text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Thác Inga là một thác nước cự ly 40 km so với Matadi ở Cộng hòa Dân chủ Congo nơi sông Congo rơi ở độ cao 96 m (315 ft) xuống dòng 15 km (9 mi).
Thác Inga tạo thành một phần chủ nhóm thác lớn hơn - thác Livingstone và tọa lạc gần hơn đối với phần hạ lưu của các thác này. Các thác nước đã tạo thành một khúc cong đột ngột của sông Congo nơi chiều rộng của sông dao động từ hơn 4 km đến chỉ 260 m. Với lưu lượng nước 42.476 m³/giây (1.500.000 ft³/giây) nó là được coi là thác lớn nhất thế giới, dù thác Inga không phải là một thác nước thực sự. Lưu lượng nước kỷ lục ghi nhận được là 70.793 m³/giây (2.500.000 ft³/giây). Thác Inga cũng là nơi có hai đập thủy điện gọi là Inga I & II, cũng như hai đập đã lên phương án khác, một trong hai đập thủy điện đó sẽ có công suất phát điện lớn nhất thế giới. | 1 | null |
Khỉ đầm lầy Allen (danh pháp hai phần: "Allenopithecus nigroviridis") là một loài linh trưởng trong chi đơn loài Allenopithecus trong họ Khỉ Cựu thế giới. Loài khỉ này sinh sống ở lưu vực Congo, ở Cộng hòa Dân chủ Congo và ở phía tây Cộng hòa Dân chủ Congo.
Mô tả.
Nó có thân thể khá lực lưỡng. Da có màu xanh lá cây xám ở phía trên. Mặt màu hơi đỏ với các búi lông dài ở má. Khỉ đầm lầy Allen có thể đạt chiều dài cơ thể từ 45 đến 60 cm, với một cái đuôi dài khoảng 50 cm. Con đực cân nặng tới 6 kg, lớn hơn con cái (lên đến 3,5 kg).
Hành vi.
Khỉ đầm lầy Allen là một động vật ban ngày và thường xuyên tìm kiếm thức ăn trên mặt đất. Nó sống ở khu vực đầm lầy, khu vực nhiều nước và nó cũng có thể bơi tốt, lặn để tránh nguy hiểm. Nó sống chung với nhau trong quần thể nhóm lên đến 40 cá thể, giao tiếp với các tiếng gọi khác nhau, cử chỉ và sự đụng chạm.
Chế độ ăn uống của nó bao gồm trái cây và lá, cũng như bọ cánh cứng và sâu.
Người ta ít được biết đến những thói quen giao phối của loài này. Những con cái mang con non, con non cai sữa trong khoảng ba tháng và trưởng thành sau 3-5 năm. Tuổi thọ của nó lên đến 23 năm.
Các loài chim ăn thịt, rắn và tinh tinh lùn là các kẻ thù tự nhiên hàng đầu của nó. | 1 | null |
"Culo" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ gốc Cuba Pitbull hợp tác với Lil Jon. Đây là đĩa đơn đầu tiên trong album phòng thu đầu tay của Pibull, "M.I.A.M.I.". "Culo" có sử dụng một phần giai điệu từ một ca khúc nổi tiếng của Nina Sky hợp tác với Jabba, "Move Ya Body". "Culo" đã lọt vào bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs tại vị trí #45, và vị trí #11 trên bảng xếp hạng Hot Rap Tracks. Bản phối khí chính thức của ca khúc có sự góp giọng của Lil Jon và Ivy Queen. | 1 | null |
Ngày hè sôi động là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSND Trọng Trinh làm đạo diễn. Phim phát sóng lần đầu vào năm 2001 trên kênh VTV1.
Nội dung.
Sở Thể dục thể thao phối hợp với Thành Đoàn tổ chức giải đá bóng nhi đồng toàn thành phố, giúp cho các em sống hợp lệ trong thành phố sau một năm học tập, có mùa hè lành mạnh và bổ ích, chuẩn bị cho năm học tiếp. Riêng ông Hào là nhà bình luận thể thao, tìm cách giúp cho những đứa trẻ thành phố, đam mê đá bóng được những Mạnh Thường Quân bảo trợ, để sở Thể dục thể thao có thể chấp nhận cho các em tham gia thi đấu giải chính quy, nhưng ông Hào gặp rất nhiều khó khăn khi tranh đấu cho các em.
Nga muốn chứng minh cho mẹ thấy khả năng làm việc của mình, nên đã cùng với Tuấn và Linh hợp tác kinh doanh trong thời gian nghỉ hè, nhưng mọi việc không hoàn toàn như ý Nga mong muốn. Từ khi có thêm Việt góp phần, lúc nào Nga cũng nhắc đến Việt làm Tuấn tỏ ra không vui...
Diễn viên.
Và một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Đêm hè" do Phạm Tuấn Hùng sáng tác và thể hiện cùng Phạm Thúy Hằng. | 1 | null |
Khỉ Dryas (danh pháp hai phần: "Cercopithecus dryas") là một loài khỉ thuộc họ Khỉ Cựu thế giới. Loài này chỉ sinh sống ở lưu vực Congo, giới hạn ở tả ngạn sông Congo. Trước đây danh pháp loài khỉ này là "Cercopithecus salongo" (tên thông dụng khỉ Diana Zaire). Một số nguồn cũ hơn xem khỉ Dryas là một phân loài của khỉ Diana và phân loại là "Cercopithecus diana dryas", nhưng nó cách biệt về địa lý từ bất cứ quần thể khỉ Diana được biết đến. | 1 | null |
Bonobo ("Pan paniscus"), trước đây còn gọi là tinh tinh lùn, là một loài tinh tinh lớn trong chi Tinh tinh. Loài này có chân tương đối dài, đôi môi màu hồng, mặt tối và chùm đuôi thành búi thông qua tuổi trưởng thành, và lông dài trên đầu. Bonobo được tìm thấy trong một khu vực 500.000 km2 lưu vực sông Congo ở Cộng hòa Dân chủ Congo, Trung Phi. Là loài ăn tạp và sống ở các khu rừng sơ cấp và thứ cấp, bao gồm cả rừng đầm lầy ngập nước theo mùa.
Đặc điểm.
Các khác biệt về giải phẫu giữa tinh tinh thông thường và bonobo là không đáng kể, nhưng trong hành vi tình dục và cộng đồng thì các khác biệt này rất rõ nét. Tinh tinh thông thường là loài ăn tạp, chúng có thể có hành vi săn mồi bằng một đội quân các con đực do một con đực đầu đàn dẫn đầu và có quan hệ cộng đồng rất phức tạp. Trái lại, bonobo chủ yếu là loài ăn thực vật và có quan hệ tình dục quân bình, mẫu hệ và bừa bãi. Lớp da mặt, hai bàn tay và hai bàn chân ở cả hai loài có màu từ hồng tới rất sẫm nhưng nói chung thì sáng hơn ở các cá thể non và trở thành sẫm màu hơn khi trưởng thành. Bonobo có tay dài hơn, thân hình khẳng khiu, mảnh khảnh và duyên dáng hơn, và chúng có xu hướng có dáng đứng thẳng trong phần lớn thời gian.
Bonobo theo chế độ mẫu hệ, con cái có xu hướng chung thống trị con đực bằng cách hình thành các liên minh để kiểm soát con đực. Cấp bậc trong hệ thống phân cấp trong bầy đàn của con đực thường được quyết định bởi thứ hạng của mẹ mình.
Cùng với tinh tinh thông thường, bonobo là loài con tồn tại tương đối bà con gần gũi nhất với con người. Bởi vì hai loài tinh tinh không phải là các vận động viên bơi lội thành thạo, sự hình thành của sông Congo 1.5-2 triệu năm trước đây có thể dẫn đến sự biệt hóa của hai loài tinh tinh. Chúng sinh sống ở phía nam của sông, và do đó được tách ra từ tổ tiên của tinh tinh thông thường, sinh sống ở phía bắc của con sông. Không có dữ liệu cụ thể về số lượng các quần thể, nhưng ước tính là giữa 29.500 và 50.000 cá thể. Loài này được liệt kê là loài bị đe dọa trong Sách đỏ IUCN và đang bị đe dọa hủy diệt môi trường sống và tăng trưởng dân số và sự di chuyển của con người, mặc dù săn trộm thương mại là mối đe dọa nổi bật nhất. Nó thường sống 40 năm trong điều kiện nuôi nhốt, mặc dù tuổi thọ của nó trong tự nhiên chưa được biết rõ.
Từ nguyên.
Mặc dù còn có tên là "tinh tinh lùn", bonobo không nhỏ lắm khi so sánh với tinh tinh. Từ "lùn" có thể đề cập đến "người lùn" sống ở cùng khu vực. Tên "bonobo" xuất hiện lần đầu tiên năm 1954, khi Eduard Paul Tratz và Heinz Heck đề xuất nó như là một thuật ngữ mới cho tinh tinh lùn. Tên này được cho là một lỗi chính tả từ thị trấn Bolobo trên sông Congo. Tên này cũng được cho có nghĩa là "tổ tiên" trong một ngôn ngữ Bantu tuyệt chủng.
Môi trường sống và phân bố.
Bonobo chỉ được tìm thấy ở phía nam của sông Congo và phía bắc của sông Kasai (một nhánh của sông Congo), trong các khu rừng ẩm của Cộng hòa Dân chủ Congo ở Trung Phi. | 1 | null |
Biên thành La Mã là một hệ thống phân chia ranh giới, bảo vệ biên giới của Đế quốc La Mã nhưng nó không được sử dụng cho các thành lũy hoàng gia hoặc thành trì. Nó cũng đánh dấu Biên giới của Đế quốc La Mã được phân định có thể là một con đường, dòng suối, con kênh hoặc cột mốc bất kỳ.
Biên thành La Mã được xây dựng vào thế kỷ thứ 2 với chiều dài lên đến 5.000 km từ bờ biển Đại Tây Dương ở miền Bắc Vương quốc Anh qua châu Âu, tới tận biển Đen (Hắc Hải), phản ánh sự hưng thịnh cho đến khi suy tàn của La Mã trong hơn 1.000 năm. Phần còn lại của công trình vĩ đại này là những gì còn sót lại của các bức tường, mương nước, pháo đài, tháp canh, các khu dân cư.
Phần đường biên giới ở Đức với chiều dài 550 km từ phía Tây Bắc đến tận sông Danube ở phía Đông Nam. Phần ở Anh dài 118 km là tường thành Hadrian được xây dựng vào năm 122 dưới thời hoàng đế Hadrian và phần còn lại của bức tường Antonine ở Scotland được xây dựng dưới thời hoàng đế Antonius Pius năm 142 tại phía Bắc vùng lãnh thổ của La Mã trên đảo Anh (Britannia). Đây là ví dụ nổi bật về khu vực quân sự, công sự phòng thủ, chiến lược địa chính của đế quốc La Mã thời cổ đại.
Một số biên thành.
Biên thành La Mã đại diện lớn nhất cho Đế quốc La Mã vào thế kỷ 2 sau Công nguyên. Khi đó, nó trải dài hơn 5.000 km từ bờ biển Đại Tây Dương của miền bắc nước Anh, qua châu Âu đến Biển Đen, và từ đó đến biển Đỏ và trên khắp Bắc Phi đến bờ biển Đại Tây Dương. Phần còn lại của biên thành ngày nay bao gồm các dấu tích của các bức tường, mương, pháo đài, thành lũy, và các khu định cư dân sự. Một số yếu tố đã được khai quật, một số được xây dựng lại và một số bị phá hủy. Hai phần của biên thành ở Đức có chiều dài 550 km từ phía tây bắc của Đức đến sông Danube ở phía đông nam. Bức tường Hadrian dài 118 km được xây dựng theo lệnh của Hoàng đế Hadrian năm 122 TCN ở giới hạn cực bắc của tỉnh Britannia của La Mã. Đây là một ví dụ nổi bật về việc tổ chức một khu quân sự và minh họa các kỹ thuật phòng thủ và chiến lược chính trị của La Mã cổ đại. Bức tường Antonine, một pháo đài dài 60 km ở Scotland được Hoàng đế Antoninus Pius bắt đầu cho xây dựng vào năm 142 như là một tuyến phòng thủ quốc phòng chống lại "người Barbarian" ở phía bắc. Nó tạo thành phần tây bắc của toàn bộ biên thành La Mã.
Các ví dụ đáng chú ý nhất của Biên thành La Mã bao gồm:
Đường biên giới tại Đức.
Tại Đức, bức tường thành đầu tiên được xây dựng vào năm 83 TCN, kéo dài từ sông Rhein tới dãy núi Taunus cùng với đó là nhiều pháo đài mới được xây dựng. Tiếp sau đó, dưới thời hoàng đế Claudius, hoàng đế Domitian, hoàng đế Traianus, tường thành được mở rộng qua các con sông về phía Bắc và một số pháo đài đã được xây dựng như pháo đài Trajan.
Trong thế kỷ thứ 2, dưới thời hoàng đế Hadrian, vật liệu đá được sử dụng để thay thế cho các hàng rào, tháp canh bằng gỗ.
Biên thành tại Anh.
Thế kỷ 2 TCN, La Mã mở rộng xâm lược vượt ra khỏi vùng núi Alps, hướng tới xứ Gaul, Germania, vượt qua eo biển Manche tới lãnh thổ nước Anh. Người tiên phong đó là hoàng đế Julius Caesar nhưng chưa thể thành công, phải đến thời hoàng đế Claudius, Anh mới bị chinh phục. Mặc dù vậy, La Mã đã bị sự chống trả quyết liệt bởi Agricola ở phía Bắc Scotland. Hadrian ra lệnh tấn công nhiều lần nhưng không thành công, vì vậy đường ranh giới Stanegate, tuyến phòng thủ lớn nhất được xây dựng bằng đá từ Tyne-Solway, sau đó là các tuyến phòng thủ Antonine, hoàn chỉnh hơn dưới thời Septimius Severus nhằm ngăn chặn sự xâm lược của các bộ tộc phía Bắc xâm lược vào lãnh thổ La Mã ở Anh.
Sau khi đế chế La Mã suy tàn, các bức tường nhanh chóng bị những hư hại bởi tự nhiên, bắt đầu từ các đoạn tường thành là các hàng rào gỗ. Sau đó, thời trung cổ, đá ở các tường thành bị lấy để xây dựng lâu đài, nhà ở, nông trại cùng với đó là hoạt động khai thác than trong khu vực, các khu dân cư mở rộng khiến nó bị hư hại nghiêm trọng.
Di sản tường thành thời La Mã bao gồm 193 cụm nằm tại hai quốc gia Đức và Vương quốc Anh được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1987. | 1 | null |
PSL (Puşcă Semiautomată cu Lunetă model 1974) là loại súng bắn tỉa bán tự động dùng cho lính thiện xạ của lực lượng quân đội România được phát triển vào đầu những năm 1970. Nó còn được biết với tên PSL-54C, Romak III, FPK, FPK Dragunov và SSG-97. Việc chế tạo được đảm nhiệm bởi xưởng công binh RATMIL vào khoảng năm 1973. Mặc dù vẻ ngoài của loại súng này rất giống khẩu Dragunov SVD nhưng trên thực tế súng được phát triển từ khẩu RPK nên có những khác biệt đáng chú ý trong chi tiết và cấu trúc nếu quan sát kỹ cũng như cấu tạo của súng hoàn toàn khác với SVD. Súng được thông qua và trang bị cho lực lượng quân đội Romania cũng như dùng để xuất khẩu. Súng cho độ chính xác khá khác nhau nhưng thường thì từ 1 đến 3 MOA với loại đạn tốt.
Thiết kế.
PSL sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén với hệ thống trích khí dài cùng thoi nạp đạn xoay với hai móc khóa lớn khóa viên đạn cố định. Thân súng làm bằng thép ép, cơ chế điểm hỏa và khóa an toàn của súng giống như AK nhưng súng chỉ có chế độ bán tự động. Hộp đạn rời của súng chứa 10 viên, báng súng và ốp lót tay của súng được làm bằng gỗ. Nòng súng tích hợp các bộ phận chống giật và gắn lưỡi lê nhưng phiên bản xuất khẩu của súng thì có thể không có các bộ phận này.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là ống nhắm 4x24 LPS 4x6° TIP2 một bản sao đơn giản của ống nhắm PSO-1 phổ biến của Nga với thanh răng nằm phía bên thân súng giống như khẩu SVD, ống nhắm sẽ được gắn cố định vào bằng chốt lò xo ấn vào đai ốc có lỗ để gài chốt. Ống nhắm sử dụng đồng vị phóng xạ triti để có chế độ khuếch đại ánh sáng và bắt sáng trong đêm. Ngoài ra súng cũng có điểm ruồi dự phòng có tầm nhắm từ 100 đến 1200 m. | 1 | null |
là con gái duy nhất của Thiên hoàng Naruhito và Hoàng hậu Masako, cháu gái của Thượng hoàng Akihito và Thượng Hoàng hậu Michiko. Aiko hiện là người đứng đầu và là thành viên duy nhất của nhánh Kính cung, hoàng gia Nhật Bản.
Tiểu sử.
Nội Thân vương ra đời lúc 14 giờ 43 phút giờ địa phương, ngày 1 tháng 12 năm 2001 tại Bệnh viện Cung nội sảnh trong khuôn viên Hoàng cung Tokyo. Hoàng nữ được đặt tên là , cung hiệu . Tên của Hoàng nữ được cha mẹ cô đặt trong lễ đặt tên 7 ngày sau, ngày 7 tháng 12.
Tên và cung hiệu của hoàng nữ được đặt tên lấy ý từ một câu trong Mạnh Tử, nguyên văn: "Nhân giả Ái nhân, hữu lễ giả Kính nhân, ái nhân giả nhân hằng ái chi, kính nhân giả nhân hằng kính chi."
Hoàng nữ xuất hiện lần đầu trước công chúng trong ngày lễ Trẻ em ngày 1 tháng 5 năm 2005 cùng bố mẹ tại khu Hibiya, Tokyo.
Năm 2008, Hoàng nữ nhập học Gakushuin theo truyền thống Hoàng gia.
Năm 2010, Nội thân vương bị các nam sinh cùng trường bắt nạt vào đầu tháng 3 , tới ngày 2 tháng 5 cùng năm thì cô trở lại trường học nhưng hạn chế tham dự các lớp học và chỉ vào lớp khi có mẹ đi cùng.
Tháng 11 năm 2011, cô mắc bệnh viêm phổi. Năm 2014, cô nhập học Trường nữ Trung học Gakushuin.
Năm 2018, Aiko lần đầu tiên đi nước ngoài một mình khi sang Anh tham gia khoá hè tại Trường Cao đẳng Eton. Sau khi về nước, cô tự tin trả lời báo chí và đảm nhiệm vai trò MC cho đội múa của trường. Theo nhiều nguồn giấu tên, Aiko cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tinh thần cho mẹ cô, Masako, khi bà lên làm Hoàng hậu.
Tháng 4 năm 2020, Aiko nhập học Trường Đại học Gakushuin, Tokyo, chuyên ngành Ngôn ngữ học và Văn học Nhật Bản.
Sở thích của Aiko là viết thư pháp, làm thơ, nhảy dây và chơi violin cùng piano.
Vấn đề kế vị.
Việc Hoàng gia không có hoàng nam kế vị trong gần 10 năm từ khi Đương kim Thiên Hoàng thành hôn dẫn tới cuộc tranh luận công khai đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản hiện đại về việc sửa đổi luật để cho phép Hoàng nữ kế ngôi.
Koizomi Junichiro, Thủ tướng Nhật Bản lúc bấy giờ, phát biểu trong một hội nghị năm 2006 rằng ông có ý định trình một dự luật ra quốc hội nhằm mở đường cho việc thay đổi luật Hoàng thất. Dự luật được trình ra quốc hội tháng 1 năm 2006.
Dự luật này được hủy bỏ sau khi em họ của Nội thân vương Aiko là Thân vương Hisahito, trưởng nam của Thân vương Fumihito được hạ sinh ngày 6 tháng 9 năm 2006. Theo luật Hoàng nam sẽ kế tục ngôi Thiên hoàng sau bác mình là Thiên hoàng Naruhito và cha mình là Thân Vương Fumihito. | 1 | null |
Gabdulkhay Khuramovich Akhatov (tiếng Nga: Габдулхай Хурамович Ахатов) (1927 – 1986) là một nhà khoa học, Đông Phương học, ngôn ngữ học người Nga.
Lĩnh vực nghiên cứu: đông phương học, nhóm ngôn ngữ Turk, hệ ngôn ngữ Altai, tiếng Tatar.
Góp phần hình thành và phát triển của các thổ ngữ Turkic, từ điển học.
Nhà khoa học này là tác giả của hơn 200 bài báo khoa học và chuyên khảo.
Ông là người tổ chức và lãnh đạo của một số cuộc thám hiểm khoa học.
Giáo sư Gabdulkhay Khuramovich Akhatov là một polyglot - ông biết hơn 20 ngôn ngữ. | 1 | null |
Cuộc vây hãm Rocroi là một trận vây hãm trong chiến dịch chống Pháp của quân đội Phổ–Đức vào các năm 1870 – 1871, đã diễn ra trong tháng 1 năm 1871 tại Rocroi – một pháo đài của Pháp nằm về hướng tây Sedan. Sau một cuộc pháo kích do quân đội Phổ thực hiện, người sĩ quan chỉ huy của quân đội Pháp tại pháo đài Rocroi đã bị buộc phải đầu hàng các lực lượng Phổ thuộc Sư đoàn Dân quân dưới quyền tướng Schuler von Senden do tướng Von Woyna II chỉ huy. Với thành công trong cuộc bao vây Rocroi, quân đội Phổ đã thu được về tay mình hàng trăm tù binh (trong số đó có một vài sĩ quan) cùng với không ít kho dự trữ, trang phục và đại bác hạng nặng của người Pháp. Trong trận bao vây này, thị trấn Rocroi đã bị phá hủy nặng nề. Sự thất thủ của Rocroi ghi dấu một trong những chiến thắng liên tiếp của quân đội Đức trong cuộc chiến tranh.
Pháo đài Rocroi nhỏ bé, nằm ở biên giới Pháp – Bỉ, tọa lạc trên một cao nguyên nhiều đồi núi tại vùng rừng Ardennes, các Mézières về phía tây bắc, đã từng bị quân đội Phổ đánh chiếm vào năm 1815 trong những cuộc chiến tranh của Napoléon. Sau khi quân Phổ dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Wilhelm von Woyna hạ được pháo đài Mézières vào ngày 2 tháng 1 năm 1871, sư đoàn số 14 của Phổ đã được nghỉ ngơi trong vòng vài ngày để dàn xếp cho các hoạt động quân sự tiếp theo của họ. Để đỡ tốn thời gian và vật liệu cho các cuộc phong tỏa pháo đài như những trận vây hãm trước đó trong cuộc chiến, người Đức đã quyết định đánh chiếm Rocroi bằng một cuộc tấn công đột ngột. Và, vào ngày 4 tháng 1, nhằm đánh úp Rocroi, các lực lượng bộ binh và kỵ binh Đức thuộc sư đoàn của tướng Von Senden, cùng với các khẩu đội pháo dã chiến đã xuất quân. Họ đã tiếp cận với pháo đài vào cuối ngày hôm đó, và bầu trời chạng vạng sáng ngày 5 tháng 1 đã ngăn ngừa quân Pháp trong pháo đài thực hiện trinh sát. Họ hoàn toàn bất ngờ trước sự hiện diện của đối phương – một minh chứng cho tài nghệ của người Phổ trong việc thực hiện chiến dịch. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, quân Phổ đã hợp vây được Rocroi, song khi người Đức đề nghị viên sĩ quan chỉ huy quân trú phòng Pháp đầu hàng, sương mù trong buổi sáng đã che khuất các đoàn quân Đức ở phía trước Rocroi. Người sĩ quan chỉ huy của Pháp đã từ chối đầu hàng, và quân đội Đức đã tiến hành công pháo vào Rocroi. Trước tình hình đó, nhiều binh sĩ thuộc lực lượng "Garde Mobile" của Pháp phải trốn chạy, và đám cháy đã bùng lên trong thị trấn. Cuộc kháng cự quyết liệt của lực lượng pháo binh Pháp đã thất bại, và cuộc pháo kích của quân Đức đã đem lại thắng lợi quyết định cho họ. Đến chiều tối, một sĩ quan Đức được lệnh kêu gọi quân Pháp đầu hàng và người sĩ quan này đã nhận thấy tình cảnh rối ren của quân đội Pháp đồn trú và thị dân ở Rocroi.
Người sĩ quan chỉ huy của quân đội Pháp đồn trú đã thúc bách quân đội Đức có lẽ nên tiến nhanh vào Rocroi – pháo đài duy nhất bị quân Đức chiếm bằng một cuộc đột kích trong chiến tranh. Với cuộc đầu hàng của quân Pháp, quân Đức đã kéo vào thị trấn và ngừng bắn. Gần một nửa số lượng lính pháo binh Pháp tại Rocroi đã bỏ chạy, phần còn lại bị đưa về nước Đức. | 1 | null |
Sở Dục Hùng (chữ Hán: 楚鬻熊), còn đọc là Chúc Hùng, hay Huyệt Hùng (穴熊), lại có tên là Quý Liên (季连), được xem là người đặt nền móng của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Tổ tiên.
Theo huyền sử, tổ tiên ông là dòng dõi Đế Chuyên Húc, một trong Ngũ Đế, Chuyên Húc sinh Xứng, Xứng sinh Quyển Chương, Quyển Chương sinh Trọng Lê và Ngô Hồi. Trọng Lê và Ngô Hồi đều làm quan dưới triều Đế Khốc, do lập được công dẹp loạn Cộng công nên được phong làm Hỏa thần, tức Chúc Dung.
Ngô Hồi sinh Lục Chung, Lục Chung có sáu người con là Côn Ngô, Tham Hồ, Bành Tổ, Hội Nhân, Tào An và Quý Liên. Quý Liên lập ra họ Mị, còn gọi là Hùng. Quý Liên được xem là tiên tổ của các vua Sở sau này.
Sự nghiệp.
Sau Quý Liên sinh Phụ Tự, Phụ Tự sinh Huyệt Hùng. Hậu duệ của Huyệt Hùng làm dân thường ở rải rác khắp nhân gian, đến đời Dục Hùng ở vào cuối thời kỳ Thương Ân từng làm thủ lĩnh của bộ lạc ở phía nam Triều Ca. Dục Hùng thấy vua Trụ vô đạo đã chạy sang nước Chu theo phò tá Tây Bá Hầu Cơ Quý Lịch, ông từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương. Do có công trong việc tiêu diệt nhà Thương nên được phong cho đất Kinh, con ông là Hùng Lệ và cháu ông là Hùng Cuồng đều được phong khanh sĩ trong triều Chu.
Không rõ năm sinh và mất của ông. Sau khi ông chết, con là Hùng Lệ thế tập. | 1 | null |
Lời thề Hypocrat là một bộ phim về đề tài y đức của đạo diễn Phạm Thanh Phong, ra mắt lần đầu năm 2001.
Nội dung.
Bộ phim xoay quanh việc mỗi sinh viên ngành y trước khi ra trường và được công nhận là một bác sĩ đều phải tuyên thệ lời thề danh dự Hippocrate, một lời thề luôn tận tụy với bệnh nhân và nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, đã có không ít những con sâu làm rầu nồi canh. Phim phản ánh hiện thực ngành y trong xã hội Việt Nam.
Nhạc phim.
Ca khúc chủ đề: Nói với anh<br>Sáng tác: Trọng Đài<br>Thể hiện: Mai Hoa
Liên kết ngoài.
Chuyện bên lề bộ phim "Lời thề Hypocrat" "Vnexpress" // Thứ sáu, 28/09/2001 10:21 GMT+7 | 1 | null |
Sở Hùng Lệ (chữ Hán: 熊麗, trị vì ?-?), được xem là vị vua thứ hai của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Dục Hùng, người được xem là vị vua đầu tiên của nước Sở. Do có công phò tá nhà Chu tiêu diệt nhà Thương, Dục Hùng được phong làm quan trong triều Chu. Sau khi Dục Hùng mất, ông được thế tập ngôi khanh của cha và cương vị thủ lĩnh các bộ tộc ở đất Kinh.
Không rõ Hùng Lệ mất năm nào. Sau khi ông chết, con là Sở Hùng Cuồng được thế tập. | 1 | null |
Sóng ở đáy sông là một bộ phim truyền hình sản xuất bởi Hãng phim truyện Việt Nam cùng Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội do Lê Đức Tiến làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu. Phim phát sóng lần đầu vào năm 2000 trên kênh của Đài Truyền thanh Hà Nội.
Nội dung.
"Sóng ở đáy sông" xoay quanh cuộc đời Núi (Xuân Bắc) – con của người vợ lẽ sống trong một gia đình tư sản thời cũ. Từ nhỏ, Núi cùng hai em Sông (Mạnh Quân) và Biển (Phạm Minh Nguyệt) đã không được bố là Ông Đại (Duy Hậu) chấp nhận làm con và luôn tìm cách để tống khứ ra khỏi nhà. Khi chiến tranh nổ ra, lợi dụng việc di tản của thành phố, Núi và hai em bị gửi về quê ngoại. Tại đây, cậu có mối tình đầu với một người cô họ hàng xa tên Hiền (Thu Hường) và khiến cô có thai. Sau khi gia đình phát hiện sự việc, Hiền đã bỏ đi nơi khác. Tai họa ập đến khi mẹ Núi mất, bố bỏ rơi ba anh em. Hết kế sinh nhai, Núi trở thành kẻ cắp và phải đi tù nhiều lần, sống trong kiếp giang hồ. Sau đó, Núi gặp Mây (Kim Oanh) và làm cô có thai, nhưng cô bỏ đi theo tình cũ sang Trung Quốc buôn lậu. Núi gặp lại Hồng (Nguyễn Như Hiền), người bạn của Hiền sau 15 năm, định nên duyên vợ chồng thì Mây mang con về. Mây đánh ghen và khiến Hồng phải bỏ đi. Được ít bữa Mây lại bỏ con đi mất. Núi lặn lội ôm con đi tìm Mây nhưng Mây nhất quyết không về. Để kiếm tiền nuôi con, Núi đành đi ăn xin, ăn cắp một thời gian, rồi gửi con ở quê để lên Hà Nội buôn bán. Nhưng vì một lần ăn cắp do thiếu vốn làm ăn mà cậu bị bắt lại vào tù. Trong thời gian ở tù, Hồng có đến thăm và cho Núi biết tin tức mẹ con Hiền, nhờ đó mà Núi đã liên lạc được với họ. Sau cùng, khi gặp lại Hiền cùng con thì Núi được cảm hóa và trở lại với con đường thiện lương.
Diễn viên.
Phụ.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Hải Phòng tuổi thơ" do Mạnh Đông phổ thơ, Hoàng Lương sáng tác và Huy Hùng cùng Thúy Lan thể hiện.
Sản xuất.
Đạo diễn của bộ phim là Lê Đức Tiến. Kịch bản phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu và dựa trên câu chuyện của một tử tù có thật người Hải Phòng mà ông từng gặp mặt ở trại tù Phi Liệt cuối năm 1992. Trước đó, tiểu thuyết đã được đăng lại dài kỳ trên tờ "Báo Hải Phòng", khiến nhiều người háo hức đón xem bản phim.
Bộ phim là tác phẩm đầu tiên đánh dấu điểm khởi đầu sự nghiệp diễn xuất của Kim Oanh. Để nhận đóng vai chính trong phim, Xuân Bắc từng được nữ diễn viên Phương Thanh âm thầm trợ giúp khi biết anh là người cùng quê. Quá trình sản xuất bộ phim diễn ra trong hai năm 1998―1999 và phim phát sóng lần đầu vào năm 2000 trên kênh thuộc Đài Truyền thanh Hà Nội.
Đón nhận.
Tại thời điểm phát sóng, bộ phim đã thu hút sự quan tâm từ đông đảo khán giả và làm nên tên tuổi của nhiều diễn viên tham gia, cũng như giúp tác phẩm gốc được nhiều người tìm đọc. Thậm chí, trong thời gian phim đang phát sóng, một vài người tự xưng là nguyên mẫu trong tiểu thuyết gốc đã đến tận nhà của Lê Lựu để đòi chia tiền nhuận bút. Điểm thu hút của tác phẩm được cho là nằm ở cách "khắc họa sâu sắc nhiều vấn đề của xã hội" và "thể hiện cuộc đời một con người với biết bao thăng trầm". Phim cũng "lấy đi rất nhiều giọt nước mắt của khán giả" và đến nhiều năm sau này, "Sóng ở đáy sông" vẫn xuất hiện trong danh sách những bộ phim mà giới trẻ xem.
Diễn xuất của Xuân Bắc trong phim là một sự thành công và được xem là vai diễn để đời của anh; nhiều năm sau khi tác phẩm lên sóng, anh vẫn được nhiều người gọi thân mật là "anh Núi" theo tên nhân vật trong phim. Diễn viên Kim Oanh sau sự đón nhận tích cực của bộ phim đã bị "chết vai" khi phải nhận những vai phản diện và xảo quyệt trong các tác phẩm sau này mà cô tham gia. Đây cũng là một trong những vai diễn thành công nhất của cô. Diễn viên Duy Hậu vì khắc họa nhân vật quá đạt mà từng bị một bà già đánh lúc gặp trên đường; nhiều người thân của ông nói rằng nhân vật ông vào vai đáng ghét đến mức "hễ bật tivi lên mà thấy mặt [...] chỉ muốn lấy guốc mà đập tan cái tivi".
Báo "Lao Động" đã liệt kê "Sóng ở đáy sông" vào trong số những bộ phim truyền hình Việt từng gây sốt một thời. Báo "VietNamNet" thì ghi nhận diễn xuất tròn vai của dàn diễn viên đã tạo nên sức hấp dẫn cho phim. "Tạp chí Văn nghệ Quân đội" đồng quan điểm, nhận xét "kịch bản phim chặt chẽ, chân thực, xúc động, giàu tính nhân văn" cùng "khả năng nhập vai "rất ngọt"" của các diễn viên chính đã giúp bộ phim trở thành một hiện tượng của truyền hình Việt Nam những năm 2000.
Vào năm 2015, tác phẩm đã được phát lại trên kênh Phim Việt – VTVcab 2 và sau đó là BTV2 trong năm 2020. | 1 | null |
Thu Tiểu cung (Kanji: 秋篠宮; "Akishino-no-miya") là một nhánh trong Hoàng thất Nhật Bản với người đứng đầu là Thân vương Fumihito.
Nhánh này được thành lập năm 1990 sau đám cưới của Thân vương Fumihito và Thân vương phi Kiko với sự đồng ý của Hội đồng Hoàng gia.
Các thành viên.
Thành viên.
Komuro Mako, con gái cả của Thân vương Fumihito, từng là một thành viên của nhánh này, nhưng cô đã từ bỏ tước vị và rời khỏi hoàng gia sau khi kết hôn với Komuro Kei. | 1 | null |
Mẹ con Đậu Đũa là một bộ phim điện ảnh truyền hình được thực hiện bởi Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh do Trương Dũng làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyên Hương. Phim phát sóng lần đầu vào ngày 28 tháng 1 năm 1998 (tức mùng 1 Tết Nguyên Đán) trên kênh HTV9.
Nội dung.
Mẹ Ðậu Ðũa qua đời khi Đậu Đũa (Thiên Tú) còn rất nhỏ, vì vậy Cha Đậu Đũa (Công Ninh) phải lâm vào cảnh "gà trống nuôi con". Bằng tình thương yêu và sự dạy dỗ nghiêm khắc của cha, Ðậu Ðũa vẫn dần lớn lên trong những niềm vui, hạnh phúc trẻ thơ mặc dù thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người mẹ. Trong một lần đi thi "Bé khoẻ, Bé ngoan", cha con Ðậu Ðũa tuy có phần ngượng ngập, đôi khi gây cười cho những bà mẹ khác, nhưng cuối cùng hai người đã gây được xúc động cho mọi người xung quanh.
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Sản xuất.
Phim được sản xuất và phát sóng lần đầu vào ngày mùng 1 Tết năm 1998. Ý tưởng để làm nên bộ phim bắt đầu từ khi đạo diễn Trương Dũng đọc tác phẩm truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyên Hương; vì nội dung truyện chứa tinh thần của cuộc sống trên vùng Tây Nguyên, cũng là quê hương của đạo diễn, ông đã quyết định sẽ bắt tay vào thực hiện phim. Việc chuyển soạn kịch bản do nhà biên kịch Ngụy Ngữ thực hiện, với thời lượng dài 100 phút.
Người đầu tiên được Trương Dũng chọn vào nhân vật ông bố đơn thân là nam diễn viên Công Ninh, dù khi đó ông vẫn chưa lập gia đình. Trong một cuộc phỏng vấn, Công Ninh đã cho biết lý do ông nhận vai diễn này là vì có ấn tượng rất tốt về những thanh niên xung phong. Thời điểm được giao vai trong phim, diễn viên Tuyết Dung mới chỉ vừa tốt nghiệp Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nhân vật do cô vào vai lúc đó đã ngoài 30 tuổi. Trước khi diễn viên Thiên Tú được chọn vào vai chính Đậu Đũa trong phim, một diễn viên nhí khác đã được đạo diễn giao vai diễn này. Bộ phim được khởi quay ở Bảo Lộc, nhưng ngay lúc mới thực hiện cảnh đầu tiên khi nhân vật người cha ẵm con lên hôn, diễn viên nhí kia đã khóc vì bị râu của Công Ninh đâm vào da và không thể diễn tiếp được. Cuối cùng, đoàn phim phải cử người đi tìm diễn viên thay và nữ diễn viên Thiên Tú, lúc đó mới 5 tuổi, thông qua mối quan hệ với nhân viên hóa trang trong đoàn phim, đã nhanh chóng được chọn sau khi thử vai vào cảnh nhân vật bé Đậu Đũa ngất xỉu giữa chợ. Trong suốt quá trình làm phim, Thiên Tú đều có nguyên tắc là không bao giờ quay quá 12 giờ trưa và luôn yêu cầu ngủ một giấc vào buổi trưa, mỗi khi cô giận thì phải để cho cắn mới hết buồn; cũng vì vậy mà đạo diễn Trương Dũng từng bị Thiên Tú cắn nhiều lần trước và sau những cảnh quay có mặt cô. Thậm chí, có phân cảnh phải để hai nhân vật chính bị đất bắn lên mặt, khi cảnh phim được thực hiện và đất văng vào Thiên Tú, cô bé đã sợ "đến phát khóc" và cuối cùng cả đoàn phim phải nghỉ quay một tuần để "dỗ" diễn viên vì quá sợ hãi.
Việc tìm đạo cụ cho bộ phim đã gặp phải nhiều khó khăn do thiếu thốn về kinh tế lúc bấy giờ. Vì muốn đặc tả bụng bầu của diễn viên một cách cận cảnh, đạo diễn Trương Dũng cùng thiết kế mỹ thuật Mã Phi Hải phải lên Bảo Lộc trước một tuần để tìm hiểu cách làm bụng bầu. Cuối cùng, hai người quyết định chọn cách mua bao cao su đổ nước vào, làm "bụng bầu" cho diễn viên.
Đón nhận.
Tại thời điểm phát sóng, bộ phim đã chiếm được cảm tình của đông đảo khán giả cũng như trở thành tác phẩm có nhiều thế hệ người xem yêu mến, được cho là bởi cốt truyện xúc động giàu tính nhân văn cùng diễn xuất chân thật của dàn diễn viên. Phim đã được phát đi phát lại nhiều lần liên tục trên truyền hình nhưng thời điểm đó vẫn thu hút nhiều khán giả theo dõi, đặc biệt đối với phụ nữ vì "mủi lòng" trước hoàn cảnh của nhân vật trong phim. "Mẹ con Đậu Đũa" cũng được coi là một cái tên đáng nhớ của truyền hình Việt Nam thập niên 1990 và 2000. Sau này, trong một tập của chương trình "Ký ức vui vẻ" phát sóng vào tháng 2 năm 2021, theo đó dàn diễn viên của bộ phim đều xuất hiện và kể về ký ức khi làm phim, diễn viên Hạnh Thúy đã nhận định đây là một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của TFS.
Phim được coi là tác phẩm tạo nên tên tuổi của đạo diễn Trương Dũng và đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình ông về sau này, còn Công Ninh thì được xem là một trong những ông bố nổi tiếng nhất của màn ảnh Việt từ trước đến nay. Vai diễn trong tác phẩm đã giúp Hạnh Thúy nhận được nhiều lời mời đóng phim truyền hình lẫn điện ảnh. Tác phẩm cũng đoạt giải video được yêu thích nhất trong vòng mười năm và đem về cho Thiên Tú giải Diễn viên nhí được yêu thích nhất tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12.
Trong một số của Tạp chí "Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật" xuất bản năm 1999, "Mẹ con Đậu Đũa" đã được liệt kê cùng với những phim khác như là một số ít các tác phẩm "có giá trị nhất định về tư tưởng – nghệ thuật" và "được thể hiện khá nghiêm túc" trong số những bộ phim khác có chất lượng phức tạp và "không quản lý nổi". | 1 | null |
Pháo không giật B-10 (Tiếng Nga: Bezotkatnoye orudie-10) là loại pháo không giật nòng trơn cỡ 82 mm do Liên Xô thiết kế và sản xuất, được đưa vào sử dụng từ năm 1954 đến nay. Loại súng không giật này được thiết kế nhằm thay thể cho khẩu SPG-82 sử dụng từ Thế Chiến thứ hai. Đến đầu những năm 1960, B-10 được bổ sung và thay thế bằng súng chống tăng không giật SPG-9 cỡ nòng 73 mm. Loại pháo này có thể mang trên xe bọc thép BTR-50 và thích hợp trang bị cho các đơn vị dù. Giống như các loại súng không giật khác, ở Việt Nam, B-10 được gọi chung là súng DKZ hoặc SKZ, tên định danh của nó trong Quân đội Nhân dân Việt Nam là DKZ82-B10 (súng DKZ cỡ nòng 82 mm tên B-10).<
Đặc điểm và sử dụng.
B-10 được thiết kế bởi phòng thiết kế khí cụ quân sự KBM ở Kolomna - phòng thiết kế vũ khí chống tăng tiếng ở Liên Xô cũ, sau này các vũ khí chống tăng hiện đại của Liên Xô cũng được thiết kế tại đây như tên lửa 3M6 Shmel, 9M14 Malyutka, pháo không giật B-11 cùng các loại súng cối và súng DKZ khác. Nó được thiết kế với hình dáng nhỏ nhẹ hơn so với SPG-82 nhằm dễ mang theo, vận chuyển. B-10 có 1 giá 3 chân cùng 2 bánh xe có thể gập lại dễ dàng để kéo đi. Đạn được nạp từ phía sau lên súng, khi bắn, B-10 không phun lửa mà chỉ tỏa ra khói, hệ thống chống giật nằm ở nòng súng chính là bộ phận giúp chống giật cho súng. B-10 được trang bị 1 ống ngắm quang học PBO-2
Lịch sử hoạt động.
Cuộc chiến nổi tiếng nhất mà B-10 được sử dụng là Chiến tranh Việt Nam. Nó đã được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng rất hiệu quả trong nhiệm vụ chống tăng-thiết giáp, tiêu diệt bộ binh, phá bãi mìn vật cản, tiêu diệt công sự. Rất nhiều xe tăng M-41, M-48 và xe bọc thép M-113 của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị tiêu diệt bằng nhiều loại súng DKZ trong đó có B-10.
Ngày nay, do các loại xe tăng ngày càng có vỏ giáp dày hơn, còn được bảo vệ bằng ERA nên B-10 chỉ cón có thể tiêu diệt các loại tăng thiết giáp có vỏ giáp mỏng còn đối với xe tăng được bảo vệ ERA thì nó gần như vô dụng.
Hiện đại hóa.
Cục Kỹ thuật Binh chủng Pháo binh, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chủ trì thực hiện đề tài "Cải tiến giá chuẩn bị phần tử bắn đêm của các loại súng ĐKZ" nhằm phục vụ pháo thủ chuẩn bị các phần tử bắn đêm một cách chính xác, nhanh chóng, bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ và tiếp tục giảm khối lượng mang vác của bộ đội trong quá trình huấn luyện. Qua một thời gian nghiên cứu, các tác giả đã chế tạo thành công giá chuẩn bị phần tử bắn ban đêm với nhiều ưu điểm nổi trội so với sản phẩm cũ. Giá gồm 4 bộ phận chính: Bộ phận tầm; bộ phận hướng; chân giá và bộ phận lắp kính ngắm với kết cấu gọn nhẹ, có thể thu gọn khi mang vác. Giá chuẩn bị phần tử bắn đêm có độ chính xác và độ bền cao, sử dụng rất thuận tiện trong huấn luyện và chiến đấu. Giá có thể sử dụng được cho các loại súng ĐKZ khác nhau như: ĐKZ82-B10, ĐKZ82-K65, ĐKZ75-K56 và có thể sử dụng rộng rãi trong toàn quân.
Đặc điểm kỹ thuật.
- Nước sản xuất: Liên Xô
- Khối lượng chiến đấu (kg): 86
- Tầm bắn thẳng (m): 390
- Sơ tốc đạn (m/s):
+ Đạn lõm : 322m/s
+ Đạn nổ :320m/s
- Khả năng xuyên thép (mm): 150
- Tốc độ bắn (phát/ph): 6
- Khối lượng đầu đạn lõm (kg): 3,89
- Nước sản xuất: Trung Quốc
- Khối lượng chiến đấu (kg): 35
- Tầm bắn thẳng (m): 300
- Sơ tốc đạn (m/s): 310
- Khả năng xuyên thép (mm): 180
- Tốc độ bắn (phát/ph): 6
- Khối lượng đầu đạn lõm (kg): 3,46 | 1 | null |
Feliks Zemdegs (sinh ngày 20 Tháng 12 năm 1995 tại Melbourne, Australia) là một cuber (người chơi rubik chuyên nghiệp) người Australia. Anh đã vô địch thế giới về bộ môn giải rubik 3x3 ở giải vô địch thế giới 2013 và 2015. 3x3, 4x4, 5x5, 6x6, 7x7 anh đều đã từng giữ kỉ lục thế giới. Feliks đã mua chiếc rubik đầu tiên của mình vào tháng 4 năm 2008 sau khi xem một video của speedcubing và hướng dẫn giải rubik trên Youtube. Feliks được mệnh danh là Cuber xuất sắc nhất thế giới với hàng loạt kỉ lục thế giới bị anh phá vỡ.
Kỉ lục không chính thức đầu tiên (tức chưa ra các giải đấu) của Feliks là 19,73 giây vào ngày 14 Tháng Sáu năm 2008.
Feliks đã tham gia và chiến thắng lần đầu tiên tại giải vô địch New Zealand (tháng 7 năm 2009) với thời gian trung bình 13,74 giây ở vòng cuối cùng. Ở giải này Feliks cũng đã đồng thời giành vinh quang ở các thể loại 2x2, 4x4, 5x5, 3x3 bịt mắt và 3x3 một tay.
Tại giải đấu thứ hai Feliks tham dự, Melbourne Summer Open (tháng 1 năm 2010), Feliks đã lập kỷ lục thế giới đầu tiên của mình cho thể loại 3x3x3 và 4x4x4 trung bình, với thời gian 9,21 giây và 42,01 giây. Kể từ đó Feliks đã phá vỡ rất nhiều kỉ lục như được liệt kê trong bảng dưới đây.
Kỷ lục hiện tại của Feliks(3x3x3):
- Kỷ lục cá nhân chính thức là 4,16s.
- Kỷ lục cá nhân không chính thức có video: 3,28s
- Kỷ lục cá nhân không có video là 3.01
Phương pháp sử dụng.
2x2x2:CLL
3x3x3:CFOP
4x4x4:Yau
5x5x5-7x7x7:Freeslice
Kỉ lục.
Những thành tích đáng nể:
- Sau 2 tháng kể từ khi Feliks bắt đầu chơi rubik, cậu đã đăng một kỷ lục không chính thức của mình 19,73s với trung bình 5 lần giải. Không lâu sau đó, vào ngày 22 tháng 6 năm 2008, Feliks đã đăng tải video đầu tiên của mình lên youtube với thành tích đơn 22.64s.
- Một năm sau, vào tháng 7 năm 2009, Feliks đã tham dự cuộc thi New Zealand Speed Cubing 2009 và đoạt quán quân ở cuộc thi 2x2, 3x3, 4x4, 5x5, 3x3 một tay (One Handed).
- Vào tháng 1 năm 2010, tại chính quê nhà Melbourne của Feliks, cậu đã lập kỉ lục thế giới về giải rubik 3x3 Trung bình với thành tích 9.21s. Cũng tại chính cuộc thi đó, Feliks đã lập một kỉ lục thế giới 4x4 trung bình với thành tích 42.01s.
- Tháng 7 năm 2010, Feliks trở lại New Zealand để tham gia cuộc thi tại nước này. Trong cuộc thi, Feliks đã lập một kỉ lục 3x3 cá nhân chính thức (Former World Record) của mình với thành tích 7.94s.
- Sau đó 2 tháng, vào tháng 9 năm 2010, Feliks đã phá kỉ lục 3x3 cá nhân của mình tại cuộc thi ở quê nhà Melbourne với thành tích 7.43s
- Vào ngày 6 tháng 5 năm 2018, anh đã có thêm kỉ lục thế giới 3x3 bằng cách đạt thành tích 4.22s, tại giải Cube for Cambodia 2018.
-Khá đáng tiếc là vào ngày 24 tháng 11 năm 2018, anh mất kỉ lục thế giới 3x3x3 đơn vào tay của một cuber Trung Quốc, tên là Yusheng Du (杜宇生) tại giải Wuhu Open 2018 với thành tích đáng nể là 3.47 giây.
-2019, anh tiếp tục phá với kỉ lục thế giới 3x3x3 trung bình của chính mình với thành tích là 5.53 giây tại giải Odd Day in Sydney 2019.
Cột mốc.
Feliks Zemdeg là người đầu tiên đạt: | 1 | null |
Hoa cỏ may là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Lưu Trọng Ninh làm biên kịch, đạo diễn. Phần 1 và phần 2 của phim phát sóng lần đầu trong khung giờ "Điện ảnh chiều thứ bảy" vào năm 2001 trên kênh VTV3, phần 3 của phim phát sóng vào lúc 20h45 thứ 2, 3, 4 hàng tuần bắt đầu từ ngày 11 tháng 10 năm 2017 và kết thúc vào ngày 16 tháng 1 năm 2018 trên kênh VTV1.
Phim gồm 3 phần: "Thời niên thiếu" - 5 tập và "Những ngày bình yên" - 9 tập (phát liền nhau), "Những ngày giông bão" (39 tập).
Nội dung.
Hoa cỏ may theo chân một nhóm bạn trẻ gồm gồm 7 người: Na, Hương, Hùng, Thái, Thủy, Bình, Tiến. Lớn lên trong thời bao cấp, dù ở nhiều miền quê khác nhau nhưng nhóm bạn lại có duyên cùng tụ họp, bảy người bạn thân đã quyết định cùng nhau lập thành nhóm với tên gọi: "Hà Nội tụ nghĩa". Gặp lại nhau sau 10 năm xa cách, mỗi người trong số họ đều tiếp tục cuộc hành trình đi tìm tình yêu và hạnh phúc của chính mình...
Diễn viên.
Phần 3 (2017).
Cùng một số diễn viên khác...
Nhạc phim.
Sáng tác: Dương Đức Thụy
Thể hiện: Lê Uyên Nhy
Sáng tác: NSƯT Phùng Tiến Minh
Thể hiện: Hồng Dương (Nhóm nhạc M4U)
Chuyển thể.
Trước thời điểm hai phần đầu của phim lên sóng, NSƯT Lưu Trọng Ninh đã phát hành một cuốn tiểu thuyết cùng tên và sau đó tự tay chuyển thể thành kịch bản phim. | 1 | null |
Doi cát nối đảo, bãi nối hay tôm-bô-lô (tiếng Ý: "tombolo", bắt nguồn từ tiếng Latinh "tumulus") là một dạng địa hình tích tụ, theo đó một doi cát hay mũi nhô hẹp sẽ nối liền một hòn đảo với đất liền. Khi đó, đảo này được gọi là đảo nối (đảo liền bờ). Nhiều doi cát nổi trên mực nước biển có thể nối nhiều đảo lại với nhau thành một hệ thống gọi là bãi nối đảo liên hợp ("tombolo cluster"). Hai doi cát nối đảo có thể cùng nhau rào lấy một vùng nước (gọi là phá) mà về sau trầm tích có thể lấp đầy phá nước này.
Sự hình thành.
Sự khúc xạ của sóng.
Các doi cát nối đảo "thực sự" được hình thành từ sự khúc xạ sóng biển. Khi các con sóng đến gần đảo, chúng giảm tốc độ do gặp phải vùng nước nông bao quanh đảo. Khi đó, những con sóng này sẽ khúc xạ hay "uốn quanh" đảo về phía ngược lại với hướng sóng. Mẫu hình sóng sinh ra từ sự chuyển động trên sẽ tạo nên sự hội tụ dòng chảy dọc bờ ở mặt bên kia của hòn đảo. Các trầm tích bãi biển đi theo sự vận chuyển sườn ở phía khuất gió của hòn đảo sẽ tích tụ tại đó, khớp đều với hình dạng của mẫu hình sóng. Nói cách khác, các con sóng cuốn đi trầm tích ở cả hai mặt của hòn đảo. Cuối cùng, một doi cát hình thành nhờ số trầm tích bồi đắp lại. Nó nối hòn đảo với đất liền và trở thành một doi cát nối đảo (bãi nối).
Dòng chảy dọc bờ sườn.
Trong trường hợp Chesil Beach hay Spurn Head, đảo nối không phải là nhân tố quyết định dòng vật chất di chuyển dọc bờ biển. Trong trường hợp này cũng như các trường hợp tương tự, dù rằng dải hạt cấu tạo bờ biển nối đảo với đất liền vẫn được gọi là "doi cát nối đảo" nhưng tốt hơn là nên thay bằng khái niệm gắn liền với sự hình thành của dải hạt đó, ví dụ mũi nhô.
Hình thái học và phân phối trầm tích.
Các doi cát nối đảo dễ bị thủy triều và các hiện tượng thời tiết tác động. Vì vậy, thỉnh thoảng người ta xây dựng các công trình như đường sá và bãi đỗ xe tại đây nhằm củng cố các doi cát này. Lớp trầm tích tạo nên doi cát nối đảo trên bề mặt thì mịn hơn trong khi càng xuống dưới thì càng trở nên thô hơn. Có thể dễ dàng nhìn thấy lớp cát và cuội thô này khi các con sóng phá huỷ và cuốn đi lớp hạt mịn bên trên. Mực nước biển gia tăng có thể góp phần bồi thêm cho doi cát nối đảo vì lớp vật chất của doi cát được đẩy lên khi mực nước biển dâng cao; một ví dụ về hiện tượng này là Chesil Beach (nối Isle of Portland với Dorset ở Anh).
Doi cát nối đảo biểu thị tính nhạy cảm của các đường bờ. Có thể thấy rằng, một mẩu đất nhỏ như một hòn đảo cũng có thể thay đổi lối chuyển động của sóng và dẫn đến các cách thức tích tụ trầm tích khác nhau. | 1 | null |
Đường đời là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Trần Quốc Trọng và Trần Hoài Sơn đồng đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết "Nợ đời" của nhà báo Hoàng Dự và lấy cảm hứng từ luơng y Nguyễn Hữu Khai. Phim phát sóng vào lúc 15h00 bắt đầu từ ngày 18 tháng 7 năm 2004 và kết thúc vào ngày 2 tháng 1 năm 2005 trong chương trình "Văn nghệ Chủ Nhật" trên kênh VTV3.
Nội dung.
"Đường đời" nói về Hải (Hoàng Hải) trong những năm sau khi chiến tranh kết thúc – lúc ấy còn là một thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ đang trở về mái trường đại học. Do cuộc sống gia đình ở quê quá khó khăn, không muốn vợ phải bươn trải nên Hải đã đi đến quyết định bỏ học về quê để lo vực lại kinh tế gia đình. Được một người bạn chỉ cho cách thức buôn thuốc bắc ở biên giới, Hải rất phấn khởi, nhưng anh không ngờ đây là bước ngoặt quyết định cuộc đời mình. Trong một lần qua biên giới để cất thuốc, Hải bị sốt rét phải ở lại để chạy chữa. Tại đây, anh đã được Ông Lý, một thầy lang giỏi chữa khỏi bệnh. Thấy Hải có tư chất thông minh, thái độ cầu thị nên Ông Lý đã dành hết tâm huyết để truyền nghề cho anh.
Quãng thời gian 5 năm học việc ở Trung Quốc, không một dòng hồi âm của Hải khiến ở quê không tránh khỏi những điều tiếng, nhất là Tân (Thu Hà) – vợ anh có những lúc tức giận và bất cần. Nhờ các bài thuốc học được, Hải đã cứu sống rất nhiều người, cũng chính vì điều này mà anh gặp không ít phiền phức do những kẻ nhỏ nhen, ích kỷ, chỉ biết mưu lợi cá nhân, nhiều hiềm tị tài năng của anh. Trải qua biết bao biến cố thăng trầm với nghề thuốc trong một khoảng thời gian dài nhưng Hải không gục ngã. Với bản tính lương thiện, luôn nhìn thấy mặt tốt ở người khác nên anh đã đủ tự tin để vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình...
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Đường đời" do Trọng Đài sáng tác và Mai Hoa thể hiện.
Sản xuất.
Đạo diễn của bộ phim là Trần Quốc Trọng và Trần Hoài Sơn , với phần kịch bản được phóng tác theo tiểu thuyết "Nợ đời" của nhà báo Hoàng Dự dựa trên nguyên mẫu võ sĩ, thầy thuốc Nguyễn Hữu Khai, nguyên chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Bảo Long.
Hoàng Hải đã được chọn làm diễn viên hóa thân nhân vật nguyên mẫu trong phim, đóng cặp cùng bạn diễn Thu Hà. Để vào vai nhân vật này, ông từng nhiều lần đi thực tế trong tù và học việc tại các tiệm thuốc Đông Y, từ đó cảm nhận được "từng góc cạnh của cuộc sống". Bộ phim cũng đánh dấu lần đầu chạm ngõ của Hoàng Thùy Linh trên con đường diễn xuất. Quá trình quay phim chính kéo dài suốt 13 tháng, trải dài qua các bối cảnh ở khắp biên giới phía Bắc, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh đến Tây Nguyên. Trong thời gian ghi hình, ông Nguyễn Hữu Khai thường xuyên tham gia cùng đoàn phim để góp ý, chỉnh sửa và tư vấn diễn viên về tình tiết và hành động.
Bộ phim đã lên sóng tập đầu vào ngày 18 tháng 7 năm 2004 trong chương trình "Văn nghệ Chủ Nhật" trên kênh VTV3, với độ dài 25 tập.
Đón nhận.
Ngay từ lần đầu ra mắt, bộ phim đã gây được tiếng vang và nhận về nhiều tình cảm từ đông đảo khán giả đối với cuộc đời "thăng trầm" của nhân vật trong phim. Đây cũng là tác phẩm giúp diễn viên Hoàng Hải được nhiều người nhớ đến và được coi là một cái bóng lớn "không thể vượt qua" trong sự nghiệp diễn xuất của ông. Ca khúc chủ đề phim đã có được sự đón nhận và là một thành công đối với nhạc sĩ Trọng Đài, đồng thời gắn liền với tên tuổi của ca sĩ Mai Hoa.
Năm 2005, "Đường đời" đã được trao giải Vàng hạng mục phim truyện truyền hình tại Liên hoan phim truyền hình Việt Nam. Vai diễn trong bộ phim cũng giúp hai diễn viên Thu Hà và Hoàng Hải lần lượt đoạt giải "Nam/Nữ diễn viên được yêu thích nhất" của Giải thưởng Tạp chí truyền hình VTV tổ chức cùng năm.
Một bài đánh giá của trang "Đời sống & Pháp lý" năm 2018 đã khen ngợi biên kịch phim khi "khắc họa sống động một nhân vật Hải rất đời thường nhưng đầy cuốn hút", cùng với đó là cách xây dựng tình tiết "mộc mạc nhưng tinh tế" của đạo diễn Quốc Trọng đem lại cho người xem cảm giác chân thật nhất. Bài viết cũng bình luận bộ phim "là một bức tranh phản ánh khá đầy đủ về hiện thực xã hội của đất nước trong một thời kì dài đầy khó khăn và thử thách", trong đó "chỉ có sự quyết tâm và một nỗ lực vươn lên không biết mệt mỏi mới có thể giúp cho mỗi con người vượt qua được đoạn trường cơ cực để đến với thành công". | 1 | null |
Cuộc vây hãm Phalsbourg là một trận bao vây trong chiến dịch chống Pháp vào các năm 1870 – 1871 của quân đội Đức, đã diễn ra từ tháng 8 cho đến ngày 2 tháng 12 năm 1870 tại pháo đài Phalsbourg (Pfalzburg) ở vùng núi Vosges của Pháp. Sau một trận vây hãm kéo dài trong suốt 4 tháng trời, quân đội Pháp đồn trú tại Phalsbourg dưới quyền chỉ huy của viên sĩ quan Talhouet đã bị buộc phải đầu hàng vô điệu kiện trước các lực lượng vây hãm của Phổ-Đức dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Von Giese (vốn đã thay thế sư đoàn số 12 dưới sự chỉ huy của tướng Wilhelm von Tümpling thuộc quân đoàn VI của Phổ để thực hiện cuộc vây hãm). Thắng lợi trong cuộc bao vây Phalsbourg đã mang lại cho quân đội Phổ không ít tù binh gồm sĩ quan và binh lính Pháp, và người Phổ đã đưa tù binh của mình về nước Đức. Tất cả các khẩu đại bác của quân Pháp đều bị phá hủy trong quá trình diễn ra cuộc vây hãm Phalsbourg. Sự thất thủ của Phalsbourg là một trong những chiến thắng liên tiếp của quân đội Đức trong cuộc chiến tranh. Cuộc phòng ngự mạnh mẽ của quân đội Pháp tại Phalsbourg đã được đánh giá cao, đồng thời lòng dũng cảm cùng với tài nghệ của các lực lượng vây của Đức vốn yếu thế về mặt quân số cũng được nhìn nhận tích cực.
Pháo đài Phalsbourg nằm chế ngự tại các đoạn đường từ Strasbourg tới Nancy và Paris, và là một trong những pháo đài của Pháp đã tuyên bố tình trạng bị vây hãm ngay từ khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ: từ đầu tháng 8 năm 1870, Binh đoàn thứ ba của Đức đã tiếp cận với pháo đài. Các lực lượng thuộc Sư đoàn số 12 của Đức đã nhận được trọng trách đánh chiếm pháo đài, và đã bắt đầu thực hiện cuộc phong tỏa Phalsburg ngay từ chiều ngày 13 tháng 8. Sau khi người Pháp từ chối đầu hàng, quân đội Đức dưới sự điều khiển của Thái tử Friedrich Wilhelm đã tiến hành một cuộc pháo kích vào các bức trường thành của Phalsbourg. Trước hỏa lực mạnh mẽ của lực lượng pháo binh Đức, nhiều công trình đã bị phá hủy, và các hàng phòng ngự của quân trú phòng Pháp bị quét tan, song Thiếu tá Talhouet chỉ huy quân trú phòng của Pháp đã khước từ sự chiêu hàng của người Đức. Trước tình hình đó, Quân đoàn VI phải rời khỏi Phalsbourg để tiếp tục bước tiến của mình, để lại 2 tiểu đoàn quan sát Phalsbourg. Song, trong các ngày 18 – 19 tháng 8, nhiều đơn vị dân quân "Landwher" và Schlesien cùng với một khẩu đội pháo của Đức đã thế chân đội quân vây hãm ban đầu, và chính thức phong tỏa Phalsbourg. Vào ngày 24 tháng 8, quân Pháp đã thực hiện một cuộc phá vây nhằm vào ngôi làng Unter-Eichen-Baracken và giành thắng lợi ban đầu, trước khi bị quân tiếp viện của Phổ đẩy lùi. Trong mấy ngày sau đó, quân Pháp cũng tiến hành một vài cuộc phá vây với kết quả tương tự. Mặc dù đội quân vây hãm của Phổ được tăng viện, vào đầu tháng 9, quân Pháp lại phát động một cuộc phá vây và bị đè bẹp. Trong quá trình bao vây, quân đội Phổ đã tỏ ra hết sức cẩn mật, do các lực lượng "franc-tireur" của Pháp thường hoạt động quanh Lützelburg, trước khi các lực lượng "franc-tireur" chuyển về phía nam vào đầu tháng 10.
Địa hình Phalsbourg tỏ ra khó khăn đối với đội quân vây hãm, nhưng sau một thời gian lâu dài, tình hình cho người Đức thấy sự cần thiết của một đợt pháo kích. Vào ngày 24 tháng 11, một cuộc pháo kích ngắn đã nổ ra mạnh mẽ, và cuộc kháng cự của pháo binh Pháp đã không thể gây thiệt hại đáng kể cho đối phương. Đội quân trú phòng của Pháp đã lâm vào tình thế khó khăn, và vào ngày 11 tháng 12, người Đức đã từ chối sự đầu hàng có điều kiện của Pháp, và một số lính "Garde Mobile" của quân Pháp đã bỏ trốn khỏi pháo đài. Vào ngày 12 tháng 12, quân Pháp đầu hàng và quân đội Đức tiến vào Phalsbourg vào ngày 14 tháng 12, cùng ngày với sự thất thủ của pháo đài Montmédy. Nguyên nhân sự đầu hàng của quân đội Pháp tại Phalsbourg được cho là do khan hiếm lương thực và một cơn dịch đậu mùa, và Thiếu tá Giese đã được khen ngợi vì sự bền bỉ của ông trong cuộc vây hãm thành công này. | 1 | null |
Bãi lầy triều là một loại đồng lầy có thể thấy ở khu vực dọc bờ biển và cửa sông, những nơi mà thủy triều của cửa sông, biển và đại dương kế cận sẽ quyết định đặc điểm ngập của nơi đó. Tuỳ thuộc vào độ mặn của nước ngập mà người ta phân biệt ra thành bãi lầy triều nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Chúng lần lượt được phân loại thành "đầm lầy ven biển" và "đầm lầy cửa sông".
Người ta cũng thường chia các bãi lầy triều thành bãi lầy dưới (hay còn gọi là vùng ngập nước gian triều) và bãi lầy trên với căn cứ là độ cao của các bãi lầy so với mực nước biển. Một cách phân loại khác dựa vào mức độ ảnh hưởng của mực nước biển, phân chia bãi lầy triều thành "đầm lầy sau chắn", "đầm lầy nước lợ cửa sông" và "đầm lầy triều nước ngọt". | 1 | null |
Đảo nối hay đảo liền bờ là một hòn đảo được nối với đất liền thông qua một doi cát nối đảo. Một ví dụ về đảo nối là Isle of Portland ở bờ biển phía nam nước Anh; đảo này từng là một đảo tách rời nhưng Chesil Beach đã nối nó với đất liền. Một số ví dụ khác là St. Ninian's Isle thuộc Shetland và Barrenjoey thuộc Úc. | 1 | null |
Mùa lá rụng là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Quốc Trọng làm đạo diễn. Phim được phóng tác từ tiểu thuyết "Mùa lá rụng trong vườn""" và "Đám cưới không giấy giá thú""" của Ma Văn Kháng. Phim phát sóng lần đầu trong "Văn nghệ chủ nhật" vào ngày 11 tháng 3 năm 2001 trên kênh VTV3.
Nội dung.
"Mùa lá rụng" kể câu chuyện về Ông Bằng (NSND Chu Văn Thức) và các con của mình tại một nếp nhà cổ ở Hà Nội. Trong khi người cha luôn mong muốn giữ nếp sống gia đình truyền thống của người thủ đô nhưng những điều mới mẻ trong quan niệm về tiền bạc của những người con cứ đẩy ông ra rìa. Dù con trai, gái, dâu, rể nhà ông Bằng mỗi người một cách sống, nhưng cuối cùng điều họ luôn hướng tới và mong muốn là tình cảm không thể tách rời giữa các thành viên trong gia đình.
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Mùa lá rụng" do Trọng Đài sáng tác và NSƯT Mai Hoa thể hiện. | 1 | null |
Sở Hùng Cuồng (chữ Hán: 楚熊狂, ?-?), được xem là vị vua thứ ba của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Sở Hùng Lệ, người được xem là vị vua thứ hai của nước Sở, không rõ mẹ là ai. Ông nội ông là Dục Hùng có công phò giúp nhà Chu nên được phong làm quan khanh, truyền đến cha ông là Hùng Lệ. Sau khi Hùng Lệ mất, Hùng Cuồng thế tập.
Sử ký không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian làm quan khanh nhà Chu. Cũng không rõ ông mất năm nào. Sau khi ông mất, con ông là Hùng Dịch thế tập. | 1 | null |
Sở Hùng Dịch (chữ Hán: 楚熊繹), được xem là vị vua thứ tư của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Về mặt chính thức, ông là vị quân chủ đầu tiên của nước Sở.
Ông là con trai của Sở Hùng Cuồng, người được xem là vị vua thứ ba của nước Sở. Sau khi Hùng Cuồng mất, Hùng Dịch lên thế tập chức khanh của cha ở nhà Chu.
Đời Chu Thành Vương đã phong cho ông chính thức cai quản đất Kinh, kiến đô lập quốc, với tước hiệu Sở tử. Từ đây, đất Kinh được gọi là Kinh Sở, hay nước Sở, và chính thức đứng vào hàng ngũ chư hầu của nhà Chu.
Nhược quốc đạo ngưu.
Theo bộ lạc
thủ lĩnh Hùng Dịch đã chuyển đến Đan Dương.Khi đền tổ tiên được xây dựng, nhưng không có vật phẩm nào có thể dùng để tế lễ, vì vậy ông ta không còn cách nào khác là đến Nhược quốc và lấy trộm một con bê không có sừng. Trong cuốn sách kinh điển Quốc ngữ của Sở quốc có ghi lại rằng Hùng Dịch
và các thủ lĩnh của Xianbei đã cùng nhau phụ trách "canh lửa" trong liên minh phong kiến thời phong kiến, điều này đã chứng thực cho mỗi khác nghèo nàn và yếu kém vào thời kỳ đầu thành
lập Sở quốc.
Khai hoang Kinh Sơn.
Hùng Dịch sống ở một nơi hẻo lánh
ở Kinh Sơn (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc phía tây và hai bên bờ sông Hán ), cưỡi xe chở củi và mặc giẻ lau dọn cỏ dại, rong ruổi khắp núi sông để phục vụ Chu Thiên Tử , và chỉ có thể dùng cung tên gỗ xoan đào và cung
tên gỗ táo tàu để làm cống phẩm.
Phò tá Khang vương.
Hùng Dịch cùng Tề Đinh công,Vệ Khang bá,Tấn hầu Tiệp,Lỗ Bá Cầm phò tá Chu Khang vương.Vì bốn nước Tề, Tấn, Lỗ, Vệ đều có quan hệ mật thiết với Chu Thiên Tử nên đều được Chu Khang vương ban cho bảo khí, còn Sở và Chu Thiên Tử không có quan hệ họ hàng nên không được tặng.
Năm 1006 TCN, Hùng Dịch mất, con ông là Hùng Ngải nối ngôi. | 1 | null |
Sở Hùng Ngải (chữ Hán: 楚熊艾), là vị vua thứ năm của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Hùng Dịch, vị vua thứ tư của nước Sở, năm 1006 TCN, Hùng Dịch mất, Hùng Ngải lên nối ngôi.
Tương truyền trong thời gian ông ở ngôi, Chiêu Vương nhà Chu đi tuần du phương Nam và chết đuối. Về cuộc tuần du của thiên tử nhà Chu có một thuyết khác lại dẫn rằng ở phía nam nước Sở là Việt Thường thị, nước này có 1 loài chim Trĩ bộ lông trắng tinh rất đẹp. Thời Chu Thành Vương Việt Thường thị từng sai sứ tiến cống cho thiên tử nhà Chu, Chu Chiêu Vương muốn bắt được giống chim đó lên hạ lệnh cho Hùng Ngải đánh Việt Thường thị để bắt loài chim đó về. Hùng Ngải còn chần chừ chưa quyết có nên khai chiến hay không, Chiêu Vương chờ lâu giận dữ lập tức đưa quân tiến thẳng xuống nước Sở. Hùng Ngải không dám chống lại quân triều định lên rút lui sang bờ Hán Thủy, Chiêu Vương vượt sông truy kích thì đến giữa dòng bị ngư dân ở đây lặn xuống đục lỗ dưới đáy thuyền. Nhà vua không biết bơi bị nước ngụp thuyền mà chìm sông chết đuối, người nước Sở làm một bài thơ để chế diễu thiên tử nhà Chu gọi là "nam chinh bất phản" nghĩa là đi chinh chiến ở phương Nam mà không trở về.
Hạ Thương Chu đoạn đại công trình ghi đó là năm 977 TCN đời Sở Hùng Ngải, do đó năm mất của ông có thể sau năm 977 TCN. Thời gian ở ngôi của ông cũng chỉ là ước định bởi tại thời điểm trước 841 TCN chưa có ghi chép chính xác về những sự kiện xảy ra vào năm nào.
Năm 981 TCN, Hùng Ngải mất. Con ông là Hùng Đán nối ngôi. | 1 | null |
Huỳnh Văn Ảnh (sinh năm 1960) là cầu thủ bóng đá của đội Gia Lai thập niên 80, 90 và là huấn luyện viên đội Hoàng Anh Gia Lai. Hiện nay ông đang làm cố vấn chuyên môn tại Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai tham dự V.League | 1 | null |
Những ngọn nến trong đêm là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam cùng Tincom Media (phần 2) do NSƯT Vũ Hồng Sơn, Đỗ Đức Thành, NSƯT Mai Hồng Phong (phần 1) và Nguyễn Khải Anh (phần 2) làm đạo diễn. Phần 1 của phim phát sóng bắt đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 2002 đến 16 tháng 6 năm 2002 trong "Văn nghệ Chủ Nhật", phần 2 của phim phát sóng vào lúc 21h10 thứ 4, 5 hàng tuần bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm 2016 và kết thúc vào ngày 29 tháng 6 năm 2016 trên kênh VTV3.
Phim gồm 2 phần phát sóng: phần 1 với 18 tập vào năm 2002 và phần 2 với 36 tập vào năm 2016.
Nội dung.
"Những ngọn nến trong đêm" xoay quanh Thanh Trúc (Mai Thu Huyền) – một cô gái có niềm đam mê với thiết kế thời trang nhưng lại luôn gặp phải những khó khăn đến từ cuộc sống gia đình và tình yêu. Có những lúc tưởng chừng như Trúc đã đánh mất tất cả danh vọng, nhưng cuối cùng cô vẫn vượt qua và mạnh mẽ tiến về phía trước...
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Nhạc phim.
Thể hiện: Thương Huyền
Thể hiện: Minh Quân
Đón nhận.
Năm 2002, "Những ngọn nến trong đêm" lần đầu ra mắt và đã nhanh chóng tạo nên cơn sốt trong khán giả bởi khai thác chủ đề mới mẻ về nghề người mẫu. Với sự xuất hiện của nhiều người mẫu cùng với nội dung hấp dẫn, cuốn hút, "Những ngọn nến trong đêm" được đông đảo người xem của nhiều thế hệ yêu mến. Thậm chí, kiểu tóc, trang phục của Thanh Trúc – nhân vật chính trong phim cũng tạo thành trào lưu, mốt của nhiều phụ nữ tại thời điểm phim phát sóng.
Khi sang đến phần 2, tuy có câu chuyện dựa trên nền tảng của các nhân vật cũ, thế nhưng phim lại khai thác và phát triển theo những hướng mới để phù hợp hơn với thời kỳ mới. Tuy nhiên, sau khi phát sóng, có nhiều người xem đã cho rằng phần 2 của phim kém hấp dẫn hơn so với phần 1, và diễn viên vì thu giọng trực tiếp nên lời thoại còn đơ cứng, không toát lên khí chất của nhân vật. Ngoài ra, phim cũng bị cho là rời rạc về câu chuyện và các bối cảnh còn sơ sài, không làm bật lên được sự khắc nghiệt của những cạnh tranh giữa các nhân vật sau ánh đèn sân khấu, nội dung thiếu cao trào, thông tin nhân vật trái ngược và mâu thuẫn với nhau, đồng thời cũng không tạo được điểm nhấn trọng tâm xuyên suốt câu chuyện mà càng về sau chỉ xoay quanh vào chuyện tình tay ba khiến phim bị lan man, dài dòng. | 1 | null |
Trung tâm Làng Văn là một trung tâm sản xuất và phát hành băng đĩa nhạc lâu đời có trụ sở tại Hoa Kỳ và Việt Nam.
Lịch sử.
Trung tâm Làng Văn được sáng lập vào năm 1982.
Là một trung tâm băng nhạc lâu đời tại hải ngoại, Làng Văn đã sản xuất và phát hành các chương trình video nổi tiếng như Thế Giới Nghệ Thuật, Duyên Dáng Việt Nam cùng với các CD riêng (gọi tắt là LVCD). Thời kì đầu, Làng Văn đã tạo nên dấu ấn riêng khi trực tiếp sản xuất, thu âm và phát hành CD cho các ca sĩ Việt Nam nổi tiếng như Chế Linh, Duy Khánh, Hương Lan, Tuấn Vũ, Elvis Phương... Tính tới năm 2014, Trung tâm Làng Văn giữ bản quyền gần 12000 bản nhạc, 6500 video ca nhạc.
Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh lấy tên thương mại là Trung tâm băng nhạc Lạc Vũ do Trần Tuệ làm giám đốc điều hành. Một vinh dự của chi nhánh này là được chọn làm đơn vị ghi hình trực tiếp chương trình Duyên Dáng Việt Nam (kỳ 15, 16, 17 và 18).
Năm 1993, Làng Văn phát hành phim Mùi đu đủ xanh của đạo diễn Trần Anh Hùng đoạt Giải thưởng Hàn lâm cho phim của các nước nói tiếng Pháp hay nhất.
Từ năm 2000 đến nay, Làng Văn đã lần lượt mua lại những trung tâm khác. Bao gồm:
Năm 2012, Làng Văn bắt đầu phát hành các album nhạc số (mã là LVDCD):
Năm 2015, Làng Văn phát hành sản phẩm cuối cùng là Album Trở Về Mái Nhà Xưa của ca sĩ Thiên Phượng (phát hành dưới dạng đĩa than và CD)
Vấn đề bản quyền.
Làng Văn từng kiện VNG và kênh truyền hình Saigon Television vì sử dụng trái phép sản phẩm. | 1 | null |
Ham (tháng 7 năm 1956 - 19 tháng 1 năm 1983) là con tinh tinh được đưa vào vũ trụ trong chương trình không gian của Hoa Kỳ. Ban đầu có 40 con tinh tinh là ứng viên cho chuyến bay tại Holloman, sau khi đánh giá, số ứng viên còn lại 18, sau đó là 6, bao gồm Ham.
Giới thiệu.
Chính thức tên của Ham là Số 65 trước chuyến bay và chỉ được đổi tên thành "Ham" khi nó đã quay trở về Trái Đất thành công. Điều này đã được cho là vì các quan chức không muốn báo chí đưa tin xấu mà có thể đến từ cái chết của một con tinh tinh "được đặt tên" nếu nhiệm vụ là một thất bại. Trong số những người điều khiển, Số 65 đã được biết đến với tên Chop Chop Chang.
Con tinh tinh này và các con tinh tinh khác đã được huấn luyện và chuẩn bị cho sứ mệnh bay lịch sử trong suốt 2 năm rưỡi. Chúng cũng được dạy hoàn thành các nhiệm vụ đơn giản theo đèn và tiếng động. Chẳng hạn như, đẩy mạnh một đòn bẩy trong vòng năm giây nhìn thấy một ánh sáng nhấp nháy màu xanh sẽ mang lại cho các học viên tinh tinh một miếng chuối; ngược lại, nếu thất bại, chúng sẽ bị cho sốc điện nhẹ vào lòng bàn chân.
Sinh tháng 7 năm 1956 ở Cameroon, và bị bắt bằng bẫy động vật và gửi đến Rare Bird Farm ở Miami, Florida và được Không lực Hoa Kỳ mua và mang đến Căn cứ không quân Holloman năm 1959.
Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Ham đã bay cùng tên lửa vào không gian để thực hiện sứ mệnh MR-2 của Cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA), nhưng chuyến bay gần như ngay lập tức đã gặp trục trặc. Đường bay của tên lửa cao hơn một độ so với mức dự kiến, đồng nghĩa với việc nó đã lên tới độ cao gần 252,7 km trên bề mặt Trái Đất, cao hơn mục tiêu dự kiến là 185 km, và mức oxy bắt đầu giảm xuống.
Trong 6 phút bay, con tinh tinh Ham đã ở tình trạng không trọng lượng khi tên lửa tăng tốc trên bầu trời tới khoảng 804,7 km/h. Tên lửa rơi xuống Đại Tây Dương trong 16 phút, 39 giây sau đó và khi đội cứu hộ tiếp cận được nó.
Chàng tinh tinh không bị tổn hại gì sau chuyến phiêu lưu vào vũ trụ và tiếp tục sống ở vườn thú quốc gia ở Washington suốt 17 năm sau đó. Ham qua đời ở vườn thú Bắc Carolina ở tuổi 25. | 1 | null |
Sở Hùng Đán (chữ Hán: 楚熊䵣), là vị vua thứ sáu của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Hùng Ngải, vua thứ năm của nước Sở. Sau khi Hùng Ngải qua đời, Hùng Đán lên ngôi quân chủ.
Sử ký không ghi rõ những hành trạng trong thời gian ở ngôi của ông.
Năm 970 TCN, Hùng Đán qua đời, con ông là Sở Hùng Thắng lên nối ngôi. | 1 | null |
Tu viện vương thất San Lorenzo de El Escorial nằm ở thị trấn San Lorenzo de El Escorial, 45 km về phía Tây Bắc của thủ đô Madrid, Tây Ban Nha. Đây là tu viện, lăng mộ, cung điện, bảo tàng, và trường học vương thất, từng là nơi cư trú của các vua Tây Ban Nha. Công trình này được gọi tắt là "El Escorial" hoặc "Escorial".
Công trình thể hiện quyền lực của chế độ quân chủ Tây Ban Nha và giáo hội công giáo La Mã thế kỷ 16, 17. Ban đầu, tu viện hoàng gia này thuộc sở hữu của nhóm tu sĩ Hieronymite dòng St Augustine. Sau đó, vua Tây Ban Nha Philip II mời kiến trúc sư Juan Bautista de Toledo tham gia để thiết kế một khu phức hợp ở El Escorial để kỷ niệm chiến thắng năm 1557 của Tây Ban Nha tại St. Quentin, biến nó trở thành trung tâm của đạo Kitô ở Tây Ban Nha và ngăn chặn sự lan rộng của đạo Tin lành.
Năm 1984, Tu viện hoàng gia San Lorenzo de El Escorial được UNESCO ghi vào danh sách di sản thế giới.
Kiến trúc.
Quần thể kiến trúc này được xây dựng từ năm 1563 bởi Juan Bautista de Toledo và hoàn thành năm 1584 bởi Juan de Herrera (học trò của Toledo) mang phong cách kiến trúc truyền thống Tây Ban Nha thời kỳ Phục Hưng.
Sau khi hoàn thành, nơi đây là lăng mộ hoàng gia, nơi chôn cất của hầu hết các vị vua Tây Ban Nha như: Carlos I, Felipe II, Felipe III, Felipe IV, Carlos II, Luis I, Carlos III, Carlos IV, Fernando VII, Isabel II, Alfonso XII, và Alfonso XIII.
El Escorial nằm ở chân núi Abantos trong Sierra de Guadarrama, là một nơi ảm đạm, vì vậy tu viện mang vẻ bên ngoài khắc khổ, trông giống như là một pháo đài hơn là một tu viện, cung điện. Công trình được xây dựng bằng đá granit xám được khai thác ở gần tu viện.
Quy mô của công trình được xây dựng gần giống với một sân bóng lây cơ sở từ đền thờ Salomon, thiết kế phổ biến thời Byzantine và Ả Rập. Tòa nhà cao 55 m, dài 224 m và rộng 153 m với 4 tháp canh hình vuông ở các góc, cung điện hoàng gia ở phía Đông. Bên trong tu viện là nhà thờ, trường học Hoàng gia Cambridge, bệnh viện, thư viện nằm ở hai bên các khoảng sân rộng, hành lang dẫn vào nhà thờ Nhà thờ San Lorenzo el Real, thánh đường chính El Escorial có một mái vòm tròn nổi bật, hai bên là tượng David và Solomon.
El Escorial là một bảo tàng nghệ thuật khổng lồ với những kiệt tác của Titian, Tintoretto, El Greco, Velázquez, Roger van der Weyden, Paolo Veronese, Alonso Cano, José de Ribera, Claudio Coello. Thư viện ở El Escorial có sàn bằng đá cẩm thạch, những kệ bằng gỗ chứa hơn 40.000 bản thảo vô giá, trần và tường của thư viện là các bức bích họa mô tả nghệ thuật của Pellegrino Tibaldi | 1 | null |
Cầu vồng tình yêu là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSND Trọng Trinh làm đạo diễn chính. Phim được mua kịch bản chuyển thể từ bộ phim nổi tiếng của Hàn Quốc "Vinh quang gia tộc" (2008). Phim phát sóng vào lúc 21h15 thứ 5, thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 15 tháng 9 năm 2011 và kết thúc vào ngày 5 tháng 7 năm 2012 trên kênh VTV3.
Bộ phim gồm 2 phần phát sóng liên tiếp với tổng số tập là 85.
Nội dung.
"Cầu vồng tình yêu" xoay quanh những mối quan hệ phức tạp của hai gia đình có nhiều cạnh tranh trong thương trường. Một bên là gia đình ông Kim (NSƯT Anh Thái) – luôn coi trọng đạo lý truyền thống; bên kia là một gia đình giàu có nhưng xuất thân từ nghề buôn đồng nát của hai cha con ông Hào (Tạ Am) và Khang (Hồng Đăng). Họ là những người luôn bất chấp mọi thủ đoạn để làm giàu và mong muốn mang đến danh giá cho dòng họ dù phải mua bằng tiền. Tưởng chừng hai gia đình này không thể có sự kết hợp "môn đăng hộ đối" nhưng tình yêu đã biến những cái không thể trở thành có thể...
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Đón nhận.
Tại thời điểm phát sóng, "Cầu vồng tình yêu" đã nhanh chóng thu hút được nhiều tầng lớp người xem bởi nội dung dễ hiểu, bám sát với phong tục tập quán của người Việt và diễn xuất chắc tay từ dàn diễn viên hùng hậu, dù trước đó khi công bố kế hoạch sản xuất phim chuyển thể từ kịch bản gốc của bộ phim truyền hình Hàn Quốc "Vinh quang gia tộc", nhiều khán giả đã bày tỏ lo ngại rằng bản Việt hóa của phim sẽ dễ trở nên nhạt nhẽo và hời hợt như với nhiều phim trước đó. Cũng trên một diễn đàn điện ảnh, chủ đề của bộ phim này lên đến hơn 600 trang; nhiều người xem đã bày tỏ sự thích thú đối với phần nhạc và lời thoại trong phim. | 1 | null |
Thánh Giuse, là một vị thánh của Kitô giáo. Ông thường được người Việt gọi là Thánh Giuse Thợ, hoặc Thánh Cả Giuse hay Giuse thành Nazareth. Thánh Giuse xuất hiện đầu tiên trong các bản Phúc âm Luca và Matthew, Ông là chồng của Maria và là cha nuôi (ở trần thế) của Chúa Giêsu.
Ông cũng là một vị Thánh đặc biệt quan trọng và hiện diện rộng khắp trong đời sống tín ngưỡng người Công giáo Việt Nam. Đa số nam giới Công giáo người Việt lấy tên Giuse làm bổn mạng . Trong các nhà thờ đều có lập toà kính ông đối ngang với toà Đức Mẹ.
Lịch sử việc tôn kính Thánh Giuse trong Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Việc tôn kính Giuse bắt nguồn từ thời kỳ đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam, các nhà truyền giáo đầu tiên đã tôn ông làm thánh bảo trợ nước Việt Nam. Linh mục Đắc Lộ thuật sự tích như sau:
Ngày 14 tháng 02 năm 1670, Giám mục tiên khởi Đàng Trong là Pierre Lambert de la Motte, trong chuyến thăm giáo đoàn Đàng Ngoài, đã họp Công Đồng Đàng Ngoài tại Phố Hiến, Hưng Yên và long trọng xin nhận Giuse làm quan thầy của Giáo hội Đàng Ngoài.
Ngày 17 tháng 08 năm 1678, đáp ứng thỉnh nguyện của ba vị đại diện tông toà: các Giám mục de la Motte (Đàng Trong), Pallu (Đàng Ngoài) và Cotolendi (Nam Kinh), Giáo hoàng Innôcentê XI đã ban hành Tông Hiến Sacrosancti Apostolatus (Thánh vụ Tông đồ) đề tôn nhận Giuse là quan thầy các Giáo phận truyền giáo Trung Hoa (cùng với Đàng Trong, Đàng Ngoài của Việt Nam, Lào, Đại Hàn, Hung Nô).
Ngày 11 tháng 10 năm 1997 trong thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Công đồng Dân Chúa nhân dịp Hội nghị thường niên diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 6 tháng 11 năm 1997, đã nhất trí xác nhận tôn vinh Giuse là Quan thầy Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ông cũng được rất nhiều giáo phận, giáo xứ hay giáo họ của Việt Nam nhận làm bổn mạng.
Ngày 09 tháng 10 năm 2013, Ủy ban Phụng Tự của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ra "Thông cáo về việc đọc tên Thánh Giuse trong các Kinh nguyện Thánh Thể". Theo thông cáo này, Hội đồng Giám mục Việt Nam quyết định phải đọc tên Thánh Giuse trong các kinh nguyên Thánh Thể do lòng tôn kính Thánh Giuse (theo như sắc lệnh số Prot.N.215/11L ban hành ngày 11 tháng 5 năm 2013 của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích).
Hình tượng Giuse trong lĩnh vực nghệ thuật của Việt Nam.
Hội họa và điêu khắc.
Trong một số tác phẩm nghệ thuật về hội họa hoặc điêu khắc của Việt Nam, Giuse thường được miêu tả là một người đàn ông đứng tuổi, hơi hói, có râu quai nón. Ông thường xuất hiện cùng với một em bé (Giêsu), đang ngồi chung hoặc được ông bế trên tay, cùng với một bông hoa huệ tây (việc này được các tín hữu Công giáo cho rằng đó là cử chỉ chứng nhận ông là người được chính Thiên Chúa chọn). Hay ông được mô tả đang cầm một dụng cụ của nghề mộc (cưa, thước hay búa).
Tên "Thánh Giuse".
Tên Giuse được sử dụng rộng rãi và phổ biến cho việc: đặt tên Thánh của các nam giáo dân. Thánh bổn mạng của nhiều giáo phận, giáo xứ, hay giáo họ, các hội đoàn, nhất là hội gia trưởng, hoặc đặt làm tước hiệu nhà thờ, đặt tên cho các tu viện, chủng viện...
Một số nhận xét về Giuse của Giám mục công giáo Việt Nam.
... thánh Giuse được tôn kính trong hầu hết các nhà thờ, trong hầu hết các cộng đoàn, trong hầu hết các gia đình. Ông rất gần gũi với các tâm hồn, đặc biệt là với các thân phận nghèo khổ bệnh tật, cô đơn... Khi tình hình trở nên khó khăn, người công giáo Việt Nam hay chạy đến thánh Giuse và luôn được đáp trả rộng lượng với những ai cậy tin..." | 1 | null |
Dendrogyra cylindricus là một loài san hô cứng sinh sống ở tây Đại Tây Dương. Chúng là một trong những loài san hô chẻ mà giống như ngón tay, hoặc một cụm xì gà, mọc từ đáy biển, nhưng không có phân nhánh thứ cấp.
Chúng có thể phát triển thể lên đến chiều cao 2,5 m. Chúng có thể phát triển trên cả mặt biển bằng phẳng và có dốc ở độ sâu từ 1 đến 20 m. Chúng là một trong vài loại san hô cứng có polyp thường có thể nhìn thấy ăn vào ban ngày. | 1 | null |
Những công dân tập thể là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Vũ Trường Khoa và Trần Quang Vinh đồng đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 20h05 thứ 5, 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 22 tháng 6 năm 2012 và kết thúc vào ngày 2 tháng 11 năm 2012 trên kênh VTV1.
Nội dung.
"Những công dân tập thể" xoay quanh đời sống của những công dân sống trong khu tập thể Kim Trung, xây dựng từ những năm 70 đang xuống cấp và trong giai đoạn giải tỏa, cùng với đó là những đổi thay trong nếp sống, cách nghĩ của những con người sống nơi đây...
Nhân vật chính trong phim là Dương (Kiều Anh), là một phụ nữ khá xinh đẹp, có trình độ, có địa vị, con một nhà giáo (NSND Như Quỳnh), sống mẫu mực. Chồng của Dương, Kỉnh (Công Dũng) là một cán bộ tổ chức của một trường Đại học danh tiếng. Cô có đứa con trai kháu khỉnh thông minh, cậu em đầy cá tính, luôn yêu thương chị hết lòng… Nhưng bên trong cuộc sống đáng được ngưỡng mộ ấy là hình ảnh, cuộc sống hoàn toàn khác của Dương. Cô sống trầm lặng và mệt mỏi trước một người chồng bản tính khô khan, thô vụng, luôn mặc cảm, thiếu tự tin với suy nghĩ sống nhờ nhà vợ. Cuộc sống của Dương hoàn toàn đảo lộn và gia đình cô đứng trước nguy tan vỡ khi chồng của Dương - Kỉnh gặp Xuyền – một phụ nữ sẵn sàng lao vào Kỉnh chỉ bởi cơ thể vạm vỡ, khuôn mặt đẹp trai mà không quan tâm đến bất kỳ yếu tố nào khác. Những thay đổi khá “hồn nhiên” sau khi chồng có bồ là điều Dương dễ dàng nhận ra sự khác lạ so với ngày thường. Mọi chuyện lên đến đỉnh điểm khi một ngày Dương gặp Kỉnh và Xuyền tại khách sạn. Dương quyết định ly hôn nhưng trớ trêu thay, mẹ cô lại đột ngột qua đời vì tai nạn xe máy. Trước khi nhắm mắt, bà muốn Dương tha thứ cho Kỉnh. Vì mẹ, Dương đã xé đơn ly hôn…
Đó là câu chuyện của ông Cân, bà Lạng; người bán cháo lòng, người bán chân gà nướng. Họ sẵn sàng “khẩu chiến” để đòi quyền lợi, sẵn sàng đổ cho vợ có “phi công trẻ” và ly hôn giả hòng được chia căn hộ nữa…Họ thuê hai cô con gái làm việc và trả công sòng phẳng. Đối lập với ông Cân, bà Lạng là bà Nha, ông Ngô – một người là bác sỹ, một là nhà văn. Ở tuổi xế chiều, họ đã đến với nhau bằng tình yêu mãnh liệt. Dù con gái của bà Nha phản đối, rồi con trai của ông Ngô hư hỏng nhưng họ vẫn quyết tâm đến với nhau. Chính tình cảm của họ đã khiến Hằng (con gái bà Nha) cũng như Khôi (con trai ông Ngô) đã dẹp bỏ được sự ích kỷ của mình…
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Khu nhà cũ" do Trương Quý Hải sáng tác và NSƯT Đức Long, Dương Hoàng Yến thể hiện. | 1 | null |
Phân ngành San hô (Anthozoa) là một phân ngành động vật không xương sống thủy sinh bao gồm hải quỳ, san hô đá và san hô mềm, thuộc ngành Ngành Thích ty bào (Cnidaria). Các loài trưởng thành hầu hết đều gắn liền vào mặt đáy biển, trong khi ấu trùng của chúng có thể phát tán như một phần của sinh vật phù du. Đơn vị cơ bản của những cá thể trưởng thành là polyp; bao gồm một cột hình trụ đứng đầu bởi một đĩa với miệng trung tâm được bao quanh bởi các xúc tu. Hải quỳ chủ yếu là động vật sống đơn độc, nhưng phần lớn các loài san hô là thuộc địa, được hình thành do sự nảy chồi của polyp mới từ một cá thể sáng lập ban đầu. Các nhóm san hô được tăng cường bởi calci cacbonat và các vật liệu khác, và có các hình dạng lớn, nhìn giống như tấm, bụi rậm hoặc lá.
Anthozoa thuộc ngành Cnidaria, cũng bao gồm sứa, sứa hộp và các loài ký sinh Myxozoa và Polypodiozoa. Hai phân lớp chính của Anthozoa là Hexacorallia, các thành viên có đối xứng sáu lần và bao gồm san hô đá, hải quỳ, hải quỳ ống và zoanthid; và Octocorallia, có đối xứng tám lần và bao gồm san hô và gorgonian mềm (bút biển, quạt biển và roi biển), và pansy biển. Phân lớp nhỏ hơn, Ceriantharia, bao gồm các loài hải quỳ sống trong ống. Một số loài bổ sung cũng được đưa vào như "incertae sedis" cho đến khi vị trí phân loại chính xác của chúng có thể được xác định.
Chúng là động vật ăn thịt, bắt mồi bằng xúc tu. Nhiều loài bổ sung nhu cầu năng lượng của chúng bằng cách sử dụng tảo đơn bào quang hợp sống trong các mô của chúng. Những loài này sống ở vùng nước nông và nhiều loài là những tay xây dựng rạn san hô. Các loài khác thiếu zooxanthellae, và không cần khu vực có ánh sáng tốt thường sống ở những vùng nước sâu.
Không giống như các thành viên khác của ngành này, chúng không có giai đoạn medusa trong quá trình phát triển của chúng. Thay vào đó, chúng giải phóng tinh trùng và trứng vào trong nước. Sau khi thụ tinh, ấu trùng planula tạo thành một phần của sinh vật phù du. Khi đã phát triển đầy đủ, ấu trùng định cư dưới đáy biển và bám vào chất nền, trải qua quá trình biến chất thành polyp. Một số loài cũng có thể sinh sản vô tính thông qua sự nảy chồi hoặc bằng cách phá vỡ từng mảnh. Hơn 16.000 loài đã được mô tả.
Phát sinh loài.
Anthozoa được chia thành hai lớp Octocorallia và Hexacorallia, là các nhóm đơn ngành và thường có cấu trúc đối xứng 8-chiều và 6-chiều theo thứ tự. Ceriantipatharia từng được cho là nhóm riêng biệt nhưng hai bộ của nó là Ceriantharia và Antipatharia hiện được xem là một phần của Hexacorallia. Các bộ còn sinh tồn được thể hiện bên tay phải.
Hexacorallia bao gồm các loài tạo rạn san hô quan trọng như san hô cứng (Scleractinia), Actiniaria và các họ hàng của nó Ceriantharia, và Zoantharia. Các nghiên cứu di truyền về ribosomal DNA cho thấy Ceriantharia là một nhóm đơn ngành và là nhóm cổ nhất hoặc nhánh cơ sở trong số các bộ.
Octocorallia bao gồm Pennatulacea, san hô mềm (Alcyonacea), và san hô lam (Helioporacea). Gorgonian là một phần của Alcyonacea và chúng từng được chia thành các bộ riêng biệt.
Nhiều bộ san hô tuyệt chủng đã được phân loại dựa trên khung xương calci của chúng từ các hóa thạch. Chúng được cho là có quan hệ gần với tổ tiên của các loài Scleractinia hiện đại và đã từng tồn tại trong suốt Đại Cổ sinh 570–245 triệu năm trước: | 1 | null |
Scott Adkins (tên khai sinh: Scott Edward Adkins, sinh ngày 17 tháng 6 năm 1976) là một diễn viên điện ảnh và võ sĩ người Anh. Adkins được biết đến nhiều nhất qua vai diễn Yuri Boyka trong phim "Undisputed II: Last Man Standing" / "Undisputed III: Redemption", Bradley Hume trong phim "Holby City", Ed Russell trong phim "Mile High", Casey Bowman trong phim "Ninja" / "Ninja: Shadow of a Tear" và Hector trong phim "The Expendables 2".
Tiểu sử.
Scott Adkins sinh ngày 17 tháng 6 năm 1976 ở Sutton Coldfield, Birmingham, Anh Quốc. Anh là con trai út trong gia đình chỉ có hai anh em. Bố anh là John Adkins và mẹ anh là Janet Adkins, gia đình anh làm nghề bán thịt. Khi lớn lên, Scott tham gia nhiều môn thể thao khác nhau vì anh thích thể thao, đặc biệt là anh cũng rất đam mê võ thuật. Năm 10 tuổi, Scott được bố dẫn đến câu lạc bộ Judo địa phương để học võ. Scott vô cùng thích thú, anh chăm chỉ tập võ hằng ngày và thường dùng nhà để xe của bố mình làm nơi tập luyện. Ngoài Judo thì Scott cũng có học những môn võ khác như Karate, Taekwondo, Quyền Anh, Muay Thái và Nhu thuật Brasil.
Scott Adkins từng xem siêu sao võ thuật huyền thoại Lý Tiểu Long là thần tượng của mình, anh mơ ước được đóng phim võ thuật như Lý Tiểu Long trong tương lai. Cơ hội thật sự đã đến với Scott khi anh đặt chân đến nước Mỹ làm diễn viên, anh luôn được mời tham gia phim hành động võ thuật. Bộ phim "Undisputed III: Redemption" từng đem về cho Scott danh hiệu "Ngôi sao hành động đột phá" (Breakout Action Star) tại Liên hoan phim hành động Quốc tế (Action on Film International Film Festival). | 1 | null |
Montastraea cavernosa là một loài san hô trong họ Faviidae. Chúng thường được tìm thấy trong vùng biển Caribbean. Nó hình thành những tảng lớn và đôi khi phát triển thành tấm. Polyp của nó có kích thước của một ngón tay cái của con người và hoàn toàn mở rộng vào ban đêm. Chúng tạo thành quần thể ở các tảng hình mái vòm lớn có đường kính hơn 1,5 mét ở vùng biển độ sâu nông và trung bình. Trong vùng nước sâu hơn, san hô này được quan sát thấy phát triển thành hình tấm. Nó được tìm thấy trong suốt hầu hết các môi trường rạn san hô, và chủ yếu là san hô ở độ sâu 12,2-30,5 m.
Loài san hô này đôi khi có màu đỏ huỳnh quang hoặc màu da cam vào ban ngày, và gần đây người ta cho rằng màu sắc này là do phycoerythrin, một protein từ cyanobacteria. | 1 | null |
Todor Hristov Zhivkov ()) (7 tháng 9 năm 1911 - 5 tháng 8 năm 1998) là nguyên thủ quốc gia cộng sản đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Bulgaria từ ngày 4 tháng 3 năm 1954 cho đến ngày 10 tháng 11 năm 1989.
Ông trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Bulgaria vào năm 1954 và vẫn duy trì chức vụ này trong 35 năm, cho đến năm 1989, do đó ông trở thành nhà lãnh đạo phục vụ lâu nhất của bất kỳ quốc gia Khối Đông Âu, và một trong những người lãnh đạo không phải là hoàng gia trong lịch sử. Thời kỳ cầm quyền của ông đánh dấu một giai đoạn ổn định chính trị và kinh tế chưa từng có cho Bulgaria, đánh dấu bằng sự kiện Bulgaria đi theo Liên Xô và một mong muốn mở rộng quan hệ với phương Tây. Sự lãnh đạo của ông vẫn không bị thách thức cho đến khi sự suy thoái của các mối quan hệ Đông-Tây trong những năm 1980, khi tình trạng kinh tế trì trệ, một hình ảnh quốc tế xấu đi và sự ham quyền cố vị gia tăng và tình trạng tham nhũng ở Cộng hòa Nhân dân Bulgaria làm suy yếu vị trí của ông. Ông từ chức vào ngày 10 tháng 11 năm 1989, dưới áp lực của các thành viên cấp cao của Đảng Cộng sản Bulgaria do ông từ chối công nhận vấn đề và đối phó với các cuộc biểu tình công chúng. Chỉ hai tháng sau đó, trong tháng 1 năm 1990, Cộng hòa Nhân dân Bulgaria và hệ thống Cộng sản Đông Âu chấm dứt tồn tại. | 1 | null |
Hai phía chân trời là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Trần Quốc Trọng và Vũ Trường Khoa làm đạo diễn. Phim được chuyển thể tiểu thuyết "Máu của tuyết" của tác giả Trần Hoài Văn. Phim phát sóng vào lúc 20h05 thứ 5, 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 8 tháng 11 năm 2012 và kết thúc vào ngày 15 tháng 3 năm 2013 trên kênh VTV1.
Đây được coi bộ phim truyền hình đầu tiên có bối cảnh chính ở Đông Âu, cũng là bộ phim đầu tiên về người Việt xa xứ.""
Nội dung.
"Hai phía chân trời" xoay quanh một nhóm những người bạn cùng chung sức để xuất bản tờ báo mang tên "Trái tim Việt", trong đó có doanh nhân Lê (NSND Mạnh Cường) và luật sư Minh (NSƯT Xuân Bắc), với mong muốn cung cấp những thông tin, luật pháp... của đất nước sở tại cho bà con đồng bào sinh sống tại đây. Trong quá trình làm việc, họ đã phát hiện tay bút nghiệp dư Vinh (Lê Vũ Long) có lối sống rất nghĩa khí nhưng số phận lại long đong... Họ cũng giúp đỡ một người phụ nữ Việt có hoàn cảnh éo le tên Tình (NSƯT Lê Vi). Trước đó, Tình bỏ chồng con ở nhà, vay mượn tiền bạc để vượt biên sang trời Âu với hy vọng đổi đời. Thế nhưng, cuộc sống tốt đẹp đâu chả thấy, Tình lại phải sống trong sự đau khổ, dằn vặt, tội lỗi về cái chết của đứa con gái... Tuy nhiên, vượt qua những khó khăn, gian khổ đó luôn là sự yêu thương, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau, gìn giữ và trân trọng những giá trị văn hóa, truyền thống đạo đức...
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Đường xa tuyết trắng" do Lê Anh Dũng sáng tác và Tùng Dương - Đình Bảo thể hiện. | 1 | null |
Vụ bắt cóc Elizabeth Smart xảy ra vào ngày 05 tháng 6 năm 2002, khi cô gái 14 tuổi người Mỹ Elizabeth Smart bị bắt cóc từ phòng ngủ ở Salt Lake City, Utah, Hoa Kỳ. Smart đã được tìm thấy còn sống chín tháng sau đó vào ngày 12 tháng 3 năm 2003, tại Sandy, Utah, cự ly khoảng 18 km từ nhà cô bé, trong công ty của Brian David Mitchell và Wanda Ileen Barzee, những kẻ bị kết tội bắt cóc cô, nhưng ban đầu được tòa phán quyết là không phải chịu xét xử. Barzee, trong năm 2009, và Mitchell (sau đó là 57), trong năm 2010, cuối cùng đã bị kết án. Hắn bị giam tại nhà tù quận Salt Lake sau tuyên án của mình vào ngày 25 tháng năm 2011. Ngày 31 tháng 8, hắn bị chuyển đến nhà tù liên bang để bắt đầu thụ án chung thân cho tội ác của mình. Vụ bắt cóc Elizabeth và tìm ra cô bé đã được thông báo rộng rãi và là chủ đề của một bộ phim truyền hình và một cuốn sách xuất bản.
Diễn biến.
Cho đến lúc 14 tuổi, một lần Elizabeth cùng các chị em gái được theo mẹ xuống khu phố dưới để mua sắm quần áo mới thì cô lọt vào sự chú ý một gã đàn ông 50 tuổi, rất dơ dáy là Brian David Mitchell. Sau đó ông ta xin vào làm việc tại điền trang của gia đình Smart.
Ngày 5 tháng 6 năm 2002, Mitchell đã lẻn vào phòng ngủ của Elizabeth bắt cô lên ngọn núi ngay sau nhà. Ông ta mang Elizabeth đến khu cắm trại lưu động cách nhà của cô không xa, nơi ông ta sống trong một căn lều với vợ là Wanda Barzee. Họ đã tổ chức một nghi thức lễ kết hôn để biến Elizabeth thành vợ của Mitchell bằng cách ép buộc, sau đó Mitchell cưỡng hiếp cô, không phải một lần mà lặp đi lặp lại mỗi ngày trong suốt 9 tháng bị cầm tù. Trong thời gian này Elizabeth còn bị bỏ đói, bị trói chặt vào gốc cây bằng sợi xích sắt để ngăn bỏ trốn thậm chí bị ép phải khỏa thân đi quanh nhà...
Mỗi lần vợ chồng nhà Mitchell mang em theo xuống phố, chúng bắt em mặc áo trùm kín từ đầu đến chân, đeo mạng che mặt, chỉ hở ra mỗi đôi mắt.
Gia đình nhà Elizabeth đã nỗ lực tìm kiếm và đến tháng 3 năm 2003, cô được giải cứu nhưng cô đã bị ám ảnh nặng về 09 tháng làm nô lệ tình dục. Sau này Elizabeth đi khắp nước Mỹ, tham dự các buổi gặp mặt, tổ chức những cuộc vận động cho quỹ từ thiện mang tên Elizabeth Smart. Quỹ Elizabeth Smart tập trung cho mục tiêu giúp đỡ những trẻ em bị bắt cóc. Số tiền họ quyên góp được dành để chuyển về các trường học, đầu tư cho chương trình giáo dục học sinh những kĩ năng tự phòng vệ cơ bản để các em có thể tự cứu mình trong tình huống xấu nhất. Một phần tiền còn lại thì được góp vào ngân sách dành cho những cuộc tìm kiếm trẻ em mất tích khắp nước Mĩ.
Liên kết ngoài.
Multimedia | 1 | null |
ČZ 805 BREN là loại súng trường xung kích có thể dùng nhiều loại đạn được giới thiệu lần đầu vào năm 2009, nó được xem như mẫu có thể dùng để thay thế cho các khẩu Sa vz. 58 trong lực lượng quân đội Cộng hòa Séc. Súng đã được chọn để làm loại súng tiêu chuẩn cho quân đội Séc vào đầu năm 2010 với hợp đồng sản xuất được giao cho nhà máy sản xuất vũ khí nổi tiếng ČZ-UB tại thành phố Uhersky Brod.
Thiết kế.
ČZ 805 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén có thể điều phối bằng tay với thoi nạp đạn xoay, được thiết kế dưới dạng từng khối có thể tháo ráp để sử dụng nhiều loại đạn khác nhau và với từng loại đạn khác nhau sẽ một bộ khóa nòng thích hợp. CZ-805 được chia làm hai phần trên và dưới, phần trên của súng được làm bằng hợp kim nhôm còn phần dưới được làm bằng nhựa tổng hợp. Bộ phận gắn hộp đạn có thể tháo ra thay nhanh chóng kể cả khi đang chiến đấu để thay bằng các loại đạn thích hợp với điều kiện chiến đấu. Nòng súng cũng có thể tháo lắp nhanh chóng với các chiều dài và cỡ đạn khác nhau tùy vào yêu cầu của nhiệm vụ.
Nút khóa an toàn cũng là nút chọn chế độ bắn được đặc ở cả hai bên thân súng với các chế độ là an toàn, từng viên, hai viên và tự động. Nút kéo lên đạn có thể đặc ở cả hai bên thân súng tùy vào ý muốn của xạ thủ. Súng sử dụng hộp đạn rời 30 làm bằng nhựa trong để xạ thủ có thể xem còn bao nhiêu đạn, ngoài loại hộp đạn tiêu chuẩn súng còn có các loại hộp đạn khác từ 20 đến 100 viên. Về tiêu chuẩn súng sử dụng đạn 5.56×45mm NATO nhưng có thể thay đổi để sử dụng đạn 7.62×39mm và 6.8×43mm.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi có thể gấp vào mở ra và trên thân súng có thanh răng để lắp các hệ thống nhắm phù hợp như hệ thống nhắm điểm đỏ, hệ thống nhìn đêm, hệ thống nhắm laser hay ống nhắm... tùy yêu cầu. Báng súng có thể gấp lại để tiết kiệm không gian khi di chuyển hoặc cũng có thể tháo ra nhanh chóng nếu có yêu cầu tối đa về độ gọn. Một hệ thống ống phóng lựu và lưỡi lê riêng cũng được phát triển để gắn vào súng. | 1 | null |
Gala cười là một chương trình hài kịch châm biếm được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam. Số phát sóng đầu tiên của chương trình là vào ngày 30 tháng 8 năm 2003.
Từng là một phần trong chương trình "Gặp nhau cuối tuần", hiện nay chương trình được ghi hình mỗi năm một số và được phát vào ngày mùng 2 Tết âm lịch hàng năm trên kênh VTV3.
Lịch sử phát sóng.
Chương trình ban đầu vốn là một phần của chương trình "Gặp nhau cuối tuần", phát sóng số đầu tiên vào ngày 30 tháng 8 năm 2003, "Gala cười" là chương trình hài kịch mà ở đó các nhóm hài sẽ diễn trực tiếp các vở hài kịch trên sân khấu, khán giả khi xem chương trình có thể bình chọn nhóm hài được yêu thích nhất qua điện thoại. Kết quả sẽ được công bố trên chương trình "Gặp nhau cuối năm". Chương trình phát sóng đều đặn vào lúc 10:00 sáng ngày thứ Bảy mỗi tuần, phát lại vào lúc 21:00 ngày thứ Tư tuần kế tiếp thay thế cho chương trình "Gặp nhau cuối tuần" vào các tháng cuối năm, từ ngày 30 tháng 8 năm 2003 đến năm 2005.
Năm 2006, khác với mọi năm, chương trình "Gala cười 2006" là lời chia tay cuối cùng của những người thực hiện chuyên mục "Gặp nhau cuối tuần". Kịch bản được xây dựng đặc biệt, không bao gồm những tiết mục hài đơn lẻ mà được dàn dựng theo chương hồi như một vở nhạc kịch và là câu chuyện xuyên suốt về một con tàu (mô phỏng từ phim Titanic trong cuộc chinh phục đại dương mênh mông). Chương trình cũng được Hãng phim Phương Nam phát hành sang định dạng đĩa hình VCD, DVD.
Năm 2007, chương trình được phát sóng mỗi quý một số, cùng với chương trình "Gặp nhau cuối năm" vào ngày 30 tháng 12 hàng năm. Tuy nhiên sau đó chương trình đã tạm ngừng phát sóng trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2009.
Từ năm 2010 đến nay, chương trình thay đổi toàn bộ nội dung và được ghi hình, phát sóng một số mỗi năm vào thời điểm mùng 2 Tết Âm lịch. Trong các năm 2012 và 2016, chương trình được ghi hình tại Praha, Cộng hòa Séc. Năm 2022, kết cấu chương trình có sự thay đổi: các tiểu phẩm đơn lẻ được thay thế bằng 1 đại nhạc kịch kéo dài gần 2 tiếng.
Danh sách tiểu phẩm.
Dưới đây là tất cả các tiểu phẩm đã từng xuất hiện trong chương trình "Gala cười".
Giải thưởng.
Một vài năm đầu chương trình có cơ cấu như một cuộc thi với giải thưởng dành cho diễn viên và nhóm hài do khán giả bình chọn, cùng với giải thưởng dành cho các tiểu phẩm do Ban giám khảo bình chọn.
2004.
Giải hai nghệ sĩ có nhiều đóng góp và cống hiến cho Gala cười 2004: Văn Hiệp và Bảo Quốc. | 1 | null |
HMS "Adventure" (M23) là một tàu tuần dương rải mìn của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo trong những năm 1920 và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Vị chỉ huy của nó trong những năm 1928-1929 sau này là Đô đốc John H. D. Cunningham, Thứ trưởng Hải quân Anh.
Thiết kế và chế tạo.
Được đặt lườn tại Devonport vào tháng 11 năm 1922 và hạ thủy vào tháng 6 năm 1924, "Adventure" là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Anh được chế tạo để phục vụ như tàu rải mìn, và cũng là chiếc đầu tiên trang bị động cơ diesel để đi đường trường. Nó được thành phố Plymouth đỡ đầu.
"Adventure" được chế tạo để thay thế cho "Princess Margaret", một chiếc được cải biến thành tàu rải mìn kỳ cựu thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và được thiết kế để có khả năng mang số lượng thủy lôi lớn và tầm hoạt động xa. Số mìn mang theo được chứa hoàn toàn kín bên trong, đòi hỏi một lườn tàu dài và cao, với bốn đường ray thả mìn dọc theo chiều dài lườn tàu để trượt xuống phía đuôi. Nó có một đuôi tàu phẳng để giúp có sự di chuyển hiệu quả, nhưng nước cuốn trở lại khiến thủy lôi có xu hướng bị hút ngược trở lại lườn tàu sau khi thả, một tình huống rõ ràng nguy hiểm đối với một tàu rải mìn. Kết quả là nó phải được tái cấu trúc với một đuôi tàu tròn theo kiểu truyền thống, và chiều dài con tàu tăng thêm .
Hệ thống động lực của nó tương tự với một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp C, nhưng để tăng hiệu quả đi đường trường, một động cơ diesel-điện mới được thử nghiệm; chân vịt được chọn dẫn động bằng kiểu động cơ thông qua một hộp số. Động cơ diesel-điện được tháo dỡ vào năm 1941 cùng với ống thoát nhỏ ghép vào ống khói thứ hai. Trọng lượng nặng bên trên của "Adventure" do số thủy lôi được chứa cao trên sàn tàu khiến nó không thể mang dàn vũ khí tiêu biểu của tàu tuần dương. Thay vào đó, bốn khẩu pháo QF Mark VIII trên các bệ góc cao được đặt ở các vị trí 'A', 'Q', 'X' và 'Y' sau khi nhận thức ra một cách sắp xếp hữu ích hơn. Vũ khí phòng không được hoàn thiện với một bệ pháo QF 2-pounder Mk.VIII "pom-pom" tám nòng (trang bị vào cuối 1930) và một cặp súng máy Vickers bốn nòng.
Lịch sử hoạt động.
Khi được đưa vào hoạt động, "Adventure" gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương. Trong những năm 1931-1932, nó trải qua một đợt tái trang bị, thay thế phần đuôi tàu dạng vuông thành dạng tròn.
Ngay những tháng đầu tiên của Chiến tranh Thế giới thứ hai, đang khi di chuyển cùng với và ,"Adventure" bị hư hại nặng do một vụ nổ, rất có thể do một quả mìn từ tính của Đức tại Thames Estuary vào 05 giờ 26 phút sáng ngày 13 tháng 11 năm 1939. Hai mươi ba người đã thiệt mạng trong vụ này; "Blanche" cũng bị trúng mìn lúc 08 giờ 20 phút và chìm lúc 09 giờ 50 phút, một người đã thiệt mạng trên chiếc "Blanche". "Adventure" được sửa chữa tại Sheerness. Vào năm 1940, nó rải mìn tại khu vực quần đảo Orkney và eo biển St. George; và vào năm 1941 lại bị hư hại do một quả mìn ngoài khơi Liverpool.
Cũng trong năm 1941, "Adventure" được bổ sung radar Anh Kiểu 291 trên cột ăn-ten chính để cảnh báo trên không, radar Kiểu 285 trên bệ kiểm soát hỏa lực góc cao (HACS) trên nóc cột ăn-ten trước, cùng một radar Kiểu 272 bước sóng cen-ti mét chỉ định mục tiêu trên cột ăn-ten trước dưới bệ kiểm soát hỏa lực. Đến năm 1944, nó được tăng cường chín khẩu phòng không Oerlikon 20 mm, bao gồm hai khẩu thay cho số súng máy Vickers vô dụng. Nó được sử dụng như một tàu sửa chữa và nghỉ ngơi cho các xuồng đổ bộ trong cuộc đổ bộ Normandy.
Đến năm 1945, "Adventure" được đưa về lực lượng dự bị; và đến năm 1947 nó bị bán cho hãng T. W. Ward Ltd. và bị tháo dỡ tại Briton Ferry. | 1 | null |
HMS "Plover" (M26) là một tàu rải mìn duyên hải của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó đã thả trên 15.000 quả thủy lôi (mìn) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; và tiếp tục được sử dụng sau chiến tranh cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1969.
Thiết kế và chế tạo.
"Plover" có trọng lượng choán nước tiểu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước sâu . Con tàu được vận hành bởi hai động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc, dẫn động hai trục chân vịt và có công suất tổng cộng , cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp cho động cơ từ hai nồi hơi ống nước; và "Plover" có thể mang theo tối đa dầu đốt. Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó bao gồm 69 sĩ qua và thủy thủ.
Con tàu thoạt tiên được trang bị hai súng máy , nhưng sau khi chiến tranh nổ ra nó được bổ sung một khẩu 12-pounder nòng đơn phía sau cùng một khẩu pháo tự động Oerlikon 20 mm phòng không phía trước. Nguyên "Plover" còn có thiết bị tháo dỡ mìn, nhưng việc tháo bỏ những công cụ này giúp gia tăng lượng thủy lôi mang theo từ 80 lên 100 quả trong Thế Chiến II. Vào một lúc nào đó trong chiến tranh, nó được trang bị radar cảnh báo không trung Kiểu 286.
Lịch sử hoạt động.
"Plover" được dự định để thực hiện các thử nghiệm về thủy lôi, nên được trang bị để có thể thu hồi lẫn thả mìn. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai nó đã thả tổng cộng 15.237 quả mìn, bao gồm hai quả vốn đã đánh chìm tàu khu trục Đức "Z8 Bruno Heinemann" ngoài khơi bờ biển nước Bỉ vào tháng 12 năm 1942.
Vào gần cuối chiến tranh, tàu ngầm U-boat Đức "U-325" trúng phải một quả mìn thuộc bãi mìn B3-P1 cách về phía Nam Lizard Point, ở tọa độ do "Plover" rải vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1945. Từ 08 giờ 14 phút đến 08 giờ 42 phút, nó đã thả 100 quả mìn Mk XVII/XVII(8) dọc trên một hành trình dài theo hướng 283,5° từ tọa độ .
Con tàu được giữ lại để tiếp tục phục vụ sau khi chiến tranh kết thúc cho đến khi nó được bán cho hãng T. W. Ward vào năm 1969 để tháo dỡ. "Plover" được cho kéo đến ụ tàu của hãng ở Inverkeithing, Scotland vào tháng 4 năm 1969 để bắt đầu tháo dỡ. | 1 | null |
Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản (Sinh năm 1956) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam, hiện là giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng và chủ tịch Uỷ ban Thánh Kinh trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhiệm kỳ 2022–2025. Trước đó, ông đã từng giữ chức vụ này trong nhiệm kỳ 2019–2022. Trước đó, ông từng là giám mục chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột và đảm trách cương vị Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam trong ba nhiệm kỳ liên tiếp: 2010 – 2013, 2013 – 2016 và 2016 – 2019.
Ông sinh tại Phú Yên và là người con thứ 7 trong số 9 người con trong gia đình. Sau quá trình tu học khởi đầu từ năm 1968 đến năm 1988 và 5 năm hỗ trợ mục vụ tại giáo xứ Tuy Hòa, tháng 9 năm 1993, ông được truyền chức linh mục, là linh mục Giáo phận Qui Nhơn.
Chỉ sau ba năm đảm nhận vai trò linh mục phó xứ Tuy Hòa, ông được cử đi du học Pháp và trở về Việt Nam năm 2005 với văn bằng Thạc sĩ Thần học. Sau khi về nước, ông đảm nhận công tác đào tạo chủng sinh giáo phận Qui Nhơn và giáo sư Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang. Trong thời gian này, ông cũng tham gia Thượng hội đồng Giám mục Thế giới năm 2008 với vai trò chuyên gia, cố vấn của Tổng giám mục Monsengwo Pasinya.
Năm 2009, giáo hoàng công bố bổ nhiệm linh mục Nguyễn Văn Bản làm giám mục chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019, ông còn kiêm nhiệm vai trò Chủ tịch Uỷ ban Thánh Nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ông đảm nhận vai trò Chủ tịch Uỷ ban Kinh thánh kể từ nhiệm kỳ 2019 – 2022.
Thân thế và tu tập.
Giám mục Nguyễn Văn Bản sinh ngày 26 tháng 11 năm 1956 tại giáo xứ Tuy Hòa (nay là phường 2, thành phố Tuy Hòa), tỉnh Phú Yên, thuộc Giáo phận Qui Nhơn. Ông là con thứ bảy trong số chín người con của ông Vinh Sơn Nguyễn Văn Biện và Maria Hoàng thị Lụa (nay đều đã qua đời), gốc ở giáo xứ Thúy Lâm, xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, thuộc Giáo phận Hải Phòng.
Khởi đầu con đường tu học, gia đình đưa cậu bé Bản nhập học tại Tiểu chủng viện Làng Sông năm 1968. Sau khi rời tiểu chủng viện năm 1975, chủng sinh Nguyễn Văn Bản tiếp tục con đường tu học bằng việc học triết học và thần học tại Trung tâm huấn luyện của Giáo phận Qui Nhơn, tọa lạc tại Mằng Lăng, Tuy An (Đại chủng viện) và học tại đây cho đến năm 1988. Sau đó, ông đi hỗ trợ công việc mục vụ tại giáo xứ Tuy Hòa cho đến năm 1993.
Linh mục.
Sau khi tốt nghiệp đại chủng viện, mãi đến năm năm sau, Phó tế Nguyễn Văn Bản mới được thụ phong linh mục ngày 16 tháng 9 năm 1993, bởi giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các. Sau khi được truyền chức, tân linh mục Vinh Sơn được bổ nhiệm làm linh mục phó giáo xứ Tuy Hòa. Ba năm sau đó, Giáo phận quyết định gửi ông đến Pháp du học, học tại Học viện Công giáo Paris. Sau khoảng thời gian dài suốt 9 năm kéo dài từ năm 1996 đến 2005, linh mục Nguyễn Văn Bản tốt nghiệp với văn bằng Thạc sĩ Thần học.
Sau khi hoàn tất việc du học, linh mục Vinh Sơn trở về nước năm 2005, và được phân công phụ trách việc huấn luyện các chủng sinh của giáo phận Qui Nhơn đồng thời kiêm nhiệm thêm vị trí giáo sư tại Đại chủng viện Sao Biển, Giáo phận Nha Trang kể từ ngày 18 tháng 9 cùng năm. Ngoài ra, ông cũng là chuyên viên tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ 12 về Lời Chúa tại Roma từ ngày 5 đến 26 tháng 10 năm 2008, đồng thời là trợ tá đặc biệt của Tổng giám mục Monsengwo Pasinya.
Giám mục.
Giám mục chính tòa Ban Mê Thuột.
Sau khi giám mục Giuse Nguyễn Tích Đức từ chức ngày 17 tháng 5 năm 2006, Giáo phận Ban Mê Thuột trống tòa. Trong thời gian đó, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam là giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám mục Giáo phận Nha Trang, kiêm nhiệm vị trí Giám quản Tông Tòa giáo phận Ban Mê Thuột.
Ngày 21 tháng 2 năm 2009, Giáo hoàng Biển Đức XVI công bố bổ nhiệm linh mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản làm Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột. Số liệu giáo phận tại thời điểm đó là có số giáo dân gần 339.000, 99 giáo xứ, 106 linh mục gồm 93 linh mục triều và 13 linh mục dòng, 35 tu huynh, 40 chủng sinh và 350 nữ tu. Sau khi tin bổ nhiệm được công bố, phái đoàn giáo phận Ban Mê Thuột đến chào thăm Tân giám mục sau đó vào ngày 26 tháng 2. Đáp lại chuyến viếng thăm, tân giám mục Bản cùng phái đoàn các linh mục giáo phận Qui Nhơn đã đến viếng thăm và hoạch định kế hoạch lễ phong chức với giám mục giám quản Phaolô Nguyễn Văn Hòa. Nói về lễ phong chức, tân giám mục sắp đặt lễ phong chức trước hai ngày dịp lễ mừng Thượng thọ giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ và mong muốn buổi lễ tổ chức đơn giản, đông đảo các tầng lớp tín hữu và tránh phô trương. Ngày 4 tháng 6, ông dâng lễ tại giáo phận mới, đến thăm các cơ sở tôn giáo và thiện nguyện như: trường khuyết tật Vi Nhân, cộng đoàn nữ tu Thánh Phaolô, lớp học Tình thương Vinh Sơn và trường mầm non Họa Mi do các nữ tu dòng Nữ Vương Hòa Bình đảm trách trước khi về giáo phận Qui Nhơn.
Nguyễn Văn Bản chọn cho mình khẩu hiệu giám mục: là "Spiritu ambulate" (hãy bước theo Thần Khí) với ý nghĩa mong muốn "được thuộc trọn về Chúa và Giáo Hội theo tinh thần của thánh Phaolô Tông Đồ", trích đoạn theo thư Phaolô gửi Galate, với ý nghĩa: "Thánh Phaolô mời gọi người tín hữu sống trong sự tự do mà Đức Kitô đem lại, chứ đừng quá lệ thuộc vào cách suy nghĩ của người đời, vì thế, Ngài mời gọi người Kitô hữu trung thành với lựa chọn ban đầu là bước theo Thần Khí đế cái chết của Đức Kitô tiếp tục phát sinh sự sống nơi đời sống của mình." Về ngày lễ tấn phong, ông cho biết ban đầu dự tính phong chức trước lễ Phục Sinh, tuy vậy các điều kiện không cho phép.
Giám mục tân cử Nguyễn Văn Bản tạm thời giám quản giáo phận Ban Mê Thuột kể từ ngày 29 tháng 4 năm 2009. Lễ tấn phong cho vị tân chức được cử hành sau đó vào ngày 12 tháng 5, tại nhà thờ chính tòa Ban Mê Thuột, với vị chủ phong là Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và hai vị phụ phong gồm Giám mục Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục Giáo phận Đà Nẵng và Giám mục Giuse Võ Đức Minh, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang. Trong lời cảm ơn gửi đến tín hữu người dân tộc, ông phát biểu bằng tiếng Êđê.
Ngay từ khi nhận giáo phận, Giám mục Nguyễn Văn Bản theo học tiếng Êđê. Năm 2010, giám mục Bản quyết định phải tiến hành việc giáo dục các ngôn ngữ bản địa cho chủng sinh giáo phận, thông qua ba ngôn ngữ chính là Ê đê, M’Nông và S’tiêng. Các linh mục trẻ sau đó dễ dàng tiếp cận, giảng lễ bằng tiếng dân tộc. Ông yêu cầu linh mục tôn trọng văn hóa riêng của các sắc tộc và cho phép thử nghiệm cử hành lễ bằng tiếng các dân tộc, hát các bản thánh ca đã được chuyển ngữ. Giám mục Bản kêu gọi các dòng tu và giáo dân quan tâm ưu tiên đời sống đồng bào dân tộc. Ông cũng kêu gọi sự hiệp nhất trong giáo phận. Trong suốt thời gian quản nhiệm giáo phận, giám mục Bản đã góp phần phát triển các giáo họ, giáo xứ, canh tân đời sống tâm linh cũng như vật chất cho giáo hữu. Vì là giáo phận có nhiều tín độ đa sắc tộc, chủ trương của giám mục Bản là các dân tộc sống trong bầu khí cộng đoàn giáo hữu đoàn kết và yêu thương; lấy sự khác biệt của các dân tộc góp phần phát triển giáo phận.
Ngày 19 tháng 3 năm 2022, Giám mục Nguyễn Văn Bản được thuyên chuyển làm giám mục giáo phận Hải Phòng, kết thúc 13 năm thi hành mục vụ tại giáo phận Ban Mê Thuột. Trong thời gian quản nhiệm của giám mục Bản, số linh mục triều tăng từ 105 lên 182, số giáo hữu tăng từ 372.000 lên 470.000, số dòng tu từ 20 dòng trở thành 42 dòng (13 dòng nam và 29 dòng nữ). Thời điểm 2022, giáo phận cũng có 14 phó tế và 152 chủng sinh. Trong thời kỳ ông quản nhiệm, nhiều giáo điểm, giáo họ được thành lập và xây mới 101 nhà thờ trên địa bàn giáo phận.
Sau khi được bổ nhiệm làm giám mục Hải Phòng, Giám mục Nguyễn Văn Bản công bố thư mục vụ đề ngày 25 tháng 3 năm 2022. Với tư cách Giám mục Giám quản Tông Tòa, giám mục Nguyễn Văn Bản bổ nhiệm linh mục Stêphanô Nguyễn Văn Đậu làm Tổng đại diện và yêu cầu các linh mục quản hạt và trưởng ban tiếp tục các vai trò của mình cho đến khi giáo phận có tân giám mục. Giám mục Bản cho biết ông không có thời gian chào thăm các linh mục và giáo dân trong toàn giáo phận, tuy vậy sẽ có nhiều dịp gặp họ khi tiếp tục làm việc tại giáo phận (trong tư cách giám quản). Cuối thư, giám mục Bản cảm ơn mọi người đã cộng tác cùng ông để xây dựng giáo phận trong suốt 13 năm.
Giám mục Nguyễn Văn Bản đảm trách cương vị Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam trong ba nhiệm kỳ liên tiếp: 2010 – 2013, 2013 – 2016 và 2016 – 2019. Các giám mục Việt Nam từ 27 giáo phận họp Đại hội XIV Hội đồng Giám mục Việt Nam tại trung tâm Mục vụ Giáo phận Hải Phòng vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2019. Trong khuôn khổ đại hội, các giám mục đã sắp xếp và bầu chọn nhân sự trong hội đồng và chọn Giám mục Bản đảm trách vai trò Chủ tịch Uỷ ban Kinh Thánh trực thuộc Hội đồng Giám mục trong nhiệm kỳ 2019 – 2022.
Giám mục chính tòa Hải Phòng.
Bổ nhiệm và các chuẩn bị.
Ngày 19 tháng 3 năm 2022, Văn phòng Tòa Thánh công bố việc bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Bản hiện là Giám mục Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột, làm Giám mục Chính tòa Giáo phận Hải Phòng. Đồng thời, Giám mục Bản kiêm nhiệm vai trò Giám quản Tông tòa giáo phận Ban Mê Thuột “trống tòa và theo ý Toà Thánh” (sede vacante et ad nutum Sanctae Sedis). Giáo phận Hải Phòng trước đó đã trống tòa từ tháng 11 năm 2018, sau khi giám mục chính tòa Vũ Văn Thiên được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội. Tổng giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Giám quản Tông Tòa Hải Phòng viết thông báo về tin bổ nhiệm. Tổng giám mục Thiên cho biết, ngày nhậm chức của tân giám mục Hải Phòng sẽ được thông báo sau. Ông cũng nêu sự lưu ý về kinh nguyện thánh thể trong giáo phận và nghi thức rung chuông mừng được thực hiện vào sáng ngày 20 tháng 3. Nói về sự bổ nhiệm, Giám mục Bản cho biết ông đã được báo trước tin bổ nhiệm vào sáng ngày bổ nhiệm. Ông quyết định đi đến đài Thánh Giuse (giáo họ Kim Thành) và đồi Đức Mẹ Giang Sơn để cầu nguyện.
Giám mục Nguyễn Văn Bản nói lời chia tay và cảm tạ với linh mục và giáo dân giáo phận Ban Mê Thuột, đã cộng tác và hỗ trợ ông trong suốt 13 năm đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Ban Mê Thuột. Giám mục Bản cho biết ông học được sự vâng phục của các linh mục thuộc quyền nên đã vâng phục giáo hoàng để nhận nhiệm sở mới ở Hải Phòng. Ông dự kiến sẽ đến Hải Phòng ngày 29 tháng 3 và nhậm chức vào sáng ngày 31 cùng tháng. Tân giám mục Hải Phòng cũng cho biết ông không rõ lý do việc nhậm chức sớm, nhưng tuân theo ý của Đại diện Tòa Thánh (Marek Zalewski) đề nghị nhậm chức trước lễ Phục Sinh. Ông đề nghị giáo dân cầu nguyện cho bản thân, cho hai giáo phận cũng như cho giáo phận Ban Mê Thuột sớm có tân giám mục.
Ngày 21 tháng 3, một phái đoàn các linh mục giáo phận Hải Phòng đã đến chào thăm tân giám mục giáo phận tại Tòa giám mục Ban Mê Thuột. Tại cuộc gặp, giám mục Bản cho biết giáo phận Hải Phòng đối với ông không phải là xa lạ, do song thân ông xuất thân từ giáo phận này và đã có nhiều dịp thực hiện các công việc mục vụ tại giáo phận. Giám mục Bản chia sẻ cùng các linh mục kinh nghiệm mục vụ tại Ban Mê Thuột, trong khi đó các linh mục nêu các thông tin về các nhu cầu mục vụ tại giáo phận Hải Phòng. Hai bên cũng đã thảo luận về việc chuẩn bị lễ nhậm chức vào cuối cuộc gặp. Cùng ngày này, thông cáo từ Tòa giám mục Hải Phòng, do linh mục văn phòng Tòa giám mục thông báo về lễ tạ ơn của giám quản Tông Tòa Giuse Vũ Văn Thiên (ngày 28 tháng 3), về việc tiếp đón giám mục tân cử đến giáo phận. Cũng trong thông cáo này, nghi thức tuyên xưng Đức tin và tuyên thệ trung thành sẽ được cử hành chiều ngày 30 tháng 3 và lễ nhận tòa (khởi đầu sứ vụ) vào sáng ngày 31 tháng 3.
Các nghi thức và lễ nhận tòa giáo phận.
Sáng ngày 29 tháng 3, Giám mục Bản đến giáo phận Hải Phòng sau chuyến bay đáp xuống sân bay Cát Bi. Tân giám mục được chào đón tại sân bay và đưa đến Nhà thờ chính tòa Hải Phòng, nơi ông được tiếp đón bởi Giám quản Tông Tòa Giuse Vũ Văn Thiên. Nghi thức tuyên xưng đức tin cũng như tuyên thệ trung thành được cử hành vào giờ kinh chiều một ngày sau đó tại Trung tâm mục vụ Giáo phận Hải Phòng. Lễ nhận ngai tòa giáo phận đã được cử hành vào sáng ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại nhà thờ chính tòa Hải Phòng. Nguyên giám mục giám quản Vũ Văn Thiên đã trao lại gậy mục tử và chìa khóa, biểu trưng cho quyền quản lý giáo phận cho giám mục tân nhiệm Nguyễn Văn Bản.
Mục vụ.
Trong kỳ Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam XV từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 10 năm 2022 tại Hà Nội, các giám mục Việt Nam tiếp tục chọn Giám mục Nguyễn Văn Bản đảm trách vai trò Chủ tịch Ủy ban Kinh Thánh thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam trong nhiệm kỳ 2022–2025.
Tông truyền.
Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản được tấn phong giám mục năm 2009, thời Giáo hoàng Biển Đức XVI:
Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản là phụ phong trong nghi thức truyền chức cho các giám mục: | 1 | null |
Trận sông Wisla, còn gọi là Trận đánh vì Warszawa lần thứ nhất hay Trận Ivangorod (Deblin) là một trận đánh trên Mặt trận phía Đông thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã kéo dài từ ngày 28 tháng 9 cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1914 tại Trung Âu. Đây là đợt tấn công đầu tiên của quân đội Đế quốc Đức vào thành phố thủ đô của Ba Lan trong cuộc chiến tranh. Trong chiến dịch tấn công này, Tập đoàn quân số 9 của Đức dưới quyền chỉ huy của tướng Paul von Hindenburg, với sự hỗ trợ của quân đội Áo-Hung đã tiến gần đến Warzsawa, nhưng vấp phải cuộc phản công của quân đội Đế quốc Nga (với một số tập đoàn quân) và phải tiến hành triệt thoái về khởi điểm của mình. Trận sông Wisla được xem là một chiến thắng quan trọng của quân đội Nga, do, mặc dù quân đội Đức đã bảo tồn được phần lớn binh lực của mình, họ đã không thể trợ giúp đáng kể cho quân đội Áo - Hung, và không lâu sau quân Áo đã từ bỏ mọi bước tiến về phía cực đông của mình. Theo nhiều nhà sử học, đây là một chiến thắng lớn của Nga, khi Nga chỉ mất 65.000 người trong đội quân lên tới hơn 1 triệu người của Nga, trong khi với quân số 412.000 người của Đức và Áo-Hung, họ lại bị đánh tan tác và hao tổn một lượng binh lực quá nặng nề (hơn 37-38% quân số bị tiêu diệt).
Sau thất bại của quân đội Áo-Hung tại Galicia, tướng Erich von Falkenhayn – Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức, đã hạ lệnh cho tướng Hindenburg – tư lệnh Tập đoàn quân số 8 của Đức – giảm bớt gánh nặng cho quân Áo tại Galicia. Người Đức đã vạch ra kế hoạch chuyển 4 quân đoàn từ Đông Phổ đến Schlesien, và từ đây Tập đoàn quân số 9 mới được thành lập – cũng là do Hindenburg chỉ huy – sẽ đánh thọc vào hướng tây nam Ba Lan. Trong tháng 9 năm 1914, Tập đoàn quân số 9 của Đức đã tiến về Schlesien. Tham mưu trưởng của Hindenburg là Erich Ludendorff hy vọng rằng, quân Áo-Hung sẽ giành lại thế chủ động một khi quân Nga bị chiến dịch tấn công của quân Đức làm phân tâm. Khi ấy, một lỗ hổng đang tồn tại giữa Tập đoàn quân số 2 tại Warszawa và Tập đoàn quân số 9 của Nga trên sông San, sau người Nga cũng phân chia lại lực lượng của mình. Họ lập kế hoạch chuyển bớt quân khỏi vùng Carpathia để tấn công Schlesien và theo đó, một số tập đoàn quân (như số 2) sẽ yểm trợ cuộc tiến công trong khi các tập đoàn quân số 4, 5 và 9 sẽ tây tiến. Vào ngày 22 tháng 9, chiến tuyến sông Wisla được xác lập và người Nga sớm nhận thấy có các lực lượng Đức tại Schlesien. Vào ngày 28 tháng 9, Tập đoàn quân số 9 của Đức phát động tiến công, và có được bước tiến nhanh chóng về sông Wisla. Khi quân Đức tiến công, Nga đã điều động Tập đoàn quân số 5 hội quân với Tập đoàn quân số 2 ở Warszawa, trong khi Tập đoàn quân số 4 nằm ở hướng nam của họ. Tập đoàn quân số 9 của Nga cũng bắc tiến từ sông San về Wisla. Vào ngày 9 tháng 10, quân đội Đức đến sông Wisla, hoàn thành mục tiêu cứu nguy cho Áo. Song, do một số yếu tố như bất lợi về quân số, vấn đề tiếp tế... quân Đức kiệt quệ. Từ ngày hôm đó, các lực lượng Đức do tướng August von Mackensen chỉ huy cũng giành một số thắng lợi.
Cho đến ngày 12 tháng 10, Mackensen đến gần Warszawa, song người Đức bắt đầu chuẩn bị rút lui. Các cuộc phản công của quân Nga nhằm vào Tập đoàn quân số 9 của Đức và Tập đoàn quân số 1 của Áo-Hung đã giành thắng lợi, buộc quân Đức phải rút lui vào ngày 19 tháng 10. Quân Nga truy kích, nhưng cuộc triệt binh tài tình của quân Đức đã đưa Mackensen thoát khỏi cái bẫy của địch thủ. Giờ đây, Schlesien rơi vào nguy cơ bị quân Nga xâm chiếm. | 1 | null |
Côm háo ẩm, Côm cánh ướt hay Cà na (danh pháp hai phần: Elaeocarpus hygrophilus) là một loài thực vật thuộc họ Côm. Loài cây này phân bố ở Đông Nam Á. Đây là cây gỗ cao từ 10-25m. Lá có phiến hình trái xoan ngược, thót lại trên cuống về phía gốc, thót tù lại ở đầu, rất nhẵn, gần như dai, màu lục ở mặt trên, nhạt màu ở mặt dưới, có răng lượn sóng, dài 4–9 cm, rộng 18-30mm. Hoa thành chùm có lông mềm, màu bạc ở nách những lá đã rụng, dài 4–7 cm, có cuống dài 3-5mm. Quả hạch hình bầu dục nhọn, dài 3 cm; nhân 1 hạt. | 1 | null |
Chi Côm (danh pháp khoa học: Elaeocarpus) là một chi gồm các loài cây thường xanh và cây bụi ở nhiệt đới và cận nhiệt đới. Có khoảng 350-485 loài (tùy hệ thống phân loại) trong chi này, phân bố từ Madagascar ở phía tây qua Ấn Độ, Đông Nam Á, Malaysia, nam Trung Hoa, và Nhật Bản, qua Úc đến New Zealand, Fiji, và Hawaii ở phía đông. Các đảo Borneo và New Guinea có mật độ loài lớn nhất của chi này. Các loài cây này có quả giống viên trân châu nhiều màu sắc. Nhiều loài bị đe dọa, đặc biệt là bởi mất nơi sống.
Từ nguyên.
"Elaeocarpus" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là ‘quả ô liu’ hay 'với quả giống như quả ô liu'.
Mô tả.
Cây gỗ hoặc hiếm khi là cây bụi. Lá mọc so le hoặc mọc vòng; các lá kèm thẳng hoặc hiếm khi giống lá, sớm rụng, hiếm khi bền; cuống lá thường dài và phồng ở cả hai đầu; mép phiến lá có răng cưa hoặc nguyên, gân lá lông chim. Cụm hoa mọc ở nách lá, dạng cành hoa. Hoa lưỡng tính, mẫu 4 hoặc 5. Lá đài 4 hoặc 5 mảnh, phía xa trục thường có lông tơ. Cánh hoa 4 hoặc 5, màu trắng, rời, mép có khía, hiếm khi nguyên hoặc có thùy. Nhị từ 8 đến nhiều; chỉ nhị ngắn; bao phấn 2 ngăn, mở từ các khe nứt trên đỉnh, có râu hoặc lông ở đỉnh. Đĩa mật thường 5-10 thùy có tuyến, hiếm khi hình tròn. Bầu nhụy thượng, 2-5(-7) ngăn; lá noãn 2-12 mỗi ngăn; vòi nhụy thẳng hoặc hình dùi. Quả là quả hạch, 1 (hoặc 5) ngăn; vỏ quả trong cứng, giống xương, bề mặt thường có lỗ khuyết. Hạt thường 1 mỗi ngăn, với nội nhũ mọng thịt; các lá mầm mỏng; phôi thẳng hoặc cong.
Một đặc trưng đáng chú ý của chi này là các cụm hoa rủ, thường có diềm.
Sử dụng.
Trong khu vực Darjeeling và Sikkim, quả của một vài loài "Elaeocarpus" được gọi là "bhadrasey" và được dùng để làm các món dưa chua và tương chua cay. Hạt của "Elaeocarpus ganitrus" được dùng để làm rudraksha, một kiểu tràng hạt dùng trong đạo Hindu. | 1 | null |
Kapilvastu (), đôi khi được viết là Kapilbastu, là một huyện thuộc khu Lumbini, vùng Tây Nepal, Nepal. Huyện này có diện tích 1738 km², dân số thời điểm năm 2001 là 481976 người. Huyện được đặt tên theo vương thành Ca-tỳ-la-vệ cổ, nơi được xem là quê hương của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Các xã và thị trấn.
Vì được xem là quê hương của Đức Phật, nhiều tên xã và thị trấn tại huyện được đặt theo các danh xưng có liên quan đến ông.
Dân số.
Biến động dân số giai đoạn 1952-2001:
Liên kết ngoài.
| 1 | null |
Pandemic Studios là nhà phát triển game độc lập được thành lập vào năm 1998 và trở thành một nhà phát triển do Electronic Arts sở hữu từ năm 2007 đến 2009, khi hãng chính thức đóng cửa. Là nhà phát triển trò chơi điện tử của Úc và Mỹ với các văn phòng đặt ở Brisbane, Úc và Los Angeles, California, Mỹ. Các tựa game nổi bật gồm "Full Spectrum Warrior", ', "Dark Reign 2", "Destroy All Humans!", ', "" và "The Saboteur".
Lịch sử.
Chủ tịch công ty là Josh Resnick và Tổng giám đốc điều hành là Andrew Goldman, cả hai trước đây từng làm việc tại hãng Activision và Pandemic được thành lập với vốn đầu tư cổ phần của Activision vào năm 1998. Hai tựa game đầu tiên do Pandemic phát triển là "Battlezone II" và "Dark Reign 2" đều là hai phần tiếp theo từ các game của hãng Activision.
Năm 2000, Pandemic cho mở một studio vệ tinh ở vùng ngoại ô Brisbane trong khu Thung lũng Fortitude. Dự án đầu tiên của hãng là "", một tựa game chiến lược thời gian thực (RTS) hệ console sử dụng engine của "Dark Reign 2". Studio về sau còn phát triển thêm tựa game "Destroy All Humans!". Năm 2003, studio ở Los Angeles phải dời trụ sở sáng lập tại Santa Monica đến một tòa cao ốc ở Westwood.
Vào tháng 11 năm 2005, Pandemic công bố rằng hãng và BioWare sẽ tham gia vào lực lượng với các đối tác đầu tư tư nhân thuộc quỹ đầu tư Đối tác Nâng cao. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2007. Ngoài ra hãng còn thông báo rằng VG Holding Corp., chủ sở hữu của BioWare và Pandemic Studios sẽ được Electronic Arts mua lại cũng như bị lệ thuộc từ sự chấp thuận của Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (FTC) vào tháng Giêng năm 2008.
Tháng 2 năm 2009, hãng đã đóng cửa văn phòng của họ ở thành phố Brisbane, Úc. Tháng 11 năm 2009, Electronic Arts đã cắt giảm tổng cộng 1.500 việc làm ảnh hưởng đến các studio khác nhau, bao gồm cả việc Pandemic ngừng hoạt động. Vào ngày 17 tháng 11 năm 2009, EA chính thức xác nhận đóng cửa Pandemic Studios và sa thải 228 nhân viên. Ngoài ra, EA còn thu hút 35 nhân sự của Pandemic để hỗ trợ cho "The Saboteur" và một dự án không báo trước mà sau này được tiết lộ là "Mercs Inc", một phần tiếp theo của loạt game "Mercenaries". Đáp lại, một vài cựu nhân viên của Pandemic đã tạo ra một đoạn video theo kiểu phim hài "Office Space" nơi mà họ có thể trưng bày chiếc máy in văn phòng tuyệt vời của mình.
Hơn một loạt các nhà phát triển kỳ cựu của Pandemic hiện đang làm việc tại hãng 343 Industries nơi đang phát triển dự án "" và hiện đang trong quá trình phát triển "Halo 4".
Game phát triển.
Pandemic Studios đã phát triển hai tựa game chính đầu tiên thành công của ' là ' và ' cũng như "Full Spectrum Warrior" và "sê-ri Mercenaries". Studio cũng phát triển tựa game cuối cùng trong "sê-ri Army Men" do hãng 3DO phát hành là '. Studio còn chịu trách nhiệm cho việc phát triển hai tựa game đầu tiên trong "sê-ri Destroy All Humans!" và dự án cuối cùng mà hãng phát hành trước khi giải thể là "The Saboteur".
Tại thời điểm đóng cửa studio vẫn còn nhiều dự án đang trong quá trình phát triển mang tên Dự án X và Y được xác lập trên trang web chính thức của Pandemic. Dự án X đã được xác lập từ năm 2007 trong khi Dự án Y gần đây mới được xác lập trong năm 2009. Chẳng bao lâu sau khi studio đóng cửa có tin tiết lộ rằng Dự án Y là "Mercs Inc", một tựa game mới trong sê-ri "Mercenaries" do Pandemic Studios phát triển tại EALA, Dự án Y được xác lập trên trang web chính thức đã biến mất khi trò chơi được công bố. Ngoài ra, một phiên bản khác của "Mercenaries" là "Mercenaries 3: No Limits" được sản xuất ngay tại thời điểm hãng đóng cửa và sau đó đã được hủy bỏ. Nhiều dự án được phát triển tại Pandemic Studio ở Brisbane cũng bị hủy bỏ khi hãng đóng cửa trong đó có "The Dark Knight" và hai tựa game không được thông báo là Dự án B và Q.
| 1 | null |
cdv Software Entertainment AG là một nhà phát hành trò chơi điện tử của Đức chuyên về game chiến lược dành cho PC. CDV được Wolfgang Gäbler và Christina Oppermann thành lập vào năm 1989 tại Karlsruhe, Đức. Cdv còn cho niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Frankfurt vào tháng 4 năm 2000. Họ cũng có một công ty con sở hữu toàn bộ là cdv USA ở Cary, Bắc Carolina, Mỹ.
Game phát hành.
Cdv cũng phát hành các game phiêu lưu như "The Mystery of the Druids". | 1 | null |
Rupandehi (tiếng Nepal:रुपन्देही) là một huyện thuộc khu Lumbini, vùng Tây Nepal, Nepal. Huyện này có diện tích 1360 km², huyện lỵ đóng ở Siddharthanagar. Theo điều tra dân số năm 2011, huyện Rupandehi có dân số 880.196 người.
Lumbini, nơi sinh của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, nằm ở huyện Rupandehi. Devdaha, nơi sinh của Mayadevi (mẹ của Tất-đạt-đa Cồ-đàm) cũng thuộc huyện Rupandehi.
Dân số.
Biến động dân số giai đoạn 1952-2001:
Liên kết ngoài.
| 1 | null |
Lộng Hành Thiên Hạ (tên chính thức: 龙行天下) là bộ phim võ thuật Hồng Kông, được đạo diễn Từ Khắc sản xuất vào năm 1989, với sự tham gia của các diễn viên Lý Liên Kiệt, Nguyên Hoa và một số diễn viên khác. Phim được phát hành tại Hồng Kông vào năm 1989, tuy nhiên không được phát hành tại các nước phương tây, mãi cho đến khi bộ phim Hoàng Phi Hồng thành công vào năm 1992.
Nội dung.
Ở Los Angeles, võ sư người Hoa tên Trần Hậu Đức giao đấu với tên côn đồ Johnny. Vụ ẩu đả này đã gây ra nhiều thiệt hại cho tiệm thuốc Bắc của ông Đức. Cô gái Anna đã giúp ông Đức chạy thoát khỏi Johnny. Trong thời gian hồi phục, ông Đức ở trong nhà di động của Anna. Anna là học sinh của trường thể dục nhưng đã bị huấn luyện viên đuổi học vì cô đánh một bạn cùng lớp.
A Kiệt, đệ tử của ông Đức, từ Hồng Kông đến Mỹ để tìm sư phụ. Lúc xuống xe buýt, anh bị ba kẻ trộm giật cái túi và phải chạy bộ đuổi theo xe của họ. Ấn tượng trước kỹ năng của Kiệt, ba kẻ trộm xin anh nhận họ làm đệ tử. Sau đó một băng đảng khác đánh đập ba kẻ trộm, Kiệt thấy vậy liền bảo vệ ba người bạn mới. Kiệt đến tiệm thuốc của ông Đức thì thấy nơi đây đã bị niêm phong.
Kiệt gặp A Mỹ, một nhân viên ngân hàng xử lý khoản vay thế chấp của ông Đức. Cuối cùng Kiệt gặp được Anna rồi đoàn tụ với ông Đức. Trong khi đó, Johnny đã hạ gục nhiều võ sư trong thành phố để khẳng định hắn mới là người mạnh nhất. Băng đảng của Johnny đánh đập Anna và ba người bạn của Kiệt, vì thế nên Kiệt dạy võ cho ba người bạn để họ tự vệ. Nhóm của Kiệt và băng đảng của Johnny đối đầu nhau tại tiệm thuốc của ông Đức. Kiệt và Johnny đánh nhau đến khi cảnh sát can thiệp.
Kiệt và ông Đức xảy ra tranh cãi, và Kiệt quyết định quay về Hồng Kông. Trên xe buýt ra sân bay, anh bị tấn công bởi tên sát thủ dùng súng shotgun nhưng đã giết được hắn. Mỹ cũng đuổi theo chiếc xe buýt để thổ lộ tình cảm cô dành cho Kiệt. Johnny được cảnh sát thả ra, hắn bắt Anna làm con tin rồi buộc ông Đức và ba người bạn đến gặp hắn tại một tòa nhà cao tầng.
Kiệt và Mỹ quay lại tiệm thuốc, tìm thấy lời ghi chú của ông Đức để lại. Họ nhanh chóng đến tòa nhà, nơi ông Đức đang vất vả chống trả đám đệ tử của Johnny. Kiệt thay sư phụ mình tiếp tục chiến đấu trong khi ông Đức và ba người bạn giải cứu Anna. Kiệt và Johnny có một trận đánh đầy căng thẳng. Một lát sau, cảnh sát đến bắt giữ băng đảng của Johnny, còn Johnny bị chết do rơi ra khỏi tòa nhà.
Anna đã được trở lại trường thể dục, cô cùng với các bạn lên đường đi dự thi. Kiệt ra sân bay để quay về Hồng Kông, bất ngờ gặp Mỹ trên xe buýt, Mỹ nói rằng cô sẽ đi du lịch cùng anh. Ông Đức và ba người bạn lái xe đuổi theo chiếc xe buýt, ông Đức tiết lộ rằng ông đã lấy trộm hộ chiếu của Kiệt. Kiệt thấy vậy liền trêu chọc Mỹ vì cô sẽ phải đi du lịch một mình. | 1 | null |
Restricted Area là tựa game hành động nhập vai thời gian thực do hãng Master Creating của Đức phát triển và Whiptail Interactive phát hành vào năm 2005.
Cốt truyện.
"Restricted Area" lấy bối cảnh thế giới điêu tàn sau hàng loạt những biến động khí hậu, thời tiết do tình trạng ô nhiễm môi trường gây ra: Trái Đất chỉ còn sa mạc khô cằn và những loài sinh vật đột biến cực kỳ quái dị và nguy hiểm. Người chơi trong vai trò một lính đánh thuê sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ từ một tập đoàn hùng cường cho đến khi chợt phát hiện ra bí mật khủng khiếp trong một căn cứ mật trên hoang mạc do tập đoàn này xây dựng được rào chắn kín đáo với mật danh vùng cấm. Kể từ đây, người chơi sẽ dấn thân vào hành trình trừ gian diệt ác, đem lại hòa bình cho nhân loại đồng thời lật tẩy mưu đồ đen tối của các thế lực hắc ám nhằm thống trị thế giới.
Cách chơi.
Game có 4 mẫu nhân vật cho người chơi lựa chọn với các đặc tính, kỹ năng và vũ khí riêng biệt gồm: cựu quân nhân Johnson, yakuza người Nhật Kenji Takahashi, nữ đặc nhiệm Victoria Williams và nữ hacker Jessica Parker. Với vai trò một lính đánh thuê, công việc người chơi phải làm là nhận nhiệm vụ từ các ông chủ, hoàn thành nó và trở về lãnh tiền thưởng. Để thực hiện nhiệm vụ, người chơi thường chu du qua các hoang mạc cằn cỗi, mê cung trong các khu định cư, nhà máy xí nghiệp bỏ hoang... và phải đối đầu với đủ loại kẻ thù, quái vật bị đột biến. Vũ khí trong game khá đa dạng từ súng lục, súng trường, súng phun lửa, plasma, shotgun, tiểu liên cho đến đao kiếm, lựu đạn, chất nổ mà người chơi sẽ trang bị tùy theo sở trường của từng nhân vật chẳng hạn như Johnson và Victoria Williams chuyên dùng các loại súng cầm tay trong khi Kenji Takahashi dùng kiếm cận chiến và Jessica Parker trang bị tận răng các loại thiết bị tấn công điều khiển học cũng như khả năng hack tuyệt đỉnh của cô. Việc trang bị cho nhân vật có đôi nét khác biệt so với game cùng loại chẳng hạn như tất cả áo giáp, giày, nón như thường thấy trong các game nhập vai khác đều biến mất, thay vào đó là những bộ phận cơ thể nửa người nửa máy như tay, chân, mắt thậm chí cả tim và não.
Đánh giá.
Dựa theo đánh giá từ một số tạp chí game: | 1 | null |
Nguyên Hoa (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1950 tên chữ Hán: 元華, tên tiếng Anh: Yuen Wah hoặc Sam Yuen) là một diễn viên, diễn viên đóng thế, chỉ đạo hành động và đồng thời là võ sư người Hồng Kông. Ông được biết đến như là một diễn viên đa tài trong làng điện ảnh Hồng Kông, một thành viên của Thất tiểu phúc thế hệ đầu tiên của điện ảnh Hồng Kông. Cho đến nay, ông xuất hiện trong hơn 160 bộ phim điện ảnh và hơn 20 bộ phim truyền hình.
Thân thế và sự nghiệp.
Tên khai sinh của ông là Dung Chí (容志), sinh ngày 2 tháng 9 năm 1950 tại Hồng Kông thuộc Anh. Từ nhỏ, ông được sư phụ Vu Chiêm Nguyên nhận làm nhị đệ tử, lấy nghệ danh là Nguyên Hoa. Dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc của Vu sư phụ, ông cùng các sư huynh đệ được đào tạo kỹ lưỡng về võ thuật và kỹ thuật biểu diễn, lập thành nhóm Thất tiểu phúc nổi tiếng của thập niên 1960 tại Hồng Kông.
Thập niên 1970, Nguyên Hoa bước vào sự nghiệp điện ảnh với vai trò người đóng thế cho Lý Tiểu Long trong bộ phim "Tinh võ môn", "Long tranh hổ đấu". Ông bắt đầu tập luyện thêm về võ thuật với các bộ môn Vịnh Xuân quyền, Thái Cực quyền. Tuy nhiên sự nghiệp điện ảnh chính thức của ông bắt đầu kể từ khi ông gia nhập Công ty điện ảnh Thiệu Thị. Lúc đó, ông lấy nghệ danh của mình là Dung Kế Chí (容繼志) hoặc Viên Hoa (袁華), tuy nhiên người ta vẫn biết nhiều đến nghệ danh Nguyên Hoa của ông hơn. Cũng như các sư huynh đệ Thất tiểu phúc của mình, ông tham gia chủ yếu trong lĩnh vực phim hành động võ thuật hoặc phim hài châm biếm. Trong nhiều phim lúc bấy giờ, ông thường đóng chung với sư đệ Nguyên Bưu. | 1 | null |
Cuộc vây hãm Bitche là một trận bao vây dữ dội trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, đã diễn ra từ ngày 6 tháng 8 năm 1870 cho đến ngày 27 tháng 3 năm 1871, tại thị trấn công sự nhỏ Bitche (Bitsch) thuộc khu hành chính Moselle của Pháp. Trong cuộc vây hãm dai dẳng này (do một chi đội thuộc Quân đoàn II của Vương quốc Bayern thực hiện và Đại tá Kohlermann là người điều khiển việc pháo kích), quân đội Pháp trú phòng tại pháo đài Bitche dưới quyền chỉ huy của viên sĩ quan Louis-Casimir Teyssier đã kháng cự thành công trước quân đội Đức trước khi hiệp định đình chiến được ký kết giữa hai nước (mặc dù nhiều cuộc phá vây của quân Pháp đã thất bại) và chỉ đầu hàng quân đội Bayern vào cuối tháng 3 năm 1871 sau khi giao chiến chấm dứt đã lâu. Đạo quân trú phòng của pháo đài Bitche đã được phép triệt thoái khỏi đây với mọi danh dự của chiến tranh, cũng như mọi cờ phướn và khí giới của họ. Thực ra, quân đội Đức chưa từng vây hãm hoàn toàn Bitche, tuy nhiên cuộc công pháo của họ đã gây cho thị trấn bị hủy hoại nặng nề.
Bitche (Bitsche) là pháo đài xa nhất về hướng tây trong các pháo đài của Pháp tại vùng núi Vosges, và có vị trí thuận lợi đối với đạo quân trú phòng của Pháp. Vào ngày 7 tháng 8 năm 1870, sau sự thất bại của quân đội Pháp trong Wœrth, một phần binh lực của Pháp đã tháo chạy về Bitche để tiếp tục rút về Vosges. Và, vào ngày 8 tháng 8, Quân đoàn II của Bayern đã xuất hiện ở đằng trước Bitche. Pháo đội kỵ binh của Bayern đã nã đạn vào Bitche, và vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân Pháp trong pháo đài. Do không thể trì hoãn bước tiến của mình, Quân đoàn II của Bayern đã buộc phải đi vòng qua pháo đài, và các đoạn đường hiểm trở đã gây khó khăn cho họ. Người Đức đã đem công thành pháo đến Bitche, đồng thời cử một trung đoàn pháo dã chiến Bayern thực hiện nhiệm vụ công pháo. Quân đội Đức đã xây dựng các khẩu đội pháo, và vào đầu tháng 9, một cuộc phá vây do một đội quân lớn của Pháp thực hiện đã bị quân Bayern đè bẹp. Vào ngày 10 tháng 9, Đại tá Kohlermann nhận thấy đã đến thời khắc nã pháo. Ông đã cho phép cư dân tại Bitche được rời khỏi thị trấn, và nhiều người đã chớp ngay thời cơ. Dù vậy, Teyssier ở một mức độ nào đó không cho phép người dân rời bỏ Bitche. Và, quân đội Bayern đã bắt đầu pháo kích, song cuộc pháo chiến giữa hai phe đã kết thúc vào lúc trưa. Hôm sau, cuộc pháo kích đã gây cháy ở nhiều công trình trong thị trấn, song phải đến ngày 14 tháng 9 thì một số vị trí quan trọng của pháo đài mới bị hủy hoại. Song, dù khó thể ngăn ngừa làn đạn khốc liệt của người Bayern, người Pháp vẫn không đầu hàng. Tình hình cho thấy là chỉ một cuộc vây hãm thực thụ mới có thể hạ nổi Bitche, nhưng pháo đài lại không xứng tầm quan trọng với một cuộc tiến công của quân đội Đức. Quân Đức đã rút các khẩu công thành pháo và chỉ dùng một số đơn vị Bayern để quan sát pháo đài, với đại bác hạng nhẹ hỗ trợ.
Cho đến nửa đêm ngày 30 tháng 9, quân đồn trú Pháp mới phát động cuộc phá vây nhằm vào một nông trang, nhưng bị quân Đức đẩy lui sau vài tiếng đồng hồ. Quân Pháp tiếp tục đánh ra trong ngày hôm sau, và một cuộc giao chiến lẻ tẻ cũng bùng nổ trong ngày 19 tháng 11. Các lực lượng phong tỏa của Đức tiếp tục quan sát một cách gắt gao. Tuy nhiên, dường như đội quân quan sát của Đức đã đi đến một thỏa thuận với quân trú phòng Pháp, theo đó hai bên không hề bắn vào nhau một viên đạn nào. Tình hình đã được cải tiến đối với lực lượng phong tỏa của người Đức. Mãi đến ngày 11 tháng 3, một thỏa ước giữa Đức và Pháp đã đề cập đến số phận của quân đội Pháp trú phòng tại Bitche, nhưng vào ngày 26 tháng 3, các chi đội của Bayern mới tiến chiếm thị trấn, trước khi một đội quân trú phòng của Phổ thế chân họ. | 1 | null |
Max Brod ([27 tháng 5 năm 1884-20 tháng 12 năm 1968) là một nhà văn, nhà soạn nhạc, nhà báo người Do Thái sinh ra ở Séc và viết bằng tiếng Đức, sau đó nhập quốc tịch Israel. Mặc dù ông là một nhà văn viết nhiều và gặt hái nhiều thành công ngay từ đầu văn nghiệp, ông nổi tiếng nhất với tư cách người bạn, nhà viết tiểu sử của Kafka. Được Kafka ủy thác tất cả tác phẩm, bản thảo, Brod đã không theo di nguyện của Kafka là đốt tất cả chúng, thay vì thế bảo tồn và đem chúng xuất bản. | 1 | null |
Hoàng Phi Hồng (chữ Hán: 黃飛鴻, tựa tiếng Anh: Once Upon a Time in China) là một bộ phim hành động - võ thuật Hồng Kông của đạo diễn Từ Khắc, phát hành vào năm 1991. Phim có sự tham gia của Lý Liên Kiệt, Quan Chi Lâm và một số diễn viên khác. Phim có nội dung dựa theo cuộc đời của võ sư Trung Hoa Hoàng Phi Hồng. Đây là bộ phim đầu tiên trong loạt phim "Hoàng Phi Hồng" của Lý Liên Kiệt.
Nội dung.
Bộ phim lấy bối cảnh ở Phật Sơn, Trung Quốc vào khoảng cuối thế kỷ 19 dưới triều đại nhà Thanh. Lưu Vĩnh Phúc, chỉ huy của Quân Cờ Đen, mời Hoàng Phi Hồng lên tàu của ông để xem màn biểu diễn múa lân. Một số thủy thủ trên con tàu Pháp gần đó nghe tiếng pháo nổ và hiểu lầm tàu của Lưu đang bắn họ, vì vậy họ đã bắn trả và làm người múa lân bị thương. Phi Hồng nhặt đầu lân lên và hoàn tất màn trình diễn. Lưu bình luận về tình hình nguy hiểm mà đất nước Trung Quốc đang gặp phải, sau đó tặng cho Phi Hồng một chiếc quạt tay có ghi tất cả hiệp ước bất bình đẳng được ký giữa Trung Quốc và các nước khác.
Phi Hồng là người dạy võ thuật cho những dân quân ở Phật Sơn. Anh cũng làm chủ tiệm thuốc y học cổ truyền Bảo Chi Lâm, và có ba người đệ tử là Lâm Thế Vinh, Tô "răng hô" và Lăng Vân Khải. Phi Hồng gặp Thiếu Quân, con gái của một người anh trai của ông nội anh. Mặc dù cô bằng tuổi anh, nhưng anh vẫn phải gọi cô là "Dì Mười Ba" vì vai vế của cô được xem là lớn hơn anh. Cả hai đều nảy sinh tình cảm với nhau, nhưng phải che giấu tình yêu của họ vì nó bị xem là điều cấm kỵ trong xã hội Trung Quốc bảo thủ thời bấy giờ.
Lương Khoan cùng với một đoàn hát đến Phật Sơn để biểu diễn. Anh tình cờ gặp Dì Mười Ba và phải lòng cô. Anh cũng gặp rắc rối với băng đảng Sa Hà, bọn côn đồ chuyên bắt nạt và moi tiền người dân. Một cuộc giao chiến diễn ra giữa nhóm dân quân và băng đảng Sa Hà trong khi Phi Hồng đang gặp quan tuần phủ tại một nhà hàng. Bọn côn đồ bỏ chạy sau khi bị Phi Hồng đánh tơi tả. Quan tuần phủ buộc tội Phi Hồng về sự hỗn loạn này và bắt giữ các thành viên dân quân. Phi Hồng đối mặt với thủ lĩnh băng đảng Sa Hà, đánh gục hắn và bắt hắn giao cho quan lớn, nhưng hắn được thả ra vì không ai dám ra làm nhân chứng chống lại hắn.
Trong khi đó, Lương Khoan gặp Nghiêm Chấn Đông - một võ sư đến từ miền Bắc - và quyết định đi theo ông ta. Nghiêm sư phụ muốn nổi tiếng và mở một võ đường ở Phật Sơn, nhưng ông cần phải chứng minh tài năng của mình trước. Đêm đó, băng đảng Sa Hà đốt cháy tiệm thuốc Bảo Chi Lâm để trả thù, sau đó chúng bỏ chạy và trú ẩn dưới trướng Jackson, một quan chức người Mỹ. Để đền đáp sự bảo vệ từ Jackson, băng đảng Sa Hà đã giúp tên người Mỹ điều hành đường dây buôn người của hắn bằng cách bắt cóc phụ nữ Trung Quốc để đưa qua Mỹ làm gái mại dâm. Khi Phi Hồng và quan tuần phủ đang xem hát tuồng thì băng đảng Sa Hà tấn công và cố gắng ám sát hai người. Kế hoạch của chúng thất bại nhưng nhiều người dân vô tội tại rạp hát bị thương. Quan tuần phủ buộc tội Phi Hồng và đe dọa sẽ bắt giữ anh, nhưng vẫn cho phép anh chăm sóc những người bị thương.
Trong khi chăm sóc những người bị thương trong Bảo Chi Lâm, Phi Hồng gặp một người công nhân Trung Quốc vừa trốn thoát khỏi nước Mỹ, ông ta kể về việc mình bị đối xử tàn nhẫn ở Mỹ. Ngay sau đó, Nghiêm sư phụ đến thách đấu Phi Hồng để xem ai mới là người mạnh hơn. Nghiêm sư phụ rời đi cùng với Lương Khoan sau khi ông đánh bại Phi Hồng, sau đó gia nhập băng đảng Sa Hà, mặc dù Lương Khoan có phản đối việc hợp tác với bọn côn đồ này. Ngay sau khi Nghiêm sư phụ rời đi, quan tuần phủ xuất hiện và ra lệnh cho quân lính tìm kiếm những dân quân chạy trốn ở Bảo Chi Lâm. Phi Hồng và các đệ tử của anh chiến đấu với quân lính của quan tuần phủ để kéo dài thời gian cho Dì Mười Ba, Tô "răng hô" và người công nhân trốn thoát. Phi Hồng sau đó đầu hàng và bị bắt giam cùng với các đệ tử. Trong khi đó, băng đảng Sa Hà giết chết người công nhân, bắt được Dì Mười Ba và đưa cô về căn cứ của Jackson. Tô "răng hô" đã chạy thoát và đến trại giam để báo tin cho Phi Hồng. Những người lính canh rất nể phục Phi Hồng nên tự ý thả anh và các đệ tử ra.
Phi Hồng và các đệ tử cải trang và xâm nhập vào căn cứ của Jackson để giải cứu Dì Mười Ba. Nghiêm sư phụ đánh tay đôi với Phi Hồng một lần nữa, lần này Phi Hồng đã đánh bại võ sư họ Nghiêm. Cùng lúc đó, Lương Khoan và các đệ tử của Phi Hồng đã chiến đấu với băng đảng Sa Hà và quân lính của Jackson, cứu được Dì Mười Ba và những cô gái bị bắt cóc. Nghiêm sư phụ chạy ra ngoài và bị quân lính bắn, trước khi chết ông đã nói lời cuối cùng với Phi Hồng rằng: "Võ thuật không thể chiến thắng súng đạn". Trong cuộc giao chiến trên tàu, thủ lĩnh băng đảng Sa Hà bị xô vào lò lửa và chết cháy. Jackson bắt quan tuần phủ làm con tin, Phi Hồng giết chết Jackson bằng cách búng viên đạn vào đầu hắn và cứu được quan tuần phủ. Cuối phim, Phi Hồng nhận Lương Khoan làm đệ tử thứ tư của mình, sau đó các thầy trò cùng nhau chụp ảnh trong Bảo Chi Lâm.
Giải thưởng.
Tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 11, bộ phim đã nhận được bốn giải thưởng:
- Đạo diễn xuất sắc nhất
- Dựng phim xuất sắc nhất
- Chỉ đạo hành động xuất sắc nhất
- Nhạc phim xuất sắc nhất | 1 | null |
Hoàng thân Pyotr Alekseyevich Kropotkin (; 9 tháng 12 năm 1842 – 8 tháng 2 năm 1921) là một nhà thực vật học, lý thuyết tiến hóa, triết gia, nhà cách mạng, nhà kinh tế học, địa lý, nhà văn, nổi tiếng nhất với việc sáng lập thuyết chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ. Quan điểm chính trị khiến ông phải lưu đày nhiều năm và chỉ trở về Nga sau Cách mạng Tháng Hai năm 1917, nhưng ông sớm tỏ ra bất mãn với Đảng Bolshevik Nga cho đến lúc cuối đời. | 1 | null |
Nhàn hoàng gia ("Thalasseus maximus") là một loài chim biển trong họ Mòng biển. Loài này có hai phân loài "T. m. maximus" sinh sống ở bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương của Bắc và Nam Mỹ. Loài hơi nhỏ hơn "T. m. albididorsalis" sinh sống ở bờ biển Tây Phi. Nó có mỏ màu cam đỏ và chóp đen trên đỉnh đầu trong mùa sinh sản nhưng trong mùa đông thì chỏm này trở nên lốm đốm. Loài này được tìm thấy ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và các đảo Caribê. Chúng chỉ sinh sống nơi có nước mặn, không sinh sống ở nơi có nước ngọt. Chúng có xu hướng săn mồi gần bờ, gần bãi biển, và gần vịnh nước đục. | 1 | null |
Hospicio Cabañas là một bệnh viện, nhà nguyện ở Guadalajara, tiểu bang Jalisco, México. Công trình được xây dựng vào đầu thế kỷ 19 làm nơi chăm sóc và cư trú cho những người có hoàn cảnh khó khăn (trẻ em mồ côi, người già, thương tật, những người nghèo bị bệnh). Công trình này được thiết kế đơn giản, với những không gian mở được tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng. Đầu thế kỷ 20, công trình được trang trí bởi các bức bích họa đại diện cho văn hóa bản địa, văn hóa thuộc địa Tây Ban Nha và nay được coi là kiệt tác nghệ thuật ở Mexico.
Lịch sử.
Thị trấn Guadalajara được thành lập năm 1542, trên bờ trái của một dòng sông chảy qua một thung lũng rộng nhưng trong những năm sau đó, thời tiết bất thường, hết hạn hán, lại lũ lụt, băng giá xảy ra khiến tình trạng đói nghèo, bệnh tật lan tràn. Năm 1791, Đức giám mục của thị trấn ra lệnh xây dựng một bệnh viện nhằm chữa bệnh và nơi cư trú cho những người khốn cùng của xã hội. Dự án được thực thi và được hoàng gia Tây Ban Nha chấp thuận dưới sự giám sát của Juan Ruiz de Cabañas. Năm 1803, dự án bắt đầu với viện cô nhi Casa de Expósitos; kiến trúc sư được mời để thiết kế là Manuel Tolsá và giám sát công trình là José Gutierrez.
Tiếp sau đó, công trình đã bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh giành độc lập của Mexico. Tòa nhà bị trưng thu làm trại binh cho đến năm 1821 khi México giành quyền tự chủ. Năm 1829, công trình được khánh thành và lấy tên là Cabañas. Năm 1872, có hơn 500 người cư ngụ ở Cabañas, nhưng sau đó nhờ những biện pháp công tác xã hội, số người nương nhờ ở đây đã giảm dần.
Đầu thế kỷ 19, nghệ thuật bích họa ở Mexico phát triển mạnh mẽ như một nỗ lực đúc kết văn hóa bản địa México cho thời kỳ tự chủ sau cách mạng. Vào thập niên 1930, José Clemente Orozco được mời vẽ bích họa ở một số công trình công cộng tại Guadalajara, trong đó có Hospicio Cabañas. Tậi đây từ năm 1936 đến 1939 ông thực hiện một số bức bích họa với đề tài đa sắc tộc, đề cao văn hóa bản địa Mexico. Những bức bích họa này nay được coi là kiệt tác mỹ thuật México.
Năm 1980, nhà chức trách địa phương chuyển những cơ sở y tế và xã hội ra nơi khác và biến Hospicio Cabañas thành Viện văn hóa với trường mỹ nghệ, phòng triển lãm và sân khấu nghệ thuật. Năm 1997, UNESCO đưa Hospicio Cabañas vào danh sách di sản thế giới. | 1 | null |
Onychoprion anaethetus (danh pháp hai phần: Onychoprion anaethetus,) là một loài chim biển trong họ Nhàn.
Miêu tả.
Đây là một chim nhàn có kích cỡ vừa, dài 30–32 cm với sải cánh dài 77–81 cm tương tự như nhàn thông thường về kích thước, nhưng thân chắc nịch hơn. Cánh và đuôi sâu chia hai dài, và nó có màu xám đen trên lưng và phần dưới màu trắng. Trán và mày trắng, như là một chiếc vòng cổ nổi bật trên cổ sau. Nó có chân và mỏ đen. Chim chưa trưởng thành có màu xám như vảy ở trên và nhạt ở dưới.
Phân phối và chuyển động.
Loài chim này là loài di cư và phân tán, trú đông rộng rãi hơn thông qua các đại dương nhiệt đới. Phân loài Đại Tây Dương "melanopters" sinh sản ở México, Vùng Caribe và phía tây Phi; giống khác hiện diện xung quanh Ả Rập và Đông Nam Á và Úc, nhưng con số chính xác phân loài hợp lệ đang được tranh cãi. Nó là một lang thang hiếm đến Tây Âu. | 1 | null |
Nhàn nâu (danh pháp hai phần: Onychoprion fuscatus, danh pháp cũ "Sterna fuscata") là một loài chim biển trong họ Nhàn. Loài này có phân loài. Nhàn nâu phân bố ở các đại dương nhiệt đới, sinh sản ở các đảo khắp vùng xích đạo.
Nó là loài nhàn lớn, giống kích thước của nhàn Sandwich ("Thalasseus sandvicensis") dài 33–36 cm (13–14 in) với sải cánh dài 82–94 cm (34–37 in). Cánh tòe ra và dài, phía trên màu đen xám và dưới màu trắng. Chân và mỏ màu đen. Tuổi thọ trung bình 32 năm. | 1 | null |
Sterna sumatrana (danh pháp hai phần: Sterna sumatrana) là một loài chim biển trong họ Nhàn. Loài này có phân loài. Sterna sumatrana chủ yếu được tìm thấy trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của đại dương Thái Bình Dương và Ấn Độ. Nó hiếm khi được tìm thấy trong đất liền.
Loài chim nhàn này dài khoảng 30 cm với chiều dài cánh của 21–23 cm. Mỏ và chân có màu đen, nhưng chóp mỏ có màu vàng. Chúng có đuôi chẽ dài. Chúng có lông mặt màu trắng với lưng và cánh màu trắng xám. | 1 | null |
Vultee BT-13 Valiant là một loại máy bay huấn luyện cơ bản của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới II, do hãng Vultee Aircraft chế tạo. Nó được trang bị cho Quân đoàn Không quân Lục quân Hoa Kỳ, sau là Không quân Lục quân Hoa Kỳ.
Xem thêm.
Máy bay có cùng tính năng tương đương.
De Havilland Canada DHC-1 Chipmunk | 1 | null |
Nhạn sông (danh pháp hai phần: Sterna aurantia) là một loài chim biển trong họ Nhàn. Sterna aurantia là loài sinh sản địa cư ở các sông nội địa từ Iran về phía đông đến tiểu lục địa Ấn Độ và xa hơn đến Myanmar đến Thái Lan nơi nó không phổ biến. Không giống các loài nhàn khác, loài nhàn sông này chỉ sống ở vùng nước ngọt, hiếm khi hiện diện ở các rạch thủy triều.
Loài này sinh sản từ tháng 3-tháng 5 trong các nhóm tại các khu vực khó tiếp cận như bãi cát ở các sông. Nó làm tổ trong một lỗ đào trên mặt đất, thường trên đá trần hoặc cát, và đẻ ba trứng mỗi tổ, trứng màu từ xám hơi xanh lá cây đến màu da bò lốm đốm và sọc nâu.
Đây là một loài nhàn có kích thước trung bình, dài 38–43 cm, với màu xám đen trên lưng, phần dưới màu trắng. Mỏ màu vàng và chân màu đỏ. Chúng ăn bằng cách lặn bắt cá, động vật giáp xác, nòng nọc và côn trùng thủy sinh ở sông, hồ, và bể lớn chứa nước. Số lượng của chúng đang giảm do ô nhiễm môi trường sống. | 1 | null |
Của để dành (tiếng Anh: "The Saving") là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Đỗ Thanh Hải làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. Phim phát sóng lần đầu trong chương trình "Văn nghệ Chủ nhật" vào năm 1998 trên kênh VTV3.
Nội dung.
"Của để dành" xoay quanh gia đình bà Vi (NSƯT Hoàng Yến) với ba đứa con lớn là Thanh (Anh Tú), Tiến (Hồng Tuấn) và Thư (Thu Hường). Khi còn khỏe, bà Vi luôn là người cáng đáng chuyện trong gia đình và chăm lo cho các con của mình, nhưng đến khi bà bị bệnh tật cần người chăm sóc, cả ba đứa con của bà lại quá bận rộn với công việc nên không có thời gian để ở bên mẹ. Vì vậy, họ đã quyết định tìm người giúp việc cho mẹ, nhưng tất cả đều không ở lại làm được lâu. Thất vọng vì các con, bà đã quyết định bỏ đi. Chỉ khi ấy, ba người con mới nhận ra bà Vi quan trọng thế nào. Vì thế họ đã lo lắng và sốt sắng đi tìm mẹ mình. Sau khi cảm thấy đã cho các con của mình một bài học đích đáng, cuối cùng bà cũng trở về.
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Lời ru cho con" phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Lê Thị Kiều Anh, do Xuân Phương sáng tác và Trần Thu Hà thể hiện. Để viết nên ca khúc, nhạc sĩ Xuân Phương cùng đạo diễn Thanh Hải đã phải bỏ công sức đến các hiệu sách ở phố Tràng Tiền tìm bài thơ có nội dung phù hợp với tinh thần của phim. Ban đầu, ca khúc có tên là "Lời ru tình mẹ" nhưng sau đó Đỗ Thanh Hải đã đổi tên lại thành "Lời ru cho con". Tuy được phổ thơ từ sáng tác của nhà thơ Kiều Anh, nhưng đến khi bài hát được hoàn thành, nhạc sĩ Xuân Phương vẫn chưa có cơ hội gặp tác giả bài thơ. Đây được coi là bản hit thứ hai của ca sĩ Hà Trần sau bài hát trước đó là "Em về tinh khôi" do Quốc Bảo sáng tác. Ca khúc sau này đã được đưa vào album phòng thu đầu tiên của nữ ca sĩ "Em về tinh khôi" phát hành năm 1999 và được cô hát lại một lần nữa trong chương trình Gala "Chào 2015" với chủ đề "Âm nhạc trong phim".
Sản xuất.
Sau tác phẩm đầu tay gây tiếng vang là "Xin hãy tin em", đạo diễn Đỗ Thanh Hải đã làm tiếp một bộ phim nói về đề tài tình mẫu tử. Kịch bản phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, thuộc thể loại tâm lý tình cảm.
Bộ phim đánh dấu lần đầu tiên diễn viên Thu Hường bước chân vào nghiệp diễn khi đang học nốt năm cuối tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Ban đầu, nhân vật bà Vi trong phim được nhắm đến NSƯT Ngọc Thoa, nhưng do khi đó sức khỏe chồng của nữ diễn viên đang yếu nên cuối cùng NSƯT Hoàng Yến đã được giao cho vai diễn này.
Đón nhận.
Tại thời điểm phát sóng, tác phẩm đã thu hút được nhiều chú ý từ khán giả và tạo nên một cơn "địa chấn nhỏ" trong số các bộ phim truyền hình Việt Nam, được cho là vì sự dung dị, chân thật trong những thước phim cùng diễn xuất của dàn diễn viên. Bộ phim cũng gắn liền với thế hệ người xem 7X, 8X và được ghi nhận khi làm nên tên tuổi Đỗ Thanh Hải, tạo lập tiền đề cho những tác phẩm của ông về sau này. Ca khúc chủ đề của phim đã trở thành ký ức của người xem truyền hình những năm 2000.
Bộ phim là tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất của NSƯT Hoàng Yến trong suốt sự nghiệp diễn xuất của bà. Dù là lần đầu đóng phim, Thu Hường đã thành công khi khắc họa vai diễn của mình, đến mức nhiều người nhầm lẫn tính cách cô với ngoài đời và cô còn không mua được đồ vì người bán "ghét Thư trên phim". Nhưng cũng có người lại tặng cho cô vài món quà nhỏ vì quá thích diễn xuất của nữ diễn viên. Sau bộ phim, Thu Hường bị chết vai với các nhân vật chanh chua, đanh đá trong những vở kịch, bộ phim khác. Về sau, trang "Báo điện tử VOV" đã coi đây là một trong những vai diễn xuất sắc để đời của Anh Tú.
Đánh giá chuyên môn.
Trong một bài viết của nhà phê bình Tô Hoàng, được đưa vào cuốn tuyển tập "Một thế giới khác được nhìn qua ống kính" xuất bản năm 1999, ông nhận xét bộ phim đã chạm đến một chủ đề rất lạ và "chưa thấy ở phim nào trước đó", cho rằng tác phẩm là minh chứng cho sự quan trọng của nền tảng văn học đối với điện ảnh. Tác giả cũng dành lời khen ngợi phim khi được chăm chút kỹ càng dưới bàn tay của đạo diễn Đỗ Thanh Hải, dù còn một số chỗ có thể "châm chước, bỏ qua", và lấy "Của để dành" làm một "ví dụ mà người xem ký thác ở những người làm phim truyền hình nước ta!". | 1 | null |
Machair (có khi viết là machar) là một danh từ trong tiếng Gael, dùng để chỉ một đồng bằng thấp, màu mỡ và có nhiều cỏ mọc ở bờ biển đảo Ireland và tây bắc Liên hiệp Anh, trong đó gần một nửa số machair của Scotland tập trung tại vùng Ngoại Hebrides. Có hai loại machair:
Địa chất.
Trước khi trở thành machair, cả hai loại trên đều từng là các bãi biển nhưng về sau chúng trở nên cao hơn so với bãi biển kế cận do mực nước biển giảm xuống hay đẳng tĩnh.
Đa phần sự màu mỡ của machair là đến từ loại cát có hàm lượng vỏ động vật biển cao, thỉnh thoảng lên đến 90%. Loại cát này được thổi vào đất liền, giúp trung hoà tính a-xít của đầm lầy than bùn và tạo nên sự phì nhiêu cho machair.
Sinh thái.
Người ta chú ý nhiều đến các machair dưới góc độ sinh thái học và bảo tồn, chủ yếu là vì nơi đây có những hệ sinh thái độc nhất vô nhị. Machair là ngôi nhà của một số loài hoa hiếm thuộc họ Spiranthes, phong lan và loài "Rhinanthus minor". Có nhiều loài chim phong phú như "Crex crex", "Carduelis flavirostris", "Calidris alpina"... được ghi nhận tại các machair ở xứ Ngoại Hebrides. Một số machair có nguy cơ bị xói mòn do nước biển dâng và bị hoạt động của con người ở các bãi biển gần đó đe doạ. | 1 | null |
Sterna striata (danh pháp hai phần: Sterna striata) là một loài chim biển trong họ Nhàn. Loài này hiếm khi bơi, chỉ tắm dù có chân màng. Sterna striata là loài nhàn phổ biến nhất ở New Zealand. Chúng săn mồi theo bầy và lặn xuống bãi đá cạn và đánh mùi cá bị cá ớn hơn xua xuống dưới mặt nước. Loài chim này sinh sản giữa tháng 10 và tháng một trong các bầy lớn trên các mỏm đá và các đảo ngoài khơi. Loài này có nguồn gốc từ New Zealand, nhưng từ năm 1979 chũng cũng sinh sản trên các đảo ở eo biển Bass, phía bắc Tasmania. Nhiều con trú đông ở đông nam Úc, đặc biệt là chim chưa trưởng thành. | 1 | null |
Arado Ar 65 là một loại tiêm kích hai tầng cánh một chỗ nối tiếp của loại Ar 64. Ar 64 và 65 có vẻ ngoài rất giống nhau. Sự khác biệt chính là Ar 64 dùng động cơ thẳng hàng 12 xy lanh còn Ar65 dùng động cơ bố trí kiểu tròn. | 1 | null |
Nhàn nhỏ (danh pháp hai phần: "Sternula albifrons" hay "Sterna albifrons") là một loài chim biển trong họ Nhàn. Loài này trước đây được đặt trong chi "Sterna" nhưng nay chỉ giới hạn các loài nhàn trắng lớn. Các phân loài Bắc Mỹ ("S. a. antillarum") và Biển Đỏ "S. a. saundersi" nay đã được xem là các loài riêng biệt "Sternula antillarum" và "Sternula saundersi"). Nhàn nhỏ sinh sản ở bờ biển và các sông nội địa của châu Âu và châu Á ôn đới và nhiệt đới. Là loài di trú mạnh, chúng trú đông ở các đại dương nhiệt đới và cận nhiệt đới như xa về phía nam như Nam Phi và Úc.
Có ba phân loài, "albifrons" chỉ định hiện diện ở châu Âu đến Bắc Phi và Tây Á; "guineae" ở Tây và Trung Phi, và "sinensis" Đông Á và bờ biển phía bắc và phía đông của Australia (Higgins và Davies, 1996).
Chúng tạo thành bầy trên bờ biển và bãi sỏi hoặc đá cuội trên đảo. Mỗi con mái đẻ 2-4 trứng trên mặt đất. Giống như tất cả đàn chim nhạn trắng, nó bảo vệ tổ của nó và bảo vệ con, chống lại những kẻ xâm nhập. | 1 | null |
Sternula antillarum (danh pháp hai phần: "Sternula antillarum", trước đây là "Sterna antillarum") là một loài chim biển trong họ Nhàn. Sternula antillarum sinh sản ở Bắc Mỹ và tại địa phương ở miền bắc Nam Mỹ. Nó liên quan chặt chẽ, và trước đây thường được coi là cùng loài với nhàn nhỏ của Cựu Thế giới. Loài bà con gần khác bao gồm nhàn mỏ vàng và nhàn Peru, cả hai từ Nam Mỹ.
Nó là một loài nhàn biển nhỏ, dài 22–24 cm, với sải cánh dài 50 cm, và nặng 39-52 g. Phía trên khá đồng đều màu xám nhạt, và phần dưới màu trắng. Đầu là màu trắng, với một chỏm đầu màu đen và dòng kẻ qua mắt đến các chân mỏ, và trán một mảng nhỏ màu trắng trên mỏ, vào mùa đông, trán trắng rộng hơn, với chóp màu đen nhỏ hơn và ít rõ nét. Mỏ có màu vàng với một chấm nhỏ màu đen vào mùa hè, tất cả đều thành màu đen vào mùa đông. Chân hơi vàng. Cánh chủ yếu là màu xám nhạt.
Nó là loài di trú, trú đông ở Trung Mỹ, vùng Caribbean và miền bắc Nam Mỹ. Nhiều con trải qua cả năm đầu tiên trong khu vực trú đông của chúng (Thompson et al 1997). Nó đã hiện diện như là một lang thang sang châu Âu, với trường hợp ghi nhận tại Vương quốc Anh.
Nó khác với Tern nhỏ chủ yếu ở cuối thân và đuôi của nó là màu xám, không trắng, và nó có một, gọi squeaking khác nhau, từ Tern vàng lập hoá đơn trong nhạt màu hơn màu xám ở trên và có một đầu màu đen để dự luật; Tern Peru nhạt màu hơn màu xám ở trên và màu trắng (không màu xám nhạt) dưới đây và có một mẹo ngắn màu đen vào | 1 | null |
Caracara đầu vàng (danh pháp hai phần: Milvago chimachima) là một loài chim săn mồi trong họ Cắt. Caracara đầu vàng phân bố ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam Mỹ và phần phía nam của Trung Mỹ. Không giống các loài trong họ, nó không phải là loài săn mồi bay tốc độ cao mà là loài ăn xác thối. Loài này có chiều dàu 41–46 cm và cân nặng trung bình 325 g. Giống như nhiều loài chim săn mồi khác, con mái lớn hơn con trống, con mái nặng từ so với con trống . Ngoài khác nhau về trọng lượng, bề ngoài con trống và con mái giống nhau. Nó có cánh rộng và đuôi dài.
Phân loại.
Louis Jean Pierre Vieillot lần đầu tiên miêu tả loại chim cắt caracara đầu vàng vào năm 1816, ông ấy đặt tên khoa học của loài ấy là "Polyborus chimachima", đặt vào giống chim caracara có mào. Năm 1824, nhà tự nhiên học người Đức Johann Baptist von Spix sáng tạo ra giống loại Milvago cho loài này và nó gần giống họ chim Milvago chimango.
Miêu tả.
Loài chim caracara đầu vàng này có chiều dài 41–46 cm (16–18 in) và nặng trung bình 325 g. Giống các giống chim săn mồi khác, loài cái (310–360g) thường nặng hơn loài đực (280–330g). Tuy có sự khác nhau về kích cỡ, nhưng không có sự dị hình giới tính nào rõ ràng giữa 2 giới. Sở hữu cánh rộng và đuôi dài, theo cách nào đó giống với loài chim Buteo nhỏ. Chim trưởng thành có đầu to và một vệt đen sau mắt. Và phần người dưới to. Phần lông lông trên có màu nâu với đốm lớn màu xanh xám nổi bật trên phần lông bay của cánh. Cái đuôi thì có vạch kẻ dọc màu kem và nâu. Đầu và phần dưới của con chưa trưởng thành có vằn màu nâu đậm.
Tiếng kêu của chúng là tiếng kêu schreee đặc trưng.
Phân bố môi trường sống.
Loài chim này thường sống ở vùng trảng cỏ, đầm lầy hoặc trong rừng. Phân bố nhiều trong khoảng phía Nam Costa Rica, xuyên qua Trinidad và Tobago rồi tới phía bắc Argentina(các tỉnh Misiones, Chaco, Formosa, Corrientes và Santa Fe), thường được tìm thấy ở trên mực nước biển từ 1,800m và thỉnh thoảng cũng ở trên mực nước biển 2,600m. Ở miền nam Nam Mỹ, chúng được thế chỗ bởi người họ hàng gần gũi "Milvago chimango" có phạm vi trùng với loài chim caracara đầu vàng ở miền nam Brazil, bắc Argentina, Paraguay và Uruguay. Một loài sinh vật có kích cơ lớn hơn với thân hình tròn trịa hơn trong nhóm những loài cổ sinh là "Milvago chimachima readei", xuất hiện lần đầu tiên ở Florida và có thể ở những nơi khác cách đây hàng chục nghìn năm trong Pleistocen muộn. Theo cơ sở dữ liệu của Quỹ Peregrine, loài caracara đầu vàng đang mở rộng phạm vi sang Nicaragua.
Hành vi sinh thái học.
Caracara đầu vàng là loài động vật ăn tạp, chúng sẽ ăn các loài bò sát, lưỡng cư và các động vật nhỏ cũng như ăn xác động vật. Các chú chim hiếm khi bị bắt và loài này sẽ không kêu gọi những tiếng cảnh báo từ các đàn kiếm ăn gồm nhiều loài khác nhau đi ngang qua nó ngay cả trong điều kiện môi trường sống thoáng đãng. Chúng cũng đồng thời loại bỏ và ăn bọ ve từ gia súc và heo vòi Baird (Tapirus bairdii), vậy nên đôi khi chúng được gọi là chim ăn bọ ve. Người ta cũng quan sát thấy rằng chúng thường thường tìm kiếm các loài động vật nhỏ không xương sống trong bộ lông của con lười họng nâu và loài Chuột lang nước. Ngoài ra, ít nhất những con chim non cũng thích một số loại trái cây, chẳng hạn như cây cọ dầu (Elaeis guineensis) và trái pequi (Caryocar Brasiliense). Chúng đẻ từ năm đến bảy quả trứng có dấu màu nâu trong vào ổ trên cây.
Caracara đầu vàng được hưởng lợi từ việc phá rừng để chăn nuôi gia súc. Tình trạng của loài này ở Trinidad đã chuyển từ hiếm thành khá phổ biến, và được nhìn thấy lần đầu tiên ở Tobago vào năm 1987. Chúng dễ dàng thích nghi với các đô thị và cùng với các loài như kền kền đen (Coragyps atratus), chúng trở thành một trong những loài chim săn mồi thường thấy nhất ở các thành phố Mỹ Latinh. Do đó, loài có phạm vi rộng này đã được xếp vào mức độ rủi ro thuộc loại ít cần lo ngại nhất trong Sách đỏ IUCN. Ví dụ ở thành phố Panama, do sự phát triển của đô thị ngày càng gia tăng, các cặp caracara đầu vàng thường được nhìn thấy dọc theo các mái nhà ở các khu dân cư ngoại ô. | 1 | null |
Đồng tiền của bà góa là một câu chuyện được tường thuật trong Phúc âm Nhất lãm (Máccô 12:41-44 và Luca 21:1-4). Theo đó, Chúa Giêsu đang giảng dạy tại Đền thờ Jerusalem thì chứng kiến một bà góa nghèo dâng cúng hai đồng tiền kẽm vào hòm công đức, trong khi những người giàu có thì bỏ rất nhiều tiền.
Bản văn.
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12:41-44)
Luận giải.
Phúc âm Máccô cho biết: hai "đồng kẽm" (tiếng Hy Lạp: "lepton", số nhiều "lepta") hợp thành một "quadrans" là giá trị 1/4 "đồng xu", là đơn vị tiền nhỏ nhất của La Mã. Khi lưu hành ở Palestine, một "lepton" trị giá khoảng sáu phút làm công theo lương trung bình mỗi ngày.
Khi quan sát những người giàu có đóng góp công đức, Chúa Giêsu nhấn mạnh việc một bà góa nghèo chỉ dâng hai đồng kẽm. Ông biết số tiền này tuy nhỏ nhất nhưng là tất cả những gì bà góa đã có, trong khi những người khác chỉ cho một phần rất nhỏ trong sự tài sản của riêng mình. Qua đó, Giêsu diễn giải với các môn đệ rằng sự hy sinh của bà góa quý giá hơn những người giàu, do đó, với cách nhìn của Thiên Chúa thì bà là người dâng cúng nhiều hơn cả. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã "bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời, luận điểm mà ông có đề cập trong một số dụ ngôn giảng đạo. Ngoài ra, ông cũng chỉ trích giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đạo đức giả trong cách hành xử dâng cúng công đức của mình nhằm tìm kiếm sự tôn trọng từ người dân. | 1 | null |
Tôma Nguyễn Văn Tân (1940 – 2013) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long từ năm 2001 đến khi qua đời. Trước đó, ông đảm nhận vai trò giám mục phó giáo phận Vĩnh Long từ năm 2000. Khẩu hiệu Giám mục của Tôma Nguyễn Văn Tân là "Hành trình trong Đức Ái".
Nguyễn Văn Tân sinh ra ở Trà Vinh trong một gia đình nông dân. Con đường tu trì bắt đầu từ năm 13 tuổi, khi cậu Tân vào Tiểu chủng viện Vĩnh Long, sau đó học tại Giáo hoàng học viện Thánh Piô Đà Lạt và được thụ phong linh mục năm 1969. Sau khi được truyền chức, Nguyễn Văn Tân làm Giáo sư Tiểu Chủng viện Vĩnh Long trong thời gian ngắn và đến Rôma tu học tốt nghiệp Tiến sĩ Thần học và trở về nước năm 1974. Trong thời gian tại Việt Nam, ông lần lượt thực hiện việc mục vụ trong giáo phận Vĩnh Long: giáo sư môn Thần học Luân lý, phụ trách nhà thờ chủng viện, phụ trách các lớp Tiền Chủng viện của giáo phận Vĩnh Long.
Năm 2000, giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Tôma Nguyễn Văn Tân làm giám mục phó giáo phận Vĩnh Long, thay thế giám mục phó Raphael Nguyễn Văn Diệp về hưu. Tháng 7 năm 2001, giám mục chính tòa Nguyễn Văn Mầu từ chức, giám mục Tân kế vị chức giám mục chính tòa giáo phận Vĩnh Long.
Ngày 17 tháng 8 năm 2013, giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân qua đời sau một cơn đột quỵ, vì chưa có giám mục phó nên giáo phận Vĩnh Long trống tòa. Hội đồng linh mục bầu linh mục Phêrô Dương Văn Thạnh làm giám quản. Tháng 10 năm 2015, giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm linh mục Phêrô Huỳnh Văn Hai làm tân giám mục Vĩnh Long.
Thân thế và tu tập.
Nguyễn Văn Tân sinh ngày 27 tháng 12 năm 1940 tại xã Đại Phước, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, thuộc họ đạo Bãi Xan, Giáo phận Vĩnh Long. Cậu Tân là người con út trong gia đình gồm bảy người con, sáu trai và một gái. Vào thời niên thiếu, cậu sống trong một gia đình nông thôn vùng đồng bằng sông nước nằm cạnh nhà thờ của họ đạo Bãi Xan. Mỗi ngày cậu Tân dậy rất sớm, tuy gặp khá nhiều khó khăn và nguy hiểm nhưng cậu mỗi sáng vẫn đi qua cây cầu tre, băng qua rạch Giồng Tượng đến nhà thờ tham dự lễ. Câu chuyện về sự siêng năng việc học hỏi giáo lý của cậu bé Tân vẫn còn được người xưa kể lại.
Con đường tu trì của Nguyễn Văn Tân bắt đầu khi gia đình cho cậu nhập Tiểu chủng viện Vĩnh Long vào ngày 1 tháng 9 năm 1953. Sau khi hoàn tất chương trình Tiểu chủng viện, chủng sinh Tân theo học Triết học và Thần học tại Giáo hoàng học viện Thánh Piô X Đà Lạt từ tháng 7 năm 1961 và tốt nghiệp với văn bằng Cử nhân thần học vào tháng 6 năm 1970.
Linh mục.
Sau quá trình tu học, thầy Tôma Nguyễn Văn Tân được thụ phong linh mục ngày 21 tháng 1 năm 1969 tại Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long. Kể từ khi tốt nghiệp Giáo hoàng học viện Thánh Piô X, ông được bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu Chủng viện Vĩnh Long và đảm nhận vai trò này trong thời gian ngắn từ năm 1970 đến 1971. Sau đó, linh mục Tân được cho đi Roma du học tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana tháng 9 năm 1971 và tốt nghiệp Tiến sĩ Thần học về Hy tế. Sau khi về nước tháng 3 năm 1974, ông được bổ nhiệm làm Giáo sư Đại chủng viện Vĩnh Long.
Năm 1975, linh mục Nguyễn Văn Tân gặp nhiều điều khiến ông đau khổ: người anh và những người thân quen đã qua đời, các linh mục bằng hữu bị đưa đi cải tạo. Nhà thờ bị đóng cửa, nhiều người di tản. Riêng giáo phận Vĩnh Long mất mảnh đất nhà chung, nhà nguyện, gây tổn thất khá lớn cho giáo phận. Hai lần linh mục Tân trở về quê để cử hành lễ an táng cha mẹ tại nghĩa trang Công giáo (thường gọi là Đất Thánh) của họ đạo Bãi Xan. Sau này khi đã trở thành giám mục, mỗi năm, ông đều về thăm quê nhà hai lần cử hành thánh lễ cầu nguyện cho tổ tiên.
Ngày 7 tháng 9 năm 1977, chính quyền tỉnh phong tỏa, khám xét Thánh Giá Học Viện trên đường đường Phạm Thái Bường (tên cũ là Khưu Văn Ba), dòng Thánh Phaolô và Đại chủng viện giao phận Vĩnh Long. Sau cuộc khám xét này, chính quyền đã thu hồi và sau đó tiếp quản toàn bộ cơ sở, tài sản và cho điều tra những người phụ trách trong số đó có linh mục Nguyễn Văn Tân. Nói về ngày này trong một bức thư gửi tín hữu năm 2008, ông nhận định đây là "ngày đại nạn" của giáo phận Vĩnh Long.
Linh mục Nguyễn Văn Tân phụ trách nhà thờ chủng viện trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến năm 2000. Ngoài ra, ông còn đảm nhận công việc giáo sư ngoại trú môn Thần học Luân lý của Đại chủng viện Thánh Quý tại Cái Răng, Cần Thơ trong giai đoạn từ cuối năm 1988 đến năm 2000. Song song với các công việc trên, từ năm 1992 đến năm 2000, linh mục Tân phụ trách quản nhiệm các lớp Tiểu chủng viện của giáo phận Vĩnh Long.
Thời kì làm Giám mục.
Giám mục Phó Vĩnh Long.
Ngày 27 tháng 5 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Tôma Nguyễn Văn Tân làm giám mục phó giáo phận Vĩnh Long để thay thế giám mục Raphael Nguyễn Văn Diệp về hưu vì lý do sức khoẻ. Cùng trong đợt bổ nhiệm này, giáo hoàng còn bổ nhiệm linh mục Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh làm giám mục phó Giáo phận Đà Nẵng. Tính đến năm 2014, Đức cha Nguyễn Văn Tân là giám mục duy nhất xuất thân từ Tiểu chủng viện thánh Philipphê Phan Văn Minh.
Ngày 15 tháng 8 năm 2000, giáo phận Vĩnh Long tổ chức ba dịp kỉ niệm: 60 năm linh mục của giám mục chính tòa Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, ngân khánh giám mục của nguyên giám mục phó Raphael Nguyễn Văn Diệp đồng thời là lễ tấn phong giám mục của tân giám mục Nguyễn Văn Tân. Phần nghi thức truyền chức giám mục được cử hành bởi vị chủ phong là giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu và hai vị phụ phong là giám mục chính tòa Giáo phận Qui Nhơn Phêrô Nguyễn Soạn và giám mục Nguyễn Văn Diệp. Tân giám mục chọn cho mình khẩu hiệu: "Ambulate in Dilectione" ("Hành trình trong Đức Ái").
Lễ tấn phong giám mục được tổ chức sáng ngày 15 tháng 8 tại nhà thờ chính tòa Vĩnh long. Cử hành buổi lễ có khoảng 14 giám mục cùng với khoảng 300 linh mục thuộc nhiều giáo phận đồng tế. Tham dự lễ tấn phong còn có các tu sĩ nam nữ, các thân nhân của các giám mục dâng lễ và các đại diện các giáo xứ, giáo dân. Riêng thành phần giáo dân tham gia rất đông, và có một số phải dự lễ bên dưới tầng hầm nhà thờ thông qua hệ thống các màn hình chiếu trực tiếp. Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng gửi tông sắc bổ nhiệm, trong văn thư có đoạn:
Giám mục chính tòa Vĩnh Long.
Ngày 3 tháng 7 năm 2001, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng chấp nhận đơn xin về hưu của giám mục Nguyễn Văn Mầu. Giám mục phó Nguyễn Văn Tân tiếp nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long trong cùng ngày. Ông là giám mục giáo phận Vĩnh Long đầu tiên xuất thân từ chính giáo phận này.
Cơn bão số 9 năm 2006 (Durian) đi vào miền Nam Việt Nam, qua phần đất thuộc giáo phận Vĩnh Long. Cơn bão đi qua đã tàn phá nặng nề các cơ sở vật chất như nhà dân, nhà thờ, các vườn cây bị phá hủy, cùng với vụ lúa bị mất trắng do dịch bệnh rầy nâu trước đó, để lại khung cảnh điêu tàn. Lúc này giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân đã viết thư kêu gọi sự hỗ trợ. Giám mục Tân cho biết, giáo phận Vĩnh Long trong hoàn cảnh khốn khổ xin được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện hay vật chất, thông qua Ủy ban Bác ái Xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Ngày 17 tháng 12 năm 2007, giám mục Nguyễn Văn Tân cử hai linh mục đến gặp linh mục Quản lý (còn gọi là Bề trên) dòng Đồng Công Gioan Maria Đoàn Phú Xuân và linh mục này đồng ý khi nào nguyên giám mục phó Raphael Nguyễn Văn Diệp qua đời thì sẽ đưa thi hài về an táng tại Vĩnh Long. Tuy vậy, sau khi giám mục Diệp qua đời, linh mục Xuân cho biết giám mục Diệp đã rời khỏi Vĩnh Long để đi hưu tại dòng, có ý muốn được sống và an táng tại dòng. Giám mục Diệp qua đời ngày 20 tháng 12 và giám mục Tân cử hành lễ cầu nguyện sau đó vào ngày 22 tháng 12 cùng năm.
Tháng 5 năm 2008, giám mục Tân viết thư gửi giáo dân, nói về vấn đề yêu cầu chính quyền trao trả lại cơ sở của Dòng Nữ Tu Thánh Phaolô đã được tiếp quản năm 1977. Cuối thư, ông kêu gọi giáo dân không được im lặng, và cho rằng việc im lặng là đồng lõa với bất công. Ngày 18 tháng 12 cùng năm, Nguyễn Văn Tân nói về phần đất ở số 3 Nguyễn Trường Tộ (nay là Tô Thị Huỳnh), sau văn thư trước nhắc đến lô đất này chuẩn bị được xây dựng thành một khách sạn vào giữa tháng 5 năm 2008. Hoàn cảnh ra đời của bức thư, giám mục Vĩnh Long cho biết là viết sau khi chính quyền công bố việc xây dựng quảng trường tại lô đất này ngày 12 tháng 12 trước đó. Trong thư này, ông nêu lên việc cơ sở của Dòng Tu Viện Dòng Thánh Phaolô bị tháo dỡ năm 2003, bày tỏ sự xót xa của mình đối với cộng đoàn nữ tu bị đuổi ra đường trong hoàn cảnh trắng tay với tội danh mà ông này cho là giả tạo: "“đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc”". Đồng thời, giám mục Tân cũng nêu cảm nghĩ rằng tiếng nói quyền lực đã lấn át tiếng nói của công lý và lương tâm, trong thời đại trọng vật chất hơn đạo đức. Nhận định về bức thư này, linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh O.F.M. cho rằng tiếng nói của giám mục Nguyễn Văn Tân giống như "tiếng kêu trong sa mạc" và giám mục Tân sẽ gặp nhiều khó khăn trong công việc mục vụ như: không được xuất ngoại để xin viện trợ, không được cấp phép xây dựng, không được tổ chức các buổi lễ trọng thể...
Cuối tháng 10 năm 2009, giám mục Nguyễn Văn Tân viết thư ngỏ gửi đến giáo dân nhân dịp lễ Các Thánh. Trong thư, ông đề cập nhiều vấn đề lịch sử giáo phận sau giải phóng năm 1975, tranh chấp đất đai cơ sở cũ dòng nữ Thánh Phaolô. Cuối thư, nhân dịp nói đến địa điểm tranh chấp đang dự tính làm quảng trường cho người dân Vĩnh Long vui chơi, giám mục Tân nhắc lại việc công viên cây xanh Nguyễn Thị Minh Khai trước đó là nghĩa trang Công giáo, còn có rất nhiều hài cốt còn nằm lại trong lòng đất tại địa điểm này. Các linh mục giáo phận Vĩnh Long mà đại diện là các linh mục quản hạt ủng hộ bức thư này của giám mục Tân và bảy tỏ sẽ giải thích cho giáo dân tìm hiểu về giai đoạn lịch sử này của giáo phận.
Nguyễn Văn Tân sống đơn sơ nhưng giàu tình cảm và dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề ơn gọi tu trì, chủng sinh và giáo dân. Ông từng sang Pháp thăm vị tiền nhiệm là giám mục Antôn Nguyễn Văn Thiện hai lần, lần cuối là vào dịp Ad Limina 2009 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Giám mục Thiện mù lòa trong hơn 40 năm và đã lãng tai, nên giám mục Tân thường nhắn nhủ những người thân quen đến thăm vị này. Giám mục Tân cũng ước mong xây Nhà hưu dưỡng cho các linh mục giáo phận Vĩnh Long. Ngày 16 tháng 10 năm 2010, ông cùng các linh mục cử hành nghi thức đặt viên đá đầu tiên cho việc khởi công xây cất nhà hưu dưỡng và nay đã hoàn thành.
Giám mục Tân cũng dành sự quan quan tâm đến người tiền nhiệm và tổ chức lễ tạ ơn mừng Kim Khánh 50 năm giám mục của giám mục Antôn Nguyễn Văn Thiện tại giáo phận Vĩnh Long ngày 22 tháng 1 năm 2011. Ngày 13 tháng 5 năm 2012, giám mục Thiện qua đời và được chôn cất tại Pháp. Tại Việt Nam, Nguyễn Văn Tân chủ sự lễ cầu nguyện vào ngày 18 cùng tháng tại nhà thờ chủng viện Vĩnh Long, đồng tế còn có hơn 30 linh mục trong giáo hạt Vĩnh Long. Giám mục Tân cũng đề cử đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, thay mặt ông và đại diện giáo phận Vĩnh Long, từ Rôma bay sang Pháp dự lễ an táng.
Vào dịp mừng lễ kính trái tim vô nhiễm ngày 16 tháng 10 năm 2012, giám mục Nguyễn Văn Tân cho rước tượng Đức Mẹ Fatima thánh du đi khắp các họ đạo lớn nhỏ trong giáo phận thời gian trong vòng một năm nhằm mục đích ban ơn sám hối và chữa lành hồn xác cho các tín hữu. Ông cũng đã cho tổ chức mừng 75 năm thành lập giáo phận Vĩnh Long vào ngày 8 tháng 1 năm 2013.
Ngày 4 tháng 2 năm 2013, Nguyễn Văn Tân tham dự lễ tang người tiền nhiệm là giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu. Tang lễ do hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn – tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh chủ tế, đồng tế có rất nhiều giám mục Việt Nam cùng đông đảo linh mục. Ngày 2 tháng 8 cùng năm, giám mục Tân về quê cử hành thánh lễ an táng cho người anh thứ tư, lúc này gia đình ông chỉ còn lại hai chị em.
Qua đời.
Giám mục Nguyễn Văn Tân qua đời vào lúc 21 giờ ngày 17 tháng 8 năm 2013 tại nhà thờ chính tòa giáo phận Vĩnh Long vì bị nhồi máu cơ tim, hưởng thọ 73 tuổi. Giáo phận Vĩnh Long cho biết hai ngày trước đó ông vẫn khỏe mạnh và đã cử hành lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời và kỷ niệm 13 năm làm giám mục. Sự qua đời của ông để lại một Giáo phận Vĩnh Long trống toà vì giáo phận lúc đó chưa có giám mục phó. Trước đó, vào 4 giờ sáng cùng ngày, giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm, giám mục chính tòa Giáo phận Bùi Chu, cũng qua đời vì nhồi máu cơ tim. Vậy là cùng một ngày, hai giám mục Việt Nam đương chức qua đời vì nhồi máu cơ tim. Lễ an táng cố giám mục Vĩnh Long được cử hành vào ngày 22 tháng 8 năm 2013 với vị chủ tế là Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đồng tế có tổng giám mục Leopoldo Girelli và 18 giám mục khác và hơn 300 linh mục trong và ngoài giáo phận. Số giáo dân tham dự khoảng hơn 10.000 người, giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, giám mục chính tòa giáo phận Mỹ Tho giảng lễ. Thi hài cố giám mục được an táng tại Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long.
Sau khi giám mục Nguyễn Văn Tân qua đời, giáo phận Vĩnh Long trống tòa, hội đồng linh mục giáo phận chọn linh mục Phêrô Dương Văn Thạnh làm linh mục giám quản. Giáo dân các giáo họ trong giáo phận tích cực cầu nguyện xin cho giáo phận có Tân giám mục. Ngày 7 tháng 10 năm 2015, Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm linh mục Phêrô Huỳnh Văn Hai hiện là Trưởng ban mục vụ văn hóa và là thành viên Ban Giảng huấn của giáo phận làm giám mục chính tòa giáo phận Vĩnh Long, kế vị giám mục Nguyễn Văn Tân qua đời cách đó hai năm.
Đóng góp.
Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân được nhận định đã bổ nhiệm và thuyên chuyển các linh mục đúng chỗ và đúng việc, ông cũng thúc đẩy làm việc với các Ban trực thuộc Ủy ban giám mục của Hội đồng Giám mục Việt Nam: Giáo lý, Phụng vụ, Giới trẻ, Thiếu nhi.. Ngoài ra, giám mục Tân quan tâm và đặc biệt chú ý tình trạng đạo đức của giáo dân khi bước vào thời kì xã hội thế tục hoá như vấn đề di dân, nghèo khó, thất nghiệp, thất học... Hằng năm, ông tổ chức những ngày đại hội giới trẻ, thiếu nhi, gia đình, các khóa giáo lý nâng cao cho giáo dân, để giới thiệu lại cho gia đình hoặc công tác với các linh mục giảng dạy giáo lý Công giáo tại các giáo xứ.
Nguyễn Văn Tân cũng phát triển và xây dựng mới các nhà thờ cũ và xuống cấp trong giáo phận Vĩnh Long. Tính đến thời điểm năm 2013, hầu hết các nhà thờ Công giáo trong giáo phận được xây dựng mới hoặc được sửa chữa nâng cấp. Ngoài ra giám mục Tân cũng cho sửa chữa Toà giám mục và Tiểu chủng viện Vĩnh Long.
Ngoài ra, Nguyễn Văn Tân cũng là một giám mục Công giáo hết sức quan tâm và phát triển ơn gọi. Ông thường nhắc nhở các linh mục quản nhiệm các giáo xứ thuộc giáo phận Vĩnh Long chú ý đến ơn gọi tu sĩ nam nữ bằng cách giúp đỡ vật chất và tinh thần cho các chủng sinh và các dòng tu trong giáo phận. Ông quan tâm và giúp đỡ nhiều việc trong công cuộc đào tạo linh mục, tu sĩ, ông còn tổ chức các khoá huấn luyện và bồi dưỡng cho các nữ tu thuộc hai Hội dòng Mến Thánh Giá và các linh mục trong địa phận của mình. Giám mục Tân cũng quan tâm đến đời sống của các linh mục hưu dưỡng vì chưa có chỗ ở đầy đủ và thích hợp. Để khích lệ và an ủi những gia đình tu sĩ có cha mẹ qua đời, ông đến cử hành thánh lễ an táng và dĩ nhiên khi các linh mục trong giáo phận qua đời ông cũng thực hiện như vậy.
Ngoài các công việc có ích cho Công giáo, Nguyễn Văn Tân còn quan tâm đến vấn đề phát triển xã hội: liên lạc với các linh mục và nữ tu trong ban Bác ái Xã hội và hướng dẫn chương trình hành động cụ thể giúp đỡ người nghèo như: xây dựng và sử dụng nguồn nước sạch, tạo vốn cho những người nghèo có điều kiện làm ăn sinh sống... Giáo phận Vĩnh Long cũng là một trong hai giáo phận đầu tiên triển khai nguồn vốn cho vay tín dụng không lãi suất dành cho người nghèo, cùng với Giáo phận Đà Lạt.
Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân được xem là người đã mang đến cho giáo phận Vĩnh Long nguồn sức sống mới, củng cố và phát triển giáo phận một cách vững mạnh.
Nhận định.
Trong bài viết "Phân tích vấn đề Đức Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt từ chức", Nguyễn Long Thao đưa ra nhận định:
Tông truyền.
Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân được tấn phong giám mục năm 2000, thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi: | 1 | null |
Lớp tàu tuần dương "Prinz Adalbert" là một lớp tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu những năm 1900. Hai chiếc thuộc lớp này đã được chế tạo: "Prinz Adalbert" được đưa vào hoạt động ngày 12 tháng 1 năm 1904, và "Friedrich Carl" vốn được đưa vào hoạt động sớm hơn vào ngày 12 tháng 12 năm 1903. Chúng là sự cải tiến dựa trên thiết kế của chiếc "Prinz Heinrich" duy nhất dẫn trước, với đai giáp có cùng độ dày nhưng được mở rộng hơn so với chiếc trước đây. Cả hai con tàu còn được trang bị bốn khẩu pháo chính trên hai tháp pháo nòng đôi so với hai tháp pháo nòng đơn như trên chiếc "Prinz Heinrich".
Cả hai chiếc trong lớp đều đã phục vụ rộng rãi cho Hải quân Đức: "Prinz Adalbert" được sử dụng như một tàu huấn luyện tác xạ trong suốt quảng đời phục vụ thời bình, trong khi "Friedrich Carl" phục vụ cùng hạm đội cho đến năm 1909, khi nó được rút ra để sử dụng như một tàu huấn luyện ngư lôi. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào tháng 8 năm 1914, cả hai được huy động trở lại và được phân về hải đội tuần dương tại khu vực biển Baltic. "Friedrich Carl" bị đắm do trúng thủy lôi của Nga ngoài khơi Memel vào tháng 11 năm 1914, cho dù hầu hết thủy thủ đoàn của nó được cứu vớt an toàn. "Prinz Adalbert" hai lần bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm Anh hoạt động tại vùng Baltic; lần đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1915 gây hư hại nặng nhưng cuối cùng được sửa chữa; lần thứ hai vào ngày 23 tháng 10 năm 1915 gây một vụ nổ hầm đạn thảm khốc vốn đã phá hủy toàn bộ con tàu, khiến 672 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng, là tổn thất nhân mạng cao nhất của Hải quân Đức tại Baltic trong suốt cuộc chiến tranh.
Thiết kế.
Đạo luật Hải quân thứ hai của Đức thông qua vào năm 1900 cho phép sở hữu một lực lượng mười bốn tàu tuần dương bọc thép nhằm hoạt động tại các thuộc địa của Đức ở nước ngoài. Tuy nhiên, Hải quân Đức cũng đòi hỏi những tàu tuần dương để hoạt động cùng hạm đội, nên dự định thiết kế những con tàu đáp ứng được cả hai vai trò, chủ yếu là do kinh phí bị giới hạn. Chiếc đầu tiên ra đời theo Luật Hải quân 1900, "Prinz Heinrich", là phiên bản cải tiến của một tàu tuần dương bọc thép trước đó, "Fürst Bismarck", trang bị ít pháo hơn và vỏ giáp mỏng hơn để đổi lấy tốc độ cao và giảm chi phí. Thiết kế tiếp theo, chính là lớp "Prinz Adalbert", được chuẩn bị vào các năm 1899-1900, là một sự cải tiến dựa trên "Prinz Heinrich". Chúng trang bị bốn khẩu pháo bắn nhanh thay cho cặp pháo chậm hơn trên con tàu cũ. Vỏ giáp có độ dày tương đương như trên chiếc "Prinz Heinrich", nhưng được mở rộng hoàn thiện hơn.
Các đặc tính chung.
Những chiếc trong lớp "Prinz Adalbert" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng . Các con tàu có trọng lượng choán nước theo thiết kế là , nhưng tải trọng tối đa trong tác chiến lên đến , với mớn nước phía trước và phía sau. Lườn tàu được cấu trúc từ các khung ngang và dọc, trên đó các tấm thép được bắt vào bằng đinh tán. Các con tàu có mười bốn ngăn kín nước và một đáy kép chiếm 60% chiều dài lườn tàu.
Hải quân Đức xem chúng như những con tàu đi biển tốt, chuyển động nhẹ nhàng khi các hầm chứa than bên dưới được chất đầy. Chúng đáp ứng tốt với việc điều khiển, bị mất cho đến 60% tốc độ khi bẻ lái gắt, nhưng chỉ giảm tốc độ đôi chút khi biển động nặng. Các tháp pháo ụ được bố trí quá thấp khiến bị ướt nước nặng ngay cả khi sóng nhẹ. Chúng có chiều cao khuynh tâm . Con tàu có thành phần thủy thủ đoàn gồm 35 sĩ quan và 551 thủy thủ, nhưng khi hoạt động trong vai trò soái hạm hải đội chúng được tăng cường thêm chín sĩ quan và 44 thủy thủ. Chúng mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, một xuồng đổ bộ, một xuồng chèo, hai ca nô, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.
"Prinz Adalbert" và "Friedrich Carl" được trang bị ba động cơ hơi nước 3 buồng bành trướng đặt dọc; trục giữa dẫn động một chân vịt ba cánh có đường kính , trong khi hai trục ngoài nối với chân vịt bốn cánh đường kính . Hơi nước được cung cấp từ mười bốn nồi hơi Dürr do hãng "Düsseldorf-Ratinger Röhrenkesselfabrik" sản xuất. Hệ thống động lực này có công suất trên chiếc "Prinz Adalbert" và cho "Friedrich Carl" với tốc độ tối đa và tương ứng. Cả hai con tàu đều đạt được công suất cao hơn khi chạy thử máy, cho dù tốc độ của chúng không được cải thiện đáng kể. Các con tàu được thiết kế để chở theo than, nhưng có thể tận dụng các khoang trống để chở tối đa , cho phép chúng có tầm hoạt động tối đa khi di chuyển ở tốc độ đường trường . Điện năng được cung cấp bởi bốn máy phát có tổng công suất ở điện thế 110 volt.
Vũ khí.
"Prinz Adalbert" và "Friedrich Carl" được trang bị dàn pháo chính gồm bốn khẩu SK L/40 trên hai tháp pháo nòng đôi bố trí trước và sau cấu trúc thượng tầng. Chúng được cung cấp tổng cộng 340 quả đạn pháo, tức 85 quả cho mỗi khẩu. Bệ tháp pháo có thể hạ cho đến góc −5° và nâng tối đa đến góc 30°, cho phép bắn đến mục tiêu cách xa . Kiểu pháo 21 cm bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn . Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười khẩu SK L/40, tất cả đều được bố trí hai bên mạn tàu. Ba khẩu được đặt trong các tháp pháo ụ giữa tàu mỗi bên mạn, với một cặp tháp pháo bên trên chúng. Số vũ khí này được cung cấp tổng cộng 1.400 quả đạn pháo, tức 140 cho mỗi khẩu pháo. Chúng bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn ; các khẩu pháo có thể nâng đến góc 30°, cho phép một tầm bắn tối đa .
Các con tàu còn mang theo mười hai khẩu SK L/35 để phòng thủ tầm gần; chúng được bố trí thành nhóm bốn khẩu đặt trên trụ có che chắn. Bốn khẩu được bố trí chung quanh tháp chỉ huy, bốn khẩu chung quanh hai ống khói phía đuôi tàu cùng bốn khẩu khác trên nóc cấu trúc thượng tầng phía sau. Kiểu pháo này bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn ; chúng có thể nâng tối đa đến góc 25° và đối đầu mục tiêu cách xa . Dàn vũ khí của các con tàu được hoàn thiện với bốn ống phóng ngư lôi ngầm , được bố trí trước mũi, sau đuôi và hai bên mạn, và mang theo 11 quả ngư lôi.
Vỏ giáp.
Lớp vỏ thép sử dụng cho hai con tàu do hãng Krupp chế tạo. Đai giáp chính bao gồm một lớp gỗ tếch dày , phủ bởi lớp thép dày ở phía giữa con tàu vốn bao gồm các khoang động cơ và hầm đạn. Bề dày của đai giáp giảm còn ở cả hai đầu của phần trung tâm, trong khi mũi và đuôi tàu không được bảo vệ. Sàn tàu bọc thép có độ dày ; đai giáp nghiêng với độ dày nối liền sàn tàu đến đai giáp. Các tháp pháo ụ vốn được bố trí bên trên đai giáp chính, cũng như các tháp pháo 15 cm, được bảo vệ bởi vỏ giáp dày . Hai tháp pháo 21 cm có các mặt giáp hông dày và nóc dày . Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ bởi các mặt bên dày và nóc dày ; tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn với lớp giáp dày .
Lịch sử hoạt động.
"Prinz Adalbert" được đặt lườn tại Xưởng tàu Đế chế ở Kiel vào năm 1900 dưới số hiệu chế tạo 27 theo hợp đồng chế tạo "B". Lườn tàu hoàn tất được hạ thủy vào ngày 22 tháng 6 năm 1901, và công việc hoàn thiện nó được tiếp nối. Con tàu cuối cùng hoàn tất vào ngày 12 tháng 1 năm 1904, khi nó được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Đức. "Friedrich Carl" được đặt hàng dưới cái tên tạm thời "Ersatz König Wilhelm" và được phân bổ cho xưởng tàu Blohm & Voss; nơi nó được đặt lườn vào năm 1901. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 6 năm 1902, gần đúng một năm sau con tàu chị em. Sau khi hoàn tất việc trang bị, "Friedrich Carl" được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đức vào ngày 12 tháng 12 năm 1903, một tháng trước con tàu chị em.
"Prinz Adalbert" đi vào hoạt động như một tàu huấn luyện tác xạ sau khi gia nhập hạm đội, trong khi "Friedrich Carl" phục vụ cùng hải đội tuần dương của hạm đội chiến trận. Đến năm 1909, "Friedrich Carl" tham gia cùng con tàu chị em như một tàu huấn luyện, được sử dụng trong việc thực tập ngư lôi. Cả hai được huy động trở lại phục vụ nơi tuyến đầu khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào tháng 8 năm 1914; được điều về hải đội tuần dương dưới quyền Đô đốc Behring tại biển Baltic, nơi "Friedrich Carl" phục vụ như là soái hạm của ông. Hải đội đặt căn cứ tại Neufahrwasser thuộc Danzig. Behring được lệnh tiến hành các hoạt động đánh phá cảng Nga Libau, được tin là nơi tập trung các tàu ngầm Anh. Trong đợt tấn công cảng này lần thứ nhất vào ngày 17 tháng 11 năm 1914, "Friedrich Carl" trúng phải hai quả thủy lôi của Nga ngoài khơi Memel. Thủy thủ đoàn cố duy trì chiếc tàu tuần dương nổi đủ lâu cho phép các con tàu lân cận cứu vớt những người sống sót; chỉ có bảy người thiệt mạng trong cuộc tấn công. Dù sao cuộc tấn công vẫn diễn ra theo kế hoạch, và nhiều tàu bị đánh chìm như ụ cản ngăn chặn lối ra vào cảng.
Sau khi "Friedrich Carl" bị đánh chìm, Behring chuyển cờ hiệu của mình sang "Prinz Adalbert". Con tàu tiến hành nhiều hoạt động chống lại lực lượng Nga, bao gồm cuộc bắn phá Libau. Vào tháng 5 năm 1915, nó hỗ trợ cuộc tấn công của Lục quân chiếm đóng thành phố này. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1915, nó xuất phát để tăng viện cho một chiếc dịch rải mìn của Đức đang bị một chi hạm đội tuần dương Nga tấn công. Đang trên đường đi cùng với tàu tuần dương bọc thép "Prinz Heinrich", "Prinz Adalbert" trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh "E9". "Prinz Adalbert" bị hư hại nặng, nhưng nó xoay xở quay trở về được Kiel để sửa chữa.
Việc sửa chữa cuối cùng hoàn tất vào tháng 10 năm 1915. "Prinz Adalbert" đang di chuyển cùng hai tàu khu trục cách về phía Tây Libau vào ngày 23 tháng 10 khi nó bị tàu ngầm Anh "E8" đánh chặn. "E8" đã phóng một loạt ngư lôi ở cự ly khoảng , làm kích nổ hầm đạn của con tàu. Vụ nổ dữ dội đã phá hủy chiếc tàu tuần dương, khiến nó chìm ngay lập tức với tổn thất nhân mạng lên đến 672 thành viên thủy thủ đoàn; chỉ có ba người sống sót. Đây là vụ tổn thất nhân mạng lớn nhất của lực lượng Hải quân Đức tại Baltic trong suốt cuộc chiến tranh. | 1 | null |
Chợ Kim Biên được thành lập từ những năm 1960, tọa lạc tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban đầu, chợ hoạt động tự phát để trao đổi, mua bán đô la và hàng hóa quân tiếp vụ.
Sau năm 1975, chợ được chuyển đổi sang cho tiểu thương thuê sạp để kinh doanh nhiều mặt hàng, trong đó, nổi tiếng nhất là hóa chất công nghiệp và các mặt hàng về lĩnh lực hóa chất thực phẩm...
Xem thêm.
Sự kiện an toàn thực phẩm | 1 | null |
Crinodendron hookerianum là một loài cây thường xanh trong họ Côm đặc hữu Chile. Loài cây này mọc từ Cautin đến Palena (38 đến 43°N). Nó mọc gần các suối hoặc các khu vực rất ẩm hay nơi có bóng râm nhiều.
Nó là loài cây bụi cao và có đường kính , màu tro. Lá xen kẽ có rìa có răng cưa. Hoa đơn.
Nó có hoa đẹp và được trồng làm cây cảnh đến phía bắc tận Scotland. | 1 | null |
Bãi bùn hay bãi triều là một vùng đất ngập nước ven biển, hình thành từ bùn do sông và thủy triều mang tới. Loại địa hình này có thể được tìm thấy tại các khu vực được che chắn như vịnh, bayou, phá và cửa sông. Địa chất học xem bãi bùn là những lớp bùn vịnh bóc lộ được tạo nên từ đất bùn cửa sông, đất sét và các mảnh vụn sinh vật biển. Đa phần trầm tích bãi bùn nằm trong đới gian triều, tức là luân phiên ở trong tình trạng ngập nước/không ngập nước hai lần mỗi ngày.
Trong quá khứ, người ta xem bãi bùn là những vùng không quan trọng về mặt kinh tế; họ thường nạo vét và biến chúng thành đất nông nghiệp. Một vài bãi bùn, đặc biệt là các bãi nông như biển Wadden trở thành địa điểm phổ biến cho môn thể thao đi bộ bãi bùn.
Ở bờ biển Baltic thuộc nước Đức, hoạt động của thủy triều không phải là tác nhân giúp bãi bùn cạn nước mà là hoạt động của gió đã đẩy nước khỏi các vùng nông ra ngoài biển. Trong tiếng Đức, loại bãi bùn này được gọi là "Windwatt".
Sinh thái.
Bãi bùn, đầm lầy ngập mặn gian triều và rừng thực vật ngập mặn là những bộ phận quan trọng của hệ sinh thái ven biển. Đây là nơi cư trú của rất đông sinh vật hoang dã mặc dù mức đa dạng sinh học không hẳn là cao. Những vùng này đóng vai trò cực kì quan trọng đối với chim di trú cũng như một số loài cụ thể thuộc phân thứ bộ Cua, động vật thân mềm và cá. Các bãi bùn thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được xếp vào loại hệ sinh thái được ưu tiên trong Kế hoạch hành động đa dạng sinh học (BAP).
Việc duy trì các bãi bùn có vai trò quan trọng để ngăn chặn xói mòn ven biển. Tuy nhiên, bãi bùn trên thế giới đang bị đe doạ bởi sự dâng lên của mực nước biển, hoạt động bồi đất lấn biển nhằm phát triển kinh tế, hoạt động nạo vét cho mục đích vận tải biển và ô nhiễm hoá chất. | 1 | null |
Sergey Kuzhugetovich Shoygu (, sinh ngày 21 tháng 5 năm 1955) là một tướng lĩnh và một chính trị gia Nga, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nga. Ông là người thuộc sắc tộc người Tuva. Với cương vị Bộ trưởng tình trạng khẩn cấp, S. K. Shoygu đã có nhiều đóng góp quan trọng và đã được nhận danh hiệu Anh hùng nước Nga vào năm 1999 và được phong quân hàm cấp tướng vào năm 2003. S. K. Shoygu là người thân cận với cựu Tổng thống Nga B. N. Yeltsin, ông đã là thành viên tích cực tham gia tổ chức phong trào "Ngôi nhà của chúng ta là nước Nga" nhằm vận động cho Elsin trong chiến dịch tranh cử năm 1995 - 1996.
Sau đó, vai trò của tướng S. K. Shoygu trở nên nổi bật hơn khi vào năm 1999, ông là một trong ba người sáng lập Đảng "Thống nhất", tiền thân của Đảng "Nước Nga thống nhất" hiện đang chiếm đa số trong Duma Quốc gia Nga. Từ khi đứng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Nga, ông luôn là người tin cẩn của Tổng thống.
Ông từng được giao đảm nhiệm vai trò Phó Thủ tướng đầu năm 2000, trước khi Putin chính thức nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ đầu tiên. S. K. Shoygu cũng là thành viên lâu năm nhất của Hội đồng An ninh Liên bang Nga từ năm 1994 đến năm 2012.
Tháng 3 năm 2012, ông đã được công bố là một trong các ứng cử viên tiềm năng cho chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Moskva. Ngày 05 tháng 4 năm 2012, ông được bầu làm Tỉnh trưởng tỉnh Moskva, và nhậm chức ngày 11 tháng 5 năm 2012.. Ngày 06 tháng 11 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nga. | 1 | null |
Khô cá lóc đồng là món ăn được làm từ cá lóc tẩm gia vị của vùng Miền Tây như: muối, bột ngọt, hạt tiêu, tẩm màu cá khô bằng ớt trái lớn (ớt bỏ hột giã lấy nước) ướp cá khoảng 30 phút. Sau đó đem phơi với nắng gắt 3 đến 4 ngày. Cá sau khi khô được phân chia bịch 1 kg và được bảo quản ngăn tủ mát. Do đó dù để lâu vẫn giữ được mùi vị thơm ngon của khô cá lóc.
Một số món ngon.
Khô cá lóc đem nướng làm ta cảm nhận được mùi vị thơm ngon của nó. Sau khi nướng, đập cho khô mềm, tơi cho dễ xé nhỏ. Khô cá lóc được làm gỏi như: gỏi xoài, gỏi dưa leo, gỏi lá sầu đâu, gỏi đu đủ... Bên cạnh đó, khô cá lóc còn đem chiên, kho ăn rất ngon và lạ miệng. | 1 | null |
Trong địa chất học, khối đá tàn dư là một hay nhiều cột đá dốc và thường là dựng đứng ở gần bờ biển và bị cô lập khỏi bờ biển bởi hiện tượng xói mòn. Các khối đá tàn dư được hình thành thông qua các quá trình địa mạo ven biển một cách hoàn toàn tự nhiên. Loại địa hình này hình thành khi một mũi đất bị xâm thực bởi tác động của thủy lực xô vào đá; sức nước làm trầm trọng thêm các vết nứt trong mũi đất, khiến mũi đất này sụp đổ thành những khối đá nằm riêng biệt, thậm chí trở thành một hòn đảo nhỏ. Nếu không có sự tác động liên tục của nước thì các khối đá tàn dư còn có một con đường hình thành khác là thông qua sự đổ sụp của một vòm tự nhiên dưới tác động của các quá trình dưới khí quyển như xói mòn do gió. Những khối đá tàn dư là nơi cư trú quan trọng của các loài chim biển và nhiều nơi còn là điểm đến phổ biến của môn leo núi.
Sự hình thành.
Khối đá tàn dư hình thành từ đá trầm tích hoặc đá núi lửa phân tầng ngang, đặc biệt là các vách đá vôi. Đặc điểm của các loại đá này có độ cứng trung bình và khả năng chịu đựng xâm thực cũng ở mức trung bình. Lớp đá nào có tính bền vững cao hơn thì có thể sẽ tạo nên đá phủ. Những bờ vách được tạo thành từ vật chất yếu hơn (như đất sét) thì có xu hướng sụt và xói mòn rất nhanh nên không thể tạo thành khối đá tàn dư, trong khi những loại đá cứng chắc hơn như đá hoa cương thì lại xói mòn theo những cách thức khác.
Quá trình hình thành khối đá tàn dư thường bắt đầu khi nước biển tấn công và làm các vết nứt nhỏ trên mũi đất toác rộng ra. Sau đó, các khe nứt sẽ càng ngày càng nở rộng và trở thành một cái hang nhỏ. Một vòm tự nhiên sẽ thành hình khi hang này xuyên thấu mũi đất. Hiện tượng xâm thực trong giai đoạn về sau sẽ làm sụp đổ vòm tự nhiên này và để lại một cột đá nhỏ. Cột đá này thường sẽ trở thành một đảo đá nhỏ, thấp và bị nhấn chìm khi thủy triều lên. Tuy nhiên, có những khối đá tồn tại rất lâu. | 1 | null |
"Pearly Gates" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ Pitbull hợp tác với nữ ca sĩ Nayer. Ca khúc được phát hành vào ngày 1 tháng 2 năm 2010. Ca khúc này được sáng tác bởi Pitbull và được sản xuất bởi Jim Jonsin và DJ Noodles. "Pearly Gates" có sử dụng đoạn nhạc mẫu từ một ca khúc nổi tiếng của DJ Sammy năm 2001, "Heaven".
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Pearly Gates" được đạo diễn bởi David Rousseau. Trong video có sự xuất hiện của cả Pitbull và Nayer. | 1 | null |
"I Like", hoặc "I Like: The Remix", là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ Pitbull hợp tác với Enrique Iglesias và Afrojack. Đây là bản phối khí cho đĩa đơn "I Like How It Feels" của Iglesias. Ca khúc này cũng được chọn làm ca khúc chủ đề cho cuộc thi hoa hậu Mỹ Miss USA 2012. Như vậy, đây là ca khúc thứ hai của Pitbull được sử dụng trong một cuộc thi sắc đẹp, sau "Took My Love", một ca khúc trong album "Planet Pit", được chọn làm ca khúc chủ đề cho cuộc thi Miss America 2012. | 1 | null |
Nhà Saud là gia tộc nắm quyền cai trị của Ả Rập Xê Út. Gia tộc này có hàng ngàn thành viên, bao gồm con cháu của Muhammad ibn Saud và các anh em của ông, mặc dù những người nắm quyền tối cao hiện nay đều là con cháu của vua Abdulaziz ibn Abdul Rahman Al Saud. Gia tộc này theo Hồi Giáo dòng Sunni và ủng hộ cho sự thống nhất của bán đảo Ả Rập.
Người có ảnh hưởng nhất trong gia tộc này là người nắm giữ chức vị Vua Ả Rập Xê Út. Luật thừa kế của Ả Rập Xê Út quy định ngai vàng được truyền cho các con trai của vị vua đầu tiên, Vua Abdulaziz rồi mới truyền đến các con trai của họ. Hoàng gia có tới hơn 15.000 thành viên, nhưng chỉ có 2000 người trong số đó nắm giữ phần lớn của cải và quyền lực trong vương quốc.
Nhà Saud đã cai trị bán đảo Ả Rập qua ba giai đoạn: Nhà nước Saudi I, Nhà nước Saudi II và Ả Rập Xê Út hiện đại ngày nay. Nhà nước Saudi Đầu tiên đước đánh dấu bằng sự mở rộng của chi phái Hồi giáo Wahhabi. Nhà nước Saudi thứ hai được đánh dấu bằng các cuộc đấu đá liên tục trong nội bộ. Vương quốc Ả Rập Xê Út ngày nay là một trong những quốc gia có ảnh hưởng quan trọng trong khu vực Trung Đông. Gia tộc này mâu thuẫn sâu sắc với Đế quốc Ottoman, Tổng đốc của Mecca và gia tộc Al Rashid của Ha'il.
Tên gọi.
Nhà Saud là tên dịch ra của "Al Saud". Tên của một triều đại Ả Rập được hình thành bằng cách thêm chữ "Al", có nghĩa là "gia đình" hay "Nhà", hoặc tên của cá nhân hay một tổ tiên. Trong trường hợp của Nhà Saud, đây là tên người cha của người sáng lập triều đại vào thế kỷ XVIII, Muhammad ibn Saud (Muhammad là con trai của Saud).
Ngày nay, "Al Saud" được hình thành từ các hậu duệ của Muhammad ibn Saud hoặc ba anh em của ông, là Farhan, Thunayyan, và Mishari. Các nhánh nhỏ hơn của Nhà Saud được gọi là các chi thứ. Những người này nắm giữ địa vị cao trong xã hội, ở cả hành chính hay quân đội mặc dù họ không phải là những người được thừa kế ngai vàng. Họ liên kết lại với nhau trong Nhà Saud để khẳng định dòng dõi của mình và tiếp tục gây ảnh hưởng trong chính phủ. | 1 | null |
Vịnh nhỏ hay vũng nhỏ là một loại vịnh hẹp ven bờ. Loại vịnh này thường có hình tròn hoặc bầu dục và thường nằm trong một vịnh lớn hơn. Các vịnh, vịnh hẹp, lạch triều hay các hốc lõm trên bờ biển cũng thường được gọi là vịnh nhỏ. Xét theo ngôn ngữ thông thường thì khái niệm vịnh nhỏ có thể dùng để chỉ một vịnh bị che chắn.
Địa mạo học xem vịnh nhỏ là những chỗ hở dạng đài vòng được bao bọc bởi vách đá dựng đứng, như một thung lũng trải dài xuống sườn núi hoặc một chỗ hõm ở vách đá hoặc sườn dốc.
Vịnh nhỏ được hình thành bởi quá trình xâm thực phân dị, xảy ra khi các loại đá mềm bị bào mòn nhanh hơn loại đá cứng bao quanh chúng. Sau đó, đá cứng tiếp tục bị xói mòn, để lại một vịnh hình tròn với một lối vào hẹp được gọi là vịnh nhỏ. | 1 | null |
Đầm lầy nước ngọt là một đầm lầy chứa nước ngọt, thường xuất hiện ở các miệng sông và những khu vực có khả năng tiêu thoát nước kém.
Đầm lầy nước ngọt là những vùng không có cây lớn, không bị ảnh hưởng bởi thủy triều và đất không có than bùn. Loại này rất phổ biến ở vùng duyên hải Vịnh Mexico của Hoa Kỳ, đặc biệt là tiểu bang Florida, trong đó Everglades (Florida) là đầm lầy nước ngọt lớn nhất Hoa Kỳ. Nước ngọt của đầm lầy có thể hình thành từ nguồn nước ngọt khoáng hoá từ nước ngầm, suối hoặc dòng chảy mặt, hoặc có thể hình thành từ nước mưa với ít chất khoáng. Do nước thường có độ pH ở mức trung tính nên nơi đây có rất nhiều loài động thực vật hoang dã với số lượng đông đảo. Một số loài phổ biến là vịt, ngỗng, thiên nga, chim biết hót và nhạn. Trong khi các đầm lầy nước nông thường không có nhiều cá thì các đầm lầy sâu hơn lại là ngôi nhà của rất nhiều loài, trong đó có cá chó "Esox lucius" và cá chép. Ngoài ra, một số loại thực vật phổ biến các loài thuộc chi "Typha" (họ Hương bồ), họ Súng và họ Bấc. | 1 | null |
Lịch sử con người ở Hawaii bao gồm giai đoạn đầu định cư của người Polynesia, người Anh đến đảo, thống nhất, người nhập cư Âu–Mỹ và châu Á, việc lật đổ chế độ quân chủ Hawaii, trong một thời gian ngắn là Cộng hòa Hawaii, việc Hawaii gia nhập Hoa Kỳ thành một Lãnh thổ Hawaii và sau đó là tiểu bang Hawaii.
Phát hiện và định cư.
Người Polynesia đã thiết lập các khu định cư sớm nhất ở quần đảo Hawaii khi họ đến Hawaii bằng cách sử dụng thuyền lớn hai vỏ. Họ mang theo heo, chó, gà, khoai môn, khoai lang, dừa, chuối, và mía.
Có một số giả thuyết liên quan đến di cư đến Hawaii. Giả thuyết "một cuộc di cư" cho rằng có một khu định cư duy nhất. Một biến thể của một giả thuyết di một đợt di cư lại cho rằng có một khu định cư đơn nhất và liên tục. Một giả thuyết "nhiều đợt di cư" cho rằng có một khu định cư đầu tiên bởi một nhóm gọi là Menehune (định cư từ quần đảo Marquesas), và sau đó khu định cư thứ hai của người Tahiti.
Ngày 18 tháng 1 1778 Thuyền trưởng James Cook và thủy thủ đoàn của ông, trong khi cố gắng để khám phá các tuyến đường tây bắc giữa Alaska và châu Á, đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy những hòn đảo thuộc Hawaii xa về phía bắc ở Thái Bình Dương. Ông đã đặt tên "Quần đảo Sandwich" theo tên Đệ tứ bá tước của Sandwich. Sau khi Cook phát hiện, người châu Âu và Mỹ đã đến quần đảo Sandwich.
Juan de Gaitán đã đến Hawaii vào năm 1555 . Có những bản đồ Tây Ban Nha của thời đó, trong đó hòn đảo được thể hiện trong vĩ độ Hawaii, nhưng 10 ° về phía đông. Bản đồ biển đầu tiên mà có thể chứng minh điều này là ngày 1551, có chữ ký của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ý và Pháp vẽ bản đồ, trong đó thể hiện một quần đảo nằm tại các điểm gần nơi Hawaii tọa lạc trên toàn thế giới.
Vương quốc Hawaii.
Sự hình thành của Vương quốc Hawaii.
Quần đảo này đã thống nhất dưới một người cai trị duy nhất, Kamehameha I, lần đầu tiên vào năm 1810 với sự giúp đỡ vũ khí và cố vấn nước ngoài. Chính quyền quân chủ sau đó đã thông qua việc chọn quốc kỳ tương tự như lá cờ hiện nay đang được tiểu bang Hawaii sử dụng, lá cờ thống nhất của vương quốc (đầu góc bên cạnh cột cờ) và tám sọc ngang (xen kẽ màu trắng, đỏ, xanh dương, từ trên), đại diện cho tám hòn đảo chính của Hawaii.
Trong tháng 5 năm 1819, Hoàng tử trở thành Vua Kamehameha II. Dưới áp lực từ đồng nhiếp chính của ông và bà mẹ kế, Kaahumanu, ông đã bãi bỏ chế độ kapu đã cai trị ở các đảo. Ông đã báo hiệu thay đổi mang tính cách mạng này bằng cách ngồi xuống để ăn với Ka'ahumanu và phụ nữ khác có vai vế lãnh đạo, một hành động bị cấm đoán dưới chế độ tôn giáo 'Ai Noa. Kekuaokalani, một người anh em họ nghĩ rằng ông là chia sẻ quyền lực với Liholiho, tổ chức những người ủng hộ chế độ kapu, nhưng lực lượng của ông đã bị đánh bại bởi Kaahumanu và Liholiho trong tháng 12 năm 1819 tại trận Kuamoo.
Đế chế Nga.
Năm 1815, đế quốc Nga đã gây ảnh hưởng cho các đảo khi Georg Anton Schaffer, nhân viên của Công ty Nga-Mỹ, đến lấy hàng bị tịch thu bởi Kaumualii, đảo trưởng hòn đảo Kauai. Kaumualii đã ký một hiệp ước công nhận sự bảo hộ của hoàng đế Alexander I đối với đảo Kauai.Từ 1817 đến 1853, Fort Elizabeth, gần sông Waimea, là một trong ba pháo đài của Nga trên đảo.
Pháp.
Trong vương quốc đầu tiên, các Bộ trưởng Tin lành đã thuyết phục các vị vua Hawaii quy định Công giáo bất hợp pháp, trục xuất các linh mục Pháp, và bỏ tù những người bản địa cải đạo Công giáo Hawaii.
Năm 1839 thuyền trưởng Laplace của tàu frigate Artémise của Pháp khởi hành đến Hawaii. Dưới sự đe dọa của chiến tranh, vua Kamehameha III đã ký "chỉ dụ khoan dung" vào ngày 17 tháng 7 năm 1839 và đã trả 20.000 USD bồi thường cho việc trục xuất các linh mục và giam giữ và tra tấn người cải đạo, đồng ý với yêu cầu của Laplace. Giáo phận Công giáo Rôma Honolulu trở lại và Kamehameha III hiến đất cho họ để xây dựng một nhà thờ như một khoản đền bù.
Trong tháng 8 năm 1849, đô đốc Pháp Louis Tromelin đến bến cảng Honolulu với La Poursuivante và Gassendi. De Tromelin ra 10 lệnh cho vua Kamehameha III vào ngày 22 tháng 8, chủ yếu phải trao quyền tôn giáo đầy đủ cho những người Công giáo, (lệnh cấm Công giáo đã được dỡ bỏ, nhưng những người Công giáo vẫn chỉ được hưởng một phần quyền tự do tôn giáo). Vào ngày 25 tháng 8, yêu cầu đã không được đáp ứng. Sau khi một cảnh báo thứ hai được thực hiện đối với những nhân viên dân sự, quân Pháp đã thắng áp đảo trước lực lượng nòng cốt và chiếm pháo đài Honolulu, đánh bại các vị trí phòng thủ bằng súng ven biển và phá hủy tất cả các loại vũ khí khác mà họ đã tìm thấy (chủ yếu là súng trường và đạn dược). Họ đột kích vào tòa nhà chính phủ và tài sản ở Honolulu, gây ra thiệt hại 100.000 USD. Sau các cuộc tấn công lực lượng xâm lược rút về pháo đài. De Tromelin cuối kêu gọi quân mình rút lui và rời Hawaii vào ngày 5 tháng 9.
Đại Anh.
Vào ngày 10 tháng 2 năm 1843, huân tước George Paulet trên tàu chiến của Hải quân Hoàng gia "HMS Carysfort" đã vào cảng Honolulu và yêu cầu vua Kamehameha III nhượng lại quần đảo Hawaii cho Hoàng gia Anh. Dưới sự uy hiếp của các khẩu súng của tàu frigate, Kamehameha đã nhượng bộ trong phản đối. Kamehameha III đầu hàng Paulet ngày 25 tháng 2.
Gerrit P. Judd, một nhà truyền giáo đã trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính, bí mật phái các công sứ đến Hoa Kỳ, Pháp và Anh, để phản đối hành động của Paulet. Cuộc phản đối này đã được chuyển tiếp sang thiếu tướng hải quân Richard Darton Thomas, sĩ quan chỉ huy của Paulet, người đến bến cảng Honolulu ngày 26 tháng 7 năm 1843 trên chiếc tàu HMS Dublin. Thomas bác bỏ hành động Paulet, và vào ngày 31 Tháng 7 năm 1843, khôi phục Chính phủ Hawaii. Trong bài phát biểu khôi phục của mình, Kamehameha tuyên bố rằng "Ua mau ke ea o ka Aina i ka pono", phương châm của Nhà nước tương lai của Hawaii dịch là "Cuộc sống của vùng đất tồn trong sự công bình."
Dòng họ Kamehameha.
Triều đại cai trị bởi dòng họ Kamehameha kết thúc vào năm 1872 với cái chết của Kamehameha V. Sau thời gian cầm quyền ngắn ngủi của Lunalilo, nhà Kalakaua lên ngôi hoàng đế. Sự chuyển đổi này thông qua cuộc bầu cử của các ứng cử viên con nhà quý tộc. Công chúa Ka'iulani đã cố gắng rất vất vả để ngăn chặn đất nước mình trở thành một phần của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ.
Hiệp ước có đi có lại năm 1875 giữa Anh Hawaii và Hoa Kỳ cho phép miễn thuế nhập khẩu đường ăn Hawaii (từ mía) vào Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 1876. Điều này đẩy mạnh ngành trồng trọt mía đường trong các trang trại. Đổi lại, Hawaii nhượng lại miễn phí Trân Châu Cảng, bao gồm đảo Ford (Hawaii, Moku'ume'ume), cùng với bờ biển của nó cho bốn hoặc năm dặm trở lại cho Hoa Kỳ Hoa Kỳ yêu cầu khu vực này dựa trên một báo cáo 1873 thực hiện bởi Ngoại trưởng chiến tranh Mỹ.
Hiệp ước này rõ ràng thừa nhận Hawaii là một quốc gia có chủ quyền.
Mặc dù hiệp ước này cũng bao gồm miễn thuế nhập khẩu của gạo, vào thời gian này trở thành cây trồng chính ở các vùng đất thấp ẩm ướt trồng khoai môn bị bỏ hoang trong những hòn đảo, chính dòng người nhập cư từ châu Á (đầu tiên là người Trung Quốc, và sau đó là người Nhật Bản) đặt ra nhu cầu cho việc mở rộng trồng lúa. Yêu cầu lượng nước cao để trồng mía trong đã dẫn đến các dự án thủy lợi lớn rộng khắp trên tất cả các đảo lớn để chuyển hướng dòng suối từ sườn núi hứng gió ẩm ướt sang vùng đất thấp khô.
Trở thành lãnh thổ Hoa Kỳ.
Lãnh thổ.
Khi William McKinley thắng cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 1896, vấn đề sáp nhập Hawaii vào Hoa Kỳ được nổi lên lần nữa. Tổng thống tiền nhiệm, Grover Cleveland, là bạn của Nữ hoàng Liliuokalani. Ông phản đối việc phụ thuộc Hawaii vào Hoa Kỳ đến cuối nhiệm kỳ ông, nhưng rồi McKinley bị thuyết phục bởi những người theo chủ nghĩa bành trướng và những người muốn sáp nhập đến từ Hawaii. Ông tán thành cuộc gặp với một Ủy ban người ủng hộ việc sáp nhập đến từ Hawaii, có Lorrin Thurston, Francis Hatch, và William Kinney. Sau khi đàm phán với họ, vào tháng 6 năm 1897, ông McKinley ký hiệp ước sáp nhập với các đại biểu này của Cộng hòa Hawaii. Tổng thống sau đó gửi hiệp ước cho Quốc hội Hoa Kỳ để họ phê chuẩn.
Vụ sáp nhập Hawaii vào Hoa Kỳ bị nhiều người phản đối. Hui Aloha Aina và Hui Kalaiaina tổ chức hai vận động kiến nghị, một vận động lấy gần 22.000 tên ký phản đối sáp nhập, trong khi vận động kia lấy vào khoảng 17.000 tên xin phục hồi chế độ quân chủ. Chỉ có kiến nghị 22.000 tên phản đối sáp nhập được gửi cho chính phủ Hoa Kỳ, trong khi 17.000 tên kia chưa được tìm lại. Hồi đó Lorrin Thurston chỉ trích kiến nghị được gửi do điều tra của ông chỉ ra nhiều gian lận.
Dù những người đó phản đối ở quần đảo, Nghị quyết Newlands ("nghị quyết các vùng đất mới") được thông qua Hạ Nghị viện ngày 15 tháng 6 năm 1898 với kết quả 209 người thuận và 91 người chống, và được thông qua Thượng Nghị viện ngày 6 tháng 7 năm 1898 với kết quả 42–21, sáp nhập Hawaii thành lãnh thổ Hoa Kỳ chính thức, mặc dù những đại biểu phản đối trong Quốc hội. Tuy một số người nghi ngờ sự hợp pháp của vụ sáp nhập này vì nghị quyết được thông qua thay vì hiệp ước, hai viện Quốc hội ủng hộ đạo luật này với đa số hai phần ba, trong khi một hiệp ước chỉ cần hai phần ba của Thượng Nghị viện thuận (Điều II, Đoạn 2, Hiến pháp Hoa Kỳ).
Năm 1900, Hawaii được tự trị và giữ Lâu đài Iolani là trụ sở của thủ phủ lãnh thổ. Tuy có người thử dành cấp tiểu bang vài lần, Hawaii vẫn còn là lãnh thổ kéo dài 60 năm. Các người chủ đồn điền, như là nhóm được gọi Big Five, thấy cấp lãnh thổ rất tiện, để họ tiếp tục nhập khẩu nhân công rẻ từ ngoại quốc; chính phủ liên bang cấm nhập cư như vậy ở các tiểu bang kia.
Quyền của các người chủ đồn điền cuối cùng bị vỡ do những người hoạt động chính trị mà cháu của nhân công nhập cư đầu tiên. Do họ được sinh tại lãnh thổ nước Mỹ, họ tự động là công dân Hoa Kỳ. Mong được quyền bầu cử đầy đủ, họ vận động cho cấp tiểu bang tại quần đảo Hawaii.
Tiểu bang.
Tháng 3 năm 1959, hai viện Quốc hội thông qua Đạo luật Nhận, và Tổng thống Dwight D. Eisenhower tán thành nó. (Đạo luật này không kể đảo san hô Palmyra, ngày xưa là phần của Vương quốc và Lãnh thổ Hawaii, khi định nghĩa tiểu bang.) Ngày 27 tháng 6 năm đó, lãnh thổ này tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để dân Hawaii biểu quyết về đạo luật đưa cấp tiểu bang. Hawaii chấp nhận nó với kết quả mỗi người chống có 17 người thuận. Ngày 21 tháng 8, các nhà thờ khắp thành phố Honolulu kêu chuông khi Hawaii được tuyên bố là tiểu bang thứ 50 của Liên bang.
Sau khi giành được cấp tiểu bang, Hawaii nhanh chóng trở thành tiểu bang hiện đại, ngành xây dựng và nền kinh tế mở mang rất nhanh. Đảng Cộng hòa Hawaii bị loại ra khỏi chính phủ trong cuộc bầu cử, đảng Cộng hòa là đảng được ủng hộ rất mạnh bởi các người chủ đồn điền. Thay cho đảng này, Đảng Dân chủ Hawaii thống trị nền chính trị tiểu bang kéo dài 40 năm. Tiểu bang này cũng cố gắng xây lại văn hóa của thổ dân Hawaii. Hội nghị Hiến pháp Tiểu bang Hawaii năm 1978 dẫn đến thời kì mà có người gọi là "phục hưng Hawaii". Các đại biểu của tiểu bang tạo ra những chương trình mang lại ngôn ngữ và văn hóa của thổ dân Hawaii. Ngoài ra, họ cố gắng ủng hộ quyền lực thổ dân về vấn đề tiểu bang bằng cách thành lập Văn phòng Công việc Hawaii ("Office of Hawaiian Affairs"). | 1 | null |
Sở Hùng Thắng (chữ Hán: 楚熊勝, trị vì 970 TCN-946 TCN), là vị vua thứ bảy của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Sở Hùng Đán, vua thứ sáu của nước Sở. Năm 970 TCN, Hùng Đán mất, Hùng Thắng nối ngôi.
Sử ký không ghi rõ hành trạng của ông trong thời gian làm vua.
Năm 946 TCN, Hùng Thắng mất. Em ông là Sở Hùng Dương nối ngôi. | 1 | null |
Sở Hùng Dương (chữ Hán: 熊楊, trị vì 946 TCN-887 TCN), là vị vua thứ tám của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Sở Hùng Đán, vua thứ sáu của nước Sở, và là em út của Sở Hùng Thắng, vua thứ 7 của nước Sở. Năm 947 TCN, Sở Hùng Thắng mất, Hùng Dương nối ngôi.
Sử ký không ghi rõ hành trạng của ông trong thời gian làm vua.
Năm 887 TCN, Hùng Dương mất. Con là Sở Hùng Cừ nối ngôi.
Tham khảo.
Sử ký Tư Mã Thiên, thiên "Sở thế gia" | 1 | null |
Sở Hùng Cừ (chữ Hán: 熊渠, trị vì 887 TCN-877 TCN), là vị vua thứ chín của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Sở Hùng Dương, vua thứ 8 của nước Sở. Năm 887 TCN, Hùng Dương qua đời, Hùng Cừ lên nối ngôi.
Thời Sở Hùng Cừ tương đương với Chu Di vương, nhà Chu bắt đầu suy yếu, chư hầu không vào triều kiến, đánh lẫn nhau. Hùng Cừ ổn định dân cư vùng Giang Hán rồi mang quân đánh sang các vùng lân cận, mở mang đất đai ra Dương Việt đến đất Ngạc. Ông xưng vương và phong cho người con trưởng là Hùng Vô Khang làm Câu Nghi Vương, người con thứ là Hùng Chí Hồng làm Ngạc Vương và người con út là Hùng Chấp Tỳ là Việt Chương Vương. Nước Sở khống chế thượng du sông Trường Giang.
Bấy giờ Chu Công có câu nói: "Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng" tức quân Nhung Địch phải dẹp yên, quân Kinh Thư - tức quân nước Sở - phải trừng phạt" là ý muốn dẹp nước Sở trong giai đoạn này.
Năm 878 TCN, Chu Lệ vương lên ngôi, là người hung bạo. Hùng Cừ sợ Chu Lệ vương đánh Sở nên từ bỏ tước vương.
Năm 877 TCN, Sở Hùng Cừ mất. Ông làm vua được 10 năm. Do con trưởng Hùng Vô Khang mất sớm nên con thứ là Hùng Chí Hồng lên nối ngôi. | 1 | null |
Đồng bằng duyên hải, còn gọi là đồng bằng ven biển là một vùng đất trải rộng, thấp với một bên là biển và bên còn lại là địa hình cao trong nội địa. Thực thế là tỉnh địa chất của đồng bằng ven biển kéo dài vượt khỏi đường bờ biển ra đến thềm lục địa.
Các đồng bằng ven biển hình thành theo hai cách chính. Cách thứ nhất là khi mực nước biển hạ xuống khiến thềm lục địa trước đó chìm dưới nước thì nay nổi lên và trở thành đồng bằng ven biển. Cách còn lại là khi các con sông mang đất, đá và các trầm tích ra đại dương, dần dần bồi đắp và tạo nên đồng bằng ven biển.
Mặc dù các lục địa đều có đồng bằng ven biển nhưng một số thì hẹp và bị chia cắt trong khi số khác thì rộng lớn và liên tục. Đồng bằng ven biển biến đổi theo thời gian do có các con sông để lại trầm tích ở nơi nước nông của thềm lục địa. | 1 | null |
William Charles Cadman (4 tháng 4 năm 1883 - 7 tháng 12 năm 1948) là nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. Ông được cử đến Quảng Đông, Trung Quốc, rồi sang truyền bá phúc âm tại Việt Nam từ năm 1914 cho đến khi qua đời năm 1948. Ông được an táng tại Đà Lạt. Cadman là nhân tố chính trong nỗ lực hoàn thành bản dịch Kinh Thánh Tin Lành tiếng Việt đầu tiên được ấn hành năm 1926.
Thiếu thời.
William Charles Cadman chào đời ngày 4 tháng 4 năm 1883 tại Rotherhithe, ngoại ô Luân Đôn, Anh Quốc, trong một gia đình ngoại đạo. Lớn lên trong bối cảnh xã hội Anh đang chuyển mình mạnh mẽ bởi sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, cậu theo nghề in ấn để mưu sinh. Tuy nhiên, Cadman tiếp nhận đức tin Cơ Đốc năm 1904, và quyết định sang Canada để theo học tại một trường Kinh Thánh ở Toronto, rồi Viện Đào tạo Truyền giáo ở Nyack, New York, Hoa Kỳ, để chuẩn bị cho mục vụ.
Truyền giáo.
Tháng 9 năm 1910, Cadman đến Trung Quốc để cộng tác với Mục sư R. A. Jaffray trong nỗ lực giới thiệu thông điệp phúc âm cho người Trung Hoa. Mùa xuân năm 1911, R. A. Jaffray, Paul M. Hosler, và G. Lloyd Huglers được cử đến cảng Tourane (nay là Đà Nẵng) như là những nhà truyền giáo đầu tiên của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp nhằm khơi mở công cuộc truyền bá phúc âm trên đất nước Việt Nam.
Năm 1914, Cadman cũng đến Việt Nam. Tại đây, ông gặp cô Grace Hazenberg, nhà truyền giáo người Mỹ đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1913. William kết hôn với Grace năm 1915.
Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914, các nhà truyền giáo bị chính quyền Pháp buộc phải rời khỏi Việt Nam. Năm 1917, Cadman và vợ trở lại Việt Nam và đến Hà Nội, khởi sự xây dựng nhà thờ, trong năm sau, họ thành lập Nhà in Tin Lành. Từ những đóng góp đầy nhiệt tâm của ông bà Cadman mà Nhà thờ Hà Nội lúc ấy được xem là một giáo đoàn vững mạnh, trở thành nhân tố tích cực trong nỗ lực truyền bá phúc âm và thành lập những cơ sở Tin Lành khác tại các địa phương ở miền Bắc.
Năm 1922, Agnes, con gái sáu tuổi và là người con duy nhất của ông bà, mắc bệnh và qua đời, được chôn cất tại Hà Nội.
Bản Kinh Thánh Việt ngữ năm 1926.
Từ năm 1914, Cadman và vợ - bà đã được đào tạo chuyên ngành tiếng Hi Lạp và tiếng Hebrew - khởi xướng công cuộc dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Sau một thời gian gián đoạn, đến năm 1919, Cadman đảm nhận chức trách lãnh đạo nhóm dịch thuật Kinh Thánh gồm có: Bà Cadman, John Drange Olsen, Trần Văn Dõng, Nguyễn Hữu Phúc, và nhà văn Phan Khôi. Năm 1926, bản Kinh Thánh Tin Lành Việt ngữ đầu tiên được xuất bản và phát hành rộng rãi tại Việt Nam.
Những hoạt động khác.
Tháng 3 năm 1931, Cadman sáng lập Nguyệt san Thánh Kinh, cơ quan thông tin và xây dựng tâm linh cho hội thánh. Ấn phẩm này đã góp phần gây dựng đời sống thuộc linh cho tín hữu trên toàn quốc. Ngoài ra, ông còn tích cực soạn dịch Thánh ca, truyền đạo đơn, bài học Trường Chúa Nhật, tài liệu để sử dụng trong gia đình lễ bái bằng tiếng Việt, tiếng Khmer, tiếng Lào, và những thứ tiếng của các sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên.
Cadman dành nhiều thời gian và công sức để biên soạn bộ "Thánh Kinh Từ điển", ngay cả trong thời gian ông bị người Nhật quản thúc, cùng vợ ông và các nhà truyền giáo người Mỹ khác, tại Mỹ Tho trong khi Chiến tranh thế giới thứ hai đang tiếp diễn. Khởi soạn từ năm 1940, đến năm 1951 được in ronéo, rồi in typo và phát hành tại Đà Lạt vào năm 1958, quyển Thánh Kinh Từ điển trở thành một phương tiện hữu ích cho nhiều người khi tra cứu Kinh Thánh.
Năm 1945, kết thúc cuộc đại chiến, quân đội Nhật Bản đầu hàng; các nhà truyền giáo được đưa lên Sài Gòn để trở về Hoa Kỳ, ngoại trừ ông bà Cadman, ông bà E. F. Irwin, và D. I. Jeffrey. Tuy nhiên, đến tháng 11 năm 1945, chỉ còn gia đình Cadman ở lại Việt Nam. Ông nói, "Các anh em trong Chúa ở đây đang gặp hiểm nguy, chúng ta không thể bỏ họ đơn côi, chúng tôi quyết định ở lại với họ."
Trong thời gian bị quản thúc ở Mỹ Tho, Grace Cadman bị tai biến mạch máu não, sức khỏe suy yếu dần, và từ trần ngày 26 tháng 4 năm 1946. Bà được an táng tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn.
Đêm 19 tháng 12 năm 1946, trong khi đa số cư dân Hà Nội phải tản cư khỏi thành phố thì có 37 người kể cả trẻ em trú ẩn trong khuôn viên nhà thờ. Khi lính Pháp đến, Mục sư Cadman - trước đó ông từ Sài Gòn ra Hà Nội "để chia sẻ những nỗi đau khổ và hiểm nghèo giữa vòng anh em tôi trong Đấng Christ." - nói với viên đội Pháp, "Họ là tín đồ Đấng Christ, tôi bảo đảm mạng sống của những tín hữu này, xin cho tôi gặp chỉ huy của anh." Hôm sau, Cadman gặp viên đại tá người Pháp và yêu cầu rút binh lính ra khỏi nhà thờ.
Năm 1947, trong dịp nghỉ phép tại Hoa Kỳ, Cadman vận động tài chính để mua một máy in mới từ Anh. Ngày 26 tháng 4 năm 1948, ông tái hôn với Anna G. Kegerize. Lẽ ra ông có thể nghỉ ngơi sau hơn 30 năm phục vụ ở hải ngoại, nhưng chỉ hai tháng sau, ông bà trở lại Việt Nam cho nhiệm kỳ thứ sáu của ông. Họ lên Đà Lạt, bắt tay tu sửa, tân trang nhà in, và chuẩn bị di chuyển nhà in từ Hà Nội về đây.
Ông cũng dành thời gian để hiệu đính quyển Thánh Kinh Từ điển. Trong bối cảnh đất nước đang nỗ lực phục hồi sau chiến tranh, Cadman nói, "Tôi cảm nhận sự thúc giục trong việc truyền bá sự cứu rỗi cho những linh hồn hư mất… Vì vậy chúng tôi cố gắng mở lại cơ sở ấn loát Tin Lành... Chúa Giê-xu sẽ trở lại, Ngài sẽ trở lại nay mai. Khi đó chúng ta sẽ đối mặt với Ngài, và sẽ nhận được phần thưởng vì đã trung tín hầu việc Ngài... Khi ẩn trú nơi Ngài, chúng ta có được sự bình yên".
Sau một cơn đau tim trong tháng 11 năm 1948, đến ngày 7 tháng 12 năm 1948, Cadman từ trần tại Đà Lạt. Ông được an táng trong một nghĩa trang ở thành phố này.
Sau nhiều năm bị vùi lấp, đến năm 1999, mộ phần của Cadman đã được tìm thấy lại, trên bia mộ vẫn còn dòng chữ khắc: "Người trung tín cho đến chết".
Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã cải táng mộ phần của ông bà Cadman về Nghĩa trang Tin Lành Ân Từ Viên tại Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương.
Di sản.
Sau khi đặt chân đến Việt Nam, Cadman hội nhập tốt với nếp sống của người Việt, và có tình cảm gắn bó với các mục sư và tín hữu ở đây. Với nếp sống đạm bạc, Cadman và vợ dong ruỗi đến những thôn làng hẻo lánh ở miền Bắc, vào Hội An, Huế, ra Hà Nội để rao truyền thông điệp phúc âm. Ông luôn tìm cách bảo vệ các mục sư người Việt khi cùng họ tiếp xúc với chính quyền Pháp.
Bản Kinh Thánh Việt ngữ 1926 – Cadman và vợ là nhân tố đóng góp quan trọng trong công trình dịch thuật này – thủ giữ vị trí then chốt trong tiến trình phát triển cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam. Cho đến ngày nay, bản Kinh Thánh này vẫn là ấn bản được yêu thích nhất; đối với nhiều người, không có bản dịch nào khác có thể thay thế được.
Ngoài ra, cơ sở ấn loát do Cadman và vợ thành lập đặc biệt hữu ích trong nỗ lực phổ biến các tác phẩm Cơ Đốc cho mục tiêu truyền bá phúc âm, tu dưỡng tâm linh, và nâng cao kiến thức tôn giáo cho hội thánh Tin Lành còn non trẻ ở Việt Nam.
Cadman còn viết di chúc hiến tặng toàn bộ tài sản để xây dựng Cô nhi viện Tin Lành trên khu đất rộng 18 mẫu Anh ở Hòn Chồng, Nha Trang. Với sự hỗ trợ của Hội Bảo trợ Nhi đồng Quốc tế, cơ sở này khánh thành ngày 4 tháng 9 năm 1953. | 1 | null |
Trong tôn giáo La Mã cổ đại, Ceres (/ sɪəri ː z /, Latin: Ceres) là một nữ thần nông nghiệp, sinh sản và tình mẫu tử. Bà ban đầu là vị thần trung tâm ở Roma được gọi là người bình dân hoặc Aventine Triad, sau đó là kết hợp với Proserpina con gái trong điều mà người La Mã mô tả là "các nghi thức Hy Lạp của Ceres". Lễ hội bả ngày Cerealia dành cho bà bao gồm Ludi Ceriales phổ biến (trò chơi của Ceres). Bà cũng được vinh danh trong lễ tẩy uế cánh đồng tháng năm tại lễ hội Ambarvalia, thời gian thu hoạch, và trong suốt cuộc hôn nhân và tang lễ La Mã.
Ceres là người duy nhất của nhiều vị thần nông nghiệp La Mã được liệt kê trong số Di Consentes, các vị thần tương đương của La Mã so với Nhóm Mười vị thần Olympia của thần thoại Hy Lạp. Ceres tương đương với nữ thần Hy Lạp Demeter, có thần thoại đã được diễn giải lại cho Ceres trong nghệ thuật và văn học La Mã. | 1 | null |
Assassination Games (tựa tiếng Việt: Trò chơi sát thủ) là một bộ phim hành động, võ thuật của Mỹ, làm vào năm 2011, phim được bấm máy ở România và đạo diễn là Ernie Barbarash. Diễn viên chính trong phim là hai nam Diễn viên võ thuật lừng danh Jean-Claude Van Damme và Scott Adkins.
Nội dung phim.
Vincent Brazil là một tên sát thủ cừ khôi máu lạnh, hắn luôn sẵn sàng giết bất cứ mục tiêu nào nếu như người thuê hắn ra giá tiền vừa ý hắn. Một hôm nọ hắn được thuê để giết một tên trùm buôn thuốc phiện tên là Polo Yakur, nhưng điều trùng hợp là tên đó cũng là mục tiêu của Roland Flint - người đàn ông có vợ bị Polo cưỡng hiếp đến hôn mê, tình trạng cô ta bị sống dỡ chết dỡ. Thế là cả Vincent và Roland đều có cùng một mục tiêu cần phải khử, một người làm vì tiền và một người làm vì trả thù, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng muốn chính tay mình giết chết Polo. Sau này cả Vincent và Roland đều nhận ra là cả hai đang bị cảnh sát lẫn cả tay sai của Polo truy lùng gắt gao nên họ phải nhanh chóng hợp tác với nhau giết chết Polo trước khi cả hai đều bị thủ tiêu. | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.