text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Cá lịch trần, tên khoa học Gymnothorax là một chi cá lịch biển trong họ Cá lịch biển (Muraenidae). Với trên 120 loài, nó là chi đa dạng loài nhất trong họ Muraenidae.
Smith (2012) lưu ý rằng "Gymnothorax" như công nhận hiện tại là đa ngành, nhưng cảnh báo rằng các nghiên cứu so sánh là cần thiết trước khi thực hiện các phục hồi các danh pháp đồng nghĩa của "Gymnothorax".
Các loài.
Chi này gồm 124 loài sau: | 1 | null |
Cá lịch biển xanh (danh pháp hai phần: "Gymnothorax funebris") là một loài cá lịch biển trong họ cá lịch biển, được tìm thấy ở tây Đại Tây Dương từ New Jersey, Bermuda, và bắc vịnh Mexico đến Brasil, tại độ sâu đến 40 m. Nó có chiều dài lên tới 2,5 m. | 1 | null |
cá lịch biển California (danh pháp khoa học: "Gymnothorax mordax") là một loài cá lịch biển, được tìm thấy ở phía đông Thái Bình Dương ở độ sâu đến 40 m. Chiều dài của nó lên đến 152 cm. Chúng sống thọ đến 30 tuổi và có không có xương chậu, vây ngực, hoặc nắp mang. | 1 | null |
Lê Hoàng Hoa (1933–2012) sinh tại Nha Trang, là một trong những đạo diễn nổi tiếng nhất của điện ảnh Việt Nam giai đoạn trước và sau năm 1975.
Tiểu sử.
Ông tên thật Đoàn Lê Hoa, sinh năm 1933 tại Nha Trang. Trong quá trình hoạt động nghệ thuật, ông còn có nghệ danh là Khôi Nguyên theo tên hai người con trai đã tử nạn trên đường vượt biển.
Một số phim nổi tiếng của ông trước 1975 có: "Chân Trời Tím, Triệu Phú Bất Đắc Dĩ, Bẫy Ngầm, Gác chuông nhà thờ, Điệu ru nước mắt, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Con ma nhà họ Hứa"... Và sau 1975 là: "Ván bài lật ngửa, Đằng sau một số phận, Vĩnh biệt mùa hè, Tình nhỏ làm sao quên, Vĩnh biệt Cali, Lệnh truy nã, Tây Sơn hiệp khách"...
Trong đó, "Ván bài lật ngửa" được xem là một trong những tác phẩm điện ảnh kinh điển của Việt Nam. Tên tuổi Lê Hoàng Hoa và diễn viên Nguyễn Chánh Tín gắn liền với bộ phim đã chinh phục nhiều thế hệ khán giả.
Kịch bản phim được đạo diễn Lê Hoàng Hoa chuyển thể từ bản thảo tiểu thuyết "Giữa biển giáo rừng gươm" của nhà văn Trần Bạch Đằng. Bộ phim thành công tới mức sau đó nhà văn Trần Bạch Đằng đã lấy nhan đề này đặt cho tiểu thuyết. "Ván bài lật ngửa" từng đoạt giải đặc biệt LHP Việt Nam lần thứ sáu năm 1983, giải Bông sen bạc LHP Việt Nam lần thứ bảy năm 1985.
Ông qua đời rạng sáng 31 tháng 7 năm 2012 tại TP HCM, thọ 79 tuổi. | 1 | null |
Chi Xu (danh pháp khoa học: Xylocarpus) là một chi của (họ Xoan). Chi bao gồm 2 hay 3 loài thực vật ngập mặn, bản địa ở rừng ngập mặn ven biển ở Tây và Trung Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ phía đông châu Phi đến Tonga.
"Xylocarpus" là chi duy nhất trong họ Meliaceae sinh sống trong rừng ngập mặn. | 1 | null |
Lovoa là chi thực vật thuộc họ Xoan.
Các loài.
The Plant List, công trình hợp tác của Vườn thực vật hoàng gia Kew và Vườn thực vật Missouri, công nhận 2 loài là:
Loài được Sách đỏ IUCN và IPNI ghi nhận, nhưng The Plant List lại coi là unresolved (chưa phân giải): | 1 | null |
Lovoa trichilioides (có các tên gọi bằng tiếng Anh như African walnut ("óc chó châu Phi"), Congowood ("gỗ Congo"), hay Tigerwood ("gỗ hổ")) là loài thực vật thuộc Họ Xoan. Loài tìm thấy ở Angola, Cameroon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Gabon, Ghana, Liberia, Nigeria, Sierra Leone, Tanzania, và Uganda. Loài bị đe dọa mất môi trường sống. | 1 | null |
Trận sông Tchernaïa, còn gọi là Trận cao điểm Traktir, là một trận đánh trong Chiến tranh Krym, diễn ra vào ngày 16 tháng 8 năm 1855 giữa liên quân Pháp - Sardegna và Quân đội Đế quốc Nga, và kết thúc với thất bại kèm theo thiệt hại nặng nề của quân Nga (hơn hẳn tổn thất của đối phương). Đây là chiến dịch tấn công cuối cùng của quân Nga trong cuộc chiến và thất bại của họ đã tạo điều kiện cho liên quân tập trung binh lực và dứt điểm cuộc vây hãm Sevastopol, qua đó trực tiếp dẫn đến sự thất thủ của Sevastopol. Trận đánh cũng thể hiện hiệu quả của pháo rãnh xoắn, đã xé lẻ các đội hình hàng dọc của quân Nga.
Cuộc vây hãm Sevastopol của liên quân đã gây tổn thất lớn cho quân Nga. Trước tình hình đó, đầu tháng 8 năm 1855, Vương công M. D. Gorchakov quyết định tấn công cao điểm Feidukhine của liên quân Pháp - Sardegna nhìn ra sông Tchernaïa - nỗ lực cuối cùng của ông nhằm giữ liên lạc với Sevastopol. Rạng sáng hôm ấy, quân Nga pháo kích dữ dội và theo lệnh của Gorchakov, Quân đoàn III của Nga sẽ bắn phá cao điểm Feidukhine và vượt sông Tchernaïa trong khi Quân đoàn VI ban đầu chiếm cứ đồi Telegraph. Trước sự kháng cự quyết liệt của liên quân và tầm bắn chính xác của quân Pháp, viên chỉ huy Quân đoàn III của Nga tử trận và quân Nga rút qua sông Tchernaïa. Sau đó, Gorchakov ra lệnh cho Quân đoàn VI tấn công cao điểm Feidukhine, khiến họ trở thành con mồi cho những làn đạn của liên quân Pháp - Sardegna.
Trước tình hình bất lợi, quân Nga phải triệt thoái sau một cuộc tấn công vô ích. Vai trò của quân Sardegna trong chiến thắng này đã gây cho các đồng minh của họ trong chiến tranh phải nể phục và chú ý đến họ.
Chú thích.
| 1 | null |
Lê Duy Thanh (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1990 tại Ninh Thuận) là một cầu thủ bóng đá Việt Nam hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Khánh Hòa ở vị trí tiền vệ. Anh là thành viên của đội U-21 Việt Nam giành chức vô địch Giải bóng đá U-21 Quốc tế báo Thanh niên 2011 tổ chức tại TP. Pleiku - tỉnh Gia Lai.
Sự nghiệp cầu thủ.
Những năm đầu.
Lê Duy Thanh bắt đầu chơi bóng từ khi còn nhỏ tuổi. Năm 2000, năng khiếu đá bóng của Thanh lọt vào mắt xanh HLV Thanh Sơn của đội trẻ Ninh Thuận. Anh ngay lập tức được gọi vào đội năng khiếu của tỉnh Ninh Thuận. Năm 2003, anh là đội trưởng của U-13 Ninh Thuận tham dự giải U-13 toàn quốc 2003 tranh Cúp Mikka tại Nghệ An và giành được Huy chương Đồng. Một năm sau đó, Duy Thanh tiếp tục cùng trẻ Ninh Thuận giành Huy chương Bạc tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ VI tổ chức tại Huế và Huy chương Đồng giải giải U-15 Quốc gia Cúp báo Tiền Phong tại Nam Định.
Năm 2007, Duy Thanh là cầu thủ quan trọng trong đội hình U-17 Ninh Thuận giành vé tham dự VCK Giải vô địch bóng đá U17 Việt Nam được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ở giải đấu đó, U-17 Ninh Thuận đã bị loại ở vòng bảng nhưng Duy Thanh đã gây được ấn tượng và lọt vào đội hình tiêu biểu giải đấu năm ấy.
Đội trẻ Hoàng Anh Gia Lai.
Tháng tháng 9 năm 2007, đội U-17 Ninh Thuận phải giải tán vì không có kinh phí để hoạt động. Duy Thanh cùng nhiều cầu thủ trẻ tài năng khác của Ninh Thuận được giới thiệu vào đội trẻ của CLB bóng đá Hoàng Anh Gia Lai. Năm 2009, anh cùng với đội U-19 Hoàng Anh Gia Lai giành được thành tích đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá U19 Việt Nam với tấm Huy chương Bạc. Ở giải đấu này, Duy Thanh vinh dự được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất giải. Một năm sau đó, tại vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U21 Việt Nam năm 2010, Duy Thanh tiếp tục cùng với U-21 Hoàng Anh Gia Lai giành thêm tấm Huy chương Đồng.
Đánh giá về Duy Thanh, cựu giám đốc kĩ thuật Hoàng Anh Gia Lai Nguyễn Văn Vinh nhận xét: ""Tầm nhìn chiến thuật và khả năng xử lý bóng của thằng bé rất có triển vọng trở thành tiền vệ trung tâm tên tuổi. Nhưng muốn thế cậu phải tăng cường nền thể lực nhiều hơn. Những pha xử lý bớt rườm rà, đặc biệt phải rèn luyện nhân cách thường xuyên mới thành tài được…"."
Hoàng Anh Gia Lai.
Với sự tiến bộ vượt bậc không ngừng trong thời gian ngắn, Lê Duy Thanh đã sớm được đôn lên đội hình 1 của Hoàng Anh Gia Lai tham dự V-League 2010. Tuy nhiên, trong mùa giải đầu tiên thi đấu chuyên nghiệp, tiền vệ gốc Ninh Thuận đã không có nhiều cơ hội ra sân thi đấu. Đến giữa mùa giải V-League 2011, Lê Duy Thanh chuyển xuống thi đấu ở giải hạng Nhất cho Huda Huế với bản hợp đồng cho mượn đến hết mùa.
Trở lại V-League 2012 trong màu áo Hoàng Anh Gia Lai, Duy Thanh vẫn chưa nhận được sự tin tưởng của HLV trưởng Choi Yoon Kyum khi ít được HLV này tung vào sân thi đấu dù anh từng được ví là ThongLao phiên bản 2 của phố Núi. Tháng 9 năm 2012, Duy Thanh được tăng cường cho đội U-21 Ninh Thuận tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U21 Việt Nam 2012. Anh đã chơi khá nổi bật, ghi được 2 bàn thắng và giúp U-21 Ninh Thuận giành HCB.
Sự nghiệp quốc tế.
U-17 Việt Nam.
Năm 2007, sau khi giải U-17 Quốc gia kết thúc, Lê Duy Thanh từng góp mặt trong đội tuyển U-17 Việt Nam sang thi đấu giao hữu tại Lào nhân Tuần giao lưu văn hóa giữa hai nước.
U-21 Việt Nam.
Tháng 9 năm 2011, Lê Duy Thanh được triệu tập vào đội tuyển U-21 Quốc gia Việt Nam tham dự Giải bóng đá U21 Quốc tế báo Thanh niên 2011 tổ chức trên sân vận động Pleiku - tỉnh Gia Lai. Ở giải đấu này, anh cùng với các đồng đội đã thi đấu xuất sắc và giành được chức vô địch.
Ngày 7 tháng 10 năm 2011, Lê Duy Thanh ghi bàn cho đội tuyển U-21 Việt Nam trong trận giao hữu từ thiện gặp U-21 Thái Lan tại Ninh Thuận.
U-22 Việt Nam.
Tháng 11 năm 2012, sau khi chơi nổi bật tại VCK U21 Quốc gia 2012 và giải U-21 Quốc tế Báo Thanh Niên 2012, Lê Duy Thanh tiếp tục được triệu tập vào đội U-22 Việt Nam tham dự BTV Cup 2012 tại Bình Dương. | 1 | null |
Haeundae Lovers (해운대 연인들) - tạm dịch là "Người yêu Haeundae" là bộ phim truyền hình tiếp theo sau Big tại Hàn Quốc, là câu chuyện về một chàng ủy viên công tố thâm nhập vào một gia đình tội phạm ở Haeundae, Busan. Sau đó anh ta bị tai nạn giao thông và bị mất trí. Anh đã yêu nhầm Ko Sora (vai diễn của Jo Yeo Jung) - con gái của một ông trùm mafia. Trước đó, chàng công tố viên này đã đính hôn với Yoon Sena (Nam Gyuri) - con gái của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. | 1 | null |
Big (빅) là bộ phim truyền hình dài tập năm 2012 của Hàn Quốc phát sóng trên kênh KBS2. Bộ phim được chắp bút bởi chị em biên kịch họ Hong với sự tham gia của Gong Yoo, Lee Min-jung và miss A's Suzy. Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
Nội dung.
Gil Da-ran (Lee Min-jung là một giáo viên cấp 3 đã đính hôn với chàng bác sĩ đẹp trai Seo Yoon-jae (Gong Yoo). Cậu học sinh 18 tuổi Kang Kyung Joon (Shin Won Ho) vô tình bị hoán đổi linh hồn với chồng sắp cưới của cô. Trùng hợp thay, Da-ran cũng là giáo viên chủ nhiệm của Kyung Joon. Mọi chuyện càng trở nên rắc rối khi Kyung Joon trong thân xác Yoon Jae bắt đầu có tình cảm với một cô gái khác... | 1 | null |
Gymnothorax annasona là một loài cá lịch biển được tìm thấy ở tây nam Thái Bình Dương, quanh đảo Lord Howe và đảo Norfolk. It was first named by Whitley in 1937, và tên thông dụng là cá lịch biển đảo Lord Howe hay cá lịch biển Lord Howe.
đại dương. | 1 | null |
Điệp phèo heo (tên khoa học Enterolobium cyclocarpum) là một loài thực vật thuộc họ Đậu. Loài cây này có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của châu Mỹ, từ trung bộ Mexico về phía nam đến phía bắc Brazil (Roraima) và Venezuela. Sự phong phú của loài cây này, đặc biệt là tại tỉnh Guanacaste, Costa Rica, nơi nó được chọn làm cây che nắng. Đây là cây biểu tượng của Costa Rica, từ 31 tháng 8 năm 1959.
Cây này có kích thước vừa đến độ cao 25–35 m, với một thân cây có đường kính lên đến 3,5 m. Vỏ cây là màu xám nhạt, nổi bật với các vết nứt nâu đỏ tối theo chiều dọc. | 1 | null |
Cá he đỏ hay cá kim sơn (danh pháp khoa học: Barbonymus schwanenfeldii) là một loài cá thuộc họ Cá chép. Loài này đã được mô tả với danh pháp "Barbus schwanenfeldii" bởi Pieter Bleeker vào năm 1853, và cũng đã được đặt trong các các chi "Barbodes" và "Puntius'. Danh pháp chi tiết thường xuyên bị viết sai chính tả thành "schwanefeldii".
Ngày nay nó thường được đặt trong chi "Barbonymus", được thiết lập vào năm 1999. Nó là loài điển hình của chi.
Loài cá này có nguồn gốc từ lưu vực các sông Mê Kông và sông Chao Phraya của Thái Lan, Sumatra, Borneo, và bán đảo Mã Lai
, nơi nó được tìm thấy ở các sông, suối, kênh, mương. Nó cũng bơi vào các cánh đồng bị ngập lụt. Môi trường sống tự nhiên của nó là trong nước với độ pH 6,5-7,0, độ cứng nước của lên đến 10 dGH, và phạm vi nhiệt độ 72-77 °F (22-25 °C). Tại Indonesia, một phạm vi nhiệt độ là 20,4 °C đến 33,7 °C được ghi nhận của loài này. Cá he đỏ phần lớn ăn cỏ, tiêu thụ loài macrophyte và thực vật đất ngập nước, cũng như tảo sợi và đôi khi ăn côn trùng. Nó cũng ăn cá nhỏ, sâu, và động vật giáp xác. | 1 | null |
Dornier Do 215 là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ, trinh sát, tiêm kích bay đêm do hãng Dornier chế tạo, ban đầu dùng để xuất khẩu, nhưng cuối cùng lại được trang bị cho Không quân Đức. Giống như mẫu trước đó là Dornier Do 17, nó thừa hưởng tên gọi "The Flying Pencil" do khung thân mỏng của nó. Mẫu máy bay kế tiếp Do 215 là Do 217.
Tính năng kỹ chiến thuật (Dornier Do 215 B-1).
German Aircraft of the Second World War | 1 | null |
Cá giếc Nhật (danh pháp hai phần: Carassius cuvieri) là một loài cá giếc được tìm thấy ở Nhật Bản và Đài Loan. Loài này có quan hệ gần gũi với cá vàng.
Nguồn gốc hoang dã của cá giếc Nhật duy nhất ở hồ Biwa được gọi là , và được liệt kê trong danh mục loài nguy cấp trong sách đỏ Nhật Bản.. Có một chủng nuôi thả lớn hơn với thân dài hơn có tên tiếng Nhật là phát triển từ loài gốc và được nuôi ở vùng Osaka và đã được thả vào nhiều vùng nước phục vụ câu cá thể thao . | 1 | null |
Dornier Do 217 là một loại máy bay ném bom của không quân Đức trong Chiến tranh thế giới II, nó là một phiên bản mạnh hơn của Dornier Do 17, còn gọi là "Fliegender Bleistift" (Bút chì bay). Được thiết kế vào năm 1937-1938 làm nhiệm vụ máy bay ném bom hạng nặng, thiết kế của nó được tinh chỉnh vào năm 1939, đưa vào sản xuất cuối năm 1940. Do 217 bắt đầu đưa trang bị đầu năm 1941 và bắt đầu năm 1942 đã có một số lượng đáng kể Do 217 trong biên chế không quân Đức. Dornier Do 217 có khả năng mang tải trọng bom và tầm bay xa hơn rất nhiều so với Do 17. Các biến thể cuối, có khả năng đột kích trên biển và ném bom bổ nhào, mang được bom lượn có thể nổ ở độ sâu lớn, các biến thể này đã thành công trong các nhiệm vụ này. | 1 | null |
Trận Charleroi, còn gọi là trận sông Sambre, diễn ra từ ngày 21 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1914, trong chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp giữa quân đội Đức với liên minh Anh-Pháp dọc theo Mặt trận phía Tây và là một trong những trận đánh mở màn của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trận đánh này, quân Đức thuộc các Tập đoàn quân số 2 và 3 do hai tướng Karl von Bülow và Max von Hausen chỉ huy đã tiến hành tấn công, bao vây Tập đoàn quân số 5 Pháp do tướng Charles Lanrezac chỉ huy. Sau 3 ngày chiến đấu, quân Pháp bị thất lợi, phải triệt thoái xuống phía nam. Cuộc rút lui này đặt dấu chấm hết cho chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp với thất bại hoàn toàn của quân đội Pháp và Anh.
Bối cảnh.
Kế hoạch chiến tranh của Bộ Tổng tham mưu Đức đầu tháng 8 năm 1914 quy định các Tập đoàn quân số 1 (Đại tướng Alexander von Kluck chỉ huy), 2 (Đại tướng Karl von Bülow chỉ huy) và 3 (Đại tướng Max von Hausen chỉ huy) di chuyển về hướng tây và tây nam. Theo đó, Bülow sẽ đem 137 tiểu đoàn và 820 đại bác của Tập đoàn quân số 2 đi vòng pháo đài Namur theo con đường La Mã cổ từ Eghezée, Gembloux và Fleurus đến sông Sambre bên bờ trái sông Meuse. Đội hình Tập đoàn quân số 2 từ trái sang phải bao gồm Quân đoàn Vệ binh Phổ dưới quyền tướng Karl von Plettenberg, Quân đoàn X Phổ dưới quyền tướng Otto von Emmich, Quân đoàn Trừ bị X dưới quyền tướng Günther von Kirchbach và Quân đoàn VII Phổ dưới quyền tướng Karl von Einem. Để yểm trợ cánh trái của Tập đoàn quân số 2, Hausen kéo 101 tiểu đoàn và 596 đại bác của Tập đoàn quân số 3 (gồm Quân đoàn XII Sachsen - tướng Karl Ludwig d'Elsa, Quân đoàn XIX Sachsen - tướng Maximilian von Laffert, Quân đoàn Trừ bị XII - tướng Hans von Kirchbach và Quân đoàn XI Phổ - tướng Otto von Plüskow) tiến qua vùng rừng núi Ardennes để tới sông Meuse.
Vào ngày 15 tháng 8, bộ binh và kỵ binh tiền phương của Tập đoàn quân số 3 tiến hành tập kích các đơn vị Pháp thuộc Quân đoàn I (tướng Franchet d'Espèrey chỉ huy) vừa được điều đến Dinant trên sông Meuse. Được sự yểm trợ chặt chẽ của súng máy và đại bác, cuộc tập kích đã thành công. Sau khi tra khảo tù binh và nhận được đầy đủ thông tin về lực lượng địch trong khu vực, quân Đức tự rút khỏi Dinant. Cùng ngày, tin tức về việc 1 vạn kỵ binh Đức đã vượt sông Meuse ở Huy đã được loan đến Bộ Tổng tham mưu Pháp. Bước tiến của quân Đức về Dinant và Huy đã buộc Tổng tham mưu trưởng Joseph Joffre ban bố "Quân lệnh 10" cho tướng Chales Lanrezac mang toàn bộ Tập đoàn quân số 5 (193 tiểu đoàn và 691 đại bác) vào đóng giữ vùng tam giác Meuse-Sambre để đối phó với Tập đoàn quân số 2 của Đức trên mạn bắc và Tập đoàn quân số 3 của Đức trên mạn đông. Từ khởi điểm gần Mézières, Tập đoàn quân số 5 của Pháp phải hành quân trên một quãng đường dài đến 120 km để vào vị trí mới của mình. Trong các cuộc thám thính về phía tây nam Namur vào ngày 18 tháng 8, không quân Đức đã xác định được cánh phải của một tập đoàn quân Pháp đang tiến vào vùng tam giác Meuse-Sambre.
Sau khi quân chủ lực Tập đoàn quân số 5 tiếp cận sông Sambre vào ngày 19 tháng 8, Lanrezac bài trí quân lực theo một chữ V ngược khổng lồ: để đề phòng nguy cơ bị quân Đức đánh bọc sườn phải, ông dự trữ Quân đoàn I trên bờ tây sông Meuse từ Givet đến Namur. Bên trái Quân đoàn I, Lanrezac cho Quân đoàn X của tướng Gilbert Defforges án ngữ dọc theo sông Sambre và đối diện về hướng tây bắc. Xa về bên trái, Quân đoàn III do tướng Henri Sauret chỉ huy được bố trí dọc sông Sambre theo hướng đối diện với Charleroi. Quân đoàn XVIII của tướng Jacques de Mas Latrie bấy giờ vẫn chưa đến nơi, và khi nào đến thì sẽ án ngữ dọc sông Sambre ở cánh trái Quân đoàn III. Sườn trái Tập đoàn quân số 5 được yểm trợ bởi một quân đoàn kỵ binh do tướng André Sordet chỉ huy, đã đánh nhiều trận lẻ với kỵ binh Đức trong ngày 20 và bị tổn hao 1/6 nhân lực của mình.
Đêm ngày 20, tướng Joffre hạ lệnh cho Tập đoàn quân số 5 Pháp phát động tiến công, đồng thời yêu cầu Thống chế Sir John French đem Lực lượng Viễn chinh Anh tấn công qua kênh Mons-Condé "theo hướng Soignies" để hiệp lực với cánh trái của Lanrezac. Do các lực lượng khá lớn của Đức đang hiện hữu ở cả hai bên sông Meuse, Joffre xác định mục tiêu của cuộc tấn công phối hợp này là truy tìm và đánh bại quân chủ lực Đức tại bờ tây sông Meuse. Nhưng vào buổi trưa ngày 21 tháng 8, Lanrezac báo với Joffre rằng quân Anh không thể đến Mons trong vòng 2 ngày tới. Không biết nên tiến hay thủ, Lanrezac trở nên do dự mãi đến khi Joffre phát lệnh cho ông tiến công mà không cần quân Anh hiệp sức. Nhưng giờ đã muộn để Tập đoàn quân số 5 Pháp có thể vượt sông Sambre và đuổi quân Đức khỏi các cao điểm phía bắc.
Trận chiến.
Trưa ngày 21 tháng 8, các thành phần quân Đức thuộc Tập đoàn quân số 2 đã tiếp cận bờ bắc sông Sambre. Tướng Bülow ban đầu dự định phát động tấn công trực diện qua sông Sambre và hy vọng sẽ được phối hợp từ mạn đông nam bởi Hausen và từ mạn tây bởi Kluck, người đã được đặt dưới sự chỉ huy của Bülow theo huấn thị của Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke. Nhưng vào thời điểm này, Quân đoàn VII và Quân đoàn Trừ bị X vẫn còn xa sông Sambre trong khi 6 sư đoàn ở cánh trái của Bülow đang bận bao vây 35.000 quân Bỉ trong pháo thành Namur. Hơn thế nữa, bên trái Tập đoàn quân số 2, tướng Hausen chỉ mới tập trung được 4 sư đoàn để vượt sông Meuse tại Dinant trong khi các khẩu trọng pháo của ông còn cách đó một ngày đường. Bên phải Bülow, do lo ngại quân Anh sẽ tiến qua Lille-Ninove, Kluck vẫn còn rất xa khu vực phía đông bắc Maubeuge. Vì vậy Bülow phát lệnh cho quân lực mình không giao chiến cho đến ngày 23.
Các ngày 21-22 tháng 8.
Tuy nhiên, các thuộc tướng của Bülow không thể kiên nhẫn chờ đợi. Sau một thời gian ngắn băn khoăn, tướng Arnold von Winckler chỉ huy Sư đoàn Vệ binh 2 quyết định tấn công phòng tuyến quân Pháp. Trận đánh trên sông Sambre đã mở màn khi pháo binh hạng nặng của Đức bắn phủ đầu đội hình quân Pháp ở phía đông Charleroi. Tiếp theo đó, Winckler xua Vệ binh xông lên chiếm các ngọn cầu tại Auvelais và Jemeppe-sur-Sambre. Xa về phía tây, tướng Max Paul Hoffman cũng thúc Sư đoàn Bộ binh 19 - Quân đoàn X đánh chiếm các ngọn cầu tại Tergné. Dưới hỏa lực phối hợp của bộ binh và pháo binh Đức, quân Pháp bị đánh bật trên toàn trận tuyến. Sau đó, trên tinh thần "Furia Franchese" - "Cơn giận Pháp", quân Pháp phản công dồn dập vào các đầu cầu nhưng bị súng máy và đại bác Đức chặn đứng. Bị tổn thất nặng, quân Pháp đã rút 6,5 km về phía nam sông Sambre khi màn đêm buông xuống. Tuy nhiên, Lanrezac vẫn tin vào sự bài trí trận địa của mình và không để tâm đến cuộc rút lui này.
Đầu ngày 22 tháng 8, các đầu cầu đã được mở rộng khi toàn bộ 2 sư đoàn của Quân đoàn X và Sư đoàn Vệ binh 2 vượt sông Sambre. Bülow định điều quân chủ lực tiến công Tập đoàn quân số 5, nhưng người Pháp đã ra tay trước. Không cần chờ lệnh Lanrezac, Defforges và Sauret dốc quân phản công ào ạt theo học thuyết "Offensive à outrance" - "Tấn công cho đến cùng" nổi tiếng. Quanh Arsimont, 3 sư đoàn Pháp liên tục ôm lê xông vào các chốt phòng thủ của Sư đoàn Vệ binh 2 mà không hề được pháo binh yểm trợ, và lần nào cũng bị hỏa lực tập trung của súng máy và đại bác Đức đẩy lui với tổn thất ghê gớm. Số phận bi thảm của Trung đoàn 2 Zouaves và Trung đoàn 1 Lính tập Algérie vào hôm ấy đã trở thành ví dụ điển hình cho sự không bắt kịp những thay đổi về chiến tranh hiện đại của quân đội Pháp. Trong các cuộc xung phong của mình, hai trung đoàn thuộc địa được tổ chức theo các đội hình cấp đại đội dày đặc, với mũ "" đỏ trên đầu, với cờ bay phấp phới và trống đánh liên hồi trong khi các sĩ quan thì đeo găng tay trắng và vung kiếm trên lưng bạch mã Ả Rập. Kết quả là 75% lực lượng của hai trung đoàn đã bị loại khỏi vòng chiến. Tại một địa điểm, một tiểu đoàn Bắc Phi gồm 1.030 người đã xông vào một khẩu đội pháo Đức và rút lê đâm các pháo thủ trước khi phải rút lui với thương vong lên đến 1.028 người.
Vào buổi sáng ngày 22, 3 sư đoàn khác của Pháp cũng mở nhiều đợt phản công vào Quân đoàn X Đức, nhưng đều bị đập tan. Sau đó, tướng Emmich - một người có thành kiến với pháo binh - quyết định tung một đòn tấn công liều lĩnh. Cũng như tại trận Liège hồi đầu tháng 8, Emmich xua quân lao thẳng về phía trước theo các đội hình dày đặc mà không cần sự yểm trợ đầy đủ của pháo binh. Mặc dù các khẩu khinh pháo 75 li của Pháp khoét nhiều lỗ hổng vào hàng ngũ của họ, Quân đoàn X Đức đã đánh thủng được hàng phòng thủ quân Pháp. Xa về phía tây, khi đêm xuống, Quân đoàn Trừ bị X của Kirchbach cũng đã thọc sâu vào hàng phòng ngự quân Pháp gần Charleroi. Bên phải họ, gần Fontaine, Quân đoàn VII của Einem đã tiếp cận sông Sambre và đánh tan Quân đoàn Kỵ binh Sordet, làm hở sườn phải của quân viễn chinh Anh vừa mới đến Mons. Lúc 20h30, Lanrezac báo cáo cho Joffre về tình hình "trầm trọng" trong ngày, theo đó Quân đoàn X đã bị "đánh thiệt hại nặng" và "buộc phải rút lui", Quân đoàn III đã "tham chiến rất nhiều" và "một lượng lớn sĩ quan bị loại khỏi vòng chiến". Thêm vào đó, Quân đoàn Kỵ binh Sordet đã "kiệt sức" và cũng bị đẩy lui, mở ra một lỗ hổng rộng lớn giữa Tập đoàn quân số 5 với quân viễn chinh Anh vừa đến Mons.
Nhưng Joffre vẫn lạc quan về khả năng tiếp tục phản công tại sông Sambre. Trên thực tế, Quân đoàn XVIII đã xuất hiện bên cánh phải Tập đoàn quân số 5 vào cuối ngày 22 và bắt lại liên lạc với quân Anh. Thêm vào đó, Quân đoàn I đã bắt đầu giao phòng tuyến sông Meuse cho Sư đoàn Trừ bị 51 dưới quyền tướng René Boutegourd và tiến lên mạn bắc theo hướng Namur để có thể đánh bọc sườn trái quân Đức. Joffre hy vọng Tập đoàn quân số 5 sẽ không chỉ chặn đứng quân Đức trên sông Sambre mà còn tiến lên mạn đông bắc để hợp sức với các Tập đoàn quân số 3 (tướng Pierre Ruffey) và 4 (tướng Fernand de Langle de Cary) tấn công Ardennes và giành thắng lợi quyết định tại đây. Lanrezac thì bi quan hơn nhiều, do Thống chế French đã thông báo với ông rằng quân viễn chinh Anh sẽ không tấn công trong ngày 23. Hậu quả thảm khốc của các đợt xung phong vào hai ngày trước đã buộc Lanrezac phải hạ lệnh chuyển sang thế thủ trên toàn mặt trận trong đêm ngày 22.
Ngày 23 tháng 8.
Bülow tiến hành đánh giá tình hình vào cuối ngày 22. Thời điểm này, 5 sư đoàn của ông đã đặt chân lên bờ nam sông Sambre và phải đương đầu với một lực lượng Pháp đông gấp đôi. Tuy nhiên, vị Tư lệnh Tập đoàn quân số 2 quyết định tiếp tục tấn công bất chấp cái giá có thể phải trả. Đồng thời, ông thúc giục Tập đoàn quân số 1 sớm hoàn tất chuẩn bị tấn công Dinant và chỉ thị cho Kluck thảy 4 sư đoàn quanh Maubeuge để bao vây sườn trái Tập đoàn quân số 5 Pháp. Tập đoàn quân số 2 sẽ tái phát động các đợt tấn công trực diện vào ngày 23 nhằm kìm chân không cho quân Pháp rút lui. Và, Bülow mang 8 sư đoàn xuống phía nam để chống nhau với 12 sư đoàn Pháp vào đầu ngày hôm ấy.
Ở cánh phải, pháo binh Quân đoàn VII vào trận trễ và do vậy Einem gặp nhiều khó khăn trong việc đưa 1 sư đoàn của mình qua sông Sambre. Như vị tướng hồi tưởng, quân của ông hăng tấn công đến mức họ bỏ mặc "mọi lý thuyết thời bình về sự cần thiết của việc ẩn nấp". Bên trái họ, Quân đoàn Trừ bị X xông thẳng vào làn mưa đạn của trọng pháo Pháp ở trung tâm mà chỉ được sự yểm trợ rất hạn chế của pháo binh. Mặc dù bị thiệt mất gần phân nửa quân số, quân đoàn Kirchbach cuối cùng đã chọc thủng được phòng tuyến quân Pháp. Tương tự, Emmich lại xua Quân đoàn X tấn công theo kiểu hôm trước và bị hao tổn nhiều binh lực. Chỉ riêng Quân đoàn Vệ binh của Pltettenberg là phối hợp chặt chẽ hỏa lực pháo binh với bộ binh để khống chế đối phương. Các chỉ huy Vệ binh đã kiên nhẫn tập trung trọng pháo và khinh pháo giã tới tấp vào trận địa quân Pháp trước khi huy động bộ binh tấn công với sự yểm trợ sát cận của các tổ súng máy. Cuộc tấn công của họ giành được thắng lợi lớn và nguyên 1 quân đoàn Pháp gần như bị tiêu diệt. Nhưng Quân đoàn Vệ binh giờ đây đã đi quá đà và làm hở cánh trái của mình trước một đòn phản công mạnh mẽ của Quân đoàn I Pháp dưới quyền d'Espèrey. Tuy nhiên, những diễn biến trên sông Meuse trong ngày hôm đó đã loại bỏ nguy cơ này.
Tập đoàn quân số 3 Đức tấn công Dinant.
Vào lúc 4h sáng, sau khi được tin về cuộc tấn công của các Tập đoàn quân số 3 và 4 Pháp vào Ardennes, tướng Moltke ra huấn lệnh cho Hausen phối hợp với Bülow tấn công quân Pháp. Thừa lệnh cấp trên, Hausen điều 57 khẩu đội pháo dã chiến Sachsen nã tới tấp vào thị trấn và thành cổ Dinant để dọn đường cho bộ binh tấn công. Đến 7h35, Moltke lại huấn thị cho Hausen,"đem hết mọi đơn vị có sẵn vượt sông Meuse phía nam Givet". Liền đó, Hausen chia quân làm 3 đạo đánh xuống phía nam. Đạo thứ nhất gồm Sư đoàn Bộ binh 40 (Quân đoàn XIX) dưới quyền tướng Götz von Olenhausen tiến về Givet, đạo thứ hai gồm Quân đoàn Trừ bị XII của tướng Kirchbach tiếp tục tiến theo hướng bắc Dinant tới Houx trong khi đạo thứ ba gồm Quân đoàn XII của tướng d'Elsa tiến công Dinant và đánh chiếm các cao điểm giữa Haut-le-Wastia, Sommière và Onhaye.
Các cuộc tấn công của bộ binh Đức đã mở đầu khi Sư đoàn Bộ binh 32 dưới quyền tướng Horst von der Planitz - được tiếp bước bởi Sư đoàn Bộ binh Trừ bị 23 dưới quyền tướng Alexander von Larisch - vượt sông Meuse tại Leffe phía bắc Dinant. Đồng thời, Sư đoàn Bộ binh 23 dưới quyền tướng Karl von Lindemann đã tiến xuống phía nam Dinant theo đường Les Rivages. Quân Đức sớm vấp phải sự chống cự hết sức gay gắt của Sư đoàn Bộ binh Trừ bị 51 và 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn Bộ binh 2 Pháp (tướng Henri Deligny chỉ huy). Lữ đoàn 46 của Lindemann đã thọc được vào Dinant, nhưng sau đó bị buộc phải rút lui dưới hỏa lực dày đặc của quân trừ bị Pháp. Lindemann điều đại bác cày xới khắp thị trấn, gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị dưới quyền Boutegourd. Tình hình này buộc Boutegourd phải van nài Espèrey mang quân cứu viện. Không cần hội ý Lanrezac, Espèrey lập tức đem Quân đoàn I về ổn định tình hình sông Meuse và ra lệnh cho tướng Charles Mangin chỉ huy Lữ đoàn 8 phản công sớm nhất có thể.
Trong khi Lindemann bị chặn đứng trên mạn bắc, Sư đoàn 40 của Olenhausen ở phía nam tiến về các cao điểm trên bờ tây sông Meuse và đe dọa cắt đứt đường liên lạc của Tập đoàn quân số 5 Pháp tại Fumay và Rocroi. Do thiếu thốn thông tin, quân Đức phải hành quân một cách khổ ải qua những con đường chật quanh co và những cánh rừng dày đặc. Không lâu sau khi tiếp cận Onhaye, sư đoàn ông đã hứng chịu nhiều đòn phản công khốc liệt của Lữ đoàn 8 Pháp. Quân Pháp chịu thương vong đến hàng ngàn người (trong đó có Trung tá Charles de Gaulle), nhưng đuổi được quân Đức khỏi Onhaye vào lúc 20h. Tình hình phía tây Dinant đã được ổn định khi quân chủ lực của Espèrey đến nơi.
Chưa bỏ cuộc, Hausen định tiếp tục tiến công bằng việc cho Quân đoàn Trừ bị XII và Quân đoàn XII Sachsen tiến về Rocroi trong khi Quân đoàn XIX tiến về Fumay và Revin, song một tình huống do "sương mù của chiến tranh" (" Nebel des Krieges") gây ra đã cản trở ý định này. Quan ngại trước tổn thất lớn của quân mình trên mặt trận Sambre, tướng Bülow sai thiếu tá von Fouqué đến yết kiến Hausen vào lúc 3h sáng ngày 24 tháng 8 và "khẩn cấp yêu cầu" Hausen từ bỏ dự tính của mình và vòng Tập đoàn quân số 3 về phía tây theo hướng Metet để giải tỏa áp lực cho cánh trái Tập đoàn quân số 2. Vào thời điểm Hausen ban bố các mệnh lệnh mới dựa trên đề xuất của Bülow, các toán tiền vệ yếu ớt của ông đã bị chặn lại ở Fumay, Revin và Monthermé trên sông Meuse, và chẳng bấy lâu sau, Bülow thông báo với Hausen rằng tình hình Tập đoàn quân số 2 đã yên ổn. Trong khi đó, vào cuối đêm ngày 23, Quân đoàn XII Đức cuối cùng đã đập tan mọi sự kháng cự tại Dinant trong tiếng ca của bài "Deutschland über alles".
Quân Pháp triệt binh.
Trong suốt ngày 23 tháng 8, tướng Lanrezac càng lúc càng trở nên lo âu. Từ tổng hành dinh Philippeville, cách Charleroi 32,2 km, Lanrezac đơn độc quan sát trận đánh mà ông cho là một thảm họa của quân lực mình, và hầu như không hề nhận được chỉ thị nào từ Bộ Tổng chỉ huy. Lanrezac cũng không nhận được tin tức gì về trận chiến Ardennes và vào buổi trưa ông lại được tin Sư đoàn 4 Bỉ đang rút dần khỏi Namur.
Trong ngày, các tướng tùy tùng của Lanrezac luôn miệng thúc giục ông phản công bằng Quân đoàn I hoặc Quân đoàn XVIII để giải tỏa áp lực cho quân Anh đang bị Tập đoàn quân số 1 Đức tấn công trong trận Mons, nhưng Lanrezac từ chối và giữ im lặng. Thêm nhiều hung tin đến với Lanrezac vào lúc chiều: quân Sachsen đang tiến về Onhaye trên mặt trận Meuse; Tập đoàn quân số 4 đã thua chạy trên mặt trận Ardennes, bỏ mặc quãng sông Meuse giữa Sedan và cánh phải của Lanrezac; phòng tuyến của Quân đoàn III đã bị chọc thủng ở trung tâm mặt trận Sambre. Do bị suy nhược thần kinh, tướng Sauret đã rời trận địa vào lúc 16h30 và được thay thế bằng tướng Gabriel Rocquerol. Cuối cùng, Lanrezac được Duruy - viên sĩ quan giao liên của ông tại Namur - cho biết quân Đức đã chiếm được các pháo đài phía bắc và tiến vào thị trấn.
Lanrezac cho rằng nếu cứ tiếp tục cầm cự trên bờ nam sông Sambre thì quân ông sẽ bị hai tập đoàn quân số 2 và 3 Đức hợp vây tiêu diệt. Theo ông, mọi cuộc phản công đều không thể xoay chuyển được cục diện này. Thêm vào đó, tình hình đã cho thấy rõ quân Anh không chỉ không thể hiệp sức với cánh trái của ông mà còn bị Tập đoàn quân số 1 Đức đánh bại tại Mons. Việc Tập đoàn quân số 5 bị hủy diệt sẽ dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của nước Pháp, hay nói cách khác là một Sedan thứ hai. Do vậy, vào lúc 21h30 ngày 23 tháng 8, Lanrezac quyết định triệt thoái toàn bộ binh lực xuống tuyến Givet-Maubeuge từ 3h sáng ngày hôm sau mà không cần hội ý Joffre. Trong ngày 24, khi các Tập đoàn quân số 2 và 3 Đức tái phát động tấn công trên mặt trận Meuse-Sambre, họ không còn thấy quân Pháp nữa.
Kết cục.
Cuộc chiến trên mặt trận Meuse-Sambre đã đem lại thương vong rất lớn cho cả hai bên, đặc biệt là quân Pháp. Đến nay vẫn chưa có số liệu đầy đủ về tổn thất của hai phe trong trận đánh, nhưng theo một số tài liệu cho hay, chỉ riêng trong ngày 22 tháng 8 đã có đến 6.000–7.000 lính Tập đoàn quân số 5 Pháp phải bỏ mạng. Đây cũng được công nhận là ngày đẫm máu nhất trong lịch sử quân sự Pháp, với tổng số quân Pháp tử trận lên tới 27.000 người trên chiến trường Ardennes, chiến trường Charleroi và các chiến trường khác dọc theo biên giới Bắc Pháp. Về phía Đức, Tập đoàn quân số 2 thống kê 3.516 người tử trận hay mất tích và 8.052 người bị thương vào giai đoạn từ ngày 20 đến ngày 31 tháng 8, trong khi Tập đoàn quân số 3 Đức thống kê 1.275 người chết và 3.000 người bị thương vào ngày 23. Hồi ký "Mein Bericht" của tướng Bülow cho biết Tập đoàn quân số 5 Pháp chịu tổn thất lớn gấp đôi tập đoàn quân của ông trong trận Charleroi, mặc dù sử gia Eric Dorn Brose tin rằng đây là một sự "phóng đại".
Các thảm họa tại Lorraine, Ardennes, Charleroi và Mons đã đánh dấu sự chấm dứt của chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp với việc liên quân Pháp-Anh thua chạy trên toàn tuyến. Kế hoạch chiến tranh XVII của Joffre đã hoàn toàn bị phá sản và quyền chủ động giờ đây thuộc về người Đức. Bên cạnh đó, trận Charleroi không phải thắng lợi quyết định của quân đội Đức. Do những sai lầm chiến thuật kèm theo sự phối hợp kém giữa các tập đoàn quân Đức và trên hết là sự thiếu vắng những chỉ thị cụ thể của Moltke - người đang ở rất xa mặt trận và không thể theo sát tình hình, phía Đức đã bỏ lỡ cơ hội tận diệt Tập đoàn quân số 5 Pháp.
Tuy vậy, Moltke tỏ ra hoan hỉ với các kết quả đạt được và nói với tùy viên quân sự Sachsen là Traugott Leuckart von Weifidort rằng "chiến dịch đang diễn tiến… theo như kế hoạch". Không khí lạc quan cũng bao trùm trong giới chỉ huy Đức ngoài mặt trận và tin thắng lợi liên tiếp bay về tổng hành dinh Koblenz. Trong các ngày 24 và 25 tháng 8, Bülow thông báo đã "đánh bại tuyệt đối" cánh phải quân Pháp trong khi Hausen thông báo rằng quân Pháp đang " hoàn toàn rút lui". Điều đó khiến cho một số sĩ quan Bộ Tổng tham mưu như Đại tá Wilhelm Groener và Thượng tá Gerhard Tappen tin rằng chiến thắng đã nằm gọn trong tay người Đức và cuộc chiến sẽ chấm dứt "chỉ trong vòng 6 tuần".
Joffre rất bất mãn với các hành động và quyết định của Lanrezac trong trận chiến Charleroi. Theo Joffre, sự bạc nhược và thiếu quyết đoán của những vị tướng như Lanrezac đã đẩy quân lực Pháp vào thảm bại trên các mặt trận biên giới. Ngày 3 tháng 9 năm 1914, Joffre huyền chức Lanrezac và thay ông bằng tướng d'Espèrey. Một số sử gia sau này cũng chỉ trích Lanrezac về thái độ tương tự, nhưng số khác cho rằng ông là một người có tầm nhìn chiến lược lớn và quyết định triệt binh của ông đã duy trì khả năng tiếp tục chiến đấu của quân đội Pháp. | 1 | null |
Dornier Do 335 "Pfeil" ("Mũi tên") là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng trong Chiến tranh thế giới II, nó được chế tạo bởi hãng Dornier. Phiên bản huấn luyện 2 chỗ còn được gọi là "Ameisenbär" ("thú ăn kiến"). Hiệu năng của Do 335 tốt hơn nhiều so với các thiết kế máy bay hai động cơ khác do nó có kiểu bố trí động cơ "đẩy-kéo". Khi đưa Do 335 vào trang bị thì Chiến tranh thế giới II cũng đang đi tới hồi kết. | 1 | null |
Đèo Franconia (tiếng Anh: "Franconia Notch") (độ cao 1.950 bộ/590 mét) là một đèo lớn trên Dãy núi White thuộc tiểu bang New Hampshire. Đèo này nằm giữa Núi Cannon ở phía tây và Núi Lafayette ở phía đông. Nó nằm chủ yếu bên trong Công viên Tiểu bang Đèo Franconia và có Xa lộ Công viên Đèo Franconia (Xa lộ Liên tiểu bang 93 và Quốc lộ Hoa Kỳ 3) chạy qua.
Đèo này có một hình thù đá tên là "Old Man of the Mountain" ("ông già của núi"), là một biểu tượng của tiểu bang New Hampshire cho đến năm 2003 khi hình thù đá này bị đổ.
Đèo nằm chủ yếu trong thị trấn Franconia nhưng kéo dài về phía nam vào trong Lincoln. Nó bị bao quanh ở phía đông bởi Dãy núi Franconia gồm có Núi Lafayette (), Núi Lincoln (), và Núi Little Haystack (), và ở phía tây bởi Dãy núi Cannon cao và mặt dốc của vách núi Cannon. Đỉnh cao của ngọn đèo này nằm gần điểm đầu phía bắc của nó, ở dưới chân Núi Cannon. Hồ Echo nằm ngay phía bắc điểm cao của ngọn đèo này, có một dòng chảy vào Suối Lafayette, Sông Gale, Sông Ammonoosuc, và sau cùng Sông Connecticut là con sông đi vào Vịnh Long Island tại Old Saybrook, Connecticut. Ngay phía nam điểm cao, Hồ Profile nằm bên dưới vách núi. Vách núi này trước đây từng có hình tượng đá "Old Man of the Mountain". Hồ Profile là nguồn của Sông Pemigewasset, sông nhánh chính yếu của Sông Merrimack chảy đến Vịnh Maine tại Newburyport, Massachusetts. | 1 | null |
Cá cháo lớn Đại Tây Dương (tên khoa học Megalops atlanticus) là một loài cá thuộc họ Cá cháo lớn chủ yếu phục vụ cho mục đích câu thể thao. Chúng có thể dài tới 2,44 m (8 ft) và đôi khi nặng tới 90 kg (200 pao).
Mô tả.
Bề ngoài Cá cháo lớn Đại Tây Dương màu trắng bạc. Vây lưng duy nhất không có gai. Số lượng tia vây lưng: 13-21, tia vây lưng cuối cùng dạng sợi. Các vây ngực rất thấp. Vây hậu môn với 22-29 tia vây. Vây hông với 10-11 tia vây. Bong bóng nằm đối diện với hộp sọ, dài khoảng 2 cm. Cá bột trong mờ, đầu hẹp.
Chúng sinh sống ở vùng nước ven biển, cửa sông, đầm phá, và các con sông. Chúng hầu như chỉ ăn cá bơi theo bầy đôi khi ăn cua. Chúng có khả năng làm đầy bong bóng bơi lội của chúng bằng không khí, giống như một lá phổi nguyên thủy. Điều này cho phép chúng có một lợi thế săn mồi khi mức độ oxy trong nước thấp. | 1 | null |
H-IIB (hay H2B) là một tên lửa đẩy thuộc họ tên lửa H-II của Nhật Bản. Nhiệm vụ của tên lửa đẩy H-IIB là đưa các tàu vận tải (HTV) của Nhật lên quỹ đạo để kết nối với Trạm vũ trụ quốc tế (ISS).
H-IIB là tên lửa đẩy với 2 tầng chính sử dụng nhiên liệu lỏng và 4 động cơ phóng (có thể tính là tầng 0) sử dụng động cơ nhiên liệu rắn. H-IIB được phóng đi từ Trung tâm Vũ trụ Tanegashima ở Nhật Bản. Công ty Mitsubishi và Cơ quan hàng không vũ trụ Nhật (JAXA) chịu trách chính nhiệm về sản xuất, thiết kế, và hoạt động của H-IIB.
H-IIB có thể mang theo một tải trọng hữu ích đến 8 tấn lên quỹ đạo địa tĩnh (GTO) - tức quỹ đạo có độ cao 35,786 km (22,000 mi) so với mực nước biển, hoặc mang theo 16.500 kg lên quỹ đạo thấp (LEO) - tức quỹ đạo có độ cao 2,000 kilometers (1,200 mi) trở xuống so với mực nước biển.
H-IIB được xem như là một phiên bản phát triển của tên lửa đẩy H-IIA khi H-IIA chỉ có thể mang tải trọng hữu ích từ 4-6 tấn lên quỹ đạo địa tĩnh (GTO) và không thể đưa được tàu vận tải HTV lên quỹ đạo.
Ngày 10 tháng 9 năm 2009, tên lửa đẩy H-IIB đã thực hiện việc phóng lần đầu tiên thành công.
Vệ tinh nhỏ F-1 của nhóm nghiên cứu FSpace trường đại học FPT, Việt Nam cũng được tên lửa đẩy H-IIB đưa lên trạm ISS trên tàu vận tải HTV-3. Sau khi HTV-3 kết nối thành công với ISS, đến khoảng tháng 9 năm 2012 thì các vệ tinh nhỏ sẽ được cánh tay rô-bốt đẩy ra ngoài không gian. Lúc nãy nếu vệ tinh nhỏ F-1 có thể thu phát tín hiệu và bay trên quỹ đạo của mình có thể xem như là thành công bước đầu của FSpace nói riêng và nền khoa học về Hàng không vũ trụ của Việt Nam nói chung. | 1 | null |
Nguyễn Đăng Tuân (chữ Hán: 阮登洵; 1772 – 1844), tự Tín Phu (信夫), hiệu Thận Trai (慎齋), là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Ông sinh năm Nhâm Thìn (1772) tại làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Xuất thân trong một gia đình nho học, cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành. Mặc dù có tài năng, nhưng vào thời Tây Sơn, Nguyễn Đăng Tuân không ra làm quan mà đi ở ẩn.
Đầu đời Gia Long, ông được tiến cử vào làm việc ở Viện Hàn lâm, rồi làm Tri huyện Ngọc Sơn (nay là vùng thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa). Ít lâu sau, đổi ông về Huế sung chức Tư giảng ở Công phủ, rồi làm Thị giảng ở cung Chấn Hanh.
Năm Minh Mạng thứ nhất (Canh Thìn, 1820), ông được bổ làm Thiêm sự bộ Lễ. Năm Đinh Hợi (1827), thăng ông giữ chức Hộ tào Bắc Thành, sau chuyển sang Binh tào, rồi làm Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm Canh Dần (1830), vua Minh Mạng sung ông làm Phó Tổng tài Quốc sử quán. Tuy nhiên, làm được một năm, thì ông xin về nghỉ, được ban hàm Tả Tham tri bộ Lễ.
Năm Minh Mạng thứ 14 (Quý Tỵ, 1833), gặp lễ khánh tiết, ông về Huế chầu mừng, được nhà vua làm thơ tặng. Năm Ất Mùi (1835), ông được triệu vào triều, sung chức Sư bảo dạy các Hoàng tử. Trong số đó có Nguyễn Phúc Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị. Nhờ dạy bảo nghiêm, và nghĩ định điều lệ để dạy dỗ, ông được ban hàm Thượng thư. Ở đó được ít lâu, ông lại xin về nghỉ.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (Tân Sửu, 1841), Nguyễn Đăng Tuân về triều viếng tang vua Minh Mạng. Gặp lại thầy dạy cũ, vua Thiệu Trị muốn bổ ông làm Thượng thư bộ Lễ, nhưng ông khẩn thiết xin từ, chỉ dâng lên bài biểu, vừa để tạ ơn, vừa để xin vua hãy chú trọng "đạo hiếu" và "đạo trị nước". Cảm kích tấm lòng ấy, trong năm đó, nhà vua lại ban chỉ mời ông về triều, lại sung ông làm chức Sư bảo để dạy dỗ cho các Hoàng đệ và Hoàng tử.
Năm Nhâm Dần (1842), vua đi tuần ra Bắc, ông được sung chức đại thần lo việc ở kinh đô. Khi vua trở về, thăng ông làm Thự Hiệp biện đại học sĩ, nhưng vẫn sung chức Sư bảo như cũ.
Rồi vì già yếu, ông lại cố xin nghỉ. Không nỡ trái ý ông mãi, nhà vua bèn ban cho vàng bạc, đồng thời cấp thuyền công để đưa ông về.
Năm Thiệu Trị thứ 4 (Giáp Thìn, 1844), nhà vua sai quan ở Nội các mang sắc thư đến nhà thăm hỏi ông, đồng thời ban cho ông thực thụ hàm Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ. Ngoài ra, nhà vua còn sai cấp cho ông một nửa nguyên bổng hàng năm, cho người con thứ (được tập ấm làm Tư vụ) và người cháu là cử nhân Nguyễn Đăng Hành đều được ở nhà để phụng dưỡng ông. Song ông đã dâng sớ xin từ chối bổng lộc, nói rằng mình "không đến nỗi thiếu thốn".
Mùa đông năm đó (1844), Nguyễn Đăng Tuân mất tại quê nhà, hưởng thọ 72 tuổi, được truy tặng chức "Thiếu sư", và ban tên thụy là "Văn Chính". Ngoài ra, nhà vua còn sắc cho ty chức cấp tiền để lo việc tang, sai quan đến tế, đồng thời lại sai lấy thơ vua làm và soạn sự trạng khắc vào bia đá, dựng nơi làng của ông.
Năm Tự Đức thứ nhất (Mậu Thân, 1848), nhà vua nghĩ đến công lao của ông, có làm hai bài thơ, rồi sai người đọc trong một buổi tế. Sau, sứ thần về lại nói là cảnh nhà ông quá thanh bạch, nhà vua lại sắc cho ty thuộc dựng lại nhà để thờ ông.
Được tôn vinh trong sử nhà Nguyễn.
Theo "Đại Nam chính biên liệt truyện" (quyển 13), Nguyễn Đăng Tuân là người có "tính thận trọng, ít nói, và lối học chủ về nghĩa lý". Trải thờ ba triều, sau khi về, được "vua mến nhớ khôn nguôi". Ngoài ra, sử thần còn cho biết khi ông đang giữ chức Thiêm sự bộ Lễ (1820), ông đã dâng sớ, đại ý nói là "quân và dân đang bị tật dịch (dịch bệnh), xin đình các công tác nặng nhọc". Đồng thời, ông lại dâng 6 điều là:
Con, cháu.
Con của Nguyễn Đăng Tuân là Nguyễn Đăng Giai (? - 1854), cháu ông là Nguyễn Đăng Hành (? - ?, con Đăng Giai), đều là danh thần triều Nguyễn, và đều được vinh danh trong bộ sách "Đại Nam chính biên liệt truyện" (quyển 13). Ông còn có một người con trai tên là Nguyễn Đống, lấy con gái thứ 43 của vua Minh Mạng là "Xuân Hòa Công chúa" Thục Tư, được phong "Phò mã Đô úy". | 1 | null |
Hàn Tuyết (sinh ngày 11 tháng 1 năm 1983) là nữ diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc tốt nghiệp Học viện Hí kịch Thượng Hải.
Tiểu sử.
Hàn Tuyết sinh ra trong gia đình quân nhân ở Tô Châu, gốc Gia Định, Thượng Hải, ông nội là Hàn Thự (韩曙) là một Đại tá trong Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, cuộc đời từng chiến đấu khắp nam bắc, đã tham gia vào cuộc chiến chống Nhật và chiến tranh Triều Tiên, nay đã nghỉ hưu an cư tại Tô Châu, thời điểm cô sinh ra vì trời có tuyết nên đặt tên “”. Thuở nhỏ, cô thích ca hát, năm lên 6 tuổi tham gia vào dàn hợp xướng thiếu nhi Tô Châu đồng thời nhiều lần giành giải thưởng các loại tại các cuộc thi ca hát. Năm 1995, cô đại diện cho đội viên thiếu niên thành phố Tô Châu, sau này cô thi đỗ vào Suzhou No.1 High School là trường trung học trọng điểm của thành phố.
Năm 2000, khi theo học lớp 12, cô tham gia cuộc thi tuyển chọn ca sĩ trẻ trên truyền hình do công ty Golden Harvest Television Hồng Kông tài trợ (sự kiện đặc biệt của Liên hoan phim truyền hình Thượng Hải lần thứ 8), sau nhiều vòng thi cô đã nhận được giải thưởng Kim Tinh.
Với giải thưởng này đã tạo một bước ngoặt trong sự nghiệp của Hàn Tuyết và cô nhanh chóng được mời tham gia trong phim truyền hình đầu tay "Bắc Nam Một Nhà" đóng vai nữ thứ bên cạnh Quách Phú Thành và Trương Bá Chi. Sau khi hoàn thành bộ phim, cô quay về quê nhà và được nhiều người biết đến nhưng lần này cô cũng phải đối mặt với việc lựa chọn nguyện vọng thi vào trường nào trong kỳ thi Cao Khảo. Hàn Tuyết muốn nộp đơn cho Học viện Hý kịch Thượng Hải gặp phải sự phản đối của gia đình. Cuối cùng trong sự khăng khăng và sự ủng hộ của ông nội nên Hàn Tuyết đã tự lựa chọn con đường của mình và được ông nội tặng cho 8 chữ để động viên “"Phân phân cửu sự, trực đạo nhi hành"” (tạm dịch: "Mọi thứ đang diễn ra, cứ thẳng tiến").
Cô được mệnh danh là mỹ nữ không bao giờ chịu đóng cảnh hôn môi diễn viên nam. Hầu như trong các bộ phim mà cô tham gia, cô không hề hôn môi diễn viên nam nào cả. Với gia thế nhà cô là Đại tá nên các đạo diễn, nhà sản xuất không dám ép cô phải bỏ quy tắc không hôn môi diễn viên nam của cô.
Tháng 3 năm 2005 cô tham gia bộ phim Thiên ngoại phi tiên với vai Hương Tuyết Hải (cuối tháng 5 năm 2005 thì quay xong, tháng 1 năm 2006 bộ phim bắt đầu phát sóng tại Trung Quốc). Vai Hương Tuyết Hải của cô cùng vai Thượng Quan Hạo Kỳ của Đậu Trí Khổng đã để lại dấu ấn khá đậm nét trong lòng khán giả bên cạnh cặp đôi nam nữ chính tiên đồng ngọc nữ Hồ Ca và Lâm Y Thần.
Liên kết ngoài.
. Studio cá nhân | 1 | null |
Bia Thiết Cảng là một bia đá cổ nằm giữa cột cây số 27 - 28 Hà Nội - Vinh, bên trục đường Quốc lộ 1, đoạn thuộc địa phận xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Bia được viết bằng chữ Hán, được dựng lên từ giữa thế kỷ XIX. Tấm bia mang tên "Thiết Cảng" (Kênh Sắt) do hoàng đế Thiệu Trị ngự chế.
Hoàn cảnh ra đời.
Cuối năm 1842, sau khi hoàn thành lễ thụ phong tại Hà Nội, vua Thiệu Trị cùng quần thần trở về kinh đô Huế. Khi đi qua con kênh Sắt thuộc địa phận xã Diễn An huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An ngày nay, nhà vua nhớ lại huyền tích năm nào liền ngự chế bài thơ "Thiết cảng" ca ngợi phong cảnh cũng như nhắc lại sự tích kì bí cho khắc lên bia đá đặt tại bờ Đông con kênh Sắt tại xã Tập Phúc, huyện Đông Thành nay là xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm văn bia.
Tấm bia có khổ 63x106 cm, trán bia hình bán nguyệt điêu khắc hình đầu rồng, xung quanh là hình các đám mây vân vũ. Xung quanh viền bia chạm hoa lá trông rất uyển chuyển và thanh thoát. Đế bia hình chữ nhật bằng phẳng. Tất cả đều mang dấu ấn đậm nét của văn bia thời Nguyễn sơ. Lòng bia Thiết cảng khắc một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật xen lẫn với lời chú thích về các sự kiện có liên quan. Phần thơ được khắc cỡ chữ to còn phần chú khắc chữ nhỏ. Phần đầu gồm 2 cầu đề và 2 câu thực, tiếp theo sau là lời chú thích về sự tích hình thành cũng như nguồn gốc tên gọi con kênh Sắt. Phần 2 là 2 câu luận và lời chú về hiện trạng con kênh. Phần 3 là 2 câu kết và câu cuối của phần chú thích. Phần cuối cùng ghi thời gian lập văn bia vào ngày tốt tháng chạp niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật) và câu chú cho biết văn bia do chính tay vua Thiệu Trị soạn (ngự chế thi nhất thủ). Tất cả văn bia gồm 14 dòng, 286 chữ.
Nội dung văn bia.
Nguyên văn chữ Hán:
鐵港
縈回小澗萬峰中/聞道前人藉化公/鐵穴山腰留爛石/天威港口淺流通.史記:
唐時高駢為安南都護.駢使林諷嶺眾疏鑿此港以便漕運.至興元縣,山岡亂石, 人工推折殆,欲中止.時,五月,忽當晝,雷震數百聲打碎其亂石.尚遺一巨石.眾工 亦力不能施悉成港道.六月,聞雷復大震將巨石一時碎裂,港道乃成.時人稱為 天威港.港之西是鐵穴山,故有名鐵港. 玄微莫狀神機異/平坦尤徵世道
隆.相傳此港道因有江河引流通之嶺岫隨勢鑿之,自河內可通乂安以南.今則 相來田疇涵蓄貲農.若於山下縈紆則浮沙日壅以成平地.似乎天意,漕運有方, 設險有所,居中禦外不可通達如初.玄妙機緘亦為可知.玆因,事以理,論之怪異 之事.
耳食之言 隴蜀崤函無二此/搬耡趙楚妙何窮.
未足信也
紹治二年十二月吉日. 恭鑴 禦製詩一首
Phiên âm:
Thiết Cảng
Oanh hồi tiểu giản vạn phong trung
Văn đáo tiền nhân tạ hóa công
Thiết Huyệt sơn yêu lưu lạn thạch
Thiên Uy cảng khẩu thiển lưu thông.
Sử ký Đường thời Cao Biền vi An Nam đô hộ. Biền sử Lâm Phúng lĩnh chúng sơ tạc thử cảng dĩ tiện tào vận. Chí Hưng Nguyên huyện, sơn cương loạn thạch, nhân công thôi chiết đãi, dục trung chỉ. Thời, ngũ nguyệt, hốt đương trú, lôi chấn số bách thanh đả toái kỳ loạn thạch. Thượng di nhất cự thạch. Chúng công diệc lực bất năng thi tất thành cảng đạo. Lục nguyệt, văn lôi phục đại chấn tương cự thạch nhất thời toái liệt, cảng đạo nãi thành. Thời nhân xưng vi Thiên Uy cảng. Cảng chi tây thị Thiết Huyệt sơn. Cố hữu danh Thiết Cảng. Huyền vi mạc trạng thần cơ dị/ Bình thản vưu trưng thế đạo long. Tương truyền thử cảng đạo nhân hữu giang hà dẫn lưu thông chi Lĩnh Tụ tùy thế tạc chi, tự Hà Nội khả thông Nghệ An dĩ nam. Kim tắc tương lai điền trù hàm súc ti nông. Nhược ư sơn hạ oanh hu tắc phù sa nhật ủng dĩ thành bình địa. Tự hồ thiên ý, tào vận hữu phương, thiết hiểm hữu sở, cư trung ngự ngoại bất khả thông đạt như sơ. Huyền diệu cơ giam diệc vi khả tri. Tư nhân: sự dĩ lý, luận chi quái dị chi sự.
Nhĩ thực chi ngôn Lũng Thục hào hàm vô nhị thử/ Ban sừ triệu sở diệu hà cùng.
Vị túc tín dã.
Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật. Cung huề
Ngự chế thi nhất thủ.
Dịch nghĩa:
Tiểu dẫn:
Sử chép: Thời Nhà Đường Cao Biền làm Đô hộ sứ nước ta. Biền sai Lâm Phúng bắt dân ta đào con kênh này tạo luồng vận chuyển đường thủy. Khi đào tới phần đất thuộc huyện Hưng Nguyên, sườn núi loạn đá, công nhân bị đẩy tới đó đều chết yểu, muốn dừng lại giữa chừng thì tháng 5 năm ấy, vào ban ngày bỗng nghe hàng trăm tiếng sấm đánh nổ tan những tảng đá ấy. Nhưng hãy còn một tảng đá lớn, bọn công nhân không đủ sức thi công hoàn tất tạo thành dòng kênh. Sang tháng 6, lại một tiếng nổ lớn, tức thì tảng đá nổ tung, mới thành cảng đạo (dòng kênh). Thời ấy, người xưng là "Cảng Thiên Uy". Phía Tây cảng là Mỏ Sắt, nên còn có tên là "Kênh Sắt".
Tương truyền: Dòng kênh này là theo những lạch sông ngòi có sẵn dựa vào thế chân núi mà đào từ Hà Nội đến Nghệ An rồi vào Nam. Nay thì ruộng lúa của nông dân bao quanh chân núi hàng ngày phù sa bồi tắc đã thành bình địa. Tựa hồ ý trời, vận chuyển trên sông nước có phương, nguy hiểm có chỗ, chiếm trong che ngoài, không thể thông suốt như trước nữa. Những điều máy móc của lẽ huyền vi cũng có thể biết, nay nhân, sự lấy lẽ, luận cái điều quái dị của sự, những điều nghe lỏm không đủ để tin vậy.
Thiệu Trị Năm thứ 2 (1842), tháng 12, ngày tốt
Cung kính khắc
Một bài thơ ngự chế | 1 | null |
M1 Garand hoặc Súng trường M1 là khẩu súng trường bán tự động và là súng trường chiến đấu của Hoa Kỳ trong Thế chiến II và Chiến tranh Triều Tiên.
Lịch sử hoạt động.
Thế chiến thứ hai (1939 - 1945).
Trong Thế chiến 2, M1 Garand được sử dụng rộng rãi bởi Quân đội Hoa Kỳ. Nó nhận được nhiều lời khen ngợi nhờ các ưu điểm: tốc độ bắn khá cao, bền, dễ sử dụng, uy lực mạnh, bắn khá chính xác... Nó giúp lính Mỹ chiếm ưu thế trước lính Đức (hay lính Nhật) chỉ được trang bị những khẩu súng trường bắn phát một Karabiner 98k (hay Arisaka Type 99).
Anh và các nước trong Khối Thịnh vượng chung (Canada, Ấn Độ, Úc, Trung Quốc...), Liên Xô, Trung Quốc, Pháp Tự do... đều nhận được một vài lô súng M1 Garand do Hoa Kỳ cung cấp thông qua chương trình Lend - Lease, nhưng quân đội các nước này lại ít sử dụng đến nó (hoặc thậm chí là không sử dụng) vì họ cũng có riêng cho mình những mẫu súng trường chiến đấu khác không thua kém gì khẩu M1 Garand. Quân đội Anh và các nước Khối Thịnh vượng chung có khẩu Lee-Enfield, Hồng quân Liên Xô có Mosin-Nagant và SVT-40, Quốc dân Cách mệnh Quân của Quốc Dân Đảng thì dùng nhiều những khẩu súng trường Type 24 "Trung Chính" (tên tiếng Trung: 中正式) do Kho vũ khí Hán Dương của họ chế tạo theo mẫu của Đức, trong khi Bát lộ quân và Tân Tứ quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì lại dùng nhiều những khẩu Mosin-Nagant (do Liên Xô viện trợ), Quân đội Pháp Tự do thì có khẩu MAS-36 và khẩu Lebel 1886. Quân đội Anh có kế hoạch thay thế Lee-Enfield bằng M1 Garand nhưng do chi phí quá đắt đỏ nên kế hoạch này đã bị quân đội Anh hủy bỏ và họ chấp nhận hiện đại hóa Lee-Enfield để sử dụng tiếp.
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).
Trong thời gian Chiến tranh Triều Tiên diễn ra, Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc và Quân đội Hoa Kỳ sử dụng 2 khẩu súng trường bán tự động M1 Garand và M1 Carbine hết sức rộng rãi. Đối chọi với họ là Quân đội Nhân dân Triều Tiên và Chí nguyện quân Trung Quốc sử dụng những khẩu Mosin-Nagant do Liên Xô viện trợ. M1 Garand được binh lính khen ngợi vì nó giúp họ chiếm thế thượng phong trước những khẩu súng trường bắn phát một Mosin-Nagant trên chiến trường. Qua hai đợt viện trợ, Hàn Quốc đã nhận được tổng cộng 296.450 khẩu M1 Garand từ Mỹ. Quân đội Hàn Quốc đã sử dụng M1 Garand trong giai đoạn đầu Chiến tranh Việt Nam.
Sau khi cuộc chiến ở Triều Tiên kết thúc, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu triển khai một dự án thiết kế vũ khí mới để thay thế cho tất cả các mẫu vũ khí từ thời Thế chiến 2 của họ như: M1 Garand, M1 Carbine, Tiểu liên Thompson, M3 Grease Gun và M1918 BAR. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1958, Quân đội Hoa Kỳ chính thức đưa vào sử dụng M14, một mẫu súng trường tấn công sử dụng đạn 7,62×51mm NATO được phát triển trực tiếp từ M1 Garand.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954).
Từ năm 1950 đến năm 1964, Quân đội Pháp đã nhận được 232.500 khẩu M1 Garand do Hoa Kỳ cung cấp. Quân đội Pháp gọi khẩu súng này là "Fusil semi-automatique 7 mm 62 (C. 30) M.1". Trong Chiến tranh Đông Dương, Quân đội Pháp và Quốc gia Việt Nam sử dụng khẩu M1 Garand và M1 Carbine với số lượng không nhỏ để thay cho những khẩu súng trường bắn phát một MAS-36 chậm chạp, lỗi thời. Từ sau năm 1951, Quân đội Pháp thay M1 Garand bằng MAS-49, một mẫu súng trường bán tự động sử dụng loại đạn 7,5x54mm do Người Pháp phát triển. Còn Quân đội Quốc gia Việt Nam thì vẫn tiếp tục sử dụng nó đến khi chuyển vào Nam theo hiệp định Geneve 1954. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng thu được khá nhiều súng này từ Quân đội Pháp và Quốc gia Việt Nam sau các chiến dịch Chiến dịch Việt Bắc (1947) và Chiến dịch Biên giới (1950) nhưng bộ đội chủ lực của Việt Minh lại ít sử dụng đến khẩu súng này vì nó không sử dụng chung cỡ đạn 7.62×54mmR (của súng K-44) được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ.
Tại chiến trường Nam Bộ, tuy không được cung cấp trực tiếp từ trung ương nhưng các đơn vị chủ lực của Việt Minh đóng tại đây lại trang bị M1 Garand như là một chiến lợi phẩm thu được từ quân Pháp và Quốc gia Việt Nam. Họ gọi nó là: súng trường M1 Ga-răng (đọc phiên âm từ "Garand" theo tiếng Pháp).
Chiến tranh Việt Nam (1955-1975).
Trong giai đoạn 1950-1975, Quân lực Việt Nam Cộng hòa (hay trước đó là Quân đội Quốc gia Việt Nam) đã nhận được khoảng 220.300 khẩu M1 Garand từ Hoa Kỳ. Bên cạnh được viện trợ thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng được trực tiếp kế thừa những khẩu M1 Garand mà Quân đội Pháp để lại ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1954. M1 Garand được nhìn thấy sử dụng rộng rãi bởi các đơn vị vũ trang của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn đầu cuộc chiến (1955-1963). Từ năm 1967 trở đi thì nó dần bị thay thế bằng M16.
Ưu điểm và nhược điểm.
Súng có nhiều ưu điểm như tốc độ bắn nhanh hơn nhiều so với súng trường bắn phát một, bền, dễ sử dụng, bắn khá chính xác, tầm bắn hiệu quả khá xa. Nhược điểm của súng là khá dài (1,1 m khi chưa gắn lưỡi lê) và tương đối nặng nề (khi chưa nạp đạn thì súng đã nặng tới 4,31 kg), lực giật khi bắn cũng khá mạnh. Hơn nữa, xạ thủ phải bắn hết đạn trong buồng đạn mới có thể nạp lại được đầy đạn vào trong buồng , vì vậy , vào cuối chiến tranh, đã có nhiều phiên bản thử nghiệm M1 Garand sử dụng loại băng đạn 20 viên có thể tháo rời của súng máy trung liên Browning M1918.
Các quốc gia đã từng sử dụng.
Iran : Nhận 165.490 khẩu súng trường M1 từ chính phủ Mỹ trước năm 1964.
Nicaragua : Nhận 5000 súng trường M1 Garand từ Chính phủ Hoa Kỳ 1954 MAP mua 1500 súng trường M1 Garand từ Canada | 1 | null |
Aneides lugubris là một loài kỳ giông ăn côn trùng. Đây là loài bản địa California và Baja California, cư ngụ trong rừng sồi và sung, cũng như trong chaparral.
Mô tả.
"Aneides lugubris" dài từ mõm tới huyệt, với màu tím-nâu suôn, có khi có đốm vàng trên mặt lưng. Đuôi chúng linh hoạt, có thể cầm nắm. Con non tối màu, thường màu xám và có đốm vàng trên lưng. Con đực có thể được nhận ra nhờ cái đầu tam giác rộng, răng của chìa ra khỏi môi dưới.
Chúng trèo cây giỏi và khó bị bắt. Chúng sống về đêm, dành ban ngày và lúc nóng nực trong hốc cây, thường là cùng đồng loại cùng loài. Con trưởng thành có cú cắn mạnh. Con non nở ra từ trứng được đẻ và canh giữ trong hang. Kích thước lúc mới nở là 24 mm mõm tới huyệt, độ tuổi trưởng thành là hơn hai tuổi rưỡi. | 1 | null |
Biểu tượng Mặt Trời là một biểu tượng thể hiện hình ảnh Mặt Trời. Các biểu tượng này có thể thấy trong phân tâm học, biểu tượng, ký hiệu học, chiêm tinh học, tôn giáo, thần thoại, huyền học, chiêm đoán, huy chương học, cờ học và nhiều lĩnh vực khác.
Biểu tượng Mặt Trời.
Vòng tròn đối xứng.
Đường tròn.
Một đường tròn hay một vật hình đĩa có thể là biểu tượng Mặt Trời, ví dụ như quốc kỳ Nhật Bản, quốc kỳ Bangladesh, quốc kỳ thổ dân Úc, hay dạng 3 chiều trong xe ngựa Mặt Trời Trundholm.
Đường tròn với chấm và tâm.
Đây là một ký hiệu cổ đại với đường tròn có dấu chấm bên trong (mã Unicode U+2609 ☉ hay U+2299 ⊙). Nó là biểu tượng thiên văn của Mặt Trời, hay trong Ai Cập cổ đại với ký hiệu Mặt Trời hay thần Ra trong hệ thống chữ tượng hình Ai Cập. Ký tự "Mặt Trời" hay "ngày" trong chữ Hán cổ cũng tương tự nhưng có hình vuông trong mã hiện đại: 日 (ri).
Bốn phần đối xứng.
Mặt Trời dấu thập.
Mặt Trời dấu thập (🜨) thường được xem là biểu tượng cho bốn mùa và một năm nhiệt đới, vì vậy mà Mặt Trời (với ký hiệu thiên văn học nghĩa là "Trái Đất").
Mặt Trời cười.
Mặt Trời cười được dùng cho vận động chống năng lượng nguyên tử trên thế giới từ thập niên 1970. Nó thể hiện sức mạnh của năng lượng Mặt Trời và năng lượng tái tạo thay vì năng lượng hạt nhân.
Shama giáo.
Một vài trống sami shaman có biểu tượng Mặt Trời Beaivi của người Sami thể hiện ký hiệu Mặt Trời dấu thập. | 1 | null |
Fairey Firefly là một loại máy bay tiêm kích trang bị cho tàu sân bay của Không quân Hải quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh thế giới II, ngoài ra nó còn được dùng làm máy bay chống tàu ngầm.
Tính năng kỹ chiến thuật (Mk I).
British Naval Aircraft since 1912 | 1 | null |
Cóc tía châu Âu là một loài cóc thuộc họ Bombinatoridae bản địa lục địa châu Âu. Cóc tía châu Âu dài 26–60 mm và nặng 2-13,9 g.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy từ ở miền trung và đông châu Âu: Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Cộng hòa Séc, Áo, Slovakia, Croatia, Bosnia-Herzegovina, Serbia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, România, Hungary, Slovenia, Ba Lan, Latvia, Litva, Belarus, Ukraina, Moldova, phía tây nam nước Nga và kết thúc về phía tây Kazakhstan. Nó đã được nhập nội vào Vương quốc Anh.
Bảo tồn.
Xu hướng của loài này là giảm sút số lượng, mặc dù số lượng rất phong phú trong hầu hết phạm vi phân bố của nó. Phía bắc và phía tây của sông Danube có sự gia tăng công tác thủy lợi phục vụ nông nghiệp mang lại xu hướng thuận lợi cho loài cóc này. | 1 | null |
Bệnh viện Phụ sản Trung ương (tên gọi cũ: Bệnh viện C) (tên tiếng Anh là National Hospital of Obstetrics and Gynecology (NHOG)") hay tiếng Pháp là Hôpital National de Gynécologie Obstétrique (HNGO)") nằm ở số 43 phố Tràng Thi, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Bệnh viện là tuyến chuyên môn cao nhất chuyên ngành Phụ sản và Sơ sinh Việt Nam, là trung tâm đào tạo đại học và sau đại học. Bệnh viện có quy mô 600 giường bệnh; 08 phòng chức năng; 12 khoa lâm sàng; 09 khoa cận lâm sàng; 05 trung tâm; 01 đơn vị chăm sóc sức khỏe sơ sinh tại nhà.
Lịch sử.
Dưới thời Pháp thuộc, khu vực bệnh viện hiện nay là một nhà tu, sau là nhà thương Võ Tánh. Khi hòa bình lập lại (1955), nhà thương được tu sửa lại làm nơi khám, chữa bệnh cho cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan trung ương.
Ngày 19 tháng 7 năm 1955, BS Hoàng Tích Trí, Bộ trưởng Bộ Y tế ký Nghị định 615-ZYO/NĐ/3A quy định tổ chức các cơ quan kế cận và trực thuộc Bộ, chính thức thành lập bệnh viện "C" đặt nền móng đầu tiên cho Bệnh viện Phụ sản Trung ương ngày nay.
Ngày 8 tháng 11 năm 1960, Bộ Y tế lại có QĐ 708/BYT sửa đổi, tổ chức lại Bệnh viện C theo hướng chuyên khoa phụ sản. Trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, ngày 14 tháng 5 năm 1966, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ký Quyết định số 88/CP đổi tên Bệnh viện C thành Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh. Lần đầu tiên tại Việt Nam có một Viện chuyên ngành nghiên cứu tình trạng sinh lý, bệnh lý của phụ nữ, của các bà mẹ và trẻ sơ sinh, hướng tới mục tiêu "Bảo vệ tốt sức khỏe phụ nữ, các bà mẹ và trẻ sơ sinh, góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, phát triển sản xuất, bảo vệ thế hệ tương lai của Tổ quốc".
Năm 2003, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe sinh sản, khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân ngày một lớn, đòi hỏi sự chuyển đổi về tính chất, quy mô của Viện, ngày 18 tháng 6 năm 2003, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định 2212/QĐ-BYT đổi tên Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh thành Bệnh viện Phụ sản Trung ương trực thuộc Bộ Y tế, tiếp tục thực hiện những chức năng, nhiệm vụ trước đây của Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh với những đòi hỏi cao hơn đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ khám, chữa bệnh trong tình hình mới. | 1 | null |
Fairey Fulmar là một loại máy bay tiêm kích trên tàu sân bay, nó được trang bị cho Không quân Hải quân Hoàng gia (FAA) Anh trong Chiến tranh thế giới II. Tổng cộng có 600 chiếc Fairey Aviation được chế tạo tại nhà máy Stockport giai đoạn 1940-1942. Thiết kế của Fulmar dựa trên mẫu máy bay Fairey P.4/34 được phát triển từ năm 1936 và bị thay thế bởi máy ném bom hạng nhẹ Fairey Battle. Dù hiệu năng còn yếu, nhưng Fulmar lại là một máy bay tin cậy, mạnh mẽ và chiến đấu hiệu quả với 8 khẩu súng máy. | 1 | null |
Sơ lược.
RNC (Radio Network Controller) là một thành phần của UMTS nằm trong mạng truy cập vô tuyến (UTRAN - hệ thống thông tin di động thế hệ ba). RNC kiểm soát các trạm phát sóng di động thế hệ ba (thường được gọi là NodeB - phân biệt với BTS, trạm phát sóng 2G) kết nối với nó. RNC thực hiện quản lý tài nguyên vô tuyến, một vài chức năng di động và đóng vai trò là một điểm mã hóa dữ liệu người dùng để gửi tới hoặc nhận được từ điện thoại di động. RNC kết nối với mạng chuyển mạch lõi thông qua cổng truyền thông (MGW) và kết nối tới các nút hỗ trợ GPRS (SGSN - Serving GPRS Support Node) trong mạng chuyển mạch lõi.
Giao diện.
Sơ lược.
Các phần tử trong mạng giao tiếp với nhau thông qua các kết nối logic, được gọi là các giao diện. RNC được xây dựng với nhiều giao diện phục vụ cho các chức năng - nhiệm vụ khác nhau.
Cho đên phiên bản 3GPP R4, ngoại trừ việc giao tiếp trên giao diện Uu sử dụng công nghệ WCDMA, việc giao tiếp trên hầu hết các giao diện còn lại trong UTRAN đều sử dụng công nghệ ATM. Từ phiên bản R5, công nghệ Ethernet được sử dụng, cho phép giao tiếp thông qua giao thức IP.
Ở mức vật lý, bản tin từ các giao diện này đều có thể được vận chuyển thông qua đường SDH (Synchronous Digital Hierarchy - cáp quang), đường E1 (E-carrier - cáp đồng, còn được gọi là đường PDH) hoặc thông qua sóng viba. Vài đường E1 có thể được ghép lại để tạo thành một nhóm IMA (Inverse Multiplexing for ATM). Với tính chất "logic" của các giao diện, nhiều giao diện có thể được "ghép" vào cùng một đường truyền. Việc ghép kênh, trong thực tế, phụ thuộc vào kiểu mạng (topo mạng - network topology) và cấu hình vòng lặp.
Một số giao diện trên RNC.
Iub (RNC-NODE B).
Iub là giao diện cho phép RNC giao tiếp với NodeB. Giao diện này sử dụng giao thức NBAP (Node B Application Part).
Iur (RNC-RNC).
Iur là giao diện cho phép các RNC trong cùng mạng giao tiếp với nhau. Giao diện này được sử dụng để hỗ trợ việc chuyển giao mềm (handover) giữa các RNC. Tất cả các dữ liệu cần thiết từ các RNC hiện đang cung cấp dịch vụ, có thể chuyển tới RNC tiếp quản việc cung cấp dịch vụ, thông qua giao diện Iur. Iur là một giao diện mở và tiêu chuẩn hóa.
Iu (RNC-MSC and RNC-SGSN).
Giao diện Iu cho phép RNC kết nối với mạng lõi.
Iu-BC (RNC-CBC).
Giao diện Iu-BC cho phép các CBC thuộc hệ thống SMS-CB kết nối với RNC.
Iu-PC (RNC-SAS).
Iu-PC là giao diện logic, dùng để kết nối RNC với các SMLC hoạt động độc lập (stand-alone SMLC: SAS) dựa trên giao thức PCAP. SAS cung cấp dữ liệu hỗ trợ định vị GPS cho các phương thức định vị dược xây dựng trên RNC. | 1 | null |
Đá Ba Đầu là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đây là điểm mút đông bắc của cụm Sinh Tồn và là rạn san hô lớn nhất trong cụm.
Đá Ba Đầu là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này.
Một số nguồn cho rằng Trung Quốc từng đổ bộ lên đá Ba Đầu vào tháng 7 năm 1992. Tháng 3-4 năm 2021, tàu Trung Quốc tập trung nhiều ở đá Ba Đầu gây quan ngại các nước. | 1 | null |
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội hay Viện Răng Hàm Mặt Quốc gia được thành lập theo Quyết định số 670/TTg-QĐ ngày 12/7/2006 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội mà tiền thân là "Ban nha khoa Bệnh viện Phủ Doãn". Ban nha khoa được thành lập từ năm 1939, là cơ sở nha khoa đầu tiên của 3 nước Đông Dương Việt Nam, Lào, Campuchia.
Ngày 12-11-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1874/QĐ-TTg ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế. Theo quyết định này của Thủ tướng, Viện Răng Hàm Mặt Quốc gia được đổi tên thành Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
Bệnh viện là cơ sở khám chữa bệnh tuyến sau cùng về Răng Hàm Mặt, và đồng thời là trung tâm nghiên cứu khoa học và cơ sở đào tạo cán bộ RHM ở các bậc đại học và sau đại học.
- Cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng về chuyên ngành Răng Hàm Mặt:
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực y tế
- Nghiên cứu khoa học
- Phòng, chống dịch bệnh
- Chỉ đạo chuyên môn tuyến dưới
- Hợp tác quốc tế
- Quản lý đơn vị
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được cấp có thẩm quyền giao.
Hệ thống phòng khoa.
Bệnh viện có 31 đơn vị trực thuộc bao gồm 9 phòng chức năng, 14 khoa lâm sàng, 8 khoa cận lâm sàng và ban chỉ đạo chương trình nha học đường. | 1 | null |
Aim and Ignite là album phòng thu đầu tay của ban nhạc indie pop Fun.. Album được phát hành vào ngày 25 tháng 8 năm 2009 bởi hãng đĩa Nettwerk. Tựa đề của album được đặt dựa theo ca khúc "Light a Roman Candle with Me".
Danh sách ca khúc.
Tất cả các ca khúc trong album đều được sáng tác bởi Nate Ruess, Andrew Dost, Jack Antonoff và Sam Means.
Ca khúc tặng kèm ở iTunes:
Tiếp nhận.
"Aim and Ignite" nhận được nhiều lời khen ngợi. Drew Beringer từ AbsolutePunk.net ca ngợi album, gọi nó là "album pop quan trọng nhất năm 2009". Allmusic gọi là album "tiến bộ, nhưng là theo một cách tốt nhất có thể" và khen ngợi lời các ca khúc là "nói về những sự thật lớn hơn của cuộc sống... với một cách tiếp cận dí dỏm". Dave de Sylvia của Sputnikmusic đã viết: ""Aim and Ignite" không phải là album pop phù hợp nhất bây giờ," nhưng ông cuối cùng khen ngợi album như là "một album pha trộn và bố trí tuyệt vời được thực hiện bởi những người nhạc sĩ hiểu rõ các giới hạn và tiềm năng của nhạc pop". Estella Hung từ PopMatters thì ít có ấn tượng với album, ca ngợi bài hát "Be Calm" và "The Gambler", nhưng chỉ trích lời bài hát và việc sản xuất các ca khúc đầu tiên của album. Ken Shane của Popdose của Ken Shan gọi album là "Nghe thú vị và khác thường".
Album đã đạt vị trí thứ 56 tại Sputnikmusic's top 50 năm 2009. | 1 | null |
Đá Ken Nan là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía tây của đá Tư Nghĩa và cách đảo Sinh Tồn 8 hải lý (14,8 km) về phía đông.
Đá Ken Nan là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Một số nguồn cho rằng đá này nằm trong vòng kiểm soát của Trung Quốc từ năm 1988. | 1 | null |
Joo Won (tiếng Hàn: 주원, tên thật: Moon Joon Won, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1987) là một nam diễn viên Hàn Quốc được biết đến qua các bộ phim "Vua bánh mì", "Quý tử nhà nông", "Mặt nạ anh hùng", "Thiên thần áo trắng", "Thiên tài lang băm", "Alice (phim truyền hình). | 1 | null |
Đá Nghĩa Hành (tiếng Anh: "Loveless Reef"; , Hán-Việt: "Hoa tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm ở phía tây nam của đảo Sinh Tồn và cách đá Cô Lin khoảng 4,3 hải lý (8 km) về phía bắc.
Đá Nghĩa Hành là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này. | 1 | null |
Súng phóng lựu Taubin hay còn gọi là AG-2 là loại súng phóng lựu tự động được phát triển bởi Yakov Grigorevich Taubin khoảng năm 1935 đến 1938 và từng mang ra thử nghiệm trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nó có khá nhiều mẫu thiết kế nhưng hầu hết sử dụng loại đạn 40,8 mm nổ mảnh với hộp đạn rời cũng như có thể chọn chế độ bắn. Loại súng này được thiết kế nhỏ nhẹ nhằm để thay thế loại súng cối 50 mm giúp việc di chuyển trở nên dễ dàng và cơ động cơ. Tuy nhiên loại súng này không bao giờ qua được giai đoạn thử nghiệm vì nhà thiết kế của chúng là Taubin đã bị bắt và tử hình trong cuộc đại thanh trừng năm 1941.
Lịch sử.
Trong đầu những năm 1930 các nhà thiết kế vũ khí của Liên Xô đã bắt tay vào phát triển các mẫu vũ khí để có thể làm tăng sức mạnh hỏa lực của lực lượng bộ binh. Cuối tháng 8 năm 1931 học sinh của Viện Công nghệ Odessa là Yakov Grigorevich Taubin đã gửi một bản thiết kế phác thảo của mình về một loại súng phóng lựu có khả năng bắn liên tiếp loại lựu đạn 40,8 mm Dyakonov.
Sau nhiều tháng bàn luận về đề xuất của Taubin trong việc việc tạo ra một nguyên mẫu của loại súng này tại nhà máy sản xuất vũ khí Kovrov INZ-2 của Liên Xô. Taubin đã rời trường đại học mà mình đang học để đến Kovrov cho việc theo đuổi thiết kế của mình. Và tại đây ông đã thực hiện hai thiết kế của loại súng này với hai cách nạp đạn là theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Năm 1934 thì Cục thiết kế Taubin được thành lập tách biệt với các cục phát triển khác của quân đội tập hợp những người đam mê làm việc dưới sự chỉ đạo của Taubin. Đến năm năm 1937 thì cục đổi tên thành OKB-16 để nhập vào khối công nghiệp quốc phòng Liên Xô. Khi đó nhân viên tại đây là khoảng 50 người tập trung hoàn toàn vào việc phát triển lựu đạn đẩy và bay theo đường đạn, dưới sự lãnh đạo của Taubin một thiết kế súng phóng lựu tự động thật sự đã bắt đầu hình thành.
Mẫu thử nghiệm đầu tiên được chế tạo năm 1935 sử dụng cơ chế nạp đạn blow để nạp đạn tự động, với hộp đạn rời chứa 5 quả lựu đạn, khẩu súng đã cho thấy hiệu quả sát thương của mình. Với mẫu này Taubin đã tạo ra một loại đầu đạn với mới với một quả lựu 40,8 mm nổ mảnh và một túi chứa thuốc nổ nhỏ gắn phía sau làm thuốc đẩy. Tuy nhiên lượng thuốc đẩy này quá nhỏ để có thể cung cấp đủ lực cho việc nạp đạn tự động hoạt động một cách đáng tin cậy, vì thế nên Taubin đã tiến hành thiết kế lại khẩu súng.
Đến năm 1936 một mẫu mới đã được chế tạo. Để tăng độ tin cậy của súng Taubin đã thay cơ chế nạp đạn blowback bằng cơ chế nạp đạn bằng độ giật lùi nòng dài để có thể hấp thu nhiều nhất có thể lực giật mà viên đạn tạo ra để phục vụ cho việc nạp đạn. Tốc độ bắn của mẫu này giới hạn từ 50 - 60 viên/phút. Tuy nhiên sau đó Taubin đã tăng tốc độ bắn lên 440-460 viên/phút và nạp đạn bằng dây đạn khi thấy rằng thuốc phóng cho phép bắn với tốc độ đó mà không làm quá nóng súng cũng như nòng súng có thể chịu được tốc độ bắn như thế mà không bị hỏng khi bắn hết dây. Tầm bắn của mẫu này là 1200 m.
Kể từ năm 1933 loại lựu đạn 40,8 mm đã được nghiên cứu và cho ra nhiều biến thể khác nhau. Đến năm 1937 thì OKB-16 đã làm 12 mẫu của loại lựu đạn này trong khi nhà máy sản xuất vũ khí Kovrov INZ-2 lại làm ra thêm 24 mẫu. Đến cuối năm 1937 thì Taubin đã cho ba sư đoàn bắn thử nghiệm hết các loại lựu đạn này và nhận được nhiều đánh giá tích cực cùng với một kết luận là có thể tăng tốc độ bắn lên thêm 100 viên/phút.
Ban đầu loại súng này được gắn trên bệ chống gắn bánh xe của súng PM M1910 để tiện cho việc di chuyển nhưng nó quá nặng với bộ binh với trọng lượng 73 kg. Đến năm 1939 thì Taubin đã loại bỏ được một lượng lớn trọng lượng và kéo nó xuống còn 45,5 kg và việc giảm trọng lượng này không làm ảnh hưởng đến hỏa lực của súng. Khi đó nó trở nên dễ dàng để vác đi hay kéo trên bệ chống gắn bánh xe hoặc trên các ván trượt vào mùa đông.
Tháng 11 năm 1938, một mẫu thử nghiệm đã được gắn ở vị trí của các khẩu pháo tự động ShVAK trên cả các phương tiện bọc thép cũng như bệ chống cố định. Ngoài ra một lượng nhỏ cũng được lực lượng NKVD thử nghiệm và nhận được các đánh giá tích cực. Đến cuối năm 1938 thì việc thử nghiệm đã hoàn tất, quân đội gọi loại súng này là AG-2 cũng như sẵn sàng thử nghiệm để có thể đưa vào biên chế. Các thử nghiệm của quân đội đã được thực hiện trong cuộc chiến tranh Liên Xô-Phần Lan. Trong cuộc chiến này loại súng phóng lựu tự động này đã chứng tỏ hiệu quả cao của mình trong việc chống lại bộ binh đối phương nhưng cũng bộc lộ các khiếm khuyết như thời gian sử dụng khá ngắn, có thể bị kẹt đạn trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Các khiếm khuyết đã được ghi nhận và đánh giá như những việc cần giải quyết trong tương lai. Và chúng sẽ được giải quyết bằng việc phát triển một chất bôi trơn mới không đóng băng ở nhiệt độ cực thấp, loại chất hãm ngăn không cho các thiết bị chuyển động bị mòn quá nhanh, cải thiện vật liệu cũng như phát triển bộ phận tản nhiệt mới cho súng.
Sau việc thử nghiệm trên chiến trường thì AG-2 được nghiên cứu về mặt công nghiệp và kinh tế, nơi mà nó bị thấy là có chi phí quá cao để sản xuất với số lượng lớn vì thiết các chi tiết khá phức tạp cũng như vật liệu làm loại súng này phải được tinh luyện theo phương pháp khá khó khăn thời đó.
Tuy nhiên việc tối ưu hóa sản xuất không bao giờ được thực hiện và việc chế tạo loại súng này cũng bị dừng lại vì Taubin đã bị bắt và tử hình trong cuộc đại thanh trừng năm 1941. Việc phát triển loại súng phóng lựu tự động này đã khiến cho các loại súng cối trở nên lỗi thời, nhưng súng cối vẫn giành được chiến thắng trong việc chọn để đưa vào biên chế cho các lực lượng pháo binh vì chúng đơn giản và rẻ hơn cho việc chế tạo hàng loạt. Taubin đã đi quá xa trong việc chỉ trích sự lựa chọn này nên ông đã bị bắt và tử hình với tội danh phá hoại. Dù vậy thiết kế của Taubin đã được sử dụng trong các thiết kế súng phóng lựu tự động được phát triển sau đó khi lực lượng quân đội nhận ra tầm quan trọng của loại vũ khí này trong các chiến trường hiện đại cũng như công nghệ đã phát triển đủ để sản xuất hàng loạt mà không gặp khó khăn. | 1 | null |
Đá Bãi Khung (tiếng Anh: "Holiday Reef"; , Hán-Việt: "Trường Tuyến tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá nằm ở vùng đông bắc của cụm Sinh Tồn, ở phía tây của đá Ba Đầu và cách đảo Sinh Tồn khoảng 14 hải lý (25,9 km) về phía đông bắc.
Đá Bãi Khung là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Việt Nam quyết tâm kiểm soát bãi đá này. | 1 | null |
Đá Bình Sơn (tiếng Anh: "Hallet Reef"; , Hán-Việt: "An Lạc tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía tây nam của đá Bãi Khung và phía đông bắc của đá Tư Nghĩa.
Đá Bình Sơn là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này. | 1 | null |
Đá Đức Hòa (tiếng Anh: "Empire Reef"; , Hán-Việt: "Chủ Quyền tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá nằm gần đầu mút đông bắc của cụm Sinh Tồn, cụ thể là ngay phía tây của đá Ba Đầu và phía đông bắc của đá Bãi Khung.
Đá Đức Hòa là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này. | 1 | null |
Fokker G.I là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng hai động cơ của Hà Lan, nó có kích thước và nhiệm vụ tương đương với loại Messerschmitt Bf 110 của Đức và Mosquito của Anh.
Tính năng kỹ chiến thuật (Fokker G.Ia).
"Nederlandse Vliegtuig Encyclopedie No.12: Fokker G-1 (2nd edition)"; "The Fokker G-1" | 1 | null |
Đá Ninh Hòa (tiếng Anh: "Tetley Reef"; , Hán-Việt: "Biển Sâm tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía tây nam đá Vị Khê và phía đông bắc đá Văn Nguyên.
Đá Ninh Hòa là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này. | 1 | null |
Heinkel He 219 "Uhu" ("Cú lớn") là một loại máy bay tiêm kích bay đêm được trang bị cho Luftwaffe (Không quân Đức) trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới II. Đây là một thiết kế tương đối phức tạp, He 219 được áp dụng một loạt các phát minh mới, bao gồm một radar tiên tiến băng VHF. Nó là máy bay quân sự đầu tiên trên thế giới trang bị ghế phóng cho phi công, và là máy bay đầu tiên của Đức trong Chiến tranh thế giới II có càng đáp ba. Nếu He 219 được trang bị với số lượng lớn, rất có thể nó sẽ ảnh hưởng đáng kể tới kết quả của các cuộc ném bom chiến lược vào các thành phố của Đức do Không quân Hoàng gia thực hiện. Nhưng chỉ có 294 chiếc được chế tạo vào cuối chiến tranh và chỉ tham chiến hạn chế.
Tính năng kỹ chiến thuật (He 219 A-7).
"Jane's Fighting Aircraft of World War II" | 1 | null |
IMAM Ro.57 là một loại máy bay tiêm kích một chỗ, 2 động cơ của Regia Aeronautica (Không quân Italy) trong Chiến tranh thế giới II. Dựa trên thiết kế năm 1939 của Giovanni Galasso, nó không được đưa vào sản xuất cho đến tận năm 1943. Đến khi đưa vào trang bị thì nó đã bị xem như lỗi thời.
200 chiếc đã được đặt chế tạo, những chỉ có 50-75 chiếc được sản xuất với hai phiên bản, một phiên bản là tiêm kích đánh chặn, còn phiên bản kia là cường kích.
Tính năng kỹ chiến thuật (Ro.57).
Warplanes of the Second World War, Fighters Volume 2 | 1 | null |
Võ Văn Vân sinh năm 1884 tại xã An Sơn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Ông là một Lương Y.
Tiểu sử.
Võ Văn Vân sinh trong một gia đình làm nghề thuốc. Cha ông là một Ngự Y tài giỏi của triều đình Huế.
Ông biết là người ham học, biết cả tiếng Pháp và chữ Hán Nôm.
Năm 1933, Võ Văn Vân đạt danh hiệu Đông y sĩ và Đông dược sĩ của miền Nam.
Năm 1934, Ông sáng lập ra Việt Nam Y Dược Hội để bảo vệ lương y và dược sĩ Đông Phương.
Từ năm 1935 đến 1945, ông lập nhà thuốc Võ Văn Vân ở Sài Gòn và hành nghề cho đến khi qua đời.
Sự nghiệp.
Lương Y Võ Văn Vân đã sản xuất và phát hành 66 loại thuốc đông dược nổi tiếng khắp Nam kỳ, Trung kỳ và Nam Vang.
Chính nhờ hiệu thuốc này đã hạn chế độc quyền về Đông dược của những nhà thuốc người Hoa. Giúp cho những người dân nghèo được chữa bịnh với giá thấp.. | 1 | null |
Cá rô sông Nile, tên khoa học Lates niloticus, còn gọi là cá Mbuta ở châu Phi, là một loài cá nước ngọt thuộc họ Latidae trong bộ Perciformes (Cá vược). Chúng được tìm thấy kha phổ biến trong vùng sinh thái Afrotropic, nguồn gốc ở sông Congo, sông Nile, sông Sénégal, sông Niger, hồ Tchad, hồ Volta, hồ Turkana và những sông khác. Loài này cũng sống trong nước lợ của hồ Maryut ở Ai Cập. Chúng có thể dài hơn 2 mét và nặng 200 ký nhưng trung bình dài khoảng 120 đến 140 centimét.
Nguy cơ tuyệt chủng.
Do đánh bắt quá đà, số lượng loài này ở hồ Victoria, hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi, đã suy giảm nhanh chóng. Kích thước của các con cá bắt được cũng giảm đi rất nhiều so với trước. Một phần lý do của sự sụt giảm này đến từ Trung Quốc, nơi nhu cầu dành cho bong bóng cá là rất cao. Nhu cầu tăng mạnh của thị trường Trung Quốc đối với bong bóng cá dùng để chế biến món súp và hầm, khiến số lượng loài này ở hồ Victoria bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh việc được sử dụng để chế biến món súp hoặc hầm, bong bóng cá được coi là một nguồn cung cấp nhiều collagen ở Trung Quốc. Điều này khiến cho giá của cá rô sông Nile tại hồ Victoria tăng đột biến, từ 2 USD mỗi kg năm 2000 lên gấp đôi vào năm 2005. | 1 | null |
Lucas Rodrigues Moura da Silva (sinh ngày 13/8/1992 tại São Paulo), thường được gọi với tên Lucas, là một cầu thủ bóng đá người Brazil hiện đang chơi như một tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ cánh cho São Paulo tại Campeonato Brasileiro Série A.
Câu lạc bộ chuyên nghiệp.
São Paulo.
Lucas gia nhập Câu lạc bộ São Paulo từ năm 2005 sau khi chơi cho đội trẻ của Juventus và Corinthians thuộc giải quốc nội. Lucas lần đầu tiên chơi cho Sao Paulo vào năm 2010, ghi được 4 bàn thắng cùng 4 đường kiến tạo trong 25 lần ra sân. Năm 2011, Lucas đã ghi được 9 bàn và kiến tạo 4 pha ghi bàn trong 28 lần ra sân tính riêng giải vô địch quốc gia, 13 bàn thắng và 8 đường chuyền kiến tạo ở mọi giải đấu.
Paris Saint-Germain.
Trong mùa hè năm 2012, cả Manchester United và Internazionale đều được báo cáo là quan tâm đến việc ký hợp đồng với Lucas. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2012, Paris Saint-Germain đã giành chiến thắng trong trận chiến và tuyên bố Moura sẽ chuyển đến câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2013. Anh là bản hợp đồng đắt giá nhất của câu lạc bộ. Phí chuyển nhượng được báo cáo là khoảng trị giá 45 triệu euro (38 triệu bảng). Nó đã được thông báo rằng Lucas sẽ mặc áo số 29 trong phần còn lại của mùa giải.
Vào ngày 11 tháng 1 năm 2013, Moura có trận ra mắt trước AC Ajaccio, trong trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 0 0. Ông cũng chơi trong Champions League chiến thắng đi qua Valencia vào ngày 12 tháng Hai, hỗ trợ mục tiêu trong quá trình này. Vào ngày 13 tháng 9 năm 2013, Moura đã ghi bàn thắng đầu tiên cho PSG trong chiến thắng 2 trận đấu 0 trận trước Bordeaux.
Trong mùa giải 201415, sau khi Jérémy Ménez chuyển đến AC Milan, Lucas đã được trao chiếc áo số 7 - cùng số áo anh mặc khi chơi cho São Paulo. Moura đã ra mắt mùa giải đầu tiên cho PSG trong chiến thắng 2 trận0 Trophée des Champions của họ trước người chiến thắng Coupe de France EA Guingamp vào ngày 2 tháng 8 năm 2014 tại Sân vận động Công nhân ở Bắc Kinh.
Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong chiến dịch 20141515 Ligue 1 vào ngày 16 tháng 8, tung cú vô lê trong đường chuyền của Charlie van der Wiel khi PSG đánh bại Bastia 2-0. Vào ngày 5 tháng 10, Moura đã ghi bàn thắng mở tỉ số trong trận đấu 1-1 với đối thủ vô địch Monaco. Với hai bàn thắng trong chiến thắng 3 trận0 của PSG trước Bordeaux vào ngày 25 tháng 10, Lucas đã cân bằng số bản ghi được trong giải đấu của anh ấy từ mùa giải trước.
Vào ngày 7 tháng 8 năm 2015, Lucas đã ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải 20151616 Ligue 1 trong trận thua 1 trận0 của PSG trước Lille OSC tại Stade Pierre-Mauroy.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 2016, Lucas đã ghi bàn thắng đầu tiên của PSG ở phút thứ 13 trong chiến thắng 2 trận1 trên sân khách trước AS Nancy trong trận đấu tại Ligue 1 với cú đá phạt từ bên trái mà không ai chạm được; đó là mục tiêu giải đấu thứ năm của anh trong mùa giải 20161717 Ligue 1. Đối với mùa giải 20171818 Ligue 1, anh chỉ xuất hiện sáu lần thay thế cho câu lạc bộ, và rời đi vào tháng 1 năm 2018.
Tottenham Hotspur.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2018, Lucas đã ký hợp đồng với Tottenham Hotspur cho đến năm 2023 với mức phí chuyển nhượng khoảng 25 triệu bảng. Anh ra mắt Tottenham trong trận đấu 20171818 UEFA Champions League 2017 với Juventus vào ngày 13 tháng 2 năm 2018, vào sân thay người muộn trong trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 2-2. Anh đã có khởi đầu đầu tiên cũng như ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong trận đấu cúp FA với Rochdale vào ngày 18 tháng 2 năm 2018 cũng kết thúc 2-2.
Trong mùa giải 2018-19, Lucas đã ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League vào ngày 18 tháng 8 năm 2018 trong chiến thắng 3-1 của Spurs trước Fulham. Trong trận đấu tiếp theo vào ngày 27 tháng 8 năm 2018, Lucas đã ghi một cú đúp vào lưới Manchester United khi Tottenham thắng 3-0, chiến thắng thứ ba trên sân khách tại Old Trafford sau 27 trận. Anh đã ghi bàn thắng Champions League đầu tiên cho Spurs trong trận đấu vòng bảng với PSV Eindhoven. Trong trận đấu với Barcelona trên sân Camp Nou, Lucas đã ghi bàn gỡ hòa muộn sau khi Barcelona vượt lên dẫn trước trong trận đấu. Trận đấu kết thúc với tỷ số 1-1, đã đưa Tottenham vượt qua vòng loại trực tiếp cùng với Barcelona. Vào ngày 13 tháng 4 năm 2019, Moura đã lập một hat-trick trong chiến thắng 4-0 trước Huddersfield Town. Đây là cú hat-trick đầu tiên của anh ở châu Âu và là cú hat-trick đầu tiên được ghi tại sân vận động Tottenham Hotspur mới.
Vào ngày 8 tháng 5 năm 2019, Lucas đã lập hat-trick hiệp hai trong chiến thắng 3-2 của Tottenham trước Ajax tại sân vận động Johan Cruyff trong trận lượt về vòng bán kết Champions League của họ. Spurs đã bị dẫn trước 2-0 và 3-0 trên tổng tỷ số nhưng đã lội ngược dòng để giành chiến thắng trên sân khách. Bàn thắng thứ ba của anh, vào phút thứ 96, lần đầu tiên đưa Tottenham vào một trận chung kết Champions League trong lịch sử đội bóng.
Quốc tế.
Lucas là thành viên trong đội hình chính thức của đội tuyển U-20 Brasil. Tháng 2/2011, Lucas thi đấu cho U20 Brasil thuộc giải vô địch U-20 Nam Mỹ, nơi anh ghi 1 hat-trick trong chiến thắng 6-0 trước U-20 Uruguay trong trận chung kết.
Lucas xuất hiện lần đầu tiên ở đấu trường quốc tế cấp quốc gia khi chơi cho đội tuyển Brasil trong trận giao hữu với Scotland ngày 27/3/2011.
Ngày 28/9/2011, Lucas lần đầu tiên ghi bàn cho đội tuyển quốc gia trong trận đấu với Argentina.
Copa América 2011.
Lucas được huấn luyện viên Mano Menezes điền tên trong đội hình tham dự giải tranh Cúp bóng đá Nam Mỹ năm 2011 tại Argentina. Lucas xuất hiện trong trận đấu vòng bảng với Paraguay và Ecuador đều từ sự thay đổi người từ băng ghế dự bị. Lucas không có trong danh sách cầu thủ đá hỏng Penalty trong trận đấu mà Brasil đã bị loại bởi đối thủ trực tiếp là Paraguay ở tứ kết.
Olympics 2012.
Lucas đã được lựa chọn để cùng Đội tuyển bóng đá Olympic Brasil tham gia Olympic 2012 tại London cùng với đồng đội câu lạc bộ là Casemiro và Bruno Uvini. Tại kỳ thế vận hội này, đội tuyển Olympic Brasil mặc dù đã lọt vào đến chung kết nhưng cuối cùng phải chịu thất bại 1-2 trước Đội tuyển bóng đá Olympic Mexico và đành chấp nhận tấm huy chương bạc.
Cúp Liên đoàn các châu lục 2013.
Moura đã được huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari triệu tập lên đội tuyển tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 trên sân nhà.
Copa América Centenario 2016.
Năm 2016, Moura có tên trong danh sách 23 cầu thủ tham dự Copa América Centenario tại Hoa Kỳ
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
São Paulo
Paris Saint-Germain
Đội tuyển quốc gia.
U-20 Brasil
U-23 Brasil
Brasil | 1 | null |
Gia Cát Huyền (chữ Hán: 諸葛玄; ?-197) là tướng dưới quyền quân phiệt Viên Thuật thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế.
Gia Cát Huyền người ở huyện Dương Đô, quận Lang Gia (thuộc Từ châu), là hậu duệ của quan Tư Lệ hiệu úy nhà Hán là Gia Cát Phong, dòng dõi của tướng Gia Cát Anh thời Tần mạt - người có công giúp Trần Thắng khởi binh chống nhà Tần. Anh ông là Gia Cát Khuê làm tới chức quận thừa ở Thái Sơn.
Tướng thời loạn.
Do Gia Cát Khuê mất sớm, Gia Cát Huyền cưu mang 2 cháu còn nhỏ (con của Khuê) là Gia Cát Lượng và Gia Cát Quân. Theo Tam quốc chí, ông phục vụ dưới trướng quân phiệt Viên Thuật; "Hán Tấn xuân thu" lại cho rằng ông phục vụ dưới quyền quân phiệt Lưu Biểu.
Năm 193, Thứ sử Dương châu do nhà Hán bổ nhiệm là Trần Ôn mất. Tại quận Dự Chương thuộc Dương châu, Thái thú Chu Thuật do nhà Hán bổ nhiệm cũng qua đời. Viên Thuật bị Tào Tháo đánh bại, mang quân vào Dương châu, tranh chấp nơi này với Viên Thiệu, đánh bại tướng của Viên Thiệu là Viên Di, bổ nhiệm thủ hạ Huệ Cù làm Thứ sử Dương châu và cử Gia Cát Huyền làm Thái thú Dự Chương.
Gia Cát Huyền tới Dự Chương nhậm chức, đóng trị sở ở huyện Nam Xương, mang theo 2 cháu Gia Cát Lượng và Gia Cát Quân.
Năm 194, triều đình Trường An do quyền thần Lý Thôi chi phối không chấp nhận Viên Thuật, bèn bổ nhiệm Lưu Do làm thứ sử Dương châu và Chu Hạo làm Thái thú Dự Chương. Chu Hạo theo thứ sử Dương Châu là Lưu Do mượn binh đánh Gia Cát Huyền. Gia Cát Huyền thua trận, Chu Hạo chiếm được Nam Xương.
Gia Cát Huyền bỏ chạy về Tây Thành. Viên Thuật và Lưu Do cùng nhau giành giật Dương châu. Năm 196, Lưu Do bị tướng của Viên Thuật là Tôn Sách đánh bại, phải chạy về Dự Chương nương nhờ thái thú Hoa Hâm (được triều đình Trường An bổ nhiệm thay Chu Hạo, người đã bị Trách Dung giết chết).
Quãng đời sau của Gia Cát Huyền được sử sách ghi khác nhau. Theo Tam quốc chí, sau khi thất bại ở Dự Chương, ông mang theo gia quyến tới Tương Dương nương nhờ Lưu Biểu. Theo "Hán Tấn Xuân thu", tháng 1 năm Kiến An thứ hai (197), dân ở Tây thành làm phản chống lại Gia Cát Huyền, giết chết ông và gửi đầu đến chỗ Lưu Do. | 1 | null |
Đền Đại Tư Mã, còn gọi là Đền Đô hoặc Miễu Đô, là quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ quan Đại tư mã Nghiêm Tĩnh thời Lý. Đền Đại Tư Mã đã được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa theo Quyết định số 74/VH-QĐ ngày 2/2/1993.
Khái quát.
Đền Đại Tư Mã tọa lạc trên khu đất xưa thuộc Bờ Lũng Xứ (sách cổ ghi là Bờ Long Xứ), phía Bắc làng Quan Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đền nằm cách thủ đô Hà Nội 25 km về phía Bắc.
Đền thờ quan Đại tư mã Nghiêm Tĩnh (con rể vua Lý Cao Tông), chính thất Quận phu nhân Thiên hoàng chi đệ tam nữ Lý Thị Phương (hiệu Từ Tiên) cùng hai thê tử tại đền. | 1 | null |
Chuột đen (danh pháp hai phần: Rattus rattus) là một loài động vật gặm nhấm dài đuôi phổ biến của loài trong chi "Rattus" trong phân họ "Murinae". Loài chuột này có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Á và lây lan qua vùng Cận Đông trong thời La Mã trước khi tới châu Âu vào thế kỷ 1 và lây lan với châu Âu trên toàn thế giới.
Con chuột đen lớn điển hình có chiều dài 32,4-46,4 cm, bao gồm đuôi dài 17–25 cm và can nặng 110-340 g. Mặc dù có tên gọi là chuột đen, loài này lại có một số hình thức màu sắc khác. Nó thường là màu đen đến nâu sáng với phía dười màu nhạt hơn. Trong những năm 1920 ở Anh, một chủng chuột đen được tạo ra và có màu cùng với chuột nâu. | 1 | null |
Mastomys coucha (tên tiếng Anh: "Chuột vú phương Nam") là một loài động vật gặm nhấm thuộc họ Chuột. Nó được tìm thấy ở các quốc gia như Angola, Botswana, Lesotho, Mozambique, Namibia, Nam Phi và Zimbabwe. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các xavan khô và ẩm, các vùng cây bụi khô nhiệt đới hay cận nhiệt, đất trồng trọt và các vườn cây ở nông thôn. | 1 | null |
Tagir Khaybulaev () (sinh ngày 24 Tháng bảy 1984 trong Kizilyurt, Dagestan, Nga) là một võ thủ judo người Nga gốc Avar. Trong Thế vận hội Mùa hè 2012, Tagir đã giành được huy chương vàng thứ ba của mình sau khi đánh bại đương kim vô địch Naidangiin Tüvshinbayar của Mông Cổ giành chiến thắng giải đấu judo nam dưới 100 kg | 1 | null |
Naidangiin Tüvshinbayar (, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1984 trong tổng Saikhan sum) là một vận động viên judo Mông Cổ.
Tại Đại hội Thể thao châu Á 2006, anh đã hoàn thành ở vị trí thứ năm cho hai nội dung (dưới 100 kg) và giải hạng cân mở rộng.
Anh đã giành được một huy chương vàng tại Thế vận hội 2008 tại Bắc Kinh. Anh là người Mông Cổ đầu tiên giành một huy chương vàng tại Thế vận hội, sau khi đánh bại Askhat Zhitkeyev. của Kazakhstan. Ngày 14 tháng 8 năm 2008, anh được phong là vận động viên danh dự quốc gia của Mông Cổ cũng như danh hiệu anh hùng lao động.
Tại Thế vận hội Mùa hè 2012 ở London, anh đã giành được một huy chương bạc, trở thành 1 tuyển thủ đoạt nhiều huy chương Thế vận hội từ Mông Cổ. Hiện anh đang sinh sống tại Ulan Bator. | 1 | null |
Chi Trăn ("Python", bắt nguồn từ chữ (πύθων/πύθωνας) trong tiếng Hy Lạp và trước đó là chữ פתן (Peten) trong tiếng Hebrew và chữ בת'ן (Bethen) trong tiếng Canaan) là một chi trăn thuộc họ cùng tên ("Pythonidae"), sống ở Châu Á và Châu Phi. Hiện nay, chi Trăn có 7 loài được công nhận. Trong đó, loài trăn "P. reticulatus" là thành viên có chiều dài lớn nhất thuộc phân bộ Rắn.
Phân bố địa lý.
Các thành viên của chi Trăn xuất hiện ở vùng châu Phi nhiệt đới, phía Nam sa mạc Sahara; tuy nhiên nó không có mặt ở Nam Phi, vùng cực Tây Nam châu Phi và đảo Madagascar. Ở châu Á, chi này phân bố từ Bangladesh, Nepal, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka (bao gồm cả quần đảo Nicobar) cho tới Myanma, Đông Dương, miền Tây Nam Trung Quốc, Hồng Kông, đảo Hải Nam và đến tận vùng Malaya và Philippines.
"P. molurus" và "P. sebae" được xem là loài xâm hại ở Bắc Mỹ. Chúng hiện đã khá phổ biến ở miền Nam Florida và vùng Everglades.
Danh sách loài.
"*) Không bao gồm phân loài nguyên chủng."
T) Loài điển hình.
Công dụng.
Da trăn được sử dụng để làm quần áo hoặc phụ kiện thời trang như áo khoác, thắt lưng, giày ống, dép, và túi xách. Nó cũng có thể được kéo dãn và làm thành dây đàn của một số nhạc cụ, chẳng hạn như erhu cành-fiddle, sanxian và sanshin lutes; đôi khi được dùng làm nguyên liệu trong việc chế tác một số bộ phận của đàn nhị hồ (二胡).
Thú nuôi.
Nhiều loài Python, chẳng hạn như P. regius, P. brongersmai, P. bivittatus và P. reticulatus thường được ưa chuộng để giữ làm thú nuôi vì sự dễ chăm sóc, tính khí dẻo dai và màu sắc sống động; với một số đột biến hiếm gặp đã được bán với giá vài ngàn đô la. Mặc dù có những tranh luận nảy sinh từ các báo cáo của các phương tiện truyền thông, với các thủ tục an toàn thích hợp, những con trăn dùng để làm thú cưng tương đối an toàn để sở hữu. | 1 | null |
SIG SG 550 là loại súng trường tấn công do hãng chế tạo vũ khí nổi tiếng của Thụy Sĩ là Swiss Arms (tên cũ là GS) phát triển và chế tạo từ năm 1986 tới nay. SG 550 là thiết kế phát triển từ SIG SG 540 vốn ra đời từ thập niên 1970.
SG 550 có cơ chế nạp đạn bằng khí nén kiểu trích khí dài, khóa nòng kín, đa chế độ bắn, sử dụng đạn 5.56×45mm NATO hoặc loại đạn đặc biệt của riêng nó do Thụy Sĩ sản xuất là GP90. Nó có một số phiên bản sau đây:
Tới nay, có khoảng 60 vạn khẩu SG 550 các phiên bản được chế tạo. Có 16 quốc gia chính thức sử dụng SG 550. | 1 | null |
Tiên Cảnh - Serenia Fantasy (Tiếng Hoa: 仙境幻想) là một Webgame được công ty Koramgame, Hồng Kông phát triển thuộc thể loại MMORPG. Game được thiết kế theo phong cách Pixel-Art của dòng game nhập vai thập niên 90. Game miễn phí và chạy trên trình duyệt web (Ví dụ: Google Chrome, Firefox, Internet Explorer) đã cài sẵn plugin Adobe Flash Player. Trong Tiên Cảnh, các game thủ sẽ hóa thân thành Kiếm Sĩ, Cung Thủ hay Pháp Sư để cùng nhau phiêu lưu trong thế giới Tiên Cảnh.
Lịch sử.
Tiên Cảnh được công ty Koramgame phát hành đầu tiên tại Hồng Kông vào năm 2011 với tên 仙境幻想 và đã thu hút được nhiều người chơi. Sau thành công ở bản quốc, Koramgame tiếp tục phát hành Game sang thị trường châu Âu vào đầu năm 2012 với tên Serenia Fantasy và được tạp chí game Playpark xếp vào top 5 MMORPG đáng chơi. | 1 | null |
Trăn Miến Điện hay còn gọi là trăn mốc,trăn đất(danh pháp hai phần: Python bivittatus) trước đây được xem là phân loài lớn nhất của trăn Ấn Độ trong chi python, cho đến năm 2009 thì các nhà khoa học đã xác minh lại rằng chúng là một loài riêng biệt, và một trong 6 loài rắn lớn nhất thế giới, là loài bản địa nhiều khu vực nhiệt đới và các khu vực bán nhiệt đới phía Nam và Đông Nam Á. Chúng thường được tìm thấy gần nước và đôi khi bán thủy sinh, nhưng cũng có thể được tìm thấy trong cây. Trong đời sống hoang dã, cá thể có chiều dài trung bình , nhưng có thể đạt đến chiều dài 6,5m, thậm trí là tới 7,5m, cân nặng chúng vào khoảng 90- 190kg. Trăn mốc trong 24 h đã nuốt xong bốn con dê nặng khoảng 5,5 đến 8,5 kg. Nhịn đói trong một thời gian dài, song có khả năng ăn nhiều một lúc. Khi nhịn ăn thì uể oải.
Phân bố và môi trường sống.
Trăn Miến Điện xuất hiện khắp Nam và Đông Nam Á, bao gồm đông Ấn Độ, đông nam Nepal, tây Bhutan, đông nam Bangladesh, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, lục địa phía bắc Malaysia và ở miền nam Trung Quốc ở Phúc Kiến, Giang Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây và Vân Nam. Chúng cũng hiện diện ở Hong Kong, và ở Indonesia trên Java, nam Sulawesi, Bali, và Sumbawa. Loài này được ghi nhận ở đảo Kim Môn.
Chúng thường được tìm thấy gần các đầm lầy và đầm lầy, và đôi khi là bán sống, nhưng cũng có thể được tìm thấy trên cây. Ở Việt Nam thì trăn Miến Điện thường được gọi là trăn mốc.
Nó là một vận động viên bơi lội xuất sắc và cần một nguồn nước lâu dài. Nó sống ở các đồng cỏ, đầm lầy, đầm lầy, chân núi đá, rừng cây, thung lũng sông và rừng rậm với các khe hở. Nó là một nhà leo núi giỏi và có đuôi có thể quấn được.
Loài xâm lấn.
Sự xâm lấn của loài trăn này đặc biệt rộng rãi, đặc biệt là trên Nam Florida, nơi có thể tìm thấy một số lượng lớn trăn ở Florida Everglades. Số lượng trăn Miến Điện hiện tại ở Florida Everglades có thể đã đạt đến quần thể sống sót tối thiểu và trở thành loài xâm lấn. Bão Andrew năm 1992 được coi là đã phá hủy một cơ sở nuôi trăn và vườn thú, và những con trăn trốn thoát này đã lan rộng và các khu vực đông dân cư vào Everglades. Hơn 1.330 cá thể đã bị bắt ở Everglades. Ngoài ra, từ năm 1996 đến 2006, trăn Miến Điện trở nên phổ biến trong ngành buôn bán vật nuôi, với hơn 90.000 con rắn được nhập khẩu vào Hoa Kỳ. | 1 | null |
"We Rock", là đĩa đơn chính thức đầu tiên của các diễn viên trong "Camp Rock". Ca khúc được sản xuất bởi Greg Wells và được thiết kế bởi Drew Pearson. Nó được phát hành lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 5 năm 2008 ở cửa hàng Target, và sau đó vào ngày 3 tháng 6 năm 2008 ở cửa hàng iTunes dưới dạng một đĩa đơn và video ca nhạc, cùng với bản ghi âm một cuộc phỏng vấn với Jonas Brothers. Trong ca khúc có sự góp giọng của Meaghan Jette Martin, Renee Sandstrom, Anna Maria Perez de Taglé, Roshon Fegan, Jordan Francis, Nick, Kevin, Joe Jonas (Jonas Brothers), Demi Lovato, Alyson Stoner, Aaryn Doyle và Kara DioGuardi.
Phát hành.
Disney có phát hành một đĩa CD "Exclusive Camp Rock Fan Pack" cho đĩa đơn này qua cửa hàng Target vào 20 tháng 5 năm 2012. Target cũng bán những sản phẩm khác của "Camp Rock", như tiểu thuyết dặc biệt, sách ảnh, túi xách, quần áo, v...v... Bản "Exclusive Camp Rock Fan Pack" bao gồm đĩa đơn CD, bản không lời của ca khúc, một video ca nhạc, một tấm áp phích nhỏ, nhạc chuông và nhiều thứ khác. Vào 3 tháng 6 năm 2008, "We Rock" xuất hiện trên iTunes. Ca khúc cũng xuất hiện trong một bộ phim hoạt hình của kênh Disney Channel là Fish Hooks.
Video ca nhạc.
Video ca nhạc cho "We Rock" được phát hành vào 18 tháng 5 năm 2008, có sự tham gia của các ca sĩ của Disney như Selena Gomez, Jason Dolley, Mitchel Musso và nhiều người hâm mộ ở nhiều nơi trên thế giới. | 1 | null |
Hồ Hưng Dật (胡興逸, 907 -?) là thái thú Diễn Châu đời Hậu Hán. Ông là tổ tiên của Hồ Quý Ly - vị vua khai quốc của vương triều Hồ.
Thân thế và sự nghiệp.
Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", Hồ Hưng Dật vốn quê gốc ở Chiết Giang (Trung Quốc), sinh năm 907 (Đinh Mão). Ông sống vào thời đại tương đương với Dương Tam Kha của Việt Nam. Ông sang làm thái thú Diễn Châu, sau sống ở hương Đào Bột (nay là xã Quỳnh Lâm, tỉnh Nghệ An) rồi làm trại chủ tại đây.
Hồ Hưng Dật, nguyên tổ họ Hồ Việt Nam, theo Đại Việt sử ký toàn thư, cũng như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim: người Chiết Giang, đỗ Trạng nguyên thời Hậu Hán (947 - 951) nằm trong thời Ngũ đại (906 - 960), là giai đoạn tan rã lần thứ hai của chế độ quân chủ Trung Quốc. Hậu Hán chỉ kéo dài 4 năm với hai đời vua là Hậu Hán đế Lưu Trí Viễn và Hán Ẩn đế Lưu Thừa Hữu (theo gia phả do tiến sĩ hồ Sĩ Dương biên soạn). Chính sách của Hậu Hán rất tàn bạo: triều đình ban lệnh kẻ nào lén giữ một tấc da bò, không nôp hết cho triều đình thì bị xử tử. Vì vậy dân chúng trốn thuế và lánh đi. Hồ Hưng Dật đã nam tiến ngay sau khi đỗ Trạng nguyên, sang Giao Châu, chính sau cuộc cướp quyền của Dương Tam Kha (945 - 950) và đối đầu với cuộc nổi loạn Thập nhị sứ quân (945 - 967). Ông tìm nơi lánh nạn và kiếm kế sinh sống tại hương Bào Đột (xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An).
Đến Hoan Châu, ông quen với Đinh Công Trứ, thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Khi Đinh Bộ Lĩnh dấy quân dẹp loạn 12 sứ quân, có đến gặp ông, thăm dò xem ông có tham gia dấy quân không. Ông có góp ý với Đinh Bộ Lĩnh về kế hoạch dẹp loạn sứ quân. Còn việc tham gia dấy binh thì ông thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh là mới lưu lạc đến đây, chỉ xin “vạn đại vi dân” (theo Hồ tộc phả ký của Hồ Sĩ Phôi). Thế là sau một cuộc Nam tiến từ đất Chiết Giang xưa là Ngô Việt nằm trong địa bàn Bách Việt, để tránh Hán hoá, ông đã đến xứ sở Lạc Việt, hoà nhập với cộng đồng. Sách cũ còn ghi triết lý “phúc bất năng hưởng tận” của ông để con cháu đời đời chia sẻ với cộng đồng niềm vui, hạnh phúc. Hơn một nghìn năm từ khi nguyên tổ Hồ Hưng Dật định vị ở Giao Châu, con cháu họ Hồ (đến nay hơn 40 đời) đã tiếp thu giáo huấn của nguyên tổ, phấn đấu làm tròn nhiệm vụ công dân nước Việt trên tất cả các mặt văn trị, võ công, kinh bang tế thế.
Đền thờ nguyên tổ họ Hồ được các vua Hồ (Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương) xây cất ở nơi ông lập nghiệp (hương Bào Đột) vào năm Quý Mùi (1403) niên hiệu Khai Đại thứ nhất. Đây là một ngôi đền lớn với kiến trúc Trần Hồ, chẳng những là di sản văn hoá có giá trị của Nghệ An, mà của cả nước. Do không thấy hết giá trị của đền nên đền không được bảo vệ. Ngày nay, con cháu họ Hồ - cùng với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương - đang có kế hoạch tái tạo lại một phần để tưởng niệm nguyên tổ Hồ Hưng Dật đã sản sinh nhiều nhân vật cho đất nước suốt trường kì lịch sử từ thế kỷ thứ X cho đến nay. Sự hiểu biết về nguyên tổ họ Hồ Việt Nam chưa nhiều, nhưng những nét cơ bản đã được Quốc sử khẳng định.
Gần đây trong bài “Nhớ Nguyễn Xuân Phầu” ông Ngô Đức Tiến đã viết: “"Khi Trạng nguyên Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái thú ở Châu Diễn năm 627, đã chọn Khe Sừng Quỳ Lăng làm châu trị của châu Diễn là có làng Quì Lăng"…”. Chúng tôi không rõ ông Tiến đã dựa vào sử liệu nào mà viết như thế. Năm 627 là thuộc đời Đường Thái Tông Lý Thế Dân (626 - 649). Trong khi đó, quốc sử ghi Hồ Hưng Dật sang Giao Châu thời Hậu Hán - Ngũ Đại (947 - 951). Chả nhẽ ông sang Việt Nam trước khi ông ra đời khoảng 300 năm! Theo Vân Đài loại ngữ thì thế kỷ thứ 7, thứ 8, Quỳ Lăng là trị sở châu Diễn, qua nhiều triều, trị sở châu Diễn lúc ở Quì Lăng, lúc ở Đường Khê, lúc ở Thành Trài, lúc ở Diễn Thành. Giữa thế kỷ thứ X, Hồ Hưng Dật mới sang Giao Châu khi mà Ngô Quyền đã dành độc lập sau 1000 năm Bắc thuộc. Chả nhẽ bấy giờ ông lại làm Thái thú đô hộ châu Diễn ư?
Có người còn bào Đình Sừng là nơi ở, nơi làm việc của Hồ Hưng Dật và đề nghị xem đó là đền thờ nguyên tổ họ Hồ. Thật ra, tại đây còn có dòng chữ ghi rõ: “"Tân Phúc đình, Quì Lăng xã, lý tác Hoàng triều Duy Tân"” (đình Tân Phúc, xã Quì Lăng làm vào đời vua Duy Tân). Chúng tôi nghĩ rằng nếu có cứ liệu ghi rõ trên bước đường tìm nơi cư trú lập nghiệp, có thời gian Hồ Hưng Dật cư trú tại Quì Lăng thì con cháu đặt hương án tưởng niệm cụ tại đó là việc làm bình thường (cũng như sau này đối với tổ Hồ Hồng, ngoài nhà thờ ở Quỳnh Đôi, còn có nhà thờ ông ở Huế, ở Đà Nẵng - Quảng Nam). Còn nhà thờ chính của nguyên tổ họ Hồ Việt Nam - Hồ Hưng Dật là ở hương Bào Đột xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. | 1 | null |
Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương là bệnh viện đầu ngành về YHCT, trực thuộc Bộ Y tế - Trung tâm hợp tác về y học cổ truyền (YHCT) của Tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam.
Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương có trụ sở chính đóng tại số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Bệnh viện có 23 khoa phòng, 3 trung tâm được chia thành 3 khối: lâm sàng, cận lâm sàng, và khối các phòng ban chức năng. Bệnh viện có 371 viên chức trong đó có 02 Phó Giáo sư, 14 Tiến sĩ, 35 Thạc sĩ, 9 Bác sĩ chuyên khoa cấp II, 20 Bác sĩ chuyên khoa cấp I. 1/3 cán bộ đại học và trên đại học. Với đội ngũ các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa II, chuyên khoa I và các bác sĩ giàu kinh nghiệm, bệnh viện là cơ sở điều trị, nghiên cứu, và giảng dạy về YHCT lớn nhất trong cả nước.
Bệnh viện có 550 giường bệnh, có các khoa lâm sàng nội, ngoại, phụ, nhi, châm cứu dưỡng sinh, người có tuổi, hồi sức cấp cứu, v.v..., có đầy đủ các trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu khoa học. | 1 | null |
Lương Nguyên Bưu (?-1399) là một trong những thuộc hạ thân tín của thượng tướng Trần Khát Chân thời nhà Trần.
Thân thế.
Lương Nguyên Bưu, không rõ năm sinh, quê ở Tuyên Quang. Ông sinh gia trong gia đình có truyền thống nhiều đời làm quan, còn được phong Hầu:" Tổ tiên của ông là Toát Thông Vương kiêm phụ đạo vào cuối thời Nhà Lý, con là Lương Văn, Lương Hiến và Lương Quế, đều được phong tước Hầu. Con Quế là Lương Hiếu Bão, vào thời nhà Trần nhờ công đánh giặc Mông-Nguyên nên được phong làm quan phục Hầu. Bão lại sinh ra Lương Thế Tắc được phong Lặc phong Hầu. Tắc lại sinh ra Lương Cúc Tôn làm quan sát sứ. Cúc Tôn sinh ra Lương Nguyên Bưu".
Mưu hành thích bất thành, bị xử chết.
Năm 1399,Hồ Quý Ly tổ chức cuộc họp thề Đốn Sơn (nay là xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), thì thái bảo Trần Hãng và Trần Khát Chân (trong đó có Nguyên Bưu) lập mưu giết Hồ Quý Ly lúc Ly đang đứng trên lầu nhà Khát Chân thì sai Phạm Ngưu Tất cầm gươm lên lầu giết Ly. Bỗng Khát Chân trừng mắt,rồi thôi, khiến Tất nao núng. Quý Ly thấy thế thất kinh đứng dậy, thét truyền vệ sĩ lôi cả bọn Khát Chân, hành khiển Hà Đức Lân,Lương Nguyên Bưu... và các thuộc hạ tâm phúc hết thảy 370 người đem ra xử chém. Nhà của ông thì bị tịch thu hết tài sản, gia quyến thì bị sát hại một cách dã man.
Tham khảo.
Đào Duy Anh(2009)Đại Việt sử ký toàn thư(toàn tập),Nhà xuất bản Văn Học,trang 431. | 1 | null |
Giáo sư Hiroshi Ishiguro (石黒浩 "Ishiguro Hiroshi") là giám đốc Phòng thí nghiệm Rô bốt Thông minh, thuộc Khoa Sáng tạo Hệ thống của Trường Khoa học Kỹ thuật Sau đại học thuộc Đại học Osaka, Nhật Bản. Phòng thí nghiệm này có sản phẩm rô bốt diễn viên (actroid), một rô bốt dạng người có hình dạng sống động như thật và có nhiều hành vi cử chỉ giống người thật, chẳng hạn như có cử động nét mặt.
Trong lĩnh vực phát triển rô bốt, Giáo sư Ishiguro tập trung vào các ý tưởng tạo ra các rô bốt có hình dạng và hoạt động càng giống người thật càng tốt. Tại buổi ra mắt rô bốt diễn viên "nữ" Repliee Q1Expo vào tháng 7 năm 2005, ông nói
"Tôi đã từng tạo ra nhiều rô bốt trước đây, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra sự quan trọng của ngoại hình của rô bốt. Một ngoại hình giống người thật sẽ cho cảm giác mạnh mẽ về sự hiện hữu của rô bốt... Repliee Q1Expo có thể tương tác với người. Nó phản ứng khi người ta chạm vào. Điều này làm chúng tôi thỏa mãn, mặc dù chúng tôi còn một chặng đường dài để đi tiếp." Theo ý kiến của ông, có thể tạo ra rô bốt diễn viên không thể phân biệt nổi với người thật, ít nhất là trong những cuộc gặp ngắn.
Ishiguro đã tạo ra một rô bốt diễn viên trông giống ông, gọi là Geminoid. Geminoid là một trong số các rô bốt xuất hiện trong một phim tài liệu của đài BBC2 ngày 5 tháng 10 năm 2008 trong sê ri "Các Ý tưởng Lớn" của James May. Ishiguro đã được liệt kê là một trong 15 Nhà khoa học châu Á Nên Theo dõi bởi "Tạp chí Khoa học châu Á" vào ngày 15 tháng 5 năm 2011.
Xuất bản.
Sách.
Danh sách tại trang web đại học Osaka
Bài báo.
Danh sách tại trang web đại học Osaka | 1 | null |
Cóc tía phương Đông (danh pháp hai phần: Bombina orientalis) là một loài cóc tía bán thủy sinh nhỏ (4 cm, 2") được tìm thấy ở Triều Tiên, đông bắc Trung Quốc và các khu vực phụ cận tại Nga. Có một quần thể được du nhập ở gần Bắc Kinh. Chúng thường được nuôi làm sinh vật cảnh trong các vườn nuôi trồng sinh vật. | 1 | null |
Junkers Ju 388 "Störtebeker" là một loại máy bay chiến đấu đa năng của Không quân Đức trong Chiến tranh thế giới II, thiết kế của Ju 338 dựa trên Ju 88 giống cách của Ju 188. Ju 388 khác với mẫu máy bay trước nó, Ju 388 dùng cho các chiến dịch tầng cao, thiết kế nổi bật là buồng lái điều áp cho kíp lái. Ju 388 được đưa vào biên chế cuối cuộc chiến, các vấn đề sản xuất cùng với việc cuộc chiến dần đến hồi kết có nghĩa là chỉ có vài chục chiếc được chế tạo. | 1 | null |
Cá lịch vân lớn, tên khoa học Gymnothorax favagineus, là một loài cá lịch trong họ được tìm thấy ở đại dương.
Loài cá lịch này có thể dài tới 300 cm. Chúng ăn chủ yếu là cá nhỏ và động vật thân mềm. Người ta đã quan sát thấy con trưởng thành dễ hung hăng trong tự nhiên.
Chúng được tìm thấy ở Ấn Độ-Thái Bình Dương và Đông Phi, Papua New Guinea, phía bắc miền nam Nhật Bản, phía nam của Úc. Những con cá lịch này sinh sống ở độ sâu từ 1 và 45 m, thường là trong các đường nứt trong các bãi rạn san hô và dốc. | 1 | null |
Rk 95 Tp (tiếng Phần Lan: "Rynnäkkökivääri 95 Taittoperä") là súng trường tấn công dùng đạn 7,62×39mm của Phần Lan. Súng được thiết kế hồi cuối thập niên 1980 và đưa vào sử dụng trong Quân đội Phần Lan từ năm 1995. Súng có cơ chế nạp đạn bằng khí nén với hệ thống trích khí dài, thoi nạp đạn xoay, đa chế độ bắn (bán tự động và tự động). Báng súng bằng kim loại bọc nhựa, có thể gập lại. Hộp tiếp đạn là hộp cong 30 viên giống như hộp tiếp đạn của súng AK, nhưng làm bằng nhựa polymer chịu lực và trong suốt. Súng có chỗ gắn chạc 3 chân hoặc súng phóng lựu.
Rk 95 Tp là một cải tiến lớn từ Rk 62; còn Rk 62 lại là một phiên bản của AK-47. Những cải tiến chính là: | 1 | null |
Messerschmitt Me 410 "Hornisse" ("Ong vò vẽ") là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng của Đức, nó được trang bị cho không quân Đức (Luftwaffe) trong Chiến tranh thế giới II. Về bản chất thì Me 410 là một sửa đổi đơn giản Me 210, nó được định danh là Me 410 đế tránh nhầm với mẫu máy bay tiền nhiệm.
Liên kết ngoài.
German WW II manual for Me 410A-1/U-4's "Bordkanone" BK 5 cannon installation | 1 | null |
Đại Việt Quốc gia Cách mệnh Ủy viên Hội là một tổ chức chính trị của người Việt, tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi từ 11 tháng 3 đến 19 tháng 4 năm 1945.
Lịch sử.
Tiền thân của tổ chức này là tổ chức Đại Việt Quốc gia Liên minh, được thành lập vào đầu năm 1944, do sự liên minh của các chính đảng Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng và Đại Việt Dân chính Đảng, về sau có thêm Tân Việt Nam Quốc dân Đảng, với mục đích liên kết với Nhật để chống Pháp, do Nguyễn Xuân Tiếu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương.
Khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì Đại Việt Quốc gia Liên minh đứng ra lập Ủy ban Chính trị Bắc Kỳ; sau đó, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Đại Việt Quốc gia Cách mệnh Ủy viên hội cũng được Đại Việt Quốc gia Liên minh thành lập với mục đích sẽ trở thành một chính phủ lâm thời để tiếp quản quyền điều hành từ tay người Nhật.
Tuy nhiên, bấy giờ Đế quốc Nhật Bản đã chọn giải pháp duy trì thể chế quân chủ của triều đình Huế. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập và được Nhật Bản công nhận trên danh nghĩa là chính phủ của nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Với sự thừa nhận chính phủ Trần Trọng Kim của người Nhật, Đại Việt Quốc gia Cách mệnh Ủy viên hội mất đi ý nghĩa thành lập và tan rã. Không lâu sau, khi Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền trong Cách mạng tháng 8, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, đến lượt Đại Việt Quốc gia Liên minh cũng tan rã vì các đảng thành viên không nhất trí quan điểm hành động trong giai đoạn mới. | 1 | null |
Pieter Bleeker (ngày 10 tháng 7 năm 1819, Zaandam – ngày 24 tháng 1 năm 1878, The Hague) là một bác sĩ, nhà tự nhiên học, nhà ngư học và nhà bò sát học người Hà Lan nổi tiếng vì những nghiên cứu về cá ở Đông Nam Á. Ông viết cuốn "Atlas Ichthyologique des Indes Orientales Néêrlandaises" (Tập bản đồ Ngư học Đông Ấn Hà Lan) được xuất bản năm 1862–1877.
Trong thời gian 1842-1860, ông là một sĩ quan quân y trong quân đội Hà Lan đóng tại Indonesia. Trong thời gian này, ông đã nghiên cứu thêm về cá ngoài công việc của một bác sĩ. Sau khi về nước ông bắt đầu công bố "Atlas Ichthyologique des Indes Orientales Néêrlandaises", bao gồm mô tả bao hàm toàn diện các nghiên cứu của ông tại Indonesia và có trên 1.500 hình minh họa. Sách này được xuất bản thành 36 quyển trong giai đoạn từ năm 1862 tới khi ông mất năm 1878. Từ năm 1977 tới năm 1983, Viện Smithsonian tái bản tác phẩm này thành 10 quyển.
Ông đã viết trên 500 bài báo về ngư học, mô tả 511 chi mới và 1.925 loài mới. Ông cũng hoạt động trong bò sát học, mô tả ít nhất 14 loài bò sát, phần lớn trong số này được mô tả trong "Reptilien van Agam".
Năm 1855 ông trở thành viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Hoàng gia Hà Lan, ban "Natuurkunde" (khi đó là Khoa học Tự nhiên) và năm 1862 là viện sĩ. Năm 1856 ông được bầu làm thành viên thông tấn của Muséum national d'histoire naturelle ở Paris. Tháng 1 năm 1864 ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh (Légion d'honneur) của Pháp. Ông là chủ tịch của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Caribe Hoàng gia Hà Lan. | 1 | null |
Nguyễn Đăng Hành (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Sử nhà Nguyễn là "Đại Nam chính biên liệt truyện" (quyển 13) không ghi nơi sinh của Nguyễn Đăng Hành, chỉ cho biết ông là cháu nội của Nguyễn Đăng Tuân (1772–1844, từng là thầy dạy vua Thiệu Trị), và là con của Nguyễn Đăng Giai (? – 1854, từng là Tổng đốc Hà Ninh).
Vốn là người "ôn hòa văn nhã, thích đọc sách" , năm Tự Đức thứ nhất (Mậu Thân, 1848), Nguyễn Đăng Hành thi đỗ Tiến sĩ. Buổi đầu, ông được bổ làm Biên tu ở Viện Tập hiền; sau thăng lên Thị độc, lãnh chức Án sát sứ tỉnh Quảng Ngãi.
Năm Tân Dậu (1861), thăng ông làm Hồng lô tự khanh, lãnh chức Bố chính sứ tỉnh Khánh Hòa. Đến năm sau (Nhâm Tuất, 1862), thì ông nhận lệnh đi theo quân thứ ở Nam Đạo. Lúc bấy giờ, ở nơi ấy "nhiều bọn giặc phỉ ở Bắc Ninh nhiễu động, thông (đồng) với giặc biển ở Quảng Yên" , nên lại có chỉ cho Nguyễn Đăng Hành sung làm Bắc thứ Thường biện quân vụ...để đốc suất quân đi đánh dẹp.
Cũng theo quyển sử trên, thì sau đó ông "đánh được luôn 13 trận. Một hôm ở địa phương Đông Hồ, thuộc phủ Thuận Thành (Bắc Ninh), gặp giặc tiến đánh, vì không có quân viện trợ, bị giặc giết chết".
Thương tiếc, vua Tự Đức cho truy tặng ông hàm Bố chính sứ, lại hậu cấp cho người nhà, về sau lại được thờ trong đền Trung Nghĩa ở Huế. Ngoài ra, tiểu sử của ông còn được chép trong "Đại Nam chính biên liệt truyện" (quyển 13), cùng với ông nội (Nguyễn Đăng Tuân) và cha (Nguyễn Đăng Giai).
Thông tin liên quan.
Sách "Đại Nam chính biên liệt truyện" (quyển 13) không ghi rõ Nguyễn Đăng Hành bị phe nhóm nào giết chết. Tra trong "Quốc triều sử toát yếu" thì thấy có đoạn chép như sau:
Có lẽ, trong khoảng thời gian đó, Nguyễn Đăng Hành đã bị lực lượng của Nguyễn Thạnh giết chết. | 1 | null |
Hai trục trong hệ tọa độ Descartes chia mặt phẳng thành bốn miền giới hạn, gọi là các góc phần bốn, hay cung phần tư.
Người ta quy ước đánh số từ 1 đến 4 cho các góc phần tư bằng số La Mã. Góc thứ nhất, ký hiệu là góc I, là góc phần tư bao gồm các điểm có tung độ và hoành độ đều dương I (+,+). Tương tự ngược chiều kim đồng hồ, sau góc phần tư thứ nhất là góc phần tư thứ hai, thứ ba, thứ tư: II (−,+), III (−,−), và IV (+,-). | 1 | null |
Petlyakov Pe-3 là một phiên bản máy bay tiêm kích bay đêm tầm xa của mẫu máy bay ném bom tốc độ cao Petlyakov Pe-2 rất thành công trước đó, Pe-3 được trang bị cho Không quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới II.
Thiết kế và cách trang bị của Pe-3 theo cách nào đó có thể so sánh với các loại máy bay như Junkers Ju 88 của Đức và De Havilland Mosquito của Anh. Liên Xô nhận ra sự cần thiết phải có một mẫu máy bay tiêm kích bay đêm sau trận ném bom ban đêm đầu tiên tại Moscow trong Chiến dịch Barbarossa. Petlyakov Pe-2 được lựa chọn để sửa đổi như mẫu máy bay sẵn có phù hợp nhất.
Ban đầu nó được sử dụng cho các phi vụ cường kích trong Trận Moskva, nhưng điều này lại cho thấy sự tốn kém khi máy bay dễ bị tổn thương do không được bọc thép. Lớp giáp và vũ khí được trang bị thêm cho các máy bay có sẵn để nó hoạt động hiệu quả hơn, nhưng việc dì chuyển nhà máy duy nhất chế tạo Pe-3 vào tháng 10/1941 đã hạn chế số lượng máy bay sẵn có và nhiều đơn vị sử dụng Pe-3 của Không quân Liên Xô đã bị giải thể hoặc chuyển sang dùng loại máy bay khác. Dù việc sản xuất bị dừng lại và tái khởi động lại nhiều lần, Pe-3 vẫn được sử dụng trong suốt Chiến tranh thế giới II. Hầu hết các mẫu sản xuất cuối cùng đều trang bị cho các đơn vị trinh sát.
Lịch sử hoạt động.
Pe-3 đầu tiên được sử dụng bởi Trung đoàn ném bom tốc độ cao 95th vào tháng 8 năm 1941 và ban đầu nó đã cam kết với tấn công mặt đất và đóng vai trò hộ tống sau khi đào tạo lại thông qua tháng 9. Nó được đổi tên là Trung đoàn tiêm kích 95th vào ngày 25 tháng 9 và giao cho Quân đoàn tiêm kích 6th của PVO bảo vệ Moscow. Một vài ngày sau 6 chiếc Pe-3 hộ tống chiếc C-47 mang theo một phái đoàn quân sự của Anh bay từ Vologda tới Moscow và đánh bại nhiều cuộc tấn công của Đức trên tàu vận tải. Pe -3 bắn phá quân lính Đức khi họ tiếp cận Moscow trong Chiến dịch Typhoon. Ngày 24 tháng 10, Trung đoàn tiêm kích 208th và 9th với tổng số 27 chiếc Pe-3 giữa họ, tấn công các sân bay Đức tại Kalinin, tuyên bố 30 máy bay Đức bị phá hủy cho sự mất mát của năm máy bay của Liên Xô và các phi công, bao gồm cả chỉ huy của Trung đoàn 208th, Thiếu S. Kibirinym. Trung đoàn ném bom 9th, 40th, 54th và 511th cũng nhận được Pe-3 trong tháng 9 và thực hiện nhiệm vụ tương tự. Khoảng 50 chiếc máy bay đã bị mất trong ba tháng đầu tiên chiến đấu của Pe-3, chiếm khoảng 25 % số máy bay được sản xuất. Đây là một tỷ lệ tổn thất rất cao và một số đơn vị bắt đầu thực hiện nhiệm vụ trinh sát ít rủi ro để giảm thiểu thương vong. Pe-3 đã được sử dụng cho các Trung đoàn trinh sát 1st, 2nd và 3rd vào tháng 10 rất tốt.
Với việc sản xuất bị chấm dứt vào tháng 10 do việc di chuyển nhà máy, số lượng có sẵn Pe-3 không thể duy trì như nhiều đơn vị, nhiều đơn vị bắt đầu chuyển đổi sang máy bay khác. Trung đoàn ném bom nhanh 40th đã được tái chỉ định thành trung đoàn trinh sát tầm xa 40th vào ngày 15 tháng 12 và thu hết 5 chiếc Pe -3 trên 01 tháng 5 năm 1942 và 11 chiếc vào ngày 1 tháng 1 năm 1943. Trung đoàn ném bom 9th được giao nhiệm vụ trực tiếp cho Tham mưu trưởng Không quân vào cuối tháng 11 năm 1941 và nhận thêm nhiệm vụ của tập đoàn hàng đầu của máy bay chiến đấu và máy bay tấn công các mục tiêu của họ vì các phi công của họ không thể điều hướng của chính mình. Hơn 2000 máy bay được dẫn đến mục tiêu của họ theo cách này trước khi trung đoàn đã được chuyển đổi sang vai trò khác. Trung đoàn ném bom 54th dường như đã được giải tán vào ngày hoặc sau 20 tháng 5 năm 1942. Trung đoàn ném bom tầm ngắn 208th mất 10 máy bay trước khi nó chuyển phi công còn sống sót của nó và máy bay tới Trung đoàn tiêm kích 95th vào giữa tháng 1 năm 1942 và cải cách trên chiếc Ilyushin Il-2. Ngày 05 tháng 2 năm 1942 Trung đoàn ném bom 511th đặt căn cứ tại Tula và mất 38 chiếc Pe-3 của họ bởi cuộc không kích dữ dội của Đức. Trung đoàn đã bị giải tán vào cuối tháng 3 năm 1942 vì thiếu máy bay. Trung đoàn tiêm kích 95th đã được chuyển giao vào ngày 1 tháng 3 năm 1942 cho Không quân của Hạm đội Phương Bắc, nơi nó thực hiện nhiệm vụ hộ tống đoàn xe, tấn công mặt đất và trinh sát hỗ trợ của Hạm đội. Hoạt động của Pe-3 vào cuối năm 1942 khi một số phi hành đoàn của nó, đã chọn những chiếc máy bay mới, đã được chuyển hướng để tham gia vào trận đánh Stalingrad, mặc dù hầu hết các máy bay sản xuất năm 1942 đã được trao cho các Trung đoàn trinh sát riêng biệt tầm xa 2nd, 4th và 40th.
Một chiếc Pe-3 đã bị bắt bởi quân Phần Lan khi bị buộc phải hạ cánh khẩn cấp trong đất đầm lầy gần hồ Inari ngày 28 Tháng 11 năm1942. Nó còn tương đối nguyên vẹn và đã được phục hồi, sửa chữa và đưa vào hoạt động với tên gọi PE-301. Nó phục vụ PLeLv 48 và được chuyển đổi thành một máy bay trinh sát hình ảnh vào năm 1944 trước khi bị phá hủy bởi một cuộc đột kích ném bom của Liên Xô trên các sân bay tại Lappeenranta nagfy 02 tháng 7 năm 1944. Nó đã bay hơn 222 giờ phục vụ Phần Lan.
Radar không vận Gneiss-2 đã được đánh giá trong Pe-3 bắt đầu vào tháng 7 năm 1942 và nó đã được gửi đến cả Moscow và Stalingrad cho các thử nghiệm chiến đấu vào cuối năm 1942. Một đợt thử nghiệm được thực hiện bởi máy bay của 2 đội máy bay chiến đấu của quân PVO tại Leningrad giữa tháng 2 và tháng 5 năm 1943 và nó đã được chấp thuận cho hoạt động vào tháng tới. Rất ít xuất hiện để triển khai, chỉ 15 cái được trang bị trên Pe-3.
Tính năng kỹ chiến thuật (Petlyakov Pe-3bis).
Gordon, "Soviet Airpower in World War 2" | 1 | null |
Potez 630 và các mẫu máy bay bắt nguồn từ nó là một dòng máy bay hai động cơ được phát triển cho Armée de l'Air (không quân Pháp) vào cuối thập niên 1930. Thiết kế của nó cùng thời với loại Bristol Blenheim của Anh và Messerschmitt Bf 110 của Đức. | 1 | null |
Đông hầu (danh pháp khoa học: Turnera) hay Hoa thời chung, là tên của một chi thực vật có hoa thuộc họ Lạc tiên (Passifloraceae). Tên chi "Turnera" được đặc theo tên nhà tự nhiên học người Anh William Turner (1508–1568). Chi này chứa trên 140 loài, là các loài đặc hữu nhiệt đới và cận nhiệt đới vùng Trung Nam Mỹ và bang Texas (Hoa Kỳ); Đông hầu sa mạc ("T. oculata") và Đông hầu Thomas ("T. thomasii") là hai loài đông hầu duy nhất được tìm thấy ở châu Phi. Đông hầu trắng ("T. subulata") và đông hầu vàng ("T. ulmifolia") là hai loài được sử dụng làm cây trang trí phổ biến và đã được du nhập vào các nước châu Á, Hawaii và các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ. Đông hầu damiana ("T. diffusa") là loài có dược tính, gây thư giản và kích thích tình dục, được sử dụng trong y học dân gian chữa trị chứng yếu sinh lý ở nam giới và rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ. Người Maya cổ đại đã cũng sử dụng loài này trong chữa trị chứng choáng váng và mất thăng bằng. Tuy nhiên, một số loài đông hầu ("T. diffusa", "T. ulmifolia", "T. hassleriana") có chứa một hàm lượng cyanide hữu cơ nhất định, việc sử dụng quá mức có thể dẫn đến ngộ độc gây tử vong.
Các loài.
Theo Thực vật chí thế giới trực tuyến (WFO), tính đến nay có 147 loài, 13 thứ và 2 phân loài trong chi Đông hầu đã được công nhận: | 1 | null |
Nhà máy nhiệt điện Mạo Khê chạy than nằm trên địa bàn phường Xuân Sơn và 2 xã Bình Khê, Tràng An thuộc thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam với tổng diện tích 72ha do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) làm chủ đầu tư. Tổng công suất của nhà máy là 440MW và sản lượng điện năng hàng năm cung cấp khoảng 2,6 tỷ KWh.
Công nghệ.
Nhà máy có 2 tổ máy được bố trí theo hình khối, mỗi tổ máy có 1 lò hơi sôi tuần hoàn, 1 tua bin hơi, 1 máy phát, 1 máy biến áp tăng áp. Trong đó, lò hơi sôi tuần hoàn (CFB) có bao hơi và quá trình nhiệt trung gian do hãng Foster Wheeler cung cấp. Đặc biệt, lò CFB có thể đốt than với hiệu suất đốt cháy cao, than cháy kiệt có thể vận hành ổn định ở phụ tải thấp nhất bằng 40% phụ tải định mức mà không cần đốt thêm dầu kèm. Có thể nói TKV là đơn vị đầu tiên áp dụng công nghệ này tại Việt Nam để đốt than nhiệt lượng thấp ở các dự án nhiệt điện như: Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả 1 và 2. Việc sử dụng công nghệ CFB sẽ mang đến hiệu quả tốt hơn nhiều về môi trường so với công nghệ lò hơn đốt than phun, bởi khả năng khử lưu huỳnh trong khói thải bằng việc đốt kèm đá vôi trong buồng đốt, khử bụi tĩnh điện hiệu suất cao hơn 99,8%.
Lò CFB có thể đốt than với hiệu suất đốt cháy cao, than cháy kiệt, nên tro xỉ thải ra có thể tận dụng làm vật liệu xây dựng. Với ống khói được xây cao 150 mét, hệ thống nước thải khép kín và được tái sử dụng sau khi xử lý, do vậy đã hạn chế đến mức thấp nhất việc xả thải ra môi trường. Nhà máy có nhiều thuận lợi về nguồn nguyên liệu và cơ sở hạ tầng cho ngành công nghiệp điện. Tại vị trí này, Nhà máy có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn nguyên liệu là than cám nhiệt lượng thấp từ các mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch, Khe Chuối, Hồng Thái. Than và tro xỉ của Nhà máy được vận chuyển đến kho và bãi thải bằng hệ thống băng tải.
Dự án xây dựng và sản xuất.
Dự án Nhà máy nhiệt điện Mạo Khê khởi công xây dựng từ ngày 8 tháng 7 năm 2009 với tổng mức đầu tư khoảng 9.315 tỷ đồng tương đương 577 triệu đô la.
Ngày 29 Tháng 6 năm 2012, Nhà máy đã tiến hành đốt lò tổ máy số 1 bằng dầu FO, Dự kiến tháng 11 năm 2012 Nhà máy đi vào phát điện thương mại hòa vào lưới điện quốc gia. | 1 | null |
Đông hầu vàng (danh pháp hai phần: Turnera ulmifolia) là một loài thực vật thuộc chi Đông hầu, họ Lạc tiên. Đây là loài bản địa Tây Ấn và México. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng đông hầu vàng có khả năng tạo hoạt động kháng sinh hoạt động chống lại kháng-methicillin "Staphylococcus aureus" (MRSA).
Mô tả.
Đông hầu vàng thuộc cây bụi thường niên mọc thẳng, có thể cao đến 1.5 mét. Lá hình mũi mác rộng, dài 5-8 cm, viền lá có răng, cuốn lá ngắn và mọc cách. Hoa đơn mọc từ nách lá, có 5 cánh, cánh hoa gần tròn và màu vàng. Bao trái nhỏ và chứa nhiều hạt. Hoa thường nở vào 6:00 sáng và tàn vào 11:30 trưa. Sâu ngài Tawny Coster ("Acraea terpsicore") là loài chuyên ăn lá các cây đông hầu. Đông hầu vàng thường được nhầm lẫn với loài đông hầu damiana ("Turnera diffusa"), loài được sử dụng trong các thức uống truyền thống của người México, do hình thái khá giống nhau.
Thành phần hóa học.
Đông hầu vàng chứa các cyanogenic glucoside như deidaclin, tetraphyllin A, epi-tetraphyllin B và tetraphyllin B. Dầu hạt chứa các acid béo như uernolic acid, malvalic acid và sterculic acid. Tinh dầu lá chủ yếu chứa β-caryophyllene và (Z)-3-hexen-1-ol. Ngoài ra, caffeine cũng được tìm thấy ở loài này. | 1 | null |
Turnera diffusa là một loài thực vật thuộc chi Đông hầu, họ Lạc tiên. Đây là loài bản địa tây nam tiểu bang Texas ở Hoa Kỳ, Trung Mỹ, México, Nam Mỹ, và Caribbean. Đây là một loại cây bụi nhỏ có hoa nhỏ và thơm. Nó nở hoa vào đầu đến cuối mùa hè và hoa kết trái có hương vị tương tự quả sung. Cây bụi được cho là có một mùi mạnh mẽ giống như gia vị phần nào giống như hoa cúc, do các loại dầu của cây.. Lá đã được làm thực hiện vào một trà thảo dược và một hương đốt tạo khói thơm được sử dụng bởi người dân bản địa của Trung và Nam Mỹ do hiệu ứng thư giãn của nó. Các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đầu tiên ghi nhận rằng người Anh Điêng Mexico uống trà với loại thực vật này trộn với đường để sử dụng như là một kích thích tình dục. | 1 | null |
Cẩm chướng thơm lùn (danh pháp hai phần: "Dianthus barbatus") là một loài thực vật thuộc chi Cẩm chướng bản địa miền nam châu Âu và một số khu vực châu Á và đã trở thành một vườn cây cảnh phổ biến. Nó là một loài cây thân thảo có tuổi thọ ngắn, cao 30–75 cm, với hoa trong một cụm dày đặc lên đến 30 ở đầu thân. Mỗi hoa có đường kính 2–3 cm với năm cánh hoa có các cạnh có răng cưa. Thực vật hoang dã có hoa màu đỏ với đế hoa trắng, nhưng màu sắc trong phạm vi trồng trọt có màu từ trắng, hồng, đỏ, và màu tím với hoa văn loang lổ. Nguồn gốc chính xác của tên tiếng Anh phổ biến của nó là không rõ, nhưng lần đầu tiên xuất hiện năm 1596 trong catalog thực vật của John Gerard. Những bông hoa ăn được và có thể có đặc tính chữa bệnh. Hoa ngọt thu hút ong, chim, bướm. | 1 | null |
Dianthus monspessulanus là một loài thực vật thuộc chi Cẩm chướng. Loài này cao 30–60 cm. Thân cây là màu xanh lá cây, đứng thẳng, thân cây nhẵn và phân nhánh trên đầu trang, lá đối, đơn, tuyến tính và không cuống. Loài này mọc ở Albania, Nam Tư cũ, Ý, Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. | 1 | null |
Tù trưởng Seattle (một cách Anh hóa của Si'ahl, phát âm tiếng Lushootseed: [siʔa ː ɬ, ban đầu [siʔa ː tɬ]) hay Xi-át-tơn (khoảng 1786 - 7 tháng 6 năm 1866) là một tù trưởng bộ tộc Duwamish sinh sống tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, khi vùng đất thuộc tiểu bang Washington ngày nay còn là vùng đất của người da đỏ. Khi người di dân da trắng tiến vào vùng này, xung đột giữa hai sắc dân xảy ra, và cuối cùng thì Tù trưởng Seattle đã thuyết phục được dân da đỏ bán cho người da trắng vùng đất này, và chịu sinh sống trong những khu vực tập trung của người da đỏ. Sau khi ký hiệp định, truyền thuyết cho rằng Tù trưởng Seattle đã ứng khẩu đọc bài diễn văn này, nhưng không có một tài liệu nào ghi chép lại, vì những điều ông nói được dịch lại qua tiếng Anh qua ba thổ ngữ của người da đỏ. Đến năm 1887, bài diễn văn này được bác sĩ Henry A. Smith cho đăng tải trên tờ "Seattle Sunday Star" của Seattle, số 29 tháng 10, nhưng cũng không có tài liệu nào chứng thật được đó chính là những lời của Seattle. Do đó, ngày nay, gốc tích của bài diễn văn này vẫn còn được giới nghiên cứu tồn nghi. Thành phố Seattle, tiểu bang Washington của Mỹ, được đặt theo tên ông. Ông còn là tác giả của bức thư gửi cho tổng thống Hoa Kỳ thứ 14 Franklin Pierce về việc chuyển nhượng đất của người da đỏ, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 6 học kỳ II.
Bức thư của Tù trưởng Seattle.
""...Mỗi tấc đất đều thiêng liêng với đồng bào tôi, từng lá thông óng ánh, từng bờ cát vàng, mỗi hạt sương sớm trong những khu rừng rậm rạp, những đồng cỏ xanh và tiếng ve kêu rào rạc. Tất thảy đều chảy trong huyết mạch, lưu truyền trong kí ức của mỗi chúng tôi."
"Chúng tôi biết từng dòng nhựa sống trong hàng cây ấy như biết rõ dòng máu chảy trong huyết quản. Chúng tôi, là một phần của đất mẹ và đất mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là chị em của chúng tôi. Từng con gấu, con hươu và đại bàng vĩ đại đều là anh em của chúng tôi. Từng mỏm đá, từng giọt sương trên bãi cỏ, từng sinh linh nhỏ bé và cả con người, cùng thuộc một gia đình."
"Dòng nước êm ả chảy qua con suối bờ sông không chỉ là nước, nó là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi phải bán đi đất đai của mình, các ông hãy nhớ rằng nó là thiêng liêng. Từng tia sáng chói chang từ mặt hồ này vẫn đang kể những câu chuyện về cuộc đời của đồng bào tôi. Dòng nước, vẫn đang róc rách tiếng thì thầm của cha ông."
"Những dòng sông là người anh em của chúng tôi, giúp chúng tôi nguôi đi cơn khát. Những dòng sông đã đưa thuyền chúng tôi đi xa và nuôi lớn bao thế hệ. Các ông phải nhớ đối xử tử tế với dòng sông như anh em của mình."
"Nếu chúng tôi bán đất đi, hãy nhớ trân trọng bầu không khí quý báu ấy, thứ đã thổi linh hồn cho những gì mà nó kề bên che chở. Cũng chính bầu không khí này, cha ông tôi đã hít hơi thở đầu tiên và trút hơi thở cuối cùng. Chính ngọn gió này đã cho lũ trẻ của chúng tôi sức sống mãnh liệt. Nên nếu chúng tôi bán đất, người da trắng phải gìn giữ nó và biến đây thành nơi liêng thiêng, nơi mà ai - dù trắng hay đen, cũng có thể đến để hít một hơi thở ngọt bùi, vị của hương hoa đồng cỏ."
"Các ông sẽ dạy lũ trẻ điều mà chúng tôi dạy những đứa trẻ của mình chứ? Rằng Trái Đất là mẹ thiêng liêng? Và điều gì xảy đến với Trái Đất, rồi sẽ xảy đến với những người con này."
"Chúng tôi biết rằng: Trái Đất không thuộc về con người, con người mới thuộc về Trái Đất. Tất cả mọi thứ đều kết nối như dòng máu cùng chảy trong huyết quản kết nối con người chúng ta với nhau. Con người không kiến tạo nên chiếc tổ sống này, con người chỉ là sợi tơ trong đó mà thôi. Điều gì con người làm với chiếc tổ này, cũng là đang ảnh hưởng tới chính bản thân."
"Chúng tôi chắc chắn: Chúa trời của các ông cũng là Chúa trời của chúng tôi. Trái Đất là điều quý giá với Chúa và làm tổn hại đến nó chính là sự khinh rẻ với bậc kiến tạo này."
"Dẫu định mệnh của các ông vẫn là một bí ẩn với chúng tôi. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi những đàn trâu cứ thế bị tàn sát? Từng đàn ngựa hoang kiêu hãnh bị thuần hóa? Điều gì sẽ xảy ra khi mà những góc rừng kín đáo nặng mùi con người và những gò đồi chín vàng thơ mộng lại bị vấy bẩn bởi đường dây vô tuyến? Những cánh rừng sẽ ở đâu? Biến mất! Cánh chim đại bàng sẽ ở đâu? Biến mất!"
"Và việc nói lời tạm biệt với những đàn, những đồng ấy bằng cách tận diệt như một thú vui có nghĩa gì? Là sự kết thúc của việc "sống", sự bắt đầu của những ngày tháng "sinh tồn"."
"Và rồi khi mà người da đỏ cuối cùng đã biến mất cùng với sự hoang dã này, với những kí ức cuối cùng của anh ấy về bóng mây trôi qua đồng cỏ, liệu những bờ cát và vạt rừng này có còn ở đây không? Liệu tinh thần ấy còn đọng lại chút nào ở nơi này?"
"Chúng tôi yêu Trái Đất này như cách mà đứa bé sơ sinh yêu từng nhịp đập con tim của người mẹ. Vậy nên, nếu chúng tôi bán đất, hãy yêu thương nó như cách mà chúng tôi đang coi nó như mẹ của mình. Hãy quan tâm nó, như cách mà chúng tôi vẫn đang quan tâm. Và hãy luôn ghi nhớ kí ức về mảnh đất này vẹn nguyên như khi các ông nhận nó từ chúng tôi. Hãy gìn giữ mảnh đất này, cho con cháu của tất cả chúng ta và yêu nó như cách mà Chúa trời yêu thương ta."
"Chúng tôi là một phần của đất mẹ và các ông cũng vậy. Trái Đất này rất quý giá với chúng tôi và cũng quý giá với các ông."
"Cuối cùng, chúng tôi biết rằng chỉ có một Chúa trời. Không một ai, dù là da đỏ hay da trắng bị tách rời. Chúng ta, vẫn luôn mãi là anh em."" | 1 | null |
Dexter "The Blade" Jackson (sinh ngày 25 tháng 11 năm 1969) là một vận động viên thể hình chuyên nghiệp IFBB từng vô địch giải Mr.Olympia vào năm 2008. Anh sống ở Jacksonville, Florida.
Tiểu sử.
Jackson lần đầu tiên tham gia giải đấu NPC Southern States Championship vào năm 1992 và về ở vị trí thứ 3.Anh thi đấu chuyên nghiệp lần đầu tiên vào năm 1999 ở giải Arnold đứng thứ 7, giải Night of Champions đứng thứ 3 và giải Mr. Olympia đứng thứ 9.
Ở giải Mr.Olympia vào năm 2007, Jackson xếp ở vị trí thứ 3, nhiều nhà phê bình cho rằng anh không thích hợp để xếp hạng cao hơn nữa.Vào ngày 27 tháng 9 năm 2008, Jackson vượt qua Jay Cutler-người đã từng thắng giải Mr.Olympia 2 lần để trở thành người thứ 12 có được danh hiệu;Jackson còn trở thành người thứ hai duy nhất thắng được 2 giải Mr.Olympia và Arnold Classic trong cùng một năm.
Năm 2008 là một năm thành công rực rỡ của Jackson, anh thắng rất nhiều giải bao gồm Arnold Classic, Australian Pro Grand Prix VIII, New Zealand Grand Prix, Russian Grand Prix và Mr.Olympia.Jackson về thứ 3 trong cuộc thi Mr.Olympia năm 2009.
Jackson chụp hình cho rất nhiều tạp chí thể hình trong đó có 2 tạp chí là Muscular Development và Flex.Anh cũng là nhân vật trung tâm trong video tài liệu thể hình Dexter Jackson: Unbreakable do Alex Ardenti(làm việc cho hãng phim Ardenti Films ở Florida và California) được phát hành vào năm 2009. | 1 | null |
Lê Khắc (6 tháng 2 năn 1916 – 1990) là một kỹ sư, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Chủ nhiệm (tương đương Bộ trưởng) Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 1980–1982.
Thân thế.
Ông sinh ngày 6 tháng 2 năm 1916 tại làng Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông học ngành công chính, trở thành kỹ sư.
Sự nghiệp chính trị.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Nha Giao thông công chính. Ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Giao thông công chánh, phụ trách Sở Hỏa xa Hà Nội.
Tham gia quân đội.
Sau Toàn quốc kháng chiến, ông được điều động sang quân đội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại tá năm 1946, công tác ở Cục Quân giới. Ngày 19 tháng 3 năm 1947 ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Giao thông Công binh, Bộ Quốc phòng, tháng 7 năm 1950 ông được cử làm Cục trưởng Cục Công binh (Phó Cục trưởng là Phạm Hoàng). Năm 1951 ông được phân công làm Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 151, Trung đoàn Công binh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Công tác quản lý các ngành kỹ thuật.
Ngày 4 tháng 10 năm 1952, ông được điều trở về công tác dân sự, được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Nha Công chính Hỏa xa, Bộ Giao thông Công chính.
Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, ngày 6 tháng 4 năm 1955, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra quyết định thành lập Tổng cục Đường sắt. Ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Đường sắt Việt Nam.
Tháng 12 năm 1958, ông được cử làm Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học Nhà nước, phụ trách các lĩnh vực nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật, Phổ biến Khoa học và Kỹ thuật, Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Sáng chế - Phát minh, kiêm nhiệm các chức vụ Phó trưởng ban Khoa học và Kỹ thuật, Cục trưởng đầu tiên của Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng Nhà nước, là Ủy viên Đảng đoàn Ủy ban Khoa học Nhà nước từ tháng 8 năm 1959.
Tháng 10 năm 1965, Ủy ban Khoa học Nhà nước tách thành Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, kiêm trưởng Ban Cơ học. Năm 1969, ông được bổ nhiệm kiêm chức Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng IV ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Trung ương và là Ủy viên chính thức Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa V.
Tháng 2 năm 1980, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Ông cũng được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VII... Tháng 4 năm 1982, ông thôi chức Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương cao quý trong đó có Huân chương Độc lập hạng Nhì . Ông cũng được nhà nước Ba Lan trao tặng Huân chương công trạng của nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan ngày 7 tháng 1 năm 1986.
Ông mất trong năm 1990 tại Hà Nội, thọ 74 tuổi. | 1 | null |
Trận Mons là một phần của Trận Biên giới Bắc Pháp, đồng thời là cuộc giao tranh đầu tiên giữa Quân đội Anh và Đế quốc Đức trên Mặt trận phía Tây trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra vào ngày 23 tháng 8 năm 1914. Là trận đánh đầu tiên của Lực lượng Viễn chinh Anh sau khi đặt chân lên đất Pháp, trận chiến kết thúc với chiến thắng của Quân đội Đức, buộc quân Anh dưới sự chỉ huy của Tướng John French phải triệt thoái về Le Cateau sau khi hai bên tàn sát lẫn nhau trong một cuộc chiến đấu quyết liệt. Theo một số tài liệu của Anh, thiệt hại của quân Đức lớn hơn hẳn thiệt hại của quân Anh trong trận chiến này, nhưng các nhà sử học có thiện cảm với Đức cho rằng phía Đức chỉ mất khoảng 2.000 người so với 1.600 thương vong của Anh.
Trong khi Quân đội Đức bất ngờ tấn công nước Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh dưới quyền French phải đối đầu với Tập đoàn quân số 1 của Đức dưới quyền tướng Alexander von Kluck xung quanh thành phố Mons, ở hướng Tây Namur (Bỉ). Tuy lực lượng này có quân số áp đảo quân đội Anh, gần một nửa binh lực của họ không được đưa vào chiến trận. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1914, Kluck tiến hành cuộc tấn công đại quy mô vào các cứ điểm của Quân đoàn II thuộc Lực lượng Viễn chinh Anh, sau một cuộc pháo kích dữ dội. Quân đội của ông cố gắng tiến hành một vận động bước ngoặt qua Bỉ theo kế hoạch Schlieffen. Theo tác giả Hoa Kỳ là Spencer Tucker, trận chiến này đã thể hiện quân Anh là những người lính chuyên nghiệp chứ không phải là quân được tuyển mộ ngắn hạn: súng trường của họ có sức mạnh vượt trội các quân đội khác. Hiệu quả của súng trường của quân Anh đã khiến cho người Đức báo cáo rằng họ được trang bị rất nhiều súng máy. Ngoài ra, quân Anh còn có khả năng lập hào chiến đấu hơn các quân đội ở châu Âu lục địa khi ấy. Với sự hỗ trợ đắc lực của Pháo binh, lực lượng Bộ binh Anh đã cầm cự trong suốt cả ngày. Đến tối, giao tranh chấm dứt, quân Anh thoái lui về một cứ điểm đã được chọn sẵn ở phía Nam kênh Mons-Condé. Tuy nhiên, Zuber cho biết, trên thực tế người Đức chưa hề so sánh súng trường Anh với súng máy mà họ chỉ so sánh súng trường Anh với súng trường của Bỉ và Pháp mà họ cho là cùi nhầy. Đồng thời, lực lượng Pháo binh Anh hiếm khi hỗ trợ được cho Bộ binh và một mình súng trường thường không thể chặn nổi quân Đức. Zuber cũng chỉ trích quan điểm cho rằng quân Bộ binh Đức dàn trận theo các đội hình khối.
Thiệt hại nặng nề của người Anh lại chỉ là cái giá cho việc trì hoãn quân đội của tướng Kluck trong vòng một ngày. Theo nhiều tư liệu, ưu thế áp đảo về quân số của Đức đã đẩy lùi quân Anh sau khi chịu tổn thất nặng nề, nhưng Zuber cho rằng thắng lợi này là do sự huấn luyện và học thuyết chiến thuật ưu việt của người Đức, đồng thời, với khả năng chiến đấu của mình, họ đã gắn chặt vận động với hỏa lực. Trong khi người Đức sẽ dễ dàng bù đắp tổn thất của họ vốn bao gồm là lính tuyển mộ, tổn thất của người Anh là những người lính chính quy khó thể thay thế. Cuối ngày, Tổng hành dinh Quân đội Anh đã nhận thấy tình hình bất lợi. Trong ngày hôm đó, quân Pháp dưới quyền tướng Charles Lanzerac đã rút lui sau trận Charleroi, khiến cho sườn của quân Anh bị sơ hở. Trước uy thế của quân Đức, quân Anh không còn lựa chọn nào khác và phải thoái lui trong hỗn loạn. Sau thắng lợi tại Mons, Kluck đã tiến hành truy kích gắt gao và đánh thắng quân Anh trong trận Le Cateau. Sức chiến đấu của quân Anh trong trận đánh, và do truyền thống của người Anh biến thất bại thành một thắng lợi về tinh thần, trận đánh đầu tiên của Lực lượng Viễn chinh Anh đã trở thành một huyền thoại. Sau trận chiến, có những câu chuyện kể về "các thiên thần tại Mons"đã yểm trợ cho Quân đội Anh triệt thoái. Và, số lượng quân tình nguyện Anh đã tăng vọt sau thất bại tại Mons.
Chú thích.
| 1 | null |
Một ký hiệu toán học là một hình hoặc tổ hợp các hình dùng để biểu diễn một vật thể toán học, một tác động lên vật thể toán học, một tương quan giữa các vật thể toán học, hoặc để sắp xếp những ký hiệu khác xuất hiện trong một công thức. Vì công thức sử dụng nhiều loại ký hiệu khác nhau, để biểu diễn toàn bộ toán học cần nhiều ký hiệu.
Những ký hiệu toán học đơn giản nhất bao gồm các chữ số thập phân (0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9), và các chữ cái trong bảng chữ cái Latin. Các chữ số thập phân được dùng để biểu diễn số qua hệ ghi số Ấn Độ–Ả Rập. Theo thông lệ, chữ cái viết hoa được dùng để biểu diễn điểm trong hình học, và chữ cái viết thường dùng cho biến và hằng số. Chữ cái cũng được dùng để biểu diễn nhiều loại vật thể toán học khác. Với sự phát triển của toán học và sự gia tăng về số lượng các đối tượng nghiên cứu, các nhà toán học cũng dùng đến bảng chữ cái Hy Lạp và Hebrew. Trong công thức toán học, kiểu chữ tiêu chuẩn là in nghiêng chữ cái Latin và chữ cái Hy Lạp viết thường, và in đứng cho chữ cái Hy Lạp viết hoa. Để có thêm nhiều ký hiệu nữa, những kiểu chữ khác được sử dụng, bao gồm chữ đậm formula_1, chữ viết tay formula_2 (chữ viết tay in thường ít được sử dụng vì dễ nhầm lẫn với kiểu chữ thông thường), fraktur tiếng Đức formula_3, và in đậm bảng đen formula_4 (những chữ cái khác ít khi được sử dụng trong kiểu chữ này).
Những ký hiệu toán học sử dụng chữ cái Latin và Hy Lạp không được liệt kê ở đây. Đối với những ký hiệu đó, xem Biến số và Danh sách các hằng số toán học. Tuy nhiên, một số ký hiệu ở đây có hình dạng giống với chữ cái nguồn gốc của nó, ví dụ như formula_5 và formula_6.
Những chữ cái này thôi không đủ để đáp ứng nhu cầu của các nhà toán học, và nhiều ký hiệu khác được sử dụng. Một số xuất phát từ dấu câu và dấu phụ thường được dùng trong typography, trong khi một số khác hình thành bằng việc biến dạng chữ cái, như là formula_7 và formula_8. Ngoài ra, những ký hiệu như và được thiết kế đặc biệt cho toán học.
Hướng dẫn.
Thông thường, những mục từ trong một bảng chú giải được sắp xếp theo chủ đề và theo thứ tự bảng chữ cái. Việc này là bất khả thi với danh sách này bởi các ký hiệu không có thứ tự nào rõ ràng, và nhiều ký tự được sử dụng ở nhiều nhánh toán học khác nhau với ý nghĩa khác nhau, nhiều khi không liên quan đến nhau. Do đó, bài viết phải đưa ra một số quyết định tùy ý, được tóm tắt sau đây.
Bài viết được chia thành các phần xếp theo mức độ chuyên môn tăng dần: tức là phần đầu tiên chứa các ký hiệu thường gặp trong hầu hết các văn bản toán học, và cần phải biết ngay cả đối với người mới bắt đầu. Ngược lại, những phần cuối chứa các ký hiệu chuyên dụng cho một số lĩnh vực toán học và không được sử dụng bên ngoài các lĩnh vực này. Tuy nhiên, phần về dấu ngoặc đã được đặt gần cuối vì độ dài, mặc dù hầu hết các ký hiệu trong phần nàylà sơ cấp: điều này giúp việc tìm kiếm mục ký hiệu dễ dàng hơn.
Hầu hết các ký hiệu đa nghĩa thường được phân biệt theo ngành học mà nó được dùng hoặc theo "cú pháp" của chúng, nghĩa là vị trí của chúng bên trong công thức và bản chất của các phần khác của công thức gần với chúng.
Vì người đọc có thể không nhận thức được lĩnh vực toán học có liên quan đến ký hiệu mà họ đang tìm kiếm, các ý nghĩa khác nhau của ký hiệu được nhóm lại trong phần tương ứng với ý nghĩa phổ biến nhất của chúng.
Trong trường hợp ý nghĩa phụ thuộc vào cú pháp, biểu tượng formula_9 được sử dụng để biểu thị các thành phần lân cận của công thức chứa ký hiệu đó. Xem phần cho ví dụ chi tiết.
Phần lớn các ký hiệu có thể được hiển thị bằng hai cách: bằng ký tự Unicode, hoặc bằng LaTeX. Phiên bản Unicode cho phép sử dụng công cụ tìm kiếm và sao chép và dán dễ hơn. Mặt khác, hiển thị bằng LaTeX cho kết quả đẹp hơn, và là tiêu chuẩn được sử dụng trong toán học. Do đó, trong bài viết này, phiên bản Unicode của ký hiệu được dùng (khi có thể) để đánh dấu mục, và phiên bản LaTeX được dùng trong phần giải thích. Để tìm cách gõ ký hiệu bằng LaTeX, người đọc có thể coi mã nguồn của bài viết.
Với hầu hết ký hiệu, dẫn mục là ký tự Unicode tương ứng. Vì vậy, để tìm mục của một ký tự, người đọc chỉ cần gõ hoặc dán ký tự Unicode vào thanh tìm kiếm. Tương tự, khi tên của biểu tượng cũng là một nếu có thể, cho phép dẫn những bài viết Wikipedia khác dễ dàng.
Basic logic.
Several logical symbols are widely used in all mathematics, and are listed here. For symbols that are used only in mathematical logic, or are rarely used, see List of logic symbols.
Blackboard bold.
The blackboard bold typeface is widely used for denoting the basic number systems. These systems are often also denoted by the corresponding uppercase bold letter. A clear advantage of blackboard bold is that these symbols cannot be confused with anything else. This allows using them in any area of mathematics, without having to recall their definition. For example, if one encounters formula_12 in combinatorics, one should immediately know that this denotes the real numbers, although combinatorics does not study the real numbers (but it uses them for many proofs).
Calculus.
(here an actual box, not a placeholder)
Linear and multilinear algebra.
Advanced group theory.
| 1 | null |
Trăn đá châu Phi, tên khoa học Python sebae, là một loài trăn thuộc chi python. Loài trăn này phân bố tại châu Phi, phía Nam sa mạc Sahara từ Senegal tới Ethiopia và Somalia, bao hàm Guinea-Bissau, Mali, Guinea, Sierra Leone, Liberia, Bờ Biển Ngà, Thượng Volta, Ghana, Togo, Niger, Nigeria, Cameroon, Guinea Xích đạo, Chad, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Angola, Rwanda, Burundi, Sudan, Uganda, Kenya, Tanzania, Zambia, Malawi, Mozambique, Zimbabwe tới phía Nam tới Namibia, Botswana và Đông Bắc Nam Phi (tới Natal). Loài này có hai phân loài. Chúng có thể đạt chiều dài khoảng từ 6,3 - 8,5m và cân nặng khoảng 120-235kg. | 1 | null |
Lakshmi (Sanskrit: लक्ष्मी "," ), phiên âm Hán-Việt là Lạp Khắc Hy Mễ (拉克希米). Bà là một trong ba vị thần nữ (Tridevi) bao gồm Saraswati, Lakshmi và Parvati. Những hình tượng tương đồng của Lakshmi cũng được tìm thấy trong các di tích đạo Jaina và đạo Phật
Nữ thần Lakshmi trong Ấn Độ giáo.
Ba nữ thần cùng nhau hỗ trợ các nam thần là Brahma, Vishnu và Shiva trong sự sáng tạo, duy trì sự sống và sự hủy diệt của vũ trụ, Bà tượng trung cho sự giàu có, thịnh vượng (cả về vật chất lẫn tinh thần), vận may và sắc đẹp. Nàng chính là vợ thần Vishnu. Còn được gọi là Mahalakshmi, nữ thần được mọi người tin rằng sẽ mang đến may mắn và đưa những người sùng đạo thoát khỏi cảnh cơ cực và những nỗi phiền muộn về tiền bạc.
Lakshmi ("Cát Tường Thiên Nữ") trong đạo Phật.
Thần Lakshmi thông qua quá trình tiếp biến văn hóa đã trở thành Cát Tường Thiên nữ (吉祥天女) của Phật giáo, bà còn có tên khác là Công Đức Thiên (功徳天) hay Thiện Nữ Thiên (善女天).
Phật giáo Nhật Bản gọi bà là Kichijōten (吉祥天), một trong Thất Phúc Thần.
Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, ghi lời của Bà Công Đức Thiên, cũng gọi là Thiện Nữ Thiên nói và tự giới thiệu với đại chúng trong pháp hội: “Nơi phía Bắc có núi Tu di, ở giữa núi có vị Thiên chủ là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, làm chủ một kinh thành tên A-Ni Mạn Đà; giữa thành có một công viên tên là Công Đức Hoa Quang; trong công viên ấy lại còn có một khoảng vườn nữa rất sung túc tên là Kinh Tràng, vì công viên có lối kiến trúc bằng bảy thứ ngọc báu rất tốt, đó là chỗ của Thiện Nữ Thiên thường cư trú.
Thiện Nữ Thiên chính là một trong những hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, thị hiện đứng trong hàng chư Thiên phát nguyện hành Bồ tát đạo, là một trong những vị Hộ pháp hộ trì cho những ai phát tâm thực hành hạnh nguyện Bồ tát lợi tha ở cõi ta bà này.
Thần Chú.
Thần chú này xuất xứ từ Kinh Kim Quang Minh của đạo Phật.
Âm Phạn.
Namo buddhàya, namo dharmàya, namo sanghàya. Namo srì mahà devàya, tadyathà, paripùrna, cale, samanta darsani, mahà vihara gate, samanta, vidhàna gate, mahà karya pati, suparipùre, sarvatha, samanta, suprati, pùrna, ayana, dharmate, mahà vibhasite, mahà maitre upasamhìte, he ! Tithu, samgrhìte, samanta artha anupalani.
Chữ Hán.
南無佛陀 南無達摩 南無僧伽 南無室利 摩訶提鼻耶 怛你也他 波利富樓那 遮利三曼陀 達舍尼 摩訶毗訶羅伽帝 三曼陀
毗尼伽帝 摩訶迦利野 波禰 波囉 波禰 薩利縛栗他 三曼陀 修缽黎帝 富隸那 阿利那 達摩帝 摩訶毘鼓畢帝 摩訶彌勒帝 婁簸僧衹帝 醯帝簁 僧衹醯帝 三曼陀 阿他阿笯婆羅尼.
Nghĩa Việt.
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Quy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy:
Hỡi Đấng quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng !
Đấng chủ tể Đại tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !
Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy đủ.
Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng.
Hãy thể hiện lòng đại từ làm cho Lý pháp tính tỏa sáng màu nhiệm rộng lớn khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân chính.
Mừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn giữ sự lợi ích. Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản lợi ích. | 1 | null |
Gymnothorax pseudothyrsoideus là một loài cá lịch biển được tìm thấy ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nó có thân dài có thể đến 80 cm và không có vây lưng có thể nhìn thấy. Màu sắc của nó là màu vàng nhạt với những đốm màu nâu sẫm được phân bố không đều trên cơ thể của nó. Con non có màu trắng dọc theo rìa của vây của chúng, nhưng khi trưởng thành mất dần màu trắng để chỉ còn ở đầu đuôi. | 1 | null |
Marshall là một thành phố ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Thành phố thuộc quận Harrison ở góc đông bắc của Texas. Marshall là một trung tâm văn hóa và giáo dục ở Đông Texas và khu vực ba bang. Theo điều tra dân số 2010, dân số của Marshall là khoảng 23.523 người. Thành phố là quận lỵ của quận Harrison.
Marshall là một trung tâm chính trị và sản xuất của bang ly khai trong cuộc nội chiến và là một trung tâm đường sắt chính của đường sắt T&P từ cuối thế kỷ 19 cho đến giữa thế kỷ 20. Cộng đòng dân số người Mỹ gốc Phi lớn và sự hiện diện của các tổ chức giáo dục trên phổ thông của người da đen cao hơn đã kiến Marshal là một trung tâm của phong trào quyền dân sự ở Nam Hoa Kỳ. Thành phố này được biết đến để giữ một trong những lễ hội ánh sáng lớn nhất tại Hoa Kỳ, "Wonderland of Lights", và là thủ đô gốm tự công bố của thế giới, cho ngành công nghiệp đồ gốm khá lớn của thành phố.
Marshall cũng được gọi bằng biệt danh khác nhau; Thủ đô Văn hóa Đông Texas, "cửa ngõ Texas", "Athens Texas". Thành phố của Bảy ngọn cờ và "Sân khấu Trung tâm", một khẩu hiệu thương hiệu đã được thông qua bởi Hội nghị Marshall và Phòng khách hàng. | 1 | null |
Tiến sĩ Tạ Chí Hồng (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1952) là giảng viên chính chuyên ngành triết học, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nghiên cứu Phật học tại Việt Nam . Ông hiện công tác tại Bộ Môn Lý luận Chính trị, trường Đại học Đà Lạt. Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 2004 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tiểu sử.
Tiến sĩ Tạ Chí Hồng sinh ra tại xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Với tình cảm yêu quê hương, ông có bài viết cảm tưởng cuốn sách "Dị Nậu – Lịch sử một làng quê" của tác giả Tạ Đình Hạp.
Nghiên cứu Phật học.
Trong bài viết "Lời Phật dạy về giá trị đạo đức cho một xã hội, quốc gia" , Tiến sĩ quan niệm: "Phật muốn trước hết con người phải làm thiện từ tâm, thân, khẩu, chính cái này đem lại hạnh phúc cho mình, cho người và cho xã hội. Rồi sau đó, hành giả buông xả tất cả theo tinh thần vô ngã để tiến tới bờ mé của sự giải thoát viên mãn." Một điểm khác biệt rõ rệt so với các tư tưởng tôn giáo và triết học, Phật giáo xây dựng hệ thống giáo lý trên cái nền bình đẳng giữa người và người. Tức là ai cũng có thể như Phật và ngang hàng với Phật.
"Tứ ân hay Tứ trọng ân là một trong những giáo lý quan trọng của Phật giáo bao gồm: Ơn cha mẹ, Ơn chúng sanh, Ơn quốc vương và Ơn Tam bảo" được Tiến sĩ đề cập tới trong bài viết "Giáo dục tư tưởng Tứ ân cho lớp trẻ". | 1 | null |
Đền Bồng Lai là một di tích lịch sử - văn hóa tại thôn Bòng, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Nguyên thủy, đền nằm trên ngọn núi Hoàng Sà, thuộc làng Bòng (tên chữ là Bồng Lai), xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Trước đền là 1 đoạn của sông Lục Nam gọi là khúc Nhật Đức. Đền được công nhận di tích lịch sử - văn hóa theo Quyết định số 172/QĐ-CT ngày 2 tháng 2 năm 2005 của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bác Giang.
Tương truyền đây là nơi thờ 3 vị công chúa thời Lý có công giúp nước. | 1 | null |
Đức tham dự thế vận hội Mùa hè 2012 tại Luân Đôn từ 27 tháng 7 đến 12 tháng 8 năm 2012.
Tính đến ngày 4 tháng 8 năm 2012, đội Đức đã có 19 huy chương, trong đó có 5 huy chương vàng, 9 huy chương bạc và 5 huy chương đồng.
Tham khảo.
| 1 | null |
Huyện Murghob hay Nohiya-i Murghob (: Ноҳияи Мурғоб / ناحیۀ مرغاب) là một huyện của Tajikistan, chiếm hai phần ba phía đông của tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan. Huyện có biên giới giáp với Afghanistan ở phía nam, với Khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc ở phía đông, và với Kyrgyzstan ở phía bắc. Bên trong Tajikistan, huyện giáp với bốn huyện khác cùng tỉnh ở phía tây và với Các huyện trực thuộc Cộng hòa. Huyện lị là Murghob (cũng gọi là Murghab). Dân số của huyện Murghob là 16.900 và trong đó 4.000 sống tại thị trấn Murghab (ước tính 1 tháng 1 năm 2008).
Đất đai của huyện chủ yếu là một cao nguyên hoang vắng với các dãy núi phân tán, đặc biệt là hướng về phía đông và nam. Các ngọn núi cao nhất nằm quanh sông băng Fedchenko ở phía tây bắc và dọc theo sông Pamir ở phía nam. Dân số trong huyện chủ yếu là người Kyrgyz. Trước đây đất đai chủ yếu được dùng làm nơi chăn thả mùa hè ('jailoo'). Xa lộ Pamir đoạn đi qua huyện uốn cong từ tây nam đến đông bắc. Bốn hồ chính của Murghob là Karakul ở phía đông bắc và ba hồ: Sarez trên sông Bartang, Yashil Kul trên sông Gunt, và Zorkul trên sông Pamir. | 1 | null |
Tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan (; ) là một tỉnh đồi núi nằm ở phía đông của Tajikistan. Tỉnh nằm trên dãy núi Pamir và chiếm 45% diện tích đất đai của đất nước song lại chỉ chiếm 3% về mặt dân số.
Tên tiếng Tajik Kuhistoni Badakhshon, nay là tên chính thức của tỉnh, biểu thị ý nghĩa "Badakhshan Đồi núi", tương đương với "Gorno-Badakhshan", bắt nguồn từ "Gornîy Badakhšan" (Горный Бадахшан) trong tiếng Nga.
Lịch sử.
Trước năm 1895, khu vực mà nay là tỉnh Gorno-Badakhshan bao gồm một số tiểu quốc bán tự trị khác nhau, như Darwaz, Shughnun-Rushan và Wakhan, họ cai trị những vùng lãnh thổ mà nay là một phần của tỉnh Gorno-Badakhshan tại Tajikistan và tỉnh Badakhshan tại Afghanistan. Khu vực này từng là nơi Trung Quốc cùng với đế quốc Nga và Tiểu vương quốc Afghanistan tuyên bố chủ quyền. Thế lực cai trị Trung Quốc lúc bấy giờ là Nhà Thanh đã tuyên bố kiểm soát toàn bộ dãy núi Pamir, song quân Thanh chỉ kiểm soát được các đèo ở ngay phía đông của trấn Tashkurgan. Trong thập niên 1890, các chính quyền Trung Quốc, Nga và Afghanistan đã ký một loạt các thỏa thuận mà trong đó đã phân chia Badakhshan, song Trung Quốc tiếp tục tranh cãi về vấn đề biên giới cho đến khi một hiệp định biên giới được ký kết vào năm 2002 giữa họ và chính phủ Tajikistan.
Tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan được thành lập vào tháng 1 năm 1925. Tỉnh gắn liền với CHXHCN Xô viết Tajikistan sau khi nước cộng hòa này được thành lập vào năm 1929. Trong thập niên 1950, các cư dân bản địa của Gorno-Badakhshan, bao gồm nhiều người Pamir, đã bị cưỡng bức di dời đến tây nam Tajikistan. Gorno-Badakhshan tiếp nhận một số lãnh thổ của tỉnh Gharm khi vùng lãnh thổ này bị giải thể vào năm 1955.
Khi nội chiến nổ ra tại Tajikistan vào năm 1992, chính quyền địa phương tại Gorno-Badakhshan đã tuyên bố độc lập khỏi Cộng hòa Tajikistan. Trong nội chiến, nhiều người Pamir đã trở thành mục tiêu của các nhóm kình địch và Gorno-Badakhshan trở thành một thành trì của hoạt động chống đối. Sau đó, chính quyền Gorno-Badakhshan từ bỏ lời tuyên bố độc lập. Gorno-Badakhshan vẫn là một tỉnh tự trị bên trong thành phần của Tajikistan.
Năm 2012, khu vực đã chứng kiến một loạt các cuộc đụng độ giữa quân đội Tajikistan và các chiến binh trung thành với cựu quân phiệt Tolib Ayombekov sau khi người này bị buộc tội giết chết một Thiếu tướng Ủy ban an ninh quốc gia Abdullo Nazarov.
Địa lý và hành chính.
Huyện Darvoz là 'mỏ' phía tây của tỉnh. Tây-trung Gorno-Badakhshan chủ yếu là một loạt các dãy núi phân cách bởi thung lũng của các sông đổ vào sông Panj. Các quận được phân chia tương ứng với các thung lũng sông. Huyện Murghob chiếm nửa phía đông của tỉnh và phần lớn là một cao nguyên hoang vắng với các ngọn núi cao ở phía tây.
Gorno-Badakhshan chiếm toàn bộ phần phía đông của đất nước và có ranh giới phía đông giáp với Khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc, ở phía tây và nam giáp với tỉnh Badakhshan của Afghanistan, và ở phía bắc giáp với tỉnh Osh của Kyrgyzstan. Bên trong Tajikistan, phần phía tây của tỉnh giáp với Các huyện trực thuộc Cộng hòa (RRP) và mũi tây nam của tỉnh (huyện Darvoz) giáp với tỉnh Khatlon. Các ngọn núi cao nhất của Gorno-Badakhshan là Pamirs (núi Imeon cổ), và ba trong năm đỉnh núi cao trên 7.000 mét tại vùng Trung Á của Liên Xô trước đây nằm trên địa bàn tỉnh, bao gồm đỉnh Ismail Samani (trước đây là đỉnh Cộng sản) (7.495 m), đỉnh Ibn Sina (trước đây là đỉnh Lenin) (7.134 m, trên biên giới với Kyrgyzstan), và đỉnh Korzhenevskaya (7.105 m).
Nhân khẩu.
Dân số của Gorno-Badakhshan tăng từ 160.900 lên 206.000 giữa hai cuộc điều tra vào năm 1989 và 2000. Dân số vào tháng 1 năm 2008 được ước tính là 218.000 người. Theo Ủy ban Thống kê Nhà nước Tajikistan, dân tộc chính tại Gorno-Badakhshan là người Pamir. Bộ phận dân cư còn lại là người Kyrgyz và các sắc tộc khác. Thành phố lớn nhất tại Gorno-Badakhshan là Khorugh, với 29.000 cư dân (ước tính năm 2008); đô thị lớn thứ hai là Murghab, với khoảng 4.000 cư dân.
Gorno-Badakhshan là quê hương của một số ngôn ngữ và phương ngữ riêng biệt của nhóm ngôn ngữ Pamir. Những ngôn ngữ của nhóm Pamir được nói tại Gorno-Badakshan gồm tiếng Shughni, tiếng Rushani, tiếng Wakhi, tiếng Ishkashimi, tiếng Sarikol, tiếng Bartangi, tiếng Khufi, Yazgulyam và tiếng Oroshani. Tiếng Vanji, trước đây được nói tại thung lũng sông Vanj, đã biến mất vào thế kỷ 19.
Có một con số khá lớn những người nói tiếng Kyrgyz tại huyện Murghob. Tiếng Nga và tiếng Tajik cũng được sử dụng rộng rãi trên khắp tỉnh. Tôn giáo chính của Gorno-Badakhshan là Hồi giáo Shia và tôn trọng Aga Khan là điều phổ biến.
Giao thông.
Chỉ có hai còn đường đi lại một cách dễ dàng kết nối Gorno-Badakhshan với thế giới bên ngoài, Khorog-Osh và Khorog-Dushanbe, và hai đều là phân đoạn của xa lộ Pamir. Một phần ba tuyến đường từ Khorog đến Tashkurgan tại Trung Quốc qua đèo Kulma rất gồ ghề. Gorno-Badakhshan tách biệt với Gilgit Baltistan qua một nơi hẹp song gần như không thể đi qua là hành lang Wakhan. Con đường khác dẫn từ Khorog đến Wakhan và qua biên giới Afghanistan. | 1 | null |
Westland Welkin là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng hai động cơ của Anh, do hãng Westland Aircraft Company chế tạo, nó được thiết kế để bay ở độ cao rất lớn trên tầng bình lưu. Ý tưởng về loại máy bay Welkin bắt đầu từ năm 1940, nó được chế tạo giai đoạn 1942–43, khi Đức có loại máy bay ném bom Junkers Ju 86P chuyên thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, điều này giúp Đức có thể mở lại các cuộc ném bom vào đất Anh với các máy bay ném bom bay tầng cao. Mối đe dọa này không bao giờ trở thành sự thật, nên Westland chỉ sản xuất một số lượng nhỏ Welkin. | 1 | null |
Hành lang Wakhan hay Hành lang Ngõa Hãn (瓦罕) thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với Wakhan, một khu vực ở phía đông bắc Afghanistan tạo thành một dải đất hay "hành lang" giữa Afghanistan và Trung Quốc. Hành lang này là một doi đất dài và thon, dài gần và rộng . Hành lang tách Tajikistan ở phía bắc với Pakistan ở phía nam.
Hành lang là một sáng tạo chính trị của Ván cờ Lớn. Phía bắc của hành lang, các thỏa thuận giữa Anh Quốc và Nga và 1873 và giữa Anh Quốc và Afghanistan năm 1893 đã chia tách trên thực tế khu vực lịch sử Wakhan bằng cách biến sông Panj và sông Pamir thành biên giới giữa Afghanistan và đế quốc Nga. Ở mặt phía nam, thỏa thuận đường Durand vào năm 1893 đã đánh dấu biên giới giữa Ấn Độ thuộc Anh và Afghanistan. Những hành động này đã để lại một dải đất hẹp như một vùng đệm giữa hai đế quốc, trở thành nơi được gọi là hành lang Wakhan trong thế kỷ 20. Hành lang có 12.000 cư dân.
Thuật ngữ hành lang Wakhan cũng được sử dụng với một nghĩa hẹp hơn, đó là một tuyến đường dọc theo sông Panj và sông Wakhan đến Trung Quốc, và phần phía bắc của Wakhan khi đó sẽ được gọi là "Pamir thuộc Afghanistan". | 1 | null |
Forevermore là album phòng thu thứ tư của nam ca sĩ/nhạc sĩ người Mỹ David Archuleta. Album bao gồm các bài hát của Philippines được Archuleta hát lại và được phát hành vào 26 tháng 3 năm 2012, độc quyền cho Philippines
Đĩa đơn.
"Forevermore" và "Nandito Ako" được chọn làm đĩa đơn chính thức của album, và được phát hành kĩ thuật số vào 15 tháng 3 năm 2012. Ngoài ra cũng có một video ca nhạc chính thức cho "Forevermore". Sau đó vào tháng 6, có tin đồn rằng "I'll Never Go" sẽ được chọn làm đĩa đơn thứ ba, và vào 24 tháng 6 năm 2012, một video ca nhạc cho ca khúc này được phát hành. | 1 | null |
Westland Whirlwind là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng hai động cơ của Anh, do hãng Westland Aircraft phát triển. Nó là máy bay tiêm kích đầu tiên của Không quân Hoàng gia (RAF) trang bị pháo, hai động cơ, một chỗ, cùng thời với Supermarine Spitfire và Hawker Hurricane. Whirlwind là một trong những chiếc máy bay nhanh nhất trong biên chế không quân các nước khi nó bay lần đầu vào cuối thập niên 1930, và nó vũ trang mạnh hơn so với các loại máy bay tương đương khác. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan tới việc chậm trễ trong việc phát triển động cơ danh cho Whirlwind là Rolls-Royce Peregrine đã làm chậm toàn bộ đề án và chỉ một số Whirlwind được chế tạo. Trong Chiến tranh thế giới II, chỉ có 2 phi đoàn RAF được trang bị máy bay Whirlwind, mặc dù thành công trong nhiệm vụ tiêm kích-bom, nhưng nó vẫn bị thải loại vào nằm 1943.
Tính năng kỹ chiến thuật (Whirlwind Mk I).
Petter's Nine-Day Wonder | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.