text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Thường Nga là một xã thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Địa lý. Phần lớn của địa bàn xã nhà nằm kẹp giữa quốc lộ 15 A và tỉnh lộ 28 A. toàn xã có 9 xóm (đã có xóm quán trại) Văn hóa & du lịch. Xã nhà là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp đến đây bạn có thể chiêm ngưỡng như đi thăm khe lang, cụp bưởi, du lịch mùa hè ở núi chum vại, đi núi xanh, chùa núi bụt, đi chợ quán trại, thăm Bình Hà vào xóm Bồng Sơn tham quan trại bò sữa, trại lợn, trại cam, rừng cao su... về sân cụp xem hội thể thao vào các ngày lễ tết, Thăm đền cả ở chùa hội. Luôn tiện đi chơi ngã ba Đồng Lộc và mộ Trần Phú ở Đức Thọ ok...
1
null
Triệu Trung là một xã thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hành chính. Xã Triệu Trung được chia thành 4 thôn: Đạo Trung, Ngô Xá Đông, Ngô Xá Thanh Lê, Xuân Tam Mỹ.<ref name=21/NQ-HĐND>Nghị quyết số 21/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2019 của HĐND tỉnh Quảng Trị về việc sắp xếp, sáp nhập và đổi tên thôn, khu phố và hỗ trợ đối với người hoạt động không chuyên trách ở thôn, khu phố đang công tác dôi dư sau sắp xếp, sáp nhập thôn, khu phố trên địa bàn tỉnh Quảng Trị</ref> Chú thích. Trường THPT Vĩnh Định thành lập 13/09/2003 là Trường Cấp 3 lớn nhất huyện Triệu Phong nằm trên địa bàn Ngô Xá Tây, Triệu Trung, Triệu Phong, Quảng Trị
1
null
Triệu Vân là một xã thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hành chính. Xã Triệu Vân được chia thành 3 thôn: 7, 8, 9.<ref name=21/NQ-HĐND>Nghị quyết số 21/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2019 của HĐND tỉnh Quảng Trị về việc sắp xếp, sáp nhập và đổi tên thôn, khu phố và hỗ trợ đối với người hoạt động không chuyên trách ở thôn, khu phố đang công tác dôi dư sau sắp xếp, sáp nhập thôn, khu phố trên địa bàn tỉnh Quảng Trị</ref>
1
null
Trung Đô là một phường thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Phường Trung Đô nằm bên tuyến kênh Nhà Lê, là tuyến đường thủy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam từ kinh đô Hoa Lư đến Đèo Ngang và được xem là tuyến đường Hồ Chí Minh trên sông vì những đóng góp cho các cuộc chiến tranh của người Việt.
1
null
Trường Chinh là một phường thuộc thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, Việt Nam. Địa lý. Phường Trường Chinh nằm ở phía đông bắc thành phố Kon Tum, có vị trí địa lý: Phường Trường Chinh có diện tích 5,19 km², dân số năm 2020 là 11.360 người, mật độ dân số đạt 2.189 người/km². Hành chính. Phường Trường Chinh được chia thành 5 tổ dân phố: 1, 2, 3, 4, 5 và 3 thôn: Kon Mơ Nay Kơ Tu 2, Kon Mơ Nay Sơ Lam 1, Kon Mơ Nay Sơ Lam 2. Lịch sử. Ngày 8 tháng 1 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 13/2004/NĐ-CP<ref name=13/2004/NĐ-CP></ref> về việc thành lập phường Trường Chinh trên cơ sở 196,68 ha diện tích tự nhiên và 2.563 nhân khẩu của xã Đắk Blà, 244,20 ha diện tích tự nhiên và 3.690 nhân khẩu của phường Thắng Lợi. Phường Trường Chinh có 440,88 ha diện tích tự nhiên và 6.253 nhân khẩu. Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 15/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Kon Tum thuộc tỉnh Kon Tum<ref name=15/NĐ-CP></ref>. Phường Trường Trinh trực thuộc thành phố Kon Tum.
1
null
Tu Vũ là một xã thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Địa lý. Xã Tu Vũ nằm ở phía nam huyện Thanh Thủy, có vị trí địa lý: Xã Tu Vũ có diện tích 25,52 km², dân số năm 2018 là 9.805 người, mật độ dân số đạt 384 người/km². Lịch sử. Địa bàn xã Tu Vũ hiện nay trước đây vốn là ba xã: Phượng Mao, Tu Vũ, Yến Mao. Trước khi sáp nhập, xã Tu Vũ có diện tích 4,82 km², dân số là 2.540 người, mật độ dân số đạt 527 người/km². Xã Phượng Mao có diện tích 7,75 km², dân số là 3.073 người, mật độ dân số đạt 397 người/km². Xã Yến Mao có diện tích 12,95 km², dân số là 4.192 người, mật độ dân số đạt 324 người/km². Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 828/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Phú Thọ (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai xã Phượng Mao và Yến Mao vào xã Tu Vũ. Nơi đây đã xảy ra Trận Tu Vũ (1952) trong Chiến tranh Đông Dương.
1
null
Vạn An là một phường thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, ở miền Bắc Việt Nam. Địa lý. Vạn An là một phường nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Bắc Ninh. Phường nằm bên bờ hữu dòng sông Cầu, ngoài ra còn có sông Ngũ Huyện Khê chảy xuyên qua các khu của phường. Sau một quãng đường dài từ điểm đầu nguồn ở huyện Đông Anh thì đây đã là đoạn cuối nguồn của dòng Ngũ Huyện Khê. Sau khi chảy qua địa phận Vạn An, nhánh sông này nhanh chóng đổ vào sông Cầu tại địa phận phường Hòa Long. Do vậy, mặt bằng địa hình của phường trở nên không bằng phẳng do bị cắt xẻ bởi các con đê bảo vệ của các dòng sông. Địa giới hành chính: Giao thông. Phường có hệ thống giao thông khá thuận tiện, nằm gần trung tâm thành phố và tỉnh nên nhân dân đi lại hết sức dễ dàng. Giáo dục. Trên địa bàn có đầy đủ các cơ sở đào tạo phổ thông từ cấp mầm non đến trung học phổ thông. Văn hóa. Vạn An là một trong những địa phương được coi như quê hương của các làn điệu quan họ cổ, khi làng Diềm thờ bà Thủy tổ quan họ ở cách đó không xa bên phường Hòa Long. Hầu hết các làng trong phường đều có câu lạc bộ quan họ riêng và hoạt động khá sôi nổi. Hơn nữa, việc khai quật được số lượng lớn các cổ vật từ lò gốm Đương Xá cho ta thấy nghề gốm sứ cổ ở Vạn An đã hình thành từ hàng nghìn năm trước, phần nào đã nói lên bề dày lịch sử và văn hóa của địa phương. Lễ hội. Vào đầu xuân năm mới, Vạn An có nhiều lễ hội được tổ chức bởi các làng như: Đối chiếu theo Điều 3, Thông tư số 15/2015/BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2015 thì các lễ hội ở Vạn An đều là các lễ hội dân gian. Tương lai. Ngày 20 tháng 2 năm 2019, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Tiến Nhường ký Quyết định số 88/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch phân khu phường Vạn An để làm cơ sở pháp lý triển khai đầu tư và quản lý xây dựng theo quy hoạch chung của đô thị Bắc Ninh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó:
1
null
Vân Dương là một phường thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Địa lý. Địa giới hành chính phường Vân Dương: Đền Vân Mẫu. Đền Vân Mẫu là di tích lịch sử văn hóa lâu đời trên địa bàn phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh. Nếu như các làng quan họ cổ khác thuộc lưu vực sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ thờ thánh Tam Giang thì làng Vân Mẫu thờ thân mẫu đức thánh Tam Giang nên lễ hội đền Vân Mẫu là lễ hội lớn, có sự tham gia của rất nhiều làng. Theo truyền thuyết thánh Tam Giang: Ngày xưa ở làng Vân Mẫu, thành phố Bắc Ninh có một người con gái tên là Phùng Từ Nhan. Năm 18 tuổi, Từ Nhan chiêm bao thấy thần Long từ trên trời hạ xuống quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai 14 tháng và sinh hạ được cái bọc 5 con: 4 trai 1 gái. Do là con trời ban cho nên bà lấy họ Trương của Ngọc Hoàng đặt cho các con là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Đạm Nương. Thời gian sau đó, Ngọc Hoàng sai Lã Tiên Ông xuống trần dạy văn võ cho 5 người con tại bãi Tràng Học gần nhà Cổ Trạch. Năm anh em đều văn võ song toàn, lớn lên hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Việt Vương, họ xung phòng làm tướng tiến đánh giặc Lương ở đầm Dạ Trạch và giành thắng lợi lớn. Trương Hống được phong tướng trấn giữ làng Tiên Tảo (Sóc Sơn, Hà Nội), Trương Hát được phong tướng trấn giữ làng Tam Lư, Từ Sơn, Bắc Ninh. Khi Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương nhưng Vua không nghe nên bị mắc mưu rồi bị đánh bại. Lý Phật Tử đoạt được ngôi vua, biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân, mắng lại rằng: "Tôi trung chẳng thờ hai vua, huống hồ hắn là kẻ vong ơn bội nghĩa?" Biết không thể khuất phục được, Lý Phật tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông biết không thoát được liền tự vẫn ở dòng sông Cầu để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Ngọc Hoàng Thượng đế cảm thương đã sắc phong Trương Hống, Trương Hát làm thần sông. Nhân dân 372 làng dọc theo sông Cầu và các nơi hai ông từng đóng quân đánh giặc đều thương tiếc, lập đền thờ làm Thần. Các triều đại nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý sau đó được âm phù giữ yên bờ cõi nên đều phong anh em họ Trương là Đức thánh Tam Giang - đại vương thượng đẳng thần. Thánh Tam Giang còn gắn liền với huyền thoại ra đời tác phẩm Nam quốc sơn hà, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của người Việt.
1
null
Vân Nham là một xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Địa lý. Xã Vân Nham nằm ở phía tây huyện Hữu Lũng, có vị trí địa lý: Xã Vân Nham có diện tích 36,53 km², dân số năm 2018 là 8.665 người, mật độ dân số đạt 237 người/km². Lịch sử. Địa bàn xã Vân Nham trước đây vốn là hai xã Vân Nham và Đô Lương thuộc huyện Hữu Lũng. Trước khi sáp nhập, xã Vân Nham có diện tích 8,96 km², dân số là 4.154 người, mật độ dân số đạt 504 người/km². Xã Đô Lương có diện tích 27,57 km², dân số là 4.511 người, mật độ dân số đạt 164 người/km². Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 818/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Lạng Sơn (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Đô Lương vào xã Vân Nham.
1
null
Việt Thành là một xã thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, Việt Nam. Địa lý. Xã Việt Thành cách trung tâm huyện Trấn Yên 3 km, có vị trí địa lý: Xã Việt Thành có diện tích 14,34 km², dân số năm 2019 là 2.784 người, mật độ dân số đạt 194 người/km². Hành chính. Xã Việt Thành được chia thành 8 thôn: Đồng Phúc, Đồng Phú, Phú Thọ, Phú Mỹ, Phú Lan, Trúc Đình, Lan Đình, Phúc Đình.
1
null
Dòng Chảy là trạng thái tâm trí hoạt động mà trong đó cá nhân thực hiện một hành động được "nhúng" ngập trong dòng cảm xúc và sự tập trung nguồn năng lượng, tham dự một cách toàn vẹn và tận hưởng trong quá trình hoạt động diễn ra. Được đưa ra bởi Miha’ly Csikszentmihalyi, đây là một khái niệm trong nhánh tâm lý học thực chứng (hoặc "tâm lý học tích cực-positive psychology) đã được tham chiếu rộng rãi trong các lĩnh vực khác. Tổng quan. Theo Csikszentmihalyi, Dòng Chảy là động lực được tập trung toàn vẹn. Đó là một dạng nhúng sâu tâm trí và có thể tạo nên một dạng sử dụng toàn vẹn những xúc cảm cho quá trình thực hiện thao tác cũng như học tập. Trong Dòng Chảy, các cảm xúc không chỉ được dung chứa và truyền dẫn mà còn được kích hoạt, tập trung và điều hướng theo từng thao tác hiện tại. Dấu hiệu xác nhận ra Dòng Chảy là khi bạn có một cảm giác tận hưởng tức thời, thậm chí là mê ly khi bạn thực hiện một tác vụ, dù trạng thái này cũng được mô tả (như dưới đây) như một sự tập trung sâu vào không gì cả, kể cả những xúc cảm hay cảm thức bản thân của một người, mà chỉ vào hoạt động đó thôi. Các khái niệm gần với trạng thái tinh thần này có thể kể đến là: sống trong hiện tại, cái Hiện tiền, trong một khoanh vùng, tập trung phi thường, tâm điểm, hoà điệu, bừng cháy, thông suốt, cuộn chảy. Các thành tố. Nakamura và Csikszentmihalyi xác định sáu yếu tố gắn với một trải nghiệm về Dòng chảy: Các thành tố này có thể xuất hiện độc lập với mỗi cái khác nhưng chỉ trong sự thống hợp chúng mới tạo nên một trải nghiệm gọi là Dòng Chảy. Từ nguyên học. Dòng chảy là khái niệm được định danh khi trong các cuộc phỏng vấn của Csikszentmihalyi năm 1975, nhiều người đã mô tả những trải nghiệm "dòng chảy" của họ bằng việc sử dụng ẩn dụ là một dòng nước cuốn họ trôi theo. Khái niệm tâm lý học về dòng chảy không liên quan tới cụm thành ngữ "trôi xuôi theo dòng – go with the flow" (hay còn được hiểu là sự linh hoạt, đi với bụt mặc áo cà sa – đi với ma mặc áo giấy). Lịch sử/nền tảng. Nghiên cứu về khái niệm dòng chảy bắt đầu từ những năm 1960. Mihaly Csikszentmihalyi được xem như người sáng lập nên thuyết này và các nhà nghiên cứu sau ông đã bắt đầu nghiên cứu Dòng Chảy sau khi Csikszentmihalyi đã bị lôi cuốn bởi các nghệ sĩ thực sự muốn sự mất mát trong công việc của họ. Các nghệ sĩ, đặc biệt là các họa sĩ đã đắm chìm vào công việc của họ khi họ không chú ý tới những nhu cầu ăn uống và thậm chí là ngủ nữa. Bởi thế nên nghiên cứu tiên khởi về thuyết Dòng Chảy đã được thực hiện khi Csikszentmihalyi cố nhận hiểu về hiện tượng trải nghiệm này qua các nghệ sĩ đó. Nghiên cứu về hiện tượng này trở nên thịnh hành trong những năm 1980 và 1990 và Csikszentmihalyi cùng đồng sự tại Italy vẫn là tiên phong. Các nhà nghiên cứu quan tâm tới những trải nghiệm tận mức và tập trung vào những trải nghiệm tích cực, đặc biệt trong các ngành như học đường và thương mại cũng đã bắt đầu nghiên cứu về thuyết Dòng chảy trong thời gian này. Thuyết Dòng Chảy đã được Maslow và Rogers sử dụng nhiều trong lý thuyết của họ để phát triển dòng tâm lý học nhân văn. Dòng Chảy đã được trải nghiệm trong dòng lịch sử và ở nhiều nền văn hoá. Các bài giảng của Phật giáo và Lão giáo đã nói về trạng thái tâm trí như là "Cái làm của cái Không Làm" hoặc "Làm mà không Làm" rất tương hợp với ý tưởng về Dòng Chảy (ở đây đang nói về khái niệm Vô Vi và Tuỳ Duyên mà làm trong Phật và Lão giáo, nhưng để tôn trọng bản gốc nên tôi vẫn dịch theo cách diễn đạt của Phương Tây). Trong các văn bản của dòng triết Advaita (nhất nguyên hay sát nghĩa – 1 tiểu nhánh của triết lý Vedanta) ở Ấn Độ như Ashtavakra Gita và Yoga hiểu biết như Bhagavad-Gita cũng đề cập tới trạng thái tương tự. Những nguồn sử liệu gợi cho thấy rằng Michelangelo có thể đã vẽ bức tranh trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican trong một trạng thái như Dòng Chảy, rằng ông đã vẽ liên tục trong nhiều ngày và bị mê cuốn trong công việc đến mức không dừng để ngủ nghỉ hay ăn uống cho đến nét vẽ cuối cùng. Ông sẽ tỉnh thức phục hồi và lại tiếp tục vẽ, lại nhập vào một lần nữa trạng thái mê cuốn tuyệt mức đó.Lý Tiểu Long cũng từng nói về trạng thái tâm lý như dạng Dòng Chảy trong cuốn "Đạo của Triệt Quyền Đạo" của ông. Cơ chế. Trong từng khoảnh khắc được đem lại có biết bao luồng thông tin ập tới cá nhân. Các nhà tâm, lý học đã khám phá ra rằng tâm trí của chúng ta chỉ có thể chú ý vào một khối lượng thông tin nhất định trong hiện tại. Theo nghiên cứu của Mihaly năm 1956 thì khối lượng đó có thể vào khoảng 126 bits thông tin mỗi giây. Đó có vẻ là một con số lớn (và nhiều thông tin) nhưng những tác vụ đơn giản thường ngày cũng có biết bao nhiêu là thông tin. Chỉ một cuộc hội thoại cũng có khoảng 40 bit thông tin mỗi giây; tức là chiếm 1/3 dung lượng Khả Thể của một người. Đó là lý do tại sao một người không thể tập trung tốt vào những chuyện khác khi đang đối thoại. Trong phần lớn trường hợp (ngoại trừ những cảm giác cơ thể thiết yếu như đói và đau – đó là bẩm sinh) mọi người có thể quyết chọn những gì họ muốn dành sự chú ý của mình vào. Nhưng khi một người đang trong trạng thái Dòng Chảy thì anh/chị ta bị choán toàn bộ tâm trí vào việc đang làm mà không có sự quyết định một cách có ý thức vào việc đó, buông mất sự thức nhận về tất cả mọi thứ khác: thời gian, con người, giải trí, thậm chí cả những nhu cầu thể lý cơ bản. Hiện tượng này xuất hiện bởi tất cả sự chú ý của một người trong trạng thái Dòng Chảy đã đặt vào tác vụ họ đang làm nên không còn sự phân bố nào khác của chú ý nữa.
1
null
Martin JRM Mars là một loại thủy phi cơ vận tải cỡ lớn 4 động cơ. Nó được thiết kế chế tạo với số lượng nhỏ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới II. Nó là tàu bay lớn nhất của quân Đồng mình được sản xuất, chỉ có 7 chiếc được chế tạo.
1
null
Global Peace Index () đánh giá sự yên bình của các quốc gia và các khu vực qua những so sánh tương đối. Lập ra và được xuất bản bởi một ủy ban quốc tế gồm những nhà chuyên môn, các viện nghiên cứu về vấn đề hòa bình, các ủy ban chuyên môn và trung tâm nghiên cứu về hòa bình và xung đột của đại học Sydney, hợp tác với tờ báo The Economist. Danh sách chỉ số đầu tiên được công bố tháng 5 năm 2007, được xem là nghiên cứu đầu tiên để đo lường sự yên bình của các quốc gia trên toàn thế giới. Cuộc nghiên cứu này được sự ủng hộ của nhiều nhân vật nổi tiếng trong đó có Dalai Lama, tổng giám mục Desmond Tutu, cựu tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và Nữ hoàng Noor của Jordanien. Tổng cộng chỉ số hòa bình toàn cầu chia 121 nước (hiện tại là 162 nước) ra làm năm loại, dựa trên cách tính điểm trong trường học theo đó loại 1 là những khu vực yên bình nhất, loại 5 là những khu vực có thống kê bạo động nhiều nhất. Danh sách các nước. Danh sách các nước theo Chỉ số hòa bình toàn cầu GPI (Global Peace Index). Danh sách các nước, do Viện Kinh tế và Hòa bình công bố. Điểm GPI thấp ứng với chuộng hòa bình hơn. Năm 2013 các nhà nghiên cứu tại Viện Kinh tế và Hòa bình đã làm hài hoà cơ sở dữ liệu chỉ số hòa bình toàn cầu để đảm bảo rằng các điểm đã được so sánh theo thời gian. Mặt khác, các nước được xếp GPI phải hoặc là có dân số hơn 1 triệu hoặc diện tích đất lớn hơn 20.000 km².
1
null
Cầu Ông Lãnh là một phường thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Địa lý. Phường Cầu Ông Lãnh nằm ở phía nam Quận 1, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 0,23 km², dân số năm 2021 là 10.527 người, mật độ dân số đạt 45.769 người/km². Lịch sử. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Cầu Ông Lãnh là một phường thuộc quận 2 (quận Nhì), thành phố Sài Gòn. Năm 1962, một phần diện tích và dân số của phường Cầu Ông Lãnh được tách ra để lập phường Bùi Viện. Năm 1976, quận 2 được sáp nhập vào quận 1, phường Cầu Ông Lãnh giải thể và chia thành 4 phường là Phường 18, Phường 19, Phường 20 và Phường 21 thuộc Quận 1. Ngày 28 tháng 12 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 184-HĐBT. Theo đó, đổi tên Phường 20 thành phường Cầu Ông Lãnh.
1
null
Bến Thành là một phường thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Địa lý. Phường Bến Thành nằm ở trung tâm Quận 1, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 0,93 km², dân số năm 2021 là 11.747 người, mật độ dân số đạt 12.631 người/km². Lịch sử. Trước năm 1975, Bến Thành là một phường thuộc quận 2 (quận Nhì), thành phố Sài Gòn. Sau năm 1975, phường Bến Thành sáp nhập với phường Nhà thờ Huyện Sĩ thành phường Huyện Sĩ. Tuy nhiên, đến năm 1976, quận 2 được sáp nhập vào quận 1, phường Huyện Sĩ giải thể và chia thành 3 phường là Phường 11, Phường 12 và Phường 13 thuộc Quận 1. Ngày 28 tháng 12 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 184-HĐBT. Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của Phường 11 và Phường 12 để tái lập phường Bến Thành.
1
null
Cô Giang là một phường thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Địa lý. Phường Cô Giang nằm ở phía tây nam Quận 1, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 0,36 km², dân số năm 2021 là 11.574 người, mật độ dân số đạt 32.150 người/km². Lịch sử. Phường Cô Giang được thành lập vào ngày 28 tháng 12 năm 1988 trên cơ sở sáp nhập Phường 21 và Phường 23 cũ. Phường được đặt tên theo bà Nguyễn Thị Giang, nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
1
null
Bến Nghé là một phường thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Địa lý. Phường Bến Nghé nằm ở trung tâm Quận 1, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 2,48 km², dân số năm 2021 là 11.454 người, mật độ dân số đạt 4.618 người/km². Phường là nơi đặt trụ sở nhiều cơ quan hành chính quan trọng của Quận 1 và Thành phố Hồ Chí Minh như Ủy ban Nhân dân, Hội đồng nhân dân. Hành chính. Phường Bến Nghé được chia thành 8 khu phố với 63 tổ dân phố. Lịch sử. Bến Nghé vốn là địa danh tại vùng đất Sài Gòn – Gia Định xưa, là tên gọi của khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hiện tại từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19. Đến thời Pháp thuộc, trên cơ sở đô thị Bến Nghé, người Pháp đã quy hoạch thành phố Sài Gòn. Danh xưng Bến Nghé từ đó không còn được sử dụng. Năm 1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành nghị định chia các quận của Đô thành Sài Gòn thành nhiều phường. Trong đó, Quận 1 có 4 phường: Bến Nghé, Hòa Bình, Tự Đức và Trần Quang Khải. Địa bàn phường Bến Nghé hiện nay tương ứng với hai phường Bến Nghé và Hòa Bình lúc bấy giờ, ranh giới hai phường là đường Lê Thánh Tôn. Sau năm 1975, phường Hòa Bình được sáp nhập vào phường Bến Nghé. Tuy nhiên, đến năm 1976, phường Bến Nghé giải thể và chia thành 3 phường là Phường 8, Phường 9 và Phường 10. Ngày 26 tháng 8 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 147-HĐBT. Theo đó, giải thể phường 9 để sáp nhập vào các phường 8, 10, 18 và 19. Ngày 28 tháng 12 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 184-HĐBT. Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của Phường 8 và Phường 10 để tái lập phường Bến Nghé.
1
null
Súng tiểu liên M3 Grease Gun, tên khác M3, Tiểu liên Hoa Kỳ và Tiểu liên 45 cal là một loại súng tiểu liên khá thông dụng của quân đội Mỹ dùng trong suốt thế chiến thứ hai cũng như hơn nửa đầu thế kỷ 20, sau này nó cũng xuất hiện trên nhiều chiến trường khác như là chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương, nội chiến Trung Quốc... Nó là một trong những khẩu súng tiểu liên nổi tiếng nhất thế giới thời đại những năm 1940-1960 bởi vì nó có hình dáng nhỏ, gọn, nhẹ, dễ sử dụng khiến quân đội nào trên thế giới cũng yêu thích. Vào năm 1942, khi quân đội Mỹ lẫn các nhà máy sản xuất vũ khí yêu cầu với chính phủ về việc thiết kế một loại súng tiểu liên mới để đồng hành cùng với khẩu tiểu liên Thompson vì khẩu Thompson vừa nặng, vừa dài, vừa khó sản xuất trong điều kiện sản xuất thời chiến.Sau đó, ông Geogre Hyde đã thiết kế thành công tiểu liên M3. Quân đội Mỹ rất thích khẩu súng này.Trong khi nhà thiết kế Hyde chưa nghĩ ra tên gì để đặt cho nó thì quân đội Mỹ đã đặt tên nó là "Grease Gun" (Súng xịt dầu). Nó được đặt tên như thế bởi vì hình dáng của nó giống dụng cụ tra dầu mỡ mà lính xe tăng Mỹ thường sử dụng. Trong khi Thế chiến thứ hai đang leo thang thì súng M3 cũng được nước Mỹ bán cho những nước đồng minh khác như là Canada, Anh Quốc, Pháp... để họ có thêm vũ khí chiến đấu với phát xít Đức. Nó còn là nền tảng để người Pháp thiết kế nên khẩu tiểu liên MAT-49 danh tiếng của họ trong chiến tranh Lạnh.
1
null
Ngọc nữ hay rồng nhả ngọc, lồng đèn (danh pháp khoa học: Clerodendrum thomsoniae) là loài thực vật có hoa thuộc chi "Clerodendrum" của họ Hoa môi, bản địa của Tây Phi nhiệt đới, từ Cameroon đến Senegal. Tên khoa học của loài này được đặt theo tên của nhà vật lý và truyền giáo tại Nigeria, William Cooper Thomson (1820 – 1880s).
1
null
Giải Feyenoord Jubileum là một giải đấu bóng đá giao hữu trong hai ngày 1 và 3 tháng 8 năm 2008. Giải đấu là một trong những hoạt động xung quanh lễ kỷ niệm 100 năm của câu lạc bộ bóng đá Feyenoord Rotterdam. Mỗi đội sẽ đá hai trận. Các trận đấu được chơi trên sân vận động De Kuip.
1
null
Trận Bazeilles là một trận đánh trong giai đoạn đầu của trận Sedan (1870) tại Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, diễn ra trong các ngày 29 tháng 8 và 1 tháng 9 năm 1870, giữa Quân đoàn I của Vương quốc Bayern do tướng Ludwig von der Tann chỉ huy với lực lượng "thủy quân lục chiến" thuộc Quân đoàn XII của Đế chế Pháp do tướng Barthélémy Louis Joseph Lebrun chỉ huy. Đây được xem là một trong những sự kiện đầu tiên liên quan tới "chiến tranh đô thị". Mặc dù trong ngày đầu của trận chiến, quân đội Pháp đã giành lại được làng Bazeilles có tầm quan trọng mang tính chiến lược, quân đội Bayern đã chiếm được ngôi làng này. Cuộc kháng cự của thủy quân lục chiến Pháp tại Bazeilles đã đi vào huyền thoại quốc gia Pháp và gây cho đối phương những thiệt hại nặng nề, song cuộc chiến đẫm máu này cũng được người Đức ghi nhận như là một đóng góp đáng vinh danh cho tiến trình thống nhất nước Đức của Bayern. Trận đánh thực sự đã diễn ra vào buổi chiều ngày 31 tháng 8 năm 1870, khi lữ đoàn thứ hai thuộc sư đoàn xanh của lực lượng "thủy quân lục chiến Pháp" được lệnh chiếm lại làng Bazeilles vừa mới rơi vào tay người Đức. Sau một trận giao tranh quyết liệt, quân Pháp nhờ có quân tiếp viện đã đoạt lại được Bazeilles khi màn đêm buông xuống. Tuy nhiên, vào đầu ngày 1 tháng 9, sau khi qua cầu, quân đoàn I của Bayern đã tiến công quân đoàn XII của Pháp tại Bazeilles. Với sự hỗ trợ của du kích quân franc-tireur, và được trang bị loại súng trường có tốc độ bắn nhanh "Chassepot", thủy quân lục chiến Pháp yếu thế về quân số đã cầm cự được cuộc tấn công của người Bayern trong một khoảng thời gian lâu dài. Quân Bayern tiến công dữ dội đến mức mà quân Pháp phải vài lần giành lại các vị trí của mình, và tuy chiến đấu dũng cảm, quân Pháp không thể đánh đuổi hoàn toàn được quân bộ binh Đức. Được tăng cường lực lượng, quân đội Đức tiếp tục tiến công với tinh thần kiên quyết không kém đối phương, và cuộc chiến đấu đã trở nên rất tàn khốc giữa quân Đức với quân dân Pháp. Cuối cùng, với lợi thế về quân số và pháo binh, quân Bayern đã buộc thủy quân lục chiến Pháp phải triệt thoái về Sedan, dù chịu nhiều thương vong. Để yểm trợ cho đường rút của quân Pháp, một số sĩ quan và binh lính Pháp đã tử thủ trong căn nhà cuối cùng tại Bazeilles trước khi hết đạn và phải đầu hàng quân Bayern. Trong cuộc chiến tại Bazeilles, thống chế Pháp là Patrice de Mac-Mahon bị thương nặng cho nên phải thôi chỉ huy. Trận đánh đã khiến cho ngôi làng Bazeilles bị thiêu cháy và trong ánh lửa, có những cáo buộc rằng binh sĩ quân đội Bayern đã thảm sát dân chúng Pháp tại Bazeilles, hoặc người Pháp đã tiến hành vũ trang cho dân thường – trái với quy luật của chiến tranh. Năm sau (1871), viên thị trưởng và hội đồng thành phố Bayern đã cho ra mắt một bản tổng kết về các sự việc đã xảy ra, trong đó cho thấy chỉ có 39 cư dân ở Bazeilles thiệt mạng trong cuộc giao tranh. Quân Pháp chịu thiệt hại vài trăm sĩ quan trong trận đánh này, và trận chiến Sedan cuối cùng đã kết thúc với cuộc đầu hàng của Napoléon III và quân đội Pháp. Cuộc kháng cự không thành của quân Pháp tại Bazeilles đã không thể bù đắp cho thảm họa Sedan, mặc dù được ghi nhận là một thất bại huy hoàng của quân Pháp, cũng giống như trận Camarón.
1
null
Trận Kleidion (hoặc Clidium, sau thời Trung cổ còn được gọi là Trận chiến Belasitsa) diễn ra vào ngày 29 tháng 7 năm 1014 giữa Đế chế Bulgaria và Đế chế Đông La Mã. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh kéo dài gần một phần tư thế kỷ giữa Sa hoàng Samuel của Bungaria và Hoàng đế Basileios II của Đông La Mã vào những năm cuối thế kỷ 10 và những năm đầu thế kỷ 11 với kết thúc là một chiến thắng quyết định của Đông La Mã. Cuộc hỗn chiến diễn ra dưới thung lũng giữa những ngọn núi Belasitsa và Ograzhden gần ngôi làng Klyuch ngày nay của Bungaria. Cuộc tấn công quyết định xảy ra vào ngày 29 tháng 7 với một đợt tổng tấn công vào phía sau hàng ngũ binh lính Bulgaria của tướng quân Nikephoros Xiphias, người đã chọc thủng các đồn lũy tiền tiêu của quân Bungaria ở hậu phương. Quân đội Bulgaria thảm bại. Hơn 15.000 binh sĩ Bun-garia bị bắt sống và bị chọc mù mắt theo lệnh của Basileios II, người sau này được biết đến như là "Kẻ giết người Bulgaria". Samuel sống sót sau trận chiến, nhưng đã qua đời hai tháng sau đó bởi một cơn đau tim, khi được biết số phận đội quân xấu số của mình. Mặc dù sự thảm bại trong trận chiến đã không làm kết thúc Đế chế Bungaria lần thứ nhất ngay lập tức, nhưng trận Kleidion đã làm hủy diệt hoàn toàn quân đội của Bulgaria trong cuộc chiến chống lại Đông La Mã và được coi đây là chiến thắng bước ngoặt của Đông La Mã. Những người thừa kế sau này của Samuel đã không có bất kì một lực lượng quân sự nào để chống lại các đợt tấn công của quân Đông La Mã. Cuối cùng vào năm 1018, Đế chế Bulgaria đã bị hủy diệt bởi hoàng đế Basileios II. Căng thẳng và xung đột. Nguồn gốc của cuộc xung đột bắt nguồn từ thế kỷ thứ 7, khi những người Bulgaria dưới quyền Khan Asparukh đã thành lập một nhà nước dọc sông Danube ở một trong các tỉnh tiền tiên của Đế quốc Đông La Mã. Kết quả là một nhà nước Bungaria non trẻ buộc phải tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh với thành Constantinopolis để đảm bảo sự tồn tại của nó. Năm 968, Bun-ga-ri bị xâm lược từ phía bắc bởi Hoàng tử Kiev Sviatoslav. Đế chế Bungaria, một thời đe dọa sự tồn tại của Đông La Mã dưới sự trị vì của Simeon đã bị suy sụp nghiêm trọng. Quân Nga Kiev đã bị người Đông La Mã đánh bại, và thủ đô Preslav của Bulgaria cũng thất thủ trước các đợt tấn công của Đông La Mã năm 971. Sa Hoàng Bungaria Boris II đã buộc phải từ bỏ danh hiệu "Hoàng đế" ở Constantinopolis và giao nộp các tỉnh phía đông Bulgaria cho triều đình Đông La Mã. Các nghị sĩ và tướng lĩnh ở Constantinopolis đã tin rằng hồi kết của một nhà nước Bulgaria độc lập đã đến, nhưng các vùng đất phía tây Bulgaria vẫn dưới sự lãnh đạo của anh em nhà Comitopuli bao gồm David, Moses, Aaron và Samuel đã tiến hành kháng chiến chống Đông La Mã. Khi hoàng đế Đông La Mã Basileios II ngồi lên ngai vàng vào năm 976, ông đã coi việc thôn tính Bulgaria là tham vọng lớn nhất của mình. Mục tiêu của ông là các tỉnh miền tây Bulgaria dưới sự cai trị của Sa hoàng Samuel của Bulgaria. Chiến dịch đầu tiên của Basileios II với kết quả thất bại lớn, hoàng đế may mắn thoát chết khi quân Bulgaria tàn sát quân đội Đông La Mã ở Cổng Trajan năm 986. Trong vòng mười lăm năm tiếp theo, khi Basileos đang bù đầu bận tâm đối phó với các cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của ông ở Anatolia và mối đe dọa từ Fatimid ở phía Đông, Samuel đã giành lại hầu hết đất đai đã mất của Bungaria và tiến hành một loạt các chiến dịch vào lãnh thổ của đối phương. Tuy nhiên, cuộc xâm lược vào miền Nam Hy Lạp, mà xa nhất là tới được Corinth đã dẫn đến một thất bại lớn trong trận Spercheios vào năm 996. Năm 1000, sau khi đảm bảo được yên ổn cho hậu phương, Basileios II đã phát động một loạt các cuộc phản công chống lại Bulgaria. Ông chiếm Moesia, và tới năm 1003, lực lượng của ông tiến vào Vidin. Năm sau đó, Basileos đã giáng một thất bại nặng cho Samuel ở trận Skopie. Đến 1005, Basil đã lấy lại quyền kiểm soát tỉnh Thessalia và các vùng miền nam Macedonia. Vài năm tiếp theo, Basileios II đưa quân từ Tiểu Á vào châu Âu và tiến hành các chiến dịch tàn phá lãnh thổ Bulgaria, bao vây các pháo đài và cướp bóc các vùng nông thôn. Sa hoàng Bulgaria bị thua kém về mặt binh lực, không thể trực tiếp đánh nhau với Basileos, đã phải tung ra những cuộc tấn công nghi binh vào Macedonia và Hy Lạp. Mặc dù có một số thành công, những không đạt được bất kỳ kết quả lâu dài nào, cũng không thể buộc Basileos phải từ bỏ các chiến dịch của mình ở Bulgaria. Một cuộc tấn công lớn trong năm 1009 của quân Bulgaria không thành công tại trận Kreta, và mặc dù không đạt được bất kỳ thành công quyết định nào, nhưng cuộc chiến tranh có phương thức tiêu hao của họ đã chiếm dần thành trì của Bulgaria và dần dần làm suy yếu lực lượng của Sa hoàng Samuel. Theo sử gia Đông La Mã Ioannes Skylitzes: ""Hoàng đế Basileios II tiếp tục tấn công Bulgaria mỗi năm và tiêu diệt hoặc tàn phá tất cả mọi thứ trên đường đi. Samuel không thể đối đầu với quân Đông La Mã trong chiến trường mở hoặc tham gia vào một trận chiến quyết định, bởi Bulgaria phải chịu quá nhiều thất bại và bắt đầu mất đi sức mạnh của mình "." Đỉnh điểm của cuộc chiến là vào năm 1014, khi Samuel hiệu triệu quân đồng minh và các chư hầu, nhằm quyết tâm ngăn chặn bước tiến của quân đội Đông La Mã trước khi họ tiến vào miền trung Bungaria. Sự chuẩn bị của hai đế quốc. Samuel biết rằng quân đội Đông La Mã sẽ phải tiến vào đất nước của ông bằng cách vượt qua một loạt các con đèo hiểm trở và như vậy đây là cách để ngăn bước tiến của kẻ thù. Người Bulgaria đã xây dựng những con hào và mương dọc theo biên giới và tăng cường phòng thủ ở nhiều thung lũng bằng các bức tường và tháp canh, đặc biệt là ở Kleidion trên bờ sông Struma, nơi mà Basil sẽ cần phải vượt qua để đến được miền trung của Bulgaria. Samuel tăng cường củng cố phòng bị bên sườn phía bắc của núi Belasitsa, và các tiền đồn ở phía nam và phía đông của lâu đài Strumitsa. Ioannes Scylitzes, một thung lũng lớn dọc sông Strumitsa là một nơi thuận lợi cho việc tấn công và được quân Đông La Mã chọn làm nơi quyết đấu nhiều năm trước đây, nay được một đội quân Bulgaria tinh nhuệ đóng giữ. Ngoài ra, Samuel chọn Strumitsa làm nơi đặt phòng tuyến của mình bởi nó nằm trên con đường từ Thessaloniki dẫn đến Thrace ở phía đông và Ohrid ở phía tây, địa hình gồ ghề ở phía nam đã được kết hợp với các hàng rào cọc nhọn và những bức tường chắc chắn được chốt giữ bởi các đơn vị tinh nhuệ nhất của Bugaria. Samuel quyết định đối mặt với Basileios II và quân đội của ông ta tại Kleidion không chỉ vì muốn gỡ gạc cho các thất bại liên tiếp, mà còn bởi mối lo âu về quyền lực của mình trong mắt của giới quý tộc, vốn bị lung lay bởi các chiến dịch của Basileios II. Năm 1005, ví dụ, thống đốc của cảng Dyrrhachium quan trọng ở Adriatic đã đầu hàng và dâng hai tay thành phố này cho Basileios II Để đối mặt với mối đe dọa này, Samuel tập hợp một đội quân lớn để đối mặt với Đông La Mã, theo một số tài liệu con số này là 45.000 quân. Basileios II cũng đã chuẩn bị cẩn thận, trưng tập một đội quân lớn của riêng mình, trong đó bao hàm một số tướng lĩnh kinh nghiệm nhất của đế quốc như tổng đốc Philippopolis (hiện nay là thành phố Plovdiv), Xiphias Nikephorros, người đã chinh phục thủ đô Bulgaria cũ Pliska và Preslav từ Samuel trong năm 1001. Trận chiến. Quân đội Đông La Mã hành quân từ Constantinopolis đi qua Komotini, Drama tới Serres và vượt qua hẻm núi Rupel bên bờ sông Struma. Từ đây đại quân tiến vào thung lũng Strumitsa và đến được vùng lân cận của làng Klyuch, nơi dòng sông uốn cong và tiếp cận Belasitsa và Ozgrazhden. Một phòng tuyến bằng gỗ dày được các binh lính Bulgaria canh gác nghiêm ngặt đã làm ngừng lại bước tiến của họ. Cuộc tấn công của quân Đông La Mã vào phòng tuyến bị đẩy lui với tổn thất nặng nề bởi các đội gác thành Bulgaria Đáp lại, Samuel đã gửi một đội quân lớn dưới quyền một quý tộc Bungaria có kinh nghiệm trận mạc nhất, Nestoritsa tấn công vào phía nam Macedonia nhằm hướng sự chú ý của Basileios khỏi cuộc bao vây tiền đồn Klyuch Nestoritsa của Bulgaria đến được dưới chân thành Thessalonika, nhưng quân Đông La Mã do Theophylact Botaneiates, strategos (Tổng đốc) của thành phố và Mihail con trai của ông chỉ huy đã đánh bại họ bên ngoài bức tường thành phố trong một trận chiến đẫm máu. Theophylactus bắt sống được nhiều binh lính Bulgaria cùng một lượng lớn các thiết bị quân sự và hành quân về phía bắc để hội quân với Basileios II tại Klyuch Nỗ lực của Basileios II để áp đảo những người phòng thủ không thành công và quân đội của ông đã không thể đi qua thung lũng được bảo vệ bởi 15.000-20.000 quân Bulgaria. Cho dù có gặp nhiều khó khăn nhưng hoàng đế Đông La Mã đã tuyên bố sẽ không từ bỏ cuộc tấn công của mình. Ông ra lệnh cho Nicephorus Xiphias đem một đội quân cơ động đi vòng qua núi Belasitsa và bao vây quân Bulgaria từ phía sau, trong khi Basileios tiếp tục chỉ huy các cuộc công thành phía trước mặt quân Bulgaria Xiphias dẫn quân đội của ông đi dọc theo một con đường mòn dốc dẫn họ ra phía sau phòng tuyến của Bulgaria. Vào ngày 29 tháng 7. Xiphias đã tấn công vào sau lưng các đội lính gác Bulgaria và vây họ lại trong thung lũng. Những người lính Bungaria bỏ chạy khỏi vị trí của mình phải đối mặt với quân của Xiphias trong khi đó, Basileios đã dễ dàng vượt qua chiến tuyến và phá hủy các bức tường, rồi thúc quân tràn vào Trong cuộc tháo lui đầy hỗn loạn, hàng ngàn quân Bungaria đã bị giết và phần còn lại cố gắng trong tuyệt vọng chạy tháo thân về phía tây. Samuel và con trai của ông Gabriel Radomir đã vội dẫn đầu một đội quân tiến về phía đông từ đại bản doanh của họ ở pháo đài Strumitsa để tiếp ứng cho tàn quân của họ, nhưng trong cuộc chiến đấu tuyệt vọng gần làng Mokrievo (ngày nay thuộc Cộng hòa Macedonia), họ đã bị quân Đông La Mã áp đảo một cách nhanh chóng Hàng nghìn binh sĩ Bungaria đã bị giết tại Mokrievo và nhiều hơn thế nữa đã bị bắt sống. Sa Hoàng Samuel đã có thể tử trận hoặc bị bắt sống nếu không nhờ sự dũng cảm của con trai ông, người đã dìu cha mình trên con ngựa của mình và đưa ông đến được nơi an toàn ở Prilep Từ Prilep, Samuel trở về Prespa trong khi Gabriel Radomir đi về phía Strumitsa để tiếp tục cuộc chiến Giao tranh tiếp diễn. Sau chiến thắng của mình, Basileios II tiến quân về phía Strumitsa, cửa ngõ thung lũng Vardar. Trên đường đi đến thành phố, quân Đông La Mã đã chiếm giữ pháo đài Matsukion ở phía đông làm nơi đồn trú tạm thời. Hoàng đế Đông La Mã cũng đã gửi một đội quân dưới quyền tướng Botaneiates đi tiêu diệt tất cả các thành lũy Bulgaria ở phía nam và gửi công hàm tới Thessalonica để yêu cầu gửi thêm quân tiếp viện. Trong khi đó, Basileios chỉ huy số quân lính còn lại vây hãm thành phố. Tướng quân Botaneiates tiến xuống phía nam, đè bẹp các pháo đài Bulgaria còn ngoan cố không chịu đầu hàng một cách dễ dàng, nhưng ông và quân đội của ông đã bị phục kích bởi quân Bungari trong một thung lũng chật hẹp, ngay sau khi nhiệm vụ của họ vừa được hoàn tất. Trong trận chiến này, Botaneiates hoàn toàn bị đánh bại và chỉ huy Bungaria Gabriel Radomir đã đâm chết Botaneiates bằng mũi giáo của mình Nghe tin quân mình đại bại, Basileios II buộc phải từ bỏ cuộc bao vây Strumitsa và rút lui. Nhờ tài hùng biện của Sergius thuyết phục được những người bảo vệ Melnik đầu hàng, đây là một đòn nặng nề cho Bulgaria bởi đây là thành phố bảo vệ con đường chính dẫn đến Sofia từ phía nam. Số phận các tù binh. Các hồ sơ của Skylitzes đã ghi lại đầy đủ chiến dịch của Basileios ở Bungaria, và theo Skylitzes, quân Đông La Mã bắt được tới 15.000 tù binh Bulgaria sau trận chiến (14.000 tù binh theo Kekaumenos). Tuy nhiên, các sử gia hiện đại, chẳng hạn như Vasil Zlatarski, cho rằng những con số này được phóng đại. Vào thế kỷ 14, Biên niên sử Manasses đã ghi rằng số lượng các tù binh chỉ vào khoảng 8.000 người. Basileios chia các tù nhân vào những nhóm 100 người, 99 người trong mỗi nhóm bị chọc mù mắt và một người còn lại bị chọc mù một mắt để có thể dẫn những người còn lại về nhà. Hành động này được dùng để trả thù cho cái chết của tướng quân Botaneiates, cố vấn và sủng thần số một của Basileios, và cũng là để đè bẹp tinh thần chiến đấu của người Bungari Một lý do khác có thể là trong mắt người Đông La Mã, người Bulgaria là những kẻ nổi loạn chống lại triều đình, và chọc mù là hình phạt thông thường cho các phiến quân Đối với hành động này, Basil đã nhận được biệt hiệu "Boulgaroktonos" (," Kẻ giết người Bulgaria"). Samuel đã chết vì một cơn đau tim vào ngày 06 tháng 10 năm 1014, khi nhìn thấy binh lính của ông ta mù lòa trở về nhà. Sau trận chiến. Cái chết của Botaneiates và bốn năm chiến tranh sau đó chỉ ra rằng sự thành công Byzantine là không trọn vẹn. Một số sử gia hiện đại nghi ngờ rằng sự thất bại Bulgaria không hoàn thành như những gì Skylitzes và Kekaumenos đã viết. Một sử gia khác còn nhấn mạnh rằng cái chết của Hoàng đế Samuel hai tháng sau đó mới chính là định mệnh cho Bulgaria Người thừa kế của ông Gabriel Radomir và Ivan Vladislav đã không thể chống lại được các cuộc tấn công của Basileios II, và Bulgaria đã hoàn toàn bị đánh bại năm1018 Trong năm đó, Hoàng đế Ivan Vladislav đã bị giết chết trong một trận chiến ở Dyrrhachium, và Bulgaria đã trở thành một tỉnh của đế quốc Đông La Mã cho đến khi cuộc nổi dậy do anh em nhàAsen lãnh đạo thành côngnăm 1185. Các tài liệu khác còn tranh cãi về tầm quan trọng của trận chiến. Như trong trận Belasitsa, quân đội Bungaria bị thương vong nặng nề đến mức không thể phục hồi. Khả năng của triều đình đối với việc kiểm soát các tỉnh bên ngoài và nội bộ của đế quốc đã suy giảm, các hành động của các thống đốc ở tỉnh và địa phương đã quyết định kết quả của cuộc chiến tranh với Đông La Mã. Nhiều người trong số họ tự nguyện đầu hàng Basileios II. Cuộc chiến cũng đã có một tác động lớn trên Serbia và Croatia, và họ đã buộc phải thừa nhận uy quyền của Hoàng đế Đông La Mã sau năm 1018. Croatia Các biên giới của Đế quốc Đông La Mã đã được khôi phục ở Danube lần đầu tiên kể từ thế kỷ thứ 7, cho phép Constantinopolis để kiểm soát toàn bộ bán đảo Balkan từ sông Danube, Peloponnese tới Biển Adriatic và Biển Đen .
1
null
Nguyễn Ngọc Hoài sinh ngày 05 tháng 05 năm 1965 tại Điện Biên Phủ là một nhà ngoại cảm tại Việt Nam. Khảo nghiệm. Nguyễn Ngọc Hoài là nhà ngoại cảm tìm kiếm hài cốt mất tích bằng cách chỉ dẫn thông tin từ khoảng cách xa ứng dụng cho việc tìm hài cốt mất tích. Các cơ quan đã khảo nghiệm Nguyễn Ngọc Hoài: Khả năng. Theo cuốn " Một thế giới khác" do công ty truyền thông Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành ghi lại lời tự thuật của Nguyễn Ngọc Hoài thì khả năng ngoại cảm của bà đến từ " một cú sốc tâm lý". Khả năng này phát triển từ từ và hoàn thiện theo thời gian. Theo tác giả Đinh Trần, nhà báo báo Quân đội nhân dân Việt Nam thì " Từ khi có khả năng ngoại cảm, cơ thể và sức khỏe của bà Nguyễn Ngọc Hoài vẫn bình thường thỉnh thoảng bị những cơn đau nhức xương kéo dài vài giờ. "Bà là người có những khả năng tìm mộ và áp vong" Áp vong. Mời gọi, dẫn dụ, giao tiếp với linh hồn (phần được cho là vô hình trong một cơ thể sống đã chết).. Trong công tác nghiên cứu, Áp vong phục vụ cho mục đích lấy một phần thông tin từ linh hồn để tìm hài cốt. Tìm mộ. Theo cuốn sách "một thế giới khác": Nhà ngoại cảm không cho thân nhân trình bày và cung cấp thông tin về người mất hài cốt. NNC thường tự nói ra các thông tin về người mất tích khi thân nhân họ đến tìm. Khi các thông tin được cung cấp ngẫu nhiên trùng khớp với tỉ lệ cao thì sẽ tiến hành tìm kiếm. VD một số thông tin: Tìm kiếm liệt sĩ được Nguyễn Ngọc Hoài cung cấp cho thân nhân khi thân nhân chưa cung cấp thông tin: - Liệt sĩ có tên chữ đầu là: T (với liệt sĩ chưa được cung cấp tên) - Liệt sĩ: khi nhập ngũ chưa có vợ (hoặc chưa có người yêu - Liệt sĩ: có 9 anh chị em, Liệt sĩ là con thứ 4 trong 4 anh em trai (chờ dẫn nguồn tại báo ĐSHB số 06) - Liệt sĩ: hy sinh tại khu vực Khe Sanh, Lúc hy sinh không được chôn cất (chờ dẫn nguồn) - Liệt sĩ: khi chết bị không được chôn, đến nay người dân tại khu vực xung quanh không ai biết. - Hài Cốt: Còn nguyên hoặc sắp hóa thổ, còn răng hoặc răng vàng, còn lọ penicilin hoặc dao, hoặc đồ vật sót lại... - Hài cốt: nằm cạnh một nhà trong rừng sâu có tên chủ hộ là Hợp. nhà hợp cạnh nhà Lưu, Có hai con là nữ...v..v - Hài Cốt: vị trí gốc cây sung, bên phải có tảng đá to các 1m, cách 2m bên trái có hố sâu bán kính 2m. - Hài cốt: Bới một lớp đất mỏng là thấy cốt, không được dùng xẻng, cuốc (với hài cốt sắp hóa thổ) - Hài cốt: "Khi đi tìm sẽ có một người ở khu vực tên là Tuấn hay Tuân gì đó giúp đỡ" (tiên tri?) Xử lý, phân tích thông tin được cung cấp bởi một linh hồn hay một nguồn nào đó, áp dụng cho việc tìm kiếm về thể xác của linh hồn đó trong trường hợp không xác định được vị trí thể xác sau khi chết (mất xác) Vẽ sơ đồ khi cung cấp thông tin về hài cốt mất tích, Đa số các sơ đồ có phân cấp nội dụng: Nếu bà nói không thấy vong về, hoặc thông tin về linh hồn chính xác dưới 70% thì bà sẽ từ chối tìm mộ. Hầu hết những trường hợp vẽ được sơ đồ là sẽ thấy hài cốt: Một bộ hài cốt có thể được tìm thấy từ khoảng cách chục km cho đến vài nghìn km so với vị trí nhà ngoại cảm. Trường hợp tìm thấy hài cốt ở nước ngoài được ghi nhận là liệt sĩ Lương Xuân Tách, thân nhân của ông Lương Đoàn Mạnh thường trú tại Thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh
1
null
Đào Bạch Liên (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1979 tại Hà Nội ), còn có nickname Alex, là một dịch giả Việt Nam. Bắt đầu con đường dịch thuật bằng các tác phẩm kiếm hiệp như một sở thích cá nhân. Đời tư. Đào Bạch Liên tốt nghiệp khoa Kinh tế đối ngoại, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội. Hiện tại, cô là nhân viên của công ty Nhật Bản The Yasuda Warehouse. Cô biết và có thể dịch được từ ba ngoại ngữ là tiếng Hoa, tiếng Anh và tiếng Nhật . Công việc dịch thuật. Đào Bạch Liên bắt đầu công việc dịch thuật như một hoạt động nghiệp dư trên mạng. Thành công trong việc giới thiệu bộ truyện tiên hiệp Tru Tiên đến độc giả Việt Nam, cô đã đi sâu vào con đường dịch thuật, xuất bản các tác phẩm như: Côn Luân của Phượng Ca, Tru Tiên, Tu La Đạo của Bộ Phi Yên. Cô đã từ chối nhận 100 triệu đồng nhuận bút về công việc dịch thuật tác phẩm Côn Luân với mong muốn giảm giá thành sách, do đó độc giả có tiếp cận với bộ truyện dễ dàng hơn. Ngoài kiếm hiệp, cô cũng mở rộng dịch thuật sang các thể loại khác.
1
null
Rắn khiếm Nagao (danh pháp khoa học: "Oligodon nagao") là một loài rắn thuộc chi Rắn khiếm được phát hiện năm 2012. Tên khoa học của nó được đặt theo Quỹ Môi trường Thiên nhiên Nagao của Nhật Bản vì quỹ đã hỗ trợ cho công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học tại các nước đang phát triển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương . Loài rắn này sinh sống ở phía nam Trung Quốc, tây bắc Việt Nam và đông bắc Lào. Rắn khiếm Nagao có đầu dài và thân từ 561 đến 680 mm; dài đuôi 92–107 mm. Chúng có 15 hoặc 17 hàng vảy thân ở giữa lưng; bụng màu kem với nhiều đốm nhỏ màu đen.
1
null
Ma thổi đèn (, Hán-Việt: "Quỷ xuy đăng") là một bộ truyện nhiều tập của Trung Quốc do tác giả Thiên Hạ Bá Xướng (Trương Mục Dã) viết. Tên truyện "Ma thổi đèn" xuất phát từ "Bùa mô kim, ấn quật mộ, dỡ núi dời non tìm quyết chú. Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng, dò mồ đổ đấu kiếm vạn tiền" trong đó "Nhân điểm chúc, quỷ xuy đăng" (Người thắp nến, ma thổi đèn). Đại ý là khi vào hầm mộ, phải thắp một ngọn nến ở phía đông nam, nếu nến tắt thì phải thoát ra ngay và không được lấy vật của người chết. Truyện ban đầu được đăng trên mạng Internet từ năm 2006, gây nên cơn sốt trên mạng và là tác phẩm đứng đầu 10 tiểu thuyết mạng được tìm kiếm nhiều nhất năm 2006. Sau đó truyện được xuất bản thành sách in. Sau "Ma thổi đèn", trên mạng lẫn thị trường sách in đã xuất hiện cả một trào lưu sáng tác theo chủ đề "trộm mộ". Ma thổi đèn gồm hai phần, mỗi phần bốn tập, mỗi tập là một cuộc phiêu lưu ly kỳ, rùng rợn của ba Mô kim hiệu úy - Người trộm mộ Hồ Bát Nhất, Tuyền béo, Shirley Dương. Ngoài những tình tiết dồn dập, Ma thổi đèn còn hấp dẫn ở những kiến thức phong thủy và huyền thuật được đan cài vào một cách vô cùng khéo léo. Năm 2008, "Ma thổi đèn" tiếp tục lọt vào danh sách 10 tác phẩm được người Trung Quốc tìm đọc nhiều nhất. Trong nguyên tác phần Tinh Tuyệt Cổ Thành chương 8 có chi tiết xuyên tạc về trận chiến năm 1979: [Đại đội của tôi là mũi nhọn của sư đoàn chủ lực, xung phong đi đầu, chiến đấu mười ngày đã thương vong quá nửa, trong một lần hành quân, chúng tôi bị đặc công Việt Nam phục kích, họ ném gói thuốc nổ vào xe tải bọc thép chở lính của chúng tôi, tám chiến sĩ dưới quyền tôi đều bị chết trong xe. Lúc ấy tôi căm phấn vô cùng, đánh chết ba người tại chỗ, còn bắt sống hai dân binh người Việt, một già một trẻ. Bọn họ là một ông già hơn năm mươi tuổi và một cô gái trẻ tầm hai mươi, so vẻ như là hai cha con. Một cấp dưới báo với tôi, chính cô gái này đã ngụy trang thuốc nổ thành hình đứa bé ẵm trong lòng, lúc đi qua xe thiết giáp liền ném vào trong. Tuyệt đối không nhầm được, chính cô ta là kẻ gây hại. Điều tôi sợ nhất trong đời chính là nhìn thấy đồng đội chết trước mặt mình, trong cơn thịnh nộ đã quên sạch cả ba mục kỷ luật, tám điều chú ý và cả chính sách đối đãi với tù binh, mà ra tay hết sức dã man với họ.] Tên các tập trong bộ truyện. Của chính tác giả. Ma thổi đèn. Phần một: Phần hai: Mô Kim Hiệu Úy. Thiên Hạ Bá Xướng sau khi nhượng quyền thương hiệu Ma thổi đèn đã viết tiếp câu truyện về ba mô kim hiệu úy trong hệ liệt mới của mình tên Mô Kim Hiệu Úy. Cuốn đầu tiên trong bộ Mô Kim Hiệu Úy được viết vào năm 2015 tên Mô Kim Hiệu Úy - Cửu U Tướng Quân. Hiện tại Thiên Hạ Bá Xướng đã viết tới cuốn thứ hai là Mô Kim Hiệu Úy - Câu Thi Pháp Vương nhưng sau đó đã dừng lại. Mô Kim Quyết. Một phần khác cũng của tác giả viết. Nội dung kể về những năm 60 của thế kỉ XX, Hồ Bát Nhất và Tuyền béo được phân công về tham gia sản xuất kiến thiết tại Hắc Long Giang, binh đoàn nông khẩn, nông trường số 17 của sư đoàn 3. Trung đội trưởng an bài ba người là Hồ Bát Nhất cùng Tuyền béo và nhân viên liên lạc trực ở lại để trông coi vật tư, còn mình thì dẫn theo những người khác rời khỏi nông trường. Mấy người ở lại trông coi nông trường, phát hiện củi gỗ trong nhà kho ngày càng ít. Thì ra là do một con hồ ly kiếm chuyện báo thù, lén lút lấy đi củi. Ít hôm sau, một trận bão tuyết trước giờ chưa từng thấy ập đến, mấy người dự tính bắt con hồ ly, chẳng ngờ gặp phải một đàn sói từ Siberia tới đang tán loạn chạy bão, vì chạy thoát thân nên đi theo con hồ ly chui vào một cái hang đất, vô tình phát hiện một cổ mộ từ thời nhà Liêu bị che giấu từ vạn năm trước. Mục Dã Quỷ Sự. "Ma Thổi Đèn - Mục Dã Quỷ Sự" là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong "Ma Thổi Đèn"! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. Của Ngự Định Lục Nhâm. Năm 2011, nhà sách Kim Thành (Trung Quốc) đã xuất bản bộ Ma Thổi Đèn mới, dưới sự nhượng quyền của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, người viết là Ngự Định Lục Nhâm. Ngự Định Lục Nhâm là một nhóm tác giả viết văn, gồm sáu người. Do được phép của Thiên Hạ Bá Xướng mà nhóm Ngự Định Lục Nhâm đã viết ra bộ Ma Thổi Đèn mới dựa theo 8 cuốn đầu. Cuốn đầu tiên tên Ma Thổi Đèn - Thánh Tuyền Tầm Tung. Không chỉ dừng lại ở 1 cuốn, Ngự Định Lục Nhâm còn viết thêm:
1
null
Biển đăng ký xe, còn gọi là Biển số xe, Biển kiểm soát hay Bảng số xe (người miền Nam còn gọi là cà vẹt xe), là một tấm kim loại hoặc tấm nhựa gắn vào xe gắn máy hay rơ-moóc phục vụ cho mục đích nhận dạng chính thức. Mã nhận dạng đăng ký in trên biển đăng ký xe là một mã có con số hoặc vừa có chữ vừa có con số xác nhận duy nhất chiếc xe đó trong cơ sở dữ liệu của khu vực cấp biển số xe. Ở một số nước, mã nhận dạng đăng ký là duy nhất trong cả quốc gia, trong khi ở những quốc gia khác, mã định dạng là duy nhất trong một bang hoặc tỉnh. Việc mã nhận dạng xe gắn liền với một chiếc xe hay một người cũng khác nhau theo cơ quan cấp biển số ở các quốc gia hoặc khu vực khác nhau.
1
null
Hổ Môn (tiếng Hoa: 虎门; bính âm: Hǔmén, nghĩa là "cổng hổ") là một cửa sông hẹp thuộc đồng bằng Châu Giang, tỉnh Quảng Đông, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là nơi dòng Châu Giang đổ vào Biển Đông. Người phương Tây thường biết đến Hổ Môn qua tên gọi xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha là "Bocca Tigris" (nghĩa là "miệng hổ") hay "Bogue". Do có vị trí chiến lược là cửa ngõ cho tàu thuyền vào Quảng Châu nên trong lịch sử nơi này từng được phòng thủ chặt chẽ. Một số trận đánh lớn trong Chiến tranh Nha phiến thứ nhất đã diễn ra tại đây. Địa lý. Cửa sông Hổ Môn được định hình bởi các đảo Xuyên Tì (穿鼻) và A Nương Hài (阿娘鞋, còn gọi là Uy Viễn, tức 威远) ở bờ đông và Đại Giác Đầu (大角头) ở bờ tây. Cầu Hổ Môn khánh thành năm 1997 đã giúp nối kết hai bờ lại với nhau.
1
null
Ivan Mikhaylovich Gubkin (1871 - 1939) là một nhà địa chất, hóa học người Liên Xô cũ, người có công tìm ra các mỏ dầu, "góp phần mở lòng Trái Đất". Cuộc đời. Ông sinh ra tại một vùng quê hẻo lánh của nước Nga tại vùng gần Karatarova. Nhờ bươn trải kiếm sống, ông mới đủ tiền để học tiếp ở Đại học Sankt-Peterburg. Suốt cuộc đời, ông luôn là người cương trực, giản dị, chất phác, nhã nhặn dù khi nghèo khó hay khi thành đạt trên cương vị là Chủ tịch Viện khoa học Liên Xô, chuyên gia hàng đầu thế giới về dầu mỏ. Sự nghiệp. Ông nghiên cứu sâu về địa chất hóa dầu mỏ, một lĩnh vực ít được quan tâm bấy giờ. Khám phá đầu tiên của ông là ở mỏ dầu Baku, quê hương thứ hai của ông. Sau đó, lần lượt các vùng dầu mỏ lớn ở Ukraina, Ural, Vonga, Turmenia, Siberia... mỏ sắt ở Kursk. Ông mất vào mùa xuân 1939 một cách lặng lẽ. Trước lúc mất, ông còn tiên đoán các vùng tài nguyên. Và những tiên đoán đó đã là sự thật khi lần lượt các mỏ dầu ở Gruzia, Đông Siberia, tỉnh Tyumen.. Lenin đánh giá rất cao và luôn dành thời gian lắng nghe ý kiến của ông. Vì vậy, Lenin chỉ thị chính quyền các vùng phải tạo điều kiện để ông làm việc và cống hiến cho đất nước.
1
null
Cugir RATMIL hay RATMIL md. 96 hoặc PM md. 96 (Pistol Mitralieră model 1996) thường được biết với tên RATMIL là loại súng tiểu liên được chế tạo bởi công ty Uzina Mecanica Cugir SA tại România. Súng được phát triển để trang bị cho các lực lượng quân đội, quân cảnh và thi hành công vụ tại Romania cũng như được dùng để xuất khẩu. Thiết kế. RATMIL Sử dụng cơ chế nạp đạn blowback, bắn với khóa nòng mở. Các bộ phận của súng được làm bằng thép dập. Nòng súng có cắt các khe để chống giật. Nút khóa an toàn cũng là nút chọn chế độ bắn được thiết kế dựa trên khẩu AK-47 nằm phía bên phải súng với ba chế độ là an toàn, phát một và tự động. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Báng súng có thể gấp qua một bên để tiết kiệm không gian khi không cần dùng.
1
null
Jean Baptista van Helmont sinh năm 1580 tại Brussels, nước Bỉ ngày nay. Ông là nhà thực vật học, người có công khám phá ra nhu cầu trao đổi nước của cây. Cuộc đời. Thuở nhỏ, ông là người học rất giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường y, ông đã làm nghề thầy thuốc nhưng lại đam mê về khám phá khoa học thực nghiệm. Ông mất năm 1644 ở Vilvoorde. Sự nghiệp. Ông là người đầu tiên khám phá ra rằng, trong ống tiêu hóa, dạ dày có các dịch vị, trong dịch vị có mặt của axit sunfuric để tiêu hóa thức ăn. Nhưng sự nghiệp lớn nhất của ông là khám phá ra nhu cầu trao đổi nước và khoáng ở cây xanh. Ông nghi ngờ chân lý của Aristote cho rằng "cây sống được là nhờ đất". Ông đã làm một thí nghiệm để chứng thực điều đó: Ông lấy 80 kg đất khô, cho vào một thùng gỗ và trong đó trồng một cây liễu nhỏ nặng 2 kg. Cây liễu chỉ được tưới bằng nước đã chưng cất. Sau 5 năm, cây liễu nặng lên thành 58 kg mà đất giảm đi có 57 g. Như vậy, cây không thể chỉ ăn đất để sinh trưởng. Ông đã rút ra kết luận: "cây lớn lên không phải nhờ đất mà là nhờ nước. Cây hút nước nhờ rễ cắm sâu xuống đất và phân nhánh, lan ra khắp vùng đất xung quanh để hút nước và muối khoáng hòa tan trong nước, nhằm cung cấp tổng hợp các chất hữu cơ tích lũy trong cây. Bộ phận hút trực tiếp là các lông hút li ti tập trung ở đầu các rễ". Vì thế, khi tưới cây, cần phải tưới xung quanh cây chứ không nên tưới tập trung ở gốc. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu một số vấn đề về y thuật, hóa học. Các công trình nghiên cứu của ông được nghiên cứu và viết thành sách như:
1
null
Chiến dịch tấn công Belarus (1944) có tên mã Chiến dịch Bagration là hoạt động tấn công quân sự có quy mô lớn của quân đội Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai chống lại quân đội Đức Quốc xã trên hướng trung tâm của mặt trận Xô-Đức. Bắt đầu nổ súng từ ngày 23 tháng 6 năm 1944 và trải qua ba giai đoạn tác chiến kéo dài đến ngày 29 tháng 8 năm 1944, hai bên đã huy động và chiến dịch này trên dưới 3 triệu quân gồm vài chục tập đoàn quân với tổng biên chế lên đến hàng trăm sư đoàn. Trong đó có hàng chục quân đoàn, sư đoàn xe tăng, cơ giới. Quân đội Liên Xô. Quân đội Liên Xô huy động 4 Phương diện quân tham gia chiến dịch Bagration: Phương diện quân Baltic 1, Phương diện quân Byelorussia 1, 2, 3. Đại diện Đại bản doanh tham gia phối hợp hoạt động các phương diện quân này là các Nguyên soái G. K. Zhukov và A. M. Vasilevsky. Nguyên soái G. K. Zhukov chịu trách nhiệm phối hợp hoạt động của Phương diện quân Byelorussia 1 và 2, Nguyên soái A. M. Vasilevsky chịu trách nhiệm phối hợp các Phương diện quân Byelorussia 3 và Baltic 1. Phương diện quân Pribaltic 1. Biên chế tham gia chiến dịch gồm có: Phương diện quân Byelorussia 3. Thành phần tham gia chiến dịch gồm có: Phương diện quân Byelorussia 2. Thành phần tham gia chiến dịch gồm có: Phương diện quân Byelorussia 1. Thành phần tham gia chiến dịch gồm có:
1
null
Hổ Môn () là một trấn nằm trong địa phận thành phố Đông Hoản, nằm tại bờ đông của cửa sông Hổ Môn thuộc đồng bằng Châu Giang, tỉnh Quảng Đông, miền nam Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Theo thống kê năm 2000, dân số địa phương là 577.548 người, đứng thứ hai trong số các trấn đông dân nhất Trung Quốc (xếp sau trấn Trường An cũng thuộc Đông Hoản). Lịch sử. Lịch sử trấn Hổ Môn gắn liền với Chiến tranh Nha phiến thứ nhất (1839–1842). Tại đây, Lâm Tắc Từ đã giám sát cuộc tiêu hủy khối lượng lớn thuốc phiện bị tịch thu vào năm 1839. Một số trận chiến lớn trong Chiến tranh Nha phiến thứ nhất đã diễn ra tại trấn này và tại cửa sông Hổ Môn. Kinh tế. Hổ Môn là một đô thị thịnh vượng với rất nhiều nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng. Những nhà máy này cung cấp việc làm cho số lao động nông thôn nhập cư để tìm việc làm. Ngoài ra, Hổ Môn còn có vị trí địa lý thuận lợi cho các nhà máy nhờ khoảng cách địa lý gần gũi với hai vùng đô thị và hải cảng xuất khẩu là Hồng Kông và Thâm Quyến. Hổ Môn từ lâu đã là cửa ngõ quan trọng để thâm nhập miền nam Trung Quốc. Ngược dòng Châu Giang, tàu thuyền có thể tiếp cận các vùng miền đông, miền bắc và miền tây của tỉnh Quảng Đông và ngay cả các vùng của tỉnh Quảng Tây. Cảng Hổ Môn là cảng loại một mà tàu nước ngoài có thể cập vào. Giao thông. Hổ Môn nằm trên tuyến xe buýt từ phía nam Quảng Châu xuống. Các tuyến hành trình này tiếp tục đi về phía nam qua xe buýt tại công viên giải trí "Thế giới chi song" (世界之窗) ở Thâm Quyến. Từ đây khách có thể tiếp tục hướng về biên giới Hồng Kông bằng xe buýt hoặc tàu điện ngầm Thâm Quyến. Ngoài ra, phà giúp nối kết Hổ Môn với sân bay quốc tế Hồng Kông.
1
null
Milton Lasell Humason (1831 - 1973) sinh ra và mất đi ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là nhà thiên văn học lớn, trưởng thành nhờ sự tự học, người đóng góp lớn cho Định luật Hubble - Humason. Cuộc đời. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở Minesota nên không được đi học đầy đủ. Khi niên thiếu, ông đã phải đi làm phục vụ cho một khách sạn ở trên núi với công việc là tiếp tế đồ dùng thực phẩm cho một khách sạn và một đài thiên văn gần đó ở độ cao lên tới 1.600 m. Sau đó, ông làm quản đốc cho một xí nghiệp lớn. Sau khi lấy vợ, ông về làm bảo vệ cho một đài thiên văn và đây chính là bước ngoặt của cuộc đời ông, Vì thiếu người nên ông đã được nhờ để theo dõi vào ban đêm và ông nhanh chóng biết sử dụng và vận hành kính viễn vọng và các máy móc quan sát khác. Dần dần, ông trở thành phụ tá quan sát viên, được giao chụp ảnh các ngôi sao. Năm 1924, ông trở thành cộng sự với nhà thiên văn học lớn Edwin Hubble. Sự nghiệp. Dù chưa hề học hết trung học và học đại học nhưng chính sự say mê khoa học, ông đã tự học thiên văn trực tiếp từ các nhà bác học khác. Ông vừa học, vừa làm, vừa khám phá tìm tòi. Khi là cộng sự với Hubble suốt 28 năm, ông đã cùng phân tích, chụp ảnh để phát hiện ra hơn 600 dải ngân hà nhờ sự quan sát độc đáo và tính kiên nhẫn của ông. Ông góp phần xác định được vận tốc tia sáng từ các tinh vân và thiết lập định luật Hubble - Humason vào năm 1929. Định luật nói về sự chuyển dịch của phổ về phía đỏ và vận tốc tia của các thiên hà tăng tuyến tính theo khoảng cách của các thiên hà đó. Nhờ những đóng góp của ông, học vị tiến sĩ danh dự của Đại học tổng hợp Lund, Thụy Điển đã được trao cho ông và ông được giữ chức thư ký cho hai đài thiên văn là: Đài thiên văn Wilson (đặt theo tên của nhà vật lý thiên văn học Robert Woodrow Wilson) và Đài quan sát Palomar.
1
null
Clément Ader (1841 - 1925) ông nhà nhà phát minh và là kĩ sư người Pháp, được coi là Cha đẻ của ngành hàng không. Ông sinh ngày mùng 4 tháng 2 năm 1841 ở Muret, Haute Garonne, Pháp. Cuộc đời. Ông sinh ra tại một vùng thượng lưu của sông Garonne và tốt nghiệp kĩ sư cầu đường là một nghề rất được xã hội thời bấy giờ xem trọng. Nhưng công việc ông yêu thích chính là từ sự mơ mộng của mình không chỉ là tàu thủy bơi dưới nước, xe cộ chạy trên bộ , mà đó phải là chế tạo ra một cỗ máy có khả năng bay lượn trên không. Để thử nghiệm được công việc này, đòi hỏi cần phải có rất nhiều tiền. Với trình độ về chế tạo nhiều loại máy và dụng cụ điện, ông đã trở lên giàu có rất nhanh, từ đó ông đầu tư để thực hiện mơ ước của mình. Sự nghiệp. Công việc đầu tiên của ông là chế tạo máy ghi âm, máy điện thoại, máy tăng âm phục vụ cho các rạp hát. Sau khi có gia sản đồ sộ, ông mới bắt đầu đi vào công việc chế tạo máy bay qua việc dành hết tâm trí, thời gian và tiền bạc để tiến hành hàng trăm thí nghiệm tốn kém, cuối cùng cũng đã chế tạo được mô hình máy bay đầu tiên có thể cất cánh rời khỏi mặt đất và bay trên không. Vào một ngày cuối năm 1897, Tại cao nguyên Salory, một sự kiện đánh dấu sự ra đời của ngành hàng không. Một chiếc máy bay đầu tiên chạy bằng động cơ hơi nước do ông chế tạo đã cất cánh và bay được một khoảng cách khá xa gần 300m. Với phát minh cực kì quan trọng này, ông đã biến ước mơ suốt đời của mình thành sự thật được lịch sử ngành hàng không ghi nhận công trạng của ông như là một người khai sinh ra ngành hàng không thế giới từ những nỗ lực không biết mệt mỏi của mình. Ngày mùng 5 tháng 3 năm 1935, ông qua đời tại Toulouse. Nước Pháp và nhân loại luôn tri ân và tôn vinh ông vì đã có công phát minh ra phương tiện giao thông kì diệu và sau đó rất phát triển cho đến tận ngày hôm nay.
1
null
Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ ("The Universe in a Nutshell") là một trong những đầu sách do Stephen Hawking viết về chủ đề vật lý lý thuyết. Nó giải thích cho người đọc về nhiều vấn đề liên quan tới các nghiên cứu của các Giáo sư Toán học Lucas trong quá khứ, tỉ như Thuyết không đầy đủ của Gödel và màng P (một phần của thuyết siêu dây trong vật lý lượng tử). Nó cũng mô tả về lịch sử hình thành và các nguyên lý của vật lý hiện đại. Ông dẫn dắt người đọc đến những sự kiện xảy ra đằng sau những most intellectual tales khi ông cố gắng "kết hợp thuyết tương đối rộng của Einstein và các ý tưởng của Richard Feynman về đa lịch sử thành một thuyết thống nhất hoàn chỉnh mô tả mọi thứ xảy ra trong vũ trụ." "Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ" là tác phẩm đạt Giải Aventis dành cho Sách Khoa học năm 2002 và đã bán được hơn 10 triệu ấn bản trên thế giới. Nó thường được xem là phần tiếp theo của tác phẩm nổi tiếng Lược sử thời gian ("A Brief History of Time") được ấn hành năm 1988.
1
null
Họ Cá mó hoặc Họ cá vẹt (tên tiếng Anh: "Parrotfish"; danh pháp khoa học: Scaridae) là một họ cá, theo truyền thống xếp trong phân bộ Bàng chài (Labroidei) của bộ Perciformes.Tuy nhiên, gần đây người ta chuyển 3 họ Labridae (không đơn ngành), Odacidae và Scaridae sang bộ có danh pháp Labriformes "sensu stricto" của loạt Eupercaria/Percomorpharia, trong khi 2 họ Embiotocidae và Pomacentridae ở cùng một đơn vị phân loại cấp bộ "incertae sedis" trong loạt Ovalentaria, còn họ Cichlidae sang một bộ riêng biệt với danh pháp Cichliformes trong loạt Ovalentaria. Tên gọi của các loài cá này trong tiếng Anh là "parrotfish" (cá vẹt) là do miệng giống mỏ của con chim vẹt của chúng. Cá mó dùng cái miệng này để quắp và ăn những động vật không xương sống nhỏ sống trong san hô. Phần lớn cát và đáy của dải san hô có chứa thức ăn của cá mó, chúng nhai san hô, ăn thức ăn và nhả ra calci. Trong phần lớn các loài, giai đoạn đầu là đỏ sẫm, nâu hay xám, trong khi giai đoạn cuối là xanh sáng hoặc xanh dương với các mảng hồng sáng hoặc vàng. Giai đoạn đầu tiên và cuối cùng khác nhau rất đáng kể, ban đầu được diễn tả như là các loài khác nhau trong một số trường hợp, nhưng có một số loài các giai đoạn này là tương tự. Phân loại. Họ Cá mó bao gồm 10 chi với khoảng 100 loài cá sinh sống trong môi trường nước mặn, chủ yếu là vùng biển nhiệt đới. Các chi bao gồm: Tại vùng biển Việt Nam có khoảng 40 loài trong 7 chi. Ba chi không có loài nào là "Cryptotomus", "Nicholsina" và "Sparisoma", do chúng phân bố ở Đại Tây Dương hay đông Thái Bình Dương. Thức ăn. Hầu hết các loài cá mó là động vật ăn cỏ, ăn chủ yếu là tảo . Chúng đôi khi ăn một loạt các sinh vật nhỏ khác  bao gồm động vật không xương sống (các loài không cuống và sống đáy, cũng như động vật phù du), vi khuẩn và mảnh vụn Một số loài chủ yếu lớn hơn như cá mó xanh ("Bolbometopon muricatum") ăn nhiều san hô sống (polyp). Không có loài cá nào trong họ này là loài ăn thịt, nhưng polyp có thể chiếm tới một nửa khẩu phần ăn của chúng hoặc thậm chí nhiều hơn ở cá mó lục. Tuy nhiên, khi chúng ăn polyp san hô, san hô chết cục bộ có thể xảy ra. Hoạt động kiếm ăn của chúng rất quan trọng đối với việc tạo ra và phân phối cát san hô trong quần xã rạn san hô và có thể ngăn chặn sự phát triển quá mức của cấu trúc rạn san hô. Răng phát triển liên tục, thay thế khi bị mòn do ăn. Khi chúng ăn san hô, đá hoặc cỏ biển, thức ăn bị nghiền giữa các răng. Sau khi chúng tiêu hóa các phần ăn được từ đá, chúng bài tiết nó dưới dạng cát, giúp tạo ra những hòn đảo nhỏ và những bãi biển đầy cát. Cá mó có thể tạo ra 90 kg (200 lb) cát mỗi năm. hoặc trung bình (vì có rất nhiều biến số, như kích thước/loài/vị trí/độ sâu v.v.), gần 250 g (9 oz) cho mỗi con cá mó mỗi ngày. Trong khi ăn, cá mó phải nhận thức được sự săn mồi của một trong những kẻ săn mồi chính của chúng là cá mập chanh. Trên các rạn san hô Caribe, cá mó tiêu thụ bọt biển. Một tác động gián tiếp của việc nuôi cá mó trên bọt biển là việc bảo vệ các rạn san hô khỏi các loài bọt biển phát triển quá nhanh. Chúng có vai trò quan trọng trong việc làm sạch môi trường xung quanh các rặng san hô. Một số đặc điểm. Một số giống như cá mó như cá mó xù được bắt từ biển do vậy khi nuôi cá không bị mắc các loại bệnh lở loét, phình bụng như các loại cá khác. Cá mó ít ăn tạp nên lớn rất chậm. Cá mó xù rất hiền nên sống chung được với nhiều loài cá khác, loài cá này vào ban đêm thường ẩn mình trong hang đá để ngủ thay vì tìm thức ăn như các loài cá khác. Mùa sinh sản của cá mó xù là tháng 6 âm lịch hàng năm cho đến tháng 1 năm sau. Khi sinh ra cá con chỉ to bằng đầu đũa, rất khó phát hiện và sau khi sinh cá mẹ thường ăn hết cá con, số thoát được chui theo những kẽ hở của thành hồ ra biển. Khi còn nhỏ thì cá mó xù con chạy thành từng đàn nhỏ, ở các khu vực rạn cạn cá mó xù khi lớn lên khoảng bằng hai ngón tay, hoặc ngón chân cái chúng kéo nhau ra biển khơi để sống. Cá mó xù đã đạt trọng lượng từ 0,5 – 1,5 kg.
1
null
Short Empire là một loại tàu bay chở bưu phẩm và hành khách tầm trung của Anh. Nó hoạt động rộng khắp từ Anh tới các thuộc địa của Anh ở châu Phi, châu Á và Australia, cũng như tuyến đường giữa Bermuda và New York City. Loại máy bay này do hãng Short Brothers sản xuất và được phát triển song song với máy bay ném bom tuần tra Short Sunderland trong giai đoạn Chiến tranh thế giới II.
1
null
Short Singapore là một loại tàu bay nhiều động cơ của Anh chế tạo sau Chiến tranh thế giới I. Tên gọi Singapore xuất hiện lần đầu vào giữa thập niên 1920 cho một chiếc máy bay hai động cơ. Thiết kế được phát triển thành 2 phiên bản có 4 động cơ; gồm mẫu thử Singapore II và phiên bản sản xuất Singapore III. Sau này trở thành các tàu bay tuần tra biển tầm xa chủ lực của Không quân Hoàng gia trong thập niên 1930. Nó cùng với Không quân Hoàng gia New Zealand tham chiến chống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II.
1
null
Tịnh xá Trung tâm tọa lạc ở số 21 đường Nguyễn Trung Trực, phường 5, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Tịnh xá thuộc Hệ phái Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập. Tịnh xá được xây dựng trong khoảng 10 năm, bắt đầu từ tháng 4 năm 1965, trên một khu đất rộng 5.490m² do bà Diệu Kiến phát tâm cúng dường Hòa thượng Thích Giác Toàn và Hòa thượng Thích Giác Phúc đã tổ chức trùng tu, mở rộng tịnh xá vào năm 1980.Sân trước chùa có bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên đài sen cao 13,5m. 18 năm sau, vào ngày 20 tháng 7 năm Mậu Dần (10-9-1998), bảo tháp mới được khởi công xây dựng do Hòa thượng Thích Giác Phúc chứng minh, Hòa thượng Thích Giác Toàn chủ trì. Bảo tháp do kiến trúc sư Trần Tuấn Anh (pháp danh Chúc Lạc) thiết kế họa đồ kiến trúc, Thượng tọa Thích Giác Tuệ quản lý thi công, Đạo hữu Minh Thạnh và nhóm thợ thực hiện công trình.
1
null
Hươu đuôi trắng (danh pháp khoa học: "Odocoileus virginianus") là một loài hươu có kích thước trung bình, là loài bản địa Hoa Kỳ (trừ năm tiểu bang không có loài này hiện diện), Canada, México, Trung Mỹ, và Nam Mỹ đến phía nam tận Peru. Nó cũng được nhập nội vào New Zealand và vài quốc gia châu Âu như Phần Lan, Cộng hòa Séc và Serbia. Ở châu Mỹ, nó là loài móng guốc phân bố rộng rãi nhất.
1
null
Hươu hoang (danh pháp khoa học: Dama dama) là một loài động vật có vú thuộc họ Hươu nai. Đây là loài bản địa lục địa Á-Âu nhưng đã được nhập nội một số nơi khác. Người ta thường đưa loài hươu hoang Ba Tư hiếm hơn làm một phân loài của nó ("D. d. mesopotamica"), còn một số tác giả khác xem nó là một loài riêng biệt hoàn toàn ("D. mesopotamica").
1
null
Trận Arras lần thứ nhất là một cuộc giao chiến giữa quân đội Pháp và Đức ở miền bắc nước Pháp, trong cuộc "Chạy đua ra biển" – cuộc vận động về eo biển Anh trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trận đánh này, các lực lượng do tướng Louis Maud'huy chỉ huy thuộc tập đoàn quân số 2 của Pháp đã tiến hành bọc sườn đối phương nhưng bị buộc phải triệt thoái sau các cuộc phản công của thái tử Rupprecht xứ Bayern và tập đoàn quân số 6 của đế quốc Đức. Với sự tham chiến của các tập đoàn quân số 1, 2 và 7, quân Đức đã chiếm được Lens từ tay quân Pháp, mặc dù quân Pháp giữ được Arras. Sau cuộc giao tranh tại Albert, tổng tư lệnh quân đội Pháp là Joseph Joffre đã phái tướng Maud'huy thực hiện một cố gắng mới nhằm bọc sườn quân đội Đức nằm giữa Arrras và Lens. Trận chiến mở đầu với cuộc giao tranh của kỵ binh về phía đông nam thành phố Arras vào ngày 30 tháng 9 năm 1914. Vào ngày 1 tháng 10, các lực lượng của Maud'huy đã bắt đầu tiến đánh về hướng đông, và ban đầu, bước tiến của quân Pháp đã trở nên thuận lợi. Tuy nhiên, đối diện với quân Pháp là tập đoàn quân số 6 của Đức do thái tử Rupprecht chỉ huy – vốn cũng có những ý định tương tự đối phương và đã được lệnh tiến công quân Pháp xung quanh Arras từ tổng tham mưu trưởng Erich von Falkenhayn vào cuối tháng 9. Rupprecht đã quyết định cầm chân quân Pháp tại Arras, trong khi di chuyển các lực lượng của ông về hướng bắc thành phố để đánh bọc sườn trái của quân Pháp. Các cuộc phản công của Rupprecht đã tỏ ra hiệu quả, và đến ngày 4 tháng 10 quân Pháp có nguy cơ bị hợp vây: các đơn vị Đức đã thực hiện bước tiến thuận lợi ở hướng bắc Arras, chiếm giữ thành phố Lens lân cận. Về phía nam, quân Đức gây khó khăn cho các lực lượng nội địa Pháp và tạo nên một lỗ hổng trên chiến tuyến của Pháp. Lo sợ mất miền bắc Pháp, Joffre đã tiến hành tái cấu trúc lực lượng ở vùng phụ cận. Lực lượng của Maud'huy được tách khỏi tập đoàn quân số 2 và trở thành tập đoàn quân số 10 – cả hai lực lượng này đều được đặt dưới quyền tướng Ferdinand Foch. Từ ngày 5 tháng 10 năm 1914, Foch quyết tâm giữ lấy Arras. Sang đến ngày 6 tháng 10, quân đội của Rupprecht trên đà thắng lợi tiếp tục tiến công và đoạt được cao điểm Vimy nhìn xuống thành phố . Tuy nhiên, quân Pháp vẫn làm chủ Arras, và cuối ngày hôm ấy, Falkenhayn đã chấm dứt tấn công. Tiền tuyến quanh Arras đã bắt đầu ổn định, bất chấp các đợt phản kích của quân Pháp.
1
null
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia México, được điều hành bởi Liên đoàn bóng đá México và đại diện cho México ở các giải như Pan American Games và Thế vận hội. Mexico giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 2012, đây cũng là huy chương môn bóng đá đầu tiên của họ. Kết quả với các đội Olympic khác. "Chỉ tính các đội Mexico gặp 10 hoặc hơn"
1
null
Alexander Noble Hall (3 tháng 12 năm 1880 – 25 tháng 9 năm 1943) là cầu thủ bóng đá nghiệp dư người Scotland từng thi đấu cho Canada tại Thế vận hội Mùa hè 1904. Sau đó ông thi đấu chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp tại Scotland và Anh. Hall sinh ra tại Aberdeen, Scotland nhưng lớn lên tại Peterhead. Năm 1904 ông là thành viên đội Galt F.C., giành huy chương vàng tại Thế vận hội. Ông thi đấu cả hai trận ở vị trí tiền đạo và ghi cả ba bàn thắng trong trận đấu đầu tiên. Ông mất tại Toronto vào ngày 25 tháng 9 năm 1943 và được an táng tại Nghĩa trang Prospect của thành phố.
1
null
Sud-Est SE.200 Amphitrite (đặt tên theo một nữ thần biển Hy Lạp) là một loại thủy phi cơ chở khách của Pháp, được chế tạo vào cuối thập niên 1930, ban đầu nó được phát triển với tên gọi Lioré et Olivier LeO H-49 trước khi Pháp quốc hữu hóa ngành công nghiệp máy bay.
1
null
Supermarine Sea Otter là một loại máy bay lưỡng cư của Anh, do hãng Supermarine thiết kế chế tạo. Nó là một phát triển của loại Walrus và là tàu bay hai tầng cánh cuối cùng do Supermarine thiết kế. Nó cũng là tàu bay hai tầng cánh cuối cùng trang bị cho Hải quân và Không quân Hoàng gia Anh.
1
null
Supermarine Walrus là một loại máy bay trinh sát hai tầng cánh lưỡng cư của Anh. Do R. J. Mitchell thiết kế, trang bị cho Không quân Hải quân Hoàng gia (FAA). Nó còn được trang bị cho Không quân Hoàng gia (RAF), Không quân Hoàng gia Australia (RAAF), Không quân Hoàng gia Canada (RCAF), Hải quân Hoàng gia New Zealand (RNZN) và Không quân Hoàng gia New Zealand (RNZAF).
1
null
Tupolev MTB-1 (tên gọi ban đầu là MDR-4 và định danh nội bộ của Tupolev là ANT-27) là một loại tàu bay tuần tra chế tạo ở Liên Xô vào giữa thập niên 1930. Nó là phiên bản làm lại của loại máy bay Chetverikov MDR-3 không thành công trước đó.
1
null
La Liga 2012–13 được biết đến với tên gọi là "Liga BBVA" vì lý do tài trợ. Đây là mùa giải lần thứ 82 kể từ khi thành lập. Mùa giải bắt đầu vào ngày 18 tháng 8 năm 2012, và sẽ kết thúc vào ngày 1 tháng 6 năm 2013. Như những năm trước đó, Nike sẽ cung cấp bóng chính thức cho tất cả các trận đấu tại La Liga. Barcelona là nhà vô địch, lần thứ 22. Các đội tham gia. Có tổng cộng 20 đội sẽ tham gia giải đấu, trong đó có 17 đội trụ hạng mùa giải 2011-12 và ba đội thăng hạng là:Deportivo La Coruña,Celta de Vigo và Real Valladolid. Villarreal CF, Sporting de Gijón và Racing de Santander bị xuống hạng để chơi ở Segunda Division (giải hạng hai Tây Ban Nha)vào năm 2012-13. Villarreal bị xuống hạng sau mười hai năm ở La Liga, Sporting de Gijón trở lại Segunda División sau bốn năm tham gia La Liga, trong khi Racing de Santander đã kết thúc 10 mùa giải liên tiếp ở La Liga, thời gian dài nhất trong lịch sử của họ. Kết quả thi đấu. KQ thi đấu. Liên kết ngoài. ahehe
1
null
Tàu nghiên cứu là loại tàu thủy được thiết kế và trang bị để tiến hành nghiên cứu ngoài biển. Các tàu nghiên cứu đảm trách nhiều vai trò khác nhau. Có những trường hợp một chiếc tàu duy nhất có thể làm nhiều nhiệm vụ nhưng trong các trường hợp khác thì tàu chính sẽ kéo theo một tàu phụ. Ngoài ra, con người còn thiết kế tàu nghiên cứu dựa theo tàu phá băng để chúng có thể hoạt động ở vùng cực. Lịch sử. Tàu nghiên cứu có nguồn gốc từ các chuyến thám hiểm thuở xưa. Từ thời tàu "Endeavour" của thuyền trưởng James Cook, tầm quan trọng của thứ mà ngày nay con người gọi là tàu nghiên cứu đã trở nên rất rõ ràng. Năm 1766, Hội hoàng gia Luân Đôn thuê Cook du hành đến Thái Bình Dương để quan sát và ghi lại sự vận động của Sao Kim qua mặt trời. Chiếc "Endevour" là một con tàu bền chắc, được thiết kế-trang bị tốt để đối mặt với các thử thách và đáp ứng nhu cầu của Joseph Banks, "nghiên cứu viên" của tàu. Tương tự như các tàu hiện đại, tàu "Endevour" còn đảm nhận nhiều mảng nghiên cứu khác, trong đó bao gồm khảo sát thủy văn học một cách toàn diện. Một số chiếc tàu nghiên cứu nổi bật khác là HMS "Beagle", RV "Calypso", HMS "Challenger", USFC "Albatross", "Endurance" và "Terra Nova". Một điểm nữa là sau này, tên gọi của các tàu nghiên cứu thuở đầu đó được dùng để đặt cho các tàu con thoi lên vũ trụ. Các loại tàu hiện đại. Khảo sát thủy văn. Tàu nghiên cứu thủy văn là loại tàu được thiết kế để tiến hành các nghiên cứu và khảo sát thủy văn học. Thông tin từ đây được đưa vào các hải đồ nhằm đảm bảo an toàn hàng hải cho tàu thuyền của quân đội cũng như dân thường. Các tàu khảo sát thủy văn còn khảo sát địa chấn đáy biển và địa chất học cơ bản. Thông tin thu được hữu ích cho hoạt động phát hiện các đặc điểm địa chất có thể là dấu hiệu cho sự tồn tại của dầu mỏ hoặc khí thiên nhiên. Những tàu này thường chất các thiết bị lên một xà lan. Trong số thiết bị này, có thể kể ra ví dụ như "địa chấn nông phân giải cao" dùng súng bắn khí để tạo sóng xung kích cao áp để xác định các địa tầng nằm dưới đáy biển, hay máy dò đáy Sonar. Trong thực tế, người ta thường trang bị cho tàu khảo sát thủy văn khả năng đảm nhận nhiều vai trò khác, ví dụ nghiên cứu hải dương. Tương tự, các tàu nghiên cứu thủy văn của hải quân thường làm cả nhiệm vụ nghiên cứu hải quân, ví dụ phát hiện tàu ngầm. Một ví dụ về tàu khảo sát thủy văn là chiếc CCGS Frederick G. Creed. Nghiên cứu hải dương. Các tàu nghiên cứu hải dương tiến hành các nghiên cứu về khía cạnh vật lý học, hoá học và sinh học của nước, khí quyển và khí hậu. Chúng sử dụng các phương tiện lấy mẫu nước ở nhiều độ sâu khác nhau, bao gồm cả khu vực biển thẳm, cũng như thiết bị dò độ sâu đáy biển và nhiều dụng cụ đo lường mô trường khác. Trên tàu này thường có cả người lặn biển nghiên cứu khoa học cùng phương tiện hoạt động ngầm không người lái. Do yêu cầu nghiên cứu hải dương và nghiên cứu thủy văn rất khác so với nghiên cứu nghề cá nên các tàu này thường đảm nhận cả hai vai trò đầu. Một ví dụ về tàu nghiên cứu hải dương là chiếc NOAAS "Ronald H. Brown" của Mỹ. Nghiên cứu Nghề cá. Tàu nghiên cứu nghề cá cần có sàn tàu đủ khả năng kéo nhiều loại lưới, thu thập sinh vật phù du hoặc lấy mẫu nước từ nhiều độ sâu khác nhau và mang theo các thiết bị sonar tìm kiếm cá. Người ta thường thiết kế tàu nghiên cứu nghề cá theo dạng các tàu đánh cá lớn nhưng khoang chứa cá sẽ được thay bằng phòng thí nghiệm và kho chứa dụng cụ. Một ví dụ về tàu nghiên cứu nghề cá là chiếc FRV "Scotia". Nghiên cứu hải quân. Các tàu nghiên cứu hải quân làm nhiệm vụ giải quyết các mối quan tâm của hải quân như phát hiện tàu ngầm và dò mìn cũng như định vị dưới nước và thử nghiệm vũ khí. Một ví dụ về tàu nghiên cứu hải quân là chiếc "Neue Planet" của hải quân Đức. Nghiên cứu địa cực. Các tàu nghiên cứu địa cực có thể được thiết kế dựa theo tàu phá băng để có thể hoạt động tại các vùng nước đóng băng ở các cực. Ngoài nghiên cứu, các tàu này thường đảm nhận vai trò cung cấp hàng hoá cho các trạm nghiên cứu, nhất là tại vùng Nam cực. Một ví dụ về tàu nghiên cứu địa cực là chiếc USCGC "Polar Star". Thăm dò dầu mỏ. Hoạt động thăm dò dầu mỏ được thực hiện theo nhiều cách. Một cách phổ biến là sử dụng các dàn khoan di động hoặc các tàu di chuyển từ vùng này đến vùng khác để khoan thăm dò đáy biển nhằm xác định liệu có tài nguyên dưới đó hay không.
1
null
An Hóa là một xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Việt Nam. Địa lý. Xã An Hóa có vị trí địa lý: Xã có diện tích 3,98 km², dân số năm 2020 là 4.200 người, mật độ dân số đạt 1.055 người/km². Hành chính. Xã An Hóa được chia thành 4 ấp: An Hòa, An Hòa Thạnh, An Nghĩa, Châu Thành<ref name=12/2017/TT-BTNMT></ref>.
1
null
Truy cập Internet trong khu nội thành. Truy cập Internet băng thông rộng trong nội thành hiện có sẵn tại Úc bằng cách sử dụng ADSL, cáp, sợi quang, truyền hình vệ tinh và công nghệ không dây. Tính đến tháng 7 năm 2008, gần 2/3 hộ gia đình Úc có thể truy cập internet, với kết nối băng thông rộng có số lượng nhiều gấp đôi sơ với dịch vu quay số để kết nối mạng. Con số này hiện tăng lên rất nhiều. Theo số liệu thống kê gần đây của ABS, các dịch vụ không quay số đã gấp 3,6 dịch vụ quay số. Hình thức phổ biến nhất của băng thông rộng khu nội thành là ADSL, trong đó sử dụng các đường dây cáp đồng điện thoại có sẵn. Ở Úc, công ty điện thoại Telstra sở hữu phần lớn cơ sở hạ tầng điện thoại cố định (Optus-một công ty con của Viễn thông Singapore sở hữu phần còn lại), tạo điều kiện để công ty này cung cấp công nghệ DSLAM phục vụ cho ADSL. Mạng cáp lai đồng trục có thể đạt tới tốc độ 30 Mbit /s tồn tại trong tất cả các khu vực đô thị lớn. Tháng 11 năm 2009, Telstra đã hoàn thành nâng cấp mạng cáp HFC tại Melbourne, nâng tốc độ lên đến 100 Mbit/s, cung cấp cho thành phố mạng internet nhanh nhất quốc gia. Hệ thống này đi vào hoạt động vào tháng 12 năm 2009. Các nhà cung cấp khác nhau đưa ra các mạng không dây dành riêng cho băng thông rộng, ở cả khu vực đô thị và nông thôn. Internet không dây là phù hợp hơn cho các khu vực nông thôn của Úc so với các đường truyền dẫn truyền thống tốn kém chi phí do khoảng cách lớn hơn và mật độ dân số thấp hơn. Các mô hình kinh doanh mới đã được sử dụng để khuyến khích tận dụng mạng internet không dây. Các mạng điện thoại di động lớn cung cấp sử dụng kết nối dữ liệu 3G HSDPA trên 3GSM. Đây cũng được coi là một giải pháp cho việc cung cấp băng thông rộng tại các địa phương. Internet ở khu vực nông thôn. Internet tại Úc có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên gần đây, chính phủ đã hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vào cải thiện, nâng cao mạng lưới Internet vùng thưa dân. Trong tháng 3 năm 2007, ALP đã công bố một chính sách mới, chấp nhận tư nhân hóa của Telstra để tài trợ hệ thống băng thông rộng quốc gia mang tầm quốc tế. Tuy nhiên, do sử dụng rộng rãi công nghệ Gain Pair để kết nối điện thoại cố định gia đình từ 1994 đến 2000 của Telstra, một số hộ không kết nối được ADSL và bị giới hạn tốc độ quay số xuống 28,8 kbit / s. Kết nối quốc tế. Do diện tích rộng lớn, dân số thưa thớt và xa xôi so với các nước khác, cơ sở hạ tầng cần được đầu tư nhiều để hoàn thiện mạng lưới Internet. Phần lớn đường truyền Internet quốc tế của Australia sử dụng sợi cáp quang đường biển để kết nối đến châu Á hoặc Mỹ. Hướng phát triển. Mạng Internet đang phát triển mạnh mẽ tại Úc bao gồm các mạng cáp được cung cấp bởi Telstra và các đối thủ cạnh tranh ở các thành phố lớn (ví dụ như: phía đông bờ biển thủ đô bởi Powertel, và giữa thủ đô bờ biển phía tây của Amcom). Chính phủ liên bang trợ giúp tài chính truy cập băng thông rộng tốt hơn cho vùng nông thôn, gồm cả khuyến khích cạnh tranh những nơi có thể vì đây là những khu vực ít lợi nhuận với khách hàng ít hơn, độ dài đường dây lớn và mức phí trả cho Telstra cao hơn để kết nối dữ liệu đến các thành phố.
1
null
Giao Long là tên gọi của một loài Thủy quái, thân hình dài tựa như loài Rắn, không chân hoặc có chân, trên đầu có mào hoặc sừng như lân, miệng có nanh sắc nhọn. Theo từ điển Hán Việt, Giao là sự giao thoa hòa hợp của hai hay nhiều thứ với nhau tạo ra một thứ chung, đây còn gọi là lai tạp, không thuần chủng. Long là cách gọi Hán Việt chỉ cho loài Rồng trong truyền thuyết hay thần thoại của người Việt và Trung Hoa. Từ đó, khi ta kết hợp hai từ Giao Long lại với nhau sẽ biểu thị cho ý nghĩa Rồng Lai hay Lai Rồng. Từ tên gọi này, ta có thể hiểu, loài thủy quái này có mang đặc điểm giống rồng nhưng cũng có những đặc điểm không giống loài rồng. Đây là giải nghĩa chính xác nhất cho tên gọi của loài thủy quái Giao Long trong thần thoại và truyền thuyết châu Á nói chung và Việt Nam, Trung Quốc nói riêng.
1
null
Quetzalcoatlus là một chi Pterosauria sống vào cuối kỷ Creta ở Bắc Mỹ (tầng Maastrichtian) là động vật bay lớn nhất cùng với Hatzegopteryx vì 2 loài này lớn ngang nhau, khi đứng thẳng chúng cao ngang hươu cao cổ. "Quetzalcoatlus" là thành viên của họ Azhdarchidae, một họ thằn lằn bay không răng có cổ dài. Sải cánh lên đến 10m, cao 4.8-5.5m, nặng từ 210–250 kg.
1
null
Cuộc vây hãm Calais là một trong những trận đánh lớn trong chiến dịch nước Pháp (1940) trên mặt trận Tây Âu trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài từ ngày 23 cho đến ngày 26 tháng 5 năm 1940. Dưới quyền chỉ huy của "trung tướng" Ferdinand Schaal, sư đoàn tăng ("Panzer") số 10 của Đức Quốc xã bằng một cuộc tấn công mạnh mẽ đã chiếm được cảng Calais từ tay lực lượng trú phòng Anh - Pháp do chuẩn tướng Claude Nicholson chỉ huy, sau 3 ngày cô lập Calais. Cả quân đội Đức Quốc xã lẫn Đồng minh đều chịu thiệt hại nặng nề trong cuộc vây hãm Calais. Cuộc phòng ngự mạnh mẽ của quân đội Anh tại Calais đã giam chân các lực lượng Đức vốn có thể gây áp lực cho các lực lượng Đồng minh tại Dunkerque, song cái giá của nó là đội quân trú phòng tại Calais đã thực sự bị tiêu diệt. Khi tướng Heinz Guderian – người chỉ huy quân đoàn XIX của Đức – tiến đến eo biển Anh vào ngày 20 tháng 5 năm 1940, Lực lượng Viễn chinh Anh đã bị cắt đứt khỏi các cảng tiếp tế ở phía nam, khiến người Anh phải dùng Calais làm cảng tiếp tế của mình. Để giữ cảng, một số lực lượng chính quy phải rời khỏi nước Anh nhằm tăng viện cho lực lượng Pháp phòng ngự tại Calais. Đầu ngày 22 tháng 5, Guderian đã tiến đánh các cảng của eo biển Anh, và sư đoàn tăng số 10 của Đức đã được lệnh đánh chiếm Calais trong khi sư đoàn tăng số 1 được phái đến Dunkerque, với các mệnh lệnh đánh chiếm Calais trên đường tiến. Nhìn chung, quân đồng minh Anh - Pháp tại Calais sẽ bị áp đảo về quân số và pháo binh, vào ngày 22 tháng 5 những đơn vị phòng ngự Calais đầu tiên của Anh đã đến cảng này, đồng thời chuẩn bị hành động. Vào buổi sáng ngày 23 tháng 5, quân Anh tại Calais vẫn không rõ là quân Đức đang ở đâu, vào giữa buổi sáng, các xe tăng Đức đã tiến đánh từ hướng tây bắc. Đầu ngày, các lực lượng thám sát thuộc "Trung đoàn Lính bắn súng trường của Nữ hoàng Victoria" đã thi hành nhiệm vụ những không còn ai trở về, Cuối buổi sáng, một số xe tăng Anh rời khỏi Calais và tiến về hướng đông nam. Tại Guines cách không xa Calais về hướng nam, họ giao chiến với các đội hình Đức đang tiến công. Dù các xe tăng Anh cuối cùng đã rút chạy về Coquelles, cuộc tấn công đầu tiên của quân Đức đã thất bại. Trọng trách vây hãm Calais giờ đây thuộc về sư đoàn tăng số 10 của Đức. Ngày 23 tháng 5 năm 1940, trong khi một số đơn vị Anh nữa đổ bộ lên đất Pháp, Nicholson tới Coquelles nhằm chuẩn bị thiết lập liên lạc với Dunkerque, song vào đầu ngày hôm sau, quân Anh vấp phải một lực lượng mạnh của Đức và buộc phải triệt thoái về Calais để tiến hành phòng ngự. Trong lực lượng phòng vệ Calais cũng có vài trăm lính Pháp và toàn bộ đội quân này sẽ là do Nicholson chỉ huy. Sư đoàn tăng số 10 của Đức đã tấn công Calais vào ngày 24 tháng 10 năm 1940, và đột phá được vòng ngoài của hệ thống phòng ngự. Trong suốt cuộc vây hãm mặc dù gặp khó khăn, quân Anh tại Calais đã cầm cự được bước tiến của quân Đức, song sự hỗ trợ của hải quân và không quân không thể hạn chế thế yếu của quân Anh về mặt quân số. Cuối cùng, vào ngày 26 tháng 5, quân đội Đức đã giành được thắng lợi và bắt giữ Nicholson, trong khi quân lực của ông đã bị suy thoái. Quân đội Anh triệt thoái về Courgain và sau cùng phần lớn họ đã bị quân Đức bắt sống. Chiến thắng Calais được xem là một trang sử huy hoàng của sư đoàn tăng số 10 của Đệ tam Đế chế Đức.
1
null
Súng ngắn Kevin còn gọi là Kevin ZP98 là loại súng ngắn bán tự động được phát triển bởi Antonín Zendl trong những năm 1990 cho công ty Zbrojovka Vsetín - Indet (ZVI) tại Cộng hòa Séc. Nó được thiết kế để làm loại vũ khí tự vệ cho dân chúng với kích thước nhỏ và nhẹ để dễ mang đi. Ngoài ra súng cũng có thể là loại vũ khí phụ cho lực lượng quân đội và cảnh sát cũng như được dùng cho việc xuất khẩu. Kevin dã trở thành một trong các loại vũ khí tự vệ phổ biến của dân chúng tại Séc. Thiết kế. Kevin sử dụng cơ chế nạp đạn blowback đặc biệt với một cơ chế hãm khí nén được phát triển để giảm độ giật khi bắn của súng và cơ chế điểm hỏa là hoạt động kép. Khung súng được làm bằng hợp kim nhôm rất chắc, khối trượt và nòng làm bằng thép còn tay cầm được làm bằng cao su được gia cố hoặc gỗ. Súng không có cơ chế khóa an toàn. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Súng sử dụng hai loại đạn chính là đạn 9×18mm Makarov và các mẫu cho thị trường phương Tây như mẫu có tên Micro Desert Eagle mà Magnum Research đã mua bản quyền để chế tạo tại Hoa Kỳ thì sử dụng đạn 9×17mm (.380 ACP). Một số loại đạn đặc biệt khác cho súng như đạn cao su và đạn hơi cay cũng được phát triển cho súng để phục vụ cho việc tự vệ ít khả năng gây tử vong.
1
null
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 được tổ chức từ 25 tháng 7 - 11 tháng 8, là môn thể thao duy nhất bắt đầu trước khi khai mạc chính thức của Thế vận hội, hai ngày trước lễ khai mạc. Đây cũng là môn thể thao duy nhất được tổ chức tại nhiều địa điểm bên ngoài London (thành phố chủ nhà của Thế vận hội), với Manchester, Glasgow, Newcastle, Coventry và Cardiff. Các trận chung kết được thi đấu tại Sân vận động Wembley. Các đội tuyển quốc gia sẽ tham dự nội dung bóng đá nữ. Trong khi đó tham dự môn bóng đá nam là đội tuyển gồm các cầu thủ U-23 và được bổ sung 3 cầu thủ có độ tuổi trên 23. 504 cầu thủ bóng đá thi đấu giành hai bộ huy chương.. Môn bóng đá Nam gồm 16 đội tuyển, môn bóng đá Nữ có 12 đội. Lễ bốc thăm cho giải đấu diễn ra vào 24 tháng 4 năm 2012. Địa điểm. Ghi chú: Ricoh Arena được gọi là Sân vận động Thành phố Coventry do chính sách không thương mại hóa.
1
null
Scolopendra cingulata, tên trong tiếng Anh gồm có Megarian banded centipede, và Mediterranean banded centipede là một loài rết, và là "loaid rết scolopendromorph phổ biến nhất khu vực Địa Trung Hải". Loài này có các dải đen vàng xen kẽ nhau. Với chiều dài khoảng 10–15 cm, "Scolopendra cingulata" là loài nhỏ nhất trong họ Scolopendridae. Nọc độc của nó cũng không độc như các loài rết scolopendridae khác. Loài này phân bố rộng rãi và có thể được tìm thấy khắp phía nam châu Âu và xung quanh Địa Trung Hải, ở các quốc gia như Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Hy Lạp và phía bắc châu Phi. "Scolopendra cingulata" là loài sống trong hang, nó thích môi trường tối tăm, ẩm ướt như dưới dưới khúc gỗ và đống lá rụng. Loài này di chuyển nhanh và hung hăng. "Scolopendra cingulata" là loài ăn thịt cơ hội. Nó tấn công văn ăn các con vật không lớn hơn nó. Con mồi của nó gồm côn trùng và thằn lằn nhỏ.
1
null
Scutigera coleoptrata là một loài rết thường có màu xám vàng với 15 cặp chân. Ban đầu là loài bản địa vùng Địa Trung Hải, loài này đã lan ra nhiều nơi khác trên thế giới, nó sống trong nhà ở của con người. Nó là loài ăn côn trùng, nó giết chết và ăn các arthropoda khác như côn trùng và arachnidae. Hình thái. "S. coleoptrata" trưởng thành dài tới 35 mm (1.5 in). Cơ thể cứng cáp với 15 cặp chân. Nếu tính cả râu, chiều dài cơ thể của chúng từ tới . Tốc độ chạy của chúng có thể đạt và có thể chạy trên mặt phẳng dựng đứng, hay cả trần hang, trần nhà.
1
null
Archispirostreptus gigas, được gọi là cuốn chiếu châu Phi khổng lồ hoặc shongololo, là loài cuốn chiếu lớn nhất còn tồn tại, lớn tới 33,5 cm, 67 mm theo chu vi. Nó có khoảng 256 chân, mặc dù số lượng chân thay đổi theo mỗi lần lột xác nên có thể thay đổi tùy theo từng cá thể. Nó là một loài phổ biến ở các vùng đất thấp của Đông Phi, từ Mozambique đến Kenya, nhưng hiếm khi đạt đến độ cao trên 1.000 m. Nó sống chủ yếu trong rừng, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở các khu vực sinh sống ven biển có ít nhất một vài cây. Nó có nguồn gốc từ Nam Ả Rập, đặc biệt là Dhofar. Nói chung, cuốn chiếu khổng lồ có tuổi thọ khoảng từ 7–10 năm. Cuốn chiếu khổng lồ có hai phương thức phòng vệ chính nếu chúng cảm thấy bị đe dọa: cuộn mình thành một vòng xoắn ốc chặt chẽ chỉ để lộ bộ xương ngoài cứng và tiết ra chất lỏng gây khó chịu từ các lỗ chân lông trên cơ thể chúng. Chất lỏng này có thể gây hại nếu bị dính vào mắt hoặc miệng. Do khả năng phòng vệ này, "A. gigas" là một trong số ít động vật không xương sống mà kiến quân đội không có khả năng bắt làm con mồi. Những con ve bét nhỏ thường được thấy bò trên bộ xương ngoài và giữa các chân của chúng. Các con cuốn chiếu có mối quan hệ cộng sinh với các con ve này, trong đó các loài ve giúp làm sạch bộ xương ngoài của cuốn chiếu để đổi lấy thức ăn và sự bảo vệ từ vật chủ của chúng. Là một loài hiền lành, "A. gigas" thường được tìm thấy trong thị trường buôn bán thú cưng; tuy nhiên, việc nhập khẩu "A. gigas", cũng như một số loài cuốn chiếu khác, vào Hoa Kỳ là bị cấm do sự thiệt hại nông nghiệp gây ra bởi các loài ve bét chúng mang theo.
1
null
' (danh pháp khoa học: Thinornis rubricollis""') là một loài chim trong họ Charadriidae. Nó là loài đặc hữu phía nam Australia và Tasmania. Có hai phân loài được công nhận, cả hai đều được liệt kê vào nhóm có nguy cơ. Phân loại. Nhà tự nhiên Đức Johann Friedrich Gmelin đã mô tả loài chim này vào năm 1789. Danh pháp cụ thể của nó lấy từ tiếng Latin "ruber" "đỏ", và "collis" "cổ". Loài này đã được đặt vào trong chi "Charadrius" nhưng đầu thập niên 2000 nó đã được xếp loại lại vào chi "Thinornis", cùng với "Thinornis novaeseelandiae". Năm 2000 số cá thể trưởng thành ước khoảng 7.000 con. Phân loài. Hai phân loài được công nhận. Mô tả. Loài chim này có kích thước vừa, thân chắc nịch, và màu nhạt. Chiều dài của nó là 190–230 mm (7,5-9,1 in) và sải cánh dài khoảng 230–440 mm (9,1-17). Con trống và con mái có bề ngoài tương tự. Nó có mỏ đỏ và đầu mỏ đen, vòng mắt đỏ và chân màu cam. Phía dưới màu trắng. Nơi sinh sống. Môi trường sống tự nhiên của nó là các hồ nước ngọt, đầm lấy nước ngọt, đầm phá nước mặn ven biển, và những bãi biển cát. Số lượng lớn được tìm thấy trên bãi biển với rong biển và cồn cát. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống vì dân số nhỏ bé và phạm vi bản địa hẹp. Nó sống ở phía tây Australia, miền nam Australia, New South Wales, Tasmania và các đảo gần đó. Nó là một loài lang thang trong Queensland. Việc cáo bắt loài chim này là một mối đe dọa lớn đối với phân loài phía tây. Nó là loài không di cư. Hành vi. Mỗi lứa mỗi con mái đẻ từ 1-3 quả trứng, chúng sinh sản từ tháng 8 đến tháng 3, là thời điểm cao điểm mùa du lịch mùa hè ở khu vực nó phân bố và do đó bị đe dọa nặng nề bởi các hoạt động của con người. Trứng màu kem hoặc màu be mờ có nhiều đốm nâu sẫm hoặc màu hoa oải hương, đặc biệt là đầu to hơn của trứng. Trứng có hình quả lê, kích thước . Trứng nở 30 ngày sau khi đẻ. Nhóm phía đông ăn nhiều loài động vật không xương sống nhưng người ta ít biết về chế độ ăn của loài phía tây. Cụ thể, nó ăn côn trùng, ốc hai mảnh vỏ, Talitridae. Nó thường được nhìn thấy trong cặp hoặc nhóm nhỏ ở gần nước. Để sinh sản, nó sẽ đào một cái lỗ nông trên cát, sỏi cao hơn trên mức nước và xếp hàng bằng đá cuội, rong biển và các mảnh vụn khác.
1
null
là một ngôi chùa Phật giáo ở thành phố Uji, tỉnh Kyoto, Nhật Bản. Ngôi chùa này được xây dựng năm 998 trong thời kỳ Heian, dùng làm một trang dinh của Fujiwara no Michinaga, một trong những người quyền thế nhất của dòng họ Fujiwara. Năm 1052 Fujiwara no Yorimichi lấy tư dinh này lập chùa thờ Phật. Tòa nhà nổi tiếng nhất trong chùa là điện A-di-đà thường gọi là "Hōō-dō" (鳳凰堂, âm Hán-Việt: "Phượng Hoàng đường") xây vào năm 1053. Đây là công trình kiến trúc duy nhất từ thuở nguyên thủy còn sót lại. Chung quanh điện A-di-đà là hồ cảnh; mấy tòa nhà phụ thuộc đã bị đốt trong cuộc nội chiến năm 1336.
1
null
Đại học Freiburg (tiếng Đức: "Albert-Ludwigs-Universität Freiburg", thông dụng là Uni Freiburg hoặc chỉ là Freiburg), là một trường đại học nghiên cứu công cộng nằm ở Freiburg im Breisgau, Baden-Württemberg, Đức. Trường đại học được thành lập vào năm 1457 bởi triều Habsburg làm trường đại học thứ hai trong lãnh thổ Áo Habsburg sau Đại học Wien. Ngày nay, Freiburg là trường đại học lâu đời thứ năm ở Đức, với một truyền thống lâu đời về lĩnh vực giảng dạy khoa học nhân văn, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Trường đại học này được có 11 khoa và thu hút sinh viên trên toàn nước Đức cũng như sinh viên từ hơn 120 quốc gia khác. Sinh viên nước ngoài chiếm khoảng 16% tổng số lượng sinh viên của trường. Đại học Freiburg nằm trong nhóm các tổ chức nghiên cứu và giảng dạy hàng đầu của châu Âu. Với danh tiếng xuất sắc lâu đời, trường này duy trì di sản lịch sử học và văn hóa của mình, phát triển các phương pháp mới để đáp ứng các nhu cầu của một thế giới đang thay đổi. Đại học Freiburg là một trong những nơi tập trung một số nhân vật vĩ đại nhất của văn hóa phương Tây, trong đó có thể kể đến một nhân vật nổi bật như bao gồm cả con số đó nổi tiếng như Martin Heidegger, Hannah Arendt, Rudolf Carnap, David Daube, Johann Eck, Hans-Georg Gadamer, Friedrich Hayek, Edmund Husserl, Friedrich Meinecke, và Max Weber. Ngoài ra, 19 người đoạt giải Nobel có mối liên hệ với trường này và 15 học giả đã được vinh danh với giải thưởng nghiên cứu cao nhất của Đức, giải thưởng Gottfried Wilhelm Leibniz, trong khi làm việc tại Đại học Freiburg.
1
null
Alcibiades, con trai của Clinias, /ˌælsəˈbaɪədiz/ Hy Lạp cổ đại: Ἀλκιβιάδης, "Alkibiádēs", ]; ( 450–404 TCN) đến từ vùng Scambonidae, là một chính khách, nhà hùng biện đồng thời là một vị tướng kiệt xuất của Athena cổ đại. Ông là thành viên nổi bật cuối cùng của dòng họ nhà mẹ ông, nhà Alcmaeonidae, vốn bị suy sút sau Chiến tranh Peloponnesus. Ông đã đóng một vai trò quan trọng trong nửa sau của cuộc chiến như là cố vấn chiến lược, chỉ huy quân sự và chính trị gia. Trong cuộc chiến, Alcibiades thay đổi khuynh hướng chính trị của mình vài lần. Ở Athena những năm đầu thập niên 410 tr.CN, ông chủ trương một chính sách ngoại giao hiếu chiến, một người hăng hái đề xướng Viễn chinh Sicilia, nhưng phải bỏ chạy tới Sparta sau khi các kẻ thù chính trị buộc ông tội báng bổ. Ở Sparta, ông phục vụ như một cố vấn chiến lược, dề xuất hoặc giám sát một số chiến dịch quan trọng chống lại Athena. Tuy nhiên cũng ở Sparta, ông sớm tạo ra nhiều kẻ thù hùng mạnh và bị buộc phải trốn sang Ba Tư. Ông phục vụ cho người Ba Tư cho đến khi người Athena triệu hồi ông. Ông trở lại làm một vị tướng Athena trong vài năm, nhưng cuối cùng bị buộc đày lần nữa. Cuộc viễn chinh Sicilia là ý tưởng của Alcibiades, và các học giả cho rằng nếu dưới sự chỉ huy của bản thân ông thay vì Nicias', nó hẳn đã không phải kết cục thảm hại như trong thực tế. Trong những năm ông phục vụ Sparta, Alcibiades đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phá hoại Athena; chiếm đóng Decelea và những cuộc nổi dậy của người Athena dưới sự khuyến khích của ông. Khi trở về thành phố quê hương, ông đã đóng một vai trò thiết yếu trong một chuỗi những thắng lợi mà cuối cùng đưa Sparta tới chỗ phải tìm kiếm một hòa ước với Athena. Ông ưa dùng các chiến thuật không chính thống, và thường chiến thắng các thành bang bằng lừa dối và thương lượng hơn là vây hãm. Tài năng quân sử của Alcibiades thường chứng tỏ là có giá trị cho mỗi nhà nước mà ông phục vụ, nhưng thiên hướng của ông tạo nên những kẻ thù mạnh khiến cho ông không duy trì vị trí ở nơi nào được lâu; và, đến lúc kết thúc cuộc chiến mà ông nhóm lại vào đầu những năm 410 tr.CN, uy thế chính trị của ông cũng biến mất.
1
null
Browning M1919 là một loại súng máy đa chức năng, súng máy hạng trung cỡ nòng 7.62mm của Mỹ, đây là một trong những súng máy nổi tiếng nhất của John Browning. Nó được quân đội Mỹ cũng như nhiều quân đội khác trên thế giới sử dụng trong suốt thế kỷ XX Còn có tên gọi khác là Súng máy 30 cal và Browning 30 cal. Nó có thể đóng nhiều vai trò như vũ khí của bộ binh, súng bắn hỗ trợ, súng phòng không... Ngoài ra, nó cũng có thể gắn trên xe tăng, máy bay, tàu tuần tra, tàu chở lính... Mẫu M1919 được nhà thiết kế John Browning thiết kế lại từ mẫu súng máy hạng nặng Browning M1917 của ông. Nó trở thành vũ khí chiến đấu tiêu chuẩn cấp trung đội của quân đội Mỹ trên khắp các mặt trận của thế chiến thứ hai. Không những thế, nó cũng được Mỹ bán cho những nước Đồng minh khác để họ có vũ khí đánh quân phát xít. Khi Browning M1919 thuộc sở hữu của quân đội Anh, các kỹ sư Anh đã tiến hành chuyển đổi cỡ đạn từ .30-06 Springfield sang .303 British để phù hợp hơn với quân đội Anh. Quân đội Anh trang bị nó cho máy bay Spitfire và Hawker Hurricane của Không quân Hoàng gia Anh. Browning M1919 cũng xuất hiện tại Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam với vai trò là súng máy tiêu chuẩn của quân đội Pháp. Khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh thắng Pháp, họ đã tịch thu rồi sử dụng lại rất nhiều. Hiện tại, Browning M1919 đã được Việt Nam đưa vào viện bảo tàng để trưng bày. Từ năm 1954 trở đi, các kĩ sư Mỹ đã chuyển đổi loại đạn .30-06 Springfield thành cỡ đạn 7,62x51mm NATO để sử dụng. Đến nay, Mỹ đã đưa nó vào bảo tàng, vì giờ đây, Mỹ đã có những súng máy khác hiện đại hơn như M60, FN M249 và M240. Từ những năm 1970 đến nay, khẩu súng máy này thường có mặt trong những bộ phim chiến tranh của nhiều nước khác nhau, phim của Việt Nam cũng xuất hiện như: Dưới cờ đại nghĩa, Vó ngựa trời Nam, Đất phương Nam...
1
null
Dự Luật 39 là một luật chờ quyết định bỏ phiếu của tiểu bang California, dự luật này sẽ điều chỉnh lại cách tính thuế trên các doanh nghiệp nằm ngoài tiểu bang. Các cử tri tại cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 12 tháng 11 tới đây sẽ có quyền lựa chọn "đồng ý" hoặc "không đồng ý" với dự luật trên. Các nhóm ủng hộ Dự Luật 39 khẳng định dự luật này sẽ lấp kẽ hở trong luật thuế mà hiện tại đang làm lợi cho các công ty ngoài tiểu bang khi họ giảm bớt việc làm ở California vì mục đích giảm thuế, và chính sách đối xử với những công ty ngoài tiểu bang sẽ giống với chính sách dành cho các công ty trong California. Số tiền thu được nhờ việc lấp kẽ hở này sẽ được dùng để đầu tư trực tiếp vào các trường công và tạo thêm công ăn việc làm cho tiểu bang, đặc biệt là các công việc xây dựng trong lĩnh vực năng lượng sạch.. Nhóm chống đối phản bác rằng Dự Luật 39 chỉ đơn giản là tăng thuế, và nó sẽ khiến các công ty ngoài tiểu bang ít đầu tư hơn vào California. Dự luật này không ảnh hưởng đến các công ty hay các hộ dân ở nội bang California. Văn phòng phân tích gia luật pháp California xác định rõ việc thay đổi cách tính thuế sẽ giúp thu thêm được 1 tỷ $ và tạo thêm 40,000 công ăn việc làm cho tiểu bang. Người hỗ trợ về mặt tài chính cho Dự Luật 39 là Thomas Steyer, đó là người đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế ra dự luật này. Thương Nghị Sĩ bang California Kevin de Leon là phó chủ tịch của Dự Luật 39. Bối cảnh. Vào năm 2009, những nhà lập pháp Sacramento đã thay đổi luật thuế để những công ty ngoài tiểu bang có thể chọn lựa giữa 2 công thức thuế để tính thuế của họ tại California. Các công ty có thể chọn một trong hai phương pháp là "ba nhân tố" hoặc "một nhân tố doanh thu". Phương pháp 3 nhân tố được tính theo cách là một nửa thuế dựa trên số hóa đơn của công ty đã bán ra trong nội bang và một nửa còn lại là trên số nhân viên và tài sản của công ty trong tiểu bang. Một công ty có doanh thu cao nhưng không có trụ sở tại California sẽ được giảm thuế khi chọn phương pháp 3 nhân tố. Sự thay đổi này là một phần của việc thỏa thuận giữa Arnold Schwarenegger và Đảng Cộng Hòa. California là bang duy nhất cho phép các công ty ngoài bang được chọn cách tính thuế. Nhóm ủng hộ Dự Luật 39 bao gồm doanh nhân và là nhà từ thiện Thomas Steyer (San Francisco), người sáng lập ra Quỹ mạo hiểm Farallon, và Ngân hàng One Pacific, một ngân hàng cộng đồng. Steyer, người ký kết cho Quỹ Thế Chấp Giving, đã chi 21.9 triệu $ cho một cuộc vận động cho dự luật này. Trong năm 2010, Steyer đã chủ trì thành công trong việc nỗ lực đánh bại Dự Luật 23, một luật bỏ phiếu để thay đổi luật thay đổi khí hậu California. Hội Bảo Thủ cũng đóng góp 25.000$ cho cuộc vận động, trong khi Nhóm Quản lý Công Nhân Kim Loại Ở Miền Tây PAC cũng đóng góp 5.000$. Một luật tương tự đã được thông qua tại các bang New Jersey, Illinois và Texas. Nhà lãnh đạo Cộng Hòa New Jersey Chris Christie đã gọi việc lấp kẽ hỡ là một phần quan trọng cho sự trở lại của bang New Jersey. Assembly Bill 1500. John A. Pérez, đại diện bang Los Angeles, giới thiệu dự luật Assembly Bill 1500 vào năm 2012. Điều luật này muốn xóa bỏ phương pháp tính thuế 3 nhân tố khỏi bộ luật thuế. Vào 31 tháng 8 năm 2012, AB 1500 đã thất bại trong việc tìm sự hỗ trợ cần thiết để tiến xa hơn. Tiền thuế lợi tức thu từ AB 1500 sẽ góp phần giảm 2/3 tiền học phí cho các sinh viên đại học của bang đối với các gia đình thu nhập ít hơn $150.000 một năm. Một số lượng lớn các công ty ngoài tiểu bang đã phản đối dự luật này. Quy mô. Dự luật 39 xóa bỏ quyền được lựa chọn cách tính thuế tại California của những công ty ngoài tiểu bang. Nếu được thông qua, tất cả những công ty đang hoạt động tại bang sẽ chỉ bị tính thuế theo phương thức một nhân tố doanh thu. Dự luật 39 cũng bao gồm kế hoạch sử dụng số tiền gia tăng từ thu thuế - khoảng 1 tỷ $ mỗi năm. Trong 5 năm đầu sau khi dự luật được thông qua, một nửa số tiền thuế mới sẽ được dùng cho các dự án năng lượng sạch. Một nửa khác sẽ được đưa vào quỹ chung của bang. Sau 5 năm, tất cả tiền sẽ được đưa vào quỹ chung. Những người ủng hộ của dự luật này có đề cập đến bốn công ty có lợi từ luật thuế hiện tại. Đó là Chrysler Group, General Motors, International Paper, và Kimberly-Clark. Vào tháng 9 năm 2012, Proctor & Gamble và Chrysler cùng thông báo rằng họ sẽ không phản đối Dự Luật 39 nữa. Trong năm 2011, giám đốc điều hành công ty Genentech, Andrea Jackson đã giải thích rằng công ty của cô đã được đặt ở một nơi trong vùng Oregon nhằm tận dụng kẽ hỡ của phương thức 3 nhân tố. Cô ấy cho rằng luật thuế California khuyến khích các công ty di chuyển trụ sở ra ngoài tiểu bang. Một nghiên cứu gần đây bởi công ty nghiên cứu độc lập Beacon Economic xác nhận rằng Dự Luật 39 có thể làm giới hạn những ưu đãi pháp lý cho những doanh nghiệp ngoài tiểu bang. Phân tích. Tác dụng tích cực. Căn cứ theo những phân tích khách quan, việc thông qua Dự Luật 39 sẽ giúp thu thêm 1 tỷ $ cho thu nhập của bang. Dự luật này đồng thời cũng sẽ xóa bỏ ưu thế của việc xây dựng những trự sở mới hay thuê nhân công ngoài tiểu bang. Những người ủng hộ cho rằng dự luật sẽ giúp tạo thêm 40.000 công ăn việc làm mới. Tổ chức sức khỏe và môi trường khẳng định số tiền dư ra được đầu tư vào những dự án năng lượng sạch sẽ giúp bảo vệ an ninh trường học và cải tiến sức khỏe cộng đồng tốt hơn. Tổ chức xã luận của Sacramento Bee cho rằng Dự Luật 39 đại diện cho "những gì mà nền dân chủ trực tiếp nên làm." Tác dụng tiêu cực. Nhóm phản đối Dự Luật 39 phản bác rằng những công ty sẽ ít đầu tư vào California hơn bởi vì thuế cao. Họ cho rằng một số hình thức của phương thức 3 nhân tố đã xuất hiện kể từ 1966. Một số khác sợ rằng dự luật sẽ làm tăng thêm sự quan liêu và phức tạp cho một bộ luật thuế vốn đã rất có vấn đề. Điều này ám chỉ đến môi trường thuế không thân thiện của California: bang được xếp hạng thứ 48 theo tổ chức Sáng Lập Thuế. Sự ủng hộ. Vào tháng 9 năm 2012, đồng loạt các tờ báo Los Angeles Times, Sacramento Bee, San Josse Mercury News và Văn phòng Thương mại San Francisco, Chủ tịch Hạ viện California John Perez, Liên Đoàn Lao động California, Chủ tịch Thượng viện bang California Darrel Steinberg, các vị Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ronald Reagan, Geogre Schutz đã lên tiếng ủng hộ dự luật này. Vào 26 tháng 9 năm 2012, Chủ tịch Đảng Dân Chủ California, John Burton, đã thông báo về sự ủng hộ của ông đối với Dự Luật 39. Một số sự ủng hộ khác gần đây cho luật này bao gồm Văn phòng Thương mại San Francisco, Hiệp Hội Phổi Hoa Kỳ, Hiệp Hội Doanh nhân Latin, Liên Đoàn Lao động California, Ủy viên Đại Học Cộng đồng California và Hội Ủng Hộ Bảo Tồn Thiên Nhiên California. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2012, các công ty lớn như General Mortos, International Paper, Kimberly Clark, Chrysler và Proctor & Gamble sẽ không còn phản đối Dự Luật 39 nữa. Văn phòng Thương mại Simi Valley, Văn phòng Thương mại Carpinteria Valley, Văn phòng Thương mại Oxnard và Liên Minh Văn phòng Thương mại đồng loạt phản đối Dự Luật 39. Ý kiến báo chí. "Đồng ý với luật 39". Báo Oakland Tribune chính thức ủng hộ Dự Luật 39, với lời nhận xét "Luật 39 sẽ giúp giữ chân các doanh nghiệp ở đây". Báo Fresno Bee ủng hộ Dự Luật 39 vào ngày 1 tháng 10, năm 2012. Họ đã viết, "Nếu nó được thông qua, luật này sẽ tạo ra thêm 1 tỷ $ mỗi năm." Tờ Bakersfiend Californian đã hỗ trợ luật này, phát biểu, "Đây là lúc để sửa lại chính thuế tồi tệ, mà lần cuối cùng nó được tạo ra cách đây 3 năm bởi Hội Lập Pháp California." Tờ Modesto Bee ủng hộ Dự Luật 39, ghi, "Dự Luật 39 thể hiện một cách trực tiếp những gì Đảng Dân Chủ nên làm." Tờ San Diego Free Press vừa thông báo về sự ủng hộ với Dự Luật 39. Họ đã viết rằng, "Dự Luật 39 sẽ loại bỏ khả năng chọn lựa cách tính thuế dựa trên doanh thu của các công ty ở California và bắt buộc họ chỉ được dùng doanh thu cho việc tính thuế." Tờ Redding Record Searchlight đã ủng hộ Dự Luật 39, ghi, " Dự Luật 39 sẽ chấm dứt việc biếu không một tỷ $ cho những công ty ngoài tiểu bang." Tờ Contra Costa Times đã nói tốt cho Dự Luật 39. Họ viết, "Những nhà làm luật liên bang đã từ chối việc sửa lại những lỗi lầm mà họ đã tạo ra vào năm 2009, trong một phiên họp ngân sách muộn, họ đã tạo ra một chính sách thuế khuyến khích các công ty đặt trụ sở ở ngoài bang California. Những người cử tri cần phải sửa nó giùm cho họ vào ngày 6 tháng 11 tới bằng cách bỏ phiếu cho Dự Luật 39." Tờ Los Angeles Times đã ủng hộ Dự Luật 39. Vào ngày 27 tháng 9, năm 2012, họ viết, "Dự Luật 39, sẽ tăng thêm khoảng 1 tỷ $ mỗi năm, một nửa trong số đó tạm thời sẽ được chuyên dùng cho việc tăng hiệu suất năng lượng các công trình công cộng." Tờ San Jose Mercury News đã ủng hộ Dự Luật 39, ghi, "Những nhà làm luật liên bang đã từ chối việc sửa lại những lỗi lầm mà họ đã tạo ra vào năm 2009, trong một phiên họp ngân sách muộn, họ đã tạo ra một chính sách thuế khuyến khích các công ty đặt trụ sở ở ngoài bang California. Những người cử tri sẽ có thể sửa nó giùm cho họ vào ngày 6 tháng 11 tới bằng cách bỏ phiếu cho Dự Luật 39." Tờ Sacramento Bee vừa ủng hộ Dự Luật 39. Các tờ báo bênh vực các cử tri bỏ phiếu cho luật này, ghi, "Rất cần thiết, các công ty ngoài tiểu bang như công ty sản xuất thuốc lá Altria giành được đặc quyền lựa chọn phương thức tính thuế, điều này cho phép họ nộp thuế ít nhất cho bang, và họ đã cho phép họ thu mức lợi nhuận lớn nhất mỗi năm,… Dự Luật 39 thể hiện trực tiếp những gì đảng Dân Chủ nên làm." "Không đồng ý với luật 39". Tờ San Francisco Chronicle phản đối dự luật này trong một kỳ báo tháng 9, ghi rằng, "Dự Luật 39, luật sẽ chuyển một nửa tỷ đô la từ tiền thu thuế hằng năm vào những dự án năng lượng hiệu quả, sẽ làm xấu đi một ý kiến hay (sửa đổi thuế) bằng một việc rất tồi tệ (bỏ phiếu quyết định ngân sách). Tờ San Diego Union Tribune phản đối dự luật, ghi, "Chúng tôi đề nghị một phiếu chống cho Dự Luật 39." Tờ Ventura County Star phản đối Dự Luật 39, phát biểu, "Những người ủng hộ của Dự Luật 39 có thể có ý tốt, nhưng luật này ở cuộc bầu cử ngày 6 tháng 11 không đủ tiêu chuẩn cho một sự kỳ vọng hợp lý. Star đề nghị một phiếu chống." Tờ Pasadena Star-News phản đối Dự Luật 39, ghi rằng, "DỰ LUẬT 39 là một cái túi hỗn hợp – có vẻ như quá nhiều dự luật đang xuất hiện trên thùng phiếu của bang California – điều đó nên bị loại bỏ." Tờ San Bernadino Sun phản đối luật này, ghi, "Trong 1 tỷ $ hay tương tự trong tiền thuế thu thêm mà nó sẽ được sản xuất, Dự Luật 39 sẽ chuyển trực tiếp một nửa vào những dự án khác và năng lượng hiệu quả trong vòng 4 năm." Ban biên tập của tờ Appeal-Democrat phản đối Dự Luật 39 trong một kỳ báo tháng 5, đã viết, "Steyer đã nói rằng luật này sẽ tạo ra thêm nhiều việc làm xanh. Nhưng các loại thuế sẽ giết chết công việc bằng những món tiền dơ bẩn ở ngoài khu vực kinh tế tư nhân. Một số cam kết việc-làm-xanh tương tự đã từng được tạo ra như Assembly Bill 32, Đạo luật Giải quyết Hâm nóng Toàn cầu 2006, bởi Thống Đốc Arnold Schwarenegger. Nhưng AB 32 đã không ngăn ngừa được việc tỷ lệ thất nghiệp của bang lại tăng cao hơn tỷ lệ quốc gia. Vấn đề nghề nghiệp thật sự của California không chỉ là thiếu các công việc xanh, mà bang còn đòi hỏi những công việc tốt cho khí hậu, đối với những gì AB 32 và bóng ma của những đóng góp từ luật của Steyer." Tờ Los Angeles Daily News: "…luật này có hai vấn đề lớn: Một, nó là một ví dụ khác của việc bỏ phiếu quyết định ngân sách, một nửa tiền thuế sẽ được tạo ra cho những dự án môi trường thay vì đưa vào quỹ chung; và thứ hai, nó trở lại là một thỏa thuận ngân sách mà những nhà lập pháp đã tạo ra cách đây 3 năm." Tờ San Gabriel Valley Tribune: "Bang California không thể chịu đựng thêm bất cứ thùng phiếu ngân sách để tích trữ tiền cho một mục đích đơn lẻ được ủng hộ bởi một người đề xuất quyền – trong trường hợp này là một tỷ phú sở hữu quỹ mạo hiểm. Dự Luật 39 tạo ra Quỹ Sáng Tạo Công Việc Năng lượng Sạch, một thùng tiền bất khả xâm phạm khác giống như First 5 và quỹ sức khỏe tầm thần mà những luật cũ đã cho chúng ta. Những mục đích này có vẻ tốt, nhưng chúng nên được xem xét chúng có chống lại những sự ưu tiên khác như giáo dục và sự chăm sóc cho người nghèo và người già."
1
null
Trận Coulmiers là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức tại Pháp , diễn ra vào ngày 9 tháng 11 năm 1870. Trong trận đánh quyết liệt này, binh đoàn Loire của Pháp do tướng Jean-Baptiste d'Aurelle chỉ huy, mặc dù chịu thiệt hại nặng nề hơn so với quân đội Bayern đã đánh bại quân Bayern do tướng Ludwig von der Tann chỉ huy, và đoạt lại Orléans từ tay người Đức. Trận Coulmiers được ghi nhận là chiến thắng thực thụ đầu tiên của quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh đầy thảm họa của họ vào năm 1870, đồng thời là thắng lợi đầu tiên của quân Pháp sau cuộc giao tranh tại Saarbrücken hồi đầu tháng 8 năm ấy. Song, bất chấp lợi thế về quân số của Pháp, quân đội Bayern đã trốn thoát trong cuộc bại trận này. Chiến thắng Coulmiers của quân Pháp đã khiến cho giới lãnh đạo Đức nhận thấy sự trỗi dậy của những hình thức kháng cự mới của người Pháp. Trong một chiến dịch tấn công của quân đội Pháp vào Orléans, tướng d'Aurelle đã tiến đánh Nam tước Von der Tann và đánh bại một đội tuần tra của quân đội Đức trong khu rừng Marchénoir cận kề, vào ngày 7 tháng 11 năm 1870. Trước tình hình đó, các lực lượng Đức dưới quyền Von der Tann đã triệt thoái về hướng tây bắc và thiết lập vị trí xung quanh ngôi làng Coulmiers vào ngày 8 tháng 11. Ngày 9 tháng 11, quân đội hai bên đã giáp mặt nhau tại Coulmiers: hy vọng quân đoàn yếu ớt của mình sẽ vận động tốt hơn đội quân khổng lồ nhưng thiếu huấn luyện của Pháp, Von der Tann đã liều lĩnh lâm trận với quân Pháp, và quân Đức đã chiến đấu kiên cường trong trận chiến, thể hiện (ít nhất là một nửa) tính đúng đắn của lời ngợi ca của thủ tướng Phổ Otto von Bismarck về tinh thần trách nhiệm của người lính Đức. Đã hơn một lần trận đánh trở nên hỗn loạn, và đô đốc Jauréguiberry là người đã quyết định cho cuộc chiến: vốn người Đức đã gặp bất lợi do chịu áp lực từ quân số áp đảo của Pháp và từng lữ đoàn một của Đức tiến hành triệt thoái, song, dưới hỏa lực của lực lượng pháo binh Đức, bước tiến của quân Pháp đã bị chặn đứng và đẩy lùi trong náo loạn. Sự phối hợp yếu ớt của các đơn vị Pháp đã góp phần tạo điều kiện cho cuộc kháng cự mạnh mẽ của quân Bayern. Sau đó, Jauréguiberry nhập trận và phục hồi cuộc tiến công của quân Pháp sau thất bại ban đầu, và bẻ gãy cuộc phản công của quân Đức. Trong trật tự, các lực lượng của Tann đã triệt thoái nhanh chóng về St. Peravy, và vào buổi trưa hôm đó đội quân trú phòng Đức nhỏ bé tại Orléans rút lui. Ngày hôm sau, quân Pháp thu được một đoàn xe chở đạn cùng một số khẩu pháo – những chiến lợi phẩm duy nhất của họ trong trận đánh khốc liệt. Trong khi đó, quân Bayern với sự hỗ trợ của một sư đoàn Phổ đã rút lui về Toury. Thành công quan trọng của Tann đã khiến cho ông được nhìn nhận là một trong những nhà chỉ huy quân sự lớn nhất thời đại. Trong khi niềm tin của người Pháp vào trận Coulmiers không lâu sau thì tan vỡ, trận chiến đã tạo cho người Phổ một niềm tin lâu dài về sự thấp kém của lính Bayern. Trận Coulmiers cũng được xem là thành quả của d'Aurelle trong việc gầy dựng binh đoàn Loire, trong đây là một thắng lợi không toàn diện và không lâu sau thì ông ta nói riêng cũng như binh đoàn Loire nói chung sớm bị quân đội Đức đánh bại liên tiếp.
1
null
Chủ nghĩa khuyển nho (tiếng Hy Lạp cổ: κυνισμός) là học thuyết triết học Hy Lạp cổ, chủ trương sống phải giữ cái đức, thuận hợp tự nhiên. Con người là sinh vật có lý trí, có thể đạt được sung sướng bằng cách rèn luyện thân tâm, sống theo bản tính sẵn có, và từ bỏ ham muốn của cải, quyền lực, tiếng tăm. Một người Khuyển nho sống đơn giản, không có tài sản gì. Antisthenis là nhà triết học đầu tiên đề xướng chủ nghĩa, từng theo học Sokratis vào cuối thế kỷ 5 TCN. Diogenes theo sau Antisthenis và thực hiện chủ nghĩa khuyển nho tới cùng: ông sống trong một chiếc bình gốm trên đường phố Athens. Tục xem Diogenes là nhà triết học khuyển nho điển hình. Vị Khuyển nho Kratis cho đi khối tài sản lớn để sống nghèo khổ ở Athens. Bắt đầu từ thế kỷ 3 TCN, chủ nghĩa khuyển nho từ từ suy, rồi thịnh trở lại vào thế kỷ 1 ở Đế quốc La Mã. Tại các thành phố khắp trong nước, có thể thấy người Khuyển nho ăn xin và rao giảng ý tưởng. Về sau, Kitô giáo mượn dùng tư tưởng khổ hạnh và các thủ pháp tu từ của Phái khuyển nho. Thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu đặt nặng khía cạnh tiêu cực của triết lí khuyển nho, dẫn tới tiếng xấu hiện nay của chủ nghĩa là khuynh hướng nghi ngờ lòng chân thành của người khác. Nguồn gốc tên gọi. “Khuyển nho” là dịch nghĩa tiếng Hy Lạp cổ kυνικοί, bắt nguồn từ κυνικός ‘giống chó’ và κύων ‘chó’. Vào thời xa xưa, vị Khuyển nho đầu tiên Antisthenis dạy học ở trường Cynosarges tại Athens, nghĩa là “nơi chó trắng”, cho nên gọi tên học phái là “chó”. Tuy nhiên, chắc chắn "chó" cũng là cách chửi các người Khuyển nho đầu tiên trơ trẽn phá tục lệ xã hội và sống lang thang trên đường phố. Diogenes được gọi là “Con chó”, ông có vẻ rất thích tên gọi, nói rằng “những con chó khác cắn chết kẻ thù, tôi cắn bạn bè để cứu họ.” Về sau, những người Khuyển nho tìm cách chiếm đoạt lời lăng mạ làm tên riêng; một nhà bình luận giải thích: Triết lý. Chủ nghĩa khuyển nho là một trong những triết lý đáng chú ý nhất trong tất cả các triết lý Hy Lạp, chủ trương con người có thể được sung sướng và tự do trong thời đại đầy động loạn. Mặc dù mọi người trái ý về một học thuyết chung, chủ nghĩa khuyển nho bao gồm các nguyên tắc sau đây: Một người Khuyển nho không có tiền bạc của cải gì và không chịu nhận giá trị phàm tục của tiền bạc, danh vọng, và quyền lực. Cuộc sống sống thuận theo tự nhiên chỉ cần phải có những cái không thể thiếu để sống và đem lại tự do bằng cách cởi bỏ ra mọi nhu cầu trần tục. Phái khuyển nho nhận Heracles làm người hùng, làm người Khuyển nho hoàn hảo, vì Heracles “là người bắt được Cerberus là con chó săn của Hades ở địa ngục, thu hút nhất là người chó Diogenes.” Nhà hùng biện Lucian nhận xét, “Cerberus và người Khuyển nho chắc chắn có điểm chung là con chó.” Lối sống khuyển nho đòi hỏi sự rèn luyện suốt đời, không chỉ đầu óc, mà còn thân thể: Sống đơn giản và rèn luyện thân tâm không có nghĩa là ở ẩn, không bận việc đời. Một người Khuyển nho phải sống trong dân chúng và làm ngơ mọi lời lăng mạ về việc làm thoát tục của hắn. Có người cho rằng Phái khuyển nho phát minh ý tưởng mọi người đều thuộc về một cộng đồng: khi được hỏi quê quán, Diogenes trả lời ông là “dân thế giới.” Người Khuyển nho hoàn hảo sẽ truyền bá chủ trương và sủa cho mọi người nhận ra lỗi của họ, dùng lối sống cùng óc châm biếm cay nghiệt để đào sâu và phơi bày những điều giả tạo nằm ở gốc rễ của lề thói có từ lâu đời. Chủ nghĩa khuyển nho hầu hết tập trung sửa sang đạo đức, song một số người Khuyển nho như Monimos cũng nói tới thuyết nhận thức. Triết lý khuyển nho ảnh hưởng lớn Hy Lạp, gây ra chủ nghĩa khắc kỷ. Thế kỷ 2 TCN, nhà triết học khắc kỉ Apollodoros viết, “Chủ nghĩa khuyển nho là lối ngắn nhất đến đức hạnh.” Lịch sử. Các vị Khuyển nho người Hy Lạp và La Mã thời cổ xem hạnh phúc chỉ cần phải có đức hạnh, bỏ bê mọi thứ không giúp hoàn thiện phẩm hạnh, kể cả xã hội, vệ sinh, gia đình, tiền bạc, v.v., sống như chó, cho nên bị chửi là "Khuyển nho", bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp κύων (“con chó”). Họ cố gắng thoát khỏi tục lệ, trở nên tự túc, và chỉ sống hợp bản tính. Họ không chịu nhận bất cứ định nghĩa hạnh phúc nào dựa trên tiền bạc, quyền lực, và danh vọng. Phái khuyển nho coi thường các giá trị xã hội và chỉ trích các thói quen xấu như tính tham lam là gây ra đau khổ. Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, khía cạnh này của triết lí bị nhấn mạnh, làm bẩn chủ nghĩa khuyển nho thành “thái độ tiêu cực khinh bỉ, nhất là ngờ vực lòng ngay thẳng hay động cơ của người khác,” hoàn toàn trái ngược với cách hiểu xưa, vốn nhấn mạnh “đức hạnh và tự do luân lý làm phương tiện thoát khỏi lòng ham muốn.” Nền móng. Trước khi Phái khuyển nho hình thành thì nhiều nhà triết học như Phái Pythagoras đã chủ trương sống giản dị. Đầu thế kỷ 6 TCN, Anacharsis là nhà hiền triết người Scythia vừa đề xướng sống bình dị, vừa chỉ trích phong tục Hy Lạp, được Phái khuyển nho mượn dùng. Giới triết học Hy Lạp nghe chuyện truyền lại từ Ấn Độ về các triết gia khổ hạnh nghiêm ngặt, thậm chí không chịu mặc quần áo. Thế kỷ 5 TCN, các giáo sư triết học Hy Lạp bắt đầu nghi vấn nhiều khía cạnh của xã hội như tôn giáo, luật pháp, và đạo đức. Tuy nhiên, người ảnh hưởng triết lý của Phái khuyển nho nhất là Sokratis. Mặc dù không khổ hạnh, ông có tuyên bố yêu đức hạnh, không màng của cải, và chẳng nghĩ tới công luận. Antisthenes là học trò của Sokratis lấy các tư tưởng này làm nguồn cảm hứng chính. Biểu tượng. Thời cổ, đặc trưng của Phái khuyển nho là trang phục, cụ thể là chiếc áo choàng cũ và cây gậy quyền. Cái áo trỏ Sokratis, cây gậy trỏ gậy tày của Herakles. Trang phục này bất li chủ nghĩa khuyển nho đến nỗi nhiều người bị các nhà văn cổ đại quở trách vì bắt chước cách ăn mặc để ra vẻ khuyển nho. Bấy giờ, đã hơi kiêng kị việc làm mang theo cây gậy. Nguyên là trước đó, người dân thường mang gươm trong thành phố, rồi xã hội tiến bộ, đổi sang mang giáo, rồi sang mang gậy, cuối cùng việc đeo vũ khí trong thành phố trở thành hủ tục. Các nhà nghiên cứu hiện nay phỏng đoán, gậy quyền vừa tỏ ra lối sống nhàn nhã của người dùng, vừa biểu hiện các tính cách năng động và thượng võ, thay vì tượng trưng một người đàn ông yếu đuối, bởi thường dùng trong cuộc săn bắn và quần áo chơi thể thao. Người Khuyển nho mang gậy để phô bày sự tự do và cho thấy sức mạnh là đức tính dồi dào của Phái khuyển nho. Antisthenis. Tục xem Antisthenis (khoảng 445–365 TCN) là người lập ra chủ nghĩa khuyển nho. Ông sống cùng lúc với Platon và theo học Sokratis. Mặc dù trẻ hơn Sokratis 25 tuổi, Antisthenes là một trong những môn đồ quan trọng nhất của ông. Không có tác giả cổ điển nào phủ nhận ông lập ra trước tiên chủ nghĩa khuyển nho, song có người cho rằng ông nghiên cứu nhiều chủ đề bên ngoài chỉ chủ nghĩa khuyển nho. Ví dụ: người viết tiểu sử Diogenes Laertios chép Antisthenis trứ tác trong phạm vi ngôn ngữ học, đối thoại, và văn học nhiều hơn hẳn trong phạm vi đạo đức hay chính trị học. Tuy nhiên, đây có thể phản ánh hứng thú triết học của ông thay đổi theo năm tháng. Antisthenis có rao giảng chủ trương sống nghèo khó: Diogenes. Nói tới chủ nghĩa khuyển nho là nói tới Diogenes (khoảng 412–323 TCN). Ở quê nhà Sinope, cha ông quản lí xưởng đúc tiền. Ông cùng cha bỏ trốn đến Athens sau khi bị bắt làm giả tiền. Tục cho rằng Diogenes theo học Antisthenis, nhưng không hề có bằng cớ chắc chắn là hai người gặp nhau. Có gặp hay không gặp, Diogenes nghe theo lời dạy của Antisthenis và bắt đầu khổ hạnh, cố gắng sống tự túc, khắc khổ, và trơ tráo. Ví dụ: ông ngủ trong chậu, ăn thịt sống, và ví quan hệ giữa con người, tình dục với đầy tớ, chủ. Mặc dù không thể phân biệt thực hư của các giai thoại về ông, có thể thấy Diogenes sống đúng đạo ông rao giảng. Kratis. Kratis (khoảng năm 365 - khoảng năm 285 TCN) là nhân vật quan trọng thứ ba của Phái khuyển nho. Ông nổi tiếng vì từ bỏ món của cải lớn để sống nghèo khổ ở Athens. Có người nói ông theo học Diogenes, nhưng cũng khó chứng thực được. Kratis cưới nhà triết học Hipparchia và họ cùng nhau sống ăn xin trên đường phố Athens. Lối sống của Kratis được nhiều người tôn trọng. Ngoài ra, ông dạy học Zeno là người lập ra chủ nghĩa khắc kỷ. Ảnh hưởng khuyển nho trong chủ nghĩa khắc kỷ sơ khai có thể truy ngược đến Kratis. Những vị Khuyển nho khác. Có nhiều người Khuyển nho khác vào thế kỷ 4 và 3 TCN, bao gồm Onisikritos, Monimos, Vion, Telis, và Menippos. Thế kỷ 3 TCN, chủ nghĩa khắc kỷ nổi lên, chiếm chỗ của chủ nghĩa khuyển nho. Phải đến thời La Mã thì chủ nghĩa khuyển nho mới thịnh trở lại. Chủ nghĩa khuyển nho ở Đế quốc La Mã. Từ thế kỷ 2 đến 1 TCN, có rất ít ghi chép về hoạt động của Phái khuyển nho; khoảng năm 50 TCN, nhà chính trị La Mã Cicero nói “phải tránh chủ nghĩa khuyển nho, vì nó chống lại tính khiêm tốn, một người mà chẳng khiêm tốn thì không thể có quyền lực hay danh dự.” Tuy nhiên, chủ nghĩa khuyển nho toàn thịnh trở lại vào thế kỷ 1 CN. Các nhà nghiên cứu nhận xét, chứng kiến chế độ cộng hoà sụp đổ, đế chế trỗi dậy có thể đã khiến cho nhiều người cảm thấy bất lực và nản lòng, tạo ra dịp cho triết lý nhấn mạnh sự tự túc và tìm hạnh phúc trong lòng được phổ biến lại. Trên khắp đế quốc, những người Khuyển nho đứng ở góc phố rao giảng về đức hạnh. Lucian phàn nàn rằng “thành phố nào cũng tràn ngập những kẻ Khuyển nho, nhất là những thằng nhận Diogenes, Antisthenis, và Kratis làm thánh bảo hộ và tham gia Đội quân chó.” Nhà hùng biện Aelius Aristides nhận xét “họ hay đi lại trước cửa, nói chuyện với người giữ cửa hơn là với chủ nhà, lấy sự trơ trẽn bù đắp cho địa vị thấp kém của họ.” Thế kỷ 1 CN, Demetrius là nhân vật khuyển nho nổi tiếng nhất, Seneca khen ngợi là “người thông thái tột bậc, mặc dù ông luôn miệng chối bỏ, giữ chắc các nguyên tắc ông nhận theo, và có tài hùng biện để đối phó các vấn đề to lớn nhất.” Chủ nghĩa khuyển nho vừa là mục tiêu châm biếm, vừa là tư tưởng cao cả. Ví dụ: thế kỷ 2 CN, Lucian một mặt miệt thị nhà triết học khuyển nho Peregrinus Proteus, một mặt khen ngợi người thầy khuyển nho của chính minh Demonax. Tục thừa nhận chủ nghĩa khuyển nho là hình thức hoàn hảo của chủ nghĩa khắc kỷ. Trong bài diễn văn dài, Epictetus khen ngợi người Khuyển nho hoàn hảo, cho rằng hắn “phải biết là được Zeus sai đi sứ trên đời để phân biệt tốt xấu, để chỉ cho người đời thấy rõ họ đã lạc lối.” Tuy nhiên, nhiều người Khuyển nho bấy giờ kém xa lý tưởng: “những người Khuyển nho hiện nay chỉ là những con chó đợi ăn, chỉ giống những vị Khuyển nho ngày xưa ở điểm giỏi đánh rắm.” Chủ nghĩa khắc kỷ suy tàn sau thế kỷ 2 CN, nhưng chủ nghĩa khuyển nho dường như vẫn còn cho đến thế kỷ 4. Giống như Epiktetos, Hoàng đế La Mã Julian (trị vì 361–363) vừa ca ngợi lý tưởng khuyển nho, vừa chỉ trích những người Khuyển nho trên đời. Sử sách thời xưa chép vị Khuyển nho cuối cùng là Sallustius, sống vào cuối thế kỷ 5, theo học nhà triết học Isidoros. Ảnh hưởng với Kitô giáo. Giê-su là vị Khuyển nho Do Thái? Một số nhà sử học cho rằng những lời dạy của Giê-su và những người Khuyển nho có điểm giống nhau. Một số nhà nghiên cứu chủ trương hai sách Phúc âm Ma-thi-ơ và Lu-ca khá giống với học thuyết của Phái khuyển nho. Những nhà nghiên cứu thân phận lịch sử của Giê-su như Burton L. Mack và John Dominic Crossan cho rằng Galilee vào thế kỷ 1 CN là giao điểm của văn hoá Hy Lạp và tư tưởng, truyền thống của người Do Thái; thành phố Gadara bấy giờ có tiếng là trung tâm triết học khuyển nho, chỉ cách Nazareth một ngày đi bộ là quê quán của Giê-su. Mack tả Giê-su là “nhân vật kiểu khuyển nho khá bình thường.” Crossan nhận xét, Giê-su giống như nhà hiền triết khuyển nho chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo hơn là Chúa cứu thế chết thay loài người hay vị cứu tinh muốn dựng nước độc lập để cứu người Do Thái. Những nhà nghiên cứu khác phản đối, đặt nặng ảnh hưởng của truyền thống tiên tri trong Do Thái giáo hơn. Ảnh hưởng với Kitô giáo lúc đầu. Thời kỳ đầu, các Kitô hữu có thể đã khổ hạnh giống như người Khuyển nho và thường mượn dùng các thủ pháp tu từ của Phái khuyển nho. Một số vị Khuyển nho tử đạo vì lên tiếng chống lại chính quyền. Vị Khuyển nho Peregrinus Proteus từng theo Kitô giáo, Maximus of Alexandria là Kitô hữu, cũng được gọi là người Khuyển nho vì lối sống khổ hạnh. Các tác giả Kitô giáo thường ca ngợi lối sống nghèo khó của người Khuyển nho. Tuy nhiên, họ khinh miệt sự trơ tráo của hắn. Ví dụ: Augustinô nói rằng người Khuyển nho “lấy làm kiêu hãnh ý kiến ​​ô uế và trơ tráo của họ, trái bản năng khiêm tốn của loài người, quả thực đáng là chó”. Các dòng tu khổ hạnh của Kitô giáo cũng có thể truy ngược đến thẳng Phái khuyển nho, các thầy tu sĩ hành khất có bề ngoài và nhiều cách thực hành chẳng khác gì với người Khuyển nho. Nhà nghiên cứu Leif E. Vaage so sánh Phúc âm Ma-thi-ơ và Lu-ca với các văn bản khuyển nho như thư từ, trỏ ra các điểm chung về đạo đức và khổ hạnh. Thế kỷ 2, vị Khuyển nho Crescens công kích người biện hộ Kitô giáo Justin Martyr, chỉ trích các Kitô hữu là “những người vô thần nhất” vì không chịu theo các vị thần ngoại giao, xây đền thờ, tượng, và cúng tế. Kitô hữu tiếp tục bị chỉ trích như vậy đến thế kỷ 4.
1
null
Quái vật trên gác xếp (tựa tiếng Anh: "Aliens In The Attic") là bộ phim điện ảnh thiếu nhi được yêu thích nhất phát hành năm 2009, đây là bộ phim viễn tưởng kể về người ngoài hành tinh xâm chiếm Trái Đất bằng con đường tiếp xúc với con người, tuy nhiên một người ngoài hành tinh mang tên Sparks muốn làm quen và tỏ ra thân thiện với con người nên đã kể ra hết âm mưu về những người đi theo cô. Những người bạn của cô là loài người đã cùng sát cánh theo cô để ngăn chặn kế hoạch xâm lược Trái Đất, do chính đồng nghiệp của cô gây ra. Mọi chuyện dở khóc dở cười xảy ra từ đây.
1
null
Dẻ gai châu Âu (danh pháp khoa học: "Fagus sylvatica") là một loài thực vật thuộc họ Fagaceae. Nó là loài cây lớn, có thể cao đến 49 m (160 ft) và đường kính cây lên đến 3 m (10 ft), dù thông thường nó cao 25–35 m (80–115 ft) và đường kính cây 1,5 m (5 ft). Một cây 10 năm tuổi có thể cao khoảng 4 m (13 ft). Nó có tuổi thọ điển hình khoảng 150-200 năm tuổi dù có cây thọ đến 300 năm tuổi. Bề ngoài cây khác nhau tùy theo môi trường sinh sống. Tên gọi. Ở các vùng nói tiếng Đức, dẻ gai châu Âu được gọi tắt là dẻ gai (Buche), bởi vì nó là loại dẻ gai địa phương duy nhất ở Trung Âu. Tên chính thức của nó là dẻ gai đỏ (Rotbuche). Chữ đỏ để chỉ màu gỗ hơi hơi đỏ. Phổ biến. Trung Âu là vùng phát triển tự nhiên của dẻ gai châu Âu. Nó rất thích hợp với khí hậu địa trung hải. Ở Đức dẻ gai châu Âu chiếm 15 % tổng số cây lá rộng trong các cánh rừng, ở Thụy Sĩ 19 %, ở Áo 10 %.
1
null
Phong bạc (danh pháp khoa học: "Acer saccharinum") là một loài thực vật thuộc họ Phong. Loài này có nguồn gốc từ miền đông và trung Bắc Mỹ (miền đông Hoa Kỳ và Canada). Đây là một trong những cây trồng phổ biến nhất ở Hoa Kỳ. Phong bạc là một cây rụng lá phát triển tương đối nhanh, thường đạt đến chiều cao 15–25 m (50–80 ft), đặc biệt 35 m (115 ft). Tán của nó nói chung rộng được 11–15 m (35–50 ft). Một cây non 10 tuổi có chiều cao khoảng 8 m (25 ft). Nó thường được tìm thấy dọc theo đường sông và vùng đất ngập nước. Nó là một cây có khả năng thích ứng cao, mặc dù nó có yêu cầu ánh sáng mặt trời cao hơn so với các loài phong khác.
1
null
Phong Nhật Bản (danh pháp khoa học: "Acer palmatum") , hay "momiji", ) là một loài thực vật thuộc chi Phong, họ Phong. Loài này có trên 1.000 giống và nhiều giống đã được trồng khắp thế giới do hình dạng và màu của lá. Đây là giống 'Sango kaku', còn gọi là "phong vỏ san hô". Đây là loài bản địa Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Trung Hoa, đông Mông Cổ và đông nam Nga. Cây cao từ 6 đến 10 m, hiếm khi đạt , thường là cây tầng dưới trong rừng cây gỗ bóng râm. Giới thiệu. Phong lá đỏ hay Phong (tiếng Anh là maple, tiếng Nhật là momiji) là loài lá bản mỏng, có lá chuyển mầu trước khi rụng vào mùa thu. Ở các nước có mùa thu lạnh như Nhật, Hàn... tầm cuối tháng 10 lá đã đổi mầu, đặc biệt là vùng núi cao có nhiệt độ thấp hơn. Phong lá đỏ được gọi chung như vậy nhưng thực tế mầu lá rất phong phú tùy chủng loại phong và thời tiết. Chỉ riêng Nhật Bản đã có hơn 1000 loài phong, hình dáng va mầu lá cũng khá khác nhau ít nhiều ví dụ: mầu đỏ tươi, đỏ sẫm, vàng, cam, tím, hồng... tùy vào chủng loài của cây phong. Không chỉ Nhật, Hàn, Trung có nhiều phong do khí hậu ôn đới, các nước như Âu Mỹ cũng có nhiều chủng loại riêng. Đặc trưng lá Phong. Khi nói tới Phong lá đỏ, nhiều người có sự hình dung cả cây hay một rừng cây rực màu đỏ nhưng ít người để ý rằng lá non cũng có màu đặc trưng, sự khác biệt của các chủng Phong dễ nhận ra nhất vào lúc này. Màu lá non thường giữ trong khoảng 2 - 4 tuần tùy điều kiện ánh sáng và nhiệt độ. Hơn nữa, không chỉ màu lá mà kích thước và hình thùy lá cũng có sự khác biệt tùy thời điểm trong năm. Những người yêu thích lá phong còn có thú vui ép lá làm lưu niệm. Màu lá non đẹp nhất nên là khoảng 2 tiếng tắm nắng/ngày, lá mùa thu đẹp nhất khi nhiệt độ đêm khoảng 7-10 độ. Mùa hè do nắng nóng, việc cháy lá là khá bình thường ngay cả tại các nước ôn đới. Tính đột biến cao của Phong lá đỏ. Phong lá đỏ cũng như một số loài khác (như cây Linh Sam của Việt Nam) có tính đột biến cao về chủng loại. Điều này giải thích khả năng lai và tạo ra nhiều chủng loại đến vậy. Từ loài phong thuần chủng theo thời gian đã có vô số loại phong. Và khi lấy hạt của chủng con đem gieo thì tỉ lệ nảy thành cây chung này không phải 100%, mà rất nhiều cây quay lại thành phong thuần chủng. Các chủng loại phong thường gặp - Phong Núi (yama) - Phong vỏ san hô (sangokaku) - Phong thác đổ (shidare) - Phong ba thùy (trident) - Phong Quế (katsura)... Hoa và hạt Phong lá đỏ. Hoa phong thường thấy vào tháng 5 - tháng 7, có hình dáng khá đặc biệt trông như cánh bướm. Hạt cây phong được bảo vệ trong hạch và có khả năng bay xa khỏi cây nhờ cánh to và dài. Tuy nhiên việc trồng được một cây phong từ hạt không phải là dễ dàng vì phải qua nhiều xử lý (ví dụ để trong tủ lạnh 3 tháng...) trước khi đem trồng. Việc gieo hạt Phong là điều thách thức với ngay cả nhà vườn tại Nhật. Bên cạnh đó, những hạt (mới) rụng tự nhiên lại có tỉ lệ lên mầm cao ngay tại gốc cây sau khi trải qua mùa lạnh kéo dài (thường từ tháng 11 - tháng 3 năm sau). Cách trồng và chăm sóc Phong lá đỏ. Cây có khả năng thích nghi tốt trong phạm vi rộng về ánh sáng và loại đất. Tuy nhiên, có vài yếu tố cơ bản nhất nếu trồng phong trong điều kiện khí hậu nóng như Việt Nam là đất trồng phải thoáng (tưới xong trôi hết nước, ẩm đất nhưng không ướt quá), điều lượng nắng (mùa hè nên tránh nắng gắt đến khi cây thuần), và cây Phong rất thích gió nên cần để chỗ thoáng gió. Tại Việt Nam, 3 yếu tố dưới đây là trở ngại lớn: 1. Những cơn mưa dài ngày (đất úng nước trong thời gian dài), sau đó nóng ẩm làm nấm dễ phát triển 2. Khô hanh dài trong mùa đông ở miền Bắc nhưng lại chưa đủ lạnh để cây ngủ. 3. Nắng quá gắt dễ làm cháy lá, hệ rễ cũng khó phát triển mạnh vào những ngày quá nóng Phòng và trị bệnh. Cây phong trưởng thành thì hầu như bạn không phải lo về côn trùng hoặc bệnh. Theo kinh nghiệm làm vườn, thì việc lưu thông không khí, đủ nắng, và dùng đất thoát nước tốt sẽ giúp ngăn ngừa bệnh nấm. Thuốc trừ sâu gốc đồng hoặc các loại thuốc diệt nấm có thể giúp ích trong trường hợp bị bệnh nhưng thường cây đã thuần tại Việt Nam vài năm thì không cần dùng nữa. Thuốc phải được phun sớm vào buổi sáng để bảo ngăn ngừa độc tố, nên phun sau khi mưa. Khi cành/lá bị bệnh cần cắt cành và phiến lá đã hoặc đang chết và vứt xa ra chỗ khác. Cũng không nên phủ đất kín hết rễ cây phong vì nó sẽ là chỗ ẩn  trú cho côn trùng và các loài gặm nhấm làm hại cây. Cần chú ý tăng cường thêm nước so với bình thường vào hè, chú ý trước những thay đổi đột ngột về nhiệt độ. Tưới nước vào buổi sáng là tốt nhất vì cây cần một khoảng trễ để hút nước lên lá, tưới buổi tối thì lá ẩm dễ phát sinh nấm. Phần lớn các giống phong lá xanh hơn sẽ chịu nắng tốt hơn và có hệ rễ khỏe hơn nên hay đường dùng làm cây vườn hoặc bonsai. Chu kỳ chăm sóc trong năm (tính theo lịch Nhật Bản). Mùa Đông (tháng 12 - tháng 2). Vào thời kỳ lạnh giá, cần chú ý việc tưới nước. Nên giữ cho đất khô cả ngày (người dịch bổ sung: nếu bạn thấy bề mặt khô thì chỉ tưới lướt một chút nước là đủ, còn bề mặt ướt thì lớp đất bên dưới vẫn còn nhiều nước. Thời điểm này cây ngủ đông nên đăc biệt hạn chế cung cấp nước cho cây. Nhiều bạn quan tâm và tưới nhiều quá sẽ phản tác dụng). Việc tưới nước vào cuối ngày cũng có thể làm bầu đất trong chậu chặt lại và gây khó khăn cho việc lên rễ. Mùa Xuân (tháng 3 - tháng 5). Thời kỳ này độ lạnh đã giảm và cây đã dần phát triển, nên chú ý độ khô của đất vào thời điểm này. Việc thay chậu (trồng lại) tốt nhất là vào tháng 3. Nếu thay chậu từ trung tuần tháng 4 (lịch Nhật còn có cách tính là thượng tuần, trung tuần và hạ tuần; mỗi tuần đó tính 10 ngày) đến cuối hạ tuần tháng 5 sẽ được coi là muộn và nên tránh vì ảnh hưởng tới việc sinh trưởng. Đây cũng là thời điểm cây cần được bón phân. Trường hợp trồng cây bonsai (trong chậu) và không muốn cây phát triển mạnh thì không bón phân cho tới tháng 5. Ngược lại, nếu muốn cây phát triển mạnh thì có thể bón từ cuối tháng 2 bằng phân hữu cơ (người dịch bổ sung: nhiệt độ tại Tokyo trung bình lạnh hơn Hà Nội 8 độ, nên cái lạnh sẽ đến sớm và kéo dài lâu hơn. Tại Hà Nội, tầm Tết (giữa tháng 2) cây đã dần sinh trưởng thay vì đầu tháng 3 như bên Nhật) Mùa hè (tháng 6 - tháng 8). Đây là mùa mưa và cũng là thời kỳ nắng chiếu gắt, vì vậy lúc này là thời điểm cần chăm sóc kỹ lưỡng. Vào mùa mưa, nắng sẽ giảm hơn nhưng có khả năng bị bệnh nấm mốc. Nếu trồng cây trên chậu thì cần chú ý thông gió, và phu thuốc diệt nấm nếu cần (các loại thuốc này khá phổ biến ở bất kỳ cửa hàng vật tư nông nghiệp hoặc phố bán cây cảnh). Cây trên chậu sẽ chăm khó khăn hơn cây trồng dưới đất. Từ thời kỳ này gốc đã hoạt động nhiều nên hãy ngừng bón phân. Mùa Thu (tháng 9 - tháng 11). Lúc này nắng đã dịu và là thời điểm đón chờ và chiêm ngưỡng lá đỏ. Vây nên cần hạn chế trồng lại cây (thay chậu) vào thời điểm này. Với thời tiết Việt Nam thì tùy vùng miền mà vẫn có thể can thiệp. Miền Bắc không nên can thiệp mạnh từ tháng 10 - tháng 12.
1
null
Phong đường (danh pháp khoa học: Acer saccharum) là một loài thực vật thuộc chi Phong, họ Phong. Loài này được Marshall mô tả khoa học đầu tiên năm 1785. Phong đường có nguồn gốc từ các khu rừng gỗ cứng ở đông bắc Bắc Mỹ, từ phía tây Nova Scotia miền nam Ontario, và phía nam bang Georgia và Texas. Phong đường được biết đến với tán lá mùa thu tươi sáng và là nguồn chính của loại siro phong. Phong đường là một loại cây rụng lá, bình thường đạt mức cao , và đặc biệt lên đến .. Một cây 10 tuổi cao khoảng 5 m Phong đường được cạo để lấy nhựa, sau đó đem đun nóng nhựa này để sản xuất siro phong hay sản xuất đường phong hoặc kẹo phong. Siro phong cũng có thể sản xuất từ các loài có họ hàng gần với phong đường, nhưng sản lượng khá ít.
1
null
Phong Na Uy (danh pháp hai phần: "Acer platanoides") là một loài thực vật thuộc chi Phong, họ Phong. Đây là loài phong bản địa Đông và Trung Âu và tây nam châu Á, từ Pháp về phía đông Nga, phía bắc tới miền nam Scandinavia và đông nam tới miền bắc Iran. Nó là một cây rụng lá và có chiều cao 20–30 m với đường kính thân cây đến 1,5 m, và chỏm cây tròn, rộng. Vỏ cây màu xám nâu và có rãnh nông, không giống như các loài phong khác, cây trưởng thành không có xu hướng có vỏ cây xù xì. Các chồi xanh lúc đầu, sớm trở thành màu nâu nhạt, các chồi mùa đông có màu nâu đỏ sáng. Nó không phải là loài sông thọ, với độ tuổi tối đa khoảng 250 năm.
1
null
Phong đỏ (danh pháp khoa học: Acer rubrum) là một loài thực vật thuộc chi Phong, họ Bồ hòn. Đây là một trong những cây rụng lá phổ biến nhất và rộng rãi của miền đông Bắc Mỹ. Nó có phạm vi dao động từ hồ Woods trên biên giới giữa Ontario và Minnesota, phía đông Newfoundland, phía nam gần Miami, Florida, và tây nam sang đông Texas. Cây trưởng thành thường đạt độ cao khoảng 15 m (49 ft). Tên gọi của nó xuất phát từ thực tế hoa, cuống lá, cành con và hạt của nó đều có màu đỏ ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong số các đặc trưng này thì nó được biết đến nhiều nhất là do tán lá chuyển thành màu đỏ của nó khi tới mùa thu. Nó cũng là cây biểu tượng của bang Rhode Island và quốc gia Canada. Sự đổi màu của lá phong hoa đỏ ("A. rubrum") rất đẹp mắt về mùa thu là yếu tố đóng góp chính vào phong cảnh mùa thu ở miền đông nam Canada và tại New England. Du lịch mùa thu để xem lá đổi màu là nguồn lợi chính trong kinh tế của khu vực này, đặc biệt là tại Vermont, New Hampshire và Western Massachusetts.
1
null
Kền kền râu (tên khoa học Gypaetus barbatus) là một loài chim săn mồi duy nhất trong chi "Gypaetus", họ Accipitridae. Theo truyền thống được coi một loài kền kền Cựu thế giới, nhưng nó thực sự tạo thành một dòng nhỏ của Accipitridae cùng với kền kền Ai Cập ("Neophron percnopterus"), là loài còn sống tương đối gần gũi nhất với nó. Mặc dù không giống nhau, kền kền Ai Cập và kền kền râu đều có đuôi hình thoi, là bất thường giữa các loài chim săn mồi. Kền kền râu có kích thước rất lớn, với chiều dài trên 1,2 m và sải cánh lên đến gần 3 m. Khối lượng từ 4,5 - 8,0 kg. Nó ăn chủ yếu xác chết và thi thoảng là cả con mồi sống, sinh sản trên những vách núi cao ở phía nam Châu Âu, Kavkaz Bắc Phi, phía nam châu Phi, tiểu lục địa Ấn Độ và Tây Tạng. Chúng đẻ một đến hai quả trứng vào giữa mùa thu và nở vào mùa xuân. Chúng là loài định cư. Phân bố và môi trường sống. Kền kền râu phân bố thưa thớt trên một phạm vi rộng lớn, đáng kể. Chúng hiện diện ở các vùng núi ở Pyrenees, Alps, bán đảo Ả Rập, vùng Caucasus, dãy núi Zagros, Alborz, Koh-i-Baba ở Bamyan, Afghanistan, dãy núi Altai, Himalaya, Ladakh ở miền bắc Ấn Độ, miền tây và miền trung Trung Quốc . Ở châu Phi, nó được tìm thấy ở Dãy núi Atlas, Cao nguyên Ethiopia và phía nam từ Sudan đến đông bắc Cộng hòa Dân chủ Congo, miền trung Kenya và miền bắc Tanzania. Một nhóm dân cư biệt lập sinh sống tại Drakensberg của Nam Phi. Hành vi. Chế độ ăn. Giống như những kền kền khác, nó là một loài ăn xác thối, chủ yếu ăn ăn phần còn lại của xác chết động vật. Chế độ ăn của kền kền râu bao gồm động vật có vú (93%), chim (6%) và bò sát (1%), với động vật móng guốc cỡ trung bình chiếm một phần lớn trong chế độ ăn. Kền kền râu tránh ăn xác chết của các loài lớn hơn (như bò và ngựa) có lẽ vì mất công xử lý nhiều nhưng lợi ích thu lại khi xử lý vận chuyển đi và tiêu hóa lớn hơn. Chúng thường coi thường thịt xác chết và chế độ ăn thường là 85–90% tủy xương. Đây là loài chim sống duy nhất chuyên ăn tủy. Kền kền râu có thể nuốt toàn bộ hoặc mổ qua xương giòn có kích thước bằng xương đùi cừu và hệ tiêu hóa mạnh mẽ của chúng nhanh chóng tiêu tan ngay cả những mảnh lớn. Kền kền râu đã học cách bẻ gãy xương quá lớn để có thể nuốt chửng bằng cách mang chúng bay lên độ cao trên mặt đất và sau đó thả chúng xuống những tảng đá bên dưới, đập chúng thành những mảnh nhỏ hơn và để lộ ra phần tủy bổ dưỡng. Chúng có thể bay lên với cục xương có đường kính lên đến và nặng đến , hay gần bằng trọng lượng cơ thể chúng. Sau khi thả những chiếc xương lớn, kền kền râu bay lượn hoặc bay lướt xuống để kiểm tra chúng và có thể lặp lại hành động này nếu xương chưa đủ nứt. Kỹ năng học được này đòi hỏi những chú chim chưa trưởng thành phải luyện tập nhiều và mất tới bảy năm để thành thạo. Ít thường xuyên hơn, những con chim này đã được quan sát cố gắng làm gãy xương (thường có kích thước trung bình) bằng cách ngậm xương ở mỏ và đập vào đá. Trong mùa sinh sản, chúng chủ yếu ăn xác thịt. Chúng thích các chi của cừu và các loài động vật có vú nhỏ khác và chúng mang thức ăn về tổ, không giống như các loài kền kền khác cho chim non ăn bằng cách mớm thức ăn nôn ra từ cổ họng. Con mồi còn sống đôi khi bị kền kền râu tấn công, với mức độ thường xuyên hơn bất kỳ loài kền kền nào khác. Trong số này, rùa dường như được chúng ưa thích đặc biệt tùy thuộc vào sự phong phú của loài rùa này tại địa phương. Rùa bị chúng săn bắt có thể nặng gần bằng kền kền săn mồi. Để giết rùa cạn, kền kền râu bay theo chúng đến một độ cao nào đó và thả chúng xuống để làm nứt lớp vỏ cứng của loài bò sát cồng kềnh. Đại bàng vàng đã được ghi nhận có cách giết rùa theo cách tương tự. Các động vật sống khác, có kích thước gần bằng kích thước của chúng, đã được quan sát thấy bị bắt giữ và thả xuống trong chuyến bay. Trong số này có procavia capensis, thỏ đồng, macmot và trong một trường hợp là một con kỳ đà dài . Các loài động vật lớn hơn đã từng bị kền kền râu tấn công, bao gồm sơn dương, dê "capra", sơn dương Chamois và linh dương Steenbok. Những con vật này đã bị giết bởi cú tân công bất ngờ của kền kền râu và kền kền râu vỗ cánh cho đến khi nạn nhân rơi khỏi những gờ đá dựng đứng và chết; mặc dù trong một số trường hợp, đây có thể là những vụ giết chết tình cờ khi cả kền kền và động vật có vú gây bất ngờ cho nhau. Nhiều động vật lớn bị kền kền râu giết chết còn non không vững, có biểu hiện ốm yếu hoặc rõ ràng là bị thương. Theo giai thoại, con người đã bị giết theo cách tương tự. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa được xác nhận và nếu nó xảy ra, hầu hết các nhà sinh vật học đã nghiên cứu về loài chim này thường đồng ý rằng đó là tình cờ đối với loài kền kền râu. Đôi khi là những loài chim sống trên mặt đất nhỏ hơn, chẳng hạn như gà gô và Họ Bồ câu, đã được ghi nhận bì kền kền râu săn bắt, có thể là xác thịt tươi (thường bị kền kền râu bỏ qua) hoặc bị kền kền giết bằng đôi cánh. Trong khi kiếm ăn xương hoặc con mồi sống khi đang bay, kền kền râu bay khá thấp trên mặt đất đá, bay quanh cao . Thỉnh thoảng, Các cặp đôi sinh sản có thể kiếm ăn và săn mồi cùng nhau. Ở cao nguyên Ethiopia, kền kền râu đã thích nghi với việc sống phần lớn dựa vào rác thải của con người. Sinh sản. Kền kền râu chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn quanh năm. Nó có thể kiếm ăn hơn 2 km2 (0,77 dặm vuông Anh) mỗi ngày. Thời kỳ sinh sản có thể thay đổi, từ tháng 12 đến tháng 9 ở Eurasia, tháng 11 đến tháng 6 ở tiểu lục địa Ấn Độ, tháng 10 đến tháng 5 ở Ethiopia, quanh năm ở miền đông châu Phi và tháng 5 đến tháng 1 ở miền nam châu Phi. Mặc dù nói chung là sinh sống đơn độc, mối quan hệ giữa một cặp sinh sản thường rất chặt chẽ. Sự chăm sóc chung thủy một vợ một chồng xảy ra ở kền kền râu. Trong một số trường hợp, tình trạng đa phu đã được ghi nhận trong loài. Màn tranh giành lãnh thổ và sinh sản giữa kền kền râu thường rất ngoạn mục, liên quan đến việc phô diễn móng vuốt, nhào lộn và xoắn ốc khi bay một mình. Những con chim lớn cũng thường xuyên khóa chân nhau và bay một khoảng cách trên bầu trời với nhau. Ở châu Âu, các cặp kền kền râu sinh sản được ước tính là 120 con. Tỷ lệ sinh sản trung bình của kền kền râu là 0,43 ± 0,28 con non/cặp sinh sản / năm và mức độ thành công sinh sản trung bình 0.56±0.30 chim non đủ lông đủ cánh/cặp sinh sản/năm. Tổ là một đống lớn các que cây, bề ngang 1 m và chiều sâu 69 cm khi tổ được xây lần đầu lên đền bề ngang 2,5 m và chiều sâu 1 m, với một lớp phủ của các chất động vật khác nhau từ thực phẩm, sau khi sử dụng nhiều lần. Con cái thường đẻ một lứa từ 1 đến 2 quả trứng, mặc dù 3 quả đã được ghi nhận trong những trường hợp hiếm hoi, được ấp trong 53 đến 60 ngày. Sau khi nở, con non dành từ 100 đến 130 ngày trong tổ trước khi ra ràng. Con non có thể phụ thuộc vào bố mẹ đến 2 năm, buộc bố mẹ phải làm tổ trong những năm thay thế một cách thường xuyên. Thông thường, kền kền râu làm tổ trong các hang hốc và trên các gờ và mỏm đá hoặc hang động trên các bức tường đá dốc, vì vậy rất khó khăn cho các động vật có vú ăn thịt tiếp cận tổ của chúng. Kền kền râu hoang dã có tuổi thọ trung bình là 21,4 năm tuổi, nhưng đã được quan sát là sống ít nhất 45 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
1
null
Adam Whitney Savage (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1967) là một chuyên gia thiết kế tạo mẫu công nghiệp và hiệu ứng đặc biệt người Mỹ cũng như còn là, diễn viên, nhà giáo dục, và đồng dẫn dắt hai chương trình truyền hình nổi tiếng của Discovery Channel là "MythBusters" và "Unchained Reaction". Các thiết kế của ông đã xuất hiện trong các bộ phim lớn như "" và "The Matrix Reloaded". Ông là một thành viên nổi bật của cộng đồng khoa học theo chủ nghĩa hoài nghi. Ông sống ở San Francisco với cặp con trai song sinh của mình và vợ, Julia. Sự nghiệp. Savage đã làm việc trong các lãnh vực hoạt hình, thiết kế đồ họa, thợ mộc, nhà thuyết trình, phát triển điện ảnh, dẫn chương trình truyền hình, thiết kế sân khấu, thiết kế đồ chơi, và chủ phòng trưng bày. Ông thiết kế mẫu cho các phim "Galaxy Quest", "Bicentennial Man", "", "The Matrix Reloaded", và "Space Cowboys"... Savage đóng vai một kỹ sư tháo vát trong bộ phim năm 2001: "Ever Since the World Ended" và vai một chủ sở hữu cửa hàng thặng dư quân đội, người bán cho một người đàn ông một động cơ tên lửa cho chiếc xe tải nhỏ của mình trong phim năm 2006 "The Darwin Awards", Jamie Hyneman cũng xuất hiện trong phim. Ông tham gia vai quần chúng với Jamie Hyneman trong "" ngày 1/5/ 2008, tập "The Theory of Everything." Trong phim tài liệu về hậu trường "The Matrix Revolutions",ông được phỏng vấn với tư cách là chuyên gia hiệu ứng đặc biệt và thảo luận về một số hiệu ứng trong phim cũng như các khó khăn khi thực hiện. Ông từng dạy thiết kế mô hình nâng cao tại The Department of Industrial Design thuộc Academy of Art University tại San Francisco. Savage là người thuyết trình thường xuyên tại các hội nghị thường niên của những người hoài nghi của nhà ảo thuật James Randi, The Amaz!ng Meeting, từ khi xuất hiện lần đầu tháng Giêng 2006. Ông cũng xuất hiện ở Anh, nói chuyện trong The First Amazing Meeting London từ ngày 03-ngày 04 tháng 10 năm 2009, tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Mermaid, Blackfriars. Savage là khách mời đặc biệt tại ba chương trình w00tstock v1.x trong năm 2009, và xuất hiện trong bốn chương trình w00tstock v2.x trong năm 2010. Ông cũng là khách mời trên chương trình Diggnation lần thứ 220 Savage cũng đã là một diễn giả khách mời thường xuyên tại hội chợ Maker Faire hàng năm từ năm 2008, nói về các chủ đề khác nhau như nỗi ám ảnh của mình với con chim dodo và cách giải quyết vấn đề, và cũng trả lời câu hỏi từ các khán giả về Mythbusters và những thứ khác. Savage tham gia dẫn một tập trong loạt phim khám phá của Discovery Channel là "Curiosity". Trong tập phim của mình ông thuyết trình một câu chuyện giả tưởng dựa trên các thành tựu có thật đang được nghiên cứu nhằm giúp con người bất tử. Các nghiên cứu xuất hiện trong phim gồm chi tái sinh, máy in sinh học, và thậm chí cả liệu pháp hồi sinh. Savage và Hyneman là giám khảo cho trò chơi truyền hình "Unchained Reaction" giới thiệu tháng 3/ 2012. "MythBusters". Savage tham gia "MythBusters" ngay từ khi bắt đầu. Nhiệm vụ của ông cũng như các thành viên Mythbuster khác là kiểm tra độ thực tế các giả thiết hay giai thoại từ rất nhiều lĩnh vực và kết luận xem chúng "Busted" (vô lý, bác bỏ), "Confrimed" (Xác nhận) hay "Plausible" (có thể khả thi). Tính cách năng động và hào hứng của Savage được dùng nhằm tạo đối nghịch với người đồng dẫn chương trình dè dặt, điềm tĩnh Jamie Hyneman. Savage và Hyneman là hai MC duy nhất trong mùa đầu của "MythBusters", từ mùa hai, các trợ lý của Hyneman được giới thiệu vào tham gia như: Kari Byron, Tory Belleci và Scottie Chapman. Từ mùa ba, Grant Imahara thay Chapman. Đời tư. Savage cưới Julia năm 2002 và có hai con sinh đôi riêng từ mối quan hệ trước. Ông đeo một bộ máy trợ thính trên tai trái của mình do một tình trạng bẩm sinh. Hiện ông đang tập chơi tung hứng như đã thấy trên "Mythbusters". Ông cũng là một người vô thần. Suốt đời ông có một sở thích là thiết kế trang phục. Ông phấn đấu cho tính xác thực với trang phục của mình. Khi học trung học, ông và cha của ông đã thực hiện một bộ áo giáp bằng nhôm từ tấm ngăn nước mưa trên mái nhà cùng 700 đinh tán. Ông cho biết khi mặc nó tới trường, ông đã xỉu vì bên trong bộ giáp quá nóng. Khi tỉnh dậy trong phòng y tế, ông hỏi ngay " bộ giáp của tôi đâu?" (Where's my armor'?) . Năm 2011, ông làm bộ áo dựa trên nhân vật No-Face (Vô Diện) trong phim "Spirited Away" .Đầu 2012, ông được xác nhận sẽ nói diễn văn khai trường đầu tiên cho Sarah Lawrence College.
1
null
Trận Grand Couronné là một trận đánh trên Mặt trận phía Tây trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 4 cho đến ngày 11 tháng 9 năm 1914 tại khu vực Meuse-Meurthe ở Lorraine. Trong trận chiến này, tập đoàn quân số 2 của Pháp do tướng Noel de Castelnau chỉ huy đã bẻ gãy cuộc phản công từ Lorraine của tập đoàn quân số 6 do thái tử Rupprecht xứ Bayern chỉ huy chỉ huy, gây cho quân đội Đức thiệt hại nặng nề. Chiến thắng Grand Couronné đã góp phần dẫn đến thắng lợi của quân Pháp trong trận sông Marne lần thứ nhất, bảo vệ Paris trong tay người Pháp. Ngoài ra, khả năng chỉ huy của Castelnau trong trận Grand Couronné đã làm dấy lên danh tiếng của ông trên khắp nước Pháp. Đầu cuộc chiến, quân đội Pháp đã tiến công Lorraine – lãnh thổ bị cắt cho Đức sau chiến tranh Pháp-Phổ – nhưng thất bại trong trận Lorraine. Tập đoàn quân số 2 của Pháp do tướng Castelnau chỉ huy và tập đoàn quân số 1 của tướng Auguste Dubail tham gia cuộc tấn công này đã bị buộc phải triệt thoái về Nancy và sông Meurthe. Mấu chốt của chiến tuyến mới của Pháp được đặt tại Grande Couronné, một cái đồi nhìn xuống Nancy về hướng đông. Đây sẽ là sườn trái của chiến tuyến mới của Pháp. Castelnau ban đầu định triệt thoái thêm về phía Tây, vì đau buồn trước thất bại của chiến dịch tấn công Lorraine và cái chết của con ông trong trận Morhange. Ông đã được sự kiên quyết của tướng Ferdinand Foch và một cuộc rút lui tốt đẹp thuyết phục nắm giữ lãnh thổ tại Nancy. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1914, tập đoàn quân số 6 của Đức đã phát động tấn công quân Pháp nhưng thất bại (xem trận khe hở Charmes). Sau đó, Rupprecht bắt đầu hàng loạt cuộc tiến công vào các vị trí của quân Pháp tại Grand Couronné. Tập đoàn quân số 6 của ông đã quyết tâm đánh chiếm Nancy – một phần thưởng xứng đáng để Đức hoàng ("Kaiser") Wilhelm II tiến vào trong một buổi lễ long trọng. Cuộc tấn công lớn nhất đã diễn ra vào ngày 4 tháng 9, theo sau một cuộc pháo kích lớn nhất khi đó và được Đức hoàng – người đã tới đây trong đoàn tàu hoàng gia của ông để giám sát cuộc tiến công của quân đội Đức – theo dõi. Quân Pháp đã bẻ gãy đợt tấn công này. Thắng lợi của quân Pháp trong trận Grand Couronné đã thể hiện hiệu quả của pháo 75mm của Pháp. Mặc dù Nancy và các ngôi làng đã bị lực lượng pháo binh Đức phá hủy và quân Pháp bị đánh thiệt hại nặng, các cuộc tấn công của quân Đức vào Nancy đã nghỉm xuống trong ngày 11 tháng 9. Cuối tháng đó, cả Castelnau đều Rupprecht tiến về phía tây trong cuộc "Chạy đua ra biển", trong khi quân Pháp đã giữ được Nancy trong suốt cuộc chiến tranh.
1
null
Tàu tuần tra lớp Kunigami (tiếng Nhật: くにがみ型巡視船 "kunigami gata junsen") là lớp tàu tuần tra cao tốc cỡ lớn hiện đại của Cảnh sát Biển Nhật Bản. Hiện mới có 2 tàu đầu tiên của lớp này mang các số hiệu PL09 và PL10 được công ty Công nghiệp Nặng Mitsubishi chế tạo xong và bàn giao cho bộ chỉ huy Cảnh sát Biển Nhật Bản vùng 11 (vùng Okinawa và biển Hoa Đông) sử dụng từ tháng 4 năm 2012. Tàu có lượng giãn nước là 1700 tấn, dài 96,6 mét, rộng 11,5 mét, cao 5,2 mét. Nó được trang bị 2 động cơ diesel và 2 trục cho phép đạt tốc độ 23 knot. Vũ trang chủ yếu của tàu là 1 khẩu JM61-RFS 20mm. Đây là một biến thể của M61 Vulcan, được dẫn bắn từ xa. Hệ thống điện tử còn bao gồm các thiết bị trinh sát hồng ngoại, trinh sát xa trên biển và hệ thống truyền dữ liệu dạng hình ảnh. Tàu cũng có 1 súng phun nước cao áp, hệ thống cảnh cáo dừng thuyền, v.v...
1
null
Công tắc (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "contact" /kɔ̃takt/) là tên của một thiết bị (xét trong mạch điện), hoặc một linh kiện (xét trong một thiết bị điện), sử dụng với mục đích để đóng/bật - ngắt/mở/tắt dòng điện hoặc chuyển hướng trạng thái đóng-ngắt trong tổ hợp mạch điện có sử dụng chung một công tắc. Hay rõ hơn, trong mạng điện, một công tắc có thể cùng lúc chuyển trạng thái đóng-ngắt cho 1 hoặc nhiều mạch điện thành phần. Cầu dao, khóa điện, Rơ le... là những dạng công-tắc đặc biệt, được người Việt đặt tên riêng để phân biệt do cách chế tạo, công năng sử dụng. Cấu tạo. Một công tắc được cấu tạo từ 2 điểm của đường dây tải điện và cầu nối giữa chúng (giúp 2 điểm "tiếp xúc" với nhau). Công tắc có thể là công tắc đơn (2 điểm, kết nối 1-1) hoặc đa điểm (kết nối 1-n hoặc n-1 hoặc n-n hoặc n-m, trong đó n, m>1). Phân biệt công tắc điện và công tắc từ. Công tắc điện và công tắc từ khác nhau cơ bản ở cơ chế điều khiển sự đóng-ngắt đường dây dẫn.
1
null
Thì hiện tại hoàn thành (tiếng Anh: "Present perfect tense") là một thì trong tiếng Anh hiện đại. Cấu trúc. How long + S + have/has + V-ed/PP ? Chú ý Cách dùng và các ví dụ. Diễn tả hành động vừa mới xảy ra và hậu quả của nó vẫn còn ảnh hưởng đến hiện tại: Diễn tả hành động mới diễn ra gần đây. Chúng ta thường dùng các từ như 'just', 'already' hay 'yet': Diễn tả hành động xảy ra trong quá khứ nhưng vẫn còn tiếp diễn ở hiện tại. Với cách dùng này, chúng ta thường sử dụng 'since' hoặc 'for' để cho biết sự việc đã kéo dài bao lâu: Diễn tả sự trải nghiệm hay kinh nghiệm. Chúng ta thường dùng 'ever' và 'never' khi nói về kinh nghiệm: Diễn tả hành động xảy ra và lặp lại nhiều lần trong quá khứ: Dấu hiệu nhận biết. Thường đi sau các trạng từ như: Ví dụ: I have been to 7 countries in the world so far. Thường dùng với cấu trúc so sánh hơn nhất Thường đi với cấu trúc
1
null
Pterodactylus ( , từ tiếng Hy Lạp πτεροδάκτυλος, pterodaktulos, có nghĩa là "ngón tay có cánh") là một chi thằn lằn có cánh. "Pterodactylus" hiện chỉ gồm một loài duy nhất, Pterodactylus antiquus, đây là loài đầu tiên được đặt tên và được xác định như một loài bò sát bay. Hóa thạch của chúng được tìm thấy chủ yếu trong đá vôi Solnhofen Bavaria, Đức, vào thời kỳ cuối kỷ Jura (đầu Tithonia), khoảng 150,8-148,5 triệu năm trước, mặc dù vẫn còn những hóa thạch nhỏ đã được xác định từ những nơi khác ở châu Âu và ở Châu Phi. Đây là một động vật ăn thịt và có thể ăn thịt cả cá lẫn động vật nhỏ khác. Giống như tất cả các thằn lằn bay, cánh của "Pterodactylus" được hình thành bởi một màng da và màng tế bào cơ kéo dài từ ngón tay thứ tư kéo dài đến chân sau. Tên gọi của chi này xuất phát từ tiếng Hy Lạp "pteron" (πτερόν, có nghĩa là 'cánh') và "daktylos" (δάκτυλος, có nghĩa là 'ngón tay').
1
null
Phong Montpellier (danh pháp khoa học: "Acer monspessulanum") là một loài thực vật có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải từ Morocco và Bồ Đào Nha ở phía tây, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Liban và Palestine ở phía đông và phía bắc dãy núi Jura ở Pháp và Eifel ở Đức.. Mô tả. Phong Montpellier là loài cây bụi nhiều nhánh rụng l có chiều cao lên đến 10–15 m (ít khi đến 20 m). Thân cây có đường kính lên đến 75 cm, mịn màng, vỏ cây màu xám đen tối ở những cây non, trở nên nứt mịn trên cây cổ thụ. Trong số các loài phong tương tự có thể dễ dàng phân biệt bởi lá ba thùy nhỏ, dài 3–6 cm và rộng 3–7 cm, màu xanh đậm bóng, đôi khi như da, và với rìa mịn, với cuống lá 2–5 cm. Những chiếc lá rơi rất muộn vào cuối mùa thu, thường vào tháng 10. Hoa nở vào mùa xuân, rủ xuống, màu vàng đến trắng ngù dài 2–3 cm. Quản samara dài 2–3 cm hạt nhỏ tròn. Phân loài. Loài này có nhiều phân loài và thứ đã được mô tả, nhưng chỉ một vài phân loài được chấp nhận rộng rãi, phải kể đến là "Acer monspessulanum" subsp. "microphyllum" (Boiss.) Bornmueller, ở Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon, phân loài này có lá nhỏ hơn bề rộng không quá 3 cm. Loài này có thể bị nhầm lẫn với "Acer campestre", một loài phong khác bản địa của châu Âu, với điểm khác biệt nhất là nhựa trong trên lá (trong khi đó loài "Acer campestre" có màu trắng sữa), và góc giữa hai cách hẹp hơn nhiều.
1
null
Scarus ferrugineus là một loài cá biển thuộc chi "Scarus" trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775. Từ nguyên. Tính từ định danh của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "có màu gỉ sét", hàm ý đề cập đến màu nâu đỏ của cá con và cá cái. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "S. ferrugineus" có phạm vi phân bố từ Biển Đỏ trải dài về phía nam đến Somalia, băng qua bờ biển Yemen và Oman ở phía đông, ngược lên phía bắc đến vịnh Ba Tư (trừ vùng biển phía bắc của vịnh). "S. ferrugineus" sống gần các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 60 m. Mô tả. "S. ferrugineus" có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 41 cm. Vây đuôi bo tròn hoặc cụt ở cá cái, hai thùy đuôi ở cá đực phát triển dài hơn tạo thành hình lưỡi liềm. Cá đực còn có thêm răng nanh ở phía sau phiến răng của hàm trên (có thể không có ở nhiều cá thể đực); phiến răng của hai giới có màu xanh lục lam. Cá cái có màu nâu đỏ đến nâu đơn sắc với các dải sọc nâu sẫm ở hai bên thân, trừ cuống và vây đuôi màu vàng tươi. Cá đực có màu sắc sặc sỡ: màu xanh lục lam, vảy có viền màu hồng, chuyển thành vàng lục ở đỉnh đầu và thân trước (thường lấm chấm xanh lục) cũng như cuống đuôi. Rìa môi trên có vệt sọc hồng. Một vùng màu xanh lục lam từ mắt lan rộng ra mõm và xuống dưới cằm. Vùng trước mắt có màu tím, lốm đốm nhiều vệt xanh. Hai bên thân thường có một dải sọc màu xanh lam sáng. Vây đuôi màu xanh lam tím. Cá con có các dải sọc ngang màu trắng và nâu xen kẽ, đuôi vàng như cá cái. Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15. "S. ferrugineus" là một loài chị em với "Scarus persicus". Cá cái của hai loài rất khó phân biệt. Sinh thái học. Thức ăn của "S. ferrugineus" chủ yếu là tảo. Lượng thức ăn mà "S. ferrugineus" tiêu thụ thay đổi theo mùa và còn phụ thuộc vào các yếu tố xác định như nhiệt độ môi trường, kích thước cơ thể và diện tích lãnh thổ. "S. ferrugineus" đực có thể sống theo chế độ hậu cung, gồm nhiều con cái cùng sống trong lãnh thổ của nó. "S. ferrugineus" là một loài lưỡng tính tiền nữ, tức cá đực là từ cá cái chuyển đổi giới tính mà thành. Sinh sản theo cặp và theo nhóm đều được quan sát ở chúng. Tuổi thọ tối đa được ghi nhận ở loài này là 15 năm tuổi. Thương mại. "S. ferrugineus" được đánh bắt và tiêu thụ chủ yếu tại địa phương.
1
null
"Hold Me for a While" là một bài hát thuộc thể loại Pop-ballad được sáng tác và trình bày bởi ban nhạc Thụy Điển Rednex, nằm trong Album thứ hai của họ là "Farm Out". Tại Việt Nam, bài hát này đã được viết lời Việt với tên gọi Bình minh sẽ mang em đi do ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng viết lời Việt và trình bày. Cùng với ca khúc "Tình ơi xin ngủ yên", đây là cột mốc đáng nhớ tạo dư luận chú ý đến tên tuổi ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng.
1
null
Trận Villersexel là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, diễn ra vào ngày 9 tháng 1 năm 1871. Đây là một trận đánh có quy mô nhỏ nhưng quyết liệt Day và bất phân thắng bại, giữa quân đoàn XIV của Đức do tướng August von Werder chỉ huy với một lực lượng lớn hơn của binh đoàn Loire thứ hai của Pháp do tướng Charles Denis Bourbaki chỉ huy. Mặc dù quân đội Pháp cuối cùng đã làm chủ được chiến trường Villersexel, cuộc tiến công của quân đội Đức dưới quyền Werder đã giam chân các lực lượng được tổ chức yếu kém của đối phương, tạo điều kiện cho quân Đức được tăng viện. Trong trận chiến này, không bên nào chịu thiệt hại nghiêm trọng, nhưng quân Pháp chịu thiệt hại nặng nề hơn, trong đó hàng trăm người bị bắt làm tù binh và một số chiến lợi phẩm rơi vào tay quân đội Phổ. Tướng Bourbaki của Pháp đã tiến xuống thung lũng Ognon để giải vây cho Belfort. Trước tình hình đó, tướng Werder của Phổ đã quyết định triệt thoái tới pháo đài này, và chiếm giữ các vị trí thuận lợi dọc theo sông Lisaine nhìn về Belfort. Ông ta bố trí binh lực để tiến về đằng sau, nhưng ban đầu ông cử một số lực lượng tiến đánh cánh trái của quân đội Pháp để trì hoãn đối phương. Sự xuất quân táo bạo của người Đức đã dẫn tới các cuộc giao tranh tại Marat và Villersexel vào ngày 9 tháng 1 năm 1871. Villersexel – nơi có một lâu đài kiên cố và Marat, vốn đã được các lực lượng yểm trợ sườn của quân Pháp bố phòng vững chãi, khi đội tiền vệ của Đức tiến đến. Quân đội Đức đã tấn công rất mãnh liệt, và một sư đoàn bộ binh Đức đã đột chiếm lâu đài Villersexel, đánh bật quân Pháp ra khỏi Marat, Moimay và Villersexel. Riêng tại Villersexel, quân Pháp đã mất không ít tù binh về tay quân Đức. Có tài liệu kể rằng, quân Pháp sau đó đã gắng sức tái chiếm Villersexel nhưng thất bại và phải triệt thoái, song tài liệu khác cho hay các đội quân được tuyển mộ của Pháp – với sức chiến đấu mạnh mẽ – đã giành lại được mọi vị trí bị mất về tay quân Phổ (trong đó có Villersexel), và quân Đức đã tiến hành triệt thoái sau một cuộc chiến lâu dài. Theo một tài liệu, khi Boubarki dốc các đội hình hàng dọc của ông ta ra hỗ trợ quân Pháp đã bại trận, thì quân Đức đã tiếp tục cuộc hành quân của mình để hội quân với quân chủ lực của quân đoàn XIV vốn đang triệt thoái xuống Belfort. Bourbaki đã báo cáo với chính phủ Pháp về thắng lợi của ông. Trong khi đó, trận chiến cho Werder thấy rằng kẻ thù của ông đã không thể ngăn cản bước tiến của ông về Belfort, và cuộc triệt thoái được thực hiện bài bản của ông đã tạo điều kiện cho Werder đến được các vị trí phòng ngự dọc theo sông Lisaine ngay từ ngày 11 tháng 1 và tiến hành cố thủ tại đây. Và, sau trận Villersexel, quân đội Đức đã giáng cho Bourbaki một thất bại quyết định trong trận sông Lisaine, buộc quân của ông phải rút lui trong tình cảnh rất hỗn loạn.
1
null
Phong lá nho (danh pháp khoa học: Acer circinatum) là một loài thực vật thuộc chi Phong, họ Phong. Loài này được Pursh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1813. Đây là loài bản địa tây Bắc Mỹ, từ tây nam British Columbia đến bắc California, thường trong vòng 300 km của bờ Thái Bình Dương, được tìm thấy dọc theo Hẻm núi sông Columbia và rừng duyên hải Tây Bắc Hoa Kỳ.. Tại các khu vực này, màu đẹp ngoạn mục về mùa thu của lá phong chủ yếu là do loài phong lá nho đã thu hút khách du lịch và các nhà nhiếp ảnh.
1
null
Phong đá (danh pháp khoa học: Acer glabrum) là một loài cây phong bản địa tây Bắc Mỹ, từ đông nam Alaska, British Columbia và tây Alberta, về phía đông đến tây Nebraska, và phía nam khắp Washington, Idaho, Montana và Colorado đến California, Arizona và New Mexico. Phong đá cao đến 10 mét, đường kính thân cây 20–30 cm. Lá rộng 2–10 cm. Loài này được John Torrey mô tả khoa học đầu tiên năm 1828.
1
null
Jati-Matic là loại súng tiểu liên do Jali Timari thiết kế vào cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980. Súng được giới thiêu lần đầu vào năm 1983. Súng được thiết kế chủ yếu dành cho lực lượng gìn giữ trật tự, cảnh sát cùng các nhóm lái phương tiện cơ giới. Dù vậy súng chưa bao giờ được thông qua để đưa vào phục vụ trong lực lượng quân đội Phần Lan vì khi thử nghiệm lực lượng quân đội thấy nó không phù hợp. Tampereen Asepaja Oy tại Tampere đã sản xuất một số lượng nhỏ loại súng này từ năm 1983 đến năm 1987, sau đó đến năm 1995 thì công ty Oy Golden Gun đã tái khởi động việc sản xuất loại súng này với tên GG-95 PDW. Thiết kế. Jati-Matic sử dụng cơ chế nạp đạn blowback, bắn với khóa nòng mở và bọc nòng. Thoi nạp đạn, các bộ phận chuyển động được thiết kế nằm nghiêng so với nòng việc này được thực hiện để khi di chuyển lên trên thoi nạp đạn sẽ bị chính trọng lượng của nó kéo xuống nên sẽ nhanh chóng mất đi nhiều động năng cũng như tận dụng phần động năng còn lại của thoi nạp đạn khi nó dừng lại đột ngột khi kết thúc chu kỳ lùi về phía sau để giảm độ giật khi bắn. Khi bắn lực giật sẽ đẩy nòng súng hướng lên phía trên và phần cuối của súng sẽ bị đẩy xuống phía dưới, thoi nạp đạn sẽ di chuyển ra sau truyền động năng vào cho phần cuối của súng để đẩy nó hướng lên trên và đẩy nòng súng xuống. Các lực ngược chiều nhau này làm giảm lực giật tổng thể mà viên đạn tạo ra khi bắn để dễ điều khiển hơn. Vì thế hệ thống cò được thiết kế ở vị trí cao hơn các loại súng tiểu liên khác. Các bộ phận của súng được làm bằng hai vật liệu chính là nhựa tổng hợp và thép không gỉ trong khi thân súng được làm bằng thép dập. Có tổng cộng 39 chi tiết cấu thành khẩu súng. Súng có một tay cầm chữ I tích hợp có thể gấp vào và kéo ra để tiết kiệm không gian, tay cầm này cũng là nút kéo lên đạn. Jati-Matic không có nút chọn chế độ bắn thay vào đó việc bóp cò sẽ quyết định chế độ bắn, với việc bóp nhẹ súng sẽ bắn từng viên còn khi bóp mạnh và giữ chặt súng sẽ bắn với chế độ tự động. Súng không có nút khóa an toàn, cơ chế khóa an toàn của súng là chỉ việc gấp tay cầm chữ I vào trong súng nó sẽ không cho súng khai hỏa.
1
null
Ventspils (phát âm ; ; ; ; ) là một thành phố ở tây bắc Latvia trong khu vực lịch sử Courland của Latvia, thành phố lớn thứ sáu tại quốc gia này. Năm 2012, Ventspils có dân số 41.998 người. Ventspils nằm bên sông Venta và Biển Baltic, và có một cảng không bị đóng băng. Tên của thành phố có nghĩa là "Lâu đài bên Venta" đề cập đến sông Venta.
1
null
là một bán đảo lớn với nhiều núi và bờ biển lõm vào nằm ở phía tây Tokyo, vùng bờ biển Thái Bình Dương thuộc đảo Honshū, Nhật Bản. Nơi này trước đây là tỉnh Izu, hiện nay đã được sáp nhập và là một phần của tỉnh Shizuoka. Bán đảo có diện tích 1,421.24 km² và dân số năm 2005 là 473,942 người.
1
null
Xã Kansas () là một xã thuộc quận Edgar, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 1.003 người và 486 nhà ở. Địa lý. Theo điều tra dân số năm 2010, thị trấn có tổng diện tích , trong đó (hoặc 99,98%) là đất và (hoặc 0,02%) là nước. Nghĩa trang. Thị trấn có tám nghĩa trang: Boyer, Cornwell, Fairview, Harmony, Pleasant Hill, Poulter, Waite và Wilhoit. Giáo dục. Thị trấn Kansas có hai trường học: Trường Tiểu học Kansas và Trường Trung học Kansas.
1
null
Nguyễn Trung Khuyến (sinh 1944) là một nhà tạp kỹ nổi tiếng người Việt Nam. Về âm nhạc, ông được biết với nghệ danh Bảo Thu, là một nhạc sĩ nhạc vàng danh tiếng trước năm 1975. Về ảo thuật, ông được biết với nghệ danh Nguyễn Khuyến, là một trong số ít ảo thuật gia Việt Nam có bằng Tiến sĩ Ảo thuật do Hiệp hội Ảo thuật gia quốc tế trao. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông sinh ngày 19 tháng 2 năm 1944 tại Sài Gòn. Ông nội ông là Nguyễn Văn Hậu, hiệu Thuần Đức, còn gọi là Nguyễn Trung Hậu, là một nhà giáo, nhà báo, đồng thời cũng là một chức sắc cao cấp đạo Cao Đài với phẩm Bảo pháp. Cha ông là nhà báo Nguyễn Trung Ngôn, bút danh Tam Đức, thi sỹ Trực Thần đồng thời cũng là một chức sắc đạo Cao Đài với phẩm Hiền tài. Sinh trưởng trong gia đình trí thức nhưng gia cảnh khó khăn, từ năm 8 tuổi, ông bắt đầu học nhạc lý và đàn mandolin với nhạc sĩ Văn Thủy. Năm 15 tuổi, ông được nhạc sĩ Lâm Tuyền dạy nhạc miễn phí và còn tặng cho cây đàn guitar. Sớm biểu lộ tài năng trong lĩnh vực tạp kỹ, đặc biệt với bộ môn ảo thuật, từ năm 1959, ông thường đi theo làm thành viên dự bị và diễn ảo thuật cho ban nhạc Lâm Tuyền cùng Nguyễn Ánh 9, Duy Khiêm, Phùng Trọng... Năm 1960, với nghệ danh Nguyễn Khuyến, ông nổi tiếng là Thần đồng ảo thuật tại Việt Nam khi mới 16 tuổi. Trong khoảng thời gian này, ông học sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau như trống, guitar... Đặc biệt, ông được thọ giáo ngón đàn guitar của giáo sư - nhạc sĩ Hoàng Bửu, một bậc thầy về guitar flamenco. Năm 1962, ông chính thức gia nhập Hội Ảo thuật Pháp quốc ("Association Française des Artistes Prestidigitateurs" - A.F.A.P.) tại Paris. Năm 1963, ông trúng tuyển kỳ thi bằng Giáo sư Ảo thuật của trường QTAT "École International de la Magie". Tại đây, ông được thụ giáo tiết mục "Hóa chim bồ câu" và "Xòe bài" từ ảo thuật gia quốc tế Channing Pollock. Năm 1964, ông được Hội Ảo thuật gia Việt Nam Cộng hòa bầu làm Đại biểu chính thức của bộ môn Ảo thuật tại Việt Nam theo chức nhận số 26.8/64 có công chứng. Ông là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay nhận được vinh dự này. Cũng trong năm 1964, ông bắt đầu sáng tác nhạc và giới thiệu nhạc phẩm "Ước vọng tương phùng" với nghệ danh Bảo Thu mượn tên của các cô bạn gái Bích Bảo, Thanh Thu ở Đà Lạt và Xuân Thu ở Sài Gòn ghép lại. Tác phẩm về sau nhận được giải thưởng của Đài phát thanh Sài Gòn. Một năm sau, ông cho ra đời nhạc phẩm ""Giọng ca dĩ vãng", bắt nguồn từ chuyện tình buồn với cô học trò kém ông 6 tuổi. Cũng lấy cảm hứng từ người học trò được mệnh danh "Tiếng hát học trò" này, ông đã sáng tác nhạc phẩm "Tôi yêu tiếng hát học trò" và "Vọng về tim"" nhưng không nổi tiếng bằng. Năm 1966, ông được mời phụ trách chương trình ""Tiếng "K" Thời Đại", chương trình ca vũ nhạc, ảo thuật xiếc, độc tấu đầu tiên của Đài truyền hình Việt Nam. Năm 1967, ông tự xuất bản nhạc phẩm "Giọng ca dĩ vãng"", do hãng đĩa Sơn Ca của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thu âm và ca sĩ Giao Linh trình bày. Nhạc phẩm nhanh chóng trở nên nổi tiếng, với số lượng bán 500.000 bản. Nhạc phẩm sau đó cũng được trình bày bởi nhiều ca sĩ tài danh bấy giờ như Thanh Tuyền, Thái Châu... dù có nhiều ca từ hát sai do với nguyên bản.. Ảnh hưởng của nhạc phẩm này không chỉ đem cho tác giả nguồn tài chính dồi dào thời bấy giờ, mà còn làm đổi tên chương trình ""Tiếng K thời đại" thành chương trình "Tiếng hát 20", rồi "Chương trình Bảo Thu"". Ông cũng được mệnh danh là "Ông hoàng bồ câu" với những tiết mục ảo thuật độc đáo với chim bồ câu được thu và phát trên làn sóng truyền hình nhiều lần thời bấy giờ. Năm 1969, ông được tổ chức International Brotherhook of Magicians IBM (Kenton Chio - USA) chính thức công nhận là Ảo thuật gia Quốc tế. Năm 1971, ông thực hiện chuyến lưu diễn qua một số nước châu Âu như Pháp, Ý, Bỉ... Thời gian này, ông dừng chân tại Hà Lan để học thêm về múa và kịch nói. Sau năm 1975, ông tiếp tục được chính quyền mới mời phụ trách Chương trình Bảo Thu, ca vũ nhạc ảo thuật xiếc biểu diễn tại các rạp trong TP.HCM. Năm 1978, Chương trình Bảo Thu kết hợp với Đoàn xiếc Độc lập thành đoàn "Hương Miền Nam", chuyên biểu diễn tạp kỹ ca nhạc ảo thuật xiếc cho đến năm 1979. Ông cũng được mời làm Giám khảo "Liên hoan Ảo thuật phía Nam", do Sở VHTT TP.HCM tổ chức tại rạp hát Long Phụng, đường Lý Tự Trọng, Q1-TP.HCM; Giám khảo "Liên hoan Ảo thuật Toàn Quốc" lần thứ 1, do Liên chi hội Ảo thuật xiếc VN, tổ chức tại nhà bạt Liên đoàn xiếc VN tại thủ đô Hà Nội. Trong lĩnh vực âm nhạc, ông vẫn tiếp tục sáng tác, nổi bật với ca khúc "Hát cho những người phía trước", sáng tác trong dịp đi phục vụ biên giới Tây Nam, được bằng khen của Quân khu 7. Hiện nay, ông sống cùng gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công việc hiện tại là làm giám khảo các hội thi ảo thuật, đạo diễn-dàn dựng-biên tập các chương trình tạp kỹ, làm quảng cáo cho các cơ sở thương mại... Đời tư. Ông lập gia đình với bà Thanh Tâm, một ca sĩ từng được ông đào tạo, nổi tiếng một thời với nghệ danh Song Thanh (hát cặp với ca sĩ Thanh Mai). Hai ông bà có bốn người con, gồm hai người con trai (Nguyễn Trung Minh Khoa, Nguyễn Trung Minh Khuyên) và hai người con gái (Nguyễn Trung Minh Thy, Nguyễn Trung Minh Thơ)
1
null
Hà Phương (sinh năm 1938) là một nhạc sĩ được biết đến nhiều với dòng nhạc trữ tình mang âm hưởng dân ca Nam Bộ từ trước 1975 đến nay. Ngoài ""Bông điên điển" và "Em về miệt thứ", ông nổi tiếng nhất với bộ ba tác phẩm về mưa là "Mưa đêm tỉnh nhỏ", "Mưa qua phố vắng", "Mùa mưa đi qua"". Cũng từ đây mà ông đôi khi được gọi là "ông hoàng mưa". Hà Phương được xem là một nhạc sĩ gạo cội của dòng nhạc bolero ở Việt Nam. Cuộc đời. Hà Phương tên thật là Dương Văn Lắm, còn có bút danh khác là Du Uyên, sinh năm 1938 tại huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Năm 7 tuổi, ông theo gia đình đến sinh sống tại thị xã Mỹ Tho (thành phố Mỹ Tho ngày nay). Năm 19 tuổi, ông được học nhạc với nhạc sĩ Lâm Tuyền và học dự thính trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Hai năm sau, ông về dạy nhạc cho Trường trung học Bình Phước ở Tầm Vu - Long An, sau đó về dạy nhạc tại Trường trung học Đốc Binh Kiều, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang và bắt đầu sáng tác. Bài hát đầu tiên "Đường khuya" được sáng tác vào thời gian này. Các bài hát của ông thường rất sinh động, có nhiều câu ca dao thành ngữ khiến cho bài hát gần gũi, dễ nghe đối với khán giả. Phần lớn ca ngợi vẻ đẹp con người và vùng đất Nam Bộ, số còn lại viết về tình yêu đôi lứa. Ông cho biết chỉ viết được vài chục bài nhưng mỗi ca khúc viết ra đều thể hiện được điều muốn gửi gắm. Ông tâm đắc nhất với hai ca khúc "Mùa mưa đi qua" và "Mưa đêm tỉnh nhỏ" vì nó thể hiện được tâm trạng, tiếng lòng thời trai trẻ và làm sống lại kỷ niệm về những cuộc tình trong quá khứ vẫn luôn hiện hữu. Nhiều tác phẩm của Hà Phương đã được khán giả người Việt cả trong và ngoài nước yêu thích khi được thể hiện bởi các ca sĩ hải ngoại nổi tiếng như Phi Nhung, Chế Linh, Hương Lan, Trường Vũ và Cẩm Ly. Hiện nay, ông đang sống tại Mỹ Tho. Năm 2019, ông từng nhập viện vì đột quỵ. Đến tháng 9 năm 2020, ông lần đầu tiên xuất hiện tại sân khấu chương trình "Người kể chuyện tình" sau tai biến. Tác phẩm. Từ trước 1975 đến nay ông sáng tác khoảng 80 ca khúc. Đời tư. Hà Phương từng có mối quan hệ với nữ ca sĩ Ngọc Lan. Cả ba bài hát nổi tiếng của ông về mưa đều lấy cảm hứng từ cuộc tình này. Tuy nhiên cả hai đã chia tay sau 10 năm bên nhau. Vợ ông hiện tại là bà Huỳnh Thị Bé Ba, một người bạn của ca sĩ Ngọc Lan. Trong chương trình "Solo cùng Bolero", nữ thí sinh Trịnh Thanh Thảo cho biết trong một lần tình cờ, cô đã được nhạc sĩ Hà Phương phát hiện giọng hát và nhận làm con nuôi.
1
null
Iljimae (; hay còn có tên khác là "Nhất Chi Mai") là bộ phim truyền hình kiếm hiệp Hàn Quốc phát hành vào năm 2008 và được phát sóng tại Việt Nam phim từng được phát sóng trên HTV3 (TVM Corp) và HTVC Phim. Tựa đề phim. "Nhất chi mai" - tựa đề phim vốn là tên một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết 24 chương nổi tiếng của Trung Quốc "Hoan hỉ oan gia". Cuốn tiểu thuyết này được truyền đến Triều Tiên thời hậu kỳ và cũng đã dần xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học Triều Tiên. Ở thế kỷ trước họa sỹ Go Woo Young đã sáng tác ra bộ truyện tranh cùng tên, khiến Nhất Chi Mai trở thành nhân vật huyền thoại trong dân gian. Nhất chi mai trong tác phẩm truyện tranh là một cường đạo chuyên cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo, là một trong ba hiệp khách nổi tiếng của Triều Tiên. Nội dung. Lee Geom (이겸) là con trai của nhà quý tộc Lee Won Ho (이원호). Lee Won Ho là em trai và cũng là tâm phúc của vua Joseon lúc bấy giờ và là một thành viên của tổ chức Thiên Hữu hội. Thuở nhỏ, Lee Geom có một cuộc sống hạnh phúc cùng cha mẹ và chị gái trong một căn nhà trồng đầy hoa mai. Thế nhưng, cuộc sống ấy kéo dài không bao lâu thì tai họa ập tới. Trong một lần nhà vua gặp gỡ một vị tiên tri mù, ông ta đã nói cho vua nghe về một mặt trời khác, sau này người có mặt trời ấy sẽ được người dân yêu mến, và người mang mặt trời ấy đang ở trong nhà Lee Won Ho. Sợ hãi về điều này, nhà vua ra lệnh cho người vu khống Won Ho tội mưu phản rồi sai người bí mật giết. Trước khi bị giết, ông đã đem Geom cất giấu vào một chiếc tủ và dặn dò cậu nhất định phải sống. Vì ở trong tủ nên cậu chứng kiến toàn bộ cảnh cha bị giết, sau này lại phải tự tay ném đá vào người mẹ ruột mình để chứng minh bản thân không phải con trai Lee Won Ho. Vì vậy cậu đã lập một lời thề, nhất định sau này lớn lên sẽ trả thù cho cha, tuy nhiên sau một trận ốm nặng, cậu đã quên hết mọi chuyện. 13 năm sau, lúc này Geom đang lưu lạc trong dân gian với cái tên Yong (용) và được nhận nuôi bởi Swe Dol (쇠돌), một tên trộm tài ba nay đã rửa tay gác kiếm. Trong một lần suýt chết, cậu đã dần dần nhớ lại quá khứ năm xưa, bắt đầu đi tìm mẹ và chị gái đang lưu lạc. Tuy nhiên, chị gái Geom, Yeon (연) vì không chịu phục tùng một tên lính xấu xa đã nhỡ tay đánh chết hắn, vì vậy cô bị xử treo cổ. Cái chết của chị gái khiến Geom đau đớn tột cùng và tìm cách trả thù cũng như truy tìm sự thật năm xưa. Với manh mối duy nhất là biểu tượng trên thanh kiếm đã giết chết cha mình, cứ đêm đến cậu lại cải trang đi ăn trộm ở những nhà quý tộc là hội viên Thiên Hữu hội để tìm ra chủ nhân thanh kiếm ấy. Bởi vì mỗi khi ăn trộm xong cậu đều để lại ở chỗ trộm một tờ giấy có vẽ cành hoa mai đỏ, thế nên cậu được người đời đặt tên là Iljimae (일지매 - Nhất Chi Mai). Thường thường sau khi trộm, Geom thường đem những của cải ấy chia cho người nghèo, vì vậy cậu được dân chúng yêu mến và trở thành một huyền thoại. Dần dần về sau, những bí mật trong quá khứ năm xưa dần sáng tỏ, và kể từ đó người ta đồn rằng Iljimae đã chết. Tỉ suất phát sóng. Tỉ suất người xem tại Hàn Quốc được SBS đánh giá là không thành công vì bộ phim này đã được làm sau bộ phim Iljimae do diễn viên Jang Dong Gun thủ vai phát hành vào năm 1993, tuy nhiên Iljimae được xem là một tên trộm trong truyền thuyết được nhiều nhà làm phim khắc họa chi tiết vào cốt truyện trong kịch bản cho cả thế giới thấy Hàn Quốc có rất nhiều truyện dân gian cổ tích được làm thành phim. Mặc dù vậy phim vẫn đạt rating trung bình khá ấn tượng 23.2%.
1
null
Hàn Châu (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1947) là một nhạc sĩ nhạc vàng sáng tác trước 1975 đến nay với các ca khúc quen thuộc: "Cây cầu dừa", "Những đóm mắt hỏa châu", "Thành phố sau lưng", "Tội tình", "Về quê ngoại"... Cuộc đời. Hàn Châu tên thật là Lê Đình Nam, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1947 tại Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Bình Định trong một gia đình có 5 anh chị em. Người chị cả Lê Thị Hương là vợ nhạc sĩ Thanh Sơn. Năm 14 tuổi, ông vào Sài Gòn ở chung với gia đình chị cả. Trong nhà có treo cây guitar, ông hay đem xuống mày mò. Người anh rể là nhạc sĩ Thanh Sơn vốn kỹ tính nên không hài lòng mấy. Do vậy, ông phải tập chơi đàn bằng cách... đàn đứng (không gỡ ra khỏi móc treo) để kịp thời "phi tang". Năm 1966, nhạc sĩ Hoàng Trang sáng tác bài "Ngỏ hồn qua đêm" rồi đưa tên ông vào bài nhạc với tên là Hàn Châu. Từ đó Hàn Châu là bút danh của ông cho đến tận nay. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông ngưng sáng tác cho đến năm 1980 mới bắt đầu sáng tác lại với ca khúc "Tình nhỏ mau quên", "Tội tình", "Mèo hoang", "Tình gần tình xa", "Lời nhớ lời thương", "Dòng sông và nỗi nhớ", "Xa nhau ngậm ngùi""... "Về quê ngoại" là bài hát kể sự thật về cuộc đời ông bị nhiều ca sĩ sau này hát sai lời. Bản thu âm trước 1975 được ca sỹ Duy Khánh trình bày đúng về lời và nhạc. Nhầm lẫn. Bài "Nói với người tình" là sáng tác của Trúc Sơn" và Thăng Long. Trúc Sơn là 1 bút danh duy nhất của Hàn Châu. NS Thăng Long khi còn sống đã xác nhận điều này khi 2 ông đã cùng sáng tác ca khúc này trong căn gác trọ ở sài Gòn trước 1975 Bài "Mãi tìm nhau" là sáng tác của nhạc sĩ Giao Tiên vời bút danh Thảo Trang. Bài "Màu xanh kỷ niệm" có tên thật "Vùng trời xanh kỷ niệm" là sáng tác của nhạc sĩ Nguyên Thảo với bút danh Thục Chương. Bài "Người tình La Lan" là sáng tác của Vinh Sử với bút danh Hàn Ni. Bài "Mực tím mồng tơi" chỉ có một tác giả là Hàn Châu. Không có tên của Vinh Sử trong tờ nhạc gốc. Bài "Đêm hỏa châu" là của Vinh Sử và Nguyên Thảo sáng tác.
1
null
Chiến dịch tấn công Noyon, còn gọi là Chiến dịch Gneisenau hay Trận Matz hoặc Chiến dịch tấn công Noyon-Montdidier, là chiến dịch tấn công đại quy mô thứ tư của "thượng tướng bộ binh" Erich Ludendorff của đế quốc Đức trong chiến dịch tấn công mang tên ông (1918) trên mặt trận phía Tây của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 3 cho đến ngày 13 tháng 6 năm 1918 tại Pháp. Trong chiến dịch này, quân đội Đức (với các tập đoàn quân số 18 và 7) một lần nữa giành thắng lợi lớn ban đầu, quân đội Pháp (với các tập đoàn quân số 3 và 10) với sự hỗ trợ của quân đội Hoa Kỳ đã chặn được bước tiến của đối phương. Mặc dù quân Đức đã gây thiệt hại nặng nề cho địch thủ trong trận chiến Noyon, các cuộc giao chiến này đã không thể làm nên một thay đổi quan trọng cho tình hình quân đội Đức và Soissons và các khu rừng Vi p ers-Cotterets. Trong khi đó, quân Đức cũng chịu tổn thất không nhỏ. Sau khi phát động 3 cuộc tấn công lớn vào đầu năm 1918, người Đức vẫn chưa thể hoàn thành mục tiêu của mình là đánh bại quân đội Anh và Pháp trước khi Hoa Kỳ xoay chuyển thế trận hoàn toàn. Cho đến đầu tháng 6, tình hình trở nên bất lợi cho quân đội Đức, tuy nhiên Ludendorff đã phát động chiến dịch tấn công thứ tư của mình giữa Noyon và Montdidier. Tổng tư lệnh quân đội phe Hiệp Ước Ferdinand Foch đã nắm bắt được bước tiến của Ludendorff, do lính Đức đào ngũ đã cho biết về lịch trình của họ, tạo điều kiện cho quân Pháp phản pháo trước khi "hàng rào pháo di động" của Đức bắt đầu, gây thiệt hại nặng nề cho binh lính và pháo binh Đức. Tuy nhiên, cuộc tấn công của quân Đức do tập đoàn quân số 18 dưới quyền tướng Oskar von Hutier thực hiện vẫn giành được thắng lợi vang dội trước tập đoàn quân số 3 của Pháp do tướng Georges Humbert chỉ huy trong ngày đầu, dù không mang tầm cỡ của những lần trước. 3 sư đoàn Pháp đã bị vô hiệu hóa, sau quân Pháp đã rút lui trong trật tự. Cho đến ngày 10 tháng 6, quân đội Đức đã tràn qua sông Matz, song ở các sườn quân Đức trở nên bất lợi. Vào ngày 12 tháng 6, tập đoàn quân số 18 của Đức được lệnh phòng ngự, và các cuộc tấn công ồ ạt của quân Pháp đã bị đập tan. Trong ngày hôm đó, tập đoàn quân số 7 của Đức cũng đã mở "chiến dịch Hammerschlag" ở phía đông chiến dịch Gneisenau, và đánh cho quân Pháp thiệt hại nặng, song cuộc tiến công của quân Đức từ các sườn đồi phía nam sông Aisne và rừng Villers-Cotterets chỉ làm nên bước tiến lớn ở giữa. Tình hình ngày 12 tháng 9 cho thấy là quân Đức không thể tiến đánh xa hơn. Quân đồng minh Pháp - Mỹ đã phát động những cuộc phản công rất dữ dội, nhất là nhằm vào tập đoàn quân số 7 của Đức. Cuối cùng, vào ngày 15 tháng 9, người Đức phải chấm dứt chiến dịch Gneisenau: họ đã không thể đến được một tuyến đường sắt nào cần thiết để nắm giữ "chỗ lồi" Chemin des Dames rộng lớn của họ. Các chiến dịch của Ludendorff đã khiến cho khả năng chiến đấu của quân đội Đức bị khánh kiệt, và họ sẽ còn mở thêm một cuộc tấn công nữa trên sông Marne, kết thúc với một cuộc phản công thắng lợi của quân đội phe Hiệp Ước.
1
null
Carpenter là một thành phố thuộc quận Mitchell, tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 109 người. Dân số. Dân số qua các năm: Năm 2010: Theo điều tra dân số năm 2010, có tổng cộng 109 người, 47 hộ gia đình và 27 gia đình sinh sống trong thành phố Carpenter, tiểu bang Iowa. Mật độ dân số là 681,3 người trên một dặm vuông (263,1 / km2). Có 51 căn hộ với mật độ trung bình là 318,8 mỗi dặm vuông (123,1 / km2). Thành phần chủng tộc của thành phố là 98,2% người da trắng và 1,8% người Mỹ gốc Phi. Trong 47 hộ có 29,8% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với người lớn, 51,1% là cặp vợ chồng đang chung sống với nhau, 6,4% có chủ hộ là nữ độc thân, và 42,6% là người không có gia đình. 38,3% số hộ gia đình bao gồm các cá nhân và 14,9% có người sống một mình có độ tuổi 65 trở lên. Quy mô mỗi hộ gia đình trung bình là 2,32 người. Độ tuổi trung bình của thành phố là 40,8 tuổi. 26,6% cư dân dưới 18 tuổi; 8,3% là từ 18 đến 24 tuổi; 20,2% là từ 25 đến 44; 28,4% là từ 45 đến 64; Và 16,5% có độ tuổi từ 65 trở lên. Các trang điểm giới tính của thành phố là 51,4% nam và 48,6% nữ. Năm 2010 Theo điều tra dân số năm 2000, thành phố có 130 người, 50 hộ gia đình và 30 gia đình cư trú trong thành phố. Mật độ dân số là 813,9 người trên mỗi dặm vuông (313,7 / km²). Có 54 nhà ở với mật độ trung bình là 338.1 mỗi dặm vuông (130,3 / km²). Khuôn mẫu chủng tộc của thành phố là 100,00% Trắng. Có 50 hộ gia đình trong đó 40,0% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 46,0% là các cặp vợ chồng sống chung với nhau, 8,0% có chủ hộ là nữ không có chồng, và 40,0% không thuộc gia đình. 34,0% số hộ gia đình bao gồm các cá nhân và 10,0% có người sống một mình 65 tuổi trở lên. Quy mô hộ trung bình là 2,60 và quy mô gia đình trung bình là 3,43. Trong thành phố, dân số được chia ra với 36,9% dưới 18 tuổi, 6,9% từ 18 đến 24, 28,5% từ 25 đến 44, 14,6% từ 45 đến 64 tuổi, và 13,1% từ 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình là 31 năm. Mỗi 100 phụ nữ có 91,2 nam giới. Đối với mỗi 100 phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, có 90,7 nam giới. Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong thành phố là $ 27,500, và thu nhập trung bình cho một gia đình là $ 34,167. Nam giới có thu nhập trung bình 28.333 đô la so với 22.500 đô la dành cho nữ giới. Thu nhập bình quân đầu người của thành phố là 14.864 USD. Có 10,0% gia đình và 5,3% dân số sống dưới mức chuẩn nghèo, trong đó không dưới 18 tuổi và 20,0% ở dưới 64 tuổi.
1
null
Clear Lake là một thành phố thuộc quận Cerro Gordo, tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 7777 người. Nơi đây đã xảy ra một vụ rơi máy bay năm 1959, trong máy bay có Ritchie Valens, Buddy Holly, Big Bopper và cả ba đã chết trong vụ máy bay đó. Dân số. Dân số qua các năm:
1
null