và thứ hai. Sau Thế chiến thứ hai, người dân gốc Đức ở thị trấn đã bị cưỡng chế trục xuất theo thỏa thuận Potsdam, nên đa số dân cư ở đây phải rời bỏ thị trấn. Sau cuộc Đảo chính Tiệp Khắc năm 1948, nó bị phong tỏa và cấm hầu hết du khách nước ngoài. Sau khi nền dân chủ trở lại vào năm 1989, nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đưa thị trấn về với những đặc điểm ban đầu của nó. Ngày nay nó là một thị trấn spa và một khu nghỉ mát nổi tiếng nhờ vị trí của nó giữa những ngọn núi xanh của rừng Slavkov và Thượng Palatine, các địa điểm thể thao và các thị trấn spa khác là Karlovy Vary (Carlsbad) hoặc Františkovy Lázně (Franzensbad).
1
null
Mikulášovice (Đức Nixdorf) là một thị trấn ở phía tây của Sluknov trải dài gần 7 km. Mikulášovice trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất, có ít hơn tám nghìn người, la một ngôi làng lớn nhất ở Áo-Hungary. Thành phố này đã được nâng cấp từ 1916 Mikulášovice được biết đến chủ yếu là hàng dệt may truyền thống, ngành công nghiệp dao kéo Thành phố có nguồn gốc tên của Đức là Nixdorf trong từ Nix - là nữ thần trinh nữ nước. Trong vùng của Mikulasovice trước đây họ đã tìm thấy một đầm lầy rộng lớn (anh Sumpf der.) Được cho là nơi sinh sống của nàng tiên cá - do đó họ đặt tên là Nixensumpf (Bog nàng tiên cá), sau đó một thời gian lại đổi là Nixendorf (Ves tiên). Sự thật là, đây là một vùng rất lãng mạn. sau đó Czech, Đức đã có cái tên riêng là Nicolas / Nicholas. [2] Tên thành phố ổn định và đăng ký khác nhau qua nhiều thế kỷ đã thay đổi đáng kể. Nó đã được đề cập lần đầu tiên vào thế kỷ 14 như Nixendorf sau đó là Nickelsdorff (1422), Nickilstorf (1451), Nicklauszdorff (1495), Niexendorffl (1544), Nyklsdorf (1654), Nikolstorff (1684) hoặc Niclsdorf (1720). [3 ] Từ giữa thế kỷ 18, cái tên ổn định để tạo thành Nixdorf. Rất hiếm khi xảy ra và tên thành phố Séc:. Mykulassowic (1422) và Mikulassowicz (1544) [3] Tên Mikulášovice Czech đã chính thức được thành lập vào năm 1854 và vẫn được sử dụng ngày hôm nay.  Lịch sử [sửa | sửa nguồn]  Trong thế kỷ 12 đã có một số gia đình của Colliers. Đức Giám mục của Meissen củng cố ngôi làng, trong đó có một nhà nguyện bằng gỗ dành riêng cho St.. Nicholas. Dần dần, người dân bắt đầu chú ý hơn đến sản xuất nông nghiệp. Trong thế kỷ 18, từ Mikulášovice trở thành thành phố công nghiệp quan trọng. Hình thành và nhà máy nghiền đầu tiên và phát triển ngành công nghiệp dao kéo. Năm 1794 bắt đầu sản xuất dao kéo Ignaz Rosler, công ty này được đặt tên vào năm 1817 như là một hàng hóa nhà máy thép nhỏ, sau đó điều chỉnh cho nhà máy sản xuất các sản phẩm thép theo Ignatius Rosler, sau đó con trai dao nhà máy Ignaz Rosler và 1945-1946 Ignatius Rosler và con trai thuộc quyền quản lý quốc gia. Sự bùng nổ lớn nhất trong ngành công nghiệp này sau đó đạt trong thế kỷ 19, dựa nhiều nhà máy là 1870 Franz Frenzel (FRENIX), 1885 Julius Pilz và sau đó Giăng. Edward Dittrich, Hubert Knoth và các nhà máy khác với nhân viên nhiều hơn hoặc ít hơn. Năm 1955, các cơ sở của các công ty quốc gia được thành lập MIKOV rằng trong các cơ sở cũ của công ty dao Ignaz Rosler'S Sohne vẫn còn được sản xuất ngày hôm nay, là người mang cuối cùng của truyền thống này. Năm 1891, có một trường học dựa trên các ngành công nghiệp dao kéo (1954 chuyển qua các cuộc biểu tình của công dân và MNV Mikulášovice để Varnsdorfu).  Mikulášovice Trở thành một trong những lớn nhất đến các làng của cựu đế quốc Áo-Hung. 1 tháng 2 năm 1916 Hoàng đế Franz Joseph I. trở thành một thị trấn. Trong những năm chiến tranh, công nghiệp địa phương tập trung vào sản xuất vũ khí chiến tranh. Trong nhiều nhà máy sử dụng lao động cưỡng bức và tù nhân chiến tranh.   Dân tộc học, hải quan [sửa | sửa nguồn]  Dân số [sửa | sửa nguồn]  Theo cách giải quyết ban đầu của Sluknov- Đức, cho biết địa danh của Slavic, đặc biệt là giải quyết Sorbian. Sau đó khu vực này đã thuộc địa của dân Đức, có thể là từ Thuringia. Dân số - Năm 1818, toàn bộ Mikulášovice đã có 3807 người vào năm 1869, 5787 cư dân. năm 1910 và có 7665 cư dân. Trong cuộc chiến đó được cho là sống buộc nasazenýma khoảng 10.000 người. Sau khi thế giới thứ hai. cuộc chiến tranh năm 1950 dân số thành phố 3044, con số này giảm xuống còn hiện tại 2250 dân số (2011) (Trần Hiếu) 
1
null
hay còn gọi tắt là Ten, là một truyện tranh của Nhật Bản do Fukumoto Nobuyuki, sáng tác, với nội dung xoay quanh trò chơi mạt chược. Nó được phát hành vào năm 1989, trong thời gian kinh tế Nhật Bản đang trong giai đoạt phát triển mạnh mẽ và các truyện tranh về thể loại cờ bạc cũng đang thịnh hành. Cốt truyện. Một ngày nọ, Ten Takashi được gọi đến một câu lạc bộ mạt chược để thi đấu với Ikawa Hiroyuki, một tay chơi mạt chược trẻ tuổi. Nhiệm vụ của Ten là "cứu bồ" cho một người bạn đang bị Hiroyuki đánh thua tơi tả. Cuối cùng, Ten đã giành chiến thắng trước Hiroyuki bằng cách... ăn gian, điều này khiến Hiroyuki rất tức giận. Tuy nhiên, sau đó, liệu Hiroyuki có hiểu được ý nghĩa trong cách chơi của Ten và hiểu tại sao Ten lại cố ý chơi ăn gian và sau đó lại thú nhận "tội lỗi" và mặc tình cho đối thủ của mình đánh đập để xả cơn tức ? Và liệu Ten có thực sự bộc lộ năng khiếu về chơi mạt chược của minh hay cứ tiếp tục ăn gian như thế ?
1
null
Trong lịch sử Việt Nam thời kỳ phong kiến, có một số người dù chưa hề làm vua, nhưng do có quan hệ thân thích với dòng họ các vua chúa nên được các vương triều truy tôn danh hiệu vua chúa. Tương tự như một số nước Trung Quốc và Triều Tiên. Thân thế. Những người được truy tôn vua chúa có nhiều xuất phát điểm khác nhau:
1
null
Olšany là một làng và khu tự quản "(obec)" thuộc huyện Jihlava, vùng Vysočina, Cộng hòa Séc.Thành phố này có diện tích 7,3 km2 (2,8 dặm vuông) và có dân số 71 người (tính đến ngày 28 tháng 8 năm 2006). Olšany nằm khoảng 23 km (14 mi) về phía nam Jihlava và 130 km (81 mi) về phía đông nam Prague.
1
null
Oprostovice là một làng thuộc huyện Přerov, vùng Olomoucký, Cộng hòa Séc. Đô thị này có diện tích 2,66 km vuông, và có dân số 110 người (vào ngày 3 tháng 7 năm 2006). Oprostovice có cự ly khoảng 13 km (8 dặm) về phía đông của Přerov, 30 km (19 dặm) về phía đông nam Olomouc, và 240 km (149 dặm) về phía đông của Praha.
1
null
Mẫn Bá Xuân (sinh năm 1977) là một võ sĩ đô vật người Việt Nam. Anh được xem là vận động viên đấu vật giàu thành tích nhất của Việt Nam với 13 chức vô địch quốc gia. Trong đấu trường quốc tế, anh cũng đã có được một bộ sưu tập với 5 huy chương vàng SEA Games và một lần giành hạng 4 tại giải Vô địch châu Á. Thân thế và sự nghiệp. Anh sinh năm 1977 tại Yên Phong, Bắc Ninh trong một vùng đất giàu truyền thống của bộ môn vật. Được huấn luyện viên Nghiêm Xuân Thái phát hiện lần đầu tiên từ một giải vật làng, Mẫn Bá Xuân được tuyển vào đội vật Quân đội và từ đó, liên tục thăng tiến. Ngoài 13 chức vô địch quốc gia và 5 HCV SEA Games, Mẫn Bá Xuân còn một lần giành hạng 4 tại giải VĐ châu Á. Hiện tại, anh đang là Huấn luyện viên đội tuyển vật Quân đội, hàm Trung tá và đang theo học cao học Đại học TDTT Trung ương I – môn vật.
1
null
Nhân Bạng Ba (Rin spungs pa, tiếng Hán: 仁蚌巴, bính âm: Rinpungpa) là một chính quyền đã thống trị phần lớn miền tây Tây Tạng và một số phần của miền Trung Tây Tạng từ năm 1440 đến năm 1565. Trong một giai đoạn quanh năm 1500, lãnh chúa của Nhân Bạng Ba đã tiến gần đến việc tập hợp các vùng đất của người Tạng xung quanh sông Yarlung Tsangpo dưới một chính quyền duy nhất, song sức mạnh của họ đã đi xuống sau năm 1512. Tiến đến quyền lực. Nguyên là các lãnh chúa của thái ấp Rinbung tại Tsang (Tây-Trung Tây Tạng), họ đã tận dụng một mối thù gia tộc bên trong triều đại Phách Mộc Trúc Ba (Phagmodrupa) vào năm 1434-35 và chiếm lấy cung Shigatse trọng yếu. Các thành viên của gia đình này là những người bảo trợ cho Ca nhĩ cư phái của Phật giáo, đối nghịch với Cách lỗ phái. Trong khi vẫn công nhận Phách Mộc Trúc Ba, họ sau đó đã xây dựng cho mình một thế lực hùng mạnh, lấy tước hiệu desi (nhiếp chính). Các vua Phách Mộc Trúc Ba là Drakpa Jungne (trị vì 1435-45) và Kunga Lekpa (trị vì 1448-81) đều có mẹ là các công chúa của Nhân Bạng Ba. Kunga Lekpa kết hôn với một con gái của lãnh chúa Nhân Bạng Ba, song cuộc hôn nhân đã bị quấy nhiễu bởi xung đột và một người bà con của bà là Donyo Dorje cuối cùng đã xâm lược lãnh địa trung tâm của nhà vua và buộc người này phải thoái vị vào năm 1481. Đỉnh cao của quyền lực chính trị. Mười năm sau, chú của Donyo Dorje là Tsokye Dorje lên làm nhiếp chính tại kinh đô Nêdong (1491-1499) của Phách Mộc Trúc Ba khi người kế vị Ngawang Tashi Drakpa còn ở tuổi vị thành niên. Vào những năm quanh 1500 đã chứng kiến đỉnh cao của quyền lực Nhân Bạng Ba, và thẩm quyền của Donyo Dorje gần như là tuyệt đối, được ủng hộ của các Cát mã ba (Karmapa) và Hạ mã ma (Shamarpa). Nhân Bạng Ba cũng có các hoạt động nhằm mở rộng quyền lực chính trị về phía tây. Năm 1499, vương quốc Cổ Cách tại Ngari (miền Tây Tây Tạng) đã phải thừa nhận Nhân Bạng Ba. Thụt lùi ở phía đông. Do áp lực từ các Cát mã ba và những người bảo trợ Nhân Dạng Ba của họ, Cách lỗ phái bị cấm tham gia vào lễ kỉ niệm năm mới và đại lễ Monlam tại Lhasa từ năm 1498 đến 1517. Tuy nhiên, sau cái chết của các lãnh chúa đầy quyền lực là Tsokye Dorje (1510) và Donyo Dorje (1512), sức mạnh của Nhân Bạng Ba bị suy giảm. Vào đầu thế kỷ thứ 16, Ngawang Tashi Drakpa của Phách Mộc Trúc Ba đã lấy lại ảnh hưởng trên một mức độ nhất định. Ông ta thân thiết với lãnh đạo Cách lỗ phái Gedun Gyatso (được tính là Đạt Lai Lạt Ma thứ hai), phe Ca nhĩ cư phái bị trục xuất ra khỏi Lhasa. Quyền lực trực tiếp của Nhân Bạng Ba tại Ü từ đó trở nên hạn chế. Các mối đe dọa từ bên ngoài và sụp đổ. Các thập niên tiếp theo đã chứng kiến các xung đột và hòa giải tạm thời giữa các phe phái ở miền trung của Tây Tạng. Năm 1532, cuộc xâm lược của tướng Hồi giáo Mirza Muhammad Haidar Dughlat (theo lệnh người cai trị Kashgar) đã đe dọa các lãnh địa của Nhân Bạng Ba trong một thời gian ngắn. Sự suy tàn quyền lực của Nhân Bạng Ba được đánh dấu bằng một cuộc xâm lược thất bại của vương quốc Ma Vực Cống Đường (Mangyül Gungthang) ở miền tây Tây Tạng vào năm 1555. Năm 1557, một trong những thuộc hạ của lãnh chúa Nhân Dạng Ba, Karma Tseten, người quản lý Shigatse từ 1548, đã nổi loạn. Đến năm 1565, người cai trị cuối cùng của Nhân Bạng Ba là Ngawang Jigme Drakpa đã bị Karma Tseten đánh bại, người này lập ra triều đại Tạng Ba.
1
null
Cá chim giấy tròn (danh pháp khoa học: Platax orbicularis) là một loài cá thuộc họ Cá tai tượng biển (Ephippidae). Trong tự nhiên, loài cá này được tìm thấy trong vùng nước lợ hoặc nước mặn, thường là xung quanh các rạn san hô, ở độ sâu 5-30 mét. Phạm vi của nó kéo dài từ Biển Đỏ và Đông Phi ở phía đông đến quần đảo Tuamotu ở Polynesia thuộc Pháp ở phía tây, và từ miền nam Nhật Bản ở phía Bắc tới miền bắc Australia và New Caledonia. Nó đã được ghi nhận ngoài khơi bờ biển của Florida, mặc dù điều này có thể là kết quả của việc cá nuôi cảnh bị thả ra. Cá non sống đơn độc hoặc sống trong các nhóm nhỏ, trong số những rừng ngập mặn, đầm phá bên trong phá kín. Con trưởng thành được tìm thấy ở vùng biển mở rộng hơn và sâu hơn.
1
null
Tsangpa () hay Tạng Ba () là một triều đại thống trị phần lớn Tây Tạng từ năm 1565 đến 1642. Đây là triều đại hoàng gia Tây Tạng cuối cùng cai trị dùng tên triều đại của mình. Chính quyền do Karma Tseten thành lập, ông nguyên là một hầu cận của lãnh chúa triều đại Nhân Bạng Ba và được giao cai quản Shigatse tại Tsang (Tây-Trung Tây Tạng) từ năm 1548. Thay thế Nhân Bạng Ba. Vào thế kỷ 16, Tây Tạng bị phân chia giữa các phe nhóm kình địch nhau, cũng như giữa các hệ phái tôn giáo và các dõng dõi vương triều. Triều đại Phách Mộc Trúc Ba cũ để mất tất cả quyền lực trên danh nghĩa từ sau năm 1564, còn Nhân Bạng Ba kình địch cũng không thể đạt được sự thống nhất trên toàn bộ Tây Tạng. Trong các tông phái Phật giáo, Ca nhĩ cư phái hoàn toàn chống lại Cách lỗ phái (là giáo phái có người đứng đầu về sau được gọi là Đạt-lại Lạt-ma). Theo tư liệu cổ, Karma Tseten có được một đội kị binh bằng cách thay đổi một tài liệu do lãnh chúa Nhân Bạng Ba của mình đưa ra. Ông sau đó nổi loạn vào năm 1557, và thay thế Nhân Bạng Ba vào năm 1565. Được biết đến với tên gọi Depa Tsangpa hay Tsang Desi, ông trở thành vua của Thượng Tsang và liên minh với "Karmapa Mũ đỏ" thứ năm hay chủ trì Shamarpa của tông phái Karma Kagyu, Köncho Yenlak. Cuộc chiến chống lại Cách lỗ phái. Lịch sử triều đại dưới thời những người kế vị gần nhất của Karma Tseten không được biết rõ, song vào đầu thế kỷ 17 thì triều đại thường xuyên được đề cập đến như là một đối thủ cạnh tranh quyền lực tại Tây Tạng. Gia tộc này thường phản đối Cách lỗ phái và Đạt-lại Lạt-ma, trong khi đó, quyền lực của Đạt-lại Lạt-ma lại gia tăng ở Ü (Đông-Trung Tây Tạng). Người cai trị Tạng Ba Karma Phuntsok Namgyal (hay theo một nguồn khác là Karma Tensung) đã phản ứng bằng cách xâm nhập Ü từ căn cứ tại Tsang vào năm 1605 và tấn công các tu viện Phật giáo Drepung và Sera. 5.000 sư tăng được cho là đã bị tàn sát trong sự kiện này. Tạng Ba trục xuất quân Mông Cổ đễn hỗ trợ Đạt-lại Lạt-ma thứ 4 Vân-đan Gia-thố, bản thân vị Lạt-ma này xuất thân là một hoàng tử Mông Cổ. Vân-đan Gia-thố đã phải chạy trốn và người cai trị Tạng Ba đã tiến gần hơn đến chỗ trở thành vua của toàn cõi Tây Tạng. Năm 1612 và 1613, ông khuất phục một số thế lực địa phương tại miền tây của Tây Tạng: Ngari Gyalpo, Lhopa và Changpa. Ông đã không quá thành công khi chống lại Bhutan, nơi một kình địch của ông tên là Ngawang Namgyal, trụ trì của Ralung, đang nương náu. Mở rộng và đối phó người Mông Cổ. Năm 1618, Tạng Ba đưa quân sâu hơn nữa vào Ü và đánh bại các lãnh đạo địa phương là Kyishod và Tsal. Đến năm 1619, vương quốc Mang Vực Cống Đường (Mangyül Gungthang) ở miền tây của Tây Tạng đã bị chinh phục. Tuy nhiên, quyền bá chủ của Tạng Ba chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Sau cái chết của Vân-đan Gia-thố, Đạt-lại Lạt-ma kế vị là La-tang Gia-thố (1617–1682) đã nhận được sự giúp đỡ từ các bộ lạc Mông Cổ. Người Mông Cổ tiến vào Ü vào năm 1621 và 1635, đánh bại quân Tạng Ba. Cùng lúc đó, người cai trị Tạng Ba là Karma Tenkyong bị Ladakh ở phía tây đe dọa, mặc dù hai bên không bao giờ xảy ra chiến tranh trên thực địa. Chiến thắng của Đạt-lại Lạt-ma. Năm 1641, người lãnh đạo của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đặc) của người Mông Cổ tại vùng Kokonor, Cố Thủy Hãn (Gushri Khan), từ vùng đất của mình bắt đầu tấn công vua của Beryli, thuộc Kham (Đông Tây Tạng), đây là vị vua hành đạo Bön và ngược đãi các Lạt-ma Phật giáo. Sau khi đánh bại Beryli, ông tiến công và bắt Karma Tenkyong vào năm 1642. Sau một cuộc nổi dậy của những người ủng hộ Tạng Ba vào cùng năm, Cố Thủy Hãn đã ra lệnh đưa Karma Tenkyong và một túi bằng da bò và khiến vị vua cũ chết đuối trong một con sông. Cố Thủy Hãn dâng Ü, Tsang và một phần Đông Tây Tạng cho Đạt-lại Lạt-ma. Điều này đã khởi đầu cho một nhà nước Tây Tạng dựa trên cơ sở pháp đạo tồn tại cho đến năm 1950.
1
null
Trinley Gyatso hay phiên âm theo Hán Việt là "Thành-liệt Gia-mục-thố" (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1857 – mất ngày 25 tháng 4 năm 1875), cũng viết là Trinle Gyatso và Thinle Gyatso, là Đạt-lại Lạt-ma thứ 12 của Tây Tạng. Cuộc sống ngắn ngủi của ông trùng hợp với thời điểm diễn ra tình trạng bất ổn chính trị lớn và các cuộc chiến tranh giữa các láng giềng của Tây Tạng. Nhà Thanh trước đó đã cung cấp một số hỗ trợ cho Tây Tạng để chống lại đế quốc Anh, thế lực muốn lập ảnh hưởng tại Tây Tạng từ thuộc địa của họ tại Ấn Độ. Ông được công nhận như là một hóa thân của Đức Đạt-lại Lạt-ma vào năm 1858 và đăng cơ vào năm 1860. Trong thời gian ông còn là một đứa trẻ và được dạy dỗ, Tây Tạng đã cấm người Âu tiến vào đất nước của mình do người Anh tiến hành các cuộc tấn công chống lại Sikkim và Bhutan, cả hai nước này đều được các Lạt-ma tại Lhasa kiểm soát ở một mức độ đáng kể. Các cuộc chiến tranh này được xem là nỗ lực để thực dân hóa Tây Tạng, một điều mà các Lạt-ma không thể chấp thuận. Ngoài ra, để đối phó với việc các nhà truyền giáo đe dọa tiến vào Tây Tạng qua sông Mekong và sông Salween, người Tạng đã cố gắng nhấn mạnh quyền lực của nhà Thanh đối với Tây Tạng trong thập niên 1860. Thành-liệt Gia-mục-thố được đăng cơ Đạt-lại Lạt-ma một cách đầy đủ vào ngày 11 tháng 3 năm 1873 song không thể chứng tỏ quyền lực đầy đủ của mình trên khắp Tây Tạng bởi ông đã qua đời vì một căn bệnh bí ẩn vào ngày 25 tháng 4 năm 1875.
1
null
Khedrup Gyatso hay phiên âm theo Hán Việt là Khải-châu Gia-mục-thố (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1838 – mất ngày 31 tháng 1 năm 1856) là Đạt-lại Lạt-ma thứ 11 của Tây Tạng. Ông được công nhận là hóa thân thứ 11 của Đạt-lai Lạt-ma vào năm 1840, ông xuất thân từ cùng một ngôi làng với Cách-tang Gia-mục-thố, Đạt-lại Lạt-ma thứ 7, sinh năm 1708. Năm 1841, Ban-thiền Lạt-ma thứ 7, Palden Tenpai Nyima, đã làm lễ tôn phong, cắt tóc và ban cho ông tên gọi là Khải-châu Gia-mục-thố. Năm 1842, ông đăng cơ tại cung điện Potala và đến năm 1849, ở tuổi 11, ông được Ban-thiền Lạt-ma thứ bảy tuyên bố bắt đầu tu hành. Ông nắm đầy đủ quyền lực theo thỉnh cầu của chính quyền vào ngày 1 tháng 3 năm 1855. Tuy nhiên, ông đã qua đời chưa đầy một năm sau đó, và trở thành hóa thân Đạt-lại Lạt-ma thứ ba chết khi còn ở tuổi quá trẻ. Ông có viết một cuốn sách thơ, "Câu chuyện của khỉ và chim" ("Bya sprel gyi gtam-rgyud"). Đó là một chuyện ngụ ngôn về cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ 18 giữa người Tạng và người Gurkha (tương ứng là "chim" và "khỉ"). Trong giai đoạn Khải-châu Gia-mục-thố sống, chiến tranh tại Ladakh đã làm suy yếu sức mạnh của các vị Lạt-ma trên cao nguyên Thanh-Tạng và Chiến tranh Nha phiến cùng khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc đã làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Tây Tạng. Vào những năm cuối ông cai trị, người Nepal đã xâm lược Tây Tạng, song đã thất bại trong chiến tranh Nepal-Tây Tạng (1855–1856). Ông đột ngột qua đời tại cung điện Potala, Lhasa, Tây Tạng vào ngày 31 tháng 1 năm 1856.
1
null
là một loài cá thuộc họ Cá tai tượng. Loài cá này phân bố ở Ấn Độ-Tây Thái Bình Dương. Nó đôi khi dài đến 70 cm. Tại Úc, nó có thể được tìm thấy từ bờ biển trung tâm của Tây Úc, xung quanh phía bắc nhiệt đới của đất nước và phía nam đến bờ biển phía nam của New South Wales. Chúng sinh sống trong môi trường sống nông ven biển ngoài khơi sâu hơn. Nó là loài ăn tạp, chúng ăn sinh vật phù du, động vật không xương sống không cuống, động vật không xương sống nhỏ, và tảo biển.
1
null
FV102 Striker là tên một loại xe chở tên lửa điều khiển chống tăng thuộc dòng CVR(T) và phục vụ cho quân đội Anh. Sơ lược. FV102 Striker sử dụng tên lửa điều khiển chống tăng Swingfire thuộc dòng CVR(T). FV102 Striker có nhiều điểm tương đồng với mẫu FV103 Spartan nhưng nó khác ở chỗ là có thể mang được 5 tên lửa ở phía sau xe sẵn sàng để khai hỏa bất cứ lúc nào. Ngăn chứa tên lửa nâng lên 35º(622mils) để bắn. Ống ngắm có thể được tháo ra và ngắm từ xa ở một khoảng cách an toàn, tên lửa có thể được bắn lên cao 90 độ trước khi nó lao xuống mục tiêu.Tên lửa được dẫn đường bằng hệ thống MCLOS, về sau sử dụng hệ thống dẫn đường SACLOS. Vũ khí phụ là súng máy đa chức năng. Phát triển. Striker được sử dụng để phóng tên lửa Swingfire. Những mẫu đầu tiên được sản xuất vào năm 1975 và được chuyển cho lực lượng pháo binh. Mẫu đầu tiên sử dụng động cơ Jaguar J60 dung tích 4.2 l, 6 xy-lanh, dùng xăng để chạy. Về sau, nó được thay thế bằng động cơ diesel Cummins BTA 5.9 thông qua chương trình CVR(T) LEP. Lịch sử hoạt động. Striker lần đầu tiên hoạt động vào năm 1976, phục vụ cho lực lượng pháo binh Anh Quốc. Về sau, nó được chuyển qua lực lượng thiết giáp Anh Quốc và phục vụ với vai trò xe tăng do thám. FV102 Striker thôi phục vụ cho lực lượng Anh Quốc vào giữa năm 2005 và tên lửa Swingfire được thay thế bằng Javelin.
1
null
Skuteč là một thị trấn thuộc huyện Chrudim, vùng Pardubický, Cộng hòa Séc. Tham khảo. theo các tài liệu lâu đời nhất tên của lãnh thổ là đã Skutče (Bảo tàng trong thành phố Skuteč), mà được xác nhận bởi nhiều phát hiện quan trọng và lấy từ tzv.polodrahokamů, được tìm thấy trong vùng lân cận (ví dụ như giữa Borek và Malhoští) và được lưu giữ trong các viện bảo tàng thành phố. [ nguồn? ] Văn bản đầu tiên đề cập đến các ngôi làng dọc theo các tuyến đường thương mại từ năm 1289. [ nguồn? ] đề cập đến Giáo hội của Assumption của Maria, xây dựng lại theo một phong cách Gothic của Wartenberg Benes và vợ Dorothea Berka của Dube năm 1355. Bên cạnh một số Gothic yếu tố và các chuông trong số 35 tháp m cao và sanktusníku nó vẫn được duy trì và Renaissance dàn hợp xướng, đá rửa tội phông chữ và Gothic cuối một tác phẩm điêu khắc của Môi-se giữ Mười Điều Răn trên bục giảng cơ sở. Tranh of the Assumption của Maria trên bàn thờ chính là một bản sao của Peter Brandl, thực hiện trong 18 thế kỷ. Đối với cùng một khoảng thời gian là các bàn thờ phụ và hợp xướng của Maria và Thánh Gioan Nepomuk (1761-1769). Hai bên dưới bàn thờ phụ Baroque Renaissance ca đoàn loft năm 1729 (St Anne mẹ của Maria, Thánh Phanxicô Xavier và St Francis Seraphim). Về phía bắc của nhà thờ gần đây đã được phát hiện ra bức bích họa thời trung cổ. Xung quanh ngôi đền, cho đến 1815, làm việc nghĩa địa, sau đó chôn cất špitálního tại nhà thờ. Vẫn còn được bảo quản tốt mộ trang trí công phu của John Felix Chuchle Nestajova của 1732. Nhà thờ của Hoàng tử. Wenceslas trong mục địa phương ngày hôm nay của Lažany thậm chí còn lớn hơn, đã có từ thời kỳ La Mã với các yếu tố Romanesque bảo quản chỉ trong tháp và dàn hợp xướng. Nó đã chôn vùi chủ sở hữu bất động Rychumburského Berka, người đã cho nhà thờ đầu tiên trong Janovičkách địa phương chăn nuôi mặc cô ấy bữa ăn đáng tiếc và sau đó tại một bức tường lâu đài gần trong cô con gái Margaret. Trong quá trình xây dựng lại lâu đài trong thời gian Đệ Nhất Cộng Hòa, ngay cả trong xương Gothic con người thích hợp được tìm thấy. Berka luôn luôn tiếp xúc tại thời điểm hành hương, nhưng một số người hành hương từ cắt dây da may mặc của mình và như vậy từ các tiếp xúc đồng thời "císařpána" bị bỏ rơi. Trước khi tài liệu lịch sử thậm chí Skuteč lâu đài Humperka, [ nguồn ] có thể chủ yếu bằng gỗ, đứng trên một tảng đá giữa ngày hôm nay skutečským sân bay và ga xe lửa. Có lẽ trong đầu 13 thế kỷ hiện tại quảng trường chính của Đệ Nhất Cộng Hòa tên là Palacký với gothic sau đó xây dựng lại nhà ở một số và hầu hết của các trạm lang thang hiện nay (Nádražní) trước đây có tên là Masaryk. Thực tế đã có những vốn phải với các giàn giáo và các Sedlacek Augusta cũng là tài liệu nhà kata với một cổng thông tin Gothic (thể hiện bởi Karl Liebscher một phần Chrudimsko Sedláček "lâu đài, cung điện và pháo đài Czech") trong ngày hôm nay của Heydukova (Lažanský) đường phố. [ nguồn? ] Năm 1457 được nhớ tên Matthew Hiệu trưởng của trường, cũng là thư ký và là người sáng lập của thành phố lâu đời nhất được gọi là "Yellow Book". Thực tế thời trung cổ được biết đến như là một ngôi biệt thự thành phố mở, tuy nhiên, là bất kỳ bức tường và cửa để nhập vào các đêm, chứng minh xem các bên phía tây của các hình vuông từ Fimberka với bức tường lớn ở mặt sau của các nhà ban đầu Gothic và thậm chí các hình dạng và tên của đường phố trong hàng. Trong Công vụ các nhà thờ Sở (đã đề cập càng sớm như 1655), và sau đó phụ tỉnh. Late tòa nhà Renaissance đã được bảo quản trong của Dean Office Baroque tái thiết, trong fifties, tuy nhiên, đã được phá bỏ bức tường phòng thủ xung quanh chức tu viện trưởng những là một cửa Baroque với một bức tượng của Maria (bức tượng được có thể tìm thấy trong các lưu ký của các bảo tàng thành phố). Một số phận tương tự cũng có bức tượng Baroque của Thánh Lawrence và mối đe dọa gần đó là một cầu thang Baroque đền thờ của hiệu trưởng với những bức tượng của Thánh Wenceslas và St đầu Ludmila và dưới của tượng đài bằng cách gạch chéo trên mặt đất là phần mở rộng đường. Hành vi Năm 1774, Đức Giáo hoàng đã được sinh ra ở Prague âm nhạc Vaclav Jan Tomasek, người được chôn cất trong Lesser nghĩa trang, thích nghi với công viên (tượng đài lớn trong hình dạng của cây đàn lia của David). Trong bảo tàng của thành phố sống và làm việc soạn nhạc Vitezslav Novak, người đã viết cantata Glory cho Ngài Masaryk, lần đầu tiên được thực hiện tại trạm Wilson vào ngày thứ Bảy 21 1918, sự trở lại chiến thắng của Tomas Garrigue Masaryk, sau khi Thế Chiến II tại Prague. Đã có trong 18 Skuteč thế kỷ chỗ của tòa án huyện (xem hình ảnh này để xây dựng Baroque Marian cột), trường học tốt (tòa nhà văn phòng, thành phố trực thuộc Trung ương trong hình vuông) và trong thế kỷ 19 thậm chí một khu vực chính trị. Dòng chảy qua Biega vuông, vượt qua trước nhà thờ provost of the Assumption của Maria đá cầu, với một bức tượng của Thánh Gioan Nepomuk từ 1750. Vào lúc bắt đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa đã được chuyển đổi thành con lạch thoát nước và một bức tượng của Thánh Gioan Nepomuk đã được chuyển tới nhà Gothic trong các cựu Masaryk Street, nơi nó đứng ngày hôm nay. Nó được xây dựng Sokol, sau đó được chuyển đổi thành một rạp chiếu phim -đa. Tại thời điểm đó, thậm chí Skuteč sắt phòng tắm chung quanh nhà thờ của Thánh Anne, vào đầu thế kỷ XIX và đi lưu diễn Vitezslav Novak và Nuselsky bản địa, violin bậc thầy Vasa Prihoda, có một biệt thự Anenské thung lũng. Có phải tất cả của nước Cộng hòa đầu tiên là Skuteč chỗ ngồi của khu tư pháp. Tòa án huyện đóng vai trò nhà văn Francis Jaromir Rubes, tác giả của câu tục ngữ "chào at vrbiček" và thuật ngữ "khóa Franc của ông," dựa từ năm 1853 tại nghĩa trang địa phương cũ, được thành lập ngay sau khi Giáo hội bị bỏ hoang của (sau khi năm 1815). Trong Công Vụ cũng 30 Tháng mười 1812 sinh nhà văn và nhân văn Anthony Rybička (Skuteč), bằng chứng là một tấm bảng tại nơi sinh của ông. Nhà soạn nhạc và dẫn Anthony 9, được biết đến từ hành động hơn nữa trong Pilsen, trong Skuteč sinh ngày 12 Tháng Sáu. 1903 Giấc mơ Skutečských của công dân của nước Cộng hòa thứ nhất là nền tảng và xây dựng một khu bệnh viện trong Skuteč. Joseph Clement Apron và Doctor Venison tặng cho mục đích này nhà của họ trong các cựu Masaryk đường phố. Sự ra đời của những kẻ chiếm đóng và tình hình sau chiến tranh (hơn 2000 người đã Skutečských cư Liberec, đặc biệt là thành phố Hejnice) tất cả nhưng hy vọng tiêu tan. Doanh thu nội địa trong Skuteč được thành lập vào năm 1850, khi ông trở thành Doanh thu gneis rychmburského động sản và sau đó làm việc như là một quận cho đến năm 1949. Sau đó, ông bị chuyển đến Hlinska ở Bohemia. Kể từ năm 1991 thuộc Skuteč huyện thuế văn phòng ở Chrudim. High School nhà nước trong Skuteč kết thúc trong những năm sáu mươi của thế kỷ (20), hôm nay trong Giáo hội Skuteč thứ tự tập thể dục có chủ quyền của các Hiệp sĩ của Malta.
1
null
Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm (còn được gọi là Vinh Sơn Lê Quang Liêm, Vinh Sơn Hòa Bình, Vicente de la Paz 1732 – 1773) là một linh mục Dòng Đa Minh và là một vị thánh tử đạo Việt Nam. Tiểu sử. Phạm Hiếu Liêm sinh năm 1732 tại làng Trà Lũ, phủ Thiên Trường, nay thuộc xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu. Năm 1744, ông vào tu trong Nhà Chung tại Lục Thủy. Sáu năm sau, ông được linh mục Espinoza (tên Việt là Huy) chọn vào số các thanh niên hưởng học bổng của Vua Felipe V của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila, Philippines. Sau khi học xong tam khoa và tứ khoa tại Trường đại học San Juan de Letran, ông theo chương trình giáo dục đại học của Viện Đại học Santo Tomas trong khi vẫn cư trú tại trường cũ. Sau khi tốt nghiệp, tháng 9 năm 1753, cùng với ba bạn đồng môn cũng là đồng hương Đàng Ngoài của mình, thầy Liêm xin gia nhập Dòng Đa Minh. Năm sau, ông và các bạn tuyên khấn trọng thể, ông lấy tên hiệu là "Vinh Sơn Hòa Bình" (Vicente de la Paz). Năm 1758, ông thụ phong linh mục và hồi hương vào ngày 3 tháng 10 cùng năm. Ngày 20 tháng 1 năm 1759, linh mục Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm đến Trung Linh và được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện của Địa phận Đông Đàng Ngoài được đặt tại đó. Sau một thời gian, ông lần lượt đảm nhiệm các xứ đạo như Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao và kiêm luôn cả vùng Lai Ổn sau khi linh mục Jacinto Castaneda Gia bị bắt. Trong thời gian đó, ông Hoàng Sáu là em của chúa Trịnh Doanh đã được ông rửa tội trước khi mất. Ngày 1 tháng 10 năm 1773, linh mục Liêm đang chuẩn bị cho các giáo hữu ở Lương Đống mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi thì bị quân lính vây bắt tại nhà một giáo dân tên là Nhiêu Nhuệ. Ông cùng hai cậu giúp lễ bị giải đến quan chánh tổng Xích Bích và bị giam tại đây 12 ngày. Sau đó, ông bị giải về Phố Hiến và gặp lại linh mục Gia đang bị giam ở đó. Ngày 20 tháng 10, hai linh mục Liêm và Gia cùng hai cậu giúp lễ bị giải lên kinh đô Thăng Long gặp chúa Trịnh Sâm, riêng hai ông phải mang gông đề 4 chữ "Hoa Lang Đạo Sư" (tức giáo sĩ Công giáo). Ngày 4 tháng 11, chúa Trịnh tuyên án trảm quyết hai linh mục Liêm và Gia và sẽ hành quyết sau 3 ngày. Ngay ngày hôm đó, chúa Trịnh đặc xá cho riêng ông nhưng ông lên tiếng rằng ông và linh mục Gia phải chung bản án: cùng bị kết án hoặc cùng được thả. Sau cùng, bản án không thay đổi, hai linh mục bị hành hình tại pháp trường Đồng Mơ, thi hài họ được an táng tại Nhà thờ Trung Linh. Giáo hoàng Piô X suy tôn Chân phước cho linh mục Liêm vào ngày 20 tháng 5 năm 1906. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ông lên bậc Hiển thánh. Thánh Phạm Hiếu Liêm là đồng bảo trợ của Trường San Juan de Letran mà ông từng học, đây là một trong những trường đại học cổ nhất Philippines và châu Á nói chung. Tên của ông đã từng được đặt cho một con đường tại phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là đường Hà Bá Tường). Hội đồng tứ giáo. "Hội đồng tứ giáo" là một tác phẩm được lưu truyền khá rộng rãi, viết theo môtif đối thoại tôn giáo. Theo các đánh giá gần đây, câu chuyện này không nhất thiết là một dữ kiện lịch sử nhưng được viết nhằm mục đích hộ giáo. Truyện kể tại kinh thành có một quan lớn là chú của chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của ông là bà Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn theo đạo Công giáo. Nhiều lần, bà khuyên con theo đạo. Ông này liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn giáo: Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo và Công giáo để trình bày về đạo của mình để quyết định theo một đạo. Cuộc trao đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề: nguồn gốc con người, mục đích cuộc đời này và đời sau của mỗi người. Linh mục Liêm và Gia đại diện cho Công giáo đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi. Nhưng vì ông biết Chúa Trịnh vẫn cấm đạo Công giáo nên quan vẫn còn ngần ngại chưa theo. Sau đó, vì tò mò, mẹ chúa Trịnh Sâm cũng cho triệu hai cha đến để giới thiệu đạo cho bà. Khi bà hỏi những người không theo đạo chết rồi sẽ đi về đâu, cha Liêm đáp "bẩm bà, sa hỏa ngục". Bà đùng đùng nổi giận và ép con là chúa Trịnh Sâm ra lệnh xử tử cả hai vị.
1
null
Olivier Jonathan Giroud (; sinh ngày 30 tháng 9 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Pháp đang chơi ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ Milan tại Serie A và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Giroud bắt đầu sự nghiệp câu lạc bộ cao cấp của mình khi chơi cho câu lạc bộ quê hương Grenoble, trước khi anh ký hợp đồng với Tours vào năm 2008, ở tuổi 21. Anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất Ligue 2 vào năm 2010 sau khi kết thúc với tư cách là tay săn bàn hàng đầu của giải đấu. Sau đó, anh trở thành chủ đề của vụ chuyển nhượng kỷ lục của hiệp hội bóng đá khi đó khi chuyển đến Montpellier với giá trị 2 triệu euro, giành chức vô địch Ligue 1 đầu tiên của câu lạc bộ và trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu giải đấu vào năm 2012. Sau đó, anh ấy gia nhập Arsenal, nơi anh ấy đã giành được ba FA Cup để giúp chấm dứt cơn hạn hán danh hiệu kéo dài chín năm của Arsenal, và là Cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại thứ mười tám của câu lạc bộ. Giroud đã ký hợp đồng với đối thủ cùng thành phố Chelsea vào năm 2018 với giá trị chuyển nhượng 18 triệu bảng Anh (20,7 triệu euro), vô địch FA Cup, UEFA Champions League và UEFA Europa League, kết thúc với tư cách là tay săn bàn hàng đầu vào cuối năm 2019. Giroud sau đó ký hợp đồng với AC Milan vào năm 2021, giúp họ vô địch Serie A 2021–22, giải đấu chấm dứt cơn hạn hán danh hiệu vô địch kéo dài 11 năm của câu lạc bộ. Giroud đã có trận ra mắt quốc tế cho Pháp vào năm 2011 ở tuổi 25, và kể từ đó đã có hơn 100 lần khoác áo đội tuyển, bao gồm cả việc xuất hiện trong năm giải đấu lớn. Anh ấy là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai mọi thời đại của đất nước anh ấy, nhận Chiếc giày đồng với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai khi Pháp về nhì tại UEFA Euro 2016. Sau đó, anh ấy đã vô địch FIFA World Cup 2018 và ra sân tại tại UEFA Euro 2020. Hiện tại, anh đang là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 56 bàn thắng. Đầu đời. Olivier Giroud sinh ra ở Chambéry, Pháp trong vùng Rhône-Alpes, và lớn lên ở ngôi làng Froges gần đó, gần Grenoble.  Giroud là người gốc Ý thông qua cả hai người bà của mình. Không phụ thuộc vào sự nghiệp chuyên nghiệp của mình, Giroud, sau khi lấy bằng tú tài kinh tế và khoa học xã hội (ES), đã hoàn thành năm thứ hai bằng cấp về khoa học và kỹ thuật của các hoạt động thể chất và thể thao (STAPS) tại Đại học Joseph Fourier, ở Grenoble. Giroud bắt đầu tổ chức chơi bóng cho câu lạc bộ quê hương của mình, Olympique Club de Froges. Anh đã trải qua 6 năm tập luyện tại câu lạc bộ trước khi gia nhập câu lạc bộ chuyên nghiệp Grenoble ở tuổi 13. Sự nghiệp cầu thủ. Grenoble. Giroud trải qua năm năm phát triển ở học viện trẻ của Grenoble trước khi ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của mình ở tuổi 21. Sau đó anh thừa nhận rằng việc ký hợp đồng đầu tiên của mình là một phần quan trọng trong quá trình phát triển của anh khi là một cầu thủ, anh phát biểu: "Đội đã đưa tôi bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của mình để trở thành nhận thức về khả năng của tôi. Nếu bạn [một câu lạc bộ] tin tưởng tôi, đó là bởi tôi phải có một vài phẩm chất tốt". Trước mùa 2005-2006, anh được đôn lên đội dự bị của đội bóng đang chơi ở Championnat de France Amateur 2, giải hạng năm của bóng đá Pháp. Giroud nhanh chóng trở thành cầu thủ quan trọng trong đội với 15 bàn thắng sau 15 trận. Màn trình diễn của anh với đội hình dự bị trong khoảng bảy tháng khiến anh được gọi vào đội một vào tháng 3 năm 2006 bởi huấn luyện viên Thierry Goudet. Giroud có trận ra mắt chuyên nghiệp của mình ở cuối trận hòa Gueugnon tại Ligue 2. Cho mượn đến Istres. Trong nỗ lực nhằm tìm kiếm một vài lần ra sân, Giroud đã giành mùa bóng 2007-08 dưới dạng cho mượn tại Istres ở Championnat National, giải hạng ba của bóng đá Pháp. Dưới sự dìu dắt của huấn luyện viên Frédéric Arpinon, anh tiếp tục quá trình phát triển thành một tiền đạo và trong trận đấu thứ hai của mình với câu lạc bộ, anh có được bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2-1 trước Laval. Hai tuần sau đó, Giroud tiếp tục ghi bàn trong những trận đấu lội ngược dòng trước Vannes và Créteil. Anh còn lập cú đúp đầu tiên của mình trong mùa giải trong trận thắng 2-0 khi đối đầu Arles-Avignon. Hai tuần tiếp đó, Giroud lặp lại thành tích này lần nữa, lần này là trong chiến thắng 3-2 trước Pau. Sau khi trải qua tháng 11 và 12 mà không ghi bất cứ bàn thắng nào, Giroud nổ súng trở lại trong trận thua trước Vannes và chiến thắng 2-0 trước Beauvais. Anh hoàn thành chiến dịch bằng việc ghi bàn trong tháng 4 của giải đấu trước Paris và Martigues, nâng tổng số bàn thắng anh ghi được cho Istres lên con số 14. Trong số 14 bàn thắng ấy Giroud chỉ ghi vỏn vẹn bốn bàn ở Stade Parsemain, sân nhà của Istres. Tours. Ngày 28 tháng 5 năm 2008, có thông tin cho biết Giroud đã đồng ý một bản hợp đồng ba năm với câu lạc bộ ở giải Ligue 2 Tours. Tiền đạo này bị thuyết phục bởi giám đốc thể thao của đội bóng là ông Max Marty, người từng là giám đốc điều hành câu lạc bộ cũ của Giroud Grenoble. Giroud cũng rất ưa thích vị huấn luyện viên của Tours là Daniel Sanchez khi phát biểu, "Luôn luôn là một điểm cộng khi có một cựu tiền đạo làm một huấn luyện viên. Lời khuyên của ông ấy đối với tôi thực sự giúp đỡ tôi rất nhiều. Với ông ấy tôi đã tiến bộ trong vị trí của mình và cả trước khung thành nữa". Giroud được trao chiếc áo số 12 và bởi chấn thương, anh có trận ra mắt đội bóng ngày 3 tháng 8 năm 2008 trong trận thua 2-1 trước Boulogne ở Cúp quốc gia Pháp. Anh có trận ra mắt giải vô địch quốc gia một tuần sau đó khi chơi trọn vẹn trận thắng 1-0 trước Nîmes. Một tháng sau, Giroud ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ giúp mở tỉ số trong trận đấu với Lens. Trong hiệp đấu thứ hai, Giroud tiếp tục lập công để đem về chiến thắng 3-1. Hai tuần sau, Giroud ghi bàn thắng thứ ba cho câu lạc bộ trong chiến thắng trước Ajaccio. Ngày 26 tháng 1 năm 2010, có thông tin cho biết đội bóng ở Ligue 1 là Montpellier đã ký hợp đồng với Giroud với bản hợp đồng ba năm rưỡi. Mức phí chuyển nhượng là 2 triệu euro và nó cũng được công bố rằng Montpellier sẽ mượn Giroud từ Tours đến cuối mùa 2009-10. Tiền đạo này thừa nhận việc chuyển đến Montpellier sẽ có lợi cho anh nhất khi phát biểu, "Tôi cảm thấy nơi đây (Montpellier), huấn luyện viên và đội ngũ nhân viên có thể giúp tôi thực sự tiến bộ. Môi trường thật lý tưởng, trung tâm huấn luyện rất tốt, nhóm khỏe mạnh và có một sân vận động tuyệt đẹp với một khán giả hưởng ứng thế này". Ngay sau vụ chuyển nhượng, Giroud trải qua ba tuần mà không ghi bàn thắng nào cho tới ngày 19 tháng 2 năm 2010 với chiến thắng trước Arles-Avignon. Hai tuần sau, anh ghi bàn duy nhất của đội trong trận thua 2-1 trước Nantes. Ngày 19 tháng 3, anh lập cú đúp trong chiến thắng tử thủ khi đối đầu Châteauroux. Một tuần sau, anh tiếp tục ghi bàn trong một chiến thắng tử thủ khác trước Strasbourg. Sau bàn thắng vào lưới Strasbourg, Giroud có bảy trận tiếp theo không ghi bàn thắng, trước khi lập công trong trận đấu cuối cùng của mùa giải vào lưới Nîmes. Anh kết thúc mùa giải với 42 lần ra sân và 24 bàn thắng. Giroud ghi 21 bàn tại giải và trở thành vua phá lưới của giải đấu. Sau mùa giải, anh được Hiệp hội cầu thủ chuyên nghiệp quốc gia (UNFP) bầu là cầu thủ xuất sắc nhất năm ở Ligue 2. Giroud cũng có tên trong đội hình tiêu biểu trong năm của giải đấu. Montpellier. Giroud chính thức gia nhập Montpellier ngày 1 tháng 7 năm 2010. Anh đồng thời có trận ra mắt đội bóng và châu Âu vào ngày 29 tháng 7 trong trận lượt đi ở vòng sơ loại thứ ba UEFA Europa League của Montpellier với câu lạc bộ Hungary Győri ETO. Trong trận đấu, Giroud ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong hiệp đấu đầu tiên. Montpellier thắng trận đấu một cách lịch sự nhờ bàn thắng của Giroud, nhưng bị đánh bại chung cuộc sau khi để thua trên chấm phạt đền trong trận lượt về. Giroud có trận ra mắt giải vô địch quốc gia ở trận đấu đầu tiên trong chiến dịch của đội, chiến thắng 1-0 trước Bordeaux. Ngày 28 tháng 8, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại giải trong chiến thắng 1-0 trước Valenciennes. Vào ngày 25 tháng 9, Giroud ghi hai bàn thắng trong chiến thắng trên sân nhà nhà khi tiếp đón Arles-Avignon. Cú đúp nâng tổng số bàn thắng của anh trong những lần đối đầu với đội bóng vùng Bouches-du-Rhône lên con số chín. Một tuần sau đó, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận thua 3-1 của Montpellier trước Lille. Vào tháng 11 năm 2010, Giroud đều ghi bàn trong các trận thắng ở hai tuần liên tiếp khi đối đầu Toulouse và Nice. Ở Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp, Montpellier đi đến trận chung kết của giải đấu một cách đáng ngạc nhiên. Trong trận bán kết đối đầu Paris Saint-Germain, Giroud đã chơi trọn vẹn cả trận đấu, kể cả khi bước vào hiệp phụ. Trong 117 phút, anh ghi bàn giúp đưa Montpellier tới trận chung kết lớn đầu tiên của đội kể từ mùa giải 1993-94 khi câu lạc bộ lọt vào trận chung kết của Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp. Trong trận chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp năm 2011, Montpellier đối đầu với Marseille và bị đánh bại 1-0 một cách lịch sự bởi bàn thắng của Taye Taiwo. Giroud cũng chơi trọn vẹn trận đấu này. Kể từ sau bàn thắng vào lưới Paris Saint-Germain, Giroud tịt ngòi trong gần hai tháng trước khi đạt được cả hai mục tiêu khi ghi bàn trở lại vào lưới cùng đội bóng này trong trận hòa 2-2 tại Sân vận động Công viên các Hoàng tử. Đến cuối của mùa giải, Giroud ghi bàn vào lưới đối thủ cho chức vô địch là Marseille và Lyon, nhưng Montpellier đều để thua cả hai trận đấu này. Sau khi kết thúc mùa giải với vị thế chân sút hàng đầu của câu lạc bộ, ngày 31 tháng năm 2011, Giroud đã ký gia hạn hợp đồng với Montpellier cho đến năm 2014. Giroud khởi động chiến dịch mùa 2011-12 bằng việc ghi bàn ở hai trận đầu tiên trong mùa giải của đội khi chạm trán Auxerre và đương kim vô địch Lille. Montpellier giành chiến thắng cả hai trận đấu trên. Sau khi lập cú đúp trong trận hòa 2-2 với Brest, tờ báo "Le Parisien" của Pháp trìu mến gọi anh là "le buteur de charme" (tiền đạo quyến rũ). Biệt danh đã ca ngợi khả năng ghi bàn của anh, cũng như cá tính và vẻ ngoài ưa nhìn, sau đó được một số phương tiện truyền thông khác tại Pháp sử dụng để mô tả cầu thủ. Trong 18 trận của đội ở tất cả mọi đấu trường, Giroud đã thể hiện mình xứng đáng với biệt danh trên bằng việc ghi 13 bàn thắng. Hiệu suất ấn tượng bao gồm hai hat-trick vào lưới Dijon và Sochaux, lập công trong các trận thắng trước Nancy, Lyon và Nice, cũng như một bàn ở mỗi giải Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp và Cúp quốc gia Pháp. Arsenal. Năm 2012, Giroud gia nhập câu lạc bộ danh tiếng của giải Ngoại hạng Anh là Arsenal nhằm thay thế Robin van Persie và từ đó trở thành tiền đạo số 1 của câu lạc bộ cho tới hiện tại. Mặc dù có những chỉ trích từ phía báo chí và các cổ động viên vì phong độ phập phù và thường xuyên bỏ lỡ những cơ hội một cách khó hiểu, nhưng Giroud vẫn nằm trong top những cầu thủ ghi bàn nhiều nhất giải Ngoại hạng Anh. Anh đã giành hai FA Cup năm 2014 và 2015 và cùng Arsenal luôn nằm trong top 4 Ngoại hạng Anh.Vào ngày 20 tháng 10 năm 2015, anh vào sân từ băng ghế dự bị để ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Bayern Munich ở vòng bảng UEFA Champions League 2015–16 .  Vào ngày 9 tháng 12, anh ghi hat-trick đầu tiên cho Arsenal trong chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Olympiacos giúp Pháo thủ lọt vào vòng 16 đội của Champions League.Giroud ghi bàn đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Aston Villa 4 ngày sau đó , trở thành cầu thủ Arsenal thứ 7 đạt 50 bàn thắng ở Premier League cho câu lạc bộ.Vào ngày 8 tháng 3 năm 2016, Giroud kết thúc chuỗi 12 trận không ghi bàn, với một cú đúp trong chiến thắng 4–0 trước Hull City trong trận đấu tại FA Cup .Vào ngày 1 tháng 1 năm 2017, Giroud ghi bàn bằng "cú đá bọ cạp" trong chiến thắng 2–0 trước Crystal Palace , bàn thắng được Arsène Wenger mô tả là bàn thắng vĩ đại nhất mà ông từng chứng kiến ​​ở sân Emirates . Bàn thắng sau đó đã mang về cho anh ấy Giải thưởng FIFA Puskás cho bàn thắng của năm. Trong trận Chung kết FA Cup 2017 với Chelsea tại Wembley, Giroud vào sân ở phút 78, một phút sau anh thực hiện đường kiến ​​tạo để Aaron Ramsey ghi bàn thắng giúp Arsenal vô địch.Vào ngày 28 tháng 9 năm 2017, trong trận đấu vòng bảng Europa League của Arsenal với BATE Borisov , Giroud ghi bàn thắng thứ 100 cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4–2. Chelsea. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2018, Giroud đã ký hợp đồng 18 tháng với Chelsea với mức phí không được tiết lộ.Anh có trận ra mắt trong trận thua 4-1 trước Watford tại Premier League. Anh ghi bàn thắng đầu tiên ở vòng 5 FA Cup trước Hull City trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà.Vào ngày 14 tháng 4, Giroud vào sân từ băng ghế dự bị ghi một cú đúp giúp Chelsea lội ngược dòng với tỷ số 3-2 trước Southampton.Trong lần ra sân thứ 500 trong sự nghiệp, Giroud đã sút phạt thành bàn để gỡ hòa và bảo toàn chiến dịch vòng bảng Europa League bất bại của Chelsea. Trong trận đấu với Vidi tại MOL Aréna Sóstó kết thúc với tỷ số 2–2.Giroud ghi hat trick đầu tiên cho Chelsea vào ngày 14 tháng 3 trong chiến thắng 5–0 trước Dynamo Kyiv trong trận lượt về vòng 16 đội tại Europa League.Vào ngày 14 tháng 8 năm 2019 Giroud ghi bàn thắng đầu tiên vào lưới Liverpool ở Siêu cúp UEFA ,kết quả cuối cùng Liverpool vẫn giành chiến thắng trên chấm phạt đền (5–4). Giroud kết thúc mùa giải với bàn thắng trong chiến thắng 2–0 của Chelsea trước Wolves vào ngày 26 tháng 7, kết quả giúp Chelsea có một vị trí trong UEFA Champions League 2020–21 . Anh ghi bàn thắng quyết định cho Chelsea ở phút bù giờ trước Rennes tại Champions League vào ngày 24 tháng 11 Chiến thắng giúp Chelsea tiến vào vòng loại trực tiếp của giải đấu. Vào ngày 2 tháng 12, Giroud trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất trong lịch sử Champions League lập Poker khi ghi cả bốn bàn trong chiến thắng 4–0 trước Sevilla. Vào ngày 5 tháng 12, Giroud đánh dấu sự khởi đầu mùa giải đầu tiên của anh ấy với bàn thắng thứ năm vào lưới Leeds United và ghi tên mình vào sách kỷ lục của Premier League sau khi tiếp tục phong độ ghi bàn đáng nể. Anh trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất từng ghi bàn trong sáu trận liên tiếp ở Premier League ở 34 tuổi 63 ngày.Vào ngày 8 tháng 12, Giroud đánh dấu lần thứ 100 ra sân cho Chelsea trong trận hòa 1-1 trên sân nhà trước Krasnodar trong trận đấu cuối cùng vòng bảng Champions League . Vào ngày 15 tháng 2 năm 2021, Giroud trở thành cầu thủ thứ 17 trong lịch sử Premier League có 100 thay người khi thay thế Tammy Abraham bị chấn thương trong hiệp một trận đấu giữa Chelsea với Newcastle.Vào ngày 23 tháng 2, anh thực hiện một cú đá xe đạp chổng ngược ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Atlético Madrid ở vòng 16 đội Champions League.Vào ngày 29 tháng 5,Chelsea đánh bại Manchester City với tỷ số 1-0 để vô địch UEFA Champions League 2020–21,trong trận đấu này anh không được ra sân. AC Milan. Vào ngày 17 tháng 7 năm 2021,Giroud gia nhập A.C. Milan từ Chelsea theo hợp đồng có thời hạn 2 năm. Vào ngày 29 tháng 8, Giroud ghi bàn thắng đầu tiên cho Milan bằng một cú đúp trong chiến thắng 4–1 trước Cagliari. Vào ngày 16 tháng 10, khi đội bóng của anh ấy đang dẫn trước 2–0, anh ấy đã ghi bàn mở tỷ số cho Milan để giúp đội của anh ấy lội ngược dòng giành chiến thắng 3–2 trước Hellas Verona. Vào ngày 26 tháng 10, anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 của Milan trước Torino. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2022, anh ghi bàn mở tỷ số trước Roma, và giúp đồng đội Messias ghi bàn thứ hai sau khi Giroud cướp bóng từ hàng thủ Roma và sút trúng cột dọc, trong chiến thắng chung cuộc 3–1.  Vào ngày 5 tháng 2, Giroud ghi một cú đúp để giúp đội của anh giành chiến thắng 1–2 trước Inter trong trận Derby della Madonnina, trở thành cầu thủ Pháp đầu tiên ghi một cú đúp trở lên ở Serie A trước Inter. Bốn ngày sau, Giroud ghi thêm một cú đúp nữa cho Lazio ở Coppa Italia khi Milan đánh bại đội bóng cũ với tỷ số 4–0, tiến vào bán kết của giải đấu. Vào ngày 6 tháng 3 tại Stadio Diego Maradona, mặc dù bị một vết cắt sâu ở ống chân trái nhưng Giroud đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận thắng Napoli trên sân khách, giúp đội bóng của anh leo lên ngôi đầu bảng Serie A. Đó là bàn thắng thứ 11 của Giroud trong mùa giải này trên mọi đấu trường (trong 27 lần ra sân), bằng tổng số bàn thắng của anh trong cả mùa giải trước cho Chelsea (31 trận). Vào ngày 19 tháng 3, anh có pha kiến ​​tạo thứ 4 trong mùa giải này, lập công cho Bennacer vào lưới Cagliari trong chiến thắng 1–0. Vào ngày 24 tháng 4, tại Stadio Olimpico, anh đã ghi bàn gỡ hòa trước Lazio, giúp đội của anh lội ngược dòng 2–1. Vào ngày 22 tháng 5, anh ghi một cú đúp trong chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Sassuolo, qua đó giúp AC Milan vô địch Serie A 2021–22 sau 11 năm chờ đợi. Sự nghiệp quốc tế. Trước khi đại diện cho đội tuyển quốc gia, Giroud chưa chơi một phút nào cho đội tuyển trẻ quốc gia. Năm 2001, anh được gọi lên đội U-16 bên cạnh những cầu thủ như Yoann Gourcuff, Yohan Cabaye và Sylvain Marveaux bởi huấn luyện viên Pierre Mankowski để tham gia một trại huấn luyện ở học viện Clairefontaine. Sau khi tham gia trại, Giroud không được gọi lên trong suốt thời gian chiến dịch U-16 từ 2001-02. Ngày 3 tháng 11 năm 2011, trong nỗ lực nhằm tưởng thưởng cho màn trình diễn xuất sắc của Giroud trong màu áo Montpellier ở giải đấu nội địa, huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Laurent Blanc đã đặt tên tiền đạo này vào đội hình để chơi trong các trận giao hữu gặp tuyển Mỹ và Bỉ lần lượt vào ngày 11 và 15 tháng 11 năm 2011. Giroud miêu tả cuộc gọi là "một giấc mơ thuở nhỏ trở thành sự thật", trong khi cũng phát biểu rằng anh rất "vô cùng thỏa mãn và một đặc ân" để đại diện cho đội tuyển quốc gia. Anh có trận ra mắt quốc tế đầu tiên của mình trong trận đối đầu tuyển Mỹ khi vào sân thay người. Pháp giành chiến thắng chung cuộc 1-0. Trong trận gặp Bỉ, Giroud kiếm được một lần vào sân thay người khác khi trận đầu kết thúc với tỉ số 0-0. Ngày 29 tháng 2 năm 2012, Giroud ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp thi đấu quốc tế trong trận giao hữu thắng 2-1 trước tuyển Đức. Ba tháng sau anh có tên trong đội hình tham dự Euro 2012. Hai ngày trước khi đợt công bố đội hình chính thức cuối cùng, Giroud kiến tạo hai bàn trong trận giao hữu thắng lội ngược dòng 3-2 của tuyển Pháp trước Iceland. Tại World Cup 2014 tổ chức tại Brasil, anh chỉ có được một bàn thắng trong trận thắng 5-2 của đội tuyển Pháp trước Thụy Sĩ. Trong trận mở màn Euro 2016, Pháp đánh bại România 2-1. Giroud đánh dấu lần thứ 50 khoác áo tuyển Pháp bằng việc có tên trong đội hình xuất phát và chơi trọn vẹn cả trận đấu; anh ghi bàn mở tỉ số bằng pha đánh đầu thành bàn từ đường chuyền của Dimitri Payet ở phút thứ 57. Ở vòng tứ kết, Giroud tiếp tục tỏa sáng với một cú đúp giúp đội chủ nhà Pháp giành chiến thắng 5-2 trước Iceland. Đội tuyển Pháp sau đó lọt vào trận chung kết và thua Bồ Đào Nha với tỉ số 0-1. Năm 2018, anh cùng đội tuyển Pháp giành chức vô địch lần thứ hai sau khi vượt qua ở trận chung kết. Tại World Cup 2022, Giroud ghi bàn thắng vào lưới của Ba Lan và vượt qua huyền thoại Thierry Henry trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển Pháp. Đội tuyển Pháp sau đó lọt vào trận chung kết và chịu thất bại trước ở loạt sút luân lưu 11m sau khi hai đội hòa 3–3 sau 120 phút thi đấu chính thức, qua đó giành vị trí á quân. Phong cách thi đấu. Giroud có khả năng chơi ở một số vị trí tấn công, nhưng thường chơi ở vị trí tiền đạo hoặc trung vệ; anh ấy cũng đôi khi được sử dụng như một tiền đạo thứ hai, hoặc thậm chí là một số 9 ảo. Một tiền đạo làm việc chăm chỉ, anh ấy đặc biệt được biết đến với tỷ lệ ghi bàn đáng tin cậy, kích thước, thể lực, độ chính xác khi đánh đầu, sút mạnh, khả năng giữ bóng bằng lưng về phía khung thành và lối chơi liên kết hoặc tạo khoảng trống cho đồng đội của anh ấy với động tác tắt bóng của anh ấy.  Anh ấy cũng có liên quan đến việc thực hiện các pha chạy lên tuyến trước vượt qua các hậu vệ. Do phong cách chơi bóng và thiên hướng ghi bàn sau khi vào sân từ băng ghế dự bị, anh đã được mô tả như một "mục tiêu",  và như một "siêu phụ" trên các phương tiện truyền thông. Anh cũng được các chuyên gia mô tả là một trong những tiền đạo bị đánh giá thấp nhất trên thế giới. Cuộc sống ngoài bóng đá. Đời tư. Giroud có một người anh trai tên Romain cũng là một cầu thủ bóng đá. Anh chơi ở học viện Auxerre và đại diện cho tuyển Pháp ở lứa U-15 và U-17, bên cạnh những cầu thủ như Thierry Henry, David Trezeguet và Nicolas Anelka, nhưng cuối cùng bỏ dở sự nghiệp chuyên nghiệp có tiềm năng để nghiên cứu và trở thành một chuyên gia dinh dưỡng. Giroud kết hôn với Jennifer từ năm 2011. Con gái của họ, Jade được sinh ngày 18 tháng 6 năm 2013. Anh là một người theo Công giáo và có một hình xăm trên cánh tay phải từ Thánh Vịnh 23 trong tiếng Latin: "Dominus regit me et nihil mihi deerit" (Chúa là vị linh mục của tôi; Tôi sẽ không muốn). Anh miêu tả bản thân mình là "một người rất có đức tin [...] Tôi không vượt qua được bản thân trước những trận đấu của mình nhưng tôi ít khi cầu nguyện". Truyền thông. Năm 2013 Giroud từng khỏa thân cho Dieux du Stade, một tờ lịch từ thiện của Pháp có sự góp mặt của những vận động viên nam khỏa thân để làm từ thiện. Năm 2014 anh trở thành gương mặt của nhãn hiệu nước hoa nam "Boss Bottled" của Hugo Boss. Tháng 2 năm 2015 Giroud được bình chọn là "cầu thủ Premier League nóng bỏng nhất". Trong buổi phỏng vấn với "GQ", anh trích dẫn David Beckham là nguồn cảm hứng cho cách anh nhìn, nói rằng "phong cách mang tính biểu tượng" của Beckham. Giroud được Puma tài trợ từ năm 2009. Anh cùng với Antoine Griezmann đóng vai chính trong một quảng cáo cho thương hiệu được phát hành vào tháng 8 năm 2016. Thường sử dụng các động tác phức tạp trong các lễ kỷ niệm bàn thắng của mình, bàn thắng 'Glamour slide' của Giroud Lễ kỷ niệm được bao gồm trong "FIFA 16" của EA Sports. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2018, Sony Pictures France xác nhận trên Twitter rằng Giroud đã nhận một vai trong phiên bản lồng tiếng Pháp của "" (được gọi là "Spiderman: New Generation" khi chiếu ở Pháp) với vai trò lồng tiếng cho Norman Osborn / Green Goblin. Anh tham gia cùng với người đồng đội ở đội tuyển Presnel Kimpembe, người đảm nhận vai . Danh hiệu. Câu lạc bộ. Chelsea. AC Milan
1
null
M-400 là một loại máy bay không người lái do Việt Nam tự nghiên cứu chế tạo. Được thiết kế bởi Viện Kỹ thuật Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam và sản xuất bởi Viện Kỹ thuật Quân chủng Phòng không-Không quân và Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Dự án bắt đầu năm 2001 và kết thúc năm 2005 khi 2 mẫu thử nghiệm chính thức được bay thử và đã thành công. Hiện đã có 12 chiếc được sản xuất nhưng tất cả đã tạm ngừng hoạt động. Những máy bay mục tiêu đầu tiên. Năm 1996, Việt Nam đã chế tạo thành công mục tiêu bay M-96, đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành kỹ thuật hàng không nước này. Mục tiêu bay không chỉ dùng cho nhiệm vụ huấn luyện đơn vị phòng không, mà còn là nền tảng để Việt Nam thiết kế UAV trinh sát. Sau một thời gian nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm, năm 1996, những chiếc mục tiêu bay ra đời đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành kỹ thuật hàng không Quân chủng Phòng không-Không quân. Đến nay, không chỉ dừng lại ở các loại mục tiêu bay, máy bay không người lái (UAV) phục vụ huấn luyện, Quân chủng Phòng không - Không quân còn là nơi nghiên cứu, chế tạo ra các UAV tham gia mục đích quân sự. Thành công đó đã đưa Việt Nam trở thành một trong 5 nước Đông Nam Á thiết kế, chế tạo thành công UAV. Trước đây, sau những mùa bắn đạn thật của các lực lượng phòng không, không quân, các đơn vị rất phấn khởi là hiệu suất tiêu diệt mục tiêu tương đối cao và ổn định. Tuy nhiên, những người đứng đầu Quân chủng Phòng không - Không quân lúc bấy giờ lại hết sức trăn trở. Khoa học kỹ thuật quân sự ngày càng phát triển, hoạt động tác chiến của đối phương ngày càng tinh vi, nhất là các phương tiện tiến công hoả lực đường không. Nếu không kịp thời đổi mới nâng cao huấn luyện thì rất khó đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Do đó, việc nghiên cứu, sản xuất mục tiêu bay là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ này, năm 1996, Quân chủng Phòng không - Không quân đã mua tổ hợp thiết bị bay DF-16 của Israel và giao cho Ban Giáo dục Quốc phòng (Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân) nghiên cứu, học tập. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh Quân chủng giao cho cơ quan này phối hợp với Nhà máy A40 nghiên cứu, chế tạo mục tiêu bay. Sau 3 năm nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và thử nghiệm, cuối năm 1999, hai chiếc mục tiêu bay ký hiệu M-96 (bay ngày) và M-96D (bay đêm) đã được Nhà máy A40 xuất xưởng và bay thử thành công trên bầu trời Miếu Môn (Hà Nội). Loại mục tiêu này có sự hỗ trợ của kính TZK, điều khiển bằng tay và thực hiện bay bằng trong tầm quan sát bằng mắt thường. Và kể từ đó, mục tiêu M-96 và M-96D được Quân chủng PK-KQ sản xuất hàng loạt phục vụ cho các lực lượng tên lửa, pháo cao xạ huấn luyện. Tuy nhiên, so với các loại mục tiêu bay trên thế giới dùng cho lực lượng phòng không, không quân huấn luyện, M-96 có nhiều hạn chế như: tầm bay ngắn, trần bay thấp và tốc độ nhỏ. Do đó, M-96 tiếp tục được nghiên cứu cải tiến và nâng cấp với tầm hoạt động rộng, trần bay cao, tốc độ lớn hơn, đặc biệt là thiết bị này bay theo chương trình tự động định sẵn. Quân chủng tiếp tục giao cho các kỹ sư từng tham gia sản xuất M-96. Sau khi Ban nghiên cứu Mục tiêu bay của Viện Kỹ thuật Phòng không-Không quân (VKTPK-KQ) được thành lập, Đại tá Trịnh Xuân Đạt được bổ nhiệm làm trưởng ban, Trung tá Nguyễn Thanh Tịnh làm phó ban, Ban được cấp kinh phí cùng với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị vật chất phục vụ công tác nghiên cứu, sản xuất. Sau gần nửa năm nghiên cứu Viện đã hoàn thành nhiệm vụ nâng M-96 thành M-100CT, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật. Trong chương trình bay báo cáo được tiến hành vào tháng 7 năm 2004, Viện đã biểu diễn thành công các chuyến bay của mục tiêu M-100CT. Chương trình cải tiến mục tiêu M-96 lên M-100CT thành công là cả một bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực chế tạo mục tiêu bay, đây là tiền đề vững chắc để các nhà khoa học Quân chủng tiến tới hiện thực hoá giấc mơ chế tạo thành công Máy bay Không người Lái(tạm viết tắt là MBKNL). Máy bay không người lái M-400. Thực ra, trước thành công của M-100CT, đầu năm 2001, VKTPK-KQ đã khởi động dự án "Nghiên cứu thiết kế, chế tạo MBKNL điều khiển chương trình", ký hiệu M-400CT. Thiết bị này có nhiều điểm tương đồng với Tổ hợp thiết bị bay DF-16 do Israel sản xuất. Cho đến khi thử nghiệm thành công M-100CT, Viện giao cho Ban nghiên cứu mục tiêu bay tiếp tục hoàn thiện sản phẩm. Đại tá Trịnh Xuân Đạt cho biết, đây là một nhiệm vụ khó, đòi hỏi phải đầu tư công sức và trí tuệ nhiều, khó nhất là thiết kế, chế tạo chương trình điều khiển tự động. Trong khi đó, các linh kiện này không có ngoại nhập, trong nước thì càng khan hiếm, bởi vậy các kỹ sư đã nghiên cứu thử nghiệm trên nhiều linh kiện khác nhau. Còn phần chế tạo vỏ, thân máy bay, khác với mục tiêu bay, lần này Viện phối hợp với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội sử dụng chất liệu composit (thay cho chất liệu gỗ như trước), chất liệu này vừa rẻ vừa giảm được trọng lượng của máy bay xuống, nâng khả năng mang nhiên liệu của máy bay lên. Sau 4 năm nghiên cứu, thử nghiệm, ngày 15/9/2005, 2 chiếc MBKNL M400-CT mang phiên hiệu 405, 406 đã bay báo cáo thành công các bài bay tại sân bay Kép (Bắc Giang), với độ cao 2.000m, bán kính hoạt động 15 km. Sau đó, VKTPK-KQ tiếp tục cải tiến và nâng cấp M-400CT lên độ cao 3.000m, tốc độ 250 – 280 km/h, bán kính hoạt động 30 km, có thể cất hạ cánh trên đường băng (đất hoặc bê tông). Cùng với việc chế tạo MBKNL, Viện cũng đã thiết kế và chế tạo thành công các hệ thống bệ phóng (dùng cho các trường hợp không có đường băng cất cánh) bằng những nguyên vật liệu có trong nước, nhẹ và dễ cơ động. Với thành công này, ngày 15/9/2005 được lấy làm ngày khai sinh của MBKNL và những thành công này đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít nước Đông Nam Á chế tạo được MBKNL. Hiện nay, VKTPK-KQ là đơn vị sản xuất mục tiêu bay, MBKNL phục vụ cho công tác huấn luyện của các lực lượng phòng không, không quân và lực lượng phòng không lục quân. So với thế hệ mục tiêu và MBKNL trước đây, hiện nay chúng đã được cải tiến và nâng cấp nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của các loại khí tài mới và hiện đại. Cùng với việc sản xuất mục tiêu bay, MBKNL phục vụ mục đích quân sự, VKTPK-KQ cũng đã thiết kế, chế tạo ra các loại MBKNL phục vụ các mục đích dân sự như: bay phun thuốc trừ sâu, bay quay phim, chụp ảnh địa hình... Hoạt động. Máy bay M-400 UAV có hình dáng nhỏ thường được dùng trong mục đích do thám, trinh sát, theo dõi mục tiêu của đối phương hay do thám những vùng hiểm trở, nguy hiểm, những vùng mà máy bay do thám cỡ lớn hay trực thăng không thể vào được. Ngoài ra nó còn phục vụ dân sự như quay phim, chụp ảnh địa hình, quan trắc môi trường, tìm kiếm cứu nạn v.v... Tính đến năm 2012 đã có 12 chiếc M-400 được chế tạo nhưng do thiếu thiết bị GPS và một số bộ phận quan trọng khác nên hiện nay nó đã tạm thời ngừng hoạt động và sản xuất.
1
null
Štíty là một thị trấn thuộc huyện Šumperk, vùng Olomoucký, Cộng hòa Séc. Nơi đây vào thập kỷ 80 của thế kỷ 20 đã có rất nhiều các học sinh người Việt Nam, Cu-ba, một số nước châu Phi... tới học tiếng Séc tại Trung tâm trường tiếng Quốc gia (ký túc xá ngay phía sau nhà thờ Stity Kostel), trước khi họ được chuyển về các trường học trên khắp đất nước Tiệp Khắc (sau này là CH Séc & CH Slovakia).
1
null
Charioteer hay FV4101 Cromwell hoặc xe tăng hạng trung FV4101, Charioteer là một loại pháo tự hành chống tăng.Nó được sản xuất vào những năm 1950 và phục vụ trong các đơn vị tại Tây Đức.Charioteer được thiết kế bằng cách gắn một khẩu pháo 20 pdr trên thân tăng Cromwell. Phát triển. Vào đầu những năm 1950, để tăng thêm hỏa lực cho lực lượng thiết giáp hoàng gia, một số tăng Cromwell được trang bị pháo 20 pdr, nó sử dụng tháp pháo 2 người mới nhưng được bọc giáp khá mỏng. Kết quả chính là mẫu pháo tự hành chống tăng FV 4101 Charioteer.Có khoảng 200 tăng Cromwell được biến đổi thành FV 4101 Charioteer bởi hãng Robinson và Kershaw Ltd ở Cheshire. Hoạt động. Quân đội Anh chỉ sử dụng FV 4101 Charioteer với mục đích luyện tập.Vào giữa và cuối những năm 1950, FV 4101 được bán cho các nước như Áo, Phần Lan, Jordan và Liban.
1
null
Terezín (; ) là một thị trấn thuộc huyện Litoměřice, vùng Ústecký, Cộng hòa Séc.Thị trấn có khoảng 2,900 cư dân. Trước đây thị trấn là một pháo đài quân sự bao gồm thành và thị trấn đồn trú có tường bao quanh liền kề. Trung tâm thị trấn được bảo tồn tốt và được pháp luật bảo vệ như một khu bảo tồn di tích đô thị. Terezin nổi tiếng nhiều vì là vị trí của trại tập trung Theresienstadt Ghetto khét tiếng. Bộ phận hành chính. Các làng České Kopisty, Nové Kopisty và Počaply là các bộ phận hành chính của Terezín. Địa lý. Terezín nằm ở Bắc Bohemia, dọc theo sông Ohře, gần nơi giao nhau của nó với sông Elbe tại Litoměřice. Kinh tế. Việc rời đi và đóng cửa các hoạt động liên quan của quân đội đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế địa phương của thị trấn. Terezín đang cố gắng phát triển một nền kinh tế đa dạng hơn; lịch sử của nó có thể thu hút du lịch di sản. Terezín được chú ý nhờ sản xuất đồ nội thất và hàng dệt kim, cũng như sản xuất.
1
null
Třeboň là một thị trấn thuộc huyện Jindřichův Hradec, vùng Jihočeský, Cộng hòa Séc. Kết nối đường sắt nhanh giữa Praha và Vienna qua thành phố Třeboň. Tổng thống Tomáš Garrigue Masaryk chính thức đến thăm thành phố hai lần bằng tàu hỏa, trong 1919 và 1925. Tại khu vực lân cận của quảng trường Masaryk và quảng trường Palacký từ năm 2000, một số cửa hàng của người Việt Nam ("pedicure", "maikůra", giờ giới nghiêm và những nơi khác) đã được thành lập. Khu phố cổ lịch sử là một khu di sản với nhiều tòa nhà phục hưng và "Baroque" (các giáo hội, tu viện và lâu đài "Gothic")
1
null
Varnsdorf (phát âm tiếng Séc: Varnsdorf; tiếng Đức: Warnsdorf, tiếng Sorbian: Warnoćicy, tiếng Việt: Vànx Dộhph) là một thị trấn ở Cộng hòa Séc thuộc vùng Ústí nad Labem, với dân số khoảng 16.000. Thị trấn này gần biên giới với Đức, với các cửa khẩu đến Saxon là thị trấn của Seifhennersdorf và Großschönau, Varnsdorf thị trấn là lớn thứ hai trong khu Děčín. Người Việt tại Varnsdorf. Hơn 2500 Phật tử gốc Việt đang sống ở Varnsdorf, thành phố này là nơi cho xây dựng các ngôi đền Phật giáo đầu tiên ở Cộng hòa Séc
1
null
Le hôi cổ đỏ (danh pháp hai phần: "Podiceps grisegena") là một loài thủy cầm thuộc họ Chim lặn, là loài di cư được tìm thấy trong khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Môi trường sống đông của nó phần lớn là giới hạn vùng nước tĩnh vượt ra ngoài những con sóng xung quanh bờ biển đại dương, mặc dù một số loài chim có thể trú mùa đông trên hồ nước rộng lớn. Nó thích vùng nước nông của nước ngọt như sông, hồ, đầm lầy hoặc cá ao là nơi sinh sản. Le hôi cổ đỏ là một có bộ lông màu xám sẫm không có đặc tính rõ rệt trong mùa đông. Trong mùa sinh sản, nó có cổ có lông màu đỏ riêng biệt, chỏm đầu đen và mặt màu xám nhạt, ttừ đó có tên là le hôi cổ đỏ. Con trống cũng có một màn trình diễn tán tỉnh con mái và một loạt tiếng kêu bạn tình, khi đã thành cặp, chúng xây tổ trên đám thực vật nổi trong một hồ nước nông hay đầm lầy.
1
null
Votice là một thị trấn thuộc huyện Benešov, vùng Středočeský, Cộng hòa Séc. Trong thời gian vận động trong 1938, Votice được chỉ huy bởi không khí 1st. Quân đoàn Tiệp Khắc dưới sự chỉ huy của Legionnaires Nga và phóng viên Đệ nhị thế chiến I của Tomáš Garrigue Masaryk Jan Šípek (trong 1918 quân đội lớn của Lê Dương tại Nga).
1
null
Dornier Do 17, đôi khi còn gọi là "Fliegender Bleistift" (tiếng Đức: "bút chì bay"), là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ của Đức trong Chiến tranh thế giới II, do công ty của Claudius Dornier là Dornier Flugzeugwerke chế tạo. Nó được thiết kế làm một "Schnellbomber" ("máy bay ném bom nhanh"), về lý thuyết đây là một máy bay ném bom hạng nhẹ có thể bay nhanh hơn các máy bay tiêm kích bảo vệ mục tiêu bị ném bom. Tính năng kỹ chiến thuật (Do 17 Z-2). Aircraft of the Third Reich, Fighters and Bombers of World War II và Do 17 Z-2 Baubeschreibung, April 1938
1
null
Fiat BR.20 "Cicogna" (tiếng Ý: "con cò") là một loại máy bay ném bom hạng trung hai động cơ cánh thấp của Ý, được chế tạo từ giữa thập niên 1930 cho tới khi Chiến tranh thế giới II kết thúc. Khi được đưa vào trang bị năm 1936, nó là máy bay ném bom đầu tiên của Ý làm hoàn toàn bằng kim loại và là một trong những máy bay ném bom hiện đại nhất thế giới lúc đó. Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, nó cùng với Heinkel He 111 trở thành xương sống của lực lượng ném bom phe Dân tộc. Nó được Nhật Bản sử dụng hiệu quả trong Chiến tranh Trung-Nhật. Khi Ý bước vào chiến tranh năm 1940, BR.20 trở thành máy bay ném bom hạng trung tiêu chuẩn của Regia Aeronautica (không quân Ý) nhưng đã trở nên lỗi thời so với các máy bay khác. Đến năm 1942, nó chủ yếu được dùng để làm máy bay tuần tra biển và huấn luyện. Trên 500 chiếc đã được chế tạo trước khi chiến tranh kết thúc. Tính năng kỹ chiến thuật (Fiat Br.20M). The Encyclopedia of Weapons of World War II
1
null
Đảo Miên Hoa (, Hán Việt: Miên Hoa tự) là một hòn đảo nhỏ ở phía bắc đảo Đài Loan. Đảo thuộc địa giới hành chính của khu Trung Chính của thành phố Cơ Long và được tạo thành từ hoạt động của núi lửa. Đảo là điểm cực đông mà chính quyền Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan kiểm soát, vào thời Nhật Bản cai trị Đài Loan, đảo là một khu khai thác phốt-phát. Đảo Miên Hoa cách Cơ Long 42 km về phía đông bắc, hải trình ước tính mất 2 giờ. Chiều dài đông-tây của đảo ước tính là 300 mét, chiều dài bắc-nam ước tính đạt 400 mét. Diện tích đảo Miên Hoa là 0,12 km², điểm cao nhất đạt 64 mét trên mực nước biển. Do đảo Miên Hoa và đảo Bành Giai có vị trí gần nhau và hình dáng cũng giống nhau nên nhiều ngư dân thường nhầm lẫn đảo Miên Hoa với đảo Bành Giai.
1
null
Đảo Hoa Bình (, Tiếng Phúc Kiến Đài Loan: , Hán Việt: "Hoa Bình tự"), còn có tên thông dụng là Hoa tự (花嶼) hoặc Giang Kiệu tự (扛轎嶼), là một đảo nhỏ ở phía bắc đảo Đài Loan. Đảo Hoa Bình cùng với đảo Bành Giai và đảo Miên Hoa hình thành nên "Bắc phương tam đảo" của Đài Loan. Đảo Hoa Bình được tạo thành do hoạt động của núi lửa. Đảo Hoa Bình cách Cơ Long khoảng 32 km về phía đông bắc, hải trình mất khoảng 1,6 giờ. Diện tích đảo Hoa Bình ước đạt 0,0304 km² (3,04 ha), đông-tây dài 176 mét, chiều rộng là khoảng 80 mét, độ cao lớn nhất đạt 48 mét trên mực nước biển.
1
null
Đảo Bành Giai (, Hán Việt: "Bành Giai tự"); cũng gọi là Agincourt, đảo Đại Trì Sơn (大峙山嶼), đảo Thảo Lai (草萊嶼), là một đảo nhỏ nằm ở phía bắc đảo chính Đài Loan. Đảo là điểm cực bắc của tỉnh Đài Loan và hiện đang nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội nên không thể viếng thăm. Năm 2002, có khoảng 40 người sinh sống trên đảo. Đảo nằm cách cảng Cơ Long khoảng 56 km, hành trình ước tính mất khoảng 2,5 tiếng. Về mặt hành chính, đảo thuộc khu Trung Chính của thành phố Cơ Long. Đảo có chu vi khoảng 4.300 mét, diện tích khoảng 1,14 km² và độ cao lớn nhất là 168 mét.
1
null
Đội tuyển bóng đá quốc gia Curaçao () là đội tuyển cấp quốc gia của Curaçao do Liên đoàn bóng đá Curaçao quản lý. Đại diện đảo quốc thi đấu trận quốc tế đầu tiên gặp Aruba vào năm 1924 và có hai lần giành hạng ba Cúp Vàng CONCACAF vào các năm 1963 và 1969, khi còn trên danh nghĩa Antilles thuộc Hà Lan. Đội hình. Đội hình dưới đây được triệu tập tham dự vòng loại World Cup 2022 gặp vào tháng 12 năm 2021. Số liệu thống kê tính đến ngày 15 tháng 6 năm 2021 sau trận gặp "". Triệu tập gần đây. Các cầu thủ được triệu tập trong vòng 12 tháng qua. INJ
1
null
Lê Phổ (Chữ Hán: 黎譜, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1907, mất ngày 12 tháng 12 năm 2001) là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới theo trường phái lãng mạn với nhiều tác phẩm đắt giá. Ông còn được nhiều người gọi là "Danh họa Việt Nam trên đất Pháp". Nhiều người khác còn coi ông là "cây đại thụ" trong làng nghệ thuật vẽ tranh Việt Nam. Lê Phổ là một trong nhóm tứ kiệt trời Âu của nền hội họa Việt Nam (Phổ - Thứ - Lựu - Đàm). Từ năm 1937, ông sang Pháp và định cư tại đó, và chưa một lần quay trở về quê hương, cho đến khi qua đời năm 2001 tại Paris. Gia đình. Ông sinh ra tại thôn Cự Lộc, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, về sau là huyện Hoàn Long (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội). Cha họa sĩ Lê Phổ là quan đại thần Lê Hoan, người được sử sách xem là có công lao giúp chính quyền thực dân Pháp đàn áp nghĩa quân Đề Thám. Tuổi thơ họa sĩ Lê Phổ không hạnh phúc, mồ côi mẹ lúc 3 tuổi và mồ côi cha lúc 8 tuổi. Sau đó, sống cùng anh trai và chị dâu, ông luôn phải chịu trách nhiệm cho những lầm lỗi của những đứa cháu. Năm 1937, ông sang Pháp và định cư tại đó. Họa sĩ Lê Phổ cưới vợ người Pháp là bà Paulette Vaux, phóng viên báo Life & Time ở Paris vào năm 1947. Bà Vaux, vợ họa sĩ cho biết: "Ông không kể với con cái về tuổi thơ của mình, ông trầm lặng và sống nội tâm. Ông không nhớ gì về cha mình ngoại trừ việc biết cha mình hút thuốc phiện". Tính cách cá nhân. Với thân thế được sinh ra trong gia đình thế tộc, họa sĩ Lê Phổ có lối sống thiên về nội tâm với tính cách nhạy cảm, tinh tế. Họa sĩ có dáng người cao, gầy, mắt luôn nhìn xa vắng, ít nói, giọng nói thanh tao và luôn mặc những bộ quần áo ủi phẳng phiu. Con đường nghệ thuật. Năm 1925, họa sĩ Lê Phổ trúng tuyển khoá 1 Trường Đại học Mỹ thuật Đông Dương. Ông là một trong 10 sinh viên Việt Nam được giáo sư Victor Tardieu (một họa sĩ am hiểu sâu sắc các trường phái nghệ thuật châu Âu) xếp vào nhóm sinh viên "tinh hoa" của khóa học và đồng thời hướng đi theo trường phái nghệ thuật Á Đông trong suốt 5 năm học. Họa sĩ Lê Phổ đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc trường phái nghệ thuật này khi còn là chàng thanh niên Hà Nội 18 tuổi. Trong mộc cuộc phỏng vấn, vợ ông, bà Vaux cho biết: "Họa sĩ xem giáo sư Tardieu giống như cha tinh thần. Ông ngưỡng mộ và rất gần gũi với Tardieu. Tardieu đã đặt nền móng cho những thành công trong hội họa của ông". Năm 1928, ông cùng với các họa sĩ Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ tổ chức triển lãm tranh đầu tiên tại Hà Nội. Năm 1931, họa sĩ Lê Phổ sang Pháp để trang trí một số triển lãm ở Paris. Sau đó 1 năm, ông được cấp học bổng sang học tại Trường Mỹ thuật Paris. Do đó, ông có điều kiện tìm hiểu nhiều nước châu Âu, tiếp xúc và làm quen với nhiều trường phái nghệ thuật, trong đó trường phái Ấn tượng đã ảnh hưởng đến các tác phẩm nghệ thuật sau này của họa sĩ. Năm 1933, họa sĩ trở về Hà Nội tham gia giảng dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1935, các cung điện đền đài Bắc Kinh là nơi họa sĩ tới thăm để nghiên cứu về nền nghệ thuật cổ điển Trung Hoa. Đến cuối năm, ông được mời vào Huế để vẽ chân dung ông hoàng Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương. Ngoài ra, ông còn vẽ tranh cỡ lớn trang trí ở cung đình Huế. Năm 1937, họa sĩ lại sang Paris, trung tâm nghệ thuật của châu Âu để phụ trách gian hàng Đông Dương tại triển lãm quốc tế. Tại Pháp, ông thực sự bị cuốn hút với vẻ đẹp hoa lệ và các trường phái nghệ thuật đa dạng, do đó họa sĩ đã xin định cư tại đất nước hình lục lăng. Năm 1938, lần đầu tiên họa sĩ Lê Phổ tổ chức triển lãm phòng tranh của riêng cá nhân mình với các tác phẩm như tranh vẽ các người đẹp Việt Nam hoặc đang say sưa bên rực rỡ các sắc hoa, hoặc đang mơ màng bên trang sách; hoặc tranh thiếu nữ đọc thư tình trong vườn, những cô gái đang phơi áo... được công chúng phương Tây đón nhận nồng nhiệt. Năm 1941, ông cùng người bạn học rất thân là họa sĩ Mai Trung Thứ tổ chức cuộc triển lãnh tranh tại Alger rất thành công với nhiều tác phẩm được bán. Năm 1963, ông hợp tác cùng phòng tranh Wally Finday, Mỹ tổ chức vài buổi triển lãm tranh. Phòng tranh cũng chính là nơi ông giới thiệu và công bố các tác phẩm của mình ra khắp thế giới. Phong cách hội họa. Họa sĩ Lê Phổ cho rằng các chất liệu tranh lụa có một số nhược điểm không chỉ về khuôn khổ mà về chất liệu màu sắc chưa bộc lộ những lời tác giả muốn thể hiện. Đó là lý do ông đã chuyển sang vẽ tranh sơn dầu. Ngoài việc thay đổi chất liệu vẽ, nội dung được ông nhắc tới cũng mở rộng, phóng khoáng và thoải mái hơn. Ví dụ rõ nét đó là người phụ nữ trong tranh của họa sĩ dần vượt ra ngoài lễ giáo ngàn năm để mang một sắc màu "thế tục". Waldemar George, nhà phê bình nghệ thuật Pháp khi viết cuốn sách về Lê Phổ vào năm 1970, ông gọi họa sĩ Việt này là "Họa sĩ siêu phàm" (Divine Painter). Waldemar cho rằng phong cách hội họa của Lê Phổ được thành hai giai đoạn và cả hai giai đoạn đều có sự kết hợp của trường phái Đông Tây từ kinh nghiệm thực tế cũng như kiến thức họa sĩ học được. Giai đoạn đầu tiên (1934-1945). Đây là giai đoạn họa sĩ Lê Phổ vẽ trên chất liệu tranh lụa với đậm nét cổ điển và chịu ảnh hưởng sâu sắc phong cách Trung Quốc. Ông dùng các gam màu sắc đậm, lạnh và nguyên chất. Có thể thấy, một số bức nổi tiếng như "Thiếu phụ ngồi", "Chim ngói" mang phong cách đời Tống được kết hợp với đường nét uyển chuyển và mềm mại. Với không gian phẳng lặng cùng nét bút tinh vi, mong manh mà lạnh lùng, tạo không khí thuần khiết, ẩn chứa dung sắc xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Khi họa sĩ hòa trộn hai phong cách hội họa Trung Quốc và Ý, ông bắt đầu vẽ những tác phẩm như bức "Mẹ con", "Thiếu nữ và hoa lan", "Hai chị em", "Thiếu nữ và hoa hồng", "Chải đầu"... có chút biến đổi. Qua đó, nét bút thanh tao mô tả phụ nữ trong tranh trang nghiêm, dáng dấp thiên thần với phong cách châu Âu nhưng đượm buồn và mang tính huyền bí đến khó hiểu với người xem. Đến những năm 1940, Lê Phổ mới thực sự bỏ mọi chuẩn mực của trường phái cổ điển để bước vào trường phái ấn tượng. Giai đoạn thứ hai (từ những năm 1950). Đây là thời kỳ lãng mạn với tranh sơn dầu trên thế giới nói chung. Nhà phê bình Waldemar nhận xét, phong cách của Lê Phổ có sự kết hợp hài hoà cái hồn Trung Hoa với trường phái nghệ thuật ấn tượng. Nét vẽ của họa sĩ đầy tự tin với những hiểu biết sâu sắc những tinh hoa nghệ thuật hội họa Đông và Tây. Trong cuốn sách của mình, Waldemar viết về họa sĩ Lê phổ như sau: "Những con đường của châu Á và châu Âu giao thoa, nghệ thuật phương Đông và nghệ thuật phương Tây mở ra một cuộc đối thoại thân tình". Hình ảnh người phụ nữ. Hình ảnh phụ nữ được xuất hiện xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của họa sĩ Lê Phổ. Ông Corinne de Menonville đã nhận xét trong cuốn sách "Những tác phẩm hội họa Việt Nam (sách)" như sau: "Ở giai đoạn đầu, người phụ nữ (trong tranh Lê Phổ) thường mỏng manh, e ấp, khuôn mặt trái xoan, có ánh sáng tạo hiệu ứng cho hồn tranh. Họ đều toát nên sự trang nhã, nhẹ nhàng, duyên dáng, lịch thiệp. Với tranh lụa, màu sắc nguyên chất và đậm sắc thái tạo nên khung cảnh lãng mạn. Giai đoạn tiếp theo, tranh sơn dầu vẫn đặt phụ nữ là tâm điểm, nhưng có thêm những cảm giác về tự do qua cử chỉ và màu sắc. Tranh lụa, người vẽ mất nhiều thời gian, cần sự tinh tế và tỉ mỉ, trong khi tranh sơn dầu, người nghệ sĩ được phép sáng tạo hơn với nhiều cử động và mức độ của màu sắc. Ảnh hưởng bởi trường phái ấn tượng, các tác phẩm thời gian này thể hiện sự tự do, tính hoa mỹ, hân hoan trong ánh sáng, nhịp nhàng trong nét cọ". Nhà phê bình Waldemar thì viết: ""Một con thuyền lướt giữa những bông súng, những cô gái ẩn hiện hái trái cây trong vườn địa đàng, họ thật kiểu cách và được nhớ đến bởi sự duyên dáng, niềm vui của cuộc sống phát ra từ tất cả, trong tiết trời xuân vô tận, những thiếu nữ mảnh mai đang dùng bữa trưa trên một hiên nhà, những đĩa trái cây trên bàn phủ khăn, bình đựng đầy hoa dại: thế giới của Lê Phổ là một thiên đường trên trái đất"." Các tác phẩm nổi tiếng. Trong số các họa sĩ Việt Nam, hiếm có họa sĩ nào như Lê Phổ để lại một gia tài nhiều tác phẩm có giá trị về mặt nghệ thuật cũng như giá trị kinh tế. Một số tác phẩm tiêu biểu được định giá cao như: Tình cảm quê hương đất nước. Trong suốt cuộc đời của mình, dù định cư tại Pháp từ năm 1937 và từ đó không còn về thăm lại quê hương , họa sĩ Lê Phổ luôn nhắc về những tình cảm sâu đậm của mình với quê hương, đất nước. Trong tranh của ông, những đặc trưng về Việt Nam, Á Đông được thể hiện qua nét vẽ những người phụ nữ hoà mình với tự nhiên và trẻ thơ. Một hình ảnh khác thường xuất hiện là những bông hoa. Nhà phê bình Waldemar nhận xét Lê Phổ thể hiện nỗi nhớ quê hương bằng hàng ngàn bông hoa. Bà Vaux, vợ ông tâm sự: "Ông yêu hoa, và hoa luôn xuất hiện trong tranh của ông ở cả hai giai đoạn trong tranh lụa và sơn dầu". Vào tháng 9 năm 1993, khi tuổi đã cao, họa sĩ Lê Phổ bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng bằng một "món quà". Họa sĩ nói: "Tôi ở Pháp 60 năm nay, tôi mang quốc tịch Pháp nhưng không lúc nào tôi không nhớ đến quê hương. Vì thế tôi đã để riêng ra 20 bức tranh lựa chọn rất cẩn thận để biếu Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam".
1
null
Mùa đầu tiên của Giọng hát Việt bắt đầu được phát sóng từ ngày 8 tháng 7 năm 2012 trên kênh VTV3 của Đài Truyền hình Việt Nam. Bốn giám khảo cho mùa đầu tiên là Thu Minh, Trần Lập, Hồ Ngọc Hà và Đàm Vĩnh Hưng. Giải thưởng cho nhà vô địch mùa đầu tiên là 500 triệu đồng và một hợp đồng thu âm với hãng ghi âm Universal Republic cùng nhiều giải phụ khác. Tại đêm chung kết diễn ra vào ngày 13 tháng 1 năm 2013, thí sinh Phạm Thị Hương Tràm của đội Thu Minh đã trở thành quán quân "Giọng hát Việt" mùa đầu tiên. Vòng Giấu mặt. Trong vòng Giấu mặt, các huấn luyện viên sẽ tiến hành tuyển chọn thí sinh để thành lập một đội 14 người. Các huấn luyện viên sẽ ngồi quay lưng lại với thí sinh và không được biết bất cứ thông tin gì của thí sinh trừ giọng hát. Khi họ thấy muốn "tuyển" thí sinh đó vào đội thì phải nhấn nút "TÔI CHỌN BẠN" trong khi phần thi của thí sinh chưa kết thúc. Nếu chỉ một huấn luyện viên quay lại, thí sinh sẽ về đội người đó. Nếu có nhiều huấn luyện viên quay lại, thí sinh được phép chọn huấn luyện viên mình thích và huấn luyện viên cũng được phép dùng mọi cách để kêu gọi thí sinh về đội của mình. Huấn luyện viên đã đủ số lượng thí sinh sẽ dừng tuyển mộ trong khi các huấn luyện viên khác tiếp tục. Vòng giấu mặt kết thúc ngay khi tất cả các huấn luyện viên dừng tuyển vì đủ chỗ. Vòng Đối đầu. Các huấn luyện viên huấn luyện các thành viên trong đội với sự trợ giúp của các cố vấn tin cậy mà họ mời. Họ chia cặp (mỗi trận đấu gồm có 2 đối thủ cùng đội) đào tạo và cho các cặp thí sinh của chính đội mình đối đầu với nhau để chiến đấu và huấn luyện viên của đội đó phải quyết định một người chiến thắng để vào vòng sau, người thua sẽ phải ra về. 28 người chiến thắng sẽ vào vòng biểu diễn trực tiếp. Danh sách cố vấn của các đội: Vòng Liveshow (Biểu diễn trực tiếp). Liveshow 1 (23/09/2012). Liveshow 1 là đêm biểu diễn của 14 thí sinh của 2 đội huấn luyện viên Trần Lập và Thu Minh. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào liveshow 2 được xác định theo quy tắc: Liveshow 2 (30/09/2012). Sau khi công bố 8 thí sinh xuất sắc nhất trong 14 thí sinh của 2 đội huấn luyện viên trình diễn ở liveshow 1 được đặc cách vào thẳng vòng tiếp theo ở đầu chương trình. 6 thí sinh còn lại của 2 đội huấn luyện viên sẽ trình diễn đêm Sing-off. Mỗi huấn luyện viên sẽ được chọn thêm 1 thí sinh đi tiếp từ 3 thí sinh hát sing-off. Hai thí sinh còn lại sẽ bị loại. Liveshow 3 (07/10/2012). Liveshow 3 là đêm biểu diễn của 14 thí sinh của 2 đội huấn luyện viên Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào liveshow 4 được xác định theo quy tắc: Liveshow 4 (14/10/2012). Sau khi công bố 8 thí sinh xuất sắc nhất trong 14 thí sinh của 2 đội huấn luyện viên trình diễn ở liveshow 1 được đặc cách vào thẳng vòng tiếp theo ở đầu chương trình. 6 thí sinh còn lại của 2 đội huấn luyện viên sẽ trình diễn đêm Sing-off. Mỗi huấn luyện viên sẽ được chọn thêm 1 thí sinh đi tiếp từ 3 thí sinh hát sing-off. Hai thí sinh còn lại sẽ bị loại. Liveshow 5 (28/10/2012). Đêm liveshow 5 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Thu Minh và Trần Lập. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 5 được xác định theo quy tắc: Liveshow 6 (11/11/2012). Đêm liveshow 6 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 6 được xác định theo quy tắc: Liveshow 7 (18/11/2012). Đêm liveshow 7 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Thu Minh và Trần Lập. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 7 được xác định theo quy tắc: Liveshow 8 (09/12/2012). Đêm liveshow 8 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 8 được xác định theo quy tắc: Liveshow 9 (16/12/2012). Đêm liveshow 9 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Thu Minh và Trần Lập. Mỗi thí sinh sẽ trình diễn 2 tiết mục. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 9 được xác định theo quy tắc: Liveshow 10 (23/12/2012). Đêm liveshow 10 là các phần dự thi của các thí sinh thuộc đội Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà. Mỗi thí sinh sẽ trình diễn 2 tiết mục. Kết quả thí sinh ở lại, đi tiếp sẽ được công bố vào cuối liveshow 10 được xác định theo quy tắc: Liveshow 11 (30/12/2012). Liveshow 11 là đêm bán kết của Giọng Hát Việt mùa 1. 8 thí sinh của các đội sẽ cùng nhau trình diễn trên sân khấu một ca khúc đơn ca duy nhất. Thí sinh có tổng điểm bình chọn của khán giả và huấn luyện viên cao hơn ở mỗi đội sẽ là người đi tiếp. Tiết mục dự thi Tiết mục khách mời Liveshow 12 (13/01/2013). Liveshow 12 là đêm chung kết của Giọng Hát Việt mùa 1. Mỗi thí sinh sẽ trình bày tổng cộng 3 ca khúc, trong đó có 2 ca khúc đơn ca và 1 ca khúc song ca cùng huấn luyện viên. Thí sinh có số phiếu bình chọn của khán giả cao nhất sẽ trở thành quán quân của cuộc thi. Scandal. Phát biểu của Thanh Lam. Khi ca sĩ Thanh Lam phát biểu ý kiến về các chương trình thực tế hiện nay, nhắc đến The Voice phiên bản Việt, chị nhận xét về hai huấn luyện viên Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà rằng: "Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà dùng công nghệ rất nhiều. Nói gì thì nói khi dạy cho một bạn trẻ có triển vọng thì phải dạy bằng cái nghề của mình chứ không thể dạy bằng công nghệ được. Các bạn ấy không có tiền, không có cuộc sống để làm những thứ to tát thì phải dạy họ bằng thực lực. Tôi nghĩ rằng đào bới khả năng của các bạn trẻ thì phải bằng những giá trị đích thực. Khi tôi xem chương trình này tôi cũng ngạc nhiên và không thể tưởng tượng ra hai ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng và Hồ Ngọc Hà sẽ dạy bằng cái gì? Có bột mới gột nên hồ. Phải có trình độ mới dạy được." Nhiều bài báo chỉ trích dẫn phần cuối của đoạn phát biểu này và làm dấy lên tranh cãi trong dư luận. Một số người bênh vực Thanh Lam đã thẳng thắn và nói đúng. Một số người chỉ trích Thanh Lam phát ngôn gây shock và không tôn trọng đồng nghiệp. Riêng Đàm Vĩnh Hưng tuyên bố "sẽ không nhìn mặt Thanh Lam." Dàn xếp kết quả. Một clip thu âm giọng nói của giám đốc âm nhạc, ca nhạc sĩ Phương Uyên, được tung lên internet. Phương Uyên được cho là đã có dàn xếp kết quả chương trình. Trong cuộc họp báo những người thực hiện chương trình đã bác bỏ rằng có sự dàn xếp kết quả. Tuy nhiên Phương Uyên muốn rời khỏi vị trí giám đốc âm nhạc và được quyết định là như vậy. Hoài Sa tạm thời đảm nhiệm công việc của Phương Uyên.
1
null
Đông Khuyết Đồ (Hangul: 동궐도, tạm dịch: Bản đồ Cung điện phía Đông) là một bức tranh khổng lồ được các họa sĩ Hàn Quốc vẽ vào đầu thế kỷ 19 thể hiện hai cung điện lớn trong Ngũ cung là Xương Đức cung và Xương Khánh cung dưới thời nhà Triều Tiên. "Đông Khuyết" là tên thường gọi của Xương Đức cung vì nơi này nằm phía đông của cung điện chính là Cảnh Phúc Cung. Tuy nhiên vẫn có cả Xương Khánh cung trong bức địa đồ này. Mô tả. Bức tranh cho ta cái nhìn toàn cảnh từ trên cao xuống để bao quát hết toàn bộ lâu đài, thành quách, cầu và thậm chí là đá, cây cối trong hai cung điện cùng toàn bộ tên của chúng. Các chi tiết được vẽ cực kì tỉ mỉ bằng màu trên lụa, sử dụng cả kĩ thuật vẽ của phương Đông và phương Tây. Bức tranh được trải ra trên 16 tấm gỗ theo lối bình phong. Đánh giá. Bức tranh được Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc xếp vào danh sách quốc bảo (thứ 249). Đây là một tác phẩm cực kỳ giá trị trong nghiên cứu cũng như bảo tồn và phục dựng sau này, đồng thời cung cấp tư liệu chân thực về thời kỳ huy hoàng của nhà Triều Tiên.
1
null
Handley Page HP.52 Hampden là một loại máy bay ném bom hạng trung hai động cơ của Anh, nó được trang bị cho Không quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh thế giới II. Cùng với Whitley và Wellington, Hampden nhận trọng trách thực hiện các cuộc ném bom tại chiến trường châu Âu, tham gia các cuộc đột kích đêm đầu tiên vào Berlin. Hampden là loại mới nhất trong ba loại máy bay ném bom kể trên, nó còn được gọi là "vali bay" vì khoảng không chật hẹp bên trong máy bay, mặc dù vậy nó vẫn không phù hợp với các cuộc không chiến hiện đại, sau khi hoạt động chủ yếu vào ban đêm, nó rút khỏi biên chế của Bộ tư lệnh máy bay ném bom vào cuối năm 1920.
1
null
David Jon Gilmour, CBE, sinh ngày 6 tháng 3 năm 1946, là một nghệ sĩ rock người Anh, được biết tới nhiều nhất là tay guitar, nhạc sĩ và người hát chính cho ban nhạc nổi tiếng Pink Floyd. Ước tính tới năm 2010, ban nhạc này đã bán được khoảng 250 triệu đĩa trên toàn thế giới, trong đó có tới 74,5 triệu bản chỉ riêng ở nước Mỹ. Ngoài việc là thành viên của Pink Floyd, Gilmour còn làm nhà sản xuất cho khá nhiều nghệ sĩ khác, cũng như có được thành công trong sự nghiệp solo của mình. Mặt khác, ông cũng là người luôn tích cực ủng hộ các dự án từ thiện. Năm 2003, ông được trao danh hiệu CBE từ Hoàng gia Anh cho những hoạt động từ thiện và được trao giải Cống hiến trọn đời tại Q Awards 2008. Năm 2011, tạp chí "Rolling Stone" xếp ông ở vị trí số 14 trong danh sách 100 tay guitar vĩ đại nhất mọi thời đại.
1
null
Thánh quan thầy (còn gọi Thánh bổn mạng hay Thánh bảo trợ; Latinh: "patronus") là vị Thánh được cho là bảo vệ, hướng dẫn và cầu bầu cho một người, một địa phương, một quốc gia hoặc thậm chí là một sự kiện. Chức danh này thường có trong Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông Phương. Truyền thống nhận Thánh quan thầy phổ biến tại nhiều thành phố, quốc gia ở châu Âu. Thông thường, vị Thánh quan thầy mà họ chọn là người được sinh ra hoặc có những hoạt động tích cực ở địa phương. Ở Mỹ Latinh, khi các nhà thám hiểm người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đặt chân đầu tiên lên vùng đất nào thì họ thường được đặt tên cho vùng đất ấy theo tên vị Thánh mà ngày hôm đó mừng lễ. Việc chọn Thánh quan thầy cho một quốc gia hoặc thành phố có thể do chính quyền công nhận (đối với các quốc gia có truyền thống Công giáo) hoặc chỉ do giáo hội Công giáo tại đó công nhận. Những vị Thánh quan thầy của các nghề nghiệp thì được chọn từ những Thánh có nghề nghiệp hoặc phép lạ liên quan đến nghề nghiệp đó. Thuật ngữ "patron" trong giới sinh viên các trường đại học kiến trúc cũng xuất phát từ nghĩa là người bảo trợ và hướng dẫn. Ở Việt Nam hiện nay, Giáo hội Công giáo tôn Thánh Giuse là thánh quan thầy chính thức. Thành phố và thị trấn. Gül Baba - Muslim patron saint of Budapest
1
null
Junkers Ju 86 là một loại máy bay ném bom và chở khách của Đức, nó được thiết kế vào đầu thập niên 1930 và được sử dụng trong Chiến tranh thế giới II. Kiểu dân sự có tên Ju 86B có thể chở 10 hành khách. Tính năng kỹ chiến thuật (Ju 86R). Jane's Fighting Aircraft of World War II and Warbirds Resource Group
1
null
Trong địa lý tự nhiên, kênh nước hay thủy đạo (tiếng Anh: "channel") là một lòng sông, vũng lầy hoặc eo biển có đáy (lòng) và bờ. Một kênh nước có thể là một dòng chảy tự nhiên hoặc "nhân tạo" xuyên qua một đá ngầm, bãi nông, vịnh hoặc bất cứ một khối nước nông nào. Ngành hàng hải thường xuyên sử dụng khái niệm này khi muốn nói đến một đường nước đã được cơ quan chuyên trách nào đó của chính phủ đảm bảo là an toàn (có đủ độ sâu và độ rộng tối thiểu) cho việc lưu thông qua lại của mọi loại tàu bè. Điểm đến của kênh nước này có thể là cảng hoặc một bến thuyền. Trách nhiệm giám sát các yếu tố khách quan (dông bão, lũ lụt, sự lắng đọng bùn đất theo mùa) ảnh hưởng đến hoạt động lưu thông đường thủy của tàu thuyền tuỳ thuộc vào từng địa phương. Các hoạt động bảo trì như nạo vét, khơi thông...thường do một bên thứ ba tiến hành. Tại Hoa Kỳ, lực lượng Công binh Lục quân đảm trách nhiệm vụ theo dõi và bảo dưỡng các kênh nước dành cho giao thông đường thủy, dù rằng công việc nạo vét bùn đất thường do tư nhân tiến hành dưới sự giám sát của Công binh Lục quân. Trong các tài liệu hàng hải, người ta thường dùng thuật ngữ "kênh nước" với nghĩa tương đương "eo biển" hoặc "luồng lạch". Theo đó, kênh nước là một khối nước hẹp nối liền hai khối nước lớn hơn lại với nhau; trong trường hợp của một quần đảo, vùng nước ngăn cách giữa các đảo với nhau được gọi là luồng lạch. Kênh nước ngoài Trái Đất. Kênh nước tự nhiên có thể được tìm thấy ở những nơi khác trong Hệ Mặt Trời ngoài Trái Đất và cái dài và rộng nhất là kên tháo nước ở Sao Hỏa và các kênh ở Sao Kim mà trong đó có nhiều kênh rộng hàng chục kilômét (ví dụ mạng lưới kênh từ Argyre Planitia ở Sao Hỏa dài 8000 km và Baltis Vallis ở Sao Kim dài 7000 km so với sông Nile dài 6,650 km - kênh lớn nhất trên Trái Đất). Sự hình thành chính xác của những kênh cổ lớn này chưa được biết rõ mặc dù theo lý thuyết nhiều cái có thể hình thành do siêu lũ và dòng chảy nham thạch ở sao Kim. Trong khoa học hành tinh thuật ngữ "rille" đôi khu được sử dụng để nói về sự hình thành tương tự có thể thấy ở Mặt Trăng và Sao Thủy mà chưa rõ nguồn gốc. Kênh gần đây cũng được tìm thấy ở Titan. Vệ tinh này của Sao Thổ là hành tinh duy nhất được biết đến với những kênh hoạt động vĩnh viễn trong Hệ Mặt Trời ngoài Trái Đất, cái lớn nhất dài 400 km. Người ta tin rằng chúng hình thành từ hiđrô cacbon ở vòng tuần hoàn mêtan giả thuyết.
1
null
Đảng Phục hưng Khmer ("Kanapac Khemara Ponnakar", tiếng Pháp: "parti de rénovation Khmère") là một đảng phái chính trị chống cộng sản, chủ nghĩa dân tộc và bảo hoàng được thành lập tại Campuchia vào tháng 9 năm 1947. Năm 1955, nó trở thành một trong những yếu tố cốt lõi của phong trào chính trị Sangkum của Hoàng thân Norodom Sihanouk. Đảng đóng một vai trò chính yếu trong lịch sử vì các thành viên chủ chốt là tướng Lon Nol và Hoàng thân Sisowath Sirik Matak về sau sẽ lãnh đạo cuộc đảo chính cánh hữu vào năm 1970 chống lại chế độ Sihanouk và phong trào Sangkum. Lịch sử. Đảng Phục hưng Khmer do nhà chính trị, tướng Nhiek Tioulong và cảnh sát trưởng Lon Nol sáng lập nên. Nhà lãnh đạo trên danh nghĩa của đảng là phải tôn kính Hoàng thân Sisowath Monipong, một trong hai người con trai của vua Sisowath Monivong và một trong những ứng cử viên đã để tuột mất ngai vàng cho Sihanouk vào năm 1941. Các thành viên nổi bật khác bao gồm Chau Sen Cocsal Chhum, người đóng vai trò như một cố vấn cho Tioulong và Nol thành lập đảng và Chuop Hell. Đảng có tên gọi chính thức là "Renos", chủ yếu đề xướng một chương trình bảo hoàng và xã hội bảo thủ, dù nó ủng hộ độc lập nhiều hơn so với Đảng Tự do cũng bảo thủ tương tự của Hoàng thân Norodom Norindeth, thế nhưng nó đã thu hút các quan chức cấp cao và một số thành viên của hoàng tộc cũng như các sĩ quan quân đội. Viễn cảnh của Đảng Phục hưng Khmer gần giống như kiểu ủng hộ chế độ quân chủ, trong đó nhấn mạnh Campuchia và chế độ quân chủ của nó trong lịch sử thế giới và kiểu hậu thuộc địa, được tượng trưng bởi biểu tượng bầu cử là Nữ thần Địa Cầu chồng lên trên bản đồ thuộc địa. Đảng còn xuất bản một tờ báo làm cơ quan ngôn luận là "Khmera" hoặc "Rénovation" bằng cả tiếng Pháp và tiếng Khmer. Monipong trở thành Thủ tướng Chính phủ của một chính phủ thống nhất từ giữa tháng 6 năm 1950 và tháng 2 năm 1951. Lon Nol đã lãnh đạo đảng tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử năm 1951, mặc dù nhận được 9,1% tổng số phiếu bầu nhưng đảng của ông chỉ giành được tổng cộng 2 ghế trong Quốc hội. Dù Đảng Phục hưng Khmer chỉ giới hạn thành công trong cuộc bầu cử thì cả Lon Nol lẫn Sirik Matak về sau đều trở thành những chính trị gia nổi bật có chức có quyền trong khi một thành viên trong đảng sẽ trở thành một trong những nhóm chính trị chính đằng sau sự hình thành phong trào Sangkum của Hoàng thân Sihanouk. Nhiek Tioulong trở thành Thủ tướng dưới thời Sangkum và sau này trở thành một nhân vật nổi bật trong tổ chức thân bảo hoàng FUNCINPEC. Lon Nol cũng trở thành Thủ tướng, nhưng cùng với Sirik Matak lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1970 phế truất Sihanouk và tiến tới thành lập nước Cộng hòa Khmer.
1
null
Đảng Dân chủ ("Krom Prachéathipatei") là một đảng phái chính trị cánh tả, ủng hộ độc lập ở Campuchia được Hoàng thân Sisowath Yuthevong, nguyên thành viên Phòng Lao động Quốc tế Pháp thành lập vào năm 1946. Khẩu hiệu là "Hòa bình, Độc lập, Kỷ luật và lòng dũng cảm" và biểu tượng bầu cử là một đầu voi và ba hoa sen. Lịch sử. Thời kỳ thuộc địa. Trong cuộc bầu cử đầu tiên vào Hội đồng Lập hiến Campuchia thời thuộc địa được tổ chức vào tháng 9 năm 1946, Đảng Dân chủ giành được 50 trên 67 ghế và trong nhiều năm liền họ vẫn còn là đảng phổ biến nhất tại Campuchia, bất chấp cái chết sớm của Yuthevong vào năm 1947. Đảng Dân chủ trái ngược với đối thủ của họ là Đảng Tự do (Kanak Sereipheap) của Hoàng thân Norodom Norindeth và Đảng Dân chủ tiến bộ của Hoàng thân Norodom Montana đã ủng hộ độc lập ngay lập tức dựa trên mô hình của nền dân chủ Pháp; họ cũng duy trì tổ chức kháng chiến yêu nước Khmer Issarak do Thái Lan hậu thuẫn nhằm chống đối người Pháp. Đảng Dân chủ bị cuốn theo cuộc bầu cử Quốc hội năm 1947, với sự hỗ trợ bởi một đội ngũ nhiệt tình của các nhà hoạt động (bao gồm cả Saloth Sar trẻ tuổi, sau này được gọi là Pol Pot và Ieng Sary). Một số nhân vật nổi bật khác có liên quan với Đảng Dân chủ trong thời gian này là In Tam thuộc phái ôn hòa và and Hu Nim thuộc phe cánh tả, sau này trở thành một cán bộ Khmer Đỏ. Sự ly khai của Yem Sambaur và các đại biểu khác sang Đảng Tự do vào năm 1948, tiếp theo là vụ ám sát lãnh đạo Đảng Dân chủ Ieu Koeus vào năm 1950 do một thành viên của đoàn tùy tùng Norindeth thực hiện, dẫn đến một thời kỳ phân liệt và chia rẽ trong Đảng. Tuy nhiên, bất chấp uy thế tạm thời của Đảng Tự do, Đảng Dân chủ vẫn tiếp tục lôi kéo nhiều thành viên của giới trí thức thượng lưu Khmer trong khoảng thời gian dẫn đến sự độc lập ngay lập tức của Campuchia vào năm 1953, và giữ lại hỗ trợ cụ thể giữa các công chức và các tầng lớp có học ở đô thị. Sơn Ngọc Thành, cựu Thủ tướng Chính phủ bù nhìn dưới thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Campuchia cũng tham gia Đảng Dân chủ từ năm 1951 và 1952, khi ông để lại cho các khu rừng ở miền bắc Campuchia để bắt đầu phong trào độc lập theo hướng tả của mình. Sau độc lập. Suốt năm 1954, Đảng bắt đầu chuyển sang hướng tả, chịu sự ảnh hưởng của các nhà chính trị cấp tiến được giáo dục ở Paris dưới sự lãnh đạo của Keng Vannsak; Hoàng thân Norodom Phurissara trở thành Tổng thư ký Đảng Dân chủ. Ở giai đoạn này, lập trường của Đảng chủ yếu nhấn mạnh tầm quan trọng của Hội nghị Genève năm 1954 về đảm bảo độc lập và sự rắc rối của việc chấp nhận viện trợ từ Mỹ như là một kết quả (một vị trí tương tự như đối thủ Đảng Pracheachon xã hội chủ nghĩa). Đảng Dân chủ đã tham gia vào cuộc bầu cử năm 1955, tuy nhiên, sau khi vua Norodom Sihanouk thoái vị và thiết lập phong trào chính trị chống cộng sản của ông mang tên Sangkum, để tham gia trong cuộc bầu cử, một số đảng viên Dân chủ nổi bật (chẳng hạn như Penn Nouth) rời khỏi đảng và tham gia vào phe Sihanouk. Keng Vannsak bị đặc vụ chính phủ xử bắn (tức là Sangkum) tại một cuộc mít tinh vào đêm trước cuộc thăm dò và bị bỏ tù trong thời gian bỏ phiếu, trong khi của văn phòng đảng tại Battambang thì bị lục soát. Đảng Dân chủ cuối cùng đã đạt được 12% phiếu bầu, trong khi Sangkum giành được 82% và tất cả các ghế. Tháng 8 năm 1957, Đảng Dân chủ bị giải thể. Theo ghi chú do Hoàng thân Sisowath Monireth để lại, điều này xảy ra sau khi các nhà lãnh đạo còn lại được mời tới dự "hội nghị thân thiện" với Sihanouk và đã bị cảnh sát của Lon Nol đánh đập vào ngày khởi hành. Tái lập. Sau khi Lon Nol lật đổ Sihanouk trong cuộc đảo chính Campuchia năm 1970, dẫn đến sự thành lập nước Cộng hòa Khmer, Đảng Dân chủ được tái lập bởi In Tam, một trong những nhà lãnh đạo cuộc đảo chính. Tuy nhiên, sự thao túng của Lon Nol và người em trai Lon Non trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1972 không có nghĩa là Đảng Dân chủ từ chối tham gia. In Tam về sau đã thoái lui chính giới, vị trí lãnh đạo Đảng do Chau Sau kế nhiệm; trong thời gian này nó cũng đã thực hiện lời đề nghị từ nhà chính trị lưu vong Son Sann. Tuy vậy, Đảng Dân chủ đã không đạt được quyền lực chính trị hơn nữa trước khi nước Cộng hòa Khmer sụp đổ vào năm 1975, dẫn đến sự thành lập Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ. In Tam sau thời kỳ này lại hợp tác một lần nữa với phe bảo hoàng theo Sihanouk, đã tái lập Đảng Dân chủ theo sau thỏa thuận hòa bình tại Campuchia. Đảng tham gia tranh cử nhưng thất bại trong việc giành ghế vào Quốc hội trong cuộc bầu cử năm 1993.
1
null
Đảng Cộng hòa Campuchia là một đảng phái chính trị được thành lập trong thời kỳ Cộng hòa Khmer (1970-1975). Lịch sử. Đảng Cộng hòa là một trong các đảng phái mới được hình thành từ sau cuộc đảo chính Campuchia năm 1970 lật đổ chế độ Sangkum của Hoàng thân Norodom Sihanouk. Đảng được thành lập lần đầu tiên vào năm 1971 với tên gọi "Hiệp hội Cộng hòa Độc lập" bởi Tep Khunnah, một đồng minh thân cận của nhà lãnh đạo cuộc đảo chính là Hoàng thân Sisowath Sirik Matak. Đảng Cộng hòa chính thức kiến tạo vào ngày 15 tháng 6 năm 1972 để chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc hội sẽ được tổ chức năm đó, Sirik Matak làm Tổng thư ký. Thông qua biểu tượng của người đứng đầu nam và nữ, để chỉ ra sự nhấn mạnh về "giá trị gia đình". Đảng Cộng hòa về cơ bản là một công cụ vì lợi ích của Sirik Matak và chức năng chủ yếu nhằm thay thế khối sức mạnh của các nhà lãnh đạo cuộc đảo chính khác như tướng Lon Nol, có người em trai Lon Non đứng đầu Đảng Cộng hòa Xã hội (PSR). Do đó, về sau được nuôi dưỡng làm cơ sở quyền lực của chủ nghĩa dân túy, bao gồm cả sinh viên cấp tiến và quan trọng hơn chính là Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer, Đảng Cộng hòa đã thu hút các tầng lớp đô thị, các doanh nhân người Hoa-Khmer và một số ít sĩ quan quân đội (như Thongvan Fanmuong). Mặc dù nền tảng dân tộc của Đảng Cộng hòa xét theo nhiều hướng cũng tương tự như của Đảng Xã hội Cộng hòa, thế nhưng phong cách xa rời quần chúng của Sirik Matak đã đặt ông vào thế bất lợi cho chủ nghĩa dân túy của Lon Nol. Khi cuộc bầu cử cuối cùng được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1972, Đảng Cộng hòa từ chối tham gia với lý do có quá nhiều gian lận nhằm ủng hộ Đảng Cộng hòa Xã hội thắng cử. Tình hình chính trị tại Cộng hòa Khmer tiếp tục xấu dần, vào ngày 25 tháng 3 năm 1973, Tep Khunnah là mục tiêu của một vụ ám sát khi bị một quả lựu đạn ném vào chiếc xe của ông. Sự kiện này được nhiều người tin rằng là tác phẩm của Lon Non, do "Tiểu đoàn An ninh Cộng hòa" của ông còn gắn liền với các hoạt động như vậy của cơ quan tình báo phương Tây. Trước sứp ép từ Mỹ, những người muốn thấy một chính phủ vững mạnh hơn ở Phnôm Pênh, cuối cùng dẫn đến việc Lon Non phải từ chức và bỏ sang tạm lánh ở Paris, Pháp. Một "Hội đồng Chính trị Tối cao" được thiết lập, bao gồm Sirik Matak, Lon Nol, Cheng Heng và In Tam. Đại biểu Đảng Cộng hòa được mời vào chính phủ liên hiệp trên thực tế, mặc dù họ không được phép bỏ phiếu trong Quốc hội và vẫn bị xem là bất hợp pháp. Tep Khunnah đã có lúc chạy đi kiếm Lon Non trong một câu lạc bộ đêm ở Paris, đấm ông ta gãy vài cái răng. Bất chấp sự bổ nhiệm của "Hội đồng Chính trị Tối cao", Sirik Matak và các đảng viên Đảng Cộng hòa không thể phá vỡ sự thống trị của Đảng Cộng hòa Xã hội trước khi nước Cộng hòa Khmer sụp đổ hoàn toàn vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, kéo theo sự tan rã các đảng phái chính trị của chế độ cũ.
1
null
Đảng Cộng hòa Xã hội (tiếng Pháp: "Parti social républicain"; PSR: tiếng Khmer: "Sangkum Sathéaranak Râth") là một đảng phái chính trị tại Campuchia, do Tổng thống Lon Nol thành lập vào tháng 6 năm 1972 để tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử Quốc hội nước Cộng hòa Khmer được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1972. Lịch sử hình thành. Đảng Cộng hòa Xã hội được thành lập xung quanh Hiệp hội Cộng hòa xã hội hiện có của Lon Nol và chịu nhiều ảnh hưởng từ người em trai Lon Non và các sĩ quan của lực lượng vũ trang nước Cộng hòa Khmer. Lấy biểu tượng Angkor Wat, trước đây được Đảng Tự do của Hoàng thân Norodom Norindeth sử dụng từ năm 1946-1956. Cương lĩnh của Đảng là chủ nghĩa dân túy, dân tộc và chống Cộng, Lon Nol kiên quyết chống lại ảnh hưởng của Bắc Việt và Trung Quốc tại khu vực trong bối cảnh Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai: giá trị của nó chủ yếu được tuyên bố là "chủ nghĩa cộng hòa, trách nhiệm xã hội và chủ nghĩa dân tộc". Chức năng chính của Đảng là hỗ trợ và hợp pháp hóa quyền lãnh đạo đất nước của Lon Nol, về sau ông đã phát triển một hệ tư tưởng nửa thần bí hơi sô vanh xiêu vẹo gọi là chủ nghĩa Tân Khmer để ủng hộ chương trình nghị sự chính trị của ông. Đảng Cộng hòa Xã hội lúc đầu phát triển thành hai phe rõ rệt. Một là Dangrek do cựu binh cánh hữu cực đoan kiêm (từ sau ngày 18 tháng 3) Thủ tướng Sơn Ngọc Thành và viện sĩ cánh tả Hang Thun Hak lãnh đạo. Phe "Dangrek" được đặt tên theo dãy núi mà nhóm du kích Khmer Serei của Thành trú đóng, lôi kéo những con người đã từ lâu là một phần của phe đối lập cộng hòa và cực đoan với Hoàng thân Norodom Sihanouk trong giai đoạn trước khi thành lập nền Cộng hòa. Các phe nhóm khác, gọi là Dangkor tập trung vào Lon Non và quân đội. Căng thẳng giữa hai phe phái sau này sẽ chứng minh một trở ngại nghiêm trọng cho sự ổn định của chính phủ Cộng hòa Khmer. Bầu cử năm 1972. Hai đảng đối lập chính là Đảng Dân chủ của In Tam và Đảng Cộng hòa của Sirik Matak, không tham gia trong cuộc bầu cử Quốc hội vì họ cho rằng đã có một số điểm không rõ ràng trong luật bầu cử. Đảng Cộng hòa Xã hội chỉ có 126 ứng cử viên và giành được tất cả các ghế. Phe đối lập chỉ có 10 ứng viên tập trung vào nhóm "Pracheachon", một đảng xã hội chủ nghĩa được gầy dựng, mà phần đông tin rằng là do Lon Nol tổ chức theo kiểu một phe đối lập chiếu lệ. Trong cuộc bầu cử Thượng viện, cơ quan lập pháp của thượng viện, phe đối lập chiếu lệ với Đảng Cộng hòa Xã hội do một vài ứng cử viên gia nhập vốn xuất thân từ Sangkum, nguyên là một đảng của Sihanouk, người đã bị Lon Nol truất phế chức Quốc trưởng vào năm 1970. Sangkum chính thức giải thể vào năm 1971, nhưng như trường hợp "Pracheachon" được Lon Nol lập bên chủ yếu chỉ để cung cấp sự xuất hiện của một cuộc bầu cử đa đảng. Đấu đá chính trị. Nhiệm kỳ ngắn ngủi của Sơn Ngọc Thành khi làm Thủ tướng Chính phủ đã kết thúc vào ngày 15 tháng 10 năm 1972, ngay sau khi một cuộc ám sát mà phần đông đều tin là do Lon Nol tổ chức. Tổng thư ký Đảng Cộng hòa Xã hội Hang Thun Hak được bầu làm Thủ tướng nhưng bị buộc phải từ chức vào đầu năm 1973 sau một thời gian gia tăng các tác động xấu đối với nước Cộng hòa trong cuộc nội chiến Campuchia. Ít lâu sau được In Tam kế tục rồi tới lượt thành viên Đảng Cộng hòa Xã hội Long Boret giữ chức Thủ tướng vào cuối năm 1973. Lon Non đã cố gắng tăng cường ảnh hưởng của ông lên Đảng Cộng hòa Xã hội nhưng bị buộc phải sống lưu vong vào tháng 9 năm 1973. Ông trở lại vào năm 1974 và vào cuối tháng 3 năm 1975 vẫn cố gắng để giành được chức Tổng thư ký Đảng, dù nước Cộng hòa thời gian này chỉ kiểm soát một phần thành phố Phnôm Pênh. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đảng Cộng hòa Xã hội cùng với nước Cộng hòa Khmer đã sụp đổ và tan rã hoàn toàn khi rơi vào tay Khmer Đỏ, kéo theo sự tan rã các đảng phái chính trị của chế độ cũ.
1
null
Đông Ấn Hà Lan (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan và là tiền thân của nước Indonesia ngày nay. Đông Ấn Hà Lan được thành lập từ việc quốc hữu hóa các thuộc địa của Công ty Đông Ấn Hà Lan, công ty nằm dưới sự quản lý của chính quyền Hà Lan từ năm 1800. Trong thế kỷ 19, sự chiếm hữu và quyền bá chủ của Hà Lan được mở rộng, đạt được kích thước lãnh thổ lớn nhất mà họ từng có vào đầu thế kỷ 20. Đông Ấn Hà Lan là một trong số các thuộc địa có giá trị lớn nhất của người châu Âu, và đã đóng góp cho sự nổi bật trên quy mô toàn cầu của người Hà Lan trong lĩnh vực giao thương gia vị và hoa lợi trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Thứ hạng trong xã hội thuộc địa dựa trên các cấu trúc cứng nhắc về chủng tộc với một tầng lớp thượng lưu người Hà Lan sống riêng biệt nhưng vẫn có mối liên hệ với người dân của họ. Cuộc xâm lược trong Chiến tranh thế giới thứ hai của Nhật Bản đã phá hủy phần lớn chính quyền và nền kinh tế thuộc địa của người Hà Lan tại thuộc địa. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, những người quốc gia chủ nghĩa Indonesia đã tuyên bố độc lập và sau đó họ đã phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập này trong Cách mạng Quốc gia Indonesia. Người Hà Lan chính thức công nhận chủ quyền của Indonesia trong Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia năm 1949 với ngoại lệ là New Guinea thuộc Hà Lan (Tây New Guinea), vùng này được nhượng lại cho Indonesia vào năm 1963 theo các điều khoản của Thỏa thuận New York. Bối cảnh. Từ nhiều thế kỷ trước khi người châu Âu tới, trên quần đảo Indonesia tồn tại nhiều quốc gia khác nhau và trong đó có các quốc gia thương mại ven biển và các quốc gia nông nghiệp nội địa. Những người đầu tiên đến vùng thuộc Indonesia ngày nay là người Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ thứ 15 và sau đó là người Hà Lan nhằm mục tiêu đưa các gia vị đến châu Âu, Chuyến thám hiểm đầu tiên của người Hà Lan đến Đông Ấn diễn ra vào năm 1595 nhằm vận chuyển gia vị trực tiếp từ châu Á. Khi đoàn này đạt được lợi nhuận 400% khi trở về, các cuộc thám hiểm khác đã diễn ra ngay sau đó. Nhận thức được tiềm năng thương mại của Đông Ấn, chính quyền Hà Lan đã hợp nhất các công ty cạnh tranh với nhau thành Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC). Công ty Đông Ấn Hà Lan được ban cho đặc quyền có thể tiến hành chiến tranh, xây dựng pháo đài, và lập các điều ước quốc tế trên khắp châu Á. Công ty thiết lập thủ phủ tại Batavia (nay là Jakarta), và thành phố này đã trở thành trung tâm của mạng lưới kinh doanh tại châu Á của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Ban dầu, công ty này độc quyền về nhục đậu khấu, đinh hương, và vỏ quế, công ty và sau này là chính quyền thực dân đã đem đến các loài cây công nghiệp như cà phê, trà, ca cao, thuốc lá, cao su, mía và thuốc phiện, và bảo vệ lợi ích thương mại của họ bằng cách chiếm lãnh thổ xung quanh. Buôn lậu, phí tổn cho các cuộc chiến đang diễn ra, tham nhũng và quản lý yếu kém đã khiến cho công ty phá sản vào cuối thế kỷ thứ 18. Công ty chính thức giải thể vào năm 1800 và các thuộc địa do nó sở hữu tại quần đảo Indonesia (phần lớn Java, nhiều phần Sumatra, phần lớn Maluku, và các vùng đất cảng như Makassar, Manado, và Kupang) bị Cộng hòa Hà Lan quốc hữu hóa và trở thành Đông Ấn thuộc Hà Lan. Các cuộc chinh phục của người Hà Lan. Kể từ khi chiếc tàu Hà Lan đầu tiên tiến đến vào cuối thế kỷ thứ 16, cho đến năm 1945, quyền kiểm soát của người Hà Lan đối với quần đảo Indonesia luôn rất mong manh. Mặc dù đảo Java do người Hà Lan thống trị, song nhiều khu vực khác vẫn duy trì được độc lập trong phần lớn thời kỳ này, bao gồm Aceh, Bali, Lombok và Borneo. Có rất nhiều cuộc chiến tranh và xáo trộn đã diễn ra khắp quần đảo khi các dân tộc bản địa khác nhau chống lại nỗ lực thiết lập quyền bá chủ của người Hà Lan, quyền kiểm soát của Hà Lan bị suy yếu và họ buộc phải cho quân đội án binh bất động. Hải tặc Indonesia vẫn còn là một vấn đề đối với người Hà Lan cho đến giữa thế kỷ 19. Cho đến tận đầu thế kỷ 20, sự thống trị của Hà Lan mới có thể mở rộng ra những nơi mà ngày nay là lãnh thổ của nước Indonesia. Năm 1806, khi Hà Lan nằm dưới sự thống trị của Pháp, Napoléon Bonaparte đã bổ nhiệm em trai là Louis Bonaparte nắm giữ vương vị của Hà Lan, dẫn đến việc bổ nhiệm Marshall Herman Willem Daendels làm Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan vào năm 1808. Năm 1811, quân Anh chiếm một vài cảng của Đông Ấn Hà Lan bao gồm cả các cảng tại đảo Java và Thomas Stamford Raffles trở thành Phó tổng đốc. Quyền kiểm soát của người Hà Lan được phục hồi vào năm 1816. Theo Hiệp ước Anh-Hà Lan vào năm 1824, người Hà Lan có được các khu định cư của Anh tại Indonesia, như Bengkulu tại Sumatra, đổi lại việc nhượng quyền kiểm soát của họ tại bán đảo Mã Lai và Ấn Độ thuộc Hà Lan. Biên giới giữa các vùng đất của Anh và Hà Lan trở thành biên giới hiện nay giữa Malaysia và Indonesia. Kể từ khi thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan vào thế kỷ 17, việc mở rộng lãnh thổ của người Hà Lan dựa trên cơ sở thương mại. Chiến lược của Toàn quyền Graaf van den Bosch (1830–1835) đã khẳng định lợi nhuận là nền tảng của chính quyền và chính sách chính thức là chỉ hạn chế sự chú ý tại Java, Sumatra và Bangka. Tuy nhiên, từ khoảng năm 1840, dưới chủ nghĩa bành trướng quốc gia Hà Lan, họ đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh để mở rộng và củng cố các vùng chiếm hữu của họ tại các đảo khác. Ngoài ra, mục đích của hành động này còn là để bảo vệ các khu vực đã chiếm hữu; tham vọng về danh tiếng và thăng tiến của các quan chức Hà Lan; và việc thiết lập tuyên bố chủ quyền của Hà Lan đối với toàn bộ quần đảo sẽ ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc phương Tây khác. Khi việc khai thác tài nguyên được mở rộng ra ngoài đảo Java, hầu hết các đảo xa đã nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp hay trong tầm ảnh hưởng của chính quyền Hà Lan. Người Hà Lan đã chinh phục người Minangkabau trên đảo Sumatra trong Chiến tranh Padri (1821–38) và Chiến tranh Java (1825–30) đã chấm dứt sự kháng cự đáng kể của người Java. Chiến tranh Banjarmasin (1859–1863) ở đông nam Kalimantan đã kết thúc với thất bại của Sultan nước này. Sau cuộc chinh phục thất bại tại Bali vào năm 1846 và 1848, một cuộc can thiệp vào năm 1849 đã đưa miền bắc Bali vào sự kiểm soát của người Hà Lan. Cuộc chinh phục kéo dài nhất là Chiến tranh Aceh, một cuộc xâm lược của người Hà Lan vào năm 1873 đã vấp phải sự kháng cự của du kích bản địa và cuộc chinh phục chỉ kết thúc khi người Aceh đầu hàng vào năm 1912. Rối loạn tiếp tục nổ ra trên cả hai đảo chính Java và Sumatra trong suốt giai đoạn còn lại của thế kỷ 19, tuy nhiên, đảo Lombok đã nằm dưới quyền kiểm soát của người Hà Lan vào năm 1894, và sự kháng cự của người Batak ở miền Bắc Sumatra đã bị dập tắt vào năm 1895. Đến cuối thế kỷ 19, sự cân bằng sức mạnh quân sự đã chuyển dịch về phía những người Hà Lan có trình độ công nghiệp hóa cao hơn, khoảng cách giữa họ với các nhà nước tiền công nghiệp tại Indonesia ngày càng mở rộng. Các lãnh đạo quân sự và chính trị gia Hà Lan đã nói rằng họ có trách nhiệm đạo đức để giải phóng những người dân Đông Ấn khỏi những kẻ cai trị bản địa, tức những kẻ áp bức nhân dân, lạc hậu hoặc không tôn trọng luật pháp quốc tế. Mặc dù vẫn nổ ra các cuộc nổi loạn khác của người Indonesia, người Hà Lan đã mở rộng quyền cai trị thuộc địa trực tiếp trên khắp phần còn lại quần đảo từ năm 1901 đến 1910, đối với những vùng còn lại, người Hà Lan nắm quyền cai trị gián tiếp thông qua những người cai trị bản địa. Tây nam Sulawesi bị chiếm đóng vào 1905–06, hòn đảo Bali bị đã phải chịu khuất phục với các cuộc chinh phục vào năm 1906 và 1908, các vương quốc độc lập khác trên đảo Maluku, Sumatra, Kalimantan, và Nusa Tenggara cũng chịu chung số phận. Những người cai trị khác như Sultan của Tidore tại Maluku, Pontianak (Kalimantan), và Palembang tại Sumatra, đã yêu cầu người Hà Lan bảo hộ để chống lại các láng giềng độc lập nên đã tránh được các cuộc chinh phục quân sự của Hà Lan và có thể đàm phán để nhận được các điều khoản tốt hơn trong thời thuộc địa. Bán đảo Đầu Chim (Tây New Guinea), đã được đưa vào quyền quản lý của người Hà Lan vào năm 1920. Lãnh thổ này sau đó trở thành một bộ phận của Cộng hòa Indonesia. Lịch sử kinh tế. Việc khai thác thuộc địa tại một nơi giàu có như Đông Ấn đã góp phần vào tiến trình công nghiệp hóa của Hà Lan, nó cũng đặt nền móng cho ngành công nghiệp của Cộng hòa Indonesia sau này. Người Hà Lan đã đưa đến Đông Ấn các loài cây như cà phê, trà, ca cao, thuốc lá, cao su và một phần rộng lớn của Java đã trở thành các đồn điền do nông dân Java trồng trọt, qua trung gian là người Hoa, sau đó được các thương nhân châu Âu xuất khẩu ra thị thường hải ngoại. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Ấn Hà Lan sản xuất ra hầu hết nguồn cung canh ki na và hồ tiêu của thế giới, hơn một phần ba nguồn cung cao su, một phần tư nguồn cung dừa, và một phần năm nguồn cung về trà, đường, cà phê và dầu. Lợi nhuận đến từ Đông Ấn Hà Lan đã kiến cho Hà Lan trở thành một trong các thế lực thực dân quan trọng nhất thế giới. Tuyến tàu thủy Koninklijke Paketvaart-Maatschappij đã giúp thống nhất nền kinh tế tại thuộc địa và đưa các tàu thuyền liên đảo đi qua Batavia, thay vì phải qua Singapore, do đó hoạt động kinh tế tập trung hơn tại Java. Mặc dù số tiền thu vào gia tăng nhờ hệ thống thuế đất, tình hình tài chính của thực dân Hà Lan đã bị ảnh hưởng do phải chi phí lớn cho các cuộc chiến tranh Java và Padri, và việc người Hà Lan để mất Bỉ vào năm 1830 đã khiến họ đến bên bờ vực phá sản. Năm 1830, một Toàn quyền mới, Johannes van den Bosch, đã được bổ nhiệm để khai thác tài nguyên của Đông Ấn bù đắp lại khó khăn tài chính. Người Hà Lan đã lần đầu tiên có được quyền thống trị về chính trị khắp đảo Java vào năm 1830, và do đó họ đã có thể đưa vào các chính sách nông nghiệp mà trong đó việc trồng trọt là do chính quyền kiểm soát. Được gọi là "cultuurstelsel" (hệ thống trồng trọt) trong tiếng Hà Lan và "tanam paksa" (cây trồng cưỡng ép) trong tiếng Indonesia, các nông dân được yêu cầu phải giao lại (như một hình thức thuế) một lượng cố định các nông sản đã định sẵn, như mía đường hay cà phê. Phần lớn Java trở thành đồn điền của Hà Lan và doanh thu của chính quyền thực dân tăng liên tục trong thế kỷ 19, số tiền này được tái đầu tư vào Hà Lan để cứu đất nước này thoát khởi nguy cơ phá sản. Từ năm 1830 đến 1870, người Hà Lan đã kiếm được 1 tỉ guilder từ thuộc địa Đông Ấn của họ, và trung bình 25 phần trăm ngân sách của chính phủ Hà Lan mỗi năm đến từ số lợi nhuận này. Tuy nhiên, hệ thống trồng trọt đã gây nên nhiều khó khăn kinh tế cho các nông dân Java, họ đã phải trải qua nạn đói và các dịch bệnh trong thập niên 1840. Các ý kiến chỉ trích tại Hà Lan đã khiến cho phần lớn các mức quy định thái quá của hệ thống canh tác đã bị loại bỏ trong các cải cách ruộng đất của "Thời kỳ Tự do". Từ năm 1870, những người sản xuất đã không còn bị bắt phải cung cấp thu hoạch của họ cho việc xuất khẩu, song Đông Ấn Hà Lan vẫn mở cửa cho các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nhân Hà Lan đã thiết lập nên các đồn điền lớn và mang tới cho họ nhiều lợi nhuận. Sản lượng đường đã tăng gấp đôi từ năm 1870 đến 1885; các cây trồng mới như trà và canh ki na phát triển khỏe mạnh, cao su cũng đã được đưa đến, khiến cho lợi nhuận của người Hà Lan gia tăng đáng kể. Các thay đổi không chỉ giới hạn trong Java hay nông nghiệp; dầu từ Sumatra và Kalimantan đã trở thành một nguồn tài nguyên có giá trị cho châu Âu đang tiến hành công nghiệp hóa. Lợi ích thương mại của Hà Lan đã mở rộng ra khỏi Java đến các hòn đảo xa sau khi ngày càng có nhiều hơn các vùng lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp hay chịu ảnh hưởng của người Hà Lan trong nửa sau của thế kỷ 19. Tuy nhiên, sự khan hiếm đất để trồng lúa, cộng với số dân tăng lên đáng kể, đặc biệt là ở Java, đã dẫn đến các khó khăn hơn nữa. Suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối thập niên 1880 và đầu thập niên 1890 đã khiến giá cả các mặt hàng mà thực dân Hà Lan dựa vào bị sụt giá. Các ký giả và công chức đã nhận xét rằng phần lớn cư dân Đông Ấn không có đời sống tốt hơn thời kỳ trước khi điều chỉnh Hệ thống Canh tác và hàng chục nghìn người chết vì đói. Giá cả hàng hóa đã phục hồi sau cuộc suy thoái, dẫn đến gia tăng đầu tư tại thuộc địa. Buôn bán đường, thiếc, cùi dừa khô và cà phê đã trở nên phát đạt, và cao su, thuốc lá, trà và dầu cũng trở thành các mặt hàng xuất khẩu chính. Cải cách chính trị đã gia tăng quyền tự chủ cho các chính quyền thuộc địa địa phương, thoát ra xa khỏi quyền kiểm soát trung ương từ Hà Lan, trong khi đó, quyền lực cũng được phân chia giữa chính quyền tại Batavia và các đơn vị. Nâng cấp cơ sở hạ tầng các cảng và đường bộ là ưu tiên ở mức cao của người Hà Lan, với mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, và gia tăng tốc độ của các hoạt động quân sự. Năm 1850, các kỹ sư Hà Lan đã chủ trì xây dựng và nâng cấp một mạng lưới đường bộ với 12.000 km bề mặt được trải nhựa đường, 41.000 km đường được rải đá và 16.000 km đường có bề mặt được rải sỏi. Ngoài ra, người Hà Lan đã sử dụng các nhân công Đông Ấn để xây dựng nên đường sắt, các cây cầu, các hệ thống thủy lợi bao phủ 1,4 triệu ha ruộng lúa, một số cảng, và 140 hệ thống nước uống công cộng. Wim Ravesteijn đã nói rằng, "Với những công trình công cộng này, các kỹ sư người Hà Lan đã xây dựng cơ sở vật chất cho nhà nước Indonesia thuộc địa và hậu thuộc địa." Dân cư. Năm 1898, dân số Java là khoảng 28 triệu người, các đảo bên ngoài khác của Đông Ấn có tổng cộng khoảng 7 triệu dân. Nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến hoạt động nhập cư quy mô lớn của người Hà Lan và những người châu Âu khác đến thuộc địa, họ làm việc cho chính quyền hoặc khu vực tư nhân. Năm 1930, có trên 240.000 người có thân phận pháp lý là người Âu tại thuộc địa, chiếm ít hơn 0,5% tổng dân số. Gần 75% số "người Âu" này trên thực tế là người lai Âu-Á. Khi người Hà Lan cai quản, họ đã loại bỏ chế độ nô lệ cùng các tập tục như thiêu quả phụ, săn đầu người, ăn thịt người, hải tặc, và các cuộc chiến tranh giết hại lẫn nhau. Đường sắt, tàu hơi nước, dịch vụ bưu chính và điện báo, cùng các cơ quan chính quyền khác đã phục vụ cho việc đem đến một sự đồng đều mới trên khắp thuộc địa. Di cư bên trong quần đảo, đặc biệt là người Hoa, người Batak, người Java, và người Bugis tăng lên đáng kể. Thực dân Hà Lan đã lập ra một tầng lớp trên có đặc quyền đặc lợi bao gồm các binh lính, nhà quản lý, giáo viên và người thám hiểm. Họ sống cùng với "người bản địa", song ở phía trên cùng của một hệ thống xã hội và chủng tộc cứng nhắc. Đông Ấn Hà Lan có hai tầng lớp công dân hợp pháp; người Âu và dân bản địa. Một tầng lớp thứ ba, những người nước ngoài phương Đông, được bổ sung từ năm 1920. Năm 1901, chính quyền Hà Lan đã thông qua điều mà họ gọi là Chính sách Đạo đức, theo đó chính quyền thực dân có một bổn phận để tiếp tục chăm lo sức khỏe và giáo dục cho người dân Indonesia. Các biện pháp khác theo chính sách mới này bao gồm các chương trình thủy lợi, di cư, thông tin liên lạc, giảm thiểu lũ lụt, công nghiệp hóa, và bảo vệ ngành công nghiệp bản địa. Công nghiệp hóa đã có không ảnh hưởng đáng kể đến phần lớn người dân Indonesia, và Indonesia vẫn duy trì là một thuộc địa nông nghiệp; năm 1930, có 17 thành phố với dân cư trên 50.000 và dân số tổng cộng của chúng là 1,87 triệu người trên tổng số 60 triệu dân. Giáo dục. Hệ thống trường học của Hà Lan được mở rộng đến cho người Indonesia, hầu hết các trường có uy tín nhận trẻ em người Hà Lan và các trẻ em người Đông Ấn thuộc tầng lớp trên. Một tầng trường học thứ hai dựa trên cơ sở sắc tộc và có các trường riêng biệt cho người Đông Ấn, Ả Rập và người Hoa; các trường này giảng dạy bằng tiếng Hà Lan và theo chương trình giảng dạy của Hà Lan. Những người dân Đông Ấn bình thường được giáo dục bằng tiếng Mã Lai với chữ cái Latinh cùng các trường "kết nối" nhằm chuẩn bị cho các sinh viên người bản địa thông minh có thể vào học tại các trường dạy bằng tiếng Hà Lan. Các trường học và chương trình hướng nghiệp đã được chính quyền Đông Ấn lập ra để đào tạo người dân bản địa vào những vị trí cụ thể của nền kinh tế thuộc địa. Người Hoa và người Ả Rập, chính thức được gọi là "người nước ngoài phương Đông", và họ không thể ghi danh vào các trường hướng nghiệp và trường tiểu học. Những người đã tốt nghiệp tại các trường của Hà Lan đã mở trường học của mình và phỏng theo mô hình của hệ thống trường học Hà Lan, cũng như những hội truyền giáo Ki-tô, hiệp hội Thần trí học, và các hiệp hội văn hóa Đông Ấn. Sự gia tăng số trường học này tiếp tục được nâng lên với các trường Hồi giáo theo khuôn mẫu phương Tây cũng đã xuất hiện các vấn đề thế tục. Theo điều tra năm 1930, 6% số người Đông Ấn biết đọc biết viết, tuy nhiên, cuộc điều tra này chỉ công nhận số người tốt nghiệp từ các trường theo mô hình phương Tây và những người có thể đọc và viết một ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái Latinh. Điều tra này không bao gồm các sinh viên đã tốt nghiệp các trường không theo mô hình phương Tây hay những người có thể đọc song không thể viết tiếng Ả Rập, Mã Lai hay tiếng Hà Lan; hoặc những người chỉ có thể viết được các thứ tiếng sử dụng bảng chữ cái phi Latinh như Batak, Java, Hoa, hoặc Ả Rập. Một số cơ sở giáo dục bậc đại học cũng được thành lập. Năm 1898, chính quyền Đông Ấn Hà Lan đã thành lập một trưởng để đào tạo bác sĩ, được đặt tên là "School tot Opleiding van Inlandsche Artsen" (STOVIA). Nhiều người tốt nghiệp STOVIA sau đó đã đóng những vai trò quan trọng trong phong trào dân tộc của Indonesia hướng tới độc lập cũng như phát triển giáo dục y tế tại Indonesia, như bác sĩ Wahidin Soedirohoesodo đã thành lập hội chính trị Budi Utomo. Chính quyền thuộc địa Hà Lan đã thành lập "De Technische Hoogeschool te Bandung" vào năm 1920 để đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật tại thuộc địa. Một người đã tốt nghiệp "Technische Hogeschool" là Sukarno, ông sau đó đã lãnh đạo Cách mạng Quốc gia Indonesia. Năm 1924, chính quyền thực dân lại tiếp tục mở một cơ sở giáo dục bậc đại học, "Rechts Hogeschool" (RHS), để đào tạo viên chức, công chức dân sự. Năm 1927, STOVIA đã trở thành một cơ sở cấp đại học đầy đủ và tên gọi của trường đổi sang "Geneeskundige Hogeschool" (GHS). GHS giữ tòa nhà chính tương tự và sử dụng cùng bệnh viện thực hành với Khoa Y của Đại học Indonesia ngày nay. Các mối liên hệ trước đây giữa Hà Lan và Indonesia vẫn còn có thể nhận thấy trong các lĩnh vực công nghệ như thiết kế công trình thủy lợi. Cho đến ngày nay, những ý tưởng của các kỹ sư thủy lợi thuộc địa Hà Lan vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng mạnh trong thực tiễn thiết kế tại Indonesia. Hơn nữa, hai trường đại học có thứ hạng quốc tế cao nhất của Indonesia, Trường Đại học Indonesia thành lập năm 1898 và Học viện Công nghệ Bandung thành lập năm 1920, đều được hình thành từ thời thuộc địa. Các cải cách giáo dục, và cải cách chính trị khiêm tốn, đã khiến một bộ phận nhỏ những người Indonesia bản địa ưu tú có học vấn cao đã thúc đẩy ý tưởng độc lập và thống nhất "Indonesia" cùng với các dân tộc bản địa khác nhau tại Đông Ấn Hà Lan. Một giai đoạn gọi là Phục hưng Quốc gia Indonesia, nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến phong trào quốc gia phát triển mạnh mẽ, nhưng cũng phải đối mặt với sự đàn áp của Hà Lan.
1
null
Pracheachon hoặc Krom Pracheachon (nghĩa là "Hội Liên hiệp Công dân" hoặc "Hội Liên hiệp Nhân dân") là một đảng phái chính trị Campuchia từng tham gia tranh cử trong các cuộc bầu cử Quốc hội vào năm 1955, 1958 và 1972. Phần nhiều sự tồn tại của Đảng là một tổ chức mặt trận pháp lý cho Đảng Cộng sản Campuchia bí mật, về sau gọi là Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer. Lịch sử. Thành lập. Pracheachon ra đời như là một kết quả của Hiệp định Genève năm 1954. Điều này đảm bảo độc lập và sự trung lập của Campuchia, với các cuộc bầu cử Quốc hội sẽ được tổ chức vào năm sau. Nhiều người dân Campuchia chiến đấu cho độc lập (đặc biệt là thành viên của Mặt trận Issarak Thống nhất) có liên kết với Việt Minh đã đồng ý rút các đơn vị của họ ra khỏi Campuchia: một số lớn thành viên cánh tả Khmer, dẫn đầu bởi cựu chiến binh Issarak Sơn Ngọc Minh, khởi hành đến Hà Nội, nơi họ bị kẹt lại trong hai mươi năm tới. Những người cánh tả vẫn được khuyến khích thành lập một đảng chính trị pháp lý để tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử Quốc hội: đó là Krom Pracheachon với cương lĩnh xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản (dẫn đầu bởi Tou Samouth và Sieu Heng, và bao gồm các nhân vật nổi bật sau này như Saloth Sar (Pol Pot) và Ieng Sary) tiếp tục là một tổ chức bí mật hoàn toàn. Pracheachon dưới sự lãnh đạo của Non Suon, Keo Meas và Penn Yuth, tất cả đều là cựu thành viên của Issarak, lấy biểu tượng là cái cày. Bầu cử năm 1955. Cuộc bầu cử Campuchia năm 1955 là cuộc bầu cử lần đầu tiên mà Krom Pracheachon tham gia. Do sự quấy rối nghiêm trọng từ những thành viên của các lực lượng trung thành với Đảng Sangkum của Hoàng thân Norodom Sihanouk, Pracheachon chỉ có 35 ứng cử viên, giành được 31.034 phiếu trong tổng số phiếu và không giành được ghế nào. Theo nhà sử học Ben Kiernan, Sihanouk sau này đã thừa nhận rằng nhiều vùng trong thực tế đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên xã hội chủ nghĩa, ngay cả khi kết quả chính thức cho thấy họ nhận được ít hoặc chẳng có phiếu nào. Bầu cử năm 1958. Trong giai đoạn trước cuộc bầu cử năm 1958, Sihanouk xem chừng quan ngại sâu sắc với khả năng Campuchia sẽ bị Việt Minh/Bắc Việt thống trị. Trùng với cuộc bầu cử, ông cho xuất bản một loạt các bài báo truy tìm lịch sử chủ nghĩa cộng sản Campuchia: mặc dù các bài viết sâu sắc trong phân tích của họ về chiến thuật cộng sản, họ nhấn mạnh sự liên kết của cánh tả với Việt Nam và trình bày chúng như một mối đe dọa cho đất nước Campuchia. Áp lực lên Pracheachon ngày càng tăng khi xuất hiện các tấm áp phích hiển thị các công trình và xe lửa bị Việt Minh phá hủy và các khẩu hiệu đại loại như "Pracheachon hủy hoại quốc gia và bán rẻ đất nước cho ngoại bang" và "Pracheachon không phải là một phần của Sangkum" xuất hiện trên các bức tường và biểu ngữ. Trong cuộc bầu cử nội bộ, Pracheachon chỉ có thể đưa ra 5 ứng cử viên: 4 đã rút lui do bị cảnh sát quấy rầy liên tục, còn lại một mình Keo Meas, người chính thức nhận được 396 phiếu. Meas đã buộc phải ngồi ngoài chứng kiến cuộc bầu cử từ một nơi ẩn náu an toàn trên biên giới Việt Nam, vì sợ bị bắt. Bầu cử năm 1962. Krom Pracheachon một lần nữa lại là đối tượng cho các biện pháp đàn áp (bề ngoài là vì lý do "bảo mật") trong thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử năm 1962, mà các đảng viên hy vọng sẽ tham gia. Cảnh sát của Sihanouk đã bắt giữ 14 thành viên còn lại của nó, bao gồm cả Tổng thư ký Non Suon; họ bị buộc tội sở hữu tài liệu chứng minh phía Bắc Việt trợ giúp họ lật đổ chế độ Sangkum. Ban đầu nhóm bị tòa án quân sự kết án tử hình, rồi về sau bản án được giảm xuống thành tù chung thân. Pracheachon bị giải thể, và nhiều thành viên cánh tả còn lại đã rời khỏi Phnôm Pênh trốn lên rừng núi hoạt động bí mật, số còn lại (Khieu Samphan, Hou Yuon và Hu Nim) thì gia nhập Sangkum. Vào khoảng thời gian này, nhà lãnh đạo Cộng sản Tou Samouth biến mất, Saloth Sar bị nghi rằng đã che giấu nhà lãnh đạo của Đảng. Bầu cử năm 1972. Sau khi Lon Nol trục xuất Sihanouk trong cuộc đảo chính Campuchia năm 1970 và thành lập nước Cộng hòa Khmer, Pracheachon được tái lập và một số ứng cử viên của nó đã chống lại Đảng Cộng hòa Xã hội của Lon Nol trong cuộc bầu cử năm 1972. Vị trí lãnh đạo Đảng dự kiến ban đầu sẽ là nhân vật cánh tả Hang Thun Hak; thay vì Hak gia nhập Đảng Cộng hòa Xã hội và Penn Yuth nổi lên như là nhà lãnh đạo chính thức. Yuth, giờ là một sĩ quan trong Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer vào thời gian này có một sự liên kết gần gũi với Lon Nol, phần đông cho rằng Pracheachon được tái tổ chức bởi người em trai Lon Nol là Lon Non rõ ràng đã cung cấp một bằng chứng đối lập với Đảng Cộng hòa Xã hội. Các nhân vật liên quan đến Pracheachon trong giai đoạn này bao gồm Saloth Chhay, một nhà báo cánh tả và là em trai của Pol Pot (Saloth Sar). Tất cả các ghế trong cuộc bầu cử đều là chiến thắng của Đảng Cộng hòa Xã hội mà phần lớn đều do gian lận bầu cử mà ra.
1
null
Campuchia từng tham gia thi đấu tại Thế vận hội mùa hè năm 1972 tại München, Tây Đức. Quốc gia trở lại Thế vận hội Olympic là Cộng hòa Khmer (1970-1975) sau khi vắng mặt tại Thế vận hội Mùa hè năm 1968. Do tình hình khó khăn của đất nước Campuchia đã không tranh tài một lần nữa cho đến Thế vận hội Mùa hè năm 1996. Kết quả thi đấu. Điền kinh. Chạy 100 mét nam Nhảy cao nam Quyền Anh. Võ sĩ hạng ruồi nam (– 51 kg) Bơi lội. Bơi tự do 100m nam Bơi tự do 200m nam
1
null
Cuộc bầu cử tổng thống Campuchia được tổ chức lần đầu tiên và cho đến nay chỉ một lần duy nhất tại Campuchia vào ngày 4 tháng 6 năm 1972, sau khi lật đổ chế độ quân chủ và thành lập nước Cộng hòa Khmer trong cuộc đảo chính năm 1970. Kết quả chiến thắng nghiêng về Lon Nol, giành được 54,9% phiếu bầu. Cử tri đi bầu là 57,6%.
1
null
Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Campuchia vào tháng 9 năm 1972, lần đầu tiên sau khi cuộc đảo chính năm 1970. Cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra vào ngày 3 tháng 9 và tham gia tranh cử gồm Đảng Cộng hòa Xã hội và Pracheachon (mặc dù sau này chỉ có 10 ứng cử viên), trong khi họ bị Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ tẩy chay trong phiên kháng nghị luật bầu cử mới. Đảng Cộng hòa Xã hội giành được tất cả 126 ghế với 99,1% phiếu bầu hợp lệ. Các cuộc bầu cử Thượng viện được tổ chức vào ngày 17 tháng 9 với chiến thắng của Đảng Cộng hòa Xã hội giành tất cả 32 ghế.
1
null
John Gunther Dean (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1926 - mất ngày 3 tháng 6 năm 2019) là một nhà ngoại giao xuất sắc của Hoa Kỳ. Từ năm 1974-1988, ông là Đại sứ Hoa Kỳ ở năm quốc gia khác nhau trong suốt bốn đời tổng thống Mỹ. Tiểu sử. Thiếu thời. John Gunther Dean sinh ra tại Breslau, Đức, trong một gia đình Do Thái nổi bật. Khi còn nhỏ, ông được nhận vào học trường Von Zawatzki Schule đặc biệt ở Breslau. Nhằm thoát khỏi sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít, gia đình ông đã rời bỏ nước Đức vào tháng 12 năm 1938 và đến Mỹ vào tháng 2 năm 1939. Tháng 3 năm 1939, cả gia đình quyết định thay đổi tên họ từ "Dienstfertig" sang "Dean" trước Tòa án Thành phố New York. Cuối cùng họ đến định cư ở Kansas City, Missouri, nơi cha ông có một thời gian ngắn giảng dạy tại Đại học Kansas. Tốt nghiệp trường trung học ở thành phố Kansas vào năm 16 tuổi, ông trúng tuyển vào trường Đại học Harvard. Năm 1944, John Gunther Dean chính thức trở thành công dân Hoa Kỳ. Thế nhưng do tình hình chiến sự khốc liệt nhất nên ông buộc phải tạm gác việc học tập và gia nhập quân đội Hoa Kỳ từ năm 1944-1946, nhờ khả năng ngôn ngữ mà ông được nhận vào công tác ở Phòng Tình báo Quân sự. Sau đó ông quay trở lại Harvard tiếp tục học và lấy bằng đại học (BS Magna Cum hạng ưu năm 1947). Ông nhận bằng tiến sĩ luật tại Sorbonne năm 1949, và quay trở lại Harvard một lần nữa để lấy bằng tốt nghiệp khoa quan hệ quốc tế (MA, 1950). Năm 1950, John Gunther Dean vào làm trong các cơ quan chính phủ và lần lượt đảm nhiệm những vị trí chủ chốt như nhà phân tích kinh tế tại trụ sở của Cục Quản lý Hợp tác Kinh tế châu Âu ở Paris, Pháp. Từ năm 1951-1953, là nhà phân tích công nghiệp của ECA ở Brussels, Bỉ. Từ năm 1953-1956, là trợ lý ủy viên hội đồng kinh tế Cục Hợp tác quốc tế Đông Dương thuộc Pháp được công nhận ở Sài Gòn, Phnôm Pênh, Viêng Chăn. Sự nghiệp ngoại giao. John Gunther Dean thi đậu kỳ thi Sở Ngoại vụ Hoa Kỳ vào năm 1954. Ông chính thức bắt đầu được bổ nhiệm làm viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ vào mùa xuân năm 1956. Từ năm 1956-1958, là sĩ quan chính trị tại Viêng Chăn, Lào, và sau đó từ năm 1959-1960, ông cho mở lãnh sự quán Mỹ đầu tiên tại Lomé, Togo. Từ 1960-1961, ông là Đại biện lâm thời ở Bamako, Mali, và sau đó trở thành sĩ quan phụ trách các vấn đề Mali, Togo trong Bộ Ngoại giao giai đoạn 1961-1963. Năm 1963, ông là cố vấn cho phái đoàn Hoa Kỳ, kỳ họp thứ 18 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, trong giai đoạn 1964-1965, đảm nhiệm vai trò nhân viên quan hệ quốc tế trong khu vực NATO của Bộ Ngoại giao. Dean sang Paris vào năm 1965 với cương vị chính trị viên và công tác ở đó cho đến năm 1969. Từ năm 1969-1970, ông là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Các vấn đề quốc tế của Harvard tại Cambridge, Massachusetts. Ông được phân công vào phục vụ quân đội Mỹ với cương vị Phó Tư lệnh Quân khu I Việt Nam Cộng hòa, nơi ông từng là Giám đốc khu vực cơ quan Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ phát triển Cách mạng (CORDS) cho đến năm 1972. Trong thời gian công tác tại Đà Nẵng, miền Nam Việt Nam, ông đã giúp bảo vệ Bảo tàng Chăm nổi tiếng mà về sau được nhà chức trách Việt Nam và Pháp chính thức cảm ơn vào năm 2005. Từ năm 1972-1974, ông giữ chức Phó trưởng ban đại biện sứ mệnh/Đại biện lâm thời tại Viêng Chăn, Lào. Ông được nhiều người ca ngợi vì đã giúp thành lập một chính phủ liên minh cứu được hàng ngàn sinh mạng sau khi Sài Gòn thất thủ vào năm 1975. Dean được bổ nhiệm làm Đại sứ Campuchia vào tháng 3 năm 1974 và công tác tại đó cho đến khi Đại sứ quán đóng cửa và tất cả các nhân viên người Mỹ được sơ tán vào ngày 12 tháng 4 năm 1975 trong chiến dịch Eagle Pull, 5 ngày trước khi Khmer Đỏ tiến vào Phnôm Pênh. Nhiệm kỳ Đại sứ. Đại sứ Dean đã nghỉ hưu Sở Ngoại vụ Hoa Kỳ vào năm 1989. Những nỗ lực hành nghề tự do của ông nhằm kêu gọi chính quyền Reagan đảo ngược các chính sách về Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ đã chọc tức các quan chức chính phủ cấp cao khiến ông buộc phải rời khỏi chính trường ngay sau đó. Vấn đề Israel. Tháng 8 năm 1980, trong khi làm đại sứ tại Liban, nơi ông mở mối liên lạc đến tổ chức PLO, chính vì vậy mà Dean là mục tiêu của một vụ ám sát, mà ông tin rằng do Israel chỉ đạo. Theo ông cho biết: "Vũ khí do Mỹ tài trợ và cung cấp cho Israel được sử dụng trong nỗ lực nhằm giết chết một nhà ngoại giao Mỹ!" "Không còn nghi ngờ gì nữa bằng cách sử dụng một giấy ủy quyền, đồng minh Israel của chúng ta đã cố gắng giết chết tôi." Dean nghi ngờ rằng các điệp viên Israel cũng có liên quan đến vụ tai nạn máy bay bí ẩn vào năm 1988 đã giết chết Tổng thống Pakistan là Tướng Muhammad Zia-ul-Haq, cuối cùng dẫn đến quyết định tại Washington tuyên bố rằng ông không đủ sức khỏe về mặt tinh thần, buộc ông phải từ chức ở Sở Ngoại vụ sau ba mươi năm làm việc. Về sau, Bộ Ngoại giao đã phục hồi cương vị cho ông bằng việc trao tặng tấm huy chương của Bộ và lời cáo buộc của một cựu lãnh đạo Bộ Dịch vụ y tế về bệnh điên của ông được xác nhận là giả. Đặc điểm. Dean nói được bốn ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức và Đan Mạch. Ông là Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Đan Mạch tự học và nói thông thạo tiếng Đan Mạch, do đó nhận được sự tôn trọng đáng kể từ những người Đan Mạch. Ông kết hôn với Martine Duphenieux sinh trưởng tại Pháp và họ có ba con nay đã trưởng thành. Ông hiện đang sống ở Thụy Sĩ và Pháp, nhưng vẫn hoạt động về các vấn đề ngoại giao và thường về thăm nước Mỹ. Trong khi công tác tại Paris (1965-1969), Dean đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa các cuộc đàm phán hòa bình Mỹ-Bắc Việt đến Paris vào năm 1968. Tại Liban, Dean đã giúp đỡ trong việc trả tự do cho các con tin người Mỹ đầu tiên tại Teheran. Tại Ấn Độ, Dean đã giúp đỡ để quân đội Liên Xô rút lui ra khỏi Afghanistan theo một bảng thời gian đã thoả thuận. Trong phim Cánh Đồng Chết, nhân vật Đại sứ Dean do diễn viên Ira Wheeler đóng. Cảnh di tản ở Phnôm Pênh được quay gần Bangkok vào năm 1983 và Wheeler đã gặp Dean, lúc đó đang là Đại sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan. Tác phẩm. Quyển sách xuất bản năm 2009 với tựa đề "DANGER ZONES: A Diplomat's Fight for America's Interests" (tạm dịch: "Vùng nguy hiểm: Một chuyến ngoại giao vì lợi ích nước Mỹ"), được công bố bởi Hiệp hội nghiên cứu và đào tạo ngoại giao Hoa Kỳ.
1
null
Câu chuyện về việc tan rã của tứ quái The Beatles là một trong những sự kiện có ảnh hưởng nhất tới lịch sử âm nhạc thế giới, là một trong vô số những giai thoại liên quan tới ban nhạc này. Việc tan rã thực tế đã được biết đến từ năm 1969 qua những tuyên bố của John Lennon và qua bài phỏng vấn Paul McCartney vào tháng 11. Tuy nhiên những thông báo chính thức chỉ được đưa ra trong cuộc họp báo ngày 10 tháng 4 năm 1970. Có rất nhiều những lý do cho sự tan rã của ban nhạc huyền thoại này. Nó không phải bắt nguồn từ một sự kiện mà là kết quả của một quá trình kéo dài, bắt đầu từ việc dừng tour vào năm 1966, tiếp đến là cái chết của nhà quản lý Brian Epstein vào năm 1967 khiến cho các Beatle ngày một gia tăng những mối quan tâm và những hiềm khích riêng. Những sự đối đầu được thể hiện rất khác nhau đối với từng thành viên. George Harrison và Ringo Starr lần lượt rời nhóm "tạm thời" trong giai đoạn 1968–69 và cả bốn thành viên đều có những dự án solo cho tới trước năm 1970 như một định hướng rõ ràng rằng họ sẽ không thể tái hợp với nhau. Đỉnh điểm của mọi sự kiện có lẽ là việc Paul McCartney vừa làm việc cùng ban nhạc, vừa quảng cáo album solo đầu tay "McCartney". Khi được hỏi lý do vì sao ban nhạc tan rã, Paul liệt kê: "Tính cách khác nhau, quan điểm khác nhau, âm nhạc khác nhau, nhưng hơn hết đó là vì tôi cảm thấy vui hơn khi ở bên gia đình." Cho dù đã có rất nhiều nỗ lực giữa các Beatle, đặc biệt là với album của Starkey "Ringo" (1973) – lần duy nhất cộng tác của cả bốn thành viên dù mỗi người đều thể hiện riêng ca khúc – song các thành viên không bao giờ tái hợp đầy đủ trong 1 dự án chính thức. "Ringo's Rotogravure" là album cuối cùng mà họ cùng nhau thực hiện khi mỗi người đóng góp một số ít sáng tác để hoàn thiện album. Sau khi John Lennon bị ám sát vào năm 1980, McCartney, Starr và Harrison đã cùng nhau thu âm ca khúc "All Those Years Ago". Cả ba sau đó đã cùng nhau thực hiện dự án "The Beatles Anthology" vào năm 1994, tiếp đó là hoàn thành 2 ca khúc dang dở của Lennon, "Free as a Bird" và "Real Love" (1997) – 2 ca khúc cuối cùng được hát dưới tên "The Beatles". Cái chết của Brian Epstein. Với The Beatles, Brian Epstein có vai trò vô cùng đặc biệt. Ông là người ký hợp đồng thu âm đầu tiên cho ban nhạc, và cũng là người thực hiện hóa giấc mơ nổi tiếng toàn cầu của họ. Epstein là nhà quản lý của ban nhạc, và cách quản lý của ông đã giúp cho những ý tưởng và kế hoạch của nhóm luôn luôn được đảm bảo qua việc giảm bớt một cách tối đa những bất đồng. Tuy nhiên, vai trò của ông trở nên mờ nhạt hơn sau khi The Beatles quyết định dừng tour vào năm 1966 cho dù ông vẫn là người có ảnh hưởng rất lớn tới việc điều hòa các thành viên, và hơn cả, là quản lý chi tiêu. Khi Epstein qua đời vì sốc thuốc vào năm 1967, một khoảng trống lớn đã xuất hiện trong khối công việc khổng lồ của ban nhạc. Thủ lĩnh John Lennon chính là người thân thiết nhất với Epstein khi ông còn sống. McCartney có lẽ là người hiểu vấn đề này và dần tự biến mình thành người đề xuất các dự án cho ban nhạc. Các thành viên còn lại thì ngày một bị chi phối bởi những định hướng, cả về âm nhạc lẫn chi tiêu, từ chính Paul. Lennon sau này có nói rằng những nỗ lực của McCartney là để cứu vãn ban nhạc, nhưng anh vẫn luôn nghĩ rằng những cố gắng của Paul cũng chỉ là để chuẩn bị cho những vấn đề của sự nghiệp solo sau này. Công ty Apple Corps mà ban nhạc thành lập dưới sự che chắn của Epstein vốn là một nơi để họ trốn thuế. Cái chết đột ngột của ông khiến cho tương lai công ty bỗng trở nên nguy ngập. Việc thiếu sự giám sát của Epstein cùng với sự ngờ nghệch của The Beatles trên thương trường đã dẫn tới hàng loạt những vấn đề hỗn loạn mà vì chúng, ban nhạc bắt đầu thu âm "Album trắng" với vô số những căng thẳng. Vai trò quản lý của Epstein là không thể thay thế được và sự thiếu vắng một người thủ lĩnh đích thực ở hậu trường có lẽ là lý do chính cho sự tan rã của The Beatles. Công việc sáng tác của Harrison. Trong 1 album, hầu hết các ca khúc là do Lennon-McCartney viết và thể hiện, còn lại, họ thường dành 1 bài cho Ringo Starr hát, còn 1 bài khác cho George Harrison hát lại một ca khúc nào đó hoặc thể hiện một (hoặc vài) sáng tác của chính mình. Từ năm 1965 trở đi, các sáng tác của Harrison ngày một tiến bộ rõ rệt. Hiển nhiên, đối với một ban nhạc, khi 1 thành viên có ngày một nhiều những sáng tác chất lượng, đó phải là một tín hiệu mừng. Lennon và McCartney cũng đều hiểu Harrison là một nhạc sĩ đầy tiềm năng. Song với The Beatles, đây lại là một vấn đề khá tế nhị về việc chia sẻ lợi nhuận sáng tác từ album. Vậy nên, trong bất cứ album nào của ban nhạc, hầu hết các sáng tác, thậm chí cả ý tưởng của Harrison đều bị loại bỏ. Điều đó gây nên sự ức chế của anh với các thành viên còn lại trong nhóm. Khó khăn trong cộng tác. Sau khi ban nhạc dừng các chương trình tour, mỗi thành viên bắt đầu tìm hiểu những ý tưởng âm nhạc riêng. Khi họ gặp lại nhau sau kỳ nghỉ vào năm 1966, họ vẫn còn rất thân thiết và tôn trọng nhau như những người nghệ sĩ. Song quan điểm âm nhạc của họ đã bắt đầu khác nhau. McCartney, có lẽ là người khá nhất, thực sự quan tâm tới nhạc pop có chút pha trộn phong cách của Anh và Mỹ. Harrison chuyển hướng sang văn hóa Ấn Độ, còn Lennon tìm tòi về một thứ nhạc rock sâu sắc và trải nghiệm hơn. Kết quả là McCartney dần trở thành người nêu ý tưởng và thậm chí là thủ lĩnh về chuyên môn cho các dự án của The Beatles. Mỗi thành viên có những lịch cá nhân riêng, và mỗi người có những niềm vui với những nghệ sĩ khác nhau. Khá sớm, mỗi cá nhân trở nên thiếu tính đóng góp với những thành viên khác. Trong "Album trắng", mỗi người dường như đều muốn làm chủ phòng thu, và điều đó tạo nên một khối thiếu thống nhất của album. Yoko Ono. Sau chuyến đi thỉnh Maharishi năm 1966, John Lennon vẫn thấy tâm hồn mình chưa thanh thản. Việc lạm dụng thuốc kích thích cũng như cuộc hôn nhân không hạnh phúc khiến anh đi tìm những niềm vui mới, kể cả đóng phim. John gặp Yoko Ono trong một buổi triển lãm năm 1966, và cặp đôi này đã lén lút quan hệ với nhau cho tới khi cùng phát hành album theo phong cách avant-garde "" (1968). Mâu thuẫn cá nhân do cạnh tranh ngày càng được khoét sâu khi Yoko Ono luôn xuất hiện với John như hình với bóng. Điều này phá vỡ quy luật bất thành văn của nhóm: không một thành viên nào có quyền mang vợ hay người yêu vào phòng thu trong lúc đang thu âm. Chẳng những ở lì trong phòng thu với John, Yoko còn mang cả giường ngủ vào và sẵn sàng lên tiếng phê bình cách chơi nhạc của những người còn lại mặc dù bản thân mình không hiểu biết nhiều về rock. Chẳng những không can thiệp, John còn hưởng ứng những hành động thái quá của Yoko. Sự quá đáng này khiến cho Ringo Starr, thành viên hiền lành và dễ dãi nhất của nhóm, cũng phải bực bội và căn vặn John về sự hiện diện túc trực của Yoko. "Album trắng". Ban nhạc có mặt tại nhà của Harrison tháng 5 năm 1968 để thu các bản demo cho "The Beatles". Đó là một album-kép và được công chúng gọi đơn giản là "Album trắng". Đây là một sản phẩm kỳ lạ của ban nhạc mà người ta tìm thấy ở đó sự phát triển khá lớn của các thành viên trong các vai trò nhạc sĩ và nghệ sĩ. Lennon và McCartney trở nên chia rẽ. Harrison vẫn tiếp tục viết nhạc, song không nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các thành viên khác. "Not Guilty" bộc bạch khá rõ ràng tâm trạng của anh trong quá trình thu âm. Starr bắt đầu chán ngấy với những trò lố trong phòng thu, đỉnh điểm là anh quyết định rời nhóm trước khi quay lại bởi lời xin lỗi của 3 thành viên còn lại. Khi quay trở lại phòng thu, anh thấy một bó hoa trên dàn trống của mình như một lời chào của Harrison. Quá trình thu âm làm gia tăng những bất đồng trong nhóm. Lý do thì có muôn mặt, song những vấn đề chính thì lại tới từ những cá tính và quan điểm khác nhau. Kỹ thuật viên phụ trách âm thanh Geoff Emerick cũng giống Starr cảm thấy không thể chịu những cuộc cãi vã liên miên và rời khỏi dự án ngay tháng 6. Đây là biểu hiện ban đầu cho sự gia tăng của sự mất đoàn kết và cả những ác cảm. Tạp chí "Rolling Stone" miêu tả "Album trắng" là "4 album solo được phát hành trong 1 ấn bản." Sau khi phát hành "Album trắng", ban nhạc không tổ chức bất kể một buổi phỏng vấn hay họp báo nào. Quan hệ với công chúng trở thành một công việc mang tính cá nhân. Sự kiện ấn tượng nhất có lẽ là buổi thu âm nhân dịp Giáng sinh 1968: các đóng góp hoàn toàn cá nhân và Lennon đã có những thay đổi rất lớn khi ra mắt bạn gái mới Yoko Ono. Bất đồng trong phòng thu. Cuối năm 1968, tương lai của The Beatles đã thực sự báo động. McCartney, người trở thành thủ lĩnh từ sau cái chết của Epstein, thúc giục mọi người tích cực tập luyện, thu âm, thậm chí cả đi lưu diễn. Cho dù ban đầu các buổi thu cho "Album trắng" là nhằm mục đích giúp mọi người có thể chơi cùng nhau, song cuối cùng họ buộc phải từ bỏ ý tưởng đó. Chỉ 8 ngày sau những buổi tập, Harrison tuyên bố sẽ rời nhóm ngay khi có thể. Anh nói: "Đối với Eric Clapton hay Bob Dylan, tôi nhận được sự tôn trọng như một nghệ sĩ thực sự. Còn đối với Beatles, tôi chỉ là một nhạc công chơi lót không hơn không kém. Tôi không nghĩ rằng mình có thể tiếp tục chơi nhạc với Paul trong cùng một ban nhạc một lần nữa." Năm 2003, tạp chí "Rolling Stone" đã tiết lộ rằng khi Harrison bỏ đi, Lennon đã có ý định mời Eric Clapton về làm lead guitar thay thế. Cuối cùng, các cuộc nói chuyện đã đưa Harrison trở lại ban nhạc. Các kế hoạch trình diễn bị hủy bỏ và họ quay trở lại phòng thu của Apple. Ngày 30 tháng 1 năm 1969, họ cùng nhau trình diễn lần cuối trước công chúng trên sân thượng của trụ sở Apple Corps, những cảnh quay sau này được đưa vào bộ phim "Let It Be" và dự án "The Beatles Anthology". Vụ bê bối ngân quỹ. Apple Corps lâm vào khủng hoảng thời điểm năm 1968. Lennon và Oko gặp gỡ Allen Klein để nhờ trợ giúp trong vai trò quản lý. Harrison và Starr chấp nhận đề xuất này, trong khi McCartney nghi ngờ về khả năng của Klein. Cùng lúc, McCartney bắt đầu có mối quan hệ bền chặt với Linda Eastman và vì đó muốn đưa những thành viên gia đình cô, Lee và John Eastman, tham gia quản lý tài chính cho ban nhạc. Tuy nhiên, các tranh cãi và bất hòa về âm nhạc nhanh chóng tràn ngập các buổi thảo luận về kinh doanh. Dick James, người đại diện từ Northern Songs, nhanh chóng chuộc lợi từ những bất đồng trong lòng ban nhạc. Không hề nói trước cho The Beatles, James bí mật bán phần sở hữu của Northern Songs. Klein và nhà Eastman đã phát hiện ra song những cáo buộc của họ nhằm giúp The Beatles đòi lại quyền sở hữu (qua Maclen Music) lại thất bại. Thực tế, thất bại này là do Klein và nhà Eastman đã đi tìm những mối quen biết với những con đường khác nhau. Điều này làm dấy nên những nghi ngờ về bất đồng trong những kế hoạch của ban nhạc. Các cuộc chia ly. "Dự án Get Back" được bắt đầu vào tháng 1 năm 1969 và cuối cùng thì thất bại hoàn toàn (sau đó được tái khởi động vào tháng 1 năm 1970 và album "Let It Be" được phát hành vào tháng 5). Thực tế ban nhạc vẫn cùng nhau thu âm suốt mùa xuân và hè 1969 – những buổi thu chính góp phần tạo nên siêu phẩm "Abbey Road". John Lennon. Trải nghiệm về ma túy là nội dung của ca khúc "Cold Turkey". Tuy nhiên, The Beatles không đồng tình với việc đưa nó thành đĩa đơn. Năm 1969, Lennon và Ono thành lập Plastic Ono Band. Việc tham gia của họ tới chương trình "Rock and Roll Concert" ở Toronto đã gián tiếp thể hiện việc họ muốn rời nhóm. Lennon nói với Klein về việc này vào ngày 20 tháng 9 năm 1969. Khá trớ trêu là vào mùa xuân năm 1969, ban nhạc vừa ký hợp đồng mới rất hứa hẹn với Capitol Records. Về lý thuyết, đây là văn bản cuối cùng có sự xuất hiện đầy đủ của họ. Paul McCartney. Thất vọng vì những nỗ lực duy trì ban nhạc không đạt được kết quả, McCartney đã nói về việc The Beatles sẽ tan rã trong một bài phỏng vấn trên tạp "Life" vào tháng 11 năm 1969. Đầu năm 1970, chỉ còn McCartney, Starr và Harrison thực hiện album "Let It Be" trong lúc mỗi người đều đã lên kế hoạch cho sự nghiệp solo. McCartney gặp rất nhiều bất đồng với nhà sản xuất của album, Phil Spector, đặc biệt là trong ca khúc "The Long and Winding Road". Anh chỉ muốn có một bản ballad với piano, trong khi Spector thì muốn có dàn hợp ca giọng nữ. Ngày 14 tháng 4 năm 1970, anh viết bức thư dài gửi lên quản lý của Apple Records, Allen Klein, rằng những hiệu ứng đó sẽ phải bị hủy bỏ, phần đàn hạc sẽ bị xóa, kèm với đó là lời nhắn "Đừng bao giờ làm vậy nữa". Những yêu cầu không được để ý và bản của Spector được chọn cho album. Ngày 17 tháng 4, Paul phát hành album solo đầu tay, "McCartney". Sẽ không có vấn đề gì nếu album này không phát hành trùng đợt với "Let It Be" và bộ phim cùng tên. Khi Starr đề nghị Paul rời ngày phát hành lại để giữ gìn hình ảnh ban nhạc, anh đã từ chối và nói: "Tôi đã phải làm một cái gì đó như thế để khẳng định bản thân mình bởi vì tôi đã không được tôn trọng." Cùng lúc, McCartney tuyên bố mình sẽ rời khỏi The Beatles. Ngày 31 tháng 12 năm 1970, The Beatles hoàn tất những thủ tục pháp lý cuối cùng về việc giải thể tại tòa án tối cao thành phố London. Những tranh cãi về bản quyền cũng như quyền lợi thì mất khá nhiều thời gian và tới ngày 9 tháng 1 năm 1975 mới được giải quyết triệt để. Phụ trách báo chí của ban nhạc, Derek Taylor, viết về cuộc chia ly này của The Beatles: "Mùa xuân tới rồi, ngày mai thì Leeds sẽ lại gặp Chelsea. Ringo và John, George và Paul, họ vẫn sống và còn sống rất tốt. Trái đất vẫn quay, như chúng ta và như bạn nữa. Khi nó không còn quay nữa thì đó mới là lúc phải lo lắng chứ không phải bây giờ."
1
null
György Lukács (tên khai sinh György Bernát Löwinger; ; ; 13 tháng 4 năm 1885 - 4 tháng 6 năm 1971) là một nhà triết học Mác xít Hungary, nhà sử học văn học, nhà phê bình và nhà thẩm mỹ học. Ông là một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác phương Tây, một thuyết lý giải khác với hệ thống tư tưởng chính thống của chủ nghĩa Mác ở Liên Xô. Ông đã phát triển lý thuyết duy nhất, và đóng góp vào lý thuyết của Mác với những phát triển của lý thuyết về ý thức giai cấp của C.Mác. Ông cũng là một nhà triết học chủ nghĩa Lênin. Ông đã phát triển về mặt tư tưởng và tổ chức thực tiễn cách mạng thực dụng của Lenin thành triết lý chính thức của đội tiên phong cách mạng. Là một nhà phê bình văn học, Lukács có ảnh hưởng đặc biệt do những phát triển lý thuyết của ông về chủ nghĩa hiện thực và tiểu thuyết như một thể loại văn học. Năm 1919, ông được bổ nhiệm làm "Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hungary" của chính phủ "Cộng hòa Xô viết Hungary" tồn tại trong thời gian ngắn (tháng 3 - tháng 8 năm 1919). Lukács là một trí thức Mác xít ưu tú của thời kỳ Stalin, mặc dù việc đánh giá di sản của ông hơi khó khăn vì Lukács vừa ủng hộ chủ nghĩa Stalin như hiện thân của tư tưởng Mác, vừa ủng hộ việc quay trở lại chủ nghĩa Mác thời tiền Stalin.
1
null
Vệ sinh an toàn thực phẩm hay an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. Vệ sinh an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn mà các nước đang phát triển đã và đang phải đối mặt như Việt Nam, Trung Quốc... Thực phẩm có thể truyền bệnh từ người sang người cũng như là một môi trường phát triển cho các vi khuẩn có thể gây ra ngộ độc thực phẩm. Cuộc tranh luận về an toàn thực phẩm biến đổi gen bao gồm các vấn đề như tác động của thực phẩm biến đổi gen đối với sức khỏe của các thế hệ xa hơn và ô nhiễm môi trường, di truyền mà có thể phá hủy đa dạng sinh học tự nhiên. Ở các nước phát triển có những tiêu chuẩn rất phức tạp và nghiêm ngặt cho việc chế biến, bảo quản và tiêu thụ thực phẩm, trong khi ở các nước đang phát triển và kém phát triển thì tiêu chuẩn này quá thấp và việc quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tỏ ra quá lỏng lẽo, yếu kém và xã hội những nước này thường ngày phải đối mặt với nguy cơ ngộ độc thực phẩm, tử vong hàng ngày hàng giờ. Tổng quan. Một số điều cần biết về vệ sinh thực phẩm: Chai đựng nước ngọt và nước uống đóng chai thường được làm từ nhựa PET (#1), là loại nhựa chỉ đảm bảo chất lượng cho sử dụng một lần. Một nghiên cứu của Đại học Idaho (Hoa Kỳ) cho thấy, các hóa chất được sử dụng trong chế tạo loại nhựa này có thể thôi ra và ngấm vào nước nếu chúng ta đem sử dụng lại hoặc để chai tiếp xúc với ánh nắng, nhiệt độ và thời gian. Đây là loại nhựa xốp, những chai này trong quá trình sử dụng đã bị ngấm các hương liệu và vi khuẩn mà bạn không có cách nào rửa sạch chúng được. Trong mực in có các loại hóa chất, trong đó có chì. Chì sẽ bị thôi nhiễm từ báo chí sang thực phẩm. Khi theo thực phẩm vào cơ thể con người, chì khó bị đào thải mà lắng đọng lại và có thể gây hại khi đạt đến một mực độ nhất định. Ngoài ra một tờ báo thường trải qua nhiều khâu, từ nhà in, qua đường phố, đến tay bao người đọc và người thu gom. Trong quá trình đó, đã có rất nhiều bụi bám vào. Giấy báo lại là chất liệu dễ thấm hút, là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn, ký sinh trùng bám dính và phát triển. Đồ nhôm vừa nhẹ, vừa sạch sẽ, tiện dụng. Nhưng nếu dùng các đồ nhôm được chế tạo từ nhôm phế liệu, gia công không đảm bảo công nghệ, xử lý không hết tạp chất, không tạo được bề mặt trơ với tác động của môi trường... thì khi dùng đun nấu, chứa đựng thực phẩm có thể các ion nhôm sẽ thôi nhiễm vào thực phẩm và người ăn phải sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt khi nấu mặn, dễ tạo ra muối nhôm gây độc cho cơ thể. Dùng đồ nhôm để chứa đựng thức ăn nóng, chua (muối dưa, canh chua), mặn - bề mặt nhôm dễ bị rỗ, giải phóng các ion nhôm vào cơ thể, tích luỹ ở tế bào não, gây ra hội chứng "lú lẫn" sớm. Bình thường, tế bào thần kinh không có ion nhôm. Nhưng nếu trong thức ăn có nhiễm ion nhôm, thì ion nhôm vốn có ái tính với các tế bào thần kinh, sẽ tích tụ tại đó và làm cho tế bào thần kinh não bị biến tính, dẫn tới chứng "lú lẫn" (ngớ ngẩn). Biểu hiện là trí nhớ giảm sút, phản ứng trì trệ, trí năng giảm, cử động chậm chạp, cười khóc bất thường. Cách phòng ngừa: Không dùng đồ nhôm để đựng thức ăn qua đêm; không dùng đồ nhôm để muối dưa, đánh trứng gà, làm nộm chua, canh chua, muối mặn, nóng…; không dùng đồ nhôm gia công không đảm bảo công nghệ. Hạn chế dùng đồ nhôm để chế biến, chứa đựng thực phẩm. Không nên lưu trữ thực phẩm quá lâu trong các nồi đựng bằng kim loại, bất kể nhôm, gang, đồng hay inox. Bởi trong các món ăn, nhất là các món chua đều có một lượng axit nhất định. Lượng axit này sau khi được "ngâm" trong nồi sẽ làm thôi ra một lượng kim loại hoặc làm oxy hóa lớp bề mặt vật đựng bằng kim loại. Nồng độ cũng như hàm lượng kim loại bị thôi nhiễm ra dù không nhiều nhưng lâu dần tích tụ trong cơ thể người dùng cũng sẽ ảnh hưởng không tốt cho sức khoẻ. Ngoài ra, cũng từ nhiều nghiên cứu khác cho thấy, nồi kim loại khi mới dùng đôi khi cũng thôi ra một lượng kim loại nhất định như Nickel, Chrome hoặc sắt. Lý do là bởi các bụi kim loại còn bám trên bề mặt sau quy trình đánh bóng. Do vậy, các nhà sản xuất khuyên người tiêu dùng, đối với nồi mới, nên cọ rửa sạch, cho nước vào nấu sôi, rửa sạch lại sau đó mới dùng. Theo quy định hiện hành thì ngoài những trường hợp kinh doanh quy mô nhỏ lẻ thì cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Nguyên nhân. Nhiều nguyên nhân dẫn tới ngộ độc thực phẩm: Ngoài ra còn rất nhiều trường hơp ngộ độc mà không thể xác định được nguyên nhân. Theo điều tra của cơ quan vệ sinh an toàn thực phẩm cho thấy: Đó là chưa kể các thức ăn bị nhiễm thuốc trừ sâu (phun hàm lượng cao, không cách ly với ngày thu hoạch), hay các chất phụ gia (hàn the, màu công nghiệp, đường hóa học). Do vậy để khỏi bị nhiễm độc, tốt nhất bạn nên ra chợ tự mua thực phẩm, chọn những con vật (cá, tôm, gà vịt…) đang còn sống. Với những thực phẩm đã giết mổ, pha chế sẵn thì nên mua ở những nơi có uy tín, có bảo hành chất lượng cho các sản phẩm của mình và dĩ nhiên nên lưu lại các hóa đơn mua hàng để sau đó nếu có ngộ độc xảy ra còn biết do loại nào, do ai bán… để làm các thủ tục pháp lý và đền bù thỏa đáng. Cần lưu ý đến ngay cả khâu chế biến thực phẩm của mỗi cá nhân và gia đình. Đảm bảo các dụng cụ nhà bếp phải thật sạch. Sắn (khoai mì) chứa xyanua, cả trong phần thịt và phần vỏ (thường có hàm lượng cao hơn). Cách tốt nhất để loại bỏ xyanua trong khoai mì là phải lột vỏ, ngâm trong nước lạnh nhiều giờ trước khi luộc, trong lúc luộc nên mở nắp nồi để xyanua bay đi. Đối với khoai tây, khoai mì, đậu phộng, người tiêu dùng hoàn toàn không nên dự trữ lâu. Để tránh ngộ độc solanin có trong khoai tây, không nên ăn những củ khoai đã mọc mầm hay những củ có vỏ đã chuyển sang màu xanh, những củ đã đào khỏi mặt đất quá lâu. Nên thận trọng với những thức ăn để lâu hay bảo quản không tốt mà chuột, bọ, dán, ruồi… có thể động chạm đến. Ở Việt Nam. Tình hình chung. Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẫn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mạn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư. Một số loại. Với hoa quả, nhờ những chất bảo quản bị cấm, hay lượng quá cao, nho để tủ lạnh 3 tháng vẫn tươi; lê, táo, mận... cũng để cả tháng trời mà không hề hỏng, bề ngoài vẫn tươi, mặc dù thời tiết rất nóng. năm loại trái cây nổi tiếng độc hại năm 2012: Táo Trung Quốc nhiễm độc. Nho Trung Quốc có hóa chất vượt ngưỡng 3-5 lần: Cục Bảo vệ thực vật cho biết, từ đầu năm 2012 đến cuối tháng 4 đã phân tích 315 mẫu hàng hóa nông sản có nguồn gốc thực vật nhập khẩu. Kết quả, phát hiện 71 mẫu có dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật nhưng đều thấp hơn mức dư lượng tối đa cho phép. Trong số đó có 1 mẫu lê nhập khẩu từ Trung Quốc chứa dư lượng endosulfan. Endosulfan là hóa chất độc hại thứ 22 trong danh sách cần loại trừ trên toàn cầu của Liên hợp quốc. Thuốc trừ sâu Endosulfan có tính độc cao và có thể gây các ảnh hưởng phá vỡ hệ nội tiết hoặc gây ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản của con người. Lê Trung Quốc có chất gây vô sinh. Ô mai Trung Quốc: chứa chất ung thư. Giả hiệu cam Hà Giang siêu rẻ 10.000 đồng một kg Một số nguyên liệu được nêu như: Tôm được chích lấy ra hết đất cát, rồi tẩm hóa chất cho có màu đó, sau đó luộc, phơi khô trên nền đất. Cá được các đầu nậu đưa từ biển về, nhúng vào thùng nước đá có pha đạm urê, sau đó vớt ra sạp bán. Công đoạn này được gọi là "tráng đạm". Thịt heo được tiêm thuốc an thần Prozil để thịt không hôi, và nhìn tươi đỏ: dễ gây rối loạn tiêu hóa, ảnh hưởng đến tim mạch, run chân tay, thay đổi huyết áp, nhức đầu và chóng mặt. Dùng liên tục sẽ gây ra nhiều nguy cơ bệnh tật như ung thư xương, tác hại đến thần kinh gây ra các hội chứng đãng trí, trầm uất và run tay chân, Ở Hà Nội, biến thịt lợn sề thành thịt bò Thịt heo được tiêm thuốc an thần Prozil để thịt không hôi, và nhìn tươi đỏ. Vận chuyển, buôn bán nội tạng thối: Tháng 1 năm 2013, cơ quan chức năng tỉnh Bình Dương đã phát hiện hàng chục tấn thịt quá hạn trữ trong kho lạnh của Công ty liên doanh đông lạnh Panasato, Bình Dương. Các công nhân Công ty Freewell (Bình Phước) phát hiện có dòi bò ra từ lòng đỏ trứng gà, dự trữ thịt hàng chục tấn quá hạn, hoặc không có ghi hạn sử dụng Bánh mì của cửa hàng bánh mì Đồng Tiến (Đà Nẵng) nhiễm vi sinh gây ngộ độc gần 80 người ở Đà Nẵng. 4/5 loại thực phẩm thu mẫu tại cửa hàng này bị nhiễm vi sinh. Cụ thể là mẫu rau sống, jăm bông, thịt nguội, pa tê nhiễm Coliforms và E.Coli vượt quá giới hạn cho phép từ 2 đến 15 lần. Cửa hàng bánh mì này thuộc Công ty TNHH Đồng Tiến, quận Hải Châu. Các loại trái cây như chuối, chôm chôm, sầu riêng, mít, xoài… thường được ủ chín bằng phương pháp thủ công như rơm, lúa. Gần đây nhà nông sử dụng hóa chất bán trôi nổi trên thị trường để ép hoa quả chín nhanh. Bỏ vài muỗng hóa chất và một viên pin vào nồi luộc 200 trái bắp (ngô), chưa đến 2 giờ sau toàn bộ bắp sẽ chín, thơm, ngọt và để lâu mà không bị ôi thiu. Đậu đỗ, dưa chuột, rau cải tiềm ẩn nguy cơ nhiễm hóa chất. Người dân có thể tìm thấy đủ các loại hương liệu được bày bán tại khu vực chợ Kim Biên. Ở thành phố Thủ Dầu Một, Bình Dương, chiều 23 tháng 2, Đoàn kiểm tra liên ngành An toàn vệ sinh thực phẩm phát hiện một số điểm kinh doanh ăn uống phục vụ tại lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu có nhiều loại thực phẩm chứa chất hàn the. 16 cơ sở bị nhắc nhở, 4 cơ sở bị lập biên bản, phạt tiền. Kiểm tra nhanh 27 mẫu thức ăn thì đã phát hiện 12 mẫu dương tính chứa hàn the, như mì sợi, bánh đúc, nem, chả lụa. Kết quả giám sát chất lượng thực phẩm đối với hoa quả sấy khô (xí muội, ô mai) có nguồn gốc từ Trung quốc bị nghi ngờ có chứa hóa chất phụ gia gây độc hại có nguy cơ đe dọa sức khỏe người tiêu dùng. Theo báo cáo của Viện kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia và Viện Vệ sinh Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh đến thời điểm hiện nay đã có 90 mẫu ô mai xí muội được lấy tại các địa phương gồm Hà Giang, Lai Châu, Khánh Hòa, Cà Mau, Tiền Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Kiên Giang, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Định, Hải Phòng, Lâm Đồng Bắc Giang, Quảng Nam. Kết quả cụ thể như sau: 65/90 mẫu xét nghiệm có sử dụng đường Sarcarine vượt quá giới hạn cho phép, 13/90 mẫu xét nghiệm có sử dụng Cyclamate, 1/90 mẫu có sử dụng Natri Benzoic, 23/90 mẫu có sử dụng Axit Benzoic, 9/90 mẫu xét nghiệm có hàm lượng chì cao hơn giới hạn cho phép, 90/90 mẫu không phát hiện có sử dụng phẩm màu không được phép sử dụng. Tại Hà Nội, có những quán ăn chế biến chân gà nướng không phù hợp và đảm bảo vệ sinh chế biến. Từng túi chân cánh gà đông đá không rõ nguồn gốc đã được các chủ nhà hàng chế biến ngay cạnh cống rãnh, thùng rác và ướp tại những xô chậu phẩm màu gia vị bằng những bàn tay trần không găng tay những quán chân gà nướng như thế này chính là điều kiện để dịch bệnh lây lan, không thể kiểm soát. Cũng tại Hà Nội, nguồn chân gà được nhập vào thành phố để chế biến có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nhập lậu vào Việt Nam và sau khi tháo ở thùng ra thì đều phải ngâm trong nước lã từ 1h - 2h cho sạch những hóa chất. Sau đó tiếp tục đổ dấm vào để tẩy, rửa cho chân gà trắng thêm. Sau đó là cho chân gà vào các xô chậu rồi tưới bia hơi lên trên vì chân gà nhập từ Trung Quốc sang để lâu trong kho nên chân gà khô như củi, muốn ngon thì phải ngâm trong bia, phần nước thải thì mùi hăng hắc bốc lên do hóa chất chảy ra. Có những đốt ngón chân gà thì thấy bên trong các ống xương đã rỗng, mục nát, nhiều chiếc còn có mùi thum thủm lẫn mùi hăng hắc của hoá chất. Ngay tại Trung Quốc cũng có thông tin cho rằng một chiếc chân gà nướng độc bằng 60 điếu thuốc lá vì khi thịt được nướng chín ở nhiệt độ cao, chất béo bị phân giải nhỏ giọt xuống lớp than hoa, sau đó lại bốc hơi quyện vào chất protein trong thịt tạo thành benzopyrene, một chất hydrocarbon thơm và có khả năng gây ung thư cao. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, nếu thường xuyên ăn đồ nướng có benzopyrene, chất này sẽ tích tụ dần trong cơ thể, gây ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng hàm lượng chất benzopyrene trong đồ nướng là 5.000 ng/kg (nanogram/kilogram). Một chiếc chân gà nướng có trọng lượng 100 gr, như vậy lượng benzopyrene trong đó chỉ có khoảng 500 ng. Như vậy, hàm lượng chất này trong một chiếc chân gà nướng chỉ tương đương với 5 điếu thuốc. Dù vậy chân gà nướng vẫn là món ăn chứa chất độc hại, vì vậy nếu không muốn bị ung thư thì không nên ăn món này quá nhiều.
1
null
Gạo vàng là một giống gạo được tạo ra từ công nghệ biến đổi gen và được xếp vào nhóm những loại thực phẩm biến đổi gen, nó là một loại cây trồng được biến đổi gene để tạo ra beta-carotene, một chất được cơ thể chuyển đổi thành vitamin A. Gạo vàng phiên bản 2 vào năm 2006 có hàm lượng beta-carotene hay còn gọi là tiền vitamin A cao gấp 23 lần so với gạo vàng thông thường. Tổng quan. Giống gạo này nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu sinh học Ingo Potrykus chế tạo. Gạo vàng có chứa nhiều các chất các chất cần thiết như sắt, kẽm, các loại khoáng chất và đặc biệt là vitamin A. Giống gạo vàng đã sẵn sàng để gieo trồng vào năm 2002. Nó là một loại cây trồng biến đổi gen và chính vì vậy mà vấp phải sự phản đối, nghi ngại ở một số nước. Sau khi sản xuất thành công gạo vàng, đến nay, gạo vàng đã có phiên bản thứ hai của nó, phiên bản mới một loại gạo chuyển gien chứa hàm lượng tiền vitamin A cao gấp 20 lần so với gạo vàng thông thường. Gạo vàng 2 có chứa một phiên bản của chất quang hợp được lấy từ ngô và có chức năng tạo ra beta-carotene. Đây là enzim có thể tạo ra nhiều beta-carotene nhất trong tất cả các loại enzim được nghiên cứu. Theo uớc tính, loại gạo vàng mới này sẽ cung cấp trên 50% hàm lượng vitamin A được đề nghị sử dụng hàng ngày cho trẻ nhỏ so với loại gạo vàng ban đầu. Nơi trồng chủ yếu. Giống gạo vàng là giống gạo cung cấp nhiều beta caroten hơn giống gạo truyền thống. Do vậy được trồng nhiều ở khu vực châu phi nhằm bổ sung vitamin A cho trẻ em châu Phi
1
null
<ns>0</ns> <revision> <parentid>68752136</parentid> <timestamp>2022-11-23T19:43:09Z</timestamp> <contributor> <username>Bonsaihoathuan2016</username> </contributor> <minor /> <comment>Bonsaihoathuan2016 đã đổi Pháo phản lực bắn loạt Type 75 130 mm thành Pháo phản lực bắn loạt 130 mm Type 75: Sửa đổi tên bài viết theo đúng chính tả</comment> <model>wikitext</model> <format>text/x-wiki</format> Pháo phản lực phóng loạt mẫu 75 130 mm (75式130mm自走多連装ロケット弾発射機 nana-go-shiki-130mm-jisou-ta-rensou-Rocket-dan-hassya-ki?) được thiết kế để mang được hệ thống tên lửa 130 mm - thiết kế bởi Aerospace Division thuộc công ty ô-tô Nissan.Nó sử dụng hệ thống treo, xích và động cơ diesel của xe chở quân mẫu 73.Komatsu chịu trách nhiệm sản xuất phần khung tăng và IHI Aerospace (tên mới Nissan's Aerospace Division) thiết kế hệ thống phóng tên lửa.Có 15 chiếc mẫu 75 được lắp đặt thiết bị đo gió để hỗ trợ cho hệ thống phóng tên lửa đề phòng thời tiết biến đối bất thường. Vào năm 2001, quân đội Nhật Bản báo cáo với bộ phận giải trừ quân bị là có khoảng 61 chiếc mẫu 75 và 13 chiếc mẫu 75 có trang bị thiết bị đo gió đang hoạt động Mẫu 75 đang dần dần được thay thế bởi hệ thống pháo phản lực 227 mm M270.Tên lửa được trang bị hệ thống ổn định và có thể được bắn riêng lẻ hoặc bắn theo đợt 12 tên lửa / lần.
1
null
Thực phẩm biến đổi gen ( được gọi tắt là GM) được dùng để chỉ các loại thực phẩm có thành phần từ cây trồng biến đổi gen, động vật biến đổi gen (động vật chuyển gen) – hay còn gọi là thực phẩm GM, hoặc còn gọi là thực phẩm công nghệ sinh học (CNSH). Tổng quan. Thuật ngữ thực phẩm biến đổi gen ban đầu dùng để chỉ những loại cây trồng dành cho con người hoặc gia súc được tạo ra nhờ công nghệ sinh học để cho những phẩm chất mong muốn như tăng khả năng chống cỏ dại, chống sâu bệnh hay tăng hàm lượng dưỡng chất. Việc nâng cao chất lượng giống cây trồng thường được thực hiện nhờ phương pháp nhân giống, song phương pháp này tốn nhiều thời gian lại cho kết quả không chính xác. Ngược lại, kỹ thuật biến đổi gien có thể tạo ra giống cây trồng như mong muốn, tốn ít thời gian và có độ chính xác cao. Trong kỹ thuật biến đổi này, người ta có thể thêm hoặc bỏ bớt gen. Nếu thêm gen vào một sinh vật nào đó, người ta thường chọn gen từ loài khác. Để làm được việc đó người ta có thể gắn gen ngoại lai vào một virus rồi đưa vào tế bào vật chủ, hoặc đưa DNA ngoại lai vào nhân của tế bào bằng ống tiêm. Một số chủng vi khuẩn cũng có thể chuyển gene vào tế bào và giới khoa học đã tận dụng chúng để tạo ra GMC. Về mặt nguyên tắc, người ta chỉ làm biến đổi gen mang tính có lợi. Nghĩa là chỉ tiến hành biến đổi ở những gen không liên quan gì đến thành phần giá trị dinh dưỡng của thực phẩm, hoặc nếu có thì sẽ làm động tác theo hướng tăng cường hàm lượng mà không làm thay đổi theo chiều hướng ngược lại. Do đó, giá trị dinh dưỡng của thành phẩm không hề bị suy giảm cho nên Bên cạnh việc cung cấp dinh dưỡng thì thực phẩm biến đổi gen còn cho chúng ta những vụ mùa bội thu, những vụ mùa tồn tại ngay cả ở trong điều kiện sâu bệnh và khí hậu khắc nghiệt. Thực phẩm biến đổi gen thông dụng hiện nay là cây trồng biến đổi gen là những cây mà vật liệu di truyền của chúng được biến đổi theo ý muốn chủ quan của con người nhờ những công nghệ sinh học hiện đại, hay còn gọi là công nghệ gene. Cây trồng biến đổi gene đã phát triển nhiều năm trên thế giới và việc sử dụng đang theo xu hướng gia tăng, trong đó có hai cường quốc nông nghiệp châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ. Thực vật. Cây thuốc lá biến đổi gen là GMC đầu tiên được trồng thử nghiệm trên đồng ruộng. Các nhà khoa học gây biến đổi gene ở cây thuốc lá để chúng kháng thuốc diệt cỏ, rồi trồng thử nghiệm tại Mỹ và Pháp vào năm 1986. Một thập kỷ sau đó cây trồng biến đổi gene bắt đầu được trồng đại trà với mục đích thương mại. Hoa Quả và Rau Củ. Đu đủ được biến đổi gen để kháng vi rút ringspot (PSRV). SunUp là một giống đu đủ Hoàng hôn đỏ chuyển gen có tính đồng hợp tử về gen protein PRSV. Cầu vồng là giống lai F1 màu vàng được phát triển bằng cách lai SunUp với Kapoho màu vàng không chuyển gen Thời báo New York tuyên bố: "Vào đầu những năm 1990, ngành công nghiệp đu đủ của Hawaii đã phải đối mặt với thảm hoạ vì vi rút ringpot đu đủ gây chết người. Vị cứu tinh duy nhất là giống được chỉnh sửa có khả năng kháng lại vi rút. Nếu không có chúng, ngành công nghiệp đu đủ của bang đã sụp đổ. Ngày nay, 80% đu đủ Haiwaii được biến đổi gen và vẫn không có phương pháp hữu cơ hay thông thường nào để kiểm soát vi rút ringspo. Cây trồng biến đổi gen đã được phê duyệt tại Hawaii vào năm 1998. Ở Trung Quốc, một loại đu đủ biến đổi gen kháng PRSV được phát triển bởi Đại học Nông nghiệp Nam Trung Quốc và được phê duyệt trồng thương mại vào năm 2006. Đến năm 2012, 95% lượng đu đủ được trồng ở Quảng Đông và 40% được trồng ở Hải Nam là đu đủ biến đổi gen. Ở Hồng Kông, nơi được cho phép trồng và phát hành bất kỳ loại đu đủ biến đổi gen nào, có 80% số lượng đu đủ được trồng hay nhập khẩu là đu đủ biến đổi gen. Khoai tây New Leaf, một loại thực phẩm biến đổi gen được phát triển sử dụng vi khuẩn tự nhiên tìm thấy trong đất có tên là Bacillus thuringiensis (Bt), được chế tạo để cung cấp một phương thức bảo vệ khỏi bọ khoai tây Colorado làm mất năng suất. Khoai tây New Leaf được đưa vào thị trường bởi công ty Monsanto vào cuối những năm 1990 và phát triển cho thị trường thức ăn nhanh. Tuy nhiên chúng đã bị rút khỏi thị trường vào năm 2001 khi các nhà bán lẻ từ chối chúng và các nhà chế biến thực phẩm gặp vấn đề về xuất khẩu. Đến năm 2005, khoảng 13% lượng bí đao Zucchini được trồng ở Mỹ là giống biến đổi gen chống 3 loại vi rút. Giống bí này cũng được trồng ở Canada. Vào năm 2014, USDA đã phê duyệt một loại khoai tây biến đổi mười gen được phát triển bởi công ty J.R.Simplot có thể ngăn ngừa tím bầm và sản xuất ít acrylamide khi chiên. Các sửa đổi đã loại mỏ protein cụ thể từ khoai tây, thông qua can thiệp RNA, thay vì cung cấp các gen mới. Tháng 2 năm 2015, táo Bắc Cực đã được USDA chấp thuận, trở thành loại táo biển đổi gen đầu tiền được chấp thuận bán tại Hoa Kỳ. Gen triệt âm được sử dụng để làm giảm sự biểu hiện của polyphenol oxyase (PPO), do đó ngăn chăn trái cây bị nâu Ngô. Ngô được sử dụng làm thực phẩm và rượu etylic đã được biến đổi gen để dung nạp các loại thuốc diệt cỏ khác nhau và để thể hiện protein từ Bacillus thuringiensis (Bt) tiêu diệt một số côn trùng nhất định. Năm 2010 khoảng 90% ngô trồng ở Mỹ đã được biến đổi gen. Ở Mỹ năm 2015, 81% diện tích ngô có tính trạng Bt và 89% diện tích ngô có tính trạng chịu được glyphosate. Ngô có thể được chế biến thành yến mạch, bột mịn hay tinh bột mì và là thành phần trong bánh kếp, bánh muffin, bánh rán, bánh mì và các loại bột làm bánh, cũng như thực phẩm trẻ em, các sản phẩm thịt, ngũ cốc và một số sản phẩm lên men. Bột masa từ ngô được sử dụng để sản xuất vỏ taco, bim bim ngô và bánh ngô. Đậu nành. Hạt đậu nành biến đổi gen để chống lại thuốc diệt cỏ và sản xuất dầu tốt cho sức khoẻ hơn. Năm 2015, 94% diện tích đậu nành ở Mỹ là cây biến đổi gien để chịu được glyphosate Lúa mì. Từ tháng 12 năm 2017, lúa mì biến đổi gen đã được đưa vào đánh giá trong các thử nghiệm thực địa, nhưng chưa được phát hành thương mại. Ứng dụng. Do thực tế, dân số tăng lên mà lương thực thì có nguy cơ thiếu do đó nhân loại muốn có những giống cây trồng vật nuôi có một đặc tính ưu việt nào đó có khả năng cung cấp đủ thực phẩm ăn, người ta muốn có những thực vật có khả năng chịu hạn tốt, những cây trồng có khả năng chống chịu sâu bệnh cao nhằm làm tăng năng suất mùa màng, từ đó thúc đẩy nghiên cứu chế tạo ra loại thực phẩm này, người ta còn sử dụng thực phẩm chuyển gen nhằm tạo ra những thực phẩm có một đặc tính dinh dưỡng ưu việt nào đó. Hoặc cũng có khi là nhằm tổng hợp ra các chế phẩm sinh học hay các thuốc dùng trong điều trị bệnh. Theo báo cáo của Tổ chức Quốc tế về Tiếp thu các ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA), diện tích cây trồng biến đổi gen đã tăng gấp 110 lần sau 21 năm thương mại hoá, cùng với đó là sự mở rộng của thực phẩm biến gen để cung cấp đủ thực phẩm cho dân số thế giới cũng trên đà tăng mạnh. Tính tới năm 2017 đã có 67 quốc gia sử dụng cây trồng BĐG, bao gồm 24 quốc gia canh tác cây trồng BĐG (19 nước đang phát triển và 5 nước công nghiệp); cùng 43 quốc gia khác (trong đó EU được tính là 1) cấp phép chính thức nhập khẩu và sử dụng cây trồng BĐG với mục đích làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và chế biến. Từ năm 1996 đến năm 2012, cây bông CNSH ở Trung Quốc đã đem lại lợi ích kinh tế trên 15 tỷ USD, riêng năm 2013 đã đạt 2,2 tỷ USD. Trung Quốc hiện nay là nhà nhập khẩu đậu nành và hạt cải dầu biến đổi gen hàng đầu. Đầu năm 2019, Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu 5 mặt hàng nông sản biến đổi gen, được công bố trên trang web của Bộ nông nghiệp Trung Quốc. Các sản phẩm được thông qua gồm ngô DP4114 Qrome và đậu nành DAS-44406-6 của công ty DowDuPont, đậu nành đậu nành SYHT0H2 do Bayer CropScience và Syngenta - hiện quyền sở hữu của công ty hóa chất Đức BASF - phát triển. Hai sản phẩm còn lại gồm hạt cải dầu RF 3 của BASF và hạt cải dầu MON 88302 của công ty Monsanto. Cây trồng biến đổi gen có nhiều tác động to lớn lên đời sống kinh tế - xã hội – môi trường, đặc biệt là công nghệ biến đổi gen kháng sâu bệnh và chống chịu thuốc trừ cỏ đã giúp làm giảm 8,2% lượng thuốc trừ sâu cần sử dụng, tăng thu nhập cho các nông hộ 186,1 tỷ USD, tăng 659 triệu tấn sản lượng nông nghiệp trên toàn cầu và làm giảm 27,1 tỷ khí thải nhà kính. Tính tới năm 2017, có 67 quốc gia sử dụng cây trồng biến đổi gen, bao gồm 24 quốc gia canh tác cây trồng biến đổi gen (19 nước đang phát triển và 5 nước công nghiệp); cùng 43 quốc gia khác (trong đó EU được tính là 1) cấp phép chính thức nhập khẩu và sử dụng cây trồng biến đổi gen với mục đích làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và chế biến. Việt Nam. Tại Việt Nam, cây trồng biến đổi gen đã được đưa vào thử nghiệm gần 5 năm. Từ năm 2015, Chính phủ đã cho phép đưa 3 giống ngô biến đổi gen gồm NK66BT (mang gen chuyển Bt11), NK66GT (mang gen chuyển GA21) và NK66bt/GT (mang gen chuyển Bt1 và GT), đây được xem như một bước đột phá trong công nghệ sinh học. Bởi vậy, ở Việt Nam, các loại ngô và thực phẩm làm từ ngô đều có thể là ngô biến đổi gen Đậu nành cũng là một loại thực phẩm biến đổi gen rất phổ biến và Monsanto vẫn là tập đoàn nắm giữ độc quyền phân phối giống đậu nành biến đổi gen trên khắp thế giới với khoảng 90%. Đậu nành là một loại thực phẩm cung cấp đạm rất phổ biến, có nhiều trong đậu phụ, các loại bánh, sữa tươi, sữa công thức cho trẻ em, bột ngũ cốc, bánh kẹo… Bởi vậy, khả năng những sản phẩm này được làm từ đậu nành biến đổi gen là rất lớn. Ở Việt Nam, đậu nành biến đổi gen đang chiếm hơn 90% thị trường đậu nành. Riêng trong năm 2013, Việt Nam bắt đầu nhập 1.3 triệu tấn đậu nành từ Brazil, Ấn Độ, Mỹ…. Đây đều là những quốc gia có diện tích đậu nành biến đổi gen lớn nhất thế giới. Một cuộc khảo sát năm 2010 cho thấy 111/323 mẫu thực phẩm gồm: bắp, đậu nành, khoai tây, gạo, cà chua, đậu Hà Lan… chọn ngẫu nhiên ở 17 chợ, siêu thị trên địa bàn thành phố được kiểm nghiệm cho kết quả là sản phẩm biến đổi gen, trong đó có bắp Mỹ, bắp trái non, bắp non đóng hộp, bột bắp, bắp giống có nguồn gốc trong nước và nước ngoài dương tính với promoter 35S hoặc terminator nos - một dạng biến đổi gen. Trong đó có 45 mẫu bắp, 29 mẫu đậu nành, 11 mẫu gạo, 15 mẫu khoai tây, 10 mẫu cà chua. Đáng chú ý là người tiêu dùng, các nhà phân phối và cả ban quản lý các siêu thị, chợ trên địa bàn thành phố hầu như không hiểu biết gì về thực phẩm biến đổi gen. Trước tình trạng đó, một số nhà sản xuất đã bắt đầu quan tâm đến việc công bố nguồn gốc nguyên liệu sản xuất để người tiêu dùng có quyền lựa chọn sản phẩm mình mua có được làm từ thực phẩm biến đổi gen hay không. Quan điểm. Thực phẩm biến đổi gen trở thành chủ đề gây tranh cãi trên phạm vi toàn cầu. Theo Cơ quan Quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA), các loại thực phẩm từ thực vật biến đổi gen cần phải đáp ứng quy định an toàn như các loại thực phẩm không biến đổi gen. Những loại sinh vật biến đổi gen khác nhau sẽ bao gồm các loại gen khác nhau và được đưa vào bằng nhiều cách khác nhau. Điều này có nghĩa là, để đánh giá mức độ an toàn của thực phẩm biến đổi gen cần được đánh giá đối với từng loài cụ thể và không thể đưa ra được một khẳng định chung về tất cả các loại thực phẩm biến đổi gen có an toàn hay không. Hiện tại, vẫn chưa có chứng cứ khoa học nào khẳng định sử dụng thực phẩm biến đổi gen có hại cho sức khỏe. Những hậu quả về mặt sức khỏe khi ăn các loại động vật đã trải qua biến đổi gen vẫn còn là một bí ẩn lớn. Trên thế giới cũng chia ra các luồng quan điểm khác nhau. Theo WHO, những thực phẩm biến đổi gen trên thị trường quốc tế hiện nay phải trải qua giai đoạn đánh giá an toàn rất nghiêm ngặt và thường sẽ không gây ra nguy cơ gì với sức khỏe con người. Tại các quốc gia chấp nhận sử dụng thực phẩm biến đổi gen, cũng chưa quan sát được ảnh hưởng nào lên sức khỏe con người do tiêu thụ thực phẩm biến đổi gen cả. Tuy nhiên nhóm không ủng hộ thực phẩm biến đổi gen đưa ra các quan điểm rằng sử dụng thực phẩm GMO lâu dài sẽ gây dị ứng, kháng kháng sinh, thậm chí gây ung thư. Trên thực tế vẫn có khả năng tồn tại độc tố trong thực phẩm biến đổi gen, bởi vì cây trồng truyền thống và cây trồng chuyển gen chỉ khác nhau về gen quy định tính trạng mong muốn, lượng độc tố tự nhiên (nếu có) tồn tại trong cây trồng truyền thống cũng sẽ có mặt trong cây trồng chuyển gen.[9] Tuy nhiên có một thực tế là trong thực phẩm chúng ta ăn từ xưa đến nay đều tồn tại độc tố ở hàm lượng nhất định,[9] hầu hết ở mức độ an toàn với người sử dụng. Hiện nay có một nhóm các chuyên gia đã lên tiếng bảo vệ thực phẩm biến đổi gen, cụ thể như: Thông tin an toàn. Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), Cục Dược Phẩm và Thực Phẩm Hoa Kỳ (FDA)... đã thiết lập ra các hệ thống quy chuẩn để đánh giá và quản lý an toàn của thực phẩm GM. Mọi thực phẩm GM đều phải được chứng nhận không có nguy cơ về sức khỏe với con người dựa trên "Tiêu chuẩn Thực phẩm quốc tế (Codex) "thiết lập bởi WHO mới được đưa ra thương mại hóa. Tính an toàn của cây trồng biến đổi gen đã được khẳng định bởi nhiều tổ chức khác bao gồm Hiệp hội Y khoa Mỹ Hiệp hội độc chất học, Viện Khoa học sự sống Quốc tế, Viện Khoa học hàn lâm Hoa Kỳ, Hiệp hội Hoàng gia Vương quốc Anh, Tổ chức Y tế thế giới, Viện Công nghệ thực phẩm, Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc, Cơ quan An toàn thực phẩm châu Âu và Ủy ban Liên minh châu Âu Kể từ khi cây trồng GM được thương mại lần đầu tiên vào năm 1996 (1996-2012), các cơ quan quản lý thuộc 59 quốc gia đã tiến hành đánh giá khoa học mở rộng và khẳng định sự an toàn của cây trồng GM với 2.497 phê duyệt đối với 319 tính trạng GM khác nhau trên 25 đối tượng cây trồng. Theo thông tin báo chí phát đi từ Cộng đồng chung Châu Âu về kết quả 10 năm nghiên cứu sinh vật biến đổi gen cũng cho thấy, báo cáo tóm tắt kết quả của 50 đề án nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tính an toàn của sinh vật biến đổi gen đối với môi trường, sức khỏe của con người và vật nuôi. Các nghiên cứu đó được tiến hành trong giai đoạn 2001 – 2010 được tài trợ bởi Cộng đồng chung Châu  Âu với nguồn kinh phí khoảng 200 triệu Euro. Theo kết quả của dự án, tính đến thời điểm hiện tại, khẳng định không có bất cứ bằng chứng khoa học cho thấy mối liên hệ giữa sinh vật biến đổi gen với những rủi ro lớn hơn đối với môi trường, và sự an toàn của thực phẩm, thức ăn chăn nuôi so với các sinh vật và cây trồng truyền thống. Tại Việt Nam, để đảm bảo an toàn cho người sử dụng, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã yêu cầu thực vật biến đổi gen trước khi đưa vào sử dụng bắt buộc phải đăng ký giấy xác nhận tại cơ quan thường trực của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Dán nhãn sản phẩm. Ở Liên minh châu Âu, các thực phẩm và thức ăn cho gia súc biến đổi gen phải được dãn nhãn phân biệt. Tuy nhiên quy định này không bắt buộc cho những thực phẩm từ những động vật dùng thức ăn biến đổi gen., Bắt đầu từ tháng 1/2016, đã có quy định về việc bắt buộc dán nhãn ghi rõ “biến đổi gen” bằng tiếng Việt trên bao bì các loại thực phẩm biến đổi gen. Theo đó, các loại thực phẩm có ít nhất 1 thành phần nguyên liệu biến đổi gen >5% tổng nguyên liệu đều phải ghi nhãn. Đây là một trong những động thái cho thấy sự cảnh giác đối với nguy cơ của các loại thực phẩm biến đổi gen đối với người tiêu dùng Việt Nam. Nhưng mặt hạn chế vẫn là, quy định trên chỉ áp dụng được với các loại thực phẩm đóng gói sẵn. Còn đối với các loại thực phẩm tươi, khô, đông lạnh… các loại thức ăn chăn nuôi thì người tiêu dùng vẫn phải dè chừng về nguồn gốc. Trước những cảnh báo của các nhà khoa học về các loại thực phẩm biến đổi gen, người tiêu dùng Việt Nam vẫn sẽ hoang mang trước hàng loạt sản phẩm thực phẩm biến đổi gen được bày bán
1
null
Cây trồng biến đổi gen (Genetically Modified Crop - GMC) là loại cây trồng được lai tạo ra bằng cách sử dụng các kỹ thuật của công nghệ sinh học hiện đại, hay còn gọi là kỹ thuật di truyền, công nghệ gen hay công nghệ DNA tái tổ hợp, để chuyển một hoặc một số gen chọn lọc để tạo ra cây trồng mang tính trạng mong muốn. Các tính năng thường bao gồm tính kháng sâu bệnh, kháng thuốc trừ cỏ, một số loại bệnh, chống chịu với các điều kiện môi trường bất thuận hoặc cải thiện giá trị dinh dưỡng của cây trồng Về mặt bản chất, các giống lai từ trước đến nay (hay còn gọi là giống truyền thống) đều là kết quả của quá trình cải biến di truyền. Điểm khác biệt giữa giống lai truyền thống và giống cây biến đổi gen là: gen (DNA) được chọn lọc một cách chính xác dựa trên khoa học công nghệ hiện đại và chuyển vào giống cây trồng để đem lại một tính trạng mong muốn một cách có kiểm soát. Tổng quan. Cây trồng chuyển gen là sự biến đổi vật chất di truyền, tiếp nhận thêm những gen mới, kết quả là xuất hiện những tính trạng mới dưới sự tác động của môi trường. Quá trình biến đổi vật chất di truyền (thêm gen mới) nhờ vào công nghệ chuyển gen, nếu so sánh quá trình này với quá trình đột biến trong tự nhiên về bản chất thì hai quá trình là một, bởi vì quá trình tiến hóa của sinh vật đều phải trông chờ vào quá trình biến đổi vật chất di truyền, trong đó đột biến đóng vai trò quan trọng. Dưới tác động của các nhân tố gây đột biến, vật chất di truyền được biến đổi theo hai hướng: thêm đoạn hay bớt đoạn. Như vậy, quá trình thêm đoạn nhờ chuyển gen cũng tương tự như quá trình thêm đoạn DNA trong đột biến tự nhiên. Tuy nhiên, hai quá trình này có nhiều điểm khác nhau: Nếu quá trình chọn lọc tự nhiên chỉ giữ lại những biến dị có lợi cho quá trình tiến hóa của loài, thì trong kỹ thuật chuyển gen cây trồng chỉ giữ lại tính trạng có lợi đã được định hướng trước, có lợi về kinh tế, không ảnh hưởng tới quá trình tiến hóa của loài. Đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa đột biến tự nhiên và "đột biến" nhờ kỹ thuật chuyển gen. Sản phẩm của đột biến tự nhiên là tính trạng có lợi cho tiến hóa, còn sản phẩm của quá trình chuyển gen là các tính trạng có lợi cho con người, đây là ưu điểm nổi bật nhất của công nghệ chuyển gen. Quá trình hình thành tính trạng mới trong tự nhiên phải diễn ra hàng trăm năm, triệu năm, thậm chí hàng tỷ năm, còn quá trình hình thành tính trạng mới nhờ công nghệ chuyển gen chỉ diễn ra trong vài năm, nhờ tính ưu việt này mà chúng ta có thể rút ngắn được quá trình chọn tạo giống cây trồng mới, bổ sung các tính trạng ưu việt mới, đáp ứng tốt nhất mục tiêu chọn giống và phục vụ sản xuất. Lịch sử. Cây trồng chuyển đổi gen được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1982, bằng việc sử dụng loại cây thuốc lá chống kháng sinh. Những khu vực trồng thử nghiệm cây thuốc lá có khả năng chống thuốc diệt cỏ đầu tiên là ở Pháp và Hoa Kỳ vào năm 1986. Năm 1987, Plant Genetic Systems (Ghent, Bỉ), được thành lập bởi Marc Van Montagu and Jeff Schell, là công ty đầu tiên phát triển cây trồng thiết kế gen di truyền (thuốc lá) có khả năng chống chịu côn trùng bằng cách biểu hiện các gen mã hóa protein diệt côn trùng từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt).Trung Quốc là quốc gia đầu tiên chấp thuận cây công nghiệp chuyển đổi gen với cây thuốc lá kháng vi rút được giới thiệu lần đầu vào năm 1992, nhưng rút khỏi thị trường Trung Quốc vào năm 1997. Cây trồng biến đổi gen đầu tiên được phê chuẩn bán ở Mỹ vào năm 1994 là cà chua FlavrSavr, có thời gian bảo quản lâu hơn các loại cà chua thông thường. Năm 1994, Liên minh châu Âu phê chuẩn cây thuốc lá có khả năng chống thuốc diệt cỏ bromoxynil. Năm 1995, khoai tây Bt đã được phê duyệt an toàn bởi Cơ quan Bảo vệ môi trường, trở thành cây nông sản kháng sâu đầu tiên được phê duyệt tại Hoa Kỳ. Các loại cây trồng chuyển đổi gen sau đó cũng được chấp thuận giao dịch ở Mỹ vào năm 1995: cải dầu với thành phần dầu chuyển đổi (Calgene), ngô bắp có vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt) (Ciba-Geigy), bông kháng thuốc diệt cỏ bromoxynil (Calgene), bông kháng côn trùng (Monsanto), đậu nành kháng thuốc diệt cỏ glyphosate (Monsanto), bí kháng vi rút (Asgrow), và cà chua chín chậm (DNAP, Zeneca / Peto, và Monsanto). Tính đến giữa năm 1996 đã có tổng cộng 35 phê chuẩn được cấp cho tám loại cây công nghiệp chuyển đổi gen và một loại hoa cẩm chướng, với 8 điểm khác nhau tại 6 quốc gia cộng thêm EU. Năm 2000, lần đầu tiên các nhà khoa học đã biến đổi gen thực phẩm để gia tăng giá trị dinh dưỡng bằng việc sản xuất ra hạt gạo vàng (Golden Rice). Đến năm 2018, một số nước đã chính thức cấp phép sử dụng Gạo vàng làm thực phẩm như Hoa Kỳ, Canada, Úc, NewZealand... Một số nước hiện nay cũng đang tiến hành khảo nghiệm và phê duyệt để cấp phép sử dụng như Philippines, Bangladesh... Phương pháp. Cây trồng biến đổi gen được tạo ra trong phòng thí nghiệm bằng cách thay đổi cấu trúc gen của chúng. Để làm được điều này, người ta dùng kĩ thuật di truyền thêm vào một hoặc nhiều gen trong bộ gen của cây trồng. Hai phương pháp phổ biến là phương pháp bắn gen (súng hạt) và chuyển gen gián tiếp thông qua vi khuẩn "Agrobacterium tumefaciens". Các nhà thực vật học, dựa vào kết quả từ nghiên cứu toàn diện mới đây về cơ cấu cây trồng, đã chỉ ra rằng cây trồng biến đổi dựa vào công nghệ biến đổi gen ít có khả năng gặp phải những đột biến không mong đợi hơn là cây trồng nhân giống thông thường. Theo nghiên cứu, thuốc lá và "Arabidopsis thaliana" (cây có hoa nhỏ thuộc họ Cải) là những loại cây trồng biến đổi gen phổ biến nhất do được dùng phương pháp biến đổi tân tiến, tính dễ nhân giống và hệ gen được nghiên cứu kĩ. Vì vậy, chúng được dùng làm sinh vật mô hình cho các loài thực vật khác. Ở phương pháp bắn gen, DNA được đúc trong các hạt vàng hoặc wolfram nhỏ li ti, sau đó được bắn vào mô hoặc tế bào thực vật đơn dưới áp suất cao. Các hạt DNA với tốc độ cao sẽ thâm nhập vào cả thành và màng tế bào. Sau đó, DNA tách khỏi lớp vỏ kim loại và được tích hợp vào bộ gen thực vật bên trong nhân tế bào. Phương pháp này đã được áp dụng thành công cho rất nhiều loại cây trồng, đặc biệt là thực vật một lá mầm như lúa mì hoặc ngô. Ở những cây này phương pháp chuyển gen bằng vi khuẩn "Agrobacterium tumefaciens" thường ít hữu hiệu hơn do có thể gây ra những hư hỏng nghiêm trọng đối với mô tế bào. "Agrobacterium" là ký sinh trùng thực vật tự nhiên, khả năng chuyển gen vốn có của chúng đã góp phần cung cấp phương pháp cho sự phát triển của thực vật biến đổi gen. Để tạo ra môi trường sống thích hợp cho mình, các vi khuẩn "Agrobacterium" chèn gen của chúng vào thân cây chủ, làm tăng nhanh tế bào thực vật ở gần mặt đất (tạo khối u sần sùi). Thông tin di truyền cho sự tăng trưởng của khối u được mã hóa trên một đoạn DNA vòng có khả năng nhân bản độc lập gọi là Ti-plasmid (trên Ti-plasmid có đoạn T-DNA). Khi một vi khuẩn lây nhiễm vào thân cây, nó chuyển đoạn T-DNA này đến một vị trí ngẫu nhiên trong hệ gen của cây đó. Điều này được ứng dụng trong công nghệ di truyền bằng cách lấy đoạn gen vi khuẩn T-DNA ra khỏi các plasmid vi khuẩn và thay thế bởi các gen mong muốn bên ngoài. Các vi khuẩn "Agrobacterium" sau đó hoạt động như một vector chuyển tải các gen ngoại nhập vào trong thân cây. Phương pháp này đặc biệt hữu hiệu cho cây hai lá mầm như khoai tây, cà chua và thuốc lá trong khi ít thành công ở các loại thực vật như lúa mì và ngô. Việc đưa những gen mới vào cây trồng đòi hỏi một chất hoạt hóa cụ thể cho từng khu vực thể hiện gen. Ví dụ, nếu muốn gen chỉ biểu hiện ở hạt mà không phải lá gạo thì phải dùng chất hoạt hóa nội nhũ đặc trưng. Codon của gen cũng phải được tối ưu hóa cho sinh vật do thiên hướng sử dụng codon. Các sản phẩm chuyển hóa gen cũng nên được biến tính bằng nhiệt để triệt tiêu trong quá trình chế biến. Các loại công nghệ gen. Tìm hiểu một số công nghệ gen hiện nay: 1. Transgenic (chuyển gen giữa hai loài hoàn toàn khác nhau) là quá trình chuyển một đoạn DNA ngoại lai bằng các kỹ thuật khác nhau vào cây trồng. Các gen được đưa vào có thể đến từ các loài trong cùng giới (cây với cây) hoặc giữa các giới với nhau (ví dụ, vi khuẩn với cây trồng). Trong nhiều trường hợp DNA chèn vào phải được điều chỉnh đôi chút để biểu hiện chính xác và hiệu quả trong sinh vật chủ. Các gen được đưa vào có thể đến từ các loài trong cùng giới (cây với cây) hoặc giữa các giới với nhau (ví dụ, vi khuẩn với cây trồng). Trong nhiều trường hợp DNA chèn vào phải được điều chỉnh đôi chút để biểu hiện chính xác và hiệu quả trong sinh vật chủ. Trong phòng thí nghiệm, thực vật chuyển gen đã được biến đổi để tăng khả năng quang hợp (hiện nay là khoảng 2% ở hầu hết các cây trồng tới tiềm năng khoảng 9-10% về mặt lý thuyết). Điều này có thể thực hiện được thông qua việc chuyển hóa enzyme rubisco (tức chuyển cây C3 thành cây C4) bằng cách đặt các rubisco trong một carboxysome, thêm các ống bơm CO2 vào thành tế bào, từ đó thay đổi hình dáng/kích thước lá. Cây trồng cũng đã được nghiên cứu trong lĩnh vực phát quang sinh học mà trong tương lai có thể là một sự thay thế bền vững cho việc chiếu sáng bằng điện. Cây trồng chuyển gen được dùng để tạo ra các protein như là Cry Toxin trong trực khuẩn Gram dương có tác dụng giết chết côn trùng, gen kháng thuốc diệt cỏ và kháng nguyên cho tiêm phòng. Cà rốt biến đổi gen đã được sử dụng để sản xuất thuốc Taliglucerase alfa điều trị bệnh Gaucher. 2. Cisgenic (chuyển gen trong cùng một loài) là quá trình chuyển gen từ cùng một loài hoặc từ một loài hoặc một loài gần giống tại nơi sinh sản thực vật thông thường xảy ra. Một số nhà lai tạo và các nhà khoa học cho rằng phương pháp sửa đổi gen cisgenic là hữu ích cho các cây khó lai giống bằng các phương pháp thông thường (như khoai tây) và các cây trong thể loại cisgenic không cần phải có sự giảm siats theo quy định như chuyển gen khác loài Trong phòng thí nghiệm, thực vật chuyển gen đã được biến đổi để tăng khả năng quang hợp (hiện nay là khoảng 2% ở hầu hết các cây trồng tới tiềm năng khoảng 9-10% về mặt lý thuyết). Điều này có thể thực hiện được thông qua việc chuyển hóa enzyme rubisco (tức chuyển cây C3 thành cây C4) bằng cách đặt các rubisco trong một carboxysome, thêm các ống bơm CO2 vào thành tế bào, từ đó thay đổi hình dáng/kích thước lá. Cây trồng cũng đã được nghiên cứu trong lĩnh vực phát quang sinh học mà trong tương lai có thể là một sự thay thế bền vững cho việc chiếu sáng bằng điện. 3. Subgenic (Thế hệ con): thực vật biến đổi gen cũng có thể được phát triển bằng cách sử dụng loại bỏ gen hoặc loại bỏ gen để thay đổi cấy trúc di truyền của cây mà không kết hợp gen từ các cây khác. Năm 2014, nhà nghiên cứu Trung Quốc Gao Caixia đã nộp bằng sáng chế về việc tạo ra một chủng lúa mì có khả năng kháng bệnh phấn trắng. Chủng này thiếu các gen mã hoá các protein ức chế sự phòng vệ chống lại nấm mốc. Các nhà nghiên cứu đã xoá cả ba bản sao gen khỏi bộ gen hexaploid của lúa mì. Gao đã sử dụng các công cụ chỉnh sửa gen TELENs và CRISPR mà không cần thêm hay thay đổi bất kì gen nào khác. Tuy nhiên các cây chuyển gen khác cũng đang được điều chỉnh để khắc phục ni tơ bao quanh thân cây. Cây chuyển gen đồng loài dùng gen trong cùng loài hoặc những loài có họ hàng gần, tương tự như phương pháp nhân giống thông thường. Một số nhà nhân giống và các nhà khoa học cho rằng biến đổi gen đồng loài sẽ rất hữu ích cho các cây trồng khó lai tạo bằng phương pháp thông thường (như khoai tây). Họ cũng nhận định rằng cây trồng chuyển gen đồng loài không nên đòi hỏi cùng một mức độ quy định pháp luật như các sinh vật biến đổi gen khác. 4. Multi trait integration (Tích hợp đa tính trạng): tích hợp nhiều tính trạng vào một loài cây trồng mới Tình hình sử dụng. Trên thế giới. Diện tích cây trồng biến đổi gen trên toàn cầu tăng đáng kể trong hơn 20 năm, từ 1,7 triệu ha vào năm 1996 lên 189,8 triệu ha vào năm 2017. Tính tới năm 2017 đã có 67 quốc gia sử dụng cây trồng BĐG, bao gồm 24 quốc gia canh tác cây trồng BĐG (19 nước đang phát triển và 5 nước công nghiệp); cùng 43 quốc gia khác (trong đó EU được tính là 1) cấp phép chính thức nhập khẩu và sử dụng cây trồng BĐG với mục đích làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và chế biến. Báo cáo này cũng chỉ ra, tại những quốc gia đang trồng cây GMO, diện tích đang có xu hướng tăng lên sau mỗi năm. Cụ thể, tại châu Âu, bốn quốc gia là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Séc và Slovakia đã trồng hơn 136.000 héc ta bắp biến đổi gen trong năm 2016, tăng 17% so với năm 2015. Ở châu Phi, Nam Phi và Sudan cũng liên tiếp mở rộng diện tích bắp, đậu nành biến đổi gen và đã đạt 2,66 triệu héc ta trong năm 2016, trong khi năm 2015 mới chỉ có 2,29 triệu héc ta. Tại châu Mỹ, Brasil có diện tích canh tác bắp, đậu nành, bông và hạt cải dầu GMO tăng 11%, là nước lớn thứ 2 sau Mỹ về diện tích trồng GMO. Nhiều khả năng diện tích trồng cây GMO sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới khi một số nước đang có kế hoạch đưa cây mía GMO vào trồng, đáng chú ý là khu vực ASEAN có Indonesia. Diện tích canh tác ở các nước đang phát triển đang ngày càng được mở rộng. Tỷ trọng diện tích canh tác cây trồng CNSH của nông dân Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi lên tới 54% trong tổng diện tích canh tác cây trồng CNSH toàn cầu (tăng 2% so với năm 2012), do đó làm gia tăng chênh lệch về diện tích canh tác giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển từ khoảng 7 triệu năm 2012 lên đến 14 triệu ha vào năm 2013. Tính chung Nam Mỹ đã trồng 70 triệu ha hoặc chiếm 41%; châu Á trồng 20 triệu ha, chiếm 11%; và châu Phi trồng hơn 3 triệu ha, chiếm 2% diện tích canh tác cây trồng CNSH toàn cầu. Các giống đậu nành BĐG chiếm 50% diện tích canh tác cây trồng CNSH trên thế giới. Xét trên diện tích canh tác của từng loại cây trồng riêng lẻ, 77% diện tích trồng đậu nành, 80% diện tích trồng bông, 32% diện tích trồng ngô và 30% diện tích trồng hạt cải dầu năm 2017 là các giống BĐG. Các quốc gia trồng đậu nành BĐG với tỷ lệ lên đến hơn 90% bao gồm Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Paraguay, Nam Phi, Bolivia và Uruguay. Khoảng 90% ngô BĐG được canh tác tại Mỹ, Brazil, Argentina, Canada, Nam Phi và Uruguay. Hơn 90% bông BĐG được trồng tại Mỹ, Argentina, Ấn Độ, Paraguay, Pakistan, Trung Quốc, Mexico, Nam Phi và Australia. Hoa Kỳ và Canada trồng hạt cải dầu BĐG với tỷ lệ ứng dụng là 90%. Quan trọng hơn, các quốc gia này cũng là cũng là nơi xuất khẩu thực phẩm chính tới các khu vực của thế giới, bao gồm các nước đang phát triển lớn. Liên minh châu Âu vốn là nơi có diện tích cây trồng CNSH khiêm tốn nhất cũng bắt đầu có những thay đổi tích cực khi diện tích canh tác cây trồng CNSH trong năm 2013 đã tăng lên 15% so với các năm trước. Tây Ban Nha dẫn đầu khối các nước EU với diện tích trồng ngô đột biến gen là 136.962 ha. Tháng 12 năm 2017, Ủy ban châu Âu đã cấp phép cho sáu cây trồng biến đổi gen được sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, bao gồm 4 loại đậu tương, hạt cải dầu và ngô. Các GMO đã được phê duyệt đều đã trải qua một quy trình cấp phép toàn diện, bao gồm cả đánh giá lợi ích khoa học của Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (EFSA- the European Food Safety Authority) Tại Trung Quốc, cây bông CNSH ở Trung Quốc đã đem lại lợi ích kinh tế trên 15 tỷ USD trong vòng 12 năm từ năm 1996 đến năm 2012. Trung Quốc hiện nay là nhà nhập khẩu đậu nành và hạt cải dầu biến đổi gen hàng đầu. Đầu năm 2019, Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu 5 mặt hàng nông sản biến đổi gen, được công bố trên trang web của Bộ nông nghiệp Trung Quốc. Các sản phẩm được thông qua gồm ngô DP4114 Qrome và đậu nành DAS-44406-6 của công ty DowDuPont, đậu nành đậu nành SYHT0H2 do Bayer CropScience và Syngenta - hiện quyền sở hữu của công ty hóa chất Đức BASF - phát triển. Hai sản phẩm còn lại gồm hạt cải dầu RF 3 của BASF và hạt cải dầu MON 88302 của công ty Monsanto. Theo Reuters, hai mặt hàng này đã phải chờ 6 năm để được cấp phép. Năm 2018, Chính phủ Bangladesh đã phê duyệt cho canh tác các giống lúa gạo biến đổi gen đầu tiên với tên gọi BRRIdhan-86 nhằm phát triển ngành trồng trọt – một trọng tâm hướng tới xây dựng Bangladesh thịnh vượng tới năm 2021. Giống mới này được kỳ vọng sẽ giúp tăng thêm khoảng 0,5 tấn gạo thu hoạch trên mỗi ha so với giống lúa phổ biến được trồng rộng rãi nhất hiện nay tại quốc gia này, đồng thời cũng sẽ giúp nông dân tiết kiệm được công lao động và thu hoạch dễ dàng hơn bằng máy gặt so với các giống lai truyền thống. Không chỉ có Bangladesh chấp nhận trồng gạo GMO mà cả những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Úc và New Zealand cũng bắt đầu cấp phép cho dòng sản phẩm này. Cụ thể, vào cuối tháng 2/2018, trong thông báo liên bang, Úc đã phê duyệt để đưa giống gạo vàng giàu vitamin A (GR2E) vào Danh mục Chuẩn thực phẩm của Úc - NewZealand. Việt Nam. Tình hình thực tế. Cây trồng biến đổi gen có thể là câu trả lời cho rất nhiều vấn đề nan giải mà ngành nông nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Tính đến thời điểm này ngô vẫn là một trong những mặt hàng nông sản được nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam trong 10 năm trở lại đây với sản lượng liên tục tăng từ 4.4 triệu tấn năm 2014 lên 8.3 triệu tấn năm 2017. Đáng chú ý là nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ thị trường Brasil, Argentina, Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan (chiếm tới hơn 90%), những nước có diện tích trồng cây biến đổi gen lớn nhất thế giới. Để hạn chế thực trạng nhập khẩu loại thực phẩm này, việc đưa ngô biến đổi gen vào đã trở thành chủ trương và theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sau gần 4 năm cấp phép, diện tích canh tác ứng dụng ngô chuyển gen tại Việt Nam mỗi năm tăng từ 12,5 ngàn ha năm 2015 đến khoảng 28,5 ngàn ha năm 2018. Theo tính toán, lợi nhuận thu được từ việc trồng giống ngô chuyển gen là 30.1920.000 đồng/ha so với giống ngô thường là 22.195.000 đồng/ha. Chênh lệch lợi nhuận giữa trồng ngô chuyển gen và ngô thường là 7.997.000 đồng/ha. Ứng dụng giống ngô chuyển gen đã giúp giảm được nhân công và chi phí làm cỏ kết hợp với năng suất tăng vì thế đã hạ giá thành sản phẩm làm hiệu quả sản xuất ngô được nâng cao rõ rệt. Theo báo cáo của Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Thái Nguyên, năng suất thực thu của ngô biến đổi gen so với ngô lai thường trong cùng một điều kiện canh tác, khí hậu, chế độ chăm sóc, bón phân... có những chênh lệch về thu nhập. Cụ thể, năng suất trung bình của ngô biến đổi gen (giống NK4300 Bt/GT) đạt 7.582 kg/ha trong khi đó giống ngô thường (NK4300) chỉ đạt 6.580 kg/ha - tức ngô biến đổi gen cho năng suất cao hơn 15% so với ngô thường. Lượng nhập khẩu đậu nành, ngô… từ các thị trường có diện tích cây trồng biến đổi gen lớn như Bắc Mỹ, châu Âu mỗi năm đều rất lớn. Hầu hết, các sản phẩm này phục vụ cho chăn nuôi và gieo trồng nông nghiệp. Nhiều chuyên gia cho biết: Thực phẩm biến đổi gen đã có mặt khá lâu trên thị trường Việt Nam, hầu hết người dân nào cũng đã dùng qua những sản phẩm này. Tuy nhiên có một thực tế là không phải người tiêu dùng nào cũng có những hiểu biết cần thiết về loại thực phẩm mà họ đang sử dụng. Theo quy định hiện hành, thực phẩm biến đổi gen bao gói sẵn có ít nhất một thành phần nguyên liệu biến đổi gen lớn hơn 5% tổng nguyên liệu được sử dụng đều phải ghi nhãn khi lưu thông tại thị trường Việt Nam. Kể từ khi thông tư này có hiệu lực, những thực phẩm biến đổi gen đang lưu thông trên thị trường sẽ buộc phải ghi nhãn theo quy định. Các thực phẩm biến đổi gen không ghi nhãn theo quy định sẽ không được tiếp tục sản xuất và nhập khẩu sau 8/1. Tuy nhiên, quy định trên đây chỉ áp dụng đối với những mặt hàng đóng gói sẵn. Các thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến nhưng không bao gói không thuộc phạm vi quy định này. Hành lang pháp lý. Tại Việt Nam, cây trồng biến đổi gen đã được đầu tư nghiên cứu và khảo nghiệm từ năm 2006 sau khi "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020" được phê duyệt tại Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg. Vào năm 2011, việc đưa ngô biến đổi gen vào sản xuất thương mại tại Việt Nam được dự kiến triển khai vào năm 2012 sau hai đợt khảo nghiệm trên diện rộng. Đến 2013, Bộ NN&PTNT đã công nhận kết quả khảo nghiệm 5 giống ngô biến đổi gen để trình Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép an toàn sinh học. Thời gian qua, Bộ NN&PTNT đã ban hành hàng loạt nghị định, thông tư để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học như Nghị định số 69/2010/NĐ-CP về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gien, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gien; Quyết định số 418/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển KH và CN giai đoạn 2011 - 2020; Thông tư 72/2009/TT-BNNPTNT ngày 17 tháng 11 năm 2009 ban hành danh mục loài cây trồng biến đổi gen được phép khảo nghiệm đánh giá rủi ro đối với đa dạng sinh học và môi trường cho mục đích làm giống cây trồng ở Việt Nam. Bộ TN-MT đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-BTNMT ngày 16/5/2013 về Đánh giá an toàn sinh học đối với cây trồng biến đổi gen, trong đó quy định thành lập Tổ chuyên gia có trách nhiệm hỗ trợ kỹ thuật cho Hội đồng ATSH đối với từng sự kiện biến đổi gen cụ thể; Thông tư số 02/2014/TT-BNNPTNT ngày 24/1/2014 quy định trình tự, thủ tục cấp và thu hồi giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Đặc biệt ngày 11 tháng 8 năm 2014, Bộ NN & PTNN chính thức công bố cấp phê duyệt 04 sự kiện ngô biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi. Các sự kiện được phê duyệt lần này bao gồm sự kiện Bt 11 và MIR162 của công ty TNHH Syngenta Việt Nam và MON 89034 ("Bộ TNMT cấp Giấy chứng nhận ATSH vào ngày 27 tháng 8 năm 2014") và NK603 của công ty TNHH Dekalb Việt Nam (Monsanto). Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đây là 4 sự kiện biến đổi gen đầu tiên được công nhận đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam. Đến năm 2019, Bộ NN & PTNN đã cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện làm Thực phẩm/Thức ăn chăn nuôi cho gần 30 sự kiện biến đổi gen trên cây trồng ngô và đậu tương. Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đồng thời, các sự kiện đều đã được phê duyệt tại ít nhất 5 quốc gia thuộc khối OECD trước đó. Đây được xem như một "hàng rào kép" giúp quản lý và đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm biến đổi gen, trước khi đến tay người sử dụng tại Việt Nam. Ngày 3 tháng 11 năm 2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 2485 và 2486/QĐ-BTNMT cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho ngô biến đổi gen mang sự kiện GA21 và NK603. Các sự kiện ngô biến đổi gen được cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học nêu trên đều mang đặc tính chống chịu thuốc trừ cỏ. Đồng thời, cũng theo các quy định về an toàn sinh học, cho tới nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 05 Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho 5 sự kiện ngô biến đổi gen với các tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ được phép canh tác tại Việt Nam. Theo dự kiến, tới năm 2015, ngô biến đổi được đưa vào trồng đại trà. Đến năm 2019, Bộ NN & PTNN đã cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện làm Thực phẩm/Thức ăn chăn nuôi cho gần 30 sự kiện biến đổi gen trên cây trồng ngô và đậu tương. Giấy xác nhận phê duyệt được ban hành sau quá trình xem xét kỹ lưỡng và được chấp thuận bởi Hội đồng An toàn Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi biến đổi gen là không có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với con người và vật nuôi theo đúng trình tự được quy định theo thông tư 02/2014/TT-BNNPTNT. Đồng thời, các sự kiện đều đã được phê duyệt tại ít nhất 5 quốc gia thuộc khối OECD trước đó. Đây được xem như một "hàng rào kép" giúp quản lý và đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm biến đổi gen, trước khi đến tay người sử dụng tại Việt Nam. Đồng thời, cũng theo các quy định về an toàn sinh học, cho tới nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 05 Giấy chứng nhận an toàn sinh học cho 5 sự kiện ngô biến đổi gen với các tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ được phép canh tác tại Việt Nam. Quan điểm. Ủng hộ. Tính đến năm 2050, ước tính dân số sẽ chạm mốc 9 tỷ người. Theo Ủy ban Nông Lương Liên hợp quốc, điều này có nghĩa là lượng thực phẩm cần sản xuất để đáp ứng nhu cầu cho toàn cầu trong giai đoạn 2000–2050 tương đương với tổng lương thực cần trong 10.000 năm trước đây, trong khi diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng thu hẹp, biến đổi khí hậu gay gắt trên toàn cầu. Báo cáo của FAO về Hiện trạng Thực phẩm và Nông nghiệp năm 2016 đã chỉ rõ: "Công nghệ sinh học dù ở trình độ cao hay thấp đều có thể giúp các nhà sản xuất đặc biệt nông hộ quy mô nhỏ có thể linh hoạt và ứng phó tốt hơn với các thách thức đến từ biến đổi khí hậu. Trong khi những phương pháp phụ chủ yếu thông qua đổi mới về các biện pháp quản lý; một trong số các phương pháp khác có thể phụ thuộc vào kết quả của việc ứng dụng công nghệ sinh học ví dụ như cải thiện giống cây trồng." Tiến sỹ Graham Brookes - Giám đốc PG Economics và đồng tác giả trong nghiên cứu về tác động môi trường và kinh tế - xã hội chia sẻ: "Nguy cơ mất an ninh lương thực toàn cầu là một vấn đề lớn tại các quốc gia đang phát triển, với khoảng 108 triệu người hiện vẫn đang bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng lương thực. Trong hơn 20 năm, chúng ta đã chứng kiến việc ứng dụng CNSH cây trồng tại các nước đang phát triển đóng góp như thế nào vào việc cải thiện năng suất, giúp sản xuất an toàn hơn, tăng thu thập cho nông dân, góp phần giảm đói nghèo và suy dinh dưỡng tại các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi mất an ninh thực nhất trên thế giới." Nghiên cứu của PG Economics cũng cho thấy các bước tiến lớn đã được thực hiện nhằm giảm bớt tác động môi trường từ canh tác nông nghiệp, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu mới nhất nhấn mạnh việc sử dụng CNSH trong nông nghiệp tiếp tục góp phần giảm phát thải khí nhà kính Bên cạnh những lợi ích cơ bản của cây trồng biến đổi gen, theo một vài nhà khoa học thế giới, thì loại thực phẩm này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe cộng đồng, môi trường. Phản đối. Có nhiều tranh cãi về GMO, đặc biệt là về việc chúng được trồng bên ngoài môi trường phòng thí nghiệm. Tranh cãi liên quan đến người tiêu dùng, nhà sản xuất, các công ty công nghệ sinh học, các cơ quan quản lý của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các nhà khoa học. Nhiều mối quan tâm trong số này liên quan đến việc cây trồng biến đổi gen và thực phẩm sản xuất từ chúng liệu có an toàn hay không, và tác động của việc trồng cây biến đổi gien lên môi trường. Những tranh cãi này đã dẫn đến kiện tụng, tranh chấp thương mại quốc tế, và phản đối, và hạn chế đối với các sản phẩm thương mại quy định ở một số quốc gia. Hầu hết các phản đối xoay quanh ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường của GMO. Những điều này bao gồm liệu chúng có thể gây ra phản ứng dị ứng hay không, liệu gen đột biến có thể chuyển sang tế bào người hay không và các gen không thể được hấp thụ bởi con người có nguy cơ xâm nhập vào chuỗi cung ứng thực phẩm Ngoài ra, cũng theo nhiều chuyên gia, nếu trồng đại trà thực phẩm biến đổi gene thì một số lợi ích kinh tế có thể bị nguy hại, như người nông dân bị ép giá do lệ thuộc vào các công ty cung ứng giống, môi trường nông nghiệp bị biến đổi, những công ty xuyên quốc gia trong lĩnh vực này đang sử dụng cây giống biến đổi gen nhằm khiến cho nông dân ngày càng phụ thuộc vào họ để đạt mục tiêu lợi nhuận Có một sự đồng thuận khoa học rằng chưa có bằng chứng cho thấy thực phẩm có nguồn gốc từ cây trồng biến đổi gen gây rủi ro lớn hơn cho sức khỏe con người so với thực phẩm thông thường, nhưng mỗi loại thực phẩm biến đổi gen cần phải được thử nghiệm nghiêm túc trên cơ sở từng trường hợp cụ thể trước khi đưa vào sử dụng Tuy nhiên, công chúng có xu hướng ít nhận thức thực phẩm biến đổi gen là an toàn so với các nhà khoa học Tình trạng pháp lý và quản lý của thực phẩm biến đổi gen là khác nhau tùy theo quốc gia, với một số quốc gia cấm hoặc hạn chế chúng, và một số quốc gia khác cho phép sử dụng chúng với các mức độ quy định khác nhau. Vào cuối những năm 1990, cây trồng biến đổi gen xâm nhập vào các quần thể hoang dã được cho là khó xảy ra và hiếm gặp, và nếu nó xảy ra, thì nó rất dễ bị tiêu diệt. Người ta cho rằng điều này sẽ không làm tăng thêm chi phí hoặc rủi ro về môi trường ngoài những ảnh hưởng đã gây ra bởi việc sử dụng thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, trong 2 thập kỷ kể từ đó, một số ví dụ như vậy đã được quan sát thấy. Trao đổi gen giữa cây trồng biến đổi gen và cây trồng tương thích, cùng với việc tăng cường sử dụng thuốc diệt cỏ đã ngày càng mở rộng có thể làm tăng nguy cơ kháng thuốc diệt cỏ ở quần thể các loài cỏ dại. Tranh luận về mức độ và hậu quả của dòng gen đột biến đã diễn ra gay gắt vào năm 2001, khi một bài báo được xuất bản cho thấy gen biến đổi đã được tìm thấy trong cây ngô tự nhiên ở Trung tâm đa dạng sinh học tại Mexico. Dòng gen từ cây trồng biến đổi gen chuyển sang các sinh vật khác nói chung thường thấp hơn so với những gì xảy ra tự nhiên. Để giải quyết một số mối lo ngại này, một số GMO đã được phát triển với các đặc điểm để giúp kiểm soát sự lan rộng của chúng. Ví dụ: để ngăn cá hồi biến đổi gen vô tình sinh sản với cá hồi hoang dã, tất cả cá được nuôi làm thực phẩm đều là cá cái, tam bội, 99% là vô sinh về mặt sinh sản và được nuôi ở những khu vực mà cá hồi sổng chuồng sẽ không thể sống sót. Vi khuẩn cũng đã được biến đổi gen để phụ thuộc vào các chất dinh dưỡng không thể tìm thấy trong tự nhiên, và công nghệ hạn chế sinh sản đã được phát triển, mặc dù chưa được đưa ra thị trường, khiến thế hệ thứ hai của cây biến đổi gen sẽ trở nên vô sinh. Các mối quan tâm khác về môi trường và nông học bao gồm giảm đa dạng sinh học, gia tăng các loài gây hại thứ cấp và thúc đẩy sự tiến hóa của côn trùng gây hại kháng thuốc trừ sâu. Ở các khu vực của Trung Quốc và Hoa Kỳ với cây trồng biến đổi gien, sự đa dạng sinh học tổng thể của côn trùng đã tăng lên và tác động của các loài gây hại thứ cấp là rất ít. Sự kháng thuốc trừ sâu được phát hiện là chậm phát triển nếu các quy định trồng trọt tốt nhất được tuân theo. Tác động của cây trồng biến đổi gien đối với các sinh vật không phải mục tiêu gây hại đã trở thành một vấn đề tranh cãi công khai, sau khi một bài báo năm 1999 cho rằng chúng có thể gây độc cho bướm vua. Các cáo buộc rằng các nhà khoa học đang cố "đóng vai Thượng Đế" và vấn đề tôn giáo đã được gán cho công nghệ này ngay từ đầu. Với khả năng biến đổi gen, có những lo ngại về đạo đức rằng công nghệ này sẽ tiến xa đến mức nào, hoặc liệu nó có nên được sử dụng hay không. Nhiều cuộc tranh luận xoay quanh ranh giới giữa điều trị và tăng cường gen, và liệu các sửa đổi này có nên được kế thừa hay không. Các mối quan tâm khác bao gồm sự suy giảm của nguồn cung cấp thực phẩm không biến đổi gen, sự nghiêm ngặt của quy trình quản lý, củng cố quyền kiểm soát nguồn cung cấp thực phẩm cho các công ty sản xuất và bán GMO, phóng đại lợi ích của việc chỉnh sửa gen, hoặc lo ngại về việc sử dụng thuốc diệt cỏ có glyphosate. Các vấn đề khác được nêu ra bao gồm việc khó xác định cha mẹ sinh học và việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ. Có sự khác biệt lớn trong sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với GMO, người châu Âu có nhiều khả năng nhìn nhận thực phẩm biến đổi gen một cách tiêu cực hơn so với người Bắc Mỹ. GMOs xuất hiện khi niềm tin của công chúng vào an toàn thực phẩm đang suy giảm, do các mối đe dọa thực phẩm gần đây như Bệnh bò điên và các vụ bê bối khác liên quan đến quy định của chính phủ đối với các sản phẩm ở Châu Âu Điều này cùng với các chiến dịch do nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) thực hiện đã rất thành công trong việc ngăn chặn hoặc hạn chế việc sử dụng cây trồng biến đổi gen. Các tổ chức phi chính phủ như Hiệp hội người tiêu dùng hữu cơ Tổ chức Hòa bình xanh và các nhóm khác cho rằng rủi ro của GMO là chưa được xác định và quản lý đầy đủ và có những câu hỏi chưa được giải đáp liên quan đến tác động lâu dài có thể xảy ra đối với sức khỏe con người từ thực phẩm có nguồn gốc biến đổi gien. Họ đề xuất ghi nhãn bắt buộc với loại sản phẩm này hoặc ra lệnh cấm đối với các sản phẩm như vậy. Thuật ngữ. Biến đổi khí hậu: Thuật ngữ này thường chỉ một thay đổi nghiêm trọng từ một điều kiện khí hậu này sang điều kiện khác, "biến đổi khí hậu" đã được sử dụng hoán đổi với thuật ngữ "nóng lên trên toàn cầu" để chỉ những thay đổi lớn và dài hạn của khí hậu trên trái đất và cấu trúc thời tiết. Cây trồng kháng vi-rút: Các cây trồng có khả năng chịu được các bệnh vi-rút trên cây. Được phát triển nhờ phương pháp nhân giống truyền thống hoặc thông qua kỹ thuật di truyền (ví dụ, đu đủ kháng bệnh đốm vỏ). Cỏ dại: Một loại cây phát triển ở các khu vực không mong muốn và có thể xâm lấn các loại cây trồng khác do phát triển dày, hút hết dinh dưỡng và độ ẩm trong đất lẽ ra được sử dụng cho cây trồng khác hiệu quả hơn. Công nghệ sinh học: Ứng dụng khoa học sinh học để tăng cường các thuộc tính của cây trồng, vật nuôi và các sinh vật khác, hoặc để cải thiện các biện pháp sản xuất lương thực, gồm các kỹ thuật như lên men, tinh lọc enzim, nhân giống cây trồng và vật nuôi. DNA: Chứa đựng thông tin di truyền của hậu hết các hệ thống sống. Phân tử DNA gồm 4 prô-tê-in cơ bản (adenine, cytosine, guanine and thymine) và một chất chính là đường phốt-phát, được bố trí thành hai dải kết nối tạo thành vòng xoắn kép các đặc tính của nó. Bộ gen (tất cả các thông tin di truyền trong một sinh vật sống), ngoài các phân tử DNA đơn, xác định các đặc tính của sinh vật. Gen: Đơn vị di truyền gốc. Một gen gồm có "các thiết kế" để xây dựng các prô-tê-in trong một cấu trúc cụ thể mà xác định các đặc tính của một cây trồng, vật nuôi, hoặc các sinh vật khác, và những đặc điểm này sẽ được chuyển giao từ thế hệ này tới thế hệ sau. Nó là một phần cụ thể trong một nhiễm sắc thể Giống, cây trồng: Một nhóm các loại cây trồng mà có các đặc tính di truyền thống nhất, ổn định và khác nhau giữa các nhóm cùng một loài.  Kháng thuốc trừ sâu: Phát triển hoặc lựa chọn các đặc tính có thể di truyền (các gen) của một cộng đồng sâu bệnh cho phép chúng có thể tồn tại trong điều kiện bị sử dụng thuốc trừ sâu, lẽ ra có thể làm suy yếu hoặc giết chết chúng. Sự tồn tại của những sâu bệnh kháng thuốc nay sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc trừ sâu trong kiểm soát và quản lý sâu bệnh. Kiểm tra hoặc thử nghiệm tại mặt ruộng: Kiểm tra một loại giống cây trồng mới, gồm loại giống có sử dụng công nghệ sinh học, được tiến hành bên ngoài phòng thí nghiệm với các yêu cầu cụ thể về địa điểm, quy mô ruộng thử nghiệm, biện pháp… Kiểu gen: Đặc tính gen của một cá nhân. Kiểu gen thường là một bằng chứng của các tính cách bên ngoài, nhưng cũng có thể được phản ánh theo các cách hóa sinh tinh vi hơn, không phải là bằng chứng có thể nhìn thấy được. Khuẩn bacillusthuringiensis"(Bt"): Một vi sinh vật phổ biến trong đất có trong thuốc trừ sâu sinh học do nông dân sử dụng, gồm sản xuất hữu cơ và làm vườn gia đình, để kiểm soát sâu bệnh với tác động môi trường nhỏ nhất. Lượng khí thải các-bon: Lượng khí nhà kính, đặc biệt là dioxide các-bon và các hợp chất các-bon khác phát thải bởi các cá nhân, công ty hoặc các quốc gia (như hoạt động của con người hoặc nhà máy sản xuất một sản phẩm và giao thông) trong một giai đoạn. Chỉ số chất lượng không khí thường được sử dụng để đo tác động môi trường của một thực thể. Nông nghiệp bền vững: Một hệ thống tổng hợp các thực tiễn trồng trọt và chăn nuôi, về dài hạn, sẽ thỏam ãn nhu cầu thực phẩm và quần áo của con người; nâng cao chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên mà ngành kinh tế nông nghiệp phụ thuộc; sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên không thể tái tạo và kết hợp, kiểm soát các chu trình sinh học tự nhiên; duy trì tính khả thi về kinh tế cho trong sản xuất  nông nghiệp; tăng cường chất lượng cuộc sống của nông dân và toàn xã hội. Phản ứng do dị ứng: Phản ứng của hệ miễn dịch trong cơ thể tạo thành một cơn dị ứng, thường là do một prô-tê-in (protein). Thực phẩm chứa nhiều loại prô-tê-in có thể tạo ra phản ứng miễn dịch. Các triệu chứng dị ứng gồm nóng rát, phát ban và trong một số trường hợp nguy hiểm là khó thở, không thở được hoặc bất tỉnh.  Thuốc trừ sâu: Một loạt các sản phẩm bảo vệ cây trồng, bao gồm bốn loại chính: thuốc trừ sâu được sử dụng để kiểm soát sâu bệnh; thuốc diệt cỏ được sử dụng để kiểm soát cỏ dại; thuốc diệt các loại gặm nhắm để sử dụng để kiểm soát chuột; và thuốc chống nấm được sử dụng để kiểm soát các loại nấm mốc. Cả nông dân và người tiêu dùng sử dụng thuốc trừ sâu ở gia đình và sân vườn để kiểm soát mối và gián, làm sạch nấm mốc trên rèm tắm, ngăn cỏ dại trên các bãi cỏ, giết bọ chét và ve trên vật nuôi cảnh, khử trùng hồ bơi…   Thuốc trừ sâu sinh học: Bất cứ vật liệu nào được sử dụng để kiểm soát sâu bệnh có trên các sinh vật sống như vi khuẩn, các tế bào động, thực vật. Ví dụ khuẩn "bacillus thuringiensis ("Bt),prô-tê-in (từ vi khuẩn), và Pyrethrum (làm từ nhụy của một số loại hoa cúc khô), cả hai đều được sử dụng để kiểm soát sâu bệnh.
1
null
Vải bạt, còn gọi là vải phủ hoặc vải tráng, là một loại vải được tráng hoặc phủ một lớp chất phụ gia chống thấm, chống nước hoặc chống tia UV để tạo ra tính năng chống thời tiết và bền bỉ. Vải bạt thường được làm từ các loại vải cơ bản như bông, lanh, nylon hoặc polyester, sau đó được tráng hoặc phủ bằng các lớp chất phụ gia để cải thiện tính chất chống thấm và bền bỉ. Đặc tính kỹ thuật. Vải bạt ngày nay thường được làm từ sợi bông hoặc sợi lanh mặc dù trong quá khứ nó được làm từ sợi gai dầu. Nó không giống với những loại vải sợi bông cũng bền chắc khác như denim (vải bông chéo), vải bạt được dệt theo lối thông thường (plain weave) chứ không phải dệt chéo (twill weave). Ở Mỹ, vải bạt được phân loại theo hai cách: theo khối lượng riêng hoặc theo một hệ thống phân hạng đánh số. Số tỉ lệ nghịch với khối lượng riêng của vải, vậy nên vải bạt số 10 nhẹ hơn vải bạt số 4.
1
null
Tổng Công ty Dược Việt Nam (VINAPHARM) là một Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trực thuộc Bộ Y tế được chuyển đổi theo Quyết định số 2335/QĐ-BYT ngày 30/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc chuyển Tổng Công ty Dược Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu theo hình thức Công ty mẹ - Công ty con. Tham khảo. - Fax: 84 - 04 - 3 8443665
1
null
Chim lặn mào lớn (danh pháp hai phần: Podiceps cristatus) là một loài chim thuộc họ Chim lặn. Chim lặn mào lớn sinh sản ở các vùng hồ nước ngọt có thực vật. Phân loài "P. c. cristatus" được tìm thấy khắp châu Âu và châu Á. Nó là loài định cư ở phía tây ấm hơn của phạm vi phân bố nhưng di cư ở các khu vực lanh hơn. Phân loài châu Phi "P. c. infuscatus" và phân loài Úc "P. c. australis" chủ yếu không di cư.
1
null