text
stringlengths
0
512k
Voldemort (, trong phim) là biệt hiệu của Tom Marvolo Riddle, một nhân vật hư cấu và là nhân vật phản diện chính trong loạt tiểu thuyết Harry Potter của nhà văn nữ người Anh, J. K. Rowling. Voldemort xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và Hòn đá phù thủy, được xuất bản vào năm 1997. Voldemort xuất hiện trực tiếp hoặc trong các đoạn hồi tưởng trong mỗi cuốn sách và loạt phim chuyển thể cùng tên ngoại trừ phần ba, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, trong đó hắn chỉ được nhắc đến chứ không lộ diện. Voldemort là kẻ thù không đội trời chung của Harry Potter, người mà theo lời tiên tri có "sức mạnh đánh bại Chúa tể Hắc ám". Hắn ta cố gắng giết cậu bé, nhưng thay vào đó lại giết cha mẹ của cậu, Lily và James Potter, và để lại cho Harry một vết sẹo trên đầu dưới hình dạng một tia chớp. Gần như mọi phù thủy hoặc pháp sư không dám thốt ra tên của hắn và thay vào đó gọi hắn bằng những biệt hiệu như "Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy", "Kẻ-chớ-gọi-tên-ra". Nỗi ám ảnh của Voldemort với sự thuần khiết của dòng máu cho thấy mục tiêu của hắn ta là loại bỏ dòng dõi Muggle (không có phép thuật) trong thế giới phù thủy và chinh phục cả hai thế giới, Muggle và phù thủy, để đạt được sự thống trị của dòng máu thuần chủng. Thông qua gia đình bên ngoại, Voldemort là hậu duệ cuối cùng của pháp sư Salazar Slytherin, một trong bốn người sáng lập Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts. Hắn là thủ lĩnh của Tử thần Thực tử, một nhóm các pháp sư và phù thủy độc ác chuyên tiêu diệt Thế giới Phù thủy của Muggles và đưa Voldemort trở thành kẻ thống trị tối cao tại đây. Phát triển nhân vật Trong một cuộc phỏng vấn năm 1999, Rowling cho biết Voldemort được coi là kẻ thù không đội trời chung của Harry Potter, và lúc đầu bà cố ý không tiết lộ cốt truyện của Voldemort. "Ý tưởng cơ bản là Harry không biết bản thân là một phù thủy ... Và vì vậy tôi đã làm việc ngược lại từ vị trí đó để tìm hiểu xem điều đó có thể xảy ra như thế nào, rằng cậu bé sẽ không biết mình là người như thế nào. ... Khi cậu được một tuổi, tên phù thủy độc ác nhất hàng trăm năm đã định giết cậu. Hắn ta đã giết cha mẹ của Harry, và sau đó cố gắng giết Harry - hắn cố gắng tạo lời nguyền lên cậu bé. ... Harry phải tìm ra trước chúng ta. Và — vậy — nhưng vì một lý do bí ẩn mà không ai biết được tại sao lời nguyền không có tác dụng với Harry. Vì vậy, hắn đã để lại với vết sẹo hình tia chớp này trên trán cậu bé và lời nguyền dội lại lên tên phù thủy độc ác, kẻ đã lẩn trốn kể từ đó. Trong cuốn thứ hai, Rowling khẳng định rằng Voldemort ghét những pháp sư không thuần huyết, mặc dù bản thân là một đứa trẻ lai giữa dòng máu phù thủy và Muggles. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2000 với BBC, Rowling mô tả Voldemort là một kẻ có xu hướng tự đày đọa bản thân: "Tôi nghĩ thường xảy ra trường hợp những kẻ bắt nạt mạnh nhất coi những gì họ biết là khuyết điểm của chính mình, vì họ hiểu điều đó, và họ áp những thứ đó lên người khác và sau đó họ cố gắng tiêu diệt người kia và đó là những gì Voldemort làm." Cùng năm đó, Rowling nói chính xác hơn về Voldemort. Cô bắt đầu liên tưởng Voldemort tới những bạo chúa ngoài đời thực, mô tả nhân vật này là "một kẻ tâm thần cuồng nộ, không có phản ứng bình thường của con người trước sự đau khổ của người khác". Tuy nhiên, vào năm 2004, Rowling nói rằng cô không xây dựng Voldemort dựa trên bất kỳ nhân vật nào ngoài đời thực. Năm 2006, Rowling còn chia sẻ rằng Voldemort trong thâm tâm có một nỗi sợ hãi của con người: "nỗi sợ cái chết". Tác giả chia sẻ: "Nỗi sợ hãi của Voldemort là cái chết, cái chết ô nhục. Ý tôi là, hắn coi cái chết là điều ô nhục. Hắn cho rằng đó là một điểm yếu đáng xấu hổ của con người, như bạn biết. Nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của hắn là cái chết." Xuyên suốt loạt truyện, Rowling khẳng định rằng Voldemort rất đáng sợ trong thế giới phù thủy đến mức ngay cả khi nói tên hắn cũng bị coi là nguy hiểm. Hầu hết các nhân vật trong tiểu thuyết đều gọi hắn bằng biệt danh thay vì gọi to tên của hắn. Trong Harry Potter và Bảo bối Tử thần, một câu thần chú "cấm kỵ" được đặt theo tên, để Voldemort hoặc những kẻ lựa chọn đi theo hắn có thể truy tìm bất cứ ai nói ra nó. Bằng cách này, những kẻ theo chân Voldemort cuối cùng đã tìm thấy và bắt được Harry cùng những người bạn Ron Weasley và Hermione Granger. Trong cuốn sách thứ hai, Rowling tiết lộ rằng Ta là Chúa tể Voldemort là một phép đảo chữ cái tên khai sinh của nhân vật, Tom Marvolo Riddle. Theo tác giả, tên của Voldemort là một từ được phát minh ra. Một số nhà phân tích văn học đã xem xét các ý nghĩa có thể có trong tên: Philip Nel tin rằng Voldemort có nguồn gốc từ tiếng Pháp «vol de mort» có nghĩa là "chuyến bay của cái chết", và trong một bài báo năm 2002, Nilsen và Nilsen gợi ý rằng độc giả có "cảm giác rùng rợn" từ cái tên Voldemort, vì từ tiếng Pháp "mort" ("cái chết") trong nó và sự liên kết của từ đó với các từ tiếng Anh ghép lại có nguồn gốc từ tiếng Latinh mors. Về tên gọi Nhà văn J.K. Rowling đã chơi chữ, khi sắp xếp các chữ cái trong tên Tom Marvolo Riddle sẽ ra câu: “I am Lord Voldemort”. "Marvolo” là từ kết hợp giữa “Marvelous” (tuyệt vời) và thuật ngữ “volo” trong tiếng Latin, có nghĩa là “khao khát” hoặc là “biến đổi một cách nhanh chóng”. Lý giải cho cái tên này, là việc danh tiếng của Voldemort tăng đột biến kèm với đó là hiểm họa đáng sợ mà hắn mang lại. Về phía cái tên mới “Voldemort”, có thể được liên tưởng đến "bay đến cái chết" hay là "kẻ trộm chết chóc" trong tiếng Pháp (Vol de Mort). Ở bản dịch của nhiều nước, tên của nhân vật đã phải đổi để sau khi đảo chữ cái cũng ra được câu: “Ta là Chúa tể Voldemort” trong ngôn ngữ của họ. Cụ thể: - Tiếng Tây Ban Nha: Tom Sorvolo Ryddle → Soy Lord Voldemort - Tiếng Pháp: Tom Elvis Jedusor → Je suis Voldemort - Tiếng Hà Lan: Marten Asmodom Vilijin → Mijn naam is Voldemort - Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Tom Marvoldo Riddle → Adim Lord Voldemort - Tiếng Bồ Đào Nha: Tom Servolo Riddle → Eis Lord Voldemort - Tiếng Đan Mạch: Romeo G. Detlev Jr. → Jeg er Voldemort - Tiếng Ý: Tom Orvoloson Riddle → Son io Lord Voldemort - Tiếng Séc: Tom Rojvol Raddle → Já, Lord Voldemort - Tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển: Tom Gus Mervolo Dolder → Ego sum Lord Voldemort. Ngoại hình Harry Potter và Hòn đá phù thủy Voldemort xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và Hòn đá phù thủy. Trong câu chuyện này, Rowling giới thiệu hắn ta là Chúa tể Voldemort, kẻ đã cố gắng giết Harry Potter vì cậu bé được tiên tri sẽ tiêu diệt hắn. Voldemort đã sát hại cha mẹ của Harry, James và Lily, nhưng kết quả của tình yêu và sự sẵn sàng hy sinh của mẹ vì con trai nên Harry đã sống sót khi Voldemort cố gắng giết cậu bằng Lời nguyền giết chóc. Voldemort bị biến mất, và kết quả là Harry bị để lại một vết sẹo bí ẩn hình tia chớp trên giữa trán. Trong cuốn sách, Voldemort cố gắng lấy lại cơ thể đã tan biến của mình nhưng không thành công bằng cách đánh cắp Hòn đá Phù thủy. Để đạt được mục tiêu của mình, Voldemort sử dụng sự trợ giúp của Giáo sư Quirrell bằng cách bám vào phía sau đầu của người này. Tuy nhiên, ở đoạn cao trào của cuốn sách, Harry đã ngăn được Voldemort ăn cắp viên đá. Harry Potter và phòng chứa bí mật Trong phần thứ hai, Harry Potter và Phòng chứa bí mật, Rowling giới thiệu Tom Marvolo Riddle, hiện thân của một Voldemort tuổi thiếu niên sống trong một cuốn nhật ký ma thuật do Ginny Weasley tìm thấy. Trong cuốn sách này, Ginny được viết là một cô bé nhút nhát có tình cảm với Harry. Cảm thấy lo lắng và cô đơn, cô bắt đầu viết nhật ký và chia sẻ nỗi sợ hãi sâu sắc nhất của mình và nhận thấy sự đồng cảm (giả vờ) từ Tom. Tuy nhiên, ở cao trào của câu chuyện, khi Tom sắp xếp lại các chữ cái trong tên của mình để viết "Ta là Chúa tể Voldemort", Riddle được tiết lộ là biểu hiện phép thuật của một chàng trai mà sau này lớn lên trở thành Chúa tể Hắc ám. Riddle nói rằng hắn đã trở nên mạnh mẽ trước nỗi sợ hãi của Ginny và cuối cùng bắt cóc cô bé, sử dụng cô bé như một con tốt để mở Phòng chứa Bí mật, khi một con rắn Tử xà (Basilisk) được thả tự do và hóa đá một số học sinh Hogwarts. Harry đánh bại sự hiện ra của Riddle khỏi cuốn nhật ký và Tử xà. Trong Harry Potter và Hoàng tử lai, thầy hiệu trưởng Albus Dumbledore đã nói cho Harry biết rằng cuốn nhật ký này là một trong 7 Trường sinh linh giá của Voldemort. Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban Voldemort không xuất hiện trong phần 3, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, dù là trực diện hay dưới dạng một phép thuật. Tuy nhiên, hắn chỉ được nghe thấy khi Harry bất tỉnh do tác động khắc nghiệt của một Giám ngục. Vào cuối câu chuyện, Sybill Trelawney, giáo sư Bói toán, đưa ra một lời tiên tri thực sự hiếm có: "Chúa tể Hắc Ám nằm một mình và không có bạn bè, bị bỏ rơi bởi những người theo của mình. Kẻ phụng sự hắn đã bị xiềng xích trong mười hai năm. Đêm nay, trước nửa đêm, người đầy tớ sẽ được tự do và lên đường để gặp lại chủ. Chúa tể Hắc ám sẽ sống lại với sự trợ giúp của đầy tớ của hắn, vĩ đại và khủng khiếp hơn bao giờ hết. Tối nay ... trước nửa đêm ... người hầu ... sẽ lên đường ... tái hợp ... chủ nhân ..." Mặc dù ban đầu người ta ngụ ý rằng lời tiên tri ám chỉ đến Sirius Black, nhân vật tưởng chừng như là phản diện trong cuốn sách, người hầu cuối cùng được tiết lộ là Peter Pettigrew, kẻ đó trong 12 năm kể từ khi Voldemort sụp đổ, đã được cải trang thành con chuột cưng của Ron, Scabbers. Harry Potter và chiếc cốc lửa Trong phần thứ tư của bộ truyện, Harry Potter và Chiếc cốc lửa, Voldemort xuất hiện trở lại trong phần đầu và phần cuối của cuốn sách. Rowling cho phép nhiều yếu tố cốt truyện dường như không liên quan đến trật tự. Nó được tiết lộ rằng tay sai của Voldemort Barty Crouch Jr, cải trang thành giáo sư Hogwarts là Moody Mắt điên (Mad-Eye Moody), đã thao túng các sự kiện của Giải đấu Tam pháp thuật (Triwizard) có lợi cho Harry. Mục tiêu của Voldemort là dịch chuyển Harry dưới sự giám sát của cụ Dumbledore với tư cách là một người tham gia bất đắc dĩ đến nghĩa địa Hangleton Nhỏ, nơi chôn cất gia đình Riddle. Harry bị bắt và, sau khi Pettigrew sử dụng máu của Harry để thực hiện một nghi lễ ma thuật khủng khiếp, Voldemort lấy lại cơ thể và khôi phục toàn bộ sức mạnh của mình. Lần đầu tiên trong loạt phim, Rowling mô tả ngoại hình của hắn: "cao và gầy như bộ xương", với khuôn mặt "trắng hơn đầu lâu, với đôi mắt to, màu đỏ tươi và chiếc mũi tẹt như một con rắn không lỗ mũi" . Rowling viết rằng "bàn tay hắn giống như những con nhện lớn và nhợt nhạt; những ngón tay dài trắng bệch của hắn vuốt ve ngực, cánh tay, khuôn mặt của mình; đôi mắt đỏ, với đồng tử có vết rạn như mắt mèo, vẫn sáng hơn trong bóng tối". Ngoài ra cũng tiết lộ rằng, trong khi ở Albania, Pettigrew đã bắt giữ viên chức Bộ Pháp thuật Bertha Jorkins, đã bị tra tấn để biết thông tin về Bộ. Sau khi chúng biết rằng Barty Crouch Jr, một Tử thần Thực tử trung thành, đã bị đưa ra khỏi Azkaban và bị giam riêng tại nhà của cha mình, chúng đã giết cô. Với sự giúp đỡ của Pettigrew, Voldemort tạo ra một cơ thể nhỏ bé, thô sơ, đủ thể chất để đi lại và thực hiện phép thuật, đồng thời lập kế hoạch khôi phục cơ thể của chính mình bằng cách bắt giữ Harry. Một phần của kế hoạch đã bị nghe lén bởi Frank Bryce, một người làm vườn, người mà sau đó Voldemort đã giết chết. Voldemort sau đó hoàn thành kế hoạch và trở lại cuộc sống trong cơ thể đầy đủ của mình do kết quả của nghi lễ với máu của Harry. Sau đó, hắn triệu tập các Tử thần Thực tử của mình đến nghĩa địa để chứng kiến cái chết của Harry khi thách đấu với Harry trong một trận đấu tay đôi. Tuy nhiên, khi Voldemort đấu với Harry, cây đũa phép của họ bị khóa với nhau một cách kỳ diệu do lõi của hai cây đũa phép đều làm từ lông đuôi của một con phượng hoàng. Tiếp đó một hiện tượng được tiết lộ là Priori Incantatem, những biểu hiện giống như bóng ma của những nạn nhân gần đây nhất của Voldemort (bao gồm cả cha mẹ của Harry) đã xuất hiện và đánh lạc hướng Voldemort, cho phép Harry có đủ thời gian để trốn thoát qua Portkey cùng với xác của bạn học, Cedric Diggory, người đã bị Pettigrew sát hại theo lệnh của Voldemort. Harry Potter và Hội Phượng Hoàng Voldemort xuất hiện ở đoạn cao trào của cuốn thứ năm, Harry Potter và Hội Phượng hoàng, một lần nữa âm mưu chống lại Harry. Trong cuốn sách này, Harry phải trải qua những căng thẳng tột độ về cảm xúc, và theo Rowling, cần phải chứng minh rằng Harry là người dễ bị tổn thương về mặt tình cảm và do đó là con người, trái ngược với kẻ thù không đội trời chung Voldemort, kẻ vô cảm và vô nhân đạo: "[Harry là] một anh hùng rất con người và điều này rõ ràng là có một sự tương phản, giữa cậu bé, với tư cách là một anh hùng rất con người, và Voldemort, kẻ đã cố tình hủy hoại bản thân. […] và Harry do đó, đã phải đạt đến một điểm mà hắn gần như sụp đổ". " Trong cuốn sách này, Voldemort tận dụng việc Bộ Pháp thuật từ chối tin rằng hắn ta đã trở lại. Voldemort tạo ra một âm mưu giải phóng Bellatrix Lestrange và các Tử thần Thực tử khác khỏi Azkaban và sau đó bắt tay vào một kế hoạch lấy lại toàn bộ hồ sơ của một lời tiên tri được lưu trữ trong Bộ Pháp thuật về Harry và chính hắn. Hắn gửi một nhóm Tử thần Thực tử để lấy lại lời tiên tri, nơi Hội Phượng hoàng gặp chúng. Tất cả trừ Bellatrix đều bị bắt, và Voldemort tham gia vào một cuộc đấu tay đôi dữ dội với Dumbledore. Khi cụ Dumbledore chiếm được ưu thế, Voldemort cố gắng chiếm hữu Harry nhưng không thể; Harry có quá nhiều thứ mà Voldemort thấy không thể hiểu nổi, và thứ mà hắn ghét là sự yếu đuối: tình yêu. Cảm thấy rằng cụ Dumbledore sẽ chiến thắng, Voldemort biến mất, nhưng không phải trước khi Bộ trưởng Bộ Pháp thuật gặp trực tiếp hắn, khiến hắn trở lại công khai trong cuốn sách tiếp theo. Nhà Gaunt Gia đình Gaunt xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và hoàng tử lai là một trong những gia đình phù thủy hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling. Đây là gia đình phù thủy thuần chủng. Gia đình Gaunt là một dòng họ pháp sư rất lâu đời nổi tiếng về tính khí hung tợn và bất thường truyền qua nhiều thế hệ do tập quán kết hôn với bà con họ hàng. Thiếu hiểu biết cộng với kiểu cách quý tộc phô trương bởi trong mình mang dòng máu của Salazar Slytherin đã đưa tới hậu quả là của cải của dòng họ bị hoang phí qua rất nhiều thế hệ trước khi hậu duệ cuối cùng của dòng họ là Marvolo, Morfin và Merope chào đời. Gia đình của Marvolo phải sống trong một căn chòi đổ nát với di sản của dòng họ là chiếc dây chuyền của Salazar Slytherin và chiếc nhẫn cẩn đá đen của anh em nhà Peverell. Thành viên chính: Marvolo Gaunt: chủ gia đình Gaunt. Ông đã bị tuyên án 6 tháng tù trong ngục Azkaban vì tội tấn công ông Ogden - Trưởng đội thi hành Pháp thuật ở Bộ Pháp thuật. Ông Ogden trong lúc tới gia đình Gaunt để mời con trai Marvolo - Morfin về hầu tòa vì tội tấn công Muggle đã bất đồng ý kiến với Marvolo về dòng máu thuần chủng. Sau khi từ Azkaban trở về, ông chỉ thấy được bức thư từ biệt của con gái - Merope, không lâu sau đó ông đã chết. Morfin Gaunt: con trai của Marvolo. Ông đã bị kết án ba năm tù vì tội tấn công Muggle và ông Ogden. Sau khi ông trở về thì cha ông đã chết, còn em gái thì đã bỏ đi để cưới một Muggle là Tom Riddle. Sau đó, ông lại bị buộc tội giết cả nhà Riddle mà thực ra hung thủ là đứa cháu Tom Marvolo Riddle của ông và ông đã chết ở trong ngục. Merope Gaunt: Merope đã phải trải qua 18 năm trong cuộc đời không dễ chịu gì. Bị cha và anh trai xem là vô dụng và không có mẹ chăm sóc, bà bị đối xử không khác gì nô lệ trong gia đình. Bà bị khinh mạt đến tột đỉnh và buộc phải làm mọi công việc trong nhà cho Marvolo và Morfin, trong khi họ chẳng làm gì khác ngoài việc đóng đinh những con rắn vào cánh cửa và thể hiện sự căm ghét Muggle cũng như Máu bùn. Bà thường bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần bởi ông Marvolo, người thường la hét, đánh đập bà và xem đó như việc làm thoải mái nhất trong ngày. Vì thế mà, đến năm 18 tuổi, bà dường như kiệt sức và thảm hại. Nguồn hy vọng duy nhất trong đời và chính là một chàng trai Muggle trẻ tuổi, khôi ngô tên là Tom Riddle, mà từng di ngang qua căn nhà của bà – bà thường chăm chú dõi theo anh ta khi anh ta đi qua và mơ ước một cuộc sống với mọi thứ đều thay đổi. Sau khi cả Marvolo và Morfin đã bị bắt và nhốt trong ngục Azkaban. Merope bắt đầu kế hoạch để thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện thời. Bà đã chuẩn bị một liều Tình Dược, mà bà đã làm cho Riddle phải uống, ngay sau đó, liều thuốc đã có tác dụng. Dưới ảnh hưởng của liều thuốc, Riddle đã yêu bà, và cả hai đã bỏ nhà ra đi, trước sự kinh ngạc của người dân ở Hangleton nhỏ. Bởi vì không đơn giản khi con trai của một điền chủ lại ra đi với con gái của một tên điên. Họ đã nhanh chóng cưới nhau, với ảnh hưởng liều thuốc của Merope, và bà đã mang thai sau một năm cưới Tom Riddle. Tuy nhiên, thời gian đó bà đã phạm một sai lầm lớn. Không thỏa mãn với tình yêu dựa trên ma thuật và dối trá cùng với việc nô dịch chồng bằng phương tiện pháp thuật, bà đã ngừng sử dụng liều thuốc, bởi vì bà tin rằng Riddle đã thực sự yêu thương bà hoặc hẳn là nếu anh ta biết sự thật thì vẫn sẽ ở lại với bà vì đứa con mà Merope mang trong bụng. Nhưng đáng buồn thay, bà đã tính toán sai trong cả hai trường hợp. Riddle khi thoát khỏi tác dụng của Tình dược đã ra đi và trở về căn nhà của gia đình, lý giải mọi việc đều là dối trá. Merope bị bỏ lại một mình, đang mang thai và cô độc. Chính lúc này, Merope, ghê tởm cuộc đời của bà, không bao giờ sử dụng ma thuật nữa. Không ai biết bà đã đi đâu, nhưng vào đêm Giáng Sinh năm 1926, bà đã xuất hiện ở tiệm Borgin và Burkes ở Hẻm Xéo, mang thai, thiếu tiền và cố gắng bán đi vật gia truyền, chiếc mề đay của Salazar Slytherin. Ông Burke đã trả bà 10 đồng vàng Galleon và bà đã biến mất một lần nữa, xuất hiện kế tiếp trên bậc thềm của một trại mồ côi vào năm mới. Bà đã hạ sinh một bé trai sau khi đến đó được một giờ, và một giờ sau, bà đã chết. Bà đã cố gắng sống để đặt tên cho con là Tom Marvolo Riddle và tất nhiên bà có thể sử dụng phép thuật để cứu mình nhưng với Merope Gaunt, niềm hy vọng có được một cuộc sống hạnh phúc đã trôi qua, tất cả những điều ấy đã tan thành mây khói, không còn gì cả. Không muốn dùng đũa phép để cứu lấy bản thân, bà đã chấp nhận ra đi, bất chấp đứa con trai bé bỏng đang cần đến mình Thời niên thiếu Chúa tể Voldemort được sinh ra dưới cái tên Tom Marvolo Riddle vào đêm cuối năm 1926, con của Tom Riddle và Merope Riddle (có họ Gaunt trước khi lấy chồng). Tom Riddle cha là "Muggle", còn Merope là một nữ phù thủy chính gốc, mang dòng máu của vị cố tổ Salazar Slytherin, nhưng quyền năng phép thuật của bà chỉ được phát huy tối đa khi không bị cha mình khủng bố. Tất cả các con cháu của Salazar Slytherin đều không còn, nên Voldemort trở thành người thừa kế cuối cùng của ông ta. Ở Hogwarts Trong thời gian là học sinh tại Hogwarts, Tom đã khá thành công trong việc che đậy động cơ gây tội ác của hắn và bằng cách trở thành một học sinh xuất sắc ở mọi môn, một huynh trưởng có trách nhiệm và kỉ luật. Mặc dù Dumbledore chưa bao giờ quên những gì Riddle đã tự thú nhận với ông, nên Dumbledore cũng chưa bao giờ hoàn toàn tin tưởng hắn. Cái tên Tom Marvolo Riddle nhanh chóng bị sắp xếp lại thành I am Lord Voldemort (Ta là Chúa tể Voldemort). Sau khi rời khỏi Hogwarts, Tom đã từ bỏ hẳn tên thật của mình và sử dụng tên tự đặt rộng rãi hơn - Chúa tể Voldemort. Ngay từ lúc Tom còn ở trong Hogwarts, hắn bao bọc bản thân bằng một nhóm bè đảng cùng nhà Slytherin, những kẻ hắn gọi là bạn bè, nhưng thật sự là những kẻ hắn không hề có lòng trắc ẩn. Rất nhiều kẻ trong số đó đã trở thành Tử Thần Thực Tử. Trong năm thứ sáu của Tom tại Hogwarts, hắn đã mở Phòng chứa bí mật, giải phóng con Tử xà (Basilisk) và giết Myrtle, một học sinh có dòng máu Muggle. Chỉ có giáo sư Dumbledore là nghi ngờ hắn (tập 2 Harry Potter và phòng chứa bí mật) dù Tom đã nhận được rất nhiều tình thương yêu và tin tưởng từ những giáo viên khác, bao gồm cả thầy Độc dược, giáo sư Horace Slughorn (tập 6) và đổ tội cho một học sinh năm thứ 3 là Rubeus Hagrid. Bởi vì lúc đó chưa ai từng đặt chân đến Phòng chứa bí mật mà cũng không biết trong đó có gì nên cứ nghĩ kẻ giết Myrtle là con Nhền nhện 8 mắt khổng lồ mà Hagrid lén nuôi. Con đường riêng Sau khi hoàn thành chương trình học của mình, Voldemort nộp đơn xin trở thành một giáo sư tại trường Hogwarts. Dumbledore phán đoán việc này nhằm mục đích để đạt được những đồ vật thuộc về Godric Gryffindor hoặc Rowena Ravenclaw. Voldemort bị từ chối bởi thầy hiệu trưởng lúc bấy giờ là Dippet, với lý do còn quá trẻ. Thay vào đó, hắn tạm thời làm việc tại tiệm Borgin và Burkes, nhưng lại bỏ đi sau khi chiếm được, bằng cách trộm cắp và ám sát, cái dây chuyền của Slytherin và cái cúp có huy hiệu hình con lửng của Hufflepuff, có nhiều khả năng là để dùng làm "Trường sinh Linh giá" (Horcrux). Sau đó hắn biệt tăm và không còn được nhắc đến trong vòng nhiều năm. Mười năm sau, hắn trở lại Hogwarts để yêu cầu công việc làm giáo viên môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, nhưng lại bị thầy hiệu trưởng Dumbledore từ chối bởi vì hắn đã tự chứng tỏ mình không đáng tin cậy. Vào lúc này Voldemort mang ngoại hình rất ít giống con người, và yêu cầu được gọi bằng cái tên mà hắn tự đặt thay vì Tom Riddle, nhưng Dumbledore đã từ chối. Và kể từ đó không giáo viên nào có thể giữ được công việc này quá 1 năm. Ghi chú
Yên Tử (chữ Hán: 安子山, Yên Tử sơn) là một dãy núi trải dài trên địa bàn 3 tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và cũng là tên ngọn núi cao nhất trong dãy. Đây là dãy núi gắn liền với nhà Trần trong lịch sử Việt Nam cũng như gắn với Thiền phái Trúc Lâm. Địa lý Dãy Yên Tử thuộc cánh cung Đông Triều, một trong bốn cánh cung núi chính của vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Dãy núi có địa hình thấp dần từ đông sang tây, cao trung bình trên 600 m so với mực nước biển; trong đó nơi cao nhất là đỉnh Yên Tử (1.068 m) còn nơi thấp nhất là khu vực Côn Sơn – Kiếp Bạc (200–238 m), gần Lục Đầu Giang. Sườn núi phía nam (còn gọi là sườn Đông Yên Tử) chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh và một phần nhỏ thuộc tỉnh Hải Dương, còn sườn núi phía bắc (còn gọi là sườn Tây Yên Tử) thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang. Lịch sử Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn). Năm 1294, sau khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông) và trở thành Thái thượng hoàng, ông xuất gia tu Phật tại hành cung Vũ Lâm, Ninh Bình. Năm 1299, ông đến Yên Tử, lấy pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà hay Trúc Lâm đại đầu đà, thu hút được nhiều đệ tử. Tại đây, ông đã cho xây dựng hệ thống chùa, am, tháp và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam tồn tại đến ngày nay. Sách Đồng Khánh địa dư chí mô tả về Yên Tử như sau:Núi Yên Tử (Yên Tử sơn): ở vào địa phận tổng Bí Giang. Núi liên tiếp chạy dài hơn 10 ngọn, cao nhất là ngọn Yên Tử. Tương truyền An Kỳ Sinh tu luyện đắc đạo thành tiên ở nơi đây cho nên có tên gọi là núi An (Yên) Tử. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1379) nhà Minh sai sứ sang làm lễ tế, vẽ hình thế núi sông ở đây đem về. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) bộ Lễ vâng mệnh vua xếp núi này vào hạng danh sơn và ghi vào tự điển (sổ thờ).
Quốc tế ca (tiếng Pháp: L'Internationale) là bài tụng ca chủ nghĩa cánh tả. Nó từng là ngọn cờ của phong trào xã hội chủ nghĩa từ cuối thế kỉ 19, khi Đệ Nhị Quốc tế chấp nhận ca khúc là bài ca tranh đấu chính thức. Nguyên bản tiếng Pháp được sáng tác năm 1871 bởi Eugène Pottier (1816 – 1887) sau thất bại của Công xã Paris, một người Pháp theo chủ nghĩa vô chính phủ, hội viên của Đệ Nhất Quốc tế, sau này là một hội viên trong Hội đồng thành phố Công xã Paris). Nhà xã hội người Bỉ Pierre Degeyter (1848 – 1932) phổ thơ thành nhạc năm 1888 (lúc ban đầu họ dự định hát theo điệu nhạc của bài La Marseillaise). Quốc tế ca đã trở thành bài hát quen thuộc trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ, như Tiếng Trung Quốc, Tiếng Nga, thậm chí đã được dịch sang Tiếng Việt. Tại nhiều quốc gia châu Âu, bài hát đã bị cấm vào đầu thế kỷ 20 vì liên hệ với chủ nghĩa cộng sản và có thông điệp lật đổ chính phủ tư bản. Phiên bản tiếng Nga được chọn làm quốc ca của Liên Xô từ năm 1917 đến 1944; khi Liên Xô chọn bài quốc ca khác ("Quốc ca Liên bang Xô viết") thì "Quốc tế ca" trở thành đảng ca của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lời tiếng Nga do Aron Kots (Arkadiy Yakolevich Kots) soạn vào năm 1902 và được phổ biến trong một nguyệt san tiếng Nga in tại Luân Đôn. "Quốc tế ca" được những người theo cánh tả như vô chính phủ, xã hội, cộng sản, dân chủ xã hội, công đoàn hát. Nó cũng là bài ca cuộc Nổi dậy tại Đông Đức 1953 do phe đệ tứ lãnh đạo chống lại ách đế quốc chủ nghĩa Nga kiểu Stalin; của các sinh viên và công đoàn trong cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhạc của bài Quốc tế ca vẫn còn thuộc bản quyền tại Pháp cho đến năm 2014, nhưng bản quyền không được các thành phần cánh tả tuân theo. Trong năm 2005 một nhà làm phim đã phải trả 1000 Euro để sử dụng bài này trong phim. Lời tiếng Pháp Lời tiếng Nga {{Hộp thông tin quốc ca |title = Интернационал |transcription = Internatsional |image = Internationale - Russian, 1951.pdf border |caption = "Quốc tế ca" trên một cuốn sách âm nhạc năm 1951. |prefix = Quốc |country = Quốc ca khu vực của Nga Xô viết Đảng ca của ĐCS Liên Xô |composer = Pierre Degeyter |music_date = 1888 |author = Arkady Kots |lyrics_date = 1902 |adopted = 1918 (Nga Xô viết)1922 (Liên Xô) |until = 1944 |sound = Internationale-ru.ogg |sound_title = "The Internationale" }} Вставай проклятьем заклейменный, Весь мир голодных и рабов ! Кипит наш разум возмущённый И в смертный бой вести готов. Весь мир насилья мы разрушим До основанья, а затем Мы наш мы новый мир построим, Кто был никем тот станет всем! Припев: Это есть наш последний И решительный бой; С Интернационалом Воспрянет род людской!II Никто не даст нам избавленья: Ни бог, ни царь и не герой Добьёмся мы освобожденья Своею собственной рукой. Чтоб свергнуть гнёт рукой умелой, Отвоевать своё добро,- Вздувайте горн и куйте смело, Пока железо горячо! Припев: III Довольно кровь сосать вампиры, Тюрьмой, налогом нищетой! У вас — вся власть, все блага мира, А наше право — звук пустой ! Мы жизнь построим по иному- И вот наш лозунг боевой: Вся власть народу трудовому! А дармоедов всех долой! Припев: IV Презренны вы в своём богатстве, Угля и стали короли! Вы ваши троны тунеядцы, На наших спинах возвели. Заводы, фабрики, палаты - Всё нашим создано трудом. Пора! Мы требуем возврата Того что взято грабежём. Припев: V Довольно, королям в угоду, Дурманить нас в чаду войны! Война тиранам ! Мир Народу! Бастуйте армии сыны! Когда ж тираны нас заставят В бою геройски пасть за них - Убийцы в вас тогда направим Мы жерла пушек боевых! Припев: VI Лишь мы, работники всемирной Великой армии труда! Владеть землёй имеем право, Но паразиты — никогда! И если гром великий грянет Над сворой псов и палачей, Для нас всё также солнце станет Сиять огнём своих лучей. Припев: Это есть наш последний И решительный бой; С Интернационалом Воспрянет род людской! Chuyển tự La-tinh: Vstavay proklyat'yem zakleymennyy, Ves' mir golodnykh i rabov ! Kipit nash razum vozmushchonnyy I v smertnyy boy vesti gotov. Ves' mir nasil'ya my razrushim Do osnovan'ya, a zatem My nash my novyy mir postroim, Kto byl nikem tot stanet vsem! Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! II Nikto ne dast nam izbavlen'ya: Ni bog, ni tsar' i ne geroy Dob'yomsya my osvobozhden'ya Svoyeyu sobstvennoy rukoy. Chtob svergnut' gnot rukoy umeloy, Otvoyevat' svoyo dobro, - Vzduvayte gorn i kuyte smelo, Poka zhelezo goryacho! Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! III Dovol'no krov' sosat' vampiry, Tyur'moy, nalogom nishchetoy! U vas — vsya vlast', vse blaga mira, A nashe pravo — zvuk pustoy ! My zhizn' postroim po inomu - I vot nash lozung boyevoy: Vsya vlast' narodu trudovomu! A darmoyedov vsekh doloy! Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! IV Prezrenny vy v svoyom bogatstve, Uglya i stali koroli! Vy vashi trony tuneyadtsy, Na nashikh spinakh vozveli. Zavody, fabriki, palaty - Vso nashim sozdano trudom. Pora! My trebuyem vozvrata Togo chto vzyato grabezhom. Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! V Dovol'no, korolyam v ugodu, Durmanit' nas v chadu voyny! Voyna tiranam ! Mir Narodu! Bastuyte armii syny! Kogda zh tirany nas zastavyat V boyu geroyski past' za nikh - Ubiytsy v vas togda napravim My zherla pushek boyevykh! Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! VI Lish' my, rabotniki vsemirnoy Velikoy armii truda! Vladet' zemloy imeyem pravo, No parazity — nikogda! I yesli grom velikiy gryanet Nad svoroy psov i palachey, Dlya nas vso takzhe solntse stanet Siyat' ognom svoikh luchey. Eto yest' nash posledniy I reshitel'nyy boy; S Internatsionalom Vospryanet rod lyudskoy! Lời tiếng Trung (1)起来,饥寒交迫的奴隶! 起来,全世界受苦的人! 满腔的热血已经沸腾, 要为真理而斗争! 旧世界打个落花流水, 奴隶们起来,起来! 不要说我们一无所有, 我们要做天下的主人! 这是最后的斗争, 团结起来到明天, 英特纳雄耐尔 就一定要实现! 这是最后的斗争, 团结起来到明天, 英特纳雄耐尔 就一定要实现!(2)从来就没有什么救世主, 也不靠神仙皇帝! 要创造人类的幸福, 全靠我们自己! 我们要夺回劳动果实, 让思想冲破牢笼! 快把那炉火烧得通红, 趁热打铁才能成功! 这是最后的斗争, 团结起来到明天, 英特纳雄耐尔 就一定要实现! 这是最后的斗争, 团结起来到明天, 英特纳雄耐尔 就一定要实现!(3)是谁创造了人类世界? 是我们劳动群众! 一切归劳动者所有, 哪能容得寄生虫?! 最可恨那些毒蛇猛兽, 吃尽了我们的血肉! 一旦把它们消灭干净, 鲜红的太阳照遍全球! 这是最后的斗争, 团结起来到明天, 英特纳雄耐尔 就一定要实现! Lời tiếng Việt Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú dịch lời bài hát ra tiếng Việt Theo một số tài liệu thì Nguyễn An Ninh (1899-1943) là người đầu tiên dịch “Quốc tế ca” ra tiếng Việt. Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước, trí thức Nam bộ, từng du học ở Pháp, có quen biết Nê-ru (Ấn Độ) và có quan hệ với Nguyễn Ái Quốc. Về nước, ông mở tờ báo “Chuông rạn” (Cloche fêlée) tuyên truyền chống Pháp và tổ chức hội kín, bị Pháp bắt giam 5 lần và lần cuối cùng mất trong nhà tù Côn Đảo (1943). Hiện có một bản “Quốc tế ca” dùng thể thơ song thất lục bát, chưa rõ ai dịch và dịch từ lúc nào, rất ít được phổ biến. Phải chăng, đây là bản dịch của Nguyễn An Ninh? Theo một số tài liệu khác thì năm 1925 (hay 1926?), “Quốc tế ca” lần đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt. Người đã dùng thể thơ dân tộc lục bát dịch lời thơ “Quốc tế ca” để dễ truyền bá trong quần chúng, vì một lẽ đơn giản là dân ta hầu hết đều “mù” nhạc. Không rõ Người đã dịch từ tiếng Pháp hay tiếng Nga mà cũng chỉ dịch 3 khổ thơ 1, 2, 6 (như Kôt-xơ đã chọn dịch). Cũng có người cho rằng, Nguyễn Ái Quốc chỉ dịch khổ 1 và khổ thơ này được phổ biến rộng rãi trong nước từ 1930, còn 2 khổ thơ 2 và 6 lại do một người khác dịch. Năm 1926, Phan Trọng Bình sang dự lớp huấn luyện chính trị do “đồng chí Vương” (tức Nguyễn Ái Quốc) mở ở Quảng Châu. Ông đã dịch “Quốc tế ca” ra tiếng Việt, lời theo đúng giai điệu âm nhạc và chỉ dịch khổ 1. Bản dịch này không được phổ biến trong nước (TKĐ đã giới thiệu trên Báo Nghệ Tĩnh số 700, ngày 22/3/1983). Còn bản dịch “Quốc tế ca” hiện ta đang hát? Theo tài liệu của Trường Chinh lưu tại Viện Bảo tàng Cách mạng (Hà Nội) thì: “Tác giả bản dịch “Quốc tế ca” theo nhạc mà nhân dân Việt Nam vẫn hát ngày nay là đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí đã dịch trong thời gian học ở Liên Xô từ năm 1927-1930. Đồng chí Lê Hồng Phong và Trần Bình Long đã sửa bản dịch của đồng chí Trần Phú cho sát nghĩa, đúng nhạc hơn”. Bản này cũng chỉ dịch khổ thơ thứ nhất. Bản dịch từ đoạn 2 trở về sau thuộc về Ngô Hoàng Gia Bảo. Lời bài hátĐoạn 1:Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian Vùng lên! Hỡi ai cực khổ bần hàn Sục sôi nhiệt huyết trong tim đầy chứa rồi Quyết phen này sống chết mà thôi. Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành Toàn nô lệ, vùng đứng lên đi Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình Điệp khúc: Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ Sẽ là xã hội tương laiĐoạn 2:Những tên quỷ đói tham lam đội lốt người Tàn sát đánh thuế, bóc lột lao động Thủ tiêu, tàn sát dân lành và nô lệ Bè lũ hung tàn đế quốc sài lang Chúng chặt đầu, hung tợn và cướp bóc dã man Ngọn cờ loang máu rên xiết kêu than Chiến đấu chống lại quân thù tàn ác kia Nguyện đem máu thù tưới lên ruộng đồng Điệp khúc: Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ Sẽ là xã hội tương laiĐoạn 3:Chẳng ai sẽ cứu chúng ta khỏi hiểm nguy Chẳng ai không chúa cũng không anh hùng Vùng lên hỡi các dân tộc và nô lệ Bằng sức lao động chân chính của ta. Để phá tan xiềng xích nô lệ hung tàn Để giành lại quyền lợi của chúng ta Bước tiến - Đánh tan quân thù tàn ác kia ! Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình Điệp khúc: Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ Sẽ là xã hội tương laiĐoạn 4:Chặn ngay, bè lũ xâm lăng, và giết người Chặn ngay, những chiếc cánh bay quân thù Sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi Quyết phen này sống chết mà thôi Hãy xây dựng một nhà nước của nhân dân Và đây là khẩu hiệu của chúng ta: Nông dân, thợ thuyền, công nhân đoàn kết lại Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình! Điệp khúc: Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ Sẽ là xã hội tương laiĐoạn 5:Vọng lên tiếng súng căm hờn của đấu tranh Gào thét, đứng lên giành lại hòa bình Vùng lên, đoàn kết đấu tranh và chống lại Hãy chấm dứt sự nghèo đói của ta Hãy phất cao cờ tranh đấu của chúng ta Hãy thổi bùng lên ngọn lửa tháng Mười Lê-nin dẫn đường nhân dân vượt khó khăn Từ trong bão giông tiến lên huy hoàng! Điệp khúc: Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ Sẽ là xã hội tương laiĐoạn 6:'Vùng lên hãy phất cao ngọn cờ đấu tranh Vững bước tiến theo ngọn cờ của Đảng Tự do hạnh phúc độc lập ta quyết giành Cuộc sống chúng ta bừng sáng mùa xuân Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng Đảng truyền cho ta niềm tin, tương lai Thế giới quanh ta huy hoàng ngàn :tiếng ca Vầng dương hé sáng khắp nơi có Đảng Điệp khúc:Phất cao ngọn hồng kỳ thắm tươiĐảng của ta đã dẫn đườngTổ quốc tươi đẹp phát triểnChúng ta nguyện sẽ cống hiến!Phất cao ngọn hồng kỳ thắm tươiĐảng của ta đã chỉ lốiHạnh phúc độc lập và tự doQuyết xây đất nước tươi đẹp!''
Nhà du hành vũ trụ cổ đại hay phi hành gia cổ đại (Ancient astronauts) là một giả thuyết ngụy khoa học cho rằng các sinh vật ngoài hành tinh đã từng đến Trái Đất và tiếp xúc với con người vào thời cổ đại và tiền sử, từ đó gây ảnh hưởng đến văn hóa lúc khởi điểm phát triển của loài người. Đáng chú ý nhất là các tác giả Erich von Däniken và Zecharia Sitchin. Những giả thuyết này nói rằng con người ngày nay hoặc là có nguồn gốc hoặc là được sáng tạo ra do alien (sinh vật ngoài Trái Đất) đã viếng thăm Trái Đất hàng thiên niên kỷ trước - những ý tưởng hầu như bị bác bỏ bởi cộng đồng khoa học. Yếu tố khác của ý tưởng này là sự thông thái của con người hay tín ngưỡng, tôn giáo có được là từ những sứ giả đến từ ngoài Trái Đất đã viếng thăm nhiều lần trong thời kỳ rất cổ xưa.
Thiên hà Abell 1835 IR1916 (còn có tên Abell 1835) là một ứng cử viên cho thiên hà xa nhất đã được chụp hình. Nó đã được một nhóm các nhà thiên văn Pháp và Thụy Sĩ của Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu (Roser Pelló, Johan Richard, Jean-François Le Borgne, Daniel Schaerer, và Jean-Paul Kneib) tìm thấy. Họ đã dùng thiết bị hồng ngoại gần của Kính thiên văn Rất Lớn khi phát hiện ra thiên hà này; các đài thiên văn khác sau đó đã chụp ảnh thêm về thiên hà Abell 1835. Đài thiên văn Châu Âu phía Nam, cùng với Viện Khoa học Quốc gia Thụy Sĩ, và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, và báo Astronomy and Astrophysics, đã họp báo công bố về phát kiến này ngày 1 tháng 3 năm 2004. Theo nghiên cứu dịch chuyển đỏ trong phổ-J, thiên hà này nằm cách chúng ta 13,2 tỷ năm ánh sáng (4,04 tỷ parsec) với mức dịch chuyển đỏ z=10, trong chòm sao Virgo. Nghĩa là các ánh sáng từ thiên hà này đến với chúng ta sau khi chúng xuất phát Abell 1835 IR1916 vào khoảng 13,2 tỷ năm ánh sáng, chỉ 500 triệu năm sau Vụ Nổ Lớn và rất gần với thời điểm hình thành thế hệ sao đầu tiên của vũ trụ. Thiên hà này do đó cũng nằm gần đường chân trời vũ trụ (rìa của vũ trụ quan sát được), cách chúng ta khoảng 13,7 tỷ năm ánh sáng. Mặc dù ở xa như vậy, thiên hà vẫn hiện ra đủ sáng để chúng ta quan sát, đấy là nhờ hiệu ứng hội tụ hấp dẫn bởi các nhóm thiên hà nằm giữa Abell 1835 và chúng ta. Tuy nhiên, các nghiên cứu bởi Weatherley et al. (2004) đã cho thấy những nghi ngờ đầu tiên về khả năng đây là thiên hà nằm xa. Các quan sát trong phổ-H bởi Kính thiên văn Gemini phía Bắc cũng không hề thấy được thiên hà này (Bremer et al. 2004).
Nguyễn Thị Lệ Mai (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1945), thường được biết đến với nghệ danh Khánh Ly là nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt, nổi tiếng với giọng nữ trung trầm. Bắt đầu sự nghiệp ca hát từ những năm 1960, gắn liền với các ca khúc của Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là một trong những tiếng hát tiêu biểu nhất của dòng tân nhạc Việt Nam và nằm trong danh sách nghệ sĩ âm nhạc Việt Nam bán đĩa chạy nhất. Khánh Ly cũng thành công với các nhạc phẩm tiền chiến và của nhiều nhạc sĩ khác như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Vũ Thành An, Nguyễn Đình Toàn... Nghệ danh Khánh Ly được bà ghép từ tên hai nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly trong Đông Chu liệt quốc. Ngoài ra, trước năm 1975, bà còn được mệnh danh là "Nữ hoàng chân đất". Tiểu sử Khánh Ly sinh ra tại Hà Nội, tên thật là Nguyễn Thị Lệ Mai, cũng có khi bà lấy tên Phạm Thị Lệ Mai theo họ Phạm của người cha dượng. Năm 1954, Lệ Mai theo mẹ di cư vào miền Nam. Khi còn ở Hà Nội, dù chưa tới 9 tuổi nhưng Khánh Ly đã tham dự một cuộc thi hát với bài Thơ Ngây của nhạc sĩ Anh Việt nhưng không được giải gì. Cuối năm 1956, mới 11 tuổi, Khánh Ly một mình đi nhờ xe chở rau từ Đà Lạt về Sài Gòn tham dự cuộc thi tuyển lựa ca sĩ nhi đồng do Đài phát thanh Pháp Á tổ chức tại rạp Norodom. Lệ Mai hát bài Ngày trở về của nhạc sĩ Phạm Duy và đoạt giải nhì, sau "thần đồng" Quốc Thắng. Năm 1962, Khánh Ly thực sự bước chân vào sự nghiệp ca hát, bà hát cho phòng trà Anh Vũ trên đường Bùi Viện, Sài Gòn. Cuối năm đó cô chuyển lên sống tại Đà Lạt và hát cho các phòng trà ở đó. Năm 1964, Khánh Ly gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, lúc đó còn chưa nổi tiếng, ông mời bà về Sài Gòn biểu diễn. Lúc đó, vì không muốn rời Đà Lạt nên Khánh Ly từ chối lời đề nghị của người nhạc sĩ trẻ đó. Khánh Ly và Trịnh Công Sơn đã có những buổi trình diễn ngoài trời không công và không thù lao cho sinh viên tại Quán Văn (mà theo Khánh Ly, đó là một quán lá sơ sài dựng trên một nền gạch đổ nát) nằm trên bãi đất rộng sau trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Họ tiếp tục trình diễn khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, nhất là trong sân cỏ trường đại học, nơi Khánh Ly được mệnh danh là "Nữ hoàng Chân Đất" hay "Nữ hoàng Sân Cỏ". Khánh Ly chính là ca sĩ Việt Nam đầu tiên tổ chức show diễn riêng của mình. Về biệt danh "Nữ hoàng chân đất", theo lời thuật lại của Khánh Ly trong băng Video Một đời Việt Nam thực hiện năm 1991, khi chưa có kinh nghiệm ca hát và lần đầu tiên xuất hiện trước một đám đông khoảng một ngàn người, Khánh Ly đã không giữ được bình tĩnh và đứng không vững, phải vịn vào vai Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn nói "bỏ tay ra và đứng hát cho nghiêm chỉnh", vì run quá, nên Khánh Ly cởi bỏ đôi giày cao gót và đứng chân đất và nhờ đó, đã có thể bình tĩnh để trình bày hết bài hát của Trịnh Công Sơn trong suốt một đêm đó, khoảng 30 đến 40 bài hát trong 1 đêm. Khánh Ly kể về thời kỳ những năm 60 cơ cực, đói khổ nhưng đầy hạnh phúc ấy: "Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào. Thời ấy, tôi phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết đến ai cả, mà vẫn cảm thấy mình cực kỳ hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn". Từ năm 1967 đến 1975, Khánh Ly hợp tác với nhiều hãng đĩa tại Sài Gòn, thâu âm nhiều bài hát trong các dĩa nhạc của các hãng như Dĩa Hát Việt Nam, Sóng Nhạc, Tình Ca Quê Hương, Dư Âm, Nhạc Ngày Xanh, Continental và thâu vào băng magnetophon của Chương trình Phạm Mạnh Cương, Trường Sơn, Sơn Ca, Họa Mi, Jo Marcel... Năm 1968, Khánh Ly mở Hội Quán Cây Tre ở Đakao, số 2bis đường Đinh Tiên Hoàng, Sài Gòn. Đây là nơi tụ họp của các văn nghệ sĩ và các sinh viên học sinh yêu văn nghệ yêu tiếng hát Khánh Ly, và đây cũng là nơi tổng phát hành những cuốn băng nổi tiếng Trịnh Công Sơn - Khánh Ly Hát Cho Quê hương Việt Nam. Trong hai năm 1969 và 1970, được sự tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Khánh Ly đã có nhiều cuộc trình diễn cho các sinh viên Việt Nam ở châu Âu, Mỹ và Canada. Năm 1970, nhận được lời mời của đài truyền hình NHK, Khánh Ly sang biểu diễn ở Nhật Bản. Khánh Ly đã ghi âm và trình diễn các ca khúc bằng cả hai thứ tiếng Việt và Nhật. Năm 1970, Chiến tranh Việt Nam tạm lắng ở trong nước nhưng lại lan rộng sang láng giềng, Trịnh Công Sơn viết nhiều ca khúc phản chiến và được Khánh Ly hát trong những cuốn băng Hát Cho Quê Hương Việt Nam. Khánh Ly cũng tham gia hát trong những buổi ca nhạc gây dựng quỹ của các hội đoàn, hội Công giáo Việt Nam để xây chùa, nhà thờ, trại mồ côi, trại tị nạn. Năm 1972, bà mở một phòng trà ca nhạc mang tên Khánh Ly tại số 1214 đường Tự Do, Sài Gòn. Sau năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam và định cư tại Cerritos, California, Hoa Kỳ. Năm 1979, một lần nữa Columbia Nippon lại mời Khánh Ly đến Nhật để thâu băng nhạc của Trịnh Công Sơn. Năm 1982, đài Bunka Honso Radio mời Khánh Ly tham gia Liên hoan Âm nhạc châu Á với nhiều nghệ sĩ nhiều nước châu Á. Năm 1985, Khánh Ly cùng chồng là nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan mở hãng thu riêng Khánh Ly Productions. Năm 1987, Khánh Ly trở lại Nhật để thâu băng cho phim Thuyền nhân (Boat Man). Năm 1988, là một tín đồ Công giáo mộ đạo, Khánh Ly được mời đến Vatican trong lễ tuyên phong các thánh tử đạo Việt Nam. Trong sự kiện này, Khánh Ly đã gặp Giáo hoàng Joannes Paulus II. Năm 1989, sau khi bức tường Berlin bị phá bỏ, Khánh Ly và Thanh Tuyền đã hát trong chương trình nhạc đầu tiên ở Đông Đức. Năm 1993, Khánh Ly được mời đến Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Denver, Colorado (Hoa Kỳ), và là lần thứ hai bà được gặp Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Năm 1996, Đài truyền hình NHK ở Nhật Bản đã chọn Khánh Ly là một trong 10 nhân vật nổi tiếng để làm phim tài liệu về cuộc đời và gia đình Khánh Ly. Hiện nay Khánh Ly vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình và là một diva (nữ ca sĩ được mến mộ) trụ cột của Trung tâm Thúy Nga. Để kỷ niệm 50 năm ca hát, Khánh Ly và bạn hữu đã tổ chức 1 buổi văn nghệ miễn phí tại Nhà thờ chính tòa Pha Lê (Crystal Cathedral) tại Garden Grove, California vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, và sau đó kéo dài trong nhiều tháng, bà "đồng hành với nhiều ca sĩ trẻ đến nhiều nhà thờ trên khắp nước Mỹ để hiến tặng CD Thánh Ca". Bà cũng cho biết sẽ dành hết phần đời còn lại để làm công tác từ thiện. Từ sau năm 1975, bà về Việt Nam hai lần để thăm gia đình. Năm 2005, trong một cuộc phỏng vấn trên đài BBC của Anh ở Mỹ, Khánh Ly cho biết, về Việt Nam luôn là ước mơ nằm trong trái tim bà. Trong một cuộc phỏng vấn với BBC năm 2012, bà cho biết rất muốn về Việt Nam biểu diễn và cho rằng nếu có sự chống đối thì "cũng là tự nhiên". Cuối năm 2012, lần đầu tiên bà được nhà nước Việt Nam cấp giấy phép để trở về trình diễn tại Việt Nam, nhưng bà đã không về. Như dự kiến, Khánh Ly đã về Việt Nam và biểu diễn trong live concert của mình tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội vào ngày 9 tháng 5 năm 2014. Sau đêm diễn đó, một liveshow nữa của bà đã được tổ chức tại cùng địa điểm vào ngày 2 tháng 8. Bà cũng có buổi biểu diễn tại Đà Nẵng vào ngày 8 tháng 8. Gia đình Khánh Ly lập gia đình lần đầu và có hai con với một người có biệt danh là "Hải Dớ". Lần thứ hai, bà có một người con với một quân nhân thuộc lực lượng Biệt cách dù, Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Lần thứ ba, Khánh Ly lập gia đình với Nguyễn Hoàng Đoan, một nhà báo kiêm nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự năm 1975. Bà có tổng cộng bốn người con, hai trai và hai gái. Có những tin đồn về tình cảm của bà với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng Trịnh Công Sơn phủ nhận và cho biết thực chất quan hệ giữa 2 người chỉ là tình đồng nghiệp, tình bạn đẹp. Quan điểm Theo Khánh Ly thì người ca sĩ đứng trên sân khấu hay ngoài đời thường thì đã nhận lời khen thì cũng phải chấp nhận lời chê thậm chí là những lời chê cực đoan liên quan đến vấn đề chính trị vì không phải ai cũng yêu mình cả và việc chống đối vì nhiều lý do cũng là tự nhiên. Về vấn đề kiểm duyệt, bà đồng tình và cho rằng phải có kiểm duyệt của Chính phủ Việt Nam đối với các ca khúc hải ngoại vì "một ca sĩ lỡ hát những bài người ta không cho phép thì phiền lắm", bà còn cho rằng kiểm duyệt cũng là điều đúng vì "Mình vào nhà người ta, tức là vào nhà người ta thì chỉ được làm những gì người ta cho phép" và theo bà thì việc kiểm duyệt "chẳng làm phiền gì mình hết, tại vì nhiều khi cái mình thích chưa chắc là cái người ta thích". Ghi dấu 50 năm sân khấu, trong 1 buổi phỏng vấn với báo Người Việt cuối năm 2012, Khánh Ly đã nói: Băng đĩa của Khánh Ly 1962 - 1975 tại Việt Nam Trong những năm 1967 đến 1975 Khánh Ly thâu âm rất nhiều vào đĩa nhựa 45 tours, băng Akai của các hãng đĩa như Việt Nam, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Nhạc Ngày Xanh, Shotguns, Phạm Mạnh Cương, Continental/Premier, Thương Ca - Mặc Thế Nhân, Nhã Ca - Anh Việt Thanh, Nhật Trường, Trường Hải, Diễm Ca, Mây Hồng, Jo Marcel, Nguyễn Hữu Thiết, Hoàng Trọng... với những album tiêu biểu sau đây: Đĩa nhựa 1969 - Tú Quỳnh: Nhạc tuyển Trịnh Công Sơn. với Lệ Thu, Hà Thanh. Ns Mạnh Phát thực hiện 1969 - Việt Nam M. 3595-96. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn 1969 - Việt Nam M. 3599-600. nhạc Trịnh Công Sơn 1969 - Việt Nam M. 3601-02. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn 1969 - Việt Nam M. 3617-18. với Lệ Thu. nhạc Trịnh Công Sơn 1969 - Việt Nam M. 3623-24. với Lệ Thu. Khánh Ly hát nhạc Phạm Duy 1970 - Sóng Nhạc 1055/2223 1970 - Sóng Nhạc 1060/2228. Tái bản của Tú Quỳnh: Nhạc tuyển Trịnh Công Sơn 1970 - Việt Nam M. 3643-44. với Lệ Thu, Thanh Vũ. nhạc Vũ Thành An 1970 - Việt Nam M. 3653-54. với Lệ Thu, Julie Quang. Khánh Ly hát nhạc Vũ Thành An 1971 - Việt Nam M. 3683-84. với Julie Quang Băng cối/Cassette 12/1967 - Ghi âm trực tiếp tại Quán Văn. nhạc Trịnh Công Sơn 1968 - Hát Cho Quê Hương Việt Nam. Trịnh Công Sơn, Hoàng Thi Thao đệm guitar. Trần Nam Hải thực hiện tại Phòng Thông tin Hoa Kỳ 1968 - Ca Khúc Trịnh Công Sơn. Trần Nam Hải thực hiện tại Phòng Thông tin Hoa Kỳ . 1968 - Tình Ca Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn đệm guitar, Đinh Cường vẽ bìa. Thâu tại Thủ Đức. Quán Gió (Nam Lộc) phát hành 10/09/1969 - Jo Marcel: Khánh Ly với dàn nhạc Jo Marcel. thâu live tại phòng trà. 10/09/1969 - Jo Marcel 10. với Lệ Thu, Jo Marcel 29/10/1969 - Mây Hồng 1: Tình thiên thu. với Lệ Thu, tình khúc Y Vân và Y Vũ 29/11/1969 - Mây Hồng 2: 18 Tuyệt phẩm trữ tình. với Lệ Thu, Uyên Phương, Thanh Lan 03/1971 - Như cánh vạc bay 31/07/1971 - Jo Marcel đặc biệt: Lệ Thu - Khánh Ly. với Lệ Thu 1971 - Như cánh vạc bay - Cỏ xót xa đưa. Trịnh Công Sơn thực hiện 05/09/1971 - Hát cho quê hương Việt Nam. nhạc Trịnh Công Sơn 24/10/1971 - Lệ Thu 2: Tứ quý. với Lệ Thu, Duy Trác, Tuấn Ngọc 28/11/1971 - Tình ca. với Duy Trác, Sĩ Phú, Thanh Lan 15/01/1972 - Họa Mi 1. với Lệ Thu, Duy Trác, Sĩ Phú, Mai Hương ... 03/02/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 2. nhạc Trịnh Công Sơn 01/07/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 3. nhạc Trịnh Công Sơn 17/11/1972 - Hát cho quê hương Việt Nam 4. nhạc Trịnh Công Sơn 11/12/1972 - Khánh Ly hát nhạc Tiền Chiến. nhóm Trùng Dương thực hiện 04/10/1973 - Hát cho quê hương Việt Nam 5. nhạc Trịnh Công Sơn. Thúy Nga phát hành 04/1974 - Sơn Ca 7: Khánh Ly và những tình khúc của Trịnh Công Sơn. nhạc Trịnh Công Sơn. Phượng Linh thực hiện 10/01/1975 - Thương Ca 10. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Sơn Ca Sau 1975 1976 - Khi tôi về 1976 - Như cánh vạc bay. nhạc Trịnh Công Sơn (thâu âm năm 1975) 1976 - Giáng Sinh-Quê hương còn đó nỗi buồn. với Sĩ Phú, Mai Hương 1977 - Hát cho những người ở lại 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 1. tái bản 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 2. tái bản 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 3. tái bản 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 4. tái bản 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 5. tái bản 1977 - Hát cho quê hương Việt Nam 6. tái bản của Ca Khúc Trịnh Công Sơn (1968) 1977 - Tình ca mùa hạ 1978 - Tứ quý. với Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan 1979 - Người di tản buồn Thập niên 1980 1980 - Đường tình ta đi. collection từ băng nhạc Shotguns trước 1975 1980 - Bông hồng cho người ngã ngựa 1980 - Tiếng hát Khánh Ly. Shotguns phát hành, nội dung giống với Đường tình ta đi 1981 - Giọt lệ cho ngàn sau. nhạc Từ Công Phụng 1981 - Lời buồn thánh. nhạc Trịnh Công Sơn 1981 - Đừng yêu tôi. nhạc Vũ Thành An 1981 - Tủi nhục ca. nhạc Hà Thúc Sinh 1981 - Tắm mát ngọn sông đào 1982 - Nhạc vàng. tái bản Đường tình ta đi, Thanh Lan phát hành 1982 - Diễm xưa. tái bản Hát cho quê hương Việt Nam 6, Thanh Lan phát hành 1982 - Như cánh vạc bay (1976). tái bản, Thanh Lan phát hành 1983 - Ướt mi. tái bản Columbia AF-7071, Thanh Lan phát hành 1983 - Bản Tango cuối cùng 1983 - Trong tay anh đêm nay. dạ vũ Valse 1983 - Tà áo xanh (Lá đổ muôn chiều). nhạc Đoàn Chuẩn - Từ Linh 1984 - Niệm khúc cuối. Khánh Ly & Elvis Phương thực hiện 1984 - Bài Tango cho em 1984 - Nguyễn Tất Nhiên: Những năm tình lận đận. với Lệ Thu, Sĩ Phú, Duy Quang 1984 - Đời 5: Một đời yêu anh. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Hải Lý 1984 - Đời 6: Đêm dạ vũ thứ nhất. với Lệ Thu, Thanh Thúy, Hải Lý, Kim Anh 1985 - Như cánh vạc bay. với Lệ Thu. Làng Văn thực hiện 1985 - Thanh Lan 24: Tứ quý. với Lệ Thu, Kim Anh, Hương Lan 1985 - Khối tình Trương Chi. với Sĩ Phú. Thanh Lan phát hành 1985 - Tình ca cho thành phố mất tên. nhiều ca sĩ. Thanh Lan phát hành 1985 - Diễm Xưa 1: Thương một người. Phạm Ngọc Sơn thực hiện 1985 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn 1986 - Dư Âm 1: Những Giọng Ca Tuyệt Vời. với Elvis Phương, Hương Lan, Kim Anh 1986 - Hạ trắng. nhạc Trịnh Công Sơn 1986 - Tango Tango 1986 - Nhạc hòa tấu Trịnh Công Sơn 1986 - Đêm hạ hồng. với Lệ Thu, Thanh Phong. Thanh Lan phát hành 1986 - Tình không biên giới. với Lệ Thu, Sĩ Phú. Thanh Lan phát hành 1986 - Làng Văn 16: Duyên tình. với Hương Lan 1987 - Tình hờ. Khánh Ly & Elvis Phương thực hiện 1987 - Ai trở về xứ Việt. nhạc chủ đề 1987 - Bên ni bên nớ. nhạc Phạm Duy 1987 - Dân Chúa: Hồng Ân Thiên Chúa. thánh ca 1988 - Boston buồn 1988 - Tango điên (Vũ nữ thân gầy) 1988 - Kinh khổ. nhạc Trầm Tử Thiêng 1989 - Đêm hạnh ngộ 1989 - Mưa hồng 1989 - Niệm khúc hoa vàng. nhạc chủ đề 1989 - Ngọc Minh 11: Chiều một mình qua phố. với Lệ Thu, Ngọc Minh, Ngọc Lan 1989 - Xóa tên người tình. với Elvis Phương. Làng Văn phát hành Thập niên 1990 1990 - Bông bưởi chiều xưa. nhạc Châu Đình An 1990 - Tình nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn 1991 - Vũng lầy của chúng ta. nhạc Lê Uyên Phương 1991 - Làng Văn CD 97: Tưởng rằng đã quên 1991 - Kim Ngân CD 1: Lệ đá. với Lệ Thu và Kim Anh 1991 - Mai Khanh 5: Best of Khánh Ly 1992 - Để lại cho em. nhạc Phạm Duy 1992 - Ca dao mẹ 1992 - Im lặng thở dài (Một cõi đi về). nhạc Trịnh Công Sơn 1993 - Bên đời hiu quạnh. nhạc Trịnh Công Sơn 1993 - Tôi ơi đừng tuyệt vọng. với Trịnh Công Sơn và Trịnh Vĩnh Trinh 1994 - Hoàng Lan 1: Em còn nhớ hay em đã quên 1994 - Hoàng Lan 2: Ừ thôi em về 1994 - Song Nguyễn 6: Cánh hoa duyên kiếp. với Lệ Thu 1995 - Ca khúc da vàng - Volume 1. nhạc Trịnh Công Sơn 1996 - (50 năm) Đời vẫn hát 1996 - Hoàng Lan 9: Hạt mưa buồn. với Lệ Thu 1997 - Tình quê tình người. nhạc Xuân Điềm. CD Single 1997 - Ca khúc da vàng - Volume 2. nhạc Trịnh Công Sơn 1997 - Dốc mơ 1997 - Thúy Anh 143: Mùa thu xa em - Khánh Ly đặc biệt. 1999 - Ca khúc da vàng - Volume 3. nhạc Trịnh Công Sơn 1999 - Hiên cúc vàng. nhạc Nguyễn Đình Toàn 1999 - Xuân Điềm 4: Vang vang tình Việt Nam Thập niên 2000 2000 - Nguyệt ca. nhạc Trịnh Công Sơn 2000 - Đời cho ta thế. nhạc Trịnh Công Sơn 2000 - Tình thu trên cao. nhạc Xuân Điềm 2000 - Asia CD 141: Giòng Nhạc Trầm Tử Thiêng 2000 - Xuân Điềm 5: Tình quê tình người 2001 - Một sớm mai về. nhạc Trầm Tử Thiêng 2001 - Xuân Điềm: Hùng sử Việt 1 2002 - Nếu có yêu tôi 2002 - Mưa trên cây hoàng lan. nhạc Nguyễn Đình Toàn 2003 - Còn tuổi nào cho em. nhạc Trịnh Công Sơn 2005 - Ca khúc da vàng - Volume 4. nhạc Trịnh Công Sơn 2005 - Nam Lộc CD: Sàigòn ơi, vĩnh biệt. nhạc Nam Lộc 2008 - TangoGoTango 2009 - Như một vết thương. nhạc Trịnh Công Sơn Thập niên 2010 Tại hải ngoại 2010 - Nụ cười trăm năm. nhạc Trần Dạ Từ 2011 - Chưa phai. thơ Cẩm Vân phổ nhạc2012 - Thánh ca dâng Mẹ 2013 - Sonatas. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2014 - Cung Đỗ CD: Gội đầu. nhạc Trần Dạ Từ2018 - Asia CD 397: Lệ Thu & Khánh Ly - Những tình khúc chọn lọc 2019 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Ca khúc da vàng vol. 1. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Ca khúc da vàng vol. 2. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa than2020 - Còn tuổi nào cho em. nhạc Trịnh Công Sơn. Đĩa thanTại Việt Nam Các CD do bà thực hiện thu âm đều được Hãng phim Phương Nam biên tập, sản xuất và phát hành bao gồm: 2015 - Biển nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Hạ trắng. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Chủ nhật buồn. nhạc Phạm Duy2015 - Tình nhớ. nhạc Trịnh Công Sơn2015 - Bên đời hiu quạnh. nhạc Trịnh Công Sơn2017 - Những con mắt trần gian. nhạc Trịnh Công Sơn2017 - Thương một người. nhạc Trịnh Công SơnVideo 1982 - Khánh Ly In Japan 1988 - Ai Trở Về Xứ Việt 1991 - Một Đời Việt Nam 2005 - Thuở Ấy Mưa hồng Tại Nhật Bản 11/1970 - Denon CD-98: Diem Xua. đĩa 45 vòng02/1973 - Denon CD-181: Diem Xua. tái bản của Denon CD-98 12/1979 - Columbia LK-126: Diem Xua. tái bản của Denon CD-98 08/1981 - Columbia AF-7071: Diem Xua. đĩa 33 vòng08/1981 - Columbia AH-105: Sabaku. đĩa 45 vòng04/1984 - Columbia AH-434: Boat People. đĩa 45 vòng05/1984 - Canyon C28A0328: Boat People. đĩa 33 vòng'' Các tiết mục trình diễn trên sân khấu Trung tâm Thúy Nga Trung tâm Asia Trung tâm Mây Jimmy TV Chú thích
{{Thông tin nghệ sĩ | tên = | tên gốc = | nền = nhạc sĩ | hình = Dang The Phong.jpg | kích thước hình = | chú thích hình = | nghệ danh = | tên khai sinh = | ngày sinh = 14 tháng 4, 1918 | nơi sinh = Thành phố Nam Định, Liên bang Đông Dương | ngày mất = | nơi mất = Thành phố Nam Định, Liên bang Đông Dương | nguyên nhân mất = Bệnh lao | dân tộc = Kinh | nghề nghiệp = Nhạc sĩHọa sĩ | bố mẹ = | vợ = | chồng = | con = | đào tạo = | học vấn = | lĩnh vực hoạt động = Âm nhạc | giai đoạn sáng tác âm nhạc = 1940-1942 | đào tạo âm nhạc = | dòng nhạc = Nhạc tiền chiến | nhạc cụ = | công ty quản lý = | hãng đĩa = | hợp tác với = Bùi Công Kỳ | thành viên của = | tác phẩm âm nhạc = Đêm thuCon thuyền không bến Giọt mưa thu | giải thưởng âm nhạc = | website âm nhạc = | ảnh hưởng bởi = | ảnh hưởng tới = Văn Cao | chữ ký = | website = }} Đặng Thế Phong (14 tháng 4 năm 1918 – 2 tháng 8 năm 1942) là nhạc sĩ thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cho giai đoạn âm nhạc tiền chiến. Ông mất năm 24 tuổi và chỉ để lại ba nhạc phẩm: Đêm thu, Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Tiểu sử Đặng Thế Phong sinh ngày 5 tháng 4 năm 1918 tại thành phố Nam Định. Cha anh là Đặng Hiển Thế, Thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Tiểu sử của Đặng Thế Phong in trong ấn bản Con thuyền không bến do Nhà xuất bản Tinh Hoa phát hành tại Sài Gòn vào năm 1964: Đặng Thế Phong sinh năm 1918, thứ nam của cụ Đặng Hiển Thể, Thông phán Sở Trước bạ thành phố Nam Định, là con thứ 2 của một gia đình có 6 anh em, 2 trai 4 gái. Cha mất sớm, gia đình thiếu thốn, anh phải bỏ dở học vấn khi đang học lớp 2ème année P.S. Anh có lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật với tư cách bàng thính viên. Anh vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ bút là Phạm Cao Củng) như truyện bằng tranh Hoàng Tử Sọ Dừa, Giặc Cờ Đen để lấy tiền ăn học. Mùa xuân năm 1941, anh có đi Sài Gòn rồi Nam Vang. Ở Nam Vang anh có mở một lớp dạy nhạc. Đến mùa thu 1941, anh lại trở về Hà Nội. Lúc sinh thời Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo nên cuộc sống của anh thật là khổ cực, chật vật. Ngoài tài sáng tác, anh còn là một ca sĩ, tuy chưa hẳn được là tenor nhưng giọng hát khá cao, đã nhiều lần ra sân khấu mà lần đầu tiên anh hát bài Con thuyền không bến tại Rạp chiếu bóng Olympia, phố Hàng Da, Hà Nội năm 1940. Đến đầu 1942 thì anh từ giã cõi đời tại nhà, trên một căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng vì bệnh lao, hưởng dương 24 tuổi. Cuộc đời Vì cha mất sớm, gia cảnh túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure) tại trường trung học Saint Thomas d'Aquin. ông lên Hà Nội vẽ cho một số tờ báo và học với tư cách dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École supérieure des Beaux-Arts) tới năm 1939. Thời gian học ở đây anh đã để lại một giai thoại. Trong một kỳ thi, Đặng Thế Phong vẽ bức tranh cảnh một thân cây cụt. Giáo sư, họa sĩ người Pháp Tardieu chấm bài, khen ngợi nhưng nói rằng: Em Đặng Thế Phong sẽ không sống lâu được!Cuộc đời Đặng Thế Phong rất long đong, lận đận. anh phải sống lang bạt và trải qua nhiều nghề. Tháng 2 năm 1941, Đặng Thế Phong lang thang vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Tại Nam Vang, anh có mở một lớp dạy nhạc cho đến khi tiếp tục ra Hà Nội. Sự nghiệp âm nhạc của Đặng Thế Phong chỉ có ba nhạc phẩm và đều rất nổi tiếng là: Đêm thu ca khúc viết cho lửa trại của học sinh Hà Nội 1940, Con thuyền không bến hoàn chỉnh tại Nam Vang, trình diễn lần đầu tại rạp Olympia, Hà Nội năm 1941 và Giọt mưa thu 1942. Nhạc phẩm cuối cùng Giọt mưa thu được anh viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh. Ban đầu bản nhạc mang tên Vạn cổ sầu, nhưng theo ý một vài người bạn, anh đặt lại là Giọt mưa thu cho bớt sầu thảm hơn. Cả ba ca khúc của anh đều viết về mùa thu và hai trong số đó Con thuyền không bến và Giọt mưa thu được xếp vào những tác phẩm bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Giọt mưa thu cũng là cảm hứng cho nhạc sĩ Hoàng Dương sáng tác bài Tiếc thu nổi tiếng. Nhiều ý kiến cho rằng Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng bởi Giọt mưa thu khi viết ca khúc đầu tay Ướt mi. Nhận xét của Phạm Duy, các sáng tác của Đặng Thế Phong là những bài hát khởi đầu cho dòng "nhạc thu" Việt Nam, được tiếp nối xuất sắc bởi Văn Cao và Đoàn Chuẩn. Theo Doãn Mẫn, Đặng Thế Phong và Lê Thương là hai nhạc sĩ tiền chiến có sáng tác sâu đậm hồn dân tộc nhất: "Đặng Thế Phong là người hết sức tài hoa. anh chơi được rất nhiều nhạc cụ. Anh sáng tác Giọt mưa thu, Con thuyền không bến từ khi còn rất trẻ. Đáng tiếc, anh mất quá sớm. Có thể nói sự ra đi của anh là một tổn thất lớn đối với bạn bè và cho cả những người yêu mến âm nhạc Việt Nam."Đặng Thế Phong được xem như một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất của thời kỳ tiền chiến. Anh mất năm 24 tuổi vì bệnh lao trên một căn gác số 9 phố Hàng Đồng, Nam Định năm 1942. Những sáng tác khác Theo Phạm Duy thì Đặng Thế Phong có sáng tác một ca khúc nữa là Sáng rừng. Trong một bài viết của nhạc sĩ Trương Quang Lục thì Đặng Thế Phong có những sáng tác: Con thuyền không bến, Giọt mưa thu, Đêm thu, Sáng trăng, Sáng trong rừng, Sầm sơn...Báo Tiền phong số ra ngày 11 tháng 1 năm 2006 đăng tư liệu về một nhạc phẩm mới tìm thấy của anh: Gắng bước lên chùa'', lời của nhà văn trinh thám Phạm Cao Củng.
pH là chỉ số đo độ hoạt động (hoạt độ) của các ion H3O⁺ (H+) trong dung dịch và vì vậy là độ axít hay base của nó. Trong các hệ dung dịch nước, hoạt độ của ion hiđrô được quyết định bởi hằng số điện ly của nước (Kw) = 1,008 × 10−14 ở 25°C) và tương tác với các ion khác có trong dung dịch. Do hằng số điện ly này nên một dung dịch trung hòa (hoạt độ của các ion hiđrô cân bằng với hoạt độ của các ion hiđrôxít) có pH xấp xỉ 7. Các dung dịch nước có giá trị pH nhỏ hơn 7 được coi là có tính axít, trong khi các giá trị pH lớn hơn 7 được coi là có tính kiềm. Khái niệm này được S.P.L. Sørensen (và Linderström-Lang) đưa ra vào năm 1909 và có nghĩa là "pondus hydrogenii" ("độ hoạt động của hiđrô") trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, các nguồn khác thì cho rằng tên gọi này xuất phát từ thuật ngữ tiếng Pháp "pouvoir hydrogène." Định nghĩa Mặc dù pH không có đơn vị đo, nhưng nó không phải là thang đo ngẫu nhiên; số đo sinh ra từ định nghĩa dựa trên độ hoạt động của các ion hiđrô trong dung dịch. Công thức để tính pH là: [H+] biểu thị hoạt độ của các ion H+ (hay chính xác hơn là [H3O+], tức các ion hiđrônium), được đo theo mol trên lít (còn gọi là phân tử gam). Trong các dung dịch loãng (như nước sông hay từ vòi nước) thì hoạt độ xấp xỉ bằng nồng độ của ion H+. Log10 biểu thị lôgarit cơ số 10, và pH vì thế được định nghĩa là thang đo lôgarít của tính axít. Ví dụ, dung dịch có pH=8,2 sẽ có độ hoạt động [H+] (nồng độ) là 10−8.2 mol/L, hay khoảng 6,31 × 10−9 mol/L; một dung dịch có hoạt độ của [H+] là 4,5 × 10−4 mol/L sẽ có giá trị pH là −log10(4,5 × 10−4), hay khoảng 3,35. Trong dung dịch nước ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn (STP), giá trị pH bằng 7 chỉ ra tính trung hòa (tức nước tinh khiết) do nước phân ly một cách tự nhiên thành các ion H+ và OH− với nồng độ tương đương 1×10−7 mol/L. Một giá trị pH thấp hơn (ví dụ pH = 3) chỉ ra rằng độ axít đã tăng lên, và một giá trị pH cao hơn (ví dụ pH = 11) chỉ ra rằng độ kiềm đã tăng lên. pH trung hòa không chính xác bằng 7; nó chỉ ngầm ý là nồng độ các ion H+ là chính xác bằng 1×10−7 mol/L. Tuy nhiên, các giá trị là đủ gần để pH trung hòa là 7,00 tới ba chữ số đáng kể nhất, nó là đủ gần để người ta coi nó chính xác bằng 7. Trong các dung dịch không chứa nước hay ở các điều kiện không tiêu chuẩn, thì giá trị pH trung hòa thậm chí có thể không gần với 7. Thay vì thế, nó liên quan với hằng số điện ly cho dung môi cụ thể đang được sử dụng. (Lưu ý rằng nước tinh khiết, khi tiếp xúc với khí quyển, sẽ hấp thụ một phần cacbon dioxide, một số trong các phân tử CO2 này sẽ phản ứng với nước để tạo ra axít cacbonic, axit cacbonic tiếp tục phân li tạo ra H+, vì thế làm giảm pH xuống còn khoảng 5,7. Phần lớn các chất có pH nằm trong khoảng từ 0 đến 14, mặc dù các chất cực axít hay cực kiềm có thể có pH < 0 hay pH > 14. Đo lường pH có thể được đo: Bằng cách bổ sung chất chỉ thị pH vào trong dung dịch đang nghiên cứu. Màu của chất chỉ thị sẽ thay đổi phụ thuộc vào pH của dung dịch. Trong việc sử dụng các chất chỉ thị thì việc xác định định tính có thể thực hiện với các chất chỉ thị phổ biến có khoảng đổi màu rộng trên một khoảng pH lớn và việc xác định định lượng có thể thực hiện bằng cách sử dụng các chất chỉ thị có sự thay đổi màu mạnh trên một khoảng pH nhỏ. Màu sắc của các chất chỉ thị pH có thể được chia làm 14 thang bậc thông dụng như hình vẽ bên. Các phép đo cực kỳ chính xác có thể thực hiện trên một khoảng pH rộng bằng sử dụng các chất chỉ thị có nhiều trạng thái cân bằng (ví dụ HI) chung với các phương pháp quang phổ để xác định sự phổ biến tương đối của mỗi thành phần phụ thuộc pH đã tạo ra màu của dung dịch. Bằng cách sử dụng máy đo pH cùng với các điện cực có chọn lựa pH (điện cực thủy tinh pH, điện cực hiđrô, điện cực quinhiđrôn và nhiều loại khác). pOH Còn có khái niệm pOH, về ngữ nghĩa là ngược lại với pH, nó đo nồng độ các ion OH−. Do nước là tự ion hóa, và ghi [OH−] như là nồng độ của các ion hiđrôxít, chúng ta có (*)(**) trong đó Kw là hằng số ion hóa của nước. Do bằng các đồng nhất thức lôgarít, ta có quan hệ sau: (*) và vì vậy: (*) (*) Chỉ chính xác ở nhiệt độ 298,15 K (25°C), chấp nhận được cho phần lớn các tính toán trong phòng thí nghiệm. (**) Tính toán pH cho các axít mạnh và yếu Các giá trị pH cho các axít yếu và mạnh có thể tính xấp xỉ theo các giả thiết nhất định. Theo Thuyết axit-base Brønsted-Lowry, axít mạnh hay yếu hơn chỉ là khái niệm tương đối. Nhưng ở đây chúng ta định nghĩa axít mạnh là những loại mà có tính axít mạnh hơn ion hiđrônium (H3O+). Trong trường hợp đó phản ứng phân ly (chặt chẽ thì HX + H2O↔H3O++X- nhưng đơn giản hóa thành HX↔H++X-) diễn ra hoàn toàn, tức là không còn axít chưa phản ứng trong dung dịch. Vì thế sự hòa tan của axít mạnh HCl trong nước có thể biểu diễn như sau: HCl(dd) → H+ + Cl- Điều này có nghĩa là trong dung dịch 0,01 mol/L của HCl nó là xấp xỉ rằng ở đây có nồng độ 0,01 mol/L các ion hiđrô hòa tan. Từ trên đây ta có pH bằng: pH = −log10 [H+]: pH = −log (0,01) nó tương đương với 2. Đối với các axít yếu, phản ứng phân ly không diễn ra hoàn toàn. Sự cân bằng đạt được giữa các ion hiđrô và gốc base. Dưới đây chỉ ra sự cân bằng phản ứng của axít mêtanoic và các ion của nó: HCOOH(dd) ↔ H+ + HCOO- Cần thiết phải biết giá trị của hằng số cân bằng của phản ứng cho mỗi axít để có thể tính pH của nó. Trong ngữ cảnh pH, nó được gọi là hằng số axít (hằng số phân li của axít) nhưng được thực hiện theo cùng cách thức (xem cân bằng hóa học): Ka = [ion hiđrô][ion axít] / [axít] Đối với HCOOH, Ka = 1,6 × 10−4 (có tài liệu cho biết một số giá trị khác của Ka) Khi tính toán pH của các axít yếu, thông thường người ta giả sử rằng nước không cung cấp bất kỳ ion hiđrô nào. Điều này đơn giản hóa tính toán và nồng độ cung cấp bởi nước, 1×10−7 mol, thông thường là không đáng kể. Với dung dịch 0,1 mol/L axít mêtanoic (HCOOH), hằng số axít là tương đương với: Ka = [H+][HCOO-] / [HCOOH] Cho rằng lượng không biết trước của axít đã phân ly, [HCOOH] sẽ bị giảm đi bằng chính lượng này, trong khi [H+] và [HCOO-] mỗi thứ sẽ tăng bằng chính lượng này. Vì thế, [HCOOH] có thể thay thế bằng 0,1 − x, và [H+] và [HCOO-] có thể thay thế bằng x, cho ta phương trình sau: Giải phương trình này ta có x là 3,9×10−3, nó là nồng độ của các ion hiđrô sau khi phân ly. Vì thế pH bằng −log(3,9×10−3), hay khoảng 2,4. Chỉ thị Chất chỉ thị được dùng để đo pH của dung dịch hóa chất khác. Các chất chỉ thị phổ biến là giấy quỳ, phenolphthalein, cam mêtyl và xanh brômothymol SI Năm 2002, một nhóm nghiên cứu của IUPAC đã thống nhất đề nghị đưa pH vào trong hệ thống đơn vị đo lường quốc tế (SI). Độ kiềm của đất Độ chua, độ kiềm của đất được đo bằng độ pH. Đất thường có trị số pH từ 3 đến 9. Căn cứ vào trị số pH người ta chia đất thành: đất chua (pH < 7), đất trung tính (pH = 7) và đất kiềm (pH > 7). Người ta xác định đất chua, đất kiềm và đất trung tính để có kế hoạch cải tạo và sử dụng. Ngoài ra nếu độ pH quá cao đối với các loại đất trồng thì sẽ làm cây không sống được. Cây nhiệt đới là cây có thể trồng với loại đất trung tính. cây tỏi, hoa tulip và cây sung là những loại cây có thể trồng ở đất kiềm.
{{Hộp thông tin tổ chức |name = Liên minh Quốc tế về Hóa học thuần túy và Hóa học ứng dụng |image = 320px-IUPAC.png |image_border = |size = |alt = |caption = Biểu trưng của IUPAC |map = |msize = |malt = |mcaption = |abbreviation = IUPAC |motto = Advancing Chemistry Worldwide |formation = 1919 |extinction = |type = Tổ chức phi lợi nhuận quốc tế về khoa học |status = |purpose = |headquarters = |location = Zürich, |region_served = Toàn cầu |membership = |language = Tiếng Anh |leader_title = Chủ tịch |leader_name = Giáo sư Javier García-Martínez |main_organ = |parent_organization = |affiliations = |num_staff = |num_volunteers = |budget = |website = IUPAC Official website |remarks = }}IUPAC (viết tắt của tên riêng tiếng Anh: International Union of Pure and Applied Chemistry, tạm dịch: Liên minh Quốc tế về Hóa học cơ bản và Hóa học ứng dụng') là tổ chức phi chính phủ được thành lập vào năm 1919 bởi các nhà hóa học trên thế giới nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của khoa học hóa học. Thành viên IUPAC có thể là các hội hóa học, các viện hàn lâm khoa học của các nước hoặc các tổ chức đại diện cho giới hóa học gia. Danh pháp IUPAC được toàn thế giới công nhận làm cơ sở để đặt danh pháp cho các nguyên tố và hợp chất hóa học. Trụ sở IUPAC đóng tại Zürich, Thụy Sĩ. Văn phòng điều hành (Ban thư ký IUPAC) đóng tại Research Triangle Park'', Bắc Carolina, Hoa Kỳ; văn phòng này do giám đốc điều hành của IUPAC đứng đầu. Chủ tịch IUPAC hiện nay là Giáo sư Javier García-Martínez và giám đốc điều hành là Tiến sĩ Lynn M. Soby. Lịch sử thành lập Nhu cầu thiết lập một hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về hóa học được nêu ra lần đầu tiên vào năm 1860 bởi một ủy ban do nhà khoa học người Đức Friedrich August Kekulé von Stradonitz đứng đầu. Ủy ban này là hội nghị quốc tế đầu tiên thiết lập hệ thống danh pháp cho các hợp chất hữu cơ. IUPAC là kết quả kế thừa từ hội nghị này. IUPAC được thành lập vào năm 1919. Một quốc gia thành viên quan trọng bị loại khỏi tổ chức IUPAC mới thành lập là nước Đức. Việc nước Đức bị loại khỏi IUPAC là kết quả của sự định kiến từ các cường quốc Đồng minh sau Thế chiến I đối với nước Đức. Đức cuối cùng đã được tái gia nhập vào IUPAC năm 1929. Tuy nhiên, Đức Quốc xã lại bị loại khỏi IUPAC trong Thế chiến II. Trong Thế chiến II, IUPAC đã liên kết với các cường quốc Đồng minh, nhưng ít tham gia vào các hoạt động chiến sự. Sau Thế chiến II, Đông Đức và Tây Đức đã được chấp thuận gia nhập IUPAC vào năm 1973. Kể từ Thế chiến II, IUPAC tiếp tục tập trung vào việc chuẩn hóa danh pháp và phương pháp nghiên cứu khoa học. Năm 2016, IUPAC đã tố cáo việc sử dụng clo làm vũ khí hóa học. Tổ chức này đã bày tỏ quan ngại trong một lá thư gửi đến Ahmet Üzümcü, Giám đốc Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học (OPCW), về việc việc sử dụng clo làm vũ khí hóa học trong chiến tranh ở Syria và một số chiến trường khác. Hoạt động Từ khi thành lập, IUPAC do nhiều ủy ban khác nhau điều hành với các trách nhiệm cũng khác nhau. Các ủy ban này tiến hành nhiều loại dự án, trong đó bao gồm chuẩn hóa danh pháp, và xuất bản các công trình nghiên cứu. Không chỉ nổi tiếng với các công trình chuẩn hóa danh pháp trong hóa học, IUPAC còn xuất bản nhiều ấn phẩm thuộc các ngành khoa học khác như sinh học và vật lý học. Một số đóng góp quan trọng của IUPAC cho các lĩnh vực này là chuẩn hóa tên gọi mã đoạn trình tự nucleotide và xuất bản sách dành cho nhà khoa học môi trường, nhà hóa học và nhà vật lý học. Danh pháp IUPAC
Little Saigon (Tiểu Sài Gòn, Sài Gòn nhỏ, khu Sài Gòn) thường chỉ những khu vực có nhiều người Việt sinh sống bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ, Canada và Pháp. Những khu Little Saigon được hình thành từ những làn sóng tị nạn diễn ra sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Các khu Little Saigon lớn có mặt trong thành phố Westminster & Garden Grove, San Jose, California, Los Angeles và Houston. Westminster và Garden Grove nằm trong khu vực Quận Cam, California, nơi được mệnh danh là "thủ đô người Việt tị nạn". Tại Hoa Kỳ Tại Quận Cam Khu Little Saigon lâu đời nhất, lớn nhất nằm tại hai thành phố Westminster và Garden Grove, Quận Cam, California, nơi người Việt chiếm 30,7% và 21,4% dân số theo điều tra dân số năm 2000 (tổng cộng trên 125.000 người). Lịch sử Trước kia, Westminster cũng như các thành phố gần đó là những vùng đất đai trồng trọt lớn. Từ năm 1975, người Việt tỵ nạn đầu tiên đến đây từ trại Pendleton, nằm cách Westminster 50 dặm về hướng Nam và từ các tiểu bang khác như Pennsylvania, Arkansas, Florida. Những cơ sở thương mại đầu tiên là tiệm phở Hòa và chợ Đà Lạt gần ngã tư đường First và Fairview thuộc thành phố Santa Ana. Khu này sau có thêm trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam do Đặng Giang Sơn thành lập. Nơi đó trở thành nơi tụ tập của cộng đồng tỵ nạn. Sau đó lui về phía tây cũng trên cùng tuyến đường First nhưng có tên là Bolsa Avenue thuộc hai thành phố Garden Grove và Westminster, khoảng năm 1978 xuất hiện chợ Hòa Bình, nhà sách Tú Quỳnh, và nhà hàng Thành Mỹ. Cùng năm đó, Nhật báo Người Việt góp mặt với văn phòng phát hành đặt tại thành phố Garden Grove. Những người Việt tỵ nạn dần tập trung ở quãng đường đó mua lại các cơ sở thương mại của người địa phương và lập nên một khu phố thương mại phảng phất hình bóng Việt Nam. Năm 1982 thì hình thành "Hiệp hội Thương gia Tiểu Sài Gòn". Sách báo tiếng Việt từ đó bắt đầu dùng danh từ "Phố Sài Gòn" nhất là khi hãng Bridgecreek cho xây thương xá hai tầng 1986-88. Địa bàn cộng đồng người Việt từ đó lan rộng tràn ra những thành phố lân cận như Stanton, Fountain Valley và Anaheim. Năm 1986, Ủy ban Thành lập Danh xưng Little Saigon, sau đổi thành Ủy ban Phát triển Little Saigon bầu lên 15 ủy viên, xúc tiến họp với hội đồng thành phố Westminster chính thức công nhận danh xưng Little Saigon. Chính ủy ban đã được 18 vị dân biểu và nghị sĩ tiểu bang giúp đỡ để đưa đề nghị thành lập Đặc khu Tiểu Sài Gòn lên thống đốc tiểu bang. Ngày 1 tháng 6 năm 1986, trước Viện Lập pháp tiểu bang, Thống đốc George Deukmejian đã chấp thuận. Nha lộ vận California theo đó cho dựng 13 bảng tên "Little Saigon" chỉ lối cho xe rẽ từ xa lộ 22 và 405 vào. Ngày 17 tháng 6 năm 1986, thị trưởng Westminster Chuck Smith đã làm lễ ra mắt Đặc khu Little Saigon trước thương xá Phước Lộc Thọ. Buổi lễ được đặt dưới sự chủ toạ của thống đốc tiểu bang và có sự hiện diện của đông đảo người Việt Nam trong vùng. Bố trí và các dịch vụ Little Saigon tại Quận Cam là một vùng rộng lớn, với nhiều khu thương xá của người Việt và người Hoa, nằm phía Tây của Disneyland, giữa xa lộ California 22 và xa lộ Liên bang 405. Ngoài các trụ sở thương mại còn có siêu thị và nhà hàng bán thực phẩm các món ăn Việt Nam và Á châu như cơm tấm, phở, bánh mì, bánh cuốn. Ngoài ra là các dịch vụ y tế, luật pháp, tập trung không ít bác sĩ, nha sĩ, luật sư, kế toán lập văn phòng tại đây để phục vụ thân chủ đồng hương. Năm 2016, một dịch vụ xe buýt miễn phí tên Little Saigon Shuttle được khánh thành để đưa đón hành khách mua sắm trong khu vực, phục vụ 22 trạm dừng trong tuyến đường dài 2,5 mile. Tuy nhiên dịch vụ đã chấm dứt sau 6 tháng hoạt động vì chi phí cao. Xe đò Hoàng, một dịch vụ xe đò đường dài, nối liền Little Saigon ở Quận Cam với cộng đồng ở San Jose và nhiều thành phố khác ở California và Arizona có đông người Việt sinh sống. Truyền thông Little Saigon, đặc biệt là Westminster, thường được xem là trung tâm của ngành truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại. Hầu hết các chương trình ca nhạc hải ngoại đều được phát hành tại đây, trong đó có trung tâm Thúy Nga, trung tâm Asia, trung tâm Vân Sơn, v.v. Vì thế, rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại cư ngụ tại khu vực này. Có hai đài phát thanh phát sóng tiếng Việt 24 giờ mỗi ngày là Little Saigon Radio (trên KVNR 1480 AM) và Radio Bolsa (KALI 106.3 FM). Một đài khác thỉnh thoảng có chương trình tiếng Việt (KXMX-AM 1190). Nội dung phát sóng bao gồm tin tức, thời sự, âm nhạc, talk show, tôn giáo, đọc truyện, v.v. Chương trình Việt ngữ của đài BBC và RFI được tiếp vận trực tiếp trên những đài này, mỗi ngày hai lần. Gần đây đài Little Saigon Radio cũng có nỗ lực phát thanh về Việt Nam. Có 4 đài truyền hình phát sóng suốt ngày bằng Việt ngữ tại miền nam California. Hai đài truyền hình vệ tinh, Saigon Broadcasting Television Network và Hồn Việt TV cũng có trụ sở tại đây và có thể xem được trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Tại đây có hàng chục tờ báo tiếng Việt được bán bên cạnh các báo tiếng Anh, có tiếng nhất trong số đó là Báo Người Việt. Những tờ nhật báo lớn khác có thể nói đến là Việt Báo, Viễn Đông, v.v. Nhiều tuần báo, nguyệt san và báo phục vụ giới trẻ cũng được phát hành như Việt Tide (song ngữ) và Người Việt 2 (bằng tiếng Anh). Chính trị Little Saigon là một địa phương chống cộng mãnh liệt. Sự kiện Trần Trường đầu năm 1999 được xem là điểm mốc quan trọng trong hoạt động chính trị của người Việt tại Little Saigon nói riêng và Hoa Kỳ nói chung. Sự kiện xảy ra sau khi một người làm nghề cho thuê băng video tên là Trần Văn Trường treo cờ đỏ sao vàng và hình Hồ Chí Minh trên cửa tiệm. Sau khi ông không được chú ý, ông đã gửi fax đến một số cơ quan truyền thông cộng đồng để loan báo về hành động của mình. Trong gần hai tháng sau đó, hàng nghìn người Việt biểu tình hằng ngày phản đối ông Trường và chính phủ Việt Nam, với điểm cao là một cuộc thắp nến được tổ chức bởi các đoàn thể sinh viên Mỹ gốc Việt, với sự tham dự của hơn 15.000 người, và được báo chí toàn quốc và quốc tế theo dõi. Sự việc kết thúc sau khi ông Trường bị kết án cho thuê băng lậu, và bị buộc phải đóng cửa tiệm. Ông Trường cho biết mình bị đánh năm lần và phải vào bệnh viện, ông đã mất hết gia sản, khoảng một triệu đôla, và vợ ông, sau những biến cố, đã 'mắc bệnh tâm thần; đồng thời khẳng định đây là án sai, rằng 'ông không sang băng lậu, mà có hợp đồng kinh doanh với các công ty của Tàu. "Sự kiện đã đưa ra nhiều vấn đề về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ, một số người ra đại diện làm trung gian với báo chí để phát biểu quan điểm của những người biểu tình. Nhiều người lãnh đạo trong cuộc biểu tình cảm thấy tự tin hơn và bắt đầu tham gia chính trường và vận động cộng đồng như trong Chiến dịch Cờ Vàng. Người Mỹ gốc Việt, dựa vào số đông, đã và đang nắm giữ quyền lực chính trị đáng kể tại hai thành phố Westminster và Garden Grove. Nhiều người tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu vào các chức vụ công. Ví dụ như Janet Nguyễn, vào năm 2007 trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên lên làm giám sát viên quận trên toàn quốc. Ông Trần Thái Văn đắc cử dân biểu tiểu bang California từ năm 2004 và trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào ngành lập pháp tiểu bang. Sinh hoạt cộng đồng Năm 2003, Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (tiếng Anh: Vietnam War Memorial) đã được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm những người lính Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam hồi thế kỷ trước. Ngày 12 Tháng Tám năm 2009, Hội đồng thành phố Westminster, California lại thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ Bảy cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam". Trường Bolsa Grande High School tại Garden Grove là nơi tổ chức Hội Tết Việt Nam hàng năm do Tổng hội sinh viên Việt Nam Nam Cali UVSA tổ chức cho hàng trăm ngàn người tham dự. Hàng năm, từ năm 1997, vào ngày Tết Nguyên Đán, Little Saigon tại San Jose cũng có cuộc diễn hành Tết hoành tráng do Hội Diễn Hành Tết (Vietnamese Spring Festival, VSF) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival hay ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra 2 năm một lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam, California, Mỹ. Tại San Jose Với dân số người Mỹ gốc Việt gần 100.000 người, thành phố San Jose, California là thành phố đông người Việt nhất tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cơ sở thương mại của người Việt nằm rải rác trên San Jose, không tập trung như tại Westminster. Năm 2000, thương xá Grand Century Mall được thành lập tại đường Story, trở thành một trung tâm của người Việt tại San Jose. Năm 2007, nghị viên Madison Nguyen đề nghị hội đồng thành phố chính thức công nhận một khu thương mại người Việt. Nhiều tên cho khu vực này được đề xuất. Đa số người Việt ủng hộ tên "Little Saigon", trong khi một số cơ sở thương mại trong khu này cho rằng tên này có sắc thái quá chính trị bài cộng sản, và đề xuất tên "Vietnamese Business District" (Khu thương mại Việt Nam). Những người gốc Việt phản đối mạnh mẽ tên "Vietnamese Business District" vì họ cho rằng tên này sẽ vinh danh chính phủ cộng sản Việt Nam hiện nay và không nhìn nhận các đóng góp của những người tị nạn chống cộng. Ngày 20 tháng 11 năm 2007, hội đồng thành phố San Jose chính thức bầu chọn tên "Saigon Business District" (Khu thương mại Saigon) với số phiếu ủng hộ 8-3 sau một phiên họp dài 6 tiếng đồng hồ, với trên 800 người ủng hộ tên Little Saigon tham gia cuộc họp. Lựa chọn này làm phẫn nộ rất nhiều người Mỹ gốc Việt vì họ cho rằng hội đồng thành phố đã bất chấp ý dân. Trên 2000 người biểu tình phản đối trước tòa thị chính, kêu gọi hội đồng thành phố xét lại. Madison Nguyen, một trong những nghị viên bỏ phiếu ủng hộ tên "Saigon Business District", trở thành một mục tiêu chỉ trích của cộng đồng. Một số người kêu gọi cô từ chức và đang vận động bãi miễn Madison Nguyen. Sau nhiều cuộc biểu tình, hội đồng thành phố San Jose vào ngày 4 tháng 3 năm 2008 bầu 10-1 hủy quyết định chọn tên "Saigon Business District" trong một cuộc họp dài với hàng ngàn người tham gia. Tuy nhiên, hội đồng thành phố vẫn chưa chọn tên "Little Saigon" cho khu vực này. Tại San Francisco Kể từ đầu năm 2004 thành phố San Francisco đã chính thức thành lập khu "Little Saigon" trên đường Larkin giữa hai ngã tư đường Eddy và O'Farrell. Ở đây tập trung khoảng 2.000 người Việt trong tổng số 13.000 người Việt trên toàn thành phố. Hơn 80% các cơ sở buôn bán ở đây là của người Việt. Chính quyền đã thiết lập bảng chỉ dẫn trên đường và còn có kế hoạch xây cổng chào đón du khách tương tự như loại cổng dựng ở phố Tàu và phố Nhật San Francisco. Tại Houston, Texas Ngày 2 tháng 5 năm 2004, chính quyền địa phương đã chính thức đặt tên "Little Saigon" cho khu vực Midtown, với nhiều cơ sở thương mại của người Việt, nằm cạnh khu Downtown ở trung tâm thành phố Houston. Một trung tâm thương mại khác của người Việt là khu vực mới phát triển quanh Đại lộ Bellaire, phía Tây Nam thành phố. Tại Louisiana Louisiana là nơi có nhiều người Việt Nam, nhiều người trước đây là ngư dân đánh cá. New Orleans có một số khu vực có tập trung các doanh nghiệp Việt-Mỹ. Lớn nhất trong số các cộng đồng này nằm xung quanh Village de L'Est, trong đó bao gồm khu dân cư và các tổ chức thương mại cũng như cơ sở tôn giáo như giáo xứ Mary Queen của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Chùa Vạn Hạnh của Phật giáo, và Nhà hàng bánh nướng Đông Phương. Có một khu vực doanh nghiệp Việt Nam ở thủ phủ Baton Rouge, nằm gần khối 12.000 Đại lộ Florida Blvd (Hwy 190), trong đó bao gồm các nhà hàng, cửa hàng tạp hóa, và các doanh nghiệp khác nhau. Năm 2008, Joseph Cao đã làm nên lịch sử sau khi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ tại khu vực thứ 2 thường thiên về Đảng Dân chủ của bang Louisiana, bao gồm hầu hết New Orleans. Tại Philadelphia Một trong những khu phố Việt lớn nhất ở Philadelphia tập trung vào các giao điểm của đường Eighth Street và Washington Avenue ở Nam Philadelphia, là "một trong những quần thể lớn nhất của người Việt Nam trên bờ biển phía đông". Các nơi khác Tại Paris, Pháp Các cửa tiệm Việt Nam tập trung tại quận 13 và quận 5 thành phố Paris. Tại Úc Ở Sydney, người Úc gốc Việt tập trung ở Cabramatta (còn mệnh danh là "Vietnamatta"), Bankstown, Canley Vale và Villawood. Ở Melbourne, vùng ngoại ô Richmond có một tỷ lệ lớn người Úc gốc Việt sinh sống, phố Victoria (Victoria Street) thường có biệt danh là Little Saigon. Các cộng đồng người Việt khác tập trung quanh Đường Springvale (Springvale Road) ở Springvale, hầu hết các khu vực của Footscray và cả ở St Albans. Ở Adelaide, người Việt Nam tập trung xung quanh Woodville đặc biệt dọc theo Đường Hanson (Hanson Road).
Trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu, xác nhận hai pha (tiếng Anh: two-phase commit protocol, hay 2PC) là một thuật toán phân tán đảm bảo các nút khác nhau của một hệ thống phân tán xác nhận một giao dịch. Trong quá trình xác nhận, nếu một trong các nút của hệ thống phủ nhận giao dịch thì toàn bộ giao dịch sẽ bị hủy bỏ. Giao dịch chỉ được hoàn thành khi tất cả các nút của hệ thống xác nhận nó. Quá trình xác nhận bao gồm 2 pha là: - Gửi yêu cầu: nút điều phối (coordinator) gửi câu truy vấn yêu cầu xác nhận giao dịch tới tất cả các nút tham gia, sau đó đợi trả lời từ các nút đó. - Xác nhận giao dịch: khi nút điều phối nhận được trả lời đồng ý của tất cả các nút tham gia, nó sẽ gửi lại thông điệp xác nhận tới tất cả các nút tham gia một lần nữa để hoàn tất việc giao dịch, và giao dịch đó được xác nhận thành công. Trong trường hợp nút điều phối nhận được ít nhất một trả lời phủ định giao dịch từ một nút tham gia nào đó, hoặc nếu sau khoảng thời gian nhất định vẫn chưa nhận được toàn bộ trả lời từ các nút tham gia, thì nút điều phối sẽ gửi thông điệp hủy bỏ việc xác nhận tới tất cả các nút tham gia, và việc xác nhận giao dịch thất bại.
Điện toán phân tán (tiếng Anh: Distributed computing) là một ngành khoa học máy tính nghiên cứu các hệ thống phân tán. Hệ thống phân tán (distributed system) là hệ thống phần mềm mà các thành phần cấu tạo nên nó nằm ở trên các máy tính khác nhau được kết nối thành mạng lưới. Các máy tính này phối hợp hoạt động với nhau để hoàn thành một nhiệm vụ chung bằng cách trao đổi qua lại các thông điệp (message). Điện toán phân tán là tính toán song song được phân quyền. Các loại phần cứng, ngôn ngữ lập trình, hệ điều hành và các tài nguyên khác được sử dụng có thể rất đa dạng. Nó tương tự với việc phân cụm máy tính (computer clustering) với khác biệt chính là sự phân tán về mặt địa lý của các tài nguyên. Tổ chức Việc tổ chức tương tác giữa các máy tính trong hệ thống có tầm quan trọng rất lớn. Để có thể sử dụng các loại máy tính đa dạng nhất có thể được, giao thức hoặc kênh truyền không nên chứa hoặc sử dụng bất cứ thông tin nào mà chỉ có một số máy tính nhất định có thể hiểu được. Cũng cần sự quan tâm đặc biệt tới việc các thông điệp phải được chuyển giao một cách đúng đắn và các thông điệp không hợp lệ phải bị loại bỏ, nếu không chúng có thể gây hại cho hệ thống và có thể cả phần còn lại của cả mạng. Một nhân tố quan trọng khác là khả năng gửi phần mềm tới một máy tính khác một cách khả chuyển (portable) để cho phần mềm đó có thể thực thi và tương tác với mạng hiện hành. Việc này không phải lúc nào cũng khả thi và có ý nghĩa thực tế khi sử dụng các tài nguyên và phần cứng khác nhau, trong trường hợp đó cần sử dụng các phương pháp khác chẳng hạn như biên dịch chuyển mã (cross-compiling) hay chuyển bằng tay (manually porting) phần mềm này. Tổng quan Công nghệ thông tin và viễn thông ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu về xử lý thông tin ngày càng cao, nhanh hơn nhiều lần tốc độ phát triển của tài nguyên phần cứng và phần mềm. Có nhiều vấn đề đặt ra mà các hệ thống tập trung thông thường không đáp ứng được, do tốc độ xử lý còn hạn chế. Xây dựng một hệ thống phân tán có khả năng xử lý đồng thời một bài toán trên nhiều máy tính là một hướng giải quyết khả thi và đã được chứng minh tính hữu dụng. Hệ thống phân tán còn tạo nhiều thuận lợi trong việc chia sẻ thông tin trên toàn thế giới Có nhiều dạng hệ thống phân tán khác nhau và nhiều khó khăn để thiết kế. Mục đích chính của hệ thống phân tán là kết nối người sử dụng và tài nguyên một cách trong suốt, mở, và có thể nới rộng được. Một cách lý tưởng thì hệ thống này có khả năng chịu lỗi tốt hơn và mạnh hơn nhiều hệ thống tổ hợp máy tính độc lập khác. Ngày nay, các Web Service trở thành những giao thức chuẩn của các hệ thống phân tán. Ví dụ Một ví dụ của hệ thống phân tán là World Wide Web. Khi bạn xem một trang web trên một site, thực ra bạn đang sử dụng một hệ thống phân tán có chứa site đó. Khi bạn duyệt web, trình duyệt của bạn chạy trên máy tính của bạn giao tiếp với những máy chủ web khác nhau và cung cấp cho bạn các trang web mà bạn yêu cầu. Rất có thể trình duyệt của bạn dùng qua một máy chủ proxy để truy cập đến nội dung các trang web chứa trên máy chủ web nhanh chóng và an toàn hơn. Để có thể xác định những máy chủ này, trình duyệt phải dùng hệ thống tên miền phân tán DNS. Trình duyệt có thể truy cập tới tất cả những máy chủ này trên Internet thông qua hệ thống các router mà chính bản thân chúng cũng tạo nên một hệ thống phân tán khổng lồ.
Hệ thống phân giải tên miền nam (hay được viết tắt là game DNS do tên tiếng Anh Domain Name System) là một hệ thống cho phép thiết lập tương ứng giữa địa chỉ IP và tên miền trên Internet. Tổng quan Hệ thống phân giải tên miền (DNS) về căn bản là một hệ thống giúp cho việc chuyển đổi các tên miền mà con người dễ ghi nhớ (dạng ký tự, ví dụ www.example.com) sang địa chỉ IP vật lý (dạng số, ví dụ 123.11.5.19) tương ứng của tên miền đó. DNS giúp liên kết với các trang thiết bị mạng cho các mục đích định vị và địa chỉ hóa các thiết bị trên Internet. Phép so sánh thường được sử dụng để giải thích cho DNS là, nó phục vụ như một "Danh bạ điện thoại", có khả năng tìm kiếm và dịch tên miền thành địa chỉ IP. Ví dụ, www.example.com dịch thành 208.77.188.166. Tên miền Internet dễ nhớ hơn các địa chỉ IP, là 208.77.188.166 (IPv4) hoặc 2001: db8: 1f70:: 999: de8: 7648:6 e8 (IPv6). Hệ thống phân giải tên miền phân phối trách nhiệm gán tên miền và lập bản đồ những tên tới địa chỉ IP bằng cách định rõ những máy chủ có thẩm quyền cho mỗi tên miền. Những máy chủ có tên thẩm quyền được phân công chịu trách nhiệm đối với tên miền riêng của họ, và lần lượt có thể chỉ định tên máy chủ khác độc quyền của họ cho các tên miền phụ. Kỹ thuật này đã thực hiện các cơ chế phân phối DNS, chịu đựng lỗi, và giúp tránh sự cần thiết cho một trung tâm đơn lẻ để đăng ký được tư vấn và liên tục cập nhật. Nhìn chung, Hệ thống phân giải tên miền cũng lưu trữ các loại thông tin khác, chẳng hạn như danh sách các máy chủ email mà chấp nhận thư điện tử cho một tên miền Internet. Bằng cách cung cấp cho một thế giới rộng lớn, phân phối từ khóa – cơ sở của dịch vụ đổi hướng, Hệ thống phân giải tên miền là một thành phần thiết yếu cho các chức năng của Internet. Các định dạng khác như các thẻ RFID, mã số UPC, ký tự Quốc tế trong địa chỉ email và tên máy chủ, và một loạt các định dạng khác có thể có khả năng sử dụng DNS. Chức năng của DNS Mỗi website có một tên (là tên miền hay đường dẫn URL: Uniform Resource Locator) và một địa chỉ IP. Địa chỉ IP gồm 4 nhóm số cách nhau bằng dấu chấm(IPv4). Khi mở một trình duyệt Web và nhập tên website, trình duyệt sẽ đến thẳng website mà không cần phải thông qua việc nhập địa chỉ IP của trang web. Quá trình "dịch" tên miền thành địa chỉ IP để cho trình duyệt hiểu và truy cập được vào website là công việc của một DNS server. Các DNS trợ giúp qua lại với nhau để dịch địa chỉ "IP" thành "tên" và ngược lại. Người sử dụng chỉ cần nhớ "tên", không cần phải nhớ địa chỉ IP (địa chỉ IP là những con số rất khó nhớ). Nguyên tắc làm việc của DNS Mỗi nhà cung cấp dịch vụ vận hành và duy trì DNS server riêng của mình, gồm các máy bên trong phần riêng của mỗi nhà cung cấp dịch vụ đó trong Internet. Tức là, nếu một trình duyệt tìm kiếm địa chỉ của một website thì DNS server phân giải tên website này phải là DNS server của chính tổ chức quản lý website đó chứ không phải là của một tổ chức (nhà cung cấp dịch vụ) nào khác. INTERNIC (Internet Network Information Center) chịu trách nhiệm theo dõi các tên miền và các DNS server tương ứng. INTERNIC là một tổ chức được thành lập bởi NSF (National Science Foundation), AT&T và Network Solution, chịu trách nhiệm đăng ký các tên miền của Internet. INTERNIC chỉ có nhiệm vụ quản lý tất cả các DNS server trên Internet chứ không có nhiệm vụ phân giải tên cho từng địa chỉ. DNS có khả năng truy vấn các DNS server khác để có được một cái tên đã được phân giải. DNS server của mỗi tên miền thường có hai việc khác biệt. Thứ nhất, chịu trách nhiệm phân giải tên từ các máy bên trong miền về các địa chỉ Internet, cả bên trong lẫn bên ngoài miền nó quản lý. Thứ hai, chúng trả lời các DNS server bên ngoài đang cố gắng phân giải những cái tên bên trong miền nó quản lý. DNS server có khả năng ghi nhớ lại những tên vừa phân giải. Để dùng cho những yêu cầu phân giải lần sau. Số lượng những tên phân giải được lưu lại tùy thuộc vào quy mô của từng DNS. Cách sử dụng DNS Do các DNS có tốc độ biên dịch khác nhau, có thể nhanh hoặc có thể chậm, do đó người sử dụng có thể chọn DNS server để sử dụng cho riêng mình. Có các cách chọn lựa cho người sử dụng. Sử dụng DNS mặc định của nhà cung cấp dịch vụ (Internet), trường hợp này người sử dụng không cần điền địa chỉ DNS vào network connections trong máy của mình. Sử dụng DNS server khác (miễn phí hoặc trả phí) thì phải điền địa chỉ DNS server vào network connections. Địa chỉ DNS server cũng là 4 nhóm số cách nhau bởi các dấu chấm. Kiến trúc DNS Không gian tên miền (Domain name space) Không gian tên miền là một kiến trúc dạng cây (hình), có chứa nhiều nốt (node). Mỗi nốt trên cây sẽ có một nhãn và có không hoặc nhiều resource record (RR), chúng giữ thông tin liên quan tới tên miền. Nốt root không có nhãn. Tên miền (Domain name) Tên miền được tạo thành từ các nhãn và phân cách nhau bằng dấu chấm (.), ví dụ example.com. Tên miền còn được chia theo cấp độ như tên miền top level, tên miền cấp 1, cấp 2... Cú pháp tên miền (Domain name syntax) Tên miền được định nghĩa trong các RFC 1035, RFC 1123, và RFC 2181. Một tên miền bao gồm một hoặc nhiều phần, gọi là các nhãn (label), chúng cách nhau bởi dấu chấm (.), ví dụ example.com. Hệ thống phân giải tên miền tính theo hướng từ phải sang trái. Ví dụ www.example.com thì nhãn example là một tên miền con của tên miền com, và www là tên miền con của tên miền example.com. Cây cấu trúc này có thể có tới 127 cấp. Tên miền quốc tế hóa (Internationalized domain names) Do sự giới hạn của bộ ký tự ASCII trong việc diễn tả các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, ICANN cho phép thiết lập hệ thống IDNA (Internationalized domain names Application), dùng ký tự Unicode để biểu diễn tên miền, ví dụ http://TênMiềnTiếngViệt.vn. Máy chủ tên miền (NS - Name Server) Máy chủ tên miền chứa thông tin lưu trữ về một số tên miền. Hệ thống phân giải tên miền được vận hành bởi hệ thống dữ liệu phân tán, dạng Client-Server. Các node của hệ thống dữ liệu này là các máy chủ tên miền. Mỗi một tên miền sẽ có ít nhất một máy chủ tên miền chứa thông tin về tên miền đó. Các thông tin về máy chủ tên miền sẽ được lưu trữ trong các zone của tên miền. Có hai dạng Name Server (NS) là là Primary và Secondary. Một Client sẽ ưu tiên hỏi Primary trước và thử lại với Secondary nếu Primary không thể trả lời thông tin về tên miền đó trong thời gian quy định. Máy chủ tên miền có thẩm quyền (Authoritative name server) Máy chủ tên miền có thẩm quyền là một máy chủ tên miền có thể trả lời các truy vấn DNS từ các dữ liệu gốc, ví dụ, tên miền quản trị hoặc phương thức DNS động. Vận hành Cơ chế phân giải địa chỉ (Address resolution mechanism) Các máy chủ phân giải tên miền theo cơ chế từ cao xuống thấp. Máy chủ tên miền Recursive và Caching (Recursive and caching name server) Theo lý thuyết, các máy chủ tên miền có thẩm quyền đã đủ dùng để vận hành hệ thống Internet. Tuy nhiên, nếu chỉ có máy chủ tên miền thẩm quyền, mỗi truy vấn DNS phải bắt đầu đi từ root zone, và mỗi hệ thống người dùng phải vận hành một phần mềm để làm nhiệm vụ phân giải. Để giảm lượng băng thông trên Internet, DNS cho phép các máy chủ DNS lưu Cache các kết quả mà nó đã từng truy vấn. Phân giải DNS Phần client của DNS gọi là DNS resolver. Truy vấn non-recursive: DNS resolver client truy vấn DNS server để tìm record của tên miền chưa trên server đó. Truy vấn recursive Truy vấn iterative Circular dependencies and glue records Mẩu tin caching (Record caching) Tra cứu ngược (Reverse lookup) Tra cứu ngược là một truy vấn để tìm tên miền khi biết địa chỉ IP. Tra cứu client (Client lookup) Giao thức vận chuyển DNS chủ yếu hoạt động trên giao thức UDP và cổng 53. Một số hoạt động khác có sử dụng giao thức TCP. Cấu trúc gói tin DNS ID: Là một trường 16 bits, chứa mã nhận dạng, nó được tạo ra bởi một chương trình để thay cho truy vấn. Gói tin hồi đáp sẽ dựa vào mã nhận dạng này để hồi đáp lại. Chính vì vậy mà truy vấn và hồi đáp có thể phù hợp với nhau. QR: Là một trường 1 bit. Bít này sẽ được thiết lập là 0 nếu là gói tin truy vấn, được thiết lập là một nếu là gói tin hồi đáp. Opcode: Là một trường 4 bits, được thiết lập là 0 cho cờ hiệu truy vấn, được thiết lập là 1 cho truy vấn ngược, và được thiết lập là 2 cho tình trạng truy vấn. AA: Là trường 1 bit, nếu gói tin hồi đáp được thiết lập là 1, sau đó nó sẽ đi đến một server có thẩm quyền giải quyết truy vấn. TC: Là trường 1 bit, trường này sẽ cho biết là gói tin có bị cắt khúc ra do kích thước gói tin vượt quá băng thông cho phép hay không. RD: Là trường 1 bit, trường này sẽ cho biết là truy vấn muốn server tiếp tục truy vấn một cách đệ quy. RA: Trường 1 bit này sẽ cho biết truy vấn đệ quy có được thực thi trên server không. Z: Là trường 1 bit. Đây là một trường dự trữ, và được thiết lập là 0. Rcode: Là trường 4 bits, gói tin hồi đáp sẽ có thể nhận các giá trị sau: 0: Cho biết là không có lỗi trong quá trình truy vấn. 1: Cho biết định dạng gói tin bị lỗi, server không hiểu được truy vấn. 2: Server bị trục trặc, không thực hiện hồi đáp được. 3: Tên bị lỗi. Chỉ có server có đủ thẩm quyền mới có thể thiết lập giá trị náy. 4: Không thi hành. Server không thể thực hiện chức năng này. 5: Server từ chối thực thi truy vấn. QDcount: Số lần truy vấn của gói tin trong một vấn đề. ANcount: Số lượng tài nguyên tham gia trong phần trả lời. NScount: Chỉ ra số lượng tài nguyên được ghi lại trong các phần có thẩm quyền của gói tin. ARcount: Chỉ ra số lượng tài nguyên ghi lại trong phần thêm vào của gói tin. Mẩu tin resoucre DNS (DNS resource records) Mẩu tin Resource Record (RR) lưu trữ thông tin của tên miền. Các RR chia thành các lớp (class) và có kiểu (type) khác nhau. Một số kiểu RR phổ biến: Start of Authority (SOA) resource record: định nghĩa các tham số toàn cục cho zone hoặc tên miền. Một tệp tin zone chỉ được phép chứa một mẩu tin SOA và phải nằm ở vị trí đầu tiên trước các mẩu tin khác. Name server (NS) resource record: chỉ ra Máy chủ tên miền (Name server) của zone đó. A Resource Records (mẩu tin địa chỉ): mẩu tin cho biết địa chỉ IP tương ứng của một tên miền, có dạng như "example IN A 172.16.48.1" PTR Records (mẩu tin con trỏ): ngược lại với A record, PTR chỉ ra tên miền tương ứng của một địa chỉ IP, có dạng như "1.48.16.172.in-addr.arpa. IN PTR example.com." CNAME Resource Records: một dạng record giúp tạo ra biệt hiệu cho một tên miền, ví dụ mẩu tin CNAME "ftp.example.com. IN CNAME ftp1.example.com." cho phép trỏ tên miền ftp.example.com sang ftp1.example.com MX Resource Records (mẩu tin Mail exchange): chỉ ra máy chủ mail của tên miền. TXT Resource Records (mẩu tin text): chứa thông tin dạng văn bản không định dạng, thường dùng để chứa các thông tin bổ sung. Tất cả các DNS Resource Records dựa theo tiêu chuẩn RFC 1035 khi vận chuyển trên Internet:
Nguyễn Phi Khanh (chữ Hán: 阮飛卿; tên thật là Nguyễn Ứng Long (阮應龍); năm sinh không chắc chắn. Một số nguồn cho là khoảng năm 1355<ref name=–1428 hay 1429) là Hàn lâm học sĩ nhà Hồ và là cha của Nguyễn Trãi - một công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Ông quê làng Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Cộng Hòa, Tp.Chí Linh, Hải Dương). Sau dời về thôn Trại Ổi (Ngọc Ổi) làng Nhị Khê, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Thân thế Sử sách có chép rằng quan tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Ứng Long, khi đó 19 tuổi, học giỏi nên yêu mến và mời về dạy cho con gái mình là Trần Thị Thái, nhưng sau đó hai người yêu nhau. Khi sự việc bại lộ thì Ứng Long bỏ trốn, Trần Nguyên Đán phải cho người đi tìm Ứng Long về gả con gái đang mang thai cho ông. Sự kiện này được Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm Xương Phù thứ 9 (1385) đời Trần Phế Đế. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Quan nhà Hồ Ông từng thi đỗ Nhị giáp tiến sĩ năm Long Khánh thứ 2, đời vua Trần Duệ Tông, tức năm 1374 nhưng không được triều đình bổ dụng nên về quê dạy học. Đại Việt sử ký toàn thư không ghi rõ ông đỗ thái học sinh năm nào, nhưng có viết về việc ông đỗ thái học sinh trong các sự kiện của năm 1385, sau khi thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã tổ chức kỳ thi thái học sinh năm Xương Phù thứ 8 (1384). Đến khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, ông đã ra làm quan cho nhà Hồ dưới triều Hồ Hán Thương, được bổ nhiệm giữ chức Hàn lâm học sĩ rồi lần lượt thăng lên Thống chương Đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, Tư nghiệp Quốc tử giám. Năm 1407, khi quân nhà Minh xâm lược nước Việt, Nguyễn Phi Khanh được đề cập đến trong vài sự kiện trong Chiến tranh Minh - Đại Ngu, sau đó sử sách Minh triều và sử sách Đại Việt đều chép là Nguyễn Phi Khanh tự mình đi đầu hàng nhà Minh và bị giải về Trung Quốc Nguyễn Phi Khanh mất tại Trung Quốc, thọ 73 tuổi. Hài cốt ông an táng tại núi Đá Bạc. Người đời sau gọi núi đó là núi Báo Ân hay núi Báo Đức, hoặc còn gọi là núi Báo Vọng, thuộc Tp Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Mộ chí nay vẫn còn. Gần đây, sách "Nhìn lại lịch sử" dẫn bài của tác giả Đinh Công Vĩ, có nghiên cứu gia phả Phạm Anh Võ (tức Nguyễn Anh Võ - con Nguyễn Trãi, cháu Nguyễn Phi Khanh, phải đổi sang họ mẹ khi trốn tránh vì gia đình bị tru di tam tộc) nêu thông tin khác về kết cục của Nguyễn Phi Khanh. Theo đó, Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh giải đi Trung Quốc, có cả anh em Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Hùng đi theo. Tới Vạn Sơn Điếm (Hồ Bắc) một thời gian thì quân Minh thả cho Nguyễn Phi Khanh về. Ông sống và chết ở Trung quốc. Sau này vẫn chưa biết chính xác về mồ mã của ông. Thơ ca Dù chỉ còn vài chục bài thơ chữ Hán được lưu truyền tới nay nhưng Nguyễn Phi Khanh cũng được giới nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam đánh giá là một cá tính thơ ca của dòng văn thơ Lý-Trần, dù phong cách thơ của ông thực sự rất khác biệt với dòng văn học nổi tiếng hào sảng tinh thần Đông A này. Về giọng điệu thơ, ông có nhiều chỗ gần gũi với một nhân vật nổi bật khác của thời Trần mạt là Trần Nguyên Đán, cha vợ ông. Lưu danh Tháng 12-2020, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội quyết định gắn biển "Đường Nguyễn Phi Khanh" cho một con đường ở Huyện Thường Tín. Ở Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đặt tên cho 1 con đường nhỏ ở quận 1 từ đường Nguyễn Hữu Cầu đến đường Đinh Tiên Hoàng.
Quảng Trị là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại từng là lỵ sở của dinh Quảng Trị dưới thời nhà Nguyễn, và sau này là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị cho đến năm 1976, khi tỉnh Quảng Trị hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình và Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên. Khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào năm 1989, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) cho đến nay. Địa lý Thị xã Quảng Trị cách thành phố Huế 54 km về phía đông nam, cách thành phố Đông Hà 13 km về phía tây bắc. Thị xã có địa giới hành chính: Phía đông và phía nam giáp huyện Hải Lăng Phía tây giáp huyện Đakrông Phía bắc giáp huyện Triệu Phong. Hiện nay diện tích của thị xã là 74 km², dân số năm 2019 là 23.356 người. Hành chính Thị xã Quảng Trị có 5 đơn hành chính cấp xã, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, An Đôn và xã Hải Lệ. Lịch sử Từ thời đại Hùng Vương, thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang xưa. Dưới thời kỳ Bắc thuộc, nhà Hán chia nước Âu Lạc thành ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Bộ Việt Thường thuộc quận Nhật Nam (từ năm 179 TCN đến năm 339 Công nguyên). Năm 339, khi nhà Đông Tấn của Trung Quốc suy yếu, Vương quốc Chăm Pa, một nước mới thành lập ở phía Nam đèo Hải Vân, đánh chiếm vùng đất bộ Việt Thường. Vùng đất này trở thành biên địa phía bắc của Vương quốc Chăm Pa độc lập với cơ cấu 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Rí (Lý). Vùng đất thị xã Quảng Trị thuộc châu Ô. Năm 1069, vua Lý Thái Tông đem quân đánh vào kinh thành Chăm Pa, bắt được vua Chế Củ. Chế Củ xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để được trả tự do. Nhà Lý đổi ba châu đó thành châu Lâm Bình và Minh Linh. Năm 1306, vua Chăm Pa là Chế Mân sai sứ dâng chiếu cầu hôn với vua Trần Anh Tông của Đại Việt (tên của Việt Nam lúc đó). Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và châu Rí (Lý) mà Chế Mân đã dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, châu Lý làm Hóa Châu. Mảnh đất thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc Thuận Châu. Đời nhà Hậu Lê, năm 1499, vua Lê Thánh Tông đổi tên hai châu Thuận và châu Hóa thành hai phủ Tân Bình và phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hóa. Phủ Triệu Phong gồm các huyện Vũ Xương, Hải Lăng,... Mảnh đất thị xã Quảng Trị thuộc huyện Hải Lăng. Năm 1558, để tránh nguy cơ bị ám hại bởi bàn tay của người anh rể là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng - con trai thứ của Nguyễn Kim - xin vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn xây dựng xứ Thuận Hóa dần dần trở thành bờ cõi riêng và xưng chúa. Năm 1801, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, lập dinh Quảng Trị bao gồm đất đai các huyện Hải Lăng, Đăng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ (mới lập). Đến năm 1827, dinh Quảng Trị đổi là trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị, dinh lỵ Quảng Trị đóng tại làng Tiền Kiên (thuộc huyện Đăng Xương). Năm 1809, dinh lỵ Quảng Trị dời từ Tiền Kiên tới đóng tại xã Thạch Hãn (huyện Hải Lăng), tức vị trí của thị xã Quảng Trị ngày nay và tiến hành xây thành, đắp luỹ cố định. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị với phủ Thừa Thiên hợp nhất thành đạo Quảng Trị. Năm 1876, lập lại tỉnh Quảng Trị. Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra nghị định hợp nhất Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rosseau ra lại nghị định tách Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền công sứ Đồng Hới, hợp cùng với Thừa Thiên đặt dưới quyền Khâm sứ Trung kỳ. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên, lập thành tỉnh Quảng Trị riêng biệt. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau ra nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị). Từ năm 1976 đến nay Sau khi ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên (tháng 5 năm 1976), thị xã Quảng Trị bị giải thể và trở thành một đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Triệu Phong, đồng thời là huyện lỵ của huyện Triệu Phong. Tháng 1 năm 1977, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải thì thị trấn Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 15 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị trên cơ sở sáp nhập thị trấn Triệu Hải và và xã Hải Trí. Sau khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 và chọn thị xã Đông Hà làm tỉnh lỵ, theo nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của tình hình mới, ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị, ban đầu gồm 2 phường: 1, 2 (trên cơ sở giải thể thị trấn Quảng Trị cũ). Ngày 19 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hải Lăng, huyện Triệu Phong để mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng Trị; điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập phường thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. Theo đó: Sáp nhập xã Hải Lệ của huyện Hải Lăng và thôn An Đôn của xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong vào thị xã Quảng Trị Thành lập phường An Đôn trên cơ sở thôn An Đôn (chuyển từ xã Triệu Thượng) và xóm Hà thuộc phường 1 Thành lập phường 3 trên cơ sở tách một số khu phố của phường 1 và phường 2 Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Quảng Trị có 7.402,78 ha diện tích tự nhiên và 22.760 nhân khẩu, có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, An Đôn và xã Hải Lệ. Thị xã Quảng Trị có 4 phường và 1 xã như hiện nay. Kinh tế Thị xã Quảng Trị là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Trị bên cạnh thành phố Đông Hà. Nền kinh tế của thị xã đang được chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Trong đó, du lịch tâm linh đang là điểm nhấn đặc biệt cho kinh tế của thị xã Quảng Trị, khi tại đây có các di tích lịch sử nổi tiếng, thu hút nhiều khách tham quan ghé thăm trong các đợt lễ, các ngày kỉ niệm như: Di tích Thành Cổ Quảng Trị, tháp chuông thành Cổ, khu quảng trường Giải phóng, đôi bờ sông Thạch Hãn. Ngoài ra, lễ hội thả hoa đăng được tổ chức vào các ngày mồng 1 và 15 theo lịch âm hàng tháng được đông đảo người dân thị xã và các khu vực lân cận quan tâm cũng là điểm nhấn cho du lịch tại đây. Giao thông Có quốc lộ 1A, đường cao tốc Cam Lộ – La Sơn và đường sắt Bắc Nam đi qua.
Độ ẩm tương đối hay còn gọi là độ ẩm tỉ đối (tiếng Anh:relative humidity, viết tắt: RH) là tỷ lệ giữa áp suất riêng phần của hơi nước và áp suất hơi bão hòa của nước ở cùng nhiệt độ. Không khí càng ẩm, độ ẩm tương đối càng cao. Độ ẩm tương đối phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất của hệ thống quan tâm. Cùng một lượng hơi nước dẫn đến độ ẩm tương đối cao hơn trong không khí mát hơn không khí ấm. Một tham số liên quan là điểm sương. Định nghĩa Độ ẩm tương đối hoặc là của hỗn hợp nước–khí được định nghĩa là tỷ lệ giữa áp suất riêng phần của hơi nước và áp suất hơi bão hòa của nước ở cùng nhiệt độ, được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm: Độ ẩm tương đối thường được biểu thị bằng phần trăm; không khí càng ẩm, độ ẩm tương đối càng cao. Khi độ ẩm tương đối đạt 100%, không khí đã bão hòa hơi nước và đang ở điểm sương. Độ ẩm tương đối khác với độ ẩm tuyệt đối – được định nghĩa là khối lượng của hơi nước có trong 1m³ không khí. Độ ẩm tuyệt đối chưa cho biết mức độ ẩm của không khí vì ở nhiệt độ càng thấp thì hơi nước trong không khí càng dễ đạt trạng thái bão hòa. Do vậy, để mô tả mức độ ẩm của không khí, người ta dùng độ ẩm tương đối. Độ ẩm tương đối có thể được đo bằng những thiết bị đo độ ẩm, gọi là ẩm kế. Ý nghĩa Kiểm soát khí hậu Kiểm soát khí hậu liên quan đến kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong các tòa nhà, xe cộ và các không gian kín khác nhằm mục đích mang lại sự thoải mái, sức khỏe và an toàn cho con người, và đáp ứng các yêu cầu về môi trường của máy móc, vật liệu nhạy cảm (ví dụ, mang tính lịch sử) và các quá trình kỹ thuật. Độ ẩm tương đối và thoải mái nhiệt Cùng với nhiệt độ không khí, nhiệt độ trung bình bức xạ, tốc độ không khí, tốc độ trao đổi chất và mức độ quần áo, độ ẩm tương đối đóng một vai trò trong sự thoải mái nhiệt của con người. Theo Tiêu chuẩn ASHRAE 55-2017: Điều kiện môi trường nhiệt cho người ở, sự thoải mái nhiệt trong nhà có thể đạt được thông qua phương pháp PMV với độ ẩm tương đối từ 0, 100%, tùy thuộc vào mức độ của các yếu tố khác góp phần vào sự thoải mái nhiệt. Tuy nhiên, phạm vi độ ẩm tương đối trong nhà được đề nghị trong các tòa nhà máy lạnh thường là 30-60%. Nói chung, nhiệt độ cao hơn sẽ yêu cầu độ ẩm tương đối thấp hơn để đạt được sự thoải mái về nhiệt so với nhiệt độ thấp hơn, với tất cả các yếu tố khác được giữ cố định. Ví dụ, với mức quần áo = 1, tốc độ trao đổi chất = 1,1 và tốc độ không khí 0,1m/s, sự thay đổi nhiệt độ không khí và nhiệt độ bức xạ trung bình từ 20°C đến 24°C sẽ làm giảm độ ẩm tương đối tối đa chấp nhận được từ 100% xuống 65% để duy trì điều kiện tiện nghi nhiệt. Công cụ tiện nghi nhiệt CBE có thể được sử dụng để chứng minh ảnh hưởng của độ ẩm tương đối đối với các điều kiện tiện nghi nhiệt cụ thể và nó có thể được sử dụng để chứng minh sự tuân thủ với Tiêu chuẩn ASHRAE 55-2017. Khi sử dụng mô hình thích ứng để dự đoán sự thoải mái nhiệt trong nhà, độ ẩm tương đối không được tính đến. Mặc dù độ ẩm tương đối là một yếu tố quan trọng đối với sự thoải mái về nhiệt, con người nhạy cảm hơn với sự thay đổi nhiệt độ so với thay đổi độ ẩm tương đối. Độ ẩm tương đối có ảnh hưởng nhỏ đến sự thoải mái nhiệt ngoài trời khi nhiệt độ không khí thấp, hiệu ứng rõ rệt hơn một chút ở nhiệt độ không khí vừa phải và ảnh hưởng mạnh hơn nhiều ở nhiệt độ không khí cao hơn. Khó chịu của con người do độ ẩm tương đối thấp Ở vùng khí hậu lạnh, nhiệt độ ngoài trời khiến cho hơi nước chảy xuống thấp hơn. Mặc dù trời có thể có tuyết và độ ẩm tương đối ngoài trời cao, một khi không khí đi vào tòa nhà và nóng lên, độ ẩm tương đối mới của nó rất thấp (có nghĩa là không khí rất khô), có thể gây khó chịu. Da khô nứt có thể là kết quả của không khí khô. Độ ẩm thấp làm cho các mô lót mũi bị khô, nứt và trở nên dễ bị vi rút cảm lạnh của Rhinovirus xâm nhập. Độ ẩm thấp là nguyên nhân phổ biến của chảy máu cam. Việc sử dụng máy tạo độ ẩm trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ, có thể giúp khắc phục những triệu chứng này. Độ ẩm tương đối trong nhà nên được giữ ở mức trên 30% để giảm khả năng bị khô mũi. Con người có thể thoải mái trong một phạm vi độ ẩm rộng lớn tùy thuộc vào nhiệt độ từ 30-70% lý tưởng trong khoảng từ 50% và 60%. Độ ẩm rất thấp có thể tạo ra sự khó chịu, các vấn đề về hô hấp và làm nặng thêm tình trạng dị ứng ở một số người. Vào mùa đông, nên duy trì độ ẩm tương đối ở mức 30% trở lên. Độ ẩm tương đối quá thấp (dưới 20%) cũng có thể gây kích ứng mắt. Các tòa nhà Để kiểm soát khí hậu trong các tòa nhà sử dụng hệ thống HVAC, điều quan trọng là duy trì độ ẩm tương đối ở phạm vi thoải mái, đủ thấp để thoải mái nhưng đủ cao để tránh các vấn đề liên quan đến không khí rất khô. Khi nhiệt độ cao và độ ẩm tương đối thấp, sự bốc hơi nước nhanh chóng; đất khô, quần áo ướt treo trên một đường hoặc giá khô nhanh chóng, và mồ hôi dễ dàng bay hơi khỏi da. Đồ nội thất bằng gỗ có thể co lại, làm cho lớp sơn bao phủ các bề mặt này bị gãy. Khi nhiệt độ thấp và độ ẩm tương đối cao, sự bốc hơi nước chậm. Khi độ ẩm tương đối đạt tới 100%, ngưng tụ có thể xảy ra trên các bề mặt, dẫn đến các vấn đề với nấm mốc, ăn mòn, sâu răng và suy giảm liên quan đến độ ẩm khác. Ngưng tụ có thể gây ra rủi ro an toàn vì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của nấm mốc và thối gỗ cũng như có thể đóng băng lối thoát hiểm khẩn cấp. Một số quy trình sản xuất và kỹ thuật và phương pháp điều trị trong các nhà máy, phòng thí nghiệm, bệnh viện và các cơ sở khác yêu cầu duy trì mức độ ẩm tương đối cụ thể bằng cách sử dụng máy tạo độ ẩm, máy hút ẩm và hệ thống kiểm soát liên quan. Phương tiện di động Các nguyên tắc cơ bản cho các tòa nhà, ở trên, cũng áp dụng cho các phương tiện. Ngoài ra, có thể có những cân nhắc về an toàn. Ví dụ, độ ẩm cao bên trong một xe hơi có thể dẫn đến các vấn đề của sự ngưng tụ, như phun sương của kính chắn gió và ngắn mạch của các thành phần điện. Trong các phương tiện chịu áp lực như máy bay dân dụng, tàu ngầm và tàu vũ trụ, những cân nhắc này có thể rất quan trọng đối với an toàn và các hệ thống kiểm soát môi trường phức tạp bao gồm thiết bị để duy trì áp suất là cần thiết.
Họ Lan (danh pháp khoa học: Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây, lớp thực vật một lá mầm. Đây là một trong những họ lớn nhất của thực vật, và chúng phân bổ nhiều nơi trên thế giới. Vườn thực vật hoàng gia Kew liệt kê 880 chi và gần 22.000 loài được chấp nhận, nhưng số lượng chính xác vẫn không rõ (có thể nhiều tới 25.000 loài) do các tranh chấp phân loại học. Số lượng loài lan cao gấp 4 lần số lượng loài động vật có vú hay hơn 2 lần số lượng loài chim. Nó chiếm khoảng 6–11% số lượng loài thực vật có hoa. Khoảng 800 loài lan mới được bổ sung thêm mỗi năm. Các chi lớn nhất là Bulbophyllum (khoảng 2.000 loài), Epidendrum (khoảng 1.500 loài), Dendrobium (khoảng 1.400 loài) và Pleurothallis (khoảng 1.000 loài). Họ này cũng bao gồm chi Vanilla (chi chứa loài cây vani), Orchis (chi điển hình) và nhiều loài được trồng phổ biến như Phalaenopsis hay Cattleya. Ngoài ra, kể từ khi du nhập các loài từ khu vực nhiệt đới vào trong thế kỷ XIX thì các nhà làm vườn châu Âu và Bắc Mỹ đã bổ sung thêm khoảng 100.000 loại cây lai ghép và giống cây trồng. Hoa lan được người tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vồng và những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt gạo trong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1m. Đa số các loại hoa lan được bán rộng rãi trên thị trường thường không có hương thơm nhưng trong tự nhiên có rất nhiều loại hoa lan có mùi thơm đặc trưng. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ México; trong khi đó có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng. Phân bố Họ Orchidaceae phân bố rộng khắp thế giới, gần như có thể có mặt trong mọi môi trường sống, ngoại trừ các sa mạc và sông băng. Phần lớn các loài được tìm thấy trong khu vực nhiệt đới, chủ yếu là châu Á, Nam Mỹ và Trung Mỹ. Chúng cũng được tìm thấy tại các vĩ độ cao hơn vòng Bắc cực, ở miền nam Patagonia và thậm chí trên đảo Macquarie, gần với châu Nam Cực. Danh sách dưới đây liệt kê gần đúng sự phân bổ của họ này: Nhiệt đới châu Mỹ: 250 - 270 chi Nhiệt đới châu Á: 260 - 300 chi Nhiệt đới châu Phi: 230 - 270 chi châu Đại Dương: 50 - 70 chi châu Âu và ôn đới châu Á: 40 - 60 chi Bắc Mỹ: 20 - 25 chi Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III. Phân loại Họ này được công nhận trong mọi hệ thống phân loại và hệ thống APG II năm 2003 đặt nó trong bộ Asparagales. Phân loại họ này luôn luôn thay đổi, do các nghiên cứu mới vẫn tiếp tục nhận dạng nhiều yếu tố phân loại mới. Hiện tại người ta công nhận 5 phân họ. Biểu đồ dưới đây được lập theo hệ thống APG: Tiến hóa Một nghiên cứu đăng trong tạp chí Nature đã chỉ ra rằng nguồn gốc họ Lan có xuất phát điểm lâu đời hơn so với dự tính ban đầu, có lẽ khoảng 76-84 triệu năm trước. Một con ong của loài ong không ngòi tuyệt chủng, với danh pháp Proplebeia dominicana, được tìm thấy bị mắc trong hổ phách thế Miocen khoảng 15-20 triệu năm trước. Con ong này mang phấn hoa của một loài lan trước đây không rõ, Meliorchis caribea, trên các cánh của nó. Đây là chứng cứ đầu tiên về lan hóa thạch cho tới nay. Loài lan tuyệt chủng M. caribea này được đặt trong tông Cranichideae, phân tông Goodyerinae (phân họ Orchidoideae). Điều này chỉ ra rằng họ Lan có thể có nguồn gốc cổ đại và đã phát sinh khoảng 76-84 triệu năm trước trong thời kỳ Hậu Creta. Nói cách khác, các loài lan có thể cùng tồn tại với khủng long. Nó cũng chỉ ra rằng vào thời gian đó côn trùng là các sinh vật thụ phấn tích cực cho các loài lan. Theo M.W. Chase và ctv. (2001) thì địa lý sinh học chung và mô hình phát sinh loài của họ Orchidaceae chỉ ra rằng chúng thậm chí còn cổ hơn và có thể đã phát sinh khoảng 100 triệu năm trước. Sử dụng phương pháp đồng hồ phân tử, người ta có thể xác định niên đại của các nhánh chính trong họ Lan. Điều này cũng xác nhận rằng phân họ Vanilloideae là nhánh tại sự phân đôi cơ sở của lan với nhị đơn, và phải tiến hóa rất sớm trong sự tiến hóa của họ này. Do chi Vanilla trong phân họ này có mặt tại nhiều nơi trên thế giới trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ châu Mỹ qua châu Á, New Guinea và Tây Phi, và các lục địa đã bắt đầu tách ra khoảng 100 triệu năm trước, nên trao đổi quần sinh vật đáng kể phải xảy ra sau sự chia tách này (do niên đại của Vanilla được ước tính khoảng 60-70 triệu năm trước). Các chi Các chi dưới đây là đáng chú ý nhất trong họ Lan. Hoa phong lan trong hội họa
Hoa loa kèn, bách hợp, lily hay huệ tây, ở Đà Lạt gọi là hoa Ly (từ tiếng Pháp: fleur de lys, tiếng Nhật: テッポウユリ,Teppouyuri; danh pháp hai phần: Lilium longiflorum), là một loài thực vật có hoa thuộc chi Lilium, họ Loa kèn. Đây là loài cây bản địa của quần đảo Ryukyu, phía nam Nhật Bản và Đài Loan. Phân loại thực vật Hoa loa kèn thuộc nhóm thực vật một lá mầm (Monocotylendones), phân lớp Hành (Liliidae), bộ Hành (Liliales), họ Hành (Lilicaceae), chi Loa kèn (Lilium). Đặc điểm hình thái Thân vẩy (củ): là mầm dinh dưỡng lớn của cây. Một củ già gồm: đế củ, vẩy già, vảy mới ra, trục thân sơ cấp, thứ cấp và đỉnh sinh trưởng. Rễ: Loa kèn có hai loại rễ thân và rễ gốc. Rễ thân là rễ mọc ra từ thân ở phía dưới mặt đất có tác dụng nâng đỡ cho thân cây, hút nước và chất dinh dưỡng, tuổi thọ của rễ này là 1 năm. Rễ gốc hay còn gọi là rễ được sinh ra từ gốc của củ, có nhiều nhánh. Đây là loại rễ to, sinh trưởng khỏe là cơ quan chủ yếu hút nước và chất dinh dưỡng chủ yếu, tuổi thọ của rễ này tới 2 năm. Thân: Trục thân củ hoa loa kèn là do mầm dinh dưỡng co ngắn lại tạo thành. Trục thân chia ra trục thân sơ cấp và trục thân thứ cấp. Sau khi phá ngủ trục sơ cấp ở trên mầm nách trục thân là vùng vươn dài thứ nhất, mầm đỉnh co ngắn, vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra, khi cây ra nụ thì số lá đã được cố định, chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống. Chiều cao vẫn chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt, trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Lá: Loa kèn có nhiều lá mọc rải rác theo vòng rộng, hình thoi dài, khá đều đặn, phiến lá thẳng, đầu lá hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn. Độ lớn của lá tùy theo điều kiện trồng, số lá thường từ 50-150. Lá có chiều rộng từ 1,8 - 2,8 cm, chiều dài lá từ 9 – 12 cm, lá mềm, bóng có màu xanh nhạt. Củ con và mầm nách: Loa kèn có các củ con ở gần thân rễ, kích thước và số lượng củ con tùy thuộc và khả năng sinh trưởng, phát triển của cây mẹ cũng như phụ thuộc vào điều kiện trồng, chu vi của củ con từ 3 – 6 cm, số lượng củ con từ 1 - 3 củ. Ở nách lá còn có mầm nách, hình tròn hoặc hình bầu dục, khi già có màu nâu chu vi mầm nách từ 0,5 - 1,5 cm Hoa: Hoa loa kèn trắng Lilium formolongo thường hơi nghiêng, tạo thành 3 góc so với mặt phẳng nằm ngang khoảng 45 - 60o. Hoa có hình loa kèn, màu trắng, chiều rộng cánh hoa từ 5 –7 cm, chiều dài cánh hoa từ 14 – 18 cm, đường kính hoa từ 10 – 12 cm, cánh hoa hơi cong. Bao hoa 6 mảnh dạng cánh có 6 nhị, bao phấn vàng dài, bầu hoa hình trụ, đầu nhụy chia 3 thùy, vòi hoa ngắn hơn trục, trục hoa nhỏ đầu phình to có 3 khía tử phòng ở trên. Hoa có hương thơm đậm đà, hoa cắt có độ bền khoảng 6-10 ngày. Quả: Quả loa kèn là loại quả nẻ, hình tròn dài, mỗi quả có vài trăm hạt, mỗi quả có 3 ngăn, hạt dẹt tròn xung quanh có khoảng trên 600 hạt. Quả loa kèn có chiều dài 8–10 cm, đường kính hạt 15 – 22 mm, 1 gam có 700-800 hạt. Trong điều kiện khô lạnh, hạt có thể giữ được 3 năm. Đặc điểm sinh trưởng phát dục Giai đoạn sinh trưởng phát dục: Phát triển trục thân, ra nụ, ra hoa, kết hạt, chết. Củ giống vùi trong đất sau khoảng 60-70 ngày mới nảy mầm. Nếu củ giống được đem xử lý lạnh (phá ngủ) thì khi trồng xuống đất đến khi mầm vươn lên khỏi mặt đất chỉ cần 2 tuần lễ. Xử lý lạnh không tốt thời gian gieo trồng gặp lạnh thì có thể kéo tới 5 tuần. Từ lúc mọc mầm đến khi ra nụ khoảng 60-75 ngày tùy từng thời vụ, từ ra nụ đến ra hoa từ 25-35 ngày, từ nở hoa đến tạo quả từ 8-12 ngày. Sự phân hóa hoa: Là cây ngày dài do vậy khi thời gian chiếu sáng trong ngày tăng dần quá trình phân hóa hoa được hình thành. Củ loa kèn xử lý lạnh ở 5oC từ 3-5 tuần, sau khi trồng khoảng 8-13 ngày đỉnh sinh trưởng mầm rút ngắn, đã bắt đầu hình thành mầm hoa nguyên thủy. Mỗi mầm hoa nguyên thủy này lại kèm theo 1-2 mầm khác. Khi củ đã qua xử lý lạnh thì trước khi trồng củ có thể mọc mầm và phân hóa hoa. Vì vậy nếu không trồng kịp thời sẽ bất lợi cho phát dục mầm hoa. Số lượng mầm hoa nguyên thủy chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sinh trưởng vụ trước và chất lượng của củ giống. Sự ra hoa: Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trồng nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng. Nhị đực và nhị cái của Lilium formolongo cùng chín một lúc. Sau khi thụ tinh 8-12 ngày, tử phòng bắt đầu phình to. Ánh sáng mạnh tạo ra sự bại dục của nụ, đồng thời còn gây cháy lá, việc xử lý che nắng sẽ giảm thui nụ. Ngược lại ánh sáng yếu (đặc biệt vào mùa đông) cũng làm thui nụ ảnh hưởng đến chất lượng hoa. Quả chín: Sau nở hoa khoảng 2 tháng. Khi quả có màu vàng sẽ nứt ra hạt có cánh có thể phát tán theo gió. Sau khi thu hoạch hoa (hoặc quả) thân lá khô héo, lúc này có thể thu hoạch củ để làm giống. Trên thế giới Nhu cầu tiêu thụ cũng như sản xuất hoa loa kèn ngày càng tăng, điển hình là ở một số nước như: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia, Canada, Bỉ... Hà Lan là nước lai tạo ra rất nhiều giống mới có hoa đẹp, chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất cao kết hợp với việc ứng dụng thành công kỹ thuật điều khiển ra hoa đã có thể sản xuất hoa quanh năm. Ở châu Á, nước đứng đầu về sản xuất hoa loa kèn là Nhật Bản. Đài Loan cũng là nước có công nghệ trồng hoa loa kèn tiên tiến nhất hiện nay. Việt Nam Cây hoa này được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Âu. Giống trồng trọt trước đây: Giống từ Pháp: không rõ tên, nhập nội khoảng 1945-1955 Giống Hàn Quốc: không rõ tên, nhập nội 1970 Giống Nhật Bản: không rõ tên, nhập nội 1972 với nhiều màu khác nhau nhưng chỉ có màu trắng là thích hợp và còn tồn tại đến nay. Ở Việt Nam, hoa loa kèn hay huệ tây được biết đến nhiều nhất ở bức tranh nổi tiếng "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Ở Pháp, các phạm nhân khi vi phạm quy định của nhà thờ sẽ bị thích dấu lên vai hình hoa huệ tây. Hình ảnh
Leo Hendrick Baekeland (14 tháng 11 năm 1863 – 23 tháng 2 năm 1944) là nhà hoá học người Mỹ gốc Bỉ. Ông được sinh ra tại Gent (Bỉ) và mất tại Beacon, New York, Hoa Kỳ). Trong thời gian 1905–1907 Baekeland đã phát triển loại nhựa đầu tiên được sản xuất hàng loạt có tên là Bakelite. Người con trai của một thợ giày này quan tâm đến khoa học tự nhiên ngay từ nhỏ. Ông đã nhận được nhiều khen thưởng trong các bộ môn hóa học, vật lý và kinh tế ngay từ khi là học trò của một trường dạy về ban đêm. Bắt đầu từ năm 1880, một học bổng đã tạo điều kiện cho ông theo học ngành hóa tại trường đại học Gent. Năm 1884 ông viết luận án phó tiến sĩ và từ năm 188 ông là giáo sư hóa tại trường điại học Gent. Năm 1889 ông kết hôn với Celine Swarts, con gái của Theodore Swarts, nguyên là giáo sư hóa của ông. Ông đã phát minh ra giấy sang ảnh Velox - loại giấy ảnh cho phép các nhà nhiếp ảnh có thể dùng ánh sáng nhân tạo thay thế cho ánh sáng Mặt trời. Sau khi bán phát minh này với số tiền bản quyền 1 triệu đôla cho một công ty nhiếp ảnh, năm 1889, ông và gia đình định cư ở New York trong một chuyến đi nghiên cứu tại Mỹ. Tại Hoa Kỳ, Baekeland bắt tay nghiên cứu chất cách điện trong phòng thí nghiệm riêng của ông. Sau nhiều nghiên cứu về các quá trình điện hóa, bắt đầu từ năm 1905 ông quay sang các phản ứng giữa phenol và Fomanđêhít. Mãi đến năm 1907, ông đã thành công trong việc tìm ra chất polyoxybenzylmethylenglycolanhydride và đặt tên là Bakelite (gần giống với tên của ông). Năm 1909, chất hoá học nhân tạo này đã chính thức được công bố và ông nhận được bằng sáng chế. Đây được coi là một mốc cực kỳ quan trọng của ngành hoá học, mở đầu cho việc ra đời của hàng loạt các loại nhựa (tên gọi khác là chất dẻo) (plastic) khác như polystyren (năm 1930), nylon (năm 1934)... Từ đó đến này, nhiều loại nhựa với các tính năng đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và dân dụng đã được loài người sử dụng. Chúng được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực đòi hỏi tính năng cao như hàng không vũ trụ... Tuy nhiên, các chất dẻo tổng hợp lại gây ra mối lo lắng của con người về sự ô nhiễm môi trường. Ông đã được tặng thưởng Nichols Medal của Hội Hóa học Mỹ vào năm 1909, huy chương Perkin của chi nhánh Hội Công nghiệp Hóa chất tại Hoa Kỳ năm 1916 và Franklin Medal của Viện Franklin vào năm 1940. Baekeland thuộc trong "Danh sách 20 nhà tư tưởng và khoa học gia lớn nhất của thế kỷ 20" do tạp chí Time công bố vào ngày 29 tháng 3 năm 1999.
Bộ môn Bắn cung tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại Vịnh Subic, Zabales, Philippines từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005. Tại kỳ đại hội lần này, các đoàn thi đấu để tranh bốn bộ huy chương, hai nội dung dành cho nam và hai nội dung dành cho nữ. Các cung thủ đều thi đấu ở nội dung bia với đương kính 122 cm được đặt ở khoảng cách 70 m, và mỗi lượt bắn không quá 40 giây. Mỗi đoàn tham dự kỳ đại hội lần này được cử tối đa 3 vận động viên. Mỗi vận động viên thi đấu một vòng phân hạng, với 6 loạt bắn, mỗi loạt 12 mũi. Thứ tự của vận động viên ở vòng phân hạng giúp phân chia cặp đấu ở vòng loại trực tiếp với thể thức vận động viên có số điểm cao nhất ở vòng phân hạng sẽ gặp vận động viên có số điểm thấp nhất. Ở ba vòng đấu loại trực tiếp đầu tiên, mỗi vận động viên ở mỗi trận sẽ bắn 6 loạt, mỗi loạt 3 mũi. Ở vòng tứ kết, bán kết, chung kết và trận tranh huy chương đồng, mỗi cung thủ sẽ bắn 4 loạt 3 mũi tên. Bảng thành tích Nội dung Recurve nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngW. Mohd K.<TD> Myanma</TD> BạcZaw Win Myanma ĐồngMarvin Cordero '''Philippines </TABLE> Nội dung Recurve nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngRina Dewi Puspita Sari<TD> Indonesia</TD> BạcYasmidar Hamid Indonesia ĐồngRachelle Anne Cabral Philippines </TABLE> Nội dung Compound nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngLang Hon-Mas<TD> Malaysia</TD> BạcTing Leong Malaysia ĐồngI. Gusti Indonesia </TABLE> Nội dung Compound nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngAmaya Paz<TD> Philippines</TD> BạcJenifer Chan Philippines ĐồngGul Mary<TD> Singapore</TR> </TABLE>
Bộ môn Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005, ngoài môn Marathon được tổ chức tại thành phố Pasay, các môn còn lại được thi đấu tại khu liên hợp thể thao Rezal Memorial ở thủ đô Manila, Philippines. Tại kỳ đại hội lần này, một lần nữa Thái Lan khẳng định vị thế cường quốc thể thao số một trong khu vực Đông Nam Á của mình khi giành ngôi nhất toàn đoàn trong môn thể thao nữ hoàng, tuy họ không còn quá lấn lướt so với các đoàn khác như khi xưa. Với vị thế là nước chủ nhà, không ngạc nhiên khi Philippines giành ngôi vị thứ hai khu vực. Đại hội cũng đánh dấu vị thế mới của Việt Nam trên đấu trường thể thao khu vực khi đoàn giành được 7 tấm huy chương vàng, đặc biệt tấm chuy chương vàng nội dung 100 m nữ của Vũ Thị Hương, đồng thời các vận động viên Việt Nam cũng là tác giả của 3 trên 6 kỷ lục SEA Games mới của bộ môn điền kinh được lập tại đại hội kỳ này. Một số sự kiện đáng chú ý khác là việc đoàn Indonesia gần như biến mất khỏi bản đồ đấu trường khu vực khi chỉ giành được 1 huy chương vàng và việc do không hiểu luật khiến đoàn Việt Nam mất hai huy chương (một vàng và một bạc) ở nội dung 1500 m nam và marathon nữ. (Có ba môn thi đấu là nhảy sào nam, nhảy ba bước nam và tạ xích nữ chưa được thống kê vào bảng trên) Bảng thành tích 100 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngWachara Sondee Thái Lan<TD>10.47</TD> BạcSompote Suwannarangsri Thái Lan<TD>10.52</TD> ĐồngSuryo Agung Wibowo Indonesia10.57 </TABLE> 110 m vượt rào nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngMohd Robani Hassan Malaysia<TD>14.08</TD> BạcMuhd Faiz Mohammad Malaysia<TD>14.16</TD> ĐồngNarongdech Janjai Thái Lan14.22 </TABLE> 200 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngSittichai Suwonprateep Thái Lan<TD>20.94</TD> BạcJohn Herman Murai Indonesia<TD>21.27</TD> ĐồngSompote Suwannarangsri Thái Lan21.40 </TABLE> 400 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngJimar Aing Philippines<TD>47.03</TD> BạcErnie Candelario Philippines<TD>47.06</TD> ĐồngMohd Zafril Mohd Zuslaini Malaysia47.25 </TABLE> 400 m vượt rào nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngShahadan Jamaludin Malaysia<TD>51.28</TD> BạcApisit Kuttiyawan Thái Lan<TD>51.54</TD> ĐồngMohd Zafril Mohd Zuslaini Indonesia51.61 </TABLE> 800 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngLê Văn Dương Việt Nam<TD>1' 51.15</TD> BạcMidel Dique Philippines<TD>1' 51.53</TD> ĐồngJohn Lozada Philippines1' 51.57 </TABLE> 1500 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngAung Thi Ha Myanma<TD>3' 39.25</TD> BạcHariyono Indonesia<TD>3' 50.40</TD> ĐồngRene Herera Philippines3' 50.89 </TABLE> 3000 m vượt chướng ngại vật nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngRene Herera Philippines<TD>8' 56.14</TD> BạcTrần Văn Thắng Việt Nam<TD>9' 07.89</TD> ĐồngPatikarn Pechsricha Thái Lan9' 13.27 </TABLE> 5000 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngBoonthung Srisung Thái Lan<TD>14' 15.09</TD> BạcJulius Sermona Philippines<TD>14' 45.44</TD> ĐồngAmnuay Tongmit Thái Lan15' 24.05 </TABLE> 10000 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngBoonthung Srisung Thái Lan<TD>29' 29.59</TD> BạcEduardo Buenavista Philippines<TD>29' 49.77</TD> ĐồngJulius Sermona Philippines30' 45.45 </TABLE> Đi bộ 20 km nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngMohd Sharrulhaizy Abd Rahman Malaysia<TD>1 h 35' 45.1</TD> BạcThiru Kumaran Balay Sendram Malaysia<TD>1 h 36' 27.4</TD> ĐồngVeerapun Anunchai Thái Lan1h 42' 39.7 </TABLE> Marathon nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngBoonchoo Jandacha Thái Lan<TD>2 h 29' 27</TD> BạcRoy Vence Philippines<TD>2 h 30' 11</TD> ĐồngAllan Ballester Philippines2 h 32' 25 </TABLE> Tiếp sức 4 x 100 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngWachara Sondee, Sompote Suwannarangsri, Ekkachai Janthana, Sittichai Suwonprateep Thái Lan<TD>39.74</TD> BạcArnold Villarube, Ralph Waldy Soguilon, Albert Salcedo, Henry Dagmil Philippines<TD>40.55</TD> ĐồngMohd Shameer Mohd Ayub, Erzalmaniq Fawy Rawi, Poh Seng Song, Umagua Kancanangai Shaym Singapore40.59 </TABLE> Tiếp sức 4 x 400 m nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngKashus Perona, Jimar Aing, Julius Nieras, Ernie Candelario Philippines<TD>3' 09.15</TD> BạcSupachi Phachsay, Banjong Lachua, Jukkatip Pojaroen, Apisit Kuttiyawan Thái Lan<TD>3' 10.53</TD> ĐồngShahadan Jamaludin, Amran Raj Krishnan, Mohd Zafril Mohd Zuslaini, Jayakumar Dewarajoo Malaysia3' 23.27 </TABLE> Nhảy xa nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngHenry Dagmil Philippines<TD>7 m 81 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcMohd Syahrul Amri Md Suhaimi Malaysia<TD>7 m 69</TD> ĐồngKittisak Sukon Thái Lan7 m 54 </TABLE> Nhảy ba bước nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích Vàng<TD></TD> Bạc<TD></TD> Đồng </TABLE> Nhảy cao nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngNguyễn Duy Bằng Việt Nam<TD>2 m 14</TD> BạcNguyễn Thanh Phong Việt Nam<TD>2 m 11</TD> ĐồngChokchai Jirasukrujee Thái Lan2 m 11 </TABLE> Nhảy sào nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích Vàng<TD></TD> Bạc<TD></TD> Đồng </TABLE> Đẩy tạ nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngChatchawal Pol Yeng Thái Lan<TD>17 m 06</TD> BạcSarayudh Pinitjit Thái Lan<TD>16 m 66</TD> ĐồngWong Tuck Yim James Singapore12 m 66 </TABLE> Ném đĩa nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngWong Tuck Yim James Singapore<TD>55 m 11</TD> BạcSawang Sawasdee Thái Lan<TD>52 m 51</TD> ĐồngKvanchai Numsomboon Thái Lan51 m 31 </TABLE> Ném lao nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngDanilo Fresnido Philippines<TD>70 m 20</TD> BạcSanya Buathong Thái Lan<TD>66 m 09</TD> ĐồngDandy Gallenero Philippines65 m 80 </TABLE> Tạ xích nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngArniel Ferrera Philippines<TD>60 m 47 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcJerro Perater Philippines<TD>53 m 44</TD> ĐồngYong Jaros Kanjus Thái Lan52 m 74 </TABLE> 10 môn phối hợp nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngVũ Văn Huyện Việt Nam<TD>7139 điểm</TD> BạcBoonkete Chalon Thái Lan<TD>7034 điểm</TD> ĐồngBùi Văn Hà Việt Nam6937 điểm </TABLE> 100 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngVũ Thị Hương Việt Nam<TD>11.49</TD> BạcNongnuch Sanrat Thái Lan<TD>11.63</TD> ĐồngOrranut Klomdee Thái Lan11.66 </TABLE> 100 m vượt rào nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngMoh Siew Wei Malaysia<TD>13.54</TD> BạcDedeh Erawati Indonesia<TD>13.58</TD> ĐồngTrecia Roberts Thái Lan14.25 </TABLE> 200 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngKay Khine Lwin Myanma<TD>23.77</TD> BạcVũ Thị Hương Việt Nam<TD>23.86</TD> ĐồngJuyamass Tawoncharoen Thái Lan23.97 </TABLE> 400 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngYin Yin Khine Myanma<TD>52.69</TD> BạcKay Khine Lwin Myanma<TD>54.10</TD> ĐồngSaowalee Kaewchuy Thái Lan54.88 </TABLE> 400 m vượt rào nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngWassana Winatho Thái Lan<TD>57.20</TD> BạcNguyễn Thị Nụ Việt Nam<TD>1' 00.37</TD> ĐồngMary Grace Milgar Philippines1' 01.37 </TABLE> 800 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngĐỗ Thị Bông Việt Nam<TD>2' 03.65 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcYin Yin Khine Myanma<TD>2' 04.11</TD> ĐồngTrương Thanh Hằng Việt Nam2' 04.60 </TABLE> 1500 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngTrương Thanh Hằng Việt Nam<TD>4' 18.50 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcĐỗ Thị Bông Việt Nam<TD>4' 21.46</TD> ĐồngOliva Sadi Indonesia4' 22.39 </TABLE> 5000 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngOliva Sadi Indonesia<TD>16' 34.94</TD> BạcMercedita Manipol Philippines<TD>16' 42.17</TD> ĐồngRini Budiarti Indonesia16' 43.92 </TABLE> 10000 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngMercedita Manipol Philippines<TD>35' 38.04</TD> BạcPa Pa Myanma<TD>35' 39.08</TD> ĐồngTrương Thị Mai Việt Nam37' 00.82 </TABLE> Đi bộ 20 km nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngYuan Yu Fang Malaysia<TD>1 h 42' 52.2</TD> BạcDarwati Indonesia<TD>1 h 52' 13.4</TD> ĐồngTanaphon Peamsakun Thái Lan1h 53' 52.6 </TABLE> Marathon nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngChristabel Martes Philippines<TD>2 h 47' 07</TD> BạcFeri Marince Subnafeu Indonesia<TD>2 h 54' 23</TD> ĐồngPa Pa Myanma2 h 54' 55 </TABLE> Tiếp sức 4 x 100 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngOrranut Klomdee, Jutamass Tawoncharoen, Sangwan Jaksunin, Nongnuch Sanrat Thái Lan<TD>44.30</TD> BạcVũ Thị Hương, Lê Ngọc Phương, Hoàng Thị Thu Hương, Mai Thị Phương Việt Nam<TD>45.11</TD> ĐồngDeysie Natalia Sumigar, Irene Truitje Joseph, Serafi Anelies Unani, Supiati Indonesia46.01 </TABLE> Tiếp sức 4 x 400 m nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngYin Yin Khine, Myint Myint Aye, Kyaw Swar Moe, Kay Khine Lwin Myanma<TD>3' 35.68</TD> BạcYuangjan Panthakarn, Wassana Winatho, Sunantha Kinnareewong, Saowalee Kaewchuy Thái Lan<TD>3' 39.49</TD> ĐồngLê Thị Hồng Anh, Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Thị Nụ, Nguyễn Thị Bắc Việt Nam3' 43.91 </TABLE> Nhảy xa nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngMarestella Torres Philippines<TD>6 m 47</TD> BạcLerma Elmira Gabito Philippines<TD>6 m 45</TD> ĐồngNgew Si Mei Malaysia6 m 27 </TABLE> Nhảy ba bước nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngNgew Si Mei Malaysia<TD>13 m 61 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcW. Rittiwat Thái Lan<TD>13 m 20</TD> ĐồngT. Muang Jan Thái Lan13 m 00 </TABLE> Nhảy cao nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngBùi Thị Nhung Việt Nam<TD>1 m 89 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcNguyễn Thị Ngọc Thy Việt Nam<TD>1 m 86</TD> ĐồngNoen-Ruthai Chaipech Thái Lan1 m 83 </TABLE> Nhảy sào nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngRosalinda Samsu Malaysia<TD>4 m 10 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcLê Thị Phương Việt Nam<TD>4 m 00</TD> ĐồngSanisa Kao-Iad Thái Lan3 m 60 </TABLE> Đẩy tạ nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngZhang Guirong Singapore<TD>17 m 40</TD> BạcDu Xianhui Singapore<TD>17 m 37</TD> ĐồngJuthaporn Krasaeyan Thái Lan14 m 15 </TABLE> Ném đĩa nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngDu Xianhui Singapore<TD>49 m 48</TD> BạcJuthaporn Krasaeyan Thái Lan<TD>48 m 93</TD> ĐồngZhang Guirong Singapore48 m 62 </TABLE> Ném lao nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngBouban Pamang Thái Lan<TD>55 m 06 - Kỷ lục SEA Games mới</TD> BạcRosie Villarito Philippines<TD>49 m 43</TD> ĐồngZhang Guirong Singapore48 m 70 </TABLE> Tạ xích nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích Vàng<TD></TD> Bạc<TD></TD> Đồng </TABLE> 7 môn phối hợp nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc giaThành tích VàngWatchaporn Masin Thái Lan<TD>3249 điểm</TD> BạcNguyễn Thị Thu Cúc Việt Nam<TD>3190 điểm</TD> ĐồngNarcisa Atienza Philippines3121 điểm </TABLE>
Joseph Black (16 tháng 4 năm 1728 tại Bordeaux - 10 tháng 11 năm 1799 tại Edinburgh) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Scotland. Joseph Black là một trong những nhà vật lý, hóa học nổi tiếng từng giữ chức vụ giáo sư ở Đại học Glasgow. Năm 1746, ông nhập học tại Trường Đại học Tổng hợp Glasgow. Ngoài ra, Black cũng đã học tại trường tổng hợp Edinburgh và sau đó vào năm 1754 đã nghiên cứu kỹ các thuộc tính của dioxide cacbon (khi đó ông gọi nó là `không khí cố định´). Năm 1756 ông miêu tả bằng cách nào mà các muối cacbonat trở nên kiềm hơn khi chúng mất dioxide cacbon, trong khi việc hấp thụ trở lại khí này sẽ tái hồi phục chúng. Ông là người đầu tiên cô lập được dioxide cacbon trong trạng thái hoàn toàn tinh khiết. Công trình của ông đã góp phần hỗ trợ trong việc phá vỡ niềm tin trong các thuyết về sự cháy có khái niệm gọi là yếu tố cháy. Năm 1761 ông phát hiện ra rằng băng hấp thụ nhiệt mà không hề tăng nhiệt độ khi nóng chảy. Từ điều này ông kết luận rằng nhiệt phải kết hợp với các hạt băng và trở thành ẩn nhiệt. Trong khoảng những năm 1759 - 1763 ông luận ra thuyết về "ẩn nhiệt" mà tên tuổi của ông chủ yếu được biết đến nhờ công trình này và ông cũng chỉ ra rằng các chất khác nhau có nhiệt dung riêng khác nhau. James Watt là học trò và phụ tá của ông. Năm 1755 ông phát hiện ra magiê.
Humphry Davy, Tòng nam tước thứ nhất, FRS (thông thường viết và phát âm không chính xác là Humphrey; 17 tháng 12 năm 1778 – 29 tháng 5 năm 1829) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Cornwall. Ông sinh ra tại Penzance, Cornwall, Vương quốc Anh. Sir (Ngài) Humphry là cách gọi trang trọng để chỉ địa vị xã hội của ông. Davy trở nên nổi tiếng nhờ các thực nghiệm của ông về các phản ứng sinh lý của một số chất khí, trong đó có cả khí gây cười (oxide nitrơ tức đinitơ mônoxide hay N2O). Davy sau đó bị suy giảm thị lực trong một tai nạn phòng thí nghiệm khi ông đang thử nghiệm nitơ triclorua. Năm 1801 ông được chỉ định làm giáo sư tại Viện Hoàng gia của Anh quốc (Great Britain) và viện sĩ Hội Khoa học Hoàng gia Anh mà sau đó ông là chủ tịch của hội này. Năm 1800, Alessandro Volta giới thiệu pin lần đầu tiên. Davy đã sử dụng pin này để tách các muối bằng cách mà ngày nay người ta gọi là điện phân.Với nhiều pin mắc nối tiếp ông đã có thể tách ra các nguyên tố kali, natri năm 1807 và calci, stronti, bari, magiê năm 1808. Ông cũng nghiên cứu năng lượng tham gia vào trong việc chia tách các muối này, mà ngày nay là một lĩnh vực của điện hóa học. Năm 1802 Humphrey Davy là nhà phát minh người Anh nổi tiếng. Ông sử dụng phát kiến cột Volta của nhà khoa học người Ý Alessandro Volta để chế tạo bóng đèn điện đầu tiên trên thế giới bằng cách nối các cột volta với các điện cực bằng than. Phát minh này được gọi là Hồ Quang Điện. Tuy nhiên, sản phẩm này tuy gây được chấn động lớn nhưng tính ứng dụng chưa cao do sản phẩm chưa thực sự có thể áp dụng cho thực tiễn, khi việc phát sáng diễn ra quá nhanh và chi phí tốn kém, hơn nữa quá sáng để sử dụng trong nhà hoặc nơi làm việc. Kết cục, phát minh của Davy vẫn nằm trên bàn giấy. Năm 1812 ông được phong tước hiệp sĩ, đọc bài diễn thuyết chia tay tại Viện Hoàng gia, và cưới một góa phụ giàu có là Jane Apreece. Sau kỳ nghỉ dài tại châu Âu lục địa, ông bắt đầu sản xuất đèn Davy là loại đèn an toàn cho công nhân mỏ. Ông cũng chỉ ra rằng oxy không thể thu được từ các chất gọi là acid oxymuriatic và chứng minh rằng chất thu được là một nguyên tố, ông đặt tên nó là chlorine (clo trong tiếng Việt). Phát minh này đã lật đổ định nghĩa của Lavoisier về acid như là hợp chất chứa oxy. Năm 1815 Davy giả thiết rằng các acid là các chất chứa hiđrô có thể thay thế – hiđrô mà có thể thay thế một phần hay toàn phần bởi các kim loại. Khi các acid phản ứng với kim loại thì chúng tạo thành các muối. Các base là các chất có phản ứng với acid để tạo ra muối và nước. Các định nghĩa này làm việc tốt trong nhiều thế kỷ. Ngày nay chúng ta sử dụng thuyết Brønsted-Lowry về acid và base. Năm 1818, ông được ban thưởng tước hiệu tòng nam tước. Năm 1824 ông đề xuất và cuối cùng đã tạo ra một lớp bọc bằng sắt cho thân tàu bằng đồng như là lần sử dụng đầu tiên của phương pháp bảo vệ catốt. Davy mất tại Geneva, Thụy Sĩ, việc hít thở phải hơi của các loại hóa chất khác nhau cuối cùng đã thể hiện tác hại của chúng đối với sức khỏe của ông. Người trợ tá phòng thí nghiệm của ông là Michael Faraday đã tiếp tục mở rộng các công trình của ông và sau đó đã trở nên nổi tiếng hơn và có ảnh hưởng hơn – đến mức mà Davy cho rằng Faraday là phát hiện lớn nhất của đời ông. Tuy nhiên, sau này ông đã kết tội người trợ tá của mình là ăn cắp ý tưởng của mình, điều này khiến cho Faraday đã phải giảm mọi nghiên cứu trong lĩnh vực điện từ trường cho đến tận khi người thầy thông thái của ông mất. Ngoài lề Bài thơ sau được coi là bài thơ theo thể Clerihew đầu tiên (một dạng thơ ngụ ngôn): Sir Humphry Davy Abominated gravy. He lived in the odium Of having discovered sodium. Tạm dịch: Ngài Humphry Davy Không ưa món nước xốt Sống trong sự căm ghét Vì tìm ra natri
Giá trị tuyệt đối () - còn thường được gọi là mô-đun (modulus) của một số thực x được viết là |x|, là giá trị của nó nhưng bỏ dấu. Như vậy |x| = -x nếu x là số âm (-x là số dương), và |x| = x nếu x là số dương, và |0| =0. Giá trị tuyệt đối của một số có thể hiểu là khoảng cách của số đó đến số 0. Trong toán học, việc sử dụng giá trị tuyệt đối có trong hàng loạt hàm toán học, và còn được mở rộng cho các số phức, véctơ, trường,... liên hệ mật thiết với khái niệm giá trị. Đồ thị của một hàm số có các biến số nằm trong dấu "giá trị tuyệt đối" thì luôn luôn nằm phía trên của trục hoành. Số thực Với mọi số thực , giá trị tuyệt đối của - ký hiệu là - được định nghĩa: Định nghĩa trên cho thấy, giá trị tuyệt đối của luôn là một số không âm. Hiểu theo góc độ hình học, giá trị tuyệt đối của một số thực là khoảng cách từ số đó đến điểm 0 trên đường thẳng thực (real number line, còn gọi là trục số thực). Tổng quát hơn, giá trị tuyệt đối giữa hai số thực khác nhau là khoảng cách giữa chúng trên đường thẳng thực, ví dụ: |5 - 3| = 2 (khoảng cách giữa 5 và 3). Mệnh đề 1 dưới đây là một đồng nhất thức (identity). Nó tương đương với định nghĩa trên và đôi khi có thể được sử dụng để định nghĩa về giá trị tuyệt đối. MỆNH ĐỀ 1: MỆNH ĐỀ 2: {| cellpadding=10 |- | |Tính không âm |- | |Xác định tính dương |- | |Tính kết hợp |- | |Subadditivity |} Chứng minh: Nếu hoặc bằng 0, chẳng hạn: Nếu và cùng bé hơn 0 hoặc cùng lớn hơn 0 thì ta có: Nếu và , có một số lớn 0, một số bé hơn 0 thì ta có: Với Với Vì và đều lớn hơn 0 nên hoặc đều nhỏ hơn tổng . Vậy ta luôn có: . MỆNH ĐỀ 3: {| cellpadding=10 |- | |Tính đối xứng |- | |Đẳng thức indiscernibles (tương đương với xác định dương) |- | |Bất đẳng thức tam giác (tương đương với subadditivity) |- | |Bảo toàn trong phép chia (tương đương với multiplicativeness) |- | |Điều phải chứng minh (Articles need to prove) |} Ta cũng có hai bất đẳng thức (inequalities) quan trọng: Hai bất đẳng thức trên thường được sử dụng để giải các bài toán bất đẳng thức khác. Ví dụ: {| |- | | |- | | |} Số phức Vì số phức (complex number) không có thứ tự, nên định nghĩa về giá trị tuyệt đối của các số phức không thể được suy ra từ định nghĩa tương ứng của các số thực. Tuy nhiên, từ đồng nhất thức ở mệnh đề 1 (xem phần số thực ở trên), ta có định nghĩa sau: Với mọi số phức: giá trị tuyệt đối hay mô-đun của z - ký hiệu là |z| - được định nghĩa là: Về góc độ hình học, ta thấy định nghĩa trên giống như định lý Pitago:
Thế kỷ 19 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1801 đến hết năm 1900, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory (tức là lịch cổ). Nhưng theo Lịch thiên văn, Thế kỷ 19 được bắt đầu từ ngày 1/1/1800 và kết thúc vào ngày 31/12/1899. Đôi khi những sử gia gọi thời kỳ "Thế kỷ XIX" là thời gian kéo dài từ năm 1815 (do Hội nghị Wien) tới năm 1914 (do Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu). Thay vì đó, Eric Hobsbawm gọi "Thế kỷ dài 19" là thời gian kéo dài từ 1789 đến 1914. Tổng quan Nhìn chung, Thế kỷ thứ XIX là một thế kỉ đầy biến động về rất nhiều mặt (bắt đầu thời Pháp Thuộc của Việt Nam, Cách mạng công nghiệp lần thứ 2, các trận chiến của Napoleon,...) Đặc điểm lịch sử Nó được xem là thế kỷ, mà chủ nghĩa tư bản mở rộng ra toàn thế giới. Thế kỷ 19 đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hóa, xã hội. Loài người bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại. Các dấu mốc lịch sử 1801 Thomas Jefferson đã được Hạ viện Hoa Kỳ bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ. 1801 Quân Nguyễn Ánh đánh chiếm kinh đô Phú Xuân khiến Quang Toản phải chạy ra Bắc 1801 Vương Quốc Anh và Ireland thống nhất. 1801 Ranjit Singh được bổ nhiệm làm vua Punjab. 1801 Napoléon ký kết Công ước năm 1801 với Đức Giáo hoàng. 1801 Cairo rơi vào tay Vương Quốc Anh 1801 Sa Hoàng Paul I bị ám sát 1801 Anh đánh bại Pháp tại Trận chiến thứ hai ở Abukir 1801-1815 Chiến tranh Barbary lần thứ nhất và chiến tranh Barbary lần thứ hai giữa Mỹ và các quốc gia Barbary Bắc Phi 1802 Hiệp ước Amiens giữa Pháp và Vương quốc Anh kết thúc Chiến tranh Liên minh số hai. 1802 Ludwig van Beethoven lần đầu tiên biểu diễn bài Sonata Moonlight của mình. 1802 Quân Tây Sơn chiếm Lại được Phú Xuân khiến Võ Tánh tự vẫn 1802: Nguyễn Ánh đánh chiếm thành công Thăng Long 1802-1831 Nguyễn Ánh truy tìm hậu duệ của Nhà Tây Sơn 1803 William Symington lần đầu phô bày chiếc tàu Charlotte Dundas của mình, chiếc tàu hơi nước đầu tiên. 1803 Nhà Wahhabis của Nước Ả Rập đầu tiên chiếm Mecca và Medina. 1803 Chiến tranh nổ ra giữa Anh và Pháp; đây được coi là sự khởi đầu của Chiến tranh Napoleon. 1803-1825 Giai đoạn đầu của Chiến tranh Padri 1804 Haiti giành được độc lập từ Pháp và trở thành nước cộng hòa của người da đen đầu tiên. 1804-1813 Chiến tranh Nga-Ba Tư 1804 Đế quốc Áo thành lập bởi Francis I. 1804 Napoleon tự phong cho mình là Hoàng đế Pháp. 1804 Dân số thế giới đạt 1 tỷ người. 1804: Đầu máy hơi nước đầu tiên bắt đầu hoạt động. 1804 Morphine bị cô lập lần đầu. 1804-1810 Fulani Jihad ở Nigeria. 1804-1815 Cuộc cách mạng của người Serbia nổi lên chống lại Đế Chế Ottoman. Sự độc lập của Serbia được công nhận vào năm 1817. 1804: Đế quốc Áo thành lập bởi Francis I. 1804: Napoleon tự phong cho mình Hoàng đế của Pháp. 1804: Dân số thế giới đạt 1 tỷ người. 1804: Đầu máy hơi nước đầu tiên bắt đầu hoạt động. 1804: Morphine bị cô lập lần đầu. 1804-1810: Fulani Jihad ở Nigeria. 1805: Trận Trafalgar 1805 Napoleon tiêu diệt quân Áo-Nga trong trận Trận Austerlitz 1805-1848 Muhammad Ali hiện đại hóa Ai Cập. 1806 Đế quốc La Mã Thần Thánh bị giải thể do hậu quả của Hiệp ước Pressburg 1806: Cape trở thành một thuộc địa của đế quốc Anh. 1806-1812 Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, Hiệp ước Bucharest. 1807 Nước Anh tuyên bố buôn bán nô lệ là bất hợp pháp. 1808: Beethoven trình diễn bản nhạc thứ năm của mình 1808-1809: Nga xâm lực Phần Lan từ Thụy Điển trong Chiến tranh Phần Lan. 1808 Những du kích Tây Ban Nha chiến đấu trong Chiến tranh Phần Lan Năm 1810: Đại học Berlin được thành lập. Trong số sinh viên và giảng viên của trường là Hegel, Marx và Bismarck. Cải cách đại học ở Đức đã thành công đến mức mô hình của nó được sao chép khắp thế giới 1810 Grito de Dolores bắt đầu Chiến tranh giành độc lập ở Mexico. 1810-1820 Hầu hết các thuộc địa Mỹ La Tinh tự giành độc lập khỏi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau khi các cuộc chiến tranh giành độc lập ở Mỹ Latinh. 1810-1820 Chiến tranh Punjab giữa đế quốc Sikh và đế quốc Anh 1812 Cuộc xâm lược của Pháp vào Nga 1812: Thủ tướng Anh Spencer Perceval bị ám sát 1884: chính phủ Cam-pu-chia(vua Nô-rô-đôm) kí hiệp ước thừa nhận trở thành thuộc địa của Pháp. 1890: Hồ Chí Minh, sau này là Lãnh tụ của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, khi đó là Nguyễn Sinh Cung, ra đời 1900: Liên quân tám nước tấn công thành Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải chạy đến Tây An lánh nạn.
Chùa Phổ Minh (Phổ Minh tự 普明寺) hay chùa Tháp là một ngôi chùa ở thôn Tức Mạc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Năm 2012, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Trần và chùa Phổ Minh được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Lịch sử Theo biên niên sử, chùa được xây dựng vào năm 1262, ở phía tây cung Trùng Quang của các vua nhà Trần. Nhưng theo các minh văn trên bia, trên chuông thì ngôi chùa này đã có từ thời nhà Lý. Có thể chùa đã được xây dựng lại với quy mô rộng lớn từ năm 1262. Tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn còn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần. Kiến trúc Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian tiền đường, 3 gian thiêu hương, toà thượng điện cũng 3 gian nhưng rộng hơn, xếp theo hình chữ "công". Bộ cửa gian giữa nhà tiền đường gồm 4 cánh bằng gỗ lim, to dày, chạm rồng, sóng nước, hoa lá và văn hoa hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng lớn chầu Mặt Trời trong khuôn hình lá đề, được coi là một tác phẩm điêu khắc khá hoàn mỹ. Cũng như đôi sấu đá trên thành bậc tam quan và đôi rồng trên thành bậc gian giữa tiền đường, bộ cánh cửa này còn giữ được những dấu ấn của nghệ thuật chạm khắc đời Trần. Hiện nay, hai cánh lưu trữ tại Bảo Tàng Nam Định, hai cánh còn lại lưu trữ tại Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia ở Hà Nội. Một số công trình kiến trúc bài trí khác đã làm tô thêm vẻ đẹp của chùa Phổ Minh, như 3 gian tam quan khung gỗ, tường gạch, mái ngói rêu phong, cổ kính với bức hoành phong đề 4 chữ lớn. "Đại hùng bảo điện" và thành bậc thềm ở chính giữa có chạm đôi sấu đá rất sống động, hai hồ tròn thả sen nằm đăng đối hai bên lối đi dẫn vào chùa. Trong chùa có bày tượng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (tượng nằm); tượng Trúc Lâm Tam tổ dưới bóng cây trúc; một số tượng Phật đẹp lộng lẫy. Chuông lớn của chùa có khắc bản văn "Phổ Minh đỉnh tự" đúc năm 1796 - chùa vốn có một vạc lớn, sử sách coi là một trong bốn vật báu của Việt Nam (An Nam tứ đại khí) nhưng nay không còn, nhưng phần bệ đá hoa sen từ thời Trần vẫn còn đến ngày nay. Sau thượng điện, cách một sân hẹp là ngôi nhà dài 11 gian. Ở giữa là 5 gian nhà tổ, bên trái là 3 gian nhà tăng và bên phải là 3 gian điện thờ. Hai dãy hành lang nối tiền đường ở phía trước với ngôi nhà 11 gian ở phía sau làm thành một khung vuông bao quanh kiến trúc chùa. Tháp Phổ Minh Kiến trúc thời nhà Trần được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là tháp Phổ Minh, dựng khoảng từ năm 1305 đến 1308. Tháp cao 19,51 m, gồm 14 tầng. Nền tháp và tầng thứ nhất xây bằng đá, những tầng còn lại phía trên xây bằng gạch. Tầng nào cũng trổ 4 cửa vòm cuốn, giữa các tầng là gờ mái... Tầng tháp thứ nhất đặt trên bệ đá, có hai lớp cánh sen, lớp dưới chúc xuống, lớp trên ngửa lên đỡ lấy tháp hình vuông, mỗi cạnh rộng hơn 5 mét. Bệ và tầng thứ nhất có những hình chạm nông trên mặt đá như hoa lá, sóng nước, mây cuốn, đặc trưng cho phong cách trang trí thời nhà Trần. Mặt ngoài những viên gạch các tầng trên được trang trí hình rồng. Theo các sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Đại Nam nhất thống chí và Nam Định địa dư chí, vào thời Tây Sơn năm 1789, trấn thủ Hải Dương (là/và/hoặc) Trần Túc đã phá tháp Phổ Minh để lấy đồng nhưng khi phá đến tầng thứ 2 hoặc 3 từ trên xuống thấy một luồng hơi đỏ bốc lên, do sợ nên giao xã sửa lại như cũ nhưng không còn đỉnh tháp bằng đồng. Trong bức ảnh "407. TONKIN - Nam-Dinh - Pagode consacrê au culte du lingam" chụp khoảng từ năm 1890 đến năm 1945 (không phải bức hình bên trên) có thể thấy tháp Phổ Minh không có đỉnh như ngày nay. Vào lần trùng tu tháp năm 1987 do ngành văn hóa tỉnh Nam Định chủ trì đã phát hiện một chiếc quách bằng đá vây quanh một hộp đồng ở tầng thứ 3 từ trên xuống Trong văn học, nghệ thuật Danh sĩ người xứ Đông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), sống thời Lê–Mạc, đồng thời là một cư sĩ tự nhận (Bạch Vân am cư sĩ), trong một lần qua vùng Sơn Nam Hạ vãn cảnh chùa Phổ Minh chừng hơn một thế kỷ sau loạn giặc Minh xâm lược qua đi, đã để lại bài thơ thất ngôn bát cú Du Phổ Minh tự được đưa vào tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập do chính ông đề tựa:
Thời điểm là một 'điểm mốc' trong một khoảng thời gian nào đấy. Thời điểm không có độ dài, nghĩa là nó chỉ được dùng để chỉ 'một điểm' để làm 'mốc' trong thời gian.
Công suất phản kháng, công suất hư kháng,công suất ảo Q là 1 khái niệm trong ngành kĩ thuật điện dùng để chỉ phần công suất điện được chuyển ngược về nguồn cung cấp năng lượng trong mỗi chu kỳ do sự tích lũy năng lượng trong các thành phần cảm kháng và dung kháng, được tạo ra bởi sự lệch pha giữa hiệu điện thế u(t) và dòng điện i(t). Khi u(t), i(t) biến đổi theo đồ thị hàm sin thì , với U, I: giá trị hiệu dụng u(t), i(t); φ là pha lệch giữa u(t), i(t). Công suất hư kháng Q là phần ảo của công suất biểu kiến S, S = P + iQ. Đơn vị đo Q là var (volt amperes reactive), 1 kvar = 1000 var.
Dưới đây là danh sách các Toàn quyền Đông Dương, xếp theo trật tự thời gian đảm nhiệm chức vụ, tính từ tháng 11 năm 1887 đến tháng 8 năm 1945. Ghi chú Một số người không rõ, sinh và mất
FIFA World Cup, hay đơn giản là World Cup, còn gọi là Giải vô địch bóng đá thế giới hoặc Cúp bóng đá thế giới trong tiếng Việt, là giải đấu bóng đá do Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA) tổ chức với chu kỳ 4 năm 1 lần cho tất cả các đội tuyển bóng đá nam quốc gia của những nước thành viên FIFA. Giải lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1930, và bị gián đoạn 2 lần vào các năm 1942 và 1946 do Chiến tranh thế giới thứ hai. Thể thức thi đấu hiện tại cho phép 48 đội bóng xuất sắc nhất tham dự vòng chung kết (kể từ năm 1930 và 1998) trong vòng một tháng. Vòng loại được tổ chức trong khoảng thời gian 3 năm trước đó nhằm xác định 47 đội giành quyền tham dự vòng chung kết cùng với đội tuyển của nước chủ nhà. World Cup là sự kiện thể thao thu hút sự quan tâm đông đảo nhất trên toàn thế giới. Lượng người xem World Cup 2018 ước tính đạt 3.57 tỷ người, gầm một nửa dân số toàn cầu, trong khi lượng người xem World Cup 2022 ước tính đạt 5 tỷ người với khoảng 1.5 tỷ người xem trận chung kết. Qua 22 lần (tính đến năm 2022) tổ chức, tính đến nay mới chỉ có 8 đội tuyển quốc gia vô địch giải đấu này. Brazil là đội tuyển duy nhất tham dự đủ 22 vòng chung kết và cũng là đội tuyển thành công nhất với 5 lần vô địch. Tiếp đó là Đức và Ý với 4 lần giành ngôi cao nhất. Argentina 3 lần nâng cúp, Pháp và Uruguay cùng có 2 danh hiệu. Anh và Tây Ban Nha mỗi đội đều có một lần vô địch. 17 quốc gia đã đăng cai ít nhất một kỳ World Cup. Brazil, Pháp, Ý, Đức và Mexico đã từng tổ chức hai lần, trong khi Uruguay, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Chile, Anh, Argentina, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc (đồng chủ nhà), Nam Phi, Nga và Qatar từng tổ chức một lần. World Cup 2026 sẽ được đồng tổ chức bởi Canada, Hoa Kỳ và Mexico, với Mexico trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới đăng cai ba kỳ World Cup, Hoa Kỳ lần thứ hai đăng cai và là lần đầu tiên Canada tổ chức sự kiện này. Tên gọi Tên gọi chính thức của FIFA World Cup đã có vài lần thay đổi. Thoạt đầu nó được gọi là "World Cup" (Cúp thế giới, Coupe du monde) sau đó là "Cúp Jules Rimet" (tên của cựu chủ tịch FIFA, người đề xướng giải đấu này), rồi đến "Giải vô địch bóng đá thế giới - Cúp Jules Rimet" và sau cùng là "FIFA World Cup". Tại Việt Nam, "World Cup" được gọi phổ biến hơn hẳn so với "Giải vô địch bóng đá thế giới". Lịch sử Các giải đấu quốc tế trước đây Trận đấu bóng đá quốc tế đầu tiên trên thế giới là trận đấu diễn ra tại Glasgow năm 1872 giữa 2 tiểu quốc tự trị là Scotland và Anh (nay thuộc Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland), kết thúc với tỷ số hòa 0-0. Giải đấu quốc tế đầu tiên, Giải vô địch Anh quốc khai mạc, diễn ra vào năm 1884. Khi bóng đá ngày càng phổ biến ở các nơi khác trên thế giới vào đầu thế kỷ 20, nó được tổ chức như một môn thể thao không có huy chương dành cho các vận động viên thể thao không chuyên nghiệp tại Thế vận hội Mùa hè 1900 và 1904 (tuy nhiên, IOC đã nâng cấp vị thế của chúng thành các sự kiện chính thức) và tại Thế vận hội Mùa hè 1906 (Olympic 1896 vẫn gây tranh cãi về việc liệu có từng diễn ra môn bóng đá giữa 2 đội của Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay tại châu Âu hay không). Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland là nhà vô địch Olympic đầu tiên vào năm 1900. Sau khi FIFA được thành lập vào năm 1904, tổ chức này đã cố gắng sắp xếp một giải đấu bóng đá chuyên nghiệp quốc tế giữa các quốc gia bên ngoài khuôn khổ Olympic vào năm 1906. Đây là những ngày đầu tiên của bóng đá quốc tế, và lịch sử của FIFA mô tả cuộc thi là một thất bại. Tại Thế vận hội Mùa hè 1908 ở London, bóng đá đã trở thành một cuộc thi chính thức. Được lên kế hoạch bởi Hiệp hội bóng đá Anh (FA), cơ quan quản lý bóng đá của Anh, sự kiện này chỉ dành cho các cầu thủ nghiệp dư và bị nghi ngờ là một chương trình chứ không phải là một cuộc thi. Vương quốc Anh (đại diện bởi đội bóng đá nghiệp dư quốc gia Anh) đã giành huy chương vàng. Họ lặp lại thành tích này tại Thế vận hội Mùa hè 1912 ở Stockholm. Với sự kiện Olympic tiếp tục được thi đấu giữa các đội nghiệp dư, Sir Thomas Lipton đã tổ chức giải đấu Sir Thomas Lipton Trophy ở Turin vào năm 1909. Giải đấu Lipton là giải vô địch giữa các câu lạc bộ cá nhân (không phải các đội tuyển quốc gia) từ các quốc gia khác nhau, mỗi đội đại diện cho cả một quốc gia). Cuộc thi đôi khi được mô tả là Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên và với sự góp mặt của các câu lạc bộ chuyên nghiệp uy tín nhất từ ​​Ý, Đức và Thụy Sĩ, nhưng Hiệp hội bóng đá Anh đã từ chối cuộc thi và từ chối lời đề nghị gửi một đội chuyên nghiệp. Lipton đã mời West Auckland, một đội bóng nghiệp dư từ County Durham, đại diện thay thế cho nước Anh. West Auckland đã vô địch giải đấu và trở lại vào năm 1911 để bảo vệ thành công danh hiệu của họ. Năm 1914, FIFA đã công nhận Olympic là "giải vô địch bóng đá thế giới dành cho người nghiệp dư" và chịu trách nhiệm quản lý sự kiện này. Điều này đã mở đường cho cuộc thi bóng đá liên lục địa đầu tiên trên thế giới, tại Thế vận hội Mùa hè 1920, với các trận đấu gồm Ai Cập và 13 đội châu Âu và chiến thắng cuối cùng thuộc về Bỉ. Uruguay đã giành được huy chương vàng ở hai giải đấu bóng đá Olympic tiếp theo vào năm 1924 và 1928. Do đó cũng là hai giải vô địch thế giới đầu tiên, vì năm 1924 là khởi đầu của kỷ nguyên bóng đá chuyên nghiệp của FIFA. World Cup trước Thế chiến II Sau sự thành công của các giải đấu bóng đá Olympic, FIFA được sự thúc giục bởi chủ tịch Jules Rimet, một lần nữa bắt đầu xem xét việc tổ chức giải đấu quốc tế riêng biệt bên ngoài Thế vận hội. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1928, Đại hội FIFA tại Amsterdam đã quyết định tổ chức một giải vô địch thế giới. Với việc Uruguay đã hai lần vô địch hai kỳ Olympic gần nhất và để kỷ niệm một trăm năm độc lập của nước này vào năm 1930, FIFA đã chọn Uruguay là nước chủ nhà của giải đấu. Các hiệp hội bóng đá quốc gia của các quốc gia được chọn đã được mời để gửi đội tham dự, nhưng việc lựa chọn nơi tổ chức là Uruguay đồng nghĩa với việc sẽ cần một chuyến đi dài và tốn kém để băng qua Đại Tây Dương cho các đội bóng châu Âu. Thật vậy, không có quốc gia châu Âu nào cam kết gửi đội tham gia cho đến thời điểm hai tháng trước khi bắt đầu giải. Rimet cuối cùng đã thuyết phục các đội từ Bỉ, Pháp, Romania và Nam Tư thực hiện chuyến đi. Tổng cộng, 13 quốc gia đã tham gia: bảy từ Nam Mỹ, bốn từ Châu Âu và hai từ Bắc Mỹ. Hai trận đấu World Cup đầu tiên diễn ra đồng thời vào ngày 13 tháng 7 năm 1930; Pháp và Hoa Kỳ là đội chiến thắng trong 2 trận đầu tiên của giải, lần lượt đánh bại Mexico 4-1 và Bỉ 3-0. Bàn thắng đầu tiên trong lịch sử World Cup được ghi bởi Lucien Lauros của Pháp. Trong trận chung kết, Uruguay đã đánh bại Argentina 4-2 trước sự theo dõi của 93.000 khán giả ở Montevideo và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup. Sau khi World Cup thành lập, FIFA và IOC không đồng ý với sự tham gia của các cầu thủ nghiệp dư và vì thế bóng đá đã bị loại khỏi Thế vận hội Mùa hè 1932. Bóng đá ở Olympic đã trở lại từ Thế vận hội Mùa hè 1936 tại Đức, nhưng đã bị lu mờ bởi một World Cup hấp dẫn và danh giá hơn. Các vấn đề phải đối mặt với các Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên trong thập niên 1930 cũng như trong bóng đá nói riêng và thể thao nói chung là những khó khăn sâu sắc của việc di chuyển xuyên lục địa và chiến tranh-chính trị. Rất ít các đội lục địa Nam Mỹ sẵn sàng tới châu Âu tham dự World Cup 1934 và tất cả các quốc gia Bắc và Nam Mỹ, ngoại trừ Brazil và Cuba, đã tẩy chay giải đấu năm 1938. Brazil là đội Nam Mỹ duy nhất tham gia cả hai giải. Giải vô địch năm 1942 và 1946 mà Đức và Brazil đã tìm cách tổ chức đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ hai và hậu quả nghiêm trọng của nó. World Cup sau Thế chiến II World Cup 1950 được tổ chức tại Brazil là lần đầu tiên xuất hiện các đội tuyển thuộc Vương quốc Anh. Vương quốc Anh đã rút khỏi FIFA năm 1920, một phần do không muốn thi đấu với các quốc gia đã có chiến tranh với họ, và phần khác là do các cuộc biểu tình chống lại sự ảnh hưởng của nước ngoài đối với bóng đá nhưng đã chấp nhận gia nhập lại vào năm 1946 theo lời mời của FIFA. Giải đấu cũng chứng kiến ​​sự trở lại của nhà vô địch năm 1930 Uruguay, đội bóng đã tẩy chay hai kỳ World Cup trước đó. Uruguay đã vô địch giải đấu một lần nữa sau khi đánh bại đội chủ nhà Brazil, trong trận đấu mang tên "Maracanazo" (tiếng Bồ Đào Nha: Maracanaço). Trong các giải đấu từ năm 1934 đến 1978, 16 đội thi đấu tại vòng chung kết, ngoại trừ năm 1938, khi Áo bị sáp nhập vào Đức sau vòng loại, do đó chỉ còn 15 đội và năm 1950, khi Ấn Độ, Scotland và Thổ Nhĩ Kỳ rút lui, giải đấu chỉ còn 13 đội. Hầu hết các quốc gia tham dự là từ Châu Âu và Nam Mỹ, với một số ít từ Bắc Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương. Các đội này thường bị đánh bại dễ dàng bởi các đội châu Âu và Nam Mỹ vốn mạnh hơn hẳn và do đó giải đấu tiếp tục duy trì thế độc tôn là sự kiện thể thao lớn nhất trong thời hiện đại. Cho đến năm 1982, chỉ có các đội sau ​​ngoài châu Âu và Nam Mỹ vượt qua vòng bảng: Hoa Kỳ vào bán kết vào năm 1930; Cuba vào tứ kết năm 1938; Bắc Triều Tiên vào tứ kết năm 1966; và Mexico vào tứ kết năm 1970. Mở rộng tới 32 đội Giải đấu được mở rộng thành 24 đội vào năm 1982 và sau đó tăng lên 32 đội vào năm 1998, ngoài ra cũng cho phép nhiều đội hơn từ Châu Phi, Châu Á và Bắc Mỹ tham gia. Kể từ đó, các đội từ các khu vực này đã gặt hái được nhiều thành công hơn, một số trong đó đã lọt vào tứ kết: Mexico vào tứ kết năm 1986; Cameroon vào tứ kết năm 1990; Hàn Quốc lọt vào bán kết năm 2002; Sénégal cùng với Hoa Kỳ, lọt vào tứ kết năm 2002; Ghana lọt vào tứ kết năm 2010; Costa Rica lọt vào tứ kết vào năm 2014 và Maroc lọt tới bán kết năm 2022. Tuy nhiên, các đội châu Âu và Nam Mỹ vẫn tiếp tục thống trị; các đội lọt vào tứ kết của các giải đấu năm 1994, 1998, 2006 và 2018 đều là các đội châu Âu và Nam Mỹ. 199 đội đã tham dự vòng loại World Cup 2002; 198 quốc gia đã thi đấu tại vòng loại World Cup 2006, trong khi kỷ lục về số quốc gia tham dự vòng loại là 214 ở giải năm 2018. Mở rộng tới 48 đội Vào tháng 10 năm 2013, Sepp Blatter đã nói về việc đảm bảo cho khu vực của Liên đoàn bóng đá Caribe một vị trí tại World Cup. Trong ấn bản ngày 25 tháng 10 năm 2013 của tuần báo FIFA Weekly, Blatter đã viết rằng: "Từ góc độ thể thao thuần túy, tôi muốn thấy sự toàn cầu hóa cuối cùng được thực hiện nghiêm túc mà các hiệp hội thể thao quốc gia châu Phi và châu Á đã đạt được vị thế mà họ xứng đáng tại Giải vô địch bóng đá thế giới." Sau khi xuất bản tạp chí, đối thủ của Blatter cho cương vị Chủ tịch FIFA, Chủ tịch UEFA Michel Platini, trả lời rằng ông dự định mở rộng World Cup lên tới 40 hiệp hội bóng đá quốc gia, tăng số lượng đội tham dự hiện tại lên 8 đội. Platini nói rằng ông sẽ phân bổ một suất bổ sung cho UEFA, hai cho Liên đoàn bóng đá châu Á và Liên đoàn bóng đá châu Phi, hai suất được chia sẻ giữa CONCACAF và CONMEBOL, và một suất bảo đảm cho Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương. Platini đã nói rõ về lý do tại sao ông muốn mở rộng World Cup: "World Cup không dựa trên chất lượng của các đội vì bạn không có 32 người giỏi nhất tại World Cup... nhưng đó là một sự thỏa hiệp tốt.... Đó là vấn đề chính trị vậy tại sao không có nhiều nước châu Phi hơn? Giải đấu mang lại cho tất cả mọi người trên toàn thế giới. Nếu không cho họ cơ hội tham gia, bóng đá sẽ không tiến bộ." Vào tháng 10 năm 2016, chủ tịch FIFA Gianni Infantino tuyên bố ủng hộ tăng số đội World Cup lên 48 đội vào năm 2026. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2017, FIFA xác nhận World Cup 2026 sẽ có 48 đội vào chung kết. Vụ án tham nhũng FIFA 2015 Tháng 5 năm 2015, các cáo buộc hình sự về tội nhận hối lộ, lừa đảo và rửa tiền để tham nhũng trong việc phát hành quyền truyền thông và tiếp thị (đấu thầu gian lận) cho các giải đấu của FIFA, với các quan chức FIFA bị buộc tội nhận hối lộ với tổng số tiền hơn 150 triệu đô la trong 24 năm. Vào cuối tháng 5, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã công bố bản cáo trạng 47 tội danh với các cáo buộc đấu giá, lừa đảo qua đường dây và rửa tiền âm mưu chống lại 14 người. Việc bắt giữ hơn một chục quan chức FIFA đã được thực hiện kể từ thời điểm đó, đặc biệt là vào ngày 29 tháng 5 và ngày 3 tháng 12. Đến cuối tháng 5 năm 2015, tổng cộng chín quan chức FIFA và năm giám đốc điều hành của các thị trường thể thao và phát thanh truyền hình đã bị buộc tội tham nhũng. Vào thời điểm đó, Chủ tịch FIFA Sepp Blatter tuyên bố sẽ từ bỏ vị trí của mình vào tháng 2 năm 2016. Vào ngày 4 tháng 6 năm 2015, Chuck Blazer khi hợp tác với FBI và chính quyền Thụy Sĩ đã thừa nhận rằng ông và các thành viên khác trong ủy ban điều hành của FIFA đã bị mua chuộc để quảng bá cho World Cup 1998 và 2010. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2015, chính quyền Thụy Sĩ đã tịch thu dữ liệu máy tính từ các văn phòng của Sepp Blatter. Cùng ngày, FIFA đã hoãn quá trình đấu thầu World Cup 2026 trước những cáo buộc xung quanh việc hối lộ trong các giải đấu 2018 và 2022. Tổng thư ký lúc bấy giờ Jérôme Valcke tuyên bố: "Do tình hình này, tôi nghĩ rằng thật vô lý khi bắt đầu bất kỳ quy trình đấu thầu nào trong thời điểm hiện tại." Vào ngày 28 tháng 10 năm 2015, Blatter và Phó chủ tịch FIFA đã bị đình chỉ làm việc trong 90 ngày; cả hai đều thừa nhận vô tội trong các tuyên bố gửi cho các phương tiện truyền thông. Vào ngày 3 tháng 12 năm 2015, hai phó chủ tịch FIFA đã bị bắt vì nghi ngờ hối lộ trong cùng một khách sạn ở Zurich, Áo, nơi bảy quan chức FIFA đã bị bắt giữ vào tháng 5. Thêm 16 cáo trạng của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã được công bố cùng ngày. Các giải đấu FIFA khác Một giải đấu tương đương dành cho bóng đá nữ, Giải vô địch bóng đá nữ thế giới, lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1991 tại Trung Quốc. Giải đấu dành cho nữ có quy mô nhỏ hơn nam giới, nhưng đang trong quá trình phát triển; số lượng quốc gia tham gia giải đấu năm 2007 là 120, nhiều hơn gấp đôi so với năm 1991. Bóng đá nam đã được đưa vào mọi kỳ Thế vận hội Olympic mùa hè trừ năm 1896 và 1932. Không giống như nhiều môn thể thao khác, giải bóng đá nam tại Thế vận hội không phải là giải đấu cấp cao nhất và kể từ năm 1992, một giải đấu dành cho độ tuổi dưới 23 (U-23) với mỗi đội được phép mang ba cầu thủ vượt quá tuổi được tổ chức. Bóng đá nữ ra mắt tại Olympic năm 1996. Cúp Liên đoàn các châu lục (FIFA Confederations Cup) là giải đấu được tổ chức một năm trướcWorld Cup tại (các) quốc gia đăng cai World Cup như một đợt thử nghiệm, khảo sát cho kỳ World Cup sắp tới. FIFA cũng tổ chức các giải đấu quốc tế dành cho bóng đá trẻ (Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới, Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới, Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới, Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới), bóng đá câu lạc bộ (Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ (FIFA Club World Cup)), và các biến thể bóng đá như futsal (Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới (FIFA Futsal World Cup)) và bóng đá bãi biển (Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới (FIFA Beach Soccer World Cup)). Ba giải sau không có phiên bản dành cho nữ, mặc dù Giải vô địch bóng đá nữ thế giới các câu lạc bộ đã được đề xuất. Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới được tổ chức một năm trước mỗi kỳ của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới. Giải đấu U-20 đóng vai trò là một đợt thử nghiệm cho giải đấu lớn hơn. Sự kiện chính Năm 1930, giải đấu đầu tiên được tổ chức tại Uruguay, là kỳ World Cup duy nhất mà tất cả các trận đấu được tổ chức ở cùng một thành phố là Montevideo, thủ đô Uruguay và không tổ chức vòng loại. Uruguay trở thành đội đầu tiên vô địch giải đấu khi tổ chức trên sân nhà. Năm 1934, kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Âu và số đội tham dự là 16, giải duy nhất mà đội chủ nhà cũng phải tham dự vòng loại. Ý là đội giành chức vô địch lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Tiệp Khắc với tỉ số 2-1 sau 2 hiệp phụ (2 đội hoà nhau với tỉ số 1-1 sau 90 phút thi đấu chính thức). Năm 1938, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Pháp. Ý trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Hungary với tỉ số 4-2 trong trận chung kết. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng trước khi giải đấu bị gián đoạn vào năm 1942 và năm 1946 do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1950, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Brazil. Uruguay trở thành đội bóng châu Mỹ giành chức vô địch lần thứ 2 của mình. Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. Đây cũng là kỳ World Cup trở lại sau 12 năm gián đoạn vì do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1954, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Thụy Sĩ, và cũng là lần đầu tiên giải được chiếu trên truyền hình. Đội tuyển Tây Đức trở thành đội giành chức vô địch lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Hungary với tỉ số 3-2 trong trận chung kết. Năm 1958, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Thụy Điển. Đội tuyển chủ nhà Thuỵ Điển có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào trận chung kết của 1 kỳ World Cup, Brasil lần đầu tiên vô địch thế giới và là lần đầu tiên giải thưởng cầu thủ trẻ xuất sắc nhất ra đời và cũng là lần đầu tiên một đội tuyển quốc gia Nam Mỹ vô địch trên đất châu Âu. Năm 1962, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Chile, và cũng là lần đầu tiên hiệu số bàn thắng được sử dụng để phân hạng 2 đội bằng điểm. Đội tuyển Brasil giành chức vô địch lần thứ 2 sau thắng lợi trước đội tuyển Tiệp Khắc với tỉ số 3-1 trong trận chung kết. Năm 1966, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Anh, và cũng là lần thứ hai 4 đội vào bán kết đều đến từ Châu Âu. Đội tuyển chủ nhà Anh đã giành chức vô địch thế giới lần đầu tiên sau thắng lợi trước đội tuyển Tây Đức với tỉ số 4-2 (2 đội hoà nhau với tỉ số 2-2 sau 2 hiệp thi đấu chính thức). Brasil trở thành cựu vô địch lần thứ 2 bị loại từ vòng bảng. Năm 1970, kỳ World Cup lần đầu tiên tổ chức tại quốc gia Bắc Mỹ là México, Brasil trở thành đội bóng đầu tiên vô địch 3 lần và giữ cúp vĩnh viễn, lần đầu tiên thẻ vàng, thẻ đỏ và giải thưởng đội tuyển phong cách được áp dụng. Năm 1974, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Tây Đức. Cúp FIFA World Cup được ra đời. Đội tuyển chủ nhà Tây Đức đã giành chức vô địch thế giới trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số 2-1 trong trận chung kết. Năm 1978, kỳ World Cup thứ 5 tổ chức tại châu Mỹ và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại Argentina. Đội tuyển chủ nhà Argentina lần đầu tiên đoạt chức vô địch bóng đá thế giới sau thắng lợi trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số 3-1 sau hai hiệp phụ (vì 2 đội có tỉ số hòa 1-1 ở hai hiệp thi đấu chính thức 90 phút). Năm 1982, lần đầu tiên Tây Ban Nha đăng cai giải đấu này và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Iberia, giải đấu tăng số đội lên thành 24 đội. Ý trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên có 3 chức vô địch sau thắng lợi trước Tây Đức với tỉ số 3-1 trong trận chung kết. Năm 1986, México trở thành quốc gia đầu tiên đăng cai giải đầu lần thứ 2 (lần trước là kỳ World Cup 1970). Đội tuyển Argentina trở thành đội bóng châu Mỹ giành chức vô địch lần thứ 2 trong lịch sử sau thắng lợi trước đội tuyển Tây Đức với tỉ số 3-2 trong trận chung kết. Năm 1990, Ý trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên 2 lần đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1934). Đội tuyển Tây Đức trở thành đội bóng châu Âu giành chức vô địch lần thứ 3 sau thắng lợi trước đội tuyển Argentina với tỉ số 1-0 trong trận chung kết. Năm 1994, lần đầu tiên Hoa Kỳ đăng cai giải đấu này, Brasil lần thứ 4 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới sau thắng lợi trước đội tuyển Ý với tỉ số luân lưu 3-2 (vì hai đội hoà nhau ở hai hiệp thi đấu chính thức và hai hiệp phụ). Đây cũng là lần đầu tiên trận chung kết phải bước vào loạt sút luân lưu. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng có 24 đội trước khi kỳ World Cup 1998 nâng số đội tuyển tham gia là 32 đội. Năm 1998, Pháp đăng cai giải đấu World Cup lần thứ 2 sau chủ nhà Ý (lần trước là kỳ World Cup 1938). Và đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên tăng số đội tham dự lên 32 đội. Pháp trở thành đội bóng châu Âu lần đầu tiên giành chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Brazil với tỉ số 3-0 trong trận chung kết. Năm 2002, kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Á và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia. Đội tuyển Hàn Quốc trở thành đội bóng châu Á lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào vòng bán kết của 1 kỳ World Cup. Đội tuyển Nhật Bản có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào vòng 16 đội của 1 kỳ World Cup, nhưng đã để thua trước đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ với tỉ số là 0-1. Còn đội tuyển Pháp trở thành nhà đương kim vô địch thứ 3 bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển Brasil lần thứ 5 đoạt chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Đức với tỉ số 2-0 trong trận chung kết. Năm 2006, kỳ World Cup lần thứ 2 tổ chức tại Đức (lần trước là kỳ World Cup 1974). Đây cũng là lần thứ tư có 4 đội vào bán kết đều thuộc châu Âu. Và đây cũng là trận chung kết lần thứ 2 phải đá loạt sút luân lưu. Ý trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên giành chức vô địch sau thắng lợi trước đội tuyển Pháp với tỉ số 5-3 (sau loạt sút luân lưu) vì hai đội hoà sau 2 hiệp thi đấu chính thức và 2 hiệp phụ với tỉ số 1-1. Đức trở thành quốc gia thứ 3 ở châu Âu lần thứ 2 đăng cai World Cup. Năm 2010, kỳ World Cup lần đầu tiên diễn ra ở châu Phi. Đội tuyển Nam Phi trở thành đội chủ nhà đầu tiên không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup. Đôi tuyển Ý trở thành cựu vô địch thứ 4 sau khi bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển Tây Ban Nha trở thành đội bóng châu Âu lần đầu tiên giành chức vô địch sau khi giành chiến thắng trước đội tuyển Hà Lan với tỉ số chung cuộc 1-0 sau 2 hiệp phụ (vì 2 đội hoà nhau ở 2 hiệp thi đấu chính thức với tỉ số 0-0). Năm 2014, Brasil đăng cai giải đấu này lần thứ 2 (lần trước là kỳ World Cup 1950). Giải đấu này được tổ chức tại Nam bán cầu và lần đầu tiên trong lịch sử vòng chung kết, công nghệ goal-line được áp dụng cho tất cả các trận đấu. Đội tuyển Đức trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch trên đất châu Mỹ sau thắng lợi trước đội tuyển Argentina với tỉ số 1-0 (vì hai đội hoà nhau với tỉ số 0-0 sau hiệp thi đấu chính thức 90 phút). Còn đội tuyển Tây Ban Nha chính thức trở thành nhà đương kim vô địch thứ 5 sau khi bị loại ngay ở vòng bảng. Năm 2018, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Liên Xô cũ, kỳ World Cup đầu tiên mà công nghệ hỗ trợ trọng tài (VAR) đã được sử dụng. Đội tuyển Đức trở thành cựu vô địch thứ 6 khi bị loại ngay từ vòng bảng. Đội tuyển chủ nhà Nga có lần đầu tiên trong lịch sử giành quyền vào vòng tứ kết của một kỳ World Cup. Đội tuyển Pháp trở thành đội bóng châu Âu lần thứ 2 giành chức vô địch (sau kỳ World Cup 1998). Đội tuyển Croatia có lần đầu tiên trong lịch sử lọt vào trận chung kết của một kỳ World Cup (lần gần đây nhất là vào năm 1998, Croatia thất bại trước đội tuyển chủ nhà Pháp với tỉ số 2-1 trong trận bán kết 2 của kỳ World Cup 1998). Và đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên mà đội tuyển Croatia giành giải á quân. Đội tuyển Bỉ có lần đầu tiên giành hạng 3, còn đội tuyển Anh lọt vào top 4 đội mạnh nhất lần thứ 3 (trong đó có kỳ World Cup 1966 mà họ đã giành chức vô địch) và cũng là lần đầu tiên là vào kỳ World Cup 1990. Đáng chú ý là đội tuyển Ý đã từng 4 lần vô địch không tham dự giải vì không vượt qua vòng loại. Năm 2022, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Trung Đông, và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Thế giới Ả Rập và được tổ chức vào mùa đông. Là kỳ World Cup áp dụng sự đổi mới về công nghệ như Vạch vôi điện tử Goal-line, Video hỗ trợ trọng tài VAR, đặc biệt có thêm công nghệ Bắt việt vị bán tự động SAOT (thực chất là bản nâng cấp hình ảnh 3D của VAR) và công nghệ cảm biến trong trái bóng Al Rihla để theo dõi vị trí quả bóng cùng nhiều thứ khác. Đây là kỳ World Cup lần thứ 2 được tổ chức tại châu Á (sau kỳ World Cup 2002) được tổ chức ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Qatar chính thức trở thành nước chủ nhà thứ 3 của châu Á giành quyền đăng cai World Cup, và cũng là đội chủ nhà thứ hai (sau đội tuyển Nam Phi ở kỳ World Cup 2010) không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup. Đội tuyển từng 4 lần vô địch, Ý có lần thứ 2 liên tiếp không vượt vòng loại của giải. Một đội tuyển khác cũng từng 4 lần vô địch là đội tuyển Đức có lần thứ 2 liên tiếp không vượt qua vòng bảng. Đội tuyển Bỉ giành hạng ba World Cup 2018, cũng không vượt qua vòng bảng lần đầu tiên vào năm 1998. Đội tuyển Uruguay 2 lần vô địch bị loại từ vòng bảng sau 20 năm từ World Cup 2002. Đội tuyển Mexico bị loại từ vòng bảng sau 44 năm từ World Cup 1978. Đội tuyển Đan Mạch có lần đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng từ World Cup 2010. Đội tuyển Úc và đội tuyển Hàn Quốc vượt qua vòng bảng lần lượt vào kỳ World Cup 2006 và World Cup 2010. Đội tuyển Bồ Đào Nha có lần đầu tiên dừng bước ở vòng tứ kết, trong khi đó đội tuyển Brasil có lần thứ 2 liên tiếp dừng bước tại vòng này, còn đội tuyển Anh vẫn là đội có nhiều lần thất bại ở tứ kết nhất với 7 lần. Đội tuyển Maroc đi vào lịch sử khi trở thành đội tuyển châu Phi đầu tiên giành quyền vào bán kết của 1 kỳ World Cup. Đội tuyển Croatia, á quân World Cup 2018 có lần thứ 2 giành hạng 3 sau kỳ World Cup 1998. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng có 32 đội tham dự trước khi kỳ World Cup 2026 sẽ nâng số đội tuyển tham gia là 48 đội. Đội tuyển Argentina lần thứ ba giành chức vô địch (sau kỳ World Cup 1978 và World Cup 1986) sau khi vượt qua đương kim vô địch Pháp với tỉ số 4-2 ở loạt sút luân lưu 11m (3-3 sau hiệp phụ). Năm 2026, số đội tham dự tăng lên thành 48 đội, lần đầu tiên tổ chức ở 3 quốc gia và México trở thành quốc gia đầu tiên của Bắc Mỹ 3 lần làm chủ nhà giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1970 và World Cup 1986), Hoa Kỳ lần thứ hai đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1994) và lần đầu tiên Canada tổ chức giải đấu. Năm 2030, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chúc ở 3 quốc gia thuộc hai châu lục khác nhau và Tây Ban Nha lần thứ hai đăng cai giải đấu (lần trước là kỳ World Cup 1982 và lần đầu tiên Bồ Đào Nha và Maroc đồng tổ chức giải đấu. Tuy nhiên 3 trận khai mạc của giải diễn ra tại Argentina, Paraguay và Uruguay nhằm kỷ niệm 100 năm giải đấu ra đời. Năm 2034, kỳ World Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Ả Rập Xê Út và Ả Rập Xê Út trở thành quốc gia châu Á thứ ba sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Qatar cũng như quốc gia Trung Đông thứ hai sau Qatar tổ chức giải đấu này. Cúp Từ năm 1930 đến 1970, Cúp Jules Rimet đã được trao cho đội vô địch World Cup. Ban đầu nó được gọi đơn giản là World Cup hoặc Coupe du Monde, nhưng vào năm 1946, nó được đổi tên sau khi chủ tịch FIFA Jules Rimet thành lập giải đấu. Từ năm 1970 trở về trước, đội vô địch thế giới được trao "cúp vàng" mà trong các văn kiện chính thức của FIFA gọi là "vật phẩm nghệ thuật". Đó là bức tượng nhỏ hình "Nữ thần chiến thắng Nike" (theo thần thoại Hy Lạp) mà trong giới bóng đá thường gọi là tượng "Nữ thần vàng". Theo đơn đặt hàng của FIFA, chiếc tượng này được hoàn thành năm 1928 do một người thợ kim hoàn ở Paris tên là Abel Lafleur đúc bằng vàng thật, nặng 1,8 kg (với chiếc đế bằng đá hoa cương nặng chừng 4 kg), trị giá 10.000 USD. Trước Giải thế giới năm 1970, FIFA giữ "Cup vàng" theo điều lệ quy định để rồi trao cho liên đoàn bóng đá quốc gia thuộc nước có đội bóng đoạt chức vô địch thế giới rồi trả lại cho FIFA trước khi tiến hành vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới lần sau. Năm 1970, sau 3 lần vô địch, như trong điều lệ quy định, đội Brasil đã được trao tặng vĩnh viễn "Nữ thần vàng". Tuy nhiên, chiếc cúp đã bị đánh cắp vào năm 1983 và chưa bao giờ được tìm lại, dường như đã bị những tên trộm nấu chảy. Sau giải năm đó, FIFA đặt làm chiếc cúp mới lấy tên là Cúp thế giới FIFA. Chiếc cúp này là cúp luân lưu, không đội bóng nào có thể đoạt vĩnh viễn cả. Những đội bóng vô địch sẽ được trao tặng chiếc cúp mẫu thu nhỏ để làm kỷ niệm cùng với việc được giữ chiếc cúp chính thức trong thời gian giữa 2 giải vô địch bóng đá thế giới. Chiếc cúp mới được đúc bằng vàng thật do nghệ sĩ người Ý Silvio Gazzaniga sáng tác, sau khi vượt qua 53 nghệ nhân để trở thành người thắng cuộc, với chiều cao 36,5 cm được làm bằng vàng nguyên khối 18 carat (75%), nặng 6,175 kg, trị giá 20.000 USD. Cúp này do người thợ kim hoàn Stabilimento Artistico Bertoni ở thành phố Milano đúc. Chiếc cúp mang hình 2 thanh niên với 4 cánh tay giơ cao đỡ lấy quả Địa Cầu. Phần kim loại của chiếc cúp hiện nay là 4,9 kg "vàng nguyên khối 18 carat" và có 2 lớp đá malachit trong khi mặt dưới của chiếc cúp khắc tên của những quốc gia vô địch giải vô địch bóng đá thế giới kể từ năm 1974. Mô tả về chiếc cúp của Gazzaniga là: "Những đường thẳng xuất phát từ dưới, vươn lên theo hình xoắn ốc, vươn ra để tiếp nhận thế giới. Từ những đường nét đáng chú ý của cơ thể được điêu khắc, bức tượng nổi lên với khoảnh khắc chiến thắng." Hiện tại, tất cả các thành viên (cầu thủ, huấn luyện viên và người quản lý) của ba đội hàng đầu giải đấu đều nhận được huy chương với một huy hiệu của Cúp vô địch bóng đá thế giới; quán quân (vàng), á quân (bạc) và hạng ba (đồng). Trong phiên bản 2002, huy chương vị trí thứ tư đã được trao cho chủ nhà Hàn Quốc. Trước giải đấu năm 1978, huy chương chỉ được trao cho mười một cầu thủ trên sân trong trận chung kết và trận tranh hạng ba. Vào tháng 11 năm 2007, FIFA đã thông báo rằng tất cả các thành viên của đội tuyển vô địch World Cup từ năm 1930 đến năm 1974 sẽ được trao lại huy chương. Thể thức Vòng loại Kể từ kỳ World Cup thứ hai vào năm 1934, vòng loại đã được tổ chức để chọn ra các ứng viên đủ điều kiện cho vòng chung kết. Vòng loại được tổ chức trong sáu khu vực (Châu Phi, Châu Á, Bắc, Trung Mỹ và Caribbean, Nam Mỹ, Châu Đại Dương và Châu Âu), được giám sát bởi các liên đoàn của họ. Đối với mỗi giải đấu, FIFA quyết định số suất tham dự được trao cho từng khu vực lục địa trước đó, thường dựa trên sức mạnh và thành tích quốc tế của các đội trong liên đoàn. Vòng loại có thể bắt đầu sớm nhất là gần ba năm trước khi vòng chung kết diễn ra và kéo dài trong khoảng thời gian hai năm. Thông thường, một hoặc hai suất được trao cho những đội chiến thắng trong trận play-off liên lục địa. Ví dụ, đội vượt qua vòng loại ở khu vực Châu Đại Dương và đội đứng thứ năm ở vòng loại khu vực châu Á đã đối đầu với nhau ở trận play-off cho một suất tham dự World Cup 2010. Từ World Cup 1938 trở đi, các quốc gia chủ nhà không cần phải đá vòng loại để tham dự vòng chung kết như các đội khác. Quyền này cũng được trao cho các nhà đương kim vô địch từ năm 1938 đến 2002, nhưng đã bị xóa bỏ kể từ World Cup 2006 trở đi, đòi hỏi các nhà đương kim vô địch phải vượt qua vòng loại để tham dự giải kế tiếp. Brazil, quốc gia vô địch năm 2002, là nhà vô địch thế giới đầu tiên chơi các trận đấu vòng loại để tham dự World Cup 2006. Vòng chung kết Chủ nhà Tiến trình lựa chọn Các kỳ World Cup đầu tiên, quyền đăng cai được trao cho các quốc gia tại các cuộc họp của đại hội FIFA. Các địa điểm đã gây tranh cãi bởi vì Nam Mỹ và châu Âu cho đến nay là hai trung tâm sức mạnh trong bóng đá và chuyến đi giữa họ cần ba tuần bằng thuyền. Chẳng hạn, quyết định tổ chức World Cup đầu tiên ở Uruguay, dẫn đến chỉ có bốn quốc gia châu Âu thi đấu. Hai kỳ World Cup tiếp theo đều được tổ chức ở châu Âu. Quyết định tiếp tục chọn Châu Âu và tổ chức ở Pháp đã bị tranh cãi, vì các nước Nam Mỹ hiểu rằng vị trí này sẽ tiếp tục xen giữa Đại Tây Dương. Do đó, cả Argentina và Uruguay đều tẩy chay Giải vô địch bóng đá thế giới 1938. Kể từ Giải vô địch bóng đá thế giới 1958, để tránh những cuộc tẩy chay hoặc tranh cãi, FIFA đã bắt đầu một mô hình xen kẽ các đội chủ nhà giữa châu Mỹ và châu Âu, tiếp tục cho đến Giải vô địch bóng đá thế giới 1998. Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, được tổ chức bởi Hàn Quốc và Nhật Bản, là lần đầu tiên được tổ chức ở châu Á và là giải đấu đầu tiên có nhiều hơn một nước chủ nhà. Nam Phi trở thành quốc gia châu Phi đầu tiên đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới 2010. Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 được tổ chức bởi Brazil, lần đầu tiên được tổ chức tại Nam Mỹ kể từ Argentina năm 1978 và là lần đầu tiên World Cup liên tiếp được tổ chức ở bên ngoài Châu Âu. Nước chủ nhà hiện được chọn trong một cuộc bỏ phiếu của Hội đồng FIFA. Điều này được thực hiện theo một hệ thống bỏ phiếu toàn diện. Hiệp hội bóng đá quốc gia của một quốc gia mong muốn tổ chức sự kiện này nhận được "Thỏa thuận" từ FIFA, giải thích các bước và yêu cầu. Hiệp hội cũng nhận được một hình thức bằng cách đệ trình đại diện để chính thức ứng cử. Sau đó, một nhóm thanh tra được FIFA chỉ định đến xem xét đất nước để xác định rằng quốc gia này có đáp ứng các yêu cầu cần thiết để tổ chức sự kiện và một báo cáo về quốc gia này được đưa ra. Quyết định về việc ai sẽ tổ chức World Cup thường được đưa ra sáu hoặc bảy năm trước giải đấu. Tuy nhiên, đã có những lần chủ nhà của nhiều giải đấu trong tương lai được công bố cùng một lúc, như trường hợp của World Cup 2018 và 2022, được trao cho Nga và Qatar, với việc Qatar trở thành quốc gia Trung Đông đầu tiên đăng cai giải đấu. Đối với World Cup 2010 và 2014, giải đấu cuối cùng được luân chuyển giữa các liên đoàn, chỉ cho phép các quốc gia từ liên đoàn được chọn (Châu Phi năm 2010, Nam Mỹ vào năm 2014) để tổ chức giải đấu. Chính sách xoay vòng được đưa ra sau cuộc tranh cãi xung quanh chiến thắng của Đức trước Nam Phi trong cuộc bỏ phiếu để tổ chức giải đấu năm 2006. Tuy nhiên, chính sách xoay vòng lục địa sẽ không tiếp tục sau năm 2014, do đó, bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ những quốc gia thuộc liên đoàn đã tổ chức hai giải đấu trước đó, đều có thể đăng ký làm chủ nhà cho World Cup bắt đầu từ năm 2018. Điều này một phần để tránh một kịch bản tương tự như quá trình đấu thầu cho giải đấu năm 2014, nơi Brazil là nhà thầu chính thức và duy nhất. Giải vô địch bóng đá thế giới 2026 đã được chọn để tổ chức tại Hoa Kỳ, Canada và México, đánh dấu lần đầu tiên một World Cup được chia sẻ bởi ba quốc gia chủ nhà. Giải đấu năm 2026 sẽ là World Cup lớn nhất từng được tổ chức, với 48 đội thi đấu tổng cộng 80 trận. 60 trận đấu sẽ diễn ra ở Mỹ, bao gồm tất cả các trận đấu từ vòng tứ kết trở đi, trong khi Canada và Mexico, mỗi nước sẽ tổ chức 10 trận đấu. Thành tích Sáu trong số tám nhà vô địch hiện tại đã giành được một trong những danh hiệu World Cup khi thi đấu trên chính quê hương của mình, ngoại lệ là Brazil, đội đã đứng vị trí á quân sau khi thua trận đấu quyết định trên sân nhà vào năm 1950 cũng như thua trận bán kết với Đức vào năm 2014 và Tây Ban Nha khi chỉ lọt vào vòng hai trên sân nhà vào năm 1982. Anh (1966) đã giành được danh hiệu duy nhất của mình khi chơi với tư cách là một quốc gia chủ nhà. Uruguay (1930), Ý (1934), Argentina (1978) và Pháp (1998) đã giành được những danh hiệu đầu tiên với tư cách là quốc gia chủ nhà, trong khi Đức (1974) giành được danh hiệu World Cup thứ hai khi chơi trên sân nhà. Các quốc gia khác cũng đã thành công khi tổ chức giải đấu. Thụy Sĩ (tứ kết 1954), Thụy Điển (á quân năm 1958), Chile (vị trí thứ ba năm 1962), Hàn Quốc (vị trí thứ tư năm 2002), Nga (tứ kết năm 2018) và Mexico (tứ kết năm 1970 và 1986) đều có kết quả tốt nhất khi là chủ nhà. Cho đến nay, Nam Phi (2010) và (2022) là hai quốc gia chủ nhà thất bại trong việc vượt qua vòng bảng. Các kỷ lục và thống kê Sáu cầu thủ có số lần tham dự các vòng chung kết World Cup nhiều nhất là Antonio Carbajal (1950-1966), Rafael Márquez (2002-2018) và Andrés Guardado (2006-2022) cùng đến từ Mexico; cựu đội trưởng đội tuyển CHLB Đức Lothar Matthäus (1982-1998). đội trưởng đội tuyển Argentina Lionel Messi và người đồng cấp Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo (2006-2022). Messi cũng là người chơi nhiều trận nhất với tổng cộng 26 lần được ra sân. Huyền thoại Pelé là người duy nhất 3 lần vô địch World Cup với tư cách cầu thủ. Djalma Santos của Brazil (1954-1962), Franz Beckenbauer (1966-1974) của Tây Đức và Philipp Lahm của Đức (2006-2014) là những cầu thủ duy nhất được ghi tên ba lần trong Đội hình Tiêu biểu. Người ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup là tuyển thủ Đức Miroslav Klose, với 16 lần làm tung lưới đối phương trong 4 lần tham dự giải. Thứ 2 là tuyển thủ Brasil Ronaldo với 15 bàn. Đứng thứ 3 với 14 lần lập công là tuyển thủ người Đức Gerd Müller. Có cùng vị trí thứ 4 là trung phong huyền thoại người Pháp Just Fontaine và tiền đạo người Argentina Lionel Messi với 13 bàn thắng. Ngoài ra, Fontaine còn giữ kỷ lục về số bàn thắng ghi được tại một kỳ World Cup, với thành tích 13 bàn ghi được tại giải năm 1958. Vào tháng 11 năm 2007, FIFA đã thông báo rằng tất cả các thành viên của đội tuyển vô địch World Cup từ năm 1930 đến năm 1974 sẽ được trao lại huy chương vô địch. Điều này khiến huyền thoại Pelé của Brazil trở thành cầu thủ duy nhất giành được ba huy chương của đội vô địch World Cup (1958, 1962 và 1970, mặc dù ông không chơi trong trận chung kết năm 1962 vì chấn thương). Bảy cầu thủ đã thu thập tất cả ba loại huy chương World Cup (vàng, bạc và đồng): năm cầu thủ đến từ đội hình 1966-1974 bao gồm Franz Beckenbauer, Jürgen Grabowski, Horst-Dieter Höttges, Sepp Maier và Wolfgang Overath (1966-1974); Franco Baresi của Ý (1982, 1990, 1994) và gần đây nhất là Miroslav Klose của Đức (2002-2014) với bốn huy chương liên tiếp. Miroslav Klose cũng chính là cầu thủ nhận được huy chương World Cup nhiều nhất (1 vàng, 1 bạc, 2 đồng). Anh cũng là cầu thủ duy nhất có tất cả các loại huy chương và luôn có huy chương ở tất cả các kỳ World Cup tham gia. Mário Zagallo, Franz Beckenbauer và Didier Deschamps là ba người đồng thời vô địch World Cup với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên. Zagallo vô địch các giải năm 1958 và 1962 khi còn đang thi đấu rồi giải năm 1970 khi chuyển sang vai trò huấn luyện viên. Beckenbauer vô địch giải năm 1974 khi đeo băng đội trưởng đội tuyển Tây Đức và giải năm 1990 với tư cách người chỉ đạo đội., Didier Deschamps vô địch vào năm 1998 khi là cầu thủ và năm 2018 khi làm huấn luyện viên. Còn huấn luyện viên tuyển Ý Vittorio Pozzo là người duy nhất từng hai lần giành ngôi vô địch trên ghế chỉ đạo (1934 và 1938). Tất cả các huấn luyện viên trưởng giành chức vô địch World Cup đều là người xuất thân từ đất nước có đội tuyển giành danh hiệu này. Tính đến hết World Cup 2022, Brasil đã chơi nhiều trận World Cup nhất với 114 trận, theo sau là Đức với 112 trận. Hai đội gặp nhau lần đầu tiên trong lịch sử thi đấu tại giải ở trận chung kết năm 2002. Đức góp mặt ở nhiều trận chung kết (8 lần), bán kết (13 lần), và tứ kết nhất (16 lần), trong khi Brazil tham dự nhiều vòng chung kết nhất (22 lần), thắng nhiều trận nhất (76 trận), và ghi được nhiều bàn thắng nhất (237 bàn). Hai đội đã đối đầu hai lần tại World Cup, trong trận chung kết năm 2002 và bán kết năm 2014. Giải vô địch bóng đá thế giới gần như là sân chơi riêng cho các đội bóng Nam Mỹ và châu Âu khẳng định sự thống trị tuyệt đối trong làng túc cầu thế giới bởi vì cho đến nay thì chưa có đội bóng nào ngoài châu Âu và Nam Mỹ có vinh dự được nâng cao chiếc cúp vàng danh giá. Tuy nhiên chưa có đội bóng châu Âu nào vô địch World Cup khi giải đấu được đăng cai tại châu Á. Top cầu thủ xuất sắc nhất Khán giả Trận đấu duy nhất được khán giả nhiều nhất, được hiển thị trong ba cột cuối cùng, đã được trận chung kết trong một nửa của 20 kỳ Cúp Thế giới tính đến năm 2014. Một trận đấu khác hoặc các trận đấu đã thu hút khán giả nhiều nhất so với trận chung kết vào các năm 1930, 1938, 1958, 1962, 1970–1982, 1990 và 2006. Nguồn: FIFA Phát sóng và quảng bá Giải vô địch bóng đá thế giới được truyền hình trực tiếp lần đầu tiên vào năm 1954 và hiện là sự kiện thể thao được xem và theo dõi rộng rãi nhất trên thế giới. Lượng người xem tích lũy của tất cả các trận đấu của World Cup 2006 ước tính là 26,29 tỷ. 715,1 triệu người đã theo dõi trận đấu cuối cùng của giải đấu này (một phần chín của toàn bộ dân số trên hành tinh). Lễ bốc thăm World Cup 2006, quyết định phân chia các đội thành các bảng, được theo dõi bởi 300 triệu người xem. Giải vô địch bóng đá thế giới thu hút nhiều nhà tài trợ như Coca-Cola, McDonald's và Adidas. Đối với các công ty này và nhiều công ty khác, việc trở thành nhà tài trợ tác động mạnh mẽ đến các thương hiệu toàn cầu của họ. Các nước chủ nhà thường có sự gia tăng doanh thu hàng triệu đô la từ sự kiện kéo dài một tháng. Cơ quan quản lý môn thể thao này, FIFA đã tạo ra doanh thu 4,8 tỷ đô la từ giải đấu năm 2014 và 6,1 tỷ đô la từ giải đấu năm 2018. Mỗi giải vô địch bóng đá thế giới kể từ năm 1966 đều có linh vật hoặc/và logo riêng. World Cup Willie, linh vật cho cuộc thi năm 1966, là linh vật World Cup đầu tiên. World Cup có các quả bóng thi đấu chính thức được thiết kế đặc biệt cho mỗi giải đấu. Mỗi giải vô địch bóng đá thế giới cũng có một bài hát chính thức, được trình diễn bởi các nghệ sĩ từ Shakira đến Will Smith. Thiết lập quan hệ đối tác với FIFA vào năm 1970, Panini đã xuất bản album sticker đầu tiên cho World Cup 1970. Kể từ đó, thu thập và giao dịch nhãn dán đã trở thành một phần của trải nghiệm World Cup, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. FIFA cũng đã cấp phép các video game World Cup từ năm 1986, với Electronic Arts, công ty giữ giấy phép hiện tại. World Cup thậm chí còn có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê đối với tỷ lệ sinh, tỷ lệ giới tính nam/nữ của trẻ sơ sinh và bệnh đau tim ở các quốc gia có các đội tuyển quốc gia đang thi đấu. Kết quả s.h.p.: sau hiệp phụ PSO: sau loạt đá luân lưu TBD: đang được xác định Ghi chú Đã có 80 quốc gia đã tham dự ít nhất một kỳ World Cup. Trong số này, tám đội tuyển quốc gia đã giành được World Cup, và họ đã thêm ngôi sao vào huy hiệu của họ, với mỗi ngôi sao đại diện cho một lần vô địch thế giới. (Uruguay, tuy nhiên, chọn để hiển thị bốn ngôi sao trên huy hiệu của họ, đại diện cho hai huy chương vàng của họ tại Thế vận hội Mùa hè 1924 và 1928 và hai chức vô địch thế giới của họ vào năm 1930 và 1950). Với năm lần vô địch, Brasil là đội tuyển thành công nhất trong lịch sử World Cup và cũng là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kỳ World Cup (22 lần) cho đến nay. Brasil cũng là đội tuyển đầu tiên giành chức vô địch World Cup lần thứ ba (1970), thứ tư (1994) và thứ năm (2002). Ý (1934 và 1938) và Brasil (1958 và 1962) là 2 quốc gia duy nhất đã từng bảo vệ thành công ngôi vô địch. Tây Đức (1982–1990) và Brasil (1994–2002) là các quốc gia duy nhất xuất hiện trong ba trận chung kết World Cup liên tiếp. Đức đã vào được bán kết 13 lần, có 12 lần giành huy chương và là đội lọt vào chung kết nhiều nhất (8 lần). Các đội đạt đến hạng tư * = chủ nhà ^ = bao gồm kết quả đại diện Tây Đức giữa 1954 và 1990 # = các nhà nước đã tách ra thành hai hoặc nhiều quốc gia độc lập Thành tích tốt nhất theo khu vực lục địa Cho đến nay, các trận chung kết Cúp bóng đá thế giới chỉ được tranh tài giữa các đội tuyển từ các liên đoàn UEFA (châu Âu) và CONMEBOL (Nam Mỹ). Các quốc gia châu Âu đã giành được 12 chức vô địch, trong khi Nam Mỹ là 10 lần. Chỉ có ba đội tuyển từ bên ngoài hai châu lục này đã từng vào được đến vòng bán kết của giải đấu: Hoa Kỳ (Bắc, Trung Mỹ và Caribe) vào năm 1930, Hàn Quốc (châu Á) vào năm 2002 và Maroc (châu Phi) vào năm 2022. Chỉ có một đội từ châu Đại Dương đã từng vượt qua vòng bảng, Úc vào năm 2006, đã giành quyền vào vòng hai. Brasil, Argentina, Tây Ban Nha và Đức là những đội tuyển duy nhất giành được World Cup tổ chức bên ngoài liên đoàn lục địa của họ; Brasil đã giành chiến thắng ở châu Âu (1958), Bắc Mỹ (1970 và 1994) và châu Á (2002), Argentina đã giành chức vô địch tại Bắc Mỹ vào năm 1986 và châu Á vào năm 2022, trong khi Tây Ban Nha đã giành được một chức vô địch tại châu Phi vào năm 2010. Đức là đội tuyển châu Âu đầu tiên vô địch World Cup tại Nam Mỹ vào năm 2014. Chỉ có năm lần liên tiếp World Cup được chinh phục bởi các đội tuyển đến từ cùng một lục địa. Ý và Brasil đã bảo vệ thành công danh hiệu của họ vào năm 1938 và 1962, trong khi đội đăng quang tiếp theo sau Ý vào năm 2006 là Tây Ban Nha vào năm 2010, Đức vào năm 2014, Pháp vào năm 2018 và Argentina vào năm 2022. Các đội tham dự giải Chú thích — Vô địch — Á quân — Hạng ba — Hạng tư QF — Tứ kết (1934–1938, 1954–1970, và 1986–nay: vòng 8 đội) R2 — Vòng 2 (1974–1978, vòng 8 đội; 1982: vòng 12 đội; 1986–nay: vòng 16 đội) R1 — Vòng 1 q — Vượt qua vòng loại cho giải đấu sắp tới — Vượt qua vòng loại nhưng bỏ cuộc — Không vượt qua vòng loại — Không tham dự / Rút lui / Bị cấm — Chủ nhà — Không được FIFA công nhận Bảng xếp hạng giải đấu Kết quả của các nước chủ nhà Kết quả của đương kim vô địch Các giải thưởng Hiện có 6 giải thưởng trao cho cá nhân hay toàn đội tuyển cho thành tích thi đấu của họ tại mỗi kỳ World Cup: Giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải, do giới truyền thông bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1982); Quả bóng bạc và Quả bóng đồng cho hai cầu thủ xếp thứ hai và thứ ba về số phiếu trong cuộc bầu chọn này; Giải Chiếc giày vàng cho vua phá lưới của giải. Chiếc giày bạc và Chiếc giày đồng cho hai cầu thủ về nhì và về ba Giải Găng tay vàng (trước đó là Giải thưởng Yashin) cho thủ môn xuất sắc nhất giải, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1994); Giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất cho cầu thủ xuất sắc nhất dưới 21 tuổi tính đến thời điểm giải khởi tranh, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 2006). Giải FIFA Fair Play Trophy cho đội có chỉ số fair play tốt nhất, theo thang điểm do Ủy ban Fair Play FIFA quyết định (được trao lần đầu vào năm 1978); Giải Đội tuyển lôi cuốn nhất cho đội giành được nhiều phiếu nhất do khán giả bình chọn (được trao lần đầu vào năm 1994); Đội hình tiêu biểu được công bố lần đầu vào năm 1998. Các đội tuyển mỗi lần vô địch World Cup đều được gắn thêm 1 ngôi sao lên biểu tượng, trừ ĐTQG Uruguay (có 4 sao nhưng có 2 lần vô địch World Cup, 2 lần vô địch bóng đá nam Olympic).
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước công nghiệp. Theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Thế giới (IARC) vào năm 1998 thì ung thư vú đứng đầu, chiếm 21% trong tổng số các loại ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Cũng theo IARC, xuất độ chuẩn hóa theo tuổi của ung thư vú ở phụ nữ là 92,04 (trên 100 000 dân) ở châu Âu và 67,48 (trên 100 000 dân) trên toàn thế giới vào năm 1998, đều là cao nhất trong các loại ung thư ở nữ giới. Ung thư vú đang trở nên phổ biến tại các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, năm 1998, ở nữ giới, ung thư vú là loại ung thư có tần suất cao nhất ở Hà Nội với xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 20,3 (trên 100 000 dân) và cao thứ hai ở Thành phố Hồ Chí Minh với xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 16 (trên 100 000 dân) sau ung thư cổ tử cung mà xuất độ chuẩn hóa theo tuổi là 28,6 (trên 100 000 dân). Đây là một bệnh hết sức phức tạp mà trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu về nguyên nhân, bệnh sinh và điều trị. Một điều quan trọng cần phải nhận thấy là việc phát hiện sớm ung thư vú qua sự tầm soát ở những phụ nữ bình thường đã làm thay đổi rõ ràng bệnh sử tự nhiên của bệnh cũng như cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh. Các yếu tố nguy cơ Nguyên nhân của ung thư vú chưa được biết rõ, nhưng với những nghiên cứu dịch tễ học cùng với những hiểu biết sâu hơn về sinh học của tế bào tuyến vú đã mang lại những cơ sở mới cho bệnh này. Theo UICC thì tỷ lệ ung thư vú ở đàn ông ít hơn 100 lần so với phụ nữ. . Còn theo thì nguy cơ tương đối của ung thư vú giữa phụ nữ và nam giới là 150. Nghĩa là ung thư vú ở nam giới ít gặp hơn nữ giới rất nhiều lần. Dưới đây chỉ nói về những yếu tố nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Người ta nhận thấy nguy cơ bị ung thư vú tăng lên ở những bệnh nhân sau: Ngoài ra, nguy cơ ung thư vú cũng gặp ở những nhóm người sau: Bệnh nhân sống ở các quốc gia vùng Bắc Mỹ và Bắc Âu Có tiền sử phơi nhiễm bức xạ ion hóa Những phụ nữ không có con. Người ta cho rằng cho con bú kéo dài trên 6 tháng có tác dụng bảo vệ chống ung thư vú ở các phụ nữ trẻ. Uống rượu, tiếp xúc với thuốc trừ sâu (đặc biệt là DDT). Sinh học ung thư vú Yếu tố gia đình từ lâu đã được công nhận là có liên quan đến ung thư vú, tuy nhiên yếu tố này chỉ quan trọng trong khoảng 10–15% các trường hợp ung thư vú. Yếu tố gia đình gợi ý có một số gene quy định tính nhạy cảm của cá thể đó với bệnh này, và những nghiên cứu về gene đã ghi nhận một vùng của nhiễm sắc thể 17 (mang gene BRCA1 và BRCA2) có liên quan đến việc xuất hiện sớm ung thư vú trong một số gia đình. Hội chứng Li-Fraumeni, với đột biến của gene p53 cũng được ghi nhận ở những bệnh nhân bị ung thư vú sớm. Nội tiết tố sinh dục ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú. Người ta nhận thấy estrogen đẩy mạnh ung thư vú ở chuột trong thí nghiệm, và trên mẫu nuôi cấy các tế bào ung thư vú thì estrogen kích thích các tế bào này tăng trưởng. Ngày nay, người ta biết tác dụng của nội tiết tố sinh dục lên mô vú một phần là qua trung gian các yếu tố tăng trưởng. Một số yếu tố tăng trưởng đã được xác định có thể là nguyên nhân gây ra những biến đổi mô vú bình thường thành ác tính và kéo dài quá trình ung thư hóa. Ngoài ra, estrogen còn gây tăng tiết prolactin – cũng là một loại hormone gây phát triển tuyến vú. Thụ thể của mô tuyến vú với estrogen và progesteron và một số yếu tố tăng trưởng cũng đã được nhận dạng. Trong đó thụ thể với estrogen và progesteron rất có giá trị trong việc đánh giá tiên lượng bệnh nhân, chọn lựa phương pháp điều trị. Người ta nhận thấy có khoảng 2/3 các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính, và ½ số đó có đáp ứng khi điều trị bằng nội tiết tố ở chỗ kích thước khối bướu thu nhỏ. Chẩn đoán ung thư vú Các tình huống lâm sàng Thường gặp Đa phần ung thư vú được phát hiện là do chính người bệnh, khi họ ghi nhận thấy một sự thay đổi ở tuyến vú. Thường gặp nhất đó là một khối bướu hay một chỗ dày cứng lên không đau ở vú. Hoặc cũng có thể do thầy thuốc phát hiện qua một lần khám sức khỏe thường kỳ. Cần phải nghi ngờ ung thư vú khi thấy bất kỳ bướu nào ở vú ở người phụ nữ trên 30 tuổi cho đến khi có triệu chứng chính xác ngược lại mặc dù khoảng 80% khối bất thường ở vú là lành tính. Những tính chất sau của khối bướu gợi ý ác tính: Cứng Không đau (chiếm khoảng 85–90%) Không đồng nhất, bờ không rõ Dính vào thành ngực hoặc da trên vú, khó di động Núm vú bị lõm vào Chảy máu núm vú. Tình huống trễ Bệnh nhân đến khám với các triệu chứng của ung thư tiến triển hoặc đã có di căn xa: Hạch nách hoặc hạch trên đòn dương tính Tràn dịch màng phổi, làm bệnh nhân đau ngực, khó thở Tràn dịch màng ngoài tim, bệnh nhân khó thở, suy hô hấp... Gãy xương, khi ung thư đã di căn vào xương Bụng: gan to, [báng bụng],... Di căn lên não: khối u xuất hiện trong não làm bệnh nhân đau đầu, hôn mê; chèn ép cột sống làm bệnh nhân đau lưng, yếu liệt tay chân... Tầm soát ung thư vú Điều này đã được làm ở các nước phát triển và đang bắt đầu được áp dụng ở Việt Nam. Các phương pháp sau đây được áp dụng trong chương trình tầm soát ung thư vú: Khám lâm sàng tuyến vú: Các phụ nữ trên 40 tuổi cần được khám vú mỗi năm. Cần đảm bảo cho toàn bộ tuyến vú được khám xét kể cả phần đuôi của tuyến ở gần nách. Trong quá trình khám, người bác sĩ nên hướng dẫn cách tự khám vú cho bệnh nhân. Theo UICC khám lâm sàng tuyến vú có thể chấp nhận được để thay thế nhũ ảnh ở các quốc gia không có phương tiện để thực hiện nhũ ảnh. Tự khám vú: Ít tốn kém. Nếu được thực hiện đúng cách có thể giúp người bệnh phát hiện sớm một bướu vú, được điều trị sớm và vì vậy tiên lượng tốt hơn. Nhũ ảnh: Là một phương pháp chụp X quang vú đặc biệt. Dùng một lượng ít tia X, để cho hình ảnh chi tiết của tuyến vú, có thể thấy những điểm vôi hóa rất nhỏ. Nhũ ảnh đóng vai trò quan trọng trong tầm soát ung thư vú. Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm soát bằng nhũ ảnh giúp giảm tử suất của ung thư vú khoảng 30%. Vì vậy Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ và Hội Ung thư Hoa Kỳ đề xuất nên chụp nhũ ảnh mỗi 1-2 năm cho những phụ nữ trên 40 tuổi. Xét nghiệm cận lâm sàng Chọc hút bằng kim nhỏ (FNA – Fine Needle Aspiration): dùng một kim hút nhỏ lấy một mẫu bệnh phẩm và dùng để làm xét nghiệm tế bào học. Xét nghiệm này có thể cho biết tế bào lấy ra có đặc trưng cho ung thư hay không, nhưng không thể phân biệt ung thư tại chỗ hay ung thư xâm lấn được. Âm tính giả có thể xảy ra khi thật sự là ung thư mà mũi kim không chạm bướu. Sinh thiết: nhằm quan sát các mô và tế bào dưới kính hiển vi để tìm ra dấu hiệu ung thư. Nếu phát hiện khối u ở vú, các bác sĩ có thể lấy mẫu mô hoặc tế bào của khối u này để thực hiện xét nghiệm. Có 4 phương pháp sinh thiết, bao gồm: Sinh thiết cắt bỏ toàn bộ khối u. Sinh thiết một phần: lấy một mẫu của khối u hoặc mô để kiểm tra. Sinh thiết trích mô dùng kim lớn: lấy mô bằng cách dùng kim lớn. Sinh thiết chọc hút tế bào bằng kim nhỏ: lấy mô bằng cách dùng kim nhỏ. Sinh thiết trọn khối u được thực hiện khi chọc hút không cho chẩn đoán xác định. Tuy nhiên, ngày nay việc sinh thiết trọn khối u ít được thực hiện dần đi vì chọc hút bằng kim nhỏ ngày càng cho thấy tính chính xác cao. Chụp nhũ ảnh Siêu âm tuyến vú: là một xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản. Siêu âm giúp phân biệt rõ một tổn thương dạng nang với một tổn thương dạng đặc. Ngoài ra, với siêu âm người phụ nữ không có nguy cơ nhiễm tia X, thích hợp cho phụ nữ có thai và phụ nữ trẻ. Còn có nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác được sử dụng trong chẩn đoán ung thư vú, nhưng ở Việt Nam ít dùng như cắt lớp điện toán CT scan, chụp cộng hưởng từ MRI,... Những xét nghiệm giúp đánh giá đáp ứng điều trị: Tìm thụ thể với estrogen, đo nồng độ estradiol tự do trong máu,... Những xét nghiệm này ít được làm ở điều kiện Việt Nam. Phân loại mô học Carcinoma Ống Trong ống Xâm lấn với thành phần trong ống chiếm ưu thế Xâm lấn, không đặc hiệu Dạng trứng cá Dạng viêm Dạng tủy với thâm nhiễm lympho Dạng keo Dạng nhú Dạng ống dẫn Dạng xơ cứng Các dạng khác Thùy Tại chỗ Xâm lấn với thành phần tại chỗ vượt trội Xâm lấn Núm vú Bệnh Paget, không có gì đặc hiệu Bệnh Peget với carcinoma ống Bệnh Paget với carcinoma ống xâm lấn Loại khác Carcinoma không biệt hóa Những loại bướu ít gặp và không được coi là điển hình Sarcom nang diệp thể Sarcom mạch máu Lymphoma nguyên phát Các bướu không xâm lấn Carcinoma thùy tại chỗ: không bao giờ chẩn đoán được bằng lâm sàng, vì tổn thương ở mức vi thể. Diễn t Xếp giai đoạn Xếp hạng theo TNM Theo bướu nguyên phát T (tumor) Tx: Không thể xác định được bướu nguyên phát T0: Không thấy bướu nguyên phát T in situ: Carcinoma tại chỗ, carcinom atrong ống, carcinoma thùy tại chỗ, hoặc bệnh Paget núm vú không có bướu kèm theo (bệnh Paget núm vú có bướu kèm theo được xếp theo kích thước của bướu) T1: Bướu có kích thước lớn nhất ≤ 2.0 cm T1mc: Xâm lấn vi thể bướu có kích thước lớn nhất ≤ 0.1 cm T1a: Bướu > 0.1 cm nhưng ≤ 0.5 cm T1b: Bướu > 0.5 cm nhưng ≤ 1.0 cm T1c: Bướu > 1.0 cm nhưng ≤ 2.0 cm T2: Bướu có kích thước lớn nhất > 2.0 cm nhưng ≤ 5.0 cm T3: Bướu có kích thước lớn nhất > 5.0 cm T4: Bướu kích thước bất kỳ, nhưng có sự ăn lan trực tiếp vào da hoặc thành ngực T4a: Ăn lan thành ngực T4b: Phù nề hoặc loét da vú hoặc các nốt vệ tinh ở da vú T4c: Có cả hai thành phần trên T4d: Carcinoma dạng viêm Theo hạch lympho vùng N (Nodes) Nx: Không thể xác định các hạch vùng N0: Không có di căn hạch vùng N1: Di căn vào hạch lympho vùng nách, di động N2: Di căn vào hạch lympho nách, hạch dính nhau hoặc dính vào các cấu trúc khác N3: Di căn vào hạch lympho vú trong cùng bên Theo di căn xa M (Metastasis) Mx: Không thể xác định di căn xa M0: Không có di căn xa M1: Có di căn xa (kể cả di căn vào hạch lympho trên đòn cùng bên) Xếp giai đoạn theo UICC 1997 Điều trị Ung thư tại chỗ Carcinoma ống tại chỗ: Điều trị chủ yếu là đoạn nhũ có tỷ lệ khỏi bệnh là 98-99% với 1-2% trường hợp tái phát. Điều trị bảo tồn vú đang là hướng đi mới, chỉ mổ lấy bướu cùng với xạ trị hỗ trợ cũng khá hiệu quả, với tỷ lệ tái phát là 7-13%. Carcinoma tiểu thuỳ tại chỗ: bệnh nhân thường được theo dõi sát có thể kết hợp với hóa trị phòng ngừa (như dùng tamoxifen) và làm giảm các yếu tố nguy cơ. Phẫu thuật chỉ áp dụng cho một số ít bệnh nhân. Ung thư giai đoạn sớm – I, II, IIIA Phẫu thuật Là điều trị chủ yếu. Những phẫu thuật trước đây như đoạn nhũ tận gốc (Phẫu thuật Halsted) ngày nay ít được dùng vì mức tàn phá rộng, để lại nhiều dư chứng nặng nề cho bệnh nhân. Các loại phẫu thuật ít tàn phá hơn, bảo tồn các cơ ngực lớn, bé càng ngày càng cho thấy hiệu quả trong việc điều trị tại chỗ căn bệnh. Phẫu thuật bảo tồn vú: chỉ lấy khối bướu và mô bình thường cách rìa bướu 1–2 cm gần đây được ưa thích và áp dụng nhiều. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy phẫu thuật bảo tồn kèm theo xạ trị cho kết quả ngang bằng với phẫu thuật đoạn nhũ riêng lẻ. Tuy nhiên, có một số chống chỉ định của phương pháp điều trị này: Có hai hoặc nhiều khối bướu nằm ở các góc phần tư khác nhau của vú Bướu lan tỏa, giới hạn không rõ Bướu to nằm trong tuyến vú nhỏ Bướu nằm ở vị trí trung tâm của vú Nạo hạch cũng là một phần của phẫu thuật. Nhất là nạo hạch lympho vùng nách rất cần cho đánh giá tiên lượng. Xạ trị hỗ trợ Xạ trị là một phần của phương pháp điều trị bảo tồn: tiến hành sau phẫu thuật cắt bướu. Xạ trị giúp giảm nguy cơ tái phát. Xạ trị sau đoạn nhũ: giảm nguy cơ tái phát cho những bệnh nhân nguy cơ cao như bệnh nhân có nhiều hạch vùng, bệnh nhân có bướu nguyên phát to,... Liệu pháp toàn thân Nguy cơ di căn vi thể ở những ung thư giai đoạn sớm là có. Vì vậy, hóa trị là một biện pháp điều trị toàn thân có thể diệt các tế bào ác tính lan tràn. Liệu pháp nội tiết Cắt buồng trứng Tamoxifen: là các chất ức chế thụ thể estrogen chọn lọc. Dùng cho các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính. Có tác dụng giảm nguy cơ tái phát và giảm xuất độ ung thư vú đối bên khoảng 50%. Hóa trị hỗ trợ Kết hợp cả hóa trị và liệu pháp nội tiết Điều trị hỗ trợ đối với ung thư vú có hạch dương tính (di căn hạch) Tiền mãn kinh, Thụ thể Estrogen(ER) + hoặc thụ thể Progesteron (PR) +: Hóa trị + Tamoxifen Cắt bỏ buồng trứng (hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen Hóa chất +/- Cắt bỏ buồng trứng (hoặc chất tương đồng GnRH) +/- Tamoxifen Trước mãn kinh, ER - và PR -: Hóa trị Sau mãn kinh, ER-,PR+: Hóa trị, Tamoxifen Sau mãn kinh, ER - và PR -: Hóa trị Người già: dùng Tamoxifen, nếu không có ER và PR thì dùng hóa trị (ER: Thụ thể Estrogen, PR: Thụ thể Progesterone, GnRH (Gonadotropin releasing hormone): Nội tiết kích thích tiết kích dục tố) Ung thư di căn Mục đích chủ yếu là cải thiện chất lượng đời sống và kéo dài cuộc sống của người bệnh. Phẫu thuật Có chỉ định cho một số bệnh nhân. Như bệnh nhân cần đoạn nhũ khi các tổn thương sùi, loét gây đau nhức, bệnh nhân có các di căn não, phổi đơn độc, tràn dịch màng ngoài tim, màng phổi,... Xạ trị Vai trò chủ yếu trong điều trị tạm bợ và nâng đỡ, ví dụ như chỉ định cho các di căn xương đau nhiều, di căn hệ thần kinh trung ương không cắt bỏ được... Liệu pháp toàn thân Việc lựa chọn thuốc để điều trị phải cân nhắc nhiều yếu tố của bệnh nhân. Các yếu tố đó là: tuổi, bệnh nhân đã mãn kinh hay chưa, bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính hay không, số lượng hạch di căn.... Liệu pháp toàn thân bao gồm: Liệu pháp nội tiết: thường dùng cho phụ nữ mãn kinh, có thụ thể estrogen dương tính. Các loại thuốc thường áp dụng: kháng estrogen (Tamoxifen), ức chế enzyme aromatase (Anastrozole, letrozole...), dùng các thuốc tương tự GnRH, các progestin. Hoá trị: thường dùng cho những bệnh nhân nào mà căn bệnh vẫn tiếp tục tiến triển dù đã điều trị nội tiết, hoặc bệnh nhân có thụ thể nội tiết âm tính. Có nhiều phác đồ thường dùng như: CA, CAF, CMF... Trastuzumab: Là kháng thể đơn dòng kháng lại thụ thể tăng trưởng biểu bì - HER2/neu Cắt buồng trứng Tiên lượng Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh. Quan trọng nhất là giai đoạn của bệnh, càng phát hiện ở giai đoạn sớm thì tiên lượng càng tốt. Hạch di căn cũng đóng vai trò đáng kể. Đặc tính mô học của bướu cũng được quan tâm. Tiên lượng tốt hơn với các ung thư trong nang, ung thư ống dẫn, ung thư dạng tủy, bệnh Paget không bướu. Phòng ngừa Ung thư vú rất đáng quan tâm vì đó là một trong những loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ. Nhiều biện pháp đã được đề xuất để làm giảm nguy cơ mắc bệnh, một số biện pháp dưới đây rất đáng chú ý: Dùng tamoxifen cho các carcinom tiểu thùy tại chỗ Chế độ ăn ít béo, giảm cân Giảm uống rượu Tránh tiếp xúc với Chlor hữu cơ, chất phóng xạ Nên cho con bú sữa mẹ Thường xuyên luyện tập thể dục Tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời ...
Giải quần vợt Úc Mở rộng (tiếng Anh: Australian Open) là một trong 4 giải Grand Slam quần vợt trong năm. Đây là giải Grand Slam đầu tiên trong năm và diễn ra vào nửa cuối tháng 1 tại Melbourne. Giải được tổ chức bởi Tennis Australia, tổ chức thường được biết với cái tên Lawn Tennis Association of Australia (LTAA). Giống như tại Roland Garros hay Wimbledon, giải đấu này thi đấu theo thể thức 5 set thắng 3 (đối với nội dung đơn nam) và 3 set thắng 2 (đối với nội dung đơn nữ) và không có loạt tie-break (tie-breaker) ở set cuối cùng. Ngoài ra còn có các nội dung đánh đôi nam, đôi nữ, đôi nam nữ phối hợp và còn có nội dung cho các cựu danh thủ. Lịch sử Giải đấu này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1905 với cái tên là Giải Vô địch Australasia (gồm Úc và New Zealand) tại Warehouseman's Cricket Ground ở St Kilda Road, Melbourne, sau đó trở thành giải vô địch Úc vào năm 1927 và trở thành giải Úc Mở rộng vào năm 1969. Kể từ năm 1905, giải đấu này đã được tổ chức ở 6 địa điểm sau: Melbourne (46 lần), Sydney (17 lần), Adelaide (14 lần), Brisbane (8 lần), Perth (3 lần) và tại nước láng giềng New Zealand (2 lần vào các năm 1906 & 1912). Vào năm 1972, các nhà tổ chức quyết định giải đấu sẽ diễn ra chỉ ở một thành phố trong một năm và CLB Kooyong Lawn Tennis của thành phố Melbourne đã được lựa chọn để tổ chức giải đấu này. Melbourne Park (có tên khác là Flinders Park) được xây dựng vào năm 1988, đúng thời điểm mà các nhà tổ chức đang muốn mở rộng phạm vi giải đấu và CLB Kooyong quá nhỏ để có thể đáp ứng được nhu cầu trên. Giải đấu được chuyển tới Melbourne Park và ngay lập tức đã mang lại thành công khi nó làm tăng thêm đến 90% lượng khán giả – lên đến 266.436 lượt người vào năm 1988 trong khi đó ở năm trước chỉ có 140.000 lượt người ghé thăm Kooyong. Vì khoảng cách địa lý quá xa xôi của Australia, những giải đấu đầu tiên có rất ít các tay vợt nước ngoài tham dự. Trong thập niên 1920, để đi từ châu Âu tới Australia bằng tàu thủy phải mất 45 ngày. Những vận động viên quần vợt đầu tiên tới Úc bằng máy bay là đội tuyển Cúp Davis Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 1946. Ngay cả đối với các tay vợt bản địa, đến tham dự giải cũng không phải là điều dễ dàng. Khi giải được tổ chức tại Perth, không có bất cứ tay vợt nào đến từ Victoria hay New South Wales đăng ký tham dự, vì nếu như vậy họ phải đi tàu hỏa hơn 3.000 km từ bờ Đông sang bờ Tây nước Úc. Hay giải tổ chức tại Christchurch, New Zealand năm 1906, chỉ có hai tay vợt Úc tham dự. Từ năm 1969, giải Úc mở rộng cho phép tất cả các tay vợt đăng ký, kể cả các vận động viên chuyên nghiệp. Nhưng, chỉ trừ hai giải năm 1969 và 1971, còn đâu cho đến năm 1981, còn đâu hầu hết các tay vợt xuất sắc nhất thế giới đều không tham dự do tính bất hợp lý của lịch thi đấu (giải thường diễn ra đúng vào dịp Lễ Giáng sinh hay đầu năm mới), cùng với lượng tiền thưởng chưa hấp dẫn. Giải được thi đấu trên mặt sân cỏ từ năm 1905 cho đến năm 1987. Từ năm 1988, giải chuyển sang thi đấu trên mặt sân cứng. Mats Wilander là tay vợt nam duy nhất giành được chức vô địch trên cả hai mặt sân. Vào 2008, mặt sân Rebound Ace, sau 20 năm được sử dụng tại Melbourne Park, được thay thế bằng mặt sân acrylic tổng hợp Plexicushion. Điểm thưởng Điểm xếp hạng cho nam (ATP) và nữ (WTA) đã có nhiều thay đổi tại US Open thông qua nhiều năm nhưng bây giờ tay vợt nhận được các điểm như sau đây: Danh sách các nhà vô địch Lượng khán giả các năm gần đây 2021: 130,374 2020: 812,174 2019: 780,000 2018: 743,667 2017: 728,763 2016 – 720.363 2015 – 703.899 2014 – 643.280 2013 – 684.457 2012 – 686.006 2011 – 651.127 2010 – 653.860 2009 – 603.160 2008 - 605.735 2007 - 554.858 2006 - 550.550 2005 - 543.873 2004 - 521.691 Tiền thưởng Năm 2009 tiền thưởng cho cả tay vợt nam và nữ là bằng nhau: Vòng 1: 19.040 AU$ Vòng 2: 31.000 AU$ Vòng 3: 50.000 AU$ Vòng 4: 88.000 AU$ Tứ kết: 182.250 AU$ Bán kết: 365.000 AU$ Á quân: 1.000.000 AU$ Vô địch: 2.000.000 AU$ Thống kê kỉ lục
Giải bóng đá vô địch thế giới 1930 là giải bóng đá vô địch thế giới đầu tiên (tên chính thức là 1930 Football World Cup - Uruguay / 1er Campeonato Mundial de Football) và được tổ chức từ 13 tháng 7 đến 30 tháng 7 năm 1930 ở Uruguay. Đây là kỳ World Cup duy nhất mà tất cả các trận đấu được tổ chức ở cùng một thành phố là Montevideo, Thủ đô nước Cộng hòa Đông Uruguay. Uruguay được chọn làm nơi đăng cai kỳ World Cup 1930 là vì đội tuyển Uruguay đã xuất sắc giành huy chương vàng ở bộ môn bóng đá tại hai kỳ Thế vận hội liên tiếp vào các năm 1924 và 1928, và năm 1930 là năm kỷ niệm 100 năm ngày Uruguay giành được độc lập. Nhưng việc giải đấu diễn ra ở vùng Nam Mỹ khiến cho hầu hết các đội tuyển châu Âu đều không muốn đi gửi đội tham dự giải bởi hành trình bằng tàu thủy quá tốn kém và dài trong bối cảnh Đại khủng hoảng. Điều này đã khiến hai tháng trước khi khai mạc giải, vẫn chưa có đội tuyển nào của châu Âu đăng ký tham dự. Bằng nỗ lực vận động tích cực của ông Jules Rimet, Chủ tịch FIFA ở lúc đó và cũng là người sáng lập ra giải đấu, bốn đội tuyển châu Âu là Pháp, Bỉ, Romania và Nam Tư cuối cùng chấp nhận tham gia. 4 đội bóng này đã cùng lên chuyến tàu Conte Verde khởi hành ngày 21 tháng 6 năm 1930 tại vùng lãnh thổ Villefranche-Sur-Mer, Pháp; tàu dừng lại Rio de Janeiro ngày 29 tháng 6 để giải đón nhận thêm đội bóng Brasil trước khi cập bến ở Montevideo vào ngày 4 tháng 7. Đây cũng là kỳ giải World Cup duy nhất không hề có vòng loại và trận tranh hạng ba, năm 1986 thì FIFA căn cứ hiệu số bàn thắng nên công nhận đội Hoa Kỳ giành hạng 3. Argentina, Uruguay, Hoa Kỳ và Nam Tư giành chiến thắng trong các bảng để lọt vào vòng bán kết. Trong trận chung kết, chủ nhà Uruguay cũng như là đội được yêu thích trước giải đấu đã xuất sắc đánh bại đội tuyển Argentina 4–2 trước 68.346 khán giả để chính thức trở thành đội tuyển đầu tiên vô địch World Cup. Các sân vận động Các đội tham dự FIFA - cơ quan quản lý bóng đá thế giới, đã thảo luận về việc thành lập một giải đấu dành cho các đội tuyển quốc gia trong vài năm trước năm 1930. Tổ chức này đã thay mặt Ủy ban Olympic Quốc tế quản lý bộ phận bóng đá của Thế vận hội Mùa hè từ đầu thế kỷ 20 và sự thành công của cuộc thi tại Thế vận hội Mùa hè 1924 và 1928 đã dẫn đến việc thành lập Giải vô địch bóng đá thế giới . Tại đại hội FIFA lần thứ 17 ở Amsterdam vào tháng 5 năm 1928, giải đấu do chủ tịch Jules Rimet đề xuất và được ban tổ chức chấp nhận, phó chủ tịch FIFA Henri Delaunay tuyên bố: "Bóng đá quốc tế không còn được tổ chức trong giới hạn của Thế vận hội". World Cup đầu tiên là kỳ duy nhất không có vòng loại. Mọi quốc gia liên kết với FIFA đều được mời tham gia thi đấu và có hạn chót là ngày 28 tháng 2 năm 1930 để chấp nhận. Cuộc thi ban đầu được lên kế hoạch là một giải đấu loại trực tiếp 16 đội với khả năng có vòng loại nếu thừa đội tham dự. Tuy nhiên, số đội không đủ 16 nên không có vòng loại. Rất nhiều sự quan tâm đã được thể hiện bởi các quốc gia ở châu Mỹ: Argentina, Brazil, Bolivia, Chile, Mexico, Paraguay, Peru và Hoa Kỳ, tất cả đều tham dự. Tổng cộng có bảy đội Nam Mỹ tham gia, nhiều hơn bất kỳ vòng chung kết World Cup nào sau đó, và có hai đội Bắc Mỹ tham dự. Tuy nhiên, do chuyến đi dài, tốn kém bằng tàu vượt qua Đại Tây Dương và thời gian dài vắng mặt của các cầu thủ, rất ít đội châu Âu muốn tham gia do cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra. Một số đội từ chối cho phép đi đến Nam Mỹ trong bất kỳ trường hợp nào, và không có đội châu Âu nào đăng ký tham gia trước thời hạn. Trong một nỗ lực để đạt được sự tham gia của một số đội châu Âu, Hiệp hội bóng đá Uruguay đã gửi thư mời tới Hiệp hội bóng đá Anh, mặc dù Vương quốc Anh (Anh, Bắc Ireland, Scotland và Wales) đã rút khỏi FIFA vào thời điểm đó. Ủy ban FA đã từ chối lời mời vào ngày 18 tháng 11 năm 1929. Hai đội đến từ châu Á - Nhật Bản và Xiêm La (Thái Lan ngày nay) rút lui. Trong khi Ai Cập - đội châu Phi duy nhất tham gia, đã rút lui do một cơn bão ở Địa Trung Hải, và họ bị lỡ chuyến tàu đi đến Uruguay. Hai tháng trước khi bắt đầu giải đấu, không có đội nào từ châu Âu chính thức tham gia. Chủ tịch FIFA Rimet đã can thiệp và bốn đội châu Âu cuối cùng đã thực hiện chuyến đi bằng đường biển: Bỉ, Pháp, Romania và Nam Tư. Đội Romania, được huấn luyện bởi Constantin Rădulescu cùng đội trưởng Rudolf Wetzer và Octav Luchide, đã tham gia cuộc thi sau sự can thiệp của Vua Carol II mới lên ngôi. Nhà vua đã đích thân chọn cầu thủ và thương lượng với các nhà tuyển dụng để đảm bảo rằng các cầu thủ vẫn có việc làm khi họ trở về. Người Pháp tham dự bằng lời mời của chủ tịch FIFA Rimet, nhưng cả hậu vệ ngôi sao của Pháp Manuel Anatol và huấn luyện viên thường xuyên của đội Gaston Barreau đều không thể bị thuyết phục để thực hiện chuyến đi. Người Bỉ tham gia theo lời mời của phó chủ tịch FIFA người Bỉ gốc Đức Rodolphe Seeldrayers. Đội Romania lên tàu SS Conte Verde tại Genoa, Ý. Đội Pháp và Nam Tư được đón tại Villefranche-sur-Mer, Pháp, vào ngày 21 tháng 6 năm 1930, và đón đội Bỉ tại Barcelona , Tây Ban Nha. Conte Verde mang theo Rimet, chiếc cúp và ba trọng tài châu Âu được chỉ định: hai trọng tài người Bỉ John Langenus và Henri Christophe, cùng với Thomas Balvay, một trọng tài người Pháp. Đội Brazil đã được đón khi thuyền cập cảng Rio de Janeiro vào ngày 29 tháng 6 trước khi đến Uruguay vào ngày 4 tháng 7. Quả bóng chính thức được sử dụng cho giải đấu là T-Model. Danh sách các đội được mời 16 đội sau ban đầu đủ điều kiện tham dự giải đấu cuối cùng. Tuy nhiên, chỉ có 13 đội đã tham gia do sự rút lui của Ai Cập, Nhật Bản và Xiêm La. Trọng tài Sau đây là danh sách các trọng tài được chỉ định cho giải đấu. Các trọng tài in nghiêng chỉ được chỉ định làm trọng tài biên trong suốt giải đấu. Châu Âu Thomas Balvay Henri Christophe Jan Langenus Costel Rădulescu Bắc Mỹ Gaspar Vallejo Nam Mỹ Gualberto Alonso Martin Aphesteguy Domingo Lombardi José Macías Francisco Mateucci Almeida Rêgo Ulises Saucedo Anibal Tejada Ricardo Vallarino Alberto Warnken Vòng bảng Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng đấu loại trực tiếp Bán kết Chung kết Vô địch Cầu thủ ghi bàn 8 bàn Guillermo Stábile 5 bàn Pedro Cea 4 bàn Guillermo Subiabre Bert Patenaude 3 bàn Carlos Peucelle Preguinho Peregrino Anselmo Ivan Bek 2 bàn Luis Monti Adolfo Zumelzú Moderato André Maschinot Manuel Rosas Héctor Castro Pablo Dorado Santos Iriarte Bart McGhee 1 bàn Mario Evaristo Alejandro Scopelli Francisco Varallo Carlos Vidal Marcel Langiller Lucien Laurent Juan Carreño Roberto Gayón Luis Vargas Peña Luis Souza Ferreira Ştefan Barbu Adalbert Deşu Constantin Stanciu Jim Brown Héctor Scarone Blagoje Marjanović Branislav Sekulić Aleksandar Tirnanić Đorđe Vujadinović Phản lưới nhà Manuel Rosas (trận gặp ) Danh hiệu Vô địch : Uruguay Á quân : Argentina Hạng 3 : Mỹ (công nhận 1986) Cầu thủ hay nhất : Jose Nasazzi Yarza (Uruguay) Vua phá lưới : Guillermo Stábille (Argentina) Găng tay vàng : Enrique Ballestrero (Uruguay) Bảng xếp hạng giải đấu thế giới năm 1930 theo FIFA năm 1986
Ashoka Đại Đế (br. 𑀅𑀲𑁄𑀓 sa. aśoka, pi. asoka, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. maurya, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo. Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha). Ông đã chinh phục Kalinga, điều mà tiên đế của ông là Chandragupta Maurya chưa bao giờ làm được. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh Kalinga, mà bản thân ông đã thực hiện do khát vọng mở rộng đế quốc của mình. "Ashoka suy ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đã làm hơn 100.000 người chết và 150.000 người khác bị trục xuất." Ashoka đã quy y Tam bảo vào khoảng 263 TCN. Sau đó ông đã hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích-ca Mâu-ni. Tên ông cũng được gọi theo dịch tiếng Hán Việt khác là A-du-ca (zh. 阿輸迦), A-du-già (阿輸伽), A-thứ-già (阿恕伽), A-thú-khả (阿戍笴), A-thúc (阿儵), hoặc dịch nghĩa là Vô Ưu (無憂), hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là Thiên Ái Hỉ Kiến (zh. 天愛喜見, sa. devānaṃpriya priyadarśi), nghĩa là "người được chư thiên thương, người nhìn sự vật với tấm lòng hoan hỉ". Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ xưa (sa. bhāratavarṣa) đã thống nhất được một lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay. Tài liệu nguồn lịch sử Các thông tin lịch sử về cuộc đời và thời gian cai trị của vua A-dục có nguồn từ một số tài liệu Phật giáo tương đối nhỏ. Đặc biệt là tác phẩm tiếng Phạn A-dục vương truyện (sa. aśokāvadāna) và hai bộ sử của Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa) cung cấp hầu như tất cả những thông tin ngày nay có được. Những thông tin đi sâu hơn được các bản khắc văn của chính vua A-dục cung cấp (xem A-dục vương khắc văn), sau khi tác giả của những khắc văn này là Thiên Ái Hỉ Kiến được xác nhận là A-dục vương trong các văn bản Phật giáo, là tên khác của A-dục Khổng Tước (pi. asoka mauriya) Việc dùng tài liệu Phật giáo để tu phục lại cuộc đời của vua A-dục đã gây ảnh hưởng lớn đến cách nhận thức A-dục hiện nay cũng như cách diễn giảng các văn bản khắc trên trụ và vách đá của ông. Lập cơ sở trên những tài liệu này, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, ông chủ yếu là một quân vương Phật giáo, trải qua một cuộc chuyển hóa tâm thức, đến với Phật giáo và sau đó chủ động hỗ trợ Phật giáo và Tăng-già. Các nhà nghiên cứu gần đây đặt câu hỏi về những sự kiện trên, bởi vì những nguồn tài liệu ngoài truyền thống Phật giáo, chính các bản khắc văn của A-dục ít nói đến những điểm giáo lý, triết học Phật giáo, mặc dù khái niệm "Đạt-ma" (zh. 達磨, sa. dharma, pi.dhamma) được nhắc rất nhiều lần. Một vài học giả diễn giảng là đây chính là dấu hiệu của việc A-dục muốn lập một tôn giáo quần chúng có tính cách bao gồm, đa tôn giáo cho quân vương của mình (Romila Thapar); và tôn giáo quần chúng này đặt cơ sở trên khái niệm Đạt-ma như một năng lực luân lý, nhưng không ủng hộ hoặc đề cao bất cứ một triết lý có thể gán vào những trào lưu tôn giáo triều vua A-dục (ví như Kì-na giáo, Bà-la-môn giáo hoặc Sinh kế giáo, sa. ājīvika). Tuy nhiên, như A.W.P. Guruge cho thấy bằng nhiều ví dụ từ kinh tạng Pali, thuyết tôn giáo quần chúng bên trên không có lập trường vững chắc. Trong mọi trường hợp, tất cả các học giả hiện này đều nhất trí là A-dục đã trị nước với một tấm lòng nhân ái, khoan dung đối với tất cả những trào lưu tôn giáo thời đó. Cái tên A-dục, hay Ashoka có nghĩa là "không đau khổ" trong tiếng Sanskrit. Trong các sắc lệnh ông tự xưng là Devaanaampriya hay là "Người được thần linh phù hộ". H.G. Wells viết về vua A-dục: Truyền thuyết về ông được lưu lại trong Ashokavadana ("Chuyện kể về A-dục vương") trong thế kỷ thứ II và Divyavadana ("Chuyện kể linh thiêng").Ashoka là vị hoàng tử thứ hai của vua Bindusara và của Vương triều Maurya Thời niên thiếu Theo như truyền thống Phật giáo, miêu tả trong "Truyền thuyết về A-dục vương" vào thế kỷ thứ II, sự ra đời của A-dục được tiên tri bởi Phật Thích-ca Mâu-ni, trong câu chuyện "Quà của Đất": {{cquote| Một trăm năm sau khi ta qua đời có một hoàng đế tên là A-dục tại xứ Pataliputra. Ông sẽ thống trị một trong bốn lục địa và trang trí Diêm phù đề (Jambudvīpa) với tro xương của ta và xây tám mươi bốn ngàn phù đồ để đem lại công đức cho chúng sinh. Ông sẽ cho các nơi đó được kính trọng bởi thần linh cũng như con người. Tiếng tăm của ông sẽ lan đi khắp nơi. Món quà cúng dường của ông chỉ đơn giản thế này: Nhạ Da (Jaya) ném một nắm đất vào chén của Như Lai (Tathāgata). Ashokavadana }} Theo sau lời tiên tri này, "Truyền thuyết về A-dục vương" còn nói thêm rằng A-dục cuối cùng được hạ sinh như là hoàng tử của Hoàng đế Bindusara xứ Maurya bởi một thứ phi tên là Dharma. Dharma được kể là con của một Brahmin (Bà la môn) nghèo. Ông dâng con gái vào cung vua vì có lời tiên đoán rằng con trai (của Dharma) sẽ là một hoàng đế vĩ đại. Mặc dù Dharma có dòng dõi tăng lữ, sự kiện cô không phải là hoàng tộc đã làm cô có một vị trí thấp trong cung cấm. A-dục có một số người anh cùng cha khác mẹ lớn tuổi hơn và một người em trai, Vitthashoka, con trai thứ của Dharma. Các hoàng tử cạnh tranh lẫn nhau hết sức gay gắt, nhưng A-dục trẻ tuổi xuất sắc cả trong quân sự lẫn các môn học được dạy dỗ. Có một sự đối đầu gay gắt, đặc biệt là giữa A-dục và người anh Susima. Thời kì nắm quyền lực Trưởng thành như một vị tướng bất khả chiến bại và một người cầm quân khôn ngoan, A-dục tiếp tục chỉ huy một vài quân đoàn của quân đội Maurya. Uy tín anh trong vương quốc tăng dần khiến các người anh lớn lo sợ anh sẽ được phụ hoàng Bindusara chọn làm người kế vị. Người lớn tuổi nhất, Hoàng tử Susima, theo truyền thống sẽ là người nối ngôi, thuyết phục phụ hoàng gửi A-dục dẹp quân nổi loạn ở thành phố Takshashila trong một tỉnh phía tây bắc của Sindh, mà Hoàng tử Susima là thống đốc. Takshashila là một nơi bất ổn bởi dân số Ấn-Hy Lạp hiếu chiến và sự điều hành kém cỏi của bản thân Susima. Điều này đã tạo nên sự thành lập của các sứ quân khác nhau tạo ra nổi loạn. Ashoka tuân lệnh và lên đường đền vùng có biến. Khi tin tức về A-dục đem quân tiến đánh lan đến, anh được chào đón bởi các sứ quân và cuộc nổi loạn kết thúc mà không cần một trận đánh nào. (Tỉnh này nổi loạn một lần nữa dưới triều A-dục vương, nhưng lần này cuộc nổi dậy bị dập tắt với một bàn tay sắt). Sự thành công của A-dục làm các người anh cùng cha khác mẹ thêm lo lắng là anh muốn lên ngôi, và nhiều lời sàm tấu từ Susima khiến Bindusara gửi A-dục đi đày. Anh đi vào vùng Kalinga và mai danh ẩn tích. Nơi đó anh gặp một cô gái đánh cá tên là Kaurwaki, họ yêu nhau; các bản khắc đá tìm ra gần đây cho thấy cô ta trở thành hoàng hậu thứ hai hay thứ ba của anh. Trong khi đó, lại có một cuộc nổi loạn ở vùng Ujjain. Hoàng đế Bindusara triệu tập A-dục về sau hai năm đi đày. A-dục tiến về Ujjain và bị thương trong trận chiến sau đó, nhưng các tướng của anh đã dập tắt cuộc nổi loạn. A-dục được chữa trị ở một nơi bí mật để các tay chân của Susima không thể làm hại. Anh được chữa trị bởi các nhà sư Phật giáo. Chính nơi này là nơi anh lần đầu tiên biết được những lời dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nơi anh gặp nàng Devi xinh đẹp, là y tá riêng là cũng là con gái của một thương gia từ vùng Vidisha lân cận. Sau khi bình phục, anh cưới cô ta. A-dục, vào thời điểm đó, đã lập gia đình với Asandhimitra người là vương phi chính của ông trong nhiều năm cho đến khi bà mất. Bà có vẻ như là đã sống ở Pataliputra cả cuộc đời. Năm sau trôi qua một cách bình yên và Devi chuẩn bị hạ sinh đứa con đầu lòng của ông. Vào thời gian đó, Hoàng đế Bindusara lâm bệnh và hấp hối. Một nhóm các đại thần dẫn đầu bởi Radhagupta, người chán ghét Susima, đã mời A-dục về để nối ngôi, mặc dù Bindusara ưa thích Susima hơn. Theo như truyền thuyết, trong một cơn giận Hoàng tử A-dục tấn công Pataliputra (Patna ngày nay), và giết chết tất cả các người anh cùng cha khác mẹ, kể cả Susima, và ném xác của họ vào một cái giếng ở Pataliputra. Không biết là vua cha Bindusara đã qua đời hay chưa vào lúc đó. Vào giai đoạn đó của cuộc đời ông, nhiều người gọi ông là Chanda Ashoka nghĩa là kẻ giết người bất nhân Ashoka. Truyền thuyết Phật giáo đã vẽ lên một bức tranh đẫm máu bạo lực về các hành động của ông vào thời gian đó. Đa số là không đáng tin cậy, và nên được đọc như là các yếu tố làm nền để làm nổi bật lên sự chuyển hóa trong A-dục vương mà Phật giáo đem lại sau này. Sau khi lên ngôi, Ashoka mở rộng đế chế trong tám năm sau đó: đất nước mở rộng để bao gồm một vùng trải từ biện giới ngày nay của Bangladesh và bang Assam của Ấn Độ, ở phía đông, đến các vùng đất ngày nay là Iran và Afghanistan, ở phía tây, và từ Nút thắt Pamir ở phía bắc đến tận mũi của bán đảo của vùng phía nam Ấn Độ. Vào thời điểm đó của cuộc đời ông, ông được gọi là Chakravarti mà theo nghĩa đen là "Chuyển luân vương" (nghĩa rộng là hoàng đế). Vào khoảng thời gian đó, hoàng hậu Phật giáo Devi đã hạ sinh hai người con, Hoàng tử Mahindra và Công chúa Sanghamitra. Chinh phục Kalinga Phần đầu của triều đại của vua A-dục rõ ràng là khá đẫm máu. A-dục liên tục tổ chức các chiến dịch, chinh phạt hết vùng đất này đến vùng đất khác và mở rộng đáng kể đế chế Maurya đã khá rộng lớn và tích trữ thêm của cải. Cuộc chinh phạt cuối cùng là bang Kalinga nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ trong vùng ngày nay là Orissa. Kalinga tự hào với chủ quyền và nền dân chủ; với nền dân chủ kết hợp vua - nghị viện, khá là đặc biệt trong xứ Bharata cổ đại, vì nơi đó đã tồn tại khái niệm Rajdharma, nghĩa là nghĩa vụ của người cầm quyền, được đan xen đến mức như là bản chất của khái niệm về sự dũng cảm và Kshatriya dharma. Nguyên nhân khởi đầu cuộc chiến tranh Kalinga (265 TCN hoặc 263 TCN) là không rõ ràng. Một trong những người anh của vua A-dục - và có lẽ là người ủng hộ Susima - có lẽ là bỏ chạy về phía Kalinga và chính thức lánh nạn ở nơi đó. Điều này đã làm A-dục nổi giận. Ông được khuyên bởi các quan đại thần nên tấn công Kalinga cho hành động phản bội đó. A-dục sau đó đã yêu cầu hoàng gia Kalinga đầu hàng. Khi họ coi thường tối hậu thư đó, A-dục gửi một trong các tướng lĩnh của mình đến Kalinga để buộc họ đầu hàng. Tuy nhiên, vị tướng và các quân lính của ông ta đã bị đánh bật ra thông qua những chiến thuật tài tình của tổng tư lệnh xứ Kalinga. Vua A-dục, nổi đóa bởi sự thất bại này, đã tấn công với cuộc xâm lăng lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ đã ghi lại cho đến lúc đó. Kalinga đã chống cự mãnh liệt, nhưng họ không phải là đối thủ của quân lực hùng hậu của A-dục với các vũ khí mạnh hơn cùng các tướng sĩ nhiều kinh nghiệm hơn. Toàn bộ Kalinga bị cưỡng đoạt và tiêu diệt: các khuyến dụ của A-dục này nói rằng khoảng 100.000 người thiệt mạng phía Kalinga và 10.000 từ quân đội của A-dục; hàng ngàn người bị trục xuất. Quy y Tam bảo Theo như truyền thuyết, một ngày sau khi cuộc chiến kết thúc vua A-dục cưỡi ngựa dạo quanh phía đông thành phố và tất cả những gì mà ông có thể thấy là những căn nhà cháy rụi và những xác người rải rác khắp nơi. Cảnh tượng này làm ông cảm thấy khó ở và ông thốt lên câu nói nổi tiếng, "Ta đã làm gì thế này? ". Sự tàn bạo của cuộc chinh phạt đã làm ông chuyển hóa sang Phật giáo và sử dụng vị trí của mình để truyền bá triết lý tương đối mới này lên đỉnh cao, đến mức như là La Mã cổ đại và Ai Cập. Cũng theo truyền thuyết, cũng có một yếu tố khác đã dẫn dắt vua A-dục đến Phật giáo. Một công chúa Maurya - vợ của một trong những người anh trai của A-dục (đã bị ông xử tử) chạy trốn khỏi dinh thự với một tỳ nữ, lo sợ cho đứa con chưa ra đời. Trải qua một hành trình dài, công chúa đang mang thai ngã gục dưới một gốc cây trong rừng, và người tỳ nữ chạy đến ngôi đền gần đó để nhờ một thầy tu hay thầy thuốc đến giúp. Trong khi đó, dưới gốc cây, công chúa hạ sinh một người con trai. Hoàng tử trẻ tuổi được nuôi nấng và dạy dỗ bởi những Brahmin trong ngôi đền. Sau này, khi cậu khoảng mười ba tuổi, cậu tình cờ gặp A-dục, ông ngạc nhiên khi thấy một cậu bé nhỏ tuổi như vậy ăn mặc như một nhà hiền triết. Khi cậu bé bình thản tiết lộ thân thế của mình, có vẻ như là A-dục xúc động vì hối hận và lòng thương cảm, và cho dời cậu bé và mẹ cậu về lại hoàng cung. Trong khi đó Hoàng phi Kavi, một người theo Phật giáo, và nuôi dạy các con theo tín ngưỡng đó, và rõ ràng là đã rời bỏ A-dục sau khi bà chứng kiến những việc tàn bạo xảy ra tại Kalinga. Vua A-dục đau khổ vì điều này, và được khuyên bởi người cháu của mình (người lớn lên trong đền thờ và mang tính thầy tu nhiều hơn là hoàng tử) quy thuận theo đạo pháp (dharma) và tránh xa chiến tranh. Hoàng tử Mahindra và công chúa Sanghamitra, con của Hoàng hậu Devi, chán ghét bạo lực và cảnh đổ máu, nhưng biết rằng chiến tranh trong hoàng gia sẽ là một phần của cuộc đời họ. Do đó họ xin phép A-dục gia nhập với các nhà sư Phật giáo, mà A-dục miễn cưỡng chấp nhận. Hai người này đã thiết lập Phật giáo ở Ceylon (bây giờ là Tích Lan). Từ thời điểm đó vua A-dục, người đã từng được miêu tả như là "A-dục ác vương" (Chandashoka), bắt đầu được mô tả như là "A-dục sùng đạo" (Dharmashoka). Ông cho lan truyền trường phái Vibhajjvada của Phật giáo và thuyết pháp giáo lý trong vương quốc của mình cũng như ra khắp thế giới từ khoảng 250 TCN. A-dục vương do vậy được khẳng định là người có những cố gắng nghiêm túc đầu tiên để phát triển một chính sách Phật giáo. Qua đời và di sản Vua Ashoka trị vì xấp xỉ trong bốn mươi năm, và sau khi ông qua đời, triều đại Maurya chỉ tồn tại thêm được năm mươi năm nữa. Ông có nhiều vợ và con, nhưng tên tuổi của phần lớn trong số họ đã bị quên lãng cùng năm tháng. Mahindra (Ma-hi-đà) và Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) là 2 người con nổi tiếng nhất của ông, ngày nay vẫn còn được nhớ đến. Họ là cặp song sinh hạ sinh bởi người vợ thứ nhất của ông là Devi ở thành phố Ujjain. Ông đã cho họ xuất gia theo đạo Phật, và 2 người này đã góp công truyền đạo Phật đến khắp thế giới. Mahindra và Sanghamitra đã đi đến Sri Lanka và truyền đạo cho vua, hoàng hậu và người dân xứ đó theo đạo Phật. Mahindra có lẽ cũng là chủ tọa của Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại Sri Lanka. Còn Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) thì đã mang theo 1 nhánh cây chiết từ Cội Bồ-đề (Phật Thích Ca đã ngồi dưới gốc cây bồ đề đó vào đêm ngài đạt tới giác ngộ) đem đến trồng ở Anuradhapura, sau này nhánh cây phát triển thành một cây to và người dân Sri Lanka gọi đây là "Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới. Ngày nay vào ngày rằm tháng 11 âm lịch, Phật tử khắp nơi trong đảo quốc Sri Lanka vẫn hành lễ tưởng niệm công lao của Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa Trong những năm tháng tuổi già, ông có vẻ chịu sự thao túng của người vợ trẻ nhất tên là Tishyaraksha. Người ta kể rằng bà ta đã làm cho hoàng tử Kunala, quan nhiếp chính ở Takshashila, bị mù bởi những âm mưu xảo trá. Kanula được tha tội tử hình và trở thành một người hát rong đi cùng với người vợ yêu của ông ta là Kanchanmala. Ở thành phố Pataliputra, vua Ashoka nghe lời hát của Kunala, và nhận ra rằng sự bất hạnh của Kunala có thể là sự trừng phạt của những tội lỗi trong quá khứ của nhà vua và kết tội chết Tishyaraksha, phục hồi Kunala về lại triều đình. Kunala được kế vị bởi con ông ta, Samprati. Nhưng triều đình của ông không kéo dài sau khi Ashoka qua đời. Quốc huy của Ấn Độ là bản sao của cột đá Ashoka. Triều đại Maurya của vua Ashoka thể dễ dàng biến mất vào lịch sử với nhiều năm tháng trôi qua và có lẽ sẽ như vậy, nếu như ông đã không để lại chứng cứ về những thành công của ông. Những bằng chứng về vị vua khôn ngoan này đã được khám phá dưới dạng những cột đá được chạm khắc lộng lẫy và những tảng đá khắc những tranh vẽ và những lời răn dạy. Những gì Ashoka để lại là ngôn ngữ viết đầu tiên ở Ấn Độ kể từ thành phố cổ đại Harappa. Không hẳn là Sanskrit, ngôn ngữ dùng trong các bản khắc đá là dạng ngôn ngữ nói thời đó gọi là Prakrit. Vào năm 185 TCN, khoảng năm mươi năm sau khi vua Ashoka qua đời, vị vua cuối cùng của Maurya, Brhadrata, bị giết hại một cách tàn bạo bởi tổng tư lệnh của quân đội Maurya, Pusyamitra Sunga, trong khi vua đang duyệt hàng quân danh dự. Pusyamitra Sunga thiết lập triều đại Sunga (185 TCN-78 TCN) và cai trị chỉ một phần của Đế chế Maurya. Đa phần lãnh thổ phía tây bắc của Đế chế Maurya (ngày nay là Iran, Afghanistan và Pakistan) trở thành Vương quốc Ấn-Hy Lạp (). Khi Ấn Độ giành lại được độc lập từ Đế quốc Anh nước này đã mô phỏng quốc huy của Ashoka thành quốc huy chính thức, đặt Dharmachakra (Bánh xe của các Nghĩa vụ Chính nghĩa) trên nhiều cột đá trên lá cờ của quốc gia vừa giành được độc lập. Năm 1992, vua Ashoka được xếp thứ 53 trong Danh sách những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử của Michael H. Hart. Năm 2001, phim Ashoka - một bộ phim (có phần hư cấu) về cuộc đời của Ashoka được sản xuất. Vương quốc Phật giáo A-dục vương trong thời nay Trong nghệ thuật và điện ảnh Ashoka đại đế (phim truyền hình) Asoka Trong Văn học Asoka and the Decline of the Maurya của Romila Thapar. Early India and Pakistan: to Ashoka (1970) của Brigadier Sir Robert Eric Mortimer Wheeler. Asoka the Great của Monisha Mukundan. Asokan Sites and Artefacts, a Source-book with Bibliography. Harry Falk, Verlag Philipp von Zabern, Mainz 2006 ISBN 978-3-8053-3712-0. The Legend of King Asoka (1948) của John S. Strong. Ashoka the Great (1995) của D. C. Ahir. Ashoka text and glossary (1924) của Alfred C. Woolner. Asoka: The Buddhist Emperor of India của Vincent A. Smith. Discovery of the Exact Site of Asoka's Classic Capital of Pataliputra (1892) của L. A. Waddell. Asoka Maurya (1966) của B. G. Gokhale. The Legend of King Asoka (1989) của John S. Strong. Asoka (1923) của D.R. Bhandarkar. Ashoka, The Great của B. K. Chaturvedi. Asoka của Mookerji Radhakumud. King Aśoka and Buddhism Historical And Literaray Studies của Anuradha Seneviratna. To Uphold the World: The Message of Ashoka and Kautilya for the 21st Century (2008) của Bruce Rich. Asoka and His Inscriptions của Beni Madhab Barua. Asoka's Edicts (1956) của A. C. Sen. Nguồn Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4 Thapar, Romila. Aśoka and the decline of the Mauryas (Delhi: Oxford: Oxford University Press, 1997, 1998 printing, c1961) ISBN 0-19-564445-X Nilakanta Sastri, K. A. Age of the Nandas and Mauryas (Delhi: Motilal Banarsidass, [1967] c1952) ISBN 0-89684-167-7 Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division tháng 5 năm 1986) ISBN 0-86590-826-5 Govind Gokhale, Balkrishna. Asoka Maurya (Irvington Pub tháng 6 năm 1966) ISBN 0-8290-1735-6 Chand Chauhan, Gian. Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650 (Munshiram Manoharlal tháng 1 năm 2004) ISBN 81-215-1028-7 Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0 Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts - A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0 Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division May 1986) ISBN 0-86590-826-5 Chauhan, Gian Chand (2004). Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650. Munshiram Manoharlal, Delhi. ISBN 978-81-215-1028-8 Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts – A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0 Gokhale, Balkrishna Govind (1996). Asoka Maurya (Twayne Publishers) ISBN 978-0-8290-1735-9 Hultzsch, Eugene (1914). The Date of Asoka, The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Oct. 1914), pp. 943–951. Article stable URL. Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition ngày 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0 Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Reprint: 1996, Motilal Banarsidass, Delhi. ISBN 978-81-208-0466-1 Singh, Upinder (2012). "Governing the State and the Self: Political Philosophy and Practice in the Edicts of Aśoka," South Asian Studies, 28:2 (University of Delhi: 2012), pp. 131–145. Article stable URL. Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4 Thapar, Romila. (1973). Aśoka and the decline of the Mauryas. 2nd Edition. Oxford University Press, Reprint, 1980. SBN 19-660379 6. von Hinüber, Oskar. (2010). "Did Hellenistic Kings Send Letters to Aśoka?" Journal of the American Oriental Society, 130:2 (Freiburg: 2010), pp. 261–266. MacPhail, James Merry: "Asoka", Calcutta: The Associative Press; Luân Đôn: Oxford University Press 1918 PDF (5.9 MB)
Hình cầu dẹt, hay phỏng cầu tròn xoay là một hình không gian được tạo ra, khi một hình elip phẳng xoay quanh trục ngắn của nó. Đây là một trường hợp đặc biệt của hình ellipsoid. Reference ellipsoid, một trong nhiều định nghĩa của hình Trái Đất là một điển hình của hình cầu dẹt. Bán kính cực, , nhỏ hơn bán kính xích đạo, , khoảng 21 km. Hình này là hậu quả của lực li tâm trong chuyển động xoay của Trái Đất quanh trục sinh ra. Hình cầu dẹt trong Hệ tọa độ Descartes, với tâm ở gốc tọa độ, sinh ra từ một elip chính tắc trên mặt phẳng Oxz có phương trình: Thứ nhất và thứ hai Hình cầu dẹt, (nơi là góc tâm sai.) Diện tích bề mặt Diện tích mặt của hình cầu dẹt là một trường hợp suy biến của mặt ellipsoid, được tính bởi công thức sau: trong đó (dạng dẹt), hoặc (dạng dài) là góc modular, hay độ lệch tâm góc và , là các tích phân elip chưa hoàn thành bậc nhất và bậc hai.
Tỉ lệ thuận là mối tương quan giữa hai đại lượng x và y theo một hằng số k mà trong đó sự gia tăng về giá trị của đại lượng thứ nhất bao nhiêu lần luôn kéo theo sự gia tăng tương ứng về giá trị của đại lượng thứ hai bấy nhiêu lần, và ngược lại. Trong toán học, đồ thị biểu diễn 2 đại lượng có mối tương quan "tỉ lệ thuận" là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ và có độ dốc (góc nghiêng) dương, đó là đồ thị của hàm số dạng với k là 1 hằng số khác 0. Định nghĩa Nếu một đại lượng y tỉ lệ với một đại lượng x theo công thức: (k hằng số khác 0) thì ta nói y tỉ lệ thuận với x theo hệ số tỉ lệ k. Cũng có thể viết "y tỉ lệ thuận với x" như sau:: hoặc Tính chất Nếu hai đại lượng x và y tỉ lệ thuận: Tỉ số hai giá trị tương ứng của chúng luôn không đổi.  Tỉ số hai giá trị bất kỳ của đại lượng này bằng tỉ số hai giá trị tương ứng của đại lượng kia. Một quan hệ tỉ lệ thuận còn có thể coi là một hàm số bậc nhất mà đường thẳng đồ thị đi qua gốc tọa độ và hệ số góc là k. Quan hệ này có liên quan tới sự tăng trưởng tuyến tính. Một số ví dụ Nếu một vật di chuyển với tốc độ không đổi, thì quãng đường đã đi tỉ lệ thuận với thời gian đi, với hệ số tỉ lệ chính là tốc độ. Chu vi của 1 đường tròn tỉ lệ thuận với đường kính của nó, với hệ số tỉ lệ là π. Trên một bản đồ địa lý trên phạm vi nhỏ vẽ theo đúng tỉ lệ xích, khoảng cách giữa hai điểm bất kì trên bản đồ tỉ lệ thuận với khoảng cách theo đường chim bay giữa hai địa điểm chúng biểu diễn trên thực tế. Hệ số tỉ lệ ở đây chính là tỉ lệ bản đồ. Theo định luật Hooke, lực đàn hồi do lò xo tác dụng vào một vật gắn vào nó tỉ lệ thuận với độ biến dạng của lò xo (là độ dài của lò xo đã giãn ra hoặc nén lại). Hệ số tỉ lệ gọi là độ cứng của lò xo.
nhỏ|300x300px|Hai đại lượng x,y tỉ lệ nghịch, được biểu diễn qua đồ thị hàm số |thế= Đại lượng tỉ lệ nghịch là mối tương quan giữa hai đại lượng, mà nếu tăng đại lượng này bao nhiêu lần thì đại lượng kia giảm bấy nhiêu lần. Nói khác đi là: Nếu "a" là đại lượng thứ nhất, thì đại lượng tỉ lệ nghịch với "a" là "nghịch đảo - có hệ số - của a" (), và "k" là một hằng số dương bất kì. Có công thức: Trong toán học thì đồ thị biểu diễn mối tương quan "tỉ lệ nghịch" giữa hai đại lượng là hai cánh cung nằm ở hai góc vuông I và III của hệ quy chiếu Ox, Oy. Hai cánh cung này được gọi là đường cong hyperbol. Định nghĩa Hai đại lượng tỉ lệ nghịch x và y liên hệ với nhau bởi công thức hay (với a là một số khác 0 ) thì ta nói y tỉ lệ nghịch với x theo hệ số tỉ lệ a . Tính chất Nếu hai đại lượng x và y tỉ lệ nghịch với nhau thì : Tích hai giá trị tương ứng của chúng luôn không đổi; còn gọi là hệ số tỉ lệ a. Tỉ số hai giá trị bất kỳ của đại lượng này bằng nghịch đảo tỉ số hai giá trị tương ứng của đại lượng kia: nếu thì .
Bệnh viêm não thể bọt biển ở bò (tiếng Anh là bovine spongiform encephalopathy, viết tắt BSE), thông thường được gọi là bệnh bò điên, bệnh do một protein nhiễm độc prion gây ra làm suy thoái hệ thần kinh và gây chết ở gia súc, với cơ chế lây nhiễm gây sốc các nhà sinh vật học khi nó được khám phá vào cuối thế kỷ 20 và có vẻ như có thể lây nhiễm cho người. Mặc dù số gia súc bị giết không đáng kể so với các bệnh truyền nhiễm gia súc khủng khiếp khác như bệnh lở mồm long móng và rinderpest, bệnh bò điên đã thu hút sự chú ý rộng rãi vì người ta cho rằng bệnh này có thể lây qua người, tuy nhiên chưa chứng minh được là bệnh này có liên hệ với các dạng bệnh Creutzfeldt-Jakob là một loại bệnh viêm não ở người. Chú thích
Plasmid (phát âm IPA: /plæs mɪd/, tiếng Việt: plasmit) là phân tử DNA vòng, nhỏ, không mang hệ gen chính của bộ gen. Ở mỗi tế bào vi khuẩn thường có rất nhiều plasmid, nhưng chỉ định vị ngoài vùng nhân, còn vùng nhân chứa DNA-nhiễm sắc thể (hình 1). Ở sinh vật có nhân thực (eukaryote), plasmid cũng khá phổ biến, chẳng hạn: ty thể của người có DNA vòng, gốc từ plasmid vi khuẩn, phục vụ hô hấp ty thể; lục lạp của cây xanh chứa hệ gen gốc là plasmid phục vụ quang hợp; đa bào bậc thấp như nấm men Saccharomyces cerevisiae có plasmid với đường kính tới 2 micrômet. Kích thước plasmid thay đổi tuỳ loại, dao động trong khoảng một vài kbp đến hơn 400 kpb (kilobase pairs). Số lượng plasmid cũng rất thay đổi tuỳ loại và tuỳ tế bào chứa nó, thường có một vài cho tới vài trăm bản sao trong cùng một tế bào. Tuy plasmid là DNA vòng, nhưng chúng thường tồn tại ở dạng DNA siêu xoắn (hình 2). Tính kháng kháng sinh Plasmid thường chứa các gene hay nhóm gene (gene-cassettes) mang lại một ưu thế chọn lọc nào đó cho tế bào vi khuẩn chứa nó, ví dụ như khả năng giúp vi khuẩn kháng kháng sinh. Mỗi plasmid chứa ít nhất một trình tự DNA có vai trò vị trí bắt đầu sao chép (ori hay origin of replication), mang lại cho plasmid khả năng tự sao chép độc lập với DNA nhiễm sắc thể (hình 3). Episomes Thuật ngữ episome lần đầu xuất hiện do François Jacob và Élie Wollman đề câp đến vào năm 1958, để chỉ vật liệu di truyền ngoài nhiễm sắc thể có thể sao chép tự động hoặc tích hợp vào nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, kể từ khi thuật ngữ này ra đời, việc sử dụng nó đã thay đổi, vì plasmid đã trở thành thuật ngữ ưa thích để chỉ DNA ngoại nhiễm sắc thể sao chép tự động. Tại một hội nghị chuyên đề năm 1968 ở London, một số người tham gia đề nghị bỏ thuật ngữ episome, mặc dù những người khác vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ này với sự thay đổi về nghĩa. Episomes là những plasmid có khả năng gắn xen vào DNA nhiễm sắc thể của sinh vật chủ (Hình 3). Nhờ khả năng này, chúng có thể tồn tại trong một thời gian dài, được sao chép cùng lúc với DNA nhiễm sắc thể khi tế bào phân chia, và trở thành một phần trong bộ máy di truyền của tế bào. Thuật ngữ này không còn được dùng cho plasmid, vì giờ đây người ta đã biết trình tự tương đồng (homology) với nhiễm sắc thể trên plasmid, như transposon, biến plasmid thành episome (giúp plasmid gắn xen vào nhiễm sắc thể). Vectors Các plasmid nhân tạo có thể được sử dụng làm vector trong kỹ thuật di truyền. Các plasmid này đóng vai trò là công cụ quan trọng trong phòng thí nghiệm di truyền học và công nghệ sinh học, nơi chúng thường được sử dụng để sao chép và khuếch đại (tạo nhiều bản sao) hoặc biểu hiện các gen cụ thể. Nhiều loại plasmid có sẵn cho những mục đích sử dụng như vậy. Gen được sao chép thường được chèn vào một plasmid thường chứa một số tính năng để sử dụng. Chúng bao gồm một gen quy định khả năng kháng các loại kháng sinh cụ thể (ampicillin thường được sử dụng nhất cho các chủng vi khuẩn), một nguồn gốc sao chép để cho phép các tế bào vi khuẩn sao chép DNA plasmid và một vị trí thích hợp để nhân bản. (gọi là nơi nhân bản). Các loại plasmid Một cách để phân nhóm các plasmid là dựa vào khả năng truyền sang vi khuẩn khác của chúng Plasmid tiếp hợp (conjugative) chứa các tra-genes, giúp thực hiện một quá trình phức tạp gọi là tiếp hợp (conjugation), chuyển một plasmid sang vi khuẩn khác (hình 5). Plasmid không tiếp hợp là những plasmid không có khả năng tự thực hiện tiếp hợp, vì thế chúng chỉ có thể được chuyển sang một vi khuẩn khác khi có sự trợ giúp (ngẫu nhiên) của plasmid tiếp hợp. Còn có một nhóm plasmid trung gian gọi là nhóm di chuyển được (mobilisable). Chúng chỉ mang các gene cần thiết cho việc di chuyển. Những plasmid này có thể chuyển với tần suất cao khi có mặt một plasmid tiếp hợp. Nhiều loại plasmid khác nhau có thể cùng tồn tại trong một tế bào, đã có 7 plasmid khác nhau được tìm thấy trong E. coli. Mặt khác, những plasmid có họ hàng thường không thể cùng tồn tại - không tương hợp (incompatible), một trong số chúng sẽ bị loại khỏi tế bào. Vì thế, các plasmid còn được xếp vào các nhóm không tương hợp (incompatibility group), dựa vào khả năng cùng tồn tại của chúng trong một tế bào. Sự sắp xếp theo tính không tương hợp dựa vào cơ chế điều hòa những chức năng thiết yếu của plasmid. Một cách khác để phân loại plasmid là dựa vào chức năng. Có 5 nhóm chính: Plasmid giới tính (Fertility-(F) plasmid), mang các tra gene, có khả năng tiếp hợp. Plasmid mang tính kháng (Resistance-(R) plasmid), mang các gene có khả năng kháng lại các thuốc kháng sinh hay các chất độc. Được biết dưới thuật ngữ R-factor trước khi phát hiện ra bản chất của nó là plasmid. Col-plasmid, chứa gene mã hóa cho sự tổng hợp colchicine, một protein có thể giết chết các vi khuẩn khác. Plasmid phân hủy, giúp phân hủy các chất lạ như toluene hay salicylic acid. Plasmid mang độc tính, làm cho sinh vật trở thành sinh vật gây bệnh. Một plasmid có thể thuộc một hoặc nhiều nhóm chức năng kể trên. Những plasmid chỉ hiện diện với một hoặc một số ít bản sao trong vi khuẩn, khi tế bào vi khuẩn phân chia, sẽ có nguy cơ bị dồn về một trong hai tế bào con và tế bào con còn lại không còn bản sao nào của plasmid này. Để tránh bị mất đi sau phân bào, những plasmid một bản sao có các cơ chế để chủ động phân phối mỗi bản sao về một tế bào con. Một số plasmid khác lại có cơ chế gây nghiện. Những plasmid này sản xuất ra một loại độc chất có thời gian phân hủy dài và một chất kháng độc có thời gian phân hủy ngắn. Những tế bào con nào còn giữ được một bản sao của plasmid sẽ sống sót, trong khi những tế bào con mất plasmid sẽ chết hoặc giảm sức sống do độc chất vẫn còn trong tế bào mà khả năng tạo chất kháng độc (nằm trên plasmid) đã không còn. Đây là một ví dụ về plasmid như là phân tử DNA ích kỉ (selfish DNA). Các ứng dụng của plasmid Plasmid đóng một vai trò quan trọng trong các phòng thí nghiệm di truyền và sinh hóa, nơi chúng được sử dụng để nhân bản hoặc biểu hiện các gene cần quan tâm. Có rất nhiều plasmid được thương mại hóa cho các ứng dụng trên. Đầu tiên, các gene cần quan tâm được gắn chèn vào plasmid. Plasmid này có chứa, ngoài gene quan tâm, một hay vài gene kháng kháng sinh. Plasmid này sau đó được đưa vào bên trong vi khuẩn bằng một quá trình gọi là biến nạp (transformation). Vi khuẩn sau đó được nuôi trên môi trường có chứa kháng sinh. Những vi khuẩn nhận được plasmid sẽ biểu hiện khả năng kháng kháng sinh (nhờ gene kháng kháng sinh nằm trên plasmid), do đó sống được trên môi trường nuôi cấy có chứa kháng sinh tương ứng. Kháng sinh trong môi trường, tuy nhiên, lại có khả năng tiêu diệt những vi khuẩn không nhận được plasmid vì chúng không mang gene kháng kháng sinh này. Nhờ vậy, vi khuẩn chứa plasmid được tách riêng ra, tăng sinh, thu lại và ly giải để phân lập plasmid. Một ứng dụng quan trọng khác của plasmid là tạo ra protein với số lượng lớn. Trong trường hợp này, vi khuẩn chứa plasmid mang gene mong muốn cũng được nuôi cấy và chúng sẽ được kích hoạt để sản xuất ra số lượng lớn protein từ gene mong muốn nằm trên plasmid. Đây là một phương pháp đơn giản và rẻ tiền để tạo ra một lượng lớn plasmid hoặc protein, như insulin hay cả các kháng sinh. Plasmid - yếu tố di truyền ngoài thể nhiễm sắc ở vi khuẩn Ở vi khuẩn và một số nấm men, ngoài các gen nằm trong genophore còn có các yếu tố di truyền ngoài thể nhiễm sắc, gọi là plasmid. Plasmid là những phân tử DNA mạch kép dạng vòng nằm ngoài thể nhiễm sắc, có kích thước rất nhỏ, có khả năng tự nhân lên độc lập với tế bào và được phân sang các tế bào con khi nhân lên cùng với tế bào. Số lượng plasmid trong tế bào phụ thuộc vào các yếu tố như nhiệt độ, chất kháng sinh, các chất dinh dưỡng … Các plasmid có thể ở trạng thái cài vào thể nhiễm sắc, có khả năng tiếp hợp hoặc không, có thể có một hoặc nhiều bản sao cùng loại trong một tế bào. Các plasmid không phải là cấu tạo bắt buộc của tế bào nhưng sự có mặt của plasmid đem lại cho tế bào nhiều đặc tính quý như có thêm khả năng phân giải một số hợp chất, chống chịu với điều kiện nhiệt độ bất lợi, chống chịu với các chất kháng sinh… Trong công nghệ sinh học, người ta sử dụng plasmid làm vectơ để chuyển ghép gen từ tế bào cho sang tế bào nhận, từ đó nhân dòng tạo ngân hàng genophore hoặc cho gen biểu hiện thu sản phẩm protein có hoạt tính sinh học. Cấu hình Khi chạy điện di (electrophoresis), DNA plasmid có thể xuất diện dưới 5 dạng cấu hình như sau: "Siêu xoắn" (Supercoiled) (hay "Dạng vòng đóng bằng liên kết hóa trị"): DNA còn nguyên vẹn với cả hai mạch đều không bị cắt đứt. "Vòng tháo xoắn" (Relaxed Circular): DNA vẫn còn nguyên với hai mạch đều không bị cắt, nhưng plasmid đã được enzyme tháo xoắn. "Siêu xoắn biến tính" (Supercoiled Denatured): đây không phải là một dạng tự nhiên trong cơ thể. Nó thường hiện diện với số lượng nhỏ khi bị ly giải quá độ với kiềm, cả hai mạch đều không bị cắt nhưng bắt cặp bổ sung không chính xác, tạo nên cấu hình plasmid rất chặt. "Vòng mở" (Nicked Open-circular): có một mạch bị cắt. "Mạch thẳng" (Linear): hai mạch bị cắt ở cùng một vị trí. Độ linh động điện di tương đối của các loại cấu hình này trên gel như sau: Vòng mở (chậm nhất) Mạch thẳng Siêu xoắn Siêu xoắn biến tính Vòng tháo xoắn (nhanh nhất)
Tải nạp (tiếng Anh: transduction) là quá trình ADN ngoại lai được đưa vào tế bào thông qua vectơ thường là vi-rút.. Đây là một thuật ngữ trong sinh học phân tử và di truyền học vi khuẩn. Trong tiếng Anh, "transduction" dùng để chỉ một đoạn hoặc cả phân tử ADN của tế bào cho chuyển sang tế bào nhận thông qua trung gian. Kết thúc quá trình tải nạp, tế bào nhận sẽ có một đoạn ADN mới gọi là ADN ngoại lai và hiện tượng tái tổ hợp không tương đồng sẽ xảy ra bên trọng tế bào. Một ví dụ của quá trình tải nạp là sự vận chuyển ADN từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác thông qua vi-rút. Đây cũng là một ví dụ của hiện tượng chuyển gen ngang. Quá trình tải nạp không yêu cầu tiếp xúc vật lý giữa tế bào cho ADN và tế bào nhận ADN như trong quá trình tiếp hợp. Đồng thời, không như biến nạp, quá trình này không bị ảnh hưởng bởi ADNse - enzym phân hủy ADN. Tải nạp là một công cụ phổ biến được các nhà sinh học phân tử sử dụng để đưa một gen ngoại lai vào bộ gen của tế bào chủ (bao gồm cả tế bào vi khuẩn và tế bào động vật có vú) một cách ổn định. Ngoài ra, các nhà sinh học phân tử còn ứng dụng quá trình này nhằm thay đổi cấu trúc di truyền của vi khuẩn để xác định vị trí gen và cho nhiều thí nghiệm di truyền khác. Lịch sử Năm 1952, Norton Zinder và Joshua Lederberg từ Đại học Wisconsin-Madison đã khám phá ra hiện tượng tải nạp ở vi khuẩn Salmonella. Trong chu trình tan và tiềm tan Quá trình tải nạp xảy ra thông qua chu trình tan hoặc tiềm tan. Trong chu trình tan, khi thể thực khuẩn (vi-rút lây nhiễm vi khuẩn hay bacteriophage hoặc phage) lây nhiễm tế bào vi khuẩn, các thể này sẽ bắt đầu khai thác bộ máy sao chép, phiên mã, và dịch mã của tế bào vi khuẩn chủ để tạo ra các hạt vi rút mới gọi là virion. Các hạt thể thực khuẩn mới sau đó được giải phóng bằng cách ly giải vật chủ. Trong chu trình tiềm tan, nhiễm sắc thể của phage được tích hợp vào nhiễm sắc thể của vi khuẩn, và ADN của phage lúc này sẽ được gọi là prophage. Khi ở dạng này, ADN của phage có thể không hoạt động trong thời gian dài. Nếu prophage được kích thích (ví dụ như bằng tia cực tím), bộ gen của phage sẽ được cắt bỏ khỏi nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Sau đó, chu kỳ tan sẽ bắt đầu và dẫn đến sự phân giải của tế bào và giải phóng các virion. Quá trình tải nạp chung cỏ thể xảy ra ở cả hai chu trình, trong khi quá trình tải nạp đặc hiệu chỉ xảy ra khi prophage bị cắt trong chu trình tiềm tan. Phương pháp vận chuyển thông tin di truyền Tải nạp vi khuẩn nhờ thể thực khuẩn Quá trình đóng gói ADN của thực khuẩn thể vào vỏ bọc có độ chính xác thấp. Một số đoạn ADN của vi khuẩn chủ cũng bị đóng gói vào vỏ thực khuẩn thể thay vì bộ gene của nó. Những ARN virus không có khả năng đóng gói ADN nên thường không tạo ra nhầm lẫn trên. Khi ly giải tế bào, những virion bị đóng gói nhầm chứa ADN vi khuẩn có thể được đưa vào một vi khuẩn khác, và như vậy ADN vi khuẩn từ tế bào này đã vô tình được vận chuyển sang tế bào khác. Đoạn ADN này có thể trở thành một phần của nhiễm sắc thể trong tế bào mới, và từ đó được di truyền lại một cách ổn định. Có hai cách mà quá trình này có thể dẫn đến tải nạp. Tải nạp chung Tải nạp chung xảy ra khi các đoạn ADN vi khuẩn ngẫu nhiên được đóng gói thành một thể thực khuẩn, và bất kỳ gen nào của tế bào chủ có thể tham gia vào quá trình này. Quá trình này xảy ra khi một phage đang ở trong chu trình tan, cụ thể là tại thời điểm ADN của vi-rút được đóng gói vào trong các đầu của phage. Nếu vi-rút sử dụng cơ chế "đóng gói đầu" (tiếng Anh: headful packaging), vi-rút đó sẽ cố gắng lấp đầy phần đầu bằng các bộ gen. Cụ thể hơn, nếu phần đầu vẫn còn chỗ trống sau khi bộ gen của vi-rút đã được đóng gói xong, các cơ chế đóng gói vi-rút có thể vận chuyển bộ gen của vi khuẩn chủ vào trong phần đầu nhằm lấp đầy bộ phận này. Ngoài ra, quá trình tải nạp chung có thể xảy ra thông qua hiện tượng tái tổ hợp di truyền. Tải nạp chung là một sự quá trình hiếm gặp và xác xuất thành công là 1/11,000 phage. Các virion chứa một phần ADN của vi khuẩn sau đó có thể truyền sang tế bào vi khuẩn khác khi vi-rút bắt đầu chu trình lây nhiễm mới. Khi ADN của vi khuẩn được đóng gói trong vi-rút được đưa vào tế bào nhận, ba điều có thể xảy ra: ADN được tái chế nhằm thay thế các bộ gen trong tế bào nhận. Nếu ADN ban đầu là một plasmid, thì ADN sẽ trở lại thành dạng vòng bên trong tế bào mới. Nếu ADN khớp với có đoạn tương đồng với vùng trên nhiễm sắc thể của tế bào nhận, thì sẽ trao đổi vật chất ADN tương tự như các hoạt động tái tổ hợp di truyền của vi khuẩn. Tải nạp đặc hiệu Tải nạp đặc hiệu là quá trình mà theo đó một gen cụ thể của vi khuẩn được chuyển sang một loại vi khuẩn khác. Những gen nằm liền kề với prophage được chuyển do sai sót trong quá trình cắt bỏ. Sau đó, ADN vi khuẩn đã cắt bỏ cùng với ADN của virus được đóng gói thành một hạt vi-rút mới, hạt này sau đó được vận chuyển đến một vi khuẩn mới khi phage bắt đầu chu trình lây nhiễm. Ở tế bào mới, tùy thuộc vào bản chất của thể thực khuẩn mà các gen từ tế bào cho có thể được tích hợp vào nhiễm sắc thể của tế bào nhận hoặc tồn tại trong tế bào chất. Một ví dụ về quá trình tải nạp đặc hiệu xuất hiện thể thực khuẩn λ của Escherichia coli. Tải nạp ngang Tải nạp ngang là quá trình chuyển các đoạn ADN rất dài của vi khuẩn sang vi khuẩn khác. Cho đến nay, hình thức tải nạp này chỉ được mô tả ở Staphylococcus aureus, nhưng nó có thể chuyển nhiều gen hơn và ở tần số cao hơn so với tải nạp chung và đặc hiệu. Trong quá trình tải nạp ngang, prophage bắt đầu sao chép in situ trước khi cắt bỏ trong một quá trình mà sau đó dẫn đến quá trình sao chép ADN của vi khuẩn liền kề. Tiếp theo, quá trình đóng gói thể thực khuẩn đã sao chép bắt đầu vị trí pac (nằm ở khoảng giữa bộ gen của thể thực khuẩn) và các gen của vi khuẩn lân cận xảy ra in situ cho tới khi bộ gen đạt đến 105% kích thước bộ gen của thể thực khuẩn. Việc đóng gói bộ gen liên tiếp sau khi bắt đầu từ vị trí pac giúp cho hàng ngàn base gen của vi khuẩn được đóng gói trong các virion và có thể được vận chuyến sang một tế bào mới. Nếu bộ gen trong các virion chứa đủ thông tin di truyền cho quá trình tái tổ hợp tương đồng, thì đoạn ADN sex được đưa vào nhiễm sắc thể của tế bảo nhận. Do nhiều bản sao của bộ gen của thể thực khuẩn được tạo ra trong quá trình sao chép in situ, một số prophage này sẽ được cắt bỏ bình thường (thay vì được đóng gói in situ), tạo ra các thể thực khuẩn với chu trình lây nhiễm như bình thường. Tải nạp tế bào động vật có vú nhờ vectơ vi-rút Tải nạp bằng vectơ vi-rút có thể được sử dụng để chèn hoặc sửa đổi gen trong tế bào động vật có vú. Quá trình này thường được sử dụng như một công cụ trong nghiên cứu cơ bản và được tích cực nghiên cứu như một phương tiện cho liệu pháp gen Quá trình Một plasmid chứa các gen mong muốn được vận chuyển sẽ được tạo ra. Các gen này được bao quanh bởi các đoạn gen vi-rút có chức năng giúp protein vi-rút nhận biết để đóng gói bộ gen vi-rút thành các hạt vi-rút. Plasmid này sau đó sẽ được chèn (thường bằng cách truyền nạp) vào tế bào sản xuất cùng với các plasmid khác mang các gen vi-rút cần thiết cho sự hình thành virion. Trong các tế bào sản xuất này, các plasmid mang gen vi-rút sẽ được biểu hiện để tạo ra các protein vi-rút được biểu hiện. Các protein này sau đó liên kết các trình tự trên ADN hoặc ARN (tùy thuộc vào loại vectơ vi-rút) mong muốn vận chuyển để chèn các bộ gen này vào các hạt vi-rút. Vì vấn đề an toàn, không có plasmid nào chứa tất cả các trình tự cần thiết để hình thành vi-rút. Do đó, cần phải truyền nhiều plasmid cùng một lúc để thu được virion. Đồng thời, chỉ có plasmid mang các gen mong muốn được vận chuyển mới chứa các tín hiệu cho phép vật liệu di truyền được đóng gói vào trong virion để không có gen nào giúp mã hóa protein vi-rút được đóng gói. Vi-rút được thu thập từ các tế bào sản xuất này sau đó được cho vào các tế bào động vật có vú để thay đổi gen. Vi-rút chứa gen mong muốn được chuyển có khi ở giai đoạn đầu của quá trình lấy nhiễm có sự tương đồng với sự lây nhiễm của các loại vi-rút tự nhiên. Sau khi lây nhiễm, các gen mong muốn được vận chuyển lúc này sẽ được biểu hiện gen. Trong trường hợp sử dụng vectơ lentivirus/retrovirus, các gen này sẽ được chèn vào bộ gen của tế bào. Vì bộ gen được vận chuyển không mang bất kỳ gen nào của vi-rút, nên việc lây nhiễm này không thể tạo ra vi-rút mới (hoặc nói cách khác là vi-rút thiếu khả năng sao chép). Một số chất hóa học tăng cường đã được sử dụng để cải thiện hiệu quả quá trình tải nạp như polybrene, protamine sulfate, retronectin, và DEAE Dextran. Ứng dụng trong y khoa Liệu pháp gen: Điều trị các bệnh di truyền bằng cách trực tiếp chỉnh sửa các gen đã bị hư hại bên trong bệnh nhân.
Trong thống kê, giải thuật k hàng xóm gần nhất (hay còn gọi là thuật toán k hàng xóm gần nhất, viết tắt từ tiếng Anh k-NN) là một phương pháp thống kê phi tham số (nonparametric statistics) được đề xuất bởi Thomas M. Cover để sử dụng cho phân loại bằng thống kê và phân tích hồi quy. Cụm từ hàng xóm có thể hiểu là láng giềng hoặc lân cận. Trong cả hai trường hợp, đầu vào chứa các ví dụ huấn luyện k gần nhất trong không gian thuộc tính (feature space). Đầu ra phụ thuộc vào việc k-NN được dùng cho phân loại hay cho hồi quy: Trong phân loại k-NN, đầu ra là một thành viên lớp. Một đối tượng được phân loại theo đa số phiếu bầu của các hàng xóm của nó, với đối tượng được phân vào lớp phổ biến nhất trong số k hàng xóm gần nhất (k là một số nguyên dương, thường có giá trị nhỏ). Nếu k = 1, đối tượng đơn giản được gán cho lớp của hàng xóm đơn gần nhất. Trong hồi quy k-NN, đầu ra là một giá trị thuộc tính của đối tượng. Giá trị là giá trị trung bình của các giá trị hàng xóm k gần nhất.
Chùa Cổ Lễ là một quần thể kiến trúc đạo Phật và tín ngưỡng Việt Nam mang các yếu tố kiến trúc gô-tích ở thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, ngay sát quốc lộ 21A. Trong chùa có quả chuông Đại Hồng Chung lớn nhất Việt Nam được Hòa thượng Thích Thế Long cho đúc vào năm 1936. Lịch sử Theo bảng giới thiệu trong chùa, thì chùa Cổ Lễ nguyên được xây dựng từ thời Lý Thần Tông, do quốc sư Nguyễn Minh Không sáng lập để thờ phật. Chùa đầu tiên bằng gỗ theo lối kiến trúc cổ. Tuy nhiên chùa ban đầu này đã bị đổ nát. Năm 1902, sư Phạm Quang Tuyên về trụ trì, cho thiết kế và xây dựng lại chùa theo kiến trúc "Nhất Thốc Lâu đài" với những yếu tố kiến trúc gô-tích giống như các nhà thờ Công giáo có khá nhiều ở khu vực lân cận. Sau đó, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Vật liệu xây dựng là gạch, vôi vữa, mật mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền của toàn bộ kiến trúc ngôi chùa. Kiến trúc Chùa Cổ Lễ là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố kiến trúc gô-tích (Gothic) của châu Âu. Đây là một ngôi chùa thờ Phật nhưng lại mang dáng dấp một thánh đường Thiên Chúa giáo. Trước chùa là ngôi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao cao 32 m, có 8 mặt, dựng năm 1927. Đế tháp được đặt trên lưng một con rùa lớn, đầu quay vào phía chùa. Con rùa được nằm giữa một hồ nước hình vuông, bốn góc là bốn hòn núi giả khá lớn, có đắp bốn con voi to bằng voi thật. Trong lòng tháp có cầu thang gồm 98 bậc xoắn ốc đến đỉnh. Tương truyền rằng tín đồ phật tử, khách hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn. Tiếp theo ngôi tháp là một chiếc cầu cong ba nhịp bắc qua hồ Chu Tích (còn gọi là hồ Núi), gọi là cầu Cuốn. Mặt cầu lát gạch. Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được xây vào năm 1936 và trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình có 2 lư đồng khổng lồ. Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937, thờ Trần Hưng Đạo và hai tiến sĩ họ Đào người làng Cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ đệ tam giáp Đào Toàn Mỗ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang phủ, được xây vào năm 1937, là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Sau lưng chùa Trình là một cái hồ lớn. Giữa hồ có một quả chuông nặng 9000 kg gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông cao 4,2 m, đường kính 2,2 m, thành dày 8 cm. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân có họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự bằng chữ Nho. Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của chiếc chuông Đại hồng chung này. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam. Nhân dân quanh vùng vì yêu mến chùa mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông, nhiều người đã tháo cả nhẫn, vòng, vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông vừa đúc xong thì kháng chiến bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống hồ. Đến năm 1954, chuông mới được trục vớt và được đặt trên bệ đá cho du khách tham quan từ đó đến nay. Có hai chiếc cầu giả như động núi, gọi là cầu Núi, bắc qua hồ dẫn tới kiến trúc chính của chùa Cổ Lễ, đó là chùa Thần Quang. Chính điện được thiết kế theo kiến trúc hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Thần Quang Tự được xây dựng từ năm 1914 trên nền chùa cổ từ thế kỷ 12. Năm 1995, chùa được trùng tu lớn. Trong chùa có tượng Phật sơn son thếp vàng bằng gỗ bạch đàn cao 4 m đặt ở trên tầng cao phải đi theo những cầu thang nhiều bậc ở hai bên mới lên đến chỗ đặt các tượng Phật. Sau lưng tượng Phật là bàn thờ với tượng Nguyễn Minh Không. Từ điện Phật, có các hành lang quanh ra phía sau nối với nhà khách và nhà tổ. Vách hành lang gắn đầy những tấm bia hậu. Ở nhà tổ có tượng Hòa thượng Phạm Quang Tuyên. Sau nhà thờ tổ là một gác chuông lớn có kiến trúc truyền thống gồm 3 tầng 4 mặt, gọi là Kim Chung Bảo Các. Gác chuông này cao 13m40, được xây dựng vào năm 1997. Tầng 2 của gác chuông này có treo một quả chuông đồng to, cao 4m20, rộng 2m03, nặng 9.000 kg. Chuông được đúc vào năm 2003. Tầng 3 có treo một quả chuông đồng nữa đúc từ thời Lê Cảnh Thịnh, nặng 300 kg. Sau gác chuông là khu lăng mộ tổ của chùa. Trong chùa còn có một chiếc trống bằng đồng và những chiếc thuyền dùng để thi bơi chải. Bốn bề của chùa là vườn tược, hồ nước và sông ngòi. Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến trúc phương Tây, chùa Cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng đồng bằng sông Hồng. Hội chùa Hội chùa từ 13 đến 16 tháng 9 Âm lịch hàng năm, có nhiều nghi thức văn hóa cổ truyền giàu tính nhân văn như lễ rước Phật, đấu vật, đánh cờ người..., đặc biệt là được xem cuộc thi bơi chải truyền thống trên dòng sông uốn lượn quanh chùa. Các đời trụ trì Hòa Thượng Thích Quang Tuyên đời 45 dòng Tào Động Hòa Thượng Thích Chính Long (Thích Thế Long) đời 46 dòng Tào Động, Phó chủ tịch thường trực trung ương GHPGVN, Phó chủ tịch quốc hội nước CHXHCNVN. Thượng tọa Thích Tâm Vượng
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Lịch sử Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ". Tên gọi Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố "Thiên" có nghĩa là "Trời". Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng"). Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với "Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng" nên khi người Huế nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa này. Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay "Bà mụ thần tiên"). Cách gọi này không được giới nghiên cứu chấp nhận. Kiến trúc Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Dưới thời chúa Quốc - Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp. Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. Tháp Phước Duyên Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi). Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa. Qua nhiều đợt tu sửa lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ. Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời. Hình ảnh
5000 (năm nghìn, hay năm ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 4999 và ngay trước 5001. Một số số nguyên trong khoảng 5001 đến 5999 5003 - Số nguyên tố Sophie Germain 5020 - Số bạn của 5564 5039 - Số nguyên tố giai thừa, số nguyên tố Sophie Germain 5040 - 7!, số phức hợp cao 5041 = 712, số bát giác chính tâm 5050 - số tam giác, số Kaprekar, tổng của 100 số nguyên từ 1 đến 100 5051 - số nguyên tố Sophie Germain 5076 - số thập giác 5081 - số nguyên tố Sophie Germain 5087 - số nguyên tố an toàn 5099 - số nguyên tố an toàn 5151 - số tam giác 5167 - số nguyên tố Cuba of the form x = y + 1 5171 - số nguyên tố Sophie Germain 5184 = 722 5186 - φ(5186) = 2592 5187 - φ(5187) = 2592 5188 - φ(5189) = 2592, số thất giác chính tâm 5226 - số cửu giác 5231 - số nguyên tố Sophie Germain 5244 = 222 + 232 +... 292 = 202 + 212 +... 282 5249 - highly cototient number 5253 - số tam giác 5279 - số nguyên tố Sophie Germain 5292 - số Kaprekar 5303 - số nguyên tố Sophie Germain 5329 = 732, số bát giác chính tâm 5333 - số nguyên tố Sophie Germain 5335 - hằng số thần diệu trong hình vuông thần diệu n×n và trong Bài toán n-Hoàng hậu với n = 22. 5340 - số bát diện 5356 - số tam giác 5365 - số thập giác 5387 - số nguyên tố an toàn 5399 - số nguyên tố Sophie Germain, số nguyên tố an toàn 5419 - số nguyên tố Cuba dạng x = y + 1 5441 - số nguyên tố Sophie Germain 5456 - số tứ diện 5459 - highly cototient number 5460 - số tam giác 5461 - số siêu-Poulet, số thất giác chính tâm 5476 = 742 5483 - số nguyên tố an toàn 5500 - số cửu giác 5501 - số nguyên tố Sophie Germain 5507 - số nguyên tố an toàn 5525 - số kim tự tháp vuông 5536 - số tetranacci 5564 - số bạn của 5020 5565 - số tam giác 5566 - số kim tự tháp ngũ giác 5625 = 752, số bát giác chính tâm 5639 - số nguyên tố Sophie Germain, số nguyên tố an toàn 5662 - số thập giác 5671 - số tam giác 5711 - số nguyên tố Sophie Germain 5719 - số Zeisel 5741 - số nguyên tố Sophie Germain, số Pell, số Markov, số thất giác chính tâm 5768 - số tribonacci 5776 = 762 5777 - phản ví dụ nhỏ nhất của giả định rằng số lẻ có dạng p + 2a2 5778 - số tam giác 5781 - số cửu giác 5798 - số Motzkin 5807 - số nguyên tố an toàn 5849 - số nguyên tố Sophie Germain 5879 - số nguyên tố an toàn, highly cototient number 5886 - số tam giác 5903 - số nguyên tố Sophie Germain 5927 - số nguyên tố an toàn 5929 = 772, số bát giác chính tâm 5939 - số nguyên tố an toàn 5967 - số thập giác 5984 - số tứ diện 5992 - số thiên giác 5995 - số tam giác
Chu kỳ giao hội là khoảng thời gian mà một thiên thể cần để xuất hiện lại tại cùng một vị trí trên bầu trời so với vị trí của Mặt Trời khi quan sát từ Trái Đất. Đây chính là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội (hoặc xung đối) liên tiếp của thiên thể với Mặt Trời và là chu kỳ quỹ đạo biểu kiến của thiên thể khi quan sát từ Trái Đất. Sở dĩ chu kỳ giao hội khác chu kỳ theo sao (chu kỳ quỹ đạo thật sự) là vì Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời. Các hành tinh Đối với các hành tinh trong (ở gần Mặt Trời hơn Trái Đất), chu kỳ giao hội là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội dưới (hoặc giao hội trên) liên tiếp với Mặt Trời. Đối với các hành tinh ngoài (ở xa Mặt Trời hơn Trái Đất), chu kỳ giao hội là khoảng thời gian giữa hai lần giao hội (hoặc xung đối) liên tiếp với Mặt Trời. Chu kỳ giao hội của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời là (tính bằng ngày Trái Đất hoặc năm Trái Đất): Sao Thủy: 115,88 ngày hay 0,317 năm Sao Kim: 583,92 ngày hay 1,599 năm Sao Hỏa: 779,94 ngày hay 2,135 năm Sao Mộc: 398,88 ngày hay 1,092 năm Sao Thổ: 378,09 ngày hay 1,035 năm Sao Thiên Vương: 369,66 ngày hay 1,012 năm Sao Hải Vương: 367,49 ngày hay 1,006 năm Sao Diêm Vương: 366,74 ngày hay 1,004 năm Mặt Trăng Quan hệ giữa chu kỳ theo sao và chu kỳ giao hội Nicolaus Copernicus đã đề xuất công thức toán để tính chu kỳ theo sao của một hành tinh theo chu kỳ giao hội của nó. Nếu gọi: E = chu kỳ theo sao của Trái Đất (còn gọi là năm sao) P = chu kỳ theo sao của một hành tinh khác S = chu kỳ giao hội của một hành tinh đó (nhìn từ Trái Đất) Trong khoảng thời gian S, Trái Đất di chuyển được một góc (360°/E)×S (giả định quỹ đạo Trái Đất hình tròn), còn hành tinh đang xét di chuyển được một góc (360°/P)×S. Trong trường hợp của hành tinh trong, hành tinh này sẽ quay được hơn một vòng quỹ đạo trước khi nó và Trái Đất lại có cùng tương quan vị trí so với Mặt Trời. Do đó ta có: Sau khi biến đổi ta được kết quả: Đối với hành tinh ngoài với suy luận tương tự ta thu được kết quả: Công thức trên sẽ trở nên dễ hiểu nếu xem xét các vận tốc góc của Trái Đất và hành tinh: vận tốc góc biểu kiến của hành tinh bằng vận tốc góc thực (theo sao) của nó trừ đi vận tốc góc của Trái Đất và chu kỳ giao hội của nó sẽ là một vòng quỹ đạo chia cho vận tốc góc biểu kiến đó.
Kinh điển Phật giáo có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở trên giấy mực được chia theo nội dung làm ba loại là Kinh, Luật và Luận. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh, luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng các bộ kinh, luận có tầm quan trọng khác nhau đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với kinh điển: từ tôn kính một loại kinh văn nhất định cho đến bác bỏ, xem thường một vài kinh văn nào đó, cho là ngụy tạo. Thế nên, các bộ kinh, luận khó có thể được gọi là Thánh kinh (Sacred scripture) với nghĩa được hiểu như thánh kinh của Kitô giáo hoặc các tôn giáo khác. Kinh văn Phật giáo có thể chia ra hai loại dựa trên nguồn gốc hình thành kinh như loại tiêu chuẩn (hoặc chủ yếu, canonical) và loại ngoài tiêu chuẩn (hoặc thứ yếu, non-canonical). Thuộc về kinh văn tiêu chuẩn là các bài Kinh (經, sa. sūtra, pi. sutta), nguồn gốc tiếng Phạn, được chép lại lời dạy của chính vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni - "Phật lịch sử" ở đây được hiểu một cách chính xác hoặc như một ẩn dụ. Thuộc loại ngoài tiêu chuẩn là các bài luận giải những bộ kinh hoặc luận, cũng như những văn bản trích dẫn kinh, lịch sử hình thành kinh, văn phạm,... của các Đại sư, Luận sư. Tuy nhiên cũng nên hiểu là cách chia loại như thế có phần tùy tiện và một vài kinh văn có thể được xếp vào một trong hai loại nêu trên, hoặc có thể được xếp vào nhiều hơn một trong những loại được kể bên dưới. Kinh điển loại tiêu chuẩn Tuy có rất nhiều kinh văn loại tiêu chuẩn có nguồn gốc từ chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng các trường phái Phật giáo lại thường không nhất trí với nhau về mặt thể loại tiêu chuẩn của từng kinh văn, và những lần duyệt văn bản của các Đại tạng kinh cho thấy rất nhiều khác biệt về số lượng và thể loại kinh văn. Nhìn chung, kinh văn được chia thành ba loại theo nội dung: Kinh (những bài thuyết pháp, sa. sūtra, pi. sutta), Luật (sa., pi. vinaya, viết về giới luật của Tăng-già) và Luận hoặc A-tì-đạt-ma (sa. abhidharma, pi. abhidhamma, mang tính chất bàn luận, giải thích, phân tích các bài kinh, nói về các pháp). Ba loại kinh này được gọi chung là Tam tạng (sa. tripiṭaka, pi. tipiṭaka). Riêng Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka) và Luật tạng (sa. vinayapiṭaka) chứa đựng nhiều kinh văn khác nhau, gồm cả các bài giảng về các pháp, các bàn luận, giải thích về các giáo lý, kinh văn nói về vũ trụ, sự tiến hóa của vũ trụ, nói về tiền thân của Phật-đà (Bản sinh kinh), và các bảng liệt kê các pháp khác nhau. Các kinh văn loại tiêu chuẩn của trường phái Thượng tọa bộ (pi. theravāda) và các trường phái Ni-ca-da (pi. nikāya) khác được tin tưởng là chép lại một cách chân xác chính lời dạy của Phật Thích-ca. Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ còn được gọi là Đại tạng kinh Pali vì tạng kinh này được viết bằng tiếng Pali bao gồm khoảng 4 triệu chữ. Các kinh văn loại tiêu chuẩn của các trường phái theo Đại thừa ra đời sau này cũng được tin tưởng là chép lại lời dạy của đức Phật, nhưng được lưu truyền một cách bí mật qua những linh vật như rồng (long 龍, sa. nāga) hoặc chép lời dạy trực tiếp của những vị Phật hoặc Bồ Tát khác. Khoảng 600 bộ kinh Đại thừa được truyền lại bằng tiếng Phạn hoặc trong những bản dịch tiếng Hán hoặc tiếng Tây Tạng. Đại tạng kinh Đại thừa đầy đủ nhất hiện nay có lẽ là phiên bản bằng tiếng Hán, mặc dù đây chỉ là bản dịch từ tiếng Phạn. Đại tạng này chứa đựng kinh văn của nhiều bộ phái truyền thống xưa (có 18 bộ phái). Các bộ kinh Đại thừa sớm nhất được viết bằng tiếng Trung kì Ấn Nhã-lợi-an (en. Middle Indo-Aryan), sau được Phạn hóa vào thời vương triều Cấp-đa (sa. gupta), khi tiếng Phạn được xem là ngôn ngữ chính thức tại triều đình. Phần lớn kinh văn Đại thừa được viết với những nét văn hoa bắt chước tiếng Phạn cổ điển bằng Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit, BHS) đây là một dạng phương ngữ Trung kì Ấn Nhã-lợi-an. Một số kinh văn sau này, đặc biệt là những kinh văn có gốc từ đại học Phật giáo Na-lan-đà (sa. nālandā), được viết một cách văn hoa bằng Phạn ngữ thuần túy. Với các trường phái Kim Cương thừa của Tây Tạng thì Đại tạng kinh Tây Tạng ngoài ba loại kinh văn Kinh, Luật và Luận còn chứa đựng các bộ Đát-đặc-la (sa. tantra) ghi những phép tu luyện bí mật và các bài chú giải về chúng. Cách phân loại kinh văn theo ba cỗ xe (Tam thừa 三乘, sa. triyāna gồm Đại thừa, Tiểu thừa, và Kim cương thừa) truyền thống có thể làm lu mờ quá trình hình thành kinh văn. Ví dụ như có các kinh văn được gọi là "Tiền đại thừa" (proto-mahāyāna), ví như bài Vô Năng Thắng Quân kinh (sa. ajitasenasūtra), nhưng chúng hoàn toàn thiếu những yếu tố chủ yếu của kinh văn Đại thừa. Ngược lại, một số bài kinh văn hệ Pali của Thượng tọa bộ lại chứa đựng chính những tư tưởng sau này được xem là gắn liền với Đại thừa. Một số kinh văn Đại thừa khác - được xem là hiển giáo - lại thể hiện rõ ràng bản chất mật giáo Đát-đặc-la, đặc biệt là những bài kinh ngắn thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Nhưng cũng có kinh văn thuộc loại Đát-đặc-la lại xuất hiện rất sớm là Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毗盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), thường được gọi tắt là Đại Nhật kinh (sa. mahāvairocanasūtra). Một số bài kinh Phật giáo qua quá trình mở rộng dần dần gần như trở thành một bộ kinh riêng, được gọi là kinh "phương đẳng" (方等) hoặc "phương quảng" (方廣, sa. vaipulya, pi. vipula) là những bộ kinh "rộng lớn bao quát". Như bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh (zh. 金光明最勝王經, sa. suvarṇaprabhāsottamasūtra) mà nội dung xoay quanh chương trung tâm là chương thứ ba của bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (zh. 大方廣佛華嚴經, sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulyasūtra) - cũng được gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm - được các nhà nghiên cứu cho là một trường hợp điển hình về một bộ kinh đã đào sâu và chắt lọc được nhiều đạo lý bao quát từ các bộ kinh khác nhau và nhiều phần trong bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh này vẫn được xem như một kinh văn độc lập, nhất là phần Hoa Nghiêm (sa. gaṇḍavyūha). Kinh Hoa Nghiêm và kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) nhắc đến khái niệm Nhất thừa (zh. 一乘, sa. ekayāna), theo hai bộ kinh này thì nội dung của nó là sự tổng hợp và thống nhất tất cả những giáo lý có trước đó. Mật tông tại Trung Hoa - còn được biết với tên Chân ngôn tông tại Nhật- thì phát triển một hệ thống kinh văn trên cơ sở cho rằng, các bộ kinh đầu tiên là lời của đức Phật Cồ-đàm, được thuyết giảng dưới dạng Hóa thân (zh. 化身, sa. nirmāṇakāya); bộ kinh thuộc hệ Nhất thừa được Phật thuyết dưới dạng Báo thân, và kinh văn của Mật giáo được truyền dưới dạng Pháp thân (xem thêm Tam thân). Kinh điển loại ngoài tiêu chuẩn Trong thời kì đầu của Phật giáo, kinh văn ngoài tiêu chuẩn, hoặc bán tiêu chuẩn, đã đóng một vai trò quan trọng. Nhiều bộ luận quan trọng tồn tại trong Đại tạng kinh tiếng Pali, tiếng Tây Tạng, Trung Hoa và những ngôn ngữ Đông Á khác. Kinh điển ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu có thể kể đến là bộ Thanh tịnh đạo (pi. visuddhimagga), "con đường dẫn đến thanh tịnh" của đại sư Phật Âm (zh. 佛音, pi. buddhaghosa), một tác phẩm gần như bao gồm tất cả giáo lý của Thượng tọa bộ (pi. theravāda) với rất nhiều trích dẫn từ Đại tạng kinh Pali. Na-tiên tỉ-khâu kinh (zh. 那先比丘經, pi. milindapañhā), còn được gọi là Di-lan-đà vấn đạo kinh, là một kinh văn rất nổi tiếng, đúc kết giáo lý Thượng tọa bộ trong những câu hỏi đáp qua lại giữa Tỉ-khâu Na-tiên (zh. 那先, pi. nāgasena) với một ông vua người Hi Lạp tên là Di-lan-đà (zh. 彌蘭陀, pi. milinda, en. menander), cũng là một kinh văn ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu khác. Tác phẩm Đại thừa khởi tín luận (được những người hâm mộ xem là tác phẩm của Mã Minh) đã ảnh hưởng rất lớn đến giáo lý Đại thừa tại Đông Á, đã được chú giải rất nhiều qua các bài luận của nhiều vị đại sư Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Bộ Nhập Bồ-đề hành luận của luận sư Tịch Thiên (zh. 寂天, sa. śāntideva) đã gây ảnh hưởng đến Đại thừa lẫn Kim cương thừa. Một tác phẩm khác của sư là Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) lưu lại nhiều trích dẫn từ kinh sách Phạn ngữ ngày nay chưa tìm ra. Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) có thể được xem là một tác phẩm bán tiêu chuẩn, và nó cũng là một trong những văn bản được gọi là "kinh" mặc dù không phải do Phật thuyết. Tuy nhiên, cách phân chia "kinh" hay không cũng chỉ là giả định: Trong nguyên văn Hán, bài viết về Lục tổ Huệ Năng được gọi là "kinh" (經), nhưng cách gọi này cũng được người Hoa dùng cho các tác phẩm cổ điển khác như Đạo Đức kinh (zh. 道德經) hoặc Thi kinh (zh. 詩經). Trong kinh Pháp bảo đàn, Huệ Năng trình bày cơ duyên ngộ đạo và nhận y bát cũng như giáo lý thiền. Truyền thống Thiền tông đặc biệt lập cơ sở trên những tác phẩm ngoài tiêu chuẩn ghi lại cuộc đời, cơ duyên hoằng hóa và pháp ngữ của các vị Tổ sư, được gọi là Ngữ lục. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Thiền gia là Bích nham lục (zh. 碧巖錄) Phật giáo Tây Tạng lưu lại một loại kinh văn rất đặc thù, được gọi là Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་). Đây là những văn bản được viết ra, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་). Một vài Tàng lục được cất giấu trong các hang động hoặc những chỗ ẩn kín tương tự, nhưng cũng có những bộ được xem là Tâm tàng lục, "cất trong tâm", sẽ được phát hiện bởi Tertön trong tâm thức của chính mình. Trường phái Ninh-mã có lưu giữ một pho Tàng lục to lớn. Nhiều Tàng lục được xem là tác phẩm của Đại sư Liên Hoa Sinh, người giữ vị trí rất lớn trong phái Ninh-mã. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་) Các loại văn bản ngoài tiêu chuẩn khác giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực lịch sử Phật giáo tại Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa) Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ và những trường phái Nam Tông khác Có nhiều tranh luận về cách gọi những trường phải cổ và bảo thủ của Phật giáo cũng như các kinh văn hệ thuộc. Thuật ngữ được dùng nhiều nhất có lẽ là "Tiểu thừa" (zh. 小乘, pi., sa. hīnayāna) nhưng lại bị bài bác vì nhiều lý do. Nhiều người đề nghị dùng từ khác như Bộ phái Phật giáo (hoặc Ni-ca-da) để chỉ ngay đến những kinh văn những trường phái này xem là tiêu chuẩn. Chúng được gọi là Bộ kinh (zh. 部經, pi. nikāya) hoặc A-hàm (zh. 阿含, pi., sa. āgama). Mặc dù có nhiều kinh văn của các Bộ phái được viết bằng tiếng Phạn, nhưng chỉ còn một Đại tạng kinh duy nhất được lưu lại toàn vẹn, đó là Đại tạng kinh tiếng Pali của Thượng tọa bộ. Kinh văn Pali được phân chia thành ba thời kì. Thời kì đầu, cũng được gọi là thời kì cổ điển, bắt đầu với ba tạng kinh và chấm dứt với Na-tiên tỉ-khâu kinh khoảng thế kỉ thứ nhất trước CN. Sau một thời kì mai một (thời kỳ 2 bắt đầu từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 4 SCN), tiếng Pali lại được phục hưng ở thế kỉ thứ 4 với cuộc đời và sự nghiệp của đại sư Phật Âm, và kéo dài đến thế kỉ 12. Thời kì thứ ba này (từ thế kỷ 4 trở đi) trùng hợp với những biến đổi chính trị ở Miến Điện. Luật tạng Luật tạng đề cập đến những vấn đề giới luật trong Tăng-già. Tuy nhiên, từ Luật (dịch từ tiếng Phạn vinaya) cũng được dùng với từ Pháp (pi. dhamma) như một cặp đi đôi, với Pháp là giáo lý và Luật mang nghĩa thực hành, ứng dụng. Thực tế, Luật tạng chứa đựng hàng loạt thể loại kinh văn khác nhau. Dĩ nhiên có những kinh văn chuyên chú về quy luật trong tăng-già, chúng được lập, được phát triển và ứng dụng như thế nào. Nhưng Luật tạng cũng bao gồm những bài giảng về giáo lý, nghi lễ, nghi thức thực hiện các buổi lễ, tiểu sử và các bài nói về tiền kiếp (xem Bản sinh kinh). Một điểm khá nghịch lý là Ba-la-đề-mộc-xoa (zh. 波羅提木叉, sa. prātimokṣa), một văn bản tương quan mật thiết với giới luật, được dùng nhiều nhất lại không được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn. Có bảy Luật tạng được lưu lại: Luật tạng của Thượng tọa bộ (pi. theravādin) Luật tạng của Đại chúng bộ (sa., pi. mahāsāṃghika), Thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 說一切有部, sa. sarvāstivādin) và Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 根本說一切有部, sa. mūlasarvāstivādin), được viết bằng tiếng Phạn. Luật tạng của Hóa địa bộ (zh. 化地部, sa. mahīśāsaka), Ca-diếp bộ (zh. 迦葉部, sa. kāśyapīya) và Pháp tạng bộ (zh. 法藏部, sa. dharmaguptaka), nguyên được viết bằng tiếng Phạn, nhưng hiện chỉ còn trong Hán tạng. Tác phẩm Đại sự (zh. 大事, sa. mahāvastu) được biên soạn bởi Thuyết xuất thế bộ (zh. 說出世部, sa. lokottaravādin), - một nhánh của Đại chúng bộ - vốn là tiền văn của một luật tạng mà sau này đã bị tách rời. Thế nên, thay vì nói về luật, Đại sự lại chú tâm đến tiểu sử của Phật, ghi thật rõ những tiến trình của ngài qua Thập địa. Nội dung của Đại sự đã được thâu nhiếp và đưa vào bộ Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) của Đại thừa. Kinh tạng Kinh phần lớn là các bài giảng của đức Phật hoặc của một trong những Đại đệ tử của Ngài. Tất cả những gì được ghi lại, ngay cả những gì không phải Phật đích thân thuyết, được xem là Phật ngôn, "lời Phật dạy" (sa., pi. buddhavacana). Ban đầu, các bài giảng của Phật được sắp xếp theo dạng chúng được truyền lại cho đời sau chia ra làm 12 thể loại: Kinh (經, sa. sūtra) hoặc Khế kinh (zh. 契經), cũng được gọi theo âm là Tu-đa-la (修多羅), chỉ những bài kinh chính Phật thuyết; Trùng tụng (重頌, sa. geya) hoặc Ứng tụng (zh. 應頌), gọi theo âm là Kì-dạ (祇夜), một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại; Thụ ký (zh. 受記, sa. vyākaraṇa), âm là Hoa-già-la-na (zh. 華遮羅那), chỉ những lời do Phật thụ ký, chứng nhận cho các Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật, và những việc sẽ xảy ra...; Kệ-đà (偈陀, sa. gāthā), cũng được gọi là Ký chú (zh. 記註) hay Phúng tụng (zh. 諷頌), những bài thi ca không có văn xuôi đi trước (trường hàng), xem Kệ; (Vô vấn) Tự thuyết (zh. [無問]自說, sa. udāna) hoặc Tán thán kinh (zh. 讚歎經), âm là Ưu-đà-na (zh. 憂陀那), chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết, không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày; Nhân duyên (zh. 因緣, sa. nidāna) hay Quảng thuyết (廣說), gọi theo âm là Ni-đà-na (尼陀那), chỉ những bài kinh nói về nhân duyên khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp...; Thí dụ (譬喻, sa. avadāna) hoặc Diễn thuyết giải ngộ kinh (zh. 演說解悟經), âm là A-ba-đà-na (zh. 阿波陀那), chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để dùng việc đời mà gợi mở việc đạo làm người nghe dễ hiểu hơn; Như thị pháp hiện (如是法現, sa. itivṛttaka) hoặc Bản sự kinh (本事經), âm là Y-đế-mục-đa-già (醫帝目多伽), chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai; Bản sinh kinh (zh. 本生經, sa. jātaka), gọi theo âm là Xà-đà-già (zh. 闍陀伽); Phương quảng (zh. 方廣), Phương đẳng (方 等, sa. vaipulya) hoặc Quảng đại kinh (zh. 廣大經), gọi theo âm là Tì-phật-lược (毗佛略); Hi pháp (zh. 希法, sa. adbhutadharma) hoặc Vị tằng hữu (未曾有), âm là A-phù-đà đạt-ma (zh. 阿浮陀達磨), kinh nói về thần lực chư Phật thị hiện, cảnh giới kì diệu, hiếm có mà người phàm không hiểu nổi; Luận nghị (zh. 論議, sa. upadeśa), cũng được gọi là Cận sự thỉnh vấn kinh (zh. 近事請問經) hoặc theo âm là Ưu-ba-đề-xá (優波提舍), chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý luận cho rõ ngay thẳng, xiên vẹo. Cách sắp xếp bên trên được các trường phái ngoài Đại thừa chấp nhận, tuy nhiên, Thượng tọa bộ loại bỏ ba phần 6., 7. và 12. ra. Cách phân loại trên cũng được tìm thấy trong Đại tạng của các trường phái Đại thừa. Tuy nhiên, Thượng tọa bộ đã tìm cách sắp xếp Đại tạng kinh theo cách khác, và kinh của Thượng tọa bộ được xếp lại như sau: Trường bộ kinh & Trường A-hàm kinh Bao gồm các bài kinh dài nhất trong các loại kinh văn hệ Pali. Trường bộ (zh. 長部, pi. dīghanikāya) văn hệ Pali có 34 bài kinh mà trong đó, hai bài nổi danh nhất là Đại Bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, pi. mahāparinibbānasuttanta) và Phạm võng kinh (zh. 梵網經, pi. brahmajālasutta). Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Pháp tạng bộ chỉ còn trong bản dịch Hán văn, bao gồm 30 bài kinh. Trung bộ kinh & Trung A-hàm kinh Trung bộ (zh. 中部, pi. majjhimanikāya) văn hệ Pali có 152 bài kinh, Trung A-hàm (zh. 中阿含, sa. madhyamāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ có 222 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn. Tương ưng bộ Bộ kinh này bao gồm nhiều kinh văn ngắn gọn được gom lại theo chủ đề, nhóm và người nói chuyện. Tương ưng bộ (zh. 相應部, pi. saṃyuttanikāya) văn hệ Pali có khoảng 2800 bài kinh, Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ chỉ có 1300 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn. Tăng chi bộ kinh & Tăng nhất a-hàm kinh Bao gồm những bài kinh có cùng Pháp số, Tăng chi bộ (zh. 增支部, pi. aṅguttaranikāya) văn hệ Pali có hơn 2.300 bài kinh. Đại tạng kinh chữ Hán lưu lại bộ Tăng nhất a-hàm (zh. 增一阿含, sa. ekottarāgama), được xem là thuộc bộ Đại tạng kinh của Đại chúng bộ. Tiểu bộ kinh & Tạp kinh Không phải tất cả các trường phái đều có thể loại này, nhưng Tiểu bộ (zh. 小部, pi. khuddakanikāya) văn hệ Pali có nhiều bộ kinh nhỏ rất nổi danh và được ưa chuộng, bao gồm: Pháp Cú kinh (zh. 法句; pi. dhammapada): gồm 426 câu kệ trong 26 chương về các nguyên lý căn bản đạo Phật, được lưu truyền rộng trong các nước theo Thượng tọa bộ; Tự thuyết (zh. 自說, pi. udāna): gồm 80 bài giảng của đức Phật. Điểm đặc biệt ở đây là những lời của đức Phật tự nhiên thốt ra dạy, không phải do được người khác hỏi mà trả lời. Thế nên cũng gọi là Vô vấn tự thuyết. Tập bộ kinh (zh. 集部經, pi. sutta-nipāta): một trong những kinh điển cổ nhất, đặc biệt có giá trị văn chương cao; Trưởng lão tăng kệ (zh. 長老僧偈, pi. thera-gāthā): ghi lại 107 bài kệ của các vị Thượng tọa (pi. thera); Trưởng lão ni kệ (zh. 長老尼偈, pi. therī-gāthā): gồm 73 bài kệ của các vị ni trưởng lão (pi. therī); Bản sinh kinh (zh. 本生經, pi. jātaka), ghi chép các mẩu truyện về những kiếp trước của Phật. Nhiều bộ kinh bên trên còn tồn tại các bản gốc dạng nguyên ngữ cũng như các bản dịch. Ví dụ như kinh Pháp cú còn tồn tại dưới dạng Pali, ba bản dịch Hán văn, một bản Tạng văn và một bản tiếng Khotan. A-tì-đạt-ma A-tì-đạt-ma có nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp (zh. 無比法), vì nó vượt (abhi) trên các pháp (sa. dharma), giải thích trí huệ. A-tì-đạt-ma có liên quan đến sự phân tích các hiện tượng và có lẽ xuất phát từ những bảng liệt kê số pháp, ví như 37 Bồ-đề phần. Mặc dù được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn, được xem như là lời của đức Phật nhưng các nhà Phật học hiện đại cho rằng, kinh A-tì-đạt-ma được phát triển rất lâu sau khi đức Phật Thích ca nhập diệt, và phần lớn của tạng kinh A-tì-đạt-ma là kết quả của 200 năm sau do công của A-dục vương (thế kỉ 1) kết tập. A-tì-đạt-ma của Thượng tọa bộ được lưu lại bằng tiếng Pali. A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ được viết bằng tiếng Phạn, được lưu truyền trong hai Đại tạng kinh tiếng Hán và tiếng Tạng. A-tì-đạt-ma phần lớn phân tích, xử lý các hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng. Không phải trường phái Phật giáo nào cũng xem kinh A-tì-đạt-ma là kinh văn tiêu chuẩn. Kinh lượng bộ (zh. 經量部, sa. sautrāntika) cho rằng, Đại tạng kinh chỉ có Kinh và Luật tạng. Việc chối bỏ các pháp thật sự tồn tại - quan điểm chính của A-tì-đạt-ma - của một số trường phái, được xem là một nhân tố quan trọng của sự hình thành trường phái Đại thừa sau này. Kinh điển ngoài tiêu chuẩn Kinh văn ngoài tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên có lẽ là Na-tiên tỉ-khâu kinh hay kinh Mi Tiên vấn đáp (Milindapañha), nói về một cuộc đàm thoại giữa một ông vua mộ đạo và một vị Tỉ-khâu trí huệ sắc bén. Bộ này chứa đựng một loạt giáo lý chủ yếu như vô ngã, duyên khởi, v.v. Các học giả sau này xem tác phẩm này là của Thuyết nhất thiết hữu bộ, một trường phái Tiểu thừa khác mặc dù nó được lưu lại Đại tạng của Thượng tọa bộ. Kinh điển viết bằng tiếng Pali có rất nhiều bản chú giải vẫn chưa được phiên dịch. Chúng được xem là có nguồn từ đầu bút của vị Đại luận sư Phật Âm. Cũng có rất nhiều bản giải thích cho những bản chú giải (bản chú giải các bản chú giải). Đại luận sư Phật Âm cũng là tác giả của bộ Thanh tịnh đạo luận, "con đường dẫn đến thanh tịnh" được xem là bộ luận trình bày tất cả giáo lý Thượng tọa bộ một cách tổng quát. Kinh Pháp Bảo Đàn cũng là kinh ngoài tiêu chuẩn, bộ kinh đã ghi chép về phương pháp tu tập giác ngộ qua những hành động và lời giảng dạy của thiền sư không biết chữ là Đại sư Huệ Năng Kinh điển Đại thừa Sau đây là một số kinh điển Đại thừa tiêu biểu: Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh Bộ này nói về Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā). Trong hệ thống này, Bát-nhã được xem là khả năng hiểu được "sự thật như nó vẫn là", không chứa bất cứ một luận cứ triết học nào cả, chỉ nhằm thẳng bản chất của sự có, đặc biệt chỉ bằng cách dùng phương pháp nói ngược. Cơ sở quan trọng ở đây là sự vật không có hai mặt, mà trên nó, tất cả những phương pháp nhị nguyên để nhìn vào sự vật đều bị bác bỏ: Các pháp - các hiện tượng - không tồn tại mà cũng không không tồn tại, nhưng lại mang dấu ấn của tính Không, với sự vắng mặt lâu dài của một "bản chất không biết". Nhất tự bát-nhã kinh minh họa quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa bằng cách dùng tiếp đầu âm अ a tiếng Phạn. Chữ अ khi gắn vào đầu một từ thì sẽ phủ định nó, cho nó một nghĩa ngược lại. Nhiều bộ kinh Bát-nhã được biết với tên là độ dài hoặc số dòng kệ tụng chúng chứa đựng. Edward Conze, người đã dịch tất cả những bộ kinh Bát-nhã còn được lưu lại bằng Phạn ngữ sang tiếng Anh, đã nhận ra bốn thời kì phát triển của hệ kinh này: 100 TCN-100: Bảo đức tích tụ bát-nhã (sa. ratnaguṇasaṃcayagāthā) và Bát thiên tụng bát-nhã (sa. aṣṭasāhasrikā). 100-300: Thời kì phát triển với Bát nhã 18.000, 25.000, và 100.000 dòng được biên tập. Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (sa. vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra) có thể được viết trong thời gian này. 300-500: Thời kì lắng đọng lại. Bát-nhã tâm kinh và Nhất tự bát-nhã được biên tập. 500-1000: Văn bản thời này bắt đầu mang dấu tích của Mật giáo, chịu ảnh hưởng của Đát-đặc-la. Kinh điển hệ Bát-nhã đã ảnh hưởng lớn đến tất cả các trường phái Phật giáo Đại thừa. Diệu Pháp Liên Hoa kinh Diệu Pháp Liên Hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) cũng được gọi tắt là kinh Pháp Hoa, có lẽ được biên tập vào thời kì 100 TCN đến 100 CN. Trong kinh này, đức Phật đã chỉ rõ có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực chất chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì nhu cầu phù hợp với căn cơ của hành giả. Phật chỉ tùy cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – để dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Một điểm đáng lưu ý ở đây là sự (tái) xuất hiện của Phật Đa Bảo (zh. 多寳, sa. prabhūtaratna) - vốn đã nhập diệt nhiều kiếp trước - vì sự việc này gợi ý là chúng sinh vẫn có thể cầu Phật sau khi Phật nhập Niết-bàn, và như vậy Phật sống vô lượng kiếp vì đã tích tụ vô lượng vô số công đức trong các tiền kiếp. Quan điểm này, không nhất thiết phải bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa, đã dẫn đến khái niệm Tam thân của một vị Phật. Trong thời gian sau đó, kinh này quan hệ mật thiết với tông Thiên Thai và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Tịnh độ kinh Có ba bộ kinh chính được xếp vào loại này, đó là: Vô Lượng Thọ kinh (zh. 無量壽經, sa. sukhāvatīvyūha-sūtra), Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. amitāyurdhyānasūtra) và A-di-đà kinh (zh. 阿彌陀經, sa. amitābhasūtra, cũng được gọi là Tiểu Vô Lượng Thọ kinh 小無量壽經). Ba bộ này miêu tả nguồn gốc và bản chất của Tây phương Tịnh độ, nơi ở của Phật A-di-đà, liệt kê 48 lời nguyện của Pháp Tạng khi còn là một vị Bồ Tát. Ngài phát nguyện dựng nên một Tịnh độ, nơi chúng sinh với tâm thức thanh tịnh có thể thác sinh, sửa mình theo Phật pháp mà không gặp chướng ngại. Chúng sinh chỉ cần niệm tên, ngợi ca công đức của Phật A-di-đà là có thể tái sinh vào cõi Cực Lạc. Ba bộ kinh này (Tịnh độ tam bộ kinh 淨土三部經) trở thành cơ sở của Tịnh độ tông mà niềm tin đặt hết vào nơi tha lực trong quá trình tu tập. Duy-ma-cật sở thuyết kinh Duy-ma-cật sở thuyết kinh là một bộ kinh độc lập, được biên tập vào khoảng đầu thế kỉ thứ 2. Bồ Tát Duy-ma-cật xuất hiện dưới dạng cư sĩ để thuyết pháp, nhấn mạnh đến việc tu tập của hàng cư sĩ. Về mặt giáo lý thì kinh này giống kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Một chủ đề lớn khác trong kinh này là các Tịnh độ của chư Phật (Phật độ 佛土, sa. buddhakṣetra), đã ảnh hưởng lớn đến Tịnh độ tông sau này. Kinh này rất phổ biến tại các nước theo Đại thừa Phật giáo tại Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam, có lẽ vì giáo lý trong kinh thích hợp với Nho giáo. Tam-ma-địa kinh Kinh văn loại này này được xem là những bộ kinh Đại thừa cổ nhất. Chúng nhấn mạnh việc thành tựu các cấp Tam-ma-địa (zh. 三摩地, sa. samādhi), "định", trong lúc ngồi thiền, và như thế gợi thấy là thiền định đã giữ một vị trí quan trọng trong Đại thừa ban sơ. Thuộc loại kinh này là Bát-chu-tam-muội kinh (zh. 般舟三昧經, sa. pratyutpannabuddhasammukhāvasthita-samādhi-sūtra) và Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (zh. 首楞嚴三昧經, sa. śūraṃgamasamādhisūtra). Sám hối kinh Tam uẩn kinh (sa. triskandhasūtra) và Kim quang minh tối thắng vương kinh (gọi tắt là Kim Quang Minh kinh) đặt nặng đến việc tự kể về mình, sám hối tội lỗi. Đặc biệt là bộ kinh Kim Quang Minh được vương triều Nhật Bản thời ấy chú trọng. Một chương của trang này được triều đình dùng để chính thống hóa hình thức cai trị và dùng làm cơ sở cho một đất nước phồn thịnh lý tưởng. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh Là một bài kinh tổng hợp nhiều thành phần, cụ thể là Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) và Hoa Nghiêm kinh. Có lẽ bộ kinh có được dạng này vào khoảng thế kỉ thứ 4, mặc dù các thành phần của nó, như những phần được nói bên trên, được xem là xuất hiện ở thế kỉ thứ 1 hoặc thứ 2. Kinh Hoa Nghiêm được xem là nguồn của sự tôn xưng đức Phật Đại Nhật, sau này, kinh là cơ sở phát triển của bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), một trong hai bộ kinh trung tâm của Chân ngôn tông, cũng được đưa vào Đại tạng kinh Tây Tạng trong nhóm Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra). Kinh Hoa Nghiêm sau trở thành bộ kinh chính của tông mang cùng tên, tông Hoa Nghiêm tại Trung Quốc với giáo lý xoay quanh sự xuyên suốt của vạn vật. Kinh thời chuyển pháp luân thứ ba hay kinh hệ Duy thức Đây là những bộ kinh nói về thuyết "duy tâm", "duy thức" có liên hệ với Du-già hành tông (sa. yogācārin). Kinh Giải thâm mật (~ thế kỉ thứ 2) được xem là bộ kinh cổ nhất của loại này. Kinh này chia giáo lý của Phật thành ba loại và gọi là "ba thời chuyển pháp luân". Thuộc lần "quay bánh xe pháp" đầu tiên là những bài kinh hệ A-hàm của hàng Thanh Văn; thuộc loại kinh thời chuyển pháp luân thứ hai là bộ kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa và cuối cùng, các bộ kinh liệt kê chính chúng vào lần chuyển pháp luân thứ ba. Thêm vào đó, kinh thuộc hai thời đầu được xem là vị liễu nghĩa, "chưa được giảng rõ ràng", mà chỉ những bộ kinh thuộc thời thứ ba này được xem là "liễu nghĩa", bao hàm ý nghĩa trọn vẹn. Bộ Nhập Lăng-già kinh cũng được xếp vào loại này mặc dù có bản chất tổng hợp nhiều giáo lý, pha trộn giáo lý Du-già với hệ thống Như Lai tạng và có vẻ như các vị sư khai sáng Duy thức tông không nhắc đến hoặc không lưu ý đến nó. Kinh này giữ một vị trí quan trọng trong Thiền tông. Như Lai Tạng kinh Thuộc về loại này là các bộ Như Lai tạng kinh (zh. 如來藏經, sa. tathāgatagarbhasūtra), Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh (zh. 勝鬘師子吼一乘大方便方廣經, sa. śrīmālāsiṃhanādasūtra) và Đại bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, sa. mahāparinirvāṇasūtra) hệ Đại thừa (rất khác với bộ kinh cùng tên văn hệ Pali). Ba bộ kinh này dạy rằng, mỗi chúng sinh đều có Như Lai tạng, được dịch và hiểu là Phật tính, Phật chủng (hạt giống Phật). Phật tính ở đây chính là khía cạnh của mỗi chúng sinh vốn đã giác ngộ và vì vậy có khả năng làm chúng sinh giác ngộ. Đây là một trong những ứng đáp quan trọng nhất từ phía Phật giáo cho vấn đề của nội tại và siêu việt. Giáo lý Như Lai tạng gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Đông Á và tư tưởng này có thể được tìm thấy - dưới dạng này hay khác - trong tất cả các trường phái Phật giáo tại đây. Kinh tập hợp Thuộc về loại này là hai bộ kinh rất lớn với tính cách tập hợp những bộ kinh khác. Kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra) bao gồm 49 bài kinh riêng biệt, và Đại tập kinh (zh. 大集經, sa. mahāsaṃnipātasūtra), gồm 17 bài kinh tương đối ngắn. Cả hai bộ kinh đều được xem là được biên tập vào thế kỉ thứ 5, mặc dù chứa những bài kinh cổ hơn nhiều. Kinh nói về sự thác sinh và nơi thác sinh Một số kinh tập trung vào các nghiệp dẫn đến sự thác sinh vào những cõi khác nhau, hoặc đặc biệt chú trọng đến giáo lý duyên khởi với 12 nhân duyên. Kinh nói về giới luật Thuộc về loại này là những bộ kinh nói về các nguyên tắc hướng dẫn các vị Bồ Tát. Ba bộ kinh tiêu biểu cho loại này là: Phổ Minh Bồ Tát hội (zh. 普明菩薩會, sa. kāśyapaparivarta) nằm trong bộ kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra), Bồ Tát giới bản (zh. 菩薩戒本, sa. bodhisattvaprātimokṣa) và Phạm võng kinh (zh. 梵網經, sa. brahmajālasūtra). Kinh nói về những nhân vật được sùng bái Có nhiều bộ kinh nói về bản chất và công đức của một vị Phật, Bồ Tát, hoặc các Tịnh độ đặc thù của chư vị, bao gồm Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha), Phật A-súc (zh. 阿閦, sa. akṣobhya) và Phật Dược Sư (z. 藥師, sa. bhaiṣajyaguru). Tiền Đại thừa kinh Đầu thế kỉ 20, một kho kinh điển được tìm thấy trong một gò đất gần Gilgit, Afghanistan. Một trong số kinh văn được tìm thấy là bộ Vô năng thắng quân kinh (sa. ajitasenasūtra). Kinh này dường như là một sự kết hợp của tư tưởng Đại thừa và Tiền đại thừa. Nội dung kinh diễn biến trong phạm vi ngôi chùa của các tăng-già, giống như trường hợp các bộ kinh văn hệ Pali; kinh không có những điểm tương phản giữa hàng Thanh Văn (hoặc Tiểu thừa) hoặc nhắc đến thánh quả A-la-hán như trường hợp các kinh văn Đại thừa khác như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Duy-ma-cật. Tuy nhiên, kinh cũng nhắc đến một A-la-hán thấy được các cõi Phật. Kinh nói rằng việc niệm danh kinh sẽ cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau cũng như các đoạ xứ, và một cách thiền quán được kinh văn đề cao là sẽ giúp hành giả thấy với cặp mắt Phật, và nhận giáo lý từ chư vị. Những điểm này rất giống với kinh văn Đại thừa sau này. Kinh luận ngoài tiêu chuẩn Luận văn chú giải, diễn giảng của Đại thừa rất nhiều và rộng, và trong nhiều trường hợp, các bài luận này được xem là quan trọng hơn cả kinh văn tiêu chuẩn. Căn bản trung quán luận tụng (zh. 根本中觀論頌, sa. mūlamādhyamikakārikā) của Long Thụ (zh. 龍樹, sa. nāgārjuna) là bộ luận nền tảng của triết học Trung quán, có chủ đề như các bộ kinh thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mặc dù không hẳn là luận văn chú giải các bài kinh này. Vào khoảng thế kỉ thứ 9, Tịch Thiên (zh. 寂天. sa. śāntideva) tác phẩm hai luận văn quan trọng là Nhập bồ-đề hành luận (sa. bodhicaryāvatāra) và Tập học luận (sa. śikṣāsamuccaya). Nhập bồ-đề hành luận có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhánh Đại thừa và cũng là bài luận vừa ý nhất của đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14, Đăng-châu Gia-mục-thố. Luận bắt đầu với việc thực hiện nghi lễ tôn kính, sau đó tiến đến phần giảng giải sáu Ba-la-mật-đa. Chương thứ 9 là một cách trình bày quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa của trường phái Trung quán-Cụ duyên (zh. 具緣派, sa. prāsaṅgika) cũng như chê trách những trường phái Phật giáo khác trên cơ sở Trung quán. Tập học luận, như tên cho thấy, là một bài luận tập hợp các giáo lý từ nhiều bài kinh Đại thừa. Nhiều bộ kinh được nhắc đến trong luận đã không còn nữa, chỉ biết được qua những lời trích dẫn trong kinh. Đại sư Vô Trước (zh. 無著, sa. asaṅga) là người sáng lập trường phái Duy thức. Tương truyền Đại sư đã tiếp nhận nhiều bộ luận từ Bồ Tát Di-lặc tại cung trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Những bộ luận đó là: Biện trung biên luận tụng (sa. madhyāntavibhāga-kārikā) Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyānasūtralaṅkāra-kārikā) Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-nāmaprajñāpāramitā-upadeśa-śāstra [-kārikā] thường được viết tắt là abhisamayālaṅkāra-śāstra) Đại sư Vô Trước cũng được xem là tác giả của Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra) và Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya). Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận có thể được xem là luận văn tổng hợp giáo lý A-tì-đạt-ma và đã trở thành bộ luận tiêu chuẩn trong nhiều trường phái Đại thừa, đặc biệt là tại Tây Tạng. Riêng Du-già sư địa luận có thể là tác phẩm của nhiều người. Em của Đại sư Vô Trước là Luận sư Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu) đã viết nhiều bộ luận Duy thức như: Tam tính luận (sa. trisvabhāva-nirdeśa) A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa. abhidharmakośaśāstra) Duy thức nhị thập luận (tụng) (sa. viṃśatikāvijñāptimātratāsiddhi-kārikā) Duy thức tam thập tụng (sa. triṃśikā-vijñāptimātratāsiddhi-kārikā).... Tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Luận sư Thế Thân tại Đông Á có lẽ là Duy thức tam thập tụng. Theo một vài nhà nghiên cứu thì có thể có đến hai vị luận sư cùng tên Thế Thân và người trước đã viết bộ A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, người sau đã soạn những tác phẩm Duy thức. Tuy nhiên, nhà Phật học Lê Mạnh Thát đã chứng minh trong The Philosophy of Vasubandhu rằng chỉ có một Thế Thân và giả thuyết "hai Thế Thân" có một cơ sở sai lầm. Trần-na (zh. 陳那, sa. (mahā-)dignāga, diṅnāga) được xem là đại biểu của trường phái Nhận thức học (en. epistemology), gọi theo thuật ngữ nhà Phật là Nhân minh học (sa. hetuvidyā). Tập "đại thành" của Trần-na là Tập lượng luận (sa. pramāṇasamuccaya), được Pháp Xứng (zh. 法稱, sa. dharmakīrti) bổ sung thêm bài luận giải cơ bản, rất có giá trị là Lượng thích luận (zh. 量釋論, sa. pramāṇavarttika-kārikā). Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra) của Đại sư Mã Minh (zh. 馬鳴, sa. aśvaghoṣa) có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo Đông Á, đặc biệt là trường phái Hoa Nghiêm tại Trung Quốc và Nhật. Các tác phẩm còn lại của Đại sư Mã Minh cũng rất được ưa chuộng. Kim Cương thừa kinh Đát-đặc-la Phật giáo Đại tạng kinh của Kim cương thừa (zh. 金剛乘, sa. vajrayāna) bao gồm những kinh văn A-hàm của một số trường phái cũng như kinh điển Đại thừa. Tuy nhiên, những bộ kinh Kim cương thừa đặc thù có chứa các Đạt-đặc-la mới chính là tinh hoa của Đại tạng kinh này. Chúng được xem là lời của đức Phật, Đại tạng kinh Tây Tạng có khoảng 500 Đát-đặc-la (zh. 怛特羅, sa. tantra) và hơn 2000 bài luận giải hệ thuộc. Các bộ Đát-đặc-la có những điểm đặc thù, ví như đặc biệt chú trọng đến nghi lễ cũng như các phép thiền quán. Truyền thống Tây Tạng sau này phân chia kinh văn Đát-đặc-la thành bốn loại, cụ thể là: Tác đát-đặc-la (sa. kriyā-tantra): chiếm phần lớn kinh văn Đát-đặc-la nhưng có ít tầm quan trọng, xuất hiện giữa thế kỉ thứ 2 và 6. Đát-đặc-la này chú ý đến phép tu luyện thông qua các hành động (nghi lễ v.v...). Mỗi Tát Đát-đặc-la xoay quanh nghi thức thờ cúng một vị Phật hoặc Bồ Tát, và nhiều vị lại đứng quanh những Đà-la-ni (sa. dhāraṇī). Kinh văn tiêu biểu cho nhóm này là Đại vân kinh (sa. mahāmeghasūtra), Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (zh. 文殊師利根本儀軌經, sa. āryamañjuśrīmūlakalpa), Subhāparipṛcchāsūtra và Aparimitāyurjñānahṛdayadhāraṇī. Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra): Có một ít kinh văn thuộc thể loại Hành Đát-đặc-la, loại kinh có lẽ xuất hiện vào thế kỉ thứ 6, phép tu luyện hoàn toàn hướng đến việc tôn xưng đức Phật Đại Nhật. Ví dụ tiêu biểu là bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra). Đát-đặc-la này sau được xem là kinh văn chính của tông Chân ngôn. Du-già-đát-đặc-la (sa. yoga-tantra): Phép tu luyện cũng hướng đến đức Phật Đại Nhật, bao gồm thêm hai bộ Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp đát-đặc-la (sa. sarvatathāgatatattvasaṃgrahatantra) và Nhất thiết nghiệp chướng thanh tịnh đát-đặc-la (sa. sarvadurgatipariśodhanatantra). Vô thượng du-già-đát-đặc-la (sa. anuttarayoga-tantra): Thể loại Đát-đặc-la cấp cao nhất này tập trung vào sự chuyển hóa tâm thức, ít lưu ý đến các nghi lễ bên ngoài. Chúng thỉnh thoảng được xếp theo Thân phụ đát-đặc-la và Thân mẫu đát-đặc-la: Thứ nhất là loại Du-già vượt trội hơn (sa. yogottara), cũng được gọi là Thân phụ đát-đặc-la hoặc Phương tiện đát-đặc-la (sa. upāyatantra). Việc tu luyện nhắm đến đức Phật A-súc và nữ hành giả tùy tòng là Ma-ma-ki (sa. māmaki). Bộ Bí mật tập hội được xem là thuộc loại này, có lẽ xuất phát từ thế kỉ thứ 8. Thứ hai là những Đát-đặc-la thuộc hệ Bát-nhã hoặc hệ Thân mẫu (cũng được gọi là Du-già-ni đát-đặc-la, sa. yoginī-tantra). Đức Phật A-súc vẫn là mục đích chủ đạo, nhưng giờ đây xuất hiện dưới dạng giận dữ là Thần thể Hê-ru-ka (sa. heruka). Các vị Phật nữ giờ đây đóng vai trò quan trọng hơn nhiều, ngang bằng những vị Phật nam hoặc không chừng là quan trọng hơn. Nhiếp đát-đặc-la (sa. saṃvaratantra) được dịch sang Tạng ngữ trong thế kỉ thứ 8. Những kinh văn khác thuộc nhóm này, ví như Hô kim cương đát-đặc-la (sa. hevajratantra), xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 10. Thời luân đát-đặc-la thỉnh thoảng được xem là một Bất nhị đát-đặc-la (sa. advayatantra). Bộ này xuất hiện rất trễ trong quá trình phát triển Mật giáo - vào khoảng giữa thế kỉ 11 - được viết bằng tiếng Phạn cổ điển rất chuẩn thay vì tiếng Phạn pha trộn cũng như lối văn ngầm chỉ(sa. saṃdhyābhāṣā) thường thấy trong những bộ khác. Lần đầu tiên giáo lý lại quay về đức Phật Bản Sơ (sa. ādibuddha). Chứng cứ văn bản cho thấy rằng, một số Đát-đặc-la có nguồn từ Đát-đặc-la hệ Thấp-bà (sa. śaiva), được tiếp thu, thay đổi cho phù hợp cách tu luyện Phật giáo và có nhiều điểm giống nhau về nghi lễ cũng như hình tượng của Phật giáo Đại thừa mà chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các tác phẩm khác của Kim cương thừa Thành tựu pháp man (sa. sādhanamālā) là một tập nói về các Thành tựu pháp. Các hành giả Kim cương thừa, cũng được gọi là Thành tựu giả (sa. siddha) thường dạy bằng những bài ca. Những tuyển tập như Sở hạnh ca (sa. caryāgīti), bao gồm những bài ca nói về sở hạnh của nhiều vị Thành tựu giả rất phổ biến. Đạo-bả tập (sa. dohakośa) là một tác phẩm tiêu biểu khác của Đại thành tựu giả Sa-ra-ha (sa. saraha), thế kỉ thứ 9. Mật-lặc-nhật-ba thập vạn ca (100.000 bài ca của Mật-lặc-nhật-ba, en. The Hundred Thousand Songs of Milarepa) cũng rất nổi tiếng. Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་) là những văn bản được tác phẩm, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Liên Hoa Sinh đã viết, và giấu nhiều Tàng lục. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་). Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་). Không Hải có viết một loạt luận giải đặc thù cho truyền thống Chân ngôn tông Nhật Bản.
Yên Tử là một dãy núi thuộc cánh cung Đông Triều, nằm tại ranh giới hai tỉnh Quảng Ninh và Bắc Giang. Ngoài ra, danh xưng Yên Tử còn có thể chỉ: Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử: gồm một cụm các công trình kiến trúc Phật giáo như chùa, tháp tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh Hội Yên Tử: lễ hội hành hương vào mùa xuân tại khu di tích Yên Tử, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc: một hệ thống hơn 70 điểm di tích, được cấu thành từ 5 cụm di tích gồm Khu di tích Yên Tử, Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử (Bắc Giang) và Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương).
Hiệu ứng Coriolis là hiệu ứng xảy ra trong các hệ quy chiếu quay so với các hệ quy chiếu quán tính, được đặt theo tên của Gaspard-Gustave de Coriolis-nhà toán học, vật lý học người Pháp đã mô tả nó năm 1835 thông qua lý thuyết thủy triều của Pierre-Simon Laplace. Nó được thể hiện qua hiện tượng lệch quỹ đạo của những vật chuyển động trong hệ quy chiếu này. Sự lệch quỹ đạo do một loại lực quán tính gây ra, gọi là lực Coriolis. Lực Coriolis được xác định bằng công thức sau: Với: m là khối lượng của vật, v là véctơ vận tốc của vật, ω là véctơ vận tốc góc của hệ, còn dấu × là tích véctơ. Phương trình trên đây là phương trình véctơ. Ví dụ Nếu một vật chuyển động dọc theo đường bán kính theo chiều rời xa trục quay của hệ qui chiếu thì sẽ chịu tác động của một lực theo phương vuông góc với bán kính và theo chiều ngược với chiều quay của hệ. Còn nếu vật chuyển động về phía trục quay thì lực sẽ tác động vào vật theo chiều quay của hệ qui chiếu. Điều này nghĩa là nếu vật được thả lăn tự do theo phương của bán kính, theo chiều ra phía ngoài, thì nó sẽ quành về ngược chiều quay của hệ qui chiếu. Còn nếu như vật được thả lăn tự do về phía trục thì sẽ ngược lại. Phương của lực quán tính li tâm thì cùng phương với nên lực quán tính li tâm không làm cho vật bị lệch quỹ đạo, lực Coriolis có phương vuông góc với mặt phẳng tạo bởi và nên làm cho vật bị lệch hướng quỹ đạo, quả bóng không đứng yên so với người quan sát đứng trên bàn quay mà chuyển động theo một quỹ đạo là một đường cong, viên bi không lăn ra theo đường bán kính mà bị lệch thành đường cong ngược theo chiều quay của đĩa, vật rơi có hiện tượng lệch về phía đông do Trái Đất quay từ Tây sang Đông. Trên Trái Đất Trái Đất quay quanh trục của mình, vì thế mà các vật chuyển động trên Trái Đất đều chịu hiệu ứng Coriolis. Ở phía bắc bán cầu, các vật chuyển động có xu hướng vòng sang phải, còn ở nam bán cầu thì vòng trái (nhìn theo chiều chuyển động của vật). Đối với các vật chuyển động dọc theo đường vĩ tuyến (ở Bắc cũng như Nam Bán Cầu) thì hiệu ứng Coriolis không làm lệch hướng chuyển động mà chỉ làm cho vật nặng hơn lên (khi chuyển động về phương Tây), hoặc nhẹ bớt đi (khi chuyển động về phương Đông). Còn đối với các vật rơi tự do thì chúng đều có điểm rơi lệch về phía Đông so với điểm rọi thẳng đứng của nó (bỏ qua ảnh hưởng của gió). Hiệu ứng này khó cảm nhận được, do chuyển động quay của Trái Đất rất chậm. Nó chỉ xuất hiện trong các quá trình kéo dài, hoặc tác động vào những vật chuyển động nhanh, hay các vật "tự do" tức là tổng các lực tác động lên nó là nhỏ cỡ độ lớn của lực Coriolis. Sau đây là một vài ví dụ về ảnh hưởng của hiệu ứng Coriolis: Trên Bắc Bán Cầu gió thổi có xu hướng vòng phải, còn ở Nam Bán Cầu thì vòng trái; Ở trên cả hai bán cầu, bờ Tây các con sông chảy theo hướng Bắc – Nam là chủ yếu và ngược lại bị xói mòn nhiều hơn bờ Đông; Các con sông chảy theo hướng từ Tây sang Đông thường là các con sông lớn hơn các con sông chảy theo hướng ngược lại. Trên thực tế, các con sông lớn có dòng chảy chủ yếu gần song song với xích đạo theo hướng Tây - Đông thường là sông lớn: Sông Dương Tử, Sông Amazon, Sông Danube... Ví dụ, nếu từ một miền nào đó trên Bắc Bán Cầu có luồng gió bắt đầu thổi về phía Cực Bắc, nghĩa là luồng gió này tiến về những vùng vĩ tuyến có vận tốc dài nhỏ hơn so với nó, do vậy gió thổi tới các miền ở phương Bắc không theo chiều Bắc mà theo chiều Tây-Bắc. Càng xa điểm xuất phát bao nhiêu thì thành phần "phương Đông" càng lớn bấy nhiêu. Đối với người quan sát trên mặt đất thì hiện tượng này trông như thể có một lực nào đấy tác động từ phía Tây về phía Đông. Lực này chính là lực Coriolis. Hiệu ứng Coriolis phải được để ý tới trong các lĩnh vực như pháo binh, tên lửa đạn đạo (không phải "tên lửa hành trình", vì loại này tự lái tìm mục tiêu), hoa tiêu hàng không, hàng không vũ trụ. Người đầu tiên đã kiểm chứng bằng thực nghiệm hiệu ứng Coriolis là Léon Foucault, bằng "con lắc Foucault" nổi tiếng của mình.
Gaspard-Gustave de Coriolis hay Gustave de Coriolis (21 tháng 5 năm 1792 tại Paris – 19 tháng 9 năm 1843 tại Paris) là nhà toán học, kiêm vật lý học người Pháp. Ông từng giữ chức phó giáo sư bộ môn toán tại trường Bách khoa Paris từ 1816 đến 1838. Ông cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Đã từng nghiên cứu về các định luật của chuyển động, nhất là các chuyển động trên mặt đất. Ông là người đã đưa thuật ngữ "công" vào môn cơ học.
Bộ môn Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà thi đấu PhilSports Arena, thành phố Pasig, Philippines từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 3 tháng 12 năm 2005. Giải tranh 7 bộ huy chương ở 5 nội dung cá nhân và 2 nội dung đồng đội. Là một trong những môn thể thao hiếm hoi trong Thế vận hội mà các quốc gia Đông Nam Á có chỗ đứng trên bản đồ thế giới, các trận thi đấu của bộ môn cầu lông tại SEA Games luôn giành được sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông cũng như là những cuộc đấu có sự cạnh tranh và sức hấp dẫn rất cao. Tại kỳ đại hội lần này, một lần nữa Indonesia khẳng định vị thế cường quốc số một trong khu vực Đông Nam Á của mình và có thể là một trong ba cường quốc mạnh nhất thế giới ở thời điểm năm 2005 ở môn thể thao này. Tuy nhiên, họ không còn quá lấn lướt như khi xưa vì hai giải đồng đội năm nay đều thoát khỏi tay họ bởi hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và cũng là các quốc gia có tên trong làng cầu lông thế giới, là Thái Lan và Malaysia. Đoàn Singapore là nhân tố cuối cùng góp phần tô điểm và cuộc đấu tứ hùng sinh động của giải năm nay. Bảng thành tích Đơn nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngSony Dwi Kuncoro<TD> Indonesia</TD> BạcSimon Santoso Indonesia ĐồngLee Chong Wei Malaysia ĐồngMuhd Hafiz Hashim Malaysia </TABLE> Đơn nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngAdriyanti Firdasari<TD> Indonesia</TD> BạcWong Mew Choo Malaysia ĐồngSalakjit Ponsana Thái Lan ĐồngLi Li Singapore </TABLE> Đôi nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngHendra Setiawan và Markis Kido<TD> Indonesia</TD> BạcLuluk Hadiyanto và Alvent Yulianto Chandra Indonesia ĐồngChoong Tan Fook và Wong Choong Hann Malaysia ĐồngChan Chong Ming và Koo Kien Keat Malaysia </TABLE> Đôi nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngWong Pei Tty và Chin Eei Hui<TD> Malaysia</TD> BạcJo Novita và Greysia Polii Indonesia ĐồngSaralee Thungthongkam và Satinee Jankrajangwong Thái Lan ĐồngJiang Yanmei và Li Yujia Singapore </TABLE> Đôi nam nữ phối hợp <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngNova Widianto và Lilyana Natsir<TD> Indonesia</TD> BạcAnggun Nugroho và Yunita Tetty Indonesia ĐồngKoo Kien Keat và Wong Pei Tty Malaysia ĐồngHendry Kurniawan Saputra và Li Yujia Singapore </TABLE> Đồng đội nam <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngLee Chong WeiMuhd Hafiz HashimWong Choong HannChan Chong MingKoo Kien KeatChoong Tan FookLee Wan Wah<TD> Malaysia</TD> BạcSony Dwi KuncoroSimon SantosoTaufik HidayatHendra SetiawanMarkis KidoLuluk HadiyantoAlvent Yulianto Chandra Indonesia ĐồngBoonsak PonsanaPoopat SupkulchananartJackaphan ThanateeratamSudket PrapakamolPhatapol NgensrisukNitipong SaengsilaSongphol Anukritayawan Thái Lan ĐồngNguyễn Tiến MinhNguyễn Hoàng HảiNguyễn Quang PhongTrần Thanh HảiNguyễn Quang Minh Việt Nam </TABLE> Đồng đội nữ <TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0"> Huy chươngVận động viênQuốc gia VàngSalakjit PonsanaMonthila MeemekSoratja ChansrisukotSaralee ThungthongkamSatinee JankrajangwongKulchala WorawichitchaikulSujitra Ekmongkolpaisarn<TD> Thái Lan</TD> BạcLi LiXing AiyingJiang YanmeiLi YujiaLiu Fan FrancesShinta Mulia Sari Singapore ĐồngAdriyanti FirdasariFrancisca RatnasariMaria Kristin YuliantiJo NovitaGreysia PoliiLilyana NatsirLita Nurlita Indonesia ĐồngWong Mew ChooM. SutheaswariJulia WongWong Pei TtyChin Eei HuiMooi Hing Yau Malaysia </TABLE> Chú thích
Trường Chinh có thể là: Nhân vật Trường Chinh, chính khách Việt Nam, nguyên Chủ tịch nước thứ hai của Việt Nam thống nhất trên danh nghĩa là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 đến năm 1987. Sự kiện, sự vật Cuộc hành quân Trường Chinh của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc để tránh sự tấn công của quân đội Quốc Dân Đảng. Tên lửa Trường Chinh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Địa danh Phường Trường Chinh, thành phố Kon Tum, Kon Tum. Đường Trường Chinh, Thành phố Hồ Chí Minh
Huyền Quang (玄光), 1254-1334, tên thật là Lý Tái Đạo (李載道) là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thời Trần. Ông là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272? hay 1274? và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sư Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam và người ta xem ông và hai vị nêu trên ngang hàng với sáu vị tổ của Thiền tông Trung Quốc hoặc 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ. Truyền thuyết và sự nghiệp Theo truyền thuyết ghi lại trong Tam tổ thực lục (三祖實錄), mẹ của Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy "các toà trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: 'Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa.'" Năm ấy Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên ông dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn Lâm. Tam Tổ thực lục, phần Tổ Gia thực lục chép tiểu sử Huyền Quang có nói: ông cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, liền nhớ lại "duyên xưa", xin xuất gia thụ giáo. Tuy nhiên, cũng trong sách này mà phần tiểu sử Pháp Loa lại nói Huyền Quang thụ giáo với Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh (Bắc Ninh). Ông được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang. Sau, ông theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên (nay là chùa Hoa Yên) trên núi Yên Tử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lý nên tăng chúng đua nhau đến học. Niên hiệu Đại Khánh thứ 4 (1317), ông được Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa tịch (1330), ông kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm. Ông đến trụ trì Thanh Mai Sơn sáu năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hoá. Ngày 23 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334) thời vua Trần Hiến Tông, ông viên tịch, thọ 80 tuổi. Thượng hoàng Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả. Tác phẩm Sau đây là một vài bài thơ tiêu biểu của thiền sư Huyền Quang: (theo Thơ văn Lý-Trần) (Bản dịch của Nguyễn Lang) (Bản dịch của Nguyễn Lang) {|valign="top" | Sơn Vũ Thu phong ngọ dạ phất thiền nha Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la Dĩ lữ thành thiền tâm nhất phiến Cùng thanh tức tức vị thùy đa | Mưa núi Gió thu ban tối thổi hiên tâyNhà núi đìu hiu tựa đám cây Tấc dạ tu hành từ những thuởDế kêu rầu rĩ bởi ai đây? |} (Bản dịch của Phan Võ) Tác phẩm của Sư: Ngọc tiên tậpChư phẩm kinhCông văn tậpPhổ huệ ngữ lục''
Pháp Loa (法螺; 23 tháng 5 năm 1284 – 22 tháng 3 năm 1330), còn có tên là Minh Giác (明覺) hay Phổ Tuệ Tôn giả (普慧尊者), là một thiền sư, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại thừa ở Đại Việt thế kỷ 13. Ông tu theo Thiền tông, là môn đệ của Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông, và làm Tổ sư thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Ông xuất gia 1304, hành đạo suốt 26 năm cho tới khi qua đời ở tuổi 47. Trong quá trình làm đạo, ông đã xây cất nhiều chùa tháp trong nước, truyền bá rộng rãi những lời dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni và Tổ sư Thiền, kết nạp nhiều tăng ni, cư sĩ trong đó có các vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông cùng nhiều thành viên hoàng gia và đại thần. Ông còn là người ấn hành Đại tạng kinh tại Việt Nam khoảng năm 1329 và đã để lại nhiều tác phẩm Thiền học và luận thuyết về các kinh Nhập Lăng-già, Diệu pháp liên hoa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Hiện nay, bộ sách chủ yếu còn sót lại về cuộc đời ông là Tam Tổ thực lục (三祖實錄), ra đời khoảng thế kỷ 14, kể tiểu sử 3 vị tổ sư phái Thiên Tông Trúc Lâm. Gia thế Ông tên tục là Đồng Kiên Cương (同堅剛), sinh ngày 7 tháng 5 năm Giáp Thân (tức 23 tháng 5 năm 1284), niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 đời vua Trần Nhân Tông, quê ở hương Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Cha ông là Phật tử, họ Đồng, có pháp danh Thuần Mậu; mẹ là Vũ Từ Cứu. Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy dị nhân trao cho kiếm thần và sau đó mang thai. Trước đó bà đã sinh 8 người con gái, nên khi có ông, tưởng sẽ là gái nữa, nên thất vọng uống thuốc phá thai. Phá tới bốn lần mà thai không hư, vì thế khi ông sinh ra, mẹ ông rất vui mừng, đặt tên ông là Kiên Cương, có nghĩa là "cứng rắn". Xuất gia Theo sách cổ, Đồng Kiên Cương còn nhỏ đã có chí khác thường, không nói lời ác, không thích ăn đồ cay nồng và thịt, cá. Năm 1293, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Năm 1299, thượng hoàng Nhân Tông lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) sống đời sa-môn, lấy đạo hiệu "Điều Ngự Giác Hoàng". Năm 1304, Điều Ngự đi khắp nơi trong nước, có ý tìm người kế thừa. Khi xa giá vừa đến thôn, Đồng Kiên Cương đỉnh lễ xin xuất gia, Trần Nhân Tông bảo ngay: "Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là pháp khí", mới đặt tên ông là Thiện Lai (善來) cho theo về thụ giới Sa-di. Khi về liêu Kỳ Lân núi Linh Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Điều Ngự lại bảo Thiện Lai đến chùa Quỳnh Quán học nơi Hoà thượng Tính Giác. Ông hỏi rất nhiều điều nhưng hoà thượng vẫn chưa giải đáp triệt để. Không thỏa mãn, ông bèn nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, khi chiêm nghiệm chỗ tôn giả A-nan-đà (Ānanda) hỏi Phật bảy lần về vị trí của tâm và đoạn ví dụ khách trần thì có sở đắc. Sau một thời gian ở Quỳnh Quán, Thiện Lai từ tạ trở về với Điều Ngự. Khi Điều Ngự lên pháp đường đọc bài tán Thái dương ô kê, Thiện Lai có phần chứng ngộ. Điều Ngự bèn cho ông theo hầu bên mình. Một hôm, ông dâng ba bài tụng nhưng cả ba đều bị chê. Điều Ngự khuyên ông phải tự tham. Ông vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, nhìn thấy bông đèn tàn rụng xuống bỗng nhiên đại ngộ. Điều Ngự âm thầm ấn khả cho ông. Từ đây, ông lập chí tu theo 12 hạnh Đầu-đà. Năm 1305, Điều Ngự đích thân truyền Giới Thanh văn và Giới Bồ Tát cho ông. Điều Ngự thấy Thiện Lai tu tập tiến bộ nên bạn đạo hiệu Pháp Loa. Năm 1306, Điều Ngự cử Pháp Loa làm chủ giảng tại chùa Báo Ân. Tại đây ông gặp người đệ tử tương lai – Huyền Quang lần đầu tiên, lúc đó ông mới 23 tuổi. Bấy giờ, Huyền Quang đã thọ giới với Bảo Phác, đi cùng thầy mình đến chùa Báo Ân nghe thuyết pháp. Điều Ngự thấy vậy bèn nhận Huyền Quang làm thị giả. Tháng 4 âm lịch năm 1307, Điều Ngự an cư ở am Thiên Bảo, có 7-8 thị giả theo hầu. Xét thấy Pháp Loa là người đứng đầu trong các thị giả, Điều Ngự thuyết Đại Tuệ Ngữ Lục cho ông nghe. Tháng 5 âm lịch năm này, ông theo Điều Ngự lên ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Ngày rằm tháng này, Điều Ngự làm lễ "bố tát", sau đó cho các đệ tử khác xuống núi, chỉ giữ Pháp Loa ở lại. Điều Ngự đem y bát và tâm kệ giao phó ông, cùng lời dặn phải giữ gìn. Trúc Lâm Đệ nhị tổ Giai đoạn 1308–1314 Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1308, tại Cam Lộ Đường chùa Siêu Loại (nay thuộc xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), Điều Ngự trao Pháp Loa chức trụ trì chùa Siêu Loại đồng thời xác nhận ông là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Buổi lễ được tổ chức Long trọng dưới sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông, quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn và đông đảo bá quan. Sách Tam Tổ thực lục đã thuật lại: Cùng năm, thiền sư Pháp Loa nhận chiếu của vua Anh Tông, truyền giới Xuất gia và giới Bồ tát cho Tuyên Từ Hoàng thái hậu cùng Thiên Trinh Trưởng công chúa tại chùa Siêu Loại. Nhà vua còn sai Trung thư Thị lang Vương Công Trứ cấp độ điệp cho Pháp Loa, ý nói ông là người nối dòng chính thống của thiền phái Trúc Lâm, không phải bị ràng buộc bởi luật pháp thế tục. Tháng 11 âm lịch năm 1308, Điều Ngự viên tịch, Pháp Loa phụng mệnh đưa xá-lợi về kinh đô và thuyết pháp cho hoàng gia. Đại Việt Sử ký Toàn thư, bộ quốc sử do sử quan Nho gia đời Lê là Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479, thời Lê Thánh Tông, có ghi nhận sự hiện diện của Pháp Loa trong lễ tang Thượng hoàng Trần Nhân Tông/Giác Hoàng Điều ngự: Sau khi trở về núi, Pháp Loa soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch thất và biên tập lại dưới tên Thạch thất mị ngữ. Theo Tam Tổ Thực Lục, hàng ngày Pháp Loa rất chăm chỉ đảnh lễ Phật, trì tụng thần chú. Ông còn soạn bài phát nguyện trong Lục Thời Nghi, có nội dung chính là: Ngày 14 tháng 7 âm lịch năm 1309, nhân đại lễ Vu-lan-bồn, Trần Anh Tông mời Pháp Loa tham dự lễ cúng chay Giác hoàng Điều ngự. Pháp Loa gặp Huyền Quang và nhắn nhủ: "Những điều mà Điều Ngự Giác Hoàng dặn dò, nhà ngươi đã quên hết rồi sao?". Từ đây, Huyền Quang tinh tấn tu học và tham gia truyền bá giáo pháp, giúp Pháp Loa mở rộng Thiền phái Trúc Lâm (bấy giờ, Huyền Quang làm trụ trì chùa Vân Yên – núi Yên Tử, giảng dạy cho hàng ngàn học tăng). Năm 1310, Trần Anh Tông ra chiếu, quy định 3 năm độ tăng 1 lần. Cùng năm đó, nhân lễ cúng chay Điều Ngự vào ngày Vu-lan, Pháp Loa giảng nội dung căn bản kinh Hoa Nghiêm. Trước đây, năm 1295, thượng hoàng Trần Nhân Tông sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang nước Nguyên, thỉnh bộ Đại tạng kinh (gồm 7.182 quyển) từ chùa Hoằng Pháp (Bắc Kinh) về phủ Thiên Trường. Sau đó, triều đình ra lệnh khắc bản Đại tạng kinh, nhưng công việc bị hoãn lại khi Nhân Tông Điều ngự viên tịch năm 1308. Đến năm 1311, vua Anh Tông thỉnh cầu Pháp Loa tiếp tục khắc bản để in Đại tạng kinh. Pháp Loa giao phó thiền sư Bảo Sát, – thị giả của Nhân Tông Điều ngự lúc sinh thời – trông coi việc này. Tháng 4 âm lịch năm 1311, Pháp Loa làm trụ trì chùa Báo Ân – Siêu Loại, tại đây ông giảng Truyền Đăng Lục và nghe kiến giải Phật pháp của Huyền Quang; các kiến giải này đều được Pháp Loa đồng ý. Tháng 11 âm lịch năm 1312, triều đình thỉnh Pháp Loa tới kinh sư, giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Tư Phúc (hay chùa Thiên Phúc) trong hoàng thành. Vua Trần Anh Tông trích 5 vạn quan tiền từ kho riêng ra cúng dường cho Pháp Loa; thiền sư lại đem số tiền này bố thí cho người nghèo. Nhà vua còn ngỏ ý cấp thuyền và phu chèo cho Pháp Loa dễ thăm kinh đô, nhưng thiền sư khước từ. Nhà vua lại sai người tôn thất cống hiến cho sư 500 mẫu ruộng ở nông trại Niệm Như. Ngày 1 tháng 2 âm lịch năm 1313, viện chủ viện Na-Già là Tổ Long Đàm thỉnh Pháp Loa thăm viện này; tại đây, ông giảng các sách Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục và kinh Duy-ma-cật. Trong số những Phật tử nghe pháp có vua Trần Anh Tông. Sau đó, nhà vua giúp Pháp Loa tu bổ chùa Báo Ân – Siêu Loại (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Nhà vua đứng ra cung cấp những "vật liệu của Tam Bảo" lấy từ cung Thánh Từ (Thăng Long); các quan lo việc cung cấp nhân công, thợ xây cây gỗ. Sau khi chùa khánh thành, nhà vua đã nhiều lần đến thăm, sửa sang thêm cho chùa. Tháng 9 âm lịch năm 1313, thiền sư Pháp Loa tới chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La, phủ Lạng Giang (nay thuộc Bắc Giang), sắp đặt chức vụ và lập sổ bộ cho tăng ni trong nước. Từ đây, chư tăng đều có sổ bộ và được đặt dưới sự quản lý của Pháp Loa. Với hoạt động này, ông xúc tiến việc ổn chức giáo hội thống nhất và xác lập chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm của Thiền phái Trúc Lâm. Ông cũng khai mạc Đại giới đàn, kết nạp khoảng 1000 đệ tử xuất gia. Đây là cột mốc đầu tiên của việc thực hiện quy định 3 năm mở 1 đại giới đàn độ tăng; các đại giới đàn về sau mỗi lần độ gần 1000 người. Giai đoạn 1314–1330 Năm 1314, Trần Anh Tông nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh, tức vua Trần Minh Tông. Minh Tông giúp Pháp Loa dựng 3 pho tượng Phật cao 17 thước trong chùa Siêu Loại, lại cho lập thêm điện Phật, gác kinh, nhà Tăng, tổng cộng có 33 cơ sở. Pháp Loa đứng ra đặt tên cho các cơ sở mới này. Vua Minh Tông đích thân viết tấm biển “Nhị hương điện” trao cho chùa; ngoài ra, thượng hoàng Trần Anh Tông cũng cúng dường 500 hộp Đại Tạng kinh làm của thường trụ chùa. Năm 1316, thượng hoàng Anh Tông thỉnh Pháp Loa vào nội điện trao giới Bồ-tát tại gia cho vua Minh Tông. Tháng 2 âm lịch năm 1317, thiền sư Pháp Loa lâm bệnh nặng. Ông viết bài tâm kệ rồi đem cùng pháp y của Điều Ngự phó thác cho Huyền Quang. Ông còn giao phó cho Cảnh Ngung tích trượng, giao phó cho Cảnh Huy phất tử, giao phó cho Huệ Quang gậy tre (trúc bề), giao phó cho Huệ Nhiên kinh tạng và dụng cụ làm đạo, rồi lại giao linh vàng cho Hải Ấn và chày vàng cho Huệ Chúc. Chẳng bao lâu sau, Pháp Loa khỏi bệnh, Huyền Quang xin trả lại tâm kệ và pháp y. Tháng 12 âm lịch năm 1317, Pháp Loa kiến lập viện Quỳnh Lâm (nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều (cháu nội Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) đóng góp cho viện 4.000 quan tiền. Một cư sĩ khác, Nguyễn Trường người ở Vân Động cũng ghé thăm, bái yết Pháp Loa và đóng góp cho ông 75 mẫu ruộng, dùng làm của thường trụ viện Quỳnh Lâm. Cùng năm này, Pháp Loa khánh thành chùa Bảo Sơn Vương ở Cổ Thành; triều đình sai họa sĩ là Hứa Khắc Thành vẽ chân dung đứng của thiền sư. Tháng 8 âm lịch năm 1318, thượng hoàng Anh Tông xuống chiếu, thỉnh Pháp Loa về am Thường Lạc ở Thiên Trường (Nam Định) – đời Trần, đây là thượng hoàng ở sau khi nhường ngôi. Tại đây, ông giảng sách Truyền Đăng Lục; đến tháng 12 âm lịch năm 1318, ông lại giảng sách Tuyết Đậu Ngữ Lục. Sau khi nghe giảng, thượng hoàng đích thân viết 4 chữ Phổ Tuệ Tôn Giả (普慧尊者) trao cho ông. Cũng từ thời điểm này, Anh Tông và Minh Tông nhiều lần viết thư hỏi thăm, trình bày sở đắc cho Pháp Loa, trong đó hai vua luôn nhận mình là đệ tử. Sách Thánh đăng ngữ lục (cuốn sách khuyết danh ra đời cuối thế kỷ 14, kể việc tu học của 5 vua đầu đời Trần) có chép lại một bức thư như thế của Anh Tông: "Đệ tử chợt nghe tôn thể không khỏe, kính sai Trung sứ đến hỏi thăm tin tức. Nhân đó được thư Thầy đáp lại, hỏi đến chỗ thấy thế nào? Lòng thẹn sợ, chẳng biết nói lên làm sao? Tạm mượn ngòi bút để tỏ bày, kính trình lên cho Thầy, hầu mở rộng tâm nghe đạo, xem có thật đúng chăng? Lấy đó... hằng làm của báu cho thân. Tụng: Mỗi mỗi hư dối, Không pháp thật được, Mắt bệnh sanh hoa, Vọng chia Nam Bắc. Cũng không làm dữ, Cũng chẳng tu lành, Mệt thì liền ngủ, Đói lại ăn cơm. Mặc kẻ rối rít, Mặc người lăng xăng, Xưa nay như cũ, Làm chủ hoàn cầu" Các sách cổ thừa nhận những kiến giải của thượng hoàng đều được Pháp Loa chấp thuận. Pháp Loa còn được nhiều thành viên hoàng gia, như thái hậu, hoàng hậu, vương hầu, cung phi, công chúa, và đại thần triều đình nhiệt tình ủng hộ. Nhiều người trong số họ đã xuất gia hoặc thọ giới Bồ-tát dưới sự hướng dẫn của Pháp Loa. Ngoài ra, họ còn đóng góp nhiều tiền của, vàng bạc để hỗ trợ Pháp Loa xây, mở mang chùa tháp, tự viện, dựng tượng Phật, tượng Thánh tăng, in kinh sách,... Sự cúng dường nồng nhiệt của họ khiến Pháp Loa và Thiền phái Trúc Lâm luôn có đủ điều kiện kinh tế để hành đạo. Thời kỳ làm đạo của Pháp Loa, Phật giáo Mật tông bắt đầu ảnh hưởng vào Đại Việt. So với Phật giáo đời Lý, Phật giáo đời Trần hầu như không mang dấu vết Mật tông. Điều này thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của vua-thiền sư Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đến thời Pháp Loa, nghi thức Quán đảnh (Abhiseka) được thực hiện khá phổ biến ở Đại Việt. Ngoài ra, năm 1318, vua Minh Tông hạ chiếu, thỉnh Pháp Loa nhờ vị tu sĩ người Nam Á Ban-để-ba-ô-sá-thất-lợi (Panditausasri) dịch kinh Bạch Tán Cái Thần Chú (Mahasitatapatradharani), một tài liệu của Mật tông. Bản thân Pháp Loa cũng soạn sách Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh khoa chú, chú giải kinh Kim cương đạo trường đà-la-ni (Vajramanda dharani) cũng của Mật tông. Ngay cả trong sách Thiền đạo yếu học nói về đạo Thiền của mình, Pháp Loa cũng nhắc đến Phật Đại Nhật Như Lai (Vairocana), một vị Phật quan trọng trong Mật giáo. Năm 1318, Pháp Loa nhận chiếu vua Minh Tông, đón tiếp vị trưởng lão nước Nguyên là Vô Phương (Wu Fang) từ Hồ Nam tới. Năm 1319, Đại Việt gặp lũ lụt, đói kém. Hai vua Trần trích 100 lượng vàng và 500 lượng bạc từ kho riêng, giao cho Pháp Loa trợ cấp dân chúng. Cùng năm, Pháp Loa được Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn – em trai Anh Tông và là tể tướng đầu triều – mời về giảng Đại Tuệ Ngữ Lục ở chùa Thiên Linh, phủ An Hoa. Nhân khi ông trú ở chùa Báo Thiên, công chúa Hoa Dương (con gái thứ sáu của Trần Thái Tông) xin Pháp Loa thuyết pháp, rồi truyền giới Bồ-tát tại gia cho công chúa cùng nhiều người khác. Tháng 12 âm lịch năm 1319, Pháp Loa kêu gọi Tăng chúng và cư sĩ chích máu in Đại tạng kinh hơn 5000 quyển, lưu hành tại viện Quỳnh Lâm. Thượng hoàng Trần Anh Tông cũng tự chích máu mình viết Đại tạng kinh cỡ nhỏ, tổng cộng 20 hộp. Theo tác giả Nguyễn Hiền Đức trong sách Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài, sư huynh Pháp Loa là Bảo Sát, người chủ trì việc khắc bản in kinh, đã không cho in toàn bộ 6.010 quyển của Đại Tạng kinh nước Nguyên; thay vì đó, Bảo Sát lược đi một số kinh, rồi bổ sung thêm một số kinh điển của thiền sư, tăng sĩ thời Lý-Trần như Vạn Hạnh, Thường Chiếu, Trần Thái Tông, Nhân Tông Điều Ngự,... Sau cuộc xâm lược nước Việt của nhà Minh năm 1406-1407, người Minh đã thiêu hủy, tịch thu hết sách vở của dân tộc Việt, vì vậy bộ kinh này ngày nay không còn. Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm 1320, thượng hoàng Anh Tông qua đời ở phủ Thiên Trường, được đưa về táng ở Thái Lăng trên núi Yên Sinh, nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh. Pháp Loa đã thuyết pháp cho hoàng gia khi nhập quan tài và khi hạ huyệt chôn thượng hoàng. Cùng năm đó, ông được Tuệ Nhân Đại vương (không rõ tên) mời về chùa Vũ Đinh để thọ tâm giới Bồ tát tại gia. Năm sau (1321), Pháp Loa trao giới này cho Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, người đã bày tỏ lòng mộ đạo qua việc đúc một tượng Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn. Ông còn nhận chiếu của Minh Tông, đặt pháp hiệu cho Hoàng thái phi Chiêu Từ và viết lời bạt sau bộ Đại Tạng Kinh mà trước đây Anh Tông và các hậu, phi đã chích máu viết nên. Năm 1321, Pháp Loa tới chùa Sùng Nghiêm (Chí Linh), truyền giới Bồ-tát tại gia cho Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn. Sau đó, ông được thầy Thu Tử – trụ trì chùa Diên Quang ở Hiển Linh thỉnh về giảng phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm – một bộ kinh quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa. Từ đây bắt đầu công cuộc chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm của Pháp Loa. Năm 1322, thể theo lời mời của Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử và Thầy chủ sự Huyền Quang, Pháp Loa ghé chùa Báo Ân–Siêu Loại giảng hội thứ hai của kinh Hoa Nghiêm. Đến khi viên tịch năm 1330, ông đã giảng chín hội Hoa Nghiêm ở nhiều chùa khác nhau, mỗi lần giảng có hơn hàng ngàn người nghe. Ngày 13 tháng 6 âm lịch năm 1322, vua Trần Minh Tông thỉnh thiền sư Pháp Loa biên chép sách Tham thiền chỉ yếu (có thể cũng có tên Thiền đạo yếu học). Tác phẩm này ghi lại bài giảng của Nhân Tông Điều ngự năm 1306 ở viện Kỳ Lân, trích dẫn một số lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ và chịu ảnh hưởng lớn từ dòng thiền Lâm Tế. Công việc hoàn thành, ông được nhà vua tặng thêm hiệu là Minh Giác (明覺). Cùng năm đó, Pháp Loa khánh thành các am Hồ Thiên, Chân Lạc, và phát động xây 1.000 pho tượng Phật. Ông giao cho sư chùa Phổ Quang là Trừng Chiếu giám sát việc thi công. Công việc nhận được sự ủng hộ nồng hậu từ nhiều thành viên hoàng gia và đại thần – tiêu biểu như Hoàng thái hậu Bảo Từ, Quốc mẫu Bảo Huệ, Công chúa Bảo Vân, Kiểm hiệu Tư đồ Trần Quang Triều, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, Hữu bật Đoàn Nhữ Hài,... Đến năm 1324, việc đúc 1000 pho tượng Phật hoàn tất; Pháp Loa vào chùa Phổ Quang ở Nghĩa Trụ dự lễ điểm nhãn các tượng này. Năm 1322, nhận lời mời của Tư đồ Quang Triều, Pháp Loa ghé thăm dinh An Long, thuyết giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, rồi kiểm tra và sớ giải sách Tứ phần luật. Sau khi Pháp Loa kiểm định và sớ giải xong, Trần Quang Triều in hơn 5.000 quyển cúng dường cho các chùa. Pháp Loa thỉnh cầu các sư huynh là Quốc sư Tông Cảnh (chùa Tiên Du) và Quốc sư Bảo Phác (núi Vũ Ninh) ghé chùa Siêu Loại, giảng cho các sư về Tứ phần luật. Sau đó, cho đến khi mất năm 1330, Pháp Loa tiếp tục truyền giới Bồ-tát, giới Xuất gia và phép Quán đỉnh cho nhiều quý tộc, trong đó có Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều, công chúa Tuyên Chân (con gái Quốc phụ Thượng tể Quốc Chẩn), công chúa Lệ Bảo (con gái Chiêu Huân Vương), Hoàng thái phi Chiêu Từ và các cung nhân của Trần Minh Tông. Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1325, Pháp Loa được Quốc mẫu Bảo Huệ thỉnh đến cung Dưỡng Phúc, thuyết kinh Kim Cương Niệm Tụng. Không lâu sau, ông ghé chùa Tư Phúc ở kinh sư giảng Tuyết Đậu ngữ lục. Ngày 1 tháng 9 âm lịch năm này, ông lại vào chùa Tư Phúc giảng kinh Viên Giác. Các năm 1319, 1325, 1326, đất nước gặp hạn hán, triều đình mời Pháp Loa tổ chức cầu mưa. Ông nhận lời, nhờ các sư đi cầu mưa, lần nào sử cũng chép là "ứng nghiệm". Tháng 10 âm lịch năm 1327, Pháp Loa kiến lập các am An Mã, Thị Khê và Hạc Lai. Tháng 9 âm lịch năm 1328, vua Trần Minh Tông ban chiếu mời Pháp Loa làm sách Nhân vương hộ quốc nghi quỹ để nhà vua vừa trị quốc vừa tu dưỡng. Năm sau vào tháng 9 âm lịch, ông thành lập các khu chùa Côn Sơn và Thanh Mai Sơn. Trong sự nghiệp hành đạo của mình, Pháp Loa đã xây, mở rộng 2 ngôi chùa lớn (Báo Ân và Quỳnh Lâm) và 5 bảo tháp, mở hơn 200 Tăng xá, hoá độ 15.000 Tăng Ni, in 1 bộ Đại Tạng Kinh, tạc 1.300 pho tượng Phật lớn nhỏ, 2 bộ tượng sơn mài và hàng trăm tượng bằng đất. Các đệ tử của ông cũng xây chùa tháp ở nhiều nơi; ví dụ, tu sĩ Trí Nhu xây tháp Linh Tế trên núi Dục Thúy (còn gọi là núi Non Nước – nay thuộc Ninh Bình) và tháp Hiền Diệu trên núi Tiên Long, nay thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Pháp Loa có hơn 3000 đệ tử xuất gia, nổi bật là Huyền Quang, Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Kim Sơn, Tuệ Chúc, Tuệ Nhiên, Hải Ấn, Tuệ Quán, Hoàng Tuế, Huyền Giác, Cảnh Trưng, Vô Sơn Ông (nguyên là Tư đồ Văn Huệ vương),... Trong số cư sĩ đắc pháp có nhiều quý tộc mà tiêu biểu là hai vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông. Qua đời Đầu năm 1330, Pháp Loa được một số quý tộc mời thăm An Lạc tàng viện, giảng lại hội thứ nhất và thứ hai trong kinh Hoa Nghiêm. Không lâu sau, ông lên Thăng Long chúc mừng thượng hoàng Trần Minh Tông dẹp được quân Ngưu Hống. Ngày 3 tháng 2 âm lịch, Pháp Loa trở về viện An Lạc, 2 ngày sau ông bị bệnh. Trong vòng 7-8 ngày tới bệnh tình trầm trọng hơn. Khi Huyền Quang đến thăm Pháp Loa đã có một cuộc hội thoại về Thiền được sử sách lưu lại: "Đến ngày mười một vào lúc ban đêm Huyền Quang vào thăm bệnh, trong lúc ngủ, Sư [Pháp Loa] kêu “hồng hồng” một tiếng, Huyền Quang hỏi: “Ngủ với thức đã là một chưa?” Sư đáp: “Ngủ với thức là một, là khi y không bệnh”. Huyền Quang hỏi: “Bệnh với không bệnh đã là một chưa?” Sư đáp: “Bệnh cũng chẳng can gì đến y, chẳng bệnh cũng chẳng can gì đến y”. Huyền Quang hỏi: “Thế thì tại sao có tiếng nói thốt ra?” Sư đáp: “ Tiếng gió thổi qua cây mà quan tâm làm gì”. Huyền Quang nói: “Tiếng gió thổi qua cây thì người ta không lầm, nhưng khi ngủ nói mớ thì có thể làm người ta lầm”. Sư nói: “Kẻ si mê cũng có thể bị tiếng gió thổi qua cây làm mê lầm lắm”. Huyền Quang nói: “ Chỉ có một bệnh đó mà đến chết cũng chưa khỏi”. Sư bèn đạp Huyền Quang, Huyền Quang bỏ ra." Sau cuộc đối thoại này, thiền sư Pháp Loa có phần bình phục. Ngày 13 tháng 2 âm lịch, ông trở về phương trượng viện Quỳnh Lâm, 6 ngày sau bệnh lại trở nặng. Ông bèn phó chúc áo cà sa và tâm kệ của Điều Ngự cho Huyền Quang. Các đệ tử khác như Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Vô Tế,... và nhiều người khác cũng vào phương trượng xin kệ và hỏi han, Pháp Loa cho kệ và "trả lời những câu hỏi của họ không biết mỏi mệt" (dẫn theo sách Tam Tổ Thực Lục). Ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1330, thượng hoàng Minh Tông đến thăm bệnh, nhưng không thấy thiền sư có triệu chứng sắp mất. Sau đó, thượng hoàng hai lần cho thái y đến chữa trị nhưng cũng đều rút ra kết luận tương tự. Đến đêm ngày 3 tháng 3 âm lịch (22 tháng 3 dương lịch), bệnh tình nguy kịch, Pháp Loa có cuộc đối thoại với Huyền Quang. Sách Tam Tổ Thực Lục kể lại: Các đệ tử vào phương trượng, hỏi vì sao các tổ đều làm kệ lâm chung mà thầy không có, Pháp Loa viết: Viết xong, ông ném bút, an nhiên viên tịch vào đúng giờ Tý, thọ 47 tuổi. Các đệ tử khâm liệm thiền sư vào quan tài, đến giờ Sửu rước lên chôn cất ở chùa Thanh Mai (núi Thanh Mai). Thượng hoàng Minh Tông sai trung sứ đến núi Thanh Mai để nghe thuật lại bài kệ thị tịch cùng những cuộc đối đáp của Pháp Loa lúc sắp mắt. Đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, thượng hoàng truy tặng Pháp Loa danh hiệu Tịnh Trí Tôn giả (淨智尊者), cúng dường 10 lượng vàng cho việc xây tháp thờ Pháp Loa. Tháp này được đặt tên là Viên Thông. Thượng hoàng còn viết bài thơ viếng thiền sư, tựa là Đề chùa Thanh Mai viếng Pháp Loa tôn giả (Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự). Sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn đã chép lại rằng: Tác phẩm Các tác phẩm của Pháp Loa được ghi nhận trong sách Tam Tổ Thực Lục: Đoạn sách lục; Tham thiền chỉ yếu (còn dịch là Thiền đạo yếu học) Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh khoa chú; Tán Pháp hoa kinh khoa sớ; Bát-nhã tâm kinh khoa; Nhân vương hộ quốc nghi quỹ, và một vài bài kệ trước lúc tịch. Nhận định Sinh thời, năm 1322 Pháp Loa có nhận lời khen ngợi của vua Trần Minh Tông: Tác phẩm của Pháp Loa ngày nay chỉ có một phần sách Thiền Đạo Yếu Học, được in trong sách Tam Tổ Thực Lục, ngay sau phần tiểu sử Pháp Loa. Sách này có ghi lại lời ghi chú của một người khắc bản sách ở ngay sau phần Thiền Đạo Yếu Học:
Tì-ni-đa-lưu-chi (, ; ? – 594), cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là một Thiền sư người Ấn Độ, từng sang Trung Quốc tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam. Cơ duyên Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quỳ xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa. Giáo hóa tại Việt Nam Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (khoảng năm 580), cư trú tại chùa Pháp Vân (tức chùa Dâu, Bắc Ninh ngày nay). Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ kinh Tượng đầu tinh xá tại Trung Quốc. Trước khi tịch, Sư gọi đệ tử là Pháp Hiền đến và phó chúc: "Tâm ấn của chư Phật không có lừa dối, tròn như thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, vốn không có chỗ sinh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa và cũng chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi... Tổ Tăng Xán khi Ấn khả chứng minh tâm này cho ta bảo ta mau về phương Nam giáo hóa. Đã trải qua nhiều nơi nay đến đây gặp ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến." Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, thâu Xá-lợi và xây Tháp thờ cúng, nhằm niên hiệu Khai Hoàng đời nhà Tùy, năm 594. Người ta cho rằng Sư là tổ Thiền tông Việt Nam. Nhưng cũng có khuynh hướng cho rằng Khang Tăng Hội mới là người khởi xướng dòng thiền tại Giao Chỉ. Dòng Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi lấy kinh Tượng đầu tinh xá làm nền tảng, chú trọng tư tưởng Bát-nhã và tu tập thiền quán. Phái thiền này để lại ảnh hưởng rất lớn lên các vua đời nhà Lý như Lý Thái Tông. Hệ thống truyền thừa của thiền phái này không được lưu lại đầy đủ, sử sách ghi chép lại không rõ, khi tỏ khi mờ, truyền được 19 thế hệ với Sư là Sơ tổ và chấm dứt với Y Sơn (mất năm 1213). Chú thích
Ngũ vị thiền (五味禪) chỉ năm phương pháp tu thiền do Thiền sư Khuê Phong Tông Mật phân chia ra trong tác phẩm Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự (禪源諸詮集都序): Phàm phu thiền (凡夫禪, ja. bompu-zen): Cách thiền của phàm phu, những người không theo đạo mà chỉ muốn thân thể, tâm trạng được khoẻ mạnh. Ngoại đạo thiền (外道禪; ja. gedō-zen): Chỉ những phương pháp thiền nằm ngoài Phật giáo. Nhị thừa thiền (二乘禪) hay Tiểu thừa thiền (小乘禪; ja. shōjō-zen): Thiền theo những phương pháp được nêu ra trong kinh sách Phật giáo Nam truyền. Cách thiền này dẫn đến Diệt tận định, và nếu hành giả ở trong trạng thái này khi chết thì không tái sinh nữa, thoát khỏi Luân hồi (sa. saṃsāra). Đại thừa thiền (大乘禪; ja. daijō-zen): Mục đích chính ở đây là Kiến tính (見性; ja. kenshō), Giác ngộ. Kinh nghiệm giác ngộ cho thấy rằng, ta chính là vạn vật mà vạn vật không khác ta và từ kinh nghiệm này, những hành động hằng ngày sẽ là những hành động cứu độ tất cả chúng sinh. Tối thượng thừa thiền (最上乘禪; ja. saijōjō-zen): Trong dạng thiền này, đường đi và mục đích trở thành một. Thiền không phải là một phương pháp để đạt giác ngộ nữa mà trở thành một sự biểu hiện trực tiếp của Phật tính (ja. busshō). Kinh sách viết rằng, đây là cách thiền của các chư Phật và là cách thiền tuyệt đỉnh (vô thượng, tối thượng, không còn cách nào hơn được) trong Phật pháp. Quan niệm thường gặp như Đại thừa thiền là Thiền của tông Lâm Tế và Tối thượng thừa thiền là Thiền của tông Tào Động không đúng lắm bởi vì hai dạng Thiền trên bổ sung lẫn nhau mặc dù người ta chú trọng hơn đến kinh nghiệm Kiến tính trực tiếp và phương pháp dẫn đến kinh nghiệm này trong tông Lâm Tế; còn trong tông Tào Động thì phương pháp Chỉ quản đả toạ (只管打坐, ja. shikantaza) được xếp ở hàng đầu.
Lưỡng chiết (hay khúc xạ đúp, khúc xạ kép) là hiện tượng xảy ra khi tia sáng khi đi qua một số loại tinh thể (như canxít) bị tách ra thành hai tia sáng: tia thường và tia khác thường (thượng đẳng), tùy thuộc vào trạng thái phân cực của tia sáng. Các tinh thể gây ra hiện tượng lưỡng chiết được gọi là tinh thể lưỡng chiết. Các tinh thể này đều có tính chất không đẳng hướng. Sóng điện từ khi đi vào các môi trường này có thể có độ điện dịch không song song với véctơ cường độ điện trường. Nếu tinh thể chỉ có một trục quang học, hiện tượng lưỡng chiết có thể được mô tả bằng cách gán 2 chiết suất cho 2 phương phân cực, no cho phương vuông góc (ứng với tia thường) và ne cho phương song song (ứng với tia bất thường) với trục quang học. Khi đó độ lưỡng chiết của vật liệu có thể được định nghĩa là: Δn = ne - no. Một số vật liệu lưỡng chiết Một số khoáng chất thể hiện tính lưỡng chiết (đơn trục) như ở bảng bên. Nhiều chất dẻo có tính lưỡng chiết, vì phân tử của chúng bị đóng băng trong tình trạng chịu sức căng nhất định, khi chất dẻo được đúc hoặc dập.
Chân Lạp, Chenla hay Zhenla (; , phát âm: Chơn La) là nhà nước của người Khmer tồn tại trong giai đoạn từ khoảng năm 550 tới năm 802 trên phần phía nam của bán đảo Đông Dương gồm cả Campuchia và một số tỉnh phía Nam của Việt Nam hiện tại. Triều đại các vị vua của Chân Lạp theo truyền thuyết có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Từ "campu" cũng bắt nguồn cho tên gọi của Campuchia sau này. Các vương quốc láng giềng xung quanh vào thời kỳ ban đầu là Chăm Pa ở phía đông, Phù Nam ở phía nam và Dvaravati (thuộc Thái Lan ngày nay) ở về phía tây bắc. Ban đầu là một nhà nước chư hầu của Phù Nam (khoảng cho tới năm 550), trong vòng 60 năm sau đó nhà nước này đã giành được độc lập và dần dần lấn lướt Phù Nam. Đến thế kỷ 6 thì họ đã xâm chiếm được miền bắc của Phù Nam. Cuối cùng, trong thế kỷ 7 (khoảng giai đoạn 612-628), nhà nước này đã xâm chiếm toàn bộ Phù Nam, chiếm toàn bộ dân cư của nhà nước đó nhưng lại hấp thu nền văn hóa của họ. Năm 613, Ishanapura trở thành kinh đô đầu tiên của đế quốc mới. Lịch sử Người Khmer đã tiến tới sông Mê Kông từ phía bắc sông Chao Phraya thông qua Thung lũng sông Mun. Ban đầu người Khmer định cư trong một khu vực tương ứng với phần đất là miền trung và nam Lào cùng với vùng đông bắc Thái Lan ngày nay. Các ghi chép sử học Trung Hoa cổ đại đề cập tới hai vị vua, Shrutavarman (trị vì 435-495) và Shreshthavarman (trị vì 495-530), những người trị vì tại kinh đô Shreshthapura nằm ở miền nam Lào ngày nay, có lẽ trong khu vực cận kề Wat Phu gần Champasak. Đến thời vua Bhavavarman I (550-598) với kinh đô đặt tại Bhavapura (ngày nay có lẽ là khu vực Sambor Prei Kuk, tỉnh Kampong Thom, Campuchia), Chân Lạp bắt đầu một số chiến dịch chống lại Phù Nam. Sau khi Bhavavarman I chết năm 598, người anh em của ông là Citrasena (tên gọi khi trị vì là Mahendravarman, thực tế cầm quyền từ năm 590) đã tiếp tục công việc xâm chiếm Phù Nam. Ishanavarman I, con trai của Citrasena, đã hoàn thành công cuộc xâm chiếm vương quốc Phù Nam trong giai đoạn 612-628. Ông đổi tên kinh đô từ Bhavapura thành Ishanapura. Sau khi vua Bhavavarman II chết năm 656, phần lớn Chân Lạp bị chia tách thành các tiểu quốc nhỏ độc lập. Vua Jayavarman I đã có những cố gắng để thống nhất đất nước và ông đã giành lại phần lớn phần lãnh thổ được vua Ishanavarman I cai trị trước đó. Sau khi vua Jayavarman I chết năm 700, rối loạn trong vương quốc lại xảy ra và vương quốc lại bị chia nhỏ giữa nhiều thế lực cát cứ. Các sử liệu Trung Hoa thì cho rằng trong thế kỷ 8, Chân Lạp bị chia thành hai tiểu quốc là Lục Chân Lạp (với trung tâm của Lục Chân Lạp khi đó là tỉnh Champasak ngày nay của Lào) và Thủy Chân Lạp (tương ứng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền nam Campuchia ngày nay). Từ hai quốc gia này có lẽ lại tách ra thành một vài tiểu quốc khác, tiếp tục làm suy yếu Chân Lạp. Các tiểu quốc chủ yếu tại Thủy Chân Lạp là Shambupura, Vyadhapura, Souht Prei Veng, Bhavapura, với trung tâm tại Sambor Prei Kuk. Năm 716, Pushkaraksha, người cai trị Shambhupura (khu vực Kratie ngày nay) tuyên bố mình là vua của toàn bộ Kambuja. Cũng trong khoảng thời gian này, Shambhuvarman, con trai của Pushkaraksha, đã kiểm soát phần lớn Thủy Chân Lạp cho tới khi (cũng trong thế kỷ 8) người Mã Lai và người Java thống trị trên nhiều tiểu quốc Khmer. Cổ sử còn đề cập tới Rjendravarman I, con trai của Sambhuvarman và Mahipativarman, con trai của Rjendravarman I. Ông này có lẽ là vị vua bị người Java chặt đầu. Các vị vua Chân Lạp Ghi chú
Diện tích là đại lượng biểu thị phạm vi của hình hoặc hình hai chiều hoặc lamina phẳng, trong mặt phẳng. Diện tích bề mặt là tương tự của diện tích trên bề mặt hai chiều của một vật thể ba chiều. Diện tích có thể được hiểu là lượng vật liệu có độ dày nhất định sẽ cần thiết để tạo kiểu cho mô hình hình dạng hoặc lượng sơn cần thiết để phủ lên bề mặt bằng một lớp sơn. Nó là tương tự về mặt hai chiều đối với chiều dài của đường cong (khái niệm một chiều) hoặc thể tích của vật rắn (khái niệm ba chiều). Diện tích của hình có thể được đo bằng cách so sánh hình với các hình vuông có kích thước cố định. Trong Hệ thống đơn vị quốc tế (SI), đơn vị diện tích tiêu chuẩn là mét vuông (viết là m²), là diện tích của một hình vuông có cạnh dài một mét. Một hình có diện tích ba mét vuông sẽ có cùng diện tích với ba hình vuông như vậy. Trong toán học, hình vuông đơn vị được xác định là có diện tích bằng một và diện tích của bất kỳ hình dạng hoặc bề mặt nào khác là một số thực không thứ nguyên. Có một số công thức nổi tiếng cho các diện tích có hình dạng đơn giản như hình tam giác, hình chữ nhật và hình tròn. Sử dụng các công thức này, diện tích của bất kỳ đa giác nào đều có thể được tính toán bằng cách chia đa giác thành các hình tam giác. Đối với các hình có ranh giới cong, tích phân thường được dùng để tính diện tích. Thật vậy, vấn đề xác định diện tích các hình phẳng là một động lực chính cho sự phát triển lịch sử của tích phân. Đối với một hình dạng rắn như hình cầu, hình nón hoặc hình trụ, diện tích bề mặt ranh giới của nó được gọi là diện tích bề mặt. Các công thức cho các diện tích bề mặt của các hình dạng đơn giản đã được người Hy Lạp cổ đại tính toán, nhưng tính toán diện tích bề mặt của một hình dạng phức tạp hơn thường đòi hỏi tích phân đa biến. Diện tích đóng một vai trò quan trọng trong toán học hiện đại. Ngoài tầm quan trọng rõ ràng của nó trong hình học và tính toán, diện tích có liên quan đến định nghĩa các yếu tố quyết định trong đại số tuyến tính, và là một tính chất cơ bản của các bề mặt trong hình học vi phân. Trong phân tích, diện tích của một tập hợp con của mặt phẳng được xác định bằng cách sử dụng thước đo Lebesgue, mặc dù không phải mọi tập hợp con đều có thể đo được. Nói chung, diện tích trong toán học cấp cao hơn được coi là một trường hợp đặc biệt về thể tích cho các vùng có hai chiều. Diện tích có thể được xác định thông qua việc sử dụng các tiên đề, xác định nó là một hàm của một tập hợp các hình mặt phẳng nhất định chiếu đến tập hợp các số thực. Nó có thể được chứng minh rằng một hàm như vậy là tồn tại. Định nghĩa hình thức Một cách tiếp cận để xác định ý nghĩa của "diện tích" là thông qua các tiên đề. "Diện tích" có thể được định nghĩa là một hàm a từ tập hợp M gồm các hình phẳng đặc biệt (gọi là tập hợp có thể đo được) đến tập các số thực, thỏa mãn các tính chất sau: Với mọi S thuộc M thì a (S) ≥ 0. Nếu S và T nằm trong M thì S ∪ T và S ∩ T, và a (S ∪ T) = a (S) + a (T) - a (S ∩ T). Nếu S và T nằm trong M với S ⊆ T thì T - S thuộc M và a (T - S) = a (T) - a (S). Nếu một tập hợp S thuộc M và S đồng nhất với T thì T cũng thuộc M và a (S) = a (T. Mọi hình chữ nhật R đều nằm trong M. Nếu hình chữ nhật có chiều dài h và chiều rộng k thì a (R) = hk. Gọi Q là một tập hợp nằm giữa hai vùng bước S và T. Vùng bước được hình thành từ sự kết hợp hữu hạn của các hình chữ nhật liền kề nằm trên một cơ sở chung, tức là S ⊆ Q ⊆ T. Nếu tồn tại một số duy nhất c sao cho a (S) ≤ c ≤ a (T) đối với tất cả các vùng bước S và T như vậy, thì a (Q) = c. Có thể chứng minh rằng một hàm diện tích như vậy thực sự tồn tại. Đơn vị Mọi đơn vị độ dài đều có một đơn vị diện tích tương ứng là diện tích hình vuông có độ dài cạnh bằng đơn vị độ dài đã cho. Do đó diện tích có thể được đo bằng mét vuông (m2), vuông cm (cm2), milimét vuông (mm2), kilômét vuông (km²),feet vuông (ft 2), yard vuông (yd 2), dặm vuông (mi2), v.v. Về mặt đại số, các đơn vị này có thể được coi là bình phương của các đơn vị độ dài tương ứng. Đơn vị diện tích SI là mét vuông, được coi là một đơn vị dẫn xuất SI. Chuyển đổi Tính diện tích của một hình vuông có chiều dài và chiều rộng là 1 mét sẽ là: 1 mét × 1 mét = 1 m² và do đó, một hình chữ nhật có các cạnh khác nhau (giả sử chiều dài 3 mét và chiều rộng 2 mét) sẽ có diện tích tính bằng đơn vị hình vuông có thể được tính như sau: 3 mét × 2 mét = 6 m². Điều này tương đương với 6 triệu mm vuông. Các chuyển đổi hữu ích khác là: 1 km vuông = 1.000.000 mét vuông 1 mét vuông = 10.000 cm vuông = 1.000.000 mm vuông 1 cm vuông = 100 mm vuông. Đơn vị không phải hệ mét Trong đơn vị không thuộc hệ mét, việc chuyển đổi giữa hai đơn vị vuông là bình phương của việc chuyển đổi giữa các đơn vị chiều dài tương ứng. 1 foot = 12 inch, mối quan hệ giữa feet vuông và inch vuông là 1 foot vuông = 144 inch vuông, trong đó 144 = 122 = 12 × 12. Tương tự: 1 yard vuông = 9 feet vuông 1 dặm vuông = 3.097.600 yard vuông = 27.878.400 feet vuông Ngoài ra, các yếu tố chuyển đổi bao gồm: 1 inch vuông = 6.4516 cm vuông 1 foot vuông = mét vuông 1 yard vuông = mét vuông 1 dặm vuông = km vuông Các đơn vị khác bao gồm các đơn vị mang tính lịch sử Có một số đơn vị phổ biến khác cho diện tích. A là đơn vị diện tích ban đầu trong hệ mét, với: 1 a = 100 mét vuông Mặc dù đã không còn sử dụng, hecta vẫn thường được sử dụng để đo đất: 1 hecta = 100 a = 10.000 mét vuông = 0,01 ki lô mét vuông Mẫu Anh cũng thường được sử dụng để đo diện tích đất 1 mẫu Anh = 4,840 yard vuông = 43,560 feet vuông. Một mẫu Anh là khoảng 40% của một hecta. Trên quy mô nguyên tử, diện tích được đo bằng đơn vị barn: 1 barn = 10 −28 mét vuông. Barn được sử dụng phổ biến trong việc mô tả vùng tương tác mặt cắt ngang trong vật lý hạt nhân. Ở Ấn Độ, 20 dhurki = 1 dhur 20 dhur = 1 khatha 20 khata = 1 bigha 32 khata = 1 mẫu Anh Lịch sử Diện tích hình tròn Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Hippocrates xứ Chios là người đầu tiên chỉ ra rằng diện tích của một cái đĩa (vùng được bao quanh bởi một vòng tròn) tỷ lệ với bình phương đường kính của nó, như một phần của việc cầu phương của ông, nhưng không xác định được hằng số tỷ lệ. Eudoxus của Cnidus, cũng vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, cũng phát hiện ra rằng diện tích của một cái đĩa tròn tỷ lệ thuận với bình phương bán kính của nó. Sau đó, Quyển I của Cơ sở của Euclid đề cập đến sự bằng nhau về diện tích giữa các hình hai chiều. Nhà toán học Archimedes sử dụng các công cụ của Euclid để chứng minh rằng diện tích bên trong một vòng tròn là tương đương với của một tam giác vuông có đáy là chiều dài của chu vi của vòng tròn và có chiều cao tương đương với bán kính của vòng tròn, trong cuốn sách của ông Đo một hình tròn. (Chu vi là 2 r, và diện tích của một tam giác bằng một nửa đáy nhân với chiều cao, mang lại diện tích r 2 cho hình tròn.) Archimedes đã tính gần đúng giá trị của π (và do đó là diện tích của một hình tròn bán kính đơn vị) bằng phương pháp nhân đôi của mình, trong đó ông nội tiếp một tam giác đều trong một vòng tròn và ghi nhận diện tích của nó, sau đó nhân đôi số cạnh để tạo ra một hình lục giác đều., sau đó liên tục nhân đôi số cạnh khi diện tích của đa giác ngày càng gần với diện tích của hình tròn (và thực hiện tương tự với đa giác ngoại tiếp). Nhà khoa học người Thụy Sĩ Johann Heinrich Lambert năm 1761 đã chứng minh rằng π, tỷ số giữa diện tích hình tròn với bán kính bình phương của nó, là số vô tỉ, nghĩa là nó không bằng thương số của hai số nguyên bất kỳ. Năm 1794, nhà toán học người Pháp Adrien-Marie Legendre đã chứng minh rằng π2 là vô tỉ; điều này cũng chứng tỏ rằng π là vô tỉ. Năm 1882, nhà toán học người Đức Ferdinand von Lindemann đã chứng minh rằng π là số siêu việt (không phải là nghiệm của bất kỳ phương trình đa thức nào với hệ số hữu tỉ), chứng minh này xác nhận một phỏng đoán của cả Legendre và Euler. Diện tích tam giác Heron (hay Hero) của Alexandria đã tìm ra cái được gọi là công thức Heron cho diện tích tam giác tính theo các cạnh của nó, và một phép chứng minh có trong cuốn sách của ông, Metrica, được viết vào khoảng năm 60 CN. Có ý kiến cho rằng Archimedes đã biết công thức hơn hai thế kỷ trước đó, và vì Metrica là tập hợp các kiến thức toán học có sẵn trong thế giới cổ đại, nên có thể công thức có trước tham chiếu được đưa ra trong công trình đó. Năm 499, Aryabhata, một nhà toán học - thiên văn học vĩ đại của thời đại cổ điển của toán học Ấn Độ và thiên văn học Ấn Độ, đã biểu thị diện tích của một tam giác bằng một nửa đáy nhân với chiều cao trong Aryabhatiya (phần 2.6). Một công thức tương đương với Heron đã được người Trung Quốc tìm ra độc lập với người Hy Lạp. Nó được xuất bản vào năm 1247 trong Shushu Jiuzhang ("Cửu chương toán thuật"), tác phẩm của Qin Jiushao. Diện tích tứ giác Trong thế kỷ thứ 7, Brahmagupta đã phát triển một công thức, bây giờ được gọi là công thức Brahmagupta, cho diện tích của một tứ giác nội tiếp (một tứ giác có các đỉnh nằm trên một vòng tròn) theo các cạnh của nó. Năm 1842, các nhà toán học người Đức Carl Anton Bretschneider và Karl Georg Christian von Staudt đã độc lập với nhau, cùng tìm ra một công thức, được gọi là công thức Bretschneider, cho diện tích của bất kỳ hình tứ giác nào. Diện tích đa giác Sự phát triển của tọa độ Descartes do René Descartes xây dựng vào thế kỷ 17 cho phép phát triển công thức cho diện tích của bất kỳ đa giác nào có vị trí đỉnh đã biết của Gauss vào thế kỷ 19. Diện tích được xác định bằng phép tính tích phân Sự phát triển của phép tính tích phân vào cuối thế kỷ 17 đã cung cấp các công cụ sau đó có thể được sử dụng để tính toán các diện tích phức tạp hơn, chẳng hạn như diện tích hình elip và diện tích bề mặt của các vật thể ba chiều cong khác nhau. Công thức diện tích Đa giác Đối với một đa giác không tự cắt (đa giác đơn), tọa độ Descartes (i = 0, 1,..., n -1) của n đỉnh đã biết, diện tích được cho bởi công thức của người đóng móng: trong đó khi i = n -1, thì i +1 được biểu thị dưới dạng môđun n và do đó quy về 0. Hình chữ nhật Công thức diện tích cơ bản nhất là công thức diện tích hình chữ nhật. Cho một hình chữ nhật có chiều dài và chiều rộng , công thức của diện tích là: . Nghĩa là, diện tích của hình chữ nhật bằng chiều dài nhân với chiều rộng. Trong trường hợp đặc biệt, vì trong trường hợp hình vuông, diện tích của hình vuông có độ dài cạnh được cho bởi công thức: Công thức cho diện tích hình chữ nhật trực tiếp dựa trên các tính chất cơ bản của diện tích, và đôi khi được coi là một định nghĩa hoặc tiên đề. Mặt khác, nếu hình học được phát triển trước số học, công thức này có thể được sử dụng để định nghĩa phép nhân các số thực. Phương pháp tách hình, hình bình hành và hình tam giác Hầu hết các công thức đơn giản khác cho diện tích đều tuân theo phương pháp tách hình. Điều này bao gồm việc cắt một hình thành từng hình nhỏ, và việc tính diện tích hình đó sẽ là việc dùng phép cộng các diện tích các hình con. Ví dụ, bất kỳ hình bình hành nào cũng có thể được chia nhỏ thành hình thang và tam giác vuông, như thể hiện trong hình bên trái. Nếu tam giác được di chuyển sang phía bên kia của hình thang, thì hình thu được là một hình chữ nhật. Theo đó diện tích của hình bình hành bằng diện tích của hình chữ nhật đó:  (hình bình hành). Tuy nhiên, cùng một hình bình hành cũng có thể được cắt theo một đường chéo thành hai tam giác tương đẳng, như trong hình bên phải. Như vậy diện tích của mỗi tam giác bằng một nửa diện tích của hình bình hành:  (Tam giác). Các phép chứng minh tương tự có thể được sử dụng để tìm công thức diện tích cho hình thang cũng như các đa giác phức tạp hơn. Diện tích các hình cong Hình tròn Công thức tính diện tích hình tròn (được gọi đúng hơn là diện tích được bao bởi hình tròn hay diện tích đĩa) dựa trên một phương pháp tương tự. Cho một vòng tròn bán kính nó có thể phân vùng các vòng tròn vào các lĩnh vực, như thể hiện trong hình bên phải. Mỗi cung có dạng hình tam giác gần đúng và các cung có thể được sắp xếp lại để tạo thành một hình bình hành gần đúng. Chiều cao của hình bình hành này là , và chiều rộng bằng nửa chu vi của hình tròn, hay . Như vậy, tổng diện tích của hình tròn là :  (hình tròn). Mặc dù việc phân tách hình tròn được sử dụng trong công thức này chỉ là gần đúng, nhưng sai số ngày càng nhỏ hơn khi vòng tròn được phân chia thành ngày càng nhiều cung. Giới hạn diện tích của các hình bình hành gần đúng là , là diện tích của hình tròn. Lập luận này thực sự là một ứng dụng đơn giản của các ý tưởng của phép tính vi tích phân. Trong thời cổ đại, phương pháp cạn kiệt được sử dụng một cách tương tự để tìm diện tích hình tròn, và phương pháp này ngày nay được công nhận là tiền thân của phép tính tích phân. Sử dụng các phương pháp hiện đại, diện tích hình tròn có thể được tính bằng cách sử dụng một tích phân xác định: Hình elip Công thức cho diện tích được bao bởi một hình elip có liên quan đến công thức của một hình tròn; đối với một hình elip với các bán trục chính và bán trục phụ và , với công thức là: Diện tích bề mặt Hầu hết các công thức cơ bản cho diện tích bề mặt có thể thu được bằng cách cắt các bề mặt và làm phẳng chúng. Ví dụ, nếu bề mặt bên của một hình trụ (hoặc bất kỳ hình lăng trụ nào) được cắt theo chiều dọc, bề mặt đó có thể được làm phẳng thành hình chữ nhật. Tương tự, nếu một vết cắt được thực hiện dọc theo mặt bên của hình nón, bề mặt bên có thể được làm phẳng thành một phần của hình tròn và diện tích kết quả có thể được tính ra. Công thức cho diện tích bề mặt của một hình cầu khó tìm hơn: bởi vì một hình cầu có độ cong Gauss khác 0, nó không thể bị cán dẹt ra. Công thức về diện tích bề mặt của một hình cầu lần đầu tiên được Archimedes thu được trong tác phẩm Về hình cầu và hình trụ. Công thức là:  (hình cầu), với r là bán kính của hình cầu. Cũng giống như công thức về diện tích hình tròn, bất kỳ suy luận nào của công thức này đều sử dụng các phương pháp tương tự như tích phân. Công thức chung Diện tích của các hình 2 chiều Hình tam giác: (trong đó B là cạnh bất kỳ và h là khoảng cách từ đường thẳng mà B nằm đến đỉnh còn lại của tam giác). Có thể sử dụng công thức này nếu biết chiều cao h. Nếu biết độ dài của ba cạnh thì có thể sử dụng công thức Heron: trong đó a, b, c là các cạnh của tam giác và là một nửa chu vi của nó. Nếu cho một góc và hai cạnh bên của nó, diện tích là trong đó là góc đã cho và và là các cạnh của nó. Nếu tam giác được vẽ đồ thị trên một mặt phẳng tọa độ, một ma trận có thể được sử dụng và được đơn giản hóa thành giá trị tuyệt đối của. Công thức này còn được gọi là công thức dây giày và là một cách dễ dàng để giải diện tích của một tam giác tọa độ bằng cách thay thế 3 điểm (x 1, y 1), (x 2, y 2) và (x 3, y 3). Công thức dây giày cũng có thể được sử dụng để tìm diện tích của các đa giác khác khi các đỉnh của chúng đã biết. Một cách tiếp cận khác cho tam giác tọa độ là sử dụng phép tính để tìm diện tích. Một đa giác đơn được xây dựng trên một lưới các điểm có khoảng cách bằng nhau (tức là các điểm có tọa độ nguyên) sao cho tất cả các đỉnh của đa giác là các điểm lưới:, với i là số điểm lưới bên trong đa giác và b là số điểm biên. Kết quả này được gọi là định lý Pick. Diện tích trong giải tích Diện tích giữa đường cong có giá trị dương và trục hoành, được đo giữa hai giá trị a và b (b được định nghĩa là lớn hơn trong hai giá trị) trên trục hoành, được cho bởi tích phân từ a đến b của hàm đại diện cho đường cong: Diện tích giữa đồ thị của hai hàm số bằng tích phân của một hàm số, f (x), trừ đi tích phân của hàm số kia, g (x): Diện tích bị giới hạn bởi một hàm r = r (θ) được biểu thị bằng tọa độ cực là: Khu vực được bao quanh bởi một đường cong tham số với các điểm cuối được cho bởi tích phân đường: (xem định lý Green) hoặc thành phần z của Các công thức thông dụng
Đại thừa khởi tín Luận (zh. dàchéng qǐ xìn lùn 大乘起信論, sa. mahāyānaśraddhotpādaśāstra, en. The Awakening of Faith in Mahayana) được xem là một trong những bộ luận quan trọng nhất của truyền thống Đại thừa. Theo truyền thống cho biết, tác giả là đại sư kiêm thi hào người Ấn Độ là Mã Minh (zh. 馬鳴, sa. Aśvaghoṣa), vị tổ thứ 12 của Thiền Tông. Chú thích
Thiện Hội (? -900), tự gọi là Tổ Phong, tu tại chùa Định Thiền làng Siêu Loại . Người làng Điển Lãnh, là đời (hay thế hệ) thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông. Cơ duyên và hành trạng Thiện Hội lúc nhỏ xuất gia với sư Tiệm Nguyên tại chùa Đông Lâm cùng làng. Sư rảo khắp cõi ngoài, cầu học Thiền chỉ. Khi đến chùa Kiến Sơ gặp Thiền sư Cảm Thành bèn xin ở lại và hầu hạ Cảm Thành hơn mười năm. Một hôm Sư vào thất hỏi: "Trong kinh nói: Đức Thích Ca Như Lai, nhân địa tu hành trải qua ba tăng kỳ kiếp mới được thành Phật, nay Đại đức lại luôn luôn bảo: Tức tâm tức Phật. Tôi thật chưa hiểu, xin một phen khai thị cho." Cảm Thành hỏi: "Trong kinh đó là do ai nói?" Sư thưa: "Há chẳng phải Phật nói sao?" Thành hỏi: "Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thù bảo: Ta ở đời 49 năm, chưa từng nói một chữ cho ai. Vả lại cổ đức nói: Người tìm văn lấy chứng, thì thêm vướng mắc. Người khổ hạnh cầu Phật thì đều lầm mê. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm tức Phật là ma." Sư hỏi: "Như vậy tâm này là cái gì? Cái chẳng phải Phật là cái gì? Như vậy tâm này là Phật gì?" Thành đáp: "Xưa có người hỏi Mã Tổ: Tâm tức là Phật, cái nào là Phật?. Mã Tổ dạy: Ông nghĩ cái nào không phải là Phật chỉ ra xem?. Người ấy không trả lời. Tổ dạy Hiểu được khắp nơi có, không hiểu mãi xa sai. Chỉ một câu thoại đầu nầy, ngươi lại hiểu chưa?" Nghe lời đó xong, Sư thưa: "Con đã hiểu rồi." Thành hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?" Sư thưa: "Khắp cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật." Nói xong Sư liền sụp xuống lạy. Cảm Thành bảo: "Cần phải làm thế a?" Nhân đó đặt tên cho Sư là Thiện Hội. Thiền sư Thiện Hội mất tại chùa Định Thiền, năm Canh thân, Đường Quang Hoá thứ 3 (900). Nguyên bản Hán văn 第二世一人□□□□□□□□ 善會禪師 超類鄉定禪寺善會禪師典冷人也蚤依本 鄉東林寺僧漸源出家自號祖風徧逰方外 求學禪要後遇建初感誠便委事之一十餘 年路無倦色嘗一日入室問曰教中道釋迦 如來因地修行歷三大阿僧祗劫始得成佛 今大德每謂即心即仸某甲未明願一開示 誠曰教中是什麽人說師云豈不是仸說耶 誠曰若是佛說為什麽文殊經云吾住世四 十九年未嘗說一字與人且古德道尋文取 證者益滯苦行求佛者俱迷離心求佛者外道 執心是佛(1)者為魔師云如是則此心是那箇 不是佛者為麽(2)師云如是則此心是那箇佛 誠曰昔有人於馬祖問即心即仸那箇是佛 祖云汝疑那箇不是佛指出看其人無對祖 云達即徧境是不悟永乖踈秪遮話頭汝還會 麽師於言下應云某甲會也誠曰汝作麽生 會師云徧一切處無非仸心便禮拜誠曰直 須與麽因以善會名焉後於本寺示寂即唐 光化三年庚申也□□□□□□□□□□ 執心是佛: Bản Nguyễn, 2767; LMT 執心求佛 佛者為麽: Bản Nguyễn, 2767; LMT 佛者為魔 Chú thích
Sâu máy tính là một chương trình máy tính chứa phần mềm độc hại độc lập tự sao chép để lây lan sang các máy tính khác. Nó thường sử dụng mạng máy tính để tự lây lan, dựa vào các lỗi bảo mật trên máy tính mục tiêu để truy cập. Nó sẽ sử dụng máy này làm máy chủ để quét và lây nhiễm cho các máy tính khác. Khi các máy tính bị sâu mới này kiểm soát, sâu sẽ tiếp tục quét và lây nhiễm các máy tính khác sử dụng các máy tính này làm máy chủ và hành vi lây lan này sẽ tiếp tục. Sâu máy tính sử dụng phương pháp đệ quy để tự sao chép mà không cần chương trình chủ và tự phân phối dựa trên quy luật tăng trưởng theo cấp số nhân, sau đó điều khiển và lây nhiễm ngày càng nhiều máy tính trong thời gian ngắn. Sâu hầu như luôn gây ra ít nhất một số tác hại cho mạng, ngay cả khi chỉ bằng cách tiêu tốn băng thông, trong khi vi rút hầu như luôn làm hỏng hoặc sửa đổi các tệp trên máy tính được nhắm mục tiêu. Nhiều loại sâu được thiết kế chỉ để lây lan và không cố gắng thay đổi hệ thống mà chúng đi qua. Tuy nhiên, như sâu Morris và Mydoom đã chỉ ra, ngay cả những con sâu "không cần tải" này cũng có thể gây ra gián đoạn lớn bằng cách tăng lưu lượng mạng và các tác động ngoài ý muốn khác. Lịch sử Trên thực tế thuật ngữ "sâu máy tính" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1975 trong cuốn tiểu thuyết Shockwave Rider của John Brunner. Trong cuốn tiểu thuyết này, Nichlas Haflinger thiết kế và bắt đầu một con sâu thu thập dữ liệu nhằm trả thù những người đàn ông quyền lực điều hành một trang web thông tin điện tử quốc gia gây ra sự giống nhau hàng loạt. "Bạn có con sâu lớn nhất chưa từng có trong mạng và nó sẽ tự động phá hoại mọi nỗ lực theo dõi nó. Chưa bao giờ có con sâu nào có cái đầu cứng rắn hay cái đuôi dài đến thế! " Vào ngày 02 tháng 11 năm 1988, Robert Tappan Morris một sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học máy tính tại Đại học Cornell, đã tung ra "sâu" đầu tiên và được gọi là Sâu Morris. Nó đã thâm nhập và lây lan trên một lượng lớn các máy tính trên Internet, ước tính vào thời điểm đó chiếm một phần mười tất cả máy tính kết nối trên internet. Khi Morris bị kiện ra tòa án, tòa phúc thẩm chính phủ Hoa Kỳ ước tính chi phí của việc loại bỏ "sâu" này vào khoảng $ 200-53,000 cho mỗi lần cài đặt và làm sạch trên mỗi máy tính. Sự việc này đã thúc đẩy sự hình thành và ra đời của Trung tâm điều phối CERT để phục vụ trong các trường hợp khẩn cấp và danh sách gửi thư Phage. Bản thân Morris trở thành người đầu tiên bị kết án theo đạo luật CFAA (Computer Fraud and Abuse Act) năm 1986. Đặc điểm Độc lập Virus máy tính thường yêu cầu một chương trình chủ. Virus viết mã của chính nó vào chương trình chủ. Khi chương trình chạy, chương trình vi rút đã viết được thực thi trước, gây nhiễm trùng và hư hỏng. Sâu không cần chương trình chủ vì nó là một chương trình độc lập hoặc đoạn mã độc lập. Do đó, nó không bị hạn chế bởi chương trình chủ mà có thể chạy độc lập và chủ động thực hiện các cuộc tấn công. Các cuộc tấn công khai thác Bởi vì sâu không bị giới hạn bởi chương trình chủ, sâu có thể lợi dụng các lỗ hổng hệ điều hành khác nhau để thực hiện các cuộc tấn công chủ động. Ví dụ, virus Nimda khai thác các lỗ hổng để tấn công. Tính phức tạp Một số sâu được kết hợp với các tập lệnh trang web và được ẩn trong các trang HTML bằng VBScript, ActiveX và các công nghệ khác. Khi người dùng truy cập một trang web có chứa vi rút, vi rút sẽ tự động cư trú trong bộ nhớ và chờ được kích hoạt. Cũng có một số sâu được kết hợp với các chương trình cửa hậu hoặc Trojan, chẳng hạn như "Code Red". Tính lây nhiễm Sâu có khả năng lây nhiễm cao hơn các loại virus truyền thống. Chúng không chỉ lây nhiễm vào các máy tính cục bộ mà còn lây nhiễm sang tất cả các máy chủ và máy khách trên mạng dựa trên máy tính cục bộ. Sâu có thể dễ dàng lây lan qua các thư mục chia sẻ, e-mail, các trang web độc hại và các máy chủ có nhiều lỗ hổng trong mạng.
Đá vôi là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật calcit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của calci cacbonat CaCO3). Đá vôi ít khi ở dạng tinh khiết, mà thường bị lẫn các tạp chất như đá phiến silic, silica và đá mácma cũng như đất sét, bùn, cát, bitum... nên nó có màu sắc từ trắng đến màu tro, xanh nhạt, vàng và cả màu hồng sẫm, màu đen. Đá vôi có độ cứng 3, khối lượng riêng 2.600 ÷ 2.800 kg/m³, cường độ chịu nén 1700 ÷ 2600 kg/cm², độ hút nước 0,2 ÷ 0,5%. Các loại đá vôi Đá vôi nhiều silic có cường độ cao hơn, nhưng giòn và cứng. Đá vôi đôlômit có tính năng cơ học tốt hơn đá vôi thường. Đá vôi chứa nhiều sét (lớn hơn 3%) thì độ bền nước kém. Travertin là một loại đá vôi đa dạng, được hình thành dọc theo các dòng suối; đặc biệt là nơi có thác nước và quanh suối nước nóng hoặc lạnh. Tufa, đá vôi xốp được tìm thấy gần các thác nước hay là được hình thành khi các khoáng chất cacbonat kết tủa ra khỏi vùng nước nóng. Coquina là một đá vôi kết hợp kém bao gồm các mảnh san hô hoặc vỏ sò. Đặc điểm Khối lượng riêng là 2,6-2,8 g/cm³ Cường độ chịu nén 45-80 MPA Dễ dàng gia công thành các loại vật liệu dạng hạt Không cứng bằng đá cuội, bị sủi bọt khi nhỏ giấm chua vào và bay khí Xâm thực núi đá vôi Hiện tượng này có thể thấy qua quá trình tạo thành các thạch nhũ trong các hang động. Phương trình hóa học: (1) CaCO3 + CO2 + H2O ↔ Ca(HCO3)2 (2) Chiều phản ứng thuận (1)->(2) diễn tả quá trình xâm thực núi đá vôi. Chiều phản ứng nghịch (2)->(1) diễn tả quá trình hình thành thạch nhũ trong các hang động. Các cách sử dụng Đá vôi không rắn bằng đá granit, nhưng phổ biến hơn, khai thác và gia công dễ dàng hơn, nên được dùng rộng rãi hơn. Đá vôi thường được dùng làm cốt liệu cho bê tông, dùng rải mặt đường ô tô, đường xe lửa, và dùng trong các công trình thủy lợi nói chung, cũng như để chế tạo tấm ốp, tấm lát và các cấu kiện kiến trúc khác. Đá vôi là nguyên liệu để sản xuất vôi và xi măng. Phong cảnh vùng đất đá vôi Núi Tai Mèo Hang động Karst Đồng bằng Karst Động Phong Nha Vịnh Hạ Long
Nhượng Tống (1906-1949), tên thật là Hoàng Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên còn được gọi là Hoàng Nhượng Tống. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam. Thân thế Ông là người làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh ông là Hoàng Hồ, thi đỗ tú tài đời nhà Nguyễn, nổi tiếng chống Pháp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này. Ngoài người cha ruột, ông còn làm con nuôi ông Phạm Bùi Cẩm ở phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Sinh ra trong một gia đình Nho học, nên Nhượng Tống được học chữ Hán ngay từ nhỏ, sau mới tự học thêm chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Mặc dù học lực rất uyên bác, nhưng ông không có một văn bằng nào cả. Hoạt động cách mạng Năm 1921, báo Khai hóa ra đời, đã thấy ông có bài đăng trên báo ấy. Kể từ đó, ông lần lượt viết cho các báo: Nam thành, Thực nghiệp dân báo, Hồn cách mạng, Hà Nội tân văn... Năm 1924, ông làm trợ bút cho tờ Thực nghiệp dân báo ở Hà Nội. Năm 1926 Ông cùng cụ Đồ Lê (thân sinh đại tướng Lê Trọng Tấn) tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh tại đền thờ Hai Bà Trưng, có hàng vạn người tham dự. Cuối năm 1926 hai anh em nhà giáo là Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài thành lập Nam Đồng thư xã trên đường Ngũ Xã (Hà Nội), chuyên xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. Sau đó, Nhượng Tống đến tham gia, và trở thành một thành viên nòng cốt . Thời gian ông viết và dịch hăng say nhất là khoảng thập niên 1940 với những truyện dịch cũng như tác phẩm khác. Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến tới thành một đảng cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng Tống chủ trương "hòa bình cách mạng", tức không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng", dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc." Ngày 25 tháng 12 năm 1927, Nhượng Tống cùng với các đồng chí thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng tại làng Thể Giao, Hà Nội. Ông là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai trò trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên. Năm 1929, theo kế hoạch của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, nhưng khi trở ra khi thì bị Pháp đón bắt. Hội đồng đề hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn Đảo mãi đến năm 1936 mới được tha, nhưng vẫn chịu sự quản thúc tại quê nhà. Khi ông đang ở nhà lao Côn Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố. Bị ám sát Sau Cách mạng tháng Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba đảng phái là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng liên minh thành Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp tái chiếm liên bang Đông Dương, thì Chính phủ Liên hiệp Việt Nam tan vỡ. Năm 1947, hết thời gian bị quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi cùng với một số đồng chí tái tổ chức lại hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại một số vùng do quân Pháp kiểm soát. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống lại chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở về hành nghề thầy thuốc Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội. Ngày 8 tháng 9 năm 1949, Nhượng Tống bị công an mật Việt Minh tên là Nguyễn Văn Kịch, người làng Mai Động, Quỳnh Lôi, ngoại thành Hà Nội ám sát tại Hà Nội. Thư mục Sáng tác Hai Bà Trưng, đệ nhất anh thư (1926) (?) Trưng Vương, Hà Nội: Nam Đồng thư xã, 1927 Đời trong ngục, Nhà xuất bản Văn hóa mới, 1935 Lan Hữu, Hà Nội: Nhà in Lê Cường, 1940, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, có tính tự truyện. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2015. Nguyễn Thái Học, Hà Nội, Tân Việt, 1945 (hồi ký). In lần 2: 1949, lần 3, 1956, lần 4: 1973 đều do Tân Việt tại Sài Gòn; tái bản sau 1975: NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2014. Tân Việt cách mệnh đảng, Việt Nam thư xã, 1945 Hỗ trợ thảo luận, tác giả xuất bản, Tân Việt tổng phát hành, 1945 Treo cổ Hoàng Diệu Phất cờ nương tử Hoa cành Nam, Sài Gòn: Khai Trí, 1964, tập hợp những bài viết của Nhượng Tống từ 1945 và bạn bè viết về ông sau khi ông mất Ngoài ra, ông còn sáng tác một số bài thơ trong đó có những bài đầy khí khái. Dịch phẩm Khuất Nguyên, Ly tao, 1944 (in lại trong: Khuất Nguyên, Sở từ, Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nhà xuất bản Văn học, 1974). Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2015. Thơ Đỗ Phủ, Hà Nội: Tân Việt, 1944. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin, 1996. Sử ký Tư Mã Thiên, Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1964. Tái bản có sửa chữa, bổ chú, lược khảo: Tư Mã Thiên, Sử ký (Nhượng Tống dịch văn, Lâm Tây Trọng bình giảng, Nguyễn Duy Long hiệu khảo), Hà Nội, NXB Văn học và Công ty CP Sách Bách Việt, 2021. Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963; tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học, 1992; NXB Văn hóa Thông tin, 1999. Trang tử, Nam Hoa kinh, Hà Nội: Tân Việt, 1945. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1962; tái bản sau 1975: NXB Văn học và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001. Từ Chẩm Á, Dưới hoa (đăng báo, chưa đầy đủ). Dịch bổ sung và xuất bản: Ngọc lê hồn (Nhượng Tống dịch, Dương Minh dịch bổ sung), Hà Nội: NXB Văn học và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2016. Bả phồn hoa. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Thế Giới và Mai Hà Books, 2021. Tào Tuyết Cần, Hồng lâu mộng, 1945 Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị (đăng báo một số truyện) Lão tử, Đạo đức kinh, 1945 Khổng tử, Kinh Thư, Sài Gòn: Tân Việt, 1963. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học, 2002. Văn dịch ký bút danh Mạc Bảo Thần: Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Tân Việt, 1945. Tái bản: Sài Gòn: Tân Việt, 1964. Nguyễn Trãi, Lam Sơn thực lục, Tân Việt, 1945. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1949; lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1956. Viết về Nhượng Tống Tạp chí Văn học, số chuyên đề Nhượng Tống, Sài Gòn, phát hành ngày 01/12/1973. Yên Ba, Nhượng Tống - Bi kịch con người giữa những xung đột của thế kỷ XX, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2021. Thơ Nhượng Tống {| | Cảm đề lịch sử Ba xứ non sông một giải liền, Máu đào xương trắng điểm tô nên. Cơ trời dù đổi trò tang hải, Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên. Có nước có dân đừng rẻ rúng; Muốn còn muốn sống phải đua chen. Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm cũ; Chiêm, Lạp xưa kia vốn chẳng hèn. | Khóc Nguyễn Thái Học Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng. Thương đời không lẽ đứng mà trông. Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng, Đâu chịu râu mày thẹn núi sông. Người dẫu chết đi, lòng vẫn sống, Việc dù hỏng nữa, tội là công. Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt; Cười khóc canh khuya chén rượu nồng. | Cảnh nhà tù Hàng vạn con người áo một màu Khác nhau con số chẳng đều nhau Xưa nay vẫn có câu bình đẳngBình đẳng là đây lọ phải cầu! |} Nhận xét (sơ lược) Nhượng Tống đặc biệt yêu quý Đỗ Phủ, như ông tự nhận: Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ, Trong thơ riêng thích thơ Đỗ Phủ. Lại do ưu tư vì vận nước và hoạt động cách mạng gian truân, mang mối đồng cảm với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ... nên ông dịch Ly tao, những vần thơ hiện thực của Đỗ... hết sức thành công, tái tạo được hồn thơ của nguyên tác. Bàn về sự nghiệp văn chương của ông, nhà văn Vũ Ngọc Phan đã khen rằng: "Nhượng Tống có tâm hồn thi sĩ, nên quyển "Lan Hữu" gần như là một tiểu thuyết tả một thứ ái tình lý tưởng. Còn thơ ông có cái đặc sắc là bao giờ cũng già giặn và thiên về tình cảm rất nhiều...Ông quả là một nhà văn tài hoa, lãng mạn và rất sở trường về dịch thuật". Thông tin thêm Ông có người em trai út là Hoàng Trung Tích, là Giám đốc ty Giáo dục Hà Nam Ninh. Ông là anh họ của Chu Thiên tức Hoàng Minh Giám, còn Hoàng Minh Chính (là bộ đội hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, tác giả phần lời bài hát " Đi học") là con thứ của người em trai thứ hai là Hoàng Trọng Huống, gọi Nhượng Tống là bác. Chú thích
Sân vận động Olympic (; ) là một sân vận động thể thao nằm ở Công viên Olympic Berlin, Berlin, Đức. Sân được xây dựng ban đầu bởi Werner March cho Thế vận hội Mùa hè 1936. Trong thời gian diễn ra Thế vận hội, lượng khán giả kỷ lục được cho là hơn 100.000 người. Ngày nay sân vận động là một phần của Công viên Olympic Berlin. Kể từ khi cải tạo lại vào năm 2004, sân vận động Olympic có sức chứa 74.475 chỗ ngồi và là sân vận động lớn nhất ở Đức cho các trận đấu bóng đá quốc tế. Sân vận động Olympic là sân vận động xếp loại 4 của UEFA và là một trong những địa điểm có uy tín nhất trên thế giới cho các sự kiện thể thao và giải trí. Ngoài việc sử dụng như là một sân vận động điền kinh, nó còn là nơi đã xây dựng một truyền thống bóng đá. Kể từ năm 1963, nó là sân nhà của câu lạc bộ Hertha BSC. Sân vận động đã tổ chức ba trận đấu trong khuôn khổ Giải vô địch bóng đá thế giới 1974. Sân được cải tạo lại cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, thời điểm mà nó tổ chức sáu trận đấu, bao gồm cả trận chung kết. Trận đấu chung kết của Cúp bóng đá Đức được diễn ra mỗi năm tại địa điểm này. Sân vận động Olympic Berlin còn là nơi tổ chức Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 cũng như là trận chung kết UEFA Champions League 2015, Giải vô địch điền kinh thế giới năm 2009. Lịch sử 1916–1934: Sân vận động Deutsches Trong Thế vận hội Mùa hè 1912, thành phố Berlin được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) chỉ định đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1916. Sân vận động được đề xuất của Đức cho sự kiện này được đặt tại Charlottenburg, trong Rừng Grunewald, ở phía tây Berlin - do đó sân vận động còn được gọi là Grunewaldstadion. Một trường đua ngựa đã tồn tại ở đó thuộc về Berliner Rennverein, và thậm chí ngày nay các quầy bán vé cũ vẫn tồn tại trên Jesse-Owens-Allee. Chính phủ Đức quyết định không xây dựng trong rừng Grunewald gần đó, hoặc cải tạo các công trình đã tồn tại. Vì mong muốn này, họ đã thuê cùng một kiến ​​trúc sư đã xây dựng "Rennverein", Otto March. March quyết định chôn sân vận động xuống đất ("Erdstadion", trong tiếng Đức). Tuy nhiên, Thế vận hội Olympic năm 1916 đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vào những năm 1920, công trình đầu tiên của một trường học, "Deutsches Sportforum" (Diễn đàn thể thao của Đức), dành riêng cho việc giảng dạy của các giáo sư thể dục và nghiên cứu khoa học thể thao, được xây dựng về phía đông bắc của địa điểm sân vận động. Từ năm 1926 đến năm 1929, các con trai của Otto March (Werner và Walter) được giao xây dựng một khu phụ cho các cơ sở này, mặc dù việc hoàn thiện bị trì hoãn cho đến năm 1936. 1936–1945: Sân vận động Olympic Năm 1931, Ủy ban Olympic Quốc tế đã chọn Berlin để đăng cai Thế vận hội Mùa hè lần thứ 11. Ban đầu, chính phủ Đức chỉ quyết định khôi phục lại Sân vận động Olympic trước đó vào năm 1916, với Werner March một lần nữa được giữ lại để làm việc này. Khi Đức Quốc xã lên nắm quyền ở Đức (1933), họ quyết định sử dụng Thế vận hội Olympic năm 1936 cho mục đích tuyên truyền. Với những kế hoạch này, Adolf Hitler đã ra lệnh xây dựng một khu liên hợp thể thao lớn ở Grunewald được đặt tên là "Reichssportfeld" với một Sân vận động Olympic hoàn toàn mới. Kiến trúc sư Werner March vẫn phụ trách dự án với sự trợ giúp của anh trai ông là Walter. Quá trình xây dựng diễn ra từ năm 1934 đến năm 1936. Khi hoàn thành, Reichssportfeld có diện tích 132 ha (330 mẫu Anh). Nó bao gồm (đông sang tây): Sân vận động Olympic, Maifeld (Mayfield, sức chứa 50.000 người) và giảng đường Waldbühne (sức chứa 25.000 người), ngoài ra còn có nhiều địa điểm, công trình và cơ sở cho các môn thể thao khác nhau (như bóng đá, bơi lội, cưỡi ngựa và khúc côn cầu trên cỏ) ở phần phía bắc. Werner March đã xây dựng Sân vận động Olympic mới trên nền của Sân vận động Deutsches ban đầu, một lần nữa với nửa dưới của cấu trúc lõm xuống 12 mét (39,4 ft) so với mặt đất. Sức chứa của Sân vận động Olympic lên tới 110.000 khán giả. Sân cũng sở hữu một vị trí đặc biệt cho Adolf Hitler và các cộng sự chính trị của ông ta. Cuối cùng, phù hợp với bố cục được thiết kế đối xứng của các tòa nhà của Olympischer Platz và về phía Maifeld, là Cổng Marathon với một ngăn chứa lớn cho Ngọn lửa Olympic. Maifeld Maifeld (Mayfield) được tạo ra như một bãi cỏ khổng lồ (11,2 ha, 28 mẫu Anh) cho các cuộc biểu tình tập thể dục, đặc biệt là lễ kỷ niệm Ngày tháng Năm hàng năm của chính phủ. Khu vực này được bao quanh bởi độ cao 19 mét (62 ft) trên mặt đất, mặc dù Sân vận động Olympic (về phía đông) chỉ cao 17 mét (55 ft). Tổng sức chứa là 250.000 người, với 60.000 người ở khán đài lớn kéo dài ở đầu phía tây. Cũng nằm ở đó có Langemarck-Halle (bên dưới) và Tháp chuông (trên cao). Các bức tường được xây bằng đá vững chắc từ khu vực Lower Alps, và cũng có các tác phẩm điêu khắc về ngựa (tác phẩm của Joseph Wackerle). Điều này bao gồm các hội trường lớn được xây dựng dưới khán đài của Maifeld. Các cột được dựng lên trên đó treo cờ và lá chắn để tưởng nhớ tất cả các lực lượng đã tham gia trận chiến tại Langemark (Tây Flanders, Bỉ) vào ngày 10 tháng 11 năm 1914, trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ năm 2006, tầng trệt là nơi tổ chức một cuộc triển lãm cung cấp thông tin lịch sử về khu vực Reichssportfeld cũ. Trong Thế vận hội năm 1936, Maifeld được sử dụng cho các sự kiện thi đấu polo và cưỡi ngựa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lực lượng chiếm đóng của Quân đội Anh (Lữ đoàn Bộ binh Berlin) hàng năm tổ chức Lễ sinh nhật chính thức của Vua hoặc Nữ hoàng tại Maifeld và sử dụng nó cho nhiều hoạt động thể thao bao gồm cricket. Bắt đầu từ năm 2012, Maifeld trở thành sân nhà của Câu lạc bộ Cricket Berlin. Tháp chuông Tháp chuông đăng quang ở cuối phía tây của Reichs Sportfield được trồng giữa các tầng của khán đài Maifeld. Nó cao 77 mét (247 ft). Từ đỉnh của nó có thể quan sát toàn cảnh thành phố Berlin. Trong các môn thi đấu, nó được sử dụng như một trạm quan sát của các quản trị viên và các quan chức cảnh sát, bác sĩ và giới truyền thông. Trong tháp là Chuông Olympic. Trên bề mặt của nó là những chiếc Nhẫn Olympic có hình một con đại bàng, năm 1936, Cổng Brandenburg, ngày 1-16. Tháng 8 và một khẩu hiệu giữa hai chữ Vạn: I call the youth of the world và 11. Olympic Games Berlin - mặc dù các môn thi đấu là Thế vận hội lần thứ 10 (Mùa hè), chúng là Thế vận hội của Olympic lần thứ XI. Tháp chuông là phần duy nhất của Reichssportfeld đã bị phá hủy trong chiến tranh. Đệ tam đế chế đã sử dụng cấu trúc của tháp để lưu trữ các tài liệu lưu trữ (chẳng hạn như phim). Quân đội Liên Xô đã đốt lửa, biến tòa tháp thành một ống khói tạm bợ. Cấu trúc nổi lên từ đám cháy bị hư hại nghiêm trọng và suy yếu. Năm 1947, các kỹ sư người Anh đã phá bỏ tòa tháp; tuy nhiên, nó đã được tái tạo lại chính xác vào năm 1962. Chuông Olympic (đã sống sót sau trận hỏa hoạn và vẫn ở nguyên vị trí của nó trong tháp) rơi xuống 77 mét và nứt vỡ và không thể phát ra âm thanh kể từ đó. Năm 1956, chiếc chuông được giải cứu, chỉ được sử dụng làm mục tiêu tập bắn bằng đạn chống tăng. Chiếc chuông cũ bị hư hỏng vẫn tồn tại và được dùng như một đài tưởng niệm. Việc tái tạo lại tòa tháp được thực hiện từ năm 1960 đến năm 1962, một lần nữa do kiến ​​trúc sư Werner March thực hiện theo bản thiết kế ban đầu. Tòa tháp hiện tại đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng với bức tranh toàn cảnh của Berlin, Spandau, Thung lũng Havel, Potsdam, Nauen và Hennigsdorf. Trận chiến quan trọng nhất xung quanh Sân vận động Olympic là vào tháng 4 năm 1945 khi quân đội Liên Xô chiến đấu để chiếm nó. Đây là trận chiến cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu, với cuộc xâm lược toàn bộ Berlin là mục tiêu của quân Đồng minh. Sân vận động Olympic sống sót sau cuộc chiến gần như không bị ảnh hưởng; nó chỉ chịu tác động của những phát súng máy. 1945–1990: Kỷ nguyên Tây Berlin Sau chiến tranh, Reichssportfeld cũ trở thành trụ sở của lực lượng chiếm đóng quân đội Anh. Chính quyền định cư trong các tòa nhà phía đông bắc do anh em nhà March thiết kế vào những năm 1920, mà Đệ tam Đế chế đã sử dụng cho các tổ chức thể thao chính thức như Học viện Thể dục Thể thao và được mở rộng vào năm 1936, bổ sung thêm "Haus des deutschen Sports" (Nhà của Thể thao Đức) và các tòa nhà khác (thuộc về Công viên Olympic Berlin từ năm 1994, một cơ sở thể thao trung tâm của Thành phố Berlin). Không lâu sau, lực lượng Anh đã cải tạo các tòa nhà bị tàn phá do chiến tranh nhưng cũng chuyển đổi nội thất theo nhu cầu cụ thể của họ (một phòng tập thể dục được chuyển đổi thành nhà ăn, phòng khác thành nhà để xe). Từ năm 1951 đến năm 2005, Olympischer Platz có một ăng-ten khổng lồ truyền cho tất cả các đài cầm tay ở Berlin. Từ đó cho đến năm 1994 và sự ra đi của họ, quân Anh đã tổ chức hàng năm lễ kỷ niệm Sinh nhật chính thức của Nữ hoàng tại Maifeld với hàng nghìn khán giả từ Berlin có mặt. Trong những năm 1960, các đội bóng đá quân sự và trung học của Mỹ đã giới thiệu hàng trăm nghìn người Berlin đến với bóng đá Mỹ tại sân vận động trong các trận đấu triển lãm. Trong những năm đó, các trận đấu bóng đá Bundesliga được diễn ra tại Sân vận động Olympic, với Hertha BSC là đội địa phương. Tại Maifeld, một số giải đấu bóng đá, bóng bầu dục và polo cũng đã được tổ chức. Vào mùa hè, Waldbühne tiếp tục các buổi hòa nhạc cổ điển và chiếu phim. Nhà hát cũng được sử dụng như một sàn đấu ngẫu hứng cho các trận đấu quyền Anh. 1990–2004: Berlin thống nhất Năm 1998, người Berlin đã tranh luận về vận mệnh của Sân vận động Olympic dựa trên di sản mà sân đại diện cho nước Đức. Một số muốn phá bỏ sân vận động và xây một sân vận động mới từ đầu, trong khi những người khác lại thích để sân từ từ đổ nát "giống như Đấu trường La Mã ở Roma". Cuối cùng, người ta quyết định cải tạo Sân vận động Olympic. FIFA đã chọn sân là một trong những địa điểm tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Bang Berlin đã thuê một tập đoàn gồm Walter Bau AG và DYWIDAG đã giành được 45 triệu euro nhượng quyền thương mại. Liên danh phụ trách hoạt động của các cơ sở cùng với Hertha BSC và chính quyền Berlin sau khi tu sửa. Vào ngày 3 tháng 7 năm 2000, việc cải tạo bắt đầu với một buổi lễ do Thủ tướng Gerhard Schröder chủ trì, cùng với Eberhard Diepgen (Thị trưởng Berlin), Franz Beckenbauer và Giáo sư Tiến sĩ Ignaz Walter. 2004–nay: Nhà thi đấu đa năng Lễ khánh thành lại Sân vận động Olympic mới được thực hiện vào ngày 31 tháng 7 năm 2004 và ngày 1 tháng 8 năm 2004. Vào ngày hôm đó, thứ Bảy, bữa tiệc bắt đầu với màn trình diễn của Pink, Nena và Daniel Barenboim. Đỉnh cao là vào ban đêm với lễ khai mạc. Vào ngày thứ hai, các trận giao hữu được diễn ra giữa các hạng mục khác nhau của câu lạc bộ Hertha BSC và đội khách. Vào ngày 8 tháng 9 năm 2004, Brasil đấu với Đức. Năm 2011, địa điểm này đã tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới do Art of Living tổ chức, nơi 70.000 người thiền định vì hòa bình. Năm 2018, địa điểm đã tổ chức Giải vô địch điền kinh châu Âu 2018. Sân vận động Cải tạo Với ý định tạo ra một bầu không khí thân mật hơn cho các trận đấu bóng đá, mặt sân đã được hạ xuống 2,65 mét (8,7 ft). Khoảng 90.000 mét khối (3.200.000 cu ft) cát đã được khai quật. Tầng dưới của ghế trong sân vận động đã bị phá hủy và xây dựng lại ở một góc độ hoàn toàn khác. Mái che được mở rộng để bao phủ tổng cộng 37.000 mét vuông (400.000 ft vuông), với 20 cột đỡ mái mang trọng lượng 3.500 tấn (3.900 tấn ngắn) thép. Mái che tăng 68 mét (223 ft) trên ghế và được tạo thành từ các tấm trong suốt cho phép ánh sáng mặt trời chiếu vào ban ngày. Phần phía tây (trên Marathon Arch) được mở để lộ ra Tháp Chuông cho khán giả. Yếu tố bảo tồn của Sân vận động Olympic như một di tích lịch sử cũng được xem xét, đặc biệt là đối với việc bảo tồn các khối đá tự nhiên. Sau những lời chỉ trích, màu sắc của đường chạy điền kinh quanh sân thi đấu đã được thay đổi từ màu đỏ sang màu xanh, phản ánh màu sắc của Hertha BSC. Việc cải tạo đã sử dụng 70.000 mét khối (2.500.000 cu ft) bê tông và 20.000 mét khối (710.000 cu ft) của các yếu tố bê tông cốt thép đúc sẵn. Một số 12.000 mét khối (420.000 cu ft) bê tông đã bị phá hủy và loại bỏ và 30.000 mét khối (1.100.000 cu ft) đá tự nhiên đã được tân trang lại. Sân vận động Olympic được trang bị công nghệ mới nhất trong thiết bị âm thanh và chiếu sáng nhân tạo. Sân có 113 khán đài VIP, một bộ nhà hàng và hai nhà để xe ngầm (cho 630 xe hơi). Tổng chi phí tu sửa và khuếch đại là 242 triệu euro. Sức chứa Sân vận động Olympic mới có sức chứa toàn bộ chỗ ngồi cao nhất ở Đức. Nó có sức chứa là 74.475 chỗ ngồi. Tầng trên có 31 hàng ghế ở độ dốc trung bình 23° và có 36.455 chỗ ngồi, trong đó 36.032 là ghế thường, 290 ghế ngồi trên bệ báo chí và 133 ghế ngồi trong skybox. Tầng dưới có 42 hàng ghế ở góc trung bình 25,4° và có 38.020 chỗ ngồi, trong đó 32.310 là ghế thường, 560 là ghế hộp, 563 là ghế phòng chờ (có thể mở rộng lên 743), 4.413 là ghế kinh doanh và 174 không gian xe lăn. Đối với một số trận đấu bóng đá nhất định, chẳng hạn như giữa Hertha BSC và FC Bayern München, khả năng có thể được mở rộng tạm thời. Điều này được thực hiện bằng việc bổ sung khán đài di động trên Marathon Arch. Sức chứa mở rộng đạt 76.197 chỗ ngồi trong năm 2014. Các sân vận động duy nhất ở Đức có tổng sức chứa cao hơn là Signal Iduna Park ở Dortmund và Allianz Arena ở München. Tuy nhiên, Signal Iduna Park và Allianz Arena có cả khu vực chỗ ngồi và chỗ đứng, và sức chứa tất cả chỗ ngồi của họ thấp hơn Sân vận động Olympic. Tổng sức chứa của Allianz Arena cũng thấp hơn so với sức chứa mở rộng của Sân vận động Olympic. Người thuê sân Sân vận động đã được sử dụng làm sân nhà của Hertha BSC của Bundesliga kể từ năm 1963. Năm 1963, Bundesliga được thành lập và Hertha BSC đã tham gia bằng lời mời trực tiếp, rời sân vận động cũ ("Plumpe") để sử dụng Sân vận động Olympic. Vào ngày 24 tháng 8, đội đã chơi trận địa phương đầu tiên với 1. FC Nürnberg, với tỷ số cuối cùng là 1–1. Tuy nhiên, vào năm 1965, Hiệp hội bóng đá Đức đã phát hiện Hertha BSC phạm tội hối lộ và đưa họ đến Giải đấu Khu vực. Năm 1968, Hertha trở lại giải đấu hạng nhất, và đến Sân vận động Olympic, và năm 1971 đã bán "Plumpe". Nửa sau thập niên 1970 là khoảng thời gian khá thành công với Hertha BSC Berlin. Năm 1979, đội đã lọt vào bán kết Cúp UEFA, nhưng bị đánh bại bởi Sao Đỏ Beograd. Hertha lọt vào trận chung kết Cúp quốc gia Đức hai lần (1977 và 1979). Vào những năm 1980, Hertha đã sa sút tại Bundesliga, và xuống Giải đấu Khu vực vào năm 1986, mặc dù sau đó họ đã hồi sinh để đạt được Giải đấu hạng hai (1988–1989). Với việc phá hủy Bức tường Berlin vào tháng 11 năm 1989, một cảm giác đồng cảm tự phát giữa Hertha và 1. FC Union Berlin từ Đông Berlin nảy sinh, lên đến đỉnh cao trong trận đấu giao hữu tại Sân vận động Olympic với 50.000 khán giả (27 tháng 1 năm 1990). Năm 1990, Hertha trở lại Giải hạng nhất, mặc dù lại xuống Giải hạng hai từ năm 1991 đến năm 1997. Từ năm 1997, câu lạc bộ đã tiến bộ, leo lên Bundesliga và đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League, với các trận đấu với các đội bóng hàng đầu châu Âu như Chelsea và A.C. Milan. Sự kiện đáng chú ý Sân vận động Olympic đã giữ kỷ lục thế giới về số lượng khán giả dự khán một trận bóng chày trong Thế vận hội 1936 khi được cho là có hơn 100.000 người. Kể từ năm 1985, sân vận động đã tổ chức các trận chung kết của cả Cúp bóng đá Đức và giải đấu nữ đồng hành của nó, Cúp bóng đá nữ Đức. Tuy nhiên, sân không tổ chức trận chung kết năm 2010 của Cúp bóng đá nữ Đức, được tổ chức tại RheinEnergieStadion của Cologne như một phần của cuộc thử nghiệm để tổ chức sự kiện ở một thành phố khác. Sân vận động đã tổ chức 5 giải American Bowls từ năm 1990-1994. Sân vận động này cũng là sân nhà của Berlin Thunder, một đội bóng bầu dục Mỹ tại NFL Europa, từ năm 2003 cho đến khi nhà điều hành giải đấu, National Football League của Hoa Kỳ, đóng cửa giải đấu do bị thua lỗ vào năm 2007. Sân vận động cũng đã tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới năm 2011 là để kỷ niệm 30 năm phục vụ nhân loại của Art of Living Foundation. Sân vận động này cũng tổ chức Internationales Stadionfest, cũng là một sự kiện IAAF Golden League cho đến năm 2010. Hiện tại vẫn chưa rõ về tương lai của sự kiện này. Sân vận động tổ chức Giải vô địch điền kinh thế giới 2009, nơi Usain Bolt đã phá kỷ lục thế giới về nội dung 100 mét và 200 mét. Thế vận hội Mùa hè 1936 Vào ngày 1 tháng 8 năm 1936, Thế vận hội chính thức được khai mạc bởi nguyên thủ quốc gia Adolf Hitler, và chiếc vạc Olympic được thắp sáng bởi vận động viên Fritz Schilgen. Bốn triệu vé đã được bán cho tất cả các sự kiện của Thế vận hội Mùa hè 1936. Đây cũng là Thế vận hội đầu tiên có truyền hình (25 không gian xem rải rác khắp Berlin và Potsdam) và truyền radio bằng 28 ngôn ngữ (với 20 xe đài và 300 microphone). Trong khi ngọn lửa Olympic được sử dụng lần đầu tiên ở Amsterdam năm 1928, tại Berlin năm 1936, một cuộc hành trình giống như marathon vòng quanh ngọn đuốc Olympic đã được giới thiệu, từ Olympia ở Hy Lạp, băng qua sáu biên giới với hành trình đến Berlin, qua Hy Lạp, Bulgaria, Nam Tư, Hungary, Tiệp Khắc, Áo và Đức. Ý tưởng ban đầu của cuộc rước đuốc Olympic này là của Carl Diem, người từng là cố vấn chính trị cho Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, chuyên phụ trách các vấn đề Olympic. Thế vận hội là chủ đề của bộ phim tuyên truyền Olympia (1938) của Leni Riefenstahl. Trong số các môn thi đấu, một trong những sự kiện đáng nhớ nhất là màn trình diễn của vận động viên điền kinh người Mỹ gốc Phi Jesse Owens, đại diện cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Owens giành huy chương vàng ở nội dung 100, 200, nhảy xa và tiếp sức 4 x 100. Một trong những con đường chính bên ngoài sân vận động được đặt tên Jesse Owens Allee để ghi nhận màn trình diễn của anh. Sân vận động này cũng tổ chức các sự kiện nhảy ngựa, bóng đá và bóng ném. Bảng A Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 Ba trận đấu của Bảng A (Tây Đức, Chile, Đông Đức và Úc) đã được diễn ra tại Sân vận động Olympic. Trận đấu thứ ba, Úc vs Chile, diễn ra trong cơn mưa xối xả. Tuy nhiên, trận đấu lịch sử giữa hai đội Đức lại diễn ra tại Hamburg. Đội chủ nhà Tây Đức đã vô địch giải đấu. Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Các trận đấu sau đây được diễn ra tại Berlin, tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006: Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 Năm 2011, Sân vận động Olympic đã tổ chức trận đấu mở màn của Đức trong Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011. Đây là trận đấu duy nhất trong giải đấu được tổ chức tại sân vận động. Chung kết UEFA Champions League 2015 Vào tháng 5 năm 2013, Olympiastadion được chọn làm nơi tổ chức trận chung kết UEFA Champions League 2015. FC Barcelona đã giành được danh hiệu thứ năm và hoàn thành cú ăn ba thứ hai. Buổi hòa nhạc Tài liệu tham khảo văn hóa Sân vận động được sử dụng làm cảnh quay trong bộ phim về điệp viên thời chiến tranh lạnh The Quiller Memorandum (1966). Giao thông U-Bahn Tàu điện ngầm (U-Bahn) U2 đưa du khách đến thẳng nhà ga Sân vận động Olympic. Từ đó đi bộ một đoạn ngắn là đến sân vận động (Cổng Đông: 500m, Cổng Nam: 870m). Thời gian di chuyển trung bình: 14 phút từ Zoologischer Garten, 24 phút từ Potsdamer Platz, 34 phút từ Alexanderplatz. S-Bahn Tàu khu vực (S-Bahn) S3 và S9 sẽ đưa du khách thẳng đến nhà ga Sân vận động Olympic. Từ đó đi bộ một đoạn ngắn là đến sân vận động (Lối vào Cổng Nam qua lối ra Flatowallee: 200 m, Lối vào Cổng Đông qua lối ra Trakehner Allee: 250m). Thời gian di chuyển trung bình: 7 phút từ ga Spandau, 14 phút từ Zoologischer Garten, 22 phút từ Friedrichstrasse, 26 phút từ Alexanderplatz. Xe buýt Với các tuyến xe buýt M49 và 218 du khách có thể đến trạm dừng Flatowallee. Từ đó đến sân vận động một quãng đi bộ ngắn. Với tuyến xe buýt 104 du khách có thể đến ga tàu điện ngầm Neu-Westend. Từ đó có thể đi bộ trực tiếp đến sân vận động. Du khách cũng có thể đi tàu điện ngầm và ra tại nhà ga Sân vận động Olympic.
Vân Phong (?-956), có tên gọi khác là Chủ Phong, tu tại chùa Khai Quốc , tại kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm , quận Vĩnh Khương. Sư họ Nguyễn và là đời (hay thế hệ) thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông. Cơ duyên và hành trạng Tương truyền, khi mẹ Sư mang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh. Lúc sinh thấy có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ, nên khi Sư lớn lên, cha mẹ cho Sư xuất gia theo hầu Sư Thiện Hội ở Siêu Loại. Sư thuộc hàng cao đệ, được thầy truyền dạy yếu lĩnh thiền. Thiện Hội có lần bảo Sư: Sống chết là việc lớn, cần phải giải quyết ngay. Sư hỏi: Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi? Hội đáp: Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh. Sư hỏi: Thế nào là chỗ không sống chết? Hội đáp: Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được. Sư hỏi: Làm sao mà hiểu? Hội đáp: Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến. Chiều Sư lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh cho ngươi. Sư tỉnh ngộ, liền sụp lạy. Hội hỏi: Ngươi thấy đạo lý gì? Sư thưa: Con đã lĩnh hội. Hội hỏi: Ngươi hiểu như thế nào?. Sư đưa nắm tay lên, thưa: Bất tiếu là cái này đây. Hội liền bảo thôi. Thiền Sư Vân Phong mất vào năm Bính thìn là năm thứ ba niên hiệu Hiển Đức đời Châu (956). Chú thích Nguyên bản Hán văn □第三世一人□□□□□□□□□□ 雲峯禪師 昇龍京開國寺雲峯禪師〖一名主峯〗永康𨛦慈廉人 也阮氏母懷娠時齋素持(1)經生而神光照室 雙親感異許以出家及長師事超類善會禪 師爲入室弟子宻扣玄機禪學曰(2)益會嘗謂 師云生死事大直須打底師問云生死到來 如何迴避會云管取無生死處迴避又問如 何是無生死處會云於生死中會取始得師 云作麽生會會云偁且去日暮即來師便如 期果至會云待朝明日眾與汝證明師豁然 省悟禮拜會云汝見什麽道理師云某甲領 也會云汝作麽生師竪拳云不肖遮箇會便 休以後周顯德三年丙辰示寂□□□□□ Bản khắc 〖⿰扌夺〗 曰 có lẽ là 日 (nhật), không thấy LMT hiệu đính
Indonesia, tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik Indonesia), thường được gọi ngắn là Indo, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo" vì lãnh thổ của nước này bao gồm 13.487 hòn đảo với dân số ước tính đạt hơn 279 triệu người (năm 2022), xếp thứ 4 thế giới và đứng thứ 3 châu Á. Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên khác với Malaysia và Brunei, trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia Hồi giáo giống như các nước Tây Á, Trung Đông, Bắc Phi, Malaysia hay Brunei,...). Indonesia theo thể chế cộng hòa với một bộ máy lập pháp và Tổng thống do dân bầu. Indonesia có biên giới trên đất liền với Papua New Guinea ở đảo New Guinea, Đông Timor ở đảo Timor và Malaysia ở đảo Borneo, ngoài ra vùng biển giáp các nước Singapore, Việt Nam, Philippines, Úc, và lãnh thổ Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ. Thủ đô hiện tại là Jakarta và đây cũng đồng thời là tỉnh lớn nhất, tuy nhiên do sự quá tải dân số đang gây sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, chính phủ Indonesia đang có chủ trương dời đô trong tương lai. Quần đảo Indonesia từng là một vùng thương mại quan trọng nhất từ thế kỷ VII. Lịch sử Indonesia bắt đầu khi Vương quốc Srivijaya có các hoạt động giao thương với Trung Quốc và Ấn Độ. Những vị vua cai trị địa phương dần tiếp thu văn hóa, tôn giáo và các mô hình quản lý kiểu Ấn Độ từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, tiếp sau đó, các vương quốc Ấn Độ giáo cũng như Phật giáo đã bắt đầu hình thành và phát triển. Indonesia bị ảnh hưởng bởi các cường quốc nước ngoài muốn nhòm ngó các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quần đảo. Các nhà buôn Hồi giáo đã đưa đạo Hồi tới đây, đồng thời, các cường quốc châu Âu cũng bắt đầu tranh giành ảnh hưởng để độc chiếm lĩnh vực thương mại trên các hòn đảo Hương liệu Maluku trong Thời đại Khám phá. Sau hơn ba thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau độc lập, Indonesia tiếp tục rơi vào nhiều biến động lớn như xung đột quyền lực giữa các phe phái chính trị, nạn tham nhũng cũng như một quá trình dân chủ hoá chưa triệt để. Tuy gồm rất nhiều hòn đảo, Indonesia vẫn có các nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo riêng biệt. Người Java là nhóm sắc tộc đông đúc và có vị thế chính trị lớn nhất còn người Indonesia gốc Hoa là nhóm cộng đồng có sức ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế. Indonesia là 1 trong 5 quốc gia tham sáng lập ASEAN, thành viên của nhiều tổ chức toàn cầu lớn trong đó nổi bật nhất là G-20. Năm 2020, nền kinh tế Indonesia có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 15 toàn cầu hoặc hạng 4 châu Á và thứ 7 toàn cầu theo GDP sức mua tương đương (ước tính 2020). Tuy nhiên, do dân số quá đông (hơn 274,1 triệu người) nên GDP bình quân đầu người của nước này vẫn ở mức trung bình thấp. Quốc gia này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao và được công nhận là một cường quốc ở khu vực Đông Nam Á cũng như cường quốc bậc trung trên thế giới. Khẩu hiệu quốc gia của Indonesia, "Bhinneka tunggal ika" - "Thống nhất trong đa dạng" (theo nghĩa đen "nhiều, nhưng là một"), đã thể hiện rõ sự đa dạng hình thành nên quốc gia này. Tuy nhiên, những căng thẳng tôn giáo và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực đe doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Dù có dân số lớn và nhiều vùng dân cư đông đúc, Indonesia vẫn còn nhiều khu vực hoang vu, đây là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học đứng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này cũng rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có diện tích lãnh thổ rộng lớn nhất, dân số đông nhất và là quốc gia duy nhất thuộc G-20 trong số các nước Đông Nam Á, tuy vậy, tình trạng lạc hậu của các vùng nông thôn, tỷ lệ người nghèo cao cùng sự chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập gia tăng đang là những vấn đề, thách thức lớn của xã hội Indonesia hiện đại. Từ nguyên Danh từ Indonesia là một từ ghép bao gồm hai thành tố: Indus tiếng Latinh, có nghĩa là "Ấn Độ"; và nesos tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hòn đảo". Tên gọi này xuất hiện từ thế kỷ XVIII, rất lâu trước khi nhà nước Indonesia độc lập hình thành. Năm 1850, nhà phong tục học người Anh George Earl đề xuất thuật ngữ Indunesians — và một từ nữa mà ông thấy thích hơn là Malayunesians — để chỉ những người dân sống trên "Quần đảo Ấn Độ hay Quần đảo Malaya" trong một bài báo học thuật. Cũng trong bài viết đó, học trò của Earl là James Richardson Logan đã sử dụng Indonesia như một từ đồng nghĩa với Quần đảo Ấn Độ. Tuy nhiên, các tài liệu của viện hàn lâm Hà Lan viết về Đông Ấn lúc bấy giờ vẫn còn lưỡng lự trong việc sử dụng từ Indonesia. Thay vào đó, họ dùng các thuật ngữ như Quần đảo Malay (Maleische Archipel); Đông Ấn Hà Lan (Nederlandsch Oost Indië), khái quát chung Indië; phương Đông (de Oost); và thậm chí Insulinde. Kể từ năm 1900 trở đi, tên gọi Indonesia trở nên phổ thông hơn trong các cộng đồng hàn lâm bên ngoài Hà Lan, và nó dần được các nhóm chủ nghĩa dân tộc tiếp nhận nhằm mục đích chính trị. Adolf Bastian, thuộc Đại học Berlin, đã giúp từ này được biết đến rộng rãi hơn qua cuốn sách Indonesien oder die Inseln des Malayischen Archipels, 1884–1894 của ông. Học giả Indonesia đầu tiên sử dụng thuật ngữ này là Suwardi Suryaningrat (Ki Hajar Dewantara), khi ông thiết lập một văn phòng báo chí tại Hà Lan với tên gọi Indonesisch Pers-bureau vào năm 1913. Lịch sử Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước. Người Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ. Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên, cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên. Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia. Từ thế kỷ thứ bảy, vương quốc hàng hải Srivijaya hùng mạnh phát triển nhờ thương mại và các ảnh hưởng của Hindu giáo cùng Phật giáo được du nhập vào cùng thương mại. Từ thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ thứ X, các triều đại nông nghiệp Phật giáo Sailendra và Hindu giáo Medang phát triển và suy tàn trong vùng nội địa Java, để lại các công trình tôn giáo lớn như Borobudur của Sailendra và Prambanan của Medang. Vương quốc Hindu Majapahit được thành lập ở phía đông Java hồi cuối thế kỷ XIII, và ở thời Gajah Mada, ảnh hưởng của nó đã lan rộng tới hầu hết Indonesia; giai đoạn này thường được coi là một "Thời kỳ Huy hoàng" trong lịch sử Indonesia. Dù các thương gia Hồi giáo đã lần đầu đi qua Đông Nam Á từ đầu thời kỳ Hồi giáo, bằng chứng sớm nhất về cộng đồng dân cư Hồi giáo tại Indonesia có niên đại từ thế kỷ XIII ở phía bắc Sumatra. Các vùng khác của Indonesia dần chấp nhận Hồi giáo, và nó đã là tôn giáo ưu thế tại Java và Sumatra từ cuối thế kỷ XVI. Ở hầu hết các nơi, Hồi giáo vượt lên và pha trộn với các ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo bản địa, hình thành nên hình thức Hồi giáo hiện tại ở Indonesia, đặc biệt tại Java. Những người châu Âu đầu tiên tới Indonesia năm 1512, khi các thương gia Bồ Đào Nha, do Francisco Serrão dẫn đầu tìm cách thâu tóm các nguồn tài nguyên nhục đậu khấu, đinh hương, và hạt tiêu tại Maluku. Các thương gia Hà Lan và Anh nhanh chóng theo chân. Năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và trở thành một quyền lực lớn của châu Âu. Sau khi bị phá sản, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức bị giải tán năm 1800, và chính phủ Hà Lan thành lập Đông Ấn Hà Lan như một thuộc địa được quốc hữu hóa. Trong hầu hết thời gian của thời kỳ thuộc địa, Hà Lan chỉ kiểm soát vùng đất này một cách lỏng lẻo; chỉ tới đầu thế kỷ XX Hà Lan mới thực sự kiểm soát toàn bộ vùng đất lãnh thổ Indonesia hiện tại. Cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản sau đó trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt thời kỳ cai trị của Hà Lan, và khuyến khích phong trào độc lập từng bị đàn áp trước đó ở Indonesia. Hai ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng, ngày 17 tháng 8 năm 1945, Sukarno, một lãnh đạo ảnh hưởng theo chủ nghĩa quốc gia, tuyên bố độc lập và được chỉ định làm tổng thống. Người Hà Lan đã tìm cách tái lập quyền cai trị, và cuộc tranh giành ngoại giao và vũ trang đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1949, khi đối mặt với sức ép quốc tế, Hà Lan chính thức công nhận nền độc lập của Indonesia (ngoại trừ lãnh thổ Hà Lan Tây New Guinea, đã được tích hợp theo Thoả thuận New York năm 1962, và Đạo luật Tự do Lựa chọn được Liên hiệp quốc uỷ thác). Sukarno chuyển từ dân chủ sang chủ nghĩa độc đoán, và duy trì cơ sở quyền lực bằng cách cân bằng các lực lượng đối lập trong quân đội, và Đảng Cộng sản Indonesia (PKI). Quân đội âm mưu đảo chính ngày 30 tháng 9 năm 1965, dẫn tới Các vụ giết người tại Indonesia 1965-1966, một phong trào thanh trừng chống cộng trong đó Đảng Cộng sản Indonesia bị cáo buộc âm mưu đảo chính, các đảng viên Cộng sản bị săn lùng và tiêu diệt. Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại. Lãnh đạo quân đội, Tướng Suharto, công khai làm suy yếu vị trí chính trị của Sukarno, và được chính thức chỉ định làm tổng thống vào tháng 3 năm 1968. Chính sách Trật tự Mới của ông được chính phủ Mỹ ủng hộ, và khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Indonesia, đây là một yếu tố chính dẫn tới ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế ổn định sau đó. Tuy nhiên, sự độc đoán của chính sách "Trật tự Mới" bị chỉ trích rộng rãi vì tình trạng tham nhũng và đàn áp chính trị đối lập. Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á. Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng với Trật tự Mới gia tăng và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ chức ngày 21 tháng 5 năm 1998. Xung đột sắc tộc ở Indonesia đã mang lại những vụ việc đẫm máu. Vào năm 1965, hàng chục nghìn người Hoa bị giết hại trong phong trào chống Cộng ở Indonesia. Sau sự kiện này, các trường dạy tiếng Trung Quốc bị đóng cửa, chữ viết Trung Quốc bị cấm. Chính quyền cũng cấm người Hoa tổ chức những ngày lễ, tết truyền thống, hạn chế nói tiếng Trung Quốc ở nơi công cộng. Các quan chức cho rằng ngôn ngữ Trung Quốc đối với người Indonesia cũng "nguy hiểm như vũ khí". Mãi đến thời cựu tổng thống Abdurrahman Wahid, tình hình mới dễ thở hơn cho người Hoa ở Indonesia - họ được phép sử dụng chữ viết của mình và kỷ niệm những ngày lễ, tết truyền thống. Trong cuộc biến động năm 1998, tâm lý thù ghét người Hoa khiến họ bị biến thành mục tiêu của bạo lực. Tháng 5/1998, những phần tử cực đoan đã cướp bóc, đốt tài sản của Hoa kiều, tấn công nhiều người. Gần 170 phụ nữ gốc Trung Quốc bị cưỡng hiếp, hậu quả là 20 người chết Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc xâm chiếm quân sự dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor. Từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Một cuộc dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện năm 2005. Địa lý Indonesia gồm 13.487 hòn đảo, khoảng 6.000 trong số đó không có người ở. Các hòn đảo nằm rải rác ở cả hai phía đường xích đạo. Năm hòn đảo lớn nhất là Java, Sumatra, Kalimantan (phần Borneo thuộc Indonesia), New Guinea (cùng chung với Papua New Guinea), và Sulawesi. Indonesia có biên giới trên bộ với Malaysia trên hòn đảo Borneo và Sebatik, Papua New Guinea trên đảo New Guinea, và Đông Timor trên đảo Timor. Indonesia cũng có chung biên giới với Singapore, Malaysia, và Philippines ở phía bắc và Australia ở phía nam bằng một dải nước hẹp. Thủ đô, Jakarta, nằm trên đảo Java là thành phố lớn nhất nước, sau đó là Surabaya, Bandung, Medan, và Semarang. Với đặc điểm địa lý trên, Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo". Với diện tích 1.907.540 km² (741.050 dặm vuông), Indonesia là nước đứng thứ 14 trên thế giới về diện tích đất liền. Mật độ dân số trung bình là 142 người trên km² (347 trên dặm vuông), đứng thứ 80 trên thế giới, dù Java, hòn đảo đông dân nhất thế giới, có mật độ dân số khoảng hơn 1000 người trên km² (2.435 trên dặm vuông). Nằm ở độ cao 4.884 mét (16.024 ft), Puncak Jaya tại Papua là đỉnh cao nhất Indonesia, và hồ Toba tại Sumatra là hồ lớn nhất, với diện tích 1.145 km² (442 dặm vuông). Các con sông lớn nhất nước này nằm ở Kalimantan, và gồm các sông Mahakam và Barito; những con sông này là các đường giao thông quan trọng nối giữa các khu định cư trên đảo. Indonesia nằm trên các rìa của các mảng Thái Bình Dương, Âu-Á, và Úc khiến nước này trở thành nơi có nhiều núi lửa và thường xảy ra các vụ động đất. Indonesia có ít nhất 150 núi lửa đang hoạt động, gồm cả Krakatoa và Tambora, cả hai núi lửa này đều đã có những vụ phun trào gây phá hủy lớn trong thế kỷ XIX. Vụ phun trào siêu núi lửa Toba khoảng 70.000 năm trước, là một trong những vụ phun trào lớn nhất từng xảy ra và là một thảm họa toàn cầu. Những thảm họa gần đây liên quan tới hoạt động kiến tạo gồm vụ sóng thần năm 2004 đã giết hại tổng cộng gần 230.000 người và khoảng 168.000 người tính riêng phía bắc Sumatra, và trận động đất Yogyakarta năm 2006. Tuy nhiên, tro núi lửa là một yếu tố đóng góp vào sự màu mỡ của đất trong lịch sử từng giúp nuôi sống mật độ dân cư dày tại Java và Bali. Nằm dọc theo xích đạo, Indonesia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa mưa và khô riêng biệt. Lượng mưa trung bình hàng năm tại các vùng đất thấp khoảng từ 1.780–3.175 milimét (70–125 in), và lên tới 6.100 milimét (240 in) tại các vùng núi. Các vùng đồi núi—đặc biệt ở bờ biển phía tây Sumatra, Tây Java, Kalimantan, Sulawesi, và Papua—có lượng mưa lớn nhất. Độ ẩm nói chung cao, trung bình khoảng 80%. Nhiệt độ ít thay đổi trong năm; trung bình tại Jakarta là 26–30 °C (79–86 °F). Rừng nhiệt đới ẩm chiếm gần 2/3 diện tích lãnh thổ. Đất canh tác 8% (3% được tưới), đồng cỏ 10%, rừng và cây bụi 67%, các đất khác 15%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, niken, bauxit, đồng, than, vàng, bạc. Sinh thái Diện tích, khí hậu nhiệt đới cùng với hình thế địa lý quần đảo của Indonesia khiến nước này có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ hai thế giới—chỉ sau Brazil— và hệ động thực vật của nó là sự pha trộn của các giống loài châu Á và Australasia. Khi còn kết nối với lục địa châu Á, thềm Sunda (Sumatra, Java, Borneo, và Bali) có hệ động vật châu Á rất phong phú. Các loài thú lớn như hổ, tê giác, đười ươi, voi, và báo, từng hiện diện với số lượng lớn tới tận phía đông Bali, nhưng số lượng và diện tích phân bố của chúng đã giảm mạnh, đặc biệt ở Indonesia có loài Rồng komodo (Varanus komodoensis) là loài thằn lằn lớn nhất thế giới, chiều dài con lớn trung bình 2–3 m. Đây là một loại thuộc họ kỳ đà, (Varanidae), và sống trên nhiều đảo của Indonesia, năm 2011 con vật này đã được chọn làm biểu tượng linh vật của SEA Games 26. Rừng bao phủ khoảng 60% đất nước. Tại Sumatra và Kalimantan, có rất nhiều loài động vật châu Á. Tuy nhiên, rừng đang suy giảm, và số lượng dân cư đông đảo tại Java càng khiến tình trạng phá rừng tăng cao lấy đất sinh sống và canh tác. Sulawesi, Nusa Tenggara, và Maluku—từng tách rời khỏi lục địa từ lâu—đã phát triển hệ động thực vật của riêng mình. Papua từng là một phần của lục địa Úc, và là nơi có hệ động vật duy nhất có liên quan gần gũi với hệ động thực vật Australia, với hơn 600 loài chim. Indonesia đứng thứ hai chỉ sau Australia về mức độ loài đặc hữu, với 26% trong tổng số 1.531 loài chim và 39% trong tổng số 515 loài có vú là động vật đặc hữu. Bờ biển dài 80.000 kilômét (50.000 dặm) của Indonesia được bao quanh bởi các biển nhiệt đới cũng đóng góp vào mức độ đa dạng sinh thái cao của nước này. Indonesia có nhiều hệ sinh thái biển và bờ biển, gồm các bãi biển, đụn cát, cửa sông, bãi lầy, rặng san hô, bãi cỏ biển, bãi bùn ven biển, bãi thủy triều, bãi tảo, và các hệ sinh thái nhỏ trong đất liền. Nhà tự nhiên học người Anh, Alfred Wallace, đã mô tả về một đường ranh giới phần bố giữa các loài châu Á và châu Úc. Được gọi là đường Wallace, chạy gần theo hướng bắc nam dọc theo cạnh Thềm Sunda, giữa Kalimantan và Sulawesi, và dọc theo Eo Lombok sâu, giữa Lombok và Bali. Phía tây đường này hệ động thực vật mang nhiều đặc điểm châu Á; về phía đông Lombok, hệ động thực vật dần mang đặc điểm Australia. Trong cuốn sách The Malay Archipelago năm 1869, Wallace đã miêu tả nhiều loài động vật duy chỉ có ở vùng này. Vùng đảo giữa đường Wallace và New Guinea hiện được gọi là Wallacea. Dân số cao và cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng của Indonesia đặt ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng và thường không được chú trọng nhiều vì mức độ nghèo đói cao cũng như sự quản lý yếu kém với các nguồn tài nguyên. Các vấn đề này gồm phá rừng trên quy mô lớn (đa số là trái phép) và những trận cháy rừng gây ra những đám khói dày che phủ nhiều vùng phía tây Indonesia, Malaysia và Singapore; khai thác quá mức các nguồn tài nguyên biển; và các vấn đề môi trường đi liền với sự đô thị hóa và phát triển kinh tế quá nhanh, gồm ô nhiễm không khí, tắc đường, quản lý rác, và xử lý nước thải. Phá hủy môi trường sống đe doạ sự tồn tại của các loài bản địa và đặc hữu, gồm 140 loài thú được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xác định là đang bị đe dọa, và 15 loài được coi là bị đe dọa tuyệt chủng, gồm cả đười ươi Sumatra (Sumatran Orangutan). Nhân khẩu Dân số quốc gia theo cuộc tổng điều tra năm 2000 là 206 triệu người, và Văn phòng Thống kê Trung ương Indonesia và Thống kê Indonesia ước tính dân số năm 2006 là 222 triệu người., và năm 2012 đã đạt 249 triệu người, là quốc gia đông dân nhất khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 3 châu Á và đứng thứ 4 thế giới. Với 130 triệu người, Java là đảo đông dân nhất thế giới hiện nay. Dù có một chương trình kế hoạch hóa gia đình khá hiệu quả được thực thi từ thập niên 1960, dân số nước này được cho sẽ tăng lên khoảng 315 triệu người năm 2035, dựa trên mức ước tính tỷ lệ tăng hàng năm hiện nay là 1,25%. Đa số người Indonesia là hậu duệ của những người nói các thứ tiếng Nam Đảo có nguồn gốc từ Đài Loan. Các nhóm chính khác gồm người Melanesia, sống ở phía đông Indonesia. Có khoảng 300 sắc tộc bản địa khác nhau tại Indonesia, và 742 ngôn ngữ cùng thổ ngữ. Nhóm đông nhất là người Java, chiếm 42% dân số, và có ưu thế văn hóa cũng như chính trị. Người Sunda, Malay, và Madur là các nhóm lớn nhất ngoài Java. Bản sắc địa phương của các sắc tộc được duy trì bên cạnh một tình cảm quốc gia Indonesia mạnh mẽ. Xã hội phần lớn hài hòa, dù các căng thẳng xã hội, tôn giáo và sắc tộc đã gây ra những vụ bạo lực kinh khủng. Người Indonesia gốc Hoa là sắc tộc thiểu số có ảnh hưởng dù chiếm chưa tới 1% dân số. Đa số lĩnh vực thương mại và tài sản tư nhân quốc gia đều thuộc sự kiểm soát của người Hoa, điều này góp phần gây ra sự oán giận to lớn, và thậm chí bạo lực chống lại người Hoa. Ngôn ngữ quốc gia, tiếng Indonesia, được dạy trong các trường học và đại học, và được sử dụng bởi hầu hết mọi người dân Indonesia. Đây là ngôn ngữ được dùng trong thương mại, chính trị, truyền thông quốc gia, giáo dục và hàn lâm. Về nguồn gốc nó từng là một ngôn ngữ chung cho hầu hết cả vùng, gồm cả nước Malaysia hiện nay, và vì thế có quan hệ chặt chẽ với tiếng Malaysia. Tiếng Indonesia lần đầu tiên được những người theo chủ nghĩa quốc gia truyền bá vào thập niên 1920, và đã được tuyên bố là ngôn ngữ chính thức khi nước này giành độc lập năm 1945. Đa số người dân Indonesia nói ít nhất một trong hàng trăm ngôn ngữ địa phương (bahasa daerah), thường như tiếng mẹ đẻ. Trong số các ngôn ngữ đó, tiếng Java được sử dụng nhiều nhất bởi nó là ngôn ngữ của nhóm sắc tộc lớn nhất. Mặt khác, Papua có 500 hay nhiều hơn các ngôn ngữ bản địa thuộc nhóm Papua hay Nam Đảo, trong một vùng chỉ có 2,7 triệu dân. Đa số những người lớn tuổi hiện nay vẫn có thể nói tiếng Hà Lan ở một mức độ nào đó. Dù tự do tôn giáo đã được quy định trong Hiến pháp Indonesia, chính phủ chính thức công nhận chỉ sáu tôn giáo: Hồi giáo; Tin Lành; Công giáo La Mã; Ấn Độ giáo; Phật giáo; và Nho giáo. Dù không phải là một nhà nước Hồi giáo, Indonesia là quốc gia có đa số tín đồ Hồi giáo, với 86,1% người dân tuyên bố là tín đồ đạo này theo cuộc điều tra dân số năm 2000. Indonesia có 9% dân số là tín đồ Kitô giáo (trong đó khoảng hai phần ba theo Tin Lành), 3% là tín đồ Hindu giáo, và 2% là tín đồ Phật giáo hay tôn giáo khác. Đa số tín đồ Hindu Indonesia là người Bali, và đa số tín đồ Phật giáo tại Indonesia ngày nay là người Hoa. Dù hiện là tôn giáo thiểu số, Hindu giáo và Phật giáo vẫn có ảnh hưởng trong văn hóa Indonesia. Hồi giáo lần đầu được người dân Indonesia chấp nhận ở miền bắc Sumatra trong thế kỷ XIII, thông qua ảnh hưởng từ các thương nhân, và đã trở thành tôn giáo chiếm ưu thế tại quốc gia này từ thế kỷ XVI. Cơ đốc giáo La Mã lần đầu được đưa tới Indonesia bởi những người thực dân và các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha thời kỳ đầu, và phái Tin Lành chủ yếu phát triển nhờ những nhà truyền giáo người Hà Lan phái Calvin và Luther trong thời kỳ thực dân tại đây. Một tỷ lệ lớn người dân Indonesia-như người abangan Java, người Hindu giáo Bali, và người Kitô giáo Dayak-thực hành một dạng tôn giáo dung hợp và ít chính thống hơn, dựa trên các phong tục và tín ngưỡng địa phương. Phân cấp hành chính Về mặt hành chính, Indonesia gồm 38 tỉnh, trong đó năm tỉnh có quy chế đặc biệt. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp và thống đốc riêng. Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện (kabupaten) và các thành phố (kota), chúng lại được chia tiếp thành các quận (kecamatan), và các nhóm làng (hoặc desa hay kelurahan). Sau khi áp dụng các biện pháp vùng tự trị năm 2001, các huyện và các thành phố đã trở thành các đơn vị hành chính chủ chốt, chịu trách nhiệm cung cấp hầu hết dịch vụ nhà nước. Cấp hành chính làng là đơn vị có ảnh hưởng lớn nhất tới cuộc sống thường ngày của người dân, và giải quyết các vấn đề của làng hay khu vực lân cận thông qua một lurah hay kepala desa (trưởng làng) do dân bầu. Các tỉnh Aceh, Jakarta, Yogyakarta, Papua, và Tây Papua có mức độ tự trị và ưu tiên hành pháp cao hơn từ chính quyền trung ương so với các tỉnh khác. Ví dụ, chính phủ Aceh, có quyền thiết lập một hệ thống luật pháp độc lập; năm 2003, tỉnh này đã cho ra đời một hình thức Sharia (Luật Hồi giáo). Yogyakarta được trao vị thế Vùng Đặc biệt để ghi nhận vai trò nòng cốt của nó trong việc hỗ trợ những người Cộng hòa Indonesia thời Cách mạng Indonesia. Papua, thường được gọi bằng Irian Jaya, đã được hưởng một quy chế tự chủ đặc biệt từ năm 2001. Jakarta là vùng thủ đô đặc biệt của quốc gia. Các tỉnh của Indonesia và thủ phủ Dấu † chỉ các tỉnh có quy chế đặc biệt Sumatra Aceh† – Banda Aceh Bắc Sumatra (Sumatera Utara) – Medan Tây Sumatra (Sumatera Barat) – Padang Riau – Pekanbaru Quần đảo Riau (Kepulauan Riau) – Tanjung Pinang Jambi – Jambi Nam Sumatra (Sumatera Selatan) – Palembang Bangka-Belitung (Kepulauan Bangka-Belitung) – Pangkal Pinang Bengkulu – Bengluku Lampung – Bandar Lampung Java Jakarta† – Jakarta Banten – Serang Tây Java (Jawa Barat) – Bandung Trung Java (Jawa Tengah) – Semarang Vùng đặc biệt Yogyakarta† (Daerah Istimewa Yogyakarta) – Yogyakarta Đông Java (Jawa Timur) – Surabaya Quần đảo Sunda nhỏ/ (Nusa Tenggara) Bali – Denpasar Tây Nusa Tenggara (Nusa Tenggara Barat) – Mataram Đông Nusa Tenggara (Nusa Tenggara Timur) – Kupang Kalimantan Tây Kalimantan (Kalimantan Barat) – Pontianak Trung Kalimantan (Kalimantan Tengah) – Palangkaraya Nam Kalimantan (Kalimantan Selatan) – Banjarmasin Đông Kalimantan (Kalimantan Timur) – Samarinda Bắc Kalimantan (Kalimantan Utara) – Tanjung Selor Sulawesi Bắc Sulawesi (Sulawesi Utara) – Manado Gorontalo – Gorontalo Trung Sulawesi (Sulawesi Tengah) – Palu Tây Sulawesi (Sulawesi Barat) – Mamuju Nam Sulawesi (Sulawesi Selatan) – Makassar Đông Nam Sulawesi (Sulawesi Tenggara) – Kendari Quần đảo Maluku Maluku – Ambon Bắc Maluku (Maluku Utara) – Sofifi Tây New Guinea Papua Cao nguyên (Papua Pegunungan) – Wamena Nam Papua (Papua Selatan) – Merauke Tây Papua† (Papua Barat) – Manokwari Tây Nam Papua (Papua Barat Daya) – Sorong Trung Papua (Papua Tengah) – Nabire Papua† – Jayapura Chính phủ và chính trị Indonesia là một nước cộng hòa với một hệ thống tổng thống. Với tư cách một quốc gia đơn nhất, quyền lực tập trung trong tay chính phủ trung ương. Sau cuộc từ chức của Tổng thống Suharto năm 1998, chính trị Indonesia và các cơ cấu chính phủ đã trải qua những cuộc cải cách lớn. Bốn sửa đổi đã được tiến hành với Hiến pháp Indonesia năm 1945 sắp xếp lại các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Tổng thống Indonesia là lãnh đạo quốc gia, tổng tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Indonesia, và là người chịu trách nhiệm quản lý nhà nước, lập chính sách cùng quan hệ đối ngoại. Tổng thống chỉ định một hội đồng bộ trưởng, các thành viên của hội đồng không buộc phải là các thành viên được bầu của nghị viện. Cuộc bầu cử tổng thống năm 2004 là cuộc bầu cử đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu ra tổng thống và phó tổng thống. Tổng thống có thể phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp. Cơ quan đại diện cao nhất ở cấp quốc gia là Hội nghị Hiệp thương Nhân dân (MPR). Các chức năng chính của cơ quan này là hỗ trợ và sửa đổi hiến pháp, chứng nhận tổng thống nhậm chức, chính thức hoá các khuôn khổ của chính sách quốc gia. Cơ quan này có quyền buộc tội tổng thống. MPR gồm hai viện; Hội đồng Đại diện Nhân dân (DPR), với 550 thành viên, và Hội đồng Đại diện Khu vực (DPD), với 128 thành viên. DPR thông qua các luật và giám sát nhánh hành pháp; các thành viên thuộc các đảng chính trị được bầu với nhiệm kỳ 5 năm theo đại diện tỷ lệ. Những cải cách từ năm 1998 đã làm tăng đáng kể vai trò của DPR trong việc điều hành quốc gia. DPD hiện là một cơ quan mới chịu trách nhiệm quản lý khu vực. Đa số các tranh chấp dân sự đều được đưa ra trước Tòa Nhà nước; các vụ phúc thẩm được xử tại Tòa Cấp cao. Tòa án Tối cao là tòa cấp cao nhất của nhà nước, và đưa ra phán quyết cuối cùng về các vụ phúc thẩm sau khi đã xem xét lại vụ việc. Các tòa khác gồm Tòa Thương mại, xử các vụ phá sản và mất khả năng thanh toán, một Tòa án Hành chính Quốc gia xử các vụ về luật hành chính chống lại chính phủ; một Tòa án Hiến pháp xử các vụ về tính hợp pháp của pháp luật, các cuộc bầu cử, giải tán các đảng chính trị, và phạm vi quyền lực của các định chế nhà nước; và một Tòa án Tôn giáo để xử các vụ án tôn giáo riêng biệt. Ngoại giao Trái với tình cảm chống chủ nghĩa thực dân và những căng thẳng với Malaysia thời Sukarno, quan hệ ngoại giao của Indonesia từ thời chính sách "Trật tự Mới" của Suharto đã được đặt trên cơ sở hợp tác kinh tế và chính trị với các quốc gia phương Tây. Indonesia duy trì quan hệ gần gũi với các nước láng giềng ở Châu Á, và là một thành viên sáng lập của ASEAN cùng Hội nghị cấp cao Đông Á. Quốc gia này đã tái lập quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1990 sau một thời gian đóng băng bởi quan điểm chống cộng thời đầu cầm quyền của Suharto. Indonesia đã là một thành viên của Liên hiệp quốc từ năm 1950, và là một nước sáng lập Tổ chức không liên kết (NAM) và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC). Indonesia tham gia vào thỏa thuận Vùng Tự do Thương mại ASEAN, Nhóm Cairns, và WTO, và trong lịch sử từng là một thành viên của OPEC, dù đã rút lui vào năm 2008 bởi họ không còn là một nước xuất khẩu dầu mỏ. Indonesia đã nhận được viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển từ năm 1966, đặc biệt từ Hoa Kỳ, Tây Âu, Australia, và Nhật Bản. Chính phủ Indonesia đã làm việc với các quốc gia khác để ngăn chặn và truy tìm những kẻ đánh bom có liên quan tới các du kích Hồi giáo và Al-Qaeda. Vụ gây tổn thất nhiều nhân mạng nhất đã giết hại 202 người, gồm 164 du khách quốc tế, ở thị xã nghỉ mát thuộc Bali Kuta năm 2002. Những vụ tấn công, và những cảnh báo du lịch được đưa ra sau đó bởi các quốc gia khác, đã làm thiệt hại nghiêm trọng ngành công nghiệp du lịch và đầu tư nước ngoài. Quân sự Quân đội Indonesia được đánh giá là lực lượng quân sự thiện chiến nhất khu vực Đông Nam Á.Các lực lượng vũ trang Indonesia (TNI) với 300.000 thành viên gồm Quân đội (TNI-AD), Hải quân (TNI-AL, gồm cả thủy quân lục chiến), và Không quân (TNI-AU). Quân đội có khoảng 233.000 lính thường trực. Chi phí quốc phòng trong ngân sách quốc gia khoảng 4% GDP năm 2006, và được cung cấp thêm bởi các khoản lợi nhuận từ thương mại và các quỹ của quân đội. Giai đoạn hậu Suharto từ năm 1998, đại diện thường trực của quân đội trong nghị viện đã bị bãi bỏ; dù bị giảm uy thế, ảnh hưởng chính trị của quân đội vẫn còn rất lớn. Các phong trào ly khai tại các tỉnh Aceh và Papua đã dẫn tới xung đột vũ trang, và những cáo buộc vi phạm nhân quyền cũng như sự tàn ác từ tất cả các phía. Sau một cuộc chiến du kích không thường xuyên kéo dài khoảng ba mươi năm giữa Phong trào Tự do Aceh (GAM) và quân đội Indonesia, một thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết năm 2005. Tại Papua, đã có những điều luật tự trị cấp vùng quan trọng, dù vẫn chưa hoàn thiện và được áp dụng đầy đủ, và những vụ bạo lực cũng như vi phạm nhân quyền đã giảm bớt, từ khi Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono lên cầm quyền. Kinh tế Năm 2019, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Indonesia ước khoảng 1.112 tỷ đô la (3.585 tỷ đô la theo PPP), đứng thứ 16 thế giới, đứng thứ 5 châu Á và đứng số 1 Đông Nam Á. Năm 2016, ước tính GDP bình quân đầu người danh nghĩa là 3,362 đô la, và GDP trên đầu người theo sức mua tương đương (PPP) là 12,422 (đô la quốc tế). Lĩnh vực dịch vụ là ngành lớn nhất của nền kinh tế và chiếm 45,3% GDP (2005). Tiếp theo là công nghiệp (40,7%) và nông nghiệp (14,0%). Tuy nhiên, nông nghiệp sử dụng nhiều lao động hơn các lĩnh vực khác, chiếm 44,3% trong tổng số lực lượng lao động 95 triệu người. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ (36,9%) và công nghiệp (18,8%). Các ngành công nghiệp chính gồm dầu mỏ và khí thiên nhiên, dệt, may, và khai thác mỏ. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm dầu cọ, gạo, chè, cà phê, gia vị, và cao su. Các thị trường xuất khẩu chính của Indonesia (2005) là Nhật Bản (22,3%), Hoa Kỳ (13,9%), Trung Quốc (9,1%), và Singapore (8,9%). Indonesia nhập khẩu nhiều hàng của Nhật Bản (18,0%), Trung Quốc (16,1%), và Singapore (12,8%). Năm 2005, Indonesia có thặng dư thương mại, với kim ngạch xuất khẩu đạt 83,64 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 62,02 tỷ. Nước này có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn, gồm dầu mỏ, khí tự nhiên, thiếc, đồng, và vàng. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Indonesia gồm máy móc và thiết bị, hoá chất, nhiên liệu và các mặt hàng thực phẩm. Trong thập kỷ 1960, nền kinh tế đã suy giảm nghiêm trọng vì sự bất ổn chính trị, một chính phủ trẻ và không có kinh nghiệm, và chủ nghĩa kinh tế quốc gia yếu kém, dẫn tới tình trạng nghèo đói nghiêm trọng. Sau khi chế độ Sukarno sụp đổ hồi giữa thập niên 1960, chính sách Trật tự Mới đã mang lại một mức độ kỷ lục cho chính sách kinh tế nhanh chóng làm giảm lạm phát, ổn định tiền tệ, tái cơ cấu nợ nước ngoài, và thu hút đầu tư cũng như viện trợ từ nước ngoài. Indonesia là thành viên duy nhất của OPEC tại Đông Nam Á, và sự bùng nổ giá dầu mỏ thời thập niên 1970 đã mang lại một nguồn thu xuất khẩu lớn giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Sau những cải cách thêm nữa hồi thập niên 1980, Đầu tư nước ngoài đổ vào Indonesia, đặc biệt vào những khu vực chế tạo phát triển nhanh và định hướng xuất khẩu, và từ năm 1989 tới năm 1997, kinh tế Indonesia phát triển với tốc độ trung bình trên 7%. Indonesia là nước chịu tác động mạnh nhất từ cuộc Khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997–1998. Tỷ giá tiền tệ nước này so với đồng đô la Mỹ đã giảm từ khoảng 2.000 Rp tới 18.000 Rp, và nền kinh tế giảm 13,7%. Từ đó đồng rupiah đã ổn định ở mức trong khoảng 10.000 Rp/dollar, và đã xuất hiện dấu hiệu khôi phục kinh tế quan trọng tuy còn chậm chạp. Sự bất ổn chính trị, cải cách kinh tế chậm chạp và tham nhũng ở mọi cấp độ chính phủ và kinh doanh từ năm 1998 đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phục hồi kinh tế. Ví dụ, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Indonesia đứng hạng 143 trên 180 nước trong bảng Chỉ số nhận thức tham nhũng của họ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP đã vượt 5% trong cả hai năm 2004 và 2005, và được dự báo sẽ còn tăng thêm. Mặc dù vậy, tốc độ tăng này chưa đủ mạnh đề dẫn tới một sự thay đổi lớn trong tỷ lệ thất nghiệp, và mức tăng lương, giá nhiên liệu và gạo tăng cao càng làm trầm trọng hơn vấn đề đói nghèo. Năm 2006, ước tính 17,8% dân số sống dưới mức mức nghèo khổ, 49,0% dân số sống với chưa tới 2 đô la mỗi ngày, và tỷ lệ thất nghiệp ở mức 9,75%. Người Hoa là thế lực chi phối nền kinh tế Indonesia. Người Hoa chỉ chiếm 2,5% trong tổng dân số Indonesia, nhưng lại kiểm soát tới trên 70% kinh tế nước này, trong đó kiểm soát trên 75% ngành sản xuất bánh mì, miến, kiểm soát 80% ngành may mặc, 65% ngành nhuộm và 80% ngành lâm sản. Cuối năm 1993, 68% doanh nghiệp quy mô lớn của Indonesia do người Hoa kiểm soát Văn hóa Indonesia có khoảng 300 nhóm sắc tộc, mỗi nhóm có văn hóa khác biệt và đã phát triển qua nhiều thế kỷ, với ảnh hưởng từ Ấn Độ, Ả Rập, Trung Quốc, Malaysia và châu Âu. Ví dụ, các điệu múa truyền thống Java và Bali chứa đựng các yếu tố văn hóa và thần thoại trong văn hóa Hindu, wayang kulit (rối bóng) cũng tương tự. Những loại vải dệt như batik, ikat và songket được sản xuất trên khắp đất nước Indonesia nhưng theo kiểu cách khác biệt tùy theo vùng. Ảnh hưởng lớn nhất trên kiến trúc Indonesia đến từ kiến trúc Ấn Độ; tuy nhiên, những ảnh hưởng kiến trúc từ Trung Quốc, Ả Rập và châu Âu cũng khá quan trọng. Là quốc gia đa tôn giáo, các lễ hội ở Indonesia rất đa dạng, với các lễ hội như: Tết Tahun Baru Saka (của người theo đạo Hindu), Tết Tahun Baru Hijiriah (của người theo Hồi giáo), Tết Tahun Baru Imlek (ngày lễ quốc gia Indonesia), Lễ hội Kasada, Ramadan. Tuy nhiên cũng có mang tính chất hủ tục như lễ hội Pon. Hàng nghìn du khách và người hành hương tụ tập trong một ngôi đền trên ngọn núi thiêng Gunung Kemukus để tiến hành một nghi thức liên quan đến tình dục. Để nhận được may mắn và lời cầu chúc của các vị thần, du khách phải quan hệ với cùng một người liên tục 7 lần suốt 35 ngày. Những người tham gia phải ngâm mình và tắm trong nước suối để tẩy rửa thân thể, sau đó mỗi người tìm một người lạ để ghép đôi. Cặp đôi sẽ tiến hành quan hệ ngay trong đêm cử hành nghi lễ. Đối tác không được phép là vợ hay chồng của người đó. Ẩm thực Indonesia khác biệt theo vùng tuỳ theo ảnh hưởng của Trung Quốc, châu Âu, Trung Đông hay Ấn Độ. Gạo là thực phẩm chính và được dùng cùng với thịt và rau. Các loại gia vị (có nhiều ớt), nước cốt dừa, cá và gà là các thành phần chính. Âm nhạc truyền thống Indonesia gồm gamelan và keroncong. Dangdut là một thể loại nhạc pop đương đại phổ thông có ảnh hưởng từ âm nhạc dân gian Ả Rập, Ấn Độ và Malaysia. Công nghiệp điện ảnh Indonesia phát triển mạnh trong thập niên 1980 và chiếm hầu hết các rạp chiếu bóng, dù tới đầu thập niên 1990 nó bắt đầu hơi suy giảm. Từ năm 2000 tới năm 2005, số lượng phim Indonesia được phát hành hàng năm đã liên tục tăng lên. Bằng chứng cổ nhất về chữ viết tại Indonesia là một loạt bản ghi chép bằng tiếng Phạn có niên đại từ thế kỷ thứ V. Những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong văn học hiện đại Indonesia gồm: tác gia Hà Lan Multatuli, người đã chỉ trích cách đối xử với người dân Indonesia thời cai trị thuộc địa Hà Lan; các nhân vật người Sumatra Muhammad Yamin và Hamka, là những nhà chính trị và tác gia ủng hộ độc lập quốc gia nổi tiếng; và tác gia vô sản Pramoedya Ananta Toer, nhà tiểu thuyết nổi tiếng nhất Indonesia. Nhiều người Indonesia có kiểu giọng địa phương rõ rệt, giúp xác định và duy trì bản sắc văn hóa của họ. Tự do truyền thông tại Indonesia đã tăng lên đáng kể từ khi chế độ Tổng thống Suharto chấm dứt, thời ấy Bộ Thông tin, nay đã bị bãi bỏ, giám sát và kiểm soát truyền thông trong nước, ngăn chặn truyền thông nước ngoài. Thị trường TV gồm mười mạng lưới truyền thông thương mại, và các mạng lưới địa phương cạnh tranh với TVRI của nhà nước. Các đài phát sóng tư nhân thực hiện bản tin của riêng mình và các chương trình khác lấy từ đài nước ngoài. Với 25 triệu người sử dụng năm 2008, Internet chỉ phố biến tới một bộ phận nhỏ người dân, xấp xỉ 10.5%. Các môn thể thao thông dụng tại Indonesia là cầu lông và bóng đá; Liga Indonesia là giải vô địch cấp cao nhất của các câu lạc bộ bóng đá tại Indonesia. Các môn thể thao truyền thống gồm sepak takraw, và chạy đấu bò tại Madura. Tại các vùng có lịch sử chiến tranh giữa các bộ tộc, những cuộc thi đánh trận giả thường được tổ chức, như caci tại Flores, và pasola tại Sumba. Pencak Silat là một môn võ Indonesia. Các môn thể thao tại Indonesia nói chung thường dành cho phái nam và các khán giả cũng thường tham gia vào hoạt động cá cược cờ bạc.
Myanmar (), tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Myanmar, còn gọi là Miến Điện (tên chính thức cho đến năm 1989), là một quốc gia tại Đông Nam Á. Myanmar có biên giới với Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào và Thái Lan. Một phần ba tổng chu vi của Myanmar là đường bờ biển giáp với vịnh Bengal và biển Andaman. Theo số liệu điều tra nhân khẩu năm 2014, Myanmar có 51 triệu cư dân. Myanmar có diện tích 676.577 km² (261.288 mi²). Thủ đô của quốc gia này là Naypyidaw còn thành phố lớn nhất là Yangon. Các nền văn minh ban đầu tại Myanmar gồm có các thị quốc Pyu nói tiếng Tạng-Miến tại khu vực Thượng Miến và các vương quốc Mon tại khu vực Hạ Miến. Đến thế kỷ IX, người Miến tiến đến thung lũng Thượng Irrawaddy, họ lập nên Vương quốc Pagan trong thập niên 1050, và sau đó ngôn ngữ-văn hóa Miến cùng Phật giáo Nam Tông dần dần chiếm ưu thế tại Myanmar. Vương quốc Pagan sụp đổ trước các cuộc xâm chiếm của quân Mông Cổ, và xuất hiện một số quốc gia thường xuyên giao chiến với nhau. Đến thế kỷ XVI, Myanmar tái thống nhất dưới Triều Taungoo, sau đó từng trở thành quốc gia lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á. Đến đầu thế kỷ XIX, lãnh thổ của triều Konbaung bao gồm Myanmar ngày nay và cũng từng kiểm soát Manipur và Assam trong thời gian ngắn. Người Anh chiếm được Myanmar sau ba cuộc chiến tranh trong thế kỷ XIX và quốc gia này trở thành một thuộc địa của Anh. Myanmar trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1948, ban đầu là một quốc gia dân chủ, song nằm dưới chế độ độc tài quân sự sau cuộc đảo chính năm 1962. Trong hầu hết thời gian độc lập, Myanmar xảy ra xung đột dân tộc tràn lan, trở thành một trong các cuộc nội chiến kéo dài nhất vẫn đang diễn ra. Thời gian này, Liên Hợp Quốc và một số tổ chức khác ghi nhận các tội ác vi phạm nhân quyền tại đây. Năm 2011, chính quyền quân sự chính thức giải tán sau tổng tuyển cử năm 2010, và một chính phủ dân sự trên danh nghĩa nhậm chức. Điều này cùng với hành động phóng thích Aung San Suu Kyi và các tù nhân chính trị, đã cải thiện hồ sơ nhân quyền và quan hệ ngoại giao của Myanmar, kéo theo nới lỏng các chế tài mậu dịch và kinh tế khác. Trong tổng tuyển cử năm 2015, đảng của Aung San Suu Kyi giành đa số tại lưỡng viện quốc hội, song các lãnh đạo quân sự vẫn nắm giữ quyền lực rất lớn trong nước, và đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 thì phát động chính biến giành lại quyền lực. Myanmar giàu tài nguyên ngọc và đá quý, dầu mỏ, khí thiên nhiên và các loại khoáng sản khác. Năm 2016, GDP danh nghĩa ở mức 68.277 tỷ USD và GDP theo sức mua tương đương đạt 6,501 tỷ USD. Khoảng cách thu nhập tại Myanmar nằm vào hàng rộng nhất trên thế giới, do phần lớn kinh tế nằm dưới quyền kiểm soát của những người ủng hộ chính phủ quân sự cũ. , Myanmar có chỉ số phát triển con người HDI ở mức thấp, xếp thứ 148 trong số 188 quốc gia được đánh giá. Tên gọi "Miến Điện" hay "Diến Điện" (chữ Hán: 緬甸) là tên nước này được người Việt Nam đọc theo cách gọi của người Trung Quốc. "Miến" có nghĩa là xa tắp, xa vời, xa tít tắp. "Điện" là chỉ vùng đất nằm bên ngoài "giao". Theo cách gọi của người Trung Quốc thì tường trong của thành gọi là "thành", tường ngoài gọi là "quách". Vùng ngoại vi của quách gọi là "giao". Vùng đất bên ngoài giao gọi là "điện", cách thành khoảng từ một trăm dặm trở lên. "Miến Điện" ý là vùng ngoại thành xa xôi. Myanmar là tên gọi bắt nguồn từ tên địa phương Myanmar Naingngandaw. Nó được sử dụng vào đầu thế kỷ XII nhưng nguồn gốc của nó vẫn còn chưa được sáng tỏ. Một gốc của tên gọi này là từ Brahmadesh trong tiếng Phạn có nghĩa là "mảnh đất của Brahma", vị thần Hindu giáo của mọi sinh vật. Năm 1989, hội đồng quân sự đổi tên tiếng Anh từ Burma thành Myanmar, cùng với nhiều thay đổi trong tên gọi tiếng Anh của nhiều vùng trong đất nước, chẳng hạn tên gọi trước kia của thủ đô đổi từ Rangoon thành Yangon. Tuy vậy, tên chính thức của đất nước trong tiếng Myanmar là Myanmar vẫn không đổi. Trong tiếng Myanmar, Myanmar là tên quốc gia, trong khi Bama (Burma lấy nguồn gốc từ đây) là tên gọi thông dụng. Sự thay đổi trong tên gọi là biểu hiện của một cuộc tranh cãi chính trị. Nhiều nhóm người Myanmar tiếp tục sử dụng tên "Burma" vì họ không chấp nhận tính hợp pháp của chính quyền quân sự cũng như sự đổi tên đất nước. Một vài chính phủ phương Tây, chẳng hạn Hoa Kỳ, Úc, Ireland và Anh tiếp tục sử dụng tên "Burma", trong khi Liên minh châu Âu sử dụng cả hai. Liên Hợp Quốc sử dụng tên "Myanmar". Việc sử dụng tên "Burma" vẫn còn phổ biến ở Hoa Kỳ và Anh. Trong tiếng Anh, người ta vẫn dùng từ "Burmese" như một tính từ. Sau khi giành được độc lập từ Đế quốc Anh, Myanmar đã sử dụng các quốc hiệu sau: Liên bang Miến Điện: 1948-1974 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Burma: 1974-1988 Liên bang Myanmar: 1988-2011 (từ năm 1989 thì quốc hiệu tiếng Anh dùng Myanmar thay cho Burma) Cộng hòa Liên bang Myanmar: 2010-nay Ngoài ra, người miền tây Nam Bộ ngày xưa còn gọi nước Burma là nước Cù Là (nguồn gốc tên dầu cù là - một loại dầu thoa ngoài da người Việt hay dùng). Lịch sử Người Môn được cho là nhóm người đầu tiên di cư tới vùng hạ lưu châu thổ sông Ayeyarwady (ở phía nam Myanmar) và tới khoảng giữa thập niên 900 trước Công nguyên họ đã giành quyền kiểm soát khu vực này. Sau đó, vào thế kỷ thứ I trước Công nguyên, người Pyu di cư tới đây và tiến tới xây dựng các thành bang có quan hệ thương mại với Ấn Độ và Trung Quốc. Trong đó, mạnh nhất là vương quốc Sri Ksetra, nhưng nó bị từ bỏ năm 656. Sau đó, một quá trình tái lập quốc diễn ra, nhưng đến giữa thập niên 800 thì bị người Nam Chiếu xâm lược. Vào khoảng trước những năm 800, người Bamar (người Miến Điện) bắt đầu di cư tới châu thổ Ayeyarwady từ Tây Tạng hiện nay. Tới năm 849, vương quốc họ đã thành lập xung quanh trung tâm Pagan trở nên hùng mạnh. Trong giai đoạn Anawratha trị vì (1044-1077), người Miến Điện đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanmar hiện nay. Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan, thường được gọi là Đế chế Miến Điện thứ nhất với kinh đô tại Mandalay. Tới cuối thập niên 1200, Hốt Tất Liệt đã thống lĩnh quân Mông Cổ xâm lược Vương quốc Pagan, nhưng tới năm 1364 người Miến Điện đã tái lập vương quốc của họ tại Ava, nơi văn hóa Miến Điện bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, vào năm 1527 người Shan cướp phá Ava. Trong lúc ấy người Mon thiết lập địa điểm mới của họ tại Pegu, nơi này đã trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hóa lớn. Những người Miến Điện đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, dưới quyền Tabinshwehti, người đã tái thống nhất Miến Điện và lập ra Đế chế Miến Điện thứ hai. Vì sự ảnh hưởng ngày càng tăng từ châu Âu ở Đông Nam Á, Vương quốc Toungoo trở thành một trung tâm thương mại lớn. Bayinnaung đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục các lãnh thổ Manipur, Chiang Mai, Ayutthaya, Shan, Nagaland, Tripura, Mizoram, Assam, Sikkim, Bhutan, Chittagong, Dhaka, Rajshahi, Rangpur và một số vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc gồm Đức Hoành, Nộ Giang, Bảo Sơn và Phổ Nhĩ. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Toungoo. Anaukpetlun, người đã đẩy lùi cuộc xâm lăng của Bồ Đào Nha, đã lập nên một vương triều mới tại Ava năm 1613. Cuộc nổi dậy trong nước của người Mon, với sự trợ giúp của Pháp, khiến vương quốc sụp đổ năm 1752. Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Miến Điện thứ ba vào khoảng thập niên 1700. Năm 1767, Vua Hsinbyushin chinh phục Ayutthaya và Ceylon dẫn tới việc văn hóa Thái Lan và văn hóa Ceylon có ảnh hưởng lớn tới văn hóa Miến Điện. Nhà Thanh (Trung Quốc) lo ngại sự lớn mạnh của Miến Điện, đã bốn lần xâm lược nước này trong khoảng thời gian từ 1766 đến 1769 nhưng không lần nào thành công. Các triều đại sau này mất quyền kiểm soát Ayutthaya, nhưng chiếm thêm được Arakan và Tenasserim. Dưới thời cai trị của Vua Bagyidaw, năm 1824, Mahabandoola chiếm Assam, sát lãnh thổ Anh ở Ấn Độ, gây nên một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc chiến tranh Anh-Miến (1823-26, 1852-53 và 1885-87), Miến Điện mất một số lãnh thổ vào tay người Anh và trở thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Ngày 1 tháng 4 năm 1937, Miến Điện trở thành một thuộc địa hành chính riêng biệt, độc lập khỏi quyền hành chính Ấn Độ. Trong thập niên 1940, Ba mươi chiến hữu, do Aung San lãnh đạo đã lập nên Quân đội Miến Điện độc lập. Ba mươi chiến hữu được huấn luyện quân sự tại Nhật Bản. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Sau những thắng lợi ban đầu của Nhật Bản tại Mặt trận Miến Điện, trong đó người Anh bị đẩy lùi khỏi đa phần Miến Điện, Đồng Minh đã phản công. Tới tháng 7 năm 1945 họ đã chiếm lại toàn bộ nước này. Người Miến Điện chiến đấu cho cả hai phía trong cuộc chiến. Họ chiến đấu trong Đội quân Miến Điện Anh năm 1941-1942. Năm 1943, Chin Levies và Kachin Levies đã được thành lập ở các quận biên giới Miến Điện và vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Anh. Đội quân Miến Điện chiến đấu trong thành phần Chindit dưới quyền Tướng Orde Wingate từ 1943-1945. Ở giai đoạn sau của cuộc chiến, người Mỹ đã lập ra Đội biệt kích Kachin-Hoa Kỳ cũng chiến đấu cho quân Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác chiến đấu trong lực lượng SOE của Anh. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của Aung San và Quân đội quốc gia Arakan đã chiến đấu với Nhật Bản từ 1942-1944, nhưng đã nổi lên chống lại người Nhật năm 1945. Năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Ủy ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác. Ngày 4 tháng 1 năm 1948, quốc gia này trở thành một nước cộng hòa độc lập, với cái tên Liên bang Myanmar, với Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Không giống như đa số các thuộc địa của Anh, nước này không trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh bởi vì họ đã giành lại độc lập trước khi Khối thịnh vượng chung cho phép các nước cộng hòa trở thành một thành viên của nó. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia. Vùng địa lý hiện nay của Myanmar có thể suy ngược từ Thỏa ước Panglong, là toàn bộ Miến Điện gồm Hạ Miến và Thượng Miến và Các vùng biên giới, đã từng được quản lý hành chính độc lập bởi Anh Quốc. Năm 1961 U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên hiệp quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc; ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và đã đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên hiệp quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi. Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1974, Myanmar lấy quốc hiệu mới là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Miến Điện. Cùng năm này, đám tang của U Thant dẫn tới một cuộc biểu tình chống chính phủ đẫm máu. Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đẩy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó, Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ông thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang (SLORC). Myanmar quay trở lại quốc hiệu Liên bang Myanmar. Năm sau, quốc hiệu bằng tiếng Anh đổi từ Union of Burma thành Union of Myanmar. Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5 năm 1989. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vòng 30 năm. Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392 trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC hủy bỏ và họ từ chối giao lại quyền lực. SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành Myanmar năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã tiến hành các thỏa thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992, SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1 năm 1993. Năm 1997, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang được đổi tên thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang (SPDC). Ngày 23 tháng 6 năm 1997, Myanmar được chấp nhận gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hoãn lại. Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất và có ít tiến bộ đã được hoàn thành. Ngày 27 tháng 3 năm 2006, hội đồng quân sự đã di chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa "vùng đất của những ông vua". Năm 2010, quốc hiệu của Myanmar đổi thành Cộng hòa Liên bang Myanmar (tiếng Myanmar: ပြည်ထောင်စု သမ္မတ မြန်မာနိုင်ငံတော်, tiếng Anh: Republic of the Union of Myanmar). Năm 2021, với các cáo buộc gian lận bầu cử, vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, quân đội Myanmar đã tiến hành đảo chính. Các chính khách dân sự được bầu trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11 năm 2021 bị phế truất và quyền điều hành đất nước được trao lại cho Tatmadaw, đặt dấu chấm hết cho thời kỳ dân chủ đã bắt đầu từ 2011 của Myanmar. Chính trị Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanmar. Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanmar. Lãnh đạo Nhà nước là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Hòa Bình và Phát triển Quốc gia". Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại. Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10 năm 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý. Các đảng chính trị lớn ở Myanmar gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ và Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đảng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại. Tại Myanmar ít có khoan dung chính trị cho phe đối lập và nhiều đảng đã bị đặt ngoài vòng pháp luật. Đảng Thống nhất Quốc gia đại diện cho quân đội, và được sự ủng hộ của một tổ chức to lớn tên gọi Hiệp hội Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển. Theo nhiều tổ chức, gồm cả Human Rights Watch và Amnesty International, chính quyền này có bản thành tích nhân quyền kém cỏi. Không có tòa án độc lập tại Myanmar và đối lập chính trị với chính phủ quân sự không hề được khoan dung. Truy cập Internet tại Myanmar bị hạn chế chặt chẽ thông qua các phần mềm lọc các trang web có thể truy cập đối với công dân, hạn chế đa số các trang đối lập chính trị và ủng hộ dân chủ. Lao động cưỡng bức, buôn người và lao động trẻ em là điều thông thường, và bất đồng chính trị không được khoan dung. Năm 1988, quân đội Myanmar đã dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối sự quản lý kinh tế yếu kém và sự áp bức chính trị. Ngày 8 tháng 8 năm 1988, quân đội nổ súng vào những người biểu tình trong vụ việc được gọi là cuộc Nổi dậy 8888 (Cuộc biểu tình 8888). Tuy nhiên, cuộc biểu tình năm 1988 đã dọn đường cho cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Kết quả của cuộc bầu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, do Aung San Suu Kyi lãnh đạo, thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử 1990, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Aung San Suu Kyi được quốc tế công nhận là một nhà hoạt động vì dân chủ tại Myanmar, đoạt Giải Nobel Hòa bình năm 1991. Bà đã nhiều lần bị quản thúc tại gia. Dù có lời kêu gọi trực tiếp từ Kofi Annan tới Than Shwe và áp lực của ASEAN, hội đồng quân sự Myanmar vẫn kéo dài thời hạn quản thúc tại gia đối với Aung San Suu Kyi thêm một năm ngày 27 tháng 5 năm 2006 theo Luật Bảo vệ Quốc gia năm 1975, trao cho chính phủ quyền cầm giữ hợp pháp bất kỳ người nào. Hội đồng quân sự này phải đối mặt với sự cô lập quốc tế. Vào tháng 12 năm 2005, lần đầu tiên tình trạng của Myanmar đã được thảo luận không chính thức tại Liên hiệp quốc. ASEAN cũng đã bày tỏ sự thất vọng của mình với chính phủ Myanmar. Tổ chức này đã thành lập Cuộc họp kín liên nghị viện ASEAN để bàn bạc về sự thiếu dân chủ tại Myanmar. Sự thay đổi chính trị lớn ở nước này hiện vẫn khó xảy ra, vì sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc. Ngày 8 tháng 11 năm 2015, hàng chục triệu người dân Myanmar đã đi bỏ phiếu với kỳ vọng vào tương lai trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1990. Kết quả cuộc bầu cử được công bố cụ thể vào sáng ngày 10 tháng 11 năm 2015. Ước tính khoảng 10.000 quan sát viên đã có mặt theo dõi tiến trình bầu cử tại Myanmar. Chính phủ triển khai hơn 40.000 cảnh sát đặc nhiệm giám sát các điểm bầu cử. Rất nhiều chợ, nhà hàng ở Yangon đóng cửa để đảm bảo an toàn. Chiều ngày 10 tháng 11 năm 2015, bà Aung San Suu Kyi, lãnh đạo đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ (NLD) Myanmar tuyên bố đảng của bà giành khoảng 75% trong tổng số ghế Quốc hội. Trong đó, NLD có 96 ghế, bao gồm 49 ghế hạ viện. Đảng Đoàn kết phát triển liên bang (USDP) cầm quyền chỉ có 3 ghế hạ viện. Tuy nhiên, quân đội Myanmar vẫn sẽ nắm giữ nhiều quyền lực chính trị. Ngày 30 tháng 3 năm 2016, ông Htin Kyaw, một đồng minh thân cận của bà Aung San Suu Kyi chính thức trở thành tổng thống dân sự đầu tiên của Myanmar, chấm dứt gần 50 năm đất nước Myanmar nằm dưới sự cai trị của giới độc tài quân sự, nhưng đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 thì quân đội phát động chính biến để giành lại quyền lực. Quan hệ đối ngoại Quan hệ ngoại giao của Myanmar, đặc biệt với các nước phương Tây, đã rơi vào tình trạng căng thẳng. Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt rộng lớn với Myanmar vì sự đàn áp quân sự năm 1988 và vì sự từ chối thừa nhận các kết quả cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990 của chế độ quân sự. Tương tự, Liên minh châu Âu đã áp đặt lệnh cấm vận lên Myanmar, gồm cả cấm vận vũ khí, ngừng ưu tiên thương mại và hoãn toàn bộ viện trợ ngoại trừ viện trợ nhân đạo. Những biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu chống lại chính phủ quân sự, cộng với sự tẩy chay và những sức ép trực tiếp khác từ người dân ở các nước phương Tây ủng hộ phong trào dân chủ Myanmar, khiến đa số các công ty Hoa Kỳ và châu Âu phải rời khỏi nước này. Tuy nhiên, nhiều công ty khác vẫn còn ở lại nhờ các kẽ hở của biện pháp cấm vận. Nói chung các tập đoàn ở châu Á vẫn muốn đầu tư vào Myanmar và tiến hành thực hiện các dự án đầu tư mới, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Công ty dầu mỏ Pháp Total S.A. hiện đang điều hành đường ống dẫn khí Yadana từ Myanmar tới Thái Lan dù có lệnh cấm vận của Liên minh châu Âu. Total hiện là bị đơn của nhiều vụ khiếu kiện tại Pháp liên quan tới cái gọi là mối quan hệ với những vụ vi phạm nhân quyền liên quan tới đường ống dẫn khí họ đang đồng sở hữu với các công ty Hoa Kỳ Chevron và Tatmadaw. Trước khi bị Chevron thâu tóm, Unocal đã giải quyết một vụ kiện tụng liên quan tới nhân quyền với phí tổn được thông báo lên tới nhiều triệu dollar. Vẫn còn những cuộc tranh cãi sôi nổi về việc liệu các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ có mang lại kết quả trái ngược trên cuộc sống của người dân chứ không phải với những nhà cầm quyền quân sự. Chính sách đối ngoại của Myanmar là quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới đặc biệt với các nước láng giềng, khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Myanmar là thành viên của Tổ chức ASEAN, Phong trào không liên kết và Liên Hợp Quốc. Từ khi Myanmar được kết nạp vào ASEAN (tháng 7 năm 1997), quan hệ Myanmar với các nước ASEAN ngày càng được tăng cường và cải thiện. Myanmar tích cực tham gia các hoạt động của ASEAN, kiên trì bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ và đồng thuận của ASEAN để bảo vệ lợi ích của mình. Hiện nay, Mỹ và EU điều chỉnh chính sách với Myanmar theo hướng mềm mỏng hơn, triển khai cả hai biện pháp là trừng phạt và tiếp cận nhằm đạt được cùng mục tiêu; Mỹ sẽ từng bước dỡ bỏ cấm vận và cải thiện quan hệ nếu Myanmar đáp ứng yêu cầu của Mỹ, có những tiến bộ thực chất. Tuy bị sức ép mạnh của chính quyền Mỹ và các nước phương Tây, nhưng quan hệ của Myanmar với các tổ chức phi chính phủ hoặc có tính nhân dân của các nước phương Tây, kể cả Mỹ, Anh vẫn được duy trì. Các nước này vẫn tiếp tục giúp đỡ Myanmar các dự án xây dựng trường học, giúp đào tạo y tế, dân sinh... Quân sự Các lực lượng vũ trang Myanmar được gọi là Tatmadaw, với số lượng 488.000 người. Tatmadaw gồm các lực lượng vũ trang, hải quân và không quân. Myanmar được xếp hạng thứ 10 trên thế giới theo số lượng binh lính của mình. Quân đội có nhiều ảnh hưởng trong nước, các vị trí chủ chốt trong chính phủ và trong quân đội đều do các sĩ quan quân sự nắm giữ. Dù những con số chính thức về chi tiêu quân sự của Myanmar không được công bố, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong bảng xếp hạng hàng năm của mình đã đặt Myanmar trong số 15 nước chi tiêu quân sự nhiều nhất thế giới. Đầu tháng 2/2011,Quốc hội Myanmar đã bầu Thủ tướng mãn nhiệm trước đây là tướng lãnh, ông Thein Sein làm tổng thống dân sự đầu tiên sau gần 50 năm cầm quyền của quân đội. Hành chính Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính. Vùng lớn nhất là Bamar (တိုင်းဒေသကြီး). Các bang (ပြည်နယ်), thực chất, là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận. Các vùng và bang của Myanmar lại được chia thành các huyện (kayaing). Bang Shan là bang có nhiều (11) huyện nhất. Các bang Chin, bang Mon và bang Kayah chỉ có hai huyện mỗi bang. Địa lý Myanmar có tổng diện tích 678.500 kilômét vuông (261.970 dặm vuông), là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan. Myanmar nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2.185 km (1.358 dặm). Myanmar giáp biên giới với Lào và Thái Lan ở phía đông nam. Myanmar có đường bờ biển dài 1.930 km (1.199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới. Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn canh tác lúa gạo]] Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5.881 m (19.295 feet), là điểm cao nhất Myanmar. Các dãy núi Rakhine Yoma, Bago Yoma và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanmar, cả ba đều chạy theo hướng bắc-nam từ dãy Himalaya. Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanmar, là Ayeyarwady, Thanlwin và Sittang. Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanmar, gần 2.170 km (1.348 dặm), chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi. Đa số dân cư Myanmar sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan. Đa phần diện tích Myanmar nằm giữa Hạ chí tuyến và Xích đạo. Myanmar nằm trong vùng gió mùa châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5.000 mm (197 in) hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2.500 mm (98 in), trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanmar, chưa tới 1.000 mm (39 in). Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21 °C (70 °F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có nhiệt độ trung bình 32 °C (90 °F). Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nước. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đới. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn. Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng Thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn và rùa. Hàng trăm loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng. Năm 1994, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, wolfram, chì, than, đá quý. Kinh tế Myanmar là một trong những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau khi một chính phủ nghị viện được thành lập năm 1948, Thủ tướng U Nu đã nỗ lực biến Miến Điện trở thành một quốc gia thịnh vượng. Chính quyền của ông đã thông qua Kế hoạch kinh tế hai năm nhưng tiếc thay đây là một kế hoạch sai lầm. Vụ đảo chính năm 1962 tiếp sau là một kế hoạch phát triển kinh tế được gọi là Con đường Miến Điện tiến tới Chủ nghĩa xã hội, một kế hoạch nhằm quốc hữu hóa mọi ngành công nghiệp, ngoại trừ nông nghiệp. Năm 1989, chính phủ Myanmar bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự do hóa một số lĩnh vực kinh tế. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Myanmar bị liệt vào hạng nước kém phát triển nhất năm 1987. Từ năm 1992, khi Than Shwe lên lãnh đạo quốc gia, chính phủ đã khuyến khích du lịch. Tuy nhiên, chưa tới 750.000 du khách tới nước này hàng năm. Các doanh nghiệp tư nhân thường là đồng sở hữu hay thuộc sở hữu trực tiếp của Tatmadaw. Trong những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế. Nhiều quốc gia khác, trong đó gồm cả Hoa Kỳ, Canada và Liên minh châu Âu, đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar. Đầu tư nước ngoài chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao. Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng. Ngày nay, Myanmar thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi hàng hóa chủ yếu qua biên giới với Thái Lan, và đó cũng là đầu mối xuất khẩu ma túy lớn nhất, và dọc theo Sông Ayeyarwady. Đường sắt cũ kỹ và mới ở mức kỹ thuật sơ khai, hiếm khi được sửa chữa từ khi được xây dựng trong thập niên 1800. Đường giao thông thường không được trải nhựa, trừ tại các thành phố lớn. Thiếu hụt năng lượng là điều thường thấy trong nước, kể cả tại Yangon. Myanmar cũng là nước sản xuất thuốc phiện lớn thứ hai thế giới, chiếm 8% tổng lượng sản xuất toàn cầu và là nguồn cung cấp các tiền chất ma túy lớn gồm cả amphetamines. Các ngành công nghiệp khác gồm sản phẩm nông nghiệp, dệt may, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng, kim cương, kim loại, dầu mỏ và khí ga. Việc thiếu hụt nguồn nhân công trình độ cao cũng là một vấn đề ngày càng tăng đối với kinh tế Myanmar. Nông nghiệp chiếm 59,5% GDP và 65,9% lao động. Công nghiệp chế biến chiếm 7,1% GDP và 9,1% lao động; khai khoáng 0,5% GDP và 0,7% lao động; xây dựng 2,4% GDP và 2,2% lao động; thương mại 23,2% GDP và 9,7% lao động; tài chính, dịch vụ và công chính 1,5% GDP và 8,1% lao động. GDP/đầu người: 2.399 USD (1995); GNP/đầu người: 2610 USD (1996). Sản phẩm nông nghiệp chính (1999): lúa 17 triệu tấn, mía 5,4 triệu tấn, đậu 1,9 triệu tấn, lạc 562 nghìn tấn, ngô 303 nghìn tấn, vừng 210 nghìn tấn, bông 158 nghìn tấn. Chăn nuôi: bò 10,7 triệu, lợn 3,7 triệu, trâu 2,4 triệu, cừu và dê 1,7 triệu, vịt 6,1 triệu, gà 39 triệu. Gỗ tròn 22,4 triệu m³ (1998). Đánh bắt cá 917,7 nghìn tấn (1997). Sản phẩm công nghiệp chính: khai khoáng (đồng 14,6 nghìn tấn, thạch cao 40,6 nghìn tấn, chì 1,6 nghìn tấn, thiếc 154 tấn); chế biến (xi măng 513 nghìn tấn, phân hóa học 66 nghìn, đường 43 nghìn; 1996). Năng lượng (1996): điện 4,3 tỉ kW.h, than 72 nghìn tấn, dầu thô 2,8 triệu thùng, khí đốt 1,6 tỉ m³. Giao thông: đường sắt 3955 km (1999-2000), đường bộ 28,2 nghìn km (1996, rải nhựa 12%). Xuất khẩu (1997-98) 5,4 tỉ kyat (nông sản 26,9%, gỗ và cao su 15,7%). Bạn hàng chính: Singapore 13,2%; Thái Lan 11,9%; Ấn Độ 22,6%; Trung Quốc 10,6%; Hồng Kông 5,8%. Nhập khẩu (1997-98) 12,7 tỉ kyat (máy móc và thiết bị vận tải 28,6%, tư liệu sản xuất 48%, hàng tiêu dùng 4,3%). Bạn hàng chính: Singapore 31,1%, Thái Lan 9,8%, Trung Quốc 9,4%, Malaysia 7%. Đơn vị tiền tệ: kyat Myanmar. Tỷ giá hối đoái: 1USD = 1,400 kyat (04/2020) Tính đến năm 2016, GDP của Myanmar đạt 68.277 tỷ USD, đứng thứ 73 thế giới, đứng thứ 25 châu Á và đứng thứ 7 Đông Nam Á. Nhân khẩu Myanmar có dân số là 51,419,420 theo điều tra nhân khẩu năm 2014 . Có hơn 600.000 công nhân nhập cư Myanmar có đăng ký tại Thái Lan, và hàng triệu người lao động bất hợp pháp khác. Những công nhân nhập cư Myanmar chiếm 80% số lao động nhập cư tại Thái Lan. Mật độ dân số bình quân của Myanmar là 75 người trên km², một trong những mức thấp nhất vùng Đông Nam Á. Các trại tị nạn tồn tại dọc theo biên giới Ấn Độ-Myanmar, Bangladesh-Myanmar và Myanmar-Thái Lan và hàng ngàn người khác sống tại Malaysia. Những ước tính thận trọng cho rằng hơn 295.800 người tị nạn từ Myanmar, đa số là người Rohingya, Kayin và Karenni. Myanmar rất đa dạng về chủng tộc dân cư. Dù chính phủ công nhận 135 dân tộc khác nhau, con số thực thấp hơn nhiều. Người Bamar chiếm khoảng 68% dân số, 10% là người Shan. Người Kayin chiếm 7% dân số, người Rakhine chiếm 4%. Người Hoa chiếm gần 3% dân số. Người Môn, chiếm 2% dân số, là nhóm người có quan hệ dân tộc và ngôn ngữ với người Khmer. Người Ấn chiếm 2%. Số còn lại là người Kachin, Chin và các nhóm thiểu số khác. Myanmar có bốn ngữ hệ chính: Hán-Tạng, Nam Á, Tai-Kadai và Ấn-Âu. Các ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng được sử dụng nhiều nhất. Chúng gồm tiếng Myanmar, tiếng Karen, Kachin, tiếng Chin và tiếng Hoa. Ngôn ngữ Tai-Kadai chính là tiếng Shan. Tiếng Môn là ngôn ngữ Nam Á chính được sử dụng ở Myanmar. Hai ngôn ngữ Ấn-Âu chính là tiếng Pali, ngôn ngữ dùng trong nghi thức của Phật giáo Nguyên Thủy và tiếng Anh. Theo Viện Thống kê UNESCO, tỷ lệ biết đọc biết viết chính thức của Myanmar năm 2000 là 89,9%. Về mặt lịch sử, Myanmar có tỷ lệ biết chữ cao. Nhằm đạt mức đánh giá tình trạng quốc gia kém phát triển của Liên hiệp quốc để được cho vay vốn, Myanmar đã hạ thấp mức biết chữ của nước mình từ 78,6% xuống còn 18,7% năm 1987. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính số người biết chữ thực là 30%. Phật giáo tại Myanmar chủ yếu là phái Nguyên Thủy hòa trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Nguyên Thủy, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon và Hoa. 4% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Cơ Đốc giáo là Tin Lành, đặc biệt là phái Baptist của Giáo đoàn Baptist Myanmar. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni. Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả Rập, Panthay và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Cơ Đốc giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập. Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo. Quyền con người Có sự đồng thuận rằng chế độ độc tài quân sự cũ ở Myanmar (1962–2010) là một trong những chế độ đàn áp và khắc nghiệt nhất trên thế giới . Vào tháng 11 năm 2012, Samantha Power, trợ lý đặc biệt về nhân quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama, đã viết trên blog của Nhà Trắng trước chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Myanmar rằng: "Lạm dụng nhân quyền nghiêm trọng chống lại thường dân ở một số khu vực tiếp tục diễn ra, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em." Các thành viên của Liên Hợp Quốc và các tổ chức nhân quyền quốc tế lớn đã đưa ra các báo cáo lặp đi lặp lại và nhất quán về tình trạng vi phạm nhân quyền lan rộng và có hệ thống ở Myanmar. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã nhiều lần kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar tôn trọng nhân quyền vào tháng 11/2009 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết "lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm liên tục về quyền con người và quyền tự do cơ bản" và kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar "thực hiện các biện pháp khẩn cấp để chấm dứt vi phạm luật phap quốc tế về nhân quyền và nhân đạo." Các tổ chức nhân quyền quốc tế bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế và Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Hoa Kỳ đã nhiều lần ghi nhận và lên án các vụ vi phạm nhân quyền trên diện rộng ở Myanmar. Vào tháng 7 năm 2013, Hiệp hội hỗ trợ các tù nhân chính trị chỉ ra rằng có khoảng 100 tù nhân chính trị bị giam giữ trong các nhà tù Myanmar Những cáo buộc về tội ác và diệt chủng đối với người Rohingya Người Rohingya đã liên tục phải đối mặt với các hành vi phạm nhân quyền bởi chính quyền Myanmar, họ thậm chí còn không được chính quyền Myanmar công nhận là công dân của nước này. Người Rohingya đã bị từ chối quyền công dân Myanmar kể từ khi ban hành Luật công dân 1982. Luật đã tạo ra ba loại quyền công dân: công dân, công dân liên kết và công dân nhập tịch. Quyền công dân được trao cho các dân tộc như Kachin, Kayah (Karenni), Karen, Chin, Burman, Mon, Rakhine, Shan, Kaman, hoặc Zerbadee. Công dân liên kết được trao cho những người không thể chứng minh được rằng tổ tiên của họ đã định cư tại Myanmar trước năm 1823, nhưng có thể chứng minh họ có một ông bà, hoặc tổ tiên trước năm 1823, là công dân của một quốc gia khác, cũng như những người nộp đơn xin nhập tịch vào năm 1948 và đủ điều kiện theo luật hồi đó. Công dân nhập tịch chỉ dành cho những người có ít nhất một trong hai người cha hoặc mẹ thuộc một trong hai loại công dân Miến Điện trên hoặc có thể cung cấp "bằng chứng kết luận" rằng cha mẹ họ đã nhập cư và cư trú tại Miến Điện từ trước khi nước này dành độc lập vào năm 1948. Chính phủ Myanmar đã cố gắng trục xuất người Rohingya ra khỏi đất nước và đưa những người không phải là người Rohingyas thay thế họ - chính sách này đã dẫn đến việc trục xuất khoảng một nửa (400.000) người Rohingya ra khỏi Myanmar. Người Rohingya được mô tả "một trong những dân tộc thiểu số bị đàn áp nhiều nhất thế giới" . Người Rohingya cũng không được phép di chuyển mà không có sự cho phép, bị cấm sở hữu đất đai và phải ký cam kết không có nhiều hơn hai con. Đến tháng 7 năm 2012, người Rohingya vẫn không nằm trong danh sách hơn 130 dân tộc tại Myanmar của chính phủ, kể từ năm 1982 họ được chính phủ Myanmar phân loại là người Hồi giáo Bengali không quốc tịch có nguồn gốc từ Bangladesh - do đó, chính phủ Myanmar tuyên bố rằng những người Rohingya không được cấp quốc tịch Myanmar . Kể từ khi quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ bắt đầu vào năm 2011, bạo lực vẫn tiếp tục xảy ra khi 280 người Rohingya thiệt mạng và 140.000 người buộc phải chạy trốn khỏi nhà của họ ở bang Rakhine . Một phái viên của Liên Hợp Quốc đưa tin vào tháng 3 năm 2013 rằng tình trạng bất ổn đã tái xuất hiện giữa cộng đồng Phật giáo và Hồi giáo của Myanmar, với bạo lực lan rộng đến các thị trấn nằm gần Yangon hơn . Bạo loạn bang Rakhine năm 2012 Bạo động tại bang Rakhine năm 2012 là một loạt các cuộc xung đột đang diễn ra chủ yếu giữa những người Phật tử Rakhine và những người Hồi giáo Rohingya ở bang Rakhine phía bắc của Myanmar, dù đến tháng 10 năm 2012 thì người Hồi giáo thuộc tất cả các dân tộc khác ở quốc gia này đã bắt đầu trở thành mục tiêu bị tấn công. Các cuộc bạo loạn diễn ra sau nhiều tuần tranh chấp bè phái và đã bị lên án bởi hầu hết mọi người ở cả hai phía của cuộc xung đột. Nguyên nhân trực tiếp của các cuộc bạo loạn là không rõ ràng, với nhiều nhà bình luận đưa ra việc người Rakhine Phật giáo giết chết mười người Miến Điện Hồi giáo sau vụ hãm hiếp và giết chết một phụ nữ dân tộc Rakhine là nguyên nhân chính. Chính phủ Myanmar phản ứng bằng cách áp đặt lệnh giới nghiêm và bằng cách triển khai quân đội ở khu vực. Ngày 10 tháng 6, tình trạng khẩn cấp đã được loan báo trong Rakhine, cho phép quân đội tham gia vào việc quản lý khu vực Đến thời điểm 22 tháng 8 năm 2012, chính thức đã có 88 trường hợp bị giết chết – 57 người Hồi giáo và 31 người theo Phật giáo. Ước tính có khoảng 90.000 người đã bị dời chỗ ở do bạo động. Khoảng 2.528 ngôi nhà bị đốt cháy, và của những người, 1.336 ngôi nhà thuộc người Rohingya và 1192 ngôi nhà thuộc về người Rakhine. Quân đội Miến Điện và cảnh sát bị cáo buộc đóng vai trò hàng đầu trong việc nhắm mục tiêu vào người Rohingya thông qua việc bắt giữ hàng loạt và bạo lực độc đoán.. Một số tổ chức của các nhà sư Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh dân chủ của Myanmar đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn bất kỳ sự hỗ trợ nhân đạo nào cho cộng đồng người Rohingya. Khủng hoảng di cư Rohingya năm 2015 Cuộc khủng hoảng người tị nạn Rohingya 2015 là sự cố gắn liền với sự di dân bất hợp pháp của hàng nghìn người Rohingya từ Myanmar, được phương tiện truyền thông quốc tế gọi chung là "thuyền nhân", tới Đông Nam Á bao gồm các nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan bằng tàu thuyền vượt qua eo biển Malacca và biển Andaman. Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn ước tính có khoảng 25.000 người từ tháng 1-3/2015 lên thuyền vượt biên. Có những tuyên bố rằng khoảng 100 người đã thiệt mạng tại Indonesia, 200 tại Malaysia và 10 tại Thái Lan, khi bị những kẻ buôn người bỏ lại trên biển. Theo ước tính có khoảng 140.000 người trong số từ 800.000-1,1 triệu người Rohingya đã buộc phải tìm nơi ẩn náu tại các trại di dời sau cuộc bạo loạn bang Rakhine năm 2012. Để thoát khỏi sự trấn áp và chính sách khủng bố hơn 100,000 đã chạy trốn khỏi Myanmar bằng đường biển kể từ năm 2012. Một ước tính có khoảng 3000 thuyền nhân Myanmar và Bangladesh đã được giải cứu hoặc bơi vào bờ, vài nghìn người vẫn bị mắc kẹt trên thuyền ngoài biển với rất ít thức ăn và nước. Cuộc khủng hoảng do những kẻ buôn người gây ra. Cuộc đàn áp người Rohingya tại Myanmar 2016-17 Theo báo cáo của chính quyền Myanmar vào ngày 09 Tháng Mười 2016, một số cá nhân có vũ trang đã tấn công nhiều trạm cảnh sát biên phòng ở bang Rakhine khiến chín nhân viên cảnh sát tử vong. Vũ khí và đạn dược cũng bị cướp mất. Các cuộc tấn công lớn đã diễn ra tại thị trấn Maungdaw của nhà nước. Danh tính của những kẻ tấn công vẫn chưa được biết, mặc dù nó đã được cho là một nhóm tách khỏi Tổ chức Đoàn Kết Rohingya. Sau sự kiện trạm cảnh sát, quân đội Miến Điện đã bắt đầu một chiến dịch đàn áp lớn trong các làng mạc phía bắc của bang Rakhine. Trong cuộc hành quân khởi đầu, hàng chục người đã thiệt mạng và nhiều người đã bị bắt giữ. Số thương vong đã gia tăng theo diễn tiến của cuộc đàn áp. Những vụ bắt giữ tùy tiện, hạ thủ, hiếp dâm tàn bạo nhắm vào dân thường, và cướp bóc đã được thực hiện. Theo báo cáo của giới truyền thông, hàng trăm người Rohingya đã bị giết tính đến tháng 12 năm 2016, và nhiều người đã chạy trốn khỏi Myanmar với tư cách tị nạn để tìm nơi trú ẩn trong các khu vực lân cận của Bangladesh. Cuối tháng Mười một, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền HRW công bố hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng có khoảng 1250 ngôi nhà của người Rohingya trong năm ngôi làng đã bị thiêu rụi bởi các lực lượng an ninh. Các phương tiện truyền thông và các tổ chức nhân quyền thường xuyên báo cáo các hành vi xâm phạm nhân quyền nghiêm trọng của quân đội Myanmar. Trong một biến cố vào tháng Mười Một, quân đội Myanmar đã sử dụng máy bay trực thăng để bắn giết dân làng. Tính đến tháng 11 năm 2016, Myanmar vẫn chưa cho phép các giới truyền thông và các tổ chức nhân quyền vào những khu vực bị đàn áp. Do đó, các con số chính xác về thương vong dân sự vẫn chưa được rõ. Bang Rakhine đã được gọi là một "hố đen về thông tin". Những người đã chạy trốn khỏi Myanmar để thoát cuộc đàn áp đã báo cáo rằng phụ nữ bị hiếp dâm, nam giới bị giết chết, nhà nhà bị đốt phá, và trẻ em bị ném vào các ngôi nhà đang bốc cháy. Thuyền bè chở người tị nạn Rohingya trên sông Naf thường bị bắn hạ bởi quân đội Myanmar. Ngày 03 tháng 2 năm 2017, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền công bố một báo cáo dựa trên các cuộc phỏng vấn với hơn 200 người tị nạn Rohingya, trong đó nói rằng các ngược đãi bao gồm hiếp dâm tập thể, giết người hàng loạt, và thảm sát trẻ em. Gần một nửa số người được phỏng vấn nói rằng các thành viên gia đình của họ đã bị giết hại. Một nửa số phụ nữ được phỏng vấn nói rằng họ đã bị cưỡng hiếp hoặc tấn công tình dục: báo cáo mô tả bạo hành tình dục là "quy mô và có hệ thống". Quân đội và cảnh sát tuyên bố đã đốt cháy "nhà cửa, trường học, chợ búa, cửa hàng và đền thờ Hồi giáo" thuộc sở hữu hoặc được sử dụng bởi những người Rohingya. Văn hóa Dù có nhiều nền văn hóa bản xứ tồn tại ở Myanmar, nền văn hóa chiếm vị trí trọng yếu là Phật giáo và Bamar. Văn hóa Bamar từng bị ảnh hưởng từ các nền văn hóa các nước xung quanh. Nó được biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ thuật, đặc biệt là văn học, trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi văn hóa Phật giáo Nam truyền Miến Điện. Nếu coi thiên sử thi quốc gia của Myanmar, Yama Zatdaw, là một sự phóng tác theo Ramayana, thì nó đã mang nhiều nét ảnh hưởng lớn từ các văn bản Thái, Mon và Ấn Độ của vở kịch này. Phật giáo đi sâu vào văn hóa và là cốt lõi của văn hóa Myanmar. Trong các làng Myanmar truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hóa. Các nhà sư được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ. Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn. Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai (နားသွင်း) khi đến tuổi trưởng thành. Văn hóa Myanmar được thể hiện rõ rệt nhất tại những ngôi làng nơi các lễ hội địa phương được tổ chức trong suốt năm, lễ hội quan trọng nhất là lễ chùa. Nhiều làng xã ở Myanmar có quy ước, các phong tục và những điều cấm kị riêng. Thời kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây trong văn hóa Myanmar. Hệ thống giáo dục Myanmar theo khuôn mẫu hệ thống giáo dục Anh Quốc. Những ảnh hưởng kiến trúc thuộc địa là điều dễ nhận thấy nhất tại các thành phố lớn như Yangon. Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Karen ở phía đông nam và người Kachin, người Chin sống ở phía bắc và tây bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà truyền giáo. Ngôn ngữ Tiếng Myanmar, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanmar, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc. Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Môn. Bảng chữ cái này được phỏng theo ký tự Môn, ký tự Môn được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong thập niên 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Nguyên Thủy. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác. Tiếng Mayanmar sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác. Xã hội Myanmar truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ. Ẩm thực Ẩm thực Myanmar bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác. Món chủ yếu trong ẩm thực Myanmar là gạo. Mỳ và bánh mì cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Myanmar thường sử dụng tôm, cá, patê cá lên men, thịt lợn và thịt cừu. Thịt bò, bị coi là món cấm kỵ, rất hiếm được sử dụng. Các món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món quốc hồn Myanmar, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miến và nước mắm. Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ. Âm nhạc Âm nhạc truyền thống Miến Điện du dương nhưng không hài hòa. Các nhạc cụ gồm một bộ trống được gọi là pat waing, một bộ cồng gọi là kyi waing, một đàn tre gọi là pattala, chũm chọe, nhạc cụ bộ hơi như hnè hay oboe và sáo, bamboo clappers, và nhạc cụ bộ dây, thường được kết hợp thành một giàn giao hưởng gọi là saing waing Saung gauk, một nhạc cụ bộ dây hình chiếc thuyền gồm các dây tơ và thủy tinh trang trí dọc theo thân từ lâu đã đi liền với văn hóa Myanmar. Từ thập niên 1950, các nhạc cụ phương Tây đã trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn. Thể thao Các môn võ thuật Lethwei, Bando, Banshay, và Pongyi cùng với chinlone là các môn thể thao truyền thống ở Myanmar. Bóng đá được chơi trên khắp đất nước, ngay cả ở các làng quê. SEA Games 2013 diễn ra tại Naypyidaw, Yangon, Mandalay và Ngwesaung Beach ở Myanmar vào tháng 12, là lần thứ ba sự kiện thể thao này được tổ chức tại Myanmar. Myanmar trước đây đã tổ chức SEA Games vào các năm 1961 và 1969. Tôn giáo Phật giáo tại Myanmar chủ yếu là phái Nguyên Thủy hòa trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Nguyên Thủy, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon và Hoa. 4% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Cơ Đốc giáo là Tin Lành, đặc biệt là phái Baptist của Giáo đoàn Baptist Myanmar. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni. Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả Rập, Panthay và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Cơ Đốc giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập. Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo. Myanmar có nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó đạo Phật chiếm 89,3% số dân; Thiên Chúa giáo 5,6%; đạo Hồi 3,8%; đạo Hindu 0,5%; các tôn giáo khác như Do Thái giáo, Đa Thần giáo, Vật linh giáo, v.v. Chiếm khoảng 0,8% số dân. Mọi công dân Myanmar được tự do tín ngưỡng, tuy theo tôn giáo khác nhau nhưng dân chúng vẫn sống hòa bình, bằng chứng là những kiến trúc của tôn giáo khác nhau cùng được xây dựng và tôn trọng tại những thành phố lớn. Phật giáo Người dân Myanmar sùng đạo Phật, tại bất kỳ thành phố, thị xã nào đều có ít nhất một ngôi chùa và một tu viện Phật giáo. Đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn ở Myanmar, cuộc sống của người dân không tách rời các nghi lễ Phật giáo. Mùa chay Phật giáo cũng được ghi trên lịch của Myanmar là ba tháng mùa mưa, tương đương với thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 dương lịch. Trong thời gian đó có các hoạt động ăn chay, cưới xin, chuyển nhà thường được hoãn lại. Trong các tín đồ Phật giáo ở Myanmar có 99% là người Miến, người Shan và người Karen. Cả nước Myanmar có khoảng 500.000 tăng ni. Đạo Phật ở Myanmar theo dòng Theravada, là Phật giáo Nguyên thủy – tức dòng Phật giáo giữ nguyên sinh hoạt và tu hành như thời kỳ Đức Phật, giáo phái Nam Tông. Sự tu hành của các sư cũng giống như Phật giáo tại Thái Lan, Lào, Sri Lanka, Campuchia: các sư không ở chùa mà ở thiền viện, buổi sáng hằng ngày đi khất thực, không ăn chay và chỉ được ăn từ khi mặt trời mọc đến trước 12h trưa, sau 12h trưa đến sáng hôm sau tuyệt đối không được ăn. Dưới thời thủ tướng Ne Win, Phật giáo tại Mianma từng được đưa vào Hiến pháp là quốc đạo, nhưng các chính quyền quân sự Myanmar tiếp theo đã xóa bỏ điều khoản này để đảm bảo công bằng về tôn giáo. Cả nước Myanmar có hàng vạn đền, chùa, tháp, nằm rải rác trên khắp đất nước. Vì vậy, cũng như Campuchia, Myanmar còn được gọi là đất nước Chùa tháp. Chùa tháp tập trung nhiều nhất ở thành phố Bagan, gồm khoảng hơn 4000 đền, chùa, tháp lớn nhỏ trên diện tích khoảng 40km2. Nhiều chùa, tháp được xây dựng từ đầu kỷ nguyên Bagan (thế kỷ XI). Nhiều chùa tháp của Myanmar thường được xây trên các đỉnh núi cao hơn mặt nước biển hàng nghìn mét để cất giữ, bảo quản xá lợi Phật và các Phật tích khác. Các ngọn tháp cất giữ xá lợi Phật là những cấu trúc liền khối hình nón với một căn phòng chứa báu vật ở bên dưới. Khu nền bao quanh ngọn tháp là nơi dành cho hành khách hương cầu nguyện, thiền định, tụng kinh hay dâng hương. Những kiến trúc Phật giáo khác gồm có: tượng Phật – được dựng ngoài trời hay dưới một mái che, Phật đường – là nơi tổ chức thuyết pháp và các buổi lễ. Ở lối vào những ngôi đền, chùa lớn thường có nhiều quầy bán hoa tươi, cành lá, nến, vàng thếp, những chiếc dù, quạt nhỏ bằng giấy màu để dâng lên Đức Phật. Giày dép của khách thập phương phải bỏ bên ngoài mỗi khi bước chân vào đền, chùa. Myanmar cũng có rất nhiều thiền viện – là nơi ở của các nhà sư. Các Phật tử trong và ngoài nước thường tới thiền viện để tỏ lòng kính trọng và dâng đồ bố thí, cúng dường như thức ăn, tiền bạc, áo cà sa và vật dụng cho các sư. Phật tử có thể lưu lại cả tuần, cả tháng, cả năm trong thiền viện để học thiền, nghe thuyết pháp hay nghiên cứu Phật pháp. Nhiều nghi lễ tôn giáo, trong đó có lễ thụ giới và lễ dâng cà sa,… được tổ chức rất trang trọng tại các thiền viện. Một số khu vực trong thiền viện cấm phụ nữ không được lui tới. Vào các kỳ nghỉ hè hằng năm, học sinh từ 6 đến 16 tuổi cũng tập trung ở đây làm lễ xuống tóc, đổi áo và dự một khóa tu khoảng 1 tháng để học các giới luật, nghe thuyết pháp và tu thiền. Chùa Shwedagon (chùa vàng) ở Yangon là chùa tháp lớn nhất và đẹp nhất Myanmar, được hình thành từ 2500 năm trước và được các triều đạo phong kiến Miến Điện tu bổ, mở rộng dần. Chùa Shewdagon tọa lạc trên một quả đồi cao, rộng, trên đỉnh tháp gắn nhiều kim cương, hồng ngọc, bích ngọc và các loại đá quý, chùa được dát vàng nên lấp lánh dưới ánh mặt trời vào ban ngày và ánh điện về ban đêm. Ở Yangoon còn có chùa Phật nằm, chùa Phật ngọc, chùa tóc Phật, chùa răng Phật, v.v.. rất độc đáo. Chùa Kyaikhtyo ở bang Mon là kỳ quan có một không hai trên thế giới. Chùa được xây trên tảng đá lớn màu vàng chênh vênh trên vách núi cao trông rất ngoạn mục. Myanmar có nhiều học viện Phật giáo ở các thành phố lớn, nơi đã và đang đào tạo các sư có trình độ cao về Phật học. Myanmar còn có trường đại học Phật giáo quốc tế tại Yangoon, dành cho sinh viên từ nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Sri Lanka, Nepan, Thái Lan, Campuchia, Lào,.. đến học miễn phí từ bậc đại học đến tiến sĩ. Thiên Chúa giáo Thiên chúa giáo lần đầu tiên gia nhập Myanmar khoảng đầu thế kỷ XVII, hiện chiếm khoảng 5,6% số dân Myanmar. Phần lớn tín đồ thiên chúa giáo là người Keren, Chin, Kachin, và người Miến theo Thiên chúa giáo dòng Baptis. Những thừa sai Thiên chúa giáo hoạt động rất tích cực từ thời thuộc địa cho đến giữa những năm 1960, họ thành lập các trường học, bệnh viện và các trung tâm cứu trợ xã hội. Sau năm 1962, những cơ sở này bị chính quyền Myanmar quốc hữu hóa. Hồi giáo Đạo Hồi tại Myanmar chiếm 3,8% số dân và chủ yếu tập trung ở bang Rakhine, phía tây Myanmar. Những người Hồi giáo dòng Rohingya sống chủ yếu ở các quận Maungdau, Buthidaung và Rathedaung – bang Rakhine. Từ nhiều năm nay, những khu vực này vẫn thường xảy ra xung đột quyết liệt giữa các giáo phái với nhau, đặc biệt là tín đồ Hồi giáo dòng Rohingya với tín đồ Thiên chúa giáo và Phật giáo. Các tôn giáo khác gồm Do thái giáo, Đa thần giáo, Linh vật giáo,..chiếm khoảng 0,8% số dân Myanmar. Những hình ảnh liên quan
Mã Minh (sa. aśvaghosha, zh. 馬鳴, sinh khoảng năm 80 CN – mất khoảng năm 150 CN) hay A-na Bồ-đề (zh. 阿那菩提, sa. Ānabodhi) là nhà thơ, nhà văn và luận sư Phật giáo Đại thừa người Ấn Độ, sống giữa thế kỉ 1 và 2, được xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Ông là tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Cuộc đời Mã Minh sinh ra trong một gia đình theo Bà-la-môn giáo ở Saketa, miền Bắc Ấn Độ. Ông được tổ thứ 10 của Thiền tông Ấn Độ là Bà-lật-thấp-bà (sa. pārśva) giác ngộ và chuyển sang theo Phật giáo. Tác phẩm quan trọng nhất của sư là bộ Hi khúc Xá-lợi tử, Phật sở hạnh tán, bộ Tôn-già-lợi Nan-đà. Sư cũng được xem là tác giả của bộ Đại thừa khởi tín luận. Tác phẩm nổi tiếng nhất của sư là quyển Phật sở hạnh tán (Cuộc đời Đức Phật) thi phẩm nổi tiếng về kể cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được viết bằng thơ Sanskrit. Với thiên tài thi ca Sanskrit vô tiền khoáng hậu, Mã Minh đã góp phần đưa văn học Sanskrit Phật giáo đến đỉnh cao văn chương và triết lý. Và đây cũng là một trong những kiệt tác của văn học phương Đông. Các tác phẩm của Sư đọc rất dễ hiểu và có nhiều ẩn dụ. Thí dụ như chuyện Tôn-già-lợi Nan-đà "chàng trai tuấn tú Nan-đà" người tuy đã vào chùa đi tu nhưng vẫn còn thương yêu người vợ. Chỉ sau nhiều lần giảng dạy của Phật, chàng mới hết nghiệp yêu thương và sống viễn li. Mã Minh được xem là một trong bốn vị minh triết Phật giáo, được xếp vào "bốn mặt trời chiếu rọi thế giới". Ba vị kia là Long Thụ, Thánh Thiên và Đồng Thụ (sa. kumāralāta, một Đại sư của Kinh lượng bộ). Tác phẩm còn lưu lại Các tác phẩm được liệt kê dưới tên Mã Minh: Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra); Phật sở hành tán (sa. buddhacarita-kāvya); Đại tông địa huyền văn bản luận (sa. mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra); Đại trang nghiêm kinh luận (sa. mahālaṅkāra-sūtra-śāstra); Ni-kiền tử vấn vô ngã nghĩa kinh; Thập bất thiện nghiệp đạo kinh (sa. daśaduṣṭakarmamārga-sūtra); Sự sư pháp ngũ thập tụng; Lục đạo luân hồi kinh; Hi khúc Xá-lợi tử (sa. śāriputraprakaraṇa); Tôn-già-lợi Nan-đà (sa. saundarananda-kāvya). Chú thích
Đơn vị thiên văn (ký hiệu: au hoặc ua) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi Trái Đất quay quanh Mặt Trời, từ khoảng cách lớn nhất (điểm viễn nhật) đến khoảng cách nhỏ nhất (điểm cận nhật) và quay trở lại trong chu kỳ một năm. Ban đầu đơn vị thiên văn được xác định bằng trung bình giữa khoảng cách theo vị trí cận nhật và viễn nhật của Trái Đất, cho tới nay nó được định nghĩa chính xác bằng mét (khoảng 150 triệu kilômét, hay 93 triệu dặm). Đơn vị thiên văn được sử dụng do nó là đơn vị đo thuận tiện sử dụng chủ yếu trong phạm vi hệ Mặt Trời hoặc xung quanh các ngôi sao khác. Tuy thế, nó cũng là một thành phần cơ bản trong định nghĩa của đơn vị độ dài thiên văn khác, đơn vị parsec. Sử dụng ký hiệu Đơn vị thiên văn đã từng có nhiều ký hiệu và cách viết tắt được sử dụng. Trong quyết định năm 1976, hiệp hội Thiên văn học quốc tế (IAU) đã sử dụng ký hiệu A cho đơn vị thiên văn. Trong các xuất bản phẩm về thiên văn học, ký hiệu AU đã từng và vẫn còn được sử dụng phổ biến. Năm 2006, tổ chức Cân đo quốc tế (BIPM) đề nghị sử dụng ua cho đơn vị thiên văn. Trong phụ lục C (mang tính chất cung cấp thông tin) của ISO 80000-3 (2006), hiệu đơn vị thiên văn là "ua". Năm 2012, tổ chức IAU, chú ý tới "nhiều ký hiệu hiện nay đang được sử dụng cho đơn vị thiên văn", khuyến nghị sử dụng chung một ký hiệu là "au". Trong bản sửa đổi năm 2014 của hệ SI, tổ chức BIPM sử dụng ký hiệu "au". Quá trình phát triển đơn vị Quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời là một hình elíp. Bán trục lớn của quỹ đạo elip được xác định bằng một nửa đoạn thẳng trục lớn nối hai điểm cận nhật và viễn nhật. Mặt Trời nằm trên đoạn thẳng này, nhưng không nằm ở trung điểm của nó. Bởi vì elip là một hình xác định một cách tường minh, việc biết được các điểm nằm trên nó cho phép xác định chính xác hình dạng toán học của quỹ đạo elip, từ đó có thể tính toán ra quỹ đạo cũng như dự đoán cho các quan sát trong tương lai. Thêm vào đó, khoảng cách lớn nhất trong một năm Trái Đất quay quanh Mặt Trời (điểm viễn nhật) sẽ biết được, cho phép xác định được thời điểm và vị trí để quan sát thị sai (sự dịch chuyển vị trí biểu kiến của vật thể trên bầu trời) cực đại đối với các ngôi sao ở gần. Biết được chuyển động của Trái Đất và thị sai của một ngôi sao cho phép ước lượng khoảng cách đến ngôi sao đó. Nhưng mọi phép đo đều có sai số và độ bất định, và các độ bất định trong độ dài đơn vị thiên văn chỉ làm tăng độ bất định của khoảng cách đến ngôi sao. Việc nâng cao độ chính xác luôn là một điều quan trọng nhằm nâng cao hiểu biết thiên văn đối với các nhà khoa học. Trong thế kỷ 20, các lần đo đã ngày càng chính xác và phức tạp hơn, và sự phụ thuộc vào độ chính xác trong quan sát thiên văn đối với các hiệu ứng miêu tả bởi thuyết tương đối của Einstein cũng như vào công cụ toán học mà nó sử dụng. Nâng dần độ chính xác trong đo lường liên tục được kiểm tra và kiểm tra chéo bởi kiến thức của các nhà thiên văn về các định luật của cơ học thiên thể mà chi phối chuyển động của các vật thể trong không gian. Vị trí và khoảng cách dự đoán của vật thể ở một thời điểm nhất định được tính toán (theo AU) từ các định luật này, và được ghi lại thành một tập hợp dữ liệu gọi là lịch thiên văn (ephemeris). Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) của NASA cung cấp một số dịch vụ tính toán lịch thiên văn. Năm 1976, để thiết lập một phép đo chính xác hơn cho đơn vị thiên văn, tổ chức IAU đã chính thức chấp nhận một định nghĩa mới của đơn vị thiên văn. Mặc dù dựa trực tiếp trên những đo lường quan sát chính xác nhất cho đến thời điểm đó, định nghĩa này được viết lại theo các số hạng toán học phù hợp nhất rút ra từ cơ học thiên thể và các dữ liệu hành tinh. Phát biểu của định nghĩa "đơn vị thiên văn là độ dài (A) mà hằng số hấp dẫn Gauss (k) có giá trị khi các đơn vị đo lường là đơn vị thiên văn của độ dài, khối lượng và thời gian". Một cách tương đương, theo định nghĩa này, 1 AU là bán kính của quỹ đạo tròn Newton không bị nhiễu loạn của một hạt có khối lượng vô cùng nhỏ với tâm là Mặt Trời, chuyển động với tần số góc bằng radian trên một ngày; hoặc một cách khác nó là độ dài mà hằng số hấp dẫn nhật tâm (heliocentric gravitational constant) (tích của GM) bằng ()2 AU3/d2, khi độ dài được sử dụng để miêu tả vị trí của vật thể trong hệ Mặt Trời. Những cuộc thám hiểm hệ Mặt Trời về sau bằng các tàu thăm dò không gian cho phép thực hiện các phép đo chính xác hơn về vị trí tương đối của các hành tinh bên trong hệ Mặt Trời và những vật thể khác bằng cách sử dụng ra đa và đo lường từ xa (telemetry). Như đối với mọi phép đo bằng ra đa, các phương pháp này dựa trên kết quả đo thời gian mà các photon được phản xạ từ vật thể. Bởi vì mọi photon chuyển động bằng tốc độ ánh sáng trong chân không, một hằng số cơ bản trong vũ trụ, khoảng cách của một vật thể đến tàu không gian sẽ bằng tích của tốc độ ánh sáng và thời gian đo được. Tuy nhiên, để tính toán chính xác cần phải kể tới một số ảnh hưởng như chuyển động của tàu thăm dò và của vật thể trong thời gian các photon truyền đi. Thêm vào, phép đo thời gian cũng phải được quy về một hệ quy chiếu tiêu chuẩn khi tính tới ảnh hưởng của hiệu ứng giãn thời gian tương đối tính (relativistic time dilation). So sánh các vị trí trong lịch thiên văn với kết quả đo thời gian trong hệ thời gian phối hợp động lực khối tâm (Barycentric Dynamical Time, TDB) cho giá trị của tốc độ ánh sáng theo đơn vị thiên văn trên một ngày (của ). Năm 2009, tổ chức IAU đã cập nhật các phép đo tiêu chuẩn để phản ánh những cải tiến, và tính toán tốc độ ánh sáng bằng AU/ngày (TDB). Năm 1983, Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM) hiệu chỉnh hệ đo lường SI (hay hệ đo lường "hiện đại") để cho phép định nghĩa mét hoàn toàn độc lập với một thực thể nào đó, bởi vì các phép đo khác đã trở lên quá chính xác để có thể tham chiếu đến thanh mét chuẩn làm bằng platin vẫn còn được sử dụng đến lúc đó. Thay thế cho nó, đơn vị mét được định nghĩa lại theo tốc độ của ánh sáng trong chân không, mà khi cần thiết có thể xác định một cách độc lập. Tốc độ ánh sáng được định nghĩa chính xác bằng c0 = , một giá trị số chuẩn cũng được công nhận bởi Tổ chức dịch vụ quốc tế các hệ thống tham chiếu và sự xoay Trái Đất (International Earth Rotation and Reference Systems Service, IERS). Từ định nghĩa này và tiêu chuẩn của 2009, thời gian ánh sáng truyền qua 1 AU bằng τA = , hay hơn 8 phút. Bằng cách nhân ngược lại, ước lượng tốt nhất của IAU 2009 bằng A = c0τA = , dựa trên so sánh lịch thiên văn của JPL và của Viện hàn lâm khoa học Nga IAA–RAS. Năm 2006, Văn phòng Cân đo Quốc tế BIPM báo cáo một giá trị sử dụng đơn vị thiên văn là . Năm 2014 trong tài liệu sửa đổi SI, BIPM công nhận định nghĩa lại của IAU năm 2012 với giá trị của đơn vị thiên văn bằng . Ước lượng trên vẫn được rút ra từ các quan sát và đo đạc thực nghiệm và do vậy chịu ảnh hưởng bởi sai số, và dựa trên những kỹ thuật vẫn chưa chuẩn hóa được mọi hiệu ứng tương đối tính, và do đó không bất biến đối với mọi quan sát viên. Năm 2012, nhận thấy việc kết hợp với thuyết tương đối khiến định nghĩa trở lên quá phức tạp, IAU đã sử dụng định nghĩa đơn giản năm 2009 để xác định lại đơn vị thiên văn như là một đơn vị chiều dài thuận tiện gắn liền trực tiếp với mét (giá trị chính xác bằng ). Định nghĩa mới cũng nhận ra một hệ quả đó là đơn vị thiên văn hiện giờ đóng vai trò ít quan trọng hơn, và nó chỉ được sử dụng giới hạn cho thuận tiện trong một số trường hợp. {| |- |rowspan=5 valign=top|1 đơn vị thiên văn  |= mét (bằng chính xác) |- |≈ triệu dặm |- |≈ giây ánh sáng |- |≈ phần triệu () của 1 parsec |- |≈ phần triệu () của 1 năm ánh sáng |} Định nghĩa trên đặt tốc độ ánh sáng, được định nghĩa chính xác bằng , bằng chính xác  ×  ÷  hay khoảng AU/d, nhỏ hơn 60 phần nghìn tỷ giá trị ước lượng năm 2009. Sử dụng và mức độ quan trọng Với các định nghĩa được sử dụng trước năm 2012, đơn vị thiên văn phụ thuộc vào hằng số hấp dẫn nhật tâm, một hằng số bằng tích của hằng số hấp dẫn G và khối lượng Mặt Trời M. Cả G lẫn M không thể đo với độ chính xác cao khi tách biệt nhau, nhưng giá trị tích của chúng thu được rất chính xác từ kết quả quan sát vị trí tương đối của các hành tinh (định luật 3 Kepler biểu diễn theo hằng số hấp dẫn Newton). Chỉ có giá trị của tích được đòi hỏi để tính vị trí của các hành tinh cho một lịch thiên văn, do đó lịch thiên văn được tính theo đơn vị thiên văn và không theo hệ đơn vị SI. Việc lập lịch thiên văn cũng đòi hỏi phải xét tới ảnh hưởng của các hiệu ứng trong thuyết tương đối rộng. Đặc biệt, khoảng thời gian đo tại bề mặt Trái Đất (thời gian địa cầu, terrestrial time, TT) là không cố định khi so sánh ở những thời điểm khác nhau bởi chuyển động Trái Đất: giây địa cầu (TT) trở lên dài hơn trong mùa đông ở Bán cầu bắc và ngắn hơn trong mùa hè ở Bán cầu nam khi so với "giây hành tinh" (đo quy ước trong hệ thời gian phối hợp động lực khối tâm, TDB). Nguyên nhân do khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời không phải là bất biến (nó thay đổi từ đến ) và, khi Trái Đất ở gần Mặt Trời hơn (điểm cận nhật), trường hấp dẫn của Mặt Trời mạnh hơn và Trái Đất chuyển động nhanh hơn trên quỹ đạo của nó. Khi mét được xác định theo các số hạng giây và tốc độ ánh sáng là hằng số cho mọi quan sát viên, độ dài mét trên địa cầu sẽ thay đổi độ dài so với "độ dài hành tinh" trên một cơ sở tuần hoàn. Mét được xác định là đơn vị của độ dài riêng (proper length), nhưng định nghĩa SI không chỉ rõ tenxơ mêtric nào được sử dụng để xác định nó. Quả vậy, Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM) lưu ý rằng "định nghĩa chỉ áp dụng cho những khoảng cách đủ nhỏ mà hiệu ứng của trường hấp dẫn không đều có thể bỏ qua được". Như vậy, mét không xác định được chính xác cho những mục đích đo khoảng cách trong phạm vi hệ Mặt Trời. Định nghĩa 1976 cho đơn vị thiên văn là chưa hoàn thiện bởi vì nó không nêu cụ thể thời gian được đo trong hệ quy chiếu nào, nhưng nó mang lại phương thức tính toán lịch thiên văn: một định nghĩa đầy đủ hơn nhất quán với thuyết tương đối rộng đã được đề xuất, và trải qua "tranh cãi phức tạp" cho đến tận tháng 8 năm 2012 khi IAU chấp nhận định nghĩa hiện nay của 1 đơn vị thiên văn = mét. Đơn vị thiên văn chủ yếu được sử dụng cho các khoảng cách trong phạm vi một hệ sao, kích thước của một đĩa tiền hành tinh hay khoảng cách đến Mặt Trời của một tiểu hành tinh, trong khi các đơn vị khác được sử dụng ở những mức khoảng cách thiên văn học khác nhau. Đơn vị thiên văn là quá nhỏ để có thể sử dụng thuận tiện cho khoảng cách liên sao và lớn hơn, nơi mà đơn vị parsec và năm ánh sáng được sử dụng. Parsec (thị sai giây cung) được xác định theo đơn vị thiên văn, là khoảng cách của một vật thể với thị sai bằng 1 giây cung. Năm ánh sáng thường được sử dụng trong phổ biến khoa học, nhưng không phải là đơn vị SI được phê chuẩn và hiếm khi các nhà thiên văn chuyên nghiệp sử dụng. Lịch sử Theo Archimedes viết trong tiểu luận đếm số hạt cát (2.1), Aristarchus của Samos ước tính khoảng cách đến Mặt Trời xấp xỉ lần bán kính của Trái Đất (giá trị thực sự vào khoảng ). Tuy nhiên, trong cuốn Về kích thước và khoảng cách đến Mặt Trời và Mặt Trăng, cuốn sách được cho là do Aristarchus viết, nói rằng ông tính khoảng cách đến Mặt Trời từ 18 đến 20 lần khoảng cách đến Mặt Trăng, trong khi tỉ số thực sự vào khoảng 389,174. Ước lượng về sau dựa trên góc giữa pha bán nguyệt và Mặt Trời, mà ông ước tính bằng 87° (giá trị thực sự nằm gần 89,853°). Phụ thuộc vào khoảng cách này, Van Helden giả thiết Aristarchus đã sử dụng khoảng cách này đến Mặt Trăng, ông tính toán khoảng cách đến Mặt Trời bằng từ 380 đến lần bán kính Trái Đất. Theo như Eusebius thành Caesarea trong Praeparatio Evangelica (Sách XV, chương 53), Eratosthenes tìm thấy khoảng cách đến Mặt Trời khi ông viết "σταδιων μυριαδας τετρακοσιας και οκτωκισμυριας" (dịch nghĩa "bằng của 400 vạn và stadia") nhưng có thêm lưu ý là trong văn tự Hy Lạp sự tương hợp về ngữ pháp (grammatical agreement) giữa vạn (không phải stadia) trên một vế và cả 400 và trên vế kia, như trong tiếng Hy Lạp, không giống như tiếng Anh, cả ba từ (hoặc cả bốn từ nếu gộp cả stadia) đã bị biến tố (inflection). Do vậy có thể dịch là stadia (dịch bởi Edwin Hamilton Gifford năm 1903), hoặc bằng stadia (bởi Édouard des Places giai đoạn 1974–1991). Sử dụng sân vận động Hy Lạp kích thước 185 đến 190 mét, khoảng cách theo cách dịch đầu tiên tương ứng với độ dài đến , mà quá nhỏ so với thực tế, trong khi cách dịch thứ hai tương ứng với 148,7 đến 152,8 triệu kilômét (độ chính xác trong phạm vi 2%). Hipparchus cũng thử tính khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, mà như Pappus nói rằng ông tính ra bằng 490 lần bán kính Trái Đất. Theo như phỏng đoán tái dựng lại bởi Noel Swerdlow và G. J. Toomer, Hipparchus thu được kết quả này từ quan sát thị sai Mặt Trời với giá trị bằng 7 cung phút. Trong quyển Chu bễ toán kinh (khoảng thế kỷ 1 TCN) của Trung Hoa, đã chỉ ra cách tính bằng hình học khoảng cách đến Mặt Trời, sử dụng các độ dài khác nhau của bóng chiều tà quan sát tại ba nơi khác nhau cách nhau lý và giả thiết Trái Đất phẳng. Ở thế kỷ 2, Ptolemy ước tính khoảng cách trung bình đến Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Để xác định giá trị này, Ptolemy bắt đầu bằng cách đo thị sai của Mặt Trăng, ông tìm thấy thị sai Mặt Trăng theo đường chân trời bằng 1° 26′, một giá trị quá lớn. Sau đó ông dẫn ra khoảng cách lớn nhất đến Mặt Trăng bằng 64 lần bán kính Trái Đất. Bởi vì các sai số loại bỏ nhau trong cách tính toán của ông về thị sai, lý thuyết của ông về quỹ đạo Mặt Trăng, và những yếu tố khác, kết quả ông thu được giá trị xấp xỉ. Tiếp theo ông đo kích thước biểu kiến của Mặt Trời và Mặt Trăng và đi đến kết luận là đường kính biểu kiến của Mặt Trời bằng đường kính biểu kiến của Mặt Trăng khi Mặt Trăng ở vị trí xa Trái Đất nhất, và từ những tài liệu về nguyệt thực còn lưu lại, ông ước tính ra đường kính biểu kiến này, cũng như đường kính biểu kiến của nón bóng tối của Trái Đất quét qua Mặt Trăng trong thời gian xảy ra nguyệt thực. Dựa trên những dữ liệu này, khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời có thể tính bằng lượng giác và cho giá trị bằng lần bán kính Trái Đất. Kết quả này cho tỷ số khoảng cách đến Mặt Trời và Mặt Trăng xấp xỉ bằng 19, khớp với con số của Aristarchus. Mặc dù thủ tục tính của Ptolemy có thể thực hiện được về mặt lý thuyết, nó rất nhạy với một sự thay đổi nhỏ trong dữ liệu, do vậy chỉ một phép đo cho sai số vài phần trăm sẽ dẫn tới khoảng cách đến Mặt Trời có thể lớn vô hạn. Sau khi kiến thức về thiên văn học của người Hy Lạp cổ đại truyền đến thế giới Hồi giáo ở trung đông, các nhà thiên văn đã thay đổi mô hình của Ptolemy về vũ trụ, nhưng đã không thay đổi nhiều về ước tính của ông cho khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời. Ví dụ, trong cuốn sách viết về thiên văn học Ptolemy, al-Farghānī đưa ra khoảng cách trung bình bằng lần bán kính Trái Đất, trong khi ở cuốn zij, al-Battānī sử dụng khoảng cách trung bình đến Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Các nhà thiên văn học về sau, như al-Bīrūnī cũng sử dụng giá trị tương tự. Sau này ở châu Âu, Copernicus và Tycho Brahe cũng đã sử dụng các con số tương tự ( và lần bán kính Trái Đất), do vậy kết quả tính khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời của Ptolemy tồn tại cho đến tận thế kỷ 16. Johannes Kepler là người đầu tiên nhận ra rằng ước lượng của Ptolemy cho giá trị quá thấp (mà theo như Kepler, ít nhất nhỏ hơn 3 lần) khi ông nêu trong cuốn Rudolphine Tables (1627). Những định luật của Kepler cho phép các nhà thiên văn tính được khoảng cách tương đối của các hành tinh đến Mặt Trời, và làm khơi lại mối quan tâm đến việc xác định giá trị chính xác khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời (mà có thể áp dụng cho các hành tinh khác). Với phát minh ra kính thiên văn cho phép đo lường chính xác hơn góc thị sai bé mà mặt người không nhận ra được. Nhà thiên văn Godefroy Wendelin đã lặp lại các phép đo của Aristarchus vào năm 1635, và ông nhận thấy giá trị của Ptolemy thấp hơn ít nhất 11 lần. Ước lượng chính xác hơn có thể thu được thông qua quan sát sự đi qua của Sao Kim. Bằng cách đo sự đi ngang qua ở hai nơi khác nhau, các nhà thiên văn có thể tính chính xác thị sai của Sao Kim và khoảng cách tương đối từ Trái Đất và Sao Kim đến Mặt Trời, cũng như tính được thị sai Mặt Trời α (mà không thể đo được một cách trực tiếp). Jeremiah Horrocks đã nỗ lực ước tính dựa trên quan sát của ông vào lần Sao Kim đi ngang qua Mặt Trời vào năm 1639 (công bố năm 1662), ông thu được thị sai Mặt Trời là 15 giây cung, tương tự với con số của Wendelin. Thị sai Mặt Trời liên hệ với khoảng cách Mặt Trời - Trái Đất đo theo đơn vị bán kính Trái Đất bằng Thị sai Mặt Trời nhỏ hơn, thì khoảng cách Trái Đất đến Mặt Trời lớn hơn: thị sai Mặt Trời 15" tương đương với khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Christiaan Huygens tin rằng khoảng cách này thậm chí phải lớn hơn: bằng cách so sánh kích thước biểu kiến của Sao Kim với Sao Hỏa, ông ước tính giá trị này vào khoảng lần bán kính Trái Đất, tương ứng với giá trị thị sai Mặt Trời bằng 8,6". Mặc dù ước tính của Huygens là khá gần với giá trị hiện đại, các nhà lịch sử thiên văn học thường không kể tới tính toán của ông do ông đặt ra nhiều giả thiết không được chứng minh (và không đúng) để có thể tính toán kết quả; độ chính xác trong giá trị của ông dường như có sự may mắn hơn là một phép đo tốt, với rất nhiều sai số loại trừ nhau. Jean Richer và Giovanni Domenico Cassini đã đo thị sai của Sao Hỏa ở hai nơi Paris và Cayenne ở Guyane thuộc Pháp khi Sao Hỏa nằm gần Trái Đất nhất vào năm 1672. Họ thu được thị sai Mặt Trời bằng 9", tương đương khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Họ cũng là những nhà thiên văn học đầu tiên sử dụng giá trị chính xác và tin cậy của bán kính Trái Đất, mà do đồng nghiệp của họ là Jean Picard đo được vào năm 1669 với bán kính Trái Đất bằng lần toise. Một nhà thiên văn khác, Ole Rømer, đã phát hiện ra ánh sáng có tốc độ hữu hạn vào năm 1676: tốc độ rất lớn mà nó thường được viết là thời gian cần thiết để ánh sáng di chuyển từ Mặt Trời đến Trái Đất, hoặc "thời gian ánh sáng trên một đơn vị khoảng cách", một cách dùng thuận tiện mà các nhà thiên văn vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay. Phương pháp tốt hơn để quan sát Sao Kim đi qua Mặt Trời được nhà thiên văn James Gregory đưa ra và công bố trong Optica Promata (1663). Phương pháp này được Edmond Halley ủng hộ mạnh mẽ và ông đã áp dụng để quan sát Sao Kim trong hai lần nó đi qua Mặt Trời vào các năm 1761 và 1769. Sau đó các nhà thiên văn đã lập lại phương pháp này trong lần quan sát năm 1874 và 1882. Hiện tượng Sao Kim đi qua Mặt Trời xuất hiện theo từng cặp, nhưng mỗi thế kỷ nhiều nhất chỉ có một cặp, và lần quan sát trong các năm 1761 và 1769 là một hoạt động khoa học quốc tế chưa từng có đến thời điểm đó. Mặc dù trong thời gian diễn ra chiến tranh Bảy Năm, hàng tá các nhà thiên văn đã đi đến các điểm quan sát trên thế giới với chi phí lớn và sự nguy hiểm tới tính mạng: một vài người thiệt mạng trong cuộc hành trình này. Các kết quả khác nhau được Jérôme Lalande tập hợp và so sánh để cho ra giá trị của thị sai Mặt Trời bằng 8,6″. Một phương pháp khác bao gồm việc xác định hằng số quang sai. Simon Newcomb tập trung chủ yếu vào phương pháp này và dẫn ra giá trị được công nhận rộng rãi bằng 8,80″ của thị sai Mặt Trời (gần bằng với giá trị hiện đại ″), mặc dù Newcomb cũng sử dụng dữ liệu từ lần Sao Kim đi qua Mặt Trời. Newcomb cũng hợp tác với A. A. Michelson để đo tốc độ ánh sáng bằng các thiết bị trên mặt đất; kết hợp với hằng số quang sai (mà được liên hệ với thời gian ánh sáng trên một đơn vị khoảng cách), phương pháp này đưa ra phép đo trực tiếp đầu tiên về khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời theo ki lô mét. Giá trị của Newcomb cho thị sai Mặt Trời (và cho hằng số quang sai và hằng số hấp dẫn Gauss) được đưa vào hệ thống hằng số thiên văn quốc tế đầu tiên vào năm 1896, mà được sử dụng để tính toán lịch thiên văn cho đến tận năm 1964. Tên gọi "đơn vị thiên văn" xuất hiện lần đầu và được sử dụng từ năm 1903. Sự khám phá ra tiểu hành tinh gần Trái Đất 433 Eros và thời điểm nó bay đến gần Trái Đất năm 1900–1901 đã cho phép cải thiện đáng kể phép đo thị sai. Cũng vì vậy mà một dự án quốc tế khác được tổ chức để đo thị sai của 433 Eros thực hiện vào năm 1930–1931. Các đo đạc trực tiếp bằng ra đa về khoảng cách đến Sao Kim và Sao Hỏa bắt đầu từ thập kỷ 1960. Cùng với các đo lường cải thiện về tốc độ ánh sáng, các kết quả cho thấy giá trị đo của Newcomb về thị sai Mặt Trời và hằng số quang sai khớp với các số liệu về sau. Phát triển Khoảng cách đơn vị A (giá trị của đơn vị thiên văn đo bằng mét) được biểu diễn theo các hằng số thiên văn: với G là hằng số hấp dẫn Newton, M là khối lượng Mặt Trời, k là giá trị số của hằng số hấp dẫn Gauss và D là chu kỳ thời gian một ngày. Mặt Trời liên tục mất khối lượng do bức xạ năng lượng và gió Mặt Trời, do đó quỹ đạo của các hành tinh dần dần mở rộng ra ngoài khỏi Mặt Trời. Một trong những điều này dẫn tới việc không thể sử dụng đơn vị thiên văn như là đơn vị cơ bản trong lĩnh vực thiên văn chuyên nghiệp. Do tốc độ ánh sáng được định nghĩa chính xác trong hệ đơn vị SI và hằng số hấp dẫn Gauss k được cố định trong hệ thống các đơn vị thiên văn, việc đo thời gian ánh sáng trên đơn vị khoảng cách tương đương chính xác với việc đo giá trị của tích GM trong hệ SI. Từ đây, có thể lập lịch thiên văn hoàn toàn dựa trên hệ đơn vị SI, mà đã dần trở thành một tiêu chuẩn. Phân tích đo lường bức xạ thực hiện năm 2004 đối với các hành tinh vòng trong hệ Mặt Trời cho thấy biến thiên thế kỷ (secular variation) trong khoảng cách đơn vị lớn hơn nhiều so với ảnh hưởng từ bức xạ Mặt Trời, bằng + mét trên thế kỷ. Đo lường biến thiên thế kỷ của đơn vị thiên văn chưa được xác nhận bởi các nhà thiên văn khác và vẫn còn là một chủ đề tranh cãi. Hơn nữa, từ năm 2010, đơn vị thiên văn vẫn chưa được ước tính bởi lịch hành tinh.
Một quỹ đạo hoặc đường bay là đường di chuyển của một vật thể có khối lượng chuyển động trong không gian như một hàm của thời gian. Trong cơ học cổ điển, một quỹ đạo được xác định bởi cơ học Hamilton thông qua tọa độ chính tắc; do đó, một quỹ đạo hoàn chỉnh được xác định bởi vị trí và động lượng một cách đồng thời. Quỹ đạo trong cơ học lượng tử là không xác định do nguyên lý bất định Heisenberg rằng vị trí và động lượng không thể đo được đồng thời. Trong cơ học cổ điển, quỹ đạo có thể là của một vật bị ném hoặc vệ tinh. Ví dụ, nó có thể là một quỹ đạo quay của hành tinh, một tiểu hành tinh hoặc sao chổi khi nó di chuyển xung quanh một thiên thể trung tâm. Trong lý thuyết điều khiển, quỹ đạo là một tập hợp các trạng thái của hệ động lực (xem ví dụ Bản đồ Poincaré). Trong toán học rời rạc, một quỹ đạo là một chuỗi các giá trị được tính toán bởi ứng dụng lặp của ánh xạ đến một yếu tố của nguồn của nó. -- Quỹ đạo vật lý -- Một ví dụ quen thuộc của một quỹ đạo là đường đi của một viên đạn, chẳng hạn như một quả bóng được ném hoặc đá. Trong một mô hình được đơn giản hóa, vật thể chỉ di chuyển dưới ảnh hưởng của trường lực hấp dẫn đồng nhất..Trong phép tính gần đúng này, quỹ đạo có hình dạng của một hình parabol. Nói chung khi xác định quỹ đạo, có thể cần phải tính đến lực hấp dẫn không đồng nhất và sức cản không khí (lực cản và khí động học). Đây là trọng tâm của định luật đạn đạo. Một trong những thành tựu đáng chú ý của cơ học Newton là các định luật Kepler. Trong trường hấp dẫn của một khối điểm hoặc khối lượng mở rộng đối xứng hình cầu (như Mặt trời), quỹ đạo của một vật chuyển động là một hình nón, thường là hình elip hoặc hyperbola. này phù hợp với quỹ đạo quan sát của hành tinh, sao chổi, và tàu vũ trụ nhân tạo, mặc dù nếu một sao chổi đi gần Mặt trời, sau đó nó cũng bị ảnh hưởng bởi khác lực như gió mặt trời và áp suất bức xạ, làm thay đổi quỹ đạo và khiến sao chổi đẩy vật chất vào không gian. Lý thuyết của Newton sau này đã phát triển thành nhánh của vật lý lý thuyết được gọi là cơ học cổ điển. Nó sử dụng toán học của phép tính vi phân (cũng được Newton khởi xướng khi còn trẻ). Trong nhiều thế kỷ, vô số nhà khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của hai ngành này. Cơ học cổ điển trở thành một minh chứng nổi bật nhất về sức mạnh của tư duy duy lý, tức là lý trí, trong khoa học cũng như công nghệ. Nó giúp hiểu và dự đoán một loạt các hiện tượng; quỹ đạo là một ví dụ. Xét một hạt có khối lượng , di chuyển trong một lĩnh vực tiềm năng . Về mặt vật lý, khối lượng đại diện cho quán tính và trường đại diện cho các lực lượng bên ngoài của một loại cụ thể được gọi là "bảo thủ". Được lực tại mọi vị trí liên quan, có một cách để suy ra lực liên kết sẽ hoạt động tại vị trí đó, đến từ trọng lực. Tuy nhiên, không phải tất cả các lực lượng có thể được thể hiện theo cách này. Chuyển động của hạt được mô tả bởi phương trình vi phân bậc hai Ở phía bên tay phải, lực được đưa ra theo , độ dốc của điện thế, được lấy tại các vị trí dọc theo quỹ đạo. Đây là dạng toán của định luật chuyển động thứ hai của Newton: lực bằng với gia tốc khối lượng cho các tình huống như vậy. Quỹ đạo trong thiên văn học Trong thiên văn học, Johannes Kepler có ba định luật về hành tinh và chuyển động của chúng. Định luật Kepler I hay còn gọi là định luật về quỹ đạo chuyển động của các hành tinh với nội dung: Mọi hành tinh đều chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, trong đó Mặt Trời nằm tại một tiêu điểm. Các hành tinh chuyển động với quỹ đạo nhờ lực hấp dẫn của Mặt Trời. Định luật Kepler II hay định luật về tốc độ diện tích quét: Trong chuyển động của một hành tinh, vectơ bán kính từ Mặt Trời đến hành tinh quét những diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau. Định luật kepler III hay định luật về chu kì chuyển động: Đối với các hành tinh khác nhau, bình phương chu kì quay của mỗi hành tinh luôn tỉ lệ với luỹ thừa bậc 3 của bán trục lớn (quỹ đạo) của hành tinh đó và bằng một hằng số. Định luật này được biểu diễn bằng công thức: , trong đó I là chu kì quay của hành tinh, a là bán trục lớn của quỹ đạo chuyển động, c là hằng số.
nhỏ|393x393px|So sánh đồ thị trạng thái của cacbon dioxit (màu đỏ) và nước (màu xanh), cho thấy điểm thăng hoa của cacbon dioxit có thể thăng hoa tại 1 atm. Khi đá khô nóng lên, nó vượt qua điểm này trên đường nằm ngang, chuyển trực tiếp từ pha rắn sang pha khí. Trong khi đó, nước phải qua pha lỏng ở 1 atm. Thăng hoa (sublimation) là quá trình chuyển biến trạng thái vật chất, trực tiếp từ thể rắn qua thể khí, mà không cần qua thể lỏng ở trung gian. Thăng hoa là một quá trình thu nhiệt xảy ra ở các nhiệt độ và áp suất bên dưới điểm ba của chất trong biểu đồ pha, tương ứng với áp suất thấp nhất mà chất có thể tồn tại ở thể lỏng. Quá trình ngược lại với thăng hoa được gọi là ngưng kết, trong đó một chất chuyển trực tiếp từ thể khí thành thể rắn. Thăng hoa cũng đã được sử dụng như một thuật ngữ chung để mô tả một sự chuyển biến gồm từ rắn sang khí (thăng hoa), kế tiếp là sự chuyển biến từ khí săng rắn (ngưng kết). Trong khi hóa hơi từ thể lỏng sang thể khí xảy ra dưới hình thức bay hơi trên bề mặt nếu nó xảy ra dưới điểm sôi của chất lỏng, và sự sôi với các bọt khí được hình thành trong khối chất lỏng nếu nó xảy ra tại điểm sôi, không có sự phân biệt tương tự đối với quá trình chuyển từ thể rắn sang thể khí, bởi nó luôn xảy ra dưới hình thức thăng hoa trên bề mặt chất rắn. Ở áp suất thường, hầu hết các hợp chất hóa học và các nguyên tố tồn tại ở 3 trạng thái khác nhau ở các mức nhiệt độ không giống nhau. Trong các trường hợp này, sự chuyển đổi trạng thái từ rắn sang khí đòi hỏi phải trải qua trạng thái lỏng trung gian. Tuy nhiên áp suất đề cập ở đây là áp suất riêng phần của vật chất chứ không phải áp suất tổng thể (chẳng hạn áp suất khí quyển) của hệ. Vì thế tất cả các chất rắn có áp suất hơi có thể đo được ở một nhiệt độ nhất định thường có thể thăng hoa trong không khí (như băng nước dưới 0 °C). Đối với vài chất, ví dụ như cacbon và arsenic, thăng hoa là dễ dàng hơn sự bay hơi chất lỏng nóng chảy, bởi vì áp suất điểm ba của chúng là rất cao, và rất khó để thu được chúng dưới dạng lỏng. Thuật ngữ thăng hoa được sử dụng để chỉ một quá trình biến đổi trạng thái vật lý và không phải chỉ sự biến đổi từ một chất rắn thành một chất khí khác trong một phản ứng hóa học. Ví dụ, sự phân ly khi đun nóng nhôm chloride thành hydro chloride và amoniac không phải là thăng hoa mà là một phản ứng hóa học. Tương tự, sự cháy của các cây nến, chứa sáp parafin, trở thành carbon dioxide và hơi nước cũng là một phản ứng hóa học với oxy mà không phải thăng hoa. Thăng hoa được gây ra bởi sự hấp thụ nhiệt lượng, cấp đủ năng lượng cần thiết để một số phân tử vượt qua được các lực hút của các phân tử lân cận và thoát ly vào pha hơi hoặc khí. Do quá trình thăng hoa cần thêm năng lượng thu vào, nó là một sự biến đổi thu nhiệt. Entanpi thăng hoa (còn gọi là nhiệt thăng hoa) có thể được tính bằng cách cộng entanpi nóng chảy và entanpi hóa hơi. Các hợp chất thường gặp có liên quan tới hiện tượng thăng hoa: băng phiến (còn gọi là naftalin chống mọt), băng khô, xăng khô, băng, tuyết, iod,... Ví dụ Cacbon dioxit nhỏ|Băng khô thăng hoa trong không khí Cacbon dioxit (băng khô) thăng hoa ở mọi điều kiện trên đường biểu diễn bên dưới điểm ba (tức là ở nhiệt độ −78.5 °C (194.65 K, ) tại áp suất khí quyển), trong khi nó có thể nóng chảy thành CO2 lỏng trên đường phân cách rắn-lỏng ở các nhiệt độ và áp suất bên trên điểm ba (i.e., 5.1 atm, −56.6 °C). Nước Băng và tuyết có thể thăng hoa dù chậm hơn, ở các nhiệt độ bên dưới điểm đông đặc/nóng chảy, thuộc đường đẳng nhiệt 0 °C đối với các áp suất riêng phần thấp hơn áp suất điểm ba . Trong quá trình sấy đông khô, vật liệu cần loại nước được đông lạnh và nước được cho thăng hoa trong điều kiện áp suất giảm hoặc chân không. Naphthalen nhỏ|Thí nghiệm về phản ứng thăng hoa của băng phiến. Băng phiến rắn thăng hoa và tạo thành cấu trúc giống tinh thể ở đáy của đĩa thủy tinh. nhỏ|Hợp chất rắn của băng phiến thăng hoa để tạo thành cấu trúc giống tinh thể trên bề mặt lạnhnhỏ|Long não thăng hoa trong ống ngón tay lạnh. Chất sản phẩm thô ở dưới đáy ống ngoài có màu nâu đậm; sản phẩm tinh khiết màu trắng bám trên đáy của ngón tay lạnh khó trông thấy được do nền đằng sau sáng. Băng phiến, một hợp chất hữu cơ thường có trong các loại thuốc chống côn trùng, có thể thăng hoa dễ dàng bởi vì nó được cấu tạo bởi các phân tử không phân cực mà lực liên kết giữa chúng chỉ gồm lực van der Waals. Băng phiến là một chất rắn thăng hoa ở áp suất khí quyển tiêu chuẩn với nhiệt độ thăng hoa khoảng 80°C hay 176°F. Ở nhiệt độ thấp, áp suất hơi của nó, 1mmHg tại 53°C, là đủ cao để làm cho dạng rắn có thể chuyển thành khí. Trên các bề mặt đủ lạnh, hơi băng phiến sẽ hóa rắn, tạo thành các tinh thể dạng hình kim. Các chất khác Iod tạo ra khói khi đun nóng nhẹ, mặc dù điều này xảy ra ở trên điểm ba và do đó không phải là thăng hoa thực sự. Có thể thu được iod lỏng ở áp suất khí quyển bằng cách điều chỉnh nhiệt độ ở mức ngay phía trên nhiệt độ nóng chảy của iod. Trong khoa học pháp y, hơi iod có thể làm hiển thị dấu vân tay ẩn trên một tờ giấy. Arsen cũng có thể thăng hoa ở nhiệt độ cao. Cadmi và kẽm không phải là vật liệu phù hợp để sử dụng trong chân không bởi vì trong điều kiện đó chúng thăng hoa nhiều hơn các vật liệu thông thường khác. Ứng dụng phải|nhỏ|Tinh thể ferrocene ngưng kết bám trên mặt ngoài của ống ngón tay lạnh, sau quá trình tinh chế bằng thăng hoa chân không Khi xử lý vật liệu trong kỹ thuật cắt laser thăng hoa, sự thăng hoa xảy ra với công suất xung cao của tia laser. Vật liệu không cần phải trước hết nóng chảy, mà có thể chuyển pha trực tiếp từ trạng thái rắn sang khí. Kết quả là một vết cắt rất sạch, không có xỉ và các cạnh bị sờn. Những ứng dụng khác bao gồm sấy đông khô thực phẩm, một phương pháp sấy không sử dụng nhiệt và do đó ít ảnh hưởng tới chất lượng hơn các phương pháp khác. Sơn in thăng hoa là một công nghệ in kỹ thuật số sử dụng đối tượng in đầy đủ màu sắc với chất liệu nền polyester hoặc phủ polymer. Trong máy sơn in thăng hoa, sáp nhuộm màu được sử dụng thay cho mực. Nó được làm nóng tới gần 200 °C bởi các vi điện trở phân bố trên đầu in và được chuyển tức thì từ trạng thái rắn sang trạng thái khí, sau đó được dẫn vào tấm in nơi nó nguội đi và trở về dạng rắn. Ưu điểm của quá trình này ở chỗ nó dựa vào các đặc tính trong suốt của sáp. Với phương pháp in thăng hoa, sự chuyển đổi là đơn giản: một điểm màu trên ảnh kỹ thuật số tương ứng với một điểm màu trên ảnh in. Do đó, để in một điểm màu có sẵn, máy in chồng chất ba lớp sáp (màu vàng, hồng cánh sen và xanh lơ) với những mật độ khác nhau để cùng nhau tạo nên sắc độ mong muốn, trong một bảng màu gồm tổng cộng 16,73 triệu màu. Thăng hoa cũng là một phương pháp thay thế cho tái kết tinh trong quá trình tinh chế các sản phẩm trong tổng hợp chất hóa học. Một ví dụ về ứng dụng của thăng hoa với lượng nhỏ chất trong ngành hóa phóng xạ là sự tinh chế một nuclide trong quá trình xác định chu kỳ bán rã của đồng vị 79Se. Trong phòng thí nghiệm, thăng hoa thường được ứng dụng để tinh chế các hợp chất và vật liệu, chẳng hạn: ferrocene và pyrogallol, naphthalen, phthalic anhydride, camphor, anthraquinone, acid salicylic, acid benzoic, urani hexafluoride và một số kim loại.
Khuông Việt (匡越, 933-1011) trước tên là Ngô Chân Lưu (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ nhà Ngô (吳), thuộc đời (hay thế hệ) thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị thiền sư được phong Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tăng Thống Ngô Chân Lưu, được ban danh hiệu Khuông Việt đại sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Tiểu sử Xem thêm bài: Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập Theo sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập vốn có tên là Ngô Xương Tỷ. Ông là anh của sứ quân Ngô Xương Xí. Sách Thiền Uyển tập anh chỉ ghi ông thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế 1. Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (933), cha vợ thứ của ông nội ông là Ngô Quyền. Năm 937, Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết, Ngô Quyền giết Tiễn và đánh bại quân Nam Hán, lên ngôi vua (938). Năm 944, Ngô Quyền mất, đáng lý con trai trưởng ông là Ngô Xương Ngập phải được thừa kế, nhưng người con của Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha tranh ngôi. Cha ông phải bỏ trốn về Hương Trà, nương nhờ Phạm Lệnh Công và lấy con gái Lệnh Công, sinh ra người em Xương Xí. Dương Tam Kha lùng bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được. Chú hai Ngô Xương Văn là con bà nội kế Dương Như Ngọc nên được Tam Kha nhận làm con nuôi. Có lẽ trong cảnh gia đình gặp tai họa đó, người cha không biết sống chết lúc nào, cậu bé Ngô Chân Lưu (11 tuổi năm 944) không nơi nương tựa đã tìm đến cửa Thiền đề thoát nạn. Cơ duyên và hành trạng Sư Khuông Việt có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Lúc nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học Trụ trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc), thọ giới Cụ túc 2. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ 3, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương, những người theo ta là Dạ-xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ... Các tràng kinh của Đinh Liễn Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Năm 969, Đinh Tiên Hoàng mời Sư đến. Thấy Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong cho Khuông Việt làm Tăng thống. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử Việt Nam. Và sau này cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn sử dụng. Nhiệm vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng, song vẫn có thể hiểu như một chức để nắm các sư sãi ở trong nước. Các nhà khảo cổ học cho biết năm 1963, tại vùng đất Hoa Lư, đã tìm được gần 20 tràng kinh hình bát giác cao từ 50 đến 80 cm. Theo những dòng chữ ghi trên tràng kinh thì năm Quý Dậu (973), Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn đã cho dựng 100 tràng kinh. Vào năm 1987, một số tràng kinh khác lại được phát hiện tại khu di tích cố đô Hoa Lư. Căn cứ thông tin trên số tràng kinh cho thấy năm 979 Đinh Khuông Liễn lại dựng 100 tràng kinh nữa. Các kinh tràng và sự tham mưu của Khuông Việt, tuy gián tiếp, nhưng rất có ý nghĩa đối với lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như Phật giáo. Năm Thái Bình thứ hai (971). Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư. 4 Vương Lang Quy Lý Giác là người đã từng đi trong phái bộ Lý Nhược Chuyết trong năm trước để sang phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và đòi vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc chiến năm 981. Phái bộ của Lý Giác đến Việt Nam lần hai vào năm Thiên Phúc thứ 7 (987). Vua Lê Đại Hành đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp. Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí để tấu kèm theo. Khúc từ này có tên là Ngọc Lang Quy, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành Vương Lang Quy. Đây là một tác phẩm văn học đầu tiên hiện còn của lịch sử ngoại giao Việt Nam, nếu không kể đến các văn thư ngoại giao với Trung Quốc. Đồng thời, nó cũng là bài Nguyễn Lang Quy không những xưa nhất của văn học Việt Nam, mà còn của văn học thế giới, bởi vì những bài từ loại này hiện còn chép trong các sách Trung Quốc như Tống lục thập danh gia từ, Tuyệt diệu hảo từ thiêm, Từ tổn v.v. đều là của những tác giả về sau như Âu Dương Tu (1007-1072), Tô Thức (1037-1101), Hoàng Đình Kiên (1045-1105)... Triết lý hành động Trên 30 năm đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong các chính quyền của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã thể hiện được tài năng nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo mà cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam lúc ấy đã thực hiện tốt chức năng đào tạo những người trí thức có khả năng gánh vác không chỉ việc đạo mà cả việc nước việc dân. Khuông Việt, trong thời gian theo học tại chùa Khai Quốc, đã được Thiền sư Vân Phong dạy những gì hiện không ai biết, và tiểu sử của Vân Phong cũng không ghi nhận có dấu tích nào. Tuy nhiên, quan điểm học thuật của Vân Phong, dẫu có nằm trong dòng chủ lưu của tư tưởng thiền, xoay quanh những vấn đề như sống chết, nhưng đã đưa ra những kiến giải mới phù hợp với hệ tư tưởng thiền của dòng thiền Pháp Vân. Đó là, muốn tránh khỏi sống chết thì hãy ở trong sống chết mà nắm lấy. Nói cách khác, không có chỗ không sống chết bên người sống chết để cho người ta tìm thấy được. Chính trong chỗ sống chết người ta mới tìm được sự không sống chết. Đây rõ ràng phản ảnh tư tưởng "Tây thiên cõi này, cõi này Tây thiên" và quan điểm "Phật ở khắp mọi nơi" của Cảm Thành. Nếu suy rộng ra, thì đây cũng là tư tưởng trong kinh Kim Cương mà Thanh Biện đã đề xuất. Đó là "tất cả pháp đều là Phật pháp". Xuất phát từ một học lý như thế, người ta mới có thể dễ dàng ung dung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi sự hoàn thành việc đời như một chứng tích cho sự hoàn thành việc đạo. Người ta không thể tìm có một thế giới giác ngộ nào khác bên ngoài cuộc đời này. Nói một cách hình ảnh, thì lửa có sẵn trong cây, vấn đề là làm sao cho cây bật ra lửa. Triết lý hành động của Khuông Việt như thế dựa trên một nhận thức luận coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thoát được bằng chính nhận thức của mình. Thế giới giác ngộ cũng như hành động của Phật giáo không nằm bên ngoài cuộc đời, và con người không cần đi tìm bất cứ một thế giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung dung tích cực tham gia vào việc nước việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ độc lập của tổ quốc. Khi đã rời nhiệm vụ Tăng thống và những chính sự khác, Đại sư đã trở về mở trường ở chùa Thanh Tước núi Du Hý của quận Thường Lạc. Tại đây, "học trò tìm tới đông đảo". Dù vậy, Khuông Việt đã không quên ngôi chùa lịch sử của thầy mình, đó là chùa Khai Quốc. Sư cũng thường lui tới giảng dạy tại trường giảng của chùa này. Sử sách đã ghi lại cho ta một người có thể bước theo bước chân của thầy mình, đó là thiền sư Đa Bảo, người có ảnh hưởng đến sự việc lên ngôi của Lý Công Uẩn. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: "Thế nào là chung thủy của sự học đạo". Sư đáp: "Thủy chung không vật, diệu hư không. Hiểu được chân hư, thể tự đồng"5. Bảo tiếp: "Làm sao đảm bảo được?" Sư đáp: "Không có chỗ cho người xuống tay." Bảo nói: "Hòa thượng nói xong rồi." Sư lại hỏi: "Ngươi hiểu gì." Bảo bèn hét lên. Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (tức 22 tháng 3 năm 1011), khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng: Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi5... Nguyên bản Hán văn □第四世二人□□□□□□□□□□□ 匡越大師 常樂吉利鄉佛陀寺匡越大師〖初名真流〗吉利人 也姓吳氏吳順帝之裔狀貌魁偉志尚倜儻 少業儒及長㱕釋與同學住持投開國雲峯 受具由是該覧竺墳探幁禪要年四十名震 于朝丁先皇帝召對稱旨拜為僧統太平二 年賜號匡越大師黎大行皇帝尤加禮敬凢 朝廷軍國之事師皆與焉嘗逰平虜𨛦衛靈 山悅其境致幽勝欲爰(1)庵居之夜夢神人身 披金甲左執金鎗右擎寶塔從者十餘軰狀 貌可怖來謂之曰吾即毗沙門天王從者皆 落叉也天帝有勑令徃此國護其疆界使佛 法興行於汝有緣故來相託師驚寤聞山中有 呵喝聲心甚異之及旦入山見一大木長十 丈許枝斡繁茂又有瑞雲覆蔭其上因命工 伐取如夢中所見刻像祠焉天福元年宋兵 入冦帝素聞其事命師就祠禳禱虜軍驚駭 退保友寧江友(又)見風濤震蕩蛟龍騰躍虜乃 奔潰七年宋人阮覺來聘時法師杜順亦有盛 名帝命變服爲江令迎於江曲覺見其善於文 談以詩贈之有天外有天外有天應返照(2)之句帝 以示師對曰此(3)尊陛下與其主不異覺還師作 詞曰玉(4)郎㱕送之其詞云 祥光風好錦㠶張 神𠎣復帝鄉 千重萬里涉滄浪 九天㱕路長 人情慘切對離觴 攀戀星星郎 願將深意爲南強 分明報我皇 尋以衰老乞辭㱕還本郡逰戱山創 寺住持學者輻溱一日入室弟子多寶問云如 何是學道始終師云始終無物玅虚空會得真 如骵自同寶云如何保任師云無汝下手處進 云和尚道了也師云汝作麽生會宝便喝李朝順 天二年二月十五日將告寂示宝偈云木中元有 火元火復还生若謂本無火鑽燧何由萌偈畢跌跏而逝 壽五十有二或云壽七十九□□□□□□□□□□ 爰; Bản Nguyễn; LMT = 構 返照: LMT = 遠照 此; bản khắc 〖⿰土匕〗 玉; Nguyễn, A 2767, LMT = 王 Ghi công từ hậu thế Quốc sư Khuông Việt được thờ tại Chùa Non Nước (Hà Nội) và Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình). Ông cũng được thờ tại di tích miếu Hạ, xóm 2, thôn Ngọc Lâm, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, Ninh Bình. Với vai trò là vị tăng thống đầu tiên của Việt Nam, thiền sư Khuông Việt được hậu thế suy tôn như là một vị đại sư có công mở nước: Tạp chí Khuông Việt là tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời với tôn chỉ, mục đích là nghiên cứu, giới thiệu tri thức Phật học và những giá trị văn hóa Phật giáo, theo phương châm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội. Chùa Khuông Việt: có nhiều chùa ở Việt Nam và nước ngoài mang tên ông như chùa Khuông Việt ở Sài Gòn, chùa Khuông Việt ở Paris, chùa Khuông Việt ở Na Uy. Đường Khuông Việt: có ở các thành phố Ninh Bình và Sài Gòn. Ở Thành phố Đà Nẵng, thành phố Tam Kỳ và thị xã Nghi Sơn có đường Ngô Chân Lưu. Học viện Phật giáo Khuông Việt hiện được xây dựng tại khuôn viên chùa Bái Đính, Ninh Bình Trường Khuông Việt: Một số cơ sở dạy Phật giáo mang tên trường Khuông Việt như ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (chùa Quán Sư) hay ở Thị trấn Thác Mơ, Phước Long, Bình Phước có "trung tâm Văn Hoá Lịch sử Phật giáo Khuông Việt" ở núi Bà Rá.
Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang (; ; viết tắt SPDC), hay Hội đồng Quốc gia vì Hoà bình và Phát triển, là tên gọi chính thức của một cơ quan quyết định tối cao của chính quyền quân sự Myanmar. Cơ quan này bị nhiều người buộc tội là đã khủng bố dã man các nhóm sắc tộc thiểu số, các nhóm đối lập, sinh viên và những nhà hoạt động nhân quyền. Từ 1988 đến 1997, Hội đồng này có tên là Hội đồng Quốc gia Phục hồi Luật pháp và Trật tự, hay còn được dịch là Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang. Tháng 9 năm 1988, bằng cách tiến hành đảo chính, Hội đồng nắm toàn bộ quyền lãnh đạo đất nước Miến Điện. Năm 1990, cơ quan này bác bỏ kết quả cuộc bầu cử năm 1990 mà khi đó Liên minh Dân chủ Quốc gia giành thắng lợi áp đảo. Ngày 15 tháng 11 năm 1997, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang bị những người lãnh đạo của nó giải thể và được tổ chức lại thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang. Ngày 30 tháng 3 năm 2011, Thống tướng Than Shwe thay mặt lãnh đạo Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang tuyên bố giải thể cơ quan này. Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang bao gồm tổng tư lệnh bộ ngành và tư lệnh quân khu. 19 thành viên của junta dường như có được nhiều quyền hành hơn cả Thủ tướng Chính phủ. Một số thành viên của hội đồng còn giữ chức vị Bộ trưởng trong chính phủ. Mặc dù chế độ đã rút lui khỏi Con đường độc tài toàn trị của Miến Điện sang Chủ nghĩa xã hội của BSPP khi nắm quyền vào năm 1988, chế độ này đã bị nhiều người cáo buộc là vi phạm nhân quyền. Nó bác bỏ kết quả tuyển cử năm 1990 và quản thúc bà Aung San Suu Kyi cho đến khi bà được trả tự do vào ngày 13 tháng 11 năm 2010. Hội đồng chính thức bị giải tán vào ngày 30 tháng 3 năm 2011, với lễ khánh thành của chính phủ mới được bầu, do cựu thành viên và Thủ tướng Thein Sein lãnh đạo. Lịch sử Các thành viên SPDC chào mừng thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva trong chuyến thăm tháng 10 năm 2010 tới Naypyidaw. Các thành viên SPDC với phái đoàn Thái Lan trong chuyến thăm Naypyidaw tháng 10 năm 2010. SLORC được thành lập khi Lực lượng Vũ trang Miến Điện, do Tướng Saw Maung chỉ huy (sau này tự thăng cấp cho "tướng quân" Saw Maung, mất tháng 7 năm 1997), nắm quyền vào ngày 18 tháng 9 năm 1988 nghiền nát "Cuộc nổi dậy Bốn đêm". Vào ngày nó chiếm được quyền lực, SLORC đã ban hành Lệnh số 1/1988 nói rằng Lực lượng Vũ trang đã nắm quyền lực và tuyên bố thành lập SLORC. Với Lệnh số 2/1988, SLORC đã bãi bỏ tất cả 'Các cơ quan quyền lực nhà nước' được thành lập theo hiến pháp năm 1974 của Miến Điện. Pyithu Hluttaw (cơ quan lập pháp theo Hiến pháp 1974), Hội đồng Bộ trưởng (Nội các), Hội đồng Thẩm phán Nhân dân (Tư pháp), Hội đồng Luật sư Nhân dân ("Văn phòng Tổng chưởng lý"), Hội đồng Thanh tra Nhân dân ("Văn phòng Kiểm toán-Tổng giám đốc"), cũng như Hội đồng Nhân dân/Khu vực, Thị trấn, Phường/Làng bị bãi bỏ. SLORC cũng tuyên bố rằng các dịch vụ của các Thứ trưởng trong chính phủ của Chương trình Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện (BSPP) trước đây mà nó thay thế cũng bị chấm dứt. (Theo Hiến pháp Miến Điện năm 1974, "Hội đồng Bộ trưởng" hoạt động như một Nội các nhưng vì các Thứ trưởng không được coi là một phần chính thức của Hội đồng Bộ trưởng, SLORC đảm bảo rằng các Thứ trưởng-cùng với các Bộ trưởng-các dịch vụ trong chính phủ BSPP trước đây mà họ đã nắm quyền cũng bị chấm dứt.) Các đơn đặt hàng mà SLORC ban hành vào ngày tiếp quản có thể được nhìn thấy trong số ra ngày 19 tháng 9 năm 1988 của tờ Nhân dân làm việc. Chủ tịch đầu tiên của SLORC là Tướng Saw Maung, sau này là Đại tướng, người cũng là Thủ tướng. Ông bị cách chức cả Chủ tịch của SLORC và Thủ tướng vào ngày 23 tháng 4 năm 1992 khi Tướng Than Shwe, sau này là Đại tướng, tiếp quản cả hai chức vụ từ ông. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1997, SLORC đã bị bãi bỏ và được tái lập thành Hội đồng Phát triển và Hòa bình Nhà nước (SPDC). Hầu hết nhưng không phải tất cả các thành viên của SLORC bị bãi bỏ đều ở chế độ quân sự SPDC. Lãnh đạo Chủ tịch Cựu thành viên Thống tướng Than Shwe, Chủ tịch Hội đồng, Tổng tư lệnh Quốc phòng Phó thống tướng Maung Aye, Phó chủ tịch Hội đồng, Phó tổng tư lệnh Quốc phòng, Tổng tư lệnh Lục quân Đại tướng hồi hưu Thura U Shwe Mann, cựu Tham mưu trưởng Liên quân Đại tướng hồi hưu U Thein Sein, Thủ tướng, cựu Tổng thống Myanmar Đại tướng hồi hưu U Thiha Thura Tin Aung Myint Oo, Bí thư thứ nhất Hội đồng, cựu Tổng trưởng và cựu Phó tổng thống Myanmar Thiếu tướng Ohn Myint, Chánh văn phòng số 1 (Kachin State, Mandalay Region, Chin State, Sagaing Region) Trung tướng Min Aung Hlaing, Chánh văn phòng số 2 (Shan State, Kayah State) Trung tướng Ko Ko, Chánh văn phòng số 3 (Bago Region, Ayeyarwady Region) Trung tướng Tha Aye, Chánh văn phòng số 4 (Karen State, Mon State, Tanintharyi Region) Trung tướng Myint Swe, Chánh văn phòng số 5 (Yangon Region) Trung tướng Khin Zaw, Chánh văn phòng số 6 (Magwe Region, Rakhine State) Thiếu tướng Hla Htay Win, Tư lệnh Không quân huấn luyện Trung tướng hồi hưu U Tin Aye, cựu Tổng trưởng Hậu cần quân đội, Lãnh đạo Hội đồng Bầu cử Trung tướng Thura Myint Aung, Tổng phụ tá
Tăng thống (chữ Hán: 僧統)là danh xưng dùng để tôn xưng vị tăng sĩ lãnh đạo tinh thần Phật giáo của một quốc gia hoặc một giáo hội Phật giáo. Xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ IV tại Trung Hoa, Tăng thống ban đầu là chức vụ quản lý tăng sự được triều đình phong và coi là người đứng đầu Phật giáo cả nước thời phong kiến và quân chủ. Ngày nay, Tăng thống được hiểu là người đứng đầu Phật giáo trong một nước, hoặc của một giáo hội và chức vụ này thường do các tổ chức giáo hội quyết định. Một số danh xưng như Tăng vương (僧王, pi. saṅgharāja), Tăng hoàng (僧皇), Pháp chủ (法主), cũng được xem là tương đương với chức vị Tăng thống. Từ nguyên Trung Quốc Danh xưng Tăng thống (chữ Hán: 僧統) bắt nguồn từ Trung Hoa, được lập thời Bắc Ngụy, thời kỳ đầu được gọi là Đạo nhân thống (道人統), Sa-môn thống (沙門統), Đô thống (都統), Chiêu Huyền thống (昭玄統). Từ giữa thế kỷ IV, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và dần có sự ủng hộ chính thức của triều đình tại Trung Hoa. Theo sách Đại Tống tăng sử lược, quyển Trung, có chép là thời nhà Hậu Tần, hoàng đế Diêu Hưng bắt đầu cho lập Tăng quan (僧官) là các vị quan trông coi các vị sư, với chức danh Tăng chính (僧正) là người đứng đầu trông quản Phật giáo. Theo một tác phẩm vào thời Bắc Ngụy là Thích Lão chí thì vào năm đầu tiên của Đạo Vũ đế nhà Bắc Ngụy, ở quận Triệu có Sa-môn tên là Pháp Quả có giới hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, được vua cho vời (trưng bổ) làm Đạo nhân thống. Không lâu sau, chức này được đổi thành là Sa-môn thống, do vị tăng Đàm Diệu (曇曜) giữ chức, cũng gọi là Sa-môn đô thống hoặc Chiêu Huyền thống vì gọi theo tên của cơ cấu tăng quan trung ương là Chiêu Huyền tự (昭玄寺, trước đó mang tên Giám Phúc tào 監福曹). Sau đó các vị giữ chức đều được gọi là Chiêu Huyền thống. Khi nhà Ngụy thống nhất được miền Bắc Trung Hoa, đã cho đổi chức danh Tăng chính thành Tăng thống để thống lĩnh tăng ni. Sử chép thời kỳ này có vị Sa-môn người Kế Tân (罽賓) là Sư Hiền (師賢) đến Trung Hoa, du phương (đi chơi) đến đất Lương, sau đến kinh đô, nhằm lúc Phật pháp gặp nạn (440-451) bèn tạm giữ nghề bốc thuốc để không phải đổi đạo. Sau khi Phật pháp được trùng hưng, sư lại trở thành Sa-môn cùng với năm người bạn. Vua Ngụy lúc đó là Văn Thành đế kính mến, tự tay cắt tóc cho sư, chiếu lệnh phong làm Tăng thống. Đây là vị tăng nhân đầu tiên được ghi chép giữ chức Tăng thống trong lịch sử. Vào thời Bắc Tề năm 550, Văn Tuyên đế cử 10 vị tăng nhân làm Chiêu Huyền thống và trong đó, Sa-môn Pháp Thượng đứng đầu, được gọi là Chiêu Huyền Đại thống và 9 người còn lại là Thông thống (通統), cùng nhau trông coi hơn 40.000 tăng ni. Năm 581, Tùy Văn Đế sắc phong cho Tăng Mãnh chức "Tùy quốc Đại thống". Mười năm sau lại dùng chức Chiêu Huyền thống. Từ đời nhà Đường trở đi, vương triều bỏ chức Tăng thống, lập chức Tăng lục (僧錄). Nhà Tống bỏ chức vụ này, nhưng nó lại được dùng lại đời nhà Nguyên với danh hiệu là Thích giáo Tổng thống (釋教總統). Việt Nam Tại Việt Nam, từ thế kỷ X, Vua Đinh Tiên Hoàng thiết trí chức Tăng thống nhưng cũng đồng thời giữ chức Tăng lục. Khuông Việt Đại sư được phong chức Tăng thống và sau đó, vào năm 971, võ quan Trương Ma Ni cũng được Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng lục đạo sĩ. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử Việt Nam và sau này, cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn được sử dụng. Nhiệm vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng song vẫn có thể hiểu như một chức để quản lý các sư sãi ở trong nước. Triều đình nhà Nguyễn đề cao Nho học, không lập chức Tăng thống. Thời hiện đại, chức vụ Tăng thống được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1957, là chức vụ lãnh đạo Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. Theo tài liệu "Thắp lửa tâm linh" của Minh Đức Triều Tâm Ảnh, ngày 15 tháng 4 năm 1957 đánh dấu thời điểm thành lập Ban Chưởng Quản Lâm thời Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, đại đức Bửu Chơn là Tăng thống (lâm thời): "Đây chỉ mới là Ban Chưởng Quản Lâm thời, nó chỉ là cái sườn. Cái Ban này phải có nhiệm vụ sơ thảo điều lệ, nội dung để đệ trình lên Chính phủ. Vào khoảng tháng 11,12 năm này, chúng ta phải tổ chức một đại hội, đầy đủ Chư tăng tỳ khưu khắp các chùa để bầu bán công bằng, dân chủ..." Vào ngày 18 tháng 12 năm 1957, một Hội đồng Tăng già Chưởng Quản Giáo hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam, sau cuộc bầu bán và suy cử: Tăng thống: Đại đức Hộ Tông Đệ nhất Phó Tăng thống: Đại đức Bửu Chơn Đệ nhị Phó Tăng thống: Đại đức Thiện Luật Từ năm 1957 đến 1984, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam trải qua 7 đời Tăng thống: Tăng thống Hòa thượng Bửu Chơn (Từ 1957 đến 1961) Tăng thống Hòa thượng Thiện Luật (từ 1961 đến 1965) Tăng thống Hòa thượng Hộ Tông (Từ 1965 đến 1969) Tăng thống Hòa thượng Giới Nghiêm (Từ 1969 đến 1973) Tăng thống Hòa thượng Bửu Chơn (Từ 1973 đến 1977) Tăng thống Hòa thượng Ẩn Lâm (Từ 1977 đến 1981) Tăng thống Hòa thượng Giới Nghiêm (Từ 1981 đến 1984) Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập năm 1964, đã sử dụng lại danh vị này để gọi vị lãnh đạo cao nhất của giáo hội, theo đó có 5 vị Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là: Đệ nhất Tăng thống (1964-1973) Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973) Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979) Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905-1991) Đệ tứ Tăng thống (1991-2008) Hòa thượng Thích Huyền Quang (1919-2008) Đệ ngũ Tăng thống (2008-2020) Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928-2020) Sau khi Việt Nam thống nhất, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập sau Đại hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại Tùng lâm Quán Sứ, Hà Nội vào ngày 7 tháng 11 năm 1981. Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dùng chức danh Tăng thống mà thay vào đó dùng chức danh Pháp chủ dùng để gọi người lãnh đạo cao nhất của giáo hội. Từ khi thành lập năm 1981 đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có ba vị Pháp chủ: Đức Đệ nhất Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1981 - 1993) Đức Đệ nhị Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch (1993 - 2005) Đức Đệ tam Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (2007 - 2021) Nhật Bản Theo chế độ Ritsuryō, giới tăng lữ được đặt dưới sự giám sát của Genba ryō (玄蕃寮, げんばりょう), một cơ quan quản lý về Phật giáo và Ngoại quốc của triều đình. Lãnh đạo tăng quan (僧官, Sōkan) gồm có Tăng chính (僧正, Sōjō), Tăng đô (僧都, Sōzu), Luật sư (律師, Risshi). Các chức vụ Tăng chính và Tăng đô lại phân thành các chức Đại - Thiếu. Bên cạnh đó còn các cấp bậc thấp hơn làm phụ tá. Thiên hoàng Suiko năm 32 (624) lần đầu tiên bổ nhiệm các chức vụ tăng quan với các chức vụ Tăng chính, Tăng đô và Pháp đầu, Bách Tế tăng quan, khởi đầu cho chế độ Tăng chính của Nhật Bản. Cơ quan quản lý tăng sĩ được gọi là Sōgō sho (僧綱所, そうごうしょ), đóng một vai trò quan trọng trong thế giới Phật giáo theo thể chế Ritsuryō. Trong thời kỳ Nara, Sōgō sho đặt tại chùa Yakushi-ji (薬師寺, Dược Sư tự). Sau khi thiên đô, Sōgō sho được đặt tại chùa Sai-ji (西寺, Tây tự). Theo thời gian, các chức vụ tăng quan được mở rộng, đỉnh điểm gia tăng đến 10 vị. Bậc Tăng chính phân thành Đại tăng chính, Quyền đại tăng chính, Tăng chính, Quyền tăng chính. Năm 819, Sōgō sho được quy định số lượng tăng quan gồm Tăng chính 1 vị, Đại tăng đô 1 vị, Tiểu tăng đô 1 vị, Luật sư 4 vị. Đến năm 864, quy định danh vị các tăng quan của Sōgō sho với Tăng chính là Pháp Ấn Đại hòa thượng (法印大和尚, Hōin Daikashō), Tăng đô là Pháp Nhãn hòa thượng (法眼和尚, Hōgen Kashō) và Luật sư là Pháp Kiều thượng nhân (法橋上人, Hokkyō Shōnin). Triều Tiên Chế độ Seunggwan (僧官, 승관, Tăng quan) trong lịch sử Triều Tiên được ghi nhận đầu tiên ở vương quốc Tân La qua các ghi chép rải rác ở các tài liệu Tam quốc sử ký và Tam quốc di sự. Vẫn chưa rõ hệ thống Seunggwan được thành lập khi nào, do ai và nhiệm vụ của nó là gì, nhưng một số chức vị được ghi nhận như sau: Guktong (國統, 국통, Quốc thống) Doyuna Rang (都維那娘, 도유나랑, Đô đuy na nương) Tae Doyuna (大都維那, 대도유나, Đại đô duy na) Tae Seoseong (大書省, 대서성, Đại thư tỉnh) So Nyeon Seoseong (小年書省, 소년서성, Thiếu niên thư tỉnh) Jutong (州統, 주통, Châu thống) Guntong (郡統, 군통, Quận thống) Lịch sử Triều Tiên cũng từng thiết lập chế độ thi cử tăng khoa, thông qua chế độ khoa cử để khảo thí để kiểm định trình độ học thức cao thấp của giới tăng lữ, từ đó phân cấp địa vị chính trị tương ứng. Người đứng đầu giới tăng quan được gọi là Quốc sư (國師) hoặc Vương sư (王師). Myanmar Thathanabaing (), đôi khi được phiên âm là Thathanapaing, từng là tôn hiệu dành cho vị tăng sĩ đứng đầu Tăng đoàn ở Miến Điện thời tiền thuộc địa, cho đến khi chức vụ này bị chính quyền thuộc địa Anh ở Miến Điện bãi bỏ vào năm 1938. Thathanapaing chịu trách nhiệm quản lý hệ thống cấp bậc của tự viện và giáo dục tại các tự viện Phật giáo. Thathanabaing thường do triều đình Miến Điện bổ nhiệm tăng sĩ trên cơ sở đạo đạo và sự uyên thâm Phật pháp, được quyền cư trú trong một tự viện sắc tứ hoàng gia gần kinh đô của vương quốc. Thái Lan Campuchia Chú thích
Khoa học xã hội (tiếng Anh: Social science) là một trong những nhánh của khoa học, có mục đích nghiên cứu các xã hội và các mối quan hệ giữa các cá nhân trong các xã hội đó. Thuật ngữ này trước đây được sử dụng để chỉ lĩnh vực xã hội học, "khoa học về xã hội" ban đầu, được đặt ra vào thế kỷ 19. Ngoài xã hội học, bây giờ nó bao gồm một loạt các ngành lĩnh vực khác, bao gồm nhân học, khảo cổ học, kinh tế học, địa lý nhân văn, ngôn ngữ học, khoa học quản lý, khoa học truyền thông, khoa học chính trị và tâm lý học. Các nhà khoa học xã hội theo chủ nghĩa thực chứng sử dụng các phương pháp tương tự như các phương pháp của khoa học tự nhiên làm công cụ để hiểu xã hội, và do đó định nghĩa khoa học theo nghĩa hiện đại chặt chẽ hơn của nó. Ngược lại, các nhà khoa học xã hội theo chủ nghĩa diễn dịch có thể sử dụng phương pháp phê bình xã hội hoặc cách diễn giải tượng trưng hơn là xây dựng các lý thuyết có thể sai theo thực nghiệm, và do đó coi khoa học theo nghĩa rộng hơn của nó. Trong thực hành học thuật hiện đại, các nhà nghiên cứu thường chiết trung, sử dụng nhiều phương pháp luận (ví dụ, bằng cách kết hợp cả nghiên cứu định lượng và định tính). Thuật ngữ nghiên cứu xã hội cũng đã có được một mức độ tự chủ khi các nhà thực hành từ các lĩnh vực khác nhau có cùng mục tiêu và phương pháp. Lịch sử Phân ngành Danh sách sau đây là các lĩnh vực vấn đề, khoa học xã hội ứng dụng và các ngành trong khoa học xã hội. Nhân loại học Nghiên cứu kinh doanh (Business studies) Giáo dục công dân Nghiên cứu giao tiếp (Communication studies) Tội phạm học Nhân khẩu học Nghiên cứu phát triển (Development studies) Kinh tế học Giáo dục Nghiên cứu môi trường Khoa học dân gian (Folkloristics) Nghiên cứu về giới (Gender studies) Địa lý nhân văn Lịch sử Quan hệ lao động (Industrial relations) Khoa học thông tin Quan hệ quốc tế Pháp luật Khoa học thư viện Ngôn ngữ học Nghiên cứu truyền thông (Media studies) Chính trị học Tâm lý học Hành chính công Xã hội học Công tác xã hội Phát triển bền vững Các lĩnh vực nghiên cứu bổ sung Các lĩnh vực ứng dụng bổ sung hoặc liên ngành liên quan đến khoa học xã hội hoặc là khoa học xã hội ứng dụng bao gồm: Khảo cổ học Nghiên cứu khu vực (Area studies) Khoa học hành vi (Behavioural sciences) Khoa học xã hội tính toán (?) (Computational social science) Nhân khẩu học Nghiên cứu phát triển (Development studies) Khoa học xã hội môi trường (Environmental social science) Nghiên cứu môi trường Nghiên cứu về giới (Gender studies) Khoa học thông tin Quan hệ quốc tế và Giáo dục quốc tế (International education) Quản lý pháp lý (?) (Legal management) Khoa học thư viện Quản lý Marketing Kinh tế chính trị Hành chính công Nghiên cứu tôn giáo Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu xã hội Học thuyết
Vật liệu kim loại hiện được phân làm hai loại: Vật liệu kim loại đen và vật liệu kim loại màu. Vật liệu kim loại đen Vật liệu kim loại đen bao gồm gang,thép và các hợp kim của chúng(chứa đa phần là sắt). Đây là những hợp kim trên cơ sở sắt và cacbon. Thành phần cacbon được đánh giá bằng phần trăm khối lượng. Nếu trong 100 kg thép có 1 kg cacbon thì thành phần cacbon là 1%. Khi hàm lượng cacbon nhiều hơn 2,14% ta có gang, nếu nhỏ hơn 2,14% ta có thép. Thép Thép gồm có thép cacbon và thép hợp kim. Trên thực tế thép cacbon không có nghĩa là trong thành phần chỉ hoàn toàn là sắt và cacbon. Trong nền kim loại sắt, ngoài cacbon (<2,14%) còn có các tạp chất thông thường như Mn, Si, S, P và các tạp chất ngẫu nhiên như Cr, Ni, Cu, W, Ti, Mo... Khi hàm lượng các chất trên cao hơn một giá trị nào đó thì thép sẽ được coi là thép hợp kim. Thép cacbon Xem bài chính: Thép carbon Trong thép cacbon, ngoài sắt ra người ta quan tâm chỉnh sửa thành phần của những nguyên tố sau đây: C (<2%), Mn (0,5-0,8%), Si (0,3-0,6%), P (0,05-0,06%), S (0,05-0,06%) Ngoài các nguyên tố trên, các tạp chất ngẫu nhiên khác nếu có thì càng tốt vì làm tăng cơ tính của thép nên không cần loại bỏ. Phosphor và lưu huỳnh là 2 kẻ thù của mọi loại thép. Chất lượng của thép cao hay thấp đôi khi được đánh giá qua hàm lượng phosphor và lưu huỳnh còn lại trong thành phần. Thép có chất lượng cao là thép không chứa quá 0,025% mỗi nguyên tố trên. Phosphor có mặt trong thép từ quặng hay từ than có mặt trong thép ở dạng hòa tan trong ferit hoặc liên kết với sắt dạng Fe3P làm dòn thép khi nguội, gọi là hiện tượng dòn nguội, hay bở nguội. Lưu huỳnh có mặt trong thép cũng từ quặng hay trong than. Hỗn hợp cùng tinh (FeS + Fe) có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn gang thép và nằm ở biên giới các hạt, khi nung nóng để gia công áp lực, pha cùng tinh này bị chảy ra, làm thép bị đứt ở biên hạt, có cảm giác như bị giòn, hiện tượng này gọi là giòn nóng, hay bở nóng. Mn và Si được cho vào khử ôxi còn trong kim loại lỏng khi nấu, trong đó tác dụng khử ôxi của silic mạnh hơn. Hai nguyên tố này khi có mặt trong sắt còn làm tăng độ bền, độ cứng nhưng tác dụng làm giảm độ dẻo độ dai rất mạnh nên người ta chỉ sử dụng chúng có hạn chế. Thép dùng làm các kết cấu thông thường trong ngành xây dựng (tấm, thanh, dây, ống, thép hình chữ U, chữ I...) là thép cacbon chất lượng thấp, phosphor và lưu huỳnh dưới 0,06%. Thép kết cấu (thép dùng làm các chi tiết máy thông thường) có chất lượng cao hơn, S < 0,04%, P < 0,035%. Thép này luôn được khử ôxi bằng cả mangan lẫn silic. Độ bền của thép tăng khi hàm lượng cacbon tăng, tuy nhiên không sử dụng lượng cacbon cao hơn 0,85% vì độ bền từ điểm đó trở đi sẽ không tăng nữa mà sẽ giảm. Thép kết cấu có hàm lượng cacbon là 0,85% chịu được độ bền kéo là 1150 MPa, nghĩa là nếu một dây thép bằng thép trên tiết diện 1 mm² có thể treo được 1 vật nặng 115 kg. Thép đường ray là thép 0,5-0,8% cacbon; 0,6-1% mangan; phosphor, lưu huỳnh < 0,04%, thường có nhà máy chế tạo riêng. Dây thép có độ bền kéo phụ thuộc vào cả lượng cacbon lẫn mức độ bị biến dạng khi kéo (khi sản xuất), thông thường lượng carbon không cao hơn 1,2%, giới hạn bền kéo có thể đạt rất cao, chẳng hạn sản xuất từ thép 1,2% cacbon, kéo nguội đến mức độ biến dạng là 90% thì dây có giới hạn bền là 4000 MPa nghĩa là 1 dây tiết diện 1 mm² treo được 400 kg. Thép hợp kim Thép hợp kim là thép (với thành phần chính là sắt và cacbon) được nấu pha trộn với các nguyên tố hoá học khác (đồng, mangan, niken,...) với tổng lượng nguyên tố thêm vào nằm khoảng từ 1,0% đến 50% tổng khối lượng hỗn hợp để cải thiện chất lượng thép thành phẩm. Tuỳ theo số lượng khác nhau của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép mà thay đổi độ cứng, độ đàn hồi, tính dễ uốn, sức bền và khả năng chống oxy hóa của thép thành phẩm. Tại Nga, Trung Quốc và một số nước phương đông, thép hợp kim được chia làm 3 nhóm: thép hợp kim thấp, thép hợp kim trung bình và thép hợp kim cao. Ở phương Tây chỉ phân biệt hai loại thấp và cao. Sự khác nhau giữa hai loại này không có sự ranh giới rõ ràng.[1][2] Theo tiêu chuẩn của Nga, thép hợp kim thấp có tổng lượng hợp kim nhỏ hơn 2,5%, ở thép hợp kim cao tỉ lệ này lớn hơn 10%. Thông thường, cụm từ "thép hợp kim" dùng để đề cập đến thép hợp kim thấp. - Ngoài kim loại đen (thép,gắng) các kim loại còn lại chủ yếu là kim loại màu. Kim loại màu thường được sử dụng dưới dạng hợp kim. - Kim loại màu dễ kéo dài, dễ dát mỏng, có tính chống mài mòn, tính chống ăn mòn cao, đa số có tính dẫn nhiệt và dẫn điện tốt. Các kim loại màu ít bị oxi hoá trong môi trường. Kim loại màu chủ yếu là đồng (Cu), nhôm (Al) và hợp kim của chúng. - Đồng, nhôm và hợp kim của chúng được dùng nhiều trong công nghiệp như: sản xuất đồ dùng gia đình, chế tại chi tiết máy, làm vật liệu dẫn điện...
Trong nhận dạng mẫu, các đặc trưng là các thuộc tính riêng rẽ mà ta có thể xác định và đo đạc được khi quan sát một hiện tượng nào đó. Việc lựa chọn các đặc trưng tách biệt và độc lập là điểm mấu chốt cho bất kì giải thuật nhận dạng mẫu nào có thể thành công trong việc phân loại. Trong khi các lãnh vực khác nhau của nhận dạng mẫu thì có các đặc trưng khác nhau, một khi các đặc trưng này đã được xác định, chúng có thể được phân loại bằng một tập các giải thuật nhỏ hơn. Những tập này bao gồm việc phân loại theo hàng xóm gần nhau (near neighborhood classification) dựa trên đa chiều, mạng nơron (neural networks) hay các kĩ thuật thống kê, mà chủ yếu là dựa vào xác suất Bayes (Bayesian probabilities). Ví dụ Trong nhận dạng ký tự, các đặc trưng có thể bao gồm thông tin (profiles) theo chiều ngang và chiều dọc, số lượng các lỗ rỗng bên trong, xác định số nét (stroke detection) và nhiều yếu tố khác. Trong nhận dạng giọng nói, các đặc trưng để nhận dạng âm vị (phoneme) có thể bao gồm tỉ lệ tiếng ồn (noise ratio), chiều dài âm (sound), cường độ tương quan (relative power), lọc ra các trùng khớp (filter matche) và nhiều yếu tố khác. Trong các giải thuật nhận dạng spam, các đặc trưng có thể bao gồm việc kiểm tra xem một phần đầu (header) của thư điện tử có hiện hữu hay không, xem chúng có được cấu thành đúng hay không, ngôn ngữ mà thư điện tử dùng, việc chỉnh sửa các lỗi cú pháp, phân tích tần số Markov (Markovian frequency analysis) và nhiều yếu tố khác. Trong mọi trường hợp này, và nhiều trường hợp khác, việc trích rút đặc trưng mà có thể đo đạc được bằng máy tính là cả một nghệ thuật, với ngoại lệ là một số kĩ thuật mạng nơron và di truyền có thể tự động trực cảm (nhận biết) được các "đặc tính", và lựa chọn bằng tay các đặc tính tố để tạo thành cơ sở cho mọi giải thuật phân loại.
Trong toán học, một phân loại là một ánh xạ từ một không gian của các đặc trưng X (rời rạc hay liên tục) vào một nhóm rời rạc của các nhãn Y. Phân loại ở đây có thể là phân loại cố định (fixed classifier) hay phân loại có học, và phân loại có học có thể được chia thành phân loại có giám sát và học không có giám sát. Danh sách các ứng dụng phân loại và các công nghệ phân loại có thể xem ở phân loại bằng thống kê.
Document Object Model (Mô hình Đối tượng Tài liệu), viết tắt là DOM, là một giao diện lập trình ứng dụng (API). Thông thường, DOM có dạng một cây cấu trúc dữ liệu, được dùng để truy xuất các tài liệu dạng HTML và XML. Mô hình DOM độc lập với hệ điều hành và dựa theo kỹ thuật lập trình hướng đối tượng để mô tả tài liệu. Ban đầu, chưa có chuẩn thống nhất nên các thành phần trong một tài liệu HTML mô tả bằng các phiên bản khác nhau của DOM được hiển thị bởi các chương trình duyệt web thông qua JavaScript. Điều này buộc World Wide Web Consortium (W3C) phải đưa ra một loạt các mô tả kĩ thuật về tiêu chuẩn cho DOM để thống nhất mô hình này. Mặc dù một tài liệu hay văn bản có cấu trúc chặt chẽ (well-structured document) luôn luôn có thể được mô hình hóa bằng một cấu trúc dạng cây, DOM không có giới hạn về cấu trúc dữ liệu của một tài liệu. Hầu hết các bộ phân tích XML (XML parsers) (ví dụ: Xerces) và bộ xử lý XSL (ví dụ: Xalan) đã được phát triển để sử dụng cấu trúc cây này. Những hiện thực như vậy đòi hỏi toàn bộ nội dụng của một văn bản phải được phân tích và lưu trong bộ nhớ. Vì thế, DOM được sử dụng tốt nhất trong các ứng dụng mà trong đó các thành phần của tài liệu có thể được truy xuất và thao tác một cách ngẫu nhiên. Với các ứng dụng dựa trên XML, bao gồm yêu cầu đọc/ghi có chọn lọc cho mỗi lần phân tích (one-time selective read/write per parse), DOM cho thấy được sự tối ưu về mặt bộ nhớ. Trong các trường hợp đó thì giao diện lập trình ứng dụng SAX trở nên rất tiện lợi về cả mặt tốc độ và bộ nhớ. Cấp độ Các phiên bản mô hình DOM được xếp theo cấp độ hay bậc (level). Hiện tại thì, bản chi tiết kĩ thuật hiện hành của DOM đang ở cấp độ 2. Tuy vậy một số ở bản mô tả chi tiết kĩ thuật cấp độ 3 đang là khuyến khích sử dụng của W3C. Cấp độ 0 Bao gồm mọi chi tiết DOM theo quy định của từng nhà phát triển riêng biệt tồn tại trước khi DOM cấp độ 1 ra đời. Ví dụ: document.images, document.forms, document.layers, và document.all. Chú ý: đây là mô tả chi tiết kĩ thuật chính thức bởi W3C hơn là một tham khảo đến những thứ tồn tại trước khi xảy ra quá trình chuẩn hóa. Cấp độ 1 Cách duyệt qua tài liệu (cấu trúc cây) của DOM (HTML và XML) và thao tác nội dung (bao gồm việc thêm thành phần). Các thành phần riêng cho HTML cũng được đưa vào. Cấp độ 2 Hỗ trợ không gian tên XML, khung nhìn có lọc (filtered views) và các sự kiện DOM. Cấp độ 3 Nhằm nâng cao các khả năng của DOM, cấp độ 3 chứa sáu bản mô tả chi tiết kĩ thuật khác nhau: 1) the DOM Level 3 Core; 2) the DOM Level 3 Load and Save; 3) the DOM Level 3 XPath; 4) the DOM Level 3 Views and Formatting; 5) DOM Level 3 Requirements; and 6) the DOM Level 3 Validation. Sử dụng trong trình duyệt web Các hiện thực khác nhau của DOM trong các trình duyệt web khác nhau đã dẫn đến các vấn đề không tương hợp trong quá khứ. Vì thế, các lập trình viên web tốt hơn hết là nên kiểm tra xem một thuộc tính có tồn tại hay không trước khi sử dụng nó. Đoạn mã sau cho thấy cách kiểm tra phương thức quan trọng của W3CDOM có tồn tại hay không trước khi muốn thực thi đoạn mã phụ thuộc vào sự hỗ trợ của W3CDOM. if (document.getElementById && document.getElementsByTagName) { // vì các phương thức quan trọng getElementById và getElementsByTagName // có mặt nên đoạn mã sau có thể an toàn mà sử dụng chúng. obj = document.getElementById("navigation") // đoạn mã khác có sử dụng W3CDOM. //..... } Chương trình duyệt Internet Explorer của Microsoft – phiên bản 5 (1999),... phiên bản 6 (2001) – là một trong các trình duyệt phổ biến nhất trong năm 2005. Internet Explorer và các trình duyệt khác dựa trên động cơ hiển thị Gecko như là Mozilla và Firefox hỗ trợ nhiều thuộc tính của W3C DOM. Vì thế các vấn đề trong việc sử dụng W3CDOM không còn tồn tại nhiều nữa như từng có trước đây với Internet Explorer 4.x và Netscape 4.x vào năm 2000. Bảng trong bài so sánh các động cơ hiển thị (DOM) cho thấy các phương thức và thuộc tính nào có thể được sử dụng một cách an toàn cho mỗi chương trình duyệt. Bản đặc tả chi tiết kĩ thuật Document Object Model (DOM) Level 1 Specification Level 2 Recommendations: Document Object Model (DOM) Level 2 Core Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Views Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Events Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Style Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Traversal and Range Specification Document Object Model (DOM) Level 2 HTML Specification Level 3 Recommendations: Document Object Model (DOM) Level 3 Core Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Load and Save Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Validation Specification Level 3 Working Group Notes: Document Object Model (DOM) Level 3 XPath Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Views and Formatting Specification Document Object Model (DOM) Requirements
Bluetooth là một chuẩn công nghệ truyền thông không dây tầm gần giữa các thiết bị điện tử. Công nghệ này hỗ trợ việc truyền dữ liệu qua các khoảng cách ngắn giữa các thiết bị di động và cố định, tạo nên các mạng cá nhân không dây (Wireless Personal Area Network-PANs). Bluetooth có thể đạt được tốc độ truyền dữ liệu 1Mb/s. Bluetooth hỗ trợ tốc độ truyền tải dữ liệu lên tới 720 Kbps trong phạm vi 10 m–100 m. Khác với kết nối hồng ngoại (IrDA), kết nối Bluetooth là vô hướng và sử dụng dải tần 2,4 GHz. Ở chế độ được sử dụng rộng rãi nhất, công suất truyền được giới hạn ở mức 2,5 milliwatt. Thuật ngữ "Bluetooth" (có nghĩa là "răng xanh") được đặt theo tên của một vị vua Đan Mạch, vua Harald Bluetooth, người Viking nổi tiếng về khả năng giúp mọi người có thể giao tiếp, thương lượng với nhau, vào thế kỷ thứ 10, chính ông là vị vua viking đầu tiên chấp nhận Cơ đốc giáo, biến cơ đốc thành quốc giáo của Đan Mạch Từ nguyên Tên “Bluetooth” được đề xuất vào năm 1997 bởi Jim Kardach của Intel, người đã phát triển một hệ thống cho phép điện thoại di động giao tiếp với máy tính. Vào thời điểm đề xuất này, ông đang đọc cuốn tiểu thuyết lịch sử của Frans G. Bengtsson The Long Ships về người Viking và vua Đan Mạch thế kỷ 10 Harald Bluetooth. Bluetooth là phiên bản Anh hóa của tiếng Scandinavia Blåtand/Blåtann (hay tiếng Norse cổ blátǫnn). Đó là hình dung từ của Vua Harald Bluetooth, người đã thống nhất các bộ lạc Đan Mạch bất hòa thành một vương quốc duy nhất. Hàm ý rằng Bluetooth hợp nhất các giao thức truyền thông. Lịch sử phát triển Đặc tả Bluetooth được phát triển đầu tiên bởi Ericsson (hiện nay là Sony Ericsson và Ericsson Mobile Platforms), và sau đó được chuẩn hoá bởi Bluetooth Special Interest Group (SIG). Chuẩn được công bố vào ngày 20 tháng 5 năm 1999. Ngày nay được công nhận bởi hơn 1800 công ty trên toàn thế giới. Được thành lập đầu tiên bởi Sony Ericsson, IBM, Intel, Toshiba và Nokia, sau đó cùng có sự tham gia của nhiều công ty khác với tư cách cộng tác hay hỗ trợ. Bluetooth có chuẩn là IEEE 802.15.1. Theo Bluetooth SIG, hiện có hơn 90% điện thoại smartphone có tính năng Bluetooth, bao gồm các hệ điều hành IOS, Android và Windows. Ứng dụng Bluetooth cho phép kết nối và trao đổi thông tin giữa các thiết bị như điện thoại di động, điện thoại cố định, máy tính xách tay, PC, máy in, thiết bị định vị dùng GPS, máy ảnh số, và video game console. Các ứng dụng nổi bật của Bluetooth gồm: Điều khiển và giao tiếp không dây giữa một điện thoại di động và tai nghe không dây. Mạng không dây giữa các máy tính cá nhân trong một không gian hẹp đòi hỏi ít băng thông. Giao tiếp không dây với các thiết bị vào ra của máy tính, chẳng hạn như chuột, bàn phím và máy in. Truyền dữ liệu giữa các thiết bị dùng giao thức OBEX. Thay thế các giao tiếp nối tiếp dùng dây truyền thống giữa các thiết bị đo, thiết bị định vị dùng GPS, thiết bị y tế, máy quét mã vạch, và các thiết bị điều khiển giao thông. Thay thế các điều khiển dùng tia hồng ngoại. Gửi các mẩu quảng cáo nhỏ từ các pa-nô quảng cáo tới các thiết bị dùng Bluetooth khác. Điều khiển từ xa cho các thiết bị trò chơi điện tử như Wii - Máy chơi trò chơi điện tử thế hệ 7 của Nintendo và PlayStation 3 của Sony. Kết nối Internet cho PC hoặc PDA bằng cách dùng điện thoại di động thay modem.
Phân loại bằng thống kê là một thủ tục thống kê trong đó các thể riêng biệt sẽ được sắp vào từng nhóm dựa trên số lượng thông tin về một hay nhiều tính chất kế thừa của cá thể đó (được xem như là các điểm, các biến, các đặc điểm, v.v...) và dựa vào một tập huấn luyện của các cá thể đã được đánh nhãn sẵn. Về mặt hình thức, bài toán có thể diễn giải như sau: cho sẵn một tập huấn luyện ta cần tạo ra một phân loại mà có thể ánh xạ một đối tượng vào nhãn phân loại của nó. Ví dụ, nếu bài toán là lọc spam, thì là một biểu diễn nào nó cho một thư điện tử và thì hoặc là "Spam" hoặc "Không Spam". Các giải thuật phân loại bằng thống kê thường được sử dụng trong các hệ thống nhận dạng mẫu. Chú ý: trong cộng đồng sinh thái học, thuật ngữ "phân loại" là đồng nghĩa với từ được biết đến (trong ngành học máy) là phân nhóm (clustering). Xem bài viết đó để biết rõ hơn về các kĩ thuật không có giám sát. Các kĩ thuật phân loại bằng thống kê Trong khi có rất nhiều phương pháp phân loại, chúng thường buộc phải giải quyết một trong ba vấn đề liên quan đến toán học sau. Vấn đề đầu tiên là tìm một ánh xạ của một không gian đặc trưng (thường là một không gian vec-tơ đa chiều) đến một tập các nhãn. Điều này là tương đương với việc phân hoạch không gian đặc trưng thành các vùng nhỏ hơn, sau đó gán một nhãn vào mỗi vùng. Các giải thuật dạng này (ví dụ, giải thuật hàng xóm gần nhất) thường không đem lại sự tin cậy hay xác suất class (posterior probability), trừ phi quá trình xử lý sau được áp dụng. Một tập các giải thuật khác để giải quyết vấn đề này trước tiên là áp dụng việc phân mảnh không có giám sát không gian đặc trưng ra, sau đó cố gắng đánh nhãn cho mỗi mảnh (hay vùng) được phân ra đó. Vấn đề thứ hai là xem xét việc phân loại như là một bài toán về ước lượng, với mục tiêu là ước lượng xem một hàm có dạng với vec-tơ đặc trưng đầu vào là , và hàm f là được tham số hóa bởi một số tham số . Trong hướng tiếp cận Bayes cho vấn đề này, thay vì chọn một tham số vec-tơ đơn lẻ , kết quả sẽ tích hợp trên mọi thê-ta có thể có, với cách đánh trọng số dựa vào như cách đưa ra tập huấn luyện D: Bài toán thứ ba liên quan tới bài toán thứ hai, nhưng yêu cầu của nó là ước lượng xác suất có điều kiện-class và rồi sử dụng quy luật Bayes để đưa về xác suất lớp nhu bài toán số hai. Các ví dụ về các giải thuật phân loại bao gồm: Linear classifier Fisher's linear discriminant Logistic regression Naive Bayes classifier Perceptron k hàng xóm gần nhất Boosting Cây quyết định Mạng nơ-ron Mạng Bayes Support vector machine Mô hình Markov ẩn Lĩnh vực ứng dụng Thị giác máy tính Phân tích hình ảnh y học (Medical image analysis) Nhận dạng ký tự quang học Nhân dạng tiếng nói Nhận dạng chữ viết tay Nhận dạng sinh trắc học (Biometric identification) Phân loại tài liệu (Document classification) Động cơ tìm kiếm trên Internet Credit scoring
Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự phi Nhà nước mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Xã hội dân sự bao gồm không gian gia đình và lĩnh vực tư nhân, được gọi là " khu vực thứ ba " của xã hội, phân biệt với chính phủ và kinh doanh. Đôi khi thuật ngữ xã hội dân sự được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn, là "các yếu tố như tự do ngôn luận, tư pháp độc lập,..., tạo nên một xã hội dân chủ " (Từ điển tiếng Anh Collins). Đặc biệt là trong các cuộc thảo luận giữa các nhà tư tưởng Đông và Trung Âu, xã hội dân sự cũng xem như là một khái niệm về các giá trị của công dân. Một đại diện nổi tiếng của khái niệm này là Nhà bất đồng chính kiến ​​Ba Lan Adam Michnik. Hoạt động tình nguyện và sự độc lập từ các cơ quan sử dụng quyền lực nhà nước thường được xem là 2 đặc tính của các tổ chức cấu thành xã hội dân sự. Định nghĩa Có nhiều định nghĩa về xã hội dân sự: Trung tâm Xã hội dân sự của Trường đại học kinh tế London định nghĩa Xã hội dân sự như sau: Xã hội dân sự đề cập tới một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Về lý thuyết, các hình thái tổ chức xã hội dân sự khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường. Nhưng trong thực tế thì, ranh giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập mờ và không rõ ràng. Xã hội dân sự thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. Xã hội dân sự thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phòng trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư. Theo cuốn "Chế độ Dân chủ, nhà nước và xã hội" của N.M.Voskresenskaia và N.B.Davletshina:Xã hội dân sự là xã hội trong đó các tổ chức khác nhau của các công dân như đảng phái, công đoàn, hợp tác xã, nhóm,...thực hiện mối liên hệ giữa công dân với nhà nước, không để cho nhà nước áp bức các công dân của mình. Lịch sử Thuật ngữ xã hội dân sự xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào thế kỷ 16 và trở nên phổ biến vào thế kỷ 18. Một số sử gia Trung Quốc cho rằng vấn đề xã hội dân sự đã được nhắc đến ngay từ thời nhà Chu ở Trung Hoa. Theo quan niệm truyền thống châu Âu, xã hội dân sự được coi là một tổ chức (hội) đối trọng với chính quyền, tuy vậy cách hiểu này vẫn chưa được chấp nhận tại Việt Nam vì những lý do chính trị. Đặc trưng Chỉ ra những ranh giới rõ rệt, một bên là những hoạt động kinh tế tư nhân hướng theo lợi nhuận, bên kia là những hoạt động chính trị hướng vào việc chiếm lãnh và thực thi quyền lực nhà nước; Định ra một khu vực đa dạng gồm những hội nhóm và tổ chức khác nhau, độc lập về mặt chính trị xã hội với Nhà nước; Có khả năng tiến tới tầm cỡ toàn cầu thông qua việc nối kết với những tổ chức xã hội dân sự khác trên thế giới. Xã hội dân sự và dân chủ Những người ủng hộ xã hội dân sự cho rằng nó tạo điều kiện cho công dân nhận thức tốt hơn, tham gia vào chính trị, và giữ chính quyền có trách nhiệm hơn. Gần đây, Robert D. Putnam đã lập luận rằng ngay cả các tổ chức phi-chính trị trong xã hội dân sự cũng quan trọng đối với nền dân chủ. Điều này là do họ xây dựng vốn xã hội, tin tưởng và giá trị chung, được chuyển sang lĩnh vực chính trị và giúp tổ chức xã hội cùng với nhau, tạo điều kiện cho sự hiểu biết về sự liên kết của xã hội và lợi ích trong đó. Những người ủng hộ cho rằng xã hội dân sự rất cần cho xã hội: đó là lực lượng cùng góp phần với Nhà nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước, là lực lượng khỏa lấp những khiếm khuyết của thị trường, nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội tốt đẹp, phồn vinh, hạnh phúc. Những người khác, tuy nhiên, đã nghi vấn hoặc đặt câu hỏi "xã hội dân sự có tạo ra dân chủ thực sự?". Một số lưu ý rằng các tổ chức xã hội dân sự đã có quyền lực chính trị đáng kể thông qua các hoạt động của họ mà không hề có người trực tiếp bầu hoặc bổ nhiệm họ. Partha Chatterjee đã lập luận rằng, trong hầu hết các đất nước, "xã hội dân sự vẫn chỉ là đại diện cho quyền lợi của một nhóm nhỏ". Đối với Jai, xã hội dân sự là một chiêu bài của chủ nghĩa thực dân mới do giới tinh hoa chính trị phương Tây tạo ra nhằm phục vụ lợi ích riêng của họ. Cuối cùng, các học giả khác cho rằng, kể từ khi các khái niệm về xã hội dân sự liên quan chặt chẽ với nền dân chủ đại diện, nó cũng bị ảnh hưởng những ý tưởng của dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, tức là một tổ chức xã hội dân sự ở nước này có thể trở thành công cụ gây hại cho một nước khác nếu hai nước có mâu thuẫn hoặc xung đột. Xã hội dân sự có những điểm tích cực, đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý để thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước; là cầu nối các cá nhân cùng với Nhà nước hoạch định và tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách. Song thực tiễn ở các nước Liên Xô và Đông Âu năm 1990, hay khủng hoảng chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi năm 2012 đã cho thấy: các thế lực bên ngoài đã lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự để tạo ra tổ chức đối lập, lợi dụng "đấu tranh dân chủ" để kích động người dân thực hiện "Cách mạng màu", "Mùa xuân Ả Rập"... nhằm lật đổ chế độ xã hội ở các quốc gia kháchttp://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lat-tay-muu-do-doi-lot-xa-hoi-dan-su-chong-pha-dat-nuoc-343556/. Xã hội dân sự và nguy cơ với Nhà nước Edmund Burke, Alexis de Tocqueville và một số trí thức Nga từ thế kỷ 18 đã cho là xã hội dân sự là nền tảng căn bản cho nền dân chủ. Tuy nhiên Lenin lại cho là xã hội dân sự là thứ cản trở cho nền chuyên chính vô sản. Sử gia Stuart Finkel giải thích, Lenin tin tưởng rằng: "Phạm vi công cộng trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì phải thống nhất và duy nhất." và gạt bỏ các tổ chức xã hội dân sự, cho đó là tư tưởng tư sản. Người Bolshevik xem những tổ chức, công đoàn độc lập là tác nhân gây ra sự chia rẽ quan điểm trong xã hội, bởi vì chúng khuyến khích những tư tưởng và thái độ mâu thuẫn đối với nhà nước. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười có mục tiêu dứt khoát là cấm bất cứ tổ chức nào mà không được Nhà nước trực tiếp lập ra và không trung thành. Tại Liên Xô, ngay cả những tổ chức phi chính trị cũng bị cấm, bởi vì Lenin tin tưởng rằng, tất cả các tổ chức tự nhiên là chính trị; nếu họ không làm chính trị thẳng thắn thì cũng làm chính trị bí mật. Ngay cả các nhà Marxist chính thống cũng đề phòng việc tự do lập hội, kể cả những hội thể thao phi chính trị hay các hội văn hóa. Những người cộng sản Đông Âu thừa hưởng lập luận này (quan điểm bà Anne Applebaum) có thể là vì họ đã quan sát và thu thập được trong nhiều chuyến viếng thăm Liên Xô, hay vì các đồng chí họ trong mật vụ đã học được khi họ được huấn luyện, trong một vài trường hợp vì chính các tướng lãnh và đại sứ Liên Xô đã ra chỉ thị cho họ làm chuyện đó.Trong thời kỳ hậu chiến (thế chiến thứ hai), các nước khác mà bị ảnh hưởng bởi học thuyết Bolshevik cũng đã bắt đầu thực hiện một vài chính sách này. Trung Quốc và Triều Tiên là 2 nước hiển nhiên nhất, và họ được xem là ngang hàng hay vượt trên Liên Xô (theo cái nhìn của Anne Applebaum) trong việc cấm những tổ chức độc lập., Đến cuối thập niên 1980, ở Liên Xô, Gorbachev đề ra cải cách chính trị, cho phép thành lập hàng loạt các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự... Kết quả là chính phủ Liên Xô trở nên ngày một yếu đuối và dễ bị tổn thương do họ không còn quyền lực mạnh mẽ như trước đây. các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự đã lợi dụng chủ trương phản biện xã hội để chỉ trích, thậm chí vu khống Nhà nước Liên Xô, biến phản biện xã hội thành một quá trình không kiểm soát được, nhiều khi thành một hoạt động dạng câu lạc bộ vô chính phủ. Không còn bị kiểm soát, các tổ chức này đã tiến hành những hoạt động "diễn biến hòa bình", gây mâu thuẫn giữa các sắc tộc của Liên Xô. Các biện pháp bao gồm: bôi nhọ Chủ nghĩa Mác-Lênin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười trên báo chí mà không bị ngăn chặn và xử lý. Các "tổ chức phi chính phủ" xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức vào năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô. Nhiều đơn vị xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã Liên Xô năm 1991. Xã hội dân sự và các nước Trung Đông Các chế độ chính trị ở nhiều nước Ả Rập, bao gồm những chế độ ở Ả Rập Saudi, Libya và Iraq, áp dụng những chính sách cấm các tổ chức xã hội dân sự, với những lý do như các tổ chức này gây phương hại các giá trị Hồi giáo, hoặc là công cụ gián điệp của nước ngoài, gây chia rẽ các sắc tộc... Ví dụ như Muammar al-Qadhafi đã cấm mọi tổ chức xã hội dân sự và ông ta cũng cấm cả việc thành lập một đảng chính trị độc quyền duy nhất, ông ưa thích việc cai trị thông qua các hội đồng mà thành viên do người dân địa phương bầu ra, không phải là người của bất kỳ tổ chức nào. Xã hội dân sự tại Việt Nam Trước năm 1945, các phong trào và tổ chức dân sự có sự phát triển bước đầu tại Việt Nam. Sau năm 1945, tại miền Bắc, xã hội dân sự bị hạn chế, gần như xóa bỏ. Trong khi tại miền Nam, xã hội dân sự vẫn tồn tại và phát triển, một số tổ chức trở thành công cụ đắc lực ngầm phục vụ cho các hoạt động chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam chống lại Mỹ. Sau năm 1975 và đến rất gần đây, xã hội dân sự không được phát triển tại Việt Nam do Việt Nam hạn chế các phong trào dân sự và lập hội, bởi lo ngại tiềm ẩn các nguy cơ an ninh. Mãi tới gần đây, xã hội dân sự bắt đầu phát triển trở lại. Trong đó, Nghị quyết số 37-NQ/TW về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 của Đảng Cộng sản Việt Nam có đề cập đến "Xã hội dân sự" như là vấn đề cần nghiên cứu trong việc "phát huy quyền làm chủ của người dân đi đôi với hoàn thiện hệ thống chính trị" Nguy cơ về diễn biến hòa bình Quan điểm của các cơ quan an ninh Việt Nam cho rằng: xã hội dân sự có những điểm tích cực; đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý để thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước, là cầu nối các cá nhân với Nhà nước; cùng với Nhà nước hoạch định và phản biện xã hội đối với các chính sách. Song thực tiễn ở các nước Liên Xô và Đông Âu năm 1990, hay biến động chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi năm 2012 đã cho thấy: các thế lực bên ngoài đặc biệt chú trọng thúc đẩy, hình thành các tổ chức xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây, từng bước tạo ra tổ chức đối lập, hình thành xã hội đa đảng; áp đặt các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa theo kiểu của họ, thực hiện "Cách mạng màu", "Mùa xuân Ả Rập"... coi đó là phương thức hoạt động chủ yếu nhằm lật đổ chế độ xã hội ở các quốc gia này. Do vậy, cần phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này, ngăn chặn hoạt động lợi dụng xã hội dân sự để thực hiện "diễn biến hòa bình", lật đổ chế độ chính trị ở Việt Nam.
Thiền sư Đa Bảo (多寶) tu tại chùa Kiến Sơ (建初寺), làng Phù Đổng (扶蕫), Tiên Du (𠎣逰), thuộc thế hệ thứ 5 dòng Vô Ngôn Thông. Những cứ liệu hiện còn đều không biết rõ Sư người đâu, và cũng không biết họ gì. Cơ duyên và hành trạng Khi Đại sư Khuông Việt giảng dạy tại chùa Khai Quốc, Sư đến tham học. Đại sư khen là người gặp việc thì chóng hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất. Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến Sơ, bèn đến ở đó. Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: "Chú này cốt tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây." Lý Thái Tổ cả kinh, thưa: "Hiện nay đức Thánh thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy ta sao lại nói lời phải tội tru di này?" Sư bảo: "Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà đúng, thì mong chớ bỏ nhau." Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Cả đến công việc chính trị của triều đình, Sư đều dự phần giải quyết. Với những công trạng này, vua đã xuống chiếu trùng tu chùa Kiến Sơ. Sư Đa Bảo tịch ở đâu không ai biết rõ thời gian cũng như địa điểm. Chữ "Bát" và việc nhà Lý mất ngôi Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến Sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn và những bài kệ liên quan đến việc nhà Lý mất ngôi "sau tám đời vua", truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của tập Việt điện u linh và truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái có đề cập tuy có một số những sai khác về văn cứ và điểm xuất phát. Sử ký toàn thư trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện không phải là Đa Bảo, mà là Thiền sư Vạn Hạnh. Ngô Sĩ Liên viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ Pháp đến thăm chùa làng Phù Đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng: Sư Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Vua Lý Thái Tổ xem, nói rằng: "Việc thần nhân không thể hiểu được". Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó nói gì. Đến khi họ Lý mất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Chữ Bát 鉢 (của "bát nước") và chữ Bát 八 (nghĩa là "tám") phát âm giống nhau. Hai chữ Nhật 日 và San 山 tại câu cuối ghép thành chữ Sảm 旵 (tên vua Huệ Tông) có nghĩa là mặt trời lặn sau núi, hết bóng, có thể liên tưởng đến một sự chấm dứt. Bài thơ hàm ý rằng: nhà Lý chỉ tồn tại tám đời, sau đời vua Huệ Tông sẽ chấm dứt. Lịch sử Việt Nam viết về nhà Lý cho thấy rằng từ Thái Tổ trở lên đến Huệ Tông là tám đời, sau đó đến đời Lý Chiêu Hoàng thì phải nhường ngôi cho nhà Trần. Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ không phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy thì những bài thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên. Nguyên bản Hán văn □第五世二人□□□□□□□□□□□ 多寶禪師 𠎣逰扶蕫鄉建初寺多寶禪師不知何許人亦莫曉其姓氏時匡越大師於開國寺闡化師預參學大師嘉其臨機領悟處事謹恪獨許入室得法之後惟一瓶一鉢逍遙物外後得建初寺居焉李太祖澘(潛)龍時師見其英姿秀異謂曰此兒骨相不凢他日南靣必此人也帝大驚曰方今聖明在上海內靖謐吾師何故出此赤族語耶師云天命素定錐/雖/欲逃之不可得已33倘效其言幸勿相棄及帝即位屢召師赴闕諮訪禪旨恩禮厚𨺼洽至於朝廷政事咸預决焉有詔重修其寺後不知所化□□□□□□□ 得已: Nguyễn, LMT = 得也
Đông Dương tổng thống toàn quyền đại thần (chữ Hán: 東洋總統全權大臣, tiếng Pháp: Gouverneur-général de l'Indochine française), gọi tắt là toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Đông Pháp tổng thống toàn quyền đại thần, gọi tắt là toàn quyền Đông Pháp, là chức vụ cao cấp của quan chức cai trị thuộc địa Pháp, đứng đầu trong Liên bang Đông Dương. Sau Thế chiến thứ hai, khi quân Pháp đã tái kiểm soát được phần lớn Đông Dương, nhằm tránh khơi gợi lại thời kỳ thuộc địa, chức vụ Toàn quyền được thay thế bằng chức vụ thành Cao ủy Đông Dương hay Cao ủy Đông Pháp (tiếng Pháp: Haut-commissaire de France en Indochine). Cuối tháng 4 năm 1943, chức vụ này một lần nữa được thay đổi thành đến năm 1953 thì gọi là Tổng ủy Đông Dương (tiếng Pháp: Commissaires généraux en Indochine). Sau ngày 21 tháng 7 năm 1956, chức vụ này bị bãi bỏ theo tinh thần của Hiệp định Genève, 1954. Bối cảnh lịch sử Khi tiến hành xâm chiếm Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến 1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur-général de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam) và Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp. Ngày 17 tháng 10 năm 1887, viên Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ Toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Phủ Toàn quyền Đông Pháp (Gouvernement général de l'Indochine Française). Toàn quyền Đông Pháp là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Riêng nước Đại Nam (phần đất Trung kỳ còn lại, đang chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp) thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối thượng, tất nhiên là trên danh nghĩa. Đứng đầu cả ba kỳ là: Thống đốc Nam kỳ (có sách gọi Thủ hiến), Khâm sứ Trung kỳ (có sách gọi Đại Trú sứ) và Thống sứ Bắc kỳ (có sách gọi Tổng Trú sứ), cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1900 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao và Quảng Châu Loan. Quyền lực Toàn quyền là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp, gồm các thuộc địa kể trên, và hành xử như một nguyên thủ, với các quyền hành và trách nhiệm như sau: Có quyền ban hành các sắc lệnh và đạo luật để cai trị, công bố thiết quân luật, giờ giới nghiêm, Có quyền ân xá các tội phạm bản xứ, Có quyền thiết lập ngân sách và phê chuẩn chi thu toàn cõi Đông Pháp, Có quyền sử dụng các lực lượng quân sự, Chịu trách nhiệm an ninh nội bộ và quốc phòng của khối Đông Pháp, Có quyền giải tán các hội đồng mọi cấp. Chức vụ này có nhiệm kỳ năm (5) năm. Dưới quyền điều khiển của Toàn quyền, ngoài Thống đốc, Khâm sứ và Thống sứ, còn có các cơ quan hành chính như sau: Hội đồng Tư vấn (Conseil privé), Hội đồng Đề hình (Commissions criminelles), Bắc kỳ và Trung kỳ Nhân dân Đại biểu viện (Chambre des représentants du peuple) và một Đại hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine), Các tổng nha chuyên môn Đông Dương (Services généraux de l'Indochine): Nha Học chính, Nha Tài chính, Nha Kinh tế vụ, Nha Canh nông, Nha Công chính, Nha Bưu chính, Nha Thương chính, Quân đội, Sở Hiến binh (Gendarmerie) và Sở Mật thám Đông Dương (Direction des Affairs politiques et de la Sureté générale). Chính sách cai trị của các Toàn quyền Trên lý thuyết, các chính sách kinh tế, xã hội và quân sự người Pháp áp dụng tại Việt Nam phải dựa trên một chính sách chung dành cho tất cả các thuộc địa và đất bảo hộ, được hoạch định từ bộ Thuộc địa Pháp. Tuy nhiên trên thực tế các viên chức đại diện cho Pháp tại thuộc địa có toàn quyền hành xử, do đó chính sách cai trị thay đổi tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị và tính tình của từng cá nhân.<ref>VNTPĐH, tr. 127</ref> Lúc bấy giờ trong các lý thuyết gia thuộc chính giới Pháp có hai khuynh hướng khác biệt về chính sách thuộc địa, một khuynh hướng chủ trương đồng hóa (assimilation), một chủ trương liên hiệp (association). Danh sách các Toàn quyền, Cao ủy và Tổng ủy Đông Dương Toàn quyền Đông Dương đầu tiên là Ernest Constans (1887–1888) và người cuối cùng là Jean Decoux (1940–1945)Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL), Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo dục, Sàigòn, 1971, tr. 331; Chép là Constant chứ không phải Constants.. Bốn toàn quyền quan trọng là Paul Doumer, Paul Beau, Antony Klobukowski và Albert Sarraut. Một vài Toàn quyền tiêu biểu Bert, de Lanessan và Rousseau Trong số các viên chức dưới chế độ Toàn quyền đầu tiên có Thống sứ Paul Bert (19 tháng 10 năm 1833 tại Auxerre - 11 tháng 11 năm 1886 tại Hà Nội) và Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan (1891–1894) cai trị theo đường lối liên hiệp. Hai ông sử dụng các bậc trí thức, nho sĩ, thành lập Hội đồng Hào mục gồm 40 người để cố vấn, đối xử ngọt ngào để mua chuộc cảm tình của người Việt, trao quyền hành cho các quan lại người Việt và không xâm phạm các lễ nghi tôn giáo và phong tục của người Việt. Các ông này sau đó bị gọi về Pháp vì đại đa số các viên chức bộ Thuộc địa và giáo hội Pháp không đồng ý với chính sách cai trị ôn hòa đó. Từ năm 1895 đến năm 1897 Paul Armand Rosseau giữ chức Toàn quyền và tập trung quyền lực nhằm đàn áp các phong trào kháng Pháp. Paul Doumer Năm 1897, chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam bước sang một bước ngoặt khi Paul Doumer (22 tháng 3 năm 1857 – 7 tháng 5 năm 1932) giữ chức Toàn quyền. Paul Doumer là một chính khách ngoại hạng, sau trở thành Tổng thống Pháp, nhưng là một nhà cai trị độc tài mang lại nhiều thay đổi sâu sắc từ lúc ông ta nhậm chức. Ông thiết lập bộ máy nhà nước bảo hộ và xây dựng cơ sở hạ tầng kiên cố tại Việt Nam. Dưới thời Doumer, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết rất nhiều, nhưng người dân Việt phải chịu sưu thuế rất nặng để phục dịch và chu cấp cho việc này. Paul Doumer cho xây cây cầu có cùng tên với ông, một trong những cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, hiện là cầu Long Biên. Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, mang đến phân hóa rõ rệt giữa ba miền. Ông tập trung quyền hành vào chức vụ Toàn quyền, ép triều đình nhà Nguyễn đóng cửa Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao chức Kinh lược sứ, một chức quan trong triều đình Huế, cho Thống sứ Bắc kỳ lúc bấy giờ là Augustin Fourès. Ông cũng tổ chức khai thác tài nguyên của các nước trong Liên hiệp Đông Pháp, biến Đông Dương thành một thị trường cho kỹ nghệ và thương mãi của Pháp, và cùng lúc thành lập nơi đây một tiền đồn kinh tế và quân sự vững chắc của thực dân Pháp tại toàn cõi Viễn Đông. Sau khi trở về Pháp, ông tiếp tục tham gia chính trường Pháp, đắc cử Tổng thống Cộng hòa Pháp ngày 13 tháng 5 năm 1931. Ngày 6 tháng 5 năm 1932, ông bị bắn chết bởi một người Nga tị nạn chính trị tại Pháp tên là Paul Gorguloff. Tương truyền khi ông chết, người Pháp định mang thi hài ông táng trong điện Panthéon, nhưng vợ ông không đồng ý, nói rằng: "cả đời ông ấy đã hy sinh cho nước Pháp, còn bây giờ ông ấy là của tôi", rồi bà chôn ông trong khu vườn mộ gia đình, bên cạnh mộ của bốn người con trai, cả bốn đều hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Jean Beau Năm 1902, Doumer bị gọi về Pháp và Jean Beau thay thế. Jean Beau có tinh thần cấp tiến và mềm mỏng, chủ trương khai hóa dân trí, thành lập các trường học, y tế cục, bệnh viện, tổ chức giúp đỡ dân nghèo. Khi nhận thấy Phong trào Đông Du đưa đến việc nhiều thanh niên Việt Nam trốn sang Nhật học tập, ông cố gắng kềm chế tình trạng xuất dương bằng cách thành lập một trường đại học. Đồng thời ông cũng thành lập Hội đồng Tư vấn Bắc kỳ và các hội đồng tỉnh hạt, cho người Việt được bầu vào các hội đồng. Cùng chung số phận với các Toàn quyền cấp tiến Bert và de Lanessan, Beau bị gọi về về Pháp năm 1907. Antony Klobukowski kế nhiệm (1908–1911) đã bãi bỏ trường đại học và tất cả các hội đồng trên. Klobukowski Ngày 26 tháng 8 năm 1908, Antony Klobukowski được bổ làm Toàn quyền Đông Dương. Klobukowski, con rể của Paul Bert, xuất thân là nhà ngoại giao, đã từng làm việc với Thống đốc Thomson ở Sài Gòn, Tổng Trú sứ Bert, Toàn quyền Constans ở Hà Nội và giữ chức ngoại giao ở Nhật và Xiêm La. Tại Bắc Kỳ, Klobukowski thành lập một Hội đồng Tư vấn, một mô thức mới của Hội đồng Kỳ lão của Bert năm 1886. Ngày 30 tháng 1 năm 1909, nhân dịp Klobukowski có mặt ở Huế, Phủ Phụ chính ra Dụ trừng phạt cha mẹ có con xuất ngoại bất hợp pháp. Klobukowski cũng sửa đổi chính sách "chinh phục tinh thần" của Beau; bỏ Tổng nha Giáo dục Công lập (nghị định ngày 16/3/1909), đóng cửa Viện Đại học Đông Dương và giải thể Hội đồng Phát triển Giáo dục Bản xứ. Ngày 14 tháng 4 năm 1909 Klobukowski thành lập thêm một phân khoa sư phạm để đào tạo huấn đạo (giáo quan cấp huyện, từ chánh bát phẩm tới chánh thất phẩm) và giáo thụ (giáo quan cấp phủ, từ tòng lục phẩm tới tòng ngũ phẩm). Cho tới năm 1910, phân khoa này đặt dưới quyền phòng 2 của Phủ Thống sứ. Klobukowski còn mở trường Luật (École de Droit) với hai trụ sở Hà Nội và Sài Gòn. Học trình là 2 năm. Trường khai giảng tại Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 1910. Trong niên khoá 1911-1912, Sài Gòn có 18 sinh viên và Hà Nội 32 người. Đầu năm 1909, Klobukowski cũng chấm dứt chương trình gửi công chức bản xứ qua Pháp tu nghiệp – chương trình mà Beau tin tưởng là phương tiện hữu hiệu nhất và duy nhất để chống lại ảnh hưởng của Nhật Bản. Phân khoa bản xứ của trường Thuộc Địa ở Paris vẫn được duy trì, chỉ thay đổi cách tuyển chọn khoá sinh. Sau khi xác định Đề Thám dính líu vào âm mưu nổi dậy ở Hà Nội mùa Hè 1908, Klobukowski cho lệnh tấn công Yên Thế. Ngày 27 tháng 1 năm 1909, đồn điền Phồn Xương bị phá tan. Tháng 7 năm 1909, Đề Thám bắt cóc một con tin Pháp, định dùng để nghị hòa, nhưng Klobukowski không nhượng bộ. Ngày 9 tháng 12 năm 1908, Klobukowski ký nghị định cho mua bằng tiền tất cả 10 ngày sưu dịch với giá 0,15 đồng một ngày, hay 1,5 đồng mỗi năm. Tiền này bỏ vào quỹ hàng tỉnh. Sau khi ngân sách hàng tỉnh bị bãi bỏ năm 1911, tổng số tiền mua sưu dịch ở Bắc Kỳ năm 1912 là 765.000 đồng. Tại An Nam (Trung Kỳ), ngày 31 tháng 12 năm 1908, Klobukowski phê chuẩn dụ ngày 4 tháng 12 năm 1908 của Viện Cơ Mật, chia đều sưu dịch làm 5 ngày sưu tỉnh và 5 ngày sưu xã. Trong số 5 ngày sưu tỉnh, 2 ngày phải mua lại bằng tiền với giá 2 hào (20 xu) mỗi ngày. Ba ngày còn lại có thể mua, hay tự lao động. Ngoài ra, số ngày sưu tỉnh bị hạn chế trong phạm vi tổng hay huyện, ngoài phạm vi này phải có phép Viện Cơ Mật. Năm 1913, ngân sách Trung Kỳ dự trù thu được 364.500 đồng trên khoản mua sưu dịch. Đầu năm 1910, Klobukowski phải về nước tham khảo, và trở lại Đông Dương vào tháng 6 cùng năm. Nửa năm sau, Klobukowski lại về nước. Từ Paris, Klobukowski cho lệnh Toàn quyền Paul Louis Luce cấp học bổng cho Phó bảng Phan Châu Trinh qua Pháp cùng con trai là Phan Châu Dật, lúc ấy mới 8 tuổi. Ngày 1 tháng 4 năm 1911, Phan Châu Trinh cùng con trai rời Sài Gòn. Vì phí tổn do ngân quỹ liên bang đài thọ, hai người được đặt dưới sự quản trị của Julien Fourès, Giám đốc Đoàn Giáo dục Đông Dương tại Pháp. Albert Sarraut Năm 1911, Albert Sarraut, một chính khách trẻ và lỗi lạc, sau làm đến bộ trưởng Bộ Thuộc địa và đắc cử Thủ tướng Pháp trong hai nhiệm kỳ, sang kế nhiệm chức Toàn quyền. Sarraut thuộc đảng Cấp Tiến Pháp, là một đảng khuynh tả. Sarraut chủ trương làm đúng tinh thần liên hiệp, cho tổ chức lại trường đại học, cho mở mang thêm các trường học các cấp, nới rộng các hội đồng quản trị cho người Việt tham gia. Tuy các nỗ lực của ông bị người Pháp tại Việt Nam cực lực phản đối, chính sách cai trị mềm mỏng giúp ông tại chức khá lâu và tạo nên không khí dễ thở phần nào cho dân bị trị. Maurice Long Từ tháng 2 năm 1920 đến tháng 4 năm 1922 Maurice Long làm toàn quyền Đông Dương. Ông cũng có chính sách mềm mỏng tương tự Albert Sarraut nhưng bị phản đối và triệu hồi. Alexandre Varenne Năm 1925, Alexandre Varenne sang nhậm chức, và là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo. Một trong các hành động nhân đạo tiêu biểu đó là ông cho chích ngừa dịch tả, cải cách các trường học, ân xá cho Phan Bội Châu vừa bị tuyên án tử hình, lập các viện Dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ, mở rộng ngạch tương đương (cadres latérants) trong các công sở cho người Việt có bằng cấp tương đương có quyền nắm giữ các chức vụ tương đương với người Pháp, và thành lập Bình dân Nông phố Ngân quỹ để cho giúp nông dân. Chính sách của ông bị một số người Pháp phản đối dữ dội, và Varenne bị gọi về Pháp năm 1928. Chú thích Bell, Hesketh. Foreign Colonial Administration in the Far East''. London: Edward Arnold & Co., 1928.
Đại hàn (tiếng Trung: 大寒; bính âm: Dàhán) là tiết khí thường bắt đầu vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 1 (dương lịch), khi Mặt Trời ở xích kinh 300° (kinh độ Mặt Trời bằng 300°). Trong khoảng thời gian diễn ra tiết khí này thông thường thời tiết rất lạnh ở Bắc bán cầu Trái Đất; chính xác hơn là ở Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên nếu trước đó, khi tiết tiểu hàn diễn ra mà thời tiết đã rất lạnh thì thời tiết trong tiết đại hàn lại thường không lạnh lắm. Ở miền bắc Việt Nam, từ đèo Hải Vân trở ra thì ảnh hưởng của gió mùa đông bắc khô và lạnh còn lớn nên trong nông nghiệp người ta rất chú ý tới các tiết khí này nhằm có các biện pháp bảo vệ cây trồng thích hợp, tránh cho chúng không bị chết do rét đậm, rét hại. Ở Nam bán cầu Trái Đất, thời tiết lúc này đang vào cuối mùa hè. Theo quy ước, tiết đại hàn là một khoảng thời gian kéo dài từ ngày 20 hay 21 tháng 1 tới ngày 4 hay 5 tháng 2, tuy nhiên trên các loại lịch được xuất bản chính thức thì người ta chỉ ghi thời điểm bắt đầu của nó trong ngày 20 hay 21 tháng 1. Tiết khí đứng ngay trước Đại hàn là Tiểu hàn và tiết khí kế tiếp sau là Lập xuân.
Du lịch là việc đi lại nhằm mục đích niềm vui hoặc kinh doanh; cũng là lý thuyết và thực hành về tổ chức các chương trình đi du lịch, ngành kinh doanh nhằm thu hút, cung cấp và giải trí cho khách du lịch, và việc kinh doanh của các tổ chức điều hành các tour du lịch. Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa du lịch nói chung, theo nghĩa "vượt ra ngoài nhận thức chung về du lịch là chỉ giới hạn trong hoạt động nghỉ lễ", vì mọi người "đi du lịch và ở trong những nơi ngoài môi trường thông thường của họ không quá một năm liên tiếp để giải trí và không ít hơn 24 giờ, với mục đích kinh doanh và các mục đích khác ". Du lịch có thể là du lịch nội địa (trong quốc gia của khách du lịch) hoặc du lịch quốc tế có cả ý nghĩa đến và đi, có ý nghĩa quan trọng đối với cán cân thanh toán của một quốc gia. Số lượng du lịch giảm do suy thoái kinh tế mạnh mẽ (suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000) giữa nửa cuối năm 2008 và cuối năm 2009, và do hậu quả của sự bùng phát của virut cúm H1N1 2009, nhưng từ từ hồi phục. Trên toàn cầu, các khoản thu du lịch quốc tế (mục du lịch trong cán cân thanh toán) đã tăng lên nghìn tỷ đô la Mỹ ( tỷ euro) vào năm 2005, tương ứng với mức tăng 3,8% thực tế từ năm 2010 Lượng khách du lịch quốc tế đã vượt qua cột mốc của 1 tỷ khách du lịch trên toàn cầu lần đầu tiên vào năm 2012, Các nền kinh tế đang nổi lên như Trung Quốc, Nga và Brazil đã tăng đáng kể chi tiêu của họ trong thập kỷ trước. ITB Berlin là hội chợ thương mại du lịch hàng đầu thế giới. Việc du lịch toàn cầu gây ra khoảng 8% lượng khí thải nhà kính toàn cầu. Nguyên gốc từ Từ tiếng Anh tourist được sử dụng vào năm 1772 và tourism vào năm 1811. Những từ này bắt nguồn từ từ tour, xuất phát từ tiếng Anh cổ , từ tiếng Pháp cổ , từ Tiếng Latinh - "xoay trên máy tiện", xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ () - "máy tiện". Định nghĩa Vào năm 1936, Hội Quốc Liên xác định "khách du lịch nước ngoài" là "người đi du lịch nước ngoài ít nhất 24 giờ". Kế nhiệm của nó, Liên Hợp Quốc, đã sửa đổi định nghĩa này vào năm 1945, bao gồm một khoảng thời gian tối đa là sáu tháng. Vào năm 1941, Hunziker và Kraft định nghĩa du lịch là "tổng số hiện tượng và quan hệ phát sinh từ việc đi lại và lưu trú của người không phải là cư dân, miễn là không dẫn đến thường trú vĩnh viễn và không liên quan đến bất kỳ hoạt động kiếm thu nào." Năm 1976, định nghĩa của Hội Du lịch của Anh là: "Du lịch là sự di chuyển tạm thời, ngắn hạn của con người đến địa điểm ngoài nơi họ thường sống và làm việc, và các hoạt động của họ trong suốt thời gian lưu trú tại mỗi điểm đến. Nó bao gồm việc di chuyển cho mọi mục đích." Vào năm 1981, Hiệp hội Quốc tế các chuyên gia Khoa học Du lịch định nghĩa du lịch dựa trên các hoạt động cụ thể được chọn và thực hiện bên ngoài nhà. Vào năm 1994, Liên Hợp Quốc xác định ba hình thức du lịch trong "Các Khuyến nghị về Thống kê Du lịch" của nó: Du lịch nội địa, bao gồm cư dân của một quốc gia du lịch chỉ du lịch trong nước này. Du lịch đến, bao gồm người không phải là cư dân du lịch trong nước đó. Du lịch đi, bao gồm cư dân du lịch tại một quốc gia khác. Các nhóm khác được tạo ra từ việc phân nhóm trên: Du lịch quốc gia, sự kết hợp của du lịch nội địa và du lịch đi Du lịch khu vực, sự kết hợp của du lịch nội địa và du lịch đến Du lịch quốc tế, sự kết hợp của du lịch đến và du lịch đi Các thuật ngữ "du lịch" và "đi lại" đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Trong ngữ cảnh này, đi lại có cùng định nghĩa với du lịch nhưng ngụ ý một hành trình mang tính chủ đích hơn. Các thuật ngữ "du lịch" và "khách du lịch" đôi khi được sử dụng một cách khinh thường, ngụ ý sự quan tâm hời hợt đến văn hóa hoặc địa điểm được thăm. Trái lại, từ "người đi du lịch" thường được sử dụng như một dấu hiệu của sự phân biệt. Xã hội học du lịch đã nghiên cứu các giá trị văn hóa cốt lõi đằng sau những sự phân biệt này và tác động của chúng đối với mối quan hệ giai cấp. Sản phẩm du lịch Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, sản phẩm du lịch là: Sản phẩm du lịch bao gồm một loạt dịch vụ đa dạng bao gồm: Dịch vụ chỗ ở từ những nơi trọ giá rẻ đến khách sạn năm sao Dịch vụ tiếp đãi bao gồm các trung tâm phục vụ thức ăn và đồ uống Dịch vụ chăm sóc sức khỏe như mát-xa Tất cả các hình thức vận chuyển, đặt vé và thuê Các công ty du lịch, các chuyến tham quan có hướng dẫn và các hướng dẫn viên du lịch Dịch vụ văn hóa như công trình tôn giáo, bảo tàng và di tích lịch sử Mua sắm Du lịch quốc tế Du lịch quốc tế là du lịch vượt qua biên giới quốc gia. Quá trình Toàn cầu hóa đã biến du lịch trở thành một hoạt động giải trí toàn cầu phổ biến. Tổ chức Du lịch Thế giới xác định du khách là những người "đi du lịch và lưu trú ở những nơi nằm ngoài môi trường thông thường của họ trong không quá một năm liên tục cho mục đích du lịch, kinh doanh và các mục đích khác". Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng có đến 500.000 người đang bay trong cùng một thời điểm. Năm 2010, du lịch quốc tế đạt mức 919 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009, tương ứng với mức tăng về giá trị thực 4,7%. Năm 2010, có hơn 940 triệu lượt khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới. Đến năm 2016, con số này đã tăng lên 1.235 triệu lượt, tạo ra 1.220 tỷ USD chi tiêu tại điểm đến. Đại dịch COVID-19 đã gây tác động tiêu cực đáng kể đến du lịch quốc tế, đặc biệt là làm chậm sự tăng trưởng tổng thể. Du lịch quốc tế có tác động đáng kể đến môi trường, gia tăng một phần do các vấn đề gây ra bởi việc đi lại bằng máy bay nhưng cũng do các vấn đề khác, bao gồm khách du lịch giàu có mang đến lối sống gây áp lực cho cơ sở hạ tầng, hệ thống nước và rác thải địa phương, và nhiều vấn đề khác. Văn hoá du lịch Các sự kiện trong lịch sử ngành du lịch Thế kỉ 8 TCN – Các cuộc hành hương của người Hy Lạp về đỉnh Olympus Thế kỉ thứ 7 và thế kỉ thứ 8 – Sự phát triển của du lịch tôn giáo Thế kỉ 13 – Thời kì của các cuộc du hành tới các trường ĐH của Ý Năm 1271 – Cuộc viễn du của Marco Polo đến Đế quốc Mông Cổ theo Con đường tơ lụa Năm 1336 – Cuộc thám hiểm của Francesco Petrarka vào rặng núi Alps Provence Năm 1492 – Cuộc thám hiểm của Columbus với việc phát hiện ra châu Mỹ Năm 1550 – Cuốn sách đầu tiên hướng dẫn du lịch tại Ý: "Giới thiệu về Ý" Thế kỉ 18 – Những cuộc du hành đầu tiên trong mùa đông Năm 1825 – Xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới Năm 1841 – Khai trương công ty du hành đầu tiên mang tên "Thomas Cook", và chuyến du hành đầu tiên bằng tàu hỏa Năm 1882 – Mở những hội hiệp chủ khách sạn đầu tiên tại Thụy Sĩ Năm 1904 – Mở lộ trượt tuyết đầu tiên Năm 1924 – Thực hiện Olympic mùa đông lần đầu tiên; xây xa lộ đầu tiên tại Ý Năm 1934 – Thành lập Hội các tổ chức du lịch chính thể (UIOOPT) Các dạng du lịch Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, có các dạng du lịch: Du lịch làm ăn. Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt. Du lịch nội quốc, quá biên. Du lịch tham quan trong thành phố. Du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm. Du lịch hội thảo, triển lãm MICE. Du lịch giảm stress, Du lịch ba-lô, tự túc khám phá. Du lịch bụi. Du lịch biển đảo. Du lịch văn hóa. Du lịch sinh thái. Du lịch y tế. Du lịch người cao tuổi. Du lịch online. Các khu vực phát triển du lịch Hoa Kỳ Du lịch phát triển mạnh về nhiều mặt đặc biệt là tắm biển. Ví dụ: Bờ biển Florida, quần đảo Hawaii, bờ biển California. Du lịch trượt tuyết, leo núi và thác nước như Colorado, ven dãy núi Coocdie... Du lịch trên thuyền lớn cũng khá phát triển. Khách du lịch về đây từ khắp nơi trên thế giới khá đông. Du lịch châu Âu Châu Âu là nơi có nhiều kì quan thế giới và những cảnh đẹp như Tháp Eiffel ở Paris, Đồng hồ Big Ben ở London, Đấu trường Colosseum ở Roma, tháp nghiêng Pisa ở Italia, Kraków ở Ba Lan... tạo điều kiện cho du lịch tham quan cảnh vật trở nên phát triển. Dãy núi Anpo là góp phần cho du lịch trượt tuyết, leo núi, trượt tuyết của một số vùng phát triển với phong cảnh núi non hùng vĩ. Tầm quan trọng của ngành du lịch Ngành du lịch, là một phần của lĩnh vực dịch vụ, đã trở thành một nguồn thu quan trọng cho nhiều vùng và thậm chí là cho cả các quốc gia. "Tuyên ngôn Manila về Du lịch Thế giới năm 1980" đã công nhận tầm quan trọng của nó như "một hoạt động cần thiết đối với sự sống của các quốc gia vì tác động trực tiếp của nó đến các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục và kinh tế của các xã hội quốc gia, cũng như đến quan hệ quốc tế của họ." Du lịch mang vào một nền kinh tế địa phương số lượng lớn thu nhập dưới dạng thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho du khách, chiếm 30% tổng giá trị thương mại dịch vụ trên thế giới, và, như một xuất khẩu vô hình, chiếm 6% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nó cũng tạo ra cơ hội việc làm trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến du lịch. Cũng được cho rằng du lịch mở mang tầm mắt. Các ngành công nghiệp dịch vụ như giao thông vận tải (như hãng hàng không, tàu du lịch, các phương tiện công cộng, tàu hỏa và xe taxi); nơi lưu trú (bao gồm khách sạn, nhà trọ, chỗ nghỉ tại nhà, khu nghỉ dưỡng và việc cho thuê phòng); và địa điểm giải trí (như công viên giải trí, nhà hàng, sòng bạc, lễ hội, trung tâm mua sắm, nhạc viện và rạp hát, vietnam tours). Điều này cộng thêm các hàng hóa được mua bởi du khách, bao gồm đồ lưu niệm. Mặt khác, du lịch có thể làm suy yếu những người mà địa phương đón tiếp và gây mất mát quan hệ giữa chủ nhà và khách. Du lịch thường cũng gây áp lực bổ sung lên môi trường địa phương. Căn cơ kinh tế của du lịch về cơ bản là tài sản văn hóa, tài sản văn hóa và thiên nhiên của địa điểm du lịch. Di sản Thế giới đáng kể đáng được nhắc đến hiện nay vì chúng là điểm thu hút du lịch thực sự. Nhưng ngay cả hình thức chính trị hiện tại hoặc trước đây của một quốc gia cũng có thể quyết định cho du lịch. Ví dụ, sự hấp dẫn của gia đình hoàng gia Anh thu hút hàng triệu du khách đến Vương quốc Anh hàng năm và do đó góp phần cho nền kinh tế khoảng 550 triệu bảng Anh mỗi năm. Gia đình Habsburg cũng có thể được nhắc đến ở Trung Âu. Theo ước tính, thương hiệu Habsburg nên tạo ra doanh thu du lịch 60 triệu euro mỗi năm cho Viên một mình. Nguyên tắc du lịch "Habsburg bán hàng" được áp dụng. Du lịch, di sản văn hóa và UNESCO Di sản văn hóa và tự nhiên trong nhiều trường hợp là cơ sở tuyệt đối cho du lịch toàn cầu. Du lịch văn hóa là một trong những xu hướng lớn được thể hiện qua số lượng lưu trú và doanh số khổng lồ. Như UNESCO ngày càng nhận thấy, di sản văn hóa cần thiết cho du lịch, nhưng cũng bị đe dọa bởi nó. "Hiến chương Du lịch Văn hóa Quốc tế của ICOMOS" từ năm 1999 đã đề cập đến tất cả những vấn đề này. Kết quả của mối nguy hiểm du lịch, ví dụ, hang động Lascaux đã được xây dựng lại cho du khách. Overtourism là một từ khóa quan trọng trong lĩnh vực này. Hơn nữa, mục tiêu của UNESCO trong các khu vực chiến tranh là đảm bảo bảo vệ di sản văn hóa để duy trì nền kinh tế quan trọng trong tương lai cho dân địa phương. Và có sự hợp tác mạnh mẽ giữa UNESCO, Liên Hợp Quốc, Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và Blue Shield International. Có nhiều suy nghĩ, nghiên cứu và chương trình quốc tế và quốc gia để bảo vệ tài sản văn hóa khỏi ảnh hưởng của du lịch và những ảnh hưởng từ chiến tranh. Đặc biệt, còn liên quan đến việc đào tạo cho nhân viên dân sự và quân sự. Nhưng sự tham gia của người dân địa phương là vô cùng quan trọng. Chủ tịch sáng lập của Blue Shield International Karl von Habsburg tóm tắt bằng lời nói: "Không có cộng đồng địa phương và không có người tham gia địa phương, điều đó sẽ hoàn toàn không thể". Các phát triển gần đây Trải qua vài thập kỷ gần đây, ngành du lịch đã có xu hướng tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là tại châu Âu, nơi du khách thường đi du lịch quốc tế trong các chuyến nghỉ ngắn. Du khách có đa dạng về ngân sách và sở thích, và do đó đã xuất hiện nhiều loại khu nghỉ dưỡng và khách sạn để đáp ứng nhu cầu của họ. Ví dụ, một số người thích du lịch biển đơn giản, trong khi người khác muốn có những kỳ nghỉ đặc biệt hơn, tại các khu nghỉ yên tĩnh, kỳ nghỉ dành cho gia đình hoặc khách sạn điểm đến theo thị trường đặc thù. Các phát triển trong cơ sở hạ tầng vận chuyển hàng không, như máy bay jumbo, hãng hàng không giá rẻ và sự tiếp cận dễ dàng đến các sân bay, đã làm cho nhiều loại hình du lịch trở nên phổ biến hơn. Một yếu tố quan trọng trong việc giảm giá vé máy bay là miễn thuế nhiên liệu hàng không. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính vào năm 2009 có khoảng nửa triệu người trên máy bay tại bất kỳ thời điểm nào. Cuộc sống cũng đã có những thay đổi, ví dụ như một số người nghỉ hưu du lịch quanh năm. Sự phát triển của việc bán dịch vụ du lịch trực tuyến đã hỗ trợ điều này. Một số trang web đã bắt đầu cung cấp gói du lịch tự tạo (dynamic packaging), trong đó giá cả được công bố cho một gói dịch vụ tùy chỉnh theo yêu cầu của khách hàng. Cũng có một số thất bại trong ngành du lịch, như các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 và các mối đe dọa khủng bố đối với các điểm đến du lịch, như Bali và một số thành phố châu Âu. Ngoài ra, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận sóng thần do động đất Ấn Độ Dương năm 2004 gây ra đã ập vào các quốc gia châu Á ven biển Ấn Độ Dương, bao gồm cả Maldives. Hàng ngàn người đã thiệt mạng, trong đó có nhiều du khách. Trong thời gian đó, việc dọn dẹp sau thảm họa đã làm tạm ngừng hoặc làm giảm mạnh hoạt động du lịch trong khu vực này. Việc lưu trú qua đêm với giá rẻ hoặc thậm chí miễn phí đã trở nên phổ biến hơn trong những năm 2000, đặc biệt là với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nhà nghỉ và các dịch vụ như CouchSurfing và Airbnb. Ngoài ra, cũng đã có các ví dụ về các địa phương chi tiêu một phần lớn GDP để chuyển đổi nguồn thu chính từ du lịch, như đã xảy ra tại Dubai.
Gió mậu dịch hay gió tín phong (tiếng Anh: trade wind hay passat, bắt nguồn từ passar trong tiếng Bồ Đào Nha) là gió thổi thường xuyên trong những miền Cận Xích đạo. Gió mậu dịch thổi từ những miền áp cao ở các vĩ độ ngựa về vùng áp thấp xung quanh xích đạo. Gió bắt đầu từ Đại áp cao cận nhiệt đới ở cả 2 bán cầu. Trên Bắc bán cầu thì đây là những luồn gió thổi chủ yếu theo hướng (chiều) Đông Bắc đến Tây Nam, còn trên Nam bán cầu là hướng (chiều) Đông Nam đến Tây Bắc (do ảnh hưởng của lực Coriolis).(Co-rio-lis) Trong những miền cận xích đạo, gió mậu dịch đến từ hai bán cầu gặp nhau tạo thành những dòng đối lưu bốc lên cao (vì vậy mà ở sát mặt đất thì yên lặng, hoặc gió thổi yếu). Nó tạo thành cái gọi là đới hội tụ liên chí tuyến (ITCZ). Gió mậu dịch thường xuất hiện vào mùa hè, thổi về hướng Đông ở tầng có độ cao trên 2 cây số phía trên xích đạo. Còn ở tầng cao hơn nữa thì lại có những luồng gió "mậu dịch ngược" thổi về hướng Tây. Đây là hệ quả của sự tuân thủ theo định luật bảo toàn động lượng trong chuyển động quay. Gió mậu dịch còn được gọi là gió tín phong (tín nghĩa là tin tưởng) là vì vào thời xưa người châu Âu và Trung Quốc đã dùng các đợt gió mậu dịch để giong buồm buôn bán trên con đường tơ lụa trên biển, với sự xuất hiện của những cơn gió này thì việc làm ăn, buôn bán, giao thương được thuận lợi.
Giải thuật người hàng xóm gần nhất trong nhận dạng mẫu là một phương pháp để phân loại các hiện tượng dựa trên các đặc trưng quan sát được. Trong giải thuật, mỗi đặc trưng được gán cho một chiều để tạo thành một không gian đặc trưng đa chiều. Một tập huấn luyện các đối tượng với lớp (class) đã biết trước (đã phân loại sẵn) sẽ được xử lý bằng cách trích rút đặc trưng (lấy ra một số đặc trưng) và được biểu diễn (vẽ sơ đồ) vào trong không gian đặc trưng đa chiều đó. Khoảng cách đến gốc (offset) trong mỗi chiều được xem là vec-tơ đặc trưng. Đây là giai đoạn huấn luyện hay học. Vì động cơ có thể được huấn luyện lại để phân loại nhiều hiện tượng khác nhau, nhận dạng mẫu là một phần của ngành học máy. Giai đoạn kiểm tra bắt đầu với các hiện tượng (phenomena) cần phân loại (lớp của từng hiện tượng chưa được biết trước) và trích rút ra cùng tập các đặc trưng như với tập huấn luyện. Khoảng cách hình học được tính toán giữa vec-tơ đặc trưng mới với mỗi vec-tơ đặc trưng có sẵn từ tập huấn luyện. Khoảng cách ngắn nhất tính toán được, đến vec-tơ đặc trưng trong tập huấn luyện, chính là họ hàng gần nhất. Và lớp (loại) biết trướccủa họ hàng gần nhất đó sẽ cũng là lớp của hiện tượng mà ta đang cần phân loại. Hiển nhiên, giải thuật này sẽ đòi hỏi cường độ tính toán cao khi tập huấn luyên trở nên lớn. Nhiều sự tối ưu đã và đang được đưa ra, chúng chủ yếu tìm kiếm nhằm giảm số lượng khoảng cách được thực sự tính toán. Một số tối ưu bao gồm phân hoạch không gian đặc trưng, và chỉ tính các khoảng cách với các vec-tơ thuộc một vùng lân cận cụ thể nào đó. Một số biến thể khác của giải thuật bao gồm giải thuật k hàng xóm gần nhất với k vec-tơ đặc trưng gần nhất sẽ được tính toán, và việc phân loại sẽ dựa vào độ tin cậy cao nhất chỉ khi mọi mọi hàng xóm gần nhất đó nều cùng thuộc một loại (lớp). Người hàng xóm gần nhất cho ra một số kết quả ổn định vững chắc. Vì số lượng dữ liệu tiếp cận được xem là vô hạn, người hàng xóm gần nhất đảm bảo cho ra tỉ lệ lỗi không vượt quá hai lần tỉ lệ lỗi Bayes (là tỉ lệ lỗi đạt được tối thiểu khi biết sự phân bố dữ liệu). k-người hàng xóm gần nhất được đảm bảo là sẽ tiến tới tỉ lệ lỗi Bayes, với một giá trị nào đó của k.
Học máy (tiếng Anh: machine learning) là một lĩnh vực của trí tuệ nhân tạo liên quan đến việc nghiên cứu và xây dựng các kĩ thuật cho phép các hệ thống "học" tự động từ dữ liệu để giải quyết những vấn đề cụ thể. Các thuật toán học máy xây dựng một mô hình dựa trên dữ liệu mẫu, được gọi là dữ liệu huấn luyện, để đưa ra dự đoán hoặc quyết định mà không cần được lập trình chi tiết về việc đưa ra dự đoán hoặc quyết định này. Ví dụ như các máy có thể "học" cách phân loại thư điện tử xem có phải thư rác (spam) hay không và tự động xếp thư vào thư mục tương ứng. Học máy rất gần với suy diễn thống kê (statistical inference) tuy có khác nhau về thuật ngữ. Một nhánh của học máy là học sâu phát triển rất mạnh mẽ gần đây và có những kết quả vượt trội so với các phương pháp học máy khác Học máy có liên quan lớn đến thống kê, vì cả hai lĩnh vực đều nghiên cứu việc phân tích dữ liệu, nhưng khác với thống kê, học máy tập trung vào sự phức tạp của các giải thuật trong việc thực thi tính toán. Nhiều bài toán suy luận được xếp vào loại bài toán NP-khó, vì thế một phần của học máy là nghiên cứu sự phát triển các giải thuật suy luận xấp xỉ mà có thể xử lý được. Học máy có hiện nay được áp dụng rộng rãi bao gồm máy truy tìm dữ liệu, chẩn đoán y khoa, phát hiện thẻ tín dụng giả, phân tích thị trường chứng khoán, phân loại các chuỗi DNA, nhận dạng tiếng nói và chữ viết, dịch tự động, chơi trò chơi và cử động rô-bốt (robot locomotion). Định nghĩa Dưới góc nhìn của trí tuệ nhân tạo, động lực chính học máy bởi là nhu cầu thu nhận tri thức (knowledge acquisition). Thật vậy, trong nhiều trường hợp ta cần kiến thức chuyên gia là khan hiếm (không đủ chuyên gia ngồi phân loại lừa đảo thẻ tín dụng của tất cả giao dịch hàng ngày) hoặc chậm vì một số nhiệm vụ cần đưa ra quyết định nhanh chóng dựa trên xử lý dữ liệu khổng lồ (trong mua bán chứng khoán phải quyết định trong vài khoảng khắc của giây chẳng hạn) và thiếu ổn định thì buộc phải cần đến máy tính. Ngoài ra, đại đa số dữ liệu sinh ra ngày nay chỉ phù hợp cho máy đọc (computer readable) tiềm tàng ngưồn kiến thức quan trọng. Máy học nghiên cứu cách thức để mô hình hóa bài toán cho phép máy tính tự động hiểu, xử lý và học từ dữ liệu để thực thi nhiệm vụ được giao cũng như cách đánh giá giúp tăng tính hiệu quả. Tom Mitchell, giáo sư nổi tiếng của Đại học Carnegie Mellon University - CMU định nghĩa cụ thể và chuẩn mực hơn như sau: "Một chương trình máy tính CT được xem là học cách thực thi một lớp nhiệm vụ NV thông qua trải nghiệm KN, đối với thang đo năng lực NL nếu như dùng NL ta đo thấy năng lực thực thi của chương trình có tiến bộ sau khi trải qua KN" (máy đã học). Biểu diễn Biểu diễn (tiếng Anh: representation) là một trong những vấn đề quan trọng của học máy. Biểu diễn ở đây có thể hiểu làm sao mã hóa (encode) những thông tin của thế giới thật giúp hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả và đầy đủ nhất có thể. Thông tin ở đây bao hàm cả thông tin về dữ liệu đầu vào, đầu ra hay các trạng thái của hệ thống; cũng như cách đánh giá hiệu quả của chương trình. Thông thường, trong học máy người ta hay xây dựng các mô hình sử dụng những biến ngẫu nhiên cho việc biểu diễn dữ liệu và nội trạng thái của hệ thống. Ví dụ: dùng biến ngẫu nhiên để biểu thị cho tính chất của email là spam (tương ứng giá trị 0) hay là bình thường (tương ứng 1). Mối tương quan giữa các biến ngẫu nhiên này có thể sử dụng ví dụ như mô hình xác suất dạng đồ thị để miêu tả. Mặt khác, để đo hiệu quả có thể dùng các hàm thiệt hại (hay hàm tiện ích, trong tiếng Anh là loss function và utility function tương ứng). Tính phổ quát Một trong những trọng tâm khác của học máy là đạt được tính phổ quát (tiếng Anh: generalization), nói cách khác là tính chất của chương trình có thể làm việc tốt với dữ liệu mà nó chưa gặp bao giờ (tiếng Anh: unseen data). Một chương trình chỉ hiệu quả với dữ liệu đã gặp nhìn chung không có nhiều tính hữu dụng. Lấy ví dụ về xếp thư điện tử tự động như trên, một hệ thống tự động sau khi trải qua quá trình học từ dữ liệu ("training") có thể suy diễn một số nguyên tắc riêng (chẳng hạn như xem xét nội dung: nếu thư được viết bằng tiếng Anh mà chứa một số từ như "porn", "sell", "good product" hoặc người gửi đến từ Somalia trong khi người nhận ở Hà Nội không thân quen nhau) để quyết định xem có phải là thư rác hay không. Tuy nhiên, nếu như trong dữ liệu bài giảng (training data) có ngôn ngữ khác trong thực tế (tiếng Việt thay vì tiếng Anh) hoặc thậm chí không phải dạng thuần văn bản (dạng ảnh khiến cho bóc tách nội dung khó hơn hoặc không thể) thì rất có thể máy sẽ dự báo không chính xác nữa. Một số chương trình có thể tự động cập nhật trong thời gian thực (ví dụ như người sử dụng có chỉ ra rằng thư bị sắp xếp sai danh mục). Tương tác với con người Một số hệ thống học máy nỗ lực loại bỏ nhu cầu trực giác của con người trong việc phân tích dữ liệu, trong khi các hệ thống khác hướng đến việc tăng sự cộng tác giữa người và máy. Không thể loại bỏ hoàn toàn tác động của con người vì các nhà thiết kế hệ thống phải chỉ định cách biểu diễn của dữ liệu và những cơ chế nào sẽ được dùng để tìm kiếm các đặc tính của dữ liệu. Học máy có thể được xem là một nỗ lực để tự động hóa một số phần của phương pháp khoa học. Một số nhà nghiên cứu học máy tạo ra các phương pháp bên trong các khuôn khổ của thống kê Bayes. Tương quan với Khai phá dữ liệu Khai phá dữ liệu và học máy là hai khái niệm hay bị nhầm lẫn. Hai lĩnh vực này nhìn chung gần với nhau và đôi khi dùng chung nhiều phương pháp, công cụ nhưng khác biệt chính là ở mục tiêu: Khai phá dữ liệu: thường mục tiêu là tìm kiếm những thông tin, tri thức hoàn toàn mới tiềm năng có ích trong nguồn dữ liệu. Học máy: dự đoán một số thông tin của dữ liệu dựa trên những đặc tính đã biết. Các loại giải thuật Các thuật toán học máy được phân loại theo kết quả mong muốn của thuật toán. Các loại thuật toán thường dùng bao gồm: Học có giám sát—trong đó, thuật toán tạo ra một hàm ánh xạ dữ liệu vào tới kết quả mong muốn. Một phát biểu chuẩn về một việc học có giám sát là bài toán phân loại: chương trình cần học (cách xấp xỉ biểu hiện của) một hàm ánh xạ một vector tới một vài lớp bằng cách xem xét một số mẫu dữ liệu - kết quả của hàm đó. Học không giám sát—mô hình hóa một tập dữ liệu, không có sẵn các ví dụ đã được gắn nhãn. Học nửa giám sát—kết hợp các ví dụ có gắn nhãn và không gắn nhãn để sinh một hàm hoặc một bộ phân loại thích hợp. Học tăng cường—trong đó, thuật toán học một chính sách hành động tùy theo các quan sát về thế giới. Mỗi hành động đều có tác động tới môi trường, và môi trường cung cấp thông tin phản hồi để hướng dẫn cho thuật toán của quá trình học. Chuyển đổi—tương tự học có giám sát nhưng không xây dựng hàm một cách rõ ràng. Thay vì thế, cố gắng đoán kết quả mới dựa vào các dữ liệu huấn luyện, kết quả huấn luyện, và dữ liệu thử nghiệm có sẵn trong quá trình huấn luyện. Học cách học—trong đó thuật toán học thiên kiến quy nạp của chính mình, dựa theo các kinh nghiệm đã gặp. Phân tích hiệu quả các thuật toán học máy là một nhánh của ngành thống kê, được biết với tên lý thuyết học điện toán. Các chủ đề về máy học Danh sách các chủ đề của môn học này: Mô hình hóa các hàm mật độ xác suất điều kiện: hồi quy và phân loại Mạng nơ-ron Máy học cực độ (Extreme learning machine) Cây quyết định Lập trình biểu thức gen Lập trình di truyền Hồi quy quá trình Gauss Phân tích biệt thức tuyến tính k láng giềng gần nhất Độ dài thông điệp tối thiểu Cảm tri nguyên Hàm cơ sở xuyên tâm Máy vector hỗ trợ (Support Vector Machine) Mô hình hóa các hàm mật độ xác suất qua các mô hình phát sinh: Thuật toán cực đại kì vọng Các mô hình đồ họa gồm mạng Bayes và mạng Markov Ánh xạ topo phát sinh Các kỹ thuật suy luận xấp xỉ đúng: Chuỗi Markov phương pháp Monte Carlo Phương pháp biến thiên Tối ưu hóa: hầu hết các phương pháp trên đều sử dụng tối ưu hóa hoặc là các thể hiện của các thuật toán tối ưu hóa.
Đây là danh sách nguồn gốc các thuật ngữ liên quan đến máy tính (hay danh sách từ nguyên thuật ngữ máy tính). Nó có liên quan đến cả phần cứng và phần mềm máy tính. Tên của nhiều thuật ngữ máy tính, đặc biệt đối với các ứng dụng, thường có liên quan đến chức năng của nó. Thí dụ, chương trình dịch là ứng dụng biên dịch (từ mã nguồn ngôn ngữ lập trình sang ngôn ngữ máy). Có những thuật ngữ mà lịch sử của nó ít liên quan đến chức năng của nó, và đó là giá trị của từ nguyên học. Chủ đề này nói về các thuật ngữ như vậy. Nguồn gốc của tên công ty máy tính: xem Danh sách từ nguyên tên công ty máy tính. Danh sách đầy đủ các từ nguyên: xem Danh sách từ nguyên. Danh sách từ nguyên A-Ă-Â Ngôn ngữ lập trình Ada - được đặt tên theo của Ada Lovelace, người được xem là lập trình viên đầu tiên. AWK - một ngôn ngữ lập trình, được đặt theo họ của các tác giả là Alfred V. Aho, Peter J. Weinberger và Brian W. Kernighan Ajax Kết hợp giữa HTML, Javascript (Lập trình phần tử mạng), CSS - Cassaded Style Sheet (Định dạng thể hình trang mạng) để làm cho trang mạng thêm sinh động và có giao diện đẹp hơn Active Data Objects(ADO): Đối Tượng Dữ Liệu Động Active Server Page (ASP): Trang Mạng Động Máy Chủ ActiveX: Đối tượng bổ sung, một thư viện bổ sung chức năng Add-ons: Công Cụ Bổ Sung Công cụ đã viết sẵn để dùng trong trang mạng của bạn. Address: Địa Chỉ ASCII - (American Standard Code for Information Interchange): Bộ Mã Ký Tự Chuẩn Bắc Mĩ Bộ Mã Chuẩn Bắc Mĩ Để trao Đổi Thông tin, 7-bit, với 128 ký tự ANSI - (American National Standards Institute) Mã Chuẩn 1252 ISO - (International Organization for Standardization) Mã Chuẩn 8859-1 API - (Application programming interface): Giao diện lập trình ứng dụng Tổ hợp những hàm dùng trong Windows Attribute: Thuộc tính B B (ngôn ngữ lập trình) - B được tạo bởi Ken Thompson như là một bản sửa đổi của ngôn ngữ lập trình BCPL. Bug - một lỗi trong chương trình máy tính làm cho nó không hoạt động chính xác. Thuật ngữ này thường (bị nhầm lẫn) tin là của Grace Hopper. Năm 1946, cô vào Harvard, phòng thí nghiệm tính toán, nơi cô dò ra lỗi trong Harvard Mark II do con bướm đêm bị kẹt trong relay gây ra. Con bọ (tiếng Anh: bug) này được gỡ cẩn thận và dán vào sổ nhật ký. (Xem Hình). Tuy nhiên, việc dùng từ "bug" để diễn tả sự thiếu sót trong hệ thống cơ khí bắt đầu ít nhất từ những năm 1870. Thomas Edison đã một lần dùng thuật ngữ này trong sổ tay của ông. C C (ngôn ngữ lập trình) - Dennis Ritchie nâng cấp ngôn ngữ lập trình B và gọi nó là New B. Sau đó ông gọi nó là C. Client Side: Máy Khách Command: Lệnh Code: Mã D-Đ DHTML Dynamic HTML - HTML Động Kết hợp giữa HTML (soạn trang mạng) và Javascript (lập trình mạng) làm cho trang mạng sinh động hơn. Dynamic Link Library (DLL), Thư viện liên kết động, Thư viện chức năng rời Data Base: Cơ Sở Dữ Liệu Domain: Tên Miền E-Ê Element: Phần tử Event: sự kiên. Thí dụ: Onclick - khi nhấp chuột Event Handling: định dạng cách thức hoạt động của sự kiện F FTP File Transfer Protocol - Nghi Thức Hồ Sơ Nghi thức vận chuyển hồ sơ trên mạng Favorite: Tập Ưa Thích Folder: Thư Mục File: Tập Tin (Tệp) ASCII File: Tập Tin Chử, Đọc được như văn bản thường Binary File: Tập Tin Mả Hóa, Không thể đọc được như văn bản thường Frame: Khung G GOPHER: nghi thức tin tức Nghi thức dùng để trao đổi tin tức trên mạng H HTML Hyper Text Markup Language - Ngôn Ngữ Biên Tập Trang Mạng, Ngôn Ngữ Viết Trang Mạng, Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản Ngôn ngữ soạn trang mạng bằng thẻ lịnh (tag) HTTP: Hyper Text Transfer Protocol: Nghi thức Trang Mạng Nghi thức dùng để truy cập trang mạng trên mạng quốc tế Homepage: Trang Chính, Trang Đầu I IP: Internet Protocol - Nghi Thức Lưới Mạng Internet: Lưới Mạng Toàn Cầu Interface:Giao Diện ISO - (International Organization for Standardization): Tiêu chuẩn Toàn Cầu ISO 8859: Tiêu chuẩn Bộ Ký Tự 8-bits. 8859-2, 8859-5, 8859-13 ISO 10646: Tiêu chuẩn Bộ Ký Tự Unicode J Javascript: Ngôn Ngữ Lập Trình Trang Mạng dùng trong HTML để làm trang mạng HTML sinh động hơn K L LAN (Local Area Network) Hệ thống kết nối máy vi tính địa phương, cục bộ Link: Liên Kết, Kết Nối M MAIL TO: Nghi Thức Gửi Thư Nghi Thức dùng để gửi thư điện tử trên mạng Multimedia: Đa Phương Tiện hồ sơ có hình, ảnh, tiếng Method: Phương Thức N O-Ô-Ơ Object: Đối tượng Object Oriented Programming: Lập Trình Hướng Đối Tượng P Program: Một Trình, một chương trình Property: Thuộc Tính Protocol: Nghi Thức, Nghi Thức dùng trong Trình Duyệt Có 5 dạng Nghi Thức Trình Duyệt thường dùng http:, Nghi Thức Trang Mạng ftp:, (file tranfer protocol) Nghi Thức Hồ Sơ '''mailto:''', Nghi Thức Gởi Thơ Gopher:, Nghi Thức Tin Tức Password: Mật Khẩu Path: Đường Dẫn Q R S SSI Server Side - Include Lịnh Máy Chủ thông tin của trang mạng trên các máy khách và chủ Server: Máy chủ Script: Biên Tập Scripting Language: Ngôn Ngữ Biên Tập. Thí Dụ: DOS BATCH, HTML, WSL Structured Proramming Language:Ngôn ngữ lập trình cấu trúc. Thí Dụ: C, Visual Basic, Pascal Machine Language: Ngôn Ngữ Máy. Thí Dụ: Assembly, Structured Query Language - SQL: Ngôn Ngữ Truy vấn Dữ Liệu Ngôn ngữ dùng dòng lịnh để truy cập dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu theo một quy định nhất định Source Code: Mã nguồn Scripting language: Ngôn ngữ kịch bản T Tag: Thẻ lệnh ngôn ngữ HTML dưới dạng Lệnh. Thí dụ Mở và kết trang mạng TCP: ToolBar: Thanh Công Cụ Tab: Thẻ U-Ư Uniform Resource Locator: Truy Cập Địa Chỉ Trang Mạng User ID: Tên Đăng Nhập GUI - (Graphic User Interface): Giao diện đồ hoạ người dùng V Value: Giá trị VBScript: Lập Trình Trang Mạng của Microsoft tương tợ như Lập Trình Trang Mạng Javascript của Netscape Search Engine: Máy Tìm Kiếm Máy truy tìm thông tin trên mạng W World Wide Web: Mạng Toàn Cầu Hệ thống trang mạng trên toàn thế giới World Wide Net: Mạng Lưới Toàn Cầu Hệ thống kết nối máy vi tính trên toàn thế giới Web Browser: Trình Duyệt Web Web: Mạng Website: Mạng Vùng, tập hợp của nhiều trang mạng trên một máy chủ Webpage: Trang Mạng WAN: Wide Area NetWork Hệ thống kết nối máy vi tính mở rộng Windows: Cửa Sổ X XHTML: Extended HTML - HTML Nâng Cấp Bổ sung thêm chức năng cho trang mạng HTML XML Extended Markup Language Ngôn ngữ lập trình mạng với khả năng định dạng dữ liệu và truy cập dữ liệu Y Z
Các phụ gia thực phẩm là các chất được bổ sung thêm vào thực phẩm để bảo quản (hóa chất bảo quản) hay cải thiện hương vị và bề ngoài của chúng. Một số phụ gia thực phẩm đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ; ví dụ bảo quản bằng làm dưa chua (với giấm), ướp muối - chẳng hạn như với thịt ướp muối xông khói, hay sử dụng lưu huỳnh dioxide như trong một số loại rượu vang. Với sự ra đời và phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm trong nửa sau thế kỷ 20 thì có thêm nhiều phụ gia thực phẩm đã được giới thiệu, cả tự nhiên lẫn nhân tạo. Một số phụ gia là những hóa chất có thể gây hại cho sức khỏe con người nếu dùng liều cao hoặc trong thời gian dài ví dụ acid benzoic,... Đánh số Để quản lý các phụ gia này và thông tin về chúng cho người tiêu dùng thì mỗi loại phụ gia đều được gắn với một số duy nhất. Ban đầu các số này là các "số E" được sử dụng ở châu Âu cho tất cả các phụ gia đã được chấp nhận. Hệ thống đánh số này hiện đã được Ủy ban mã thực phẩm (Codex Alimentarius Committee) chấp nhận và mở rộng để xác định trên bình diện quốc tế tất cả các phụ gia thực phẩm mà không liên quan đến việc chúng có được chấp nhận sử dụng hay không. Tất cả các số E đều có tiền tố "E" đi kèm, nhưng các quốc gia ngoài châu Âu chỉ sử dụng các số mà không cần biết là các phụ gia đó có được chấp nhận sử dụng ở châu Âu hay không. Ví dụ, acid axêtic là phụ gia 260, vì thế nó được viết là E260 trên các sản phẩm được bày bán ở châu Âu. Phụ gia 103, alkanet, không được chấp nhận sử dụng ở châu Âu nên nó không có số E, mặc dù nó được chấp nhận sử dụng tại Úc và New Zealand.
Bài này viết về tên một ngọn núi tại Hà Nam, Trung Quốc. Các nghĩa khác xin xem thêm Ngọa Long (định hướng). Ngọa Long cương (chữ Hán: 臥龍崗) là tên một ngọn núi ở làng Ngọa Long Cương, khu Ngọa Long, thành phố Nam Dương, Hà Nam, thuộc vùng Long Trung. Tục truyền Gia Cát Lượng sống ở đây sau khi chạy tị nạn sang Nam Dương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Cụm thiên hà, hay còn được gọi là quần tụ thiên hà, là một sự tập hợp của nhiều thiên hà gần nhau dưới tác dụng của lực hấp dẫn. Chúng là cấu trúc liên kết hấp dẫn lớn nhất được biết đến trong vũ trụ và được cho là cấu trúc lớn nhất đã biết trong vũ trụ cho đến thập niên 1980, khi siêu cụm thiên hà được phát hiện. Kích thước của quần tụ thiên hà có thể từ 5.000.000 năm ánh sáng đến hàng tỷ năm ánh sáng. Khoảng cách trung bình giữa các thiên hà trong cùng một quần tụ thiên hà là khoảng 2.500.000 năm ánh sáng. Về cấu tạo, quần tụ thiên hà có nhiều thiên hà bầu dục ở trung tâm, xung quanh là các thiên hà xoắn ốc và thiên hà vô định hình. Quần tụ thiên hà của chúng ta có tên là quần tụ thiên hà Địa phương, gồm 3 thiên hà xoắn ốc là Ngân Hà, thiên hà Andromeda (thiên hà Tiên Nữ, M31), thiên hà M33, nhiều thiên hà bầu dục và các thiên hà vệ tinh (đám đại tinh vân Magellan và tiểu tinh vân Magellan là 2 thiên hà vệ tinh của Ngân Hà). Khoảng không giữa các thiên hà là tập hợp các đám bụi mây khí khổng lồ. Đến lượt mình, các quần tụ thiên hà hợp lại thành những siêu thiên hà (đại thiên hà) gồm những quần tụ thiên hà gần nhau. Những quần tụ thiên hà gần Nhóm Địa phương nhất là quần tụ Virgo chứa khoảng 1300 thiên hà, quần tụ Coma với hơn 1000 và quần tụ Hercules với khoảng 100 thành viên. Các đặc tính cơ bản Các cụm thiên hà thường có các đặc tính sau: Chúng chứa 100 đến 1.000 thiên hà, phát ra khí tia X nóng và lượng lớn vật chất tối. Chi tiết được mô tả trong mục "Thành phần". Sự phân bố của ba thành phần gần như giống nhau trong cụm. Chúng có tổng khối lượng là 1014 đến 1015 khối lượng mặt trời. Chúng thường có đường kính từ 1 đến 5 Mpc (xem 1023 m để so sánh khoảng cách). Sự lan truyền các vận tốc cho các thiên hà riêng lẻ là khoảng 800–1000 km/s.
Mao Trạch Đông (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: Máo Zédōng; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính là Mao Chủ tịch, là một nhà cách mạng người Trung Quốc, người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ khi thành lập năm 1949 cho đến khi ông qua đời năm 1976. Là một người theo chủ nghĩa Marx-Lenin, lý thuyết, chiến lược quân sự, chính sách chính trị của ông được gọi chung là chủ nghĩa Mao. Đầu đời Xuất thân và tổ tiên: 1893 Mao Trạch Đông chào đời ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong một gia đình nông dân ở làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cha ông, Mao Di Xương (毛贻昌), xuất thân vốn là bần nông và từng có thời tòng quân cho tổng đốc Hồ Quảng đời nhà Thanh, sau vươn lên trở thành một tiểu địa chủ và thương gia ngũ cốc khá giả. Mẹ ông, Văn Thất Muội (文素勤), là một Phật tử sùng đạo tuy không biết chữ. Vợ chồng Mao-Văn có với nhau ba đứa con trai; Mao Trạch Đông là con cả, kế tiếp là Mao Trạch Dân (毛泽民; sinh 1896) và Mao Trạch Đàm (毛泽覃; sinh 1905). Gia phả Mao tộc Thiều Sơn khẳng định Mao Thái Hoa (毛太华) là tổ phụ dòng họ; vị này quê gốc Giang Tây, sống vào giai đoạn Nguyên mạt Minh sơ (), lánh nạn chiến tranh một thời gian ở Vân Nam rồi lên Hồ Nam an cư. Thiếu thời: 1893-1911 Thuở nhỏ, Mao Trạch Đông thường xuyên theo mẹ đi chùa. Bà Văn muốn con trai mình lớn lên sẽ tu nghiệp Phật tử, song ông Mao lại cho rằng việc học đạo Nho quan trọng hơn. Năm lên 8, Mao bắt đầu theo học tiểu học ở một ngôi trường làng truyền thống, dành phần lớn thời gian trên lớp đọc thuộc lòng kinh sách Nho giáo. Những hoạt động cách mạng đầu tiên Bắc Kinh, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa Marx: 1917-1919 Mao tới Bắc Kinh, nơi thầy của ông Dương Xương Tế đang dạy học tại Đại học Bắc Kinh. Dương giao cho ông làm phụ tá của thủ thư trường đại học Lý Đại Chiêu, người sớm trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lý là tác giả của một loạt bài báo đăng trên báo Tân thanh niên về sự kiện Cách mạng tháng Mười ở Nga, trong suốt thời gian mà Đảng Bolshevik dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin lên nắm quyền. Lenin là một người ủng hộ lý thuyết chính trị - xã hội của Chủ nghĩa Marx, được phát triển bởi Karl Marx và Friedrich Engels, những bài báo của Lý làm gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx tới những học thuyết trong phong trào cách mạng của người Trung Quốc. Khi trở thành một người cấp tiến, Mao ban đầu bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa vô chính phủ của Peter Kropotkin, một học thuyết cấp tiến nổi bật nhất lúc bấy giờ. Sau đó, ông tham gia Nhóm nghiên cứu của Lý và phát triển chủ nghĩa Marx trong suốt mùa đông năm 1919. Vì trả lương thấp, Mao phải sống trong một căn phòng chật chội cùng với 7 sinh viên Hồ Nam khác, nhưng ông tin rằng cảnh đẹp Bắc Kinh sẽ đền đáp lại những vất vả trong cuộc sống của ông. Tại trường đại học, Mao bị những sinh viên khác làm nhục do ông là người nông thôn Hồ Nam, phát âm địa phương và địa vị thấp. Ông gia nhập khoa Triết và Báo chí Xã hội, chú tâm viết thư và thảo luận với những người như Trần Độc Tú, Hồ Thích và Qian Xuantong. Thời gian Mao ở Bắc Kinh kết thúc vào mùa xuân 1919, khi ông tới Thượng Hải với những người bạn đang chuẩn bị tới Pháp. Ông không trở lại Trường Sa, nơi mẹ ông ốm giai đoạn cuối. Bà đã chết vào tháng 10 năm 1919 và chồng bà đã chết vào tháng 1 năm 1920. Văn hóa mới và những cuộc biểu tình chính trị: 1919-1920 Ngày 4 tháng 5 năm 1919, những sinh viên ở Bắc Kinh đã tụ tập tại cổng Thiên An Môn để biểu tình phản đối sự kháng cự yếu ớt của chính phủ Trung Quốc trước sự bành trướng của người Nhật ở Trung Quốc. Những người yêu nước phẫn uất bị tác động bởi sự nhượng bộ Nhật Bản trong 21 yêu sách mà nước này gửi cho chính phủ Trung Quốc năm 1915. Với sự thỏa hiệp của Chính phủ Bắc Dương của Đoàn Kỳ Thụy trong Hòa ước Versailles, Nhật Bản được cho phép nhận những lãnh thổ tại Sơn Đông, lãnh thổ bị Đức kiểm soát. Những cuộc biểu tình bùng phát khắp đất nước với Phong trào Ngũ Tứ (do nó bắt đầu ngày 4 tháng 5 năm 1919) và được tiếp sức với Phong trào văn hóa mới cho rằng Trung Quốc đã thua trên mặt xã hội và văn hóa chậm phát triển. Ngày 23 tháng 7 năm 1921, Mao tham gia Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Hai năm sau, tại Đại hội lần thứ ba (1923), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ gồm 5 người. Tháng 1 năm 1924, theo chủ trương Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc dân Đảng họp ở Quảng Châu và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng. Sau đó ông lên đường đi Thượng Hải làm việc tại cơ quan Ban chấp hành Quốc dân Đảng, rồi sang năm sau lại về Quảng Châu làm quyền trưởng Ban tuyên truyền của Quốc dân Đảng, rồi kiêm thêm một chân trong Ủy ban vận động nông dân của đảng này. Lúc này ông bị Trần Độc Tú đẩy ra khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tại Đại hội 4 họp vắng mặt ông vào tháng 1 năm 1925. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc dân Đảng (tháng 1 năm 1926), ông lại được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng và làm quyền Trưởng ban Tuyên truyền đến tháng 5 năm 1926. Sau khi Tưởng Giới Thạch quay sang đàn áp Đảng Cộng sản, Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh vũ trang với Tưởng nhưng không được Trần Độc Tú chấp nhận và bị thất sủng. Mao Trạch Đông bèn lui về quê cho ra đời Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam, tác phẩm quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa Mao. Chiến tranh và cách mạng Mao thoát khỏi bạch sắc khủng bố vào năm 1927 và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu ở Trường Sa, Hồ Nam nhưng thất bại. Tàn quân du kích chưa đầy 1.000 người của Mao tìm nơi ẩn náu ở vùng núi tỉnh Cương Sơn, nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Năm 1928 đội quân này hợp nhất với quân của Chu Đức, lập ra Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng. Mao đã góp phần xây dựng căn cứ, chính quyền và quân đội tiến hành chiến tranh du kích có hiệu quả, thực hiện cải cách ruộng đất. Chính tại nơi đây từ 1931 đến 1934, nhà nước Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa được lập ra và Mao được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Trung ương lâm thời. Vào thời kỳ này, Mao kết hôn với Hạ Tử Trân, sau khi Dương Khai Tuệ bị lực lượng Quốc dân Đảng giết chết. Khu Xô-viết này trở thành nơi trú ngụ của Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản chạy trốn sự khủng bố của Tưởng Giới Thạch ở các thành phố lớn, chủ yếu là Thượng Hải. Dưới áp lực của các chiến dịch bao vây càn quét của Quốc dân Đảng, trong nội bộ Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản diễn ra cuộc tranh giành quyền lực và đấu tranh về đường lối và chiến thuật. Phe theo đường lối chính thống của Moskva, mà đại diện là nhóm 28 người Bolshevik, đã thắng thế và Mao dần dần bị gạt ra khỏi các chức vụ quan trọng. Với quyết tâm tiêu diệt bằng được những người cộng sản, tháng 10 năm 1934 Tưởng Giới Thạch trực tiếp chỉ huy 50 vạn quân bao vây tấn công khu Xô-viết trung ương, buộc Hồng quân phải mở đường máu rời bỏ nơi đây, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh cực kỳ gian khổ, vượt 9.600 km trong suốt một năm trời để đến tỉnh Thiểm Tây xây dựng căn cứ mới. Trên đường trường chinh, Mao Trạch Đông đã lên nắm quyền lãnh đạo từ Hội nghị Tuân Nghĩa họp vào tháng 1 năm 1935. Tại hội nghị này, Chu Ân Lai ngả về phía Mao, Tổng Bí thư Bác Cổ và cố vấn quân sự Otto Braun (tên Trung Quốc là Lý Đức) bị hạ bệ, Mao vào Ban thường vụ Bộ Chính trị, nắm quyền thực tế và năm 1943 được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ căn cứ mới ở Diên An, Mao lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937–1945) thông qua hợp tác Quốc–Cộng lần thứ hai. Tại đây, Mao củng cố quyền lực trong Đảng Cộng sản bằng việc mở cuộc vận động chỉnh phong. Tại Đại hội lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tại Diên An tháng 6 năm 1945, Mao được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại Diên An, Mao ly thân với Hạ Tử Trân và lấy Lam Bình, một diễn viên mới tới Diên An mà sau này khuynh đảo chính trường Trung Quốc với tên gọi là Giang Thanh. Ngay sau khi Chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, nội chiến tiếp tục diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng sản vào năm 1949. Lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông thuộc phái tả kiên định, năm 1920, Mao trở thành người Mác xít. Năm 1921, là một trong 21 người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng mãi đến năm 1935, Mao mới trở thành người lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau hai lần thất bại vào năm 1927 và 1934, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được nhờ Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, lực lượng của Đảng dần được củng cố mạnh lên. Đến năm 1947, Mao Trạch Đông đã chuẩn bị phát động cuộc tấn công toàn diện vào Chính phủ Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Mao Trạch Đông lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ giành chính quyền năm 1949, chấm dứt tình trạng quân phiệt cát cứ, thu hồi các tô giới của nước ngoài trên lãnh thổ Trung Quốc, xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc; đặt nền móng cho một đất nước Trung Quốc thống nhất và bắt đầu công cuộc hiện đại hóa đưa Trung Quốc từ một nước phương Đông bị các đế quốc phương Tây chèn ép trở thành một cường quốc trên thế giới. Trong suốt 27 năm, ông và các đồng chí của mình đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách kinh tế - xã hội vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên đất nước Trung Quốc theo hướng xóa bỏ các tàn tích trung cổ lạc hậu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho xã hội dân chủ và bình đẳng hơn dù trong quá trình thực hiện ông đã mắc một số sai lầm gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài cho xã hội Trung Quốc. Những tổn thất, thiệt hại do những chính sách Mao đưa ra, những phong trào do Mao phát động một phần do sự nhiệt tình thái quá đến mức cực đoan của những cán bộ trực tiếp thực thi và của công chúng. Từ năm 1949 đến năm 1976, Mao Trạch Đông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại quân đội Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Tiếp đó Mao thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Với mong muốn đưa Trung Quốc trở thành một siêu cường trong thời gian còn nhanh hơn cả Liên Xô từng làm, Mao phát động phong trào Đại nhảy vọt và Công xã hoá, vào thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Đây là kế hoạch với mục tiêu nhấn mạnh biện pháp sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất thủ công, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội lớn chưa từng thấy với mục tiêu công nghiệp hóa nhằm đưa Trung Quốc thành siêu cường trong thời gian chỉ 10 - 20 năm. Sự nóng vội quá mức dẫn tới việc kế hoạch bị thất bại và phải hủy bỏ. Cùng với thiên tai, những chính sách kinh tế sai lầm đã gây ra một nạn đói rất lớn trong lịch sử loài người, khoảng 37,5 triệu người (khoảng 5% dân số Trung Quốc) đã chết vì nạn đói do sản xuất nông nghiệp bị đình trệ. Sau khi giành được chính quyền, Mao Trạch Đông đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế - xã hội như cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp tư nhân, giải tán các đảng phái chính trị cánh hữu, các hội kín, triệt hạ các băng đảng tội phạm... Sinh ra và lớn lên trong xã hội phong kiến Trung Quốc cuối thế kỷ 19 và đã chứng kiến nạn quân phiệt cát cứ cuối thời nhà Thanh, Mao Trạch Đông chịu ảnh hưởng lớn từ các bài học trong lịch sử Trung Quốc: ông tin rằng cần phải mạnh tay trấn áp mọi lực lượng chống đối thì mới có thể giữ ổn định được một đất nước rộng lớn và đông dân như Trung Hoa. Trong các cuộc cải cách của Mao có hàng chục vạn địa chủ, doanh nhân, trí thức bị bắt hoặc xử tử vì bị kết tội hữu khuynh, phá hoại, phản cách mạng, tay sai của ngoại quốc, Hán gian... Đến năm 1950, trước việc Bắc Triều Tiên bị lực lượng phương Tây (dẫn đầu là Hoa Kỳ) tấn công, Mao Trạch Đông đã cử chí nguyện quân tham chiến. Lực lượng Trung Quốc đã đẩy lùi quân đội phương Tây về vĩ tuyến 38, bảo vệ được nhà nước Bắc Triều Tiên và cầm cự ngang ngửa với lực lượng phương Tây trong suốt 4 năm. Tuy không giành được thắng lợi quyết định, nhưng việc quân đội Trung Quốc có thể giao chiến ngang ngửa với lực lượng phương Tây (trong đó có Hoa Kỳ, quốc gia mạnh nhất thế giới khi đó) đã nâng cao tinh thần dân tộc của người Trung Quốc và uy tín của Mao Trạch Đông, bởi cả 100 năm trước đó quân đội nước này liên tục bại trận khi chiến đấu với phương Tây, là giai đoạn mà người Trung Quốc xem là Bách niên quốc sỉ. Tiếp đó Mao thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957), Trung Quốc lấy xây dựng và phát triển công nghiệp nặng làm trung tâm, gồm những ngành điện lực, than, gang thép, hóa chất... Với sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, 246 công trình công nghiệp quan trọng, được coi là xương sống của nền công nghiệp Trung Quốc được xây dựng. Từ 1949 tới 1955, hơn 20 triệu bản in từ hơn 3.000 đầu sách khoa học và kỹ thuật (chủ yếu do Liên Xô cung cấp) được dịch và xuất bản ở Trung Quốc, tạo nền tảng cho một thế hệ trí thức khoa học mới tại Trung Quốc. Tốc độ của sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18%. Đến năm 1957, sản lượng công nghiệp đã tăng 140%, sản lượng nông nghiệp tăng 25% so với năm 1952. Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963. Mao tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng trung tâm đằng sau Đại nhảy vọt là sự phát triển nhanh của nền công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc nên được diễn ra song song. Công nghiệp hóa thực hiện bằng nguồn cung ứng lao động giá rẻ khổng lồ và tránh phải nhập cảng các thiết bị, máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao chủ trương thực hiện chính sách tập thể hóa sâu rộng hơn dựa theo mô hình "Thời kỳ thứ 3" của Liên Xô trong nông thôn Trung Quốc, nơi các hợp tác xã hiện hữu sẽ được sáp nhập với nhau thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan trong tỉnh Hà Nam tháng 4 năm 1958. Tại đây, lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp các vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Ở các công xã tự cung tự cấp này, lương và tiền được thay thế bằng công điểm (work points). Ngoài nông nghiệp, chúng kết hợp một vài dự án xây dựng và công nghiệp nhẹ. Mao cho rằng sản xuất lúa gạo và thép là cột trụ chính của phát triển kinh tế. Ông tiên đoán rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt, sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua sản lượng thép của Vương quốc Anh. Trong các cuộc họp Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là sản xuất thép được ấn định tăng gấp đôi trong năm, đa số sản lượng gia tăng tới từ các lò nung thép sân vườn. Mao được Bí thư tỉnh An Huy cho xem một thí dụ về một lò nung thép ở Hợp Phì vào tháng 9 năm 1958, được cho là đang sản xuất thép chất lượng cao (mặc dù thực tế thì thép tinh luyện này đã được sản xuất ở nơi khác). Phấn khích vì chuyện này, Mao khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Nỗ lực khổng lồ từ nông dân và các công nhân khác được đưa vào để sản xuất thép từ sắt vụn. Để cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt bừa bãi, gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng dụng để cung cấp "sắt vụn" cho các lò nung để có thể đạt được mục tiêu sản xuất. Nhiều lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí cả bệnh viện. Những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng có thể thấy được rằng sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế. Tuy nhiên, chính sự ngờ vực sâu đậm của Mao đối với giới trí thức, niềm tin vào sức mạnh khổng lồ của giới nông dân đã khiến ông ra lệnh thực hiện nỗ lực khổng lồ này trên toàn quốc mà không hỏi ý kiến của các chuyên gia. Nỗ lực lớn được thực hiện trong suốt Đại nhảy vọt trên phạm vi rộng như các dự án xây cất cơ bản thường được hoạch định cẩu thả, ví dụ như các công trình thủy lợi, thường được xây mà chẳng hỏi ý từ các kỹ sư được đào tạo. Hơn nữa, kinh nghiệm của các tầng lớp trí thức theo sau Chiến dịch trăm hoa đua nở đã khiến những ai biết được kế hoạch như thế là một chuyện điên rồ cũng chẳng dám lên tiếng chỉ trích. Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một đại thảm họa kinh tế, thực sự đúng là một "Đại Nhảy Lùi" mà ảnh hưởng đến Trung Quốc trong nhiều năm sau đó. Khi các con số thống kê bị thổi phồng tới tay giới chức đặc trách kế hoạch, mệnh lệnh được ban ra là phải chuyển nguồn nhân lực lao động vào công nghiệp hơn là nông nghiệp. Do các đợt hạn hán và lũ lụt năm 1959-1961 kết hợp với việc quá nhiều nguồn lực bị dồn vào công nghiệp đã dẫn tới mất mùa, kéo theo đó là nạn đói. Con số người chết trong nạn đói chính thức được ghi nhận tại Trung Quốc trong những năm của Đại nhảy vọt là 14 triệu, nhưng các học giả ước tính rằng con số nạn nhân chết đói là từ 20 đến 43 triệu. Ba năm từ năm 1959 đến năm 1962 được biết như là "Ba năm Ác nghiệt" và Ba năm Thiên tai. Nhiều quan chức địa phương bị truy tố và hành quyết công khai vì báo cáo thông tin sai lệch. Kế hoạch tiếp theo mà Mao Trạch Đông ủng hộ là cuộc "Đại Cách mạng văn hóa vô sản" vào những năm 60 của thế kỷ 20. Có nhiều quan điểm khác nhau về Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa là để "đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội" nhưng cũng có quan điểm cho rằng đây là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt thất bại. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã xóa bỏ triệt để những hủ tục còn lại từ thời trung cổ tại Trung Quốc (cúng bái để chữa bệnh, tục bó chân phụ nữ...), nhưng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Cách mạng văn hóa từ mục tiêu ban đầu là thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội đã biến thành quy chụp, tố cáo, chỉ trích, đấu tố, thanh trừng lẫn nhau trên toàn Trung Quốc. Cuộc cách mạng này làm tê liệt các hoạt động kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa của Trung Quốc; phá vỡ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và khiến nhà nước không còn duy trì nổi trật tự xã hội; gây chia rẽ nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản, trong bộ máy nhà nước và trong xã hội Trung Quốc; phá hủy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Đặng Tiểu Bình nhận định Mao Trạch Đông có một phần lỗi trong việc này, nhưng phần khác là do những người thi hành cấp dưới có trình độ kém còn công chúng dễ bị kích động khiến mục tiêu đề ra bị bóp méo: "Cách mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao Trạch Đông." Có điều đặc biệt là khi phát động "Đại nhảy vọt", Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn "Đại Cách mạng văn hóa" diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao đã gần 80 tuổi. Đầu năm 1950, Mao Trạch Đông cũng đã chấp nhận viện trợ vũ khí và cử các đoàn cố vấn Trung Quốc để giúp đỡ Việt Nam chống Pháp. Trước khi đi, Mao Trạch Đông căn dặn đoàn cố vấn: "Các đồng chí phải phải coi sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của chính mình. Chiến thắng của Việt Nam trước Pháp vào năm 1954 (chỉ ít lâu sau khi Trung Quốc buộc Mỹ đình chiến ở Triều Tiên) cũng gián tiếp nâng cao vị thế của Trung Quốc và uy tín của Mao Trạch Đông. Dù mắc phải nhiều sai lầm nhưng dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã bước đầu xây dựng được nền tảng công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp quốc phòng. Nền kinh tế Trung Quốc đã tự sản xuất được hầu hết các sản phẩm công nghiệp thông dụng, các loại vũ khí thông thường và đặc biệt chế tạo được bom nguyên tử. Đây là nền tảng để Trung Quốc tiếp tục phát triển dưới sự lãnh đạo của người kế thừa ông là Đặng Tiểu Bình. Qua đời Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh. Mao mất vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học: amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig's hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi qua đời. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài Mao được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng. Đánh giá Học giả Shinjima Junra, người Nhật Bản cho rằng: "Mao Trạch Đông không phải là nhà cách mạng theo kiểu thợ mộc – chỉ biết đục đẽo cứng nhắc, cũng không phải một nhà cách mạng theo kiểu học giả, mà là một nhà cách mạng theo kiểu quân sư mưu lược, nhiều kỹ xảo". Trong mỗi lĩnh vực, Mao Trạch Đông đều thể hiện mưu lược. Trong cuộc sống, ông có sự tự tin, nỗ lực, lý tưởng cao thượng, nhu cầu vật chất đạm bạc. Trong mưu lược quân sự, ông biết áp dụng nhiều chiến thuật đa dạng: đánh du kích, dụ địch xâm nhập, giương đông kích tây, thâm nhập vùng địch hậu, đánh công thành, chặn tiếp viện, mai phục quân để đánh chặn... Mao Trạch Đông cũng chịu những chỉ trích về những sai lầm của ông. Theo cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng, do nhà xuất bản Thư Tác Phường (Hồng Kông) ấn hành tháng 7 năm 2007 cho rằng: "Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông". Lý Nhuệ, cựu thư ký của Mao Trạch Đông, bị bắt giam trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, đánh giá "Chế độ độc tài của Mao còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát não trạng của con người" và "Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời cả trong suy nghĩ - không hoàng đế nào trên thế giới làm được vậy. Hoặc anh ủng hộ ông ta, hoặc không dám nói ra, hoặc anh tự thú trái lòng mình". Ngày 25/10/2017, trong một phiên thảo luận tại Hội đồng Quan hệ quốc tế, khi đánh giá về sức mạnh của Trung Quốc, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói ngắn gọn về quá trình phát triển của Trung Quốc: "Nếu nhìn vào khác biệt trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng, đó là điều tự thân Trung Quốc đã nói lên rồi. Với ông Mao Trạch Đông, Trung Quốc đứng dậy. Với ông Đặng Tiểu Bình, họ đạt được sự giàu có và bây giờ với ông Tập Cận Bình, họ mạnh mẽ". Mao Trạch Đông còn được coi là nhà chiến thuật và chính trị xuất sắc trong cuộc Nội chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi dậy cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi dậy, và trái lại, ý thức hệ của Mao thì đã bị lạm dụng và gây ra những hậu quả xấu, những chính sách bạo lực. Nhưng điều đó lại tăng thêm tầm vóc của Mao Trạch Đông trong con mắt người dân Trung Quốc. Việc sùng kính các nhà lãnh đạo vĩ đại chuyên dùng vũ lực để lập lại trật tự là một nét văn hóa ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc coi ông như "một vị thần báo thù đến để thanh trừng thế giới hủ bại", và vị thần đó không thể chỉ dùng những biện pháp nửa vời. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đi đến kết luận không phải tất cả các hành động của ông đều đúng. Chủ tịch Đặng Tiểu Bình, kiến ​​trúc sư của cuộc cải cách trong những năm 1980, đã đưa ra công thức: 70% những gì Mao Trạch Đông đã làm là đúng, còn 30% là sai lầm. Ngay cả ở Trung Quốc hiện đại, theo các cuộc thăm dò, Mao Trạch Đông vẫn rất được tôn sùng trong dân chúng. Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 120 năm ngày sinh Mao Trạch Đông, tờ Thời báo Hoàn Cầu đã tiến hành một cuộc khảo sát đối với hơn 1000 độc giả tại 6 thành phố của Trung Quốc và nhận được kết quả là có tới 85% số người được hỏi cho rằng Mao Trạch Đông đã có công lớn trong việc đưa đất nước Trung Quốc đến những thành công như ngày nay. Những công lao của Mao Trạch Đông được họ xem là lớn hơn nhiều so với những sai lầm của ông Không giống như Nikita Khrushchev đã từng lên án người tiền nhiệm Joseph Stalin, chính quyền Trung Quốc không phủ nhận các chiến thuật và tư tưởng chính trị của Mao Trạch Đông. Chủ nghĩa Mao Trạch Đông vẫn là một yếu tố được công nhận trong Hiến pháp Trung Quốc và là tư tưởng chính trị quan trọng tại Trung Quốc hiện nay. Theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 11 vào tháng 6 năm 1981, Tư tưởng Mao Trạch Đông là "sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tắc phổ quát của chủ nghĩa Marx-Lenin và thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc", là một hệ thống khoa học biểu trưng cho "sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc" Phả hệ Ông nội, cụ và bố mẹ Tổ tiên và cha mẹ của Mao: Mao Di Xương (毛贻昌), bố, tên tự là Mao Thuận Sinh (毛顺生) (15 tháng 10 năm 1870 – 23 tháng 1 năm 1920) Văn Tố Cần (文素勤), mẹ (12 tháng 2 năm 1867 – 5 tháng 10 năm 1919), bà là người thất học và là một Phật tử, lấy chồng năm 1885 và là hậu duệ của Văn Thiên Tường Mao Ân Phổ (毛恩普), ông nội Mao Tổ Nhân (毛祖人), cụ nội Những người vợ Mao Trạch Đông có bốn người vợ, họ đã sinh tổng cộng 10 người con. Họ là: La Nhất Tú (1889–1910), do gia đình sắp đặt nhưng Mao không công nhận và hai người chưa hề ăn ở với nhau. Kết hôn năm 1907. Không có con. Dương Khai Tuệ (杨开慧, 1901–1930) ở Trường Sa, kết hôn năm 1921, sống với nhau đến năm 1927, bị Quốc dân Đảng hành quyết năm 1930. Bà sinh được 3 người con trai. Hạ Tử Trân (贺子珍, 1909? / tháng 8 năm 1910 – 19 tháng 4 năm 1984) người Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây, kết hôn từ tháng 5 năm 1928, đến năm 1937 thì bà sang Liên Xô chữa bệnh. Bà sinh nở 6 lần nhưng năm con chết non hoặc mất tích và chỉ có Lý Mẫn trưởng thành. Giang Thanh: kết hôn từ năm 1938 đến lúc Mao mất. Có một con gái là Lý Nạp. Theo hồi ký của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của ông, Mao đã quan hệ tình dục với cả trăm người phụ nữ khác. Qua đó ông chấp nhận là họ có thể bị lây bệnh hoa liễu, bởi vì chính ông đã bị mắc bệnh này mà không thể chữa khỏi được. Tuy nhiên, một số học giả, những người thân và những người từng làm việc với Mao đã lên tiếng chỉ trích về tính chính xác của những nguồn hồi ký cá nhân như vậy. Một nhóm nghiên cứu gồm ba tác giả đã dẫn những hồ sơ y tế cũ của Mao cho thấy Lý Chí Thỏa chỉ chăm sóc Mao có 1 ngày duy nhất (ngày 3 tháng 6 năm 1957). Như vậy, Lý Chí Thỏa không phải là bác sĩ thường trực của Mao Trạch Đông và vì thế không có khả năng có được những thông tin "riêng tư, bí mật" mà ông viết ra trên sách. Anh chị em Bố mẹ Mao Trạch Đông có cả thảy năm con trai và hai con gái. Hai người con trai và cả hai con gái chết sớm, còn lại 3 anh em Mao Trạch Đông, Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm. Cũng như Dương Khai Tuệ, Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm đều bị Quốc dân Đảng giết hại trong thời kỳ nội chiến. Mao Trạch Dân (毛泽民, 1895? / 3 tháng 4 năm 1896 – 27 tháng 9 năm 1943), em trai Mao Trạch Đàm (毛泽覃, 25 tháng 9 năm 1905 – 26 tháng 4 năm 1935), em trai Có hai chị em gái đều mất khi còn trẻ, trong đó có Mao Trạch Oanh Ngoài ra Mao Trạch Kiến (毛泽建, 1905 - 1929) tức Mao Trạch Hồng là chị họ, bị Quốc dân Đảng giết hại năm 1930 Những người con Mao Ngạn Anh (毛岸英, 1922-1950), con trai cả của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Lưu Tư Tề (刘思齐), tên khai sinh là Lưu Tùng Lâm (刘松林), tham gia chiến đấu và hi sinh trong chiến tranh Triều Tiên. Mao Ngạn Thanh (毛岸青, 1923-2007), con trai của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Thiệu Hoa (邵华), em gái Lưu Tư Tề, sinh ra con trai là Mao Tân Vũ. Mao Ngạn Long (1927- 1931?), con trai út của Dương Khai Tuệ, mất tích. Lý Mẫn (李敏, 1936-), tên thật Mao Kiều Kiều (毛娇娇), con gái của Hạ Tử Trân, kết hôn với Khổng Lệnh Hoa (孔令华), sinh ra con trai là Khổng Kế Ninh (孔继宁), con gái là Khổng Đông Mai (孔冬梅). Mao từng có biệt danh là Lý Đức Thắng, nên Lý Mẫn lấy họ này? Lý Nạp (李讷, 1940-), con gái của Giang Thanh, kết hôn với Vương Cảnh Thanh (王景清), sinh ra con trai là Vương Hiệu Chi (王效芝). Lý là họ gốc của Giang Thanh. Lưu ý là tên đệm trong từng thế hệ gia đình Mao là giống nhau, tuần tự các đời là Tổ-Ân-Di-Trạch-Ngạn. Các con của Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm có tên đệm là Viễn. Các tác phẩm Thực tiễn luận (Luận về vấn đề "thực tiễn") Mâu thuẫn luận (Luận về vấn đề "mâu thuẫn") Luận trì cửu chiến (Luận về đánh lâu dài) Tân dân chủ chủ nghĩa luận (Luận về chủ nghĩa dân chủ mới) Mao Trạch Đông ngữ lục (Tổng hợp các câu nói ấn tượng của Mao Trạch Đông) Hồng bảo thư Đời sống riêng tư Chú thích
Ngọa Long (臥龍, từ Hán-Việt nghĩa là "rồng nằm") có thể chỉ: Ngọa Long cương, tên của một ngọn núi ở thành phố Nam Dương (Trung Quốc). Ngọa Long tiên sinh tên hiệu của Gia Cát Lượng, thừa tướng của Lưu Bị trong thời Tam Quốc của Trung Quốc. Chùa Ngọa Long tại tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọa Long, khu bảo hộ thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc tại tỉnh Tứ Xuyên. Ngọa Long khu, thuộc thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ngọa Long trấn thuộc Tương Thành khu, thành phố Tương Phàn, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Ngoạ Long Sinh, một nhà văn viết truyện kiếm hiệp, tác giả của những bộ truyện Xác chết loạn giang hồ, Đàn chỉ thần công và Đoạn kiếm thù Ngọa Long webgame
Bài này viết về tên một ngôi chùa tại Tây An, Trung Quốc. Các nghĩa khác xin xem thêm Ngọa Long. Ngoạ Long tự (臥龍寺) là một ngôi chùa ở phố Bách Thụ Lâm (柏樹林), thành phố Tây An (西安), tỉnh Thiểm Tây (陝西), Trung Quốc, được xây cất vào đời nhà Tuỳ, ban đầu gọi là "Phúc Ứng Thiền tự" (福應禪寺). Bởi hoạ gia đời nhà Đường là Ngô Đạo Tử từng vì tự viện mà vẽ tượng Quan Âm nên còn được gọi là "Quan Âm Tự" (觀音寺). Đầu đời nhà Tống, cao tăng Huệ Quả vào viện làm trụ trì, suốt ngày nằm dài nên người đời gọi là "Ngoạ Long Hoà Thượng", tự viện cũng được gọi là Ngoạ Long tự. Từ đời Tống Nguyên trở đi đã trở thành thập phương thiền lâm. Đời nhà Minh, Tần vương Phiên Phủ từng bỏ của cải ra trùng tu, cho nên hàng ngàn năm qua hương khói không dứt. Những vị trụ trì nhiều đời đều là đại đức cao tăng, nhất là thích sưu tập trân vật Phật môn. Tự viện cất giữ bối diệp kinh Ấn Độ, tượng Phật đá đời Bắc Nguỵ, đều có giá trị lịch sử. Ngoài ra còn có chuông sắt đúc vào khoảng niên hiệu Hàm Bình (998-1003) đời Tống và lư hương bằng đá Đại lý do Lạt-ma Tây Tạng lưu tặng, đều là những trân phẩm hiếm có. Chú thích
Marco Polo (; 1254 – 8 tháng 1, 1324) là một thương gia và nhà thám hiểm gốc Venezia (Ý). Trong số các nhà thám hiểm, ông, cùng cha (Niccolò) và chú (Maffeo)là một trong những người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc (nơi mà Marco Polo gọi là Katai) bằng Con đường tơ lụa cũng như đến thăm vị khả hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt. Những cuộc du hành của ông đã được ghi lại trong cuốn Il Milione (còn sách được biết với các tên Marco Polo du ký và Miêu tả thế giới). Hiện nay Marco Polo được nhiều người coi là một trong những du hành gia vĩ đại nhất, mặc dù rằng những người thời ông chỉ coi ông như một người biết kể chuyện dí dỏm tài tình, còn những câu chuyện của ông là những chuyện hoang đường, viễn tưởng. Cũng cần lưu ý rằng, một số đoạn trong những câu chuyện của ông và cùng với sự hiện diện của ông tại triều đình Trung Quốc đều không được nhắc tới trong sử sách Trung Hoa. Cũng vì thế mà nhiều người đã tỏ ý nghi ngờ về tính trung thực cho những chuyến du hành của ông (xem phần sau dưới đây). Các cuộc du hành của Marco Polo cùng với gia đình ông đã kéo dài gần hai chục năm. Sau khi trở về, Marco Polo đã bị bắt trong trận thủy chiến trên biển xảy ra giữa Venezia và Genova. Bị giam trong tù, ông đã kể lại các chuyến du hành của mình cho người bạn cùng bị giam là Rustichello da Pisa, và sau đó hai người đã gộp các truyện vào cuốn Il Milione nói ở trên. Cuộc đời Từ lúc trẻ thời khi bị người Genoa bắt giữ Thời gian và địa điểm chính xác khi Marco Polo ra đời vẫn chưa được biết, và các lý thuyết hiện tại hầu hết đều là phỏng đoán. Tuy nhiên, ngày tháng thường được dẫn ra nhất là trong khoảng năm 1254, và nói chung chấp nhận rằng Marco Polo sinh tại Cộng hoà Venice. Tuy nơi sinh chính xác không được biết, hầu hết những người viết tiểu sử đều coi Venice là quê hương của Marco Polo. Cha ông Niccolò là một nhà buôn thường buôn bán với Trung Đông, trở nên giàu có và có danh tiếng lớn. Niccolò và anh/em trai mình là Maffeo đã thực hiện một chuyến đi buôn, trước khi Marco ra đời. Năm 1260, Niccolò và Maffeo định cư tại Constantinopolis khi họ dự đoán có sự thay đổi chính trị; họ đã chuyển tài sản thành đồ quý và ra đi. Theo Các chuyến du hành của Marco Polo, họ đã đi qua hầu hết châu Á, và đã gặp gỡ Hốt Tất Liệt. Trong lúc đó, mẹ của Marco Polo mất, và ông được một người chú và thím nuôi dạy. Polo được giáo dục tốt, và đã học các môn về buôn bán gồm cả ngoại tệ, định giá, và chỉ huy tàu chở hàng, dù ông ít hay không học tiếng Latin. Năm 1269, Niccolò và Maffeo quay trở lại Venice, lần đầu gặp Marco. Năm 1271, Marco Polo (khi ấy 17 tuổi), cha ông, và người chú đi tới châu Á trong một loạt các chuyến thám hiểm mà sau này được ghi lại trong cuốn sách của Marco. Họ quay trở lại Venice năm 1295, 24 năm sau, với nhiều tiền bạc và của cải. Họ đã đi qua tới 15.000 dặm (24.140 km). Khi họ trở lại, Venice đang có chiến tranh với Genoa, và Marco Polo bị bắt làm tù binh. Ông bỏ vài tháng trong tù để đọc lại bản tường thuật chi tiết về các chuyến đi của mình cho người bạn tù, Rustichello da Pisa, người đã thêm vào cả những câu chuyện của mình cùng với những giai thoại và những câu chuyện đương thời khác từ Trung Quốc. Cuốn sách được gọi là Những chuyến du hành của Marco Polo, và kể lại các chuyến đi của Polos xuyên qua châu Á, khiến người châu Âu có được cái nhìn chi tiết đầu tiên về vùng Viễn Đông, gồm cả Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Marco Polo cuối cùng được thả vào tháng 8 năm 1299, và quay trở về nhà ở Venice, nơi cha và chú ông đã mua một ngôi nhà lớn ở quận trung tâm tên là contrada San Giovanni Crisostomo. Họ tiếp tục công việc và Marco nhanh chóng trở thành một nhà buôn giàu có. Polo tài trợ cho các chuyến thám hiểm khác, nhưng không bao giờ rời bỏ Venice một lần nữa. Năm 1300, ông cưới Donata Badoer, con gái của Vitale Badoer, một nhà buôn. Họ có ba con gái tên là Fantina, Bellela và Moreta. Cái chết Năm 1323, Polo bị ốm liệt giường. Ngày 8 tháng 1 năm 1324, dù các thầy thuốc đã cố gắng điều trị, Polo đã hấp hối. Để viết và xác nhận ý muốn của ông, gia đình ông đã yêu cầu Giovanni Giustiniani, một thầy tu ở San Procolo. Vợ ông, Donata, và ba cô con gái được ông chỉ định làm người đồng thừa hành. Nhà thờ theo luật pháp được thừa hưởng một phần tài sản của ông; ông đồng ý điều này và muốn rằng thêm một khoản nữa sẽ được chi cho nhà tu San Lorenzo, nơi ông muốn được chôn cất. Ông cũng trả tự do cho một "nô lệ người Tartar "người có thể đã theo ông về từ châu Á. Ông chia phần tài sản còn lại, gồm nhiều bất động sản, cho các cá nhân và các định chế tôn giáo, và mọi phường hội và hội nhóm ông tham gia. Ông cũng xoá bỏ nhiều khoản nợ gồm cả khoản 300 lire mà người chị/em dâu nợ ông, và những khoản khác cho nhà tu San Giovanni, San Paolo thuộc Hội những Người thuyết pháp, và một giáo sĩ tên là Friar Benvenuto. Ông ra lệnh trả 220 soldi cho Giovanni Giustiniani vì công việc làm công chứng viên và những lời cầu nguyện của ông. Chúc thư, không được ký bởi Polo, nhưng sau đó đã trở nên có tính pháp lý theo quy định "signum manus" liên quan, theo đó người để lại di chúc chỉ cần chạm vào văn bản để nó trở thành có hiệu lực pháp luật, được đề ngày 9 tháng 1 năm 1324. Vì luật của Venice nói rằng ngày chấm dứt khi hoàng hôn, ngày mất chính xác của Marco Polo không thể được xác định, nhưng nó trong khoảng giữa hai buổi hoàng hôn ngày 8 và 9 tháng 1 năm 1324. Marco Polo du ký Một phiên bản chuẩn xác của cuốn sách của Marco Polo không tồn tại, và những văn bản chép tay thời kỳ đầu khác biệt. Các phiên bản được xuất bản của cuốn sách của ông hoặc dựa trên các bản chép tay riêng lẻ, hoặc trộn lẫn giữa nhiều bản hay thêm các ghi chú để chú giải, ví dụ, bản dịch tiếng Anh của Henry Yule. Một phiên bản dịch tiếng Anh khác của A.C. Moule và Paul Pelliot, được xuất bản năm 1938, dựa trên bản chép tay tiếng Latin được tìm thấy trong thư viện tại Thánh đường Toledo năm 1932, và dài hơn 50% so với các bản khác. Xấp xỉ 150 biến thể trong nhiều ngôn ngữ được biết có tồn tại, và vì thời ấy chưa có kỹ thuật in ấn nhiều lỗi đã phát sinh trong quá trình sao chép và biên dịch, dẫn tới nhiều sự không nhất quán. Các câu chuyện Cuốn sách bắt đầu với một lời nói đầu về chuyến đi của cha và chú ông tới Bolghar nơi Hoàng tử Berke Khan sống. Một năm sau, họ tới Ukek và tiếp tục đi đến Bukhara. Tại đây, một phái viên từ Cận Đông đã mời họ tới gặp Hốt Tất Liệt, người chưa từng gặp gỡ người châu Âu. Năm 1266, họ tới triều đình của Hốt Tất Liệt tại Đại Đô (Khanbaliq), hiện là Bắc Kinh, Trung Quốc. Vị Hãn đã đón tiếp hai anh em với lòng mến khách và hỏi họ nhiều câu về hệ thống pháp lý và chính trị châu Âu. Hốt Tất Liệt cũng hỏi về Giáo hoàng và Nhà thờ tại Roma. Sau khi hai anh em trả lời các câu hỏi Hốt Tất Liệt yêu cầu họ mang một bức thư tới Giáo hoàng, yêu cầu 100 tín đồ Thiên chúa giáo thông thạo Bảy môn Nghệ thuật (văn phạm, tu từ, logic, hình học, số học, âm nhạc và thiên văn học). Hốt Tất Liệt yêu cầu một phái viên mang về cho ông dầu trong ngọn đèn ở Jerusalem. Khoảng thời gian trống dài giữa cái chết của Giáo hoàng Clement IV vào năm 1268 và cuộc bầu cử người kế nhiệm ông đã khiến hai anh em nhà Polo phải đợi chờ lâu khi thực hiện ý nguyện của vị Đại Hãn. Họ theo lời khuyên của Theobald Visconti, khi ấy là Giám mục đại diện Giáo hoàng tại vương quốc Ai Cập, và quay trở lại Venice năm 1269 hay 1270 để đợi việc tuyên bố Giáo hoàng mới, điều này giúp Marco lần đầu tiên được thấy mặt cha mình, khi ông mười lăm hay mười sáu tuổi. Năm 1271, Niccolò, Maffeo và Marco Polo thực hiện chuyến đi của mình để thực hiện ý nguyện của Hốt Tất Liệt. Họ đi thuyền tới Acre, và sau đó cưỡi lạc đà tới cảng Hormuz của Ba Tư. Họ muốn đi thuyền tới Trung Quốc, nhưng những con tàu ở đó không đủ chất lượng để đi biển, vì thế họ tiếp tục đi đường bộ cho tới cung điện mùa hè của vị Hãn tại Thượng Đô (Shangdu/Xanadu), gần Trương Gia Khẩu ngày nay. Ba năm rưỡi sau khi rời Venice, khi Marco khoảng 21 tuổi, Hốt Tất Liệt đón họ tại lâu đài của ông. Ngày chính xác khi họ tới nơi không được biết, nhưng các học giả ước tính nó trong khoảng giữa năm 1271 và 1275. Khi tới triều đình Mông Cổ, ba thành viên nhà Polos đã đệ trình dầu thánh mang về từ Jerusalem và các bức thư của Giáo hoàng bảo trợ cho họ. Marco biết bốn ngôn ngữ, và gia đình ông đã có được nhiều hiểu biết và kinh nghiệm có ích lợi cho vị Hãn. Có lẽ ông đã trở thành một vị quan trong triều; ông đã viết về nhiều chuyết đi thăm với tư cách đại diện triều đình tới các tỉnh miền nam và miền đông Trung Quốc, vùng phía nam xa xôi và cả Miến Điện. Hốt Tất Liệt không đồng ý thỉnh cầu của nhà Polo rời khỏi Trung Quốc. Họ trở nên lo lắng về khả năng trở về của mình, tin rằng nếu vị Hãn qua đời, các kẻ thù của ông sẽ quay sang chống họ bởi họ là những người thân cận của ông. Năm 1292, cháu của Hốt Tất Liệt, khi ấy là vua cai trị Ba Tư, gửi các đại diện tới Trung Quốc để cầu hôn, và họ yêu cầu gia đình Polo tháp tùng cô dâu, vì thế họ được phép quay trở lại Ba Tư với phái đoàn đưa dâu – xuất phát cùng năm ấy từ Tuyền Châu (Zaitun) ở miền Nam Trung Quốc với một hạm đội 14 thuyền mành. Phái đoàn đi tới cảng Singapore, tiếp tục hướng về phía nam tới Sumatra và đi quanh mũi cực nam Ấn Độ, cuối cùng, vượt qua Biển Ả Rập tới Hormuz. Chuyến đi kéo dài hai năm rất nguy hiểm – trong số 600 người (không gồm thủy thủ đoàn) trong phái đoàn chỉ 18 người còn sống (gồm cả ba thành viên gia đình Polo). Nhà Polo rời phái đoàn kết hôn sau khi tới Hormuz và đi theo đường bộ tới cảng Trebizond trên Biển Đen, Trabzon ngày nay. Di sản Tiếp tục thám hiểm Những nhà thám hiểm người châu Âu ít được biết đến hơn khác cũng đã đi tới Trung Quốc, như Giovanni da Pian del Carpine, nhưng cuốn sách của Polo là lần đầu tiên khiến chuyến đi của họ được biết tới rộng rãi. Christopher Columbus đã có cảm hứng từ ghi chép của Polo về chuyến đi của ông tới Viễn Đông để chính mình đi biển tới những miền đất đó; một bản copy cuốn sách luôn ở trong hành trang của ông, với những lời chú giải viết tay. Bento de Góis, có cảm hứng từ cuốn sách của Polo về một vương quốc Thiên chúa giáo ở phía đông, đã đi hơn bốn ngàn dặm trong ba năm xuyên qua Trung Á. Ông không bao giờ tìm thấy vương quốc này, nhưng đã kết thúc chuyến đi của mình tại Vạn lý trường thành năm 1605, chứng minh rằng "Cathay" là cái mà Matteo Ricci (1552-1610) gọi là "China" (Trung Quốc). Tưởng niệm Cừu Marco Polo, một phụ loài của cừu, được đặt theo tên nhà thám hiểm, người đã miêu tả nó khi ông đi qua Pamir (Núi Imeon cổ) năm 1271. Năm 1851, một thuyền cao tốc ba buồm được chế tạo ở Saint John, New Brunswick cũng lấy tên ông; the Marco Polo là chiếc tàu đầu tiên đi quanh thế giới trong sáu tháng. Sân bay tại Venice được đặt tên là Sân bay Marco Polo Venice, và Chương trình khách hàng thường xuyên của hãng Cathay Pacific tại Hồng Kông cũng được gọi là "Marco Polo Club". Quyển Marco Polo du ký đã được tiểu thuyết hoá trong Messer Marco Polo của Brian Oswald Donn-Byrne và tiểu thuyết năm 1984 của Gary Jennings The Journeyer. Polo cũng xuất hiện với tư cách một nhân vật chính trong tiểu thuyết của Italo Calvino Invisible Cities. Loạt phim truyền hình năm 1982, Marco Polo, được đạo diễn bởi Giuliano Montaldo và thể hiện các chuyến đi của Polo, đã giành hai Giải Emmy và còn được đề cử sáu giải khác. Marco Polo cũng xuất hiện như một Nhà Đại Thám hiểm trong tưa game chiến lược năm 2008 Civilization Revolution. Bản đồ học
Đàn tranh (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) hay huyền cầm - còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranh của Trung Quốc). Ngoài khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây và gảy dây,ngoài ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ. Đàn tranh là nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát và được chơi trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc của C-pop, nhạc Âu Mỹ,... Trong khi các quốc gia phương Đông có những nhạc cụ nhiều dây như đàn tranh, đàn sắt thì với người phương Tây họ có đàn zither. Vậy nên đàn tranh phương Đông cũng có tầm sánh ngang zither phương Tây, tuy âm điệu của chúng hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở hầu hết các nước trong khu vực châu Á luôn có một phiên bản mini cho trẻ em và người mới chơi học diễn tấu. Nguồn gốc lịch sử Lịch sử của đàn tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc, trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt (sắt cầm hoặc cổ sắt) (瑟 hoặc 古瑟 hay 瑟琴 Bính âm: Sè, gǔ sè, Sè qín), có âm vực rộng tới 5 quãng tám. Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống. Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt. Vì vậy, đôi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vô cùng đắt đỏ so với cổ tranh. Chính vì vậy đàn sắt vô cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên đàn sắt luôn trở thành thứ bị quên lãng. Theo truyền thuyết, Phục Hy đã tạo ra đàn sắt. Và do đó, người ta tin rằng vào thời nhà Hạ, sắt cầm đã ra đời. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế. Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vô cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và không quá khó khăn khi mang vác, ông gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh. Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dòng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng. Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường, tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay). Các hoạ tiết trên cổ tranh bao gồm nghệ thuật chạm khắc, sơn mài chạm khắc, khảm xà cừ, tranh, thơ, thư pháp, chạm khắc vỏ (ngọc) và pháp lam. Phong cách chơi trước tiên được phân chia giữa miền Bắc và miền Nam trước khi được chia nhỏ thành các trường khu vực cụ thể. Các trường phái trong khu vực là một phần của phong cách phương Bắc bao gồm Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Đông và Chiết Giang. Các trường phái trong khu vực được bao gồm trong phong cách miền Nam bao gồm Triều Châu, Phúc Kiến và Khách Gia. Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai loại đàn là đàn trúc (筑) do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn (chi gõ). Đôi khi đàn trúc cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và không có con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây (phái trúc - 沛筑) ; ngưu cân cầm (牛筋琴) cũng thuộc đàn tranh chi gõ là loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh (轧筝) có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ để kéo (chi kéo) mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng (hangul:아쟁, Hanja:牙; Hán Việt: nha tranh). Riêng với người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni (琤尼) hay toả cầm (挫琴), nhỏ hơn yết tranh và văn chẩm cầm (文枕琴) - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn chẩm cầm không dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm được mắc bới một cầu đàn hình vòng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú. Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân bò, trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bò, tách sợi, phơi khô nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vào thời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm. Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến mất trong lịch sử nhạc cụ Trung Quốc cổ đại. Tỏa cầm Thanh Châu đã được tái phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép. Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đông Quảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đông Nam Á. Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水) được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép. Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn (后岳山) và đuôi đàn (琴尾 cầm vĩ) của đàn tranh có sự biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C,... Đàn tranh cải tiến Đàn tranh cánh bướm Năm 1978, Hà Bảo Tuyền (何寶泉) và Nhạc viện Thượng Hải đã phát triển và phát minh ra đàn tranh cánh bướm, Hán Việt đọc là Điệp thức tranh (). Đàn tranh cánh bướm này có hai cột được sắp xếp theo thang ngũ âm và có 2 vùng biểu diễn (tức 2 bên mặt đàn có thể diễn tấu 2 tay). Nó có thể chơi tất cả các nửa cung của thang ngũ âm, thang thứ bảy hoặc mười hai nhịp bằng nhau, giữa các hợp âm nhất định của thang ngũ âm, và cũng được trang bị móc dây để thay đổi cao độ của một số dây cố định. Đàn tranh cánh bướm vốn có ngoại hình như một con bướm khổng lồ đang xòe cánh bay thì nó chuyên trị những bản nhạc giao hưởng phương Tây và chơi rất dễ dàng so với cổ tranh phải nhấn dây rất nhiều. Tân tranh Hiện nay, ở Đài Loan đang có loại đàn tranh độc lạ, có tên là chuyển điều tranh () hay tân tranh (). . Theo như hợp âm, hai mươi bốn hợp âm chính và phụ chỉ là "135" và "613" trong cổ tranh truyền thống. Ngoài ra, cổ tranh truyền thống rất khó điều chỉnh, thiếu âm thanh và thiếu nhịp điệu, điều này hạn chế sự sáng tạo của nhà soạn nhạc và hạn chế nghiêm trọng phạm vi sử dụng của nó. Để thay đổi tình trạng này, nhiều nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia sản xuất nhạc cụ trong và ngoài nước đã tiếp tục phát triển và cải cách cổ tranh. Họ đã đề xuất nhiều chương trình và phát triển nhiều "chuyển điều tranh". Sự cải tiến mang tính cách mạng nhất đối với đàn tranh nên là sự phát triển thành công của đàn tranh, đây là một bước đột phá lớn khác trong lịch sử của đàn tranh. Cải cách ban đầu của cổ tranh được phản ánh nhiều hơn ở sự gia tăng số lượng dây, và cải cách đàn tranh mới đã phá vỡ ranh giới này. Cải tiến cổ tranh từ một góc độ khác thậm chí còn quan trọng hơn so với loạt cải cách ban đầu. Đàn tranh cải biên đã phá vỡ hoàn toàn phương pháp hiệu suất ngũ giác ban đầu, và phá vỡ hoàn toàn giới hạn của thang âm ngũ cung đối với sức mạnh biểu cảm của đàn sắt và cổ tranh trong hàng trăm năm, giúp cổ tranh dễ dàng điều chỉnh và sở hữu mười hai luật bằng nhau. Về lý thuyết, chức năng hòa âm của nó gần như tương đương với đàn piano, đây là một bước nhảy vọt khác trong lịch sử của cổ tranh Trung Hoa. Đàn tranh mới giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và kế thừa, và hoàn toàn tương thích với đàn tranh truyền thống. Chơi đàn chuyển điều tranh này về cơ bản không cần thay đổi phương pháp chơi hay huấn luyện đặc biệt, cho phép cải biên lối chơi của cổ tranh. Kinh nghiệm vẫn có giá trị thực tế. Các chức năng khác của chuyển điều tranh là không thể đối với cổ tranh truyền thống. Chuyển điều tranh đã mở ra một thế giới rộng lớn cho việc tạo ra âm nhạc đàn tranh, sử dụng các kỹ năng chơi và sử dụng rộng rãi cổ tranh. Sự xuất hiện của đàn tranh thế hệ mới đã giải quyết được nhiều vấn đề. Nó không chỉ có thể được chuyển đổi, nó còn có thang đo bảy âm với tiền đề đảm bảo thang đo âm giai ngũ cung, và thậm chí nó có thể được điều chỉnh theo đầy đủ theo mười hai luật trung bình. Chuyển điều tranh đã khéo léo sử dụng các phương pháp như con nhạn gắn ở trung tâm và kết hợp hữu cơ của hai khu vực chơi trên cùng một đàn tranh để giải quyết vấn đề thiếu âm thanh. Con nhạn của đàn tranh kiểu mới nằm ở trung tâm của mặt đàn so với con nhạn cổ tranh được xếp chéo. Khu vực chơi bên trái được sắp xếp theo thứ tự bảy âm thanh và khu vực chơi bên phải được sắp xếp theo thứ tự năm âm thanh. Điều này giải quyết mâu thuẫn giữa kế thừa và phát triển. Tân tranh có thể sử dụng vùng biểu diễn bên phải để hoàn thành bất kỳ bản nhạc nào thuộc hệ thống ngũ cung hoặc chúng ta có thể sử dụng vùng biểu diễn bên trái để thực hiện các tác phẩm dựa trên hệ thống bảy thang âm. Nếu các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được sử dụng kết hợp, các đặc điểm của cách sắp xếp nhạn kiểu ngũ cung và heptad có thể được sử dụng đầy đủ để phát các bản nhạc phức tạp khác nhau. Nếu chuỗi tỷ lệ của các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được điều chỉnh một chút, nó sẽ có tất cả các nốt trong mười hai nhịp bằng nhau và về mặt lý thuyết có chức năng tương tự như piano. Theo cách này, nó có thể được điều chỉnh phù hợp với bất kỳ âm nhạc nào dựa trên mười hai mức trung bình. Điều đáng khen ngợi hơn nữa là, với mười hai âm điệu, mối quan hệ tương đối giữa âm thanh trong vùng biểu diễn phù hợp và âm thanh vẫn giữ nguyên, và sự sắp xếp âm vị vẫn là một sự sắp xếp ngũ cung. Mặc dù đó là sự sắp xếp ngũ cung, hoàn toàn có thể. Đáp ứng nhu cầu biểu diễn âm nhạc ngũ cung nói chung. Có thể nói rằng đàn tranh tân tiến được trang bị đầy đủ các chức năng của cổ tranh truyền thống; đàn tranh tân tiến có thể dễ dàng giải quyết các bài nhạc diễn tấu cấp độ khó mà cổ tranh truyền thống không thể diễn tấu được. Tân tranh gồm có 25 dây và 25 con nhạn mắc thẳng tắp mặt đàn, chia khoảng cách của tiền nhạc sơn và hậu nhạc sơn bằng nhau. Bên cạnh đó, có những con nhạn nhỏ phụ trợ thay cho việc nhấn dây. Sự quyến rũ trong âm sắc cổ tranh là đặc trưng của cổ tranh. Vị trí thích hợp của tay trái để nhấn dây đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện kỹ năng. Vị trí hợp âm lý tưởng là khoảng 16 cm từ phía bên trái của đàn tam thập lục, được xác định bởi độ căng của dây đàn tân tranh và phần mở rộng vừa phải của bàn tay trái. Vị trí không phù hợp phổ biến thường là hơn 20 cm. Bởi vì càng gần nhạn đàn tranh, độ căng của dây càng lớn và dây không thể được ép chặt, càng xa nhạn đàn tranh, dây càng mềm và độ căng của dây càng thấp. Một số người chơi diều có bàn tay trái của họ mở rộng ra để làm cho việc nhấn dây dễ dàng hơn, do đó vị trí của dây được thay đổi. Tay trái bị căng quá mức, làm tăng gánh nặng cho cánh tay, hình thức chơi trở nên không tự nhiên và ngón tay thường chạm vào mặt đàn. Có nhiều bản in móng trên mặt đàn bên trái của một số đàn tranh, nguyên nhân là do vị trí dây không đúng. Trong đào tạo cơ bản, chú ý đến tính chính xác của vị trí hợp âm tay trái, để các kỹ năng tay trái có thể được thể hiện đầy đủ. Có hai phương pháp chơi dây cơ bản: phương pháp gảy và phương pháp lướt dây. Phương pháp gảy: Hướng của ngón tay chơi dây là từ phía trên xiên sang bên dưới xiên, góc nghiêng 45 độ, dây trung âm dày và xanh, âm thanh đầy đặn. Khi chơi, ngón áp út có xu hướng nghỉ ngơi trên dây zheng một cách tự nhiên, để hỗ trợ bàn tay và giữ cho bàn tay thư giãn tự nhiên. Phương pháp clip là phương pháp cơ bản cho người mới bắt đầu chơi diều, và nó cũng là phương pháp cơ bản cho các kỹ thuật truyền thống. Phương pháp lướt dây: Hướng của các ngón tay chơi dây là từ xiên bên dưới đến xiên ở trên, góc nghiêng 45 độ, phát âm rõ nét và chất lượng âm thanh rõ ràng. Khi chơi, họ thường chơi mà không cần hỗ trợ. Trong quá trình huấn luyện cơ bản, thủ hình bàn tay không nên căng thẳng, và sự thư giãn tự nhiên của nửa nắm tay vẫn nên được duy trì. Nâng cao là một kỹ thuật quan trọng để thực hành nhanh chóng. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, độ sâu của cảm ứng, sự điều chỉnh góc của cảm ứng, tốc độ và sức mạnh của cảm ứng đều mang lại những thay đổi lớn cho cách phát âm của cổ tranh. Trong đào tạo cơ bản, bạn phải học cách làm chủ các dây khác nhau, học cách điều chỉnh góc, độ mạnh và tốc độ của dây và áp dụng chúng vào hiệu suất của âm nhạc một cách tự do. Các phiên bản khác của đàn tranh Cổ tranh 9 dây Cổ tranh 9 dây () là phiên bản cổ tranh nhỏ gồm 9 dây đàn và chín con nhạn dành cho người tập chơi, đặc biệt là trẻ em. Ngoài ra còn có Cổ tranh liên chỉ khí () cũng dành cho người mới chơi. Cấu tạo của nó mô phỏng cổ tranh, thay thế con nhạn bằng 1 thanh gỗ dài mắc chéo dưới dây trên mặt đàn. Cổ tranh điện Cổ tranh điện là loại đàn tranh Trung Quốc được gắn thêm những pickup nam châm để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa). Cổ tranh 27, 36 và 39 dây Cổ tranh 36 dây () được tạo ra vào năm 1972 bởi Trương Chí Nhạc thuộc Nhà máy Nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô, những chiếc cổ tranh được kích hoạt bằng bàn đạp pedal đã xuất hiện để giải quyết những vấn đề tương tự như cổ tranh 21 dây hay đàn sắt đã điều chế trước đó - và có một số hạn chế tương tự. Đây là một loại cổ tranh với 36 dây đi kèm với 36 con nhạn được thực hiện trong khoảng thời gian đó, nó được điều chỉnh theo thang độ diatonic phương Tây. Biến thể của nó bổ sung thêm 3 dây & 3 con nhạn gọi là cổ tranh 39 dây (39弦筝). Loại 27 dây âm trầm được gọi là nhị thập thất huyền đê âm tranh (27弦低音箏). Cổ tranh 44 dây Một loại cổ tranh năm 1972 được tạo bởi Trương Chí Nhạc của Nhà máy nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô. Nó có 44 dây được điều chỉnh theo thang độ diatonic Đàn tranh đa âm Đàn tranh đa âm () hay gọi tắt là Đa thanh tranh (多声筝) được phát triển vào năm 2011 bởi giáo sư Lý Manh (李萌). Nó thực sự là hai chiếc đàn tranh kết hợp với nhau; có 21 dây được điều chỉnh theo thang âm cho phía bên phải, với 16 dây bổ sung được điều chỉnh theo âm giai ngũ cung ở phía bên trái. Có biểu đồ điều chỉnh bên dưới. Phạm vi của hai bên gần giống nhau, với bên 21 dây có tone A sâu hơn và dây 16 có tone D cao hơn Du nhập vào các quốc gia khác của châu Á Mông Cổ Yatga yatug-a, tiếng Mông Cổ: ятга yatga; ; tiếng Trung: 雅托葛) là loại đàn tranh của người Mông Cổ. Yatga có thể khác nhau về kích thước, điều chỉnh số lượng ngựa đàn và dây; Thân đàn là một hộp gỗ dài, một đầu của nó được đặt nghiêng xuống. Người biểu diễn gảy đàn bằng phần thịt đầu ngón của bàn tay phải; tay trái được sử dụng để nhấn lên dây đàn, thay đổi nốt nhạc. Tay trái cũng có thể được sử dụng để chơi các dải bass mà không cần plectrum (picks). Tùy thuộc vào kiểu dáng, các dây có âm sắc cao hơn được chọn bằng ngón tay hoặc bằng cách chọn. Loại yatga phổ biến nhất trong sử dụng đương đại là phiên bản 21 dây. Loại yatga này còn được gọi là "Master Yatga." Chiều dài của một nhạc cụ kích thước đầy đủ là 1,62m hoặc 63 inch. Các phiên bản ngắn hơn được lên nốt cao hơn. Một phiên bản 13 dây được gọi là "Gariin Yatga" (Hand Yatga). Các yatga có nguồn gốc từ cổ tranh Trung Quốc. Có một giả thuyết cho rằng, đàn sắt Trung Quốc loại 24 dây có phần đuôi đàn bẻ quặt xuống được du nhập vào Mông Cổ thời nhà Nguyên năm 1800 với chiều dài 223,8 cm hoặc 88 inch, người Mông Cổ gọi nó là yatga. Trong lịch sử Mông Cổ, do 24 dây của đàn sắt diễn tấu khó nên họ nghĩ ra phiên bản 12 dây được sử dụng tại triều đình vì lý do tượng trưng; 12 dây tương ứng với 12 cấp bậc của cung điện. Những người bình dân đã phải chơi trên một yatga 10 dây. Việc sử dụng phiên bản 12 dây trở lên được dành riêng cho triều đình và tu viện. Sử thi truyền thống của người Mông Cổ, Janggar kể về câu chuyện của một nàng công chúa trẻ đã từng chơi trên một chiếc yatga 800 dây với 82 con nhạn; cô ấy được cho là chỉ chơi ở 7 ngựa đàn thấp hơn. Nhật Bản Koto (tiếng Nhật: 箏), đôi khi gọi là Sō (tranh) là loại đàn tranh phổ biến nhất của xứ sở mặt trời mọc. Những phát hiện khảo cổ học cho thấy từ thời Yayoi hoặc Nara ở Nhật Bản đã có loại đàn 6 dây hoặc 5 dây được người Nhật gọi là Wagon hoặc Yamatogoto (đều viết là 和琴) giống với đàn koto ngày nay. Dân tộc Ainu ở Nhật Bản có đàn truyền thống giống đàn koto. Có thuyết cho rằng đàn này có nguồn gốc từ cây đàn do Mông Điềm, người nước Tần, sáng chế (xem đàn koto phần history). Từ thời cổ, Koto được gọi là "Wagon" (Hòa cầm) hay "Yamato goto" (Đại Hòa cầm) và là một loại nhạc cụ trong Nhã nhạc. Trong kho báu của vương triều Nhật Bản có một nhạc cụ tên là Sinlageum (Kanji: 新羅琴, Hiragana: しらぎ ごと, Hangul: 신라금), tương truyền có nguồn gốc từ Tân La, Triều Tiên du nhập sang. Cây đàn tranh Sillageum trông giống đàn tranh Jeongak Gayageum Hàn Quốc hiện nay, nhưng kích cỡ nhỏ gọn hơn và có dây đeo. Do đó, có phỏng đoán rằng người xưa quàng dây đeo cây đàn này lên người để diễn tấu. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Gayageum (hangul: 가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân quốc. Theo Tam quốc sử ký (hangul: 삼국사기) của Đại Hàn ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum. Trước khi có đàn tranh gayageum, người Triều Tiên có loại đàn gọi là Đại tranh (Daejaeng 대쟁; Hanja: 大箏). Trong thời đại Cao Ly, nó được sử dụng hoà tấu trong dàn nhạc nhã nhạc Gugak. Sau đó, ở Cao Ly, chủ yếu: 1) Chỉ được sử dụng cho nhạc Munmyo jeryeak (Văn miếu tế lễ nhạc). Kích thước đàn chơi cho nhã nhạc và chính thống hiện tại. 2) Nó dường như lớn hơn một chút so với gayageum. Mặt đàn được làm bằng gỗ cây ngô đồng và đáy đàn được làm bằng gỗ hạt dẻ. Độ dày của dây lớn hơn gayageum, dày nhất và dần dần mỏng hơn, đạt 15 dây. Sự xuất hiện của nó tương đương đàn tranh dùng vĩ kéo Ajaeng, mặt uốn cong được uốn cong xuống phía dưới giữa đuôi đàn với giá đỡ. 3) Với gỗ đen ở bốn góc và không có hình ở giữa. Một số điều chỉnh và chuyển ngữ có các dây tạo ra hai âm sắc trong một bản nhạc, như cách thể hiện trong dàn nhạc chính thống gugak. 4) Trong triều đại Joseon, nó chỉ được sử dụng ở Dangak. Họ đã sử dụng các sợi tơ đầy màu sắc hoặc sợi bông màu xanh lam. Trước khi có đàn tranh gayageum, một mảnh tàn tích của cây đàn tranh 10 dây được khai quật từ tàn tích của Thời đại đồ sắt ở Sinchang-dong, Gwangju vào năm 1997. Khám phá này đã gây ra sự quan tâm mới trong sự ra đời và phát triển của các nhạc cụ có dây cổ xưa. Các tấm gỗ của nhạc cụ dây này, được cho là đã được thực hiện trong thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên. Hình dạng cơ bản của cây đàn tranh là làm từ gỗ và mặt đàn thuôn tròn giống chiếc chai, với một lỗ nhỏ ở đầu cố định một dây, và một hình chữ U ở đầu kia. Phần hình chữ U được nối với phần nhô ra hình tam giác ngược với hai lỗ vuông nhỏ. Lỗ nhỏ hình vuông ở một đầu của phần nhô ra được cho là được sử dụng để ghép chặt một thiết bị cố định dây riêng biệt. 2 trục lớn phần đuôi đàn đóng vai trò buộc dây bằng cách chèn nó vào cầu đàn. Kích thước của lỗ khớp là 2,3 cm x 1,8 đến 1,9 cm, độ sâu là 6,4 cm và khoảng cách giữa hai lỗ khoảng 2,4 cm. Chiều rộng tối đa còn lại của ống cộng hưởng là 15,9 cm (chiều rộng tối đa của phục hồi là 28,4 cm) và độ dày của phần hình chữ U là 5,7 cm. Phần trung tâm của tấm gỗ có hình chữ U, và bên trong được đào để lại chu vi. Một phần của phần dưới được đào thành hình chữ V, và sau đó một lỗ được khoan bên trong. Đó là một vòng tròn nhỏ có đường kính khoảng 0,3 cm và khoảng cách giữa các đường là khoảng 2,3 cm. Có sáu lỗ còn lại. Do đó, mặc dù người ta ước tính rằng 10 đến 12 chuỗi đã được phát trên thông cáo báo chí lần đầu tiên giới thiệu việc khai quật cổ vật, sự phục hồi đã xác nhận rằng đàn tranh này có 10 dây và 10 con nhạn hình chữ A. Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương". Các loại gayageum bao gồm: gaeryang gayageum (개량 가야금) có 17 dây, beopgeum (법금 Pháp cầm) 12 dây và nó còn gọi là pungyu gayageum (풍류 가야금), sanjo gayageum (산조 가야금), jeongak gayageum (정악 가야금) 18 dây, gayageum 25 dây (25 현 가야금). Trong đó, lịch sử của loại gaeryang gayageum bao gồm các loại sau: 15 dây: Gayageum đã được mở rộng bằng cách tăng số dây đàn tranh gayageum hiện có từ 12 lên 15 dây. Năm 1967, Sung Geum Ryun, nổi tiếng với gayageum Sanjo, được diễn tấu nhiều. 17 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Hwang Byung-ju. Gayageum truyền thống là jeongak là Gayageum jeongak, Sanjo và dân gian âm nhạc, do sự phối hợp khác nhau cho Sanjo Gayageum 17 dây. Còn jeongak gayageum khi diễn tấu có nét tương đồng với âm sắc nhã nhạc cung đình Huế, nhất là khi diễn tấu bản nhạc Junggwangjigok Taryeong 중광지곡 타령. 18 dây: Gayageum nhằm mục đích mở rộng phạm vi bằng cách tăng số lượng dây lên 18. Nó được phát triển bởi Park Il-hoon vào năm 1988. 21 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Lee Sung-Chun. Số lượng dây gayageum đã được tăng lên rất nhiều, mở rộng phạm vi. 22 dây: Loại này tăng số dây gayageum lên 22. Park Bum-hoon được cải tạo vào năm 1995 để kỷ niệm buổi hòa nhạc thành lập Dàn nhạc truyền thống Quốc gia Hàn Quốc. 23 dây: Dahyun gayageum được phát triển bởi người chơi gayageum Cheon Ik-chang. Gayageum được sử dụng bởi Cheon Ikchang, con trai của Cheon Ik-chang, là 23 và 25 dây. Dây đàn cũng được cải tiến từ chất liệu tơ lụa thành dây kim loại, nên loại đàn này được gọi là Cheolgayageum (đàn tranh dây sắt). Dần dần xuất hiện các loại đàn 13 dây, 15 dây, 17 dây, 21 dây, đến giờ có cả đàn tranh 25 dây sắt. Geomungo Geomungo (거문고): Theo sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo của Hàn Quốc được ghi trong sử sách, xưa kia dưới thời Cao Câu Ly ở Hàn Quốc, có một cây đàn được gửi sang từ cổ cầm Trung Quốc nhưng người Cao Câu Ly khi đó không biết đây là loại nhạc cụ gì và cách tấu ra sao. Thấy vậy, tể tướng Vương Sơn Nhạc (왕산악) liền cải tiến cây đàn và sáng tác một thể loại âm nhạc mới có thể tấu với cây đàn. Khi âm thanh của cây đàn vang lên trầm bổng, du dương thì một chú hạc đen từ đâu bay tới nhún nhảy trên nền âm điệu mới mẻ này. Điểm nhấn trong sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo không phải là sự xuất hiện của loài hạc đen trên thế gian này, mà ở chỗ đến hạc cũng phải cao hứng nhảy múa khi nghe tiếng đàn tranh 6 dây geomungo do tể tướng Vương Sơn Nhạc diễn tấu. Ở phương Đông, hạc là loài vật tượng trưng cho sự thái bình, thịnh vượng. Âm nhạc giao hòa cùng thiên nhiên, tạo nên khung cảnh thái bình, yên vui, nơi con người và loài vật cùng chung sống trong hòa bình và yêu thương chính là niềm mong ước của người xưa gửi gắm qua cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Dodeuri (도드리) là thể loại âm nhạc thường được chơi bằng đàn tranh 6 dây geomungo. Âm nhạc Dodeuri có sáu phách trong một nhịp, tốc độ vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Mỗi phách mang một âm và các âm sắc cũng hết sức chân phương, có thể sẽ khiến những người sống trong xã hội hiện đại đã quen với những âm điệu nhanh và hào nhoáng, cảm thấy nhàm chán. Nhưng những điều phức tạp, hào nhoáng, cũng giống như những món ăn có gia vị mạnh thì thi thoảng chúng ta mới thưởng thức, còn những món có vị thuần và nhạt như cơm hay nước thì ngày nào, bữa nào chúng ta cũng cần tới. Những điều giản dị, không tô vẽ, thêm thắt mà chỉ thuần túy như bản chất vốn có, sẽ mang lại sự bình an trong tâm hồn của mỗi con người, và đây chính là lối sống mà giới học giả xưa ở Hàn Quốc hướng tới. Thứ âm nhạc giúp con người ta có thể cảm nhận được thế giới tâm hồn này chính là âm nhạc được tấu bằng cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Giới khoa học ngày nay đã phát hiện ra hình khắc vẽ một loại nhạc cụ trông gần giống với cây đàn tranh 6 dây Geomungo được vẽ trên bức tường mộ thời Goguryeo, trước cả thời của tể tướng Wang San-ak. Việc cải tiến nhạc cụ được mang tới từ Trung Quốc trở thành nhạc cụ của Goguryeo thể hiện quá trình dịch chuyển, biến đổi và phát triển của "văn hóa". "Geomungo Byeongchang (거문고 병창)" - Thể loại âm nhạc vừa hát ả đào vừa tấu đàn tranh 6 dây geomungo trong âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, thể loại âm nhạc vừa tấu đàn vừa hát được gọi là byeongchang. Người nghệ sĩ theo đuổi thể loại âm nhạc này sẽ vừa phải hát hay lại vừa phải đàn giỏi. Người khởi xướng dòng nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát "Geomungo Byeongchang" chính là nghệ nhân Shin Kwae-dong. Giờ đây, chỉ còn một học trò duy nhất của nghệ nhân Shin Kwae-dong có thể trình diễn hoàn hảo lối âm nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát ả đào byeongchang này. Trong một thời gian dài, đàn tranh 6 dây Geomungo đã từng là loại nhạc cụ ưa thích của giới học giả ở Hàn Quốc. Ở cuối thời đại Joseon, cây đàn tranh 6 dây Geomungo được dùng để chơi các thể loại âm nhạc dân gian, thể hiện mọi cung bậc cảm xúc tâm hồn của con người như niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, sự tức giận, khiến giới học giả bất bình và tặc lưỡi cho rằng đàn tranh 6 dây Geomungo đã hết thời. Ajaeng Đàn tranh Ajaeng (아쟁) du nhập vào Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ X – XIV). Tới thời Joseon, nhạc cụ này chủ yếu chỉ được dùng để tấu nhạc cung đình. Trọng tâm của âm nhạc cung đình Hàn Quốc là sự hài hòa với vũ trụ, thế gian, chứ không mang mục đích lay động lòng người nên có nhịp điệu chậm, hùng tráng. Bởi vậy, âm thanh trầm và sâu lắng của đàn tranh Ajaeng rất phù hợp với âm nhạc cung đình. Truyền rằng, đàn tranh Ajaeng có nguồn gốc từ đàn yết tranh Trung Quốc và xuất hiện ở Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ 10-14). Lúc đầu người ta thường dùng đàn Ajaeng để chơi nhạc Trung Quốc, dần dà Ajaeng đã trở thành nhạc khí không thể thiếu trong dàn hòa tấu âm nhạc truyền thống Hàn Quốc. Âm thanh đàn tranh Ajaeng trầm, thường làm nền trắc cho âm điệu của dàn nhạc. Nhưng khi độc tấu, thì âm thanh trầm có phần hơi thô của đàn Ajaeng như muốn khơi dậy cảm giác não nùng từ tâm can mỗi con người. Thời Joseon, một nhà quý tộc có tên là Kim Un-ran, ông bị bệnh về mắt và mất thị lực từ khi còn rất trẻ. Thời bấy giờ, những người mù thường làm thày bói là công việc của tầng lớp dân hạ đẳng nhất trong xã hội. Nhà quí tộc Kim Un-ran thường mượn tiếng đàn tranh Ajaeng thổ lộ nỗi hận và tâm cảm buồn rầu của mình. Truyện kể rằng, có lần nhà quí tộc Kim Un-ran dừng bước và ngồi kéo đàn tranh Ajaeng bên ngoài hàng rào một ngôi đền. Tiếng đàn nghe da diết não nùng buồn thảm. Bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc vọng ra từ trong đền. Tiếng đàn Ajaeng của Kim Un-ran đã làm các hồn ma trong đền chùa thức tỉnh. Ông hoảng hốt cầm đàn bỏ chạy, còn các hồn ma chắc cũng thán phục khả năng chơi đàn Ajaeng xuất chúng của ông. Việt Nam Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là đàn tranh giống như đàn sắt và đàn cổ tranh nhưng vì loại đàn tranh truyền thống của Việt Nam là 16 dây nên xuất xứ của nó chính là đàn thập lục cương huyền tranh () từ Triều Châu,Trung Quốc và Đài Loan truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 15 dây,16, 17, 19 dây và 22, 24 và hiện đại hơn là 26 dây; từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ tổng hợp sang dây cước, dây đồng đến dây thép và cải biên thêm trục đàn để mắc dây. Đây là điểm đặc biệt của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu, Đài Loan có được mà các loại đàn tranh Á Đông khác không hề có. Riêng loại 16 dây tại Triều Châu có trước tiên. Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam. Cấu tạo Trung Quốc và Việt Nam Đàn tranh và cổ tranh Trung Quốc (kể cả đàn sắt của Trung Quốc) đều có dạng hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con nhạn để mắc dây (trán đàn), khoảng cách giữa cầu đàn và trán đàn của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu (Trung Quốc) người ta thay thế lỗ xỏ dây đàn bằng cách lắp đinh vít (thường là vít đồng) để buộc cố định dây. Đầu nhỏ rộng khoảng 15–20 cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn (đàn sắt lên tới 50 khoá). Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn- 雁柱) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Riêng cấu tạo đàn sắt gồm 25-50 ngựa đàn mắc với 25-50 dây. Dây đàn sắt được túm gọn và cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn. Riêng với đàn sắt của Triều Tiên (Hangul: 슬, seul) thì thiết kế của nó tương tự như cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ và mặt đàn được vẽ lên những chi tiết hoa lá chim muông tinh xảo, còn cổ tranh của Đài Loan sử dụng dây kép. Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa cổ tranh Trung Quốc dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi . Cổ tranh Trung Quốc thông thường khi diễn tấu phải đeo tất cả tám móng giả; đeo vào ngón cái, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út. Riêng móng của ngón cái là cong hơn so với 3 ngón còn lại. Thứ tự dây cổ tranh tương đương với 5 thang âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ và 21 dây của cổ tranh phân theo 5 âm khu: bội âm trầm, âm trầm, âm trung, âm cao và bội âm cao. Chỉ có đàn tranh Việt Nam và Đài Loan mới có trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gỗ cẩm lai hoặc gỗ gụ vì những loại đàn tranh còn lại là koto (Nhật), gayageum (Hàn Quốc), yatga (Mông Cổ) và cổ tranh (Trung Quốc) không hề có trục đàn thì phần chỉnh dây đàn được giấu trong hộp điều âm ở cầu đàn bên trái. Khi mở hộp ra phần chỉnh dây đàn gọi là chốt dây, và người ta sử dụng cờ lê chuyên dụng cho việc lên dây đàn để lên dây sau đó vặn chốt ngược chiều kim đồng hồ trước khi xếp ngựa đàn (con nhạn) để mắc dây; khi mắc ngựa đàn vào dây sẽ dùng cờ lê vặn chiều xuôi chốt lại để giữ chặt. Con nhạn đàn tranh Việt Nam có một lỗ xâu dây cước hay dây tơ tổng hợp nhỏ. Đây là lý do khiến các dòng đàn tranh Á Đông không có, vì ngựa đàn tranh khi mua về đã được lắp đặt cố định, còn những đàn tranh kia thì phải lắp con nhạn trước khi gảy. Con nhạn cổ tranh song song với hộp điều âm và khoảng cách giữa con nhạn và hộp điều âm là tiền nhạc sơn (bên phải), hậu nhạc sơn là bên tay trái của con nhạn. Con nhạn của đàn sắt, đàn cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ hay đàn tranh Việt Nam đều sử dụng con nhạn hình chiếc kìm chữ A mỏ vuông. Đàn cổ tranh Trung Quốc gồm hai loại chính là 整挖筝 (chính oát tranh) và 拼面筝 (bính diện tranh). Mông Cổ Đàn được thiết kế như một hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kị. Yatga được sử dụng chủ yếu tại triều đình và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống phân cấp cung điện. Mục đồng bị cấm chơi đàn tranh yatga 13 dây, nhưng họ được phép chơi đàn tranh yatga mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử thi. Loại yatga 13 dây có ngoại hình tương tự đàn tranh sanjo gayageum 12 dây của Hàn Quốc. Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tranh yatga, phân biệt bằng hộp cộng hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại. Nhật Bản Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hông. Quy trình đó dùng để làm mặt đàn. Kích thước gần đúng của một cây koto là: Chiều dài 164,5 cm (64 3/4 in.) Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.) Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn) Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo yêu cầu thiết kế và uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính toán tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn. Biện pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại côn trùng mối mọt tấn công. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Thông thường, đàn koto có 13 dây. Từ thời Nara, số lượng dây đã như vậy, mặc dù vào thời Edo có một số cây đàn koto có hơn 13 dây. Từ thời Meiji thì đàn koto nhiều dây, nhất là loại đàn 17 dây, xuất hiện nhiều hơn. Có nhiều loại dây to hay mảnh khác nhau, thường là màu vàng mặc dù màu đỏ hay xanh lá cây cũng nhiều. Dây đàn truyền thống làm từ tơ tằm bện thành dây thừng sợi nhỏ và giống như nhiều đàn dây của Nhật Bản khác được bện từ 4 sợi tơ thành 1 dây đàn. Dây đàn ngày nay hầu hết làm từ chất liệu polyester. Dây đàn bằng polyester có độ căng tốt hơn nên âm dài hơn và tốt hơn, lại không lo bị đứt khi đang diễn tấu, giá thành chế tạo lại thấp hơn nhiều. Vì thế, đàn với dây bằng polyester ngày nay trở nên phổ biến. Ngày nay, phiên bản hiện đại của đàn koto với 25 dây thường sử dụng nylon bọc thép dây. Dây nylon cũng đã được giới thiệu để sản xuất một âm thanh to hơn, được ưa thích cho đi kèm vũ đạo. Để chơi âm nhạc hiện đại, koto với một số lượng lớn dây đàn đã được phát triển, tăng phạm vi của dây đàn. Koto có sẵn với 13, 17, 18, 21, 22, hoặc 25 dây, mặc dù các công cụ có dây khác đang có sẵn theo yêu cầu. Nhạn đàn và cầu đàn koto xưa làm bằng ngà voi. Tuy nhiên ngày nay do ngà voi đắt tiền, nên cầu đàn và nhạn đàn bằng chất liệu tổng hợp khá phổ biến, nhất là nhựa PVC. Có cây đàn koto mà cầu đàn và nhạn đàn làm bằng xương cá voi. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế 13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một công cụ thử nghiệm ngắn. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Dây đàn gayageum khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Âm nhạc Gayageum truyền thống có hai loại. Một loại là Gayageum tấu chính nhạc, hay còn gọi là Gayageum Beopgeum hoặc Gayageum phong lưu có lịch sử hình thành phát triển hơn 1500 năm. Nhưng khoảng cách giữa các dây đàn của nhạc cụ này xa nhau, nên khó có thể chơi được các bản nhạc có tiết tấu nhanh. Tới cuối thời Joseon, để có thể diễn tấu đa dạng âm nhạc, người ta đã cải tiến cây đàn tranh 12 dây Gayageum theo hướng nhỏ gọn hơn và có các dây đàn được mắc gần nhau hơn. Đàn tranh 12 dây Gayageum cải tiến thường được dùng để tấu nhạc dòng Sanjo hoặc đệm cho dân ca Minyo. Các ca nương thường dùng gayageum thường dùng để đệm hát những bài ả đào, gọi là hình thức gayageum byeongchang (강야금 병창). Sau này, khi âm nhạc châu Âu du nhập vào Hàn Quốc, đàn tranh Gayageum đã được cách tân một cách quả cảm mang sắc thái khác biệt hoàn toàn với Gayageum truyền thống và thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đàn tranh Gayageum 13 dây, 15 dây, 18 dây… Gần đây, còn có cả đàn tranh Gayageum 25 dây diễn tấu âm nhạc sáng tác mới. Dây đàn cũng được sử dụng bằng chất liệu tơ lụa tổng hợp và người nghệ sĩ còn dùng cả hai tay để nhấn nhá búng gẩy dây đàn tạo âm thanh. Ngựa đàn (con nhạn) của gayageum rất đặc biệt, không như đàn sắt hay cổ tranh của Trung Quốc, ngựa đàn (con nhạn) gayageum có đầu tròn, cổ nhạn dài và đuôi nhạn cong 2 bên như chữ 人 (nhân) làm từ gỗ. Cụm từ 안족 (anjok - con nhạn) cũng ám chỉ chân con ngỗng trời. Đuôi đàn (yangidu) trông giống hai chiếc sừng cừu choãi sang hai bên. Cây đàn tranh 12 dây Gayageum trong những bức tượng đất nung thời Silla cũng có Yangidu. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng sau hàng nghìn năm, Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Gayageum Jeongak là loại Gayageum cơ bản, nền tảng của đàn tranh 12 dây Gayageum, nên còn được gọi là Beopgeum, tức "pháp cầm", và Pungryu Gayageum, do thường được dùng để tấu nhạc phong lưu Pungryu của giới quý tộc Trên mặt đàn, anjok (con nhạn) hỗ trợ cố định dây. Những con nhạn di chuyển để điều chỉnh thang âm trên dây đàn và ngữ điệu. Các dây nối liền vào đầu của thân đàn từ tolgwae (chốt dây) bên dưới. Ở đầu bên kia, dây quấn quanh các vòng ở đầu dây dày, đi qua đai ốc sau đó luồn qua các lỗ ở dưới cùng của đàn và được bảo đảm, sau đó tất cả các dây được buộc trong một cuộn dây trang trí. Loại này chỉ có ở gayageum 12 dây. Loại Gaeryang gayageum luôn có hộp điều âm, trong hộp có chứa phần chốt xỏ dây bằng kim loại và gần đây dòng đàn sanjo gayageum hay jeongak gayageum có gắn thêm bộ gắn thêm những pickup nam châm kiểu giống guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa) gọi là Jeonja gayageum (전자 가야금). Ari gayageum (아리 가야금) có con nhạn hình chữ A tương tự đàn tranh dùng vĩ kéo jeongak ajaeng, nó có hộp điều âm chứa chốt chỉnh dây thay thế cho loại đàn tranh gayageum truyền thống. Geomungo Geomungo dài khoảng 162 cm và rộng 23 cm (dài 63,75 inch, rộng 9 inch) và có những con nhạn có thể di chuyển được gọi là anjok (안족) và 16 phím hình chữ nhật lớn nhỏ bằng tre xếp gần nhau để mắc dây (giống phím đàn đáy Việt Nam). Nó có một thân rỗng, nơi tấm trước của nhạc cụ được làm bằng gỗ cây hông và tấm phía sau được làm bằng gỗ hạt dẻ cứng. Sáu dây của nó, được làm bằng dây thừng bện từ lụa xoắn đi qua thân của nó. Que gảy geomungo được làm từ tre tương đương kích thước của chiếc bút chì. Ba dây đàn trực tiếp trên các phím có thể dừng lại trong khi ba dây còn lại là các dây mở. Chỉ có 3 dây đàn ở giữa của geomungo 6 dây mới có ngựa đàn mắc dây. Các dây còn lại được mắc bởi con nhạn anjok hình chữ "nhân" (人), geomungo 11 dây cũng vậy. Đầu đàn gọi là Jwadan (좌단), phím cố định nhỏ gọi là gwae, daemo là phần khoảng cách giữa phím nhỏ (괘 gwae) nhỏ nhất và cầu đàn (현침 hyeonchim). Gwiru (귀루) là phím lớn nhất mắc 3 dây giữa; các dây của geomungo 6 dây gồm có: munhyeon (무현 dây 1), yunhyeon (유현 dây 2), daehyeon (대현 dây 3), gwaesangcheon (괘상천 dây 4), gwaehacheon (괘하천 dây 5) và muhyeon (무현 dây 6). Ngoài ra còn có hakseul (학슬 nút thắt dây), budeul (부들 dây trang trí được tết thành búi giữ cho dây đàn tránh bị trùng và tuột), unjok (운족) là chân đàn, đuôi đàn là bongmi (봉미). Dưới đáy đàn gồm phần cộng hưởng (울림구맹 ulrimgumeong), que gảy (술대 suldae) và chốt dây (돌괘 tolgwe). Riêng dây thứ tư khi dùng que gảy, que sẽ chạm vào mặt đàn lẫn dây và sẽ có tiếng đàn lẫn tiếng đập que vào mặt đàn khi gảy mạnh. Geomungo hiện đại hóa tăng lên 11 dây, được làm bằng nylon. Như với phiên bản truyền thống, ba dây vượt qua các phím đàn và các dây khác đều mở. Nhưng phiên bản truyền thống của geomungo có 6 dây, với ba phím đàn. Một loại geomungo cổ để tấu chính nhạc có tên hoehyeongeum (회현금) và các geomungo còn lại gồm sanjo geomungo (산조 거문고) và jeongak geomungo (정악 거문고). Trung Quốc gọi đàn tranh geomungo là ngoạ không hầu (卧箜篌). Một loại đàn tranh geomungo khác gọi là jayanggeum (자양금) chỉ có phím mà không cần những con nhạn anjok căng dây, do nghệ nhân Yu Jung-gyo (1821-1893) chế tác. Jayanggeum có 7 dây và nó được coi là phiên bản hoàn chỉnh của cổ cầm Trung Quốc (được đưa vào dàn nhạc tế lễ Văn miếu - Munmyo jeryeak 문묘제례). Gần đây, geomungo 6 dây đã được cải tiến khá nhiều, với sự xuất hiện của geomungo điện tử (천차 거문고). Geomungo chơi với cung Hwaldae (활대 거문고) (giống như chơi ajaeng và có loại chỉ vỏn vẹn 3 dây thì dây giữa mắc bởi hàng phím đỡ bên dưới mà khi kéo phải để dọc đàn), hoặc loại geomungo có nhiều dây hơn, được thu thập; thu hút sự chú ý của các nghệ sĩ trẻ. Khi kéo đàn geomungo bằng vĩ, âm thanh của nó trầm hơn ajaeng rất nhiều. Trong sự phát triển của văn hóa, bên cạnh những nghệ sĩ bảo tồn, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, có những nghệ sĩ thay đổi và hiện đại hóa văn hóa truyền thống của dân tộc. Ajaeng Đàn tranh Ajaeng có thân đàn lớn làm bằng thân cây ngô đồng, cao hơn cả chiều cao của một người bình thường và có nhiều dây đàn được mắc ngang trên mặt bầu đàn (từ 8-12 dây). Dây đàn khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Gayageum, nhạc công có thể đặt lên đùi để diễn tấu, nhưng đối với đàn tranh Ajaeng họ phải kê lên kệ vì đàn to và nặng. Cung vĩ của đàn tranh Ajaeng được vót bằng cành cây hoa vàng mùa xuân Gaenari nên tốc độ biến âm chậm, không phù hợp để hòa âm cùng các nhạc cụ khác. Đàn tranh Ajaeng có âm thanh trầm nhất trong số các nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Giá đỡ đàn tranh ajaeng là chosang, cấu tạo của đàn tranh ajaeng gồm: đuôi đàn uốn cong xuống (미단 midan), cầu đàn (현침 hyeonchim), hakseul (학슬 nút thắt dây đàn), budeul (부들 búi dây trang trí, cố định để dây không bị tuột), ullimtong (울림통 đáy đàn chứa phần cộng hưởng), con nhạn (안족 anjok), đầu đàn (좌단 jwadan), dưới đáy đàn là tolgwe (돌괘 chốt dây) và cung vĩ để kéo (활 hwal). Cung vĩ thông thường chỉ là cành cây gaenari thì còn có cả cung vĩ từ lông đuôi ngựa hoặc dùng vĩ của violin để kéo. Có năm loại đàn tranh Ajaeng, gồm Daeajaeng 9 dây (9 현 대아쟁), soajaeng 9 dây (9현 소아쟁), ajaeng 8 dây (8현 아쟁), 10 dây (정악 아쟁) và 12 dây (12현 아쟁). Âm thanh Âm sắc các loại đàn tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, có khi hùng tráng, u buồn,... Do dây bằng kim loại mỏng, hoặc từ dây nylon hoặc polyeste, lụa tơ tằm bện nên đàn tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm đàn tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô 3 hoặc Sol 1 đến Sol 3 tuỳ theo cách lên dây và tuỳ vào các loại đàn tranh của các quốc gia. Sử dụng Đàn tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát, tham gia trong các dàn nhạc tài tử Việt Nam và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp quốc tế. Koto của Nhật Bản hay gayageum của Hàn Quốc có thể trình diễn độc tấu hay kết hợp các nhạc cụ khác để hoà tấu những bài hát dân ca, nhạc hiện đại như K-pop, J-pop, nhạc Âu Mỹ,... Đối với cổ tranh Trung Quốc hay Yatga Mông Cổ, cũng được diễn tấu là hoà tấu hoặc độc tấu. Riêng cổ tranh Trung Quốc dùng để chuyên trị các nhạc phẩm C-pop, nhạc dân ca, kinh kịch,... Người Việt Nam có thể sử dụng đàn tranh của các quốc gia châu Á khác để chơi dân ca Việt Nam. Hiện đại hóa Ngày nay, trên các điện thoại smartphone có các phần mềm ứng dụng của đàn tranh như guzheng, koto hay gayageum đều được tải về qua Google Play (Android) hay App Store (IOS). Cách chơi đàn Đa phần các đàn tranh Á Đông đều diễn tấu bằng 2 tay với 1 đàn thì ngày nay các nghệ sĩ dùng liền 2 đàn một lúc, mỗi tay sẽ dùng 1 đàn. Đàn dùng tay trái sẽ làm nhạc đệm, còn tay phải sẽ gảy giai điệu chính tuỳ theo khoảng cách đặt đàn và tư thế đứng hay ngồi khi chơi của nghệ sĩ. Việt Nam và Trung Quốc Phong cách chơi đàn truyền thống sử dụng trước đây thường dùng 2 ngón gẩy, ngày nay phổ biến là 3 ngón, cá biệt sử dụng 4 hoặc 5 ngón. Thang âm đàn tranh gồm: Do: C3 Re: D3 Fa: F3 Sol: G3 La: A3 Do2: C4 Re2: D4 Fa2: F4 Sol2: G4 La: A4 Do3: C5 Re3: D5 Fa3: F5 Sol3: G5 La3: A5 Do4: C6 Re4: D6 Fa4: F6 Sol4: G6 La 4: A6 Tuy nhiên cách gẩy 3 ngón là cách gẩy thông dụng nhất là ngón cái (số 1), ngón trỏ (số 2) và ngón giữa (số 3). Với những cách gẩy cơ bản: liền bậc, cách bậc, gẩy đi lên và đi xuống liền bậc hay cách bậc. Móng gẩy đàn làm từ đồi mồi hoặc inox. Đối với đàn sắt không dùng móng gẩy mà gẩy đầu bụng ngón tay, sử dụng ngón rung và vê thì phải có móng tay dài. Tư thế: bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, cổ tay tròn lại, hạ dần về phía trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn, cánh tay cũng hạ khép dần lại (tránh không đưa cánh tay ra phía ngoài). Ba hay bốn ngón tay gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng lên hay hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh gãy ngón. Riêng ngón tay gảy cổ trang Trung Quốc là gảy kiểu móc dây. Do dây của cổ tranh là dây thép loại dày bọc nhựa dẻo chứ không như đàn tranh Việt Nam với sợi dây thép mảnh. Thay dây nếu bị đứt 1. Khi dây đàn bị đứt, hãy mở hộp điều âm của đàn (đối với cổ tranh), dùng cờ lê vặn trùng toàn bộ dây đàn cần thay. Sau đó rút hẳn đầu dây ra khỏi đầu kim loại rút dây. Đẩy đầu dây còn lại ra khỏi hộp điều âm rút hẳn dây cũ ra và loại bỏ. 2. Cho dây mới vào, luồn như xâu kim khâu vào lỗ từ dưới hộp điều âm lên rồi kéo lên, luồn lại vào lỗ kim loại chỗ cuộn dây đàn sau đó cuốn vài vòng để cố định. Cuối cùng xếp nhạn mắc vào dây. Thủ pháp "thác" - Kỹ thuật "thác" (): dùng ngón cái diễn tấu. Giai đoạn mới học có 2 cách diễn tấu của thủ pháp "thác" gồm "giáp" () và "đề" (). "Giáp" thông thường ứng dụng vào 2 tình huống: một là người mới học và ổn định thủ hình. Hai là khi diễn tấu nhạc khúc truyền thống (dân ca và nhạc cổ phong Trung Quốc) được vận dụng khá nhiều. "Đề" vận dụng rất nhiều trong các nhạc khúc hiện đại, nhất là nhạc Trung Quốc phong. Thủ pháp "Thác" (ký hiệu là góc vuông). Biểu thị dùng thủ pháp "thác" diễn tấu âm trung Sol (tương đương với dây số 5 của cổ tranh). Dùng ngón áp út và ngón út đặt tự nhiên trên dây đàn. Ngón cái hướng về phía trước cơ thể gảy đàn. Sau khi gảy xong, thuận thế rơi vào dây tiếp theo. Bước đầu, đặt dây lấy âm trung Sol làm ví dụ; tay phải ở trạng thái nửa nắm tay. Cổ tay để nằm ngang và mở cánh tay ra. Đặt ngón tay nhẹ nhàng lên âm trung Sol. Ngón áp út và ngón út tự nhiên chống trên dây đàn ("ghim cọc"). Trong cách diễn tấu truyền thống, ngoài ra ngón tay thả lỏng. Ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út tay phải khép lại trong khi ngón cái và ngược lại ón út thả lỏng tự nhiên. Dùng phần thịt đầu ngón tay đặt trên dây đàn phía bên trái con nhạn. Vị trí đặt dây cách con nhạn khoảng 15 – 20 cm. Lưu ý: 1. Khi tay phải ở trạng thái nửa nắm tay, ngón tay thả lỏng và đốt bàn tay hơi nhô ra, không được sụp lún. Cổ tay để nằm ngang và cánh tay mở ra khoảng 45 độ, thả lỏng thoải mái. 2. Đầu móng giả của ngón cái đặt trên dây đàn cách Tiền nhạc sơn khoảng 3,33 cm (1 tấc). 3. Móng giả xuống dây không được quá sâu. Người mới học không cần đeo ngón áp út với móng giả khi thao tác "ghim cọc". 4. Vị trí đặt dây căn cứ vào độ to nhỏ của dây mà xác định. 5. Khi tay phải diễn tấu, tay trái đặt trên dây đàn bên trái của con nhạn tạo thành thói quen diễn tấu tốt. Khi tay trái đặt dây thì ngón cái và ngón út cấm nhếch lên; cũng không được kẹp chặt ngón tay hoặc nép vào lòng bàn tay. Sau khi nắm được cách thức đặt dây chính xác, người chơi sẽ diễn tấu "giáp" theo thủ pháp "thác": đặt dây trước rồi ngón cái dùng đốt bàn tay kéo theo ngón tay. - Thác kiểu Đề: là dùng đốt bàn tay kéo đốt thứ nhất (đốt nhỏ) khi diễn tấu. Đặt tay lên dây và tay phải luôn duy trù thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang còn cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay đặt ngón cái nhẹ nhàng lên trung âm 5 (Sol), các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Ngón cái dùng đốt nhỏ nhẹ nhàng hướng lòng bàn tay gảy dây. Khi diến tấu, đầu ngón tay phải nhanh chóng phát lực. Hướng diễn tấu của ngón cái hơi nghiêng về phía đầu ngón trỏ, không được chĩa thẳng vào lòng bàn tay. Khi ngón cái diễn tấu thì các đốt ngón tay phải nhô ra, không được móp vào. Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây tương ứng với dây bên trái và chú ý thủ hình nửa nắm tay. Kỹ thuật lướt dây - Là một lối gảy rất phổ biến của đàn tranh và đàn sắt cũng như cổ tranh Trung Quốc, đây là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường kỹ thuật này hay ở vào phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối câu nhạc. Ngón cái tay phải dùng thủ pháp "thác" liên tục vài dây với tốc độ nhanh. Có 2 dạng lướt là lướt trước phách (dùng ở đầu câu nhạc, lúc diễn tấu không chiếm giá trị thời gian thuộc về hiệu quả mang tính "trang trí"; có tác dụng tăng thêm màu sắc cho giai điệu) và lướt trùng phách (thường xuất hiện ở phách sau, dùng để bổ khuyết tiết tấu). - Lướt xuống: theo lối cổ truyền, là cách lướt liền các âm liền bậc, từ một âm cao xuống các âm thấp, tức là sử dụng ngón cái của tay phải lướt nhanh và đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp. - Lướt lên: là kỹ thuật lướt qua hàng dây, nhưng vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3 từ một âm thấp lên các âm cao. - Lướt kết hợp: kết hợp lướt lên và lướt xuống, kỹ thuật diễn tấu này thường chuẩn bị cho mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc, có trường hợp nó được sử dụng để tả cảnh sóng nước, gió thổi, mưa rơi và có thể sử dụng kỹ thuật lướt liên tiếp với nhiều âm hơn. - Song thanh: 2 nốt cùng phát ra một lúc, song thanh truyền thống chỉ dùng quãng 8, các nhạc sĩ hiện đại còn kết hợp dùng các quãng khác. Kỹ thuật bàn tay trái Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa, áp út) chụm lại, ngón cái và ngón út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung, nhấn, bàn tay được nâng lên mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc chuyển từ dây nọ sang dây kia. Kỹ thuật rung âm Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy. Nó là 1 kỹ thuật tay trái vô cùng quan trọng trong diễn tấu cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó tô điểm vẻ đẹp, trau chuốt và kéo dài cùng nhiều tác dụng khác cho nhạc khúc. Chủng loại của rung âm rất nhiều. Sau khi tay phải gảy gây xong thì tay trái nhấn, thả trên dây đàn tương ứng bên trái con nhạn; khiến cho âm mà tay phải gảy sản sinh hiệu quả rung động dạng sóng có quy luật. Diễn tấu rung âm cần 1 quá trình huấn luyện lâu dài. Lúc đầu mới học, luyện tập với tốc độ chậm trước, nắm được cách phát lực và thả lỏng chính xác. Sau khi thành thục mới tiến hành luyện tập tăng tốc. + Nhấn dây tay trái: Tay phải đặt cần bằng trên hộp điều âm, tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay. Nhấn thả dây đàn lên xuống chậm rãi đều đặn. Mỗi 1 nhịp có 2 động tác nhấn & thả, sau mỗi lần nhấn phải ngay lập tức thả ra. Tay trái và phải đặt dây chính xác trên trung âm 5 (Sol). Sau khi tay phải gảy trung âm 5 thì tay trái trên dây đàn tương ứng với bên trái con nhạn. Nhấn, thả dây đàn đều đặn. Khi người chơi mới học rung âm có thể áp dụng phương pháp luyện tập đếm nhịp. Tay phải gảy trung âm 5. Sau mỗi lần nhấn dây phải lập tức thả ra. Sau khi nắm vững diễn tấu chậm, tăng tốc độ nhấn dây thích hợp cho tay trái. Lưu ý: 1. Khi tay trái nhấn dây, vai phải thả lỏng. Sức lực của cánh tay trái nén xuống tự nhiên tập trung vào đầu ngón tay. Sau khi nhanh chóng nhấn dây thì lập tức trở về vị trí cũ. 2. Biên độ nhấn của tay trái bắt buộc phải nhỏ mà đều đặn. Tuyệt đối không được làm biến đổi độ cao của âm gốc. Thứ tự diễn tấu của tay trái & phải là gảy trước rồi rung sau. Tay trái nhấn và thả dây đàn trên dư âm sau khi tay phải gảy đàn. Nghiêm cấm làm cả hai tay cùng 1 lúc. Ngón nhấn luyến (hoạt âm) Là thủ pháp sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến: a. Nhấn luyến lên (hoạt âm lên): nghệ nhân gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa. Sau khi tay phải gảy dây, tay trái ở bên trái con nhạn đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. (Lấy trung âm 5 làm ví dụ: đem 5 là nốt Sol nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên cũng chính là 6 - nốt La. Hoạt âm lên của 1 - nốt Đồ chính là đem 1 "trượt lên" cao âm của 2. Cứ như vậy suy ra với những dây còn lại). Đặt dây giống rung âm, sau đó tiến hành luyện tập nhấn dây cho tay trái. Lấy trung âm 5 làm ví dụ: tay phải đặt cân bằng trên hộp điều âm, tay trái đặt trên dây đàn bên trái. Đếm 1 thấy bất động nhưng đếm 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới (1 là ngón tay phải gảy trung âm 5 - Sol, 2 là tay trái hoạt âm lên). Sau khi tay trái hoàn thành hoạt âm, không được thả tay ra cho tới khi dư âm biến mất mới được thả tay. Nắm vững phương pháp gảy trước nhấn sau. Khi tay trái nhấn dây, vai hạ xuống; đem sức lực tập trung vào đầu ngón tay. Tay trái từng bước thực hiện hoạt âm chuẩn xác. Chú ý diễn tấu, khủy tay không được nhấc lên còn cổ tay thì không được sụp xuống. Cao âm của hoạt âm lên phải chuẩn xác, bởi sức dãn của mỗi dây là khác nhau nên lực dùng để nhấn dây cũng khác nhau. Nhấn dây ở khu âm cao tương đối dễ dàng. Nhấn ở khu âm trung, thấp thì lực độ mạnh hơn chút. Nghe và luyện nhiều mới có thể nắm bắt chính xác cao âm của hoạt âm. b. Nhấn luyến xuống (hoạt âm xuống): tương phản với hoạt âm lên. Tay trái ở bên trái nhạn, đem trung âm 5 nhấn đến cao âm của dây trên trước là trung âm 6, sau đó tay phải gảy dây. Sau khi gảy dây xong thì mới từ từ thả tay trái ra khiến cho âm từ cao đến thấp thành 1 khối. Đặt tay lên dây, tay trái nhấn trung âm 5 lên cao độ của trung âm 6 phải duy trì ổn định, không được di chuyển. Nắm vững phương pháp diễn tấu " nhấn trước, gảy rồi thả". Đợi sau khi tay phải gảy xong thì tay trái mới từ từ buông ra. Tốc độ vừa phải. - Nhấn kết hợp (Hồi hoạt âm): Sau khi tay phải gảy dây,tay trái ở bên con nhạn. Đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. Lấy trung âm 5 làm ví dụ chính là đem 5 (nốt Sol) nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên nó cũng chính là 6 (nốt La). Phương pháp đặt dây giống rung âm, nhấn dây cho tay trái và lấy trung âm 5 làm ví dụ. Tay phải đặt cân bằng với hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh Trung Quốc), tay trái đặt lên dây đàn bên trái con nhạn. Đếm nhịp 1 thì thấy bất động cho tới khi đếm nhịp 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới. Tay phải gảy trước, tay trái nhấn sau. Đợi sau khi tay phải gảy 1 lần nữa thì từ từ buông tay trái. (Đếm 1, tay phải gảy bằng thủ pháp "thác". Đếm 2, tay trái nhấn dây đến cao âm mong muốn. Đếm 3, tay trái vẫn giữ vững như vậy, tay phải gảy theo thủ pháp "thác" 1 lần nữa. Đếm 4, tay trái từ từ thả ra khiến cho âm trượt từ cao xuống thấp. - Ngón nhún: là cách nhấn liên tục trên một dây nào đó làm cho âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc. Ngón tay nhún tạo thành những làn sóng có dao động lớn hơn ở ngón rung, làm cho âm thanh thêm mềm mại, tình cảm sâu lắng. Thủ pháp "Mạt" Mạt () là một kỹ thuật quan trọng trong diễn tấu cổ tranh cũng như đàn sắt. Ngón trỏ hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải - nửa nắm tay, cổ tay để nằm ngang còn cánh tay mở tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay. Đem ngón trỏ đặt nhẹ nhàng lên trung âm 5. Các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Khi mới học, người chơi có thể dùng ngón út và áp út nhẹ nhàng chống đỡ trên dây đàn để ổn định thủ hình. Khi ngón trỏ có thể độc lập diễn tấu thì không cần dùng hai ngón kia. Khi ngón trỏ đặt dây, đốt bàn tay hơi nhô ra và không được sụp xuống. Mặt bàn tay, cổ tay đặt nằm ngang không được co lại, cánh tay mở ra tự nhiên. Vị trí đặt dây của ngón trỏ cách Tiền nhạc sơn khoảng 3 cm. (Chú ý móng giả không được đặt sâu quá). Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây đàn tương ứng bên trái, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Ngón trỏ đặt dây, dùng đốt nhỏ của ngón trỏ nhẹ nhàng gảy về phía lòng bàn tay. Dùng mặt chính diện của móng giả ngón trỏ gảy dây, gảy hướng về lòng bàn tay. Không được dùng mặt bên của móng giả để gảy dây, như vậy sẽ sản sinh tạp âm. Đốt bàn tay kéo đốt nhỏ gảy đàn, chú ý đốt nhỏ không được móp vào. Khi ngón trỏ gảy, các ngón tay khác thả lỏng tự nhiên. (Khi mới học, lực gảy đừng mạnh quá, chỉ cần gảy nhẹ nhàng & duy trì thủ hình thả lỏng tự nhiên). Thủ pháp "Câu" Câu () là một thủ pháp diễn tấu cổ tranh bằng ngón tay phải. Ký hiệu của thủ pháp câu được mô tả bằng hình vòng cung. Nó cũng có 2 kiểu diễn tấu tương tự như thủ pháp thác. Bao gồm: - Câu kiểu đề: Ngón giữa hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải luôn trong thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang và cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, đặt ngón giữa nhẹ nhàng lên trung âm Sol (5) còn những ngón khác buông xuống tự nhiên. Thủ pháp nhóm nhỏ Là sự kết hợp giữa thủ pháp "thác" và "mạt". Nhóm nhỏ trong thủ pháp này gọi là kỹ thuật song âm (một lúc phát ra 2 âm so với đơn âm sẽ khó hơn chút). Song âm chủ yếu là ngón trỏ và ngón cái cùng tạo thành nhóm nhỏ, khi diễn tấu cần chính xác ngón trỏ và ngón cái, chứ không phải đồng thời dùng lực bốc dây và lướt dây. Dễ chạm vào dây khác âm thanh ta cần không phải là âm thanh song âm chuẩn nên trước tiên phải tìm đúng dây thật chuẩn xác, 2 ngón tay đặt vào dây đàn. Sau đó nhẹ nhàng, 2 ngón phân biệt gảy dây đàn và gảy dây đồng thời nhẹ nhàng thì âm song thanh đồng thời phát ra. Trong thực hiện thủ pháp nhóm nhỏ và nhóm lớn cần chú ý: 1. Chính diện tiếp xúc dây. Trong thực hiện thủ pháp, lưu ý 2 ngón tay. Một ngón tay rất dễ dàng tiếp xúc trực tiếp dây đàn, hai ngón tay và lại có thêm ngón cái có thể rất khó để thực hiện. Để thực hiện tốt, cần điều chỉnh góc độ thích hợp để cả hai ngón đều chính diện tiếp xúc dây đàn. 2 ngón tay phân biệt trên dây đàn, cẩn thận điều chỉnh góc độ để móng giả tiếp xúc chính diện dây đàn. 2. Khi thực hiện các thủ pháp "thác", "mạt" và câu thì vận dụng đốt ngón tay (chứ không phải là nắm tay hay cánh tay) hoàn toàn không vượt ra phạm vi nắm tay, nếu vượt qua phạm vi là cử động quá lớn vì cử động như vậy thì tốc độ càng chậm nên động tác sẽ không rõ ràng. Cần ghi nhớ cách vận dụng đốt ngón tay và điều chỉnh với trạng thái thả lỏng. Thủ pháp nhóm lớn Đây là sự kết hợp giữa thủ pháp "câu" và thác cùng lúc, tức là dùng cả ngón cái và ngón giữa khi diễn tấu. Nó là sự hình thành từ tổ hợp của 2 âm trên và dưới, âm Sol (5) trầm hơn phía dưới là dùng ngón giữa (thủ pháp "câu") diễn tấu. Khi thị xướng và hát giai điệu của âm phía trên. Nhóm lớn có 2 cách diễn tấu, gồm "giáp" và "đề" (ngón cái và ngón giữa cùng lúc gảy 2 âm cách nhau 1 quãng 8. Đầu tiên đặt dây,tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay và cổ tay đặt nằm ngang, cánh tay mở ra. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, ngón cái đặt trên trung âm 5 (nốt Sol), ngón giữa đặt trên trầm âm 5 và các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Tay trái đặt trên dây đàn phía trái trung âm 5, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Khi đặt dây cần chú ý những điều sau: 1. Khi ngón cái và ngón giữa gảy dây, cố gắng đặt móng tay vuông góc với dây đàn và duy trì thủ hình nửa nắm tay. 2. Khi ngón cái và ngón giữa đặt dây, các ngón khác phải thả lỏng, không được vểnh lên. Chú ý cổ tay phải đặt nằm ngang, không được co lại. 3. Tay trái đặt trên dây đàn bên trái trung âm phải duy trì thủ hình nửa nắm tay. Sau khi ngón giữa và ngón cái đặt dây xong, hai ngón này đồng thời hướng lòng bàn tay gảy dây. Kiến nghị các bạn trước khi luyện tập, hãy luyện tập động tác túm đồ vật. Để lĩnh hội mấu chốt và cách thức ngón tay phát lực, khi diễn tấu cần chú ý: 1. Ngón cái và ngón giữa phải gảy cùng lúc, không được phát âm lệch nhau. 2. Chú ý phương hướng gảy của ngón cái và ngón trỏ, gảy kiểu "đề" theo hướng lòng bàn tay. 3. Khi diễn tấu, 2 ngón tay phải phát lực bằng nhau và tập trung lực vào đầu ngón tay. Không được nghiêng lệch về ngón nào. 4. Sau khi ngón cái và ngón giữa gảy xong, thủ hình phải thả lỏng tự nhiên, tránh móng giả của 2 ngón va vào nhau gây phát sinh tạp âm. Tổ hợp Thác và Mạt Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón trỏ và ngón cái. Đặt dây và tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ lên trung âm Rê (dây thứ 2) trong khi các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt trên dây đàn bên trái trung âm Sol (5). Trên cơ sở đặt dây chính xác thì ngón trỏ gảy trước, sau khi gảy xong thì ngón cái phải ở trên trung âm 5. Tiến hành áp dụng thủ pháp Thác kiểu Đề. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Khi diễn tấu hai âm, lực độ phải đều đặn 2. Duy trì tính độc lập của ngón cái và ngón trỏ, tránh để thủ hình bị cứng hoặc biến dạng. 3. Khi diễn tấu, cánh tay phải duy trì ổn định và không được nhảy nhót lên xuống. 4. Rung âm của tay trái phải đều đặn, giá trị thời gian phải chuẩn xác. Tổ hợp Câu - Thác - Mạt - Thác Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón giữa, ngón cái và ngón trỏ theo thủ pháp Thác, Mạt và Câu tuần tự theo quy trình "Câu - Thác - Mạt -Thác" mà diễn tấu ra 4 âm. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Giai đoạn mới học có thể chơi kiểu dán dây với tốc độ chậm chút. Sau khi ngón cái gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây. Kế đến ngón giữa gảy xong, ngón trỏ đến vị trí đặt dây. Cuối cùng ngón trỏ gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây làm cho các âm nối tiếp tự nhiên. Trên cơ sở luyện tập thành thạo mới luyện tập kiểu rời dây với tốc độ nhanh dần. 2. Khi diễn tấu cần duy trì thủ hình nửa nắm tay, giữ toàn bộ thủ hình bình ổn, Không được nhảy nhót lên xuống. 3. Lực độ phân chia cho 4 âm phải đều nhau, không được âm nặng âm nhẹ. Thủ pháp Câu - Thác - Mạt - Thác là một kỹ thuật vô cùng quan trọng trong diễn tấu đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc cũng như đàn tranh Việt Nam. Khi luyện tập phải tiến hành luyện tập nhiều lần, trên các dây 5 5# 2 và 5#. Sau khi cơ bản nắm được cách chơi, tiếp tục tiến hành luyện tập đi dây căn cứ vào mức độ thành thục của luyện tập có thể mở rộng từ từ khu âm gảy (ví dụ như khu âm trầm và khu bội âm trầm). Thủ pháp tổ hợp này được coi làm nhạc đệm cho hát hay cho các nhạc cụ khác diễn tấu chung thành một bản hoà tấu hoàn chỉnh, khi diễn tấu có thể dùng thị phạm tay phải hoặc tay trái đều được. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Gảy bằng lực của ngón tay, không quá dựa vào lực của cánh tay và vai, Tránh tình trạng diễn tấu căng thẳng. 2. Khi diễn tấu phải duy trì sự bình ổn, thả lỏng của mặt bàn tay. Ngón tay không được lật lung tung. Nhấn âm 4 và 7 Nhấn âm 4 (nốt Fa): Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 3 (nốt Mi), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 3 lên nửa cung thành cao độ của 4, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 3. Khi luyện tập nhấn âm 4, cần chú ý: 1. Tay trái nhấn dây phải dứt khoát, chính xác. Duy trì độ ổn định của âm nhấn, lực nhấn dây của tay trái càng nhỏ thì cao âm của tay phải sẽ càng thấp. Ngược lại, lực nhấn dây của tay trái càng lớn thì cao âm của tay phải sẽ càng cao. Vì vậy, khi luyện tập nhấn âm, cần khống chế tốt lực nhấn âm của tay trái; đòi hỏi khi luyện tập phải nghe nhiều và mô phỏng nhiều. 2. Sau khi tay phải gảy dây xong, tay trái giữ vững nhưng đừng thả ra ngay lập tức hoặc là đợi khi tay phải chơi âm tiếp theo thì mới thả ra một cách nhanh chóng để tránh xuất hiện hoạt âm. 3. Thông thường, nếu như thời gian cho phép thì tay trái có thể từ từ nhấn dây trước; ví dụ như diễn tấu 4, 3 (Fa và Mi). Nếu như không có thời gian, tay trái nhấn dây và tay phải diễn tấu gần như phải tiến hành đồng thời. Động tác của tay trái phải dứt khoát, nhanh chóng vào vị trí. Nhấn âm 7 (nốt Si): giống với cách nhấn âm 4. Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 6 (nốt La), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 6 lên 2 cung thành cao độ của 7, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 6. Lực nhấn đến 7 phải lớn hơn 4 một chút. Phân giải hợp âm và bà âm Hợp âm là từ 3 âm trở lên sắp xếp theo quan hệ quãng âm nhất định (ví dụ Đô - Mi - Sol, Sol - Rê - Sol, Sol - Đô - Rê - Sol), mỗi 1 âm trong quá trình hợp âm phải dựa theo trước sau và tiết tấu nhất định. Lấy hợp âm Sol - Đô - Rê - Sol làm ví dụ, đặt dây và tay phải dựa theo ngón áp út. Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa phân biệt đặt trên các dây Sol - Đô - Rê - Sol. Khi diẽn tấu cần chú ý: 1. Đối với người mới học hay nhỏ tuổi, có thể dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa tiến hành luyện tập trước. Sau khi thành thạo mới dùng thêm ngón áp dụng để tập luyện. 2. Khi mới luyện tập đặt dây, áp dụng theo thứ tự lần lượt từ ngón áp út tới ngón cái. Yêu cầu 4 ngón tay áp dụng cách đặt dây đồng thời. Khi đặt dây yêu cầu nhô ra, duy trì nguyên dạng thủ hình để đầu ngón tay ôm lấy dây đoàn, trânh tình trạng ngón tay méo mó hay cứng ngắc. 3. Khi 4 ngón đặt dây đừng đặt quá sâu, mỗi ngón đều sử dụng đầu ngón tay tiếp xúc dây. Sau khi đặt dây xong, tay phải bắt đầu diễn tấu từ ngón áp út từ âm cao đến âm thấp và diễn tấu lần lượt theo hướng lòng bàn tay, sau khi gảy xong thì thu về lòng bàn tay một cách tự nhiên. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Tiếp xúc dây bằng mặt chính diện của móng giả, tránh xuất hiện tạp âm từ mặt bên móng giả. 2. Chú ý tính độc lập của mỗi ngón tay. Sau khi gảy dây từng âm, ngón tay lập tức trở về thủ hình nửa nắm tay. Không được co quắp vào lòng bàn tay. 3. Các ngón tay trong khi chơi cần chú ý sự cân bằng của lực độ, sự thống nhất của âm sắc. Không được theo kiểu âm thì mạnh, âm thì yếu. 4. Khi chơi phân giải hợp âm trong vòng quãng 8 (bát độ), ngón tay có thể đặt dây trước một cách có chuẩn bị. Còn phân giải hợp âm quá quãng 8 có thể áp dụng cách chơi rời dây. Bà âm () là đem các âm trong hợp âm theo thứ tự từ thấp đến cao diễn tấu theo tốc độ trung bình nhanh. Khi diễn tấu chú ý sự khác biệt và liên hệ giữa Phân giải hợp âm và Bà âm. Hai thủ pháp này giống nhau về mặt thủ hình và cách chơi. Điểm khác biệt nằm ở: Phân giải hợp âm phải diễn tấu chính xác dựa theo tiết tấu quy định mà bà âm về tốc độ hơi nhanh chút. Diễn tấu Bà âm cần phải dựa trên cơ sở thành thạo diễn tấu phân giải hợp âm mới tiến hành tập luyện. Diễn tấu của Bà âm khá tự do có thể là tiết tấu hợp quy tắc, cũng có thể căn cứ vào sự cần thiết của nhạc khúc mà biến hóa và diễn tấu theo hai kiểu thị phạm tay trái (bên trái đàn) hay tay phải (bên phải đàn) hoặc diễn tấu 2 tay. Kĩ thuật vê ngón Đây là kĩ thuật quan trọng trong diễn tấu đàn sắt, cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó lợi dụng dao động của cánh tay và cổ tay Khiến cho các đơn âm rời rạc liên kết thành 1 tuyến trở thành trường âm liên tục không ngừng khiến cho tiếng nhạc kéo dài thể hiện tác dụng ca xướng của âm nhạc. Vê trong âm nhạc có năng lực biểu hiện phong phú. Nó có thể thông qua các biến hoá về lực độ, tốc độ, âm sắc, tiết tấu,... biểu hiện ra các loại tình cảm âm nhạc khác nhau. Thủ pháp vê chia làm: vê ngón cái, vê ngón trỏ, vê ngón giữa và vê ngón áp út. Trong đó vê ngón cái là thường gặp nhất. Nó lại chia làm 2 trường hợp: có điểm tựa & không điểm tựa. Đặt dây, mặt bên trái của bụng ngón trỏ tay phải nhẹ nhàng đặt ở chỗ cuốn băng dính của móng giả ngón cái. Ngón giữa, ngón áp út cong vào tự nhiên. Ngón út chống xuống bên phải Tiền nhạc sơn (bên phải đàn), cổ tay hơi ép xuống tiếp cận hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh). Mặt chính diện của móng giả ngón cái tiếp xúc dây. Khi luyện tập đặt dây cần chú ý: 1. Khi mới học, luyện động tác ngón út chống đỡ, rời dây chuyển động cổ tay trước. 2. Mấu chốt để vê tốt chính là nằm ở đặt dây và thủ hình. Khi ngón trỏ giữ móng giả ngón cái, đốt ngón tay của ngón cái phải chống đỡ; không được sụp xuống hay biến dạng. Tác dụng của ngón trỏ là khống chế và cố định móng giả của ngón cái. Lực giữ của ngón trỏ nên vừa phải, nếu như ngón trỏ dùng lực quá nhiều sẽ khiến cổ tay cứng đơ hoặc thủ hình biến dạng. Từ đó mà ảnh hưởng đến sự phát lực của ngón tay. Còn quá thả lỏng, sẽ khiến móng giả ngón cái lắc lư trước sau, thanh âm yếu ớt, đồng thời thiếu tính rõ nét. 3. Ngón giữa, ngón áp út hơi nâng lên, tránh lúc đang vê, móng giả của 2 ngón này chạm vào dây đàn mà sản sinh tạp âm. 4. Ngón út khi chống đỡ cần duy trì ổn định, nhưng đừng dùng lực quá nhiều. Vê bao hàm 2 động tác diễn tấu ngược nhau là "Tỳ" (琵) và "Thác". Ngón cái đặt dây trên trung âm Sol (5) cách Tiền nhạc sơn khoảng 2 cm, tiếp xúc dây sẵn sàng. Cổ tay kéo ngón cái hướng về phía cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Tỳ". Sau khi gảy xong, cổ tay dựa theo quán tính kéo ngón tay hướng về phía trước cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Thác"; khi tổ hợp thủ pháp "Tỳ" và "Thác" dao động qua lại một cách nhanh chóng sẽ trở thành kỹ thuật vê. Khi diễn tấu vê ngón, cần chú ý: 1. Khi diễn tấu, phải duy trì thủ hình đặt dây không thay đổi, dựa vào lực chuyển động của cổ tay kéo ngón cái diễn tấu; cần phải nhớ ngón cái không được chủ động phản lực, biên độ chuyển động của cổ tay không được quá lớn. 2. Ngón út làm điểm chống đỡ dựa vào bên phải Tiền nhạc sơn, dùng để ổn định vận động của cổ tay. Trong quá trình diễn tấu không được dao động qua lại. Luyện vê quãng ngắn có lợi trong việc huấn luyện lực khống chế và cảm giác rõ nét trong liền mạch của vê. Một số kỹ thuật khác - Đả (打): Sử dụng ngón áp út để gảy dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, cả móng (nếu đủ dài) và "đi bộ" tiếp xúc với dây. - Phách (劈) hay bài (擘): Sử dụng ngón tay cái để gảy móc trong một chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay cái. - Khiêu (挑): Sử dụng ngón trỏ để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay. - Dịch (剔): Sử dụng ngón tay giữa để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay. - Trích (摘), khẩu (扣): Sử dụng ngón tay đeo nhẫn (thứ tư) để nhổ một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với chuỗi, không có phần nào khác của ngón tay. Nó ảnh hưởng từ cách chơi cổ cầm. - Dản huyền (间弦): Một số ngón tay gảy vài dây với một chuyển động đóng. Các dây không liền kề nhau và cách nhau một quãng tám. - Đại toát (大撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy hai dây có bốn dây giữa chúng trong một chuyển động đóng, các ngón tay di chuyển về phía lòng bàn tay. Điều này nghe như quãng tám khi được phát trên một giai điệu ngũ cung. Nếu sử dụng móng tay riêng, móng tay và đầu bụng của ngón tay chạm vào dây. - Tiểu toát (小撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Các dây được gảy phải có một dây giữa chúng. - Phiến toát (反撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy móc hai dây theo chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Các dây gảy phải có bốn dây giữa chúng. Nếu sử dụng móng tay riêng, chỉ có móng tay chạm vào dây. - Phú chỉ (复指): Một lớp các kỹ thuật trong đó cùng một dây được đánh hai lần liên tiếp. Có thể sử dụng cùng một ngón tay hoặc hai ngón tay khác nhau - Song âm (双音): Đối với hai dây liền kề, nhấn dây thấp hơn để cao độ của nó tăng lên để phù hợp với dây cao hơn. Sử dụng ngón tay cái hoặc ngón trỏ để quét qua cả hai dây, trong một cử chỉ cách người biểu diễn. Nhấn dây thấp hơn sau khi nó được đánh và tạo một âm thanh trượt là một kỹ thuật khác - Trùng âm (重音): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây liền kề trong một chuyển động đóng, nhấn thấp hơn để tạo ra cao độ tương tự như cao hơn. Dùng vĩ kéo và que gõ - Dùng vĩ kéo (chỉ có ở yết tranh Trung Quốc; geomungo 3 dây, ajaeng Triều Tiên và yatga Mông Cổ): đặt đàn lên giá đỡ. Riêng với văn chẩm cầm (đàn tranh kéo 9 dây) phải để dọc đàn khi kéo. Hiếm khi thấy người Việt Nam dùng vĩ kéo chơi trên đàn tranh. Kỹ thuật tay phải chủ yếu là sử dụng cung vĩ, cung vĩ ở yết tranh khác với cung vĩ đàn nhị nhưng nó có tầm quan trọng đặc biệt: điều khiển khéo léo sẽ làm cho tiếng đàn mềm mại, ngọt ngào hoặc khoẻ mạnh, chắc chắn. Hướng chuyển động của cung vĩ là đẩy từ trên xuống dưới và kéo lên từng dây đàn. Cung vĩ của yết tranh thuộc dạng cung rời như cung của violin hay cello chứ không như cung vĩ mắc liền với dây đàn nhị. Kỹ thuật tay trái: nhấn và tì nhẹ dây đàn. Các âm tiến hành trong một đường cung vĩ như đánh miết vĩ, nhấn từng âm và các âm vẫn luyến với nhau. Biểu hiện trạng thái đấu tranh gay gắt, có thể diễn tả sự say đắm, nặng nề. Nhịp độ bản nhạc thường là vừa và chậm. Riêng văn chẩm cầm lại kéo giống đàn nhị từ phải sang trái, có điều là kéo từng dây ở tay trái và nhấn tì dây ở tay phải. Âm thanh đàn tranh ajaeng của Hàn Quốc cũng như Triều Tiên có phần não nùng như tiếng rầu rĩ bi thương, tiếng đàn gần giống với nhạc đệm của đàn đáy Việt Nam trong ca trù. Yết tranh Trung Quốc và Ajaeng Triều Tiên có thể vừa gảy vừa kéo trong khi diễn tấu. - Gõ (chỉ có ở đàn trúc và ngưu cân cầm Trung Quốc; đôi khi cũng dùng cho yatga Mông Cổ): tay phải cầm một que tre gõ lên từng dây đàn. Tay trái nhấn và tì dây. Người chơi cần nắm bắt được cách gõ que đàn sao cho rơi đúng điểm (cách cầu ngựa khoảng 1,5 cm – 2 cm, bụng ở đầu que gảy được rơi ở chính giữa) kết hợp hài hoa giữa cổ tay và ngón tay. Khi bật đầu que nên bật đến độ cao khoảng 45 độ so với mặt đàn. Mông Cổ Một đầu của yatga được đặt trên đầu gối của người biểu diễn, đầu còn lại sẽ ở trên sàn hoặc sẽ được đặt trên một giá đỡ. Một số người biểu diễn thích đặt yatga trên hai khán đài. Nhạc cụ sẽ được đặt ở vị trí mà các dây cao hơn ở bên phải và phía trước, và tất cả các dây sẽ chỉ được gảy ở phía bên phải của cầu đàn. Cao độ của một dây cũng có thể được thay đổi bằng cách di chuyển các cầu đàn. Do thiếu hai ghi chú, nên có một khoảng trống giữa các cầu của dây E và G và cũng có khoảng trống giữa các dây A và C. Yatga được điều chỉnh bởi các cơ chế ẩn bên phải của yatga. Sau khi điều chỉnh cơ bản, nhạc cụ được tinh chỉnh bằng cách di chuyển các nhạn đàn sang hai bên. Người chơi có thể thay đổi cao độ hoặc một nốt bằng một nửa âm trở lên khi nhấn xuống dây bên trái của cầu đàn. Bên cạnh các bản nhạc theo phong cách phương tây, một ký hiệu dựa trên số được sử dụng ở Trung Quốc và các quốc gia khác. Dây nốt cao nhất nhận được số 1 và sau đây được đánh số theo thứ tự tăng dần. Giai điệu của dây 1 phải là D hoặc Re nếu sử dụng lược đồ CDEGA. Lối chơi yatga ảnh hưởng mạnh từ đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc. Đa phần nhạc công Mông Cổ diễn tấu yatga không hề dùng móng giả khi gảy. Thông thường các dây màu xanh lá cây là ghi chú A. Cũng có thể điều chỉnh yatga trong 7 nốt trên mỗi quãng tám, hoặc 7 nốt và 3 nốt nửa (thang độ diatonic). Nhiều khi yatga cũng được nhạc công dùng cung vĩ (giống cây vĩ của đàn violin) để kéo vào dây hoặc búng mạnh cung vĩ lên dây để âm thanh yatga có phần sinh động. <ref> </rep> Nhật Bản Người chơi đàn đeo móng đàn (móng gảy) vào ba ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải để gảy đàn. Tùy từng phái mà hình dáng của móng gảy có thể là tròn hay vuông, độ lớn bé cũng khác. Như phái Ikuta thì dùng móng gảy to hình vuông, còn phái Yamada thì dùng móng gảy tròn hoặc đầu tròn. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, móng gảy có xu hướng mỏng đi. Nuôi móng tay dài có thể chơi koto mà không cần đeo móng đàn. Hoặc có thể chơi bằng phần đầu bụng của ngón tay để chơi. Ngồi xuống và mở đầu gối của bạn với chiều rộng của thắt lưng của bạn. Tạo khoảng trống với kích thước một vài nắm tay giữa hai đầu gối của bạn. Thẳng lên xương hông và cột sống của bạn, và hỗ trợ với bụng của bạn. Thư giãn cơ thể và vai trên của bạn. Ngồi xuống chính xác đầu tiên là vô cùng quan trọng. Hãy ngồi xuống định vị 45 độ cho koto. Một vị trí mà xương sống của bạn đi trên đường mở rộng từ rìa (ryukaku). Đây là vị trí phù hợp bạn ngồi xuống. Tiếp theo vươn tay qua koto một cách tự nhiên; lưu ý không vặn eo, không duỗi khuỷu tay. Và giữ vai của bạn theo chiều ngang. Khum bàn tay phải của bạn trong một vòng tròn và đặt bàn tay trái của bạn trên các dây đàn với các ngón tay với nhau. Khi bạn chơi một dây đàn xa bạn,không cúi đầu, nhưng uốn cong phần trên của cơ thể từ thắt lưng cho đến khi bàn tay của bạn đạt đến chuỗi tự nhiên. Ngồi thẳng và nâng đỡ phần thân trên của bạn với bụng và đùi của bạn. Khi bạn nhìn vào một cuốn sách âm nhạc, hãy chắc chắn nơi bạn đặt một giá đỡ sách dạy nhạc. Nếu bạn đặt chân đứng bên phải, cổ của bạn trở thành tư thế cong vẹo. Giữ đúng vị trí của bạn, thẳng mặt, Đặt tư thế đứng thẳng từ cái nhìn của bạn. Móng đàn koto đeo trong ngón tay cái, ngón trỏ và ngón giữa của bạn. Cong tay nhẹ nhàng theo vòng tròn. Đừng căng thẳng và làm cho nó dễ dàng. Nhấn và tỳ dây đàn xuống mặt đàn có cạnh chính xác, sau đó bạn sẽ tạo ra âm thanh tuyệt vời. Âm sắc koto và độ dày của âm phụ thuộc vào kỹ thuật chơi. Khi bắt đầu học, bạn chơi koto chủ yếu bằng ngón tay cái của bạn. Trước khi bắt đầu chơi Koto, bạn phải lên dây cho đàn. Để bắt đầu, 13 ngựa đàn (gọi là Ji) được đặt dưới từng dây đàn, sau đó người ta điều chỉnh chúng cho tới khi các dây đạt được chính xác những âm cơ bản. Cách chỉnh âm cơ bản phổ biến nhất của Koto là: mỗi dây có một tên riêng, bắt đầu từ dây trầm nhất, Ichi (1), Ni (2), San (3), Shi (4), Go (5), Roku (6), Shichi (7), Hachi (8), Ku (9), Jyu (10), To (11), I (12), Kin (13). Năm dây tương đương với một quãng tám. Các # hơi trầm hơn hệ âm của phương Tây. Nhẹ nhàng khum bàn tay của bạn trong một vòng tròn và đặt các ngón tay của bạn trên một dây với nhau. Đặt ngón tay thứ ba và nhỏ của bạn vào một dây và hỗ trợ nó. Cách chơi với ngón trỏ và ngón giữa của bạn: Khi bạn chơi với ngón trỏ và ngón giữa,khum chúng vào trong (bên trái của koto). Chơi bằng tay trái: Khi bạn thực hành kỹ năng oshide (để căng dây bằng tay trái để điều chỉnh hoặc thay đổi âm thanh),ngón tay trái của bạn có thể bị đau. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Theo truyền thống, gayageum được chơi khi ngồi trên sàn với hai chân bắt chéo, đầu đàn nằm trên đầu gối phải và đuôi đàn nằm trên sàn. Khi được chơi trong khi ngồi trên ghế hoặc ghế đẩu, đuôi đàn thường được đặt trên giá đỡ đặc biệt, tương tự như ngồi ghế. Đối với gayageum hiện đại, họ có thể được đặt trên một giá đỡ đặc biệt với người chơi ngồi trên một chiếc ghế phía sau đàn. Người CHDCND Triều Tiên thường chơi trong khi ngồi trên ghế nhưng họ không sử dụng giá đỡ ở đầu đuôi. Thay vào đó, gayageum có đôi chân có thể tháo rời được cố định vào cuối để nâng đuôi đủ cao. Gayageum được chơi bằng cả tay phải và tay trái. Tay phải gảy và búng dây gần cầu đàn của gayageum trong khi tay trái nhấn và tì dây xuống ở phía bên trái của con nhạn để nâng cao độ của đàn. Gayageum không dùng móng gẩy mà dùng phần đầu bụng ngón tay để gẩy. Ngày nay, kỹ thuật vê ngón trên dây đàn nhưng không cần dùng móng đàn, đòi hỏi nghệ sĩ cần nuôi móng tay dài mới có kỹ thuật vê ngón khi chơi đàn tranh gayageum. Kéo ngón tay của bạn về phía cơ thể của bạn hoặc đẩy ra khỏi nó trong khi cổ tay của bạn được nâng lên. Tay trái được sử dụng để gảy các dây theo trình tự, hoặc nó chỉ đơn giản là theo dây chỉ được chơi bởi tay phải. Các ngón đàn chơi gayageum gồm ngón búng (튕기기 Twingigi), ngón gẩy (집기 Jipgi), ngón nhấn (농현), lướt dây, ngón vê và ngón giật (뜯기 Tteutgi). Khi chơi gayageum, tay phải luôn nằm trên mặt đàn bên cạnh hyeonchim (thành đàn). Tay phải giả định vị trí ký hiệu OK. Ngón cái chưa thực sự chạm vào dây, nhưng việc gảy được thực hiện bằng ngón trỏ. Các ngón còn lại luôn nằm trên dây phía trên ngón trỏ. Sau khi gảy, bàn tay mở ra với lòng bàn tay hướng lên. Làm như vậy sẽ kéo dài âm thanh và cho phép nó cộng hưởng. Ngoài ra còn có một kỹ thuật khác là ngón búng, nhưng đó là dành cho người chơi thuần thục. Trong ngón búng, mặt trước của ngón trỏ được sử dụng để chơi dây, người học thuần thục cũng sẽ học cách sử dụng các ngón tay khác ngoài chỉ số để chơi gayageum. Tay trái được sử dụng để tạm thời thay đổi cường độ của dây khi cần. Chỉ số bên trái và ngón giữa là một ngón trỏ đến không gian ngón tay cái cách xa phía bên trái của con nhạn mọi lúc khi chơi gayageum. Khi cần, chỉ số bên trái và ngón giữa nhấn dây xuống trong khi dây được gảy bằng tay phải. Để chơi ngón rung (농현 nonghyeon), tỳ dây xuống bằng tay trái nhiều lần trong khi âm thanh vẫn vang. Để tạo tiếng nhấn luyến (정숭 jeongsung), tay phải gảy dây còn tay trái túm dây giật nhẹ lên. Các dây được đặt theo thứ tự điều chỉnh sau đây từ cao nhất, xa nhất, từ ​​người chơi đến cao nhất, dây gần nhất với người chơi đàn. Kỹ thuật tay phải Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng. Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau. Gảy bằng ngón trỏ: số “2” đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn. Ngón búng: số “0” được đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ “O”. Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ. Gảy bằng ngón tay cái: vị trí “1” phía trên nốt nhạc cho biết điều này. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn. Gảy song thanh: để tay ở vị trí “280 độ” phía trên mặt đàn gần cầu đàn; đây là lối gảy 2 đồng âm ở hai dây khác nhau. Kỹ thuật tay phải Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng. Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau. Gảy bằng ngón trỏ: vị trí số “2” đặt phía trên dây với mặt đàn. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn. Ngón búng: vị trí số “0” được đặt trên dây với mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ “O”. Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ. Gảy bằng ngón tay cái: vị trí “1” phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn. Búng hai dây: tại vị trí “280” phía trên mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo và hình chữ “O”. Gập ngón tay giữa của bạn sao cho đầu ngón tay ở vị trí thấp hơn một chút so với chiều cao của đầu ngón trỏ. Búng ngón giữa rồi đến ngón trỏ. Ngón giật: tại vị trí “2-1” phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn trên các dây ở hai bên của dây mục tiêu, di chuyển ngón trỏ của bạn xuống dây mục tiêu và dùng ngón tay cái nhấc nó lên rồi giật nhẹ lại Song thanh (gảy ngón cái & giữa): tại vị trí “1-3” của mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón giữa của bạn lên các dây đích và dùng ngón tay cái vuốt nhẹ trước rồi dùng ngón giữa kéo dây vào gần sát dây của ngón cái rồi thả tay ra. Geomungo Geomungo thường được chơi trong khi ngồi trên sàn nhà. Các dây đàn được gảy bằng một que tre ngắn gọi là suldae, được giữ giữa ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải, trong khi tay trái ấn vào dây bằng cách búng và tì dây để tạo ra nhiều nốt khác nhau. Kỹ thuật của đàn tranh geomungo gồm gảy que, đánh chồng âm và tay trái nhấn luyến dây. Điều chỉnh điển hình nhất của dây mở cho âm nhạc truyền thống Hàn Quốc là D # / Eb, G # / Ab, C, A # / Bb, A # / Bb và A # / Bb một quãng tám thấp hơn âm trung tâm. Nhạc cụ được chơi trong âm nhạc cung đình truyền thống của Hàn Quốc (jeongak) và phong cách dân gian của sanjo và sinawi. Cách chơi gồm: Ngón nhấn: (nhấn bằng gân tay: nhấn và miết dây đàn cho chùng lại bằng tay trái) ngón nhấn tạo cho hai âm nối liền nhau và sẽ trở thành âm luyến lặp lại nhiều lần, nghe mềm mại hơn. Gảy que: Tay phải cầm que búng lên dây đàn tuỳ vào lực độ vừa hay mạnh trong khi tay trái thao tác ngón nhấn. Tuỳ theo từng nhạc khúc mà khi nhấn nhạc công sẽ nhấn 1 dây hay túm 2 dây trong khi vẫn gảy 1 dây. Nhấn dây bằng tay trái giữa khoảng cách của dây đàn và các phím Đánh chồng âm: Dùng que gảy gảy liền hai dây với lực mạnh bằng tay phải. Do âm thanh gõ đặc trưng và kỹ thuật chơi mạnh mẽ của nó, nó được cho là một nhạc cụ trầm hơn so với đàn tranh gayageum 12 dây hoặc 25 dây; tuy nhiên, được chơi bởi cả người biểu diễn nam và nữ. Geomungo có một loạt các bài hát có thể chơi được và cũng có một loạt các giai điệu lớn. Những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở Đông Nam Á Mi gyaung Mi gyaung ( ) hay kyam (, ; đọc là "chyam") là một đàn zither ba dây với hình thù con cá sấu được đẽo từ gỗ, gảy với ba dây được sử dụng như một công cụ truyền thống ở Miến Điện. Nó gắn liền với người Môn. Thân đàn được làm bằng gỗ được chạm khắc ở mặt trên của "lưng con cá sấu gỗ" giống như một chiếc xuồng độc mộc. Nó có khoảng 13 con nhạn bằng gỗ được nâng lên theo chiều dọc thay vì cách đều nhau hoặc cách đều màu. Nó có đầu và đuôi cá sấu chạm khắc, cũng như bốn chân. Dây đàn của nó được điều chỉnh (từ thấp đến cao) FCF. Chuỗi thấp nhất được làm bằng đồng và hai chuỗi cao hơn được làm từ nylon. Nó được gảy bằng một plectrum hình que ngắn, thon đến một điểm, làm bằng sừng hoặc gỗ cứng. Không giống như đàn chakhe của Thái Lan, miếng gảy không được cầm vào ngón trỏ bên phải, mà thay vào đó chỉ đơn giản là cầm trong tay trái. Kỹ thuật vê ngón trên dây thường được sử dụng bởi tay phải. Nhạc cụ có âm thanh ù bởi vì dây được nâng lên khỏi con nhạn bằng một mảnh tre hoặc vật liệu mỏng khác như nhựa hay gỗ cứng. Chakhe Chakhe (, , cũng gọi là jakhe or ja-khe), hay cũng gọi là krapeu (; hoặc takhe, , takhe, takkhe hay charakhe) là đàn với ba dây được sử dụng trong âm nhạc Thái Lan và Khmer. Nhạc cụ tiếng Thái và tiếng Khmer gần như giống hệt nhau. Nó có hai loại, ở Campuchia thì krapeau được làm bằng gỗ cứng theo hình cá sấu cách điệu và cao khoảng 20 cm và dài 130 đùa132 cm, còn thiết kế của Thái Lan là hình dáng quả lê bổ dọc nằm ngang với cổ đàn dài. Phần "đầu" dài 52 cm, rộng 28 cm và sâu 9 trận12 cm; phần "đuôi" dài 81 cm và rộng 11,5 cm. Nó có mười một con nhạn (chakhe) hoặc mười hai con nhạn (krapeu) các phím đàn được làm bằng tre, ngà, xương hoặc gỗ; có chiều cao từ 2 đến 3,5 cm, được dán cố định vào khung bằng sáp hoặc keo. Hai dây cao nhất của nó được làm bằng sợi tơ tằm, chỉ y tế (catgut) hoặc nylon trong khi dây thấp nhất được làm bằng kim loại. Chúng được điều chỉnh với tone là C-G-c. Đàn thường được hỗ trợ bởi ba hoặc năm ở đáy làm chân đàn. 3 dây đàn mắc vào trục (chốt đàn) để lên dây. Kỹ thuật diễn tấu của chakhe hay krapeu tương tự như mi gyaung của Miến Điện. Kacapi Kacapi là loại đàn tương tự các loại đàn tranh Á Đông và zither phương Tây. Đây là loại đàn zither của người Sunda ở Indonesia, khu vực Java. Từ kacapi trong tiếng Sundan cũng dùng để chỉ cây sấu đỏ, từ đó ban đầu gỗ được sử dụng để chế tạo đàn này. Con nhạn của kacapi có dạng hình chóp. Theo hình dạng hoặc hình dạng vật lý của nó, có hai loại kacapi: Kacapi Parahu (Thuyền Kacapi) hoặc Kacapi Gelung; và Kacapi Parahu là một hộp cộng hưởng với cấu tạo hình thang cân để cho phép âm thanh phát ra. Các cạnh của loại kacapi này được làm thon dần từ trên xuống dưới, tạo cho thùng đàn có hình dạng giống như chiếc thuyền. Vào thời cổ đại, nó được làm trực tiếp từ gỗ nguyên khối bằng cách đục lỗ. Siter Kacapi là loại đàn zither 15 dây. Tương tự như Kacapi Parahu, lỗ của nó nằm ở phía dưới. Mặt trên và mặt dưới của nó tạo thành hình dạng giống hình thang cân. Đối với cả hai loại kacapi, mỗi dây được mắc vào con nhạn và Kacapi Parahu (dạng thuyền) có trục chốt ở phía trên bên phải của hộp. Chúng có thể được điều chỉnh trong các hệ thống khác nhau: pelog, sorog/madenda hoặc slendro. Ngày nay, hộp cộng hưởng của kacapi được tạo ra bằng cách dán sáu tấm gỗ cạnh nhau. Theo truyền thống, kacapi được chơi bằng cách ngồi khoanh chân trên sàn nhà. Do đó, khoảng cách các dây là khoảng 25 cm trên sàn. Ngày nay, kacapi đôi khi được đặt trên khung gỗ, để người chơi có thể ngồi trên ghế. Nếu kacapi indung được chơi khi đang ngồi trên sàn, thường là một cái gối hoặc một vật nhỏ khác được đặt bên dưới bàn tay trái của nó, như được nhìn thấy từ người chơi, để âm thanh có thể tự do thoát qua lỗ cộng hưởng ở dưới cùng của hộp âm nhạc. Một số kecapi được trang bị chân đế nhỏ, do đó không cần thiết phải nâng chúng theo cách này. Về âm thanh: hơi giống koto Nhật nhưng âm sắc thiên về zither phương Tây hay guitar. Người ta chơi kacapi gảy trực tiếp bằng đầu ngón tay chứ không đeo móng giả, tương tự như chơi đàn tranh gayageum Hàn Quốc. Cách lên dây của kacapi tương đương với âm sắc của các nhạc cụ Tây Nguyên ở Việt Nam: Sol – Si Do – Re – Fa# - Sol. Đàn KoTaMo KoTaMo là loại đàn zither gồm sự kết hợp của đàn tranh koto Nhật, tanputa (một nhạc cụ dây gảy cổ dài, có nguồn gốc từ Ấn Độ, được tìm thấy trong các hình thức khác nhau trong âm nhạc Ấn Độ. Nó không chơi giai điệu mà chỉ hỗ trợ và duy trì giai điệu của một nhạc cụ hoặc ca sĩ khác bằng cách cung cấp một bourdon hoặc drone hòa âm liên tục) và monochord (một nhạc cụ phòng thí nghiệm âm nhạc và khoa học cổ đại). Koto có các con nhạn di động và cho phép điều chỉnh ở nhiều quy mô khác nhau. Thông thường nó được điều chỉnh trong ngũ giác. Koto và tanpura đều được đặt ở một bên của nhạc cụ. Khi Kotamo được đặt thẳng đứng, có thể chơi cả hai bên một cách đồng thời. Một tay chơi với âm thanh Monochord, tay còn lại ứng biến trên dây của Koto và Tambura. Kotamo tổng cộng có 58 dây và 15 con nhạn của koto. Nếu không có con nhạn của koto, các dây đàn của KoTaMo chỉ toàn là đơn âm. Đàn Jetigen Jetigen (, , or dzhetigan or zhetygen) là một loại đàn zither có nhạn (ngựa đàn) của người Kazakhstan (có thể hiểu nôm na là đàn tranh của Kazakhstan). Loại jetigen cổ xưa nhất trông giống như chiếc hộp kéo dài rỗng ra từ mảnh gỗ với 7 dây và bảy con nhạn, lúc đầu dây của Jetigen bện từ lông đuôi ngựa nên về sau người ta thay bằng dây nylon hay dây thép. Mặt đàn của Jetigen trông giống như hộp gỗ dài rỗng. Jetigen không có hộp âm thanh và trục đàn. Các dây được kéo dài bằng tay từ phía bên ngoài của đàn. Sau đó, phần trên của Jetigen được phủ hộp âm thanh gỗ. Asyks (con nhạn) đã ra ngoài dưới mỗi dây từ hai bên và trước kia, nhạn của jetigen được làm từ xương động vật. Di chuyển chúng có thể điều chỉnh dây. Nếu các con nhạn (assyks) được kéo lại gần nhau thì giai điệu sẽ tăng lên và nếu tách ra thì giai điệu sẽ giảm xuống. Điều chỉnh dây đàn được thực hiện bởi các con nhạn và bằng cách di chuyển nó trên dây. Các nhạc cụ ban đầu có dạng một hộp hình chữ nhật, được chạm khắc từ gỗ, với các dây kéo dài trên đầu. Đàn Ognyugeum Đây là một trong những nhạc cụ đặc biệt của Bắc Triều Tiên. Người trẻ nhất cho đến nay, đàn zither Ongnyugeum được cho là đã được tạo ra vào năm 1973 theo yêu cầu của nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Chính Ân. Trong khi quy kết một sáng tác nhạc cụ từ một người đứng đầu nhà nước là nghi ngờ, có thể thấy rằng lãnh đạo Triều Tiên đã thấy những cải cách âm nhạc ra khỏi quốc gia. Ognyugeum có 32 hoặc 33 dây được sắp xếp trên một bảng âm hình thang. Người chơi ngồi ở vị trí hẹp của đàn và gảy bằng ngón tay. Cả hai điểm cuối bên phải và bên trái của dây được sắp xếp theo các đường cong s phù hợp. Một hàng nhạn cố định nằm ở bên trái của tay người chơi cho phép nhấn dây. Bảng âm có một lỗ âm thanh mở ở phía trên, hướng âm thanh lên trên, thay vì xuống như trên hầu hết các đàn zithers châu Á (đàn tranh) dài khác. Theo Hàn Quốc nhạc cụ bách khoa của Viện âm nhạc cổ điển quốc gia Hàn Quốc, ongnyugum được chơi bên ngoài Bắc Triều Tiên ở tỉnh Cát Lâm và ở Hàn Quốc; Các trang web video trực tuyến khác nhau và các cửa hàng tin tức đã ghi lại hiệu suất trong vài thập kỷ qua. Cuốn sách chính thức nhất của người Viking về thảo luận về Ognyugeum là cuốn sách Ognyugeum, xuất bản năm 1988; Có các bản sao trong các thư viện ở Los Angeles, New York và Boston, Hoa Kỳ. Tôi nói nó chính thức bởi vì nó được xuất bản ở Bắc Triều Tiên. Cách làm đàn tranh tự chế Không quá khó khi tạo ra chiếc đàn tranh của mình mà không quá đắt so với mua đàn ở cửa hàng nếu chi phí hay kinh tế của bạn không đủ, hãy lấy một tấm gỗ chữ nhật dài, sau đó lấy búa đóng những chiếc đinh lên phần đầu và phần cuối của mặt ván (tùy theo kích thước của ván gỗ). Sau đó mắc dây lên đinh và buộc chặt dây (sử dụng dây từ sợi nilon loại dày để tránh bị đứt, hoặc dùng dây cước càng tốt). Sau đó bạn chỉ cần mua bộ con nhạn đàn tranh rồi xếp lên ván gỗ để mắc dây là xong. Nếu như bạn không đủ tiền mua con nhạn, bạn cũng có thể dùng cành cây gỗ cứng (cành to), đẽo thành hình chiếc kìm chữ A. Hoặc dùng những miếng gỗ hình lập phương kích cỡ khác nhau làm con nhạn mắc dây đàn tùy bạn. Bạn chẳng phải là nghệ nhân hay nhà sản xuất đàn tranh mà cũng tự làm cho mình cây đàn không hề tốn phí quá nhiều tiền. Tác phẩm tiêu biểu của Đàn Tranh (Việt Nam) - Sang Xuân - St Phương Bảo - Bình Minh Trên Rẻo Cao - St Phương Bảo - Biển - St Phương Bảo - Tình Ca Đất Bắc - St Phạm Thúy Hoan - Tình Ca Xứ Huế - St Phạm Thúy Hoan - Tình Ca Miền Nam - St Phạm Thúy Hoan - Mùa Thu Quê Hương - St Phạm Thúy Hoan - Mơ Về Bến Ngự - St Phạm Thúy Hoan - Xuân Quê Hương - St Xuân Khải - Hương Sen Đồng Tháp - St Xuân Khải - Rặng Tre Trước Gió - St Trần Chính - Cảm Xúc Tây Nguyên - St Ngô Bích Vượng - Mưa Chiều - St Bùi Thiên Hoàng Quân - Khúc Ngẫu Hứng Trên Hò Đồng Tháp - St Đặng Kim Hiền - Gió Xuân (Sonate) - St Nguyễn Văn Đời - Quê Tôi Giải Phóng (Concerto) - St Quang Hải - Đất và Hoa (Concerto) - St Quang Hải
Tam thập lục - hay còn có tên gọi khác như Dương cầm là một trong những loại nhạc cụ truyền thống hình thang, thuộc bộ gõ dây nằm trong cơ cấu dàn nhạc dân tộc Việt Nam, đựoc du nhập từ phương Tây vào các nước trong khu vực Châu Á và cải biến cấu tạo, kích thước cũng như sắp xếp hệ thống dây đàn, âm vực phù hợp với cách chơi và truyền thống mỗi nước. Về cơ bản đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục. Tuy nhiên ngày nay, đàn đã được cải tiến mở rộng âm vực bằng cách chế tác tăng kích thước hộp đàn - mặt đàn, mắc thêm dây, mở rộng từ 3,5 tới 4 quãng 8. Nguyên bản đàn Tam Thập Lục Việt Nam được du nhập và cải tiến từ đàn Yangqin Trung Quốc, tên gọi gốc cổ theo ký tự chữ tiếng Hán là Dương cầm (揚琴), hoặc theo tiếng Hán - Hàn là Yanggeum (양금 - cũng là duơng cầm) được hiểu theo nghĩa của Hán Việt là âm nhạc của sự tán dương, hoan nghênh. Không nên nhầm lẫn với dương cầm - tức đàn piano của phương Tây. Nguồn gốc Đàn Tam Thập Lục của Việt Nam cũng như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và đa số các nước trong khu vực Châu Á có chiều dài lịch sử bắt nguồn từ Ba Tư. Nguyên gốc có tên là santur được chế tác vào khoảng thể kỷ thứ XII. Đến khoảng thế kỷ XVIII, santur bắt đầu được du nhập vào Triều Tiên, Trung Hoa và Đông Nam Á. Vào thời nhà Minh, đàn Santur tràn vào Trung Quốc và trở nên phổ biến ở Trung Quốc (sau này nó dần dần phát triển thành một loại nhạc cụ truyền thống được gọi là Dương cầm), từng được chơi ở cung đình trong các bài nhạc lễ Nho giáo, ngày nay Dương cầm (tam thập lục Trung Quốc) đều có thể chơi hầu hết các bản nhạc. Đàn Tam Thập Lục bắt đầu du nhập vào Việt Nam trong khoảng thập niên 60 qua cộng đồng người Hoa ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn. Nhạc cụ này khá phổ biến ở các quốc gia trong khu vực Trung Á và cũng rất phổ biến ở các quốc gia phương Tây thời Trung cổ cho đến ngày nay. Với mỗi quốc gia đàn có tên gọi khác nhau: Ba Tư, Syria & Ả Rập: Santũr, Santari, Santuri, Santir, Suntur, Santouri, Sandouri, Santoor Trung Quốc: Yangqin (giản thể:扬琴/phồn thể:揚琴 hoặc 洋琴; bính âm: yáng qín), dịch nghĩa chữ Hán là dương cầm. Mông Cổ: Yoochir Triều Tiên: Yanggeum (양금) Thái Lan: Khim (ขิม) Campuchia: Khum (ឃឹម) Ấn Độ: Santoor (সন্তুর) Anh, Hoa Kỳ: Hammered Dulcimer Các quốc gia phương Tây: Cimbalom, Cimbál, Cymbalom, Cymbalum, Tambal, Tsymbaly v.v… Cấu tạo và cách chơi Đàn Tam Thập Lục có khả năng độc tấu, hòa tấu và đệm rất phong phú nhưng ban đầu đàn ít phổ biến trong cộng đồng Việt Nam vì cấu tạo to, nặng và quá trình học tập rèn luyện lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì cũng như độ chăm chỉ cao mới có thể chơi thuần thục. Phần lớn chỉ thấy đàn được ứng dụng trong những nhà hát, dàn nhạc truyền thống chuyên nghiệp nhưng số lượng cũng không nhiều. Tuy nhiên ngày nay đàn cũng đã phát triển nhiều hơn và số lượng nghệ sĩ chơi đàn cũng dần tăng lên vì sự thú vị và đặc biệt của cây đàn này. Đàn tam thập lục có hình thang cân, mặt đàn làm bằng gỗ mềm, hơi phồng lên theo đường vòng cung ở giữa, mặt đáy phẳng. Trên mặt đàn có đặt 2 hàng cầu (hay còn gọi là ngựa đàn) được sắp xếp dàn đều 2 bên dựa theo hình thang của khung đàn và có sự so le nhau để thuận tiện mắc dây. Khung thành đàn làm bằng gỗ cứng. Bên phải là hàng trục vừa để mắc dây và có thể xoay để căng dây theo cao độ, bên trái là hàng mắc gốc dây. Các dây đàn đều được làm bằng kim loại và có độ dài và độ dày- mảnh trải dần đều từ khu âm vực thấp tới cao. Mỗi một nốt trung bình mắc 3 dây. - Quãng trầm: Ngoài lõi dây kim loại cơ bản thì bên ngoài bọc xoắn vòng theo dạng lò xo chặt chẽ, tạo nên âm thanh bass dày, rền, ấm và vang, cho cảm giác hào hùng, mạnh mẽ - Quãng trung: Từ nốt đô tới nốt sol vẫn sử dụng loại dây có bọc nhưng mảnh hơn quãng trầm, từ nốt la trở lên dùng dây kim loại trần tạ nên tiếng đàn đầy đặn, trong trẻo - Quãng cao: sử dụng hoàn toàn dây kim loại trần, âm thanh sắc, gon, đanh và cứng cáp Dây đàn được mắc nối vào 2 bên trục, bắt so le qua cầu ngựa và qua "con lăn" - một miếng kim loại nhỏ được cắt mài theo dạng hình trụ cầu có thể lăn qua lăn lại để hỗ trợ điều chỉnh cao độ một cách nhanh chóng. Que đàn đựoc làm bằng tre vót nhỏ, đầu que đựoc thiết kế gắn một miếng gỗ nhỏ hình dạng như một nửa hình bầu dục, bọc thun hoặc miếng cao su. Khi biểu diễn, người nghệ sĩ dùng 2 đầu que gõ vào dây đàn tạo ra các âm thanh với những kỹ thuật như: đánh đơn, đánh chồng âm - hòa âm, nẩy âm, vê, bịt tiếng, gẩy đuôi que...
Học có giám sát là một kĩ thuật của ngành học máy để xây dựng một hàm (function) từ dữ liệu huấn luyện. Dữ liệu huấn luyện bao gồm các cặp gồm đối tượng đầu vào (thường dạng vec-tơ), và đầu ra mong muốn. Đầu ra của một hàm có thể là một giá trị liên tục (gọi là hồi qui), hay có thể là dự đoán một nhãn phân loại cho một đối tượng đầu vào (gọi là phân loại). Nhiệm vụ của chương trình học có giám sát là dự đoán giá trị của hàm cho một đối tượng bất kì là đầu vào hợp lệ, sau khi đã xem xét một số ví dụ huấn luyện (nghĩa là, các cặp đầu vào và đầu ra tương ứng). Để đạt được điều này, chương trình học phải tổng quát hóa từ các dữ liệu sẵn có để dự đoán được những tình huống chưa gặp phải theo một cách "hợp lý" (xem thiên kiến quy nạp - inductive bias). (So sánh với học không có giám sát.) Học có giám sát có thể tạo ra hai loại mô hình. Phổ biến nhất, học có giám sát tạo ra một mô hình toàn cục (global model) để ánh xạ đối tượng đầu vào đến đầu ra mong muốn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc ánh xạ được thực hiện dưới dạng một tập các mô hình cục bộ (như trong phương pháp lập luận theo tình huống (case-based reasoning) hay giải thuật láng giềng gần nhất). Để có thể giải quyết một bài toán nào đó của học có giám sát (ví dụ: học để nhận dạng chữ viết tay) người ta phải xem xét nhiều bước khác nhau: Xác định loại của các ví dụ huấn luyện. Trước khi làm bất cứ điều gì, người kĩ sư nên quyết định loại dữ liệu nào sẽ được sử dụng làm ví dụ. Chẳng hạn, đó có thể là một ký tự viết tay đơn lẻ, toàn bộ một từ viết tay, hay toàn bộ một dòng chữ viết tay. Thu thập tập huấn luyện. Tập huấn luyện cần đặc trưng cho thực tế sử dụng của hàm chức năng. Vì thế, một tập các đối tượng đầu vào được thu thập và đầu ra tương ứng được thu thập, hoặc từ các chuyên gia hoặc từ việc đo đạc tính toán. Xác định việc biểu diễn các đặc trưng đầu vào cho hàm chức năng cần tìm. Sự chính xác của hàm chức năng phụ thuộc lớn vào cách các đối tượng đầu vào được biểu diễn. Thông thường, đối tượng đầu vào được chuyển đổi thành một vec-tơ đặc trưng, chứa một số các đặc trưng nhằm mô tả cho đối tượng đó. Số lượng các đặc trưng không nên quá lớn, do sự bùng nổ tổ hợp (curse of dimensionality); nhưng phải đủ lớn để dự đoán chính xác đầu ra. Xác định cấu trúc của hàm chức năng cần tìm và giải thuật học tương ứng. Ví dụ, người kĩ sư có thể lựa chọn việc sử dụng mạng nơ-ron nhân tạo hay cây quyết định. Hoàn thiện thiết kế. Người kĩ sư sẽ chạy giải thuật học từ tập huấn luyện thu thập được. Các tham số của giải thuật học có thể được điều chỉnh bằng cách tối ưu hóa hiệu năng trên một tập con (gọi là tập kiểm chứng -validation set) của tập huấn luyện, hay thông qua kiểm chứng chéo (cross-validation). Sau khi học và điều chỉnh tham số, hiệu năng của giải thuật có thể được đo đạc trên một tập kiểm tra độc lập với tập huấn luyện. Cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm Mục tiêu của việc học có giám sát một mô hình toàn cục là tìm ra một hàm g, khi cho sẵn một tập các điểm có dạng (x, g(x)). Giả thiết rằng đã biết trước đặc điểm của hàm g đối với một tập điểm. Tập điểm đó đã được lấy mẫu độc lập và có cùng phân bố (independent and identically distributed (i.i.d.)) theo một xác suất phân bố p chưa biết từ một tập lớn hơn và có thể vô hạn. Ngoài ra, giả sử tồn tại một hàm hàm tổn thất (loss function) theo tác vụ L có dạng: trong đó Y là trùng với miền xác định của g và L ánh xạ tới các số thực không âm (có thể đặt thêm hạn chế cho L). Giá trị L(z, y) là tổn thất nảy sinh khi đoán giá trị của g tại một điểm cho trước là z trong khi giá trị thực của nó là y. Hàm rủi ro f được định nghĩa là giá trị kỳ vọng của hàm tổn thất và có công thức như sau: nếu xác suất phân bố p là rời rạc (trường hợp xác suất phân bố liên tục cần một tích phân xác định (definite integral) và một hàm mật độ xác suất. Mục tiêu là tìm một hàm f* trong số một lớp con cố định các hàm để cho rủi ro R(f*) là cực tiểu. Tuy nhiên, do thường chỉ biết được đặc điểm của hàm g cho một tập hữu hạn điểm (x1, y1),..., (xn, yn), người ta chỉ có thể xác định gần đúng rủi ro thực sự, ví dụ, với rủi ro kinh nghiệm (empirical risk): Nguyên lý của cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm là chọn hàm f* sao cho rủi ro kinh nghiệm là nhỏ nhất. Lý thuyết học bằng thống kê tìm hiểu xem việc cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm có thể đạt được trong những điều kiện nào và có thể trông đợi các tính toán xấp xỉ tốt đến đâu. Hướng tiếp cận và giải thuật học bằng phân tích (analytical learning) mạng nơ-ron nhân tạo Instantaneously trained neural networks kỹ thuật lan truyền ngược (backpropagation) boosting thống kê Bayes lập luận theo tình huống (case-based reasoning) học cây quyết định inductive logic programming hồi quy Gauss (Gaussian process regression) learning automata theory Minimum message length (cây quyết định, đồ thị quyết định, v.v.) naive Bayes classifier thuật toán láng giềng gần nhất probably approximately correct learning (PAC) learning symbolic machine learning algorithms subsymbolic machine learning algorithms support vector machines Random Forests Ứng dụng Tin sinh học Nhận dạng chữ viết tay Thu thập thông tin (information retrieval) Nhận dạng đối tượng trong computer vision Nhận dạng ký tự quang học Phát hiện spam Nhận dạng mẫu Nhận dạng tiếng nói Vấn đề chung computational learning theory (ngành toán học liên quan đến việc phân tích các thuật toán học máy) thiên kiến quy nạp (inductive bias) overfitting (hàm học được quá thích nghi với tập huấn luyện) version space