text
stringlengths 0
512k
|
---|
Lê Khả Phiêu (27 tháng 12 năm 1931 – 7 tháng 8 năm 2020) là một cố chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001. Ông cũng từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, Trưởng Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương. Ông cũng đồng thời là một tướng lĩnh, từng giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xuất thân và binh nghiệp
Lê Khả Phiêu sinh ngày 27 tháng 12 năm 1931 ở làng Thạch Khê Thượng, xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Năm 1945, ông tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 19 tháng 6 năm 1949. Ngày 1 tháng 5 năm 1950, Lê Khả Phiêu được tổ chức Việt Minh điều động gia nhập quân đội. Ông bắt đầu trưởng thành từ một binh nhì thăng tiến dần đến chức vụ Chính trị viên Đại đội thuộc Trung đoàn 66 Đại đoàn 304. Từ tháng 9 năm 1954 đến năm 1958, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó chính trị viên, Chính trị viên tiểu đoàn rồi Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 66.
Từ tháng 6 năm 1961 đến năm 1966, ông lần lượt giữ chức vụ Phó trưởng ban, Trưởng ban Cán bộ tổ chức Sư đoàn 304, sau đó là Phó chính ủy, rồi Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, Sư đoàn 304.
Năm 1967, Lê Khả Phiêu được điều động cùng Trung đoàn 9 vào chiến trường Trị Thiên, làm Chính ủy Trung đoàn. Năm 1968, ông làm Trưởng phòng Tổ chức Quân khu Trị Thiên. Đến năm 1970, là Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên.
Tháng 5 năm 1974, khi Quân đoàn 2 được thành lập, ông được cử giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị Quân đoàn, hàm Thượng tá.
Năm 1978, Lê Khả Phiêu là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 9, hàm Đại tá. Đồng thời ông cũng kiêm nhiệm một chức vụ dân sự là Phó Bí thư Khu ủy Khu IX.
Tháng 4 năm 1984, Lê Khả Phiêu được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức vụ Chủ nhiệm chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị, Phó Bí thư Ban Cán sự Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (mật danh Mặt trận 719).
Tháng 8 năm 1988, sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, ông được thăng hàm Trung tướng và được điều về làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 9 năm 1991, Lê Khả Phiêu là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1992, ông được phong quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp chính trị
Tháng 6 năm 1991 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Lê Khả Phiêu được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Về phía quân đội, ông giữ chức Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tháng 6 năm 1992 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 của Đảng, Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII bầu vào Bộ Chính trị.
Tháng 4 năm 1996 Lê Khả Phiêu được phân công làm Thường trực Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thay Nguyễn Hà Phan bị kỷ luật.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996), ông được bầu làm Uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương.
Tổng Bí thư (1997-2001)
Ngày 26 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Lê Khả Phiêu được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, không lâu sau khi Đỗ Mười quyết định hưu trí. Cùng ngày, ông cũng là Bí thư Quân ủy Trung ương (Việt Nam). Trong nhiệm kỳ Tổng bí thư ông thực hiện chiến dịch chống tham nhũng và xây dựng chỉnh đốn lại Đảng. Ông là Tổng bí thư đầu tiên đón tiếp một Tổng thống Hoa Kỳ (Tổng thống Bill Clinton). Sau thời ông, chế độ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị bãi bỏ. Khi đang trong giai đoạn đỉnh cao sự nghiệp chính trị, ông bất ngờ xin từ chức trước Đại hội IX của Đảng vào ngày 22 tháng 4 năm 2001.
Nghỉ hưu và qua đời
Nghỉ hưu
Tháng 10 năm 2006, ông chính thức nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi nghỉ hưu ông ít can thiệp vào chính trị mà thường đi đến các địa phương tham gia các hoạt động xã hội. Vào năm 2004, ông đến thăm bệnh viện bệnh viện Đa khoa Hợp Lực. Năm 2007, ông được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trao tặng Huân chương Sao Vàng. Năm 2014, ông nhận được huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và 70 năm tuổi Đảng vào năm 2019.
Qua đời
Sau một thời gian lâm bệnh, ông qua đời vào lúc 02:52, ngày 7 tháng 8 năm 2020 tại nhà riêng số 7/36/C1 Lý Nam Đế, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng được biết, tang lễ dành cho nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sẽ được tổ chức theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày, 14 và 15 tháng 8 năm 2020. Lễ viếng của ông được tổ chức tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội bắt đầu từ 08:00, ngày 14 tháng 8 năm 2020 đến 12:00, ngày 15 tháng 8 năm 2020. Lễ truy điệu được tổ chức vào 12:30, ngày 15 tháng 8 năm 2020 tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Cùng thời gian này tại Hội trường Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hội trường 25B, đường Quang Trung, Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cũng tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu.
Theo di nguyện của Lê Khả Phiêu, sau khi mất, ông muốn được rải tro cốt xuống ba dòng sông đã gắn liền kỉ niệm với cuộc đời ông nhưng do dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nên gia đình cũng không muốn kéo dài thời gian tang lễ. Theo một người thân trong gia đình Lê Khả Phiêu chia sẻ, ba con sông đó là sông Mã, sông Hồng và sông Cửu Long. Vào 14:00 cùng ngày, linh cữu của ông được đưa về Nghĩa trang Mai Dịch để an táng với khu vực là tại vị trí thứ tư (cạnh mộ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương), bên phải (từ cổng nghĩa trang hướng vào sân chính).
Gia đình
Vợ của Lê Khả Phiêu tên là Nguyễn Thị Bích (1935-2022). Ông và người vợ có hai người con. Con trai ông tên là Lê Minh Diễn là người đã thay mặt người nhà đọc lời cảm tạ trong lễ truy điệu của cha vào ngày 15 tháng 8 năm 2020.
Di sản và đánh giá
Chính sách chống tham nhũng và chỉnh đốn xây dựng lại Đảng của ông đã đặt nền móng cho công cuộc chống tham nhũng của Việt Nam mà hiện nay Tổng bí thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng đang tiếp tục, ông Cù Huy Hà Vũ nhận xét. Ông được đánh giá là người sát với thực tế khi còn là Tổng bí thư và là người rất tận tình và chu đáo, ông Phan Diễn (nguyên Bí thư Thường trực Ban Bí thư) khi nói về Lê Khả Phiêu. Ông được ca ngợi là một người Cộng sản chân chính, cống hiến hết mình cho nước nhà và cho quân đội.
Tặng thưởng
50x50px Huân chương Sao vàng (2007).
50x50px Huân chương Quân công hạng Nhất.
Huân chương Quân công hạng Nhì.
50x50px Huân chương Quân công hạng Ba.
50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
Huân chương Chiến thắng hạng Ba.
50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhì.
50x50px Huân chương Chiến công hạng Ba.
50x50px Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
50x50px Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Huân chương José Martí của Cộng hòa Cuba.
50x50px Huân chương Tự do hạng Nhất của CHDCND Lào.
Huân chương Chiến công Cách mạng của CHDCND Lào.
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc Hạng Nhất của Vương quốc Campuchia.
Kỉ niệm chương vì sự nghiệp Quốc tế.
Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng (trao ngày 30 tháng 9 năm 2014).
Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam (trao ngày 25 tháng 8 năm 2019).
Lịch sử thụ phong quân hàm
Chú thích |
Truyện thần thoại Việt Nam là tập hợp những truyện dân gian kể về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người, muôn loài. VD: Cóc kiện trời là một trong những truyện tiêu biểu của thể loại Thần thoại Việt Nam
Truyện thần thoại Việt Nam
Truyện thần thoại Việt Nam là thể loại tự sự viết bằng văn xuôi, kể lại sự tích các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức, cách hình dung của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người. Có thể nói truyện thần thoại được xây dựng bằng những hình ảnh, chi tiết không có thực mà chỉ là hư ảo do con người tưởng ra dựa trên quan niệm về sự tiến hóa loài người mà sau này chỉ có các nhà khoa học mới giải thích được. Đó là những quan niệm theo lối duy vật từ thời xa xưa khi bắt đầu có loài người trên Trái Đất. Nhằm phản ánh quá trình sáng tạo văn học con người thời cổ đại.
Phân loại
Thần thoại Việt Nam có thể phân ra thành các nhóm chính sau đây
Về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên: Thần trụ trời, Ông Trời, Nữ thần Mặt Trăng, Thần Mặt trời, Thần Mưa...
Về nguồn gốc các loài động thực vật: Cuộc tu bổ các giống vật, Thần Lúa.
Về nguồn gốc con người và nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam: Ông Trời, Thần Nông, Mười hai bà mụ, Nữ Oa-Tứ Tượng, Lạc Long Quân - Âu Cơ...
Về các anh hùng thời khuyết sử, các anh hùng văn hóa, tổ sư các nghề: Sơn Tinh-Thủy Tinh, Nữ thần nghề mộc, Thạch Sanh, Thánh Gióng...
Thần thoại Việt bị truyền thuyết hóa: Truyền thuyết vua Hùng...
Thần thoại còn biến tướng trong Phật thoại, Tiên thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn và cả truyện cười: Cóc kiện Trời, Chử Đồng Tử... hoặc mang dấu ấn của xã hội nguyên thủy như Trầu Cau, Hòn Vọng Phu, Sao Hôm Sao Mai...
Bàn luận
Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt. Nhà nghiên cứu người Nga M.N. Tkachốp đã có nhận xét xác đáng rằng: "Những quan điểm thần linh siêu nhiên được cho là tư duy truyền thống của người Việt Nam từ thời xa xưa và được bắt nguồn chính từ thần thoại. Những lời giải cho sự "kì lạ" không phải là quá hiếm hoi, và đã nằm trong những hoàn cảnh đã tạo nên nó. Một người Việt Nam dù sinh ra trong gia đình làm nghề cày ruộng hay một gia đình quý tộc thì từ tấm bé đều biết ánh sáng loé lên của tia chớp và tiếng sấm là dấu hiệu thần Sấm đang đến, vung lưỡi tầm sét của mình để thực hiện ý muốn của ông Trời trừng phạt một kẻ nào đó phạm tội ác. Anh ta biết rằng cơn gió mát mẻ và trận cuồng phong dữ dội là do bởi chiếc quạt lông của thần Gió cụt đầu mà ra, còn con rồng khổng lồ đang dồn đuổi đám mây mưa trên bầu trời chính là thần Mưa. Còn nếu ông Thần Nông xuất hiện trong giấc mơ của ai đó một cách vui vẻ thì có nghĩa là mùa màng thất bát đang đón chờ anh ta, còn nếu thần xuất hiện trong bộ dạng phờ phạc thì là sự báo trước một mùa màng bội thu... Trong mỗi dòng sông, trong những cánh rừng rậm và hang núi, đang sống những vị thần mà mọi người đều biết rõ tập tục và thói quen của họ." |
Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
Dựa theo nội dung truyền thuyết Việt Nam có thể chia theo các thời kì sau:
Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang: mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các truyền thuyết tiêu biểu của thời kỳ này là Lạc Long Quân-Âu Cơ, Sơn Tinh-Thủy Tinh, Thánh Gióng, Thánh Hùng Linh Công, Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám...
Thời kỳ Âu Lạc và Bắc thuộc: Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257 TCN-208 TCN). Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ (207 TCN-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết tiêu biểu của thời Âu Lạc là truyện An Dương Vương, kết cấu gồm hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại. Các truyền thuyết phản ánh các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc thuộc là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí...
Thời kỳ phong kiến tự chủ: Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam xây dựng một quốc gia thống nhất, củng cố nền độc lập dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX là sự suy sụp của các triều đại phong kiến. Các truyền thuyết của thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây:
Anh hùng chống ngoại xâm: Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi...
Danh nhân văn hóa: Chu Văn An, Trạng Trình...
Lịch sử địa danh: Sự tích Hồ Gươm, Sự tích Núi Ngũ Hành...
Anh hùng nông dân: Chàng Lía, Quận He, Ba Vành...
Anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ: Chàng Lía, Lê Văn Khôi...
GS. Lê Chí Quế đã đưa ra một số đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết dân gian như sau:
Truyền thuyết dân gian được xây dựng trên cơ sở một cốt lõi lịch sử và được chắp thêm đôi cánh "thơ và mộng" nghĩa là sự hư cấu hoang đường. Yếu tố hoang đường trong truyền thuyết mang tính chất thi vị, làm tăng vẻ đẹp, sự oai hùng của nhân vật mà nhân dân kính trọng. Mặt khác nó còn biểu hiện sự rơi rớt của tín ngưỡng dân gian thời nguyên thủy và sự xâm nhập của những yếu tố tôn giáo sau này (Phật, Đạo).
Nếu như thời gian trong thần thoại là buổi hồng hoang, khi trời đất chưa phân chia, con người chưa đông đúc, thời gian trong truyện cổ tích là thời quá khứ phiếm định "ngày xửa, ngày xưa", thì thời gian trong truyền thuyết là thời gian quá khứ - xác định. Truyền thuyết nào cũng kể về chuyện đã xảy ra rồi và vào một thời kỳ lịch sử nhất định nào đó (Vào thời đại Hùng Vương, cách đây 4000 năm, vào thời An Dương Vương cách đây trên 2000 năm, vào thời Hai Bà Trưng thế kỷ thứ I, Bà Triệu thế kỷ thứ III, Lê Lợi thế kỷ thứ XV...). Tuy nhiên thật khó mà đoán định khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian sáng tạo tác phẩm.
Kết cấu của truyền thuyết gần giống kết cấu của thần thoại, cổ tích là kết cấu trực tuyến, không có đồng hiện và sự quay trở lại. Sự việc trong truyền thuyết không đầy đủ chi tiết như trong sử biên niên. Phần giới thiệu lai lịch nhân vật và kết cục cuộc đời thường được hư cấu kỳ diệu: Đinh Bộ Lĩnh là con của Rái Cá, Bà Trưng mất một cách đột ngột sau đêm ngủ say và hồn bay lên trời làm phúc thần, tạo nên mưa thuận gió hòa cho hạ giới.
Truyền thuyết thường gắn với các di tích vật chất (gò, đồi, sông, suối...), các di tích văn hóa (đền thờ, tháp, chùa, tượng...) các phong tục và lễ hội (hội Dóng, hội Kiếp bạc, giỗ trận Đống Đa...) |
Truyện cười Việt Nam (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước. Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán.
Tiếng cười tán thưởng biểu thị niềm vui, sự yêu mến. Tiếng cười phê phán biểu thị sự khinh ghét, sự phủ nhận.Tiếng cười phê phán là cái cười trong truyện cười. Cái cười phát ra từ cái đáng cười. Cái đáng cười chứa đựng cái hài hiểu theo nghĩa triết học, nghĩa là có mâu thuẫn bên trong. Đó là mâu thuẫn giữa cái xấu và cái đẹp, giữa hình tượng và ý niệm, giữa sinh động và máy móc.
Nội dung
Nội dung của truyện cười có các mục đích:
Mua vui giải trí: nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song nó cũng có tính chất phê phán nhẹ nhàng những thói xấu của người bình dân, những lầm lẫn, hớ hênh, những tình huống trớ trêu: (Tay ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp nhau...) như các giai thoại về Bác Ba Phi
Phê bình giáo dục: phê bình thói hư tật xấu của người chung quanh trong xã hội đương thời: Hội sợ vợ, Lợn cưới áo mới, Sợ quá nói liều...
Đả kích: vạch trần cái ác, cái xấu có tính bản chất của giai cấp thống trị, lãnh đạo. Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan chức đến địa chủ cường hào, thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang, nhà giàu mới, ông bà chủ, sếp... (Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô... boong, Thầy đồ liếm mật, Chỉ có một con ma...). Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là truyện Trạng Quỳnh, truyện ông Ó), Ba Giai Tú Xuất,...
Phân loại
Theo tiêu chí kết cấu thì truyện cười có 2 nhóm lớn:
Truyện cười kết chuỗi:
Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán (Trạng Lợn)
Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là người được ca ngợi, thán phục, đã dũng cảm, mưu trí đấu tranh chống cái xấu, cái ác (Trạng Quỳnh).
Truyện cười không kết chuỗi:
Truyện khôi hài (giải trí là chủ yếu),
Truyện trào phúng (phê phán là chủ yếu), và
Truyện tiếu lâm (có yếu tố tục).
Một số truyện cười Việt Nam
Thầy bói xem voi
Tam đại con gà
Lợn cưới, áo mới
Đi chợ
Nhưng nó phải bằng hai mày
Treo biển
Mua kính |
Truyện ngụ ngôn là truyện kể có thể kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính chất đối nhân xử thế, dùng cách ẩn dụ hoặc nhân hóa loài vật, con vật hay kể cả con người để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội hay những thói hư tật xấu của con người. Có một số truyện ngụ ngôn gây cười nhưng cũng ngụ ý bóng gió, kín đáo khuyên nhủ, răn dạy con người.
Trong quá trình sống gần gũi với tự nhiên và chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên, người cổ đại đã từng quan sát, tìm hiểu các con vật để dễ săn bắt và tự vệ. Khi con người có ý thức mượn truyện loài vật để nói về con người thì truyện ngụ ngôn xuất hiện.
Nội dung truyện ngụ ngôn Việt Nam thường bao gồm các điểm sau:
Đả kích (giai cấp thống trị): đó là thói ngang ngược, đạo đức giả của kẻ quyền thế (Khi chúa sơn lâm ngọa bệnh, Chèo bẻo và ác là, Mèo ăn chay...)
Phê phán thói hư tật xấu của con người: thói huênh hoang đi kèm với bệnh chủ quan, tính tham lam, thói đoán mò (Ếch ngồi đáy giếng, Người nông dân và con lừa, Thả mồi bắt bóng, Cà cuống với người tịt mũi, Thầy bói xem voi...)
Nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống: tuy chưa là ý niệm triết học đích thực nhưng là những bài học bổ ích, khuyên con người nên đứng đúng vị trí của mình, sống cần có lập trường, nêu lên sức mạnh của sự đoàn kết, tác hại của óc xa rời thực tế (Quạ mặc lông công, Đẽo cày giữa đường, Chị bán nồi đất, Chuyện bó đũa, Mèo lại hoàn mèo, Ếch ngồi đáy giếng...)
Ví dụ: Trí khôn,…
Các kiểu truyện ngụ ngôn đều có liên quan đến các động vật, những thói sống của con người được khắc hoạ trên truyện ngụ ngôn. Những truyện ngụ ngôn điều mang tính chất và ý nghĩa khác nhau nhưng mấu chốt là giúp con người hiểu ra những bản chất tốt đẹp(hoặc bẩn thỉu) của con người trong hơn triệu năm tiến hóa và phát triển tạo ra.NHững tác giả Việt Nam đã rất tinh tế khi đưa những tính cách vào động vật giống tính cách nó nhất trong dân gian (Ví Dụ: con cáo thì lưu manh, xảo quyệt,...). |
Vè là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Theo Đại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè là việc đặt chuyện khen chê có ca vần. Định nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè.
Vấn đề vè có từ bao giờ chưa thể khẳng định dứt khoát. Đại thể, vè đã nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến, phát triển nhất trong các thế kỷ 18 - 20. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian.
Hình thức
Vè được sáng tác bằng văn vần, sử dụng nhiều hình thức khác nhau: câu bốn chữ, năm chữ, lục bát, hát giặm, nói lối. Có vè đồng dao, là những bài hát của trẻ em. Có vè thế sự, về người thật việc thật, phản ánh, bình luận những câu chuyện thời sự địa phương, những truyện đồi phong bại tục, những chuyện áp bức bóc lột của cường hào địa chủ và đời sống khổ cực của dân nghèo trong làng xóm. Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
Nội dung
Đa số bài vè phản ánh hiện thực ở từng địa phương nhất định, bộc lộ rõ thái độ của người dân trước những sự việc, sự kiện đó. Ngoài ra có những bài vè có thể phổ biến rộng rãi ở nhiều địa phương, đôi khi toàn quốc. ‘‘Vè Cầu Ngói Chợ Liễu’’, ‘‘Vè anh Nghị lấy o Hương’’, ‘‘Vè Năm Chơi’’, ‘‘Vè Quản Hớn’’...
Vè mang tính thời sự, các sự kiện trong quá khứ ít được vè quan tâm. Vè xuất hiện tức thời, nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh, rồi truyền đi để gây dư luận. ‘‘Vè thách cưới’’, ‘‘Vè bão năm Tỵ’’, ‘‘Vè sai đạo’’, ‘‘Vè thầy Thông Chánh’’...
Phân loại
Theo tiêu chí thể thơ, có thể chia vè thành các loại: vè lục bát, vè nói lối... Theo tiêu chí đề tài, nội dung phản ánh, có thể phân vè thành các tiểu loại:
Vè loài vật, cây trái, sự vật: ‘‘Vè chim chóc’’, ‘‘Vè trái cây’’, ‘‘Vè cá’’, ‘‘Vè rau’’, ‘‘Vè các thứ lúa’’, ‘‘Vè rắn U Minh’’, ‘‘Vè nói ngược’’, ‘‘Vè nói láo’’...
Ví dụ bài Vè con ve:
Lại truyền ra khắp hết bốn phương,Đem bảng dán chư châu thiên hạ.
Gái nào đành dạ,Mà giết đặng chồng.
Chém lấy đầu đem nạp bệ rồng,Vua phong chức Hoàng Tôn quận chúa.Có một nàng Nữ TốThật là gái vô songNghe lệnh truyền như hoả ngộ phongThấy bảng dán, dường như đắc thủy...Vè thế sự (vè sinh hoạt xã hội): loại vè này, bên cạnh tính thời sự, tính địa phương rất nổi bật với xu hướng chung là trào phúng: ‘‘Vè thách cưới’’, ‘‘Vè chửa hoang’’, ‘‘Vè uống rượu’’, ‘‘Vè nói dóc’’, ‘‘Vè đánh bạc’’, ‘‘Vè đi bối’’...; vè ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân: ‘‘Vè bão năm Tỵ’’, ‘‘Vè Cầu Ngói, chợ Liễu’’, ‘‘Vè thầy cai’’, ‘‘Vè đi phu Cửa Rào’’, ‘‘Vè Cải dịch y phục’’, ‘‘Vè chăn trâu’’, ‘‘Vè đi ở’’, ‘‘Vè chồng chung’’, ‘‘Vè vạn cấy’’, ‘‘Vè đi phu’’...
Vè lịch sử: thường hòa quyện sự chân thật lịch sử và sự hư cấu thần kỳ. Vè lịch sử là lịch sử không thành văn của nhân dân, gồm 2 mảng lớn.Nông dân khởi nghĩa: tiêu biểu là ‘‘Vè chàng Lía’’, về phong trào ‘‘khởi nghĩa Tây Sơn’’ có bài ‘‘Vè Bà Thiếu Phó’’, về phong trào nông dân khởi nghĩa ‘‘thế kỷ 19’’, ở miền Bắc phổ biến nhất là ‘‘Vè vợ ba Cai Vàng’’...Đấu tranh chống ngoại xâm'': ‘‘Vè thất thủ kinh đô’’ dài 1850 câu, kể những sự việc xảy ra từ thất thủ Thuận An (‘‘1885’’) đến khi vua ‘‘Thành Thái’’ bị giặc đày sang ‘‘đảo Réunion’’ (‘‘1907’’); ‘‘Vè Ba Đình’’ kể về cuộc ‘‘khởi nghĩa ở Ba Đình’’; ‘‘Vè Quan Đình’’ kể về ‘‘Phan Đình Phùng’’ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở ‘‘Hương Khê’’; ‘‘Hà Tĩnh’’ (‘‘1877’’); ‘‘Vè Tán Thuật’’ kể về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của ‘‘Nguyễn Thiện Thuật’’ ở ‘‘Hải Dương’’ hoặc ‘‘Hưng Yên’’ (‘‘1885’’); ‘‘Vè Trương Định’’ kể về người anh hùng đất ‘‘Gò Công’’, Nam Bộ; ‘‘Vè Khâm sai’’ xuất hiện ở ‘‘Quảng Nam’’ khoảng năm ‘‘1886’’...
Phương pháp biểu hiện của vè gắn với mục đích và đặc điểm thể loại. Vè xuất hiện nhằm đáp ứng sự phản ánh tức thời một sự việc, sự kiện, ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không trau chuốt, gọt dũa, phần lớn các bài vè lại có vận mệnh ngắn ngủi.
Tính đích danh xác thực thể hiện ở tên bài vè, nội dung được phản ánh trong vè.
Vè có thể là thơ thể vãn với 3, 4, 5 tiếng một câu nhanh gọn, sắc bén thích hợp yêu cầu tự sự. Thể lục bát dàn trải thích hợp yêu cầu trữ tình. Có bài vè kết hợp cả hai thể thơ: ‘‘Vè Tây cướp nước’’, ‘‘Vè giữ trâu’’... có khi kết hợp yếu tố trữ tình theo yêu cầu biểu hiện nội dung bài vè: ‘‘Vè trước họa giặc Pháp’’... |
Học không có giám sát (tiếng Anh: unsupervised learning) là một phương pháp của ngành học máy nhằm tìm ra một mô hình mà phù hợp với các quan sát. Nó khác biệt với học có giám sát ở chỗ là đầu ra đúng tương ứng cho mỗi đầu vào là không biết trước. Trong học không có giám sát, một tập dữ liệu đầu vào được thu thập. Học không có giám sát thường đối xử với các đối tượng đầu vào như là một tập các biến ngẫu nhiên. Sau đó, một mô hình mật độ kết hợp sẽ được xây dựng cho tập dữ liệu đó.
Học không có giám sát có thể được dùng kết hợp với suy luận Bayes để cho ra xác suất có điều kiện (nghĩa là học có giám sát) cho bất kì biến ngẫu nhiên nào khi biết trước các biến khác.
Học không có giám sát cũng hữu ích cho việc nén dữ liệu: về cơ bản, mọi giải thuật nén dữ liệu hoặc là dựa vào một phân bố xác suất trên một tập đầu vào một cách tường minh hay không tường minh.
Một dạng khác của học không có giám sát là phân nhóm dữ liệu, nó đôi khi không mang tính xác suất. |
Tục ngữ Việt Nam là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm qua thời gian của người Việt Nam về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.
Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.
Đầu tiên là các bản ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 như Nam phong ngữ ngạn thi (南風語諺詩) của Đình Thái, Đại Nam Quốc Túy (大南國粹) của Ngô Giáp Đậu.
Bản ghi tục ngữ bằng chữ quốc ngữ có Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920).
Một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931).
Một số bản khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương sưu tầm và biên soạn (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975).
Từ nguyên
Chữ Nôm: 俗語越南.
Chú thích
Đọc thêm
Tục ngữ Việt Nam |
Gia Cát Lượng (chữ Hán: 諸葛亮/ 诸葛亮; bính âm: Zhūgě Liàng; 181 – 234), biểu tự Khổng Minh (孔明), hiệu Ngọa Long (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo dục, và cũng là một nhà phát minh kỹ thuật nổi tiếng của nhà Quý Hán (Thục Hán) thời Tam Quốc.
Gia Cát Lượng đã phò tá Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc Tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được cho là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử. Tuy nhiên, năm chiến dịch đánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng ông bị bệnh mất trong doanh trại.
Không chỉ có tài năng hơn người, ông còn nổi tiếng với tấm lòng tận trung báo quốc, "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi". Con trai và cháu nội của Gia Cát Lượng cũng kế thừa chí nguyện bảo vệ nhà Hán của ông và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương "Trung nghĩa truyền gia thế vô song, Ba đời trung liệt chiếu sử xanh" nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát. Gia Cát Lượng cũng là vị quan văn duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ phụng 40 vị quan văn được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại). Ông khi còn sống có tước hiệu Vũ hương hầu (武乡侯), sau khi mất có thụy hiệu là Trung Vũ hầu, do đó hậu thế thường hay gọi ông là Vũ hầu (武侯) hay Gia Cát Vũ hầu (诸葛武侯) để tỏ lòng tôn kính.
Hình tượng của ông được dân gian ca tụng qua những câu chuyện lưu truyền suốt cả nghìn năm, về sau được La Quán Trung tiểu thuyết hóa và càng trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, một trong Tứ đại kỳ thư của văn học Trung Hoa. Trong tác phẩm này, Gia Cát Lượng được mô tả là một vị thừa tướng tài đức song toàn với tài năng "xuất quỷ nhập thần", đoán mưu lập kế như thần, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, là biểu tượng của lòng trung nghĩa và trí tuệ anh minh (Tuyệt nhân là Lưu Bị, tuyệt gian là Tào Tháo, tuyệt trí là Khổng Minh).
Nguồn gốc và giáo dục
Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Đông Hán. Ông sinh vào mùa thu năm Tân Dậu (181) thời Hán Linh Đế. Dòng họ Gia Cát (諸葛) của ông là một họ kép ít gặp. Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì chữ 诸 (bính âm là zhū) có thể phiên là chư lẫn gia, đồng thời ở mục họ 诸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát. Hai sách và có chú tên đất và tên người đọc gần giống chữ Tra (查), tức đọc là Gia. Theo sách Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".
Gia Cát Lượng là dòng dõi sĩ tộc, hậu duệ của quan Tư lệ Hiệu úy là Gia Cát Phong đời nhà Hán, cha là Gia Cát Khuê, thời Hán mạt làm chức Quận thừa ở Thái Sơn, nhưng chết khi Gia Cát Lượng còn nhỏ. Gia Cát Khuê sinh được ba người con trai là Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và Gia Cát Quân. Do cha mất sớm, Gia Cát Lượng theo chú là Gia Cát Huyền làm Dự Chương thái thú cho Viên Thuật. Gia Cát Huyền dẫn Lượng cùng em trai ông là Gia Cát Quân đến nhậm chức. Gặp lúc Hán triều cử người khác đến thay Huyền, nên ông qua Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu, vốn là chỗ quen biết cũ. Anh trai của ông là Gia Cát Cẩn tránh loạn đến Giang Đông, gặp lúc Tôn Sách chết, phục vụ cho Tôn Quyền ở Giang Đông. Gia Cát Lượng xuất thân trong một gia đình tương đối có tiếng tăm, thời trẻ cũng có nhiều mối quan hệ, giao du với quan lại nhân sĩ địa phương, không hoàn toàn mai danh ẩn tích một cách thần bí ở rừng núi như truyện dân gian hay mô tả.
Dâng biểu "Gia Cát Lượng tập" của Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng:
"Ít có nhân tài như vậy, có khí anh bá, thân cao tám thước, dung mạo khôi vĩ khác hẳn người thường".
Khi chú mất, Gia Cát Lượng đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, thích làm ca từ theo khúc . Anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân làm quan đại thần cho nước Thục Hán cùng với ông, em họ Gia Cát Đản làm quan cho Tào Ngụy. Gia Cát Lượng tự mình cày ruộng, vốn cao tám thước, ông tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị. Người đương thời chẳng mấy ai tin, nhưng vài người như Thôi Châu Bình và Từ Thứ có giao du với ông thì tin ông có tài như vậy.
Gia Cát Lượng khi đọc sách chủ yếu xem xét đại lược, khác với nhiều bạn học đọc sách tỉ mỉ, chăm chú đến tinh thục. Dịch Trung Thiên nói như vậy mới là biết đọc sách, Gia Cát Lượng giỏi nắm bắt cái tinh tuý cốt yếu trong sách, chứ không tầm chương trích cú, câu nệ từng chữ. Gia Cát Lượng cũng nói các bạn của mình như Thạch Quảng Nguyên, Từ Thứ, Mạnh Công Uy sau này có thể làm đến quan cai trị một châu hay một quận, còn về bản thân mình thì "Lượng chỉ cười không đáp". Thật ra câu trả lời đã rất rõ ràng: Gia Cát Lượng không muốn làm đế vương mà cũng chẳng muốn làm quan địa phương, mà muốn làm đại hiền thần phò tá một minh chủ lập nên nghiệp lớn, giống như Quản Trọng hay Nhạc Nghị xưa vậy.
Theo Bàng Thống truyện chép trong Tam quốc chí, Gia Cát Lượng là học trò của Bàng Đức Công, người Tương Dương. Gia Cát Lượng thường hay tới nhà, một mình lạy ở dưới giường, ban đầu Bàng Đức Công chẳng chỉ bảo gì sau mới dạy. Chính họ Bàng đặt các biệt danh Ngọa Long cho Gia Cát Lượng, Phượng Sồ cho Bàng Thống và Thủy Kính cho Tư Mã Huy. Bàng Đức Công có cháu là Bàng Thống, người sau này được Gia Cát Lượng tiến cử cho Lưu Bị.
Trong gia tộc Gia Cát, Gia Cát Lượng là người tài giỏi nhất nên người đời sau có câu: "Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó", ví trong 4 anh em thì ông tài giỏi nhất, Lưu Bị thu nạp được rồng và cả Gia Cát Quân em ông trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).
Sự nghiệp
Vào khoảng năm 200, hai thế lực lớn là Tào Tháo và Viên Thiệu giao chiến ở trận Quan Độ, ban đầu Lưu Bị phục vụ cho Viên Thiệu, nhưng sau lại ngầm tìm cách bỏ đi về phía Nam. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu, xua quân truy kích Lưu Bị, lực lượng mà Tào Tháo tỏ ra lo ngại. Lưu Bị chạy đến nương nhờ Lưu Biểu, người đang cai quản Kinh Châu. Lưu Biểu tiếp đãi Lưu Bị trọng hậu, cho thêm quân, sai đóng quân ở huyện Tân Dã, hào kiệt Kinh châu theo về rất đông.
Phò tá Lưu Bị
Được tiến cử
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến nhà Tư Mã Huy bàn việc thiên hạ. Huy đáp: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt hai người, đó là Ngọa Long và Phượng Sồ. Ngọa Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sĩ Nguyên. Có được một trong 2 người đó thì có thể định được thiên hạ". Lưu Bị nói rằng hãy đưa người đó đến gặp, Tư Mã Huy khuyên Lưu Bị nên tới nhà Gia Cát Lượng để gặp. Một nhân vật khác nhận được sự kính trọng từ Lưu Bị là Từ Thứ đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị, gọi Gia Cát Lượng là con rồng nằm. Lưu Bị đã 3 lần đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp. Gia Cát Lượng đã trình bày Long Trung đối sách, được Lưu Bị khen hay. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.
Sách "Ngụy Lược" thì viết rằng Gia Cát Lượng tự đến làm khách ở chỗ Lưu Bị, nhưng chỉ được xem như một thư sinh bình thường. Một hôm, Lượng cố ý ở lại cuối cùng sau khi gia khách đã về hết, nhưng vẫn không được Bị để ý gì đến. Sau khi Lượng chủ động thưa chuyện với Lưu Bị thì Bị mới nhận ra tài năng, và trọng dụng Lượng. Các sử gia xem xét sự trái ngược của hai cách nói trong 2 bộ sử và kết luận rằng: cả hai sự kiện đều có thể là đúng, với trình tự là Gia Cát sớm đến chỗ Lưu Bị trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng nên ông trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, bèn hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp.
Tam quốc diễn nghĩa xây dựng tình tiết Lưu Bị đến lều tranh hai lần đầu không gặp được, đến lần thứ ba mới gặp Gia Cát Lượng, cùng với nhiều tình tiết huyền ảo kỳ bí khác. Thật ra đấy chỉ là cách hư cấu huyền bí của văn chương nghệ thuật, các sử liệu cho thấy Lưu Bị có thể cả ba lần đều gặp và đàm đạo với Gia Cát Lượng. Hơn nữa, không chỉ là ba lần, mà có thể là đến gặp rất nhiều lần khác nữa, hai người càng nói chuyện càng hợp ý nhau, cuối cùng Gia Cát Lượng quyết định xuống núi phò tá Lưu Bị.
Lưu Bị từ đó càng đối đãi thân tình với Gia Cát Lượng, điều đó khiến Quan Vũ, Trương Phi không hài lòng. Lưu Bị mới giải thích: "Có được Khổng Minh, như cá gặp nước vậy. Các em chớ nên nhiều lời." Quan Vũ, Trương Phi đành phải chịu.
Người đời sau có thơ khen việc Lưu Bị 3 lần hạ mình tới cầu kiến người hiền tài để dựng nên cơ nghiệp 50 năm của nhà Thục Hán:
Chạy khỏi Tân Dã
Tháng 8 năm 208, quân Tào áp sát Kinh châu. Lưu Biểu ốm chết, trước lúc chết phó thác việc nước cho Lưu Bị, Bị từ chối. Con út Lưu Biểu là Lưu Tông được lập lên kế vị, quyết định đầu hàng Tào Tháo. Lúc ấy Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành, lúc nghe quân Tào đến Uyển Thành, bèn dẫn quân rời đi. Qua Tương Dương, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị đánh Lưu Tông để thu Kinh Châu, nhưng Lưu Bị đã khước từ lời đề nghị ấy, nói rằng: Ta chẳng nhẫn tâm làm vậy.
Lúc quân Lưu Bị rời đi, nhiều thuộc hạ của Lưu Biểu đi theo Lưu Bị, khi đến Tương Dương, dân chúng kéo theo hơn chục vạn người. Biết mình quân ít không thể chống nổi đại quân Tào, Lưu Bị chia làm 2 đường: Quan Vũ dẫn thủy quân chạy về Giang Hạ để hợp binh với Lưu Kỳ, Bị đi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ, Triệu Vân, Trương Phi dẫn theo cả gia quyến theo đường bộ chạy đến Giang Lăng.
Dân lánh nạn đi theo có đến hơn mười vạn người, xe chở hành lý lớn nhỏ chen cả lối đi, mỗi ngày hành quân không được 10 dặm đường. Tào Tháo sai Tào Thuần dẫn quân khinh kỵ đuổi gấp, bắt kịp Lưu Bị ở Đương Dương - Trường Bản. Lưu Bị bỏ lại vợ con cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân phải chạy cùng vài chục quân kỵ. Hai con gái của Lưu Bị và mẹ già của Từ Thứ bị quân Tào bắt.
Lưu Bị chạy rẽ sang Hán Tân, vừa hay gặp được thuyền của Quan Vũ, qua sông Miện, hội với con trưởng của Lưu Biểu là Kì rồi cùng đến Hạ Khẩu.
Đi sứ Đông Ngô
Lưu Bị rút về phương Nam, đóng ở Hạ Khẩu, Lỗ Túc bên Đông Ngô tới gặp, khuyên liên minh với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Việc rất đã gấp, xin được phụng mệnh nhờ Tôn tướng quân cứu giúp". Bị đồng ý để Lượng theo Túc đi Giang Đông. Trong Xuất sư biểu có nhắc đến việc này: "Sau này ngẫm lại, nhận việc trước lúc bại quân, phụng mệnh giữa lúc nguy nan".
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra các tình tiết nhân vật Khổng Minh tranh luận làm bẽ mặt một loạt quan văn "hủ nho" của Đông Ngô gồm Trương Chiêu, v.v. Nhân vật Gia Cát Lượng còn sử dụng bài phú Đồng Tước đài để khích Chu Du, đây là việc hoàn toàn không có thật bởi 5 năm sau đó Tào Thực mới làm bài phú này.
Tôn Quyền mặc áo vải thô, tiếp sứ giả ở doanh trại dựng tạm. Gia Cát Lượng giỏi xét người, mới đến cửa đã đoán được cá tính của Quyền, nên ông dùng kế khích tướng, cường điệu uy thế của Tào Tháo và khuyên Tôn Quyền quy phục. Quyền hỏi: "Nếu như lời ông, sao Lưu Dự Châu không hàng Tào đi?" Lượng đáp: "Điền Hoành chỉ là 1 tráng sĩ nước Tề còn không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu vốn là dòng vương thất, anh tài cái thế. Nếu việc chẳng xong là bởi ý trời, sao có thể hàng Tào!"
Tôn Quyền nói rõ quyết tâm chống Tào, nhưng vẫn nghi ngại không đánh nổi, hỏi rằng: "Dự Châu (Lưu Bị) cũng mới thua trận, sao có thể chống nổi nạn này?"
Gia Cát Lượng bèn đưa ra phân tích tình thế và thực lực của Tháo và Bị:
Lưu Bị tuy mới thua trận nhưng 10.000 thủy quân còn nguyên vẹn, quân Giang Hạ cũng được khoảng 10.000 người.
Quân Tào tuy đông nhưng đã rất mỏi mệt sau khi truy kích Lưu Bị hơn 300 dặm.
Quân Tào đến từ phương Bắc, vốn không quen thủy chiến.
Tào Tháo chỉ vừa mới chiếm được Kinh Châu, lòng người chưa phục.
Lượng nói tiếp rằng nếu phá được Tào Tháo sẽ lập thành được thế chân vạc, "cơ hội thành bại, là việc ở hôm nay vậy". Quyền hài lòng, đồng ý liên minh.
Tôn Quyền quyết tâm đánh Tào
Tuy nhiên, Bùi Tùng Chi chú giải Tam quốc chí cho rằng người đầu tiên khuyên Tôn Quyền đánh Tào là Lỗ Túc, sau đó Chu Du đã thuyết phục được Quyền hạ quyết tâm từ trước khi Gia Cát Lượng tới Có lẽ Tôn Quyền chỉ muốn thử nghe phân tích của Lượng để quyết định có nên liên minh với Lưu Bị hay không, còn chuyện chống Tào thì đã quyết từ trước.
Tam quốc chí chép: Tào Tháo gửi thư chiêu hàng Tôn Quyền, Quyền gọi quần thần dưới trướng đến hỏi kế sách. Đa phần đều cho rằng nên hàng, bởi Tháo mang danh Thiên Tử nay lại được thủy quân Kinh Châu, lợi thế của Trường Giang đã không còn. Chu Du không đồng ý, cho rằng Tào Tháo "giả danh tướng nhà Hán, kỳ thực là giặc nhà Hán", còn Tôn Quyền "thừa kế cơ nghiệp cha anh, binh hùng tướng mạnh, phải vì nhà Hán diệt trừ kẻ bạo tàn", đồng thời phân tích ra 4 điều kỵ trong binh pháp mà Tào Tháo đang phạm phải:
Đất Bắc chưa thật sự yên, vùng Tây Lương có Mã Đằng, Hàn Toại là mối lo sau lưng Tháo.
Thủy chiến vốn là sở trường của quân Ngô-Việt, không phải của quân phương Bắc.
Thời tiết hiện rất lạnh, ngựa không có cỏ ăn.
Binh sĩ Trung Nguyên không quen thủy thổ phương Nam, sẽ sinh bệnh tật.
Chu Du tiếp tục: "Du này xin được cấp ba vạn tinh binh, tiến đến đóng giữ Hạ Khẩu, bảo đảm sẽ vì Tướng quân mà phá tan quân giặc."
Tôn Quyền nghe Chu Du phân tích xong, nói "Ngươi nói rất hợp ý cô, thực là trời đem ngươi đến cho ta vậy!", rồi chụp lấy thanh đao chém đứt góc bàn, nói: "Ai còn dám nói đến chuyện đón rước Tháo, sẽ như cái bàn này."
Kết thúc buổi chầu, Chu Du lại vào thưa về thực lực đôi bên để Tôn Quyền khỏi lo lắng:
Quân Tào nói có tổng cộng 800.000, thật ra chỉ có khoản 150.000 đến 160.000, lại mệt mỏi lắm rồi.
Hàng quân của Lưu Biểu chỉ 70.000 đến 80.000, trong lòng lại hồ nghi.
Địch vừa mệt vừa không đồng lòng nên dẫu đông cũng không đáng sợ, chỉ cần 50.000 binh là đủ khắc chế.
Tôn Quyền vỗ vai Chu Du nói "Khanh nói rất hợp lòng Cô". Trước mắt không tập hợp nổi 50.000 người, Chu Du lĩnh 30.000 binh cùng Trình Phổ đi đối địch Tào Tháo ở Xích Bích.
Theo Trần Văn Đức, tác giả sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc ngoại truyện), thì những trao đổi trên giữa Chu Du và Tôn Quyền cho thấy do Chu Du có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, lại liên tục ở chiến trường nên thông tin tình báo của ông rất phong phú và chính xác, các quan viên tướng lĩnh của Đông Ngô ở Sài Tang đều không bằng, Gia Cát Lượng dẫu chú trọng việc tình báo cũng không thể nắm rõ tình hình bằng Chu Du.
Gia Cát Cẩn lôi kéo
Đại thần của Ngô là Trương Chiêu thấy Gia Cát Lượng trẻ tuổi và có tài, có ý muốn lôi kéo, bèn đề nghị Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Cẩn đến thuyết phục Gia Cát Lượng. Tôn Quyền bèn cho gọi Gia Cát Cẩn bảo rằng: "Gia Cát Khổng Minh là em của tiên sinh, là người có tài, em nghe theo anh là lẽ đương nhiên nếu ông ta muốn ở lại cùng lo đại sự, ta sẽ tự tay viết thư nói rõ với Lưu Dự Châu".
Gia Cát Cẩn đến gặp Gia Cát Lượng, không ngờ Gia Cát Lượng lại nói trước, khuyên Gia Cát Cẩn theo về với Lưu Bị sẽ càng phát huy được khả năng. Gia Cát Cẩn không nài ép được, đành trở về báo cáo với Tôn Quyền: "Em tôi phụ tá Lưu Dự Châu, vì nghĩa chẳng thể hai lòng, Lượng không chịu ở Đông Ngô, cũng như Cẩn không thể rời Giang Đông vậy".
Trận Xích Bích, Giang Lăng
Trong trận Xích Bích, Chu Du thống lĩnh quân liên minh, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại quân Tào. Và trong trận Giang Lăng (208-209) tiếp sau đó, liên quân Tôn - Lưu do Chu Du và Lưu Bị dẫn đầu tiếp tục khiến Tào Nhân phải tháo chạy khỏi Nam Quận sau hơn một năm trời vây hãm. Trong hai trận chiến này, Gia Cát Lượng không không được ghi chép về thành tích cầm quân nào, vai trò của ông chỉ là về ngoại giao và nội chính.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra một loạt sự kiện thể hiện mưu trí thần thánh của Gia Cát Lượng như "thuyền cỏ mượn tên", cùng Chu Du bày mưu phóng hoả, lập đàn hô phong hoán vũ để gọi gió đông, đặt phục binh ở hẻm Hoa Dung đón đầu Tào Tháo, thừa cơ nẫng tay trên chiếm cả Giang Lăng và Tương Dương khiến Chu Du phát uất thổ máu... Tam quốc diễn nghĩa còn hư cấu ra cả chuyện Chu Du bị Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức, phải than rằng: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi thổ huyết mà chết. Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, hoàn toàn không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.
Tác giả Trần Văn Đức trong sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện cho rằng Chu Du là người khiêm tốn, bao dung và Gia Cát Lượng có lẽ đã học được nhiều kinh nghiệm ở Chu Du và Lỗ Túc, bởi khi trận Xích Bích diễn ra thì Chu Du 34 tuổi, Lỗ Túc 37 tuổi, họ đã có 15 năm kinh nghiệm chính trị và thực tế chiến trường, trong khi Gia Cát Lượng khi đó mới 27 tuổi và mới chỉ tham gia chính sự được 1 năm.
Sau khi trở về với Lưu Bị, Gia Cát Lượng sau khi quan sát tình thế toàn cục, đã đề nghị Lưu Bị ngầm bố trí lực lượng khác với sắp xếp của Chu Du. Ông cho rằng Chu Du chỉ giao cho Lưu Bị nhiệm vụ thứ yếu (chặn đánh tàn quân Tào Tháo), sau này nếu có thắng lợi cũng không thu được gì nhiều. Ông cho rằng không cần phải cố sức đánh quân Tào Tháo rút chạy để không tổn hại binh sĩ của mình, cần giữ gìn thực lực để làm những công việc cần thiết sau đó. Tuy nhiên, theo các ghi chép trong chính sử thì lực lượng của Lưu Bị cũng bị tổn hại nhiều trong trận Giang Lăng: Quan Vũ được Lưu Bị biệt phái mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân, nhưng liên tiếp bị Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông, tướng giữ Tương Dương là Nhạc Tiến đánh bại, còn bị Văn Sính dùng thủy binh đuổi đánh, bị đốt sạch thuyền và quân nhu, mất hết thủy quân Giang Hạ.
Gia Cát Lượng cho rằng Giang Lăng là mục tiêu rất quan trọng song cũng là điều mấu chốt mà Tào Tháo và Chu Du cùng quan tâm, bởi thế nên khích lệ Chu Du đem toàn lực đoạt lại Giang Lăng để đôi bên cùng hao tổn binh lực, còn mục tiêu thực của Lưu Bị là chớp thời cơ bình định các quận phía nam Kinh Châu giáp Trường Giang, để tự mình có một địa bàn đứng chân và khôi phục được Kinh Châu sau này. Lưu Bị chấp thuận làm theo.
Trong thời gian Lưu Bị và Trương Phi cùng hiệp trợ tác chiến với Đông Ngô ở phía bắc trong hội chiến Giang Lăng, Gia Cát Lượng dẫn quân sĩ cùng Quan Vũ và Triệu Vân, phối hợp với quân Giang Hạ của Lưu Kỳ, lấy các quận phía nam làm đại bản doanh, bình định bốn quận là: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng.
Sau cuộc chiến Xích Bích và Giang Lăng, Đông Ngô giành được đại thắng, chiếm được Giang Lăng, Nam Quận - vị trí chiến lược quan trọng nhất của Kinh Châu. Còn Lưu Bị nhân cơ hội thâu tóm bốn quận ở phía nam, chẳng những hồi sinh sự nghiệp mà còn có được cơ sở rất quan trọng để sau này tranh thiên hạ. Gia Cát Lượng có thành công lớn nhất là tham mưu sách lược chiếm lấy bốn quận nam Kinh Châu, có thể nói là táo bạo và rất thành công.
Tuy nhiên, bốn quận này chỉ có thể giải quyết vấn đề nhân lực và kinh tế cho Lưu Bị, chứ không có vai trò chiến lược trong việc thi hành Long Trung sách. Vì vậy, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải sử dụng nhiều nỗ lực ngoại giao để mượn huyện Giang Lăng của Tôn Quyền. Nhưng phải đợi đến sau khi Chu Du mất (210), Lỗ Túc - người rất coi trọng liên minh Tôn - Lưu lên thay, Tôn Quyền mới nghe theo lời Lỗ Túc (khiến Tào Tháo thêm kẻ thù, mượn sức Lưu Bị đỡ gánh nặng phía tây của Giang Đông), đồng ý cho Lưu Bị mượn Giang Lăng, hay còn gọi là "mượn Kinh Châu" .
Tuy nhiên, việc Lưu Bị công ít, lợi nhiều và Quan Vũ ỷ được giao giữ Kinh châu mà hay hống hách với Đông Ngô dẫn đến rạn nứt quan hệ liên minh với nước này. 12 năm sau, khi Lỗ Túc mất, không còn ai chủ hòa, Tôn Quyền sai Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, giết chết Quan Vũ.
Vạch chính sách giúp Lưu Bị bình Kinh Châu
Gia Cát Lượng được phong Trung lang tướng, giao cai quản Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa, thu thuế và lương thực để chu cấp cho quân đội. Theo sách lược của Gia Cát Lượng, các quận huyện và tướng lĩnh phía nam Kinh Châu, cùng tuyên thệ ủng hộ Lưu Bị kế nhiệm chức Kinh Châu mục. Vai trò của Gia Cát Lượng lúc này giống như thừa tướng Tiêu Hà giúp Lưu Bang lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng nhu cầu của quân đội.
Gia Cát Lượng nhìn thấy phái phản Tào ở Kinh Châu như rắn không đầu, bèn có ý nhắc Lưu Bị đối đãi thật tốt với Lưu Kỳ, để Lưu Kỳ làm vây cánh cho mình. Để làm cho thực lực của Lưu Bị mạnh lên, Gia Cát Lượng đã vận dụng sách lược tích lũy, ông sớm đề nghị với Lưu Bị sắp xếp lại dân di cư, xây dựng lực lượng cơ bản. Với tình thế Kinh Châu lúc ấy đã làm tăng thêm danh tiếng của Lưu Bị ở Kinh Châu. Ở giai đoạn này, biểu hiện "lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc cường" của Lưu Bị chính là công lao của quân sư Gia Cát Lượng.
Giúp Lưu Bị chiếm Ích Châu
Năm 211, Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên giúp chống Trương Lỗ, Gia Cát Lượng được giao ở lại Kinh Châu cùng Quan Vũ và Trương Phi.
Năm 212, Lưu Bị đánh úp Lưu Chương, chiếm đánh thành trì ở Thục. Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng được lệnh dẫn quân vào Xuyên tiếp ứng. Tuy nhiên quân sư Bàng Thống bị trúng tên lạc mà chết.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Bàng Thống bị Trương Nhiệm phục kích bắn chết ở gò Lạc Phượng, Gia Cát Lượng bày mưu bắt Trương Nhiệm báo thù cho Thống.
Năm 214, Mã Siêu bỏ rơi vợ con, từ chỗ Trương Lỗ chạy đến theo Lưu Bị. Bị phái Siêu đến tham gia vây Thành Đô. Quân dân trong thành rúng động, Lưu Chương xin hàng.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện Mã Siêu đại chiến Trương Phi, sau đó Lưu Bị nhờ Gia Cát Lượng bày mưu dụ hàng Mã Siêu.
Cánh quân của Gia Cát Lượng không giao chiến trận nào lớn trong chiến dịch này.
Làm thừa tướng
Giúp Lưu Bị cai quản Ích Châu
Trần Thọ trong Tam Quốc Chí viết rằng:
"Lưu Bị sau khi bình định được Thành Đô, phong Gia Cát Lượng là Quân sư tướng quân, chức Tả tướng quân (đây là chức quan quan trọng của Lưu Bị) để trông coi việc lớn. Lưu Bị thường dẫn quân đội đi chinh chiến bên ngoài để Gia Cát Lượng ở Thành Đô trông coi triều chính, chẳng bao lâu khắp vùng Ích Châu đều dư thực dư binh"
Theo Dịch Trung Thiên, chức vụ Gia Cát Lượng lúc này là "Tổng lý đại thần" hay "Đại quản gia" trong phủ Tả tướng quân của Lưu Bị, không phải là "Tổng tư lệnh ba quân" hay "Tổng tham mưu trưởng". Nhiệm vụ chủ yếu của ông là là hành chính, dân chính, không phụ trách kế hoạch quân sự, khi Lưu Bị xuất chinh thì ông được giao trấn thủ Thành Đô, lo việc cai trị dân chúng. Trần Thọ nhận xét lúc này với Lưu Bị thì "Gia Cát Lượng là thân thích, Pháp Chính là mưu chủ, Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu là nang vuốt"
Trong cương vị thừa tướng, Gia Cát Lượng đã dốc tâm điều hành công việc quản lý. Gia Cát Lượng khi thấy Tưởng Uyển làm việc sơ ý, có nói với Lưu Bị: "Việc chính sự lấy yên dân làm gốc, không lấy trang sức làm đầu".
Đối với việc cầm quyền, ông hiểu rõ chỗ nào thì cần khoan dung, chỗ nào thì cần dùng luật nghiêm khắc. Sách Tư trị thông giám có ghi rằng: “Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị cai quản đất Thục pháp lệnh rất nghiêm, tầng lớp thế gia quan liêu đặc quyền ở Ích Châu chịu không nổi thường vẫn oán thán”. Khi Pháp Chính khuyên ông nên học theo Hán Cao tổ (giảm bớt hình phạt cho giới quyền quý), ông trả lời:
Tiên sinh chỉ biết một mà không biết hai, nước Tần thi hành chế độ hà khắc dẫn đến dân tình oán hận, nơi nơi phản loạn, thiên hạ bởi thế đất lở ngói vỡ. Lưu Chương vốn nhu nhược lại cố chấp nên chính trị ở đất Thục không phát huy được, chẳng nêu đức độ, hình phạt chẳng đủ, tầng lớp quan liêu thế tộc thừa cơ giành độc quyền, đạo quân - thần chẳng rõ ràng, nền luân lý xã hội cũng tan mất cả. Thực ra, đối với những kẻ quan liêu có đặc quyền này, nếu được sủng ái thái quá, lại làm cho họ không nghĩ đến trọng danh vị, lơ là trách nhiệm. Nếu ban ơn cho họ sau này ân huệ ít đi, họ sẽ oán thán, lại làm khó cho việc thực thi pháp lệnh của chính phủ. Nay ở đất Thục chứng bệnh lớn là ở đấy, nên ta mới nêu cao chánh pháp, để pháp lệnh có thể phát huy hiệu quả khiến nhân dân được bảo vệ chu đáo. Nên hạn chế quyền thế của bọn quan liêu thế tộc, khiến họ phải gìn giữ tốt vị trí của mình.
Bùi Tùng Chi không cho lời nói này là có tồn tại, vì lúc đó Lưu Bị còn sống, Gia Cát Lượng dù là người thân tín cũng không qua mặt Lưu Bị tự ý định ra pháp luật thưởng phạt. Đồng thời người dẫn ra đoạn đối thoại vừa trên là Quách Xung lại còn chê Lượng "khắc nghiệt", "bóc lột", đấy là nhận xét rất phi lý vì Gia Cát Lượng là người chấp pháp nghiêm minh, dùng hình luật khéo léo. Tuy nhiên Dịch Trung Thiên cho rằng có người phàn nàn Gia Cát Lượng quá nghiêm là đúng sự thật, họ chỉ chê Gia Cát Lượng quá nghiêm chứ không hề chê Gia Cát Lượng chấp pháp không công bằng.
Gia Cát Lượng quan tâm đến đời sống nhân dân ở đất Thục, nên sau 3 năm, Ích Châu đã đủ lương, đủ lính, có thể cung ứng đầy đủ cho nhu cầu tiền tuyến của Lưu Bị. Để ổn định tài chính, Gia Cát Lượng cho đúc tiền mới, bình ổn vật giá, lập ra quan chợ chuyên quản lý thị trường. Trước kia, Tào Tháo đúc tiền lớn "Ngũ thù" vẫn chẳng thể cứu vãn được tình hình tiên tệ rối loạn từ cuối thời Đông Hán. Ở Đông Ngô, Tôn Quyền vào khoảng năm 236 đến năm 238 đã hai lần thay đổi đồng tiền, cho thấy tiền tệ cũng rất không ổn định. Lưu Bị sau khi chiếm được Ích Châu, cho đúc tiền 100 đồng, cũng chưa có biến đổi gì xáo trộn, cho thấy cách xử lý của Gia Cát Lượng về vấn đề này thành công hơn 2 nước kia. Tiền tệ của nước Thục, chẳng những được lưu thông trong nước mà ở vùng Kinh Châu lúc đó cũng lưu hành tiền tệ của Thục Hán. Được Gia Cát Lượng cố gắng điều hành, sự phát triển kinh tế của Thục Hán lúc đó được xem là khá thành công. Viên Chuẩn đời Tấn đối với việc này có khen rằng "Việc điều hành của Gia Cát Lượng ở Thục đã đem lại ruộng đất mở mang, kho lương sung túc, khí giới sắc bén, sản vật dồi dào... từ chỗ suy yếu mà sửa sang được mọi việc, khuyên khích dân cố gắng".
Nhận ủy thác của Lưu Bị
Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến thua trận Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Lưu Bị sai Mã Lương vẽ sơ đồ doanh trại quân mình, đem về hỏi Gia Cát Lượng. Lượng xem xong đoán Lưu Bị sẽ thất bại. Trên thực tế Mã Lương vẫn ở cùng Lưu Bị và chết trong trận Di Lăng.
Tam Quốc Diễn Nghĩa còn hư cấu ra việc Lục Tốn đuổi theo Lưu Bị, bị lạc vào một "thạch trận" có ma thuật biến hóa khôn lường do Gia Cát Lượng lập ra. Sau khi được cha vợ Lượng là Hoàng Thừa Ngạn cứu ra, nhân vật Lục Tốn "thừa nhận" rằng Lượng tài cao hơn mình nhiều.
Lưu Bị thua trận, hổ thẹn với nhân dân mà mắc bệnh nặng. Trước khi chết, ông đã ủy thác việc nước cho Gia Cát Lượng. Di chiếu của Lưu Bị nhắc nhở Thái tử Lưu Thiện rằng:
Trẫm lúc mới ốm chỉ mắc bệnh lị mà thôi, sau chuyển sang tạp bệnh, sợ rằng chẳng qua khỏi. Người ta 50 tuổi chẳng nói là yểu, ta đã hơn 60 tuổi, sao phải ân hận nữa, chẳng đau xót gì cho mình, chỉ nghĩ đến anh em khanh (chỉ thái tử Lưu Thiện). Quan Bộc xạ tới đây, nói rằng Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết, tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn phải lo lắng nữa! Gắng lên, gắng lên! Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người. Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước. Ngươi nên đọc sách Hán thư - Lễ ký, những lúc nhàn nhã nên xem các sách của Chư tử cùng với Lục Thao-Thương quân thư, cũng giúp tăng thêm ý chí và trí tuệ. Nghe nói Thừa tướng chỉnh lý các sách Thân-Hàn-Quản tử-Lục Thao đều thông suốt hết cả, chưa đưa ra ngoài, e rằng lỗi đạo, ngươi nên phải tự thân đến cầu học lấy
Lúc lâm chung, Lưu Bị cho gọi Lỗ vương (một người con thứ) đến dặn nhỏ rằng: "Sau khi ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng sự giúp cho Thừa tướng mà thôi." Ông dặn Gia Cát Lượng rằng: "Tài thừa tướng gấp mười Tào Phi, tất yên định được nhà nước, làm nên việc lớn. Đối với con trẫm (Lưu Thiện), nếu có thể giúp được thì giúp, nếu nó bất tài, hãy tự thay đi!" Gia Cát Lượng nghe vậy khóc mà quỳ xuống tâu rằng: "Thần xin dốc sức làm tay chân, theo đúng lẽ trung trinh, nguyện chết không đổi vậy".
Phò tá Lưu Thiện
Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi, Gia Cát Lượng nắm quyền lực thừa tướng, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Lưu Thiện nói với ông: Chính là họ Gia Cát đã cứu quả nhân.
Ngay sau đó, Gia Cát Lượng nỗ lực xây dựng liên minh Đông Ngô - Thục Hán. Không ít đại thần Thục Hán phản đối vì Lưu Bị bệnh mất là do bại trận trước Đông Ngô. Song Gia Cát Lượng biết rằng đại cục khôi phục lại nhà Hán là quan trọng nhất. Nếu như muốn có lực lượng đầy đủ đối chọi được Tào Ngụy ở phương Bắc thì phải xây dựng sự ổn định và trạng thái hoà bình ở phía Đông, việc liên minh với Ngô là điều tuyệt đối cần thiết. Vì vậy Gia Cát Lượng đã cho Đặng Chi và sau đó là Phí Y sang hòa hiếu với Tôn Quyền, các nhiệm vụ ngoại giao đều rất thành công, liên minh Thục - Ngô được khôi phục và củng cố.
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế. Nhiều đại thần Thục Hán giận dữ muốn cắt quan hệ với Đông Ngô. Tuy nhiên Gia Cát Lượng đã giải thích là liên minh Thục - Ngô rất cần thiết để cùng chống Tào Ngụy, đồng thời bản thân Tôn Quyền không có khả năng một mình vượt ra khỏi phạm vi chiếm đóng của mình mà chỉ xưng đế cai quản một góc thiên hạ. Do vậy, hành động "tiếm nghịch" của Tôn Quyền tạm thời có thể bỏ qua được. Sau đó Thục Hán đã cử sứ giả sang Ngô để chúc mừng Tôn Quyền.
Về đối nội, Gia Cát Lượng xác định kế sách, chú trọng khuyến nông, giảm thuế cho dân và phát triển sản xuất:
Ông hạ lệnh chính quyền các cấp quan tâm thật sự đến nông dân, khi trưng dụng phu phen tạp dịch tuyệt đối không chiếm dụng thời gian gieo trồng và gặt hái của nông dân, chẳng được hô khẩu hiệu suông. Cũng giống như Tào Tháo, Gia Cát Lượng rất xem trọng chính sách đồn điền bởi đó không những là nơi đóng quân khi có chiến tranh, làm tốt quan hệ quân dân, lại có thể giải quyết vấn đề lương thực.
Gia Cát Lượng rất xem trọng thủy lợi, ông đặt ra quan chủ quản phụ trách bảo quản, tu bổ và quản lý kênh Đô Giang ở trạng thái tốt nhất, nâng cao được sức tưới nước giúp cho sản xuất nông nghiệp ở Thục được rất nhiều. Hiện nay ở Bá Hà phía tây bắc Thành Đô, có một con đê dài hơn 9 dặm, gọi là "đê Gia Cát", truyền thuyết nói là Gia Cát Lượng đã chỉ đạo xây dựng để ngăn chặn hồng thủy tràn vào vùng đất nông nghiệp thấp. Hiện nay ở Thành Đô vẫn lưu truyền câu chuyện Gia Cát Lượng tự mình dẫn đầu các tráng đinh đi đắp đê.
Gia Cát Lượng cho thiết lập lại cơ cấu quốc doanh về muối sắt, quan Tư diêm hiệu úy (đầu tiên là Vương Liên) và Tư kim trung lang tướng (đầu tiên là Trương Duệ) phụ trách quản lý sản xuất muối và sắt, chế tạo nông cụ, binh khí, không để cường hào và quan lại câu kết chiếm làm của riêng nguồn lợi quốc gia. Tư diêm hiệu uý của Thục Hán đem lại mối lợi rất lớn về muối, giúp ích nhiều cho quốc gia.
Chỉ huy quân sự
Trong khi Lưu Bị chinh chiến, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, và lo chuyện kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị thống lĩnh đại quân cùng các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính và hậu cần. Tuy nhiên, sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng bắt đầu phải lo cả chuyện quân sự.
Bình định Nam Trung
Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước thì vùng Nam Trung phía tây nam nước Thục Hán nổi loạn. Tuy dân ở đây đa phần là những tộc người thiểu số, những kẻ cầm đầu lại chủ yếu là người Hán.
Cao Định, Ung Khải, Chu Bao nổi loạn
Thời Lưu Bị mới chiếm được Ích Châu đã bổ nhiệm Đặng Phương (người Nam Quận) làm Thái thú ở Chu Đề. Phương ốm chết, Bị bổ nhiệm Lý Khôi làm Thứ sử Giao Châu. Lưu Bị đông chinh đánh Ngô, "tẩu soái" là Cao Định ở Việt Huề làm phản, lẩn tránh quân của Lý Nghiêm.
Khi Lưu Bị chết, Cao Định lại lộng hành, đánh phá thành trì, xưng vương ở Việt Huề. Cường hào ở Ích Châu là Ung Khải (hậu duệ Hợp hương hầu Ung Xỉ) cũng dấy binh nổi dậy ở Kiến Ninh, giết chết thái thú. Gia Cát Lượng phái Trương Duệ thay chức thái thú, nhưng cũng bị Ung Khải bắt được, đem nộp sang Đông Ngô. Tôn Quyền sai Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp phong Khải làm Thái thú Vĩnh Xương.
Gia Cát Lượng sai Đặng Chi đi sứ Đông Ngô, cắt đứt ngoại viện của Ung Khải, lại sai Thường Phòng đi khôi phục quyền cai trị Nam Trung. Phòng tra khảo rồi giết quan chủ bạ quận Tang Ca, nói Thái thú Tang Ca là Chu Bao có ý hưởng ứng Ung Khải. Chu Bao giết Thường Phòng, vu cáo Phòng mưu phản. Gia Cát Lượng "thí tốt" cho giết gia quyến của Thường Phòng, lưu đày 4 người anh em của Phòng đến Việt Huề.
Ung Khải liên minh với Cao Định, tấn công Vĩnh Xương. Lã Khải đóng cửa thành chống cự. Ung Khải không đánh được, thấy thế yếu dần, liên hệ với Đầu mục ở quận Ích Châu là Mạnh Hoạch. Hoạch kích động người Di, khiến họ đi theo Ung Khải, nổi dậy khắp vùng Nam Trung.
Gia Cát Lượng Nam chinh
Gia Cát Lượng phải đem quân xuống phía nam để thu phục. Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyên dẫn quân đánh Chu Bao ở Tang Ca. Lý Khôi đánh Ung Khải và Mạnh Hoạch. Gia Cát Lượng tự đi sau, hợp quân ở Điền Trì. Tuy nhiên, tướng lĩnh và binh lực huy động không lớn. Thực tế, việc đánh bại quân phản loạn thiếu tổ chức chẳng khó gì. Quân Thục với số đông và quân đội chính quy nhanh chóng áp đảo, và không lâu sau đã đánh bại Chu Bao. Ung Khải bị thuộc hạ Cao Định giết, còn Cao Định sau đó tử trận. Mạnh Hoạch dẫn tàn dư của Ung Khải chạy về Ích Châu, kết hợp với các bộ lạc phía Nam vốn thù hận người Hán.
Nhận thấy uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Mạnh Hoạch ở vùng Nam Trung và vì muốn giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số vùng này với triều đình Thục Hán nên Gia Cát Lượng quyết định đánh vào lòng người, coi đó là chiến thuật chủ đạo. Gia Cát Lượng không thực hiện sự nghiêm khắc như trước, trái lại vận dụng một chính sách khoan dung "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử Trung Quốc.
Theo lời Mã Tốc, ông hạ lệnh khi đánh nhau với Mạnh Hoạch, quân Thục chỉ được phép bắt sống, không được giết chết hoặc làm Mạnh Hoạch bị thương. Mạnh Hoạch bị bắt rồi Gia Cát Lượng lại thả ra, cứ như vậy lặp đi lặp lại đến 7 lần. Nghệ thuật tác chiến chính trị, tâm lý của Gia Cát Lượng thể hiện rõ rệt trong chiến dịch này. Cuối cùng Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục, hoàn toàn chịu thần phục triều Thục Hán. Đến lần thứ 7, khi Gia Cát Lượng định thả Mạnh Hoạch thì Mạnh Hoạch không chịu về vì ông ta nhận thấy Gia Cát Lượng quả thật là con người phi thường và trong thâm tâm không có ý thù địch với mình. Mạnh Hoạch thành tâm nói với Gia Cát Lượng rằng: "Thừa tướng có uy như trời vậy, người Nam không phản lại nữa".
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhằm tăng thêm sự lôi cuốn, phóng đại tầm cỡ của chiến dịch và ca tụng Gia Cát Lượng, nhà văn đã sáng tạo ra một loạt các nhân vật hư cấu như Mạnh Ưu, Mạnh Tiết, Chúc Dung phu nhân, Ngột Đột Cốt, Đái Lai Động chúa, Mộc Lộc đại vương, Đóa Tư đại vương, Kim Hoàn Tam Kết, Đổng Trà Na, A Hội Nam, Mang Nha Trường, Quan Sách... và các tình tiết như Lượng đem theo cả Ngụy Diên và Triệu Vân (thực tế chỉ có Mã Trung và Lý Khôi), quân Thục uống phải nước độc, Gia Cát hỏa thiêu "quân giáp mây"...
Sau khi Mạnh Hoạch chịu thần phục thì các thế lực phản loạn ở miền Nam cũng nhanh chóng lần lượt quy hàng. Mùa thu năm 225, ba cánh quân Đông, Tây và Trung hội quân ở Điền Trì (Vân Nam) ăn mừng thắng lợi của cuộc Nam tiến và giai thoại bảy lần bắt bảy lần thả được truyền trụng.
Một số nhà nghiên cứu lịch sử nghi ngờ rằng việc Gia Cát Lượng bắt Mạnh Hoạch tới 7 lần chỉ là "truyền thuyết trong dã sử". Việc Gia Cát Lượng từng mấy lần bắt rồi thả Mạnh Hoạch để "công tâm" là điều chẳng có gì nghi ngờ, nhưng số lần lên tới con số 7 thì có chỗ khoa trương. "Thông giám thông lãm" cho rằng "bắt rồi tha, như là trò đùa, một lần đã là nhiều, thực tế chẳng thể đến 7 lần... huống chi kẻ địch lớn ở phương Bắc, việc khiến chiến sự kéo dài không quyết, tin rằng một người cẩn thận như Gia Cát Lượng sẽ không bao giờ làm". Theo "Điền Vân kí lược" của Trương Nhược Tú, những địa điểm đưa ra về việc 7 lần bắt Mạnh Hoạch đều ở vùng Đại Lý và Bảo Sơn của Vân Nam. Sử tuy có ghi 7 lần bắt, 7 lần thả nhưng không ghi Gia Cát Lượng đã đến Điền Tây. Tác giả Trần Văn Đức cho rằng người đời sau đã lấy sự tích của Lã Khải (quan cai quản Điền Tây) hợp vào hình ảnh Gia Cát Lượng. Nhưng dẫu việc bắt Mạnh Hoạch có tới 7 lần hay không thì việc Gia Cát Lượng mấy lần bắt rồi thả tướng địch vẫn là sự thực lịch sử. Gia Cát Lượng đích xác chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi đã bình định Nam Trung, cải thiện quan hệ với người dân tộc thiểu số địa phương, hoàn thành chiến dịch lớn "công tâm làm đầu" chưa từng có trong lịch sử.
Các chiến dịch đánh nhà Tào Ngụy
Sau một thời gian chuẩn bị, căn cứ vào tình hình hiện tại, năm 227, Gia Cát Lượng quyết định tấn công Tào Ngụy, tiêu diệt họ Tào, giành lại giang sơn cho nhà Hán. Ông tấu lên Hán Hậu chủ Lưu Thiện bản Xuất sư biểu nổi tiếng, trong đó nói rằng:
"Nay phương Nam đã bình định, binh giáp đã đầy đủ đáng khích lệ ba quân; nay bắc định Trung Nguyên, thần xin đem hết lòng khuyển mã, trừ sạch gian ác, phục hưng triều Hán về lại cố đô, như vậy là thần báo đáp được tiên đế, mà trúng với chức phận dưới bệ rồng vậy... Những mong bệ hạ uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch tặc, trung hưng nhà Hán; nếu chẳng thành công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng vong linh Tiên đế.".
Hậu chủ Lưu Thiện chấp thuận, giáng chiếu: "Gia Cát thừa tướng cương nghị trung trinh, dốc lòng vì nước, (vì thế) Tiên đế trao việc thiên hạ, phù trợ quả nhân. Nay ban cho mao việt, cùng với phó thác trọng quyền, thống lĩnh bộ kỵ hai mươi vạn binh, nắm giữ nguyên nhung, thay trời tru phạt, trừ hoạn dẹp loạn, chiếm lại kinh đô, chính là dịp này"
Lúc này, trong số các danh tướng của Thục Hán thì Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung đều đã chết, còn Triệu Vân thì đã già. Vì binh lực Thục Hán có hạn, vì vậy Gia Cát Lượng chọn sách lược tấn công thận trọng. Tướng Ngụy Diên hiến kế: cho ông ta dẫn 5000 tinh binh và 5000 lính vận lương, từ Hán Trung vòng sang hang Tý Ngọ để lẻn đến tập kích Trường An. Tam Quốc Chí (Ngụy Diên truyện) viết: mỗi lần Diên theo Lượng ra quân đều xin riêng một vạn tinh binh, men theo đường hẻm để hội quân với Lượng ở Đồng Quan, như việc năm xưa của Hàn Tín. Lượng nhất định không cho, Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài năng của mình không được dùng hết.
Các nhà sử học như Dịch Trung Thiên và Trần Văn Đức đều cho rằng Gia Cát Lượng rất có lý khi từ chối kế của Ngụy Diên vì nó quá khinh địch và nhiều rủi ro. Thứ nhất: Hạ Hầu Mậu chưa chắc sẽ hèn nhát bỏ chạy khỏi Trường An như Ngụy Diên suy đoán, mà dù Mậu bỏ chạy thật thì các thuộc tướng của Mậu vẫn có thể ở lại phòng thủ, quân của Diên chỉ có 1 vạn thì rất khó công phá được tường thành vững chắc của Trường An. Thứ hai: danh tướng Quách Hoài ở gần đó có thể sớm đến chi viện cho Mậu, trong khi quân Thục của Gia Cát Lượng sẽ phải vượt qua đường núi hiểm trở xa xôi, khó mà đến kịp để chi viện cho Diên. Thứ ba: việc hành quân gấp gáp theo đường Tý Ngọ hiểm trở sẽ khiến binh tướng hao tổn sức lực, lúc tới nơi thì số quân vừa ít ỏi vừa mỏi mệt của Ngụy Diên lại phải đối mặt với cả chục vạn quân Ngụy, nên rất dễ bị tiêu diệt hoàn toàn. Thứ 4: cuộc hành quân của 1 vạn binh mã qua lãnh thổ của địch là rất khó che giấu, đạo quân của Diên chắc chắn sẽ bị thám báo phát hiện từ sớm và quân Ngụy sẽ kịp tổ chức phòng thủ, nên không còn yếu tố bất ngờ nữa.
Trên thực tế, ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, vua Ngụy là Tào Duệ đã nhanh chóng đích thân tới Trường An chỉ huy, thu lại binh quyền của Hạ Hầu Mậu và đưa Mậu về kinh. Diễn biến này cho thấy suy đoán của Ngụy Diên rằng "Hạ Hầu Mậu sẽ bỏ chạy, Trường An sẽ bị bỏ trống" là sai lầm. Nếu Gia Cát Lượng chấp thuận kế của Ngụy Diên thì hẳn là quân Thục Hán đã đại bại.
Lịch sử sau này cho thấy một số đội quân khác cũng dùng kế xuất quân từ Tí Ngọ giống như Ngụy Diên, và tất cả đều thất bại. Năm 230, Tào Chân cũng theo đường Tí Ngọ để tấn công Thục Hán, nhưng mất một tháng cũng chưa đi được nửa quãng đường, cho thấy việc Ngụy Diên dự tính "chỉ khoảng 10 ngày là tới được Trường An" là hoàn toàn sai. Năm 354, Hoàn Ôn sai thứ sử Lương Châu là Tư Mã Huân từ Hán Trung theo đường Tí Ngọ để đánh quân Tiền Tần từ phía sau, nhưng chưa ra khỏi Tí Ngọ thì đã bị 7.000 kỵ binh quân Tần đột kích đánh bại. Năm 1636, Sấm vương Cao Nghênh Tường cũng theo đường này để tiến đánh Tây An, nhưng nhanh chóng bị tướng nhà Minh là Tôn Truyền Đình phát hiện và phục kích đánh bại. Các ví dụ này cho thấy việc Gia Cát Lượng từ chối kế của Ngụy Diên là hoàn toàn đúng đắn, bởi kế sách này không chỉ rủi ro cực cao mà còn là bất khả thi trong thực tế
Mạnh Đạt phản Ngụy
Khi xưa, Mạnh Đạt sợ Lưu Bị bắt tội, chạy sang đầu hàng Ngụy vào năm 220, và được giao cai quản Tân Thành. Năm 227, Mạnh Đạt bất hòa với một số quan binh nhà Ngụy, bị nghi ngờ, lại muốn phản Ngụy về Thục.
Gia Cát Lượng sắp đem quân ra Kỳ Sơn, trao đổi thư từ với Mạnh Đạt, hối thúc Đạt làm phản chiếm lấy Thượng Dung. Tư Mã Ý đóng ở Uyển Thành gần đó viết thư lừa Mạnh Đạt, rồi hành quân gấp rút tới Tân Thành. Mạnh Đạt còn chưa kịp chuẩn bị, nhanh chóng bị bắt giết.
Chiến dịch thứ nhất
Dù âm mưu dùng Mạnh Đạt đã bị phá vỡ, mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng vẫn xuất quân. Lão tướng Triệu Vân cùng Đặng Chi được giao đi theo đường Tà Cốc ra My Thành làm nghi binh, trong khi đó Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực tiến ra Kỳ Sơn.
Trước tin đại quân Thục Hán tiến đánh, ba quận thuộc đất Lũng Hữu là Thiên Thủy, Nam An, An Định liền phản Ngụy theo Hán. Gia Cát Lượng được Khương Duy, một viên tướng trẻ của Ngụy.
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra tình tiết Khương Duy rất tài giỏi, giao đấu cân sức với Triệu Vân, sau đó bị mắc mưu Gia Cát nên phải hàng. Gia Cát sau đó cho người đón mẹ già của Khương Duy về Thục. Trên thực tế mẹ Khương Duy vẫn ở Ngụy, viết thư gọi con về nhưng Duy không về.
Tào Duệ thân chinh từ Lạc Dương ra Trường An, sai đại tướng Trương Hợp đi Kỳ Sơn chống Gia Cát Lượng, và Tào Chân chi viện My Thành chống Triệu Vân.
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra việc phò mã Hạ Hầu Mậu bất tài nhưng được làm tướng chống Gia Cát Lượng, bị Lượng liên tiếp đánh bại, xấu hổ chạy trốn không dám về nước. Trên thực tế ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, Tào Duệ nhanh chóng đích thân ra Trường An, thu binh quyền của Hạ Hầu Mậu và đưa Mậu về kinh. Hạ Hầu Mậu đến khi qua đời vẫn không ra trận lần nào.
Gia Cát Lượng sai Mã Tốc làm tiên phong, dẫn quân chặn Trương Hợp ở Nhai Đình. Mã Tốc vốn là thân tín của Lượng, cũng đọc nhiều binh thư nhưng thiếu kinh nghiệm trận mạc, trong khi Trương Hợp là danh tướng lâu năm của nhà Ngụy. Đến Nhai Đình, Mã Tốc làm ngược lại với phương án chỉ huy của Gia Cát Lượng. Mã Tốc không đóng quân ở nơi đường cái, gần sông là chỗ có nước cho quân dùng, mà lại mang quân trấn giữ trên núi với phương án "Trên núi đánh xuống, thế như chẻ tre". Vương Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tốc không nghe. Quả nhiên khi bị quân Ngụy chặn đường lấy nước, quân Thục đại bại nhanh chóng. Trương Hợp nhân đà tiến quân tái chiếm cả ba quận thuộc đất Lũng Hữu. Triệu Vân và Đặng Chi chỉ có ít quân già yếu làm nghi binh nên cũng phải rút khi bị Tào Chân tấn công.
Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng bị mất bàn đạp tấn công, lỡ mất cơ hội đánh chiếm Lũng Hữu, đại quân Thục không thể tiến nữa buộc phải lui về Hán Trung. Chiến dịch của Thục Hán đến đây coi như kết thúc. Quân Thục Hán thu phục Khương Duy và giành được dân của 3 quận, nhưng không đạt mục tiêu chính. Gia Cát Lượng ra lệnh rút quân và xử tội Mã Tốc, đồng thời xin tự giáng chức xuống 3 bậc thành Hữu tướng quân, đứng dưới cả Lý Nghiêm (đã lên Tiền tướng quân vào năm 226).
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có hư cấu thêm chi tiết "Không thành kế", theo đó Gia Cát Lượng không còn quân, một mình ngồi trên thành mở toang cửa gảy đàn để dọa Tư Mã Ý rút quân. Sự kiện này không có thật vì khi đó Tư Mã Ý vẫn trấn thủ Uyển Thành, và theo sách sử thì mãi đến chiến dịch thứ 4 đánh Ngụy thì Gia Cát và Tư Mã mới đối đầu nhau.
Theo chú thích của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí, câu chuyện "Không thành kế" là do Quách Xung nói với Phù Phong vương Tư Mã Tuấn để ca ngợi Gia Cát Lượng. Tuy nhiên Bùi Tùng Chi cho rằng chuyện này không có thật vì nội dung tình tiết có nhiều điểm không hợp lý. Hơn nữa, Quách Xung khen Lượng như vậy chẳng khác nào chê bai Tư Mã Ý, không thể nào dám nói trước mặt Tư Mã Tuấn (con trai của Ý), càng không thể nào Tuấn "cho rằng lời của Xung là đúng".
Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh. Như vậy theo chính sử thì Gia Cát Lượng sử dụng "Không trận kế" để khiêu khích quân Ngụy, chứ không phải là "Không thành kế" để dọa quân Ngụy. "Không trận kế" đã không có tác dụng, và sự kiện này cũng không diễn ra ở lần bắc phạt thứ nhất.
Về nguyên nhân thất bại, có người an ủi cho rằng nguyên do xuất quân lần này gặp bất lợi là do binh lực quá ít. Gia Cát Lượng đã nghiêm túc trả lời rằng: Không đúng như vậy, vì trong hai trận đánh ở Kỳ Sơn và Tà Cốc, quân Thục nhiều hơn quân Ngụy, nguyên nhân thất bại chính là do bản thân ông dùng người không đúng. Gia Cát Lượng nói rằng từ sau này sẽ thưởng phạt nghiêm minh, khắc phục thiếu sót, và bất kỳ ai trung thành với đất nước đều có quyền vạch khuyết điểm của ông, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ thù thống nhất được thiên hạ.
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra việc Trương Bào làm tướng theo Gia Cát Lượng đánh Ngụy. Thực tế cả Quan Hưng lẫn Trương Bào đều chết yểu, chưa từng làm tướng.
Chiến dịch thứ hai
Tháng 12 năm 228, nhân cơ hội Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại quân của Tào Hưu ở Thạch Bình, Gia Cát Lượng liền tổ chức cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Trước khi xuất chinh, ông dâng lên bản Hậu xuất sư biểu, thể hiện quyết tâm hết lòng hết sức của Gia Cát Lượng vì nhà Thục Hán mặc dù việc thành bại của Bắc phạt bản thân ông không thể định đoạt. Bài biểu có hai câu nói nổi tiếng sau này đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng trung thành của Gia Cát Lượng với nhà Thục Hán nói riêng và của các bậc trung thần với triều đình phong kiến nói chung:
Gia Cát Lượng quyết định tiến quân theo đường Trần Thương. Tuy nhiên, đại tướng Ngụy là Tào Chân đã đoán trước được Gia Cát Lượng lần sau đến đánh sẽ đi đường này, và giao cho Hác Chiêu tăng cường phòng thủ ải Trần Thương. Gia Cát Lượng bị bất ngờ trước sự phòng thủ kiên cố của quân Ngụy.
Dụ hàng Hác Chiêu không được, Gia Cát quyết tâm đánh thành. Thế nhưng cửa ải rất vững chắc, trong suốt 20 ngày, quân Thục với quân số lên đến 40.000 - 50.000 vẫn không thể công phá được. Hác Chiêu chỉ với 1000 quân đã giữ vững được đến khi viện binh của nhà Ngụy tới cứu.
Trương Hợp dự đoán rằng chỉ cần nghe tin mình đến, Gia Cát Lượng sẽ rút quân, và quả thực quân Thục rút lui trước khi viện binh của Trương Hợp đến Trần Thương. Tiểu tướng trong ải Trần Thương là Vương Song mở cửa đuổi theo quân Thục, bị phục binh bắn chết.
Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, Vương Song được phóng đại là một vị tướng có sức mạnh và tài nghệ thuộc hàng mạnh nhất của quân Tào Ngụy tại thời điểm đó, nhưng bị Ngụy Diên chém chết.
Chiến dịch thứ ba
Mùa xuân năm 229, Gia Cát Lượng phái Trần Thức đi đánh các vùng xa xôi ở Tây Bắc của nhà Ngụy. Tướng Ngụy Quách Hoài dẫn binh đối địch, nghe tin đại quân của Thục sắp đến thì rút lui. Trần Thức đánh lấy được hai quận là Vũ Đô và Dương Bình.
Gia Cát Lượng chiếm được hai quận liền thu quân, báo tin thắng trận, được Hậu chủ phục chức Thừa Tướng.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu nên chuyện rằng Vương Lãng làm quân sư cho Tào Chân và Quách Hoài, đấu khẩu với Gia Cát Lượng trước trận, bị mắng đến uất quá từ trên ngựa ngã lăn xuống đất chết. Thực tế sử chỉ có ghi Vương Lãng từng gửi thư cho Gia Cát Lượng khuyên ông nên quy phục nhà Ngụy, Lượng trả lời rằng ông quyết trung thành với nhà Hán.
Nhà Ngụy phản công
Năm 230, nhà Ngụy muốn thay đổi tình thế từ bị động sang chủ động tấn công. Đại tướng Tào Chân cùng Tư Mã Ý dẫn 2 cánh quân tấn công Hán Trung. Số người ở đạo quân Tào Chân vượt quá 5 vạn, Tư Mã Ý cũng có 3-4 vạn, quân Quách Hoài do các đạo quân nhỏ của các tướng lĩnh hợp thành số người cũng có 1-2 vạn người.
Chiến dịch của quân Tào thất bại do trời mưa liên miên suốt hơn 30 ngày, đường núi bị đứt đoạn. Tào Duệ hạ lệnh thu quân, Gia Cát Lượng cũng không đuổi theo, hai bên không giao tranh gì. Tào Chân trên đường về bị mưa, ốm chết.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện Lượng gửi thư chọc tức Tào Chân đang ốm, Chân đọc thư xong thổ huyết chết. Thực tế Tào Chân chết bệnh ở Lạc Dương chứ không phải bị Gia Cát Lượng viết thư chọc tức mà chết, và khi Tào Chân làm đô đốc quân Ngụy đã chặn được quân Thục trong lần bắc phạt thứ nhất và thứ hai.
Chiến dịch thứ tư
Cuối năm 230, quân Thục do Ngụy Diên dẫn đầu giao tranh với quân Ngụy do Phí Diệu và Quách Hoài chỉ huy. Quân Thục thắng trận.
Năm 231, Gia Cát Lượng thống lĩnh đại binh ra Kỳ Sơn lần thứ 2, tiến hành cuộc Bắc phạt lần thứ tư.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa viết rằng "Khổng Minh Lục xuất Kỳ Sơn", nhưng theo sách sử, Gia Cát Lượng chỉ 5 lần xuất quân đánh Ngụy, trong đó chỉ ra Kỳ Sơn lần thứ 1 và thứ 4. Còn 1 lần thì quân Thục Hán phòng thủ chống quân Ngụy.
Quân Thục lần này dùng xe trâu (trâu gỗ, ngựa máy) vận chuyển quân lương. Về phía nhà Ngụy, Tào Chân đã bị bệnh chết nên Tư Mã Ý làm thống soái, các tướng lĩnh Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài làm tiên phong. Đây là lần đầu tiên Gia Cát và Tư Mã đối đầu nhau, cũng là lần đầu Tư Mã Ý cầm đại quân tham gia chiến tranh.
Gia Cát Lượng chia quân ở lại Kỳ Sơn, còn mình đến Thiên Thủy lén gặt lúa. Tư Mã Ý cũng dẫn quân đến Thiên Thủy, Gia Cát Lượng không chủ quan khinh địch, ra lệnh cho quân lính chiếm cứ vùng rừng núi hiểm trở, bố trí trận địa sẵn sàng. Đại quân hai bên đối mặt nhau nhưng vẫn chưa xảy ra giao tranh.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng phép thuật "độn giáp" để gặt xong lúa, khiến Tư Mã Ý vừa kinh sợ vừa thán phục.
Gia Cát Lượng rút lui về phía Kỳ Sơn nhằm lôi kéo quân Ngụy ra đánh. Tư Mã Ý cho quân đuổi theo nhưng vẫn đề phòng cẩn thận, khi quân Thục dừng lại thì họ cũng dừng lại. Lúc này nhiều tướng Ngụy cho rằng Tư Mã Ý nhát gan. Bị các tướng thúc ép, Ý phải tung quân giao chiến. Tư Mã Ý đích thân dẫn quân đi, một cánh khác do Trương Hợp thống lĩnh đánh vào phía Nam của quân Thục ở Kỳ Sơn. Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên, Ngô Ban, Cao Tường ra nghênh địch. Quân Ngụy bị thua to, quân Thục khi thu dọn chiến trường đã đếm được hơn 3000 thủ cấp, 500 bộ giáp và cung nỏ. Ý rút quân về Thiên Thủy, cố thủ không ra đánh.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng kế tăng bếp lừa Tư Mã Ý ra đánh. Thực tế đây là kế của Ngu Hủ thời Đông Hán lừa quân Khương trước đó gần 70 năm.
Tháng 6 năm 231, mưa to khiến việc vận tải lương thực rất khó khăn. Quân Thục phải rút lui vì hết lương ăn. Trương Cáp dẫn quân đuổi theo đến Mộc Môn thì bị phục kích bắn chết.
Tam Quốc chí ghi rằng Tư Mã Ý khuyên Trương Cáp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng sách"Ngụy lược" thì cho rằng Trương Cáp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không muốn đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc là vì trúng kế, hoặc là cố ý hại Trương Cáp để tranh quyền nên ra lệnh cho ông đuổi theo. Trương Cáp được phong tước Hầu sau khi chết.
Chiến dịch thứ năm
Bốn lần Bắc phạt phải rút giữa chừng vì khó khăn trong cung ứng lương thực. Song Gia Cát Lượng liên tục đối trận với những danh tướng bậc nhất Tào Ngụy như Tào Chân, Trương Cáp và Tư Mã Ý, đặc biệt là sau khi đánh bại Tư Mã Ý và giết chết Trương Cáp, Gia Cát Lượng càng tin vào khả năng đánh bại Tào Ngụy.
Để cải thiện vấn đề tải lương, ông đã cải tiến thêm một bước trâu gỗ ngựa máy, đồng thời cho khai khẩn với quy mô lớn ở Hoàng Sa (tỉnh Thiểm Tây), thao luyện việc vận tải bằng trâu gỗ ngựa máy ở Bạch Mã Sơn vùng Cảnh Cốc (tỉnh Tứ Xuyên), lại cho xây dựng ở Tà Cốc kho lương lớn chưa từng thấy, để hoàn chỉnh chuẩn bị bắc phạt. Liền hai năm, đại bộ phận thời gian của Gia Cát Lượng vẫn ở Hán Trung để luyện binh giảng võ, khuyên quân cầy cấy.
Năm 234, sau mấy năm chuẩn bị, Gia Cát Lượng tiếp tục mang 10 vạn quân đánh Ngụy lần thứ năm. Lần này quân Thục đi theo đường Tà Cốc đến huyện My, cắm trại tại đồng bằng Ngũ Trượng phía nam sông Vị Thủy. Ngũ Trượng ngày nay thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, là một vùng gò đồi thấp, chất đất phì nhiêu thích hợp trồng trọt lương thực. Gia Cát Lượng lựa chọn vùng đất này là nhằm có thể trồng cấy lương thực tại chỗ, dự liệu cho việc tác chiến trường kỳ. Ông cũng giữ nghiêm quân kỷ, tuyệt đối cấm việc chiếm đoạt của cải và thóc lúa của dân chúng. Vì vậy quân Thục và dân cày trong vùng tương đối hòa thuận, không xảy ra xung đột gì.
Tuy quân Tào Ngụy chiếm ưu thế về quân số, song sau mấy lần bị quân Thục Hán đánh bại ở chiến trường, tướng Trương Cáp tử trận, nên Tư Mã Ý cho rằng tiến hành giao chiến lớn thì sẽ bất lợi. Tư Mã Ý biết quân Thục gặp khó khăn về tiếp tế lương thảo, nên vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh. Gia Cát Lượng sai quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc nhằm chọc tức Tư Mã Ý, nhưng ông ta tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị khiêu chiến.
Gia Cát Lượng gửi vào trong thành một bộ áo quần phụ nữ kèm theo một bức thư với nội dung: "Trọng Đạt chui rúc trong thành không giám ra nghênh chiến, thì có khác chi đàn bà, nếu muốn xưng danh là người quân tử và còn biết liêm sỉ, thì hãy ra ngoài thành đọ tài cao thấp, nếu không thì hãy mặc bộ quần áo này vào". Các tướng Ngụy tức điên. Để làm dịu các tướng lĩnh, Tư Mã Ý vờ xin Tào Duệ cho phép tấn công quân Thục. Tào Duệ biết ý, phái người tới chỗ Tư Mã Ý thuyết phục tướng sĩ bình tĩnh.
Gia Cát Lượng cho lính làm ruộng để có lương thực đánh trường kỳ, một mặt vẫn liên tục khiêu khích quân Ngụy, nhưng Tư Mã Ý tiếp tục án binh bất động. Quân Ngụy kiên quyết cố thủ không đánh đã đưa Gia Cát Lượng vào thế giằng co không thể tiến triển được.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu nên sự kiện Gia Cát Lượng dùng kế lừa Tư Mã Ý và hai con trai vào Thượng Phương Cốc rồi cho quân ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu phóng hỏa. Trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng ôm hai con khóc lóc thì trời bỗng đổ mưa lớn, dập tắt hết ngọn lửa, giúp cho cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi hang.
Gia Cát Lượng lo lắng vì quân Ngụy không chịu xuất trận, lại làm việc rất vất vả, dậy sớm thức khuya, việc xử án phạt 20 gậy trở lên đều tự mình xét hỏi cẩn thận nên sức khỏe mỗi ngày mỗi sút kém.
Qua đời
Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng sinh bệnh nặng. Vua Thục Hán là Lưu Thiện phái Thượng thư Lý Phúc, ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nằm trên giường bệnh dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng "da ngựa bọc thây chết ở sa trường". Lý Phúc thảy đều ghi nhớ lời di chúc của Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Lưu Thiện.
Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12 (tức năm 234), Gia Cát Lượng bệnh mất ngay trong chiến dịch Bắc Phạt lần thứ 6, thọ 54 tuổi; kể từ khi ông ra khỏi lều cỏ Long Trung đã trải qua 27 năm, ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán được 14 năm. Cuốn "Tấn Dương thu" của Tôn Thịnh đời Đông Tấn có chép: "Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi..."
Trước khi qua bệnh qua đời, Gia Cát Lượng dặn dò Khương Duy đoạn hậu Ngụy Diên. Khi đại tướng Ngụy là Tư Mã Ý được tin Gia Cát Lượng đã chết, liền hạ lệnh cho quân Ngụy tấn công. Tuy nhiên Dương Nghi đã làm theo mưu kế của Gia Cát Lượng là quay cờ về phía sau, dóng chuông đánh trống đàng hoàng tiến quân, làm cho Tư Mã Ý với bản tính đa nghi tưởng rằng Gia Cát Lượng vấn chưa chết. Tư Mã Ý sợ rằng Gia Cát Lượng chỉ giả chết để lừa mình, ngay lập tức vội vàng cho quân quay về doanh trại cố thủ. Việc Tư Mã Ý phải bỏ chạy trước một Gia Cát Lượng đã chết khiến người dân truyền tụng câu truyện cười: "Gia Cát chết vẫn dọa được Trọng Đạt sống" (死諸葛嚇走活仲達). Khi Tư Mã Ý biết việc này, ông cười và nói: "Ta có thể chiến đấu với người sống, chứ không phải người chết." Nhờ kế này của Gia Cát Lượng, quân Thục mới an toàn rút về Hán Trung.
Trong Tam quốc chí bình thoại có ghi lại giai thoại dân gian kể rằng Tư Mã cũng từng nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: “Lai bất khả đương, công bất khả thủ, khốn bất khả vi, vị tri thị nhân dã, thần dã, tiên dã?”, nghĩa là: Gia Cát Lượng đã đến thì không ai có thể địch nổi, đã tấn công thì không ai có thể phòng thủ, khó khăn cũng chẳng thể vây hãm, ông ấy không phải là người, mà là thần, là tiên.
Nguyên nhân Bắc phạt thất bại
5 lần Gia Cát Lượng bắc phạt, tuy đánh thắng một số trận, giành thêm được dân tại 4 quận phía Tây, nhưng nhìn chung là không đạt mục tiêu đề ra. Theo Dịch Trung Thiên, có 3 nguyên nhân dẫn đến việc Bắc phạt thất bại của Thục Hán và Gia Cát Lượng:
Thứ nhất: Tào Ngụy lớn mạnh, nên không dễ sụp đổ nhanh chóng. Ngụy Diên từng đề xuất chia quân 2 hướng, hội sư ở Đồng Quan giống như năm xưa Hàn Tín giúp Lưu Bang lấy thiên hạ, nhưng Gia Cát Lượng không nghe vì phương án này có rủi ro lớn, trong khi "Ngụy chủ minh lược, còn có Tư Mã Ý không thể xem nhẹ" Quân số và diện tích Tào Ngụy lớn hơn gấp 4 lần so với Thục Hán là một bất lợi rất lớn đối với Gia Cát Lượng
Thứ hai: vùng Ích Châu không phải là nơi dễ tiến công vào Trung Nguyên. Đường vào Thục khó đi, địa hình hiểm trở, ngăn người cũng là ngăn mình, phòng thủ thì dễ còn xông ra giành thiên hạ thì khó. Quân Thục Hán xuất chinh lần nào cũng bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn Theo Long Trung đối sách thì Gia Cát Lượng dự trù phải có một phần Kinh Châu để có thêm 1 con đường Bắc phạt, nhưng lúc này Thục Hán không còn Kinh Châu nên việc bắc phạt gặp khó khăn gấp bội.
Thứ ba: Gia Cát Lượng là người thận trọng, không muốn đưa ra những quyết sách mạo hiểm.
Dịch Trung Thiên cho rằng bản thân Gia Cát Lượng có lẽ cũng nhận ra các vấn đề này, nhưng ông vẫn quyết tâm Bắc phạt để "lấy công để thủ", "quấy bên ngoài để giữ yên bên trong", bởi Thục Hán đất hẹp ít dân hơn Tào Ngụy, nếu ngồi yên thì chẳng khác nào đợi diệt vong, còn nếu tấn công thì ít ra vẫn có cơ hội thắng. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng đã chỉ rõ rằng trong Tam quốc thì nước Thục Hán có tiềm lực lãnh thổ, dân số ít nhất, do đó không thể thỏa mãn với cục diện yên ổn tạm thời mà phải cố tiến công giành thêm lãnh thổ. Vương Phu Chi cho rằng quyết tâm Bắc phạt chính là sự nhìn xa trông rộng của Gia Cát Lượng.
Truy tặng
Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu truy tặng ấn thụ Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt tên Thụy là Trung Vũ hầu (忠武侯).
Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung theo đúng di nguyện. Mộ phần tựa vào núi, chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài sản gì. Chiếu thư do vua Thục Hán ban tặng viết rằng:
Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành thực, chịu mệnh thác cô, đem thân phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám phương, lập công lớn vào thời cuối Hán, công lao sánh tựa Y Doãn - Chu Công. Sao chẳng xót thương, việc lớn chưa thành, gặp bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan tan nát. Trọng người đức lớn công đầu, tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết, truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn thiêng có linh, xin về thượng hưởng. Than ôi thương thay! Than ôi thương thay!
Người kế nghiệp
Ngay sau khi Gia Cát Lượng chết, mâu thuẫn tranh chấp binh quyền xảy ra giữa đại tướng Ngụy Diên và thân tín của Lượng là Dương Nghi. Tam quốc chí có chép: "Gia Cát Lượng rất tiếc tài cán của Dương Nghi, cũng rất xem trọng sự dũng mãnh của Ngụy Diên, thường hận hai người bất bình với nhau, không nỡ bỏ một người". Trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng yêu cầu Khương Duy, Phí Vỹ giúp đỡ Dương Nghi chỉ huy việc rút quân. Ngụy Diên muốn tiếp tục ở lại chiến đấu nên không tuân lệnh Dương Nghi, hạ lệnh cho quân đoàn của mình sớm rút về phía nam Tà Cốc, không muốn làm việc chặn hậu cho toàn quân. Dương Nghi cáo buộc Ngụy Diên âm mưu tạo phản. Các quan văn như Tưởng Uyển, Phí Y, đều ủng hộ Dương Nghi.
Ngụy Diên vốn không có ý phản, chỉ muốn giết Dương Nghi nên dàn quân ngăn cản đường về của đoàn quân Thục Hán. Dương Nghi hạ lệnh cho Vương Bình đang chỉ huy hậu quân đến đánh Ngụy Diên. Vương Bình chọn sách lược "tiên lễ hậu binh", phân người ước hẹn với Ngụy Diên đối trận ở cửa Nam Cốc, đầu tiên chỉ tiến hành đàm phán. Ông ta nói với Ngụy Diên và quân lính rằng: "Thừa tướng vừa mới mất, thi thể còn chưa lạnh, các ông cuối cùng không nghĩ đến ân nghĩa lại muốn tạo phản ư?". Các tướng lĩnh quân Ngụy Diên nghe Vương Bình diễn thuyết, tinh thần lập tức tan rã, đại đa số quân sĩ không đánh mà rút khỏi cửa Nam Cốc. Ngụy Diên sau khi đại bại dẫn vợ con và một số người thân tín chạy trốn vào vùng núi Hán Trung để lánh nạn, Dương Nghi hạ lệnh cho Mã Đại dẫn quân tìm bắt, không lâu đã bắt được Ngụy Diên cùng gia nhân, Dương Nghi hạ lệnh cùng đem đi xử trảm. Nhà Thục mất đi danh tướng cuối cùng ở thời Lưu Bị.
Tưởng Uyển là người được chọn để kế nhiệm Gia Cát, Dương Nghi bất mãn phỉ báng triều đình, bị bãi chức rồi tự sát trong ngục. Tưởng Uyển nắm quyền, duy trì các chính sách đối nội của Gia Cát Lượng, nhưng bãi bỏ chính sách phát động chiến tranh chống lại nhà Tào Ngụy, và rút hầu như toàn độ quân đội đồn trú ở thành trì trọng điểm giáp biên giới với Ngụy là Hán Trung về Phù huyện. Từ thời điểm đó, Thục nhìn chung là ở thế phòng ngự và không còn đe dọa đến Ngụy nữa.
Tưởng Uyển ốm, giao việc cho Phí Y và Đổng Doãn. Sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Y kế nhiệm, bắt đầu sai Khương Duy quấy rối biên giới với Tào Ngụy bằng những vụ đột kích mang tính chu kỳ, nhưng chưa bao giờ cho phép Duy thực hiện những cuộc tấn công lớn. Năm 244, khi nhiếp chính của nước Tào Ngụy là Tào Sảng (con Tào Chân) tấn công Hán Trung. Phí Y chỉ huy quân đội chống lại Tào Sảng và đại thắng, quân số Tào Ngụy thiệt hại gần một nửa, dẫn đến sự diệt vong sau này của Tào Sảng.
Phí Y có năng lực, chỉ buổi sáng đã làm hết việc, chiều thường mở tiệc chiêu đãi các quan lại trong triều tại tư gia. Trong một bữa tiệc như vậy, Quách Tuần (郭循), một hàng tướng của Tào Ngụy do Khương Duy đem về, đâm chết Phí Y. Từ đó binh quyền rơi vào tay Khương Duy còn triều chính rơi vào tay hoạn quan Hoàng Hạo.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa miêu tả Khương Duy như là một kỳ tài thiên hạ, được Gia Cát nhận làm học trò và truyền dạy binh pháp, sau khi Gia Cát chết thì thống lĩnh đại quân đánh Ngụy, vai trò của Tưởng Uyển và Phí Y mờ nhạt, hầu hết bị lược bỏ. Trên thực tế mãi đến năm 255 Khương Duy mới được phong Đại tướng quân, và cũng chưa bao giờ nắm được toàn quyền về triều chính như Gia Cát, Tưởng Uyển, Phí Y.
Không còn bị Phí Y kềm chế, Khương Duy khôi phục chính sách Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tổng cộng Duy tiến hành 9 chiến dịch tấn công Tào Ngụy, đa phần thất bại nặng nề. Các tướng Ngụy như Quách Hoài, Đặng Ngải, Trần Thái thành công trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công của quân Thục. Nước Thục Hán vốn nhỏ hơn Ngụy, vì Khương Duy tấn công không thành nên hao tổn nhân lực và tài nguyên nghiêm trọng, triều chính thì bị hoạn quan thao túng, tham nhũng tràn lan, nhà Thục Hán bắt đầu suy tàn.
Một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất của Khương Duy là việc phá bỏ hệ thống trại phòng thủ ở Hán Trung do Gia Cát Lượng theo Kinh Dịch lập nên. Ba mươi năm sau khi Gia Cát Lượng mất, năm 264 SCN, quân Ngụy do Đặng Ngải và Chung Hội thống lĩnh tấn công nước Thục Hán, Hán Trung nhanh chóng thất thủ. Trong khi Khương Duy chặn được Chung Hội ở Kiếm Các, Đăng Ngải lẻn qua Âm Bình sơn - một vùng núi non hiểm trở mà quân Thục không phòng bị. Con và cháu nội của Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm và Gia Cát Thượng đều tử trận khi chiến đấu bảo vệ thành Miên Trúc. Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy. Khương Duy bày kế kích động tướng Ngụy là Chung Hội làm phản để tái lập Thục Hán nhưng thất bại, Khương Duy bị giết và nước Thục diệt vong.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện khi Đặng Ngải vào Thục, đi qua mộ Gia Cát Lượng thì Lượng hiện hồn về báo mộng, khuyên ông đừng cướp bóc, giết hại người dân.
Quan hệ với Lưu Bị, Lưu Thiện
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, mối quan hệ giữa nhân vật Gia Cát Lượng và nhân vật Lưu Bị được ví như "cá với nước", Lượng nói gì Bị nghe nấy. Còn đối với Lưu Thiện thì nhân vật Gia Cát Lượng "hết lòng phò tá", được xem như cha nuôi... Trên thực tế thì Lưu Bị với Gia Cát Lượng đúng là "kính trọng như khách", Lưu Thiện thì ca ngợi "họ Gia Cát đã cứu quả nhân", nhưng mối quan hệ quân thần giữa họ cũng có những vấn đề phức tạp.
Với Lưu Bị
Theo Dịch Trung Thiên, sau giai đoạn gắn bó ban đầu, giữa Gia Cát Lượng và Lưu Bị sau trận Xích Bích lại trở nên ít gắn bó hơn:
Lưu Bị vào đánh Tây Xuyên (Ích Châu) không đem theo Lượng mà đem theo Bàng Thống, Thống thỏa sức tung hoành, bày mưu vạch kế. Bàng Thống chết rồi, Lưu Bị "thương nhớ đến rơi lệ". Khi đánh Đông Xuyên (Hán Trung) Bị lại đem theo Pháp Chính, Chính cùng Lưu Bị vào sinh ra tử, đề xuất chủ trương. Pháp Chính mất, Lưu Bị "nước mắt giàn giụa". Suốt giai đoạn này, Gia Cát Lượng chỉ "lo việc thuế má", "lo lương cho quân ăn"... đây có thể chỉ là do ông vốn giỏi trị quốc, lo việc hậu cần nên được phân công ở phía sau.
Lưu Bị nghe lời Pháp Chính hơn là nghe lời Gia Cát Lượng, Lưu Bị với Gia Cát Lượng "kính trọng như khách", còn với Pháp Chính thì "nghe lời theo kế". Chính Gia Cát Lượng cũng từng thừa nhận điều này khi nói: “nếu Pháp Hiếu Trực còn thì có thể ngăn được chúa thượng”. Dịch Trung Thiên cho rằng về sau giữa hai người đã nảy sinh sự khác biệt về tư tưởng chiến lược: Lưu Bị vì muốn đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi mà xóa bỏ chủ trương "hòa Ngô đánh Ngụy" của Gia Cát Lượng
Lưu Bị không hoàn toàn tín nhiệm Gia Cát Lượng, sau khi lên ngôi Hoàng Đế phong Gia Cát làm Thừa tướng, nhưng không cho "khai phủ" (nghĩa là chỉ có chức vụ, không có trụ sở, không có phủ đệ, không có thuộc cấp), tức là không thể lấn quyền nhà vua như Tào Tháo đã làm.
Lưu Bị "gửi con" cho Gia Cát Lượng do vì con còn quá nhỏ và không còn ai khác đủ tin cậy để gửi. Trong việc gửi con, Lưu Bị có thực tâm tin tưởng Gia Cát Lượng hay không thì không thể xác định rõ vì lời trăn trối của Lưu Bị quá vắn tắt, có thể hiểu theo nhiều cách khách nhau tùy theo quan điểm của mỗi nhà sử học (xem phân tích bên trên).
Sau này, Gia Cát Lượng không dùng một số người mà Lưu Bị tin cậy; lại sử dụng người Lưu Bị từng cảnh báo là không nên dùng:
Lý Nghiêm: trước khi chết Lưu Bị sắp xếp, đề bạt Lý Nghiêm làm phó, cùng Gia Cát Lượng nắm triều chính (tựa như Trương Chiêu và Chu Du phò Tôn Quyền). Giữa Lượng và Nghiêm đã có xung đột. Theo Tam quốc chí - Lý Nghiêm truyện và Hoa Dương quốc chí, Lý Nghiêm tham quyền, từng đề xuất thành lập Ba châu (tự mình là thứ sử), kết quả “thừa tướng Gia Cát Lượng không theo”. Mấy năm sau, Lý Nghiêm lại xin được "khai phủ", lý do là 4 vị nhận di chiếu của Tào Phi phò tá Tào Duệ đều được khai phủ, nhưng yêu cầu này cũng bị Gia Cát từ chối vì cho rằng Lý nghiêm muốn lấn quyền trung ương. 8 năm sau, Gia Cát Lượng cách chức Lý Nghiêm với chứng cớ rõ ràng là Lý Nghiêm chậm trễ cung cấp quân lương lại trình báo gian dối, nhưng Dịch Trung Thiên cho rằng còn có những lý do khác không rõ ràng
Ngụy Diên: Ngụy Diên là người rất được Lưu Bị tin tưởng, tín nhiệm. Sử ghi rằng "mỗi lần Tiên chủ xuất binh, văn có Pháp Chính, võ có Ngụy Diên". Sau khi chiếm được Hán Trung, ai cũng nghĩ Bị sẽ cho Trương Phi trấn thủ nơi này, nhưng ông lại chọn Ngụy Diên. Sau này Gia Cát Lượng nắm quyền, Ngụy Diên luôn bị kềm chế, mỗi lần hiến kế đều bị gạt đi. Tam quốc chí - Mã Lương truyện viết: lúc xuất binh, ai cũng thấy Ngụy Diên xứng đáng là tiên phong, nhưng Gia Cát Lượng lại sử dụng Mã Tốc (lúc lâm chung Lưu Bị đã chê Mã Tốc), kết quả Mã Tốc bại trận.
Với Lưu Thiện
Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng mới được "khai phủ" thừa tướng, ngoài ra còn kiêm luôn Ích Châu mục. Nước Thục Hán và Ích Châu gần như là một (Thục Hán chỉ có vỏn vẹn châu Ích và Hán Trung), việc Gia Cát Lượng vừa là Thừa tướng Thục Hán (trực tiếp quản lý quan lại) vừa là Ích Châu mục (trực tiếp quản lý dân chúng) cho thấy ông nắm trọn quyền hành (vừa trực tiếp quản "quan" lẫn "dân"). Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện ghi: “chính sự dù to nhỏ, do Lượng giải quyết tất”, Hậu chủ truyện ghi Lưu Thiện nói: “chính, do họ Cát; tế, do quả nhân” (nghĩa là mọi việc quan trọng do gia Cát Lượng xử lý, còn Lưu Thiện chỉ là vua trên danh nghĩa).
Lưu Bị vốn "gửi con" để Gia Cát Lượng phò tá, giúp đỡ Lưu Thiện. Gia Cát Lượng hết lòng tận tụy vì việc nước, tự mình xử lý mọi việc, chưa bao giờ trao lại quyền điều hành cho Lưu Thiện. Thục Hán không đặt chức quan ghi sử, khiến người sau không biết chuyện gì xảy ra trong triều. Gia Cát Lượng kèm cặp, dạy bảo Lưu Thiện rất nghiêm, lên ngôi năm 17 tuổi đến khi 29 tuổi Lưu Thiện mới ra khỏi cung lần đầu. Tam quốc chí - Hậu chủ truyện ghi: năm 236 Hậu chủ mới đi xem đập Đô Giang; Tư trị thông giám có ghi chú: không còn Gia Cát Lượng nên Lưu Thiện mới ra ngoài du ngoạn. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng dùng lời lẽ dạy bảo Lưu Thiện, mong ông noi gương tiên đế, hành xử đúng đạo lý Bùi Tùng Chi cho rằng Gia Cát Lượng không trao quyền điều hành cho Lưu Thiện vì biết Lưu Thiện chưa quen chấp chính, còn Dịch Trung Thiên thì cho rằng có 3 nguyên nhân:
Thứ nhất, việc nhà vua vừa tự nắm quyền vừa tự thân chính là không hay vì khi có chuyện sẽ không có ai cáng đáng cùng vua.
Thứ hai, Gia Cát Lượng là người rất có trách nhiệm, sợ giao việc cho một người non nớt như Lưu Thiện thì sẽ làm hỏng việc nước.
Thứ ba, nước Thục Hán có nhiều khó khăn, bên ngoài lại có nguy cơ lớn bị Tào Ngụy và Đông Ngô tấn công, nên chỉ có Gia Cát Lượng mới có thể xử lý tốt.
Sau khi Gia Cát Lượng chết, Lưu Thiện bãi bỏ chức vụ Thừa tướng, lấy lại thực quyền cho mình. Theo ghi chú của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện (dẫn Tương Dương ký), khắp nơi người người ở Thục đều yêu cầu lập miếu thờ thừa tướng, nhưng không được Lưu Thiện phê chuẩn, người dân phải "tự cúng tế riêng" khắp mọi nơi. Có người nói để "cúng ngoài đường", "tế ngoài đồng" không hợp lẽ, có thể lập miếu ở Thành Đô, nhưng “Hậu chủ vẫn không theo” vì như vậy là "bức tông miếu, khiến bụng thánh sinh nghi". Dư luận xôn xao, bất bình. Cuối cùng có quan dâng sớ đưa ra phương án "có thể chấp nhận được" với Lưu Thiện: cho lập miếu gần mộ (ở núi Định Quân), ra quy định chỉ được lập miếu cúng tế trước mộ (trên núi xa xôi ít người tới). Dịch Trung Thiên cho rằng điều này chứng tỏ Lưu Thiện không ưa Gia Cát Lượng, nguyên nhân là do Lưu Thiện luôn bị Gia Cát Lượng dạy bảo, kèm cặp quá sát sao nên cảm thấy không vui trong lòng
Đánh giá
Tài năng
Gia Cát Lượng là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Ông có tài năng trên rất nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp luật cho tới giáo dục, phong thủy, văn chương, phát minh kỹ thuật. Trong lịch sử thế giới, rất hiếm người có tài năng toàn diện trên khắp các lĩnh vực như ông.
Thời kì Tam Quốc có nhiều quân sư giỏi khác như Tuân Úc, Giả Hủ, Quách Gia, Pháp Chính, Lỗ Túc… nhưng tài năng của họ cũng chỉ giới hạn ở một vài phương diện chứ không ai đa tài được như Gia Cát Lượng. Thậm chí cả về ngoại hình, Gia Cát Lượng cũng phi phàm hơn người, sử quan Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng "có khí anh bá, thân cao tám thước, dung mạo khôi vĩ khác hẳn người thường".
Tư Mã Huy nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phượng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể bình định được thiên hạ". Người đời sau có câu: "Tam phân thiên hạ Gia Cát Lượng, Nhất thống sơn hà Lưu Bá Ôn", đế nói lên tài năng của ông.
Sau khi Thục Hán mất, Tấn vương Tư Mã Chiêu đã ra lệnh cho Trần Hiệp phải tìm kiếm tư liệu để học tập binh pháp của Gia Cát Lượng. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm còn đích thân thỉnh giáo Phàn Kiến (một cựu đại thần của Thục Hán) về cách trị quốc của Gia Cát Lượng, ông còn cảm thán: "Nếu ta được Gia Cát Lượng phò tá, thì đâu có nhọc mệt như hôm nay". Như vậy, cả ba thế hệ họ Tư Mã kiến lập nhà Tấn, dù là đối thủ của Gia Cát Lượng song đều tán thưởng tài năng của ông, khuyến khích hậu thế noi gương. Nhà Tấn sau này còn truy phong miếu hiệu cho Gia Cát Lượng là "Võ Hưng Vương". Việc truy phong tước vị cho quan đại thần của triều đình đối thủ quả là điều rất hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc.
Theo Trần Văn Đức "Về quản lý thực tiễn, Gia Cát Lượng cơ hồ là người tài giỏi bậc nhất trong thời Tam quốc. Về nhân cách con người và kỹ xảo phát minh, ông đích xác rất đáng ca ngợi, đáng được xem là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc". Sở dĩ Gia Cát Lượng không thể đạt được ý nguyện phục hưng nhà Hán, chẳng phải vì ông điều hành nước Thục không hiệu quả, mà vì bản thân nước Thục có diện tích và dân số khá nhỏ so với Ngụy và Ngô, trong khi đó đối thủ (Tào Tháo, Tư Mã Ý, Tôn Quyền...) đều là những người có tài, cùng với đó là thời vận không được thuận lợi, nhiều kế hoạch của Gia Cát Lượng không thành vì những điều không may (Ngô bắt tay với Ngụy để đánh úp và giết Quan Vũ, Trương Phi bị ám sát, Lưu Bị vì quá đau xót đã không nghe lời can ngăn của ông mà đánh Ngô rồi thua to và ốm chết; người kế nhiệm Tưởng Uyển, Phí Y mất quá sớm, Vương Bình, Mã Trung, Đặng Chi đều mất sau Gia Cát Lượng không lâu).
Về sau Nguyên Vi Chi có bài thơ ca ngợi rằng:
Dẹp loạn phò chúa yếu,
Ân cần việc thác cô.
Tài cao hơn Quản, Nhạc.
Mẹo giỏi quá Tôn, Ngô.
Thắm thiết lời dâng biểu,
Tài tình phép trận đồ.
Đức ngài cao thịnh lắm,
Thiên cổ tiếng thơm tho!
Tài năng chính trị
Về năng lực trị quốc, Gia Cát Lượng được đánh giá rất cao. Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí ca ngợi và so sánh ông với Quản Trọng và Tiêu Hà:
Gia Cát Lượng làm tướng quốc rất đỗi quan tâm đến đời sống trăm họ, lấy mình làm gương về luân lý, điều hành chánh sự. Ông thanh trừ quan lại tham nhũng, giảm bớt các khoản chi quốc gia không cần thiết, tăng thêm hiệu suất bộ máy hành chính Khai sáng dân tâm, ban bố điều luật, xây dựng được niềm tin của dân chúng toàn quốc với quyền lực của vương triều.
Cuối cùng, khắp trong lãnh thổ đều kính trạng mà nể sợ, hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán, lấy chánh tâm công bằng mà khuyên thiện trừ ác vậy; thực là người hiền tài đại độ trong điều hành chánh sự, có thể nói ví như Quản Trọng và Tiêu Hà cũng chẳng thể hơn
Gia Cát Lượng trị quốc theo phép, hành lệnh nghiêm chỉnh, chấp pháp như sơn. Các đại thần, công thần như Lý Nghiêm, Lai Mẫn, Liêu Lập, Hướng Lãng phạm tội đều bị trừng phạt nặng nề. Những đại thần cậy có uy thế mà hành động tranh quyền đoạt lợi, nhất là việc gây rối loạn quan hệ nội bộ, Gia Cát Lượng đặc biệt xử lý nghiêm khắc. Đối với những người có năng lực làm việc nhưng tính cách có tật xấu như Lưu Diễm, Trương Duệ, thì Gia Cát Lượng chọn cách nhắc nhở và cải tạo, cho cơ hội hối cải chuộc tội.
Đối với gia quyến người phạm tội, Gia Cát Lượng không truy bức mà sẵn sàng bổ dụng nếu có tài. Lý Phong con trai Lý Nghiêm, được làm Giang Châu đốc quân, sau thăng làm Thái thú Chu Đề. Lúc Lý Nghiêm bị tội, Lý Phong bị điều về Thành Đô, mọi người đều cho rằng Phong sẽ bị phế truất, nhưng cuối cung Lý Phong vẫn được tập tước, được tham dự chính sự, lại còn được Gia Cát Lượng viết thư động viên, thăm hỏi khiến Phong rất cảm động. Hướng Sủng cháu của Hướng Lãng được Gia Cát Lượng đánh giá cao, bổ nhiệm chức Trung lĩnh quân, chủ trì cấm quân, tuyển chọn, giám sát các tướng lĩnh.
Bởi vì chí công vô tư, cho nên những đại thần như Liêu Lập, Lý Nghiêm bị Gia Cát Lượng cách chức, phế làm dân thường nhưng vẫn không oán hận. Lý Nghiêm ngày thường vẫn hay nói sẽ có ngày được Gia Cát Lượng xá tội và trọng dụng lại, khi nghe tin Gia Cát Lượng chết thì cũng đau buồn sinh bệnh mà qua đời. Còn về Liêu Lập, nghe tin dữ khi đang bị đày ở Vấn Sơn đã nói: "Thừa tướng Gia Cát mất đi, thế là ta chết già ở đây thôi !" Trương Duệ ban đầu rất bất mãn Gia Cát Lượng nắm đại quyền ở Ích Châu, nhưng sau khi chứng kiến cách Gia Cát Lượng làm việc đã hoàn toàn cảm phục tài năng và nhân cách của ông.
Chấp pháp nghiêm minh như vậy là đúng, nhưng không tránh khỏi có một số người bất mãn do bị xử phạt nghiêm. Bùi Tùng Chi ghi chú trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện, trích dẫn Thục ký có câu: “(Gia Cát) Lượng hình pháp gay gắt, hà khắc với bách tính, từ quân tử đến tiểu nhân mang bụng oán thán”, nhiều người không tán thành ý kiến này, và nó cũng mâu thuẫn với câu "hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán" của Trần Thọ. Nhà nghiên cứu Dịch Trung Thiên cho rằng cả hai cách nói thật ra đều đúng: Gia Cát Lượng thực thi pháp luật rất công chính - công khai, tức là công bằng, nên rất được lòng dân; dân chúng ở Thục không oán pháp luật không công bằng mà oán vì pháp luật "quá nghiêm" khiến họ không thể buông tuồng dễ dãi<ref>'Dịch Trung Thiên, Phẩm Tam Quốc (Nhà xuất bản CAND 2010) Tập 2, trang 167</ref>
Tập Tạc Xỉ đời nhà Tấn (tác giả Tương Dương kỳ cựu ký) từng bình luận rằng:"Hình luật không thể không dùng, khi gia hình mà như mình có lỗi, khi ban tước lộc mà không tư riêng, khi trừng phạt mà không giận dữ, thiên hạ còn ai chẳng phục; Gia Cát Lượng là người giỏi dùng hình phạt, từ Tần Hán đến giờ chưa từng có vậy".
Tuy nhiên Tập Tạc Xỉ cũng phê bình Gia Cát Lượng có những sai sót trong việc đánh giá thuộc cấp để giao việc cho họ theo đúng khả năng, có lúc thiếu khoan dung trước lỗi lầm của họ (cụ thể là việc giao Mã Tốc trấn thủ Nhai Đình nên thất bại, rồi sau đó xử chém Mã Tốc), và kết luận: "Gia Cát Lượng không thể kiêm thượng quốc vậy, há không phải sao?"
Gia Cát Lượng nói rằng: "Đạo nhận biết nhân tài có 7 phương pháp: Thứ nhất, đặt họ trước việc phải trái để xem chí hướng. Thứ hai, dùng ngôn từ truy vấn họ để xem tài ứng biến. Thứ ba, tham vấn họ mưu kế để xem kiến thức. Thứ tư, để họ trước họa hoạn khó khăn để xem lòng dũng cảm. Thứ năm, chuốc rượu say để xem bản tính. Thứ sáu, cho họ cơ hội kiếm lợi ích tiền tài để xem sự liêm khiết. Thứ bảy, giao nhiệm vụ cho họ để xem chữ tín”. Gia Cát Lượng còn sáng lập ra một cơ cấu gọi là "tham thự", ông giải thích rằng: "Tham thự là nơi để tập hợp ý kiến của đông đảo mọi người, mở rộng ích lợi của những lời trung". Tham thự chính là tiền thân của ban cố vấn cho các nguyên thủ quốc gia ngày nay, Gia Cát Lượng muốn thông qua "tham thự" để tiếp nhận ý kiến rộng rãi mọi mặt, sau đó xem xét đánh giá lợi hại, từ đó đặt ra chính sách, phương châm chính xác. Gia Cát Lượng còn nhấn mạnh rằng: "Đạo quản lý chính sự thì cốt yếu ở nghe nhiều mặt, tiếp thu ý kiến của đông đảo mọi người ở dưới, hỏi mưu kế từ quan lại cho đến thứ dân, như thế thì mọi sự việc đều làm sáng tỏ, mọi tiếng nói đều được ghi nhận". Quan niệm về sử dụng nhân tài của Gia Cát Lượng khá khách quan và toàn diện, do đó chính quyền Thục Hán đã tập hợp được khá nhiều nhân tài, trở thành một tập đoàn lãnh đạo mạnh.
Đại học giả Chu Hi thời nhà Tống bình luận:Xét từ Tam Đại (3 triều đại Hạ - Thương - Chu) trở về sau, người lấy nghĩa để cai trị chỉ có một mình Gia Cát Khổng Minh.
Triệu Dực trong cuốn “Sử trát ký” có bình luận như sau: “Tào Tháo dùng người lấy quyền lực mà chế ngự, Lưu Bị thì lấy tính tình làm trọng còn Tôn Quyền thì lấy ý khí làm đầu. Lấy quyền thuật chế ngự thì trọng ở cái cốt yếu, lấy tính tình đê mà tụ họp thì trọng ở chữ chân thành, Gia Cát Lượng thì dùng người, trên tinh thần vận dụng sở trường của cả ba nhà đó”. Vị hoàng đế nổi tiếng anh minh Đường Thái Tông nhận xét: nước Thục Hán thời Tam Quốc "10 năm không có đại xá mà dân Thục được cảm hóa sâu xa, là do hiền tướng Gia Cát Lượng rất chí công trong việc cai trị". Đường Thái Tông rất tôn sùng Gia Cát Lượng, trước quần thần ông tán thưởng Gia Cát Lượng là “đệ nhất thừa tướng”, “là bậc đại công vô tư”.
Tài năng quân sự
Mạnh Hoạch, tướng người man bị Gia Cát Lượng bày kế bắt sống tới 7 lần, đã công nhận Gia Cát Lượng có khả năng cầm quân phi thường và nói rằng:
"Thừa tướng có uy như trời vậy, người Nam không phản lại nữa".
Long Trung đối sách do Gia Cát Lượng soạn thảo là chiến lược quân sự nổi tiếng nhất thời Tam Quốc. Gia Cát Lượng đã nhìn nhận chính xác rằng địa bàn Lưu Bị có thể giành được chỉ còn Kinh Châu và Ích Châu, vì khu vực phía Bắc và phía Đông đã bị Tào Tháo và Tôn Quyền chiếm cứ. Gia Cát Lượng cũng đưa ra các phân tích cùng với phương pháp để Lưu Bị đoạt được Kinh Châu và Ích Châu, phát triển thế lực. Theo Kimberly Ann Besio, chiến lược này cho thấy Gia Cát Lượng không chỉ tinh thông sách vở mà còn nắm rất rõ thời cuộc, nhận xét đúng đắn điểm mạnh, điểm yếu của từng lực lượng chính Cơ đồ của nhà Thục Hán sau này, về cơ bản là được xây dựng đúng theo đường lối mà Gia Cát Lượng hoạch định trong Long Trung đối sách.
Việc đóng quân của Gia Cát Lượng rất bài bản, có doanh lũy, bếp giếng, nhà xí, rào tre, chòi canh gắn liền với nhau, chẳng những động viên được lực lượng cơ động rất thuận lợi mà khả năng phòng ngự cũng rất mạnh. Ở gò Ngũ Trượng, Tư Mã Ý đã nhìn thấy doanh lũy và công sự của quân Thục Hán còn lưu lại, phải thốt lên rằng: "Thật là thiên hạ kỳ tài vậy". Nhưng trong thư gửi em trai là Tư Mã Phu thì Tư Mã Ý bình luận (ghi trong "Tấn thư - Tuyên Đế kỷ"): "Lượng chí hướng lớn lao nhưng không nắm được thời cơ, mưu trí rất nhiều nhưng thiếu quyết đoán, thích dùng binh nhưng không biết quyền biến", tức là Gia Cát Lượng quá thận trọng, không thích mạo hiểm nên có những lúc bỏ lỡ thời cơ Hai bình luận tưởng như mâu thuẫn nhưng thực ra không phải vậy. Trong thư gửi em trai, Tư Mã Ý phải chê bai Lượng là để trấn an gia đình cũng như giữ thể diện bản thân trước triều đình. Còn lời khen trên chiến trường cho thấy ông ta thực sự rất e sợ Gia Cát Lượng (sau này Tư Mã Ý khi lập mưu đảo chính nhà Tào Ngụy đã coi việc này dễ dàng hơn nhiều so với cầm quân chống Gia Cát Lượng, và "Tào Sảng so với Gia Cát Lượng chỉ như con dế dũi").
Sau chiến dịch Nam Trung năm 225, Gia Cát Lượng vừa để tận dụng sức chiến đấu của các dân tộc thiểu số miền Nam, vừa để làm giảm mâu thuẫn sắc tộc, đã tuyển lựa người Di để xây dựng đội quân tinh nhuệ mang tên Vô Đương phi quân. Đội quân này cùng với đội cấm vệ quân Bạch Nhĩ binh của Lưu Bị và quân đoàn kị binh Tây Lương của Mã Siêu trở thành 3 lực lượng tinh nhuệ của nhà Thục Hán. Sử sách Trung Quốc ghi lại chiến binh Vô Đương phi quân “thân mặc giáp sắt, có thể dời non vượt núi, giỏi dùng cung nỏ, tên độc, đặc biệt tinh nhuệ trong tác chiến phòng ngự". Đội quân này dùng nỏ liên châu do Gia Cát Lượng cải tiến, kết hợp với kĩ năng bắn nỏ thuần thục có thể đánh bại lực lượng địch đông gấp nhiều lần. Trong lần Bắc phạt thứ 4, Vô đương phi quân do Vương Bình chỉ huy đã lập chiến tích lớn, đánh bại đội quân Ngụy đông gấp 20 lần do tướng giỏi là Trương Cáp chỉ huy.
Trong tác chiến, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, hàng rào để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế kỵ binh của địch, nhờ vậy quân Thục Hán chủ yếu là bộ binh mà vẫn có thể khắc chế ưu thế của kị binh Tào Nguỵ, đánh bại đối phương trong nhiều trận. Sau khi nhà Tấn nhất thống thiên hạ, chính Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm đã hạ lệnh truy tìm và thu thập "Bát trận chiến pháp" của Gia Cát Lượng về làm giáo trình huấn luyện quân đội, cho thấy năng lực quân sự của Lượng là rất cao.
Tới nhà Đường, Gia Cát Lượng đã được xem như "Quân thần", được rước vào Võ miếu - nơi thờ phụng những bậc đại kỳ tài quân sự như Khương Tử Nha, Tôn Tử, Trương Lương...
Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá rằng Gia Cát Lượng là người rất thận trọng, "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", nghĩa là giỏi trị quân hơn là dùng quân, giỏi cai trị hơn là đánh trận Tuy nhiên, nhiều học giả khác đã chỉ ra rằng: cha Trần Thọ từng bị Gia Cát Lượng xử tội, mặt khác Trần Thọ là quan nhà Tấn, mà người kiến lập nhà Tấn là Tư Mã Ý từng mấy lần thất bại trước Gia Cát Lượng, nên Trần Thọ đã cố ý đánh giá thấp tài quân sự của Gia Cát Lượng. Như Tấn thư của Phòng Huyền Linh ghi rằng: "Cha Thọ làm tham quân cho Mã Tốc, Tốc bị Gia Cát Lượng giết, cha Thọ cũng bị xử tội cắt tóc, Gia Cát Chiêm lại khinh Thọ. Thọ viết truyện về Lượng, bảo Lượng mưu lược không cao, không có tài ứng địch, bàn luận thì chỉ dựa vào sách vở, tiếng tăm vượt quá sự thực. Người bàn lấy đó để chê". Hoặc Lưu Tri Kỷ trong Sử thông, thiên Trực thư phê bình việc Trần Thọ không đề cập đến việc Tư Mã Ý bại trận khi tác chiến với Gia Cát Lượng, để giấu đi việc Gia Cát Lượng cầm quân trên tài Tư Mã Ý:
Trong "Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc", nhà sử học Nga B. L. Riftin cũng cho rằng bộ sử của Trần Thọ có ý thiên vị cá nhân lộ liễu: Gia Cát Chiêm, con trai Gia Cát Lượng, từng nhận xét coi thường Trần Thọ, và Trần Thọ đã trả thù khi viết trong sử sách là: “Lượng chỉ biết đọc sách, tiếng tăm vượt quá thực tế”. "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", tính chất thiên vị và có ý hạ thấp Gia Cát Lượng trong lời đánh giá như vậy đã bị các tác giả Tấn thư (một bộ chính sử khác) chỉ trích
Trong giai đoạn đầu nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, Lưu Bị giao cho ông quản lý kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị đi cùng Pháp Chính các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính. Một số ý kiến cho rằng như vậy chứng tỏ Gia Cát Lượng thiếu khả năng quân sự. Nhưng thực ra không phải như vậy. Thứ nhất, Gia Cát Lượng là quân sư chiến lược, vai trò của ông là hoạch định chiến lược quân sự tại hậu phương (tiêu biểu là Long Trung đối sách) chứ không cần phải mạo hiểm tự xuất chinh như võ tướng (chỉ sau khi Lưu Bị và nhiều võ tướng qua đời, nhà Thục Hán thiếu nhân sự thì Lượng mới bắt buộc phải ra trận). Thứ hai, Gia Cát Lượng là người giỏi nội trị nhất của Thục Hán nên đương nhiên Lưu Bị phải bố trí ông ở hậu phương: việc đánh trận thì Lưu Bị có thể dùng Bàng Thống, Pháp Chính để thay thế, chứ việc nội trị thì không ai thay được Gia Cát Lượng (cũng như Tào Tháo khi đi đánh trận luôn để Tuân Úc ở lại hậu phương, dù Tuân Úc hoàn toàn có thể cầm quân đánh trận). Vì 2 lý do trên mà Lưu Bị khi còn sống ít khi bố trí Gia Cát Lượng xuất trận, đó là vì vai trò quá quan trọng của Lượng chứ không phải vì ông thiếu khả năng quân sự.
Một phân tích khác thì cho thấy tài binh lược của Gia Cát Khổng Minh vẫn cao hơn Tư Mã Ý. Trong cuộc Bắc phạt vào tháng 5/231, dù điều kiện bất lợi hơn (viễn chinh đường xa, quân ít hơn, lương thiếu), nhưng Gia Cát Lượng đã thắng Tư Mã Ý trong tất cả các ý đồ tác chiến: từ vây thành diệt viện cho đến dụ địch lùi sâu để mai phục, từ công tác tiếp vận đến duy trì sĩ khí, từ phản mai phục cho đến phản tập kích. Từ Thượng Khuê đến Kỳ Sơn; quân Thục đều đánh cho quân Ngụy bại trận. Quân Ngụy quân bại trận triệt để, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục “đóng cửa thủ vững”. Thế cục này được duy trì đến khi Lý Nghiêm không hoàn thành nhiệm vụ vận tải, khiến Thục quân cạn lương buộc phải rút về. Và lần này, Khổng Minh rút lui vẫn đặt phục binh giết được tướng tài của Ngụy là Trương Cáp, khiến cho tổn thất của quân Ngụy lại càng nặng hơn. Sau này, Tư Mã Ý bị thuộc tướng chê bai là “sợ Thục như sợ cọp”, bị Gia Cát Lượng sỉ nhục bằng việc gửi tặng quần áo đàn bà mà vẫn không chịu ra đánh, chính là vì ông ta biết mình không đọ nổi Gia Cát Lượng trên chiến trường.
Một số quan điểm dựa vào việc Gia Cát Lượng bắc phạt 5 lần vẫn không thành công để che bai, cho rằng tài năng quân sự của Lượng là không cao. Những quan điểm như vậy là không xác đáng, vì không xét đến hàng loạt những bất lợi rất lớn mà Gia Cát Lượng phải đối mặt: quân số của Tào Ngụy đông hơn gấp 3 lần, có lợi thế về kị binh, lại thủ sẵn trong thành lũy vững chắc, quân Thục Hán phải hành quân đường xa hiểm trở, thường bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn Với những khó khăn như vậy, những gì Gia Cát Lượng làm được (chiếm 5 quận, đánh thiệt hại nặng quân Ngụy) đã là rất thành công. Những quân sư, tướng lĩnh nổi tiếng khác thời Tam Quốc khi gặp những khó khăn như vậy đều chẳng thể làm được như Gia Cát Lượng, ví dụ như:
Trận Quan Độ, quân Viên Thiệu cũng đông hơn Tào Tháo 3 lần và đã sớm áp đảo, bao vây quân Tào. Các mưu sĩ giỏi như Giả Hủ, Quách Gia, Tuân Du cũng bó tay không thể lật ngược tình thế (quân Tào chiến thắng là do may mắn được Hứa Du tiết lộ bí mật kho lương của Viên Thiệu). Còn Gia Cát Lượng, dù cũng bị áp đảo 3 lần về quân số, nhưng lại đánh thiệt hại nặng quân Ngụy, buộc đối phương phải chuyển sang cố thủ.
Tào Chân khi nam chinh đánh Thục năm 230, chưa đầy 1 tháng đã phải rút quân vì đường hành quân hiểm trở, không cung ứng được lương thảo. Còn Gia Cát Lượng, dù cũng gặp khó khăn như vậy, nhưng vẫn tác chiến được lâu dài và còn đánh chiếm được một số lãnh thổ của Ngụy.
Trong cuốn sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc Ngoại Truyện), tác giả là Trần Văn Đức nhận xét rằng Gia Cát Lượng tuy không tới mức "xuất quỷ nhập thần" như truyền thuyết dân gian mô tả, song cũng có được nhiều chiến tích nổi trội, xứng đáng là nhà cầm quân bậc nhất thời Tam Quốc, ví dụ như: bình định Mạnh Hoạch chỉ trong thời gian ngắn, lập kế giết được tướng giỏi của Ngụy (Trương Cáp), mấy lần đánh bại Tư Mã Ý, khiến quân Ngụy hoang mang tới mức chỉ chọn sách lược cố thủ trong thành lũy chứ không dám kéo ra giao chiến với quân Thục Hán (dù quân Ngụy đông hơn), khiến nhiều tướng Ngụy phải cười mỉa rằng: "Tướng quân Tư Mã sợ quân Thục như sợ cọp, chẳng nhẽ không sợ thiên hạ cười chê hay sao?". Đến cả khi chết rồi, ông vẫn bày kế dọa được Tư Mã Ý phải bỏ chạy, cho thấy Tư Mã Ý dù đầy mưu mẹo nhưng vẫn rất kiêng dè khả năng bày mưu tính kế của Gia Cát Lượng.
Lòng trung thành
Theo nhiều tác giả, trong cuộc chiến diệt Tào Ngụy, Gia Cát Lượng không đeo đuổi danh lợi, chỉ một ý chí đánh giặc diệt Ngụy, phục hưng nhà Hán, đặt sự hưng vong của quốc gia lên trên danh lợi và vinh nhục của cá nhân với tấm lòng tha thiết. Ông từng tuyên bố rằng: "Nếu như diệt được nước Ngụy, chém đầu Tào Duệ, đưa hoàng thượng về cố đô Lạc Dương thì đến lúc đó tôi cùng chư vị đồng liêu được thăng quan tấn tước, cho dù được thưởng mười loại báu vật tôi cũng xin nhận huống chi là cửu tích".
Lúc sắp mất, Lưu Bị dặn Gia Cát Lượng rằng: "... nếu nó (Lưu Thiện) bất tài, hãy tự thay đi!", nghĩa là cho phép Lượng toàn quyền phế Lưu Thiện lập bản thân hoặc một người con khác của Lưu Bị. Ông đã từ chối ngay, muốn trọn đời là trung thần nhà Hán.
Khi Lưu Bị từ trần, Tào Phi hạ lệnh cho mấy danh sĩ của nước Ngụy trao đổi ý kiến chính trị với Gia Cát Lượng, bao gồm Tư đồ Hoa Hâm, Tư không Vương Lãng, Thượng thư Trần Quần, Thái sử Hứa Chi, Phó tạ Gia Cát Chương, muốn Gia Cát Lượng quy hàng nước Ngụy. Gia Cát Lượng chẳng hề dao động, viết một bức thư công khai trả lời, bày tỏ lập trường tận trung với nhà Hán của mình:"Hạng Vũ ngày xưa, đã phản lại nguyên lý chính trị, có được chính quyền bằng mọi cách, bởi thế tuy chiếm được đại bộ phận vùng đất Hoa Hạ, có được thanh thế của hoàng đế song cuối cùng vẫn thân bại danh liệt, có thể coi là tấm gương soi cho hậu thế.
Nay Tào Ngụy, chưa thấu tỏ sự thực lịch sử, vẫn giẫm lên vết chân Hạng Vũ, phi pháp đoạt lấy chính quyền, tức là cầu may mà có nhất thời, cũng sẽ rước họa về sau vậy. Các vị tiên sinh là những kỳ lão của xã hội, lại vì Tào Ngụy mà viết thư cho tôi, đúng như cuối đời Tây Hán Trần Sùng, Trương Tủng lại ca tụng công lao của Vương Mãng, tiếp tay cho việc Vương Mãng thoái vị, thực là những kẻ đầu sỏ tội lỗi đã phá hoại luân lý chính trị....Kiên trì chính nghĩa, thảo phạt tà đạo không ở số quân nhiều hay ít. Tào Tháo tuy nhiều mưu lược tự dẫn đại quân đến cứu Trương Cáp ở Dương Bình, vẫn khó tránh mất Hán Trung vào tay tiên đế. Tin rằng cái chết của Tào Tháo là sự trừng phạt của thiên mệnh. Song Tào Phi dâm dật không biết tỉnh ngộ, làm việc thoán vị xấu xa mà các ông lại thuyết lý, tuyên dương cho ông ta. Khiến cho những luân lý chính trị của những thánh vương truyền lại như vua Nghiêu, vua Thuấn, Văn Vương đều hoen ố, thực khiến những kẻ quân tử không chịu nổi".
Trong bài Tam Quốc diễn ca cuối tác phẩm, La Quán Trung có mấy câu tả về quyết tâm bắc phạt nhưng không thành của Gia Cát Lượng:...Kỳ Sơn trở ngọn cờ đào,Một tay mong chống trời cao nghìn trùng.Ngờ đâu vận đã cùng khôn gượng,Nửa đêm gò Ngũ Trượng sao sa...Nhà thơ Đỗ Phủ có bài thơ ca ngợi lòng trung thành của Gia Cát Lượng khi đến thăm đền thờ ông:
Bạch Lạc Thiên cũng có thơ rằng
Dù không thành công trong mục tiêu cuối cùng là thống nhất Trung Nguyên, khôi phục nhà Hán, nhưng sau hai nghìn năm, người dân Tứ Xuyên vẫn còn nhắc đến những thành tích trị quốc ở đất Thục của ông. Những danh nhân như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lý Thương Ẩn đều sùng bái ông, viên danh tướng là Nhạc Phi đã lừng danh "tận trung báo quốc", đều đã đọc kỹ bản viết Xuất sư biểu nổi tiếng của Gia Cát Lượng và cùng bày tỏ sự tôn sùng vô hạn đối với tài năng và lòng trung thành của ông.
Gia Cát Lượng đã viết ra Xuất sư biểu gồm hai bài biểu, Tiền xuất sư biểu (前出師表) và Hậu xuất sư biểu (後出師表) để dâng lên Thục Hán Hậu chủ Lưu Thiện trước khi ông thân chinh dẫn quân đi Bắc phạt lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 225 và 226. Trong hai bài biểu này, Gia Cát Lượng đã dùng những lời lẽ thống thiết từ tận đáy lòng để bày tỏ sự tận trung của mình với nhà Thục Hán và những lo lắng của ông cho sự an nguy của đất nước, với hai câu nói nổi tiếng thể hiện tâm nguyện của ông: "Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi" Xuất sư biểu sau đó đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như là đại diện xuất sắc của thể loại biểu và là biểu tượng cho tấm lòng của các bậc trung thần. Nhận xét về bài Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng, Tạ Phương Đắc thời Nam Tống trong tác phẩm Văn chương quỹ phạm đã viết: "Đọc Xuất sư biểu, ai không khóc là bất trung, đọc Trần tình biểu ai không khóc là bất hiếu, đọc Tế thập nhị lang văn ai không khóc là bất từ".
Vị vua nổi tiếng nhất đời Thanh là hoàng đế Khang Hy đã nói rằng: "Gia Cát Lượng nói: Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi. Làm kẻ bầy tôi, duy chỉ có Gia Cát Lượng có thể được như vậy"Năm 2007, tạp chí Shukan Bunshun của Nhật có bài nghiên cứu về quan điểm của người dân Nhật Bản đối với 100 danh nhân nổi tiếng nhất thế giới. Kết quả, Gia Cát Lượng là vị danh nhân được người dân Nhật tôn sùng nhất. Người Nhật tôn sùng Gia Cát Lượng, không chỉ bởi ông có tài năng kiệt xuất, mà còn vì Gia Cát Lượng chính là một tấm gương về lòng trung thành, rất phù hợp với tinh thần võ sĩ đạo, truyền thống "tận trung vì Thiên Hoàng" của người Nhật Bản.
Con trai ông là Gia Cát Chiêm và cháu nội là Gia Cát Thượng kế thừa ý chí phục hưng Hán triều của ông, đã chiến đấu tới cùng và tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ bởi kẻ thù. Bởi vậy, người đời sau có câu khen rằng "Gia Cát Vũ hầu, ba đời trung liệt". La Quán Trung có thơ khen rằng:
Người đời sau có thơ khen gia đình Gia Cát Lượng như sau:
Sự liêm khiết
Tầng lớp quan liêu thế gia ở đất Thục thời Lưu Chương thích hưởng thụ lối sống xa hoa, khiến xã hội băng hoại đến cực điểm. Gia Cát Lượng quyết tâm ngăn chặn, ông lấy mình làm gương đặt ra điều luật. Trong "Giới tử thư", ông nhắc nhở con cái trong nhà:"Ta làm theo đạo của người Quân tử, tu thân thanh tịnh, cần kiệm dưỡng đức, đạm bạc để nuôi chí, tĩnh lặng để nghĩ xa. Ta học lấy sự thanh tịnh, tài do học mà có, chẳng học chẳng rộng tài, chẳng có chí thì chẳng thành công, buông thả hại cho tinh thần, mạo hiểm khó thuần được tính".
Sau khi bình định được phương Nam, danh tiếng của Gia Cát Lượng đạt đến đỉnh cao. Lý Nghiêm bèn viết thư khuyến khích ông thu vén lợi ích riêng: "Nên nhận lễ phong cửu Tích đổi tước hiệu và xưng vương". Gia Cát Lượng chẳng những không nghe theo mà trả lời rất thẳng thắn rằng:"Tôi với túc hạ tương tri đã lâu há chẳng hiểu nhau ư... Tôi vốn là kẻ sĩ quê mùa ở phương Đông, tiên đế lầm dùng được đặt ở vị trí cao sang hưởng lộc trọng, nay trừ giặc chưa mấy hiệu quả, biết rằng chưa đền đáp được bao nhiêu, mà được tôn sùng thái quá, cho ngồi ở những vị trí quan trọng hơn thực hổ thẹn vậy!".
Gia Cát Lượng tự viết biểu tâu lên Hậu chủ Lưu Thiện rằng: "Nhà của thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, việc ăn mặc của con cháu xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng có gấm vóc dư thừa, bên ngoài không có điền sản dôi dư, chính là để khỏi phụ lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy". Sau này Gia Cát Lượng qua đời, quả đúng như lời đã nói.
Gia Cát Lượng di chúc rằng cứ an táng cho mình ở núi Định Quân tại tiền tuyến, không cần đưa về Thành Đô cử hành quốc táng để tránh lãng phí phô trương. Ông cũng di chúc rằng nghi thức tang lễ phải thật đơn giản, lấy núi làm mộ, có thể dùng quan tài loại thường cũng được, khi liệm chỉ cần dùng quần áo bình thường, không chôn theo vật quý.
Sự liêm khiết của Gia Cát Lượng tạo gương cho các quan lại nước Thục. Tể tướng Tưởng Uyển nhắc với con cái: "Thường nhắc nhở trong nhà nên ăn chay, mặc áo vải thô, ra ngoài không dùng xe ngựa". Tể tướng Phí Vĩ sau này, nhã nhặn khiêm nhường, nhà không tích chứa của cải, con cái mặc áo vải thô ăn cơm chay, không thích ngựa xe, chẳng khác dân thường. Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội, nhà cửa cũng rất giản đơn, "trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng hề nghe thấy tiếng đàn hát". Còn Đặng Chi là nhà ngoại giao xuất sắc cũng chịu ảnh hưởng phong cách của Gia Cát Lượng, ông làm quan hơn 20 năm thưởng phạt nghiêm minh, chu cấp cho binh sĩ có khó khăn, sinh hoạt thường cần kiệm, khi ông ta mất gia cảnh rất thanh bần. Thanh liêm như vậy nên không khó hiểu tại sao nước Thục Hán mất mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm về Gia Cát thừa tướng.
Thờ phụng
Gia Cát Lượng là vị quan duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó có thờ 41 vị công thần được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại).
Sau khi Gia Cát Lượng mất, toàn dân Thục Hán rất đỗi thương tiếc, trăm họ tế cúng trong ngõ, người Nhung, Di tế cúng ngoài đồng nội. Tình hình này kéo dài suốt mấy chục năm không thôi. Trong bài biểu dâng lên vua Tấn vào năm Thái Thủy thứ 10 (272), Trần Thọ có nói: “Lê dân nghĩ nhớ, truyền tụng sự tích. Đến nay dân của hai châu Lương, Ích vẫn còn truyền kể chuyện về Lượng, lời như còn vẳng bên tai” Tôn Tiền đời nhà Đường ghi rằng: "Gia Cát Vũ Hầu đã mất 500 năm, nhân dân từ Lưỡng Hán đến nay, vẫn ca tụng sự tích, lập miếu và tế tự ở nhiều nơi, ông đã để lại sự thương nhớ của mọi người mãi mãi khắc sâu như thế"Trên đất Trung Hoa, nhân dân rất nhiều nơi đã lập đền thờ để tưởng nhớ Gia Cát Lượng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở huyện Miễn, dưới chân núi Định Quân (nơi an táng Gia Cát Lượng), sau đó đến miếu Vũ Hầu ở Thành Đô, miếu Vũ Hầu ở thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh... Chỉ riêng vùng đất Thục xưa đã có đến 40 đền thờ Khổng Minh, tuy nhiên trong số đó đền Vũ Hầu ở Thành Đô vẫn là nổi tiếng hơn cả.
Năm 304, Lý Hùng xây dựng được chính quyền Thành Hán ở Thành Đô, ở Thiếu Thành của Thành Đô đã cho xây dựng "miếu Khổng Minh". Năm 347, Đông Tấn đại tướng quân Hoàn Ôn khi diệt được Thành Hán đã cho thiêu hủy Thiếu Thành, song miếu Khổng Minh lại được giữ lại, cho thấy người đời sau dù thuộc triều đình nào cũng rất kính trọng Gia Cát Lượng. Ngôi mộ của Gia Cát Lượng cho tới nay vẫn không bị xâm phạm bởi hậu thế đều kính nể và ngưỡng mộ đức hạnh cả đời cúc cung tận tụy và tài năng của ông. Ngay tới ngôi miếu thờ Khổng Minh từ trước tới nay cũng chưa từng bị trộm cướp. Năm 1979, các chuyên gia từ Học viện nông lâm Bắc Kinh đã xác định rằng 22 cây tùng quanh khu mộ Gia Cát đã được trồng từ thời Tam Quốc, chứng minh rằng suốt 1700 năm, trải qua nhiều cuộc biến động nhưng khu mộ vẫn không hề bị xâm phạm. Bởi vậy, có rất nhiều đền thờ, di tích liên quan tới Gia Cát Lượng được lưu truyền suốt 1.800 năm qua mà không bị hậu thế phá hủy.
Sau thời Tam quốc ít lâu, ở phía nam Thành Đô, trong hậu đường Hán Chiêu Liệt miếu (đền thờ Lưu Bị) có xây dựng một điện thờ Gia Cát Lượng. Đến đời nhà Đường, danh tiếng của Gia Cát Lượng vượt quá Lưu Bị, đền thờ ấy được gọi là đền thờ Vũ Hầu, vẫn được lưu truyền đến nay, trở thành một nơi danh thắng quan trọng ở Thành Đô. Ngôi đền bị cháy trong thời kỳ chiến tranh cuối thời nhà Minh, khi quân của Trương Hiến Trung tiến vào Thành Đô năm 1644. Sau đó đền được trùng tu trong những năm 1671 - 1672 dưới thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Năm 1961, đền được công nhận là di tích trọng điểm cấp Quốc gia của Trung Quốc. Các thi nhân nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn, Lục Du đã từng đến đó chiêm ngưỡng, lại còn viết không ít thơ ca tưởng nhớ Gia Cát Lượng. Trong đền có tấm bia Gia Cát Vũ Hầu rất có giá trị, do nhà chính trị nổi tiếng đời Đường là Bùi Độ viết ra, nhà thư pháp nổi tiếng Liễu Công Xước (anh của Liễu Công Quyền) trực tiếp viết chữ. Tấm bia đó đã khen Gia Cát Lượng có tài khai quốc trị dân, sánh được với những danh thần trong lịch sử như Khương Tử Nha, Y Doãn, Quản Trọng, Tiêu Hà.
Đền Vũ Hầu có diện tích hơn 15.000 m2, gồm 3 gian: gian ngoài thờ Lưu Bị, gian giữa thờ Khổng Minh và gian cuối thờ 3 anh em Lưu Bị - Quan Vũ - Trương Phi. Bước vào trong, du khách sẽ bắt gặp ngay hai bức thư pháp được khắc trên 37 phiến đá, mỗi phiến cao 63 cm, rộng 58 cm, là Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng. Bước qua cổng thứ nhất có tấm bảng “Minh lương thiên cổ” (nghĩa là "Vua sáng tôi hiền còn lưu danh thiên cổ").
Đền thờ Vũ Hầu ở thành Bạch Đế cũng như các đền thờ ở Nam Dương và Tương Dương cũng đều rất nổi tiếng. Ở đền thờ Vũ Hầu tại thành Bạch Đế, nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của Đỗ Phủ đề tặng:
Gia đình và hậu duệ
Tổ tiên: Gia Cát Phong (諸葛豐), làm quan dưới thời Hán Nguyên Đế.
Cha: Gia Cát Khuê (諸葛珪), làm quan vào cuối thời Đông Hán.
Chú: Gia Cát Huyền (諸葛玄), làm quan cho Lưu Biểu và dẫn anh em Gia Cát Lượng về sống ở đất Kinh Châu.
Anh chị em:
Gia Cát Cẩn (诸葛瑾) anh trai làm quan nhà Đông Ngô.
Gia Cát Quân (诸葛均) em trai cùng làm quan nhà Thục Hán.
Chị gái không rõ tên cưới Bàng Lệnh Minh.
Chị gái không rõ tên làm dâu dòng họ Khoái thị ở Kinh Châu.
Gia Cát Đản em họ làm quan nhà Tào Ngụy.
Vợ: Hoàng phu nhân (黄夫人), con gái của ẩn sĩ Hoàng Thừa Ngạn (黄承彦), dung mạo cực kì xấu xí, được liệt vào Ngũ xú Trung Hoa.
Con:
Gia Cát Chiêm (诸葛瞻), con trai trưởng, làm quan nhà Thục Hán, tử trận khi giao chiến với Đặng Ngải.
Gia Cát Hoài (諸葛懷), con gái áp út, sinh năm 232, sống và chết dưới thời nhà Tấn (có nguồn cho rằng đây là nhân vật dã sử, không có thật)
Gia Cát Quả, con gái út, sinh năm 232 (có nguồn cho rằng đây là nhân vật dã sử, không có thật).
Con nuôi:
Gia Cát Kiều (诸葛乔), vốn là con của Gia Cát Cẩn và được Gia Cát Lượng nhận nuôi, chết khi mới 24 tuổi.
Cháu:
Gia Cát Thượng (诸葛尚), con trai trưởng của Gia Cát Chiêm, tử trận cùng với cha.
Gia Cát Phàn (諸葛攀), con trai của Kiều, chuyển về sống ở Đông Ngô để kế tục dòng dõi Gia Cát Cẩn sau khi Gia Cát Khác bị giết và tru di tam tộc.
Gia Cát Kinh (諸葛京), con trai thứ hai của Chiêm. Thứ sử Giang Châu nhà Tây Tấn.
Gia Cát Chất (諸葛質), con trai út của Chiêm.
Hậu duệ:
Gia Cát Tử Kỳ (諸葛梓岐), hay còn gọi là Marie Zhuge, người mẫu Hong Kong, hậu duệ đời thứ 63.
Thôn Gia Cát hay thôn Bát Quái ở thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang còn được gọi là “Trung Quốc đệ nhất thôn”, tập trung gần 6.000 người đều là hậu duệ của Gia Cát Lượng. Thôn Gia Cát do Gia Cát Đại Sư, hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng, lập vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300). Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo cửu cung bát quái, trước khi qua đời ông còn di huấn con cháu không được thay đổi nguyên dạng, dù có bị tai ương. Trải qua hơn 800 năm thăng trầm, tổng thể kiến trúc cửu cung bát quái không hề thay đổi. Trong thôn có đền thờ thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc..., đều là kiến trúc cổ đời Minh - Thanh rất độc đáo. Con cháu Gia Cát trong thôn đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ “Không làm lương tướng, tất làm lương y” nên nhiều đời theo nghề thuốc.
Gia Cát dạy con cháu
Không chỉ tài ba mưu lược, Gia Cát Lượng còn là danh sư bậc thầy. Cuốn sách "Giới Tử Thư" (Thư dạy con) mà Gia Cát Lượng để lại trước khi lâm chung cho con trai mình đến nay vẫn được lưu truyền rộng rãi, trở thành một tài liệu kinh điển chứa đựng những triết lý sống, những đạo lý nhân sinh cuộc đời vô giá. Giới Tử Thư gồm 2 bức thư, mỗi bức chưa quá 90 chữ nhưng lại bao hàm những lời răn dạy sâu sắc. Trong đó, có tám chữ cực kỳ tâm đắc được ông đặc biệt nhấn mạnh với Gia Cát Chiêm, khi đó mới 8 tuổi: "Đạm bạc minh chí, ninh tĩnh chí viễn (Sống đạm bạc để sáng tỏ chí lớn, yên tĩnh để chí hướng cao xa)". Tức là phẩm hạnh của người đức tài toàn vẹn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân và tâm; là dựa vào tác phong giản dị để bồi dưỡng đạo đức.
Bên cạnh đó, Gia Cát Lượng cũng viết rằng: “Học tập cần phải chuyên tâm ý chí, để phát triển tài năng thì cần phải học tập khắc khổ. Không nỗ lực học tập, thì không thể phát triển tài trí; không xác định rõ chí hướng thì không thể thành công trong học tập”. Trong quá trình học tập, ý chí quyết tâm, sự kiên trì, nỗ lực là những yếu tố rất quan trọng để đạt được sự học, vậy nên cha mẹ cần tạo cho trẻ em sự hứng thú với học tập, tìm tòi và rèn luyện tính kiên trì ngay từ những ngày đầu tới trường.
Tuổi trẻ sẽ trôi đi rất nhanh, sức lực và tinh thần của con người cũng suy yếu dần theo tuổi tác, nhân lúc còn trẻ phải tự mình theo đuổi thành công, nắm bắt cơ hội. Gia Cát lượng căn dặn con mình: “Tuổi tác trôi qua, ý chí hao mòn theo năm tháng, thì cuối cùng sẽ như cây khô lá úa mà thôi, không có ích gì cho xã hội. Đến lúc đó ngồi trong góc nhà đau buồn than thở có ích gì đâu?”"Giới tử thư" Gia Cát Lượng gửi con trai Gia Cát Chiêm:
Bức thư “Giới ngoại sanh thư” gửi cháu trai:
Sau này, con cháu của Gia Cát Lượng đều coi nhẹ danh lợi, một lòng tận trung báo quốc, vì quốc gia xã tắc mà cống hiến cuộc đời. Gia đình ông được tôn xưng là "Trung nghĩa truyền gia thế vô song", cũng chính là nhờ sự răn dạy con cháu của Gia Cát Lượng.
Mao Tôn Cương trong Thánh thán ngoại thư có lời khen ngợi:Vũ Hầu (Gia Cát Lượng) có con trung dũng, lại thêm có cháu trung liệt. Đời cho như vậy là Vũ Hầu không chết. Tiên chúa (Chiêu Liệt Đế Lưu Bị) tuy không có con anh hùng, nhưng có cháu (Bắc Địa vương Lưu Kham) khảng khái, cháu thay cho con, đời cũng cho là Tiên chúa không chết... Xem trận đánh Miên Trúc, vì chữ trung mà Chiêm, Thượng liều chết tại trần tiền, ta mới rõ cái hay trong gia giáo nhà Vũ Hầu... Ôi! Nhà Thục Hán mất rồi, nhưng ta vẫn thấy rờ rờ có sinh khí hơn các triều đại khác. Tác phẩm, câu nói nổi tiếng
Tác phẩm
Âm phù kinh
Binh pháp
Mã tiền khóa
Thơ văn:
Bài văn ghi tại miếu Hoàng Lăng
Ngâm lương phụ
Bồ câu trắng
Bài tán trên bia Tư Mã Quý Chủ
Thư gửi: Ngô Chủ, gửi anh Tử Du (Gia Cát Cẩn), gửi Lục Tốn, gửi Trương Duệ, gửi Trương Lỗ.
Khuyên răn cháu ngoại
Khuyên con (2 bài)
Xuất sư biểu Câu nói nổi tiếng
Trong Xuất sư biểu:
Trong tấu chương trình lên Hán Hậu chủ Lưu Thiện:
Trong "Thư khuyên con":
Các phát minh kỹ thuật
Gia Cát Lượng được cho là người phát minh ra màn thầu, khinh khí cầu và một thiết bị giao thông vận tải tự động kỳ bí nhưng hiệu quả được gọi là "trâu gỗ ngựa máy" (Mộc Ngưu Lưu Mã), được cho là một phiên bản của xe cút kít.
Một phiên bản sơ khai của khinh khí cầu được sử dụng để truyền tín hiệu quân sự, được gọi là đèn lồng Khổng Minh, được mang tên ông. Nó được cho là phát minh bởi Gia Cát Lượng khi ông bị bao vây bởi Tư Mã Ý.. Tuy vậy theo nhà sử gia khoa học Joseph Needham, người Trung Quốc đã sử dụng những quả cầu khí cỡ nhỏ để truyền tín hiệu từ thời kỳ Chiến Quốc đầu thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên
Ông được cho là đã phát minh ra loại nỏ có thể bắn liên tục nhiều mũi tên và được gọi là "Nỏ Gia Cát" Thực ra loại nỏ bán tự động đã xuất hiện trong thời kỳ Chiến Quốc (mặc dù có tranh luận rằng nỏ thời Chiến Quốc là bán tự động hay chỉ đơn giản là gắn nhiều chiếc nỏ lên một giá gỗ để bắn cùng một lúc). Tuy nhiên, phiên bản của Gia Cát Lượng đã được ông cải tiến để có thể bắn xa hơn, mạnh hơn và nhanh hơn phiên bản trước đó. Năm 1964, ở vùng công xã Thái Bình thuộc Ti huyện gần Thành Đô đã khai quật được nỏ bằng đồng được chế tạo vào ngày 30 tháng 2 năm Cảnh Diệu thứ tư thời hậu chủ Lưu Thiện, tức là sau 27 năm Gia Cát Lượng từ trần, thuộc loại nỏ liên châu mà Gia Cát Lượng đã cải tiến. Khi kéo dây phải dùng chân đạp vào lẫy, khi kéo thì lẫy nỏ sẽ tự hạ xuống để nạp mũi tên, do có bộ phận lấy chuẩn nên rất trúng đích. Sách “Ngụy thị Xuân Thu” có ghi: “Gia Cát Lượng dùng nỏ liên châu để tập kích giết được danh tướng Trương Cáp, gọi nỏ ấy là “nguyên nhung”, lấy sắt làm tên, mỗi mũi tên dài tám tấc, mỗi nỏ bắn ra mười tên, thực là một vũ khí sát thương mãnh liệt”.
Ngựa gỗ trâu máy được Gia Cát Lượng nghĩ ra khi Bắc phạt Tào Ngụy. Thời điểm đó là mùa mưa khiến cho việc vận chuyển lương thực khá khó khăn. Do đó, Khổng Minh bèn sáng tạo ra ngựa gỗ trâu máy để giải quyết việc vận chuyển. Tuy nhiên, sử sách không ghi rõ hình dạng, cơ chế vận hành của loại máy này. Các nhà sử học ngày nay suy đoán đây có thể là một loại xe cút kít cải tiến, có phần bánh xe và khung truyền động được thiết kế để dễ di chuyển trên đường gồ ghề (gần giống như xe đạp thồ ngày nay). Sử sách còn mô tả trâu gỗ ngựa máy có thể tự di chuyển một quãng đường, có thể Gia Cát Lượng đã phát minh ra bộ phận lên dây cót để xe tự di chuyển.
Trong bày binh bố trận, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ biến hóa khôn lường. Hình thế của trận này dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, ở bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, xe lương thực để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế các đội quân kỵ binh của địch.
Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá:“Gia Cát Lượng thường hay tư lự hao tổn bởi nỏ liên châu, trâu gỗ ngựa máy, đều là những ý nghĩ kỳ lạ; suy diễn binh pháp làm ra bát trận đồ, thật là huyền bí vậy”.
Hình tượng trong văn học
Nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết được hư cấu có tài như thần thánh, có thể bấm quẻ đoán trước tương lai, hô mưa gọi gió, dùng lời nói hoặc thư từ để khích chết hàng loạt nhân vật khác như Chu Du, Vương Lãng, Tào Chân...
Theo nhà nghiên cứu người Trung Quốc Dịch Trung Thiên (tác giả sách "Phẩm Tam Quốc"), Gia Cát Lượng trong lịch sử có vai trò giống Tiêu Hà hơn là Trương Lương, Hàn Tín (nghĩa là ông chuyên trị quốc an dân chứ ít khi tự mình ra trận, sau này nhà Thục Hán mất đi nhiều trụ cột thì Gia Cát Lượng mới phải lo cả việc quân), nhưng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa thì nhiệm vụ của nhân vật này bằng cả ba vị Tiêu Hà, Trương Lương, Hàn Tín (Hán sơ Tam Kiệt) gộp lại.
Tuy ca ngợi Gia Cát Lượng, nhưng tác giả La Quán Trung vẫn tuân theo kết cục lịch sử là Gia Cát Lượng đã qua đời khi cầm quân Bắc phạt, không thể giúp nhà Thục Hán thống nhất giang sơn. Các thông tin dưới đây được lấy trong tiểu thuyết của La Quán Trung, một số tình tiết không phải thực tế lịch sử.
Ba lượt đến tận lều tranh
Nhân vật Gia Cát Lượng là ẩn sĩ ở Long Trung. Tư Mã Huy và Từ Thứ tiến cử ông với Lưu Bị. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu: "Ngọa Long, Phụng Sồ ai có được một trong hai người ấy sẽ có thiên hạ!". Theo Thủy Kính tiên sinh thì:"Tài của Gia Cát Lượng phải được ví với Lã Vọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu và Trương Lương làm nên cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán.Từ Thứ, một nhân vật có mưu lược, trước khi chia tay Lưu Bị vì trúng kế của Tào Tháo đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị. Lưu Bị có hỏi tài năng của Khổng Minh so với ngài thì thế nào, Từ Thứ có nói: "Tôi so với Khổng Minh như ngựa so với Kỳ lân, như quạ so với Phượng hoàng, chúa công có Khổng Minh như Văn vương có Lã Vọng, như Hán vương được Trương Lương"Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư câu hiền". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị. Sự kiện "ba lần đến mời" có thực sự diễn ra hay chỉ là lời biểu cảm của Gia Cát Lượng còn nhiều tranh cãi. Tam quốc diễn nghĩa có bài thơ nói về sự kiện này:
Gò Bác Vọng quân sư bắt đầu dùng binh
Sau khi nhân vật Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều tướng đi đánh Tân Dã.
Lưu Bị giao quyền điều binh cho nhân vật Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục ít nên thúc quân tiến vào Bác Vọng. Quân Tào tiến vào rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Bác Vọng dùng mưu đánh hỏa côngCười cười nói nói vẫn ung dungTào quân nghe tiếng hồn bay bổngRời khỏi lều tranh đệ nhất công.Sự việc này là hư cấu của nhà văn để ca ngợi nhân vật Gia Cát Lượng, thực tế Lưu Bị tự đánh trận Bác Vọng trước khi có Gia Cát.
Hỏa thiêu Tân Dã
Sau trận đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tông và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị.
Nhân vật Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào: sai nhân vật Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Đông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành.
Sau đó, quân Tào do các nhân vật Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng tiến vào thành Tân Dã bỏ trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Đêm đó, quân Lưu Bị tấn công. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:Gian hùng Tào Tháo giữ Trung NguyênTháng chín sang năm đánh Hán XuyênPhong Bá ra oai huyên Tân DãChúc Dung bay xuống Diễm Ma Thiên.Sự kiện này là hư cấu của nhà văn. Trận Tân Dã hoàn toàn không có thật.
Trận Xích Bích
Khua lưỡi bẻ bọn nho
Nhân vật Khổng Minh chủ trương liên Tôn chống Tào, đã theo Lỗ Túc đi sứ Đông Ngô nhắm xúc tiến việc kết minh. Tuy nhiên nhóm quan văn bên Ngô chủ trương hàng Tào, từng người đều đứng ra đặt câu hỏi nhằm làm khó Khổng Minh. Khổng Minh dựa vào ba tấc lưỡi đánh gãy bọn nho Đông Ngô, sau đó dùng kế khích Tôn Quyền và Chu Du cùng liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo. Nhân vật Lỗ Túc được miêu tả là rất ngây ngô.
Việc nhân vật Gia Cát Lượng sử dụng bài phú Đồng Tước đài để kích động Chu Du đánh Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn là hư cấu. Trận Xích Bích diễn ra năm 207, Đồng Tước đài (銅雀臺) được xây dựng vào mùa đông năm 210 gần 3 năm sau khi kết thúc Trận Xích Bích. Bài Đồng Tước đài phú của Tào Thực lại được viết vào năm 212, hai năm sau khi công trình hoàn thành. Như vậy Gia Cát Lượng không thể biết được bài phú viết sau đó 5 năm. Bên cạnh đó, bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa có chứa đựng thêm 7 dòng không có trong bản gốc của Tào Thực được ghi lại trong Tam quốc chí.
Thuyền cỏ mượn tên
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung Trong trận Xích Bích, nhân vật Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Nhân vật Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du đề nghị Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm kết tội Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm mưu sĩ Lỗ Túc của Đông Ngô mượn 20 chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời, 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc lên thuyền uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới.
Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống, hò reo ầm ĩ. 2 tướng Sái Mạo và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên ra loạn xạ. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều. Lỗ Túc hỏi: "Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?" Khổng Minh nói: "Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời định, hại làm sao nổi!"Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Sương mù mờ mịt khắp Trường GiangGần xa không rõ nước mênh mangTên bắn như mưa thuyền không núngKhổng Minh tài trí vượt Chu LangThuyền cỏ mượn tên trở thành điển tích nổi tiếng. Nhân vật Khổng Minh chỉ một lần dùng mẹo mà khiến hai nhân vật tài trí là Chu Du, Tào Tháo đều mắc lỡm. Ông bỡn cợt trước mưu kế của Chu Du đang tìm cách hãm hại mình, lại chọc ghẹo đại quân Tào Tháo đang lăm le tiến xuống Giang Nam, trước sau đều tỏ rõ phong thái ung dung tự tại vô cùng.
Thực ra, tình tiết này là hoàn toàn hư cấu và không xảy ra ngoài đời thực. Trong Tam quốc chí của Trần Thọ cũng hoàn toàn không đề cập gì tới "Thuyền cỏ mượn tên". Thực tế La Quán Trung chỉ sáng tạo ra nó từ một tình tiết có thật trong trận Như Tu năm 213, khi Tôn Quyền bí mật do thám trại đóng quân của Tào Tháo trên một con thuyền. Tào Tháo ra lệnh cho các cung thủ của mình bắn tên vào thuyền của Tôn Quyền. Những mũi tên đã bị mắc kẹt vào một bên của con thuyền và khiến cho con thuyền có nguy cơ bị lật. Tôn Quyền ra lệnh lái con thuyền theo hướng ngược với bên con thuyền bị bắn. Cuối cùng con thuyền cũng giữ được thăng bằng và Tôn Quyền quay trở lại trại của mình . Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường khi Trương Tuần dẹp loạn An Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, lấy được 10 vạn mũi tên của Lệnh Hồ Triều.
Mượn Gió Đông
Nhân vật Chu Du muốn đánh hỏa công nhưng mùa đông chỉ có gió tây bắc thổi ngược về phía quân Ngô mà không có gió đông nam thổi về phía quân Tào nên lo lắng thành bệnh. Nhân vật Khổng Minh và Lỗ Túc đến thăm, nói bệnh của Chu Du là tâm bệnh, lại viết phương thuốc cho Chu Du là một bài thơ:Muốn phá Tào côngPhải dùng hỏa côngMọi thứ đủ cảChỉ thiếu gió đông.Nhân vật Chu Du xem xong phục nhân vật Khổng Minh lắm, mới hỏi rằng thế nào mới có gió đông. Khổng Minh xin đi cầu gió đông cho Chu Du nổi lửa đốt trại Tào. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn. Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Tào. Khi gió đông tới, Chu Du vừa vui mừng vì sắp đánh thắng quân Tào, vừa kinh sợ vì tài năng "sai khiến cả quỷ thần" của Khổng Minh. Chu Du lập tức ra lệnh cho thuộc cấp tới đài thất tinh để giết Khổng Minh, nhưng khi tới nơi thì ông đã lên thuyền đi mất. Thì ra Khổng Minh đã đoán trước khi gió đông tới, Chu Du sẽ ra lệnh giết mình nên ông đã bí mật gửi thư, dặn dò Lưu Bị cử người tới đón ông vào đúng đêm hôm đó.
Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Mục có một bài thơ rằng:
Dưới cát gươm chìm, sắt chửa tiêu
Rũa mài nhận biết việc tiền triều. Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều.Việc lập đài cầu gió Đông Nam, Gia Cát Lượng có phép thần thông hô mưa gọi gió đều là hư cấu của nhà văn.
Mưu đoạt Tương Dương, 3 lần chọc tức Chu Du
Nhân vật Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng, Tương Dương từ tay Tào Nhân, nẫng tay trên của Chu Du khiến Chu Du phát uất thổ máu. Sau 3 lần bị chọc tức, nhân vật Chu Du kêu lên "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng" rồi chết.
Những sự kiện này đều là hư cấu của nhà văn. Chu Du chiếm được Giang Lăng năm 209, còn Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương (thời Tam Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này). Chu Du bị ốm mà chết, câu nói trên cũng là lời lẽ của nhà văn La Quán Trung.
Dùng kế bắt Trương Nhiệm
Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị gọi Khổng Minh vào Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc Thành nhưng có Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống đang trấn giữ. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu, Trương Phi phục sẵn quân ở núi còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gãy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Đức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gãy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chặn, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi xông ra bắt sống. Trương Nhiệm không chịu hàng nên Khổng Minh sai đem ra chém.
Đây là hư cấu của nhà văn. Trên thực tế Lưu Bị tự chiếm Lạc Thành bắt Trương Nhiệm, không liên quan gì đến Gia Cát Lượng.
Thạch trận ở Di Lăng
Lưu Bị đem binh phạt Ngô để báo thù cho 2 huynh đệ kết nghĩa Quan Vũ, Trương Phi, kết quả bị Đại đô đốc Lục Tốn dùng hỏa công đánh bại.
Khi nhân vật Lục Tốn ham truy kích thì gặp phải thạch trận do Khổng Minh bày ở bến Ngư Phúc, Tốn cho rằng đây chỉ là trò lừa nên xông vào trận, cuối cùng bị mắc kẹt. Đang lúc kinh hãi, Tốn gặp được bố vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn, và được đưa ra khỏi thạch trận. Lục Tốn hết sức kính phục tài năng của nhân vật Khổng Minh, bèn hạ lệnh rút quân về. Một thời gian sau trận Di Lăng, Khổng Minh nối lại liên minh Thục-Ngô để cùng nhau chống Tào Ngụy.
Đây chỉ là hư cấu của nhà văn vừa để tôn vinh nhân vật Gia Cát Lượng. Thực chất Lục Tốn cũng rút quân ngay khi thấy Lưu Bị đã về đất Thục, để kịp đối phó với Tào Phi đang rình rập ở phía bắc.
Phò tá ấu chúa đẩy lui 5 đạo quân
Sau thất bại Di Lăng, Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, sức khỏe ngày một kém. Bèn gọi Khổng Minh từ Thành Đô tới để dặn dò hậu sự. Lưu Bị nằm trên giường cầm tay Khổng Minh: "Tài thừa tướng gấp 10 Tào Phi tất yên định nhà nước, làm nên nghiệp to. Đối với con trẫm, nếu có thể giúp thì giúp còn không thì ngươi nên làm chủ Thành Đô". Khổng Minh nghe xong giật mình, phục lạy xuống đất mà thề "thần xin dốc hết sức khuyển mã phò tá thái tử, cúc cung tận tụy đến chết mới thôi".
Hậu chủ Lưu Thiện lên kế vị khi mới 15 tuổi, mọi chuyện lớn nhỏ trong triều do Thừa tướng Gia Cát Lượng giải quyết. Ngụy đế Tào Phi thừa cơ nước Thục suy yếu muốn xuất binh chinh phạt, liền theo kế của Tư Mã Ý khởi 50 vạn đại quân, chia làm 5 đạo đánh Thục. Hậu chủ liền triệu tập quần thần thương nghị kế sách, nhưng Khổng Minh cáo bệnh không ra khỏi phủ. Hậu chủ lo lắng ngự giá đến thăm hỏi, thì bắt gặp Khổng Minh đang ngồi xem cá. Hậu chủ trách Khổng Minh không quản việc quân, trốn trong phủ xem cá. Khổng Minh mời Hậu chủ vào trong nhà, mở bản đồ và phân tích phương án đẩy lui 5 đạo binh một cách bình thản: "Mã Siêu vốn gốc tích Tây Lương, trong mắt người Khương thì Mã Siêu là Thần Oai tướng quân, nay phái Siêu ra trấn thủ ải Tây Bình, dùng 4 đạo quân thay phiên chặn đánh quân Khương. Lý Nghiêm và Mạnh Đạt rất thân, từng kết nghĩa sống chết có nhau, để Lý Nghiêm viết thư cho Mạnh Đạt, tất Đạt giả ốm không chiến. Man Vương Mạch Hoạch có khỏe nhưng kém khôn, lệnh cho Ngụy Diên dùng 2 đạo quân làm nghi binh, cắm thật nhiều quân kỳ trong rừng, quân Nam Man thấy nghi binh tất sẽ không dám tiến. Triệu Vân ra trấn thủ ải Dương Bình chống Tào Chân, nơi này hiểm trở dễ thủ khó công, chỉ cần kiên thủ không đánh thì Tào Chân sẽ cạn lương và rút lui. Quan Hưng và Trương Bào mỗi người dẫn 3 vạn binh đóng ở các nơi hiểm yếu, để tiếp ứng cho các mặt. Phía Đông Ngô thì Tôn Quyền còn hận việc Tào Phi xâm phạm trước kia, nên sẽ không nghe lệnh mà ngồi nhìn thắng bại. Nếu 4 đạo quân thằng thì quân Ngô mới tiến, còn 4 đạo quân thất bại thì sẽ không manh động, chỉ cần phái sứ giả đến phân tích lợi hại để giữa chắc mặt này."
Sáu lần ra Kỳ Sơn
Sau khi thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng chỉnh đốn binh mã, nhân Tào Phi vừa mất đem đại quân bắc phạt, ông có tâu với Hậu chủ Lưu Thiện: "Dù biết đánh Tào là lấy yếu đánh mạnh, nhưng nhất quyết phải phạt Ngụy, ta không phạt người ắt người sẽ phạt ta, nay xin Hoàng thượng cho thần đóng quân ở Hán Trung, từ trên cao nhìn xuống như hổ săn Lạc Dương.".
Sau đó, trong 6 lần Bắc phạt mà sau này các sử gia gọi là Lục xuất Kỳ Sơn, ông đều đem đại quân đánh ra Kỳ Sơn vì cho rằng nơi đây chính là đất dụng võ,ông nói:" Kỳ Sơn là đầu xứ Trường An, kéo quân vào các quân Lũng Tây tất cả phải qua đường ấy, vả lại, mé trước sát sông Vị, mé sau dựa vào hang Tà Cốc, ra bên nọ vào bên kia, có thể dùng được kế mai phục. Đó là đất dụng võ, cho nên trước hết ta muốn dụng được chỗ địa lợi ấy.",có thể công phá Trường An và Lạc Dương, bình định được Trung nguyên, nhưng tiếc là vì nhiều lý do chưa thể thành công.
Việc Gia Cát Lượng "6 lần đem quân ra Kỳ Sơn" chỉ là sự phóng đại của nhà văn La Quán Trung. Thực tế Gia Cát Lượng chỉ có 5 lần đem quân đánh Ngụy, trong đó ông cũng chỉ đem quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất và lần thứ tư .
Không thành kế
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng về Tây thành, trong thành khoảng 2000 quan văn, cùng Quan Hưng vào 500 lính kị mã. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui. Sau đó Quan Hưng cùng 500 lính phục kích hò reo làm cho Tư Mã Ý sợ có nghi binh nên bỏ chạy. Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình, Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Gảy đàn ba tấc thắng quân hùngGia Cát Tây thành đuổi giặc hungHơn chục vạn quân lo tháo chạyThổ dân chỉ điểm ở nơi cùng.Trên thực tế thì giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không xảy ra vụ việc này mà chỉ là hư cấu của La Quán Trung. "Không thành kế" thực sự trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành.
Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy tới tấn công). Như vậy thì đó là "Không trận kế" chứ không phải là "Không thành kế".
Trâu gỗ ngựa máy
Khổng Minh nhiều lần ra Kỳ Sơn, hay bị khốn đốn vì hết lương, ông quyết định chọn hang Hồ Lô ở trước núi, mé tây sông Vị làm nơi bí mật, lại kén nghìn tay thợ giỏi để chế ra trâu gỗ, ngựa máy làm máy tải lương. Trâu gỗ ngựa máy trèo đèo lội suối không khác chi trâu ngựa thật, vận lương từ Kiếm Các ra Kỳ Sơn cho quân ăn. Khổng Minh sau đó cố ý để Tư Mã Ý biết được, lại thả cho Tư Mã Ý bắt được một số trâu gỗ ngựa máy. Trọng Đạt bắt chước chế tạo dựa trên mẫu của Khổng Minh, sau đó cho trâu gỗ ngựa máy mới tạo đi vận lương. Khổng Minh hết lương, bèn tìm kế phục kích đuổi quân tải lương của Ngụy đi, sau đó hạ lệnh cho quân sĩ vặn cái chốt dưới miệng trâu gỗ ngựa máy, làm chúng không đi được nữa, sau đó lui quân. Quân Ngụy đuổi đến nhưng không sao bắt trâu ngựa đi được nữa, Khổng Minh nhân lúc này xua quân ra đánh, quân Ngụy thua chạy. Khổng Minh sai người vặn lại cái chốt, trâu ngựa lại hoạt động trở lại, Khổng Minh đem theo trâu gỗ ngựa máy chở lương của quân Ngụy về trại.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Núi Kiếm gập ghềnh xưa ngựa chạyHang Tà quanh quất lối trâu điĐời sau nếu biết dùng mưu ấyTải vận nào ai khó nhọc gì. Vây khốn cha con Tư Mã Ý
Gia Cát Lượng lục xuất Kỳ Sơn, sau nhiều lần đánh nước Ngụy không thành vì có Tư Mã Ý đối trận, biết rằng muốn phạt Ngụy, định Trung Nguyên phải trừ người này, nên quyết tâm giết Tư Mã Ý. Cuối cùng ông dùng kế lừa cho hàng binh nói với Tư Mã Ý rằng toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc. Tư Mã Ý cho lính thăm dò thì thấy có vẻ đúng, bèn dẫn hai con mang quân tới. Cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa nhằm thiêu chết cha con Tư Mã Ý. Nhưng trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng chờ chết thì Kỳ Sơn 9 tháng không có mưa bỗng đổ mưa lớn, trận mưa đã cứu cha con Tư Mã Ý và dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát Lượng đau đớn thốt lên "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", từ đó mà câu nói này trở nên nổi tiếng.
Gia Cát Lượng buồn rầu, biết rằng khí số nhà Hán đã tận, trời không giúp ông mà giúp Tư Mã Ý, một mình ông khó mà xoay chuyển càn khôn, nghịch lại ý trời, lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:Cửa hang gió cát với mây bayMưa xối mây đen kéo lại đâyVũ hầu kế diệu ví thành đạtTấn triều sao chiếm núi sông này?Đây là sự kiện hư cấu, hoàn toàn không có thật. Thực tế trong lần Bắc phạt này, Tư Mã Ý luôn án binh bất động, cố thủ không ra đánh, nên Gia Cát Lượng không có cách nào bày trận đánh bại quân Ngụy.
Dặn kế giết Ngụy Diên
Khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6, cho quân đóng ở gò Ngũ Trượng. Quân Ngụy sau nhiều thất bại nên rất sợ Gia Cát Lượng, chỉ đóng cửa cố thủ, tránh giao chiến với quân Thục.
Khổng Minh lâm bệnh nặng, biết thọ mạng của mình sắp hểt. Ông bèn dùng phép dâng sao, trong vòng 7 ngày bày ra 49 cây đèn quay quanh cây đèn chủ mạng nhằm xin trời cao cho kéo dài mạng sống để ông tiếp tục sự nghiệp phục hưng nhà Hán. Nếu sau 7 ngày 7 đêm mà đèn vẫn sáng thì thành công, nếu đèn tắt thì thất bại. Đến ngày thứ 7, Tư Mã Ý nhìn thiên tượng biết Khổng Minh bị bệnh, cho quân đến thăm dò trước trại thách đánh. Ngụy Diên chạy vào trướng báo tin, chẳng ngờ đạp mạnh quá làm tắt ngọn đèn chủ vị, thế là phép dâng sao thất bại. Khương Duy giận lắm, rút gươm muốn giết Ngụy Diên, Khổng Minh cản lại, than rằng: "Số trời đã định, không sao trái được!".
Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó ông dặn dò các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó. Sau Thục chủ sai sứ tới hỏi việc hậu sự, Khổng Minh đáp rằng Tưởng Uyển có thể thay ông làm thừa tướng, sau đó là Phí Y, nói tới đó thì mất, hưởng dương 54 tuổi.
Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Tư Mã Ý thấy tướng tinh trên trời rơi xuống, đoán rằng Khổng Minh đã mất nên kéo quân tới đánh. Quân Thục làm theo di kế của Khổng Minh, hành quân về phía quân Ngụy và đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận. Tư Mã Ý tưởng Khổng Minh giả chết lừa mình nên sợ hãi bỏ chạy, chạy một lúc lâu mới hỏi các tướng rằng "đầu mình có còn không". Thế là quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống" (Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt), để nói lên tài năng siêu phàm của ông. Sau câu chuyện này, người ta có thơ than rằng:Nửa đêm sao lớn rơi sờ sờLại còn hồ nghi Lượng chết vờMuôn thuở người Xuyên cười Trọng ĐạtSờ đầu lại hỏi mất hay chưa?Sau khi Khổng Minh mất, người ta làm theo di chúc là chôn ông ở núi Định Quân (nơi ngày xưa Hạ Hầu Uyên mất), không cần làm ma chay cầu kỳ.
Câu nói nổi tiếng trong tiểu thuyết
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng có nhiều câu nói nổi tiếng. 2 câu nổi tiếng là:Mệnh của ta đã có Trời định, kẻ khác làm sao hại được (Gia Cát Lượng nói với Lỗ Túc khi ông phá kế hãm hại của Chu Du)Mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên. Số trời đã định, không thể cưỡng lại (Gia Cát Lượng thất vọng thốt lên khi việc cầu sao tăng thọ của mình vô tình bị Ngụy Diên làm hỏng, khiến ông phải sớm qua đời)
Hai câu nói trên thể hiện triết lý "Ý Trời khó cưỡng" của Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa: Bậc kỳ nhân như nhân vật Gia Cát Lượng có tài trí trác tuyệt, mưu kế của người khác không thể thoát khỏi dự tính của ông, nhưng Gia Cát Lượng tài ba đến mấy thì cũng không thể tính trước được những điều mà số Trời đã sắp đặt, không thể "cưỡng lại ý Trời". Chí lớn khôi phục Hán thất của Gia Cát Lượng không thành không phải vì ông không đủ tài trí, mà bởi một loạt những điều rủi ro ngẫu nhiên mà ông không thể dự tính được, ấy là do "số Trời đã định" mà thôi.
Nhân vật Gia Cát Lượng tinh thông thiên văn lý số, ắt cũng thấy được khí số nhà Hán đã sắp tận, ông hẳn sẽ tiếp tục ở ẩn nếu như Lưu Bị không 3 lần tới lều tranh để mời ông giúp đỡ. Sau buổi trò truyện để nhận thức rõ con người và chí hướng của Lưu Bị, ông mới đồng ý hạ sơn, quyết tâm đem tài năng của mình để "cưỡng lại ý Trời". Nhân vật Gia Cát Lượng cũng hiểu rõ sức người thì khó mà chống lại ý Trời, nhưng ông mong rằng sự trung nghĩa của mình cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của Lưu Bị có thể cảm động lòng Trời mà giữ lại thiên mệnh cho nhà Hán. Ngay trước khi Gia Cát Lượng hạ sơn phò tá Lưu Bị, Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy đã hiểu rõ ý định của Gia Cát Lượng là rất gian nan, rất khó thành công và than thở: “Ngọa Long gặp được minh chủ (Lưu Bị) nhưng không gặp thời, tiếc thay!” Xem thêm
Lưu Bị
Tam Quốc
Tam Quốc Diễn Nghĩa Tham khảo
Tam quốc chí, tác giả Trần Thọ, Nhà xuất bản văn học, 2016, tập 1, 2, 3.
Mã Nguyên Lương và Lê Xuân Mai (2004), Khổng Minh Gia Cát Lượng, Nhà xuất bản Đà Nẵng
Trần Văn Đức (2006), Khổng Minh Gia Cát Lượng'', Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
Chú thích |
Câu đố là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông qua sự so sánh, hình tượng hóa.
Phân biệt câu đố với tục ngữ, ca dao
Có sự tương đồng về hình thức ngắn gọn, cô đúc, có vần điệu nhịp nhàng.
Có sự khác biệt về chức năng và phương pháp nghệ thuật. Câu đố xây dựng hình tượng phản ánh dấu hiệu đặc trưng và chức năng của những sự vật, sự việc cụ thể với mục đích kiểm tra, truyền đạt tri thức về thế giới khách quan.
Căn cứ hình thức diễn tả, câu đố được chia hai loại: câu đố chính hiệu và câu đố vay mượn.
Căn cứ đối tượng phản ánh, câu đố được chia hai loại: loại thuộc tự nhiên, loại thuộc văn hóa.
Nguồn gốc và quá trình hình thành câu đố
Phương pháp nhận thức và phản ánh nghệ thuật của câu đố là một phương pháp phổ biến ở hầu hết các dân tộc khác nhau trên thế giới. Câu đố ra đời từ thời cổ đại liên quan đến lối nói so sánh gián tiếp phổ biến của người thời cổ, hiện tượng chưa có tên của nhiều sự vật phổ biến trong giai đoạn đầu của mọi dân tộc. Việc dùng sự vật này để nói sự vật khác, việc miêu tả đặc điểm sự vật vào một hình thức ngôn ngữ là điều hợp quy luật.
Nội dung câu đố
Chứa đựng tri thức thực tiễn: Đối tượng phản ánh của câu đố là các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, phần lớn có liên quan đến những hoạt động sinh hoạt của người dân.
Chứa đựng nội dung và ý nghĩa xã hội: Khi miêu tả thế giới hiện thực xung quanh con người, nhiều câu đố mang thêm ý nghĩa xã hội, mặc dù đó không phải là mục đích của câu đố.
Phương thức nghệ thuật
Hình thức ẩn dụ: Câu đố thường đưa ra những nét tương đồng về hình dạng bên ngoài của các sự vật khác so với vật đố, những dấu hiệu của đối tượng được dấu tên, như những chức năng, công dụng của các đối tượng trong cuộc sống sinh hoạt, những đặc điểm của đối tượng về hình dáng, trạng thái hoạt động, sự chuyển động, bất động, sự xuất hiện, điều kiện sống... để gợi sự liên tưởng.
Hình thức chữ bị chơi: Câu đố thường sử dụng từ đồng âm dị nghĩa, đồng nghĩa dị âm, nói lái, chiết tự...
Câu đố sử dụng các thể thơ truyền thống, có vần, nhịp điệu, cô đúc, cân đối nhịp nhàng. Câu đố cũng có xu hướng đưa vào yếu tố tục, song yếu tố này ở câu đố không mang nội dung xã hội, thường chỉ có tác dụng tạo sự dí dỏm, gây cười. |
Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. |
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam có những thành tựu với những sắc thái riêng biệt. Căn cứ vào quy luật phát triển của sáng tác dân gian và sự thực tiễn tồn tại những mảnh vụn thần thoại, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã nói đến sự tồn tại của các thể loại sử thi, và thực tế đã sưu tầm, phát hiện được.
Những nét đặc sắc
Yếu tố thần thoại bảo tồn được một số nét cổ hơn so với thần thoại người Việt. Kho thần thoại giải thích tự nhiên rất dồi dào.
Sử thi đậm đà chất thần thoại nổi bật hình tượng người anh hùng dũng sĩ.
Khối lượng thơ ca dân gian lớn, có sắc thái trữ tình đậm.
Sử thi
Giới nghiên cứu thường gọi: truyền thuyết, anh hùng ca, trường ca, sử thi anh hùng, sử thi... Người Êđê gọi Khan còn người Bana gọi Hơmon...
Đây là một thể loại tự sự dân gian về thời kỳ lịch sử khi loài người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự nghiệp anh hùng có tầm vóc lớn. Sử thi là những sáng tác tự sự có quy mô tương đối lớn, bằng văn vần hay thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nội dung bao quát cả đời sống toàn dân trong suốt một thời kỳ lịch sử dài mà trung tâm là những sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong đời sống cộng đồng.
Có thể phân thành hai loại:
Sử thi thần thoại (sử thi mo): Đẻ đất đẻ nước (Mường) và...
Sử thi anh hùng (sử thi khan): Đam San (Ê Đê), Xinh Nhã (Ê Đê)...
Truyện thơ
Truyện thơ là những truyện kể bằng thơ, biểu hiện cảm nghĩ bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứa đựng vấn đề xã hội. Có sư kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình, dung lượng lớn, mang tính chất cố sự của truyện kể dân gian, biểu hiện dưới hình thức thơ ca với màu sắc trữ tình đậm.
Có thể phân thành hai loại:
Truyện thơ phát triển đề tài của tự sự xã hội: Vượt biển (Khảm hải), Chim sáo, Nàng Kim Quế (Tày Nùng)...
Truyện thơ về tình yêu và hôn nhân: Nàng Nga Hai Mối (Mường); Nàng Ớm chàng Bồng Hương (Mường); Út Lót Hồ Liêu (Mường); Tiếng hát làm dâu (H'Mông); Nam Kim Thị Đan (Tày); Khun Lú Nàng Ủa (Thái), Tiễn dặn người yêu hay Xống chụ xon xao (Thái)... |
Ở Việt Nam, đã có nhiều hình thức sân khấu cổ truyền tồn tại từ lâu đời như hát chèo, hát tuồng, múa rối nước... và mới hơn như cải lương, kịch dân ca.
Theo truyền thống, ngày 12 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Tổ sân khấu, và từ năm 2011 thủ tướng Việt Nam lúc đó là ông Nguyễn Tấn Dũng đã ra quyết định chính thức công nhận ngày 12 tháng 8 âm lịch là ngày Sân khấu Việt Nam.
Lịch sử hình thành
Ngành sân khấu Việt Nam được hình thành từ thời nhà Đinh, khi nhà nước Đại Cồ Việt ra đời sau 1000 năm Bắc thuộc. Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam, là nơi khởi nguồn sản sinh nhiều giá trị văn hóa mang bản sắc Việt. Đây là nơi khai sinh ra dòng văn học viết và cũng được xem là vùng đất tổ của nghệ thuật sân khấu điện ảnh Việt Nam với việc hình thành các bộ môn chèo, tuồng và xiếc. Hoa Lư là quê hương của nghệ thuật sân khấu chèo mà người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh. Đây là loại hình sân khấu được hình thành sớm nhất và tiêu biểu nhất của Việt Nam. Qua truyền thuyết về pháp sư Văn Du Tường thời Đinh dùng mưu diệt quỷ Xương Cuồng ở Bạch Hạc cho thấy nghệ thuật xiếc, tạp kỹ như đi trên dây, đánh đu, trồng cây chuối đã xuất hiện. Cũng ở thời Đinh, Hoàng hậu Dương Thị Nguyệt được coi là bà tổ truyền dạy trò Xuân Phả cho người dân trình diễn trong lễ hội hàng năm tại nghè Xuân Phả, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa thu Ất Dậu, nhân ngày kỷ niệm lên ngôi, Lê Đại Hành cho tổ chức hội đèn bơi thuyền, lấy tre làm núi giả, gọi là Nam Sơn. Để cho sứ giả nhà Tống sợ, vua cho ba nghìn quân sĩ có thích ở trán ba chữ “Thiên tử quân” oai phong lẫm liệt, mở cuộc thao diễn vĩ đại, đóng trò giả cùng với dân bơi thuyền, gióng trống hò reo, cắm cờ, làm như bày binh bố trận, để phô trương thanh thế. Và, vẫn dẫn sách trên: Vua Lê Đại Hành ngự giá chinh phạt Chiêm Thành, bắt được hàng trăm ca kỹ ở kinh đô Chiêm quốc mang về nước, bắt họ múa hát vui chơi, đó là việc hình thành nghệ thuật kịch và xiếc. Các truyền thuyết lịch sử hát Tuồng cũng ghi rằng loại hình ngày hình thành vào thời Tiền Lê năm 1005, khi một kép hát người Tàu tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ làm phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.
Trong cuộc chiến chống Nguyên Mông, nhà Trần bắt được nhạc sĩ Lý Nguyên Cát người Nam Tống vốn là trưởng ban kịch ca trong quân đội Nguyên Mông. Lý Nguyên Cát phỏng theo tiếng Việt mà soạn ra các vở tuồng và huấn luyện người Việt diễn tuồng. Sang thời Trần Dụ Tông, có người phường trò là Đinh Bàng Đức ở nhà Nguyên sang nương nhờ vì chiến tranh. Đinh Bàng Đức dạy người Việt lối hát cầm gậy. Nhảy múa thường xuyên được tổ chức trong cung đình và trong dân gian. Ngoài chèo, hát ả đào truyền thống khá phổ biến trong dân gian và giới quý tộc. Các quý tộc nhà Trần yêu thích hát chèo và diễn hề. Thời Trần Dụ Tông, các quý tộc trong cung đình say mê nghệ thuật, nhiều vở hát chèo trong cung đình do chính những người trong hoàng tộc dàn dựng, biểu diễn và nhà vua tự mình duyệt lại, thưởng hậu cho người diễn và làm trò giỏi. Việc ca hát trong cung đình nhà Trần được sứ nhà Nguyên là Trần Cương Trung mô tả trong tác phẩm Sứ giao tập, theo đó mỗi lần yến tiệc trong cung thường có ca nhạc và nhảy múa, các khúc ca giống như khúc Giáng Châu Long, Nhập hoàng đô của phương Bắc, âm điệu cổ nhưng ngắn hơn.
Nhưng từ thế kỷ XV, triều đình nhà Lê cho nghệ thuật sân khấu là trò du hí của tiểu nhân (nhân dân lao động thất học), cấm vào diễn ở cung đình, đồng thời ban hành nhiều văn bản khá khắc nghiệt hạn chế nghệ thuật này phát triển trong dân gian. Vì tình hình đó, nghệ thuật sân khấu vẫn tồn tại trong nông thôn nhưng không phát triển mạnh.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nghệ thuật sân khấu bước vào thời kỳ sáng tạo mới. Các nghệ sĩ khắp nơi được tập hợp. Các đoàn văn công được thành lập. Hàng loạt vở diễn sân khấu ra đời ở các chiến khu phục vụ kháng chiến. Những năm hoà bình, Sân khấu phát triển mạnh mẽ, từ một phong trào sân khấu bán chuyên nghiệp, sân khấu lửa trại phát triển thành các Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, đội quân Sân khấu hùng hậu ra trận đến với nhiều trận địa ác liệt với khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom”. Nhiều tác phẩm sân khấu ra đời trong thời kỳ này mang dáng vóc sử thi, ca ngợi chiến công, ca ngợi các anh hùng, liệt nữ, lên án kẻ thù, cổ vũ cuộc chiến đấu là những vở diễn có mặt trên nhiều trận địa để lại ấn tượng sâu sắc trong người xem. Sau năm 1975, cùng với cuộc hội tụ của cả dân tộc, Sân khấu về mái nhà Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Điểm nổi bật của sân khấu những năm 1975 đến 1990 ngoài những tác phẩm mang tính sử thi viết về chiến tranh, là một loạt vở diễn với đề tài xã hội đương đại.
Năm 2010, từ đề nghị của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Thông báo kết luận công nhận ngày 12/8 Âm lịch hàng năm là Ngày Sân khấu Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã có Quyết định số 13/QĐ-TTg ngày 04/01/2011 công nhận ngày 12/8 Âm lịch là Ngày Sân khấu Việt Nam.
Chèo
Chèo là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng. Nội dung của các vở chèo lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm, mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc, đồng thời thể hiện tính dân tộc Việt. Sân khấu chèo đơn giản, với các diễn viên có thể không chuyên, biểu diễn ngẫu hứng.
Loại hình nghệ thuật truyền thống này được hình thành từ nguồn gốc cung đình Hoa Lư với vị tổ nghề Phạm Thị Trân nhưng sau đó đã phát triển mạnh ở nông thôn Việt Nam, trọng tâm ở đồng bằng Bắc Bộ và lan tỏa ra khu vực phía Bắc. Nó đạt đỉnh cao phát triển vào thời kỳ từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Đến thế kỷ 19, chèo nhận ảnh hưởng của tuồng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị.
Múa rối nước
Múa rối nước ra đời khoảng thế kỷ 10-11 ở đồng bằng Bắc Bộ gắn với mặt nước hồ ao đồng ruộng.
Tuồng
Tuồng (còn gọi là hát Bội hay hát Bộ) là môn nghệ thuật từng thâm nhập vào cuộc sống cung đình và dần dà, có nhiều gánh hát đã được chuyên nghiệp hóa. Chữ tuồng có người cho là bởi chữ tường mà ra; tức hình dung dáng dấp, cử chỉ của người đời xưa. Thế kỷ 19 là thời hoàng kim của nghệ thuật tuồng. Tại từng địa phương ở Việt Nam còn có trường phái tuồng riêng, như tuồng Quảng Nam, tuồng Bình Định, tuồng Hà Bắc, hát bội Sài Gòn (tuồng Bình Định phát triển mạnh một phần nhờ ông Đào Duy Từ và ông Đào Tấn).
Cải lương
Cải lương là nghệ thuật kịch hát của miền nam Việt Nam, trên cơ sở dân ca vùng đồng bằng sông Cửu Long và đờn ca tài tử Nam Bộ. Nghệ thuật này ra đời vào năm 1917, chịu nhiều ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương hơn so với các nghệ thuật thuần túy như hát chèo và hát bội. Đề tài của các tuồng cải lương thường liên quan đến các điển tích và những vấn đề xã hội. Hiện nay, cải lương vẫn còn thịnh hành, đặc biệt là tại miền nam Việt Nam.
Kịch dân ca
Loại hình sân khấu mới xuất hiện ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8, dựa trên nền tảng âm nhạc là các làn điệu dân ca ở địa phương, ví dụ như Kịch dân ca Bài chòi, Kịch dân ca Huế, Kịch dân ca Nghệ Tĩnh... Đây là loại hình nghệ thuật mới, tương tự như tuồng, chèo và cải lương.
Kịch bài chòi
Ca kịch Bài chòi bắt nguồn từ thú chơi bài chòi của người dân Quảng Nam – Đà Nẵng, về sau phát triển thành hình thức biểu diễn thơ tự sự, kể chuyện. Âm nhạc bắt nguồn từ các làn điệu dân ca miền Trung như Quảng Nam - Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị..., có các điệu chính là xuân nữ, nam xuân và xàng xê. Dàn nhạc đơn giản chỉ có đàn nhị, sanh sứa, sau có thêm đàn nguyệt, sáo và sinh tiền. Điều độc đáo của ca kịch Bài chòi là một diễn viên có thế thủ một lúc nhiều vai, với dàn nhạc đơn sơ nhưng vẫn lôi cuốn khán giả (tương tự như Pansori của Hàn Quốc). Bài chòi được phát triển chuyên nghiệp từ sự ra đời của Đoàn ca kịch Liên khu V với nghệ sĩ tiêu biểu như Lệ Thi.
Kịch ca Huế
Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát đào, làm từ dòng nhạc dân gian bình dị và cung đình nhã nhạc,thanh cao.
Kịch dân ca Nghệ Tĩnh
Các tổ ngành sân khấu Việt Nam
Một số nhân vật thường được ghi nhận là tổ một số ngành nghề sân khấu tại Việt Nam:
Phạm Thị Trân là bà tổ nghề hát chèo Việt Nam.
Liêu Thủ Tâm, Đào Tấn là các vị tổ của nghệ thuật sân khấu tuồng.
Tống Hữu Định (1896–1932) là ông tổ Cải Lương.. Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho, cũng là người được cho là có công nhất trong việc gây dựng lối hát Cải lương buổi ban đầu.
Vũ Đình Long là tổ nghề kịch nói.
Trần Quốc Đĩnh là tổ nghề hát xẩm.
Đinh Dự là tổ nghề ca trù Việt Nam. Ông được nhiều vùng có di sản ca trù thờ phụng như Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình. Ca trù sau này còn có một số vị tổ nghề địa phương như: Phan Tôn Chu tổ nghề ca trù Cổ Đạm ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Đào Thị Huệ tổ nghề ca trù Đào Đặng, Hưng Yên.
Nguyễn Lan Hương (1887 – 1949) là tổ nghề nhiếp ảnh (chủ cửa hiệu Hương Ký, là một hiệu ảnh ở phố Hàng Trống, bây giờ là khách sạn Phú Gia). Có thông tin khác lại cho là Đặng Huy Trứ là tổ nghề nhiếp ảnh.
Hoàng hậu Dương Thị Nguyệt, Bà tổ truyền dạy trò Xuân Phả cho dân làng Xuân Phả tại Nghè Xuân Phả thờ Đại Hải Long Vương. |
Một tập huấn luyện được sử dụng trong trí tuệ nhân tạo, cùng với phương pháp học có giám sát, và nó bao gồm một vec-tơ đầu vào và một vec-tơ kết quả.
Nói chung, một hệ thống thông minh (intelligent system) bao gồm một hàm chức năng nhận một hay nhiều đối số và cho ra kết quả là một vec-tơ đầu ra, và nhiệm vụ của phương pháp học là chạy hệ thống với vec-tơ đầu vào làm đối số, tính toán vec-tơ đầu ra, so sánh nó với vec-tơ kết quả và thay đổi một ít trong trật tự để có được vec-tơ đầu ra gần đúng với vec-tơ kết quả ở lần chạy tiếp theo của hệ thống. |
Văn học đời Lý là thời kỳ đầu của nền văn học Việt Nam được hình thành trong giai đoạn lịch sử của nhà Lý (1009-1225).
Đặc điểm chính
Về lịch sử, xem bài chính Nhà Lý.
Thời Lý, sự ảnh hưởng của đạo Phật (đã có căn bản từ triều Đinh-Lê) đến chính trị, văn hóa và văn học trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ lịch sử này. Sách Việt Nam cổ Văn học sử của Nguyễn Đổng Chi ghi lại Trong thế kỷ 10, cửa chùa đã đóng một vai trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và được chính phủ vị nể.
Các tăng sĩ đời Lý học hiểu rất rộng, uyên thâm Hán học, họ là những người tài giỏi và hay chữ nhất trong xã hội. Khi lực lượng nhà Nho chưa đủ nhiều để tham gia chính sự thì triều đình thường vời đến các bậc cao tăng trưởng lão. Cũng do tính chất độc tôn của đạo Phật trong đời sống tinh thần dân tộc đã dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân muốn tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Để đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập.
Một đặc điểm ngôn ngữ quan trọng là văn tự được viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các tầng lớp vua, quan, nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sử dụng chữ viết và sáng tác thơ văn.
Tình hình văn học
Các tác phẩm trong Thiền Uyển tập anh1 được xem những thành tựu ban đầu của văn học thời kỳ này và vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Đặc điểm nổi bật của văn học đời Lý là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu như Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm... Các nhà sư đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ Việt Nam. Định hướng sáng tác của các nhà sư tuy tập trung thuyết lý cho đạo Phật nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố xã hội tích cực và có giá trị văn học.
Bên cạnh đó, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển trong các giai đoạn sau. Chủ đề yêu nước trong mỗi tác phẩm thể hiện ở những cung bậc trầm hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, mang tính thời đại, tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vượt qua nhiều thử thách.
Dưới hình thức này hay hình thức khác, sự phong phú của văn học thời kỳ này biểu hiện tính chất dung hòa nhất giữa Phật giáo-Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian thuần túy của dân tộc. Tính chất trang trọng trong ngôn ngữ biểu hiện (chữ Hán), tính uyên bác trong chiều sâu tư tưởng... khiến cho văn học đời nhà Lý trở thành một đỉnh cao, ảnh hưởng sâu rộng đến đời Trần mà gần nhiều thế kỷ văn học trung đại nối tiếp khó bề sánh kịp. Tuy mức độ ảnh hưởng và quảng bá văn chương không đi sâu vào tầng lớp bình dân nhưng văn học đời Lý vẫn khẳng định được giá trị bác học độc đáo của mình. Thời kỳ này, văn học dân gian vẫn độc lập phát triển.
Chú thích
Tuy Thiền Uyển Tập Anh ra đời vào thời nhà Trần 1337 nhưng hầu hết các tác phẩm trong tuyển tập này đều được sáng tác vào thời nhà Lý. |
Thiên kiến quy nạp (tiếng Anh: inductive bias) của một giải thuật học máy đề cập đến những giả định bổ sung (additional assumptions) mà người học sẽ dùng để dự đoán đầu ra đúng cho các tình huống chưa gặp phải trước đây.
Trong ngành học máy, khi một "người" nhắm mục tiêu vào xây dựng giải thuật, người đó có thể "học" để dự đoán một đầu ra đích nào đó. Với điều này, người học sẽ có được một lượng hữu hạn các ví dụ huấn luyện minh họa mối quan hệ mong muốn giữa giá trị đầu vào và đầu ra. Sau khi học thành công, người học mong muốn xấp xỉ đầu ra đúng, ngay cả cho các ví dụ vẫn chưa được thử trong suốt quá trình huấn luyện. Không có các giả định bổ sung, nhiệm vụ này không thể được giải quyết vì các tình huống chưa được xem xét có thể có đầu ra bất kì. Loại giả định cần thiết về bản chất của hàm chức năng đích được xem là thiên kiến quy nạp. Một ví dụ cổ điển của thiên kiến quy nạp là Occam's Razor, cho rằng giả thiết nào về tính ổn định của hàm chức năng mục tiêu mà đơn giản nhất là thực sự tốt nhất. Ở đây "ổn định" nghĩa là giả thuyết "người" học cho ra đầu ra đúng cho mọi ví dụ mà đã thử với giải thuật.
Việc tiếp cận đến một định nghĩa hình thức hơn của thiên kiến quy nạp là dựa trên lôgic toán. Ở đây, thiên kiến quy nạp là một công thức lôgic mà, cùng với dữ liệu huấn luyện, đòi hỏi một cách lôgic giả thuyết đưa ra bởi người học. Không may mắn là thói quen hình thức này thất bại với các trường hợp thực tế, nơi mà thiên kiến quy nạp chỉ có thể được xem là một mô tả thô (ví dụ: trong trường hợp của mạng nơ-ron). |
Thần thoại, hay còn được gọi là huyền thoại, là sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hóa hiện thực dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn, mà dù đặc biệt, phi thường đến mấy vẫn được đầu óc người nguyên thủy nghĩ và tin là hoàn toàn có thực.
Đặc điểm
Tuy thần thoại tồn tại như những truyện kể về thế gian, nhưng nó không hẳn là một thể loại ngôn từ, mà là những ý niệm và biểu tượng nhất định về thế giới. Bên cạnh đó, cảm quan thần thoại nói chung không chỉ bộc lộ bằng truyện kể mà còn bộc lộ trong những hình thức khác như hành động (nghi lễ, lễ thức, điều răn dạy), các bài ca, vũ điệu v.v.
Đặc điểm của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa nguyên thủy, nơi mà vị trí của thần thoại trong tâm thức cộng đồng có thể coi tương đương với "văn hóa tinh thần" hay "khoa học" của thời cận, hiện đại.
Trong đời sống của các cộng đồng người nguyên thủy, thần thoại là một hệ thống mà nhờ nó, con người tri giác và mô tả thế giới bằng các biểu tượng (của hệ thống ấy). Do đó, có thể coi thần thoại là ý thức nguyên hợp của xã hội nguyên thủy. Tiến trình lịch sử về sau, dù đã phân chia thần thoại thành các hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, nghệ thuật, văn học, khoa học, tư tưởng chính trị v.v., thì các hình thái ấy vẫn bảo lưu trong chúng hàng loạt mô hình thần thoại, được cơ cấu, tái chế để đưa vào các cấu trúc mới.
Thần thoại học
Trong khoa học nghiên cứu, thu thập và giải nghĩa thần thoại, thần thoại học, các nhà khoa học đã từng gặp những khó khăn nhất định khi không xác lập được giới hạn của các hệ thần thoại. Thường các giới hạn ấy được người ta gắn với việc trong tác phẩm có nói đến các sinh thể siêu nhiên (thần thánh, anh hùng, ma quỷ v.v.). Theo cách hiểu này, chỉ cần vạch ra trong tác phẩm có những tên tuổi và hình tượng của thần thoại (như thần thánh và các anh hùng trong các tác phẩm văn học cổ Huy Lạp, văn học trung-cận đại châu Âu). Bên cạnh đó, có thể sử dụng tiêu chuẩn về cấu trúc, do hầu hết phạm vi của thần thoại có chất liệu từ đời sống con người nhưng được lựa chọn và gán cho những ngữ nghĩa riêng biệt chỉ có trong văn cảnh thần thoại (như các bộ phận của con người: đầu, mắt, bộ phận sinh dục v.v.; các động vật: sư tử, rắn, đại bàng; các loài cây: sồi, đa, cau, gạo; các hình dạng ký hiệu: con số, vòng tròn, chữ thập, vành khuyên v.v.).
Trong những nỗ lực tìm về bản chất của thần thoại, học giả Đức E. Cassirer phân tích thần thoại như là "hình thức tượng trưng" và cho rằng ở những giai đoạn phát triển nhất định của nhân loại, thần thoại là hệ thống phổ quát duy nhất mà bằng các thuật ngữ của nó người ta tri giác thế giới. Tiếp nối tinh thần này, những nhà nghiên cứu Nga tập trung tìm hiểu chỉnh thể thế giới quan của thần thoại. Bên cạnh đó là xu hướng đặt thần thoại vào văn cảnh ứng xử của các nhóm người, khảo sát thần thoại như một hệ thống được mô hình hóa trong đầu óc các cá thể đã hợp thành nhóm.
Thần thoại và văn học
Thần thoại khá gần gũi với văn học khi cả hai đều có tính hình tượng trong nội dung. Tuy vậy, thần thoại mang tính hình tượng một cách vô ý thức, khác biệt với những sáng tác văn học. S. S. Averintzev cho rằng, sự khác nhau giữa thần thoại và văn học có thể kể ra ở vài phương diện: thứ nhất, thần thoại là sản phẩm sáng tạo tập thể ở thời kỳ trong ý thức chưa hình thành sự phản tư (reflexion), trong khi đó văn học đã tách khỏi folklore là sự phản tư của chủ thể tác giả. Thứ hai, các hình tượng của thần thoại được "đồ vật hóa", chưa sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, phúng dụ hay các hình thức chuyển nghĩa khác của văn học. Thứ ba, văn học hướng tới những tiêu chuẩn thẩm mỹ mang tính tự trị, trong khi đó thần thoại còn chưa biết đến việc tách phạm vi thẩm mỹ ra khỏi cái khối các nguyên tố tự phát chưa phân lập của ý thức. Bởi vậy thần thoại, với tất cả tính nguyên hợp tư tưởng của nó trong tư duy nguyên thủy, chẳng những là thi ca nguyên thủy mà còn là tôn giáo nguyên thủy, triết học nguyên thủy, khoa học nguyên thủy v.v.
Có thể nói, văn học gắn bó mật thiết với thần thoại, không chỉ về mặt nguồn gốc (thông qua truyện cổ tích và sử thi dân gian) mà còn về kiểu phản ánh thực tại (tính hình tượng). Chính vì vậy, văn học về sau thường không từ bỏ các cơ sở thần thoại. Văn học cổ đại, Phục hưng, lãng mạn, hiện thực đều sử dụng các hình mẫu, môtip thần thoại, thủ pháp thần thoại hóa, thậm chí cả kiểu sáng tác huyền thoại (chủ nghĩa huyền thoại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo v.v.). Một loạt motip văn học được xếp vào motip thần thoại và mở rộng đến cả những motip không thần bí, nhưng được xem là gắn với những mẫu gốc (archétype) của tư duy thần thoại. Dù vậy, văn học về nguyên tắc không phải là thần thoại; và các quy luật đặc thù của văn học không phải chỉ là đem phối hợp với các mẫu gốc của thần thoại. |
Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội), được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Cũng là 1 thể loại của văn học dân gian.
Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội loài người , hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân sáng tác; ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.
Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...
Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.
Từ nguyên
Chữ tượng hình 俗語. |
Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử), phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử.
Đặc điểm, sự phân lập thể loại
Tại những truyền thống văn hóa khác nhau về loại hình, khái niệm truyền thuyết có thể được mô tả những hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, và liên hệ một cách khác nhau với các thể loại dân gian khác, kể cả thần thoại.
Trong văn hóa châu Âu, thường người ta chia hai loại: legend và tradition, tuy cùng mang ngữ nghĩa là lời truyền tụng, lời tục truyền, truyền thuyết. Huyền thoại thiên về phía gắn với các nhân vật của lịch sử linh thiêng như các thánh của Kitô giáo hoặc Hồi giáo. Truyền thống gắn với các nhân vật trần thế và không buộc phải có yếu tố thần kỳ. Tuy vậy, sự phân chia này chỉ phù hợp với những truyền thống trong đó tôn giáo thống trị đã cải biến các hệ thống thần thoại có sớm hơn (chỉ xảy ra tại các nền văn hóa Kitô giáo và Hồi giáo), và rất khó thực hiện với các truyền thống trong đó tôn giáo mang tính thế giới (như Phật giáo) vốn không bác bỏ các hệ thống thần thoại có sớm hơn. Bên cạnh đó, sự phân chia này chỉ cũng khó làm đối với những hệ thần thoại đa thần chưa trải qua biến đổi căn bản nào hoặc những truyền thống trong đó lịch sử linh thiêng không phân lập với thế tục.
Trên một vài dấu hiệu khác biệt có thể rất nhỏ, sự phân lập truyền thuyết với các thể loại khác cũng có căn cứ nhất định. Truyền thuyết chung với thần thoại ở dấu hiệu về niềm tin và sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Truyền thuyết cũng phân biệt với thần thoại có thể ở phương diện sở hữu ngôn bản của bộ lạc hoặc toàn dòng họ. Thần thoại kể về nguồn gốc cõi đời và cõi người thì bất cứ một thành viên nào trong bộ lạc cũng có quyền kể lại; còn những truyền ngôn về các biến cố mở đầu dòng họ thì có thể thuộc sở hữu của các thành viên dòng họ. Bên cạnh đó, ở các nền văn hóa chưa có sự biến động về hệ thống tôn giáo, truyền thuyết có thể phân lập với thần thoại về quy chế, việc có hay không có liên hệ với sự thờ phụng, về nhân vật truyền thuyết,... Về tổng thể, so với thần thoại thì truyền thuyết kém linh thiêng hơn và thường mô tả những sự kiện xảy ra muộn hơn. Sự lệ thuộc về nguồn gốc (biến sinh) của truyền thuyết với thần thoại có thể được xác định, tuy không phải thần thoại là nguồn cốt truyện duy nhất của truyền thuyết. Truyền thuyết nằm ở ranh giới giữa thần thoại và các ghi chép mô tả lịch sử.
Một số nhóm truyền thuyết
Truyền thuyết liên quan đến Kitô giáo hoặc ít nhiều tái hiện các cốt truyện của thời tiền tông đồ của Kitô giáo, là một trong những phương tiện tái mã hóa các biểu tượng Kitô giáo trong các tượng trưng Kitô giáo. Chẳng hạn hạnh các thánh (hagiographie) thực chất là những văn bản kém thiêng hơn so với lời thiêng, được phép hòa trộn với các môtip phi Kitô giáo, kể cả việc biến đổi các thánh thành một kiểu tương tự như trong điện thờ đa thần giáo. Hạnh các thánh tương tự như mọi loại truyền thuyết, trong khi hướng tới các thể loại lịch sử, đã đồng thời ứng với ngày kỷ niệm các thánh tính theo lịch. Từ đó cho phép gắn hai chu trình ngày lễ trong năm (gồm chu kỳ Kitô giáo và chu kỳ đa thần giáo) thành một chu kỳ thời gian nghi lễ.
Truyền thuyết Kitô giáo còn có một nhóm riêng trong đó không chỉ có những nhân vật của Cựu ước mà còn có cả thần và quỷ. Nhóm truyền thuyết này đã bổ sung tính lịch sử cho hệ thần thoại Kitô giáo bằng những yếu tố thần thoại tiền Thiên Chúa. Các hành động trong loại truyền thuyết này cũng được chuyển vào cái thời gian, mà đối với Kitô giáo nó thực hiện chức năng thời gian thần thoại (tức thời gian của Cựu ước và Phúc âm), thậm chí xâm nhập cả vào thời gian Kinh thánh (thời giai lịch sử linh thiêng), và vào cả thời gian thần thoại đích thực kể về cuộc đấu tranh của những người khổng lồ, lịch sử sáng thế,...
Bên cạnh các truyền thuyết với hành động diễn ra trong thời gian lịch sử hoặc thời gian tôn giáo, châu Âu còn biết đến loại hình truyền thuyết diễn ra trong thời gian trừu tượng, bất định, tương tự thời gian của truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích. Đó là kiểu truyền thuyết mô tả quan hệ giữa các thánh với con người. Một số tiết đoạn của thể loại truyền thuyết này có thể được chuyển hóa thành cổ tích.
Cũng cần kể đến các truyền thuyết về những cư dân tiền bối tại các địa phương mang cùng một truyền thống văn hóa. Các truyền thuyết này thường miêu tả những sinh thể khác con người, đồng thời gắn với ranh giới giữa tiền lịch sử và lịch sử. Về phương diện nào đó, loại truyền thuyết này tương đồng về loại hình với các truyền thuyết kể về khởi thủy dòng họ hoặc bộ lạc.
Một số truyền thuyết khác, vượt qua ranh giới nói trên và đặt thời gian lịch sử vào tộc người, thể hiện chức năng của các thể loại lịch sử hoặc giả lịch sử. Các truyền thuyết này tiếp cận ở mức độ đáng kể thời gian của cộng đồng cư dân mang truyền thống văn hóa ấy thậm chí vượt quá thời gian này, kéo dài thời gian lịch sử thành thời gian thần thoại.
Bên cạnh đó còn có loại thể truyền thuyết miêu tả những xứ sở và xã hội không tưởng, thể hiện sự tương quan không chỉ với lịch sử mà còn với tình thế xã hội cụ thể. Những truyền thuyết này miêu tả các bức tranh không tưởng về tương lai và những nhân vật không bị linh thiêng hóa, họ thực hiện chức năng khôi phục lẽ phải đã bị phá bỏ, xác lập một phúc lợi không tưởng (tức cái vốn là chức năng của nhân vật văn hóa đương thời được "dịch" ra thành ngôn ngữ của các quan hệ xã hội muộn hơn) những nét chính trong chuyện là; lấy bối cảnh lịch sử để thêm vào đó những chi tiết thần bí,bí hiểm |
Moment (Mô men) lực là một đại lượng trong vật lý, thể hiện tác động gây ra sự quay quanh một điểm hoặc một trục của một vật thể. Nó là khái niệm mở rộng cho chuyển động quay từ khái niệm lực trong chuyển động thẳng.
Biểu thức moment lực:
Trong đó:
M: Moment(mô men) lực (N.m)
F: lực tác dụng (N)
d: vector khoảng cách từ tâm quay đến giá của lực F gọi là cánh tay đòn của lực F
Khái niệm cánh tay đòn
Là một đặc điểm về khoảng cách, là chìa khóa hoạt động của đòn bẩy, ròng rọc, bánh răng và đa số các bộ máy cơ bản có khả năng tạo ra các mô hình cơ học nâng cao.
Mô men (moment) lực được đưa ra từ khi Archimedes khám phá ra nguyên lý hoạt động của đòn bẩy. Trong một đòn bẩy, Archimedes thấy rằng độ lớn của khả năng tác động lực tỷ lệ thuận với độ lớn của lực và đồng thời tỷ lệ thuận với khoảng cách từ điểm tác dụng lực tới tâm quay (cánh tay đòn).
Trong chuyển động quay của vật thể rắn, nếu không có mô men lực tác động lên vật, mô men (moment) động lượng của vật thể sẽ không thay đổi theo thời gian. Khi có mô men (moment) lực, M, mô men (moment) động lượng, L, thay đổi theo phương trình tương tự như định luật 2 Newton:
Nếu mô men (moment) quán tính của vật thể không thay đổi, phương trình trên trở thành:
đối với một điểm tựa, tổng các mô men (moment) lực của các lực quay theo chiều kim đồng hồ bằng tổng các mô men (moment) lực của các lực quay ngược chiều kim đồng hồ
Với ω là vận tốc góc của chuyển động quay của vật, có thể coi là gia tốc góc của vật thể.
Đối với vật thể quay,ta có công thức tính mô men (moment): M=I*B; với B: gia tốc góc; I: momen (moment) quán tính.
Điều kiện cân bằng của vật rắn có trục quay cố định (còn gọi là quy tắc mô men (moment))
Vật rắn có trục quay cố định nằm cân bằng khi tổng mô men (moment) lực làm vật quay theo chiều kim đồng hồ bằng tổng mô men (moment) lực có tác dụng làm vật quay ngược chiều kim đồng hồ.
Momen của ngẫu lực
Trong đó
M: mô men của ngẫu lực (N.m)
F: lực tác dụng
d: cánh tay đòn của ngẫu lực. |
Mô men quán tính là một đại lượng vật lý (với đơn vị đo trong SI là kilôgam mét vuông kg m²) đặc trưng cho mức quán tính của các vật thể trong chuyển động quay, tương tự như khối lượng trong chuyển động thẳng.
Với một khối lượng m có kích thước nhỏ so với khoảng cách r tới trục quay, mô men quán tính được tính bằng:
Với hệ nhiều khối lượng có kích thước nhỏ, mô men quán tính của hệ bằng tổng của mô men quán tính từng khối lượng:
Với vật thể rắn đặc, chứa các phần tử khối lượng gần như liên tục về khoảng cách, phép tổng được thay bằng tích phân toàn bộ thể tích vật thể:
Với dm là phần tử khối lượng trong vật và r là khoảng cách từ dm đến tâm quay. Nếu khối lượng riêng của vật là ρ thì:
Với dV là phần tử thể tích.
Mô men quán tính này còn gọi là mô men quán tính khối lượng (the mass moment of inertia).
Cần phân biệt với mô men quán tính chính trung tâm hay mô men quán tính của tiết diện (the area moment of inertia or the second moment of area) đơn vị đo trong SI là m4 (độ dài 4) đặc trưng cho sức kháng uốn của một tiết diện theo một trục xác định, áp dụng cho kết cấu thanh, cột..v..v.. Vì các kỹ sư thường hay nói tắt là mô men quán tính mà không nói cụ thể là mô men quán tính khối lượng hay là mô men quán tính theo hình dạng tiết diện.
Mô men quán tính của tiết diện đối với trục y là ,được tính như sau:
Mô men quán tính của tiết diện với trục x là như sau:
Tính chất: Mô men quán tính của một hình phức tạp bằng tổng mô men quán tính của của từng hình đơn giản.
Mô men quán tính của tiết diện đối với trục chính trung tâm được gọi là mô men quán tính chính trung tâm của mặt cắt.
Một số công thức
Với một số vật thể có dạng hình học đơn giản, mô men quán tính (mô men quán tính về khối lượng) được tính như sau:
Với vành tròn đồng chất, bán kính r, khối lượng m, trục quay qua tâm và vuông góc với mặt phẳng chứa vành tròn:
Với đĩa tròn đồng chất, bán kính r, khối lượng m, trục quay qua tâm và vuông góc với mặt phẳng chứa đĩa tròn:
Với thanh thẳng đồng chất, chiều dài l, khối lượng m, trục quay ở 1 đầu thanh:
Với thanh thẳng đồng chất, chiều dài l, khối lượng m, trục quay ở chính giữa thanh:
Với hình cầu đồng chất, bán kính R, khối lượng m:
Với mặt cầu đồng chất, bán kính R, khối lượng m:
Công thức dời trục
Xem chi tiết tại định lý trục quay song song
Các công thức trên được áp dụng khi trục đi qua tâm của vật thể. Trong thực tế, nhiều khi ta cần tính mô men quán tính qua một trục khác không đi qua tâm, nhưng song song với trục ban đầu (trục quay đi qua tâm của vật thể). Khi đó có thể áp dụng định lý dời trục (Steiner - Huygens):
trong đó:
là mô men quán tính đối với trục mới
là mô men quán tính đối với trục ban đầu (trục quay đi qua tâm của vật thể)
là khối lượng của vật
là khoảng cách giữa hai trục
Liên hệ với mô men động lượng
Giống như động lượng bằng khối lượng nhân với vận tốc, trong chuyển động quay, mô men động lượng, bằng mô men quán tính, , nhân với vận tốc góc, |
Trong vật lý học, đại lượng mô-men động lượng (hay mô-men xung lượng, động lượng quay) là một tính chất mô men gắn liền với vật thể trong chuyển động quay đo mức độ và phương hướng quay của vật, so với một tâm quay nhất định.
Với vật rắn cổ điển có kích thước nhỏ hơn nhiều khoảng cách tới tâm quay, mô men động lượng, , phụ thuộc vào động lượng, , của vật thể và véc-tơ khoảng cách từ vật thể tới tâm quay, .
Với các vật thể rắn có hình dạng bất kỳ, mô men động lượng đối với 1 trục cố định có thể được tính từ mô men quán tính của vật rắn đối với trục đó, , và vận tốc góc, :
Xây dựng công thức mô-men động lượng của vật rắn
Ta được biết mô-men động lượng của các chất điểm đối với một trục quay có biểu thức:
Đối với các vật thể rắn, mô-men động lượng của chúng đối một trục quay là tổng các mô-men động lượng của các chất điểm nhỏ:
Vài biến đổi toán học và ta có:
Chiếu lên 3 trục xyz và rút gọn, ta có:
Với:
và
Từ đây ta có thể rút gọn các phương trình trên thành một phương trình vector:
Với là Ten-xơ moment quán tính
Định luật 2 Newton mở rộng
Khi có mô men lực, , tác dụng lên vật thể thì mô men động lượng sẽ thay đổi theo phương trình tương tự như định luật 2 Newton:
Nếu mô men quán tính của vật thể, , không thay đổi thì phương trình trên trở thành:
Định luật bảo toàn mô men động lượng
Từ công thức trên, suy ra nếu không có mô men lực tác động lên vật, mô men động lượng của vật thể sẽ không thay đổi theo thời gian. Đây chính là nội dung của định luật bảo toàn mômen động lượng. Phát biểu cụ thể: "mômen động lượng của một hệ không đổi khi hệ chịu tổng cộng các mômen ngoại lực bằng không".
Cơ học lượng tử
Một đại lượng có ý nghĩa tương tự như mô men động lượng cho chuyển động quay của các vật thể bé nhỏ trong cơ học lượng tử là spin (một trong nhựng đại lượng vật lý) |
Mũi Né là một địa danh, tên một mũi biển và cũng là một phường ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Đây là một khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Bình Thuận và là một trong số các khu du lịch quốc gia của Việt Nam (tuy nhiên, thực tế đa phần các khu nghỉ mát lại tập trung nhiều ở phường Hàm Tiến, gần Mũi Né).
Về hành chính, toàn bộ khu vực ven biển từ Mũi Né lên đến Hòn Rơm nằm cách đó khoảng 7 km là phường Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết.
Nguồn gốc tên gọi
Hiện có hai giả thiết phổ biến về địa danh Mũi Né:
Xuất phát từ việc ngư dân đánh cá, mỗi khi đi biển gặp bão, họ thường đến đây nương náu. "Mũi" là cái mũi đất đưa ra biển lớn; "Né" có nghĩa là để né tránh, trốn thoát giông bão.
Vùng đất này xưa kia là của người Chăm, lau sậy mọc um tùm. Công chúa Út của một vua Chăm Pa tên là công chúa Chuột, năm 16 tuổi mắc bệnh nặng qua đời nên dân chúng xây dựng miếu để thờ tại khu vực Hòn Rơm và gọi biệt danh cô là bà Nà Né. Lâu dần, người dân đọc lệch chữ "Nà Né" thành Mũi Né.
Địa lý
Phường Mũi Né có vị trí địa lý:
Phía đông và phía nam giáp biển Đông
Phía tây phường Hàm Tiến và xã Thiện Nghiệp
Phía bắc giáp xã Thiện Nghiệp và huyện Bắc Bình.
Phường có diện tích 35,41 km², dân số năm 1999 là 24.275 người, mật độ dân số đạt 686 người/km².
Lịch sử hành chính
Thời Việt Nam Cộng hòa, Mũi Né là quận lị quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận.Sau năm 1975, quận Hải Long hợp nhất với hai quận Hàm Thuận và Thiện Giáo thành huyện Hàm Thuận, tỉnh Thuận Hải. Lúc này Mũi Né thuộc xã Hàm Dũng, huyện Hàm Thuận.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 104-CP. Theo đó, giải thể xã Hàm Dũng để thành lập thị trấn Mũi Né - thị trấn huyện lị huyện Hàm Thuận.
Ngày 30 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 204-HĐBT. Theo đó, chia huyện Hàm Thuận thành hai huyện mới là Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Đồng thời, chuyển thị trấn Mũi Né về thị xã Phan Thiết quản lý và chuyển thành phường Mũi Né.
Du lịch Mũi Né
Từ một dải bờ biển hoang vu với các đồi cát đỏ như sa mạc nằm rất xa đường giao thông, chỉ có lác đác vài xóm chài nghèo, Mũi Né đã mọc lên hàng trăm khu resort. Cách trung tâm thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc, Mũi Né được nối liền với thành phố biển này bởi hai con đường Nguyễn Đình Chiểu (đường 706) và Võ Nguyên Giáp (đường 706B) - được coi là tuyến trọng yếu cho ngành du lịch của Bình Thuận. Khi đến Mũi Né, du khách sẽ có thể được tham quan làng chài Mũi Né, có cơ hội chứng kiến được hoạt động của một làng chài xứ biển thuần chất Việt Nam.
Từ nội thành Phan Thiết ra Mũi Né khoảng 22 km, có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tham quan nằm rải rác trên đường. Bạn có thể dễ dàng tìm ra hơn chục resort, danh lam di tích nổi tiếng. Việc tập trung như thế này khiến cho đường ra Mũi Né thêm phần hấp dẫn, thú vị. Thứ tự từ hướng Thành phố Hồ Chí Minh đi vào như sau:
Nhà ở Mộng Cầm - một trong những người tình của Hàn Mạc Tử nằm tại số nhà 300 (số mới là 394) đường Trần Hưng Đạo.
Sông Cà Ty cùng với Tháp nước Phan Thiết.
Vạn Thủy Tú.
Trường Dục Thanh.
Chợ Phan Thiết.
Tháp Chăm Phố Hài - Tháp Pôshanư.
Lầu Ông Hoàng.
Núi Cố cùng với mộ Nguyễn Thông.
Bãi đá Ông Địa.
Rặng Dừa Hàm Tiến (Rạng).
Nhiều khu resort tiện nghi, cao cấp.
Suối Tiên.
Làng chài giàu của Mũi Né
Đồi Cát Mũi Né.
Hòn Rơm |
Trong vật lý, vận tốc góc là một đại lượng véc tơ cho biết một góc thay đổi nhanh như thế nào theo thời gian quanh một trục. Kí hiệu công thức của nó là (omega bé). Đơn vị SI của vận tốc góc là . Nó đóng một vai trò đặc biệt trong các phép quay vì thế còn được gọi là vận tốc quay hoặc tốc độ xoay. Trong nhiều trường hợp mà phương hướng của trục quay không thay đổi trong hệ quy chiếu, thì việc sử dụng kí hiệu vô hướng đại diện cho lượng vectơ là đủ.
Định nghĩa
Vận tốc góc
Vận tốc góc được biểu diễn bằng một vectơ giả, cho biết hướng của trục quay và tốc độ của chuyển động quay. Hướng của vectơ giả được định hướng sao cho chỉ ra hướng quay theo quy tắc mở nút chai. Lượng của vận tốc góc bằng với đạo hàm của góc quay sau thời gian :
Với vận tốc góc không đổi (ví dụ: trong chuyển động tròn đều) thì
bởi vì với chu kỳ thì sẽ quét được góc 2 .
Với chuyển động tròn phẳng, hướng thay đổi vận tốc đường đi tức thời của một điểm có cùng vận tốc góc với vectơ bán kính của điểm. Trong trường hợp đường cong trong không gian, điều này áp dụng cho vòng tròn hiện tại. Do đó, sự thay đổi theo hướng của tốc độ quét cũng có thể được sử dụng để xác định tốc độ góc. Nó kết quả trực tiếp từ dữ liệu của đường dẫn và không yêu cầu xác định trục quay.
Số lượng vận tốc góc chủ yếu được sử dụng trong các quá trình trong đó trục quay không thay đổi. Sự thay đổi hướng và/hoặc độ lớn của vận tốc góc là kết quả của gia tốc góc.
Vận tốc quỹ đạo
Mỗi điểm của hệ quay đều mô tả một đường tròn mà mặt phẳng của nó vuông góc với trục quay. Tốc độ quỹ đạo điểm trên vòng tròn này là
ở đây là bán kính của chuyển động tròn. Bởi vì trong khoảng vô cùng bé thì .
Nếu gốc của hệ tọa độ nằm trên trục quay, khi đó vận tốc quỹ đạo về hướng và lượng bằng với tích chéo của vận tốc góc và vectơ vị trí:
.
bởi vì khoảng cách từ trục là
với góc cực là khoảng cách góc không đổi giữa trục quay và vectơ vị trí đến điểm đang xem xét.
Việc xem xét tốc độ thay đổi của vectơ vị trí này áp dụng cho bất kỳ vectơ nào có thể xoay, ví dụ: B. cho các vectơ cơ sở () của một hệ quy chiếu xoay. Vận tốc thay đổi của nó là
Vận tốc góc theo đường ngắm
Chuyển động phẳng
Vectơ vận tốc v của một hạt P liên quan đến một người quan sát O có thể được phân tích trong tọa độ cực. Thành phần xuyên tâm của vectơ vận tốc không thay đổi hướng của đường ngắm. Biểu thức tồn tại giữa thành phần tiếp tuyến và tốc độ góc của tia ngắm:
Cần lưu ý rằng vận tốc góc theo đường ngắm phụ thuộc vào vị trí (tùy ý) của người quan sát.
Chuyển động trong không gian
Trong không gian ba chiều, vận tốc góc được đặc trưng bởi lượng và hướng của nó.
Như trong trường hợp hai chiều, hạt có một thành phần của vectơ vận tốc theo hướng của vectơ bán kính và một thành phần khác vuông góc với nó. Mặt phẳng có vectơ hỗ trợ (vị trí của người quan sát) và vectơ chỉ phương và định nghĩa một mặt phẳng quay trong đó chuyển động của hạt xuất hiện trong một khoảnh khắc như trong trường hợp hai chiều. Trục quay khi đó vuông góc với mặt phẳng này và định nghĩa hướng của vectơ vận tốc góc tức thời. Vectơ bán kính và vận tốc được giả định là đã biết. Ta có biểu thức: |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1934 (tên chính thức là 1934 Football World Cup - Italy / Campionato Mondiale di Calcio) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ hai và đã được tổ chức từ 27 tháng 5 đến 10 tháng 6 năm 1934 tại Ý. Đây là lần đầu tiên giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu và một quốc gia theo chủ nghĩa phát xít.
Sau thành công của World Cup 1930, số đội tuyển đăng ký tăng vọt khiến giải lần đầu tiên có vòng loại. Đây là giải duy nhất mà đội chủ nhà cũng phải tham dự vòng loại và đội đương kim vô địch (Uruguay) không tham dự để tẩy chay các đội châu Âu bởi vì họ không đến nước mình dự giải năm 1930. Đội tuyển Anh tiếp tục tẩy chay giải đấu do không phải thành viên FIFA. Thông tin nổi bật khác là đội tuyển Ai Cập là đội tuyển quốc gia đầu tiên thuộc châu Phi tham dự một kỳ World Cup.
Kỳ World Cup này có sự tổ chức với quy mô vượt trội về điều kiện vật chất so với giải năm 1930 khi có 8 sân vận động được xây mới hay sửa chữa trên toàn nước Ý. Nhưng cũng như Thế vận hội 1936, giải đấu này bị chính quyền Ý mang làm công cụ tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít khiến có đôi chút làm giảm sự thành công của giải.
Sau 15 ngày và 17 trận đấu, Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý lên ngôi vô địch.
Vòng loại
Đây là lần đầu tiên giải có vòng loại, 32 đội bóng được chia thành 12 nhóm để thi đấu chọn ra 16 đội vào vòng chung kết.
Địa điểm
Đội hình
Sơ đồ thi đấu
Vòng 16 đội
Tứ kết
Đá lại
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Cầu thủ ghi bàn
5 bàn
Oldřich Nejedlý
4 bàn
Edmund Conen
Angelo Schiavio
3 bàn
Raimundo Orsi
Leopold Kielholz
2 bàn
Johann Horvath
Bernard Voorhoof
Antonín Puč
Abdelrahman Fawzi
Karl Hohmann
Ernst Lehner
Géza Toldi
Giovanni Ferrari
Giuseppe Meazza
José Iraragorri
Sven Jonasson
1 bàn
Ernesto Belis
Alberto Galateo
Josef Bican
Toni Schall
Karl Sesta
Matthias Sindelar
Karl Zischek
Leônidas
Jiří Sobotka
František Svoboda
Jean Nicolas
Georges Verriest
Stanislaus Kobierski
Rudolf Noack
Otto Siffling
György Sárosi
Pál Teleki
Jenő Vincze
Enrique Guaita
Kick Smit
1 bàn (tiếp)
Leen Vente
Ştefan Dobay
Isidro Lángara
Luis Regueiro
Gösta Dunker
Knut Kroon
André Abegglen
Willy Jäggi
Aldo Donelli
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1938 (tên chính thức là Coupe du Monde 1938) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 3, và đã được tổ chức từ ngày 4 tháng 6 đến ngày 19 tháng 6 năm 1938 tại Pháp. Đây là lần thứ hai giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau lần đầu tiên là vào năm 1934 tại Ý.
Sau 16 ngày và 18 trận đấu, Ý đã bảo vệ được danh hiệu vô địch thế giới của mình và là đội đầu tiên làm được điều này. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng trong 3 kỳ World Cup đầu tiên trước khi Giải đấu bị gián đoạn trong 2 kỳ tiếp theo (1942 và 1946) vì Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vòng loại
37 đội bóng tham dự vòng tuyển để chọn ra 16 đội vào vòng chung kết. Nước chủ nhà Pháp và đội đương kim vô địch thế giới Ý được quyền vào thẳng vòng chung kết.
Lý do Pháp được chọn cho lần giải này đã làm mất lòng nhiều nước vì họ tin rằng lần này phải được tổ chức tại Nam Mỹ (sau khi đã được tổ chức tại châu Âu lần trước). Do đó, hai đội: Argentina và Uruguay đã không tham dự vòng loại. Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo, sau khi đã qua vòng tuyển, đã phải rút ra vì khi giải vô địch xảy ra thì Áo bị Đức Quốc xã chiếm. FIFA mời đội Anh thay thế vào chỗ của Áo nhưng họ tiếp tục từ chối. Vì lý do đó, đội Thụy Điển là đội duy nhất không phải đấu vòng một mà trực tiếp được vào vòng hai vì đội Áo là đối thủ được bốc thăm sẽ đấu với họ ở vòng một. Giải đấu này đánh dấu cho đội Indonesia khi là đội đầu tiên đến từ châu Á giành quyền tham dự giải với tên gọi Đông Ấn Hà Lan.
Địa điểm thi đấu
Đội hình
Kết quả
Vòng 16 đội
Đá lại
Tứ kết
Đá lại
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
30px
Danh sách cầu thủ ghi bàn
7 bàn
Leônidas
5 bàn
György Sárosi
Gyula Zsengellér
Silvio Piola
4 bàn
Gino Colaussi
Ernest Wilimowski
3 bàn
Perácio
Romeu
Héctor Socorro
Harry Andersson
Arne Nyberg
Gustav Wetterström
André Abegglen
2 bàn
Oldřich Nejedlý
Jean Nicolas
Pál Titkos
Ștefan Dobay
1 bàn
Henri Isemborghs
Roberto
Tomás Fernández
José Magriñá
Vlastimil Kopecký
Josef Košťálek
Josef Zeman
Oscar Heisserer
Émile Veinante
Josef Gauchel
Wilhelm Hahnemann
Vilmos Kohut
Géza Toldi
Pietro Ferraris
Giuseppe Meazza
Arne Brustad
Fryderyk Scherfke
Iuliu Barátky
Silviu Bindea
Tore Keller
Sven Jonasson
Alfred Bickel
Eugen Walaschek
phản lưới nhà
Sven Jacobsson (trong trận gặp )
Ernst Lörtscher (trong trận gặp ) |
Giải vô địch bóng đá thế giới 1950 (tên chính thức là 1950 Football World Cup - Brazil hay IV Campeonato Mundial de Futebol trong tiếng Bồ Đào Nha) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ tư và là giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức sau hai năm 1942 và 1946 không diễn ra do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là lần thứ hai giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Nam Mỹ sau lần đầu tiên là vào năm 1930 tại Uruguay. Giải đấu được tổ chức từ ngày 24 tháng 6 đến 16 tháng 7 năm 1950 tại Brasil.
Sau 23 ngày và 22 trận đấu, Uruguay đã trở thành vô địch thế giới lần thứ hai. Còn Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. Đây là giải đấu duy nhất cho đến nay mà đội vô địch không được xác định bởi một trận chung kết duy nhất. Đây cũng là giải đấu đầu tiên mà chiếc cúp được đặt tên là Jules Rimet, để đánh dấu kỷ niệm 25 năm Jules Rimet làm chủ tịch FIFA.
Vòng loại
34 đội bóng tham dự vòng loại được chia vào 10 nhóm để chọn ra 11 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Brasil và đội đương kim vô địch Ý. Đáng chú ý, ĐT Anh đã lần đầu tiên xuất hiện tại World Cup sau 3 kỳ từ chối tham dự.
Một số đội đã từ chối tham gia giai đoạn vòng loại, bao gồm hầu hết các quốc gia đứng sau Bức màn Sắt như Liên Xô, Tiệp Khắc và Hungary. Cuối cùng, Nam Tư là quốc gia Đông Âu duy nhất tham dự giải đấu.
Argentina, Ecuador và Peru ở Nam Mỹ rút lui sau lễ bốc thăm vòng loại, trường hợp của Argentina là do tranh chấp với Liên đoàn bóng đá Brazil. Điều này có nghĩa là Chile, Bolivia, Paraguay và Uruguay đã mặc định vượt qua vòng loại của Nam Mỹ. Ở châu Á, Philippines, Indonesia và Miến Điện đều rút lui, Ấn Độ nghiễm nhiên vào vòng chung kết. Tại châu Âu, Áo và Bỉ rút lui khỏi vòng loại, đồng nghĩa với việc Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ đã đủ điều kiện mà không cần phải thi đấu lượt trận cuối cùng.
Các sân vận động
Đội hình
Phân nhóm
Thể thức
Ban tổ chức giải đấu của Brazil đã đề xuất một thể thức thi đấu mới nhằm tối đa hóa các trận đấu và doanh thu bán vé bởi sân vận động và cơ sở hạ tầng quá đắt đỏ. 13 đội được chia thành bốn bảng đấu vòng một, đội đứng đầu mỗi bảng sẽ tiến vào vòng bảng cuối cùng, thi đấu theo thể thức vòng tròn tính điểm để xác định đội giành cúp. Một giải đấu loại trực tiếp, như đã được sử dụng vào năm 1934 và 1938, chỉ có mười sáu trận đấu (bao gồm cả trận tranh hạng ba), trong khi hai vòng đấu theo thể thức bảng được đề xuất sẽ đảm bảo ba mươi trận và do đó doanh thu từ vé nhiều hơn. Ngoài ra, thể thức này sẽ đảm bảo mỗi đội chơi ít nhất ba trận và tạo thêm động lực cho các đội châu Âu thực hiện hành trình đến Nam Mỹ và thi đấu. FIFA đã phản đối đề xuất này, nhưng sau đó đã xem xét lại khi phía Brasil đe dọa sẽ không đăng cai giải đấu nếu thể thức này không được sử dụng.
Ở mỗi bảng, các đội được 2 điểm nếu thắng và 1 điểm nếu hòa. Nếu các đội đứng đầu trong một bảng bằng điểm nhau, một trận playoff sẽ được tổ chức để xác định đội chiến thắng trong nhóm.
Trọng tài
Châu Âu
Alois Beranek
Arthur Edward Ellis
George Reader
Reginald Leafe
Charles de La Salle
Generoso Dattillo
Giovanni Galeati
Karel van der Meer
José da Costa
George Mitchell
José García Carrión
Ramón Roma Azon
Gunnar Dahlner
Ivan Eklind
Jean Lutz
Benjamin Griffiths
Leo Lemešić
Bắc Mỹ
Estevez Texada
Prudencio Garcia
Nam Mỹ
Alfredo Álvarez
Alberto da Gama Malcher
Mario Gardelli
Mario Gonçalves Viana
Sergio Bustamante
Cayetano de Nicola
Mario Ruben Heyn
Esteban Marino
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Vòng đấu chung kết
Vô địch
30px
Danh sách cầu thủ ghi bàn
8 bàn
Ademir
5 bàn
Óscar Míguez
4 bàn
Chico
Estanislau Basora
Telmo Zarra
Alcides Ghiggia
3 goals
Karl-Erik Palmér
Stig Sundqvist
Juan Alberto Schiaffino
2 bàn
Baltazar
Jair
Zizinho
Atilio Cremaschi
Riccardo Carapellese
Silvestre Igoa
Sune Andersson
Hasse Jeppson
Jacques Fatton
Željko Čajkovski
Kosta Tomašević
1 bàn
Alfredo
Friaça
Maneca
Andrés Prieto
George Robledo
Fernando Riera
Wilf Mannion
Stan Mortensen
Ermes Muccinelli
Egisto Pandolfini
Horacio Casarín
Héctor Ortiz
Atilio López
César López Fretes
Bror Mellberg
Charles Antenen
René Bader
Joe Gaetjens
Joe Maca
Gino Pariani
Frank Wallace
Julio Pérez
Obdulio Varela
Ernesto Vidal
Rajko Mitić
Stjepan Bobek
Tihomir Ognjanov
phản lưới nhà
José Parra (trận gặp Brasil)
Bảng xếp hạng giải đấu
Pháp và Ấn Độ là hai đội bỏ cuộc. |
Bạch Thái Bưởi (白泰𣞻, 1874 – 22 tháng 7 năm 1932) là một doanh nhân người Việt đầu thế kỷ 20. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật nhất của Bạch Thái Bưởi là hàng hải, khai thác than và in ấn.
Cuộc đời
Khởi nghiệp
Bạch Thái Bưởi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng An Phúc (Yên Phúc), huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Yên Phúc, Hà Đông, Hà Nội), tên thật là Đỗ Thái Bửu. Gia đình ông vốn họ Đỗ nhưng vì cha ông là Đỗ Văn Cóp mất sớm, ông phải phụ giúp mẹ kiếm sống bằng nghề bán hàng rong. Sau có một người nhà giàu họ Bạch nhận ông làm con nuôi và cho ăn học, ông mới đổi từ họ Đỗ sang họ Bạch. Sau thời gian học quốc ngữ và tiếng Pháp; ông bỏ học đi làm thư ký cho một hãng buôn của người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội. Khi đó ông có tên là Ký Năm.
Năm 1894, ông chuyển sang làm cho một xưởng thuộc hãng thầu công chính và ở đây, lần đầu tiên ông được tiếp xúc, thu nhận những hiểu biết về máy móc, cách tổ chức, quản lý sản xuất.
Năm 1895, ông được Phủ Thống sứ Bắc kỳ chọn làm người giới thiệu những sản phẩm của Việt Nam tại Hội chợ Bordeaux, nơi ông đã được tiếp xúc trực tiếp với xã hội phương Tây.
Khi về nước, với kiến thức và kinh nghiệm thu được trong thời gian ở Pháp, ông đã xin làm giám đốc công trình cầu Long Biên. Nhận thấy người Pháp đang cần gỗ xây dựng đường sắt, Bạch Thái Bưởi đã hùn vốn với một người Pháp làm đại lý cung cấp tà vẹt gỗ cho Sở Hoả xa Đông Dương.
Sau ba năm kinh doanh, ông đã trở nên giàu có và đã tách riêng để kinh doanh độc lập bằng việc bỏ vốn ra buôn ngô, nhưng lần này ông đã thất bại và lỗ nặng. Mặc dù vậy, ông vẫn tung nốt những đồng vốn còn lại vào một vụ đấu thầu hiệu cầm đồ của người Hoa ở Nam Định và ông đã trúng thầu. ông lãnh thêm việc thầu thuế chợ ở Vinh (1906–1913), ở Nam Định (1906–1909), ở Thanh Hóa (1907–1909).
Hàng hải
Năm 1909, Bạch Thái Bưởi đã bước vào một lĩnh vực kinh doanh mới mẻ là ngành vận tải đường sông, bắt đầu bằng việc thuê lại 3 chiếc tàu (Phi Phụng, Phi Long và Khoái Tử Long) của một hãng tàu Pháp chở thư và hành khách đường sông Bắc kỳ, có tên là A. R. Marty, vừa hết hạn hợp đồng với chính phủ. Ông đã cho tàu chạy hai tuyến đường: Nam Định – Hà Nội và Nam Định – Bến Thủy (Vinh) Lúc này, ông đã phải đối mặt với hai đối thủ nặng ký nhất là chủ tàu người Pháp và người Hoa. Và cuộc đụng độ không cân sức đã xảy ra, ông hạ giá vé xuống một thì người Hoa hạ giá vé xuống hai. Các chủ tàu người Hoa lại trường vốn và đã quyết chí đánh bại Bạch Thái Bưởi bằng đủ mọi cách. Trong tình thế đó, Bạch Thái Bưởi đã nghĩ tới một thứ vũ khí mà người Hoa không thể có, đó là tinh thần dân tộc. Bạch Thái Bưởi đã tin rằng, sự nghiệp kinh doanh của mình diễn ra trên tổ quốc mình, xung quanh là đồng bào minh chắc chắn sẽ thắng lợi. Ông cho người tới các bến tàu nêu rõ những thiệt thòi của người Việt, kêu gọi về tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Ông treo một cái ống trên tàu, để ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích, bỏ tiền vào, giúp cho chủ tàu giảm lỗ. Kết quả hành khách dần bỏ tàu Hoa mà đi tàu Việt. Ông đã sử dụng thành công tinh thần dân tộc như một vũ khí để chiến thắng đối thủ cạnh tranh của mình.
Từ sự thành công đó, ông đã thâu tóm các đội tàu của các công ty Pháp và Hoa đã bị phá sản như Marty d'Abbadie, công ty Desch Wander... tên của những con tàu của các hãng bị ông đánh bại và mua lại đã được gắn đầy trên bức tường trong phòng làm việc của ông.
Năm 1915, có một sự kiện đáng lưu ý trong tầm nhìn của Bạch Thái Bưởi, đó là ông đã quyết định mua lại xưởng sửa chữa và đóng tàu của A. R. Marty, một trong những xưởng đóng tàu đầu tiên ở Hải Phòng. Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều nơi. Đến năm 1916, Bạch Thái Bưởi đã chuyển trụ sở của hãng từ Nam Định xuống Hải Phòng, và tại đây, một công ty hàng hải mang tên Giang Hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi công ty đã ra đời. Năm 1917, hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại sáu chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7 tháng 9 năm 1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Con tàu Bình Chuẩn dài 42m, rộng 7,2m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, động cơ compound 450 mã lực, chạy bằng hơi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải lý/giờ. Tàu Bình Chuẩn chạy chuyến đầu tiên từ Hải Phòng cập bến Sài Gòn ngày 17 tháng 9 năm 1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giới công thương Sài Gòn lúc đó. Sự việc này được xem là sự kiện tượng trưng cho "Phong trào chấn hưng thương trường cổ động thực nghiệp" của giới tư sản Việt Nam lúc đó.
Bạch Thái Bưởi được mệnh danh là Chúa sông Bắc kỳ. Công ty của Bạch Thái Bưởi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, và Philippines. Đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930; khi ấy công ty có trên 40 con tàu cùng sà lan chạy trên tất cả các tuyến đường sông Bắc kỳ và cả các nước và vùng lãnh thổ lân cận, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu, dưới sự điều khiển của một quản đốc có tên là Nguyễn Văn Phúc, một người tâm phúc của Bạch Thái Bưởi. Công ty đã tiến hành bảo dưỡng định kỳ, tân trang những con tàu mua lại đã rách nát và đóng mới hàng loạt những tàu pha sông biển. Văn phòng và chi nhánh của công ty có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gòn.
Mỏ
Từ lợi nhuận thu được từ kinh doanh hàng hải, Bạch Thái Bưởi tiếp tục đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác, với ước vọng trở thành nhà kinh doanh tổng hợp, hiện đại như kiểu công ty Ford của Hoa Kỳ, với các lĩnh vực như: đấu thầu thu thuế ở Chợ Rồng, Nam Định, mở ty nước ở Thái Bình, mở quán cơm Tây ở Thanh Hoá...
Đặc biệt, Bạch Thái Bưởi đã đầu tư thành công vào một lĩnh vực được coi là cấm kỵ của thời Pháp thuộc, đó là ngành khai thác mỏ. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay người Pháp. Năm 1928, Bạch Thái Bưởi dốc nhiều tiền vào việc khởi nghiệp khai mỏ. Ông được cấp phép khai mỏ than ở vùng Quảng Yên. Nhận thức rằng muốn hơn người Pháp trong việc khai mỏ cần phải có người điều hành giỏi chuyên môn, thấu đáo kỹ thuật, ông nhờ người thân tín ở Pháp, tuyển dụng ở các trường kỹ thuật những người có tài năng về Việt Nam làm việc.
Sau thành công trong khai thác than, ông kinh doanh bất động sản ở Đồ Sơn, Hải Phòng.
Văn hóa – Ấn bản
Có lẽ đóng góp quan trọng thứ hai sau kinh doanh hàng hải của Bạch Thái Bưởi là kinh doanh văn hoá. Ông đã đầu tư xây dựng "Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi" (sau là Đông Kinh ấn quán). Năm 1921, Bạch Thái Bưởi cho ra đời tờ báo hàng ngày mang tên Khai hóa nhật báo với tôn chỉ: "Một là giúp đồng bào ta tự khai hoá, dạy bảo lẫn nhau... mở mang con đường thực nghiệp. Hai là giãi bày cùng Chính phủ bảo hộ những yêu cầu thiết thực, chính đáng của quốc dân. Ba là diễn giải những ý kiến, những lợi ích, tác hại của các công việc Chính phủ đang làm...". Mục đích cuối cùng của phong trào thực nghiệp mà Bạch Thái Bưởi phát động và cổ suý chỉ cốt làm giàu "vì dân giàu thì nước mới giàu". Tờ báo Khai hóa ra được 22 số trước khi đình bản.
Ông ủng hộ lập trường của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Cuối đời
Bạch Thái Bưởi còn dự định tạo dựng nhiều công trình như xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải Phòng,... nhưng ông đã không thực hiện được.
Bạch Thái Bưởi mất ngày 22 tháng 7 năm 1932 tại Hải Phòng, sau một cơn đau tim.
Vinh danh
Tại quê nhà Yên Phúc, khu Đô thị Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội có con đường mang tên ông.
Tại Nha Trang con đường hoa giấy đẹp nhất mang tên ông.
Ông được giới thiệu trong Sách giáo khoa lớp 4 tập 1 với tựa bài " "Vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi", theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Bài này thuộc chủ đề "Có chí thì nên".
Hậu duệ
Vợ chồng Bạch Thái Bưởi có tòa nhà hai tầng (gồm nhiều căn) ở góc đường Đinh Tiên Hoàng - Trần Hưng Đạo (quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng). Thời điểm tháng 10/1958, khi lên đường tham gia kháng chiến, ông Bạch Thái Hải (cháu nội của cụ Bạch Thái Bưởi) đã gửi Thành phố Hải Phòng giữ giúp tòa nhà. Khi gửi có giấy viết tay.
34 năm sau, ông Bạch Thái Hải có đơn xin lại nhà từ năm 1992. Tháng 7/1993, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản chuyển đơn kiến nghị của ông Hải cho Thành phố Hải Phòng giải quyết. Tuy nhiên, việc đòi nhà không có kết quả vì không còn giấy tờ lưu trữ. Sau đó, ba căn nhà mặt tiền đường Đinh Tiên Hoàng được Thành phố Hải Phòng bán thanh lý cho ba hộ dân.
Sau nhiều năm đòi lại nhà để làm nơi thờ tự không có kết quả, vào tháng 12/2019, bà Bạch Quế Hương (chắt nội ông Bạch Thái Bưởi) muốn trả lại cho Nhà nước các bằng khen, danh hiệu đã được trao tặng. |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1954 (tên chính thức là 1954 Football World Cup - Switzerland / Championnat du Monde de Football 1954) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 5 và đã được tổ chức từ ngày 16 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1954 tại Thụy Sĩ. Đây là lần thứ ba giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý và 1938 tại Pháp.
Đây là lần đầu tiên giải được chiếu trên truyền hình. Tây Đức lần đầu tiên giành chức vô địch thế giới sau khi thắng Hungary 3–2 ở trận chung kết.
Vòng loại
37 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia vào 13 nhóm để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Thụy Sĩ và đội đương kim vô địch thế giới Uruguay.
Tóm tắt giải đấu
Thể thức
Giải đấu năm 1954 áp dụng một thể thức khác biệt. 16 đội tuyển tham dự được chia thành bốn bảng 4 đội. Mỗi bảng gồm hai đội hạt giống và hai đội không hạt giống. Các trận đấu trong bảng chỉ giữa đội hạt giống và không hạt giống, vì vậy chỉ có 4 trận đấu mỗi bảng. Điều này khác với thể thức vòng tròn thông thường khi mỗi đội gặp tất cả các đội khác trong bảng, do vậy mỗi bảng có 6 trận đấu. Một điều khác biệt nữa là hiệp phụ, điều mà hầu hết các giải đấu khác không sử dụng ở vòng bảng. Nếu trận đấu hòa sau 90 phút thì tiếp tục chơi hiệp phụ và kết quả trận đấu được tính sau hai hiệp phụ.
Một trận thắng tính 2 điểm, một trận hòa 1 điểm. Hai đội đứng đầu bảng vào vòng loại trực tiếp. Nếu hai đội đầu bảng bằng điểm thì tổ chức bốc thăm xác định đội nhất bảng. Nếu đội thứ nhì và thứ ba bằng điểm thì họ phải đấu thêm một trận play-off để phân định đội lọt vào vòng sau.
Trên thực tế hai trong bốn bảng cần đến trận play-off và hai bảng còn lại phải bốc thăm chọn ra đội đầu bảng. Hai trận play-off giữa Thụy Sĩ với Ý và Thổ Nhĩ Kỳ với Tây Đức. Trong cả hai trận này đội không hạt giống (Thụy Sĩ và Tây Đức) đã lặp lại chiến thắng trước đội hạt giống (Ý và Thổ Nhĩ Kỳ) để đi tiếp. Trong hai bảng còn lại, Uruguay và Brasil lần lượt xếp đầu bảng, trên Áo và Nam Tư.
Thể thức lại tiếp tục khác biệt ở vòng loại trực tiếp, khi bốn đội đầu bảng chơi một nhánh và bốn đội nhì bảng chơi nhánh còn lại để xác định hai đội chơi trận chung kết. Ở các giải đấu sau này đội nhất bảng sẽ gặp đội nhì bảng khác ở vòng loại trực tiếp đầu tiên.
Nếu trận đấu vòng loại trực tiếp hòa sau 90 phút, hai đội chơi tiếp 30 phút hiệp phụ. Thời điểm này chưa có sút luân lưu. Vì vậy nếu tỉ số tiếp tục hòa, hai đội sẽ bốc thăm chọn ra đội thắng. Riêng trận chung kết nếu hòa sau hai hiệp phụ, sẽ có một trận tái đấu. Nếu trận tái đấu tiếp tục hòa sau hai hiệp phụ mới tổ chức bốc thăm. Thực tế trong giải đấu này, không có trận nào hòa sau hai hiệp phụ nên không cần bốc thăm hoặc tái đấu.
Lựa chọn hạt giống
Trước khi vòng loại kết thúc, 8 đội hạt giống đã được FIFA lựa chọn dựa vào thứ hạng trên bảng xếp hạng thế giới. Đó là Anh, Áo, Brasil, Hungary, Pháp, Tây Ban Nha, Uruguay và Ý.
Việc xếp hạt giống sớm đã gặp vấn đề khi Thổ Nhĩ Kỳ bất ngờ loại Tây Ban Nha ra khỏi vòng chung kết. FIFA giải quyết trường hợp này bằng cách chọn luôn Thổ Nhĩ Kỳ làm hạt giống thế chỗ Tây Ban Nha.
Các kết quả đáng chú ý
Tây Đức mới chỉ trở lại làm thành viên đầy đủ của FIFA từ năm 1950 và không được xếp làm hạt giống, đã thắng thuyết phục trận đầu tiên trước hạt giống Thổ Nhĩ Kỳ. Huấn luyện viên của Tây Đức là Sepp Herberger đã đánh cược khi chỉ cử đội hình dự bị để gặp đội hạt giống Hungary. Họ thua đậm trận đấu đó với tỉ số 3–8 và họ buộc phải đá trận play-off, gặp lại Thổ Nhĩ Kỳ. Tây Đức cũng thắng dễ trận này.
Đội trưởng của tuyển Hungary Ferenc Puskás, được phần đông mọi người cho là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới ở thời điểm đó, đã bị hậu vệ Tây Đức Werner Liebrich gây chấn thương và phải vắng mặt ở hai trận tiếp theo của đội nhà. Puskás thi đấu trận chung kết dù chưa ở trạng thái sung sức nhất.
Ở tứ kết, ứng viên vô địch Hungary thắng Brasil 4–2 trong một trận đấu được coi là một trong những trận đấu bạo lực nhất lịch sử bóng đá, được đặt một cái tên tai tiếng là Trận chiến ở Berne. Đương kim vô địch Uruguay hạ Anh cũng với tỉ số 4–2. Tây Đức vượt qua Nam Tư 2–0 và Áo thắng chủ nhà Thụy Sĩ 7–5, trở thành trận đấu có nhiều bàn thắng nhất lịch sử World Cup.
Tại bán kết, Tây Đức thắng Áo 6–1. Ở trận bán kết còn lại, Hungary và Uruguay đã chơi một trận cầu hấp dẫn bậc nhất giải đấu. Hết hiệp một Hungary dẫn Uruguay 1–0. Trận đấu phải bước sang hiệp phụ khi tỉ số ở hai hiệp chính là 2–2. Sándor Kocsis phá vỡ thế bế tắc với hai bàn thắng muộn, đưa Hungary vào chung kết. Uruguay thua trận đấu đầu tiên ở vòng chung kết Cúp thế giới. Sau đó họ còn thất bại thêm lần nữa trước Áo ở trận tranh hạng ba.
Địa điểm
Đội hình
Trọng tài
Raymon Wyssling
Benjamin Griffiths
Charlie Faultless
Manuel Asensi
Jose da Costa Vieira
Raymond Vincenti
William Ling
Esteban Marino
Arthur Edward Ellis
Laurent Franken
Vincenzo Orlandini
Vasa Stefanovic
Mario Vianna
Emil Schmetzer
Carl Erich Steiner
István Zsolt
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Play-off
Bảng 3
Bảng 4
Play-off
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
Wagner (18)
Sándor Kocsis (11)
6 bàn
Erich Probst
Josef Hügi
Max Morlock
4 bàn
Nándor Hidegkuti
Ferenc Puskás
Robert Ballaman
Carlos Borges
Helmut Rahn
Hans Schäfer
Ottmar Walter
3 bàn
Ernst Stojaspal
Léopold Anoul
Nat Lofthouse
Zoltán Czibor
Burhan Sargun
Suat Mamat
Juan Hohberg
Óscar Míguez
Fritz Walter
2 bàn
Robert Körner
Ernst Ocwirk
Didi
Julinho
Pinga
Ivor Broadis
Mihály Lantos
Péter Palotás
Lefter Küçükandonyadis
Julio Abbadie
Juan Alberto Schiaffino
1 bàn
Henri Coppens
Baltazar
Djalma Santos
Tom Finney
Jimmy Mullen
Dennis Wilshaw
Raymond Kopa
Jean Vincent
József Tóth
Giampiero Boniperti
Amleto Frignani
Carlo Galli
Benito Lorenzi
Fulvio Nesti
Egisto Pandolfini
Tomás Balcázar
José Luis Lamadrid
Jacques Fatton
Mustafa Ertan
Erol Keskin
Javier Ambrois
Obdulio Varela
Richard Herrmann
Bernhard Klodt
Alfred Pfaff
Miloš Milutinović
Branko Zebec
phản lưới nhà
Jimmy Dickinson (trong trận gặp )
Raúl Cárdenas (trong trận gặp )
Luis Cruz (trong trận gặp )
Ivica Horvat (trong trận gặp )
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1958 (tên chính thức là 1958 Football World Cup - Sweden / Sverige 1958) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 6 và đã được tổ chức từ ngày 8 tháng 6 đến 29 tháng 6 năm 1958 tại Thụy Điển. Đây là lần thứ tư giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ và là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Scandinavia.
Sau 35 trận đấu, với cầu thủ trẻ Pelé trong đội, Brasil lần đầu tiên đã trở thành vô địch thế giới và Brasil trở thành đội bóng Nam Mỹ đầu tiên vô địch giải đấu này tại châu Âu.
Vòng loại
Xem thêm: Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1958
53 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Thụy Điển và đội đương kim vô địch thế giới CHLB Đức.
World Cup lần này ghi nhận sự tham gia và vượt qua vòng loại ngay lần đầu tiên của Liên Xô, cùng với sự có mặt ở vòng chung kết của tất cả các đội bóng thuộc Liên hiệp vương quốc Anh: Anh, Scotland, xứ Wales và Bắc Ireland. Bắc Ireland đã lập thành tích loại Ý ra khỏi vòng chung kết. Đây là lần đầu tiên Ý không lọt được vào vòng chung kết.
Bên cạnh các trận đấu loại diễn ra chủ yếu ở châu Âu, xứ Wales tuy xếp thứ hai trong bảng đấu loại (sau Tiệp Khắc) nhưng được quyền tham dự trận đấu tranh vé vớt với Israel sau khi Israel vượt qua vòng loại mà không phải đấu một trận nào vì các đối thủ Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia và Sudan đều bỏ cuộc. FIFA đã bổ sung một điều luật là không có đội tuyển nào có quyền vượt qua vòng loại mà không phải đấu trận nào, vì rất nhiều đội tuyển vượt qua vòng loại tại các World Cup trước mà không phải thi đấu do đối thủ bỏ cuộc. Xứ Wales đã thắng trận tranh vé vớt.
Ngày 8 tháng 2, Lennart Hyland và Sven Jerring đã đưa ra kết quả bốc thăm. Các đội tham gia vòng chung kết được chia thành 4 bảng.
Các sân vận động
Trọng tài
Danh sách 22 trọng tài tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1958.
Châu Âu
Fritz Seipelt
Lucien van Nuffel
Martin Macko
Carl Jørgensen
Arthur Ellis
Reginald Leafe
Arne Eriksson
Maurice Guigue
István Zsolt
Vincenzo Orlandini
Jan Bronkhorst
Joaquim Campos
Jack Mowat
Juan Garay Gardeazábal
Sten Ahlner
Raymond Wyssling
Nikolai Latyshev
Mervyn Griffiths
Leo Lemesić
Nam Mỹ
Juan Brozzi
José Maria Codesal
Phân nhóm
Đội hình
Vòng bảng
Bảng 1
Do bằng điểm nhau nên Bắc Ireland và Tiệp Khắc đấu thêm một trận.
Play-off
Bảng 2
Pháp xếp trên Nam Tư.
Bảng 3
Do bằng điểm nhau nên Xứ Wales và Hungary đấu thêm một trận.
Play-off
Bảng 4
Do bằng điểm nhau nên Liên Xô và Anh đấu thêm một trận.
Đây là trận hòa không bàn thắng đầu tiên trong lịch sử giải vô địch bóng đá thế giới.
Play-off
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
13 bàn
Just Fontaine
6 bàn
Pelé
Helmut Rahn
5 bàn
Vavá
Peter McParland
4 bàn
Zdeněk Zikán
Lajos Tichy
Kurt Hamrin
Agne Simonsson
3 bàn
Omar Oreste Corbatta
Raymond Kopa
Roger Piantoni
Hans Schäfer
Todor Veselinović
2 bàn
José Altafini
Milan Dvořák
Václav Hovorka
Derek Kevan
Maryan Wisnieski
Juan Bautista Agüero
Florencio Amarilla
José Parodi
Jorge Lino Romero
Aleksandr Ivanov
Nils Liedholm
Ivor Allchurch
Uwe Seeler
Aleksandar Petaković
1 bàn
Ludovico Avio
Norberto Menéndez
Karl Koller
Alfred Körner
Didi
Nílton Santos
Mário Zagallo
Jiří Feureisl
Tom Finney
Johnny Haynes
Yvon Douis
Jean Vincent
József Bencsics
József Bozsik
Károly Sándor
Jaime Belmonte
Wilbur Cush
Cayetano Ré
Sammy Baird
Bobby Collins
Jackie Mudie
Jimmy Murray
Anatoli Ilyin
Valentin Ivanov
Nikita Simonyan
Gunnar Gren
Lennart Skoglund
John Charles
Terry Medwin
Hans Cieslarczyk
Radivoje Ognjanović
Zdravko Rajkov
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1962 (tên chính thức là 1962 Football World Cup - Chile / Campeonato Mundial de Fútbol - Chile 1962) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 7 và đã được tổ chức từ ngày 30 tháng 5 đến 17 tháng 6 năm 1962 tại Chile. Đây là lần thứ ba giải bóng đá vô địch thế giới tổ chức tại Nam Mỹ sau các năm 1930 tại Uruguay và 1950 tại Brasil.
Sau 32 trận đấu, Brasil đã bảo vệ được danh hiệu vô địch thế giới của mình và là đội thứ hai làm được điều này sau .
Vòng loại
56 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Chile và đội đương kim vô địch thế giới Brasil.
Các sân vận động
Trại đóng quân
Đội hình
Trọng tài
18 trọng tài từ 17 quốc gia sẽ tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1962
Châu Âu
Albert Dusch
Andor Dorogi
Arthur Blavier
Branko Tesanić
Cesare Jonni
Erich Steiner
Gottfried Dienst
Juan Gardeazábal
Karol Galba
Ken Aston
Leo Horn
Nikolay Latyshev
Pierre Schwinte
Robert Holley Davidson
Nam Mỹ
Arturo Yamasaki
Carlos Robles
João Etzel Filho
Sergio Bustamante
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Anh xếp trên Argentina nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại.
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng Ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
4 bàn
Garrincha
Vavá
Leonel Sánchez
Flórián Albert
Valentin Ivanov
Dražan Jerković
3 bàn
Amarildo
Adolf Scherer
Lajos Tichy
Milan Galić
2 bàn
Jaime Ramírez
Eladio Rojas
Jorge Toro
Ron Flowers
Giacomo Bulgarelli
Igor Chislenko
Viktor Ponedelnik
José Sasía
Uwe Seeler
1 bàn
Héctor Facundo
José Sanfilippo
Pelé
Mário Zagallo
Zito
Georgi Asparuhov
Germán Aceros
Marcos Coll
Marino Klinger
Antonio Rada
Francisco Zuluaga
Josef Kadraba
Václav Mašek
Josef Masopust
Jozef Štibrányi
Bobby Charlton
Jimmy Greaves
Gerry Hitchens
Ernő Solymosi
Bruno Mora
Alfredo del Águila
Isidoro Díaz
Héctor Hernández
Aleksei Mamykin
Adelardo
Joaquín Peiró
Heinz Schneiter
Rolf Wüthrich
Ángel Cabrera
Luis Cubilla
Albert Brülls
Horst Szymaniak
Vojislav Melić
Petar Radaković
Josip Skoblar
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1966 (tên chính thức là 1966 Football World Cup - England / World Cup 1966 - England) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 8 và đã được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 30 tháng 7 năm 1966 tại Anh. Đây là lần thứ năm giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ và 1958 tại Thụy Điển.
Linh vật chính thức của giải đấu là sư tử Willie, một biểu tượng đặc trưng của Anh, đang mặc chiếc áo thi đấu hình lá cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland với dòng chữ "WORLD CUP".
Các trận đấu được diễn ra tại tám sân vận động trên khắp nước Anh, với trận chung kết được tổ chức tại sân vận động Wembley, có sức chứa 98.600 khán giả. Sự kiện này năm 1966 có số lượng đội tham gia cao nhất của bất kỳ giải đấu quốc tế nào cho đến lúc bấy giờ, với 70 quốc gia tham gia. Trước giải đấu, chiếc cúp Jules Rimet đã bị đánh cắp, nhưng đã được một chú chó tên Pickles tìm thấy 4 tháng trước khi giải đấu bắt đầu. Trận chung kết, được BBC phát sóng tại chỗ, là lần cuối cùng được giải đấu được chiếu hoàn toàn bằng truyền hình đen trắng. 31 quốc gia châu Á đã tẩy chay World Cup vì phản đối số lượng các đội hạt giống được FIFA bảo đảm vào vòng chung kết của giải năm đó.
Sau 32 trận đấu, chủ nhà Anh đoạt chức vô địch thế giới sau khi đánh bại Tây Đức 4-2 trong trận chung kết để giành chức vô địch thế giới đầu tiên của họ; Trận đấu đã kết thúc với tỷ số 2–2 sau 90 phút và đến hiệp phụ, khi Geoff Hurst ghi hai bàn thắng để hoàn thành cú hat-trick (dù bàn thắng thứ 2 của ông đã gây ra nhiều tranh cãi dữ dội và cực kỳ gay gắt giống như ở tại World Cup 2010), đây là hat-trick lần đầu tiên được ghi trong một trận chung kết World Cup, với khán giả chạy thẳng vào sân sau bàn thứ tư. là quốc gia thứ năm giành chức vô địch và là quốc gia chủ nhà thứ ba giành chiến thắng sau Uruguay năm 1930 và Ý năm 1934.
Vòng loại
71 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Anh và đội đương kim vô địch thế giới Brasil. (Xem Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1966)
Các sân vận động
Trọng tài
Châu Phi
Ali Kandil
Châu Á
Menachem Ashkenazi
Nam Mỹ
José María Codesal
Roberto Goicoechea
Armando Marques
Arturo Yamasaki
Châu Âu
John Adair
Tofiq Bahramov
Leo Callaghan
Joaquim Campos
Ken Dagnall
Gottfried Dienst
Jim Finney
Karol Galba
Juan Gardeazábal Garay
Rudolf Kreitlein
Concetto Lo Bello
Bertil Lööw
George McCabe
Hugh Phillips
Dimitar Rumentchev
Pierre Schwinte
Kurt Tschenscher
Konstantin Zečević
István Zsolt
Phân nhóm
Đội hình
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Tây Đức xếp trên Argentina nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại.
Bảng 3
Bảng 4
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
9 bàn
Eusébio
6 bàn
Helmut Haller
4 bàn
Geoff Hurst
Ferenc Bene
Valeriy Porkujan
Franz Beckenbauer
3 bàn
Luis Artime
Bobby Charlton
Roger Hunt
José Augusto
José Torres
Eduard Malofeyev
2 bàn
Rubén Marcos
Kálmán Mészöly
Pak Seung-zin
Igor Chislenko
Uwe Seeler
1 bàn
Ermindo Onega
Garrincha
Pelé
Rildo
Tostão
Georgi Asparuhov
Martin Peters
Héctor De Bourgoing
Gérard Hausser
János Farkas
Paolo Barison
Sandro Mazzola
Enrique Borja
Li Dong-woon
Pak Doo-ik
Yang Seung-kook
António Simões
Anatoliy Banishevskiy
Amancio
Josep Maria Fusté
Pirri
Manuel Sanchís
René-Pierre Quentin
Julio César Cortés
Pedro Rocha
Lothar Emmerich
Sigfried Held
Wolfgang Weber
phản lưới nhà
Ivan Davidov (trận gặp Hungary)
Ivan Vutsov (trận gặp Bồ Đào Nha)
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1970 (tên chính thức là 1970 Football World Cup - Mexico / Mexico 70) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 9 và đã được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 21 tháng 6 năm 1970 tại México. Đây là lần đầu tiên giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Bắc Mỹ. Giải vô địch lần này được những người hâm mộ xem là giải hay nhất cho đến nay.
Linh vật chính thức của giải đấu là Juanito, một cậu bé mặc đồng phục thi đấu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Mexico và đội nón rộng vành (sombrero) với dòng chữ "MEXICO 70". Tên thân mật của cậu bé là "Juan", một cái tên phổ biến trong tiếng Tây Ban Nha.
Sau 32 trận đấu, Brasil đã vô địch giải đấu lần thứ 3 và do đó, được quyền giữ cúp vĩnh viễn.
Vòng loại
71 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Mexico và đội đương kim vô địch thế giới Anh. (Xem Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 1970)
Các sân vận động
Phân nhóm
Trọng tài
AFC
Abraham Klein
CAF
Seyoum Tarekegn
Ali Kandil
CONCACAF
Abel Aguilar Elizalde
Diego De Leo
Henry Landauer
CONMEBOL
Ángel Norberto Coerezza
Antônio de Moraês
Rafael Hormázabal
Arturo Yamasaki
Ramón Barreto
UEFA
Ferdinand Marschall
Vital Loraux
Rudi Glöckner
Jack Taylor
Roger Machin
Antonio Sbardella
Laurens van Ravens
Antonio Ribeiro Saldanha
Andrei Rǎdulescu
Bob Davidson
Ortíz de Mendibil
Tofiq Bakhramov
Rudolf Scheurer
Kurt Tschenscher
Đội hình
Vòng bảng
Bảng 1
Chú thích: Liên Xô xếp trên Mexico nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại.
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
10 bàn
Gerd Müller
7 bàn
Jairzinho
5 bàn
Teófilo Cubillas
4 bàn
Pelé
Anatoliy Byshovets
3 bàn
Rivellino
Luigi Riva
Uwe Seeler
2 bàn
Raoul Lambert
Wilfried Van Moer
Tostão
Ladislav Petráš
Roberto Boninsegna
Gianni Rivera
Javier Valdivia
Alberto Gallardo
Florea Dumitrache
1 bàn
Carlos Alberto
Clodoaldo
Gérson
Hristo Bonev
Dinko Dermendzhiev
Todor Kolev
Asparuh Nikodimov
Dobromir Zhechev
Allan Clarke
Geoff Hurst
Alan Mullery
Martin Peters
Mordechai Spiegler
Tarcisio Burgnich
Angelo Domenghini
Maouhoub Ghazouani
Houmane Jarir
Juan Ignacio Basaguren
Javier Fragoso
José Luis González
Gustavo Peña
Roberto Challe
Héctor Chumpitaz
Emerich Dembrovschi
Alexandru Neagu
Kakhi Asatiani
Vitaliy Khmelnytskyi
Ove Grahn
Tom Turesson
Luis Cubilla
Víctor Espárrago
Ildo Maneiro
Juan Mujica
Franz Beckenbauer
Reinhard Libuda
Wolfgang Overath
Karl-Heinz Schnellinger
phản lưới nhà
Javier Guzmán (trận gặp Ý)
Giải thưởng
Quả bóng vàng: Pelé (Brasil)
Chiếc giày vàng: Gerd Müller (Tây Đức)
Cầu thủ trẻ xuất sắc (Awarded retrospectively): Teófilo Cubillas (Peru)
Đội tuyển chơi đẹp:
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1974 (tên chính thức là 1974 Football World Cup - West Germany / Fußball-Weltmeisterschaft 1974) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ mười và đã được tổ chức từ 13 tháng 6 đến 7 tháng 7 năm 1974 ở Tây Đức. Đây là lần thứ sáu giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ, 1958 tại Thụy Điển và 1966 tại Anh, và đây cũng là lần đầu tiên giới thiệu chiếc cúp mới thay thế Cúp Jules Rimet.
Linh vật chính thức của giải đấu là Tip và Tap, hai chú bé mặc áo đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Đức với dòng chữ WM (tiếng Đức Weltmeisterschaft, World Cup) và con số 74.
Sau 38 trận đấu, Tây Đức đã đoạt chức vô địch bóng đá thế giới lần này.
Vòng loại
99 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Tây Đức và đội đương kim vô địch thế giới Brasil.
Các sân vận động
Trọng tài
AFC
Jafar Namdar
Govindasamy Suppiah
CAF
Mahmoud Mustafa Kamel
Youssou N'Diaye
CONCACAF
Alfonso González Archundia
Werner Winsemann
CONMEBOL
Ramón Barreto
Omar Delgado Gómez
Vicente Llobregat
Armando Marques
Luis Pestarino
Edison Peréz-Núñez
UEFA
Aurelio Angonese
Doğan Babacan
Bob Davidson
Rudi Glöckner
Pavel Kasakov
Erich Linemayr
Vital Loraux
Károly Palotai
Nicolae Rainea
Pablo Sánchez Ibáñez
Rudolf Scheurer
Gerhard Schulenburg
Jack Taylor
Clive Thomas
Kurt Tschenscher
Arie van Gemert
Hans-Joachim Weyland
OFC
Tony Boskovic
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Vòng 2
Bảng A
Bảng B
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
7 bàn
Grzegorz Lato
5 bàn
Johan Neeskens
Andrzej Szarmach
4 bàn
Johnny Rep
Ralf Edström
Gerd Müller
3 bàn
René Houseman
Rivellino
Johan Cruyff
Kazimierz Deyna
Paul Breitner
Dušan Bajević
2 bàn
Héctor Yazalde
Jairzinho
Joachim Streich
Emmanuel Sanon
Joe Jordan
Roland Sandberg
Wolfgang Overath
Stanislav Karasi
Ivica Šurjak
1 bàn
Rubén Ayala
Carlos Babington
Miguel Ángel Brindisi
Ramón Heredia
Valdomiro
Hristo Bonev
Sergio Ahumada
Martin Hoffmann
Jürgen Sparwasser
Pietro Anastasi
Romeo Benetti
Fabio Capello
Gianni Rivera
Theo de Jong
Ruud Krol
Rob Rensenbrink
Jerzy Gorgoń
Peter Lorimer
Conny Torstensson
Ricardo Pavoni
Rainer Bonhof
Bernhard Cullmann
Jürgen Grabowski
Uli Hoeneß
Vladislav Bogićević
Dragan Džajić
Josip Katalinski
Branko Oblak
Ilija Petković
Marcel Tisserand
Bàn phản lưới nhà
Roberto Perfumo (trận gặp Ý)
Colin Curran (trận gặp Đông Đức)
Ruud Krol (trận gặp Bulgaria)
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1978 (tên chính thức là 1978 Football World Cup - Argentina / Argentina '78) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 11 và đã được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 25 tháng 6 năm 1978 ở Argentina. Đây là lần thứ tư giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Nam Mỹ sau các năm 1930 tại Uruguay, 1950 tại Brasil và 1962 tại Chile.
Linh vật chính thức của giải đấu là Gauchito, một cậu bé mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Cái nón (với dòng chữ ARGENTINA '78), khăn choàng cổ và roi da là những đặc trưng của những cậu bé chăn bò ở những cánh đồng hoang Nam Mỹ.
Sau 38 trận đấu, Argentina lần đầu tiên đoạt chức vô địch bóng đá thế giới.
Vòng loại
106 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Argentina và đội đương kim vô địch thế giới Tây Đức.
Các sân vận động
Trọng tài
AFC
Farouk Bouzo
Jafar Namdar
Abraham Klein
CAF
Youssou N'Diaye
CONCACAF
Alfonso González Archundia
CONMEBOL
Ramón Barreto
Arnaldo Cézar Coelho
Ángel Norberto Coerezza
César Orosco
Juan Silvagno
UEFA
Ferdinand Biwersi
Charles Corver
Jean Dubach
Ulf Eriksson
António Garrido
John Gordon
Sergio Gonella
Alojzy Jarguz
Erich Linemayr
Dušan Maksimović
Ángel Franco Martínez
Károly Palotai
Pat Partridge
Adolf Prokop
Nicolae Rainea
Francis Rion
Clive Thomas
Robert Wurtz
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Vòng 2
Bảng A
Bảng B
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Mario Kempes
5 bàn
Rob Rensenbrink
Teófilo Cubillas
4 bàn
Leopoldo Luque
Hans Krankl
3 bàn
Dirceu
Roberto Dinamite
Paolo Rossi
Johnny Rep
Karl-Heinz Rummenigge
2 bàn
Daniel Bertoni
Nelinho
Roberto Bettega
Ernie Brandts
Arie Haan
Zbigniew Boniek
Grzegorz Lato
Archie Gemmill
Heinz Flohe
Dieter Müller
1 bàn
René Houseman
Daniel Passarella
Alberto Tarantini
Erich Obermayer
Walter Schachner
Reinaldo
Zico
Marc Berdoll
Bernard Lacombe
Christian Lopez
Michel Platini
Dominique Rocheteau
Károly Csapó
András Tóth
Sándor Zombori
Iraj Danaeifard
Hassan Rowshan
Romeo Benetti
Franco Causio
Renato Zaccarelli
Víctor Rangel
Arturo Vázquez Ayala
Dick Nanninga
René van de Kerkhof
Willy van de Kerkhof
César Cueto
José Velásquez
Kazimierz Deyna
Andrzej Szarmach
Kenny Dalglish
Joe Jordan
Juan Manuel Asensi
Dani
Thomas Sjöberg
Mokhtar Dhouieb
Néjib Ghommidh
Ali Kaabi
Rüdiger Abramczik
Bernd Hölzenbein
Hansi Müller
phản lưới nhà
Andranik Eskandarian (trận gặp Scotland)
Ernie Brandts (trận gặp Ý)
Berti Vogts (trận gặp Áo)
Các cầu thủ nhận thẻ đỏ
Tibor Nyilasi
András Törőcsik
Dick Nanninga
Bảng xếp hạng giải đấu
Chú thích |
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Nguyên Thế Tổ元世祖 Tiết Thiện Hãn 薛禪汗
| tên gốc =
| tước vị = Hoàng đế Trung Hoa, Khả Hãn Mông Cổ
| tước vị thêm =
| thêm = china
| cỡ hình = 250px
| hình = YuanEmperorAlbumKhubilaiPortrait.jpg
| ghi chú hình = Bức chân dung Hốt Tất Liệt là một phần của một bộ sưu tập chân dung của hoàng đế và hoàng hậu nhà Nguyên, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc.
| chức vị = Hoàng đế nhà Nguyên
| tại vị = 18 tháng 12 năm 1271 - 18 tháng 2 năm 1294()
| đăng quang =
| tiền nhiệm = <font color = "red">Sáng lập triều đại
| nhiếp chính =
| kế nhiệm = Nguyên Thành Tông
| chức vị 1 = Khả Hãn Mông Cổ
| tại vị 1 = 5 tháng 5 năm 1260 - 18 tháng 2 năm 1294()
| tiền nhiệm 1 = Mông Kha hãn, A Lý Bất Ca hãn
| kế nhiệm 1 = Hoàn Trạch Đốc hãn
| tước hiệu =
| hoàng tộc = Bột Nhi Chỉ Cân<ref>Khiyad (Хиад) hay Kì Ác Ôn (奇渥溫) hoặc Khất Nhan (乞顏); Phiên bản phiên âm này của tiếng Trung xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc thời nhà Nguyên.</ref>
| tên đầy đủ = Hốt Tất Liệt (Khubilai, Хубилай, 忽必烈)
| tên tự =
| tên hiệu =
| tôn hiệu =
| miếu hiệu = Thế Tổ (世祖)
| thụy hiệu = Thánh Đức Thần Công Văn Vũ Hoàng đế(聖德神功文武皇帝)
| niên hiệu = Trung Thống (中統; 1260 - 1264)Chí Nguyên (至元; 1264 - 1294)
| thời gian của niên hiệu =
| cha = Đà Lôi
| mẹ = Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni
| phối ngẫu =
| vợ = xem văn bản
| con cái = xem văn bản
| mất =
| sinh =
| nơi sinh =
| nơi mất = Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc)
| ngày an táng =
| nơi an táng =
| học vấn =
| nghề nghiệp =
| tôn giáo =
| chữ ký =
}}
Hốt Tất Liệt (, Xubilaĭ Khaan, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu Tiết Thiện Hãn (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, Sechen Khan), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc Mông Cổ, và là người sáng lập ra nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai thứ 4 của Đà Lôi và là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1260, ông và em trai A Lý Bất Ca (Ariq Böke) cùng xưng Đại Hãn sau khi Đại Hãn tiền nhiệm là Mông Kha - anh trai của họ băng hà mà không chỉ định người kế vị. Cuối cùng, Hốt Tất Liệt giành thắng lợi vào năm 1264, dẫn đến sự chia rẽ chính trị sâu sắc trong nội bộ Mông Cổ, nhưng đế quốc về tổng thể vẫn là thống nhất và hùng mạnh. Ảnh hưởng của Hốt Tất Liệt vẫn còn mạnh tại hãn quốc Y Nhi và Kim Trướng hãn quốc, các lãnh thổ phía tây của đế quốc Mông Cổ.
Dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt, đế quốc Mông Cổ đã đạt đến thời kỳ cực thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm (Karakorum) về Đại Đô (tức Bắc Kinh ngày nay). Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập nhà Nguyên, đế quốc kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa Bắc, tây bắc Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và các khu vực cận kề, giúp ông có địa vị như một hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên đánh bại Nam Tống, Hốt Tất Liệt trở thành người dân tộc thiểu số đầu tiên làm hoàng đế Trung Hoa và cai trị nhà Nguyên đến khi mất vào năm 1294, miếu hiệu là Nguyên Thế Tổ (元世祖).
Dưới sự cai trị của Hốt Tất Liệt, tất cả các vương quốc phụ cận với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các chư hầu lệ thuộc. Ông phát động các chiến dịch thôn tính Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java, nhưng không thành. Mặc dù Hốt Tất Liệt theo đạo Phật ông cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô trên thế giới và mời các sứ giả đến Trung Quốc truyền đạo. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật.
Những năm đầu
Hốt Tất Liệt sinh năm 1215, là con trai thứ 4 của Đà Lôi với chính thê Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni, và là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn, Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni đã chọn một nhũ mẫu theo Phật giáo Tây Tạng để chăm nom Hốt Tất Liệt. Tương truyền, Hốt Tất Liệt sinh ra khi quân Mông Cổ tấn công nhà Kim, và ông cất tiếng khóc chào đời ngay giữa chiến trường, báo hiệu sự ra đời của một con người kiệt xuất sẽ gánh vác cả Mông Cổ.
Từ nhỏ, Hốt Tất Liệt tỏ ra là một cậu bé thông minh, trượng nghĩa, rất được Thành Cát Tư Hãn yêu quý. Ông nói rằng: "Những lời của cậu bé này rất khôn ngoan, hãy chú ý đến chúng. Hãy chú ý chúng bằng tất cả những gì chúng ta có." Năm 1227, Thành Cát Tư Hãn băng hà, khi Hốt Tất Liệt lên 12. Đà Lôi, cha của Hốt Tất Liệt làm Giám quốc trong 2 năm rồi tôn Oa Khoát Đài lên ngôi Đại Hãn theo đúng di chiếu của Thành Cát Tư Hãn.
Năm 1231, Đà Lôi qua đời vì trọng bệnh khi đang phò tá Oa Khoát Đài trong chiến dịch chinh phục nhà Kim. Sau khi nhà Kim diệt vong vào năm 1234, Oa Khoát Đài đã ban đất Hà Bắc (khoảng 80.000 nhân khẩu) cho gia đình Đà Lôi cai quản. Hốt Tất Liệt nhận được một phần gia sản, bao gồm 10.000 dân. Nhưng do thiếu kinh nghiệm quản lý, nên thay vì trực tiếp cai quản, ông đã giao cho các quan viên Mông Cổ tự do hành sự. Kết quả, tham nhũng dẫn đến tô thuế tăng cao, khiến phần lớn nông dân Trung Quốc rời bỏ ruộng đất để xuống phía Nam, khiến doanh thu thuế giảm mạnh. Hốt Tất Liệt nhanh chóng sửa sai bằng cách bãi nhiệm các quan viên vi phạm, thay bằng những quan viên có tài, bất kể dân tộc. Nhờ những nỗ lực đó, đến cuối những năm 1240, hầu hết nông dân Hà Bắc bỏ ruộng trước đây đã trở về quê hương làm ăn.
Hốt Tất Liệt có đam mê nghiên cứu nền văn hóa của các dân tộc khác, đặc biệt là Trung Hoa đương thời. Đầu những năm 1240, ông đã tập hợp dưới trướng nhiều quan viên gốc Đột Quyết, người Kito giáo, tướng lĩnh Mông Cổ, người Hồi giáo Trung Á và cả những nhà Nho, nhà sư Trung Quốc, nhằm hướng đến sự cân bằng lợi ích của các dân tộc. Hốt Tất Liệt đã mời Hải Vân, một nhà sư Phật giáo hàng đầu ở miền bắc Trung Quốc, đến đại bản doanh của ông ở Mông Cổ, và họ sau đó trở thành bạn tâm giao. Khi gặp Hải Vân thiền sư ở Karakorum năm 1242, ông tham vấn nhà sư về triết lý của Phật giáo. Hải Vân thiền sư cũng đặt tên cho con trai thứ của Hốt Tất Liệt là Chân Kim (sinh năm 1243). Vị thiền sư này cũng giảng dạy cho Hốt Tất Liệt về Đạo giáo và giới thiệu Lưu Bỉnh Trung - một nhà sư Phật giáo kiêm họa sĩ, nhà thư pháp, nhà thơ và nhà toán học. Lưu Bỉnh Trung trở thành cố vấn của Hốt Tất Liệt khi Hải Vân thiền sư trở lại Trung Đô. Hốt Tất Liệt cũng mời học giả người Sơn Tây Zhao Bi làm việc cho mình.
Thành công ở Hoa Bắc
Năm 1251, Mông Kha, anh trai của Hốt Tất Liệt trở thành Đại Hãn và giao cho Hốt Tất Liệt vùng Hoa Bắc, trực tiếp quản lý các vùng đất phía nam đế quốc. Trong giai đoạn này, sản lượng lương thực tại Hà Nam tăng mạnh và phúc lợi xã hội được cải thiện. Hốt Tất Liệt nhận được sự ủng hộ lớn từ các lãnh chúa, tạo nền tảng cơ bản cho việc xây dựng nhà Nguyên sau này.
Năm 1252, Hốt Tất Liệt được lệnh tấn công Vân Nam và vương quốc Đại Lý, khi vua nước này thể hiện sự chống đối và giết chết các sứ giả Mông Cổ được phái đến để dụ hàng. Dù vậy, khi Hốt Tất Liệt chiếm kinh đô của Đại Lý, ông vẫn tha mạng cho hoàng tộc nước này. Đoàn Hưng Trí, vị vua cuối cùng của Đại Lý đầu hàng Mông Cổ và được Mông Kha bổ nhiệm chức thổ ty cai trị địa phương. Nhưng ngay khi Hốt Tất Liệt rời đi, tình trạng bất ổn lại nổ ra tại Vân Nam. Vào năm 1255 và 1256, Đoàn Hưng Trí khuyên triều đình Mông Cổ bình định một số bộ lạc chưa đầu hàng. Đích thân ông ta lãnh đạo quân tiên phong. Đến cuối năm 1256, Ngột Lương Hợp Thai đã hoàn toàn bình định Vân Nam.
Thành công của Hốt Tất Liệt khiến một số quan viên Mông Cổ bắt đầu ghen tị. Họ xàm tấu lên Mông Kha rằng Hốt Tất Liệt tham vọng xây dựng đế chế của riêng mình. Mông Kha đã gửi 2 thanh tra thuế đến điều tra quan lại của Hốt Tất Liệt vào năm 1257. Ông bị quy vào 142 sai phạm, phải giao lại toàn bộ binh quyền và một số quan viên Trung Quốc dưới trướng của ông bị xử tử. Hốt Tất Liệt phải cùng gia đình quay về Hòa Lâm tạ tội với Mông Kha. May mắn là ông không bị xử tội, nhưng bị giám sát nghiêm ngặt và không được phép xây dựng quân đội riêng.
Cùng thời gian này, những người theo Đạo giáo trở nên giàu có và dần củng cố địa vị bằng cách chiếm đoạt các ngôi chùa Phật giáo. Mông Kha liền lệnh cho Hốt Tất Liệt chấm dứt xung đột giữa 2 giáo phái. Đầu năm 1258, Hốt Tất Liệt đã tổ chức một hội nghị của các nhà lãnh đạo Đạo giáo và Phật giáo, qua đó bác bỏ yêu sách của Đạo giáo, buộc 237 ngôi đền Đạo giáo phải chuyển thành chùa Phật giáo, thậm chí tiêu hủy các văn bản Đạo giáo. Hốt Tất Liệt và nhà Nguyên sau này công khai sùng bái Phật giáo, trong khi các Hãn quốc khác như Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Kim Trướng và Hãn quốc Y Nhi lại lấy Hồi giáo làm quốc giáo.
Năm 1258, Mông Kha lệnh cho Hốt Tất Liệt chỉ huy cánh quân đông chinh hỗ trợ các cuộc tấn công vào Tứ Xuyên và một lần nữa vào Vân Nam. Năm 1259, Mông Kha tử trận trên đất Nam Tống. Hốt Tất Liệt vẫn tiếp tục tấn công Vũ Hán đến khi nhận được tin em trai ông là A Lý Bất Ca đã tổ chức hội nghị Khố Lý Đài tại Hòa Lâm và lên ngôi Đại Hãn. Đại đa số quý tộc Mông Cổ ủng hộ A Lý Bất Ca, riêng hai người anh của ông này là Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột lại phản đối.
Nhà Tống muốn giảng hòa với Mông Cổ, sai sứ giả đến xin cống hàng năm 200.000 lượng bạc và 200.000 lụa, để đổi lấy thỏa thuận đình chiến và chọn sông Dương Tử làm biên giới. Hốt Tất Liệt nhanh chóng đạt được thỏa thuận đình chiến và quay trở về Mông Cổ nhằm chống lại tuyên bố của A Lý Bất Ca về ngôi vị Đại Hãn.
Tranh ngôi kế vị
Năm 1260, Hốt Tất Liệt trở lại Khai Bình và triệu tập một hội nghị Khố Lý Đài của chính mình. Chỉ một bộ phận nhỏ thành viên hoàng tộc ủng hộ Hốt Tất Liệt về quyền kế vị. Lý do khiến phần lớn thành viên hoàng tộc không ủng hộ Hốt Tất Liệt là vì ông quá gần gũi với người Hán, tôn sùng Hán pháp và văn hóa Hán, và it nhiều đã phá vỡ nhiều cách thức cai trị truyền thống của Mông Cổ trong lãnh thổ mà ông đang cai quản.
Cuộc nội chiến giữa hai anh em nổ ra không lâu sau đó. Sau 4 năm huynh đệ tương tàn, A Lý Bất Ca đầu hàng Hốt Tất Liệt tại Thượng Đô vào năm 1264. Những người cai trị ở phía Tây thừa nhận chiến thắng và sự cai trị của Hốt Tất Liệt, và ông chính thức trở thành Đại Hãn chân chính của Mông Cổ. Hốt Tất Liệt ân xá A Lý Bất Ca, nhưng xử tử những người ủng hộ em trai mình. Sự kiện này cũng đã đánh dấu sự kết thúc của đế quốc Mông Cổ thống nhất. Các hãn quốc phía tây trở thành độc lập trên thực tế, và Hải Đô Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài còn tiếp tục chống đối Hốt Tất Liệt tới tận khi ông này mất vào năm 1301.
Trong thời kỳ nội chiến với A Lý Bất Ca, tổng đốc Ích Châu là Lý Đàn đã nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào năm 1262, nhưng nhanh chóng bị dập tắt và Lý Đàn bị tru di, dẫn đến một số quan lại người Hán thân tín của Hốt Tất Liệt cũng bị liên đới và xử tử. Sự kiện này đã làm Hốt Tất Liệt mất niềm tin vào người Hán. Sau khi trở thành hoàng đế nhà Nguyên, ông cấm chỉ việc giao các chức vụ quan trọng cho các lãnh chúa gốc Hán.
Trị vì
Đại Hãn Mông Cổ
Cái chết bí ẩn của 3 hoàng tử nhà Truật Xích trong chiến dịch bao vây Baghdad (1258) của Húc Liệt Ngột và sự phân chia chiến lợi phẩm không công bằng khiến mối quan hệ giữa Hãn quốc Y Nhi với Hãn quốc Kim Trướng trở nên rạn nứt. Khi Húc Liệt Ngột qua đời vào năm 1264, khả hãn Kim Trướng là Berke đã hành quân để chinh phục Y Nhi nhưng lại mắc bệnh chết trên đường đi. Vài tháng sau những cái chết này, khả hãn Alghu của Sát Hợp Đài cũng chết. Trong phiên bản chính thức mới của lịch sử gia đình, Hốt Tất Liệt đã từ chối viết tên của Berke là khả hãn của Kim Trướng vì Berke ủng hộ A Lý Bất Ca và gây chiến với Húc Liệt Ngột, gia đình Truật Xích vẫn được công nhận là thành viên hợp pháp của gia đình.
Hốt Tất Liệt chọn Abaqa là khả hãn mới của Y Nhi và được đề cử cháu trai Mạnh Đặc Mục của Bạt Đô cho ngai vàng ở Sarai, thủ đô của Kim Trướng. Lãnh thổ của Hốt Tất Liệt ở phía đông vẫn giữ được uy quyền tuyệt đối đối với Y Nhi đến khi kết thúc triều đại của họ. Hốt Tất Liệt cũng phái thân tín Ghiyas-ud-din Baraq lật đổ triều đình của Oirat Orghana, hoàng hậu của Hãn quốc Sát Hợp Đài, người đã đưa con trai nhỏ Mubarak Shah lên ngai vàng vào năm 1265, mà không có sự cho phép của chồng sau khi ông ta chết.
Hải Đô, cháu nội của Oa Khoát Đài đã từ chối yêu cầu đích thân sang chầu của Hốt Tất Liệt. Ông liền sai Baraq tấn công Hải Đô. Baraq bắt đầu mở rộng vương quốc của mình về phía bắc. Ông nắm quyền lực vào năm 1266 và chiến đấu với Hải Đô và Kim Trướng. Ông ta cũng đẩy người giám sát của Hốt Tất Liệt ra khỏi lòng chảo Tarim. Khi Hải Đô và Mạnh Đặc Mục cùng nhau chiến đấu với Hốt Tất Liệt, Baraq đã gia nhập liên minh với Nhà Oa Khoát Đài và Kim Trướng để chống lại Hốt Tất Liệt ở phía đông và Abagha ở phía tây. Trong khi đó, Mạnh Đặc Mục tránh mọi cuộc thám hiểm quân sự trực tiếp chống lại vương quốc của Hốt Tất Liệt. Hãn quốc Kim Trướng đã hứa với Hốt Tất Liệt sự giúp đỡ của họ để đánh bại Kaidu mà Mạnh Đặc Mục gọi là phiến quân. Điều này rõ ràng là do mâu thuẫn giữa Kaidu và Mạnh Đặc Mục về thỏa thuận mà họ đã đưa ra tại Talas Kurultai. Quân đội của Mông Cổ Ba Tư đã đánh bại lực lượng xâm lược của Baraq vào năm 1269. Khi Baraq qua đời vào năm sau, Kaidu nắm quyền kiểm soát Sát Hợp Đài và lấy lại liên minh với Mạnh Đặc Mục.
Trong khi đó, Hốt Tất Liệt đã cố gắng ổn định quyền kiểm soát của mình trên bán đảo Triều Tiên bằng cách huy động một cuộc xâm lược khác của người Mông Cổ sau khi ông ta lập Cao Ly Nguyên Tông (r. 1260-1274) lên ngôi vào năm 1259 ở Ganghwado. Kublai cũng buộc hai nhà cai trị của Kim Trướng và Y Nhi phải kêu gọi đình chiến với nhau vào năm 1270 bất chấp lợi ích của Kim Trướng ở Trung Đông và Kavkaz.
Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã gửi một trong những cố vấn của mình, Hao Ching, đến triều đình của hoàng đế Nam Tống Lý Tông để yêu cầu vua Tống sang chầu Hốt Tất Liệt và ông ta sẽ được trao quyền tự trị. Tống Lý Tông từ chối đáp ứng yêu cầu của ông và giam cầm Hao Ching, chỉ đến khi Hốt Tất Liệt phái một phái đoàn để đòi thả Hao Ching, nhà Tống mới chịu thả con tin.
Hốt Tất Liệt đã gọi hai kỹ sư bao vây của Iraq từ Y Nhi để phá hủy các pháo đài của nhà Tống. Sau khi chiếm được Tương Dương năm 1273, chỉ huy của quân đội Hốt Tất Liệt, Aju và Lưu Tranh, đã đề xuất một chiến dịch cuối cùng để tiêu diệt nhà Tống, và Hốt Tất Liệt đã phong Bá Nhan trở thành chỉ huy tối cao. Ông đã ra lệnh cho Mạnh Đặc Mục điều chỉnh lại cuộc điều tra dân số của Kim Trướng để cung cấp lương thực và con người cho cuộc chinh phục Trung Quốc của ông. Cuộc điều tra dân số đã diễn ra ở tất cả mọi khu vực của Kim Trướng, bao gồm cả Smolensk và Vitebsk vào năm 1274. Ông cũng đã gửi khả hãn Nogai đến Balkan để tăng cường ảnh hưởng của Mông Cổ ở đó.
Hoàng đế nhà Nguyên
Hốt Tất Liệt chấp nhận các mô hình chính trị và văn hóa Trung Hoa, cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng của các lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, do mất niềm tin vào người Hán, ông đã chỉ định người Mông Cổ, người Trung Á, người Hồi giáo và một ít người châu Âu vào các vị trí cao hơn người Hán, dù ông vẫn tiếp tục sử dụng một số cố vấn người Hán như Lưu Bỉnh Trung, Hứa Hành và Diêu Xu.
Năm Chí Nguyên thứ 8 (1271), Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố lập ra nhà Nguyên và đặt kinh đô tại Đại Đô (, nghĩa là "kinh đô lớn", ngày nay là Bắc Kinh) hay còn gọi là Hãn Bát Lý (Khanbaliq) vào năm sau đó. Kinh đô mùa hè của ông đặt tại Thượng Đô (, nghĩa là "kinh đô trên", hay Xanadu, gần với Đa Luân (多伦) ngày nay). Để thống nhất Trung Quốc, Hốt Tất Liệt bắt đầu một chiến dịch rộng lớn chống lại những lực lượng còn sót lại của Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 11 (1274) và cuối cùng tiêu diệt Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), thống nhất toàn bộ Trung Hoa.
Nội Trung Hoa và Mông CổThe Branch Secretariats of the Yuan Empire được chia thành 10 hành trung thư tỉnh (行中書省) hay hành tỉnh (行省) trong thời kỳ trị vì của ông với 1 hành thượng thư tỉnh và 1 hành thị lang tỉnh đứng đầu. Bên cạnh 10 hành tỉnh là khu vực trung tâm ( = Phúc Lý), bao gồm phần lớn Hoa Bắc ngày nay, được coi là khu vực quan trọng nhất của nhà Nguyên và do trung thư tỉnh tại Đại Đô trực tiếp quản lý. Ngoài ra, Tây Tạng cũng do một cơ quan cấp cao khác là Tuyên chính viện () quản lý trực tiếp.
Ông quản lý điều hành công việc triều chính khá tốt, khuyến khích phát triển kinh tế với việc cho xây dựng lại Đại Vận Hà, sửa chữa các tòa nhà công và mở rộng đường đi lối lại. Tuy nhiên, chính sách đối nội của Hốt Tất Liệt cũng bao gồm một số khía cạnh của các truyền thống Mông Cổ cũ, và trong khi Hốt Tất Liệt tiếp tục công việc trị vì của mình thì những truyền thống này va chạm ngày càng thường xuyên hơn với kinh tế và văn hóa xã hội Trung Hoa truyền thống. Hốt Tất Liệt ra lệnh rằng các thương nhân đối tác của người Mông Cổ phải chịu thuế vào năm 1263 và thành lập Văn phòng Thuế thị trường để giám sát họ vào năm 1268. Sau khi người Mông Cổ chinh phục nhà Tống, các thương nhân đã mở rộng hoạt động của họ sang Biển Đông và Ấn Độ Dương. Năm 1286, thương mại hàng hải được đặt dưới Văn phòng Thuế thị trường. Nguồn doanh thu chính của triều đình là độc quyền sản xuất muối.
Năm 1273, ông cho phát hành một loạt mới các giấy bạc được nhà nước bảo đảm, được sử dụng trong khắp đất nước, mặc dù cuối cùng do thiếu các kỹ năng, kỷ luật tài chính và lạm phát đã làm cho bước đi này trở thành thảm họa kinh tế đối với triều đại này trong những năm sau đó. Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền giấy gọi là sáo. Để đảm bảo việc sử dụng nó, chính quyền Hốt Tất Liệt đã sung công vàng, bạc từ các cá nhân cũng như từ thương nhân ngoại quốc. Thay vì thế, các thương nhân được nhận giấy bạc do nhà nước ban hành theo tỷ lệ quy đổi. Điều này giải thích tại sao Hốt Tất Liệt được coi là người đầu tiên tạo ra tiền pháp định. Giấy bạc làm cho việc thu thuế và quản lý một đế quốc rộng lớn trở nên dễ dàng hơn trong khi làm giảm chi phí vận chuyển tiền kim loại. Sau này Gaykhatu (Hải Hợp Đô) của hãn quốc Y Nhi cũng có ý định áp dụng hệ thống này tại Ba Tư và Trung Đông, nhưng đã hoàn toàn thất bại và ông này bị ám sát ngay sau đó.
Ông cũng cho phát triển các bộ môn nghệ thuật châu Á và chấp nhận những khác biệt về tôn giáo, ngoại trừ khi đề cập tới Đạo giáo. Một số người châu Âu đã từng đặt chân tới đây, đáng chú ý trong số này có Marco Polo trong thập niên 1270, người có thể đã từng nhìn thấy kinh đô mùa hè tại Thượng Đô.
Trong thời Nam Tống, hậu duệ của Khổng Tử tại Khúc Phụ, Công tước Yansheng Kong Duanyou đã trốn chạy về phía nam với nhà Tống đến Cù Châu, trong khi nhà Kim mới thành lập (1115-1234) ở phía bắc bổ nhiệm anh trai của Kong Duanyou là Kong Duancao, người vẫn còn ở Khúc Phụ là Diễn Thánh Công. Từ thời đó cho đến thời Nguyên, có hai Diễn Thánh Công, một lần ở phía bắc ở Khúc Phụ và người kia ở phía nam tại Cù Châu. Một lời mời quay trở lại Khúc Phụ đã được Hốt Tất Liệt gửi đến Diễn Thánh Công ở Giang Nam Khổng Chu. Tiêu đề đã bị lấy đi khỏi chi nhánh phía nam sau khi Khổng Chu từ chối lời mời, vì vậy chi nhánh phía bắc của gia đình giữ danh hiệu Diễn Thánh Công. Chi nhánh phía nam vẫn còn ở Cù Châu nơi họ sống cho đến ngày nay. Con cháu của Khổng Tử ở Cù Châu có số lượng lên đến 30.000.
Phát triển khoa học và quan hệ với người Hồi giáo
Ba mươi người Hồi giáo đã phục vụ như các quan chức cao cấp trong triều đình của Hốt Tất Liệt. Tám trong số mười hai khu hành chính của triều đại có các thống đốc Hồi giáo do ông bổ nhiệm. Trong số các thống đốc Hồi giáo có Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, người trở thành quan cai trị của Vân Nam. Ông là một người đàn ông thông thái trong các truyền thống Nho giáo và Đạo giáo và được cho là đã truyền bá đạo Hồi giáo ở Trung Quốc. Các viên quan khác là Nasr al-Din (Vân Nam) và Mahmud Yalavach (kinh đô nhà Nguyên).
Hốt Tất Liệt bảo trợ các học giả và nhà khoa học Hồi giáo, và các nhà thiên văn Hồi giáo đã đóng góp vào việc xây dựng đài thiên văn ở Thiểm Tây. Các nhà thiên văn học như Jamal ad-Din đã giới thiệu 7 công cụ và khái niệm mới cho phép điều chỉnh lịch Trung Quốc.
Các nhà vẽ bản đồ Hồi giáo đã tạo ra các bản đồ chính xác của tất cả các quốc gia dọc theo Con đường tơ lụa và ảnh hưởng lớn đến kiến thức của các nhà cai trị và thương nhân triều đại nhà Nguyên.
Các bác sĩ Hồi giáo đã tổ chức các bệnh viện và có viện Y học riêng ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Ở Bắc Kinh là "Khoa thương xót" nổi tiếng của Guang Hui Si, nơi dạy về thuốc và phẫu thuật kiểu người Hồi. Các tác phẩm của Avicenna cũng được xuất bản tại Trung Quốc trong thời gian đó.
Các nhà toán học Hồi giáo đã giới thiệu Hình học Euclide, lượng giác hình cầu và chữ số Ả Rập ở Trung Quốc.
Hốt Tất Liệt đưa các kỹ sư Ismail và Al al-Din đến Trung Quốc, và họ cùng nhau phát minh ra vũ khí "Hồi Hồi Pháo" (Hui-Hui Pao), được Kublai Khan sử dụng trong Trận Tương Dương với nhà Tống.
Đối ngoại
Hốt Tất Liệt buộc nước Cao Ly (Triều Tiên) phải trở thành chư hầu vào năm 1260. Nhà Nguyên giúp Cao Ly Nguyên Tông (원종) bình ổn sự kiểm soát của ông này tại Triều Tiên vào năm 1271. Hốt Tất Liệt cũng có ý định thiết lập mối quan hệ triều cống với các quốc gia khác, nhưng bị cự tuyệt. Dưới áp lực từ các cố vấn người Mông Cổ, Hốt Tất Liệt quyết định xâm lăng Nhật Bản, Myanma, Đại Việt và Java. Ông cũng đã cố gắng chinh phục các vùng đất ngoại vi như Sakhalin, nơi người dân bản địa cuối cùng đã nộp cho người Mông Cổ vào năm 1308. Những cố gắng thất bại và tốn kém này, cùng với sự lưu thông tiền giấy đã gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cũng đã buộc các lãnh chúa từ tây bắc và đông bắc phải đầu hàng, đảm bảo sự ổn định tại các khu vực này. Từ năm 1273 đến 1276, các cuộc chiến tranh trước nhà Tống và Nhật Bản đã khiến vấn đề tiền giấy mở rộng từ 110.000 ding lên 1.420.000 ding.
Sáp nhập Cao Ly
Hốt Tất Liệt đã xâm chiếm Cao Ly (nằm trên Bán đảo Triều Tiên) và biến nó thành một quốc gia chư hầu phụ vào năm 1260. Sau một cuộc can thiệp khác của người Mông Cổ vào năm 1273, Cao Ly đã bị kiểm soát chặt chẽ hơn với nhà Nguyên. Cao Ly trở thành một căn cứ quân sự của người Mông Cổ, và một số mệnh lệnh của chế độ quân chủ đã được thiết lập ở đó. Triều đình của Cao Ly đã cung cấp quân đội nước này và một lực lượng hải quân đi biển cho các chiến dịch quân sự khác của Mông Cổ.
Xâm lược Nhật Bản
Hốt Tất Liệt hai lần có ý định xâm chiếm Nhật Bản; tuy nhiên, cả hai lần, người ta tin rằng thời tiết xấu hoặc các lỗi kỹ thuật trong chế tạo tàu thuyền đã phá hủy hạm đội thủy quân của ông. Ý định xâm chiếm thứ nhất diễn ra vào năm 1274, với hạm đội gồm 900 tàu thuyền. Lần xâm chiếm thứ hai diễn ra vào năm 1281, với hạm đội có trên 1.170 thuyền chiến lớn, mỗi chiếc dài tới 73 m (240 ft). Chiến dịch này được tổ chức không tốt và hạm đội của người Triều Tiên đã tới Nhật Bản trước hạm đội của nhà Nguyên khá lâu. Hạm đội được lắp ráp vội vàng và trang bị không kĩ lưỡng để đối phó với các điều kiện hàng hải. Trong tháng mười một, họ đi thuyền vào vùng biển nguy hiểm mà giữa Triều Tiên và Nhật Bản là 110 dặm. Người Mông Cổ dễ dàng chiếm đảo Tsushima khoảng nửa chừng eo biển và sau đó đảo Iki gần Kyushu hơn. Hạm đội Triều Tiên đã đến Vịnh Hakata vào ngày 23 tháng 6 năm 1281 và hạ cánh quân và của họ, nhưng những con tàu từ Trung Quốc không được nhìn thấy. Các lực lượng đổ bộ của Mông Cổ sau đó đã bị đánh bại tại Trận Akasaka và Trận Torikai-Gata.
Tiến sĩ Kenzo Hayashida, một nhà khảo cổ học biển, người đứng đầu nhóm điều tra đã phát hiện ra các mảnh vỡ của hạm đội xâm chiếm lần thứ hai ngoài khơi miền tây Dokdo. Các vật tìm thấy của nhóm này chỉ ra rằng Hốt Tất Liệt rất vội xâm chiếm Nhật Bản và cố gắng xây dựng hạm đội hùng mạnh chỉ trong vòng 1 năm (một công việc mà đúng ra phải mất ít nhất 5 năm). Điều này buộc nhà Nguyên phải sử dụng mọi loại thuyền có thể, từ những thuyền nhỏ chuyên chạy trên sông, nhằm đạt được sự sẵn sàng sớm hơn. Quan trọng nhất, người Trung Quốc, khi đó dưới sự thống trị của Hốt Tất Liệt, buộc phải dựng ra nhiều tàu thuyền nhanh hơn nhằm đảm bảo góp đủ cơ số tàu thuyền cho cả hai lần xâm chiếm. Hayashida giả đinh rằng, nếu Hốt Tất Liệt sử dụng các tàu thuyền đi biển tiêu chuẩn, được chế tạo tốt, với sống thuyền cong để ngăn cản sự lật úp thì thủy quân của ông có thể đã vượt qua được cuộc hành trình dài này tới Nhật Bản và có thể đã có khả năng chiếm được đất nước này.
David Nicolle viết trong The Mongol Warlords rằng "Những mất mát lớn cũng phải gánh chịu khi nói về số thương vong và chi phí vô ích, trong khi huyền thoại về sự bất khả chiến bại của người Mông Cổ đã bị tiêu tan trong khu vực Đông Á". Ông cũng viết rằng Hốt Tất Liệt đã có ý định xâm chiếm lần thứ ba vào Nhật Bản, cho dù phải trả một giá đắt khủng khiếp cho nền kinh tế cũng như cho tiếng tăm của ông và của đội quân Mông Cổ thiện chiến trong 2 lần xâm lược đầu tiên và chỉ có cái chết của ông cùng sự nhất trí của các cố vấn về việc không xâm chiếm nữa mới ngăn được ý định lần thứ ba này.
Năm 1293, thủy quân nhà Nguyên bắt được 100 người Nhật từ Okinawa.
Xâm lược Đại Việt
Quân đội nhà Nguyên cũng ba lần xâm chiếm Đại Việt. Lần xâm chiếm đầu tiên (lần thứ hai của đế quốc Mông Cổ) bắt đầu vào tháng 12 âm lịch năm 1284 khi quân đội Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Trấn Nam vương Thoát Hoan (con trai thứ chín của Hốt Tất Liệt) và A Lý Hải Nha, vượt qua biên giới và nhanh chóng chiếm được Thăng Long (nay là Hà Nội) vào đầu tháng 1 âm lịch năm 1285 sau thắng lợi của đội quân do Ô Mã Nhi chỉ huy tại Vạn Kiếp và Phả Lại (đông bắc Thăng Long). Cùng thời gian đó, đội quân do Toa Đô chỉ huy sau khi tấn công Chiêm Thành bằng đường qua Lão Qua cũng di chuyển về phía bắc và nhanh chóng tiến tới Nghệ An (phía bắc miền Trung Việt Nam ngày nay) vào cuối tháng 1 âm lịch, tại đây đội quân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Trần Kiện nhanh chóng đầu hàng. Tháng 2 âm lịch, Trần Bình Trọng đánh quân Nguyên tại bãi Đà Mạc, bị thua và bị giết. Tháng 3 âm lịch, Trần Lộng, Trần Ích Tắc và gia thuộc cũng đầu hàng quân Nguyên. Tuy nhiên, hai vua Trần và Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã thay đổi chiến thuật từ phòng ngự sang phản công và một lần nữa đánh bại quân Mông Cổ. Tháng 4 âm lịch, tướng Trần Nhật Duật giành thắng lợi trong trận Hàm Tử (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tháng 5 âm lịch, tướng Trần Quang Khải đánh bại Toa Đô tại Chương Dương (nay thuộc Hà Nội) và sau đó các vua Trần đã giành thắng lợi trong trận chiến lớn tại Tây Kết nơi Toa Đô bị giết chết. Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua Trần đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn dư đảng đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn thoát. Trong khi đó, đội quân của Thoát Hoan và Lý Hằng bị Trần Hưng Đạo đánh bại tại Vạn Kiếp, phải bỏ chạy về Tư Minh. Lý Hằng bị xạ tiễn bắn chết còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát được. Hốt Tất Liệt đã thất bại trong cố gắng đầu tiên của mình nhằm xâm chiếm Đại Việt.
Lần xâm chiếm thứ hai vào Đại Việt của quân đội nhà Nguyên diễn ra vào cuối năm 1287 và được tổ chức tốt hơn so với lần trước, với việc đưa vào lực lượng thủy quân lớn hơn và nhiều lương thực thực phẩm hơn. Quân đội Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan, tiến tới Vạn Kiếp và hội quân tại đây với quân đội của Ô Mã Nhi và quân Nguyên cũng nhanh chóng giành được thắng lợi ban đầu rồi xuôi dòng về phía đông. Thủy quân của nhà Nguyên nhanh chóng giành được thắng lợi tại Vân Đồn (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) nhưng thuyền chở lương thực, thực phẩm nặng nề đi sau lại bị tướng Trần Khánh Dư đánh tan. Kết quả là quân Mông Cổ tại Thăng Long bị thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Không có lương thực, thực phẩm tiếp tế, Thoát Hoan buộc phải rút quân khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp. Các nhóm bộ binh của nhà Trần được lệnh tấn công quân đội Mông Cổ tại Vạn Kiếp.
Đầu tháng 3 âm lịch năm 1288 thủy quân của Ô Mã Nhi tiến tới sông Bạch Đằng để đón thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy. Một đội thủy quân nhỏ của Đại Việt ra khiêu chiến và nhanh chóng rút lui để nhử thủy quân nhà Nguyên vào bãi cọc nhọn. Quân Nguyên trúng kế và rơi vào trận địa mai phục sẵn của Đại Việt. Hàng nghìn thuyền nhẹ của Đại Việt từ hai bên bờ nhanh chóng xuất hiện, tấn công dữ dội và đánh tan sức kháng cự từ quân Nguyên. Quân đội Mông Cổ cố gắng rút lui ra biển trong sự hoảng loạn. Bị va phải cọc, thuyền của họ bị vỡ hay mắc kẹt, nhiều thuyền bị chìm. Quân Nguyên phải nhảy xuống sông để bơi vào bờ, bị chết đuối rất nhiều. Các tướng như Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp v.v bị bắt sống. Cùng thời gian đó, quân đội Đại Việt liên tục tấn công và đánh tan đội quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy qua Lạng Sơn. Cố gắng lần hai của Hốt Tất Liệt trong việc xâm chiếm Đại Việt cũng tan thành mây khói.
Mặc dù các thất bại này đã kết thúc giấc mơ của Hốt Tất Liệt trong việc mở rộng lãnh thổ về phía nam, đặc biệt nhằm để kiểm soát con đường gia vị. Tuy nhiên trong giai đoạn 1288-1293, các quốc gia như Đại Việt, Chiêm Thành và Sukhothai đều lần lượt công nhận uy quyền tối cao của Hốt Tất Liệt để tránh xảy ra chiến tranh thêm nữa.
Xâm lược Miến Điện và Java
Ba cuộc viễn chinh đánh Miến Điện, vào năm 1277, 1283 và 1287, đã đưa lực lượng Mông Cổ đến Đồng bằng sông Irrawaddy, sau đó họ chiếm được Bagan, kinh đô của triều Pagan và thành lập chính quyền của họ. Hốt Tất Liệt phải bằng lòng với việc thiết lập một sự tuyệt đối chính thức, nhưng cuối cùng Pagan đã trở thành một quốc gia triều cống, gửi các triều cống đến kinh đô nhà Nguyên cho đến khi quân Mông Cổ bị trục xuất khỏi Trung Quốc vào những năm 1360. Lợi ích của người Mông Cổ trong các lĩnh vực này là mối quan hệ thương mại và phụ lưu.
Trong những năm cuối cùng của triều đại, Hốt Tất Liệt đã phát động một cuộc viễn chinh chinh phạt hải quân gồm 20-30.000 người đánh Singhasari trên Java (1293), nhưng lực lượng Mông Cổ xâm lược đã buộc phải rút lui bởi Majapahit sau khi tổn thất đáng kể hơn 3000 quân. Tuy nhiên, đến năm 1294, năm Hốt Tất Liệt qua đời, các vương quốc Thái Lan bao gồm Sukhothai và Chiang Mai đã trở thành các quốc gia chư hầu của nhà Nguyên.
Quan hệ với châu Âu
Dưới thời Hốt Tất Liệt, liên hệ trực tiếp giữa Đông Á và Châu Âu đã được thiết lập, nhờ sự kiểm soát của Mông Cổ đối với các tuyến thương mại trung tâm châu Á và được tạo điều kiện bởi sự hiện diện của các dịch vụ bưu chính hiệu quả. Vào đầu thế kỷ 13, người châu Âu và Trung Á - thương nhân, khách du lịch và nhà truyền giáo của các quốc gia khác nhau - đã đến Trung Quốc. Sự hiện diện của sức mạnh Mông Cổ cho phép một số lượng lớn người Trung Quốc, có ý định chiến tranh hoặc buôn bán, đi đến các bộ phận khác của Đế quốc Mông Cổ, đến tận Nga, Ba Tư và Lưỡng Hà.
Dời đô
Sau khi Hốt Tất Liệt tuyên bố là Khả hãn ở Thượng Đô vào ngày 5 tháng 5 năm 1260, ông bắt đầu tổ chức lại đất nước. Zhang Wenqian, một quan chức chính phủ trung ương, được ông gửi vào năm 1260 tới Daming nơi tình trạng bất ổn đã được báo cáo trong dân chúng địa phương. Một người bạn của Zhang, Guo Shoujing, đi cùng anh ta trong nhiệm vụ này. Guo quan tâm đến kỹ thuật, là một chuyên gia thiên văn học và nhà chế tạo nhạc cụ lành nghề, và anh hiểu rằng những quan sát thiên văn tốt phụ thuộc vào các công cụ được chế tạo chuyên nghiệp. Guo bắt đầu chế tạo các dụng cụ thiên văn, bao gồm đồng hồ nước để xác định thời gian và các quả cầu vũ khí chính xác đại diện cho quả cầu thiên thể. Kiến trúc sư Turkestan Ikhtiyar al-Din, còn được gọi là "Igder", đã thiết kế kinh đô cho tân khả hãn, Khanbaliq (Đại Đô, Trung Quốc). Hốt Tất Liệt cũng thuê các thợ thủ công nước ngoài để xây dựng kinh đô mới của mình; một trong số họ, một người Newar tên là Araniko, đã xây dựng Bảo tháp Trắng là công trình kiến trúc lớn nhất ở Khanbaliq /Đại Đô.
Zhang khuyên Hốt Tất Liệt rằng Guo là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật thủy lực. Hốt Tất Liệt biết tầm quan trọng của việc quản lý nước đối với tưới tiêu, vận chuyển ngũ cốc và kiểm soát lũ lụt, và ông yêu cầu Guo xem xét các khía cạnh này ở khu vực giữa Đại Đô (nay là Bắc Kinh) và Hoàng Hà. Để cung cấp cho Đại Đô một nguồn cung cấp nước mới, Guo đã tìm thấy suối Baifu trên núi Shen và có một kênh dài 30 km (19 mi) được xây dựng để di chuyển nước đến Đại Đô. Ông đề xuất kết nối nguồn cung cấp nước qua các lưu vực sông khác nhau, xây dựng các kênh đào mới có cống để kiểm soát mực nước và đạt được thành công lớn với những cải tiến mà ông đã thực hiện. Hốt Tất Liệt rất hài lòng và yêu cầu Guo thực hiện các dự án tương tự ở các vùng khác của đất nước. Năm 1264, ông ta được yêu cầu đến Cam Túc để sửa chữa những thiệt hại đã gây ra cho các hệ thống thủy lợi trong những năm chiến tranh trong cuộc tiến công của người Mông Cổ trong khu vực. Guo đã đi tuần rộng rãi cùng với người bạn Zhang của mình để ghi chú các công việc cần thực hiện để bỏ chặn các phần bị hư hỏng của hệ thống và để cải thiện hiệu quả của nó. Ông ấy đã gửi báo cáo của mình trực tiếp đến Hốt Tất Liệt.
Cuối đời
Hốt Tất Liệt đã gửi cháu trai Gammala của mình đến Burkhan Khaldun vào năm 1291 để đảm bảo yêu sách của mình với Ikh Khorig, nơi Thành Cát Tư Hãn được chôn cất, một nơi linh thiêng được bảo vệ bởi chính quyền của ông. Bá Nhan đã kiểm soát Karakorum và đang thiết lập lại quyền kiểm soát các khu vực xung quanh vào năm 1293, do đó, đối thủ Kaidu của Hốt Tất Liệt đã không thử bất kỳ hành động quân sự quy mô lớn nào trong ba năm tới. Từ năm 1293 trở đi, quân đội của Hốt Tất Liệt đã giải phóng lực lượng của Kaidu khỏi Cao nguyên Trung Sibir.
Hốt Tất Liệt ban đầu có ý định đưa con trai thứ hai là Chân Kim (真金) làm người kế vị ông. Chân Kim đã trở thành người đứng đầu của trung thư tỉnh và tích cực điều hành công việc triều chính theo kiểu Nho giáo. Thật không may, Chân Kim chết năm 1285, 9 năm trước khi Hốt Tất Liệt qua đời. Ngoài ra, ái thê của ông Hoàng hậu Sát Tất cũng qua đời trước đó vài năm (năm 1281). Con yêu cùng vợ yêu qua đời trong một thời gian ngắn, cùng với những thất bại của các chiến dịch quân sự ở Đại Việt và Nhật Bản cũng luôn ám ảnh ông, hẳn đã khiến tinh thần Hốt Tất Liệt bị chấn động mạnh mẽ.
Mặt khác, Hốt Tất Liệt cũng bị bệnh gút nặng trong những năm cuối đời do thừa cân quá mức. Ông tăng cân nhanh vì thích ăn các món đặc sản nguồn gốc động vật và uống quá nhiều rượu. Điều này làm gia tăng nhanh lượng purin trong máu của ông, dẫn tới việc làm trầm trọng thêm các vấn đề với bệnh gút và cuối cùng dẫn tới cái chết. Việc ăn uống quá nhiều của ông có thể có liên quan tới cái chết của bà vợ yêu quý nhất của ông cũng như của người ông đã chọn làm người kế vị là Chân Kim, vì điều này có thể đã giúp ông ổn định lại tâm trạng và trở nên thoải mái hơn.
Hốt Tất Liệt chìm vào trầm cảm vì mất người thân, sức khỏe yếu và tuổi tác ngày càng cao. Ông đã thử mọi phương pháp điều trị y tế có sẵn, từ các pháp sư Cao Ly đến các thần y Đại Việt, và các phương thuốc và thuốc men khác, nhưng không có kết quả. Vào cuối năm 1293, hoàng đế đã từ chối tham gia vào lễ đón năm mới truyền thống. Trước khi chết, Hốt Tất Liệt đã chọn con trai của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ làm Thái tử và ông này đã trở thành vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên, tức là Nguyên Thành Tông.
Hốt Tất Liệt muốn tìm kiếm một người bạn đồng hành cũ để an ủi ông trong căn bệnh cuối cùng, các triều thần chỉ có thể chọn Bá Nhan, người kém ông hơn 20 tuổi. Sức khỏe của Hốt Tất Liệt ngày càng suy yếu dần, và vào ngày 18 tháng 2 năm 1294, ông qua đời ở tuổi 80. Hai ngày sau, đám tang đã đưa thi hài của ông đến nơi chôn cất của những khả hãn Mông Cổ.
Nhà thơ
Hốt Tất Liệt cũng đã để lại nhiều bài thơ Trung Quốc, mặc dù hầu hết các tác phẩm của ông đã không còn tồn tại. Chỉ có một bài thơ Trung Quốc do ông viết được đưa vào Tuyển tập Thơ nhà Nguyên (元 詩選), có tựa đề 'Cảm hứng được ghi lại khi thưởng thức ngọn núi mùa xuân'. Nó được dịch sang tiếng Mông Cổ bởi học giả người Mông Cổ B.Buyan theo cùng phong cách với thơ ca cổ điển Mông Cổ và được Ya.Ganbaatar phiên âm sang tiếng Cyrillic. Chuyện kể rằng, một lần vào mùa xuân, Hốt Tất Liệt đã đi lễ tại một ngôi chùa Phật giáo tại Cung điện mùa hè ở phía tây Khanbaliq (Bắc Kinh) và trên đường trở về Di Hòa viên (Tumen Nast Uul ở Mông Cổ), nơi ông tràn đầy cảm hứng và viết bài thơ này:
Dịch:
Di sản
Sự chiếm đoạt quyền lực của Hốt Tất Liệt vào năm 1260 đã đẩy Đế quốc Mông Cổ sang một hướng mới. Bất chấp cuộc tranh ngôi báu gây tranh cãi của ông, đã thúc đẩy sự mất đoàn kết của người Mông Cổ, việc Hốt Tất Liệt sẵn sàng chính thức hóa mối quan hệ cộng sinh của vương quốc Mông Cổ với Trung Quốc đã khiến Đế quốc Mông Cổ được quốc tế chú ý. Các cuộc chinh phạt của Hốt Tất Liệt và những người tiền nhiệm của ông chủ yếu chịu trách nhiệm tái tạo một Trung Quốc thống nhất, mạnh mẽ về quân sự. Sự cai trị của người Mông Cổ ở Tây Tạng, Mãn Châu và thảo nguyên Mông Cổ từ một kinh đô ở Bắc Kinh hiện đại là tiền lệ cho Đế quốc Nội Á của triều đại nhà Thanh sau này.
Gia quyến
Thân phụ: Đà Lôi, miếu hiệu Duệ Tông (睿宗), thụy hiệu Nhân Thánh Cảnh Tương hoàng đế (仁圣景襄皇帝).
Thân mẫu: Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni (唆鲁禾帖尼), thụy hiệu Hiển Ý Trang Thánh hoàng hậu (显懿庄圣皇后).
Anh em:
Đại ca: Mông Kha, anh cả cùng mẹ, sau được truy tặng làm Nguyên Hiến Tông (元宪宗).
Nhị ca: Hốt Đổ Đô (忽睹都).
Tam ca và Ngũ đệ không biết tên.
Lục đệ: Húc Liệt Ngột, Đại Hãn của Hãn quốc Y Nhi.
Thất đệ: A Lý Bất Ca, tranh chấp giành lấy quyền lực Đại Hãn.
Bát đệ: Bát Xước (拨绰).
Cửu đệ: Mạt Ca (末哥).
Thập đệ: Tuế Ca Đô (岁哥都).
Thập nhất đệ: Tuyết Biệt Đài (雪别台).
Chị em:
Độc Mộc Can (独木干), phong Triệu Quốc công chúa (赵国公主), hạ giá Niếp Cổ Đài, Sát Hốt.
Dã Tốc Bất Hoa (也速不花), phong Lỗ Quốc công chúa (鲁国公主), hạ giá Oát Trần.
Tiết Chỉ Can (薛只干), phong Lỗ Quốc công chúa, hạ giá Giáp Nạp Trần (em trai Oát Trần).
Thê thiếp:
Đại hoàng hậu: Thiếp Cổ Luân (帖古伦).
Đệ nhị Oát nhĩ đóa:
Hoàng hậu Sát Tất, Hoằng Cát Lạt thị, lập năm 1260, mất 1281, thụy hiệu Chiêu Duệ Thuận Thánh hoàng hậu (昭睿顺圣皇后).
Hoàng hậu Nam Tất, Hoằng Cát Lạt thị, lập năm 1283.
Đệ tam Oát nhĩ đóa:
Hoàng hậu Tháp Lạt Hải (塔剌海).
Hoàng hậu Nô Hãn (奴罕).
Đệ tứ Oát nhĩ đóa:
Hoàng hậu Bá Yếu Ngột Chân (伯要兀真).
Hoàng hậu Khoát Khoát Luân (阔阔伦).
Khác:
Hoàng hậu Tốc Ca Đáp Tư (速哥答思).
Phi Bát Bát Hãn (八八罕).
Phi Tát Bất Hốt (撒不忽).
Hậu duệ
Hoàng tử
Đóa Nhân Chỉ (朵儿只), mất sớm, mẹ Hoàng hậu Sát Tất.
Chân Kim (真金), mẹ Hoàng hậu Sát Tất. Năm 1273 lập làm Thái tử. Mất năm 1286.
Mang Ca Lạt (忙哥剌), mẹ Hoàng hậu Sát Tất, tước An Tây vương (安西王).
Na Mộc Hãn (那木罕), mẹ Hoàng hậu Sát Tất, tước Bắc An vương (北安王).
Hốt Ca Xích (忽哥赤), mẹ không rõ, tước Vân Nam vương (雲南王).
Ái Nha Xích (爱牙赤), mẹ không rõ.
Áo Đô Xích (奥都赤), mẹ không rõ, tước Tây Bình vương (西平王).
Khoát Khoát Xuất (阔阔出), mẹ không rõ, tước Ninh vương (宁王).
Thoát Hoan, mẹ không rõ, tước Trấn Nam vương (镇南王).
Hốt Đô Lỗ Thiếp Mộc Nhân (忽都鲁帖木儿), mẹ không rõ.
Thiết Miệt Xích (铁蔑赤), mẹ Hoàng hậu Nam Tất.
Hoàng nữ
Nguyệt Liệt (月烈), phong Triệu Quốc đại trưởng công chúa (赵国大长公主), hạ giá Triệu Vũ Tương vương Ái Bất Hoa (爱不花).
Ngô Lỗ Chân (吾鲁真), phong Xương Quốc công chúa (昌国公主), hạ giá Bột Hoa (孛花).
Trà Luân (茶伦), phong Xương Quốc đại trưởng công chúa (昌国大长公主), hạ giá Thiếp Giam Can (帖监干).
Hoàn Trạch (完泽), phong Lỗ Quốc trưởng công chúa (鲁国长公主), hạ giá Oát La Chân (斡罗真).
Nang Gia Chân (囊家真), phong Lỗ Quốc đại trưởng công chúa (鲁国大长公主), hạ giá con trai của Thiết Mộc Nhân Man (铁木儿蛮).
Hốt Đô Lỗ Kiên Mễ Thất (忽都魯揭里迷失), phong Tề Quốc đại trưởng công chúa (齐国大长公主), hạ giá Cao Ly Trung Liệt Vương.
Một công chúa, khả năng là tông thất nữ, hạ giá Tống Cung Đế.
Tiểu thuyết hoá
Hốt Tất Liệt được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung.
Trong truyện này ông là người đứng ra chiêu nạp đám cao thủ võ lâm Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây,Sóng Gió Nguyên Triều v.v. âm mưu tiêu diệt các cao thủ Đại Tống.
Chú thích
Tham khảo
Morgan David. The Mongols (Blackwell Publishers; Tái bản, tháng 4 năm 1990), ISBN 0-631-17563-6.
Rossabi Morris. Khubilai Khan: His Life and Times (Nhà in Đại học California (1-5-1990)) ISBN 0-520-06740-1.
Saunders J. J. The History of the Mongol Conquests'' (Nhà in Đại học Pennsylvania (1-3-2001)) ISBN 0-8122-1766-7.
Man John. "Kublai Khan"
Man John. "Genghis Khan" |
Hệ thống cấp bậc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được đặt ra ngay sau khi thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa (1955), khởi thủy bằng cách chuyển đổi tương đương cấp bậc của quân đội Pháp. Hàng sĩ quan có 3 cấp (thiếu, trung, đại), nhận diện bằng bông mai vàng (cấp úy), bông mai bạc (cấp tá), ngôi sao trắng (cấp tướng). Năm 1964, khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập, hệ thống cấp bậc được điều chỉnh theo hệ thống cấp bậc Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh. Sĩ quan các cấp trong các đơn vị tác chiến đều phải ngụy trang cấp bậc bằng màu đen, do đó bông mai của cấp tá cộng thêm một gạch (để phân biệt với cấp úy). Sửa đổi quan trọng nhất là bổ sung cấp bậc Chuẩn tướng. Sĩ quan cấp tướng bắt đầu bằng cấp Chuẩn tướng. Ở quân chủng Hải quân, song song với cấp bậc còn được gọi theo Hải hàm: Chuẩn tướng (Phó Đề đốc), Thiếu tướng (Đề Đốc), Trung tướng (Phó Đô đốc), Đại tướng (Đô đốc) và Thống tướng (Thủy sư Đô đốc). Tuy nhiên, trong 3 quân chủng Lục, Hải, Không quân của QLVNCH, duy nhất chỉ có một người mang cấp bậc cao nhất là Thống tướng Lục quân Lê Văn Tỵ, người mang cấp cao nhất ở Hải quân là Phó Đô đốc Chung Tấn Cang và Không quân là Trung tướng Trần Văn Minh.
Lục quân
Trước 1964
Bậc binh sĩ
Bậc hạ sĩ quan
Bậc sĩ quan
Sau 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
Không quân
Trước 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
Sau 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
Hải quân
Trước 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
Sau 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
Thủy quân lục chiến
Trước 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan
'''Sau 1964
Binh sĩ
Hạ sĩ quan
Sĩ quan |
Sankt-Peterburg (; đọc là Xanh Pê-téc-bua từ tiếng Pháp: Saint-Pétersbourg nghĩa là "Thánh Phêrô") là một thành phố liên bang của Nga. Đây là thành phố lớn thứ nhì của Nga và cũng là cố đô của Đế quốc Nga. Saint-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu thổ sông Neva; con sông này thông với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg.
Trong khoảng thời gian từ năm 1914 đến 1924 thành phố có tên là Petrograd (Петроград), và Lenningrad (Ленинград) từ 1924 đến 1991 dưới chính thể Liên Xô
Với diện tích trên 670 km², Saint-Peterburg có dân số 4,7 triệu người (thống kê 2005). Nếu tính cả vùng phụ cận bao gồm 1.439 km² thì Saint-Peterburg có 5 triệu 550 ngàn dân.
Trải qua nhiều thế kỷ địa danh của Saint-Peterburg đã bị đổi nhiều lần. Nguyên thủy là Sankt-Peterburg. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914 và Nga bị Đế quốc Đức xâm lăng thì thành phố đổi tên là Petrograd để tránh các từ nguyên danh gốc tiếng Đức. Mười năm sau thì chính quyền Liên Xô lại loại bỏ tên Petrograd mà đặt là Leningrad, tưởng niệm cố lãnh tụ Liên Xô, Vladimir Ilyich Lenin. Sau khi Liên Xô sụp đổ, địa danh ban đầu Sankt-Peterburg được dùng lại sau cuộc trưng cầu dân ý, tuy nhiên các khu vực xung quanh thành phố (tỉnh Leningrad) thì vẫn giữ nguyên tên gọi.
Đối với người Việt vào đầu thế kỷ 20 thì Sankt-Peterburg được phiên âm là Thành Bỉ Đắc như trong bài "Á Tế Á ca" của Phan Bội Châu.
Lịch sử thành phố
Vấn đề ưu tiên của Sa hoàng Nga của triều đại Romanov là phải mở một thủy lộ thông ra Biển Baltic. Trong vòng hơn 100 năm liên tiếp giấc mộng đó không thành. Phải đến thời Pyotr Đại Đế (Pyotr I) người Nga mới chiếm được cửa bể ra Baltic. Âu là trong cuộc Đại chiến Bắc Âu giữa Thụy Điển và Nga (1701–1721) quân Nga tiến ra bắc và thắng lớn trong trận Poltava năm 1710, buộc Thụy Điển phải ký hòa ước Nystad và nhường vùng duyên hải sông Neva cho Sa hoàng Pyotr I. Nga từ đó mở cửa ngỏ thông thương đường biển sang Âu châu.
Giấc mơ lớn nhất của Sa hoàng là xây dựng một thành phố thật quy củ để qua đó chứng tỏ sự hùng hậu của nước Nga. Dự án của công trình này được bắt đầu ngay từ năm 1703 trên Hòn đảo con thỏ giành được từ tay người Thụy Điển (người Viking). Công trình được xây dựng đầu tiên trên đảo là pháo đài SaintPiterburh, ngày nay gọi là Pháo đài Petro-Pavlov, thực hiện theo lệnh của Sa hoàng ngày 16 tháng 5, năm 1703 (là ngày 27 tháng 5 tính theo lịch Gregory). Ngày này được công nhận là "ngày khai sinh" của thành phố. Trên phiến đá kỉ niệm dịp này người ta đã khắc dòng chữ như sau: "Ngày 16 tháng 5, năm 1703, thành phố Sankt-Peterburg đã được Sa hoàng và Hoàng tử Aleksei Petrovich xếp đặt".
Vào năm 1917, thành phố được đổi tên thành Petrograd. Lúc này, triều đại Sa hoàng cuối cùng, Nikolai II, là triều đại rối ren. Chiến tranh với Nhật Bản không được ủng hộ. Chính sự thất bại đã châm ngòi cho những cuộc biểu tình phản đối trên đất nước. Ngày chủ nhật 22/1/1905, quân đội đã nã súng vào đoàn người biểu tình trước Cung điện Mùa đông ở Sankt Peterburg. Khoảng 100 người biểu tình đã thiệt mạng. Trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết. Sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu đã bị nhân dân toàn thế giới lên án. Các cuộc nổi dậy của nông dân, bãi công, biểu tình, ám sát và binh biến diễn ra liên tiếp, cho đến khi Sa hoàng Nikolai miễn cưỡng chấp nhận yêu sách của những người phản đối. Tháng 10 năm 1905, Sa hoàng Nikolai đã ký một văn kiện hứa đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thành lập một hạ viện thông qua bầu cử - viện Duma.
Tình hình vẫn không giảm sau năm 1916, giá thức ăn tăng gấp 4 lần. Đoàn người chờ bánh mì trước Cung điện Mùa đông bắt đầu gây náo loạn. Trong khi đó, quân lính không theo lệnh vua, đứng ra lãnh đạo đoàn người biểu tình. Dân chúng luôn yêu cầu Sa hoàng phải thoái vị. Sau sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu, không một quốc gia châu Âu nào đồng ý tiếp nhận vị Sa hoàng bị trục xuất này.
Cách mạng tháng Hai đã lật đổ Sa hoàng và chế độ phong kiến, lập nên thể chế dân chủ (tư sản), Chính phủ lâm thời thành lập do Kerensky đứng đầu. Nhưng những người Bolshevik đứng đầu là Vladimir Ilyich Lenin và Lev Trotsky tiếp tục đấu tranh, tổ chức những cuộc nổi dậy lan rộng trên đất nước. Đến ngày 7/11/1917 (theo lịch Julius là tháng 10), cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công, lật đổ Chính phủ Lâm thời và lập ra nhà nước công nông đầu tiên.
Tháng 9 năm 1941, quân đội phát-xít Đức bắt đầu bao vây Leningrad (Saint Peterburg ngày nay). Cuộc phong tỏa kéo dài gần 900 ngày đêm, song quân Đức đã bị Hồng quân Liên Xô chặn lại ở ngoại vi thành phố. Gần một triệu người đã chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật. Gần 3 triệu người dân còn lại trong thành phố lâm vào cảnh thiếu thốn, không có chất đốt để sưởi ấm và nước để uống, thức ăn không đủ. Trong tình trạng thiếu thốn đó, thịt của động vật nuôi, chuột và chim được sử dụng để nuôi con người. Chính phủ Xô-viết đã thiết lập tuyến vận tải cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội và dân cư thành phố qua mặt hồ Ladoga đóng băng, được mệnh danh là "Con đường sống". Cuối cùng, vào ngày 27/1/1944, quân đội Liên Xô đã phá tan vòng vây phong tỏa Leningrad của phát-xít Đức.
Trải qua các thời kỳ Lenin, Stalin, cuối cùng, Liên Xô tan rã thành 15 nước khác nhau vào năm 1991. Tên thành phố từ Leningrad đổi thành cái tên ban đầu, là Sant Peterburg. Sau 10 năm suy thoái kinh tế, kể từ năm 2000, nền kinh tế thành phố bắt đầu khôi phục lại. Các hoạt động tôn giáo và nghệ thuật được phát triển. Du lịch trở thành nền kinh tế chính của thành phố. Các điểm đến du lịch hấp dẫn, như Cung điện mùa đông, Cung điện mùa hè...đẹp tuyệt vời sáng chói giữa phương Bắc lạnh giá của Nga khiến cho thành phố này như một Venice của phương Bắc.
Địa lý
Trung tâm thành phố Sankt-Peterburg có diện tích . Nếu tính là chủ thể liên bang thì diện tích của thành phố là , bao gồm trung tâm Sankt-Peterburg, 9 thị trấn (Kolpino, Krasnoye Selo, Kronstadt, Lomonosov, Pavlovsk, Petergof, Pushkin, Sestroretsk, Zelenogorsk) – và 21 đô thị khác.
Petersburg nằm trên vùng đất thấp taiga dọc theo bờ biển của vịnh Neva thuộc Vịnh Phần Lan, và các đảo của đồng bằng châu thổ. Đảo Vasilyevsky là đảo lớn nhất (bên cạnh các đảo nhân tạo giữa kênh đào Obvodny và Fontanka, và Kotlin trong vịnh Neva), Petrogradsky, Dekabristov và Krestovsky. Krestovsky cùng với Yelagin và đảo Kamenny hầu hết được chuyển thành các công viên. Karelian Isthmus, ở phía bắc thành phố, là khu nghỉ dưỡng đông đúc. Ở phía nam Sankt-Peterburg băng qua Baltic-Ladoga Klint và đến cao nguyên Izhora.
Cao độ của Sankt-Peterburg từ mực nước biển đến điểm cao nhất là trên đồi Orekhovaya thuộc Cao nguyên Duderhof ở phía nam. Phần đất ở phía tây của Liteyny Prospekt không cao hơn so với mực nước biển và thường xuyên bị ngập. Ngập lụt ở Sankt-Peterburg chủ yếu từ sóng dài của biển Baltic, do chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện khí tượng, gió và độ nông của vịnh Neva. Bốn trận lụt lịch sử diễn ra vào năm 1824 (cao , trong đợt lụt này hơn 300 nhà bị phá hủy), 1924 , 1777 , 1955 , và 1975 . Người ta xây đập Sankt-Peterburg để ngăn lụt.
Từ thế kỷ 18 địa hình của thành phố được nâng lên do các yếu tố nhân tạo, ở những nơi có độ cao trên , làm sáp nhập một số đảo và thay đổi chế độ thủy văn của thành phố. Bên cạnh sông Neva và các phụ lưu của nó, các sông quan trọng khác gồm Sestra, Okhta và Izhora. Hồ lớn nhất là Sestroretsky Razliv nằm ở phía bắc, theo sau là Lakhtinsky Razliv, Suzdal và các hồ nhỏ khác.
Do nằm ở vĩ độ khoảng 60°Bắc, nên độ dài ban ngày ở Petersburg thay đổi theo mùa, từ 5:53 đến 18:50. Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7, hoàng hôn có thể kéo dài cả đêm nên được gọi là "đêm trắng".
Khí hậu
Theo phân loại khí hậu của Köppen, Sankt-Peterburg được xếp vào nhóm khí hậu lục địa ẩm. Chịu sự ảnh hưởng vừa phải của các xoáy từ biển Baltic nên thành phố có khí hậu ấm, ẩm và mùa hè ngắn, mùa đông ẩm ướt, kéo dài.
Nhiệt độ trung bình lớn nhất vào tháng 7 là ; nhiệt độ cực điểm là xuất hiện vào mùa hè năm 2010. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là được ghi nhận vào năm 1883. Nhiệt độ trung bình năm là . Sông Neva chảy qua thành phố thường bị đóng băng vào tháng 11-12 và tan băng vào tháng 4. Từ tháng 12 đến tháng 3, trung bình có 118 ngày bị phủ tuyết, với bề dày trung bình đạt vào tháng 2. Thời gian không đóng băng trong thành phố kéo dài trung bình 135 ngày. Trung tâm thành phố hơi ấm hơn vùng ngoại ô. Các điều kiện khí hậu khá thay đổi trong cả năm.
Lượng giáng thủy trung bình thay đổi tùy nơi trong thành phố, trung bình /năm và cao nhất vào cuối hè. Độ âm đất hầu như luôn cao vì độ bốc hơi thấp của khí hậu mát. Độ ẩm tương đối của không khí trung bình 78% và trung bình có 165 ngày có nhiều mây.
Dân số
Năm 1976, thành phố bùng nổ với số dân là trên 5 triệu. Năm 2004, St. Peterburg có số dân là khoảng 4 triệu người, giảm đi một triệu. Đa số là người Nga. Dự kiến sẽ giảm trong các năm tới.
Sankt-Peterburg là thành phố lớn thứ 2 ở Nga. Theo thống kê năm 2010, dân số toàn thành phố là 4.879.566 chiếm 3,4% dân số Nga; với thống kê năm 2002 là 4.661.219 (3,2%) và giảm so với thời kỳ Liên Xô ghi nhận 5.023.506 năm 1989.
Thống kê năm 2010 về thành phần dân cư gồm: người Nga 80,1%, Ukraina 1,3%, Belarus 0,8%, Tatar 0,6%, Armeni 0,6%, Do Thái 0,5%, Uzbek 0,4%, Tajik 0,3%, Azeri 0,3%, Cruzia 0,2%, Moldova 0,2%, Finns 0,1%, nhóm khác – 1,3%. Nhóm chiếm 13,4% còn lại không xác định được.
Kinh tế
Sankt-Peterburg là trung tâm thương mại, tài chính và công nghiệp của Nga, đặc biệt là thương mại dầu khí, cơ sở đóng tàu, công nghệ vũ trụ, radio và điện tử, phần mềm và máy tính; chế tạo máy, máy móc hạng nặng và giao thông, bao gồm xe tăng và khí tài quân sự, khai thác mỏ, chế tạo thiết bị, luyện kim (sản xuất các hợp kim nhôm), hóa chất, dược phẩm, trang thiết bị y tế, in ấn và xuất bản, thực phẩm, dệt và may mặc, và nhiều ngành thương mại khác. Thành phố cũng là trụ sở chính của Lessner, một trong hai nhà chết tạo ô tô tiên phong của Nga (cùng với Russo-Baltic).
10% tuốc bin điện trên thế giới được sản xuất ở LMZ, nhà máy này sản xuất hơn 2000 tuốc bin cho các nhà máy điện trên khắp thế giới. Các cơ sở công nghiệp lớn gồm Admiralty Shipyard, Baltic Shipyard, LOMO, Kirov Plant, Elektrosila, Izhorskiye Zavody; có trụ sở đặt tại Sankt-Peterburg là Sovkomflot, Petersburg Fuel Company và SIBUR trong số những công ty lớn khác của Nga và công ty quốc tế khác.
Sankt-Peterburg có 3 cảng hàng hóa lớn vùng Baltic: cảng Bolshoi-Sankt-Peterburg, Kronstadt, và Lomonosov. Các công ty tàu-phà quốc tế phục vụ hành khách ở Morskoy Vokzal phía tây nam của đảo Vasilyevsky.
Thành phố có rất nhiều nhà máy chưng cất rượu, sản xuất các loại rượu vodka. Nhà máy lâu đời nhất là LIVIZ (được thành lập năm 1897). Trong số các nhà máy trẻ nhất là Russian Standard Vodka được thành lập ở Moscow năm 1998, và ở St. Petersburg năm 2006 với vốn đầu tư $60 million (trên diện tích 30.000 m², sản xuất 22.500 chai/giờ). Năm 2007 loại rượu này đã xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia.
Năm 2006, ngân sách thành phố là 179,9 tỉ rubles (tương đương 6,651 tỉ USD tỷ giá năm 2006). Tổng sản phẩm khu vực của chủ thể liên bang năm 2005 là 667,905 tỷ ruble (khoảng 23,611 tỷ USD theo tỷ giá 2005), xếp hạng thứ 4 ở Nga sau Moscow, Tyumen, và tỉnh Moscow, hay 145.503,3 ruble/người (khoảng 5.143,6 USD theo tỷ giá 2005), xếp hạng thứ 12 trong các chủ thể liên bang của Nga, chủ yếu thu từ các nguồn buôn bán, bán lẻ và dịch vụ sửa chữa (24,7%) cũng như công nghiệp chế biến (20,9%) và giao thông, thông tin truyền thông (15,1%).
Thu ngân sách của thành phố năm 2009 là 294,3 tỉ ruble (khoảng 10,044 tỉ USD theo tỷ giá 2009), chi – 336,3 tỉ ruble (khoảng 11,477 tỉ USD theo tỷ giá 2009). Thâm hụt ngân sách lên đến 42 tỉ ruble. (khoảng 1,433 tỉ USD năm 2009)
Giáo dục
Tính đến năm 2006/2007, thành phố có 1024 nhà trẻ, 716 trường công và 80 trường nghề. Trường đại học lớn nhất là Đại học Sankt-Peterburg, số sinh viên bậc đại học khoảng 32.000; và cơ sở đào tạo đại học tư lớn nhất là Viện quan hệ quốc tế, Kinh tế và Luật St. Petersburg. Các trường đại học nổi tiếng khác gồm Đại học Bách khoa Sankt-Peterburg, Đại học Herzen và Đại học Công nghệ quân sự Sankt-Peterburg. Tuy nhiên, các trường đại học công lập đều trực thuộc chính thể liên bang chứ không phải của thành phố.
Chính quyền
Sankt-Peterburg là một chính thể liên bang của Nga. Chính trị của Sankt-Peterburg được quy định tại Hiến pháp Sankt-Peterburg đã được cơ quan lập pháp của thành phố thông qua năm 1998. Cơ quan điều hành cao là Sankt-Peterburg City Administration, đứng đầu là thống đốc thành phố (trước năm 1996 là thị trưởng). Sankt-Peterburg có một cơ quan lập pháp single-chamber, quốc hội lập pháp Sankt-Peterburg, Quốc hội khu vực.
Hành chính
Thành phố Sankt-Peterburg hiện (2012) được phân chia thành 18 quận (район):
Admiralteysky
Frunzensky
Kalininsky
Kirovsky
Kolpinsky
Krasnogvardeysky
Krasnoselsky
Kronshtadtsky
Kurortny
Moskovsky
Nevsky
Petrodvortsovy
Petrogradsky
Primorsky
Pushkinsky
Tsentralny
Vasileostrovsky
Vyborgsky
Du lịch
Sankt-Peterburg là một trung tâm lớn thứ nhì sau Moskva về kinh tế, văn hóa và khoa học của Nga, nhưng nếu nói về phương diện tham quan du lịch thì nó còn hơn cả Moskva cổ kính. Thành phố còn được gọi là thủ đô phía Bắc của Nga, đã được tổ chức UNESCO thừa nhận là thành phố du lịch hấp dẫn thứ 8 của thế giới. Vào năm 2004 Sankt-Peterburg đã đón nhận 3,4 triệu du khách từ khắp thế giới. Số du khách đến thăm thành phố trong những năm gần đây tăng liên tục. Do thành phố có một hệ thống kênh đào chằng chịt với vô số những chiếc cầu cổ kính ở bên trên nên nó cũng được mệnh danh là Venice của phương Bắc.
Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi (59,93 độ vĩ bắc và 30,32 độ kinh đông), thành phố có các ngành công nghiệp phát triển như: đóng tàu (với xưởng đóng tàu nổi tiếng mang tên Baltic); cơ khí (với các xưởng Electrosila, xưởng Kirov); điện kĩ thuật và điện tử; luyện kim và kim loại màu; hóa chất, và nhất là cao su; dệt vải, may mặc; giày da; in ấn; gỗ, giấy; vật liệu xây dựng và thực phẩm.
Sankt-Peterburg còn là một đầu mối giao thông lớn về đường sắt và đường bộ và là một trong những cảng biển lớn nhất của Nga. Đây cũng là căn cứ chính của hải quân Nga (Hạm đội Baltic). Cảng sông được các tuyến đường thủy nối liền với các biển Bạch Hải, biển Azov, biển Caspi và biển Đen. Thành phố cũng có một phi trường quốc tế: Sân bay Pulkovo
Do thành phố này nằm ở vị trí rất xa về phương Bắc nên nó còn nổi tiếng với hiện tượng các đêm trắng, là các đêm sáng như trăng rằm mà không hề có trăng. Do sự khúc xạ ánh sáng Mặt Trời từ phía bên kia Địa cầu đang là "ban ngày", vượt qua miền Cực Bắc để tỏa sáng xuống thành phố. Đôi khi cũng có thể trông thấy hiện tượng cực quang.
Thành phố có 41 trường đại học, trong đó có trường tổng hợp, trên 170 viện nghiên cứu khoa học, trên 2.000 thư viện (trong đó có Thư viện mang tên Mikhain Jevgraphovic Saltikov-Shchedrin), đài quan sát thiên văn Pulkovo, Nhà hát Maria, trong những năm 1920–1992 là Nhà hát Nhạc kịch Opera và Ballet mang tên Sergey Kirov. Ở đây cũng có phòng hòa nhạc vốn nổi tiếng trên thế giới, được thành lập từ năm 1862. Sankt-Petersburg cũng là một trong những trung tâm bảo tàng trọng yếu của châu Âu, tài nguyên này thuộc về Bảo tàng Ermitage và Bảo tàng Nga. Kề liền với thành phố có những địa danh du lịch – tĩnh dưỡng như khu Pushkin, Petrostation, Pavlovsk, Zielonogorsk, Siestrorieck hoặc là Gatchina.
Giao thông
Sankt-Peterburg là một trung tâm giao thông chính. Tuyến đường sắt đầu tiên của Nga được xây dựng ở đây vào năm 1837, và kể từ đó cơ sở hạ tầng giao thông của thành phố đã tiếp tục phát triển và bắt kịp với sự phát triển của thành phố. Petersburg có một hệ thống rộng lớn của các đường địa phương và các dịch vụ đường sắt, duy trì hệ thống giao thông công cộng lớn bao gồm các đường xe điện ở Sankt-Peterburg và Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg, và là nơi có một số dịch vụ ven sông chuyển tải hành khách xung quanh thành phố một cách hiệu quả và tương đối thoải mái.
Thành phố được kết nối với phần còn lại của Nga và thế giới bởi một số đường cao tốc liên bang và tuyến đường sắt quốc gia và quốc tế. Sân bay Pulkovo phục vụ phần lớn các hành khách hàng không khởi hành từ hoặc tới thành phố.
Hình ảnh
Chú thích
Đọc thêm
Amery, Colin, Brian Curran & Yuri Molodkovets. St. Petersburg. London: Frances Lincoln, 2006. ISBN 0-7112-2492-7.
Bater, James H. St. Petersburg: Industrialization and Change. Montreal: McGuill-Queen’s University Press, 1976. ISBN 0-7735-0266-1.
Berelowitch, Wladimir & Olga Medvedkova. Histoire de Saint-Pétersbourg. Paris: Fayard, 1996. ISBN 2-213-59601-8.
Brumfield, William Craft. The Origins of Modernism in Russian Architecture. Berkeley: University of California Press, 1991. ISBN 0-520-06929-3.
Buckler, Julie. Mapping St. Petersburg: Imperial Text and Cityshape. Princeton: Princeton University Press, 2005 ISBN 0-691-11349-1.
Clark, Katerina, Petersburg, Crucible of Revolution. Cambridge: Harvard University Press, 1995.
Cross, Anthony (ed.). St. Petersburg, 1703-1825. Basingstoke: Palgrave Macmillan, 2003. ISBN 1-4039-1570-9.
George, Arthur L. & Elena George. St. Petersburg: Russia's Window to the Future, The First Three Centuries. Lanham: Taylor Trade Publishing, 2003. ISBN 1-58979-017-0.
Glantz, David M. The Battle for Leningrad, 1941-1944. Lawrence: University Press of Kansas, 2002. ISBN 0-7006-1208-4.
Hellberg-Hirn, Elena. Imperial Imprints: Post-Soviet St. Petersburg. Helsinki: SKS Finnish Literature Society, 2003. ISBN 951-746-491-6.
Knopf Guide: Sat. Petersburg. New York: Knopf, 1995. ISBN 0-679-76202-7.
Eyewitness Guide: St. Petersburg.
Lincoln, W. Bruce. Sunlight at Midnight: St. Petersburg and the Rise of Modern Russia. New York: Basic Books, 2000. ISBN 0-465-08323-4.
Orttung, Robert W. From Leningrad to St. Petersburg: Democratization in a Russian City. New York: St. Martin’s, 1995. ISBN 0-312-17561-2.
Ruble, Blair A. Leningrad: Shaping a Soviet City. Berkeley: University of California Press, 1990. ISBN 0-87772-347-8.
Shvidkovsky, Dmitry O. & Alexander Orloff. St. Petersburg: Architecture of the Tsars. New York: Abbeville Press, 1996. ISBN 0-7892-0217-4.
Volkov, Solomon. St. Petersburg: A Cultural History. New York: Free Press, 1995. ISBN 0-02-874052-1.
St. Petersburg:Architecture of the Tsars. 360 pages. Abbeville Press, 1996. ISBN 0-7892-0217-4
Saint Petersburg: Museums, Palaces, and Historic Collections: A Guide to the Lesser Known Treasures of St. Petersburg. 2003. ISBN 1-59373-000-4.
Нежиховский Р. А. Река Нева и Невская губа, Leningrad, Гидрометеоиздат, 1981.
Preclík, Vratislav. Masaryk a legie (Masaryk and the Legion), váz. kniha, 219 trang, vydalo nakladatelství Paris Karviná, Žižkova 2379 (734 01 Karviná-Mizerov) ve spolupráci s Masarykovým demokratickým hnutím (xuất bản bởi Paris Karviná, phối hợp với Phong trào Dân chủ Masaryk), 2019, ISBN 978-80-87173-47-3, trang 41 - 137, 140 – 148 |
Boeing 747, biệt danh "Jumbo Jet" hay nữ hoàng bầu trời "Queens of the Skies", là một trong những loại máy bay dễ nhận biết nhất trên toàn thế giới. Nó là máy bay thân rộng, hai tầng, hai lối đi đầu tiên trên thế giới, và là máy bay phản lực dân dụng thương mại cỡ lớn thân rộng hai lối đi đầu tiên trên thế giới được sản xuất. Loại máy bay này được đơn vị Commercial Airplanes của Boeing tại Hoa Kỳ sản xuất. Phiên bản đầu tiên của Boeing 747 có kích thước gấp 2,5 lần chiếc Boeing 707, một trong những máy bay thương mại cỡ lớn của thập niên 1960. Từ chuyến bay thương mại đầu tiên năm 1970, Boeing 747 giữ kỷ lục về sức chứa hành khách lớn nhất trong 37 năm cho đến khi đối thủ mới là hãng sản xuất máy bay của Châu Âu Airbus trình làng chiếc Airbus A380 vượt mặt.
Máy bay Boeing 747 sử dụng 4 động cơ và đã từng có ý tưởng thực hiện trên cấu hình là hai tầng nhưng đã bị hủy bỏ phần thân được dùng chở khách, chở hàng hay sử dụng mục đích khác ở những phiên bản mới. Phần trên của máy bay được tạo hình thành một cái bướu trên 747 nằm phía trên sàn ngăn, tạo điều kiện cho các phiên bản chở hàng sau này có thể nhận hàng qua cửa lớn phía mũi máy bay. Phần bướu trong các phiên bản chở khách là phần đặt chỗ ngồi bổ sung hoặc sử dụng vào mục đích khác.
Phiên bản mới nhất đang hoạt động của 747 là B747-8 Intercontinental và B747-8F. Phiên bản B747-400 là một trong những cấu hình máy bay dân dụng thân rộng nhanh nhất đang hoạt động trong các hãng hàng không với tốc độ đạt Mach 0,85 (567 mph hay 913 km/h), tầm bay liên lục địa là 7.260 hải lý (8.350 dặm hay 13.450 km). Phiên bản chở khách 747-400 có thể chở 416 khách với ba hạng ghế hoặc 524 khách với bố trí hai hạng ghế.
Sau khi đã bán được 400 chiếc, có những lúc 747 bị cho là lỗi thời do sự phát triển của những máy bay dân dụng siêu thanh nhưng thực tế, tổng số sản xuất ở con số 1.000 chiếc vào năm 1993 đã vượt quá sức tưởng tượng của những người chỉ trích. Tính đến tháng 4-2008, có 1.402 chiếc 747 được chế tạo với 122 cấu hình khác nhau. Phiên bản mới nhất của loại 747 là 747-8F, đã đi vào hoạt động vào năm 2009.
Phát triển
Bối cảnh
Vào năm 1963, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu một loạt những dự án nghiên cứu về một máy bay vận tải "chiến lược" rất lớn. Dù C-141 Starlifter đang trong quá trình đưa vào sản xuất, họ cảm thấy một máy bay có sức chứa lớn hơn và to hơn là điều cần thiết, đặc biệt là khả năng để mang những hàng hóa "ngoại cỡ", điều không thể thực hiện trên những máy bay lúc đó. Những nghiên cứu này đã dẫn đến "CX-X" (Cargo, Experimental, no number - Hàng hóa, Thí nghiệm, không số), một thiết kế yêu cầu sức chứa lên đến 180.000 pound (81.600 kg) có tốc độ đạt Mach 0.75 (500 mph/805 km/h), và bay liền một mạch quãng đường dài 5.000 hải lý (9.260 km) với trọng tải là 115.000 pound (52.200 kg). Khoang chứa hàng phải có chiều rộng là 17 feet (5.18 m), chiều cao là 13.5 feet (4.11 m) và chiều dài là 100 feet (30.5 m) từ cửa ở trước (phần đầu) cho đến cửa cuối (phần đuôi) của máy bay.
Thiết kế ban đầu đã vấp phải một loạt những đề xuất với 6 động cơ. Tuy nhiên, tất cả thiết kế đều được nhận thấy rằng không đủ tiến bộ để vượt qua C-141, để được xem là quan trọng cho phát triển. Một tập hợp mới các tiêu chuẩn được hoàn thành và một yêu cầu chính thức đề nghị đã được đưa ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1964 cho "Heavy Logistics System" (CX-HLS - Hệ thống ngành hậu cần nặng). Nổi bật với chỉ 4 động cơ, thiết kế cũng yêu cầu những động cơ mới với công suất lớn hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn. Vào 18 tháng 5 năm 1964, những đề nghị sản xuất khung máy bay đã được chuyển tới Boeing, Douglas, General Dynamics, Lockheed và Martin Marietta; trong khi những đề nghị về động cơ được chuyển cho General Electric, Curtiss-Wright và Pratt and Whitney. Sau khi nghiên cứu lựa chọn, Boeing, Douglas và Lockheed đã được ký những hợp đồng nghiên cứu bổ sung cho khung máy bay, trong khi động cơ được giao cho General Electric và Pratt and Whitney.
Tất cả ba trong số những đề nghị khung máy bay phải chia sẻ một số đặc tính, nhưng một chi tiết đã trở thành biểu tượng trên 747. Khi máy bay CX-HLS được thiết kế để mang hàng hóa hạng nặng, việc đặt buồng lái tại vị trí truyền thống ở phần mũi có thể gây ra nguy hiểm nghiêm trọng trong thời gian hạ cánh vội khi hàng hóa di chuyển về phía trước và có thể ép vào buồng lái của phi công. Tất cả các công ty đều tính đến vấn đề này bằng việc di chuyển buồng lái lên cao hơn khu vực chứa hàng; hãng Douglas có một "pod" (vỏ) nhỏ chỉ có ở phía trước và trên cánh, hãng Lockheed sử dụng một "xương sống" chạy theo chiều dài của máy bay với xà dọc cánh đi xuyên qua nó, trong khi hãng Boeing pha trộn cả hai ý tưởng trên lại, với một vỏ dài hơn và chạy từ phía sau mũi đến sau cánh.
Vào năm 1965, thiết kế máy bay của Lockheed và thiết kế động cơ của General Electric đã được chọn cho mẫu máy bay vận tải mới là C-5 Galaxy.
Kế hoạch về máy bay dân dụng
747 được hình thành trong đầu các nhà thiết kế khi du lịch bằng đường không đang gia tăng vào thập niên 1960. Thời đại của máy bay vận tải thương mại phản lực được mở ra bởi tính phổ biến to lớn của Boeing 707 và Douglas DC-8 đã cách mạng hóa du lịch đường dài. Thậm chí trước khi hợp đồng CX-HLS thất bại, Boeing đã bị thúc ép bởi Juan Trippe, chủ tịch của Pan American World Airways (Pan Am), một trong những hãng hàng không là khách hàng quan trọng nhất của Boeing; sự thúc ép này là về việc chế tạo một máy bay chở khách lớn gấp hai lần kích thước của chiếc 707. Trong thời gian này, việc tắc nghẽn tại các sân bay đã trở nên tồi tệ hơn do số lượng hành khách tăng lên trong khi sức chứa của máy bay lại tương đối nhỏ, những điều này đã trở thành vấn đề và Juan Trippe suy nghĩ có thể giải quyết vấn đề này bằng một loại máy bay cỡ lớn mới.
Vào năm 1965, Joe Sutter chuyển từ đội phát triển 737 của Boeing sang làm quản lý các nghiên cứu về một máy bay dân dụng mới, loại máy bay mới này đã được gán số mô hình là 747. Sutter bắt đầu nghiên cứu thiết kế với Pan Am và các hãng hàng không khác, nhằm hiểu những nhu cầu của khách hàng khi đặt mua máy bay. Lúc đó, phần lớn người ta nghĩ rằng 747 sẽ dần dần bị thay thế bởi máy bay vận tải siêu thanh. Boeing đã trả lời bằng việc thiết kế 747 sao cho nó có thể thích nghi dễ dàng với việc chuyển chở hàng hóa và tiếp tục được đặt hàng chế tạo dù những đơn đặt hàng phiên bản chở khách có thể giảm sút. Trong vai trò chuyển chở hàng hóa, nhu cầu khoang chứa hàng lớn để hỗ trợ vận chuyển hàng bằng container là phương pháp đang được áp dụng rộng rãi vào cùng thời gian đó. Những container tiêu chuẩn có chiều ngang là (hơi cao hơn vì những điểm phiếu đính kèm) và chiều dài là 20 hoặc . Điều này có nghĩa rằng nó có thể hỗ trợ một chồng container 2-rộng 2-cao gồm 2 hay 3 hàng với một kích thước khung máy bay tương tự như dự án CX-HLS trước đó.
Những nỗ lực thiết kế
Cuối cùng thì thiết kế cánh cao của Boeing trên mẫu CX-HLS đã không được sử dụng cho 747, dù những công nghệ để phát triển dựa trên những cố gắng của họ có một ảnh hưởng nhất định. Thiết kế nguyên bản bao gồm một thân máy bay hai tầng với chiều dài đúng theo thiết kế, tầng dưới có 8 dãy ghế và 2 lối đi giữa các dãy ghế, tầng trên có 7 dãy ghế và 2 lối đi giữa các dãy ghế. Tuy nhiên, mối quan tâm đến việc giải tỏa tắc nghẽn trên các tuyến đường và khả năng mang hàng hóa hạn chế là nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ ý tưởng này sẽ bị loại bỏ vào đầu năm 1966 vì những ưu tiên lớn hơn cho thiết kế máy bay một tầng có kích thước rộng hơn. Bởi vậy buồng lái đã được đặt trên một tầng trên ngắn hơn, vì vậy cửa chất và chuyển hàng hóa lên xuống máy bay có thể bao gồm cửa hình nón ở cả phần mũi nữa; thiết kế đặc trưng đã khiến 747 có thể dễ dàng nhận biết với một chỗ "lồi" ở phần đầu. Trong các kiểu đầu tiên, nó không được hiểu rõ ràng là những thứ có liên quan với vùng không gian nhỏ ở đằng sau buồng lái, và điều này lúc đầu theo lý thuyết như một khu vực "phòng khách" không có ghế ngồi cố định.
Một trong những công nghệ thiết yếu cho phép một máy bay lớn như 747 được hình thành là động cơ phản lực cánh đẩy (turbofan) tỷ lệ đường vòng lớn. Công nghệ động cơ được tính đến để có khả năng cung cấp công suất gấp 2 lần những động cơ tuabin phản lực (turbojet) ban đầu trong khi tiêu thụ nhiên liệu ít hơn 3 lần. General Electric đã mở đường cho khái niệm này nhưng hãng đã chuyên tâm vào phát triển động cơ cho C-5 Galaxy và loại động cơ này đã không được thương mại hóa cho đến tận sau này. Pratt & Whitney cũng nghiên cứu chế tạo trên cùng nguyên lý, và cuối năm 1966, các hãng Boeing, Pan-Am và Pratt & Whitney đã đồng ý phát triển một động cơ mới trang bị cho 747, có tên gọi là JT9D.
Dự án được thiết kế với một phương pháp mới gọi là phân tích cây sai hỏng (fault tree analysis), cho phép nghiên cứu kỹ lưỡng những tác động của một lỗi hỏng hóc của một bộ phận đơn lẻ, nhằm xác định ảnh hưởng của nó đối với những hệ thống khác. Để chuyên tâm vào những mối quan tầm về an toàn và khả năng bay, thiết kế của 747 bao gồm việc dư thừa cấu trúc, những hệ thống thủy lực thừa, hệ thống bánh đáp tăng lên 4 lần và 2 hệ thống điều khiển bề mặt. Đồng thời, một số thiết bị nâng tiên tiến nhất được sử dụng trong công nghiệp cũng được áp dụng trong thiết kế mới, cho phép máy bay hoạt động tại những sân bay hiện có lúc đó. Những tấm nhỏ ở gờ trước của cánh máy bay được thiết kế chạy dọc theo chiều dài của cánh, cũng như những cánh tà có rãnh được chia làm 3 phần chạy dọc theo chiều dài cánh ở phía sau. Thiết kế cánh đặt dưới cho phép những cánh tà lấy được luồng khí dưới cánh, tăng những hiệu ứng mặt đất tới máy bay.
Boeing đồng ý giao chiếc 747 đầu tiên cho Pan Am vào cuối năm 1969. Ngày giao hàng tính từ sau ngày thiết kế máy bay là 28 tháng, khoảng thời gian này chỉ chiếm 2/3 quỹ thời gian bình thường từ khi thiết kế đến giao hàng chiếc máy bay đầu tiên đối với các loại máy bay khác. Vì chương trình nhanh như vậy nên những người làm việc trong dự án đã được đặt cho biệt danh là "The Incredibles" (Những người lạ thường). Việc phát triển máy bay như vậy là một thách thức kỹ thuật và tài chính, ban giám đốc dự án đã nói rằng "bet the company" (đánh cược công ty) khi họ bắt đầu dự án.
Nhà máy sản xuất
Vì Boeing không có một nhà máy nào đủ lớn để lắp ráp máy bay dân dụng khổng lồ, do đó họ lựa chọn giải pháp xây dựng một nhà máy mới. Boeing đã xem xét kỹ lưỡng các vị trí có thể đặt nhà máy mới ở 50 thành phố, và dần dần quyết định xây dựng nhà máy mới cách 30 dặm (48 km) về phía bắc Seattle trên một vị trí gần một căn cứ quân sự tại Paine Field gần Everett, Washington. Boeing đã mua một vùng đất rộng 780 mẫu Anh (316 hecta) vào tháng 6-1966.
Việc phát triển 747 là một thách thức chính đối với hãng Boeing, và việc xây dựng nhà máy lắp ráp cũng là một nhiệm vụ to lớn khác. Chủ tịch Boeing là William M. Allen đã hỏi Malcolm T. Stamper khi đó là người đứng đầu bộ phận tuabin của hãng, để giám sát việc xây dựng nhà máy Everett và để bắt đầu sản xuất 747. Để san ủi mặt bằng, hơn 3.1 triệu m³ đất đã được chuyển đi. Thời gian xây dựng rất ngắn khi mô hình có kích cỡ thật của 747 đã được chế tạo trước khi mái của nhà máy được hoàn thành. Nhà máy này là tòa nhà lớn nhất thế giới về thể tích từng được xây dựng vào lúc đó.
Phát triển và thử nghiệm
Trước khi chiếc 747 đầu tiên được lắp ráp hoàn chỉnh, việc thử nghiệm đã bắt đầu đối với nhiều thành phần và hệ thống. Một thử nghiệm quan trọng là sơ tán hành khách khi máy bay bị nạn, người ta đã cần tới 560 tình nguyện viên ở trên cabin mô hình có kích thước thật của 747, sau đó thử nghiệm sơ tán qua những cầu trượt khẩn cấp thoát khỏi máy bay. Việc thử nghiệm sơ tán như thật đầu tiên mất 2 phút 30 giây thay vì tối đa 90 giây như yêu cầu bởi Cơ quan quản lý Hàng không Liên bang (FAA), vài người tình nguyện đã bị thương. Những thử nghiệm sơ tán tiếp theo đã đạt yêu cầu 90 giây nhưng khiến nhiều người bị thương hơn. Việc khó hiểu nhất là việc sơ tán từ tầng trên của máy bay; những hành khách tình nguyện thay vì việc sử dụng một máng trượt thông thường, khi thoát khỏi máy bay đã sử dụng một trang bị bảo hộ gắn liền với một ống cuộn.
Boeing đã xây dựng một thiết bị huấn luyện khác thường được biết đến như "Waddell's Wagon" (Máy bay của Waddell) (tên gọi của một phi công thử nghiệm 747 là Jack Waddell), thiết bị này gồm có một buồng lái mô hình như thật đặt trên mui của một xe tải. Trong khi những chiếc 747 đầu tiên đã được chế tạo, thiết bị cho phép các phi công thực hành những thao tác trượt từ một vị trí tầng trên đặt trên cao.
Vào ngày 30 tháng 9-1968, chiếc 747 đầu tiên đã được giới thiệu tại nhà máy lắp ráp Everett trước giới báo chí khắp thế giới và đại diện của 26 hãng hàng không trên thế giới đã đặt hàng chiếc máy bay.
Trong những tháng sau đó, những sự chuẩn bị được thực hiện cho chuyến bay đầu tiên sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 2-1969, với những phi công thử nghiệm điều khiển là Jack Waddell và Brien Wygle và Jess Wallick ở vị trí phụ trách máy móc. Dù có một vấn đề nhỏ với một trong số những cánh tà, chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của 747 vẫn được xác nhận là có tính năng điều khiển rất tốt. Máy bay trong thời gian bay hầu như không bị hiện tượng "Dutch roll" (hiện tượng chao đảo hình cung), đây là một hiện tượng gây nguy hiểm chính đối với những máy bay phản lực cánh xuôi đầu tiên.
Trong thời gian diễn ra những giai đoạn sau đó của chương trình thử nghiệm bay, thử nghiệm rung khi bay chỉ ra rằng cánh phải chịu dao động dưới những điều kiện nhất định. Khó khăn này một phần được giải quyết bằng việc giảm độ cứng của một số thành phần trong cánh. Tuy nhiên, vấn đề máy bay rung khi bay ở tốc độ cao đã trở thành một vân đề đặc biệt nghiêm trọng, và vấn đề này chỉ được giải quyết bằng cách chèn thêm những vật đối trọng như các bao bì chứa uranium nghèo trong vỏ động cơ ở phía ngoài, phương pháp này được áp dụng trên những chiếc 747 đầu tiên. Biện pháp này đã gây ra mối lo khi máy bay bị rơi hay đâm vào nhau, chẳng hạn như Chuyến bay 358 của China Airlines tại Wanli, Đài Bắc năm 1991 và Chuyến bay 1862 của El Al tại Amsterdam năm 1992.
Chương trình thử nghiệm bay bị hạn chế bởi những vấn đề về động cơ JT9D của máy bay. Những khó khăn bao gồm việc động cơ chết máy, nguyên nhân là do sự chuyển động của van tiết lưu và sự biến dạng của vỏ bọc tuabin xảy ra rất nhanh sau một thời gian ngắn hoạt động. Những vấn đề này đã gây ra sự chậm trễ vài tháng trong việc giao hàng những chiếc 747 và 20 chiếc máy bay đã phải nằm chờ tại nhà máy Everett để đợi lắp đặt động cơ. Chương trình đã bị trì hoãn thêm khi một trong 5 chiếc máy bay thử nghiệm đã phải chịu thiệt hại nghiêm trọng trong khi đang cố gắng hạ cánh xuống sân bay Renton Municipal, nơi đặt nhà máy Renton của Boeing. Máy bay thử nghiệm đã bị loại bỏ các thiết bị kiểm tra và một cabin đã được lắp đặt khi phi công Ralph C. Cokely đã hạ cánh trên một đường băng ngắn và bộ bánh đáp đã bị cắt rời ra khỏi chiếc 747 sau sự cố trên. Tuy nhiên, những khó khăn này không cản trở Boeing mang một trong những máy bay thử nghiệm đến Triển lãm hàng không Paris lần thứ 28 vào giữa năm 1969, đây là lần đầu tiên chiếc 747 được xuất hiện trước công chúng. Chiếc 747 đã đạt được chứng chỉ bay của FAA (Cơ quan quản lý Hàng không Liên bang) vào tháng 12-1969, và chiếc máy bay mới đã sẵn sàng để đưa vào sử dụng chính thức trong các hãng hàng không.
Chi phí rất lớn của dự án phát triển 747 và việc xây dựng nhà máy Everett có nghĩa rằng Boeing đã phải vay mượn những khoản tiền rất lớn từ một nghiệp đoàn ngân hàng. Trong những tháng cuối cùng trước khi giao chiếc máy bay đầu tiên, công ty đã phải nhiều lần yêu cầu cấp vốn bổ sung để hoàn thành dự án. Nếu bị từ chối không cấp thêm vốn, sự tồn tại của Boeing sẽ bị đe dọa. Cuối cùng thì, canh bạc mạo hiểm của Boeing đã thành công, và Boeing đã giữ độc quyền trong sản xuất máy bay chở khách cỡ lớn trong nhiều năm liền.
Đi vào hoạt động
Ngày 15 tháng 1-1970, Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ Pat Nixon đã làm lễ rửa tội cho chiếc 747 đầu tiên của Pan Am tại Sân bay quốc tế Dulles (sau này sân bay này đổi tên thành Sân bay quốc tế Washington Dulles) với sự có mặt của chủ tịch Pan Am là Najeeb Halaby. Thay vì rượu sâm banh, nước màu đỏ, trắng và xanh đã được phun lên máy bay. Chiếc 747 bắt đầu đi vào hoạt động chính thức vào ngày 22 tháng 1-1970, nó hoạt động trên tuyến đường bay New York–Luân Đôn của Pan Am; chuyến bay đầu tiên đã lên kế hoạch vào tối ngày 21 tháng 1, nhưng động cơ nóng quá mức cho phép khiến máy bay không thể sử dụng được. Việc tìm kiếm động cơ thay thế đã khiến chuyển bay bị trì hoãn muộn hơn 6 giờ vào ngày hôm sau.
Loại máy bay 747 đã có được một sự mở đầu đi vào hoạt động suôn sẻ, vượt qua những lo âu là một số sân bay không có khả năng tiếp nhận một máy bay cỡ lớn. Mặc dù những vấn đề kỹ thuật đã nảy sinh, họ đã giải quyết một cách tương đối nhanh chóng và gọn nhẹ. Sau khi đi vào hoạt động với Pan Am, các hãng hàng không khác từng đặt mua 747 để duy trì sự cạnh tranh lần lượt đưa những chiếc 747 của riêng mình vào hoạt động. Boeing đã ước tính rằng một nửa số lượng 747 đầu tiên bán cho các hãng hàng không sẽ hoạt động do khả năng bay đường dài hơn là khả năng trọng tải của nó. Nhưng dù 747 có thể có chi phí hoạt động đối với mỗi ghế thấp, điều này có thể chỉ đạt được khi máy bay chở tải toàn bộ như theo thiết kế; chi phí hoạt động trên mỗi ghế sẽ gia tăng nhanh chóng khi hiệu suất sử dụng ghế giảm xuống. Việc tiêu thụ nhiên liệu cho một chiếc 747 chuyên chở khoảng 70% số ghế sẽ sử dụng hơn 95% nhiên liệu so với một chiếc 747 chở đầy tải.
Khi những vấn đề kinh tế ở Hoa Kỳ và tại các quốc gia khác sau Khủng hoảng Dầu mỏ 1973 dẫn tới việc giảm lượng hành khách vận chuyển, một vài hãng hàng không nhận thấy họ không có đủ hành khách để cho chiếc 747 bay với chi phi kinh tế, và họ đã thay thế những chiếc 747 bằng những máy bay nhỏ hơn thân rộng vừa mới được giới thiệu, đó là kiểuMcDonnell Douglas DC-10 và Lockheed L-1011 TriStar (và sau đó là những máy bay phản lực 2 động cơ 767 và A300). Để thu hút khách hàng, các hãng hàng không đã cố gắng thử thay thế những ghế ngồi trên những chiếc 747 thành những quầy bar piano, hãng American Airlines đã dần dần chuyển những chiếc 747 của họ thành máy bay chở hàng vào năm 1983 đã đổi đội bay 747 của mình cho Pan Am để lấy những máy bay nhỏ hơn; Hãng Delta Airlines cũng đã loại bỏ những chiếc 747 khỏi đội bay sau vài năm.
Những chuyến bay quốc tế bay trực tiếp bỏ qua những sân bay đầu mối truyền thống và hạ cánh xuống những thành phố nhỏ hơn đã trở nên phổ biến khắp nơi vào thập niên 1980, và điều này đã làm xói mòn thị trường ban đầu của 747. Tuy nhiên, nhiều hãng vận tải quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng 747 trên các tuyến đường bay vượt Thái Bình Dương. Ở Nhật Bản, những chiếc 747 hoạt động trên các tuyến đường bay nội địa được cấu hình để chuyên chở lượng hành khách gần như toàn tải.
747 nhanh chóng có được uy tín và là một biểu tượng, nó đã xuất hiện trong những bộ phim khác nhau như loạt phim Airport về thảm họa hàng không, Không lực Một và Executive Decision.
Những phát triển xa hơn
Sau kiểu 747-100 ban đầu, Boeing đã phát triển phiên bản -100B có Trọng lượng Cất cánh Tối đa lớn hơn và phiên bản -100SR (tầm ngắn) có sức chứa hành khách lớn hơn. Tăng trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) có thể cho phép một máy bay mang nhiều nhiên liệu hơn và có tầm bay xa hơn. Kiểu -200 được phát triển sau đó và bắt đầu hoạt động chính thức năm 1971. Kiểu -200 có động cơ mạnh hơn và trọng lượng cất cánh lớn hơn. Các phiên bản chở khách, chuyên chở hàng và kết hợp chở khách-hàng hóa cũng được sản xuất. 747SP ngắn hơn (hiệu suất đặc biệt) với một tầm bay dài hơn cũng được phát triển vào giữa thập niên 1970.
Dòng máy bay 747 đã được phát triển xa hơn với việc xuất xưởng 747-300 vào năm 1980. Phiên bản -300 là kết quả từ sự nghiên cứu của Boeing để tăng số ghế của 747. Những giải pháp như chốt thân máy bay và mở rộng tầng trên ở toàn bộ chiều dài thân máy bay đã bị loại bỏ. Tên gọi ban đầu của -300 là 747SUD ("stretched upper deck" - tầng trên kéo dài) tiếp theo là 747-200 SUD, sau đó là 747EUD, trước khi tên gọi 747-300 được sử dụng. Kiểu 300 được sản xuất lần đầu vào năm 1983. Nó bao gồm một tầng trên kéo dài (SUD), tăng tốc độ hành trình và tăng số ghế. Phiên bản chở khách, tầm gần và kết hợp chở khách-hàng hóa cũng được chế tạo.
Năm 1985, công việc phát triển phiên bản 747-400 tầm xa bắt đầu. Phiên bản mới có một buồng lái kính mới, cho phép tăng tổ lái từ 3 phi công giảm xuống còn 2. Chi phí phát triển lớn, và những trì hoãn sản xuất đã xảy ra khi những hàng không đòi hỏi công nghệ mới phải được hợp nhất vào mẫu máy bay mới. Lực lượng lao động thiếu kinh nghiệm và những vấn đề sản xuất khác đã xuất hiện khi Boeing chế tạo 747-400. -400 bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1989.
Từ khi 747-400 hoạt động, vài kế hoạch kéo dài cho 747 đã được đề xuất. Boeing đã giới thiệu thiết kế 747-500X và -600X vào năm 1996. Những phiên bản mới có chi phí hơn 5 tỷ USD để phát triển, và mối quan tâm không đủ để chương trình có thể bắt đầu. Boeing đưa ra giới thiệu kiểu 747X và 747X kéo dài khiêm nhường hơn vào năm 2000 như một câu trả lời tới kiểu A3XX của đối thủ Airbus. Tuy nhiên, dòng 747X không có khả năng thu hút đủ sự quan tâm để đi vào sản xuất. Boeing đã chuyển từ nghiên cứu 747X sang theo đuổi Sonic Cruiser vào năm 2001 và sau chương trình Sonic Cruiser là Boeing 787. Vài ý tưởng được phát triển cho 747X sẽ được sử dụng trên 747-400ER. Sau khi vài phương án được đề xướng và sau đó bị hủy bỏ, một số người theo dõi ngành công nghiệp đã tỏ ra hoài nghi về đề xuất máy bay mới từ Boeing. Tuy nhiên, vào đầu năm 2004, Boeing đã công bố những kế hoạch thử cho 747 Advanced, kiểu máy bay đang dần được thông qua. Tương tự bản chất với 747-X, 747 Advanced kéo dài thân sử dụng công nghệ từ 787 để hiện đại hóa thiết kế và những hệ thống của nó.
Ngày 14 tháng 11-2005, Boeing công bố xuất xưởng 747 Advanced với tên gọi Boeing 747-8.
747 đã bị Airbus A380 chiếm danh hiệu máy bay chở khách lớn nhất đang hoạt động, khi Airbus A380 bắt đầu hoạt động trong các hãng hàng không vào năm 2007. Năm 1991, một kỷ lục đã được thiết lập khi 1.087 hành khách đã được một chiếc 747 chở đến Israel như một phần trong Chiến dịch Solomon.
747 từng là máy bay dân dụng nặng nhất hoạt động thường xuyên, cho đến khi loại máy bay Antonov An-124 Ruslan đi vào hoạt động năm 1982. Kiểu 747-400ER đã chiếm lại danh hiệu này vào năm 2000. Máy bay vận tải hàng hóa Antonov An-225 vẫn tiếp tục chiếm ngôi vị là máy bay có kích thước lớn nhất thế giới (bao gồm trọng lượng cất cánh tối đa và chiều dài). Loại Hughes H-4 Hercules là máy bay có sải cánh lớn nhất thế giới, nhưng nó chỉ bay một lần. Chỉ có 2 chiếc An-225 đã được chế tạo, trong khi loại máy bay 747 và A380 đã được sản xuất hàng loạt.
Một số máy bay 747 được chuyển đổi để hoạt động trong những mục đích đặc biệt. Một chiếc 747-100 do General Electric sở hữu được sử dụng như một phòng thí nghiệm về động cơ của họ loại động cơ General Electric GEnx đã được thử nghiệm trên chiếc 747 này. Một nguyên mẫu chữa cháy đã được chế tạo bởi Evergreen International. Dần dần, 747 có thể được thay thế bởi một thiết kế có tên "Y3".
Thiết kế
Boeing 747 là một máy bay dân dụng cỡ lớn, thân rộng với 4 động cơ được đặt ở cánh. Cánh có góc xuôi sau lớn là 37.5° nhằm tăng tốc độ và hiệu quả khi bay ở vận tốc hành trình Mach 0.84 đến 0.88, phụ thuộc vào từng phiên bản. Cánh xuôi sau cũng cho phép 747 sử dụng những nhà để máy bay hiện có. Số ghế ngồi là hơn 366 ghế khi sắp xếp theo sơ đồ 3-4-3 (gồm 3 dãy ghế, 2 dãy ngoài mỗi hàng có 3 ghế và dãy giữa mỗi hàng có 4 ghế, xen vào giữa 3 dãy là 2 lối đi) ở khoang hạng economy và theo sơ đồ 2-3-2 ở khoang hạng nhất trên tầng chính của máy bay. Tầng trên có số ghế bố trí theo sơ đồ 3-3 ở khoang hạng economy và 2-2 ở khoang hạng nhất.
Buồng lái của 747 tạo thành một cái "bướu" do nằm phía trên tầng chính. Buồng lái nhô cao cho phép máy bay có thể chất dỡ hàng hóa từ phía trước ở các phiên bản chuyên chở hàng hóa. Tầng trên phía sau buồng lái tạo không gian cho một phòng khách hay ghế bổ sung. "Tầng trên kéo dài" đã trở thành một tùy chọn trên phiên bản 747-100B và sau đó được coi như một tiêu chuẩn trên phiên bản 747-300.
Trọng lượng cất cánh tối đa của 747 trong khoảng từ 735.000 pound (333.400 kg) đối với phiên bản 747-100 lên 970.000 lb (439.985 kg) cho phiên bản 747-8. Tầm bay tăng từ 5.300 hải lý (6.100 dặm, 9.800 km) đối với 747-100 lên 8.000 hải lý (9.200 dặm, 14.815 km) đối với 747-8I.
747 có nhiều cấu trúc phải tăng thêm số lượng bao gồm 4 hệ thống thủy lực và 4 bộ bánh đáp gồm có 16 lốp, điều này giúp máy bay tăng bề mặt bám đường và sự an toàn trong trường hợp có lốp bị nổ. Hộp số chính cũng được tăng số, điều này ngăn máy bay hạ cánh sử dụng bộ phận hạ cánh nếu phi công không thực hiện đủ thao tác, khi thực hiện đủ thao tác thì máy bay mới có thể hạ cánh. Ngoài ra, 747 còn có hệ thống điều khiển bề mặt kép và những cánh tà có rãnh xẻ được chia làm 3 có cấu trúc tinh vi, những cánh tà này giúp máy bay giảm tốc độ khi hạ cánh và cho phép máy bay sử dụng những đường băng có độ dài tiêu chuẩn. Những chiếc 747 đời đầu còn mang theo cả những động cơ dự phòng, những động cơ này được bố trí đặt ở giữa khoang chức năng động cơ và thân máy bay.
Các biến thể
747-100 là biến thể đầu tiên được giới thiệu vào năm 1966. 747-200 cũng nhanh chóng được giới thiệu ngay sau đó và có đơn đặt hàng đầu tiên vào năm 1968. 747-300 được giới thiệu năm 1980, năm 1985 là 747-400. Cuối cùng là 747-8 được công bố vào năm 2005. Vài phiên bản của mỗi biến thể đã được sản xuất. Nhiều biến thể vẫn đang được sản xuất đồng thời.
747-100
Những chiếc 747-100 đầu tiên được chế tạo với 6 cửa sổ ở tầng trên (mỗi bên có 3 cửa sổ) dành cho khu vực phòng nghỉ ngơi ở tầng trên. Sau đó, khi các hãng hàng không bắt đầu sử dụng tầng trên làm khoang dành cho hành khách thượng hạng thay vì phòng nghỉ ngơi, Boeing đã đưa ra thiết kế tầng trên có 10 cửa sổ như một tùy chọn. Một số chiếc -100 đã được tái trang bị theo cấu hình mới này.
Phiên bản 747-100B là một phiên bản có thiết kế khung máy bay và bộ bánh đáp được gia cố cũng như tăng trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) lên 750.000 lb (340.000 kg). 747-100B chỉ được giao cho hãng Iran Air và Saudia (hiện nay là Saudi Arabian Airlines). Những kiểu động cơ tùy chọn đã được các hãng đưa ra bao gồm Rolls-Royce (RB211) và GE (CF6), nhưng chỉ có Saudia đặt mua tùy chọn của Rolls-Royce.
Boeing không phát triển phiên bản chuyên chở hàng hóa cho kiểu này. Tuy nhiên, những chiếc 747-100 sau này đã được chuyển đổi thành chuyên chở hàng hóa. Tổng cộng có 250 chiếc -100 (mọi phiên bản, bao gồm cả 747SP) được chế tạo; chiếc cuối cùng được giao vào năm 1986. Trong tổng số 250 chiếc được chế tạo có 167 chiếc 747-100, 45 chiếc 747SP, 29 chiếc 747SR và 9 chiếc 747-100B.
747-100SR
Để đáp ứng những yêu cầu từ các hãng hàng không Nhật Bản, Boeing đã phát triển 747-100SR như một phiên bản "tầm gần" của biến thể 747-100. SR có sức chứa nhiên liệu ít hơn nhưng chở được nhiều hành khách hơn, lên tới 498 hành khách đối với những phiên bản ban đầu và 550 đối với những phiên bản sau này, do tăng số ghế ở khoang hạng du lịch. Đặc biệt, SR có cấu trúc hỗ trợ tăng cường ở cánh, thân, và bộ bánh đáp cùng với sức chứa nhiên liệu được giảm bớt 20%. 747SR phải sửa đổi lại cấu trúc thân để chịu đựng được áp lực tăng lên do số lần hạ cánh và cất cánh lớn. -100SR bắt đầu hoạt động chính thức ở hãng Japan Airlines (lúc đó là Japan Air Lines) vào ngày 7 tháng 10-1973. Sau này, những phiên bản tầm gần của -100B và -300 cũng được phát triển. Máy bay SR được sử dụng chủ yếu trên những tuyến bay nội địa ở Nhật Bản.
2 chiếc 747-100B/SR đã được giao cho Japan Airlines (JAL) với một tầng trên kéo dài để cung cấp chỗ cho nhiều khách hơn. Sự sửa đổi này được biết đến như "SUD" (stretched upper deck - tầng trên kéo dài).
Hãng hàng không All Nippon Airways (ANA) đã vận hành những chiếc 747SR trên những tuyến bay nội địa ở Nhật Bản với sức chứa mỗi chiếc từ 455 đến 456 ghế, nhưng chúng đã ngừng hoạt động, chiếc cuối cùng ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng 3-2006. JAL vận hành biến thể 747-100B/SR/SUD với 563 ghế trên tuyến bay nội địa, và ngừng sử dụng những máy bay này vào quý ba năm 2006. JAL và JALways đã vận hành những chiếc -300SR trên tuyến bay nội địa vào thời gian rỗi và trên các tuyến bay đến các nơi khác ở Châu Á.
747-100B
747-100B được phát triển từ -100SR, sử dụng thiết kế khung máy bay và thiết bị hạ cánh mạnh mẽ hơn. Loại này có công suất nhiên liệu tăng thêm 48.070 gal Mỹ cho phép phạm vi hoạt động 5.000 hải lý (9.300 km; 5.800 dặm) với trọng tải 452 hành khách thông thường và tăng MTOW 750.000 lb (340.000 kg). Đơn đặt hàng -100B đầu tiên, một máy bay cho Iran Air, được công bố vào ngày 1 tháng 6 năm 1978. Máy bay này bay lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 6 năm 1979, nhận được chứng nhận FAA vào ngày 1 tháng 8 năm 1979 và được giao vào ngày hôm sau. 9 -100B đã được chế tạo, 1 cho Iran Air và 8 cho Saudi Arabian Airlines. Không giống như -100 ban đầu, -100B được cung cấp với các động cơ Pratt & Whitney JT9D-7A, General Electric CF6-50 hoặc Rolls-Royce RB211-524. Tuy nhiên, chỉ có động cơ RB211-524 (Saudia) và JT9D-7A (Iran Air) được đặt hàng. 747-100B, EP-IAM cuối cùng đã được Iran Air nghỉ hưu vào năm 2014, nhà khai thác thương mại cuối cùng của 747-100 và -100B.
747SP
747SP ngắn hơn 48 feet 4 in (14.7 m) so với 747-100. Ngoại trừ 747-8, SP chỉ có phần thân của 747 đã được sửa chiều dài. Những bộ phận thân ở phía trước và ở đuôi của cánh đã bị loại bỏ, và bộ phận thân ở giữa được thiết kế lại. Cánh tà có rãnh đơn đã được thay thế bởi nhóm 3 cánh tà Fowler có rãnh từ biến thể 747-100. "Ca nô" ở dưới cánh, là nơi đặt cơ cấu vận hành cánh tà trên những chiếc 747 tiêu chuẩn, bị loại bỏ hoàn toàn trên biến thể 747SP. 747SP khi đem so sánh với những biến thể trước đó, thì SP có phần thân ở cuối đuôi thon hơn, bánh lái có hai khớp nối, cánh đuôi đứng và cánh đuôi ngang dài hơn.
Boeing 747SP đã được công nhận đạt một chứng chỉ phụ vào ngày 4 tháng 2-1976 và bắt đầu đi vào hoạt động ở hãng Pan American World Airways (PAN AM) cùng năm. Máy bay được chọn lựa bởi những hãng hàng không muốn hoạt động ở những sân bay chính với đường băng ngắn.
Tổng cộng có 45 chiếc 747SP được chế tạo. Chiếc 747SP thứ 44 được giao vào ngày 30 tháng 8-1982. Boeing đã mở lại dây chuyền sản xuất 747SP để chế tạo một chiếc 747SP cuối cùng 5 năm sau đó vào năm 1987, đơn đặt hàng từ chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Tính đến tháng 8-2007, 17 chiếc Boeing 747SP vẫn đang hoạt động trong các hãng hàng không bao gồm Iran Air (3), Saudi Arabian Airlines (1), Syrian Arab Airlines (2) và thuộc chính phủ. Dryden Flight Research Center (Trung tâm nghiên cứu bay Dryden) của NASA có một chiếc SP sửa đổi cho hoạt động thử nghiệm SOFIA.
747-200
747-200 có động cơ mạnh hơn, trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) và tầm bay lớn hơn so với 747-100. Một vài chiếc -200 đầu tiên giữ lại cấu hình 3 cửa sổ ở mỗi bên của biến thể -100 ở tầng phía trên, nhưng những chiếc chế tạo sau này lại có cấu hình 10 cửa sổ ở mỗi bên.
Vài phiên bản thêm của -200 đã được sản xuất. Phiên bản 747-200B là một phiên bản cải tiến của 747-200, nó có sức chứa nhiên liệu lớn hơn và động cơ mạnh hơn; bắt đầu hoạt động vào tháng 2-1971. Máy bay -200B có tầm bay khi trọng tải đầy đạt khoảng 6.857 hải lý (12.700 km). Phiên bản 747-200F là một phiên bản chuyên chở hàng hóa của biến thể -200. Cửa để chất tải hàng ở một bên thân có thể có hoặc không trên -200F. Sức chứa của nó là 105 tấn Anh (95.3 tấn) và trọng lượng cất cánh tối đa lên đến 833.000 lb (378.000 kg). Nó bắt đầu hoạt động lần đầu vào năm 1972 với hãng Lufthansa. Phiên bản 747-200C Convertible là một phiên bản có thể chuyển đổi giữa chuyên chở khách và chuyên chở hàng hoặc sử dụng trong cấu hình kết hợp. Những chiếc ghế có thể được rờ đi, và kiểu này có cửa hàng hóa ở phần mũi. -200C có thể có một cửa hàng hóa bên cạnh tùy chọn ở tầng chính.
747-200M là một phiên bản kết hợp, nó có một cửa hàng hóa ở một bên thân trên tầng chính và có thể chở hàng ở khu vực phía sau của tầng chính. Một vách ngăn có thể dời đi trên tầng chính nhằm phân chia khu vực hàng hóa ở phía sau với khu vực của khách ở phía trước. Kiểu này có thể mang 238 hành khách khi bố trí ghế ở 3 hạng nếu hàng hóa được mang trên tầng chính. Kiểu này cũng được biết đến với tên gọi 747-200 Combi. Cũng như đối với biến thể 747-100, sửa đổi tầng trên kéo dài (SUD) cũng được đưa ra như một tùy chọn cho các khách hàng tùy chọn sau này. Tổng cộng có 10 chiếc 747-200 được chuyển đổi đang được vận hành bởi KLM. UTA French Airlines cũng có 2 chiếc trong số những máy bay 747 của mình được chuyển đổi.
Tổng cộng có 393 chiếc -200 thuộc mọi phiên bản được chế tạo khi dây chuyền sản xuất đóng cửa năm 1991. Trong đó có 225 chiếc 747-200, 73 chiếc 747-200F, 13 chiếc 747-200C, 78 chiếc 747-200M, và 4 chiếc thuộc quân đội.
Nhiều chiếc 747-200 hiện vẫn đang hoạt động, dù đa số những hãng hàng không lớn đã ngừng sử dụng chúng và bán chúng cho các hãng hàng không nhỏ hơn. Nhiều hãng hàng không lớn đã đẩy tiến độ ngừng hoạt động những chiếc 747-200 sau Sự kiện 11 tháng 9, một số chiếc thì được sử dụng để chuyên chở hàng hóa.
747-300
Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa 747-300 và những kiểu trước đó là tầng trên kéo dài với 2 cửa thoát hiểm khẩn cấp mới và một khu vực dành cho thành viên phi hành đoàn nghỉ ngơi ở ngay sau buồng lái, khu vực này được coi như một tiêu chuẩn tùy chọn (tầng trên kéo dài trước đây được đưa ra như một trang bị bổ sung và xuất hiện lần đầu trên 2 chiếc 747-100SP của Nhật Bản ). Khi so sánh với 747-200, tầng trên dài hơn của 747-300 dài hơn 23 feet 4 in (7,11 m). Một cầu thang thẳng mới lên tầng trên thay thế cho cầu thang xoắn ốc là điểm khác biệt giữa -300 và các biến thể trước đó. Cầu thang tạo nên phòng ở dưới và ở trên, tạo thêm không gian đặt ghế. Với những thay đổi khí động học nhỏ, Boeing đã tăng tốc độ hành trình của -300 lên Mach 0,85 so với Mach 0,84 ở biến thể -100/-200. -300 có trọng lượng cất cánh tương đương với -100/-200. 2 trong số 3 động cơ được lựa chọn từ -200 đã được giữ nguyên ở biến thể -300, nhưng động cơ General Electric CF6-80C2B1 đã được đưa ra nhằm thay thế cho loại CF6-50E2 trên -200.
Tên gọi 747-300, trước đây được đề xuất cho một biến thể chưa bao giờ được xuất xưởng, tên gọi này được sử dụng lại cho phiên bản mới này, nó được giới thiệu năm 1980. Hãng Swissair đã đặt mua những chiếc 747-300 đầu tiên vào ngày 11 tháng 6-1980. 747-300 bay lần đầu vào 5 tháng 10 năm 1982. Swissair là khách hàng đầu tiên được giao hàng vào 23 tháng 3-1983.
Ngoài phiên bản chở khách, những phiên bản khách cũng được chế tạo. Phiên bản 747-300M có khả năng chở hàng hóa ở phía sau tầng chính tương tự như -200M, nhưng với tầng trên kéo dài nó có thể chở được nhiều khách hơn. 747-300SR là phiên bản tầm gần nhằm đáp ứng nhu cầu cho các tuyến đường bay nội địa. Hãng Japan Airlines đã sử dụng phiên bản -300SR với sức chứa lên đến 600 ghế trên tuyến đường bay Okinawa–Tokyo và các tuyến khác. Boeing chưa bao giờ xuất xưởng phiên bản chuyên chở hàng hóa chế tạo mới của 747-300, nhưng các phiên bản chở khách của 747-300 có thể được sửa đổi để chuyên chở hàng hóa từ năm 2000.
Tổng cộng có 81 chiếc được chế tạo, trong đó có 56 chiếc dùng để chở khách, 21 chiếc 747-300M và 4 chiếc 747-300SR. 747-300 sớm bị thay thế bởi biến thể 747-400 tiên tiến hơn được xuất xưởng vào năm 1985, chỉ 2 năm sau khi -300 bắt đầu đi vào hoạt động. Chiếc 747-300 cuối cùng được giao vào tháng 9-1990 cho hãng Sabena.
Ngày nay, đa số máy bay -300 hiện vẫn đang hoạt động, mặc dù mất đi tầm quan trọng trong một loạt các hãng hàng không, các hãng lớn đã bán chúng cho các hãng hàng không nhỏ hơn khác. Một số chiếc -300 đã khiến người ta ngạc nhiên khi được chuyển đổi để sử dụng chở hàng, dù không một chiếc nào của biến thể -300 khi giao hàng là phiên bản chuyên chở hàng. Tính đến tháng 7 năm 2018, chỉ còn 5 chiếc 747-300 phục vụ gồm hãng Max Air (Nigeria, 3 chiếc), Mahan Air (Iran, 1 chiếc) và TransAVIAexport Airlines (Belarus, 1 chiếc chở hàng).
747-400
747-400 là một kiểu cải tiến tăng tầm bay. Nó có đầu cánh kéo dài thêm 6 ft (1,8 m), những cánh nhỏ là 6 ft (1,8 m), cải thiện hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu của 747-400 tiết kiệm hơn 4% so với những phiên bản 747 trước. Nó có thiết kế buồng lái kính mới cho tổ lái, giảm số phi công lái từ 3 còn 2 người. Sử dụng các thiết bị điện tử mới giảm bớt số lượng đồng hồ, máy đo và nút bấm từ 971 xuống còn 365. Nó có những thùng nhiên liệu ở đuôi, sửa lại động cơ và có nội thất mới. Tầm bay dài nên nó được một số hãng hàng không sử dụng trên những tuyến bay dài không dừng. -400 có các phiên bản chở khách (400), chở hàng (400F), kết hợp (400C), nội địa (400D), chở khách với tầm bay mở rộng (400ER) và chở hàng với tầm bay mở rộng (400ERF). Phiên bản chở hàng không có tầng trên kéo dài. 747-400D được chế tạo để hoạt động tầm gần và không có những cánh nhỏ ở đầu cánh, nhưng có thể được trang bị thêm.
Phiên bản chở khách hoạt động lần đầu vào tháng 2-1989 với hãng Northwest Airlines trên tuyến từ Minneapolis đến Phoenix. Phiên bản kết hợp bắt đầu hoạt động vào tháng 9-1989 với hãng KLM. Phiên bản chở hàng bắt đầu hoạt động vào tháng 11-1993 với hãng Cargolux. 747-400ERF bắt đầu hoạt động vào tháng 10-2002 và 747-400ER hoạt động vào tháng 11-2002 với hãng Qantas, hãng hàng không duy nhất từng đặt mua phiên bản chở khách 400ER.
Phiên bản chở khách cuối cùng của 747-400 được giao vào tháng 4-2005. Boeing công bố trong tháng 3-2007 rằng họ không có kế hoạch tiếp tục sản xuất những phiên bản chở khách của -400. Tuy nhiên, những đơn đặt hàng cho 36 chiếc chở hàng -400F và -400ERF đã được ký vào thời điểm thông báo.
Đến tháng 10-2007, tổng cộng có 670 chiếc 747-400 mọi phiên bản được giao cho các hãng hàng không. Những hãng sử dụng nhiều 747-400 nhất là Singapore Airlines, Japan Airlines, và British Airways.
747 LCF Dreamlifter
747-400 Dreamlifter (tên gọi ban đầu là 747 Large Cargo Freighter hay LCF) là một sửa đổi do Boeing tự thiết kế từ những chiếc 747-400 sẵn có, có thân lớn hơn nhằm chuyên chở những bộ phận chính và phụ của Boeing 787 đến nhà máy của Boeing ở Everett, Washington hoặc north chaleston, South Carolina, để lắp ráp hoàn thiện. Evergreen Aviation Technologies Corporation là tập đoàn lớn đang được Boeing giao sửa đổi những chiếc 747-400 thành Dreamlifters ở Đài Loan. Dreamlifters bay lần đầu vào 9 tháng 9-2006. Dreamlifter chỉ có một mục đích duy nhất là vận chuyển những bộ phận lắp ráp của Boeing 787. Máy bay được chứng nhận chỉ dành cho phi hành đoàn sử dụng vào mục đích cần thiết và không chở hành khách. Hai chiếc đã được chế tạo,và hai chiếc khác đã đặt hàng.Tuy nhiên hiện tại chỉ có 3 chiếc đang hoạt động theo tuyên bố chính thức của Boeing.
747-8
Boeing đã công bố một biến thể 747 mới là 747-8 nhằm cạnh tranh với A380 của Airbus đồng thời là máy bay hiện tại giữ kỹ lục dài nhất thế giới tính đến hiện tại trước khi bị B777X cũng do Boeing sản xuất vượt mặt (được xem như 747 Advanced trước khi giới thiệu) vào 14 tháng 11-2005, 747-8 sẽ dùng công nghệ động cơ và buồng lái giống 787. (Người ta quyết định đặt tên gọi là B747-8 vì những công nghệ nó dùng chung với 787 Dreamliner.) Những kế hoạch yêu cầu thiết kế mới yên tĩnh hơn, kinh tế hơn và nhất là thân thiện với môi trường hơn.747-8 được làm dài hơn để tăng tải trọng. 747-8 tăng chiều dài từ 232 lên 251 feet (70.8 to 76.4 m), vượt trội so với Airbus A340-600 để trở thành máy bay dân dụng dài nhất thế giới.
Phiên bản chở khách, được gọi là 747-8 Intercontinental (Liên lục địa) hay 747-8I, có khả năng chỗ tới 467 hành khách ở cấu hình 3 hạng ghế và bay xa hơn 8.000 hải lý (15.000 km) ở vận tốc Mach 0.855.747-8 có lợi thế kinh tế về huấn luyện phi công và dễ hoán chuyển các bộ phận với loại 747-400. 747-8I lên kế hoạch bắt đầu hoạt động vào năm 2010.
Cũng được giới thiệu cùng lúc là 747-8 Freighter (chở hàng) hay 747-8F, phiên bản này xuất phát từ 747-400(ER)F. 747-8F có thể chứa 154 tấn hay (140 tấn) hàng hóa tương đương 20 thùng container loại 40 feel.Hỗ trợ chất và dỡ hàng hóa,nó có một cửa lớn ở đầu máy bay(gọi tạm là mở bằng lỗ mũi máy bay)từ phiên bản B747-400F.Và một hay hai cửa phụ ở một trong hai bên hoặc thậm chí là hai bên hông thân máy bay tùy theo cấu hình và yêu cầu đặt hàng riêng của từng khách hàng.Trọng tải của nó lớn hơn 16% so với 747-400F và có thể chứa thêm bảy container hàng hóa tiêu chuẩn hàng không. 747-8F lên kế hoạch đi vào hoạt động năm 2009.
Đến tháng 12-2007,tổng cộng có hơn 78 chiếc Boeing 747-8F được đặt mua, từ các hãng Cathay Pacific (14), Atlas Air (2), Nippon Cargo Airlines (14), Cargolux (14), Emirates SkyCargo (10), Volga-Dnepr (5), Guggenheim Aviation Partners (4) Korean Air (14)...cùng một số hãng hàng không khác và khách hàng giấu tên không được đề cập trong bài viết này. Tổng cộng có hơn 25 chiếc Boeing 747-8I được đặt mua,trong đó liệt kê có 5 chiếc từ Boeing Business Jet và 20 chiếc từ Lufthansa...cùng một số khách hàng giấu tên và các hãng hàng không khác.
Các biến thể thuộc chính phủ và quân sự
C-19 – Không quân Mỹ đã đặt tên gọi này cho những chiếc 747-100 được sử dụng bởi một số hãng hàng không và sửa đổi để dùng trong Civil Reserve Airlift Fleet (Phi đội Cầu hàng không Dự bị Dân dụng).
VC-25 – Đây là phiên bản 747-200B được sử dụng để phục vụ VIP của Không quân Mỹ. Họ sử dụng 2 chiếc 747-200B để chở yếu nhân với tên gọi VC-25A. Số trên đuôi là 28000 và 29000, hay còn được biết đến như Không lực một, về mặt kỹ thuật giao thông trên không, số hiệu này được gọi cho bất kỳ máy bay này của không quân Mỹ chở Tổng thống Hoa Kỳ. Mặc dù dựa vào thiết kế của 747-200B, nhưng VC-25 lại có nhiều đổi mới được sử dụng trên kiểu 747-400, như nâng cấp buồng điều khiển và động cơ. Từng phần của máy bay được hoàn thành tại Everett, Washington, sau đó được chuyển đến Wichita, Kansas để lắp ráp hoàn thiện, trong hợp đồng với máy bay dân dụng, chúng sẽ được hoàn thiện ở nhà máy Everett. Không quân Hoa Kỳ thông báo sẽ mua 2 chiếc Boeing 747-8 (VC-25B) để thay thế VC-25A đã cũ.
E-4B – Trước đây được biết đến như National Emergency Airborne Command Post (Sở chỉ huy tình trạng khẩn cấp trên không quốc gia) (thường gọi là "Kneecap"), máy bay này hiện nay được sử dụng làm National Airborne Operations Center (NAOC - Trung tâm chiến dịch trên không quốc gia).
YAL-1 – Đây là một máy bay mang thiết bị phóng laser trên không thử nghiệm, một bộ phận của kế hoạch lá chắn Phòng thủ tên lửa quốc gia.
Shuttle Carrier Aircraft – 2 chiếc 747 đã được sửa đổi để mang tàu con thoi. Một chiếc là 747-100 (N905NA), mua từ hãng American Airlines năm 1974; chiếc còn lại là 747-100SR (N911NA), mua từ hãng Japan Airlines năm 1988. Chúng thực hiện chuyến chở tàu con thoi đầu tiên năm 1991. Hiện các máy bay này đều do NASA sở hữu.
Một số chính phủ các quốc gia khác cũng sử dụng 747 như máy bay phục vụ VIP, bao gồm Bahrain, Brunei, Ấn Độ, Iran, Nhật Bản, Kuwait, Oman, Pakistan, Qatar, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một vài chiếc Boeing 747-8 mới cũng được Boeing Business Jet đặt mua để sửa đổi thành máy bay VIP cho một số khách hàng giấu tên.
C-33 – Máy bay này là loại 747-400 phiên bản quân sự đề xuất cho quân đội Mỹ, được dự định để tăng cường cho phi đội C-17. Kế hoạch bị hủy bỏ để ưu tiên bổ sung những máy bay vận tải quân sự C-17.
KC-33A – Boeing đã đề xướng chiếc 747 như một máy bay chở dầu có khả năng tiếp nhiên liêu trên không, nó được phát triển để cạnh tranh với loại DC-10-30 trong chương trình Advanced Cargo Transport Aircraft (ACTA - Máy bay vận tải hàng hóa tiên tiến) vào thập niên 1970, và KC-10A Extender phát triển từ DC-10-30 đã được chọn để sản xuất. Trước cuộc cách mạng của Ruhollah Khomeini, Iran đã mua 4 máy bay 747-100 để chuyển đổi thành máy bay chở dầu tiếp nhiên liệu trên không nhằm hỗ trợ cho phi đội F-4 Phantom. Người ta không biết liệu máy bay này có còn được sử dụng như máy bay chở dầu hay không. Từ đó, những đề xuất khác đã nảy sinh khi sử dụng máy bay 747-400 làm máy bay chở dầu.
747 CMCA – Phiên bản này được Không quân Hoa Kỳ coi như một Máy bay mang tên lửa hành trình (Cruise Missile Carrier Aircraft) trong khi máy bay ném bom chiến lược B-1 Lancer đang phát triển. Nó trang bị từ 50 đến 100 tên lửa hành trình AGM-86 ALCM trên các bệ phóng quay được. Dự án này đã rơi vào quên lãng khi không quân dành ưu tiên để phát triển những máy bay ném bom chiến lược.
Những biến thể không phát triển tiếp
Boeing đã nghiên cứu một số biến thể 747 khác, nhưng những biến thể này không được đưa vào sản xuất.
747-300 Trijet
Trong thập niên 1970, Boeing đã nghiên cứu phát triển một kiểu 747 thân ngắn hơn và có 3 động cơ để cạnh tranh với loại L-1011 TriStar và DC-10 nhỏ hơn, kiểu 747 mới này có chi phí bay thấp hơn so với 747SP. 747-300 Trijet có trọng tải, tầm bay và sức chứa hành khách lớn hơn. Động cơ giữa được đặt ở đuôi với một đầu vào khí ống chữ S tương tự như của L-1011. Tuy nhiên, những nghiên cứu kỹ thuật chỉ ra thiết kế cần nhiều thời gian để hoàn thiện và chi phí để thiết kế lại cánh của 747 là tất yếu. Vì vậy, 747 trijet sau đó đã được loại bỏ.
747-500X, -600X và -700X
Boeing công bố 747-500X và -600X tại Triển lãm hàng không Farnborough năm 1996. Những kiểu đề xuất kết hợp thân của 747 với một sải cánh dài 251 ft (77 m) được lấy từ 777. Những thay đổi khác bao gồm thêm động cơ mạnh hơn và tăng số lốp từ 2 lên 4 ở bộ hạ cánh dưới mũi và từ 16 lên 20 ở bộ hạ cánh chính.
Ý tưởng 747-500X nổi bật với chiều dài là 250 ft (76.2 m), thân máy bay được kéo dài thêm 18 ft (5.5 m), và máy bay mang được 462 hành khách với tầm bay 8.700 hải lý (10.000 dặm, 16.100 km), với trọng lượng toàn bộ là 1.0 Mlb (450 tấn). Còn ý tưởng 747-600X nổi bật với chiều dài lên đến 279 ft (85 m) và chở được 548 hành khách, tầm bay đạt 7.700 hải lý (8.900 dặm, 14.300 km), trọng lượng toàn bộ đạt 1.2 Mlb (540 tấn). Một ý tưởng thứ 3 được nghiên cứu đó là 747-700X, nó kết hợp giữa cánh của 747-600X và thân mở rộng, cho phép chở được 650 hành khách trên quãng đường bay giống với 747-400. Chi phí của những thay đổi từ các mẫu 747 trước đó, nói riêng với thiết kế cánh mới cho 747-500X và -600X có giá xấp xỉ hơn 5 tỷ USD. Boeing không thu hút đủ sự quan tâm để có thể sản xuất những phiên bản này.
747X và 747X Stretch
Trong khi Airbus tiến triển với những nghiên cứu về A3XX, Boeing vào năm 2000 đã giới thiệu ra thị trường một phiên bản bắt nguồn từ 747 được coi như một giải pháp. Đây là một đề xuất vừa phải so với -500X và -600X trước đây, phiên bản này nói chung giữ lại thiết kế cánh toàn diện của 747 và thêm vào một đoạn ở gốc cánh, tăng sải cánh lên 229 ft (69.8 m). Động cơ được lựa chọn giữa Engine Alliance GP7172 hoặc Rolls-Royce Trent 600, những loại động cơ này cũng được dự định sử dụng cho 767-400ERX. Một buồng điều khiển mới dựa trên thiết kế của 777 cũng được sử dụng. Máy bay 747X mang được 430 hành khách với tầm bay là 8.700 hải lý (10.000 dặm, 16.100 km). 747X Stretch có chiều dài tăng lên đến 263 ft (80.2 m), cho phép mang được 500 hành khách với tầm bay lên đến 7.800 hải lý (9.000 dặm, 14.500 km).Cả hai phiên bản này đều sử dụng kiến trúc nội thát dựa vào nội thất của 777. Những phiên bản chuyên chở hàng hóa của 747X và 747X Stretch cũng được nghiên cứu.
Cũng như những mẫu 747 khác trước nó, dòng 747X không có khả năng tạo đủ sự quan tâm để đưa vào sản xuất, và nó đã bị trì hoãn đưa vào sản xuất cùng với 767-400ERX vào tháng 3-2001, khi Boeing công bố ý tưởng về Sonic Cruiser. Mặc dù thiết kế 747X có chi phí ít tốn kém hơn so với 747-500X và -600X, nó vẫn bị chỉ trích không phải là một đề xuất tiên tiến từ 747-400. 747X không được đưa vào sản xuất, nhưng 747-400X vẫn được phát triển tiếp và được sản xuất với tên gọi 747-400ER.
747-400XQLR
Sau khi chương trình 747X kết thúc, Boeing tiếp tục nghiên cứu cải tiến áp dụng trên 747. 747-400XQLR (Quiet Long Range) có tầm bay tăng lên tới 7.980 hải lý (9.200 dặm, 14.800 km), với những cải tiến để cải thiện hiệu suất và giảm bớt tiếng ồn. Những nghiên cứu cải tiến bao gồm các đầu cánh nghiêng sau tương tự các đầu cánh được dùng trên 767-400ER và một vỏ động cơ răng cưa để giảm bớt tiếng ồn. Dù 747-400XQLR không được đưa vào sản xuất, nhưng nhiều đặc tính của nó đã được sử dụng cho 747 Advanced, được biết đến hiện nay với tên gọi 747-8.
Các biến cố và tai nạn
Tính đến tháng 5 năm 2007 đã có tổng cộng 45 vụ tai nạn khiến Boeing 747 bị phá hủy, 3.707 người thiệt mạng. Ít vụ rơi máy bay được cho là do những sai sót trong thiết kế của 747.
Thảm hoạ Tenerife xảy ra là do lỗi của phi công, đài kiểm soát không lưu (ATC), khiến cho 2 chiếc 747 va chạm và làm 583 người chết.
Chuyến bay 123 của Japan Airlines và Chuyến bay 611 của China Airlines 2 chiếc Boeing 747 bị dập đuôi và sửa chữa không đúng cách khiến bị rơi
Chuyến bay 801 của Korean Air bị rơi khi đang tiếp cận sân bay, dẫn đến những khuyến cáo an toàn về độ cao tối thiểu của máy bay.
Vụ va chạm trên không trung tại làng Charkhi Dadri năm 1996 giữa máy bay Ilyushin Il-76 và máy bay 747 đã trở thành vụ va chạm giữa không trung tồi tệ nhất, làm tổng cộng 349 người chết.
Chuyến bay 811 của United Airlines bị nổ trên không vào 24 tháng 2-1989, dẫn đến Ủy ban an toàn vận tải quốc gia (NTSB) đưa ra khuyến cáo về cửa hàng hóa của 747-200 tương tự như những cửa hàng hóa trên chiếc 747 bay chuyến 811 cần phải được sửa đổi.
Chuyến bay 007 của Korean Air Lines đã bị máy bay tiêm kích của Liên Xô bắn hạ khi nó bay lạc đường vào không phận của Liên Xô, đây là nguyên nhân dẫn đến tổng thống Mỹ Reagan cho phép sử dụng hệ thống định vị Global Positioning System (GPS) của quân đội vào mục đích dân sự.
Chuyến bay 800 của TWA là một chiếc 747-100 bị nổ trên không vào 17 tháng 7 năm 1996, dẫn đến Cơ quan quản lý hàng không Liên bang đưa ra điều luật quy định lắp đặt một hệ thống chữa cháy ở thùng nhiên liệu trung tâm của hầu hết máy bay cỡ lớn.
Chuyến bay 9 của British Airways là một sự cố đặc biệt, khi máy bay xuyên qua vùng tro núi lửa và phát ra ánh sáng xanh kì quái, sau đó cả bốn đông cơ đều tắt và khói tràn vào ca bin. Rất may, toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đều an toàn sau sự cố đó.
Những chiếc đang trưng bày
Khi số lượng những chiếc 747-100 và 747-200 ngừng hoạt động tăng lên, một số chiếc đã được chuyển vào trưng bày trong bảo tàng hay trở thành nhà hàng. Chiếc 747 đầu tiên và nguyên mẫu được trưng bày tại Bảo tàng bay, Seattle, Washington, Hoa Kỳ.
Một số chiếc 747 được trưng bày tại các bảo tàng khác bao gồm: Công viên giải trí Hàng không Quốc gia Aviodrome, Lelystad, Hà Lan; Bảo tàng Qantas Founders Outback,Longreach, Queensland, Australia; Sân bay Rand, Johannesburg, Nam Phi; Triển lãm hàng không vũ trụ Tehran, Tehran, Iran; Trung tâm hàng không Jeongseok, Jeju, Hàn Quốc, và Bảo tàng không gian và không trung Quốc gia, Washington, D.C.
Thông số kỹ thuật
Nguồn: Thông số kỹ thuật 747, 747 báo cáo sân bay
Lực cản ký sinh trên 747, CDP, là 0.022, và diện tích cánh là 5.500 feet² (511 m²), f² khoảng 121 sq ft hay 11.2 m². Lực cản ký sinh được tính bởi ½ f ρair v² trong đó f là tích số của hệ số cản CDp và diện tích cánh.
Danh sách giao hàng
{| border="2" cellpadding="4" cellspacing="0" style="margin: 1em 1em 1em 0; border: 1px #aaa solid; border-collapse: collapse; font-size: 95%;"
|-
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
1991
1990
1989
|-
| 6
|16
|14
|13
|15
|19
|27
|31
|25
|47
|53
|39
|26
|25
|40
|56
|61
|64
|70
|45
|-
|-----
1988
1987
1986
1985
1984
1983
1982
1981
1980
1979
1978
1977
1976
1975
1974
1973
<th style="color:#fff;font-weight:bold;background-color:#069;padding:0.3em">1972
<th style="color:#fff;font-weight:bold;background-color:#069;padding:0.3em">1971
<th style="color:#fff;font-weight:bold;background-color:#069;padding:0.3em">1970
<th style="color:#fff;font-weight:bold;background-color:#069;padding:0.3em">1969
|-
|24
|23
|35
|24
|16
|22
|26
|53
|73
|67
|32
|20
|27
|21
|22
|30
|30
|69
|92
|4
|-
|}
Dữ liệu tính đến tháng 4-2008. Cập nhật ngày 9 tháng 5 năm 2008. |
Phân tích hồi quy là một phân tích thống kê để xác định xem các biến độc lập (biến thuyết minh) quy định các biến phụ thuộc (biến được thuyết minh) như thế nào.
Giới thiệu
Đây là một phương pháp thống kê mà giá trị kỳ vọng của một hay nhiều biến ngẫu nhiên được dự đoán dựa vào điều kiện của các biến ngẫu nhiên (đã tính toán) khác. Cụ thể, có hồi qui tuyến tính, hồi qui lôgic, hồi qui Poisson và học có giám sát. Phân tích hồi qui không chỉ là trùng khớp đường cong (lựa chọn một đường cong mà vừa khớp nhất với một tập điểm dữ liệu); nó còn phải trùng khớp với một mô hình với các thành phần ngẫu nhiên và xác định (deterministic and stochastic components). Thành phần xác định được gọi là bộ dự đoán (predictor) và thành phần ngẫu nhiên được gọi là phần sai số (error term).
Dạng đơn giản nhất của một mô hình hồi qui chứa một biến phụ thuộc (còn gọi là "biến đầu ra," "biến nội sinh," "biến được thuyết minh", hay "biến-Y") và một biến độc lập đơn (còn gọi là "hệ số," "biến ngoại sinh", "biến thuyết minh", hay "biến-X").
Ví dụ thường dùng là sự phụ thuộc của huyết áp Y theo tuổi tác X của một người, hay sự phụ thuộc của trọng lượng Y của một con thú nào đó theo khẩu phần thức ăn hằng ngày X. Sự phụ thuộc này được gọi là hồi qui của Y lên X. |
Lập luận theo tình huống (tiếng Anh: case-based reasoning - CBR) là quy trình giải các bài toán mới dựa trên lời giải của các bài toán tương tự đã gặp. Ví dụ, một thợ sửa chữa ô tô đang chữa một cái động cơ bằng cách nhớ lại một cái xe khác cũng có các triệu chứng tương tự, người đó đang sử dụng lập luận theo tình huống. Một luật sư đang bảo vệ một kết quả nào đó trong một phiên tòa dựa trên các tiền lệ pháp lý hay một quan tòa đang sử dụng một phán lệ (case law), hai người này cũng đang thực hiện lập luận theo tình huống. Cũng như vậy, một kỹ sư đang sao chép các đặc tính hoạt động của thiên nhiên vào trong công trình phỏng sinh học (biomimicry) của mình, anh ta đang coi thiên nhiên như một cơ sở dữ liệu của các giải pháp cho các vấn đề. Lập luận theo tình huống là một dạng nổi bật của việc tạo ra các sự tương tự
Người ta đã cho rằng lập luận theo tình huống không chỉ là một phương pháp mạnh cho lập luận máy tính mà còn là một hành vi phổ biến của con người trong cuộc sống hằng ngày khi giải quyết các vấn đề. Hay nói cách khác, mọi lập luận đều dựa trên các tình huống trong quá khứ (mà đã được trải nghiệm hoặc chấp nhận bằng cách chủ động thực hiện chọn lựa) -- lý thuyết nguyên mẫu (prototype theory) -- lý thuyết được nghiên cứu sâu nhất trong ngành khoa học nhận thức về con người (human cognitive science).
Quy trình
Lập luận theo tình huống đã được chính thức hóa cho các mục tiêu của lập luận máy thành một quy trình bốn bước:
Truy lục (Retrieve): Cho trước một bài toán đích, truy lục từ trong bộ nhớ các tình huống có liên quan tới việc giải bài toán cần giải quyết. Một tình huống bao gồm một vấn đề, giải pháp cho vấn đề đó, và thông thường, các chú thích về lời giải đó đã được tìm ra như thế nào. Ví dụ, giả sử Dậu muốn nấu món cơm gà. Vì là người không thạo nấu ăn, kinh nghiệm gần nhất mà anh ta có thể nhớ đến là một lần anh ta nấu thành công một nồi cơm thường. Quy trình mà anh ta làm theo để nấu cơm thường, cùng với giải thích cho các quyết định mà anh ta đưa ra trong quá trình nấu, hợp thành tình huống thu được của Dậu.
Tái sử dụng (Reuse): Ánh xạ lời giải cho tình huống trước cho bài toán đích. Điều đó có thể dẫn đến việc điều chỉnh lời giải để phù hợp với tình huống mới. Trong ví dụ cơm gà, Dậu phải điều chỉnh giải pháp truy lục được để bao hàm cả phần nguyên liệu thịt gà bổ sung.
Điều chỉnh (Revise): Sau khi đã ánh xạ lời giải trước vào bài toán đích, kiểm tra lời giải mới trong thế giới thực (hoặc giả lập) và sửa lại nếu cần thiết. Giả sử Dậu điều chỉnh giải pháp nấu cơm gà bằng cách cho thịt gà vào nấu cùng gạo ngay từ đầu. Sau khi cơm chín, anh ta phát hiện ra rằng món ăn thu được là một món cháo đặc với thịt gà bị quá nhừ. Điều đó gợi ý việc sửa lại như sau: không cho thịt gà vào ngay từ đầu mà xào trước rồi trộn vào sau, khi cơm đã chín.
Lưu lại (Retain): Sau khi lời giải đã được điều chỉnh thành công cho bài toán đích, lưu trữ kinh nghiệm thu được trong bộ nhớ dưới dạng một tình huống mới. Theo đó, Dậu ghi lại quy trình nấu cơm gà mới tìm được, nhờ đó làm giàu thêm tập các kinh nghiệm anh đã tích trữ được, và chuẩn bị tốt hơn cho những lần phải nấu cơm sau này.
Lịch sử
Roger Schank và các sinh viên của ông tại Đại học Yale là những người đầu tiên đưa ra những cơ sở đầu tiên về lập luận theo tình huống vào thập niên 1980.
Hệ thống đầu tiên được xem là một ứng dụng của lập luận theo tình huống là CYRUS, được phát triển bởi Janet Kolodner, một thành viên trong nhóm của Roger Schank, vào năm 1983.
Một hệ thống khác được phát triển bởi nhóm của Bruce Porter vào năm 1989 tại Đại học Texas là PROTOS, hệ thống này đã tích hợp thành công lập luận theo tri thức tổng quát (general domain knowledge) và lập luận theo tình huống thể hiện trong một cấu trúc.
Lập luận theo tình huống là một trong những ứng dụng kỹ thuật trí tuệ nhân tạo thành công trong những năm gần đây. Các ứng dụng thông dụng là trong các hệ thống trợ giúp và chẩn đoán.
Chú giải |
Viện Đại học California–Berkeley (tiếng Anh: University of California, Berkeley; viết tắt là UC Berkeley, Berkeley, Cal, hoặc California), còn gọi là Đại học California–Berkeley, là một viện đại học công lập uy tín hàng đầu nằm trong khu vực vịnh San Francisco, tại thành phố Berkeley, California. Đây là viện đại học đầu tiên và nổi tiếng nhất của hệ thống Viện Đại học California, một trong ba hệ thống giáo dục công lập của tiểu bang, bao gồm hệ thống California State University và California Community College.
Trường được công nhận bởi Times Higher Education World University Rankings là một trong sáu trường đại học danh giá nhất thế giới (cùng với Đại học Cambridge, Đại học Harvard, Viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Oxford và Đại học Stanford) trong bảng xếp hạng công bố năm 2015 và nằm ở vị trí thứ tư theo bảng xếp hạng Best Global Universities của U.S News năm 2018-2019 với khảo sát bao gồm các trường của Mỹ và gần 50 quốc gia khác. Báo cáo của Academic Ranking of World Universities (ARWU) cũng xếp University of California, Berkeley ở vị trí thứ năm trong bảng xếp hạng toàn cầu. Xét về các ngành học, trường đứng thứ ba về Ngành Kỹ thuật, thứ tư trong Lĩnh vực Khoa Học Xã hội và thứ nhất về Toán Học và Khoa học Đời Sống. Trường cũng nổi tiếng trong việc đào tạo một số lượng lớn Kinh tế Gia.
Được thành lập năm 1868 do sáp nhập trường tư thục Trường Đại học California (College of California) và trường công lập Trường Đại học Cơ khí, Mỏ, và Nông nghiệp (Agricultural, Mining, and Mechanical Arts College), UC Berkeley đã có những đóng góp quan trọng về khoa học tự nhiên và các hoạt động xã hội. Các giảng viên, cựu sinh viên và nghiên cứu sinh của trường đã giành tổng cộng 107 giả Nobel (bao gồm 33 giải của cựu sinh viên), 9 giải Wolf, 14 huy chương Fields, 25 giải Turing, 45 học giả MacArthur, 20 giải Academy, và 19 giải Pulitzer. Berkeley có hệ thống giáo dục bậc cử nhân rất đa dạng và được xem là trung tâm nghiên cứu của rất nhiều ngành học. Viện đại học đạt nhiều thành tích về vật lý, hóa học và các ngành sinh học trong thế kỷ 20, như sáng chế ra máy cyclotron, cách ly thành công vi khuẩn bại liệt ở người, phát triển khái niệm tia laser, giải thích nguyên lý của quang hợp, thiết kế thí nghiệm chứng minh định lý Bell, tạo ra hệ điều hành BSD Unix, khám phá ra mối liên quan giữa sự giãn nở của vũ trụ và Vật chất tối, công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR, Điều trị miễn dịch ung thư,... và phát hiện ra 17 nguyên tố hóa học – nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác trên thế giới, trong đó có Plutonium, Berkelium và Californium, cũng như thành lập nhiều công ty hàng đầu như Apple Inc., Intel, Tesla Motors, EBay, HTC, Activision Blizzard, SanDisk, VMware,... Viện đại học cũng đạt được nhiều giải thưởng về Toán, giải Nobel Kinh tế và giải Nobel Văn học. Các nhà vật lý của Berkeley nằm trong nhóm khoa học gia phát triển Dự án Manhatttan chế tạo bom nguyên tử trong Chiến tranh thế giới thứ hai và bom khinh khí không lâu sau đó.
Berkeley tham gia các cuộc thể thao giữa sinh viên các trường với tên California Golden Bears (Những con gấu vàng của California), đạt nhiều danh hiệu quốc gia trong các môn như bóng bầu dục Mỹ, bóng rổ nam, bóng chày, bóng nước, v.v. cũng như đã giành được 207 huy chương Thế vận hội Olympic (117 vàng, 51 bạc và 39 đồng). Màu áo chính thức của trường và đội thể thao là màu xanh dương và màu vàng.
Lịch sử
Thành lập
Năm 1866, vùng đất thời bây giờ là khuôn viên của đại học Berkeley được mua bởi trường tư College of California. Bởi vì không đủ kinh phí để vận hành, cuối cùng nó sáp nhập với trường công lập với tên gọi Cao đẳng Nông nghiệp, Khai mỏ, Cơ khí, Nghệ thuật để trở thành Đại học California. Văn bản thành lập trường được ký bởi Thống đốc bang California Henry H. Haight vào 23 tháng 3 năm 1868 và Henry Durant, người sáng lập ra College of California, trở thành Hiệu trưởng đầu tiên.
Trường đại học mở ra vào năm 1869 sử dụng các tòa nhà trước đây của College of California ở Oakland như là nơi tạm thời trong khi một campus mới đang được xây dựng. Với sự hoàn tất của North và South Halls vào năm 1875, trường dời về địa điểm hiện nay ở Berkeley với 167 sinh viên nam và 222 sinh viên nữ.
Phát triển ban đầu
Trường đại học này đã trưởng thành dưới quyền lãnh đạo của Benjamin Ide Wheeler, người là Hiệu trưởng trường từ 1899 đến 1919. Danh tiếng của trường các nổi khi Hiệu trưởng Wheeler đã thành công trong việc thu hút các giáo sư nổi tiếng về trường và thu hút được nhiều ngân sách cho việc nghiên cứu và cấp học bổng. Campus bắt đầu có dáng vẻ của một đại học tầm cỡ đương thời với các tòa nhà Beaux-Arts và neoclassical, bao gồm California Memorial Stadium (1923) được thiết kế bởi kiến trúc sư John Galen Howard; những tòa nhà này tạo thành phần chính campus của Đại học Berkeley hiện nay.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Ernest Orlando Lawrence lãnh đạo Phòng thí nghiệm phóng xạ ở trên các dãy đồi bên trên Berkeley bắt đầu các hợp đồng với Quân đội Hoa Kỳ để phát triển bom nguyên tử, có liên quan đến các nghiên cứu tiên phong trong vật lý hạt nhân ở Berkeley, bao gồm cả việc khám phá ra plutonium (lúc đó được xem là bí mật quốc gia) của Glenn Seaborg (Phòng 307 tòa nhà Gilman Hall, nơi Seaborg khám phá ra plutonium, sau này là một địa điểm lịch sử cấp quốc gia). Giáo sư vật lý của UC Berkeley J. Robert Oppenheimer được cử làm người đứng đầu về khoa học của Dự án Manhattan vào năm 1942. Cùng với hậu duệ của Phòng thí nghiệm phóng xạ, bây giờ là Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence tại Berkeley (Lawrence Berkeley National Laboratory), Đại học California cũng quản lý hai phòng thí nghiệm khá có cùng độ tuổi, Los Alamos National Laboratory và Lawrence Livermore National Laboratory, được thành lập vào 1943 và 1952.
Các ảnh hưởng chính trị trong những năm 1950 và 1960
Trong thời McCarthy vào năm 1949, Hội đồng quản trị đã đưa ra lời thề trung thành với chủ nghĩa chống cộng sản được ký tất cả bởi các nhân viên của Đại học California. Một số lớn các giáo sư phản đối lời thề này đã bị cho thôi việc; mười năm trôi qua trước khi họ được khôi phục lại vị trí cũ với lương cũ. Một trong số đó, Edward C. Tolman— một nhà tâm lý học so sánh nổi tiếng — đã có một tòa nhà đặt theo tên ông là nơi của khoa tâm lý và giáo dục. Lời thề"ủng hộ bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ hiến pháp tiểu bang California chống lại tất cả các kẻ thù, trong nước và ngoài nước"vẫn còn bắt buộc đối với tất cả các nhân viên của Đại học California. |
Chùa Thầy là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.
Lịch sử
Cùng với chùa Tây Phương và Chùa Hương, Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội. Nếu như Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự 嵿山寺) trên núi và chùa Dưới, tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự (天福寺). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng.
Truyền thuyết Hóa thân chuyển thế
Đây là một khái niệm trong Phật giáo liên quan tới luân hồi, tuy nhiên chỉ được hiện thực hóa rõ ràng trong phái Kim Cang Thừa tại Tây Tạng khởi nguyên của việc hóa thân này cũng là thế kỷ 11 cùng thời với Tổ Từ Đạo Hạnh. Có ít nhất 2 vị vua được cho là hóa thân của Từ Đạo Hạnh:
Lý Thần Tông (1116-1138)
Lê Thần Tông (1607-1662)
Lê Hiến Tông (do mẹ cầu tự tại chùa Thầy và sinh năm 1461)
Kiến trúc
Phần chính của chùa Thầy được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Phật hậu Thánh , Thánh ở đây là Từ Đạo Hạnh một vị danh tăng nổi tiếng dưới thời Lý. Chùa gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất. Đặc biệt kiến trúc chùa chỉ có 36 lỗ đục các tấm gỗ được xếp chồng lên nhau cực kỳ vững chắc.
Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn,Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý thần Tông còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ 18 đời vua Lê Ý Tông,
Xung quanh chùa có hai dãy hành lang phía sau có lầu chuông, lầu trống. tương truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa,
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.
Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.
Điêu khắc trong chùa
Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.
Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.
Các pho tượng đẹp nhất của chùa Thầy tập trung tại chùa Trên.
Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung. Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn mật phùng. Ba pho tượng mỗi pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt.
Dưới đó, chính giữa là tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong kiếp Phật. Tượng được tạc vào thế kỉ 19, khuôn mặt khắc khổ, nổi rõ mạch máu, ngồi xếp bằng tròn trên một bệ hoa sen còn lại từ đời Lý. Bệ hoa sen đặt trên một con sư tử cuộn tròn, dưới con sư tử là một bệ bát giác. Hiện nay tượng được đội mũ hoa sen và khoác áo vàng.
Toàn bộ ba pho Di Đà và tượng Từ Đạo Hạnh đặt trên một bệ đá hai tầng, được làm vào thời nhà Trần. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda.
Bên phải là tượng Thiền sư ở kiếp Vua. Tương truyền Từ Đạo Hạnh sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Bên trái có tượng Từ Đạo Hạnh trong kiếp Thánh, ngồi trong một khám gỗ chạm trổ cầu kì. Tượng này có cốt bằng tre, có thể cử động. Tương truyền xưa kia mỗi khi mở cửa khám thì tượng tự động nhỏm dậy chào. Sau một vị quan triều Nguyễn nói rằng "Thánh thì không phải chào ai cả", nên tháo hệ thống khớp nối, từ đó tượng ngồi yên. Pho tượng này thể hiện nghệ thuật làm rối nước của dân gian.
Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải.
Trước tượng Từ Đạo Hạnh ở chính giữa có một bàn thờ gỗ chạm trổ rất đẹp. Xưa kia nền đất còn thấp, người thắp hương vịn vào bàn thờ tạo thành một chỗ hõm rất lớn. Trong chùa Thượng còn có hai cây cột làm bằng loại gỗ quý là gỗ Ngọc am.
Hệ thống chùa trên núi
nhỏ|Toàn cảnh Thủy đình, 2 bên là cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên
Qua cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.
Phía trên chùa Cao, trên đỉnh núi có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.
Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại:
Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.Dưới hang gió có một lối đi nhỏ là hang của Bác ngày xưa xuống để phòng ngự đánh giặc.
Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Truyền thuyết ở khu vực chùa Bối Am, thuộc phạm vi căn cứ Đỗ Động Giang xưa cho biết: Trước kia có một toán quân của Lã Đường tự Lã Tá Công, một trong Thập nhị sứ quân, bị vây hãm trong hang núi và bị chết đói hết cả. Điều này chứng tỏ đã có một cuộc tấn công của sứ quân Lữ Đường tới lãnh địa sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, chiếm đóng tại đây.
Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau.
Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".
Di sản văn hóa
Nằm ở xứ Đoài, nơi ít bị ảnh hưởng trong suốt hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm, là một trong những trung tâm phật giáo cổ và lớn nhất gần Kinh đô Thăng Long, với quan hệ đặc biệt với các Hoàng gia triều Lý, hậu Lê nên chùa Thầy có số lượng di sản văn hóa vừa nhiều về số lượng vừa trải đều qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Đây là ngôi chùa có tính bảo lưu một cách liên tục nhất các di vật văn hóa, nghệ thuật từ thời Lý.
Lễ hội và văn hóa
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:
Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
Về văn hóa, Chùa thầy có truyền thống nghìn năm về văn hóa. Nơi đây đã sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú làm sáng danh lịch sử nước nhà.
Các đời trụ trì
Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh Thiền sư
Đại sa môn Huệ Hưng
Thiên Phúc Hòa thượng, Tỳ Kheo An Thiền
Sư Lan Hương trụ trì: 1897-1900
Hoà Thượng Minh Tâm trụ trì: 1900 - 1906
Hòa thượng Thích Thanh Mậu - Sơn Tăng Như Tùng - Thích Thanh Thi (1900 - 1945)
Hòa Thượng Thích Tâm Quyến, viên tịch năm 1984 Là Sư Huynh Của Trưởng Lão HT Thích Thanh Bích
Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002) trụ trì: 1984 - 2002
Đại Đức Thích Minh Hiển (Trụ trì Thiên Phúc Tự - Chùa Thầy hay chùa Cả), Đại Đức Thích Đạo Vĩnh, Đại Đức Thích Minh Đạo (Trụ trì Đỉnh Sơn Tự - Hiển Thụy Am - Chùa Cao), Thượng Tọa Thích Minh Hà (trụ trì Bối Am Tự - chùa Một Mái), Thượng Toạ Thích Minh Xuân (trụ trì chùa Long Đẩu), Thích Đạo Khuê |
Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự 崇福寺) là một ngôi chùa được xây trên đỉnh đồi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Lịch sử
Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi (mặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu .
Kiến trúc
Từ chân núi, qua 237 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật.
Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
Bộ tượng Phật
Trong chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm:
Bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể, được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17.
Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu.
Tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm của Thiền tông Trung Quốc (xem Nhị thập bát tổ).
Mười tám vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai.
Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam.
Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ trong bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. |
Ngô Thanh Nhàn (sinh năm 1948) là một nhà ngôn ngữ học chuyên về xử lý ngôn ngữ tự nhiên trên máy tính đang làm việc tại Đại học New York. Ông đã đóng góp trong việc mã hóa và chuẩn mã chữ quốc ngữ, chữ Nôm và chữ Chăm trên máy tính. Ông cũng là phó chủ tịch của Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm.
Học vấn
Từ năm 1968 đến 1972, ông nhận học bổng của bộ ngoại giao Hoa Kỳ và nhận bằng cử nhân (về tiếng Nga) tại Đại học Tiểu bang California tại San José năm 1972. Ông nhận bằng cao học cũng tại trường này trong môn ngôn ngữ lý thuyết năm 1977. Năm 1984, ông nhận bằng tiến sĩ (môn ngôn ngữ học) tại Đại học New York.
Hoạt động chính trị
Từ năm 1968 đến 1972, ông đã tham gia phong trào chống chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Từ 1972 đến 1976, ông tham gia sáng lập "Liên hiệp Việt kiều tại Mỹ". Từ 1976 đến 1979, ông đã giúp sáng lập "Hội Việt kiều Yêu nước tại Mỹ", sau đó sáng lập "Hội Người Việt Nam tại Mỹ" để kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ bình thường hoá, bãi bỏ cấm vận với Việt Nam (1975-1995).
Ông kết hôn với Merle Ratner, một phụ nữ đã từng hoạt động trong phong trào phản chiến và ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hai người đang hoạt động trong Diễn đàn Brecht tại trường Marx. Họ cũng tích cực tham gia hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam, là đồng phối hợp viên trong "Cuộc Vận động Cứu trợ và Trách nhiệm đối với Nạn nhân Chất độc Da cam Việt Nam" tại Mỹ. |
Trong thống kê, kiểm chứng chéo (cross validation) là việc phân nhóm một mẫu dữ liệu thành các mẫu con để cho việc phân tích ban đầu chỉ thực hiện trên một mẫu con đơn, còn các mẫu con còn lại được giữ "kín" để dùng cho việc xác nhận và kiểm chứng lại lần phân tích đầu tiên đó.
Kiểm chứng chéo là quan trọng trong việc đảm bảo tránh được kiểm tra tổng hợp từ dữ liệu, đặc biệt khi mà các mẫu là may rủi, chi phí cao hay không thể (khoa học không thuận lợi thu thập).
Kiểm chứng chéo gồm hai loại: kiểm chứng chéo toàn diện và kiểm chứng chéo không toàn diện. |
Cẩm Xuyên là một huyện ven biển thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Cẩm Xuyên nằm ở phía đông nam của tỉnh Hà Tĩnh, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Kỳ Anh và Biển Đông
Phía tây giáp huyện Hương Khê
Phía nam giáp huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
Phía bắc giáp thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà.
Trên bản đồ tỉnh Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên nằm về phía đông nam của tỉnh, phía đông giáp huyện Kỳ Anh và biển Đông, phía bắc giáp thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà, phía tây giáp huyện Hương Khê, phía nam giáp huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
- Điểm cực Nam là 18002'18'' vĩ Bắc, mốc là núi Cù Han, đỉnh cao 400m, thuộc xã Cẩm Thịnh, giáp giới với xã Kỳ Thượng (huyện Kỳ Anh) và 2 xã Hương Hoá, Kim Hoá (huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình).
- Điểm cực Bắc là 18020'51'' vĩ Bắc, mốc giới là điểm tiếp giáp giữa xóm Bắc Hoà (xã Cẩm Hoà) với biển Đông và xóm Đông Bàn (xã Thạch Văn, Thạch Hà).
- Điểm cực Tây là 105051'17'' kinh Đông, mốc giới là núi My Ôn, đỉnh cao 238m thuộc xã Cẩm Mỹ, giáp với 2 xã Hương Trạch và Lộc Yên (huyện Hương Khê).
- Điểm cực Đông trên đất liền là 106009'13'' kinh Đông, mốc giới là núi Ba Cội, đỉnh cao 400m, thuộc thôn Bắc Lĩnh (xã Cẩm Lĩnh), giáp với biển Đông và thôn Trung Kiên (xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh).
Tổng diện tích tự nhiên của huyện Cẩm Xuyên là 639,28 km², là huyện có diện tích lớn thứ ba trong số 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh, xếp sau các huyện Hương Khê (1241 km²) và Hương Sơn (950 km²).
Dân số toàn huyện tính đến ngày 01/4/2019 là 149.313 người (74.982 nam, 74.331 nữ với 14.087 dân cư thành thị và 135.226 dân cư nông thôn; 9,1% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Hàm Nghi – Vũng Áng đi qua đang được xây dựng.
Hành chính
Huyện Cẩm Xuyên có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cẩm Xuyên (huyện lỵ), Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thịnh, Cẩm Trung, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa.
Lịch sử
- Thời Hùng Vương (Thế kỷ thứ VII-258 TCN), nước Việt Thường Thị được chia làm 2 bộ là Việt Thường và Cửu Đức. Địa phận của bộ Việt Thường là vùng Nam Hà Tĩnh, trong đó có Cẩm Xuyên ngày nay.
- Thời Triệu Đà trị vì (208-111 TCN) và nhà Hán đô hộ (111 TCN-220), nước Nam Việt được chia làm 7 quận, quận Cửu Chân có 5 huyện, trong đó huyện Hàm Hoan nằm ở cực Nam. Vùng Cẩm Xuyên ngày nay thuộc huyện Hàm Hoan lúc đó.
- Thời Ngô (Tam Quốc, 220-280), Lưỡng Tấn (265-420) và các triều đại Tống, Tề, Lương (420-557), nước ta chia làm 6 quận, vùng Hà Tĩnh thuộc quận Cửu Đức với 8 huyện. Vùng nam Hà Tĩnh ứng với huyện Nam Lăng.
- Thời nhà Tuỳ đô hộ (581-618), nước ta bị chia làm 7 quận, trong đó quận Nhật Nam thuộc Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay. Huyện Việt Thường là một trong 8 huyện của quận Nhật Nam nằm phía Đông Nam Hà Tĩnh, đất Cẩm Xuyên lúc đó thuộc huyện Việt Thường.
- Thời nhà Đường đô hộ (618-905), nước ta chia thành 12 quận và 14 châu, trong đó vùng đất Nghệ -Tĩnh ngày nay là châu Hoan, đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Việt Thường.
- Hơn một thế kỷ từ Họ Khúc (905-917), Nhà Ngô (939-967) đến Nhà Đinh (968-980) là thời kỳ chuyển giao lịch sử từ bị đô hộ sang độc lập, không có sử liệu về lịch sử hành chính nước ta.
- Thời Tiền Lê (Lê Đại Hành, 980-1009) diễn ra việc sắp xếp lại hành chính trong cả nước, riêng vùng Hà Tĩnh lúc đó có châu mới Thạch Hà, đất Cẩm Xuyên thuộc về châu Thạch Hà.
- Thời nhà Lý: Năm 1036, châu Hoan được đổi thành châu Nghệ An. Các đơn vị hành chính cấp dưới vẫn giữ nguyên.
- Thời nhà Trần: Năm 1242 châu Nghệ An đổi thành phủ Nghệ An với 5 châu trực thuộc. Vùng Nam Hà Tĩnh thuộc châu Nam Tĩnh, dưới có 4 huyện: Hà Hoàng, Bài Thạch, Hà Hoa và Kỳ La. Huyện Kỳ La có địa phận tương ứng với đất huyện Cẩm xuyên ngày nay (Kỳ La là tên gọi của vùng cửa Nhượng ngày xưa, lúc đầu người Việt cổ gọi là Kẻ La, khi người Hán tràn xuống gọi chệch thành Cơ La rồi đổi thành Kỳ La). Năm 1397, Nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Lâm An, cho nhập hai huyện Hà Hoa với Kỳ La thành huyện Kỳ Hoa.
- Thời thuộc Minh (1407-1428), nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, dưới quận có phủ, châu và huyện. Năm 1419, đặt phủ Hà Hoa gồm hai huyện Thạch Hà và Kỳ Hoa.
-Thời Hậu Lê (1428-1788): Nhà Hậu Lê không có những thay đổi lớn về hệ thống hành chính. Suốt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa.
- Thời Nguyễn (1802-1945): Năm 1831 trấn Nghệ An được chia thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1837, huyện Kỳ Hoa được tách làm 2 huyện là Kỳ Hoa và Hoa Xuyên. Tên gọi Hoa Xuyên có lẽ được đặt do ghép tên của 2 tổng là Hoa Duệ và Lạc Xuyên (trong số 4 tổng) thuộc huyện này.
Năm 1841, Minh Mạng vì kỵ húy đã cho đổi Kỳ Hoa thành Kỳ Anh và Hoa Xuyên thành Cẩm Xuyên. Cũng năm này phủ Hà Hoa đổi thành phủ Hà Thanh gồm 3 huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà.
Các đơn vị hành chính cấp dưới:
Huyện Cẩm Xuyên khi mới thành lập có 4 tổng là Hoa Duệ (Mỹ Duệ), Lạc Xuyên, Thổ Ngõa và Vân Tán.
Tổng Hoa Duệ có các xã: Hoa Duệ, Hương Duệ, Quan Duệ, Hương Cần, Tam Lộng, Thạch Lâu, Vịnh Lại và vạn A Mè.
Tổng Vân Tán có các xã: Vân Tán, Nhược Thạch, Quyết Nhược, Thạch Khê Thượng, Thạch Khê Trung, Thạch Khê Hạ, Vân Phong, Cẩm Bào, Hải An, Hoa Hương, Kỳ La, trại Tuấn Nghĩa và phường Giang Phái.
Tổng Thổ Ngõa có các xã: Ngoã Cầu, Thổ Ngoã, Phượng Hoàng.
Tổng Lạc Xuyên có các xã: Dư Lạc, Lạc Xuyên, Hoá Dục, Nhượng Bạn, Tư Dung.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) huyện Cẩm Xuyên chia làm 15 xã: Cẩm Vân, Đại Thành, Hà Huy Tập, Mỹ Duệ, Nam Dương, Nam Lạc, Ngũ Phúc, Nguyễn Đình Liện, Nhượng Bạn, Quang Huy, Tam Quan, Thạch Lâu, Trung Lạc, Vĩnh Lại, Yên Hòa.
Năm 1954 huyện Cẩm Xuyên lại chia làm 27 xã với chữ đầu là "Cẩm": Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hoà, Cẩm Huy, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Long, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nam, Cẩm Nhượng, Cẩm Phúc, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thăng, Cẩm Tiến, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Cẩm Yên.
Từ năm 2020 huyện Cẩm Xuyên có 2 thị trấn: Thị trấn Cẩm Xuyên, Thị trấn Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa.
Một số thay đổi đơn vị hành chính cấp dưới của Huyện Cẩm Xuyên như sau:
Ngày 17 tháng 5 năm 1986, thành lập thị trấn Cẩm Xuyên trên cơ sở 91,5 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Tiến; 52 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Quan và 3.783 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà nước.
Ngày 19 tháng 11 năm 1997, sáp nhập xã Cẩm Tiến vào thị trấn Cẩm Xuyên.
Ngày 3 tháng 10 năm 2003, thành lập thị trấn Thiên Cầm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Cẩm Long.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập ba xã Cẩm Nam, Cẩm Phúc, Cẩm Thăng thành xã Nam Phúc Thăng
Sáp nhập xã Cẩm Yên và xã Cẩm Hòa thành xã Yên Hòa
Sáp nhập xã Cẩm Huy vào thị trấn Cẩm Xuyên.
Truyền thống văn hóa
Các vị Khoa bảng đất Cẩm Xuyên:
Các vị đỗ đại khoa.
1. Dương Chấp Trung (1414-1469), người xã Sài Xuyên nay là xã Cẩm Minh, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn (1448) lúc 34 tuổi. Làm quan đến chức Tả thị lang. Đền thờ ông tại xã Cẩm Minh đã được tại thiết và xếp hạng Di tích LS-VH cấp tỉnh năm 2017.
2. Lê Tự (1466- ?), người thôn Lai Trung, xã Ngõa Kiều, tổng Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Thịnh, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) lúc 34 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư. Ông có công tổ chức khai khẩn hàng trăm mẫu ruộng rồi sung làm công điền.
3. Biện Hoành (?) người xã Hoa Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Đệ Nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Giáp Dần (1554), làm quan đến chức Hiến sát sứ Thuận Hoá.
4. Lê Phúc Nhạc (1553-?), người xã Dư Lạc, nay là xã Cẩm Lạc, đỗ Nhất giáp khoa Đinh Sửu (1577) lúc 25 tuổi, làm quan đến Hữu thị lang bộ Lễ.
Các vị đỗ Hương khoa:
2 vị đỗ Hương cống Thời Lê
1. Hoàng Công Minh, người thôn Lỗ Khê, nay là xã Cẩm Nam (không rõ khoa thi), làm quan đến chức Sơn phòng sứ.
2. Hà Huy Kiểu, người thôn Kim Nặc, nay là xã Cẩm Hưng (đỗ khoa thi năm Kỷ Hợi-1779), Triều liệt đại phu, Lễ khoa cấp sự trung, tước Tử.
12 vị đỗ Cử nhân thời Nguyễn:
1. Nguyễn Xuân Cảnh người thôn Yên Ốc, xã Quyết Nhược nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Ất Dậu (1825) làm quan Phủ thừa phủ Thừa Thiên.
2. Nguyễn Xuân Thức, người thôn Yên Ốc, nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) làm quan với hàm Thị độc.
3. Hà Huy Nhiếp, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843), làm quan đến Tri huyện.
4. Đỗ Đình Hiệu (sau đổi là Đỗ Đình Vĩnh) người xã Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846) làm Chủ sự.
5. Hà Huy Phẩm, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858) làm Đốc học.
6. Hoàng Lý, người tổng Vân Tán (không rõ làng), đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867).
7. Bùi Suyền, người xã Mỹ Duệ nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868).
8. Bùi Đạt, người làng Quy Vinh, thuộc xã Cẩm Duệ ngày nay, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879).
9. Võ Phương Trứ, người xã Mỹ Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu năm Thành Thái thứ 9 (1897) lúc 27 tuổi. Làm Biên tu Quốc sử quán.
10. Hà Huy Đỉnh, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1903) lúc đã 63 tuổi.
11. Đỗ Văn Bính, người làng Khả Luật, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tí (1912) lúc 39 tuổi.
12. Nguyễn Gia Hưởng người làng Yên Dưỡng, tổng Vân Tán, nay là xã Cẩm Yên, đỗ Cử nhân khoa Ất Mão (1915) lúc 25 tuổi.
Các vị Tạo sĩ
Cẩm Xuyên có 6 vị (Tiến sĩ võ khoa dưới Thời Lê), quê đều xã Hương Duệ, nay là xã Cẩm Thành.
1. Nguyễn Đình Thạch (đỗ khoa Quý Sửu -1733)
2. Nguyễn Đình Chữ (đỗ khoa Kỷ Mùi-1739)
3. Nguyễn Đình Quyền (đỗ khoa Qúy Hợi- 1743)
4. Nguyễn Đình Khanh (đỗ khoa Đinh Sửu-1757)
5. Nguyễn Đình Cẩn (đỗ khoa Kỷ Hợi-1779)
6. Nguyễn Cử Tướng (quan Cử, khoa thi Mậu Thân ?)
Chùa Yên Lạc: ở xã Cẩm Nhượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật
(Đã được Bộ Văn hóa- thông tin cấp bằng chứng nhận "Di tích lịch sử, văn hóa" cấp Quốc gia số 3211/BT-QD (12/12/94))
Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Hà Huy Tập: Xã Cẩm Hưng.
Khu nghỉ mát Thiên Cầm
Hồ Kẻ Gỗ và khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.
Công trình kiến trúc nghệ thuật quốc gia AM THÁP Cẩm Duệ (tại thôn quang trung Cẩm Duệ).
Đền Nguyễn Biên ở xã Cẩm Huy: Danh nhân lịch sử- Văn hóa thế kỷ 15.
Đền Lùm Sò (thôn Tân Hòa), đền Nha Quan (Tân Hòa), đền Pháp Hải (Hữu Hòa) Cẩm Hòa -Cẩm Xuyên- Hà Tĩnh
Ngoài ra các xã có rất nhiều đền chùa bị thu gom tượng phật, đập phá, triệt hạ sau cách mạng tháng 8 nhất là thời kỳ những năm 1960. Đây là thời kì nhầm lẫn tai hại giữa mê tín di đoan và đời sống tâm linh của những người cách mạng vì vậy ngày nay xứ này rất hiếm đền chùa.
Cầu Rác (Cẩm Trung), Cầu Họ (Cẩm Hưng), Cầu Na, Cầu Kho (Cẩm Thành) là những trận địa vô cùng ác liệt đã đi vào lịch sử của quân và dân Cẩm Xuyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để bảo vệ tuyến đường huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đình Hát: thuộc xóm Yên Lạc, xã Cẩm Yên, ngày xưa là nơi tổ chức các buổi hát ví của làng và cũng là nơi tổ chức lễ cúng tế cầu an, sinh hoạt cộng đồng của làng Yên Dượng. Trong những 1930 - 1931 Pháp đã đóng đồn ở đây hòng đàn áp phong trào cách. Tại đây cũng là nơi tụ họp của các vị cách mạng tiền bối trong phong trào cách mạng ba mươi, ba mốt của nhân dân Cẩm Xuyên.
Giếng Vàng: thuộc xóm Gia Hội nay thuộc xã Cẩm Tiến (thị trấn Cẩm Xuyên). Giếng được đào dưới chân cồn cát trắng, nước giếng trước kia nỗi tiếng là tốt: trong suốt, không mùi, vị nhạt. Nước có tỷ trọng nhẹ, có thể pha vào rượi mà không cần phải lọc. Nơi đây trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ là một trận địa pháo cao xạ bảo vệ Cầu Họ, nhiều chiến sĩ bộ đội, dân quân đã anh dũng hy sinh tại đây, ngay trên sân gếng.
Lễ hội truyền thống
Ở xã Cẩm Nhượng có các Lễ hội lớn tổ chức hàng năm như sau:
Hội Hạ Thủy
- Thời gian: Sau Tết Nguyên đán.
- Đặc điểm: Nhân dân trong vùng tổ chức lễ hạ thủy, cầu thần biển giúp cho ngư dân thuận buồm xuôi gió và hứa hẹn một mùa đánh bắt được nhiều tôm cá..
Hội đua thuyền
- Thời gian: Mồng 4 Tết nguyên đán và các ngày lễ lớn trong năm.
- Đặc điểm: Hội đua thuyền được tổ chức nhằm chọn ra những tay đua cừ khôi và rèn luyện sức khỏe cho dân vùng sông nước; đồng thời là truyền thống của nhân dân địa phương để cầu yên xóm làng.
Hội Nhượng bạn
- Thời gian: 30/6 âm lịch.
- Đặc điểm: Dựng đàn lễ ở bên sông, dâng hương, cầu khấn.
Cờ người: tổ chức từ 2 đến sáng mùng 5 tết, các thôn xóm chọn những trai thanh nữ tú, những người có hình thể đẹp đứng cầm quân cờ. Các tay cao cờ thách đấu với nhau, phần thưởng của các trận thắng là những tràng pháo tay hay những lời thán phục. Hội chơi cờ thường được tổ chức trên các bãi đất trống đẹp đẽ hay các sân rộng, người xem đông vui, hồ hỡi và cổ vũ nhiệt tình.
Đặc sản:
- Bánh tráng Đông Hà (Cẩm Hà) nổi tiếng với vị thơm ngon, dòn.Thôn Đông Hà (Cẩm Hà) là nơi làm bánh tráng nổi tiếng xưa nay.Bánh tráng kẹp cá ngần, chấm với nước mắm Cẩm Nhượng có hòa ít ớt bột, ăn kèm với rau kinh giới thì thật là ngon miệng và bổ dưỡng, chỉ ăn một lần là sau còn nhớ mãi.
- Rượu Cẩm Yên: loại rượu nếp có mùi thơm đặc biệt, vị cay nhưng khi nhấp lại cảm giác ngọt, trong suốt, hơi sánh (nên được gọi là rượu côộc tóc - gốc rạ). Rượu có nồng độ từ 40 - 60 độ, uống say nhưng khi tỉnh, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Rượu được nấu bằng thứ nếp đặc sản. Lúa nếp chỉ xay bóc vỏ trấu (gạo nếp lứt), nấu cơm bằng nước Giếng Ngoài (hay nước mưa), ủ men thuốc bắc gia truyền. Chọn ngày ủ men có thời tiết đẹp (không nóng quá cũng không lạnh quá). Rượu nấu để càng lâu uống càng thích. Rượu nếp Cẩm Yên mà nhắm với nham côộc chuối thì thật là tuyệt vời.
- Khoai lang Mục Bài (xã Cẩm Hòa): loại khoai có củ to, vỏ màu tím, trồng trên đất cát, thu hoạch vào mùa hè. Khoai khi nấu chín thì rất bở và nhiều bột trắng, đặc biệt có mùi thơm hấp dẫn, vị bùi, ngọt và hơi béo. Khoai mà ăn cùng với cá trích tươi, cắn ngang con thì thật là thú vị. Nhiều người ăn khoai Mục Bài da dẻ trở nên hồng hào và tươi tắn. Ngày xưa loại khoai lang này là đặc sản tiến vua.
Giáo xứ
Xứ Quèn Đông: thuộc xã Cẩm Lộc, là một xứ nổi tiếng về bình dân học vụ và tôn thờ Thiên Chúa.
Giáo xứ Ngô Xá thuộc xã Cẩm Quang là một xã có truyền thống đạo lâu đời, con người ở nơi đây giàu lòng yêu thương người, sống rất chân tình.
Giáo xứ Vạn Thành thuộc xã Cẩm Thạch.
Giáo xứ Nhượng Bạn thuộc xã Cẩm Nhượng.
Giáo xứ Vĩnh Phước thuộc xã Nam Phúc Thăng.
Giáo xứ Mỹ Hòa thuộc xã Yên Hòa.
Giáo xứ Lạc Sơn thuộc xã Cẩm Minh là một xã đang phát triển mạnh hiện nay.
Chú thích |
Wetzlar là một thành phố ở bang Hessen (Đức). Thành phố một trung tâm công nghiệp, kinh tế và văn hóa trong vùng trung Hessen. Thành phố nằm ở nơi sông Dill đổ vào sông Lahn. Cùng với thành phố có trường đại học Gießen ngay cạnh bên về phía đông và vùng phụ cận chung, Wetzlar tạo thành một vùng đô thị trong khu vực trung Hessen. Thành phố Frankfurt am Main nằm về phía nam của Wetzlar, cách khoảng 60 km. Wetzlar là thành phố lớn thứ 11 của bang Hessen. |
Phạm Ngọc Thảo (1922–1965), còn gọi là Albert Thảo, là một cán bộ tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hoạt động dưới vỏ bọc là một sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như là một chính khách có ảnh hưởng lớn trong chính quyền Sài Gòn thời đó. Ông cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính ở Việt Nam Cộng hòa vào những năm 1964–1965. Ông mang quân hàm Đại tá của cả hai quân đội đối nghịch trong Chiến tranh Việt Nam là Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève, với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước". Không ai biết rõ "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước" là nhiệm vụ gì, tuy nhiên theo Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo được quyền tuỳ cơ ứng biến, hoạt động độc lập, không bị bất cứ một chế định nào, không bị bắt buộc phải báo cáo với một số cấp trên cụ thể nào.
Sau một thời gian tạo vỏ bọc, Phạm Ngọc Thảo đã giành được lòng tin của chính phủ Ngô Đình Diệm, được bổ nhiệm một số chức vụ cao cấp và ông đã sử dụng quyền hạn của mình để phục vụ cho nhiệm vụ tình báo mình được giao. Trong thời gian được cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), ông đã thả 2000 tù chính trị trong đó bao gồm nhiều cán bộ cách mạng, và cố ý làm lệch hướng các cuộc càn quét của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ cuối năm 1963, Phạm Ngọc Thảo tham gia nhiều vụ đảo chính với mục đích gây mất ổn định cho chính quyền Sài Gòn và tạo điều kiện cho hoạt động của quân Giải phóng. Tuy nhiên sau cuộc đảo chính bất thành vào năm 1965, ông bị chính quyền Việt Nam Cộng hoà truy nã và kết án tử hình. Ông tiếp tục hoạt động bất hợp pháp một thời gian cho đến khi bị bắt, tra tấn và sát hại vào ngày 17 tháng 7 năm 1965 lúc 43 tuổi.
Thân phận thật của Phạm Ngọc Thảo được giữ kín suốt một thời gian dài sau chiến tranh, chỉ đến năm 1995 ông mới được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyên nhân được cho là để bảo đảm an toàn cho gia đình của ông đang sống ở Hoa Kỳ.
Hình tượng Phạm Ngọc Thảo đã được nhà văn Trần Bạch Đằng sử dụng để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết Giữa biển giáo rừng gươm, sau này được chuyển thể thành bộ phim Ván bài lật ngửa với vai chính do Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm.
Thân thế gia đình
Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922, nguyên quán Thành Phố Cần Thơ - Tỉnh Hậu Giang (cũ) trong một gia đình Công giáo toàn tòng. Phạm Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo. Mọi người thường gọi ông là Chín Thảo vì ông được sinh thứ 9 trong gia đình.
Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần (1882-1970), một địa chủ lớn có quốc tịch Pháp. Mẹ ông là bà Martha Nguyễn Thị Giai (1883-1963). Ông Adrian Phạm Ngọc Thuần có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000 căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, Vĩnh Long. Ông Thuần có quốc tịch Pháp nên các con đều được sang Pháp học.
Gia đình Phạm Ngọc Thảo có nhiều người tham gia các phong trào yêu nước. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là chí sĩ ái quốc Phạm Ngọc Lành, người ủng hộ, hậu thuẫn cho nhiều phong trào chống Pháp (kể cả Cần Vương). Anh của Phạm Ngọc Thảo, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần (1914-2002) là Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một anh trai khác là Lucien Phạm Ngọc Hùng là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, gia đình Phạm Ngọc Thảo đã đem hết tài sản ra ủng hộ kháng chiến.
Lúc nhỏ ông học một trường tư thục Công giáo nổi tiếng ở Sài Gòn đó là trường Lasan Taberd (Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quý Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp Trường kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943.
Tham gia Việt Minh
Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ. Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ (trong những năm 60 làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ Đức). Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị xử bắn do hiểu lầm.
Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (sau này là Trường Sĩ quan Lục quân I, nay là Đại học Trần Quốc Tuấn) khai giảng. Ông cùng 12 chiến sĩ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Do người cán bộ này có vẻ ngoài gầy yếu, ông đề nghị người cán bộ này giả vờ bị bệnh lao phổi và cho mình cõng trên lưng, khi đi qua các khu vực do quân Pháp chiếm đóng sẽ khai là hai chú cháu cõng nhau đi tìm thầy thuốc. Như dự đoán, do sợ bệnh lao, những người xét hỏi chỉ khám xét qua loa và hai người đến vùng giải phóng an toàn. Người cán bộ được Phạm Ngọc Thảo hộ tống chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Việc bổ nhiệm Phạm Ngọc Thảo, một thanh niên con nhà địa chủ Công giáo làm Trưởng phòng Mật vụ, được cho là quyết định rất táo bạo của Lê Duẩn. Trong thời gian này Phạm Ngọc Thảo cũng hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em ruột giáo sư Phạm Thiều).
Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ.
Giai đoạn bắt đầu hoạt động
Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba" trong trường hợp Hiệp định Geneve không được đối phương thi hành. Về việc này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "Anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt".
Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy và hai người khác trong Ban Đặc tình Xứ ủy là Mười Hương và Cao Đăng Chiếm. Ông được giao nhiệm vụ phải thâm nhập vào nội bộ của chính quyền Sài Gòn để hoạt động "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước". Nội dung cụ thể chi tiết của nhiệm vụ này không được rõ, kể cả ông Mai Chí Thọ chỉ biết nhiệm vụ của mình đối với Phạm Ngọc Thảo nhưng không được biết Lê Duẩn giao nhiệm vụ gì cho ông Thảo. Theo lời của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo được quyền tùy cơ ứng biến, hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai và có quyền tự do báo cáo thông tin với bất cứ cấp trên nào mà ông Thảo thấy tin tưởng.
Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng Đảng không cho phép Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm vào sống ở Sài Gòn, chỉ có Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.
Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn, lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo quy định của chế độ Việt Nam Cộng hòa đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Vì vậy, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà đi dạy học. Vợ ông cũng vậy.
Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình ông theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục vào chiến khu để tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.
Nhờ chính sách "đả thực bài phong", khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với "chính nghĩa quốc gia" của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại úy "đồng hóa".
Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.
Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên đảng Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975.
Hoạt động tình báo trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Đại tá Thảo còn biết "khai thác" vốn binh pháp Tôn Tử mà Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo... Điều đặc biệt là trong các bài báo này, ông ngầm ca ngợi quân đội Việt Minh và các lực lượng kháng chiến chống Pháp - điều tối kỵ đối với người sống dưới chính quyền Sài Gòn có chính sách chống Cộng triệt để. Chính quyền lúc đó thấy bài viết của ông mang "giọng điệu Cộng sản" nhưng không thể bắt bẻ được vì ông chỉ thuần tuý nêu lên kinh nghiệm cá nhân của mình mặc dù ai cũng ngầm hiểu đấy là "kinh nghiệm" của ai. Hơn nữa, các bài viết của ông được nhiều thành phần độc giả đánh giá cao, trong đó có chính anh em Ngô Đình Diệm. Nhờ đó, Phạm Ngọc Thảo dần dần lọt vào mắt xanh gia đình họ Ngô. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.
Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy quân sự Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Diệm đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông đề nghị trực tiếp với Ngô Đình Diệm 3 yêu cầu:
- Một là ổn định tình hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành động như những quân nhân võ biền khác.
- Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng chứng, cho lập phiên tòa xét xử.
- Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào.
Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cả ba yêu cầu đó. Về làm Tỉnh trưởng Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù nhân chính trị đang bị giam giữ, (trong đó có ông Võ Viết Thanh, sau này là Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh), liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Chính sách không sử dụng bạo lực của Phạm Ngọc Thảo đã "bật đèn xanh" cho phong trào "đồng khởi" sau này.
Nhiều phản ứng của phía chính quyền và quân đội Sài Gòn đều được Phạm Ngọc Thảo bác bỏ với lý do Ngô Đình Diệm thí nghiệm một luận thuyết mới nên phải có thì giờ để kiểm nghiệm. Do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Năm 1962, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống.
Làm tỉnh trưởng, bị ám sát nhầm
Ngày Quốc khánh Việt Nam cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, một cuộc mít-tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội (khu Vườn Hoa ba con chim câu bây giờ). Đặng Quốc Tuấn (sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre), lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10) cùng với đồng đội tên Thiều có nhiệm vụ phá hoại buổi mít-tinh này. Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, còn lại 3 lựu đạn để ở nhà ông Thiều. Theo bàn bạc, ông Thiều ném lựu đạn trước, ông Tư Tuấn ném tiếp theo, xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã. Tuy nhiên, không có quả lựu đạn nào phát nổ. Hai ông định quay về nhà lấy thêm 3 trái lựu đạn còn lại thì bị bắt.
Một tuần sau khi hai ông bị bắt, ông Thảo có đến gặp ông Tuấn và ông Thiều. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát Tỉnh trưởng ngay tại ngày Quốc khánh? Có phải Cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới Cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Tư Tuấn không biết, ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi cả hai bị đưa về Chí Hòa. Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, sau đó đưa ra Côn Đảo. Ông Thiều được trao trả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Tư Tuấn đến ngày giải phóng mới về.
Những năm 1988 - 1989, bà Phạm Thị Nhiệm - phu nhân ông Thảo định cư ở Mỹ có về thăm tỉnh Bến Tre và An Giang. Bà đã gặp lại Đặng Quốc Tuấn trong chuyến thăm lại Dinh Tỉnh trưởng. Bà Phạm Thị Nhiệm thăm hỏi ông Tuấn rồi bảo gửi cho bà tấm ảnh khi còn là học sinh Kiến Hòa, để về treo bên cạnh ảnh ông Phạm Ngọc Thảo làm kỷ niệm. Bà kể: “Hồi đó, ông Thảo vẫn thường nhắc chúng mầy. Lúc bị ném lựu đạn ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn”.
Tham gia các cuộc đảo chính
Trong những năm 1962 - 1963, phong trào Đồng khởi lan rộng. Biết trước sau gì tổng thống Ngô Đình Diệm cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và giáo sư Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu đổi chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ.
Lần thứ nhất
Tháng 9 năm 1963, Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 6 tháng 9 năm 1963, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin Thảo phản bội, thứ hai là Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an,... hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ bởi một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh. Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo được phe đảo chính giao nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh. Theo tài liệu "Làm thế nào để giết một Tổng thống?", Trung tá Phạm Ngọc Thảo nằm trong nhóm các tướng tá, đứng đầu bởi 2 tướng Trần Thiện Khiêm và Đỗ Mậu, chủ trương chỉ thay đổi cơ cấu chế độ mà không làm hại đến tính mạng anh em Diệm - Nhu. Ông được tướng Khiêm giao nhiệm vụ tìm mọi cách để đón và bảo vệ an ninh cho anh em Diệm - Nhu sau khi quân đảo chính kiểm soát được dinh Gia Long. Dù không đón được anh em Diệm - Nhu, những người mà sau đó đã bị giết trong một hoàn cảnh bí ẩn, để tưởng thưởng cho công lao tham gia đảo chính, ông vẫn được thăng lên cấp đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ. Sau đó ông được tướng Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách mạng”.
Tháng 10 năm 1964, khi Trần Thiện Khiêm được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay).
Lần thứ hai
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ, muốn bắt ông. Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát.
Vì vậy, ông đã đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài Gòn vì một lý do vô cùng quan trọng. Theo một tài liệu mà ông nắm được, Mỹ và Nguyễn Khánh đã thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20/2/1965, vì vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành đúng ngày 19 tháng 2 với tên gọi Chiến dịch Nguyễn Huệ
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh) và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh được Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được. Trong tờ Việt Tiến (in ronéo, phát bí mật) với bút hiệu Lê Minh, đại tá Phạm Ngọc Thảo đã viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20 giờ ngày 19 tháng 2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”.
Ngày 20 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã tổ chức hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.
Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong).
Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.
Bị bắt và qua đời
Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lãnh đạo quốc gia cho quân đội.
Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng)
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản tờ báo "Việt Tiến", mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên Hòa tới Hố Nai, Thủ Đức; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến. Lúc này, ông bị chính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí danh của Võ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp.
Ông Võ Văn Kiệt kể lại: "tôi thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng cuối tháng 5/1965...".
Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối.
Sau khi nhậm chức, Nguyễn Văn Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, Nhơn Trạch, Biên Hòa. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, thủ tiêu.
Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ông bị Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ tra tấn dã man và bóp hạ bộ ông cho đến chết vào rạng sáng 17 tháng 7 năm 1965. Khi đó ông mới 43 tuổi.
Nguyễn Ngọc Loan (tức Sáu Lèo) được cho là đã sát hại ông lúc đó. Linh mục Nguyễn Quang Lãm (chủ bút Báo Xây dựng), người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo, đã che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo). Sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết hại, Báo Xây dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Linh mục Nguyễn Quang Lãm đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”. Năm 2012, trong một bài báo của báo báo Thanh Niên linh mục Nguyễn Quang Lãm kể lại đã từng hỏi Nguyễn Cao Kỳ: "Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.
Có ý kiến nói rằng Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giết hại là bởi ông ta không tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản, nếu tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ không giết Phạm Ngọc Thảo. Bởi kinh nghiệm từ cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu không cảm thấy lo sợ những người cộng sản bằng một người không cộng sản được Mỹ và Giáo hội Công giáo hậu thuẫn để làm đảo chính lật đổ ông ta.
Di sản
Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân,... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, trên đồi Lạc Cảnh (thành phố Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường... Tên ông được đặt tên cho một con đường tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình, Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận liệt sĩ và phong anh hùng cho Phạm Ngọc Thảo. Ông Mười Hương đã nói: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn cũng từng nói sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.
Ngày 28 tháng 8 năm 2015, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức trọng thể lễ công bố quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về xếp hạng di tích quốc gia, đối với nơi ở và hoạt động của đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo (dinh tỉnh trưởng cũ, sau là nhà bảo tàng tỉnh), tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Đặng Trần Đức). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất<ref>Trong Điệp viên hoàn hảo, nhà sử học Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều"</ref> bởi 3 đặc điểm chính:
Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.
Khác với các tình báo viên thông thường, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.
Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên.
Hai ông bà Phạm Ngọc Thảo và Phạm Thị Nhiệm có bảy người con. Vợ ông từng đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam).
Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván bài lật ngửa, nhà văn Trần Bạch Đằng, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. (Thảo) và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do cố diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).
Ông Trần Bạch Đằng nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta''"
Vinh danh
Ông được truy phong quân hàm Đại tá, liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và truy tặng những phần thưởng cao quý:
40x40px Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (30/08/1995).
Huân chương Quân công hạng Nhì.
Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
40x40px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
40x40px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
40x40px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
Tên ông được đặt cho các con đường ở Quận 8, Tân Phú (Thành phố Hồ Chí Minh), Đồng Xoài (tỉnh Bình Phước), Thành phố Bến Tre (tỉnh Bến Tre), Tân Biên (tỉnh Tây Ninh), Qui Nhơn (tỉnh Bình Định), Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang).
Chú thích |
Singapore (phát âm: “Xin-ga-po” hoặc “Xinh-ga-po”, , , ; trong khẩu ngữ có khi gọi tắt là Sing), tên gọi chính thức là Cộng hòa Singapore, là một đảo quốc có chủ quyền tại khu vực Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi phía nam của bán đảo Mã Lai và cách xích đạo 137 km về phía bắc. Lãnh thổ Singapore bao gồm có một đảo chính hình thoi và khoảng 60 đảo nhỏ hơn. Singapore tách biệt với bán đảo Malaysia qua eo biển Johor ở phía bắc cũng như tách biệt với quần đảo Riau của Indonesia qua eo biển Singapore ở phía nam. Singapore là quốc gia có mức độ đô thị hóa rất cao, chỉ còn lại số lượng ít thảm thực vật nguyên sinh. Lãnh thổ của Singapore hiện đang liên tục được mở rộng thông qua các hoạt động cải tạo và lấn biển.
Các hòn đảo của Singapore có con người định cư lần đầu tiên vào thế kỷ thứ II TCN và sau đó thuộc một số quốc gia bản địa. Năm 1819, chính trị gia người Anh Stamford Raffles đã thành lập nên Nhà nước Singapore hiện đại với vai trò là một trạm mậu dịch của Công ty Đông Ấn Anh, hành động này được Vương quốc Johor chấp thuận. Anh Quốc sau đó giành được chủ quyền đối với hòn đảo vào năm 1824 và Singapore trở thành một trong Các khu định cư Eo biển của Đế quốc Anh vào năm 1826. Trong những năm sau đó, với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế và vận tải biển, Singapore phát triển nhanh chóng. Đến đầu những năm 1900, Singapore đã trở thành một thành phố tầm cỡ quốc tế hiện đại và phồn thịnh nhất trong khu vực Đông Nam Á, sánh ngang với các thành phố cảng lớn trên thế giới như Rotterdam, Kobe, Thượng Hải, Hồng Kông,...
Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng Singapore một thời gian ngắn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh, Singapore tuyên bố độc lập từ Anh Quốc vào năm 1963 và hợp nhất với các cựu lãnh thổ khác của Anh để hình thành Liên bang Malaysia, tuy nhiên, Singapore bị trục xuất khỏi Malaysia hai năm sau khi gia nhập. Kể từ đó, kinh tế Singapore phát triển nhanh chóng, được công nhận là một trong 'Bốn con Rồng châu Á' cùng với Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan.
Singapore là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của thế giới với vị thế là trung tâm tài chính lớn thứ 4 và là một trong 5 cảng biển bận rộn nhất trên toàn cầu. Nền kinh tế mang tính toàn cầu hóa và đa dạng của Singapore phụ thuộc nhiều vào mậu dịch, đặc biệt là xuất khẩu, thương mại và công nghiệp chế tạo, chiếm 26% GDP vào năm 2005. Theo sức mua tương đương thống kê năm 2020, Singapore có mức thu nhập bình quân đầu người cao thứ 2 trên thế giới. Quốc gia này được xếp hạng cao trong hầu hết các bảng xếp hạng quốc tế liên quan đến chất lượng kinh tế, giáo dục công, chăm sóc sức khỏe, sự minh bạch của chính phủ và tính cạnh tranh kinh tế.
Singapore là một nước cộng hòa nghị viện đa đảng nhất thể, xây dựng chính phủ nghị viện nhất viện theo Hệ thống Westminster theo hình mẫu của Vương quốc Anh. Đảng Hành động Nhân dân giành chiến thắng trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi Singapore tự trị vào năm 1959. Hiện nay, hơn 5 triệu cư dân đang sinh sống tại Singapore, trong đó có xấp xỉ 2 triệu người sinh ra tại nước ngoài. Singapore được coi là một quốc gia của người nhập cư với nhiều thành phần dân tộc đa dạng, song các dân tộc gốc châu Á chiếm ưu thế với 75% dân số là người gốc Hoa, các cộng đồng thiểu số đáng kể là người Mã Lai, người Ấn Độ, người Âu-Mỹ và người lai Âu-Á. Quốc gia này có bốn ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh, tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và tiếng Tamil, chính phủ Singapore thúc đẩy chủ nghĩa văn hóa đa nguyên thông qua một loạt các chính sách chính thức.
Singapore là một trong 5 thành viên tham gia sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), là nơi đặt Ban thư ký APEC, một thành viên của Hội nghị cấp cao Đông Á, Phong trào không liên kết, Khối Thịnh vượng chung Anh cùng nhiều tổ chức quốc tế lớn khác. Quốc đảo này có bình quân mức sống, mức tiêu chuẩn sinh hoạt và chỉ số phát triển con người (HDI) đạt vào loại rất cao, Singapore là một trong những quốc gia giàu có nhất trên thế giới với GDP bình quân đầu người theo sức mua đứng hạng 2 toàn cầu (2020), được đánh giá là một trong những đất nước đáng sống nhất trên thế giới đối với giới siêu giàu. Người dân Singapore sở hữu cuốn hộ chiếu quyền lực hạng 2 toàn cầu (2021), trong đó từng nhiều lần vươn lên dẫn đầu thế giới, đứng hạng 1 thế giới trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2019, có nền kinh tế công nghiệp phát triển theo phân loại của IMF, WB, CIA và Liên Hợp Quốc đồng thời là quốc gia phát triển duy nhất trong khu vực Đông Nam Á. Quy mô nền kinh tế tính theo GDP danh nghĩa của Singapore lớn thứ 39 trên thế giới với dân số chỉ khoảng hơn 5 triệu người (2020). Sự phát triển nhanh chóng và bền vững của Singapore đã tạo cho quốc gia này một vị thế đáng kể, có tầm ảnh hưởng tương đối lớn trong các vấn đề toàn cầu, đặc biệt là về kinh tế, khiến các nhà phân tích đều có chung một nhận định rằng: Singapore, mặc dù diện tích nhỏ, dân số ít nhưng vẫn được coi là cường quốc khu vực tại Đông Nam Á cũng như là một Tiểu cường quốc trên thế giới.
Từ nguyên
Tên gọi tiếng Anh "Singapore" bắt nguồn từ tiếng Mã Lai , và gốc xa hơn là từ , nghĩa là "thành phố Sư tử". Tuy nhiên, người ta tin rằng sư tử chưa từng sống trên đảo, và loài thú mà Sang Nila Utama (người thành lập và định danh cho Singapore cổ đại) nhìn thấy có lẽ là một con hổ. Tên tiếng Trung Quốc của nước này là 新加坡 (pinyin: "Xīn jiā pō", Hán-Việt: "Tân Gia Ba"), là phiên âm bằng tiếng Quan Thoại cho "Sin-ga-pore". Nó chỉ mang tính chất phiên âm cho người Trung Quốc đọc.
Dưới sự chiếm đóng của Đế quốc Nhật Bản, Singapore được đổi tên thành Syonanto (tiếng Nhật: 昭南島 - "Chiêu Nam Đảo", Hepburn: Shōnan-tō), là gọi tắt của 昭和に手に入れた南の島 (Shōwa ni te ni haireta Minami no Shima, "Hòn đảo phía nam được sở hữu bởi Chiêu Hòa"). Singapore đôi khi được gọi bằng biệt danh "Thành phố vườn", liên quan đến các công viên và đường phố rợp bóng cây tại quốc gia này. Một tên khác, "Little Red Dot", được thông qua sau khi tổng thống Indonesia đương thời Bacharuddin Jusuf Habibie đã bỏ qua Singapore bằng cách đề cập đến một chấm đỏ trên bản đồ.
Lịch sử
Khu định cư đầu tiên được biết đến tại Singapore là một tiền đồn của Đế quốc Srivijaya có tên là Temasek ('hải trấn'). Hòn đảo vẫn là một phần của Đế quốc Srivijaya khi Hoàng đế Rajendra Chola I của Đế quốc Chola tại Nam Ấn xâm chiếm nó vào thế kỷ XI. Năm 1613, những hải tặc người Bồ Đào Nha đốt khu định cư và hòn đảo chìm trong tăm tối vào hai thế kỷ sau đó.
Cảng biển quốc tế lớn nhất Châu Á (1820-1960)
Đầu thế kỷ XIX, đế quốc Anh cần có một cảng biển cho toàn vùng. Những thương nhân Anh cần một vị trí chiến lược để nghỉ ngơi và bảo vệ đội thương thuyền của đế chế Anh, cũng như ngăn chặn nguy cơ cạnh tranh của người Hà Lan trong vùng. Singapore được nước Anh nhắm đến nhờ vị trí địa lý then chốt, án ngữ eo biển Malacca của nó.
Năm 1819, chính khách người Anh Quốc Thomas Stamford Raffles đến và thay mặt Công ty Đông Ấn của Anh để ký kết một hiệp định với Quốc vương Hussein Shah của Vương quốc Johor nhằm phát triển phần phía nam của Singapore thành một trạm mậu dịch của Đế quốc Anh. Năm 1824, Anh Quốc có quyền sở hữu đối với toàn bộ đảo theo một hiệp định khác với Quốc vương và Temenggong (thống lĩnh). Năm 1826, Singapore trở thành một phần của Các khu định cư Eo biển, thuộc phạm vi quyền hạn của Ấn Độ thuộc Anh, rồi trở thành thủ đô của lãnh thổ vào năm 1836.
Trước khi Raffles đến, chỉ có xấp xỉ 1.000 người sống trên đảo, hầu hết là người Mã Lai bản địa cùng với một số người Hoa. Rất nhanh chóng, kể từ năm 1830, nước Anh đổ tiền bạc để biến đây trở thành hải cảng thương mại chính ở vùng Đông Nam Á bởi 2 lợi thế then chốt so với những thành phố cảng thuộc địa và những cảng lớn khác ở khu vực. Thứ nhất: vị trí địa lý (hầu hết các thương thuyền qua lại giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Châu Âu đều phải đi qua Singapore). Thứ hai: sự liên kết giữa Singapore với đế chế Anh (Trong thế kỷ thứ XIX, Anh Quốc là một cường quốc số 1 thế giới cả về kinh tế và số lượng thuộc địa). Sự phồn vinh của Singapore bắt nguồn từ những thuận lợi về địa lý và vị trí của nó trong hệ thống thuộc địa Anh.
Vào những năm 1830, Singapore đã trở thành một trong ba cảng thương mại chính ở Đông Nam Á, cùng với Manila ở Philipinnes và Batavia (Jarkata ngày nay) ở đảo Java. Mậu dịch tự do và vị trí thuận lợi đã nơi đây trở thành hải cảng nhộn nhịp. Những văn bản cổ còn mô tả: "Các con thuyền đến Singapore như đàn ong bay tới hũ mật để cùng tận hưởng bữa tiệc mậu dịch tự do". Những nhà buôn người Anh bị hấp dẫn bởi mảnh đất này và từ đó những hiệu buôn, những tuyến hàng hải, những công ty dịch vụ liên tiếp mọc lên. Những thương gia người Hoa cũng bị thu hút tới đây vì mật độ buôn bán dày đặc, sự canh phòng của hải quân Anh quốc và vị trí chiến lược của Singapore. Những thương gia người Malay, Ấn Độ và Ả Rập cũng từ những cảng lân cận khác kéo tới Singapore. Singapore nhanh chóng chiếm được một thị phần lớn trong việc giao thương giữa các vùng ở Đông Nam Á, đồng thời cũng trở thành một bến đỗ chính của tàu buôn trên đường tới Trung Quốc và Nhật Bản.
Năm 1860, dân số Singapore đã vượt quá 80.000 và hơn một nửa là người Hoa. Nhiều người nhập cư đến để làm việc trong các đồn điền cao su, và sau thập niên 1870 thì đảo trở thành một trung tâm xuất khẩu cao su toàn cầu. Vị thế là một cảng tự do tạo lợi thế quyết định cho Singapore so với các đô thị cảng thuộc địa khác như Jakarta hay Manila, và nó thu hút nhiều thương nhân người Hoa, Mã Lai, Ấn Độ, và Ả Rập hoạt động tại Đông Nam Á đến Singapore. Việc khánh thành kênh đào Suez vào năm 1869 sẽ thúc đẩy hơn nữa mậu dịch tại Singapore. Năm 1880, trên 1,5 triệu tấn hàng hóa thông qua Singapore mỗi năm, với khoảng 80% hàng hóa được vận chuyển trên những tàu hơi nước. Đến cuối thế kỷ XIX, Singapore đã trở thành một cảng biển quốc tế phồn thịnh nhất tại khu vực Đông Nam Á, sánh ngang với Hồng Kông và vượt xa các thành phố khác trong khu vực Đông Nam Á.
Tới năm 1900, Singapore đã là một trung tâm tài chính và thương mại quan trọng của thế giới, là cảng trung chuyển các sản phẩm của Đông Á sang châu Âu và ngược lại. Vào thời kỳ trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, có hơn 2/3 lượng hàng nhập khẩu và xuất khẩu của Malay đi qua cảng Singapore. Tiền đầu tư đi qua Singapore, thiếc và cao su được xuất khẩu ngang qua Singapore, nó cũng trở thành trung tâm kho vận và phân phối những mặt hàng dành cho những người châu Âu sống ở khắp vùng Đông Nam Á. Nơi đây cũng đã trở thành một căn cứ tài chính và thương mại chủ yếu của các công ty Anh ở vùng Đông Nam Á.
Đại thần nhà Nguyễn là Phạm Quỳnh từng sang Singapore (thuộc Anh) năm 1922, đã ghi lại quang cảnh phồn vinh mà ông chứng kiến như sau:
"Lần này mới được trông thấy một nơi hải cảng là lần thứ nhất, thật là một cái cảnh tượng to tát. Cửa Hải Phòng, cửa Sài Gòn của ta kể cũng khá to, nhưng so sánh với cửa Singapore này thì còn kém xa nhiều. Bến liền nhau với bể, chạy dài đến mấy nghìn thước, tàu đỗ không biết cơ man nào mà kể, tàu của khắp các nước đi tự Á Đông sang Ấn Độ và Âu Tây đều phải qua đấy... Phố xá đông đúc, san sát những hiệu Khách cả, có mấy dãy phố toàn những nhà tửu lâu khách sạn, ngày đêm tấp nập những khách ăn chơi, người đi lại...
Singapore có thể chia ra hai phần: một phần là phố Khách (dành cho dân buôn bán), một phần là phố Tây (dành cho người châu Âu xây biệt thự); phố Tây cũng sầm uất bằng phố Khách mà lại có cái vẻ nguy nga hơn. Những hàng buôn của người Anh ở Singapore thật là những lâu đài vĩ đại, có khi chiếm từng dãy phố dài. Ngoài các phố phường buôn bán, đến những nơi nhà ở riêng, làm theo lối "biệt thự" (villas) của người Anh, nhà xây ở chỗ đất cao, chung quanh vườn rộng, xe hơi chạy vòng khắp được... Xe hơi ở Singapore, thật không biết cơ man nào mà kể, nào xe riêng, nào xe thuê, cả ngày chạy như mắc cửi. Vào đến Sài Gòn, thấy xe hơi chạy đường Catinat đã nghĩ là nhiều, nhưng xe hơi ở Singapore lại còn nhiều hơn nữa, và ở Singapore đường phố nào cũng to đẹp như đường Catinat hết thảy".
Chiến tranh thế giới thứ nhất không có ảnh hưởng nhiều đến Singapore. Sự kiện quân sự địa phương quan trọng nhất trong thế chiến là binh biến năm 1915 do các binh sĩ sepoy người Hồi giáo Ấn Độ đồn trú tại Singapore tiến hành. Sau khi nghe được những tin đồn về việc có kế hoạch đưa họ đi chiến đấu với Đế quốc Ottoman, các binh sĩ nổi dậy, sát hại những sĩ quan của họ và một vài thường dân Anh Quốc trước khi bị quân đến từ Johor và Miến Điện trấn áp.
Sau thế chiến thứ nhất, chính phủ Anh Quốc dành nguồn lực đáng kể để xây dựng một căn cứ hải quân tại Singapore, một sự ngăn chặn đối với tham vọng ngày càng tăng của Đế quốc Nhật Bản. Singapore được nước Anh coi là tài sản thương mại quan trọng nhất tại châu Á, và từ thập niên 1920 nó cũng là căn cứ hải quân chủ lực bảo vệ quyền lợi của nước Anh ở vùng Đông Nam Á và là lá chắn phòng ngự cho Úc và New Zealand. Để bảo vệ thành phố giá trị này, nhiều doanh trại được xây dựng để làm căn cứ đồn trú cho hàng vạn binh sỹ Anh. Căn cứ hải quân Anh ở đây được hoàn thành vào năm 1939, có đủ dự trữ nhiên liệu để hỗ trợ cho toàn bộ hải quân Anh Quốc trong sáu tháng. Thủ tướng Winston Churchill ca ngợi Singapore có giá trị như là "eo biển Gibraltar của phương Đông"
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore là mục tiêu mà Đế quốc Nhật Bản rất thèm muốn. Quân đội Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Malaya thuộc Anh, đỉnh điểm là trận Singapore. Người Anh chiến bại, và đầu hàng vào ngày 15 tháng 2 năm 1942, gần 90.000 quân Anh đóng ở đây bị bắt làm tù binh. Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill gọi đây là "thảm họa tệ nhất và sự đầu hàng lớn nhất trong lịch sử Anh Quốc". Số người Hoa bị thảm sát sau khi Singapore thất thủ ước tính từ 5.000 đến 25.000 người. Người Anh tái chiếm đảo vào tháng 9 năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng.
Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên năm 1955, lãnh đạo ủng hộ độc lập của Mặt trận Lao động là David Marshall giành chiến thắng. Ông dẫn đầu một phái đoàn đến Luân Đôn để yêu cầu tự trị hoàn toàn, song người Anh bác bỏ. Sau đó, David Marshall từ chức và Lâm Hữu Phúc trở thành người thay thế, ông thi hành các chính sách nhằm thuyết phục người Anh trao cho Singapore quyền tự trị nội bộ hoàn toàn đối với toàn bộ các vấn đề ngoại trừ quốc phòng và đối ngoại.
Tách ra độc lập (1960 - nay)
Trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1959, Đảng Hành động Nhân dân giành chiến thắng vang dội. Singapore trở thành một nhà nước tự trị nội bộ bên trong Thịnh vượng chung và Lý Quang Diệu trở thành Thủ tướng đầu tiên của quốc gia. Tổng đốc William Allmond Codrington Goode giữ vai trò là Yang di-Pertuan Negara ("nguyên thủ quốc gia") đầu tiên, người kế nhiệm là Yusof bin Ishak trở thành Tổng thống Singapore đầu tiên vào năm 1965. Trong thập niên 1950, những người cộng sản gốc Hoa vốn có quan hệ chặt chẽ với các thương hội và các trường tiếng Hoa tiến hành một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chính quyền tại Malaya, dẫn đến Tình trạng khẩn cấp Malaya, và sau đó là cuộc Nổi dậy cộng sản Malaysia (1968-1989). Bạo động phục vụ toàn quốc 1954, bạo động trung học Hoa văn và bạo động xe buýt Phúc Lợi tại Singapore đều có liên hệ với các sự kiện này. Trong giai đoạn này, chính phủ Singapore tiêu diệt những tổ chức chính trị, cá nhân bị liệt vào thành phần có cảm tình với phong trào Cộng sản tại Singapore.
Cuộc trưng cầu dân ý về việc sáp nhập Singapore vào Liên bang Mã Lai được tiến hành vào năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành viên của Liên bang Malaysia cùng với Malaya, Sabah và Sarawak với vị thế một bang có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị trục xuất khỏi liên bang vào ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore.
Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tại thời điểm độc lập, khoảng 70% hộ dân Singapore phải sống trong điều kiện đông đúc tồi tàn, một nửa dân số mù chữ. Năm 1962, GDP đầu người của Singapore đạt 516 USD, đây là mức cao nhất ở Đông Nam Á, nhưng vẫn thấp nếu so với các nước châu Âu.
Trong thời kỳ lãnh đạo của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu từng bước kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước được phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống phòng vệ quốc gia được thiết lập. Ngoài ra, trong thập niên 1960-1970, kinh tế Singapore cũng được hưởng lợi từ việc cung cấp nhu yếu phẩm, nhiên liệu, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam. Riêng xăng dầu và nhiên liệu, mỗi tháng Singapore bán cho Mỹ lượng hàng trị giá 600 triệu đôla, thu nhập từ việc làm hậu cần cho quân đội Mỹ chính là nguồn lực ban đầu giúp Singapore xây dựng kinh tế đất nước..
Singapore từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ XX. Năm 1990, Ngô Tác Đống kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm 2004, con trai cả của Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long trở thành thủ tướng thứ ba.. Mặc dù nền kinh tế có sự tăng trưởng đặc biệt, Đảng Hành động Nhân dân (PAP) đã phải nhận kết quả bầu cử tệ nhất trong lịch sử tại cuộc bầu cử năm 2011, khi họ chỉ giành được 60% số phiếu bầu. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2015, Lý Quang Diệu qua đời .
Địa lý
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương được nhiều đảo nhỏ khác bao quanh. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Johor của Malaysia — một con đường nhân tạo có tên Đường đắp cao Johor-Singapore ở phía bắc, băng qua eo biển Tebrau và liên kết thứ hai Tuas, một cầu phía tây nối với Juhor. Singapore có tổng cộng 63 hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó, Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.
Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung bao quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính phủ chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân phối đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi tiết cho việc sử dụng đất ở 55 khu vực.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay, và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030.
Khí hậu
Do chỉ cách đường xích đạo 137 km, Singapore có khí hậu xích đạo ẩm đặc trưng với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ cao đều quanh năm nhưng không dao động quá lớn, thay đổi trong khoảng 22°C đến 31 °C (72°–88°F). Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong những trận mưa lớn kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4 °C (65,1 °F) và 37,8 °C (100,0 °F).
Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah. Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví dụ như Vườn Thực vật Quốc gia Singapore. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu.
Từ tháng 7 đến tháng 10, thường có những đám khói dày đặc do cháy rừng ở nước láng giềng Indonesia bay qua Singapore, thường là từ đảo Sumatra. Mặc dù Singapore không quan sát thời gian tiết kiệm ánh sáng ban ngày (DST), nhưng nó tuân theo múi giờ GMT + 8, trước một giờ so với khu vực điển hình cho vị trí địa lý của nó. Điều này đã khiến mặt trời mọc và lặn đặc biệt vào cuối tháng 1 và tháng 2, trong đó mặt trời mọc lúc 7:20 sáng và lặn vào khoảng 7:25 tối. Trong tháng 7, mặt trời lặn vào khoảng 7:15 tối, tương tự như các thành phố khác ở vĩ độ cao hơn nhiều như Đài Bắc và Tokyo. Sớm nhất mặt trời lặn và mọc là vào tháng 10 và tháng 11 khi mặt trời mọc lúc 6:45 sáng và lặn lúc 6:50 chiều. Singapore vẫn rất dễ bị thương tổn trước nguy cơ biến đổi khí hậu, đặc biệt là liên quan đến mực nước biển dâng cao
Chính trị
Singapore là một nước cộng hòa nghị viện, có chính phủ nghị viện nhất viện theo hệ thống Westminster đại diện cho các khu vực bầu cử. Hiến pháp của quốc gia thiết lập hệ thống chính trị dân chủ đại diện. Freedom House xếp hạng Singapore là "tự do một phần" trong báo cáo Freedom in the World của họ, và The Economist xếp hạng Singapore là một "chế độ hỗn hợp", hạng thứ ba trong số bốn hạng, trong "Chỉ số dân chủ" của họ. Tổ chức Minh bạch Quốc tế liên tục xếp Singapore vào hạng các quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới.
Quyền hành pháp thuộc về Nội các Singapore, do Thủ tướng lãnh đạo, và ở một mức độ thấp hơn rất nhiều là Tổng thống. Tổng thống được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, và có quyền phủ quyết đối với một tập hợp cụ thể các quyết định hành pháp, như sử dụng dự trữ quốc gia và bổ nhiệm các thẩm phán, song vai trò phần lớn mang tính lễ nghi.
Quốc hội Singapore đóng vai trò là nhánh lập pháp của chính phủ. Các thành viên của Quốc hội gồm có các thành viên đắc cử, phi tuyển khu và được chỉ định. Các thành viên đắc cử được bầu vào Quốc hội trên cơ sở "đa số ghế" và đại diện cho các khu vực bầu cử có một hoặc nhóm đại diện. Đảng Hành động Nhân dân giành quyền kiểm soát quốc hội với đa số lớn trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi Singapore tự trị vào năm 1959. Hệ thống tư pháp của Singapore dựa trên thông luật Anh, song có các khác biệt địa phương đáng kể. Việc bồi thẩm đoàn xử án bị bãi bỏ vào năm 1970, các phán quyết tư pháp sẽ hoàn toàn nằm trong tay các thẩm phán được chỉ định.
Singapore có các hình phạt rất nghiêm khắc, bao gồm cả trừng phạt thân thể tư pháp dưới dạng đánh đòn hoặc phạt roi ngay tại nơi công cộng, có thể áp dụng đối với các tội hình như hiếp dâm, quấy rối tình dục, gây rối loạn, phá hoại, và các vi phạm di trú nhất định. Các tội danh về ma túy bị xử rất nặng, bao gồm cả án tử hình kể cả đối với người có quốc tịch nước ngoài.
Tổ chức Ân xá Quốc tế cho rằng một số điều khoản pháp lý của Singapore xung đột với nguyên tắc suy đoán vô tội, và cho rằng Singapore "có thể có tỷ lệ hành quyết cao nhất trên thế giới so với dân số của quốc gia". Chính phủ Singapore phản đối các tuyên bố của Tổ chức Ân xá Quốc tế. Trong một nghiên cứu vào năm 2008, Singapore và Hồng Kông xếp hàng đầu về chất lượng hệ thống tư pháp tại châu Á.
Lý giải về việc tại sao pháp luật Singapore lại duy trì những hình phạt rất nặng bất chấp sự phản đối của các tổ chức phương Tây, thủ tướng Lý Quang Diệu nói:
Sự mở rộng quyền tự do cá nhân thích hành động hay phá phách thế nào tuỳ ý sẽ gây ra tổn thất với trật tự xã hội. Ở phương Đông, mục đích chính luôn là trật tự xã hội ổn định để mọi người có thể có hưởng tự do của mình. Sự tự do này chỉ tồn tại trong xã hội ổn định chứ không phải ở đất nước của tranh cãi và vô chính phủ.
Con người cần những ý thức đạo đức nhất định về đúng và sai. Có những thứ là xấu xa. Anh đơn giản là xấu xa, dễ làm những việc xấu thì phải chặn anh không làm những việc xấu vậy. Người phương Tây từ bỏ những nền tảng đạo đức của xã hội, tin rằng mọi vấn đề có thể giải quyết bằng một chính phủ tốt – đây là điều mà phương Đông chúng tôi không bao giờ tin.
Hiện tại, Singapore vẫn duy trì diện mạo của một nền dân chủ nhưng trong thực tế, Đảng Hành động Nhân dân (PAP) cầm quyền đã thống trị nền chính trị kể từ khi nước này giành được độc lập bằng cách tạo ra những rào cản lớn đối với các đảng chính trị đối lập, và hiện nay PAP nắm hơn 90% số ghế trong Quốc hội.
Quan hệ đối ngoại
Chính sách đối ngoại của Singapore có mục đích duy trì an ninh tại Đông Nam Á và các lãnh thổ phụ cận. Một nguyên tắc cơ bản là tính ổn định chính trị và kinh tế trong khu vực. Singapore có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia có chủ quyền. Là một trong năm thành viên sáng lập của ASEAN, Singapore là một quốc gia ủng hộ mạnh mẽ đối với Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và Khu vực đầu tư ASEAN. Cựu Thủ tướng Ngô Tác Đống đề xuất hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN, một bước vượt qua AFTA, đưa Đông Nam Á tiến gần hơn đến một thị trường chung. Singapore duy trì tư cách thành viên trong các tổ chức khu vực khác như Hội nghị Á-Âu, Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ Latinh, Hệ thống các thành phố lớn châu Á 21, và Hội nghị cấp cao Đông Á. Đảo quốc cũng là một thành viên của Phong trào không liên kết và Thịnh vượng chung Các quốc gia.
Về tổng thể, Singapore có quan hệ song phương vững chắc với các thành viên khác trong ASEAN; tuy nhiên, có những bất đồng phát sinh, và quan hệ với Malaysia và Indonesia đôi khi trở nên căng thẳng. Malaysia và Singapore phát sinh mâu thuẫn về vấn đề cung cấp nước sạch đến Singapore, và vấn đề Quân đội Singapore tiếp cận không phận Malaysia. Có những vấn đề biên giới tồn tại với Malaysia và Indonesia, và hai quốc gia này đều cấm bán cát biển đến Singapore do những tranh nghị về hành động cải tạo đất của Singapore. Một số tranh chấp trước đó được giải quyết thông qua Tòa án Công lý Quốc tế. Vấn nạn hải tặc trên eo biển Malacca tạo ra mối quan tâm chung của cả ba quốc gia. Singapore có các quan hệ kinh tế mật thiết với Brunei, và hai quốc gia chia sẻ một giá trị tiền tệ cố định.
Singapore có tiếp xúc ngoại giao đầu tiên với Trung Quốc trong thập niên 1970, và quan hệ ngoại giao đầy đủ giữa hai quốc gia được thiết lập trong thập niên 1990. Kể từ đó, Singapore và Trung Quốc là những bên chủ yếu trong việc tăng cường quan hệ ASEAN–Trung Quốc. Singapore và Hoa Kỳ có quan hệ mật thiết lâu dài, đặc biệt là trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế, y tế, và giáo dục. Hoa Kỳ là đối tác mậu dịch lớn thứ ba của Singapore trong năm 2010, sau Trung Quốc (thứ 2) và Malaysia (thứ 1). Hai quốc gia có một hiệp định mậu dịch tự do, và Singapore nhận định quan hệ với Hoa Kỳ là một đối trọng quan trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc.
Học thuyết đối ngoại
Ý thức khủng hoảng nước nhỏ
Ý thức khủng hoảng nước nhỏ là đặc trưng nổi bật nhất của nền đối ngoại Singapore. Theo đó, giới tinh hoa nước này luôn nhận định rằng Singapore là một "chấm nhỏ đỏ" trên bản đồ thế giới, khan hiếm tài nguyên, nhân lực và thiếu chiều sâu chiến lược. Do nội lực của nước này quá yếu nên Singapore buộc phải chấp nhận chính sách đối ngoại phụ thuộc vào một nước lớn nào đó. Đồng thời, với mối quan hệ thiếu hữu hảo và khác biệt về tôn giáo, chủng tộc với Malaysia và Indonesia, Singapore luôn có cảm giác "bị bao vây" sâu sắc bởi các thế lực thiếu thiện chí. Do đó, việc phụ thuộc vào một nước lớn nào đó khiến Singapore luôn phải đối mặt với nguy cơ trở thành vật hy sinh trong các cuộc tranh bá của các nước lớn. Tất cả chính trị, kinh tế, ngoại giao của Singapore đều dựa trên "văn hóa khủng hoảng" này.
Cân bằng nước lớn
Cân bằng nước lớn được coi là điểm trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Singapore. Singapore chủ trưởng lợi dụng sự tranh giành giữa các nước lớn để có được hòa bình và ổn định từ đó phát triển nội lực trong nước. Nước này luôn lo sợ sức mạnh của một cường quốc nào đó trong khu vực trở nên quá lớn, lấn át các cường quốc còn lại và khiến Singapore bị lệ thuộc vào cường quốc mạnh nhất. Lý Quang Diệu cho rằng: "Nếu khu vực Đông Nam Á hình thành cục diện đa cực, năng lực ngăn chặn sức ép từ các nước lớn của chúng ta sẽ càng mạnh hơn. Trong tình hình tồn tại cùng lúc nhiều nước lớn, vai trò của mỗi nước lớn sẽ bị giảm đi, hơn nữa bằng cách khéo léo lợi dụng vai trò của các nước lớn, các nước nhỏ có thể tự do vận hành một cách tối đa...vận mệnh của Đông Nam Á sẽ không phải do người Đông Nam Á tự quyết định". Singapore xuất phát từ tình thế của mình, tranh thủ sự can dự tích cực của nhiều nước lớn vào Singapore và Đông Nam Á để có được viện trợ kinh tế và sự hỗ trợ đa phương về chính trị, nhưng không kết đồng minh, tránh gánh vác nghĩa vụ quân sự và bị cuốn vào xung đột nước lớn. Singapore cho rằng thông qua sự cạnh tranh lẫn nhau giữa hai dòng thế lực để hình thành sự cân bằng lực lượng, nước nhỏ có thể giành được không gian quốc tế của mình trong sự cân bằng giữa các nước lớn, từ đó tránh việc nghe theo một nước mạnh nào đó cuối cùng dẫn đến có hại cho cục diện vốn bất lợi của an ninh và chủ quyền quốc gia.
Trong khái niệm ngoại giao của Lý Quang Diệu, phát triển quan hệ ngoại giao với Mỹ, Nhật Bản là mấu chốt trong việc thực hiện ngoại giao cân bằng nước lớn của Singapore nhưng ông không mong muốn thế lực Mỹ bá quyền độc tài ở Đông Nam Á. Có sự cân bằng nước lớn mang tính định hướng. Lâu nay Singapore đều tự đặt mình vào thế trung lập. Trên thực tế, cân bằng nước lớn của Singapore mang tính chọn lọc và phân cấp, là cân bằng lấy Mỹ làm trung tâm. Bảo vệ an ninh quốc gia, phát triển kinh tế nhà nước là mục tiêu cuối cùng của Singapore. Có thể gạt bỏ được mối lo an ninh của Singapore, mang lại sự thịnh vượng về kinh tế chắc chắn là mục tiêu cao nhất trong hệ thống cân bằng nước lớn của Singapore. Singapore dựa vào đó để ràng buộc lợi ích của mình với lợi ích của Mỹ ở Đông Nam Á, từ đó mưu cầu tối đa hóa lợi ích. Tuy Singapore cũng từng dẫn dắt Liên Xô, Trung Quốc cân bằng sức ảnh hưởng của Mỹ, Nhật Bản, nhưng chỉ là để tránh lực lượng Mỹ quá mạnh khiến Singapore cảm thấy "nghẹt thở". Thực lực đang không ngừng lớn mạnh của Trung Quốc tại Biển Đông về khách quan đã tạo thành thách thức cho sự cân bằng nước lớn khu vực Đông Nam Á mà Mỹ chủ đạo, động chạm đến bố cục cân bằng mà Singapore lâu nay tạo dựng.
Sự tương hỗ giữa ASEAN và Singapore
Để bảo đảm lợi ích và an ninh của Singapore cũng như khu vực Đông Nam Á, Singapore khuyến khích các nước ngoài khu vực tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN. Cựu Thủ tướng Ngô Tác Đống so sánh Singapore với một con cá nhỏ, cá nhỏ muốn sống phải đi cùng các con cá khác, hòa mình vào trong đàn cá, dựa vào sự kết thành đàn để tự bảo vệ mình. Chiến lược "đàn cá" trở thành một phần quan trọng trong chiến lược an ninh của Singapore. Dưới sự chỉ đạo của lý luận này, Singapore là một trong những nước đầu tiên không ngừng thúc đẩy hợp tác kinh tế và chính trị các nước ASEAN, đồng thời mở rộng lĩnh vực hợp tác đến an ninh khu vực. ASEAN đem đến sân chơi giao lưu kết nối cho các nhà lãnh đạo các nước Đông Nam Á, phát huy vai trò to lớn trong việc duy trì ổn định khu vực. Đồng thời, ASEAN cũng đem đến một nền tảng ngoại giao vô cùng tốt cho Singapore. Tư cách thành viên của ASEAN khiến Singapore có quyền phát ngôn lớn hơn trong các công việc quốc tế. Lý Hiển Long nói: "Khi Singapore và các nước ASEAN khác trở thành một tập thể, bất cứ nước lớn nào đều sẽ có phần kiêng nể, nhưng khi Singapore không có sự chống đỡ của ASEAN, có thể bị các nước lớn xem nhẹ". Bộ trưởng Ngoại giao Singapore George Yong-Boon Yeo cũng nói rằng: "Chúng tôi đặt ASEAN ở vị trí quan trọng, Singapore là trung tâm của ASEAN, đó là lý do vì sao lợi ích của ASEAN và lợi ích của Singapore hoàn toàn giống nhau". Đối với Singapore, chiến lược sinh tồn, an ninh và kinh tế của nước này gắn liền với chiến lược của ASEAN.
Quân sự
Quân đội Singapore tuy nhỏ nhưng được cho là có công nghệ tiến bộ nhất tại Đông Nam Á, gồm có Lục quân Singapore, Hải quân Cộng hòa Singapore, và Không quân Cộng hòa Singapore. Quân đội được nhìn nhận là lực lượng bảo đảm cho độc lập quốc gia. Triết lý quốc phòng của đảo quốc mang tính ngoại giao và răn đe. Nguyên lý này biến thành văn hóa, yêu cầu mọi công dân tham dự phòng thủ quốc gia. Chính phủ dành 4,9% GDP toàn quốc cho quốc phòng, và khoảng 1/4 chi tiêu của chính phủ là dành cho quốc phòng.
Sau khi độc lập, Singapore có hai trung đoàn bộ binh do các sĩ quan người Anh chỉ huy. Lực lượng này được nhận định là quá nhỏ để đáp ứng an ninh hiệu quả cho quốc mới, do vậy việc phát triển quân đội trở thành một điều ưu tiên. Anh đưa quân đội ra khỏi Singapore vào tháng 10 năm 1971, chỉ còn hiện diện tượng trưng bằng một lực lượng nhỏ người Anh, Úc và New Zealand. Quân nhân Anh cuối cùng rời khỏi Singapore vào tháng 3 năm 1976. Các binh sĩ New Zealand là những người cuối cùng rời đi, vào năm 1989.
Singapore nhận được trợ giúp ban đầu trên quy mô lớn từ Israel, một quốc gia không được Malaysia, Indonesia hay Brunei công nhận. Mối lo chính sau khi độc lập là một cuộc xâm chiếm của Malaysia. Các sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Phòng vệ Israel được giao nhiệm vụ thiết lập Lực lượng vũ trang Singapore từ con số không, và những giáo viên hướng dẫn người Israel được đưa đến nhằm huấn luyện cho các binh sĩ Singapore. Các khóa huấn luyện quân sự được tiến hành theo khuôn mẫu của Lực lượng Phòng vệ Israel, và Singapore tiếp nhận một chế độ nghĩa vụ quân sự và lực lượng dự bị dựa theo mô hình Israel. Singapore vẫn duy trì các quan hệ an ninh mật thiết với Israel và là một trong những khách hàng lớn nhất của vũ khí Israel.
Lực lượng vũ trang Singapore đang được phát triển nhằm đáp ứng một loạt các vấn đề, trong cả chiến tranh quy ước và phi quy ước. Cục khoa-kỹ Quốc phòng chịu trách nhiệm thu thập tiềm lực cho quân đội. Hạn chế trên phương diện địa lý của đảo quốc có nghĩa là Lực lượng vũ trang Singapore cần phải có kế hoạch đẩy lui hoàn toàn một cuộc tấn công, do họ không thể rút lui rồi tái tập hợp. Quy mô dân số nhỏ cũng tác động đến phương pháp mà Lực lượng vũ trang Singapore trù tính, với một lực lượng tích cực nhỏ song có một lượng dự trữ lớn. Do khan hiếm đất trống tại đảo chính, các hoạt động liên quan đến huấn luyện như bắn đạn thật và diễn tập đổ bộ thường được tiến hành trên các đảo nhỏ hơn, thường cấm chỉ thường dân tiếp cận, nó cũng ngăn ngừa rủi ro tại đảo chính và khu vực đô thị. Tuy nhiên, các cuộc tập trận quy mô lớn được nhận định là quá nguy hiểm khi tiến hành trong khu vực, và chúng được thực hiện tại Đài Loan từ năm 1975. Hoạt động huấn luyện cũng được tổ chức tại nhiều quốc gia khác. Về tổng thể, các cuộc luyện tập quân sự được tổ chức với lực lượng ngoại quốc một hoặc hai lần mỗi tuần.
Do không phận và lãnh thổ hạn chế, Không quân Cộng hòa Singapore duy trì một số căn cứ hải ngoại tại Úc, Hoa Kỳ, và Pháp. Phi đội 130 của Không quân Cộng hòa Singapore đặt tại RAAF Base Pearce, Tây Úc, còn Phi đội 126 đặt tại Trung tâm Hàng không Lục quân Oakey, Queensland. Phi đội 150 đặt tại căn cứ không quân Cazaux tại miền nam Pháp. Không quân Cộng hòa Singapore cũng có một vài phân đội hải ngoại tại Hoa Kỳ, như tại San Diego, Marana, Grand Prairie và căn cứ không quân Luke.
Lực lượng vũ trang Singapore đã phái quân đi hỗ trợ các hoạt động bên ngoài đảo quốc, tại các khu vực như Iraq và Afghanistan, trong cả vai trò quân sự và dân sự. Trong khu vực, Lực lượng vũ trang Singapore giúp ổn định Đông Timor và cung cấp viện trợ đến Aceh tại Indonesia sau Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004. Lực lượng vũ trang Singapore cũng tham gia giúp đỡ trong các nỗ lực cứu trợ sau Bão Katrina. Singapore là một bên trong Dàn xếp phòng vệ 5 quốc gia (FPDA), một liên minh quân sự với Anh, Malaysia, New Zealand, và Úc.
Kinh tế
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Các khu công nghiệp chủ yếu gia công sản phẩm rồi xuất khẩu. Tại Singapore có nhiều ngân hàng lớn đang hoạt động, các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán...là trung tâm tài chính khu vực Đông Nam Á. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Singapore có một nền kinh tế thị trường phát triển cao, dựa trên lịch sử về thương mại cảng vận tải mở rộng. Cùng với Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan, Singapore là một trong Bốn hổ kinh tế của châu Á, và đã vượt qua các nước tương đương về GDP bình quân đầu người. Từ năm 1965 đến năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng trung bình khoảng 6% mỗi năm, làm thay đổi mức sống của dân số. Giai đoạn 2017-2020, tỷ lệ tăng trưởng của Singapore lần là 3.66% (2017), 1.10% (2018), -4.14% (2019), 7.61% (2020). Nền kinh tế Singapore được biết đến như là một trong những tự do nhất, sáng tạo nhất, cạnh tranh nhất, năng động nhất và đa số thân thiện với kinh doanh. Chỉ số Tự do Kinh tế năm 2015 xếp Singapore là nước có nền kinh tế tự do thứ hai trên thế giới và Chỉ số Dễ dẫn Kinh doanh cũng xếp Singapore là nơi dễ dàng nhất để kinh doanh trong thập kỷ qua. Theo Chỉ số Nhận thức Tham nhũng, Singapore luôn được coi là một trong những quốc gia tham nhũng ít nhất trên thế giới, cùng với New Zealand và các nước Scandinavi.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm 2000 đạt hơn 9%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2% do tác động của khủng hoảng kinh tế. Hiện tại (2019), nền kinh tế của Singapore đứng thứ tư của ASEAN, đứng thứ 12 châu Á và đứng thứ 34 trên thế giới, GDP đạt 362,818 tỷ USD.
Trong nhiều năm, Singapore là một trong số ít các quốc gia có xếp hạng tín dụng AAA từ "ba nước lớn" và là nước duy nhất ở Châu Á đạt được mức đánh giá này. Singapore thu hút một lượng lớn đầu tư nước ngoài do vị trí của nó, lực lượng lao động có tay nghề, thuế suất thấp, cơ sở hạ tầng tiên tiến và không khoan nhượng chống tham nhũng. Singapore có trữ lượng ngoại tệ lớn thứ 11 thế giới, và là một trong những quốc gia được đầu tư quốc tế cao nhất trên đầu người. Có hơn 7.000 tập đoàn đa quốc gia đến từ Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu tại Singapore. Cũng có khoảng 1.500 công ty từ Trung Quốc và một số tương tự từ Ấn Độ. Các công ty nước ngoài được tìm thấy ở hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế của đất nước. Khoảng 44 phần trăm lực lượng lao động của Singapore bao gồm những người không phải là người Singapore. Hơn mười hiệp định thương mại tự do đã được ký kết với các nước và khu vực khác. Mặc dù tự do thị trường, hoạt động của chính phủ Singapore có một phần đáng kể trong nền kinh tế, đóng góp 22% GDP.
Singapore là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai ở Ấn Độ. Đây là nhà xuất khẩu lớn thứ 14 và là nhà nhập khẩu lớn thứ 15 trên thế giới.
Đồng tiền của Singapore là đồng đô la Singapore (SGD hay S $) do Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) phát hành. Nó có thể hoán đổi cho đồng đô la Brunei theo mệnh giá từ năm 1967 do mối quan hệ gần gũi lịch sử của chúng. MAS quản lý chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép tỷ giá hối đoái đồng đô la Singapore tăng hoặc rơi vào một dải giao dịch không được tiết lộ. Điều này khác với hầu hết các ngân hàng trung ương, sử dụng lãi suất để quản lý chính sách.
Trong những năm gần đây, đất nước này được xác định là thiên đường thuế ngày càng phổ biến dành cho người giàu do thuế suất thấp đối với thu nhập cá nhân và miễn thuế đối với thu nhập và tăng vốn từ nước ngoài. Nhà bán lẻ triệu phú Úc Brett Blundy và nhà đồng sáng lập nhiều tỷ phú Facebook, ông Eduardo Saverin là hai ví dụ về những cá nhân giàu có đã định cư ở Singapore (Blundy năm 2013 và Saverin năm 2012). Năm 2009, Singapore đã bị loại khỏi "danh sách" các thiên đường thuế của OCDE, nhưng xếp thứ tư trong Chỉ số bảo mật tài chính năm 2015 của Mạng lưới Tư pháp thuế của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính ngoài khơi của thế giới, một phần tám của thế giới ngoài khơi vốn, trong khi "cung cấp nhiều cơ hội tránh thuế và trốn thuế". Vào tháng 8 năm 2016, The Straits Times đã báo cáo rằng Indonesia đã quyết định tạo ra các thiên đường thuế trên hai hòn đảo gần Singapore để đưa thủ đô Indonesia trở lại cơ sở thuế. Vào tháng 10 năm 2016, Cơ quan tiền tệ Singapore đã cảnh cáo và phạt UBS và DBS và rút giấy phép ngân hàng của Ngân hàng tư nhân Falcon vì vai trò bị cáo buộc của họ trong vụ bê bối Quỹ có chủ quyền của Malaysia.
Singapore có tỉ lệ triệu phú là 6.1% trên tổng dân số. Năm 2016, Singapore được Đơn vị Tình báo Kinh tế đánh giá là thành phố đắt đỏ nhất thế giới trong năm thứ ba liên tiếp, và điều này vẫn đúng trong năm 2018. Chính phủ cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ cho người vô gia cư và người nghèo khổ thông qua Bộ Phát triển Gia đình và Xã hội, vì vậy nghèo đói cấp tính là rất hiếm. Một số chương trình bao gồm cung cấp từ 400 đô la Singapore đến 1000 đô la Singapore hỗ trợ tài chính mỗi tháng cho các hộ gia đình nghèo, chăm sóc y tế miễn phí tại các bệnh viện chính phủ và trả tiền học phí cho trẻ em. Các lợi ích khác bao gồm bồi thường phí tập thể dục để khuyến khích công dân tập thể dục, lên tới 166.000 đô la Singapore như một phần thưởng trẻ em cho mỗi công dân, chăm sóc y tế được trợ cấp rất nhiều, hỗ trợ tài chính cho người khuyết tật, cung cấp máy tính xách tay giảm chi phí cho người nghèo sinh viên, giảm giá cho các chi phí như giao thông công cộng và hóa đơn tiện ích, v.v. Tính đến năm 2018, thứ hạng của Singapore trong Chỉ số phát triển con người đứng thứ 9 trên thế giới, với giá trị HDI là 0,935.
Các thương hiệu toàn cầu nổi tiếng nhất của quốc gia bao gồm Singapore Airlines, Sân bay Changi và Cảng Singapore, cả ba đều nằm trong số những ngành được đánh giá cao nhất trong các lĩnh vực công nghiệp tương ứng. Singapore Airlines được xếp hạng là công ty được ngưỡng mộ nhất Châu Á, và được đánh giá cao nhất vào năm 2015 của thế giới vào năm 2015, bởi các cuộc khảo sát ngành công nghiệp hàng năm "50 công ty được ngưỡng mộ nhất trên thế giới" của Fortune. Đây cũng là hãng hàng không được đánh giá cao nhất thế giới, bao gồm "hãng hàng không quốc tế tốt nhất", bởi các cuộc khảo sát người đọc Travel + Leisure của Mỹ, trong 20 năm liên tiếp. Sân bay Changi kết nối hơn 100 hãng hàng không đến hơn 300 thành phố. Trung tâm hàng không chiến lược quốc tế có hơn 480 giải thưởng "Sân bay tốt nhất thế giới" vào năm 2015 và được biết đến như là sân bay được trao danh hiệu này nhiều nhất trên thế giới.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
Du lịch
Du lịch chiếm một phần lớn của nền kinh tế, với hơn 15 triệu khách du lịch đến thăm thành phố vào năm 2014, và 18,5 triệu khách du lịch quốc tế năm 2018, gấp ba lần tổng dân số Singapore. Singapore là thành phố được đến nhiều thứ 5 trên thế giới và thứ 2 ở châu Á-Thái Bình Dương. Năm 2019, du lịch đóng góp trực tiếp vào khoảng 4% GDP của Singapore, so với năm 2016, khi du lịch đóng góp, trực tiếp và gián tiếp, vào khoảng 9,9% GDP của Singapore. Tổng cộng, lĩnh vực này đã tạo ra khoảng 8,6% việc làm của Singapore trong năm 2016.
Để mở rộng ngành, các sòng bạc được hợp pháp hóa vào năm 2005, nhưng chỉ có hai giấy phép cho "Khu nghỉ mát Tích hợp" được ban hành, để kiểm soát việc rửa tiền và nghiện. Singapore cũng quảng bá chính nó như là một trung tâm du lịch y tế: khoảng 200.000 người nước ngoài tìm kiếm sự chăm sóc y tế ở đó mỗi năm. Các dịch vụ y tế của Singapore nhằm phục vụ ít nhất một triệu bệnh nhân nước ngoài hàng năm và tạo ra doanh thu 3 tỷ đô la. Vào năm 2015, Lonely Planet và The New York Times liệt kê Singapore là điểm đến tốt thứ 6 trên thế giới để tham quan.
Tổng cục Du lịch Singapore (STB) là hội đồng theo luật định của Bộ Thương mại và Công nghiệp được giao nhiệm vụ thúc đẩy ngành du lịch của đất nước. Vào tháng 8 năm 2017, STB và Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) đã tiết lộ một thương hiệu thống nhất, Singapore - Passion Made Possible, để tiếp thị Singapore quốc tế cho mục đích kinh doanh và du lịch. Quận Orchard Road, nơi có các trung tâm mua sắm và khách sạn nhiều tầng, có thể được coi là trung tâm mua sắm và du lịch tại Singapore. Các điểm du lịch nổi tiếng khác bao gồm Sở thú Singapore, River Safari và Night Safari. Sở thú Singapore đã chấp nhận khái niệm vườn thú mở, theo đó các động vật được sinh sống trong một khu vực rộng hơn, ngăn cách với du khách bằng những con hào khô hoặc ướt, thay vì nhốt các con vật và River Safari có 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Các địa danh nổi tiếng khác bao gồm công viên Merlion, tòa nhà Marina Bay Sands, Gardens by the Bay, khu phức hợp Jewel, vành đai mua sắm trên đường Orchard, hòn đảo nghỉ mát Sentosa, và Vườn bách thảo Singapore, Di sản Thế giới UNESCO đầu tiên của Singapore.
Nhân khẩu
Năm 2012, dân số Singapore là 5,312 triệu người, trong đó 3,285 triệu (62%) là công dân Singapore và những người còn lại (38%) là những cư dân thường trú hoặc công nhân/học sinh ngoại quốc. 23% công dân Singapore sinh ra bên ngoài Singapore. Có một triệu cư dân thường trú tại Singapore vào năm 2012. Số cư dân này không tính đến 11 triệu du khách tạm thời đến tham quan Singapore mỗi năm.
Tuổi thọ trung bình của người Singapore là 82 tuổi và quy mô hộ gia đình trung bình là 3,5 người. Do khan hiếm đất, 4/5 người Singapore sống trong các căn hộ được trợ cấp, cao tầng, công cộng được gọi là các căn hộ Cục Nhà ở và Phát triển (HDB), theo sau việc cục chịu trách nhiệm đối với nhà ở công tại quốc gia. Có gần 200.000 người giúp việc gia đình tại Singapore.
Năm 2010, tỷ lệ sở hữu nhà tại Singapore là 87,2%. Điện thoại di động thâm nhập với tỷ lệ rất cao là 1.400 điện thoại di động trên 1000 người. Khoảng 1/10 cư dân sở hữu một ô tô.
Tổng tỷ suất sinh được ước tính là 0,79 trẻ em trên mỗi phụ nữ vào năm 2013, đây là tỷ lệ thấp nhất thế giới và thấp hơn tỷ lệ cần thiết là 2,1 để thay thế dân số. Để khắc phục vấn đề này, chính phủ Singapore khuyến khích người ngoại quốc nhập cư đến Singapore trong vài thập niên gần đây. Một lượng lớn người nhập cư giúp cho dân số của Singapore không suy giảm. Singapore có truyền thống là một trong những quốc gia phát triển có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, tỷ lệ thất nghiệp tại đây không vượt quá 4% trong thập kỷ qua, chạm mức cao 3% trong khủng hoản tài chính toàn cầu 2009 và giảm xuống 1,9% vào 2011.
Năm 2009, khoảng 40% cư dân Singapore là người ngoại quốc, một trong những tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Công nhân ngoại quốc chiếm 80% lao động trong ngành xây dựng và chiếm 50% trong ngành phục vụ.
Năm 2009, điều tra dân số của chính phủ báo cáo rằng 74,2% cư dân là người gốc Hoa, 13,4% là người gốc Mã Lai, và 9,2% là người gốc Ấn Độ, người Âu-Á và các nhóm khác chiếm 3,2%. Trước năm 2010, mỗi cá nhân chỉ có thể đăng ký làm thành viên của một chủng tộc, mặc định theo phụ hệ, do đó, những người hỗn chủng được xếp theo nhóm chủng tộc của người cha. Từ năm 2010 trở đi, người dân có thể đăng ký theo phân loại kép, trong đó họ có thể chọn một chủng tộc chính và một chủng tộc thứ, song không quá hai.
Tôn giáo
Phật giáo là tôn giáo được thực hành phổ biến nhất tại Singapore, với 33% số cư dân tuyên bố bản thân họ là tín đồ đạo Phật trong cuộc điều tra dân số gần đây nhất. Tôn giáo được thực hành phổ biến thứ nhì là Ki-tô giáo, sau đó là Hồi giáo, Đạo giáo, và Ấn Độ giáo. 17% dân số không gia nhập tôn giáo nào. Tỷ lệ tín đồ Ki-tô giáo, Đạo giáo, và người không tôn giáo tăng trong khoảng thời gian giữa năm 2000 và 2010, mỗi nhóm tăng 3%, trong khi tỷ lệ tín đồ Phật giáo thì giảm xuống. Các đức tin khác vẫn ổn định trên quy mô lớn về tỷ lệ dân số.
Tại Singapore có các chùa và trung tâm Phật pháp từ cả ba tông phái truyền thống chính của Phật giáo: Thượng tọa bộ, Đại thừa, và Kim cương thừa. Hầu hết tín đồ Phật giáo tại Singapore là người Hoa và theo truyền thống Đại thừa. Đại thừa Trung Hoa là tông phái Phật giáo chiếm ưu thế nhất tại Singapore, với các hòa thượng truyền giáo đến từ Đài Loan và Trung Quốc trong vài thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, Phật giáo Thượng tọa bộ từ Thái Lan ngày càng phổ biến trong cư dân Singapore (không chỉ người Hoa) trong thập niên qua. Học hội Sáng giá Quốc tế là một tổ chức Phật giáo của Nhật Bản, hiện được nhiều người thực hành theo tại Singapore, song hầu hết họ là người gốc Hoa. Phật giáo Tây Tạng cũng xâm nhập chậm vào quốc đảo trong những năm gần đây.
Ngôn ngữ
Singapore có bốn ngôn ngữ chính thức: tiếng Anh, tiếng Mã Lai, tiếng Quan thoại, và tiếng Tamil. Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến tại quốc đảo và là ngôn ngữ của kinh doanh, chính phủ, và là phương tiện giảng dạy trong trường học. Các cơ cấu công cộng tại Singapore quản lý công việc của họ bằng tiếng Anh, và các tài liệu chính thức được viết bằng các ngôn ngữ chính thức khác như tiếng Hoa, tiếng Mã Lai, hay tiếng Tamil thường phải được dịch sang tiếng Anh để việc đệ trình được chấp nhận. Hiến pháp Singapore và toàn bộ các luật được viết bằng tiếng Anh, và người dịch được yêu cầu nếu một người muốn nói chuyện với tòa án bằng một ngôn ngữ không phải tiếng Anh. Tuy nhiên, tiếng Anh chỉ là ngôn ngữ mẹ đẻ của một phần ba người Singapore, với khoảng một phần ba người Singapore gốc Hoa, một phần tư người Singapore gốc Mã Lai và một nửa người Singapore gốc Ấn Độ có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Anh. 20% người Singapore không thể đọc hoặc viết bằng tiếng Anh.
Nhiều người Singapore là người song ngữ trong tiếng Anh và ngôn ngữ chính thức khác, với mức độ lưu loát khác nhau. Xếp hạng các ngôn ngữ chính thức về tỷ lệ đọc viết là tiếng Anh (80% biết đọc viết), Quan thoại (65% biết đọc viết), Mã Lai (17% biết đọc viết), và Tamil (4% biết đọc viết). Tiếng Anh-Singapore dựa trên tiếng Anh-Anh, và các dạng tiếng Anh được nói tại Singapore biến thiên từ "tiếng Anh-Singapore chuẩn" đến một thứ tiếng bồi gọi là "Singlish". Singlish bị chính phủ ngăn trở quyết liệt.
Tiếng Hoa là ngôn ngữ mẹ đẻ của nhiều người Singapore nhất, chiếm một nửa trong số họ. Quan thoại Singapore là phương ngôn tiếng Hoa phổ biến nhất tại quốc đảo, với 1,2 triệu người sử dụng nó làm ngôn ngữ nói tại nhà. Gần nửa triệu người nói các phương ngôn tiếng Hoa khác, chủ yếu là tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, và tiếng Quảng Đông, như ngôn ngữ tại nhà của họ, song việc sử dụng các phương ngôn này đang suy giảm khi thế hệ sau này chuyển sang Quan thoại và tiếng Anh.
Chính phủ Singapore chọn tiếng Mã Lai làm ngôn ngữ quốc gia sau khi giành độc lập từ Anh Quốc trong thập niên 1960 nhằm tránh xích mích với các láng giềng — Malaysia và Indonesia — những quốc gia nói tiếng Mã Lai. Việc này mang mục đích biểu tượng hơn là chức năng. Ngôn ngữ này được sử dụng trong quốc ca "Majulah Singapura", trong các trích dẫn của hệ thống thứ bậc và huy chương của Singapore, và trong chỉ huy quân sự. Ngày nay, về tổng thể, tiếng Mã Lai được nói trong cộng đồng người Singapore gốc Mã Lai, chỉ 16,8% người Singapore biết đọc viết tiếng Mã Lai và chỉ 12% sử dụng nó làm ngôn ngữ mẹ đẻ.
Khoảng 100.000, hay 3%, người Singapore nói tiếng Tamil như ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Tamil có địa vị chính thức tại Singapore và không có nỗ lực nào nhằm ngăn cấm việc sử dụng các ngôn ngữ Ấn Độ khác.
Xã hội
Giáo dục
Singapore là một trung tâm giáo dục, với hơn 80.000 sinh viên quốc tế trong năm 2006. 5.000 sinh viên từ Malaysia vượt qua tuyến đường Johor-Singapore mỗi ngày để học tại Singapore. Trong năm 2009, 20% học sinh của các trường đại học Singapore là sinh viên quốc tế - mức tối đa cho phép, phần lớn là từ ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ. Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) được xếp hạng trong top những trường đại học tốt nhất châu Á và luôn đứng trong top 13 các trường đại học chất lượng nhất thế giới những năm gần đây.
Giáo dục các cấp tiểu học, trung học, và đại học hầu hết được nhà nước hỗ trợ. Toàn bộ các tổ chức dù là công hay tư đều phải được đăng ký với Bộ Giáo dục. Tiếng Anh là ngôn ngữ giảng dạy trong toàn bộ các trường học công, và toàn bộ các môn học được dạy và thi bằng tiếng Anh ngoại trừ bài luận bằng "tiếng mẹ đẻ". Trong khi thuật ngữ "tiếng mẹ đẻ" về tổng thể tầm quốc tế là đề cập đến ngôn ngữ thứ nhất, song nó được sử dụng nhằm đề cập đến ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục của Singapore, do tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất. Các học sinh ở tại nước ngoài trong một thời gian, hoặc gặp khó khăn với "tiếng mẹ đẻ" của họ, được phép có một đề cương giản hóa hoặc bỏ qua môn học.
Giáo dục gồm ba giai đoạn: tiểu học, trung học, và tiền đại học, trong đó chỉ có cấp tiểu học là bắt buộc. Học sinh bắt đầu với 6 năm tiểu học, gồm 4 năm cơ sở và hai năm định hướng, chương trình giảng dạy tập trung vào phát triển Anh ngữ, bản ngữ, toán học, và khoa học. Trung học kéo dài 4-5 năm, và được phân thành các ban Đặc thù, Nhanh, Phổ thông (Học thuật), và Phổ thông (Kỹ thuật) trong mỗi trường, dựa theo trình độ năng lực của mỗi học sinh. Phân loại chương trình cơ bản tương tự cấp tiểu học, song các lớp học chuyên biệt hơn nhiều. Giáo dục tiền đại học diễn ra trong 2-3 năm tại các trường cao đẳng, hầu hết gọi là Học viện sơ cấp. Một số trường học được tự do trong chương trình giảng dạy của mình và được gọi là trường tự chủ. Các trường này tồn tại từ cấp trung học trở lên.
Các kỳ thi quốc gia được tiêu chuẩn hóa trong tất cá các trường học, với một bài kiểm tra được thực hiện sau mỗi giai đoạn. Sau sáu năm giáo dục đầu tiên, học sinh tham gia khảo thí rời tiểu học (PSLE), nó quyết định vị trí của họ tại trường trung học. Cuối giai đoạn trung học, khảo thí GCE trình độ "O" được tiến hành; vào cuối giai đoạn tiền đại học sau đó, khảo thí GCE trình độ "A" được tiến hành. Năm 2005, trong toàn bộ người Singapore 15 tuổi và lớn hơn mà không còn là học sinh, có 18% không có trình độ giáo dục.
Y tế
Singapore có một hệ thống chăm sóc y tế hiệu quả về tổng thể, dù chi phí y tế tại đây tương đối thấp so với các quốc gia phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới xếp hạng hệ thống y tế của Singapore đứng thứ 6 về tổng thể trong Báo cáo Y tế thế giới 2000. Singapore có tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới trong hai thập niên qua. Tuổi thọ trung bình (năm 2012) tại Singapore là 83, trong khi số liệu toàn cầu là 70. Hầu như toàn bộ dân cư được tiếp cận với nước và điều kiện vệ sinh được cải thiện. Phụ nữ nước này có thể sống trung bình 87,6 năm với 75,8 năm có sức khỏe tốt. Mức trung bình thấp hơn đối với nam giới. Singapore được xếp hạng 1 về Chỉ số an ninh lương thực toàn cầu.
Tính đến tháng 12 năm 2011 và tháng 1 năm 2013, có 8.800 người nước ngoài và 5.400 người Singapore được chẩn đoán nhiễm HIV tương ứng, nhưng có ít hơn 10 trường hợp tử vong hàng năm do HIV trên 100.000 người. Có một mức độ tiêm chủng cao. Béo phì ở người trưởng thành dưới 10%. Đơn vị tình báo kinh tế, trong Chỉ số sinh ra năm 2013, đã xếp hạng Singapore là nơi có chất lượng cuộc sống tốt nhất ở châu Á và thứ sáu trên toàn thế giới.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe của chính phủ dựa trên khung "3M". Điều này có ba thành phần: Medifund, cung cấp một mạng lưới an toàn cho những người không có khả năng chăm sóc sức khỏe, Medisave, một hệ thống tài khoản tiết kiệm y tế quốc gia bắt buộc bao gồm khoảng 85% dân số, và Medishield, một chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ tài trợ. Các bệnh viện công ở Singapore có quyền tự chủ đáng kể trong các quyết định quản lý của họ và cạnh tranh về mặt bệnh nhân, tuy nhiên họ vẫn thuộc quyền sở hữu của chính phủ và chính phủ bổ nhiệm các hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành và báo cáo quản lý và chịu trách nhiệm trước các ban này. Một chế độ trợ cấp tồn tại cho những người có thu nhập thấp. Năm 2008, 32% dịch vụ chăm sóc sức khỏe được chính phủ tài trợ. Nó chiếm khoảng 3,5% GDP của Singapore.
Văn hóa
Singapore là một quốc gia đa dạng và non trẻ, với nhiều ngôn ngữ, tôn giáo, và văn hóa. Khi Singapore độc lập từ Anh Quốc vào năm 1963, hầu hết công dân là những lao động không có học thức đến từ Malaysia, Trung Quốc và Ấn Độ. Nhiều người trong số họ là những lao động ngắn hạn, đến Singapore nhằm kiếm một khoản tiền và không có ý định ở lại. Ngoại trừ người Peranakan (hậu duệ của người Hoa nhập cư vào thế kỷ XV-XVI) đảm bảo lòng trung thành của họ với Singapore, thì hầu hết người lao động trung thành với quê hương của họ. Sau khi độc lập, quá trình thiết lập một bản sắc Singapore được khởi động.
Các cựu thủ tướng Lý Quang Diệu và Ngô Tác Đồng từng tuyên bố rằng Singapore không thích hợp với mô tả truyền thống về một quốc gia, gọi đây là một xã hội quá độ, chỉ ra thực tế rằng không phải toàn bộ người Singapore nói cùng một ngôn ngữ, chia sẻ cùng một tôn giáo, hoặc có phong tục tương đồng. Mặc dù tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất của quốc gia, song theo điều tra nhân khẩu năm 2010 của chính phủ thì có 20% người Singapore không biết đọc viết bằng tiếng Anh, con số này vào năm 1990 là 40%. Chính phủ nhận định sự hài hòa chủng tộc và tôn giáo là bộ phận quan trọng trong thành công của Singapore, và đóng vai trò quan trọng trong việc kiến thiết một bản sắc Singapore.
Quốc hoa của Singapore là Vanda 'Miss Joaquim', được đặt tên theo một phụ nữ Armenia sinh tại Singapore, bà phát hiện loài hoa này trong vườn nhà tại Tanjong Pagar vào năm 1893. Nhiều phù hiệu quốc gia như quốc huy Singapore và biểu tượng đầu sư tử Singapore sử dụng hình tượng sư tử, do Singapore được mệnh danh là 'Thành phố Sư tử'. Các ngày lễ công cộng tại Singapore bao trùm các lễ chính của người Trung Hoa, Tây phương, Mã Lai, Ấn Độ.
Ở tầm quốc gia, Singapore là một xã hội bảo thủ, song xuất hiện một số sự tự do hóa. Ở cấp độ quốc gia, trọng dụng nhân tài được chú trọng cao độ, mỗi cá nhân được đánh giá dựa trên năng lực của họ.
Từ thập niên 1990, chính phủ xúc tiến các hoạt động nhằm biến Singapore thành một trung tâm nghệ thuật và văn hóa, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn, và biến đổi quốc gia thành một "cửa ngõ giữa phương Đông và phương Tây".
Ẩm thực
Ẩm thực cùng với mua sắm được cho là những hoạt động tiêu khiển quốc gia tại Singapore. Sự đa dạng của thực phẩm được quảng cáo là một trong những lý do để đến thăm đảo quốc, và sự đa dạng của thực phẩm đại diện cho các dân tộc khác nhau, chính phủ nhận định đây là một tương trưng cho sự đa dạng văn hóa của đảo quốc. "Quốc quả" của Singapore là sầu riêng.
Các mặt hàng thực phẩm địa phương thường liên quan đến một dân tộc cụ thể - Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ; nhưng sự đa dạng của ẩm thực đã tăng thêm bởi sự kết hợp của các phong cách khác nhau (ví dụ: ẩm thực Peranakan, sự pha trộn của ẩm thực Trung Quốc và Mã Lai). Trong các trung tâm bán hàng rong, sự khuếch tán văn hóa được minh họa bằng các quầy bán hàng rong truyền thống của người Mã Lai cũng bán thức ăn của người Tamil. Các quầy hàng Trung Quốc có thể giới thiệu các nguyên liệu Mã Lai, kỹ thuật nấu ăn hoặc toàn bộ món ăn vào phạm vi phục vụ của họ. Cơm gà Hải Nam, dựa trên món gà Văn Xương ở đảo Hải Nam, được coi là món ăn quốc gia của Singapore.
Thành phố có một nền ẩm thực đang phát triển từ các trung tâm bán hàng rong (ngoài trời), khu ẩm thực (máy lạnh), quán cà phê (ngoài trời với hàng chục quầy hàng rong), quán cà phê, thức ăn nhanh, và các nhà hàng từ đơn giản, bình dân cho đến nổi tiếng và cao cấp. Dịch vụ giao đồ ăn cũng đang tăng lên, với 70% cư dân đặt hàng từ các ứng dụng giao hàng ít nhất một lần một tháng. Nhiều nhà hàng đầu bếp nổi tiếng quốc tế nằm trong các khu nghỉ dưỡng tích hợp. Chế độ ăn kiêng tôn giáo tồn tại (người Hồi giáo không ăn thịt lợn và người Ấn Độ giáo không ăn thịt bò), và cũng có một nhóm người ăn chay đáng kể. Lễ hội ẩm thực Singapore kỷ niệm ẩm thực Singapore được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy.
Trước những năm 1980, thức ăn đường phố được bán chủ yếu bởi những người nhập cư từ Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia cho những người nhập cư khác đang tìm kiếm một hương vị ẩm thực quen thuộc. Ở Singapore, thức ăn đường phố từ lâu đã được liên kết với các trung tâm bán hàng rong với các khu vực chỗ ngồi chung. Thông thường, các trung tâm này có vài chục đến hàng trăm quầy hàng thực phẩm, mỗi quầy chuyên về một hoặc nhiều món ăn liên quan. Trong khi thức ăn đường phố có thể được tìm thấy ở nhiều quốc gia, sự đa dạng và tầm với của các trung tâm bán hàng rong tập trung phục vụ thức ăn đường phố di sản ở Singapore là độc nhất. Năm 2018, đã có 114 trung tâm bán hàng rong trải khắp trung tâm thành phố và các khu nhà ở trung tâm. Chúng được duy trì bởi Cơ quan Môi trường Quốc gia, nơi cũng phân loại từng gian hàng thực phẩm để vệ sinh. Trung tâm bán hàng rong lớn nhất nằm trên tầng hai của Khu phức hợp Khu phố Tàu, và có hơn 200 quầy hàng. Khu phức hợp này cũng là nơi có bữa ăn được gắn sao Michelin rẻ nhất thế giới - một đĩa cơm gà sốt tương hoặc mì với giá 2 đô la Singapore (1,50 đô la Mỹ). Hai quầy hàng thức ăn đường phố trong thành phố là những quán ăn đầu tiên trên thế giới được trao tặng một ngôi sao Michelin, mỗi nơi đều có được một ngôi sao.
Thể thao
Sự phát triển của các câu lạc bộ thể thao và giải trí tư nhân bắt đầu từ Singapore thế kỷ 19, với các câu lạc bộ được thành lập trong thời gian này bao gồm Câu lạc bộ Cricket, Câu lạc bộ Giải trí Singapore, Câu lạc bộ bơi lội Singapore và Câu lạc bộ Hollandse.
Các môn thể thao đại chúng tại Singapore gồm có bóng đá, bóng rổ, cricket, bơi lội, đi thuyền, bóng bàn và cầu lông. Hầu hết người Singapore sống trong các khu chung cư gần các tiện ích như hồ bơi, bên ngoài có sân bóng rổ và khu thể thao trong nhà. Các môn thể thao dưới nước phổ biến tại đảo quốc, trong đó có đi thuyền, chèo thuyền kayak và lướt ván. Lặn biển là một môn thể thao tiêu khiển phổ biến khác, đảo Hantu đặc biệt nổi tiếng với các rạn san hô phong phú. Giải bóng đá vô địch quốc gia của Singapore mang tên S-League, được hình thành vào năm 1994, bao gồm 9 đội tham dự, trong đó có 2 đội nước ngoài. Singapore bắt đầu tổ chức một vòng thi đấu của giải vô địch công thức 1 thế giới, Singapore Grand Prix, vào năm 2008. Singapore tổ chức Thế vận hội trẻ kỳ đầu tiên, vào năm 2010.
Bơi lội được xem là bộ môn thế mạnh của thể thao Singapore. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016, vận động viên Joseph Schooling đã giành huy chương vàng Olympic đầu tiên cho Singapore ở cuộc thi bơi bướm 100 mét trong thời gian ngắn kỷ lục 50,39 giây. Các vận động viên đua thuyền Singapore cũng đã thành công trên trường quốc tế, với đội Optimist của họ được coi là một trong những đội mạnh của thế giới. Mặc dù kích thước nhỏ, quốc gia này đã thống trị các giải đấu bơi lội ở SEA Games. Đội tuyển bóng nước Singapore đã giành huy chương vàng SEA Games lần thứ 27 vào năm 2017, tiếp tục chuỗi vô địch dài nhất của thể thao Singapore về môn môn cụ thể.
Truyền thông
Các công ty có liên kết với chính phủ kiểm soát hầu hết truyền thông nội địa tại Singapore. MediaCorp vận hành hầu hết các kênh truyền hình và phát thanh phát sóng miễn phí tại Singapore. Có tổng cộng 7 kênh truyền hình phát sóng miễn phí do Mediacorp cung cấp. Các kênh Channel 5 (tiếng Anh), Channel News Asia (tiếng Anh), Okto (tiếng Anh), Channel 8 (tiếng Trung), Channel U (tiếng Trung), Suria (tiếng Mã Lai) và Vasantham (tiếng Ấn). StarHub Cable Vision (SCV) cung cấp dịch vụ truyền hình cáp với các kênh từ khắp thế giới và Mio TV của SingTel cung cấp một dịch vụ IPTV. Tập đoàn Singapore Press Holdings có liên hệ với chính phủ và kiểm soát hầu hết ngành báo chí tại Singapore. Các tổ chức nhân quyền như Freedom House đôi khi chỉ trích ngành truyền thông Singapore chịu quản lý quá mức và thiếu tự do. Năm 2010, Phóng viên không biên giới xếp hạng Singapore thứ 136 trong số 178 trong Chỉ số Tự do Báo chí của mình.
Giao thông
Hệ thống giao thông công chánh ở Singapore rất phát triển. Chất lượng đường bộ của đảo quốc này được đánh giá là vào loại tốt nhất thế giới. Giao thông tại Singapore được vận hành theo mô hình của Anh, trái với giao thông tay phải của châu Âu lục địa.
Singapore có nhiều loại phương tiện giao thông công cộng, trong đó hai phương tiện phổ biến nhất là xe buýt (hơn 3 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010) và tàu điện ngầm mà người Singapore thường gọi là SMRT (Singapore Mass Rapid Transit, hơn 2 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010). Người đi xe buýt trả tiền mua vé cho từng chặng, ngoại trừ trường hợp họ có thẻ từ tự động EZlink (thẻ này cho phép họ sử dụng dịch vụ của xe bus giá rẻ và trong một thời gian dài). Hệ thống tàu điện ngầm của Singapore có 84 ga với chiều dài 129.9 km và có giờ làm việc là từ 06:00 tới 24:00. Taxi cũng là một phương tiện giao thông khá phổ biến ở Singapore nhưng khá khó bắt và giá rất đắt trong giờ cao điểm.
Do Singapore có diện tích rất hẹp, nên chính quyền Singapore thường có những biện pháp đặc biệt để tránh tình trạng kẹt xe, tắc đường. Hệ thống thuế giờ cao điểm ERP (Electronics Road Pricing) được đưa vào hoạt động trong khu vực trung tâm thành phố để giảm lưu lượng xe lưu thông qua các khu vực này vào giờ cao điểm. Số tiền này được trừ thẳng vào thẻ EZLink cài trên xe hơi. ERP có thể lên đến SGD15 nếu 1 chiếc xe chạy qua 5 trạm ERP trong khu vực nội thành. Singapore cũng có phương tiện giao thông đường thủy phổ biến là thuyền máy nhỏ, tuy nhiên đa số chúng chỉ được dùng cho mục đích du lịch. Các du khách tới Singapore có thể tham quan thành phố bằng đường thủy trên sông Singapore trong những tour kéo dài khoảng 30 phút.
Do Singapore là một đảo quốc nhỏ với mật độ dân số cao, số lượng ô tô cá nhân trên đường bị hạn chế nhằm giảm ô nhiễm và tắc nghẽn. Những người mua ô tô phải trả thuế cao gấp 1,5 lần giá thị trường của phương tiện, và phải đấu giá cho một giấy chứng nhận quyền lợi (COE) để ô tô của họ được phép chạy trên đường trong một thập niên. Giá ô tô tại Singapore thường cao hơn đáng kể so với các quốc gia nói tiếng Anh khác. Giống như hầu hết các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung, các phương tiện đi trên đường và người đi bộ trên phố theo quy tắc bên trái.
Cư dân Singapore cũng di chuyển bằng cách phương thức đi bộ, xe đạp, xe buýt, taxi và tàu hỏa và tàu điện ngầm (MRT hoặc LRT). Hai công ty vận hành xe buýt công cộng và hệ thống giao thông tàu hỏa là SBS Transit và SMRT Corporation. Taxi là hình thức giao thông công cộng phổ biến do chi phí tương đối rẻ so với nhiều quốc gia phát triển khác.
Năm 2010, Singapore sở hữu một hệ thống đường bộ dài tổng cộng , trong đó có đường cao tốc. Kế hoạch giấy phép khu vực Singapore được thi hành vào năm 1975, là kế hoạch giải quyết tắc nghẽn thông qua phí đầu tiên trên thế giới, gồm các biện pháp bổ sung như hạn ngạch sở hữu ô tô nghiêm ngặt và cải thiện giao thông công cộng. Năm 1998, nó được nâng cấp và đổi tên thành phí đường bộ điện tử, hệ thống thực hiện thu thuế điện tử, phát hiện điện tử, và giám sát bằng video.
Cảng Singapore là cảng nhộn nhịp hàng đầu thế giới. Singapore là một trung tâm hàng không quan trọng tại châu Á, và là điểm dừng chân của tuyến Kangaroo giữa Sydney và Luân Đôn. Singapore có 3 cảng hàng không dân sự, bao gồm Sân bay quốc tế Singapore Changi (lớn nhất), sân bay Setelar và sân bay Kalland (đã ngừng hoạt động). Trong đó sân bay Changi sở hữu một mạng lưới gồm trên 100 hãng hàng không kết nối Singapore với khoảng 300 thành thị tại khoảng 70 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu. Changi đã nhiều lần được các tạp chí du lịch quốc tế đánh giá là một trong những sân bay quốc tế tốt nhất thế giới, bao gồm cả được đánh giá là sân bay tốt nhất thế giới lần đầu tiên vào năm 2006 bởi Skytrax. Hãng hàng không quốc gia là Singapore Airlines.
Ghi chú |
Chính phủ (tiếng Anh: government) là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật pháp trong một tổ chức quốc gia hay một nhóm người ở tầm quốc gia. Ngoài ra, Chính phủ còn quản lý hoặc chỉ đạo trong một khu vực, trong một nhóm người. Chính phủ còn là cơ quan được trao quyền hành pháp cùng với nguyên thủ quốc gia. Mặc dù có khá nhiều thuật ngữ khác nhau như Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước, Nội các, Hội đồng Hành chính,... nhưng thuật ngữ "Chính phủ" có ý nghĩa bao quát nhất, hàm ý cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong một cơ cấu nhà nước hoặc tương tự nhà nước.
Tuy nhiên, cách hiểu thuật ngữ này còn phụ thuộc vào hình thức chính thể (tổ chức nhà nước) ở mỗi nước. Ở các nước cộng hòa tổng thống và quân chủ tuyệt đối, quân chủ nhị nguyên, chính phủ chủ yếu được coi là tập hợp các cố vấn cho người đứng đầu nhà nước với thẩm quyền xuất phát từ thẩm quyền của người đứng đầu nhà nước, mà không tạo thành một tập thể toàn vẹn. Còn ở các nước theo chính thể nghị viện, chính phủ là thiết chế tập thể thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm trước nghị viện về đường hướng chính sách đã đề ra.
Từ nguyên
Xưng vị "chính phủ" (Trung văn: 政府) trong tiếng Việt bắt nguồn từ Trung Quốc. Thời Đường và Tống, nơi tể tướng xử lý chính vụ gọi là "chính phủ". Về sau từ "chính phủ" được dùng để chỉ cơ quan thi hành quyền lực quốc gia, tức cơ quan hành chính quốc gia.
Từ "chính phủ" trong các ngôn ngữ phương Tây như tiếng Anh (government), tiếng Pháp (gouvernement), tiếng Đức (Regierung) từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp là Κυβερνήτης (kubernites) với nghĩa "thuyền trưởng" (steersman), chủ quản (governor), phi công hoặc bánh lái (rudder)
Cách thức hình thành
Cách thức hình thành chính phủ ở mỗi nước phụ thuộc vào hình thức chính thể của nước đó. Ở nhiều nước theo chính thể nghị viện như Singapore, Hy Lạp, Ý, Canada, Ấn Độ, Úc, Anh, nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm lãnh đạo đảng chiếm đa số (hoặc liên minh một số đảng) làm Thủ tướng Chính phủ và bổ nhiệm các bộ trưởng khác theo giới thiệu của Thủ tướng. Nhưng ở nhiều nước khác theo chính thể nghị viện, nghị viện trực tiếp bỏ phiếu bầu Thủ tướng, sau đó nguyên thủ quốc gia mới phê chuẩn. Ở một số nước như Australia, New Zealand, các nghị sĩ thành viên của đảng chiếm đa số bỏ phiếu bầu các thành viên Chính phủ, còn Thủ tướng chỉ có quyền phân chia ghế giữa các thành viên đó. Ở những nước như Hà Lan, Italy, Áo, Đan Mạch, Bỉ thường diễn ra tình trạng không một đảng nào hoặc một liên minh nào chiếm đa số trong nghị viện, dẫn đến việc hình thành chính phủ chiếm thời gian khá lâu, và nhiều khi thành phần chính phủ không phản ánh kết quả bầu cử, nghĩa là "thắng cử nhưng thua ghế".
Ở các nước cộng hòa tổng thống, quân chủ tuyệt đối và quân chủ nhị nguyên, chính phủ hình thành chủ yếu theo ý chí của người đứng đầu nhà nước. Chẳng hạn, ở các nước Nam Mỹ, Tổng thống có toàn quyền lựa chọn thành phần chính phủ. Ở nhiều nước như Mỹ, Ecuador, việc Tổng thống bổ nhiệm các Bộ trưởng phải có sự phê chuẩn của Thượng viện. Còn ở Philippines, một Ủy ban do Chủ tịch Thượng viện đứng đầu và mỗi viện cử 12 nghị sĩ theo tỷ lệ các chính đảng để phê chuẩn việc Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng.
Ở các nước theo chính thể cộng hòa lưỡng tính, thông thường nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm một trong số các lãnh đạo của đảng chiếm đa số (hoặc liên minh các đảng) làm Thủ tướng Chính phủ và bổ nhiệm các bộ trưởng khác theo giới thiệu của Thủ tướng. Ở một số nước như Nga, Hàn Quốc, việc bổ nhiệm này phải được nghị viện biểu quyết phê chuẩn. Còn ở Pháp, trong trường hợp Tổng thống là người của đảng chiếm đa số trong nghị viện thì việc bổ nhiệm các bộ trưởng hầu như do Tổng thống quyết định, nhưng nếu Thủ tướng là người của đảng đa số thì vai trò của Thủ tướng sẽ tăng lên, nhưng đối với một số ghế bộ trưởng vẫn phải có ý kiến của Tổng thống.
Ở nhiều nước như Hy Lạp, Italy, Séc, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, để được coi là đã hoàn toàn hình thành và có thể bắt tay vào hoạt động, trong vòng một thời hạn nhất định (ví dụ 10 ngày, 14 ngày, 30 ngày) chính phủ phải nhận được sự ủng hộ của đa số trong nghị viện qua việc biểu quyết tín nhiệm đối với thành phần và chương trình hành động của chính phủ. Ở một số nước như ở Bắc Âu, Hiến pháp quy định Chính phủ có thể làm việc ngay sau khi nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thủ tướng. Ở một số nước khác kết hợp hai cách quy định nói trên.
Bản đồ
Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà nước.
Chính phủ do Chủ tịch nước thành lập và Quốc hội phê chuẩn, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm). Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước và phê chuẩn chính phủ mới. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Quốc hội bầu Thủ tướng theo đề nghị của Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội và chỉ có Quốc hội mới có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng trước khi kết thúc nhiệm kỳ.
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Theo Điều 112 Hiến pháp 1992, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ có quyền ban hành các Nghị quyết, Nghị định. Các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. |
Kinh tuyến gốc, còn gọi là kinh tuyến gốc 1 số không là kinh tuyến có kinh độ bằng 0°, đi ngang qua đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Luân Đôn, nước Anh. Bên trái của kinh tuyến gốc là các kinh tuyến Tây, bên phải kinh tuyến gốc là các kinh tuyến Đông.
Trong nhiều thế kỉ trước, El Hierro (còn được gọi là "Đảo Kinh tuyến") của Tây Ban Nha vẫn được coi là điểm mà "kinh tuyến số 0" chạy qua. Ngay từ thế kỉ 2 chính Ptôlêmê đã vận dụng điểm "cực viễn Tây" của lục địa châu Âu để đặt kinh tuyến "mốc 0", nhờ đó mà tất cả mọi điểm trên thế giới, đã được biết đến, đều có tọa độ (kinh độ) Đông và theo quy ước này thì đều dương.
Người ta dùng "kinh tuyến số 0" làm mốc để vẽ bản đồ và để tính toán tọa độ địa lý, nhất là đối với các nhà hàng hải và địa lý của Anh.
Kinh tuyến Greenwich
Tính đến năm 2017 kinh tuyến Greenwich đi qua:
,
,
,
,
,
,
,
,
,
ở Châu Nam Cực. |
Claudius Ptolemaeus (tiếng Hy Lạp: Κλαύδιος Πτολεμαῖος Klaudios Ptolemaios), hoặc một cách đơn giản là Ptolemaeus, Ptolemy hay Ptolémée hay Ptôlêmê, (khoảng 100-178) là một nhà bác học Hy Lạp xuất xứ từ Tebaida, học tập, sinh sống và làm việc tại Alexandria. Ông viết nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực như toán học, thiên văn học, địa lý và nhạc.
Tiểu sử
Nghiên cứu
Các quan điểm của ông về cấu trúc của thế giới đã làm nền tảng cho thuyết địa tâm trong nhiều thế kỷ, một học thuyết mà đến đời Nicolaus Copernicus mới bị đánh đổ. Ptolemaeus cũng là tác giả của sơ đồ chuyển động của các thiên thể với sự có mặt của tuế sai.
Trong tác phẩm mang tựa đề "Địa lý học" của mình (Geographia), ông đã miêu tả tới hơn 3.000 địa danh. Ông cũng soạn ra các nguyên tắc về họa đồ, có ghi trong cuốn sách "Mở đầu về địa lý".
Các công trình nghiên cứu của Ptolemaeus trong lĩnh vực thiên văn học đã được tập hợp lại trong cuốn Hè Megalè Syntaxis, về sau này còn được biết đến với cái tên là Ho megas astronomos. Cái tên Almagest (Αλμαγέστη) của nó mà ngày nay ta thường gặp là có xuất xứ từ chữ megiste trong tiếng Hy Lạp, và do các nhà bác học Ả Rập ở thế kỷ 9 đã thêm cái tiếp đầu ngữ al vào mà thành. Almagest là sự tổng hợp tất cả các thành tựu về thiên văn của Hy Lạp, mà trong đó Hipparchus của Nicaea là nguồn của các dữ liệu chính về các khám phá.
Các học trò của ông |
Chùa Xá Lợi (舍利寺) là một ngôi chùa lớn và là một di tích cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Sư Thiện Chiếu, Quận 3, trong một khuôn viên rộng 2.500 m².
Lịch sử
Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956 thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam theo bản vẽ của các kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, công trường xây dựng do các kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận điều khiển. Chùa được hoàn thành vào ngày 2 tháng 5 năm 1958.
Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên ban đầu có tên là chùa thờ Xá Lợi, người dân quen gọi tắt là chùa Xá Lợi nên khi khánh thành hòa thượng Khánh Anh đã đặt tên chùa là Xá Lợi cho hợp lòng người.
Năm 1961 nhà chùa xây thêm tháp chuông
Chùa là trụ sở chính của Hội Phật học Nam Việt từ năm 1951 cho đến năm 1981. Trong hai năm 1964-1966 chùa còn là cơ sở giảng dạy của Viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1981 đến tháng 5 năm 1993 chùa là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II).
Kiến trúc
Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường. Cấu trúc của chùa bao gồm chánh điện thờ Phật, giảng đường, tháp chuông, thư viện, tăng phòng, nhà trai đường, văn phòng, đoàn quán, phòng phát hành kinh sách, phòng khách và vãng sinh đường.
Chùa thờ một tượng Phật Thích Ca lớn do trường Mỹ Nghệ Biên Hòa đắp tạo. Năm 1969 tượng được thếp lại toàn thân bằng vàng như hình dáng ngày nay. Trước tượng Phật là nơi tôn thờ xá lợi Phật đặt trong một tháp nhỏ. Chính điện ở tầng lầu được trang trí bằng một bộ tranh lớn gồm 15 bức do giáo sư Nguyễn Văn Long của trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện, miêu tả lịch sử đức Phật Thích Ca từ lúc sơ sinh cho đến khi nhập Niết Bàn.
Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành trong năm 1961. Tháp chuông cao 32 mét, gồm 7 tầng, cho đến đầu thế kỷ 21 là tháp chuông cao nhất Việt Nam nhưng sau chùa Linh Phước ở Đà Lạt đã dựng một tháp chuông cao hơn. Tầng cao nhất tháp chùa Xá Lợi có treo một đại hồng chung nặng 2 tấn, được đúc đồng theo mẫu của chuông chùa Thiên Mụ (Huế). |
Java API for XML Processing, hay JAXP, là một trong các API cho lập trình Java XML. Nó cung cấp khả năng kiểm chứng và phân tích các tài liệu XML. Hai loại giao diện (interface) để phân tích cơ bản là:
Giao diện phân tích dạng Mô hình đối tượng tài liệu (Document Object Model) - viết tắt là DOM
Giao diện phân tích API đơn giản dành cho XML (Simple API for XML) - viết tắt là SAX
Giao diện thứ ba, với hứa hẹn là sẽ được thêm vào trong xuất bản lớn sắp tới của Java (tên hiệu Mustang), đang được dự kiến sẽ ra vào cuối năm 2006 là:
StAX, API dẫn luồng cho XML (the Streaming API for XML). JSR #173.
Cùng với các giao diện phân tích, API này còn cung cấp một giao diện XSLT để cung cấp việc chuyển đổi dữ liệu và cấu trúc từ một tài liệu XML sang một dạng khác.
J2SE 1.4 JDK là phiên bản đầu tiên mà có kèm theo JAXP 1.1.
Giao diện DOM
Giao diện DOM có lẽ là một giao diện dễ hiểu nhất. Nó phân tích toàn bộ tài liệu XML và kiến thiết một cấu trúc hoàn chỉnh đại diện cho bản tài liệu, trong bộ nhớ, bằng cách dùng các lớp để mô hình hóa các khái niệm đã ghi trong Tài liệu chi tiết đặc tả kĩ thuật của Document Object Model(DOM) Cấp độ 2.
Bộ phân tích DOM được gọi là DocumentBuilder, vì nó tạo nên một hình thức đại diện cho Document trong bộ nhớ. javax.xml.parsers.DocumentBuilder được tạo nên bởi javax.xml.parsers.DocumentBuilderFactory. DocumentBuilder tạo ra một trường hợp của org.w3c.dom.Document, tức một cấu trúc cây chứa các nốt trong Tài liệu XML. Mỗi nốt cây trong cấu trúc thực hiện một giao diện org.w3c.dom.Node. Có nhiều loại nốt cây đại diện cho loại dữ liệu tìm thấy trong bản tài liệu XML. Loại nốt quan trọng nhất là:
Nốt phần tử. Loại này có thể có các thuộc tính nằm ở bên trong.
Nốt văn bản. Loại này đại diện cho phần văn bản nằm giữa thẻ mở và thẻ đóng của một phần tử tài liệu.
Xem tài liệu javadoc của gói org.w3c.dom để có danh sách đầy đủ mọi loại nốt.
Ví dụ
java.io.File file = new java.io.File("c:/news.xml");
javax.xml.parsers.DocumentBuilderFactory dbf = DocumentBuilderFactory.newInstance();
javax.xml.parsers.DocumentBuilder db = dbf.newDocumentBuilder();
org.w3c.dom.Document doc=null;
if (file.exists()){
doc = db.parse(file);
}
if (doc != null) {
/* xử lý */
NodeList nodes = doc.getElementsByTagName("content");
for (int i = 0; i < nodes.getLength(); i++) {
Element e = (Element) nodes.item(i);
/* xử lý */
}
}
Giao diện SAX
Bộ phân tích SAX được gọi là SAXParser và được tạo bằng javax.xml.parsers.SAXParserFactory. Khác với bộ phân tích DOM, bộ SAXParser không tạo ra một hình thức đại diện của tài liệu XML trong bộ nhớ và vì thế nó hoạt động nhanh hơn, ít tốn bộ nhớ hơn. Thay vào đó, bộ phân tích SAXParser thông báo cho các trình khách cấu trúc của tài liệu XML bằng cách gọi các hàm callbacks, nghĩa là, bằng cách gọi các phương pháp của trường hợp
đã được cung cấp cho bộ phân tích.
Lớp DefaultHandler nằm trong gói org.xml.sax.helpers. Lớp này thực hiện các giao diện ContentHandler,
ErrorHandler, DTDHandler, và EntityResolver. Đại bộ phận các trình khách chỉ quan tâm đến những phương pháp được định nghĩa trong giao diện ContentHandler mà thôi.
Các phương pháp của giao diện ContentHandler, được DefaultHandler thực hiện, được gọi đến khi bộ phân tích SAX bắt gặp những phần tử tương ứng trong bản tài liệu XML. Những phương pháp chủ yếu trong giao diện này bao gồm:
phương pháp startDocument() và endDocument(). Những phương pháp này được gọi lúc mở đầu và khi kết thúc một bản tài liệu XML.
phương pháp characters(). Phương pháp này được gọi với nội dung văn bản giữa các thẻ mở và thẻ đóng của một phần tử trong bản tài liệu XML.
Các trình khách cung cấp một phân lớp của DefaultHandler. Phân lớp này được sử dụng để lấn quyền những phương pháp trên và xử lý dữ liệu. Quá trình này có thể bao gồm việc lưu trữ dữ liệu vào trong cơ sở dữ liệu, hoặc viết chúng ra một luồng (dữ liệu).
Giao diện XSLT
Ngôn ngữ tập tin định dạng XML dành cho việc chuyển đổi - (The XML Stylesheet Language for Transformations, hay XSLT) cho phép biến đổi một bản tài liệu XML sang các dạng thức dữ liệu khác.
Tài nguyên bổ trợ
Xem Sun's JAXP product description
Xem Document Object Model(DOM) Level 2 Core Specification
Một số chương trình mẫu dùng bộ phân tích DOM và SAX Hướng dẫn: XML với Xerces cho Java |
Trong toán học, chuỗi Markov là một quá trình ngẫu nhiên mô tả một dãy các biến cố khả dĩ trong đó xác suất của mỗi biến cố chỉ phụ thuộc vào trạng thái của biến cố trước đó. Một dãy vô hạn đếm được, trong đó xích thay đổi trạng thái theo từng khoảng thời gian rời rạc, cho ta một xích Markov thời gian rời rạc (DTMC). Một quá trình diễn ra trong thời gian liên tục được gọi là xích Markov thời gian liên tục (CTMC). Chúng được đặt tên theo nhà toán học người Nga Andrey Markov.
Xích Markov có được ứng dụng rộng rãi làm mô hình thống kê của nhiều quá trình đời thực, như là nghiên cứu hệ thống điều khiển hành trình trong các xe motor, hàng đợi hay hàng người đến sân bay, tỉ giá hối đoái tiền tệ và sự biến đổi của dân số quần thể.
Quá trình Markove là cơ sở cho phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên xích Markov Monte Carlo, được dùng để mô phỏng việc lấy mẫu từ một phân bố xác suất phức tạp, và có ứng dụng trong thống kê Bayes, nhiệt động lực học, cơ học thống kê, vật lý, hóa học, kinh tế, tài chính, xử lý tín hiệu, lý thuyết thông tin và trí tuệ nhân tạo.
Giới thiệu
Định nghĩa
Một quá trình Markov là một quá trình ngẫu nhiên thỏa mãn tính chất Markov (đôi khi được gọi là "tính không ghi nhớ"). Nói đơn giản, nó là một quá trình mà các kết quả ở tương lai có thể được dự đoán chỉ dựa trên trạng thái hiện tại và—quan trọng hơn—dự đoán ấy tốt bằng dự đoán dựa trên toàn bộ lịch sử của quá trình đó. Nói cách khác, dựa trên trạng thái hiện tại của hệ thống, những trạng thái quá khứ và tương lai là độc lập.
Một xích Markov là một loại quá trình Markov có không gian trạng thái rời rạc hoặc tập chỉ số rời rạc (thường biểu diễn thời gian), tuy nhiên không có định nghĩa chính xác thống nhất. Thông thường, một xích Markov còn được định nghĩa là một quá trình Markov trong thời gian liên tục hoặc rời rạc với không gian trạng thái đếm được (tức thời gian bất kỳ), nhưng cũng có định nghĩa khác coi xích Markov có thời gian rời rạc trong không gian trạng thái đếm được hoặc liên tục (tức không gian trạng thái bất kỳ).
Các loại xích Markov
Không gian trạng thái và hệ số thời gian của hệ thống cần được xác định rõ ràng. Bảng sau đưa ra cái nhìn tổng quan về các loại quá trình Markov khác nhau dựa trên các mức độ không gian trạng thái và thời gian rời rạc hoặc liên tục:
Để ý rằng không có sự thống nhất trong việc dùng các thuật ngữ để chỉ trường hợp đặc biệc của quá trình Markov. Thường cụm từ "xích Markov" dùng để chỉ xích Markov thời gian rời rạc (DTMC), nhưng một số tác giả dùng "quá trình Markov" để chỉ một xích Markov thời gian liên tục (CTMC) mà không nói cụ thể. Ngoài ra, có một số mở rộng của quá trình Markov nằm ngoài bốn loại trên nhưng không có tên gọi đặc biệt nào (xem mô hình Markov). Hơn nữa, chỉ số thời gian không nhất thiết phải là số thực; giống như không gian trạng thái, có những quá trình di chuyển qua tập chỉ số của những cấu trúc toán học khác.
Trong khi tham số thời gian thường là rời rạc, không gian trạng thái của một chuỗi Markov không có quy tắc thống nhất chung nào. Tuy nhiên, nhiều ứng dụng của chuỗi Markov thường dùng không gian trạng thái hữu hạn hoặc vô hạn đếm được, cho phép phân tích thống kê đơn giản hơn. Ngoài số chỉ thời gian và không gian trạng thái, còn có nhiều biến thể, mở rộng và tổng quát khác. Để đơn giản, phần lớn bài viết tập trung vào trường hợp thời gian rời rạc, không gian trạng thái rời rạc, trừ khi được nói rõ.
Chuyển đổi
Sự biến đổi trạng thái của hệ thống được gọi là sự chuyển trạng thái hay chuyển đổi (). Xác suất của các khả năng chuyển trạng thái khác nhau được gọi là xác suất chuyển đổi. Một quá trình được xác định bởi một không gian trạng thái, một ma trận xác suất chuyển đổi mô tả xác suất của các chuyển đổi, và một trạng thái ban đầu (hay phân bố ban đầu) trên không gian trạng thái. Theo thông lệ, ta coi tất cả trạng thái và chuyển đổi khả dĩ được tính trong quá trình, nên luôn có một trạng thái tiếp theo, và quá trình không dừng lại.
Một quá trình ngẫu nhiên thời gian rời rạc gồm một hệ thống ở một trạng thái nhất định vào một bước nào đó, và trạng thái của hệ thay đổi giữa các bước. Các bước này thường được coi là khoảnh khắc trong thời gian, nhưng cũng có thể là khoảng cách vật lý hay những đại lượng khác. Về mặt toán học, các bước này được biểu diễn bằng số nguyên hoặc số tự nhiên. Tính chất Markov nói rằng phân bố xác suất có điều kiện của hệ ở bước tiếp theo (và tất cả các bước trong tương lai) chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại của hệ, chứ không phụ thuộc vào trạng thái của hệ ở những bước trước.
Do hệ thay đổi ngẫu nhiên, không thể đoán chính xác được trạng thái của xích Markov ở một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên, các tính chất thống kê của hệ có thể được dự đoán.
Lịch sử
Nhà toán học Nga Andrey Markov nghiên cứu quá trình Markov từ đầu thế kỷ 20, đăng tải bài báo đầu tiên về vấn đề này năm 1906. Quá trình Markov trong thời gian liên tục được phát hiện trước đó từ lâu dưới dạng quá trình Poisson. Markov bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu một mở rộng của dãy ngẫu nhiên độc lập sau một bất đồng với Pavel Nekrasov, người khẳng định tính độc lập là cần thiết để luật số lớn yếu đúng. Trong bài báo đầu tiên về xích Markov xuất bản năm 1906, Markov chỉ ra rằng trong một số điều kiện nhất định, kết quả trung bình của một xích Markov sẽ hội tụ về một vectơ các giá trị cố định, chứng minh quy luật số lớn yếu mà không cần điều kiện độc lập, vốn thường được coi là điều kiện cần thiết để luật số lớn vẫn đúng. Markov sau đó dùng chuỗi Markov để nghiên cứu sự phân bố nguyên âm trong Yevgeny Onegin của nhà văn Aleksandr Pushkin, và chứng minh một định lý giới hạn trung tâm cho những chuỗi đó.
Năm 1912 Henri Poincaré nghiên cứu chuỗi Markov trên nhóm hữu hạn nhằm hiểu rõ hơn việc xáo lá bài. Những ứng dụng ban đầu khác của chuỗi Markov bao gồm mô hình khuếch tán, giới thiệu bởi Paul và Tatyana Ehrenfest năm 1907, và một quá trình rẽ nhánh, đưa ra bởi Francis Galton và Henry William Watson năm 1873, trước nghiên cứu của Markov. Sau khi kết quả của Galton và Watson được công bố, người ta phát hiện rằng quá trình rẽ nhánh đã được nghiên cứu độc lập từ ba thập kỉ trước đó bởi Irénée-Jules Bienaymé. Từ năm 1928, Maurice Fréchet bắt đầu quan tâm đến chuỗi Markov, và đến năm 1938 ông xuất bản một bài báo nghiên cứu chi tiết về quá trình ngẫu nhiên này.
Andrei Kolmogorov viết một bài báo năm 1931 phát triển phần lớn lý thuyết về quá trình Markov thời gian liên tục. Kolmogorov một phần được truyền cảm hứng bởi nghiên cứu năm 1900 của Louis Bachelier về sự thay đổi của thị trường chứng khoán cũng như những kết quả của Norbert Wiener về mô hình chuyển động Brown của Einstein. Ông đưa ra và nghiên cứu một nhóm các quá trình Markov cụ thể được biết với tên gọi quá trình khuếch tán, và suy ra các phương trình vi phân mô tả những quá trình đó. Độc lập với những nghiên cứu của Kolmogorov, trong một bài viết năm 1928, nhà toán học Sydney Chapman đưa ra một phương trình, nay gọi là phương trình Chapman–Kolmogorov, trong lúc nghiên cứu chuyển động Brown. Những phương trình vi phân đó nay gọi là phương trình Kolmogorov hoặc phương trình Kolmogorov–Chapman. Những nhà toán học khác có đóng góp quan trọng cho cơ sở của quá trình Markov bao gồm William Feller từ những năm 1930, và Eugene Dynkin từ những năm 1950.
Ví dụ
Bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là những ví dụ của quá trình Markov. Một số biến thể của những quá trình này đã được nghiên cứu từ hàng trăm năm trước trong ngữ cảnh biến số độc lập. Hai ví dụ quan trọng của quá trình Markov là quá trình Wiener, còn gọi là quá trình chuyển động Brown, và quá trình Poisson, được coi là những quá trình quan trọng nhất trong lý thuyết quá trình ngẫu nhiên. Hai quá trình này là quá trình Markov trong thời gian liên tục, còn bước đi ngẫu nhiên trên số nguyên và bài toán sai lầm của con bạc là quá trình Markov trong thời gian rời rạc.
Một chuỗi Markov nổi tiếng là "bước đi của kẻ say", một bước đi ngẫu nhiên trên trục số mà ở mỗi bước, vị trí có thể thay đổi +1 hoặc −1 với xác suất ngang nhau. Từ mỗi vị trí có hai chuyển đổi khả dĩ: đến số nguyên liền trước hoặc liền sau. Xác suất chuyển đổi chỉ phụ thuộc vào vị trí hiện tại, không phụ thuộc vào cách ta đến vị trí đó. Ví dụ, xác suất chuyển đổi từ 5 về 4 và từ 5 lên 6 đều là 0,5, và tất cả những xác suất chuyển đổi khác từ 5 bằng 0. Những xác suất này độc lập với trạng thái trước đó của hệ, bất kể là 4 hay 6.
Một ví dụ khác là thói quen ăn uống của một sinh vật chỉ ăn nho, táo, hoặc cam, và tuân theo các quy luật sau đây:
Nó ăn một lần một ngày.
Nếu hôm nay nó ăn táo, ngày mai có ăn nho hoặc cam với cùng khả năng.
Nếu hôm nay nó ăn nho, ngày mai nó sẽ ăn nho với xác suất 1/10, ăn táo với xác suất 4/10, và ăn cam với xác suất 5/10.
Nếu hôm nay nó ăn cam, thì ngày mai nó sẽ ăn nho với xác suất 4/10 hoặc ăn táo với xác suất 6/10.
Thói quen ăn của sinh vật này có thể được biểu diễn bằng một chuỗi Markov vì lựa chọn của nó vào ngày mai chỉ phụ thuộc vào thứ nó ăn hôm nay, mà không phải thứ nó ăn hôm qua hay bất kỳ thời điểm nào khác trong quá khứ. Một tính chất thống kê có thể tính được là tỉ lệ số ngày kỳ vọng, xét trên một khoảng thời gian dài, mà sinh vật đó ăn một món nhất định.
Một chuỗi các biến cố độc lập (ví dụ như một chuỗi tung đồng xu) thỏa mãn định nghĩa của một chuỗi Markov. Tuy nhiên, mô hình xích Markov thường chỉ được áp dụng khi phân bố xác suất của bước tiếp theo phụ thuộc vào trạng thái hiện tại.
Định nghĩa chính xác
Xích Markov thời gian rời rạc
Một xích Markov thời gian rời rạc là một dãy các biến ngẫu nhiên , , , ... với tính chất Markov, tức xác suất chuyển sang trạng thái tiếp theo chỉ phụ thuộc vào trạng thái hiện tại chứ không phụ thuộc vào những trạng thái trước đó:
nếu cả hai xác suất có điều kiện này có nghĩa, tức là nếu
Những giá trị khả dĩ của tạo thành một tập đếm được gọi là không gian trạng thái của xích.
Biến thể
Xích Markov thời gian đồng nhất là những quá trình mà
với mọi . Nói cách khác, xác suất chuyển trạng thái độc lập với .
Xích Markov dừng là những quá trình mà
với mọi và . Mọi chuỗi Markov dừng đều là chuỗi Markov thời gian đồng nhất theo định lý Bayes.
Điều kiện cần và đủ để một chuỗi Markov thời gian đồng nhất là chuỗi dừng là phân bố của là một phân bố dừng của chuỗi Markov đó.
Một chuỗi Markove có trí nhớ (hoặc chuỗi Markov cấp )
trong đó là số nguyên dương, là một quá trình thỏa mãn
Nói cách khác, trạng thái tương lai phụ thuộc vào trạng thái quá khứ. Có thể thiết lập từ một chuỗi mang tính chất Markov bằng cách xét không gian trạng thái là các bộ sắp thứ tự gồm giá trị , tức .
Xích Markov thời gian liên tục
Một xích Markov thời gian liên tục được định nghĩa bởi một không gian trạng thái hữu hạn hoặc đếm được , một ma trận tốc độ chuyển đổi với các chiều bằng với chiều của không gian trạng thái, và một phân bố xác suất ban đầu trên không gian trạng thái đó. Với , phần tử không âm và diễn tả tốc độ của quá trình khi chuyển từ trạng thái sang trạng thái . Các phần tử được chọn sao cho mỗi hàng của ma trận tốc độ chuyển đổi có tổng bằng 0.
Có ba định nghĩa tương đương nhau của quá trình này.
Định nghĩa vô cùng bé
Gọi là biến ngẫu nhiên mô tả trạng thái của quá trình tại thời gian , và giả sử quá trình ở trạng thái ở thời điểm . Khi ấy, với điều kiện thì độc lập với các giá trị trước , và khi với mọi và thì
,
trong đó là hàm delta Kronecker, sử dụng ký hiệu o nhỏ. Các có thể được coi là biểu diễn tốc độ chuyển đổi từ trạng thái sang trạng thái .
Định nghĩa xác suất chuyển đổi
Với mọi và các thời điểm có chỉ số không quá : và tất cả trạng thái ở những thời điểm này , ta có
trong đó là nghiệm của phương trình vi phân cấp một
Với điều kiện ban đầu là ma trận đơn vị.
Không gian trạng thái hữu hạn
Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển đổi có thể được biểu diễn bằng một ma trận, gọi là ma trận chuyển đổi , sao cho các phần tử của bằng
Khi ấy mỗi hàng của có tổng bằng 1 và tất cả phần tử đều không âm, tức là một ma trận ngẫu nhiên phải.
Phân phối dừng
Một phân phối dừng là một vectơ hàng, có các phần tử không âm có tổng bằng 1, không bị thay đổi khi thực hiện phép toán ma trận chuyển đổi lên nó. Nói cách khác, nó thỏa mãn
Định nghĩa này có liên quan đến vectơ riêng, và thực chất là vectơ riêng bên trái của với giá trị riêng bằng 1 được chuẩn hóa:
Với một xích Markov ta thường quan tâm đến một trạng thái dừng là giới hạn của dãy phân bố xác suất đối với một phân bố ban đầu nhất định.
Các giá trị của vectơ phân phối dừng thỏa mãn , tức tích vô hướng của với vectơ đơn vị là một, do đó nằm trên một đơn hình.
Các tính chất của xích Markov
Đặc điểm của một xích Markov được biểu diễn bởi phân bố điều kiện
đó là xác suất chuyển dịch của quy trình.
Nó đôi khi còn được gọi là xác suất chuyển dịch "một-bước".
Xác suất của một chuyển dịch trong hai, ba, hoặc nhiều bước hơn được rút ra từ xác suất chuyển dịch một bước và thuộc tính Markov:
Tương tự,
Các công thức này tổng quát hóa tới các thời điểm n + k tùy ý trong tương lai bằng cách nhân các xác suất chuyển dịch và lấy tích phân k − 1 lần.
Xác suất biên (marginal distribution) P(Xn) là phân bố trên các trạng thái tại thời điểm n. Phân bố ban đầu là P(X0). Sự tiến hóa của quy trình qua một bước được mô tả bằng công thức
Đây là một phiên bản của phương trình Frobenius-Perron.
Có thể tồn tại một hoặc nhiều phân bố trạng thái π sao cho
trong đó Y chỉ là một cái tên thuận tiện cho biến tích phân (variable of integration).
Phân bố π như vậy được gọi là một phân bố ổn định (stationary distribution) hoặc phân bố trạng thái ổn định.
Một phân bố ổn định là một hàm riêng (eigenfunction) của hàm phân bố điều kiện, gắn với giá trị riêng (eigenvalue) là 1.
Việc có phân bố ổn định hay không, và nó có là duy nhất hay không (nếu tồn tại), là phụ thuộc vào từng thuộc tính cụ thể của quá trình.
Bất khả quy nghĩa là mọi trạng thái đều có thể truy xuất từ mỗi trạng thái khác. Một quá trình là tuần hoàn nếu tồn tại ít nhất một trạng thái mà quá trình sẽ trả về trạng thái đó sau một khoảng thời gian cố định (lớn hơn một). Phi tuần hoàn (aperiodic) nghĩa là không tồn tại trạng thái nào như vậy cả.
Hồi qui dương (positive recurrent) nghĩa là thời gian được kì vọng trở lại trạng thái ban đầu là một giá trị dương cho mọi trạng thái.
Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương, thì tồn tại một phân bố ổn định.
Nếu chuỗi Markov là hồi qui dương và không thể tối giản được nữa, thì tồn tại một phân bố ổn định duy nhất.
Xích Markov trong không gian trạng thái rời rạc
Nếu không gian trạng thái là hữu hạn, phân bố xác suất chuyển trạng thái có thể được biểu diễn dưới dạng một ma trận, gọi là ma trận chuyển đổi (transition matrix), với thành phần thứ (i, j) bằng với
Với không gian trạng thái rời rạc, tích phân của xác suất chuyển đổi ở bước thứ k là phép tổng, và có thể được tính bằng lũy thừa bậc k' của ma trận chuyển đổi. Nghĩa là, nếu P là ma trận chuyển đổi 1-bước, thì Pk là ma trận chuyển đổi k-bước.
Phân bố ổn định là một vector thỏa mãn phương trình
.
Như vậy, phân bố ổn định là một vectơ riêng của ma trận chuyển đổi, được gắn với giá trị riêng 1.
Nếu ma trận chuyển đổi P là không thể tối giản được, và phi tuần hoàn, thì Pk hội tụ từng giá trị thành phần về một ma trận trong đó mỗi cột là phân bố ổn định duy nhất , với
,
độc lập với phân bố ban đầu . Điều này được phát biểu trong Định lý Perron-Frobenius.
Ma trận chuyển đổi mà dương (nghĩa là mọi thành phần của ma trận là dương) thì ma trận là không thể tối giản và phi tuần hoàn. Một ma trận là một ma trận ngẫu nhiên thống kê (stochastic matrix) khi và chỉ khi nó là ma trận của các xác suất chuyển đổi của một chuỗi Markov nào đó.
Trường hợp đặc biệt, nếu xác suất chuyển đổi là độc lập với quá khứ thì được gọi là một sắp xếp Bernoulli (Bernoulli scheme). Một Bernoulli scheme chỉ với 2 trạng thái thì gọi là một quá trình Bernoulli (Bernoulli process).
Các ứng dụng khoa học
Các hệ thống Markovian xuất hiện nhiều trong vật lý, đặc biệt là cơ học thống kê (statistical mechanics), bất cứ khi nào xác suất được dùng để biểu diễn các chi tiết chưa được biết hay chưa được mô hình hóa của một hệ thống, nếu nó có thể giả định rằng thời gian là bất biến và không có mối liên hệ trong quá khứ cần nghĩ đến mà không bao gồm sự miêu tả trạng thái. Xích Markov có thể dùng để mô hình hóa nhiều quá trình trong lý thuyết hàng đợi và thống kê. Bài báo nổi tiếng của Claude Shannon năm 1948 A mathematical theory of communication, là một bước trong việc tạo ra lãnh vực lý thuyết thông tin, mở ra bằng cách giới thiệu khái niệm của entropy thông qua mô hình hóa Markov của ngôn ngữ tiếng Anh. Mỗi mô hình đã lý tưởng hóa có thể nắm bắt được nhiều hệ thống được thống kê đều đặn. Thậm chí không cần miêu tả đầy đủ cấu trúc, giống như là những mô hình tín hiệu, hiệu quả trong việc giải mã dữ liệu thông qua kỹ thuật viết code entropy. Nó cũng hiệu quả trong việc ước lượng trạng thái và xác định mẫu. Hệ thống điện thoại di động trên thế giới dùng giải thuật Viterbi để sửa lỗi (error-correction), trong khi các mô hình Markov ẩn (với xác suất chuyển đổi Markov ban đầu là không được biết và phải được ước lượng từ dữ liệu) được dùng rất nhiều trong nhận dạng tiếng nói và trong tin sinh học, chẳng hạn để mã hóa vùng/dự đoán gene.
PageRank của một trang web dùng bởi Google được định nghĩa bằng một xích Markov. Nó là xác suất để đến được trang i trong phân bố ổn định (stationary distribution) dựa vào xích Markov của mọi trạng (đã biết). Nếu N là số lượng trang web đã biết, và một trang i có ki liên kết thì nó có xác suất chuyển tới là (1-q)/ki + q/N cho mọi trang mà có liên kết tới và q/N cho mọi trang mà không có liên kết tới. Tham số q thường được chọn là khoảng 0.15.
Phương pháp chuỗi Markov cũng trở nên rất quan trọng trong việc sinh ra những chuỗi số từ những số ngẫu nhiên để phản ánh một cách chính xác những phân bố xác suất phức tạp - tiến trình MCMC là 1 ví dụ. Trong những năm gần đây, phương pháp này đã cách mạng hóa tính khả thi của phương pháp Bayes.
Chuỗi markov cũng có nhiều ứng dụng trong mô hình sinh học, đặc biệt là trong tiến trình dân số- một tiến trình tương tự như tiến trình sinh học.
Một ứng dụng của chuỗi Markov gần đây là ở thống kê địa chất. Đó là: chuỗi Markov được sử dụng trong mô phỏng 3 chiều của giá trị có điều kiện riêng phần. Ứng dụng này được gọi là "chuỗi markov thống kê địa chất", cũng giống như ngành thống kê địa chất. Hiện nay phương pháp này vẫn còn đang phát triển.
Chuỗi Markov cũng có thể ứng dụng trong nhiều trò chơi game. Nhiều loại game của trẻ em (Chutes and Ladders, Candy Land), là kết quả chính xác điển hình của chuỗi Markov. Ở mỗi vòng chơi, người chơi bắt đầu chơi từ trạng thái định sẵn, sau đó phải có lợi thế gì đó mới có thể vượt qua được bàn kế.
Trong ngành quản lý đất đai: người ta còn ứng dụng GIS, RS và chuỗi Markov vào phân tích sự thay đổi sử dụng đất (land use change), từ đó dự báo được tình hình sử dụng đất trong giai đoạn kế tiếp. |
El Hierro, cũng được gọi là Isla del Meridiano (nghĩa là hòn "Đảo Kinh tuyến"), là một hòn đảo nằm xa nhất về phía Nam cũng như về phía Tây thuộc quần đảo Canaris của Tây Ban Nha.
Lịch sử
Tên đảo có xuất xứ từ tiếng địa phương của những người dân nguyên bản, người Guancis, sống tại đây. Ban đầu họ gọi tên đảo là Hero; sau khi bị Tây Ban Nha thôn tính nhiều lần cuối cùng thành ra El Hierro, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "sắt". Tiếng Latinh gọi sắt là ferrum vì thế trong những ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Đan Mạch, cũng như trên các bản đồ có minh họa bằng tiếng Latinh thì tên của đảo còn được dùng một cách song song là Ferro.
Địa hình
Đây là một hòn đảo đá và núi đá, có độ cao lớn nhất là 1.501 m nằm ở phần giữa đảo (Malpaso), có diện tích 278 km², và dân số khoảng 10.162 người (theo thống kê từ năm 2003).
Động, Thực vật
Đảo El Hierro là nơi xuất xứ của một số loài động thực vật hiếm (Gallotia simonyi). Một số thông tin thêm về thực vật và đời sống của chúng ở trên đảo có thể tìm thấy trên trang www.hierro-flora.de
Du lịch
Cũng như trên các đảo khác trong quần đảo Canaris, đảo El Hierro là điểm đến cho nhiều du khách. Tại đó có một phi trường nhỏ (ở Valverde) và được giao thông với Tenerife.
Tổ chức hành chính
El Hierro là đảo thuộc huyện, Santa Cruz của Tenerife, Tây Ban Nha. |
Biển Chết (tiếng Ả Rập: البحر الميت, tiếng Hebrew: ים המלח) là một hồ nước mặn nằm trên biên giới giữa Bờ Tây, Israel và Jordan trên thung lũng Jordan. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m, bề mặt biển Chết nằm ở 417,5 m (1.369 ft) dưới mực nước biển (số liệu năm 2005).
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt và các du khách từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải trong hàng nghìn năm qua. Nó là nơi nương tựa của Vua David, một trong các nơi nghỉ ngơi đầu tiên trên thế giới của Herod Đại đế, và là nguồn cung cấp các sản phẩm khác nhau như nhựa thơm cho việc ướp xác của người Ai Cập cho tới bồ tạt để làm phân bón.
Từ nguyên
Trong tiếng Hebrew, biển Chết được gọi là Yam ha-Melah – có nghĩa là "biển muối" hay Yam ha-Mavet – có nghĩa là "biển chết". Trong quá khứ nó còn có tên gọi là "biển Đông" hay "biển Arava". Trong tiếng Ả Rập biển Chết được gọi là Al Bahr al Mayyit – có nghĩa là "biển Chết" – hay ít phổ biến hơn là Bahr Lūţ - có nghĩa là "biển của Lot". Trong lịch sử thì tên gọi theo tiếng Ả Rập khác là "biển Zoar", lấy theo tên gọi của khu đô thị gần đó. Đối với người Hy Lạp thì biển Chết là "hồ Asphaltites".
Lịch sử tự nhiên
Biển Chết nằm trong đứt gãy Biển Chết, nó là một phần của vết nứt dài trên bề mặt Trái Đất có tên gọi Đại Thung Lũng. Đại Thung Lũng dài 6.000 km (3.700 dặm) kéo dài từ dãy núi Taurus ở Thổ Nhĩ Kỳ tới thung lũng Zambezi ở miền nam châu Phi. Đại Thung Lũng được hình thành từ thời kỳ thế Miocen (5,3-23 triệu năm trước trong Phân đại đệ tam) do kết quả của sự chuyển dịch của đĩa kiến tạo Arabia về phía bắc và sau đó về phía đông ra xa khỏi châu phi.
Khoảng 3 triệu năm trước thì cái mà ngày nay là thung lũng sông Jordan, biển Chết và Wadi Arabah/Nahal Arava đã liên tục bị tràn ngập nước từ Địa Trung Hải. Nước đã tạo ra một vịnh hẹp và quanh co, thông ra biển cả bằng cái mà ngày nay là thung lũng Jezreel. Các trận ngập lụt ở thung lũng này lên và xuống phụ thuộc vào các thay đổi khí hậu trong một thời gian dài. Hồ bị chiếm giữ bởi đứt gãy Biển Chết có tên gọi là "hồ Sodom", tạo ra các lớp muối trầm tích mà cuối cùng dày tới 3 km (2 dặm).
Theo thuyết địa chất, khoảng 2 triệu năm trước các vùng đất nằm giữa Đại Thung Lũng và Địa Trung Hải được nâng lên đến mức mà đại dương không còn khả năng gây ngập úng cho khu vực này nữa. Vì thế, vịnh dài đã trở thành một hồ dài.
Hồ thời tiền sử này có tên gọi "hồ Gomorrah". Hồ Gomorrah đã từng là hồ nước ngọt hay nước lợ dài ít nhất 80 km (50 dặm) vè phía nam của phần kết thúc hiện tại của biển Chết và 100 km (60 dặm) về phía bắc, vượt qua cả vùng đất lún Hula ngày nay. Khi khí hậu trở nên khô cằn hơn, hồ Samra co lại và trở nên mặn hơn. Hồ lớn chứa nước mặn là tiền nhiệm của biển Chết có tên gọi là "hồ Lisan".
Trong thời tiền sử một lượng lớn trầm tích đã tích tụ lại dưới đáy hồ Gomorrah. Các trầm tích này nặng hơn so với muối trầm tích và ép cho các trầm tích muối trồi lên trên vào cái ngày nay gọi là bán đảo Lisan và đỉnh Sedom (ở phía tây nam của hồ). Các nhà địa chất giải thích hiệu ứng này theo kiểu thùng bùn trong đó các tảng đá phẳng lớn được xếp đặt và ép bùn to lên trên theo các vách của thùng". Khi đáy biển Chết tụt xuống sâu hơn nữa do các lực kiến tạo thì các đỉnh núi chứa muối ở Lisan và đỉnh Sedom đã nằm tại các khu vực trên các vách đá cao. (Xem các đồi muối)
Thời kỳ khoảng 23.000 đến 18.000 năm trước là một thời kỳ rất khô hạn và mức nước bề mặt của hồ Lisan tụt xuống tới điểm còn thấp hơn cả bề mặt biển Chết ngày nay. Ở mức thấp nhất của hồ này thì bề mặt của nó đã nằm ở cao độ dưới 600 m (2.100 ft) so với mực nước biển.
Khoảng 12.000 năm trước thì mức nước trong hồ Lisan nhỏ bé đó bắt đầu dâng lên. Khoảng vài ngàn năm trước thì biển Chết đã chỉ lớn bằng khoảng khu vực lòng chảo phía bắc ngày nay của nó. Khu vực lòng chảo phía nam đã không tồn tại cho đến tận cuối thời Trung cổ.
Phần phía bắc của biển Chết nhận được chỉ khoảng 100 mm (4 inch) nước mưa trong một năm. Phần phía nam còn ít hơn (50 mm hay 2 inch). Sự khô cằn của khu vực biển Chết là do hiệu ứng chặn mưa của dãy núi Judea. Khu vực cao nguyên ở phía đông biển Chết nhận được lượng mưa lớn hơn so với biển Chết.
Các dãy núi ở phía tây – dãy núi Judea – có độ dốc đứng từ phía biển Chết thấp hơn so với các dãy núi ở phía đông. Các dãy núi phía đông cũng cao hơn. Dọc theo phía đông nam của hồ là dãy đồi cao 210 m (700 ft) chứa muối gọi là "đỉnh Sedom".
Thành phần hóa học và hiệu ứng sức khỏe
Cho đến tận mùa đông năm 1978–1979, biển Chết bao gồm hai lớp nước phân tầng có nhiệt độ, tỷ trọng, niên đại và độ mặn phân biệt. Khoảng 35 m trên cùng (hoặc cao độ khác tương tự) của biển Chết có độ mặn nằm trong khoảng 30-40% và nhiệt độ nằm trong khoảng 19 °C (66 °F) và 37 °C (98 °F). Phía dưới lớp chuyển tiếp thì nước biển Chết có nhiệt độ ổn định khoảng 22 °C (72 °F) và bão hòa natri clorua (NaCl). Do nước ở gần đáy là bão hòa nên muối lắng đọng ra khỏi dung dịch vào lớp đáy biển.
Từ đầu những năm thập niên 1960 nước chảy vào biển Chết từ sông Jordan đã giảm đi do kết quả của việc thủy lợi hóa lớn và do có ít mưa nói chung. Vào năm 1975 thì lớp nước trên cùng của biển Chết trên thực tế còn mặn hơn so với lớp thấp hơn. Tuy nhiên lớp nước trên cùng vẫn lơ lửng phía trên lớp dưới do nước của nó ấm hơn và vì thế nhẹ hơn. Khi lớp nước trên bị lạnh đi đến mức tỷ trọng của nó lớn hơn so với lớp dưới thì nước của biển Chết, sau nhiều thế kỷ, cuối cùng đã trộn lẫn và hồ nước này là một khối nước đồng nhất. Kể từ đó, sự phân tầng bắt đầu được quy hoạch lại.
Hàm lượng khoáng chất trong nước của biển Chết là khác đáng kể so với nước của các đại dương, nó chứa khoảng 53% chloride magiê (MgCl2), 37% chloride kali (KCl) và 8% chloride natri (NaCl, muối ăn) với phần còn lại (khoảng 2%) là dấu vết của các nguyên tố khác.
Nồng độ các ion SO4 là rất thấp, và nồng độ các ion brom là cao nhất so với các nguồn nước khác trên Trái Đất. Các ion chloride trung hòa phần lớn các ion calci trong biển Chết và xung quanh nó. Trong khi tại các khu vực biển khác và trong đại dương thì NaCl chiếm khoảng 97% thành phần khoáng chất, còn tại biển Chết thì lượng NaCl chỉ chiếm khoảng 12–18%. Nhiệt độ nước tăng từ 19 °C (tháng Hai) tới 31 °C (tháng Tám).
Nước biển Chết chứa khoảng 21 khoáng chất, bao gồm magiê, calci, brom và kali. 12 trong số các khoáng chất này không tìm thấy trong các biển/đại dương khác, và một số trong chúng được ghi nhận là có ảnh hưởng tới cảm giác thư giãn, bổ dưỡng da, trị các vấn đề về da (như: chàm, vảy nến, hắc hào, ghẻ lỡ, và mụn), hoạt động của hệ tuần hoàn và làm giảm nhẹ bệnh thấp khớp cũng như các rối loạn trao đổi chất. So sánh thành phần hóa học của biển Chết với các hồ/đại dương khác chỉ ra rằng nồng độ muối của biển Chết là 31,5% (có dao động). Do độ cao bất thường về độ mặn của nó nên người ta có thể nổi trong biển Chết khá dễ dàng nhờ tác dụng của sức nổi. Trong ngữ cảnh này thì biển Chết là tương tự như Hồ Muối Lớn (Great Salt Lake) ở Utah, Hoa Kỳ.
Nước biển Chết gây ra cảm giác trơn nhờn. Nước này tạo ra cảm giác cay và có thể gây ra thương tích khi lọt vào mắt.
Một trong các thuộc tính bất thường của biển Chết là sự tiết ra nhựa đường. Từ các độ sâu, biển Chết liên tục phun ra các cục nhỏ chất màu đen này. Sau các trận động đất, các tảng nhựa đường to như các ngôi nhà có thể được tạo ra.
Khu vực biển Chết đã trở thành một trung tâm nghiên cứu sức khỏe và điều trị lớn vì một số lý do. Hàm lượng khoáng chất của nước, tỷ lệ rất thấp của các loại phấn hoa và các chất gây dị ứng khác trong không khí, tỷ lệ bức xạ tia cực tím thấp trong ánh nắng Mặt Trời và áp suất khí quyển cao ở độ sâu lớn này có các tác động đặc biệt tới sức khỏe. Ví dụ những người bị suy giảm các chức năng thuộc hệ hô hấp do các loại bệnh như xơ hóa u nang dường như thu được lợi ích nhờ áp suất khí quyển cao.
Quần thể động thực vật
Biển Chết được gọi là "Chết" do độ mặn quá cao của nó làm cho cá hay các thủy sinh vật lớn khác không thể sinh sống trong lòng hồ của nó, tuy nhiên, một lượng rất nhỏ vi khuẩn và nấm mốc có thể tồn tại.
Cá theo sông Jordan bơi vào biển Chết sẽ chết rất nhanh khi nước ngọt bị trộn lẫn với nước siêu mặn của biển Chết. Tuy nhiên, quá trình pha trộn này không diễn ra ngay lập tức và đôi khi nước ngọt có thể nổi vô hạn định trên bề mặt biển Chết. Vì thế, đôi khi cá có thể sống ngay trong lớp nước phía trên cùng của bề mặt của biển Chết trong vài ngày, mặc dù không bao giờ chúng có thể sống trong biển Chết "thực thụ".
Trong thời gian ngập lụt thì nồng độ muối của biển Chết có thể tụt từ mức thông thường của nó là 35% xuống 30% hay thấp hơn. Trong các mùa đông nhiều mưa thì biển Chết nhất thời cũng có sự sống. Năm 1980, sau một mùa đông có mưa như thế, biển Chết thông thường có màu xanh sẫm đã chuyển thành màu đỏ. Các nghiên cứu của Đại học Hêbrơ phát hiện ra rằng biển Chết có rất nhiều tảo gọi là Dunaliella. Dunaliella trong lượt mình lại nuôi các loại vi khuẩn ưa muối có chứa sắc tố màu đỏ chứa carotenoid mà sự có mặt của chúng là nguyên nhân gây ra sự thay đổi màu. Kể từ năm 1980 thì khu vực biển Chết là rất khô và tảo cũng như vi khuẩn đã không thể xuất hiện với số lượng lớn như vậy.
Nhiều loài động vật sinh sống trong các dãy núi xung quanh biển Chết. Người ta có thể nhìn thấy các con lạc đà, dê rừng, thỏ, chó rừng, cáo và thậm chí cả báo hoa mai. Cả Jordan và Israel đã thành lập các khu bảo tồn xung quanh biển Chết. Có hàng trăm loài chim cũng sinh sống trong khu vực này.
Vùng châu thổ sông Jordan khi xưa đã từng là một rừng rậm nhiệt đới của cói và cọ. Flavius Josephus đã miêu tả Jericho như là "nơi màu mỡ nhất ở Judea". Trong thời kỳ La Mã và Byzantin thì các loại cây như mía, lá móng và sung dâu đã mọc dày dặc trong vùng hạ lưu thung lũng Jordan. Một trong các sản phẩm có giá trị được sản xuất ở Jericho là nhựa của cây linh sam, mà từ đó người ta đã sản xuất ra nước hoa.
Vào thế kỷ 19 thì sự màu mỡ của Jericho đã là chuyện của quá khứ.
Lịch sử loài người
Lịch sử loài người của khu vực biển Chết theo mọi cách nhìn đều dẫn đến thời cổ đại xa xưa. Ngay phía bắc của biển Chết là Jericho, khu vực đô thị cổ nhất liên tục có người sinh sống trên thế giới. Ở một nơi nào đó, có lẽ nào bên bờ phía đông nam của biển Chết, là các đô thị đã được đề cập tới trong cuốn Chúa sáng tạo ra thế giới, và đã bị hủy diệt trong thời đại của Abraham: Sodom và Gomorra và ba "thành phố của Đồng bằng" khác. Vua David đã trốn tránh khỏi sự truy đuổi của Saul tại Ein Gedi ở gần đó.
Những người Hy Lạp cổ đại gọi biển Chết là "hồ Asphaltites", do nhựa đường xuất hiện một cách tự nhiên. Aristotle đã viết về vùng nước khác thường này. Trong thời kỳ xâm chiếm của người Ai Cập người ta tin rằng Nữ hoàng Cleopatra đã có các đặc quyền để xây dựng các xưởng sản xuất mỹ phẩm và dược phẩm trong khu vực. Sau này, người Nabatea đã phát hiện ra giá trị của bitum thu được từ biển Chết là cần thiết đối với người Ai Cập để ướp các xác ướp của họ.
Vua Herod Đại Đế, Giê-su và John Baptêm đã có các mối liên hệ gần gũi với biển Chết và các khu vực xung quanh nó. Trong thời kỳ La Mã thì Essenes định cư ở Qumran trên bờ phía bắc biển Chết. Ở đây, trong các vùng núi đá macnơ mềm thì họ đã đục khoét các hang động lưu trữ cho thư viện của mình. Hai nghìn năm sau thư viện của họ đã được tìm thấy và được đặt tên là "các cuốn sách Biển Chết".
Vua Herod đã xây dựng một vài cung điện ở bờ tây Biển Chết. Nổi tiếng nhất là Masada, mà vào khoảng thời gian những năm 66–70 thì một nhóm nhỏ những người cuồng tín Do Thái nổi loạn đã đầu hàng trước sức mạnh của quân đoàn La Mã.
Sự cách biệt của khu vực đã hấp dẫn các thầy tu của Chính thống giáo Hy Lạp kể từ kỷ nguyên Byzantin. Các tu viện của họ như Saint George ở Wadi Kelt và Mar Saba trong sa mạc Judea là các điểm hành hương. Các bộ lạc Bedouin đã sống liên tục trong khu vực này và các nhà thám hiểm và các nhà khoa học gần đây đã tới để phân tích các khoáng chất và thực hiện các nghiên cứu trong khí hậu độc nhất vô nhị này. Kể từ những năm thập niên 1960, các du khách từ nhiều nơi trên thế giới cũng đã thám hiểm khu vực biển Chết.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, biển Chết cũng bắt đầu thu hút sự quan tâm của các nhà công nghiệp hóa chất, những người thấy rằng biển Chết là mỏ tự nhiên của bồ tạt và brom.
Bảo vệ biển Chết
Biển Chết hiện đang nhanh chóng co lại. Mặc dù nó không bao giờ biến mất hoàn toàn (do sự bay hơi bị chậm lại khi diện tích giảm xuống và độ mặn tăng lên), nhưng biển Chết như chúng ta biết hiện nay có thể trở thành quá khứ.
Do một điều không hiện thực là giảm nhu cầu sử dụng sông Jordan cho các nhu cầu của con người nên một ý tưởng để bảo vệ biển Chết là đưa nước từ Địa Trung Hải hay Hồng Hải vào thông qua các đường hầm hay kênh đào. Mặc dù đường nối ra Địa Trung Hải có thể là ngắn hơn, nhưng Israel hiện nay đang xem xét việc xây dựng kênh đào nối ra Hồng Hải chiều theo nhu cầu của Jordan. Kế hoạch là bơm nước theo đường hầm lên cao 400 ft (120 m) tới Arava/Arabah tại Aqaba hay Eilat, dưới điểm cao nhất của thung lũng Arava/Arabah, và sau đó dẫn nước theo kênh đào để nó chảy từ độ cao 1700 ft (520 m) vào biển Chết. Nhà máy khử mặn có thể xây dựng tại Jordan.
Vào ngày 9 tháng 5 năm 2005, Jordan,Israel và Palestine đã ký một thỏa thuận để bắt đầu các nghiên cứu tính khả thi của dự án - được biết một cách chính thức như là "Kênh đào hai biển". Kế hoạch này dự tính sản xuất 870 triệu mét khối nước ngọt trên năm và 550 megawatt điện năng. Ngân hàng thế giới ủng hộ dự án này.
Chú thích |
Cẩm Giàng (錦江) là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía tây của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 7 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 48 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thành phố Hải Dương và huyện Nam Sách
Phía tây giáp thị xã Mỹ Hào và huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên và thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Phía nam giáp huyện Bình Giang và huyện Gia Lộc
Phía bắc giáp huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Hành chính
Huyện Cẩm Giàng có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Lai Cách (huyện lỵ), Cẩm Giang và 15 xã: Cẩm Điền, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Định Sơn, Đức Chính, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi.
Lịch sử
Cẩm Giàng là một trong những huyện lâu đời nhất của tỉnh Hải Dương. Ban đầu tên của huyện vốn là Cẩm Giang, sau lại kiêng húy của Uy Nam vương Trịnh Giang nên đọc chệch âm là Cẩm Giàng.
Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, huyện Cẩm Giàng thuộc tỉnh Hải Hưng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1974, giải thể xã Cẩm Sơn cũ (nằm ngoài đê sông Thái Bình), địa bàn sáp nhập vào xã Thái Tân (huyện Nam Sách) và hai xã Đức Chính, Cẩm Vân (huyện Cẩm Giàng); thành lập xã Cẩm Sơn mới (nằm trong đê) trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Cẩm Hoàng, Cẩm Định, Kim Giang, Tân Trường, Thạch Lỗi.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cẩm Giàng sáp nhập với huyện Bình Giang thành huyện Cẩm Bình.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Cẩm Bình thuộc tỉnh Hải Dương vừa được tái lập.
Ngày 17 tháng 2 năm 1997, huyện Cẩm Giàng được tái lập từ huyện Cẩm Bình cũ. Khi mới tách ra, huyện Cẩm Giàng có thị trấn Cẩm Giàng và 18 xã: Cẩm Điền, Cẩm Định, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Sơn, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Đức Chính, Kim Giang, Lai Cách, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi. Tuy nhiên, thị trấn Cẩm Giàng không phải là huyện lỵ huyện Cẩm Giàng, các cơ quan hành chính huyện đóng tại xã Lai Cách.
Ngày 24 tháng 9 năm 1998, thành lập thị trấn Lai Cách - thị trấn huyện lị huyện Cẩm Giàng - trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Lai Cách.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó:
Hợp nhất xã Kim Giang và thị trấn Cẩm Giàng thành thị trấn Cẩm Giang
Hợp nhất hai xã Cẩm Định và Cẩm Sơn thành xã Định Sơn.
Sau khi sắp xếp, huyện Cẩm Giàng có 2 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Kinh tế
Huyện Cẩm Giàng có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi (quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua) để phát triển kinh tế. Có tiềm năng phát triển nông nghiệp với nhiều nông sản (lúa đặc sản, hành tây, dưa chuột, cà rốt, ớt, cà chua...). Huyện có các khu công nghiệp như: Phúc Điền, Tân Trường, Đại An và có một số nhà máy lớn như Công ty giày Cẩm Bình, Nhà máy lắp ráp ôtô Ford, Công ty may Venture, Công ty chế biến rau quả thực phẩm Vạn Đắc Phúc,...
Nghề truyền thống: chạm khắc gỗ mỹ nghệ Đông Giao, rượu Phú Lộc, giết mổ trâu bò Văn Thai, xay xát gạo...
Hiện nay huyện Cẩm Giàng đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị TNR Star Tân Trường nằm trên địa bàn xã Tân Trường.
Cẩm Giàng là huyện có nhiều lợi thế để phát triển với vị trí chỉ cách thủ đô hơn 20 km.
Di tích lịch sử
Cẩm Giàng có nhiều di tích về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật có giá trị quý theo dòng thời gian. Huyện có tới 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt là Văn miếu Mao Điền, cụm di tích đền Xưa - đền Bia - chùa Giám. Tiêu biểu một số di tích:
Văn miếu Mao Điền ở xã Cẩm Điền là một trong những văn miếu đầu tiên của Việt Nam.
Đền Bia ở xã Cẩm Văn là một di tích thờ Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh nổi tiếng.
Đền Xưa ở xã Cẩm Vũ thờ danh y Tuệ Tĩnh.
Chùa Giám ở xã Cẩm Sơn được xây dựng vào thời Hậu Lê, là nơi danh y Tuệ Tĩnh sống và nghiên cứu về y dược.
Đình Hộ Vệ là di tích lịch sử văn hóa lâu đời trên địa bàn xã Cẩm Hưng. Đình Hộ Vệ thờ tướng nhà Đinh có tên là Đinh Hùng Lực, người có công theo giúp Vua Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp loạn mười hai sứ quân.
Đình Thạch Lỗi là một di tích thờ tướng quân Lý Quốc Bảo - một vị tướng ở thời Tiền Lý.
Làng nghề
Các làng nghề, làng có nghề, công việc, nghề phụ tại các địa phương trong huyện như:
Nghề nấu rượu ở thôn Phú Lộc (Cẩm Vũ)
Giết mổ gia súc ở Văn Thai (Cẩm Văn)
Làng mộc chạm khắc Bến Đông Giao (Lương Điền)
Làm bột lọc ở thôn Quý Dương (Tân Trường)
Trồng và muối dưa kiệu (Ngọc Liên)
Nghề mộc, chạm khắc Ngọc Quyết (Ngọc Liên)
Nghề làm nón ở thôn Nghĩa Phú (Cẩm Vũ)
Một số làm nghề sắt vụn ở Tràng Kênh (thị trấn Cẩm Giang)
Nghề mộc, chạm khắc ở Đông Giao (Lương Điền)
Nghề mộc ở thôn Lê Xá (Cẩm Phúc)
Cà rốt (Đức Chính)
Thợ mộc, nề, lao động, chăn nuôi, lao động ngoài nước...
Giao thông
Cẩm Giàng nằm ở gần giữa hai thành phố là Hà Nội và Hải Phòng có hệ thống giao thông khá thuận lợi. Huyện lỵ cách trung tâm thành phố Hà Nội 48 km về phía đông và cách trung tâm thành phố Hải Dương 7 km về phía tây theo quốc lộ 5A. Một số đường giao thông chính:
- Đường bộ: Quốc lộ 5 (qua các xã, thị trấn Cẩm Điền, Cẩm Phúc, Tân Trường, Lai Cách và đi qua các khu dân cư chính như Mao, Ghẽ, Lai Cách), tuyến đường đi qua huyện có cầu Ghẽ là cây cầu vượt sông tại lý trình km39 + 831; Quốc lộ 38 (qua các xã Cẩm Hưng, Ngọc Liên, Lương Điền). Ngoài ra còn có các trục đường tỉnh, huyện lộ như 394, 394B, 394C, 5B...
- Đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua với ga Cẩm Giàng và ga Cao Xá.
- Đường sông: một phần hữu ngạn sông Thái Bình thuộc các xã Cẩm Văn, Đức Chính. |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1982 (tên chính thức là 1982 Football World Cup - Spain / Copa del Mundo de Fútbol - España 82) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ mười hai và đã được tổ chức từ ngày 13 tháng 6 đến ngày 11 tháng 7 năm 1982 ở Tây Ban Nha. Đây là lần thứ bảy giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ, 1958 tại Thụy Điển, 1966 tại Anh và 1974 tại Tây Đức và là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Iberia.
Linh vật chính thức của giải đấu là Naranjito, là một quả cam, một loại trái cây đặc trưng của Tây Ban Nha, mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Tên của quả cam xuất phát từ naranja trong tiếng Tây Ban Nha và có nghĩa là "quả cam", cùng với tiếp vị ngữ thân mật "-ito".
Sau 52 trận đấu, Ý lần thứ 3 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới.
Vòng loại
105 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo năm châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Tây Ban Nha và đội đương kim vô địch thế giới Argentina.
Các sân vận động
17 sân vận động tại 14 thành phố đăng cai các trận đấu của giải:
Trọng tài
AFC
Ibrahim Youssef Al-Doy
Chan Tam Sun
Abraham Klein
CAF
Benjamin Dwomoh
Yousef El-Ghoul
Belaid Lacarne
CONCACAF
Rómulo Méndez
David Socha
Luis Paulino Siles
Mario Rubio Vázquez
CONMEBOL
Gilberto Aristizábal
Luis Barrancos
Juan Daniel Cardellino
Arnaldo Cézar Coelho
Gastón Castro
Arturo Ithurralde
Enrique Labo Revoredo
Héctor Ortiz
UEFA
Paolo Casarin
Vojtech Christov
Charles Corver
Bogdan Dotchev
Walter Eschweiler
Erik Fredriksson
Bruno Galler
António Garrido
Alojzy Jarguz
Augusto Lamo Castillo
Henning Lund-Sørensen
Damir Matovinović
Malcolm Moffat
Károly Palotai
Alexis Ponnet
Adolf Prokop
Nicolae Rainea
Miroslav Stupar
Michel Vautrot
Bob Valentine
Clive White
Franz Wöhrer
OFC
Tony Boskovic
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Vòng 2
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng đấu loại trực tiếp
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Paolo Rossi
5 bàn
Karl-Heinz Rummenigge
4 bàn
Zico
Zbigniew Boniek
3 bàn
Falcão
Alain Giresse
László Kiss
Gerry Armstrong
2 bàn
Salah Assad
Daniel Bertoni
Diego Maradona
Daniel Passarella
Walter Schachner
Éder
Serginho
Sócrates
Antonín Panenka
Trevor Francis
Bryan Robson
Bernard Genghini
Michel Platini
Dominique Rocheteau
Didier Six
László Fazekas
Tibor Nyilasi
Gábor Pölöskei
Marco Tardelli
Billy Hamilton
John Wark
Klaus Fischer
Pierre Littbarski
1 bàn
Lakhdar Belloumi
Tedj Bensaoula
Rabah Madjer
Osvaldo Ardiles
Ramón Díaz
Reinhold Hintermaier
Hans Krankl
Bruno Pezzey
Ludo Coeck
Alexandre Czerniatynski
Erwin Vandenbergh
Júnior
Oscar
Grégoire M'Bida
Juan Carlos Letelier
Gustavo Moscoso
Miguel Ángel Neira
Luis Ramírez
Paul Mariner
Maxime Bossis
Alain Couriol
René Girard
Gérard Soler
Marius Trésor
Eduardo Laing
Héctor Zelaya
Lázár Szentes
József Tóth
József Varga
Alessandro Altobelli
Antonio Cabrini
Bruno Conti
Francesco Graziani
Abdullah Al-Buloushi
Faisal Al-Dakhil
Steve Sumner
Steve Wooddin
Rubén Toribio Díaz
Guillermo La Rosa
Andrzej Buncol
Włodzimierz Ciołek
Janusz Kupcewicz
Grzegorz Lato
Stefan Majewski
Włodzimierz Smolarek
Andrzej Szarmach
Steve Archibald
Kenny Dalglish
Joe Jordan
David Narey
John Robertson
Graeme Souness
Andriy Bal
Sergei Baltacha
Oleg Blokhin
Aleksandre Chivadze
Yuri Gavrilov
Khoren Oganesian
Ramaz Shengelia
Juanito
Roberto López Ufarte
Enrique Saura
Jesús María Zamora
Paul Breitner
Horst Hrubesch
Uwe Reinders
Ivan Gudelj
Vladimir Petrović
phản lưới nhà
Jozef Barmoš (trận gặp Anh)
Danh sách các cầu thủ nhận thẻ đỏ của trận đấu
Américo Gallego
Diego Maradona
Ladislav Vízek
Gilberto Yearwood
Mal Donaghy
Giải thưởng
Quả bóng vàng: Paolo Rossi
Chiếc giày vàng: Paolo Rossi
Bảng xếp hạng giải đấu |
Mật khẩu, đôi khi được gọi là mật mã, là một bí mật được ghi nhớ, thường là một chuỗi ký tự, được sử dụng để xác nhận danh tính của người dùng. Sử dụng thuật ngữ của Nguyên tắc nhận dạng kỹ thuật số NIST, bí mật được ghi nhớ bởi một bên gọi là nguyên đơn trong khi bên xác minh danh tính của nguyên đơn được gọi là người xác minh. Khi nguyên đơn thể hiện thành công kiến thức về mật khẩu cho người xác minh thông qua giao thức xác thực được thiết lập, người xác minh có thể suy ra danh tính của nguyên đơn.
Nói chung, một mật khẩu là một chuỗi các ký tự tùy ý bao gồm chữ cái, chữ số, hoặc các biểu tượng khác. Nếu các ký tự cho phép bị ràng buộc là số, thì bí mật tương ứng đôi khi được gọi là số nhận dạng cá nhân (personal identification number - PIN).
Mật khẩu không cần phải là một từ thực tế; thật vậy, một từ không tồn tại (theo nghĩa từ điển) có thể khó đoán hơn, đó là một thuộc tính mong muốn của mật khẩu. Một bí mật ghi nhớ bao gồm một chuỗi các từ hoặc văn bản khác được phân tách bằng dấu cách đôi khi được gọi là cụm mật khẩu. Một cụm mật khẩu tương tự như mật khẩu trong cách sử dụng, nhưng cụm mật khẩu thường dài hơn để tăng cường bảo mật.
Lịch sử
Mật khẩu đã được sử dụng từ thời cổ đại. Quân lính sẽ yêu cầu những người muốn vào một khu vực phải cung cấp mật khẩu hoặc khẩu hiệu và chỉ cho phép một người hoặc một nhóm vượt qua nếu họ biết mật khẩu. Polybius mô tả hệ thống phân phối khẩu hiệu trong quân đội La Mã như sau: Cách thức mà họ đảm bảo trao đổi các khẩu hiệu cho đêm là như sau: từ trung đội thứ mười của từng loại bộ binh và kỵ binh, các trung đội được đóng trại vào nửa cuối của đường phố, một người đàn ông được chọn không phải làm nhiệm vụ canh gác, và anh ta tham dự mỗi ngày vào lúc hoàng hôn tại lều của tribune, và nhận được một khẩu hiệu, đó là một chiếc bảng bằng gỗ có chữ khắc trên đó - sau đó anh ta rời đi, và trở về trại của anh ta, nói khẩu hiệu trên trước các nhân chứng cho chỉ huy của người kế tiếp, người này sẽ lần lượt chuyển nó cho người bên cạnh. Tất cả đều làm như vậy cho đến khi nó đạt đến các thao tác đầu tiên, những người bị có doanh trại gần lều của các bộ lạc. Những người sau này có nghĩa vụ giao bảng chứa mật khẩu cho các bộ lạc trước khi trời tối. Vì vậy, nếu tất cả những gì được ban hành được trả lại, bộ lạc biết rằng khẩu hiệu đã được trao cho tất cả các đơn vị quân, và đã chuyển qua tất cả trên đường trở về với anh ta. Nếu bất kỳ bảng mật khẩu trong số họ bị mất tích, anh ta sẽ điều tra ngay lập tức, vì anh ta biết được các dấu hiệu từ khu vực nào mà bảng mật khẩu không quay trở lại, và bất cứ ai chịu trách nhiệm cho việc giữ lại bảng mật khẩu đều phải chịu hình phạt mà anh ta đáng phải chịu.
Mật khẩu trong sử dụng quân sự được phát triển để bao gồm không chỉ mật khẩu, mà cả mật khẩu và phản mật khẩu; ví dụ như trong những ngày khai mạc trận Normandy, lính dù của Airborne Division 101 Mỹ sử dụng một mật khẩu flash -mà được trình bày như là một thách thức, và cần được trả lời với từ thunder. Thử thách và câu trả lời đúng được thay đổi ba ngày một lần. Lính nhảy dù Mỹ cũng nổi tiếng sử dụng một thiết bị được gọi là "cricket" trong D-Day thay cho hệ thống mật khẩu như một phương pháp nhận dạng tạm thời duy nhất; một lần nhấp bằng miếng kim loại được do thiết bị tạo ra, thay cho mật khẩu người đáp lại cần đáp ứng bằng hai lần nhấp để trả lời.
Mật khẩu đã được sử dụng với máy tính từ những ngày đầu tiên của máy tính. Hệ thống chia sẻ thời gian tương thích (CTSS), một hệ điều hành được giới thiệu tại MIT vào năm 1961, là hệ thống máy tính đầu tiên thực hiện đăng nhập mật khẩu. CTSS có lệnh LOGIN yêu cầu mật khẩu người dùng. "Sau khi nhập PASSWORD, hệ thống sẽ tắt cơ chế in, nếu có thể, để người dùng có thể nhập mật khẩu của mình với quyền riêng tư." Đầu những năm 1970, Robert Morris đã phát triển một hệ thống lưu trữ mật khẩu đăng nhập dưới dạng băm như một phần của hệ điều hành Unix. Hệ thống này dựa trên một máy mật mã cánh quạt Hagelin mô phỏng và lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản Unix phiên bản thứ 6 vào năm 1974. Một phiên bản sau của thuật toán của anh ta, được gọi là crypt(3), đã sử dụng salt 12 bit và gọi một dạng sửa đổi của thuật toán DES 25 lần để giảm nguy cơ tấn công từ điển được tính toán trước.
Trong thời hiện đại, tên người dùng và mật khẩu thường được mọi người sử dụng trong quá trình đăng nhập kiểm soát quyền truy cập vào hệ điều hành máy tính được bảo vệ, điện thoại di động, bộ giải mã truyền hình cáp, máy rút tiền tự động (ATM), v.v. Một người dùng máy tính thông thường có mật khẩu cho nhiều mục đích: đăng nhập vào tài khoản, truy xuất e-mail, truy cập ứng dụng, cơ sở dữ liệu, mạng, trang web và thậm chí đọc báo buổi sáng trực tuyến.
Chọn một mật khẩu an toàn và dễ nhớ
Thông thường, mật khẩu dễ nhớ hơn đối với chủ sở hữu có nghĩa là kẻ tấn công sẽ dễ đoán hơn. Tuy nhiên, mật khẩu khó nhớ cũng có thể làm giảm tính bảo mật của hệ thống vì (a) người dùng có thể cần ghi lại hoặc lưu trữ mật khẩu điện tử, (b) người dùng sẽ cần đặt lại mật khẩu thường xuyên và (c) người dùng có nhiều khả năng sử dụng lại cùng một mật khẩu trên các tài khoản khác nhau. Tương tự, các yêu cầu mật khẩu càng nghiêm ngặt, chẳng hạn như "có sự pha trộn giữa chữ hoa và chữ thường và chữ số" hoặc "thay đổi hàng tháng", mức độ mà người dùng sẽ lật đổ hệ thống càng lớn. Những người khác tranh luận mật khẩu dài hơn cung cấp bảo mật hơn (ví dụ: entropy) so với mật khẩu ngắn hơn với nhiều loại ký tự.
Trong Khả năng ghi nhớ và bảo mật của mật khẩu, Jeff Yan et al. kiểm tra hiệu quả của lời khuyên dành cho người dùng về một lựa chọn tốt về mật khẩu. Họ phát hiện ra rằng mật khẩu dựa trên suy nghĩ của một cụm từ và lấy chữ cái đầu tiên của mỗi từ cũng đáng nhớ như mật khẩu được chọn một cách ngây thơ và khó bị bẻ khóa như mật khẩu được tạo ngẫu nhiên.
Kết hợp hai hoặc nhiều từ không liên quan và thay đổi một số chữ cái thành ký tự hoặc số đặc biệt là một phương pháp tốt khác, nhưng một từ trong từ điển thì không. Có một thuật toán được thiết kế cá nhân để tạo mật khẩu tối nghĩa là một phương pháp tốt khác.
Tuy nhiên, yêu cầu người dùng nhớ mật khẩu bao gồm "kết hợp các ký tự viết hoa và viết thường" tương tự như yêu cầu họ nhớ một chuỗi bit: khó nhớ và chỉ khó hơn một chút để bẻ khóa (ví dụ khó hơn 128 lần bẻ khóa mật khẩu 7 chữ cái, ít hơn nếu người dùng chỉ cần viết hoa một trong các chữ cái). Yêu cầu người dùng sử dụng "cả chữ cái và chữ số" thường sẽ dẫn đến những sự thay thế dễ đoán như 'E' → '3' và 'I' → '1', những sự thay thế được biết đến với những kẻ tấn công. Tương tự gõ mật khẩu trên một một hàng bàn phím cao hơn để thay đổi chữ là một mẹo mật khẩu mà những kẻ tấn công cũng biết.
Vào năm 2013, Google đã công bố danh sách các loại mật khẩu phổ biến nhất, tất cả đều được coi là không an toàn vì chúng quá dễ đoán (đặc biệt là sau khi nghiên cứu một cá nhân trên phương tiện truyền thông xã hội):
Tên của vật nuôi, trẻ em, thành viên gia đình hoặc quan trọng khác
Ngày kỷ niệm và sinh nhật
Nơi sinh
Tên của một kỳ nghỉ yêu thích
Một cái gì đó liên quan đến một đội thể thao yêu thích
Từ "password", "mật khẩu"
Các yếu tố trong bảo mật của hệ thống mật khẩu
Tính bảo mật của hệ thống được bảo vệ bằng mật khẩu phụ thuộc vào một số yếu tố. Hệ thống tổng thể phải được thiết kế để bảo mật tốt, với khả năng bảo vệ chống lại virus máy tính, các cuộc tấn công trung gian và tương tự. Các vấn đề an ninh vật lý cũng là một mối quan tâm, từ việc ngăn chặn việc lướt vai cho đến các mối đe dọa vật lý phức tạp hơn như máy quay video và người đánh hơi bàn phím. Mật khẩu nên được chọn sao cho kẻ tấn công khó đoán và kẻ tấn công khó phát hiện bằng cách sử dụng bất kỳ kế hoạch tấn công tự động có sẵn nào. Xem độ mạnh của mật khẩu và bảo mật máy tính để biết thêm thông tin.
Ngày nay, thông thường các hệ thống máy tính sẽ ẩn mật khẩu khi chúng được gõ. Mục đích của biện pháp này là để ngăn người ngoài đọc mật khẩu; tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng cách làm này có thể dẫn đến sai lầm và căng thẳng, khuyến khích người dùng chọn mật khẩu yếu. Thay vào đó, người dùng nên có tùy chọn hiển thị hoặc ẩn mật khẩu khi họ nhập chúng.
Các điều khoản kiểm soát truy cập hiệu quả có thể buộc các biện pháp cực đoan đối với tội phạm tìm cách lấy mật khẩu hoặc mã thông báo sinh trắc học. Các biện pháp cực đoan hơn bao gồm tống tiền, phân tích ống cao su và tấn công kênh bên.
Một số vấn đề quản lý mật khẩu cụ thể dưới đây phải được xem xét khi suy nghĩ, lựa chọn và xử lý mật khẩu.
Tần suất kẻ tấn công có thể thử đoán mật khẩu
Tốc độ mà kẻ tấn công có thể gửi mật khẩu đoán cho hệ thống là yếu tố chính trong việc xác định bảo mật hệ thống. Một số hệ thống áp dụng thời gian chờ vài giây sau một số lượng nhỏ (ví dụ: ba) lần thử nhập mật khẩu không thành công. Trong trường hợp không có lỗ hổng khác, các hệ thống như vậy có thể được bảo mật hiệu quả với mật khẩu tương đối đơn giản, nếu chúng được lựa chọn tốt và không dễ đoán.
Nhiều hệ thống lưu trữ một mật mã băm của mật khẩu. Nếu kẻ tấn công có quyền truy cập vào tệp đoán mật khẩu băm có thể được thực hiện ngoại tuyến, hãy nhanh chóng kiểm tra mật khẩu ứng viên dựa trên giá trị băm của mật khẩu thật. Trong ví dụ về máy chủ web, kẻ tấn công trực tuyến chỉ có thể đoán ở tốc độ mà máy chủ sẽ phản hồi, trong khi kẻ tấn công ngoại tuyến (có quyền truy cập vào tệp) chỉ có thể đoán ở tốc độ giới hạn bởi phần cứng của máy đang tấn công.
Mật khẩu được sử dụng để tạo khóa mật mã (ví dụ: để mã hóa ổ đĩa hoặc bảo mật Wi-Fi) cũng có thể bị đoán với tốc độ cao. Danh sách các mật khẩu phổ biến có sẵn rộng rãi và có thể làm cho các cuộc tấn công mật khẩu rất hiệu quả. (Xem Bẻ khóa mật khẩu) Bảo mật trong các tình huống như vậy phụ thuộc vào việc sử dụng mật khẩu hoặc cụm mật khẩu có độ phức tạp đầy đủ, khiến cho một cuộc tấn công như vậy không thể tính toán được cho kẻ tấn công. Một số hệ thống, chẳng hạn như PGP và Wi-Fi WPA, áp dụng hàm băm chuyên sâu tính toán cho mật khẩu để làm chậm các cuộc tấn công như vậy. Xem kéo dài khóa.
Giới hạn về số lần đoán mật khẩu
Một cách khác để giới hạn tốc độ mà kẻ tấn công có thể đoán được mật khẩu là giới hạn tổng số lần đoán có thể được thực hiện. Mật khẩu có thể bị vô hiệu hóa, yêu cầu đặt lại, sau một số ít dự đoán sai liên tiếp (giả sử là 5); và người dùng có thể được yêu cầu phải thay đổi mật khẩu sau số lần đoán sai tích lũy lớn hơn (giả sử 30), để ngăn kẻ tấn công tạo ra một số lượng lớn các dự đoán sai tùy ý bằng cách xen kẽ chúng giữa các dự đoán tốt do chủ sở hữu mật khẩu hợp pháp đưa ra. Kẻ tấn công có thể sử dụng kiến thức về giảm thiểu này để thực hiện một cuộc tấn công từ chối dịch vụ chống lại người dùng bằng cách cố ý khóa người dùng khỏi thiết bị của họ; sự từ chối dịch vụ này có thể mở ra những con đường khác để kẻ tấn công thao túng tình hình thành lợi thế của chúng thông qua kỹ thuật xã hội.
Hình thức mật khẩu được lưu trữ
Một số hệ thống máy tính lưu trữ mật khẩu người dùng dưới dạng văn bản thô, dựa vào đó để so sánh các nỗ lực đăng nhập của người dùng. Nếu kẻ tấn công giành được quyền truy cập vào kho lưu trữ mật khẩu nội bộ như vậy, thì tất cả mật khẩu và tất cả các tài khoản người dùng sẽ bị xâm phạm. Nếu một số người dùng sử dụng cùng một mật khẩu cho các tài khoản trên các hệ thống khác nhau, những hệ thống đó cũng sẽ bị xâm phạm.
Các hệ thống an toàn hơn lưu trữ từng mật khẩu ở dạng được bảo vệ bằng mật mã, do đó, việc truy cập vào mật khẩu thực tế sẽ vẫn khó khăn đối với một kẻ rình mò có quyền truy cập nội bộ vào hệ thống, trong khi vẫn có thể xác thực các nỗ lực truy cập của người dùng. Các hệ thống an toàn nhất không lưu trữ mật khẩu, mà chỉ có dẫn xuất một chiều, chẳng hạn như đa thức, mô đun hoặc hàm băm nâng cao. Roger Needham đã phát minh ra cách tiếp cận phổ biến hiện nay là chỉ lưu trữ một dạng "băm" của mật khẩu văn bản gốc. Khi người dùng nhập mật khẩu trên một hệ thống như vậy, phần mềm xử lý mật khẩu sẽ chạy qua thuật toán băm mật mã và nếu giá trị băm được tạo từ mục nhập của người dùng khớp với hàm băm được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu mật khẩu, người dùng được phép truy cập. Giá trị băm được tạo bằng cách áp dụng hàm băm mật mã cho một chuỗi bao gồm mật khẩu được gửi và, trong nhiều triển khai, một giá trị khác được gọi là muối (salt). Một giá trị muối ngăn chặn kẻ tấn công dễ dàng xây dựng một danh sách các giá trị băm cho mật khẩu phổ biến và ngăn chặn các nỗ lực bẻ khóa mật khẩu trên tất cả người dùng. MD5 và SHA1 là các hàm băm mật mã được sử dụng thường xuyên nhưng chúng không được khuyến nghị để băm mật khẩu trừ khi chúng được sử dụng như một phần của cấu trúc lớn hơn như trong PBKDF2. |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1986 (tên chính thức là 1986 Football World Cup - Mexico / Mexico 86) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 13 và đã được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 29 tháng 6 năm 1986 tại México. Đây là lần thứ hai México đăng cai giải đấu này (lần trước là vào năm 1970) và México trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới hai lần đăng cai giải đấu.
Linh vật chính thức của giải đấu là Pique, là trái ớt jalapeño, một món đặc thù trong ẩm thực Mexico, với ria mép và đang đội mũ vành. Tên của nó đến từ picante, trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "ớt" và "cay".
Sau 52 trận đấu, Argentina lần thứ hai đoạt chức vô địch bóng đá thế giới. Giải vô địch lần này chứng kiến sự tỏa sáng rực rỡ của Diego Maradona với sự dẫn dắt toàn đội tuyển tiến đến chức vô địch và tỏa sáng trên phương diện cá nhân với những bàn thắng vĩ đại, đậm chất kỹ thuật trong bóng đá mà điển hình là Bàn tay của Chúa và Bàn thắng thế kỷ.
Vòng loại
119 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo năm châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Mexico và đội đương kim vô địch thế giới Ý.
Các sân vận động
Maroc và Bồ Đào Nha thi đấu ở Guadalajara, còn Tây Ban Nha và Algérie thi đấu ở Monterrey.
Trọng tài
Châu Phi
Ali Bin Nasser
Edwin Picon-Ackong
Idrissa Traoré
Châu Á
Fallaj Al-Shanar
Jamal Al Sharif
Takada Shizuo
Châu Âu
Luigi Agnolin
Horst Brummeier
Valeri Butenko
Vojtech Christov
George Courtney
André Daina
Bogdan Dotchev
Erik Fredriksson
Ioan Igna
Jan Keizer
Siegfried Kirschen
Lajos Németh
Zoran Petrović
Alexis Ponnet
Joël Quiniou
Volker Roth
Victoriano Sánchez Arminio
Carlos Silva Valente
Alan Snoddy
Bắc và Trung Mỹ
Rómulo Méndez
Antonio Márquez Ramírez
David Socha
Berny Ulloa Morera
Châu Đại Dương
Chris Bambridge
Nam Mỹ
Romualdo Arppi Filho
Jesús Díaz
Carlos Espósito
Gabriel González Roa
José Luis Martínez Bazán
Hernán Silva
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Sơ đồ khái quát
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Giải thưởng
Chi tiết:
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Gary Lineker
5 bàn
Diego Maradona
Careca
Emilio Butragueño
4 bàn
Jorge Valdano
Preben Elkjær Larsen
Alessandro Altobelli
Igor Belanov
3 bàn
Jan Ceulemans
Nico Claesen
Jesper Olsen
Rudi Völler
2 bàn
Jorge Burruchaga
Enzo Scifo
Josimar
Sócrates
Jean-Pierre Papin
Michel Platini
Yannick Stopyra
Fernando Quirarte
Abderrazak Khairi
Roberto Cabañas
Julio César Romero
Ramón Calderé
Klaus Allofs
1 bàn
Djamel Zidane
José Luis Brown
Pedro Pasculli
Oscar Ruggeri
Stéphane Demol
Erwin Vandenbergh
Franky Vercauteren
Daniel Veyt
Edinho
Plamen Getov
Nasko Sirakov
John Eriksen
Michael Laudrup
Søren Lerby
Peter Beardsley
Manuel Amoros
Luis Fernández
Jean-Marc Ferreri
Bernard Genghini
Dominique Rocheteau
Jean Tigana
Lajos Détári
Márton Esterházy
Ahmed Radhi
Luis Flores
Manuel Negrete
Hugo Sánchez
Raúl Servín
Abdelkrim Merry
Colin Clarke
Norman Whiteside
Włodzimierz Smolarek
Carlos Manuel
Diamantino
Gordon Strachan
Choi Soon-Ho
Huh Jung-Moo
Kim Jong-Boo
Park Chang-Sun
Sergei Aleinikov
Oleg Blokhin
Vasyl Rats
Sergey Rodionov
Pavlo Yakovenko
Ivan Yaremchuk
Oleksandr Zavarov
Eloy
Andoni Goikoetxea
Julio Salinas
Juan Antonio Señor
Antonio Alzamendi
Enzo Francescoli
Andreas Brehme
Lothar Matthäus
Karl-Heinz Rummenigge
phản lưới nhà
László Dajka (trong trận gặp )
Cho Kwang-rae (trong trận gặp )
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 (tên chính thức là 1990 Football World Cup - Italy, tên gọi ngắn gọn: Italia '90) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 14, diễn ra từ ngày 8 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1990 tại Ý. Đây là lần thứ hai Ý đăng cai giải đấu này (lần trước là vào năm 1934) trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới (sau México) và quốc gia đầu tiên của châu Âu 2 lần đăng cai giải đấu.
Bài hát chính thức của giải đấu là "Un'estate italiana (To Be Number One)" của nhạc sĩ Giorgio Moroder, do hai ca sĩ Gianna Nannini và Edoardo Bennato thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Ciao, cầu thủ hình cây gậy, với đầu là trái banh và thân là lá cờ tam tài của Ý. Biểu tượng được đặt tên theo câu chào của người Ý.
Sau 52 trận đấu, Tây Đức lần thứ 3 đoạt chức vô địch thế giới. Đây là giải đấu cuối cùng có sự góp mặt của một đội tuyển đến từ Tây Đức, với việc đất nước được thống nhất với Đông Đức vài tháng sau đó, cũng như các đội tuyển Liên Xô và Tiệp Khắc trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991. Costa Rica, Ireland và UAE lần đầu tiên góp mặt trong vòng chung kết.
World Cup 1990 được coi là một trong những kỳ World Cup nghèo nàn nhất về mặt chuyên môn với trung bình 2,2 bàn thắng mỗi trận - mức thấp kỷ lục cho đến nay - và kỷ lục 16 thẻ đỏ, bao gồm cả thẻ đỏ đầu tiên trong một trận chung kết. Chiến thuật phòng ngự quá chặt chẽ đã dẫn đến sự ra đời của quy tắc chuyền ngược vào năm 1992 và ba điểm cho một chiến thắng thay vì hai, nhằm khuyến khích lối chơi tấn công, làm tăng sự quan tâm của khán giả đối với môn thể thao này.
World Cup 1990 trở thành một trong những sự kiện được theo dõi nhiều nhất trong lịch sử truyền hình, ước tính thu về 26,69 tỷ lượt người xem trong suốt giải đấu. Đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên có các trận đấu được ghi hình và phát sóng chính thức theo định dạng HDTV, với sự phối hợp giữa hai đài truyền hình RAI của Ý và NHK của Nhật Bản.
Vòng loại
114 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo sáu châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Ý và đội đương kim vô địch thế giới Argentina.
Các đội tuyển vượt qua vòng loại
AFC (2)
CAF (2)
OFC (0)
Không có
CONCACAF (2)
CONMEBOL (4)
UEFA (14)
(chủ nhà)
Các sân vận động
Đội hình
Trọng tài
41 trọng tài đến từ 34 quốc gia tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1990.
CAF
Mohamed Hansal ()
Neji Jouini ()
Jean-Fidèle Diramba ()
AFC
Jamal Al Sharif ()
Jassim Mandi ()
Takada Shizuo ()
UEFA
Luigi Agnolin ()
Emilio Soriano Aladrén ()
George Courtney ()
Pietro D'Elia ()
Erik Fredriksson ()
Siegfried Kirschen (Đông Đức)
Helmut Kohl ()
Tullio Lanese ()
Michał Listkiewicz ()
Rosario Lo Bello ()
Carlo Longhi ()
Pierluigi Magni ()
Peter Mikkelsen ()
Pierluigi Pairetto ()
Zoran Petrović ()
Joël Quiniou ()
Kurt Röthlisberger ()
Aron Schmidhuber ()
Carlos Silva Valente ()
George Smith ()
Alan Snoddy ()
Aleksey Spirin ()
Marcel Van Langenhove ()
Michel Vautrot ()
CONCACAF
Edgardo Codesal ()
Vincent Mauro ()
Berny Ulloa Morera ()
OFC
Richard Lorenc ()
CONMEBOL
Juan Daniel Cardellino ()
Armando Pérez Hoyos ()
Elías Jácome ()
Juan Carlos Loustau ()
Carlos Maciel ()
Hernán Silva ()
José Roberto Wright ()
Phân nhóm
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ Trung Âu (UTC+2).
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Salvatore Schillaci
5 bàn
Tomáš Skuhravý
4 bàn
Roger Milla
Gary Lineker
Míchel
Lothar Matthäus
3 bàn
David Platt
Andreas Brehme
Jürgen Klinsmann
Rudi Völler
2 bàn
Claudio Caniggia
Careca
Müller
Bernardo Redín
Michal Bílek
Roberto Baggio
Gabi Balint
Marius Lăcătuș
Davor Jozić
Darko Pančev
Dragan Stojković
1 bàn
Andreas Ogris
Gerhard Rodax
Jorge Burruchaga
Pedro Monzón
Pedro Troglio
Jan Ceulemans
Lei Clijsters
Michel De Wolf
Marc Degryse
Enzo Scifo
Patrick Vervoort
Eugène Ekéké
Emmanuel Kundé
François Omam-Biyik
Freddy Rincón
Carlos Valderrama
Juan Cayasso
Róger Flores
Rónald González
Hernán Medford
Ivan Hašek
Luboš Kubík
Milan Luhový
Magdi Abdelghani
Mark Wright
Giuseppe Giannini
Aldo Serena
Ruud Gullit
Wim Kieft
Ronald Koeman
Niall Quinn
Kevin Sheedy
Mo Johnston
Stuart McCall
Kwan Hwang-Bo
Igor Dobrovolski
Oleh Protasov
Oleksandr Zavarov
Andrei Zygmantovich
Alberto Górriz
Julio Salinas
Tomas Brolin
Johnny Ekström
Glenn Strömberg
Khalid Ismaïl
Ali Thani Jumaa
Paul Caligiuri
Bruce Murray
Pablo Bengoechea
Daniel Fonseca
Uwe Bein
Pierre Littbarski
Robert Prosinečki
Safet Sušić
Giải thưởng
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải bóng đá vô địch thế giới 1994 (tên chính thức là 1994 Football World Cup - USA / World Cup 94) là Giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 15 và đã được tổ chức từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 17 tháng 7 năm 1994 tại Hoa Kỳ. Đây là kỳ World Cup lần thứ ba được tổ chức tại Bắc Mỹ sau kỳ World Cup 1970 và World Cup 1986 đều tại México.
Bài hát chính thức của giải đấu là "Gloryland" do Charlie Skarbek và Rick Blaskey sáng tác và do Daryl Hall và Sounds of Blackness thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Striker, một chú chó mặc đồng phục cầu thủ bóng đá đỏ, trắng và xanh với dòng chữ "USA 94".
Sau 52 trận đấu, Brasil lần thứ 4 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới.
Vòng loại
144 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo 6 châu lục để chọn ra 22 đội vào vòng chung kết cùng nước chủ nhà Hoa Kỳ và đội đương kim vô địch thế giới Đức.
Các sân vận động
Trọng tài
CAF
Lim Kee Chong ()
Neji Jouini ()
AFC
Jamal Al Sharif ()
Ali Bujsaim ()
UEFA
Fabio Baldas ()
Manuel Díaz Vega ()
Philip Don ()
Bo Karlsson ()
Hellmut Krug ()
Peter Mikkelsen ()
Leslie Mottram ()
Pierluigi Pairetto ()
Sándor Puhl ()
Joël Quiniou ()
Kurt Röthlisberger ()
Mario van der Ende ()
CONCACAF
Arturo Angeles ()
Rodrigo Badilla ()
Arturo Brizio Carter ()
CONMEBOL
José Torres Cadena ()
Ernesto Filippi ()
Francisco Oscar Lamolina ()
Renato Marsiglia ()
Alberto Tejada ()
Đội hình
Phân nhóm
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (từ UTC−4 đến UTC-7)
Bảng A
|}
Bảng B
|}
Bảng C
|}
Bảng D
|}
Bảng E
|}
Bảng F
|}
Thứ tự các đội xếp thứ ba
Vòng đấu loại trực tiếp
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Hristo Stoichkov
Oleg Salenko
5 bàn
Romário
Roberto Baggio
Jürgen Klinsmann
Kennet Andersson
4 bàn
Gabriel Batistuta
Florin Răducioiu
Martin Dahlin
3 bàn
Bebeto
Dennis Bergkamp
Gheorghe Hagi
José Luis Caminero
Tomas Brolin
2 bàn
Claudio Caniggia
Philippe Albert
Yordan Letchkov
Adolfo Valencia
Rudi Völler
Dino Baggio
Hong Myung-Bo
Luis García
Wim Jonk
Daniel Amokachi
Emmanuel Amuneke
Ilie Dumitrescu
Fuad Amin
Ion Andoni Goikoetxea
Adrian Knup
1 bàn
Abel Balbo
Diego Maradona
Marc Degryse
Georges Grün
Erwin Sánchez
Branco
Márcio Santos
Raí
Daniel Borimirov
Nasko Sirakov
David Embé
Roger Milla
François Omam-Biyik
Hernán Gaviria
John Harold Lozano
Lothar Matthäus
Karl-Heinz Riedle
John Aldridge
Ray Houghton
Daniele Massaro
Hwang Sun-Hong
Seo Jung-Won
Mohammed Chaouch
Hassan Nader
Marcelino Bernal
Alberto García Aspe
Bryan Roy
Gaston Taument
Aron Winter
Finidi George
Samson Siasia
Rashidi Yekini
Kjetil Rekdal
Dan Petrescu
Dmitri Radchenko
Fahad Al-Ghesheyan
Sami Al-Jaber
Saeed Al-Owairan
Txiki Begiristain
Pep Guardiola
Fernando Hierro
Luis Enrique
Julio Salinas
Henrik Larsson
Roger Ljung
Håkan Mild
Georges Bregy
Stéphane Chapuisat
Alain Sutter
Earnie Stewart
Eric Wynalda
phản lưới nhà
Andrés Escobar (trận gặp Hoa Kỳ)
Giải thưởng
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu |
Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 (tên chính thức là 1998 Football World Cup - France / Coupe du Monde - France 98) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 16 và đã được tổ chức từ 10 tháng 6 đến 12 tháng 7 năm 1998 tại Pháp. Đây là lần thứ hai Pháp đăng cai giải đấu này (lần trước là vào năm 1938) và Pháp trở thành quốc gia thứ hai của châu Âu 2 lần đăng cai giải (sau Ý). Đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên tăng số đội tham dự lên 32 đội.
Bài hát chính thức của giải đấu là "La Copa de la Vida (The Cup of Life)" do Desmond Child và Robi Rosa sáng tác và do Ricky Martin thể hiện.
Linh vật chính thức của giải đấu là Footix, một chú gà trống xanh dương, biểu tượng tiêu biểu cho nước Pháp, với dòng chữ "FRANCE 98" trên ngực. Thân của gà trống hầu như toàn màu xanh dương, giống như màu áo của Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp và được đặt tên theo từ kết hợp của "football" (bóng đá) và tiếp vị ngữ "-ix" từ Astérix, một nhân vật hoạt hình nổi tiếng.
Chủ nhà Pháp đoạt chức vô địch sau khi vượt qua Brasil ở trận chung kết với tỉ số 3–0.
Vòng loại
170 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo sáu châu lục để chọn ra 30 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Pháp và đội đương kim vô địch thế giới Brasil.
Các đội giành quyền tham dự
AFC (4)
(42)
(12)
(34)
(20)
CAF (5)
(49)
(13)
(74)
(24)
(21)
OFC (0)
Không có đại diện (Úc thua Iran ở play-off liên lục địa)
CONCACAF (3)
(30)
(11)
(14)
CONMEBOL (5)
(6)
(1) (đương kim vô địch)
(9)
(10)
(29)
UEFA (15)
(31)
(36)
(35)
(19)
(27)
(5)
(18) (chủ nhà)
(2)
(14)
(25)
(7)
(22)
(41)
(4)
(8)
Các sân vận động
Mười sân vận động được sử dụng trong giải đấu này:
Trọng tài
CAF
Gamal Al-Ghandour ()
Said Belqola ()
Lucien Bouchardeau ()
Lim Kee Chong ()
Ian McLeod ()
AFC
Masayoshi Okada ()
Abdul Rahman Al-Zeid ()
Pirom Un-Prasert ()
Ali Bujsaim ()
UEFA
Günter Benkö ()
Kim Milton Nielsen ()
Paul Durkin ()
Marc Batta ()
Bernd Heynemann ()
László Vágner ()
Pierluigi Collina ()
Mario van der Ende ()
Rune Pedersen ()
Ryszard Wójcik ()
Vítor Melo Pereira ()
Nikolai Levnikov ()
Hugh Dallas ()
José Garcia Aranda ()
Urs Meier ()
CONCACAF
Arturo Brizio Carter ()
Ramesh Ramdhan ()
Esfandiar Baharmast ()
OFC
Edward Lennie ()
Mikey Kokupaloon (Tuvalu)
CONMEBOL
Javier Castrilli ()
Márcio Rezende de Freitas ()
Mario Sanchez Yanten ()
John Toro Rendon ()
Epifanio González ()
Alberto Tejada ()
Đội hình
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+2)
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Tóm tắt
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Các cầu thủ ghi bàn
6 bàn
Davor Šuker
5 bàn
Gabriel Batistuta
Christian Vieri
4 bàn
Ronaldo
Marcelo Salas
Luis Hernández
3 bàn
Bebeto
César Sampaio
Rivaldo
Oliver Bierhoff
Jürgen Klinsmann
Dennis Bergkamp
Thierry Henry
2 bàn
Michael Owen
Alan Shearer
Ariel Ortega
Marc Wilmots
Slobodan Komljenović
Robert Prosinečki
Brian Laudrup
Phillip Cocu
Ronald de Boer
Patrick Kluivert
Theodore Whitmore
Salaheddine Bassir
Abdeljalil Hadda
Ricardo Peláez
Shaun Bartlett
Emmanuel Petit
Lilian Thuram
Zinedine Zidane
Viorel Moldovan
Fernando Hierro
Fernando Morientes
Roberto Baggio
1 bàn
Sami Al-Jaber
Yousuf Al-Thunayan
Darren Anderton
David Beckham
Paul Scholes
Andreas Herzog
Toni Polster
Ivica Vastić
Claudio López
Mauricio Pineda
Javier Zanetti
Luc Nilis
Emil Kostadinov
Patrick M'Boma
Pierre Njanka
José Luis Sierra
Léider Preciado
Siniša Mihajlović
Predrag Mijatović
Dragan Stojković
Robert Jarni
Mario Stanić
Goran Vlaović
Thomas Helveg
Martin Jørgensen
Michael Laudrup
Peter Møller
Allan Nielsen
Marc Rieper
Ebbe Sand
Andreas Möller
Edgar Davids
Marc Overmars
Pierre van Hooijdonk
Boudewijn Zenden
Ha Seok-Ju
Yoo Sang-Chul
Brian McBride
Hamid Estili
Robbie Earle
Mehdi Mahdavikia
Mustapha Hadji
Cuauhtémoc Blanco
Alberto García Aspe
Dan Eggen
Håvard Flo
Tore André Flo
Kjetil Rekdal
Benni McCarthy
Nakayama Masashi
Mutiu Adepoju
Tijani Babangida
Victor Ikpeba
Sunday Oliseh
Wilson Oruma
Celso Ayala
Miguel Ángel Benítez
José Cardozo
Laurent Blanc
Youri Djorkaeff
Christophe Dugarry
Bixente Lizarazu
David Trezeguet
Adrian Ilie
Dan Petrescu
Craig Burley
John Collins
Kiko
Luis Enrique
Raúl
Skander Souayah
Luigi Di Biagio
Phản lưới nhà
Georgi Bachev (gặp Tây Ban Nha)
Youssef Chippo (gặp Na Uy)
Tom Boyd (gặp Brasil)
Pierre Issa (gặp Pháp)
Andoni Zubizarreta (gặp Nigeria)
Siniša Mihajlović (gặp Đức)
Các giải thưởng
Danh sách các cầu thủ nhận thẻ đỏ của giải đấu
Ariel Ortega
Gert Verheyen
Anatoli Nankov
Raymond Kalla
Lauren
Rigobert Song
Miklos Molnar
Morten Wieghorst
David Beckham
Laurent Blanc
Marcel Desailly
Zinedine Zidane
Christian Wörns
Darryl Powell
Ha Seok-ju
Pável Pardo
Ramón Ramírez
Patrick Kluivert
Arthur Numan
Mohammed Al-Khilaiwi
Craig Burley
Alfred Phiri
Đội hình toàn sao
Bảng xếp hạng giải đấu |
Trong toán học, giải thuật Euclid (hay thuật toán Euclid) là một giải thuật để tính ước chung lớn nhất (ƯCLN) của hai số nguyên, là số lớn nhất có thể chia được bởi hai số nguyên đó với số dư bằng không. Giải thuật này được đặt tên theo nhà toán học người Hy Lạp cổ đại Euclid, người đã viết nó trong bộ Cơ sở của ông (khoảng năm 300 TCN). Nó là một ví dụ về thuật toán, một chuỗi các bước tính toán theo điều kiện nhất định và là một trong số những thuật toán lâu đời nhất được sử dụng rộng rãi.
Giải thuật Euclid dựa trên nguyên tắc là ước chung lớn nhất của hai số nguyên không thay đổi khi thay số lớn hơn bằng hiệu của nó với số nhỏ hơn. Chẳng hạn, 21 là ƯCLN của 252 và 105 (vì 252 = 21 × 12 và 105 = 21 × 5) và cũng là ƯCLN của 105 và 252 − 105 = 147. Khi lặp lại quá trình trên thì hai số trong cặp số ngày càng nhỏ đến khi chúng bằng nhau, và khi đó chúng là ƯCLN của hai số ban đầu. Bằng cách đảo ngược lại các bước, ƯCLN này có thể được biểu diễn thành tổng của hai số hạng, mỗi số hạng bằng một trong hai số đã cho nhân với một số nguyên dương hoặc âm (đồng nhất thức Bézout), chẳng hạn, 21 = 5 × 105 + (−2) × 252.
Dạng ban đầu của giải thuật như trên có thể tốn nhiều bước thực hiện phép trừ để tìm ƯCLN nếu một trong hai số lớn hơn rất nhiều so với số còn lại. Một dạng khác của giải thuật rút ngắn lại các bước này, thay vào đó thế số lớn hơn bằng số dư của nó khi chia cho số nhỏ hơn (dừng lại khi số dư bằng không). Dạng thuật toán này chỉ tốn số bước nhiều nhất là năm lần số chữ số của số nhỏ hơn trên hệ thập phân. Gabriel Lamé chứng minh được điều này vào năm 1844, đánh dấu sự ra đời của lý thuyết độ phức tạp tính toán. Nhiều phương pháp khác để tăng hiệu quả của thuật toán cũng đã được phát triển trong thế kỷ 20.
Giải thuật Euclid có rất nhiều ứng dụng trong lý thuyết và thực tế. Nó được dùng để rút gọn phân số về dạng tối giản và thực hiện phép chia trong số học module. Thuật toán cũng là một thành phần then chốt trong giao thức mật mã để bảo mật kết nối Internet và được dùng để phá vỡ hệ thống mật mã này qua phân tích số nguyên. Nó cũng được áp dụng để giải phương trình Diophantine, chẳng hạn như tìm một số thỏa mãn nhiều biểu thức đồng dư theo định lý số dư Trung Quốc, để xây dựng liên phân số hay tìm xấp xỉ gần đúng nhất cho số thực. Cuối cùng, nó là công cụ cơ bản để chứng minh nhiều định lý trong lý thuyết số như định lý bốn số chính phương của Lagrange và tính duy nhất của phân tích số nguyên ra thừa số nguyên tố. Thuật toán Euclid ban đầu chỉ được giới hạn về số tự nhiên và độ dài hình học (số thực), nhưng đến thế kỷ 19 đã được mở rộng cho nhiều dạng số khác như số nguyên Gauss và đa thức một biến, dẫn đến các khái niệm về đại số trừu tượng như miền Euclid.
Ý tưởng
Giải thuật Euclid dùng để tính ước chung lớn nhất (ƯCLN) của hai số tự nhiên a và b. Ước chung lớn nhất g là số lớn nhất chia được bởi cả a và b mà không để lại số dư và được ký hiệu là ƯCLN(a, b) hoặc (a, b).
Nếu ƯCLN(a, b) = 1 thì a và b được gọi là hai số nguyên tố cùng nhau. Tính chất này không khẳng định a và b là số nguyên tố. Chẳng hạn, 6 và 35 đều không phải là số nguyên tố vì chúng đều có thể được phân tích thành tích của các thừa số nguyên tố: 6 = 2 × 3 và 35 = 5 × 7. Tuy nhiên, 6 và 35 nguyên tố cùng nhau vì chúng không có một thừa số chung nào.
Gọi g = ƯCLN(a, b). Vì a và b đều là bội của g nên chúng có thể được viết thành a = mg và b = ng, và không tồn tại số G > g nào để các biểu thức trên đúng. Hai số tự nhiên m và n phải nguyên tố cùng nhau vì không thể phân tích bất kỳ thừa số chung nào lớn hơn 1 từ m và n để g lớn hơn. Do đó, một số c bất kỳ được chia bởi a và b cũng được chia bởi g. Ước chung lớn nhất g của a và b là ước chung (dương) duy nhất của chúng có thể chia được bởi một ước chung c bất kỳ.
ƯCLN có thể được minh họa như sau. Xét một hình chữ nhật có kích thước là a × b và một ước chung c bất kỳ có thể chia được hết cả a và b. Cả hai cạnh của hình chữ nhật có thể được chia thành các đoạn thẳng bằng nhau có độ dài là c để chia hình chữ nhật thành các hình vuông có cạnh bằng c. Ước chung lớn nhất g chính là giá trị lớn nhất của c để điều này có thể xảy ra. Chẳng hạn, một hình chữ nhật có kích thước 24 × 60 có thể được chia thành các hình vuông có cạnh là 1, 2, 3, 4, 6 hoặc 12, nên 12 là ước chung lớn nhất của 24 và 60, tức là hình chữ nhật trên có hai hình vuông nằm trên một cạnh (24/12 = 2) và năm hình vuông nằm trên cạnh còn lại (60/12 = 5).
Ước chung lớn nhất của hai số a và b là tích của các thừa số nguyên tố chung của hai số đã cho, trong đó một thừa số có thể được nhân lên nhiều lần, chỉ khi tích của các thừa số đó chia được cả a và b. Chẳng hạn, ta phân tích được 1386 = 2 × 3 × 3 × 7 × 11 và 3213 = 3 × 3 × 3 × 7 × 17 nên ước chung lớn nhất 1386 và 3213 bằng 63 = 3 × 3 × 7 (là tích của các thừa số nguyên tố chung). Nếu hai số không có một thừa số nguyên tố chung nào thì ước chung lớn nhất của chúng bằng 1 (một trường hợp của tích rỗng), hay nói cách khác chúng nguyên tố cùng nhau. Một ưu điểm quan trọng của giải thuật Euclid là nó có thể tính được ƯCLN đó mà không cần phân tích ra thừa số nguyên tố. Bài toán phân tích các số nguyên lớn là rất khó và tính bảo mật của nhiều giao thức mật mã phổ biến được dựa trên tính chất này.
Một định nghĩa khác của ƯCLN rất hữu ích trong toán cao cấp, đặc biệt là lý thuyết vành. Ước chung lớn nhất g của hai số a và b khác không là tổ hợp tuyến tính tích phân nhỏ nhất, tức là số nhỏ nhất với dạng ua + vb với u và v là số nguyên. Tập hợp tất cả các tổ hợp tuyến tính tích phân của a và b thực chất giống với tập hợp tất cả các bội của g (mg với m là số nguyên). Trong ngôn ngữ toán học hiện đại, ideal tạo bởi a và b chính là ideal tạo bởi g (một ideal tạo bởi một phần tử duy nhất được gọi là ideal chủ yếu và tất cả ideal của số nguyên đều là ideal chủ yếu). Từ đó, một số tính chất của ƯCLN có thể được nhận ra dễ dàng hơn, ví dụ như bất kỳ ước chung nào của a và b cũng chia được bởi ƯCLN (cả hai số hạng trong ua + vb). Tính thống nhất của định nghĩa này với các định nghĩa khác được mô tả dưới đây.
ƯCLN của ba số trở lên bằng tích của các thừa số nguyên tố chung của cả ba số đã cho, nhưng nó cũng có thể được tính bằng cách tìm ƯCLN của từng cặp số trong ba số đó. Chẳng hạn,
Vì vậy, giải thuật Euclid, vốn dùng để tính ƯCLN của hai số nguyên cũng có thể được áp dụng để tính ƯCLN của một số lượng số nguyên bất kỳ.
Mô tả
Thuật toán
Giải thuật Euclid gồm một dãy các bước mà trong đó, đầu ra của mỗi bước là đầu vào của bước kế tiếp. Gọi k là số nguyên dùng để đếm số bước của thuật toán, bắt đầu từ số không (khi đó bước đầu tiên tương ứng với k = 0, bước tiếp theo là k = 1,...)
Mỗi bước bắt đầu với hai số dư không âm rk−1 và rk−2. Vì thuật toán giúp đảm bảo số dư luôn giảm dần theo từng bước nên rk−1 nhỏ hơn rk−2. Mục tiêu của bước thứ k là tìm thương qk và số dư rk thỏa mãn phương trình
và 0 ≤ rk < rk−1. Nói cách khác, từ số lớn hơn rk−2, trừ đi bội của số nhỏ hơn rk−1 đến khi phần dư rk nhỏ hơn rk−1.
Ở bước đầu tiên (k = 0), số dư r−2 và r−1 bằng a và b, hai số cần tìm ƯCLN. Đến bước kế tiếp (k = 1), hai số dư lần lượt bằng b và số dư r0 ở bước đầu tiên,... Do đó, thuật toán có thể được viết thành một dãy các phương trình
Nếu a nhỏ hơn b thì thuật toán đảo ngược vị trí của hai số. Chẳng hạn, nếu a < b thì thương q0 bằng không và số dư r0 bằng a. Do đó, rk luôn nhỏ hơn rk−1 với mọi k ≥ 0.
Vì các số dư luôn giảm dần theo từng bước nhưng không thể là số âm nên số dư sau cùng rN phải bằng không và thuật toán dừng lại tại đó. Số dư khác không cuối cùng rN−1 chính là ước chung lớn nhất của a và b. Số N không thể là vô hạn vì chỉ có một số lượng hữu hạn các số nguyên dương nằm giữa số dư ban đầu r0 và số không.
Chứng minh tính đúng đắn
Tính đúng đắn của giải thuật Euclid có thể được chứng minh qua hai bước lập luận. Bước thứ nhất, cần chứng minh số dư khác không cuối cùng rN−1 chia được cả a và b. Vì rN−1 là một ước chung nên nó phải nhỏ hơn hoặc bằng với ước chung lớn nhất g. Bước thứ hai, cần chứng minh rằng bất kỳ ước chung nào của a và b, trong đó có g cần phải chia được rN−1; từ đó, g phải nhỏ hơn hoặc bằng rN−1. Hai kết luận trên là mâu thuẫn trừ khi rN−1 = g.
Để chứng tỏ rN−1 chia được cả a và b, cần biết rN−1 chia được số dư liền trước rN−2:
vì số dư cuối cùng rN bằng không. rN−1 cũng chia được số dư rN−3:
vì nó chia được cả hai số hạng trong vế phải của phương trình. Chứng minh tương tự, rN−1 cũng chia được tất cả số dư liền trước nó kể cả a và b. Không có số dư liền trước rN−2, rN−3,... chia bởi a và b cho số dư bằng không. Vì rN−1 là ước chung của a và b nên rN−1 ≤ g.
Trong bước thứ hai, một số tự nhiên c bất kỳ chia được cả a và b (là ước chung của a và b) cũng chia được số dư rk. Theo định nghĩa thì a và b có thể được viết thành bội của c: a = mc và b = nc với m và n là các số tự nhiên. Ta có r0 = a − q0b = mc − q0nc = (m − q0n)c nên c là một ước của số dư ban đầu r0. Chứng minh như bước thứ nhất, ta thấy c cũng là ước của các số dư liền sau r1, r2,... Từ đó, ước chung lớn nhất g là ước của rN−1 hay g ≤ rN−1. Kết hợp hai kết luận thu được, ta có g = rN−1. Vậy g là ước chung lớn nhất của tất cả cặp số liền sau:
Ví dụ
Áp dụng giải thuật Euclid để tính ƯCLN của a = 1071 và b = 462. Đầu tiên, ta trừ bội của 462 từ 1071 thì được thương q0 = 2 và số dư là 147:
Tiếp tục trừ bội của 147 từ 462 thì được thương q1 = 3 và số dư là 21:
Tiếp tục trừ bội của 21 từ 147 thì được thương q2 = 7 và số dư là 0:
Vì số dư cuối cùng bằng 0 nên thuật toán kết thúc với 21 là ƯCLN của 1071 và 462, bằng với ƯCLN có được từ phép phân tích ra thừa số nguyên tố như trên. Các bước được tóm tắt thành bảng sau:
Minh họa
Giải thuật Euclid có thể được minh họa dựa vào bài toán hình chữ nhật tương tự như trên. Giả sử ta cần dùng hình vuông để lấp đầy một hình chữ nhật có kích thước là a × b với a là số lớn hơn. Đầu tiên, ta đặt các hình vuông b × b lên trên đó thì còn lại phần hình trống là một hình chữ nhật b × r0 với r0 < b. Tiếp theo, ta đặt các hình vuông r0 × r0 lên phần hình trống đó thì còn lại phần hình trống thứ hai r1 × r0 mà ta cần phải đặt lên đó các hình vuông r1 × r1,... Toàn bộ quá trình chỉ kết thúc khi không còn phần hình trống nào, và khi đó, độ dài cạnh hình vuông nhỏ nhất chính là ƯCLN của độ dài hai cạnh hình chữ nhật ban đầu. Chẳng hạn, hình vuông nhỏ nhất trong hình bên là 21 × 21 (màu đỏ), và 21 là ƯCLN của 1071 và 462, độ dài hai cạnh của hình chữ nhật ban đầu (màu xanh lá).
Phép chia có dư
Tại mỗi bước k, giải thuật Euclid tính một thương qk và số dư rk từ hai số rk−1 và rk−2:
trong đó rk không âm và nhỏ hơn giá trị tuyệt đối của rk−1. Định lý làm nền tảng cho phép chia có dư cho thấy luôn tồn tại duy nhất một thương và số dư như vậy.
Trong dạng ban đầu của giải thuật, thương và số dư được tìm bằng cách lặp lại phép trừ, nghĩa là trừ rk−1 từ rk−2 và lặp lại đến khi phần dư rk nhỏ hơn rk−1, sau đó hoán đổi chúng cho nhau rồi lại lặp lại quá trình này. Phép chia có dư hiệu quả hơn nhiều khi giảm đi số bước giữa hai hoán đổi còn một bước duy nhất. Hơn nữa, ta còn có thể thay phép chia có dư bằng phép toán modulo, vốn chỉ cho kết quả số dư. Như vậy, dạng lặp của giải thuật Euclid trở thành
Chương trình
Giải thuật Euclid có thể được biểu diễn bằng mã giả. Chẳng hạn, dạng phép chia của nó có thể được lập trình thành
function gcd(a, b)
while b ≠ 0
t:= b
b:= a mod b
a:= t
return a
Ở đầu vòng lặp k, biến b mang giá trị số dư rk−1, trong khi biến a mang giá trị số dư liền trước rk−2. Bước b := a mod b giống với công thức đệ quy như trên rk ≡ rk−2 mod rk−1. Biến tạm thời t mang giá trị rk−1 khi tính số dư liền sau rk. Cuối vòng lặp, biến b mang giá trị rk, trong khi biến a mang giá trị số dư liền trước rk−1.
Trong dạng phép trừ (dạng ban đầu của thuật toán), bước b := a mod b được thay bằng phép trừ lặp lại. Trái ngược với dạng phép chia cho phép đầu vào là một số nguyên bất kỳ, dạng phép trừ chỉ cho phép đầu vào là một số nguyên dương và dừng lại khi a = b:
function gcd(a, b)
while a ≠ b
if a > b
a:= a − b
else
b:= b − a
return a
Biến a và b luân phiên mang giá trị của các số dư liền trước rk−1 và rk−2. Giả sử a > b ở đầu một vòng lặp thì a bằng rk−2 vì rk−2 > rk−1. Trong vòng lặp, a được trừ đi bởi bội của số dư liền trước b đến khi a nhỏ hơn b, khi đó a trở thành số dư liền sau rk. Sau đó, b được trừ đi bởi bội của a đến khi nó nhỏ hơn a và phần còn lại trở thành số dư rk+1,...
Dạng đệ quy dựa trên tính chất ƯCLN của các cặp số dư liên tiếp là bằng nhau và điều kiện dừng lại là ƯCLN(rN−1, 0) = rN−1.
function gcd(a, b)
if b = 0
return a
else
return gcd(b, a mod b)
Sử dụng dạng này, ƯCLN(1071, 462) được tính từ ƯCLN(462, 1071 mod 462) = ƯCLN(462, 147). ƯCLN sau cùng được tính từ ƯCLN(147, 462 mod 147) = ƯCLN(147, 21), vốn được tính từ ƯCLN(21, 147 mod 21) = ƯCLN(21, 0) = 21.
Phương pháp số dư tuyệt đối nhỏ nhất
Trong một dạng khác của giải thuật Euclid, thương thu được qua mỗi bước được tăng thêm 1 đơn vị nếu giá trị tuyệt đối của phần dư âm nhỏ hơn so với giá trị tuyệt đối của phần dư dương. Điều kiện của phương trình
là . Tuy nhiên, có thể tính số dư âm bởi
nếu hoặc
nếu .
Nếu thay bằng với thì ta có một dạng khác của giải thuật Euclid sao cho trong mỗi bước,
Leopold Kronecker chứng minh được rằng dạng này tốn số bước ít nhất trong tất cả các dạng của giải thuật Euclid. Tổng quát hơn, người ta chứng minh được rằng với mọi số đầu vào a và b, số bước tính ƯCLN là nhỏ nhất khi và chỉ khi được chọn sao cho với là tỷ lệ vàng.
Lịch sử phát triển
Giải thuật Euclid là một trong những thuật toán lâu đời nhất được sử dụng rộng rãi. Nó xuất hiện trong bộ Cơ sở của Euclid (khoảng 300 TCN), đặc biệt là ở cuốn 7 (mệnh đề 1–2) và cuốn 10 (mệnh đề 2–3). Trong cuốn 7, thuật toán được phát biểu cho số nguyên, còn trong cuốn 10, nó được phát biểu cho độ dài của đoạn thẳng. (Ngày nay, ta có thể nói thuật toán được phát biểu cho số thực. Nhưng độ dài, diện tích và thể tích, vốn được đo bằng số thực trong thời kỳ hiện đại, lại không có cùng đơn vị đo và cũng không có đơn vị đo tự nhiên nào cho chúng; người xưa lúc bấy giờ vẫn chưa hiểu rõ khái niệm số thực.) Thuật toán trong cuốn 10 mang tính hình học: ƯCLN của hai độ dài a và b là độ dài lớn nhất g có thể làm đơn vị đo chung cho a và b; nói cách khác, độ dài a và b là bội số của độ dài g.
Có lẽ giải thuật trên không phải do Euclid trực tiếp tìm ra (ông là người đã sưu tầm các công trình của các nhà toán học khác và tổng hợp lại trong bộ Cơ sở). Nhà toán học và sử học B. L. van der Waerden cho rằng cuốn 7 xuất phát từ một cuốn sách giáo khoa về lý thuyết số được viết bởi các nhà toán học trong trường của Pythagoras. Giải thuật có thể đã được biết bởi Eudoxus của Cnidus (khoảng 375 TCN), hoặc thậm chí có thể đã có từ trước thời của ông, dựa trên thuật ngữ ἀνθυφαίρεσις (anthyphairesis, phép trừ nghịch đảo) trong một số công trình của Euclid và Aristotle.
Nhiều thế kỷ sau, giải thuật Euclid được tìm ra một cách độc lập tại Ấn Độ và Trung Quốc, chủ yếu để giải phương trình Diophantine vốn nảy sinh trong thiên văn học và làm lịch chính xác. Vào cuối thế kỷ 5, nhà toán học và thiên văn người Ấn Độ Aryabhata đã gọi giải thuật là một "máy nghiền", có thể là vì tính hiệu quả của nó trong việc giải phương trình Diophantine. Mặc dù một trường hợp đặc biệt của định lý số dư Trung Quốc đã được mô tả trong cuốn Sunzi Suanjing, lời giải tổng quát được Tần Cửu Thiều xuất bản trong cuốn Shushu Jiuzhang (數書九章, Giáo trình Toán học trong 9 chương) năm 1247. Giải thuật Euclid lần đầu tiên được mô tả và truyền bá tại châu Âu trong cuốn Problèmes plaisants et délectables (ấn bản thứ hai) của Bachet năm 1624. Tại châu Âu, nó cũng được sử dụng để giải phương trình Diophantine và lập liên phân số. Giải thuật Euclid mở rộng được cho là do Roger Cotes tìm ra và được Nicholas Saunderson xuất bản như là một cách để tính nhanh liên phân số.
Đến thế kỷ 19, giải thuật Euclid đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các hệ thống số học mới, chẳng hạn như số nguyên Gauss và số nguyên Eisenstein. Năm 1815, Carl Gauss sử dụng giải thuật này để chứng minh tính duy nhất của sự phân tích các số nguyên Gauss, mặc dù công trình của ông chỉ được xuất bản lần đầu năm 1832. Gauss trước đó cũng từng nhắc đến giải thuật trong cuốn Disquisitiones Arithmeticae (xuất bản 1801) liên quan đến liên phân số. Peter Gustav Lejeune Dirichlet có thể là người đầu tiên mô tả giải thuật như là một cơ sở của phần lớn lý thuyết số. Lejeune Dirichlet nhận thấy rằng nhiều hệ quả của lý thuyết số là đúng với bất kỳ hệ thống số học nào mà giải thuật Euclid có thể áp dụng được. Những bài giảng của Dirichlet về lý thuyết số đã được biên tập và mở rộng bởi Richard Dedekind, người đã ứng dụng giải thuật để nghiên cứu số đại số nguyên, một dạng số tổng quát mới. Chẳng hạn, Dedekind là người đầu tiên chứng minh được định lý Fermat về tổng của hai số chính phương qua sự phân tích duy nhất số nguyên Gauss. Ông cũng định nghĩa khái niệm miền Euclid, một hệ thống số mà trong đó một dạng tổng quát của giải thuật Euclid có thể được xác định. Những năm cuối thế kỷ 19, giải thuật Euclid dần bị lu mờ bởi lý thuyết tổng quát của Dedekind về ideal.
Nhiều ứng dụng khác của giải thuật Euclid cũng đã được phát triển trong thế kỷ 19. Năm 1829, Charles Sturm cho thấy rằng giải thuật này có ích trong phương pháp chuỗi Sturm dùng để đếm số nghiệm thực của đa thức trong một khoảng bất kỳ.
Giải thuật Euclid là thuật toán liên hệ số nguyên đầu tiên dùng để tìm mối liên hệ số nguyên giữa các số thực tương xứng. Nhiều thuật toán khác như vậy cũng đã được phát triển, chẳng hạn như thuật toán của Helaman Ferguson và R.W. Forcade (1979) hay thuật toán LLL.
Năm 1969, Cole và Davie đã tạo ra một trò chơi hai người dựa trên giải thuật Euclid có tên là The Game of Euclid. Trò chơi này có một chiến lược chơi tối ưu. Mỗi người chơi bắt đầu với hai đống đá chứa a và b viên đá, lần lượt loại bỏ m bội của đống nhỏ hơn so với đống lớn hơn. Như vậy, khi a lớn hơn b thì người tiếp theo có thể giảm số lượng viên đá trong đống lớn từ a xuống a − mb viên. Người chiến thắng là người đầu tiên có một đống không còn viên đá nào. |
Bài hát "Suối mơ" là một tác phẩm thuộc dòng nhạc tiền chiến, do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác.
Điệp khúc viết bằng âm giai thứ, tới phiên khúc chuyển sang âm giai trưởng. Bài hát mở đầu bằng âm giai thứ tạo một cảm giác lâng lâng rồi chuyển sang âm giai trưởng với một niềm vui chợt thoáng trước khi trở lại với âm giai thứ để kết thúc trong một nỗi buồn man mác. Văn Cao đã tài tình chuyển đổi âm giai với lời hát như thơ đưa người nghe đi từ cảm xúc lâng lâng trong sáng tới niềm hạnh phúc thoáng chốc dạt dào trước khi trở về với nỗi buồn muôn thủa của mối tình êm đềm ngàn đời theo ta của con suối rừng thu cuối mùa trút lá.
Hoàn cảnh ra đời
Một người thân của nhạc sĩ Văn Cao kể lại: Bài Suối mơ được sáng tác với cảm hứng từ dòng suối bên đền Cấm, ở thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn. Thị trấn Đồng Mỏ là 1 thị trấn sầm uất, là nơi nhiều văn sĩ thời tiền chiến lên chơi. Quả thật, từ năm 1968, khi người Trung Quốc vào làm đường Quốc lộ 1 đã làm hỏng mất cảnh quan khu vực này và sau đó, dân ta làm hỏng nốt những gì còn lại của khu vực đền Cấm và sân vận động (được xây từ những năm 1930). Khu vực đền ngày xưa yên tĩnh, mát dịu với những gốc xoài và vải rừng cổ thụ 2 người ôm. Ở khu vực đền thì chỉ 3 giờ chiều là không có ánh nắng do dãy núi đá Cai Kinh che ở phía tây. Dòng suối sau khi chảy qua bên cạnh bia "hạ mã" thì mở rộng ra cạnh sân vận động với gờ tường ngang ngực rồi lượn vòng quanh các vườn rau. Không khí luôn nhẹ nhàng, mát dịu và gió nhẹ. Giờ cũng chỉ còn một vài khu vườn giữ được nét yên tĩnh, thanh thản của ngày xưa.
Ca sĩ trình bày thành công
Ánh Tuyết, Thái Thanh, Lệ Thu,...
Các Album
Hát cho tuổi thơ 2 (Khánh Ly)
Lá thư (Thanh Lam)
Xin mặt trời ngủ yên (Mỹ Linh)
Ca khúc Văn Cao (Ánh Tuyết)
Tình khúc vang bóng - Dư âm
Cung đàn xưa (Thu Hà)
Hoà tấu ghi ta (Văn Vượng)
Những tình khúc vượt thời gian (Quang Dũng)
Tình khúc Văn Cao (Nhạc tiền chiến 4) (Mai Hương và Quỳnh Giao) (1995)
Còn chút gì để nhớ (Sĩ Phú) |
Chất điểm hoặc khối điểm là một khái niệm vật lý lý thuyết chỉ những vật có khối lượng đáng kể nhưng kích thước có thể bỏ qua trong quá trình khảo sát các tính chất vật lý của chúng. Chất điểm là một đối tượng của vật lý, khác với "điểm" trong toán học vì ngoài tính chất hình học như một điểm, nó còn gắn với các tính chất vật lý như khối lượng. Khối điểm có khối lượng riêng lớn vô hạn.
Chuyển động vật rắn
Chuyển động tổng quát của vật rắn luôn là chồng chập của hai chuyển động:
chuyển động tịnh tiến, tương đương với chuyển động của chất điểm có khối lượng bằng khối lượng của vật rắn, nằm tại tâm khối của vật rắn.
chuyển động quay của vật rắn quay tâm khối.
Việc coi một vật rắn như là một chất điểm nhằm mục đích đơn giản hóa các miêu tả trên lý thuyết về chuyển động của nó, chỉ xem xét tới chuyển động tịnh tiến của vật rắn mà bỏ qua chuyển động quay của vật rắn quanh khối tâm (hoặc coi chuyển động quay như là một tính chất, ví dụ spin, của chất điểm).
Ví dụ
Khối điểm trong vật lý thường là sự lý tưởng hóa một vật hoặc một hệ vật, mà trong đó kích thước của hệ có thể bỏ qua khi so với các khoảng cách, con đường mà nó đi. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh mà chất điểm có thể là mô hình xấp xỉ của các vật thể trong các bài toán lý thuyết như:
Hòn đá được ném theo một phương nào đó so với mặt đất – kích thước của nó là không đáng kể so với khoảng cách mà nó đạt được, cũng như so với sai số trong đo đạc.
Con tàu trên biển – kích thước của nó là không đáng kể so với kích cỡ của biển.
Trái Đất quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời – thì kích thước của nó (bán kính khoảng 6370 km) cũng không đáng kể so với bán kính của quỹ đạo (150 triệu km).
Hình cầu đồng nhất
Trong những bài toán mà vật rắn ở dạng hình cầu đồng nhất, tương tác với các vật thể khác bằng lực là chồng chập của lực gây ra bởi từng thành phần rất nhỏ - đủ nhỏ để coi là chất điểm - trên vật rắn này, mà lực tương tác phụ thuộc vào nghịch đảo bình phương khoảng cách (như lực hấp dẫn, lực tĩnh điện,...), thì có thể chứng minh được là vật rắn này hành động như một khối điểm nằm tại khối tâm của nó.
Điện tích điểm
Nếu chất điểm có điện tích, nó được gọi là điện tích điểm. Nếu điện tích điểm được sử dụng trong một thí nghiệm, có thể là thí nghiệm tưởng tượng trên lý thuyết, thì nó được gọi là điện tích thử. Trong nhiều thí nghiệm tưởng tượng, có thể không cần quan tâm đến khối lượng của điện tích điểm mà chỉ cần quan tâm đến điện tích của nó. Điện tích điểm có mật độ điện tích khối lớn vô hạn. |
Chuyển động quay của vật rắn là một chuyển động mà trong đó có hai điểm bất kỳ của vật luôn luôn cố định trong suốt quá trình chuyển động. Đường thẳng nối 2 điểm này gọi là trục quay, tất cả các điểm nằm trên trục quay đều cố định, các điểm nằm ngoài trục quay sẽ quay trên các quỹ đạo tròn nằm trong mặt phẳng vuông góc với trục quay và có tâm nằm trên trục quay. Ví dụ: chuyển động của Trái Đất quanh trục của mình; hay một điểm trên một bánh xe đang lăn, một điểm trên cánh quạt điện. Đây là một chuyển động phức, bao gồm chuyển động tịnh tiến của trọng tâm vật thể và chuyển động quay quanh một trục nào đó. Khối tâm của vật thể có thể được coi như một chất điểm.
Công thức
Nhiều các khái niệm trong chuyển động tịnh tiến có thể được mở rộng để áp dụng cho chuyển động quay. Ví dụ, định luật 2 Newton trong chuyển động quay có dạng:
Mà:
M là mômen lực đối với một điểm cho trước (tâm quay)
L là - động lượng quay đối với tâm quay.
Nếu chuyển động quay của vật mà có trục quay cố định, thì định luật 2 Newton cho chuyển động này có thể viết như sau:
Mà:
M là mômen lực
I là mômen quán tính đối với trục quay của vật.
Mômen quán tính I của một chất điểm có khối lượng là m, cách trục quay một khoảng là r, được xác định bằng công thức như sau:
Nếu không có mômen của ngoại lực (M=0), thì từ phương trình ta có định luật bảo toàn động lượng quay như sau:
Chuyển động vừa tịnh tiến vừa quay - chuyển động song phẳng
Đôi khi một lực có thể gây ra một chuyển động vừa tịnh tiến, vừa quay (ví dụ: một quả bóng đá khi bị sút lệch tâm, thì nó sẽ chuyển động vừa tịnh tiến, vừa xoay – theo một đường cong). Khi đó chia cả hai vế của phương trình trên cho r (r - bán kính quay), đồng thời cộng thêm vào vế phải thành phần biểu diễn chuyển động tịnh tiến, thì ta sẽ có định luật 2 Newton ở dạng mở rộng hơn: |
Trong hình học phẳng, đường tròn (hoặc vòng tròn) là tập hợp của tất cả những điểm trên một mặt phẳng, cách đều một điểm cho trước bằng một khoảng cách nào đó. Điểm cho trước gọi là tâm của đường tròn, còn khoảng cho trước gọi là bán kính của đường tròn.
Đường tròn tâm O bán kính R ký hiệu là (O;R)
Đường tròn là một hình khép kín đơn giản chia mặt phẳng ra làm 2 phần: phần bên trong và phần bên ngoài. Trong khi "đường tròn" ranh giới của hình, "hình tròn" bao gồm cả ranh giới và phần bên trong.
Đường tròn cũng được định nghĩa là một hình elíp đặc biệt với hai tiêu điểm trùng nhau và tâm sai bằng 0. Đường tròn cũng là hình bao quanh nhiều diện tích nhất trên mỗi đơn vị chu vi bình phương.
Một số thuật ngữ
Cung: một đoạn đóng bất kì trên đường tròn. Cung AB ký hiệu là
Dây cung (gọi tắt là dây): đoạn thẳng có 2 đầu mút nằm trên đường tròn.
Tâm: điểm cách đều tất cả các điểm trên đường tròn.
Chu vi hình tròn: độ dài đường biên giới hạn hình tròn.
Bán kính: là đoạn thẳng (hoặc độ dài đoạn thẳng) nối tâm với một điểm bất kì trên đường tròn và bằng một nửa đường kính.
Đường kính: đoạn thẳng (hoặc độ dài đoạn thẳng) có 2 đầu mút nằm trên đường tròn và là dây cung đi qua tâm, hoặc khoảng cách dài nhất giữa 2 điểm trên đường tròn. Đường kính là dây cung dài nhất của đường tròn và bằng 2 lần bán kính.
Cát tuyến: đường thẳng trên mặt phẳng cắt đường tròn tại 2 điểm.
Tiếp tuyến: đường thẳng tiếp xúc với đường tròn tại một điểm duy nhất.
Hình tròn: phần mặt phẳng giới hạn bởi đường tròn.
Hình khuyên (hình nhẫn hoặc hình vành khăn): vùng bị giới hạn bởi 2 đường tròn đồng tâm và có bán kính khác nhau.
Hình quạt tròn: phần hình tròn giới hạn bởi hai bán kính và cung tròn bị chắn bởi hai bán kính này.
Hình viên phân: phần bị giới hạn bởi cung tròn và dây căng cung.
Hình bán nguyệt: cung căng đường kính. Thông thường, thuật ngữ này còn bao gồm đường kính, cung căng đường kính và phần bên trong, tức nửa hình tròn.
Đường tròn ngoại tiếp đa giác là đường tròn đi qua tất cả các đỉnh của đa giác đó. Khi đó gọi là đa giác nội tiếp đường tròn
Đường tròn nội tiếp đa giác là đường tròn tiếp xúc với tất cả các cạnh của đa giác đó. Khi đó gọi là đa giác ngoại tiếp đường tròn
Sự xác định đường tròn
Một đường tròn được xác định khi biết tâm và bán kính của nó, hoặc khi biết một đoạn thẳng là đường kính của nó.
Qua 3 điểm không thẳng hàng, ta có thể vẽ được một và chỉ một đường tròn.
Hình tròn
Trong hình học phẳng, đường tròn và hình tròn là hai khái niệm khác nhau. Hình tròn là tập hợp tất cả các điểm nằm trong và nằm trên đường tròn hay tập hợp các điểm cách tâm một khoảng nhỏ hơn hoặc bằng bán kính. Đường tròn không có diện tích như hình tròn.
Lịch sử
Từ circle có nguồn gốc từ tiếng Hy Lap κίρκος/κύκλος (kirkos/kuklos), nghĩa là "vòng" hay "nhẫn".
Đường tròn đã được biết đến từ trước khi lịch sử ghi nhận được. Những hình tròn trong tự nhiên hẳn đã được quan sát, ví dụ như Mặt Trăng, Mặt Trời... Đường tròn là nền tảng để phát triển bánh xe, mà cùng với những phát minh tương tự như bánh răng, là thành phần quan trọng trong máy móc hiện đại. Trong toán học, việc nghiên cứu đường tròn đã dẫn đến sự phát triển của hình học, thiên văn học và vi tích phân.
Khoa học sơ khai, đặc biệt là hình học, thiên văn học và chiêm tinh học, thường được nhiều học giả thời trung cổ kết nối với thánh thần, và nhiều người tin rằng có gì đó "thiêng liêng" và "hoàn hảo" ở hình tròn.
Một số dấu mốc trong lịch sử đường tròn:
Năm 1700 trước Công nguyên– Bản giấy cói Rhind đưa ra phương pháp để tính diện tích hình tròn. Kết quả tương đương với 256/81 (3.16049...) như một giá trị xấp xỉ của .
Năm 300 trước Công nguyên – Quyển 1, Quyển 3 của bộ sách Cơ sở của Euclid đưa ra định nghĩa và bàn về những tính chất của đường tròn.
Trong Bức thư thứ bảy của Plato có một định nghĩa chi tiết và giải thích về đường tròn. Plato viết về một đường tròn hoàn hảo, và sự khác biệt của nó với bất kì hình vẽ, giải thích hay định nghĩa nào khác.
Năm 1880 – Lindemann chứng minh được là số siêu việt, giải quyết trọn vẹn bài toán cầu phương hình tròn sau hơn một thiên niên kỷ.
Đặc điểm
Độ dài đường tròn (chu vi hình tròn)
Tỉ số của độ dài đường tròn với đường kính của nó là (pi), một hằng số vô tỉ có giá trị xấp xỉ bằng 3.141592654, vậy chu vi của hình tròn (còn được gọi là viên chu), là độ dài của đường tròn, bằng tích của pi với đường kính hoặc 2 lần pi nhân với bán kính. Công thức:
Diện tích bao kín
Trong bản luận Sự đo đạc của một hình tròn của Archimedes, diện tích hình tròn A bằng diện tích của tam giác có cạnh đáy bằng chu vi đường tròn và đường cao bằng bán kính hình tròn, tức A bằng nhân cho bình phương bán kính:
Tương tự, ký hiệu đường kính là d,
tức khoảng 79% diện tích hình vuông ngoại tiếp đường tròn (với độ dài cạnh là d). Đường tròn cũng là hình phẳng bao kín nhiều diện tích nhất với chu vi cho trước.
Phương trình
Hệ tọa độ Descartes
Trong hệ tọa độ Descartes, vòng tròn có tâm tại (a, b) và bán kính r là tập hợp tất cả các điểm (x, y) thỏa mãn:
Phương trình này, được biết là Phương trình đường tròn, xuất phát từ Định lý Pytago áp dụng cho một điểm trên đường tròn: Như trong hình bên, bán kính là cạnh huyền của một tam giác vuông với 2 cạnh góc vuông |x − a| và |y − b|. Nếu tâm đường tròn nằm ở gốc tọa độ (0, 0), thì phương trình được thu gọn thành:
Phương trình có thể viết dưới dạng tham số sử dụng các hàm lượng giác sin và cosine như sau
với t là tham số trong khoảng từ 0 đến 2, một cách hình học, t tương đương với góc tạo bởi tia đi qua (a, b), (x, y) và trục x dương.
Một phương trình tham số khác của đường tròn là:
Tuy nhiên ở sự tham số hóa này, t không chỉ chạy qua tất cả số thực mà còn chạy tới vô hạn, nếu không thì điểm dưới cùng của đường tròn sẽ không được thể hiện.
Trong hệ tọa độ đồng nhất, mỗi đường conic với phương trình của đường tròn có dạng:
Hệ tọa độ cực
Trong hệ tọa độ cực phương trình của một đường tròn là:
với a là bán kính của đường tròn, là tọa độ cực của một điểm trên đường tròn, và là tọa độ cực của tâm đường tròn (tức r0 là khoảng cách từ gốc tọa độ đến tâm, và φ góc ngược chiều kim đồng hồ từ trục hoành đường thẳng đi qua tâm và gốc tọa độ). Với đường tròn có tâm ở gốc tọa độ, tức r0 = 0, thì được đơn giản hóa còn . Khi , hay gốc tọa độ nằm trên đường tròn thì phương trình trở thành:
Trong trường hợp tổng quát, ta có thể giải phương trình cho r
Chú ý rằng nếu không có dấu ±, trong một số trường hợp phương trình chỉ mô tả nửa đường tròn.
Mặt phẳng phức
Trong mặt phẳng phức, một đường tròn có tâm tại c và bán kính (r) có phương trình . Ở dạng tham số hóa: .
Phương trình tổng quát cho các số thực p, q và số phức g đôi khi được gọi là đường tròn tổng quát. Phương trình này trở thành phương trình ở trên với , vì . Không phải đường tròn tổng quát nào cũng là đường tròn thực sự: đường tròn tổng quát hoặc là đường tròn thực sự hoặc là một đường thẳng.
Đường tiếp tuyến
Đường tiếp tuyến qua một điểm P trên đường tròn vuông góc đường kính đi qua P. Nếu và đường tròn có tâm (a, b) và bán kính r, thì tiếp tuyến vuông góc với đường thẳng đi qua (a, b) và (x1, y1), nên nó có dạng . Tính với (x1, y1) xác định giá trị của c và kết quả phương trình của đường tiếp tuyến là:
hay
Nếu thì độ dốc của đường thẳng là
Kết quả này cũng có thể được suy ra sử dụng đạo hàm hàm ẩn.
Nếu tâm đường tròn nằm ở gốc tọa độ thì phương trình tiếp tuyến là và độ dốc của nó là
Tính chất
Tính chất chung
Đường tròn là hình có diện tích lớn nhất với chu vi cho trước. (Xem Bất đẳng thức đẳng chu)
Đường tròn có tính đối xứng cao: tâm của đường tròn là tâm đối xứng và các đường kính là các trục đối xứng
Mọi đường tròn đều đồng dạng.
Chu vi đường tròn tỉ lệ thuận với bán kính theo hằng số 2π.
Diện tích hình tròn tỉ lệ thuận với bình phương bán kính theo hằng số π.
Đường tròn có tâm tại gốc tọa độ và bán kính là 1 gọi là đường tròn đơn vị.
Đường tròn lớn của hình cầu đơn vị là đường tròn Riemann.
Tập hợp tất cả các điểm nhìn đoạn thẳng dưới 1 góc vuông là đường tròn có đường kính là đoạn thẳng đó
Dây cung
Dây cung cách đều tâm khi và chỉ khi chúng dài bằng nhau.
Trong cùng một đường tròn, dây càng dài thì càng gần tâm.
Đường kính vuông góc với dây cung tại trung điểm của dây cung đó
Đường kính đi qua trung điểm của một dây không đi qua tâm thì vuông góc với dây.
Đường kính là dây cung dài nhất trong đường tròn
Nếu giao điểm hai dây cung cắt nhau chia một dây thành hai đoạn a và b, chia dây cung kia thành c và d, thì ab = cd (gọi là phương tích của điểm đó).
Nếu giao điểm hai dây cung cắt nhau chia một dây thành hai đoạn a và b, chia dây cung kia thành m và n, thì a2 + b2 + m2 + n2 = d2 (với d là đường kính).
Tổng bình phương chiều dài 2 dây cung vuông góc tại một điểm cố định không đổi và bằng 8r2 – 4p2 (với r là bán kính đường tròn, p là khoảng cách từ tâm đường tròn đến giao điểm đó).
Khoảng cách từ một điểm trên đường tròn đến một dây cung nhân với đường kính bằng tích của khoảng cách điểm đó đến 2 đầu mút của dây cung.
2 cung nhỏ của một đường tròn hoặc 2 đường tròn bằng nhau căng 2 dây bằng nhau thì 2 cung đó bằng nhau và ngược lại
Với 2 cung nhỏ của một đường tròn hoặc 2 đường tròn bằng nhau, cung nào căng dây lớn hơn(hoặc bé hơn) thì cung đó lớn hơn(hoặc bé hơn) và ngược lại.
Tiếp tuyến
Đường thẳng vuông góc với bán kính tại đầu mút của bán kính nằm trên đường tròn là một đường tiếp tuyến với đường tròn.
Đường thẳng vuông góc với tiếp tuyến tại điểm tiếp xúc với đường tròn thì đi qua tâm.
Từ một điểm nằm ngoài đường tròn luôn vẽ được hai tiếp tuyến với đường tròn.
Nếu hai tiếp tuyến tại A và B với đường tròn tâm O cắt nhau tại P thì
.
PA=PB
Tia OP là phân giác của góc và tia PO là phân giác
Nếu AD tiếp xúc với đường tròn tại A và AQ một dây cung của đường tròn, thì .
Định lý
Định lý dây cung phát biểu nếu hai dây cung, CD và EB, cắt nhau tại A thì AC.AD = AB.AE.
Nếu hai cát tuyến, AE và AD, cắt đường tròn lần lượt tại B và C thì AC.AD = AB.AE. (Hệ quả của định lý dây cung)
Một tiếp tuyến có thể coi như một giới hạn của cát tuyến với đầu mút trùng nhau. Nếu tiếp tuyến từ điểm A nằm ngoài đường tròn cắt đường tròn tại F và một cát tuyến từ A cắt đường tròn lần lượt tại C và D thì AF2 = AC.AD. (Định lý tiếp tuyến-cát tuyến)
Góc nằm giữa một dây cung và tiếp tuyến tại một đầu dây cung bằng một nửa góc ở tâm bị chắn bởi dây cung đó (Tangent Chord Angle).
Nếu góc ở tâm bị chắn bởi dây cung là góc vuông thì ℓ = r√2, với ℓ là độ dài dây cung và r là bán kính đường tròn.
Nếu hai cát tuyến cắt đường tròn như bên thì góc A bằng nửa hiệu hai cung tạo thành (DE và BC), tức , với O là tâm đường tròn. Đây là định lý 2 cát tuyến với đường tròn.
Sagitta
Sagitta (còn được biết là versine) là đoạn thẳng vuông góc với dây cung, đi qua trung điểm của dây cung và cung mà dây đó chắn.
Cho độ dài y của dây và độ dài x sagitta, ta có thể dùng định lý Pytago để tính bán kính của đường tròn duy nhất vừa với 2 đoạn thẳng:
Một chứng minh khác của kết quả này sử dụng tính chất hai dây cung như sau: Cho dây cung có độ dài y và sagitta có độ dài x, vì sagitta đi qua trung điểm của dây cung, nó phải là một phần đường kính. Do đường kính dài gấp đôi bán kinh, phần "bị thiếu" của đường kính có độ dài (). Do một phần của một dây cung này nhân phần kia không đổi khi dây quay quanh giao điểm, ta tìm được . Giải tìm r, ta nhận được kết quả như trên.
Dựng hình
Có nhiều phép dựng hình bằng thước kẻ và compa cho ra đường tròn.
Đơn giản và căn bản nhất là phép dựng hình đã biết tâm đường tròn và một điểm nằm trên đường tròn. Đặt chân trụ của com-pa trên tâm, chân xoay lên điểm trên đường tròn và quay com-pa.
Dựng đường tròn với đường kính cho trước
Dựng trung điểm của đường kính.
Dựng đường tròn với tâm đi qua một đầu mút của đường kính (nó cũng sẽ qua đầu mút còn lại).
Dựng đường tròn đi qua ba điểm không thẳng hàng
Gọi ba điểm đó là , và ,
Dựng đường trung trực của đoạn .
Dựng đường trung trực của đoạn .
Gọi giao điểm hai đường trung trực là . (Chúng cắt nhau vì các điểm không thẳng hàng collinear).
Dựng đường tròn tâm đi qua một trong các điểm , hay (nó cũng sẽ qua hai điểm còn lại).
Dựng tiếp tuyến đi qua một điểm nằm ngoài đường tròn
Cho điểm A nằm ngoài đường tròn tâm O, vẽ đường tròn đường kính AO cắt đường tròn O tại 2 điểm, khi đó 2 điểm đó là tiếp điểm của 2 tiếp tuyến đi qua điểm A.
Đường tròn của Apollonius
Apollonius của Pergaeus chỉ ra rằng đường tròn còn có thể định nghĩa là tập hợp các điểm trên mặt phẳng có tỉ số không đổi (khác 1) của khoảng cách tới hai tiêu điểm, A và B. (Nếu tỉ số là 1 thì tập hợp ấy là đường trung trực của đoạn thẳng AB.)
Chứng minh gồm hai phần. Đầu tiên ta cần chứng minh, cho hai tiêu điểm A và B một tỉ số, bất kì điểm P thỏa mãn tỉ số phải nằm trên một đường tròn nhất định. Gọi C là một điểm thỏa mãn tỉ số và nằm trên đoạn thẳng AB. Từ định lý đường phân giác suy ra PC sẽ chia đôi góc trong APB:
Tương tự, đoạn thẳng PD qua điểm D trên đường thẳng AB chia đôi góc ngoài BPQ với Q nằm trên tia AP kéo dài. Do góc ngoài và góc trong bù nhau, góc CPD phải bằng 90 độ. Tập hợp các điểm P sao cho góc CPD là góc vuông tạo thành một đường tròn với CD là đường kính.
Thứ hai, xem để chứng minh rằng các điểm trên đường tròn vừa tạo thỏa mãn tỉ số.
Tỉ số kép
Một tính chất của đường tròn liên quan đến hình học của tỉ số kép của các điểm trên mặt phẳng phức. Nếu A, B, và C cho như trên thì đường tròn của Apollonius của ba điểm là tập hợp các điểm P sao cho giá trị tuyệt đối của tỉ số kép bằng 1:
Nói cách khác, P là điểm trên đường tròn của Apollonius khi và chỉ khi tỉ số kép (A,B;C,P) nằm trên đường tròn đơn vị trên mặt phẳng phức.
Đường tròn tổng quát
Nếu C là trung điểm của đoạn AB thì tập hợp các điểm P thỏa mãn điều kiện Apollonius
không tạo thành một đường tròn mà thành một đường thẳng.
Vậy nên nếu A, B, C là các điểm phân biệt trên mặt phẳng thì quỹ tích điểm P thỏa mãn phương trình trên gọi là "đường tròn tổng quát". Nó có thể là một đường tròn hoặc một đường thẳng. Trong trường hợp này, một đường thẳng là một đường tròn tổng quát có bán kính vô hạn.
Đường tròn nội tiếp hay ngoại tiếp
Trong mỗi tam giác, một đường tròn duy nhất, gọi là đường tròn nội tiếp nếu nó tiếp xúc với ba cạnh tam giác.
Với mọi tam giác một đường tròn duy nhất, gọi là đường tròn ngoại tiếp, nếu nó đi qua ba đỉnh của tam giác.
Một đa giác ngoại tiếp là một đa giác lồi bất kỳ mà một đường tròn có thể nội tiếp được và tiếp xúc với các cạnh của đa giác. Tất cả đa giác đều và tam giác đều là một đa giác ngoại tiếp.
Một đa giác nội tiếp, ví dụ tứ giác nội tiếp, là một đa giác lồi bất kỳ mà một đường tròn có thể bao quanh, đi qua tất các các đỉnh. Một trường hợp được nghiên cứu kỹ càng là tứ giác nội tiếp. Tất cả đa giác đều và tam giác đều là một đa giác nội tiếp. Một đa giác vừa ngoại tiếp vừa nội tiếp được gọi là đa giác lưỡng tâm.
Bất kỳ đa giác đều nào cũng đều có đúng 1 đường tròn ngoại tiếp và có đúng 1 đường tròn nội tiếp
Một đường cong hypocycloid là đường cong nằm trong một đường tròn, vẽ bằng cách theo dấu một điểm cố định trên một đường tròn nhỏ hơn lăn trong đường tròn đã cho và tiếp xúc với nó..
Vị trí tương đối
Vị trí tương đối giữa đường thẳng và đường tròn
Cho đường tròn tâm O bán kính R và đường thẳng d. Gọi H là hình chiếu vuông góc của O lên đường thẳng d. Ta có bảng sau:
Vị trí tương đối giữa 2 đường tròn
Cho đường tròn tâm O bán kính R và đường tròn tâm I bán kính r. Ta có bảng sau:
Đường tròn dưới dạng đặc biệt của những hình khác
Đường tròn có thể xem là một trường hợp giới hạn của một số hình khác:
Một đường cong Decartes là tập hợp các điểm sao cho tổng trọng số của khoảng cách từ điểm đó đến hai điểm cố định (tiêu điểm) là một hằng số. Một elíp là trường hợp các trọng số bằng nhau. Một đường tròn là một elíp có độ lệch tâm bằng 0, nghĩa là hai tiêu điểm trùng nhau tạo thành tâm đường tròn. Một đường tròn cũng là một đường cong Descartes đặc biệt với một trọng số bằng 0.
Một siêu elíp (hay đường cong Lamé) có phương trình dạng với a, b, n dương. Một siêu đường tròn có . Một đường tròn là trường hợp đặc biệt của siêu đường tròn với .
Một đường oval Cassini là tập hợp các điểm sao cho tích khoảng cách từ điểm đó đến hai điểm cố định là một hằng số. Khi hai tiêu điểm trùng nhau, một đường tròn hình thành.
Một đường cong có chiều rộng không đổi là một hình có chiều rộng, định nghĩa bằng giữa hai đường thẳng song song phân biệt tiếp xúc với hình đó, không thay đổi bất kể hướng của hai đường thẳng đó. Đường tròn là ví dụ đơn giản nhất cho đường cong này.
Góc với đường tròn
Góc ở tâm - số đo cung
2 cạnh của góc ở tâm cắt nhau tại 2 điểm, chia đường tròn thành 2 cung:
Phần cung nằm bên trong góc với được gọi là cung nhỏ. Số đo góc được gọi là số đo của cung nhỏ. Phần cung nhỏ này được gọi là cung bị chắn của góc ở tâm.
Phần còn lại được gọi là cung lớn. Số đo của cung này bằng
Góc bẹt là góc ở tâm chắn nửa đường tròn. Số đo của nửa đường tròn là
Khi 2 đầu của cung trùng nhau, ta có cung không có số đo và cả đường tròn có số đo
Trong cùng một đường tròn hoặc trong các đường tròn bằng nhau, 2 cung có số đo bằng nhau thì bằng nhau.
Cho điểm C nằm trên cung AB và chia cung AB thành 2 cung là cung AC và cung CB. Khi đó số đo của cung AB bằng tổng số đo cung AC và cung CB.
Góc nội tiếp
Số đo góc nội tiếp bằng nửa số đo cung bị chắn
Góc nội tiếp là góc nhọn hoặc góc vuông thì bằng nửa góc ở tâm cùng chắn cung đó.
Các góc nội tiếp cùng chắn một cung và nằm cùng phía với dây căng cung đó thì bằng nhau.
Hai góc nội tiếp cùng chắn một cung nằm khác phía với dây căng cung đó thì bù nhau.
Góc nội tiếp chắn nửa đường tròn là góc vuông (định lý Thales).
Góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung
Góc giữa tia tiếp tuyến và dây cung là góc có 1 cạnh là dây của đường tròn, cạnh kia tạo bởi tia tiếp tuyến của đường tròn và đỉnh là tiếp điểm của tiếp tuyến với đường tròn.
Số đo của góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung thì bằng nửa số đo cung bị chắn.
Góc hợp bởi tia tiếp tuyến và dây cung thì bằng góc nội tiếp cùng chắn cung đó
Tính chất của góc có đỉnh nằm trong hoặc ngoài đường tròn
Số đo của góc có đỉnh nằm trong đường tròn bằng nửa tổng số đo 2 cung bị chắn.
Góc có đỉnh nằm ngoài đường tròn và chắn trên đường tròn đó 2 cung thì số đo của góc đó bằng nửa hiệu số đo 2 cung bị chắn.
Cầu phương hình tròn
Cầu phương hình tròn là bài toán đưa ra bởi các nhà hình học cổ đại, yêu cầu dựng một hình vuông có diện tích bằng diện tích một hình tròn đã cho trong hữu hạn bước bằng thước thẳng và com-pa.
Năm 1882, bài toán được chứng minh là không thể thực hiện được, như một hệ quả của định lý Lindemann–Weierstrass chứng minh rằng pi () là một số siêu việt, chứ không phải là một số đại số vô tỉ; nghĩa là nó không phải là nghiệm của bất cứ đa thức với hệ số hữu tỉ. |
Khái niệm là một đối tượng, một hình thức cơ bản của tư duy (bao gồm một ý tưởng, một ý nghĩa của một tên gọi chung trong phạm trù lôgic, hoặc một sự suy diễn) phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của các đối tượng sự vật, quá trình, hiện tượng trong tâm lý học và mối liên hệ cơ bản nhất các đối tượng trong hiện thực khách quan.
Khái niệm (triết học)
Immanuel Kant đã chia các khái niệm ra thành: khái niệm aprioric (sản phẩm của trí tuệ) và khái niệm aposterioric (được tạo ra từ quá trình trừu tượng hóa kết quả thực nghiệm).
Khái niệm (tâm lý học)
Việc tạo ra một khái niệm là một chức năng cơ bản của sự cảm nhận và suy nghĩ. Các khái niệm cho phép ta hệ thống hóa hiểu biết của ta về thế giới.
Hai dạng khái niệm cơ bản:
Khái niệm cổ điển (dập khuôn, mang tính Aristoteles) – với các giới hạn rõ rệt, dựa vào các định nghĩa chính xác, có mang các điều kiện cần và đủ, để đối tượng cho trước có thể được coi như là một đại diện xứng đáng trong một thể loại cho trước;
Khái niệm tự nhiên (mờ, nhòe) – thay vì dựa vào các định nghĩa và các điều kiện cần và đủ, thì lại dựa vào sự đồng dạng so với những đối tượng tiêu bản đã được lưu lại trong trí nhớ.
Thuộc tính của Khái niệm
Một khái niệm có hai thuộc tính là ngoại hàm (hay ngoại trương hay ngoại diên) và nội hàm. |
Khối lập phương là một khối đa diện đều ba chiều có 6 mặt đều là hình vuông, có 12 cạnh bằng nhau, 8 đỉnh, cứ 3 cạnh gặp nhau tại 1 đỉnh, có 4 đường chéo cắt nhau tại một điểm. Khối lập phương là tập hợp những điểm nằm bên trong và các điểm nằm trên các mặt, cạnh, đỉnh này.
Khối lập phương là khối 6 mặt đều duy nhất và là 1 trong 5 khối đa diện đều, với 9 mặt đối xứng.
Khối lập phương cũng là hình khối lục diện vuông, hình hộp chữ nhật có các cạnh bằng nhau, hoặc hình khối mặt thoi vuông.
Công thức
Nếu cạnh của khối lập phương là : |
Luật La Mã là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật Pháp điển Dân sự (529 CN) do Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I ban hành. Luật La Mã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
Trong khi rất nhiều thành tựu của thời kỳ Cổ đại có nguồn gốc từ người Hy Lạp và chỉ được người La Mã tiếp nhận thì Luật La Mã là một sáng tạo nguyên thủy của người La Mã không có gương mẫu Hy Lạp. Thế nhưng việc sử dụng các khái niệm và mẫu mực lý luận từ triết học Hy Lạp trong phát triển của ngành luật học La Mã đã đóng một vai trò quan trọng.
Luật La Mã thời Cổ đại
Đầu tiên, Luật La Mã là luật được hình thành từ việc hành luật lâu năm theo tập quán không có luật viết. Một trong những tác phẩm luật ra đời sớm nhất là Bộ luật 12 bảng (tiếng La Tinh: lex duodecim tabularum), thành hình vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên.
Ngành luật học La Mã đạt đến đỉnh cao nhất trong những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ đế quốc (thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3). Trong thời gian cuối của thời Cổ đại các học thuyết của ngành luật học cổ điển này có nguy cơ bị lãng quên. Để chống lại xu hướng đó Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung (novellae).
Thời kỳ Trung Cổ và Hiện đại
Trong Đế quốc Byzantine bộ luật của Justinian vẫn là cơ sở cho việc thực thi luật pháp. Trong thế kỷ thứ 9 Hoàng đế Leo VI (886–912) cho ra đời bộ luật Byzantine mà về cơ bản là từ bản dịch ra tiếng Hy Lạp của Codex Iustinianus và các digesta.
Thế nhưng Luật La Mã đã đi vào lãng quên trong Tây Âu trong thời gian đầu của thời Trung cổ. Đặc biệt là người ta không còn biết đến các digesta nữa. Vào khoảng năm 1050 các bản văn này được tái khám phá. Bắt đầu từ thời điểm này các luật gia người Ý là những người đầu tiên tiếp tục dựa vào Luật La Mã mà trường luật của họ tại Bologna đã phát triển thành một trong những trường đại học đầu tiên của châu Âu. Những người bình chú dân luật (glossator) diễn giải và hiệu chỉnh lại các bài văn theo nhu cầu và phương pháp đương thời. Sau đấy những người bình luận (commentator) biên soạn các bài văn về luật thành thành những tác phẩm mang tính thực tiễn.
Khi chính thể chuyên chế và thời kỳ Khai sáng bắt đầu, luật tự nhiên lại chiếm vị trí nổi bật. Vào đầu thế kỷ 19, cùng với Trường phái Luật lịch sử mà người đại diện nổi bật là Friedrich Karl von Savigny, người ta lại bắt đầu quay lại với Luật La Mã. Ngay các bộ luật dân sự hiện đại - như Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Áo trong văn bản đầu tiên – cũng thành hình trước tiên là từ Luật La Mã.
Chủ thể
- Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế. Địa vị pháp lý của chủ thể là không bình đẳng. Chủ thể của luật La Mã trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân của họ có các quyền và nghĩa vụ và đồng thời họ phải gánh chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Năng lực pháp luật
- Chủ thể của luật La Mã phải là:
+ Công dân La Mã
+ Phải là người tự do
+ Gia chủ (người chủ gia đình)
Năng lực hành vi
- Năng lực hành vi là năng lực của cá nhân, căn cứ vào dộ tuổi và khả năng nhận thức. Luật La Mã quy định các mức độ năng lực hành vi:
+ Không có năng lực hành vi: là những người dưới 7 tuổi và những người điên. Những người này không được phép tham gia vào các quan hệ kể cả các quan hệ mang lại lợi ích cho họ ngoại trừ thừa kế.
+ Năng lực hành vi một phần: Nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi và không bị điên: Những người này được tham gia vào tất cả giao dịch dân sự cho riêng mình, có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ. Nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh hay chấm dứt một quyền tài sản thì phải có sự chứng nhận của người giám hộ.
+ Năng lực hành vi đầy đủ: Nữ đủ 12 tuổi, nam đủ 14 tuổi và không bị điên: Những người này có năng lực hành vi đầy đủ nhưng nếu họ vẫn con phụ thuộc vào người giám hộ thì đối với những quan hệ làm giảm tài sản tăng nghĩa vụ phải có sự chứng nhận của người giam hộ. Tất cả những người trên 25 tuổi được tham gia vào tất cả các quan hệ.
Địa vị pháp lý của công dân La Mã
Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã. Quốc tịch La Mã được xác lập trong các trường hợp sau:
- Được sinh ra từ công dân La Mã
- Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã
- Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
Những người có quốc tích La Mã có đầy đủ các quyền tài sản, nhân thân ngoài các quyền chính trị. Quốc tịch La Mã có thể bị tước bỏ trong các trường hợp: Những người phạm trọng tội, những người bị kết án tù chung thân hay tử hình, những người bị xung làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
Người Latinh, người ngoại quốc: Người La tinh và người La Mã sống gần nhau, nhưng Nhà nước của người La Mã hình thành sớm hơn. Thế kỉ I TCN, chiến tranh giữa La Mã và người Phổ nổ ra, người La Mã và người La tinh cùng với ngoại quốc sống trên lãnh thổ đả liên kết với nhau. Dần dần sau đó, Nhà nước La Mã cho phép người La tinh và người ngoại quốc được gia
nhập quốc tịch La Mã.
Từ thế kỉ III, SCN nhà nước La Mã ban hành luật Jusgentium ap dụng cho tất ca mọi người.
Nông nô, tá điền:
Về nguyên tắc, nông nô, tá điền là những người tự do,tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng đất nên phải thuê đất và phải nộp thuế. Nô lệ là những người không có nhà cửa và cũng không có ruộng đất nên họ phải làm thuê cho chủ và phải hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, họ không được thưa kiện và phải cấp dưỡng cho chủ cũ trong trường hợp chủ cũ bị phá sản. Nông nô, tá điền về nguyên tắc bình đẳng với các chủ thể khác nhưng trên thực tế tham gia vào các quan hệ rất hạn chế vì họ không có tài sản.
Pháp nhân: Sự phát triển rực rỡ về kinh tế - văn hóa của người La Mã đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa trên lãnh thổ La Mã, làm xuất hiện nhiều nhà thờ và các công trình khác như rạp hát, rạp xiếc, nhà trò, các tập đoàn mai táng, các tổ chức có tài sản riêng,nhân danh mình vào các quan hệ.
Vật quyền
1, Khái niệm: Tài sản hay vật (res) là những vật chất đáp ứng nhu cầu của con người và có ý nghĩa kinh tế - xã hội. Quyền tài sản là quyền yêu cầu chứ không phải là tài sản.
2, Phân loại:
a, Động sản và bất động sản.
- Động sản (res mobiles) là những vật có thể bị di chuyển được trong không gian hoặc bản thân có thể tự di chuyển được mà không ảnh hưởng đến giá trị và suy suyển đặc tính của nó. ví dụ: gia súc, gia cầm.
- Bất động sản (res immobiles) là những vật không thể di chuyển được trong không gian mà không ảnh hưởng đến giá trị và đặc tính sử dụng của vật, bất động sản cơ bản nhất là đất đai và những vật gắn chặt với nó.. Ví dụ: nhà cửa, cây cối.
, Ý nghĩa của sự phân loại này là: Để xây dựng phương pháp thủ đắc, đối với bất động sản thì việc di dời thì phải tuân theo trình tự luật định và phải có đăng ký quyền sở hữu. Sự phân loại này có ý nghĩa khi xuất hiện quy định super ficies solo cedit, theo đó, tất cả những gì có trên trái đất đều thuộc sở hữu của chủ sở hữu của mãnh đất cho dù chúng thuộc về ai đó.
b, Vật chia được và không chia được
- Vật chia được (res divisible): là những vật khi phân chia thành các phần, các phần ấy không bị giảm giá trị tài sản chung và chức năng sử dụng.
- Vật không chia được là những vật ngược lại khi chia thành các phần thì giá trị của chúng bị ảnh hưởng và suy giảm chức năng sử dụng.
c, Vật tiêu hao và không tiêu hao.
- Vật tiêu hao là vật qua một lần sử dụng bị mất hoặc không giữ được hình dạng, số lượng, đặc tính, công dụng ban đầu.
- Vật không tiêu hao là những vật qua nhiều lần sử về cơ bản không thay đổi về đặc tính, số lượng, công dụng ban đầu.
,Ý nghĩa của việc phân chia này: Nhằm xây dựng đối tượng cho các loại hợp đồng, vật tiêu hao không thể là đối tượng trong các quan hệ thuê, mượn.
d, Vật đặt định và vật thay thế:
- Vật đặt định là những vật phân biệt với những vật khác về hình dáng, màu sắc, đặc tính, chức năng, những vật này là những vật ở thể đơn nhất về mặt tự nhiên hay do tính chất vật lý (hòn đá, chiếc cốc, ngôi nhà).
- Vật thay thế là những vật tương tự nhau và hình dạng, màu sắc, đặc tính, công dụng.
,Ý nghĩa của sự phân loại: Liên quan đến nghĩa vụ giao tài sản. Đối với những vật đặt định thì phải giao đúng vật đó, còn đối với những vật thay thế, chúng có thể thay thế nhau nhưng với điều kiện cùng chất liệu.
Khái niệm và phân loại vật quyền:
1, Khái niệm:
- Vật quyền là quyền của một chủ thể bằng hành vi của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào người khác để nhằm thỏa mãn lợi ích của cá nhân mình.
- Trái qưyền là quyền của chủ thể bằng hành vi của người khác để thỏa mãn lợi ích của bản thân mình.
+, Phân loại vật quyền:
- Quyền sở hữu
- Quyền chiếm hữu
- Quyền đối với tài sản của người khác
a, Quyền chiếm hữu:
Chiếm hữu là nắm giữ, chi phối tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào ý chí người khác.Coi tài sản đó như là của mình. Chiếm hữu bao gồm:
+ Chiếm hữu hợp pháp
+ Chiếm hữu bất hợp pháp.
- Chiếm hữu bất hợp pháp được chia thành:
Bất hợp pháp ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp nhưng người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết.
Bất hợp pháp không ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp, người chiếm hữu biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản đó là bất hợp pháp nhưng vẫn có tình chiếm hữu.
b, Quyền đối với tài sản của người khác:
- Khái niệm: là quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu của tài nhưng có quyền sử dụng và hưởng những lợi ích mà tài sản đó mang lại.
- Phân loại:
+ Quyền dụng ích đất đai (praediorum) đất đai ở đây bao gồm đất nông nghiệp và đất ở, các quyền này bao gồm: quyền có lối đi lại, qyền chăn dắt gia súc đi qua, quyền dẫn nước, thoát nước, quyền được lấy ánh sáng không khí, quyền được lợi dụng nhà của người khác để xây nhà mình, quyền được sử dụng bóng râm của người khác, quyền được sang đất của người khác để thu lượm hoa quả.
+ Quyền dụng ích cá nhân (pesonarum) hay quyền sử dụng tài sản của người khác suốt đời, các bên có thể thỏa thuận một bên có thể sử dụng tài sản cho đến chết, người đó được hưởng hoa lợi, lợi tức do tài sản mang lại nhưng không được để lại thửa kế. Pháp luật cũng quy định một số người không có quyền sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng tài sản đó cho đến chết. |
Trung Địa (tiếng Anh: Middle-earth) là vùng đất hư cấu trong hệ thống tác phẩm Legendarium của nhà văn J.R.R.Tolkien. Trung Địa là nơi diễn ra hầu hết các sự kiện trong các tác phẩm của Tolkien như Chúa tể những chiếc nhẫn (Lord of the Rings), Anh chàng Hobbit (The Hobbit), Huyền sử Silmarillion (The Silmarillion)...
Theo Tolkien, Trung Địa là lục địa chính trong các lục địa trên Trái Đất (Arda) được hình thành từ khoảng một thời gian dài từ trước khi nhân loại thức dậy (Kỷ Đệ Nhất) và là nơi sinh sống của nhiều sinh vật khác nhau: thần thánh (Valar), tiên (Elf), loài người, người lùn (Dwarf), người Hobbit, người cây (Ents), phù thủy... cũng như các sinh vật, thế lực hắc ám như rồng, quỷ Orc hay chúa tể hắc ám (Melkor, Sauron). Phần lớn những sự kiện đều tập trung chủ yếu ở phía Tây Bắc của Trung Địa (tương đương với Châu Âu - vùng phía Tây Bắc của cựu thế giới, vùng Shire gợi ra vùng West Midlands nước Anh). Ngoài ra, nơi đây còn diễn ra những sự kiện chính trong suốt bốn niên đại của loài người như Chiến tranh Báu vật, Nhẫn chiến... Theo một số ý tưởng của Tolkien, Trung Địa dần dần phát triển trở thành thế giới ngày nay của con người.
Tên gọi
Thuật ngữ "Middle-earth" có nguồn gốc từ Midgard trong thần thoại Bắc Âu (Old Norse) hay Middangeard từ một số tác phẩm viết bằng tiếng Anh cổ như sử thi Beowulf.
Bản dịch "Trung Địa" được xuất bản lần đầu tiên trong phần phim cuối tuần trên VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam. |
Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự (Chữ Hán: 昭禪寺), là một ngôi chùa ở làng Láng, Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Người Pháp gọi là Pagode des Dames.
Lịch sử
Chùa tương truyền được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông (trị vì từ 1138 đến 1175). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo truyền thuyết, nhà sư này đã đầu thai làm con trai một nhà quý tộc Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì vua Lý Nhân Tông (trị vì từ 1072 đến 1127) không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138). Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa đã được trùng tu nhiều lần, những lần quan trọng nhất là vào các năm 1656, 1901 và 1989.
Kiến trúc
Cổng chùa ngoài cùng bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, hơi giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa, trên cổng có tấm hoành phi lớn đề chữ " Thiền Thiên Khải Thánh ". Qua cổng là một sân lát gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan. Từ đây có con đường lát gạch, hai bên là hàng muỗm cổ thọ cả gần ngàn tuổi dẫn đến cổng thứ ba.
Qua cổng này ở giữa có ngôi nhà bát giác nơi đặt tượng của Từ Đạo Hạnh. Qua nhà bát giác này mới đến các công trình chính trong chùa: bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng...
Động thập điện Diêm Vương ở hai đầu đốc tòa tiền đường khá đẹp, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa ngục.
Đây là một trong những ngôi chùa có số lượng tượng thờ nhiều nhất Hà Nội và cả Việt Nam, gồm 198 pho tượng. Cơ Bản gồm có: Khuyến thiện, Trừng Ác, Tứ Đại thiên Vương, Chuẩn đề, Phạm thiên, Đế Thích, Cửu Long Phún Thủy, Thập bát La hán, Lịch Đại Tổ Sư, Tam Tòa Thánh Mẫu, Tứ Vị Vua Bà,...
Ngoài các tượng Phật ở thượng điện, trong hậu cung còn có tượng nhà sư Từ Đạo Hạnh và tượng vua Lý Thần Tông. Tượng Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan phủ sơn còn tượng Lý Thần Tông làm bằng gỗ mít.
Vì được trùng tu nhiều lần, trong chùa không còn dấu tích của các kiến trúc di vật cổ. Tấm bia cổ nhất còn lại ở đây được dựng năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) nhà Hậu Lê. Văn bia do tiến sĩ Nguyễn Văn Trạc viết.
Vẻ bề thế của quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian thoáng đãng khiến cho chùa Láng đã từng được coi là "đệ nhất tùng lâm" ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.
Hội chùa
Hội chùa Láng cử hành vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội, kiệu của Từ Đạo Hạnh được rước đến chùa Hoa Lăng ở xã Dịch Vọng, nơi thờ bố mẹ ông.
Chùa Láng là dạng chùa "Tiền Phật, Hậu Thánh ", một đặc trưng khác biệt tại chùa là do Từ Đạo Hạnh vừa là sư vừa là Thánh của làng nên người dân ở đây dâng cả rượu, thịt cho Ngài trong ngày lễ hội.
Chùa Thầy ở Quốc Oai (Hà Nội) cũng thuộc hệ thống chùa thờ Từ Đạo Hạnh nên dân gian có câu rằng:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
Hình ảnh |
Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.
Lịch sử
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
Kiến trúc
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Phía Đại Hùng Bảo Điện là nhà thờ Tổ, nơi thời Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Đây là ngôi chùa hiếm có trên đất bắc Việt Nam, tuy xây từ lâu đời nhưng luôn gìn giữ chính pháp và đặc biệt " không thờ mẫu tam tứ phủ " trong chùa vì đây là một dạng tín ngưỡng bản địa không thuộc Phật giáo.
Hai bên và đằng sau sân là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng 5 năm 1951 (mồng 8 tháng 4 năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Thích Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội.
Danh Tăng Tổ Đình
Trường Cao Cấp Phật Học Trung Ương
Năm 1981 sau khi thống nhất các tổ chức Phật giáo và thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách khi đó là đào tạo tăng tài nên giáo hội đã thành lập Trường Cao Cấp Phật Học Trung Ương tại Hà Nội có cơ sở là Chùa Quán Sứ. Đây chính là tiền thân của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội sau này. Trường tổ chức chiêu sinh khóa 1 (1981-1985), khi đó tăng sinh đều là con em của các tổ đình lớn đất bắc và sau đó trở thành các nhà lãnh đạo của giáo hội hiện nay như:
Hòa Thượng Thích Thanh Thiền, chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Mật Hựu.
Hòa Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ, Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hà Tây,.... Trụ trì Chùa Hương, Chùa Thầy, Chùa Vạn Niên.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu (1952). Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, trụ trì chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhã (1950), Chánh văn phòng Hội đồng chứng minh, Phó ban trị sự PG Hà Nội, Trụ trì chùa Trấn Quốc. (Chủ Tịch Hội Cựu Tăng Ni Sinh)
Hòa Thượng Thích Thanh Lương (1949), Chứng minh ban trị sự Nam Định.
Hòa thượng Thích Thanh Duệ (1951), Trưởng Ban trị sự PG tỉnh Vĩnh Phúc.
Hòa Thượng Thích Gia Quang (1954), Phó chủ tịch Hội đồng trị sự, Trưởng ban thông tin truyền thông, trụ trì chùa liên Phái.
Hòa thượng Thích Bảo nghiêm (1956), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư.
Hòa Thượng Thích Quảng Tùng (1953), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, Trưởng ban trị sự PG Hải phòng, trụ trì chùa Dư Hàng.
Hòa Thượng Thích Thanh Điện (1958), Phó tổng thư ký Hội đồng trị sư, Chánh văn phòng I TƯ, trụ trì chùa Duệ Tú.
Hòa Thượng Thích Thanh Giác (1957), phó ban trị sự PG hải Phòng, trụ trì chùa Phổ Chiếu.
Hòa Thượng Thích Thanh Đạt (1955), Nguyên Viện Trưởng Học viện PG VN tại Hà Nội.
Hòa Thượng Thích Thanh Hưng (1952), Uỷ viên thừong trực Hội đồng trị sự, trụ trì chùa Thiên Phúc.
Thượng Tọa Thích Nguyên Hạnh (1957), Trưởng ban trị sự PG quận Tây Hồ, Hà Nội, trụ trì chùa tảo Sách.
Thượng Tọa Thích Thanh Phúc (1954), Phó trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì Chùa Châu long.
Thượng Tọa Thích Thanh Phương (1960 - 2013), Chánh Thư Ký Ban Trị Sự PG Tỉnh Thái Bình, Trụ Trì Chùa Vĩnh Quang.
Ni trưởng Thích Đàm Nghiêm, Phó trưởng phâ ban thường trực phân ban ni giới Trung ương.
Ni sư Thích Đàm Lan (1956), Phó trưởng phân ban ni giới TƯ, trụ trì chùa Bồ Đề.
Ni sư Thích Đàm Khoa (1959), Trụ trì chùa Trăm Gian.
Ni sư Thích Diệu Hương, Chùa Phong Hanh, Hải Dương. |
Trong hình học, một hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn. Một hình tròn được cho là đóng nếu nó chứa đường tròn tạo thành ranh giới của nó và mở nếu không.
Công thức
Trong hệ tọa độ Descartes, hình tròn mở tâm và bán kính R được thể hiện theo công thức
trong khi hình tròn đóng có cùng tâm và bán kính được thể hiện bằng
Diện tích của một hình tròn đóng hoặc mở có bán kính R là πR 2 (xem diện tích hình tròn).
Tính chất
Hình tròn có tính đối xứng tròn.
Hình tròn mở và hình tròn đóng không tương đương topo (không đồng phôi), vì chúng có tính chất topo khác nhau. Chẳng hạn, mọi hình tròn đóng đều compact trong khi mọi hình tròn mở không compact. Tuy nhiên, từ quan điểm của topo đại số, chúng có chung nhiều thuộc tính: cả hai đều có thể co rút và do đó, đồng luân với một điểm duy nhất. Điều này ngụ ý rằng các nhóm cơ bản của chúng là không đáng kể, và tất cả các nhóm tương đồng là không đáng kể ngoại trừ nhóm thứ 0, là đẳng cấu của Z. Đặc tính Euler của một điểm (và do đó cũng là của một hình tròn đóng hoặc mở) là 1.
Mỗi hàm liên tục từ hình tròn đóng đến chính nó đều có ít nhất một điểm cố định (không yêu cầu hàm phải song ánh hoặc toàn ánh); đây là trường hợp n = 2 của định lý điểm cố định Brouwer. Tuyên bố là sai với hình tròn mở:
Xem ví dụ hàm ánh xạ mọi điểm của hình tròn đơn vị mở sang một điểm khác trên hình tròn đơn vị mở ở bên phải của điểm đã cho. Nhưng đối với hình tròn đơn vị đóng, nó sửa mọi điểm trên nửa vòng tròn |
Trong hình học cổ điển, bán kính của một đường tròn hay của mặt cầu là khoảng cách từ một điểm bất kỳ của đường tròn/mặt cầu đến tâm của nó. Từ bán kính được sử dụng lần đầu tiên trong tiếng La Tinh là radius với nghĩa tia hoặc cũng có thể là nan hoa của bánh xe ngựa.
Bán kính thường được ký hiệu bằng chữ r hoặc R. Độ dài của bán kính đường tròn bằng một nửa đường kính d của đường tròn đó.
Nếu đối tượng đề cập tới không có tâm, khái niệm này có thể đề cập tới bán kính của đường tròn ngoại tiếp hoặc mặt cầu ngoại tiếp đối tượng đó. Trong cả hai trường hợp, bán kính này có thể dài hơn một nửa khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm bất kì của đối tượng đó. Ngoài ra, khái niệm bán kính này cũng có thể được sử dụng cho đường tròn nội tiếp - đường tròn lớn nhất có thể nằm trong một đa giác cho trước.
Bán kính của đường tròn có chu vi C là: |
Tái tuần hoàn khí thải là một kỹ thuật làm giảm thiểu các oxide của nitơ được dùng trong phần lớn các động cơ xăng, động cơ diesel, tuốc bin hơi. Việc giảm thiểu rất cần thiết, đặc biệt là tại các động cơ đốt trong nhằm giới hạn các chất độc hại này nằm trong giới hạn cho phép.
Tại vòng tua nhỏ thì lượng oxy trong luồng khí nạp vẫn dư để tái tuần hoàn nạp vào buồng đốt cho chu kỳ sau, mặt khác nhiệt lượng của khí tái tuần hoàn được tận dụng nhằm nâng cao hiệu suất động cơ, đồng thời cho phép nhiên liệu cháy tốt
Tại vòng tua cao hơn thì lượng khí cần nhiều hơn, các van tuần hoàn sẽ tùy theo tua động cơ và tải sẽ được điều chỉnh để mang lại hiệu suất cao nhất.
Ngoài ra việc tái tuần hoàn như vậy cho phép đốt triệt để nhiên liệu giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường. |
Inkscape là một trình soạn thảo đồ họa vector miễn phí và mã nguồn mở. Phần mềm này có thể được sử dụng để tạo hoặc chỉnh sửa đồ họa vector như minh họa, sơ đồ, nghệ thuật vẽ đường, biểu đồ, logo và các bức tranh phức tạp. Định dạng đồ họa vector chính của Inkscape là Đồ họa vector có thể mở rộng (SVG); tuy nhiên, nhiều định dạng khác có thể được nhập và xuất.
Inkscape được bắt đầu vào năm 2003, phỏng theo phần mềm xử lý đồ họa vector Sodipodi. Tuy Inkscape vẫn chưa có được nhiều tính năng như các phần mềm xử lý đồ họa vector thương mại, nhưng hiện nay nó có thể được dùng trong nhiều ứng dụng. Inkscape chưa hỗ trợ đầy đủ SVG và CSS. Nó chưa có các hiệu ứng lọc SVG, hoạt hình, và phông chữ SVG. Inkscape hiện đang được phát triển mạnh, và ngày càng có nhiều tính năng mới.
Tính năng
Inkscape quản lý bản vẽ theo các lớp và cho phép chuyển giữa các lớp một cách linh hoạt.
Chức năng nhân bản đối tượng (clone) rất có ích khi cần sao chép với số lượng lớn hay tạo ra các họa tiết.
Inkscape hiện đang phát triển tính năng nhận diện hình: đổi từ ảnh bitmap ra các đường nét.
Cho phép xuất ra nhiều định dạng, Inkscape có thể tạo ra các file EPS, EMF, và các định dạng ảnh bitmap (PNG, JPEG, v.v...)
Các đối tượng hình vẽ gồm có một số loại đặc biệt: hình sao, đường cong Bézier, gradient màu.
Kĩ thuật phần mềm
Inkscape được xây dựng dựa trên bộ công cụ GTK+. Mặc dù chạy tốt trên Linux và gần như suôn sẻ trên Windows, vấn đề tương thích với Mac OS X còn đang được khắc phục. Đối với Windows kích thước của file cài đặt khi tải xuống lớn hơn đáng kể so với Linux, vốn hỗ trợ mặc định cho GTK+ nếu sử dụng giao diện GNOME. |
Kinh tuyến là một nửa đường tròn trên bề mặt Trái Đất, nối liền hai Địa cực, có độ dài khoảng 20.000 km, chỉ hướng bắc-nam và cắt thẳng góc với đường xích đạo. Mặt phẳng của kinh tuyến 0° (chạy qua đài quan sát thiên văn tại Greenwich thuộc Luân Đôn) và kinh tuyến 180°, chia Trái Đất ra làm hai bán cầu – Bán cầu đông và Bán cầu tây.
Các kinh tuyến nối liền các cực từ là các kinh tuyến từ, những kinh tuyến nối liền các Địa cực thì gọi là các kinh tuyến địa lý, còn các đường kinh tuyến vẽ trên bản đồ – là các kinh tuyến họa đồ.
Kinh tuyến này còn được gọi là kinh tuyến địa lý, để phân biệt với kinh tuyến địa từ là giao tuyến giữa bề mặt Trái Đất và mặt phẳng đi qua đường thẳng nối các cực địa từ Bắc và Nam.
Kinh tuyến gốc 0 độ đi qua vùng Greenwich ở ngoại ô thủ đô Luân Đôn nước Anh.
Có 360 kinh tuyến, người ta dựa vào kinh tuyến để chia Trái Đất thành 12 múi giờ. |
Trong lý thuyết xác suất, một quá trình mang tính ngẫu nhiên có thuộc tính Markov nếu phân bố xác suất có điều kiện của các trạng thái tương lai của quá trình, khi biết trạng thái hiện tại, phụ thuộc chỉ vào trạng thái hiện tại đó, ví dụ. nó là độc lập điều kiện với các trạng thái trong quá khứ (trong đường đi của quá trình) khi biết trạng thái hiện tại. Một quá trình với thuộc tính Markov thường được gọi là quá trình Markov, và có thể được miêu tả là Markovian.
Về mặt toán, nếu X(t), t > 0, là một quá trình ngẫu nhiên, thuộc tính Markov khẳng định rằng
Các quá trình Markov thường được gọi là đồng nhất hay thuần nhất (theo thời gian) nếu
và ngược lại gọi là không đồng nhất (thời gian).
Các quá trình Markov đồng nhất, thường đơn giản hơn các quá trình không đồng nhất, tạo thành lớp quan trọng nhất của các quá trình Markov.
Trong một số trường hợp, một cách rõ ràng các quá trình không phải Markovian có thể vẫn có các dạng biểu diễn Markov, được tạo thành bằng cách mở rộng khái niệm của trạng thái 'hiện tại' và 'tương lai'. Cho X là một quá trình không phải Markovian. Thì chúng ta định ra một quá trình Y, mà mỗi trạng thái của Y biểu diễn một khoảng thời gian của các trạng thái của X, ví dụ: về mặt toán
Nếu Y có thuộc tính Markov, thì nó là một biểu diễn Markovian của X. Trong trường hợp này, X còn được gọi là một quá trình Markov bậc 2. Các quá trình Markov bậc cao được định nghĩa một cách giống nhau.
Một ví dụ của một quá trình không phải Markovian với dạng biểu diễn Markov là moving average time series.
Các quá trình Markov nổi tiếng nhất là các xích Markov, nhưng có nhiều quá trình khác, bao gồm chuyển động Brown, là Markovian. |
Chùa Trấn Quốc (鎮國寺) nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ). Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Dưới thời nhà Lý và nhà Trần, chùa Trần Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long.
Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.
Lịch sử
Theo Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời nhà Lý) và điện Hàn Nguyên (thời nhà Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời nhà Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.
Cảnh quan và kiến trúc
Chùa Trấn Quốc toạ lạc trên một hòn đảo duy nhất của một hồ nước ngọt lớn nhất ở Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng (40 - 43), khu vực xung quanh Hồ Tây dân cư rất thưa thớt, có các hang động vừa và nhỏ và rừng cây bao phủ, trong rừng còn có cả một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Cùng trải qua thời gian hàng nghìn năm tồn tại của ngôi chùa, cảnh quan nơi đây bây giờ được đổi khác hoàn toàn. Bờ hồ có đường lớn bao quanh, những ngôi nhà biệt thự và công trình hiện đại hình thành... Một mặt thể hiện sự hoàn thiện tổng thể kiến trúc của thành phố, nhưng mặt khác vô tình phá vỡ cảnh quan lịch sử và tâm linh trong quan niệm sống của số dân cư bản địa.
Phía trên cửa chùa có ghi ba chữ Phương Tiện môn và câu đối hai bên viết bằng chữ Nôm:
Vang tai xe ngựa qua đường tục/ Mở mặt non sông đứng cửa thiền
Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).
Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.
Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815.
Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18).
Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp".
Chùa được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia vào năm 1989.
Tuy nhiên, do nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc chùa đã không khỏi bị pha tạp phong cách kiến trúc của các thời kỳ:
Trong các năm 1624, 1628 và 1639 (thời Chúa Trịnh), chùa được trùng tu, mở rộng.
Trải qua thời Tây Sơn, trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam ngôi chùa bị rơi vào cảnh hoang phế, khi đó cư dân địa phương đã xin được tu sửa lại chùa. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long 14 (trên văn bia Tái tạo Trấn Quốc tự bi do Tiến sĩ khoa 1779 Phạm Lập Trai soạn văn) .
Năm 2010, tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Dự toán kinh phí của đợt tu bổ này là 15 tỷ đồng .
Trong văn bia "Tái tạo Trấn Quốc tự bi" do Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi năm Cảnh Hưng thứ 40 soạn, đã ca ngợi: ''"Đứng trên cao ngắm cảnh chùa, mây lồng đáy nước, mặt hồ ánh xanh xanh khiến du khách lâng lâng. Tiếng chuông chùa gọi ai tỉnh mộng trần tục..."
Vinh danh
Năm 2016, báo Daily Mail ở Anh xếp chùa vào trong số 16 ngôi chùa đẹp nhất thế giới. Năm 2017, trang web du lịch wanderlust.co.uk xếp vào vị trí thứ ba trong 10 ngôi chùa "đẹp nhất trên toàn thế giới" vì hài hòa với môi trường xung quanh.
Các đời trụ trì
Thiền Sư Vân phong
Tăng Thống Khuông Việt
Quốc Sư Thảo Đường
Thiền Sư Thông Biện
Thiền sư Viên Học
Thiền sư Tịnh Không
Dòng Tào Động
Viên Dung Hòa Thượng, Thiền Sư Tịnh trí Giác Quán (dòng Tào Động), sư thuộc thế hệ thứ 4 chùa Hòe Nhai sang trụ trì chùa Trấn Quốc.
Quảng Tế Thiền Sư húy Hải Ngạn
Trung Nghĩa Hòa Thượng, Bí Hóa Thiền Sư húy Khoan Nhạ
Minh Lãnh Thiền Sư, Phương Trượng Tỷ Kheo, húy Giác Khoan.
Phổ Tế Thiền Sư, Hương Lâm Tháp Thanh Từ Sa Môn, húy Khoan Nhân.
Đạo Sinh Thiền Sư, Tinh Thông Hòa thượng, Thanh Hải tỳ Kheo.
Sinh Tín Thiền Sư, húy Thanh Tuyền.
Thích Dương Dương thiền sư, húy Thanh uyên - Đạo Sùng.
Quang Lư Thiền sư, Hồng Phúc Sa Môn, Thích Đường Đường.
Mẫn Tiệp thiền sư, húy Chính Tiến.
Phúc Hòa Thiền Sư, húy Tâm Lợi, thế danh Đặng Văn Lợi.
Mã Đạo Hòa Thượng, húy Chân Nghĩa.
Dòng Tào Động chùa Cả Nam Định
Hoà Thượng Kim Cương tử (1914 - 2001) hiệu Thúy Đồ Ba Thành Luật Sư, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, sư về trụ trì năm 1983, sau khi các sư dòng Tào Động nam tiến từ thập niên 1953
Hoà thượng Thích thanh Nhã, sinh năm 1950,
Các khách thăm đặc biệt
Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng để đàm đạo.
Năm Kỷ Mão (1639) chúa Trịnh Tráng cho sửa và trồng sen quanh chùa, biến nơi thờ cúng thành hành cung riêng của nhà Chúa.
Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm, ban 20 lạng bạc để tu sửa chùa.
Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền để tu sửa chùa.
Ngày 24 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad đến thăm chùa và tặng cây bồ đề trồng trước cửa tòa Tam bảo .
Ngày 28 tháng 11 năm 2008, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đến thắp hương và tham quan nhân dịp trong chuyến công du Việt Nam .
Ngày 31 tháng 10 năm 2010, Tổng thống LB Nga Dmitry Medvedev đến tham quan trong dịp đến Hà Nội dự Hội nghị Cấp cao không thường niên ASEAN - LB Nga lần thứ hai .
Hình ảnh chùa Trấn Quốc |
Hưng Hà là một huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Hưng Hà nằm ở phía tây bắc của tỉnh Thái Bình, nằm cách thành phố Thái Bình khoảng 28 km về phía tây bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 82 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 67 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Đông Hưng và huyện Quỳnh Phụ
Phía tây giáp huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam và thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Phía nam giáp huyện Vũ Thư
Phía bắc giáp huyện Tiên Lữ và huyện Phù Cừ thuộc tỉnh Hưng Yên.
Hưng Hà có ba mặt giáp sông Hồng (phía tây) cùng hai phân lưu của nó là sông Luộc (phía bắc) và sông Trà Lý (phía nam). Xã Tân Lễ là cực Tây của cả huyện lẫn tỉnh Thái Bình, nằm tại ngã ba sông giữa sông Hồng và sông Luộc. Cực Nam của huyện là xã Hồng Minh, nằm tại ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý (tên cổ là cửa Tuần Vườn). Cực Đông là xã Bắc Sơn, nằm tại ngã ba ranh giới với hai huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Cực bắc là thôn Ngũ Đông, xã Điệp Nông hữu ngạn sông Luộc. Sông Tiên Hưng lấy nước sông Luộc tại cống Nhâm Lang, xã Tân Tiến chảy qua giữa huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam hòa vào sông Diêm Hộ. Ngoài ra huyện có một mạng lưới các con sông nhỏ, kênh rạch nhỏ, nối thông với các sông Hồng, Luộc, Trà Lý.
Địa hình, địa mạo
Huyện Hưng Hà thuộc vùng châu thổ sông Hồng, địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1% (trên 1 km), cao trình biến thiên từ 1 - 2m so với mặt nước biển. Nhìn chung, địa bàn huyện có độ cao bình quân lớn nhất tỉnh, hướng đất thấp dần từ Bắc xuống Nam. Đất Hưng Hà thuộc khu vực phía Bắc sông Trà Lý được hình thành sớm và chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hồng và sông Luộc nên là vùng đất tương đối cao hơn, độ cao trung bình từ 1,3 - 3,5 m so với mực nước biển (ở khu vực trong đê).
Khí hậu
Huyện Hưng Hà nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, và có sự ảnh hưởng của biển. Đặc điểm khí hậu thời tiết của huyện như sau:
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm từ 23,5 °C, cao nhất là 39 °C, nhiệt độ thấp nhất là 4 °C.
Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm xấp xỉ 2.000mm, biên độ giao động 1.200 - 3.000mm, phân bố theo mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài 6 tháng (tháng 5 đến tháng 10).
Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm thường trên 80%, mùa mưa độ ẩm cao có thể đạt tới mức bão hòa.
Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình trong năm khoảng 1.600 - 1650 giờ.
Gió: Hướng gió thịnh hành mùa đông là gió Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4; về mùa hạ gió Đông Nam thổi tháng 5 đến tháng 9, trong đó giai đoạn đầu mùa hạ (tháng 5 đến tháng 7) thường xuất hiện xen kẽ với những đợt gió Tây khô nóng. Tốc độ gió trung bình năm là 3,9 m/s, trung bình tháng lớn nhất là 4,9 m/s, trung bình tháng nhỏ nhất là 3,1 m/s.
Thủy văn
Huyện Hưng Hà chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sông là sông Hồng, sông Luộc và sông Trà Lý.
Sông Hồng chảy ven theo địa giới hành chính các xã Tân Lễ, TT Hưng Nhân, Tiến Đức, Hồng An, Minh Tân, Độc Lập, Hồng Minh; với chiều dài khoảng 14 km. Vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 mực nước sông lên nhanh và cao hơn mặt ruộng từ 2 - 5m. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau mực nước sông xuống thấp hơn mặt ruộng từ 2 - 3m. Sông Hồng đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng cung cấp lượng phù sa không nhỏ phục vụ việc cải tạo đồng ruộng.
Sông Luộc là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Tân Lễ đến xã Điệp Nông qua địa phận các xã: Tân Lễ, Canh Tân, Cộng Hòa, Hòa Tiến, Tân Tiến, Điệp Nông có chiều dài 21 km. Lưu lượng dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm. Sông Luộc cũng góp phần tích cực vào việc tưới, tiêu và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng.
Sông Trà Lý là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Hồng Minh đến xã Chí Hòa (qua địa phận 2 xã: Hồng Minh, Chí Hòa); có chiều dài 4,5 km. Lưu lượng dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm.
Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, đất đai huyện Hưng Hà được chia làm 3 nhóm chính:
Nhóm đất phù sa, diện tích 11.440,37 ha chiếm 93% diện tích đất điều tra. Là nhóm đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt nặng, với khả năng hấp thu các chất hữu cơ khá cao.
Nhóm đất cát, diện tích 723.58 ha, khả năng giữ nước kém, nghèo chất dinh dưỡng.
Nhóm đất phèn, diện tích 66,45 ha nằm xen kẽ rải rác ở các xã.
Ngoài ra còn có nguồn đất sét, nguồn tài nguyên cát lòng sông rất phong phú để phục vụ sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng.
Tài nguyên nước
Nước mặt: Bao gồm nước mưa và nước trong hệ thống sông ngòi, ao, hồ, trên địa bàn nhưng chủ yếu là nguồn nước sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý,... Nhìn chung nguồn nước mặt khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, nguồn nước mặt ở Hưng Hà đang bị ô nhiễm.
Nước ngầm: Theo tư liệu dự án Quy hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Thái Bình đến năm 2020 cho biết nguồn nước ngầm ở Hưng Hà có 2 tầng
đặc trưng:
Tầng chứa nước Thái Bình: Đây là tầng phát triển không đồng đều, rất mỏng ở phía Bắc với chiều dày tầng chứa nước lớn nhất đạt tới 25 m, trung bình 5 – 10 m và lưu lượng từ 0,1 - 0,7 l/s, mực nước giao động từ 1 - 2m.
Tầng chứa nước Hải Hưng được ngăn cách với tầng chứa nước Thái Bình bởi lớp sét, có chiều sâu gặp từ 2 - 40m, chiều dày phát triển không đều. Tầng được tạo bởi nhiều nguồn gốc trầm tích Sông - Biển; Biển - Đầm lầy, đất đá chủ yếu là sét, bột cát, bột - sét lẫn cát, nhiều vỏ sò sinh vật biển. Tầng có lưu lượng từ 0,025 - 0,59 l/s, mực nước giao động từ 0,5 - 1m.
Nguồn nước nóng ở xã Duyên Hải: Theo tư liệu của Bộ môn Sinh hóa Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cho biết tại vùng đất xã Duyên Hải ở độ sâu 50m có nguồn nước nóng 50 °C; ở độ sâu 178m có nguồn nước nóng 72 °C. Tuy trữ lượng chưa được xác định nhưng 6 năm gần đây chính quyền xã Duyên Hải đã đưa vào quản lý giao cho tư nhân khai thác bằng máy khoan bơm điện, bể chứa xử lývới mục đích cung cấp nước nóng phục vụ ngành thủy sản nuôi giữ cá bố mẹ qua
đông và đẻ sớm, đã góp phần cung cấp lượng cá giống cho khu vực.
Lịch sử
Huyện Hưng Hà được thành lập ngày 17 tháng 6 năm 1969 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện Duyên Hà, Hưng Nhân và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Tây Đô, Hòa Bình, Chi Lăng thuộc huyện Tiên Hưng cũ.
Trước khi hợp nhất, huyện Hưng Nhân có 28 xã: xã: Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Cộng Hòa, Độc Lập, Hiệp Hòa, Hoàng Đức, Hồng An, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Thái Hưng, Thái Thịnh, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Lang. Huyện Duyên Hà có 10 xã: An Đình, An Đồng, Dân Chủ, Đoan Hùng, Duyên Hải, Hùng Dũng, Tam Điệp, Tam Nông, Thống Nhất, Văn Cẩm.
Sau khi hợp nhất 2 huyện trên và chuyển 5 xã của huyện Tiên Hưng cũ về huyện Hưng Hà quản lý, huyện Hưng Hà có 43 xã: An Đình, An Đồng, Bắc Sơn, Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hiệp Hòa, Hòa Bình, Hoàng Đức, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Hùng Dũng, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tam Điệp, Tam Nông, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Thịnh, Thống Nhất, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Cẩm, Văn Lang.
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, sáp nhập xã An Đình vào xã Thống Nhất.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, theo Quyết định số 618-VP18:
Hợp nhất 2 xã Minh Hồng và Hồng Phong thành xã Hồng Minh.
Hợp nhất 2 xã Tiến Dũng và Hoàng Đức thành xã Tiến Đức.
Hợp nhất 2 xã Phạm Lễ và xã Tân Mỹ thành xã Tân Lễ.
Hợp nhất 2 xã Tam Điệp và Tam Nông thành xã Điệp Nông.
Hợp nhất 2 xã Lam Sơn và Trần Phú thành xã Phú Sơn.
Hợp nhất 2 xã Hòa Bình và Chi Lăng thành xã Bình Lăng.
Sáp nhập 3 thôn: Điềm, Gạo, Hà của xã Tân Việt với vào xã Hồng Hà thành xã Hồng An.
Sáp nhập thôn Phương La (phần còn lại) của xã Tân Việt vào xã Thái Thịnh thành xã Thái Phương.
Sáp nhập 4 thôn: Bùi Tịp, Nguộn, Tư Nam, Phú Lâm của xã Hiệp Hòa vào xã Cấp Tiến thành xã Hòa Tiến.
Sáp nhập 2 thôn Lương và Me (phần còn lại) của xã Hiệp Hòa vào xã Tân Sơn thành xã Tân Hòa.
Từ đó, 2 xã Hiệp Hòa và Tân Việt bị giải thể.
Ngày 21 tháng 6 năm 1989, thành lập thị trấn Hưng Hà, thị trấn huyện lỵ huyện Hưng Hà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã An Đồng.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, thành lập thị trấn Hưng Nhân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phú Sơn, chia lại xã Bình Lăng thành 2 xã: Hòa Bình và Chi Lăng.
Huyện Hưng Hà có 2 thị trấn và 33 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Hưng Hà có 35 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Hưng Hà (huyện lỵ), Hưng Nhân và 33 xã: Bắc Sơn, Canh Tân, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Điệp Nông, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hòa Bình, Hòa Tiến, Hồng An, Hồng Lĩnh, Hồng Minh, Hùng Dũng, Kim Trung, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Khai, Minh Tân, Phúc Khánh, Tân Hòa, Tân Lễ, Tân Tiến, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Phương, Thống Nhất, Tiến Đức, Văn Cẩm, Văn Lang.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất (giá cố định năm 2010) ước đạt 20329,4 tỷ đồng, đạt 101,58% kế hoạch năm, tăng 10,15% so với cùng kỳ năm 2019; Tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt 12,22%; Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 3.699,6 tỷ đồng, đạt 99,96% kế hoạch năm, tăng 1,46% so với cùng kỳ; công nghiệp – TTCN và xây dựng ước đạt 13.302,1 tỷ đồng, đạt 103,5% kế hoạch năm, tăng 15,7% so với cùng kỳ; thương mại, dịch vụ ước đạt 3.537 tỷ đồng, đạt 100,07% kế hoạch năm, tăng 7,64% so với cùng kỳ.
Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản: 19,4%; công nghiệp và xây dựng: 61,9%; thương mại, dịch vụ: 18,7%.
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp, thủy sản đạt kết quả khá. Giá trị sản xuất ước đạt 3.699,6 tỷđồng, tăng 1,58% so với 2019. Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 19.269 ha, giảm 250,47 ha so với năm 2019. Sản xuất lúa xuân, lúa mùa được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ; cơ cấu giống lúa và phương thức gieo cấy tiếp tục chuyển dịch tích cực; huyện đã ban hành kịp thời cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp; công tác phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc bảo vệ lúa được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Do vậy sản
xuất lúa năm 2019 thắng lợi, năng suất ước đạt 132,45 tạ/ha. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt ước đạt 1.582,8 tỷ đồng tăng 2,21% so với năm 2018. Sản xuất vụ đông đạt kết quả tích cực, có sự chuyển biến mạnh mẽ sang sản xuất hàng hóa, mở rộng diện tích cây trồng có giá trị kinh tế cao, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm (ngô ngọt, dưa chuột xuất khẩu, bí củ lạc, bắp cải tím,...) diện tích cây màu vụ đông đạt 6.101,23 ha.
Cây màu vụ xuân, vụ hè và hè thu sinh trưởng và phát triển tốt, diện tích gieo trồng đạt 4390 ha.
Chăn nuôi: Giá trị ngành chăn nuôi ước đạt 625,242 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 2,45% so với cùng kỳ 2019. Không phát sinh dịch bệnh, không để tái bùng phát dịch tả lợn Châu Phi; tình hình chăn nuôi có xu hướng phát triển trở lại theo hướng phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại gắn với an toàn sinh học.
Nuôi trồng thủy sản được duy trì phát triển. Giá trị sản xuất ước đạt 209,2 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 3,43% so với cùng kỳ. Vùng nuôi trồng thủy sản tập trung tại xã Độc Lập và xã Tân Lễ; Người chăn nuôi được quan tâm và đầu tư theo
hướng thâm canh, bán thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao; Công tác cải tạo ao, đầm được quan tâm; Phong trào nuôi cá lồng trên sông tiếp tục được phát triển; Toàn huyện hiện có 154 lồng cá tại 5 xã (Hồng An; Điệp Nông; Độc Lập; Tân lễ, TT. Hưng Nhân), tăng 13 lồng so với năm 2019.
Làng nghề
Là một huyện nằm trong một tỉnh bốn bề là sông chia cắt nhưng Hưng Hà lại có rất nhiều làng nghề nổi tiếng và là huyện có nhiều làng nghề của tỉnh Thái Bình. Chính vì có nhiều làng nghề nên Hưng Hà được coi là huyện khá giả nhất nhì của tỉnh:
Nghề dệt chiếu ở làng Hới (xã Tân Lễ)
Nghề dệt vải ở làng Mẹo (Thái Phương)
Nghề làm mộc ở làng Diệc (Tân Hòa)
Nghề đan mành ở làng Tây Xuyên (thị trấn Hưng Nhân)
Nghề mây tre đan ở làng Mải (xã Tây Đô)
Nghề dệt ở Tiền Phong (Hưng Nhân)
Nghề làm hương ở làng Văn Quan (Duyên Hải)
Nghề làm mì bánh đa ở làng Me (Tân Hòa)
Nghề làm đậu phụ làng Kênh (Tây Đô)
Nghề làm bún bánh ở Việt Yên (Điệp Nông)
Nghề trồng dâu nuôi tằm ở Hồng An
Nghề mộc ở làng Vế (Canh Tân)
Một số có nghề mộc ở Liên Hiệp.
Công nghiệp
Sản xuất công nghiệp - TTCN giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid 19, giá trị sản xuất ước đạt 3.785 tỷ đồng, đạt 36,9% kế hoạch năm, tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2019. Năm 2019; Một số lĩnh vực phát triển khá như sản xuất nước sạch; chếbiến lương thực thực phẩm; chế biến đồ nhựa. Đến nay toàn huyện có 6 cụm công nghiệp đã quy hoạch chi tiết, với tổng diện tích đất quy hoạch 229,7 ha, có 01 CCN đang lập quy hoạch (CCN Đức Hiệp 70ha); Tổ chức cắm mốc ngoại thực địa cụm công nghiệp Hưng Nhân (Phần mở rộng); hoàn thiện hồ sơ, cắm mốc CCN Hưng
Nhân, CCN Đồng Tu I,...
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, nề nếp. Phê duyệt điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới xã Minh Tân, Liên Hiệp giai đoạn 2020 – 2030; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu trung tâm xã Thái Phương, hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh quy hoạch chung 2 thị trấn, tiếp nhận hồ sơ dự án sân golf. Giá trị ngành xây dựng ước đạt 2.400 tỷ đồng, đạt 99,65% kế hoạch năm, tăng 10,68% so cùng kỳ 2019.
Dịch vụ
Các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân; từng bước phát huy tiềm năng, lợi thế của huyện. Giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ bình quân ước đạt 2.889,9 tỷ đồng/năm, tăng 7,43%/năm. Hạ tầng thương mại được đầu tư phát triển. Mạng lưới thương mại rộng khắp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được chú trọng. Các loại hình dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng, ngân hàng phát triển nhanh và hoạt động hiệu quả. Công tác xúc tiến thương mại; xây dựng các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Hoạt động du lịch gắn với lễ hội, di tích có bước phát triển.
Giáo dục - đào tạo
Năm 2019, toàn huyện đã có 149 cơ sở giáo dục với 53.985 học sinh, có 21/36 trường mầm non, 38/38 trường tiểu học, 30/34 trường THCS và 02 trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Có 100% cán bộ, giáo viên đạt trình độ chuẩn. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, chất lượng học sinh giỏi có chuyển biến tích cực.
Y tế
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm đúng mức. Công tác y tế dự phòng có nhiều cố gắng trong giám sát và quản lý tốt dịch bệnh; Bệnh viện tuyến huyện đã khám chữa bệnh kịp thời cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở xã, thôn không ngừng được củng cố; các chương trình y tế quốc gia triển khai có hiệu quả.
Dân số
Dân số của huyện Hưng Hà là 290.750 người (2015), trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 149.587 người.
Huyện Hưng Hà có diện tích là 200,42 km², dân số năm 2019 là 253.272 người. Trong đó, dân số thành thị là 23.270 người, dân số nông thôn là 230.000 người, mật độ dân số đạt 1.264 người/km².
Huyện Hưng Hà có diện tích là 210,28 km², dân số năm 2020 là 253.849 người, mật độ dân số đạt 1.207 người/km².
Văn hóa
Văn hóa tên làng
Đây là vùng đất còn nhiều nét cổ, mỗi làng đều có một hay nhiều tên gọi khác nhau, liên quan mật thiết đến phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng, sở thích của cả cộng đồng. Làng đều có tên Nôm và tên Hán Việt (tên chữ) kèm theo. Tên Nôm có thể có trước, còn tên Hán Việt thường có sau, khi chữ Hán và văn hoá Hán có quá trình giao thoa sâu hơn với văn hoá Việt. Trong đó, tên Nôm có kết cấu 1 tiếng, 1 chữ còn tên Hán Việt có kết cấu 2 tiếng, 2 chữ. Ví dụ làng Diệc tên Hán Việt là Mĩ giặc, nhưng cả hai nghĩa đều là ĐẸP.
Nghệ thuật: Nét đẹp nghề làm chiếu
Từ xa xưa nghề làm chiếu có nguồn gốc từ Trung Quốc do tiến sỹ Phạm Đôn Lễ làm quan thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), người gốc làng Hải Triều (Hới) thuộc huyện Hưng Hà ngày nay. Ông đi sứ sang Trung Quốc và đã học được nghề ở vùng Ngọc Hồ, nay thuộc tỉnh Quảng Tây. Sau khi trở về Phạm Đôn Lễ đã truyền nghề cho dân làng Hới.
Trải qua nhiều thế kỷ cho tới ngày nay, nghề làm chiếu đã phát triển rộng khắp đến nhiều nơi cả về quy mô, chất lượng và chủng loại sản phẩm như: chiếu cải, chiếu đậu, chiếu đót, chiếu trơn, chiếu cạp điều, chiếu trải giường, xa lông... với nhiều họa tiết in, trang trí.
Người Việt Nam từ xa xưa đến nay đều dùng chiếu để trải giường, bởi giường trải chiếu mát về mùa hạ còn mùa đông lại ấm áp giặt cũng mau khô với cũng rất vệ sinh.
Ngày nay nhiều vùng có nghề dệt chiếu nổi tiếng như ở phía nam Hải Phòng, Kim Sơn (Ninh Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa)... Trong đó chiếu làng Hới vẫn nổi tiếng được ca ngợi bằng câu thành ngữ:
Ăn cơm Hom, nằm giường Hòm, đắp chiếu Hới.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Quốc lộ 39 chạy qua với tổng chiều dài 19,5 km, đi qua Triều Dương nối với Hưng Yên. Hiện trạng đường thuộc đường cấp IV, V. Hiện tuyến đường này đã cơ bản được mở rộng, cải tạo. Quốc lộ 39 chạy từ thành phố Hưng Yên, qua cầu Triều Dương bắc qua sông Luộc, vào địa bàn huyện rồi chạy xuyên qua giữa huyện sang huyện Đông Hưng. Từ cầu Triều Dương đi khoảng 40 km nữa chúng ta sẽ tới TP Thái Bình.
Tuyến đường BOT nối Thái Bình – Hà Nam (bao gồm cầu Thái Hà qua khu vực xã Tiến Đức) hoàn thiện và đưa vào sử dụng năm 2017, dài gần 20 km.
Đường tỉnh: Có 4 tuyến với tổng chiều dài 44,1 km, bao gồm tỉnh lộ 452, 453, 454, 455. Các tuyến tỉnh lộ thuộc đường cấp IV và V. Các tuyến tỉnh lộ:
Tỉnh lộ 452: nối huyện Vũ Thư với huyện Quỳnh Phụ qua các xã Dân Chủ, Hùng Dũng, Đoan Hùng... đến xã Chí Hòa.
Tỉnh lộ 453: nối thị trấn Hưng Nhân với tỉnh lộ 452 tại Chí Hòa.
Tỉnh lộ 454: nối thị trấn Hưng Hà với huyện Vũ Thư đi qua Minh Khai, Văn Lăng, Minh Hòa, Hồng Minh.
Tỉnh lộ 455: đi qua Tây Đô, Đông Đô, Bắc Sơn.
Đường huyện: Có 22 tuyến với tổng chiều dài 79,5 km, do huyện quản lý. Các tuyến đường thuộc đường cấp IV và V.
Hệ thống đường xã: có tổng chiều dài 234,7 km.
Hệ thống đường thôn xóm: có tổng chiều dài 59 km.
Giao thông đường thủy
Mạng lưới giao thông đường thủy trong huyện gồm
có: 3 tuyến sông lớn: Sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý có tổng chiều dài là 40,1 km. Sông do tỉnh quản lý có 9 tuyến với tổng chiều dài 96,4 km (sông Tiên Hưng 16,5 km, sông Sa Lung 12,4 km, sông Việt Yên 5 km, sông Đô Kỳ 10 km, sông Đào Thành 4,1 km, sông Lão Khê 5,1 km, sông 224, 223 và sông Tà Sa).
Hệ thống bến cảng trên các tuyến sông có 11 bến cảng, hầu hết các bến cảng này đều có quy mô nhỏ, tự phát chưa có quy hoạch. Lượng tàu thuyền đi lại tương đối lớn, chủ yếu là vận chuyển hàng hóa.
Danh nhân
Hưng Hà là một trong những quê hương của các vua nhà Trần, nhà bác học Lê Quý Đôn, là thủ đô kháng chiến của triều đình nhà Trần, trong các cuộc cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ngoài ra còn có các danh nhân như Nguyễn Thị Lộ, Phạm Đôn Lễ, Phạm Kính Ân,... |
Cực – là một nơi, mà trong một khía cạnh nào đấy, nó mang những đặc tính quá thái tột đỉnh (cực đoan):
trong thiên văn học
thiên cực
trong địa lý
địa cực
cực địa từ
cực bất khả tiếp cận
cực lạnh giá
Bắc Cực hay còn gọi là Cực Bắc, Nam Cực hay còn gọi là Cực Nam
trong vật lý
điện cực
từ cực
trong toán học
cực hàm giải tích |
Trong toán học, đường tròn đơn vị hay vòng tròn đơn vị là đường tròn với bán kính là 1 đơn vị. Thông thường, đặc biệt là trong lượng giác, vòng tròn đơn vị là hình tròn có bán kính 1 với tâm tại gốc tọa độ (0,0) trong không gian 2 chiều. Nó thường được ký hiệu là S1.
Phương trình định nghĩa đường tròn đơn vị
Có nhiều cách định nghĩa đường tròn đơn vị.
Trên mặt phẳng R2, đường tròn đơn vị có thể định nghĩa bằng một trong những phương trình sau:
V.v...
Trên mặt phẳng phức C, đường tròn đơn vị có thể định nghĩa bằng phương trình:
Dĩa đơn vị
Dĩa đơn vị là phần mặt phẳng bên trong (tức là bên có chứa gốc tọa độ) đường tròn đơn vị. Nói cách khác, trên mặt phẳng thực:
V.v.
Trên mặt phẳng phức C:
Đường tròn đơn vị trong lượng giác
Đường tròn đơn vị có vị trí đặc biệt trong lượng giác vì từ đó có thể tính được tất cả các hàm lượng giác.
Nếu A là một điểm trên đường tròn đơn vị, là góc giữa trục và đường OA (trong hình) thì:
= giá trị điểm A chiếu xuống trục , là đoạn OC trong hình.
= giá trị điểm A chiếu xuống trục , là đoạn AC trong hình.
= chiều dài đường tiếp tuyến từ A kéo tới trục , là đoạn AE trong hình.
= chiều dài đường tiếp tuyến từ A kéo tới trục , là đoạn AF trong hình.
(secant) = chiều dài từ tâm theo trục tới đường tan, là đoạn OE trong hình.
(cosecant) = chiều dài từ tâm theo trục tới đường cotan, là đoạn OF trong hình.
Có hai hàm lượng giác ít dùng nhưng rất dễ thấy trong đường tròn đơn vị, là và .
Hàm tức versed sine là đoạn còn lại trên trục từ sau điểm tới hết đường bán kính.
Còn hàm tức coversed sine hay coversin tương đương như vậy, trên trục : Đoạn còn lại trên trục từ sau điểm tới hết đường bán kính.
Hai hàm này có phần hữu dụng như sau:
Đường cycloid
Lấy một đường tròn bán kính = 1, đặt nó lên trục . Lấy một điểm A cố định trên đường tròn đó. Khi đường tròn lăn (không trượt) trên trục , điểm A quay/lăn theo và sẽ vẽ một hình cung, mang tên đường cycloid.
Nếu thay vì lấy một điểm trên đường tròn mà lấy một điểm bên trong đường tròn, sẽ được đường gọi tên là curtate cycloid.
Năm 1658 Christopher Wren chứng minh rằng nếu đường tròn có đường kính thì một chu kỳ đường cycloid có chiều dài . |
Trong giải tích phức, đơn vị ảo, thường viết tắt là i (hay thỉnh thoảng là j hoặc chữ cái Hy Lạp iota), là căn bậc hai của −1.
Nó cho phép mở rộng các số thực , thành các số phức . Số này có nhiều định nghĩa, phụ thuộc vào cách mở rộng từ trường số thực ra số phức.
Trong lịch sử toán học, mục tiêu gây dựng số phức là vì có nhiều phương trình đa thức không có nghiệm là số thực. Ví dụ , vì nếu chúng ta trừ cả hai vế với 1 thì ta sẽ có: .Điều này là không thể, vì một số âm không có căn bậc hai. Nếu đặt một loại số mới là nghiệm của phương trình trên, thì tất cả các phương trình đa thức đều sẽ có nghiệm.
Vậy muốn tìm căn bậc hai của một số thực bất kì, ta nhân căn bậc hai của số đối của nó với :
Ví dụ: |
Trong toán học, các đẳng thức lượng giác là các phương trình chứa các hàm lượng giác, đúng với một dải lớn các giá trị của biến số.
Các đẳng thức này hữu ích cho việc rút gọn các biểu thức chứa hàm lượng giác. Ví dụ trong việc tính tích phân với các hàm không phải là lượng giác: có thể thay chúng bằng các hàm lượng giác và dùng các đẳng thức lượng giác để đơn giản hóa phép tính.
Định nghĩa
Tuần hoàn, đối xứng và tịnh tiến
Các đẳng thức sau có thể dễ thấy trên vòng tròn đơn vị:
Đẳng thức sau cũng đôi khi hữu ích:
với
Đẳng thức Pytago
Các đẳng thức sau dựa vào định lý Pytago.
Đẳng thức thứ 2 và 3 có thể suy ra từ đẳng thức đầu bởi chia nó cho cos²(x) và sin²(x).
Công thức cộng trừ lượng giác
Xem thêm Định lý Ptolemy
Cách chứng minh nhanh các công thức này là dùng công thức Euler.
với
và
Công thức góc bội
Bội hai
Các công thức sau có thể suy ra từ các công thức trên. Cũng có thể dùng công thức de Moivre với n = 2.
Công thức góc kép có thể dùng để tìm bộ ba Pytago. Nếu (a, b, c) là bộ ba Pytago thì (a2 − b2, 2ab, c2) cũng vậy.
Bội ba
Cơ bản
Ví dụ của trường hợp n = 3:
Nâng cao
Công thức hạ bậc
Giải các phương trình ở công thức bội cho cos2(x) và sin2(x), thu được:
Công thức góc chia đôi
Thay x/2 cho x trong công thức trên, rồi giải phương trình cho cos(x/2) và sin(x/2) để thu được:
Dẫn đến:
Nhân với mẫu số và tử số 1 + cos x, rồi dùng định lý Pytago để đơn giản hóa:
Tương tự, lại nhân với mẫu số và tử số của phương trình (1) bởi 1 − cos x, rồi đơn giản hóa:
Suy ra:
Nếu
thì:
Phương pháp dùng t thay thế như trên hữu ích trong giải tích để chuyển các tỷ lệ thức chứa sin(x) và cos(x) thành hàm của t. Cách này giúp tính đạo hàm của biểu thức dễ dàng.
Biến tích thành tổng
Dùng công thức tổng và hiệu góc bên trên có thể suy ra.
Biến tổng thành tích
Thay x bằng (x + y) / 2 và y bằng (x – y) / 2, suy ra:
Hàm lượng giác ngược
Dạng số phức
với
Tích vô hạn
Trong các ứng dụng với hàm đặc biệt, các tích vô hạn sau có ích:
Đẳng thức số
Cơ bản
Richard Feynman từ nhỏ đã nhớ đẳng thức sau:
Tuy nhiên nó là trường hợp riêng của:
Đẳng thức số sau chưa được tổng quát hóa với biến số:
.
Đẳng thức sau cho thấy đặc điểm của số 21:
Một cách tính pi có thể dựa vào đẳng thức số sau, do John Machin tìm thấy:
hay dùng công thức Euler:
Một số giá trị lượng giác thông dụng:
Dùng tỷ lệ vàng φ:
-
-
Nâng cao
Giải tích
Các công thức trong giải tích sau dùng góc đo bằng radian
Các đẳng thức sau có thể suy ra từ trên và các quy tắc của đạo hàm:
Các biểu thức về tính tích phân có thể tìm tại danh sách tích phân với hàm lượng giác và danh sách tích phân với hàm lượng giác ngược.
Hàm lượng giác nghịch đảo
Các hàm lượng giác tuần hoàn, do vậy để tìm hàm nghịch đảo, cần giới hạn miền của hàm. Dươi đây là định nghĩa các hàm lượng giác nghịch đảo:
Các hàm nghịch đảo có thể được ký hiệu là sin−1 hay cos−1 thay cho arcsin và arccos. Việc dùng ký hiệu mũ có thể gây nhầm lẫn với hàm mũ của hàm lượng giác.
Các hàm lượng giác nghịch đảo cũng có thể được định nghĩa bằng chuỗi vô hạn:
Chúng cũng có thể được định nghĩa thông qua các biểu thức sau, dựa vào tính chất chúng là đạo hàm của các hàm khác.
Công thức trên cho phép mở rộng hàm lượng giác nghịch đảo ra cho các biến phức:
Một số đẳng thức |
Bộ môn Bóng chày tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005, được thi đấu tại khu liên hợp thể thao Rezal Memorial ở thủ đô Manila, Philippines, từ ngày 28 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005 tranh một bộ huy chương ở nội dung dành cho nam. Bóng chày không phải là môn thể thao thường được thi đấu tại SEA Games, lần này có mặt trong nội dung thi đấu do là một môn thể thao rất phổ biến và được hâm mộ của nước chủ nhà Philippines.
Bảng thành tích |
Bộ môn Billiards và Snooker tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại Makati Coliseum, thành phố Makati, Philippines từ ngày 27 tháng 11 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005. Các vận động viên tranh tài ở 14 nội dung, 12 dành cho nam và 2 dành cho nữ.
(Nội dung Billiards Snooker đôi nam chưa được thống kê vào bảng trên)
Bảng thành tích
Nội dung Billiards Snooker đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngIssara Kachaiwong<TD> Thái Lan</TD>
BạcNitiwat Kanjanasari Thái Lan
ĐồngMoh Keen Hoo Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards Snooker đồng đội nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan, Joven Alba, Leonardo Andam<TD> Philippines</TD>
BạcNitiwat Kanjanasari, Phaithoon Phonbun, Supoj Saenla Thái Lan
ĐồngRudy Sulaeman, Bambang Saputra Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards Carom đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNguyễn Thanh Bình<TD> Việt Nam</TD>
BạcLê Phước Lợi Việt Nam
ĐồngReynaldo Grandea Philippines
</TABLE>
Nội dung Billiards Anh đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNguyễn Thanh Long<TD> Việt Nam</TD>
BạcU Kyaw Oo Myanma
ĐồngHasan Manfaluti Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards Anh đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngU Kyaw Oo và U Aung San Oo<TD> Myanma</TD>
BạcPraput Chaithanasakun và Attasit Mahitthi Thái Lan
ĐồngLean Kam Beng và Roslan Yurnalis Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan<TD> Philippines</TD>
BạcLee Van Corteza Philippines
ĐồngTey Choon Kiat Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngLee Van Corteza và Antonio Gabica<TD> Philippines</TD>
BạcNguyễn Phúc Long và Nguyễn Thanh Nam Việt Nam
ĐồngTey Choon Kiat và Chan Keng Kwang Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngChan Keng Kwang<TD> Singapore</TD>
BạcLương Chí Dũng Việt Nam
ĐồngOoi Fook Yuen Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlex Pagulayan và Dennis Orcullo<TD> Philippines</TD>
BạcLương Chí Dũng và Nguyễn Thanh Nam Việt Nam
ĐồngToh Lian Han và Chan Keng Kwang Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 15 bóng đơn nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRonato Alcano<TD> Philippines</TD>
BạcAntonio Gabica Philippines
ĐồngMuhamad Junarto Indonesia
</TABLE>
Nội dung Billiards 15 bóng đôi nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRonato Alcano và Leonardo Andam<TD> Philippines</TD>
BạcTepwin Arunnath và Amnuayporn Chotipong Thái Lan
ĐồngIbrahim Amir và Ooi Fook Yuen Malaysia
</TABLE>
Nội dung Billiards 8 bóng đơn nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRubilen Amit<TD> Philippines</TD>
BạcHoe Shu Wah Singapore
ĐồngCharlene Chai Zeet Huey Singapore
</TABLE>
Nội dung Billiards 9 bóng đơn nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngRubilen Amit<TD> Philippines</TD>
BạcSuhana Dewi Sabtu Malaysia
ĐồngHoe Shu Wah Singapore
</TABLE> |
Bộ môn Thể Hình tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà hát Government Service Insurance System, thành phố Pasay, Philippines trong hai ngày 27 tháng 11 và 28 tháng 11 năm 2005. Các vận động viên tranh tài ở 6 hạng cân dành cho nam.
Bảng thành tích
Hạng 55 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngPhạm Văn Mách<TD> Việt Nam</TD>
BạcZaw Wan Myanmar
ĐồngVincent Ng Han Cheng Singapore
</TABLE>
Hạng 60 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngIbrahim Bin Sihat<TD> Singapore</TD>
BạcSomsri Turinthaisong Thái Lan
ĐồngAsrelawandi Indonesia
</TABLE>
Hạng 65 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngMichael Borenaga<TD> Philippines</TD>
BạcSazali bin Abd Samad Malaysia
ĐồngThongpan Lammana Thái Lan
</TABLE>
Hạng 70 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSimon Chua Ling Fung<TD> Singapore</TD>
BạcAung Khaing Win Myanmar
ĐồngCao Quốc Phú Việt Nam
</TABLE>
Hạng 75 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlfredo Trazona<TD> Philippines</TD>
BạcGiáp Trí Dũng Việt Nam
ĐồngPanupong Prapteep Thái Lan
</TABLE>
Hạng 80 kg
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSitthi Charoenrith<TD> Thái Lan</TD>
BạcMin Zaw Oo Myanmar
ĐồngLý Đức Việt Nam
</TABLE> |
Bộ môn Quyền Anh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 được thi đấu tại nhà thi đấu của Đại học St. La Salle, thành phố Bacolod, Philippines từ ngày 1 tháng 12 cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2005. Khác với ở Thế Vận Hội khi Quyền Anh thường chỉ được dành cho phái mạnh, tại SEA Games lần này rất nhiều hạng cân thi đấu có nội dung dành cho nữ.
Bảng thành tích
Hạng cân trên 46 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAlice Kate Aparri<TD> Philippines</TD>
BạcKyu Kyu Thi Myanmar
ĐồngRanjana Thongtaisong Thái Lan
ĐồngSein Gereta Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 48 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngUsanakorn Thawilsuwayang<TD> Thái Lan</TD>
BạcNaw Mu Chay Myanmar
ĐồngAnaliza Cruz Philippines
ĐồngRumyris Simarmata Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 50 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngAnnie Albania<TD> Philippines</TD>
BạcVũ Thị Hải Yến Việt Nam
ĐồngNilar Myanmar
ĐồngVeronica Nicolas Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 54 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJouvilet Chilem<TD> Philippines</TD>
BạcTạ Thị Minh Nghĩa Việt Nam
ĐồngMarivone Phimsompttu Lào
ĐồngEliza Wati Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 60 kg nữ
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngMitchel Martinez<TD> Philippines</TD>
BạcRatree Kruake Thái Lan
ĐồngĐinh Thị Phương Thanh Việt Nam
ĐồngAgnes Datunsolung Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 45 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJuanito Magliquian Jr.<TD> Philippines</TD>
BạcZaw Myo Min Myanmar
ĐồngKeanuv Pangpayun Thái Lan
ĐồngSikham Vongphaoune Lào
</TABLE>
Hạng cân trên 48 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngHarry Tañamor<TD> Philippines</TD>
BạcKyan Shan Aung Myanmar
ĐồngRomando Butar-Butar Indonesia
ĐồngZamzadi Azizi Bin Mohammad Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 51 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSomjit Jongjohor<TD> Thái Lan</TD>
BạcTrần Quốc Việt Việt Nam
ĐồngDastena Moniaga Indonesia
ĐồngWarlito Parrenas Philippines
</TABLE>
Hạng cân trên 54 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngJoan Tipon<TD> Philippines</TD>
BạcTangtong Klongjian Thái Lan
ĐồngDadan Amanda Indonesia
ĐồngSayyalak Chatasone Lào
</TABLE>
Hạng cân trên 57 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngWorapoj Pethkum<TD> Thái Lan</TD>
BạcJoegin Ladon Philippines
ĐồngNguyễn Trung Kiên Việt Nam
ĐồngEddey Kalai Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 60 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngGenebert Basadre<TD> Philippines</TD>
BạcMiftah Rifai Lubis Indonesia
ĐồngĐỗ Đức Thành Việt Nam
ĐồngPaunandes Bin Paulus Malaysia
</TABLE>
Hạng cân trên 64 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngPechai Sayota<TD> Thái Lan</TD>
BạcRomeo Brin Philippines
ĐồngCao Văn Trường Việt Nam
ĐồngAung Thura Myanmar
</TABLE>
Hạng cân trên 69 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngNon Boomjumnong<TD> Thái Lan</TD>
BạcMark Jason Melligen Philippines
ĐồngMin Saiheng Campuchia
ĐồngToar Sompotan Indonesia
</TABLE>
Hạng cân trên 75 kg nam
<TABLE border="1" cellpadding="2" cellspacing="0">
Huy chươngVận động viênQuốc gia
VàngSuriya Prasathinphimai<TD> Thái Lan</TD>
BạcReynaldo Galido Philippines
ĐồngAth Samreth Campuchia
ĐồngBara Gommies Indonesia
</TABLE>
Chú thích |
Quận 5 là danh xưng đơn vị hành chính cấp quận của một số địa phương sau:
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Quận 5, Paris, Pháp.
Quận 5, Lyon, Pháp.
Quận 5, Marseille, Pháp.
Quận 5, Québec, Canada.
Quận 5, Roma, Ý. |
Thiền Lão (hay Thiền Nguyệt) là một trong ba vị Thiền sư thuộc thế hệ thứ 6 dòng Pháp của Thiền sư Vô Ngôn Thông. Sư tu chùa chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, Tiên Du.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở đầu Thiền Lão đến tham bái Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến Sơ, lãnh được tâm yếu rồi đến trác tích tại chùa Trùng Minh.
Gió thiền càng nổi, Phật tử càng đông làm cho chùa thêm thịnh vượng.
Vua Lý Thái Tông, khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), một sáng mùa xuân tìm vào núi viếng thăm Thiền sư Thiền Lão. Với 4 câu thơ, đáp lời hai câu hỏi của nhà vua, Thiền sư đã lưu lại cho những câu thơ tuyệt bích trong thi ca Thiền học về không gian và thời gian.
Khi vua hỏi: Hòa Thượng đến tu núi này được bao lâu rồi?, Thiền sư đáp:
但知今日月
誰識舊春秋
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu Xuân Thu
Dịch thơ:
Sống ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!
Vua lại hỏi tiếp: Như vậy hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì?
Thiền sư đáp:
翠竹黃花非外境
白雲明月露全真
Thúy trúc hoàng hoa
phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
Dịch thơ:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân'
Vua hỏi: Có ý chỉ gì?Sư đáp: Lắm lời không ích về sau.
Vua liền tỉnh ngộ.
Sau đó, khi vua sắp cho người rước Sư về triều làm cố vấn, thì Sư đã viên tịch. Vua rất buồn tiếc, làm thơ thương khóc, sai trung sứ ban nhiều lễ hậu, lập đàn trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp ở cửa núi, lại sửa sang rộng rãi chùa Sư, đặt môn đồ lo việc hương hỏa.
Nguyên bản chữ Hán
𠎣逰天福峰重明寺禪老禪師初參建初多寶領得心要尋就慈山卓錫禪風日震學者千数欎為叢林之盛通瑞年間李太宗常幸其寺問師云和尚住山來㡬時對曰
但知今日月誰識舊春秋
帝云日過作麽生事
對曰
翠竹黃花非外境
白雲明月露全真帝云有何意旨
對曰詞多無後益帝豁然有得將遣使迎師赴闕顧問而師先以㱕寂帝深悼惜御製詩哀挽勑中使厚齊贈禮結壇闍維收靈骨塔于山門又廣修其寺置徒以香火焉
Chú thíchThúy trúc hoàng hoa: Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải Bát nhã.
Căn cứ vào Thiền Uyển Tập Anh thì Thiền sư Thiền Lão viên tịch dưới thời Lý Thái Tông. Nhưng Truyện của Quảng Trí lại cho rằng: Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du.. Như vậy Thiền sư không thể viên tịch dưới triều Lý Thái Tông được, bởi Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của vua Lý Thánh Tông, mà vua Lý Thái Tông mất năm 1054. |
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa và được Thủ tướng chính phủ ký và xếp hạng 62 Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam
Lịch sử
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý do Lý Thánh Tông xây dựng nên
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..."
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sĩ).
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.
PGS Tống Trung Tín, Viện trưởng Viện Khảo cổ Việt Nam cho biết: "Theo tài liệu của trường Viễn đông Bác cổ Pháp để lại thì khoảng trước năm 1945, KTS nổi tiếng của Pháp là Louis Bezacier đã tiến hành trùng tu ngôi chùa Phật tích. Trước khi trùng tu, theo yêu cầu của viện Viễn đông bác cổ, ông đã tiến hành khai quật nền chùa, đã phát hiện ra nền của ngôi tháp thời Lý còn nằm nguyên vẹn dưới lòng chùa, cùng rất nhiều di vật tiêu biểu cho nghệ thuật xây chùa Phật Tích, cũng là nghệ thuật xây dựng đặc sắc thời Lý. Theo các tài liệu chúng tôi đọc được, ông đã nghiên cứu, đo vẽ rất cẩn thận, rồi giữ nguyên trạng di tích và lấp đi. Mọi hoạt động trùng tu chỉ diễn ra trên mặt đất nên không đụng gì đến lòng chùa nữa".
Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.
Kiến trúc
Nền móng
Nền móng chân tháp có hình vuông, với kích thước chân tháp 9,1m x 9,1m, tường tháp mỗi cạnh dày trung bình 2,4m, lòng tháp rộng 82,81 m2, chân tháp được xây bằng gạch thời Lý, kỹ thuật xây móng nền tháp có thể so sánh với các móng nền gạch kiến trúc Lý ở Hoàng thành Thăng Long. Những viên gạch xây tháp có đề chữ: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (Vua thứ ba đời Lý, năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 xây dựng) hoặc "Chương Thánh Gia Khánh".
Ba cấp nền chùa
Chùa được kiến trúc theo kiểu Nội công ngoại quốc (giống với lối kiến trúc tại chùa Vĩnh Nghiêm, một ngôi chùa nổi tiếng khác ở xứ Kinh Bắc), sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này nên có câu đối "Đệ nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu.
Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước.
Khu Bảo tháp
Sau sân nền có 32 ngọn tháp xây bằng gạch và đá là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì ở đây, phần lớn được dựng vào thế kỷ 17.
Ngọn tháp lớn nhất là Tháp Phổ Quang, cao 5,10 m gồm đế, khám thờ, hai tầng diềm và mái mui luyện với chóp tròn.
Điêu khắc đá
Nhiều tác phẩm điêu khắc thời nhà Lý còn được giữ tại chùa cho đến nay. Ngay ở bậc thềm thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn.
Quan trọng nhất là pho tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh đang ngồi thiền định trên tòa sen,bức tượng cao 1,86 m; thêm phần bệ thì đạt 2,69 m.. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá, một nét đặc trưng của mỹ thuật thời Lý.
Ở chùa còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê...trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ pháp, thần điểu, các nhạc công, vũ nữ v.v...
Văn học và văn hóa dân gian
Trong Ức Trai Thi Tập, Nguyễn Trãi có bài thơ vịnh cảnh chùa Phật Tích:
(Đào Duy Anh dịch)
Hàng năm vào ngày 4 tết Nguyên Đán, nhân dân Phật Tích thường mở hội truyền thống để tưởng nhớ công lao các vị tiền bối đã khai sinh và tu tạo chùa. Trong những ngày xuân tưng bừng ấy, khách thập phương về đây lễ Phật, hái hoa mẫu đơn, thưởng ngoạn cảnh đẹp vùng Kinh Bắc hoặc tham dự các trò chơi ngày hội như đấu vật, chơi cờ, đánh đu, hát quan họ...
Chùa Phật tích cũng là nơi được cho là địa điểm mà Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương trong một dịp đầu xuân khi mọi người nô nức xem hoa mẫu đơn.
Di cốt của sư tổ
Năm 1988, đã xảy ra một vụ trộm tại khu tháp này: Kẻ gian đã nạy cửa tháp Báo Nghiêm để kiếm vàng và đồ cổ. Chúng đã vứt ra một vại sành trong đó có chứa di cốt người và những mảnh bó cốt có cấu tạo giống như mảnh bồi của tượng nhà sư chùa Đậu.
Phó tiến sĩ Nguyễn Lân Cường cho biết: "Rất tiếc, vị sư trụ trì của chùa đã mất từ trước khi vụ trộm xảy ra cách đó 8 năm. Khi đến thôn Rao Mộc, cách chùa 15 km, chúng tôi gặp cụ Nguyễn Chí Triệu vốn là sư bác ở chùa 45 năm về trước. Theo lời cụ Triệu, trước đây, trong khán thờ có một pho tượng của sư tổ, chân xếp bằng tròn theo thế ngồi thiền, hai tay đặt trước bụng, lòng bàn tay ngửa."
Ngày nay, các nhà khoa học đã xác định đây là di cốt của thiền sư Chuyết Chuyết, đã viên tịch tại chùa Phật Tích.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tất cả 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi. Trong số này có đốt sống, xương đùi, xương chày, một phần xương hàm trên, đặc biệt có một xương hàm dưới, một phần xương trán cùng hốc mắt phải đính với hai mũi. Dựa vào các xương chi, các nhà khoa học tính toán chiều cao của nhà sư khoảng 1,6 m. Qua phân tích cấu tạo của khuyết hông và khớp mu, các nhà khoa học khẳng định đây là di hài của một nhà sư nam khoảng hơn 50 tuổi.
Khi nghiên cứu những mảnh bồi, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một đoạn dây đồng đã gỉ màu xanh. Điều này chứng tỏ: Sau khi cải táng, người ta lấy xương của nhà sư đã tịch, đem dựng khung tạo thành hình ngồi thiền, rồi mới bồi ra bên ngoài để tạo tượng. Điều này khác với kỹ thuật tạo tượng nhà sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu.
Với mong muốn phục nguyên di hài thiền sư ở chùa Phật Tích, nhóm các nhà khoa học do PTS Nguyễn Lân Cường chỉ đạo đã áp dụng phương pháp Guerasimov phục hồi mặt theo xương sọ.
Ngày 12 tháng 1 năm 1993, các nhà khoa học bắt tay tiến hành phục nguyên di hài. Trước hết, họ dựng tượng nhà sư bằng đất sét theo phương pháp Guerasimov; đổ khuôn thạch cao tạo các mảnh khuôn rồi gỡ các mảnh khuôn, phá tượng đất đi. Sau đó, họ bôi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa trộn sơn ta và gắn xương vào đúng vị trí. Để thành tượng, các nhà khoa học phá tiếp khuôn thạch cao, gỡ các mảnh bó cốt và gắn lại. Cuối cùng, họ đem thếp bạc rồi quang dầu lên tượng. Sau khi tượng được hoàn thành, tại khu vực này đã diễn ra lễ rước tượng về chùa Phật Tích với sự tham dự của hàng nghìn người dân. Đây là lần đầu tiên Việt Nam phục nguyên thành công một pho tượng theo phương pháp Guerasimov kết hợp với sơn ta cổ truyền của dân tộc.
Phá dỡ và phục dựng
Theo Vietnamnet, ngày 23 tháng 11 năm 2008 khi các đoàn khảo cổ học quốc tế về Hoàng thành Thăng Long, gồm các chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Bỉ do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức đến tham quan nghiên cứu chùa Phật Tích, thì chứng kiến một thực trạng tan hoang tại nơi đây. Nền chùa cổ đã bị đào phá bằng máy xúc và đang xây mới, các hiện vật quý bị vứt ngổn ngang khắp nơi.
Hiện nay, rất nhiều tượng Phật cổ tại chùa đã được chuyển đến bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Khai quang Phật ngọc
Tối 16 tháng 5 năm 2009, tượng Phật ngọc được làm từ khối ngọc thạch 18 tấn. Nhân dân địa phương và một số tỉnh xa cùng về chiêm bái. Sân khấu nơi đặt tượng đã được hoàn tất và sẵn sàng cho đại lễ diễn ra vào buổi tối. 800 ghế cho các đại biểu đã được ban tổ chức bố trí trong khuôn viên chùa ngay phía trước bức tượng Phật Ngọc
Di vật
Hình ảnh một số tượng Phật cổ và hiện vật tại chùa đang được bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Lễ hội
Lễ hội chùa Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh diễn ra hàng năm sau dịp Tết Nguyên Đán với ngày hội chính vào ngày mùng 4 tháng Giêng. |
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "thần mây"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, "thần mưa"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "thần sấm"), chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電寺 "thần chớp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.
Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Truyền thuyết / Sự tích
Truyền thuyết Mạc Đinh Chi
Mạc Đinh Chi là người hết lòng yêu thương mẹ nhưng mẹ ông bị bắt giam. Khi các quan phủ yêu cầu xây một ngôi chùa tháp chín tầng, cầu chín nhịp, chùa trăm gian, ông đã làm ngay bằng vàng mã. Cuối cùng mẹ ông được thả, ăn mừng ông đã xây dựng chùa như nay.
Truyền thuyết Man Nương
Man Nương hay nàng Mèn là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.
Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.
Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích (gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.
Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).
Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
Các cao tăng liên quan
Trụ trì:
Tì-ni-đa-lưu-chi
Chi Cương Lương
Khương Tăng Hội
Pháp Hiền
Thiền Sư Sùng Phạm 1004 - 1087
Sư Tính Mộ (1706 - 1775)
Sư Tuyên Chiếu ? 1793?
Lễ hội
Lễ hội chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi thức và các trò chơi dân gian.
Hình ảnh
Chú ý: hãy nháy chuột vào các ảnh để xem ảnh cỡ lớn và rõ trong Wikimedia commons. |
Sự kiện 11 tháng 9, còn được gọi là Cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 hay đơn giản là 11/9 (; thường được gọi là 9/11), là một loạt bốn cuộc tấn công khủng bố có sự tham gia của nhóm khủng bố Hồi giáo Al-Qaeda nhằm chống lại Hoa Kỳ diễn ra vào sáng thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Vào sáng thứ Ba ngày 11 tháng 9 năm 2001, bốn máy bay thương mại từ Đông Bắc Hoa Kỳ được lên kế hoạch hạ cánh xuống California. Khi những chiếc máy bay này đang trong lộ trình bay, chúng đã bị cướp bởi 19 tên khủng bố al-Qaeda. Hai trong số đó, chuyến bay 11 của American Airlines và chuyến bay 175 của United Airlines, lần lượt đâm vào tòa tháp Bắc và Nam của khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới ở Lower Manhattan. Trong vòng 1 giờ 42 phút, cả hai tòa tháp 110 tầng đều sụp đổ. Sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới đã mở đầu cho sự sụp đổ của cấu trúc các tòa Trung tâm Thương mại Thế giới khác bao gồm Trung tâm Thương mại Thế giới số 7 và làm hư hại đáng kể những tòa nhà xung quanh. Chuyến bay thứ ba, chuyến bay 77 của American Airlines, khởi hành từ Sân bay Quốc tế Dulles đã bị cướp khi bay qua Ohio. Lúc 9:37 sáng, chuyến bay 77 đã đâm vào phía tây Lầu Năm Góc (trụ sở của quân đội Mỹ) ở quận Arlington, Virginia, làm sụp đổ một phần. Chuyến bay thứ tư và cũng là cuối cùng, chuyến bay 93 của United Airlines, ban đầu bay về hướng Washington, D.C. nhưng đã rơi xuống một cánh đồng ở Xã Stonycreek, Pennsylvania, gần Shanksville, lúc 10:03 sáng, sau cuộc giằng co giữa hành khách và không tặc. Các nhà điều tra xác định rằng mục tiêu của chuyến bay 93 là Điện Capitol hoặc Nhà Trắng.
Ngay sau khi các cuộc tấn công xảy ra, mọi mối nghi ngờ nhanh chóng đổ dồn về phía al-Qaeda. Hoa Kỳ chính thức đáp trả bằng việc phát động Cuộc chiến chống khủng bố và đưa quân vào Afghanistan nhằm hạ bệ Taliban, vốn không tuân theo yêu cầu của Mỹ về việc trục xuất Al-Qaeda ra khỏi Afghanistan và dẫn độ thủ lĩnh Osama bin Laden. Nhiều quốc gia đã tăng cường ban hành các pháp lệnh chống khủng bố, mở rộng quyền hạn của những cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan tình báo để ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố. Mặc dù ban đầu bin Laden phủ nhận bất kỳ sự liên quan nào, nhưng vào năm 2004, ông chính thức thừa nhận trách nhiệm về các vụ tấn công. Al-Qaeda và bin Laden cho rằng sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Israel, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Ả Rập Xê-út và các biện pháp trừng phạt nhằm vào Iraq là nguyên do chính. Sau khi sống ẩn dật trong gần một thập kỷ, bin Laden bị ám sát trong một cuộc đột kích của quân đội Mỹ ở Pakistan vào năm 2011.
Việc Trung tâm Thương mại Thế giới và cơ sở hạ tầng lân cận bị phá hủy đã làm tổn thất nghiêm trọng đến nền kinh tế của thành phố New York và gây ra một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Không phận dân sự của Hoa Kỳ và Canada đã phải đóng cửa cho đến ngày 13 tháng 9, trong khi phiên giao dịch trên Phố Wall bị ngừng trệ cho đến ngày 17 tháng 9. Nhiều nơi đóng cửa, sơ tán và dỡ bỏ diễn ra sau đó nhằm bày tỏ sự thương tiếc hoặc lo ngại về các cuộc tấn công tiếp theo. Việc dọn dẹp khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới được hoàn thành vào tháng 5 năm 2002 và Lầu Năm Góc đã được sửa chữa lại trong vòng một năm. Các cuộc tấn công đã khiến 2.977 người thiệt mạng, hơn 25.000 người bị thương và hậu quả sức khỏe kéo dài, cùng với thiệt hại về cơ sở hạ tầng và tài sản ít nhất 10 tỷ USD. Đây vẫn là vụ tấn công khủng bố đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại và là vụ việc gây chết chóc nhất đối với lính cứu hỏa và nhân viên thực thi pháp luật trong lịch sử Hoa Kỳ, với 340 và 72 người thiệt mạng. Việc xây dựng Trung tâm Thương mại Thế giới số Một bắt đầu vào tháng 11 năm 2006 và tòa nhà mở cửa vào tháng 11 năm 2014. Nhiều đài tưởng niệm đã được xây dựng, bao gồm Đài tưởng niệm & Bảo tàng Quốc gia ngày 11 tháng 9 ở Thành phố New York, Đài tưởng niệm Lầu Năm Góc ở Quận Arlington, Virginia và Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 tại hiện trường vụ tai nạn ở Pennsylvania.
Bối cảnh
Al Qaeda
Nguồn gốc của Al-Qaeda có thể được bắt nguồn từ năm 1979 khi Liên Xô xâm chiếm Afghanistan. Osama bin Laden đã tới Afghanistan và lãnh đạo các nhóm vũ trang người Ả Rập mujahideen để chống lại chính quyền cộng sản Afghanistan và Liên Xô. Dưới sự hướng dẫn của Ayman al-Zawahiri, bin Laden trở nên cấp tiến hơn. Năm 1996, bin Laden đã đưa ra fatwā đầu tiên của mình, kêu gọi lính Mỹ rút khỏi Ả Rập Saudi.
Trong một fatwā thứ hai vào năm 1998, bin Laden đã bày tỏ sự phản đối của y về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Israel, cũng như sự hiện diện liên tục của quân đội Mỹ ở Ả Rập Saudi sau Chiến tranh vùng Vịnh. Bin Laden đã sử dụng các kinh sách của Hồi giáo để khuyến khích người Hồi giáo tấn công Mỹ cho đến khi những bất bình đã nêu được đảo ngược. Các học giả pháp lý Hồi giáo "trong suốt lịch sử Hồi giáo, có sự đồng ý nhất trí rằng thánh chiến là nghĩa vụ cá nhân nếu kẻ thù rắp tâm phá hủy các quốc gia Hồi giáo", theo bin Laden.
Osama bin Laden
Bin Laden đã dàn dựng các cuộc tấn công và ban đầu phủ nhận sự liên quan nhưng sau đó đã rút lại những tuyên bố không liên can của mình. Al Jazeera đã phát đi một tuyên bố của bin Laden vào ngày 16 tháng 9 năm 2001, nói rằng: "Tôi nhấn mạnh rằng tôi đã không thực hiện hành động này, mà dường như nó được các cá nhân với động lực riêng của họ thực hiện." Vào tháng 11 năm 2001, các lực lượng Hoa Kỳ đã phục hồi một cuốn băng video từ một ngôi nhà bị phá hủy ở Jalalabad, Afghanistan. Trong video, bin Laden được nhìn thấy đang nói chuyện với Khaled al-Harbi và thừa nhận sự biết trước về các cuộc tấn công. Vào ngày 27 tháng 12 năm 2001, một video bin Laden thứ hai đã được phát hành. Trong video, bin Laden nói:
nhưng ông ta đã không thừa nhận trách nhiệm cho các cuộc tấn công. Lời nói đề cập nhiều lần đến Hoa Kỳ đặc biệt nhắm mục tiêu đến người Hồi giáo.
Khalid Sheikh Mohammed
Nhà báo Yosri Fouda của kênh truyền hình Ả Rập Al Jazeeral đưa tin rằng vào tháng 4 năm 2002, Khalid Sheikh Mohammed thừa nhận có liên quan đến các vụ tấn công, cùng với Ramzi bin al-Shibh. Báo cáo của Ủy ban 9/11 xác định rằng sự thù địch đối với Hoa Kỳ mà Mohammed, kiến trúc sư chính của vụ tấn công 11/9, xuất phát từ "sự bất đồng bạo lực với chính sách đối ngoại của Mỹ ủng hộ Israel". Mohammed cũng là một cố vấn và tài chính của vụ đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993 và là chú của Ramzi Yousef, kẻ đánh bom chính trong vụ tấn công đó.
Mohammed bị bắt vào ngày 1 tháng 3 năm 2003, tại Rawalpindi, Pakistan, bởi các quan chức an ninh Pakistan làm việc với CIA. Sau đó Mohammed bị giam giữ tại nhiều nhà tù bí mật của CIA và Vịnh Guantanamo, nơi anh ta bị thẩm vấn và tra tấn bằng các phương pháp bao gồm cả trấn nước. Trong các phiên điều trần của Hoa Kỳ tại Vịnh Guantanamo vào tháng 3 năm 2007, Mohammed một lần nữa thú nhận trách nhiệm của mình đối với các cuộc tấn công, nói rằng mình "chịu trách nhiệm cho chiến dịch 9/11 từ A đến Z" và tuyên bố của anh ta không phải do sự cưỡng bức.
Một lá thư được các luật sư của Khaleds Sheikh Mohammed đưa ra tại Tòa án quận Hoa Kỳ, Manhattan vào ngày 26 tháng 7 năm 2019, chỉ ra rằng thủ phạm bị cáo buộc quan tâm đến việc làm chứng chống lại vai trò của Ả Rập Saudi trong vụ tấn công 9/11 và giúp đỡ các nạn nhân và gia đình của nạn nhân ngày 9/11. Tuy nhiên, theo như bức thư, thỏa thuận của Mohammed cũng giống như nói là trong thời gian hiện tại, không có gì chắc chắn. James Kreindler, một trong những luật sư của nguyên đơn cũng đưa ra câu hỏi về sự hữu ích của Mohammed.
Tấn công
Sáng sớm ngày 11 tháng 9 năm 2001, 19 không tặc cướp quyền kiểm soát bốn chiếc máy bay dân dụng thương mại (hai chiếc Boeing 757 và hai chiếc Boeing 767) trên đường tới California (ba chiếc tới LAX tại Los Angeles, và một chiếc tới SFO tại San Francisco) sau khi cất cánh từ Sân bay quốc tế Logan tại Boston (Massachusetts); Sân bay quốc tế Newark Liberty tại Newark, New Jersey và Sân bay quốc tế Washington Dulles tại các quận Loudoun và Fairfax ở Virginia. Các không tặc chọn các máy bay lớn có đường bay dài vì chúng sẽ được nạp đầy nhiên liệu.
Bốn chuyến bay bao gồm:
Chuyến bay 11 của American Airlines: một chiếc máy bay Boeing 767, rời Sân bay Logan vào lúc 7:59 sáng trên đường tới Los Angeles với 11 thành viên phi hành đoàn và 76 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Thành phố New York lúc 8:46 sáng.
Chuyến bay 175 của United Airlines: một chiếc máy bay Boeing 767, rời Sân bay Logan vào lúc 8:14 sáng trên đường tới Los Angeles với 9 thành viên phi hành đoàn và 51 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào Tháp Nam của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Thành phố New York lúc 9:03 sáng.
Chuyến bay 77 của American Airlines: một chiếc máy bay Boeing 757, rời Sân bay quốc tế Washington Dulles vào lúc 8:20 sáng trên đường tới Los Angeles với 6 thành viên phi hành đoàn và 53 hành khách, chưa bao gồm 5 không tặc. Các không tặc lái chiếc máy bay đâm vào Lầu Năm Góc tại Quận Arlington, Virginia, lúc 9:37 sáng.
Chuyến bay 93 của United Airlines: một chiếc máy bay Boeing 757, rời Sân bay quốc tế Newark vào lúc 8:42 sáng trên đường tới San Francisco, với 7 thành viên phi hành đoàn và 33 hành khách, chưa bao gồm 4 không tặc. Sau khi các hành khách cố gắng khống chế các không tặc, chiếc máy bay đâm vào một cánh đồng tại Xã Stonycreek gần Shanksville, Pennsylvania, lúc 10:03 sáng.
Truyền thông đưa tin trong suốt và sau vụ tấn công, bắt đầu không lâu sau vụ đâm máy bay đầu tiên vào Trung tâm Thương mại Thế giới.
Diễn biến
Vào lúc 8:46 sáng, năm không tặc lái Chuyến bay 11 của American Airlines đâm vào mặt phía bắc của Tháp Bắc Trung tâm Thương mại Thế giới (1 WTC), vào lúc 9:03 sáng, năm không tặc khác lái Chuyến bay 175 của United Airlines đâm vào mặt phía nam của Tháp Nam (2 WTC). Năm không tặc lái Chuyến bay 77 của American Airlines đâm vào Lầu Năm Góc vào lúc 9:37 sáng. Một chuyến bay thứ tư, Chuyến bay 93 của United Airlines, bị kiểm soát bởi bốn không tặc, bị đâm xuống gần Shanksville, Pennsylvania, đông nam Pittsburgh, vào lúc 10:03 sáng, sau khi các hành khách chống lại các không tặc. Mục tiêu của Chuyến bay 93 được tin có thể là Điện Capitol hoặc Nhà Trắng. Dữ liệu thu âm buồng lái của Chuyến bay 93 tiết lộ rằng phi hành đoàn và hành khách đã cố đoạt lại quyền kiểm soát máy bay từ các không tặc sau khi biết được qua điện thoại rằng các Chuyến bay 11, 77, và 175 đã đâm vào các tòa nhà sáng hôm đó. Sau khi nhận thấy các hành khách có khả năng chiếm đoạt lại chiếc máy bay, các không tặc đã lộn vòng máy bay và cố tình đâm nó.
Một số hành khách và thành viên phi hành đoàn gọi điện từ máy bay bằng dịch vụ điện thoại trong cabin cung cấp các chi tiết: một vài không tặc đã lên máy bay trên mỗi chuyến bay; họ sử dụng hóa chất xịt mace, hơi cay, hay bình xịt cay để vượt qua các tiếp viên; và một số người trên máy bay đã bị đâm. Các báo cáo cho thấy các không tặc đã đâm và giết chết các phi công, tiếp viên, cùng với một hoặc một vài hành khách. Theo báo cáo cuối cùng của Ủy ban 9/11, các không tặc trước đó đã mua các công cụ bằng tay đa chức năng và các loại dao tiện ích loại Leatherman với lưỡi dao khóa, lúc đó không bị cấm mang lên máy bay, nhưng sau đó được tìm thấy trong số đồ dùng của các không tặc bị bỏ lại. Một tiếp viên trên Chuyến bay 11, một hành khách trên Chuyến bay 175, và các hành khách trên Chuyến bay 93 nói rằng các không tặc có bom, nhưng một trong số hành khách nói rằng anh ta nghĩ những quả bom là giả. FBI không tìm thấy dấu vết của các chất nổ tại khu vực tai nạn, và Ủy ban 9/11 kết luận rằng những quả bom có thể là giả.
Ba tòa nhà của Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ do đám cháy đã làm kết cấu bị yếu đi. Tòa Tháp Nam sụp đổ lúc 9:59 sáng sau khi bốc cháy trong vòng 56 phút gây ra bởi vụ va chạm với Chuyến bay 175 của United Airlines và nhiên liệu của chiếc máy bay phát nổ. Tòa Tháp Bắc sụp đổ lúc 10:28 sáng sau khi bốc cháy trong vòng 102 phút. Khi Tháp Bắc sụp đổ, các mảnh vụn đã rơi xuống tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới số 7 gần đó (7 WTC), làm hư hại nó và gây cháy. Các đám cháy này diễn ra nhiều giờ, làm tổn hại tới cấu trúc nguyên vẹn của tòa nhà, và 7 WTC sụp đổ lúc 5:21 chiều. Mặt phía tây của Lầu Năm Góc phải chịu thiệt hại đáng kể.
Vào lúc 9:42 sáng, Cơ quan Hàng không Liên bang (FAA) ra lệnh cấm tất cả máy bay dân dụng tại Hoa Kỳ lục địa, và các máy bay dân dụng đã cất cánh được yêu cầu hạ cánh ngay lập tức. Tất cả các chuyến bay dân dụng quốc tế hoặc phải quay lại hoặc phải đổi hướng sang các sân bay tại Canada hoặc México, và bị cấm hạ cánh xuống lãnh thổ Hoa Kỳ trong ba ngày. Vụ tấn công gây ra sự lúng túng lớn giữa các hãng tin tức và các đài kiểm soát không lưu. Trong số các báo cáo tin tức chưa được xác nhận và thường mâu thuẫn được đưa trong suốt cả ngày, phổ biến nhất là tin một chiếc xe chứa bom đã được kích nổ tại trụ sở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Washington, D.C. Một chiếc máy bay khác—Chuyến bay 1989 của Delta Air Lines—bị nghi ngờ đã bị không tặc, nhưng chiếc máy bay đã phản hồi lại đài kiểm soát không lưu và hạ cánh an toàn tại Cleveland, Ohio.
Trong một buổi phỏng vấn tháng 4 năm 2002, Khalid Sheikh Mohammed và Ramzi bin al-Shibh, những người được tin là đã tổ chức vụ tấn công, nói rằng mục tiêu ban đầu của Chuyến bay 93 là Điện Capitol Hoa Kỳ, chứ không phải Nhà Trắng. Trong quá trình lên kế hoạch vụ tấn công, Mohamed Atta, không tặc và là người lái của Chuyến bay 11, nghĩ rằng Nhà Trắng có lẽ là một mục tiêu quá khó khăn và đã tham khảo ý kiến từ Hani Hanjour (người đã cướp và lái Chuyến bay 77). Mohammed nói al-Qaeda ban đầu định nhằm vào các cơ sở hạt nhân hơn là Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc, nhưng đã quyết định không chọn nó, do lo sợ rằng mọi chuyện có thể "vượt tầm kiểm soát". Các quyết định cuối cùng về mục tiêu, theo Mohammed, được giao trong tay những người lái máy bay.
Thương vong
Vụ tấn công khiến cho 2.996 người thiệt mạng và hơn 6.000 người khác bị thương. Con số thiệt mạng bao gồm 265 người trên bốn chiếc máy bay (không còn ai trên những chiếc máy bay này sống sót), 2.606 người trong Trung tâm Thương mại Thế giới và khu vực xung quanh, và 125 người tại Lầu Năm Góc. Gần như tất cả những người thiệt mạng là dân thường ngoại trừ 343 lính cứu hỏa, 72 sĩ quan hành pháp, 55 sĩ quan quân sự, và 19 tên khủng bố cũng đã thiệt mạng trong vụ tấn công. Sau New York, New Jersey là tiểu bang mất nhiều công dân nhất, trong đó thành phố Hoboken có nhiều công dân thiệt mạng nhất trong vụ tấn công. Hơn 90 quốc gia có công dân bị thiệt mạng trong vụ tấn công 11 tháng 9. Vụ tấn công 11 tháng 9 năm 2001 đã trở thành vụ tấn công khủng bố tồi tệ nhất lịch sử thế giới và vụ tấn công từ nước ngoài chết người nhất trên đất Mỹ kể từ vụ tấn công vào Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941.
Tại Quận Arlington, Virginia, 125 nhân viên Lầu Năm Góc mất mạng khi Chuyến bay 77 đâm vào mặt phía tây của tòa nhà. Trong đó, 70 người là dân thường và 55 người là sĩ quan quân sự, nhiều người trong số làm việc cho Quân đội Hoa Kỳ hoặc Hải quân Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đã mất 47 nhân viên dân sự, 6 nhân viên thầu dân sự, và 22 binh lính, trong khi Hải quân mất 6 nhân viên dân sự, 3 nhân viên thầu dân sự và 33 thủy thủ. Bảy nhân viên dân sự của Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA) cũng nằm trong số người thiệt mạng trong vụ tấn công, cùng với một nhân viên thầu của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (OSD). Trung tướng Timothy Maude, một Phó Chánh văn phòng Quân đội, là sĩ quan quân đội có cấp bậc cao nhất thiệt mạng tại Lầu Năm Góc.
Tại Thành phố New York, hơn 90% nhân viên và du khách thiệt mạng trong hai tòa tháp đang làm việc và tham quan tại các tầng bị va chạm hoặc cao hơn. Tại Tòa tháp Bắc, 1.355 người đang ở phía trên hoặc ngay vùng va chạm hoặc là đã chết do ngạt khói, hoặc đã ngã hay nhảy khỏi tòa nhà để tránh khói và lửa, hoặc đã chết khi tòa nhà đổ sập. Sự va chạm mạnh của Chuyến bay 11 đã làm hư hỏng tất cả ba cầu thang bộ, khiến bất cứ ai ở phía trên vùng va chạm không thể thoát ra. 107 người phía dưới đó cũng đã thiệt mạng.
Tại Tòa tháp Nam, một cầu thang bộ, Cầu thang A, còn sử dụng được sau khi Chuyến bay 175 đâm vào, giúp 14 người tại tầng va chạm (gồm cả một người đàn ông đã chứng kiến chiếc máy bay bay tới chỗ ông) và bốn người nữa phía trên thoát ra ngoài. Các nhân viên điều phối tổng đài 911 của Thành phố New York nhận được các cuộc gọi của những người bên trong tòa tháp đã không nắm bắt được chính xác thông tin tình hình đang diễn ra, nên họ đã khuyên những người gọi điện không nên tự thoát ra khỏi tòa tháp. Trong tống cộng 630 người thiệt mạng trong hai tòa tháp, gần một nửa là từ Tòa tháp Bắc. Số thương vong tại Tòa tháp Nam được giảm đi đáng kể do trước đó nhiều người đã sơ tán khi Tòa tháp Bắc bị va chạm.
Ít nhất 200 người đã thiệt mạng do nhảy hoặc rơi xuống khỏi tòa tháp (một ví dụ nổi bật là bức ảnh The Falling Man), rơi xuống đường phố và nóc các tòa nhà lân cận hàng chục tới hàng trăm mét bên dưới. Một số người ở phía trên vùng va chạm đã lên tới được nóc để xin cứu trợ qua trực thăng, nhưng cửa để lên nóc đã bị khóa. Không hề có một kế hoạch giải cứu trực thăng nào được đề ra, và các trực thăng cũng không thể tiếp cận tòa nhà do thiếu dụng cụ trên nóc, khói dày đặc và nhiệt độ cao do lửa.
Tổng cộng 411 nhân viên cứu hộ đã thiệt mạng khi cố gắng giải cứu người mắc kẹt và dập lửa. Sở Cứu hỏa Thành phố New York (FDNY) đã mất 343 lính cứu hỏa, bao gồm một tuyên úy và hai nhân viên y tế. Sở Cảnh sát Thành phố New York (NYPD) cũng mất 23 sĩ quan. Sở Cảnh sát Quản lý Cảng (PAPD) mất 37 sĩ quan. Tám kỹ thuật viên y tế khẩn cấp (EMT) và nhân viên y tế từ các đơn vị dịch vụ y tế khẩn cấp tư nhân cũng đã thiệt mạng.
Cantor Fitzgerald L.P., một ngân hàng đầu tư có trụ sở làm việc trên các tầng 101–105 của Tòa tháp Bắc, đã mất 658 nhân viên, nhiều hơn đáng kể so với bất kỳ công ty nào khác. Marsh Inc., nằm ngay dưới Cantor Fitzgerald trên các tầng 93–100, mất 358 nhân viên, và 175 nhân viên của Aon Corporation cũng đã thiệt mạng. Viện Tiêu chuẩn và Kỹ thuật quốc gia (NIST) ước tính khoảng 17.400 dân thường đang ở trong khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới vào thời điểm tấn công. Số lượng đếm được từ cửa xoay của Quản lý Cảng cho thấy 14.154 người đang ở trong Tòa Tháp Đôi cho tới 8:45 sáng. Hầu hết những người phía bên dưới vùng va chạm đã rời khỏi tòa nhà an toàn.
Vài tuần sau vụ tấn công, con số thiệt mạng được ước tính sẽ vượt quá 6.000, nhiều hơn gấp đôi số lượng người chết được xác nhận sau đó. Thành phố chỉ nhận dạng được thi thể của khoảng 1.600 nạn nhân Trung tâm Thương mại Thế giới. Văn phòng pháp y đã thu thập được "khoảng 10.000 mẩu xương và các phần mô chưa thể xác nhận là phù hợp với danh sách tử vong". Các mẩu xương vẫn còn được tìm thấy sau đó vào năm 2006 khi các công nhân đang chuẩn bị phá hủy Tòa nhà Deutsche Bank bị hư hại. Vào năm 2010, một nhóm các nhà nhân chủng học và nhà khảo cổ học đã tìm kiếm các thi thể và vật dụng cá nhân tại Bãi thải Fresh Kills, nơi mà thêm 72 phần thi thể nữa được khôi phục, đưa tổng số thi thể được tìm thấy lên 1.845. Quá trình giám định DNA vẫn được tiếp tục để nhận dạng thêm các nạn nhân. Các thi thể đang được lưu trữ tại Công viên Tưởng niệm, bên ngoài văn phòng Pháp y Thành phố New York. Các thi thể được dự kiến sẽ được di chuyển vào năm 2013 tới một kho chứa đằng sau một bức tường tại bảo tàng 11/9. Vào tháng 7 năm 2011, một nhóm các nhà khoa học tại Văn phòng Trưởng Pháp y vẫn đang cố gắng nhận dạng các thi thể, hi vọng rằng các công nghệ cải tiến sẽ giúp họ nhận dạng các nạn nhân khác. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2015, nạn nhân thứ 1.640 được nhận dạng. Hiện vẫn còn 1.113 nạn nhân khác chưa được nhận dạng.
Thiệt hại
Cùng với hai Tòa Tháp Đôi 110 tầng, nhiều tòa nhà khác tại khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới cũng bị phá hủy hoặc hư hại nặng, bao gồm các tòa nhà WTC từ số 3 tới 7 và Nhà thờ Hy Lạp Chính thống St. Nicholas. Tòa tháp Bắc, Tòa tháp Nam Khách sạn Marriott (3 WTC), và 7 WTC bị phá hủy hoàn toàn. Nhà Hải quan Hoa Kỳ (Trung tâm Thương mại Thế giới số 6), Trung tâm Thương mại Thế giới số 4, Trung tâm Thương mại Thế giới số 5, cùng với hai cầu đi bộ nối các tòa nhà bị hư hại nặng nề. Tòa nhà Deutsche Bank ở số 130 Phố Liberty bị hư hại một phần và bị cho tháo dỡ vài năm sau đó, bắt đầu từ năm 2007. Hai tòa nhà của Trung tâm Tài chính Thế giới cũng bị hư hại.
Tòa nhà Deutsche Bank trên Phố Liberty phía đối diện khu phức hợp Trung tâm Thương mại Thế giới sau đó được coi là khu vực không thể sinh sống do khí độc bên trong tòa nhà, và đã được tháo dỡ. Hội trường Fiterman của trường Cao đẳng Cộng đồng Quận Manhattan tại số 30 Phố West Broadway cũng bị phong tỏa do hư hại sau vụ tấn công, và hiện đang được xây lại. Các tòa nhà xung quanh khác (bao gồm 90 West Street và Tòa nhà Verizon) cũng bị hư hại lớn nhưng đã được sửa chữa. Các tòa nhà Trung tâm Tài chính Thế giới, One Liberty Plaza, Millenium Hilton, và 90 Church Street chịu hư hại không lớn và cũng đã được sửa chữa. Các thiết bị liên lạc trên Tòa tháp Bắc cũng bị phá hủy, nhưng các đài truyền thông đã nhanh chóng chuyển tín hiệu sang các tuyến khác và phát sóng trở lại.
Lầu Năm Góc bị thiệt hại nặng nề do va chạm với Chuyến bay 77 của American Airlines và đám cháy sau đó, khiến một đoạn của tòa nhà sụp đổ. Khi đâm vào Lầu Năm Góc, cánh của máy bay đã làm đổ nhiều cột đèn và động cơ phải của nó đã đâm vào một máy phát điện trước khi đâm vào cạnh tây của tòa nhà. Phần trên của thân máy bay đã bị nghiền nát khi va chạm, trong khi phần giữa và đuôi tiếp tục di chuyển thêm vài phần giây nữa. Mảnh vỡ từ phần đuôi đã thâm nhập sâu nhất vào tòa nhà, xuyên qua của ba trong số năm vòng của tòa nhà.
Nỗ lực cứu hộ
Sở Cứu hỏa Thành phố New York đã huy động 200 đơn vị (hơn một nửa tổng số) tới Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ được trợ giúp thêm bởi nhiều lính cứu hỏa khác không có nhiệm vụ và các kỹ thuật viên y tế khẩn cấp. Sở Cảnh sát Thành phố New York đã cử Đơn vị Dịch vụ Khẩn cấp và các sĩ quan cảnh sát khác, cùng với đơn vị hàng không của Sở. Khi tới hiện trường, FDNY, NYPD, và PAPD đã không phối hợp mà thực hiện nhiều đợt tìm kiếm người dân đầy chậm chạp. Khi tình hình trở nên xấu đi, đơn vị hàng không của NYPD đã truyền các thông tin cho các chỉ huy cảnh sát, những người đã ra lệnh các sĩ quan sơ tán khỏi hai tòa nhà; hầu hết các sĩ quan NYPD đã rời khỏi hai tòa nhà an toàn trước khi sập. Với nhiều lệnh khác nhau được đưa ra cùng với liên lạc radio không tương thích giữa các cơ quan, các cảnh báo đã không tới được các chỉ huy FDNY.
Sau khi tòa tháp thứ nhất sụp đổ, các chỉ huy FDNY đã ra lệnh sơ tán; tuy nhiên, do khó khăn về kỹ thuật với hệ thống tiếp sóng radio đã bị hư hại, nhiều lính cứu hỏa không thể nghe thấy lệnh sơ tán. Các điều phối viên 9-1-1 nhận được thông tin từ người gọi đã không thể đưa được chúng tới những người chỉ huy tại hiện trường. Sau vụ tấn công vài giờ, một chiến dịch tìm kiếm và giải cứu lớn được bắt đầu. Sau vài tháng làm việc liên tục, khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới được dọn sạch vào cuối tháng 5 năm 2002.
Tác động
Chính phủ Hoa Kỳ qui trách nhiệm cho tổ chức khủng bố al-Qaeda về vụ tấn công 11/9. Tổ chức này từng nhận đã tấn công các mục tiêu quân sự và dân chính của Hoa Kỳ tại châu Phi và Trung Đông. Osama bin Laden, bác bỏ mọi dính líu cũng không nhận mình đã biết trước cuộc tấn công. Trước đó, bin Laden đã tuyên bố thánh chiến chống lại Hoa Kỳ. Sau thảm hoạ này, chính phủ Hoa Kỳ công bố al-Qaeda và bin Laden là thủ phạm chính.
Tháng 11 năm 2001, lực lượng Hoa Kỳ cho phục hồi một băng video tìm thấy trong một căn nhà bị phá huỷ tại Jalalabad, Afghanistan, cuộn băng cho thấy Osama bin Laden đang nói chuyện với Khaled al-Harbi. Trong cuộn băng, bin Laden thừa nhận đã lập kế hoạch cho cuộc tấn công. Trong thế giới Hồi giáo, người ta tỏ vẻ hoài nghi về tính xác thực của cuộn băng này: "Phóng viên tại Trung Đông của đài BBC, Frank Gardner, nói rằng trên đường phố trong thế giới Ả Rập, nhiều người tin rằng đây chỉ là một thủ thuật tuyên truyền của chính phủ Mỹ". Cuốn băng được phát sóng trên nhiều mạng tin tức khác nhau trong tháng 12 năm 2001.
Ngày 16 tháng 9 năm 2001, Osama bin Laden đáp trả bằng cách đọc một bản tuyên bố, "Tôi nhấn mạnh rằng tôi không tiến hành điều này, nó được thực hiện bởi các cá nhân với mục tiêu riêng của họ". Bản tuyên bố được phát sóng trên kênh vệ tinh Al Jazeera của Qatar, cũng được phát sóng trên mạng lưới tin tức của Hoa Kỳ và thế giới. Phản ứng thứ hai của bin Laden xuất hiện vào ngày 28 tháng 11 trên Daily Ummat, một tờ nhật báo của Pakistan, "Tôi đã nói rằng tôi không dính líu đến các cuộc tấn công 11 tháng 9 tại Mỹ. Là một người Hồi giáo, tôi cố làm hết sức mình để khỏi phải nói dối. Tôi không biết gì về vụ tấn công, cũng không hề xem việc tàn sát phụ nữ và trẻ em vô tội, cùng những nhân mạng khác là một hành động thích đáng. Hồi giáo nghiêm cấm việc gây tổn hại cho phụ nữ, trẻ em vô tội và những người khác. Một hành vi như thế bị cấm đoán ngay cả khi đang ở trong thời chiến".
Tuy nhiên, không lâu sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, trong một thông báo ghi âm sẵn, bin Laden công khai thừa nhận sự dính líu của al-Qaeda vào vụ tấn công, và nhận có quan hệ trực tiếp với vụ tấn công. Ông ta nói rằng cuộc tấn công được thực hiện bởi vì "chúng tôi là một dân tộc tự do không chịu chấp nhận bất công, và chúng tôi muốn giành lại tự do cho dân tộc chúng tôi".
Ngày 27 tháng 9 năm 2001, FBI thông báo hình ảnh của 19 không tặc, cùng các thông tin liên quan đến quốc tịch và bí danh của nhiều nghi can. Mười lăm không tặc đến từ Ả Rập Xê Út, hai từ Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, một từ Ai Cập, và một từ Liban. Khác với nhân thân thường thấy của những kẻ đánh bom cảm tử, họ đều là những người trưởng thành và có học thức.
Theo kết luận của Ủy ban 9/11 trong bản tường trình ngày 22 tháng 6 năm 2004, cuộc tấn công được lập kế hoạch và tiến hành bởi các đặc vụ của al-Qaeda. Ủy ban cho rằng al-Qaeda chi một khoản tiền từ 400.000 USD – 500.000 USD để lập kế hoạch và tiến hành vụ tấn công, nhưng nguồn gốc số tiền trên vẫn chưa được xác minh.
Nguyên nhân
Theo nguồn tin chính thức từ chính phủ Hoa Kỳ, vụ tấn công 11 tháng 9 là phù hợp với những gì Al-Qaeda tự nhận là sứ mạng của mình. Al-Qaeda bị nghi ngờ dính líu vào những vụ đánh bom các sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania, tổ chức này cũng nhận trách nhiệm vụ tấn công khu trục hạm USS Cole của Hải quân Hoa Kỳ tại Yemen năm 2000.
Theo Hoa Kỳ, sự kiện 11/9 là một phần trong kế hoạch "giết người Mỹ ở tất cả những nơi nào trên thế giới có thể" mà bin Laden đưa ra. Chiến dịch khủng bố này lợi dụng niềm tin tôn giáo và khởi phát từ một giáo lệnh (fatwa) ban hành năm 1998 bởi bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Abu-Yasir Rifa’i Ahmad Taha, Shaykh Mir Hamzah, và Fazlur Rahman. Giáo lệnh này mở đầu với phần trích dẫn kinh Koran, "hãy giết những kẻ ngoại giáo bất cứ nơi nào ngươi tìm thấy chúng", và đi đến kết luận "nghĩa vụ của mỗi người Hồi giáo" là "giết người Mỹ ở khắp mọi nơi.". Họ cáo buộc Hoa Kỳ:
Bóc lột nguồn tài nguyên vùng bán đảo Ả Rập.
Lũng đoạn nền chính trị của các quốc gia trong vùng.
Ủng hộ những chế độ và các vương triều bóc lột người dân trong khu vực Trung Đông, tức là áp bức nhân dân.
Đặt các căn cứ quân sự tại bán đảo Ả Rập, tức là xâm phạm đất thánh của người Hồi giáo, nhằm mục tiêu đe doạ các nước Hồi giáo láng giềng.
Âm mưu tạo mối bất hoà giữa các quốc gia Hồi giáo để làm suy yếu sức mạnh chính trị của khối này.
Ủng hộ Israel và nỗ lực hướng sự quan tâm của quốc tế khỏi việc chiếm đóng Palestine.
Cuộc chiến Vùng Vịnh, kế đó là lệnh cấm vận và các vụ oanh tạc Iraq thực hiện bởi Hoa Kỳ, gần đây được trích dẫn như là chứng cớ cho những cáo buộc của bản giáo lệnh. Ngược lại với thái độ bất đồng của những người Hồi giáo ôn hoà, giáo lệnh này sử dụng các văn bản Hồi giáo nhằm biện minh cho những hành động bạo lực chống lại quân đội và công dân Mỹ cho đến khi tình hình được thay đổi: tuyên bố rằng "toàn thể chức sắc suốt trong dòng lịch sử Hồi giáo hoàn toàn đồng ý rằng thánh chiến (jihad) là bổn phận của mỗi cá nhân khi kẻ thù tìm cách hủy diệt các quốc gia Hồi giáo".
Những thông báo của Al-Qaeda ghi nhận được từ sau 11 tháng 9 hỗ trợ cho sự suy đoán này. Trong một băng video năm 2004, bin Laden rõ ràng là thừa nhận trách nhiệm trong vụ tấn công và nói rằng những hành động này là để "phục hồi sự tự do cho dân tộc chúng ta", để "trừng phạt kẻ xâm lược" và để phá hoại nền kinh tế nước Mỹ. bin Laden tuyên bố rằng mục tiêu kéo dài của cuộc thánh chiến là "làm chảy máu nước Mỹ đến khi nước này kiệt sức".
Cả Hoa Kỳ và Al-Qaeda đều cố trình bày cuộc tranh chấp này là cuộc chiến giữa Thiện và Ác.
Bản báo cáo của Ủy ban 9/11 khẳng định rằng thái độ thù nghịch của Khalid Shaikh Mohamed, người được xem là "kiến trúc sư trưởng" của vụ tấn công 9/11, xuất phát từ "sự bất đồng dữ dội với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ủng hộ Israel". Động cơ tương tự cũng được quy cho tên không tặc lái máy bay đâm vào toà tháp đôi WTC: Mohamed Atta được miêu tả bởi Ralph Bodenstein – người từng du hành, làm việc và nói chuyện với anh ta – như là "hoàn toàn tin rằng Hoa Kỳ muốn bảo vệ Israel".
Tuy nhiên, giáo lệnh năm 1998 của bin Laden được ban hành vào thời điểm ra đời thoả hiệp Oslo về Israel và Palestine, khi các bên tin rằng cuộc tranh chấp đang đến lúc chấm dứt bằng các thỏa hiệp.
Ngược lại, chính phủ Bush cho rằng Al-Qaeda bị thúc đẩy bởi lòng căm thù tinh thần tự do và dân chủ thể hiện bởi nước Mỹ, trong khi những nhà phân tích độc lập cho rằng động cơ chính của Al-Qaeda là khuyến khích tinh thần đoàn kết Hồi giáo bằng cách tập chú vào một kẻ thù chung, như thế về lâu về dài giúp dọn đường cho sự hình thành một trật tự thế giới mới theo cung cách Hồi giáo quá khích.
Hậu quả
Vụ tấn công 11/9 đã ngay lập tức gây ra những phản ứng khác nhau, bao gồm những phản ứng trong nước, các tội phạm thù ghét, những phản ứng của người Hồi giáo trước sự kiện, những phản ứng của cộng đồng quốc tế với vụ việc, và các phản ứng của quân đội. Một chương trình bồi thường lớn đã nhanh chóng được bắt đầu bởi Quốc hội sau vụ việc để bồi thường cho các nạn nhân và gia đình của họ trong vụ tấn công.
Phản ứng trực tiếp
Vào lúc 8:32 sáng, FAA được thông báo Chuyến bay 11 đã bị không tặc và đã chuyển thông tin cho Bộ Chỉ huy Phòng không Bắc Mỹ (NORAD). NORAD đã điều hai chiếc F-15s từ Khu căn cứ Phòng không Otis tại Massachusetts và cả hai xuất phát lúc 8:53 sáng. Do liên lạc từ FAA bị chậm và không chắc chắn, NORAD chỉ chú ý tới Chuyến bay 11 trong vòng 9 phút, và không biết thêm thông tin gì về các chuyến bay khác trước khi chúng va chạm. Tới khi cả hai tòa tháp đã bị đâm thì mới có thêm chiến sĩ từ Khu căn cứ Không quân Langley tại Virginia vào lúc 9:30 sáng. Vào lúc 10:20 sáng, Phó Tổng thống Dick Cheney ra lệnh bắn hạ bất cứ máy bay dân dụng nào có khả năng được xác định là bị không tặc. Tuy nhiên, những mệnh lệnh này đã không tới kịp các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ. Một số chiến sĩ lên đường xuất phát mà không được trang bị đạn dược, biết rằng để ngăn không tặc tấn công mục tiêu đã định sẵn, các phi công có thể sẽ phải can thiệp và đâm máy bay của mình vào các máy bay bị không tặc, và có thể sẽ phải thoát ra những giây cuối cùng.
Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, Kế hoạch Kiểm soát An ninh Không phận và Không lưu (SCATANA) được kích hoạt, khiến hàng chục nghìn hành khách bị kẹt lại sân bay trên khắp thế giới. FAA đã đóng cửa không phận Mỹ với tất cả các chuyến bay quốc tế, khiến khoảng năm trăm chuyến bay phải quay lại hoặc chuyển hướng sang các quốc gia khác. Canada đã tiếp nhận 226 chuyến bay chuyển hướng và phải bắt đầu Chiến dịch Ruy băng Vàng để giải quyết số lượng lớn máy bay và hành khách bị kẹt lại tại đây.
Vụ tấn công 11/9 ngay lập tức tác động lên người dân Mỹ. Các sĩ quan cảnh sát và cứu hộ khắp đất nước cho dù đang trong ngày nghỉ, đã tới Thành phố New York để giúp nhận dạng các thi thể từ trong đống đổ nát của Tòa Tháp Đôi. Các hoạt động hiến máu khắp nước Mỹ cũng trở nên sôi động trong tuần sau vụ tấn công.
Hơn 3.000 trẻ em có cha hoặc mẹ thiệt mạng trong vụ tấn công. Các nghiên cứu sau đó đã ghi lại được phản ứng của những đứa trẻ về những mất mát và nỗi lo mất mất mạng sống, môi trường chăm sóc sau vụ tấn công và ảnh hưởng lên những người chăm sóc còn sống sót.
Phản ứng trong nước
Sau vụ tấn công, tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Bush tăng vọt lên 90%. Vào ngày 20 tháng 9 năm 2001, ông phát biểu trước toàn thể người dân và Quốc hội về sự kiện ngày 11 tháng 9 và những nỗ lực giải cứu và tái thiết trong chín ngày sau đó, và nói về những dự định của ông để phản ứng lại trước vụ tấn công. Vai trò to lớn của Thị trưởng Thành phố New York Rudy Giuliani đã giúp ông được khen ngợi không chỉ ở New York mà trên toàn quốc.
Nhiều quỹ ủng hộ được lập nên nhanh chóng để hỗ trợ các nạn nhân, với nhiệm vụ chính nhằm hỗ trợ về mặt tài chính cho những người sống sót sau vụ tấn công và các gia đình nạn nhân. Cho đến hạn chót ngày 11 tháng 9 năm 2003, 2.833 đơn xin bồi thường từ các gia đình nạn nhân đã được gửi đi.
Các phương án khẩn cấp để duy trì hoạt động của chính phủ và sơ tán các lãnh đạo cấp cao được triển khai ngay sau vụ tấn công. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn chưa được thông báo về tình trạng tiếp tục hoạt động của chính phủ cho tới tháng 2 năm 2002.
Trong một nỗ lực tái cơ cấu chính phủ Hoa Kỳ lớn nhất trong lịch sử đương thời, Hoa Kỳ thực thi Đạo luật An ninh Nội địa vào năm 2002, thành lập nên Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội cũng thông qua Đạo luật USA PATRIOT, cho rằng nó sẽ giúp phát hiện và truy tố các hành vi khủng bố và tội phạm khác. Các nhóm tự do dân sự đã chỉ trích Đạo luật PATRIOT, cho rằng nó cho phép cơ quan hành pháp xâm phạm vào sự riêng tư của công dân và loại bỏ đi quyền quản lý về mặt pháp lý các cơ quan hành pháp và tình báo trong nước. Trong một nỗ lực nhằm chống lại các hành động khủng bố trong tương lai, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) được trao thêm quyền hạn. NSA đã bắt đầu giám sát không cần cho phép các phương tiện viễn thông, việc làm đôi khi bị chỉ trích vì cho phép cơ quan này "nghe lén điện thoại và liên lạc thư điện tử giữa Hoa Kỳ và những người ở hải ngoại mà không có sự đồng ý". Phản hồi trước những yêu cầu bởi nhiều cơ quan tình báo, Tòa án Giám sát Tình báo Nước ngoài Hoa Kỳ đã cho phép chính phủ Hoa Kỳ được mở rộng quyền hạn trong việc tìm kiếm, thu thập và chia sẻ thông tin từ công dân Hoa Kỳ cũng như những người nước ngoài trên toàn thế giới.
Tội phạm thù ghét
Một thời gian ngắn sau vụ tấn công, Tổng thống Bush đã có buổi xuất hiện công chúng tại Trung tâm Hồi giáo lớn nhất Washington và thừa nhận "sự cống hiến cực kỳ giá trị" mà hàng triệu người Hồi giáo Mỹ đã làm cho đất nước và kêu gọi họ nên được "đối xử với sự tôn trọng".
Tuy nhiên, hàng loạt vụ việc quấy rối và tội phạm thù ghét chống lại người Hồi giáo và Nam Á đã được báo cáo trong những ngày sau vụ tấn công. Những người Sikh cũng bị nhằm vào vì nam giới theo đạo Sikh thường đeo khăn turban, loại khăn thường bị cho là có liên quan tới người Hồi giáo. Người ta đã báo cáo về những vụ tấn công tại các nhà thờ cùng với những địa điểm tôn giáo khác (bao gồm một vụ đánh bom tại một ngôi đền Hindu), và những vụ tấn công người, trong đó có một vụ sát hại: Balbir Singh Sodhi, một người Sikh bị nhầm là theo đạo Hồi, bị bắn chết vào ngày 15 tháng 9 năm 2001 ở Mesa, Arizona.
Theo một nghiên cứu học thuật, những người được coi là từ Trung Đông có khả năng trở thành nạn nhân của những vụ tội phạm thù ghét chống lại người theo đạo Hồi trong thời gian này. Nghiên cứu cũng cho thấy sự gia tăng tương tự các tội phạm thù ghét chống lại những người được coi là người Hồi giáo, Ả Rập và những người khác bị cho là có nguồn gốc Trung Đông. Một báo cáo của một nhóm vận động những người Mỹ gốc Nam Á có tên là South Asian Americans Leading Together, đã ghi lại những bài viết truyền thông về 645 vụ việc tấn công thù ghét những người Mỹ gốc Nam Á hoặc Trung Đông từ ngày 11 tới 17 tháng 9. Nhiều loại tội phạm như phá hoại, cố ý đốt nhà, tấn công, xả súng, hành hung và đe dọa ở nhiều nơi đã được ghi lại.
Phản ứng của người Hồi giáo Mỹ
Các tổ chức Hồi giáo tại Mỹ đã nhanh chóng lên án vụ tấn công và kêu gọi "người Mỹ Hồi giáo bằng khả năng và nguồn lực của mình giúp làm dịu đi nổi đau của những người và gia đình bị ảnh hưởng". Các tổ chức này bao gồm Cộng đồng Hồi giáo Bắc Mỹ (Islamic Society of North America), Liên minh Hồi giáo Mỹ (American Muslim Alliance), Hội đồng Hồi giáo Mỹ (American Muslim Council), Hội đồng Quan hệ Mỹ-Hồi giáo (Council on American-Islamic Relations), Nhóm Hồi giáo Bắc Mỹ (Islamic Circle of North America) và Hiệp hội Học giả Shari'a Bắc Mỹ (Shari'a Scholars Association of North America). Cùng với việc quyên góp tiền, nhiều tổ chức Hồi giáo còn tham gia hiến máu, trợ giúp về y tế, thức ăn và chỗ ở cho các nạn nhân.
Phản ứng quốc tế
Vụ tấn công đã bị lên án mạnh mẽ bởi giới truyền thông và các chính phủ trên toàn cầu. Hầu hết các quốc gia khắp thế giới đã bày tỏ sự đồng cảm và mong muốn hỗ trợ cho nước Mỹ, kể cả những nước có quan hệ thù địch với Mỹ vào thời điểm đó như Cuba, Iran, Libya và Bắc Triều Tiên.. Các nước Albania, Ireland, Israel, Canada, Croatia, Hàn Quốc và Cộng hòa Séc đã tuyên bố quốc tang một ngày.
Các hoạt động tưởng niệm đã diễn ra ở rất nhiều nước trên thế giới, kể cả các hoạt động có tổ chức lẫn các hoạt động tự phát. Ở Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan, những chiếc xe điện và xe buýt đi trên đường đã tạm dừng lại để bày tỏ lòng thương tiếc, và ở Nga, các đài truyền hình và đài phát thanh đã giành một phút im lặng để tưởng nhớ những người chết vô tội. Ở Hungary, lính cứu hỏa buộc những chiếc ruy băng đen vào xe cứu hỏa của họ để tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố. Ở Azerbaijan, Nhật Bản, Greenland, Bulgaria và Tajikistan, mọi người tập trung đông đảo tại các quảng trường, cùng nhau thắp nến cầu nguyện và thì thầm những lời chúc tốt đẹp. Trên đường phố thủ đô Pretoria của Nam Phi, những đứa trẻ ngồi trên vai của cha mẹ chúng, trên tay vẫy những lá cờ Mỹ. Hàng ngàn người dân ở Indonesia tập trung trên một bãi biển để cầu nguyện cho những người xấu số. Ở Moscow, đã ghi lại hình ảnh những người phụ nữ Nga không biết nói tiếng Anh và chưa từng đến Mỹ đang khóc nức nở trước một khu vực tưởng niệm tạm bợ trên vỉa hè dành cho các nạn nhân của vụ tấn công. Tại Bắc Kinh, hàng chục ngàn người đã đến thăm Đại sứ quán Hoa Kỳ, để lại hoa, thiệp, vòng hoa tang lễ và những lá thư viết tay chia buồn. Ở Bỉ, mọi người nắm tay nhau, tạo thành một hàng dài người trước Trung tâm Thương mại Thế giới Brussels, cùng với đó là hàng trăm ngàn người ở Canada, Albania và Sierra Leone đã diễu hành trên đường phố nhằm thể hiện sự đoàn kết với người dân Mỹ .
Ở Pháp, tiếng chuông huyền thoại của nhà thờ Đức Bà vang vọng khắp thủ đô Paris để tưởng nhớ tất cả những người đã thiệt mạng trong vụ khủng bố. Tờ báo Pháp Le Monde xuất bản một bài viết đăng lên trang nhất với tựa đề: "ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều là người Mỹ" .
Cả thế giới cùng hướng về nước Mỹ: người Cuba cung cấp vật tư y tế, người Kyrgyzstan, Turkmenistan, Uzbekistan và Kazakhstan cung cấp hỗ trợ hàng không, người Israel và Kuwait xếp hàng tham gia hiến máu, cùng với đó là hàng chục nhà lãnh đạo thế giới khác tuyên bố sát cánh với nước Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố . Giáo hoàng John Paul II đọc một bài diễn văn tại Quảng trường Thánh Peter, trong đó ông gọi vụ khủng bố là "một cuộc tấn công kinh hoàng chống lại nền hòa bình" và "một cuộc tấn công khủng khiếp chống lại phẩm giá con người": "Tôi cầu xin Chúa ban cho người dân Mỹ sức mạnh và lòng can đảm mà họ cần vào thời khắc đau buồn và đầy thử thách này" .
Các nhà lãnh đạo ở hầu hết các quốc gia Trung Đông và thậm chí cả chính quyền Taliban ở Afghanistan cũng đã lên án vụ tấn công. Riêng Iraq là một ngoại lệ, với một tuyên bố chính thức của nhà lãnh đạo Saddam Hussein rằng: "những gã cao bồi Mỹ đang hứng chịu hậu quả tội ác của họ chống lại nhân loại".. Tuy vậy, vài tháng sau đó, Saddam Hussein cũng đã gửi email cho một công dân Mỹ để gửi lời chia buồn cá nhân về vụ tấn công ngày 11 tháng 9 . Chính phủ Ả Rập Xê Út đã chính thức phản đối vụ tấn công, mặc dù một số người ở đây ủng hộ động cơ của bin Laden. Mặc dù Tổng thống Chính quyền Palestine (PA) Yasser Arafat cũng đã lên tiếng phản đối, người ta đã báo cáo về một số buổi ăn mừng tại Bờ Tây, Dải Gaza và Đông Jerusalem—các phóng viên đã quay lại được cảnh 3.000 người Palestine đang nhảy múa trên đường phố và phân phát kẹo ở Nablus bất chấp các cảnh báo của PA rằng họ không thể đảm bảo sự an toàn của các nhà báo tác nghiệp tại đây. Các sự kiện tương tự cũng diễn ra tại Amman, Jordan, nơi có nhiều người gốc Palestine. Giống như tại Hoa Kỳ, vụ tấn công đã làm gia tăng căng thẳng giữa các nước Hồi giáo và các nước khác.
Nghị quyết 1368 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã lên án vụ tấn công, và bày tỏ sự sẵn sàng chuẩn bị các bước cần thiết nhằm đáp trả và đấu tranh với mọi loại hình khủng bố theo như Hiến chương của họ. Nhiều nước đã đưa ra các luật chống khủng bố và đóng băng các tài khoản ngân hàng nghi là có dính líu tới al-Qaeda. Các cơ quan hành pháp và tình báo ở một số nước đã bắt giữ các tên khủng bố bị tình nghi.
Thủ tướng Anh Tony Blair cho biết nước Anh "sát cánh" cùng với Hoa Kỳ. Một vài ngày sau đó, Blair đã bay tới Washington để khẳng định sự đoàn kết của Anh với Hoa Kỳ. Trong một bài phát biểu trước Quốc hội chín ngày sau vụ tấn công, khi đó Blair đã tới dự với tư cách khách mời, Tổng thống Bush tuyên bố "Nước Mỹ không có người bạn nào đích thực hơn Anh." Sau đó, Thủ tướng Blair đã bắt đầu hai tháng ngoại giao kêu gọi quốc tế hành động quân sự; ông đã tổ chức 54 cuộc hợp với các nhà lãnh đạo thế giới và đã di chuyển hơn 60.000 km.
Hàng chục ngàn người đã tìm cách thoát khỏi Afghanistan sau vụ tấn công do lo sợ bị Hoa Kỳ đáp trả. Pakistan, đã là nơi ở của nhiều người Afghanistan tỵ nạn từ các cuộc xung đột trước đó, đã phải đóng cửa biên giới với Afghanistan vào ngày 17 tháng 9 năm 2001. Khoảng một tháng sau vụ tấn công, Hoa Kỳ dẫn đầu một liên minh quân sự quốc tế nhằm lật đổ lực lượng Taliban khỏi Afghanistan do đã che giấu cho al-Qaeda. Mặc dù chính quyền Pakistan ban đầu không tham gia vào khối liên minh với Hoa Kỳ chống lại Taliban, họ vấn cho phép đổ bộ vào các căn cứ quân sự của họ, và đã bắt giữ và bàn giao cho Hoa Kỳ hơn 600 người bị tình nghi là thành viên của al-Qaeda.
Hoa Kỳ đã dựng lên trại giam Vịnh Guantanamo nhằm giữ những tù binh được xác định là "binh sĩ địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của những trại giam này đã bị Liên minh châu Âu và các tổ chức nhân quyền đặt dấu hỏi.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2001, Tổng thống thứ năm của Iran, Mohammad Khatami trong cuộc gặp với Ngoại trưởng Anh Jack Straw đã nói: "Iran hoàn toàn hiểu được cảm giác của người Mỹ về các cuộc tấn công khủng bố tại New York và Washington vào ngày 11 tháng 9." Ông nói rằng mặc dù chính quyền Mỹ dù đã không có quan tâm tới các chiến dịch khủng bố tại Iran (từ năm 1979), người Iran vẫn có cảm nhận khác và đã bày tỏ sự đồng cảm với các gia đình nạn nhân ở Mỹ trong thảm kịch tại hai thành phố này. Ông cũng nói rằng "Các quốc gia không nên bị trừng phạt, mà là những kẻ khủng bố." Theo trang web của Radio Farda, khi tin tức về vụ tấn công được phát đi, một số công dân Iran đã tụ tập trước cửa Đại sứ quán Thụy Sỹ tại Tehran, là cơ quan đại diện cho quyền lợi của Hoa Kỳ tại Iran, để bày tỏ sự cảm thông và một số người còn thắp những ngọn nến để tỏ lòng tiếc thương. Bài viết này trên trang web của Radio Farda cũng cho biết vào năm 2011, vào ngày kỷ niệm vụ tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đăng tải một bài viết trên trang blog của Bộ, cảm ơn sự cảm thông của người dân Iran và nói rằng họ sẽ không bao giờ quên lòng tốt của người Iran trong những ngày khó khăn ấy. Sau vụ tấn công, cả Tổng thống và Lãnh tụ Tối cao của Iran đã lên án vụ tấn công này. BBC và tạp chí Time đã xuất bản các tin bài về những buổi thắp nến tưởng niệm cho các nạn nhân vụ tấn công bởi những người dân Iran trên trang web của họ. Theo Politico Magazine, sau vụ tấn công, Sayyed Ali Khamenei, Lãnh tụ Tối cao Iran, đã tạm thời "ngừng câu khẩu hiệu 'Cái chết cho nước Mỹ' ở những buổi cầu nguyện Thứ Sáu".
Trung tâm thương mại thế giới sụp đổ
Có nhiều ý kiến xung quanh sự sụp đổ của toà tháp đôi, những cuộc tranh luận sôi nổi bàn về nguyên nhân của sự sụp đổ thu hút nhiều kỹ sư về cấu trúc, kiến trúc sư và các cơ quan hữu quan thuộc chính phủ liên bang. Thiết kế của toà tháp đôi chứa đựng nhiều phát kiến mới khác với các tòa nhà chọc trời được xây dựng trước đó. Mặc dù lực va chạm khi máy bay phản lực đâm vào và các đám cháy bùng phát sau đó là chưa từng xảy ra trong lịch sử thảm hoạ ngành xây dựng, một số kỹ sư tin quyết rằng những toà nhà chọc trời được xây dựng theo thiết kế truyền thống (như Empire State Building ở thành phố New York và toà tháp đôi Petronas của Malaysia) sẽ chịu đựng tốt hơn trong một tình huống như thế, có lẽ vẫn có thể tồn tại. Nếu lập luận trên là đúng, thì các toà nhà chọc trời khác có cùng một kiểu thiết kế với toà tháp đôi WTC (như Tháp Sears và Trung tâm John Hancock ở Chicago) đang bị nguy cơ sụp đổ hoàn toàn tự nhiên hoặc vì một vài đám cháy nho nhỏ như Trung tâm thương mại thế giới số 7 cao 186 mét (610 feet) sụp đổ vào 5 giờ 20 chiều ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong không đầy 7 giây và được người dẫn chương trình của kênh CBS Dan Rather nhận xét trong chương trình truyền hình trực tiếp là lần thứ 3 ngày hôm nay, các vụ sụp đổ này (bao gồm 3 vụ ngày hôm đó, WTC1 và WTC2 vào buổi sáng và WTC7 vào buổi chiều) trông rất giống những vụ nổ có kiểm soát được thấy nhiều trên truyền hình khi người ta kích nổ những khối thuốc nổ được đặt chính xác từ trước để làm sập chúng.
Một cuộc điều tra cấp liên bang về an toàn phòng cháy và kỹ thuật xây dựng được tiến hành bởi Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hoàn tất ngày 6 tháng 4 năm 2005, thanh tra về công trình xây dựng, vật liệu và các điều kiện kỹ thuật đã góp phần gây ra thảm hoạ WTC. Cuộc thanh tra được tiến hành nhằm phục vụ các mục tiêu sau:
Cải thiện phương pháp thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các toà nhà.
Cải thiện dụng cụ và phương pháp hướng dẫn dành cho các viên chức thuộc các ngành chức năng về an toàn và công nghiệp.
Chỉnh sửa và xây dựng bộ luật, định chuẩn và thực hành phòng cháy chữa cháy.
Cải thiện An toàn công cộng.
Bản tường trình kết luận rằng khả năng chịu lửa của cấu trúc thép tòa tháp đôi đã mất tác dụng ngay khi máy bay va chạm toà nhà, nếu điều này không xảy ra chắc chắn tòa nhà vẫn còn trụ được. Hơn nữa, bản tường trình cũng khẳng định cầu thang của toà nhà đã không được gia cố đúng mức hầu có thể cung ứng lối thoát cho những người ở bên trên điểm va chạm.
Chiến tranh chống Khủng bố
Nhiều người Mỹ cho rằng vụ tấn công khủng bố 11/9 "đã vĩnh viễn làm thay đổi thế giới": Nước Mỹ đang bị đặt trong nguy cơ bị tấn công khủng bố mà trước đây đất nước này chưa từng bị. Hoa Kỳ tuyên chiến chống khủng bố với mục tiêu đem Osama bin Laden ra trước công lý và ngăn chặn sự xuất hiện của những mạng lưới khủng bố khác. Các mục tiêu này sẽ được thực hiện bằng những phương tiện như cấm vận kinh tế và quân sự đối với các quốc gia được xem là dung dưỡng thành phần khủng bố, cùng lúc gia tăng các biện pháp giám sát toàn cầu và chia sẻ thông tin tình báo. Liên minh quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến hành tấn công Taliban tại Afghanistan. Cùng với Hoa Kỳ, các quốc gia khác đang phải đối phó với các hoạt động khủng bố như Philippines và Indonesia cũng gia tăng sự chuẩn bị về mặt quân sự. Tổng thống Bush cũng nhận được sự ủng hộ lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga (cũng bị khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan) và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu.
Nhiều nước khác, trong đó có Anh, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nga, Indonesia, Pakistan, Jordan, Mauritius, Uganda và Zimbabwe thông qua luật "chống khủng bố" và cho đóng băng các tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp hoặc cá nhân bị tình nghi có liên quan đến al-Qaeda. Các cơ quan tình báo và thi hành pháp luật tại một số quốc gia như Ý, Malaysia, Indonesia và Philippines bắt giữ nhiều nghi can khủng bố với mục đích đập tan những nhóm vũ trang trên toàn thế giới. Chiến dịch này dấy lên nhiều tranh cãi khi những người chỉ trích như Ủy ban Bill of Rights Defense cho rằng những hạn chế truyền thống trên các hoạt động theo dõi của liên bang nay đã bị bãi bỏ bởi Đạo luật PATRIOT; các tổ chức quyền tự do công dân như American Civil Liberties Union (ACLU) và Liberty cho rằng một số quyền con người đang bị nguy cơ hủy bỏ. Hoa Kỳ cho thiết lập một trại giam tại vịnh Guantanamo, Cuba để cầm giữ những "binh sĩ thù địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của các trại giam này hiện đang bị tra vấn bởi một số quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Ân xá Quốc tế.
Bên trong nước Mỹ, Tổng thống Bush tiến hành một đợt tái cấu trúc cơ cấu chính phủ lớn nhất trong lịch sử đương đại của đất nước này với quyết định thành lập Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội thông qua đạo luật USA PATRIOT (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism – Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung ứng những Phương tiện Thích ứng Cần có để Ngăn chặn Khủng bố), giải thích rằng đạo luật này sẽ giúp dò tìm và truy tố những phần tử khủng bố và tội phạm khác trong tương lai.
Các nhóm bảo vệ quyền tự do của công dân phê phán đạo luật PATRIOT, nói rằng đạo luật này cho phép các cơ quan thi hành pháp luật xâm phạm sự riêng tư của công dân và hạn chế quyền giám sát tư pháp trên các cơ quan thi hành pháp luật và trên công tác thu thập tin tình báo. Chính phủ Bush viện dẫn biến cố 11/9 như là lý do để tiến hành một chiến dịch bí mật của Cơ quan An ninh Quốc gia nhằm "theo dõi các liên lạc bằng điện thoại và thư điện tử giữa Hoa Kỳ và nước ngoài mà không cần sự cho phép của tòa án".
Biến cố 9/11 đã đem lại nhiều ủng hộ trong dư luận người Mỹ cho chính sách cứng rắn của Tổng thống Bush. Sau ngày vụ khủng bố xảy ra, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ và uy tín của Tổng thống Bush, đang từ ở mức trung bình trên 50% dân chúng Mỹ ủng hộ, bỗng vọt lên ở mức cao trên 90%, đây là mức uy tín cao nhất trong lịch sử của dân chúng Mỹ dành cho một vị tổng thống. Tuy nhiên, chỉ số uy tín này đã giảm đáng kể, khi thu-chi ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng và quân đội Mỹ sa lầy và thất bại trong việc bình định tại Iraq, đến năm 2005, mức ủng hộ của dân chúng dành cho TT Bush có lúc xuống còn 34%. Chính sách cứng rắn của Mỹ, mặc dù vì lợi ích chung là chống khủng bố nhưng đã tạo hình ảnh xấu và đã gây mâu thuẫn với đồng minh. Lần đầu tiên, các đồng minh then chốt của Mỹ trong khối NATO mâu thuẫn với Mỹ rất gay gắt và tìm cách tạo 1 thế đối trọng khác trong khu vực. Hoa Kỳ nhận thức rõ điều này và đã bắt đầu có những điều chỉnh trong các chính sách ngoại giao.
Tái thiết
Ngay sau khi xảy ra vụ tấn công, Thị trưởng New York, Rudy Giuliani, tuyên bố, "Chúng ta sẽ xây dựng lại. Từ biến cố này chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mạnh mẽ hơn về chính trị, mạnh mẽ hơn về kinh tế. Đường chân trời sẽ được hàn gắn lại." Đến tháng 5 năm 2002, đống đổ nát được dọn sạch, tuy vẫn có những lời chỉ trích rằng nỗ lực không tương xứng với ngân quỹ khổng lồ dành cho công tác này.
Khu vực bị hư hại của Lầu Năm Góc đã được tái thiết chỉ một năm sau khi bị tấn công.
Ngay tại địa điểm của những tòa nhà đổ nát, người ta xây dựng những kiến trúc mới. Tại địa điểm trước là tòa nhà số 7 của WTC nay là tòa cao ốc văn phòng hoàn tất vào ngày 23 tháng 5 năm 2006. One World Trade Center (1 WTC) được xây dựng có độ cao 1,776 ft (541 m) tương ứng với năm nước Mỹ giành độc lập (năm 1776), trở thành tòa nhà cao nhất Tây Bán Cầu, và là cao ốc cao thứ ba trên thế giới. Đến tháng 11 năm 2014, công trình này chính thức đi vào hoạt động. Tòa nhà Four World Trade Center (4 WTC) đã được khai trương vào ngày 13 tháng 11 năm 2013, còn Three World Trade Center (3 WTC) được khánh thành vào ngày 11 tháng 6 năm 2018.
Tưởng niệm
Trong những ngày sau khi xảy ra vụ tấn công, nhiều buổi tưởng niệm và canh thức được tổ chức trên khắp thế giới. Còn ngay tại Bình địa, ảnh của các nạn nhân xuất hiện khắp mọi chỗ. Một người có mặt ở đó thuật lại rằng "không có cách nào tránh khỏi những khuôn mặt của các nạn nhân vô tội. Ảnh của họ hiện diện khắp mọi nơi, tại trạm điện thoại, đính vào trụ đèn đường, trên tường trạm xe điện ngầm. Mọi thứ ở đây khiến tôi liên tưởng đến một đám tang vĩ đại, mọi người buồn bã và lặng lẽ, nhưng rất thân ái với nhau. Trước đó, New York cho tôi cảm giác lạnh lẽo, nhưng bây giờ mọi người tìm đến giúp đỡ lẫn nhau."
Tại Lầu Năm Góc, khu tưởng niệm được khánh thành ngày 11 tháng 9 năm 2008, với một công viên thoáng đãng có 184 chiếc ghế dài hướng về Lầu Năm Góc. Sau khi được sửa chữa trong năm 2001-2002, người ta xây dựng một nhà nguyện và một tượng đài ngay tại địa điểm chuyến bay 77 đâm xuống tòa nhà.
Thiết kế cho Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 được gọi là Crescent of Embrace gây ra tranh cãi vì thiết kế một hình trăng lưỡi liềm (crescent) lớn màu đỏ hướng đến Mecca. Do áp lực của công chúng, người ta cho biết đài tưởng niệm này sẽ được thiết kế lại để tránh sự nhầm lẫn với biểu trưng của Hồi giáo.
Bản thiết kế của Michael Arad cho đài tưởng niệm Reflecting Absence được tuyển chọn vào tháng 8 năm 2006 qua một cuộc thi, với hai hồ phản chiếu đặt tại chân của hai tòa tháp, bao quanh bởi tên của các nạn nhân ghi chìm dưới đất.
Bên cạnh việc xây dựng các đài tưởng niệm, một số người thân và bạn bè của những nạn nhân vụ tấn công ngày 11 tháng 9 thành lập quỹ tưởng niệm, quỹ học bổng và các chương trình từ thiện nhằm tôn vinh những người thân yêu đã mất.
Hiện trường, nơi trước kia tọa lạc Tháp đôi tại New York nay được gọi là Ground Zero (Khu vực số không), nơi đây đã tiến hành xây cất tòa nhà One World Trade Center cao 541 m và 3 tòa nhà chọc trời được xây trên một hình bán nguyệt xung quanh khu tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố, công trình hoàn thành vào năm 2014.
Trong văn hoá đại chúng
Vở kịch "The Guys" của Anne Nelson hướng vào hồi ức và cảm xúc của một người sống sót, một sĩ quan thuộc lực lượng cứu hoả, một nhà văn đã tìm đến để giúp anh viết những bài điếu văn dành cho các đồng đội đã thiệt mạng trong thảm họa. Vở kịch được công diễn lần đầu vào ngày 4 tháng 12 năm 2001.
Extremely Loud and Incredibly Close, tiểu thuyết của Jonathan Safran Foer xuất bản năm 2005, là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về vụ khủng bố. Cuốn sách được dẫn dắt theo lời kể của một cậu bé chín tuổi, Oskar Schell, cha của cậu đang ở trên tầng cao của Trung tâm Thương mại Thế giới khi hai chiếc máy bay phản lực đâm vào toà tháp đôi. Để kìm chế nỗi buồn khôn nguôi và đè nén những tưởng tượng kinh hoàng về thảm họa mà cha cậu phải gánh chịu, Oskar dấn mình vào một cuộc phiêu lưu trong tâm trí để truy tìm ra điều mà cậu hy vọng là sự bí mật của cha cậu. Trong cuộc phiêu lưu của trí tưởng tượng này Oskar vượt qua những nỗi sợ hãi vô căn cứ và an ủi nhiều linh hồn đau thương.
Tác phẩm điện ảnh của Oliver Stone, Trung tâm Thương mại Thế giới, là câu chuyện kể về hai nhân viên thuộc Cơ quan quản lý cảng biển, John McLoughlin (Nicolas Cage) và Will Jimeno (Michael Pena), là những người tham gia vào công tác cứu hộ sau cùng còn sống sót và được toán cứu hộ đem ra khỏi khu bình địa (ground zero). Cuốn phim được trình bày như là một câu chuyện cảm động về những cư dân bình thường của thành phố New York tìm cách giúp đỡ lẫn nhau ngay giữa một cơn thảm họa khủng khiếp. Cuốn phim được bắt đầu trình chiếu trên toàn quốc (Hoa Kỳ) ngày 9 tháng 8 năm 2006. |
Trưởng lão Định Hương tức Lã Định Hương (呂定香, ?-1050) tu tại chùa Cảm Ứng, Ba Sơn, phủ Thiên Đức, người Châu Minh, gia thế dòng tịnh hạnh. Trưởng lão là một trong ba người (một người khuyết lục) thuộc thế hệ thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở nhỏ Định Hương thọ giáo với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến Sơ. Trải qua 24 năm, môn đồ của Thiền sư Đa Bảo có hơn trăm người nhưng chỉ có Sư cùng với Quốc Bảo Hòa được chọn làm thủ lĩnh, nhưng Sư thấu rõ nhất tông chỉ của Đa Bảo. Một hôm Sư hỏi Đa Bảo: Làm thế nào để thấy được chân tâm?
Đa Bảo dạy: Chính ngươi tự phát hiện.
Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi.
Đa Bảo hỏi: Ngươi đã hiểu chưa?.
Sư đáp: Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu.
Đa Bảo dạy: Nên đem tâm đó mà quyết chắc
Sư bưng tai, đứng quay lưng lại.
Đa Bảo liền quát: Đi. Sư sụp lạy.
Đa Bảo dạy: Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người.
Đô tướng thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân khâm phục tài đức của Sư, nên mời về chùa đó ở. Người học vân tập, dạy dỗ dắt dìu, công Sư không ít.
Ngày 3 tháng 3 năm Canh Dần nhằm niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 2 (1050) triều Lý Thái Tông, Sư nhuốm bệnh, họp chúng để từ biệt, đọc kệ:
Nói kệ xong, Sư lặng lẽ viên tịch.
Nguyên bản chữ Hán
□第六世三人一人鈌錄□□□□□□□□
定香長老
天德府芭山感應寺定香長老姓呂氏朱明人也世修淨行弱歲依{dư}建初多寶禪師踰二十四年寶門徒百餘惟師與國抱和為首𢮪(1)然師深得其奧一日問寶云如何得見真心寶云是汝自發師豁然領旨悟(2)云一切皆然非惟某甲寶云汝了也未師云弟子了時还同不了宝云須以此心保任師掩耳背立寶便喝去師禮宝云汝後还似一箇聾瞶接人在都將城隍使阮郇欽其名德延就此寺居焉學徒雲集教人演化功為不少李太宗崇興大寶三年庚寅三月三日疾會眾訣別說偈云
本來無處所
處所是真宗
真宗如是幻
幻有即空空
偈畢奄然而化□□□□□□□□□□□□□
𢮪 = 選
悟; Nguyễn, LMT = 語
Chú thích
Về ý và từ của bài thơ được rút ra từ định nghĩa Không Không trong Đại trí độ luận:
Hà đẳng vi Không Không? (Những gì là Không Không?)
Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không. (Tất cả mọi vật đều Không, cái Không ấy cũng Không nên gọi là Không Không) |
Các ý nghĩa khác xem thêm Lux (định hướng).
Lux (ký hiệu: lx) là đơn vị đo độ rọi trong SI. Nó được sử dụng trong trắc quang học để đánh giá cường độ ánh sáng cảm nhận được. Đây là một đơn vị dẫn xuất trong SI, nghĩa là nó được định nghĩa từ các đơn vị "cơ bản" hơn. Cụ thể, đo độ rọi bằng quang thông trên diện tích:
1 lx = 1 lm/m²
Đơn vị đo quang thông trong SI, lumen, lại là một đơn vị dẫn xuất nên:
1 lx = 1 cd sr / m²)
Định nghĩa
1 lux là độ rọi có được của một bề mặt có diện tích 1 mét vuông có thông lượng chiếu sáng 1 lumen.
Các ước số-bội số trong SI
Các tiền tố kết hợp với đơn vị lux
Bảng chuyển đổi giá trị giữa các ước số-bội số khác nhau
Giải thích
Nó là tương đương với 1 lumen trên m².
Ánh sáng Mặt Trời trung bình trong ngày có độ rọi dao động trong khoảng 32.000 (32 klx) tới 100.000 lux (100 klx)
Các trường quay truyền hình được chiếu sáng với độ rọi khoảng 1.000 lux (1 klx)
Một văn phòng sáng sủa có độ rọi khoảng 400 lux
Vào thời điểm hoàng hôn và bình minh, ánh sáng ngoài trời cũng có độ rọi khoảng 400 lux (nếu trời trong xanh).
Ánh sáng phản chiếu từ Mặt Trăng có độ rọi khoảng 1 lux
Ánh sáng từ các ngôi sao có độ rọi khoảng 0,00005 lux (= 50 μlx)
Chú ý:Unicode có ký hiệu cho "lx": (㏓), nhưng nó chỉ là mã kế thừa để thích hợp với các trang mã cũ trong một số ngôn ngữ châu Á, và nó không được khuyến khích sử dụng trong bất kỳ ngôn ngữ nào ngày nay.
Lux và lumen
Khác biệt giữa lux và lumen là lux tính theo diện tích mà thông lượng chiếu sáng bao phủ. Ví dụ 1.000 lumen, tập trung trong một diện tích 1 m², sẽ chiếu sáng diện tích này với độ rọi 1.000 lux. Cùng 1.000 lumen này, khi trải rộng trên diện tích 10 m², sẽ tạo ra sự chiếu rọi mờ hơn, chỉ bằng 100 lux.
Việc đạt được độ rọi 500 lux là có thể trong nhà bếp với một ngọn đèn huỳnh quang đặt cố định có công suất 12.000 lumen. Để chiếu sáng sàn xí nghiệp với diện tích gấp hàng chục/trăm lần nhà bếp thì người ta cần phải có hàng chục/trăm đèn như vậy. Vì thế, việc chiếu sáng một diện tích lớn hơn mà có cùng một giá trị độ rọi thì cần phải có nhiều lumen hơn.
Quan hệ giữa độ rọi và công suất
Độ rọi không phải là phép đo trực tiếp của năng lượng ánh sáng, mà nó là sự cảm nhận của mắt người. Vì thế, hệ số chuyển đổi sẽ thay đổi theo thành phần bước sóng hay nhiệt độ màu của ánh sáng. Ở bước sóng 555 nm, khoảng trung gian của quang phổ thì 1 lux tương đương với 1,46 mW/m².
Các đơn vị trắc quang trong SI
Các đơn vị phi-SI của độ rọi
phút nến
phốt (=10 klx)
nox (=1 mlx) |
Trong toán học, phương pháp bình phương tối thiểu ( Ordinary least square), còn gọi là bình phương nhỏ nhất hay bình phương trung bình tối thiểu, là một phương pháp tối ưu hóa để lựa chọn một đường khớp nhất cho một dải dữ liệu ứng với cực trị của tổng các sai số thống kê (error) giữa đường khớp và dữ liệu.
Phương pháp này giả định các sai số (error) của phép đo đạc dữ liệu phân phối ngẫu nhiên. Định lý Gauss-Markov chứng minh rằng kết quả thu được từ phương pháp bình phương tối thiểu không thiên vị và sai số của việc đo đạc dữ liệu không nhất thiết phải tuân theo, ví dụ, phân bố Gauss. Một phương pháp mở rộng từ phương pháp này là bình phương tối thiểu có trọng số.
Phương pháp bình phương tối thiểu thường được dùng trong khớp đường cong. Nhiều bài toán tối ưu hóa cũng được quy về việc tìm cực trị của dạng bình phương, ví dụ như tìm cực tiểu của năng lượng hay cực đại của entropy.
Phương pháp bình phương tối thiểu thường sử dụng để vinh danh Carl Friedrich Gauß (1795), nhưng nó được xuất bản lần đầu bởi Adrien-Marie Legendre (1805).
Diễn giải
Giả sử dữ liệu gồm các điểm (xi, yi) với i = 1, 2,..., n. Chúng ta cần tìm một hàm số f thỏa mãn
f(xi) ≈ yi
Giả sử hàm f có thể thay đổi hình dạng, phụ thuộc vào một số tham số pj với j = 1, 2,..., m.
f(x) = f(pj, x)
Nội dung của phương pháp là tìm giá trị của các tham số pj sao cho biểu thức sau đạt cực tiểu:
Nội dung này giải thích tại sao tên của phương pháp là bình phương tối thiểu.
Đôi khi thay vì tìm giá trị nhỏ nhất của tổng bình phương, người ta có thể tìm giá trị nhỏ nhất của bình phương trung bình:
Điều này dẫn đến tên gọi bình phương trung bình tối thiểu.
Giải quyết
Bài toán thường có lời giải đáng tin cậy khi số lượng các tham số pj nhỏ hơn số lượng các dữ liệu (m < n).
Trong trường hợp, f là hàm tuyến tính của các tham số pj, bài toán trở nên đơn giản hóa rất nhiều, rút gọn thành việc giải một hệ phương trình tuyến tính. Xem thêm bình phương tối thiểu tuyến tính.
Nếu f không là hàm tuyến tính của các tham số, bài toán trở thành một bài toán tối ưu hóa tổng quát. Bài toán tổng quát này có thể dùng các phương pháp như phương pháp tối ưu hóa Newton hay phương pháp trượt dốc. Đặc biệt thuật toán Gauss-Newton hay thuật toán Levenberg-Marquardt là thích hợp nhất cho bài toán bình phương tối thiểu tổng quát này.
Hồi quy tuyến tính
Trong hồi quy tuyến tính, người ta thay biểu thức:
f(xi) ≈ yi
bằng
f(xi) = yi + εi
với hệ số nhiễu ε là biến ngẫu nhiên có giá trị kỳ vọng bằng 0.
Trong biểu thức của hồi quy tuyến tính x được đo chính xác, chỉ có y chịu nhiễu loạn ε. Thêm nữa, hàm f tuyến tính với các tham số pj.
Nếu f không tuyến tính với các tham số thì có hồi quy phi tuyến, một bài toán phức tạp hơn nhiều hồi quy tuyến tính. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.