text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Sở Tiêu Ngao (chữ Hán: 霄敖,810 TCN-758 TCN), tên thật là Hùng Khảm (熊坎) hay Mị Khảm (羋坎),còn được gọi là Sở Tiêu vương hoặc Sở vương Khảm là vị vua thứ 18 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Nhược Ngao, vua thứ 17 của nước Sở. Năm 763 TCN, Nhược Ngao chết, ông lên nối ngôi.
Sử sách không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Sở trong thời gian ông làm vua.
Năm 758 TCN, Tiêu Ngao mất. Ông làm vua được 6 năm.Hậu thế táng ông tại đất Tiêu,cho nên xưng Tiêu Ngao.Con ông là Hùng Thuận nối ngôi, tức là Sở Lệ vương. | 1 | null |
Cuộc vây hãm Marsal là một trận vây hãm trong chiến dịch chống Pháp của quân đội Đức vào các năm 1870 – 1871, đã diễn ra từ ngày 13 cho đến ngày 14 tháng 8 năm 1870 , tại pháo đài cổ Marsal của Pháp. Dưới quyền chỉ huy của "Thượng tướng Bộ binh" Jakob von Hartmann, Quân đoàn II của Vương quốc Bayern sau khi thế chân cho Sư đoàn Kỵ binh số 4 của Phổ đã buộc lực lượng trú phòng của Đế chế Pháp phải đầu hàng, sau một cuộc kháng cự ngắn ngủi của quân đội Pháp đồn trú tại pháo đài này. Marsal đã thất thủ về tay quân đội Đức trong cùng một giai đoạn với sự thất thủ của các pháo đài Lichtenberg, La Petite-Pierre và Vitry của Pháp. Với thắng lợi nhanh chóng của quân đội xứ Bayern tại Marsal, con đường từ Dieuze tới Nancy đã rộng mở đối với người Đức. Ngoài ra, cuộc vây hãm cũng đem lại cho quân Đức không ít nguyên liệu phục vụ cho chiến tranh, cũng với hàng trăm tù binh (kể cả một số sĩ quan của quân đội Pháp).
Đêm ngày 14 tháng 8 năm 1870, Sư đoàn số 4 của Bayern dưới sự chỉ huy của Trung tướng Friedrich von Bothmer đã khởi sự cuộc hành quân của mình đến La Petite-Pierre. Trên đường tiến đến các cao điểm Mecleuves, họ được lệnh hành binh qua pháo đài Marsal đến Luneville. Trước đó, vào ngày 13 tháng 8, lực lượng kỵ binh Phổ đã đến Marsal, nhưng không thể buộc pháo đài đầu hàng và không chiếm nổi Marsal. Trước tình hình đó, các lực lượng thuộc Quân đoàn II của Bayern (trong đó có các lực lượng pháo binh trừ bị) – một phần của Binh đoàn thứ ba của Đức do Thái tử Phổ là Friedrich Wilhelm điều khiển – đã thay thế cho quân kỵ binh Phổ nhằm tiến hành phong tỏa Marsal. Vào ngày 14 tháng 8, một chi đội của Đức đã đến Marsal. Dưới quyền chỉ huy của Von Bothmer, quân đội Bayern đã khai pháo, và thỏa thuận đã diễn ra giữa người Đức với đội quân trú phòng của Pháp. Trong tiến trình ấy, cuộc pháo kích ngắn ngủi của người Đức đã hủy hoại một kho đạn pháo của Pháp. Lực lượng bộ binh Đức cũng tiến công và làm chủ được một số công sự. Cuộc công pháo của quân đội Đức đã ảnh hưởng đến kết cuộc của thỏa thuận giữa người Đức và Pháp: cuộc phòng thủ của quân Pháp tại Marsal đã kết thúc với việc người trấn thủ của pháo đài phải đầu hàng quân Đức.
Trong chiến dịch năm 1870 – 1871, Marsal, cùng với Lichtenberg, là hai pháo đài của Pháp đã thất thủ về tay quân đội Đức chỉ sau một cuộc dội pháo. Lực lượng trú phòng của pháo đài Marsal được ghi nhận là đã nã duy nhất một phát pháo khi pháo đài bị quân Bayern bao vây. | 1 | null |
Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan () là một tổ chức yêu nước chống phát xít Đức của Ba Lan được thành lập vào ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở Chełm. Nó hoạt động như một chính phủ lâm thời tại những vùng lãnh thổ Ba Lan được quân đội Liên Xô giải phóng trong chuỗi chiến dịch hè-thu năm 1944 và là một đối trọng chính trị với Chính phủ lưu vong Cộng hòa Ba Lan tại Luân Đôn.
Thành lập.
Ý tưởng về một Ủy ban Giải phóng Dân tộc đại diện cho dân tộc Ba Lan bắt nguồn từ Ủy ban Giải phóng Dân tộc Pháp thành lập vào tháng 6 năm 1943. Đến giữa năm 1944, trước các biến chuyển mau lẹ về quân sự và chính trị tại Byelorussia và Ba Lan, Moskva nhận thấy đã đến lúc thành lập một tổ chức chính trị tương tự đại diện cho dân tộc Ba Lan. Quyết định thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan được soạn thảo trong cuộc họp từ ngày 18 đến 20 tháng 7 và được chính I. V. Stalin thông qua.
Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan được thành lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1944 tại thành phố Chełm ở gần vùng biên giới Đông Nam Ba Lan. Thành phần Ủy ban bao gồm các thành viên thuộc các đảng phái như Đảng Công nhân Ba Lan, Đảng Xã hội Ba Lan, Đảng Dân chủ Ba Lan và Đảng Nhân dân Ba Lan, cụ thể bao gồm các thành viên sau:
Người đứng đầu Ủy ban là Edward Osubka-Morawski. Ủy ban cũng nhận được sự ủng hộ của một số thành viên thuộc chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn như giáo sư S. Grabski và tướng L. Zeligowski.
Hoạt động.
Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan hoạt động với tư cách như là một chính phủ lâm thời tại các vùng lãnh thổ Ba Lan được quân đội Liên Xô giải phóng trong chuỗi hoạt động quân sự hè-thu năm 1944. Nó nhận được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của Liên Xô và cũng là một đồng minh của quốc gia này, trở thành đối trọng chính trị của Chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn. Hoạt động đầu tiên của Ủy ban là công bố Tuyên ngôn của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan () - hay còn gọi là Tuyên ngôn tháng Bảy ("Manifest Lipcowy") - vào ngày 21 tháng 7 năm 1944, với nội dung bao hàm một chương trình xây dựng một nước Ba Lan dân chủ, độc lập, vững mạnh cũng như tuyên bố sẽ tiếp tục cuộc chiến chống lại quân xâm lược Đức. Để tranh thủ sự ủng hộ của tất cả các lực lượng yêu nước thuộc nhiều đảng phái khác nhau, phiên bản thứ hai của bản tuyên ngôn đã chú ý không đề cập đến những phần nội dung có hàm ý đề cập đến lập trường cực tả hay chủ nghĩa cộng sản. Ngày 1 tháng 8 năm 1944, Ủy ban dời về đóng trụ sở tại thành phố Lyublin, vì vậy nó còn có tên gọi là "Ủy ban Lyublin".
Cơ quan hành chính địa phương - các Hội đồng Nhân dân - đã được thành lập trong thời gian này. Hệ thống hành chính tại các vùng giải phóng, bao gồm 8 tỉnh, 100 thị xã và 300 địa phương cấp xã (gmina) cũng đã hình thành. Ngày 26 tháng 7, chính phủ Liên Xô và Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ký hiệp định công nhận thẩm quyền của Ủy ban tại các vùng giải phóng của Ba Lan.
Hệ thống pháp luật cũng được ban hành tại các vùng giải phóng, trong đó có các điều luật nghiêm khắc nhằm trừng phạt những phần tử chống lại chính quyền nhân dân (tháng 10 năm 1944) hoặc trừng phạt các phần tử hợp tác với chế độ phát xít Đức (tháng 8 năm 1944). Ngoài ra, Ủy ban Giải phóng dân tộc Ba Lan còn cho phép áp dụng chế độ quân luật tại các vùng vừa được Hồng quân Liên Xô giải phóng. Theo luật này các nhân viên của Bộ Công an (MOB) có quyền bắt giữ những binh sĩ của quân đội Krajowa.
Ngày 15 tháng 8 năm 1944, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ban hành lệnh tổng động viên, áp dụng đối với các thanh niên sinh năm 1921-24 cũng như bất cứ cựu sĩ quan, quân nhân nào có khả năng trong việc phục vụ tại quân ngũ. Trong vòng vài tháng, Ủy ban đã tuyển mộ được vài vạn binh sĩ trong cộng đồng người Ba Lan sống ở Liên Xô và khoảng 100.000 người tại các lãnh thổ Ba Lan được giải phóng.
Ngày 6 tháng 9, Ủy ban ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất và tiến hành áp dụng tại một số địa phương. Trong cuộc cải cách, 260 hécta đất đã được cấp phát cho người dân nghèo, trong đó 47% người được cấp phát là cố nông, 49% là bần và trung nông, 4% là nghệ sĩ và các nhóm dân cư khác. Cải cách ruộng đất đã khiến Ủy ban giành được sự ủng hộ của nông dân nghèo.
Các hoạt động của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan đã gặp phải sự chống phá của một số thành phần chống đối theo nhiều hình thức như phá hoại, ám sát, khủng bố... Chỉ trong năm 1944, các lực lượng chống đối đã giết hại 300 người và trong năm 1945 là gần 3.500 người.
Thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa Ba Lan.
Tháng 10 năm 1944, các thành viên của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan đã bắt đầu có các cuộc tiếp xúc với Chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn để đàm phán về việc thành lập một chính phủ lâm thời thống nhất. Đến cuối năm, một số thành viên của chính phủ lưu vong như Stanisław Mikołajczyk đã chấp nhận tham gia Ủy ban Giải phóng. Ngày 31 tháng 12 năm 1944, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ban hành sắc lệnh chuyển đổi cơ quan này thành Chính phủ lâm thời Cộng hòa Ba Lan. | 1 | null |
BoBoiBoy là một loạt phim hoạt hình Malaysia sản xuất bởi Animonsta Studios, xoay quanh một cậu bé có siêu cường và có thể để tách thành ba. Với bạn bè, Ying, Yaya và Gopal, họ chiến đấu để bảo vệ Trái Đất khỏi các mối đe dọa từ người ngoài hành tinh xâm lược Trái Đất để săn lùng đối với hạt ca cao.
= Mùa 1 =
BoBoiBoy loạt công bố trong HDTV. Mùa đầu tiên của BoBoiBoy được phát sóng vào ngày Chủ nhật, 19:00 tối. Tập phim bắt đầu khi nhân vật chính, BoBoiBoy đến Tok Aba (ông nội của BoBoiBoy) ở đảo Rintis trong kỳ nghỉ học. Đồng thời, Adu Du, một người từ hành tinh của Atata Tiga đến Trái Đất, tìm kiếm các nguồn năng lượng. Hắn phát hiện ra rằng có một năng lượng mạnh mẽ - ca cao, đã tuyệt chủng trên hành tinh của mình cách đây 30.000 năm. Adu Du muốn chinh phục tất cả các ca cao cho chính mình, để hắn ta có thể là một anh hùng đối với hành tinh của mình. Để đảm bảo kế hoạch của mình thành công, Adu Du đã nhận sự giúp đỡ từ Quả cầu năng lượng hoặc Ball of Power (Ochobot). Tuy nhiên, Ochobot cho BoBoiBoy và bạn bè mới của cậu ta, Ying, Yaya và Gopal sức mạnh.
Đối với mùa đầu tiên có 13 khe với mỗi khe cắm bao gồm hai tập. Điều này làm cho tổng số 26 tập tất cả cùng nhau. Mỗi tập phim cuối cùng trong 11 phút. Do phổ biến của phim hoạt hình này, Animonsta Studios đã đồng ý để tập thêm không khí có tên là "Extended Finale Episode" vào ngày 01 Tháng 1 năm 2012 | 1 | null |
Xenoceratops là một chi khủng long có sừng trong họ ceratosidae đã tuyệt chủng được biết đến từ cuối Cretaceous (giữa Campania) phát hiện ở phía nam tỉnh Alberta, Canada. Chi này có một loài được biết đến, Xenoceratops foremostensis. Các mảnh xương đầu và sừng hóa thạch được phát hiện trong hệ tầng Foremost có tuổi 78 tiệu năm.
Hóa thạch được phát hiện được xác định là của loài khủng long có sừng Xenoceratops, dài hơn 6 mét, có mỏ giống mỏ vẹt, hai sừng dài, gai mọc trên lưng và nặng hơn hai tấn.
Loài khủng long này ăn cỏ. Loài này được đặt danh pháp khoa học là "Xenoceratops foremostensis", theo tiếng Latinh có nghĩa là "quái thú có sừng xứ Foremost", tức một thị trấn nhỏ ở Canada, nơi một số xương hóa thạch được tìm thấy vào năm 1958. | 1 | null |
Khu vực khai thác ngọc trai ở Bahrain hay Đường mòn ngọc trai Bahrain là một di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2012. Di sản bao gồm pháo đài Qal'at Bu Mahir ở mũi phía nam của Muharraq, 3 khu vực khai thác ngọc trai ở vùng biển phía Bắc Bahrain và 17 tòa nhà trong thành phố Muharraq được kết nối với nhau bằng một con đường du lịch dài 3,5 km. Khu vực được công nhận là Di sản thế giới từ năm 2012 và là di sản thứ hai được công nhận tại Bahrain sau Qal'at al-Bahrain. Mặc dù địa điểm này được công nhận với tên gọi là "Ngọc trai, Chứng nhận của một nền kinh tế đảo" nhưng các phương tiện truyền thông quốc tế vẫn gọi nó là "Đường mòn ngọc trai Bahrain".
Lịch sử.
Lặn khai thác ngọc trai ở Bahrain lần đầu tiên được đề cập trong các bản văn của người Assyria có từ năm 2000 TCN, đề cập đến " mắt cá " của Dilmun. Bahrain được biết đến trong quá khứ là Tylos được Pliny đề cập đến nhờ số lượng ngọc trai lớn. Thời kỳ vàng son được cho là từ những năm 1850 đến 1930, khi ngọc trai quý hơn kim cương và đã thu hút các nhà kim hoàn chẳng hạn như Jacques Cartier đến đây. Đã có khoảng 30.000 thợ lặn ngọc trai vào cuối năm 1930, khiến nó là ngành công nghiệp chính ở Bahrain, trước khi dầu mỏ phát hiện ra vào năm 1932. Sau sự sụp đổ của ngành công nghiệp ngọc trai, hầu hết các thợ lặn chuyển sang lĩnh vực dầu mỏ mới thành lập. Hiện nay, việc buôn bán ngọc trai nuôi ở Bahrain bị cấm, và ngày nay chỉ còn rất ít thợ lặn ngọc trai.
Khu vực là ví dụ hoàn chỉnh còn lại cuối cùng về truyền thống văn hóa khai thác ngọc trai và sự giàu có mà nó tạo ra vào thời điểm giao thương thống trị nền kinh tế vùng Vịnh (thế kỷ 2 đến những năm 1930 khi Nhật Bản phát triển ngọc trai nuôi cấy). Nó cũng tạo thành một ví dụ nổi bật về việc sử dụng truyền thống tài nguyên biển và tương tác của con người với môi trường, hình thành cả nền kinh tế và bản sắc văn hóa xã hội của hòn đảo.
Năm 2012, UNESCO đã công nhận di sản khu vực khai thác ngọc trai bao gồm: | 1 | null |
North American Aviation T-6 Texan là một loại máy bay huấn luyện nâng cao của Hoa Kỳ. Nó được trang bị cho Không quân Lục quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ, Không quân Hoàng gia và các lực lượng không quân thuộc khối thịnh vượng Anh trong Chiến tranh thế giới II và trong thập niên 1950. | 1 | null |
Việt Nam Quang Phục quân (chữ Hán: 越南光復軍), hay Quang Phục quân (chữ Hán: 光復軍), là tên gọi lực lượng vũ trang của Việt Nam Quang Phục Hội hoạt động từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1940.
Lịch sử.
Việt Nam Quang Phục quân được thành lập sau vụ ném tạc đạn khủng bố vào năm 1913, những hoạt động chủ yếu diễn ra ở khu vực biên giới Việt-Hoa. Quang Phục quân có sách nội quy với tên "Quang Phục quân Phương lược" hơn 100 trang do Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu soạn.
Đánh đồn Tà Lùng.
Việt Nam Quang Phục quân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thượng Hiền. Tháng Ba năm 1915, Quang Phục Hội lại mở cuộc tấn công đồn Tà Lùng ở Cao Bằng nhưng thất bại.
Phá ngục Lao Bảo.
Ngày 28 tháng 9 năm 1915, tù nhân Lao Bảo, chủ yếu là các thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội, Duy tân Hội... do Liêu Thanh và Hồ Bá Kiện chỉ huy đã nổi dậy. Tù nhân khoảng 200 người giết lính canh, phá gông cùm, cướp vũ khí, rồi rút chạy và tan rã.
Mưu khởi nghĩa ở Trung Kỳ.
Năm 1916 các ông Trần Cao Vân & Thái Phiên toan khởi nghĩa ở Huế và Quảng Nam sau khi liên lạc được với Duy Tân hầu đưa nhà vua ra quân khu dựng cờ chống Pháp nhưng việc vỡ lở. Vua Duy Tân bị đày sang Réunion. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phạm Hồng Cương, Phan Thành Tài đều bị hành quyết.( vụ mưu khởi nghĩa ở Huế )
Binh biến Thái Nguyên.
Lương Ngọc Quyến, Quân vụ Ủy viên của Hội khi bị giam ở Thái Nguyên, vận động được một số cai đội của trại lính khố xanh người Việt nổi dậy, chống lại sĩ quan người Pháp rồi truyền hịch kêu gọi hưởng ứng. Trịnh Văn Cấn cầm đầu cuộc khởi nghĩa nhưng chỉ được năm ngày thì chính quyền Bảo hộ đem quân phản công, dẹp tan. Tuy thất bại, cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên cho thấy trong một đêm quân đội Pháp có thể bị đánh bại nếu cách tổ chức được giữ kín và có quy củ.
Rã ngũ.
Sau khi Phan Bội Châu bị chính quyền thực dân Pháp bắt vào năm 1925, tổ chức Hội tan vỡ, Quang Phục quân vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng không gây được tiếng vang nào. Đến năm 1940 thì chấm dứt hoạt động sau những cuộc trấn áp cương quyết của chính quyền bảo hộ. | 1 | null |
Thiên Ninh công chúa (chữ Hán: 天寕公主, không rõ năm sinh năm mất), còn gọi Quốc Hinh công chúa (國馨公主), là một công chúa nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Bà nổi tiếng với việc khuyên Trần Nghệ Tông dấy binh thảo phạt Đại Định Đế Dương Nhật Lễ, giúp trung hưng nhà Trần.
Thân thế.
Thiên Ninh công chúa tên thật là Ngọc Tha (玉瑳), hoặc Bạch Tha (白瑳), là con gái của Trần Minh Tông Trần Mạnh và Hiến Từ Tuyên Thánh hoàng hậu Trần thị, con gái Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn. Bà là chị em ruột với Trần Dụ Tông Trần Hạo, Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (陳元昱) và là cô mẫu (trên danh nghĩa) của Đại Định Đế Dương Nhật Lễ. Do là con gái của đích hoàng hậu, bà là Đích nữ (嫡女) của Minh Tông, thân phận tôn quý.
Tháng 4 (âm lịch) năm Nhâm Ngọ (1342), Ngọc Tha được Trần Dụ Tông phong làm Thiên Ninh công chúa, rồi gả cho Chính Túc vương Trần Kham (正肃王陈堪; có sách chép phong hiệu là Hưng Túc; 興肃).
Thông dâm với em ruột.
Năm Tân Mão (1351), bà đồng ý thông dâm với người em trai là Trần Dụ Tông (khi đó Dụ Tông 15 tuổi) để Dụ Tông trị bệnh liệt dương theo phương thuốc của thầy thuốc Trâu Canh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (quyển 7, kỷ nhà Trần) chép:
Lật đổ Dương Nhật Lễ.
Cuối năm Kỷ Dậu (1369), mẹ ruột của Thiên Ninh công chúa là Hiến Từ thái hoàng thái hậu bị Đại Định Đế Dương Nhật Lễ giết chết. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (quyển 7, kỷ nhà Trần) chép:
Đến tháng 9 (âm lịch) năm sau thì hai người con (không rõ tên) của Thiên Ninh công chúa cũng đều bị hại bởi Nhật Lễ.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (quyển 7, kỷ nhà Trần) chép:
Oán giận, cuối năm ấy, Thiên Ninh công chúa đến sông Đại Lại (một chi lưu của sông Mã) thuộc phủ Thanh Hóa để họp bàn với một số tôn thất nhà Trần tìm cách lật đổ Nhật Lễ.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (quyển 7, kỷ nhà Trần) chép:
Sau đó, Nhật Lễ bị bắt giam ở phường Giang Khẩu, rồi bị vua Trần Nghệ Tông sai người đánh chết cùng với người con tên là Liễu...
Phong thưởng.
Sau khi việc phế lập đã xong, tháng 2 (âm lịch) năm Tân Hợi (1371), Trần Nghệ Tông cho đãi yến các quan ở Thiên An điện, ban thưởng theo thứ bậc khác nhau. Trong dịp này, Thiên Ninh công chúa được cải phong làm Lạng Quốc thái trưởng công chúa (諒國太長公主), và đổi tên là Quốc Hinh (國馨).
Kể từ đó, Đại Việt Sử ký Toàn thư không chép thêm gì về bà. Bà mất năm nào không rõ. | 1 | null |
Sân bay Lublin là một sân bay ở Ba Lan để phục vụ Lublin và khu vực xung quanh. Vị trí xây sân bay khoảng 10 km (6,2 dặm Anh) về phía đông trung tâm Lublin, gần thị trấn Świdnik. Sân bay có một đường băng kích thước 2520 x (45 + 2 x 7,5) m, và nhà ga có thể phục vụ cùng lúc 4 chiếc Boeing 737-800. Công tác xây dựng bắt đầu vào mùa thu năm 2010 và chính thức mở của ngày 17-12-2012. Sân bay này thay thế sân bay có đường băng bằng cỏ 1200 x 50 m phục vụ nhà máy trực thăng PZL-Świdnik và có tên là sân bay Świdnik với mã ICAO EPSW. Sân bay Lublin có mã ICAO EPLB.
Hợp đồng xây đường băng được ký tháng 8 năm 2011 với thời gian hoàn thành dự kiến vào tháng 8 năm 2012.
Ban đầu sân bay sẽ có hệ thống điều khiển hạ cánh chính xác Cat 1.
Đường tiếp cận.
Sân bay Lublin được kết nối bằng đường sắt với nhà ga bên trong nhà ga sân bay. Một đoạn đường sắt dài 2,2 km nối tuyến đường ray này với mạng lưới đường ray hiện hữu được xây năm 2012.
Sân bay nằm gần đường cao tốc S17 đang được xây. | 1 | null |
Chân bơi (danh pháp hai phần: Heliopais personatus) là một loài chim nước thuộc chi đơn loài "Heliopais", họ Chân bơi, sinh sống ở các vùng đất ngập nước trong và đục ở Đông Nam Á. Loài này sinh sóng ở các khu vực đầm lầy, rừng đước, rừng ngập lụt, xa vẳn cây gỗ, rừng.
Chúng ăn các loài động vật không xương sống thủy sinh, bao gồm ấu trùng và con trưởng thành phù du, chuồn chuồn, động vật giáp xác, ốc, cá và động vật lưỡng cư. | 1 | null |
Pantanal () là khu vực tự nhiên chứa vùng đất ngập nước nhiệt đới lớn nhất thế giới. Nó nằm chủ yếu tại tiểu bang Mato Grosso do Sul, Brasil nhưng kéo dài qua cả bang Mato Grosso và các phần thuộc hai quốc gia láng giềng là Bolivia và Paraguay. Tổng diện tích ước tính từ với nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau, mỗi tiểu vùng lại có chế độ thủy văn, địa chất và hệ sinh thái đặc trưng riêng biệt, 12 trong số đó vẫn chưa được xác định.
Khoảng 80% vùng đồng bằng ngập nước Pantanal bị nhấn chìm trong mùa mưa, nuôi dưỡng các loài thủy sinh đa dạng về mặt sinh học và giúp hỗ trợ một loạt các loài động vật hoang dã. Cái tên "Pantanal" xuất phát từ "pântano" trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là vùng đất ngập nước, bãi lầy, đầm lầy, vũng lầy. Để so sánh, các cao nguyên Brasil được gọi là "planalto" theo nghĩa đen có nghĩa là cao nguyên, bình nguyên cao.
Địa lý và thủy văn.
Pantanal rộng khoảng từ , là một lưu vực dốc nhẹ nhận dòng chảy từ các khu vực vùng cao của cao nguyên Mato Grosso và từ từ thoát nước ra sông Paraguay cùng các phụ lưu của nó. Khu vực này được hình thành có liên quan đến kiến tạo sơn Andes vào phân đại Đệ Tam. Nó tạo thành một đồng bằng sông nội địa khổng lồ, trong đó một số dòng sông chảy từ cao nguyên xung quanh hợp nhất tại đây, lắng đọng trầm tích qua nhiều năm để tạo thành vùng trầm tích ngập nước khổng lồ. Khu vực này cũng là một trong những vùng riêng biệt của khu vực bình nguyên Parana-Paraguay lớn hơn có diện tích lên tới 1,5 triệu km².
Pantanal được bao bọc bởi rừng khô Chiquitano ở phía tây và tây bắc, rừng Gran Chaco khô ở phía tây nam và Gran Chaco ẩm ướt ở phía nam. Phía bắc, đông và đông nam là savan của Cerrado. Pantanal là vùng nhiệt đới ẩm và khô với nhiệt độ trung bình hàng năm là 21,5 °C và lượng mưa ở mức 1.320 mm mỗi năm. Trong suốt cả năm, nhiệt độ thay đổi khoảng 6.0 °C với tháng ấm nhất là tháng 11 (với nhiệt độ trung bình 26 °C) và tháng lạnh nhất là tháng 6 (với nhiệt độ trung bình là 20 °C). Tháng ẩm nhất của nó là tháng 1 (trung bình lượng mưa là 340 mm) và tháng khô nhất là tháng 6 (trung bình lượng mưa là 3 mm).
Hệ sinh thái lũ của Pantanal được xác định bởi ngập lụt theo mùa và lượng hút ẩm. Chúng dịch chuyển giữa các giai đoạn nước ứ đọng và giai đoạn đất khô, khi mực nước ngầm có thể nằm dưới vùng rễ hút nước. Đất có hàm lượng cát cao ở khu vực cao hơn cho đến đất sét và đất phù sa ở khu vực ven sông.
Độ cao của Pantanal dao động từ so với mực nước biển. Lượng mưa hàng năm trên lưu vực lũ là từ với hầu hết lượng mưa xảy ra trong khoảng từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 920 tới 1.540 mm trong giai đoạn từ năm 1968-2000. Ở phần sông Paraguay của Pantanal, mực nước dao động từ 2-5 mét theo mùa, dao động mực nước ở các phần khác của Pantanal thấp hơn mức này. Nước lũ có xu hướng thoát chậm ( mỗi giây ) do độ dốc thấp và sức cản lớn tạo ra bởi thảm thực vật dày đặc.
Khi nước sông dâng lên lần đầu tiên tiếp xúc với đất khô trước đó, nước trở nên cạn kiệt oxy khiến môi trường nước bị thiếu oxy. Nhiều vụ cá chết trong tự nhiên xảy ra nếu chúng không có nơi giàu oxy để trú ẩn. Tuy nhiên, lý do cho điều này vẫn chỉ là suy đoán, có thể là do sự phát triển của vi khuẩn sản sinh độc tố trong nước khử oxy chứ không phải là kết quả trực tiếp của việc thiếu oxy khi nước sông dâng lên.
Hệ sinh thái.
Thảm thực vật của Pantanal, thường được gọi là "hệ thống phức tạp Pantanal" là một tập hợp của các cộng đồng thực vật điển hình của một loạt các khu vực sinh vật xung quanh bao gồm các loài thực vật rừng nhiệt đới Amazon ẩm ướt, thực vật rừng nửa kín đặc trưng của vùng đông bắc Brasil, savan của Cerrado, và thực vật savan Chaco của Bolivia và Paraguay. Rừng thường xuất hiện ở độ cao cao hơn trong khi đồng cỏ bao phủ các khu vực ngập nước theo mùa. Các yếu tố hạn chế chính cho sự tăng trưởng là ngập lụt và quan trọng hơn chính là tình trạng thiếu nước trong mùa khô.
Theo Tổng Công ty Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil (Embrapa), Pantanal có khoảng 2.000 loài thực vật khác nhau, nhiều loài trong số đó là những dược liệu quan trọng.
Về động vật, Pantanal cũng được cho là nhà của 463 loài chim, 269 loài cá, hơn 236 loài động vật có vú, 141 loài bò sát và lưỡng cư, cùng hơn 9.000 loài động vật không xương sống.
Ốc táo được cho là loài chủ chốt trong hệ sinh thái của Pantanal. Khi vùng đất ngập nước bị ngập lụt mỗi năm một lần, cỏ và nhiều loài cây khác sẽ chết và bắt đầu phân hủy. Trong quá trình này, các vi khuẩn phân hủy làm cạn kiệt oxy của tất cả bãi nước nông khiến nhiều loài không thể sống được. Không giống như các động vật khác, ốc táo có cả mang và phổi, khiến chúng có thể phát triển mạnh ở nước không oxy nơi chúng tái chế các chất dinh dưỡng. Để có được oxy, chúng kéo một ống thở dài xuống mặt nước bơm không khí vào phổi. Khả năng này cho phép chúng tiêu thụ tất cả các dưỡng chất thực vật phân hủy và biến nó thành phân bón dinh dưỡng có sẵn cho các loài thực vật trong khu vực. Bản thân ốc cũng là thức ăn cho nhiều loại động vật khác, đặc biệt là các loài chim.
Trong số những động vật hiếm nhất sống ở vùng đất ngập nước của Pantanal đáng chú ý nhất là hươu đầm lầy Nam Mỹ và rái cá lớn. Pantanal cũng là nhà của một số loài động vật sắp và đang bị đe dọa như vẹt đuôi dài lam tía, đại bàng ẩn sĩ vương miện, sói bờm, chó lông rậm, lợn vòi Nam Mỹ, thú ăn kiến khổng lồ. Các loài phổ biến ở Pantanal bao gồm chuột lang nước, mèo gấm Ocelot, cá sấu Yacare. Theo dữ liệu năm 1996, có tổng cộng 10 triệu cá thể cá sấu Yacare trong khu vực này khiến nó trở thành nơi tập trung nhiều cá sấu nhất trên thế giới. Pantanal là nơi sinh sống của một trong những loài báo lớn nhất và khỏe nhất trên Trái đất, báo đốm.
Có 13 loài diệc và diệc bạch, 6 loài cò quăm và cò thìa, 5 loài bồng chanh sử dụng Pantanal làm nơi sinh sản và kiếm ăn. Có 19 loài vẹt ghi nhận trong Pantanal, trong đó có 5 loài vẹt đuôi dài. Một số loài chim di cư bao gồm Choi choi vàng châu Mỹ, cắt lớn, Bobolink.
Hầu hết các loài cá ăn mùn bã, chủ yếu ăn các hạt mịn từ trầm tích và bề mặt thực vật. Đây là đặc điểm của cá sống ở vùng đồng bằng Nam Mỹ nói chung. Sự di cư của cá giữa các kênh sông và vùng đồng bằng lũ xảy ra theo mùa. Những con cá này có sự thích nghi lớn cho phép chúng sống sót trong vùng đồng bằng ngập nước thiếu oxy. Ngoài cá sấu thì Pantanal còn là nơi trú ẩn của trăn anaconda vàng, thằn lằn Tegu vàng, rùa chân đỏ, cự đà xanh. | 1 | null |
Trong địa chất học, lỗ phun hay hang gió là một loại địa hình hình thành khi các hang bờ biển phát triển về phía đất liền và hướng lên phía trên, tạo thành những giếng thẳng đứng ăn thông với mặt đất bên trên và nước biển sẽ phun ra từ đó nếu đặc điểm hình học của hang và điều kiện thời tiết đều thích hợp.
Khái niệm này cũng dùng để chỉ một loại đối tượng địa chất hiếm gặp, trong đó không khí thổi qua một lỗ nhỏ trên mặt đất do sự khác biệt về áp suất giữa hệ thống ngầm khép kín bên dưới mặt đất và bề mặt bên trên. Các hang gió (lỗ phun) ở khu vực Tượng đài Quốc gia Wupatki (Hoa Kỳ) là ví dụ minh họa cho hiện tượng này. Người ta ước lượng rằng hệ thống lối thông hang động khép kín bên dưới mặt đất có thể tích tối thiểu là 7 tỉ mét khối. Sartor & Lamar (1962) dẫn số liệu đo lường tốc độ không khí phun ra từ một số hang gió tại khu vực Flagstaff thuộc Arizona (Hoa Kỳ), theo đó có những thời điểm tốc độ dòng khí có thể đạt 30 mph (hơn 48 km/h). | 1 | null |
Giẻ cùi (danh pháp khoa học: Urocissa erythroryncha) là một loài chim thuộc họ Quạ. Giẻ cùi có kích thước tương tự như các loài chim giẻ cùi châu Âu khác ở châu Âu nhưng có một cái đuôi dài hơn nhiều, dài nhất trong các loài chim thuộc họ Quạ. Môi trường sống tự nhiên của giẻ cùi là ở những khu vực rừng thưa hoặc cây bụi, thường là gần sông suối. Chúng tìm kiếm thức ăn cả trên cây và trên mặt đất. Loài chim này cũng rất được ưa chuộng nuôi làm chim cảnh do có ngoại hình sặc sỡ rất đẹp mắt.
Mô tả.
Đầu và cổ của chúng màu đen với những chấm màu xanh đốm trên đầu. Vai và lưng màu xanh còn bụng phần dưới màu xám. Đuôi dài màu xanh sáng (như bộ cánh) với những điểm ở cuối lông màu trắng. Điểm đặc biệt ở chúng là cái mỏ màu cam sáng đỏ, chân, bàn chân và vòng quanh mắt cũng đều màu đỏ. Màu đỏ này có thể khác nhau tùy thuộc vào phạm vi sinh sống của chúng, có những nơi chúng gần như là màu vàng. Đuôi của chúng rất dài có màu xanh nhạt với các sọc ngang màu trắng. Chiều dài cơ thể chim trưởng thành vào khoảng 65–68 cm, trọng lượng trung bình ước đạt 196-232 gram.
Phân bố và chế độ ăn.
Giẻ cùi phân bố khá rộng dọc theo các khu vực phía Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ phía Tây dãy Himalaya, Myanma, Campuchia, Lào và Việt Nam.
Giẻ cùi ăn các loại côn trùng và động vật nhỏ thông thường, như động vật không xương sống, động vật lưỡng cư và một số loài khác, đôi khi cũng ăn cả trái cây và một số loại hạt. Chúng hay cướp tổ của chim khác để ăn trứng và chim con. Giẻ cùi làm tổ trên cây và bụi cây lớn, tổ của nó tương đối cạn (nông). Thường đẻ từ 3 đến 5 trứng. Chúng rất giỏi bắt chước giọng hót của loài khác nên thanh âm của chúng rất đa dạng và phức tạp, nhưng thường gặp nhất là kiểu kêu một tiếng cao chói như còi hơi hay tiếng sáo. | 1 | null |
Giẻ cùi mỏ vàng (danh pháp hai phần: Urocissa flavirostris) là một loài chim thuộc họ Quạ ("Corvidae").. Chúng tạo thành một siêu loài với giẻ cùi xanh Đài Loan và giẻ cùi. Phạm vi phân bố khắp phía bắc tiểu lục địa Ấn Độ bao gồm hạ Hymalaya, với quần thể dứt đoạn ở Việt Nam. | 1 | null |
Envisat ("Environmental Satellite", tạm dịch: "Vệ tinh môi trường") là một vệ tinh quan sát Trái Đất đã ngừng hoạt động, hiện vẫn còn nằm trong quỹ đạo. Nó được phóng lên vào ngày 1 tháng 3 năm 2002 bằng tên lửa Ariane 5 từ Trung tâm Vũ trụ Guyana tại Kourou, Guyana, vào một quỹ đạo đồng bộ với Mặt trời và luôn đi qua 2 cực của Trái Đất, ở độ cao khoảng (± ). Nó bay được 1 vòng quanh Trái Đất trong khoảng 101 phút với khoảng lặp 35 ngày. Sau khi mất liên lạc với vệ tinh vào ngày 8 tháng 4 năm 2012, ESA tuyên bố chính thức ngừng nhiệm vụ của Envisat vào ngày 9 tháng 5 năm 2012.
Vệ tinh của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) này là vệ tinh môi trường tiên tiến nhất từng được chế tạo và là vệ tinh quan sát Trái Đất với mục đích dân sự lớn nhất từng được đưa vào không gian. | 1 | null |
Bán đảo Valdés () là một bán đảo nằm ở bờ biển Patagonia, tiếp giáp với Đại Tây Dương thuộc Biedma, Chubut, Argentina. Với diện tích (không bao gồm eo đất Carlos Ameghino nối với đất liền), đây là một khu bảo tồn thiên nhiên đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1999.
Địa lý.
Khu vực dân cư lớn nhất nằm gần bán đảo là thị trấn Puerto Madryn còn trên bán đảo chỉ có duy nhất một khu định cư nhỏ có tên là Puerto Pirámides. Ngoài ra còn có một số khu vực đất phân mảnh là trang trại nuôi cừu.
Hầu hết bán đảo này là một khu vực cằn cỗi với một số hồ muối. Lớn nhất trong số đó là một hồ nước nằm ở độ cao âm 40 mét so với mực nước biển.
Động vật.
Khu vực bờ biển của bán đảo Valdés là môi trường sống tự nhiên và có ý nghĩa bảo tồn cực kỳ quan trọng của một số loài động vật có vú biển gồm Sư tử biển Nam Mỹ, Hải tượng, Hải cẩu lông mao Nam Mỹ. Khu vực vịnh Nuevo và San José là nơi có thể bắt gặp Cá voi trơn phương nam. Đây là hai khu vực biển được bảo vệ nằm giữa bán đảo với Patagonia. Những con Cá voi sừng tấm đến đây vào giữa tháng 5 đến tháng 12 để giao phối và đẻ con bởi nước ở trong vịnh yên tĩnh và ấm hơn so với ngoài biển. Ngoài khơi và khu vực biển mở là nơi có mặt loài Cá voi sát thủ. Chúng đến đây để săn bắt những con Hải cẩu và Sư tử biển.
Khu vực trên bán đảo là nơi sinh sống của Đà điểu Nam Mỹ, Lạc đà Guanaco, Mara Patagonia. Bán đảo có sự đa dạng đáng kinh ngạc của các loài chim gồm 181 loài chim, trong đó có 66 loài chim di cư bao gồm cả loài Bồ câu Nam Cực.
Khí hậu.
Bán đảo là nơi có khí hậu bán khô cằn. Đây là kiểu khí hậu đặc trưng của miền bắc Patagonia biến đổi nhờ sự tương tác của tuần hoàn khí quyển và đại dương liền kề. Bán đảo nằm giữa vành đai nhiệt đới áp cao (30oNam) và vùng áp suất thấp địa cực (nằm giữa 60o–70oNam), kết quả là những cơn gió chủ yếu tới từ hướng tây. Nhiệt độ trung bình hàng năm là , dao động từ cho đến nhiệt độ cao nhất vào mùa hè là . Mùa đông, nhiệt độ dao động từ với hiện tượng sương giá phổ biến, trung bình từ 12-20 ngày trong một mùa. Nhiệt độ mùa hè dao động từ . | 1 | null |
Sleepless in Seattle ("Đêm trắng ở Seattle") là một bộ phim tình cảm hài lãng mạn của Mỹ trình chiếu năm 1993, phim được biên kịch và chỉ đạo bởi đạo diễn Nora Ephron. Dựa trên một câu chuyện được viết bởi Jeff Arch, và các ngôi sao diễn xuất trong phim gồm có: Tom Hanks vai Sam Baldwin và Meg Ryan vai Annie Reed.
Bộ phim lấy cảm hứng từ phim "Một chuyện tình để nhớ" (An affair to remember) và sử dụng hầu hết những bài hát và những đoạn clip từ bộ phim này trong những cảnh quan trọng. Cuộc gặp gỡ đầy cao trào ở trên đỉnh của tòa nhà Empire là một sự ám chỉ tới cuộc đoàn viên của Cary Grant và Deborah Kerr trong phim "Một chuyện tình để nhớ", cuộc gặp gỡ này đã thất bại vì Kerr đã bị một chiếc xe hơi tông vào khi đang băng qua đường.Một điểm khác là, một vài nhân vật đã tranh cãi về phim "Một chuyện tình…", với Sam nó giống như là một bộ phim "gà bông".
Sự thành công của Đêm trắng ở Seattle đã mở đường cho sự hồi sinh của "Một chuyện tình để nhớ" trong lòng công chúng kể cả thế hệ của những khán giả trẻ tuổi.
Nội dung phim.
Sam Baldwin là một kỹ sư ở Chicago, vợ anh đã chết vì bệnh ung thư. Cùng với cậu con trai nhỏ, Jonah, chuyền tới Seattle, Washington để làm lại cuộc đời nhưng Sam vẫn không nguôi ngoai được.
Vào một đêm giáng sinh, Jonah đã gọi đến một chương trình tâm sự của đài phát thanh quốc gia để thuyết phục cha bé tâm sự về nỗi nhớ nhung của ông dành cho vợ mình.
Hàng ngàn phụ nữ trên khắp đất nước, lắng nghe câu chuyện của Sam, đã gửi cho anh nhiều lá thư. Và có một lá thư của Annie Reed, một phóng viên ở Baltimore, Maryland. Cô đã đính hôn với anh chàng luôn-luôn-dị-ứng Walter, người mà cứ cảm thấy luôn có một sự sai sót quanh mình.
Bé Jonah, bằng cách của mình, xuyên qua đống thư chất đầy trên sàn nhà đã tìm thấy thư của Annie và thích nó đến nỗi gọi cô là Chim vàng anh Baltimore.
Bé đã cố gắng thuyết phục cha mình đến New York để gặp cô Annie vào ngày lễ Tình nhân, nhưng Sam kiềm chế cơn giận của mình và từ chối. Jonah đã bay đến New York, bắt taxi tới Empire, và nói với cha rằng mình sẽ tìm gặp người mẹ mới.
Sam, hiển nhiên, đuổi theo cậu. Bé Jonah đã không tìm thấy Annie bởi vì cô ấy đang bận hủy hôn ước với vị hôn phu của mình. Jonah và Sam đã đi xuống bằng thang máy ngay khi mà Annie tới. Nhưng nhờ vào sự giúp đỡ của cái ba lô và gấu Teddy bị để quên mọi việc đã kết thúc tốt đẹp.
Giải thưởng.
"Đêm trắng ở Seattle" đã được đề cử cho 2 giải Oscar: Nhạc phim hay nhất và Bài hát hay nhất cho bài "Cái nháy mắt và nụ cười", nhạc Marc Shaiman, lời Ramsey McLean; Kịch bản và chỉ đạo diễn xuất xuất sắc nhất cho đạo diễn Nora Ephron, David S.Ward và Jeff Arch.
Tháng 6 năm 2008, AFI đã chọn nó vào top "10 của 10"_10 phim hay nhất trong muời thể loại phim Mỹ cổ điển. Đêm trắng ở Seattle được công nhận là bộ phim thứ 10 trong thể loại phim hài lãng mạn. | 1 | null |
Grace Hazenberg Cadman (27 tháng 9 năm 1876 - 26 tháng 4 năm 1946) là nhà truyền giáo và dịch thuật Kinh Thánh. Cùng với chồng, William Charles Cadman, bà khởi xướng và đóng góp quan trọng cho công cuộc dịch thuật bản Kinh Thánh Việt ngữ đầu tiên, hoàn thành và phát hành rộng rãi năm 1926.
Được bổ nhiệm đến Việt Nam từ năm 1913, bà hoạt động tích cực trong nỗ lực giới thiệu phúc âm cho người Việt, đồng thời hỗ trợ cho cộng đồng Tin Lành vừa mới hình thành trên đất nước này, cho đến khi từ trần năm 1946.
Tiểu sử.
Grace Hazenberg chào đời ngày 27 tháng 9 năm 1876 tại Fulton, Illinois, Hoa Kỳ, nhưng lớn lên ở Nam Phi, nơi song thân đang hoạt động truyền giáo. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Nam Phi với văn bằng cử nhân, Hazenberg đến Toronto, Canada, để tiếp tục bậc cao học. Tại đây bà theo chuyên ngành tiếng Hebrew và tiếng Hi Lạp, hai ngôn ngữ được sử dụng để viết Cựu Ước và Tân Ước.
Năm 1913, Hazenberg được cử đến Tourane (nay là Đà Nẵng), chỉ hai năm sau khi những nhà truyền giáo đầu tiên của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp đặt chân đến đây để khơi mở công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Năm sau, 1914, William C. Cadman cũng đến Việt Nam. Khi bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà truyền giáo bị buộc phải rời khỏi Việt Nam. Tại phủ Vân Nam (nay là Côn Minh), Vân Nam, Trung Hoa, William và Grace làm lễ thành hôn ngày 27 tháng 7 năm 1915.
Cuối năm 1916, gia đình Cadman trở lại Việt Nam và đến Hà Nội. Họ mua tư thất để dùng làm nơi trú ngụ, xây dựng nhà thờ, và năm sau thành lập Nhà in Tin Lành.
Agnes, người con duy nhất của ông bà Cadman, sinh tại phủ Vân Nam năm 1916, mắc bệnh sốt tê liệt rồi qua đời khi mới lên sáu, và được chôn cất trong một nghĩa trang ở Hà Nội.
Từ năm 1914, ông bà Cadman khởi xướng công cuộc dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt, bà đã tận tụy làm việc và hợp tác chặt chẽ với các thành viên khác trong ban dịch thuật cho đến khi hoàn thành bản Kinh Thánh tiếng Việt đầu tiên, được phát hành trong năm 1926.
Tháng 4, 1943, khi Chiến tranh thế giới thứ hai đang tiếp diễn, ông bà Cadman và các nhà truyền giáo người Mỹ bị người Nhật quản thúc tại Mỹ Tho. Trong thời gian bị giam cầm, bà Cadman bị tai biến mạch máu não, sức khỏe suy yếu dần. Ngày 26 tháng 4 năm 1946, Grace Hazenberg Cadman từ trần, bà được an táng trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn.
Hơn hai năm sau, tháng 12 năm 1948, William C. Cadman qua đời và được an táng tại Đà Lạt. | 1 | null |
Nephthys hay Nebthet, là một trong 9 vị thần tối cao của Ai Cập cổ đại. Bà là con gái của thần đất Geb và nữ thần bầu trời Nut, là em gái của các thần Osiris, Isis và Set, đồng thời cũng là vợ của ác thần Set. Tên của bà có nghĩa là "Người đàn bà trong nhà".
Bà thường xuất hiện dưới dạng một con diều hâu hoặc một nữ thần đội ngôi nhà trên đầu. Mái tóc của Nephthys tượng trưng cho những cuộn vải lanh dùng trong việc ướp xác. Người ta nói rằng, 2 chị em Isis và Nephthys giống nhau đến nỗi chỉ khi đội vương miện vào thì mới phân biệt được 2 bà.
Thần thoại.
Nữ thần này đôi khi được xem như tượng trưng cho không khí khô cằn của sa mạc, và đại diện của bà là kền kền - loài vật có thể sống ở nơi khắc nghiệt này. Kền kền là loài ăn xác chết nên Nephthys được xem là vị thần gắn liền với cái chết và sự mai táng. Những người khóc thuê trong đám tang được gọi là "Những con diều hâu của Nephtys", để tái hiện hình ảnh vị nữ thần trong tang lễ.
Nephthys và Seth lấy nhau mà không có con. Theo một truyền thuyết, Nephthys đã chuốc rượu cho anh mình là Osiris để quyến rũ và mang thai với ông ta. Trong một số truyện kể đứa con bà sinh ra là Anubis, vị thần đầu chó rừng. Khi Seth giết chết Osiris, Nephythys lập tức bỏ chồng để cùng với chị mình lo việc ướp xác cho Osiris. Sau đó hai nữ thần này biến thành hai con diều hâu bay lượn bên trên xác chết, bảo vệ cho xác trong khi chờ đợi mai táng. Do đó Nephthys được xem là gắn liền với người chết, thường kết hợp với chị mình, Isis, trong những nghi thức tang lễ.
Bà là vị thần bảo hộ cho Hapi (một trong 4 người con trai của Horus), vị thần bảo vệ phổi người chết. Nephthys cũng là một trong 4 vị nữ thần được tạc tượng vàng để bảo vệ xác ướp của Tutankhamun (3 người kia là Isis, Serket, Neith). Nephthys còn được coi là vị thần của những cơn mưa và nguồn của sông Nile (liên kết với nữ thần Anuket) và bảo vệ những sản phụ (cùng với Isis). | 1 | null |
Ashtarak (tiếng Armenia: ) là một thành phố công nghiệp thuộc tỉnh Aragatsotn, Armenia. Dân số ước tính năm 2011 là 21621 người. Đô thị này thuộc vùng đô thị Yerevan.
Khí hậu.
Ashtarak có khí hậu lục địa ẩm vào mùa hè (phân loại khí hậu Köppen "Dfa").
Thành phố kết nghĩa.
Ashtarak kết nghĩa với: | 1 | null |
Đêcamét hay đềcamét là đơn vị đo khoảng cách với tỉ lệ với kilômét là 1/100 kilômét (1 km = 100dam
Chữ đề-ca (hoặc trong viết tắt là "da") viết liền trước các đơn vị trong hệ đo lường quốc tế để chỉ rằng đơn vị này được nhân lên 10 lần. | 1 | null |
Artashat (tiếng Armenia:Արտաշատ) là một thành phố thuộc tỉnh Ararat, Armenia. Dân số ước tính năm 2011 là 25568 người. Là một trong những thành phố cổ nhất của Armenia, Artashat là thủ phủ của tỉnh Ararat. Khu vực hiện đại của thành phố nằm trên tuyến đường sắt Yerevan-Nakhichevan-Baku và Nakhichevan-Tabriz và trên tuyến đường cao tốc Yerevan-Goris-Stepanakert. Tên gọi của thành phố có xuất xứ từ tiếng Iran và có nghĩa là "niềm vui của Arta". Được vua Artashes I thành lập năm 176 TCN, Artashat lúc bấy giờ là thủ đô của Vương quốc Armenia từ 185 TCN đến năm 120
Khí hậu.
Artashat có khí hậu bán khô hạn lạnh (phân loại khí hậu Köppen "BSk"). | 1 | null |
Sở Nhược Ngao (chữ Hán: 楚若敖, trị vì 790 TCN-764 TCN), tên thật là Hùng Nghi (熊儀) hay Mị Nghi (羋咢), là vị vua thứ 17 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Hùng Tuân, vua thứ 15 của nước Sở. Năm 790 TCN, Sở Hùng Ngạc chết, ông lên ngôi vua. Ông được chôn ở Nhược Ngao nên gọi là Nhược Ngao.
Sở Nhược Ngao Hùng Nghi cưới vợ là con gái nước Vân, sanh ra Sở Tiêu Ngao Hùng Khảm, Đấu Bá Tỷ, Đấu Liêm, trở thành tổ của thị tộc Nhược Ngao
Trong thời gian trị vì của ông, nhà Chu bắt đầu suy yếu sau khi Chu Bình Vương phải dời đô về Lạc Ấp và một số chư hầu, trong đó có Sở, bắt đầu nổi lên.
Năm 764 TCN, Sở Nhược Ngao mất, ở ngôi 27 năm. Con ông là Hùng Khảm lên ngôi quốc quân, tức Sở Tiêu Ngao. | 1 | null |
Nguyễn Điền Phu (chữ Hán: 阮佃夫, 427 – 477), người Chư Kỵ, Hội Kê (nay là Chư Kỵ, Chiết Giang), tướng lĩnh, gian thần nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Thời Tiền Phế đế.
Ông xuất thân là Đài tiểu sử trong những năm Nguyên Gia (424 – 453) thời Lưu Tống Văn đế. Khi Tương Đông vương Lưu Úc xuất các (là thuật ngữ chỉ việc Hoàng tử đến phong quốc) , chọn Điền Phu làm Chủ y. Hiếu Vũ đế triệu về bên cạnh, bổ làm Nội giám. Trong niên hiệu Vĩnh Quang (465) thời Tiền Phế đế, Lưu Úc lại xin lấy ông làm thầy cho thế tử, rất được tín nhiệm.
Cuối niên hiệu Cảnh Hòa (465), Lưu Úc bị giữ lại trong cung, giảm lỏng ở Bí thư tỉnh, tình thế rất nguy hiểm. Điền Phu cùng Vương Đạo Long, Lý Đạo Nhi cùng thân tín của Đế là Thuần Vu Văn Tổ (người quận Lang Tà) cùng mưu tính giết Đế. Khi ấy Trực các tướng quân Liễu Quang Thế cùng thân tín của Đế là Mâu Phương Thịnh (người quận Lan Lăng), Chu Đăng Chi (người quận Đan Dương) cũng có mưu ấy, nhưng chưa biết nên đưa ai lên ngôi. Đăng Chi cùng Lưu Úc có quen biết, bọn Phương Thịnh bèn sai Đăng Chi tìm đến Điền Phu, ông nhận lời. Trước đó, Đế lập Hoàng hậu, tạm lấy yêm nhân (tức quan hoạn) của khắp các vương, thân tín của Lưu Úc là Tiền Lam Sanh cũng nằm trong diện ấy. Việc xong, chưa có gì khác để làm, Điền Phu ngầm sai Lam Sanh dò xét Đế; lo bị tiết lộ, Lam Sanh không dám tự ra ngoài, nên đem mọi hoạt động của Đế báo cho Thuần Vu Văn Tổ, để Văn Tổ báo lại cho ông.
Buổi quá trưa ngày 29 tháng 11 năm ấy (465), Đế ra chơi Hoa Lâm Viên, Kiến An vương Lưu Hưu Nhân, Sơn Dương vương Lưu Hưu Hữu, Sơn Âm công chúa cũng theo hầu. Lưu Úc vẫn bị giám sát ở Bí thư tỉnh, không được triệu, càng thêm lo sợ. Điền Phu báo với Ngoại giám điển sự Chu Ấu (người quận Đông Dương), lại báo với Chủ y Thọ Tịch Chi (người quận Ngô Hưng), Tế khải chủ Khương Sản Chi (người quận Nam Bành Thành); Sản Chi lại nói với cấp trên của mình là Lĩnh tế khải tướng Vương Kính Tắc (người quận Lâm Hoài); Ấu lại báo với Trung thư xá nhân Đái Minh Bảo, đều hưởng ứng. Minh Bảo, Ấu muốn ra tay khi trời sáng, bọn Điền Phu khuyên ra tay ngay khi có trống canh một. Ấu ước hẹn khắp trong ngoài, sai Tiền Lam Sanh mật báo bọn Kiến An vương Lưu Hưu Nhân. Khi ấy Đế muốn nam tuần. tâm phúc là bọn Trực các tướng quân Tống Việt đều ra ngoài gói ghém hành trang, chỉ có Đội chủ Phàn Tăng Chỉnh trông coi Hoa Lâm các, mà Tăng Chỉnh là đồng hương của Liễu Quang Thế; Quang Thế yêu cầu, Tăng Chỉnh lập tức nhận lệnh. Khương Sản Chi lại yêu cầu Đội phó Niếp Khánh (người quận Dương Bình) cùng tráng sĩ dưới quyền là Phú Linh Phù (người quận Hội Kê), Du Đạo Long (người (quận) Ngô Quận), Tống Quỳ Chi (người quận Đan Dương), Điền Tự (người quận Dương Bình) đều tụ tập ở Khánh Tỉnh. Điền Phu lo vẫn chưa đủ, muốn tập hợp thêm, Thọ Tịch Chi nói: "Càng nhiều người tham dự thì mưu càng dễ bị tiết lộ, không cần thêm người làm gì!"
Bấy giờ thầy mo nói: "Hậu đường có quỷ." Đêm ấy Đế ở trước Trúc Lâm đường, cùng thầy mo bắn quỷ, bọn Kiến An vương Lưu Hưu Nhân cũng đi theo. Đế vốn không ưa Tịch Chi, trông thấy liền nghiến răng. Tịch Chi cùng Điền Phu đã mưu tính xong, lại lo vạ đến, rút đao xông vào trước, Khương Sản Chi theo sau, tiếp nữa là Thuần Vu Văn Tổ, Mâu Phương Thịnh, Chu Đăng Chi, Phú Linh Phù, Niếp Khánh, Điền Tự, Vương Kính Tắc, Du Đạo Long, Tống Quỳ Chi. Hưu Nhân nghe tiếng chân rất gấp, nói với Hưu Hữu rằng: "Hành động rồi!" bèn cùng nhau chạy lên núi Cảnh Dương. Đế thấy Tịch Chi đến, giương cung mà bắn, không trúng, bèn bỏ chạy. Tịch Chi đuổi theo giết chết Đế. Việc xong, bọn họ tuyên lệnh cho túc vệ rằng: "Tương Đông vương thụ lệnh của Thái hậu, trừ cuồng chủ. Nay đã dẹp xong," Lưu Úc lên ngôi, là Lưu Tống Minh đế, luận công ban thưởng, Điền Phu được phong Kiến Thành huyện hầu, thực ấp 800 hộ.
Thời Minh đế.
Nguyễn Điền Phu được thăng làm Nam đài thị ngự sử. Tiết Tác Nhi vượt sông Hoài cướp bóc, Sơn Dương thái thủ Trình Thiên Tộ tạo phản, ông cùng quân đội các nơi đánh dẹp, phá Tác Nhi, hàng Thiên Tộ. Được thăng làm Long tương tướng quân, Tư đồ tham quân; soái quân bản bộ đến giúp Giả Kỳ (tên núi, dưới chân núi có thành do tướng Tấn là Hoàn Ôn xây dựng, nay là phía tây Phồn Xương, An Huy), chuyển làm Thái tử bộ binh hiệu úy, Nam Lỗ Quận thái thú, hầu Thái tử ở Đông cung. Năm Thái Thủy thứ 4 (468), nhờ công phá Tiết Tác Nhi, được tăng phong 200 hộ, cả thảy 1000 hộ; giữ quan chức cũ kiêm Du kích tướng quân, Giả Ninh sóc tướng quân, cùng Phụ quốc tướng quân kiêm Kiêu kỵ tướng quân Mạnh Thứ Dương làm 2 viên Vệ tham viên trực.
Khi ấy Điền Phu, Vương Đạo Long, Dương Vận Trường đều nắm quyền bính, chỉ ở dưới nhà vua, bọn Sào Thượng Chi, Đái Pháp Hưng thời Đại Minh (niên hiệu của Hiếu Vũ đế) còn không bì kịp. Gặp dịp tết Nguyên đán trùng với ngày Hợp Sóc (Thời điểm Mặt trăng, Trái đất, Mặt trời nằm trên một đường thẳng, Trái đất ở giữa) , Thượng thư tâu xin dời Nguyên hội (buổi chầu đầu năm), Điền Phu nói: "Buổi chầu đầu năm là đại lễ của nước nhà, sao không dời ngày Sóc đi?" Ông không hề đếm xỉa đến lịch pháp như vậy!
Điền Phu chuyên quyền tham ô, phàm việc gì mà không có đút lót thì không làm. Có người tặng 200 xúc lụa, chê ít, không trả lời. Nhà cửa ruộng vườn, phủ đệ của các vương không theo kịp. Gia kỹ vài mươi người, dung mạo tài nghệ bậc nhất thời bấy giờ, phục sức đều là vàng bạc, gấm vóc, ngay cả Cung kỹ cũng không sánh được. Mỗi lần làm ra cái áo, món đồ gì, không ai trong kinh thành là không bắt chước. Trong trạch viện khơi ngòi, sang phía đông đến 10 dặm, hai bên bờ gọn gàng sạch sẽ, bơi thuyền nhẹ, cho nữ nhạc diễn tấu. Trung thư xá nhân Lưu Hưu thường đến chơi, đúng lúc Điền Phu ra ngoài, giữa đường gặp nhau, cùng Hưu quay về; vừa ngồi xuống, ông lệnh cho bày tiệc, một lúc sau thì có đủ các món ngon vật lạ, không hề mất công chuẩn bị. Điền Phu thường làm sẵn mấy chục món như thế để đãi khách cho tiện lợi, đến Vương Khải, Thạch Sùng đời Tấn cũng không hơn dược.
Đầu những năm Thái Thủy (465 – 471), nhiều người có quân công, tước trật lộn xộn, những kẻ nô bộc của Điền Phu theo đó mà có được những tước vị không xứng đáng: người đánh xe làm Hổ bôn trung lang, kẻ dắt ngựa làm Viên ngoại lang. Quan viên trong triều, không kể sang hèn, không ai không tìm cách kết giao với ông. Nhưng Điền Phu kiêu ngạo không để ai vào mắt, người có thể vào nhà ông chỉ có vài người như Thẩm Bột (người quận Ngô Hưng), Trương Đạm (người Ngô Quận)…
Năm Thái Dự đầu tiên (472), Điền Phu được ban chức Ninh sóc tướng quân, Hoài Nam thái thú, được thăng làm Kiêu kỵ tướng quân, rồi được gia Hoài Lăng thái thú.
Thời Hậu Phế đế.
Minh đế băng, Hậu Phế đế tức vị, quyền lực của Điền Phu trở nên lớn mạnh, kiêm Trung thư thông sự xá nhân, gia Cấp sự trung, Phụ quốc tướng quân, còn lại như cũ. Ông muốn để Trương Đạm nắm quyền quận Vũ Lăng, từ Vệ tướng quân Viên Sán trở xuống không đồng ý, mà Điền Phu vẫn nói là có sắc mà thi hành, bọn Sán không dám bắt bẻ.
Năm Nguyên Huy thứ 3 (475), được thăng làm Hoàng môn thị lang, lĩnh Hữu vệ tướng quân, thái thú như cũ. Năm sau (476), đổi lĩnh Kiêu kỵ tướng quân. Năm ấy, được thăng làm Sứ trì tiết, Đốc Nam Dự Châu chư quân sự, Quan quân tướng quân, Nam Dự Châu thứ sử, Lịch Dương thái thú, vẫn coi việc trong cung. Nhờ công dẹp Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố, được tăng ấp 500 hộ.
Khi ấy Hậu Phế đế cuồng bạo, lại thích ra ngoài vui chơi; mới xuất cung thì đội ngũ nghi trượng còn chỉnh tề, sau một lúc thì bỏ hết cấm vệ, chỉ cưỡi ngựa đem theo vài tùy tùng, hoặc ra khỏi thành, hoặc vào nơi chợ búa, trong ngoài triều không ai là không lo sợ. Điền Phu ngầm cùng Trực các tướng quân Thân Bá Tông, Bộ binh hiệu úy Chu Ấu, Vu Thiên Bảo cùng mưu tính trừ đi, lập An Thành vương. Mùa xuân năm thứ 5 (477), Đế muốn đi Giang Thừa săn chim trĩ. Đế mỗi khi lên phía bắc, thường giữ đội ngũ nghi trượng ở lại trước Nhạc Du uyển, rồi bỏ mà đi. Ông dự tính dùng danh nghĩa của Thái hậu gọi đội ngũ này về, đóng cửa thành, chia người chiếm thành Thạch Đầu, Đông phủ (phủ Thượng thư lệnh, tức Tể tướng), sai người bắt Hậu Đế phế, tự làm Dương Châu thứ sử mà phụ chánh . Điền Phu cùng bọn Ấu mưu tính xong, Đế lại không đi Giang Thừa, nên việc không thành. Vu Thiên Bảo nhân đó đem mưu này tố giác với Đế, Đế bèn bắt Điền Phu, Ấu, Bá Tông ở ngoài Quang Lộc tự, ban chết. Nhưng triều đình chỉ làm tội Điền Phu, Ấu, người nhà đều không bị hỏi đến. Ông bấy giờ được 51 tuổi. | 1 | null |
Sở Hùng Ngạc (chữ Hán: 楚熊咢; trị vì: 799 TCN-791 TCN), tên thật là Hùng Ngạc (熊咢) hay Mị Ngạc (羋咢), là vị vua thứ 16 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Sở Hùng Tuân, vua thứ 15 của nước Sở. Năm 799 TCN, Sở Hùng Tuấn chết, Hùng Ngạc lên nối ngôi.
Sử ký không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi.
Năm 791 TCN, Hùng Ngạc mất. Ông ở ngôi 9 năm. Em là Hùng Nghi kế vị, tức là Sở Nhược Ngao. | 1 | null |
Gavar () là một đô thị ở Armenia và là thủ phủ của tỉnh Gegharkunik. Nó tọa lạc giữa những ngọn núi cao thuộc dãy Gegham, phía tây của hồ Sevan, ở độ cao trung bình 1982 mét trên mực nước biển. Cách thủ đô Yerevan 98 về phía đông, thành phố có dân số 20.765 người theo thống kê 2011. Theo ước tính 2016, dân số Gavar là chừng 19.500 người. | 1 | null |
Abovyan () là một thành phố thuộc tỉnh Kotayk, Armenia. Dân số ước tính năm 2011 là 46825 người. Đô thị này thuộc vùng đô thị Yerevan.
Khí hậu.
Abovyan có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Dfa") với mùa hè tương đối nóng còn mùa đông lạnh giá. | 1 | null |
Yeghvard là một đô thị thuộc tỉnh Kotayk, Armenia. Dân số ước tính năm 2011 là 12402 người. Đô thị này thuộc vùng đô thị Yerevan.
Địa lý.
Yeghvard nằm ở trungtây Armenia, cách thủ đô Yerevan khoảng 18 km về phía bắc. Thị trấn có độ cao trung bình là 1333 mét so với mực nước biển.
Nhân khẩu.
Dưới đây là dân số Yeghvard qua các năm: | 1 | null |
Sở Hùng Chí (chữ Hán: 楚熊挚; trị vì: 877 TCN-876 TCN), là vị vua thứ 10 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai thứ của Sở Hùng Cừ, nguyên tên là Hùng Chí Hồng (熊挚红).
Làm vua.
Dưới thời cha ông là Hùng Cừ đánh diệt nước Ngạc và ban đất Ngạc cho Hùng Chí. Sau đó nhà Chu suy yếu, Hùng Cừ phong cho người con trưởng là Hùng Vô Khang làm Câu Nghi Vương, Hùng Chí Hồng làm Ngạc Vương và người con út là Hùng Chấp Tỳ là Việt Chương Vương.
Năm 877 TCN, Sở Hùng Cừ chết, do anh là Hùng Khang (熊康), còn gọi là Hùng Vô Khang (熊毋康) mất sớm nên ông là người kế vị.
Sở Hùng Chí chỉ làm vua được 1 năm và kết thúc thời gian trị vì khoảng năm 876 TCN. Có những thuyết khác nhau về kết cục của ông. Có thuyết cho rằng sau khi ông qua đời, con ông bị người em ông là Hùng Duyên giết chết để cướp ngôi. Có thuyết cho rằng Hùng Chí mang bệnh tật nên không thể làm vua, mà được phong ở đất Quỳ, làm phụ dung cho nước Sở; em ông là Hùng Duyên lên ngôi.
Sử ký cho rằng Hùng Chí là con thứ 2 của Sở Hùng Cừ , Hùng Diên giết Hùng Chí cướp ngôi. Nhưng các tài liệu trước Sử ký như Tả truyện, Quốc Ngữ, Thẻ tre Thanh Hoa lại viết rằng Sở Hùng Khang không phải chết sớm mà vẫn còn sống và kế vị , sau khi chết thì con là Hùng Chí kế vị , Hùng Chí nhừng vị cho em là Hùng Diên.
Tham khảo.
Sử ký Tư Mã Thiên, thiên "Sở thế gia". | 1 | null |
Sở Hùng Diên (chữ Hán: 楚熊延; trị vì: 875 TCN-848 TCN), tên thật là Hùng Diên (熊延) hay Mi Diên (羋延), là vị vua thứ 11 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông nguyên tên là Hùng Chấp Tì ("熊執疵"), là con trai út của Sở Hùng Cừ, vua thứ 9 nước Sở và em Sở Hùng Chí, vua thứ 10 của nước Sở. Dười thời vua cha Hùng Cừ, nước Sở hùng mạnh, Hùng Cừ phong cho ba người con làm vương, trong đó Chấp Tì được phong Việt Chương vương. Sau khi Hùng Chí mất, Chấp Tì kế vị, cải tên là Hùng Diên. Ngoài ra có thuyết cho rằng ông đã giết con Hùng Chí đoạt ngôi.
Sử sách không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Sở trong thời gian ông làm vua.
Năm 847 TCN, Sở Hùng Diên chết. Con ông là Hùng Dũng lên kế vị. | 1 | null |
Gyumri ( , ) là thành phố lớn thứ nhì tại Armenia và là thủ phủ tỉnh Shirak ở miền tây bắc đất nước. Vào cuối thế kỷ 19, khi thành phố vẫn còn có tên Alexandropol, nó là một trong những thành phố lớn nhất Đông Armenia do Nga quản lý với dân số ngang ngửa Yerevan. Thành phố được đặt lại tên Leninakan vào thời Liên Xô. Dân số thành phố đạt đến 200.000 trước thời điểm trận động đất Spitak 1988, khi thành phố bị phá hủy. Theo thống kê 2011, thành phố có dân số 121.976 người, giảm đi so với con số 150.917 ghi nhận trong thống kê 2001. | 1 | null |
Sở Hùng Dũng (chữ Hán: 楚熊勇; trị vì: 847 TCN-838 TCN), tên thật là Hùng Dũng (熊勇) hay Mi Dũng (羋勇), là vị vua thứ 12 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai thứ của Sở Hùng Duyên, vua thứ 11 của nước Sở. Năm 848 TCN, Hùng Duyên chết, Hùng Dũng lên nối ngôi.
Năm thứ 6 ,người Chu tạo phản, Chu Lệ Vương xuất bôn Trệ.
Năm 838 TCN, Sở Hùng Dũng mất. Ông ở ngôi 10 năm. Em ông là Hùng Nghiêm lên nối ngôi.
Theo thẻ tre Thanh Hoa : Sở cư thì ông tên là Dũng (甬). | 1 | null |
Sayat-Nova () (14 tháng 6 năm 1712, Tiflis – 22 tháng 9 năm 1795, Haghpat), là một nhà thơ, nhạc sĩ và "ashik" người Armenia Ông có nhiều bài nhạc trong nhiều ngôn ngữ khác nhau. Bút danh Sayat Nova nghĩa là "Bậc thầy về bài hát" trong tiếng Ba Tư. | 1 | null |
Kapan () là một thị trấn ở đông nam Armenia và là thủ phủ của tỉnh Syunik. Nó nằm ở sườn bắc núi Khustup, tại thung lũng sông Voghji. Theo thống kê 2011, dân số Kapan là 43.190 người, hơi giảm so với 45.711 trong thống kê 2001. Kapan là thị trấn lớn nhất tỉnh cũng như của toàn Armenia.
Thị trấn mang tên "Ghapan" () trong thời kỳ Xô Viết.
Từ nguyên.
Từ Kapan bắt nguồn từ động từ "kapel/gabel" (կապել), nghĩa là "khóa", do nơi đây tọa lạc ở thung lũng với những dãy núi băng cắt nhau xung quanh.
Khí hậu.
Kapan có khí hậu bán khô hạn (phân loại khí hậu Köppen "BSk") với mùa hè nóng bức và mùa đông lạnh giá. | 1 | null |
Sở Hùng Nghiêm (chữ Hán: 楚熊严, trị vì từ 837 TCN - 828 TCN), tên thật là Hùng Nghiêm (熊嚴) hay Mị Nghiêm (羋嚴), là vị vua thứ 13 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Sở Hùng Duyên, vua thứ 11 nước Sở và là em Sở Hùng Dũng, vua thứ 12 của nước Sở. Năm 838 TCN, Hùng Dũng mất, Hùng Nghiêm lên kế vị.
Sử ký không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi.
Hùng Nghiêm có bốn người con trai: Hùng Sương (熊霜) hay Bá Sương (伯霜), Hùng Tuyết (熊雪) hay Trọng Tuyết (仲雪), Hùng Kham (熊堪) hay Thúc Kham (叔堪), và Hùng Tuấn (熊徇) hay Quý Tuấn (季徇).
Năm 828 TCN, Sở Hùng Nghiêm chết. Con trưởng là Sở Hùng Sương lên kế vị. | 1 | null |
Giẻ cùi xanh (danh pháp hai phần: Cissa chinensis) là một loài chim thuộc họ Quạ. Nó có màu xanh lá cây sống động màu (thường có màu ngọc lam trong điều kiện nuôi nhốt), màu nhẹ ở mặt dưới và có một sọc đen dày từ mỏ (thông qua mắt) đến gáy. So với các thành viên khác của chi của nó, cái đuôi có đầu màu trắng là khá dài. Điều này tất cả tương phản màu đỏ sinh động của vành mắt, mỏ và chân. Cánh có màu nâu sẫm hơi đỏ.
Nó được tìm thấy từ dưới Hymalaya ở vùng đông bắc Ấn Độ trong một dải rộng lớn đông nam vào trung bộ Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Sumatra và tây bắc Borneo trong xanh rừng (bao gồm cả rừng tre), vùng đất khai quang và cây bụi.
Con chim này tìm kiếm thức ăn cả trên mặt đất và trên cây, và có một tỷ lệ rất cao con mồi gồm động vật không xương sống, bò sát nhỏ, động vật có vú, chim non và trứng. Nó cũng ăn thịt của con vật mới bị giết chết.
Tổ được xây trên cây, cây bụi lớn và thường xuyên trong các đám rối của dây leo khác nhau trên núi. Mỗi tổ thường có 4-6 trứng. Tiếng hót khá đa dạng nhưng thường là pip-pip chói tai. | 1 | null |
Núi Ararat là một núi lửa hình nón ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nó có hai đỉnh Đại Ararat (đỉnh cao nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ với độ cao 5.137m) và Tiểu Ararat (với độ cao 3.896m). Khối núi Ararat có đường kính khoảng 40km. Ranh giới giữa Armenia-Thổ Nhĩ Kỳ nằm ở phía đông của "Tiểu Ararat". Ở khu vực này, theo Hiệp ước Tehran năm 1932, sự thay đổi ranh giới theo hướng thuận lợi cho Thổ Nhĩ Kỳ và nước này giữ phần sườn phía đông của Tiểu Ararat. | 1 | null |
Yegheknadzor () là một thành phố và là tỉnh lị của tỉnh Vayots Dzor, Armenia. Dân số ước tính năm 2011 là 8203 người.
Tên gọi.
Cái tên Yeghegnadzor bao gồm hai từ tiếng Armenia: "yegheg" (եղեգ) nghĩa là "lau sậy", và "dzor" (ձոր) nghĩa là "thung lũng".
Khí hậu.
Thành phố có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Dfa") với mùa hè ấm áp trong khi mùa đông lạnh và có tuyết rơi. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 368 mm. | 1 | null |
Barbara Palvin (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1993 ở Budapest) là một người mẫu thời trang, nữ diễn viên và người mẫu của Victoria Secret. Cô cũng được biết tới với vai trò là diễn viên trong phim Hercules: The Thracian Wars.
Đời sống cá nhân.
Barbara Palvin sinh ra ở Budapest, Hungary. Thời thơ ấu, Palvin thích bóng đá và ca hát. Hiện tại cô đang hẹn hò với ngôi sao nhí "Zack & Cody" Dylan Sprouse, và họ bắt đầu dọn về sống chung với nhau vào đầu năm 2019 tại Brooklyn, New York. | 1 | null |
Sóng hạ âm là sóng âm có tần số thấp hơn 20 Hz, ngưỡng nghe thấy bình thường của người. Khả năng nghe trở nên kém đi khi tần số giảm, vì vậy nên để con người tiếp nhận được hạ âm, áp suất âm thanh cần phải đủ cao. Tai là bộ phận chính có thể cảm nhận sóng hạ âm nhưng ở cường độ cao, những phần khác của cơ thể cũng có thể cảm nhận được sự rung động hạ âm.
Các nhà nghiên cứu tìm hiểu về âm thanh có tần số từ 20 Hz xuống đến 0.1 Hz và đôi khi đến 0.001 Hz. Sóng ở dải tần số này được sử dụng để dự báo động đất, khảo sát các tầng đất đá và khả năng chứa dầu mỏ dưới lòng đất. Trong y học thì nhịp tim thường vào cỡ 0,8 đến 2 Hz, và có thể coi phép chụp tim mạch hay "tâm thân động ký" (Ballistocardiography) là ứng dụng hạ âm trong y tế.
Sóng hạ âm có đặc trưng là khả năng di chuyển qua khoảng cách xa và vượt qua các vật cản mà ít bị hấp thụ. Trong âm nhạc, hạ âm có thể được tạo ra bằng ống dẫn sống âm.
Lịch sử.
Sóng hạ âm được phe Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất để định vị đại bác. Một trong những người đi đầu trong việc nghiên cứu sóng hạ âm là nhà khoa học người Pháp Vladimir Gavreau. Ông bắt đầu chú ý đến sóng hạ âm trong phòng thí nghiệm vào những năm 1960, khi ông và trợ lý thấy các dụng cụ rung động và màng nhĩ đau nhưng không có âm thanh nào được nghe thấy. Ông kết luận có hạ âm được tạo bởi quạt và hệ thống ống dẫn, Một thí nghiệm của ông là cái còi hạ âm.
Định nghĩa.
Hạ âm được Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ định nghĩa là âm thanh có tần số thấp hơn 20 Hz.
Nguồn phát.
Sóng hạ âm có thể được tạo ra từ các nguồn tự nhiên hoặc nhân tạo:
Phản ứng của động vật.
Động vật đã được biết từ lâu có thể cảm nhận sóng hạ âm đi qua mặt đất gây ra bởi những thảm họa thiên nhiên và coi chúng như cảnh báo. Một ví dụ gần đây là trận động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004. Các báo cáo cho thấy động vật đã rời bỏ khu vực vài giờ trước khi sóng thần ập vào bờ biển châu Á. Nguyên nhân thực sự vẫn chưa được xác định; vài ý kiến cho rằng đó là do ảnh hưởng của sóng điện từ, không phải của sóng hạ âm khiến các loài động vật chạy trốn.
Nghiên cứu năm 2013 bởi Jon Hagstrum của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ cho thấy bồ câu nhà dùng sóng hạ âm để điều hướng.
Phản ứng của con người.
20 Hz được xem là giới hạn thấp nhất mà người bình thường nghe được. Nếu sóng sin được tạo ra trong điều kiện lý tưởng và tại âm lượng cao, người nghe có thể xác định được âm có tần số 12 Hz. Con người cũng có thể cảm nhận chu kỳ đơn của âm dưới 10 Hz với cảm giác màng nhĩ bị ép.
Từ 1000 Hz, dải động của hệ thính giác giảm theo tần số. Hệ quả là chỉ một thay đổi nhỏ trong cường độ cũng dẫn đến sự thay đổi âm lượng từ nhỏ đến to. Kết hợp với sự phân rộng của ngưỡng nghe tuyệt đối trong số dân, một số người có thể không nghe được, còn một số người có thể nghe rõ âm có tần số rất thấp.
Một nghiên cứu chỉ ra rằng sóng hạ âm có thể gây ra cảm giác kinh sợ ở người. Có ý kiến cho rằng do không được tiếp nhận một cách có nhận thức, nó có thể khiến con người cảm thấy mơ hồ rằng hiện tượng kì lạ hay siêu nhiên đang diễn ra. Kĩ sư Vic Tandy đưa ra một lời giải thích trong điều tra của ông những năm 1980. Tandy, trong lúc làm việc trong phòng thí nghiệm, bắt đầu cảm thấy khó chịu và rằng có điều gì siêu nhiên đang diễn ra với ông. Sau đó, ông cho rằng do một cái quạt kim loại hỏng đã phát ra âm thanh khiến ông cảm thấy như vậy. Âm thanh đó không thể cảm nhận bằng tai người, nhưng cơ thể của Tandy đã phản ứng với âm thanh ở 19 HZ.
Một nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Khoa học thần kinh Thính giác tại trường đại học Sydney báo cáo bằng chứng cho thấy sóng hạ âm có thể tác động hệ thần kinh của một số người khi kích thích hệ tiền đình, và những thí nghiệm trên động vật cho thấy tác động giống như say sóng.
Năm 2006 nghiên cứu về tác động của âm thanh phát ra từ các turbine gió lên khu dân cư gần bên, sóng hạ âm ghi nhận được được cho là gây ra sự khó chịu hay mệt mỏi, tùy thuộc vào cường độ, với ít chứng cứ ủng hộ tác động sinh lý của sóng hạ âm dưới mức tiếp nhận được của người. Tuy nhiên, những nghiên cứu sau đó đã cho rằng sóng hạ âm không nghe được vẫn gây ra những tác động như đầy hơi, ù tai, và có thể gây rối loạn giấc ngủ. Các nghiên cứu khác cũng đã đưa ra sự tương quan giữa mức độ tiếng ồn trong các turbine và sự rối loạn giấc ngủ ở khu dân cư gần đấy, đồng thời khẳng định rằng vai trò của sóng hạ âm trong hiện tượng này chưa được giải thích trọn vẹn.
Trong một nghiên của trường đại học Ibaraki tại Nhật Bản, các nhà khoa học nói rằng điện não đồ cho thấy sóng hạ âm tạo ra bởi turbine gió "được xem là một sự khó chịu đối với những người làm việc gần một turbine gió hiện đại cỡ lớn."
Thí nghiệm sóng 17 Hz "Infrasonic".
Ngày 31 tháng 5 năm 2003, một nhóm nhà khoa học Anh tổ chức một thí nghiệm quy mô lớn, cho 700 người nghe nhạc với sóng sine tại 17 Hz chơi ở mức "gần ngưỡng nghe được", tạo ra bởi một loa siêu trầm gắn với hai phần một ống nước dài bảy mét. Buổi hòa nhạc thí nghiệm với tên gọi "Infrasonic" diễn ra tại Purcell Room với hai màn biểu diễn, mỗi màn gồm bốn bài nhạc. Hai bài trong mỗi buổi có âm 17 Hz chơi dưới nền nhạc.
Ở buổi hòa nhạc thứ hai, những bài nhạc chứa âm 17 Hz được tráo để kết quả thí nghiệm không tập trung vào bất kì bài nhạc nào. Những người tham gia không được biết trước bài nhạc nào chứa âm 17 Hz. Âm này đã dẫn đến một lượng lớn (22%) người nghe cho biết cảm thấy khó chịu hay buồn rầu, cảm thấy ớn lạnh ở xương sống hay cảm giác tò mò lo lắng hay sợ hãi.
Khi những bằng chứng này được đưa ra cho Hiệp hội Khoa học Anh, Giáo sư Richard Wiseman nói "Những kết quả này cho thấy âm thanh ở tần số thấp có thể làm vài người có những trải nghiệm kì lạ dù họ không thể nhận thức được sự hiện diện của sóng hạ âm. Một số nhà khoa học cho rằng hạ âm có thể xuất hiện ở những nơi bị ám khiến con người có những cảm giác kì dị rồi gán nó với ma—nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ giả thiết này."
Quan hệ với việc thấy ma.
Nhà tâm lý học Richard Wiseman của trường Đại học Hertfordshire cho rằng cảm giác lạ thường mà nhiều người gán với ma có thể bị gây nên bởi sự rung động hạ âm. Vic Tandy, nhân viên phòng thí nghiệm và giảng viên bán thời gian tại Đại học Coventry, cùng với Tiến sĩ Tony Lawrence của khoa tâm lý của trường đại học, viết một nghiên cứu năm 1988 với tên gọi "Những con ma trong Cỗ máy" cho "Tạp chí của Hiệp hội Nghiên cứu Tâm linh". Nghiên cứu của họ cho rằng sóng hạ âm ở 19 Hz có thể là nguyên nhân cho một số trường hợp nhìn thấy ma. Tandy đang làm việc muộn một mình tại một phòng thí nghiệm ở Warwick, bỗng cảm thấy lo sợ và nhận ra một đốm xám ở khóe mắt. Khi Tandy quay mặt ra đốm xám đó, không có gì ở đó cả.
Ngày tiếp theo, Tandy đang làm một chiếc kiếm liễu, với tay cầm được giữ trong êtô. Tuy cây kiếm không hề chạm thứ gì, lưỡi dao bắt đầu rung động dữ dội. Tìm hiểu sâu hơn, Tandy nhận ra cái quạt thông gió đang phát ra sóng ở tần số 18.98 Hz, rất gần với tần số cộng hưởng của mắt được đưa ra là 18 Hz bởi NASA. Tandy giả định rằng đây chính là lý do anh nhìn thấy ma—ông tin rằng đây là một ảo giác gây ra bởi sự cộng hưởng của mắt. Căn phòng dài đúng bằng một nửa bước sóng, và cái bàn đặt ở giữa, từ đó gây nên sóng dừng tạo nên dao động của lưỡi kiếm.
Tandy điều tra hiện tượng này kĩ hơn và viết một nghiên cứu tên "Con ma trong Cỗ máy". Ông tiếp tục điều tra ở một số địa điểm được cho là bị ma ám, gồm tầng hầm của Cục Thông tin Du lịch kế bên Nhà thờ chính tòa Coventry và Lâu đài Edinburgh.
Sóng hạ âm trong dò tìm kích nổ hạt nhân.
Sóng hạ âm là một trong vài kĩ thuật được dùng đễ xác định nếu một vụ nổ hạt nhân vừa diễn ra. Một mạng lưới gồm 60 trạm sóng hạ âm, cùng với các trạm địa chấn và thủy âm, gồm Hệ thống giám sát quốc tế (IMS) để giám sát sự tuân thủ Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện (CTBT). Các trạm sóng hạ âm IMS gồm tám cảm biến phong vũ biểu độ chính xác cao và các bộ lọc không gian sắp xếp theo một mảng bao phủ một vùng có diện tích xấp xỉ từ 1 đến 9 km². Bộ lọc không gian là những ống bức xa được thiết kế để cân bằng sự biến đổi áp đổi như rối loạn gió để cho ra kết quả chính xác hơn. Phong vũ biểu được làm để giám sát tần số thấp hơn khoảng 20 Hz. Sóng âm dưới 20 Hz có bước sóng dài và không dễ bị hấp thụ, cho phép việc nhận dạng qua khoảng cách lớn.
Bước sóng hạ âm nhân tạo có thể xuất hiện qua việc kích nổ và hoạt động khác của con người, hoặc được tạo ra bởi hoạt động tự nhiên như động đất, thời tiết cực đoan, sấm sét và những nguồn khác. Giống địa chất học pháp y, các thuật toán và những kĩ thuật lọc khác là cần thiết để phân tích dữ liệu và phân loại sự kiện để xác định xem nếu một vụ nổ hạt nhân vừa diễn ra. Dữ liệu được truyền từ các trạm qua đường truyền bảo mật để được phân tích sâu hơn. Một chữ ký số được nhúng vào thông tin được gửi từ mỗi trạm để xác thực.
Dò tìm và đo đạc.
NASA Langley đã thiết kế và phát triển một hệ thống dò tìm hạ âm sử dụng để thực hiện những đo đạc bằng sóng hạ âm tại một địa điểm mà không khả thi trước đó. Hệ thống bao gồm một microphone tụ điện PCB Model 377M06, có đường kính màng 3 inch và một kính chắn gió nhỏ gọn. Công nghệ điện cho ra tiếng ồn nền nhỏ nhất, bởi vì tiếng ồn Johnson tạo ra trong đồ điện tử (bộ tiền khuếch đại) được tối thiểu hóa.
Thiết kế của microphone khác với một hệ thống âm thanh bình thường ở tính năng kì lạ của sóng hạ âm. Đầu tiên, hạ âm lan truyền qua khoảng cách lớn của khí quyển Trái đất, kết quả của sự hấp thụ khí quyển thấp và ống dẫn khúc xạ cho phép sự lan truyền bởi nhiều bước nhảy giữ bề mặt Trái đất và tầng bình lưu. Tính chất thứ hai đó là sự xuyên thẳng tốt của sóng hạ âm qua vật chất rắn – một tính chất được sử dụng trong thiết kế và gia công của hệ thống kính chắn gió.
Từ đó hệ thống thỏa mãn vài yêu cầu về thiết bị đo đạc có lợi thế về âm thanh: (1) một microphone tần số thấp với tiếng ồn nền nhỏ, cho phép xác định tín hiệu mức thấp; (2) một kính chắn gió nhỏ gọn cho phép (3) sự triển khai nhanh chóng của một mảng microphone. Hệ thống cũng bao gồm một hệ thống thu dữ liệu cho phép dò tìm ở thời gian thực, hình dạng và xác thực của các nguồn tần số thấp.
Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện sử dụng sóng hạ âm làm một trong các công nghệ giám sát, cùng với giám sát bằng địa chất, thủy âm, và nuclit phóng xạ khí quyển. Hạ âm to nhất từng được ghi nhận bởi hệ thống giám sát được tạo ra bởi thiên thạch Chelyabinsk năm 2013. | 1 | null |
Margaret của Liên hiệp Anh (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của Quốc vương George VI và Vương hậu Elizabeth và là người em ruột duy nhất của Nữ vương Elizabeth II.
Cuộc sống của Margaret đã thay đổi đáng kể vào năm 6 tuổi, khi bác ruột bà là Quốc vương Edward VIII thoái vị để kết hôn với Wallis Simpson. Cha của Margaret sau đó trở thành Quốc vương, chị gái của bà trở thành người kế vị và bà đứng thứ hai trong danh sách kế vị ngai vàng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, hai chị em sống tại Lâu đài Windsor bất chấp những lời đề nghị di tản họ đến Canada. Trong những năm chiến tranh, bà được coi là còn quá trẻ để thực hiện bất kỳ nhiệm vụ chính thức nào và thay vào đó là tiếp tục việc học của mình.
Sau chiến tranh, Margaret trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất thế giới, với lối sống hào hoa và những mối tình lãng mạn nổi tiếng. Nổi tiếng nhất là việc bà đã yêu Đại tá Peter Townsend. Năm 1952, cha bà qua đời, chị gái bà trở thành Nữ vương và Townsend ly dị vợ, Rosemary. Ông cầu hôn Margaret vào đầu năm sau. Nhiều người trong chính phủ tin rằng Townsend sẽ là một người chồng không phù hợp với người em gái 22 tuổi của Nữ vương và Giáo hội Anh không cho phép kết hôn với một người đàn ông đã ly dị. Margaret sau cùng từ bỏ kế hoạch của mình với Townsend và kết hôn với nhiếp ảnh gia Antony Armstrong-Jones vào năm 1960; Nữ vương đã phong cho ông làm Bá tước xứ Snowdon. Cặp vợ chồng có một cậu con trai, David và một cô con gái, Sarah, trước khi ly hôn vào năm 1978.
Margaret thường được xem là một thành viên tai tiếng của Vương thất Anh. Cuộc ly hôn của bà nhận được nhiều dư luận tiêu cực và cuộc sống riêng tư của bà trong nhiều năm từng là chủ đề bàn tán sôi nổi của giới truyền thông và những người theo dõi Vương thất. Sức khỏe của bà dần trở nên xấu đi trong hai thập kỷ cuối đời. Bà là người nghiện thuốc lá nặng trong phần lớn thời trưởng thành của mình và đã phẫu thuật phổi vào năm 1985, một đợt viêm phổi vào năm 1993 và trải qua ít nhất ba cơn đột quỵ trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến 2001. Bà qua đời tại Luân Đôn vào ngày 9 tháng 2 năm 2002 sau khi trải qua cơn đột quỵ lần thứ tư và cuối cùng ở tuổi 71.
Thời thơ ấu.
Margaret sinh ngày 21 tháng 8 năm 1930 tại Lâu đài Glamis ở Scotland, ngôi nhà tổ tiên của gia đình mẹ bà và được gọi một cách trìu mến là "Margot" trong gai đình Vương thất. Bà được đỡ đầu bởi Ngài Henry Simson, bác sĩ sản khoa Vương thất. Thư ký gia đình, J. R. Clynes, đã có mặt để xác thực sự ra đời. Việc đăng ký khai sinh đã bị trì hoãn trong vài ngày để tránh việc bà bị đánh số 13 trong đăng ký giáo xứ.
Vào thời điểm chào đời, bà đứng thứ tư trong danh sách kế vị ngai vàng Anh Quốc. Cha bà là Công tước xứ York (sau này là Quốc vương George VI), con trai thứ hai của Quốc vương George V và Vương hậu Mary. Mẹ bà là Công tước phu nhân xứ York (sau này là Vương hậu Elizabeth), con gái út của một quý tộc người Scotland Claude Bowes-Lyon, Bá tước thứ 14 xứ Strathmore và Kinghorne. Công tước phu nhân xứ York ban đầu muốn đặt tên cho cô con gái thứ hai của mình là Ann Margaret, khi bà giải thích với Vương hậu Mary trong một bức thư "Con rất nóng lòng muốn được gọi đứa bé là Ann Margaret, vì con nghĩ Ann xứ York nghe khá đẹp, & Elizabeth và Ann nghe rất hợp nhau." Quốc vương George V không thích cái tên Ann nhưng chấp thuận cái tên thay thế là "Margaret Rose".
Margaret được làm lễ rửa tội trong nhà nguyện riêng của Cung điện Buckingham vào ngày 30 tháng 10 năm 1930 bởi Cosmo Lang, Tổng Giám mục Canterbury.
Thời thơ ấu của Margaret được dành chủ yếu tại các dinh thự của gia đình York tại 145 Piccadilly (nhà phố của họ ở Luân Đôn) và Royal Lodge ở Windsor. Nhà York được công chúng coi là một gia đình lý tưởng: cha, mẹ và con, nhưng những tin đồn vô căn cứ rằng Margaret bị câm điếc vẫn chưa hoàn toàn bị xua tan cho đến khi bà xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng tại đám cưới của chú bà là Vương tử George vào năm 1934.
Bà được giáo dục cùng với chị gái của mình, Vương nữ Elizabeth, bởi phó mẫu người Scotland của họ, Marion Crawford. Giáo dục của Margaret chủ yếu được giám sát bởi mẹ bà, người mà theo lời của Randolph Churchill "không bao giờ có mục đích nuôi dạy các cô con gái của mình có gì hơn là những cô gái trẻ cư xử tử tế". Khi Vương hậu Mary nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, Bà công tước xứ York nhận xét "Tôi không biết ý của bà ấy là gì. Sau tất cả, tôi và các chị em của tôi chỉ có phó mẫu và tất cả chúng tôi đều kết hôn ổn — một trong số chúng tôi thậm chí còn "rất" ổn". Margaret luôn cảm thấy tiếc nuối về trình độ học vấn hạn chế của mình sau khi trưởng thành, đặc biệt là trong những năm sau này và nhắm vào mẹ bà những lời chỉ trích. Tuy nhiên, mẹ của Margaret nói với một người bạn rằng bà "hối hận" vì con gái bà không được đến trường như những đứa trẻ khác và việc thuê một phó mẫu thay vì gửi các cô con gái đến trường có thể chỉ được thực hiện theo sự yêu cầu của Quốc vương George V. Khi còn nhỏ, tác giả của "Peter Pan" là J. M. Barrie đã đọc truyện cho hai chị em.
Ông nội của Margaret là George V qua đời khi bà mới 5 tuổi và bác của bà lên ngôi Quốc vương Edward VIII. Chưa đầy 1 năm sau, trong cuộc khủng hoảng thoái vị vào ngày 11 tháng 12 năm 1936, ông từ bỏ ngai vàng để kết hôn với Wallis Simpson, một người Mỹ đã ly hôn hai lần, người mà cả Giáo hội Anh và các chính phủ các nước tự trị sẽ không chấp nhận làm Vương hậu. Giáo hội sẽ không công nhận cuộc hôn nhân của một người phụ nữ đã ly hôn với người chồng cũ còn sống là hợp lệ. Sự thoái vị của Edward đã khiến Công tước xứ York bất đắc dĩ trở thành Quốc vương George VI và Margaret trở thành người đứng thứ hai sau ngai vàng với tước hiệu "Vương nữ Margaret" để thể hiện địa vị của mình là một người con của Quốc chủ. Gia đình họ chuyển đến Cung điện Buckingham; phòng của Margaret hướng ra đại lộ The Mall.
Margaret là một Nữ Ấu sinh Hướng đạo trong nhóm Nữ Ấu sinh Hướng đạo đầu tiên của Cung điện Buckingham, được thành lập vào năm 1937. Bà còn là một Nữ Hướng đạo và sau đó là Nữ Hướng đạo lớn. Bà từng là Chủ tịch của Hội Nữ Hướng đạo Anh Quốc từ năm 1965 cho đến khi qua đời vào năm 2002.
Tại thời điểm bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai, Margaret và chị gái của bà sống ở Birkhall, tại Lâu đài Balmoral, họ ở lại đây cho đến Giáng sinh năm 1939, trải qua những đêm lạnh lẽo đến nỗi nước uống trong những chiếc bình pha lê bên giường của họ bị đóng băng. Họ đón Giáng sinh tại Nhà Sandringham trước khi chuyển đến Lâu đài Windsor, ngay ngoại ô Luân Đôn, trong phần lớn thời gian còn lại của cuộc chiến. Tử tước Hailsham đã viết cho Thủ tướng Winston Churchill để khuyên các Vương nữ di tản đến nơi an toàn hơn ở Canada và mẹ của họ đã nói một câu nói nổi tiếng "Những đứa trẻ sẽ không đi đâu hết nếu không có tôi. Tôi sẽ không đi mà không có Quốc vương. Và Quốc vương sẽ không bao giờ rời khỏi đây."
Không giống như các thành viên khác của vương thất, Margaret không được mong đợi sẽ đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ công cộng hoặc chính thức nào trong chiến tranh. Thay vào đó, bà phát triển kỹ năng ca hát và chơi piano, thường thể hiện các giai điệu từ các vở nhạc kịch sân khấu. Những người cùng thời với bà cho rằng bà được cha mẹ nuông chiều, đặc biệt là cha, người cho phép bà có những quyền tự do thường không được phép, chẳng hạn như được phép ở lại tới bữa tối ở tuổi 13.
Crawford tuyệt vọng trước sự chú ý mà Margaret đang nhận được, khi viết thư cho bạn bè "Năm nay các bạn có thể chỉ mời Vương nữ Elizabeth đến bữa tiệc của các bạn không? ... Vương nữ Margaret thu hút mọi sự chú ý và Vương nữ Elizabeth cho phép cô ấy làm điều đó." Elizabeth, tuy nhiên, không bận tâm đến điều này và nhận xét "Ồ, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều khi có Margaret ở đây — mọi người đều cười với những gì Margaret nói". Cha của Margaret, George VI rất quan tâm đến cô con gái út xinh xắn, hoạt bát và duyên dáng của mình, đến mức có người nói rằng Margaret được yêu mến hơn chị gái của mình là Elizabeth. Quốc vương George VI đã mô tả hai cô con gái của mình "Lilibet là niềm tự hào của tôi và Margaret là niềm vui của tôi."
Những năm sau chiến tranh.
Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Margaret xuất hiện trên ban công tại Cung điện Buckingham cùng gia đình và Thủ tướng Winston Churchill. Sau đó, cả Elizabeth và Margaret cùng hòa vào đám đông bên ngoài cung điện, một người ẩn danh hô vang, "Chúng tôi muốn thấy Quốc vương, chúng tôi muốn thấy Vương hậu!"
Ngày 15 tháng 4 năm 1946, Margaret được xác nhận vào Giáo hội Anh. Ngày 1 tháng 2 năm 1947, bà, Elizabeth và cha mẹ của họ bắt đầu một chuyến tham quan tiểu bang ở Nam Phi. Chuyến thăm kéo dài 3 tháng là chuyến thăm đầu tiên của Margaret ở nước ngoài và sau đó bà tuyên bố rằng bà nhớ "từng phút của nó". Người đi kèm Margaret là Peter Townsend, quan hầu của Quốc vương và rất kiên quyết đối với Margaret, người mà ông dường như coi là một đứa trẻ được nuông chiều. Cuối năm, Margaret là phù dâu trong đám cưới của chị gái Elizabeth. Trong ba năm tiếp theo, Elizabeth có hai người con, Charles và Anne, họ đã đẩy Margaret xuống trong danh sách kế vị.
Năm 1950, cựu nữ quan vương thất Marion Crawford xuất bản một cuốn tiểu sử không được cấp phép về thời thơ ấu của Elizabeth và Margaret, có tên "The Little Princesses", trong đó tác giả mô tả Margaret là một người "niềm vui nhẹ nhàng và vui đùa" và "trò hề thú vị và... kỳ quặc" của bà.
Là một thiếu nữ xinh đẹp với vòng eo 18 inch và "đôi mắt xanh sống động", Margaret rất thích giao du với tầng lớp thượng lưu và quý tộc trẻ, bao gồm Sharman Douglas, con gái của đại sứ Mỹ, Lewis Williams Douglas. Là một người đẹp nổi tiếng với vẻ đẹp quyến rũ và gu thời trang sành điệu, Margaret thường được xuất hiện trên báo chí tại các buổi dạ tiệc, tiệc tùng và câu lạc bộ đêm, với những người bạn được gọi là "Margaret Set". Số lần tham gia hoạt động chính thức của bà dần tăng lên (chúng bao gồm chuyến tham quan Ý, Thụy Sĩ và Pháp) và bà đã tham gia ngày càng nhiều các tổ chức từ thiện với tư cách là chủ tịch hoặc người bảo trợ.
Báo chí bàn luận về "cô gái độc thân đủ tư cách nhất thế giới", và những mối tình được cho là của bà với hơn 30 cử nhân, kể cả Hon. Dominic Elliot, Colin Tennant (sau này là Baron Glenconner) và Thủ tướng tương lai của Canada John Turner. Hầu hết đều có chức tước và hầu hết đều giàu có. Gia đình bà báo rằng bà sẽ kết hôn với Lord Dalkeith, nhưng không giống như ông, Vương nữ không quan tâm đến các hoạt động ngoài trời. Billy Wallace, người thừa kế duy nhất với khối tài sản 2,8 triệu bảng Anh (tương đương 674 triệu bảng Anh ngày nay) và một người bạn cũ, được cho là người hẹn hò yêu thích của Margaret vào giữa những năm 1950. Trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 21 của bà tại Balmoral vào tháng 8 năm 1951, báo chí đã thất vọng khi chỉ chụp ảnh Margaret với Townsend, luôn làm nền cho những bức tranh về sự xuất hiện của hoàng gia, và đối với cha mẹ bà là một người bạn đồng hành an toàn khi nhiệm vụ của Elizabeth tăng lên. Tháng sau, cha bà phải trải qua cuộc phẫu thuật vì bệnh ung thư phổi và Margaret được bổ nhiệm làm một trong những Tham tán Nhà nước, người đảm nhận các nhiệm vụ chính thức của Quốc vương trong khi ông không có khả năng. Cha bà qua đời vào 5 tháng sau đó, vào ngày 6 tháng 2 năm 1952 và chị gái bà trở thành Nữ vương.
Mối tình với Peter Townsend.
Mối quan hệ ban đầu.
Margaret rất đau buồn trước cái chết của cha bà và được kê đơn thuốc an thần để giúp bà ngủ. Về cha mình, bà viết "Ông ấy là một người tuyệt vời, là trái tim và trung tâm của gia đình hạnh phúc của chúng tôi." Bà được an ủi bởi niềm tin vào Kitô giáo của mình, đôi khi đi nhà thờ hai lần mỗi ngày. Cùng với người mẹ góa của mình, Margaret chuyển ra khỏi Cung điện Buckingham và chuyển vào Nhà Clarence, trong khi chị gái bà, hiện là Nữ hoàng và gia đình chuyển ra khỏi Clarence House và chuyển vào Cung điện Buckingham.
Sau khi Quốc vương qua đời, Townsend được bổ nhiệm làm Quản gia trưởng của cấu trúc hộ gia đình đã được tái cấu trúc của mẹ bà. Trong chiến tranh, Quốc vương đề nghị chọn các phụ tá cung điện là những người có trình độ cao trong quân đội, thay vì chỉ các quý tộc. Được bảo rằng một anh hùng chiến tranh đẹp trai đã đến, các Vương nữ gặp ông vào ngày đầu tiên của ông tại Cung điện Buckingham năm 1944; Elizabeth được cho là đã nói với em gái 13 tuổi của bà rằng "Thật xui xẻo, ông ấy đã kết hôn". Nhiệm vụ tạm thời trong ba tháng từ RAF trở thành vĩnh viễn. George VI và Mary rất thích Townsend; Theo báo cáo, Quốc vương coi người cựu chiến binh là bình tĩnh và chiến đấu hiệu quả như đứa con trai mà ông chưa từng có. Ông có thể đã biết về sự say mê của con gái mình với Townsend không có tước vị và không giàu có, được báo cáo khi thấy cận thần miễn cưỡng tuân theo lệnh của Vương nữ để bế bà lên cầu thang ở cung điện sau một bữa tiệc.
Khi mối quan hệ của Townsend và Margaret bắt đầu đang gây tranh cãi. Vương nữ nói với bạn bè rằng bà đã yêu ngựa trong chuyến du lịch Nam Phi năm 1947, nơi họ thường cưỡi ngựa cùng nhau. Nhà sử học Craig Brown nói rằng, theo một người phụ trách National Trust, Townsend đã yêu cầu phòng ngủ bên cạnh phòng ngủ của bà trong chuyến đi đến Belfast vào tháng 10 năm 1947. Ngoài ra, có giả thuyết cho rằng mối quan hệ của họ bắt đầu vào khoảng năm 1951. Townsend nói rằng tình yêu của ông dành cho bà bắt đầu vào tháng 8 năm 1951, khi Vương nữ đánh thức giấc ngủ trưa của ông sau bữa trưa dã ngoại trong khi Quốc vương xem. Townsend thường xuyên ở gần Margaret đến nỗi những người chuyên viết tin đồn đã coi ông là người cầu hôn cho Vương nữ. Townsend và vợ ly thân vào năm 1951, được báo chí chú ý vào tháng 7, mặc dù độ chính xác cho thời điểm mà bà rời khỏi nhà của họ là không rõ ràng. Tháng 6 năm 1952, cặp vợ chồng bị ghẻ lạnh đã chiêu đãi Nữ vương, Vương phu Philip và Vương nữ Margaret tại một bữa tiệc cocktail tại Adelaide Cottage. Một tháng sau, bà Townsend và đối tác mới của bà tham dự giám khảo tại Royal Windsor Horse Show. Các báo cáo đầu tiên cho rằng việc Townsend và Margaret muốn kết hôn được bắt đầu vào tháng 8 năm 1952, nhưng những điều này vẫn không phổ biến. Cuộc ly hôn vào tháng 11 ít được đề cập ở Vương quốc Anh và chi tiết hơn ở nước ngoài. Tuy nhiên, sau khi cuộc ly hôn được hoàn tất vào tháng 12 năm 1952, tin đồn về ông và Margaret bắt đầu được lan truyền; cuộc ly hôn và chia sẻ nỗi đau buồn về cái chết của Quốc vương vào tháng 2 năm 1952, có thể đã đưa họ đến với nhau, trong sự riêng tư của Clarence House, nơi Vương nữ có căn hộ riêng của mình.
Cầu hôn.
Townsend ngỏ lời cầu hôn Margaret vào tháng 4 năm 1953. Ông hơn bà 15 tuổi và có hai người con từ cuộc hôn nhân trước. Margaret chấp nhận và thông báo cho chị gái của mình, Nữ vương, người được yêu cầu đồng ý bởi Đạo luật Hôn nhân Hoàng gia 1772. Như trong cuộc khủng hoảng thoái vị, Giáo hội Anh từ chối tái hôn của những người đã ly hôn. Vương hậu Mary gần đây đã qua đời và Nữ vương Elizabeth II đã lên kế hoạch đi thăm Khối Thịnh vượng chung trong 6 tháng sau lễ đăng quang của mình. Bà nói với em gái của mình "Trong hoàn cảnh này, đó không phải là điều không hợp lý khi chị yêu cầu em đợi một năm" và giữ bí mật về mối quan hệ cho đến sau khi đăng quang.
Mặc dù truyền thông nước ngoài đồn đoán về mối quan hệ của Margaret và Townsend, nhưng báo chí ở Vương quốc Anh thì không. Sau khi các phóng viên nhìn thấy bà nhổ lông tơ trên áo khoác của ông trong lễ đăng quang vào ngày 2 tháng 6 năm 1953 — "Tôi chưa bao giờ nghĩ gì về chúng và Margaret cũng vậy", Townsend sau đó nói rằng; "Sau đó, cơn bão đã tan" — "The People" lần đầu tiên đề cập đến mối quan hệ ở Vương quốc Anh, vào ngày 14 tháng 6. Với tiêu đề "They Must Deny it NOW", bài báo trên trang nhất cảnh báo rằng "những tin đồn tai tiếng về Vương nữ Margaret đang chạy đua khắp thế giới", mà tờ báo tuyên bố là "tất nhiên, hoàn toàn không đúng sự thật". Báo chí nước ngoài tin rằng Đạo luật Regency 1953 — điều khiến Vương tế Philip, chồng của Nữ vương, nhiếp chính thay vì Margaret phòng khi Nữ vương qua đời — đã được ban hành để cho phép Vương nữ kết hôn với Townsend, nhưng vào cuối ngày 23 tháng 7, hầu hết các tờ báo khác của Anh ngoại trừ "Daily Mirror" không thảo luận về những tin đồn. Thủ tướng Rab Butler yêu cầu chấm dứt "sự suy đoán đáng trách" đó mà không đề cập đến Margaret hoặc Townsend.
Cuộc khủng hoảng hiến pháp mà cuộc hôn nhân được cầu hôn gây ra đã được công khai. Nữ vương được thư ký riêng của bà, Sir Alan Lascelles, khuyên nên đưa Townsend ra nước ngoài, nhưng bà từ chối và thay vào đó, chuyển ông từ gia đình của Nữ vương sang nhà riêng của bà, mặc dù Townsend không đi cùng Margaret như kế hoạch trong chuyến tham quan Nam Rhodesia. Thủ tướng Churchill đích thân tán thành việc "một phụ nữ hoàng gia trẻ đáng yêu kết hôn với một phi công trẻ trung dũng cảm" nhưng vợ ông nhắc nhở Churchill rằng ông mắc phải sai lầm tương tự trong cuộc khủng hoảng thoái vị. Các Bộ trưởng từ chối chấp thuận cuộc hôn nhân, và Geoffrey Fisher, Tổng giám mục của Canterbury, không chấp thuận việc Margaret kết hôn với một người đàn ông đã ly hôn; những người phản đối nói rằng cuộc hôn nhân sẽ đe dọa chế độ quân chủ như thời Edward VIII. "Church of England Newspaper" nói rằng Margaret "là một phụ nữ tôn nghiêm trong nhà thờ, người biết các nhà lãnh đạo của nhà thờ có quan điểm mạnh mẽ như thế nào trong vấn đề này", nhưng "Sunday Express" — từng hỗ trợ Edward và Wallis — nói rằng "IF THEY WANT TO MARRY, WHY SHOULDN'T THEY?".
Churchill thảo luận về cuộc hôn nhân tại Hội nghị Thủ tướng Khối thịnh vượng chung năm 1953 được tổ chức với lễ đăng quang; Đạo luật Westminster 1931 yêu cầu các nghị viện Dominion cũng phải thông qua bất kỳ Dự luật Từ bỏ nào thay đổi dòng kế vị. Chính phủ Canada tuyên bố rằng việc thay đổi đường lối hai lần trong 25 năm sẽ gây hại cho chế độ quân chủ. Churchill thông báo với Nữ vương rằng cả các Bộ trưởng của ông và các thủ tướng Dominion đều phản đối cuộc hôn nhân và rằng Quốc hội sẽ không chấp thuận một cuộc hôn nhân sẽ không được Giáo hội Anh công nhận trừ khi Margaret từ bỏ quyền lên ngôi.
Vương tế Philip được cho là người phản đối Townsend nhiều nhất trong gia đình vương thất, trong khi mẹ và chị gái của Margaret muốn bà hạnh phúc nhưng không thể chấp thuận cuộc hôn nhân. Bên cạnh vụ ly hôn của Townsend, hai vấn đề lớn là tài chính và hiến pháp. Margaret không sở hữu khối tài sản lớn của chị gái và sẽ cần khoản trợ cấp 6,000 bảng Anh mỗi năm và 15,000 bảng phụ cấp mà Quốc hội cung cấp cho bà khi có một cuộc hôn nhân phù hợp. Bà không phản đối việc bị loại khỏi hàng ngũ kế vị ngai vàng bởi Nữ vương và tất cả các người con của bà vẫn sẽ sống tốt, nhưng việc nhận được sự chấp thuận của quốc hội cho cuộc hôn nhân này sẽ rất khó khăn và không chắc chắn. Ở tuổi 25, Margaret sẽ không cần Elizabeth cho phép theo Đạo luật 1772; bà sẽ có thể, sau khi thông báo cho Hội đồng Cơ mật của Vương quốc Anh, kết hôn trong một năm nếu Quốc hội không ngăn cản bà. Tuy nhiên, Churchill nói với Nữ vương, nếu một người có thể dễ dàng rời khỏi hàng kế vị, thì một người khác có thể dễ dàng vào hàng ngũ, gây ra nguy hiểm cho một chế độ quân chủ cha truyền con nối.
Nữ vương đã bảo cặp đôi hãy đợi đến năm 1955, khi Margaret 25 tuổi, tránh việc Nữ vương phải công khai phản đối cuộc hôn nhân của em gái mình. Lascelles — người so sánh Townsend với Theudas "tự hào mình là ai đó" — hy vọng rằng bà chia tay ông và Margaret sẽ kết thúc mối tình lãng mạn của họ. Churchill sắp xếp cho Townsend làm Sĩ quan không quân tại Đại sứ quán Anh ở Bruxelles; ông được gửi đi vào ngày 15 tháng 7 năm 1953, trước khi Margaret trở về từ Rhodesia vào ngày 30 tháng 7. Nhiệm vụ đột ngột đến nỗi đại sứ Anh chỉ biết về chúng thông qua một tờ báo. Mặc dù Vương nữ và Townsend đều biết về nhiệm vụ mới của ông, nhưng họ được cho là đã hứa hẹn với nhau vài ngày trước khi ông rời đi.
Kết thúc mối quan hệ.
Ngày 31 tháng 10 năm 1955, Margaret đưa ra một tuyên bố:"Thoát nước triệt để, khử mùi triệt để", Margaret sau đó nói, bà và Townsend đã cùng nhau viết bản tuyên bố. Bà từ chối khi Oliver Dawnay, thư ký riêng của Nữ vương, yêu cầu bà xóa bỏ từ "tận tâm". Tuyên bố bằng văn bản chứa chữ ký "Margaret" là xác nhận chính thức đầu tiên về mối quan hệ. Một số người Anh không tin tưởng hoặc tức giận trong khi những người khác, bao gồm cả giáo sĩ, tự hào về Vương nữ vì đã chọn nghĩa vụ và đức tin; báo chí có nhiều ý kiến về quyết định. Hầu hết nhận được sự thờ ơ hoặc chỉ trích cặp đôi giữa nam giới, nhưng nhận được sự quan tâm lớn giữa nữ giới, dù là ủng hộ hay phản đối. Kenneth Tynan, John Minton, Ronald Searle và những người khác đã ký một bức thư ngỏ từ "thế hệ trẻ". Được xuất bản trong "Daily Express" vào ngày 4 tháng 11, bức thư nói rằng sự kết thúc của mối quan hệ đã phơi bày sự thành lập và "đạo đức giả quốc gia của chúng tôi".
Townsend kể lại rằng "Chúng tôi đã đi đến cuối chặng đường, tình cảm mà chúng tôi dành cho nhau là không thay đổi, nhưng chúng đã mang đến cho chúng tôi một gánh nặng quá lớn nên chúng tôi quyết định cùng nhau vượt qua". Hãng tin "Associated Press" nói rằng tuyên bố của Margaret gần như là "sự hiến dâng cuộc đời của bà cho các nghĩa vụ của vương thất, khiến cho cuộc hôn nhân của bà không có khả năng xảy ra trong tương lai gần"; Vương nữ có thể đã mong đợi sẽ không bao giờ kết hôn sau khi kết thúc mối quan hệ lâu dài, bởi vì hầu hết những người bạn nam đủ điều kiện đã không còn phù hợp với bà. Barrymaine đồng ý rằng Margaret dự định tuyên bố có nghĩa là bà sẽ không bao giờ kết hôn, nhưng viết rằng Townsend có khả năng không chấp nhận bất kỳ lời thề nào như vậy với ông bởi Vương nữ và việc ông rời Vương quốc Anh trong 2 năm sau đó là nhằm mục đích không can thiệp vào cuộc sống của bà. "Cả hai chúng tôi đều có một cảm giác nhẹ nhõm ngoài sức tưởng tượng. Cuối cùng thì chúng tôi cũng được giải phóng khỏi vấn đề khủng khiếp này", Townsend nói.
Sau khi từ chức khỏi RAF và đi du lịch vòng quanh thế giới trong 18 tháng, Townsend trở về vào tháng 3 năm 1958; ông và Margaret đã gặp nhau vài lần, nhưng không tránh khỏi báo chí ("TOGETHER AGAIN") hoặc sự không chấp thuận của hoàng gia. Townsend lại rời Vương quốc Anh để viết sách về chuyến đi của mình; Barrymaine kết luận vào năm 1958 rằng "không có trở ngại cơ bản nào đối với cuộc hôn nhân của họ đã vượt qua được — hoặc cho thấy bất kỳ triển vọng nào có thể vượt qua". Townsend nói trong một chuyến tham quan sách năm 1970 rằng ông và Margaret không hề trao đổi thư từ và họ không gặp nhau kể từ cuộc gặp "thân thiện" năm 1958, "giống như tôi nghĩ rằng rất nhiều người không bao giờ gặp lại bạn gái cũ của họ". Những bức thư tình của họ nằm trong Kho lưu trữ Hoàng gia và công chúng sẽ không được biết cho đến 100 năm sau ngày sinh của Margaret, tháng 2 năm 2030.
Kết hôn với Antony Armstrong-Jones.
Billy Wallace sau đó nói rằng "Sự việc với Townsend là một chuyện vô nghĩa của một cô gái đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Chúng chưa bao giờ là điều lớn lao đối với bà mà mọi người vẫn thường nghĩ". Margaret chấp nhận một trong nhiều lời cầu hôn của Wallace, nhưng hôn ước đã chấm dứt trước khi ông thông báo thừa nhận một mối tình lãng mạn ở Bahamas; "Tôi đã có được cơ hội của mình và thổi bay chúng bằng cái miệng to của mình", Wallace nói.
Margaret gặp nhiếp ảnh gia Antony Armstrong-Jones tại một bữa tiệc tối năm 1958. Họ đính hôn vào tháng 10 năm 1959. Armstrong-Jones cầu hôn Margaret bằng một chiếc nhẫn đính hôn bằng ruby được bao quanh bởi những viên kim cương có hình hoa hồng. Bà được cho là chấp nhận lời cầu hôn của ông một ngày sau khi biết được từ Townsend rằng ông có ý định kết hôn với một phụ nữ trẻ người Bỉ, Marie-Luce Jamagne, có số tuổi bằng một nửa số tuổi ông và có nét tương đồng với Margaret. Việc Margaret tuyên bố đính hôn vào ngày 26 tháng 2 năm 1960 đã gây bất ngờ cho báo giới, vì bà đã che giấu chuyện tình cảm với các phóng viên.
Margaret kết hôn với Armstrong-Jones tại Tu viện Westminster vào ngày 6 tháng 5 năm 1960. Buổi lễ là đám cưới hoàng gia đầu tiên được phát sóng trên truyền hình, thu hút 300 triệu lượt xem trên toàn thế giới. Tổng cộng, 2.000 khách mời đã được mời đến dự lễ cưới. Váy cưới của Margaret được thiết kế bởi Norman Hartnell và bà đã diện bộ váy cùng với chiếc vương miện Poltimore. Bà có 8 phù dâu trẻ, dẫn đầu là cháu gái của bà, Vương nữ Anne. Công tước xứ Edinburgh hộ tống cô dâu và phù rể là Tiến sĩ Roger Gilliatt. Tổng giám mục Canterbury Geoffrey Fisher đã tiến hành nghi lễ kết hôn. Sau buổi lễ, cặp đôi xuất hiện theo phong cách truyền thống trên ban công của Cung điện Buckingham. Tuần trăng mật là một chuyến du ngoạn Caribê kéo dài 6 tuần trên du thuyền "Britannia" của vương thất. Như một món quà cưới, Colin Tennant đã tặng bà một mảnh đất trên hòn đảo Caribe riêng của ông, Mustique. Cặp vợ chồng mới cưới sau đó chuyển đến Cung điện Kensington.
Năm 1961, chồng của Margaret được phong tước hiệu Bá tước xứ Snowdon. Cặp vợ chồng có hai người con (cả hai đều được sinh bằng phương pháp mổ lấy thai theo yêu cầu của Margaret): David sinh ngày 3 tháng 11 năm 1961 và Sarah sinh ngày 1 tháng 5 năm 1964. Cuộc hôn nhân đã mở rộng mối quan hệ xã hội của Margaret vượt ra ngoài hoàng gia và tầng lớp quý tộc để bao gồm những người nổi tiếng kinh doanh và những người sống phóng túng. Thời điểm đó, chúng được cho là phản ánh sự phá bỏ các rào cản giai cấp của người Anh. Nhà Snowdon đã thử nghiệm phong cách và thời trang của những năm 1960.
Ly thân và ly hôn.
Được biết, Margaret lần đầu tiên ngoại tình vào năm 1966 với cha đỡ đầu của con gái mình là Anthony Barton, một nhà sản xuất rượu vang ở Bordeaux. Một năm sau, bà có mối liên lạc trong một tháng với Robin Douglas-Home, cháu trai của cựu Thủ tướng Anh Alec Douglas-Home. Margaret tuyên bố rằng mối quan hệ của bà với Douglas-Home không có gì, nhưng những bức thư của bà gửi cho ông (sau đó được bán) cho thấy rằng họ rất thân mật. Douglas-Home, người bị trầm cảm, chết vì tự tử 18 tháng sau khi chia tay với Margaret. Những lời khẳng định cho rằng bà có mối quan hệ tình cảm với nhạc sĩ Mick Jagger, diễn viên Peter Sellers và vận động viên cricketer người Úc Keith Miller vẫn chưa được chứng minh. Theo nhà sử học Charlotte Breese, nghệ sĩ giải trí Leslie Hutchinson có một "mối liên lạc ngắn ngủi" với Margaret vào năm 1955. Một tiểu sử năm 2009 của diễn viên David Niven bao gồm các xác nhận, dựa trên thông tin từ góa phụ của Niven và một người bạn tốt của Niven, rằng ông đã ngoại tình với Vương nữ, người đàn em kém 20 tuổi. Năm 1975, Vương nữ được liệt kê trong số những người phụ nữ mà nam diễn viên Warren Beatty từng có mối quan hệ tình cảm. John Bindon, một diễn viên của Cockney từng ngồi tù, đã bán câu chuyện của mình cho tờ "Daily Mirror", khoe khoang về mối quan hệ thân thiết với Margaret.
Đến đầu những năm 1970, nhà Snowdon đã có những rạn nứt. Tháng 9 năm 1973, Colin Tennant giới thiệu Margaret với Roddy Llewellyn. Llewellyn kém bà 17 tuổi. Năm 1974, bà mời ông làm khách đến ngôi nhà nghỉ dưỡng mà bà đã xây dựng trên đảo Mustique. Đây là lần đầu tiên trong một số những lần bà đến đây. Margaret mô tả mối quan hệ của họ là "một tình bạn thân thương". Một lần, khi Llewellyn rời đi một cách bốc đồng đến Thổ Nhĩ Kỳ, Margaret trở nên rối loạn cảm xúc và uống quá liều thuốc ngủ. "Tôi đã quá mệt mỏi vì tất cả mọi thứ", sau đó bà nói "tất cả những gì tôi muốn làm là ngủ." Khi bà hồi phục, nữ quan của bà tách Bá tước Snowdon khỏi bà, sợ rằng việc nhìn thấy ông sẽ khiến bà đau khổ hơn nữa.
Tháng 2 năm 1976, một bức ảnh của Margaret và Llewellyn trong bộ đồ bơi trên đảo Mustique đã được đăng trên trang nhất của tờ báo lá cải, "News of the World". Báo chí miêu tả Margaret là một phụ nữ lớn tuổi săn mồi và Llewellyn là người yêu dạng chàng trai đồ chơi của bà. Ngày 19 tháng 3 năm 1976, gia đình Snowdon công khai thừa nhận rằng cuộc hôn nhân của họ đã tan vỡ mà không thể cứu vãn được. Một số chính trị gia đề nghị loại bỏ Margaret khỏi danh sách dân sự. Các nghị sĩ Đảng Lao động tố cáo bà là "một ký sinh trùng hoàng gia" và "gái điếm". Tháng 5 năm 1978, bà bị ốm và được chẩn đoán là bị viêm dạ dày ruột và viêm gan do rượu. Ngày 11 tháng 7 năm 1978, cuộc ly hôn của nhà Snowdon được hoàn tất. Đó là vụ ly hôn đầu tiên của một thành viên cấp cao của Hoàng gia Anh kể từ vụ ly hôn của Vương tôn nữ Victoria Melita xứ Edinburgh vào năm 1901. Ngày 15 tháng 12 năm 1978, Bá tước Snowdon kết hôn với Lucy Lindsay-Hogg, nhưng ông và Margaret vẫn là bạn thân của nhau..
Năm 1981, Llewellyn kết hôn với Tatiana Soskin, người mà ông quen biết được 10 năm. Margaret vẫn là bạn thân với cả hai.
Cuộc sống công khai.
Trong số các hoạt động chính thức đầu tiên của Margaret có lễ ra mắt tàu biển "Lâu đài Edinburgh" tại Belfast vào năm 1947. Sau đó, Margaret đã có nhiều chuyến thăm đến nhiều nơi khác nhau; trong chuyến đi lớn đầu tiên của mình, bà cùng cha mẹ và chị gái của mình ghé thăm Nam Phi vào năm 1947. Chuyến đi của bà trên tàu "Britannia" đến các thuộc địa của Anh ở Caribbe năm 1955 đã tạo ra một sự phấn khích khắp Tây Ấn và đã có nhiều bản nhiệt ca được dành riêng cho bà. Khi các thuộc địa của Khối Thịnh vượng chung Anh tìm kiếm quyền tự do, Vương nữ Margaret đã đại diện cho hoàng gia trong các nghi lễ độc lập tại Jamaica vào năm 1962 và Tuvalu và Dominica vào năm 1978. Chuyến thăm của bà đến Tuvalu bị cắt ngắn bởi một căn bệnh, có thể là viêm phổi do virus và bà đã bay đến Úc để hồi phục. Các chuyến thăm nước ngoài khác bao gồm Hoa Kỳ vào năm 1965, Nhật Bản vào năm 1969 và 1979, Hoa Kỳ và Canada vào năm 1974, Úc năm 1975, Philippines năm 1980, Swaziland vào năm 1981 và Trung Quốc năm 1987.
Tháng 8 năm 1979, Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện và các thành viên trong gia đình của ông đã thiệt mạng bởi một quả bom được đặt bởi Quân đội Cộng hòa Ireland Lâm thời. Tháng 10 cùng năm, trong một chuyến đi gây quỹ của Hoa Kỳ thay mặt cho Nhà hát Opera Hoàng gia, Margaret đã ngồi tại một bữa tiệc tối ở Chicago với người chủ chuyên mục Abra Anderson và Thị trưởng Jane Byrne. Margaret nói với họ rằng gia đình hoàng gia đã bị lay động bởi nhiều lá thư chia buồn từ Ireland. Ngày hôm sau, đối thủ của Anderson Irv Kupcinet công bố một tuyên bố rằng Margaret đã gọi người Ireland là "những con lợn". Margaret, Anderson và Byrne đều đưa ra những lời từ chối ngay lập tức, nhưng chúng đã gây ra thiệt hại. Phần còn lại của chuyến đi đã thu hút các cuộc biểu tình và đội an ninh của Margaret được tăng gấp đôi sau khi bà đối mặt với các mối đe dọa.
Hoạt động từ thiện.
Sở thích chính của bà là các hoạt động từ thiện, âm nhạc và ballet. Bà là chủ tịch của Hiệp hội Quốc gia về Ngăn ngừa Bạo lực Trẻ em và Hiệp hội Hoàng gia Scotland về Ngăn ngừa Bạo lực Trẻ em và Viện trợ Trẻ em Tàn tật Toàn quốc (còn gọi là 'TÔI CÓ THỂ'). Bà là Chủ tịch lớn của Lữ đoàn Cấp cứu Thánh John và Đại tá của Quân đoàn Điều dưỡng Hoàng gia Nữ vương Alexandra. Bà còn là chủ tịch hoặc người bảo trợ của nhiều tổ chức, chẳng hạn như Hiệp hội Olympic Tây Ấn, Girl Guides, Nhà hát Ba lê phía Bắc, Ba lê Hoàng gia Birmingham, Ba lê Scotland, Trẻ em thứ nhất, Chăm sóc Ung thư Tenovus, Đại học Điều dưỡng Hoàng gia, và Ngọn hải đăng Luân Đôn (một tổ chức từ thiện phòng chống AIDS được sáp nhập với Terrence Higgins Trust). Tại một số thời điểm, Margaret bị chỉ trích vì không hoạt động nhiều như các thành viên khác của gia đình hoàng gia.
Bệnh tật và cái chết.
Cuộc sống sau này của Vương nữ đã bị hủy hoại bởi bệnh tật và khuyết tật. Bà bắt đầu hút thuốc lá từ năm 15 tuổi và nghiện hút thuốc nặng trong nhiều năm sau đó. Thập niên 1970, bà bị suy nhược thần kinh và được điều trị chứng trầm cảm bởi Mark Collins, một bác sĩ tâm thần từ Priory Clinic. Ngày 5 tháng 1 năm 1985, bà phải cắt bỏ một phần phổi bên trái; cuộc phẫu thuật có sự tương đồng với cuộc phẫu thuật của cha bà hơn 30 năm về trước. Năm 1991, bà từ bỏ thuốc lá, mặc dù bà vẫn tiếp tục uống nhiều rượu. Tháng 10 năm 1993, một người bạn của Margaret tiết lộ rằng bà đã gặp Townsend lần cuối cùng trước khi ông qua đời vào năm 1995. Bà không muốn tham dự bất cứ cuộc hội ngộ mà cả hai được mời, vào năm 1992, vì sợ chúng có thể bị báo chí săn đón, vì vậy thay vào đó bà yêu cầu gặp mặt ông một cách riêng tư. Margaret nói rằng ông trông "giống hệt lúc trước, ngoại trừ việc ông có mái tóc màu xám". Khách mời nói rằng ông không thực sự thay đổi, chúng tôi chỉ ngồi trò chuyện như những người bạn cũ. Họ cũng cho rằng ông khá bất bình và tự thuyết phục mình rằng khi đồng ý chia tay, ông và Margaret đã nêu một tấm gương cao cả mà tưởng chừng như vô ích.
Tháng 1 năm 1993, bà nhập viện vì viêm phổi. Bà trải qua một cơn đột quỵ nhẹ vào ngày 23 tháng 2 năm 1998 tại ngôi nhà nghỉ dưỡng của mình ở Mustique. Đầu năm sau, Vương nữ bị bỏng nặng ở bàn chân trong một tai nạn trong phòng tắm, điều này ảnh hưởng đến khả năng vận động của bà, do đó, bà cần phải được hỗ trợ khi đi bộ và đôi khi sử dụng xe lăn. Bà nhập viện vào ngày 10 tháng 1 năm 2001 do chán ăn và khó nuốt sau một cơn đột quỵ nữa. Đến tháng 3 năm 2001, đột quỵ đã khiến bà mất thị lực một phần và tê liệt nửa trái. Lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng của Margaret là tại lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 101 của mẹ bà vào tháng 8 năm 2001 và lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của mợ bà, Công nương Alice, Nữ công tước xứ Gloucester, vào tháng 12 cùng năm.
Vương nữ Margaret qua đời tại Bệnh viện Quốc vương Edward VII, Luân Đôn lúc 06:30 (GMT) vào ngày 9 tháng 2 năm 2002 ở tuổi 71, một ngày sau khi bị một cơn đột quỵ khác dẫn đến các vấn đề về tim. Hoàng tử xứ Wales sau đó bày tỏ lòng kính trọng với dì của mình trong một chương trình phát sóng trên truyền hình.
Quan tài của Margaret, được phủ theo tiêu chuẩn cá nhân của bà, được đưa từ Cung điện Kensington đến Cung điện Thánh James trước tang lễ của bà. Lễ tang được tổ chức vào ngày 15 tháng 2 năm 2002, Kỷ niệm 50 năm ngày tang của cha bà. Theo mong muốn của bà, buổi lễ là một buổi lễ riêng tư tại Nhà nguyện Thánh George, Lâu đài Windsor, dành cho gia đình và bạn bè. Không giống như hầu hết các thành viên khác trong hoàng tộc, Vương nữ Margaret được hỏa táng, tại lò hỏa táng Slough. Tro cốt của bà được đặt trong ngôi mộ của cha mẹ bà, Quốc vương George VI và Vương hậu Elizabeth (người qua đời vào 7 tuần sau Margaret), trong Nhà nguyện Tưởng niệm Quốc vương George VI trong Nhà nguyện Thánh George hai tháng sau. Một buổi lễ tưởng niệm cấp nhà nước đã được tổ chức tại Tu viện Westminster vào ngày 19 tháng 4 năm 2002.
Di sản.
Hình ảnh.
Các nhà quan sát thường mô tả Margaret là một kẻ hợm hĩnh hư hỏng, có khả năng nhận xét sắc sảo và cao thượng. Các nhà phê bình khẳng định rằng bà thậm chí còn coi thường bà nội của mình là Hoàng hậu Mary vì bà ấy sinh ra là một Vương nữ thuộc tầng lớp thấp hơn là "Serene Highness", trong khi Margaret sinh ra là một "Royal Highness". Tuy nhiên, những bức thư của họ không cho thấy sự mâu thuẫn giữa họ.
Margaret còn có thể rất quyến rũ và nghiêm nghị. Những người tiếp xúc với bà có thể bị bối rối bởi sự thay đổi giữa sự thoải mái và nghiêm nghị. Cựu giáo sư Marion Crawford viết trong cuốn hồi ký của mình "Những nhận xét bốc đồng và sốt sắng mà bà ấy đưa ra đã trở thành tiêu đề tin tức và, được đưa ra khỏi bối cảnh của chúng, bắt đầu tạo ra trong mắt công chúng một tính cách bị bóp méo kỳ lạ, gần như không có chút tương đồng đến Margaret mà chúng ta biết."
Người quen của Margaret, Gore Vidal, nhà văn người Mỹ, viết "Cô ấy quá thông minh so với vị trí của mình trong cuộc sống". Ông nhớ lại một cuộc trò chuyện với Margaret, thảo luận về những điều tai tiếng trước công chúng của mình, bà nói "Đó là điều không thể tránh khỏi, khi có hai chị em gái và một người là Nữ vương, người phải là nguồn gốc của danh dự và mọi thứ tốt đẹp, trong khi người kia phải là tâm điểm của ác ý sáng tạo nhất, cô em gái độc ác".
Khi còn nhỏ, Margaret rất thích các buổi biểu diễn của ngựa, nhưng không giống như các thành viên khác trong gia đình, khi trưởng thành, Margaret không thể hiện sở thích săn bắn, bắn súng và câu cá. Bà bắt đầu quan tâm đến múa ba lê từ khi còn rất nhỏ và thích tham gia các vở kịch nghiệp dư. Bà chỉ đạo một vở kịch có tên "The Frogs" với những người bạn quý tộc của bà với tư cách là diễn viên. Các diễn viên và ngôi sao điện ảnh là một trong số những vị khách thường xuyên đến thăm dinh thự của bà tại Cung điện Kensington. Năm 1981, bà tham gia trong một tập phim của "Desert Island Discs". Năm 1984, bà xuất hiện với tư cách là chính mình trong một tập của bộ phim phát thanh "The Archers", trở thành thành viên đầu tiên của gia đình hoàng gia tham gia một bộ phim truyền hình của BBC.
Cuộc sống riêng tư của Vương nữ Margaret trong nhiều năm từng là chủ đề bàn tán sôi nổi của giới truyền thông và những người theo dõi hoàng gia. Ngôi nhà của bà ở Mustique, do chú của chồng bà thiết kế Oliver Messel, một nhà thiết kế sân khấu, là điểm đến yêu thích của bà trong kỳ nghỉ. Các cáo buộc về các bữa tiệc hoang dã và sử dụng chất kích thích cũng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông.
Sau cái chết của Margaret, nữ quan của bà, Quý bà Glenconner, nói rằng "[Margaret] đã hết lòng vì Nữ vương và rất ủng hộ bà ấy". Margaret được cháu họ, Tòng Nam tước phu nhân Elizabeth Shakerley mô tả là "một người có khả năng tuyệt vời trong việc mang lại cho nhiều người niềm vui và bà là một người bạn rất, rất rất tốt và trung thành". Một người cháu họ khác, Lord Lichfield, nói rằng "[Margaret] khá buồn vào khoảng thời gian cuối đời của bà vì đó là một cuộc sống không được viên mãn".
"The Independent" viết trong cáo phó năm 1995 của Townsend rằng "Sự thể hiện to lớn của tình cảm và sự quan tâm phổ biến [trong mối quan hệ] giờ đây có thể được coi là yếu tố tạo nên một bước ngoặt trong thái độ của quốc gia đối với việc ly hôn". Tổng giám mục Canterbury và Giáo hội đã nhận được nhiều sự giận dữ của dân chúng đối với sự kết thúc của mối quan hệ. Randolph Churchill tin rằng những tin đồn "rằng Fisher đã can thiệp để ngăn cản Vương nữ kết hôn với Townsend đã gây hại khôn lường cho Giáo hội Anh"; một cuộc thăm dò của Gallup cho thấy 28% đồng ý và 59% không đồng ý với việc Giáo hội từ chối tái hôn với một người đã ly hôn khi hôn phối còn lại vẫn còn sống. Nhà sử học Warwick cho rằng di sản lâu dài nhất của Margaret là một sự tình cờ. Có lẽ vô tình, Margaret đã mở đường cho việc công khai chấp nhận ly hôn của hoàng gia. Cuộc sống của bà, nếu không phải do hành động của bà, đã đưa ra quyết định và lựa chọn của những đứa con của chị gái bà, 3 người trong số họ đã ly hôn, dễ dàng hơn những gì họ đã làm.
Eden được cho là đã nói với Nữ vương ở Balmoral khi thảo luận về Margaret và Townsend rằng, bất kể kết quả thế nào, chế độ quân chủ sẽ bị tổn hại. Harold Brooks-Baker cho biết "Theo tôi, đây là bước ngoặt dẫn đến thảm họa cho gia đình hoàng gia. Sau khi Vương nữ Margaret bị từ chối kết hôn, chúng đã phản tác dụng và ít nhiều hủy hoại cuộc đời của Margaret. Nữ vương quyết định rằng kể từ đó trở đi, bất cứ ai trong gia đình bà muốn kết hôn sẽ ít nhiều được chấp nhận. Hoàng gia và công chúng hiện giờ cảm thấy rằng họ đã đi quá xa theo chiều hướng khác".
Thời trang và phong cách.
Xuyên suốt cuộc đời của mình, Vương nữ Margaret được xem là một biểu tượng thời trang. Thời trang của bà đã mang lại biệt danh "Phong cách Margaret". Vương nữ, vốn được mệnh danh là "kẻ nổi loạn của hoàng gia" tạo kiểu cho bản thân trái ngược với phong cách nguyên sơ và vượt thời gian của chị gái, sử dụng các phụ kiện mod hợp thời trang, chẳng hạn như khăn trùm đầu sáng màu và kính râm quyến rũ. Margaret hình thành mối quan hệ thân thiết với atelier Christian Dior, diện các thiết kế của ông xuyên suốt cuộc đời của bà và là một trong những khách hàng nổi bật nhất của ông. Năm 1950, ông thiết kế một chiếc váy màu kem cho sinh nhật lần thứ 21 của bà, chúng được xem là một phần mang tính biểu tượng của lịch sử thời trang. Xuyên suốt thập kỷ, Vương nữ thường được biết đến với việc mặc những chiếc váy in hoa, váy dạ hội có tông màu đậm và các loại vải sang trọng, phụ kiện đính kim cương, ngọc trai và lông thú. "British Vogue" viết rằng phong cách của Margaret "đạt được bước tiến mới" vào giữa những năm 1960, nơi bà được chụp ảnh cùng với những người nổi tiếng như The Beatles, Frank Sinatra và Sophia Loren. Vương nữ Margaret còn được biết đến với những chiếc mũ và áo choàng "lộng lẫy", bao gồm một chiếc mũ lông chim hoàng yến được đội trong chuyến thăm Jamaica năm 1962 và một chiếc mũ hộp bằng lông công cho Royal Ascot năm 1973. "Marie Claire" tuyên bố rằng Vương nữ "không chịu thỏa hiệp" về phong cách của mình sau này khi trưởng thành, tiếp tục với xu hướng áo dài tay và váy quây.
Tháng 4 năm 2007, một cuộc triển lãm có tên "Princess Line – The Fashion Legacy of Princess Margaret" được khai trương tại Cung điện Kensington, trưng bày thời trang đương đại từ các nhà thiết kế người Anh như Vivienne Westwood được lấy cảm hứng từ di sản phong cách của Vương nữ Margaret. Bộ sưu tập mùa xuân năm 2006 của Christopher Bailey cho Burberry được lấy cảm hứng từ vẻ ngoài của Margaret từ những năm 1960.
Tài sản.
Trong cuộc đời của mình, tài sản của Margaret ước tính vào khoảng 20 triệu bảng Anh, phần lớn trong số đó được thừa kế từ cha bà. Bà còn thừa hưởng các tác phẩm nghệ thuật và đồ cổ khi Vương hậu Mary và Dame Margaret Greville để lại cho bà 20.000 bảng Anh vào năm 1943. Năm 1999, con trai của bà, Lord Linley, đã bán ngôi nhà ở Caribe của mẹ mình là Les Jolies Eaux với giá 2,4 triệu bảng Anh. Thời điểm qua đời, Margaret nhận được 219.000 bảng Anh từ Civil List. Sau khi qua đời, bà để lại bất động sản trị giá 7,6 triệu bảng Anh cho hai đứa con, số tài sản này bị cắt giảm xuống còn 4,5 triệu bảng Anh sau thuế thừa kế. Tháng 6 năm 2006, phần lớn tài sản của Margaret được Christie's bán đấu giá để đáp ứng thuế và theo lời của con trai bà, "các yêu cầu gia đình bình thường như giáo dục cháu của bà", mặc dù một số mặt hàng được bán để viện trợ cho các tổ chức từ thiện như The Stroke Association. Được biết, Nữ vương đã nói rõ rằng số tiền thu được từ bất kỳ vật phẩm nào được trao cho em gái mình với tư cách chính thức phải được quyên góp cho các tổ chức từ thiện. Một chiếc đồng hồ Fabergé đã lập kỷ lục thế giới với giá 1,24 triệu bảng Anh. Chiếc vương miện Poltimore mà bà đội trong đám cưới năm 1960, được bán với giá 926.400 bảng Anh. Tổng số tiền bán các tài sản của bà là 13.658.000 bảng Anh.
Trong văn hóa đại chúng.
Các nữ diễn viên thủ vai Margaret bao gồm Lucy Cohu ("The Queen's Sister", 2005), Katie McGrath ("The Queen", 2009), Ramona Marquez ("The King's Speech", 2010), Bel Powley ("A Royal Night Out", 2015), Vanessa Kirby và Helena Bonham Carter ("The Crown", 2016–nay). Lesley Manville sẽ đóng vai bà trong mùa 5 và 6 của "The Crown". Bộ phim vụ trộm ngân hàng năm 2008, "The Bank Job", xoay quanh những bức ảnh bị cáo buộc của Margaret. Nhân vật "Pantomime Princess Margaret" xuất hiện trong 4 bản phác thảo riêng biệt, trong 3 tập khác nhau, của chương trình hài kịch siêu thực vào những năm 1970 của BBC, "Monty Python's Flying Circus". | 1 | null |
"Dime" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ gốc Cuba Pitbull và cũng là đĩa đơn thứ ba trong album phòng thu thứ hai của anh, "El Mariel". Ngoài ra ca khúc còn được phát hành dưới cái tên "Tell Me" ("Dime", dịch ra tiếng Anh). Bản album của ca khúc có sự góp giọng của Ken-Y, trong khi bản Radio Edit lại được làm lại và có Frankie J góp giọng. | 1 | null |
"Shut It Down" là một bài hát của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ gốc Cuba Pitbull hợp tác với nam ca sĩ Akon. Đây là đĩa đơn thứ tư từ "Rebelution", album phòng thu thứ tư của Pitbull. Một phiên bản khác của ca khúc còn có sự góp giọng của Akon và thêm cả Clinton Sparks.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Shut It Down" được đạo diễn bởi David Rousseau.
Xếp hạng.
Vào tuần lễ ngày 19 tháng 12 năm 2009, "Shut It Down" ra mắt trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 tại vị trí #85. Vào tuần sau đó ca khúc đã ngoi lên đạt vị trí #83. Vị trí cao nhất của ca khúc trên bảng xếp hạng này là #42.
Tại Anh, vào tuần lễ ngày 6 tháng 2 năm 2010, "Shut It Down" đã đạt được #33 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart, đây cũng là vị trí cao nhất của ca khúc trên bảng xếp hạng này. Tuần lễ trước đó, ca khúc đã đạt được vị trí #13 trên bảng xếp hạng UK R&B Chart. | 1 | null |
Sở Hùng Sương (chữ Hán: 楚熊霜, trị vì 827 TCN-822 TCN), tên thật là Hùng Sương (熊霜) hay Mi Sương (羋霜), là vị vua thứ 14 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai cả của Sở Hùng Nghiêm, vua thứ 13 của nước Sở. Ông còn có tên gọi là Hùng Tương (熊相) hay Bá Sương ("伯霜") theo cách đặt tên con trai theo thứ tự thời cổ (Con trai trưởng là Bá, kế tiếp là Trọng, Thúc, Quý). Năm 828 TCN, Hùng Nghiêm mất, Hùng Sương lên ngôi vua.
Tuy nhiên Hùng Sương chỉ làm vua 6 năm. Năm 822 TCN, ông qua đời, nước Sở lâm vào cuộc tranh chấp quyền lực giữa ba người em của ông. Cuối cùng Trọng Tuyết bị giết, Thúc Kham phải chạy lưu vong sang đất Bộc, Quý Tuân giành được ngôi báu, tức là Hùng Tuân. | 1 | null |
Sở Hùng Tuân (chữ Hán: 楚熊徇, trị vì 821 TCN-800 TCN), tên thật là Hùng Tuân (熊徇) hay Mi Tuân (羋徇), là vị vua thứ 15 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con út của Sở Hùng Nghiêm, vua thứ 13 nước Sở, em của Sở Hùng Sương, vua thứ 14 của nước Sở. Ông còn có hai người anh là Hùng Tuyết (熊雪) và Hùng Kham (熊堪).
Năm 822 TCN, Hùng Sương mất, Quý Tuân cùng 2 người anh là Trọng Tuyết, Thúc Kham tranh nhau ngôi vua. Cuối cùng Trọng Tuyết bị giết, Thúc Kham phải chạy lưu vong sang đất Bộc, Quý Tuân giành được ngôi báu, tức là Hùng Tuân.
Sử sách không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Sở trong thời gian ông làm vua.
Năm 800 TCN, Sở Hùng Tuân chết. Ông làm vua được 22 năm. Con ông là Sở Hùng Ngạc lên nối ngôi. | 1 | null |
Cuộc vây hãm Lille là một trận vây hãm trong cuộc "Chạy đua ra biển" trên Mặt trận phía Tây thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra từ ngày 10 cho đến ngày 12 tháng 10 năm 1914, tại thị trấn công nghiệp quan trọng Lille của Pháp. Sau một đợt công pháo dữ dội của quân Đức vào Lille, trận bao vây đã kết thúc với chiến thắng của quân đội của Đức hoàng trước quân đội Pháp đồn trú tại thị trấn này. Lille là lãnh thổ cuối cùng mà quân đội Đức chiếm được trong năm 1914. Cũng như sự thất thủ của Antwerp không lâu trước đó, việc đánh mất Lille và các cảng eo biển Anh vào tháng 10 đã chứng tỏ khó khăn không nhỏ của phe Hiệp Ước trong cuộc chiến tranh. Thành công của Quân đoàn XIX của Đức tại Lille đã đem lại cho họ tù binh từ đội quân trú phòng của Pháp. Ngoài ra, quân Đức cũng bắt đầu cuộc chiếm đóng của mình tại Lille cho tới cuối năm 1918, và sự thất thủ của thành phố quan trọng này đã làm dấy lên tinh thần lạc quan của người Đức ở quê nhà.
Sau thắng lợi của mình trong trận Biên giới Bắc Pháp, quân đội Đức đã tiếp tục tiến vào Pháp và đánh chiếm thị trấn công sự Lille vào cuối tháng 8 năm 1914. Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 9, quân Đức đã từ bỏ Lille, quân Pháp tái lập quyền kiểm soát tại đây. Sau trận sông Aisne lần thứ nhất, cuộc "Chạy đua ra biển" đã diễn ra với mục đích của cả hai phe là bọc sườn đối phương. Vào cuối tháng 9, Tổng tư lệnh quân đội Pháp Joseph Joffre đã thiết lập một tập đoàn quân mới, và lực lượng này án ngữ tại Arras và Lens, thực hiện sự liên kết mỏng manh với đạo quân đồn trú tại Dunkerque và lực lượng đồn trú tại Lille, gồm các lực lượng nội địa và lính cưỡi ngựa người Algérie của Pháp. Vào ngày 4 tháng 10, với bước tiến của mình, quân đội Đức đã đánh chiếm Lens, song ngay từ ngày 3 tháng 10, các lực lượng tuần tiễu của Đức đã đến gần thành phố. Vào buổi sáng ngày 4 tháng 10, một đoàn xe bọc thép của đưa một nhóm thương kỵ binh của họ vào Lille. Song, một nhân viên đã bẻ ghi đoàn xe về đường tàu tránh, và tại đây quân Pháp đã tập kích đoàn xe của Đức. Ngoài ra, lực lượng bộ binh Đức cũng tiến đánh Lille từ Tourcoing, nhưng bị quân Pháp đẩy lùi. Cùng ngày, một đạo quân Đức vượt sông Lys từ bên Bỉ sang bên Pháp, nhưng thất bại. Gia tranh tiếp diễn trong ongày 5 tháng 10, khi nhiều binh sĩ Đức đi vòng qua thành phố về phía nam. Quân Đức cũng nã pháo ở hướng tây Lille vào ngày 6 tháng 10, và một trung đoàn Pháp đã thu được 2 khẩu đại bác của Đức. vào ngày 10 tháng 10, một đại đội Thương Kỵ binh Đức đã tiến vào Lille. Trong ngày hôm ấy, quân đội Đức đã bắt đầu pháo kích, và quả đạn pháo đầu tiên của quân Đức rơi xuống tòa thị chính. Đến trưa, tình hình trở nên im ắng, song pháo kích tiếp tục trong ngày hôm sau.
Sau một khoảng thời gian tạm ngưng, quân Đức tiếp tục công pháo trong suốt đêm ngày 11 tháng 10, gây cháy ở nhiều nơi. Cho đến ngày 12 tháng 10, quân đội Đức lại thực hiện một đợt pháo kích, sau đó quân bộ binh Đức tấn công và nhanh chóng buộc lực lượng nội địa Pháp phải triệt thoái. Thành phố Lille bị buộc phải đầu hàng, vào ngày 13 tháng 10, trong khi thành phố vẫn còn đang cháy, quân đội Bayern, theo sau là nhiều lực lượng khác của Đức, đã tiến vào Lille. Trái ngược với những bản tin mà báo chí Đức đưa ra sau thắng lợi vang dội tại Lille, thị trấn này đã bị hư hại nặng nề trong cuộc vây hãm. Nhiều công trình bị phá hủy hoặc gần như là bị phá hủy, và biển tên của cửa hàng Belle Jardinière cũng rơi vào tình trạng tương tự. | 1 | null |
Tần Hiếu Văn vương (chữ Hán: 秦孝文王, cai trị: 250 TCN), tên thật là Doanh Trụ (嬴柱), là vị vua thứ 34 của nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là cha của Tần Trang Tương vương và là ông nội của Tần Thủy Hoàng. Trước khi lên ngôi, ông có tước hiệu là An Quốc quân.
Tiểu sử.
Doanh Trụ là con trai của Tần Chiêu Tương vương và Đường thị, và là cháu nội của Tần Huệ Văn vương.
Năm 267 TCN, người anh cả của ông là thái tử Doanh Điệu qua đời tại nước Ngụy. Doanh Trụ được vua cha lập làm thái tử.
Năm 251 TCN, Chiêu Tương vương mất, Doanh Trụ nối ngôi, tức là Tần Hiếu Văn vương. Trong thời gian đầu (cuối năm 251 TCN), Tần Hiếu Văn vương còn để tang cha, chưa chính thức lên ngôi. Ông truy tôn mẹ là "Đường thái hậu".
Ngày Kỷ Hợi tháng 10 năm 250 TCN, ông chính thức lên làm vua, ra lệnh xá tội cho phạm nhân, nhưng chỉ được 3 ngày thì qua đời, hưởng dương 53 tuổi.
Điều này dấy lên nhiều giả thuyết về thời kỳ làm vua quá ngắn ngủi của ông. Giả thuyết được chấp nhận nhất là ông đã quá già khi lên ngôi (do vua cha Chiêu Tương vương tại vị tới 56 năm). Tuy nhiên, có giả thuyết khác cho rằng Lã Bất Vi đã hạ độc giết ông để đẩy nhanh việc Tần Trang Tương vương và sau đó là Doanh Chính lên ngôi. Giả thuyết này được khá nhiều sự đồng thuận bởi vì Trang Tương vương mất chỉ 3 năm sau đó .
Gia quyến.
Tần Hiếu Văn vương có ít nhất 2 người vợ và hơn 20 người con, trong đó:
Vợ:
Con cái: | 1 | null |
Sangha Trinational (TNS) là khu bảo tồn xuyên biên giới gồm ba vườn quốc gia với tổng diện tích 746.309 ha thuộc ba quốc gia là Cameroon, Cộng hòa Congo và Cộng hòa Trung Phi. Nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2012.
Các vườn quốc gia là các địa điểm nổi bật với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm chưa có sự tác động của con người, hệ động thực vật phong phú với nhiều loài động vật quý hiếm và các loài có nguy cơ tuyệt chủng như: voi rừng châu Phi, khỉ đột, tinh tinh, cá sấu sông Nile, cá hổ Goliath, linh dương...
Các vườn quốc gia thuộc khu bảo tồn Sangha Trinational bao gồm:
Các vườn quốc gia này được kết nối bởi một vùng đệm có diện tích 1.787.950 ha kết nối các vườn quốc gia này lại với nhau tạo thành khu bảo tồn xuyên biên giới.
Khu vực là ví dụ điển hình về cảnh quan rừng rộng lớn còn nguyên vẹn, môi trường rừng nhiệt đới ẩm với các cây thường xanh và các cây đặc hữu nguy cấp chẳng hạn như Mukulungu, rừng ngập mặn, đầm lầy. | 1 | null |
Đảo chắn là những dải cát và trầm tích tương đối hẹp chạy song song với bờ biển và thường hợp thành từng chuỗi gồm từ vài đảo đến hơn một tá. Nếu không kể những lạch triều chia cắt các đảo thì một chuỗi đảo chắn có thể trải dài liên tục trên một trăm kilômét. Trong số 2.149 đảo chắn trên toàn cầu thì Hoa Kỳ là quốc gia sở hữu nhiều đảo chắn nhất với con số tổng cộng là 405 đảo, trong đó đảo chắn dài nhất và rộng nhất thế giới được biết đến là đảo Padre thuộc tiểu bang Texas của nước này. Ngoài ra, Brasil là quốc gia sở hữu chuỗi đảo chắn dài nhất thế giới với 54 đảo chắn trải dài 571 km dọc theo một dải rừng ngập mặn ven biển. Chiều dài và chiều rộng của các đảo chắn nói riêng cũng như toàn bộ địa mạo dải chắn ven bờ có mối quan hệ với các yếu tố như biên độ triều, năng lượng sóng, nguồn cung trầm tích, mực nước biển...
Có thể tìm thấy các chuỗi đảo chắn dọc theo khoảng 13% dải bờ biển của thế giới.. Trong đó một số đảo chắn thể hiện những đặc điểm khác nhau. Điều này cho thấy rằng đảo chắn hình thành và duy trì trong nhiều điều kiện môi trường khác biệt. Con người đã đưa ra hàng loạt lý thuyết để giải thích cơ chế hình thành đảo chắn.
Hình thành.
Trong hơn 150 năm qua, vô số nhà khoa học đã đề xuất các lời giải thích về sự phát triển của đảo chắn. Có thể chia số này làm ba lý thuyết chính: lý thuyết dải chắn ngoài khơi, lý thuyết bồi tụ mũi nhô và lý thuyết chìm ngập. Tuy nhiên, không một lý thuyết đơn lẻ nào có đủ khả năng giải thích sự phát triển của toàn bộ đảo chắn phân bố dọc các bờ biển trên Trái Đất, và các nhà khoa học tán thành quan điểm cho rằng đảo chắn (bao gồm các loại địa hình chắn khác) hình thành theo nhiều cơ chế khác nhau.
Tuy nhiên, có một số điều kiện chung cần thiết cho sự hình thành của đảo chắn. Thứ nhất, hệ thống đảo chắn phát triển dễ dàng nhất tại các bờ biển bị chi phối chủ yếu bởi sóng và có biên độ triều ở mức từ nhỏ đến trung bình. Cần biết rằng bờ biển được phân làm ba loại căn cứ vào biên độ triều là biên độ triều nhỏ (0–2 m), biên độ triều trung bình (2–4 m) và biên độ triều lớn (trên 4 m). Có một xu hướng vượt trội là đảo chắn sẽ hình thành ở các bờ biển có biên độ triều nhỏ; tại đây chúng phát triển mạnh và gần như là không bị gián đoạn. Theo Boggs (2006), rất hiếm khi gặp đảo chắn ở các bờ biển có biên độ triều lớn, nhưng Stutz & Pilkey (2011) nêu ra ví dụ về các đảo chắn gần châu thổ sông Gurupi ở phía bắc Brasil, theo đó các đảo này hình thành nơi biên độ triều từ 4 đến 7 m. Lời giải thích cho hiện tượng này là nguồn cung cát dồi dào dọc bờ biển xích đạo Brasil đã bù đắp cho lượng cát bị xói mòn do thủy triều lớn. Thứ hai, đi kèm với một bờ biển có biên độ triều nhỏ và bị sóng biển chi phối thì thềm đất phải có độ dốc tương đối nhỏ. Nếu không, sự tích tụ cát để hình thành đê cát sẽ không diễn ra mà thay vào đó số cát này sẽ bị phân tán khắp bờ biển. Do vậy, nguồn cung trầm tích phong phú là điều kiện cần phải có để hình thành nên đảo chắn. Cuối cùng, sự ổn định của mực nước biển là một yêu cầu lớn phải được đáp ứng, theo đó điều đặc biệt quan trọng là mực nước biển phải giữ hầu như không đổi trong quá trình đảo chắn hình thành và phát triển. Nếu mực biển thay đổi quá mạnh thì sóng sẽ không có đủ thời gian để tích tụ đủ cát cho sự hình thành cồn cát mà sau này sẽ thành đảo chắn thông qua quá trình bồi đắp thêm. Có thể thấy rằng, mực nước biển ổn định không thay đổi là điều kiện giúp sóng có thể tập trung cát lại một địa điểm.
Lý thuyết dải chắn ngoài khơi.
Một trong những ý tưởng ra đời sớm nhất để lý giải sự hình thành đảo chắn đã được nhà khoa học người Pháp Elie de Beaumont xuất bản vào năm 1845. Theo ông, sóng chuyển động vào những vùng nước nông đã khuấy cát lên và tích tụ chúng lại dưới dạng đê cát ngầm sau khi năng lượng sóng đã tiêu hao gần hết. Do các đê cát bồi tụ theo chiều đứng nên dần dần chúng vươn lên khỏi mặt biển và trở thành đảo chắn.
Lý thuyết bồi tụ mũi nhô.
Năm 1885, nhà địa chất người Mỹ Grove Karl Gilbert lần đầu tiên đưa ra lý lẽ rằng trầm tích tạo nên dải chắn đến từ các nguồn ở dọc bờ. Theo ông, các trầm tích đi vào đới sóng vỡ thông qua quá trình khuấy trộn của sóng dòng chảy dọc bờ sẽ tạo nên các mũi nhô trải dài từ những mũi đất song song với bờ biển. Sau này, sóng biển trong các cơn bão sẽ xâm thực các mũi nhô và tạo nên các đảo chắn.
Lý thuyết chìm ngập.
Năm 1890, William John McGee cho rằng bờ biển miền Đông và bờ biển ven vịnh Mexico của Hoa Kỳ đang trải qua giai đoạn chìm ngập xuống mà bằng chứng là có nhiều thung lũng sông đã chìm xuống ở dọc các bờ biển này, bao gồm vịnh Raritan, vịnh Delaware và vịnh Chesapeake. Ông tin rằng trong quá trình chìm ngập, các gờ ven biển đã bị tách khỏi đất liền và đầm phá đã hình thành ở phía sau các gờ này. McGee dẫn ra các ví dụ về hệ thống đảo chắn Mississippi-Alabama (bao gồm đảo Cat, đảo Ship, đảo Horn, đảo Petit Bois và Dauphin) để minh hoạ rằng hiện tượng bờ biển chìm xuống đã tạo nên đảo chắn. Tuy nhiên, về sau người ta đã chỉ ra sự sai lầm trong lý thuyết của ông khi các phương tiện nghiên cứu địa tầng học ven biển và tuổi thọ trầm tích càng ngày càng trở nên chuẩn xác.
Hoạt động sóng dọc theo bờ biển Louisiana đã làm biến cải những khoảng lồi cũ của đồng bằng sông Mississippi và tạo nên những phức hợp gờ bờ biển. Quá trình chìm ngập của những đồng lầy phía sau các dải chắn đã tiếp tục kéo dài, khiến những khu vực đất ngập nước ngày nào hoàn toàn biến thành các vùng nước.
Tầm quan trọng về sinh thái.
Đảo chắn đóng vai trò to lớn trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của các cơn sóng cũng như các cơn bão đối với hệ thống sông ngòi ở mặt sau của đảo chắn. Nhờ vậy, tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường xung quanh mà nhiều hệ thống đầm phá, cửa sông và/hoặc đồng lầy có thể phát triển tại khu vực này. Nếu không đảo chắn thì những vùng đất ngập nước này sẽ không thể tồn tại nổi và sẽ bị sóng biển, thủy triều hàng ngày cũng như các trận bão huỷ diệt. Hệ thống đảo chắn Louisiana là một ví dụ nổi bật minh hoạ cho tầm quan trọng của đảo chắn đối với hệ sinh thái. | 1 | null |
Doi cát cửa vịnh là một mũi cát nhô hình thành nhờ quá trình tích tụ trầm tích của các dòng chảy dọc bờ và hoàn toàn chắn ngang cửa vịnh. Doi cát cửa vịnh đóng vai trò đê chắn giữa hai khối nước (vịnh và biển). Khi này, vịnh trở thành một vùng đầm phá, bắt đầu tích tụ trầm tích rồi dần chuyển hoá thành một đồng lầy ngập mặn nước nông. Nếu doi cát cửa vịnh có dạng trăng lưỡi liềm thì sẽ được gọi bằng cái tên là "doi cát lưỡi liềm".
Doi cát cửa vịnh có thể gây bất lợi cho con người bởi tình trạng tích tụ trầm tích ở bến cảng. Người ta xây nên các đê chắn sóng tại cửa vịnh để hướng các con sóng ra phía biển, góp phần ngăn chặn sự hình thành các mũi nhô và doi cát cửa vịnh. | 1 | null |
Cytokinin (viết tắt trong tiếng Anh: CK) là nhóm hormone thực vật thứ ba được phát hiện sau auxin và gibberellin.
Vào năm 1955 khi Miller, Skoog và các cộng sự đã tách được một chất từ việc hấp mẫu DNA của tinh dịch cá thu có khả năng kích thích sự phân chia tế bào mạnh mẽ trong nuôi cấy mô, gọi là kinetin.
Cytokinin tự nhiên trong cây được tách ra lần đầu tiên năm 1963 bởi Letham và Miller ở dạng kết tinh từ hạt ngô gọi là zeatin có hoạt tính mạnh hơn kinetin 10-100 lần. Sau đó người ta đã phát hiện ra cytokinin ở trong các thực vật khác nhau và là một nhóm chất kích thích sinh trưởng quan trọng ở trong cây.
Công thức hóa học.
Chất tổng hợp
Vai trò sinh lý.
Cytokinin có khả năng kích thích sự phân chia tế bào mạnh mẽ ở thực vật. Vì vậy mà cytokinin là các chất hoạt hóa sự phân chia tế bào. Có hiệu quả này là do cytokinin hoạt hóa mạnh mẽ sự tổng hợp acid nucleic và protein. Cytokinin có mặt trong các RNA vận chuyển.
Cytokinin ảnh hưởng rõ rệt và rất đặc trưng lên sự phân hóa cơ quan của thực vật, đặc biệt là sự phân hóa chồi. Đã từ lâu người ta đã chứng minh rằng sự cân bằng tỉ lệ giữa auxin (phân hóa rễ) và cytokinin (phân hóa chồi) có ý nghĩa rất quyết định trong quá trình phát sinh hình thái của mô nuôi cấy "in vitro" cũng như trên cây nguyên vẹn. Nếu tỉ lệ auxin cao hơn cytokinin thì kích thích sự ra rễ, còn tỉ lệ cytokinin cao hơn auxin sẽ kích thích sự xuất hiện và phát triển của chồi. Để tăng hệ số nhân giống, người ta tăng nồng độ cytokinin trong môi trường nuôi cấy ở giai đoạn tạo chồi "in vitro".
Cytokinin có khả năng kìm hãm sự hóa già của cơ quan và của cây nguyên vẹn. Chẳng hạn khi một lá bị ngắt khỏi cây thì chúng đặc trưng bằng sự giảm hàm lượng diệp lục và sẽ hóa vàng làm giảm hàm lượng của protein và acid nucleic. Nếu như lá tách rời được xử lý cytokinin thì duy trì được hàm lượng protein và diệp lục trong thời gian lâu hơn và duy trì được màu xanh lâu hơn. Hiệu quả kìm hãm sự hóa già, kéo dài tuổi thọ của cơ quan có thể chứng minh là khi cành giâm ra rễ thì rễ tổng hợp cytokinin nội sinh và kéo dài thời gian sống của lá lâu hơn.
Trên cây nguyên vẹn thì khi hệ rễ phát triển mạnh mẽ sẽ là lúc cây trẻ và sinh trưởng mạnh. Nếu hệ thống rễ bị thương tổn thì cơ quan trên mặt đất sẽ chóng già.
Cytokinin trong một số trường hợp ảnh hưởng lên sự nảy mầm của hạt và củ. Vì vậy nếu xử lý cytokinin cũng có thể phá bỏ trạng thái ngủ nghỉ của hạt, củ, chồi.
Ngoài ra trong mối tương quan với auxin, cytokinin có ảnh hưởng tới ưu thế ngọn của cây. Cytokinin làm yếu hiện tượng ưu thế ngọn, làm phân hóa cành nhiều. Chính vì vậy mà từ rễ (cơ quan tổng hợp cytokinin) lên chồi ngọn (cơ quan tổng hợp auxin) thì hiện tượng ưu thế ngọn càng tăng dần tương ứng với hàm lượng auxin và giảm hàm lượng cytokinin.
Cơ chế tác dụng.
Cytokinin tác động đến quá trình phân hóa tế bào, đến quá trình phát sinh cơ quan, kìm hãm sự già hóa, có lẽ ở mức độ phân tử. Nhưng cơ chế tác động của cytokinin chưa sáng tỏ một cách hoàn toàn. Những kiến thức hiện nay về cơ chế tác động của cytokinin lên quá trình sinh trưởng của cây có thể tóm tắt như sau:
Khi thiếu cytokinin thì tế bào không phân chia được mặc dù DNA có thể tiếp tục được tổng hợp nhưng quá trình tổng hợp protein không xảy ra. Vì vậy cytokinin tham gia sự tổng hợp protein ở giai đoạn từ mRNA:
Phiên mã Dịch mã
DNA ———————————> mRNA ———————————> Protein
Cytokinin
Cytokinin có mặt trong acid nucleic do đó ảnh hưởng đến sự tổng hợp protein. Cytokinin xâm nhập nhanh chóng vào các RNA và giữ một chức năng điều chỉnh nào đó cho tRNA trong quá trình tổng hợp protein. Chức năng điều chỉnh của cytokinin trong tRNA được thực hiện có lẽ bằng cơ chế ngăn chặn sự nhận mặt sai của các codon trên anticodon trong quá trình sinh tổng hợp protein.
Tác dụng chủ yếu của cytokinin là kích thích sự tổng hợp DNA, RNA trong tế bào. Thông qua cơ chế di truyền cytokinin tác động lên quá trình sinh tổng hợp protein, từ đó ảnh hưởng đến sự tổng hợp enzyme cần thiết cho sự phân chia và sinh trưởng của tế bào. Hiệu quả của cytokinin trong việc ngăn chặn sự già hóa có liên quan nhiều đến khả năng ngăn chặn sự phân hủy protein, acide nucleic và diệp lục hơn là khả năng kích thích tổng hợp chúng. Có lẽ cytokinin ngăn chặn sự tổng hợp mRNA điều khiển sự tổng hợp nên các enzyme thủy phân. | 1 | null |
Đồng bằng lấn biển là một đai cát rộng nằm dọc theo bờ biển, trên bề mặt là những gờ cát chạy song song hoặc bán song song ngăn cách nhau bởi các trũng lầy nông. Đồng bằng lấn biển khác với đảo chắn ở vài chỗ: (1) đồng bằng lấn biển không bị đầm phá hay bãi lầy triều ngăn cách với đường bờ biển và (2) nó không bị các lạch triều xuyên cắt qua. Nói chung, đồng bằng lấn biển được hình thành do quá trình tái phân phối trầm tích hạt thô ở cả hai phía của cửa sông do sóng biển và dòng chảy dọc bờ gây nên. Vì vậy đồng bằng lấn biển được xem là một loại châu thổ bị chi phối bởi sóng. | 1 | null |
Bờ biển dốc là một dải đường bờ biển và là nơi đất liền dốc xuống biển một cách đột ngột, trái ngược với bờ biển phẳng - nơi đất liền thoải dần về phía biển. Đất trên bờ biển dốc có độ cao vượt hẳn so với mực nước biển.
Hầu hết các bờ biển dốc là các bờ biển vách dốc đầy đá, nơi quá trình xâm thực của sóng là nguyên nhân gây nên độ dốc lớn. Một loại bờ biển dốc khác là fjord, được hình thành khi một thung lũng chìm một phần xuống biển do mực nước dâng lên. Ở Na Uy, New Zealand và Alaska (Hoa Kỳ), có những fjord có cạnh thẳng đứng cao 1.000 mét so với mực nước biển đồng thời một phần bị chìm ngập 300 m dưới nước.
Trên các đảo núi lửa, biển xâm nhập vào trũng núi lửa, và ống núi lửa sẽ hình thành nên bờ biển dốc. Ví dụ minh hoạ cho hiện tượng này là đảo Santorini thuộc quần đảo Cyclades, Hy Lạp. Một trũng núi lửa - với rìa là nơi thị trấn chính Thira toạ lạc - có độ cao khoảng 300 m so với mực biển và đổ dốc 200 m dưới mặt nước. | 1 | null |
Blonde on Blonde là album phòng thu thứ 7 của ca sĩ - nhạc sĩ người Mỹ, Bob Dylan, được phát hành vào tháng 5 năm 1966 bởi Columbia Records và được sản xuất bởi Bob Johnston. Quá trình thu âm được thực hiện chủ yếu ở New York vào tháng 10 năm 1965 với sự tham gia của rất nhiều nghệ sĩ cộng tác, trong đó có cả ban nhạc trình diễn cùng Dylan, The Hawks. Họ vẫn tiếp tục cho tới tận tháng 1 năm 1966 nhưng chỉ có được duy nhất 1 ca khúc cho vào album, "One of Us Must Know (Sooner or Later)". Theo gợi ý của Johnston, Dylan đã mời tay keyboard Al Kooper và tay guitar Robbie Robertson và cùng tới phòng thu của Columbia tại Nashville, Tennessee. Đợt thu âm này, với sự cộng tác của rất nhiều nghệ sĩ hàng đầu của Nashville, đã thành công hơn rất nhiều và trong khoảng thời gian tháng 2 và 3 cùng năm, các ca khúc còn lại của album đều đã được hoàn thành.
Đây là sản phẩm hoàn tất cho bộ 3 album rock của Dylan trong giai đoạn 1965-1966, bao gồm "Bringing It All Back Home" và "Highway 61 Revisited". "Blonde on Blonde" được coi là một trong những album xuất sắc nhất mọi thời đại. Bao gồm cả những thử nghiệm từ các nghệ sĩ ở Nashville với thứ cảm xúc rất tân tiến, các ca khúc của album được coi như một cuộc đại phẫu cho những hạn chế lớn của âm nhạc với thứ ca từ được gọi là "sự pha trộn duy nhất có thể giữa cái cách tân và sự tầm thường". Đây cũng là một trong những album-kép đầu tiên của lịch sử nhạc rock.
Tại Mỹ, album có được vị trí cao nhất là số 9 tại "Billboard" 200 – nơi mà nó cũng có được chứng chỉ Bạch kim kép – và vị trí số 3 tại Anh. 2 đĩa đơn theo kèm, "Rainy Day Women No. #12 & 35" và "I Want You", cũng góp mặt trong top 12 tại Mỹ, trong khi các ca khúc khác như "Just Like a Woman" và "Visions of Johanna", được coi là những sáng tác tiêu biểu nhất trong sự nghiệp của Bob Dylan và đều được nằm trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất" của tạp chí "Rolling Stone".
Thu âm và sản xuất.
Hoàn cảnh ra đời.
Sau khi phát hành thành công "Highway 61 Revisited" vào tháng 8 năm 1955, Dylan liền sa thải ban nhạc đánh đệm cho mình. Tuy nhiên, tay guitar Mike Bloomfield và cả tay keyboard Al Kooper vẫn được anh giữ lại cho album tiếp theo cũng như tại Newport Folk Festival năm đó. Bloomfield không theo tour cùng Dylan vì muốn tham gia nhóm Paul Butterfield Blues Band: chính Kooper là người báo tin này cho Dylan sau những buổi diễn vào cuối tháng 8 đầu tháng 9. Quản lý của Dylan, Albert Grossman, đã lên kế hoạch khá chi tiết cho Dylan để theo diễn suốt 9 tháng tiếp theo, xuyên Mỹ, Úc và cả châu Âu. Do vậy, anh buộc phải liên hệ với một ban nhạc mới, đó là Levon and the Hawks. The Hawks, trừ Levon Helm tới từ Arkansas, đều tới từ Canada. Họ được biết tới nhiều qua vài buổi diễn ở Canada và đánh lót cho Ronnie Hawkins. Có 2 nhân vật đã giới thiệu The Hawks cho Dylan: đó là Mary Martin, thư ký của Grossman, và ca sĩ nhạc blue John Hammond, Jr. – con trai của nhà sản xuất John Hammond, người đã ký hợp đồng cho Dylan với Columbia Records vào năm 1961. The Hawks chính là ban nhạc đánh nền cho album đầu tay "So Many Roads" năm 1965 của cậu con trai nhà Hammond.
Ngày 15 tháng 9, Dylan tới gặp ban nhạc ở Toronto, nơi mà họ vẫn chơi nhạc tại địa điểm ưa thích Friar's Club, và tới ngày 24, tất cả bắt đầu quá trình chuẩn bị cho album mới ở Austin, Texas. Chỉ đúng 2 tuần sau, phấn khích trước những gì làm được ở Texas, Dylan liền lôi cả ban nhạc tới phòng thu của Columbia Records ở New York. Gần như ngay lập tức, họ đã hoàn thiện bản hit "Positively 4th Street" phát hành dưới dạng đĩa đơn sau đó. Tuy nhiên, Dylan thì lại cố gắng định hình lại album này nhằm khác biệt so với các album trước: đây đã là album thứ 3 trong năm mà anh hợp tác với các nghệ sĩ nhạc rock.
Thu âm tại New York.
Nhà sản xuất Bob Johnston, người vốn đã thực hiện "Highway 61 Revisited", lại tiếp tục cộng tác với Dylan và The Hawks tại phòng thu của Columbia ở New York ngày 5 tháng 10. Họ cùng tập trung viết phần bè cho ca khúc "Can You Please Crawl Out Your Window?", một ca khúc được sáng tác từ thời kỳ "Highway 61" song không được cho vào trong album đó. Có 3 ca khúc nữa được chuẩn bị, song không có một ca khúc nào trở thành bản thu hoàn chỉnh: đó là một phần của "Jet Pilot" và "I Wanna Be Your Lover", cùng với đó là một bản hát lại một bài của The Beatles có tên "I Wanna Be Your Man" (sau này nằm trong box set "Biograph" năm 1985). Họ cũng thâu hai bản nháp của ca khúc "Medicine Sunday", sau này trở thành bản hit "Temporary Like Achilles".
Ngày 30 tháng 11, The Hawks tới phòng thu, song Levon Helm đã rời nhóm sau khi tuyên bố quá chán nản khi phải chơi lót, vậy nên tay trống Bobby Gregg được mời tới thay. Họ bắt đầu với một sáng tác mới có tên "Freeze Out", sau này trở thành "Visions of Johanna", song Dylan thấy không thỏa mãn với bản thu đó. Một trong những bản thu của ngày 30 tháng 11 này đã được cho vào trong ấn phẩm "" vào năm 2005. Cũng tại buổi thu này, họ hoàn thiện "Can You Please Crawl Out Your Window?" và ca khúc được ra mắt dưới dạng đĩa đơn vào tháng 12 với vị trí cao nhất là 89 tại Mỹ.
Dylan mất toàn bộ tháng 12 ở California với một tá buổi diễn cùng ban nhạc của mình, rồi tới tận tuần thứ ba của tháng 1 anh mới cho phép mình nghỉ ngơi khi con trai Jesse ra đời. Ngày 21 tháng 1 năm 1966, anh trở lại phòng thu với một ca khúc rất dài "She's Your Lover Now" chơi bởi The Hawks (lần này là Sandy Konikoff chơi trống). Thất vọng sau 19 bản thu, rốt cục anh không có được một ca khúc hoàn chỉnh. Dylan không bao giờ thâu lại ca khúc này nữa, song duy nhất một bản thu tương đối của nó được biết tới qua ấn phẩm "The Bootleg Series Volumes 1–3 (Rare & Unreleased) 1961–1991" sau đó tận 25 năm (cho dù quá trình thu đã phải dừng lại ngay ở đoạn vào cuối cùng, Columbia vẫn phát hành nó như một bản thu hoàn chỉnh).
Cũng tại thời điểm này, Dylan bắt đầu thấy chán nản với việc làm việc với The Hawks ở phòng thu. Anh tiếp tục thu âm ngày 25 tháng 1 với Bobby Gregg chơi trống, Rick Danko (hoặc Bill Lee) chơi bass, Robbie Robertson guitar, Paul Griffin piano, và Al Kooper organ. Mục tiêu của họ là 2 ca khúc: "Leopard-Skin Pill-Box Hat" và "One of Us Must Know (Sooner or Later)". Dylan cảm thấy thỏa mãn với "One of Us Must Know" và bản thu ngày 25 này được phát hành dưới dạng đĩa đơn rồi được chọn làm ca khúc cho album.
Ngày 27 tháng 1, họ lại tiếp tục, song lần này chỉ có tay guitar Robbie Robertson, tay bass Rick Danko, Al Kooper và tay trống Bobby Gregg. Họ cùng thu âm lại "Leopard-Skin Pill-Box Hat" và "One of Us Must Know", song Dylan cảm thấy các bản thu không đạt yêu cầu. Cũng tại buổi thu này, Dylan đã thử chơi ca khúc "I'll Keep It With Mine", một sáng tác mà anh đã từng ghi âm trước đó 2 lần bản demo. Người viết tiểu sử cho Dylan, Clinton Heylin, có nói lướt qua rằng lúc đó các nghệ sĩ đã có một chút căng thẳng. Buổi thu này được phát hành vào năm 1991 trong ấn phẩm "The Bootleg Series Volumes 1–3".
Những yêu cầu về chất liệu mới cũng như tiến độ thu âm quá chậm chạp buộc Dylan phải hủy 3 buổi thâu đã được định sẵn. 6 tuần sau, anh tâm sự với nhà phê bình Robert Shelton: "Tôi rất chán. Mất tận 10 buổi thu vậy mà tôi không có nổi 1 ca khúc ra hồn... Đó là vì ban nhạc. Anh thấy đấy, tôi biết điều đó chứ. Nhưng tôi không muốn nghĩ như vậy."
Chuyển tới Nashville.
Biết rõ Dylan không hài lòng với quá trình thu âm, nhà sản xuất Bob Johnston gợi ý anh rời toàn bộ ê-kíp tới Nashville. Đây vốn là nơi Johnston sống và ông có nhiều kinh nghiệm với việc cộng tác với các nghệ sĩ tại đây. Ông nhớ lại cách mà quản lý của Dylan, Albert Grossman, bác bỏ ý định này: ""Grossman tới gặp tôi và nói ngắn gọn "Nếu anh nghĩ rằng Dylan cần tới Nashville thì tốt nhất anh nên biến đi". Tôi giật mình hỏi "Anh nói sao?", và anh ta trả lời "Anh nghe rồi đấy, chúng ta phải làm việc ở đây.""" Sau những tranh luận với Grossman, Dylan cuối cùng đồng ý với gợi ý của Johnston, và mọi công đoạn chuẩn bị cho việc ghi âm thì được thực hiện ở Studio A của Columbia ở vùng Music Row của Nashville vào tháng 2 năm 1966.
Ngoài Kooper và Robertson được Dylan mang theo chuyến đi, Johnston tuyển thêm nhạc công harmonica Charlie McCoy, tay guitar Wayne Moss, tay bass Joe South, và tay trống Kenny Buttrey. Theo đề nghị của Dylan, Johnston bỏ việc chia phòng giữa các nghệ sĩ để tạo một "không gian của một khối thống nhất". Buttrey vẫn nhớ thứ âm thanh đặc biệt của album bởi việc sắp xếp tạo phòng thu của Johnston "như kiểu đang chơi trên sân khấu chứ không phải là trong một căn phòng lớn cách đó tận 19 dặm". Hơn nữa, Dylan mang cả piano vào trong căn phòng khách sạn ở Nashville để Kooper có thể giúp anh trong quá trình viết nhạc. Kooper chính là người chuẩn cao độ cho các nhạc công khác trước khi Dylan bắt đầu mỗi buổi thu.
Buổi thu đầu tiên diễn ra vào ngày 14 tháng 2 và Dylan đã có trong tay bản thu hoàn chỉnh của "Visions of Johanna" – ca khúc mà anh không thể có được bản ưng ý khi ở New York. Cùng hôm đó, anh cũng thu "4th Time Around" (được cho vào album) và "Leopard-Skin Pill-Box Hat" (không được cho vào album).
Ngày 15, buổi thu bắt đầu từ 6 giờ tối, song Dylan chỉ ngồi trong phòng để tìm ca từ, trong khi các nghệ sĩ khác chơi bài, nằm nghỉ và nói chuyện. Vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau, Dylan gọi tất cả lại để thống nhất về cấu trúc của các ca khúc. Khi Dylan đã cảm thấy đủ rõ ràng và các nhạc công cũng cảm nhận được, họ đã thu âm ca khúc nổi tiếng "Sad Eyed Lady of the Lowlands". Buttrey nhớ lại "Nếu bạn để ý kỹ bản thu, đoạn sau điệp khúc thứ hai như một thứ càng lúc càng điên rồ, và mọi người vẫn không dừng lại vì chúng tôi nghĩ đây có lẽ là đoạn điệp khúc cuối cùng mà chúng tôi có thể thực hiện, vậy nên chúng tôi cố ném hết tất cả những gì có thể vào. Thế là anh ấy liền chơi solo với harmonica và quay lại với một đoạn vào khác và thứ nhiệt huyết ấy khiến đoạn vào này có một cảm giác rất khác... Sau khoảng 10' với đoạn điên rồ ấy, chúng tôi nhìn lại mỗi người, và nhìn lại thứ vừa thực hiện. Ý tôi là chúng tôi đã lên đồng ít nhất trong suốt 5'. Vậy chúng tôi sẽ tiếp tục như thế nào từ đây?" Ca khúc kéo dài tổng cộng 11 phút 23 giây và chiếm trọn vẹn luôn mặt D của album.
Buổi thu tiếp theo diễn ra ngay sau đó, Dylan đã giành cả buổi chiều để viết lời, và tới đầu ngày 17, tất cả cùng thu âm ca khúc "Stuck Inside of Mobile with the Memphis Blues Again". Sau rất nhiều lần chỉnh sửa cũng như vào nhịp lỗi, bản thu thứ 14 cuối cùng được chọn để cho vào album.
Đợt thu thứ 2 tại Nashville.
Hầu hết những tài liệu về thu âm của "Blonde on Blonde", trong đó có của 2 người bạn thân của Dylan là Clinton Heylin và Michael Gray, đều đồng tình rằng có 2 đợt thu âm tách biệt: đợt thứ nhất là từ 14-17 tháng 2, còn đợt sau là từ 8-10 tháng 3 năm 1966. Quá trình này dựa trên những ghi chép và tài liệu của Columbia Records.
Dylan cùng The Hawks cùng nhau trình diễn tại Ottawa, Montreal, và Philadelphia rải rác trong những tháng 2 và 3, vậy nên Dylan chỉ có thể trở lại Nashville thu âm vào ngày mùng 8. Ngày hôm đó, anh đã thu ca khúc "Absolutely Sweet Marie" mà sau đó đã được cho vào album. Cây viết Sean Wilentz nhận xét ""Với "Absolutely Sweet Marie", "Blonde on Blonde" đã chính thức mang tính rock and roll."" Ngày mùng 9, họ đã có bản thu lại hoàn hảo cho "Just Like a Woman", rồi sau đó là "Pledging My Time" được "dẫn bởi tiếng guitar điên rồ của Robertson".
Cũng theo Wilentz, buổi thu cuối cùng của Dylan kéo dài tới 13 giờ. Ca khúc đầu tiên được tiến hành là "Most Likely You Go Your Way (And I'll Go Mine)" khi McCoy cố gắng chơi lại trumpet trong khi Dylan thì lại chơi harmonica, điều đó làm thay đổi hoàn toàn âm thanh trước đó của ca khúc. Sau đó, họ nhanh chóng hoàn thành "Temporary Like Achilles". Tới nửa đêm, mọi người đều "cảm thấy choáng váng" khi Dylan bắt đầu chơi nháp ca khúc "Rainy Day Women #12 & 35" trên piano. Johnston nhớ lại "Thứ âm thanh đó nghe như kiểu Cứu Thế Quân vậy." Dylan hỏi "Thế anh có chọn bài này không?" và liền đó Johnston gọi điện cho tay trombone Wayne Butler – nghệ sĩ hợp đồng duy nhất tham gia cùng Dylan và ban nhạc – và McCoy chơi trumpet để thể hiện đoạn cao trào của ca khúc.
Ca khúc được hoàn thiện dễ dàng và Dylan liền thu tiếp "Obviously 5 Believers", tiếp đó là bản thu cuối cùng cho ca khúc "Leopard-Skin Pill-Box Hat" với Robertson đánh lead. Buổi thu kết thúc với ca khúc "I Want You", mà Wilentz ghi lại là "một biến tấu từ 16 nốt nhạc của Wayne Moss với guitar" – một ca khúc vô cùng ấn tượng của buổi thu.
Al Kooper, người chơi keyboard trong tất cả các ca khúc của album, đã nói một câu chuyện hoàn toàn trái ngược về 2 đợt thu ở Nashville. Trong một đoạn bình luận tại website của Michael Gray, Kooper viết: "Chỉ có duy nhất MỘT chuyến đi tới Nashville có Robbie & tôi, và TẤT CẢ CÁC CA KHÚC đều được thực hiện trong chuyến đi đó." Charlie McCoy cũng ủng hộ lời khẳng định của Kooper. Trong cuốn sách "Bob Dylan In America" của mình, Wilentz viết ""tài liệu xác đáng nhất có lẽ là việc nhìn vào lịch diễn của Dylan. Sẽ rất hợp lý khi nói rằng có từ 5 tới 8 ca khúc đã được thu sau "Memphis Blues Again", nhưng không có một ca khúc nào trong số đó lại có thể được thu sớm hơn cả, kể cả đoạn chuyển giọng của ca khúc trên – bước đột phá lớn đầu tiên trong cấu trúc thông thường của Dylan trong vai trò nhạc sĩ.""
Quá trình chỉnh âm và tiêu đề.
Dylan bắt đầu chỉnh âm tại Los Angeles vào đầu tháng 4, trước khi anh bay sang Úc để mở màn tour diễn vòng quanh thế giới vào năm 1966 của mình. Wilentz viết rằng vào lúc đó, Dylan nhận thấy rằng "sự dồi dào từ chuyến đi Nashville không cho phép anh thực hiện một bản LP đơn", và họ đã phải "sản xuất với số lượng lớn sản phẩm nhằm có được một album-kép, thứ ấn bản lần đầu tiên xuất hiện trong thị trường âm nhạc vào thời điểm đó". Theo nhà sản xuất Steve Berkowitz, người đã thực hiện bản tái bản dưới dạng mono nằm trong "The Original Mono Recordings" vào năm 2012, Johnston đã yêu cầu mọi người cần chú ý tới phần chỉnh mono tới mức nó sẽ tốn tới 3-4 ngày, trong khi phần chỉnh stereo chỉ tốn khoảng 4 giờ.
Al Kooper nhớ lại rằng cả tiêu đề album lẫn các ca khúc đều tới trong quá trình chỉnh âm. "Khi chúng tôi bắt đầu chỉnh âm, tất cả ngồi cạnh nhau và Johston tới rồi hỏi "Chúng ta sẽ gọi chúng là gì?", và [Bob] trả lời rằng anh chưa có ý gì cả... Chính cái công việc tự do và ngớ ngẩn đó, tôi chắc chắn vậy, đã góp một vai trò rất quan trọng."" Một người viết sử khác của Dylan, Oliver Trager, có nói rằng Dylan đã định chọn tên ban đầu cho album là "Brecht on Brecht", khi phần nền sản xuất cũng như cảm hứng viết nhạc của anh bị ảnh hưởng nhiều bởi đạo diễn người Đức, Bertolt Brecht. Dylan cũng đã từng nói về nhan đề album: "Thực tế tôi cũng không nhớ chính xác rằng nó đã tới như thế nào, nhưng tôi biết chắc đó là số mệnh... Tôi không nhớ ai đã nói về nó, song chắc chắn đó không phải là tôi."
Các ca khúc trong album.
Theo Andy Gill, với ý tưởng ban đầu thực hiện một album "như một đoạn băng lỗi nhịp... bởi những kẻ mất trí khi hút thuốc phiện", Dylan đã tạo ra cú sốc lớn nhất với giới hâm mộ nhạc folk. Những cách chơi chữ được tập trung để hòa lẫn sự ngược đãi hoang tưởng với "những thứ lộn xộn của chủ nghĩa khoái lạc phóng túng". Heylin nhấn mạnh rằng những đoạn trích từ Cựu Ước được chú ý xây dựng theo giai điệu của Cứu Thế Quân thực sự nghe rất vui. Tiêu đề bí ẩn của ca khúc, theo Heylin, tới từ việc Dylan hiểu rõ liệu một ca khúc mang tên "Ai cũng bị ném đá" có thể tồn tại trên sóng phát thanh không. Heylin liền liên tưởng tiêu đề ca khúc này với Sách Châm Ngôn, chương 27, đoạn 15: "Một giọt mưa đang rơi khi trời mưa và một người đàn bà sách nhiễu là những điều hoàn toàn giống nhau". Đĩa đơn được phát hành vào ngày 22 tháng 3 năm 1966, đạt vị trí số 2 tại "Billboard" Singles Chart và số 7 tại Anh.
Tiếp sau những cảm hứng tuyệt vời từ "Rainy Day Women", ca khúc có ảnh hưởng từ nhạc Chicago blues, "Pledging My Time", lại mang một màu tối cho cả album. Nó bám theo âm hưởng của khá nhiều ca khúc blues truyền thống khác, điển hình là "It Hurts Me Too" của Elmore James. Theo nhà phê bình Michael Gray, câu hát "Somebody got lucky but it was an accident" lấy cảm hứng từ "Some joker got lucky, stole her back again" từ ca khúc "Come On in My Kitchen" của Robert Johnson – một ca khúc vốn đã được viết theo bản thu năm 1931 "Devil Got My Woman" của Skip James. Gray nhấn mạnh rằng "điểm sáng của giai điệu" cũng được lấy cảm hứng từ giai điệu của "Sitting on Top of the World" được thu bởi Mississippi Sheiks vào năm 1930. 2 câu kết của mỗi đoạn nhạc đã hoàn thiện chủ đề: một lời hứa với chàng trai trong hi vọng rằng cô gái "cũng sẽ hiểu". Ngoài giọng của Dylan và tiếng harmonica, ca khúc còn được dẫn bởi tiếng guitar của Robbie Robertson, tiếng piano của Hargus "Pig" Robbins và tiếng trống của Ken Buttrey. "Pledging My Time" được chọn làm mặt B cho đĩa đơn "Rainy Day Women #12 & 35" phát hành vào tháng 3.
Được đánh giá như một trong những sáng tác hay nhất của sự nghiệp Dylan, "Visions of Johanna" thực tế gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thu âm. Heylin viết rằng ca khúc ra đời vào khoảng mùa thu năm 1965, khi Dylan đang sống ở khách sạn Chelsea cùng người vợ đang mang bầu của mình, Sara. Tới phòng thu của mình tại New York, anh phát biểu về ca khúc mình mới viết: "Cái này sẽ trở thành 'Freeze Out'." Gill cho rằng tiêu đề có "không khí của một buổi tối đầy gián đoạn khi mà từng nét vẽ được phác thảo... với đầy tiếng nói thầm và thỏ thẻ". Wilentz bổ sung rằng Dylan đã chỉ dẫn cho các nhạc công chơi lại tới 14 lần nhằm thể hiện tối đa những gì mà anh muốn viết "đây không phải là hard rock. Thứ duy nhất "hard" ở đây chỉ có thể là Robbie." Wilentz cũng nói, rằng vì Dylan luôn cố làm nhẹ dần từng yếu tố một, nên càng ngày anh càng tiệm cận dễ dàng tới âm hưởng chung của cả album.
Chỉ đúng 10 tuần sau, "Visions of Johanna" được mang tới phòng thu ở Nashville. Kooper nói rằng anh và Robertson lúc đó đều đã trở nên thành thục với sự thay đổi ở chất giọng của Dylan cùng với phần chơi của Joe South với "tiếng bass xuất sắc đầy rộn ràng... nhịp nhàng". Gill bình luận rằng ca khúc nói về 2 người tình đối lập, giữa một gã Louise tầm thường với một Johanna "rất nội tâm và hoàn hảo". Theo Gill, ca khúc được viết nhằm giải thích người nghệ sĩ luôn phải cố gắng phấn đấu như thế nào để có thể theo đuổi những mục đích rất khó đạt tới của sự hoàn mỹ. Theo Heylin, thành công của ca khúc này "là ở chỗ Dylan đã biết viết những cảm xúc lộn xộn theo một cách sống động và gần gũi".
Khi Dylan tới phòng thu vào ngày 25 tháng 1 năm 1966, anh chưa có chút gì về nhan đề và ca từ cho bài hát kết thúc mặt A này. Với việc phân đoạn của Dylan, đoạn điệp khúc chỉ đem đến tiêu đề cho bài hát vào lần thu thứ 5, và buổi thu thì kéo dài cả đêm cho tới tận sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, phải đến tận lần thu thứ 18 tất cả mới có được bản hoàn chỉnh của ca khúc. Lần thu lại cuối cùng – thứ 19 – sau đó trở thành bản thu được cho vào album 4 tháng sau. Nhà phê bình Jonathan Singer đánh giá cao tiếng piano của Griffin đã giúp giai điệu trở nên vô cùng chặt chẽ: "Tới đoạn điệp khúc, Griffin đã làm bật lên mọi hòa âm; cách chơi keyboard của anh ấy, một chút Gershwin và một chút phúc âm, thực sự đầy đặn. Ngay tiếp sau, anh đã khéo léo gài đoạn điệp khúc với đoạn vào, và từ đó giúp ca khúc không còn một chút gượng gạo nào."
"One of Us Must Know" là một lời tự sự rất mộc mạc về một mối quan hệ tan vỡ. Mổ xẻ những sai lầm, người kể chuyện đã nói một cách khá dè dặt qua lời tâm sự về người yêu cũ. Theo đúng như lời chàng trai nói trong đoạn vào đầu tiên, có vẻ như anh đã không thể nắm bắt mọi chuyện và cả hạn chế những lỗi lầm ("I didn't mean to treat you so bad. You don't have to take it so personal. I didn't mean to make you so sad. You just happened to be there, that's all."). "One of Us Must Know" chính là ca khúc đầu tiên được hoàn chỉnh trong "Blonde on Blonde" và là ca khúc duy nhất được thu ở New York được chọn vào album. Đây cũng chính là đĩa đơn đầu tiên của album, được phát hành vào ngày 14 tháng 2 – ngày đầu tiên mà Dylan bắt đầu các buổi thu ở Nashville. Tuy nhiên, ca khúc không được xếp hạng tại Mỹ và chỉ có vị trí số 33 tại Anh.
Andy Giles cho rằng ca khúc này đã cho thấy những đoạn rất gắt khi chuyển tông ở đoạn điệp khúc, câu hát lặp lại "I Want You", và sự góp mặt kỳ lạ của rất nhiều nhân vật "quá nhiều điều bất thường cho một ca khúc chỉ vẻn vẹn 3 phút", bao gồm cả một kẻ sát nhân, một gã học gạo chơi organ, những người cha sướt mướt, những người mẹ, những vị cứu tinh ngủ quên, Queen of Spades, và cả "đứa trẻ nhảy múa trong bộ quần áo Trung Hoa". Phân tích sự thay đổi của ca từ, Wilentz cho rằng có rất nhiều sai lầm trong việc hiểu "về việc đại biểu hỏi anh ta về tên của mình... đoạn về người cha tới ôm một đứa nhóc vì con gái ông nghĩ rằng đó không phải là anh trai mình". Cuối cùng thì Dylan cũng đã có được cách diễn đạt như mong muốn.
Heylin nhấn mạnh vào cách trả lời vô cùng ấn tượng của Dylan vào năm 1966: "Đó không phải việc tìm những từ ngữ đẹp cho giai điệu, hay là việc đưa giai điệu vào ca từ... Nhạc và lời – tôi đều có thể cảm thấy chúng mỗi khi tôi thực sự muốn nói về một điều gì đó." Al Kooper cho biết trong tất cả những ca khúc mà Dylan viết khi ở khách sạn, đây là ca khúc mà anh thực sự yêu thích, vậy nên Dylan quyết định hoãn nó tới tận cuối cùng của đợt thu ở Nashville "để khiến anh ta (Kooper) phát cáu". Ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 6 năm 1966, chỉ ngay trước ngày phát hành của "Blonde on Blonde" và đạt thứ hạng 20 tại Mỹ và 16 tại Anh.
Là ca khúc thứ 3 được thu tại Nashville, đây là một ví dụ khác của việc lẫn lộn giữa việc viết và thu âm ngay tại phòng thu. Wilentz đã nói đó là một bản viết rời rạc giữa những đoạn gõ máy và những đoạn viết tay ""bắt đầu từ "honey but it’s just too hard" (câu hát được biết từ đợt thu ở New York với The Hawks). Từ đó ca từ là một sự pha trộn và đứt đoạn của hình ảnh và ngữ nghĩa ("người đời trở nên xấu xí hơn", "Banjo Eyes", "anh ta mang một khẩu 22 song chỉ có đúng một viên đạn") và với cả chính Dylan trước đó, giữa quá trình xây dựng ý tưởng, cũng đã có cả câu "Oh MAMA you’re here IN MOBILE ALABAMA with the Memphis blues again".""
Tại phòng thu, ca khúc này đã được thu rất nhiều lần với nhiều dị bản. Heylin viết "Vấn đề là ở hòa âm chứ không phải ở ca từ, điều đó buộc các nghệ sĩ phải tốn thêm một vài giờ." Tại bản thu thứ 5 (sau này được biết qua "No Direction Home Soundtrack"), Dylan hát vấp ở cụm từ "Stuck inside of Mobile" trong đoạn vào thứ 4 và anh không thu tiếp nữa. Bài hát bao gồm một trong những quan điểm sống thường thấy ở Dylan: "Your debutante just knows what you need/ But I know what you want" và cả "Here I sit so patiently/ Waiting to find out what price/ You have to pay to get out of/ Going through all these things twice".
"Leopard-Skin Pill-Box Hat" là những lời mỉa mai về chủ nghĩa duy vật, thời trang và cả lòng tham. Được thể hiện theo phong cách Chicago blues, ca khúc này lấy chút lời từ "Automobile (Blues)" của Lightnin' Hopkins. Paul Williams viết về thái độ dè bỉu phụ nữ "không quá nghiêm trọng khi ta biết rằng sự ghen tức tức thời mới là cảm xúc thực sự". Theo những gì ca khúc được viết, người kể chuyện quan sát người yêu cũ của mình thay đổi với chiếc "mũ da báo mới" ("brand new leopard-skin pill-box hat"), tới mức phải tìm bác sĩ cho cô và rình mò cô làm tình với người yêu mới của mình bởi vì "quên đóng cửa garage" ("forgot to close the garage door"). Ở những câu cuối cùng, anh ta cho rằng gã người yêu mới kia thực sự yêu cô vì chiếc mũ mới đó.
Ca khúc này được thu 6 lần tại New York, 13 lần ở Nashville, và lần sau cùng ngày 10 tháng 3 được chọn vào trong album. Dylan, với lần hiếm hoi phụ trách lead guitar, mở đầu ca khúc với đoạn lead cuốn hút (tai phải ở bản stereo); còn Robertson chơi solo trong đoạn sau đó (tai trái của bản stereo). Một năm sau buổi thu đó, "Leopard-Skin Pill-Box Hat" trở thành đĩa đơn thứ năm của album, đạt vị trí số 81 tại "Billboard" Hot 100.
Theo phân tích của Wilentz qua những bản thu, Dylan đã đưa vào một trong số những ca khúc nổi tiếng nhất sau này của mình, cách hát "phân tách từng dòng và sự một-chút-khó-hiểu" với những bản thu đầu tiên. Tuy nhiên, ông không chắc rằng nhân vật được miêu tả trong ca khúc là một người "giống như phụ nữ" thông qua những từ như "lắc", "lay động" và "mắc sai lầm". Sự khám phá những đặc tính nữ và tính dễ tổn thương này ở họ bị đồn – "rằng ít nhất không phải ảnh hưởng từ nhóm The Factory của Andy Warhol" – là để miêu tả Edie Sedgwick. Những câu hát nói về Baby với các từ ngữ "khói thuốc, amphetamine và ngọc trai" ("fog... amphetamine and... pearls") được Heylin cho là miêu tả Sedgwick hoặc một ai đó tương tự trong nhóm.
Về phần ca từ, nhà phê bình Christopher Ricks phát hiện ra "những manh nha về sự cô lập của xã hội" trong câu "I was hungry and it was your world". Khi được hỏi về việc cách miêu tả và quan điểm về phụ nữ của Dylan mang nhiều ý nghĩa cực đoan, Ricks đã hỏi ngược lại "Đó liệu có phải là một thứ nghệ thuật mới để nói về người đàn ông và người đàn bà hay không, khi mà chưa có một lời phê phán nào được đưa ra?" Ca khúc đạt vị trí số 33 tại Mỹ.
Là một ca khúc nhạc blues tươi sáng, "Most Likely You Go Your Way (And I'll Go Mine)" là một trong những ca khúc không có hàm ý sâu sa mà Dylan viết trong giai đoạn 1965-1966. Người kể chuyện nói về việc anh thực sự mệt mỏi khi phải quá quan tâm với người mình yêu và quyết định bỏ mặc cô. Cũng như trong "Just Like a Woman" và "Absolutely Sweet Marie", Dylan cũng đợi tới khi kết thúc của mỗi đoạn vào để kết, ở dòng cuối cùng, bằng nhan đề của ca khúc. "Most Likely You Go Your Way" trở thành đĩa đơn sau đó vào tháng 3 năm 1967 và nằm ở mặt B của "Leopard-Skin Pill-Box Hat".
Bản nhạc blues tiết tấu chậm rãi này được tô điểm bởi "tiếng piano đậm chất barrelhouse"" của Hargus "Pig" Robbins và cả "tiếng harmonica khò khè" của Dylan. Trong ca khúc này, người kể chuyện bị cự tuyệt bởi người mình yêu, người cũng vừa mới chia tay người bạn trai của mình. Gọi đối thủ của mình là "Achilles", người kể chuyện ngờ rằng kẻ theo đuổi cô sau đó cũng sẽ bị phũ nhanh như chính anh vậy. Đoạn điệp khúc là một cách đọc-đè-kép mà Dylan đã thể hiện thành công với việc lặp lại nhiều câu hát "Honey, why are you so hard?".
Ca khúc được miêu tả như "một kiểu blues tân tiến song đậm chất Memphis", ví dụ tiêu biểu cho một "kiểu pop giàu cảm hứng với giai điệu súc tích", được thu âm qua bốn bản vào ngày 7 tháng 3 năm 1966. Gill đánh giá ca từ như một chuỗi ẩn dụ tình dục, trong đó có cả "beating on my trumpet" và "những chìa khóa để mở cửa", là những quan điểm truyền thống từ nhạc blues. Kể cả vậy, ca khúc này vẫn thể hiện "một trong những quan điểm sống thường thấy ở Dylan" với ý nghĩ cho rằng "bạn cần phải thành thật nếu muốn sống ngoài vòng pháp luật" – quan điểm lớn nhất được hưởng ứng bởi những người bohemia và phong trào phản văn hóa những năm 60.
Khi The Beatles phát hành album thứ sáu của họ, "Rubber Soul" vào tháng 12 năm 1965, ca khúc "Norwegian Wood" của John Lennon đã gây được rất nhiều chú ý từ giới phê bình bởi ảnh hưởng vô cùng rõ rệt từ âm nhạc của Dylan. Âm hưởng của Dylan thể hiện rõ ràng trong cấu trúc của ca khúc, ở nhịp 3/4, cách chọn tông cũng như chuyển nhịp, song được thể hiện qua cách nhìn tiêu cực hơn của Lennon. Wilentz miêu tả "4th Time Around" là một ca khúc "mà Dylan bị ảnh hưởng từ Lennon, người trước đó đã bị ảnh hưởng từ chính Dylan".
"Obviously 5 Believers", ca khúc áp chót của "Blonde on Blonde", là một bản tình ca theo phong cách roadhouse blues có giai điệu tương đồng với "Me and My Chauffeur Blues" của Memphis Minnie. Robert Shelton cho là "ca khúc mang chất R&B nhất của album". Được thu vào buổi sớm ngày 9 và 10 tháng 3 ở Nashville dưới tên "Black Dog Blues", bài hát được dẫn bởi tiếng guitar của Robbie Robertson, tiếng harmonica của Charlie McCoy và Ken Buttrey chơi trống. Sau những bản thu nháp ban đầu, Dylan than phiền với ban nhạc rằng ca khúc này "quá đơn giản", vậy nên anh không muốn mất thời gian với nó. Sau chỉ đúng 4 lần thu, ca khúc đã được hoàn thiện.
Được viết trong khoảng 8 giờ tại phòng thu CBS ở Nashville vào buổi tối ngày 15-16 tháng 2, "Sad Eyed Lady" chiếm trọn vẹn mặt D của "Blonde on Blonde". Nhiều nhà phê bình viết rằng "Lowlands" là nhằm nói tới "Lownds", và người viết sử của Dylan, Robert Shelton, cho rằng đó là ca khúc mừng đám cưới gửi tặng Sara Lownds – người vợ mà Dylan vừa mới kết hôn trước đó chỉ 3 tháng. Trong ca khúc tri ân với cô – "Sara" – được viết vào năm 1975, chính Dylan cũng đã thừa nhận "up for days in the Chelsea Hotel/ Writin’ 'Sad-Eyed Lady of the Lowlands' for you".
Khi Dylan cho Shelton nghe ca khúc này, anh đã tự hào "Đây là ca khúc tốt nhất tôi từng viết". Cũng vào lúc đó, Dylan cũng cho nhà báo Jules Siegel nghe thử, "Hãy cứ thử đi! Đây chỉ là một giai điệu trong lễ hội hóa trang tôn giáo thôi!" Tuy nhiên, tới năm 1969, Dylan có trả lời phỏng vấn với tổng biên tập tờ "Rolling Stone", Jann Wenner: "Tôi ngồi ở bàn và bắt đầu viết... Và rồi tôi bị cuốn theo cái đống đó... Tôi bắt đầu viết và không thể dừng lại được. Sau lúc đó, tôi hoàn toàn quên những gì tôi đã làm, và tôi buộc phải cố gắng định thần lại [cười]."
Được nhiều thính giả coi như thánh ca cho những người phụ nữ ở thế giới khác, Shelton viết "những đau đớn khi sinh của cô ấy là cả sự chịu đựng, thậm chí đó là một sức mạnh tinh thần, một khao khát tái sinh. Đó là Dylan ở khoảnh khắc lãng mạn nhất." Wilentz cho rằng cách viết của Dylan đã thay đổi theo từng ngày khi anh đã có ngày một nhiều câu hỏi và tự xoay xở câu trả lời. Cũng như ca khúc "The Tyger" của William Blake, Dylan cũng đã tự đặt vô số câu hỏi qua "Sad Eyed Lady" song lại chưa từng tìm kiếm những câu trả lời.
Các ca khúc khác không nằm trong album.
Tất cả những ca khúc sau đều được thu trong quá trình thực hiện "Blonde on Blonde".
Bìa đĩa.
Phần bìa của "Blonde on Blonde" là một bức ảnh cỡ 12x12 inch chụp chân dung khá cận mặt của Dylan. Phần bìa rộng của album này là một bức ảnh lớn cỡ 12x26 inch chụp người nghệ sĩ tới 3/4 thân. Tên của album cũng như của Dylan chỉ được xuất hiện ở phần gáy. Các miếng dán chỉ nằm trong 2 đĩa đơn "I Want You" và "Rainy Day Women #12 & 35".
Phần bìa chụp Dylan đứng bên một bức tường gạch, mặc một chiếc áo khoác kiểu Bắc Âu với chiếc khăn quàng kẻ ca-rô đen và trắng. Anh cũng mặc chiếc áo khoác này trong 2 album tiếp theo của mình, "John Wesley Harding" và "Nashville Skyline". Nhiếp ảnh gia Jerry Schatzberg kể lại: "Tôi thực sự muốn tìm một địa điểm đẹp ở phía bên ngoài phòng thu. Chúng tôi đi về phía Tây, ở chỗ triển lãm nghệ thuật Chelsea bây giờ. Khi đó ở đấy là quận Meatpacking và tôi rất muốn chụp ở khu đó. Trời vô cùng lạnh và ai cũng rất rét. Cái bức ảnh mà anh ấy chọn lại là một bức nhòe và bị mất nét. Dĩ nhiên, ai cũng muốn biết xem vì sao anh ấy làm vậy, và nhiều người nghĩ rằng điều đó nhằm thể hiện rõ ảnh hưởng của chất LSD. Dù sao thì điều đó cũng không quan trọng; chúng tôi đều lạnh cóng và bắt đầu rùng mình. Hiển nhiên có rất nhiều bức ảnh rõ và nét, song Dylan lại thích bức ảnh này."
Tất cả các bức ảnh gốc đen-trắng đi kèm đều được chụp bởi Schatzberg và được tự tay Dylan cho vào album. Bức ảnh chụp nữ diễn viên Claudia Cardinale trong tuyển tập của Schatzberg được cho vào album song sau đó bị loại bỏ bởi nó chưa có sự đồng ý của cô và người đại diện đã bắt đầu quá trình khởi kiện. Dylan cũng bổ sung Schatzberg trong thành phần sản xuất với bức ảnh chụp chân dung mình. Những bức ảnh này, theo Gill, "là chút thoáng qua về cuộc đời [của Dylan], trong đó có cả bức Dylan cầm một bên tay chân dung người phụ nữ, còn bên tay còn lại là một cây kìm: họ muốn nhấn mạnh về việc album mang tính tránh thể hiện sự xa hoa."
Phát hành.
Ngày phát hành của "Blonde on Blonde" thực sự chưa có tài liệu chắc chắn, song ngày 16 tháng 5 năm 1966 được công nhận rộng rãi là ngày phát hành chính thức của album. Tuy nhiên, Michael Gray – tác giả cuốn tiểu sử "The Bob Dylan Encyclopedia" – lại không công nhận điều này. Ông cho rằng sớm nhất album chỉ có thể được phát hành vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 cùng năm, qua những đánh giá tại "Billboard", cùng đó là những thông tin quảng cáo của Columbia vào ngày 25 tháng 6, ghi album như "bản LP mới" vào ngày 9 tháng 7 và sau đó là những bài báo đánh giá đầu tiên được phát hành vào ngày 16 tháng 7. Album xuất hiện trên "Billboard 200" kể từ ngày 23 tháng 7, 6 ngày sau tai nạn xe máy của Dylan ở Woodstock buộc anh không thể tiếp xúc với công chúng. Clinton Heylin cho rằng đầu tháng 7 có thể là ngày phát hành chính thức của album vì bản ghi đè của "4th Time Around" mới chỉ được thực hiện vào đầu tháng 6. "Blonde on Blonde" được coi là một trong những album-kép đầu tiên được thực hiện bởi một nghệ sĩ duy nhất.
Danh sách ca khúc.
Tất cả các ca khúc được viết bởi Bob Dylan.
Đánh giá và tôn vinh.
"Blonde on Blonde" đều đạt vị trí trong Top 10 tại Anh và Mỹ, và những ca khúc của album cùng với đó đã giúp Dylan trở lại các bảng xếp hạng đĩa đơn. Tới tháng 8 năm 1967, album đã có được chứng chỉ Vàng.
Khi mới phát hành, "Blonde on Blonde" chưa có được nhiều đánh giá tích cực như các ấn phẩm khác. Trong cuốn sách bên lề album, Paul Nelson viết: "Cái tên vô cùng đặc biệt đã nói lên được tính độc tôn cũng như cả tính hai mặt trong con người Dylan. Thứ âm nhạc ảo ảnh và cả ảo giác của Dylan – với những kẻ lang thang như những người khai phá, những gã hề như những nạn nhân hạnh phúc, nơi mà những tội ác ghê rợn nhất không tồn tại và ở đó có cả sự bất lực trong việc tự định nghĩa mình như một người nghệ sĩ trong gánh xiếc cuộc đời – luôn theo kèm những niềm căng thẳng cố hữu... Dylan cuối cùng đã HIỂU thực trạng đó, và một khi đã nắm bắt được nó, thì chẳng còn lý do gì phải tức giận, chẳng còn lý do gì phải lý luận về đạo lý nữa, chỉ còn niềm vui và lòng trắc ẩn, chỉ còn tình thương."
Nhìn chung album đều nhận được những đánh giá tích cực vào khoảng cuối năm 1966. Pete Johnson của tờ "Los Angeles Times" viết: "Dylan quả là một nhạc sĩ hùng hồn của những ca khúc pop và folk với những khả năng chưa từng ai có nhằm gói gọn những ý tưởng phức tạp cũng như những tư duy trừu tượng trong một vài dòng thơ với chỉ vài hình ảnh biểu trưng vô cùng bất ngờ." Cây viết của tờ "Crawdaddy!", Paul Williams, đánh giá về "Blonde on Blonde" trong bài báo vào tháng 7 năm 1966: "Đó là một sự che giấu cảm xúc, một sản phẩm giá trị của một thứ âm nhạc tuyệt hảo cùng một thứ thơ chất lượng hơn, pha trộn, đa chiều và sẵn sàng trở thành một phần của thực tế. Đây chính là người luôn muốn nói chuyện với bạn, một thi sĩ của những năm 60 với một cây đàn điện và nhiều nốt luyến đầy màu sắc, một người với đầy sự tin tưởng có đôi mắt tia X mà bạn có thể hiểu thấu nếu bạn muốn. Tất cả những gì bạn cần làm là hãy lắng nghe."
Những gì có được với "Blonde on Blonde" thực sự khắc sâu vào tâm trí của Dylan. 12 năm sau ngày phát hành, Dylan hồi tưởng lại: "Những âm thanh gần sát với tâm hồn tôi nhất có lẽ chính là những gì tôi có với album "Blonde on Blonde". Một sự mỏng manh, hoang dã của âm thanh. Nó như kim loại hay thứ vàng tốt, với mọi thứ mà nó có thể tự khơi gợi nên." Album này nằm trong bộ 3 album rock của Dylan vào giữa những năm 60. Janet Maslin viết: "Bộ 3 album của thời kỳ này – "Bringing It All Back Home" và "Highway 61 Revisited" phát hành năm 1965, và "Blonde on Blonde" năm 1966 – sử dụng những nhạc cụ điện và cách hòa âm theo phong cách rock đã thể hiện được rõ ràng sự đa dạng trong phong cách mà Dylan chưa từng thể hiện trước kia." Mike Marqusee nhấn mạnh khoảng đột phá từ cuối năm 1964 tới mùa hè năm 1966 này của Dylan, khi anh bắt đầu quá trình thực hiện bộ 3 album, như "một khối công việc với mục đích duy nhất là âm nhạc quần chúng". Còn với Patrick Humphries, "Khối công việc 14 tháng của Dylan... đứng vững trong lịch sử 30 năm của nhạc rock. Nói về giá trị, phong cách, âm hưởng và cả những thành tựu, chưa có một tuyển tập album nào có được thành công lớn như "Bringing It All Back Home", "Highway 61 Revisited" và "Blonde on Blonde"."
"Blonde on Blonde" nhìn chung đều được xếp ở vị trí cao trong các bản danh sách cho các album vĩ đại nhất. Năm 1984, các cây bút của tờ "NME" đã bình chọn đây là album xuất sắc thứ hai của mọi thời đại. Cũng trong một cuộc thăm dò như vậy, album được bầu chọn ở vị trí số 16 trong "Album của Thiên niên kỷ" do HMV, Channel 4, "The Guardian" và Classic FM cùng hợp tác. Năm 2006, tạp chí "TIME" cũng đưa "Blonde on Blonde" vào danh sách 100 album vĩ đại nhất của họ. Năm 2003, "Blonde on Blonde" nằm ở vị trí số 9 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của "Rolling Stone". Tới năm 2004, có tới 2 ca khúc của album này nằm trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất" cũng của cùng tạp chí trên: "Just Like a Woman" ở vị trí thứ 230 và "Visions of Johanna" số 404 (khi "Rolling Stone" cập nhật danh sách mới vào năm 2010, cả hai ca khúc này đều tụt hạng: "Just Like a Woman" xuống 232 và "Visions of Johanna" 413).
Nhà nghiên cứu Michael Gray viết: "Một trong những siêu kiệt tác đối với sự nghiệp của Dylan là đây... Nếu như "Highway 61 Revisited" đã đưa Dylan tới như một tia hóa trị, nhìn cuộc sống từ khía cạnh khác của cơn bệnh, thì "Blonde on Blonde" lại mang tới một cá tính khác vượt trên mọi sự hỗn loạn... Chúng ta như bị cuốn vào từng ca khúc... Cảm xúc và cả âm nhạc đề cập tới nhiều khía cạnh, ngôn ngữ và cách diễn đạt là một sự hòa hợp giữa tính bao quát và sự gần gũi." Nhà phê bình Tim Riley nhận xét: "Với một sự trừu tượng ngổn ngang theo phong cách blues kì quái, "Blonde on Blonde" đã khẳng định Dylan như nghệ sĩ rock người Mỹ xuất sắc nhất kể từ thời Elvis Presley."
Cây viết tiểu sử cho Dylan, Robert Shelton, coi album như "một tuyển tập ấn tượng mà trong đó hoàn thiện những bước tiến đầu tiên của Dylan đối với nhạc rock, bắt đầu với "Bringing It All Back Home"." Ấn tượng với những lời ca ngợi dành cho album, Shelton cho rằng "Blonde on Blonde" thực tế ""khởi đầu bằng những lời chế nhạo và cuối cùng lại có vô vàn lời ngợi ca"; "giữa những tâm hồn đan xen với các chủ đề gói gọn trong môi trường, tình yêu, xã hội, những niềm hi vọng vô nghĩa... Đó là một sự kết hợp hoàn hảo giữa funk, chủ nghĩa blues rock ấn tượng, quan điểm về gián đoạn của Rimbaud, sự hỗn loạn, sự cô đơn, sự mất mát và cả sự 'mắc kẹt'."" Còn với Mike Marqusee, Dylan đã vô cùng thành công khi thử sức cùng blues với nhiều kĩ thuật mới: ""[Dylan] đã tận dụng những khả năng diễn đạt vốn có và cải tiến nó theo một cách hiện đại. "Pledging My Time" và "Obviously 5 Believers" vẫn giữ những đặc điểm của nhạc blues giống như khi Dylan lần đầu tiên biết tới nó vào giữa những năm 50 (cả hai đều bắt đầu với điệu delta theo kiểu "early in the mornin"). Mặt khác, "Visions of Johanna" hay "Memphis Blues Again" lại được thể hiện theo cách khác. Chúng là những sáng tác đầy ý dèm pha, lặp đi lặp lại, trừu tượng, thách thức những sự tối giản.""
Về việc vượt qua những ranh giới văn hóa cố hữu, Al Kooper nói: "[Bob Dylan] là một gã hipster điển hình ở New York – vậy mà gã ta lại tới Nashville? Điều đó thực ra chả có ý nghĩa gì cả. Khi mà bạn thử dung hòa 2 yếu tố đó lại, cùng nhét chúng vào một bản thu, tất cả mọi thứ sẽ nổ tung."
Thành phần tham gia sản xuất.
Thành phần tham gia sản xuất của "Blonde on Blonde" vẫn còn rất nhiều tranh cãi: | 1 | null |
Rượu vang Tokaj (tiếng Slovak: "Tokajské víno") là tên được bảo hộ xuất xứ của các loại rượu vang từ vùng Tokaj-Hegyalja ở Hungary và Slovakia.
Tokaj được ghi nhận như là loại rượu vang ngọt được làm từ nho lên men có một lịch sử lâu đời trong khu vực này. "Mật" đến từ nho của Tokaj cũng được đề cập đến trong Quốc ca Hungary.
Từ năm 2007, chỉ có rượu vang được sản xuất từ các vùng rượu vang Tokaj-Hegyalja được phép sử dụng tên thương hiệu Tokaj.
Các vùng rượu vang Slovak Tokaj có thể sử dụng nhãn hiệu Tokaj nếu họ áp dụng các quy định kiểm soát chất lượng Hungary. Khu vực này đã từng là một phần của vùng Tokaj lớn nằm trong Vương quốc Hungary, nhưng sau Hòa ước Trianon được giao về cho Tiệp Khắc, là một phần lãnh thổ của Slovakia sau này. | 1 | null |
Sả ngực hoa cà (danh pháp hai phần: "Coracias caudatus") là một loài chim thuộc họ Sả rừng. Loài chim này phân bố ở châu Phi hạ Sahara và phía nam bán đảo Ả Rập, ưa thích rừng cây gỗ mở và xavan; nó phần lớn không hiện diện ở các khu vực không có cây. Thường được thấy đơn độc hoặc theo cặp, nó đậu dễ thấy tại các ngọn cây, cột hoặc các điểm thuận lợi khác cao từ nơi nó có thể phát hiện côn trùng, thằn lằn, bọ cạp, ốc, những con chim nhỏ và động vật gặm nhấm di chuyển trên mặt đất. Sả ngực hoa cà làm tổ ở các hốc tự nhiên và đẻ mỗi tổ 2-4 quả trứng và được cả chim bố lẫn chim mẹ ấp, bảo vệ tổ một cách hung hăng chống lại các loại chim ăn thịt. | 1 | null |
Armenia được chia thành 11 đơn vị hành chính cấp tỉnh (tiếng Armenia: մարզեր hay marzer), trong đó có 10 tỉnh và thành phố thủ đô Yerevan. Các tỉnh sau đó được chia thành các đô thị, các đơn vị này có thể chỉ có mình nó (không phân chia tiếp) hoặc chia thành các cộng đồng dân cư là thị trấn và làng.
Người đứng đầu tỉnh được chính phủ chỉ định trong khi đó người đứng đầu thủ đô do tổng thống chỉ định.
Cấp tỉnh.
Dưới đây là danh sách các tỉnh với dân cư, diện tích và mật độ dân số. Các số liệu được tham chiếu từ Cơ quan Thống kê quốc gia Armenia. Tỉnh Gegharkunik bao gồm Hồ Sevan với diện tích trong lãnh thổ của nó.
Cấp dưới tỉnh.
Dưới cấp tỉnh là các cộng đồng ("hamaynkner", "hamaynk"). Mỗi cộng đồng có thể là không phân chia hoặc bao gồm một hoặc nhiều khu vực định cư ("bnakavayrer", số ít "bnakavayr"). Các khu vực định cư này được phân loại thành hoặc là thị trấn ("kaghakner", số ít "kaghak") hoặc làng ("gyugher", số ít "gyugh"). Đến năm 2007, Armenia có 915 cộng đồng, trong đó 49 là khu vực đô thị và 866 là khu vực nông thôn. Thủ đô cũng là một cộng đồng. Ngoài ra, Yerevan cũng được chia thành 12 khu vực bán tự chủ. | 1 | null |
Thọ Tịch Chi (, ? - 471), người quận Ngô Hưng (nay thuộc Chiết Giang), là quan nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Sự nghiệp.
Ông vốn là Chủ y trong cung. Cuối niên hiệu Cảnh Hòa (465) thời Lưu Tống Tiền Phế Đế, hoàng thân Lưu Úc bị giữ lại trong cung, giảm lỏng ở Bí thư tỉnh, tình thế rất nguy hiểm. Thân tín của Lưu Úc là Nguyễn Điền Phu mưu tính giết Tiền Phế Đế, đưa Lưu Úc lên ngôi.
Buổi quá trưa ngày 29 tháng 11 năm ấy (465), Tiền Phế Đế ra chơi Hoa Lâm Viên, Kiến An vương Lưu Hưu Nhân, Sơn Dương vương Lưu Hưu Hữu, Sơn Âm công chúa cũng theo hầu. Lưu Úc vẫn bị giám sát ở Bí thư tỉnh, không được triệu, lấy làm lo sợ. Nguyễn Điền Phu báo với Ngoại giám điển sự Chu Ấu (người quận Đông Dương), lại báo với Thọ Tịch Chi, Tế khải chủ Khương Sản Chi (người quận Nam Bành Thành); Sản Chi lại nói với cấp trên của mình là Lĩnh tế khải tướng Vương Kính Tắc (người quận Lâm Hoài); Ấu lại báo với Trung thư xá nhân Đái Minh Bảo, đều hưởng ứng. Minh Bảo, Ấu muốn ra tay khi trời sáng, bọn Điền Phu khuyên ra tay ngay khi có trống canh một. Ấu ước hẹn khắp trong ngoài, sai Tiền Lam Sanh mật báo bọn Kiến An vương Lưu Hưu Nhân. Khi ấy Tiền Phế Đế muốn đi tuần phía nam. tâm phúc là bọn Trực các tướng quân Tống Việt đều ra ngoài gói ghém hành trang, chỉ có Đội chủ Phàn Tăng Chỉnh trông coi Hoa Lâm các, mà Tăng Chỉnh là đồng hương của Liễu Quang Thế; Quang Thế yêu cầu, Tăng Chỉnh lập tức nhận lệnh. Khương Sản Chi lại yêu cầu Đội phó Niếp Khánh (người quận Dương Bình) cùng tráng sĩ dưới quyền là Phú Linh Phù (người quận Hội Kê), Du Đạo Long (người (quận) Ngô Quận), Tống Quỳ Chi (người quận Đan Dương), Điền Tự (người quận Dương Bình) đều tụ tập ở Khánh Tỉnh. Điền Phu lo vẫn chưa đủ, muốn tập hợp thêm, Thọ Tịch Chi nói: "Càng nhiều người tham dự thì mưu càng dễ bị tiết lộ, không cần thêm người làm gì!"
Bấy giờ thầy mo nói: "Hậu đường có quỷ." Đêm ấy Tiền Phế Đế ở trước Trúc Lâm đường, cùng thầy mo bắn quỷ, bọn Kiến An vương Lưu Hưu Nhân cũng đi theo. Tiền Phế Đế vốn không ưa Tịch Chi, trông thấy liền nghiến răng. Tịch Chi cùng Điền Phu đã mưu tính xong, lại lo vạ đến, rút đao xông vào trước, Khương Sản Chi theo sau, tiếp nữa là Thuần Vu Văn Tổ, Mâu Phương Thịnh, Chu Đăng Chi, Phú Linh Phù, Niếp Khánh, Điền Tự, Vương Kính Tắc, Du Đạo Long, Tống Quỳ Chi. Hưu Nhân nghe tiếng chân rất gấp, nói với Sơn Dương vương Lưu Hưu Hữu rằng: "Hành động rồi!" bèn cùng nhau chạy lên núi Cảnh Dương. Tiền Phế Đế thấy Tịch Chi đến, giương cung mà bắn, không trúng, bèn bỏ chạy. Tịch Chi đuổi theo giết chết Tiền Phế Đế. Việc xong, bọn họ tuyên lệnh cho túc vệ rằng: "Tương Đông vương thụ lệnh của Thái hậu, trừ cuồng chủ. Nay đã dẹp xong".
Lưu Úc lên ngôi, là Lưu Tống Minh đế, luận công ban thưởng, Thọ Tịch Chi được phong Ứng Thành huyện hầu, thực ấp 1000 hộ.
Đầu những năm Thái Thủy (465 – 471), Tịch Chi nhờ quân công tăng ấp 200 hộ. Làm Vũ lâm giám, dời làm Thái tử đồn kị hiệu úy, rồi được gia Ninh sóc tướng quân, Nam Thái Sơn thái thú. Ông tham ô hối lộ, vòi vĩnh vô cùng; người nào không theo, thì nghiến răng mắng nhiếc, thường nói: "Đao sắc trong tay, lo gì không xong!"
Tịch Chi dùng roi đánh các viên Úy lại (Úy là quan coi về hình pháp), dùng đao chém các viên La tướng (tướng lĩnh làm nhiệm vụ tuần phòng), bị quan viên hữu tư tấu lên. Ông bị đày đi Việt Châu, đến Dự Chương, mưu bỏ trốn, nên bị giết. | 1 | null |
Nhan Thiện Nhân (sinh năm 1969) là cầu thủ bóng đá của đội An Giang.Hiện là huấn luyện viên đội Hùng Vương An Giang. Anh từng là thành viên của đội tham dự giải vô địch quốc gia 1996. Năm 2005, Nhan Thiện Nhân hoàn tất chứng chỉ A dành cho HLV (chứng chỉ cao nhất của AFC), cũng như lấy được tấm bằng cử nhân TDTT, chuyên sâu bóng đá, để bước theo nghiệp HLV. Sau vài mùa bóng làm trợ lý cho các chiến lược gia lão làng như Joachim Fickert và Nguyễn Kim Hằng, đến mùa giải 2007, Nhan Thiện Nhân chính thức nhận chức HLV trưởng ngay từ đầu mùa bóng, với nhiệm vụ đưa An Giang trở lại sân chơi cao nhất của bóng đá Việt Nam. Một nhiệm vụ mà chính anh đã chờ đợi từ lâu, một cơ hội để chính anh thực hiện giấc mộng giúp đội chủ sân Long Xuyên thăng hạng sau đúng 10 năm tụt hạng. | 1 | null |
Bristol Buckmaster là một loại máy bay huấn luyện của Anh, nó được Không quân Hoàng gia sử dụng trong thập niên 1950.
Thiết kế và phát triển.
Đến năm 1945, đang có một khoảng cách lớn về hiệu suất giữa các máy bay cao cấp đang được sử dụng, ví dụ như Avro Anson, Airspeed Oxford. | 1 | null |
Bờ biển đá là một vùng bờ biển gian triều, nơi đá cứng chiếm thế chủ đạo. Về mặt sinh học, bờ biển đá có môi trường sinh thái phong phú và là phòng thí nghiệm tự nhiên lý tưởng để nghiên cứu sinh thái học vùng gian triều cũng như những tiến trình sinh học khác. Do dễ dàng tiếp cận nên bờ biển đá và các loài sinh vật nơi đây đã được con người nghiên cứu từ lâu và biết đến nhiều.
Đời sống biển.
Có rất nhiều yếu tố thuận lợi cho sự tồn tại của sự sống nơi các bờ biển đá. Sự hoà trộn giữa sóng và đối lưu ở các vùng nước ven biển miền ôn đới giúp duy trì lượng dinh dưỡng đầy đủ. Bên cạnh đó, dưới tác động của thủy triều, nước biển mang theo chất hữu cơ và sinh vật phù du theo mỗi đợt triều lên. Ánh sáng dồi dào cùng mức độ dinh dưỡng trong nước cao thể hiện rằng năng suất sản sinh chất dinh dưỡng của rong biển và tảo có thể ở mức rất cao.
Ngoài yếu tố thuận lợi cho sự sống tại các bờ biển đá thì cũng tồn tại rất nhiều thách thức mà sinh vật biển phải đối mặt. Nói chung, sự phân bố các loài sinh vật đáy bị giới hạn bởi độ mặn của nước, thủy triều, nhiệt độ, sự mất nước... Mối đe doạ bị mất nước khi thủy triều xuống khiến nhiều sinh vật phát triển các đặc tính thích ứng mạnh mẽ như lớp nhầy và vỏ trên cơ thể. Nhiều loài sử dùng vỏ và "holdfast" của mình để chống lại các cơn sóng mạnh. Ngoài ra, còn có rất nhiều vấn đề khác gây trở ngại cho sự sống ở vùng bờ biển đá, ví dụ sự biến động nhiệt độ do các dòng thủy triều, sự thay đổi độ mặn của nước và biên độ ánh sáng khác nhau. Các sinh vật tại đây còn có nguy cơ trở thành mồi của chim và các sinh vật biển khác, cũng như phải hứng chịu tác động nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm.
Các bờ biển đá phải gánh chịu nhiều loại ô nhiễm khác nhau, trong đó phải kể đến ô nhiễm do tràn dầu. Trong quá khứ, từng xảy ra một số vụ tràn dầu gây ảnh hưởng tai hại lên các bờ biển đá như vụ tràn dầu Torrey Canyon ở ngoài khơi Cornwall thuộc Anh, vụ tràn dầu Amoco Cadiz ngoài khơi bờ biển Brittany của Pháp và vụ tràn dầu Exxon Valdez ở Alaska thuộc Hoa Kỳ. Ngoài ra, hoạt động du lịch có thể phát sinh rác thải như nhựa và kim loại cũng là vấn đề lớn của các bờ biển đá trên thế giới. | 1 | null |
Hồ Sevan (, "Sevana lič̣") là hồ nước lớn nhất Armenia và cả vùng Kavkaz, đồng thời là một trong những hồ nước ngọt kiểu Anpơ (nằm ở độ cao lớn) lớn nhất lục địa Á-Âu. Hồ Sevan nằm ở tỉnh Gegharkunik, tại độ cao trên mực nước biển. Tổng diện tích bề mặt lưu vực hồ là , chiếm diện tích tích. Hồ tính riêng thì rộng , với thể tích . Nó được cấp nước bởi 28 dòng sông và suối. Chỉ 10% lượng nước thất thoát chảy vào sông Hrazdan, 90% còn lại mất đi do bốc hơi.
Hồ Sevan cung cấp 90% sản lượng cá và 80% sản lượng tôm hùm đất tại Armenia. Nó có giá trị kinh tế, văn hóa, và giải trí quan trọng. Hòn đảo duy nhất (nay là một bán đảo) ở hồ là nơi có một tu viện thời Trung cổ.
Tên gọi.
Các học giả nhất trí rằng từ "Sevan" xuất phát từ "su(i)n(i)a" trong tiếng Urartu, hiểu đơn giản là "hồ". Từ này được xuất hiện trong một bản khắc chữ hình nêm thế kỷ 8 TCN thời vua Rusa I của Urartu, tìm thấy ở Odzaberd, bờ nam của hồ. Theo dân gian, "Sevan" là sự kết hợp của hoặc là "sev" ("đen") + Van (hồ Van) hoặc "sev" ("đen") + "vank’" ("tu viện"). Các nguồn của Nga và châu Âu vào thế kỷ 19 và đầu 20 gọi nó là "Sevanga" hay "Sevang". Đây có lẽ là tên Nga hóa từ "sev" "vank’" ("tu viện đen") hoặc cũng có thể xuất phát từ cụm từ սա է վանքը ("sa ē vankʿə", "đây là tu viện").
Từ thời cổ đại đến Trung cổ, Sevan chủ yếu được xem là một biển và được gọi là "biển Gegham" (tiếng Armenia cổ điển: ծով Գեղամայ, "tsov Geghamay"). Thời Cổ đại Hy-La, hồ Sevan có tên "Lychnitis" (). Tên cũ tiếng Gruzia là "Gelakuni" (გელაქუნი). "Gokcha" (, , "nước xanh") cũng từng được dùng ở Nga và châu Âu song song với "Sevanga".
Ý nghĩa.
Văn hóa.
Cùng với hồ Van và hồ Urmia, hồ Sevan được xem là một trong ba "biển" lớn của Armenia lịch sử. Trong ba hồ trên, Sevan là hồ duy nhất nằm trong biên giới của Armenia hiện đại, hai hồ kia nằm lần lượt ở Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Hồ Sevan được xem là "hòn ngọc" của Armenia và đã "được công nhận là bảo vật quốc gia". Luật 2001 về hồ Sevan nhìn nhận rằng nó có "một giá trị sinh thái chiến lược vì ý nghĩa môi trường, kinh tế, xã hội, khoa học, văn hóa, thẩm mỹ, y học, giải trí và tâm linh của nó."
Kinh tế.
Nó quan trọng với kinh tế Armenia: là nguồn cung cấp nước tưới, điện giá rẻ, cá, và là nơi thu hút khách du lịch.
Dân cư.
Tỉnh Gegharkunik, mà có thể xem là tương đương với lưu vực hồ, có dân số 211.828 người theo thống kê 2011. Những điểm dân lớn nhất trong tỉnh là: Gavar (20.765), Sevan (19.229), Martuni (12.894), Vardenis (12,685), Vardenik (9.880), Yeranos (6.119), Chambarak (5.660), Lchashen (5.054), Tsovagyugh (4.189).
Hệ động vật.
Cá.
Cá hồi Sevan ("Salmo ischchan") là loài đặc hữu của hồ, nhưng nó đang bị đe dọa do những loài ngoại lai, gồm cá trắng châu Âu ("Coregonus lavaretus") từ hồ Ladoga, cá vàng ("Carrasius auratus"), và tôm hùm đất ("Astacus leptodactylus"). Nếu cá hồi Sevan tuyệt chủng tại hồ "gốc", nó có thể vẫn sẽ sống sót ở hồ Issyk-Kul (Kyrgyzstan), nơi nó được du nhập vào thập niên 1970.
Những loài khác.
Vùng quanh hồ là khu sinh sản quan trọng cho mòng biển Armenia ("Larus armenicus") với khoảng 4.000-5.000 cặp. Những loài chim khác viếng thăm hồ là thiên nga nhỏ ("Cygnus columbianus"), ngỗng ngực trắng nhỏ ("Anser erythropus"), vịt lặn mào đỏ ("Netta rufina"), vịt nâu đỏ ("Aythya nyroca"), và mòng biển Pallas ("Larus ichthyaetus"). Báo Ba Tư ("Panthera pardus tullianus") quý hiếm cũng có khi lai vãng đến đây. | 1 | null |
Rossiya Airlines OJSC (, "OAO Aviakompaniya "Rossiya""), hoạt động với tên Rossiya — Russian Airlines (, "Rossiya — Rossiyskie avialinii") là hãng hàng không quốc gia thứ hai của Nga với trụ sở đóng tại thành phố Saint Petersburg, Nga, hãng được lập trên cơ sở vụ sáp nhập năm 2006 của công ty đóng ở Moskva có cùng tên và Xí nghiệp hàng không Pulkovo đóng trụ sở ở Saint Petersburg. Hãng hàng không này cung cấp dịch vụ bay thường lệ và thuê chuyến vận chuyển hành khách từ Saint Petersburg và Moskva, và các chuyến bay VIP thay mặt cho chính phủ Nga, bao gồm cả vận hành đội bay máy bay tổng thống Nga cho tổng thống Nga. Rossiya có cơ sở hoạt động tại sân bay Pulkovo ở Saint Petersburg.Hãng điều hành bay từ Sân bay Pulkovo (LED) đến hơn 100 địa điểm, gồm hơn 35 điểm đến nội địa, cũng như các chuyến bay quốc tế tới 28 quốc gia thuộc Châu Âu, Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Rossiya cũng có các thỏa thuận liên danh khai thác bay với khoảng 20 hãng hàng không khác, gồm Aeroflot (SU), KLM (KL) và LOT Polish Airlines (LO). Đội bay của hãng có tổng cộng 27 chiếc Airbus A319-100 và Airbus A320-200 dùng cho các chuyến bay thương mại và 24 chiếc tàu bay khác hoạt động dưới danh nghĩa chính phủ Nga, gồm đội bay của tổng thống. | 1 | null |
"State of Grace" là bài hát của ca sĩ kiêm sáng tác âm nhạc người Mỹ Taylor Swift trích từ album phòng thu thứ tư của cô, "Red" (2012). Big Machine Records đã phát hành bài hát dưới dạng đĩa đơn quảng bá tải xuống kỹ thuật số vào ngày 16 tháng 10 năm 2012. Swift sản xuất bài hát với Nathan Chapman. "State of Grace" là một bài hát arena rock bao gồm tiếng guitar điện kêu vang và tiếng gõ nhịp trống sôi động. Đây là bài hát mở đầu của album và kể về những cảm xúc xao xuyến được gợi lên bởi những cái nhìn đầu tiên về tình yêu, tạo nên âm hưởng cho album về sự lãng mạn đã mất.
Các nhà phê bình âm nhạc đánh giá tích cực "State of Grace" vì đã làm phong phú danh mục âm nhạc trước đây của Swift. Họ ca ngợi quá trình sản xuất cũng như giai điệu và nội dung của nó, đồng thời đưa nó vào danh sách những bài hát hay nhất của Swift. "State of Grace" lọt vào top 50 bảng xếp hạng ở Úc, Ireland, New Zealand và Vương quốc Anh. Nó đạt vị trí thứ chín trên Canadian Hot 100 và vị trí thứ 13 trên "Billboard" Hot 100, đồng thời nhận được chứng nhận vàng từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).
Swift đã phát hành phiên bản thu âm lại của "State of Grace", có phụ đề là "State of Grace (Taylor's Version)", nằm trong album thu âm lại của cô, "Red (Taylor's Version)" (2021). Bản thu âm lại đã lọt vào top 10 bảng xếp hạng ở Ireland, Canada và Singapore; và top 20 ở New Zealand, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. | 1 | null |
Đường bờ dâng cao là một đường bờ biển cổ nằm trên mực nước biển hiện thời. Loại địa hình này hình thành từ sự thay đổi tương đối của mực nước biển do tình trạng dâng lên của mực nước biển toàn cầu, phản ứng đẳng tĩnh và/hoặc kiến tạo nâng. Các đường bờ này nói chung đã nằm trên mực nước biển hiện tại khi mực nước biển dâng lên sau khi các sông băng lùi dần. Sau đó, tiến trình điều chỉnh đẳng tĩnh hậu băng hà đã giúp nâng cao các đường bờ này hơn nữa.
Có thể tìm thấy các ví dụ về đường bờ dâng cao dọc bờ biển các vùng đất xưa kia là băng hà ở Ireland, Scotland và Bắc Mỹ. | 1 | null |
James Dewar (1842-1923) là một nhà hóa học và vật lý học, được biết đến nhiều nhất với công việc của mình về hiện tượng nhiệt độ thấp. Dewar sinh ra tại Kincardine, Scotland, và học tại trường Đại học Edinburgh. Ông là giáo sư triết học tự nhiên thử nghiệm tại Đại học Cambridge, Anh, vào năm 1875 và là giáo sư hóa học tại Viện Hoàng gia của Vương quốc Anh vào năm 1877, nơi ông được bổ nhiệm làm giám đốc của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Davy-Faraday.
Dewar phát triển công thức cấu trúc benzen (1867). Ông đã nghiên cứu nhiệt dung riêng của hydro và là người đầu tiên để sản xuất hydro ở dạng lỏng (1898) và kiên cố hóa (1899). Ông đã xây dựng một máy sản xuất oxy lỏng số lượng (1891). Ông đã phát minh ra bình Dewar hay Phích nước (1892) và đồng phát minh ra chất nổ không khói (1889), một thuốc súng không khói, với Frederick Abel. Khám phá của ông (1905) than làm mát bằng có thể được sử dụng để giúp tạo ra chân không cao sau đó đã chứng tỏ hữu ích trong vật lý nguyên tử. Dewar đã được phong tước hiệp sĩ vào năm 1904.
Bình Dewar (Phích nước) hoặc bình,chai chân không là một bình chứa để lưu trữ các chất nóng hoặc lạnh, tức là không khí hóa lỏng. Nó bao gồm hai lớp, bên trong ngăn cách bởi chân không. Chân không làm giảm đáng kể sự truyền nhiệt, ngăn ngừa sự thay đổi nhiệt độ. Các lớp được làm bằng thủy tinh vì nó là một chất dẫn nhiệt kém, bề mặt của nó thường được tráng bằng một kim loại phản chiếu để giảm sự truyền nhiệt do bức xạ. Phích phổ biến chai là một sự thích nghi của bình Dewar. Dewar phát minh ra bình Dewar vào năm 1892 để hỗ trợ ông trong công việc của mình với các loại khí lỏng.
Bình chân không không được sản xuất để sử dụng thương mại / home cho đến năm 1904, khi hai máy thổi kính Đức hình thành thủy điện GmbH. Họ tổ chức một cuộc thi để đổi tên bình chân không và một cư dân của Munich trình "thủy điện", mà đến từ tiếng Hy Lạp "Therme" có nghĩa là "nóng".
Năm 1907, thủy điện GmbH bán bản quyền thương hiệu thủy điện ba công ty độc lập: Công ty Chai thủy điện Mỹ Brooklyn, NY; Thermos Limited Tottenham, Anh; và chai thủy điện Công ty TNHH Canada Montreal
(Thủy điện là một tên độc quyền hoặc nhãn hiệu được áp dụng cho một loại bình Dewar bảo vệ bởi một vỏ bọc kim loại). | 1 | null |
"I Knew You Were Trouble" là một ca khúc của ca sĩ kiêm sáng tác âm nhạc người Mỹ Taylor Swift trích từ album phòng thu thứ tư của cô, "Red" (2012). Ca khúc được chọn làm đĩa đơn thứ hai phát hành cho các đài phát thanh hit đương đại ở Mỹ vào ngày 27 tháng 11 năm 2012 tại Mỹ bởi hãng đĩa Big Machine Records hợp tác với Republic Records. Ở Anh, đây là đĩa đơn thứ hai và được phát hành vào ngày 9 tháng 12 năm 2012. Ca khúc này được đồng viết lời bởi Swift cùng với hai nhà sản xuất Max Martin và Shellback. Được đánh giá là bước chuyển biến so với những âm hưởng country pop từ các album trước của cô, "I Knew You Were Trouble" là một bản dance-pop, pop rock và teen pop với phần điệp khúc dubstep, trong đó sử dụng nhiều nhạc cụ như guitar điện và đàn synthesizer, với nội dung đề cập đến việc tự đổ lỗi, oán trách cho bản thân mình sau khi thoát ra khỏi một mối quan hệ độc hại.
Sau khi phát hành, "I Knew You Were Trouble" nhận được khá nhiều những ý kiến tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao phần sản xuất dubstep mang đậm tính thể nghiệm của nữ nghệ sĩ. Bên cạnh đó, ca khúc cũng nhận được những thành công về mặt thương mại. Nhờ doanh số tải về cao, ca khúc ra mắt tại vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, với 416,000 bản được bán ra trong tuần đầu tiên, đồng thời trở thành đĩa đơn thứ 14 của Swift lọt vào Top 10 trên bảng xếp hạng này. "I Knew You Were Trouble" ngoài ra cũng lọt vào bảng xếp hạng của Anh, Canada, Ireland, New Zealand, Nhật Bản và Úc. Sau khi quay trở lại bảng xếp hạng với việc phát hành như là đĩa đơn chính thức, bài hát bắt đầu đi lên trên bảng xếp hạng và nhảy vọt lên vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, sau khi bán được 582.000 lượt tải tại Mỹ. Tính đến tháng 7 năm 2019, bài hát đã bán được 5.42 triệu bản kỹ thuật số ở Hoa Kỳ.
Biểu diễn xếp hạng.
Ca khúc ra mắt tại vị trí 3 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 với 416,000 bản được tiêu thụ ngay trong tuần đầu phát hành, trở thành đĩa đơn có doanh số bán trong tuần đầu cao thứ nhì của Swift. Đồng thời "I Knew You Were Trouble" cũng trở thành đĩa đơn thứ 14 của Swift lọt vào Top 10 và là đĩa đơn thứ 11 của Swift ra mắt trong Top 10. Đồng thời với doanh số 416,000, Taylor Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử nhạc số có được hai ca khúc bán được 400,000 bản trong tuần đầu phát hành.
Biểu diễn trực tiếp.
Swift biểu diễn ca khúc lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 11, 2012, tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 40, sau đó là vào ngày 25 tháng 11, 2012, trong chương trình "Today" của đài truyền hình Úc, và ngày 29 tháng 11, 2012 tại Lễ trao giải ARIA Music Awards năm 2012.
Tham gia thực hiện.
Thông tin được lấy từ ghi chú album "Red". | 1 | null |
Ural Airlines (Ура́льские авиали́нии) là một hãng hàng không đóng trụ sở ở Yekaterinburg, Nga, cung cấp các chuyến bay thường lệ và thuê chuyến nội địa và quốc tế nối với sân bay quốc tế Koltsovo. Năm 2008, hãng này vận chuyển 1.450.153 lượt khách.
Lịch sử.
Hãng hàng không này được lập năm 1943 với tên Các xí nghiệp Hàng không Nhà nước Sverdlovsk, và sau này thuộc Aeroflot, hãng hàng không nhà nước Liên Xô, quản lý sân bay Yekaterinburg. Sau vụ chia tách hãng Aeroflot, Ural Airlines trở thành một công ty cổ phần hoạt động theo luật Liên bang Nga vào ngày 28 tháng 12 năm 1993 và hoạt động kinh doanh của hãng được tách biệt khỏi sân bay. Ngày nay, công ty này có cơ cấu sở hữu gồm Ural Wings (65,77%) và Ngân hàng Vận tải Ural (14,67%) và có 1390 người làm.
Điểm đến.
Thỏa thuận hợp tác chia chỗ.
Ural Airlines có các thỏa thuận hợp tác chia chỗ với các hãng hàng không sau (thời điểm tháng 10 năm 2012):
Đội tàu bay.
Đến thời điểm tháng 11 năm 2012, đội tàu bay của Ural Airlines gồm các máy bay sau với tuổi trung bình của máy bay 12,8 năm:
Năm 2010, Ural Airlines ngưng sử dụng toàn bộ đội tàu bay Antonov An-24, Ilyushin Il-86 và Tupolev Tu-154B-2's. Máy bay Tupolev Tu-154M của hãng có 164 ghế và hai hạng ghế đã được ngưng sử dụng từ 16 tháng 10 năm 2011.
Hãng sử dụng đòng máy bay Airbus A320 từ các nguồn thông tin và một số nguồn thông tin Nga. English-language sources are CH-Aviation và Planespotters.net.
Ural Airlines dự kiến có 30 máy bay vào năm 2013.
Ural Airlines dự kiến giới thiệu máy bay thân rộng. Theo kế hoạch phát triển của hãng, hãng sẽ sử dụng máy bay thân rộng đường dài A330 or Boeing 767 type in 2012-2013, decision yet to be made. | 1 | null |
"Hey Baby (Drop It to the Floor)" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ Pitbull hợp tác với T-Pain. Đây là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ sáu của Pitbull, "Planet Pit", và được phát hành vào ngày 14 tháng 9 năm 2010. Ca khúc được sáng tác bởi Armando C. Pérez, Faheem Najm, Sandy Wilhelm, còn việc sản xuất được giao cho Sandy Vee. "Hey Baby (Drop It to the Floor)" có sử dụng một đoạn nhạc mẫu trong ca khúc "Push It" của Salt-N-Pepa.
Đánh giá chuyên môn.
Amar Toor từ trang Aol Radio Blog nói rằng, ca khúc này là "một nhịp điệu rộn ràng với các nhịp đập điện tử. [...] Và như mọi khi, T-Pain đặt một dấu ấn không thể xóa nhòa của chính mình vào bài hát, với việc chỉnh giọng bằng Auto-Tuned, khi anh hát: "Hey Baby – you can be my girl I can be your man / And we can pump this jam however you want."."
Video âm nhạc.
Theo như một cuộc phỏng vấn của Pitbull trên MTV News, video âm nhạc cho "Hey Baby (Drop It to the Floor)" được quay tại Miami. Video được đăng tải trên kênh VEVO chính thức của Pitbull vào ngày 5 tháng 11 năm 2010. Trong video, Pitbull và T-Pain xuất hiện trên một sàn nhảy của một câu lạc bộ. Cho tới nay, video đã đạt được tới 117 triệu lượt xem.
Tham gia thực hiện.
Thông tin được lấy từ ghi chú album "Planet Pit".
Xếp hạng và chứng nhận.
"Hey Baby (Drop It to the Floor)" ra mắt tại vị trí #51 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và leo lên một cách từ từ trong mười tám tuần liên tiếp để đạt được vị trí cao nhất là #7, trở thành đĩa đơn thứ ba của Pitbull lọt vào Top 10. Đây cũng là đĩa đơn thứ tám mà T-Pain đóng vai trò làm nghệ sĩ hợp tác được lọt vào Top 10, và nếu tính chung thì là đĩa đơn thứ mười chín. Vào tháng 5 năm 2011, ca khúc đã cán mốc hai triệu lượt tải kỹ thuật số, trở thành đĩa đơn thứ hai của Pitbull đạt được thành tích này, sau "I Know You Want Me (Calle Ocho)". | 1 | null |
Sả cổ hung (danh pháp hai phần: Actenoides concretus) là một loài chim thuộc họ Sả ("Alcedinidae"), có tài liệu xếp vào họ Bồng chanh ("Alcedinidae").
Sả cổ hung được tìm thấy ở Brunei, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Singapore, và Thái Lan. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới, rừng núi cao ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất nơi sống. | 1 | null |
Sả lưng lục (danh pháp hai phần: Actenoides monachus) là một loài chim thuộc họ Sả ("Alcedinidae"), có tài liệu xếp vào họ Bồng chanh ("Alcedinidae").
Sả lưng lục là loài đặc hữu của Indonesia. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất nơi sống. | 1 | null |
Sả đốm (danh pháp hai phần: Actenoides lindsayi) là một loài chim thuộc họ Sả ("Alcedinidae"), có tài liệu xếp vào họ Bồng chanh ("Alcedinidae").
Sả đốm là loài bản địa Philippines. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Khu bảo tồn động vật hoang dã Okapi là một khu bảo tồn tự nhiên của rừng Ituri, lưu vực sông Congo ở đông bắc của Cộng hòa Dân chủ Congo, gần biên giới với Nam Sudan và Uganda. Với diện tích 14.000 km², khu bảo tồn này chiếm một phần năm diện tích của khu rừng Ituri.
Vị trí.
Sông Nepoko, Ituri và Epulu chảy qua khu bảo tồn này. Núi Mbiya hùng vĩ nhìn ra ngôi làng Epulu. Khu bảo tồn là nơi sinh sống của 5.000 cá thể hươu đùi vằn hay được gọi là Okapi, cái tên được lấy cho khu bảo tồn. Ngoài ra, đây còn là nhà của 4.000 cá thể voi, 2.000 con Báo hoa mai, Tinh tinh, Cá sấu, Trâu rừng rậm châu Phi và Cheo cheo nước. Với hơn 300 loài chim, đây là một trong những khu vực bảo tồn chim quan trọng nhất châu Phi lục địa. Trong ranh giới khu bảo tồn là những ngôi làng của Người Mbuti và Bantu bản địa châu Phi.
Lịch sử.
Khu bảo tồn được thành lập với sự hỗ trợ của Dự án bảo tồn Okapi vào năm 1992. Dự án tiếp tục hỗ trợ khu bảo tồn bằng cách đào tạo và trang bị thiết bị phục vụ cho công tác bảo vệ động vật hoang dã và hỗ trợ cải thiện cuộc sống của các cộng đồng dân cư lân cận. Được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1996 nhưng chỉ sau một năm, khu bảo tồn đã bị liệt vào Danh sách di sản thế giới bị đe dọa chủ yếu là do nạn phá rừng, đốt nương làm rẫy, và săn bắn thương mại các loại thịt rừng. Các mỏ khai thác vàng cũng là mối đe dọa đối với khu bảo tồn. Từ năm 2005, cuộc nội chiến ở phía đông đất nước lan rộng đến khu bảo tồn, khiến các nhân viên bảo vệ đã phải chạy trốn hoặc sơ tán. Trong khi người dân bản địa Mbuti và Bantu với truyền thống tôn trọng núi rừng và động vật hoang dã tự nhiên thì những người nhập cư vào khu vực không cảm thấy có mối liên hệ tương tự với vùng đất này. Thiếu kinh phí do điều kiện kinh tế và chính trị yếu kém của Cộng hòa Dân chủ Congo cũng khiến khu bảo tồn bị đe dọa. Hy vọng về du lịch sinh thái có thể giúp phát triển kinh tế khu vực, giúp tăng kinh phí hoạt động và nâng cao nhận thức của cộng đồng.
Bảo tồn.
Đúng như tên gọi của nó, khu bảo tồn là nơi có số lượng lớn loài hươu đùi vằn. Tính đến năm 1996, số lượng của chúng ước tính từ 3.900-6350 cá thể. Số lượng loài trên toàn cầu hiện nay là từ 10.000-20.000 cá thể. Đây cũng là địa điểm của Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn Epulu nằm trên bờ sông Epulu. Cơ sở này có từ năm 1928 khi được thành lập bởi nhà nhân chủng học người Mỹ Patrick Putnam như một trạm bắt nhốt, nơi những con hươu đùi vằn hoang dã bị bắt và gửi đến các sở thú của Mỹ và châu Âu. Cho đến năm 2012, nó vẫn phục vụ với chức năng đó. Vào năm 2012, một cuộc tấn công của phiến quân đã khiến những con hươu đùi văn bị nhốt trong trung tâm chết. | 1 | null |
Loài mèo trả ơn (Nhật: 猫の恩返し, ねこのおんがえし Hepburn: Neko no Ongaeshi) là một phim anime do hãng Studio Ghibli thực hiện với bàn tay của đạo diễn Morita Hiroyuki. Bộ phim được chuyển thể từ loạt manga cùng tên của Hiiragi Aoi. Phim được công chiếu lần đầu vào ngày 19 tháng 7 năm 2002. Bộ phim đã giành được giải xuất sắc trong Liên hoan Nghệ thuật truyền thông Nhật Bản năm 2002. Tại Việt Nam, phim được chiếu trên kênh SAM - BTV11 vào ngày 8 tháng 5 năm 2016 đến ngày 10 tháng 5 năm 2016.
Tổng quan.
Sơ lược cốt truyện.
Cốt truyện xoay quanh Haru một nữ sinh trung học sau khi cô cứu được một chú mèo lạ khỏi bị xe tông, cô đã nhận được sự cảm kích của những chú mèo và sau đó cô được đưa đến vương quốc của loài mèo để trở thành vợ của thái tử. Cuộc phiêu lưu của Haru bắt đầu.
Sản xuất.
"Loài mèo trả ơn" được Studio Ghibli bắt đầu thực hiện năm 1999 sau khi nhận được yêu cầu của một công viên giải trí tại Nhật Bản về một bộ phim ngắn dài khoảng 20 phút nói về các chú mèo. Hiiragi Aoi người có tác phẩm được Ghibli chuyển thể trước đó thì được nhờ việc thực hiện một loạt manga ngắn có tên "Baron Neko no Danshaku" (バロン 猫の男爵) để giới thiệu bộ phim. Tuy nhiên công viên giải trí đã hủy dự án sau đó.
Miyazaki Hayao đã sử dụng những gì có sẵn từ dự án còn dang dở và dùng nó để thử nghiệm khả năng của các đạo diễn tương lai tại Ghibli kết quả là bộ phim kéo dài ra đến 45 phút. Việc thực hiện được giao cho Morita Hiroyuki người đã thực hiện bộ phim Houhokekyo Tonari no Yamada-kun vào năm 1999. Ông đã mất 9 tháng để chuyển loạt manga của Hiiragi thành cốt truyện dùng cho phim với 525 trang. Miyazaki và Suzuki Toshio quyết định kéo bộ phim dài ra thêm nữa để sử dụng hết cốt truyện của Morita. Vì thế bộ phim trở thành bộ phim thứ ba của Ghibli không được đạo diễn bởi Miyazaki hay Takahata.
Phát hành.
"Loài mèo trả ơn" được công chiếu lần đầu vào ngày 19 tháng 7 năm 2002. Sau đó phiên bản DVD của phim cũng được phát hành vào ngày 04 tháng 7 năm 2003 và đứng đầu bảng xếp hạng của Oricon về DVD có doanh thu cao trong hai tuần.
Disney đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của phim anime để phát hành ra thị trường quốc tế và Bắc Mỹ với lần phát hành đầu tiên do chi nhánh Buena Vista Home Entertainment đảm nhiệm. Phim đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau để công chiếu và phân phối tại nhiều nước bởi nhiều công ty như Monolith Films đăng ký tại Ba Lan, Europa Filmes tại Bồ Đào Nha, Universum-Filmsi tại Đức, Cameo tại Tây Ban Nha, Paradiso Home Entertainment tại Hà Lan, Madman Entertainment tại Úc, Optimum Releasing tại Anh và Deltamac tại Đài Loan.
Âm nhạc.
Phim có bài hát chủ đề là bài kết thúc có tên "Kaze ni naru" (風になる) do Tsuji Ayano trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 26 tháng 6 năm 2002. Album chứa các bản nhạc dùng trong phim đã phát hành vào ngày 17 tháng 7 năm 2002. | 1 | null |
Tilapia buttikoferi là một loài cá thuộc chi Cá rô phi đặc hữu của tây châu Phi, đặc biệt là Liberia. Chúng là cá nước ngọt mà có xu hướng sống trong sông và suối. Người ta đã nhập khẩu và nhân giống chúng trên toàn thế giới để nuôi cảnh và nuôi lấy thịt. | 1 | null |
Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được xem là ngôi nhà kiến trúc cổ lâu đời nhất tại thành phố này.
Lịch sử.
Trong bối cảnh hai người đã tạo được mối thân tình, vào năm 1790, Nguyễn Ánh cho dựng một ngôi nhà bằng tre, lợp mái tranh bên hữu ngạn rạch Thị Nghè để làm nơi Giám mục Pigneau de Behaine (tức Bá Đa Lộc) ở và dạy học cho hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh. Thừa sai Lestrade gọi ngôi nhà đó là "dinh" Giám mục, mặc dù đó chỉ là ngôi nhà rất thô sơ. Năm 1799, Nguyễn Ánh cho làm lại dinh Giám mục bằng gỗ lợp ngói cho đến khi Giám mục Pigneau de Behaine từ trần (ngày 9 tháng 10 năm 1799) thì ngôi nhà trở thành nơi trọ cho một linh mục thừa sai tên là Liot từ năm 1799 đến 1811. Năm 1819, tác giả John White ghi nhận dinh Giám mục trở thành kho chứa quân cụ.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức giao ngôi nhà gỗ lợp ngói đó cho Giám mục Dominique Lefèbre (1844-1864) - Giám mục tiên khởi của giáo phận Tây Đàng Trong (tiền thân Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) làm tòa Giám mục. Nhưng sau đó, Giám mục Lefèbre từ trần và thừa sai Colombert, thư ký của Giám mục Miche (1864-1873) vẫn trọ tại tòa Giám mục để lui tới họ đạo Thị Nghè và Cầu Bông thăm viếng giáo dân, và cử hành các bí tích cho cộng đoàn Công giáo. Năm 1864, để nhường đất xây dựng Thảo cầm viên Sài Gòn nên ngôi nhà này được đi dời về khu đất các thừa sai mà hiện nay là Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở đường Alexandre de Rhodes, gần dinh Độc Lập. Năm 1897, khi đề cập đến ngôi nhà gỗ lợp ngói đó, học giả Trương Vĩnh Ký gọi là Dinh Tân Xá.
Năm 1911, tòa Giám mục kiên cố được xây dựng (đường Nguyễn Đình Chiểu ngày nay), Giám mục Mossard (1899-1920) cho di dời ngôi nhà gỗ lợp ngói về trong khuôn viên này để làm nhà nguyện. Năm 1962, Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình cho xây tường gạch thay một số vách ván mục nát của ngôi nhà nguyện cổ và cho gia cố một số cột mục vào năm 1980. Năm 2011, ngôi nhà nguyện cổ đó lần lượt xuất hiện những chỗ mục nát sụp đổ, dấu hiệu của tình trạng xuống cấp trầm trọng, xem ra không còn có thể phục chế hay gia cố nữa nên Ban Văn hoá Công giáo của tổng giáo phận cùng với Ban Quản lý Tòa Giám mục được giao nhiệm vụ nghiên cứu và thực hiện phục chế toàn bộ theo kiến trúc cổ kính như xưa.
Kiến trúc.
Mặt bằng ngôi nhà có dạng hình chữ "Nhất" (-), tuy xây dựng phục vụ cho việc thờ thượng Công giáo nhưng ngôi nhà vẫn được quay về hướng nam theo quan điểm dựng nhà truyền thống của người Việt. Nhìn chung, ngôi nhà được dựng theo kiểu ba gian hai chái Nam Bộ, gian giữa rộng nhất dùng cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Mái ngói âm dương, khung cửa và các cánh cửa đều chạm trổ hoa lá như tạo thêm sức sống cho mặt tiền của căn nhà. Trên cao là một khám thờ bằng gỗ để mộc, chạm trổ các đề tài: "song phượng triều dương" (hai chim phượng chầu mặt trời) ở trên, "tam phúc" (ba con dơi) ở bao lam, hình hoa lá ở phần chân.
Chính diện gian giữa là nơi đặt án thờ cầu nguyện, hầu hết chi tiết bên trong được giữ nguyên từ hơn 200 năm trước. Tuy là một khám thờ Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria cùng Thánh Giuse qua các tượng bằng thạch cao, nhưng hai bên có cặp câu đối bằng chữ Hán lấy ý từ sách Trung Dung của Khổng Tử: "Thần chi cách tư, Đức kỳ thạch hĩ" (việc thần thánh không thể lường được, cái đức của thần thánh thịnh lắm thay). Dưới khánh thờ là một bàn lễ đặt trên bục gỗ cao, có một căn "nhà tạm" (nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa) đặt ở giữa. Ngoài ra còn có tượng thánh Têrêsa và thánh Antôn bằng thạch cao, đặt cao trên thân cột. Bên dưới là các dãy băng ghế dành cho giáo dân cầu nguyện. | 1 | null |
Sả bụng lam (danh pháp hai phần: Coracias cyanogaster) là một loài chim thuộc họ Sả rừng.
Sả bụng lam sinh sản khắp châu Phi trong một vành đai hẹp giữa Senegal đến đông bắc Zaire. Nó định cư ngoại trừ một số di chuyển theo mùa địa phương. Loài chim này dài 28–30 cm. Nó có lưng xanh lục đậm, đầu và cổ và ngực trắng, phần còn lại chủ yếu màu xanh biển. | 1 | null |
Magnolia stellata là một loài thực vật thuộc chi Mộc lan bản địa Nhật Bản. Nó có hoa màu trắng hoặc vàng nở vào đầu mùa xuân khi lá chưa nhú ra. Loài này có mối liên hệ gần gũi với "Magnolia kobus" và được các nhà thực vật học xem là một biến thể hay giống của loài "kobus". Tuy nhiên, "Magnolia stellata" đã được chấp nhận là một loài riêng trong chuyên khảo năm 1998 bởi Hunt.
Cây cao 4,6 đến 6 m, cây trưởng thành có tán rộng đến 4,6 m. Cây còn trẻ mọc theo hướng ô van thẳng đứng nhưng cây già mọc thành cây có tán. Sương giá mùa xuân có thể làm hỏng hoa. Cây bụi thích đất sâu, có tính axit. Nó có thể được nhân giống bằng hạt, hoặc dễ dàng hơn bằng cách cắt rễ sau khi các nụ hoa đã hình thành. | 1 | null |
Pantelleria (), "Cossyra" cổ đại (Malta: "Qawsra", nay là "Pantellerija"), là một hòn đảo thuộc Ý trong eo biển Sicilia thuộc Địa Trung Hải, nằm cách phía tây nam Sicilia và cách bờ biển phía đông Tunisia . Về mặt hành chính, Pantelleria là một "comune" thuộc tỉnh Trapani, Sicilia. Với diện tích , nó là đảo núi lửa vệ tinh lớn nhất của Sicilia. | 1 | null |
Choắt lớn mỏ vàng (danh pháp hai phần: Tringa guttifer) là một loài chim thuộc họ Dẽ. Loài chim này dài đến 32 cm. Chân ngắn, màu vàng. Mỏ có hai màu, rộng bản và dày rất dễ nhận biết. Giữa các ngón chân có màng màu vàng.
Trong thời kỳ sinh sản, dưới cơ thể có vệt lốm đốm to đậm và phía trên đen hơn, với những vết khía màu trắng hình chữ V trên lông tam cấp, tạo nên ánh kim lấp lánh. Vào thời gian khác, đầu và cổ rất nhợt nhạt nổi bật lên giữa đàn choắt lớn. Thường rất lặng lẽ. | 1 | null |
Asian Diet Pyramid (hay còn gọi là kim tự tháp chế độ ăn uống châu Á) là kim tự tháp chứa thông tin về chế độ ăn uống và khẩu phần ăn hàng ngày của người dân ở các nước châu Á. Người dân ở các châu lục và quốc gia khác cũng có chế độ ăn uống riêng tùy vào địa hình, thổ nhưỡng, văn hóa ẩm thực và điều kiện trồng trọt nông nghiệp như kim tự tháp chế độ ăn uống Đức, Áo, Estonia...
Mô tả kim tự tháp.
Thông thường, ở mỗi châu lục, mỗi đất nước có một chế độ khác nhau và châu Á cũng không ngoại lệ. Ở cột đầu tiên là chế độ ăn hàng tháng: thịt. Cột thứ hai là của tuần: kẹo, trứng và thịt gà. Cột thứ ba là thức ăn thường xuyên gồm có hải sản. Cơm, rau, dầu ăn, trái cây là cột thường xuyên. Ở châu Á còn có một đặc sản là trà.
Liên kết ngoài.
Ăn Xanh | 1 | null |
Nguyễn Hồng Minh nguyên là vụ trưởng Vụ thể thao thành tích cao, nguyên tổng thư ký của Liên đoàn Liên đoàn Thể dục Việt Nam, Ông nguyên là trưởng đoàn thể thao Việt Nam tại các kỳ Olympic, Asian Games, SEA Games.
Có rất ít những thông tin về tiểu sử của ông Nguyễn Hồng Minh được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Theo ghi nhận từ nhiều bài viết và phỏng vấn của ông trên các báo đài về thể thao Việt Nam, ông sinh năm 1947 tại Hà Nội.
Ông có thâm niên công tác hơn 40 năm trong ngành thể thao với nhiều vai trò và vị trí khác nhau. Ông là một người đầy tâm huyết và có nhiều đóng góp quan trọng cho ngành thể thao Việt Nam
Ngày 01 tháng 02 năm 2007, Ông thôi các công việc tại Ủy ban thể dục thể thao, nghỉ hưu theo quy định của chính phủ. Tuy đã nghỉ hưu, nhưng ông vẫn được các cơ quan thông tấn báo chí mời bình luận, tham khảo ý kiến và phát biểu về nhiều lĩnh vực của thể thao Việt Nam.
Đóng góp trong ngành thể thao.
Ông Nguyễn Hồng Minh là người có nhiều năm gắn bó với công tác hoạch định và tham mưu các đề án phát triển thể thao của Việt Nam . Khi được lãnh đạo Ủy ban thể dục thể thao giao làm trưởng đoàn thể thao Việt Nam tham dự các đại hội quốc tế, ông đã hoạch định công việc cho các bộ môn và đội tuyển rất rõ ràng. Những môn thể thao nào có thể tiếp cận được với thành tích châu Á, ông đầy mạnh đầu tư chăm lo chính. Có đôi lúc ông phải chấp nhận với kế sách "đi tắt đón đầu". Môn nào giữ vững được vị trí ở SEA Games thì gấp rút chấn chỉnh, đầu tư xây dựng lực lượng vận động viên để đạt thành tích tốt khi tranh tài. | 1 | null |
Choắt bụng xám (danh pháp hai phần: Tringa glareola) là một loài chim thuộc họ Dẽ. Loài choắt bụng xám làm tổ ở Bắc Âu và châu Á; mùa đông di cư về phía Nam: từ Đông Dương, Ấn Độ, Myanma đến Phi châu, Malaysia, Sumatra, Java và châu Úc. Nó có chiều dài đôi cánh: 117 – 133 mm; đuôi dài 45 – 54 mm); chân dài 36 – 41 mm; mỏ dài 26 – 30 mm. Bộ lông mùa đông và mùa hè khác nhau. | 1 | null |
Choắt bụng trắng (danh pháp hai phần: Tringa ochropus) là một loài chim thuộc họ Dẽ. Loài chim này sinh sản ở châu Âu và châu Á cận Bắc Cực và là loài chim di cư, trú đông ở Nam Âu, tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và châu Phi nhiệt đới. Chúng ăn các động vật không xương sống bắt ở bùn. Chúng làm tổ trên cây, không giống như các loài khác thuộc họ Dẻ. | 1 | null |
Trong lịch sử kể từ khi thành lập vào năm 1921 đến nay, danh hiệu của người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc có nhiều lần thay đổi. Trên thực tế, có những giai đoạn người nắm quyền lãnh đạo tối cao "trên thực tế" lại không giữ chức vụ chính thức như Lý Lập Tam với chức vụ Ủy viên Thường vụ, Bí thư trưởng Trung ương (1929 - 1930), Mao Trạch Đông với chức vụ Chủ tịch Bộ Chính trị (1943 - 1956), Đặng Tiểu Bình với chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Cố vấn Trung ương (1982 - 1987).
Danh sách dưới đây mô tả các lãnh đạo tối cao thực tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc qua các thời kỳ. | 1 | null |
Choắt nâu (danh pháp hai phần: Tringa totanus) là một loài chim thuộc họ Dẽ. Choắt nâu phân bố nửa châu Âu và Á. Về mùa đông chúng di cư về châu Phi, Ấn Độ, Myanma, Hoa Nam, Đông Dương và Philipines. Loài này có chiều dài đôi cánh: 150 – 168 mm; đuôi dài 70 – 85 mm); giò dài 45 – 52 mm; mỏ dài 40 - 49. Bộ lông mùa đông và mùa hè khác nhau.
Phân loài.
Một số phân loài đã được xác định. Bao gồm các: | 1 | null |
Choắt chân đỏ (danh pháp hai phần: Tringa erythropus) là một loài chim thuộc họ Dẽ. Loài choắt chân đỏ làm tổ ở Bắc Âu và châu Á; mùa đông di cư xuống phía Nam đến châu Phi, Ấn Độ; Myanma, Nam Trung qưốc, Đông Dương và Malaysia. Bộ lông mùa đông và mùa hè khác nhau. Choắt chân đỏ lần đầu được nhà động vật học người Đức Peter Simon Pallas vào miêu tả năm 1764. Nó là loài duy nhất của chi, với hai phân loài được công nhận. | 1 | null |
Kim Lợi Studio được biết đến với vai trò là một trong những phòng thu âm ca nhạc danh tiếng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ra đời vào những năm đầu thập kỷ 1990, Kim Lợi Studio có mặt sớm nhất trên cả nước và cũng phải chịu một áp lực lớn trước sự ồ ạt của những chương trình nhạc hải ngoại.
Những chặng đường phát triển.
Kim Lợi Studio thành lập vào năm 1990, do ông Võ Thanh Lâm (Tư Lợi) và con trai là Đoàn Hữu Minh sáng lập. Phòng thu được đặt theo tên ông Lâm và vợ ông là bà Kim.
Khởi thủy, phòng thu phát hành các thu âm trên băng cassette, dần phát triển lên thu âm trên CD Audio rồi thu clip trên VCD, DVD. Năm 1991, các nhà sáng lập Kim Lợi Studio đồng ý liên danh, trực thuộc Trung tâm Băng nhạc trẻ của Hãng phim Trẻ. Vào năm 1992, chương trình ca nhạc đầu tiên mang tên "Mưa bụi" do Kim Lợi Studio phát hành được công chúng đón nhận và đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và có tiếng vang trên cả nước, ra tận cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Bên cạnh đó, Kim Lợi Studio còn là nơi diễn ra cho chương trình Những tình khúc vượt thời gian.
Kim Lợi Studio là nơi khởi đầu sự nghiệp của không ít ca sĩ tên tuổi trong làng âm nhạc như Lam Trường, Phương Thanh, Đình Văn, Tài Linh, Cẩm Ly... Và Elvis Phương trong video Giọt nắng bên thềm là chương trình đầu tiên mở đầu cho phong trào về nước biểu diễn của các ca sĩ Việt kiều.
Kim Lợi Studio cũng là phòng thu đi tiên phong, mang ca sĩ đi quay bối cảnh ở nước ngoài như Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Pháp...
Ngoài ra Kim Lợi còn có phòng thu đã gắn liền với tên tuổi của các ngôi sao như Đan Trường, Lam Trường, Phương Thanh. Không chỉ có nhạc trẻ, đây còn là một trong những phòng thu đầu tiên quay trở lại dòng nhạc tiền chiến với tuyển tập "Tình khúc vượt thời gian".
Ngay cả Mỹ Tâm, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh Lam, Bằng Kiều,Thu Hiền, Ánh Tuyết... cũng đã từng cộng tác với Kim Lợi để cho ra những sản phẩm của mình.
Nhạc phim, nhạc hiệu cũng như các nhạc phẩm của các chương trình truyền hình do Công ty Lasta sản xuất nói chung và kênh truyền hình VTC9 - Let's Viet nói riêng ngoài Trung tâm Thúy Nga thì chúng cũng đều được thâu âm, hoà âm và phối khí tại Kim Lợi Studio.
Thông tin thêm.
Người đồng sáng lập đồng thời cũng là người điều hành Kim Lợi Studio hiện nay là ông Đoàn Hữu Minh, thường được biết đến với nghệ danh Minh Vy, trong vai trò là nhạc sĩ và đạo diễn. Vợ ông là ca sĩ Cẩm Ly, là ca sĩ thành danh dưới sự dẫn dắt của ông. | 1 | null |
Adakit là nhóm đá magma xâm nhập hoặc phun trào được cho là hình thành trong các đới hút chìm do sự pha trộn vật liệu giữa manti (lớp phủ) và các vật liệu tan chảy từng phần có thành phần felsic của các đá bazan thuộc vỏ đại dương khi bị hút chìm. Adakit bao gồm một loạt các loại đá có thành phần hóa học và đồng vị đặc trưng, với các tỉ lệ Sr/Y và La/Yb cao và hàm lượng các nguyên tố vết Y và Yb dấu vết thấp. Theo văn liệu, Adakit có thành phần: SiO2>56%, Al2O3> 15% khối lượng, MgO bình thường <3% khối lượng, Mg số 0,5, Sr> 400 ppm, Y <18 ppm, Yb <1,9 ppm, Ni> 20 ppm, Cr> 30 ppm, Sr/Y >20, La/Yb> 20, và 87Sr/86Sr <0,7045.
Vẫn còn những tranh cãi liên quan đến quá trình thành tạo adakit. Adakit có hàm lượng magiê thấp có thể là đại diện của sự tan chảy một phần tương đối tinh khiết của bazan bị hút chìm, trong khi adakit có hàm lượng magnesi cao hoặc andesit có lượng magnesi cao có thể đại diện cho sự hỗn nhiễm với peridotit nằm phía trên nêm manti. Adakit cũng đã được ghi nhận trong vụ va chạm lục đi-lục địa khu vực bên dưới Tây Tạng. | 1 | null |
Basanit là một loại đá núi lửa thành phần mafic có kiến trúc ẩn tinh đến ban tinh; thực chất là bazan chưa bão hòa silica.
Tập hợp khoáng vật thường chứa nhiều feldspathoid (nepheline hoặc leucit), plagioclase, và augit, cùng với olivine và chứa ít oxide titan-sắt như ilmenit và magnetit-ulvospinel; các khoáng vật ít hơn feldspar kiềm có thể có mặt, như được minh họa trên biểu đồ QAPF đối với bassanit. Clinopyroxen (augit) và olivin là các khoáng vật phổ biến ở dạng ban tinh và trong cả khối nền. Augit chứa một lượng đáng kể titan, nhôm và natri nhiều hơn trong bazan tholeiitt đặc trưng. Thạch anh không có mặt trong bassanit. Về hóa học, đá basanit chứa hàm lượng silica thấp (42 đến 45% SiO2) và chất kiềm cao (3 đến 5,5% Na2O và K2O) so với bazan, điều này có thể nhận biết qua việc sử dụng sơ đồ phân loại TAS. Nephelinit chưa phong phú hơn về Na2O + K2O so với SiO2.
Basanit hiện diện trên các lục địa và trên các đảo đại dương. Ví dụ, cùng với bazan, chúng được sản xuất bởi núi lửa điểm nóng ở Hawaii và các đảo Comoros. | 1 | null |
MIAT Mongolian Airlines (, "Mongolyn Irgenii Agaaryn Teever (MIAT)", (vận chuyển hàng không dân dụng Mông Cổ) là hãng hàng không quốc gia Mông Cổ có trụ sở ở tòa nhà MIAT ở thủ đô Mông Cổ Ulaanbaatar Hãng này có căn cứ hoạt động tại sân bay quốc tế Thành Cát Tư Hãn gần thành phố Ulaanbaatar.
Lịch sử.
Thời kỳ đầu.
MIAT Mongolian Airlines được thành lập vào năm 1956. Hãng bắt đầu hoạt động với sự giúp đỡ của Aeroflot và bắt đầu các chuyến bay vào ngày 07 tháng 7 năm 1956 bằng cách sử dụng một máy bay Antonov An-2 trên tuyến bay giữa Ulaanbaatar và Irkutsk. Các loại máy bay do Liên Xô chế tạo Lisunov Li-2 cũng được sử dụng cho các chuyến bay tới các điểm đến quốc tế như Bắc Kinh và Moskva. Trong những năm 1960 và 1970, hãng hàng không có các máy bay cánh quạt đôi Antonov An-24 và An-26. Máy bay phản lực Tupolev Tu-154 đã được sử dụng vào cuối năm 1970.
Sau cách mạng dân chủ.
Năm 1992, MIAT mua chiếc máy bay do Trung Quốc chế tạo Harbin Y-12 và mua một chiếc Boeing 727-200 từ Korean Air, mua một chiếc nữa vào năm 1994. Một Airbus A310 cho thuê vào năm 1998, và một chiếc Boeing 737 được thuê vào năm 2003 để thay thế đội bay 727-200 cũ. Bắt đầu từ năm 2003 cho đến năm 2008, các loại máy bay của MIAT: An-24 và An-26 dần dần được ngưng sử dụng. Tháng 4 năm 2008, MIAT nhận được Boeing 737-800 thuê thứ hai từ CIT Aerospace. Trong tháng 7 năm 2008, MIAT đã dừng hoàn toàn các chuyến bay thường lệ nội địa. Trong tháng 6 năm 2009, hãng hàng không tạm thời tiếp tục các chuyến bay trong nước đến Mörön và Khovd bằng cách sử dụng máy bay Boeing 737-800 của hãng.
Vào cuối năm 2009, MIAT bay chuyến bay thuê chuyến đến Hồng Kông và Sanya, một thành phố nghỉ mát nổi tiếng ở Hải Nam. Trong tháng 6 năm 2010, các chuyến bay của hãng hàng không đã được đưa để dừng do bộ phận cơ khí đình công. Tuy nhiên, tình hình đã được giải quyết với sự thay thế của các giám đốc điều hành và Giám đốc kỹ thuật.
Đầu năm 2011, MIAT đã ký một thỏa thuận với Air Lease để thuê chiếc Boeing 767-300ER của China Eastern cho đến năm 2013. Chiếc máy bay đầu tiên được đưa vào tháng 5 năm 2011 với chiếc thứ nhì trong tháng 11 năm 2011.. Trong năm 2011, chiếc Airbus A310 đã ngừng được sử dụng sau khi phục vụ MIAT Mongolian Airlines trong 13 năm.
Đầu tháng 6 năm 2011, MIAT bắt đầu các chuyến bay đến Hồng Kông. Công ty cũng đặt mua ba máy bay, một chiếc Boeing Boeing 767-300ER và hai 737-thập niên 800, sẽ được giao lần lượt vào năm 2013 và 2016. Lần đầu tiên trong hai thập kỷ, MIAT đã chọn cách mở rộng đội tàu bằng cách mua máy bay mới trực tiếp từ nhà sản xuất chứ không phải là đi thuê máy bay.
Đội bay.
Tính đến tháng 1 năm 2024, đội tàu bay của MIAT Mongolian Airlines gồm có các máy bay sau với tuổi trung bình 14,3 năm: | 1 | null |
Các hồ Ounianga là một loạt các hồ nằm trong sa mạc Sahara nằm ở đông bắc Tchad, bao gồm một bộ phận lưu vựcn ở phía tây Dãy núi Tibesti và đông Ennedi. Năm 2012, hệ thống các hồ Ounianga được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới.
Điều đặc biệt của hệ thống hồ này là có các hồ nước mặn và các hồ nước ngọt cách nhau 40 km. Hệ thống 4 hồ nước mặn được gọi là Ounianga Kebir và nơi sinh sống của loài tảo và các vi sinh vật. Hệ thống thứ hai là gồm 14 hồ nước ngọt được gọi là Ounianga Serir (hồ Teli lớn nhất với diện tích 436 ha) được ngăn cách bởi những cồn cát. Đây là nơi sinh sống của các loài cá nước ngọt đặc hữu và được tôn lên bởi lau sậy xung quanh.
Hệ thống các hồ nước có niên đại cách đây 10.000 năm, nguồn nước được cung cấp bởi các mạch nước ngầm khiến nó là hệ thống hồ duy nhất trên thế giới với các hồ nước nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá cây, đỏ nhạt do thành phần hóa học trong mỗi hồ), lượng nước ngọt luôn có trong hồ cùng thảm thực vật nổi, những gợn sóng lăn tăn khi có gió tạo thành một quang cảnh tự nhiên vô cùng ấn tượng "sóng nước giữa sa mạc". | 1 | null |
Dennis Avner (27 tháng 8 năm 1958 – 05 tháng 01 năm 2012) tại Tonopah, Nevada, Hoa Kỳ, là một cựu chiến binh Hải quân Mỹ và thuộc thuộc tộc Huron, đồng thời là người lai Ấn Độ, ông được biết đến với biệt hiệu là Người mèo vì ông có sở thích kỳ lạ là sống trong hình hài loài hổ và đã lập kỷ lục thế giới là người đàn ông qua nhiều lần phẫu thuật, chỉnh sửa cơ thể nhất thế giới để cho giống một con hổ. Đồng thời được mọi người biết đến thông qua các chương trình "Tin hay không tùy bạn" trên khắp thế giới.
Hóa hổ.
Bình sinh, Dennis thích mọi người gọi mình với cái tên "chú mèo hiên ngang", ông luôn bị ám ảnh bởi khuôn mặt của những con mèo cái hung ác hoặc những con hổ, sau khi được tiếp chuyện với một tù trưởng da đỏ, Dennis đã có cảm hứng hành động như một con mèo và sau đó, ông xin sự đồng thuận từ lãnh đạo địa phương về việc thực hiện nhiều ca phẫu thuật khác, Dennis Avner đã mất một thời gian dài theo đuổi nỗ lực biến mình thành người hổ. Bản thân ông đã trải qua nhiều lần phẫu thuật để cơ thể trở nên giống với hổ, từ răng nanh, mái tóc dài, ria mép, tai, đuôi giả. Danh sách các ca phẫu thuật đã trải qua gồm:
Hình thù kỳ dị, cộng với bộ móng tay dài, răng nanh nhọn sắc và hình xăm gần kín mặt khiến ông trở thành nhân vật được chú ý đặc biệt trong khu vực ông sinh sống. Tuy nhiên ông làm công việc sản xuất chương trình máy tính và cũng thường xuất hiện trên một số chương trình truyền hình nổi tiếng.
Cái chết.
Vào tháng ngày 05 tháng 11 năm 2012, thi thể của ông được tìm thấy hôm Tonopah, Nevada, nguyên nhân cái chết vẫn chưa được công bố, tuy nhiên nhiều đồn đoán nổi lên cho rằng Avner đã tự tử. | 1 | null |
Nhạc House là một thể loại nhạc dance điện tử được đặc trưng bởi nhịp four on the floor và tempo từ 120 tới 130 nhịp một phút. Thể loại nhạc này được sáng tạo bởi các DJ và nhà sản xuất âm nhạc xuất thân từ các nhóm văn hóa hộp đêm underground tại Chicago thập niên 1980. Các DJ này bắt đầu biến đổi các bản nhạc dance disco, với nhịp có phần máy móc hơn và các đoạn bassline thì trầm hơn.
Các DJ và nhà sản xuất đi đầu trong phong trào này chủ yếu tới từ Chicago và New York, ví dụ như Frankie Knuckles, Larry Levan, Ron Hardy, Jesse Saunders, Chip E., Steve "Silk" Hurley, Farley "Jackmaster" Funk, Mr. Fingers, Marshall Jefferson, Phuture. Nhạc house bắt nguồn từ các cộng đồng người LGBT Mỹ gốc Phi, nhưng kể từ đó đã trở thành nhạc đại chúng. Từ chỗ chỉ quanh quẩn tại các club và kênh phát thanh địa phương tại Chicago, house mở rộng tầm ảnh hưởng tới Luân Đôn và các thành phố khác ở Mỹ như New York và Detroit, và trên toàn thế giới. Nhạc house có các tiểu thể loại như acid house, deep house, hip house, ghetto house, progressive house, future house, tropical house, tech house, electro house, piano house...
Nhạc house có một tầm ảnh hưởng lớn đối với nhạc pop nói chung và nhạc dance nói riêng. House không chỉ được đón nhận bởi các nghệ sĩ pop lớn như Janet Jackson, Madonna hay Kylie Minogue, mà còn tự mình tạo ra các bản hit của riêng mình như "French Kiss" của Lil Louis (1989), "Show Me Love" của Robin S. (1992), hay "Push the Feeling On" của Nightcrawlers (1992). Nhiều producer nhạc house thường xuyên thực hiện các bản remix cho các nghệ sĩ pop. Ngày nay, nhạc house hết sức phổ biến trên các đài phát thanh và trong các hộp đêm, tuy vẫn giữ chỗ đứng vững chắc trong giới underground khắp thế giới. | 1 | null |
Sikorsky R-4 là loại trực thăng hai chỗ, do Igor Sikorsky thiết kế. Đây là máy bay đầu tiên trên thế giới được sản xuất hàng loạt, và là trực thăng đầu tiên đưa vào trang bị của Không quân Lục quân Hoa Kỳ, cũng như các quân chủng khác của quân đội Hoa Kỳ | 1 | null |
Aldabra là đảo san hô lớn thứ hai thế giới. Nó thuộc nhóm đảo Aldabra trên Ấn Độ Dương, một phần của Quần đảo Outer, thuộc đảo quốc Seychelles. Hòn đảo không có người ở (ngoài các nhà khoa học và quản lý đảo ở đảo Picard) và cực kỳ bị cô lập khiến nó trở thành môi trường thiên nhiên chưa bị tác động bởi con người. Nơi đây nổi bật với các loài động thực vật đặc biệt bao gồm rùa khổng lồ Aldabra (loài rùa lớn nhất thế giới) và nhiều loài chim biển.
Lịch sử.
Hòn đảo được hình thành cách đây gần 125.000 năm, được phát hiện vào năm 1511 bởi các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha. Đến thế kỷ 18, nơi đây trở thành thuộc địa của Pháp với Réunion. Năm 1810 Aldabra cùng với các đảo Mauritius, Réunion, Seychelles và các đảo khác, trở thành thuộc địa của Vương quốc Anh. Phải đến năm 1965, hòn đảo mới thuộc về Seychelles, sau đó quốc đảo này độc lập vào năm 1976.
Trước đó, vào năm 1960 đã có những thám hiểm khảo sát để xây dựng hệ thống phát sóng truyền hình cùng với kế hoạch quân sự nhưng sau các cuộc biểu tình quốc tế, các kế hoạch đã phải hủy bỏ và môi trường sống của động vật hoang dã trên đảo đã được bảo tồn.
Ngày 19 tháng 11 năm 1982, UNESCO chính thức đưa Đảo san hô Aldabra vào danh sách di sản thế giới.
Địa lý.
Aldabra là đẩo san hô, cách đảo Mahé 1.100 km (hòn đảo chính của Seychelles) và cách bờ biển của châu Phi 426 km, nằm ở phía Tây bắc của Madagascar và Đông bắc của Quần đảo Comoro. Đảo san hô vòng nằm ở vị trí 9 ° 24'S 46 ° 22'E và thuộc nhóm đảo Aldabra thuộc Quần đảo Outer của Seychelles; trong đó bao gồm đảo Assumption và đảo san hô dạng vòng là Astove và Cosmoledo.
Đây là đảo san hô lớn thứ hai trên thế giới về diện tích (sau Kiritimati). Hòn đảo dài 34 km, rộng 14,5 km, và cao 8 m so với mực nước biển, với tổng diện tích là 155,4 km ². Ngoài ra là vùng đầm phá thấp rộng 224 km ². Đảo san hô vòng bao gồm 4 đảo lớn: Đảo Nam (116,1 km ²), Đảo Malabar (26,8 km ²), Đảo Polymnieli hay Polymnie (4,75 km ²) và đảo Picard hay còn gọi là Đảo Tây (9.4 km²).
Ngoài ra, có 40 đảo đá và một số đảo nhỏ khác nằm bên trong các đầm phá với địa chất là các đảo đá vôi, cồn cát hay các đảo san hô hóa thạch khác.
Động vật.
Nơi đây nổi bật với sự có mặt của loài rùa khổng lồ Aldabra. Loài bò sát khổng lồ này được phát hiện từ những cuộc thám hiểm vào đầu thế kỷ 18. Hòn đảo trở thành nơi neo đậu của các tàu bè, đoàn thủy thủ qua lại và cung cấp thực phẩm là thịt rùa và trứng rùa biển. Đến giữa thế kỷ 18, số lượng loài rùa này đã sụt giảm nhanh chóng và năm 1900, gần như loài rùa này đã đứng bên bờ vực của sự tuyệt chủng. Nhờ những nỗ lực bảo tồn, hiện nay loài rùa này đã có khoảng 152.000 cá thể, trở thành nơi tập trung lớn nhất của rùa biển.
Ngoài ra là rất nhiều các loài động vật như loài cua dừa (loài cua lớn nhất thế giới), cá mập búa, cá đuối, cá vây tia (Barracuda), rùa xanh, đồi mồi; cùng với đó là các loài chim vô cùng phong phú bao gồm: chim Rail cổ trắng Aldabra (một loài chim bay, kiếm ăn ở vùng đầm lầy trên đảo cánh bị tiêu biến và trở thành loài chim đi bộ, nó đã được cho là tuyệt chủng vào thế kỷ 17) hay loài chim Chim Ibis (một loài chim linh thiêng của vùng Madagascar), chim chích Aldabra, chim sẻ Aldabra..và rất nhiều các loài chim làm tổ khác cùng với các loài dơi.
Thực vật.
Aldabra có một số loài thực vật đặc hữu. Các khu vực đất cao có loài cây pemphis một loại cây bụi ven biển, trong khi các khu vực thấp hơn là nơi trú ngụ của loài rùa khổng lồ, thì là một hỗn hợp các cây xanh, cây bụi, các loại thảo mộc và các loại cỏ. | 1 | null |
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 (Trung văn giản thể: 中国共产党第十八次全国代表大会; Trung văn phồn thể: 中國共產黨第十八次全國代表大會; bính âm: "Zhōngguó Gòngchǎndǎng Dìshíbācì Quánguó Dàibiǎo Dàhuì", chuyển tự Hán-Việt: "Trung Quốc cộng sản đảng đệ thập bát thứ toàn quốc đại biểu đại hội", viết tắt ZhōngGòng Shíbā-dà [中共十八大], chuyển tự Hán-Việt: "Trung cộng thập bát đại") diễn ra từ ngày 8 tháng 11 đến ngày 14 tháng 11 năm 2012 ở Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, Trung Quốc. Tổng cộng có 2.270 đại biểu tham dự Đại hội. Do quy định về giới hạn tuổi và nhiệm kỳ, bảy trong số chín thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị sẽ về hưu, gồm có lãnh đạo tối cao Hồ Cẩm Đào, người sẽ thôi giữ chức vụ Tổng bí thư, lãnh đạo của đảng. Tại phiên bế mạc, Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thứ 18 và Ban chấp hành Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương khóa mới.
Ban Chấp hành Trung ương khóa 18.
Ban Chấp hành Trung ương khóa 18 gồm có 200 ủy viên và 170 ủy viên dự khuyết. Một số nhân vật đáng chú ý được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khóa 18 gồm có: Tập Cận Bình, 59 tuổi, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa 17, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương; Lý Khắc Cường, 57 tuổi, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa 17, Phó Thủ tướng; Vương Kỳ Sơn, 64 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Phó Thủ tướng; Trương Đức Giang, 66 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Phó Thủ tướng, Bí thư Thành ủy Trùng Khánh; Lưu Vân Sơn, 65 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương; Uông Dương, 57 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông; Du Chính Thanh, 67 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Bí thư Thành ủy Thượng Hải; Trương Cao Lệ, 66 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Bí thư Thành ủy Thiên Tân; Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; bà Lưu Diên Đông, 67 tuổi, Ủy viên Bộ Chính trị khóa 17, Ủy viên Quốc vụ.
Vương Kỳ Sơn được bầu vào Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương khóa 18. Ban Chấp hành Trung ương khóa 18 họp phiên đầu tiên vào sáng 15 tháng 11 năm 2012 và tiến hành bầu Bộ Chính trị, Thường vụ Bộ Chính trị và Tổng Bí thư.
Ông Hồ Cẩm Đào sẽ thôi giữ chức tổng bí thư đảng từ ngày 16 tháng 11 năm 2012 và thôi giữ chức chủ tịch nước từ tháng 3 năm 2013. Chưa rõ ông Hồ Cẩm Đào có tiếp tục giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân ủy Trung ương hay sẽ bàn giao cho ông Tập sau đại hội. Ông Lý Khắc Cường cũng được cho là sẽ thay thế Thủ tướng Ôn Gia Bảo từ năm 2013.
Các nội dung chủ yếu đại hội thứ 18.
Đại hội đã thông qua dự thảo sửa đổi Điều lệ Đảng, nhấn mạnh đến ưu tiên cải cách mở cửa, phát triển khoa học và thúc đẩy những tiến bộ về sinh thái. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhất trí đặt quan điểm phát triển khoa học bên cạnh học thuyết Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và thuyết "Ba đại diện". | 1 | null |
Trance là một thể loại âm nhạc điện tử đã phát triển trong những năm 1990 ở Đức. Loại nhạc này có đặc trưng bởi một nhịp độ nằm giữa 110 đến giữa 150 nhịp mỗi phút (BPM), các cụm du dương lặp đi lặp lại, và một vở nhạc kịch hình thức rõ ràng tạo nên độ căng và các yếu tố trong suốt một ca khúc thường mà đỉnh cao là 1-2 "đỉnh núi" hay "giọt." Mặc dù trance là một thể loại riêng của nó, nó tự do kết hợp các ảnh hưởng từ phong cách âm nhạc điện tử khác như techno, house, pop, chill-out nhạc cổ điển, tech house, ambient và nhạc phim.
Đầu những năm 1990, nhạc techno và hardcore của Đức đã được chuyển sang thể loại trance, một thể loại nhấn mạnh các âm thanh điện tử và được kéo dài đến cuối ca khúc và chỉ thêm vào đó sự thay đổi của giai điệu và thình thoảng thay đổi không khí của nhạc cụ điện tử để người nghe có thể phân biệt được sự khác nhau mà thôi. Nhưng nhạc trance như một thứ tôn giáo, nó kéo người nghe đến gần và cảm nhận được từng âm thanh và cả ca khúc như một dòng suối cuốn chặt lấy họ. Đến giữa những năm 1990, trance đã giữ được vị trí độc tôn khi các sàn nhảy và các Dj trên toàn thế giới chọn nhạc trance bởi sức thu hút của nó cùng với đó là sức sáng tạo vô bờ bến trên nền nhạc trance.
Không như nguồn gốc chính của nó được bắt nguồn từ Detroit, các trung tâm nhạc trance được tập trung lại với nhau và tạo thanh một khối như hãng thu âm R&S tại Ghent, Bỉ và hãng Harthouse/Eye Q tại Frankfurt,Đức. Hãng R&S ra đời sớm hơn đồng nghĩa với việc giới thiệu các album sớm hơn như đĩa đơn "Energy Flash" của Joey Beltram, "The Ravesignal" của CJ Bolland và các nghệ sĩ khác như Robert Leiner, Sun Electric và Aphex Twin. Đầu năm 1992, hãng Harthouse, một nhánh nhỏ của hãng Epic đã giới thiệu những sản phẩm đầu tiên như đĩa đơn "Harttrance Acperience" của Vath và bên cạnh đó giới thiệu các nghệ sĩ Arpeggiators, Spicelab và Barbarella.
Đến cuối những năm 90, một sự thay đổi lớn đã diễn ra, các ban nhạc, nghệ sĩ cùng với âm nhạc của họ đã biến mất. Thay vào đó là những khuôn mặt mới cùng với những âm thanh sáng tạo mới trong lòng của Trance. Nhạc Trance cũ của Đức đã bị thay đổi ít nhiều nhưng nhìn chung, nó vẫn giữ được phong thái của nhạc trance ngày nào. Trance mới bị ảnh hưởng bởi nhạc house của châu Âu cùng với sự mềm mại. Năm 1998, các Dj được biết đến nhiều nhất đó là Paul Oakenfold, Pete Tong, Tony De Vit, Danny Rampling, Sasha, Judge Jules. hầu hết họ đều chơi nhạc trance đặc thù của nước Anh. | 1 | null |
"Rain Over Me" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc rap người Mỹ Pitbull từ album phòng thu thứ sáu của anh, "Planet Pit". Ca khúc có sự góp giọng của nam ca sĩ người Mỹ Marc Anthony. Ca khúc này được sáng tác bởi Armando C. Perez, RedOne, Marc Anthony, Bilal "The Chef" Hajji, AJ Janussi, Rachid Aziz và được sản xuất bởi RedOne, David Rush và Jimmy Joker. Ban đầu, ca khúc này được phát hành vào ngày 10 tháng 6 năm 2012 và là đĩa đơn quảng bá thứ ba cho "Planet Pit", nhưng sau đó, ca khúc đã được chọn làm đĩa đơn chính thức thứ ba của album và được phát hành vào ngày 19 tháng 7 năm 2011. "Rain Over Me" lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 của Mỹ tại vị trí #30. Đồng thời, ca khúc cũng trở thành đĩa đơn thứ hai của Pitbull đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot Latin Songs và cũng là đĩa đơn đầu tiên của anh đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Tropical Songs. Thêm vào đó, đây cũng là đĩa đơn quán quân thứ sáu của Marc Anthony trên bảng xếp hạng Hot Latin Songs và cũng là đĩa đơn quán quân thứ hai mươi của anh trên Tropical Songs, lấy lại vị trí của anh như là nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân trên Tropical Songs nhất, mà trước đó vị trí này thuộc về Víctor Manuelle.. Video âm nhạc của ca khúc được đạo diễn bởi David Rosseau, người đã từng đạo diễn rất nhiều video âm nhạc của Pitbull trước đó, bao gồm cả "I Know You Want Me (Calle Ocho)".
Bối cảnh.
"Rain Over Me" là một ca khúc nhạc eurodance được sản xuất bởi RedOne, David Rush và Jimmy Joker. Ban đầu, ca khúc này được phát hành vào ngày 10 tháng 6 năm 2012 và là đĩa đơn quảng bá thứ ba cho "Planet Pit", album phòng thu thứ sáu của Pitbull. Nhưng sau đó, ca khúc đã được chọn làm đĩa đơn chính thức thứ ba của album và được phát hành vào ngày 19 tháng 7 năm 2011.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Rain Over Me" được đăng tải trên kênh VEVO chính thức của Pitbull vào ngày 22 tháng 7 năm 2011. Video được đạo diễn bởi David Rousseau. Trong video có sự xuất hiện của cả Pitbull và Marc Anthony trên một sa mạc rộng lớn, cùng với nữ diễn viên Natalie Martinez, và nhiều hiệu ứng của nước. Đến nay, video đã đạt được hơn 583 triệu lượt xem.
Tham gia thực hiện.
Thông tin được lấy từ ghi chú album "Planet Pit". | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.