text
stringlengths
93
20.7k
Phô mai que là một món được làm chủ yếu từ phô mai cắt thành dạng thanh dài, tẩm bột và chiên xù. Ở Hoa Kỳ món này được gọi là Mozzarella stick, do nó được làm từ một loại phô mai Mozzarella của Ý, và được phục vụ như là món khai vị tại các nhà hàng, ở Bắc Mỹ thì nó chủ yếu được bán trong các "quán nhậu" (pub). Mặc dù phô mai que thường được cho là món ăn của Ý, nhưng thật ra nó không phải là món truyền thống của nước này. Phô mai thường được cắt dạng thỏi vuông dài và lăn qua trứng gà, bột mì, bột xù rồi chiên ngập trong dầu nóng. Nó thường được dùng nóng, kèm với xốt cà chua, xốt Marinara, mù tạt, xốt mận (tương ngọt), tương ớt, xốt barbecue,. Phô mai que là món ăn đặc sản của Capital District, New York.
Nem chua (phương ngữ Bắc Bộ) hay nem (phương ngữ Trung Bộ và phương ngữ Nam Bộ) là một món ăn sử dụng thịt lợn, lợi dụng men của lá chuối (hoặc lá ổi, lá vông, lá sung v.v.) và thính gạo để ủ chín, có vị chua ngậy. Nổi tiếng ở Việt Nam như một sản vật phổ biến tại nhiều địa phương, tuy không rõ nem chua được người dân vùng nào làm ra đầu tiên. Cách chế biến nem có thể chia thành hai kiểu: Nem Miền Bắc có thể chế biến ăn sống cùng các loại lá đặc biệt; còn Nem Miền Trung (đặc biệt Thanh Hoá và Huế) được đóng gói và lên men trong một số loại lá, trong đó có lá chuối, lá ổi. Nem chua mỗi vùng đều có hương vị riêng: nem chua của Vĩnh Yên, làng Ước Lễ (Thanh Oai), Yên Mạc (Ninh Bình), Bình Lương (Hưng Yên), Bùi Xá (Bắc Ninh), làng Vẽ (Hà Nội), Quảng Yên (Quảng Ninh), Đại Từ (Thái Nguyên, thành phố Thanh Hóa, Đông Ba (Huế), Ninh Hòa, Lai Vung (Đồng Tháp), An Thọ (An Lão, Hải Phòng) v.v... Nổi tiếng nhất là nem chua Thanh Hóa. Nem chua được làm từ thịt heo (lợn) và chỉ dùng thịt ở mông heo và thịt thăn heo băm nhuyễn hay giã bằng chày và cối, cho các gia vị như muối, tiêu, đường, tỏi... trộn cùng da heo (bì lợn) thái chỉ. Sau đó đem gói bằng lá chùm ruột một lớp mỏng (có nơi dùng lá cây ổi, sung, lá đinh lăng, lá vông nem) và thêm một lớp lá chuối dày bên ngoài. Để khoảng 3-5 ngày là nem chín và có thể ăn được. Có thể ăn như vậy hay là nướng trên lửa than. Người ta thường chấm nem với tương ớt hoặc nước mắm ớt tỏi, đôi khi ăn kèm với tỏi sống. Nem chua thường được dùng trong các quán nhậu, được chế biến thành các món như gỏi nem chua, nộm nem chua v.v...
Lẩu cua đồng như tên gọi của nó là một món lẩu với thành phần nguyên liệu chủ đạo là cua đồng. Cua đồng vốn là một nguồn thực phẩm dân dã, rất phổ biến trên khắp Việt Nam. Tuy nhiên thành phần dinh dưỡng trong cua đồng rất phong phú, đặc biệt là calci. Bởi vậy, mỗi vùng miền Việt Nam lại có những cách chế biến riêng theo tùy theo khẩu vị. Lẩu cua đồng theo phong cách ẩm thực Hải Phòng có thể xem là phiên bản đặc sắc nhất của món lẩu này do đây là địa phương mà người dân đặc biệt ưa thích những món ăn chế biến từ cua (gồm cả cua đồng và cua bể). Món lẩu này hiện đã vượt khỏi biên giới Hải Phòng để du nhập tới địa phương khác như Hà Nội và được nhiều thực khách nơi đây đón nhận. Lẩu cua đồng kiểu Hải Phòng được nhiều người xem là một biến thể mang nhiều tính hiện đại và phong phú của món bánh đa cua đồng vốn rất phổ biến. Lẩu cua đồng theo đúng phong cách ẩm thực Hải Phòng thường có bánh đa đỏ (loại sợi tươi nói chung được ưa thích hơn sợi khô), chả lá lốt, chả cá thu kiểu Hải Phòng, chả viên chiên vàng kiểu Hải Phòng, giò sống, lòng non, sườn non, thịt bò thăn, đậu phụ và rau mùng tơi. Để có món lẩu cua đồng đúng theo khẩu vị Hải Phòng thì ngoài những nguyên liệu không thể thiếu để tạo nên món lẩu thông thường còn cần một số thành phần nguyên liệu đặc trưng hay đồ nhúng như cua đồng (dùng chế nước lèo), chả cá thu (chế biến theo kiểu Hải Phòng), giò sống, lòng non (lợn), thịt bò, đậu phụ, trứng vịt lộn, thịt nấm, rau chuối, rau mùng tơi và đặc sản bánh đa đỏ của Hải Phòng. Cua đồng được đem rửa sạch, giã nhuyễn, rồi lọc kỹ lấy nước, cho vào nồi đun. Tiếp đó, trút nước linh cua ra nồi lẩu và nêm các gia vị cần thiết dùng cho món lẩu. Công đoạn chế biến nước cốt cua đồng về cơ bản không khác như khi chế biến nước dùng cho món bánh đa cua. Các đồ nhúng đặc trưng trong món lẩu cua đồng thường là chả cá (theo cách chế biến của ẩm thức Hải Phòng), giò sống, lòng non của lợn, thịt bò, đậu phụ, trứng vịt lộn, thịt nấm, rau chuối, rau mùng tơi và đặc sản bánh đa đỏ. Hiện nay, nhiều nhà hàng chuyên chế biến các món lẩu tại Hải Phòng đã mở thêm chi nhánh tại Hà Nội để tiện cho nhiều thực khách nơi đây muốn thưởng thức món lẩu cua đồng đúng theo phong cách ẩm thực đất Cảng nhưng không phải đi xa.
Món cuốn (Spring roll) là một loạt các món khai vị ở dạng cuộn/cuốn hoặc điểm sấm được tìm thấy trong ẩm thực Đông Á, ẩm thực Nam Á, ẩm thực Trung Đông và ẩm thực Đông Nam Á và các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nó gồm vỏ bánh tráng từ bột gạo hay bột mì và có nhân rau và thịt; cũng như tên gọi, khác nhau đáng kể trong khu vực rộng lớn này, tùy thuộc vào văn hóa của khu vực. Món cuốn là những món ăn thông dụng ở châu Á bao gồm nhiều loại nguyên liệu được cuốn trong bánh tráng hoặc gói cuộn trong các loại lá rau, nó có thể bao gồm rau và lá thảo mộc, hoặc các loại rau khác. Nhiều loại nguyên liệu có thể cho phép mọi người chỉ chọn những gì họ muốn, theo khẩu vị của họ. Món ăn luôn được ăn với nước chấm gọi là nước mắm. Món cuốn là món ăn thủ công, trong đó các nguyên liệu được chiên nhưng thực khách tự chế biến món cuốn của mình. Nó cũng là một loại thức ăn nhanh thực sự vì quá trình chiên của nó nhưng được phát minh từ ngày xưa. Món cuốn thể hiện sự đa dạng phong phú của ẩm thực và con người Việt Nam. Nhìn món cuốn, người khác có thể nhận ra sự khéo léo của họ, đặc biệt là phụ nữ (câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”). Vào ngày lập xuân ở Trung Quốc, mọi người đã sử dụng vỏ hoành thánh để bọc rau diếp và làm bánh vào mùa xuân hoặc chả giò. Người Hoa ăn thức ăn và cầu nguyện để có sức khỏe tốt. Nó được gọi là "cuộn mùa xuân" theo nghĩa đen và dần dần trở thành thực phẩm hàng ngày. Chả giò được làm đầy với bột khô và chiên. Nó phát triển từ phong tục ăn các món ăn mùa xuân vào ngày mùa xuân. Vào thời nhà Đường, công thức về cách làm chả giò đã phát triển và thay đổi. Vào thời nhà Nguyên, Nhân chủng học ẩn danh đã biên soạn tác phẩm hoàn chỉnh về nội vụ, trong đó ghi lại thành phần của một cuộn chả giò: "Chả giò ngon ngon với quả óc chó, hạt thông, hạt đào, hạt sen, ngó sen khô, quả hồng khô, ngao nấu chín, hạt dẻ nấu chín, và quả mọng, trên tất cả các lát hạt dẻ được cắt nhỏ, với mật ong, kem và thịt cừu nghiền, gừng, muối, hành tây và xào,cuốn gói trong vỏ hoành thánh hay vỏ bột mì tráng mỏng, dùng dầu ăn chiên vàng. "Đây là phương pháp cuộn đầu xuân. Có những ghi chép tương tự trong công thức nhà Minh. Chả giò thường được ăn nhiều nhất ở Trung Quốc mặc dù theo thời gian, những món khai vị ngon miệng này bắt đầu được thưởng thức trên toàn thế giới. Chả giò là một sự thay đổi mới mẻ từ món trứng cuộn thông thường; Chúng cũng tuyệt vời cho những người đang ăn kiêng nghiêm ngặt nhưng vẫn mong muốn một cái gì đó ngon và thú vị. Chả giò có một lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Người ta nói rằng tráng bột mì xuất hiện từ thời Đông Tấn, khi mọi người sẽ làm những chiếc bánh mỏng bằng bột và ăn chúng với rau vào ngày bắt đầu mùa xuân. Những chiếc bánh được gọi là món ăn mùa xuân tại thời điểm đó. Sau đó, món ăn mùa xuân phát triển thành bánh mùa xuân. Trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, có một phong tục cắn vào mùa xuân, có nghĩa là đón mùa xuân bằng cách ăn bánh mùa xuân. Việc thực hành được cho là để tránh thảm họa và xấu xa. Cùng với việc cải thiện kỹ năng nấu ăn, bánh mùa xuân phát triển thành chả giò, có kích thước nhỏ hơn. Chả giò được bao gồm trong đồ ăn nhẹ của triều đình. Bánh cuốn Bò bía Bò lá lốt Bánh ướt thịt nướng Cuốn cá nục Cuốn tôm chua thịt luộc Cuốn ốc gạo Cuốn cá lóc hấp nước dừa Cuốn đầu heo ngâm chua Cuốn diếp Chả giò rế Cuốn ốc gạo Cuốn nem nướng Gỏi cuốn Chả giò (nem rán, bánh đa-nem) Bánh tráng Trảng Bàng
Trúc thăng miến là một loại mì ở Quảng Đông được tìm thấy trong một số bộ phận của Hồng Kông và Ma Cao, và một số bộ phận của ở Quảng Châu, Trung Quốc. Mì được làm từ trứng, theo truyền thống được làm bằng trứng vịt lộn, và được coi là một trong những loại mì hiếm nhất còn tồn tại. Trước đây, đầu bếp đè một khúc gỗ tre để ép trứng, bột mì và các thành phần khác lại với nhau.Tính đến năm 2008 ở Hồng Kông, chỉ còn lại một số nhà hàng làm mì theo cách truyền thống. Một trong những sự kết hợp phổ biến nhất của mì trong một món ăn là mì hoành thánh (tiếng Trung: 竹 昇 雲吞 麵). Năm 2014, chính quyền Hồng Kông đã đưa công nghệ tạo hình sợi mì vào “Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Hồng Kông” == Tham khảo ==
Hà ngỗng hay bộ Hà ngỗng hay còn gọi là đằng hồ (Danh pháp khoa học: Pedunculata) là một bộ động vật gồm các loài động vật chân khớp nhưng có thân mềm mà chúng có tập tính là chuyên sống và khoét thủng các loại đá và vật chất cứng khác. Sự tương đồng giữa hình dáng các loại hà này với cổ của một loài ngỗng (Branta leucopsis) đã khiến người cổ đại liên tưởng đến những con ngỗng, hoặc ít nhất là các loài vịt trời đã tiến hóa từ con hà này. Từ chất dính khủng khiếp mà con hà tiết ra, người ta đã chế tạo ra loại keo hà dùng để vá tàu khi bị thủng. Chỉ cần phết vào miếng kim loại rồi dán, rất nhanh mà bền chắc. Trong Y tế, keo hà dùng làm băng giấy cầm máu, bịt miệng vết thương và vết mổ. Chúng cũng là một món ăn cao cấp ở các nước Địa Trung Hải như Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. == Tham khảo ==
Quả kiên hay quả cứng hay hạt cứng là loại quả bao gồm một hạt và một vỏ cứng, lớp vỏ này sẽ không tự nứt ra để giải phóng hạt ở bên trong thoát ra (gọi là sự không nẻ hay không mở). Trong tiếng Anh, quả kiên được gọi là nut (nhưng một số từ điển và sách dịch nut là quả hạch) và chỉ những loại quả không nẻ và có vỏ khá cứng mới được coi là nut thực sự theo nghĩa thực vật học, nhưng trong lĩnh vực ẩm thực có nhiều loại quả khô khác cũng được gọi là nut như hạnh đào, Chi Óc chó... Những loại quả kiên thật sự thuộc một số chi thực vật nằm trong Bộ Cử: Bộ Cử (Fagales): Họ Cử (Fagaceae): Dẻ gai (Fagus) Dẻ Trùng Khánh (Castanea) Sồi (Quercus) Sồi đá (Lithocarpus) Notholithocarpus (Notholithocarpus) Họ Bạch dương (Betulaceae) Trăn (Carpinus) Phỉ (Corylus) Quả hạch (định hướng) John Harvey Kellogg, "Nuts May Save the Race." The Itinerary of Breakfast. New York: Funk & Wagnalls Company, 1920. 165–203.
Yōkan ( 羊羹 (Dương canh), Yōkan) là một món thạch tráng miệng Nhật Bản làm từ tương đậu đỏ, agar, và đường. Nó thường được bán dưới dạng các khối và được ăn bằng các lát. Có hai loại chính: neri yōkan và mizu yōkan. "Mizu" nghĩa là "nước", nghĩa là nó được làm với nhiều nước hơn bình thường. Mizu yōkan thường được bảo quản lạnh và ăn vào mùa hè. Mặc dù yōkan được tìm thấy ở Nhật Bản và ở nước ngoài thường được làm từ tương đậu đỏ, yōkan làm từ tương đậu tây white kidney bean paste (しろあん, 白餡, shiro an) cũng tương đối phổ biến. Loại yōkan này có màu trắng đục và trong suốt với hương vị nhẹ nhàng hơn nhiều so với loại làm từ bột đậu đỏ. Như vậy, nó có thể được tạo hương và tạo màu hiệu quả bằng cách sử dụng bột trà xanh. Yōkan cũng có thể chứa hạt dẻ cắt nhỏ, quả hồng, đậu azuki làm ngọt nguyên hạt, quả sung và khoai lang (imo yōkan), cùng với các chất bổ sung khác. Đường cũng có thể được thay thế bằng mật ong, đường nâu sẫm, hoặc mật đường để làm thay đổi hương vị của yōkan được tạo ra. Ngoài ra còn có shio yōkan, sử dụng một lượng nhỏ muối. Ban đầu là một loại bánh kẹo hoặc món ăn nhẹ gelatin của Trung Quốc được làm từ gelatin có nguồn gốc từ cừu luộc; thuật ngữ này có nghĩa đen là “canh cừu” (羊 cừu + 羹 súp đặc). Do ảnh hưởng của đạo Phật, họ thay thế gelatin động vật bằng bột mì và đậu azuki. Agar được sử dụng sau khi nó được phát hiện vào khoảng năm 1658, ở Nhật Bản. Biến thể này trở thành cơ sở của yōkan hiện đại. Một trong những loại đồ ngọt phổ biến nhất của Nhật Bản, nó đã phát triển hơn nữa trong thời kỳ Edo khi đường trở nên phổ biến hơn. Nó có thể được lưu trữ trong thời gian dài mà không cần làm lạnh trừ khi mở ra, và là một món quà chủ yếu.
Xôi tam sắc là món ăn đặc sản của người Thái đen ở vùng núi các tỉnh phía Tây Bắc, Việt Nam. Xôi được đồ bằng gạo nếp nương và gói trong lá dong. Mỗi đĩa xôi có 3 màu là màu trắng (màu nguyên bản của xôi), màu tím và màu đỏ (có được do lá cây rừng mà người Thái thường dùng). Các xôi khác màu không có mùi gì đặc biệt, vẫn là hương vị thường thấy của xôi nếp nương. Xôi tam sắc có nhiều loại, tùy theo người chế biến.
Xá bấu (tiếng Trung: 菜泡; Việt bính: coi3 paau3) (củ cải muối) là món củ cải ướp gia vị (chủ yếu là muối, có thể có thêm đường), xá bấu thành phẩm se khô, dẻo. Đây là món ăn có nguồn gốc từ người Tiều (Triều Châu), rất phổ biến ở các địa phương có đông người gốc Hoa sinh sống và phụ cận, đặc biệt là Bạc Liêu, Sóc Trăng. Xá bấu là món ăn có nguồn gốc từ cộng đồng người Tiều (Triều Châu) mang theo khi di cư lập nghiệp ở vùng Nam Bộ Việt Nam. Xá bấu là tên gọi được đọc chệch từ "chái pấu", trong tiếng Tiều có nghĩa là củ cải muối. Cách làm xá bấu có thể có khác biệt đôi chút, nhưng thông thường chọn loại củ cải vừa phải, phơi cho se vỏ rồi ướp muối vài ngày, trong khi ướp muối, củ cải ngấm muối, ra nước và săn lại. Sau đó lấy củ cải ra phơi cho khô Trong quá trình phơi tránh để củ cải dính mưa sẽ bị ôi, mốc. Khi củ cải còn ẩm, nhưng cầm lên thấy dẻo, dai thì đem trộn với đường trắng ủ vài ngày cho củ cải ngấm. Có người không ướp thêm đường mà chỉ dừng ở giai đoạn ướp muối rồi phơi.Sá bấu thành phẩm có vị mặn, màu nâu sẫm, bề mặt se khô và dẻo, dai, có thể bảo quản được lâu. Xá bấu là món ăn tiện lợi, được sử dụng phổ biến, chế biến thành nhiều món ăn. Khi dùng chỉ cần đem xá bấu đã muối rửa để làm sạch và loại bỏ bớt vị mặn, thái sợi hoặc thái miếng vừa ăn để chế biến thành nhiều món ăn như xá bấu xào xả ớt, xào thịt, chưng trứng, nấu canh. == Tham khảo ==
Kem hạt hồ trăn là một hương vị kem được làm bằng hạt hồ trăn hoặc hương liệu của loại hạt này. Nó thường có màu xanh lá cây đặc biệt. Hạt hồ trăn cũng là một hương vị của sorbet và gelato. Kem hạt hồ trăn là một lớp trong loại kem spumoni. Tại Bakdash ở Damascus, Syria, một cây kem giã nhỏ phủ quả hồ trăn được gọi là Booza. Nó có kết cấu đàn hồi làm từ nhũ hương và sahlab nổi tiếng khắp Thế giới Ả Rập. Quận Al Mina của Tripoli được biết đến với món kem Ả Rập bao gồm "ashta" với quả hồ trăn. Nó được sản xuất rộng rãi bao gồm bởi Brigham's Ice Cream, Ben & Jerry's, Graeter's và các thương hiệu lớn khác.
Sâm bổ lượng hay còn gọi là chè sâm bổ lượng, là một món chè ngọt phổ biến ở miền Nam Việt Nam nhưng có nguồn gốc Quảng Đông và cũng phổ biến tại Quảng Đông, Hồng Kông, Ma Cao, và Hải Nam. Mặc dù công thức có thể khác nhau, sâm bổ lượng thường có nhãn nhục (cơm trái long nhãn phơi khô), hạt bo bo, hạt sen, phổ tai (một loại rong biển), táo tàu đỏ, hoài sơn (khoai mài) cùng nước, đường phèn và đá bào. Tên gọi sâm bộ lượng xuất phát từ tiếng Quảng Đông, chữ Hán ghi là 清補涼, âm Hán-Việt là thanh bổ lượng.
Bánh mì gạo là một loại bánh mì của Nhật Bản được làm từ bột gạo chứ không phải là bột mì theo cách thông thường và không chứa Gluten và sẽ không gây ra phản ứng bất lợi (dị ứng) cho người không hợp với gluten. Năm 2001, một nhóm nghiên cứu tại Đại học Yamagata ở Nhật đã sử dụng công nghệ đúc bọt để sản xuất bánh mì gạo được làm từ 100% bột gạo. Trong năm này, một cỗ máy giúp làm bánh mỳ từ gạo tẻ được bán rất chạy, đây là chiếc máy khá tiện lợi. Người dùng chỉ việc đổ gạo đã vo cùng gia vị vào máy và nhấn nút khởi động. Máy sẽ tự xay gạo, nhồi bột, ủ bột và nướng bánh để cho ra sản phẩm cuối cùng.
Thịt tôm hùm đất là thịt của các loài tôm hùm đất mà phổ biến là tôm hùm nước ngọt. Chúng được tiêu thụ ở nhiều nơi ở Mỹ. Loài tôm hùm nước ngọt Procambarus clarkii được ăn nhiều ở Hoa Kỳ, Campuchia, Châu Âu, Trung Quốc, Châu Phi, Úc, Canada, New Zealand và vùng Caribê. Khoảng 98% số tôm thu hoạch ở Mỹ đến từ Louisiana, vào năm 1990 nơi đây sản xuất 90% tôm loại này trên thế giới và tiêu thụ 70% sản lượng tại địa phương.Ở bang Louisiana, hàng năm đều có nhiều lễ hội tôm rồng (Crayfish Festival), hấp dẫn hàng triệu du khách khắp thế giới đến thưởng thức. Tại các lễ hội, tôm rồng được chế biến thành hàng chục món đặc sản rất hấp dẫn để phục vụ du khách. Lễ hội tôm rồng đã trở thành nét văn hóa truyền thống độc đáo của địa phương từ hàng trăm năm nay. Thu hoạch thịt P. clarkii chiếm một phần lớn của tôm sản xuất tại Hoa Kỳ và các nơi khác. Khác biệt nhiều với thịt loại tôm, thủy hải, hải sản khác, khi nấu lên, thịt và gạch của tôm hùm đất béo và ngọt, tuy không có thớ thịt lớn như các loại tôm khác nhưng thịt tôm hùm đất được cho là có vị bùi, độ đạm cao đặc biệt là phần đầu tôm, nhiều phần vỏ mềm nhai được nên ăn được. Tuy nhiên, giống tôm này ít thịt, tỉ lệ thịt chiếm chỉ khoảng 15% trọng lượng của tôm, còn lại là vỏ tính chung thì lượng thịt của nó chỉ chiếm chừng 30% trọng lượng cơ thể, vỏ chúng tuy cứng cáp khi đang sống nhưng khi bị luộc, hấp, nấu, vỏ tôm cứng bao bọc cơ thể chúng bở ra, bẻ nhẹ là vỡ, mà không dai như tôm hoặc cứng như cua biển. Tôm hùm đất thường được bán và sử dụng làm mồi, hoặc nguyên con hoặc chỉ có thịt đuôi, và dùng để cho việc dụ cá da trơn, các cọng chân được loại bỏ để tôm hùm đất không ngăn không cho cá cắn câu. Tôm hùm đất dễ dàng rơi ra khỏi móc câu. Tôm hùm đất được lưu giữ như là vật nuôi trong bể nuôi cá nước ngọt. Tôm hùm đất giữ như là vật nuôi ở Mỹ từ vùng biển địa phương. Trong một số quốc gia, chẳng hạn như Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Australia, và New Zealand, tôm hùm đất nước ngoài nhập khẩu là một mối nguy hiểm cho các con sông địa phương. Ba loài thường được nhập khẩu vào châu Âu từ châu Mỹ là Orconectes limosus, Pacifastacus leniusculus và Procambarus clarkii.Tại Louisiana con tôm thường được đun sôi trong một nồi lớn với gia vị nồng (muối, ớt cayenne, chanh, tỏi, lá bay, vv) và các mặt hàng khác như khoai tây và bắp ngô. Nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để luộc sôi con tôm, món ăn này thường phục vụ tại một cuộc họp thường là món tôm luộc với đủ các món luộc, hấp bia, nướng, tôm xào dừa, canh tôm, chỉ đơn giản là nước luộc tôm nấu với khoai tây cùng bắp ngô bao tử, đây là món ăn nổi tiếng trong cộng đồng người Việt sống ở Mỹ. Tôm hùm đất được nhập về từ Mỹ và Trung Quốc về Việt Nam. Tôm hùm đất còn được bán ở quán vỉa hè bình dân mà món ăn thường chỉ phục vụ tại nhà hàng với mức giá cao được du học sinh hay người Việt sành điệu sống tại Mỹ ưa thích. Nuôi loại tôm này dễ, cho năng suất cao. Giống tôm này có thể sống được trong nhiều loại môi trường, có thể nuôi xen với lúa Vào năm 2005, Bang Louisiana cung cấp 95% tôm hùm đất thu hoạch ở Mỹ. Năm 1987, Louisiana sản xuất 90% tôm thu hoạch trên thế giới, trong đó 70% được tiêu thụ trong nước. Năm 2007, Louisiana thu hoạch tôm khoảng 54.800 tấn, gần như tất cả đều là từ nuôi trồng thủy sản. Khoảng 70% -80% tôm sản xuất tại Louisiana là Procambarus clarkii, với 20% còn lại 30% là Procambarus zonangulus Nuôi tôm càng bắt đầu ở Louisiana trong thế kỷ 18, diễn ra tại cánh đồng lúa, gạo và tôm càng làm tốt việc sử dụng đất đai, tài nguyên, thiết bị, cơ sở hạ tầng đã được sử dụng cho sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, sản xuất các loại tôm đã giảm trong những năm gần đây do sự gia tăng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hiện là nhà sản xuất hàng đầu thế giới về con tôm này. Một số loài động vật giáp xác đã được phổ biến đến Trung Quốc để tạo ra thị trường nuôi trồng thủy sản và bởi vì chúng thích nghi tốt hơn để phát triển so với các loài cá bản địa. Theo thị trường thế giới, tôm rồng có giá 20USD/kg, ở Việt Nam thì bán được với giá vài USD/kg. P. clarkii cũng đã được du nhập đến những nơi khác để canh tác, chẳng hạn như Tây Ban Nha, nơi mà thành công của nó là do khả năng xâm chiếm môi trường sống bị xáo trộn có thể sẽ không phù hợp cho tôm càng bản địa. P. clarkii cũng được tiếp thị từ các công ty cung cấp sinh học phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. Chúng cũng được trưng bày với các màu sắc khác nhau, bao gồm trắng, xanh, và màu da cam và thường được bán trong các cửa hàng vật nuôi. Sự trỗi dậy của P. clarkii cũng đã dẫn đến thiệt hại kinh tế ở một số vùng. Trong khu vực Baixo Mondego của Bồ Đào Nha, nó gây ra giảm 6,3% lợi nhuận trong lĩnh vực lúa gạo. == Tham khảo ==
Fish and chips (tiếng Việt: cá và khoai tây chiên) là một món thức ăn nhanh truyền thống của nước Anh, gồm có phi lê cá đã được tẩm bột rồi sau đó đem chiên ngập dầu và ăn kèm với khoai tây chiên. Dù món ăn có nguồn gốc từ Anh, đây là một ví dụ của sự kết hợp ẩm thực, vì hai thành phần chính của nó được giới thiệu bởi những người nhập cư vào quốc gia này. Fish and chips là món take-out rất phổ biến ở Vương quốc Anh cũng như nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh và các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh. Fish and chips xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào những năm 1860, và đến năm 1910, đã có hơn 25.000 cửa hàng fish and chips trên khắp Vương quốc Anh. Vào những năm 1930, có hơn 35.000 cửa hàng, nhưng xu hướng đã đảo ngược và đến năm 2009 chỉ còn khoảng 10.000. Chính phủ Anh đã bảo vệ nguồn cung cấp fish and chips trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai và đây là một trong số ít thực phẩm ở Vương quốc Anh không phải chia khẩu phần trong các cuộc chiến tranh. Truyền thống tẩm bột cá và chiên trong dầu ở Vương quốc Anh có thể đã bắt nguồn từ những người Do Thái Tây Sephardic nhập cư từ Hà Lan. Có nguồn gốc ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha và định cư ở Anh vào đầu thế kỷ XVI, họ đã chế biến cá chiên theo cách tương tự như pescado frito, cá được phủ trong bột sau đó chiên trong dầu. Cá chiên vào ngày Sabát cho bữa tối vào thứ Sáu có thể được ăn nguội vào buổi chiều hôm sau đối với shalosh seudot, theo cách này sẽ ngon miệng vì dầu thực vật lỏng được sử dụng thay vì chất béo cứng, chẳng hạn như bơ. Charles Dickens đề cập đến "kho cá chiên" trong Oliver Twist (1838), và Alexis Soyer trong ấn bản đầu tiên của ông trong tác phẩm A Shilling Cookery for the People năm 1845, đưa ra một công thức cho "Cá chiên, kiểu Do Thái", được nhúng trong một hỗn hợp bột và nước. Thời điểm ra đời chính xác của cửa hàng fish and chips đầu tiên là không rõ ràng. Các cửa hàng được biết đến sớm nhất được mở vào những năm 1860, ở Luân Đôn bởi Joseph Malin và ở Mossley, gần Oldham, Lancashire, bởi John Lees. Tuy nhiên, cá chiên, cũng như khoai tây chiên, đã tồn tại độc lập trong ít nhất 50 năm, vì vậy không thể loại trừ khả năng chúng đã được kết hợp với nhau từ trước đó. Fish and chips đã trở thành bữa ăn dự trữ của các tầng lớp lao động ở Anh do kết quả của sự phát triển nhanh chóng của nghề lưới kéo ở Biển Bắc, và sự phát triển của đường sắt kết nối các cảng với các thành phố công nghiệp lớn trong nửa sau của Thế kỷ 19, để cá tươi có thể nhanh chóng được vận chuyển đến các khu vực đông dân cư.Khoai tây chiên (lát hoặc miếng khoai tây) chiên giòn là một món ăn có thể đã xuất hiện lần đầu tiên ở Anh trong cùng thời kỳ: Từ điển tiếng Anh Oxford ghi nhận cách sử dụng "khoai tây chiên" sớm nhất theo nghĩa này được đề cập trong tác phẩm Chuyện hai thành phố năm 1859 của Charles Dickens: "khoai tây chiên giòn, chiên với vài giọt dầu bất đắc dĩ". Cửa hàng bán fish and chips hiện đại ("chippy" trong tiếng lóng hiện đại của Anh) có nguồn gốc từ Vương quốc Anh, mặc dù các cửa hàng bán món ăn này phổ biến ở khắp châu Âu. Các cửa hàng bán fish and chips ban đầu chỉ có cơ sở vật chất rất cơ bản. Thông thường, những thứ này chủ yếu bao gồm một vạc lớn nấu mỡ, đun bằng lửa than. Cửa hàng bán fish and chips sau đó đã phát triển thành một hình thức khá tiêu chuẩn, với thức ăn được phục vụ, trong gói giấy, cho khách hàng xếp hàng, trên một quầy trước bếp chiên. Khi còn là một cậu bé, Alfred Hitchcock sống trong một cửa hàng bán fish and chips ở Luân Đôn, đây là cơ sở kinh doanh của gia đình. Theo Giáo sư John Walton, tác giả của Fish and Chips và tầng lớp lao động Anh, chính phủ Anh đã ưu tiên việc bảo vệ nguồn cung cấp fish and chips trong Thế chiến thứ nhất: "Nội các biết rằng điều quan trọng là phải giữ cho các gia đình yên bề gia thất với trái tim tốt, không giống như chế độ của người Đức khi đã không giúp cho người dân của mình được ăn no".Năm 1928, Harry Ramsden mở cửa hàng bán fish and chips đầu tiên ở Guiseley, West Yorkshire. Vào một ngày duy nhất của năm 1952, cửa hàng phục vụ 10.000 phần fish and chips, giành được vị trí trong sách kỷ lục Guinness. Trong tác phẩm The Road to Wigan Pier (1937) của George Orwell, ghi lại kinh nghiệm của ông về cuộc sống của tầng lớp lao động ở miền bắc nước Anh, tác giả coi fish and chips là một trong những món 'tiện nghi tại nhà', có tác dụng như một liều thuốc chữa bách bệnh cho tầng lớp lao động. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, fish and chips vẫn là một trong số ít thực phẩm ở Vương quốc Anh không bị phân chia theo khẩu phần. Thủ tướng Winston Churchill gọi sự kết hợp giữa cá và khoai tây chiên là "bạn đồng hành tốt". John Lennon đã thưởng thức món cá và khoai tây chiên của mình - một món ăn chính của tầng lớp lao động - được trộn trong nước xốt cà chua.Fish and chips của Anh ban đầu được phục vụ trong một gói giấy báo cũ nhưng thực tế này hầu như đã không còn nữa, thay vào đó là giấy thường, bìa cứng hoặc nhựa. Tại Vương quốc Anh, Quy định Ghi nhãn Cá năm 2003 và ở Ireland, Quy định của Cộng đồng Châu Âu (Ghi nhãn Sản phẩm Thủy sản và Nuôi trồng Thủy sản) 2003 lần lượt ban hành chỉ thị 2065/2001 / EC, và thường có nghĩa là "cá" phải được được bán với tên thương mại cụ thể hoặc loài được đặt tên; vì vậy, ví dụ: "cá tuyết và khoai tây chiên" hiện xuất hiện trên thực đơn thay vì "cá và khoai tây chiên" nghe mơ hồ hơn. Ở Vương quốc Anh, hướng dẫn của Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm loại trừ các nhà cung cấp dịch vụ ăn uống khỏi điều lệ này; nhưng một số cơ quan Tiêu chuẩn Thương mại địa phương và những người khác nói rằng nó không thể được bán chỉ đơn thuần là "cá và khoai tây chiên". Tại Vương quốc Anh, Ireland, Úc, Canada, New Zealand và Nam Phi, fish and chips thường được bán bởi các nhà hàng độc lập và mang đi được gọi là cửa hàng fish and chips. Các cửa hàng đa dạng từ các công việc nhỏ đến chuỗi nhà hàng. Các nhà hàng hải sản thuộc sở hữu của địa phương cũng phổ biến ở nhiều nơi, cũng như "xe chip" di động. Ở Canada, các cửa hàng có thể được gọi là "toa xe chip". Ở Vương quốc Anh, một số cửa hàng có những cái tên gây cười để hút khách, chẳng hạn như "A Salt and Battery", "The Codfather", "The Frying Scotsman", "Oh My Cod" và "Frying Nemo". Ở New Zealand và Úc, nhà cung cấp fish and chip là một ngành kinh doanh phổ biến và là nguồn thu nhập của cộng đồng châu Á, đặc biệt là những người di cư Trung Quốc. Ở Indonesia, fish and chips thường được tìm thấy ở các thành phố lớn như Jakarta trong các nhà hàng hải sản và phương Tây, cũng như các chuỗi nhà hàng như The Manhattan Fish Market, Fish & Chips, v.v.Ở Ireland, phần lớn những người bán hàng truyền thống là người di cư hoặc con cháu của những người di cư từ miền nam nước Ý. Một tổ chức thương mại tồn tại để đại diện cho truyền thống này.Fish and chips là một bữa ăn trưa phổ biến của các gia đình đi du lịch đến các khu nghỉ mát bên bờ biển cho các chuyến đi trong ngày, những người không mang theo bữa ăn dã ngoại của mình. Các cửa hàng bán fish and chip bán khoảng 25% tổng số cá trắng được tiêu thụ ở Vương quốc Anh và 10% tổng số khoai tây.Nhiều cuộc thi và giải thưởng cho "cửa hàng bán fish and chip tốt nhất" chứng minh vị thế được công nhận của loại cửa hàng này trong văn hóa đại chúng.Các cửa hàng bán fish and chip theo truyền thống thường bọc sản phẩm của họ bằng giấy báo, hoặc bằng một lớp giấy trắng bên trong (để vệ sinh) và một lớp giấy báo bên ngoài hoặc giấy in báo trắng (để cách nhiệt và thấm dầu mỡ), mặc dù việc sử dụng giấy báo để gói hầu như đã ngừng hoạt động vì lý do vệ sinh.Nowadays Ngày nay, các cơ sở thường sử dụng giấy gói chất lượng thực phẩm, đôi khi được in bên ngoài để làm giả giấy báo. Liên đoàn Cá chiên Quốc gia Anh được thành lập vào năm 1913. Nó quảng bá fish and chips và cung cấp các khóa đào tạo. Nó có khoảng 8.500 thành viên từ khắp Vương quốc Anh.Một kỷ lục thế giới trước đây về "khẩu phần fish and chips lớn nhất" được giữ bởi Chợ hải sản của Gadaleto ở New Paltz, New York. Kỷ lục năm 2004 này đã bị quán rượu Wensleydale Heifer ở Yorkshire phá vào tháng 7 năm 2011. Một nỗ lực để phá vỡ kỷ lục này đã được thực hiện bởi cửa hàng fish and chip Doncaster Scawsby Fisher vào tháng 8 năm 2012, nơi phục vụ 33 pound (15 kg) cá tuyết vụn cùng với 64 pound (29 kg) khoai tây chiên. Truyền thống lâu đời của Giáo hội Công giáo Rôma về việc không ăn thịt vào các ngày thứ Sáu, đặc biệt là trong Mùa Chay, và thay thế cá bằng thịt vào ngày đó tiếp tục ảnh hưởng đến thói quen ngay cả trong các xã hội chủ yếu theo đạo Tin lành, bán thế tục và thế tục. Tối thứ Sáu vẫn là một dịp truyền thống để ăn fish and chips; và nhiều quán ăn tự phục vụ và các cơ sở tương tự, trong khi thay đổi thực đơn của họ vào các ngày khác trong tuần, thường cung cấp fish and chips vào thứ Sáu hàng tuần.Ở Úc và New Zealand, các từ "fish and chips" thường được sử dụng như một lời nói tục để làm nổi bật sự khác biệt trong nguyên âm i ngắn / ɪ / của mỗi quốc gia. Tiếng Anh Úc có âm chuyển tiếp cao hơn [i], gần với âm ee trong see (nhưng ngắn hơn), trong khi tiếng Anh New Zealand có âm lùi thấp hơn [ɘ] gần giống với âm a trong Rosa (nhưng không phải trong Rosa, thường thấp hơn [ɐ]). Do đó, người New Zealand nghe người Úc nói "feeh và cheeps", trong khi người Úc nghe người New Zealand nói "fush and chups". Tại Vương quốc Anh, dầu thải từ các cửa hàng bán fish and chips đã trở thành nguồn cung cấp dầu diesel sinh học hữu ích. Công ty dầu diesel sinh học Petrotec của Đức đã vạch ra kế hoạch sản xuất dầu diesel sinh học ở Anh từ dầu thải của ngành sản xuất fish and chip của Anh.
Bia ở Việt Nam phản ánh tình hình tiêu thụ và sản xuất bia của đất nước này. Bia được tiêu thụ thông dụng ở Việt Nam, với mỗi năm người dân tiêu tốn đến 5 tỷ đô la Mỹ chi cho rượu bia, là thị trường lý tưởng cho các hãng bia, rượu ngoại. Việc tiêu thụ nhiều bia, rượu được xem là vấn nạn của xã hội Việt Nam, ảnh hưởng đến sức khỏe và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về xã hội khác nhưng đến nay vẫn chưa có hướng giải quyết. Theo báo cáo về thị trường bia Việt Nam năm 2018 , tổn sản lượng tiêu thụ bia của Việt Nam là 4.2 tỉ lít và trung bình mỗi người Việt Nam tiêu thụ 43.3 lít bia. Việt Nam tiêu thụ bia bình quân đầu người cao nhất Đông Nam Á và thứ 3 Châu Á, chỉ xếp sau Nhật Bản và Trung Quốc. Mức tăng trưởng tiêu thụ bia hằng năm vào khoảng 4-5% . Năm 2019, 90% thị trường bia Việt Nam thuộc về 4 ông lớn là Sabeco, Heineken, Habeco và Carlsberg dựa trên tổng sản lượng bán ra. Trong đó Sabeco chiếm 41%, Heineken Vietnam chiếm 23%, Habeco chiếm 18%, Carlsberg Vietnam chiếm 8%, còn lại là thuộc về các hãng bia khác . Bốn nhà sản xuất bia phổ biến nhất tại Việt Nam là: Sabeco (Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn): trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi sản xuất bia Sài Gòn và bia 333 Heineken Vietnam (thuộc Tập đoàn Heineken): trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi sản xuất bia Bivina, và bia Việt Habeco (Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội): trụ sở tại Hà Nội, nơi sản xuất bia Hà Nội và bia Trúc Bạch Carlsberg Vietnam (thuộc Tập đoàn Carlsberg): trụ sở tại Huế, nơi sản xuất bia Huda (trước gọi là Bia Huế, sau được Carlsberg thâu tóm) và bia HalidaCác nhãn hiệu bia nội địa Habeco, Huda (thuộc Carlsberg) và Sabeco lần lượt chiếm thị phần chính tại 3 miền Bắc, Trung và Nam. Trong đó, Bia Sài Gòn là phổ biến nhất Việt Nam, theo dữ liệu từ năm 2018 . Một trong những loại bia thương hiệu của họ là Bia 333. Các nhãn hiệu bia quốc tế nổi tiếng bao gồm: Carlsberg: trụ sở chính tại Đan Mạch, nhập khẩu bia Carlsberg và bia Tuborg (từ Đan Mạch) Heineken: trụ sở chính tại Hà Lan, nhập khẩu Bia Heineken, Bia Amstel (từ Hà Lan), Bia Tiger (từ Singapore), Bia Strongbow (từ Anh) và Bia Affligem (từ Bỉ)Bia Heineken và Tiger (đều thuộc Heineken Vietnam) cùng thống trị phân khúc bia cao cấp Việt Nam với khoảng 85% thị phần. Việt Nam là thị trường lớn nhất trên thế giới đối với bia Tiger và Heineken Châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam cũng nhập khẩu bia từ các nước khác nhau. Các loại bia đóng chai của Bỉ bao gồm Trappiste, Chimay, Leffe, Hoegaarden. Một số ví dụ về các loại bia đóng chai của Đức / Áo mà Việt Nam nhập khẩu bao gồm Münchner Hofbräu, Warsteiner, Paulaner, Bitburger, Edelweiss và Köstritzer. Các loại bia của Nhật được nhập khẩu bao gồm Sapporo và Asahi. Bia của Mỹ thì có Budweiser (thuộc AB InBev). Các loại bia từ Nga và Cộng hòa Séc cũng được nhập khẩu vào Việt Nam. Có khoảng 20 nhà máy bia nhỏ lẻ tại Việt Nam. Hầu hết các loại bia này là bia kiểu Séc và Đức. Các nhà máy vi sinh đáng chú ý bao gồm Hoa Viên Brauhaus, Pilsner Urquell, nhà máy bia Pasteur Street và Southeast Asia Brewery (thuộc Carlsberg)... Ngoài ra, một số các hãng bia truyền thống có mặt ở các tỉnh nhỏ, điển hình bia BIVA, bia Vinh, bia Kiên Giang, bia Hạ Long, bia Hải Dương, bia Sư Tử Trắng (thuộc Công ty cổ phần Hàng tiêu dùng Masan)... == Tham khảo ==
Nikuman (肉まん, Nikuman có nguồn gốc từ niku (肉饅頭, niku thịt) và manjū) là món bánh bao của Nhật Bản. Vỏ bánh làm từ bột mì, nhân làm từ thịt lợn nấu chín hoặc các thành phần khác. Nó là một dạng của chūka man (中華まん, chūka man dịch là "bánh hấp Trung Hoa") tương tự như bánh bao (tiếng Trung: 包子) của người Trung Quốc, hay bánh nhân thịt trong tiếng Anh. Nikuman là bánh hấp và được bán chung với các loại thực phẩm đường phố. Từ khoảng tháng 8 đến tháng 9, qua những tháng mùa đông cho đến khi bắt đầu tháng 4, Chūka man luôn được bán trong các cửa hàng tiện lợi, nơi chúng được bảo quản nóng.
Súp vi cá mập là món súp truyền thống hoặc món hầm có trong ẩm thực Trung Hoa và ẩm thực Việt Nam. Vi cá mập cung cấp kết cấu, trong khi hương vị đến từ các thành phần súp khác. Nó thường được phục vụ vào các dịp đặc biệt như đám cưới và tiệc tùng, hoặc như một món hàng xa xỉ trong văn hóa Trung Hoa.Súp có nguồn gốc từ nhiều thế kỷ trước trong triều đại Nhà Tống, phục vụ gia đình hoàng gia và các thành viên triều đình. Trong triều đại nhà Minh, món ăn càng phổ biến và vào thời nhà Thanh thì đòi hỏi lên rất cao. Một khi nghề đánh cá thương mại và mậu dịch gia tăng, món súp trở nên rất được ưa chuộng khi mức thu nhập của các cộng đồng Trung Quốc tăng lên trên toàn thế giới. Các mối quan tâm quốc tế về tính bền vững và phúc lợi của cá mập đã ảnh hưởng đến việc tiêu dùng và sự sẵn có của súp. Tiêu thụ giảm khoảng 50-70% ở Trung Quốc từ năm 2011 đến năm 2013. Súp vi cá mập giả đã trở thành một sự thay thế phổ biến, sử dụng các chất thay thế để tạo cấu trúc dai, sền sệt.
Nếp cái hoa vàng Đại Thắng là giống nếp cái hoa vàng tại Đại Thắng, một xã thuần nông nằm ở phía Tây Bắc huyện Tiên Lãng thuộc thành phố Hải Phòng. Nếp cái hoa vàng Đại Thắng là giống nếp cái đặc trưng, có nguồn gốc và được lưu truyền từ lâu đời tại địa phương này. Nếp Đại Thắng khác biệt với nếp cái hoa vàng trồng ở các địa phương khác, nhất là về năng suất và diện tích gieo trồng. Đến nay, sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng Đại Thắng đã được Thành phố Hải Phòng công nhận đặc sản của địa phương. Sản phẩm Rượu nếp cái hoa vàng Đại Thắng đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm, là một trong 34 đặc sản Hải Phòng giới thiệu tại Chợ Tết Việt 2015 và 2016. Hiện nay, thành phố Hải Phòng, Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, Ủy ban nhân dân xã Đại Thắng và nhân dân nơi đây đang nỗ lực xây dựng thương hiệu cấp quốc gia và quảng bá cho sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng Đại Thắng. Với lợi thế đồng ruộng bằng phẳng và rộng, được bồi đắt bởi phù sa của sông Văn Úc và sông Mía bao quanh nên vùng đất màu mỡ nơi đây có một điều kiện thổ nhưỡng riêng, rất phù hợp cho sản xuất giống nếp cái hoa vàng. Đây cũng là lý do mà sản phẩm nếp cái hoa vàng Đại Thắng có sự khác biệt với sản phẩm được sản xuất từ những nơi khác: hạt mẩy, tròn, có màu trắng đục, gạo dẻo hơn và thơm hơn khi nấu thành xôi. Trên đồng đất Đại Thắng cứ vào vụ mùa nhà ai cũng cấy nếp cái hoa vàng, bởi nó cho giá trị thu nhập cao hơn nhiều so với cấy các giống lúa khác từ 2-3 lần. Cũng chính vì lẽ đó mà từ nhiều năm nay, diện tích trồng giống lúa này luôn ổn định, khoảng 300 ha/năm, chiếm 90-100% diện tích lúa mùa toàn xã. Cho đến nay, không địa phương nào có được có đến 90% diện tích đất nông nghiệp cấy nếp cái hoa vàng như ở Đại Thắng. Đại Thắng là xã có diện tích gieo trồng nếp cái hoa vàng lớn nhất so với các địa phương khác. Ở nhiều nơi khác, do trồng tản mạn và không chú trọng thâm canh, có nơi lúa nếp cái hoa vàng đã dần bị thoái hóa, gạo ít dẻo và thơm ngon như trước. Ở Hải Dương, nơi đầu tiên phục tráng, bảo tồn giống lúa này nhưng đến nay mới chỉ có 18ha tại 3 xã An Phụ, Phạm Mệnh, Long Xuyên, huyện Kinh Môn. Ở Đông Triều, Quảng Ninh nơi có diện tích trồng nếp cái hoa vàng lớn, đã được Cục sở hữu trí tuệ đã ký quyết định số 68611/QĐ-SHTT cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 216248, tuy nhiên diện tích canh tác tản mạn ở 7 xã Yên Đức, Hồng Phong, Hoàng Quế, Nguyễn Huệ... với 600 ha Tại Hà Long, Hà Trung, Thanh Hóa, diện tích nếp cái hoa vàng là 77,6ha. Tại Thái Sơn, Bắc Giang là 30ha. Tại Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình, diện tích nếp cái hoa vàng mới chiếm gần 80% diện tích canh tác. Tại Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội là 50 ha. Lúa nếp cái hoa vàng Đại Thắng có chiều cao khoảng 120–125 cm, cây cứng, gốc thân to, chống đổ tương đối tốt. Thời gian sinh trưởng dài tới 160 ngày, gieo mạ đầu tháng 6, khả năng đẻ nhánh trung bình yếu (tỷ lệ bông hữu hiệu 50-55%), trỗ bông xung quanh tiết hàn lộ mùng 8 tháng 10 (vì đặc điểm sinh trưởng là phản ứng với ánh sáng ngày ngắn), thu hoạch khoảng một tháng sau khi trổ. Lúa có khả năng chịu phèn, chịu chua và trũng khá, chịu hạn cuối vụ tương đối tốt; kháng bệnh đạo ôn hay bệnh khô vằn tốt, kháng bệnh bạc lá ở mức trung bình và có thể bị nhiễm sâu đục thân nặng. Năng suất 49-55 tạ/ha, 126,77 hạt chắc/bông. Hạt thóc tròn, dẹt và nhỏ hơn nếp thường, có màu vàng nâu sẫm, tỷ lệ chiều rộng và chiều dài hạt khoảng 1,82 và khối lượng 1000 hạt trung bình 25,5 gram. Gạo hạt ngắn, có hình dáng hơi tròn, màu trắng đục và có mùi thơm nhẹ; sau khi nấu thành cơm(xôi) sẽ cho hạt căng, nở đều, màu trắng ngà, bóng, ráo nước, mềm, dẻo, khi ăn có vị đậm, ngậy thơm và lâu lại gạo; hàm lượng các chất dinh dưỡng như: protein, gluxit, vitamin B, tinh bột đều ở mức cao. Nếp cái hoa vàng Đại Thắng thường được sử dụng nấu cơm nếp, nấu xôi, nấu rượu, gói bánh chưng... Bánh gói bằng nếp cái hoa vàng dẻo, thơm, có thể để được 15-20 ngày trong mùa lạnh mà không bị lại gạo và khác với bánh chưng gói bằng gạo nếp loại khác ở chỗ khi cắt xong bằng lạt bánh sẽ tự dính liền. Nếu không biết cách, cứ dùng sức mà xắn thì có thể bị gẫy đũa. Rượu nếp cái hoa vàng được nấu theo phương pháp cổ truyền, vị êm, hương thơm, không gây đau đầu.
Miến hay bún tàu là loại thực phẩm dạng sợi khô, được chế biến từ bột khoai lang, bột dong, bột đậu xanh hoặc bột sắn, bán thành từng bó khoảng 1 lạng. Sợi miến làm từ bột dong thường ngon hơn: dai, trong, không "trương" lên trong lúc ăn. Nói chung, miến là một thứ đồ ăn khô sơ chế phổ biến trong các hàng quán ăn nhanh lẫn trong gia đình Việt Nam, chỉ đứng sau bún. Ở các thành phố lớn, miến cũng góp mặt trong các món ăn đường phố thông dụng như miến ngan, miến cua, miến lươn, miến trộn Hàn Quốc,... Từ "miến" (chữ Hán: 麵) trong tiếng Việt được vay mượn từ tiếng Trung. Trong tiếng Trung "miến" 麵 có nghĩa là loại thức ăn dạng sợi làm từ bột, khi ăn cần phải trụng nước sôi, nhưng trong tiếng Việt "miến" lại được dùng để chỉ riêng một dạng của thức ăn này. Miến trong tiếng Trung được gọi là "粉絲" (Hán-Việt: phấn ti) hoặc "粉條" (phấn điều). Hiện nay có rất nhiều nơi làm miến được nhiều người biết đến như: miến Cự Đà, miến Minh Khai (Hoài Đức), miến So... ở Hà Nội; miến Bình Lư ở Lai Châu; miến Phia Đen ở Cao Bằng; miến Cẩm Bình ở Thanh Hóa, miến Lại Trạch ở Hưng Yên, miến Việt Cường ở Thái Nguyên,... Khi ăn rửa qua cho sạch và trụng trong nồi nước dùng, rồi bỏ trực tiếp vào bát. Thưởng thức trong ngày lễ, tết, cúng, giỗ ở các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam không thể nào thiếu bát miến măng khô nấu cùng với lòng gà, mộc nhĩ, nấm hương và các gia vị khác. Có thể ăn chan với cơm tẻ, có thể ăn không. Trong món nem, người ta cũng cắt nhỏ miến trộn vào.
Ẩm thực Huế là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý chế biến, trang trí, phong cách dọn ăn, mời uống và những thói quen ăn uống nói chung của người Huế, Việt Nam. Theo thời gian, ẩm thực Huế chịu ảnh hưởng của những luồng văn hoá đến từ những cộng đồng dân cư khác nhau và những đặc thù của xứ sở nên mang những sắc thái riêng trở thành một phần của văn hóa Huế cũng như văn hoá Việt Nam với sự lan tỏa của mình. Nhìn chung, các món ăn kiểu Huế khá cầu kì do chịu ảnh hưởng của văn hoá cung đình và kiểu cách của con người xứ Huế, chú trọng thưởng thức chứ không cốt để ăn cho no, bữa ăn hoặc bữa tiệc, cổ bàn được trình bày mỗi món một chút chút chứ không bày thịnh soạn, la liệt. Bản sắc ẩm thực Huế đã lan toả khắp cả nước với những món ăn đậm đà chất Huế như bún bò Huế, bánh bèo, bánh nậm, bánh lọc, bánh in, cơm hến, chè đậu ván, chè đậu xanh, chè bột lọc (bày bán bình dân ở hẻm đường), bia Huda... Trong đời sống hàng ngày cũng như trong tế lễ, yên tiệc, đình đám...việc sử dụng thức uống luôn là như cầu không thể thiếu. Ngoài nước uống đơn giản từ các nguồn nước như nước sông, nước giếng, nước mưa...người Huế xưa thường dùng thêm những thức uống khác như: Rượu gạo, rượu nếp: Đối với dân dã, việc lựa chọn nguyên liệu từ gạo hoặc nếp, nấu chín, ủ men, chưng cất thành rượu diễn ra giản đơn. Nhưng đối với vua chúa, nhưng công việc này thường phải kỹ công hơn và do Bộ Nội vụ tuyển nấu, thành phẩm được canh gác cẩn mật. Hơn thế nữa, trong mỗi sự kiện thì mỗi loại rượu được sử dụng, ví dụ như: rượu để cúng tế trời đất, rượu để khoản đãi sứ thần, rượu ban tặng cho quan lại hay khi hoàng tử hoặc công chúa lập gia thất...là khác nhau. Rượu ngâm sâm, rượu ngâm hoa quỳnh. Rượu thuốc, Minh Mạng thang: Trà hoặc chè xanh: Trà tim sen Nước đậu ván rang Nước lá "Mùng Năm" Nước uống cho sản phụXã hội phát triển, những sinh hoạt trong cuộc sống cũng đổi thay, trong đó có đổi thay về thú vui ẩm thực. Các thức uống thời hiện đại khởi nguồn từ việc người phương Tây đặt chân đến Huế và mang theo văn hoá phương Tây, tác động đến sinh hoạt của người Huế: Rượu vang, rượu ngoại Cà phê Trà Lipton Bia (Bia Huda) Đồ uống chiết xuất từ trái cây: nước mía, nước cam, sữa đậu nành... Đồ ăn du nhập từ phương tây như bánh mì ốp la, bánh crepe.... Bánh ép Thuận An là thứ thức ăn phổ biến ở người sống gần cửa biển Thuận An Lê Nguyên Lưu cho rằng: "Đối với Huế, ăn uống cũng là một loại hình văn hoá" và chia ẩm thực Huế làm hai hệ, ẩm thực cung đình và ẩm thực dân gian. Thật ra, ẩm thực cung đình cũng là ẩm thực dân gian được nâng cao lên, và đến lượt ẩm thực cung đình ảnh hưởng trở lại làm thay đổi chất lượng của ẩm thực dân gian bởi đầu bếp cung đình cũng là những người khéo tuyển mộ từ dân gian Tại hội chợ Huế Xuân 2005, một hội thảo về văn hóa ẩm thực Huế, truyền thống và hiện đại, đã được tổ chức trong ba ngày 15, 16, 17 tháng 1 năm 2005 với sự tham dự của đông đảo nhà Huế học, nhà nghiên cứu văn hóa Huế, nhà văn, doanh nhân, giám đốc các công ty du lịch, khách sạn, các chủ nhà hàng tư nhân nổi tiếng ở Huế. Hội thảo cho thấy món ngon xứ Huế là một kết hợp hài hòa món ngon Chăm cổ với món ngon Việt cổ, món ngon Mường cổ, món ngon dân gian Huế lâu đời và nhiều món ngon nhất cả nước, được đưa về Phú Xuân Huế dâng chúa, tiến vua. Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 1.700 món ăn thì xứ Huế có tới 1.300 món gồm: món ăn dân gian, món ăn cung đình và món ăn chay. Ẩm thực Huế có một chiều sâu mang đậm nét bản sắc của một vùng đất từng là kẻ chợ, thanh lịch, nhẹ nhàng và tùng tiệm. Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí là: rẻ, ngon và nhất là phải đẹp, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu thực, nhãn thực và tâm thực. "Khẩu thực" là cách ăn bằng miệng, để tồn tại, "nhãn thực" là thưởng thức bằng mắt và "tâm thực", nghĩa là ăn bằng cả tấm lòng mình. Cơm hến: Cơm nguội với những con hến nhỏ là vị chủ của cơm hến, hến được xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi hương riêng. Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã có đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Bộ đồ màu của cơm hến gồm 10 vị: ớt tương, ớt màu, ruốc sống, bánh tráng nướng bóp vụn, muối rang, hạt đậu phộng rang mỡ giã hơi thô thô, mè rang, da heo rang giòn, tóp mỡ, vị tinh.Bún bò Huế: Con bún làm bằng gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng hơi trong và săn hơn, con bún Huế lại to hơn các nơi khác. Một tô bún giò hay bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Nước bún nấu với những miếng móng giò heo mềm nhừ, với một chút màu trắng của những cọng giá và màu xanh của rau sống, thêm gia vị để vừa cay, vừa nóng, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt. Bánh bèo: Nguyên liệu làm bánh chỉ là gạo xay thành bột mịn, đem trộn với nước, chờ vài phút để có độ dẻo vừa phải, sau đó múc vào từng chén nhỏ, xếp vào vỉ đem hấp chín bằng hơi. Khi bánh chín, cho thêm gia vị như: tôm giã thật nhỏ, một ít dầu béo thực vật rưới lên chén bánh trước khi ăn. Nước chấm bánh bèo được nấu từ tôm tươi nên vừa có vị ngọt, vừa béo.Bánh ướt thịt nướng: Bánh ướt làm bằng bột gạo có pha bột lọc, tráng mỏng hơn. Thịt để nướng thường là thịt heo ba chỉ thái mỏng, ướp tiêu, hành, nước mắm, ngũ vị hương, mè. Thịt ướp sau vài giờ thì đem kẹp, nướng trên bếp than đỏ hồng cho đến khi đủ độ chín, dậy mùi thơm. Lấy thịt nướng này kẹp với rau thơm, giá, xà lách làm nhân để cuốn bánh ướt. Bánh ướt thịt nướng Kim Long ngon, hấp dẫn là nhờ chấm với loại nước chấm hết sức đặc biệt, được các chủ hàng chế biến từ nước mắm nguyên chất, đường, chanh, tỏi, ớt... như một bí quyết được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Bánh khoái: Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm. Khi nào có khách ăn, nhà hàng mới bắc khuôn lên lò đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày ra đĩa. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, được chế biến rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang... Các loại bánh khác: bánh in, bánh bột lọc, bánh nậm, bánh xu xê, bánh ướt nhân tôm, bánh ướt nhân thịt...Bánh Huế thường được làm nhỏ và mỏng, tạo các hình hoa trái, làm cho người ăn khi nhìn đã thích thú và muốn thưởng thức.Tôm chua: được làm từ những con tôm nước lợ tươi, tôm được ngắt đầu, rửa sạch, ngâm một lát trong rượu. Sau đó vớt ra để ráo, trộn đều với các thứ phụ gia: riềng, tỏi, ớt đỏ, măng non, xôi nếp, nước mắm ngon. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 7-10 ngày, có thể chôn xuống đất để giữ nhiệt độ ổn định cho quá trình lên men. Nhiệt độ càng ổn định, tôm càng thơm, càng ngọt. Thưởng thức tôm chua phải có 3 thứ cơ bản đi liền nhau: thịt heo phay (ba chỉ) thái mỏng-tôm chua-dưa giá. Ngoài ra còn có quả vả hoặc chuối chát, khế chua thái mỏng cùng rau quế, ớt tươi. Các loại chè Huế: Huế có tới hàng chục loại chè khác nhau, mỗi loại chè có một hương vị đặc biệt riêng. Có những loại cầu kỳ như chè hạt sen, chè nhãn bọc hạt sen, chè hạt lựu, chè thịt quay, chè môn sáp vàng, chè bông cau... Một số chè bình dân như: chè bắp, chè trôi nước, chè kê, chè khoai sọ, chè đậu ván, chè bột lọc, chè đậu xanh, chè đậu đỏ, chè thập cẩm, chè khoai môn, chè khoai mài, chè hột é... Kẹo Huế: kẹo cau, kẹo gừng, mè xửng là những thứ kẹo mà trẻ em thường thích ăn. Kẹo đậu phụng là kẹo làm từ mạch nha đen đổ trên bánh tráng tròn, ở giữa có đậu phụng rang còn nguyên vỏ mỏng màu đỏ gạch; thường được cắt thành từng miếng nhỏ hình tam giác. Kẹo Mè xửng là thứ kẹo ngọt dẻo, được làm từ mạch nha pha trộn lẫn với dầu phụng, có mè bao phủ, được cắt từng miếng vuông nhỏ gói trong hộp. Các tiệm mè xửng nổi tiếng hồi xưa thường tụ tập ở đầu cầu Đông Ba, nổi tiếng nhất là mè xửng Thuận Hưng, mè xửng Song Hỷ...Kẹo mè xửng là một trong những đặc sản đã trở thành biểu tượng văn hóa của Huế. Giờ có cả mè xửng giòn. Lọm chuối: cốt lõi thân chuối. Thân chuối sau khi cắt bỏ phần ngoài để xắt cho heo ăn, cốt lõi của thân chuối được xắt ra lát mỏng ra rồi đem ướp muối để làm dưa, gọi là dưa chuối, thường để dành khi ăn trời bão lụt. Dưa chuối trộn với dưa kiệu, chấm với ruốc hoặc với nước tôm kho đánh ăn lúc trời lụt. Môn: dùng để nấu canh ăn sau khi bóc vỏ hoặc làm dưa. Củ cũng được đào lên để nấu chè hay nấu cháo. Đôi khi ăn hay ngứa. Có nhiều loại môn: môn sáp, môn ngọt, môn nưa... Thực phổ bách thiên: là một tập thơ gồm 100 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt do Nhất phẩm phu nhân Hiệp tá Đại học sĩ Hồng Khẳng, nhũ danh Trương Đăng Thị Bích, tự Tỷ Quê sáng tác vào những năm cuối thế kỷ 19 là một trong những cẩm nang nấu ăn của người Huế. Bài Chả bông bí viết:Bông mai ướm nở hái nay vừa Tước cọng xoi tim cuống phải chừa Tôm quết gia màu dồi nhận lại Chiên lần những trứng lửa bưa bưaBài Rau khoai muống luộc viết: Rau khoai muống luộc đọt non non Rửa sạch đều rồi bó lại tròn Lửa đỏ nước sôi vào cọng trước Coi vừa chín vớt ấy xanh ngon
Cua nâu (Danh pháp khoa học: Cancer pagurus) thường được gọi là cua thịt là một loài cua biển được tìm thấy ở Biển Bắc, Bắc Đại Tây Dương và có lẽ ở Địa Trung Hải. Đây là một loài cua chắc thịt có màu nâu đỏ, có cái mai hình bầu dục với một cạnh "vỏ bánh" đặc trưng và mũi càng màu đen. Một con cua trưởng thành có thể có cái mai rộng lên đến 25 cm (10 in) và nặng tới 3 kg (6,6 lb). Cua nâu (C. pagurus) là một động vật ăn thịt sống về đêm, ăn một loạt các động vật thân mềm và động vật giáp xác. Cua nâu là đối tượng của nghề khai thác cua lớn nhất ở Tây Âu, tập trung vào các bờ biển của nước Anh, với hơn 60.000 tấn đánh bắt hàng năm. Cua nâu Na Uy là sản phẩm thông dụng trên thị trường
Cá hấp amok hay amok trei (tiếng Khmer: អាម៉ុកត្រី [ʔaːmok trəj]) là một món cà ri cá hấp của người Khmer (amok) với độ sệt giống như mousse, một trong những món ăn quốc gia của Campuchia. Cá amok được cho là món ăn hoàng gia của người Khmer có từ thời Đế quốc Khmer, mặc dù có những nghi ngờ nó có nguồn gốc từ Campuchia. Thông thường, sẽ dùng cá bống, cá lóc hoặc các loại cá da trơn, tuy nhiên, đôi khi cũng được thay thế bằng cá tuyết, cá hồng, cá chẽm, cá hồi, cá lăng hoặc cá rô. Phi lê cá được ướp với kroeung pha màu vàng hoặc xanh, trộn với kem dừa hoặc nước cốt dừa và trứng. Hỗn hợp cà ri được đựng trong lá chuối có lót lá nhàu ở phía dưới và hấp trong khoảng 20 đến 30 phút cho đến khi cà ri đạt được độ đặc giống như mousse. Lá nhàu có thể được thay thế bằng lá cải cầu vồng nếu không có sẵn.Cá hấp amok thường được dùng nóng đựng trong lá chuối hoặc gáo dừa và ăn với cơm. Nhiều nhà hàng ở Campuchia cũng phục vụ các phiên bản amok ít truyền thống hơn với thịt gà, đậu phụ hoặc thịt bò thay vì cá. Các sai lệch khác bao gồm việc sử dụng bột nhào thảo mộc mua ở cửa hàng, các loại kroeung khác, độ đặc lỏng hơn và nấu thay vì hấp.
Pirozhki (Nga: пирожки́, dạng số nhiều của pirozhok; tiếng Ukraina: пиріжки, pyrizhky) là món bánh bun hình thuyền tráng men được nướng hoặc chiên với nhiều loại nhân trong ẩm thực Nga và Ukraina. Pirozhki là một món ăn đường phố và món ăn thuận tiện phổ biến ở Nga và là một phần khuôn mẫu của văn hóa Nga. == Tham khảo ==
Dưa bồn bồn là một món dưa muối được làm từ phần gốc non của cây bồn bồn ủ trong nước gạo pha muối. Đây là một trong những món ăn đặc trưng của vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Khi ăn, dưa bồn bồn thường được chấm nước tương, nước cá kho, thịt kho. Dưa còn được xào cùng tép, thịt, cá, hoặc dùng để nấu canh chua với các loại cá như cá ngác, cá rô, cá bông lau, cá ba sa, cá dứa.
Kho quẹt (mắm kho quẹt hay nước mắm kho quẹt) là một món ăn dân dã của người Việt Nam, đặc biệt là người Nam bộ. Kho quẹt là món ăn rất rẻ tiền, dễ làm và rất đưa cơm, một đĩa kho quẹt nhỏ có thể là bữa ăn của cả một gia đình. Vì vậy, kho quẹt ngày xưa thường là món ăn phổ biến của các gia đình nghèo vì tính tiết kiệm của nó. Hiện tại chưa giải thích được chính xác tên gọi kho quẹt, theo lời một số người thì có lẽ, "kho" do món này chế biến bằng cách giống như là kho, và "quẹt" là do khi ăn, người ta thường dùng đũa quẹt một tí kho quẹt rồi ăn. Kho quẹt được xuất phát và chế biến những lần đầu tiên bởi thói quen ăn uống "đại khái" của người dân miền tây sông nước, cụ thể là những người làm nông. Vào những ngày mưa dai dẳng, không thể ra đồng, nên người dân dùng đại những thứ có trong nhà như tóp mỡ, tôm tép khô, cùng với gia vị là nước mắm, muối, bột ngọt,… nấu thành một hỗn hợp sền sệt, rồi ra vườn hái vội một hai nắm rau luộc lên ăn với cơm trắng. Vì kho quẹt rất mặn nên có thể nấu một lần mà ăn được nhiều ngày không sợ thiu. Món kho quẹt đặc biệt thơm, rất mặn, hơi ngọt hoặc không ngọt tùy người nấu, đôi khi có mùi khen khét, màu vàng sẫm hoặc vàng nâu. Kho quẹt thường ăn với cơm, cháo trắng hoặc dùng để chấm các loại rau củ luộc. Nguyên liệu làm món kho quẹt đơn giản: nước mắm, một chút đường, chút tiêu và hành tím phi thơm, cho vào nồi đất hoặc chảo (nếu có nồi đất thì sẽ ngon hơn), đảo vài lần rồi giữ lửa riu riu cho nước mắm cô đặc lại thành một hỗn hợp vàng nâu và bốc mùi rất thơm. Ở một vài vùng, người ta kho thật lâu để nước mắm bay hơi hết, chỉ còn phần muối cô đặc lại, người địa phương cho rằng như thế thì mới ngon. Ngày nay, một số người làm kho quẹt bổ sung thành phần tóp mỡ, tôm khô, vv... kho chung giúp cho món ăn đa dạng hơn. Món kho quẹt cũng được một số nhà hàng sử dụng và cải tiến, ăn kèm với rau, bún, cơm... == Chú thích ==
Sherbet () theo cách gọi ở Bắc Mỹ và tại nước Mỹ thường gọi là sherbert (), là món tráng miệng đông lạnh được làm từ nước có đường, một sản phẩm từ sữa như kem hoặc sữa và hương liệu – thường là nước ép trái cây, bột nhuyễn trái cây, rượu vang, rượu mùi và đôi khi có hương vị không phải trái cây như vani, sô-cô-la hoặc gia vị như bạc hà. Nó tương tự nhưng khác với sorbet nhờ bổ sung thêm sữa thường là điểm khác biệt chính. Rainbow sherbet là món ăn của sherbet có chứa tới ba hương vị, mỗi hương vị có một màu sắc khác nhau, được kết hợp thành bó với các màu đặc trưng là xanh lá cây, đỏ tươi và cam. Sherbet được sản xuất thương mại tại Mỹ theo như định nghĩa trong Bộ luật Quy định Liên bang là sản phẩm đông lạnh có chứa một hoặc nhiều sản phẩm sữa tùy chọn.Tại Canada, sherbet được định nghĩa là "thực phẩm đông lạnh, không phải là kem hoặc sữa đá, được làm từ sản phẩm sữa". Một loại sherbet điển hình của Canada có thể chứa nước, chất làm ngọt, trái cây hoặc nước ép trái cây, acid xitric hoặc tartaric, hương liệu chuẩn bị, màu thực phẩm, (các) chất cô lập và lactose.Không phải lúc nào sherbets tự chế cũng chứa sữa. Công thức chế biến sherbet của người Mỹ đầu thế kỷ 20 bao gồm một số phiên bản được làm bằng nước. Tạp chí Nhà bếp Mỹ từ năm 1902 phân biệt "kem đá" với sherbet, giải thích rằng "sherbet là loại kem đá đông lạnh nhanh hơn, và lòng trắng trứng hoặc gelatin thường được thêm vào để tạo độ sệt cho kem". Trong một công thức chế biến sherbet ép dứa, nước có thể được sử dụng thay cho sữa. Công thức này còn thảo luận riêng về món "sherbet sữa".Theo tạp chí The American Produce Review (1913), "Sherbet là sản phẩm đông lạnh được làm từ nước hoặc sữa, lòng trắng trứng, đường, nước cốt chanh và hương liệu". Sherbet được làm từ nền tảng của "đá thường" là nước, đường, lòng trắng trứng và nước cốt chanh. == Tham khảo ==
Bánh rán hay bánh cam là một loại bánh của Việt Nam, vỏ mỏng bằng bột gạo nếp, bột gạo tẻ và có thể có thêm khoai tây xay nhuyễn, được rán vàng, bên trong có nhân đậu xanh, nước cốt dừa (bánh rán ngọt) hoặc thịt lợn, miến, mộc nhĩ, hành khô, hạt tiêu. Nhưng xuất xứ của nó là từ jian dui (tiếng Trung: 煎堆; bính âm: jiānduī; tiếng Quảng Đông Yale: jīndēui; Hán Việt: tiễn đôi) là một loại bánh ngọt rán của Trung Quốc làm từ bột gạo nếp. Bánh ngọt này được phủ hạt vừng ở bên ngoài và giòn và dai. Bên trong bánh ngọt là một lỗ rỗng lớn, gây ra bởi sự mở rộng của bột. Nhân bánh gồm bột hạt sen, hoặc bột đậu đen ngọt xen kẽ, hoặc ít phổ biến hơn là bột đậu đỏ. Đôi khi chúng còn được gọi là bóng mè theo nghĩa đen (tiếng Trung: 芝麻球; bính âm: zhīmáqíu; tiếng Quảng Đông Yale: jīmàkàu). Tùy thuộc vào khu vực và khu vực văn hóa, jian dui được gọi là "ma đoàn" (麻糰) ở miền bắc Trung Quốc, "ma viên" (麻圆) ở phía đông bắc Trung Quốc và "trân đại" (珍袋) ở Hải Nam. Trong các nhà hàng Trung Quốc thuộc Chinatown ở Mỹ và các cửa hàng bánh ngọt, chúng được gọi là sesame balls. Nguồn gốc của tiễn đôi có thể được bắt nguồn từ triều đại nhà Đường như một món ăn trong cung điện ở Trường An, được gọi là "lục đôi" (碌䭔). Món ăn này cũng được nhớ lại trong một bài thơ của nhà thơ nhà Đường Vương Phạn Chí. Với sự di cư về phía nam của nhiều dân tộc từ miền trung Trung Quốc, bánh rán tiễn đôi đã được mang theo và do đó trở thành một phần của ẩm thực miền Nam Trung Quốc. Tại Campuchia, nó được gọi là Num kroch (នំក្រូច). == Tham khảo ==
Gà rán Hàn Quốc còn gọi là chikin (tiếng Hàn: 치킨) hay Dakgangjeong là một món gà rán có nguồn gốc từ Hàn Quốc. Đây là là món gà rán giòn cùng xốt cay ngọt trong ẩm thực Hàn Quốc, có thể sử dụng bất cứ phần thịt gà nào để chế biến món ăn này. Món gà này hích hợp nhất khi chế biến với phần thịt lườn gà (không có xương), vì nhanh và dễ làm. Món ăn này trở thành một trong những món gà ngon nổi tiếng ở Hàn Quốc. Khái niệm món gà rán ở Hàn Quốc đã bắt đầu trong Chiến tranh Triều Tiên, khi quân đội Hoa Kỳ đóng tại Hàn Quốc vào cuối những năm 1940, và đầu những năm 1950. Theo truyền thống, người Hàn Quốc thường hấp gà để dùng, và các món gà thường ăn với súp và nước dùng. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi khi người Mỹ bắt đầu đặt những quầy hàng bán gà rán kiểu Mỹ, tập trung vào bốn khu vực của Seoul, Busan, Pyeongtaek và Songtan. Xu hướng ăn thịt gà hiện đại bắt đầu ở Hàn Quốc vào cuối những năm 1960, khi Trung tâm Myeongdong Yeongyang ở Seoul bắt đầu bán toàn bộ thịt gà được rán trên lò nướng điện. Thương hiệu gà rán đầu tiên của Hàn Quốc là Lims Chicken, được thành lập năm 1977 tại tầng hầm của cửa hàng bách hóa Shinsegae, Chungmu-ro, Seoul của Yu Seok-ho. Ông Yu nói rằng ý tưởng của mình về việc bán lẻ những con gà rán ở Hàn Quốc đã xuất hiện vào năm 1975 khi anh ta đi du học tại Hoa Kỳ. Ông bắt đầu rán gà ở đó, và nhận được giải thưởng cho việc tạo ra 'gà hầm sâm'. Ông bắt đầu kinh doanh tại Hàn Quốc. Trong những năm gần đây, nhờ vào sự bão hòa thị trường ở Hàn Quốc, nhiều chuỗi gà rán chính của Hàn Quốc như Mexicana Chicken, Genesis BBQ, Chicken Kyochon và Pelicana Chicken đã mở rộng để thiết lập các vị trí mới tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đông Nam Á. Ngâm thịt gà trong sữa ít nhất 2 tiếng đồng hồ, bảo quản trong tủ lạnh. Làm sạch thịt, rửa sạch, để ráo nước, loại bỏ phần mỡ thừa, rồi thái thành miếng. Trộn thịt gà với gia vị muối, hạt tiêu, rượu trắng (nếu không dùng sữa), tỏi và gừng, để ướp khoảng 20-30 phút. Cho tất cả nguyên liệu làm xốt vào chảo, trộn đều, đun đến khi sôi. Sau đó giảm lửa và đun liu riu tới khi xốt sánh lại Cho bột ngô vào bát thịt gà, trộn đều để bột ngô bám kín thịt. Đổ dầu rán vào chảo, khi dầu nóng thì thả 1/2 số thịt vào rán tới khi thịt chín, chuyển sang màu hơi vàng thì vớt ra để lên giấy thấm dầu. Làm nóng dầu rán, và rán lại thịt tới khi thịt chuyển sang màu vàng nâu (30-40 giây). Làm tương tự với phần thịt còn lại. Làm nóng xốt trên lửa vừa. Cho thịt đã rán xong vào chảo xốt, đảo đều cho xốt bọc kín thịt.
Tỏi Lý Sơn là nhãn hiệu địa lý của loại tỏi được trồng ở huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Tỏi Lý Sơn đã trở thành đặc sản nổi tiếng đã trở thành thương hiệu và nhãn hiệu của vùng (tỏi Lý Sơn đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận số 19213/QĐ-SHTT ngày 10/12/2007 và cuối tháng 3/2009). Do sự khác biệt về thổ nhưỡng và kinh nghiệm canh tác truyền thống (sỏi núi Thới Lới và cát biển được phủ lên mặt ruộng mỗi mùa canh tác mới) của người dân địa phương nên tỏi Lý Sơn có hương vị đặc biệt. Đặc trưng nhất là chúng có vị cay dịu chứ không cay nồng như tỏi khác. Mùa gieo trồng: Từ tháng 9 âm lịch đến tháng giêng. Số liệu năm 2022, huyện Lý Sơn đã phát triển được hơn 300ha đất trồng tỏi, cho sản lượng hơn 2.000 tấn mỗi năm. Tỏi Lý Sơn thường: Củ tỏi có kích thước nhỏ vừa, gồm nhiều tép nhỏ (mỗi củ tỏi Lý Sơn có nhiều tép hơn, do tép tỏi Lý Sơn nhỏ hơn khá nhiều so với tỏi vùng khác). Tỏi cô đơn: Mỗi củ chỉ gồm duy nhất 1 tép. Năm 2009 tỏi Lý Sơn được bảo hộ nhãn hiệu tập thể.Năm 2017, tỏi Lý Sơn đã lọt vào danh sách "Top 10 đặc sản quà tặng nổi tiếng Việt Nam" của Tổ chức Kỷ lục Việt NamNăm 2020, tỏi Lý Sơn được cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo Quyết định số 2421/QĐ-SHTT của cục sở hữu trí tuệ.
Bánh phồng Sơn Đốc (hay còn có tên khác là bánh phồng chuồi) là một loại bánh phồng, có xuất xứ từ xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Nghề làm bánh phồng Sơn Đốc đã được xếp hạng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2018. Bánh phồng Sơn Đốc có nguyên liệu chính gồm nếp sáp và dừa khô vừa rám vàng. Tuy nhiên, người làm phải chọn nếp rặt hảo hạng, còn dừa lấy nước cốt chỉ chọn loại mới khô.Ngoài hai nguyên liệu chính, bánh phồng Sơn Đốc được làm bằng hai loại bột nếp và bột khoai mì, kèm theo đó là mè, đậu xanh, sầu riêng, trứng gà, sữa, nước cốt dừa... để ra một số biến thể. Nếp được hấp cách thủy thành xôi, sau đó quết với nước cốt dừa và đường. Hỗn hợp xôi sau khi quết xong được chia nhỏ, cán đều thành bánh, đặt lên chiếu và đem đi phơi. Sau khi phơi xong, bánh sẽ được nướng trong vòng 1 tiếng, có thể bảo quản được hơn 1 tháng. Bánh phồng Sơn Đốc thường có rất nhiều biến thể như bánh phồng chuối, bánh phồng sữa, bánh phồng nếp, bánh phồng mì... Tuy nhiên, bánh phồng chuối và bánh phồng nếp được xem là loại bánh phồng phổ biến nhất cho đến ngày nay.Biến thể bánh phồng mì và bánh phồng chuối ra đời vào những năm 1990, trong đó chuối được ép trên bánh phồng khoai mì, trở thành một đặc sản của Bến Tre. Làng nghề bánh phồng Sơn Đốc được hình thành hơn 100 năm trước và tồn tại cho đến ngày nay. Năm 2001, để phát triển làng nghề Bánh phồng Sơn Đốc và để cạnh tranh trên thị trường, một số người dân đã lập ra Hợp tác xã Bánh phồng Sơn Đốc. Cho đến năm 2014, tại xã Hưng Nhượng đã có hơn 70 lò bánh và đã từng được xuất khẩu ra nước ngoài.Hiện nay, làng nghề Bánh phồng Sơn Đốc đang chuyển dần sử dụng máy quết, máy cán và máy cắt chạy bằng điện, có thể ra lò lên đến 10.000 chiếc, gấp năm lần so với làm bằng tay. Làng nghề đã trở thành một địa điểm du lịch tại Bến Tre, tham quan cách chế biến và cách làm sản phẩm. Trong dân gian, có câu hát nhắc về Bánh phồng Sơn Đốc: Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc để chỉ hai đặc sản tại Bến Tre.Vào mỗi dịp Tết, bánh phồng Sơn Đốc cùng với bánh tráng Mỹ Lồng trở thành lễ vật cúng Ông Táo và cúng ông bà tổ tiên đối với người Bến Tre. == Tham khảo ==
Người Nhật đã làm món tráng miệng trong nhiều thế kỷ trước khi đường được bán rộng rãi ở Nhật Bản. Ngay cả khi đường trở nên có giá phải chăng ở Nhật Bản, món tráng miệng vẫn được bán rộng rãi ở Nhật Bản và được sử dụng ở Nhật Bản. Có rất nhiều món tráng miệng phổ biến vẫn có sẵn ở Nhật Bản có thể được truy nguyên trong hàng trăm năm . Trong ẩm thực Nhật Bản, đồ ngọt truyền thống của Nhật Bản được gọi là wagashi.Các thành phần như tương đậu đỏ và mochi được sử dụng. Nhiều đồ ngọt và món tráng miệng thời hiện đại ở Nhật Bản cũng đang tồn tại. Amezaiku Anmitsu Anpan Castella Chinsuko Thạch cà phê Kem trà xanh Thạch Hakuto Imagawayaki Melonpan Kem Mochi Momiji manjū Purin Bánh giọt nước Sata andagi Chuối Tokyo Wagashi (菓子) là một loại bánh kẹo truyền thống của Nhật Bản thường được phục vụ với trà, đặc biệt là các loại làm từ mochi, anko (tương đậu azuki) và trái cây. Wagashi thường được làm từ các thành phần thực vật. Wagashi được làm trong rất nhiều hình dạng và tính nhất quán và với các thành phần và phương pháp chuẩn bị đa dạng. Wagashi là phổ biến trên khắp đất nước Nhật Bản nhưng chỉ có sẵn trong khu vực hoặc theo mùa.Một Akumaki Amanattou Arare (thực phẩm)B Botamochi BeikaC ChitoseameD Daifuku Dango Dorayaki G Gionbo GyuhiH Hanabiramochi Higashi Hishi mochi I ImagawayakiK Kanten Karintō Karukan Konpeitō Kusa mochi Kuzumochi Keiran SoumenM Manjū Mizuame MonakaN Namagashi R Tương đậu đỏ Súp đậu đỏSakuramochi Senbei SuamaT Taiyaki TokorotenU Uirou W Warabimochi WasanbonY Yatsuhashi Yokan Yubeshi Black Thunder Kẹo cao su Fusen Hyōroku mochi Shiroi Koibito Tư liệu liên quan tới Confectionery of Japan tại Wikimedia Commons Tư liệu liên quan tới Sweet food of Japan tại Wikimedia Commons Tư liệu liên quan tới Wagashi tại Wikimedia Commons
Bít tết pho mát (còn được gọi là bít tết pho mát Philadelphia, bít tết pho mát Philly, sandwich bít tết pho mát, hoặc bít tết và pho mát) là một loại bánh sandwich được làm từ những miếng bò bít tết thái mỏng và phô mai nấu chảy, rồi cho vào một cái bánh mì hoagie dài. Đây là một món ăn nhanh phổ biến trong khu vực và có nguồn gốc từ thành phố Philadelphia, thuộc bang Pennsylvania của Hoa Kỳ. Món bít tết ra đời vào đầu thế kỷ 20 "bằng cách kết hợp thịt bò rán, hành tây và pho mát trong một ổ bánh mì nhỏ", theo danh mục triển lãm năm 1987 do Công ty Thư viện Philadelphia và Hiệp hội Lịch sử Pennsylvania xuất bản.Các cư dân Philadelphia Pat và Harry Olivieri thường được ghi nhận là người đã phát minh ra món bánh mì sandwich, bằng cách cho bít tết cắt nhỏ vào bánh mì vào đầu những năm 1930. Câu chuyện chính xác đằng sau việc tạo ra món ăn vẫn còn gây tranh luận, nhưng trong một số bản báo cáo, Pat và Harry Olivieri ban đầu sở hữu một quầy bán hot dog, và trong một lần, họ quyết định làm một chiếc bánh sandwich mới bằng thịt bò băm nhỏ và hành tây nướng. Trong lúc Pat đang ăn bánh sandwich, thì một tài xế taxi dừng xe và tỏ ra thích thú với nó, vì vậy anh ấy đã yêu cầu một ổ bánh cho mình. Sau khi ăn xong, tài xế taxi đề nghị Olivieri nên bỏ nghề làm hot dog mà thay vào đó tập trung vào món bánh sandwich mới. Họ bắt đầu bán biến thể của sandwich bít tết này tại quầy bán xúc xích gần Chợ Ý ở Nam Philadelphia. Chúng trở nên nổi tiếng đến mức Pat đã mở nhà hàng của riêng mình mà ngày nay vẫn hoạt động với tên gọi Pat's King of Steak. Bánh mì sandwich ban đầu được chế biến không có pho mát; Olivieri cho biết Joe "Cocky Joe" Lorenza, một người quản lý tại khu vực Ridge Avenue đã cho thêm pho mát provolone vào món bánh.Bít tết pho mát đã trở nên phổ biến tại các nhà hàng và xe bán đồ ăn trên khắp thành phố, với nhiều địa điểm thuộc quyền sở hữu độc lập, do gia đình tự quản. Các biến thể của pho mát hiện đang phổ biến trong một số chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh. Các phiên bản của loại sandwich này cũng có thể tìm thấy tại các nhà hàng cao cấp. Nhiều cơ sở bên ngoài Philadelphia gọi món bánh mì này là "Pho mát Philly". Pho mát gà làm bằng thịt gà thay vì thịt bò Pho mát nấm là một loại pho mát được phủ nấm Bít tết pho mát hạt tiêu là món bít tết pho mát phủ ớt chuông xanh, ớt anh đào cay, ớt cay dài hoặc ớt ngọt Pizza bít tết là một loại bít tết pho mát phủ sốt marinara cùng pho mát mozzarella và có thể được nướng với gà thịt Hoagie bít tết pho mát có xà lách và cà chua ngoài các thành phần trong sandwich bít tết truyền thống, và có thể chứa các thành phần khác thường phục vụ chung với món hoagie. Bít tết pho mát thuần chay là một loại bánh sandwich thay thế bít tết pho mát bằng các nguyên liệu thuần chay, chẳng hạn như nấm seitan hoặc nấm cho bít tết, riêng pho mát thì làm từ đậu nành. Milano bít tết là một loại bít tết có chứa cà chua nướng (hoặc chiên) cùng rau kinh giới cay The Heater được phục vụ tại các trận bóng chày Phillies ở Công viên Ngân hàng Công dân, trong đó người chế biến phủ ớt jalapenos, nước sốt Buffalo và cheddar jalapeno.
Nhút mít là một món ăn được làm từ quả mít non. Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh khí hậu tương đối khắc nghiệt, cuộc sống người dân vô cùng khốn khó. Vào thời điểm đói kém, thóc lúa hết, sẵn nhất chỉ có khoai lang với mít xanh. Khoai lang được nấu ăn thay cơm, nhút mít được chế biến thành thức ăn mặn. Có nhiều cách để chế biến món nhút, nơi thì muối mặn trong vại; nơi thì muối xổi trong liễn; lúc thì sử dụng xơ mít chín; lúc thì sử dụng xơ mít xanh... Nhút làm một lần và thường được dùng để ăn quanh năm nên món ăn từ nhút rất đa dạng. Có thể kể các món tiêu biểu: Món nhút trộn: Làm từ nhút, lạc rang, rau thơm, ớt cay, tai heo luộc thái chỉ cùng với gia vị sẽ cho ta một món ăn vừa lạ, ngon miệng, không béo hơi chua.Nhút xào: Vào mùa hạ nóng nực nhút được đem nấu canh cá, mùa đông nhút xào với thịt ba chỉ... Canh nhút: Nhút nấu canh cá, nhút nấu canh tép khô... Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn.
Rượu Kim Sơn là một loại rượu có thương hiệu, hiện được đề cử kỷ lục "Top 10 đặc sản rượu nổi tiếng nhất Việt Nam". Rượu được sản xuất từ các làng nghề truyền thống thuộc huyện miền biển Kim Sơn, Ninh Bình. Rượu Kim Sơn là rượu được chưng cất từ gạo nếp, men thuốc bắc, nguồn nước giếng khơi tự nhiên, sản xuất theo bí quyết của người dân các làng nghề tại Kim Sơn. Rượu thường có nồng độ cao, trong suốt, bọt tăm rượu càng to thì độ rượu càng cao. Trước đây, rượu được đựng trong các vò đất và nút lá chuối khô, khi uống vào cảm thấy rất thơm và êm dịu. Cùng với những người Kim Sơn di cư, rượu Kim Sơn đã đi đến nhiều vùng của Việt Nam. Ngày nay rượu Kim Sơn đã được đóng chai và bán trên thị trường. Kim Sơn là một huyện miền biển duy nhất của tỉnh Ninh Bình, là vùng đất mới do phù sa bồi đắp được con người tổ chức khai hoang lấn biển. Đây là một trong những địa phương đầu tiên của Việt Nam đạt năng xuất lúa 5 tấn/ha (Cùng với Hải Hậu của Nam Định và Tiền Hải của Thái Bình). Kim Sơn nằm trong khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, rất giàu tài nguyên thiên nhiên thủy hải sản và lương thực. Chính đặc điểm đó đã sản sinh và kích thích phát triển nghề nấu rượu trở thành các làng nghề truyền thống. Hiện nay có nhiều làng nghề chuyên về nấu rượu ở Kim Sơn như: Phát Diệm, Hòa Lạc, Ứng Luật.v.v. nhưng nhiều nhất và nổi tiếng hơn cả vẫn là nghề nấu rượu ở xã Lai Thành, vì thế mà bên cạnh thương hiệu rượu Kim Sơn còn có thương hiệu rượu Lai Thành. Tại Kim Sơn, nếu rượu được nấu từ gạo lứt nếp chiêm gọi là rượu chiêm và rượu được nấu từ gạo lứt nếp vụ mùa thì gọi là rượu mùa. Khi nấu rượu thì gạo nếp không cần xay trắng, chỉ cần xay lứt, có nghĩa là lớp cám bọc bên ngoài hột gạo còn y nguyên. Ngâm gạo vài tiếng trước khi nấu thành cơm rượu. Cơm rượu nấu xong thì dàn ra một cái nia lớn cho nguội khoảng 1 giờ. Men được giã nhỏ và rắc đều lên trên mặt cơm rượu. Sau đó xếp lần lượt từng lớp vào một thúng có bọc lót lá khoai nước sao cho mặt trên lớp này (có men vừa rắc) úp vào mặt dưới lớp kia. Đậy kín thúng bằng lá chuối khô và không được mở ra để xem, vì rượu sẽ không lên men đều được. Men rượu được làm bởi những gia đình có kinh nghiệm lâu đời tại địa phương nên rất thơm và khô. Để có men quý người ta cho vào đó một số dược liệu có tác dụng thông khí huyết, diệt khuẩn. Sau khoảng 1 tuần ủ, cơm rượu được nên men và có vị chua ngọt, được gọi là cơm mọng. Khi dưới đáy thúng xuất hiện nước mọng, người ta cho cơm mọng từ thúng vào chum đựng và thêm nước vào rồi bịt kín miệng chum ủ tiếp. Tuỳ kinh nghiệm mà người đặt rượu sẽ để mấy ngày thì có thể đem ra nấu rượu. Nếu đem ra sớm quá thì sẽ được ít rượu, hèm còn ngọt, mà nếu để chậm quá thì cũng hỏng. Dụng cụ để nấu rượu gồm một nồi lớn, không cần vung. Bên trên nồi này là một thùng tròn đóng bằng gỗ như cái trống, có đặt máng và ống dẫn rượu ra ngoài, trên cùng thường là một chậu lớn đặt nghiêng. Trong chậu này đựng nước thường xuyên được thay để giữ lạnh. Hơi rượu bốc lên từ nồi dưới, gặp lạnh ở đáy chậu đựng nước lạnh phía trên, sẽ hóa lỏng mà theo máng chảy ra ngoài rồi được hứng vào chai. Lúc bỏ cơm rượu vào để nấu, người ta pha thêm nước theo liều lượng, dùng đất sét trám thật kỹ giữa hai nồi, cùng chung quanh ống dẫn rượu để hơi rượu không bị bay thoát. Người canh lửa nồi rượu phải rất cẩn thận, nếu lửa nhỏ quá cũng không được, mà lửa cao quá sẽ làm khê cơm, hơi rượu sẽ bị khét. Có thể dùng nồi dưới làm bằng đất nung, rượu ít bị khê hơn nồi gang hay nhôm. Để có được rượu ngon người nấu phải có kinh nghiệm lâu năm, nhất là việc bảo quản ủ rượu trong các điều kiện thời tiết và môi trường khác nhau. Đặc điểm nguồn nước ủ rượu và nấu rượu cũng là nhân tố quan trọng quyết định độ ngon của rượu. Một nồi rượu tùy thuộc vào quy mô lớn hay nhỏ có thể cho từ 5 - 11 lít rượu. Những chai đầu bao giờ độ rượu cũng rất nặng, kể từ chai thứ ba thì gọi là rượu tăm, còn mấy chai sau gọi là rượu bào. Tuỳ theo người nếm mà quyết định lấy bao nhiêu chai để rồi pha trộn vào nhau mới thành rượu ngon được. Đây cũng là bí quyết của từng nhà mà tiếng chuyên môn gọi là đấu rượu. Khi hơi rượu đã bay lên hết, dưới nồi là bã rượu thật chua. Bã rượu nấu ra thường được nấu cám cho lợn ăn liền hoặc đổ xuống ao để nuôi cá.
Taiyaki (鯛焼き (Điêu Thiêu)/ たいやき/ タイヤキ, Taiyaki hay được dùng rộng rãi hơn là たい焼き) là một loại bánh nướng truyền thống hình cá tráp biển của Nhật Bản. trực dịch là "bánh nướng cá tráp biển". Nhân của bánh này thường là đậu Azuki, đôi khi có thể là kem trứng custard, sô-cô-la hay phô mai, matcha,... Một số cửa hàng còn bán taiyaki nhân okonomiyaki, gyoza hoặc xúc xích hoặc taiyaki với kem lạnh. Taiyaki thường được làm từ bột mì. Bột này được đổ vào hai mặt khuôn có hình con cá tráp. Sau đó, hai mặt khuôn được gắn lại, để lên khay và cho vào lò nướng. Cho đến khi cả hai mặt đã chuyển màu nâu vàng là dùng được. Taiyaki được nướng lần đầu tại một cửa hàng đồ ngọt tên là Naniwaya ở Azabu, Tokyo vào năm 1909, và ngay này ta có thể mua chúng ở bất cứ đâu trên nước Nhật, đặc biệt là tại khu thực phẩm nấu chín của siêu thị và trong các ngày lễ truyền thống (祭, matsuri). Loại bánh này tương tự như imagawayaki (今川焼き, imagawayaki), một loại bánh nướng hình tròn cũng có nhân là đậu Azuki hay kem trứng. Tại Hàn Quốc, người ta gọi bánh taiyaki là bungeoppang.
Smørrebrød (gốc ban đầu smør og brød; tiếng Đan Mạch nghĩa là "bơ và bánh mì") gồm bánh mỳ, lúa mạch đen (rugbrød), ăn cùng với thịt nguội, cá hun khói, pho mát hoặc ba tê được người Copenhagen gọi là Smorrebrod. Smørrebrød có nguồn gốc từ thế kỷ 19, khi bữa trưa là bữa ăn chính trong ngày của nông dân Đan Mạch. Sau khi ăn xong, họ thường lấy bánh mì quệt những gì còn sót lại trên đĩa cho kỳ sạch rồi ăn nốt. Dần dà về sau, những thứ còn sót trên đĩa được đặt lên trên lớp bánh – và từ đó món bánh Smørrebrød ra đời. Ngoài ra, Smørrebrød còn được thế giới gọi là sandwich mở bởi nó chỉ có một lớp bánh bên dưới chứ không kẹp nhân giữa hai lớp bánh như thông thường. == Tham khảo ==
Pilaf (còn được gọi pilau rang và plov), là một món ăn, gạo được nấu chín trong nước luộc thịt (nước xuýt). Trong một số trường hợp, cơm cũng có thể đạt được màu nâu của bằng cách khuấy với một ít hành tây đã nấu chín, cũng như một hỗn hợp các loại gia vị. Tùy thuộc vào các món ăn địa phương, nó cũng có thịt và rau. Pilaff và các món ăn tương tự phổ biến Balkan, Trung Đông, Trung và Nam Á, Đông Phi, Mỹ Latinh, và ẩm thực Caribbe. Thuật ngữ pilaf trong tiếng Anh mượn thẳng từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, palov và/hoặc tiếng Uzbekistan, palov, mà từ này lại được mượn từ tiếng Ba Tư cổ polow (پلو), và từ này lại được vay mượn từ tiếng Phạn pulāka- (पुलाक), "cục cơm luộc". Thuật ngữ tiếng Anh lại bị ảnh hưởng bởi tiếng Hy Lạp hiện đại pilafi.
Cơm Thingyan (tiếng Miến Điện: သင်္ကြန်ထမင်း, phát âm [ðəd͡ʑàɴ tʰəmɪ́ɴ], Thingyan htamin; tiếng Môn: ပုင်သင်္ကြာန်) là một món ăn truyền thống của người Môn trong ngày lễ Thingyan, Tết cổ truyền của người Myanmar. Cơm Thingyan được ngâm nước và thường ăn kèm gỏi cá ướp muối, được chần và chiên sơ với hành tây, cùng xoài chua hoặc quả thanh trà. Kế đến bày biện cho món này bằng loại ớt sừng nướng. Mặc dù cơm Thingyan vốn bắt nguồn từ người Môn, nhưng hiện nay món này khá thông dụng trên khắp vùng Hạ Miến Điện.Người Thái cũng chuyển đổi món này thành ẩm thực miền Trung Thái Lan với tên gọi khao chae. == Tham khảo ==
Bánh khoai tây chiên (trong tiếng Séc là Bramboráky) là một món đồ ăn nhẹ thường được làm từ nguyên liệu chính là khoai tây bào vụn kèm với bột mì, đôi khi có thêm cả trứng và nước sốt táo. Chúng thường được chiên trên chảo nông và nêm nếm với tỏi, hành và các gia vị khác. Bánh khoai tây chiên có thể ăn không, hoặc ăn với nhiều đồ ăn kèm khác nhau, từ mặn như kem chua, cho đến ngọt khi ăn cùng si-rô hoặc nước sốt táo. Bánh khoai tây chiên có thể được làm từ khoai tây nghiền để tạo ra hình những miếng khoai tròn. Một vài biến thể của loại bánh này còn được làm bằng khoai lang. Bánh khoai tây xuất hiện trong nhiều bữa ăn tại các nước châu Âu, bao gồm Đức và Áo (với các tên gọi Kartoffelpuffer, Reibekuchen, Reiberdatschi, Erdäpfelpuffer and Erdäpfellaibchen), Hà Lan (aardappelpannenkoek, reifkoeken, reifjes), Séc (bramborák hoặc cmunda), Hungary (tócsni, lapcsánka), Ba Lan (placki ziemniaczane),... Đây là món ăn truyền thống của Belarus và Slovakia. Ở Đức, bánh khoai tây có thể ăn mặn hoặc ăn ngọt với sốt táo, quả mọng, đường và quế. Loại bánh này cực kỳ phổ biến trên menu đồ ăn tại các hội chợ và lễ hội vào mùa lạnh, đặc biệt là trong lễ Giáng Sinh. Trong bữa ăn của người Thụy Điển, bánh khoai tây không có trứng và bột mì. Phiên bản bánh khoai tây này ở Mỹ cũng không có bột mì hay trứng. Loại bánh khoai tây này là món ăn ưa thích của nhiều người ở phía nam bang Indiana vào những dịp nghỉ lễ.
Hạnh đào cũng gọi là biển đào (danh pháp khoa học: Prunus dulcis) là loài thực vật bản địa ở Trung Đông và Nam Á, thuộc Chi Mận mơ (Prunus). Hạnh đào cùng với đào (P. persica) được xếp vào cùng phân chi Amygdalus, phân biệt với các phân chi khác nhờ lớp vỏ hạt cứng (vỏ quả trong) có nếp nhăn lượn sóng bao bọc bên ngoài nhân (hạt giống). Nhân của quả hạnh đào (Hạnh đào nhân) thường được gọi là hạnh nhân, đây là một nguyên liệu dùng trong nhiều món ăn. Quả hạnh đào là một loại quả hạch và không phải là quả kiên thực sự. Hoa hạnh đào thường nở vào đầu mùa xuân, tháng 3 hay tháng 4 tại bắc bán cầu và tháng 9, tháng 10 tại nam bán cầu.
Kushikatsu (串カツ, Kushikatsu), còn được gọi là kushiage (串揚げ, kushiage), là một món thịt được xiên que cùng các loại rau và được chiên ngập trong dầu của Nhật Bản. Trong tiếng Nhật, từ kushi (串, kushi) có nghĩa là "xiên que" , còn từ katsu có nghĩa là thịt mềm hay thịt cốt lết chiên ngập trong dầu. Kushikatsu có thể được làm từ thịt gà, thịt lợn, hải sản và các loại rau theo mùa. Chúng được xiên trên kushi được làm từ tre; sau đó nhúng vào trứng, bột mì, panko và chiên ngập trong dầu thực vật. Chúng có thể được dùng mà không có gia vị đi kèm hoặc có thể dùng với nước sốt tonkatsu. Kushiage được cho là bắt đầu xuất hiện khi chúng được phục vụ lần đầu tiên tại các quán ăn ở trung tâm thành phố Osaka, trong khu phố Shinsekai . Hầu hết các nhà hàng Kushikatsu đều chuyên về món ăn này. Chủ một quán ăn nhỏ Shinsekai từ năm 1929 được cho là người đầu bếp tiên phong trong việc làm ra Kushikatsu, về sau thực đơn của bà đã trở nên khá phổ biến trong giới công nhân. Bà đã chế biến món ăn này bằng cách xiên các loại thịt và chiên giòn chúng lên, đây có thể nói là loại thức ăn nhanh tiện dụng, không tốn kém và no lâu.Khi thực đơn đó lan rộng đến các khu vực khác của Osaka và các vùng lân cận, Kushikatsu đã được chế biến khác đi với tiêu chuẩn ban đầu của nó; nó được làm từ một loại thực phẩm không giống như ở Tokyo, chẳng hạn như việc cho thịt lợn và hành tây vào xiên xen kẽ. Nhiều loại thực phẩm hơn đã được sử dụng để chế biến món ăn này khi nó được phát triển và lan truyền rộng rãi, trái ngược với thực đơn ở Nagoya hoặc Tokyo, chẳng hạn như những lát gừng ngâm chua mỏng hoặc xúc xích. Nói chung, tại Osaka, que xiên dùng làm Kushikatsu thường nhỏ hơn và khách hàng có xu hướng gọi số lượng kushi lớn hơn so với ở Tokyo hoặc Nagoya. Điều đó đã khuyến khích nhiều nhà hàng kushiage sử dụng một loại "bột làm bánh" trộn sẵn gồm bột trứng và bột mì (điều này khác so với ở Tokyo hoặc Nagoya, nơi bột được làm từ trứng tươi, nước và bột mì với lớp vụn bánh panko). Các nhà hàng kushiage cao cấp ở Osaka phục vụ món kushikatsu theo phong cách Tokyo-Nagoya. Khi đó, khoai mỡ nghiền được thêm vào để cho thức ăn có kết cấu mềm hơn. Các nhà hàng Kushikatsu trong thời gian gần đây thường phục vụ món ăn này theo phong cách fondue, trong đó khách hàng chiên những xiên thịt kushi ngay tại bàn ăn trong chảo sâu lòng cùng với dầu. Kushinobō là một nhà hàng kushiage cao cấp điển hình đặc trưng với phong cách Osaka được nhượng quyền trên khắp Nhật Bản và được đánh giá cao về phong cách phục vụ độc đáo — nhà hàng này sẽ tiếp tục phục vụ các biến thể của kushiage đến bàn của khách cho đến khi khách thông báo rằng họ đã no và không cần thêm nữa. Lá bắp cải thái hạt lựu cũng là một món ăn phụ miễn phí được chuẩn bị sẵn trong một chiếc bát lớn trên bàn, được cho là có tác dụng ngăn ngừa cảm giác trào ngược trong dạ dày khi thưởng thức món Kushikatsu. Phong cách ăn uống độc đáo tại các nhà hàng và quán ăn có phục vụ kushikatsu là khi ăn, các thực khách sẽ nhúng xiên thịt vào nồi nước sốt loãng trước khi ăn. Tuy nhiên, do mọi người đều dùng chung hũ nước sốt nên việc gắp lại thức ăn sau khi ăn được coi là hành vi xấu và mất vệ sinh nên thay vào đó, một lát bắp cải sẽ được dùng để múc nước sốt từ nồi và rưới lên kushikatsu. Ở một số nhà hàng, họ đặt chổi hoặc thìa vào nồi chung dùng để nêm gia vị cho món ăn. Một số nhà hàng kushiyaki có thực đơn và hướng dẫn bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ khác để cảnh báo du khách không nhúng thức ăn vào nồi nước sốt chung sau khi ăn. Một bài hát nói về Kushikatsu trong truyện tranh có tựa đề "Kushikatsu wa ippon" đã trở nên phổ biến đối với thế hệ sinh năm 1990 khi họ thưởng thức bài hát này trong chương trình bài hát thiếu nhi trên sóng truyền hình. "Kushikatsuwa ippon" (Xiên đơn Kushikatsu), phát sóng trên kênh NHK "Daruma no Ossan no Uta - sōsu no nidozuke wa kinshi ya de" (Bài hát dành tặng cho Ngài Darma - đừng bao giờ nhúng kushikatsu của bạn hai lần vào nồi nước sốt) O'Donoghue, J.J. (ngày 22 tháng 7 năm 2014). “Pancotei: 'Kushikatsu' morsels prepared with obsessive care”. The Japan Times. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015. Kamon Tatsuo (tháng 1 năm 2015). Okano ueno kiraboshi [Shining Star over the Hill] (bằng tiếng Nhật). Gentosha. ISBN 978-4-3440-2832-6.
Éclair là một loại bánh ngọt có hình thuôn dài làm từ bột nhào choux (bột nhào làm bánh su kem) có nhân kem và phủ các loại kem hoặc đường đông bên trên. Phần bột nhào làm Éclair,giống với bột nhào làm bánh su kem phồng có nhân, được bơm vào những ống đặc trưng tạo hình thuôn dài bằng một túi bắt bánh và nướng cho tới khi giòn và xốp bên trong. Khi đã nguội, bánh được bơm nhân kem trứng hương vani, cà phê hoặc chocolate (gọi là crème pâtissière) hoặc kem đánh hoặc kem Chiboust; và được phủ một lớp đường hoặc kem đông mềm. Các loại nhân khác như pistachio- hay kem trứng hương rượu rum, nhân trái cây hay bơ hạt dẻ cũng thường xuyên được sử dụng. Lớp phủ ngọt đôi khi có thể là caramel, trong trường hợp này bánh sẽ được gọi là bấton de Jacob. Tại Mỹ, ngày 22 tháng 6 là ngày toàn quốc Eclair hương socôla. Tên gọi éclair bắt nguồn từ tiếng Pháp nghĩa là 'tia chớp' vì bánh này thường được ăn rất nhanh. Bánh éclair ra đời từ thế kỷ 19 tại Pháp và được gọi là "pain à la duchesse" (bánh mì nữ ​​công tước) hay "nữ công tước bé nhỏ" cho tới năm 1850. Bánh éclair là loại bánh nổi tiếng trên toàn thế giới. Tên bánh lần đầu được chứng nhận trong cả tiếng Pháp và tiếng Anh trong những năm 1860. Nhiều sử gia ẩm thực nghiên cứu cho biết éclairs được làm lần đầu bởi Antonin Carême (1784–1833), một đầu bếp Pháp nổi tiếng.Công thức làm bánh éclair tiếng Anh đầu tiên được biết xuất hiện trong cuốn "the Boston Cooking School Cook Book" viết bởi bà D.A. Lincoln, xuất bản năm 1884. Nhiều vùng ở Mỹ, bánh Long Johns được quảng bá với tên éclairs, dù hai thứ này không giống nhau. Bánh Long John dùng bột nhào loại làm bánh donut và có nhân pudding hương vani hay kem trứng, khiến bánh dễ làm và rẻ hơn bánh éclair. Tại Nhật Bản,éclair có nhân kem trà xanh matcha hoặc đậu đỏ ăn vô cùng bùi, hoặc có thể là xoài,cam, khoai môn, việt quất,…
Bánh khảo là loại món ngọt truyền thống Việt Nam. Bánh có nguồn gốc từ dân tộc Tày - Nùng và Choang ("khảo" trong tiếng Tày là gạo), được làm từ bột nếp rang với đường, ngoài ra còn có hạt vừng hoặc một số loại hạt thơm khác để tăng mùi vị của bánh. Làm bánh khảo cũng mất khá nhiều thời gian vì quy trình dài gồm: rang gạo, xay bột, hạ thổ, giã đường, làm nhân, vò bột, vào khuôn,... Bánh ngọt truyền thống nổi tiếng của người Tày, Nùng và dân tộc Choang ở vùng Tây Nam Quảng Tây rất đặc biệt về khí hậu sản xuất, hầu hết được làm vào mùa đông và là một trong những đặc sản yêu thích của người dân địa phương. Khi món bánh này du nhập vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam, nó có tên là bánh khảo, được sử dụng nhiều vào những dịp lễ Tết của các dân tộc như Tày, Nùng, Giáy ở Cao Bằng, Lào Cai,... đồng thời cũng là quà biếu trong những dịp đặc biệt. Một số vùng miền Bắc Bộ gọi nó là oản bột, oản đường hay bánh oản. Nó trở thành một thứ bánh truyền thống lâu đời được bày biện trên mâm lễ cúng ở các đình, chùa, cúng Phật, cúng tổ tiên, ông bà trong những dịp lễ, Tết, giỗ,…Bánh oản cũng có rất nhiều chủng loại: bánh oản bột nếp, bánh oản bột huỳnh tinh, bánh oản bột đậu xanh, bánh oản bột đậu quyên, bánh oản bột đậu ván, bánh oản hạt sen trần,... Theo quan niệm của người Việt Nam, bánh oản có màu trắng trong, thanh khiết, được làm từ bột và đường là tinh hoa của trời đất. Ngoài ra, một số người lại cho rằng hình dạng của phẩm oản (oản bột chay không nhân) giống như một chiếc chuông nhỏ. Bên trong ẩn chứa những triết lý sâu sắc về tín ngưỡng, tôn giáo, lời răn dạy của Phật tổ. Khi bánh được truyền bá vào làng Kim Long ở Huế, nó được gọi là bánh in và đã có từ đời các vua triều Nguyễn (nhà Nguyễn lúc này đóng đô ở Huế). Ở Trung Quốc, bánh khảo (sha gao) được bán rộng rãi trên thị trường gồm có nhân vừng (mè) đen, nhân hạt sen và nhân kê. Trong bộ phim cổ trang "Bộ bộ kinh tâm" có một biến thể của món bánh oản (bánh khảo) gọi là bánh dâm bụt (芙蓉糕). Bánh khảo Cao Bằng Bánh khảo Tràng Định (Lạng Sơn)
Thịt chó là thịt của các loài chó. Trong lịch sử, việc ăn thịt chó đã được ghi nhận tại nhiều vùng trên thế giới, bao gồm Đông Á, Đông Nam Á, Tây Phi, châu Âu, châu Đại Dương và châu Mỹ. Tại thế kỷ 21, thịt chó vẫn là một món ăn thông thường tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam., Philippines, Thụy Sĩ... và một số nước khác. Hiện nay, đối với một số nền văn hóa, thịt chó được coi là một phần của văn hóa ẩm thực hàng ngày, thậm chí đã trở thành một món đặc sản. Nhưng đối với một số nước khác, đặc biệt là phương Tây, việc ăn thịt chó được coi là điều cấm kỵ, mặc dù họ cũng ăn thịt chó trong điều kiện chiến tranh hoặc thiếu lương thực. Theo ước tính năm 2014, mỗi năm có 25 triệu con chó bị con người giết lấy thịt. Tại các nước như Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, thịt chó là món ăn khoái khẩu và được tiêu thụ nhiều, trong khi đó tại nhiều quốc gia phương Tây và Hồi giáo, việc giết chó làm thịt và ăn thịt chó (và mèo) được coi là tàn bạo và bị cấm. Loài người không phải là loài duy nhất thích ăn thịt chó, loài báo hoa mai được biết như là những kẻ thèm thịt chó và sẵn sàng liều lĩnh xông vào nhà dân để giết chó nuôi.Có 11 vùng lãnh thổ trên thế giới phổ biến việc ăn thịt chó, bao gồm: Trung Quốc, Indonesia, Triều Tiên và Hàn Quốc, México, Philippines, Polynesia, Việt Nam, người Eskimo sống ở Bắc Cực, và Thụy Sĩ.
Shooter's sandwich (Sandwich của thợ săn) là một loại sandwich bít tết, bao gồm bít tết nấu chín và nấm được cho vào trong một ổ bánh mì rỗng ruột rồi sau đó làm nén nó lại. Món sandwich phổ biến ở Anh này thường được ví như thịt bò Wellington kết hợp với bánh mì hơn là bánh pastry. Bánh shooter's sandwich được chế biến bằng cách dùng thịt bò thăn nấu chín, nấm nấu chín, muối và hạt tiêu cho vào một ổ bánh mì dài, rỗng ruột. Sau đó, bánh sẽ được ép lại. Thông thường người ta sẽ ủ sandwich qua đêm, làm cho nước thịt ngấm vào bánh mì.Các phần thịt bò khác, chẳng hạn như đùi thăn, đùi con mắt và thăn ngoại bò cũng được sử dụng để chế biến món này. Hành tây nấu chín hoặc hẹ tây đôi khi được sử dụng cho món ăn, cũng như duxelles—một chế phẩm xào của nấm, hành tây hoặc hẹ tây, cùng với các loại thảo mộc, được chế biến thành hỗn hợp sệt. Thỉnh thoảng người ta còn dùng mù tạt Dijon và cải ngựa làm gia vị ăn kèm. Shooter's sandwich có nguồn gốc ở Anh vào thời Edward. Bánh được tạo ra như một bữa ăn thịnh soạn cho các thợ săn. Bây giờ món ăn còn được sử dụng trong cả bữa ăn tại nhà hoặc như một loại thực phẩm xách tay khi đi du lịch.Một chiếc bánh sandwich tương tự xuất hiện trong Le Guide Culinaire, được xuất bản năm 1903 bởi Auguste Escoffier (mục số 4962) và được gọi là "Bookmaker's Sandwich" Vào ngày 13 tháng 11 năm 1996, chương trình dạy nấu ăn Two Fat Ladies đã trình bày cách chế biến món shooter's sandwich (Phần 1, Tập 6, "Food in the Wild"). Món ăn này đã trở thành một meme nhỏ trên Internet sau khi một bài báo ngày 7 tháng 4 năm 2010 do Tim Hayward chắp bút và được xuất bản bởi The Guardian, đã tuyên bố rằng shooter's sandwich là loại sandwich ngon nhất thế giới. Bài báo này cũng mô tả món bánh mì kẹp này là "thành tựu của nền ẩm thực thời Edward."
Momiji manjū もみじ饅頭 (Momiji manjū, もみじ饅頭) là một loại manjū và Imagawayaki. Món ăn này là một loại bánh kiều mạch và gạo có hình dạng giống như một chiếc lá phong của Nhật Bản, và là một đặc sản địa phương trên đảo Itsukushima (Miyajima) ở Hiroshima. Nhân của bánh thường được lấp đầy bằng tuơng đậu đỏ. Momiji manjū là một đặc sản địa phương và quà lưu niệm ở Itsukushima, là một trong ba danh thắng nằm trong Nhật Bản tam cảnh. Ngày nay, Momiji manjū không chỉ được biết đến với những món quà lưu niệm của vùng Miyajima mà còn là miyagegashi của Tỉnh Hiroshima trên toàn quốc. Momiji manjū được tạo ra bởi một nghệ nhân Wagashi tên là Tsunesuke Takatsu vào cuối thời kỳ Minh Trị. Nó được đặt theo tên của Công viên Momijidani, một nơi nổi tiếng với lá phong Nhật Bản vào mùa thu trên đảo Miyajima (宮島). Tên gọi và cách viết phổ biến nhất vẫn là "Momiji manjū (もみじ饅頭)" nhưng nó cũng được viết là "Momiji manjū (もみじまんじゅう)". Giống như nhiều manju khác, người ta cho rằng nó được viết bằng hiragana để làm cho nó quen thuộc như một món quà lưu niệm. Momiji manjū thường không được viết là Manju lá mùa thu (紅葉饅頭, Kōyō manjū) hoặc Manju lá mùa thu (紅葉まんじゅう, Kōyō manjū). Takatsu ban đầu viết Momiji Manju (もみぢ饅頭, Momiji Manju) với "ぢ" thay vì "じ".
Imagawayaki (今川焼き, Imagawayaki) là một món tráng miệng của Nhật Bản thường được tìm thấy ở các lễ hội và tại các quốc gia bên ngoài Nhật Bản như Đài Loan và Hàn Quốc. Nó được làm bằng cách nhồi bột trong một chiếc chảo đặc biệt (gần giống như chảo làm bánh quế nhưng không có những chiếc lỗ như tổ ong), và được nhồi lớp đậu đỏ Azuki có vị ngọt làm nhân , mặc dù những loại nhân khác như nhân trứng kèm vanilla đang ngày càng phổ biến, cũng như các loại sữa và mứt trái cây khác nhau, cà ri, các loại nhân khác nhau gồm thịt và rau, khoai tây và sốt mayonnaise. Imagawayaki có nét tương đồng với dorayaki, nhưng về sau hai món bánh được chia thành hai loại bánh có nhân khác nhau, và đều được phục vụ trong nhiệt độ lạnh. Imagawayaki lần đầu được bán tại địa điểm gần cầu Imagawabashi trong thời kỳ An'ei (1772–1781) thuộc thời kỳ Edo (1603–1867). Cái tên Imagawayaki xuất phát từ thời kỳ này. Imagawayaki được biết đến nhờ những cái tên khác nhau tùy theo từng vùng miền. Tùy từng khu vực mà có những cái tên khác nhau, và có một số loại chỉ được bán ở những của hàng có thương hiệu riêng. Ōban-yaki (大判焼き, Ōban-yaki) – vùng Kansai. Kaiten-yaki (回転焼き, Kaiten-yaki) or Kaiten manjū (回転饅頭, Kaiten manjū) – vùng Kansai và Kyushu . Nijū-yaki (二重焼き, Nijū-yaki) Koban-yaki (小判焼き, Koban-yaki) Gishi-yaki (義士焼き, Gishi-yaki) Tomoe-yaki (巴焼き, Tomoe-yaki) Taiko-yaki (太鼓焼き, Taiko-yaki) or Taiko manjū (太鼓饅頭, Taiko manjū) Bunka-yaki (文化焼き, Bunka-yaki) Taishō-yaki (大正焼き, Taishō-yaki) Jiyū-yaki (自由焼き, Jiyū-yaki) Fūfu manjū (夫婦饅頭, Fūfu manjū) or Fū man (フーマン, Fū man) Oyaki (おやき, Oyaki) – được gọi bởi một số người ở Aomori và Hokkaidō, và nó không giống với món oyaki của vùng Nagano.
Một cơn "đông não", còn được gọi là nhức đầu khi ăn kem, có tên khoa học sphenopalatine ganglioneuralgia (có nghĩa là "đau dây thần kinh của hạch sphenopalatine"), là một hình thức đau hay nhức đầu ngắn thường liên kết với việc tiêu thụ (đặc biệt là tiêu thụ nhanh) đồ uống hay thức ăn lạnh chẳng hạn như kem lạnh. Nó được gây ra khi vật lạnh chạm vào vòm miệng, và được cho là kết quả từ một phản ứng thần kinh gây ra co thắt và sưng mạch máu nhanh chóng hoặc một cơn "đau xuất chiếu" từ vòm miệng vào đầu. Tốc độ ăn đồ lạnh thực phẩm được nghiên cứu như là một nhân tố tác động. Cơn nhức đầu khi ăn kem khác với mẫn cảm ngà răng, một loại đau xảy ra trong tình huống tương tự. Khái niệm nhức đầu khi ăn kem đã được sử dụng từ ít nhất là 31 tháng năm 1937, trong một mục của Rebecca Timbres xuất bản trong cuốn sách năm 1939 Chúng tôi không yêu Cầu Utopia: Một gia đình Quaker ở Liên Xô. Một cơn nhức đầu khi ăn kem là kết quả trực tiếp của sự làm mát và làm ấm lại nhanh chóng của các mạch máu trong xoang mũi. Một phản ứng tương tự nhưng không đau khiến khuôn mặt "đỏ ửng" sau khi ở ngoài trời vào một ngày lạnh. Trong cả hai trường hợp, nhiệt độ lạnh khiến các mạch máu trong xoang co lại và sau đó trải qua quá trình phục hồi cực nhanh khi chúng ấm lên trở lại. Để giảm đau, một số bác sĩ đề nghị cách ấn lưỡi lên vòm miệng để làm ấm khu vực hoặc ngửa đầu trong khoảng 20 giây. Một cách khác để làm giảm nhức đầu khi ăn kem là để uống một chất lỏng có nhiệt độ cao hơn so với chất gây ra cơn nhức đầu. Một số người cho biết có thể giảm nhẹ vấn đề bằng cách hít vào bằng miệng và thở ra qua mũi, nhờ đó không khí ấm áp đi qua đường mũi. Hiện tượng này đủ phổ biến để trở thành đối tượng nghiên cứu đăng trong Tạp chí Y tế Anh và Khoa học người Mỹ. Một nghiên cứu của Maya Kaczorowski chứng minh tỷ lệ của sphenopalatine ganglioneuralgia cao hơn khi ăn kem trong ít hơn 30 giây so với những người tiêu thụ từ từ, không có giới hạn thời gian (27.3% và 12,5%). Tuy nhiên, Kaczorowski cuối cùng đã không thể rút ra một liên kết rõ ràng giữa những tốc độ tiêu thụ và tỷ lệ sphenopalatine ganglioneuralgia. "Nghiên cứu đau đầu khi ăn kem (ICE-H): chế độ điều trị thử nghiệm tăng tốc độ ăn kem một cách ngẫu nhiên" Maya Kaczorowski & Janusz Kaczorowski, BMJ 2002; 325 doi:10.1136/bmj.325.7378.1445 (Published ngày 21 tháng 12 năm 2002)
Zizania là một chi thực vật có hoa trong họ Hòa thảo (Poaceae). Chi Zizania gồm các loài: Zizania aquatica Zizania aquatica var. angustifolia Zizania aquatica var. brevis Zizania aquatica var. interior Zizania aquatica var. subbrevis Zizania aquatica subsp. angustifolia Zizania aquatica subsp. brevis Zizania aristata Zizania bonariensis Zizania caduciflora Zizania ciliata Zizania clavulosa Zizania dahurica Zizania effusa Zizania fluitans Zizania interior Zizania latifolia: Niễng Zizania lenticularis Zizania liliacea Zizania mezii Zizania microstachya Zizania mutica Zizania natans Zizania nutans Zizania palustris Zizania palustris subsp. interior Zizania palustris f. purpurea Zizania retzii Zizania subtilis Zizania terrestris Zizania texana
Thịt mực hay còn gọi là cá mực là phần thịt của các loài mực (gồm mực ống và mực nang), đây là loại thực phẩm phổ biến trên thế giới. Trong thịt mực có protid, lipid, Ca, p, Fe, vitamin B1, B2, B6, PP.thịt mực có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như protein; calci; các chất vi lượng (đồng, kẽm); phosphor; sắt; các loại vitamin như A, B1, B1, D, E có nhiều peptit có tác dụng chống độc tô, chống phóng xạ. Ngoài ra trong mai mực còn có các chất hữu cơ, chất keo, các muối của calci như carbonat, phosphat, sulfat. Theo Đông y mực có vị đậm, tính bình, có tác dụng bổ máu dưỡng âm, chống mệt mỏi, chống suy lão, chữa ứ tắc thông kinh, bổ huyết, dưỡng tâm thông mạch, tăng cường chức năng gan thận, giải độc gan phòng tiểu đường. Thịt cá mực có vị ngọt, chua, tính bình, có tác dụng bổ trung, ích khí, điều kinh. Những người bị bệnh thiếu máu, chóng mặt, ù tai, xuất tinh sớm nên dùng nhiều như một loại thuốc tẩm bổ.
Mì sợi (chữ Nôm:麵𥾘), đọc theo âm Hán-Việt là Miến (chữ Hán: 麵條; bính âm: miàntiáo; Hán Việt: miến điều) là một thực phẩm thường dùng trong nhiều nền văn hóa làm từ bột không men. Tất cả được kéo căng, ép đùn, rồi cán phẳng và cắt thành một loạt các hình dạng. Trong đó dạng dài, mỏng có thể là phổ biến nhất (mì sợi), nhiều loại mì được cắt thành sóng, xoắn, ống, dây, vỏ, gấp lại, hay được cắt thành hình dạng khác. Mì sợi được làm từ bột nhão được tạo thành sợi trong ống có đục lỗ nhỏ hoặc trong túi có đáy có đục lỗ nhỏ vào nước sôi. Tùy theo loại, mì sợi có thể được phơi khô hoặc ướp lạnh trước khi nấu nướng. Mì được nấu chín trong nước sôi. Thông thường, đôi khi với dầu ăn hoặc thêm muối. Chúng thường được chiên sơ hoặc chiên với nhiều dầu. Mì thường được phục vụ kèm theo với xốt hoặc trong một món xúp. Mì có thể được bỏ tủ lạnh để bảo quản ngắn hạn, hoặc sấy khô và được lưu trữ để sử dụng trong tương lai. Các thành phần vật chất hay nguồn gốc văn hóa địa lý phải được xác định khi thảo luận về mì. Tên gọi “mì” trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hải Khẩu “麵” mi24 (có nghĩa là mỳ). Tiếng Hải Khẩu là một phương ngôn Mân.Chữ Hán “麵” có âm Hán Việt là “miến”. Trong tiếng Trung và trong một vài ngữ cảnh Hán – Việt, "miến" 麵 mang nghĩa "mì", còn "miến" hay "bún Tàu" trong tiếng Trung được gọi là “粉絲” (âm Hán Việt: phấn ty) hoặc “粉條” (phấn điều). Trong tiếng Ý, pasta thì chỉ nói riêng cho các sản phẩm của Italia như mì spaghetti, penne, hay fettuccine có chứa bột hòn. Tài liệu được ghi chép đầu tiên về mì sợi là từ thời nhà Đông Hán giữa năm 25 - 250. Nó trở thành thực phẩm chính cho người dân thời nhà Hán (206 BCE - 220 CE). Tháng 10 năm 2005, loại mì cổ nhất chưa được phát hiện đã được người ta tìm thấy ở di chỉ Lạt Gia (喇家) (văn hóa Tề Gia (齊家)) dọc theo sông Hoàng Hà ở tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc. Loại mì có 4000 năm tuổi này dường như đã được làm từ hạt kê đuôi cáo và bột gạo tắc. Những sợi mỳ vàng, mỏng được bảo quản được tìm thấy bên trong một chiếc tô kín úp ngược. Chiếc bát này đã bị chôn vùi dưới ba mét trầm tích. Điều này là những minh chứng cho việc dường như món ăn rất phổ biến này có nguồn gốc từ Châu Á. Những loại mì này được cho là giống với lamian, một loại mì Trung Quốc. Phân tích các phytolith trấu và các hạt tinh bột có trong trầm tích liên quan đến mì, chúng được xác định là kê thuộc về Panicum miliaceum và Setaria italica, mặc dù điều này còn bị tranh cãi. Có giả thiết khác cho rằng mỳ có nguồn gốc ở Trung Đông từ khoảng năm 5.000 trước Công Nguyên. Bột mỳ được chế biến từ lúa mỳ. Theo nghiên cứu, lúa mỳ được trồng từ năm 7.000 trước Công Nguyên ở vùng Lưỡng Hà và đã được những người di cư mang đến xứ Tân Cương, Trung Quốc. Nguồn gốc của mỳ xuất phát từ những người dân du mục. Những người du mục ở xứ Tân Cương, Trung Quốc đã chế biến bột mỳ thành những chiếc bánh nướng. Trong quãng thời gian này, những người phụ nữ ở vùng này thay vì nhào bột mỳ đem nướng thành bánh, họ đã xắt mỏng thành những sợi mảnh. Và như thế món mỳ đầu tiên của nhân loại ra đời. Vào thế kỷ 2 TCN, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa. Theo con đường này, người Hán đã đến Tân Cương và phát triển giao thương đến Châu Âu. Món mỳ sợi dần dần lan tới khắp Trung Quốc. Sử sách Trung Hoa đời Hán đã ghi nhận sự có mặt của sợi mỳ. Kĩ thuật làm mỳ sợi từ đó lan dần sang các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đông Nam Á. Mì bỏ lò: Mì luộc và ráo nước được kết hợp với các thành phần khác và nướng. Ví dụ phổ biến bao gồm lasagna,casserole. Mì nấu: Chúng được nấu trong nước hoặc nước dùng, sau đó để ráo nước. Các loại thực phẩm khác có thể được thêm vào hoặc mì được thêm vào các thực phẩm khác hoặc mì có thể được phục vụ đơn giản với nước chấm hoặc dầu để thêm vào bàn. Nói chung, mì mềm và hấp thụ hương vị. Mì ướp lạnh: mì được phục vụ lạnh, đôi khi trong món salad. Ví dụ bao gồm soba và udon lạnh, naengmyeon là ngoại lệ. Mì xào: các món ăn làm từ mì xào với nhiều loại thịt, hải sản, rau và các sản phẩm từ sữa. Ví dụ điển hình bao gồm chow mein, lo mein, mie goreng, hokkien mee, một số loại pancit, yakisoba, Curry Noodles và pad thai. Mì có nước dùng: mì phục vụ trong nước dùng. Ví dụ như udon, ramen, cao lầu, mì Quảng,... Mì thường được nấu trong nước sôi, đôi khi có thêm dầu ăn hoặc muối. Chúng thường được chiên hoặc chiên sâu. Mì thường được phục vụ với nước sốt đi kèm hoặc trong một món súp. Mì có thể được làm lạnh để lưu trữ ngắn hạn, hoặc sấy khô và được lưu trữ để sử dụng trong tương lai.
Thịt bò khô là thịt bò lọc bỏ mỡ, đem ướp gia vị mặn ngọt rồi sấy khô ở nhiệt độ thấp (khoảng 70 °C). Thịt này đôi khi được đem muối hoặc phơi nắng để tạo ra một loại đồ ăn vặt có thể giữ lâu ngày mà không cần cất tủ đá hay tủ lạnh. Thịt bò khô được cho là có nguồn gốc từ Nam Mỹ trong những năm 1800. Bộ lạc Quechua, tổ tiên của đế chế Inca cổ đại, đã sản xuất một loại thịt tương tự như thịt bò khô được gọi là ch’arki, hay charqui. Chúng được tạo ra bằng cách thêm muối vào các dải mô cơ của các động vật như hươu, trâu, nai sừng tấm, và phơi khô chúng dưới mặt trời hoặc trên lửa trong thời gian dài. Phương pháp này giúp người dân bảo quản thịt được lâu hơn, dự trữ và dùng khi thực phẩm bị khan hiếm. Bò khô đã trở thành một thực phẩm chính cho cao bồi và những người khai hoang ở Mỹ. Những nhà thám hiểm khi đi khai hoang đã xây dựng những túp lều và hun khói những miếng thịt trên lửa. Một sản phẩm khô bò đúng nghĩa thực sự được ra đời khi chúng được tẩm thêm các gia vị, góp phần tạo nên sự ngon miệng hơn cho món ăn. Vào năm 1996, thịt bò khô là một đối thủ đáng gờm trên thị trường snack với doanh số hàng năm tăng nhanh chóng trên 240 triệu đô la. Thịt và dung dịch ướp là tất cả thành phần cần thiết cho món bò khô. Đầu tiên là thịt, để có miếng khô bò chất lượng, thịt bò phải ngon, có độ nạc hoặc dùng phần thịt bên sườn. Bên cạnh đó, cũng có một số nhà sản xuất sử dụng thịt bò xay để thay thế. Trong hầu hết các trường hợp, cần năm pound (~2,3 kg) thịt để tạo ra một pound (~0,5 kg) bò khô. Trong khi hầu hết sản phẩm đều được làm từ thịt bò, nhưng nhiều loại thịt khác cũng được sử dụng, chẳng hạn như thịt gà. Đây được xem là một sự thay thế lành mạnh hơn cho thịt bò. Tuy nhiên, sản phẩm tạo ra không có được độ dai như thịt bò. Thịt heo cũng là một lựa chọn thay thế khác. Những loại khô này thường có những hương vị khác nhau.Tiếp theo là dung dịch ướp, chúng góp phần tạo nên hương vị đặc trưng hơn cũng như kéo dài được thời hạn sử dụng cho sản phẩm. Ngoài ra, nó cũng tạo ra màu sắc cuối cùng cho khô bò. Bên cạnh đó, dung dịch này cũng có tác dụng kháng khuẩn, ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn có hại. Thành phần cơ bản sẽ bao gồm nước và muối natri nitrit (NaNO2) có tác dụng khử nước cho thịt. Natri nitrit giúp làm chậm sự phát triển của quá trình ôi thiu và ổn định màu. Natri ascorbate cũng có thể được thêm vào nhằm tăng màu hồng cho thịt. Sau đó, dung dịch này sẽ được trộn với gia vị, đường và phosphate. Một số chất tạo hương phổ biến được sử dụng bao gồm nước tương, nước chanh, hạt tiêu, bột ngọt (MSG) hoặc bột tỏi. Một vài loại nước sốt như teriyaki cũng được sử dụng. Các loại đường để cung cấp vị ngọt bao gồm sucrose, dextrose, đường nâu và xi-rô ngô đen. Các loại muối có hương vị như muối hickory hoặc muối hành (onion salt) cũng được thêm vào dung dịch này. Natri phosphate cũng có thể được sử dụng. Ngoài ra, một số nhà sản xuất cũng lựa chọn sử dụng khói lỏng, được tạo ra bằng cách hòa tan khói trong nước. Vật liệu này mang lại cho thịt một hương vị khói mà không cần hun khói trực tiếp khi chế biến. Vì thịt khô bò thường rất dai nên các chất làm mềm như polyphosphate hoặc enzyme papain thường được thêm vào. Tuy nhiên, việc sử dụng các vật liệu này bị hạn chế vì nó làm tăng thời gian cần thiết cho quá trình sấy khô. Khô bò được chế biến bằng thịt bò tươi, ngon nhất là bắp đùi sau của bò. Các gia vị tẩm ướp có thể gồm quế, cam thảo, đinh hương, tiểu hồi, đại hồi, thảo quả, vỏ quýt, ớt, gừng, hạt tiêu, hành, đường trắng, rượu, tỏi v.v. Thịt dùng làm khô bò ngày nay được sấy khô bằng lò lửa để tạo hơi nóng và quạt để hút khí ẩm. Hai yếu tố gió và nhiệt độ nóng làm thịt khô lại trước khi vi khuẩn có cơ hội len lỏi vào làm hư thối thịt. Trước khi sấy, thường thịt phải được lạng bỏ mỡ khỏi phần nạc, vì mỡ khó khô và dễ làm cho sản phẩm chóng hỏng. Ngoài thịt bò, nhiều loại thịt khác cũng có thể dùng làm thịt khô như thịt nai, cá sấu, đà điểu, và cá. Trong 100g khô bò có: Trong thịt bò khô có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng trong đó chủ yếu là protein, có khoảng 27% protein trong thịt nạc bò. Trong thịt bò có nhiều chất béo, có thể dùng thịt bò để cung cấp và tích trữ năng lượng cho cơ thể rất tốt. Vitamin khoáng chất cũng có rất nhiều trong thịt bò, có những chất chủ yếu như: Vitamin B12, Kẽm, Sắt, Selenium, Niacin, Vitamin B6…Những chất này giúp cơ thể duy trì và tăng trưởng cho cơ thể, Vitamin B12 cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng cho sự hình thành máu và chắc năng não bộ cũng như tái tạo hệ thần kinh, Vitamin thuộc nhóm B như Vitamin B6 rất quan trọng trong việc hình thành máu, các khoáng chất còn khác rất tốt cho tim mạch. Khô bò có màu đỏ nâu sẫm, hương thơm đậm đà, độ ngọt mặn vừa phải, dai nhưng không cứng. Tuy là sản phẩm rất thích hợp để nhắm với rượu, khô bò cũng thường được sử dụng như một nguyên liệu chính, kết hợp với đu đủ xanh bào sợi, lạc rang v.v. để làm món nộm bò khô.Khô bò khi ăn với chanh tạo hương vị đậm đà. Khi ăn khô bò thì có những lợi ích như: Duy trì cơ bắp: Thịt bò là nguồn thực phẩm cung cấp rất nhiều protein và các khoáng chất cho cơ thể, giúp cải thiện chức năng các cơ, rất tốt cho những người vận động về cơ bắp nhiều như các vận động viên thể hình. Phòng chống việc thiếu máu: Trong thịt bò có nguồn chất sắt dạng Heme-Iron và được cơ thể hấp thụ rất hiệu quả so với các dạng chất sắt khác, đây cũng là lựa chọn dinh dưỡng số một cho những người bị thiếu máu. Ăn thịt bò thường xuyên có thể ngăn chặn được việc thiếu máu não. Thịt bò còn được các vận động viên dùng trong khẩu phần ăn hàng ngày để có đủ chất dinh dưỡng cho thi đấu hoặc giúp các mô cơ bắp phát triển, tái tạo. Tác động cho sự tăng trưởng và duy trì cơ thể của chúng ta.
Mì ăn liền, hay gọi cách khác là mì tôm (thông dụng trong khẩu ngữ tiếng Việt miền Bắc) là một sản phẩm ngũ cốc ăn liền, dạng khô và được đóng gói cùng gói bột súp, dầu gia vị, nguyên liệu sấy khô,… Gia vị thường được đóng thành từng gói riêng hoặc được rót sẵn chung với vắt mì (mì ly). Khi ăn chỉ cần đổ nước sôi vào hoặc có thể ăn sống. Sản phẩm này đặc trưng bằng việc sử dụng quá trình gelatin hóa sơ bộ và khử nước bằng cách chiên (mì chiên) hoặc sấy (mì không chiên). Nguyên liệu chính tạo nên vắt mỳ là bột lúa mì, dầu dùng để chiên mì là dầu cọ, phối trộn cùng là nước và một số thành phần phụ gia, gia vị khác. Màu vàng của vắt mì được tạo nên từ chiết xuất củ nghệ hoặc chiết xuất trái dành dành, bên cạnh đó E102 cũng được dùng trong hàm lượng cho phép. Các thành phần phổ biến trong gói bột xúp là muối, đường, bột ngọt, hạt nêm… Gói dầu gồm dầu tinh luyện được nấu chung với các gia vị như hành, tỏi, rau om… Mì chiên phổ biến ở Châu Á trong khi mì không chiên lại phổ biến ở các nước phương Tây. Mì ăn liền được phát minh bởi Ando Momofuku, người sáng lập Tập đoàn Nissin Foods tại Nhật Bản. Sản phẩm được ra mắt vào năm 1958 với thương hiệu Chikin Ramen. Năm 1971, Nissin giới thiệu Cup Noodles, sản phẩm mì ly đầu tiên. Mì ăn liền được bán trên thị trường toàn thế giới dưới nhiều thương hiệu. Ramen, một loại mì nước của Nhật Bản, đôi khi được một số nhà sản xuất mì ăn liền Nhật Bản sử dụng làm mô tả cho hương vị mì ăn liền. Nó đã trở thành đồng nghĩa ở Mỹ cho tất cả các sản phẩm mì ăn liền. Do tính linh hoạt của mì ăn liền có thể được dùng thay thế cho các loại mì sợi điển hình. Nó được sử dụng để làm các món ăn như ramen, budae-jjigae (món hầm của quân đội Hàn Quốc) và sao miến (mì xào, 炒麵). Lịch sử của mì ở Trung Quốc có từ nhiều thế kỷ trước và có bằng chứng cho thấy một loại mì được luộc sau đó chiên và dùng trong xúp tương tự như mì chỉ (Yi noodles) có từ thời Trung Quốc cổ đại. Theo truyền thuyết, vào triều đại nhà Thanh, một đầu bếp đã cho mì trứng đã nấu chín vào để luộc. Để cứu chữa món ăn, anh vớt ra và chiên trong dầu nóng và phục vụ chúng như một món xúp. Theo Tạp chí Thực phẩm Dân tộc, bao bì mì ăn liền ban đầu được dán nhãn "mì Yi".Mì ăn liền hiện đại được tạo ra bởi nhà phát minh người Nhật gốc Đài Loan Ando Momofuku ở Nhật Bản. Sản phẩm được đưa ra thị trường lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 8 năm 1958 bởi công ty của Ando, Nissin, dưới tên thương hiệu là Chikin Ramen.Ando đã phát triển toàn bộ phương pháp sản xuất mì chiên nhanh từ quy trình làm mì, hấp, tẩm gia vị, đến khử nước trong nhiệt dầu, tạo ra mì "ăn liền". Điều này làm khô mì và giúp chúng có thời hạn sử dụng lâu hơn, thậm chí vượt cả mì đông lạnh. Mỗi vắt mì đã được tẩm gia vị trước và được bán với giá 35 yên. Mì ăn liền đã sẵn sàng để thưởng thức chỉ sau hai phút bằng cách cho nước sôi vào. Do giá cả và sự mới lạ, Chikin Ramen ban đầu được coi là một mặt hàng xa xỉ, vì các cửa hàng tạp hóa Nhật Bản thường bán mì tươi với giá bằng 1/6. Mặc dù vậy, mì ăn liền cuối cùng đã trở nên phổ biến rộng rãi, đặc biệt là sau khi được quảng cáo bởi Mitsubishi Corporation. Ban đầu trở nên phổ biến trên Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, nơi mà giờ đây chúng đã được gắn chặt vào văn hóa địa phương của các khu vực đó, mì ăn liền cuối cùng đã lan sang và trở nên phổ biến ở hầu hết các nơi khác trên thế giới.Với mối quan tâm về chất lượng tốt hơn, các nhà sản xuất đã cải thiện hơn nữa hương vị của mì ăn liền bằng cách thêm bột hương liệu vào một gói riêng biệt. Năm 1971, Nissin giới thiệu Nissin Cup Noodles, một loại mì ly mà nước sôi được thêm vào để nấu mì. Một sự đổi mới hơn nữa là thêm rau khô vào ly, tạo ra một món xúp hoàn chỉnh. Nó kết hợp các chức năng của vật liệu đóng gói, nồi khi đun nước và bát khi ăn mì. Trước sự gia tăng ý thức về sức khỏe gần đây, nhiều nhà sản xuất đã tung ra mì ăn liền với nhiều công thức chế biến tốt cho sức khỏe: mì với chất xơ và collagen, mì có nguyên liệu thật (tôm, thịt, xúc xích,...), mì chứa ít calo và muối.Theo một cuộc thăm dò tại Nhật Bản vào năm 2000, "Người Nhật tin rằng phát minh tốt nhất của họ trong thế kỷ XX là mì ăn liền." Tính đến năm 2019, khoảng 106,4 tỷ khẩu phần mì ăn liền được ăn trên toàn thế giới mỗi năm. Trung Quốc tiêu thụ 41,45 tỷ gói mì ăn liền mỗi năm - 39% lượng tiêu thụ thế giới, Indonesia - 12,52 tỷ, Ấn Độ - 6,73 tỷ, Nhật Bản - 5,63 tỷ, Việt Nam - 5,43 tỷ. 3 quốc gia tiêu thụ bình quân đầu người hàng đầu là Hàn Quốc - 75,1 khẩu phần, Nepal - 57,6 và Việt Nam - 56,9. Thành phần chính trong mì ăn liền chính là bột lúa mì. Ngoài các thành phần chính, mì ăn liền chứa dầu cọ, các loại gia vị, nước và các thành phần khác. Biết được thành phần của mì ăn liền là rất quan trọng để hiểu được các tính chất vật lý - hóa học của sản phẩm. Do đó, chức năng của từng thành phần được liệt kê ở trên được nêu rõ dưới đây. Thành phần chính trong mì ăn liền là bột lúa mì, tinh bột, nước, muối và/hoặc chất thay thế muối được gọi là kansui, một loại nước khoáng kiềm có chứa natri cacbonat và thường là kali cacbonat, cũng như đôi khi một lượng nhỏ axit photphoric.Các loại mì cụ thể có thể được làm từ hỗn hợp bột mì và các loại bột khác như kiều mạch. Có nhiều biến thể đối với các thành phần được sử dụng tùy thuộc vào quốc gia xuất xứ về hàm lượng muối và hàm lượng bột. Hiện nay, một số công nghệ đã sản xuất được vắt mì có thành phần từ rau củ. Quá trình sản xuất mì bắt đầu bằng việc trộn bột, bột mì và các loại nguyên liệu được trộn đều trong nước để tạo thành một hỗn hợp đồng nhất. Bột được ủ trong một khoảng thời gian, rồi được nhào nặn sau đó. Sau khi nhào, bột sẽ được tạo thành hai tấm, rồi cán thành một tấm bột duy nhất bằng cách được đưa qua hai con lăn quay. Quá trình này được lặp lại để phát triển gluten dễ dàng hơn khi tấm bột mì được đưa qua các con lăn nhiều lần. Điều này sẽ tạo ra kết cấu sợi dai có trong mì ăn liền. Khi mì ở dạng tấm lớn được tạo ra đến độ dày mong muốn bằng cách điều chỉnh khoảng cách trong các cuộn, nó sẽ được cắt thành sợi ngay. Mì gợn sóng được làm trên một băng chuyền có nhịp độ chậm hơn tốc độ dao cắt, tạo cho sợi mì có hình dạng gợn sóng. Nếu các sợi được tạo thành các hình dạng khác, thì gia vị lỏng cũng có thể được thêm vào. Khi sợi mì đã được định hình, chúng có thể sẵn sàng để hấp trong vòng 1-5 phút ở 100 °C (212 °F) để cải thiện kết cấu của nó bằng cách hồ hóa tinh bột của mì. Khi hấp, việc bổ sung nước và nhiệt sẽ phá vỡ cấu trúc xoắn và độ kết tinh của amyloza. Amyloza bắt đầu khuếch tán ra khỏi hạt tinh bột và tạo thành một chất nền gel xung quanh hạt. Năm 1975, Colusa do Công ty thực phẩm Sài Gòn sản xuất là một trong những thương hiệu mì ăn liền đầu tiên tại Việt Nam, sau này được ghép thêm tên Miliket thành Colusa - Miliket (thường gọi là Miliket). Nhắm vào phân khúc giá rẻ, bình dân, đặc biệt là khu vực nông thôn, Miliket có mặt trong gian bếp ở hầu khắp các gia đình. Hình ảnh hai con tôm chụm đầu vào nhau in ngoài bao bì đã trở thành biểu tượng, thành thói quen in vào trong nếp sống hằng ngày của mỗi người dân. Trên vỏ gói mì in hình bao nhiêu con tôm thì người ta gọi tên theo từng ấy con. Bởi vậy mới có mì hai tôm, mì bốn tôm (mì ký - bán theo kg với hình ảnh bốn con tôm trên mỗi túi 1 ký). Khởi nguồn hình thành nên danh từ "mì tôm" tại Việt Nam, thương hiệu mì ăn liền Colusa - Miliket với biểu tượng hai con tôm đã trở thành một mảnh ký ức của thế hệ những người sinh ra, trưởng thành trong giai đoạn thập niên 80 - 90 thế kỷ trước.Trong tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có đoạn: "Hồi đó, tôi chỉ thích có ba món: mì gói, mì gói và dĩ nhiên mì gói. Là cái thứ mà nếu bắt gặp tôi ôm trong người thế nào mẹ tôi cũng giằng khỏi tay tôi, kể cả bằng biện pháp bạo lực hoàn toàn trái với bản tính hiền lành của bà. Tóm lại, muốn ăn mì gói tôi phải trốn qua nhà con Tí sún, nhờ nó nấu giùm. Gọi nấu mì là gọi cho oai, chứ thực ra chỉ là nấu một ấm nước sôi. Con Tí sún chỉ bỏ mì vô tô, sau đó bỏ thêm các bịch gia vị có sẵn rồi chế nước sôi vào". Tên gọi "mì ăn liền" ngoài việc chỉ một sản phẩm thực phẩm thì ở Việt Nam còn được dùng để chỉ về những bộ phim, ca khúc được công diễn mà không có nhiều giá trị nghệ thuật, dấu ấn trong lòng khán giả, những bộ phim, ca khúc chạy theo doanh thu, thời vụ và không có sức sống, sức ảnh hưởng lâu dài. Đây là tên gọi có tính phê bình.Không chỉ dùng để châm biếm những bộ phim, ca khúc kém chất lượng mà tên gọi "mì ăn liền" còn dùng để chỉ những người không chịu chủ động, dấn thân, muốn những cái xài được liền và có kết quả tức thì mà không muốn hoặc không cần đào tạo bài bản.
Cua Cà Mau hay Cua xanh (danh pháp hai phần: Scylla paramamosain) là một loài cua biển, nói chung được sử dụng phổ biến làm thực phẩm tại Đài Loan và Việt Nam. Loài cua này nguyên được phát hiện tại lưu vực cửa sông Mê Kông, nhưng hiện nay được nuôi trong các trang trại nuôi trồng thủy hải sản tại miền Nam Việt Nam. Cua Cà Mau cũng thường được thấy ở các khu vực sông nước như Cà Mau, Vũng Tàu,... với kích thước nhỏ tầm khoảng 10–15 cm (cua trưởng thành). Còn về cua con thì rất nhỏ chỉ tầm vài milimét. Cua xanh là một loại thực phẩm có giá trị kinh tế của Việt Nam, mang lại cho Việt Nam khá nhiều lợi ích như giúp cân bằng hệ sinh thái, làm thực phẩm, xuất nhập khẩu. "Con mồi" của cua thường là các sinh vật nhỏ ở trong nước hay là các loài giáp xác nhỏ như tôm, cá,... Tuy cua xanh khá nhỏ nhưng đôi càng của nó rất to và chắc, có thể kẹp đứt các loài có lớp vỏ cứng như tôm. Những năm đầu giải phóng, vùng đất ngâp mặn ven biển của Cà Mau đa phần còn hoang hóa, ít bóng người nên cua biển cùng với nhiều loài thủy sản khác ở Cà Mau thì nhiều vô số kể. Vào những ngày nước rong (khoảng thời gian rằm và 30 âm lịch hàng tháng) thì cua, tôm, cá kèo… cứ đua nhau đi gần như đặc những tuyến sống. Thời ấy, những ông chủ hàng đáy sau khi đổ đục thì lúc nào cũng có 4 đến 10 cần xé (loại từ 50 đến 100 kg) cua. Cua lớn có, cua nhỏ có. Chủ hàng đáy chỉ bắt những loại cua gạch son để bán cho được giá, còn những loại cua ốp (ít gạch) hoặc cua nhèm (cua nhỏ) thì đập chết để chúng khỏi đi vào hàng đáy nữa hoặc cứ đổ bỏ xuống sông. Cua biển con phần lớn được sinh sản ngoài cửa biển rồi theo con nước, cua lần vào các nhánh sông, rạch, ao, đầm thuộc vùng nước mặn, lợ để đào hang sinh sống, trú ngụ. Ngoài việc đóng đáy, ngư dân còn giăng câu, đặt rập, đào hang để bắt cua. Cua thiên nhiên nhiều nhất ở vùng rừng ngập mặn Cà Mau. Khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 âm lịch hàng năm là mua cua hội, cua tìm đến bạn tình để trao duyên. Thời điểm này cua rất ngon, đầy gạch và chắc thịt. Hiện nay, cua biển trong thiên nhiên ở Cà Mau đã giảm sút nghiêm trọng do áp lực gia tăng dân số và sự tàn phá, săn bắt của con người. Do đó, phần lớn cua biển ở Cà Mau được nuôi kết hợp trong các ao đầm nuôi tôm quảng canh hoặc nuôi tập trung theo mô hình quảng canh cải tiến, thả mồi cho cua ăn và chờ đến ngày cua lớn thì tiến hành thu hoạch. Trong đó, ao đầm nuôi cua ở Cà Mau là vùng đất bãi bồi ven biển, phù sa giàu khoáng chất, sinh vật biển rất phát triển nên nguồn thức ăn cho cua biển rất dồi dào. Nhờ được nuôi trong môi trường tự nhiên nên cua vận động nhiều, thịt săn chắc, không nhiễm độc hay bị bơm chích tạp chất. Thịt cua biển Cà Mau vừa chắc, vừa thơm, vừa ngọt, vừa bùi và gạch cua thì béo ngậy không chê vào đâu được. Cua biển Cà Mau còn là một loại thực phẩm tươi sống, là món ăn bổ dưỡng cho cả người lớn và trẻ em. Cua biển còn chữa được một số bệnh như thiếu can xi, còi xương, suy dinh dưỡng... Cua biển Cà Mau được xem loại cua biển là ngon nhất nước bởi hàm lượng mỡ thấp, protein cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Do đó, nhiều nhà hàng, quán ăn hải sản nào tại các thành phố lớn trong cả nước dù bán cua biển nơi đâu, hay ở xứ nào cũng đều quảng cáo là cua biển Cà Mau. Hiện nay, cua biển Cà Mau không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore. Cua biển Cà Mau có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon và hấp dẫn như cua nướng, cua luộc, rang muối, rang me, nấu bánh canh, lẩu riêu… Tùy thuộc vào cách chế biến của từng món ăn mà chọn cua cho phù hợp. Tuy nhiên, cua gạch son thì chế biến vào bất kỳ món ăn nào cũng ngon và hấp dẫn. Ngon nhất có lẽ có dùng để nấu bánh canh, luộc, nướng mọi, rang muối, rang me. Cua biển có nhiều loại. Cua gạch (cua đã vào giai đoạn sinh sản), cua cốm (cua 2 da - cua sắp lột), cua càng trắng, cua càng đỏ, cua càng sen, cua yếm vuông (còn gọi là cua trinh nữ - cua cái nhưng chưa có cua đực ôm, chưa được giao phối).
Bánh mì cá sấu là một loại bánh mì có xuất xứ từ thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. Đúng với tên gọi, bánh có hình dáng của một con cá sấu và dài 60 cm, nặng 1,5–2 kg. Kể từ khi ra mắt, món ăn đã gây sốt trên mạng xã hội nhờ ngoại hình độc đáo, đồng thời còn gặt hái được rất nhiều đánh giá tích cực từ thực khách tiêu dùng. Từ giữa năm 2020, hình ảnh chiếc bánh mì có hình dạng cá sấu đã trở nên phổ biến trên mạng xã hội. Theo chủ nhân của chiếc bánh, ý tưởng làm bánh mì với tạo hình cá sấu đến khá ngẫu nhiên. Trong một lần làm bánh, anh tiện tay khắc vảy hình lên ổ bánh mì nhưng lại ra lớp vảy giống cá sấu. Thế là anh bắt đầu nhào bột để nặn thêm các bộ phận khác như bốn chân, đầu, mắt... rồi đem đi trưng bày trong tủ kính cho đẹp mắt, thu hút thực khách tới quán bánh mì. Tuy nhiên, loại bánh này lại được rất nhiều người hỏi mua, sau đó họ truyền tay nhau chia sẻ lên mạng xã hội. Do đó, anh quyết định bổ sung loại bánh này vào thực đơn của quán và gia tăng số lượng để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Hiện nay, các tiệm bánh ở nhiều nơi cũng áp dụng phương pháp trên để chế biến món bánh. Bột mì là nguyên liệu chính để làm nên món bánh này. Lượng bột của món ăn nhiều gấp 20 lần so với các loại bánh mì khác. Cụ thể, cần phải sử dụng đến 2 kg bột để tạo hình, nhưng khi nướng chín thì trọng lượng chỉ còn khoảng 1,5 kg.Công đoạn làm bánh mì cá sấu cũng phức tạp và tốn nhiều thời gian. Đầu tiên, người làm bánh sẽ tạo hình, ráp chân, sau đó ủ bột từ một đến hai tiếng để nở to. Tiếp theo mới khắc vẩy, đem vào lò nướng hơn 30 phút mới cho ra lò, rồi rắc mè, quét lên bánh một lớp bơ sầu riêng. Do bánh có kích thước lớn nên mỗi mẻ chỉ cho ra sáu chiếc. Bánh phải ăn nóng mới giòn, ngon và thơm. Sau khi ra mắt, bánh mì cá sấu đã trở thành tâm điểm chú ý của cư dân mạng. Nhiều người bắt đầu cảm thấy tò mò, thích thú và tìm đến tận lò bánh để chứng kiến, mua thưởng thức. Bánh chủ yếu được đặt trước và hẹn giờ đến lấy, tuy nhiên do kích thước to nên việc chở về cũng gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, nhiều người còn hài hước cho rằng bánh có hình dáng giống con thạch sùng.
Panulirus argus, tôm hùm gai Caribbe, là một loài tôm hùm gai sinh sống ở đầm lầy rừng ngập mặn ở tây Đại Tây Dương. Các cá thể có thể được tìm thấy ở độ sâu tới 100 m từ Rio de Janeiro, Brazil đến Beaufort, Bắc Carolina, gồm cả Biển Caribbean, Bahamas và Bermuda,với các báo cáo thường xuyên từ Tây Phi. Mặc dù phạm vi phân bố của chúng trong khắp vịnh Mexico, trong các phần phía bắc của vịnh chúng thường chỉ được tìm thấy ở độ sâu 33 m và sâu hơn do biến đổi theo mùa ở nhiệt độ nước. Xung quanh phần phía nam của bán đảo Florida và trong suốt Bahamas và Caribbean, chúng được tìm thấy trong vùng nước nông. Chúng thường thích môi trường sống có một lớp che chở có thể được tìm thấy xung quanh các rạn san hô, rạn nhân tạo, bọt biển, cọc cầu, cản cầu gỗ, cầu tàu, và dưới rễ prop của rừng ngập mặn. == Chú thích ==
Nước dùng hay còn được gọi là nước xuýt,nước lèo hay Canh là một chất lỏng nấu ăn ngon tạo thành nền tảng của nhiều món ăn, đặc biệt là súp, món hầm và nước sốt. Làm nước dùng bao gồm hầm thịt hoặc xương động vật, hải sản, rau hoặc rượu trong nước, thường trong một thời gian dài. Mirepoix hoặc các chất thơm khác có thể được thêm vào để có thêm hương vị. Theo truyền thống, nước dùng được làm bằng xương động vật được đun sôi trong nồi nấu để chiết xuất hương vị và chất dinh dưỡng. Xương có thể có hoặc không có thịt vẫn còn trên chúng. Xương nướng được sử dụng để thêm một màu đậm hơn và hương vị caramel. Lòng trắng trứng có thể được thêm vào trong quá trình đun sôi khi cần làm rõ (nghĩa là làm sạch hoặc tinh chế nước dùng để trình bày sạch hơn). Lòng trắng trứng sẽ đông lại, giữ cặn và độ đục thành một khối dễ căng thẳng. Không cho phép chuẩn bị ban đầu để đun sôi sẽ làm tăng sự rõ ràng. Theo truyền thống, nước dùng được thực hiện bằng cách đun sôi các thành phần khác nhau trong nước. Một cách tiếp cận mới hơn là sử dụng nồi áp suất. Các thành phần có thể bao gồm một số hoặc tất cả những điều sau đây: Xương: Xương bò và xương gà được sử dụng phổ biến nhất; cá cũng là phổ biến. Hương vị của nước cốt đến từ tủy xương, sụn và các mô liên kết khác. Mô liên kết có chứa collagen, được chuyển thành gelatin làm đặc chất lỏng. Nước cốt làm từ xương cần phải được đun sôi trong thời gian dài; phương pháp nấu áp lực rút ngắn thời gian cần thiết để trích xuất hương vị từ xương. Thịt: Thịt nấu chín vẫn còn dính vào xương cũng được sử dụng như một thành phần, đặc biệt là với thịt gà. Cắt thịt với một lượng lớn mô liên kết, chẳng hạn như cắt vai, cũng được sử dụng. Mirepoix: Mirepoix là sự kết hợp của hành tây, cà rốt, cần tây và đôi khi các loại rau khác được thêm vào để tăng hương vị cho món kho. Đôi khi, các phần ít mong muốn của các loại rau có thể không được ăn (như vỏ cà rốt và lõi cần tây và lá) được sử dụng, vì các chất rắn được loại bỏ khỏi kho. Các loại thảo mộc và gia vị: Các loại thảo mộc và gia vị được sử dụng phụ thuộc vào tính sẵn có và truyền thống địa phương. Trong ẩm thực cổ điển, việc sử dụng một bó hoa garni (hoặc túi thảo mộc) bao gồm rau mùi tây, lá nguyệt quế, một nhánh húng tây, và có thể các loại thảo mộc khác, là phổ biến. Điều này thường được đặt trong một gói để làm cho nó dễ dàng hơn để loại bỏ một khi kho được nấu chín. Nước dùng cơ bản thường được đặt tên cho loại thịt chính. Một sự khác biệt thường được thực hiện giữa fond blanc, hoặc nước dùng trắng, được tạo ra bằng cách sử dụng xương sống và mirepoix, và brun brond, hoặc nước dùng nâu, có màu của nó bằng cách rang xương và mirepoix trước khi đun sôi; xương cũng có thể được phủ trong bột cà chua trước khi rang. Thịt gà được sử dụng phổ biến nhất cho fond blanc, trong khi thịt bò hoặc thịt bê được sử dụng phổ biến nhất trong fond brun. Các loại khác bao gồm: Dashi là nước dùng cá trong nấu ăn Nhật Bản được làm bằng cách nấu nhanh những miếng cá gọi là katsuobushi với tảo bẹ trong nước gần như sôi. Glace viande là một loại nước cốt, thường được làm từ thịt bê, được cô đặc cao bằng cách giảm. Nước dùng thịt nguội, phổ biến trong nấu ăn Cajun, được làm từ thịt giăm bông. Nước dùng Master là một loại nước dùng của Trung Quốc được sử dụng chủ yếu cho các loại thịt săn trộm, có hương vị với nước tương, đường, gừng, tỏi và các chất thơm khác. Nước dùng tôm được làm từ vỏ tôm đang sôi. Nó được sử dụng trong các món ăn Đông Nam Á như laksa. Remouillage là một thứ hai được làm từ cùng một bộ xương. Rất nhiều đầu bếp và nhà ẩm thực dùng khái niệm nước dùng và nước cốt hoán đổi cho nhau. Vào năm 1974, James Beard viết rằng nước dùng, nước cốt và bouillon "tất cả là những thứ giống nhau". Trong khi có rất nhiều người chỉ ra điểm khác biệt giữa nước dùng và nước cốt, chi tiết của những điểm khác biệt thường khác nhau. Một khả năng là nước cốt được làm chính từ xương động vật, khác với thịt, và vì thế chứa nhiều gelatin, làm cho chúng đặc hơn. Một điểm khác biệt khác thường được nhắc đến là nước cốt được nấu lâu hơn nước dùng và vì thế có vị đậm hơn. Một điểm khác biệt thứ ba là nước cốt được để lại chưa nêm gia vị để dùng trong nhiều công thức và nước dùng được nêm gia vị và có thể ăn không.Tại Anh, "nước dùng" nghĩa là chất lỏng trong canh súp gồm các miếng thịt, cá, hay rau củ cứng, còn "nước cốt" nghĩa là nước chính để làm canh súp. Theo nghĩa này, truyền thống, nước cốt chứa một dạng thịt hay cá nào đấy; Tuy nhiên, hiện nay chấp nhận được để chỉ nước luộc rau củ là một loại nước cốt. Tại Việt Nam, đa số người dân đều nói rằng nước dùng được làm trực tiếp từ xương và nước dùng là nước dùng pha thêm những thứ khác. Escoffier, Auguste (1903). Le Guide culinaire. Aide mémoire de cuisine pratique. Paris, France: Flammarion. Escoffier, A (1941). The Escoffier Cook Book. New York: Crown Publishers. Fannie Merritt Farmer (1896). The Boston Cooking-School Cook Book. Boston, Massachusetts: Little, Brown and Company. Beck, Simone; Louisette Bertholle; Julia Child (1961). Mastering the Art of French Cooking. New York: Alfred A. Knopf.
Borsch (còn gọi là borscht, bortsch, borstch, borsh, borshch; tiếng Ukraina: борщ) là một món súp có nguồn gốc ở Ukraina, phổ biến ở nhiều quốc gia Đông và Trung Âu. Ở phần lớn các nước, củ dền là thành phần chính cho món ăn này khiến cho nó có màu đỏ tía. Ở một số nước, cà chua mới là thành phần chính còn củ dền là nguyên liệu thứ hai. Riêng ở Nga thì củ cải đỏ mới là nguyên liệu chính và đây là một món khai vị cho bữa tiệc. Món súp Borsch được ăn kèm với bánh mì đen. == Tham khảo ==
AFC là một loại bánh quy cracker do công ty cổ phần Mondelez Kinh Đô phát triển và sản xuất. Bánh có nhiều hương vị khác nhau như: tảo biển, lúa mì, rau, bò bít tết, phô mai, trà xanh. Được sản xuất tại Việt Nam, loại bánh này không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Loại túi: 300g Loại hộp giấy: 200g Loại hộp giây: 100g Loại hộp Mini: 60g == Tham khảo ==
Bánh mì dẹt (Flatbread) là một loại bánh mì dạng dẹt (bẹt) làm bằng bột mì, nước, sữa, sữa chua hoặc các loại chất lỏng khác và muối, sau đó cán kỹ thành bột dẹt và mỏng hoặc dày tùy loại. Nhiều loại bánh mì dẹt không men, mặc dù một số loại có men, chẳng hạn như bánh pizza và bánh mì pita. Bánh mì dẹt có độ dày từ dưới một milimet đến vài centimet để có thể dễ dàng ăn mà không cần cắt lát. Chúng có thể được nướng trong lò, chiên trong dầu nóng, nướng trên than nóng, nấu trên chảo nóng, hoặc vỉ nướng kim loại, hoặc nướng trong lò đất (tandir) và sẽ ăn ngay hoặc đóng gói và đông lạnh để sử dụng sau. Bánh mì dẹt là một trong những thực phẩm thiết yếu ở vùng Trung Đông-Bắc Phi và vùng Nam Á. Bánh mì dẹt là một trong những thực phẩm chế biến sớm nhất và bằng chứng về việc sản xuất chúng đã được tìm thấy tại các địa điểm cổ đại ở Lưỡng Hà (Mesopotamia), Ai Cập cổ đại và nền văn minh sông Ấn (Indus). Vào năm 2018, những mẩu bánh mì cháy thành than đã được tìm thấy tại một địa điểm Natufian có tên là Shubayqa 1 ở Jordan (ở Harrat ash Shaam, Sa mạc Đen) có niên đại khoảng 12.400 TCN tức khoảng 4.000 năm trước khi bắt đầu của nông nghiệp trong khu vực. Phân tích cho thấy rằng chúng có thể là từ bánh mì dẹt chứa lúa mạch, lúa mì, yến mạch và Bolboschoenus glaucus (một loại cây bấc). Lò đất sét nguyên thủy (tandir) được sử dụng để nướng bánh mì dẹt không men đã phổ biến ở Anatolia trong thời kỳ Seljuk và Ottoman và đã được tìm thấy tại các địa điểm khảo cổ phân bố khắp Trung Đông. Ngày nay, văn hóa của cách nướng bánh mì truyền thống đang thay đổi với thế hệ trẻ, đặc biệt là với những người sống ở các thị trấn ưa thích những tiện nghi hiện đại Aloo paratha Akki rotti Appam Bakarkhani Bhakri Bhatura Chapati Chili parotha Chikkolee Dhebra Dosa Gobi paratha Jolada rotti Kalai roti Kaak Kachori Kothu parotta Kulcha Luchi Makki di roti Mughlai paratha Pathiri Naan Paratha Parotta Pesarattu Phulka Poli Pol roti Puri Ragi rotti Paan Roti Rumali roti Sheermal Taftan Nan Bolani Obi Non Shelpek Tandoor-nan Tapansha Taba nan Barbari Bataw Bazlama Chapati Eish merahrah Gözleme Gurassa Harcha Injera Khebz Khubz Khubz Asmr Khubz al-Jamri Kisra Lahoh Lavash Malooga Markook Matnakash Matzo Mulawah M'lawi Murr Muufo Ngome Pita Pogača Sabaayad Saj Sangak Taftan Yufka Taboon Bánh Thánh Pizza Tortilla Bánh hành
Rượu Phú Lễ là một loại rượu nổi tiếng của tỉnh Bến Tre. Cùng với rượu Xuân Thạnh (Trà Vinh), rượu Gò Đen (Long An) là các danh tửu của Nam Bộ. Rượu Phú Lễ có vị rượu nồng đậm, thơm ngon và nặng đô. Rượu Phú Lễ được sản xuất từ ấp Phú Lợi, xã Phú Lễ -Một xã thuần nông, đất đai nơi đây trù phú, mênh mông. Xã Phú Lễ còn nổi tiếng với nghề đan lát, chiến khu Lạc Địa và ngôi đình 180 tuổi. Rượu Phú Lễ thơm ngon là nhờ men, nước giếng làng, nếp trồng trên chính vùng đất này và đặc biệt là nhờ ủ nếp trong những cái tỉn đã có hằng trăm năm. Hiện nay Rượu Phú Lễ được người dân phát triển mạnh mẽ, đặc biệt được ở các xã Phú Lễ, Phú Ngãi, Bảo Thạnh, Bảo Thuận. Tên Rượu Phú Lễ là tên chung nên được nhiều Doanh nghiệp đặc tên như Rượu Phú Lễ Ba Tri ở xã Phú Lễ, Rượu Tiến Vua ở Xã Bảo Thuận... Người dân còn kết hợp với dừa Bến Tre tạo la rượu dừa, rượu nước dừa
Spätzle [ˈʃpɛtslə] ( nghe) (tiếng Schwäbisch số nhiều của Spatz nhỏ, như vậy nghĩa đen: các con chim sẻ nhỏ), hay Spätzli hoặc Chnöpfli ở Thụy Sĩ Knöpfle hay tiếng Hungary Nokedli, Csipetke hay Galuska) là một mì trứng mềm được dùng trong thực phẩm ở Nam Đức và Áo, Thụy Sĩ, Hungary, Alsace, Moselle và Nam Tyrol.
Chi Dẻ Trùng Khánh (danh pháp khoa học là Castanea), là chi thực vật thuộc họ Fagaceae, chi này gồm có 8-9 loài, chủ yếu là các loài rụng lá, hoặc là cây bụi. Chúng chủ yếu phân bố ở khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Quả của các loài này đều có chứa nhiều tinh bột, có thể ăn được. Trong chi này có 4 loài dẻ phổ biến, đó là: dẻ Nhật Bản, dẻ Trung Quốc, dẻ châu Âu (dẻ thơm), dẻ châu Mỹ: Castanea alnifolia* Castanea crenata - Dẻ Nhật Bản Castanea dentata - Dẻ châu Mỹ Castanea henryi Castanea mollissima - Dẻ Trùng Khánh Castanea ozarkensis Castanea pumila Castanea sativa: Dẻ thơm (ở Mỹ thường gọi là dẻ Tây Ban Nha) trong chi này là loài duy nhất ở châu Âu. Castanea seguinii* một số nhà khoa học xem loài này và loài Castanea pumila là một
Shirouo còn được gọi là odorigui (踊り食い), trong tiếng Nhật có nghĩa là “nhảy múa” khi được ăn hay còn gọi đầy đủ là Shirouo no odorigui là một món ăn trong ẩm thực Nhật Bản được chế biến từ những con cá hoặc hải sản còn sống. Đây là tên của những con cá non trong suốt. Những con cá rất nhỏ, những con cá nhíu (cá bống băng có tên khoa học là Leucopsarion petersii), chúng trong suốt được thả trong những chiếc bát, sau đó được bày ra đĩa và ăn sống. Cái thú khi thưởng thức shirouo Nhật Bản là cảm nhận những con cá nhỏ ngọ nguậy trong miệng. Do đặc trưng của món là ăn sống nên cách thưởng thức cũng có phần đặc biệt. Những chú cá trong suốt ấy được đựng trong một bát lớn có chứa ít nước. Người ta chuẩn bị thêm một quả trứng và chút giấm. Khi ăn, thực khách đập quả trứng vào cốc và trộn với một chút giấm. Giấm trộn vào shirouo để làm xót, khiến cá "nhảy múa" mạnh hơn bình thường, tạo cảm giác nhiều hơn cho người thưởng thức. Có lẽ, chính điều đó tăng cảm giác hứng thú cho người thưởng thức. Điều thú vị của món Shirouo no odorigui là khi ăn, những con cá sẽ nhảy hoặc ngó ngoáy trong miệng. Nhưng cũng chính vì cá còn sống và vẫn còn khả năng ngoe nguẩy như vậy mà nhiều người phải vội vàng nuốt chửng khi đưa vào miệng. Nhiều thực khách có thói quen nhai những con cá nhỏ và cũng nhiều thực khách nuốt chúng khi còn sống, sau đó đùa rằng chúng đang bơi trong dạ dày. Đó là điều độc đáo riêng của món shirouo và cũng là lý do để người Nhật thưởng rượu shochu kèm với món cá hấp dẫn. Cá shirouo chỉ có vào mùa xuân, do vậy khi người Nhật sử dụng món ăn này cũng là lúc báo hiệu mùa đông lạnh giá kết thúc. Ở Nhật Bản, có nhiều nhà hàng có món ăn này và chỉ hoạt động trong mùa có cá shirouo. Những nhà hàng này dường như chỉ tồn tại như mùa xuân và sẽ được tháo dỡ vào cuối mùa shirouo hằng năm.
Kẹo bọc táo (tiếng Anh: Candy apple, caramel apple, toffee apple) là một thực phẩm kết hợp trái cây và chất tạo ngọt thịnh hành tại Mỹ. Theo nguồn tin chưa được kiểm chứng, kẹo bọc táo do một thợ kẹo tên William W. Kolb ở New Jersey chế ra năm 1908 nhằm phục vụ thực khách nhân lễ Giáng Sinh. Chỉ trong chưa đầy năm, những chiếc kẹo 5 xu này đã đem về cho ông lợi nhuận gấp ngàn lần số vốn ban đầu, và kể từ đó trở thành ẩm thực truyền thống tại các tụ điểm giải trí công cộng Mỹ. Chiếc kẹo bọc táo nguyên thủy chỉ nhằm mục đích tận dụng số táo xanh bị ế sau mỗi vụ thu hoạch (tương ứng mùa thu tại Bắc Mỹ). Người thợ gọt sạch vỏ rồi cắm trái táo trên đầu que, sau đó nhúng táo vào đường đun lỏng (trắng hoặc nâu). Tuy nhiên, phương pháp này khiến tuổi thọ kẹo rất ngắn (độ 1-2 tiếng), nên về sau người ta cải tiến bằng cách gia cố độ bám của chất tạo ngọt. Kẹo tự bấy là hỗn hợp đường, sữa ngô, quế và chút nước, ngoài ra còn được pha thêm phẩm đỏ để làm đượm mắt và có giá trị thương mại hơn. Vì thế, khi thành sản phẩm, kẹo bọc táo có hình thù như trái táo chín đỏ au. Ở một số thành thị lớn Bắc Mỹ, thợ thường nhúng kẹo vào caramel và đậu phộng băm nhỏ để tăng độ ngậy, khiến chiếc kẹo ban đầu ăn thấy bùi, sau là ngọt và cuối cùng thì lại chua thanh. Tại Mỹ, kẹo bọc táo cùng kẹo hột đậu và bánh táo được coi là quốc hồn quốc túy không thể thiếu trong các dịp lễ hội, đồng thời là món khoái khẩu nhất của trẻ em. Sự thưởng thức kẹo bọc táo được coi là lý tưởng nhất khi dùng kèm kem lạnh hoặc nước cola. Cho tới ngày nay, kẹo bọc táo trở thành một trong những thực phẩm phổ biến nhất trong cộng đồng Anh ngữ và xuất hiện rất nhiều biến thể. Trong phim truyền hình Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, chú bé Willie Oleson (Jonathan Gilbert) thường xuyên bị sâu răng vì được mẹ - bà Harriett - nuông chiều bằng những chiếc kẹo bọc táo mà bà làm cho cậu nhấm nháp sau mỗi buổi tan học.
Carpaccio là một món ăn xuất xứ từ Ý, nhưng cũng rất phổ biến ở các nước lân cận như Pháp và Tây Ban Nha. Người ta thái thật mỏng (khoảng 1 mm) thịt bò sống, cá sống... và rưới dầu ô liu cùng một chút chanh, để vào tủ lạnh và lấy ra ăn thật lạnh. Carpaccio bò và carpaccio cá hồi là những dạng thường hay thấy nhất trong các nhà hàng ở châu Âu, nhất là vào mùa hè vì khí hậu oi bức thích hợp với những món ăn nhẹ nhàng. Carpaccio là tên gọi quốc tế một món ăn truyền thống của Ý với nguyên liệu là thịt sống. Cái tên được đặt cho món ăn này lần đầu tiên tại Venice, vào thời điểm diễn ra cuộc triển lãm tưởng nhớ họa sĩ người Venice Vittore Carpaccio vào khoảng năm 1950. Món ăn này, dựa trên một đặc sản của vùng Piemonte có tên Carne cruda all'Albese (tiếng Ý: thịt sống Alba), do chủ quán Harry's Bar ở Venice là Giuseppe Cipriani sáng tạo ra và phổ biến. Ban đầu ông chế biến món ăn này nhằm để phục vụ cho nữ bá tước Amalia Nani Mocenigo khi ông biết rằng bác sĩ khuyên bà nên ăn thịt sống . Món ăn mang tên họa sĩ người Venice Vittore Carpaccio vì tông màu chính trong các tác phẩm của người họa sĩ này là đỏ và trắng . Carpaccio truyền thống của Piemonte là những lát thịt bò thái rất mỏng được bày trên đĩa cùng với nước ướp thịt được làm từ chanh, dầu ô liu và những lát nấm cục trắng hoặc pho mát Parmesan, có thể có cải lông phủ lên trên cùng. Thịt dùng để chế biến Carpaccio thường là thịt bò thăn, khi thái mỏng thì hương vị thơm ngon hơn là thịt bò phi lê. Vì món ăn sử dụng thịt sống nên thịt phải đảm bảo vệ sinh. == Chú thích ==
Dầu hào là một loại nước sốt được chế biến bằng cách chế biến hàu. Được dùng phổ biến nhất hiện nay là một thứ gia vị màu nâu sẫm nhớt làm từ đường,muối và nước với bột ngô,có mùi vị tinh chất hoặc chiết xuất từ loài hàu. Một số phiên bản có thể tối sẫm như màu caramel, mặc dù dầu hào chất lượng cao tối sẫm tự nhiên. Thường được dùng trong các món ăn Quảng Đông, Thái, Việt và Khmer. == Tham khảo ==
Đậu phụ (tiếng Trung: 豆腐, âm pinyin: dòufu, âm Hán Việt: đậu hũ (phương ngữ Nam Bộ: đậu hủ)) là một món ăn được làm từ đậu nành phổ biến ở các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. Đậu phụ được cho là có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo nghiên cứu, trong đậu nành có đầy đủ các amino acid thiết yếu, do đó là loại thực phẩm đạm hoàn chỉnh. Vì vậy, đậu hũ được làm từ đậu nành cũng có khả năng cung cấp đầy đủ các amino acid thiết yếu cho cơ thể. Mặc dù có rất nhiều tác dụng tốt cho cơ thể, nhưng khi ăn cũng phải để ý do nguyên liệu là đậu nành, có chứa chất paponin chất này bài tiết Iod trong cơ thể, nếu ăn nhiều trong một thời gian dài thì rất dễ dẫn đến thiếu Iod.
Trong ẩm thực, xốt là dạng lỏng, dạng kem hoặc bán đặc được phục vụ trực tiếp hoặc dùng chế biến các món ăn khác. Xốt thường không dùng riêng mà dùng để thêm hương vị, độ ẩm và vẻ đẹp cho món ăn. Từ xốt trong tiếng Việt bắt nguồn từ chữ Sauce trong tiếng Pháp lấy từ chữ tiếng Latin là salsa, nghĩa là được muối (thực phẩm). Công thức làm xốt lâu đời nhất được ghi nhận là garum, món xốt cá được người Hy Lạp cổ sử dụng. Xốt cần có thành phần lỏng, nhưng một số xốt (ví dụ như xốt "pico de gallo salsa" hay chutney) có thể chứa nhiều thành phần đặc hơn là lỏng. Xốt là yếu tố thiết yếu trong các nền ẩm thực khắp thế giới. Xốt có thể dùng cho món mặn hoặc ngọt đều được. Chúng có thể được chuẩn bị trước và dọn ra ăn lạnh, ví dụ như mayonnaise hoặc xốt táo tây, để lạnh nhưng làm ấm khi dọn ra như xốt pesto, nấu nóng như xốt bechamel và dọn ra ăn lúc ấm. Vài loại xốt là các phát minh công nghiệp như xốt Worcestershire, xốt HP, hay ngày nay nhiều loại cũng hầu hết được mua dưới dạng làm sẵn như nước tương hay tương cà, một số vẫn được các đầu bếp tự tay làm. Có rất nhiều loại xốt làm từ cà chua (như xốt cà ketchup và xốt cà chua), các loại rau củ khác và nhiều gia vị. Dù từ 'ketchup' bản thân thường chỉ tới một loại xốt cà chua, nó cũng được dùng chỉ xốt làm từ các loại rau củ hoặc trái cây khác. Một loại xốt có thể có vị ngọt, nóng hoặc lạnh, để ăn kèm và tô điểm cho món tráng miệng. Một loại xốt khác làm từ trái cây hầm, thường được lọc kỹ để bỏ vỏ và xơ và thường được nêm ngọt. Một số ví dụ cho loại này là xốt táo tây và xốt nam việt quất, thường ăn với những loại thức ăn đặc trưng khác (nước xốt táo với thịt heo, giăm bông, hoặc bánh khoai tây; nước xốt nam việt quất ăn với thịt gia cầm) hoặc phục vụ như món tráng miệng. Corriher, Shirley (1997). “Ch. 4: sauce sense”. Cookwise, the Hows and Whys of Successful Cooking (ấn bản 1). New York: William Morrow & Company, Inc. tr. 524. ISBN 0688102298. Murdoch (2004) Essential Seafood Cookbook xốt hải sản, trang 128–143. Murdoch Books. ISBN 9781740454124
Motoyaki là một phong cách nấu ăn với phương pháp chế biến hải sản bằng cách nướng và phủ sốt mayonnaise, sau đó món ăn sẽ được bài trí trong vỏ hàu. Món này thường có sẵn trong các nhà hàng Nhật Bản trên bờ biển Thái Bình Dương của Canada. Motoyaki có hai biến thể chính là Motoyaki hàu và Motoyaki tôm hùm. Trong ẩm thực Nhật Bản, có một loại nước sốt có tên là tamagonomoto (卵の素?) (hoặc tamagonomoto (玉子の素?) / tamamoto (玉素?) ) được chế biến bằng cách trộn lòng đỏ trứng và dầu vào nhau và đánh lên giống như sốt mayonnaise, chỉ khác là không có giấm trong nguyên liệu chế biến. Ngoài ra, một số biến thể cũng cho thêm miso hoặc nước tương . Món ăn được nướng và phủ sốt lên trên được gọi là moto-yaki (もと焼き?) (hoặc tamamoto-yaki (玉素焼き?) / moto-yaki (素焼き?) ). Mặc dù motoyaki được coi là một món ăn truyền thống của Nhật Bản, song những cái tên motoyaki, tamagonomoto và những cái tên tương tự không được biết đến nhiều ở Nhật Bản. Tính đến năm 2021 , những cái tên được dùng để chỉ những món ăn chứa sốt mayonnaise: mayonēzu-yaki (マヨネーズ焼き?) (hoặc mayo-yaki (マヨ焼き?) ) được sử dụng phổ biến hơn nhiều.Ở Canada, motoyaki có hình thức giống món mayonēzuyaki hơn là món Motoyaki theo kiểu truyền thống của Nhật; cả hai đều được phục vụ với sốt mayonnaise.
Cơm nắm là một món cơm Việt Nam của miền Bắc, được làm từ cơm nấu chín và tạo hình thành cuộn. Món ăn này thường được sử dụng khi người ta đi du lịch đến những vùng xa lạ mà không có nhà hàng hoặc nguyên liệu nấu ăn sẵn. Cơm nắm muối vừng - cơm nắm dùng với muối và vừng. Cơm nắm lá cọ Phù Ninh - cơm nắm lá xuất xứ từ huyện Phù Ninh.
Bánh sâm panh là một loại bánh xốp ngọt và nhẹ, có hình dạng như một ngón tay lớn. Nó thường được dùng là thành phần trong nhiều món tráng miệng như bánh xốp kem, bánh charlotte và tiramisu. Nó cũng thường được nhúng vào siro hoặc rượu mùi. Bánh sâm panh cũng là một món dành cho trẻ nhỏ vì nó mềm, phù hợp cho răng mới mọc, dễ dàng cầm nắm và không bị vỡ vụn. Bánh sâm panh có nguồn gốc từ cuối thế kỉ 15 từ triều đình của Lãnh chúa vùng Savoy và được làm nhân chuyến thăm của vua nước Pháp. Sau đó nó có tên gọi Savoiardi (từ Savoy) và được công nhận là món bánh chính thức của cung đình. Các thanh niên trong triều đình ưa thích loại bánh này. Khách đến thăm được mời loại bánh này, như một biểu tượng của ẩm thực địa phương. Như các loại bánh xốp khác, bánh sâm panh thường không có bột nở hóa học và nhờ không khí vào trong trứng để tạo được độ xốp. Tuy nhiên, một vài nhãn hiệu bánh sâm panh có chứa bột khai. Lòng đỏ trứng và lòng trắng trứng trộn với đường thường được đánh riêng rẽ và sau đó hòa cùng với bột mì. Bột mì trong bánh sâm panh thường nhiều hơn mức trung bình của bánh xốp. Hỗn hợp này sẽ được đưa qua túi làm bông kem để tạo ra hình dạng sau cùng. Sau khi nướng, đường bột thường được rắc lên bề mặt bánh để tạo một lớp vỏ mềm. == Chú thích ==
Soft serve còn gọi là soft ice, là món tráng miệng đông lạnh, tương tự như kem nhưng mềm hơn và ít đặc hơn do không khí được đưa vào trong quá trình đông lạnh. Soft serve được bày bán thương mại từ cuối thập niên 1930 ở Mỹ. Ngay tại nước Mỹ, soft serve không được bán đóng gói sẵn trong siêu thị mà phổ biến ở các hội chợ, lễ hội, công viên giải trí, nhà hàng (đặc biệt là thức ăn nhanh và tự chọn), và các cửa hàng đặc sản. Tất cả kem phải được đông lạnh nhanh chóng để tránh tinh thể phát triển. Charles Taylor ở Buffalo, New York, được cấp bằng sáng chế cho một máy làm kem tự động vào năm 1926, được cho là máy làm kem soft serve đầu tiên. Công ty Taylor của ông tiếp tục sản xuất máy làm kem McDonald. Cuối tuần trong Ngày Tưởng niệm năm 1934, Tom Carvel, người sáng lập thương hiệu và nhượng quyền thương mại Carvel đã bị thủng lốp khi đang lái chiếc xe bán kem ở Hartsdale, New York. Carvel bèn tấp vào một bãi đậu xe và bắt đầu bán món kem tan chảy cho những người đi nghỉ bằng xe hơi. Trong vòng hai ngày, ông đã bán toàn bộ nguồn cung cấp kem của mình và kết luận rằng cả một địa điểm cố định và các món tráng miệng đông lạnh mềm (thay vì cứng) đều là những ý tưởng kinh doanh tiềm năng. Năm 1936, Carvel mở cửa hàng bán kem soft serve đầu tiên trên địa điểm xe tải bị hỏng ban đầu và phát triển công thức làm kem soft serve bí mật cũng như máy làm kem nhiệt độ siêu thấp được cấp bằng sáng chế.Dairy Queen cũng tuyên bố phát minh ra kem soft serve. Năm 1938, ở gần Moline, Illinois, J. F. McCullough và người con trai tên là Alex, đã phát triển công thức làm kem soft serve của riêng mình. Thử nghiệm bán hàng đầu tiên của hai cha con là vào ngày 4 tháng 8 năm 1938 ở Kankakee, Illinois, ngay tại cửa hàng của người bạn tên là Sherb Noble. Trong vòng hai giờ kể từ khi bán thử "tất cả những gì bạn có thể ăn được", họ đã cung cấp tới hơn 1.600 phần ăn—hơn một lần cứ sau 4,5 giây.
Gà lắc (tiếng Anh: chicken nugget) là một món thức ăn nhanh với thành phần gồm những miếng thịt gà nhỏ, tròn được tẩm gia vị và bột, được rán chín hoặc chiên sau đó và bỏ vào bao, bán kèm như một phần trong khẩu phần của các cửa hàng đồ ăn nhanh (fastfood). Thương hiệu gà lắc nổi tiếng là của Hàn Quốc (trong các cửa hàng của Lotteria). Gà lắc ăn có vị ngọt ngon của gà vừa có vị thơm, béo ngậy do rán với dầu, mỡ. Các miếng gà tương đối đều nhau và mềm nhưng có độ dai nhất định. Gà lắc có thể ăn ngay khi nóng hoặc có thể để nguội và thường trộn đều với bột phô mai khi ăn. == Tham khảo ==
Thanh sô-cô-la hay thỏi sô-cô-la là một loại bánh kẹo Sô-cô-la ở dạng thanh, trong thanh sô-cô-la có thể bao gồm một số hoặc tất cả các thành phần gồm ca cao, bơ ca cao, đường, sữa... Sự tồn tại hay thiếu của các thành phần này hình thành các loại sô-cô-la như sô-cô-la đen, sô-cô-la sữa và sô-cô-la trắng. Ngoài những thành phần chính, nó có thể chứa chất nhũ hoá như lecithin đậu nành và hương liệu như vani. Có nhiều loại thỏi sô-cô-la như sô-cô-la sữa, sô cô la đen, sô cô la trắng, sô cô la bơ đậu phộng và nhiều hơn nữa. Sô-cô-la dạng thỏi là một trong những hình thức sô-cô-la thông dụng và phổ biến trên thế giới. Ngày nay, một thanh sô-cô-la là một loại bánh kẹo thường được đóng gói trong thành phần của nó có thể có một lớp bánh xốp để định hình và thường được bọc bằng sô cô la, ngoài ra nó có thể rắc thêm đậu phộng... Một thanh sô-cô-la như thế có thể có giá trị năng lượng tương đương cho một bữa ăn nhẹ cho một người. Vào thế kỷ 19, hầu như tất cả các loại bánh kẹo thường được bán theo trọng lượng (bán theo cân, ký, lạng...), bề ngoài ít được quan tâm, thường là đóng thành các bao, bịch lớn. Sự ra đời của những thỏi sô-cô-la được sử dụng để làm đồ uống hay món tráng miệng và có thể bảo quản tốt. Ban đầu nó có nhiều hình thức như sau này hình thức thỏi đầu tiên và viên nén trở nên phổ biến. Hình thức thanh kẹo đã phát triển từ tất cả các cuối thế kỷ 19 như là một cách đóng gói và bán kẹo thuận tiện hơn, cho cả người mua và người bán. Năm 1847, nhà máy sản xuất sô cô la của Fry ở Anh đã đúc thanh sô-cô-la đầu tiên phù hợp với thị hiếu và phục vụ cho tiêu dùng rộng rãi. Nhiều công ty bắt đầu sản xuất thanh Chocolate vào năm 1866. Trên 220 sản phẩm đã được giới thiệu trong những thập kỷ sau đó. Tại Mỹ, hầu hết các thanh kẹo tung ra thị trường với giá mười xu, năm xu trong cuộc Đại suy thoái, và quay trở lại đến mười xu sau khi chiến tranh thế giới thứ II. Mức giá này vẫn ổn định cho đến cuối những năm 1960. Trong nửa đầu của thế kỷ 20 ở Mỹ, đã có hàng ngàn thanh kẹo khác nhau được sản xuất và phân phối tại địa phương hoặc khu vực trên thế giới. Năm 2010, Công ty Grand Candy của Armenia ra mắt thanh socola dài tới 560 cm, rộng 275 cm, dày 25 cm. Thanh socola khổng lồ này được làm hoàn toàn bằng chất liệu tự nhiên và chứa tới 70% lượng cacao. Theo đo đạc của Hội đồng Kỷ lục thế giới Guinness, thanh socola này nặng tới 4.410 kg và được coi là nặng nhất từ trước đến nay. Công ty Grand Candy cho hay mục đích sản xuất ra thanh socola này là để kỷ niệm 10 năm thành lập công ty bánh kẹo hàng đầu ở Armenia này.Năm 2011,cửa hàng bánh kẹo lớn nhất nước Anh Thorntons đã làm ra thanh sô-cô-la hình vuông có khối lượng gần 5.800 kg (gần 6 tấn), tương đương với khối lượng của hai con voi. Trong khi đó, cạnh của nó 4 mét, dài hơn 2 lần chiều cao trung bình của một người đàn ông. Để làm nên thanh kẹo khổng lồ này, Thorntons đã phải mất 50 người cùng đổ sô-cô-la vào khuôn trong vòng 10 giờ và phải mất tiếp 3 ngày để làm lạnh. Sau đây là danh sách một số nhà sản xuất sô cô la thanh có tiếng trên thế giới. == Chú thích ==
Tempura (Nhật: 天婦羅 (天麩羅) (Thiên phu la)/ てんぷら/ テンプラ, Hepburn: Tenpura, nghe ) là một món ẩm thực của Nhật Bản gồm các loại hải sản, rau, củ tẩm bột mì rán ngập trong dầu. Chữ tempura thường được viết bằng tiếng Nhật là 天ぷら, song cũng có khi được viết là 天麩羅(Thiên Phu La) hoặc 天婦羅(Thiên Phụ La), gần tương tự như những món tẩm bột chiên. Đây là một món ăn khá phổ biến trong các bữa ăn của người Nhật, từ bữa ăn dạng cơm hộp cho tới các bữa tiệc cao cấp. Trên thế giới, tempura cùng với sushi là những món ăn Nhật Bản được biết đến nhiều nhất. Cái làm nên sự khác biệt giữa tempura với các món có tẩm bột rán chẳng hạn như ebifurai chính là bột, dầu và nước chấm và gia vị ăn kèm. Bột để làm tempura là thứ hỗn hợp nhão của bột mì, lòng trứng gà và nước nguội. Dầu để rán là hỗn hợp dầu ăn thông thường với dầu vừng. Nước chấm hoặc gia vị chấm tùy từng sở thích của mỗi người hay tùy mỗi cửa hàng, có thể là xì dầu (ngày nay có loại xì dầu chuyên dành cho tempura được chế sẵn), muối tinh. Cũng có người Nhật và quán ăn ở Nhật dùng hỗn hợp gia vị có pha wasabi để chấm tempura. Lại có nơi mài củ cải tươi ra trộn vào xì dầu để chấm. Thành phần chính trong nguyên liệu làm tempura là các loại hải sản, phổ biến nhất là tôm, mực, cá, một số loại rau củ như bí ngô, cà tím, khoai lang, lá tía tô, ớt ngọt, đậu bắp. Tempura được dùng khi uống bia, rượu, ăn với cơm hoặc với mì soba, udon. Tuy hiện nay được coi là món ẩm thực truyền thống của Nhật Bản, song tempura lại là do những người truyền giáo đạo Thiên Chúa mang tới Nhật Bản từ thời kỳ Sengoku, sau đó được người Nhật biến đổi đi nhiều. Vào thời kỳ Edo, tempura được bán ngoài cửa hàng như một thứ món ăn nhẹ. Về mặt từ nguyên, tempura được cho là có nguồn gốc từ các từ tiếng Bồ Đào Nha là temporas, tempero hoặc temperar, hoặc có nguồn gốc từ các từ tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là templo, từ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý là tempora. Người Nhật ban đầu dùng các kanji là 天麩羅 hoặc 天婦羅 để ghi lại âm ngoại lai đó, rồi ngay nay viết là 天ぷら.
Bánh Opera là một kiểu bánh ngọt Pháp. Nó được làm từ nhiều lớp bánh xốp hạnh nhân (được gọi là "Joconde" trong tiếng Pháp) ngâm trong si rô cà phê, làm lớp với ganache hoặc kem bơ cà phê và dùng một lớp sô cô la chảy để đổ mặt bánh. Theo Larousse Gastronomique, bánh Opera là bánh xốp hạnh nhân được làm với cà phê và sô cô la để phủ kem lên từng lớp bánh. Bánh trở nên phổ biến nhờ thương hiệu bánh Pháp Dalloyau. Một quảng cáo ở Le Gaulois năm 1899 đưa ra một "chiếc bánh opera"Bánh được phổ biến bởi nhà bánh Pháp Dalloyau, nhưng nguồn gốc của nó không rõ ràng. Cyriaque Gavillon tuyên bố đã tạo ra chiếc bánh ở đó vào năm 1955 và vợ ông Andrée Gavillon đã đặt tên nó theo tên Opéra Garnier.Gaston Lenôtre (1920–2009) tuyên bố ông đã phát minh ra món tráng miệng vào năm 1960 == Tham khảo ==
Xa lát taco là một món ăn Tex-Mex kết hợp các nguyên liệu được sử dụng trong món taco Tex-Mex. Món ăn bắt nguồn từ Texas trong những năm 1960. Món salad được phục vụ với lớp vỏ bánh tortilla bằng bột chiên xù, được nhồi với rau diếp băng cắt nhỏ và phủ lên trên là cà chua thái hạt lựu, pho mát Cheddar cắt nhỏ, kem chua, guacamole và salsa. Món salad được phủ bên ngoài với thịt taco (thịt bò xay), thịt gà xé nhỏ hoặc đậu tẩm gia vị và/hoặc cơm Tây Ban Nha dành cho người ăn chay.
Bánh dâu tây là một loại bánh ngọt sử dụng dâu tây làm nguyên liệu chính. Dâu tây có thể trộn với hỗn hợp làm bánh, đặt lên trên đỉnh bánh và trong lớp kem phủ của bánh. Một số được phục vụ ướp lạnh hoặc đông lạnh một phần, và đôi khi chúng được phục vụ như một món ăn trong Ngày lễ tình nhân. Bánh dâu tây có thể được chế biến bằng cách trộn dâu tây với bột nhão, với dâu tây có thể đặt lên trên đỉnh bánh hoặc phủ giữa các lớp của bánh nhiều lớp, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào. Một số dùng dâu tây để tạo ra lớp kem phủ lên bánh. Dâu tươi hoặc dâu lạnh có thể được sử dụng. Một số còn tận dụng gelatin hương dâu làm một thành phần để tạo màu hồng cho bánh khi trộn với hỗn hợp bột nhão. Có thể sử dụng dâu tây để trang trí cho bánh. Bánh dâu tây cũng có thể được chế biến thành một món ăn không chứa gluten.Một số phiên bản của bánh được phục vụ lạnh, một số thì đông lạnh rồi được phục vụ trong tình trạng đông lạnh một phần. Cũng có công thức dùng phô mai Ricotta để làm một thành phần trong hỗn hợp làm bánh hoặc phần topping thêm vào. Thỉnh thoảng người ta cũng làm bánh dâu tây từ hỗn hợp làm sẵn, như hỗn hợp bánh ngọt trắng rồi mới thêm các nguyên vật liệu khác vào hoặc đặt lên bề mặt bánh. Bánh có thể chế biến và phục vụ như món ăn trong Ngày lễ tình nhân. Gill, J.T. (1881). The Complete Bread, Cake, and Cracker Baker: In Two Parts. J. Thompson Gill, manager Confectioner and Baker Publishing Company. tr. 205. Brigman, H. (2013). The Fresh Table: Cooking in Louisiana All Year Round. LSU Press. tr. 55–57. ISBN 978-0-8071-5046-7. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2015.
Bài này nói về năm loại gia vị được phối hợp với nhau, sử dụng trong ẩm thực Trung Hoa hay Việt Nam, đối với năm loại gia vị của người Bengal, xem bài Panch phoron.Ngũ vị hương (trong tiếng Trung gọi là 五香粉-ngũ hương phấn) là một loại gia vị tiện lợi dùng trong ẩm thực của người Trung Hoa và Việt Nam, đặc biệt dùng trong ẩm thực của người Quảng Đông. Nó bao gồm năm loại vị cơ bản trong ẩm thực là: mặn, ngọt, chua, cay, đắng. Thành phần của ngũ vị hương không giống nhau. Nó có thể bao gồm bột của các loại thực vật sau: sơn tiêu (hay hoa tiêu hoặc xuyên tiêu, thuộc chi Zanthoxylum), (peppercorns) nhục quế (Cinnamomum aromaticum), hoặc quế, đại hồi (Illicium verum), (star anises) đinh hương (Syzygium aromaticum), (cloves) tiểu hồi hương (Pimpinella anisum). (fennel seed)Tuy nhiên, người ta cũng có thể dùng một công thức pha chế khác bao gồm nhục quế, hồ tiêu (Piper nigrum), đinh hương, tiểu hồi hương và đại hồi. Nó được sử dụng trong các món ăn (vịt, bò) quay hay hầm hay các món cà ri. Bột ngũ vị hương bán trên thị trường có thể có thêm bột ớt hay gừng. Ngũ vị hương đóng gói sẵn ở Việt Nam thường có: đại hồi, đinh hương, nhục quế, ngọc khấu, hồ tiêu, trần bì (tức vỏ quýt (Citrus reticulata) phơi khô tán thành bột), hạt ngò, thảo quả (Amomum hongtsaoko), hạt điều để tạo màu đỏ. Ngoài ra, còn có vài công thức ngũ vị hương khác như: hạt ngò, tiểu hồi, bạch đậu khấu (Amomum kwangsiense hay A.kravanh/compactum), hồ tiêu. Công thức chế biến ngũ vị hương dựa trên nền tảng triết học Trung Hoa cổ về sự cân bằng âm-dương trong thực phẩm.Mặc dầu gia vị này được sử dụng nhiều trong các món ăn chế biến tại nhà hàng, nhưng nhiều người nội trợ thông thường không dùng nó trong nấu ăn hàng ngày. Tại Hawaii, một số khách sạn có các lọ đựng ngũ vị hương ngay trên bàn ăn.
Pizza Margherita là một loại pizza đặc trưng đến từ vùng Napoli, được làm bằng cà chua San Marzano, phô mai mozzarella, húng quế tươi, muối và dầu ô liu thêm nguyên chất. Theo truyền thống, nó được làm bằng fior di latte (mozzarella sữa bò) chứ không phải bằng mozzarella sữa trâu. Người ta tin rằng vào tháng 6 năm 1889, pizzaiolo (thợ làm pizza) Raffaele Esposito, đầu bếp của Brand Brandi, đã phát minh ra một món ăn gọi là "Pizza Margherita" để vinh danh Hoàng hậu Ý, Margherita xứ Savoie và sự thống nhất của nước Ý, vì lớp phủ bên trên của nó bao gồm cà chua (đỏ), mozzarella (trắng) và húng quế (xanh lá cây), đại diện cho ba dải màu trên quốc kỳ Ý.Truyền thuyết trên về pizza Margherita được coi là giả lịch sử, tức là không có căn cứ, vì một loại pizza được làm cùng những lớp phủ bên trên tương tự như vậy đã có mặt ở Napoli trong khoảng thời gian từ 1796 đến 1810, chỉ có điều là vào lúc đó, nó có lẽ chưa được gọi là "Margherita". Năm 1830, trong cuốn sách Napoli, contorni e dintorni, được viết bởi Riccio, loại pizza này được mô tả như một chiếc bánh pizza với cà chua, mozzarella và húng quế. Năm 1849, Emanuele Rocco đã ghi chép lại các loại bánh pizza khác nhau như húng quế, cà chua và lát mozzarella mỏng; cùng với lá húng quế, mozzarella được cắt lát mỏng, được sắp xếp thành hình bông hoa đặt lên trên nước sốt cà chua: đây có thể là nguồn gốc thực sự của tên gọi Margherita (có nghĩa là hoa cúc).Vào năm 1866, Francesco De Bourcard, khi viết về những tập tục của người Napoli, đã mô tả những loại lớp phủ bên trên của pizza được sử dụng phổ biến nhất vào thời điểm đó, bao gồm những loại mà ngày nay được gọi là pizza marinara, pizza margherita và calzone: Các loại pizza thông thường nhất, được gọi là coll'aglio e l'olio (nghĩa là "với tỏi và dầu"), được tưới dầu lên, và từ đó nó sẽ chảy ra xung quanh, [ngoài ra thêm] muối, kinh giới tép tỏi băm nhỏ. Các loại khác được phủ một lớp phô mai bào, cho thêm mỡ lợn, và sau đó họ phủ lên một vài lá húng quế. Trên loại đầu tiên thường được thêm một số loại cá biển nhỏ; một vài lát mozzarella mỏng. Đôi khi, họ sử dụng những lát prosciutto, cà chua, arselle, v.v.... Đôi khi, việc gấp hai miếng lại với nhau tạo thành thứ gọi là calzone.
Bánh tiêu hay Bánh hồ tiêu (tiếng Trung: 胡椒餅; bính âm: Hújiāo bǐng; Bạch thoại tự: hô͘-chio-piáⁿ; nghĩa đen: "bánh hồ tiêu hoặc bánh tiêu đen") là một loại bánh bột mì nướng có nguồn gốc từ thành phố Phúc Châu, thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Đây là một món ăn đường phố đã trở nên khá phổ biến ở Đài Loan và có thể được tìm thấy ở các chợ đêm hoặc các quầy hàng thực phẩm mini trên khắp đất nước này. Các thành phần chính phổ biến là bột mì, nước, và chất tạo men cho vỏ bánh, cùng thịt giàu protein (thường là thịt lợn hoặc thịt bò) ướp với đường, nước tương, hạt tiêu trắng hoặc hạt tiêu đen và hành lá để làm nhân bánh bên trong.Bánh vị ngọt được chế biến bằng những nguyên liệu gồm bột mì và bột khai cùng với đường vừng / mè và chế biến bằng phương pháp rán sôi qua chảo dầu nóng. Đây là loại bánh phục vụ tại chỗ, người mua lấy bánh khi vừa rán xong vì bánh muốn ngon phải là loại bánh vừa vớt ra khỏi chảo dầu, còn nóng, vừa mềm lại giòn. Bánh tiêu được cho thêm ít đường đủ để làm dậy hơn vị ngọt của bột. Vị ngọt của bánh tiêu vì thế nhẹ, không như những loại bánh ngọt khác. Bánh có phủ vừng, sau khi rán trở nên căng phồng, quyện với mùi thơm của bột mì rán giòn. Không có thông tin về nguồn gốc của bánh tiêu. Món ăn này có ở Phúc Châu và Đài Loan. Các cửa hàng ở Đài Loan đặt tên món này là Bánh tiêu Phúc Châu (tiếng Trung: 福州胡椒餅), ghi nhận những người Phúc Châu nhập cư đã sáng tạo ra bánh tiêu. Nhiều cửa hàng bán bánh tiêu lâu đời nhất do những người gốc Phúc Châu thành lập. Vỏ bánh bên ngoài được chuẩn bị bằng bột, nước và một chất men như men hoặc bột nở. Đôi khi người ta thêm mỡ lợn, bơ hoặc dầu vào bột để cho bánh thêm giòn và phồng như bánh sừng bò sau khi nướng. Vỏ bánh được chuẩn bị thành từng hình tròn riêng lẻ và cán mỏng như vỏ bánh bao. Thành phần chính của nhân là thịt, thường là thịt lợn. Thịt được xay hoặc cắt lát mỏng. Một số cửa hàng sử dụng thịt xay và thịt thái lát để làm miếng bánh, nhưng thịt xay thường được sử dụng hơn vì nó tạo ra nhiều nước sốt hơn khi nấu chín. Thịt thường được ướp với một ít bột tiêu trắng hoặc đen, nước tương, đường và rượu dùng trong nấu ăn. Một số cửa hàng cũng thêm bột ngũ vị hương hoặc bột cà ri khi ướp thịt. Thịt ướp được trải trên bột mỏng, sau đó bỏ một ít hành lá cắt nhỏ lên trên miếng thịt và cuộn lại bằng bột. Hành lá phải được thêm vào ở một bước riêng biệt - không bao giờ được trộn vào phần nhân thịt - để giữ lại hương vị hành lá rõ ràng cho bánh. Không giống như các loại bánh khác, đầu nối của bánh tiêu được cuộn lại ở phía dưới. Sau đó mặt trên của bánh được láng bằng nước, cuối cùng rắc vừng trắng lên trên. Tiếp theo bánh được nướng trong một lò đất sét hình trụ, nhiệt độ cao, tương tự như loại lò tandoor. Người ta đốt than bên dưới để làm nóng lò. Những chiếc bánh nhỏ sẽ được xếp từ dưới lên trên theo chiều dọc cạnh lò. Để lấy bánh sau khi chín ra, người ta dùng một vật phẳng như dao cùn hoặc thìa để nậy bánh ra khỏi mặt lò. Người ta sẽ đặt một chiếc chao để hứng bánh tránh để bánh rơi xuống đáy lò.Bánh chín có một lớp bột giòn, mỏng, gần như bánh quy giòn. Khi cắn vào sẽ chảy nước thịt ra. Do cách gói bánh nên hành lá xanh nằm ở giữa bánh với thịt quấn quanh, thay vì nằm dưới cùng. Bánh tiêu lần đầu tiên bắt đầu phổ biến bên ngoài Đài Loan khi nó được giới thiệu trên các chương trình du lịch như The Layover của Anthony Bourdain. Ngoài ra nó còn xuất hiện trong chương trình ẩm thực trên kênh TVB của Hồng Kông là Đầu bếp hàng xóm mùa ba. Nó nhanh chóng trở thành một trong những món ăn phải thử khi khách đến Đài Loan du lịch. Khách du lịch đến thăm Đài Loan và đã nếm thử món bánh này thường viết blog về nó. Thời gian chờ đợi để mua một chiếc bánh tiêu nổi tiếng là rất lâu trong giờ cao điểm tại bất kỳ cửa hàng nào. Thời gian chờ trung bình thường ít nhất là 30 phút. Khách hàng cũng thường phải mua theo đợt do phải xếp hàng chờ đợi lâu. Khi cửa hàng bán hết hàng và hết nguyên liệu, họ thường đóng cửa hàng trong ngày, thay vì lấy thêm nguyên liệu để làm thêm bánh. Loạt phim anime Shokugeki no Soma cũng giới thiệu món bánh này.
Bờ Biển Ngà (Côte d'Ivoire) là nước dẫn đầu thế giới trong sản xuất và xuất khẩu hạt cacao để làm sô cô la, vào năm 2012, Bờ Biển Ngà cung cấp hơn 30% ca cao được sản xuất trên thế giới. Toàn khu vực Tây Phi cung cấp hai phần ba sản lượng ca cao của thế giới, trong đó sản lượng Bờ Biển Ngà đứng đầu, đạt 1,8 triệu tấn vào năm 2017, và các nước còn lại của Tây Phi là Ghana, Nigeria, Cameroon và Togo sản xuất phần còn lại, đạt 1,55 triệu tấn. Bờ Biển Ngà đã vượt qua Ghana để trở thành nước sản xuất hạt ca cao hàng đầu thế giới vào năm 1978 và ngày nay nước này phụ thuộc nhiều vào trồng cây ca cao, chiếm 40% thu nhập xuất khẩu quốc gia. Đối thủ cạnh tranh chính của Bờ Biển Ngà là Indonesia, từ vị thế gần như không tồn tại ngành công nghiệp ca cao vào những năm 1970 họ đã phát triển và vươn lên là một trong những nước sản xuất lớn nhất cacao vào đầu những năm 2000. Theo UN FAO, Indonesia đã vượt qua Ghana trở thành nước sản xuất cacao lớn thứ hai trên thế giới vào năm 2006. Tổ chức ca cao thế giới (World Cocoa Foundation) cung cấp số liệu thấp hơn đáng kể về sản lượng của Indonesia, nhưng thống nhất đây là nước sản xuất hạt ca cao lớn nhất ngoài khu vực Tây Phi. Các hãng sản xuất sô cô la lớn như Cadbury, Hershey's và Nestle chọn và đặt ca cao của Bờ Biển Ngà thông qua Euronext, một sàn giao dịch định giá cacao thế giới. Theobroma cacao là loài cây ưa bóng mát tầng thấp ở các khu rừng mưa nhiệt đới, sống ở các độ cao khác nhau dọc theo dãy núi Andes và vùng xích đạo của Nam Mỹ, như lưu vực sông Amazon và lưu vực sông Orinoco. Cacao là cây trồng kinh tế của khu vực Tây Phi trồng nhiều tại các vùng thấp đến độ cao thấp, đất tốt và ẩm ướt của vùng nhiệt đới. Nông nghiệp trồng trọt ở Bờ Biển Ngà chủ yếu là từ nông dân sản xuất nhỏ với diện tích đất 1-3 ha. Quả cacao chứa hạt được thu hoạch khi chín, chúng được mở ra để tách hạt và quả từ vỏ ngoài, và hạt và quả thường được làm lên men tại nông trại trước khi hạt được sấy khô tại một cơ sở sấy hạt. Hạt khô được thu gom bởi một đại lý hoặc lái buôn đi khắp nơi giữa các làng trong một khu vực, để cân, mua và thu hoạch vụ mùa. Các đại lý mang cacao thu hoạch đến một nhà kho tại một thị trấn hoặc thành phố lớn nơi đó các nhà xuất khẩu lớn mua lại và sắp xếp để xuất khẩu. Toàn bộ quá trình này đòi hỏi sự đóng góp lao động của nhiều công nhân, từ nông dân canh tác, đến những người lao động làm thuê có thể là thành viên gia đình (trong hầu hết các trường hợp) đến những người trong làng, những người thu hoạch vỏ quả để lên men cùng một lúc, cho đến những người thu mua địa phương, lái buôn trung gian và những nhà xuất khẩu cuối cùng mang chúng lên một con tàu xuất khẩu. Có khoảng hai triệu trẻ em tham gia vào việc trồng ca cao ở Tây Phi, chủ yếu là Ghana và Bờ Biển Ngà, chế độ nô lệ và buôn bán trẻ em là vấn nạn được quan tâm lớn trong năm 2018. Tuy nhiên, các nỗ lực của quốc tế nhằm cải thiện điều kiện cho trẻ em đã thất bại vì tình trạng nghèo đói dai dẳng, không có trường học, nhu cầu ca cao thế giới ngày càng tăng, trồng ca cao thâm canh hơn và việc tiếp tục khai thác sức lao động trẻ em. Bờ Biển Ngà và các quốc gia sản xuất ca cao khác của khu vực Tây Phi đã bị chỉ trích nặng nề ở phương Tây, vì họ sử dụng lao động nô lệ trẻ em để sản xuất ca cao được mua từ các công ty sô cô la của phương Tây. Phần lớn những lời chỉ trích nhằm đến nước Bờ Biển Ngà. Báo cáo "Hương vị nô lệ: Làm thế nào sô cô la của bạn có thể bị nhiễm độc"("A Taste of Slavery: How Your Chocolate May be Tainted") cáo buộc những kẻ buôn người hứa cho công việc, nhà ở và cho trẻ em đi học nhưng sau đó buộc chúng phải lao động và lạm dụng chúng nghiêm trọng, một số trẻ em bị giam giữ để cưỡng bức lao động tại các trang trại và làm việc tới 100 giờ mỗi tuần, và những ai trốn thoát đều bị đánh đập. Một bài báo được đăng tải của BBC nói rằng 15.000 trẻ em từ Mali, một số dưới 11 tuổi, đang làm nô lệ trong ngành sản xuất ca cao ở Bờ Biển Ngà, và giám đốc Quỹ Cứu trợ Trẻ em của Mali mô tả "trẻ nhỏ mang 6 kg bao ca cao nặng đến nỗi trên vai chúng đầy vết thương." Năm 2001 Hiệp hội bánh kẹo Mỹ thừa nhận rằng nô lệ đã được sử dụng để thu hoạch cacao. Năm 2013, báo cáo của Bộ Lao động Hoa Kỳ (DOL) Phát hiện về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất tại Côte d'Ivoire (Findings on the Worst Forms of Child Labor) tuyên bố rằng 39,8% trẻ em từ 5 đến 14 tuổi là trẻ em lao động và chúng "đang tham gia vào các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong nông nghiệp, đặc biệt là trong các trang trại ca cao, nhiều trường hợp trong điều kiện lao động cưỡng bức." Vào tháng 12 năm 2014, một danh sách của DOL Danh sách hàng hóa được sản xuất bởi Lao động trẻ em hoặc Lao động cưỡng bức (List of Goods Produced by Child Labor or Forced Labor) đã đề cập đến Bờ Biển Ngà một trong số các quốc gia có các điều kiện làm việc như thế (cả lao động trẻ em và lao động cưỡng bức) đang được chú ý đến. Một nghiên cứu lớn về những vấn đề năm 2016, được công bố trên Tạp chí Fortune ở Mỹ, đã kết luận có khoảng 2,1 triệu trẻ em ở các quốc gia Tây Phi "vẫn làm công việc nguy hiểm và bị bóc lột nặng nhọc để thu hoạch cacao". Báo cáo đã nghi ngờ về việc tình hình có thể sẽ không được cải thiện. "Theo ấn bản năm 2015 của Cocoa Barometer, một báo cáo hai năm một lần nhằm kiểm tra tính kinh tế của ngành ca cao được công bố bởi nhóm phi lợi nhuận tầng lớp trung nông trong 2013-2014 thì lao động ở Ghana chỉ kiếm được 84 ¢ mỗi ngày và nông dân ở Bờ Biển Ngà chỉ kiếm được 50. Điều đó xếp thu nhập họ xuống dưới mức tiêu chuẩn 1,90 đô la mỗi ngày của Ngân hàng Thế giới ở mức tình trạng nghèo cùng cực, ngay cả khi có sự tăng giá 13% của ca cao vào năm 2014. Trong bối cảnh đó, thách thức lớn nhằm xóa bỏ lao động trẻ em và cam kết của các công ty sô cô la trong việc mở rộng đầu tư vào cộng đồng các nước ca cao là khó có thể thực hiện.... "Kịch bản là trong trường hợp tốt nhất, chúng tôi chỉ thực hiện được 10% những gì cần thiết. Và 90% khác sẽ không dễ dàng. Đó là một vấn đề khổng lồ" - Sona Ebai cho biết (cựu tổng thư ký của Liên minh các nước sản xuất ca cao). "Tôi nghĩ rằng lao động trẻ em không thể chỉ là trách nhiệm của riêng ngành công nghiệp phải làm. Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của tất cả: chính phủ, xã hội dân sự, khu vực tư nhân. Và vì vậy, bạn thực sự cần một người lãnh đạo."Vào tháng 4 năm 2018, báo cáo của Cocoa Barometer về ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ đô la này, cho biết tình hình lao động trẻ em ở Tây Phi: "Không một công ty hay chính phủ nào đạt được mục tiêu toàn ngành trong việc loại bỏ lao động trẻ em, thậm chí không thực thi cam kết của họ về việc giảm 70% lao động trẻ em vào năm 2020". Một báo cáo của New Food Economy cuối năm đó cho biết Hệ thống giám sát và khắc phục lao động trẻ em tạo bởi Sáng kiến ca cao quốc tế (International Cocoa Initiative) và các đối tác của họ thực hiện rất hiệu quả, nhưng "họ hiện đang đạt ít hơn 20% trong số hơn hai triệu trẻ em bị ảnh hưởng bởi tình trạng bóc lột". == Tham khảo ==
Tapas (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ˈtapas]) là món khai vị, món ăn chơi trong ẩm thực Tây Ban Nha. Tapas được chế biến với nhiều gia vị như: tỏi, ớt, ớt bột, thì là, muối, tiêu, nghệ và rất nhiều ô liu. Đối với người Tây Ban Nha, ngoài rượu sangria, cơm Paella thì Tapas là một món ăn không thể thiếu trong mỗi bữa ăn. Tapas có thể là các dạng: Đồ ăn lạnh như phô mai trộn dầu ô liu Đồ ăn nguội như xúc xích, giăm bông (Jamón), thịt hun khói Đồ ăn nóng như các món chiên (mực, cá).Một số món tapas: Patatas bravas (khoai tây giầm nước xốt cà chua cay), calamares fritos (mực rán), boquerones (cá cơm), croquetas de jamon (thịt viên giăm bông), chorizo (xúc xích thịt lợn), pimientos asados (ớt xào), albondigas (viên thịt) và berenjenas gratinadas (cà tím nướng pho mát).
Kung chae nampla (tiếng Thái: กุ้งแช่น้ำปลา, phát âm tiếng Thái: [kûŋ t͡ɕʰɛ̂ː nám.plāː]) hay còn gọi là món tôm sống sốt Thái là một món gỏi Thái được làm từ tôm tươi ngâm nước mắm Thái và ăn kèm với bầu, tép tỏi, ớt và nước mắm chua cay, nói chung, người Thái thường sử dụng tôm thẻ chân trắng làm nguyên liệu tươi sống trong món ăn này. Có thể ăn trực tiếp hoặc cuốn với cải xanh chấm thêm mù tạt tùy thích. Nguồn gốc của món Kung chae nampla không rõ ràng nhưng người ta tin rằng cách chế biến này đã là một món ăn từ đầu triều đại Rattanakosin (khoảng 1782-1851) và ban đầu nó được tìm thấy phổ biến ở Thái Lan, món ăn này đã trở nên phổ biến như một món khai vị. Nhiều người lo lắng khi ăn sẽ mắc bệnh vì tôm sống được dùng trong thực đơn này có nguy cơ nhiễm khuẩn sống có thể gây đau bụng và tiêu chảy cho những người ăn. Có nhiều loại Kung chae nampla, đầu tiên, món chính gốc được dùng với những miếng bầu, tép tỏi, ớt với nước sốt chua cay được dùng để chắm riêng. Thứ hai, một phiên bản khác được người ta chế thêm với sả được thêm vào. Cuối cùng, là phiên bản Pour over thì tôm sống sẽ ăn chung với nước sốt cay rưới lên tôm trong khi các phiên bản khác giữ nước sốt cay riêng biệt khi phục vụ. Tương tự, cũng có một món salad tôm cay khác (tiếng Thái: พล่ากุ้ง, RTGS: phla kung). Tuy nhiên, món này lại dùng tôm luộc, nước cốt chanh, lá chanh kaffir và cỏ chanh làm thành phần chính. == Tham khảo ==
Bánh gạo là tên gọi chỉ chung các loại bánh mặn và bánh ngọt được làm từ bột gạo. Một chiếc bánh gạo bất kỳ làm từ bất cứ loại gạo nào đã được định hình, cô đặc hoặc kết hợp thành một loại duy nhất có vị ngọt hoặc mặn hoặc tự nhiên. Một loạt các loại bánh gạo tồn tại ở nhiều nền văn hóa khác nhau trong đó gạo thường được nấu để ăn, và đặc biệt phổ biến ở châu Á. Các biến thể phổ biến bao gồm bánh làm từ bột gạo có những loại làm từ gạo xay và những loại làm từ ngũ cốc nguyên hạt được nén lại với nhau hoặc kết hợp với một số hợp chất liên kết khác. Về nguồn gốc bánh gạo có giả thiết cho rằng nó xuất xứ từ Trung Quốc, có thể là một loại bánh nếp dẻo hay bột gạo xay ra, hồ bột lên và cho nhân vào gói lại bằng lá. Sau này được du nhập vào các nước châu Á khác. Ngày nay, người Trung Quốc ăn mừng năm mới với cơm nắm, kẹo gạo, và bánh gạo truyền thống làm bằng gạo hấp trong nhiều giờ và trộn với sữa, đường, mỡ lợn hoặc dầu ăn, và bột nhão có hương vị như chà là hoặc đậu. Bánh thành phẩm có thể được chiên, nướng, hoặc luộc. Trong thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Anh, gạo được trồng ở Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á đã được nhập khẩu sang Anh và châu Âu và trở thành nền tảng cho nhiều loại thực phẩm yêu thích bao gồm cả bánh gạo. Truyền thống bánh gạo được mượn dưới dạng bánh kếp mang gạo, được gọi là bánh tráng (cho món nướng). Công nghệ chế biến bánh gạo cũng được tân tiến hơn, không cần phải làm thủ công cho tốn sức mà hoàn toàn làm theo cách truyền thống nếu văn hóa đó là truyền thống qua bao thế hệ không gì vứt bỏ được. Sau khi gạo được xay, nó được đặt trong một chiếc máy để tạo nên nhiều hình thù khác nhau lúc thưởng thức. Lịch sử của bánh gạo phần lớn không có ghi chú cụ thể, nhưng nguyên tắc chung đã tồn tại có lẽ bởi vì gạo đã được thu hoạch và thưởng thức vì lợi ích dinh dưỡng của nó. Gạo đã được trồng hơn 7.000 năm. 19 loài của loaị cây này thuộc họ cỏ phát triển tốt nhất ở vùng khí hậu ấm áp và ẩm ướt; và lúa có lẽ được trồng đầu tiên ở miền Nam Trung Quốc hoặc Bắc Thái Lan. Từ Đông Nam Á, ngành trồng trọt của nó di cư khắp các khu vực có khi hậu ấm áp hơn ở Châu Á, Nam Âu và cuối cùng là toàn cầu như ngày nay. Hơn một nửa nhân loại phụ thuộc vào gạo như là lương thực và ngũ cốc chính của họ. Cũng như là một nguồn carbohydrate phức tạp, gạo có giá trị dinh dưỡng đáng kể. Cám (một lớp giữa hạt và vỏ trấu được loại bỏ trong chế biến để tạo ra gạo trắng và để lại trong gạo nâu) chứa chất xơ, dầu, khoáng chất, protein và vitamin bao gồm E, K và B-phức tạp. Bánh gạo như một loại thực phẩm có một lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Năm 1974, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những hạt gạo được bảo quản hoàn toàn trong tàn tích của Diuyao Hemudu, Chiết Giang. Nó chỉ ra rằng sớm nhất là bảy ngàn năm trước, tổ tiên của chúng ta đã bắt đầu trồng lúa. Bánh gạo đã có rất nhiều cái tên như là "Er", "Ci" và "Dao Bing" từ thời nhà Hán. Trong một cuốn sách thổ ngữ được viết bởi Dương Hùng, một nhà văn thời nhà Hán, tên của "Gao" đã được sử dụng. Tên này trở nên phổ biến trong thời nhà Ngụy và nhà Tấn. Công thức nấu ăn của Shi thế kỷ thứ 6 ghi lại một phương pháp nấu ăn được gọi là đường trắng kén đường. Sau khi gạo nếp được hấp, giã gạo bằng cối và chày cho đến khi nó trở nên rất dính. Sau đó, xôi được cắt thành miếng nhỏ như quả óc chó. Sau khi các mảnh này được sấy khô, chúng được đốt bằng dầu. Cuối cùng, chúng được lăn qua đường và có thể ăn được. Quay trở lại thời nhà Liao, người ta nói ăn bánh gạo vào ngày Tết âm lịch của Trung Quốc là một phong tục. Đến triều đại nhà Minh và nhà Thanh, bánh gạo đã phát triển thành nguồn cung cấp đồ ăn nhẹ quanh năm trên thị trường, và có những hương vị khác nhau của bánh gạo miền Bắc và bánh gạo miền Nam.
Hōtō (餺飥 (ほうとう, bác thác)], Hōtō) là một món mì súp và món địa phương nổi tiếng nguồn gốc từ Yamanashi, Nhật Bản là bằng cách hầm mì udon dẹt và rau củ trong xúp miso. Mặc dù hōtō được biết đến như là một biến thể của udon, người dân địa phương không cho rằng nó là một món mì udon bởi bột nhồi được chuẩn bị giống kiểu sủi cảo hơn là kiểu mì.
Bánh trứng gà non là một loại bánh có hình trứng gà phổ biến tại Hồng Kông và Ma Cao, thành phần chính bao gồm trứng gà trộn với bột nhão đem nướng bằng chảo hai mặt có hình quả trứng gà non. Món ăn này thường được dùng nóng, thường là ăn luôn hoặc có thể dùng kèm với trái cây và các hương vị khác như dâu tây, dừa hoặc sô-cô-la. Tên của bánh bắt nguồn từ tiếng Quảng Đông, kê đản tử (雞蛋仔), (tiếng Anh: egg puff, bubble waffle, eggette, pancake balls, pancake waffle, egglet, và puffle). Thi thoảng loại bánh này còn được gọi là bánh Hong Kong ở các Chinatown trên đất Mỹ, đặc biệt là tại New York. Một miếng bánh trứng gà nướng có thể có 20 đến 35 viên kê gà trong đó. Bánh trứng gà non là một trong những món ăn vặt đường phố phổ biến nhất tại Hong Kong và được xếp hạng nhất trong danh sách. Món bánh này được ưa chuộng kể từ khi thâm nhập thị trường vào những năm 1950, khi đó được nướng bằng lò than và bán trên những kiot đường phố tại Hong Kong. Nguồn gốc bánh trứng gà non chưa được xác định rõ, dù cho món này đã in sâu vào trong tiềm thức dân Hong Kong các thế hệ. Một lưu truyền nói rằng các thương nhân thời hậu chiến tạo khuôn bánh hình trứng gà non để nướng bánh dùng bột không có trứng, thời đó trứng là một mặt hàng xa xỉ. Một giai thoại khác kể rằng những người bán hàng rong lề đường mua trứng hỏng giá rẻ, sau đó trộn với bột để làm bánh nên sau này bánh có màu vàng. Cần lưu ý rằng chảo rán có khuôn hình trứng gà non rất giống với chảo của phương Tây có hình ô vuông cũng dùng để làm bánh quế nướng. Ngày nay cả 2 loại bánh này thường được bán cùng tại cùng một quầy." Cũng có chuyện kể rằng một cửa hàng bán đồ ăn vặt không muốn vứt những quả trứng vỡ đi nên trộn trứng với bột mì rồi đem nướng. Bánh trứng gà non được làm từ đường, trứng nhào bột và nướng trên vỉ nướng là một loại chảo rán đặc biệt với ô tròn nhỏ (giống chảo æbleskiver nhưng số khuôn tròn nhiều hơn). Vỉ nướng được đặt trên than nóng, hoặc trên lò nướng điện. Bột được đổ lên chảo chiên đặc biệt và đun nóng; tạo hình trứng gà non. Để bánh được giòn thì cần lật chảo nhanh sau khi bột được đổ vào chảo. Làm như vậy sẽ cho bánh có hình trứng gà bên trên, bên dưới thì phẳng như bánh bình thường. Ngoài vị trứng bình thường còn có các vị khác như chocolate, trà xanh, gừng. Phần lớn bột làm bánh là bột mì hoặc bột lên men. Ngoài vị trứng truyền thống của Hong Kong, bánh trứng gà non được biến tấu đi rất nhiều trên thế giới. Rất dễ để thấy bánh trứng gà non có vị trà xanh, sô-cô-la, phô mai hoặc khoai môn, ngoài ra món bánh này còn được dùng như món tráng miệng ăn kèm với cà rem. Connelly, Michael Alan (ngày 18 tháng 12 năm 2014). “20 Must-Try Street Foods Around the World”. Fodor's. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2016.
Bánh phồng tôm là một loại bánh thường dùng để ăn nhẹ phổ biến tại các nước Đông Nam Á. Bánh đã chiên có độ giòn, xốp, béo ngậy, thơm mùi hải sản. Tại Việt Nam, bánh phồng tôm, được xem là đặc sản của miền Tây Nam Bộ, thường được bán dưới dạng chưa chiên, phải chiên lên trước khi sử dụng. Thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp là nơi sản xuất nhiều bánh phồng tôm nhất Việt Nam với một thương hiệu rất nổi tiếng là Sa Giang.Bánh phồng tôm cũng được bán dưới dạng đã chiên ở nhiều nước trên thế giới. Bánh được làm từ bột (gồm bột năng hoặc bột sắn lấy từ củ của cây sắn có trộn thêm một ít bột nở, NaHCO3), thịt tôm xay nhuyễn, một ít hạt tiêu giã nhỏ. Người ta còn thay thịt tôm bằng thịt cua hay một số loại hải sản khác. Đặc biệt, bánh dùng cho người ăn chay có thành phần chủ yếu gồm bột và khoai tây. Các thành phần nguyên liệu sau khi trộn với nhau sẽ được nhồi vào những chiếc túi vải dạng hình ống dài (giống như xúc xích nhưng to hơn nhiều). Sau khi được hấp chín, người ta cắt ra thành từng lát tròn mỏng rồi đem phơi khô. Khi sử dụng phải chiên giòn với dầu ăn nóng, bánh sẽ nở to ra gấp 3-4 lần nên được gọi là bánh phồng. Hiện nay ngoài loại bánh phồng tôm truyền thống còn có thêm các loại như phồng tôm cua, phồng tôm mực, bánh phồng basa với mùi vị hấp dẫn và đặc sắc. Bánh phồng tôm được gọi là krupuk udang trong tiếng Indonesia, và chỉ là một biến thể của nhiều loại krupuk được công nhận trong ẩm thực Indonesia. Tại Indonesia nhiệm kỳ krupuk hoặc kerupuk được sử dụng như thuật ngữ chung để chỉ các loại bánh. Indonesia có lẽ có nhiều loại krupuk lớn nhất. Krupuk udang (bánh phồng tôm) và các loại krupuk khác có mặt ở khắp mọi nơi ở Indonesia. Ví dụ về các nhãn hiệu krupuk udang phổ biến ở Indonesia bao gồm Finna và nhãn hiệu Komodo. Để đạt được độ giòn tối đa, hầu hết món krupuk udang thô được đóng gói sẵn này phải được phơi khô trước khi chiên giòn tại nhà. Để nấu krupuk, cần có một chảo và nhiều dầu ăn rất nóng. Raw krupuk khá nhỏ, cứng và có màu đậm hơn so với nấu chín. Các thị trấn đánh cá Sidoarjo ở Đông Java, cũng là Cirebon ở Tây Java, là nhà sản xuất chính của krupuk udang. Bánh phồng tôm được gọi là keropok ở Malaysia. Chúng là một trong những món ăn nhẹ phổ biến nhất ở Malaysia và đặc biệt được phục vụ tại nhà của nhiều người trong các lễ hội (như Tết Nguyên Đán và Hari Raya). Bánh phồng tôm được gọi là kropek (còn được đánh vần là kropeck) ở Philippines, hoặc theo tên tiếng Anh của họ là "prawn crakers" hoặc "fish crackers" (đặc biệt là trong các phiên bản thương mại được sản xuất hàng loạt). Chúng được làm từ bột mì truyền thống (thường là bột sắn), tôm bột hoặc cá, các loại gia vị khác nhau và nước. Không giống như ở Malaysia và Indonesia, kropek thường chỉ được ăn như một món ăn nhẹ hoặc món khai vị (rượu chôm chôm) đi kèm với rượu, tương tự như chicharon. Chúng thường được nhúng trong nước sốt dựa trên giấm cay, đáng chú ý nhất là sinamak (một loại giấm cay bản địa). Kropek cũng đã được đồng hóa vào ẩm thực Trung Quốc Philippines, thường được phục vụ như một món ăn phụ cho một số món ăn Philippines gốc Trung Hoa. == Tham khảo ==
Dưa chuột muối chua (Pickled cucumber) thường được gọi là dưa muối (Pickle) ở Hoa Kỳ và Canada và dưa chuột gherkin ở Anh, Ireland, Úc, Nam Phi và New Zealand) là một loại dưa chuột (dưa leo) đã được ngâm trong nước muối, giấm hoặc các dung dịch khác rồi để nguyên để lên men trong một khoảng thời gian, bằng cách ngâm dưa chuột trong dung dịch có tính axit hoặc làm chua bằng quá trình lên men lacto. Dưa chuột muối thường là một phần của món dưa chua trộn. Người ta thường khẳng định rằng dưa chuột muối lần đầu tiên được phát triển cho những người phu phen xây dựng Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, mặc dù một giả thuyết khác cho rằng chúng được sản xuất đầu tiên ở Thung lũng Tigris của Lưỡng Hà sử dụng dưa chuột mang về từ Ấn Độ. Tại Hoa Kỳ, dưa chua thường được phục vụ như một món ăn kèm trong bữa ăn, thường một quả dưa chuột muối được cắt theo chiều dài thành phần tư hoặc phần sáu. Dưa chua có thể được sử dụng như một loại gia vị trên bánh hamburger hoặc bánh mì sandwich khác (thường ở dạng lát), hoặc ăn kèm xúc xích hoặc xúc xích ở dạng cắt nhỏ. Dưa chuột muối thường được sử dụng trong nhiều món ăn khác nhau chẳng hạn như bánh mì thịt nhồi dưa chua, salad khoai tây hoặc salad gà hoặc được dùng riêng như một món khai vị. Dưa chuột muối chua đôi khi được phục vụ riêng rẽ như thức ăn lễ hội, thường là trên một que thí dụ như ở Nhật Bản, nó được gọi là "dưa chua que" (一本漬, ippon-tsuke). Dưa chua thì là được chiên, thường là chiên giòn với một lớp áo bột, đây là một món ăn phổ biến ở miền nam Hoa Kỳ. Ở Nga và Ukraine, dưa chua được sử dụng trong rassolnik: một món súp truyền thống được làm từ dưa chuột muối, lúa mạch, thận lợn hoặc bò, và các loại thảo mộc khác nhau. Món ăn này được biết đã có từ thế kỷ 15, khi nó được gọi là kalya. Ở miền nam nước Anh, dưa muối gherkin ngâm giấm được phục vụ như một món ăn kèm với cá và khoai tây chiên. == Tham khảo ==
Salad/Rau trộn (tiếng Pháp: salade) hay salad, xa lát, xà lách trộn là một loại món ăn có nguồn gốc từ các nước châu Âu, đây là món hỗn hợp theo phương pháp trộn lẫn bao gồm nhiều nguyên liệu khác nhau và có nhiều loại khác nhau; chủ yếu là chế biến từ rau sống và các loại xà lách, mì, cây họ đậu, trứng, thịt, hải sản và trái cây. Salad trộn thường được chế biến từ việc trộn các nguyên liệu và tưới lên đó hỗn hợp nước sốt làm từ bơ, sữa, va ni, mayonne. Các món salad được chế biến và phân loại với các mục đích khác nhau, cụ thể, salad thường được dùng để: Làm món khai vị, trong trường hợp này xa lát sẽ là món kích thích cảm giác thèm ăn của thực khác. Xa lát là món ăn phụ và ăn kèm với món chính Xa lát là món chính: trong trường hợp này xa lát sẽ được chế biến nhằm tăng thêm dinh dưỡng bằng cách tăng thêm các món chứa nhiều chất đạm, đường, mỡ chẳng hạn như ức gà hay thịt bò/lợn. Xa lát làm món tráng miệng: trong món này xa lát được chế biến theo dạng ngọt, có thể pha thêm kem hoặc sữa tươi.Xa lát có thể là loại xa lát nóng hoặc nguội (lạnh). Hầu hết các món Salad trộn truyền thống là các loại nguội (lạnh), mặc dù một số nơi chẳng hạn như xa lát khoai tây ở phía nam nước Đức thì là loại xa lát nóng sốt. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng salad đã xuất hiện lần đầu tiên ở vùng biển Địa Trung Hải, cụ thể hơn là đất nước Hy Lạp. Món Salad trộn đã xuất hiện từ lâu và dưới nhiều hình thức chế biến khác nhau. Chẳng hạn, người La Mã, người Hy Lạp cổ đại và người Ba Tư đã trộn hỗn hợp rau củ với một loại nước sốt riêng để ăn.
Bộ Hình tôm (danh pháp khoa học: Euphausiacea), hay tên Hán Việt lân ha, hay tôm he (tiếng Trung: 磷蝦/ Lín xiā, 蝦: là con tôm hay con he, 磷 là lân quang), là một bộ động vật giáp xác thuộc lớp Giáp mềm. sinh sống ở các đại dương trên thế giới. Bộ Hình tôm có vai trò kết nối cấp dinh dưỡng - gần phần cuối cùng của chuỗi thức ăn – bởi vì chúng ăn thực vật phù du và một mức độ ít hơn động vật phù du, chuyển những loại này thành một dạng phù hợp cho nhiều loài động vật lớn hơn mà các loài tôm chiếm một phần lớn khẩu phần ăn của chúng. Ở đại dương phía nam, một loài, Antarctic krill, Euphausia superba, tạo thành một sinh khối lên đến 500.000.000 tấn, gần gấp đôi tổng trọng lượng của loài người. Trong số đó, hơn một nửa bị ăn bởi cá voi, hải cẩu, chim cánh cụt, mực và cá mỗi năm, và được thay thế bởi mức tăng trưởng và độ sinh sản. Phần lớn các loài tôm di cư theo chiều đứng hàng ngày, do đó cung cấp thực phẩm cho những con vật săn mồi gần mặt nước về đêm và ở vùng nước sâu hơn vào ban ngày.
Bánh gừng hình người (tiếng Anh: gingerbread man) là một loại bánh bích quy hoặc bánh quy ngọt làm từ bánh mì gừng theo khuôn hình người. Trong các dịp lễ Phục sinh, Giáng sinh, Halloween, các kiểu hình thù khác như cây thông, bông tuyết, động vật cũng rất phổ biến Bánh gừng được biết tới từ thế kỷ 15 và phong cách làm bánh theo hình xuất hiện từ thế kỷ 16. Ghi nhận đầu tiên về bánh quy gừng theo hình là tại cung điện của nữ vuơng Elizabeth I (Anh Quốc) khi những chiếc bánh được làm theo hình dáng những vị khách của bà. Hầu hết bánh gừng kiểu này có hình dạng giống người, tứ chi nặn tròn và không có ngón. Phần mặt, quần áo, khuy áo được trang trí bằng sô-cô-la, kem lạnh, kẹo gôm. Theo Sách Kỷ lục Guinness, bánh gừng hình người lớn nhất thế giới được một nhân viên của IKEA ở Oslo, Na Uy chế biến vào ngày 9 tháng 11 năm 2009. Chiếc bánh nặng khoảng 651 kg.
Chanh muối là một loại nguyên liệu làm nước giải khát trong ẩm thực Việt Nam. Chanh muối được pha với đường, nước uống với đá hoặc uống nóng. Sau khi chanh được muối đạt yêu cầu,chanh được vớt ra và cắt thành lát mỏng.Người ta tin rằng chanh muối có thể trị ho,thanh nhiệt, giải độc, cung cấp năng lượng, bù muối khoáng nhất là vào mùa hè. Chanh được cắt bỏ núm, cho vào trong chảo hoặc chậu nhỏ trộn với muối hạt. Chanh được loại bỏ tinh dầu tránh gây vị đắng bằng cách chà xát các hạt muối cọ vào lớp vỏ cho đến khi vỏ chanh xước đều, tinh dầu từ vỏ tướt ra khá nhiều thì rửa qua nước 1 lần cho sạch muối. Đun sôi 1 nồi nước. Trong lúc chờ nước sôi bạn lấy 2 thìa phèn chua ra pha với 3 lít nước lạnh. Khi nước sôi bạn đổ chanh vào trong 1 phút rồi vớt ra cho vào nước phèn chua đã pha. Ngâm khoảng 2 tiếng nhằm làm trắng lớp vỏ chanh cũng như làm sạch lớp tinh dầu ở lớp vỏ chanh 1 lần nữa. Sau khi ngâm phèn chua khoảng 2 tiếng. Trong lúc ngâm, bạn pha khoảng 1.5 lít nước đun sôi để nguội với muối. Nếu có nước cất thì càng tốt. Muối pha ở bước này phải là muối khô. Pha thật đặc. Mẹo để kiểm tra xem nước muối đã đủ đặc chưa bằng cách cho 1 hạt cơm nguội vào. Nếu hạt cơm nổi nên là nước muối đã đạt yêu cầu. 2 kg chanh ta (chọn trái mỏng vỏ, đều nhau không quá to hoặc quá nhỏ, để héo 3 ngày) 1,3 kg muối hột (sẽ cho vị tự nhiên hơn khi dùng muối iod) 200g đường cát 1 thìa giấm Hũ thủy tinh rửa sạch, tráng nước muối, hong khô. == Tham khảo ==
Bánh mì gối là một loại bánh mì được nướng trong khay. Sau khi nướng, nó được thái (xắt) lát thành từng lát bánh mỏng gọi là lát bánh mì và được đóng gói cho tiện lợi để dễ sử dụng. Kiểu bánh mì này lần đầu tiên được bán vào năm 1928, nó được quảng cáo là "bước tiến lớn nhất trong ngành công nghiệp nướng bánh từ bánh mì". Lát bánh mì rất tiện dụng trong ẩm thực, nó có thể dùng để thái lát dễ dàng cho việc chầy bơ, kem, gan xay... hay thuận lợi cho việc dùng để kẹp các món khác ăn chung với mì. Otto Frederick Rohwedder một người ở Davenport, Iowa, Mỹ đã phát minh ra lát bánh mì tại một thời gian đầu tiên máy cắt lát bánh mì. Một nguyên mẫu được xây dựng vào năm 1912 đã bị phá hủy trong một cơn hỏa hoạn. Sau đó,loại hình này được sử dụng thương mại đầu tiên là của Công ty Bánh Chillicothe, Missouri, nhà máy này sản xuất những lát bánh mì đầu tiên vào ngày 07 tháng 7 năm 1928. Đến nay loại hình bánh mì này đã trở nên phổ biến.
Pudding là một loại thức ăn có thể là món tráng miệng hoặc món mặn (mặn hoặc cay) là một phần của bữa ăn chính. Cách sử dụng từ pudding của người Mỹ hiện đại để biểu thị chủ yếu là món tráng miệng đã phát triển theo thời gian từ cách sử dụng gần như độc quyền ban đầu của thuật ngữ này để mô tả các món mặn, cụ thể là những món được tạo ra bằng quy trình tương tự như được sử dụng cho xúc xích, trong đó thịt và các thành phần khác trong hầu hết ở thể lỏng được nhồi vào và sau đó hấp hoặc luộc chính để tạo thành kết cấu bên trong. Black pudding (loại dồi lợn của châu Âu) và haggis tồn tại từ truyền thống này. Theo "Từ điển Webster" của Mỹ, thực tế có ba thứ có thể được gọi là Pudding: Vật liệu chứa các loại ngũ cốc, thức ăn mềm hấp hoặc nướng. Món tráng miệng mềm, xốp như kem hoặc kem đặc. Nó chứa thịt bò và mỡ cừu và được hấp trong túi.Cuốn "Oxford Food Encyclopedia" của Anh rất thú vị khi thêm một chú thích đặc biệt trong đoạn pudding: "Pudding ở Hoa Kỳ hầu như chỉ đề cập đến các món tráng miệng làm bằng bột ngô và sữa."Tại Vương quốc Anh và một số quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung, từ bánh pudding vẫn được dùng để chỉ các món ngọt và mặn. Tuy nhiên, trừ khi đủ tiêu chuẩn, thuật ngữ trong cách sử dụng hàng ngày thường biểu thị một món tráng miệng; ở Vương quốc Anh, bánh pudding được sử dụng như một từ đồng nghĩa với một món tráng miệng.Pudding ngọt là món tráng miệng giàu tinh bột hoặc sữa khá đồng nhất như pudding gạo, chế biến bằng phương pháp hấp cách thủy như bánh pudding xốp có hoặc không có thêm các thành phần như trái cây khô như trong bánh pút-đinh Giáng sinh. Các món mặn bao gồm bánh pudding Yorkshire, bánh pudding đen, pudding mỡ thận và bánh pudding bít tết và thận. Ở Hoa Kỳ và Canada, pudding đặc trưng biểu thị một món tráng miệng làm từ sữa ngọt có độ đặc tương tự như món kem trứng sữa, trứng sữa ăn liền hoặc mousse, thường được sản xuất thương mại bằng cách sử dụng bột bắp, gelatin hoặc chất tạo collagen tương tự như dòng sản phẩm của thương hiệu Jell ‑ O. Ở các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung, những chiếc bánh pudding này được gọi là sữa trứng (hoặc sữa đông) nếu chúng được làm đặc bằng trứng, là blancmange nếu làm đặc tinh bột và như thạch nếu là gelatin. Pudding cũng có thể đề cập đến các món ăn khác như bread pudding (pudding bánh mì) và pudding bánh gạo, mặc dù những tên gọi này có thể bắt nguồn từ những món ăn ở Anh. Ở Vương quốc Anh và một số quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung, từ pudding có thể được sử dụng để mô tả cả món ngọt và món mặn. Tuy nhiên, trừ khi đủ tiêu chuẩn, thuật ngữ trong cách sử dụng hàng ngày thường biểu thị một món tráng miệng; ở Vương quốc Anh, bánh pudding được sử dụng như một từ đồng nghĩa với một món tráng miệng.
Hạt hướng dương là hạt từ cây hướng dương (Helianthus annuus). Những bông hoa hướng dương nở ra, trong nhụy mọc lên quả có hình dáng giống hạt nên được gọi là "hạt". Có ba loại hạt thường thấy là: giàu linoleic (phổ biến nhất), giàu oleic và hạt tạo dầu. Hạt hướng dương đen, cứng được dùng để ép lấy dầu, trong khi hạt đen sọc trắng (hoặc đen tuyền) dùng để làm đồ ăn vặt. Bên cạnh làm đồ ăn, hạt hướng dương cũng được dùng để ép lấy dầu. Dầu hướng dương là sản phẩm từ việc chiết xuất dầu từ hạt của nó. Loại dầu này dùng để chiên rán thực phẩm hoặc để trang điểm, làm nhiên liệu, v.v.. Dầu hướng dương được sản xuất và sử dụng lần đầu vào năm 1835 tại Nga. Hạt hướng dương chứa nhiều vitamin E và folate. Vitamin E tốt cho tim mạch, bảo vệ màng tế bào não, chống viêm sưng. Trong khi đó, folate (hay axit folic, vitamin B9) giúp tạo và duy trì tăng trưởng các tế bào, đồng thời tạo DNA và RNA (các khối xây dựng của tế bào) và ngăn ngừa thay đổi DNA bất thường gây ra ung thư. Năm 2014, tổng sản lượng hạt hướng dương toàn cầu là 41,4 triệu tấn, trong đó Ukraine dẫn đầu với 24% sản lượng, Nga chiếm 21%. Trung Quốc, Romania và Argentina cũng có những đóng góp đáng kể.
Tranh đường tức đường họa (tiếng Trung Quốc 糖画, bính âm: Táng huà) là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của Trung Quốc. Nghệ nhân sử dụng dung dịch đường nóng chảy để tạo ra một bức tranh hai chiều. Vì nguyên liệu chủ yếu là đường nên tranh đường trở thành một món kẹo mà trẻ em Trung Quốc yêu thích.Nghệ thuật này có nét tương đồng với Amezaiku, nghệ thuật kẹo Nhật Bản. Tranh đường có nguồn gốc từ thời nhà Minh (1368-1644), người ta dùng dung dịch đường nóng chảy tạo nên hình dạng các loài động vật nhỏ tạo thành các lễ vật phục vụ các nghi lễ tôn giáo để dâng lên thần linh. Hình thức nghệ thuật này thì trở nên phổ biến trong suốt triều đại nhà Thanh (1616-1912). Vào thời điểm đó, nhiều người kiếm sống nhờ vẽ tranh đường, họ dựng những quầy hàng ở những con phố, những khu chợ đông đúc, trước rạp hát và những nơi công cộng khác tập trung nhiều người.Theo các tài liệu đã được ghi chép thì nghề thủ công này bắt nguồn ở tỉnh Tứ Xuyên (nằm ở tây nam Trung Quốc) và dần dần lan ra rộng rãi khắp các tỉnh thành ở Trung Quốc.Ngày nay, tranh đường ngày càng đa dạng về mẫu mã và cải tiến về kỹ thuật. Mặc dù có nhiều kỹ thuật làm tranh đường khác nhau nhưng để tạo nên một tác phẩm tranh đường, nghệ nhân thường thực hiện các bước cơ bản như sau: Nấu đường: đường nâu hoặc đường cát trắng được nấu trong một cái nồi cho tan chảy. Những nghệ nhân dày dặn kinh nghiệm có thể xác định đường thời điểm thích hợp để đường có màu sắc đẹp mắt, độ nóng phù hợp. Chuẩn bị một mặt phẳng bằng gỗ hoặc cẩm thạch. Ngày nay, người ta có thể dùng những vật liệu bằng nhựa để thay thế. Dùng muỗng đồng múc đường từ nồi rồi vừa nhanh chóng vừa đều tay đổ lên mặt phẳng để phát thảo. Tập trung sức mạnh của đôi tay, nghệ nhân xem tấm đá cẩm thạch như một tờ giấy, cái muỗng chứa đường như một cây cọ, di chuyển lên, xuống, phải, trái một cách điêu luyện để tạo ra đường nét đẹp mắt. Tiếp tục đổ đường lên tranh để hoàn thiện hình dạng. Khi đường vẫn còn ấm và mềm dẻo, gắn một thanh gỗ nhỏ, dài vào tranh để tiện cho việc cằm nắm khi ăn. Lấy tranh ra khỏi bề mặt bằng cách sử dụng một công cụ tương thích. Bán tranh cho khách hàng hoặc cắm trên bàn để trưng bày. Khách hàng (đặc biệt là trẻ em) thường chọn một con vật bằng cách quay những mũi tên trên một bánh xe. Khi đó khách hàng có thể chọn lựa hình dạng tranh đường một cách ngẫu nhiên. Các hình mẫu động vật phổ biến là con cá, con khỉ, con chó, các loài chim, hoặc các loại hoa quả. Giá của tranh đường tương đối rẻ. Khách hàng phải trả 5 giác hoặc 1 đến 2 nhân dân tệ cho một lần quay số.Để được chọn mẫu yêu thích mà không phải quay số ngẫu nhiên thì phải trả giá cao hơn.
Một cái quesadilla (; tiếng Tây Ban Nha: [kesaˈðiʝa] ( nghe) liên_kết=| Về âm thanh này) là một món ăn Mexico và một loại taco, bao gồm một bánh tortilla chứa chủ yếu là phô mai, và đôi khi thịt, đậu, và gia vị, sau đó nấu chín trên vỉ nướng. Theo truyền thống, một tortilla ngô được sử dụng, nhưng nó cũng có thể được làm bằng một tortilla bột mì, đặc biệt là ở miền bắc Mexico và Hoa Kỳ. Một quesadilla đầy đủ được làm với hai bánh tortillas giữ một lớp phô mai giữa chúng. Một nửa là một tortilla duy nhất đã được lấp đầy với pho mát và gấp lại thành hình nửa mặt trăng. Một phiên bản nhanh chóng của quesadilla, tortilla phô mai, được bỏ lò vi sóng và thường phục vụ cho trẻ em. Quesadilla có nguồn gốc từ thuộc địa Mexico. Quesadilla như một loại thực phẩm đã thay đổi và phát triển trong nhiều năm khi mọi người thử nghiệm các biến thể khác nhau của nó. Quesadillas thường được bán tại các nhà hàng Mexico trên toàn thế giới. Gay, Kathlyn (1996). Encyclopedia of North American Eating and Drinking Traditions, Customs, and Rituals. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. ISBN 9780874367560.