title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Tiếng Đức Đông Trung | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822691 | Tiếng Đức Đông Trung () là ngôn ngữ Trung Đức không phải là phương ngữ Franken và là một phần của nhóm ngôn ngữ Thượng Đức. Tiếng Đức chuẩn ngày nay là một biến thể của ngôn ngữ Thượng Đức, đã thực sự phát triển từ một thỏa hiệp của tiếng Đức Đông Trung (đặc biệt là phương ngữ Thượng Saxon được thúc đẩy bởi Johann Christoph Gottsched) và tiếng Đức Đông Franken. Các phương ngữ Đức Trung Đông được nói chủ yếu ở Trung Đức và một phần của Brandenburg, và trước đây được nói ở Silesia và Bohemia.
Phương ngữ.
Tiếng Đức Trung Đông được nói ở các phần lớn của những gì ngày nay được gọi là vùng văn hóa Trung Đức ("Mitteldeutschland").
Nó bao gồm theo Glottolog:
Một bộ phận khác là:
Nordobersächsisch-Südmärkisch.
Khu vực phương ngữ "Nordobersächsisch-Südmärkisch" nằm ở phía bắc của Thượng Saxon và phía Tây Bắc của Silesia, ở phía nam nó bao gồm một phần của Lusatia và ở phía bắc, phụ thuộc vào định nghĩa, nó có thể bao gồm khu vực xung quanh Berlin. Nó bao gồm nhiều phần phụ, chuyển sang nhóm Thượng Đức (từ Hạ Đức hoặc Sorbia) xảy ra ở những thời điểm khác nhau và trong những điều kiện khác nhau. |
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822693 | Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 1787–1792 liên quan đến một nỗ lực không thành công của Đế quốc Ottoman nhằm lấy lại các vùng đất đã mất vào tay Đế quốc Nga trong quá trình Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774) trước đó. Cuộc chiến này diễn ra đồng thời với Chiến tranh Áo-Thổ Nhĩ Kỳ (1788–1791), Chiến tranh Nga-Thụy Điển (1788–1790) và Chiến tranh Nhà hát.
Trong cuộc chiến này, vào ngày 25 tháng 9 năm 1789, một phân đội của Lục quân Đế quốc Nga dưới quyền chỉ huy của Alexander Suvorov và Ivan Gudovich, đã chiếm Khadjibey và Yeni Dünya cho Đế quốc Nga. Năm 1794, Odesa được thành lập theo sắc lệnh của Nữ hoàng Nga Yekaterina Đại đế.
Nga chính thức giành quyền sở hữu sanjak Özi (tỉnh Ochakiv) vào năm 1792 và khu vực trở thành một phần của Phó vương quốc Yekaterinoslav. Đế quốc Nga nắm toàn quyền kiểm soát Krym, cũng như vùng đất giữa sông Nam Bug và sông Dniester.
Bối cảnh.
Vào tháng 5 và tháng 6 năm 1787, Yekaterina II của Nga thực hiện một lễ rước khải hoàn qua Novorossiya và Krym mới sáp nhập cùng với đồng minh của bà là Joseph II của Thánh chế La Mã. Những sự kiện này, tin đồn về Kế hoạch Hy Lạp của Yekaterina, và xích mích do khiếu nại lẫn nhau về việc vi phạm Hiệp định Küçük Kaynarca kết thúc cuộc chiến trước đó, đã khuấy động dư luận ở Constantinople, trong khi các đại sứ Anh và Pháp hỗ trợ vô điều kiện cho phái chiến tranh của Ottoman.
Chiến tranh.
Năm 1787, Ottoman yêu cầu người Nga di tản khỏi Krym và từ bỏ khu vực nắm giữ của họ gần Biển Đen, điều này được Nga nhìn nhận là "casus belli" (kiếm cớ chiến tranh). Nga tuyên chiến vào ngày 19 tháng 8 năm 1787, và người Ottoman tống giam đại sứ Nga Yakov Bulgakov. Sự chuẩn bị của Ottoman là không đầy đủ và thời điểm được lựa chọn là sai lầm, vì Nga và Áo đang trong liên minh. Người Ottoman tập hợp lực lượng trên khắp lãnh thổ của họ, và Süleyman Bey từ Anatolia tự mình ra mặt trận với 4.000 binh sĩ.
Đế quốc Ottoman mở đầu chiến dịch bằng một cuộc tấn công vào hai pháo đài gần Kinburn ở miền nam Ukraina. Tướng quân Nga Alexander Suvorov ngăn chặn hai cuộc tấn công trên biển này của Ottoman vào tháng 9 và tháng 10 năm 1787, nhờ đó bảo vệ được Krym. |
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822693 | Tại Moldavia, quân đội Nga chiếm được các thành phố Chocim và Jassy của Ottoman. Ochakov nằm tại cửa sông Dnepr thất thủ vào ngày 6 tháng 12 năm 1788, sau cuộc vây hãm kéo dài sáu tháng của Thân vương Grigory Potemkin và Suvorov. Tất cả thường dân trong các thành phố bị chiếm lĩnh đều bị tàn sát theo lệnh của Potemkin.
Mặc dù phải chịu một loạt thất bại trước người Nga, Đế quốc Ottoman đạt được một số thành công trước quân Áo do Hoàng đế Joseph II lãnh đạo, tại Serbia và Transylvania.
Đến năm 1789, Đế quốc Ottoman bị quân Nga và Áo đẩy lùi tại Moldavia. Tệ hơn nữa, vào ngày 1 tháng 8, quân Nga dưới quyền chỉ huy của Suvorov giành được chiến thắng trước quân Ottoman do Osman Pasha lãnh đạo tại Focsani, tiếp theo là chiến thắng của Nga tại Rymnik (hoặc "Rimnik") vào ngày 22 tháng 9, và đánh đuổi quân Ottoman ra xa khỏi khu vực gần sông Râmnicul Sărat. Suvorov được phong tước hiệu Bá tước Rymniksky sau trận chiến. Người Ottoman chịu nhiều tổn thất hơn nữa khi quân Áo dưới quyền chỉ huy của Tướng quân Ernst Gideon von Laudon đẩy lùi cuộc xâm lược của người Ottoman vào Croatia, trong khi quân Áo phản công chiếm Beograd.
Một cuộc nổi dậy của người Hy Lạp càng làm cạn kiệt nỗ lực chiến tranh của Ottoman, dẫn đến một thỏa thuận ngừng bắn giữa Đế quốc Ottoman và Áo. Trong khi đó, quân Nga tiếp tục tiến quân khi Suvorov chiếm giữ pháo đài Ottoman được cho là "bất khả xâm phạm" mang tên Izmail trên lối vào sông Danube, vào tháng 12 năm 1790. Một thất bại cuối cùng của Ottoman tại Machin (9 tháng 7 năm 1791), cùng với những lo ngại của Nga về việc Phổ tham chiến, đã dẫn đến một hiệp định đình chiến được nhất trí vào ngày 31 tháng 7 năm 1791. Sau khi chiếm được pháo đài Izmail, Suvorov hành quân đến Constantinople (ngày nay là Istanbul), nơi người Nga hy vọng họ có thể thành lập một đế chế Cơ đốc giáo. Tuy nhiên, như Giáo sư Timothy C. Dowling đã nói, những cuộc tàn sát được thực hiện trong giai đoạn sau đó đã phần nào làm ô uế danh tiếng của Suvorov trong mắt nhiều người, và có những cáo buộc vào thời điểm đó rằng ông từng say rượu trong Cuộc vây hãm Ochakov. |
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822693 | Những tin đồn dai dẳng về hành động của ông được lan truyền và lưu hành, và vào năm 1791, ông được chuyển đến Phần Lan.
Hậu quả.
Sau đó, Hiệp định Jassy được ký kết vào ngày 9 tháng 1 năm 1792, công nhận việc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym vào năm 1783. Yedisan (Odessa và Ochakov) cũng được nhượng lại cho Nga, và sông Dniester trở thành biên giới của Nga tại châu Âu, trong khi biên giới châu Á của Nga—sông Kuban—không thay đổi. Mục tiêu chiến tranh của Ottoman nhằm giành lại Krym đã thất bại, và nếu không nhờ Cách mạng Pháp thì tình hình của Đế quốc Ottoman có thể tồi tệ hơn nhiều. |
Ligue 1 2023–24 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822709 | Ligue 1 2023–24, còn được gọi là Ligue 1 Uber Eats vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 86 của Ligue 1, giải đấu bóng đá hàng đầu của Pháp.
Do bốn câu lạc bộ xuống hạng Ligue 2 vào cuối mùa giải trong khi chỉ có hai câu lạc bộ từ Ligue 2 lên hạng nên số lượng câu lạc bộ giảm xuống chỉ còn 18 câu lạc bộ bắt đầu từ mùa giải 2023–24.
Paris Saint-Germain đang là đương kim vô địch.
Trận play-off trụ hạng.
Mùa giải 2023–24 sẽ kết thúc bằng trận play-off trụ hạng giữa đội xếp thứ 16 tại Ligue 1 và đội thắng trong trận bán kết play-off Ligue 2 trong cuộc đối đầu hai lượt đi và về. |
Terbi(III) chloride | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822712 | Terbi(III) chloride (công thức hóa học: TbCl3) là một hợp chất vô cơ. Ở trạng thái rắn TbCl3 có cấu trúc lớp giống YCl3. Terbi(III) chloride thường tạo thành hexahydrat.
Điều chế.
Dạng hexahydrat của terbi(III) chloride có thể thu được bằng phản ứng của terbi(III) oxide và acid chlorhydric:
Nó cũng có thể thu được bằng phản ứng trực tiếp giữa các nguyên tố:
Tính chất.
Terbi(III) chloride là một loại bột màu trắng, có tính hút ẩm. Nó kết tinh dưới dạng trực thoi (giống plutoni(III) bromide) với nhóm không gian Cmcm (số 63). Nó có thể tạo phức Tb(gly)3Cl3·3H2O với glycin.
Ứng dụng.
Terbi(III) chloride được sử dụng trong ngành công nghiệp bán dẫn. Hexahydrat đóng vai trò quan trọng như một chất kích hoạt phosphor xanh trong các ống TV màu, được sử dụng trong các tia laser đặc biệt và như một dẫn xuất trong các thiết bị trạng thái rắn.
An toàn.
Terbi(III) chloride có thể gây sung huyết mống mắt. Các điều kiện/chất cần tránh là: nhiệt, acid và hơi acid. |
Trường Đại học Sư phạm | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822731 | Trường Đại học Sư phạm có thể là: |
Trường Đại học Nông Lâm | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822732 | Trường Đại học Nông Lâm có thể là: |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1888 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 26, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 6 tháng 11 năm 1888. Ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Benjamin Harrison, cựu Thượng nghị sĩ từ Indiana, đã đánh bại Tổng thống đương nhiệm của Đảng Dân chủ Grover Cleveland từ New York. Đây là cuộc bầu cử tổng thống thứ 3 trong số 5 cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ (và là cuộc bầu cử thứ 2 trong vòng 12 năm) mà người thắng cử thua phiếu phổ thông trên toàn quốc, điều này sẽ không xảy ra một lần nữa cho đến năm 2000.
Cleveland, tổng thống đầu tiên của Đảng Dân chủ kể từ Nội chiến Hoa Kỳ, được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1888. Harrison, cháu trai của cố Tổng thống William Henry Harrison, nổi lên cho vị trí ứng cử viên của Đảng Cộng hòa trong lần bỏ phiếu thứ 8 của Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1888. Ông đã đánh bại các nhà lãnh đạo đảng nổi tiếng khác như Thượng nghị sĩ John Sherman và cựu Thống đốc Michigan Russell Alger. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên kể từ năm 1840 mà Tổng thống đương nhiệm thất cử.
Chính sách thuế quan là vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử, trong khi Cleveland đã đề xuất giảm thuế đáng kể vì cho rằng thuế cao là không công bằng đối với người tiêu dùng thì Harrison lại đứng về phía các nhà máy công nghiệp và công nhân khi muốn giữ mức thuế cao. Sự phản đối của Cleveland đối với lương hưu cho cựu chiến binh trong Nội chiến cũng như tình trạng lạm phát tiền tệ đã làm phật lòng các binh và nông dân. Ngược lại, ông nhận được sự ủng hộ lớn từ các bang miền Nam và các bang vùng biên, đồng thời thu hút các cựu thành viên của phái Mugwumps trong Đảng Cộng hòa.
Cleveland dù thắng phiếu phổ thông, nhưng Harrison đã thắng cử với đa số phiếu Đại cử tri đoàn, đánh dấu lần duy nhất một Tổng thống đương nhiệm của 1 trong 2 đảng lớn thất cử trong nỗ lực tái tranh cử mặc dù giành được phiếu phổ thông. Harrison đã càn quét gần như toàn bộ các bang miền Bắc và Trung Tây, bao gồm cả các bang dao động như New York và Indiana. Đây là lần đầu tiên đảng Dân chủ giành được phiếu phổ thông liên tiếp kể từ năm 1856.
Đề cử.
Đề cử của Đảng Cộng hòa. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Đề cử.
Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Các ứng cử viên của Đảng Cộng hòa bao gồm cựu Thượng nghị sĩ Benjamin Harrison từ Indiana; Thượng nghị sĩ John Sherman từ Ohio; Russell A. Alger, cựu thống đốc bang Michigan; Walter Q. Gresham từ Indiana, cựu Bộ trưởng Ngân khố; Thượng nghị sĩ William B. Allison từ Iowa; và Chauncey Depew từ New York, Chủ tịch Đường sắt Trung tâm New York.
Vào thời điểm các đảng viên Cộng hòa họp mặt ở Chicago từ ngày 19 đến 25 tháng 6 năm 1888, người dẫn đầu lúc đó James G. Blaine đã rút lui vì ông tin rằng chỉ có một thỏa hiệp mới tạo ra được một ứng cử viên Đảng Cộng hòa đủ mạnh để đánh bại Tổng thống đương nhiệm Cleveland. Blaine nhận ra rằng ông sẽ khó được đề cử nếu không có những cuộc tranh đấu căng thẳng. Sau khi rút lui, Blaine ủng hộ cả Benjamin Harrison và John Sherman. Harrison được đề cử trong lần bỏ phiếu thứ 8.
Đảng Cộng hòa đã chọn Harrison vì quá khứ tham chiến của ông, sự nổi tiếng của ông ấy trong giới các cựu chiến binh, khả năng bày tỏ những cam kết của Đảng Cộng hòa và thực tế là ông ấy sống ở bang Indiana, một bang dao động quan trọng. Đảng Cộng hòa hy vọng sẽ giành được 15 phiếu đại cử tri từ Indiana, nơi Cleveland thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống trước đó. Levi P. Morton, cựu Hạ nghị sĩ và đại sứ từ Thành phố New York, được đề cử làm Phó Tổng thống thay vì William Walter Phelps, đối thủ chính của ông.
Đề cử của Đảng Dân chủ.
Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ:Đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ được tổ chức tại St. Louis, Missouri, từ ngày 5 đến 7 tháng 6 năm 1888, diễn ra thành công. Tổng thống đương nhiệm Cleveland đã được nhất trí tái đề cử mà không qua bất kỳ lần bỏ phiếu nào. Đây là lần đầu tiên một Tổng thống đương nhiệm của Đảng Dân chủ được tái đề cử kể từ Martin Van Buren vào năm 1840.
Sau khi Cleveland được tái đề cử, Đảng Dân chủ phải chọn người thay thế cho Thomas A. Hendricks. Hendricks đã tranh cử không thành công để được đề cử làm Phó Tổng thống năm 1876, nhưng đã giành được chức vụ này khi ông tái tranh cử với Cleveland vào năm 1884 . Tuy nhiên, Hendricks chỉ giữ chức vụ Phó Tổng thống trong vỏn vẹn 8 tháng cho đến khi ông qua đời vào ngày 25 tháng 11 năm 1885. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Cựu Thượng nghị sĩ Allen G. Thurman từ Ohio đã được đề cử làm Phó Tổng thống thay vì Isaac P. Gray, đối thủ chính của ông và John C. Black, một đối thủ khác. Gray không được đề cử chủ yếu vì những người phản đối ông đã liên tục khui ra những hành động khi ông còn là đảng viên Đảng Cộng hòa.
Cương lĩnh của Đảng Dân chủ phần lớn chỉ giới hạn trong việc bảo vệ chính quyền Cleveland, ủng hộ việc giảm thuế cũng như kết nạp thêm các lãnh thổ ở miền Tây.
Đề cử của Đảng Cấm rượu.
Đại hội toàn quốc của Đảng Cấm rượu được tổ chức tại Hội trường Tomlinson ở Indianapolis, Indiana. Có 1.029 đại biểu từ 35 bang.
Clinton B. Fisk đã được nhất trí đề cử làm Tổng thống. John A. Brooks được đề cử làm Phó Tổng thống.
Đề cử của Đảng Công đoàn Lao động.
Đại hội toàn quốc của Đảng Công đoàn Lao động được tổ chức tại Cincinnati, Ohio. Đảng Công đoàn Lao động được thành lập vào năm 1887 tại Cincinnati.
Đại hội đã nhất trí đề cử Alson Streeter làm Tổng thống. Ông ấy được ủng hộ nhiều đến mức giành được đề cử mà không cần bỏ phiếu. Samuel Evans được đề cử làm Phó Tổng thống nhưng đã từ chối ứng cử. Charles E. Cunningham sau đó được chọn làm ứng cử viên Phó Tổng thống.
Đảng Công đoàn Lao động đã nhận được gần 150.000 phiếu phổ thông, nhưng không nhận được sự ủng hộ rộng rãi trên toàn quốc. Tuy nhiên, đảng đã thắng được 2 quận.
Đề cử của Đảng Lao động Thống nhất.
Đại hội của Đảng Lao động Thống nhất đã đề cử Robert H. Cowdrey làm Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. WHT Wakefield của Kansas đã được đề cử làm Phó Tổng thống thay cho Victor H. Wilder từ New York sau lần bỏ phiếu với tỷ số 50–12.
Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh.
Đảng Đồng bạc xanh đã dần suy tàn trong thời gian chính quyền Cleveland. Trong cuộc bầu cử năm 1884, đảng này đã không giành được bất kỳ ghế nào trong Hạ viện, mặc dù họ đã giành được 1 ghế trong liên minh cùng với Đảng Dân chủ (James B. Weaver) và một số ghế khác bằng cách ủng hộ các ứng cử viên Đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử năm 1886, chỉ có 20 ứng cử viên Đồng bạc xanh tham gia tranh cử vào Hạ viện, cùng 6 người khác tranh cử qua các liên minh với Đảng Dân chủ. Trong đó, Weaver là người duy nhất thắng cử. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Trong đó, Weaver là người duy nhất thắng cử. Phần lớn tin tức về Đảng Đồng bạc xanh vào đầu năm 1888 là ở Michigan, nơi đảng này vẫn hoạt động.
Vào đầu năm 1888, vẫn không rõ liệu Đảng Đồng bạc xanh có tổ chức một đại hội toàn quốc hay không. Sau cùng, Đại hội toàn quốc của Đảng Đồng bạc xanh được tổ chức tại Cincinnati vào ngày 16 tháng 5 năm 1888. Rất ít đại biểu tham dự nên không có bất kỳ hoạt động nào trong suốt đại hội. Vào ngày 16 tháng 8 năm 1888, George O. Jones, chủ tịch ủy ban toàn quốc của đảng, triệu tập kỳ họp thứ 2 của đại hội toàn quốc. Kỳ họp thứ 2 của đại hội toàn quốc họp tại Cincinnati vào ngày 12 tháng 9 năm 1888. Chỉ có 7 đại biểu tham dự. Chủ tịch Jones chỉ đưa ra một bài phát biểu chỉ trích 2 đảng lớn và các đại biểu không đề cử bất kỳ ai tranh cử.
Sau thất bại của đại hội, Đảng Đồng bạc xanh sụp đổ.
Đề cử của Đảng Hoa Kỳ.
Đảng Hoa Kỳ đã tổ chức Đại hội toàn quốc cuối cùng tại Hội trường Grand Army ở Washington, DC. Đây là một đảng Chống Hội Tam điểm hoạt động dưới nhiều tên khác nhau ở các bang miền Bắc.
Đại hội có 126 đại biểu; trong số đó có 65 người từ New York và 15 người từ California. Các đại biểu từ các bang khác chỉ tham gia đại hội khi có vẻ như New York và California có ý định bỏ phiếu cùng nhau về mọi vấn đề và kiểm soát đại hội. Vào thời điểm cuộc bầu cử tổng thống bắt đầu, chỉ có 64 đại biểu có mặt.
Hội nghị đã đề cử James L. Curtis từ New York làm Tổng thống và James R. Greer từ Tennessee làm Phó Tổng thống. Greer từ chối tranh cử, vì vậy, Peter D. Wigginton từ California đã được chọn làm người thay thế ông.
Đề cử của Đảng Quyền Bình đẳng.
Đại hội toàn quốc của Đảng Quyền Bình đẳng được tổ chức tại Des Moines, Iowa. Tại đại hội, các lá phiếu qua thư đã được kiểm. Các đại biểu đã bỏ 310 trong số 350 phiếu bầu của họ cho liên danh sau: Belva A. Lockwood cho vị trí Tổng thống và Alfred H. Love cho vị trí Phó Tổng thống. Love đã từ chối ứng cử và được thay thế bằng Charles S. Welles từ New York.
Đề cử của Đảng Cải cách Công nghiệp. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Đề cử của Đảng Cải cách Công nghiệp.
Đại hội toàn quốc của Đảng Cải cách Công nghiệp được triệu tập tại Hội trường Grand Army, Washington, DC. Có 49 đại biểu có mặt. Albert Redstone đã giành được sự ủng hộ của một số nhà lãnh đạo của Đảng Đồng bạc xanh đang chuẩn bị sụp đổ. Ông ấy nói với "Montgomery Advertiser" rằng ông ấy hy vọng sẽ thắng một số tiểu bang, bao gồm Alabama, New York, North Carolina, Arkansas, Pennsylvania, Illinois, Iowa và Missouri.
Tổng tuyển cử.
Chiến dịch.
Vấn đề.
Cleveland đã tạo ra vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử khi ông đề xuất giảm mạnh thuế quan trong Thông điệp Liên bang vào tháng 12 năm 1887. Trong khi Cleveland cho rằng mức thuế cao là không cần thiết thì Đảng Cộng hòa lại cho rằng mức thuế cao sẽ bảo vệ ngành công nghiệp Mỹ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài và đảm bảo mức lương cao, lợi nhuận cao và tăng trưởng kinh tế cao.
Tranh cãi giữa những người theo chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và thương nhân tự do về mức thuế là một tranh luận không còn mới, bắt nguồn từ Biểu thuế năm 1816. Trên thực tế, thuế quan không liên quan tới các sản phẩm công nghiệp, vì Hoa Kỳ là nhà sản xuất chi phí thấp trong hầu hết các lĩnh vực (ngoại trừ len) và giá của chúng không thể đắt hơn hàng từ châu Âu. Tuy nhiên, vấn đề thuế quan đã trở thành mối bận tâm hàng đầu cho cả 2 đảng.
Bên cạnh các khía cạnh kinh tế, vấn đề thuế quan cũng có liên quan một chút tới khía cạnh dân tộc. Vào thời điểm đó, chính sách thương mại tự do được Đế quốc Anh thúc đẩy mạnh mẽ nhất, và do đó, bất kỳ ứng cử viên nào ủng hộ thương mại tự do đều bị gán là thân Anh và chống Ireland, điều này sẽ làm phật lòng cử tri người Mỹ gốc Ireland. Cleveland, dù ủng hộ thương mại tự do, đã vô hiệu hóa mối đe dọa bằng cách gia tăng trừng phạt lên Canada (quốc gia tự trị thuộc Đế quốc Anh) vì tranh chấp về quyền đánh bắt cá. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Harrison được các nhà hoạt động trong đảng tài trợ nhiều tiền và tiến hành một chiến dịch rất sôi nổi khi có nhiều bài phát biểu "từ hiên nhà" (thời điểm đó, các ứng cử viên hầu như không ra mặt vận động tranh cử, mà chỉ đưa ra các bài phát biểu từ nhà của mình trước báo chí) ở Indianapolis. Cleveland cũng tuân thủ truyền thống này và còn cấm Nội các của ông vận động tranh cử, để ứng cử viên Phó Tổng thống 75 tuổi Thurman làm mũi nhọn trong chiến dịch tranh cử của ông.
"Khối Năm người".
William Wade Dudley (1842–1909), một luật sư ở Indianapolis, là một nhà vận động không mệt mỏi và là công tố viên nhắm vào các gian lận bầu cử của đảng Dân chủ. Năm 1888, Benjamin Harrison bổ nhiệm Dudley làm Thủ quỹ Ủy ban toàn quốc Đảng Cộng hòa. Chiến dịch diễn ra khốc liệt nhất trong nhiều thập kỷ, thậm chí Indiana còn chia đều phiếu cho 2 ứng cử viên. Mặc dù Ủy ban toàn quốc không có nhiệm vụ can thiệp vào chính trị của bang, Dudley đã viết một lá thư gửi các chủ tịch quận của Indiana, yêu cầu họ "chia các công nhân thành những khối 5 người, và giao tiền cho một người đáng tin cậy để 'phụ trách' các khối 5 người này, và những người này phải chịu trách nhiệm rằng các công nhân không được bỏ phiếu cho bất kỳ ai ngoài Harrison." Dudley còn hứa sẽ chu cấp tiền đầy đủ. Tuy nhiên, ý định của ông đã phản tác dụng khi các đảng viên Đảng Dân chủ phát hiện ra bức thư và in ấn hàng trăm nghìn bản trên toàn quốc trong những ngày cuối cùng của chiến dịch. Với danh tiếng không mấy tốt đẹp của Dudley, rất ít người tin vào lời hứa của ông ta. Có khoảng vài nghìn công nhân ở Indiana—những người sẽ bán phiếu bầu của họ với giá 2 đô la. Tuy nhiên, họ luôn chia phiếu theo tỷ lệ 50-50 (tức 5.000-5.000 đô la) và rõ ràng không tác động rõ ràng đến cuộc bầu cử. Ý định này đã làm nhiều người nghĩ Tướng Harrison ngoan đạo đang cố gắng "mua" cuộc bầu cử, châm ngòi cho phong trào toàn quốc ủng hộ thay thế các lá phiếu do các đảng in và phân phát bằng các lá phiếu kín.
Bức thư Murchison. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Bức thư Murchison.
Một đảng viên Đảng Cộng hòa ở California tên là George Osgoodby đã viết một lá thư cho Ngài Lionel Sackville-West, đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, dưới tên giả là "Charles F. Murchison", tự mô tả mình là một người Anh trước đây, hiện là công dân của California và hỏi Sackville nên bỏ phiếu cho ứng cử viên nào trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Ngài Lionel đã đáp lại "bức thư Murchison" một cách thiếu thận trọng, gợi ý rằng Cleveland có lẽ là người tốt nhất theo quan điểm của người Anh.
Đảng Cộng hòa đã công bố lá thư này chỉ 2 tuần trước cuộc bầu cử, tác động trực tiếp đến các cử tri người Mỹ gốc Ireland, giống hệt như sai lầm "Rum, Romanism, and Rebellion" ["Rượu rum, chủ nghĩa La Mã, và Nội chiến"] của bản thân nó trong cuộc bầu cử trước; sau cùng đã làm Cleveland thua New York và Indiana (trực tiếp làm ông thất cử). Sackville-West sau đó bị cách chức đại sứ Anh.
Kết quả.
Cuộc bầu cử tập trung vào các bang dao động như New York, New Jersey, Connecticut và Indiana, quê hương của Harrison. Harrison và Cleveland mỗi người thắng 2 trong số 4 bang này, trong đó Harrison giành chiến thắng nhờ những gian lận khét tiếng ở New York và Indiana. Đảng Cộng hòa giành chiến thắng tại 26 trong 44 thành phố lớn nhất bên ngoài miền Nam Hoa Kỳ.
Nếu Cleveland giành chiến thắng tại New York, bang quê hương của mình, thì ông ấy sẽ thắng phiếu đại cử tri với tỷ lệ số phiếu đại cử tri là 204-197 (trong khi chỉ cần có 201 phiếu đại cử tri để giành chiến thắng). Tuy nhiền điều này không xảy ra và Cleveland trở thành ứng cử viên thứ 3 trong số 5 ứng cử viên giành được số nhiều hoặc đa số tổng số phiếu phổ thông nhưng thất cử (Andrew Jackson năm 1824, Samuel J. Tilden năm 1876, Al Gore năm 2000 và Hillary Clinton năm 2016 ).
Cleveland đã vượt qua Harrison trong số phiếu phổ thông với cách biệt hơn 90.000 phiếu bầu (0,8%), mặc dù cách biệt này chỉ có được nhờ việc tước quyền bầu cử quy mô lớn và đàn áp hàng trăm nghìn cử tri da đen ở miền Nam.. Harrison đã thắng phiếu Đại cử tri đoàn với cách biệt 233-168, phần lớn nhờ chiến thắng với cách biệt 1,09% ở New York, quê hương của Cleveland.
4 tiểu bang có người chiến thắng giành được ít hơn 1% số phiếu phổ thông. Cleveland đã kiếm được 24 phiếu đại cử tri từ các bang mà ông có cách biệt ít hơn 1%: Connecticut, Virginia và Tây Virginia. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1888 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822734 | Harrison đã kiếm được 15 phiếu đại cử tri từ 1 bang mà ông có cách biệt ít hơn 1%: Indiana. Harrison đã thắng New York (có 36 phiếu đại cử tri) với cách biệt lệ 1,09%. Bất chấp cách biệt chênh lệch ở một số bang, chỉ có 2 bang đổi đảng thắng so với cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của Cleveland (New York và Indiana).
Trong số 2.450 quận/thành phố độc lập, Cleveland dẫn đầu 1.290 (52,65%) trong khi Harrison dẫn đầu 1.157 (47,22%). 2 quận (0,08%) do Streeter thắng trong khi 1 quận (0,04%) ở California chia đều giữa Cleveland và Harrison.
Khi rời Nhà Trắng vào tháng 3 năm 1889, Đệ nhất Phu nhân Frances Cleveland được cho là đã yêu cầu các nhân viên Nhà Trắng chăm sóc tòa nhà cẩn thận vì gia đình Cleveland sẽ trở lại sau 4 năm nữa. Lịch sử đã chứng minh điều này đúng khi Cleveland thắng cử vào năm 1892, đưa nhà Cleveland trở lại Nhà Trắng, Grover Cleveland trở thành Tổng thống duy nhất có 2 nhiệm kỳ không liên tiếp trong khi vợ ông, Frances, trở thành Đẹ nhất Phu nhân duy nhất có 2 nhiệm kỳ liên tiếp.
Đây là lần cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành được Colorado và Nevada cho đến năm 1904. Đây cũng là cuộc bầu cử cuối cùng cho đến năm 1968, Quận Coös ở New Hampshire không bầu cho ứng cử viên giành chiến thắng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, một đảng thua cuộc trong nỗ lực tái tranh cử sau chỉ 1 nhiệm kỳ 4 năm; điều này sẽ xảy ra một lần nữa vào năm 1892, nhưng không xảy ra đối với Đảng Dân chủ cho đến năm 1980.
Kết quả theo tiểu bang.
Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57.
Tiểu bang sít sao.
Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (39 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (150 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (93 phiếu đại cử tri):
Trong văn hóa đại chúng.
Năm 1968, Công ty Michael P. Antoine sản xuất bộ phim ca nhạc của Công ty Walt Disney "The One and Only, Genuine, Original Family Band" xoay quanh cuộc bầu cử năm 1888 và việc kết nạp và chia nhỏ Lãnh thổ Dakota thành các bang (vốn là vấn đề chính của các cuộc bầu cử). |
Charlotte Amalie của Đan Mạch | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822740 | Charlotte Amalie của Đan Mạch và Na Uy (6 tháng 10 năm 1706 – 28 tháng 10 năm 1782) là một Vương nữ Đan Mạch, con gái của Frederik IV của Đan Mạch và Luise xứ Mecklenburg-Güstrow.
Tiểu sử.
Charlotte Amalie không bao giờ kết hôn. Năm 1725, Charlotte Amalie được đưa vào danh sách 99 vương nữ được coi là phù hợp để kết hôn với Louis XV của Pháp (điều này yêu cầu Vương nữ phải cải sang Công giáo), nhưng Charlotte Amalie đã bị loại trừ vì Đan Mạch-Na Uy là kẻ thù không đội trời chung của Thụy Điển, đồng minh truyền thống của Pháp, và rằng một cuộc hôn nhân như vậy có khả năng làm xáo trộn liên minh Pháp-Thụy Điển. Vào đầu những năm 1730, anh trai của Charlotte Amalie là Christian VI của Đan Mạch đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Charlotte Amalie và Frederick của Đại Anh, Thân vương xứ Wales nhưng không thành công.
Theo truyền thống dành cho các vương nữ chưa chồng, Charlotte Amalie sống với mẹ là Luise xứ Mecklenburg-Güstrow cho đến khi Thái hậu qua đời, sau đó ở với mẹ kế là Anna Sophie Reventlow. Trái ngược với anh trai và chị dâu, vương nữ có mối quan hệ tốt với mẹ kế của mình, Charlotte Amalie cố gắng phòng tránh thái độ thù địch tồi tệ hướng đến mẹ kế tại triều đình. Charlotte Amalie bị tách khỏi Anna Sophie khi anh trai lên ngôi năm 1730. Sau đó, vương nữ sống tại triều đình vào mùa đông và tại Cung điện Charlottenlund vào mùa hè với triều đình của riêng mình.
Charlotte Amalie được những người cùng thời mô tả là một người đáng yêu với khả năng giữ hòa khí: vương nữ có mối quan hệ tốt với cha và mẹ kế, đồng thời vẫn có mối quan hệ tốt với anh trai, người căm ghét chính cha mình và mẹ kế. Vương nữ không có ảnh hưởng gì đến các vấn đề chính sự và sống một cuộc sống yên bình tại triều đình trong suốt cuộc đời.
Vào ngày 8 tháng 4 năm 1771, Charlotte Amalie được lệnh rời khỏi triều đình. Vương nữ đã dành phần đời còn lại mà sống với góa phụ của cháu trai gọi cô của mình là Thái hậu Juliane Marie. Điều này có nghĩa là Charlotte Amalie tiếp tục dành phần lớn thời gian tại triều đình khi có mặt thái hậu Juliane Marie: trên thực tế Juliane Marie trở thành nhiếp chính vào năm 1772. |
Charlotte Amalie của Đan Mạch | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822740 | Vì thích những bộ tóc giả màu đen hơn nên vương nữ đã ra lệnh cho cận thần của mình đội chúng, và tòa án của cô ấy được gọi là "Triều đình của những bộ tóc giả màu đen". Sau năm 1778, Vương nữ không còn xuất hiện trước công chúng nữa vì bị lão suy.
Charlotte Amalie được biết đến là ân nhân của nhà văn Charlotte Baden, cháu gái của một trong những thị tùng của vương nữ là Anna Susanne von der Osten. Charlotte Baden được nuôi dưỡng tại triều đình của Charlotte Amalie và được vương nữ trợ cấp va cũng như được cho tiếp nhận một nền giáo dục tốt. Trong di chúc của mình từ năm 1773, Charlotte Amalie đã thành lập quỹ "Prinsesse CAs stiftelse" để tài trợ cho việc nuôi dạy các thiếu nữ nghèo thuộc mọi tầng lớp khác nhau.
Di sản.
Cung điện Charlottenlund, nơi Charlotte Amalie dành thời gian ở đây vào mùa hè, được xây dựng và đặt theo tên Vương nữ vào năm 1731–1733. |
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822747 | Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc (, ČSR) là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc. Tên này được sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1969 đến tháng 11 năm 1989, khi nhà nước Tiệp Khắc đơn nhất trước đó chuyển thành liên bang. Từ năm 1990 đến năm 1992, Cộng hòa Séc (, ČR) tồn tại như một chủ thể liên bang bên trong Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak, sau này trở thành Cộng hòa Séc độc lập.
Lịch sử.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc (1969–89).
Sau cuộc chiếm đóng Tiệp Khắc năm 1968, các cải cách tự do hóa bị dừng lại và hoàn nguyên. Ngoại lệ duy nhất là liên bang hóa đất nước. Nhà nước tập trung Tiệp Khắc trước đó được chia thành hai phần: "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc" và "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak" theo Luật Hiến pháp Liên bang ngày 28 tháng 10 năm 1968, được ban hành vào năm 1968, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1969. Các nghị viện quốc gia mới (Hội đồng Quốc gia Séc và Hội đồng Quốc gia Slovakia) được thành lập và nghị viện truyền thống của Tiệp Khắc được đổi tên thành "Hội đồng Liên bang" và được chia thành hai viện: "Viện Nhân dân" (, ) và "Viện Dân tộc" (, ). Các quy tắc bỏ phiếu rất phức tạp đã được áp dụng.
Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak (1990–92).
Sau Cách mạng Nhung đặt dấu chấm hết cho chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, từ "xã hội chủ nghĩa" đã bị loại bỏ khỏi tên của hai nước cộng hòa. Do đó, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Séc được đổi tên thành "Cộng hòa Séc" (dù vẫn là một phần của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak).
Hệ thống bầu cử nghị viện phức tạp (trên thực tế có năm cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có quyền phủ quyết) được duy trì sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, làm phức tạp và trì hoãn các quyết định chính trị trong những thay đổi căn bản của nền kinh tế.
Sau đó, vào năm 1992, Cộng hòa Séc trở thành nhà nước độc lập (xem Giải thể Tiệp Khắc). |
Scott Wootton | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822750 | Scott James Wootton (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Wellington Phoenix tại A-League. |
Ryan Tunnicliffe | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822751 | Ryan Tunnicliffe (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm hoặc tiền vệ phải. |
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822754 | Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak (, SSR) từ năm 1969 đến 1990 là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, khi nhà nước Tiệp Khắc đơn nhất trước đó chuyển thành liên bang. Tên này được sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1969 cho đến tháng 11 năm 1989. Cộng hòa Slovak (, SR) là một nước cộng hòa trong giai đoạn 1990-1992 của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak, nay là Slovakia độc lập.
Lịch sử.
Sau cuộc chiếm đóng Tiệp Khắc vào năm 1968, các cải cách tự do hóa bị tạm dừng và sau đó bị đảo ngược. Ngoại lệ đáng kể duy nhất là liên bang hóa đất nước. Nhà nước tập trung cũ của Tiệp Khắc được chia thành hai: "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc" và "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Slovakia" theo Luật Hiến pháp Liên bang ngày 28 tháng 10 năm 1968, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1969. Các nghị viện quốc gia mới (Hội đồng Quốc gia Séc và Hội đồng Quốc gia Slovakia) được thành lập và nghị viện cũ của Tiệp Khắc được đổi tên thành "Hội đồng Liên bang" và được chia thành hai viện: "Viện Nhân dân" (, ) và "Viện Dân tộc" (, ). Các quy tắc bỏ phiếu rất phức tạp đã được áp dụng.
Liên bang hóa mang tính khái niệm – tất cả quyền lực thực sự được nắm giữ bởi Đảng Cộng sản. Số lượng "nghị viện" tăng lên đã thuận tiện cung cấp nhiều vị trí hơn cho các đảng viên, mặc dù vai trò của họ chỉ mang tính tượng trưng.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, từ "xã hội chủ nghĩa" bị loại bỏ trong tên của hai nước cộng hòa, tức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovakia được đổi tên thành Cộng hòa Slovak (vẫn là một phần của Tiệp Khắc, kể từ tháng 4 năm 1990 là của Cộng hòa Liên bang Séc và Slovak).
Hệ thống bỏ phiếu nghị viện phức tạp (trên thực tế có 5 cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có quyền phủ quyết) được duy trì sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, làm phức tạp và trì hoãn các quyết định chính trị trong những thay đổi căn bản của nền kinh tế.
Vào tháng 11 năm 1992, nghị viện liên bang bỏ phiếu giải thể đất nước chính thức vào ngày 31 tháng 12 năm 1992. |
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822754 | Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993, Cộng hòa Slovak trở thành một quốc gia độc lập có tên Slovakia. |
Trầm cảm dai dẳng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822760 | Rối loạn trầm cảm dai dẳng là một loại bệnh mãn tính, khi bản thân mất hứng thú với các hoạt động thường ngày, chán nản, buồn bã, lòng tự trọng thấp... Những cảm xúc trên có thể kéo dài và gây ảnh hưởng đến cuộc sống như mối quan hệ, kết quả học tập, công việc, gia đình...
Người mắc rối loạn trầm cảm dai dẳng thường khó tìm thấy cảm giác lạc quan ngay cả khi bản thân vào có tích cực nhất. Họ thường được mọi người mô tả là người có tính cách ảm đạm, phàn nàn hoặc buồn chán. Mặc dù rối loạn trầm cảm dai dẳng không nguy hiểm như trầm cảm chính, nhưng tâm trạng chán nản hiện tại của bản thân có thể từ mức độ nhẹ, trung bình đến nặng.
Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần, rối loạn trầm cảm dai dẳng là một dạng trầm cảm mãn tính nghiêm trọng, kéo dài ít nhất 2 năm ở độ tuổi người trưởng thành hoặc 1 năm ở độ tuổi trẻ em và thanh thiếu niên. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản Thứ năm"," rối loạn trầm cảm dai dẳng (PDD), bao gồm cả rối loạn trầm cảm nặng mãn tính và rối loạn loạn khí sắc trước đó. Lý do cho sự thay đổi là không có bằng chứng nào về sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai tình trạng này.
Dấu hiệu và triệu chứng.
Các đặc điểm của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng bao gồm một giai đoạn tâm trạng chán nản kéo dài kết hợp với ít nhất hai triệu chứng khác có thể bao gồm mất ngủ hoặc chứng mất ngủ, mệt mỏi hoặc thiếu năng lượng, thay đổi trong hành vi ăn uống (ăn quá ít hoặc quá nhiều), lòng tự trọng thấp và cảm giác vô vọng. Khả năng tập trung kém và khó đưa ra quyết định cũng được coi là những triệu chứng khác có thể xảy ra. Khó chịu là một trong những triệu chứng phổ biến hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên. Rối loạn trầm cảm dai dẳng ở mức độ nhẹ có thể dẫn đến việc mọi người tránh xa khỏi căng thẳng và né tránh các cơ hội có khả năng thất bại. Trong những trường hợp nặng hơn, người bệnh có thể rút lui khỏi các hoạt động hàng ngày. |
Trầm cảm dai dẳng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822760 | Họ thường sẽ ít tìm thấy niềm vui trong các hoạt động và trò tiêu khiển thông thường.
Chẩn đoán chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng rất khó khăn do tính chất của các triệu chứng và bệnh nhân thường có thể che giấu chúng, khiến người khác khó phát hiện ra. Ngoài ra, chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xảy ra cùng lúc với các rối loạn tâm lý khác, điều này làm tăng thêm mức độ phức tạp trong việc cố xác định sự hiện diện của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng, đặc biệt là do các triệu chứng rối loạn thường có sự chồng chéo lên nhau.
Hành vi tự sát cũng là một vấn đề đặc biệt nguy hiểm với những người mắc rối loạn trầm cảm dai dẳng. Điều quan trọng là phải tìm kiếm các dấu hiệu của trầm cảm nặng, rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu tổng quát, rối loạn sử dụng rượu và chất gây nghiện và rối loạn nhân cách.
Nguyên nhân.
Không có nguyên nhân duy nhất và rõ ràng gây ra chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng, nhưng nó có thể liên quan đến các yếu tố di truyền, sinh học và môi trường. Căng thẳng, cô lập xã hội và thiếu sự hỗ trợ có thể góp phần vào sự phát triển của chứng rối loạn. Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xảy ra đồng thời với các bệnh tâm thần hoặc thể chất khác, chẳng hạn như rối loạn lo âu, lạm dụng chất kích thích và rối loạn nhân cách.
Các đợt trầm cảm nặng có thể xảy ra trước hoặc trong thời gian bị rối loạn trầm cảm dai dẳng - còn gọi là trầm cảm đúp.
Chuẩn đoán và chữa trị.
Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần IV (DSM-IV), do Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ xuất bản, mô tả đặc điểm của chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng: "Triệu chứng cơ bản liên quan đến việc cá nhân cảm thấy chán nản trong phần lớn các ngày và các phần trong ngày, trong ít nhất hai năm. Ngoài ra: thiếu năng lượng, rối loạn giấc ngủ hoặc thèm ăn và lòng tự trọng thấp cũng là các triệu chứng thường gặp."
Những người mắc bệnh này thường trải qua chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng trong nhiều năm trước khi được chẩn đoán. |
Trầm cảm dai dẳng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822760 | Mọi người xung quanh thường mô tả họ bằng những từ tương tự như "chỉ là một người ủ rũ", khiến bệnh nhân có xu hướng che giấu bệnh của mình.
Sau đây là các tiêu chí chẩn đoán:
Ở trẻ em và thanh thiếu niên, tâm trạng có thể cáu kỉnh và thời gian kéo dài ít nhất là một năm, khác với hai năm cần thiết để chẩn đoán ở người lớn.
Người bệnh khởi phát sớm (được chẩn đoán trước 21 tuổi) có xu hướng tái phát thường xuyên hơn, có khả năng nhập viện tâm thần và đối mặt nhiều tình trạng xảy ra đồng thời hơn. Đối với những người trẻ tuổi mắc chứng loạn khí sắc, có nhiều khả năng xuất hiện những bất thường về tính cách và các triệu chứng có thể là mãn tính. Tuy nhiên, ở những người bệnh lớn tuổi, các triệu chứng tâm lý thường có liên quan đến các tình trạng y tế và/hoặc các sự kiện mất mát, căng thẳng trong cuộc sống.
Rối loạn khí sắc có thể được đối chiếu với rối loạn trầm cảm chính bằng cách đánh giá bản chất cấp tính của các triệu chứng. Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng là bệnh mãn tính (kéo dài) hơn nhiều so với rối loạn trầm cảm chính, trong đó các triệu chứng có thể xuất hiện trong ít nhất hai tuần. Ngoài ra, chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng thường xuất hiện sớm hơn so với rối loạn trầm cảm chính.
Chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể được điều trị bằng liệu pháp tâm lý, dược lý hoặc kết hợp cả hai. Tâm lý trị liệu có thể giúp bệnh nhân đối phó với cảm xúc của họ, thay đổi lối suy nghĩ tiêu cực và cải thiện các mối quan hệ. Liệu pháp dược lý có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm bằng thuốc chống trầm cảm, chẳng hạn như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI). Điều trị trầm cảm mãn tính có thể mất nhiều thời gian hơn và cần điều chỉnh nhiều hơn so với trầm cảm không mãn tính. |
Five Nights at Freddy's (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822761 | Five Nights at Freddy's (tựa Việt: Năm Đêm Kinh Hoàng) là một bộ phim kinh dị siêu nhiên của Hoa Kỳ được Emma Tammi đạo diễn từ kịch bản mà cô cùng viết với Scott Cawthon và Seth Cuddeback. Được sản xuất bởi Blumhouse Productions và Striker Entertainment, bộ phim được dựa trên loạt trò chơi điện tử cùng tên được sản xuất bởi Cawthon, người đóng vai trò sản xuất với Jason Blum. Bộ phim có sự tham gia của Josh Hutcherson, Elizabeth Lail, Piper Rubio, và Matthew Lillard.
Việc phát triển một bộ phim chuyển thể của "Five Nights at Freddy's" bắt đầu từ tháng 4 năm 2015, với sự tham gia của Warner Bros. Pictures. Roy Lee, David Katzenberg, và Seth Grahame-Smith được phân công sản xuất, và Gil Kenan được phân công đạo diễn và đồng biên kịch. Sau nhiều lần trì hoãn và dời lịch, phiên bản của Warner Bros. ngừng phát triển và Kenan rời khỏi dự án. Tháng 3 năm 2017, Blumhouse Productions được công bố là công ty sản xuất mới, với Chris Columbus làm đạo diễn và đồng biên kịch. Columbus sau cung rời khỏi dự án và được thay thế bởi Emma Tammi vào tháng 10 năm 2022. Dàn diễn viên chính được công bố vào tháng 12, và các diễn viên còn lại được công bố vào tháng 3 năm 2023. Bộ phim khởi quay tại New Orleans vào ngày 1 tháng 2 và đóng máy vào ngày 3 tháng 4 năm 2023.
"Five Nights at Freddy's" dự kiến được phát hành bởi Universal Pictures đồng thời tại các rạp và trên nền tảng trực tuyến Peacock tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.
Tóm tắt.
Mike Schmidt, một nhân viên bảo vệ đang gặp khó khăn, chấp nhận công việc trực đêm tại Freddy Fazbear's Pizza, một trung tâm giải trí gia đình bị bỏ hoang, nơi anh phát hiện ra bốn linh vật thú máy – Freddy Fazbear, Bonnie, Chica, và Foxy – di chuyển và giết bất kỳ ai còn ở đây sau nửa đêm.
Diễn viên.
Ngoài ra, YouTuber CoryxKenshin xuất hiện trong vai khách mời là một tài xế taxi.
Sản xuất.
Phát triển.
Warner Bros. Prictures thông báo vào tháng 4 năm 2015 rằng họ đã mua được bản quyền phim cho loạt game Five Nights at Freddy's, và sẽ được sản xuất bởi Roy Lee, David Katzenberg, và Seth Grahame-Smith. Grahame-Smith nói rằng họ sẽ hợp tác với Cawthon để "làm một bộ phim điên rồ, đáng sợ và dễ thương một cách kỳ lạ". Tháng 7 năm 2015, Gil Kenan đã ký hợp đồng đạo diễn bộ phim và sẽ cũng viết kịch bản với Tyler Burton Smith. |
Five Nights at Freddy's (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822761 | Tháng 3 năm 2017, Cawthon đăng lên Twitter thông báo Blumhouse Productions sẽ sản xuất bộ phim sau khi Warner Bros. Pictures tạm dừng phát triển. Tháng 5 năm 2017, nhà sản xuất Jason Blum nói rằng ông rất hứng thú khi được làm việc với Cawthon trong dự án chuyển thể này. Tháng 6 năm 2017, Kenan nói rằng ông sẽ không làm đạo diễn của phim nữa.
Tháng 2 năm 2018, Chris Columbus được công bố rằng ông sẽ làm đạo diễn và biên kịch cho bộ phim, đồng thời tham gia sản xuất với Blum và Cawthon. Tháng 8 năm 2018, Cawthon thông báo bản thảo đầu tiên cho kịch bản phim (liên quan đến các sự kiện trong phần game đầu tiên) đã hoàn thành và có khả năng cho các bộ phim thứ hai và ba. Cũng trong tháng 8, Blum đã đăng lên Twitter nói rằng bộ phim dự kiến ra mắt vào năm 2020. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 11 năm 2018, Cawthon thông báo kịch bản của phim đã bị hủy bỏ và bộ phim sẽ lại bị lùi lịch. Sau gần hai năm không có thông báo, vào tháng 6 năm 2020, trên một buổi phòng vấn trên Fandom, khi được hỏi về bộ phim, Blum nói:
Tháng 9 năm 2021, Blum thông báo Columbus sẽ không còn tham gia dự án, nhưng dự án vẫn đang trong quá trình sản xuất. Tháng 8 năm 2022, Blum thông báo Jim Henson's Creature Shop sẽ tham gia chế tạo các nhân vật thú máy cho phim. Tháng 10, Emma Tammi được công bố là đạo diễn thay thế Columbus, đồng thời là đồng biên kịch với Cawthon và Seth Cuddeback,\
Diễn viên.
Tháng 12 năm 2022, Josh Hutcherson và Matthew Lillard tham gia vào dàn diễn viên nhưng chưa có nhân vật cụ thể. YouTuber chuyên về "Five Nights at Freddy's" Dawko cho biết trong một buổi livestream rằng Hutcherson sẽ đóng vai nhân viên bảo vệ Mike Schmidt của phần game đầu tiên và Lillard sẽ đóng vai phản diện chính của loạt game William Afton. Anh cũng cho biết Mary Stuart Masterson và Piper Rubio sẽ tham gia dự án lần lượt trong vai phản diện nữ không xác định và em gái của Schmidt tên Abby. Tháng 3 năm 2023, Kat Conner Sterling và Elizabeth Lail được xác định là sẽ tham gia bộ phim. Lucas Granta và Jessica Blackmore được thông báo có vai diễn chưa xác định.
Quay phim.
Qua trình quay phim chính ban đầu dự kiến bắt đầu vào tháng 3 năm 2021. Tuy nhiên, do vấn đề kịch bản, việc quay phim đã bị dời lại. |
Five Nights at Freddy's (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822761 | Việc quay phim chính thức được tiến hành vào ngày 1 tháng 2 năm 2023 tại New Orleans dưới tên tạm là "Bad Cupcake", với kinh phí (trước thuế) là 25 triệu USD, và đóng máy vào ngày 3 tháng 4. Lillard bắt đầu quay các phân cảnh của ông từ giữa tháng 2.
Phát hành.
"Five Nights at Freddy's" dự kiến được phát hành bởi Universal Pictures đồng thời tại các rạp và trên nền tảng trực tuyến Peacock tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.
Tương lai.
Tháng 8 năm 2018, Cawthon cho biết nếu bộ phim đầu tiên thành công, sẽ có khả năng có phần thứ hai và ba, đi theo tuyến truyện của phần game thứ hai và ba. Tháng 1 năm 2023, trong một buổi phóng vấn trên podcast "WeeklyMTG", Lillard tiết lộ ông đã ký hợp đồng dài ba bộ phim với các hãng sản xuất. |
Abstract (album) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822766 | Abstract là một album của nghệ sĩ chơi kèn saxon Joe Harriott, được thu âm tại vương quốc Anh vào tháng 11 năm 1961 và tháng 5 năm 1962, phát hành bởi Columbia (UK) tháng 2 năm 1963. Tại Hoa Kỳ, album được phát hành bởi Capitol Records.
Đón nhận.
"Abstract" là album đầu tiên bởi một ban nhạc jazz Anh Quốc được trao tặng 5 ngôi sao trong bài tường thuật review "Down Beat".
Allmusic được trao giải album 4 ngôi sao và trong bài tường thuật review của nó bởi Thơm Jurek, ông ghi nhận rằng, ""Abstract" thật tuyệt vời; nó thể hiện rằng người Anh đang tiếp nhận phong cách jazz mới của đầu thập niên 1960 và đặt nó làm tâm điểm bởi họ có những tay chơi như Joe Harriott. Đây là một nhạc sĩ xứng đáng được đón tiếp rộng rãi. Hãy hy vọng rằng anh ấy nhận được nó."
Danh sách ca khúc.
"All compositions bởi Joe Harriott," ngoại trừ "Subject", bởi Joe Harriott và John Mayer; "Oleo," bởi Sonny Rollins. |
Eriko Sotarduga | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822776 | Eriko Sotarduga Binsar Pahalatua Sitorus (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1969) là một chính trị gia người Indonesia thuộc Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P), ông là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân từ năm 2009, đại diện cho .
Đầu đời.
Eriko Sotarduga sinh tại Medan, Bắc Sumatra vào ngày 10 tháng 4 năm 1969. Ông là người gốc Batak. Sau khi hoàn thành bậc trung học ở Medan, ông chuyển đến Jakarta rồi theo học tại Đại học Trisakti và đạt bằng cử nhân kỹ thuật cơ khí năm 1993.
Sự nghiệp.
Eriko là một doanh nhân kinh doanh đồn điền cọ dầu ở hai tỉnh Riau và Kalimantan, trạm xăng và xưởng sửa chữa ô tô. Ông gia nhập Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P) năm 1999 và trở thành người tổ chức phe cánh thanh niên thuộc đảng PDI-P. Đến năm 2010, ông chuyển sang đảng chính, giữ chức phó tổng thư ký vào năm 2010.
Ông được bầu vào Hội đồng Đại biểu Nhân dân đại diện cho khu vực bầu cử Jakarta II sau cuộc bầu cử năm 2009, nhận được 37.067 phiếu bầu. Khi tranh cử vào năm 2014, Eriko đã thành lập trại "Kampung Pemilu" phía trước nhà chủ tịch đảng Megawati Sukarnoputri ở Nam Jakarta, nơi đây cung cấp dịch vụ cắt tóc và sửa chữa xe máy miễn phí cho người dân địa phương. Ông điều hành các cơ sở tương tự tại sáu khu ở Jakarta. Ngoài ra, Eriko còn tài trợ cho hoạt động phun thuốc diệt muỗi. Eriko cho biết điều này cho phép ông gặp gỡ khoảng 1.000 người trong khu vực bầu cử trong ba giờ phun thuốc, lúc này mọi người sẽ ở bên ngoài. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2014, và nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2019 với 104.468 phiếu bầu. Ông còn là người phát ngôn trong nhóm vận động tranh cử năm 2019 của Tổng thống Joko Widodo.
Ông là thành viên của ủy ban thứ năm, thứ sáu và thứ mười một trong cơ quan lập pháp. Là thành viên của ủy ban thứ mười một (bao gồm các tổ chức tài chính), Eriko đề xuất vào năm 2020 là Cơ quan Dịch vụ Tài chính sẽ giải thể và chuyển giao quyền hạn cho ngân hàng trung ương, dẫn chứng một số hợp đồng bảo hiểm và bê bối ngân hàng. |
Eriko Sotarduga | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822776 | Vào tháng 1 năm 2023, ông đề xuất Ngân hàng Rakyat Indonesia thuộc sở hữu của chính phủ mua lại toàn bộ các ngân hàng phát triển khu vực, với lý do cần phải cung cấp công nghệ cải tiến và tăng cường hoạt động tiền vốn của ngân hàng khu vực.
Gia đình.
Eriko là tín đồ Kitô hữu và kết hôn với Roslina T. Nainggolan. Họ có ba người con. |
Đình Pò Háng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822783 | Đình Pò Háng là di tích lịch sử thuộc thôn Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Đây là một ngôi đình cổ thờ Vua Đinh Tiên Hoàng của cộng đồng người Tày - Nùng vùng biên giới Đông Bắc Việt Nam. Đình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và là 1 trong số ít 6 di tích của Đình Lập nên được chính quyền và người dân có nhiều giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
Vị trí.
Đình Pò Háng nằm ở vùng biên giới huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, tại km 150, quốc lộ 31, gần cửa khẩu Bản Chắt. Vị trí trên đồi cao làm cho di tích lịch sử được coi như là một pháo đài, là điểm tựa tâm linh giữ yên biên ải.
Pò Háng là tiếng Tày, Nùng địa phương. Pò nghĩa là vùng đồi, Háng là chợ, gọi là chợ trên một vùng đồi. Nơi đây bốn bề đồi núi ngút ngàn cây xanh bên dòng sông Kỳ Cùng chảy ngược.
Trước đây, người dân Pò Háng ở bên này sông Kỳ Cùng. Từ năm 1966, 1967, khi mở tuyến đường đi ra biên giới, cả thôn Pò Háng đã rời sang bên kia sông Kỳ Cùng, chỉ còn đình làng Pò Háng ở lại.
Ngôi đình hiện được xây dựng kiên cố theo lối truyền thống, lợp ngói âm dương với ban thờ thành hoàng làng được bố trí ở giữa. Khuôn viên đình được quy hoạch rộng hơn 1.000 m2 gồm sân gạch, tường bao cùng hàng cây cổ thụ xung quanh.
Lịch sử.
Đình Pò Háng là một ngôi đình cổ thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, ngoài ra còn phối thờ vị thành hoàng làng có tên là Hoàng Lang. Xung quanh câu chuyện về việc thờ tự tại ngôi đình có rất nhiều câu chuyện huyền thoại được truyền từ đời này sang đời khác.
Cũng giống như đình Pác Mòng ở thành phố Lạng Sơn hay đền Phja Đeng tỉnh Bắc Kạn. Đình Pò Háng là di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng của người Tày, Nùng. Việc xuất hiện nhân vật lịch sử này trên vùng đất Xứ Lạng cho thấy sự giao thoa văn hóa của dân tộc Kinh trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tày, Nùng ở miền núi phía Bắc. Vùng đất Lạng Sơn có núi non bao bọc hiểm trở, địa đầu biên giới đất nước. |
Đình Pò Háng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822783 | Với vị trí quan trọng như vậy, Vua Đinh Tiên Hoàng đã nhiều lần cầm quân lên đây để dẹp loạn phương Bắc. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng mất, người Việt tại những nơi Vua hành quân đi qua đều lập miếu để thờ.
Đình Pò Háng nằm trong khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc. Trong suốt hai năm 1947, 1948, quân dân Nà Thuộc đã đánh thắng các trận tiến công liên tiếp của giặc Pháp. Tin vui thắng trận lan đi khắp các chiến trường Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huân chương Chiến công hạng Ba và bức trướng Ủng hộ kháng chiến cho quân dân Nà Thuộc. Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Đình Lập, đình Pò Háng cũng là nơi các thanh niên trong xã tổ chức uống máu xin thề, kiên quyết đánh giặc. Vào ngày 14/4/1944 âm lịch tại Đình Pò Háng, có 09 người gồm: Ông Hoàng Viết Say - Trưởng thôn Pò Phát; Bế Tiến Vọng - Thôn Pò Háng; Hoàng Phúc Vượng - Thôn Pò Phát; Vương Ngọc Minh - thôn Pò Phát; Vi Lương Hậu – Thôn Pàn Mò; Bế Thiên Minh - Thôn Pò Mất; Hoàng Văn Đạo - Thôn Pò Háng (7 người xã Bính Xá) cùng với Ông Hoàng An Ninh và Nông Văn Nguyên – thôn Bản Hang xã Kiên Mộc đã tổ chức lễ cắt máu ăn thề, kiên quyết đánh giặc Pháp. Sự kiện này đã tạo tiếng vang lớn trong khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc và nhân dân 3 xã Bính Xá, Bắc Xa, Kiên Mộc.
Đặc biệt, năm 1948, tại Đình Pò Háng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh tặng bức trướng đặc biệt thêu chữ Hán, phía dưới phiên âm bằng chữ quốc ngữ là “Chiến kháng hộ ủng” (ủng hộ kháng chiến).
Đình Pò Háng được xếp hạng di tích cấp tỉnh từ năm 2002. Lễ hội Đình Pò Háng diễn ra hằng năm vào ngày 3/3 âm lịch và 14/4 với hoạt động tế lễ tôn vinh Đinh Bộ Lĩnh và các tướng lĩnh Vương Triều Đinh đã có công đánh dẹp và giữ yên vùng đất nơi địa đầu biên giới Đại Cồ Việt. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Ondskan () là một bộ phim điện ảnh chính kịch của Thụy Điển được công chiếu tại các rạp phim ở Thụy Điển vào ngày 26 tháng 9 năm 2003, do Mikael Håfström làm đạo diễn, dựa trên cuốn tiểu thuyết bán tự truyện cùng tên của Jan Guillou từ năm 1981. Phim có sự tham gia diễn xuất của Andreas Wilson, Henrik Lundström và Gustaf Skarsgård. Bộ phim lấy bối cảnh tại một trường nội trú tư thục vào cuối thập niên 1950 với trọng tâm là đề tài bạo lực học đường.
Bộ phim đã nhận được đề cử giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 76. Tác phẩm còn đoạt ba giải Guldbagge của Thụy Điển, tính cả Phim xuất sắc nhất.
Nội dung.
Năm 1958, cậu nhóc 15 tuổi Erik Ponti sống cùng mẹ và người cha dượng tàn ác ở Stockholm. Ở nhà, cha dượng đánh cậu mỗi ngày sau bữa tối. Người mẹ dễ sai bảo của cậu buộc phải lờ đi bản chất ác dâm của chồng và để cho bạo lực tiếp diễn, do bà sợ phải can thiệp và thay vào đó chơi dương cầm để tránh nghe thấy tiếng ồn của vụ bạo hành. Ở trường, Erik rất bạo lực và thường xuyên đánh nhau, do cậu bị nuôi dạy bạo lực từ nhỏ. Sau một vụ ẩu đả chiến đặc biệt ác liệt, Erik bị đuổi học. Hiệu trưởng nhận xét cậu là xấu xa và cáo buộc cậu là cái ác thuần túy. Nhằm mang đến cho con trai mình một khởi đầu mới và cơ hội cuối để hoàn thành việc học, mẹ cậu đã bán một số đồ gia truyền có giá trị của mình và gửi Erik đến một trường nội trú giàu có.
Sau khi đến Stjärnsberg nhận ra trường nội trú là cơ hội cuối cùng để đạt được Sixth Form, Erik cố quên đi xu hướng bạo lực của mình. Tại ngôi trường danh giá, 12 thành viên của Sixth Form lập nên Hội học sinh. Họ áp đặt một luật ác độc lên trường học và trừng phạt bằng thể chất và tâm lý với những học sinh không vâng lời; hành vi này hoàn toàn bị các nhân viên của trường phớt lờ, họ lựa chọn để học sinh tự quản lý hành vi của nhau. Khi Erik từ chối tuân theo những yêu cầu lố bịch của hai thành viên Hội học sinh là Silverhielm và Dahlén, cậu trở thành mục tiêu bị bắt nạt không ngừng. Việc cậu từ chối hạ thấp bản thân bằng cách tuân theo những hình phạt nhục nhã của họ làm cậu bị phạt nhiều lần vào cuối tuần. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Erik kết bạn với người bạn cùng phòng trí thức Pierre, cậu này cố sống thầm lặng để tránh bị bắt nạt.
Trong lúc đang ở trong nhà bếp của trường vào một ngày cuối tuần, sau một ngày lao động đặc biệt mệt mỏi, Erik gặp Marja, một nhân viên quán cà phê xinh đẹp có thị thực lao động từ Phần Lan. Cả hai bắt đầu quan hệ tình cảm khi Marja ngưỡng mộ tính cách kiên cường và chính trực của Erik. Trong khi đó, Erik đăng ký tham gia đội bơi lội. Một trận đấu bơi lội sắp diễn ra và Erik quyết tâm giành chức vô địch, nhưng cậu sớm nhận ra rằng để vô địch, cậu phải đánh bại đương kim vô địch của trường - con trai nhà tài trợ nổi bật nhất cho trường. Cậu biết rằng việc vô địch sẽ biến cậu trở thành mục tiêu bị bắt nạt hơn bao giờ hết, nhưng vị huấn luyện viên bơi lội công bằng và tận tâm cam đoan với cậu rằng đó là vấn đề danh dự và cậu không được thua. Rồi Erik giành chức vô địch, phá một số kỷ lục của trường và làm bẽ mặt một số thành viên của Sixth Form, và chúng đành mỉa mai vỗ tay khi thành tích của cậu được huấn luyện viên bơi lội công bố.
Nhân dịp nghỉ Giáng Sinh, Erik ghé về thăm nhà. Cha dượng đánh đập cậu không thương tiếc, trong khi mẹ anh chơi đàn dương cầm để lấp đi âm thanh của cây gậy. Khi cậu trở lại trường học, hội học sinh bắt đầu nhắm vào Pierre, người bạn tri thức của Erik. Pierre không chịu phản kháng. Đau đớn khi thấy bạn mình bị sỉ nhục, Erik rời đội bơi vì tin rằng điều này sẽ cứu bạn mình khỏi bị liên tục bắt nạt. Nhưng điều đó dường như chưa đủ. Một lúc sau, Erik được gọi đến phòng của chủ tịch hội đồng là Silverhielm. Ở đó, Pierre bị bắt lột quần áo còn Dahlén dọa sẽ châm điếu thuốc vào ngực cậu ấy, nhưng thay vào đó, Erik đã tình nguyện thay bạn mình và kiên cường chịu đựng cơn đau. Ngày hôm sau, Pierre được thách đấu với hội học sinh. Cậu ấy bị đánh đập dã man nhưng không tuân theo yêu cầu của họ.
Ngày hôm sau, Erik bị phục kích trên đường đi bộ trở về từ nơi giam giữ. Họ trói cậu xô xuống đất và đổ nước sôi lên người cậu, rồi đổ nước lạnh và định để cậu chết cóng ngoài trời. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Tuy nhiên, cậu được Marja giải cứu. Cả hai ngủ cùng nhau và Erik trở về phòng thì thấy Pierre đã rời trường. Erik, cay đắng và chán nản, thách đấu Dahlén và von Schenken. Cậu nhanh chóng đánh bại cả hai, rồi đi tìm Marja, nhưng biết tin cô đã rời đi Phần Lan sau khi bị sa thải không rõ lý do.
Hiệu trưởng Silverhielm lấy được một bức thư tình mà Marja gửi cho Erik, dẫn đến việc Erik bị đuổi học vì có quan hệ tình dục với một nhân viên trong trường. Erik lùng sục và tìm ra Silverhielm trong rừng để trả thù và dọa sẽ giết cậu ta. Silverhielm quỳ gối cầu xin tha mạng sau khi sợ hãi đến phát khóc và nôn mửa, thì Erik thấy mình sắp bộc lộ xu hướng bạo lực nên đã kiềm chế và cam đoan với Silverhielm rằng cậu sẽ không giết cậu ta vì hai người không giống nhau. Erik trở lại trường với người bạn của gia đình mẹ cậu, một vị luật sư tên Ekengren. Ekengren đối mặt với hiệu trưởng và cho rằng việc nhà trường đoạt lấy bức thư của Marja là vi phạm nghiêm trọng luật bí mật thư từ của Thụy Điển và dọa công bố văn hóa coi thường luật pháp cũng như sự cố tình phớt lờ của hiệu trưởng và các nhân viên khác trong trường. Sau đó Erik được bỏ đình chỉ và đi học trở lại, nhận lại bức thư từ Marja và được phép kết thúc học kỳ cuối trong hòa bình tương đối.
Năm học kết thúc, Erik trở về nhà và thấy mẹ cậu bị cha dượng đánh đập. Cha dượng cố đánh cậu một lần nữa, nhưng Erik cảnh báo ông ta rằng mọi chuyện đã kết thúc. Cậu nói với mẹ mình (lúc ấy bị sốc) rằng đây là lần cuối cùng gia đình xảy ra bạo lực và tự đóng cửa sau lưng mình, khi cậu chuẩn bị đáp trả cho nhiều năm bị cha dượng bạo hành và đánh đập. Người cha dượng vĩnh viễn rời khỏi gia đình và bị giết trong bệnh viện. Erik làm hòa với Pierre khi cậu bạn chuẩn bị đến Geneva để tiếp tục con đường học vấn của mình, rồi Erik bắt đầu liên lạc với Marja, lên kế hoạch xây dựng gia đình và thực hiện ước mơ trở thành luật sư.
Sản xuất. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Sản xuất.
Dựa trên một trong những cuốn sách bán chạy nhất của Thụy Điển thời hiện đại, đã có những bàn luận về việc chuyển thể thành phim trong nhiều năm (kể cả một số lần thất bại), trước khi Mikael Håfström được mời làm đạo diễn bộ phim. Ban đầu dự án được thai nghén thành một bộ phim truyền hình dài tập, nhưng Håfström thấy mình chưa sẵn sàng cho một quá trình sản xuất dài kì như vậy. Thay vào đó, anh đã đợi vài năm và cuối cùng thuyết phục được các nhà sản xuất biến nó thành phim điện ảnh. Håfström đã mời Hans Gunnarsson (một đồng nghiệp anh từng làm việc cùng) làm đồng tác giả kịch bản, và quá trình sáng tác cũng như lên kinh phí được tiến hành nhanh chóng. Kinh phí bộ phim là 20 triệu krona Thụy Điển.
Việc tuyển chọn diễn viên phụ diễn ra mà không gặp bất kỳ khó khăn đáng kể nào, song mặc dù đã có hơn 120 ứng viên đi thử vai, nhưng đoàn phim vẫn chưa tìm được diễn viên chính khi chỉ còn hai tuần nữa là bộ phim bấm máy ghi hình. Cuối cùng, đạo diễn lựa chọn Andreas Wilson, một nam người mẫu trẻ với kinh nghiệm diễn xuất rất hạn chế mà ông từng gặp lướt qua tại một bữa tiệc sinh nhật. Håfström đã liên lạc với những người mà ông biết từng tham gia bữa tiệc để lấy số điện thoại của Wilson, sau đó ông gọi cho anh và mời anh đến. Håfström ngay lập tức chắc chắn rằng mình đã tìm đúng người, và sau một vài cuộc kiểm tra thể chất, Wilson đã được giao vai diễn này. Trước khi bắt đầu ghi hình, Wilson đã được tập luyện bơi lội để học cách bơi trườn sấp theo những vận động viên bơi lội ở thập niên 1950.
Quá trình quay phim mất 30 ngày để hoàn thành, từ đầu tháng 10 đến tháng 11 năm 2002. Ngôi trường Stjärnsberg trong phim dựa trên trường nội trú Solbacka, ngôi trường có thật mà tác giả tiểu thuyết theo học. Trường bị đóng cửa năm 1973. Tòa nhà gốc của Solbacka vẫn tồn tại và hoạt động thành một trung tâm giải trí cho các vận động viên chơi golf, nhưng đã được cải tạo đến mức đạo diễn cảm thấy nó không thể được sử dụng làm địa điểm quay phim đáng tin cậy. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Thay vào đó, hầu hết các cảnh quay bên ngoài được thực hiện xung quanh Nhà Görväln ở Jakobsberg, phía bắc Stockholm. Khu ăn uống trong phim được xây dựng trong một studio như một bản sao nhà ăn gốc của trường học, dựa trên những bức ảnh từ thời đó. Các cảnh quay ở hồ bơi được ghi hình tại trường Gubbängsskolan ở phía nam Stockholm.
Các bài hát có mặt trong phim gồm có "Stupid Cupid" của Neil Sedaka, "The Great Pretender" của The Platters, "Weisser Halunder" của Inger Berggren và "Peggy Sue" của Buddy Holly & The Crickets.
Phát hành.
Bộ phim lần đầu được trình chiếu cho những khách hàng tiềm năng tại Thị trường phim Marché của Liên hoan phim Cannes năm 2003. Buổi chiếu đầu tiên trước khán giả của phim là tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào tháng 9 cùng năm. Buổi ra mắt phim tại Thụy Điển diễn ra vào ngày 26 tháng 9. "Ondskan" đã gặt hái thành công lớn về mặt thương mại ở Thụy Điển với tổng số 959.223 lượt vé bán ra. Ngày 24 tháng 6 năm 2005, tác phẩm được phát hành tại Vương quốc Anh và vào ngày 10 tháng 3 năm 2006 dưới dạng phát hành hạn chế tại Hoa Kỳ.
Đón nhận.
Đánh giá chuyên môn.
"Ondskan" nhận được 68% lượng tán đồng trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, dựa trên 38 bài đánh giá và đạt điểm trung bình là 6,53/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí: "Những nỗ lực của "Evil" nhằm giải mã nguyên nhân và hậu quả của bạo lực không phải lúc nào cũng thành công, nhưng kết quả của cái kết được dàn dựng tốt vẫn có tác động đáng lo ngại. Metacritic thì chấm bộ phim số điểm trung bình là 61/100, dựa trên 15 nhà phê bình, thể hiện "các bài đánh giá nhìn chung là ổn".
Giải thưởng.
Bộ phim đã được Thụy Điển gửi đi tranh giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 76. Ngày 27 tháng 1 năm 2004, có thông báo rằng phim đã lọt vào 5 đề cử chung cuộc. Jan Guillou không thể tham dự lễ trao giải vì không nhận được vé. Tại giải Guldbagge của Thụy Điển, phim nhận được 7 đề cử và thắng ba giải: Phim xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất và Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất. |
Ondskan (phim) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822792 | Các hạng mục mà phim thất cử là Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Wilson và Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Gustaf Skarsgård. |
Artemis (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822795 | Artemis có thể đề cập đến: |
Larnell Cole | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822797 | Larnell James Cole (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Warrington Town. |
Công tước xứ Lennox | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822798 | Công tước xứ Lennox (tiếng Anh: "Duke of Lennox") là một tước hiệu quý tộc ở Scotland thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Nó đã được tạo ra nhiều lần trong giới quý tộc Scotland, dành cho Thị tộc Stewart xứ Darnley. Trước vị được đặt tên theo Quận Lennox ở Dumbarton, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1581 và trước đây là Bá tước xứ Lennox. Công tước thứ hai của Lennox được phong làm Công tước xứ Richmond; khi ông qua đời, công tước Richmond bị tuyệt tự và thu hồi. Công tước thứ tư cũng được phong làm Công tước xứ Richmond; sau cái chết của công tước thứ sáu, cả hai tước vị đều tuyệt tự nên bị thu hồi. Công tước xứ Richmond và Công quốc xứ Lennox được tạo ra vào năm 1675 và trao cho Charles Lennox, con hoang hoàng gia của Vua Charles II. Công tước xứ Richmond và Lennox được phong thêm Công tước xứ Gordon vào năm 1876. Do đó, Công tước Lennox nắm giữ và kiêm nhiệm thêm 4 tước vị công tước khác (nếu bao gồm cả Aubigny-sur-Nère), nhiều hơn bất kỳ gia đình quý tộc nào khác trong vương quốc Anh; Kể từ năm 2022 (không tính tước hiệu được tuyên bố ở Pháp) thì Công tước xứ Lennox ngang bằng số tước hiệu với Vương tử William, Thân vương xứ Wales. |
Zeki Fryers | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822801 | Ezekiel David Fryers (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho AFC Eskilstuna.
Danh hiệu.
Swindon Town |
Các ngày lễ tại Azerbaijan | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822803 | Có một số ngày lễ tại Azerbaijan. Các ngày lễ được quy định trong hiến pháp của CHXHCNXV Azerbaijan lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 5 năm 1921. Ngày nay chúng được quy định trong Hiến pháp Azerbaijan.
Ngày lễ.
Các ngày lễ khác.
Các ngày lễ quốc gia tại Azerbaijan vẫn là những ngày làm việc như sau:
Ngày tôn giáo.
Các ngày lễ Ramadan và Qurban vẫn là những ngày tôn giáo không làm việc ở Azerbaijan vì đất nước này rất thế tục và phi tôn giáo. Dân cư sùng đạo của đất nước, chủ yếu tại Nardaran và một số làng và khu vực khác kỷ niệm ngày Ashura, một ngày để tang của người Shia trong lịch Hồi giáo. Các nhóm tôn giáo thiểu số trong nước - chủ yếu là Cơ đốc nhân chính thống và người Do Thái - cũng kỷ niệm những ngày tôn giáo nổi bật trong đức tin của họ. Mặc dù thực tế là ngày lễ Novruz có nguồn gốc từ tôn giáo Hoả giáo, nhưng hầu như tất cả người dân Azerbaijan đều kỷ niệm ngày này với ý nghĩa một ngày lễ của mùa xuân. |
Richard Eckersley (cầu thủ bóng đá) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822804 | Richard Jon Eckersley (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1989) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh. |
Công tước xứ Queensberry | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822808 | Công tước xứ Queensberry (tiếng Anh: "Duke of Queensberry") được tạo ra thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland vào ngày 3 tháng 2 năm 1684 cùng với tước hiệu phụ là Hầu tước xứ Dumfriesshire trao cho William Douglas, Công tước thứ nhất xứ Queensberr. Tước vị Công tước được nắm giữ cùng với Hầu tước xứ Queensberry cho đến khi Công tước thứ 4 (và Hầu tước thứ 5) qua đời vào năm 1810, khi Hầu tước được thừa kế bởi Ngài Charles Douglas của Kelhead, Nam tước thứ 5, trong khi tước vị Công tước xứ Queensberry được thừa kế bởi Công tước thứ 3 xứ Buccleuch. Kể từ đó, tước hiệu Công tước xứ Queensberry được giữ bởi Công tước xứ Buccleuch.
Năm 1708, Công tước thứ 2 được phong làm Công tước xứ Dover (cùng với các tước hiệu phụ là Hầu tước xứ Beverley và Nam tước Ripon) thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, nhưng những tước hiệu này đã biến mất sau cái chết của Công tước xứ Dover thứ 2 vào năm 1778. Năm 1945, Vua George VI muốn trao cho thủ tướng Winston Churchill tước vị Công tước xứ Dover, nhưng ông đã từ chối.
Một số tước hiệu phụ được liên kết với Công tước xứ Queensberry, cụ thể là Hầu tước xứ Dumfriesshire (1683), Bá tước xứ Drumlanrig và Sanquhar (1682), Tử tước xứ Nith, Tortholwald và Ross (1682) và Lãnh chúa Douglas xứ Kilmount, Middlebie và Dornock (1682) (tất cả đều thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland).
Trụ sở của gia đình Công tước là tại Lâu đài Drumlanrig, được xây dựng bởi Công tước thứ nhất xứ Queensberry. |
Michael Barnes (cầu thủ bóng đá) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822809 | Michael Thomas Barnes (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh từng thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh. |
Trường Đại học Kinh tế Hà Nội | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822810 | Trường Đại học Kinh tế Hà Nội có thể là: |
Kieran Lee | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822813 | Kieran Christopher Lee (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ tại Bolton Wanderers tại League One. |
Khu tự quản của Phần Lan | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822814 | Khu tự quản (, ) là một cấp hành chính tự cơ sở của Phần Lan. Lãnh thổ Phần Lan được chia thành các đơn vị tự quản bình đẳng về mặt pháp luật. Một đơn vị hành chính cấp khu tự quản chỉ có thể là một huyện (/) hoặc một thành phố (/), và cách gọi cho khu tự quản ấy do hội đồng điều phối quyết định. Các khu tự quản cung cấp ⅔ khối lượng dịch vụ công; có quyền đánh thuế thu nhập theo tỷ lệ cố định, từ 16 đến 22 phần trăm; và kiểm soát nhiều dịch vụ cộng đồng như trường học, chăm sóc sức khỏe, cung cấp nước và đường giao thông. Tuy nhiên các khu tự quản không có trách nhiệm bảo trì đường cao tốc vì đây là một trong những trách nhiệm của chính quyền cấp trung ương. |
Phil Marsh | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822815 | Philip Marsh (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Pilkington. |
Five Nights at Freddy's (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822816 | Five Nights at Freddy's là một loạt thương hiệu truyền thông được phát triển bởi Scott Cawthon
Five Nights at Freddy's cũng có thể là:
__ĐỊNHHƯỚNG__ |
Ryan Shawcross | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822817 | Ryan James Shawcross (sinh ngày 4 tháng 10 năm 1987) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu ở vị trí trung vệ.
Danh hiệu.
Stoke City
Cá nhân |
Chôn Pong-chun | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822822 | = Jeon Bong-jun =
Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư miễn phí
Trong tên tiếng Hàn này, họ là Jeon.
Jeon Bong-jun (1855 – 1895) sinh ra ở Taein, Jeollabuk-do, Hàn Quốc. Ông là một nhà lãnh đạo nổi bật của Cách mạng Nông dân Donghak. Do tầm vóc thể chất thấp bé của mình, ông được gọi là "Nokdu Janggun" (녹두장군, Đậu xanh).
Đấu tranh và cách mạng.
Năm 1894, Jeon Bong Jun và những nông dân khác đã cầu xin một thẩm phán địa phương của tỉnh Jeolla dỡ bỏ thuế nặng (và một số người nói là bất hợp pháp) và trả lại tài sản bị tống tiền lấy từ những người bị buộc tội phạm tội không có căn cứ. Lời cầu xin này của Jeon Bong Jun và những người khác đã bị từ chối. Để phản ứng với sự từ chối này, ông cùng với những nông dân khác, đã nổi dậy và tấn công văn phòng quận và đe dọa sẽ trừng phạt các quan chức tham nhũng nếu họ không chấm dứt tất cả tham nhũng.
Kết thúc cách mạng.
Vào ngày 28 tháng 1894 năm 2, cuộc cách mạng của Jeon Bong Jun trở nên chống phương Tây và chống Nhật vì những hành động áp bức và tàn bạo của quân đội Nhật Bản trong việc trừng phạt nông dân Hàn Quốc. Cuộc cách mạng này lan rộng từ thị trấn này sang quận khác khi quân đội nông dân thề sẽ tiêu diệt toàn bộ giai cấp thống trị Triều Tiên và trục xuất tất cả các đảng Nhật Bản và phương Tây. Đến tháng Chín, cuộc nổi dậy của nông dân của ông đã kết thúc bạo lực khi quân đội nông dân của ông bị đánh bại hoàn toàn bởi một quân đội Nhật Bản được đào tạo tốt, được trang bị tốt hơn trong Trận Ugeumchi. Jeon Bong-jun bị bắt bởi thống đốc tỉnh Jeolla, Yi Do-jae và bị xử tử bằng cách treo cổ vào ngày 1895 tháng <> năm <>.
Đọc thêm.
Lew, Ick trẻ. "Tính cách bảo thủ của cuộc nổi dậy nông dân Tonghak năm 1894: Đánh giá lại với sự nhấn mạnh vào nền tảng và động lực của Chŏn Pong-jun." "Tạp chí Nghiên cứu Hàn Quốc" 7, số 1 (1990): 149-80.
Thể loại: |
Cảng biển Ninh Bình | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822833 | Cảng biển Ninh Bình là cảng thuộc nhóm 1 trong Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hệ thống cảng biển Ninh Bình gồm các cảng đã và đang xây dựng là: Cảng Đua Fat Kim Sơn, Cảng Ninh Phúc và các cảng được dự kiến xây dựng là: cảng Kim Tân, cảng Cồn Nổi và cảng Cồn Mờ.
Ninh Bình cũng đã phê duyệt quy hoạch chung xây dựng khu vực từ đê Bình Minh II đến Cồn Nổi trong đó có các khu dịch vụ logistics cảng sông Đáy, cảng Cồn Nổi. Đối với khu vực Cồn Mờ xây dựng đài quan sát, ngắm cảnh và dịch vụ hỗ trợ hoạt động tàu thuyền trên biển và chuyển đổi khu vực Cồn Mờ thành cảng biển Ninh Bình để phát triển hoạt động vận tải hàng hóa, hành khách trên biển và phát triển du lịch.
Hệ thống cảng biển Kim Sơn Ninh Bình cách trung tâm thành phố Ninh Bình khoảng 45 km, cách thị trấn Phát Diệm khoảng 15 km; cách Hà Nội 100km, cách cảng hàng không Quốc tế Nội Bài 140km. Nơi đây, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy kết nối với các địa phương thuận lợi như: quốc lộ 10 cũ, quốc lộ 10 mới quốc lộ 21B, quốc lộ 12B… và các tuyến đường thuỷ qua sông Đáy, sông Vạc, sông Càn, sông Ân Giang, sông Vực, sông Cà Mau, sông Hoành Trực… |
Quân khu Tây (Liên bang Nga) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822837 | Quân khu Tây (tiếng Nga: Западный военный округ, chuyển tự "Zapadnyy voyennyy okrug") là một trong năm quân khu của Lực lượng vũ trang Liên bang Nga. Quân khu này chịu trách nhiệm phòng thủ ở khu vực trung tây của Nga thuộc châu Âu. Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu Tây đóng tại Sankt-Peterburg.
Quân khu Tây được thành lập như một phần của cải cách quân sự năm 2008 và được thành lập theo Nghị định №1144 được ký ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Tổng thống Nga, trên cơ sở hợp nhất của Quân khu Moskva, Quân khu Leningrad và Đặc khu Kaliningrad. Quân khu Tây bắt đầu hoạt động vào ngày 20 tháng 10 năm 2010, dưới sự chỉ huy của Thượng tướng Valery Gerasimov. Trung tướng Roman Berdnikov nắm quyền chỉ huy vào ngày 3 tháng 10 năm 2022. Quân khu phía Tây hiện do Đại tướng Yevgeny Nikiforov, người trước đây là Tham mưu trưởng Quân khu Đông, chỉ huy.
Quân khu Tây là quân khu nhỏ thứ hai ở Nga tính theo quy mô địa lý. Phạm vi của quân khu bao gồm 26 chủ thể liên bang của Nga: tỉnh Belgorod, tỉnh Bryansk, tỉnh Ivanovo, tỉnh Kaliningrad, tỉnh Kaluga, Karelia, tỉnh Kostroma, tỉnh Kursk, tỉnh Leningrad, tỉnh Lipetsk, Moskva, tỉnh Moskva, tỉnh Nizhny Novgorod, tỉnh Novgorod, tỉnh Oryol, tỉnh Pskov, tỉnh Ryazan, Sankt-Peterburg, tỉnh Smolensk, tỉnh Tambov, tỉnh Tver, tỉnh Tula, tỉnh Vladimir, tỉnh Vologda, tỉnh Voronezh, tỉnh Yaroslavl. Do đó, nó bao gồm Vùng liên bang Trung tâm và phần phía Tây của Vùng liên bang Tây Bắc. Địa phận mà Quân khu Tây bảo vệ giáp biên với Estonia và Latvia là hai quốc gia thành viên NATO, Belarus là đồng minh của Nga, và với Ukraina là nước mà Nga đang giao tranh.
Trong chiến tranh Ukraina, một số đơn vị của Quân khu Tây được tổ chức thành Nhóm lực lượng Zapad và được phái tới tác chiến tại phía bắc và đông bắc Ukraina.
Trước ngày 1 tháng 12 năm 2014, Quân khu Tây còn bao gồm Bộ Tư lệnh Chiến lược chung Bắc Cực, tỉnh Arkhangelsk, Murmansk Oblast, Cộng hòa Komi và Khu tự trị Nenets, cũng như Hạm đội Baltic và Hạm đội phương Bắc của Hải quân Nga, khỏi quân khu này. Nga đã công bố kế hoạch tái lập hai quân khu Moskva và Sankt-Peterburg. |
Quân khu Tây (Liên bang Nga) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822837 | Các đơn vị quân sự thuộc Bộ Nội vụ, Bộ đội Biên phòng của FSB, cũng như các đơn vị của Bộ Tình trạng khẩn cấp (Nga) và các bộ, ngành khác của Liên bang Nga thực hiện nhiệm vụ trên lãnh thổ huyện nằm dưới sự phụ thuộc hoạt động của nó. |
Shanghai Knights | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822838 | Hiệp sĩ Thượng Hải (tựa gốc tiếng Anh: Shanghai Knights) là một bộ phim hài hước - hành động - võ thuật Mỹ của đạo diễn Tom Dey, trở lại với sự tham gia của Thành Long và Owen Wilson vào hai vai chính trong phim. Phim được phát hành vào năm 2003 tại Mỹ. Nội dung phim là phần tiếp theo của Trưa Thượng Hải đã phát hành vào năm 2000.
Nội dung.
Bộ phim lấy bối cảnh sau năm 1887, khi các quý tộc người Anh lên kế hoạch thao túng cả chính trị nước Anh và xâm lăng hoàng cung Trung Hoa. Bá tước Nelson Rathbone lấy cớ "công du" Trung Hoa huyền bí, đã cấu kết với một kẻ phản bội của hoàng tộc Mãn Thanh giấu mặt, dưới trướng là bọn lính Nghĩa Hòa Đoàn li khai. Nelson cử rất nhiều thuộc hạ giỏi võ lẻn vào Tử Cấm Thành cướp Ngọc Ấn của Hoàng Đế. Quan thị vệ Chon và con gái ông là Chon Lin chống cự dữ dội, nhưng Nelson cũng là một tay kiếm cự phách của Hoàng gia Anh Quốc. Chon cùng đội cấm vệ binh hy sinh, còn con gái ông là Chon Lin bị thương. Trước lúc lâm chung, Chon căn dặn con gái ông phải đoạt lại Ngọc Ấn bằng mọi giá, ông còn nhờ cô gửi một hộp quà kỷ niệm cho con trai lớn của mình là Chon Wang.
Do trong phần 1 Chon Wang đã bỏ nhà đi Mỹ và thậm chí còn kháng chỉ, tự ý cưới công chúa Phối Phối, nên cha anh đã từ mặt anh. Cô em gái Chon Lin theo di nguyện của cha, đã gửi hộp quà đến vợ chồng Chon Wang ở Mỹ. Còn bản thân cô lặn lội đến Vuơng Quốc Anh để ám toán tên bá tước Nelson và lấy lại Ngọc Ấn, nhưng thất bại.
Về phần Chon Wang, sau chiến thắng vẻ vang ở phần 1, anh gửi một phần kho báu nhờ gã bạn thân Roy O'Bannon đầu tư giúp, nhưng thay vì kinh doanh, Roy đã sử dụng sạch số tiền đó vào đầu tư văn học.
Sau một thời gian, hộp quà và bức thư của Lin được đưa đến tay Chon Wang - lúc này anh đang làm cảnh sát trưởng thành phố Carson. Anh chỉ kịp vội vàng tạm biệt vợ, làm một nghi lễ tưởng nhớ người cha đã mất, rồi lên đường đến New York tìm Roy. Chon Wang muốn Roy gửi lại cho anh một ít vàng làm lộ phí để anh đến London tuơng trợ cho em gái. Nhưng Roy đã dùng hết số tiền, bản thân Roy còn phải đi làm trai bao ở một khách sạn. |
Shanghai Knights | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822838 | Cả 2 đành phải chọn cách đi tàu lậu đến London. Vừa đặt chân đến London, 2 người gặp rắc rối với một đám du đãng đường phố và một chú nhóc bụi đời ăn cắp vặt tên là Charlie Chaplin. Với võ nghệ thành thục của Chon Wang đã hạ đám du côn trong vài phút. Điều này giúp họ nhanh chóng kết bạn với thanh tra Conan Doyle, một sĩ quan cảnh sát say mê văn học trinh thám, hâm mộ Roy O'Bannon và có nhiều tài lẻ.
Conan bất đắc dĩ thông báo cho họ rằng em gái Chon Lin đã ám sát bá tước Nelson bất thành, và đang bị tạm giam chờ xét xử. Wang và Roy chỉ có thể thăm Chon Lin chứ không làm được gì, và ở London trong cảnh "cháy túi", họ phải tạm thời trú ẩn ở chỗ của chú nhóc Charlie để tìm thời cơ. 2 người nắm được tin bá tước Nelson mở buổi tiệc mừng cho chuyến đi Trung Hoa vừa rồi. Hắn cử Conan làm công tác an ninh cho buổi tiệc, lợi dụng sơ hở đó Chon Lin vượt ngục, đột nhập vào tư dinh của Nelson. Về phần Wang và Roy, 2 anh cải trang thành khách mời đến buổi tiệc của Nelson rồi lẻn vào tư dinh để tìm tung tích Ngọc Ấn.
Tại đây họ khám phá ra rằng Nelson còn tàng trữ rất nhiều kho báu cướp được ở đây. Kẻ tiếp tay cho Nelson chính là thế tử Châu Vũ, em trai của hoàng đế Mãn Thanh. Châu Vũ mượn tay tên bá tước trộm ngọc ấn để hắn có thể quay về Tử Cấm Thành phế truất hoàng đế. Đổi lại, Châu Vũ có được ngọc ấn, hắn sẽ giúp Nelson trừ khử các quý tộc cấp cao của Hoàng Gia Anh Quốc. Và Nelson sẽ thừa cơ thay thế nữ hoàng, trở thành nguyên thủ nước Anh.
3 người gặp nhau trong khi chạm trán với nhóm lính ngự lâm dưới trướng Nelson. Sau một hồi đánh nhau, Lin cứu Wang và Roy phóng ô tô chạy trốn. Một phần kho tàng bốc cháy, còn ngọc ấn bị Charlie lẻn vào trộm mất. Tức giận, Nelson cách chức thanh tra Conan và cử thuộc hạ Nghĩa Hòa Đoàn lùng sục tung tích của nhóm Roy.
Wang và Roy đến một hộp đêm ở trọ lánh nạn, Roy thỏ thẻ rằng mình có tình cảm với Lin và Lin cũng rất thích Roy. Nhưng trong khi Roy và Wang ăn chơi thác loạn, nhóm người của Nelson đã mò đến bắt cóc được Lin. |
Shanghai Knights | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822838 | Nelson cho rằng tên nhóc trộm vặt là đồng bọn của Roy, nên đã yêu cầu Roy và Wang đổi mạng Lin lấy ngọc ấn. Không thương lượng được, Nelson dìm cả 2 xuống sông, nhưng họ đã chạy thoát. Châu Vũ tiếp tục giữ Lin làm con tin ngăn chặn Chon Wang, và dự định sẽ dựng hiện trường vu khống Chon Lin ám sát hoàng tộc trong buổi lễ bắn pháo hoa bằng một khẩu Galting Gun.
2 người trong lúc trắng tay, đã tìm đến Conan nhờ giúp đỡ. Conan bằng năng khiếu trinh thám tài giỏi đã tìm đến nơi Charlie đang trốn, nhưng họ lại bị đám thuộc hạ của Châu Vũ bám theo. Chúng đe dọa đòi Roy giao nộp ngọc ấn đổi lấy mạng Charlie, rồi tẩu thoát. Nhưng ngay sau đó cảnh sát London ập đến bắt giữ Roy, Chon Wang và Conan. Charlie đã cứu thoát cả 3, họ thoát ra ở ngay trên đường phố London, nơi rất gần buổi lễ hội pháo hoa của hoàng tộc Anh quốc. Chia tay Charlie, nhóm Roy tách làm 2: Chon Wang xuống thuyền cứu em gái Chon Lin, còn Roy dẫn Conan truy lùng bá tước Nelson.
Chon Wang cứu được Lin và 2 anh em phối hợp hạ được đám thuộc hạ Nghĩa Hòa Đoàn, nhưng Châu Vũ là một cao thủ võ lâm đã đánh bại 2 anh em rất dễ dàng. Cảm thấy căm phẫn vì bị chính hoàng thân phản bội, Lin quyết định dùng rocket bắn tan xác Châu Vũ thay vì bắt sống hắn. Tuy nhiên trong lúc đánh nhau, khẩu Galting của Châu Vũ chệch hướng nên cho dù không bắn trúng nữ hoàng Anh, nó vẫn nhả đạn vào khu vực hoàng gia và gây ra náo loạn. Bá tước Nelson thừa lúc hỗn loạn đã trốn thoát vào tòa tháp Big Ben, nhưng Roy và Conan đã kịp đến nơi bắt quả tang hắn. Nelson giấu một khẩu súng mini trong tay áo, bắn Conan bị thương. 2 anh em Wang và Lin đến tiếp ứng, truy bắt Nelson.
Lin tỏ tình với Roy, nhưng cô phải ở lại băng bó cho Conan đang bị thương, mà cô lại là người duy nhất có kinh nghiệm đánh nhau với Nelson. Wang cùng Roy cầm kiếm đến đánh tay bo với Nelson, cả 2 không phải là đối thủ của tên bá tước ma mãnh này. Khi lên đến tầng trên của cỗ máy đồng hồ cơ, Roy bị đạp ngã ra khỏi cửa kính (thật ra Roy vẫn còn bám vào kim phút của đồng hồ Top Ten). |
Shanghai Knights | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822838 | Wang còn tưởng anh đã chết, nên đã đồng quy vô tận tự sát chung với Nelson, cả 2 ngã ra khỏi tòa Big Ben. Nelson rơi xuống đất bỏ mạng, còn Roy tóm được Chon Wang trong đường tơ kẽ tóc. Cả 2 bị kẹt trên kim phút, quyết định ôm lá cờ Anh Quốc nhảy xuống, họ đáp vào căn phòng của nữ hoàng Anh.
Cả 3 được Nữ hoàng Anh phong tặng tước hiệu cao quý cho chiến công này. Conan Doyle được khôi phục chức vị, ông nhận nhiệm vụ trao trả ngọc ấn cho vương triều Mãn Thanh, ông cũng lên ý tưởng về nhân vật Sherlock Holmes trong bộ tiểu thuyết cùng tên. Chon Wang được phong tặng tước hiệu hiệp sĩ, anh cũng mở hộp quà từ người cha quá cố và hạnh phúc mãn nguyện về gia đình. Còn Roy đã cầu hôn Lin, và với danh tiếng của anh ở Mỹ, anh quyết định đầu tư vào môn nghệ thuật thứ 7 (điện ảnh), mời Chon Wang đến Hollywood cùng tham gia. |
M163 VADS | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822848 | Hệ thống M163 Vulcan Air Defense System (VADS) là một Vũ khí phòng không tự hành (SPAAG) được trang bị cho Lục quân Mỹ. Pháo M168 là một phiên bản của pháo nòng xoay M61 Vulcan cỡ nòng do General Dynamics sản xuất, đây cũng là loại pháo tiêu chuẩn trong quân đội Mỹ từ những năm 1960s, được gắn lên xe thiết giáp hoặc xe kéo.
Đặc điểm kỹ thuật.
Hệ thống pháo được đặt trên xe thiết giáp dựa trên M-113 với tên gọi M741. Hệ thống pháo phòng không M163 được phát triển để bổ sung cho M48 Chaparral có tầm bắn xa hơn. M163 sử dụng radar định tầm cỡ nhỏ AN/VPS-2, và kính ngắm quang học M61. Hệ thống phù hợp cho hoạt động tác chiến ban đêm với việc trang bị kính nhìn đêm series AN/PVS gắn bên phải kính ngắm chính.
Tốc độ bắn của pháo đạt 3.000 viên/phút theo chế độ bắn loạt 10, 30, 60 hay 100 viên một, hoặc nó có khả năng bắn liên tục với tốc độ bắn 1.000 viên/phút.
Hiệu suất.
Hệ thống pháo phòng không M163 có cự ly tác xạ với đạn 20x102mm là , và đạn phòng không chuyên dụng HEI-T có khả năng tự hủy ở khoảng cách , một cự ly tương đối ngắn. Ngoài ra, radar chỉ có khả năng định tầm và không có khả năng tìm kiếm mục tiêu.
Trong biên chế quân đội Mỹ và Israel, VADS ít khi được sử dụng như vai trò chính của nó-đối phó với các mục tiêu bay thấp. Thay vào đó, hệ thống pháo Vulcan từ cuối những năm 1980s và đầu những năm 1990s đã được sử dụng như là vũ khí chính hỗ trợ tấn công các mục tiêu mặt đất. VADS đã tham gia cuộc chiến tại Panama năm 1989 trong Chiến dịch Just Cause với vai trò hỗ trợ hỏa lực cho lính Mỹ. Thành tích chiến đấu của nó là đã đánh chìm tàu tuần tra của lực lượng phòng vệ Panama. Chiến dịch cuối cùng có sự tham gia của M163 VADS là chiến dịch Bão táp sa mạc.
Nâng cấp và thay thế.
Nhằm cung cấp một hệ thống phòng không Lục quân hiệu quả hơn và có khả năng chống lại mục tiêu như máy bay trực thăng mang tên lửa chống tăng có khả năng tấn công tầm xa hơn cự ly tác xạ của pháo, VADS dự kiến sẽ được thay thế bằng hệ thống M247 Sergeant York DIVADS (Divisional Air Defense System), tuy nhiên hệ thống này không được sản xuất do chi phí phát triển quá cao, các vấn đề về kỹ thuật và có tính năng nghèo nàn. |
M163 VADS | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822848 | Vào năm 1984, hệ thống VADS nâng cấp (PIVADS) (viết tắt của Product-Improved VADS) đã được giới thiệu, có hiệu suất được cải thiện đáng kể về độ chính xác và dễ dàng vận hành, nhưng vẫn sử dụng cỡ đạn 20x102 mm. Năm 1988, xe được trang bị thêm bệ phóng tên lửa vác vai Stinger cùng với hai quả đạn tên lửa.
Cuối cùng, hệ thống M163 đã được quân đội Mỹ thay thế bằng hệ thống M1097 Avenger và M6 Linebacker, được phát triển dựa trên xe thiết giáp M2 Bradley với tên lửa FIM-92 Stinger thay cho tên lửa chống tăng BGM-71 TOW: tên lửa Stinger giúp kíp chiến đấu có khả năng tiêu diệt máy bay trực thăng tấn công của đối phương trước khi nó tiếp cận đủ gần để phóng tên lửa chống tăng, cũng như giúp kíp chiến đấu chống lại các máy bay cánh cố định. Đơn vị Lục quân Mỹ cuối cùng đã loại biên hệ thống phòng không dựa trên pháo Vulcan từ năm 1994.
Đạn.
Một số loại đạn cỡ 20x102 mm được phát triển để sử dụng trên M163. Trong đó có đạn M246 HEI-T-SD sử dụng trong vai trò phòng không, trong khi đạn M56 HEI được sử dụng trong hỗ trợ tấn công mặt đất. Trong khi hệ thống nâng cấp PIVADS có thêm đạn xuyên giáp Mk 149, có phạm vi tác xạ hiệu quả lớn hơn nhiều nhờ có vận tốc cao hơn và không có cơ chế tự hủy. |
Máy ngắm ném bom Norden | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822861 | Máy ngắm ném bom Norden Mk. XV, hay còn gọi là seri Norden M trong Lục quân Mỹ, là một loại máy ngắm dùng để ném bom trang bị cho máy bay ném bom của Hải quân và Lục quân Hoa Kỳ trong chiến trang thế giới thứ 2, và cũng được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam.
Đây là thiết kế thời kỳ đầu của máy ngắm ném bom, trong đó có tính vận tốc trên mặt đất của máy bay và hướng bay. Thiết kế của Norden cao cấp hơn các thiết kế trước đó nhờ sử dụng máy tính tương tự có khả năng tự động tính lại điểm chạm của quả bom dựa trên sự thay đổi của điều kiện ném bom, và còn có máy lái tự động phản ứng nhanh và chính xác đối với sự thay đổi về gió và các hiệu ứng khác.
Kết hợp lại, máy ngắm bom Norden hứa hẹn có độ chính xác chưa từng có khi ném bom ban ngày từ độ cao lớn. Các thử nghiệm trước Thế chiến 2 cho thấy Norden có độ sai số vòng tròn (CEP) là . Đây là một độ chính xác đáng kinh ngạc vào thời kỳ đó. Độ chính xác của máy ngắm ném bom Norden cho phép máy bay ném bom thậm chí tấn công trực tiếp tàu chiến, nhà máy, và các mục tiêu điểm khác. Cả Hải quân và Không quân Hoa Kỳ đều nhận ra nó là trang bị không thể thiếu để có thể thực hiện thành công các cuộc ném bom từ độ cao lớn. Ví dụ một cuộc tấn công từ đường biển vào nước Mỹ sẽ bị hủy diệt từ lâu trước khi nó có thể chạm đến bờ biển nước Mỹ.
Chi tiết về máy ném bom Norden được Mỹ bảo mật trong suốt những năm chiến tranh, với mức chi phí nghiên cứu/phát triển và chế tạo tương đương với dự án Manhattan: chi phí tổng thể từ nghiên cứu phát triển đến chế tạo là 1,1 tỉ đô la, bằng hơn một phần tư chi phí sản xuất máy bay ném bom B-17. Tuy vậy thông tin về máy ngắm ném bom Norden vẫn bị lọt ra bên ngoài, cả người Anh và người Đức đều phát triển các máy ngắm ném bom tương tự là SABS và Lotfernrohr 7. Thậm chí thông tin về máy ngắm Norden còn được chuyển cho Đức trước khi cuộc chiến bắt đầu. |
Máy ngắm ném bom Norden | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822861 | Trong điều kiện thực tế chiến đấu, máy ngắm Norden không đạt được độ chính xác như kỳ vọng, độ sai số trung bình trong năm 1943 là (tức là có 50% bom được thả rơi trong vòng bán kính 1200m xung quanh mục tiêu, tương tự như các loại máy ngắm khác sử dụng bởi đồng minh và Đức. Cả Hải quâb và Không quân Mỹ phải từ bỏ cách thức ném bom tầm cao, mà Hải quân Mỹ phải quay trở lại với kỹ thuật ném bom bổ nhào để tấn công tàu chiến của đối phương, trong khi Không quân phát triển kỹ thuật lead bomber để cải thiện độ chính xác. Thậm chí giờ đây họ phải sử dụng đội hình máy bay ném bom còn lớn hơn để tấn công rải thảm khu vực. Dù vậy, danh tiếng của máy ngắm ném bom Norden tiếp tục được duy trì và nó vẫn được sử dụng ngay cả sau khi thế chiến 2 kết thúc.
Máy ngắm Norden đã dần vắng bóng sau khi ra đời máy ngắm ném bom bằng radar, nhưng nhu cầu ném bom vào ban ngày đã khiến quân đội Mỹ tiếp tục sử dụng nó, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Lần cuối cùng quân đooii Mỹ sử dụng máy ngắm Norden là trong việc thả các sensor xuống đường mòn Hồ Chí Minh năm 1967. Máy ngắm ném bom Norden là một trong số những máy ngắm ném bom được biết đến nhiều nhất.
Lịch sử ra đời.
Các nghiên cứu ban đầu.
Máy ngắm ném bom Norden được thiết kế bởi Carl Norden, một kỹ sư người Hà Lan đã nhập cư vào Mỹ năm 1904. Năm 1911, Norden tham gia công ty Sperry Gyroscope và làm việc liên quan đến các bộ con quay hồi chuyển sử dụng trên tàu chiến, sau đó ông chuyển sang Hải quân và làm việc với vai trò là chuyên gia về máy phóng cho hệ thống bom bay, nhưng ông nổi tiếng hơn về kinh nghiệm đối với các con quay hồi chuyển cân bằng.
Các thiết kế máy ngắm ném bom trong Thế chiến thứ nhất được các kỹ sư nhanh chóng cải tiến, với những bước tiến vượt bậc như máy ngắm Course Setting Bomb Sight, hay CSBS. Gần như tất cả máy bay của Không quân các nước đều sử dụng một vài phiên bản CSBS như là loại máy ngắm ném bom tiêu chuẩn, bao gồm cả Hải quân và Lục quân Mỹ, sử dụng phiên bản thiết kế bởi Georges Estoppey là máy ngắm D-series. |
Máy ngắm ném bom Norden | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822861 | Từ lâu các nhà thiết kế đã biết đến một nguyên nhân chính gây ra sai lệch trong ném bom là độ thăng bằng của máy bay ném bom. Chỉ một sự lệch nhỏ cũng có thể gây ra sự sai sót rất lớn trong ném bom, do đó Hải quân Mỹ đã bắt đầu phát triển và bổ sung bộ ổn định con quay hồi chuyển cho các thiết kế máy ngắm bom. Điều này dẫn đến việc Hải quân đặt hàng các máy ngắm ném bom Estoppey, Inglis (liên doanh với Sperry) và Seversky C-series bomb sight. Norden được yêu cầu chế tạo bộ phận ổn định bổ sung cho thiết kế máy ngắm ném bom trước đó của Hải quân Mỹ là Mark III. |
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng A) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822863 | Bảng A là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Angola, Cộng hòa Dominica, Philippines và Ý, trong đó Angola, Philippines và Ý từng nằm chung bảng với nhau tại giai đoạn vòng bảng giải đấu trước. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32.
Sau khi thay đổi địa điểm cho các trận đấu thuộc giai đoạn cuối cùng của giải đến SM Mall of Asia Arena tại Pasay, FIBA quyết định 2 trận đấu đầu tiên của bảng sẽ diễn ra tại Philippine Arena ở Bocaue, Bulacan, địa điểm ban đầu diễn ra các trận đấu thuộc giai đoạn cuối cùng.
Các trận đấu.
"Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)." |
Utagoe kissa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822872 | đề cập đến một hình thức quán cà phê mà trong đó, khách hàng tham gia cùng hát với nhau, điều rất phổ biến tại Nhật Bản vào những năm khoảng 1955–1975.
"Utagoe kissa" cũng thường đề cập đến cuộc vận động cánh tả vào thời điểm đó, được gọi là phong trào Utagoe, được giúp đỡ bởi các các công đoàn lao động, chống đỡ bởi các đảng phái chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Những bài hát được thể hiện, do đó, thông thường là những bài ca phản động, kháng chiến, bao gồm nhiều bài hát có nguồn gốc từ Nga, Đông Âu và Trung Quốc.
Hầu hết các "Utagoe kissa" đều đã dừng kinh doanh khoảng những năm 1995–2005, mở đường cho các quán karaoke trở thành một ngành kinh doanh lớn những năm 1980, nhưng vẫn có hai hoặc ba quán "Utagoe kissa" vẫn còn tồn tại ở Tokyo, ví dụ như Tomoshibi. |
Srettha Thavisin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822875 | Srettha Thavisin (tiếng Thái: เศรษฐา ทวีสิน, , ; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1963), biệt danh Nid (tiếng Thái: นิด, , )), là một chính trị gia và nhà phát triển bất động sản người Thái Lan, hiện đang giữ chức Thủ tướng Thái Lan từ ngày 22 tháng 8 năm 2023 sau cuộc bỏ phiếu của hai viện Quốc hội. Ông là cựu giám đốc điều hành và chủ tịch của Sansiri.
Tiểu sử và học vấn.
Srettha Thavisin sinh ngày 15 tháng 2 năm 1962 ở Bangkok, Thái Lan. Sinh ra trong một gia đình giàu có, ông là con trai duy nhất của đại úy Amnuay Thavisin và Chodchoi Jutrakul. Srettha có mối quan hệ với 5 gia tộc kinh doanh người Thái gốc Hoa: Yip in Tsoi, Chakkapak, Jutrakul, Lamsam và Buranasiri. Ông đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học tại Trường Trình diễn Prasarnmit của Đại học Srinakharinwirot ở Bangkok. Trước khi đến Hoa Kỳ, ông đã nhận bằng cử nhân về kỹ thuật dân dụng của Đại học Chulalongkorn. Sau đó ông tốt nghiệp cử nhân kinh tế ở Đại học Massachusetts. Ông đã nhận bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh ngành tài chính tại Đại học Claremont.
Sự nghiệp.
Được đào tạo tại Hoa Kỳ, ông đồng sáng lập Sansiri vào năm 1988, công ty sau này trở thành một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất Thái Lan, đưa Srettha trở thành ông trùm bất động sản. Năm 2022, ông gia nhập đảng Pheu Thai và tranh cử với tư cách là một trong những ứng cử viên của đảng này cho chức Thủ tướng trong cuộc tổng tuyển cử năm 2023, với đảng này đứng thứ hai sau Đảng Tiến lên. Tuy nhiên, Tiến lên và ứng cử viên Pita Limjaroenrat không giành được đủ phiếu bầu từ quốc hội, Pheu Thai sau đó trở thành đảng dẫn đầu đề cử ứng cử viên, thành lập liên minh mới với các đảng bảo thủ hơn. Srettha đã nhiều lần được Pheu Thai, các chính trị gia và giới truyền thông mô tả là người có nhiều khả năng được Pheu Thai đề cử nhất, cuối cùng tuyên bố mình sẵn sàng trở thành thủ tướng nếu được đảng chọn vào ngày 19 tháng 7. Ông dự kiến sẽ được đề cử vào ngày 22 tháng 8 khi quốc hội bỏ phiếu. |
Srettha Thavisin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822875 | Ông được biết đến là bạn tâm giao của cả Thaksin Shinawatra và Yingluck Shinawatra, cựu thủ tướng Thái Lan, đồng thời là một trong ba ứng cử viên thủ tướng của Đảng Pheu Thai cùng với con gái út của Thaksin, Paetongtarn Shinawatra, và cựu Bộ trưởng Tư pháp Chaikasem Nitisiri vào năm 2023 trong đợt Tổng tuyển cử Thái Lan năm 2023. |
Sei Bishōjo Figyua Den | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822883 | là một bộ phim drama Nhật Bản kỳ ảo hài hước, đạo diễn bởi Toshiro Goto và phát hành năm 2006 bởi VAP. Nó là một phần của bộ ba tập phim "Moekyun@Movie" xoay quanh văn hoá otaku và cosplay Akihabara. Bộ phim được phân phối tại Hoa Kỳ bởi Asia Pulp Cinema.
Bối cảnh.
Ryōta, một nhà sưu tầm mô hình nhân vật, nhận được một chiếc hộp với các bộ phận búp bê từ một cửa hiệu bí ẩn ở Akihabara. Sau khi lắp ráp và điều chỉnh chúng, chiếc búp bê hoá thân một cách kỳ diệu thành một người con gái thứ thiệt, giống như android, có tên là Airu. Sau khi tìm hiểu làm thế nào để nói chuyện một cách tự nhiên hơn, Airu tìm thấy một bức ảnh bạn gái cũ Yuria của Ryōta và cố gắng hiểu xem những gì đã diễn ra trong quá khứ của họ. |
Moekyun@Movie | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822887 | là một chuỗi các bộ phim được thực hiện tại Akihabara, Tokyo, Nhật Bản. Bối cảnh của các bộ phim xoay quanh văn hoá cosplay và otaku, liên hệ với địa điểm quay phim, với các chủ đề như maid café và việc sưu tầm các mô hình action.
Chuỗi phim được sản xuất bởi VAP, và nhà phân phối Asia Pulp Cinema đã phát hành bộ ba phim trên đĩa DVD tại Hoa Kỳ. |
Nước thải đô thị | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822897 | Nước thải đô thị là nước mưa, nước tưới cảnh quan và nước rửa xe chảy ra từ các con đường, bãi đậu xe và vỉa hè trong các thành phố và khu đô thị. Đây là kết quả của quá trình đô thị hóa, khi các bề mặt không thấm nước như đường, bãi đậu xe và vỉa hè được xây dựng trong quá trình phát triển khu đất. Khi mưa, bão hoặc các sự kiện mưa khác xảy ra, nước mưa được đẩy trôi trên các bề mặt này (được làm từ vật liệu như bê tông và nhựa đường), cùng với nước từ mái nhà, trôi vào các ống thoát nước mưa thay vì được hấp thụ vào đất. Dẫn đến việc giảm mực nước ngầm (vì khả năng hấp thụ nước ngầm giảm) và gây lũ lụt do lượng nước trên bề mặt tăng lên. Hầu hết hệ thống xử lý nước thải của các thành phố xả nước mưa không qua quá trình xử lý ra các con kênh, sông và vịnh. Nước thải này cũng có thể tràn vào các tài sản của người dân qua việc ngập lụt tầng hầm và thấm qua tường và sàn nhà. Nước thải đô thị có thể gây ra nguy cơ lũ lụt và ô nhiễm nước lớn tại các khu đô thị trên toàn cầu. |
Nhà hàng Cosplay | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822903 | là các nhà hàng theo chủ đề và quán pub có nguồn gốc từ Akihabara, Tokyo, Nhật Bản, vào khoảng cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Chúng bao gồm và , nơi các nhân viên phục vụ vận y như những người hầu gái thanh tao, hoặc quản gia. Nhân viên sẽ đối xử với khách hàng như những "chủ nhân" và "cô chủ" trong một ngôi nhà riêng thay vì chỉ là khách hàng quán cà phê thông thường. Những quán cà phê và nhà hàng như vậy nhanh chóng trở thành một yếu tố quan trọng trong văn hoá otaku Nhật Bản.
Mức độ nổi tiếng của các nhà hàng cosplay và quán cà phê hầu gái đã lan toả sang các khu vực khác trong Nhật Bản, ví dụ như Den Den Town của Osaka cũng như những nơi khác ngoài Nhật Bản, ví dụ như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, México, Canada, và Philippines.
Đặc điểm.
Café hầu gái.
Trong một quán cà phê hầu gái thông thường, các nữ nhân viên mặc trang phục hầu gái Pháp (đôi khi, các cô hầu gái có thể đeo tai thỏ hoặc tai mèo để tạo thêm sự đáng yêu) và gọi khách hàng là hoặc . Khi bước vào tiệm cửa hàng như vậy, khách hàng thường được chào đón bằng cách nói , được cung cấp khăn lau tay và thực đơn đồ ăn thức uống. Các món ăn phổ biến bao gồm bánh (đôi khi do chính các cô gái hầu gái tự nướng), kem, omurice, mì spaghetti, cũng như thức uống như Coca-Cola, trà, sữa hoặc đồ uống có cồn như bia, hoặc trong một số trường hợp, thậm chí là rượu sâm banh. Các tùy chọn (dịch vụ) khác bao gồm chụp ảnh polaroid (hoặc chỉ có một mình cô hầu gái, hoặc cùng với cô hầu gái khác hoặc cùng với khách hàng, sau đó ảnh sẽ được trang trí bằng bút dạ hoặc sticker dán màu), chơi bài, trò chơi điện tử và/hoặc thậm chí những dịch vụ còn lạ lùng hơn, chẳng hạn như bị "vả" bởi một hoặc nhiều cô hầu gái.
Có một loạt các cơ sở phục vụ tuỳ theo những sở thích cụ thể và cung cấp dịch vụ khác nhau cho khách hàng. Gần đây, với sự bùng nổ của thị trường quán cà phê hầu gái, các dịch vụ liên quan cũng trở nên phổ biến. |
Nhà hàng Cosplay | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822903 | Trong đó bao gồm , mát-xa chân hoặc tay, các phiên chụp ảnh (khách hàng thường thuê thời gian tại studio, trong thời gian đó họ có thể yêu cầu cô hầu gái mặc trang phục nào và đứng như thế nào) hoặc thậm chí "hẹn hò" với các cô hầu gái. Cùng với sự phổ biến của các quán cà phê hầu gái, một số các ngành kinh doanh khác cũng theo đuổi. Chỉ riêng tại Akihabara đã có thể tìm thấy nhiều tiệm mát-xa hợp pháp, cửa hàng mắt kính hầu gái và ít nhất một quán izakaya cosplay/hầu gái.
Café quản gia.
Trong khi hầu hết các nhà hàng cosplay và các quán cà phê hầu gái phục vụ chủ yếu cho nam giới, cũng có một hình thức dành cho phụ nữ được gọi là . Các quản gia trong những quán cà phê này là những nam nhân viên ăn mặc đẹp và có thể mặc đồng phục phục vụ thông thường hoặc thậm chí là áo tuxedo hoặc áo đuôi tôm. Cũng có quán cà phê quản gia có nhân viên phục trang cosplay như những nam sinh thiếu niên, với mục tiêu thu hút các "fujoshi" (người hâm mộ thể loại Boys' Love).
Cũng có những quán cà phê quản gia có phong cách trang phục , trong đó các nữ nhân viên mặc đồng phục nam quản gia thay vì là nam giới thực sự.
Các hình thức khác.
Trong những cửa hàng khác, các bộ y phục và kể cả bối cảnh cũng tự nó thay đổi. Trong các quán cà phê chủ đề trường học, các khách hàng được gọi là các "senpai" thay vì "Chủ nhân" hoặc "Cô chủ". Bên trong quán, các bàn ghế thông thường được thay thế bằng bàn ghế học đường và menu cũng được phục vụ trong các khay giống như những khay ăn trong trường học Nhật Bản. Các chủ đề khác bao gồm, , hoặc quán cà phê/izakaya .
Café mèo hầu gái.
Một hình thức phụ của quán cà phê hầu gái là quán cà phê mèo hầu gái. Các nữ phục vụ trong các quán cà phê này đeo tai mèo và đuôi cũng như thường làm các động tác giống mèo như kêu meo meo hoặc kết thúc câu với tiếng meo. Thêm vào đó, đồ ăn cũng thường được chuẩn bị theo các hình thù con mèo hoặc mèo con.
Café Tsundere.
Những quán cà phê này có tất cả các đặc điểm của một quán cà phê hầu gái thông thường nhưng với việc bổ sung chủ đề tính cách. Chủ đề mà mọi người hầu gái thường được đặt cho là "tsundere". |
Nhà hàng Cosplay | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822903 | Theo đó, người phục vụ trong các quán cà phê này thường sẽ cư xử bất lịch sự hoặc lãnh cảm với khách hàng. Thêm vào đó, một số quán cà phê như vậy còn cho phép khách quen yêu cầu những dịch vụ đặc biệt, thường là những hành động động chạm như quẹt tay vào trán.
Bắc Mỹ.
Một quán cà phê hầu gái được mở ở miền tây là quán "i maid cafe" tại Scarborough, Ontario, và được giới thiệu trên tạp chí thông tin của CBC, "The Hour." Quán cà phê đã đóng cửa vào tháng 11 năm 2007 do quản lý thất bại trong việc trả tiền thuê mặt bằng.
Vào tháng 12 năm 2007, Royal-T đã mở tại Culver City, California, và quán đã được giới thiệu trên nhiều tạp chí, ví dụ như "Elle và Los Angeles Times." Nó là sự kết hợp giữa café hầu gái, cửa hàng và phòng trưng bày nghệ thuật. Cửa hàng đã đóng sau 5 năm.
Vào tháng 9 năm 2008, một chuỗi kinh doanh Nhật Bản "Crepe House Uni" đã mở quán tại Davis, California, những đã đóng vào năm 2010. Các nhân viên mặc đồng phục hầu gái, nhưng nó không thực sự là quán cà phê hầu gái.
Năm 2012, một quán cà phê hầu gái mang tên "Chou Anime" được mở tại quận Midtown của thành phố Detroit, Michigan. Thông tin về quán cà phê có thể được tìm thấy trên trang web của họ. Chou Anime chính thức đóng cửa vào thứ bảy, ngày 22 tháng 9 năm 2012, do không nhận được lưu lượng khách hàng ổn định.
Vào ngày 18 tháng 8 năm 2013, "Maid Cafe NY" đã mở cửa tại New York City, New York. Ngoài việc phục vụ đồ ăn, cửa hàng cũng cung cấp kinh doanh một số đồ dùng cosplay và giải trí nhạc sống. Nó đã đóng cửa vào tháng 3 năm 2015 do không thể giữ vị trí mặt bằng trong khu phố Trung Hoa Chinatown và không thể tìm được mặt bằng mới. |
Zubiarraín | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822905 | Jesús María Zubiarraín Arguiñano hay Zubiarraín (22 tháng 9 năm 1945 – 1 tháng 6 năm 1993) là một thủ môn người Tây Ban Nha.
Zubiarrain bắt đầu sự nghiệp tại Real Sociedad năm 1966. Ông chơi cho Atlético Madrid từ năm 1969 đến năm 1973, cùng với đội vô địch La Liga vào năm 1970 và năm 1973 cũng như Copa del Rey năm 1972. |
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (Bảng B) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822906 | Bảng B là một trong tám bảng đấu trong giai đoạn vòng bảng của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 8 năm 2023, bao gồm các đội Nam Sudan, Serbia, Trung Quốc và Puerto Rico, trong đó Serbia và Puerto Rico từng nằm chung bảng với nhau tại vòng 2 giải đấu trước. Mỗi đội thi đấu vòng bảng theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, mỗi đội gặp nhau đúng 1 lần duy nhất, tất cả các trận đấu của bảng diễn ra tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines. Hai đội đứng đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn 2 đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng 17–32.
Các trận đấu.
"Tất cả các trận đấu được diễn ra theo (UTC+8)." |
Chu Châu (diễn viên) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822909 | Chu Châu (; sinh ngày 19 tháng 7 năm 1984) là một diễn viên, ca sĩ Trung Quốc. Cô trở nên nổi tiếng với tư cách là một VJ trên MTV Trung.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Chu Châu được sinh ra ở Bắc Kinh vào ngày 19 tháng 7 năm 1984, cô xuất thân trong gia đình trâm anh thế phiệt. Ông nội Chu Châu là thiếu tướng quân đội còn cha là doanh nhân thành đạt, chủ tịch 1 tập đoàn hàng đầu Bắc Kinh.
Chu Châu bắt đầu học piano từ năm 3 tuổi. Khi còn là học sinh trung học cơ sở, cô đã biểu diễn "Người đẹp và Quái vật".
Chu Châu tốt nghiệp Đại học Kinh doanh và Công nghệ Bắc Kinh, nơi cô theo học chuyên ngành kỹ thuật thông tin và điện tử. |
Tiropita | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822912 | Tiropita hoặc tyropita (tiếng Hy Lạp: τυρóπιτα, nghĩa là "bánh pho mát") là một món bánh pastry trong ẩm thực Hy Lạp, được làm từ các lớp bánh filo bơ và chứa đầy hỗn hợp pho mát và trứng. Nó được phục vụ ở dạng gói tự do có kích thước riêng lẻ hoặc dưới dạng một chiếc bánh lớn hơn được chia thành nhiều phần.
Khi được làm bằng pho mát kasseri, nó có thể được gọi là "kasseropita" ().
Một biến thể của món ăn này là một loại bánh chứa đầy rau chân vịt và pho mát, được gọi là spanakopita.
Lịch sử.
Theo một số học giả, người ta cho rằng trong nền ẩm thực Hy Lạp cổ đại, bánh placenta (hoặc "plakous", πλακοῦς), và hậu duệ của nó trong ẩm thực của Đế quốc Đông La Mã, "plakountas tetyromenous" (πλακούντας τετυρομένους, "bánh placenta ngập pho mát") và "en tyritas plakountas" (εν τυρίτας πλακούντας, "bánh placenta kèm pho mát"), đều là tổ tiên của món bánh "tiropita" ngày nay. Một công thức được ghi lại trong cuốn sách "De Agri Cultura" của Cato Trưởng lão năm 160 TCN mô tả placenta như một món ăn pho mát nhiều lớp ngọt ngào:
Định hình "placenta" như sau: đặt một hàng "tracta" dọc theo toàn bộ chiều dài của bột cơ bản. Sau đó phủ hỗn hợp [phô mai và mật ong] từ vữa lên. Đặt một hàng "tracta" khác lên trên và tiếp tục làm như vậy cho đến khi sử dụng hết pho mát và mật ong. Kết thúc bằng một lớp "tracta"... đặt placenta vào lò nướng và đậy nắp đã làm nóng trước lên trên [...] Khi đã sẵn sàng, mật ong được đổ lên trên placenta.
Placenta vẫn là tên của một loại bánh nướng phẳng có chứa pho mát trong tiếng Aromania (plãtsintã) và tiếng România (plăcintă).
Các nguồn khác nói rằng nguồn gốc của các món ăn nhiều lớp như tiropita có thể bắt nguồn từ bánh mì chiên nhiều lớp được phát triển bởi người Turk ở Trung Á trước khi họ di cư về phía Tây, tới Tiểu Á cuối thời Trung Cổ.
"Tyropatinum" cổ đại được mô tả bởi Apicius, mặc dù có tên giống nhau, nhưng là một loại kem sữa trứng ngọt ngào không có vỏ. |
Tsuneko Okazaki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822917 | Tsuneko Okazaki (岡崎 恒子, "Okazaki Tsuneko" , sinh ngày 7 tháng 6 năm 1933) là nhà tiên phong người Nhật Bản về sinh học phân tử được biết đến với công trình sao chép DNA và đặc biệt là phát hiện ra các đoạn Okazaki , cùng với chồng Reiji . Tiến sĩ Tsuneko Okazaki tiếp tục tham gia vào lĩnh vực học thuật, đóng góp vào nhiều tiến bộ hơn trong nghiên cứu DNA.
Cuộc sống và giáo dục sớm [ chỉnh sửa ].
Tsuneko Okazaki sinh năm 1933 tại Nagoya , thủ phủ của tỉnh Aichi của Nhật Bản. Cô tốt nghiệp trường trung học phổ thông Asahigaoka thuộc tỉnh Aichi . Trong những năm đại học, cô theo học ngành sinh vật học tại Trường Khoa học Đại học Nagoya. Bà tốt nghiệp Tiến sĩ tại Trường Khoa học Đại học Nagoya năm 1956, cũng là năm bà gặp chồng mình, Reiji Okazaki. Họ kết hôn cùng năm đó và ngay sau đó, họ tham gia công việc nghiên cứu và phòng thí nghiệm của mình.
Công việc dẫn đến và khám phá ra các đoạn Okazaki [ chỉnh sửa ].
Nghiên cứu ban đầu của Tsuneko và Reiji Okazaki bao gồm nghiên cứu quá trình tổng hợp DNA và các đặc điểm nucleotide cụ thể trong trứng ếch và nhím biển. Công trình này đã dẫn đến việc phát hiện ra thymidine-diphosphate rhamnose, một nucleotide liên kết với đường, sau đó mở ra cánh cửa cho họ làm việc ở Hoa Kỳ. Họ đã làm việc tại Đại học Washington và Đại học Stanford trong phòng thí nghiệm của JL Strominger và Arthur Kornberg tương ứng, nơi có nhiều nguồn lực sẵn có hơn để tiếp tục nghiên cứu của họ. Nhiều năm sau, sau nhiều nghiên cứu được thực hiện ở cả Hoa Kỳ và Nhật Bản, vào năm 1968, Tsuneko và Reiji đã công bố những phát hiện mang tính đột phá của họ về các mảnh Okazaki trong "PNAS" . Sau cái chết sớm của Reiji Okazaki vì bệnh bạch cầu do nguyên nhân ở Hiroshima vào năm 1975, Tsuneko tiếp tục nghiên cứu của mình và chuyển sang chứng minh cấu trúc của đoạn mồi RNA liên kết với các đoạn Okazaki.
Đóng góp nghiên cứu bổ sung [ chỉnh sửa ].
Tsuneko vẫn tiếp tục tham gia vào các dự án nghiên cứu khác nhau cho đến ngày nay, chủ yếu là điều tra các khía cạnh khác nhau của DNA. Cô đã từng là trưởng phòng thí nghiệm, lãnh đạo giám sát học tập của sinh viên và là một người đóng góp trí tuệ quan trọng. |
Tsuneko Okazaki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822917 | Cụ thể, những đóng góp của cô là nghiên cứu về việc tiết lộ hGCMa như một chất điều hòa phiên mã đặc hiệu cho nhau thai, có thể liên quan đến sự biểu hiện của nhiều gen đặc hiệu cho nhau thai. Cô đã đóng góp vào nghiên cứu về protein B tâm động của con người được phát hiện có tác dụng tạo ra sự định vị tịnh tiến của các nhiễm sắc thể trên các chuỗi vệ tinh α. Cô ấy đã nghiên cứu để tìm hiểu quy định về gen của HLA-G và sự hiện diện của chất ức chế gen LINE1 có thể giải thích sự biểu hiện hạn chế của HLA-G như thế nào. Bà cũng góp phần nghiên cứu trên chuột mang đặc điểm của hội chứng down nhằm tìm hiểu đặc điểm kiểu gen-kiểu hình của hội chứng down ở người.
Sự tham gia nghề nghiệp [ chỉnh sửa ].
Tsuneko là phó giáo sư về sinh học phân tử tại Trường Khoa học thuộc Đại học Nagoya từ năm 1967 đến năm 1983. Bà giữ chức vụ này cho đến khi trở thành giáo sư chính từ năm 1983 đến năm 1997. Năm 1997, bà chuyển đến Viện Khoa học Y tế Toàn diện, Fujita. Đại học Y tế, nơi bà làm giáo sư trong 5 năm và sau đó trở thành giáo sư thỉnh giảng cho đến năm 2008. Ngoài ra, trong suốt những năm 2004 đến 2007, công việc chính của bà là ở văn phòng Stockholm, nơi bà là giám đốc của Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Nhật Bản. Khuyến khích Khoa học. Cô cũng là Giám đốc điều hành/chủ tịch và giám đốc của Chromo Research Inc. từ năm 2008 đến năm 2015.
Cuộc sống gia đình [ chỉnh sửa ].
Năm 1963, sau khi cùng chồng trở về sau khi thực hiện nghiên cứu tại Đại học Washington và Stanford, Tsuneko có đứa con đầu lòng. Sau đó, cô sinh đứa con thứ hai vào năm 1973. Do thiếu nhà trẻ ở Nhật Bản vào thời điểm đó, Tsuneko gặp khó khăn trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ để chăm sóc con cái vì cô đang làm việc toàn thời gian cho nghiên cứu của mình. Cô ấy là một phần của chiến dịch công dân, nơi cô ấy tuần hành để có thêm hỗ trợ chăm sóc trẻ em. Reiji Okazaki qua đời năm 1975, nhưng Tsuneko vẫn tiếp tục làm việc để hoàn thành nghiên cứu mà họ đang thực hiện.
Sự công nhận [ chỉnh sửa ].
Tsuneko đã được trao Giải thưởng L'Oréal-UNESCO dành cho Phụ nữ trong Khoa học năm 2000. |
Tsuneko Okazaki | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822917 | Cô cũng được trao Huân chương Dải băng tím năm 2000, Huân chương Báu vật thiêng liêng, [và] Tia vàng với dải băng cổ năm 2008.
Vào năm 2015, Đại học Nagoya đã thành lập Giải thưởng Tsuneko và Reiji Okazaki, "để tôn vinh tinh thần và di sản của Giáo sư Okazaki".
Năm 2015, bà được bầu là Nhân vật văn hóa .
Năm 2021, bà được nhận Huân chương Văn hóa . |
Sam Surridge | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822920 | Samuel William Surridge (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ MLS Nashville SC . Trong thời gian ở AFC Bournemouth , anh ấy đã dành thời gian cho mượn ở Weymouth , Poole Town , Yeovil Town , nơi anh ấy đã có trận ra mắt tại Football League , Oldham Athletic và Swansea City .
Sự nghiệp câu lạc bộ [ chỉnh sửa ].
Sự nghiệp ban đầu [ chỉnh sửa ].
Surridge sinh ra ở Slough , Berkshire và chuyển đến Ferndown , Dorset khi mới 7 tuổi. Anh gia nhập học viện AFC Bournemouth ở tuổi 14 từ câu lạc bộ địa phương Bournemouth Sports.
AFC Bournemouth [ chỉnh sửa ].
Surridge trở lại học viện Cherries khi anh gia nhập đội U15 và sớm nhận được học bổng, ghi bàn miễn phí cho đội trẻ của câu lạc bộ, trước khi gây ấn tượng trong thời gian cho mượn hiệu quả với Poole Town trong mùa giải đầu tiên của họ ở National South vào mùa giải 2016/17 .
Cho mượn League Two và ra mắt Premier League [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 3 tháng 8 năm 2017, Surridge gia nhập câu lạc bộ League Two Yeovil Town dưới dạng cho mượn đến cuối mùa giải. Surridge ra mắt Liên đoàn bóng đá với tư cách là cầu thủ vào sân thay người ở hiệp hai cho Yeovil trong trận gặp Luton Town , vào ngày 5 tháng 8 năm 2017. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Yeovil trong trận hòa EFL Trophy trước Exeter City vào ngày 29 tháng 8 năm 2017. Surridge kết thúc mùa giải với Yeovil đã ghi 10 bàn sau tổng cộng 53 lần ra sân trên mọi đấu trường cho câu lạc bộ.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2018, Surridge gia nhập câu lạc bộ League Two Oldham Athletic theo hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải. Năm bàn thắng sau bốn trận đấu trong tháng 9 đã giúp anh ấy giành được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Liên đoàn, và đến ngày 6 tháng 1, anh ấy đã có 12 bàn thắng sau 20 lần ra sân trên mọi đấu trường. Surridge ghi bàn vào lưới đối thủ Premier League ở vòng ba FA Cup , ghi một quả phạt đền khi Oldham từ phía sau đánh bại Fulham 2-1. Sau đó, anh ấy được câu lạc bộ mẹ gọi lại vào đầu tháng Giêng.
Surridge có trận ra mắt Premier League cho Cherries trong trận thua 5–1 trước Arsenal vào ngày 28 tháng 2 năm 2019, thay thế Ryan Fraser ở phút thứ 80. 14 tháng 5 năm 2019, sau thời gian cho mượn hiệu quả tại Oldham Athletic và có trận ra mắt Premier League cho câu lạc bộ trước Arsenal. |
Sam Surridge | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822920 | Cho Swansea City mượn và Đột phá ở đội một [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2019, câu lạc bộ Championship Swansea City đã ký hợp đồng với Surridge trong một hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Swansea trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Queens Park Rangers vào ngày 21 tháng 8 năm 2019 trước khi được AFC Bournemouth gọi lại vào ngày 1 tháng 1 năm 2020 . Surridge kết thúc mùa giải với Swansea đã ghi 7 bàn sau 23 lần ra sân trên mọi đấu trường cho câu lạc bộ.
Surridge ký hợp đồng mới với Cherries vào đầu tháng 1 năm 2020, một hợp đồng có thời hạn 4 năm rưỡi sẽ giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến mùa hè năm 2024. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho Cherries vào năm . vòng 4 FA Cup, với bàn thắng muộn vào lưới Arsenal trong trận thua 2-1 vào ngày 27 tháng 1 năm 2020. được cho là đã ghi bàn thắng đầu tiên ở Premier League cho câu lạc bộ, gỡ hòa 1-1 ở trận áp chót của mùa giải 2019–20 gặp đối thủ bờ biển phía nam Southampton . Tuy nhiên, VAR đã loại trừ tình huống này do đồng đội Callum Wilson cho rằng đã ở thế việt vị. Trận đấu kết thúc với tỷ số 2–0 nghiêng về Southampton. Surridge được huấn luyện viên Mark Molesley của Cherries mô tả là ví dụ hoàn hảo cho việc cho mượn cầu thủ ở các câu lạc bộ không thuộc liên đoàn về cách đạt điểm cao, trích dẫn những thành công của anh ấy trong thời gian cho mượn ở cấp độ không thuộc liên đoàn và các câu lạc bộ thuộc liên đoàn bóng đá như Yeovil, Oldham và Swansea như là bằng chứng cho việc Surridge "leo lên thang và kiếm được sọc".
Stoke City [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 4 tháng 8 năm 2021, Surridge gia nhập Stoke City theo hợp đồng 4 năm với mức phí không được tiết lộ. Surridge ghi bàn thắng quyết định trong trận ra mắt ba ngày sau đó trong trận đấu trên sân nhà với Reading . Anh ghi bàn trong hai vòng đầu tiên của EFL Cup trước Fleetwood Town và Doncaster Rovers cũng như trong giải đấu với Barnsley . Sau đó, anh không ghi được bàn thắng nào trong 15 lần ra sân tiếp theo và bị đuổi khỏi sân trong trận gặp Peterborough United sau một pha tranh chấp với Josh Knight . |
Sam Surridge | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822920 | Anh ấy được phép rời Stoke vào kỳ chuyển nhượng tháng Giêng chỉ sáu tháng sau khi được huấn luyện viên Michael O'Neill gia nhập , người đã nói rằng Surridge đã phải vật lộn để hòa nhập vào đội. “Anh ấy đã có một khởi đầu tốt, ghi bàn trong trận ra mắt và những trận đấu đầu tiên rất hứa hẹn nhưng phong độ của anh ấy sa sút một chút sau đó và tôi nghĩ nhìn chung anh ấy đã phải vật lộn để ổn định ở câu lạc bộ. Đôi khi điều đó cũng xảy ra”.
Nottingham Forest [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, Surridge gia nhập Nottingham Forest với mức phí không được tiết lộ. Phí chuyển nhượng được báo cáo là 2,2 triệu bảng. Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 6 tháng 2, vào sân từ băng ghế dự bị ở phút 71 trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước đội bóng Premier League Leicester City ở vòng 4 FA Cup. Vào ngày 7 tháng 3, ở vòng tiếp theo của giải đấu, Surridge ghi bàn thắng đầu tiên cho Forest, trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Huddersfield Town . Trong nửa sau của mùa giải 2021–22, Surridge ghi 7 bàn sau 20 lần ra sân cho Forest ở Championship, giúp câu lạc bộ thăng hạng lên Premier League thông qua vòng play-off.
Mùa giải tiếp theo , với Nottingham Forest ở Premier League, Surridge đã có 20 lần ra sân ở giải đấu, trong đó chỉ có 1 lần đá chính. Anh ấy chỉ ghi được 1 bàn thắng ở giải đấu, vào ngày 21 tháng 1 năm 2023, trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Bournemouth.
Nashville SC [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 25 tháng 7 năm 2023, đội bóng của Giải bóng đá nhà nghề Nashville SC thông báo về việc ký hợp đồng với Surridge với tư cách là Cầu thủ được chỉ định , với mức phí được báo cáo là 6,5 triệu đô la (khoảng 5 triệu bảng Anh). Tiền đạo này ký hợp đồng đến năm 2026, kèm theo tùy chọn gia hạn đến mùa giải 2027.
Sự nghiệp quốc tế [ chỉnh sửa ].
Vào ngày 8 tháng 10 năm 2019, Surridge nhận được cuộc gọi đầu tiên vào đội U21 Anh , và có trận ra mắt ghi bàn trong trận hòa 2–2 trước Slovenia ở Maribor vào ngày 11 tháng 10 năm 2019.
Danh hiệu [ chỉnh sửa ].
Nottingham Forest
Nashville SC
Cá nhân |
Diphylleia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822927 | Diphylleia là danh pháp khoa học của một chi thực vật có hoa trong họ Berberidaceae. Năm 2018, Maarten Joost Maria Christenhusz và James W. Byng gộp nó vào chi "Podophyllum", và hiện nay World Flora Online và Plants of the World Online coi nó là đồng nghĩa muộn của "Podophyllum".
Các loài.
Khi được công nhận, chi này gồm 3 loài: |
Chương trình Luna | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822937 | Chương trình Luna (từ tiếng Nga Луна "Luna" có nghĩa là "Mặt trăng"), đôi khi được truyền thông phương Tây gọi là Lunik, là một loạt các sứ mệnh tàu vũ trụ robot được Liên Xô gửi lên Mặt trăng từ năm 1959 đến năm 1976. Mười lăm chương trình đã được thực hiện thành công, mỗi chiếc được thiết kế như tàu quỹ đạo hoặc tàu đổ bộ, đồng thời đạt được nhiều thành tựu đầu tiên trong lĩnh vực thám hiểm không gian. Họ cũng thực hiện nhiều thí nghiệm, nghiên cứu thành phần hóa học, trọng lực, nhiệt độ và bức xạ của Mặt trăng.
24 tàu vũ trụ được chính thức đặt tên là Luna, mặc dù nhiều tàu vũ trụ khác đã được phóng lên. Những chuyến không đạt được quỹ đạo không được thừa nhận công khai vào thời điểm đó và không được gán số Luna. Những chuyến bay thất bại trong quỹ đạo Trái đất thấp thường được đặt tên là Kosmos (). Chi phí ước tính của chương trình Luna năm 1964 là 6–10 tỷ USD.
Vào tháng 8 năm 2023, sau 47 năm, Roscosmos thực hiện lại sứ mệnh đổ bộ lên mặt trăng với tàu Luna 25. Luna 25 cất cánh vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, 23:10 UTC, trên đỉnh tên lửa Soyuz-2.1b từ Sân bay vũ trụ Vostochny ở Vùng Amur viễn đông của Nga. Vào ngày 19 tháng 8 năm 2023 lúc 11:57 UTC, tàu đổ bộ đã bị rơi trên bề mặt Mặt Trăng sau khi điều động quỹ đạo thất bại. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Michał Franciszek Goleniewski (16 tháng 8 năm 1922, Nesvizh - 12 tháng 7 năm 1993, New York) là sĩ quan tình báo Cộng hòa Nhân dân Ba Lan ( - PRL) đào tẩu sang Hoa Kỳ, cấp bậc trung tá Quân đội Ba Lan, làm việc trong cơ quan tình báo Bộ Công an và An ninh Bộ Nội vụ Đảng Công nhân Ba Lan ( - PPR) năm 1945-1961. Năm 1958, ông hợp tác với CIA và cung cấp thông tin về các điệp viên Liên Xô và Đông Âu đang hoạt động tại phương Tây. Tháng 1 năm 1961, ông trốn sang Hoa Kỳ, được tị nạn chính trị và nhập tịch. Tại Ba Lan, ông bị kết án tử hình vì tiết lộ bí mật quốc gia. Trong số những người Ba Lan đào tẩu, đây được coi là trường hợp gây ra thiệt hại nghiêm trọng nhất cho tình báo an ninh PRL. Ông tiếp tục cộng tác với CIA cho đến năm 1964.
Sau đó, Goleniewski được biết đến vì mạo danh người kế thừa ngai vàng hoàng gia Nga Aleksey Nikolaevich nhà Romanov, nhân vật được coi là thoát khỏi bị cộng sản hành quyết. Ông đồng thời công khai đưa ra yêu sách được quyền kế vị nhà Romanov. Năm 1964, Goleniewski tổ chức hôn lễ theo nghi thức Chính thống giáo với một phụ nữ Đức là Irmgard Kampf. Kampf cũng là người trốn khỏi Đông Đức, khi cưới thì đã mang thai con của Goleniewski, rồi hạ sinh con gái Tatyana sau đó. Đại diện người Nga nhập cư tại Hoa Kỳ bày tỏ phẫn nộ vì biết Goleniewski đã có vợ con tại Ba Lan. Xấu mặt về vụ tai tiếng Romanov của Goleniewski, CIA đã sa thải ông.
Sau khi thôi việc, Goleniewski nhiều lần đệ đơn kiện CIA và chính phủ Hoa Kỳ, cáo buộc họ không cho phép ông đưa ra bất kỳ tuyên bố chính thức nào về nguồn gốc mình. Ông luôn khăng khăng mình là Aleksey Nikolayevich cho đến tận khi qua đời năm 1993. Một số quan chức tình báo phương Tây cho rằng việc này là do Goleniewski mắc một chứng rối loạn tâm thần nào đó. Giới tình báo Ba Lan lại coi hành động Goleniewski nằm trong một loạt động thái sắp sẵn nhưng bị vượt tầm kiểm soát.
Nguồn gốc và thuở thiếu thời.
Michał Franciszek Goleniewski sinh ngày 16 tháng 8 năm 1922 tại thành phố Nesvizh, thủ phủ huyện Nesvizh, tỉnh Nowogródek Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan (nay là phủ huyện Niasviž, tỉnh Minsk, Belarus). |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Cha là Michał (29 tháng 9 năm 1883 - 17 tháng 5 năm 1952) xuất thân từ miền biên viễn Vương quốc Ba Lan, làm nghề kế toán, sau chiến tranh thì điều hành một nhà máy chưng cất rượu; mộ phần nằm ở Wolsztyn (trên bia mộ ghi sai năm sinh là 1893). Mẹ là Janina nhũ danh Turynskaya. Ông nội tên là Antoni còn bà nội là Marcela (nhũ danh Buczynska hoặc Byezinska). Lúc nhỏ, gia đình chuyển đến thị trấn Ciosaniec gần Wolsztyn. Tại đó, Michał học phổ thông (một số nguồn ghi chỉ hết lớp 4 bổ túc) và tốt nghiệp trung học. Khi bị CIA thẩm vấn, Goleniewski cố tình đưa thông tin sai lệch rằng đã học ba năm tại Khoa Luật Đại học Poznań, rồi chuyển đến Warszawa và tốt nghiệp thạc sĩ Đại học Warszawa năm 1956. Văn thư lưu trữ các trường đại học này đều không có thông tin quá trình Goleniewski theo học, có thể ông nói dối vì muốn được nhập tịch nhanh chóng.
Thời Đức chiếm đóng Ba Lan, Goleniewski làm người đưa tin và kế toán cho văn phòng "Reichsland" của Đức quản lý đất đai tịch thu từ người Ba Lan. Ông thông thạo tiếng Đức, thậm chí có thể nói một số phương ngữ Đức nên được Reichsland tuyển dụng. Những hoạt động thời chiến của Goleniewski không được nghiên cứu chi tiết đầy đủ. Michał khai rằng từng bị Đức bắt giữ và buộc tội tham gia tổ chức ngầm chống phát xít. Cuối năm 1944, ông bị ốm nặng và đang nằm viện khi Hồng quân tiến vào Wolsztyn. Cuối thập niên 1940 có một vụ điều tra hình sự nhằm làm sáng tỏ nghi ngờ Michał cộng tác với Đức quốc xã thời làm cho Reichsland nhưng các cáo buộc đã không được xác nhận.
Sĩ quan tình báo Bộ Nội vụ PPR Đại tá Henryk Bosak nói Michał tham gia Hồng quân và được đi học trường của NKVD tại Kuibyshev năm 1944, rồi đặc phái cử về Tổng cục Thông tin Quân đội Ba Lan. Trưởng tình báo Ba Lan 2002-2004 Zbigniew Siemiątkowski cũng nhắc đến chuyện Goleniewski có mối liên hệ với NKVD. Tuy nhiên không tìm thấy tư liệu nào chứng thực các việc này.
Phục vụ trong các cơ quan an ninh.
Năm 1945, sau khi thành lập chính quyền cộng sản, Michał gia nhập Đảng Công nhân Ba Lan (PPR) (từ năm 1948 đổi thành Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan) và về công tác tại Bộ Công an. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Ngày 15 tháng 8 năm 1945, ông tuyên thệ phục vụ và vào làm trong Sở Công an Zielona Góra, đồng thời trở thành đảng viên chính thức. Đại tá Stefan Antosiewicz đã nâng đỡ sự nghiệp Michał theo nhiều cách, khi mới quen Goleniewski thì chỉ là cảnh vệ (), một nhân viên bình thường của sở tại Novy Tomysl.
Tháng 7 năm 1947, Goleniewski mãn khóa trưởng tình báo trưởng Sở Công an huyện Legionowo. Ông lần lượt giữ các chức vụ: Chánh văn phòng (26 tháng 3 năm 1946), Tham mưu (15 tháng 4 năm 1946), Tham mưu trưởng (1 tháng 10 năm 1946), Phó phòng (nhiệm chức từ 1 tháng 10 năm 1946 đến 30 tháng 4 năm 1947, chính thức từ 1 tháng 5 năm 1947 đến 31 tháng 5 năm 1948); Quyền trưởng phòng (từ 1 tháng 5 năm 1947 đến 31 tháng 5 năm 1948). Sau đó, ông được chuyển lên Sở Công an tỉnh Poznań, lần lượt giữ chức trưởng phòng đô thị (ngày 1 tháng 6 năm 1948) và trưởng phòng I (phản gián) (15 tháng 12 năm 1948). Thông tin cho biết trong thời gian công tác tại Poznań, Goleniewski đã vạch mặt được một số cựu đặc vụ Gestapo đang giữ những vị trí cốt cán. Tuy học vấn chỉ lớp 4 bình dân, Goleniewski vẫn được giao những trọng trách quan trọng.
Từ ngày 1 tháng 6 năm 1950 đến ngày 31 tháng 5 năm 1953, Goleniewski là trưởng phòng I (phản gián) Sở Công an tỉnh Gdańsk. Ông tham phá các mạng lưới gián điệp chống cộng của Wincenty Orliński, Kazimierz Praiss và Joachim Schaak. Sau đó, ông về phục vụ Tổng cục 1 Bộ Công an (phản gián) tại Warszawa, giữ chức trưởng Cục 9 (phân tích và thông tin) ngày 1 tháng 6 năm 1953, chắc chắn cũng do Antosiewicz hậu thuẫn. Với vị trí này, Goleniewski chịu trách nhiệm đánh giá các tin bình báo nhận được. Goleniewski cũng lãnh đạo đội phản gián "Pająki" ("Nhện") tiêu diệt nhóm OUN(M) ( - ОУН(м) - Tổ chức chủ nghĩa dân tộc (Melnyk)) được CIA trực tiếp tài trợ sau chiến tranh. Chiến dịch này nằm trong chuỗi thành công của lực lượng phản gián Ba Lan chơi trò vô tuyến với CIA và MI6 khi giả dạng tổ chức chống cộng "Tự do và độc lập" ( - WiN) gửi các thông tin sai lệch để thuyết phục phương Tây tài trợ thêm. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Ngày 27 tháng 12 năm 1951, trên sóng phát thanh, Ba Lan đã vén màn công khai bí mật trò chơi vô tuyến này.
Ngày 15 tháng 3 năm 1955, Goleniewski được bổ nhiệm làm phó Cục 2 Ủy ban An ninh ( - KBP) (phản gián), tiền thân là Cục 1 MOB. Ngày 14 tháng 12, ông được điều động làm phó Tổng cục Thông tin Bộ Quốc phòng. Sau những cải cách chính trị năm 1956, Bộ Công an nằm dưới quyền hạn của Bộ Nội vụ ( - MSW), Goleniewski được biên chế vào Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. Trước khi thuyên chuyển, Đảng ủy Bộ Nội vụ đã xem xét vụ cáo buộc Goleniewski "lạm quyền" với cấp dưới. Một số ủy viên đã coi hành động Goleniewski là tiêu cực và khuyến nghị ông không được tiếp tục trong cơ quan an ninh. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng coi cáo buộc là vô căn cứ và vẫn quyết định chuyển ông sang ngạch tình báo.
Ngày 1 tháng 2 năm 1957, ông được bổ nhiệm làm trưởng Cục 6 (khoa học và kỹ thuật) Tổng cục 1 Bộ Nội vụ với quân hàm Podpolkovnik, quản lý 65 nhân viên dưới quyền. Cấp hàm thăng tiến của Goleniewski theo thời gian là trung sĩ (1945), đại uý (1950), thiếu tá (1951) và trung tá (1955). Khi trao đổi với CIA, Goleniewski đảm bảo rằng đã giải ngũ cùng năm 1955. Ở cương vị lãnh đạo, Goleniewski đích thân tham gia nhiều phi vụ tình báo khác nhau. Thậm chí ông ra nước ngoài dưới vỏ bọc là nhà báo Roman Tarnowski thuộc Cơ quan báo chí Ba Lan. Giấy tờ Roman ghi sinh ngày 10 tháng 10 năm 1920 tại Lviv; trong báo cáo, ông ký tên "Roman" hoặc "Stefan". Việc được bổ nhiệm làm trưởng bộ phận khoa học và kỹ thuật có thể liên quan đến kinh nghiệm của Goleniewski ở Gdańsk, nơi chuyển hàng và thông tin (cả thông tin mật) thời Chiến tranh lạnh. Cục 6 được trang bị thành tựu mới nhất trong lĩnh vực công nghệ quân sự và Goleniewski có khả năng quản lý và sử dụng các công nghệ hiện đại này. Tuy nhiên, sĩ quan tình báo Szczepan Misiura cho rằng Goleniewski làm công việc Cục 6 bị đình trệ không tiến triển cũng như thực hiện cẩu thả.
Đặc điểm tính cách. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Đặc điểm tính cách.
Về một phương diện, Goleniewski được xem là một nhân viên tình báo mẫn cán của Ba Lan, biết cách hoàn thành nhiệm vụ tốt. Ông có kỹ năng tổ chức xuất sắc, mang trong mình tư tưởng cộng sản nên được cơ quan mật vụ Ba Lan và Liên Xô hết sức tin tưởng. Đồng thời ông cũng có trí nhớ phi thường, nhớ chi tiết từng cuộc họp và hầu hết mọi chỉ thị cấp trên. Thông tin cho thấy Goleniewski không uống rượu. Hồ sơ những năm đầu tiên Goleniewski công tác tại Bộ Công an ghi lại như sau:
Trong lá thư tháng 6 năm 1947, bí thư thứ nhất quận ủy Ignacy Wróbel đánh giá cao Goleniewski trong vị trí lãnh đạo, thể hiện "sự vô tư, tận tâm và siêng năng xuất sắc", được trong đảng cũng như bên ngoài tôn trọng. Sĩ quan phản gián Tadeusz Szadkowski cho biết Goleniewski là "cánh tay phải" của phó Tổng cục 1 Bộ Công an Julian Konar và mong muốn được kế nhiệm sau này. Tổng cục trưởng Witold Sienkiewicz thấy Goleniewski thường làm việc vào buổi tối và quan tâm đến hoạt động của Cục 2 và tình báo quân sự quốc nội ( - WSW).
Tuy nhiên, đồng nghiệp lại ghi nhận một số khuyết điểm nghiêm trọng trong tính cách Goleniewski, gọi ông là "loại đặc biệt ích kỷ" và "kiêu ngạo quá đáng". Goleniewski ảo tưởng mình kiệt xuất và tự phụ cho rằng mình có thể hoàn thành một số nhiệm vụ tốt hơn cấp dưới. Shadkowski và Sienkiewicz đánh giá Goleniewski không có bạn bè thực sự, không thân thiết với đồng nghiệp, tinh thần có vẻ không cân bằng và hay phàn nàn bị giám sát liên tục. Sienkiewicz bổ sung thêm rằng Goleniewski hay khoe khoang có mối quan hệ với các lãnh đạo cấp cao. Cựu nhân viên Tổng cục 1 Mieczysław Rysiński thấy Goleniewski tự coi mình gần như "sĩ quan cận vệ hoàng gia", làm mọi người khó chịu vì luôn kiêu ngạo, xấc xược và trịch thượng với nhân viên dưới quyền. Goleniewski cũng đặc trưng có tính bạo lực, thể hiện rõ khi công tác tại Sở Công an và thẩm vấn những người chống cộng bị bắt. Thành viên phong trào "Tự do và Độc lập" Rościsław Kotwicki khai rằng Goleniewski dùng dùi cui bọc da liên tục đánh người trong cuộc thẩm vấn. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Về sau, Goleniewski còn thích cướp công người khác, để làm đẹp thành tích, cho thấy "một người không phải lúc nào cũng được biết đến và đánh giá đúng mức".
Gia đình.
Vợ đầu của Goleniewski là người Nga có tên Anna Malinovskaya nhũ danh Dyachenko sinh năm 1926. Trong chiến tranh Xô–Đức, bà bị bắt lao động cưỡng bức tại Đức. Bà từng cưới một người Ba Lan ở Nowy Tomysl và sinh con gái Halina năm 1944. Sau khi chồng qua đời, Anna tái hôn với Michał. Họ có một con gái Danuta năm 1946 và một con trai Jerzy Goleniewski năm 1950. Về sau Jerzy chơi bass cho ban nhạc Breakout và mất năm 1989. Từ thập niên 1950, Anna bị bệnh tâm thần nghiêm trọng, cấp trên của Goleniewski là Stefan Antosiewicz nhận định có thể do sang chấn khủng khiếp thời chiến. Goleniewski không chịu nổi cuộc sống gia đình. Ông thường báo cáo bệnh tình nghiêm trọng của vợ lên cho cấp trên. Mọi nỗ lực chữa trị đều không có kết quả dẫn đến Anna bị chẩn đoán mắc chứng hoang tưởng phân liệt. Theo lời bác sĩ khuyên, Goleniewski chuyển đến nhà mẹ đẻ, dù nói rằng do bị vợ đuổi ra khỏi nhà. Trở lại tháng 1 năm 1957, Anna quyết định đưa con gái Halina về Liên Xô để lấy lại quốc tịch cũ. Goleniewski nói họ chưa bao giờ chính thức ly hôn.
Trong chuyến công tác tháng 7 năm 1957, Goleniewski gặp Irmgard Margareta Kampf người Đức tại Đông Berlin. Margareta sinh ngày 6 tháng 1 năm 1929 tại Berlin, từng làm thư ký tại trường trung học số 13 Berlin () và chăm sóc cha mẹ đã nghỉ hưu. (Báo Gazeta Wyborcza gọi bà là "Inga Kampf"). Goleniewski tự giới thiệu bản thân là nhà báo Ba Lan Roman Jan chuyên cộng tác làm các ấn phẩm của CHDC Đức. Đồng thời, ông nói với Margareta rằng mình từng bị kết tội tham gia kháng chiến và cả gia đình (trừ mẹ) bị Đức quốc xã giết hại. Trong thời gian dài, Goleniewski không báo cáo cấp trên về quan hệ với Irmgard. Nửa đầu năm 1959, Tổng cục phó Đại tá Henryk Sokolak nhận thấy Goleniewski năng đến CHDC Đức hơn bình thường. Tháng 3 năm 1960, Sokolak tiến hành kiểm tra thực địa nhưng không phát hiện ra điều gì khả nghi. Trong khi ấy, Goleniewski lừa dối Irmgard khi có quan hệ với một phụ nữ khác khác tại Warszawa. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Tháng 9 năm 1960, Bộ Nội vụ phát hiện Goleniewski gặp gỡ Kampf, thẩm vấn bà rồi cấm Goleniewski tạm thời không được xuất ngoại. Goleniewski bị sốc tinh thần, cấp dưới là trung úy Jan Bisztyga nhận thấy điều này đồng thời nói ông "nghiện" ma túy trong thời gian dài.
Tháng 10 năm 1960, Goleniewski liên hệ với luật sư để cố gắng ly dị và kết hôn với người tình mới. Tháng 11, Goleniewski nộp bản giải trình dài 9 trang lên Tổng cục 1, trong đó ghi quen biết Imgard từ năm 1958 (sự thật là năm 1957), ông bị lay động và cảm kích trước nhiệt huyết tận tâm của bà đối với hệ thống chính quyền CHDC Đức, coi đó là điểm thu hút nhất đối với cá nhân, đồng thời bày tỏ ý định muốn cưới bà. Tuy nhiên, vì việc ly dị phức tạp về mặt pháp lý và Goleniewski lại đang là người nhà nước, kể cả Irmgard là người Đông Đức cùng phe XHCN, Tổng cục 1 không bỏ lệnh cấm Goleniewski xuất ngoại để tiếp tục gặp gỡ người tình. Goleniewski nỗ lực để dỡ bỏ được lệnh cấm này bằng bất cứ giá nào, dù nếu thất bại thì có nguy cơ bị sa thải. Bộ trưởng Nội vụ Władysław Wicha xem xét xử lý vấn đề này của Tổng cục 1. Ngày 22 tháng 12, Goleniewski xin phép Witold Sienkiewicz đi công tác Berlin từ ngày 26 tháng 12 năm 1960 đến ngày 3 tháng 1 năm 1961 để giải thích và nói lời chia tay với Irmgard. Phó bộ trưởng Nội vụ Mieczysław Moczar phụ trách giám sát tình báo đã gặp và phê chuẩn chuyến đi này cho Goleniewski, ngày quay lại được gia thêm đến 8 tháng 1.
Điệp viên hai mang.
CIA tuyển mộ.
Ngày 1 tháng 4 năm 1958, trong chuyến công tác Thụy Sĩ từ 24 tháng 3 đến 3 tháng 4, Goleniewski đã gửi một gói hàng cho đại sứ Hoa Kỳ tại Bern Henry J. Taylor, trong đó có hai bức thư, một là viết trực tiếp cho Taylor và hai là gửi Giám đốc FBI Edgar Hoover đề nghị được làm đặc vụ CIA, gửi kèm là một loạt tài liệu thông tin về hoạt động của các cơ quan tình báo Khối Đông Âu ở Châu Âu cũng như cách thức liên hệ lại. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Thư được ký bằng tên Đức "Heckenschütze" ( - lính bắn tỉa) cho thấy người viết là sĩ quan tình báo cấp cao của một nước trong Khối Warszawa (không rõ nước cụ thể nào). Không rõ chính xác nguyên nhân do đâu mà Goleniewski muốn hợp tác với Mỹ. Sau khi Goleniewski qua đời, người vợ đầu Anna và con gái Halina cho biết ông làm vậy vì lý do ý thức hệ. Tác giả Tim Tate cũng khẳng định không giống với những kẻ đào tẩu khác, bản thân Goleniewski không chấp nhận nổi hệ tư tưởng cộng sản. Có ý kiến lại cho rằng Goleniewski quyết định mang người yêu Irmgard trốn sang phương Tây vì hậm hực cấp trên đã không cho phép mình ly hôn cưới vợ mới.
Theo Ted Sheckley, trước đó vài tuần Goleniewski đã tìm cách liên lạc với lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Berlin. Sĩ quan CIA Tennent H. Bagley cho biết lúc đầu người Mỹ nghi rằng đây là âm mưu của Liên Xô nên đã điều tra nghiên cứu rất kỹ gói hàng. Cuối cùng họ xác nhận đó không phải thư giả và thực sự gửi đến từ tình báo Ba Lan. Lời đề nghị hợp tác của Goleniewski đã được chấp nhận, dấu hiệu trả lời là mẩu quảng cáo đăng trên tờ "Frankfurter Allgemeine Zeitung". "Heckenschütze" bắt đầu trao đổi thư từ với CIA: Goleniewski gửi thư đến địa chỉ nhất định ở Tây Berlin, về sau thì thông qua "hộp thư chết" tại Warszawa. Các tin từ CIA đều ký "Hoover" khiến Goleniewski tin rằng đang kết nối cá nhân với Hoover và thông tin mình gửi đến được với FBI.
Về sau, khi phân tích nội dung thông tin nhận được, CIA đi đến kết luận rằng "Sniper" thực sự làm việc trong cơ quan tình báo Ba Lan. Hoạt động này được đặt mật danh "BE/Vision", CIA xem xét đánh giá về sau. Nhờ tin tức Goleniewski cung cấp, tình báo Hoa Kỳ cuối cùng đã có được thông tin quan trọng không chỉ về các đặc vụ KGB và những nước Khối phía Đông, mà còn về sự tập trung quân Xô Viết tại Châu Âu. CIA gọi Goleniewski là "Sniper" còn trong tài liệu của MI6 viết là "Lavinia".
Chỉ điểm.
Tháng 4 năm 1959, Goleniewski cung cấp cho CIA ở châu Âu những thông tin đầu tiên về điệp viên Liên Xô, đó là hai sĩ quan tình báo cao cấp hoạt động ở Anh và chuyển thông tin tuyệt mật cho Liên Xô. Đặc vụ CIA Howard Roman liền thông báo cho người liên lạc tại New York là Walter Bell. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Thông tin cho biết "Lambda 1" đã chuyển ít nhất ba tài liệu mật từ kho lưu trữ MI6, còn "Lambda 2" từng làm việc trong Đại sứ quán Anh ở Ba Lan và được tuyển mộ năm 1952. Lambda 1 nhanh chóng được xác định là sĩ quan cấp cao MI6, phó giám đốc điều hành kỹ thuật George Blake. Tài liệu mật đầu tiên được Blake giao cho Moskva rồi chuyển tiếp tới mật vụ Ba Lan, trong đó có thông tin 26 công dân Ba Lan tiềm năng để MI6 có thể tuyển mộ khai thác; thứ hai là báo cáo kinh tế Ba Lan năm 1959; thứ ba là báo cáo ngắn về tình báo khoa học kỹ thuật của các cơ quan tình báo Anh. Cũng nhờ Blake, Liên Xô nhận được thông tin về Chiến dịch Vàng nhằm đặt một đường hầm ngầm tới Đông Berlin và nỗ lực cắt đứt tuyến liên lạc của quân Liên Xô tại CHDC Đức. Ngày 3 tháng 4 năm 1961, Blake đang công tác ở Liban thì bị gọi về Luân Đôn và bị bắt ngày 12 tháng 4 vì tội làm gián điệp cho Liên Xô.
Quá trình điều tra tiếp tục nhận diện Lambda 2 là Harry Houghton ("Huiton" trong tin của Goleniewski), nhân viên Cục Vũ khí dưới nước Bộ Hải quân trên đảo Portland, được Ba Lan tuyển mộ năm 1951 rồi tiếp tục cung cấp thông tin cho Liên Xô. Điều tra cũng xác định Houghton kết hợp với với người tình là Ethel Gee: hai người đã lấy cắp thông tin tuyệt mật của Hải quân Anh để chuyển cho Liên Xô. Nhờ Goleniewski mách nước, ngày 7 tháng 1 năm 1961, Scotland Yard phá và bắt giữ các điệp viên trong Mạng lưới điệp báo Portland.
Goleniewski báo thông tin quan trọng về những người nhập cư Ba Lan làm trong chính phủ Hoa Kỳ được tình báo Ba Lan tuyển mộ. Một trong số đó là nhân viên Bộ ngoại giao Edward Symans, di cư khỏi Ba Lan năm 1939 và từng làm việc tại nhiều đại sứ quán và lãnh sự quán khác nhau (bao gồm cả ở Berlin, Moskva, Vladivostok và Poznań). Khi ấy, ông cùng thư ký Dorota Cwynar đang công tác tại đại sứ quán Mỹ ở Warszawa. Cả hai bị bắt với tội danh gián điệp, nhưng kết quả thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối của FBI và điều tra của Tiểu ban An ninh Nội địa Thượng viện Hoa Kỳ đã dẫn việc bãi bỏ tất cả cáo buộc dành cho Symans và Cwynar. Cwynar về sau đã chạy vào đại sứ quán Ba Lan xin tị nạn chính trị. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Một trường hợp khác cũng thường quy do Goleniewski khi nhân viên khác của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Ba Lan là Irvin Skarbek bị lật tẩy làm gián điệp. Trên thực tế, Skarbek bị lộ vì thư tố giác ẩn danh gửi đến đại sứ quán Mỹ.
Tháng 3 năm 1959, Goleniewski báo cho CIA rằng có hai điệp viên Liên Xô trong hàng ngũ cơ quan tình báo Tây Đức BND (). Tin này bắt nguồn từ cuộc họp những người đứng đầu cơ quan phản gián các nước thuộc Hiệp ước Warszawa, người đứng đầu phái đoàn Liên Xô trưởng Tổng cục 2 KGB Oleg Mikhailovich Gribanov báo cáo rằng có 6 sĩ quan BND đã đến thăm trụ sở CIA năm 1956, hai trong số đó là điệp viên Liên Xô. Một số nguồn tư liệu cho rằng từ phó cố vấn cấp cao của KGB tại Bộ Nội vụ Ba Lan Andrei Ivanovich Raina, Goleniewski đã lần ra được danh tính điệp viên Liên Xô trong BND là Heinz Felfe (hay còn gọi là "Hakke"). Nhưng không xác định được danh tính điệp viên còn lại. Một số tác giả cho rằng Goleniewski có mặt tại cuộc họp lãnh đạo phản gián. Tuy nhiên, thực tế là từ năm 1957, Goleniewski không hoạt động phản gián chính thức nên thông tin này còn gây tranh cãi.
Goleniewski cũng chỉ điểm các điệp viên Liên Xô khác như: sĩ quan MI6 Kim Philby, nhân viên tổ chức Gehlen và BND Hans Clemens ("Paul") và Peter Fuhrmann ("Peter"), luật sư Erwin Tiebel là bạn của Clemens và mạng lưới đặc vụ KGB ở Karlhorst; quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Israel và Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu IDF Israel Beer ("Đồng chí Kurt"), đại tá không quân Thụy Điển Stig Wennerström ("Đại bàng") và một số nhân vật khác. Trong thư ngày 25 tháng 1 năm 1960, Goleniewski cũng đã nhầm Jerzy Bryn là điệp viên Ba Lan. Bryn vống từng phục vụ tình báo quân đội rồi chuyển sang dân sự năm 1957. Năm 1959, Bryn là bí thư thứ nhất đại sứ quán Ba Lan ở Tokyo, cuối cùng chạy sang Hoa Kỳ. Về sau, Bryn cố thuyết phục chính quyền Ba Lan rằng CIA đã bắt cóc và tìm cách thuyết phục mình hợp tác.
Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1961, do Goleniewski phản bội, tổng cộng 12 người bị bắt, 10 ở Mỹ và 2 ở Tây Đức. Phương Tây cũng xác định được 240 đặc vụ tình báo Liên Xô hoặc những cơ quan tình báo thân Liên Xô. |
Michał Goleniewski | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822942 | Hoa Kỳ mở khoảng 2000 vụ điều tra những người bị tình nghi làm gián điệp cho các cơ quan tình báo Khối phía Đông. Không có bằng chứng nào cho thấy ngoài Goleniewski còn có nguồn nào khả dĩ hơn đã vạch trần số điệp viên nói trên (như trường hợp Beer và Wennerström). Một số tác giả cho rằng Goleniewski cũng giúp vạch mặt trợ lý tùy viên Hải quân Anh tại Moskva là John Vassall. Nhưng thực ra Vassall bị nhân viên KGB Anatoly Mikhailovich Golitsyn ("Martel") chỉ điểm sau khi đào tẩu đến Helsinki tháng 12 năm 1961. Golitsyn cũng xác nhận hầu hết các thông tin mà Goleniewski đã cung cấp cho tình báo phương Tây.
Đánh giá thiệt hại.
Từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 12 năm 1960, Goleniewski gửi tổng cộng 14 bưu kiện chứa thư và thông tin mật cho CIA. Chỉ sau bưu kiện thứ hai hoặc thứ ba, người Mỹ mới gạt bỏ nghi ngờ rằng đây là một âm mưu và tin chắc vào độ xác thực của thông tin nhận được. Tất cả các thư đều viết bằng tiếng Đức: mỗi thư đều có phần chi tiết cụ thể về mật danh và dữ liệu hoạt động tình báo Liên Xô. CIA ghi nhận thu được 5.000 tài liệu của tình báo Ba Lan và khoảng 800 tài liệu tình báo Liên Xô được giấu trong 160 vi phim. Chính Goleniewski cho biết đã gửi tổng cộng 2.000 vi phim thông tin mật, dù giấu danh tính và thông tin cá nhân thật những vẫn nhận được phần thưởng hậu hĩnh; 160 tài liệu đánh máy thông tin chung và 5.000 trang thông tin tuyệt mật (hệ thống vệ tinh trinh sát của Liên Xô; thông tin điệp viên PPR và CHDC Đức ở Tây Âu và Hoa Kỳ; thông tin quân sự, kinh tế, chính trị và khoa học, không lưu). Hoa Kỳ cũng được báo về việc nghe lén Đại sứ quán Mỹ ở Warszawa và nhà các nhân viên ngoại giao Mỹ tại Ba Lan.
Goleniewski làm tê liệt hoàn toàn công việc của Cục 4 (đảm nhiệm tình báo ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, Hà Lan và Vatican) Tổng cục 1 Bộ Nội vụ PPR, vì Ba Lan không xác định nổi kẻ phản bội sau những thông tin bị Goleniewski bán cho CIA. Theo CIA, tất cả điệp viên Ba Lan đều được lệnh dừng mọi nhiệm vụ ngay lập tứ. |
Subsets and Splits