text
stringlengths 0
512k
|
---|
Tầng đối lưu là phần thấp nhất của khí quyển của một số hành tinh. Phần lớn các hiện tượng mà con người gắn với thời tiết hàng ngày diễn ra ở tầng đối lưu. Đặc trưng của tầng này thể hiện ở các dòng đối lưu của không khí nóng từ bề mặt bốc lên cao và lạnh đi. Hiện tượng đối lưu đã mang lại tên gọi cho tầng này.
Trên Trái Đất
Tầng đối lưu bắt đầu từ bề mặt Trái Đất mở rộng ra đến cao độ 20 km (12 dặm) ở các vùng nhiệt đới, giảm tới khoảng 11 km ở các vĩ độ trung bình, ít hơn 7 km (4 dặm) ở các vùng cực về mùa hè còn trong mùa đông là không rõ ràng. Lớp khí quyển này chiếm khoảng 80% tổng khối lượng của toàn bộ khí quyển, gần như toàn bộ hơi nước và xon khí (aerosol). Trong khu vực tầng đối lưu thì không khí liên tục luân chuyển và tầng này là tầng có mật độ không khí lớn nhất của khí quyển Trái Đất. Nitơ và oxy là các chất khí chủ yếu có mặt trong tầng này. Tầng đối lưu nằm ngay phía dưới tầng bình lưu. Phần thấp nhất của tầng đối lưu, nơi ma sát với bề mặt Trái Đất ảnh hưởng tới luồng không khí, là lớp ranh giới hành tinh. Lớp này thông thường chỉ dày từ vài trăm mét tới 2 km (1,2 dặm), phụ thuộc vào địa mạo và thời gian của ngày. Ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu, được gọi là khoảng lặng đối lưu, là nghịch chuyển nhiệt độ.
Tầng đối lưu được chia thành 6 khu vực luồng luân chuyển theo đới, gọi là các quyển hoàn lưu. Các quyển hoàn lưu này chịu trách nhiệm cho hoàn lưu khí quyển và tạo ra các hướng gió thịnh hành.
Nguyên nhân các biến đổi nhiệt độ trong tầng đối lưu là do nhiệt độ được xác định bởi bức xạ nhiệt từ mặt đất ngược trở lại không khí. Mặc dù tia nắng Mặt Trời tiếp xúc với phần không khí ở trên cao trước, nhưng không khí khá trong suốt nghĩa là nó hấp thụ rất ít năng lượng của tia nắng. Đa phần năng lượng Mặt Trời rơi xuống mặt đất, tại đây, nó bị hấp thụ mạnh bởi mặt đất, và làm mặt đất nóng lên (nóng hơn không khí trên cao). Mặt đất nóng truyền nhiệt trực tiếp cho lớp không khí gần mặt đất; không khí gần mặt đất nóng lên và nở ra, nhẹ hơn phần không khí lạnh ở trên và bay lên cao nhờ lực đẩy Ácsimét. Khi không khí nóng bay lên cao, nó giãn nở đoạn nhiệt nghĩa là thể tích tăng và nhiệt độ giảm (giống như cách hoạt động của một số tủ lạnh, máy điều hòa). Càng lên cao, không khí càng nguội dần. Khi ra xa khỏi bề mặt Trái Đất thì nhiệt đối lưu có các hiệu ứng nhỏ hơn và không khí lạnh hơn. Ở các cao độ lớn hơn thì không khí loãng hơn và giữ nhiệt kém hơn, khiến cho nhiệt bị tản đi hết. Cứ mỗi khi độ cao tăng lên 1.000 mét thì nhiệt độ lại giảm trung bình khoảng 6,5 °C.
Mặc dù việc nhiệt độ giảm theo độ cao là xu hướng chung trong tầng đối lưu, thực tế đôi khi có ngoại lệ, gọi là hiện tượng nghịch nhiệt. Ví dụ ở châu Nam Cực, nhiệt độ tăng khi lên cao. Một ví dụ khác, hàng năm, xung quanh Hà Nội, Việt Nam, về đầu mùa đông có những đợt nghịch nhiệt về ban đêm, thường xảy ra vài ngày sau khi gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài cho đến khi gió thịnh hành chuyển sang hướng đông nam và lặp lại khi có đợt gió mùa mới. Trong điều kiện nghịch nhiệt, khí thải từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp bị ứ đọng ở tầng thấp, không tỏa đi được, do chúng lạnh và nặng hơn các lớp khí bên trên.
Đỉnh tầng đối lưu đánh dấu giới hạn của tầng đối lưu và nó được nối tiếp bằng tầng bình lưu. Nhiệt độ ở phía trên đỉnh tầng đối lưu lại tăng lên chậm cho tới cao độ khoảng 50 km. Nói chung, các máy bay phản lực bay ở gần phần trên cùng của tầng đối lưu. Hiệu ứng nhà kính cũng diễn ra trong lớp trên cùng tầng đối lưu.
Áp suất và cấu trúc nhiệt độ
Thành phần
Thành phần hóa học của tầng đối lưu về cơ bản là đồng nhất, với ngoại lệ đáng chú ý nhất là hơi nước. Nguồn hơi nước nằm tại bề mặt thông qua quá trình bốc hơi nước và thoát hơi nước. Bên cạnh đó, do nhiệt độ không khí trong tầng đối lưu giảm đi theo độ cao và áp suất hơi bão hòa giảm mạnh theo nhiệt độ nên lượng hơi nước có thể tồn tại trong không khí cũng giảm mạnh theo độ cao. Vì thế tỷ lệ hơi nước thông thường là lớn nhất ở gần bề mặt và giảm theo độ cao.
Áp suất
Áp suất khí quyển là cao nhất tại mực nước biển và giảm theo độ cao. Điều này là do khí quyển rất gần với trạng thái cân bằng thủy tĩnh, vì thế áp suất là tương đương với trọng lượng của không khí phía trên điểm đang xét. Thay đổi về áp suất theo độ cao vì thế có thể tính toán theo mật độ bằng phương trình thủy tĩnh:
trong đó:
gn là gia tốc trọng trường (9,80665 m/s2)
ρ là mật độ
z là cao độ
p là áp suất
R là hằng số khí (8,314472(15) J • K−1 • mol−1)
T là nhiệt độ, tính theo kelvin
m là phân tử gam (trung bình)
Do nhiệt độ về nguyên lý cũng phụ thuộc vào độ cao, nên người ta cũng cần một phương trình nữa để xác định áp suất theo độ cao, như đề cập trong phần kế tiếp dưới đây.
Nhiệt độ
Nhiệt độ trong tầng đối lưu nói chung giảm khi độ cao tăng lên. Mức độ suy giảm nhiệt độ , được gọi là tỷ lệ giảm nhiệt. Nguyên nhân của sự suy giảm này là như sau:
Khi khối khí bốc lên, nó giãn nở, do áp suất thấp hơn tại các cao độ lớn hơn. Do khối khí giãn nở, nó ép vào không khí bao quanh nó, thực hiện công cơ học; nhưng nói chung nó không thu được nhiệt trong trao đổi từ môi trường của nó, do nó có tính dẫn nhiệt kém (quá trình như thế được gọi là quá trình đoạn nhiệt). Do khối khí sinh công nhưng không thu được nhiệt nên nó mất năng lượng và vì thế nhiệt độ của nó giảm xuống. Trật tự ngược lại cũng là đúng cho các khối khí chìm xuống.
Do trao đổi nhiệt dQ có liên quan tới thay đổi entropy dS theo phương trình dQ = T • dS, nên phương trình của nhiệt độ như một hàm số của độ cao cho khí quyển được trộn kỹ là
trong đó S là entropy. Tỷ lệ mà nhiệt độ giảm theo độ cao trong những điều kiện như thế được gọi là tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt.
Đối với không khí khô, là gần giống như khí lý tưởng nên phương trình đoạn nhiệt cho khí lý tưởng
trong đó là suất nhiệt dung (=1,4 cho không khí) có thể áp dụng được. Kết hợp với phương trình cho áp suất, đưa ra Tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt khô
Nếu không khí chứa hơi nước thì sự làm lạnh không khí có thể gây ra ngưng tụ nước và trạng thái của nó không còn giống như của khí lý tưởng nữa. Nếu không khí là bão hòa áp suất hơi thì tỷ lệ mà theo đó nhiệt độ giảm theo độ cao được gọi là Tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt bão hòa. Tổng quát hơn, tỷ lệ thật sự mà nhiệt độ giảm theo độ cao được gọi là Tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường.
Trên thực tế, trong tầng đối lưu tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường trung bình là khoảng 6,5 °C cho mỗi km (1.000 m hay 3,567 °F trên mỗi 1.000 ft) gia tăng thêm về độ cao.
Tỷ lệ giảm nhiệt độ môi trường ( thực tế) thông thường không bằng tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt (hay tương ứng là ). Nếu không khí phía trên là ấm hơn so với dự báo bởi tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt () thì khi khối khí bốc lên và giãn nở, nó sẽ đạt tới độ cao mới với nhiệt độ thấp hơn so với môi trường quanh nó. Trong trường hợp này, khối khí là đặc hơn so với xung quanh nên nó có xu hướng bị chìm xuống tới độ cao ban đầu và không khí là ổn định để chống lại việc bị đẩy lên. Ngược lại, nếu không khí phía trên là lạnh hơn so với dự báo bởi tỷ lệ giảm nhiệt độ đoạn nhiệt () thì khi khối khí bốc lên tới độ cao mới nó sẽ có nhiệt độ cao hơn và mật độ thấp hơn so với xung quanh và nó sẽ tiếp tục được gia tốc lên phía trên.
Nhiệt độ giảm tại các vĩ độ trung bình từ trung bình khoảng 15 °C ở mực nước biển tới khoảng -55 °C ở cao độ bắt đầu khoảng lặng đối lưu. Tại các vùng cực, tầng đối lưu là mỏng hơn và nhiệt độ chỉ giảm tới khoảng -45 °C trong khi tại xích đạo thì nhiệt độ tại đỉnh tầng đối lưu có thể đạt tới -75 °C.
Khoảng lặng đối lưu
Khoảng lặng đối lưu là khu vực ranh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu.
Việc đo sự thay đổi nhiệt độ theo độ cao trong tầng đối lưu và tầng bình lưu giúp nhận ra vị trí của khoảng lặng đối lưu. Tại tầng đối lưu thì nhiệt độ giảm theo độ cao nhưng ngược lại, trong tầng bình lưu thì nhiệt độ ban đầu giữ ở mức không đổi rồi sau đó lại tăng lên theo độ cao. Khu vực của khí quyển mà tỷ lệ giảm nhiệt thay đổi dấu từ dương (tầng đối lưu) sang âm (tầng bình lưu) được xác định như là khoảng lặng đối lưu. Vì thế, khoảng lặng đối lưu là lớp nghịch nhiệt và ở đây chỉ có rấtít sự pha trộn giữa hai tầng của khí quyển.
Trên Sao Hỏa
Trên Sao Hỏa, tầng đối lưu cao đến 40 km với nhiệt độ giảm dần theo độ cao. Tại ranh giới giữa tầng đối lưu và bình lưu, nhiệt độ tương đối ổn định khoảng 120 K. Lượng bụi lớn trong khí quyển Sao Hỏa đã đẩy cao tầng đối lưu lên như vậy (so với khí quyển Trái Đất chỉ khoảng 10 đến 20 km).
Ở tầng đối lưu, hai thành phần chính quyết định cấu trúc khí quyển là CO2 và bụi khí quyển. CO2 bức xạ nhanh nhiệt ra không trung, tại điều kiện nhiệt độ của Sao Hỏa, làm nguội nhanh khí quyển vào ban đêm. Các hạt bụi hấp thụ tốt năng lượng Mặt Trời và phân phối đều nhiệt lượng trong tầng đối lưu. Trong những đợt bão bụi, ảnh hưởng của bụi càng rõ, làm thay đổi nhiệt độ ngày đêm đáng kể.
Sự thay đổi nhiệt độ ở tầng đối lưu, trên phạm vi toàn Sao Hỏa, tuân theo dao động ngày đêm đều đặn, đồng bộ với vị trí Mặt Trời, đôi khi gọi là "thủy triều nhiệt".
Trên Sao Mộc
Khí quyển Sao Mộc cũng có tầng thấp nhất là tầng đối lưu. Sự thay đổi nhiệt độ theo chiều thẳng đứng ở Sao Mộc tương tự như với khí quyển Trái Đất. Nhiệt độ của tầng đối lưu giảm với chiều cao cho đến khi đạt mức tối thiểu ở vùng đỉnh của tầng đối lưu, tại khoảng lặng đối lưu. Trên Sao Mộc, khoảng lặng đối lưu ở vào khoảng 50 km bên trên những đám mây có thể nhìn thấy được (ở khoảng mức áp suất 1 bar), tại đó áp suất và nhiệt độ là khoảng 0,1 bar và 110 K. Bên trên tầng đối lưu, từ tầng bình lưu trở lên, nhiệt độ lại tăng lên.
Khoảng lặng đối lưu của Sao Mộc chứa một cấu trúc mây phức tạp. Các đám mây ở trên cao, nằm trong phạm vi áp suất 0,6 đến 0,9 bar, chứa băng amonia. Bên dưới những đám mây băng amonia, những đám mây đặc hơn chứa amoni hydro sulfide hoặc amoni sulfide (nằm trong tầng áp suất 1 đến 2 bar) và nước (3 đến 7 bar) được cho là tồn tại. Không có mây mêtan do nhiệt độ quá cao để mêtan có thể ngưng tụ. Những đám mây hơi nước tạo thành tầng mây dày đặc nhất và có ảnh hưởng mạnh nhất đến động lực học của bầu khí quyển. Đây là hệ quả của nhiệt ngưng tụ cao của nước và hàm lượng nước cao hơn so với amonia và hydro sulfide (do oxy là nguyên tố hóa học phổ biến hơn nitơ hoặc lưu huỳnh). |
Trong các ngành thống kê và tối ưu hóa, bình phương tối thiểu có trọng số là một phương pháp mở rộng của bình phương tối thiểu.
Mục đích của phương pháp, tương tự như bình phương tối thiểu, là tìm hàm f(x) khớp nhất với các dư liệu đo đạc (xi, yi) với i = 1, 2,.., n:
f(xi) ≈ yi
Hàm f phụ thuộc vào các tham số pj với j = 1, 2,.., m. Tương tự như bình phương tối thiểu, nội dung của phương pháp là tìm các tham số pj để thu được một biểu thức thể hiện sai khác nhỏ nhất giữa f và dữ liệu. Khác với bình phương tối thiểu, trong phương pháp bình phương tối thiểu có trọng số, thay vì dùng:
Người ta thêm vào biểu thức các "trọng số" thể hiện độ tin cậy của từng điểm đo đạc:
Thông thường, wi được đặt bằng nghịch đảo phương sai của từng điểm đo:
Nghĩa là điểm đo đạc càng chính xác (phương sai càng nhỏ) thì có trọng số càng cao trong biểu thức. |
Trong thống kê, kiểm định chi bình phương hay kiểm tra chi-2 (đôi khi đọc là "khi bình phương") là một họ các phương pháp kiểm định giả thiết thống kê trong đó thống kê kiểm định tuân theo phân bố chi-2 nếu giả thuyết không là đúng. Chúng gồm:
Kiểm định chi bình phương Pearson
Kiểm định chi bình phương Yates
Kiểm định chi bình phương Mantel-Haenszel
...
Dạng thống kê kiểm định thông dụng nhất là:
Với o là dữ liệu đo đạc, e là giá trị dự đoán chính xác.
Phương pháp kiểm định chi bình phương giúp tìm ra các xu hướng có thực từ một đo đạc chứa nhiễu loạn ngẫu nhiên. Nó có thể áp dụng cho dữ liệu:
lấy ngẫu nhiên từ một tập hợp
các đo đạc là độc lập với nhau
...
Phương pháp này cũng kiểm tra tính độc lập thống kê và mức độ khớp của dữ liệu.
Ghi chú |
Kevin Mitnick (6 tháng 8 năm 1963 – 16 tháng 7 năm 2023) là một trong những hacker phạm tội nổi tiếng nhất thế giới. Những "thành tích" bất hảo của Kevin Mitnick làm cho anh ta trở nên nổi tiếng bao gồm nhiều lần xâm nhập vào các hệ thống tối mật của chính phủ Hoa Kỳ và một số ngân hàng danh tiếng. Năm 1999 Mitnick bị bắt giam và phải bồi thường một khoản tiền lớn cho những thiệt hại anh ta đã gây ra. Sau thời gian cải tạo, cảm thấy chưa yên tâm, chính quyền địa phương nơi Mitnick ở vẫn duy trì lệnh cấm anh chàng hacker này sử dụng các phương tiện thông tin như máy tính, Internet, điện thoại di động...
Mitnick là một trong những hacker nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Ông từng thâm nhập thành công vào mạng nội bộ và ăn cắp phần mềm của nhiều công ty danh tiếng, trong đó có Sun Microsystems và Motorola.
Từ hồi còn là một thiếu niên, Mitnick đã đột nhập vào mạng điện thoại trước khi chuyển sang máy tính. Dù vậy, ông không bao giờ ăn cắp tiền hay gây ra những thiệt hại nghiêm trọng mà chỉ muốn "trải nghiệm cảm giác ly kỳ".
Hiện nay, những doanh nghiệp từng bị Mitnick tấn công lại thuê ông phá vỡ hệ thống của họ để tìm ra khiếm khuyết bảo mật. |
Phần mềm quảng cáo hay nhu liệu quảng cáo thường đính kèm với những mẩu quảng cáo nhỏ, chúng thường được phân phát dưới hình thức phần mềm miễn phí hay phiên bản dùng thử. Và chỉ khi bạn trả tiền cho sản phẩm dùng thử đó, các quảng cáo sẽ "teo" nhỏ hoặc biến mất tùy theo chính sách (policy) của hãng phần mềm đó. Bên cạnh đó, phần mềm gián điệp (spyware) cũng là một trong các "biến thể" của phần mềm quảng cáo, chúng được bí mật cài vào máy tính người sử dụng khi họ đang duyệt web. Các spyware này sẽ theo dấu người dùng khi họ lang thang trên Internet và ghi lại chúng, sau đó gửi thông tin về một địa chỉ nào đó trên Internet. Phần lớn các spyware thường vô hại, tuy nhiên, ngày nay bắt đầu xuất hiện nhiều những spyware đính kèm virus, sâu (worm) hoặc "ngựa thành Troa" (Trojan horse) có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho một hoặc một hệ thống máy tính. |
Ngày quốc khánh là ngày lễ quan trọng của một quốc gia. Nó đánh dấu một sự kiện lịch sử, chính trị hoặc văn hóa gắn liền với lịch sử Nhà nước hiện tại của quốc gia đó. Tại hầu hết các nước, ngày quốc khánh đánh dấu sự khai sinh của quốc gia: ngày giành được độc lập như ở Mỹ, lật đổ chế độ cũ như tại Pháp, ngày thông qua hiến pháp như ở Thổ Nhĩ Kỳ...
B
Bahamas: 10 tháng 7
Bahrain: 16 tháng 12
Ba Lan: 3 tháng 5 và 11 tháng 11
Bangladesh: 26 tháng 3
Barbados: 30 tháng 11
Belarus: 31 tháng 7
Bỉ: 21 tháng 7
Belize: 10 tháng 9 và 21 tháng 9
Bénin: 1 tháng 8
Bermuda: 24 tháng 5
Bhutan: 17 tháng 12
Bolivia: 6 tháng 8
Bonaire (Hà Lan) 6 tháng 9
Bosnia và Herzegovina: 1 tháng 3
Botswana: 30 tháng 9
Brasil: 7 tháng 9
Anh (11 tháng 6 Ngày nước Anh)
Quần đảo Virgin thuộc Anh 1 tháng 7
Bồ Đào Nha: 10 tháng 6
Brunei: 23 tháng 2
Bulgaria: 3 tháng 3
Burkina Faso: 4 tháng 8
Burundi: 1 tháng 7
C
Campuchia: 9 tháng 11
Cameroon: 20 tháng 5
Canada: 1 tháng 7
Cape Verde: 12 tháng 9
Catalonia (Tây Ban Nha) 11 tháng 9
Quần đảo Cayman thứ Hai đầu tiên của tháng 7
Cộng hoà Trung Phi: 1 tháng 12
Tchad: 11 tháng 8
Chile: 18 tháng 9
Trung Quốc 1 tháng 10
Colombia: 20 tháng 7
Comoros: 6 tháng 7
Quần đảo Cook: 4 tháng 8
Costa Rica: 15 tháng 9
Bờ biển Ngà: 7 tháng 8
Croatia: 25 tháng 6
Cuba: 1 tháng 1
Curaçao (Hà Lan) 2 tháng 7
Síp: 1 tháng 10
Cộng hoà Séc: 28 tháng 10 (ngày này của Cộng hòa Séc hơi phức tạp)
D
Cộng hoà Dân chủ Congo: 30 tháng 6
Đan Mạch: 5 tháng 6
Djibouti: 27 tháng 6
Dominica: 3 tháng 11
Cộng hòa Dominicana: 27 tháng 2 16 tháng 8
Đ
E
Đông Timor: 28 tháng 11
Ecuador: 10 tháng 8
Ai Cập: 23 tháng 7: 6 tháng 10
El Salvador: 15 tháng 9
Anh: 23 tháng 4
Guinea xích đạo: 12 tháng 10
Eritrea: 24 tháng 5
Estonia: 24 tháng 2
Eswatini: 6 tháng 9
Ethiopia: 28 tháng 5
F
Quần đảo Falkland: 14 tháng 6
Quần đảo Faroe (Đan Mạch) 29 tháng 7
Fiji: 10 tháng 10
Phần Lan: 6 tháng 12
Pháp: 14 tháng 7 (Ngày Fête de la Fédération)
Guyana thuộc Pháp (Pháp) 14 tháng 7
Polynesia thuộc Pháp (Pháp) 14 tháng 7
G
Gabon: 17 tháng 8
Gambia: 18 tháng 2
Gruzia: 26 tháng 5
Đức: 3 tháng 10
Ghana: 6 tháng 3
Gibraltar 10 tháng 9
Hy Lạp: 25 tháng 3 & 28 tháng 10
Greenland (Đan Mạch) 21 tháng 6 (Ngày dài nhất trong năm)
Grenada: 7 tháng 2
Guadeloupe (Pháp) 14 tháng 7
Guam (Hoa Kỳ) 21 tháng 7
Guatemala: 15 tháng 9
Guernsey and Dependencies: 9 tháng 5
Guinea: 3 tháng 4
Guinea-Bissau: 24 tháng 9
Guyana: 23 tháng 2
H
Haiti: 1 tháng 1
Herm: 9 tháng 5
Honduras: 15 tháng 9
Hong Kong: 1 tháng 7
Hungary: 15 tháng 3: 20 tháng 8 23 tháng 10
I
Iceland: 17 tháng 6
Ấn Độ: 26 tháng 1-Republic Day (Anniversary of India becoming the first republic in the British Commonwealth of Nations on 26 tháng 1 năm 1950); 15 tháng 8-Independence Day (Anniversary of India gaining independence from the British Empire on 15 tháng 8 năm 1947); 2 tháng 10-Birthday of Mahatma Gandhi, Father of the Nation.
Indonesia: 17 tháng 8
Iran: 1 tháng 4
Iraq: 3 tháng 10
Ireland: 17 tháng 3 (St. Patrick's Day)
Đảo Man: 5 tháng 7
Israel: 14 tháng 5 (around the --, according to Jewish calendar)
Ý: 2 tháng 6 (Festa della Repubblica)
Nhật Bản: 11 tháng 2 (National Foundation Day)
Jersey: 9 tháng 5
Jordan: 25 tháng 5
K
Kazakhstan: 25 tháng 10
Kenya: 16 tháng 12
Kiribati: 12 tháng 7
Kuwait: 25 tháng 2
Kyrgyzstan: 31 tháng 8
L
Lào: 2 tháng 12
Latvia: 18 tháng 11
Liban: 22 tháng 11
Lesotho: 4 tháng 10
Liberia: 26 tháng 7
Libya: 1 tháng 9
Liechtenstein: 15 tháng 8
Litva: 16 tháng 2
Luxembourg: 23 tháng 6
M
Macedonia: 8 tháng 9
Macau: 20 tháng 12
Madagascar: 26 tháng 6
Malawi: 6 tháng 7
Malaysia: 31 tháng 8
Maldives ngày đầu tiên của tháng thứ ba trong lịch Hồi giáo
Mali: 22 tháng 9
Malta: 21 tháng 9; 31 tháng 3; 8 tháng 9; 13 tháng 12; 7 tháng 6
Quần đảo Marshall: 1 tháng 5
Martinique (Pháp) 14 tháng 7
Mauritanie: 28 tháng 11
Mauritius: 12 tháng 3
Mayotte (Pháp) 14 tháng 7
México: 16 tháng 9
Liên bang Micronesia: 3 tháng 11 (Independence Day)
Moldova: 27 tháng 8
Monaco: 19 tháng 11
Mông Cổ: 11 tháng 7
Montenegro 13 tháng 7
Montserrat ngày thứ bảy của tuần thứ hai vào tháng 6
Maroc: 2 tháng 3
Mozambique: 25 tháng 6
Myanmar: 14 tháng 11
N
Namibia: 21 tháng 3
Nauru: 31 tháng 1
Nepal: 18 tháng 2: 28 tháng 12
Antille thuộc Hà Lan (Hà Lan) 30 tháng 4
Hà Lan (quốc gia) (Queensday) 30 tháng 4, (Bevrijdingsdag|Liberation Day) 5 tháng 5, 15 tháng 12
Nouvelle-Calédonie (Pháp) 14 tháng 7
New Zealand: 6 tháng 2 (Waitangi Day)
Nhật Bản: 11 tháng 2 (Ngày Kiến quốc)
Nicaragua: 15 tháng 9
Niger: 18 tháng 12
Nigeria: 1 tháng 10 và 29 tháng 5
Niue: 6 tháng 2
Đảo Norfolk (Úc) 8 tháng 6
Triều Tiên: 8 tháng 9.
Bắc Ireland: 17 tháng 3 (St. Patrick's Day) and 12 tháng 7 (Battle of the Boyne Day)
Quần đảo Bắc Mariana: 8 tháng 1
Na Uy: 17 tháng 5
O
Oman: 18 tháng 11
P
Pakistan: 28 tháng 1 (Pakistan day), 23 tháng 3 (Ngày Cộng Hoà), 14 tháng 8 (Ngày Độc Lập)
Palau: 9 tháng 7
Panama: 3 tháng 11
Papua New Guinea: 16 tháng 9
Paraguay: 14 tháng 5
Peru: 28 tháng 7
Philippines: 12 tháng 6
Quần đảo Pitcairn Thứ bảy của tuần thứ 2 trong tháng 6
Ba Lan: 3 tháng 5, Ngày Công bố hiến pháp, và 11 tháng 11, (Ngày Độc Lập)
Puerto Rico (Hoa Kỳ) 25 tháng 7 (Ngày công bố hiến pháp)
Q
Qatar, 18 tháng 12 (Official National Day)
Québec, 24 tháng 6 (Quebec's National Holiday)
R
Cộng hoà Congo: 15 tháng 8
Réunion (Pháp) 14 tháng 7
România: 1 tháng 12
Nga: 12 tháng 6
Rwanda: 1 tháng 7
S
Saba (Hà Lan) 3 tháng 12
Sint Eustatius (Hà Lan) 16 tháng 11
Saint Helena Ngày thứ bảy của tuần thứ 2 trong tháng 6
Saint Kitts và Nevis: 19 tháng 9
Saint Lucia: 13 tháng 12
Saint Maarten (Hà Lan) 11 tháng 11
Saint-Pierre và Miquelon (Pháp) 14 tháng 7
Saint Vincent và Grenadines: 27 tháng 10
Sami (Thuỵ Điển, Phần Lan, Na Uy, Nga) 6 tháng 2
Samoa: 1 tháng 6
San Marino: 3 tháng 9
São Tomé và Príncipe: 12 tháng 7
Sark: 9 tháng 5
Ả Rập Xê Út: 23 tháng 9
Scotland: 30 tháng 11 (St. Andrew's Day)
Sénégal: 4 tháng 4
Serbia: 15 tháng 2
Seychelles: 18 tháng 6
Sierra Leone: 27 tháng 4
Singapore: 9 tháng 8
Slovakia: 29 tháng 8: 1 tháng 9
Slovenia: 25 tháng 6
Quần đảo Solomon: 7 tháng 7
Somalia: 21 tháng 10
Nam Phi: 27 tháng 4
Quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich Ngày thứ 7 của tuần thứ 2 trong tháng 6
Hàn Quốc: 15 tháng 8
Tây Ban Nha: 12 tháng 10 (Hispanic Day)
Sri Lanka: 4 tháng 2
Sudan: 1 tháng 1
Suriname: 25 tháng 11
Thụy Điển: 6 tháng 6
Thụy Sĩ: 1 tháng 8
Syria: 17 tháng 4
T
Triều Tiên (Bắc Triều Tiên): 9 tháng 9
Tajikistan: 9 tháng 9
Trung Hoa Dân Quốc (thường gọi là Đài Loan): 10 tháng 10
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (thường gọi là Trung Quốc): 1 tháng 10
Tanzania: 26 tháng 4
Tartarstan: 30 tháng 8
Thái Lan: 5 tháng 12
Togo: 27 tháng 4
Tonga: 4 tháng 6
Transnistria: 2 tháng 9
Trinidad và Tobago: 31 tháng 8
Tunisia: 20 tháng 3
Thổ Nhĩ Kỳ: 29 tháng 10
Bắc Síp: 15 tháng 11
Turkmenistan: 27 tháng 10
Quần đảo Turks và Caicos: 30 tháng 8
Tuvalu: 1 tháng 10
U
Uganda: 9 tháng 10
Ukraina: 24 tháng 8
Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất: 2 tháng 12
Anh Quốc: 12 tháng 6
Hoa Kỳ: 4 tháng 7
Quần đảo Virgin thuộc Mỹ (Hoa Kỳ) 31 tháng 3
Uruguay: 25 tháng 8
Uzbekistan: 1 tháng 9
Uzupis: 1 tháng 4
V
Vanuatu: 30 tháng 7
Vatican: 24 tháng 4
Venezuela: 5 tháng 7
Việt Nam: 2 tháng 9
W
Wales 2 tháng 3 (St. David's Day)
Y
Yemen: 22 tháng 5
Nam Tư 29 tháng 11
Z
Zambia: 24 tháng 10 |
Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling. Trong hầu hết các phần của bộ truyện, ông là hiệu trưởng của trường phù thủy Hogwarts. Là một nhân vật quan trọng trong cốt truyện của Harry Potter, ông là người sáng lập và lãnh đạo của Hội Phượng hoàng, một tổ chức chuyên chiến đấu chống lại Chúa tể Voldemort, nhân vật phản diện chính của bộ truyện.
Dumbledore được Richard Harris thể hiện trong các bộ phim chuyển thể từ Harry Potter và Hòn đá phù thủy (2001) và Harry Potter và Phòng chứa Bí mật (2002), tuy nhiên Harris đã qua đời vì căn bệnh của Hodgkin vào tháng 8 năm 2002 trước khi phát hành Phòng chứa Bí mật ba tháng muộn hơn vào ngày 15 tháng 11. Sau cái chết của Harris, Michael Gambon đã đóng vai Dumbledore trong sáu bộ phim còn lại của Harry Potter từ năm 2004 đến năm 2011. Jude Law đóng vai cụ Dumbledore là một người đàn ông trung niên trong các bộ phim tiền truyện Sinh vật huyền bí: Tội ác của Grindelwald (2018) và Sinh vật huyền bí: Những bí mật của Dumbledore (2022).
Rowling cho biết bà đã chọn cái tên Dumbledore, một từ phương ngữ của "bumblebee", vì tình yêu âm nhạc của cụ Dumbledore: cô tưởng tượng ông đang đi xung quanh "ngâm nga một mình rất nhiều".
Thông tin chung
Albus Dumbledore sinh năm 1881, mất năm 1997 (116 tuổi).
Bề ngoài
Giáo sư Albus Dumbledore, được miêu tả với dáng người cao và ốm, với mái tóc và bộ râu bạc trắng dài đến thắt lưng. Gương mặt hằn lên những nếp nhăn với đôi mắt xanh đậm và chiếc mũi gãy (ít nhất ông đã hai lần bị đấm bể mũi, một trong hai lần là do em trai ông, Aberforth, gây ra tại tang lễ của cô em gái Ariana). Giáo sư thường đeo một cặp kính hình bán nguyệt (hình nửa vầng trăng) trễ xuống mũi. Thời còn trẻ, ông có mái tóc màu nâu vàng và không rõ lý do tại sao lại có một vết thẹo ở đầu gối trái. Vết sẹo đó là bản đồ cho thấy thế giới ngầm ở Luân Đôn. Ông thường mặc một bộ áo choàng dài quét đất có hoa văn là những họa tiết về Mặt Trăng và những vì sao. Những chi tiết cho thấy ông có những điểm tương đồng với vị phù thủy huyền thoại Merlin. Thần hộ mệnh của ông là một con phượng hoàng.
Tính cách
Giáo sư Dumbledore là một người có tri thức uyên thâm. Trong mọi trường hợp, ông bình tĩnh đến lạ thường. Dumbledore rất vui vẻ nhưng đôi khi đâm ra "tưng tửng". Tuy vậy, các học sinh trong trường rất thích tính cách này (trừ Draco Malfoy và một vài người trong nhà Slytherin). Ông cũng là người cao thượng, nhân hậu, tài giỏi và vui nhộn, cũng như các phù thủy thiện Merlin hay Gandalf (trong Chúa tể của những chiếc nhẫn của nhà văn J. R. R. Tolkien). Ông là một trong những người có ý nghĩa lớn nhất đối với Harry Potter, và là người duy nhất mà Chúa tể Hắc ám Voldemort còn e dè. Ông được mọi người tôn sùng là "Phù thủy vĩ đại nhất mọi thời đại".Và là hiệu trưởng vĩ đại nhất mà trường Hogwart từng có.
Xuyên suốt bộ truyện, giáo sư Albus Dumbledore luôn là một người có tư tưởng hiện đại, không phân biệt giữa dòng máu phù thủy thuần chủng và dân Muggle. Sau lần sai sót hồi trẻ với Grindelwald - người Albus Dumbledore yêu năm 18 tuổi, ông không quan trọng về cái được gọi là "máu thuần chủng". Ông cho rằng quyết định của mỗi cá nhân mới cho thấy tính cách của từng người, đúng hơn ngày sinh, dòng máu hay dòng họ của người đó. Ông nói rằng "không quan trọng việc một người sinh ở đâu mà quan trọng là họ lớn lên như thế nào”. Chúa tể Voldemort, rất tức giận, cho rằng ông là "kẻ bênh vực cho bọn Muggle và phù thủy Máu bùn". Không giống đa số những phù thủy khác, giáo sư Dumbledore không sợ phải gọi tên thật của Voldemort là Tom Riddle vì ông cho rằng "việc sợ hãi một cái tên chỉ càng gây thêm nỗi sợ về con người ấy". Ông thường gọi Voldemort là "Tom" trong mỗi lần đối mặt, mặc cho việc hắn có đồng ý hay không.
Điều được coi là điểm yếu trong tính cách của giáo sư Dumbledore là việc tin tưởng một người mà “khó được tin tưởng”. Sự tin tưởng này đôi khi bị những người xung quanh chỉ trích, nhưng với sự sáng suốt của ông thì đó không phải là một điều cần bàn đến. Ông luôn tỏ ra là một người có tài năng xuất chúng lỗi lạc, nhân hậu, hài hước nhưng đôi khi hơi kì lạ, thường là trong những cuộc chiến, đặc biệt là đối với những người chống lại ông. Giáo sư Dumbledore hiếm khi tỏ ra mất kiên nhẫn, luôn luôn bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên trong bất kì tình huống nào, rất lịch sự thậm chí đối với những người ông coi là kẻ thù. Ông cũng là một người yêu thích âm nhạc, gọi nó là "một dạng ma thuật".
Sở thích
Giáo sư Dumbledore thích nhạc giao hưởng và trò ném ki mười chai. Ngoài ra, ông cũng là một người hảo ngọt. Trong lần đầu tiên xuất hiện ở phần một, giáo sư Minerva McGonagall thấy ông đang ăn loại kẹo sirô chanh (hay còn gọi là "giọt chanh") của dân Muggle. Tính thích đồ ngọt của ông còn thể hiện ở mật khẩu để vào văn phòng là "kẹo giọt chanh". Tuy nhiên, ông không thích kẹo dẻo đủ vị của thương hiệu Bertie Bott vì hồi còn trẻ ông đã ăn nhằm viên kẹo nhớ đời có vị "nôn mửa" và cuối tập truyện Harry Potter và hòn đá phù thủy ông lại một lần nữa ăn phải vị ráy tai trong khi hương vị ông yêu thích là quả mâm xôi. Vị mứt yêu thích của ông là vị dâu. Thời còn trẻ thì ông từng rất muốn thu thập đủ các Bảo bối Tử thần (the Deathly Hallows) cùng Gellert Grinderwald.
Đũa phép
Giáo sư Dumbledore là chủ nhân của Đũa phép Cơm nguội (The Elder Wand) hay còn gọi là Cây đũa của Vận mệnh (The Wand of Destiny), một trong những Bảo bối Tử thần. Cây đũa thần làm từ gỗ cây cơm nguội. Người chủ cũ của nó là tên phù thủy hắc ám lừng danh Gellert Grindelwald trước thời Chúa tể Voldemort. Giáo sư đã đánh bại Grindelwand và trở thành chủ nhân của cây đũa, cho phép ông bất khả chiến bại nhưng đồng thời cũng khó khăn trong việc kiểm soát được sức mạnh của nó. Khi ông chết, cây đũa cũng được chôn theo. Voldemort khi biết được vị trí cũng như sức mạnh của cây đũa đã đột nhập vào mộ của ông để lấy nó. Nhưng để thật sự làm chủ nó, Voldemort đã giết Severus Snape, người mà hắn cho là chủ nhân của cây đũa ấy. Nhưng thật ra, giáo sư Dumbledore đã bị Draco Malfoy giải giới trước khi bị Snape giết nên mặc dù không giết ông nhưng Draco gián tiếp trở thành chủ nhân chính thức của cây đũa. Harry Potter trong một lần giao chiến với Draco đã giải giới hắn và trở thành chủ nhân thật sự của Đũa phép Cơm nguội. Cây đũa đó có sức mạnh mà những cây đũa khác không làm được, như việc sửa lại cây đũa bị hỏng của Harry, điều mà người làm đũa phép - Ông Ollivander - đã không làm được. Nên sau khi trận chiến Hogwarts kết thúc, Harry đã dùng nó để phục hồi cây đũa phép của mình bị hỏng sau lần trốn chạy con rắn Nagini của chúa tể hắc ám Voldemort ở đầu tập 7 và bẻ gãy Cây đũa Cơm nguội,
Trong phim, Đũa phép Cơm nguội có màu nâu và có những vật thể hình cầu gắn xuyên suốt trên thân đũa.
Thực ra Đũa phép Cơm nguội không phải cây đũa đầu tiên của Dumbledore. Ông từng dùng một cây đũa khác từ khi bắt đầu nhập học trường Hogwarts cho đến khi đánh bại Gellert Grindewald năm 1945.
Tại trường Hogwarts
Khi Albus nhập trường Hogwarts, ông làm bạn với Elphias Doge, người thường bị chế nhạo bởi bộ mặt xanh xao của mình, di chứng của bệnh đậu mùa trước đó. Trong suốt quá trình học ở Hogwarts, Dumbledore được biết đến là một sinh viên xuất chúng nhất đã từng học ở trường. Ông giành được nhiều giải thưởng và có mối liên hệ tốt với những pháp sư đáng chú ý nhất của thời đại. Những bản nghiên cứu và bài luận của ông đặt nền móng cho những bài báo như "Thuật biến hình ngày nay", "Sự thách thức của Bùa ngải" và "Độc dược Thực hành". Nhà của ông là Gryffindor, thông tin này được Hermione Granger cho Harry Potter biết trong phần một, Hòn đá phù thủy trên chuyến tàu đến Hogwarts.
Gia đình
Trong gia đình cụ có ba anh em mà cụ là anh cả. Hai người kia là em trai Aberforth kém ông 3 tuổi, một người có tính cách trái ngược cụ hoàn toàn (nhưng họ vẫn luôn sống hòa thuận, yêu thương lẫn nhau) và em gái Ariana (sau khi người em gái này mất do một tai nạn trong cuộc xung đột giữa hai người anh và Grindelwald, cụ Albus và cụ Aberforth bắt đầu xảy ra xung đột trực diện). Ba kẻ Muggle đã tấn công Ariana, khi đó mới 6 tuổi, sau khi nhìn thấy Ariana sử dụng phép thuật. Hậu quả là cô bé bị suy sụp về năng lực pháp thuật cũng như về mặt tinh thần trong suốt phần đời còn lại của mình. Bố của Albus, ông Percival Dumbledore, đã tấn công ba đứa trẻ Muggle để trả thù cho con gái, và sau đó đã bị tuyên án tù chung thân ở ngục Azkaban. Để tránh cho Ariana khỏi bị đưa vào Bệnh viện Thánh Mungo, mẹ của Albus là Kendra đã chuyển gia đình đến thung lũng Godric, và bệnh tật của cô bé thì được giấu đi. Trong một lần đụng độ với Grindelwald và Alberforth để định đoạt con đường Dumbledore sẽ đi, Ariana đã chết, cho tới nay, chưa ai biết được người giết Ariana thực sự là ai. Quyển sách bịa đặt viết về Dumbledore của Rita Skeeter cho rằng Ariana là một á phù thủy (Squib).
Thành tích
Ông đã đạt được huân chương Merlin đệ nhất đẳng, từng được đề cử cho chức Bộ trưởng pháp thuật nhưng ông từ chối vì gắn bó với trường Hogwarts, ông là người khám phá ra 12 công dụng của máu rồng và đạt thành tựu cao ở thuật giả kim với người cộng sự rất tài giỏi khác là cụ Nicolas Flamel. Ông là người duy nhất mà chúa tể Voldemort phải kiêng dè. Hình của ông được in trên tấm thẻ sôcôla ếch nhái và theo ông thì nếu có một điều thật sự tồi tệ thì đó chính là việc ông không còn có mặt trên mấy tấm thẻ nữa.
Khả năng
Dumbledore có tài sử dụng pháp thuật mà không cần đến đũa phép (thần chú không lời). Ông có khả năng biện luận sắc sảo và sự bình tĩnh nhờ vậy mà giúp cho Harry Potter không bị đuổi học trong phiên tòa hay thoát khỏi sự xâm nhập tâm trí của Voldemort trong tập Harry Potter và Hội Phượng hoàng. Ông có khả năng pháp thuật siêu phàm và là người mà Harry Potter kính trọng nhất.
Sở hữu
Ông sở hữu một cây đũa phép cơm nguội - The Elder Wand, cái Tắt-Sáng - Deluminator và con chim phượng hoàng Fawkes là chủ nhân chiếc lông đuôi trong hai cây đũa phép của Harry Potter và Voldemort và một cái chậu tưởng kí.
Cái chết của Albus Dumbledore
Vào năm học thứ sáu của Harry Potter, số học sinh bắt đầu thưa dần vì "thời đại của Voldemort đã trở lại". Ông thường hay rời trường một cách bí mật trong vài ngày. Và cũng trong năm học này, ông đã mở một lớp học riêng và đặc biệt dành cho Harry. Nội dung của buổi học là những "mảnh ghép" cuộc đời của Chúa tể Hắc ám Voldemort. Một đêm nọ, ông gởi thư gặp riêng Harry và cùng đi ra ngoài trường Hogwarts để phá hủy một Trường sinh linh giá. Để lấy được chiếc hộp đựng Trường sinh linh giá, ông phải uống cạn một loại nước độc. Và loại chất độc ấy làm cho ông yếu dần đi. Về đến trường, bọn Tử thần Thực tử đã lọt vào khuôn viên trường và thực hiện kế hoạch của mình. Draco Malfoy đã được Voldemort giao nhiệm vụ giết Dumbledore. Ông bắt Harry trùm chiếc áo tàng hình để được an toàn và ếm bùa Harry "Bùa bất động toàn thân", vì sử dụng thời cơ duy nhất để ếm bùa lên Harry nên ông mất cơ hội tự vệ và bị Draco tước mất vũ khí. Tuy vậy, Draco Malfoy vẫn không đủ can đảm giết Dumbledore - một phù thủy vĩ đại nhất mọi thời đại. Lúc đó, giáo sư Severus Snape xuất hiện (Snape đã thề với mẹ của Draco bằng "Lời thề bất khả bội" - Unbreakable Vow - là sẽ giúp Draco hoàn thành nhiệm vụ của chúa tể đã giao cho). Sức khỏe ông giảm hẳn vì loại độc dược bảo vệ Trường sinh linh giá vừa tìm được và một bàn tay của ông bị thương khi đi phá hủy một Trường sinh linh giá khác. Ông đã qua đời trong sự tiếc thương của tất cả các phù thủy thiện trên thế giới và là một điểm mốc để thời kì của Voldemort trở lại. Việc ông van xin Snape trước khi chết vẫn còn là một điều bí ẩn. Đó không hẳn là một sự cầu xin tha chết vì Dumbledore không bao giờ coi trọng cái chết cũng như chưa bao giờ van xin ai tha chết cho mình. Trong phần cuối, bí ẩn đã sáng tỏ rằng cái chết của ông là sự dàn xếp trước giữa ông và Severus Snape.
Những câu nói ấn tượng
Sự thật là một thứ vô cùng đẹp đẽ nhưng cũng rất nguy hiểm nên ta phải luôn luôn cảnh giác với nó.
Nói cho cùng thì đối với một đầu óc tổ chức tốt, cái chết cũng giống như một cuộc phiêu lưu vĩ đại khác.
Không quan trọng ta được sinh ra thế nào mà quan trọng là ta lớn lên thành người như thế nào.
Đừng chìm đắm vào những giấc mơ mà quên đi thực tại, hãy nhớ lấy điều đó.
Không chỉ nhờ vào sức lực của chúng ta không thôi, mà chính sự chọn lựa của chúng ta mới chứng tỏ chúng ta thực sự là ai. |
Thời đại Khám phá hay Thời đại Thám hiểm là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ nguyên tàu buồm, khoảng từ đầu thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 trong lịch sử châu Âu. Trong thời kỳ này, người châu Âu bắt đầu đi khám phá thế giới và mở mang chân trời địa lý của họ. Gần đây, một số sử gia gọi thời kỳ này là Thời kỳ Tiếp xúc (tiếng Anh: Contact Period) hay Thời đại bành trướng của châu Âu.
Các cuộc viễn chinh này của người châu Âu dẫn đến sự trỗi dậy của thương mại toàn cầu và các đế quốc thực dân châu Âu. Từ sự liên hệ giữa Cựu Thế giới (châu Âu, Á và Phi) và Tân Thế giới (châu Mỹ và Úc) mà tạo nên tuyến mậu dịch Columbus, trao đổi các loài thực vật, động vật, thực phẩm, quần thể người (bao gồm cả nô lệ), bệnh truyền nhiễm và văn hóa giữa bán cầu Đông và Tây. Các khám phá trong thời đại này và sau đó giúp ta có hoàn thiện bản đồ thế giới. Từ đó, một thế giới quan mới nảy sinh và các nền văn minh xa xôi tiếp xúc, tuy vậy, nó cũng dẫn đến sự lan truyền của những dịch bệnh làm suy giảm dân số và sự bóc lột, chinh phục quân sự và thống trị kinh tế của châu Âu đối với nhiều dân cư bản địa. Nó cũng cho phép sự mở rộng của Kitô giáo trên toàn thế giới: các hoạt động truyền giáo, cuối cùng khiến nó trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.
Khái niệm
Khái niệm về sự khám phá đã được xem xét kỹ lưỡng, phê phán lịch sử thuật ngữ cốt lõi trong thuyết sử học phân chia thời kỳ. Thuật ngữ "thời đại khám phá" đã xuất hiện trong nhiều sử liệu và vẫn được sử dụng khá phổ biến. Sử gia J. H. Parry gọi thời kỳ này là Thời đại Trinh sát (Age of Reconnaissance), lập luận rằng giai đoạn này không chỉ là những cuộc thám hiểm của người châu Âu tới các vùng đất lạ lẫm đối với họ, mà còn góp phần phát triển kiến thức địa lý và khoa học thực nghiệm. "Ta đã chứng kiến những thắng lợi quan trọng đầu tiên của câu hỏi thực nghiệm (empirical inquiry, nghĩa là học hỏi thông qua các thí nghiệm thực tế) trước kiến thức uy tín (authority, nghĩa là học hỏi từ người có uy tín, mà không cần xem xét rằng thông tin đó có đúng hay không), sự khởi đầu của liên kết chặt chẽ giữa khoa học, công nghệ và công việc hàng ngày, chính là một đặc điểm thiết yếu của thế giới phương Tây hiện đại." Nhà chính trị học Anthony Pagden rút ra từ công trình của học giả Edmundo O'Gorman, khẳng định rằng: "Đối với tất cả người châu Âu, các sự kiện vào tháng 10 năm 1492 đã tạo thành một 'sự khám phá'. Một thứ gì đó mà họ không hề biết trước đây đã đột nhiên xuất hiện trước mắt họ." O'Gorman thêm rằng cuộc gặp gỡ vật lý và địa lý với các vùng lãnh thổ mới ít quan trọng hơn nỗ lực của người châu Âu để tích hợp kiến thức mới này vào thế giới quan của họ, thứ mà ông gọi là "phát kiến châu Mỹ". Pagden xem xét nguồn gốc của các thuật ngữ "discovery" và "invention". Trong tiếng Anh, từ "discovery" và các dạng của nó trong các ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Rôman (tiếng Pháp, Ý, v.v) bắt nguồn từ "disco-operio trong tiếng Latinh, có nghĩa là khám phá, tiết lộ, để lộ ra trước ánh nhìn" hàm ý rằng những gì được tiết lộ đã tồn tại trước đó. Rất ít người châu Âu bấy giờ sử dụng thuật ngữ "phát minh" cho các cuộc khám phá mới, ngoại lệ đáng chú ý là Martin Waldseemüller, người tạo ra tấm bản đồ đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Americus" (tiếng Latinh cho America, nghĩa là Mỹ châu).
Tổng quan
Người Bồ Đào Nha đã bắt đầu khám phá bờ Đại Tây Dương từ năm 1418, dưới sự bảo trợ của Hoàng tử Henry. Loại thuyền nhẹ, linh hoạt và chống chọi được gió được phát triển dưới thời của ông. Năm 1488, Bartolomeu Dias đến được Ấn Độ Dương bằng tuyến đường này. Năm 1492 các Vua của Ca-tô của Castile và Aragon tài trợ cho kế hoạch của Christopher Columbus để đi về phía tây để đến Ấn Độ bằng cách băng qua Đại Tây Dương. Ông thay vào đó đáp xuống một lục địa chưa được khám phá gọi là châu Mỹ. Để tránh mâu thuẫn giữa Bồ Đào Nha và Castile (vương quốc mà Colombo phụng sự), Hiệp ước Tordesillas được ký kết, chia đôi thế giới giữa hai cường quốc.
Năm 1498, một cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha do Vasco da Gama chỉ huy đến Ấn Độ bằng cách đi vòng quanh Châu Phi, mở cửa thương mại trực tiếp với châu Á . Trong khi các đoàn tàu thám hiểm khác đã được gửi từ Bồ Đào Nha sang Bắc Mỹ, trong những năm tiếp theo, Hạm đội Bồ Ấn cũng mở rộng tuyến đường về phía đông, tới tận Nam Mỹ và góp phần liên kết Tân Thế giới trực tiếp với Cựu thế giới (bắt đầu từ năm 1500, Pedro Alvares Cabral), và khám phá các hòn đảo Nam Đại Tây Dương và Nam Ấn Độ Dương. Chẳng bao lâu, người Bồ Đào Nha đi thuyền về phía đông, tới Quần đảo Gia Vị (Indonesia) trù phú năm 1512, cập bến tại Trung Quốc một năm sau đó. Năm 1513, Vasco Núñez de Balboa của Tây Ban Nha vượt eo Panama và phát hiện "biển khác" từ Thế giới Mới. Cuộc khai phá về phía Đông và Tây tụ họp vào năm 1522, khi cuộc thám hiểm của Tây Ban Nha do thuyền trưởng người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan và sau đó là Sebastián Elcano về phía tây hoàn thành chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới, trong khi các conquistador Tây Ban Nha thâm nhập sâu hơn vào nội địa châu Mỹ, và một số hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.
Từ năm 1495, người Pháp, người Anh và người Hà Lan cũng vào cuộc khi nghe tin những khám phá thú vị và béo bở này, thách thức độc quyền của Iberia về thương mại hàng hải bằng cách tìm kiếm các hải tuyến mới. Bắt đầy bằng những cuộc khai phá sâu vào Bắc Mỹ (cuộc thám hiểm đầu tiên của John Cabot năm 1497 ở phía bắc, phụng sự Anh Quốc, tiếp đó là các cuộc thám hiểm của Pháp tới Nam Mỹ và sau đó đến Bắc Mỹ) và vào Thái Bình Dương quanh Nam Mỹ. Họ cũng theo chân người Bồ Đào Nha vòng qua Châu Phi vào Ấn Độ Dương; phát hiện Úc năm 1606, New Zealand vào năm 1642 và Hawaii vào năm 1778. Trong khi đó, từ năm 1580 đến năm 1640, người Nga đông tiến và chinh phục gần như toàn bộ Siberia và Alaska.
Bối cảnh
Kiến thức thời trung cổ của châu Âu về châu Á ngoài tầm với của Đế quốc Byzantine được thu thập từ các báo cáo lẻ tẻ từ thời Alexander Đại Đế và những người kế nhiệm ông, thường bị bóp méo bởi các huyền thoại. Một nguồn thông tin khác là từ mạng lưới buôn người Do Thái Radhanite của các thương gia đi lại giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo trong thời gian của các quốc gia Thập tự chinh.
Sự trỗi dậy của giao thương Âu Châu
Giữa thế kỷ thứ XII và XIV, nền kinh tế châu Âu đột biến bởi sự liên kết các tuyến giao thương đường sông và đường biển, khiến châu Âu phát triển những mạng lưới thương mại phức tạp.
Trước thế kỷ XII, trở ngại chính cho hoạt động buôn bán của Tây Âu phía đông eo Gibraltar là các nhà nước Hồi giáo và độc quyền thương mại của các thành bang cộng hòa hàng hải như Venice và Genoa. Kinh tế Iberia tăng trưởng theo sau cuộc tái chiếm Al-Andalus và cuộc vây hãm Lisbon năm 1147. Sự suy giảm sức mạnh hải quân của Nhà Fatimid trước cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất đã cho phép các thành bang Ý hàng hải là Venice, Genoa và Pisa, thống trị thương mại phía đông Địa Trung Hải. Các thương nhân Ý từ đó mà trở nên giàu có và lan tỏa tầm ảnh hưởng chính trị. Cuộc xâm lược Anh của người Norman vào cuối thế kỷ XI khiến Biển Bắc trở nên an toàn hơn cho các hoạt động giao thương. Liên minh Hanse, một liên hiệp các bang hội thương gia và thị trấn ở miền bắc nước Đức dọc Biển Bắc và Biển Baltic, góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh doanh tại khu vực. Vào thế kỷ thứ XII, vùng Flander, Hainault và Braband sản xuất hàng dệt chất lượng tốt nhất ở Bắc Âu, khuyến khích các thương nhân từ Genova và Venice giong buồm trực tiếp tới đó qua eo Gibraltar và men theo bờ Đại Tây Dương. Nicolozzo Spinola giong thuyền trực tiếp từ Genève đến Flanders vào năm 1277.
Công nghệ: Thiết kế tàu và la bàn
Những tiến bộ công nghệ quan trọng mở ra Thời đại Khám phá là các ứng dụng mới như la bàn từ tính và những cải tiến trong ngành thiết kế tàu.
La bàn là vật dụng hỗ trợ cho phương pháp hoa tiêu truyền thống dựa trên vị trí mặt trời và các ngôi sao. La bàn đã được sử dụng ở Trung Quốc vào thế kỷ XI và được các thương nhân Ả Rập ở Ấn Độ Dương áp dụng thuần thục. La bàn được truyền bá sang châu Âu vào cuối thế kỷ XII hoặc đầu thế kỷ XIII. Việc sử dụng la bàn ở Ấn Độ Dương được đề cập lần đầu tiên năm 1232. Việc sử dụng la bàn ở châu Âu được đề cập lần đầu tiền năm 1180. Người châu Âu sử dụng la bàn "khô", với một cây kim trên trục. Thẻ la bàn là một phát minh của châu Âu.
Để đi biển, người Mã Lai đã phát minh ra những cánh buồm junk làm từ thảm dệt gia cố bằng tre, vài trăm năm trước năm thứ 1 TCN. Thời nhà Hán (206 TCN-220 CN), người Trung Quốc sử dụng những cánh buồm junk lĩnh hội từ các thủy thủ Mã Lai cập bến bờ phía Nam Trung Quốc. Bên cạnh loại buồm này, họ cũng tạo ra những chiếc buồm hình thang (buồm tanja). Các loại buồm mới khiến các chuyến hải hành tại bờ phía tây châu Phi trở nên khả thi, bởi vì chúng có khả năng chống lại gió. Loại buồm này cũng đã truyền cảm hứng cho người Ả Rập phía Tây và Polynesia phía Đông của Mã Lai phát triển các loại buồm tam giác và buồm càng cua.
Người Java đóng loại tàu vượt đại dương gọi là po từ khoảng thế kỷ I CN. Nó dài 50 m và có phần nổi (khoảng cách từ mặt nước đến mép thuyền) tầm 4–7 mét. Po có khả năng chở 700 người cùng với hơn 10.000 "斛" (hộc) hàng hóa (250-1000 tấn tùy theo ước tính). Chúng được đóng từ nhiều tấm ván để chống bão và có 4 cánh buồm cộng thêm một cánh buồm căng chéo trước mũi. Người Java đã đến được Ghana vào thế kỷ thứ VIII.
Tàu bè sau này tăng kích thước, cần ít thủy thủ đoàn hơn và có thể đi được quãng đường dài hơn mà không cần dừng lại. Chi phí đi lại đường dài do vậy giảm thiểu vào thế kỷ thứ XIV. Tàu cog vẫn phổ biến cho thương mại do chi phí đóng thuyền thấp. Thuyến galê cũng được sử dụng trong thương mại.
Địa lí và bản đồ
Cẩm nang hàng hải Biển Erythraean, một tài liệu có niên đại từ những năm 40–60 CN, mô tả một hải tuyến mới được phát hiện thông qua Biển Đỏ đến Ấn Độ, rồi còn có các mô tả về các khu chợ ở các thị trấn dọc Biển Đỏ, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương và đường bờ biển phía đông châu Phi, chép rằng "xa hơn những nơi này, đại dương chưa được khám phá lặn về phía tây, chạy dọc theo các khu vực phía nam Aethiopia và Libya và Châu Phi, rồi hợp với biển tây (có thể đang nhắc đến Đại Tây Dương)". Kiến thức thời trung cổ ở châu Âu về châu Á ngoài tầm với của Đế quốc Byzantine được thu thập qua các báo cáo rời rạc, thường bị phóng đại bởi các truyền thuyết, có từ thời Alexander Đại đế và những người kế vị ông khi bành trướng về phía Đông.
Một nguồn khác là từ các mạng lưới thương mại của người Do Thái Radhanite lai vãng giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo trong thời kì Thập tự chinh.
Năm 1154, nhà địa lý học Ả Rập Muhammad al-Idrisi tạo cuốn bản đồ thế giới với tựa là Tabula Rogeriana tại triệu đình vua Roger II xứ Sicily, nhưng các Kitô hữu, người Genova và người Venice, hoặc các thủy thủ Ả Rập, vẫn không có khái niệm hoàn hảo về châu Phi hay các vùng đất xa hơn về phía nam. Người châu Âu biết về sa mạc Sahara thông qua các khu định cư ở Nam Địa Trung Hải nhưng sự thống trị của các nước Ả Rập tại Bắc Phi đã ngăn cản việc thăm dò sâu hơn vào nội địa. Kiến thức bờ châu Phi ở Đại Tây Dương bị phân mảnh và chủ yếu chỉ được biết thông qua các bản đồ thời Hy La cũ dựa trên tư liệu của người Carthage, bao gồm cả cuộc khám phá Mauritania của người La Mã. Biển Đỏ hầu như nằm trong quên lãng và chỉ có liên kết thương mại với các nước cộng hòa Hàng hải, đặc biệt là Cộng hòa Venezia, mới có được kiến thức hàng hải chính xác.
Người Ả Rập chủ yếu đi lại giữa các tuyến thương mại ở Ấn Độ Dương. Giữa những năm 1405-1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các sứ mệnh ngoại giao hàng hải phương xa dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa. Các đội tàu Trung Quốc đã đến thăm Ả Rập, Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á hải đảo và Thái Lan. Theo Mã Hoan, các chuyến công du này bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của Thành Tổ. Nhà Minh sau đó thực hiện chính sách hải cấm (海禁), hạn chế buôn bán hàng hải.
Vào năm 1400, bản dịch tiếng Latinh của Geographia được truyền tới Ý từ Constantinople. Sự tái khám phá kiến thức địa lý La Mã là một sự mặc khải, cả trong ngành lập bản đồ và thế giới quan của Tây Âu, tuy vẫn có những kiến thức sai lệch như Ấn Độ Dương là một biển nội địa.
Các hành trình thời Trung Cổ (1241–1438)
Mở đầu cho Thời đại Khám phá là một loạt các cuộc thám hiểm châu Âu băng qua Á-Âu bằng đường bộ vào cuối thời Trung cổ. Đế quốc Mông Cổ thống nhất phần lớn lục địa Á-Âu và từ năm 1206 trở đi, thời kì Pax Mongolica cho phép các tuyến giao thương và đường liên lạc an toàn kéo dài từ tận Trung Đông đến Trung Quốc. Nhiều người châu Âu đã tận dụng thời kì này để đi về phía đông. Hầu hết là người Ý, vì thương mại giữa châu Âu và Trung Đông được kiểm soát chủ yếu bởi các nước cộng hòa hàng hải.
Có rất ít ghi chép về các thương nhân từ Bắc Phi và khu vực Địa Trung Hải buôn bán ở Ấn Độ Dương vào cuối thời Trung cổ.
Các sư thần Kitô giáo đã được gửi đến tận Karakorum trong cuộc xâm lược vùng Levant của Mông Cổ, từ đó mà họ hiểu rõ hơn về thế giới. Người đầu tiên trong số những lữ khách này là Giovanni da Pian del Carpine, được Giáo hoàng Innôcentê IV phái đến triều đình Đại Hãn, khứ hồi từ Mông Cổ trở về, từ năm 1241 đến năm 1247. Cũng trong khoảng thời gian này, hoàng tử Nga Yaroslav II của Vladimir và hai con trai của ông là Alexander Nevsky và Andrey II của Vladimir đến thăm thủ đô của Mông Cổ. Mặc dù mang ý nghĩa chính trị mạnh mẽ, không có ghi chép chi tiết nào về các sứ mệnh ngoại giao này. Ngoài ra, các cuộc du hành tới Trung Quốc bằng đường bộ của André de Longjumeau người Pháp và William của Rubruck người Flemish cũng phải được kể đến. Thương nhân người Venice tên Marco Polo, đã ghi chép rất nhiều về các chuyến đi khắp châu Á của ông từ năm 1271 đến 1295. Ông khẳng định rằng chính ông đã từng là một vị khách tại triều đình nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt trong cuốn Marco Polo du ký.
Hạm đội Hồi giáo bảo vệ eo biển Gibraltar bị quân Genoa đánh tan năm 1291. Vào năm đó, nỗ lực thám hiểm Đại Tây Dương đầu tiên được thực hiện bởi hai anh em thương gia là Vadino và Ugolino Vivaldi từ Genoa với hai thuyền galê nhưng mất tích ngoài khơi Ma-rốc, tạo ra nỗi sợ hãi về các cuộc thám hiểm đại dương tại châu Âu. Từ năm 1325 đến 1354, học giả người Ma-rốc là Ibn Battuta, đã khởi hành từ Tangier băng qua Bắc Phi, sa mạc Sahara, Tây Phi, Nam Âu, Đông Âu, Sừng châu Phi, Trung Đông và châu Á, rồi sang tận Trung Quốc. Sau khi trở về, ông kể lại chuyến phiêu lưu này cho một học giả mà ông gặp ở Granada và chép lại trong cuốn Rihla ("Du ký"). Từ năm 1357 đến 1371, một cuốn sách về những chuyến du hành được cho là của John Mandeville nổi lên ở châu Âu. Mặc dù không đáng tin cậy và có nhiều phóng đại, cuốn sách vẫn được sử dụng làm tài liệu tham khảo về phương Đông, Ai Cập và vùng Levant nói chung, lan truyền kiến thức cổ hủ rằng Jerusalem là cái rốn của thế giới.
Trong thời kỳ quan hệ yên bình giữa Timurid và châu Âu khoảng năm 1439, Niccolò de' Conti cho xuất bản một ghi chép về chuyến đi của ông với tư cách là một thương nhân Hồi giáo đến Ấn Độ và Đông Nam Á, và sau đó vào năm 1466-1472, thương nhân người Nga tên là Afanasy Nikitin xứ Tver tới được Ấn Độ, rồi được ông kể lại trong cuốn Cuộc hành trình vượt Ba Biển.
Những chuyến đi trên đất liền này ít có ảnh hưởng sâu sắc. Đế quốc Mông Cổ sụp đổ gần như ngay sau khi nó hình thành và chẳng mấy chốc tuyến đường về phía đông trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn. Hơn nữa, Cái chết Đen ở châu Âu vào thế kỷ XIV ngăn cản các cuộc lữ hành và thương mại. Sự trỗi dậy của Đế quốc Ottoman sau này càng hạn chế khả năng buôn bán đường bộ của châu Âu hơn.
Các sứ mệnh Trung Quốc (1405-1433)
Người Trung Quốc có mối liên hệ rộng rãi trong mạng lưới thương mại châu Á và đã giong thuyền đến Ả Rập, Đông Phi và Ai Cập kể từ thời nhà Đường (618-907). Từ năm 1405 đến 1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các nhiệm vụ lấy cống phẩm ở Ấn Độ Dương dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa.
Một đội tàu lớn mới đã được chuẩn bị cho các cuộc thám hiểm ngoại giao quốc tế này. Chiếc thuyền lớn nhất trong số đó, gọi là Bảo Thuyền (tàu kho báu), có chiều dài lên tới 121 mét và chứa hàng ngàn thủy thủ. Chuyến thám hiểm đầu tiên xuất phát vào năm 1405. Ít nhất bảy cuộc thám hiểm được ghi chép rõ ràng, mỗi chuyến thám hiểm sau hoành tráng hơn và đắt đỏ hơn lần trước. Các hạm đội đã đến thăm Ả Rập, Đông Phi, Ấn Độ, Quần đảo Mã Lai và Xiêm La. Họ biếu quà bằng vàng, bạc, sứ và lụa; đổi lại là các sản vật quý hiếm địa phương như đà điểu, ngựa vằn, lạc đà, ngà voi và hươu cao cổ. Sau cái chết của hoàng đế, Trịnh Hòa đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm cuối cùng khởi hành từ Nam Kinh vào năm 1431 và trở về Bắc Kinh vào năm 1433. Rất có khả năng chuyến thám hiểm cuối cùng này đã đến tận Madagascar. Các chuyến đi được báo cáo bởi Mã Hoan, một du khách và dịch giả Hồi giáo đi cùng với Trịnh Hòa ba trong số bảy chuyến thám hiểm, ghi chép của ông được xuất bản ra cuốn Doanh Nhai Thăng Lãm (Hán tự: 瀛涯胜览, nghĩa là: khảo sát tổng thể bờ biển) (1433).
Các chuyến đi có tác động đáng kể và lâu dài lên mạng lưới hải tuyến tơ lụa, sử dụng và tạo ra các nút và điểm chốt giao thương theo sau, từ đó làm tái cấu trúc các mối quan hệ và trao đổi văn hóa quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng vì không có chính thể nào khác có được sự thống trị hải quân đối với khu vực Ấn Độ Dương trước các chuyến đi này. Nhà Minh đã thúc đẩy các nút thay thế như một chiến lược để thiết lập quyền kiểm soát mạng lưới. Do các chuyến đi của Trung Quốc, các cảng như Malacca (ở Đông Nam Á), Cochin (trên Bờ biển Malabar) và Malindi (trên Bờ biển Swahili) trở thành các hải cảng then chốt thế chỗ các cảng quan trọng đã được thành lập trước đó. Sự xuất hiện của hạm đội kho báu nhà Minh đã tạo ra và tăng cường cạnh tranh giữa các chính thể tìm kiếm mối liên minh với nhà Minh.
Các chuyến công du này mang đến sự hội nhập khu vực và sự gia tăng lưu thông quốc tế về con người, lý tưởng và hàng hóa ở Tây Dương. Nó cũng cung cấp nền tảng cho các cuộc thảo luận chủ nghĩa thế giới, diễn ra tại các địa điểm như trên tàu của hạm đội Minh, thủ đô Nam Kinh cũng như Bắc Kinh, và tiệc chiêu đãi do triều đình nhà Minh tổ chức cho các đại diện nước ngoài. Các nhóm người đa dạng từ khắp các quốc gia hàng hải tụ tập, giao lưu và cùng nhau đi thăm thú khi hạm đội kho báu nhà Minh khi họ di chuyển qua lại vùng biển. Lần đầu tiên trong lịch sử, khu vực hàng hải từ Trung Quốc đến Châu Phi chịu sự thống trị của một cường quốc duy nhất và từ đó cho phép tạo ra một không gian chủ nghĩa thế giới.
Những hành trình đường dài này bị ngừng lại, vì nhà Minh thực hiện hải cấm, một chính sách cô lập, hạn chế thương mại hàng hải. Các chuyến viễn chinh bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của hoàng đế. Người Trung Quốc mất hứng thú với những gì họ gọi là vùng đất man rợ bên ngoài, và các hoàng đế kế vị cảm thấy các chuyến thám hiểm này ảnh hưởng xấu đến quốc gia; Minh Nhân Tông chấm dứt các cuộc thám hiểm này và Minh Tuyên Tông bưng bít các thông tin liên quan đến các cuộc lữ hành của Trịnh Hòa.
Đại Tây Dương (1419-1507)
Từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XV, Cộng hòa Venice và các nước cộng hòa hàng hải lân cận đã nắm giữ độc quyền thương mại châu Âu với Trung Đông. Việc buôn bán tơ lụa và gia vị, bao gồm hương, thảo mộc, thuốc và thuốc phiện, đã làm cho các quốc gia thành bang Địa Trung Hải này trở nên giàu có. Gia vị là một trong những sản phẩm đắt tiền và được đòi hỏi cao nhất thời Trung cổ, vì chúng được sử dụng trong y học, các nghi lễ tôn giáo, mỹ phẩm, nước hoa, cũng như phụ gia thực phẩm và chất bảo quản. Những mặt hàng này đều được nhập từ châu Á và châu Phi.
Các thương nhân Hồi giáo, chủ yếu là hậu duệ của các thủy thủ Ả Rập từ Yemen và Ô-man, thống trị các tuyến hàng hải trên khắp Ấn Độ Dương, khai thác các vùng nguồn ở Viễn Đông và vận chuyển các sản phẩm tại các khu thương điếm ở Ấn Độ, chủ yếu là Kozhikode, về phía tây đến Ormus ở Vịnh Ba Tư và Jeddah ở Biển Đỏ. Từ đây, các tuyến đường bộ dẫn đến bờ biển Địa Trung Hải. Các thương nhân Venice đã phân phối hàng hóa qua châu Âu cho đến khi Đế chế Ottoman trỗi dậy, dẫn đến sự sụp đổ của Constantinople năm 1453, ngăn cản người châu Âu sử dụng các tuyến đường bộ và trên biển.
Buộc phải sụt giảm các hoạt động của họ ở Biển Đen và chiến tranh với Venice, người Genoa chuyển sang buôn bán lúa mì, dầu ô liu và tìm kiếm vàng bạc. Châu Âu thâm hụt liên tục vàng bạc, vì tiền chỉ chảy ra ngoài, chỉ để chi tiêu cho thương mại phương Đông mà giờ đã bị cắt đứt. Một số mỏ ở châu Âu cạn kiệt, thiếu thỏi vàng dẫn đến sự phát triển của một hệ thống ngân hàng phức tạp để quản lý rủi ro trong thương mại (ngân hàng nhà nước đầu tiên, Banco di San Giorgio, được thành lập năm 1407 tại Genoa). Các cộng đồng Genoa sau đó được thành lập ở Bồ Đào Nha, kiếm lợi từ doanh nghiệp và chuyên môn tài chính của họ.
Thuyền buồm châu Âu chủ yếu buôn bán ven biển bằng hải đồ portolan. Những hải đồ này xác định các tuyến đường biển dựa trên các hải cảng ven bờ: các thủy thủ khởi hành từ một điểm đã biết, đi theo la bàn và cố gắng xác định vị trí của họ bằng các mốc gắn với đất liền. Đối với cuộc thám hiểm đại dương đầu tiên, người Tây Âu đã sử dụng la bàn và những tiến bộ mới trong phác bản đồ và thiên văn học. Các công cụ điều hướng của Ả Rập như thước trắc tinh và thước đo phần tư được sử dụng để xác đinh vị trí dựa trên thiên văn hàng hải.
Các khám phá của người Bồ Đào Nha
Năm 1297, cuộc reconquista kết thúc ở Bồ Đào Nha, vua Dinis xứ Bồ đã tỏ mối quan tâm đến ngành xuất khẩu và vào năm 1317, ông thỏa thuận với thủy thủ thương gia Genoa tên Manuel Pessanha (Pessagno), bổ nhiệm ông là đô đốc đầu tiên của hải quân Bồ Đào Nha với mục tiêu bảo vệ đất nước chống lại các cuộc tấn công cướp biển Hồi giáo. Sự bùng phát của bệnh dịch hạch đã dẫn đến sự sụt giảm dân số nghiêm trọng nửa sau thế kỷ XIV: chỉ có đường biển mới an toàn, với phần lớn cộng đồng định cư để đánh cá và buôn bán ven biển. Từ năm 1325-1357, Afonso IV xứ Bồ Đào Nha khuyến khích thương mại hàng hải và khơi mào những chuyến thám hiểm đầu tiên. Quần đảo Canary (đã được biết đến bởi người Genoa) được tuyên bố là phát hiện chính thức của Bồ Đào Nha, nhưng vào năm 1344, vương quốc Castile bắt đầu mở rộng cạnh tranh ở biển nên tranh chấp quần đảo này.
Để đảm bảo độc quyền về thương mại, người châu Âu (bắt đầu với người Bồ Đào Nha) đã cố gắng áp đặt một hệ thống thương mại địa trung hải sử dụng sức mạnh quân sự và đe dọa chuyển hướng thương mại qua các cảng mà họ kiểm soát; nơi hàng hóa có thể bị đánh thuế. Năm 1415, Ceuta bị chinh phục bởi Bồ Đào Nha nhằm kiểm soát bờ biển châu Phi. Hoàng tử trẻ Henrique Nhà hàng hải nhận thức được lợi nhuận trong các tuyến thương mại xuyên Sahara. Trong nhiều thế kỷ, các tuyến buôn bán nô lệ và vàng liên kết Tây Phi với Địa Trung Hải phải đi qua sa mạc Tây Sahara, kiểm soát bởi người Moors ở Bắc Phi.
Henry muốn biết lãnh thổ Hồi giáo ở Châu Phi kéo dài bao xa, hy vọng luồn qua được chúng và giao dịch trực tiếp với Tây Phi bằng đường biển. Ông muốn tìm kiếm các đồng minh ở vùng đất Kitô giáo huyền thoại về phía nam, như vương quốc Kitô giáo đã mất từ lâu của Prester John và để thăm dò xem liệu có thể đến Ấn Độ bằng đường biển hay không, nguồn gốc của tuyến buôn gia vị sinh lời. Ông đầu tư vào các chuyến đi xuống bờ biển Mauritanie, tập hợp một nhóm thương nhân, chủ tàu và người có quan tâm đến các hải tuyến mới. Chẳng bao lâu, họ tới được các đảo Madeira (1419) và Azores (1427) ở Đại Tây Dương. Người lãnh đạo đoàn thám hiểm João Gonçalves Zarco có công thiết lập các khu định cư trên đảo Madeira.
Thời bấy giờ, người châu Âu không biết những gì nằm xa hơn Mũi Non (Mũi Chaunar) trên bờ biển châu Phi và liệu có thể quay trở lại sau khi vượt qua nó. Các huyền thoại cảnh cáo về quái vật đại dương hoặc rìa của thế giới nhưng hành trình của Hoàng tử Henry đã thách thức những niềm tin như vậy: bắt đầu từ năm 1421, người Bồ đi thuyền vượt qua nó, đến Mũi Bojador khó khăn mà vào năm 1434, một trong những thuyền trưởng của Hoàng tử Henry, Gil Eanes, vượt qua được.
Một bước tiến lớn là sự ra đời của tàu ca-ra-ve vào giữa thế kỷ XV, một loại tàu nhỏ có khả năng đi ngược gió tốt hơn bất kỳ tàu nào khác ở châu Âu vào thời điểm đó. Phát triển từ các thiết kế tàu đánh cá, chúng là các con tàu đầu tiên có thể bớt sự phụ thuộc vào hải đồ và đi an toàn trên Đại Tây Dương. Để định hướng trên biển bằng thiên thể, người Bồ Đào Nha đã sử dụng Lịch thiên văn, trải qua một sự khuếch tán đáng chú ý trong thế kỷ XV. Đây là những biểu đồ thiên văn vẽ đồ thị vị trí của các ngôi sao trong một khoảng thời gian riêng biệt. Được xuất bản năm 1496 bởi nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh và nhà toán học người Do Thái, Abraham Zacuto, cuốn Almanach Perpetuum bao gồm một số bảng miêu tả sự chuyển động của các ngôi sao. Các bảng này cách mạng hóa hoạt động hoa tiêu, cho phép tính toán vĩ độ. Kinh độ chính xác, tuy nhiên, vẫn khó nắm bắt trong nhiều thế kỷ. Sử dụng tàu ca-ra-ve, việc thăm dò có hệ thống tiếp tục ở phía nam xa hơn, tiến lên trung bình một độ mỗi năm. Bán đảo Sénégal và Mũi Verde đã được khám phá vào năm 1445 và năm 1446, Álvaro Fernandes đã tới tận Sierra Leone ngày nay.
Năm 1453, Constantinople rơi vào tay người Ottoman là một đòn giáng mạnh vào các Thiên chúa quốc và mối quan hệ kinh doanh được thiết lập liên kết với phương đông. Năm 1455, Giáo hoàng Nicôla V ban hành tông sắc Romanus Pontifex bổ sung Dum Diversas trước đó (1452), trao tất cả các vùng đất và biển được phát hiện ngoài Mũi Bojador cho vua Afonso V xứ Bồ Đào Nha và những người kế vị ông, cũng như buôn bán và chinh phục người Hồi giáo hay ngoại đạo, một chính sách Biển đóng ở Đại Tây Dương. Nhà vua, người đã tìm hiểu các chuyên gia Genova về một tuyến đường biển đến Ấn Độ, đã ủy thác bản đồ thế giới Fra Mauro, đưa tới Lisbon năm 1459.
Các khám phá sau Hoàng tử Henry
Năm 1460, Pedro de Sintra đặt chân đến Sierra Leone. Hoàng tử Henry qua đời vào tháng 11 năm đó. Do thu nhập ít ỏi, các cuộc thám hiểm được ủy thác cho thương nhân Fernão Gomes năm 1469, để đổi lấy độc quyền thương mại ở Vịnh Guinea ông này phải khám phá 100 dặm (161 km) mỗi năm trong vòng 5 năm. Với sự tài trợ của Gomes, các nhà thám hiểm như João de Santarém, Pedro Escobar, Lopo Gonçalves, Fernão do Pó và Pedro de Sintra đã vượt xa những mục tiêu đó. Họ đến Nam bán cầu và các đảo thuộc Vịnh Guinea, São Tomé và Príncipe và Elmina trên Bờ biển Vàng vào năm 1471 (Ở Nam bán cầu, họ đã sử dụng chòm Nam Thập Tự làm mốc cho việc định hướng hàng hải). Ở nơi ngày nay gọi là "Bờ biển vàng" Ghana, họ phát hiện một tuyến mậu dịch vàng thịnh vượng giữa dân bản địa và thương nhân Ả Rập-Berber.
Năm 1478 (trong Chiến tranh kế vị Castilia), ngoài khơi Elmina diễn ra một cuộc hải chiến giữa Hạm đội Castilia gồm 35 tàu ca-ra-vê và hạm đội Bồ Đào Nha để giành quyền bá chủ thương mại Guinea (vàng, nô lệ, ngà voi và hạt tiêu). Bồ Đào Nha thắng lợi và các Quốc vương Công giáo buộc phải công nhận các vùng lãnh thổ tranh chấp ở Tây Phi thuộc về Bồ Đào Nha theo Hiệp ước Alcáçovas, 1479. Đây là cuộc chiến tranh thuộc địa đầu tiên giữa hai cường quốc châu Âu.
Năm 1481, João II mới đăng cơ cho lập một thương điếm tại São Jorge da Mina. Năm 1482, Diogo Cão khám phá sông Congo, và tiếp tục khám phá Mũi Cross (Namibia hiện đại) vào năm 1486.
Bước đột phá quan trọng tiếp theo diễn ra vào năm 1488, khi Bartolomeu Dias đi vòng qua mũi phía nam châu Phi, nơi ông đặt tên là "Mũi bão" (Cabo das Tormentas). Ông neo đậu tại Vịnh Mossel rồi tiến sang phía đông đến tận cửa sông Great Fish, chứng minh rằng Ấn Độ Dương có thể được tiếp cận từ Đại Tây Dương. Đồng thời, nhà thám hiểm Pêro da Covilhã, được gửi đi dò la trên đất liền, tới được Ethiopia và thu thập nhiều thông tin quan trọng về Biển Đỏ và bờ biển Quenia. Không lâu sau, vua João II của Bồ Đào Nha truyền chỉ dụ đổi tên mũi đất đó thành "Mũi hảo vọng" (Cabo da Boa Esperança).
Tây Ban Nha vào cuộc: Columbus và Tây Ấn
Castile, kình địch lân bang của Bồ Đào Nha, bắt đầu thiết lập quyền cai trị trên quần đảo Canary ngoài khơi phía tây châu Phi vào năm 1402, nhưng bị kìm hãm bởi lục đục nội bộ tại chính quốc và các cuộc kháng chiến chống quân Hồi giáo thế kỷ XV. Chỉ vào cuối thế kỷ đó, sau khi thống nhất vương quốc Castile-Aragon và hoàn thành cuộc reconquista, Tây Ban Nha mới đổ công sức vào khám phá các tuyến thương mại đường biển. Vương miện Aragon từng là một cường quốc hàng hải quan trọng ở Địa Trung Hải, kiểm soát các vùng lãnh thổ ở miền đông Tây Ban Nha, Tây Nam nước Pháp, các đảo lớn như Sicily, Malta, và Vương quốc Naples và Sardinia, với cương thổ trải dài đến tận Hy Lạp. Năm 1492, các đồng cai trị đã chinh phục vương quốc Moorish của Granada, nước chư hầu công nạp cho Castile hàng hóa châu Phi, và quyết định tài trợ cho các cuộc thám hiểm của Christopher Columbus với hy vọng đánh đổ sự độc quyền của Bồ Đào Nha trên các tuyến đường biển phía tây châu Phi, để đến "Ấn Độ" (phía đông và nam Á) bằng cách đi về phía tây. Hai lần trước, vào năm 1485 và 1488, Columbus đã trình bày dự án cho vua John II xứ Bồ Đào Nha, người đã khước từ ông.
Vào tối ngày 3 tháng 8 năm 1492, Columbus rời bến từ Palos de la Frontera với ba chiếc tàu; một tàu carrack lớn, Santa María, biệt danh là Gallega, và hai tàu hộ tống nhỏ hơn, Pinta và Santa Clara, biệt danh là Niña. Columbus lần đầu tiên dặt chân lên Quần đảo Canary, nơi ông lấy nhu yếu phẩm cho chuyến đi dài năm tuần vượt đại dương, băng qua một phần của Đại Tây Dương được gọi là Biển Sargasso.
Họ nhìn thấy đất liền vào ngày 12 tháng 10 năm 1492 và Columbus gọi hòn đảo đó (nay là vùng Bahamas) là San Salvador, tưởng rằng đây là "Đông Ấn". Columbus cũng khám phá bờ biển phía đông bắc Cuba (đổ bộ vào ngày 28 tháng 10) và bờ bắc của Hispaniola vào ngày 5 tháng 12. Ông được vị cacique (thủ lĩnh) bản địa Guacanagari chấp thuận và cho phép một vài người trong đoàn ở lại.
Columbus để lại 39 người đàn ông và họ thành lập khu định cư La Navidad tại Haiti ngày nay. Trước khi hồi hương, ông bắt cóc khoảng 10-25 người bản địa để mang về Tây Ban Nha. Chỉ có 7-8 người trong số họ sống sót tới được Tây Ban Nha, và đã gây ấn tượng khá tốt với triều đình Sevilla.
Khi trở về, một cơn bão buộc ông phải cập cảng Lisbon vào ngày 4 tháng 3 năm 1493. Sau một tuần ở Bồ Đào Nha, ông lên đường sang Tây Ban Nha và vào ngày 15 tháng 3 năm 1493 đến Barcelona, nơi ông yết kiến Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Tin tức về việc ông khám phá ra những vùng đất mới nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu.
Columbus và các nhà thám hiểm Tây Ban Nha ban đầu thất vọng với những khám phá của họ, không giống như ở Châu Phi hay Châu Á, dân cư Ca-ri-bê có ít hàng hóa để trao đổi với đội tàu Castilla. Các hòn đảo này do vậy đã trở thành tâm điểm của các cuộc thực dân hóa. Chỉ đến khi toàn bộ lục địa châu Mỹ được khám phá, Tây Ban Nha mới tìm ra sự giàu có mà họ khao khát bấy lâu.
Hiệp ước Tordesillas (1494)
Ngay sau khi Columbus trở về từ nơi mà sau này được gọi là "Tây Ấn", một sự phân chia ảnh hưởng trở nên cần thiết để tránh xung đột giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1493, hai tháng sau khi Columbus cập bến, các Quốc vương Công giáo nhận được tông sắc (Inter caetera) từ Giáo hoàng Alexanđê VI, lệnh rằng tất cả các vùng đất phía tây và phía nam của đường kẻ từ cực xuống cực cách 100 dặm về phía tây nam Quần đảo Açores hoặc Quần đảo Mũi Verd sẽ thuộc về Vương quốc Castilla. Tông sắc không đề cập đến Bồ Đào Nha, do vậy họ chưa thể thể tuyên bố chủ quyền đối với những vùng đất mới được phát hiện ở phía đông của đường kẻ đó.
Vua João II của Bồ Đào Nha không hài lòng với thỏa thuận này. Ông thương lượng trực tiếp với Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha nhằm di chuyển giới tuyến về phía tây, và cho phép ông ta lấy được các vùng đất mới được khám phá về phía đông.
Hiệp ước Tordesillas được chấp thuận bởi hai vương quốc, chia đôi vùng ảnh hưởng thành hai nửa địa cầu. Trong hiệp ước này, người Bồ Đào Nha nhận được mọi thứ bên ngoài châu Âu ở phía đông của một đường cắt chạy 370 dặm phía tây quần đảo Cape Verde (thuộc về Bồ Đào Nha) và những hòn đảo được Christopher Columbus phát hiện trong chuyến đi đầu tiên (được tuyên bố là thuộc Castilla), được đặt tên là Cipangu và Antilia (Cuba và Hispaniola). Điều ước này cho họ quyền kiểm soát tuyệt đối với Châu Phi, Châu Á và miền đông Nam Mỹ (Brazil). Người Tây Ban Nha (Castilla) lấy được mọi tấc đất ở phía tây đường kẻ này.
Một thế giới mới: Châu Mỹ
Bắc Mỹ
John Cabot được ban giấy chứng nhận đặc quyền từ Vua Henry VII của Anh. Đi thuyền từ Bristol, có lẽ được hỗ trợ bởi Hiệp hội các thương nhân địa phương, Cabot vượt Đại Tây Dương trên phía bắc với hy vọng chuyến đi đến "Tây Ấn" sẽ ngắn hơn và cập bến tại một nơi nào đó ở Bắc Mỹ, có thể là Newfoundland. Năm 1499, João Fernandes Lavrador được Vua Bồ cấp phép và ông ra khơi cùng với Pêro de Barcelos. Họ là người khám phá ra Labrador, được nhượng và đặt theo tên João. Sau khi trở về, ông có thể đã cập bến Bristol để lấy danh nghĩa khám phá của nước Anh. Giữa năm 1499-1502, anh em Gaspar và Miguel Corte Real khám phá và đặt tên cho đường bờ biển Greenland và Newfoundland. Cả hai cuộc thám hiểm đều được ghi nhận trong bản đồ thế giới Cantino năm 1502.
"Ấn Độ thực sự" và Brazil
Năm 1497, Quốc vương Manuel I xứ Bồ Đào Nha gửi một hạm đội thám hiểm về phía đông, hoàn tất sứ mệnh của những tiền nhân tìm đường đến Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1499, tin tức lan truyền rằng người Bồ Đào Nha đã tới được "Ấn Độ thật", vì vua Bồ đã gửi một bức thư báo tin vui đến Quốc vương Công giáo Tây Ban Nha một ngày sau khi đoàn tàu trở về.
Hành trình thứ ba của Columbus vào năm 1498 mở màn cho cuộc xâm chiếm thuộc địa thành công đầu tiên ở Tây Ấn, trên đảo Hispaniola. Mặc dù bị hoài nghi, Columbus vẫn bảo thủ rằng ông đã đến được Ấn Độ. Trong chuyến đi, ông phát hiện ra cửa sông Orinoco ở bờ biển phía bắc Nam Mỹ (nay là Venezuela) và nghĩ rằng lượng nước ngọt khổng lồ đổ ra biển chỉ có thể bắt nguồn từ một khối đất liền, mà ông đinh ninh là châu Á lục địa.
Khi giao thương giữa Seville và Tây Ấn phát triển, kiến thức về các đảo Caribbean, Trung Mỹ và bờ biển phía bắc của Nam Mỹ càng ngày mở rộng. Đội tàu Tây Ban Nha của Alonso de Ojeda và Amerigo Vespucci năm 1499–1500 đã đặt chân lên bờ biển của Guyana ngày nay. Vespucci đi thuyền về phía nam, khám phá cửa sông Amazon vào tháng 7 năm 1499, và đạt 6° Nam, ở phía đông bắc Brazil ngày nay, trước khi quay lại.
Vào đầu năm 1500, đoàn của Vicente Yáñez Pinzon bị một cơn bão làm chệch hướng và đi lạc đến tận bờ biển phía đông bắc của Brazil vào ngày 26 tháng 1 năm 1500, họ từ đó do thám xuống phía nam tới bang Pernambuco ngày nay. Hạm đội của ông là những người đầu tiên đi vào cửa sông Amazon mà họ đặt tên là Río Santa María de la Mar Dulce (Sông Saint Mary của Biển nước ngọt). Tuy vậy, vùng đất quá xa về phía đông để người tây Ban Nha có thể lấy được do Hiệp ước Tordesillas, nhưng phát hiện này đã khiến người Tây Ban Nha càng hứng thú hơn về miền đất này, với chuyến đi thứ hai của Pinzon vào năm 1508 (một chuyến khảo sát dọc bờ biển phía bắc đến bờ biển Trung Mỹ đại lục, để tìm kiếm một lối đi về phía Đông) và một chuyến đi vào năm 1515-1516 bởi một hoa tiêu của đoàn thám hiểm 1508, Juan Díaz de Solís. Cuộc thám hiểm năm 1515-1516 được thúc đẩy bởi các báo cáo về người Bồ Đào Nha trong khu vực (xem bên dưới). Cuộc thám thính kết thúc khi de Solís và một số thủy thủ đoàn của ông mất tích trong lúc khám phá Sông La Plata trên một chiếc thuyền, nhưng những gì họ tìm thấy và kể lại đã khơi dậy sự tò mò của Tây Ban Nha và công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ dần bắt đầu vào năm 1531.
Vào tháng 4 năm 1500, Hạm đội Bồ Ấn thứ hai, dẫn đầu bởi Pedro Álvares Cabral và gồm nhiều vị thuyền trưởng kỳ cựu như Bartolomeu Dias và Nicolau Coelho, cập bến Brazil sau khi thực hiện một "volta do mar" để tránh bị kẹt trong Vịnh Guinea do gió không thuận lợi. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1500, họ trông thấy một ngọn núi và đặt tên nó là Monte Pascoal, rồi vào ngày 22 tháng 4, Cabral lên bờ. Vào ngày 25 tháng 4, toàn bộ hạm đội đổ bộ ở cảng mà họ đặt tên là Porto Seguro (Cảng an toàn). Cabral nhận thấy rằng vùng đất mới nằm ở phía đông của đường kẻ Tordesillas và gửi một phái viên về Bồ Đào Nha cùng với thông tin về vùng đất mới này cùng với một bức thư của Pero Vaz de Caminha miêu tả rất chân thực về Brazil trước năm 1500. Tin rằng nơi này là một hòn đảo, ông đặt tên cho nó là Ilha de Vera Cruz. Một số sử gia cho rằng người Bồ Đào Nha có thể đã thấy vùng đất Nam Mỹ này trước khi thực hiện "volta do mar", điều đó sẽ lý giải cho sự kiên quyết của vua John II trong việc di chuyển đường kẻ về phía tây vào năm 1494, vì vậy việc ông cập bến Brazil có lẽ không hoàn toàn là tình cờ. Tuy vậy, cũng không loại trừ khả năng động cơ của John chỉ đơn thuần là tăng cơ hội lấy những vùng đất mới ở Đại Tây Dương. Từ bờ biển phía đông, hạm đội sau đó quay về hướng đông để tiếp tục hành trình đến mũi phía nam của châu Phi và Ấn Độ. Cabral là thuyền trưởng đầu tiên tới cả bốn châu lục, dẫn đầu đoàn thám hiểm đầu tiên kết nối và thống nhất châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Á.
Theo lời mời của Vua Manuel I, Amerigo Vespucci— một người Florentine từng làm việc cho một chi nhánh của Ngân hàng Medici ở Seville từ năm 1491 — phù hợp với các chuyến thám hiểm đại dương và từng đi đến The Guianas hai lần với Juan de la Cosa phụng sự Tây Ban Nha — ban cho ông tư cách là hoa tiêu trong các hành trình đến bờ biển phía đông Nam Mỹ. Các cuộc thám hiểm này đã được biết đến rộng rãi ở châu Âu sau khi hai ghi chép được cho là của ông, được xuất bản từ năm 1502 đến 1504, cho rằng những vùng đất mới được phát hiện không phải là Ấn Độ mà là "Thế giới mới", Mundus novus, tựa tiếng Latinh của một tài liệu đương đại dựa trên những bức thư của Vespucci gửi cho Lorenzo di Pierfrancesco de 'Medici. Người ta nhận ra rằng Columbus chưa từng đặt chân đến Châu Á mà đã phát hiện một lục địa mới hoàn toàn, Châu Mỹ. Châu Mỹ được đặt tên vào năm 1507 bởi các nhà vẽ bản đồ Martin Waldseemüller và Matthias Ringmann, có lẽ sau Amerigo Vespucci.
Khoảng năm 1501–1502, một trong những cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha, dẫn đầu bởi Gonçalo Coelho (và/hoặc André Gonçalves hoặc Gaspar de Lemos), giong buồm về phía nam ven bờ Nam Mỹ đến vịnh Rio de Janeiro ngày nay. Ghi chép của Amerigo Vespucci kể rằng đoàn thám hiểm đã đạt đến vĩ độ "Nam cực cao 52°Nam", ở vĩ độ "lạnh" của vùng phía nam Patagonia (có thể gần Eo biển), trước khi quay trở lại. Vespucci viết rằng họ đi về phía tây nam và nam, dọc "một bờ biển dài, không ngoằn ngoèo" (trùng khớp với bờ biển phía Nam Nam Mỹ). Điều này có vẻ không chính xác, vì ông đã chỉnh sửa một phần mô tả của mình trong bức thư tiếp theo, nêu rõ một sự thay đổi, từ khoảng 32°Nam (Nam Brazil), về phía nam-đông nam, ra biển rộng; tuy nhiên, vẫn khẳng định là đoàn của ông đã đạt tới 50°/52°Nam (Đây có thể là do quyết định của chính ông hoặc bởi người kiểm duyệt D. Manuel, vị này có thể đã gây áp lực buộc Vespucci phải thay đổi ghi chép do lo ngại rằng họ đã tiết lộ quá nhiều với Lorenzo de 'Medici và công chúng).
Năm 1503, Binot Paulmier de Gonneville thách thức chính sách mare clausum của Bồ Đào Nha và dẫn đầu một trong những cuộc thám hiểm Normand và Breton sớm nhất của Pháp tới Brazil. Ông định đi thuyền đến Đông Ấn, nhưng gần Mũi Hảo Vọng, con tàu của ông bị lệch hướng về phía tây bởi một cơn bão và đáp đất ở bang Santa Catarina (miền nam Brazil) ngày nay ngày 5 tháng 1 năm 1504.
Vào khoảng 1511–1512, thuyền trưởng người Bồ João de Lisboa và Estevão de Fróis tiến vào cửa Sông La Plata ở Uruguay và Argentina ngày nay và đã đi xa xuống phía nam tới Vịnh San Matias ngày nay ở 42°Nam (được ghi trong Newen Zeytung auss Pressilandt có nghĩa là "Tin tức mới từ vùng đất Brazil"). Đoàn thám hiểm gặp một mũi đất kéo dài từ bắc xuống nam mà họ gọi là Mũi của "Santa Maria" (Punta del Este, giữ tên Mũi gần đó); và sau 40 °Nam, họ tìm thấy một "Mũi" hoặc "một điểm hoặc một địa điểm kéo dài ra biển" và một "Vịnh" (vào tháng Sáu và tháng Bảy). Sau khi rong ruổi gần 300 km (186 dặm) để đi vòng qua mũi này, họ lại nhìn thấy lục địa ở phía bên kia, rồi đi về phía tây bắc, nhưng một cơn bão đã ngăn họ tiến tiếp. Bị Tramontane hoặc gió bắc cuốn đi, họ đành rút lui. Đoàn thám hiểm mang về những tin tức đầu tiên kể về một vị Vua Trắng và "người dân vùng núi" sâu trong nội địa (Đế quốc Inca) và một chiếc rìu bạc được biếu tặng bởi người bản địa Charrúa khi quay trở về ("gần bờ biển hoặc bên bờ của Brazil ") và "về phía Tây "(dọc theo bờ biển và cửa sông La Plata), dâng cho vua Manuel I. Christopher de Haro, một người Flemish gốc Sephardic (một trong những nhà tài trợ cuộc thám hiểm cùng với D. Nuno Manuel), người sẽ phụng sự Tây Ban Nha sau năm 1516, tin rằng các nhà hàng hải đã phát hiện ra một eo biển phía nam sang được châu Á.
Năm 1519, một đoàn thám hiểm được gửi đi từ Tây Ban Nha để tìm đường đến châu Á dẫn dắt bởi nhà hàng hải người Bồ Đào Nha giàu kinh nghiệm Ferdinand Magellan. Hạm đội đã khám phá các con sông, vịnh và lập bản đồ bờ biển Nam Mỹ cho đến khi tìm được đường sang Thái Bình Dương thông qua eo biển Magellan.
Khoảng năm 1524–1525, Aleixo Garcia, một conquistador Bồ Đào Nha (có lẽ là cựu thủy thủ đoàn của cuộc viễn chinh Solís năm 1516), dẫn đầu một đoàn thám hiểm tư nhân khám phá các xác tàu đắm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tuyển mộ khoảng 2000 người Anh-điêng Guaraní. Họ khám phá và tiến sâu các vùng lãnh thổ của miền nam Brazil, Paraguay và Bolivia ngày nay bằng cách sử dụng mạng lưới đường mòn bản địa Peabiru. Họ cũng là những người châu Âu đầu tiên băng qua Chaco và tiếp xúc với vùng lãnh thổ bên ngoài Đế chế Inca trên những ngọn đồi của dãy Andes, gần Sucre.
Ấn Độ Dương (1497–1513)
Tuyến đường của Gama đến Ấn Độ
Được bảo trợ khỏi sự cạnh tranh trực tiếp của Tây Ban Nha bởi hiệp ước Tordesillas, việc thăm dò và bành trướng về phía đông của Bồ Đào Nha tiếp tục. Hai lần, vào năm 1485 và 1488, Bồ Đào Nha chính thức chối bỏ ý tưởng đến Ấn Độ của Christopher Columbus bằng cách đi về phía tây. Vua John II không ủng hộ ý tưởng đó vì cho rằng ước tính 2.400 dặm (3.860 km) của Columbus không chính xác, và một phần cũng là vì Bartolomeu Dias đã vượt thành công mũi phía nam của châu Phi vào năm 1487, do đó triều đình Bồ Đào Nha tin rằng đi thuyền về phía đông sẽ ngắn hơn nhiều. Sự trở lại của Dias từ Mũi Hảo Vọng vào năm 1488 và chuyến đi của Pêro da Covilhã đến Ethiopia cho thấy sự trù phú của Ấn Độ Dương có thể tiếp cận được từ Đại Tây Dương. Một cuộc thám hiểm dài hạn đã được chuẩn bị.
Đời vua Manuel I xứ Bồ, vào tháng 7 năm 1497, một hạm đội thám hiểm nhỏ gồm bốn tàu và khoảng 170 người rời Lisbon dưới sự chỉ huy của Vasco da Gama. Đến tháng 12, hạm đội vượt qua sông Great Fish-nơi đoàn của Dias quay đầu trờ về châu Âu-và đi vào vùng biển chưa được phác bản đồ. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1498, họ đến được Calicut. Những nỗ lực của Vasco da Gama để giao dịch thuận lợi bất thành bởi hàng hóa của ông không đủ nổi bật. Hai năm và hai ngày sau khi khởi hành, Gama và 55 thủy thủ sống sót trở về Bồ Đào Nha trong vinh quang, do họ là những người đầu tiên đi tàu từ châu Âu đến Ấn Độ.
Năm 1500, đoàn thứ hai, lớn hơn và gồm 1500 người được cử đến Ấn Độ. Dưới trướng Pedro Álvares Cabral, họ trông thấy đất liền Brazil; Sau đó, ở Ấn Độ Dương, một trong những chiếc tàu của Cabral cập bến Madagascar (1501), từng được khám phá một phần bởi Tristão da Cunha năm 1507; Mô-ri-xơ được phát hiện năm 1507, Socotra bị chiếm đóng năm 1506. Cùng năm đó, Lourenço de Almeida đổ bộ lên Sri Lanka, hòn đảo phía đông có tên "Taprobane" trong các ghi chép của nhà địa lý học Hy Lạp thế kỷ thứ IV của Alexander Đại đế tên là Megasthenes. Các thương điếm châu Âu đầu tiên được thành lập tại Kochi và Calicut (1501) và sau đó là Goa (1510).
Các đảo Gia Vị và Trung Quốc
Năm 1511, Afonso de Albuquerque chinh phục Malacca dưới lá cờ Bồ Đào Nha, bấy giờ là trung tâm thương mại châu Á. Albuquerque đã gửi một số phái đoàn ngoại giao về phía đông Malacca: Duarte Fernandes là đặc phái viên châu Âu đầu tiên đến Vương quốc Xiêm (Thái Lan hiện đại).
Hay tin về vị trí bí mật của các "đảo gia vị" hay quần đảo Maluku, chủ yếu là quần đảo Banda, bấy giờ là nguồn nhục đậu khấu và đinh hương duy nhất, Afonso đã gửi một chuyến viễn chinh dưới quyền António de Abreu đến Banda (thông qua Java và Quần đảo Sunda nhỏ hơn), nơi họ là những người châu Âu đầu tiên cập bến vào đầu năm 1512 sau khi lần theo con đường mà họ cũng đã đi qua trước đó như các đảo Buru, Ambon và Seram. Từ Banda Abreu trở về Malacca, sau khi bị tách khỏi đoàn bởi một vụ đắm tàu và đi về phía bắc, phó thuyền trưởng Francisco Serrão một lần nữa lại cập Ambon và chìm ở Ternate, nơi ông nhận được giấy phép xây dựng một thương điếm pháo đài Bồ Đào Nha: Pháo đài São João Baptista de Ternate, kiến tạo sự hiện diện của Bồ Đào Nha tại Quần đảo Malay.
Vào tháng 5 năm 1513, sứ thần Bồ Đào Nha Jorge Álvares đựoc cử đến Trung Quốc. Mặc dù ông là người châu Âu đầu tiên bước chân trên đảo Nội Linh Đinh ở Châu thổ sông Châu Giang nhưng Rafael Perestrello, một người anh em họ của Christopher Columbus, mới là nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên tới bờ biển phía nam Trung Quốc đại lục và buôn bán tại Quảng Châu năm 1516. Rafael chỉ huy một tàu Bồ Đào Nha với thủy thủ đoàn từ một thuyền buồm khởi hành từ Malacca. Fernão Pires de Andrade đến thăm Quảng Châu năm 1517 và mở cửa giao thương với Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha bị nhà Minh đánh đuổi năm 1521 tại Trận Truân Môn và năm 1522 tại Trận Thiến Thảo Loan, người Trung Quốc tịch thu được loại súng đại bác xoay của Bồ Đào Nha rồi cải biến chùng thành súng "Bật Lang Cơ" 佛郎機. Sau một vài thập kỷ, sự thù địch giữa người Bồ và Trung Quốc chấm dứt và vào năm 1557, Trung Quốc cho phép Bồ Đào Nha nhập cư ở Ma Cao.
Để củng cố độc quyền thương mại, Afonso de Albuquerque chiếm đóng Muscat và Hormuz ở Vịnh Ba Tư năm 1507 và năm 1515. Ông thiết lập quan hệ ngoại giao với Ba Tư. Vào năm 1513, trong chiến dịch đánh chiếm Aden, đoàn thám hiểm do Albuquerque dẫn đầu đã khám phá Biển Đỏ bên trong Bab al-Mandab và trú ẩn tại đảo Kamaran. Năm 1521, lực lượng của António Correia chiếm Bahrain, mở ra thời kỳ gần 80 năm cai trị của Bồ Đào Nha trên quần đảo này ở vùng Vịnh. Ở Biển Đỏ, Massawa là điểm xa nhất mà người Bồ Đào Nha thường lui tới cho đến năm 1541, khi một hạm đội của Estevão da Gama xâm nhập đến tận Suez.
Thái Bình Dương (1513–1529)
Phát hiện Thái Bình Dương
Năm 1513, khoảng 40 dặm (64 km) về phía nam của Acandí, nay thuộc Colombia, Vasco Núñez de Balboa nghe tin đồn về một vùng "biển khác" nhiều vàng. Với một ít tài nguyên và thông tin được cung cấp bởi các cacique địa phương (thủ lĩnh bộ tộc), ông băng qua eo Panama với 190 người Tây Ban Nha, một vài người dẫn đường bản địa và một đàn chó.
Sử dụng một tàu brigantine nhỏ và mười chiếc ca-nô bản địa, họ men theo bờ biển. Vào ngày 6 tháng 9, đoàn thám hiểm được tăng viện thêm 1.000 người. Trên quãng đường đầy gian truân, họ chạm trán với dân bản địa thù địch, tiến vào rừng sâu rậm rạp và leo dãy đồi núi dọc sông Chucunaque mà nghe đồn là có thể thấy được "biển khác" nếu leo tới đỉnh. Balboa tiến trước và vào buổi trưa ngày 25 tháng 9, ông phát hiện ở phía chân trời một vùng biển lạ, trở thành người châu Âu đầu tiên chiêm ngưỡng và đến được Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Đoàn thám hiểm xuống bờ để do thám, trở thành những người châu Âu đầu tiên định vị Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Sau khi đi được hơn 110 km (68 dặm), Balboa đặt tên cho vịnh nơi họ dừng chân là San Miguel. Ông đặt tên cho biển này là Mar del Sur (Biển Nam) vì họ đi xuống nam để tìm nó. Mục đích chính của Balboa trong cuộc thám hiểm là tìm kiếm các vương quốc nhiều vàng. Ông băng qua vùng đất của các cacique, đặt tên cho hòn đảo lớn nhất là Isla Rica (Đảo Giàu, ngày nay gọi là Isla del Rey). Ông đặt tên cho toàn bộ khu vực là Archipiélago de las Perlas, cái tên mà vẫn được sử dụng tới tận ngày nay.
Các tiến triển về phía đông
Từ năm 1515-1516, hạm đội Tây Ban Nha của Juan Díaz de Solís men theo đường bờ biển phía đông Nam Mỹ đến tận Río de la Plata. Solís đặt tên cho nơi này ngay trước khi chết trong nỗ lực tìm kiếm "Biển Nam".
Hành trình vòng quanh Trái Đất đầu tiên
Đến năm 1516, một số nhà hàng hải Bồ Đào Nha uất ức vua Manuel I xứ Bồ, đã tập trung tại Seville để phụng sự vua Charles I mới đăng cơ của vương quốc Tây Ban Nha. Trong số đó có các nhà thám hiểm Diogo và Duarte Barbosa, Estêvão Gomes, João Serrão và Ferdinand Magellan, các nhà phác bản đồ Jorge Reinel và Diogo Ribeiro, các nhà thiên văn học Francisco và Ruy Faleiro và thương gia người Flemish Christopher de Haro. Ferdinand Magellan (người đã giong buồm đến Ấn Độ dưới lá cờ Bồ Đào Nha dừng chân tại Quần đảo Maluku năm 1513, vẫn giữ liên lạc với Francisco Serrão sống ở đó) phát triển lý thuyết rằng các đảo này nằm trong khu vực Tordesillas của Tây Ban Nha, được hỗ trợ bởi nghiên cứu của anh em Faleiro.
Hay tin những nỗ lực của người Tây Ban Nha trong việc tìm đường đến Ấn Độ bằng cách đi về phía tây, Magellan đã trình bày kế hoạch của ông với vua Charles I của Tây Ban Nha. Nhà vua và Christopher de Haro quyết định tài trợ cho cuộc thám hiểm của Magellan. Một hạm đội được tập hợp và các nhà hàng hải Tây Ban Nha như Juan Sebastián Elcano đồng ý tham gia vào cuộc viễn chinh. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1519, họ khởi hành từ Seville với một đội tàu gồm năm chiếc: Trinidad là kỳ hạm dưới sự chỉ huy của Magellan, San Antonio, Concepcion, Santiago và Victoria; (cái đầu là một chiếc ca-ra-vê và số còn lại là tàu carrack hay "naus") với một thủy thủ đoàn gồm khoảng 237 người đa quốc tịch, Mục tiêu của họ là Quần đảo Maluku nhưng phải tới đó từ phía Tây, đòi chủ quyền của chúng cho vương quốc Tây Ban Nha.
Hạm đội đi xuống phía nam, tránh các lãnh thổ Bồ Đào Nha ở Brazil và trở thành những người đầu tiên đặt chân đến Tierra del Fuego ở mũi châu Mỹ. Vào ngày 21 tháng 10, bắt đầu từ Mũi Virgenes, họ vượt qua một eo biển dài 373 dặm (600 km) đầy gian nan mà Magellan đặt tên là Estrecho de Todos los Santos, chính là Eo biển Magellan hiện đại. Vào ngày 28 tháng 11, ba chiếc tàu sang được Thái Bình Dương, họ đặt tên nó là Mar Pacífico vì vùng nước lặng. Đoàn thám hiểm vượt Thái Bình Dương nhưng Magellan bỏ mạng trong trận Mactan ở Philippines. Juan Sebastián Elcano sau đó được bổ nhiệm thành lãnh đạo trong suốt hành trình còn lại, cập bến Quần đảo Gia Vị vào năm 1521. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1522, tàu Victoria trở về Tây Ban Nha, hoàn thành chuyến đi vòng địa cầu đầu tiên trong lịch sử. Chỉ có 18 người quay trở lại Tây Ban Nha trên một con tàu duy nhất do Elcano dẫn đầu. Có thêm 17 thủy thủ khác sống sót trở về sau đó: 12 người bị Bồ Đào Nha bắt ở Mũi Verde vài tuần trước đó, và từ năm 1525 đến 1527, 5 người sống sót quay trở lại trên tàu Trinidad. Antonio Pigafetta, một học giả và lữ khách người Venice, người đã tình nguyện tham gia và trở thành trợ lý đắc lực của Magellan, giữ một nhật ký kể lại chi tiết về chuyến hành trình.
Chuyến du ngoạn này đã đem lại cho Tây Ban Nha những kiến thức quý giá về thế giới và các đại dương mà sau này sẽ giúp ích cho việc thăm dò và định cư của họ ở Philippines. Mặc dù không phải là giải pháp thay thế khả thi cho tuyến đường Bồ Đào Nha ngắn hơn quanh Châu Phi (do Eo biển Magellan quá xa về phía nam và Thái Bình Dương quá rộng lớn), các đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã sử dụng vốn kiến thức này để khám phá Thái Bình Dương và phát hiện các hải tuyến giao thương giữa Acapulco ở Tân Tây Ban Nha (Mexico ngày nay) với Manila ở Philippines.
Thăm dò về phía tây và phía đông tụ họp
Ngay sau cuộc thám hiểm của Magellan, người Bồ Đào Nha tức tốc bắt giữ số thủy thủ sống sót và cho xây một pháo đài ở Ternate. Năm 1525, Charles I của Tây Ban Nha phái một đoàn thám hiểm khác về phía tây để đánh chiếm quần đảo Maluku, tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha dựa trên Hiệp ước Tordesillas. Hạm đội gồm 7 tàu và 450 thủy thủ, chỉ huy bởi García Jofre de Loaísa và quy tụ các nhà hàng hải nổi tiếng của Tây Ban Nha: Juan Sebastián Elcano và Loaísa (người đã mất mạng sau đó) và Andrés de Urdaneta.
Gần eo biển Magellan, một trong những con tàu gặp bão rồi bị đẩy xuống nam, đạt tới 56°Nam. Họ khẳng định là đã nhìn thấy nơi "tận cùng trái đất": đây là lần đầu tiên Mũi Horn bị vượt qua. Đoàn viễn chinh gặp khó khăn trong hành trình và phải cập cảng Tidore. Xung đột với người Bồ Đào Nha nổ ra ở Ternate gần đó là không thể tránh khỏi, châm ngòi gần một thập kỷ những cuộc tranh giành lãnh thổ ở biển.
Vì không có giới hạn phía đông đối với đường kẻ Tordesillas, cả hai vương quốc đã tổ chức các hội nghị để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Từ năm 1524-1529, các chuyên gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã gặp nhau tại Badajoz-Elvas để tìm vị trí chính xác của đường đối lập Tordesillas, nhằm chia địa cầu thành hai bán cầu bằng nhau. Mỗi vương quốc bổ nhiệm ba nhà thiên văn học và người phác bản đồ, ba thuyền trưởng và ba nhà toán học. Lopo Homem, người phác bản đồ và nhà thiên văn học Bồ Đào Nha đã tham gia hội ý, cùng với người phác bản đồ Diogo Ribeiro bên phái đoàn Tây Ban Nha. Hội đồng tụ họp nhiều lần mà không đi đến được thỏa thuận nào: kiến thức tại thời điểm đó không đủ để tính toán kinh độ chính xác của đường kẻ còn các bên thì cương quyết đòi chủ quyền các hòn đảo. Vấn đề được giải quyết vào năm 1529, sau một cuộc đàm phán dai dẳng, kết thúc bằng việc ký kết Hiệp ước Zaragoza, quy kết quần đảo Maluku cho Bồ Đào Nha và Philippines cho Tây Ban Nha.
Từ năm 1525 đến 1528, Bồ Đào Nha đã gửi một số chuyến thám hiểm quanh Quần đảo Maluku. Gomes de Sequeira và Diogo da Rocha được gửi lên phía bắc bởi thống đốc Ternate Jorge de Menezes và họ trở thành những người châu Âu đầu tiên đến Quần đảo Caroline, nơi họ đặt tên là "Quần đảo de Sequeira". Năm 1526, Jorge de Meneses cập cảng các đảo Biak và Waigeo ở Papua New Guinea. Dựa trên những khám phá này mà nhà sử học người Úc Kenneth McIntyre đã đề xướng giả thuyết khám phá Úc của Bồ Đào Nha, khẳng định rằng Cristóvão de Mendonça và Gomes de Sequeira đã tìm ra châu Úc đầu tiên.
Tây Ban Nha tiến hành cuộc chinh phạt Châu Mỹ (1519–1532)
Tin đồn về các hòn đảo chưa được khám phá ở tây bắc của Hispaniola đã đến tai Tây Ban Nha vào năm 1511 và được vua Fernando II của Aragon quan tâm. Trong khi người Bồ đã đạt được những thành tựu to lớn ở Ấn Độ Dương, người Tây Ban Nha lại đầu tư vào công cuộc khám phá nội địa châu Mỹ để tìm kiếm vàng và các tài nguyên quý giá khác. Thành viên của những cuộc khám phá này được gọi là những "conquistador". Họ có xuất thân khác nhau, người là nghệ nhân, người là thương nhân, có khi lại là giáo sĩ, tiểu quý tộc và đôi khi là cả nô lệ tự do, nhưng họ có cùng chung một mục đích là tìm kiếm tiền tài và danh vọng ở Tân Thế Giới. Các conquistador phải tự chu cấp cho các cuộc viễn chinh và đa số họ đều không có kinh nghiệm chinh chiến.
Ở châu Mỹ, người Tây Ban Nha đã tìm thấy nhiều đế quốc rộng lớn và tấp nập như ở châu Âu. Mặc cho quân số conquistador ít hơn, họ vẫn lật đổ được những liệt cường này. Trong thời kì này, đại dịch bệnh từ châu Âu như bệnh đậu mùa tàn phá dân cư bản địa. Sau khi chủ quyền của Tây Ban Nha được thiết lập, Tây Ban Nha tập trung vào việc khai thác và xuất khẩu vàng và bạc.
Năm 1512, để trao thưởng cho Juan Ponce de León vì đã phát hiện Puerto Rico vào năm 1508, vua Ferdinand đã thúc giục ông khám phá những vùng đất mới. Ông sẽ được ban chức thống đốc của những vùng đất mà ông khám phá, nhưng phải tự mình chu cấp cho tất cả các cuộc thám hiểm đó. Với ba con tàu và khoảng 200 thủy thủ, Léon khởi hành từ Puerto Rico vào tháng 3 năm 1513. Vào tháng 4, họ nhìn thấy đất liền và đặt tên dải đất đó là La Florida, vì đang là mùa Phục sinh (Florida). Ông là người châu Âu đầu tiên đặt chân lên vùng đất này, nơi mà ông lầm tưởng là một hòn đảo. Địa điểm đổ bộ của León đang bị tranh cãi giữa St. Augustine, Ponce de León Inlet và Melbourne Beach. Họ tiến về phía nam và vào ngày 8 tháng 4 đã gặp một dòng chảy mạnh đến nỗi nó đẩy họ lùi lại: đây là cuộc chạm trán đầu tiên với dòng Hải lưu Gulf Stream, sau này sẽ cực kì quan trọng trong chuyến hành trình từ Ấn về Âu. Họ tiến tới Vịnh Biscayne, Dry Tortugas rồi chuyển hướng về phía tây nam nhằm vòng qua Cuba để trở về, cập bến Grand Bahama vào tháng Bảy.
Cortés ở Mexico và Đế quốc Aztec
Năm 1517, thống đốc Velázquez de Cuéllar của Cuba cử một hạm đội dẫn đầu bởi Hernández de Córdoba đi khám phá bán đảo Yucatán. Họ đổ bộ và được người Maya chào đón, nhưng bị phục kích lúc ban đêm và chỉ còn một số ít quay trở về. Velázquez sau đó cử một đoàn thám hiểm khác do cháu trai ông Juan de Grijalva chỉ huy, đi thuyền về phía nam dọc bờ biển tới Tabasco, lãnh thổ của đế quốc Aztec. Năm 1518, Velázquez trao cho thị trưởng thủ phủ của Cuba, Hernán Cortés, một đoàn thám hiểm để thám thính nội địa Mexico, nhưng do hiếm khích cũ giữa họ, đã khước từ lời đề nghị.
Vào tháng 2 năm 1519, Cortés vẫn ra khơi chống chế. Với khoảng 11 tàu, 500 thủy thủ, 13 con ngựa và một số lượng nhỏ pháo đổ bộ lên Yucatán, lãnh thổ của người Maya, tuyên bố giành đất cho vương miện Tây Ban Nha. Từ Trinidad, ông tiến tới Tabasco và giành chiến thắng trước người bản xứ. Ông được trao cho một nữ nô lệ tên La Malinche, người tình tương lai của ông. Bà biết nói hai ngôn ngữ là tiếng Nahuatl (Aztec) và tiếng Maya, rồi trở thành một thông dịch viên và cố vấn có giá trị. Thông qua bà, Cortés biết về Đế quốc Aztec thịnh vượng.
Vào tháng 7, người của ông tiếp quản Veracruz và ông thuyết phục được vị vua mới Charles I của Tây Ban Nha bảo hộ cuộc chinh phạt.[121] Cortés yêu cầu được gặp mặt Hoàng đế Aztec Montezuma II, người liên tục khước từ lời đề nghị của ông. Họ tiến đến Tenochtitlan và trên đường lập liên minh với nhiều bộ lạc và thành bang thù địch người Aztec. Vào tháng 10, đoàn Tây Ban Nha hội quân với 3.000 chiến binh Tlaxcaltec, hành quân đến Cholula, thành bang lớn thứ hai tại miền trung Mexico. Để gieo rắc nỗi sợ và răn đe những kẻ chống đối, ông cho hành quyết hàng ngàn quý tộc và cho đốt một phần thành phố.
Đến được Tenochtitlan vào ngày 8 tháng 11, họ được Moctezuma II đón tiếp tử tế, cố tình cho Cortés vào trung tâm của Đế quốc Aztec nhằm hiểu rõ hơn ý định của người Tây Ban Nha và đánh bại họ sau này. Vị hoàng đế dâng tặng họ những món quà xa hoa bằng vàng, thứ mà người Tây Ban Nha thèm khát. Trong những bức thư gửi cho vua Charles, Cortés huênh hoang khẳng định rằng ông được người Aztec coi là sứ giả của vị thần rắn có lông Quetzalcoatl hoặc chính là vị Quetzalcoatl-một chi tiết gây tranh cãi trong cộng đồng sử gia hiện đại. Hay tin quân Aztec đánh úp người của Cortés trên bờ biển, Cortés bắt giữ Hoàng đế làm con tin và đòi tiền chuộc để dâng về cho vua Charles.
Trong khi đó, Velasquez đã gửi một đoàn thám hiểm khác, chỉ huy bởi Pánfilo de Narváez đi bắt Cortès, cập bến Mexico vào tháng 4 năm 1520 với 1.100 lính. Cortés để lại 200 lính ở Tenochtitlan và mang phần còn lại đối đầu với Narvaez. Cortés chiến thắng và thuyết phục quân của Narváez đi cùng ông. Ở Tenochtitlán, một trong số các trung úy của Cortés thảm sát quý tộc Aztec tại Đền Lớn, châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa của người Aztec. Cortés nhanh chóng quay trở lại, thuyết phục Moctezuma trấn áp đám đông nhưng hoàng đế Aztec đã bị giết (không rõ thủ phạm). Quân Tây Ban Nha tháo chạy về Tlaxcaltec trong sự kiện Noche Triste (Đêm Sầu) với thương vong lớn. Phần lớn kho báu cướp phá được bị đánh rơi trong cuộc chạy trốn. Sau trận Otumba, họ chạy về Tlaxcala, mất 870 lính. Sau khi có được sự trợ giúp của các đồng minh và quân tiếp viện từ Cuba, Cortés vây hãm Tenochtitlán và bắt Cuauhtémoc vào tháng 8 năm 1521. Đế quốc Aztec chính thức sụp đổ sau khi thành đô Tenochtitlan thất thủ, Cortés tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha và thành lập Thành phố Mexico.
Pizarro ở Peru và Đế quốc Inca
Nỗ lực đầu tiên để khám phá miền tây Nam Mỹ là vào năm 1522 bởi Pascual de Andagoya. Người Nam Mỹ bản địa kể với ông về một đất nước thịnh vượng trên một con sông tên là Pirú. Đến sông San Juan (Colombia), Andagoya đổ bệnh và trở về Panama, nơi ông lan truyền tin tức về "Pirú", thành phố bằng vàng El Dorado huyền thoại. Những tin tức này, cùng với các cuộc chinh phạt mới đây của Hernán Cortés, đã thu hút sự chú ý của Pizarro.
Francisco Pizarro khởi hành cùng Balboa trong chuyến vượt eo đất Panama. Năm 1524, ông thiết lập quan hệ đối tác với linh mục Hernando de Luque và conquistador Diego de Almagro để khám phá miền nam, đồng ý sẻ chia lợi nhuận. Họ thành lập tập đoàn viễn chinh với tên là "Empresa del Levante" (tiếng Anh: Company of the Levant): Pizarro là chỉ huy, Almagro cung cấp quân lực và thực phẩm, và Luque sẽ chịu trách nhiệm về tài chính và nhu yếu phẩm bổ sung.
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1524, chuyến thám hiểm đầu tiên trong ba cuộc thám hiểm Peru gồm khoảng 80 người và 40 con ngựa. Cuộc thám hiểm là một thất bại, họ tới được Colombia nhưng chịu thua do thời tiết xấu, cái đói và xung đột với dân bản địa thù địch, Almagro còn bị mất một mắt. Các địa danh được đặt dọc theo tuyến đường của họ sở hữu những cái tên như Puerto deseado (cảng mong muốn), Puerto del hambre (cảng đói) và Puerto quemado (cảng thiêu rụi), chứng thực cho những khó khăn trong hành trình gian nan của họ. Hai năm sau, cuộc thám hiểm thứ hai được thành lập với sự cho phép miễn cưỡng từ Thống đốc Panama. Vào tháng 8 năm 1526, họ rời đi với 2 con tàu, 160 người và nhiều con ngựa. Khi đến sông San Juan, họ tách ra, Pizarro ở lại để khám phá bờ biển đầm lầy và Almagro trở lại Panama để lấy thêm đồ tiếp viện. Thuyền trưởng chính của Pizarro dòng buồm về phía nam và sau khi băng qua đường xích đạo, đã bắt được một chiếc bè từ Tumbes. Họ ngạc nhiên khi nó chở đầy vải dệt, gốm, vàng, bạc và ngọc lục bảo. Almagro kịp thời mang thêm quân tiếp viện và họ lại tiếp tục chuyến hành trình. Sau chuyến đi phải đối mặt với những cơn gió và dòng chảy mạnh, họ đến được Atacames nơi tìm thấy một khu định cư lớn nằm dưới ách cai trị của người Inca.
Pizarro vẫn an toàn gần bờ biển, trong khi Almagro và Luque quay trở lại lấy thêm tiếp viện và mang theo bằng chứng về vàng được đồn đại. Thống đốc mới khước từ một cuộc thám hiểm thứ ba và ra lệnh cho hai con tàu ngay lập tức trở về Panama. Almagro và Luque quyết định gia nhập với Pizarro. Khi họ đến Isla de Gallo, Pizarro đã vẽ một đường trên cát, nói dõng dạc: "Peru ở đó với sự giàu có của nó; Panama ở đây với sự nghèo khổ của nó. Hãy chọn, mỗi người, điều tốt nhất để trở thành một người Castilia dũng cảm." Mười ba người đàn ông quyết định ở lại và đời sau gọi họ là The Famous Thirteen. Đoàn của Pizarro tới La Isla Gorgona, nơi họ ở lại bảy tháng chờ đồ tiếp tế.
Họ quyết định đi thuyền về phía nam và đến tháng 4 năm 1528, đổ bộ lên Tumbes phía tây bắc Peru và được người Tumpis địa phương đón chào nồng nhiệt. Hai người của Pizarro đã báo cáo sự giàu có đáng kinh ngạc, bao gồm cả đồ trang trí bằng vàng và bạc xung quanh nhà của tù trưởng. Lần đầu tiên họ nhìn thấy một con llama mà Pizarro gọi là "những con lạc đà nhỏ". Người bản địa đặt tên cho người Tây Ban Nha là "Những đứa trẻ của Mặt trời" vì nước da trắng và những chiếc áo giáp rực rỡ mà họ mặc. Sau đó, họ quyết định trở về Panama để chuẩn bị một chuyến thám hiểm cuối cùng. Trước khi rời đi, họ đi thuyền về phía nam qua các vùng lãnh thổ mà họ đặt tên là Cabo Blanco, cảng Payta, Sechura, Punta de Aguja, Santa Cruz và Trujillo, đạt đến 9 độ nam.
Vào mùa xuân năm 1528, Pizarro về Tây Ban Nha, nơi ông diện kiến vua Charles I. Nhà vua đã nghe về những chuyến thám hiểm của ông ở vùng đất giàu vàng và bạc và hứa sẽ trợ cấp cho ông. Capitulación de Toledo ủy quyền cho Pizarro tiến hành cuộc chinh phạt Peru. Pizarro sau đó đã có thể thuyết phục được nhiều bạn bè và người thân tham gia chuyến viễn chinh, bao gồm: Hernándo Pizarro, Juan Pizarro, Gonzalo Pizarro và cả Francisco de Orellana, người sau này sẽ khám phá sông Amazon, và người anh em họ Pedro Pizarro.
Chuyến thám hiểm thứ ba và cuối cùng của Pizarro rời Panama đến Peru vào ngày 27 tháng 12 năm 1530. Với ba con tàu và 180 người, họ xuống thuyền gần Ecuador và đi thuyền đến Tumbes, thấy rằng nơi này đã bị phá hủy. Họ tiến vào sâu trong nội địa và thành lập khu định cư Tây Ban Nha đầu tiên ở Peru, San Miguel de Piura. Một trinh sát của đoàn gặp một phái viên Inca và báo tin lại cho đoàn thám hiểm chuẩn bị cho một cuộc gặp mặt. Tumbes bị hủy diệt là do đế quốc Inca đang chìm trong một cuộc nội chiến đẫm máu và Atahualpa đang ở miền bắc Peru, sau khi đánh bại Huáscar. Sau khi hành quân được hai tháng, họ diện kiến trước hoàng đế Atahualpa. Tuy nhiên, vị hoàng đế khinh thường người Tây Ban Nha và "không quy thuận bất kỳ ai". Người Tây Ban Nha có 200 quân đối đầu với 80.000 quân Inca. Tuy bị áp đảo, Pizarro chiến thắng trận Cajamarca, bắt sống Atahualpa và đòi tiền chuộc. Mặc dù đã thực hiện lời hứa "vàng lấp đầy một phòng và bạc lấp đầy hai phòng", ông bị kết án vì giết anh trai Huáscar và âm mưu chống lại Pizarro. Vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Inca độc lập bị hành quyết.
Năm 1533, Pizarro chiếm thành Cuzco cùng với quân đồng minh bản địa và viết cho vua Charles I: "Thành phố này có thể coi là vĩ đại nhất và đẹp nhất ở đất nước này hoặc bất cứ nơi nào ở Ấn Độ... nó quả thật rất đẹp và có những tòa nhà lộng lẫy đến mức nó sẽ nổi bật ngay cả ở Tây Ban Nha." Sau khi người Tây Ban Nha hoàn thành cuộc chinh phạt Peru, Jauja tại Thung lũng Mantaro màu mỡ được lấy làm thủ đô tạm thời của Peru, nhưng do ở trên núi, không thuận tiện việc đi lại, Pizarro cho thành lập Lima vào ngày 18 tháng 1 năm 1535, mà Pizarro coi là thành tựu đáng nhớ nhất trong cuộc đời ông.
Tuyến giao thương mới (1542–1565)
Năm 1543, ba thương nhân Bồ Đào Nha vô tình trở thành những người phương Tây đầu tiên cập bến và giao dịch với Nhật Bản. Theo Fernão Mendes Pinto, người tự nhận là đã tham gia cuộc hành trình đó, họ đã đến Tanegashima, nơi dân địa phương rất ấn tượng với công nghệ súng của họ, mà sau này được người Nhật học hỏi và chế tạo trên quy mô lớn.
Vua Philip II của Tây Ban Nha phát động cuộc chinh phạt Phillipines và bổ nhiệm Andrés de Urdaneta đi đánh chiếm quần đảo. Urdaneta chấp thuận nhưng không trực tiếp chỉ huy quân đội; Miguel López de Legazpi thay thế ông làm lãnh đạo. Đoàn viễn chinh ra khơi vào tháng 11 năm 1564. Sau khi dành một chút thời gian trên các hòn đảo, Legazpi gửi Urdaneta đi tìm tuyến đường trở về thuận lợi hơn. Urdaneta rời San Miguel trên đảo Cebu vào ngày 1 tháng 6 năm 1565, nhưng buộc phải tới tận 38 độ vĩ Bắc để đón gió.
Ông lý luận rằng gió mậu dịch Thái Bình Dương thổi theo kiểu vòng hải lưu giống gió Đại Tây Dương. Nếu ở Đại Tây Dương, tàu thuyền phải thực hiện Volta do mar để đón gió đưa chúng trở về từ Madeira, thì, ông giả định, bằng cách đi lên bắc trước khi sang phía đông, ông có thể đón gió mậu dịch đưa tàu sang bờ Bắc Mỹ. Linh cảm của ông quả là không sai và cơn gió đưa ông đến Mũi Mendocino, California, rồi giong buồm xuống nam. Con tàu cập cảng Acapulco ngày 8 tháng 10 năm 1565, vượt thành công 12.000 dặm đường biển (19.312 km) chỉ trong 130 ngày. Mười bốn thủy thủ thiệt mạng; chỉ có Urdaneta và Felipe de Salcedo (cháu trai của López de Legazpi) còn đủ sức để thả neo.
Từ đó, một hải tuyến xuyên Thái Bình Dương đã được thiết lập giữa Mexico và Philippines. Trong một thời gian dài, các hải tuyến này được sử dụng bởi các thuyền galleon Manila, tạo ra một mạng lưới thương mại nối liền Trung Quốc, Châu Mỹ và Châu Âu thông qua các tuyến xuyên Thái Bình Dương và xuyên Đại Tây Dương.
Bắc Âu góp sức (1595 – thế kỷ XVII)
Các nước ngoại Iberia không thừa nhận Hiệp ước Tordesillas. Pháp, Hà Lan và Anh cũng có truyền thống hàng hải lâu đời. Bất chấp sự bưng bít của người Iberia, các công nghệ và bản đồ mới đã sớm lan tới phía bắc.
Năm 1568, người Hà Lan nổi dậy chống Felipe II của Tây Ban Nha dẫn đến Chiến tranh Tám mươi năm. Chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha cũng đang diễn ra. Năm 1580, Philip II thừa kế Vương miện, đăng cơ Vua Bồ Đào Nha.
Quân đội của Philip đánh chiếm các thành phố then chốt Bruges và Ghent. Antwerp, khi đó là hải cảng quan trọng bậc nhất trên thế giới, bị chiếm vào năm 1585. Dân Kháng Cách được trao hai năm để giải quyết thủ tục trước khi rời khỏi thành phố. Nhiều người tái định cư ở Amsterdam. Những người này chủ yếu là thợ thủ công lành nghề, thương nhân giàu có của các thành phố cảng và người tị nạn chạy trốn khỏi cuộc đàn áp tôn giáo, đặc biệt là người Do Thái Sephardi từ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và sau đó, người Huguenots từ Pháp. Những Cha Hành Hương cũng dành thời gian ở đó trước khi đến Thế giới mới. Cuộc di dân hàng loạt này là một động lực quan trọng: từng là một cảng nhỏ vào năm 1585, Amsterdam nhanh chóng nở rộ thành một trong những trung tâm thương mại quan trọng nhất trên thế giới. Sau thất bại của Hạm đội Tây Ban Nha năm 1588, thương mại hàng hải được mở rộng mặc dù thất bại của Hạm đội Anh vào năm sau đã khẳng định uy lực khủng khiếp của hải quân Tây Ban Nha.
Sự trỗi dậy của Hà Lan rất nhanh chóng và đáng chú ý: nhiều thủy thủ Hà Lan đã từng tham gia vào các chuyến đi của Bồ Đào Nha đến phía đông. Năm 1592, Cornelis de Houtman được các thương nhân Hà Lan gửi đến Lisbon để thu thập thông tin về Quần đảo Gia Vị. Năm 1595, thương nhân và nhà thám hiểm Jan Huyghen van Linschoten, đi tới Ấn Độ Dương nhân danh xứ Bồ Đào Nha, đã xuất bản cuốn "Reys-gheschrift vande navigatien der Portugaloysers in Orienten" ("Báo cáo về hành trình thông qua sự điều hướng của người Bồ Đào Nha ở phía Đông") ở Amsterdam. Cuốn sách bao gồm các hướng dẫn về cách di chuyển từ Bồ Đào Nha và Đông Ấn đến Nhật Bản. Cùng năm đó, Houtman dẫn đầu chuyến thám hiểm đầu tiên của Hà Lan theo chỉ dẫn trong cuốn sách kể trên và phát hiện ra một tuyến đường biển mới, đi thẳng từ Madagascar đến Eo biển Sunda ở Indonesia và ký hiệp ước với Quốc vương Banten.
Mối quan tâm của Hà Lan và Anh đã dẫn đến một phong trào mở rộng thương mại và kiến lập nền tảng của các công ty hiến chương Anh (1600) và Hà Lan (1602). Hà Lan, Pháp và Anh bắt đầu gửi các đội tàu vào vùng biển của Bồ Đào Nha, tập trung chủ yếu ở các khu vực ven bờ.
Khai phá Bắc Mỹ
Cuộc thám hiểm của Anh năm 1497 do người Venice tên John Cabot (Giovanni Caboto) dẫn đầu là chuyến hành trình đầu tiên trong một loạt các sứ mệnh của Pháp và Anh nhằm khám phá Bắc Mỹ. Tây Ban Nha không mấy tập trung vào phía bắc châu Mỹ, vì tài nguyên ở Trung và Nam Mỹ dồi dào hơn. Những cuộc thám hiểm này được kỳ vọng là sẽ tìm thấy một tuyến Tây Bắc đại dương để giao thương với châu Á. Con đường đó chưa bao giờ được phát hiện nhưng nhiều phương án khác đã được tìm ra, và vào đầu thế kỷ XVII, dân định cư từ một số nước Bắc Âu bắt đầu định cư ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ. Khoảng năm 1520–1521, João Álvares Fagundes cùng với các cặp vợ chồng từ Bồ Đào Nha và Azores đi khai phá Newfoundland và Nova Scotia (có lẽ họ đã đến Vịnh Fundy trên lưu vực Minas) và thành lập một thuộc địa chài lưới tại Mũi Đảo Breton, tồn tại đến đến khoảng năm 1570 hoặc gần cuối thế kỷ XVI.
Năm 1524, Giovanni da Verrazzano ra khơi nhân danh vua François I của Pháp, thúc đẩy bởi sự thiếu tôn trọng các nước khác của hiệp ước chia cắt thế giới làm hai giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Verrazzano khám phá Bờ Đại Tây Dương của Bắc Mỹ, từ Nam Carolina đến Newfoundland, và là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đến thăm nơi mà sau này sẽ trở thành Thuộc địa Virginia và Hoa Kỳ. Cùng năm đó, Estevão Gomes, người phác bản đồ Bồ Đào Nha đi theo hạm đội của Ferdinand Magellan, khám phá Nova Scotia, giong thuyền về phía Nam vượt Maine, rồi tới được nơi mà nay là Cảng New York, sông Hudson và cuối cùng đến được Florida vào tháng 8 năm 1525. Từ kết quả của chuyến thám hiểm, bản đồ thế giới năm 1529 của Diogo Ribeiro phác thảo bờ đông của Bắc Mỹ gần như hoàn hảo. Từ 1534 đến 1536, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier, được cho là đã đi cùng Verrazzano tới Nova Scotia và Brazil, là người châu Âu đầu tiên tiến vào nội địa Bắc Mỹ, mô tả Vịnh Saint Lawrence, mà ông đặt tên là "Quốc gia Canada" phỏng theo tên gốc tiếng Iroquois, tuyên bố chủ quyền Canada là thuộc về François I của Pháp.
Người châu Âu bắt đầu khám phá bờ Thái Bình Dương vào giữa thế kỷ XVI. Francisco de Ulloa khám phá bờ Thái Bình Dương của Mexico mà ngày nay có tên là Vịnh California, chứng minh rằng Baja California thực chất là một bán đảo. Bất chấp khám phá này, châu Âu vẫn tin rằng California là một hòn đảo. Ghi chép của ông lần đầu tiên sử dụng tên "California". João Coleues Cabrilho, hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến California, đổ bộ lên bờ vào ngày 28 tháng 9 năm 1542 ở vịnh San Diego và tuyên bố California thuộc về Tây Ban Nha. Ông cũng tới San Miguel ở Quần đảo Channel và đi đến tận Point Reyes. Sau khi ông qua đời, thủy thủ đoàn tiếp tục thám hiểm đến tận phía bắc Oregon.
Năm 1579, chỉ huy hải quân người Anh, Francis Drake, men theo đường bờ biển quanh phía bắc nơi Cabrillo đổ bộ, nơi Drake đáp xuống vẫn còn là một bí ẩn và chưa được xác định[137][138] Drake tuyên bố vùng đất này là của Anh[139] với tên gọi Nova Albion. Do đó, thuật ngữ "Nova Albion" đã được sử dụng trên nhiều bản đồ châu Âu để chỉ định lãnh thổ phía bắc các khu định cư Tây Ban Nha.
Giữa năm 1609-1611, sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá Tuyến đường Đông Bắc giả thuyết để đến Ấn Độ, Henry Hudson của Vương quốc Anh, với sự bảo trợ từ Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), đã khám phá khu vực xung quanh Thành phố New York ngày nay, để tìm kiếm một tuyến đường sang phía tây đến châu Á. Ông đã khám phá sông Hudson và đặt nền móng cho quá trình thuộc địa hóa khu vực này của người Hà Lan. Chuyến thám hiểm cuối cùng của Hudson tiến xa hơn lên phía bắc để tìm kiếm hành lang Tây Bắc, dẫn đến phát hiện Eo biển Hudson và Vịnh Hudson. Sau khi trú đông ở Vịnh James, Hudson cố gắng tiếp tục hành trình vào mùa xuân năm 1611, nhưng thủy thủ đoàn của ông nổi loạn và bỏ rơi ông trên biển.
Tìm kiếm hải tuyến phía Bắc
Pháp, Hà Lan và Anh bị bỏ lại trong cuộc đua tìm tuyến đường biển đến châu Á, chỉ có thể qua châu Phi hoặc Nam Mỹ. Khi nhận ra rằng không có con đường nào xuyên qua trái tim của châu Mỹ, họ chuyển sự chú ý tới vùng biển phía bắc mà người Anh gọi là hành lang Tây Bắc. Mong muốn thiết lập một tuyến đường như vậy đã thúc đẩy phần lớn cuộc thám hiểm châu Âu ở cả hai bờ biển Bắc Mỹ và Nga. Ở Nga, ý tưởng về một con đường biển khả dĩ nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương lần đầu tiên được đưa ra bởi nhà ngoại giao Gerasimov vào năm 1525, mặc dù những người định cư Nga trên bờ Biển Trắng (người Pomors) đã khám phá nhiều phần của nơi này ngay từ Thế kỷ XI.
Năm 1553, nhà thám hiểm người Anh Hugh Willoughby cùng với thuyền trưởng Richard Chancellor đã được phái đi cùng với ba tàu của Công ty thương gia Luân Đôn thám hiểm đến vùng đất mới để tìm kiếm hành lang. Trong chuyến hành trình qua Biển Barents, Willoughby cho rằng ông đã nhìn thấy những hòn đảo ở phía bắc và nhiều hòn đảo có tên Willoughby's Land được hiển thị trên bản đồ do Plancius và Mercator xuất bản vào những năm 1640. Hải đoàn bị cản trở bởi "những cơn lốc khủng khiếp" trên biển Na Uy và Willoughby phải tiến vào một vịnh gần biên giới hiện tại giữa Phần Lan và Nga. Thi thể đóng băng của thủy thủ đoàn và các con tàu, bao gồm Thuyền trưởng Willoughby và nhật ký của ông, được ngư dân Nga phát hiện một năm sau dó. Richard Chancellor neo đậu thành công ở Biển Trắng và đi tới Moscow diện kiến Sa hoàng Ivan, mở cửa thương mại giữa Nga và Công ty sau này trở thành Công ty Muscovy.
Barentsz khám phá vùng cực Bắc
Ngày 5 tháng 6 năm 1594, nhà vẽ bản đồ người Hà Lan Willem Barentsz khởi hành từ Texel với một hạm đội gồm ba tàu tiên vào Biển Kara với hy vọng tìm thấy Hành lang Đông Bắc phía trên Siberia. Tại đảo Williams, thủy thủ đoàn lần đầu tiên bắt gặp một con gấu Bắc cực. Họ chật vật để đưa con thú lên thuyền, nhưng con gấu quá hung hăng khiến cho thủy thủ đoàn đành phải giết nó. Barentsz đổ bộ bờ phía tây Novaya Zemlya và men theo nó lên phía bắc, nhưng bị buộc phải quay trở lại khi đối mặt với những tảng băng lớn.
Vào năm sau, Hoàng tử Maurice xứ Nasau dẫn đầu đoàn thám hiểm mới gồm 6 chiếc thuyền, chứa đầy hàng hóa thương mại mà người Hà Lan hy vọng sẽ dùng để giao dịch với Trung Quốc. Cả nhóm tình cờ gặp "những người hoang dã" Samoyed nhưng cuối cùng phải quay lại khi phát hiện ra biển Kara bị đóng băng. Năm 1596, Quốc hội Hà Lan treo thưởng hậu hĩnh cho bất kỳ ai vượt thành công Đoạn đường Đông Bắc. Hội đồng thị trấn Amsterdam đã mua và trang bị hai tàu nhỏ, lái bởi Jan Rijp và Jacob van Heemskerk, để tìm kiếm tuyến đường cổ tích này dưới sự chỉ huy của Barents. Họ lên đường vào tháng 5, và vào tháng 6 phát hiện ra Đảo Bear và Spitsbergen, nhìn thấy bờ phía tây bắc của nó. Họ nhìn thấy một vịnh lớn, sau này được gọi là Raudfjorden và tiến vào Magdalenefjorden mà họ đặt tên là Vịnh Tusk, đi lối vào phía bắc của Forlandsundet mà họ gọi là Keerwyck, nhưng bị buộc phải quay lại vì một bãi cạn. Vào ngày 28 tháng 6, họ đi vòng quanh mũi phía bắc của Prins Karls Forland, nơi họ đặt tên là Vogelhoek, sở hữu quần thể chim phong phú, và đi thuyền về phía nam, qua Isfjorden và Bellsund, có tên trên bản đồ của Barentsz là Grooten Inwyck và Inwyck.
Các con tàu một lần nữa lại về đảo Bear vào ngày 1 tháng 7, dẫn đến sự bất đồng. Họ đồng ý tách ra, Barentsz tiếp tục về phía đông bắc, còn Rijp đi lên phía bắc. Barentsz đến Novaya Zemlya và để tránh bị vướng vào băng, ông hướng đến eo biển Vaigatch nhưng bị mắc kẹt trong các tảng băng trôi. Bị mắc kẹt, thủy thủ đoàn 16 người đã buộc phải trú đông trên băng. Họ sử dụng gỗ xẻ từ tàu để xây dựng một căn nhà trú tạm mà họ gọi là Het Behouden Huys (Nhà Kept). Để đối phó với cái lạnh cực độ, họ đã sử dụng số vải buôn làm chăn và quần áo, bắt cáo Bắc Cực bằng bẫy thủ công để ăn. Khi tháng 6 đến và băng chưa chịu tan, những người sống sót bị uốn ván đành đưa hai chiếc thuyền nhỏ ra biển. Barentsz bỏ mạng trên biển vào ngày 20 tháng 6 năm 1597, khi đang nghiên cứu biểu đồ. Phải mất 7 tuần nữa những chiếc thuyền mới đến được Kola, nơi họ được một tàu buôn Nga cứu giúp. Chỉ còn 12 thuyền viên sống sót, cập cảng Amsterdam vào tháng 11. Hai trong số các thuyền viên của Barentsz sau đó đã xuất bản các nhật ký của họ, Jan Huyghen van Linschoten, người đã đi cùng Barentsz trong hai chuyến đi đầu tiên, và Gerrit de Veer, người đóng vai trò là thợ mộc của con tàu cuối cùng.
Năm 1608, Henry Hudson thực hiện một nỗ lực thứ hai. Ông đến được Novaya Zemlya nhưng buộc phải quay lại. Giữa năm 1609-1611, Hudson sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá tuyến đường biển phía Bắc đến Ấn Độ, đã khám phá khu vực xung quanh thành phố New York hiện đại trong khi tìm kiếm một tuyến đường phía tây đến châu Á dưới sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC).
Úc Hà Lan và New Zealand
Terra Australis Ignota (tiếng Latin, "vùng đất vô danh của miền nam") là một lục địa giả định xuất hiện trên bản đồ châu Âu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, bắt nguồn từ một quan niệm mà Aristotle khởi xướng. Nó được mô tả trên bản đồ Dieppe giữa thế kỷ XVI, nơi đường bờ biển của nó xuất hiện ngay phía nam của các hòn đảo Đông Ấn. Những khám phá mới đây đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm lục địa này; tuy nhiên, nhiều người vẽ bản đồ theo quan điểm của Aristotle, như Gerardus Mercator (1569) và Alexander Dalrymple thậm chí đến tận năm 1767 đã tranh luận về sự tồn tại của nó, với những lập luận kiểu như nên có một vùng đất rộng lớn ở Nam bán cầu để đối trọng các vùng đất được biết đến ở Bắc bán cầu. Khi những vùng đất mới được phát hiện, chúng thường được coi là một phần của lục địa giả định này.
Juan Fernandez, xuất phát từ Chile năm 1576, tuyên bố ông đã phát hiện ra lục địa phía Nam. Luis Váez de Torres, một hoa tiêu người Galicia phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, đã chứng minh sự tồn tại của một lối đi ở phía nam New Guinea, nay là Eo biển Torres. Pedro Fernandes de Queirós, một hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương miện Tây Ban Nha, đã nhìn thấy một hòn đảo lớn ở phía nam New Guinea vào năm 1606, mà ông đặt tên là La Australia del Espiritu Santo. Trên thực tế, đó không phải là Úc mà là một hòn đảo ở Vanuatu ngày nay.
Nhà hàng hải và thống đốc thuộc địa Hà Lan, Willem Janszoon khởi hành từ Hà Lan đến Đông Ấn lần thứ ba vào ngày 18 tháng 12 năm 1603, với tư cách là thuyền trưởng của tàu Duyfken (hay Duijfken, nghĩa là "Chim bồ câu nhỏ"), một trong 12 tàu của hạm đội Steven van der Hagen.[146] Khi ở Ấn Độ, Janszoon được cử đi tìm kiếm các thương điếm khác, đặc biệt là ở "vùng đất lớn của Nova Guinea và các vùng Đông và Nam khác". Vào ngày 18 tháng 11 năm 1605, Duyfken xuất phát từ Bantam đến bờ biển phía tây New Guinea. Janszoon sau đó băng qua mũi phía đông của Biển Arafura nhưng không thấy Eo biển Torres, tiến vào Vịnh Carpentaria. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1606, ông đổ bộ xuống sông Pennefather thuộc bờ phía tây của Cape York ở Queensland, gần thị trấn Weipa hiện đại. Đây là cuộc đổ bộ châu Âu đầu tiên được ghi nhận trên lục địa Úc. Janszoon tiến vào khoảng 320 km (199 dặm) nội địa, mà ông nghĩ là một phần mở rộng phía nam của New Guinea. Năm 1615, chuyến đi vòng Mũi Horn của Jacob le Maire và Willem Schouten đã chứng minh rằng Tierra del Fuego là một hòn đảo tương đối nhỏ.
Nga thám hiểm Siberia (1581–1660)
Vào giữa thế kỷ XVI, Sa quốc Nga đánh chiếm các hãn quốc người Tatar là Kazan và Astrakhan, sáp nhập toàn bộ Vùng Volga và mở đường đến Dãy núi Ural. Cuộc thuộc địa hóa những vùng viễn đông mới của Nga được dẫn dắt bởi các thương nhân nhà Stroganov giàu có. Sa hoàng Ivan IV ban những vùng đất rộng lớn gần dãy Urals cho Anikey Stroganov, người đã tổ chức các cuộc di dân quy mô lớn đến những vùng đất này. Stroganov khuyến khích phát triển nông nghiệp, săn bắn, làm muối, đánh cá và khai thác quặng ở Urals và giao thương với các bộ lạc Siberia.
Cuộc chinh phạt Hãn quốc Sibir
Khoảng năm 1577, Semyon Stroganov và các con trai của Anikey Stroganov thuê một thủ lĩnh Cossack tên Yermak bảo vệ vùng đất của họ khỏi các cuộc tấn công của vị Hãn Kuchum. Đến năm 1580, Stroganov và Yermak đề xuất một cuộc viễn chinh quân sự nhằm tiêu diệt Kuchum. Năm 1581, Yermak bắt đầu tiến sâu vào Siberia. Sau một vài chiến thắng trước quân đội của Kuchum, quân của Yermak đánh tan lực lượng của vị hãn trên sông Irtysh trong Trận Chuvash Cape kéo dài 3 ngày vào năm 1582. Tàn quân của Kuchum rút về vùng thảo nguyên và Yermak kiểm soát hoàn toàn Hãn quốc có thủ đô là Qashliq gần Tobolsk hiện đại. Kuchum chưa chịu quy hàng và đột kích Yermak vào năm 1585 trong đêm khuya. Yermak bị thương và cố gắng bơi qua sông Wagay (nhánh sông Irtysh), nhưng bị chết đuối dưới sức nặng của áo giáp. Các cossack triệt thoái khỏi Siberia nhưng nhờ các khám phá tuyến sông chính ở Tây Siberia, người Nga đã tái chiếm thành công những vùng đất này.
Tuyến sông Siberia
Vào đầu thế kỷ XVII, cuộc đông tiến của người Nga bị đình trệ do các vấn đề nội bộ trong nước thời kì Đại Loạn. Tuy nhiên, ngay sau đó, việc thăm dò và thực dân hóa các vùng lãnh thổ rộng lớn ở Siberia lại tiến triển, chủ yếu tiên phong bởi những Cossack săn lùng các loại lông thú và ngà có giá trị. Cossack đến từ Nam Urals, một làn sóng người Nga khác đến Bắc Băng Dương. Đây là những người Pomors từ miền Bắc nước Nga, những thương gia trao đổi lông thú với Mangazeya ở phía bắc miền Tây Siberia trong một thời gian khá dài. Năm 1607, khu định cư Turukhansk được thành lập ở phía bắc sông Yenisei, gần cửa sông Tunguska và vào năm 1619, Yeniseysky Ostrog được thành lập ở giữa Yenisei cửa sông Tunguska.
Giữa năm 1620 và 1624, một nhóm các thợ săn lông thú dẫn đầu bởi Demid Pyanda rời Turukhansk và khám phá khoảng 1.430 dặm (2.301 km) Hạ Tunguska, trú đông gần các dòng sông Vilyuy và sông Lena. Theo các ghi chép truyền miệng sau này (truyện dân gian thu thập được một thế kỷ sau), Pyanda đã phát hiện ra sông Lena. Ông được cho là đã khám phá khoảng 1.500 dặm (2.414 km) chiều dài của nó, đo tới tận trung tâm Yakutia. Ông quay trở lại Lena do địa hình xấu và sang đến sông Angara. Do đó, Pyanda có lẽ là người Nga đầu tiên gặp người Yakut và Buryat. Ông đóng thuyền mới và khám phá khoảng 870 dặm (1.400 km) sông Angara, cuối cùng đến Yeniseysk và phát hiện ra rằng dòng Angara (tên con sông theo người Buryat) và Thượng Tunguska (ban đầu có tên Verkhnyaya Tunguska) là cùng một dòng sông.
Năm 1627, Pyotr Beketov được bổ nhiệm làm Voivode Yenisei ở Siberia. Ông thực hiện thành công hành trình thu thuế từ các Buryat vùng Zabaykalye, trở thành người Nga đầu tiên bước chân vào Buryatia. Ông thành lập khu định cư đầu tiên của Nga ở đó, Rybinsky Ostrog. Beketov được gửi đến sông Lena vào năm 1631. Năm 1632, ông thành lập Yakutsk và gửi các Cossack đi khám phá Aldan và xuôi dòng Lena, để thành lập các pháo đài mới và thu thuế.
Yakutsk sớm trở thành bàn đạp cho các cuộc thám hiểm xa hơn của Nga về phía đông, phía nam và phía bắc. Maksim Perfilyev, một trong những người sáng lập Yeniseysk, đã thành lập Bratsky Ostrog tại Angara vào năm 1631 và vào năm 1638, ông trở thành người Nga đầu tiên bước vào Transbaikalia, đi từ Yakutsk.
Năm 1643, Kurbat Ivanov dẫn đầu một nhóm Cossack từ Yakutsk đến phía nam dãy núi Baikal và phát hiện ra hồ Baikal, thăm đảo Olkhon. Sau đó, Ivanov lập bản đồ và ghi lại các mô tả đầu tiên về Baikal.
Người Nga đến Thái Bình Dương
Năm 1639, một nhóm các nhà thám hiểm do Ivan Moskvitin dẫn đầu trở thành những người Nga đầu tiên đến Thái Bình Dương và khám phá Biển Okhotsk. Họ xây dựng một trại trú đông trên bờ sông Ulya. Cossack biết được từ người dân địa phương về con sông Amur rộng lớn phía nam. Năm 1640, họ đi thuyền về phía nam, khám phá bờ biển phía đông nam của Biển Okshotsk, có lẽ đến được cửa sông Amur và khám phá Quần đảo Chaiar trên đường trở về. Dựa trên ghi chép của Moskvitin, Kurbat Ivanov phác họa bản đồ Viễn Đông đầu tiên của Nga vào năm 1642.
Năm 1643, Vasily Poyarkov vượt dãy Stanovoy và đến thượng nguồn sông Zeya thuộc đất của người Đạt Oát Nhĩ, chư hầu cống nạp của nhà Thanh. Sau khi trú đông năm 1644, Poyarkov tiến xuống sông Zeya và trở thành người Nga đầu tiên đến sông Amur. Ông đi thuyền trên sông Amur và cuối cùng phát hiện ra cửa sông lớn từ đất liền. Vì Cossack của ông kích động người dân bản địa, Poyarkov chọn đường khác để trở về. Họ đóng thuyền và vào năm 1645, đi thuyền dọc theo bờ biển Okshotsk đến sông Ulya và trải qua mùa đông tiếp theo trong những túp lều được Ivan Moskvitin xây dựng sáu năm trước đó. Năm 1646, họ trở lại Yakutsk.
Năm 1644, Mikhail Stadukhin phát hiện ra sông Kolyma và thành lập Srednekolymsk. Thương nhân tên Fedot Alekseyev Popov tổ chức một cuộc thám hiểm xa hơn về phía đông và Semyon Dezhnyov trở thành thuyền trưởng của tàu kochi (loại tàu Nga phù hợp cho điều kiện băng tuyết). Năm 1648, họ đi thuyền từ Srednekolymsk tới Bắc Cực rồi đi vòng qua Mũi Dezhnyov, trở thành những nhà thám hiểm đầu tiên băng qua Eo biển Bering để khám phá Chukotka và Biển Bering. Tất cả kochi của họ và hầu hết thủy thủ đoàn (bao gồm cả chính Popov) mất mạng do các cơn bão và xung đột với người bản địa. Một nhóm nhỏ do Dezhnyov dẫn đầu đến được cửa sông Anadyr và men theo nó vào năm 1649, đóng tàu mới từ xác tàu đắm. Họ thành lập Anadyrsk và bị mắc kẹt ở đó, cho đến khi Stadukhin tìm thấy họ sau khi ông đi từ Kolyma bằng đường bộ. Năm 1651, Stadukhin khởi hành xuống phía nam và phát hiện ra Vịnh Penzhin trên bờ biển phía bắc của Biển Okshotsk. Ông cũng có thể đã khám phá bờ biển phía tây Kamchatka.
Vào khoảng năm 1649–50, Yerofey Khabarov trở thành người Nga thứ hai khám phá sông Amur. Qua các dòng sông Olyokma, Tungur và Shilka, ông đến Amur (Dauria) rồi trở về Yakutsk và sau đó trở lại Amur với một đội lớn hơn vào năm 1650. Lần này ông gặp kháng chiến vũ trang. Ông xây dựng các khu phố mùa đông tại Albazin rồi đi thuyền theo sông Amur và tìm thấy Achansk, Khabarovsk ngày nay, đánh bại hoặc trốn tránh các đội quân của Mãn Châu Ngoại Baikal và Hàn Quốc trên đường thám hiểm. Ông lập bản đồ sông Amur trong cuốn Phác họa dòng Amur.[152] Người Nga kiểm soát vùng Amur cho đến năm 1689, khi Hiệp ước Nerchinsk ra đời, vùng đất này được nhượng lại cho nhà Thanh (tuy nhiên, Hiệp ước Aigun sau đó đã trao trả vùng này về tay Nga năm 1858).
Vào khoảng năm 1659–65, Kurbat Ivanov là người thừa kế Anadyrsky sau Semyon Dezhnyov. Năm 1660, ông đi thuyền từ Vịnh Anadyr đến Mũi Dezhnyov. Trên các biểu đồ tiên phong trước đây của ông, Ivanov được cho là đã tạo ra bản đồ ban đầu của Chukotka và Eo biển Bering, lần đầu tiên bao gồm Đảo Wrangel chưa được khám phá, cả Quần đảo Diomede và Alaska, dựa trên thông tin thu thập được từ người bản địa Chukotka.
Vào giữa thế kỷ XVII, người Nga đã thiết lập biên giới đất nước của họ gần giống ngày nay và khám phá gần như toàn bộ Siberia, ngoại trừ phần phía đông Kamchatka và một số khu vực phía bắc Vòng Bắc Cực. Cuộc chinh phạt Kamchatk sẽ được Vladimir Atlasov thực hiện vào đầu những năm 1700, trong khi các khám phá bờ biển Bắc Cực và Alaska sẽ được hoàn thành bởi cuộc thám hiểm miền Bắc vĩ đại 1733–1743..
Tác động toàn cầu
Sự bành trướng của châu Âu đã tạo nên cây cầu nối giữa Cựu Thế giới và Tân Thế giới, thường được gọi là Tuyến mậu dịch Columbus, đặt theo tên Columbus, giúp thiết lập mạng lưới giao dịch bạc toàn cầu từ thế kỷ XVI đến XVIII và hội nhập thương mại châu Âu với Trung Quốc. Người châu Âu mang gia súc, ngựa và cừu đến châu Mỹ, và từ châu Mỹ, người châu Âu mang về thuốc lá, khoai tây và ngô. Các mặt hàng khác trở nên quan trọng trong thương mại toàn cầu là mía, bông châu Mỹ và vàng bạc.
Mạng lưới xuyên đại dương của châu Âu đã dẫn đến Thời đại của chủ nghĩa đế quốc, khi mà các cường quốc thực dân châu Âu kiểm soát hầu hết địa cầu. Thương mại, hàng hóa, đế quốc và nô lệ ảnh hưởng rất lớn lên nhiều khu vực trên thế giới. Đế quốc Tây Ban Nha đã tiêu diệt các đế quốc bản địa châu Mỹ, bắt thổ dân cải đạo và xóa bỏ tín ngưỡng của họ khỏi lịch sử. Mô hình xâm lược kiểu này được áp dụng bởi nhiều đế quốc châu Âu khác, nổi bật là Hà Lan, Nga, Pháp và Anh. Kitô giáo thay thế các tôn giáo "ngoại đạo" cũ, cũng như ngôn ngữ, văn hóa chính trị và văn hóa tình dục, và ở một số khu vực như Bắc Mỹ, Úc, New Zealand và Argentina, người dân bản địa bị lạm dụng và bị đánh đuổi khỏi các vùng đất tổ tiên của họ, giờ đã trở thành những dân tộc thiểu số.
Tương tự, ở vùng duyên hải châu Phi, các quốc gia bản địa cung cấp nô lệ cho châu Âu, thay đổi xã hội của các đát nước châu Phi ven biển và bản chất của chế độ nô lệ châu Phi, tác động đến xã hội và nền kinh tế sâu trong đất liền. (Xem buôn bán nô lệ Đại Tây Dương).
Ngô và sắn được người Bồ Đào Nha du nhập vào châu Phi vào thế kỷ 16. Chúng bây giờ là thực phẩm cơ bản quan trọng, thay thế cây trồng bản địa châu Phi. Alfred W. Crosby suy đoán rằng việc sản xuất ngô, sắn và các loại cây trồng của tân thế giới tăng lên dẫn đến sự tập trung dân số ở những nơi mà chủ nô bắt nô lệ.
Trong thương mại bạc toàn cầu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, kinh tế nhà Minh được kích thích bởi các giao thương với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan. Phần lớn số bạc của châu Âu chỉ chảy một chiều vào Trung Quốc và người Trung Quốc nắm bắt hoàn toàn nhập khẩu bạc. Từ năm 1600-1800, Trung Quốc nhập 100 tấn bạc trung bình mỗi năm. Đa phần các hộ gia đình vào cuối thế kỷ XVI ở Hạ Dương Tử kiếm được trung bình hàng trăm lượng bạc. Tổng cộng, hơn 150.000 tấn bạc đã được xuất khẩu từ Potosí vào cuối thế kỷ XVIII. Từ năm 1500-1800, Mexico và Peru sản xuất khoảng 80% sản lượng bạc toàn thế giới với hơn 30% được vận chuyển sang Trung Quốc (phần lớn là do các thương gia châu Âu sử dụng bạc để mua các mặt hàng độc lạ của Trung Quốc). Vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, Nhật Bản cũng đang xuất khẩu nhiều vào Trung Quốc và tham gia vào ngoại thương nói chung. Thương mại với các cường quốc châu Âu và Nhật đã mang lại một lượng bạc khổng lồ thay thế đồng và tiền giấy để trở thành phương tiện trao đổi phổ biến nhất ở Trung Quốc. Trong những thập kỷ cuối đời Minh, dòng chảy bạc vào Trung Quốc giảm đi đáng kể, làm suy yếu nguồn thu của nhà nước và nói chung là toàn bộ nền kinh tế nhà Minh. Thiệt hại này lên nền kinh tế cộng thêm những ảnh hưởng đến nông nghiệp do Thời kỳ băng hà nhỏ, thiên tai, mất mùa và dịch bệnh. Cuộc đảo lộn lớn này khiến cho các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên, ví dụ như cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Thành, thách thức chính quyền nhà Minh.
Các loại cây trồng mới từ châu Mỹ thông qua thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI đã góp phần vào sự gia tăng dân số của châu Á. Mặc dù phần lớn hàng nhập khẩu sang Trung Quốc là bạc, người Trung Quốc cũng mua các loại cây trồng của Tân Thế giới từ Đế quốc Tây Ban Nha. Các loại cây trồng đó bao gồm khoai lang, ngô và đậu phộng. Những loại thực vật mới này có thể được trồng ở những vùng đất mà các loại cây trồng chủ lực của Trung Quốc - lúa mì, kê và gạo - không thể trồng được, do đó tạo điều kiện cho dân số Trung Quốc bùng nổ. Đời nhà Tống (960–1279), gạo trở thành cây lương thực chính của người nghèo nhưng sau khi khoai lang được du nhập vào Trung Quốc khoảng năm 1560, nó dần thay thế và trở thành cây lương thực chính của tầng lớp thấp.
Sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha ở Nhật Bản vào năm 1543 đã khởi đầu cho thời kỳ mậu dịch Nanban. Người Nhật tiếp thu các công nghệ và văn hóa của người Bồ, như: súng hỏa mai arcabuz, giáp coriaceus, tàu bè châu Âu, Cơ đốc giáo, nghệ thuật trang trí và ngôn ngữ. Sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm thương nhân buôn bán với Nhật Bản, người Bồ đã trở thành mối giao dịch giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Người Bồ mua lụa của Trung Quốc rồi bán cho người Nhật để đổi lấy bạc do người Nhật khai thác; vì bạc có giá trị cao hơn ở Trung Quốc, người Bồ sau đó sử dụng bạc Nhật để mua nhiều lụa Trung Quốc hơn. Tuy nhiên, đến năm 1573 - sau khi người Tây Ban Nha thiết lập thương điếm ở Manila - kiểu thương mại trung gian của Bồ Đào Nha bị lấn át bởi nguồn bạc chính nhập vào Trung Quốc từ châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha. Mặc dù Trung Quốc đóng vai trò là kẻ điều hành bánh xe thương mại toàn cầu trong suốt thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, đóng góp to lớn của Nhật Bản về xuất khẩu bạc sang Trung Quốc là rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và tính thanh khoản, sự thành công của Trung Quốc đối với hàng hóa của họ.
Tu sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci (1552–1610) là người châu Âu đầu tiên được phép vào Tử Cấm Thành. Ông dạy người Trung Quốc cách chế tạo và chơi nhạc cụ ppinet, dịch các văn bản tiếng Trung sang tiếng Latinh và ngược lại, và thảo luận toán học với cộng sự người Hán Từ Quang Khải (1562–1633).
Tác động kinh tế ở Châu Âu
Nhiều loại hàng hóa đa dạng xa xỉ trên toàn cầu tràn vào thị trường châu Âu từ đường biển khiến các thị trường hàng xa xỉ trước đó bị đình trệ. Mậu dịch Đại Tây Dương giờ đây thế chỗ mậu dịch của các cường quốc thương mại như ở Ý và Đức, vốn đã giàu có nhờ vào các giao thương với Baltic, Nga và Hồi giáo. Các mặt hàng mới cũng góp phần gây ra sự chuyển biến xã hội, khi đường, hương liệu, lụa và đồ sành sứ xâm nhập vào thị trường châu Âu.
Trọng tâm kinh tế châu Âu chuyển từ Địa Trung Hải sang Tây Âu. Thành phố Antwerp, một phần của Công quốc Brabant, trở thành "trung tâm của toàn bộ nền kinh tế quốc tế", và là thành phố giàu có nhất ở châu Âu vào thời điểm này. Đứng sau Antwerp phải kể đến là thành phố Amsterdam, "Thời kỳ hoàng kim của Hà Lan" có liên kết chặt chẽ với Thời đại khám phá. Francesco Guicciardini, một phái viên từ Venice, từng nói rằng hàng trăm con tàu đi qua Antwerp mỗi ngày và 2.000 chiếc xe ngựa đi vào thành phố mỗi tuần. Các tàu của Bồ Đào Nha chở đầy hạt tiêu và quế sẽ dỡ hàng của họ tại đây. Do nhiều thương nhân nước ngoài cư trú trong thành phố và nơi đây bị quản lý bởi một tổ chức tài phiệt gồm chủ ngân hàng-quý tộc bị cấm tham gia buôn bán, nền kinh tế của Antwerp bị người nước ngoài kiểm soát, khiến nó trở thành thành phố toàn cầu, quy tụ các thương gia và nhà buôn đến từ Venice, Ragusa, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Không những thế, do chính sách nhân nhượng của chính quyền, thành phố còn thu hút cả một cộng đồng Do Thái Chính thống giáo lớn. Thành phố trải qua ba lần bùng nổ trong thời kỳ hoàng kim, lần đầu dựa trên hạt tiêu, lần thứ hai dựa trên bạc Tân Thế giới đến từ Seville (kết thúc do sự phá sản của Tây Ban Nha năm 1557), và lần bùng nổ thứ ba theo sau Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, dựa trên ngành dệt may.
Sau sự bình thường hóa quan hệ Bồ-Trung năm 1549, vương quốc Bồ Đào Nha cử các phái đoàn thương mại hằng năm đến đảo Thương Xuyên ở Trung Quốc. Năm 1557, họ thuyết phục được triều đình nhà Minh ký kết hiệp ước thành lập cảng hợp pháp tại Ma Cao và biến nó thành thuộc địa thương mại chính thức của Bồ Đào Nha. Vị giáo chủ người Bồ Đào Nha Gaspar da Cruz đã viết cuốn sách hoàn chỉnh đầu tiên về Trung Quốc và nhà Minh được xuất bản ở châu Âu; cuốn sách bao gồm các thông tin về địa lý, tỉnh lị, hoàng gia, tầng lớp quan chức, bộ máy hành chính, vận chuyển, kiến trúc, nông nghiệp, thủ công, buôn bán, trang phục, phong tục, xã hội, âm nhạc, chữ viết, giáo dục và luật pháp của Trung Quốc thời bấy giờ.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc là lụa và đồ sứ, được chế tác để đáp ứng thị hiếu của người châu Âu. Các đồ gốm xuất khẩu của Trung Quốc được coi trọng ở châu Âu đến nỗi, trong tiếng Anh, china trở thành một từ đồng nghĩa với đồ sứ. Đồ sứ Kraak (có lẽ được đặt theo tên của các tàu carrack Bồ Đào Nha vận chuyển chúng) là một trong những đồ sứ Trung Quốc đầu tiên nhập vào châu Âu với số lượng lớn. Chỉ những người giàu nhất mới có thể mua được những món đồ nhập khẩu này và Kraak thường xuất hiện trong các bức tranh tĩnh của Hà Lan. Công ty Đông Ấn Hà Lan thiết lập một giao thương sôi động với phương Đông, nhập khẩu 6 triệu món đồ sứ từ Trung Quốc sang châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 1602 đến năm 1682. Tay nghề của người Trung Quốc khiến người châu Âu rất thán phục. Giữa năm 1575 và 1587, đồ sứ Medici từ Florence là nỗ lực thành công đầu tiên bắt chước đồ sứ Trung Quốc. Ban đầu, các thợ gốm Hà Lan không bắt chước đồ sứ Trung Quốc, nhưng lại bắt tay vào làm điều đó khi chuỗi cung ứng cho châu Âu bị gián đoạn sau cái chết của Minh Thần Tông năm 1620. Kraak, chủ yếu là đồ sứ màu xanh trắng, được bắt chước trên khắp thế giới bởi những người thợ gốm ở Arita, Nhật Bản, ở Ba Tư (nơi các thương nhân Hà Lan tìm đến sau khi nhà Minh sụp đổ khiến mặt hàng gốc khan hiếm), rồi hàng sứ Delftware xuất hiện. Delftware của Hà Lan và của Anh lấy cảm hứng từ đồ sứ Trung Quốc tồn tại từ khoảng năm 1630 đến giữa thế kỷ XVII cùng với các mẫu châu Âu khác.
Chú thích |
Chất bảo quản là các hóa chất tự nhiên hay tổng hợp được thêm vào sản phẩm như thực phẩm, dược phẩm, sơn, các mẫu phẩm sinh học v.v để ngăn ngừa hoặc làm chậm lại sự thối rữa, hư hỏng gây ra bởi sự phát triển của các vi sinh vật hay do các thay đổi không mong muốn về mặt hóa học. Chúng có thể sử dụng như là một hóa chất duy nhất mà cũng có thể trong tổ hợp với nhiều loại hóa chất có các tác dụng khác.
Gỗ
Các chất bảo quản cũng có thể thêm vào gỗ để ngăn chặn sự phát triển của các loài nấm mốc cũng như để ngăn ngừa côn trùng và mối. Thông thường đồng, các borat và các hóa chất gốc dầu mỏ hay được sửdụng. Để có thêm thông tin về các chất bảo quản gỗ, xem thêm các bài xử lý gỗ, gỗ xẻ và creosot.
Thực phẩm
Các phụ gia thực phẩm có tính chất bảo quản thông thường được sử dụng một mình hoặc gắn liền với các phương pháp bảo quản thực phẩm khác. Đôi khi người ta còn phân biệt giữa các biện pháp bảo quản kháng khuẩn với chống oxy hóa, trong đó bảo quản kháng khuẩn hoạt động trên nguyên tắc ngăn chặn sự phát triển của các loại vi khuẩn, nấm mốc và côn trùng, còn bảo quản chống oxy hóa hoạt động trên nguyên tắc ngăn chặn quá trình oxy hóa các thành phần trong thực phẩm. Các chất kháng khuẩn thông dụng trong chế biến thực phẩm là nitrat natri, nitrit natri, các muối sulfit, (dioxide lưu huỳnh, bisulfat natri, sulfat hiđrô kali v.v) và EDTA đinatri (axít êtylenđiamintêtraaxêtic). Các chất chống oxy hóa bao gồm BHA (2-tert-butyl-4-hiđrôxyanisol hay 3-tert-butyl-4-hiđrôxyanisol) và BHT (2,6-đi-tert-butyl-4-mêtylphenol). Các chất bảo quản khác còn bao gồm cả fomalđêhít (thông thường trong dung dịch và chủ yếu để bảo quản các mẫu sinh học), glutaralđêhít, điatômit (giết côn trùng), êtanol và mêtylcloroisothiazôlinon. Lợi ích và độ an toàn của nhiều phụ gia thực phẩm nhân tạo, trong đó có cả chất bảo quản là chủ đề gây tranh cãi giữa các viện khoa học chuyên môn hóa về khoa học thực phẩm và độc tính học.
Một số phương pháp bảo quản thực phẩm sử dụng muối ăn, đường hay dấm. Các loại hóa chất này được coi là thực phẩm nhiều hơn là phụ gia thực phẩm.
Tại châu Âu, tất cả các phụ gia thực phẩm đều có ký hiệu bằng "số E" (xem thêm Danh sách các phụ gia thực phẩm). Các chất bảo quản và điều chỉnh độ chua thì có các ký hiệu từ E200–E299.
Chất bảo quản và sức khỏe
Do không phải phụ gia thực phẩm nào có mã số E cũng được các quốc gia cho phép sử dụng. Vì thế các chất bảo quản được chia ra thành 3 nhóm như sau:
Nhóm bị cấm
Có độ độc hại cao, ví dụ: E103 (Chrysoin resorcinol hay p-(2,4-đihiđrôxy phênylazo) benzen sulfonat natri) bị cấm tại nhiều quốc gia– nó là phẩm màu và chất bảo quản dùng cho sơn màu, nhưng không cho thực phẩm.
Nhóm được cho phép
Ví dụ: E104 (Vàng quinolin)– phẩm thông dụng màu vàng cho đồ uống.
Nhóm thực phẩm
Có độ độc hại thấp đối với sức khỏe. |
Viên Chiếu (圓照), tên thật là Mai Trực (梅直, 999 – 1090) là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt thời Lý. Ông một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông thuộc Thiền tông. Ông là người Long Đàm, Phúc Đường, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội và là con người anh của thái hậu Linh Cảm (mẹ của vua Lý Thánh Tông). Sau khi chứng đạo, ông làm trụ trì chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long, được vua Lý Nhân Tông rất nể trọng. Ngày này, tư liệu tiểu sử duy nhất từ thời Lý-Trần còn sót lại về ông nằm trong sách Thiền uyển tập anh.
Cơ duyên và hành trạng
Theo sách Thiền uyển tập anh, ông tên thật là Mai Trực (梅直), là con người anh của thái hậu Linh Cảm, mẹ vua Lý Thánh Tông. Thuở nhỏ Viên Chiếu là người thông minh, chăm học. Có lần, ông nghe kể chùa Mật Nghiêm có vị cao tăng biết xem tướng giỏi, ông bèn đến xem thử. Vị cao tăng nhìn kỹ Viên Chiếu rồi phán: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn".
Viên Chiếu cảm ngộ, bèn tạ từ cha mẹ, rồi đi đến núi Ba Tiêu học đạo với thiền sư Định Hương. Ông dành nhiều năm hầu hạ thầy và nghiên cứu Thiền học. Ông thường trì kinh Viên Giác và lĩnh hội được phép Tam quán. Thiền uyển tập anh kể rằng, có một đêm khi đang thiền định, ông nhìn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, "những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết, sâu rõ ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát".
Về sau, ông tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Đệ tử từ khắp nơi đổ về theo học rất đông.
Sách Thiền uyển tập anh có kể lại 1 đoạn đối thoại về Thiền giữa Viên Chiếu với đệ tử:
Có vị tăng hỏi: "Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?"
Tăng thưa: "Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?"
Tăng hỏi: "Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?"
Tăng hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?"
Tăng hỏi: "Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?"
Ông có soạn "Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn", vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoa, đưa vua Triết Tông nhà Tống xem. Vua Triết Tông lại trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc.
Xem xong, các pháp sư tâu vua Tống rằng: "Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào".
Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua Nhân Tông. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng thiền sư Viên Chiếu.
Vào một ngày tháng 9 năm Canh Ngọ, Quảng Hựu thứ sáu (1090), thiền sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:"
Nói kệ xong, ông ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ.
Nguyên bản chữ Hán của Thiền uyển tập anh
第七世七人□□□□□□□□□□□
圓照禪師
昇龍京吉祥寺圓照禪師姓梅氏諱直福堂龍潭人李靈感太后兄子也㓜聰敏好學聞本𨛦宻嚴寺長老善相試就决焉長老熟視
曰汝於佛法有緣若出家必為善菩薩中人不然則壽夭難保矣師感悟辝(1)親投芭焦(蕉)山定香授業執侍餘年斫究禪學常持圓覺經明三觀法一夕定中見文殊菩薩持刀破腹〖洗膓傳之〗以藥自是心中所習宛如夙契深得言語三昧講說如流尋於京畿之左創寺居焉斈[學]者林萃有僧問佛之与聖其義云何師云籬下重陽菊枝頭淑氣莺進云謝學人不會請再指示師云晝則金烏照夜來玉兔明僧又問已獲師真旨玄機示若如何師云不慎水盤擎滿去一遭蹉跌悔何之進云謝師指云莫濯
江波溺親來却自沉又問少室摩竭○(2)玄自古千今(3)誰継將爲主師云幽明乾象因烏兔屈曲坤維爲嶽淮又問如何是大道根源一䟦行師云髙岸疾風知勁草邦家版蕩識忠良又問一切眾生從何而來百年之後從何而去師云盲𪛉穿石壁跛鼇上髙山又問青青翠竹盡真如如何是真如用師云贈君千里遠笑把一甌茶(4)進云恁麽即空來何益師云誰識東阿去途中載白頭又問野軒一深戶誰識等閑敲師云金谷簫踈花草亂而今昏曉任牛羊進云爲什麽如此師云富貴兼驕泰翻令敗市樓又問龍女獻珠成佛果檀那捨施福如何師云萬古月中桂扶踈在一輪進云恁麽即勞而無功師云天上如懸鏡人間處處通({dư}又問又渡河須用筏到岸不須船不渡時如何師云涸池魚在陸獲活萬年春池池池池池池進云恁麽即隨流始獲玅理師云見說荊軻侶
一行竟不迴又問金鑛混交元一氣請師方便鍊精形師曰不是齊君客那知海大魚進云郭君若不納諫語亦奚為師云若欲先提飲休爲巧尽蛇又問蛇死於䟦請師救活師云汝是何方人僧曰本來山人師云速回
岩隱莫見許真君又問海藏滔滔應不問曹溪滴滴是如何師云風前松下凄涼韻雨後途中淺濁泥進云恁麽即不異今時也師云籬下重陽菊枝頭暖日莺又問昭昭心目之間朗朗色身之內而理不可分相不可覩爲什麽不覩師云(苑中花爛熳岸上草離披進云
歲寒羣苗落何以可宣揚師云喜君來自達不亦且歡娛進云幸聞今日决從此免忽無師云淺溺纔提出回頭萬丈潭又問涅槃城內尚
猶危如何是不危之處師云({dư}營巢簾熯上鬂髮葦苕莖進云若遭時迫近兩㨿是何爲師云丈夫隨放蕩風月且逍遙又問一切眾生皆言是佛此理未明請師垂示師云勸君且務農桑去莫學他人待兔勞進云幸蒙師顯决終不向他求師云可憐遭一噎飢坐却忘飱
又問㡬年久積囊中寶今日當塲覿靣看師云秪待中秋月却遭雲雨侵進云雖聞師語說此理未分明師云笑他徒抱柱溺死向中流
又問如何是一法師云寸見春生兼夏長又逢秋熟及冬藏進云恁麽即成佛多也師云祖龍驅自止徐福遠徒劳又問見性成佛其義云何師云枯木逢春花𧡟(5)發風吹千里馥神香進云學人不會願師再指師云萬年茄子樹蒼翠聳雲端又問摩尼與眾色不合不分離師云春花與蝴蝶㡬戀㡬相違進云恁麽即隨他混雜師云不是胡僧眼徒劳逞辨珠又問如何是觸目菩提師云㡬驚曲木鳥瀕吹冷虀人進云學人不會更請別喻師云聾人聽琴響盲者妄蟾蜍又問本自有形兼有影有時影也離形否師云眾水朝東兮萬派爭流羣星拱北兮千古㱕心又問如何是一句了然超百億師云遠挾泰山超北海仰拋柱杖入蟾宮又問惟此一事實餘二即非真如何是真師云杖頭風易動䟦上雨成泥又問不向如來匙玅藏({dư}不求祖燄續燈枝意旨如何師云秋天摶黍唳雪景牡丹開又問如何最玅之句師云一人向隅立滿座飲無懽又問古今大事應無間(6)特地西來意若何(7)師云巧言令色者鑚𪛉打瓦人又問心法雙忘性即真如何是真師云雨滴巖花神女淚風敲庭竹伯牙琴又問如何是最玅之句師云喉裏猶存梗常居不快然又問有修有証開四病出頭何可脫塵籠師云山髙更大容尘(8)貯海闊能深納細流又問惟佛與佛乃知斯事如何是斯事師云夾徑森森竹風吹曲自成又問不用平常不用天然不用作用而今作什麽師云蓬草棲低鷃滄溟𨼆巨鱗又問四大帶來由曠劫請師({dư}方便出輪迴師云舉世畜徒犀是寶({dư}飡於荊棘卧於泥又問種種取捨皆是輪迴不取不捨時如何師云從來紅莧殊常色有葉參差不有花又問言語(道)道(語)㫁其意如何師云角響隨風穿竹到山岩帶月過墻來又問諸佛說法皆是化物若悟本意是名出世如何是本心師云春織花如錦秋來葉似黃又問如何是直截一䟦師云東西車馬走塵土曉昏飛又問有法有心開妄識如何心法蕩俱消師云可奪松梢長欎欎豈憂霜雪落紛紛又問祖意與教意如何師云興來携杖逰雲徑困即垂簾卧竹床又問祖祖相傳合傳何事師云飢來須尋食寒即向求衣又問世人皆賃屋漏人何所在師云金烏兼玉兔盈昃謾勞分又問如何是曹溪一䟦師云可憐刻舟客到處意䓤䓤師嘗𢮪(9)藥師十二願文李仁宗皇帝以其藁附使達于哲宗既至(10)相國寺髙座法師覽之卽合(11)掌禮曰南方有肉身大士出卋善說經法師云貧道豈能敢增損因再述一本附还使
回以聞帝深嘉獎廣祐六年庚午九月日無疾示眾云我此身中骨節筋脉四大假合所有無常譬如屋宇壞時棂梠俱落與汝珍重聽吾偈云
身如墻壁圮頹時
舉世忽忽熟不悲
若達心空無色色
色空隱顕(12)任推移
偈竟端然而逝壽九十二臘月五十六
有讃圓斍[覺]經十二菩薩行修證道塲及參徒顕决一卷今行于世
辝 = 辭
竭○玄: Lê 1, Nguyễn; A 2767; LMT = 竭最玄
千今: Nguyễn, A2767, LMT = 于今
甌茶: Nguyễn, A2627, LMT = 瓶茶
𧡟 = 競
Không thấy hiệu đính nhưng có lẽ là 問
若何: Lê 1, Nguyễn, A2767 = 若如何
塵
𢮪 = 撰
既至:Lê I, Nguyễn, A 2767, LMT = 召至
之卽合: Nguyeãn(Nguyễn), A 2767, LMT = 之合
顯
Tác phẩm
Tán Viên Giác Kinh.
Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
Tham Đồ Hiển Quyết.
Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Ghi chú
Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna).
Chú thích |
Thẩm thấu ngược (tiếng Anh gọi là reverse osmosis, viết tắt R.O.) là một quy trình công nghệ dùng để sản xuất nước sạch cho dân dụng.
Định nghĩa
Thẩm thấu ngược bao gồm một quá trình làm sạch nước ban đầu được phát triển để khử muối có trong nước biển. Ý tưởng tạo ra quá trình này là làm cho nước biển có thể sử dụng được cho các hoạt động của cuộc sống như dùng để uống, giặt giũ, tái chế và thậm chí có thể sản xuất năng lượng. Quá trình này đã rất thành công và nó hoạt động một cách hiệu quả trong việc loại bỏ muối và các khoáng chất biển khác ra khỏi nước biển. Các nhà máy xử lý nước và các hệ thống thiết bị làm sạch đã sử dụng nhiều quá trình thẩm thấu ngược để lọc sạch và làm thanh khiết nước.
Theo Hiệp hội khử muối Quốc tế (International Desalination Association-IDA), có hơn 1300 nhà máy nước đang vận hành thành công với công nghệ thẩm thấu ngược. Nước đã được làm sạch được sử dụng cho các mục đích công nghiệp cũng như sản xuất nước đóng chai.
Quy trình xử lý
Để hiểu được quá trình thẩm thấu ngược, đầu tiên chúng ta phải xem xét quá trình thẩm thấu. Nước có xu hướng di chuyển sang các dung dịch hòa tan có nồng độ cao. Thẩm thấu là quá trình xảy ra giữa hai dung dịch, được ngăn bởi một lớp màng bán thấm và một trong hai dung dịch có nồng độ cao có xu hướng làm cân bằng chúng vì nước sẽ di chuyển từ dung dịch có nồng độ thấp sang dung dịch có nồng độ cao hơn làm cho cân bằng tỉ lệ hòa tan dung môi. Khi thẩm thấu ngược, áp suất được áp dụng để giữ nước khỏi di chuyển sang dung dịch có nồng độ cao. Khi nước được đẩy sang dung dịch có nồng độ thấp hơn và đi qua một lớp màng được đục lỗ, chất tan được tách ra khỏi dung dịch và chỉ có nước nguyên chất đi qua được lớp màng bán thấm.
Màng lọc RO
Màng lọc RO được sản xuất từ chất liệu Polyamit, công nghệ lọc RO được phát minh và nghiên cứu từ những năm 50 của thế kỷ trước và phát triển hoàn thiện vào thập niên 70. Đầu tiên nó nó được nghiên cứu và ứng dụng chủ yếu cho lĩnh vực hàng hải và vũ trụ của Hoa Kỳ. Được phát minh bởi nhà khoa học Oragin. Sau này công nghệ RO được ứng dụng rộng rãi vào trong đời sống và sản xuất, như sản xuất nước uống, cung cấp nước tinh khiết cho sản xuất thực phẩm, dược phẩm hay phòng thí nghiệm...
Nguyên lý hoạt động của màng RO
Theo một cơ chế ngược lại với các cơ chế lọc thẩm thấu thông thường, nhờ lực hấp dẫn của trái đất để tạo ra sự thẩm thấu của các phân tử nước qua các mao mạch của lõi lọc (chẳng hạn như lõi lọc dạng gốm Ceramic). Màng lọc RO hoạt động trên cơ chế chuyển động của các phần tử nước nhờ áp lực nén của máy bơm cao áp tạo ra một dòng chảy mạnh (đây có thể gọi là quá trình phân ly trong chính dòng nước ở môi trường bình thường nhờ áp lực) đẩy các thành phần hóa học, các kim loại, tạp chất..có trong nước chuyển động mạnh, văng ra vùng có áp lực thấp hay trôi theo dòng nước ra ngoài theo đường thải (giống như nguyên lý hoạt động của thận người). Trong khí đó các phân tử nước thì lọt qua các mắt lọc cỡ kích cỡ 0,0001 micromet (nhỏ hơn 500,000 lần so với đường kính một sợi tóc của con người) nhờ áp lực dư, với kích cỡ mắt lọc này thì hầu hết các thành phần hóa chất kim loại, các loại vi khuẩn đều không thể lọt qua.
Quy trình xử lý nước uống tinh khiết theo công nghệ R.O. (trên máy lọc nước RO gia đình tiêu chuẩn) gồm có các công đoạn như sau:
PP (Polipropylen): kích thước của cặn lọc được, từ 1 µm đến 5µm; Lọc giữ lại tạp chất dạng như: cát, rong rêu, gỉ sắt...
Carbon (UDF): Hấp thụ ion kim loại nặng, khử hóa chất, độc tố.
Carbon (CTO): Khử màu, khử mùi, làm trong nước, cân bằng độ pH.
Màng lọc R.O (R.O. membrane): Kích thước của cặn lọc được là 0,001µm; Lọc thải vi khuẩn, làm giảm độ TDS, tạo ra nguồn nước tinh khiết.
Carbon T/33: Làm từ than hoạt tính của dừa, có tác dụng làm cho nước uống có vị ngọt mát tự nhiên.
Các loại nước mà một hệ thống thẩm thấu ngược xử lý được:
Đối với một hệ thống thẩm thấu ngược, nước đầu vào có thể lấy từ ba nguồn chủ yếu. Nước máy, nước ngầm và nước biển. Nước máy là nguồn phổ biến nhất sử dụng cho các hệ thống thẩm thấu ngược. Các tạp chất và cặn có trong nước máy có thể được loại bỏ dễ dàng với một hệ thống RO và hơn nữa, nó cũng làm mềm nước và loại bỏ được các loại mùi vị. Nước lấy từ các nguồn này, sau khi đi qua hệ thống RO được phân loại dựa trên cơ sở hàm lượng Tổng chất rắn hòa tan (Total Dissolved Solid-TDS) có trong nước. Hiệp hội sức khỏe Mỹ (American Health Association-AHA ) đã công bố rằng chỉ số TDS có trong nước uống nên nhỏ hơn 1,000 PPM. Nước có hàm lượng TDS cao hơn có thể được dùng cho các mục đích công nghiệp khác như phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ, đóng chai…
Ứng dụng của hệ thống thẩm thấu ngược trong hộ gia đình
Các hệ thống thẩm thấu ngược được thiết kế cẩn thận hơn cho các mục đích của hộ gia đình và có các lớp màng lọc có chất lượng cao để đảm bảo có được nước uống chất lượng cao với hàm lượng TDS ít nhất. Một vài điểm đặc trưng quan trọng hơn của các hệ thống thẩm thấu ngược trong hộ gia đình được đề cập dưới đây:
Nước lọc qua hệ thống lọc sẽ đạt mức tinh khiết và có thể uống được ngay
Quá trình lọc được chia thành các giai đoạn như: Tiền xử lý, lọc thô, loại bỏ các tạp chất như bùn đất, rỉ sét...
Các lớp màng lọc có thể được thay thế dễ dàng và chỉ mất ít chi phí.
Vòi nước lọc có thể kết nối dễ dàng với các thiết bị phân phối nước của bạn.
Hệ thống hoạt động tự động, có thể tự ngắt quá trình lọc khi bình nước đầy, hoặc nguồn nước đầu vào không có.
Các máy lọc nước RO hiện nay có thể có từ 5 đến 10 cấp lọc tùy thuộc các đặc điểm sử dụng
Một số bộ phận cơ bản của hệ thống thẩm thấu ngược dùng trong các hộ gia đình:
Lọc sơ cấp:
Một bơm áp suất được sử dụng để tạo ra áp lực bên ngoài đẩy nước đi qua hệ thống lọc. Ở công đoạn này, nước được trải qua quá trình tiền xử lý loại bỏ các chất gây ô nhiễm như cát, chất bẩn và các khoáng chất lắng đọng khác. Các lõi lọc sử dụng ở đây gọi là lõi lọc cặn. Thỉnh thoảng khi nước bị hoài nghi nhiễm xăng dầu, lõi lọc cacbon cũng sẽ được sử dụng trong công đoạn lọc sơ cấp để bảo vệ các lớp màng lọc.
Thiết bị thẩm thấu ngược (Màng lọc RO):
Thiết bị thẩm thấu ngược là yếu tố cơ bản của hệ thống. Các lớp màng thẩm thấu ngược được thiết kế đặc biệt được sử dụng trong thiết bị này để lọc nước và loại bỏ khỏi nước tất cả các loại tạp chất, vi khuẩn. Có hai dạng màng thẩm thấu ngược được sử dụng phổ biến. Màng làm từ vật liệu Cellulose tri-acetate (CTA) dạng cuộn xoắn có khả năng chịu được clo và sẽ không bị hư hại bởi sự có mặt của clo trong nước. Màng mỏng bằng chất liệu đặc biệt không có khả năng chịu được clo và cần phải có các lõi lọc cacbon trong công đoạn xử lý sơ cấp. Với một nguồn nước vào đều đặn, thiết bị thẩm thấu ngược có thể sản xuất một triệu galông nước trong một ngày.
Lọc thứ cấp:
Các lõi lọc thứ cấp được sử dụng để loại bỏ các loại mùi vị có thể có trong nước. Lọc thứ cấp thường là các lõi lọc cacbon và nước sẽ đi qua chúng sau khi đi ra khỏi thiết bị thẩm thấu ngược.
Bộ khống chế dòng chảy và hệ thống nước thải:
Thiết bị thẩm thấu ngược cũng có một đường nước thải để cho thoát tất cả các tạp chất và chất gây ô nhiễm ra khỏi hệ thống. Ống nước thải và ống cấp nước sạch đều được gắn vào thiết bị thẩm thấu ngược, do đó cần phải có một bộ phận khống chế dòng chảy để giữ nước sạch không đi xuống đường nước thải.
Bình chứa nước:
Một bình chứa lớn được sử dụng để tích trữ nước đã được lọc. Bình nước này thường có thể tích trữ lên đến 2.5 galông nước. Nước này có thể được dùng cho các mục đích để uống hoặc bất cứ nhu cầu sử dụng hàng ngày nào khác. |
Thiền sư Cứu Chỉ (究旨) tức Đàm Cứu Chỉ là một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông, sư tu tại chùa Diên Linh, núi Long Đội, Yên Lãng nay thuộc thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Việt Nam. Sư vốn là người Phù Đàm, Châu Minh, nay thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Cơ duyên và hành trạng
Thuở nhỏ sư là người hiếu học. Sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm sách than rằng: Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sinh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được. Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm Ứng ở Ba Sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão.
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: Thế nào là nghĩa cứu kính?
Trưởng lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: Hiểu chưa?
Sư thưa: Chưa hiểu.
Trưởng lão bảo: Ta đã cho ngươi nghĩa cứu kính.
Sư suy nghĩ. Trưởng lão bảo: Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.
Sau đó, Sư lên chùa Quang Minh, núi Tiên Du (Bắc Ninh) ở luôn trong đó chuyên tu hạnh đầu đà , trọn năm không bước chân xuống núi. Tiếng đồn tới kinh đô, vua Lý Thái Tông cho mời mấy lần nhưng Sư không đến nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi.
Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054- 1059), tể tướng Dương Đạo Gia lập chùa Diên Linh trên núi Long Đội thỉnh Sư trụ trì. Cố từ chối mà không được, Sư đành hạ sơn.
Ngày ra đi, Sư nói: Ta chẳng trở lại đây nữa.
Trụ trì chùa Diên Linh được ba năm, khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059- 1065), Sư sắp tịch, bèn gọi môn đồ đến dạy: Phàm tất cả các pháp môn vốn từ tánh của các ngươi, tánh tất cả các pháp vốn từ tâm của các ngươi. Tâm pháp nhất như, vốn không hai pháp. Phiền não trói buộc, tất cả đều không. Tội phước phải quấy, tất cả đều huyễn. Không cái nào chẳng phải quả, chẳng phải nhân. Không nên ở trong nghiệp mà phân biệt báo, không nên ở trong báo mà phân biệt nghiệp, nếu có phân biệt thì chẳng tự tại. Tuy thấy tất cả pháp mà không có chỗ thấy, tuy biết tất cả pháp mà không có chỗ biết. Biết tất cả pháp lấy nhân duyên làm gốc. Thấy tất cả pháp lấy chánh chân làm tông. Tuy chuyên nơi thật tế mà rõ thế gian đều như biến hóa. Rõ thấu chúng sanh chỉ là một pháp, không có hai pháp. Chẳng rời cảnh nghiệp mà phương tiện khéo léo, ở trong cõi hữu vi hiện bày pháp hữu vi mà không phân biệt. Tướng vô vi là do hết dục, dứt ngã, quên niệm mà nhận lấy vậy.
Nói xong, Sư ngồi yên thị tịch.
Nguyên bản chữ Hán
Chú thích
Không rõ năm sinh và mất của Thiền sư.
Đầu đà: phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên.
Tham khảo
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Vô Ngôn Thông
Người Bắc Ninh |
Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự 成道寺) là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay Đại Bồ Tát Pháp Vũ nên chùa được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.
Lịch sử
Theo truyền thuyết, chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 - 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
Kiến trúc
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hòa đời thứ 5 thì ngôi chùa này được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra chùa còn một đôi rồng đá thời nhà Trần cùng với nhiều viên gạch lớn thời nhà Mạc và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577).
Cũng theo tấm bia trên, có một lần trùng tu lớn vào năm 1635 đời vua Lê Thần Tông.
Chùa được xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá.
Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời nhà Tây Sơn.
Qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương.
Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.
Ở chùa Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Trong chùa có chiếc khánh đồng đúc năm 1774 với bài minh do Phan Trọng Phiên biên soạn. Ở đây còn hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh Cương (1709 - 1729).
Tượng trong chùa
Đặc biệt là trong chùa còn có hai pho tượng của hai nhà sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đã tu ở chùa vào khoảng thế kỷ 17, được tạo thành bằng cách bó sơn ta rồi quang dầu ra ngoài chính thi hài các nhà sư. Đầu năm 1993, Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã được giao nhiệm vụ lập phương án thiết kế và thi công trùng tu hai pho tượng này. Khi chiếu tia X-quang, các nhà nghiên cứu còn thấy rõ xương cốt bên trong thi hài và kết luận rằng: không có vết đục đẽo, không có hiện tượng hút ruột, hút óc và các khớp xương dính chặt với nhau như thể tự nhiên. Đây là hai vị Thiền sư đắc đạo tại chùa, để lại toàn thân xá lợi. Xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh đã được tu bổ với các kỹ thuật truyền thống như: bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất. Tổng số lớp sơn và thếp vàng là 14 lớp. Trước khi tu bổ, tượng nặng 7 kg, sau khi tu bổ, tượng nặng 7,5 kg.
Pho tượng Vũ Khắc Trường đã bị hỏng nặng vào khoảng năm 1983 do am đặt tượng bị ngập sau trận lụt lớn. Tượng hồi đó đã được ông Vũ Văn Tuyền, cháu của thiền sư Vũ Khắc Trường đắp lại bằng đất và sơn ta. Tượng đã được các nhà nghiên cứu sắp xếp lại những xương bị gãy, xông thuốc hai lần và phủ xương bằng dung dịch PVC và đưa lại xương vào trong tượng và bao kín toàn tượng bằng sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc, chỗ dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng sau khi tu bổ nặng 31 kg. |
Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ở ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.
Lịch sử
Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15. Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947, sau đó được phục dựng lại từ năm 1989 do Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.
Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù.
Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”.
Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng.
Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng. Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp.
Năm 1951, Hoà thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ 12- mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp.
Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Nội từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương Tích "phiên bản" ở phía Bắc? Câu trả lời là vào thời Lê - Trịnh, các vua Lê - chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh - Nghệ - Tĩnh thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những "người đẹp" đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Sơn Bình để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các "người đẹp" đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN). Như vậy nhờ "sáng kiến" của chúa Trịnh mà Việt Nam có hai chùa Hương Tích.
Thuyết này có phần vô lý, vì đời vua Lý Thánh Tông đã đến Vùng Hà Tây ngày nay và ngự đặt tên Thiên Trù. Trong tín ngưỡng dân gian, các thầy pháp, thầy thống, thậm chí nhà sư,... đều về Vùng Hương Tích - Hà Tây để tìm mua phong khương, địa liền để hành phù, chữa bệnh. Nếu như Hương Tích thật ở Hà Tĩnh thì không thể có hành động này được. Vì tín ngưỡng miền Bắc cho rằng, khi Quan Âm nhập động đã phun nước từ kim khẩu tưới cây nên phong khương, địa liền ở đây có linh tính, rất tốt. mà truyền thuyết của dân gian thì khó mà ảnh hưởng bởi mệnh lệnh hành chính mà bị sai lệch được. Chùa Hương Hà Tây là một ngôi chùa trọng yếu trong tâm linh dân gian Việt Nam. Dân gian thường truyền tụng: "Trấn trạch chùa Nhang, trùng tang Liên Phái",... Trong khi đó, chùa Hương - Hà Tĩnh lại ít ai biết đến, không có dấu ấn trong văn hóa Việt Nam. Tóm lại, Tên hai chùa có phần giống nhau nhưng mỗi chùa đều có bề dày lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, kiến trúc Phật giáo, cảnh sắc riêng, không thể gọi là bản gốc hay bản sao.
Kiến trúc
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù (tọa độ: ). Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.
Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên (tọa độ: ). Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Hội chùa Hương
Mỗi dịp tết đến xuân về, người dân cả nước lại nô nức hành hương về với đất Phật, tham gia lễ hội chùa Hương.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành.
Đỉnh cao của lễ hội là từ sau Tết Nguyên Đán đến tháng Hai âm lịch.
Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên ban thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Võng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn…
Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Các đời trụ trì
Tổ Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Thượng Lâm Viện - Tăng Lục Ty Hoà thượng, Viên Giác Tôn giả
Nguyệt Đường Chân Lý Tổ Sư, Tăng Lục ty Hoà thựơng tự Như trí Gíac Tuệ tổ sư viên tịch 14/4 năm kỷ mùi 1499
Thiền Trưởng Trần huyền Đạo Thắng Chân Nhân
Thiền tăng Đạo Nhẫn Chân Nhân
Cụ Hải Dao, Phạm Đức Thắng, dòng dõi của Trần Đạo Viên Quang Chân nhân, nhận lãnh trụ trì năm 1776
Tổ Hải Viên (1764 - 1810), ngài xuất gia năm 1775, trụ trì Hương Tích từ năm 1789 - 1810
Tổ Thông Dụng Hiệu An Trụ, thích cường trực bồ tát
Maha sa môn Ngộ Tâm, tam giáo thiền sư, Trực chiến bồ tát
Maha sa môn Đồng Bạch tháp, Thông Lâm bồ tát
Maha sa môn tỳ kheo, Hương Quang tháp, Tâm Trúc - hiệu Minh Thích Hoàng thiền sư
Maha sa môn Tiên Quỳnh tháp, pháp danh Thanh hữu, Thích Minh thiền sư
Tiên kỳ tháp, maha sa môn, Minh Nhẫn Nhục thiền sư, Thích Thanh Quyết
Tiêu Quỳnh tháp, maha sa môn, Trí Thích thiền sư
Tổ Thích Thanh Tích thiền sư (1881- 1964), trụ trì giai đoạn: 1932 - 1956
Hoà thượng Thích thanh Chân (1905 - 1989), uỷ viên Hội đồng chứng minh, phó chủ tịch hội đồng trị sự TW GHPGVN, trụ trì giai đoạn: 1956 - 1985
Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), tự Nguyệt Trí, Chân Tịnh Bảo Tháp, Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban giáo dục tăng ni TW GHPGVN, Phó Ban từ thiện TW GHPGVN, Trưởng ban trị sự PG tỉnh Phú Thọ, Phó ban trị sự PG Hà Tây, Trụ trì giai đoạn 1985 - 2002.
Thựơng toạ Thích Minh Hiền, (1961), Uỷ viên thường trực HĐTS TW GHPGVN, Phó Ban Văn hoá TW GHPGVN, Phó Ban trị sự thành hội Phật giáo Hà Nội (07/2017-Nay), Trụ trì giai đoạn 2002 - nay
Chùa Hương trong văn học
Chùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài hát nói "Hương Sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Trinh, làm từ thế kỷ 19, xưa nay rất được ca ngợi:
Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay,
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt..
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,...và bài "Chùa Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20. Bài này đã được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung Đức:Hôm qua đi chùa hươngHoa cỏ mờ hơi sươngCùng thầy me em dậyEm vấn đầu soi gương...
Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động: Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/(Thuyền ta đi một ngày)/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày...Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đây: Chùa Hương trời điểm lại trời tôMột bức tranh tình trải mấy ThuXuân lại xuân đi không dấu vếtAi về ai nhớ vẫn thơm tho.Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò.Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.
Ông còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản ở chùa Hương: Muốn ăn rau sắng chùa HươngTiền đò ngại tốn, con đường ngại xaMình đi, ta ở lại nhàCái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Về văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh...
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau:Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật quen chân xọcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo Trời già đến dở dom.''
Chú thích
Hình ảnh |
Hương Sơn là một xã nằm ở phía nam huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tại đây có nhiều dãy núi đá vôi kề bên những dòng suối uốn lượn quanh co. Trên núi và trong các hang, người ta đã cho xây dựng nhiều đền chùa mà trung tâm là chùa Hương trong động Hương Tích. Hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực này dựa theo những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6 km².
Lịch sử
Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã.
Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh đất chùa Thiên Trù. Theo sách "Hương Sơn Thiên Trù thiên phú" thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686.
Các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn vào khoảng cuối thế kỷ 17. Cho đến đầu thế kỷ 20, trong khu vực này đã có hơn 100 ngôi chùa.
Hành trình tham quan chùa
Để tham quan các chùa ở Hương Sơn, người hành hương thường đi theo các tuyến đường khác nhau. Tuyến đi chính là đi từ Bến Đục, nằm bên bờ sông Đáy. Đây là cửa ngõ vào khu danh lam thắng cảnh, thuyền đò chen. Ngoài ra, có thể đi theo con đường bộ ven chân núi (nhưng ngày nay đã không đi được nữa). Trên đường từ bến Yến vào Bến Trò, người ta có thể dừng chân tại đền Trình (có nghĩa là nơi "trình diện" với thần linh trước khi đến cõi Phật) trên núi Ngũ Nhạc. Đây là đền thờ một vị thần núi. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ tướng của vua Hùng.
Trên dòng suối Yến có cây cầu gỗ tên là cầu Hội. Từ chân cầu đi vào bên trái có thể đi vào ngôi chùa Thanh Sơn trong một động núi.
Từ Bến Trò đi bộ lên chùa Trò, tức chùa Thiên Trù (có nghĩa là Bếp Trời), còn được gọi là chùa Ngoài. Từ bến vào chùa có một nhà bia, trong có tấm bia "Thiên Trù tự bi ký" dựng năm Chính Hòa thứ 7, ghi lại những hoạt động tu sửa chùa Thiên Trù và chùa Hương Tích của nhà sư Viên Quang.
Ngày xưa, chùa được xây khuất trong bốn vách núi, có đến vài chục gian, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nam Thiên môn được xây dựng dưới triều vua Gia Long (1809) cũng bị phá hủy.
Giữa sân chùa có một đỉnh đồng cao 3 m. Cạnh sân chùa có hồ bán nguyệt và vườn tháp. Trong vườn tháp có ngôi tháp Viên Công chứa hài cốt Thiền sư Viên Quang, người có công trùng tu chùa Hương sau nhiều năm hoang phế, được dựng từ thế kỷ 17. Tháp xây gạch trần màu đỏ, cao 4 tầng, tầng thứ 2 và 3 có mái cong với các đầu đao. Ở chùa Thiên Trù còn có quả chuông đúc năm cảnh Thịnh thứ 2 (1793) thời nhà Tây Sơn. Người đi quyên góp đúc quả chuông này là nhà sư Hải Viên. Thiên Trù đã bị phá hủy vào năm 1947. Ngôi chùa hiện tại được xây dựng nhỏ hơn ngôi chùa cũ. Bái đường và hậu cung chùa Thiên Trù mới được xây dựng lại gần đây. Giữa điện thờ Phật có tượng Quan Âm Nam Hải bằng đá, tạc theo mẫu tượng trong chùa Hương Tích nhưng được phóng to gấp 2,5 lần, cao đến 2,8 m.
Ở đây còn có Thiên Thủy tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tạo, nước mưa trên núi theo tháp chảy xuống. Năm 1986, chùa Thiên Trù đã được phục dựng lại gác chuông và đến năm 1989 thì xây xong nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ "Đinh". Đầu năm 1994, chùa đã xây dựng lại Nam Thiên môn (cửa trời Nam) theo nguyên mẫu.
Gần chùa Thiên Trù là núi Tiên, có chùa Tiên trong hang. Trong chùa có 5 pho tượng bằng đá do những người thợ đá ở Kiện Khê (Hà Nam) tạc năm 1907 dựa theo truyền thuyết Bà Chúa Ba Diệu Thiện đã đắc đạo thành Quan Thế Âm Bồ Tát ở Hương Sơn. Tượng Bà Chúa Ba ở giữa, phía trước là người chị cả Diệu Thanh cưỡi sư tử xanh (Văn Thù Bồ Tát và tượng người chị thứ hai Diệu Âm cưỡi voi trắng (Phổ Hiền Bồ Tát). Phía sau là tượng vua cha và hoàng hậu mẹ của Bà Chúa Ba.
Giữa đường từ chùa Thiên Trù đến động Hương Tích là chùa Giải Oan. Ở đây có giếng nước trong vắt gọi là "Thiên nhiên thanh trì" hay còn gọi là giếng Long Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan. Gần chùa là động Tuyết Kinh và am Phật Tích, nơi có tảng đá tương truyền lưu dấu chân Quan Âm Bồ-tát. Cách đó không bao xa, du khách bước chân đến núi Chấn Song để thăm viếng đền cửa Võng thờ Mẫu Thượng Ngàn.
Từ chùa Thiên Trù, theo đường núi quanh co đi khoảng 2 km thì đến chùa Hương còn gọi là chùa Trong. Từ chùa Thiên Trù còn có lối rẽ qua rừng mơ, đến chùa Hinh Bồng.
Ngoài ra còn có thể đi theo suối Tuyết vào đền Mẫu Hạ rồi đến núi Thuyền Rồng, núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy và sau đó đến bến Tuyết Sơn vào chùa Bảo Đài. Trong chùa còn giữ được một pho tượng Cửu Long bằng đồng rất đẹp. Từ chùa Bảo Đài, theo một con đường phẳng đến chùa Tuyết trong Ngọc Long động. Chùa Tuyết do một bà quận chúa thời Trịnh dựng vào năm 1694. Ở đây còn có phù điêu chân dung bà tạc vào vách động. Nơi đây, vào năm 1770, Trịnh Sâm có làm bài thơ "Đăng Tuyết sơn hữu hứng".
Một tuyến đường nữa theo một nhánh của suối Yến, qua núi Ông Sư Bà vãi, cập bến Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế, và hang Sũng Sàm, một di chỉ văn hóa Hòa Bình.
Hội chùa Hương Sơn là hội chùa kéo dài nhất ở Việt Nam trong suốt ba tháng sau Tết Nguyên Đán.
Ca dao đã miêu tả:
Một vùng non nước bao la
Rằng đây Lạc quốc hay là Đào nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền trần gian. |
Một ống bọt nước, hay ống bọt thủy, ống/cái ni vô (theo từ trong tiếng Pháp niveau), máy thủy chuẩn, thủy bình là một dụng cụ dùng để cho biết một bề mặt trên Trái Đất hay các thiên thể có nằm ngang hay không. Các ống bọt nước có nhiều loại, được dùng trong xây dựng, trắc địa, hay lắp đặt máy móc.
Chúng thường gồm một ống thủy tinh hơi cong, bên trong chứa chất lỏng có màu, không đầy, để lại một chút bọt khí. Chất lỏng có thể là ethanol vì chất này có nhiệt độ đóng băng thấp, −114 °C, giúp cho ống hoạt động trong điều kiện thời tiết lạnh.
Một số ống bọt nước có khả năng cho biết góc nghiêng của bề mặt so với phương ngang hay phương thẳng đứng với độ chính xác vừa phải. Độ chính xác của việc xác định góc nghiêng đo bằng góc cần nghiêng ống để bọt nước di chuyển một vạch. Độ chính xác này có thể đạt tới 5″.
Nguyên lý
Ống bọt nước hoạt động dựa vào lực đẩy Ác si mét tác động lên bọt nước trong ống luôn ngược với trọng lực và do đó theo chiều thẳng đứng. Với lực đẩy Ác si mét này, bọt nước sẽ luôn có xu hướng tìm đến vị trí cân bằng ở trên cùng ống nước cong.
Khi ống đặt nằm ngang, vị trí trên cùng này ứng với mốc 0, thường nằm chính giữa ống. Khi ống nằm nghiêng, vị trí cân bằng của bọt nước lệch đi, tùy theo độ nghiêng của ống. Bằng việc so sánh vị trí cân bằng của bọt với mốc 0, có thể suy ra góc nghiêng của ống bọt nước.
Lịch sử
Ống bọt nước được sáng chế lần đầu bởi Melchisedech Thevenot (sinh khoảng năm 1620 hoặc 1621; mất năm 1692). Thevenot là một khoa học gia nghiệp dư và thuê nhiều nhà khoa học và toán học cho công việc của mình. Ông giàu có và có nhiều mối quan hệ, sau này trở thành Thư viện gia cho Vua Louis XIV của Pháp. Thevenot sáng chế ra ống bọt nước khoảng sau ngày 2 tháng 2 năm 1661. Ngày này có thể được xác định nhờ trao đổi còn lưu lại giữa Thevenot và Christiaan Huygens. Một năm sau, thông tin về dụng cụ mới này đã được nhà sáng chế truyền bá rộng rãi, cho cả Robert Hooke ở Luân Đôn và Vincenzo Viviani ở Florence. Có thể là phải cho tới tận thế kỷ 18 thì dụng cụ này mới được dùng rộng rãi, vì dụng cụ như vậy cổ nhất còn lại ngày nay được chế tạo vào thời kỳ này; tuy nhiên Adrien Auzout đã từng đề nghị Académie Royale des Sciences dùng ống bọt nước của Thevenot cho chuyến khám phá Madagascar năm 1666. Có vẻ như ống bọt nước đã được dùng ở Pháp và nơi khác từ trước thế kỷ 18 nhiều.
Thevenot thường bị nhầm với đứa cháu của mình là Jean de Thevenot, một nhà du lịch (sinh 1633; mất 1667). Có bằng chứng cho thấy cả Huygens và Hooke cũng đều đã nhận họ sáng chế ra dụng cụ này, nhưng thông tin này đã chỉ lưu hành tại quốc gia họ sống.
Các dạng |
Thái Luân (còn gọi là Sái Luân; tiếng Hán: 蔡倫; bính âm:Cài Lún; Wade-Giles: Ts'ai Lun; tên tự: 敬仲 Kính Trọng; 50–121) là một thái giám Trung Quốc, được xem là người sáng chế ra giấy.
Tiểu sử
Thái Luân sinh ra ở Quý Dương vào thời nhà Đông Hán, rồi trở thành Trung Thường Thị (中常侍) của Hán Hòa Đế. Năm 105, dưới triều Hán, thời hoàng đế Hòa Đế, Thái Luân đem mấy mẫu giấy dâng vua, được vua hài lòng và phong tước quý tộc và cho ông làm quan trong triều đình. Ông là hoạn quan vì phải giữ tài sản và tiền bạc nhiều trong triều đình. Nhờ chế được giấy, ông trở thành giàu có.
Tuy nhiên sau đó ông bị triều đình âm mưu gây rắc rối, vì ủng hộ Đậu Thái hậu. Ông cũng dính líu đến cái chết của tình địch của bà là Tống Quý nhân. Sau các rắc rối ấy, ông phục dịch cho hoàng hậu Đặng Tuy. Năm 121, sau khi cháu của Tống Quý nhân là Hán An Đế lên ngôi sau cái chết của Đặng Thái hậu, Thái Luân bị lệnh giam vào ngục. Trước khi bị bắt giam, ông tắm rửa sạch sẽ, mặc áo quần đẹp, uống thuốc độc rồi lên giường nằm.
Cách chế giấy của Thái Luân
Trong thế kỷ thứ 5, Phạm Diệp (范曄) đã tường thuật lại trong sách Hậu Hán thư:
Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau. Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì thế Thái Luân (蔡倫) nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm Nguyên Hưng thứ nhất (105) ông tâu lên Hoàng thượng và được ngài khen thưởng cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái.
Thái Luân chế giấy bằng cách lấy bên trong vỏ thân cây dâu tằm và xơ cây tre đem trộn với nước rồi giã nát với dụng cụ bằng gỗ, xong ông đổ hỗn hợp lên tấm vải căng phẳng và trải mỏng rồi để ráo nước. Khi đã khô, Thái Luân khám phá ra rằng có thể viết lên dễ dàng mà lại nhẹ nhàng. Thái Luân cũng đã thử các loại vỏ cây, cây gai dầu, lụa, và thậm chí lưới đánh cá, nhưng các công thức chính xác đã bị thất truyền. Cách chế tạo giấy này đầu tiên được dùng bên Trung Quốc rồi qua Hàn Quốc, Samarkand, Ba Tư và Damascus.
Sau sáng chế của Thái Luân năm 105, giấy đã được phổ biến ở Trung Quốc. Năm 751, một số nghệ nhân làm giấy Trung Quốc bị người Ả Rập bắt giữ sau khi quân của nhà Đường thua trận ở Trận sông Talas. Kỹ thuật làm giấy từ đó được truyền bá sang phương Tây. Phải hàng ngàn năm sau người ta mới sản xuất giấy đại trà trên thế giới. Người phát minh Thái Luân cũng ít được biết tới bên ngoài Đông Á.
Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng cacbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người sáng chế ra giấy giống như giấy ngày nay. Đóng góp của Thái Luân được coi là một trong các sáng chế quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Nó đã cho phép Trung Quốc phát triển nền văn minh của mình nhanh hơn trước đây khi còn dùng tre hay trúc để lưu chữ viết, và nó cũng đã kích thích sự phát triển của châu Âu khi kỹ thuật giấy đến đây vào khoảng thế kỷ 12 hay thế kỷ 13. Thái Luân được xếp hạng thứ 7 trong danh sách 100 người quan trọng nhất lịch sử của Michael H. Hart. |
Chất chuyển hóa là các chất trung gian và là sản phẩm của quá trình chuyển hóa. Khái niệm chất chuyển hóa thường chỉ giới hạn trong khuôn khổ các tiểu phân tử. Các chất chuyển hóa có nhiều chức năng quan trọng, như làm nhiên liệu, làm cấu trúc, là tín hiệu, kích thích và ức chế lên hoạt động của các enzym (thường đóng vai trò là cofactor của chúng), bảo vệ khỏi và tương tác với các sinh vật khác (như các sắc tố sinh học, chất có mùi, và các pheromone). Chất chuyển hóa tiên phát thì có liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng, phát triển và sinh sản bình thường. Alcohol là một ví dụ về chất chuyển hóa tiên phát được sản xuất với lượng lớn trong công nghiệp vi sinh học. Chất chuyển hóa thứ phát thì không tham gia trực tiếp vào các quá trình trên, nhưng chúng thường có vai trò quan trọng trong sinh thái học, ví dụ như các chất kháng sinh và các sắc tố các resin và các terpen v.v. Một vài chất kháng sinh được tạo nên từ các chất chuyển hóa tiên phát, ví dụ như actinomycin được tổng hợp từ tiền chất ban đầu là tryptophan.
Một vài ví dụ về các chất chuyển hóa tiên phát được sản xuất trong công nghiệp vi sinh học:
Tập chuyển hóa tạo nên một mạng lưới các phản ứng chuyển hóa, trong đó sản phẩm của một phản ứng hóa học được xúc tác bởi enzym lại là cơ chất cho một phản ứng hóa học khác.
Quá trình phân giải về mặt hóa sinh của các hợp chất hóa học có trong tự nhiên hay được tổng hợp đều có sự tham gia của các chất chuyển hóa. Tốc độ phân giải của một hợp chất là một yếu tố quan trọng để xác định thời gian và cường độ tác động của chúng. Hồ sơ lưu trữ các chất chuyển hóa của các hợp chất, chuyển hóa của các chất thuốc là một phần quan trọng trong việc tìm ra các loại thuốc, từ đó giúp hiểu rõ hơn về cơ chế gây ra các tác dụng phụ. |
Chân trời địa lý là một thuật ngữ dùng để chỉ những đường ranh giới trên bề mặt Trái Đất mà chúng là giới hạn của hiểu biết về một miền đất, một bộ tộc người, trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Miền đất mà đã được con người biết tới, đến ở và khai phá thì gọi là lãnh địa (ekumena - tiếng La Tinh) – trái ngược với nó thì gọi là đất hoang (anekumena). |
Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (hay Cúp bóng đá thế giới 2002, tiếng Anh: 2002 FIFA World Cup, tiếng Hàn Quốc: 2002 FIFA 월드컵 한국/일본, tiếng Nhật: 2002 FIFAワールドカップ 韓国/日本) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 17, được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 30 tháng 6 năm 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây là kỳ World Cup lần đầu tiên trong lịch sử được tổ chức tại châu Á, và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia. Kỳ World Cup này cũng đánh dấu kỷ lục 5 lần vô địch của đội tuyển Brasil, đội tuyển Hàn Quốc đã làm lên lịch sử khi trở thành đội bóng đầu tiên của châu Á lọt vào đến bán kết, điều này đã gây tranh cãi lớn trong khâu trọng tài và giới chuyên môn, sau này đã trở thành một vết nhơ lớn không thể xóa bỏ trong lịch sử bóng đá. Trong khi đó, đội tuyển Nhật Bản đã có lần đầu tiên trong lịch sử giành quyền vào vòng 1/8 nhưng đã để thua trước đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ với tỉ số 0-1. Pháp trở thành đội đương kim vô địch thứ ba bị loại ngay từ vòng bảng ở một kỳ World Cup (sau Ý năm 1950 và Brasil năm 1966).
Bài hát chính thức của giải đấu là "Boom" của Anastacia cùng với nhạc hiệu chính thức là "Anthem" của Vangelis.
Linh vật chính thức của giải đấu là Ato, Kaz và Nik (the Spheriks), những sinh vật được tạo nên bởi máy tính với dáng vẻ hiện đại, lần lượt với các màu cam, tím và xanh. Những thành viên tuyển chọn của đội "Atmoball" (một môn thể thao giống bóng đá được hư cấu nên), Ato là huấn luyện viên còn Kaz và Nik là cầu thủ. Ba cái tên này được lựa chọn từ một danh sách bình chọn của những người dùng qua mạng Internet và đặt trên lối ra vào của McDonald's tại các nước chủ nhà.
Đây cũng là mùa giải cuối cùng áp dụng luật bàn thắng vàng.
Vòng loại
199 đội tuyển đã tham dự vòng loại của giải để chọn ra 29 đội còn lại được bước vào vòng chung kết. Hai đội chủ nhà là Hàn Quốc và Nhật Bản, cùng với đội đương kim vô địch thế giới là Pháp được vào thẳng vòng chung kết mà không cần tham dự vòng loại.
Châu Âu (UEFA): Chọn lấy 14 đội
Châu Phi (CAF): Chọn lấy 5 đội
Châu Á (AFC): Chọn lấy 5 đội
Các đội giành quyền vào vòng chung kết
AFC (4)
CAF (5)
OFC (0)
Không có đại diện
CONCACAF (3)
CONMEBOL (5)
UEFA (15)
Danh sách trọng tài
Trọng tài chính
AFC
Lục Tuấn ()
Kamikawa Toru (Nhật Bản)
Saad Mane ()
Kim Young-joo ()
Ali Bujsaim ()
CAF
Coffi Codjia ()
Gamal Al-Ghandour ()
Mohamed Guezzaz ()
Falla N'Doye ()
Mourad Daami ()
CONCACAF
William Mattus ()
Carlos Batres ()
Peter Prendergast ()
Felipe Ramos ()
Brian Hall ()
CONMEBOL
Ángel Sánchez ()
René Ortubé ()
Carlos Simon ()
Óscar Ruiz ()
Byron Moreno ()
Ubaldo Aquino ()
OFC
Mark Shield ()
UEFA
Kim Milton Nielsen ()
Graham Poll ()
Gilles Veissière ()
Markus Merk ()
Kyros Vassaras ()
Pierluigi Collina ()
Jan Wegereef ()
Terje Hauge ()
Vítor Melo Pereira ()
Hugh Dallas ()
Ľuboš Micheľ ()
Antonio López Nieto ()
Anders Frisk ()
Urs Meier ()
Trợ lý trọng tài
AFC
Komaleeswaran Sankar ()
Awni Hassaouneh ()
Haidar Koleit ()
Mat Lazim Awang Hamat ()
Mohamed Saeed ()
Ali Al-Traifi ()
Visva Krishnan ()
CAF
Wagih Farag ()
Dramane Dante ()
Taoufik Adjengui ()
Ali Tomusange ()
Brighton Mudzamiri ()
CONCACAF
Curtis Charles ()
Héctor Vergara ()
Vladimir Fernández ()
Michael Ragoonath ()
CONMEBOL
Jorge Rattalino ()
Jorge Oliveira ()
Bomer Fierro ()
Miguel Giacomuzzi ()
OFC
Paul Smith ()
Elise Doriri ()
UEFA
Egon Bereuter ()
Yury Dupanov ()
Roland Van Nylen ()
Evzen Amler ()
Jens Larsen ()
Philip Sharp ()
Frédéric Arnault ()
Heiner Müller ()
Ferenc Székely ()
Jaap Pool ()
Maciej Wierzbowski ()
Carlos Matos ()
Igor Šramka ()
Leif Lindberg ()
Các sân vận động
Đội hình
Chia bảng
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+9)
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
Vòng đấu loại trực tiếp
Trong vòng đấu loại trực tiếp, hiệp phụ, luật bàn thắng vàng và loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết.
Tóm tắt
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
30px30px
Danh hiệu khác
1Oliver Kahn là thủ thành duy nhất được nhận danh hiệu quả bóng vàng trong lịch sử các giải vô địch bóng đá thế giới.
Đội hình tiêu biểu
Cầu thủ ghi bàn
8 bàn
Ronaldo
5 bàn
Rivaldo
Miroslav Klose
4 bàn
Jon Dahl Tomasson
Christian Vieri
3 bàn
Marc Wilmots
Michael Ballack
Robbie Keane
Pauleta
Papa Bouba Diop
Fernando Morientes
Raúl
Henrik Larsson
İlhan Mansız
2 bàn
Ronaldinho
Rónald Gómez
Michael Owen
Inamoto Junichi
Jared Borgetti
Nelson Cuevas
Henri Camara
Ahn Jung-Hwan
Fernando Hierro
Ümit Davala
Hasan Şaş
Brian McBride
Landon Donovan
1 bàn
Gabriel Batistuta
Hernán Crespo
Wesley Sonck
Peter Van Der Heyden
Johan Walem
Edmílson
Júnior
Roberto Carlos
Samuel Eto'o
Patrick Mboma
Winston Parks
Paulo Wanchope
Mauricio Wright
Ivica Olić
Milan Rapaić
Dennis Rommedahl
Agustín Delgado
Edison Méndez
David Beckham
Sol Campbell
Rio Ferdinand
Emile Heskey
Oliver Bierhoff
Marco Bode
Carsten Jancker
Thomas Linke
Oliver Neuville
Bernd Schneider
Gary Breen
Damien Duff
Matt Holland
Alessandro Del Piero
Morishima Hiroaki
Nakata Hidetoshi
Suzuki Takayuki
Cuauhtémoc Blanco
Gerardo Torrado
Julius Aghahowa
Francisco Arce
Jorge Campos
Roque Santa Cruz
Paweł Kryszałowicz
Emmanuel Olisadebe
Marcin Żewłakow
Beto
Rui Costa
Vladimir Beschastnykh
Valery Karpin
Dmitri Sychev
Egor Titov
Salif Diao
Khalilou Fadiga
Milenko Ačimovič
Sebastjan Cimirotič
Quinton Fortune
Benni McCarthy
Teboho Mokoena
Siyabonga Nomvethe
Lucas Radebe
Hwang Sun-Hong
Lee Eul-Yong
Park Ji-Sung
Seol Ki-Hyeon
Song Chong-Gug
Yoo Sang-Chul
Gaizka Mendieta
Juan Carlos Valerón
Niclas Alexandersson
Anders Svensson
Raouf Bouzaiene
Emre Belözoğlu
Bülent Korkmaz
Hakan Şükür
Clint Mathis
John O'Brien
Diego Forlán
Richard Morales
Álvaro Recoba
Darío Rodríguez
Phản lưới nhà
Jorge Costa (trận gặp Hoa Kỳ)
Carles Puyol (trận gặp Paraguay)
Jeff Agoos (trận gặp Bồ Đào Nha)
Bảng xếp hạng giải đấu |
Samuel Eto'o (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1981 tại Nikon, Cameroon) là cựu tiền đạo bóng đá người Cameroon. Anh là cầu thủ châu Phi giành nhiều danh hiệu nhất mọi thời đại. Anh sở hữu kỷ lục 4 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi (bằng với Yaya Touré). Hiện anh đang là chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.
Khoác áo ĐTQG Cameroon khi mới 16 tuổi, được xem là tài năng trẻ triển vọng nhất Thế giới lúc bấy giờ, không quá khó hiểu khi Real Madrid muốn chiêu mộ bằng được Eto'o thời điểm ấy. Ở tuổi 19, Eto'o là trụ cột giúp U23 Cameroon giành HCV bóng đá nam Olympic năm 2000. Anh cũng đã tham dự 4 kỳ World Cup và 6 lần tham dự Cúp bóng đá châu Phi (là nhà vô địch hai lần) và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của Cúp bóng đá châu Phi, với 18 bàn thắng. Anh cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Cameroon với 58 bàn thắng. Anh tuyên bố giã từ ĐTQG vào ngày 27/8/2014. Năm 2015, Eto'o nhận được giải thưởng Golden Foot.
Eto'o ghi được hơn 100 bàn thắng trong 5 mùa giải với Barcelona, và cũng là người giữ kỷ lục về số lần ra sân của một cầu thủ châu Phi tại La Liga. Năm 2010, anh trở thành cầu thủ duy nhất có 2 cú ăn ba trong 2 năm liên tiếp, và giành hai chức vô địch Champions League liên tiếp với 2 CLB khác nhau. Eto'o là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử ghi bàn trong hai trận chung kết UEFA Champions League liên tiếp.
Samuel Eto'o được các nhà chuyên môn tại châu Phi đánh giá là "Cầu thủ châu Phi Vĩ đại nhất mọi Thời đại" khi vượt qua những Abedi Pele, Jay-Jay Okocha, Nwankwo Kanu, Roger Milla. Didier Drogba xếp thứ 3, George Weah xếp thứ 2 trong cuộc bầu chọn này.
Eto'o được biết đến với biệt danh "Báo đen". Ngày 7 tháng 9 năm 2019, Samuel Eto'o chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 27 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Vào tháng 9 năm 2021, Samuel Eto'o, tuyên bố ứng cử chức chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon (Fecafoot). Ngày 12 tháng 12 cùng năm, anh chính thức trở thành Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Cameroon.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Mallorca RCD
Eto'o bị Real Madrid rao bán cho Mallorca vì không tìm được 1 vị trí vững chắc trong đội hình vào năm 2000. Đó là khoảng thới gian bước ngoặt trong sự nghiệp của anh. Anh đã giúp CLB đoạt Cúp Nhà vua 2003. Sau đó, Eto'o được nhận lấy chiếc băng thủ quân, góp phần đưa Mallorca lần đầu tiên dự Champions League. Trước khi rời đi, anh cũng trở thành chân sút vĩ đại nhất của CLB.
Barcelona
Samuel Eto'o chuyển đến Barcelona tháng 8-2004 từ Mallorca với mức phí chuyển nhượng là 24 triệu Euro. Eto'o có trận đấu đầu tiên trong màu áo Barca vào ngày 29-8-2004 với CLB Racing Santander. Eto'o đã đoạt danh hiệu Pichichi (Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha La Liga) vào năm 2006, với 26 bàn thắng. Cũng trong mùa giải thành công 2005-2006, Eto'o đã ghi 6 bàn thắng tại cúp châu âu UEFA Champion League, trong đó có bàn thắng ấn định chiến thắng 2-1 được ghi ở phút thứ 76 trận chung kết với CLB Arsenal.
Ngày 14 tháng 2 năm 2009, anh ghi bàn thứ 99 và 100 tại La Liga cho Barcelona trong trận hòa 2–2 với Real Betis. Eto'o ghi bàn thứ 30 trong mùa giải 2008–09 trong trận đấu với Real Valladolid. Trận đấu kết thúc với tỉ số 1–0 và Barcelona dẫn trước Real Madrid 6 điểm. Anh cũng ghi bàn trong trận đấu với Villarreal CF qua đó giúp Barcelona vô địch La Liga sớm. Eto'o đã toả sáng trong trận chung kết UEFA Champions League 2009 với Manchester United khi ghi bàn mở tỷ số ở phút thứ 10 qua đó giúp đội bóng của anh giành chiến thắng chung cuộc 2-0.
Mùa giải 2008-2009 là một mùa giải thành công nhất trong lịch sử Barça khi đội bóng giành cú ăn sáu. Trong năm mùa giải chơi bóng cùng Barcelona, Eto'o đã ghi được 108 bàn thắng
Inter Milan
Chuyển sang Inter Milan vào tháng 7 năm 2009 với thỏa thuận Ibrahimovic chuyển sang Barcelona thi đấu,
cũng tại Inter Milan, anh vẫn chứng tỏ được khả năng của mình và là một trụ cột không thể thiếu được trong sơ đồ chiến thuật của huấn luyện viên Jose Mourinho. Tuy nhiên anh đã bị xếp đá thấp hơn so với Diego Milito, Là linh hồn trong mọi đợt phản - tấn công, anh thường xuyên được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu tại Serie A, cũng như tại UEFA Champions League, đặc biệt Samuel Eto'o chính là nhân tố giúp Inter đánh bại đội bóng cũ Barcelona của mình tại đấu trường này - đội bóng mùa trước từng cùng anh giành cú ăn 6 lịch sử. Cũng trong thời gian ở Inter anh đã đi vào lịch sử khi là người tham gia đầy đủ ở 3 trân chung kết champions league đầu tiên và đều đi đến thắng lợi sau cùng, anh cũng là người góp công lới vào cú ăn ba thần thánh của Inter mùa giải 2009/2010 khi vô địch trên cả ba mặt trận là Copa Italy, Serie A, Champions league.
FC Anzhi Makhachkala
Sau khi tạo dấu ấn rất lớn ở Inter Milan, là linh hồn trong lối chơi của đội bóng thủ đô nước Ý, anh đã được trải thảm đỏ để sang đội bóng nhà giàu nước Nga thi đấu. Tại đây, anh đã trở thành cầu thủ nhận lương cao nhất thế giới, 400.000 euro/tuần.
Tuy nhiên đến tháng 7/2013, CLB Anzhi Makhachkala đã phải cắt giảm phân lớn chi phí hoạt động do ông chủ CLB là tỷ phú Suleyman Kerimov đã bị điều tra về những vi phạm kinh tế cùng với việc thua lỗ trong kinh doanh. Vì vậy Eto'o đã bi CLB Anzhi Makhachkala cắt giảm lương và anh đã yêu cầu được giải phóng hợp đồng để tìm CLB mới.
Chelsea
Ngày 29 tháng 8 năm 2013, trang chủ câu lạc bộ Chelsea chính thức xác nhận Eto'o đã ký vào bảng hợp đồng có thời hạn 1 năm với đội chủ sân Stamford Bridge. Anh sẽ mang số áo 29, số áo đang thuộc về tiền đạo Demba Ba, và Chelsea đã quyết định đổi số áo của Demba Ba thành số 19. Tại Chelsea Eto'o sẽ tái ngộ với huấn luyện viên José Mourinho, người đã từng làm việc với anh ở Inter Milan.
Anh có bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ mới đến trong trận thắng 4-1 trước Cardiff City vào ngày 19 tháng 10, trước đó anh đã kiến tạo cho Eden Hazard ghi bàn mở tỉ số. Ngày 7 tháng 11 anh lập cú đúp giúp Chelsea thắng Schalke 04 4-0 trong trận đấu thuộc khuôn khổ lượt về vòng bảng Champions League.
Ngày 19/01/2014 Eto'o có cú Hatrick đầu tiên cho Chelsea vào lưới Manchester United tại vòng 22 Ngoại Hạng Anh, giúp Chelsea thắng chung cuộc 3-1. Anh ghi tên mình là cầu thủ thứ 4 ghi được 3 bàn thắng vào lưới Manchester United từ năm 1954 tại các giải quốc nội Anh.
Tháng 6/2014 anh chuyển sang Everton
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Tính đến năm 2014 (tức đến khi chia đội tuyển quốc gia Cameroon), Samuel Eto'o đã chơi cho đội tuyển bóng đá Cameroon 118 trận và ghi được 56 bàn thắng. Trong đó, trận đấu quốc tế đầu tiên của anh là trận giao hữu với đội tuyển Costa Rica vào ngày 9 tháng 3 năm 1996.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Bàn thắng quốc tế
Source:
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Espanyol
Copa del Rey: 1999–2000
Mallorca
Copa del Rey: 2002–03
Barcelona
La Liga: 2004–05, 2005–06, 2008–09
Copa del Rey: 2008–09
Supercopa de España: 2005, 2006
UEFA Champions League: 2005–06, 2008–09
Inter Milan
Serie A: 2009–10
Coppa Italia: 2009–10, 2010–11
Supercoppa Italia: 2010
UEFA Champions League: 2009–10
FIFA Club World Cup: 2010
Quốc tế
Cúp bóng đá châu Phi: 2000, 2002
Huy chương Vàng Thế vận hội Mùa hè 2000
Á quân FIFA Confederations Cup: 2003
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc thứ ba năm 2005 của FIFA
Quả bóng vàng châu Phi: 2003, 2004, 2005, 2010
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất châu Phi năm 2001
Vua phá lưới La Liga 2005–06 (26 bàn) |
Thiền sư Pháp Hiền (?-626) họ Đỗ, người huyện Chu Diên nay là huyện Gia Lâm (Hà Nội) thuộc thế hệ thứ nhất dòng Pháp của Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi. Sư tu chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, huyện Long Biên.
Cơ duyên và hành trạng
Ban đầu sư xuất gia thọ giới cụ túc với đại sư Quán Duyên ở chùa Quán Vân. Sau khi nhận được yếu chỉ thiền từ Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi bèn đến núi Thiên Phúc tu tập Thiền định, quên hết cả vật lẫn bản thân mình khiến cho chim chóc, dã thú tới tự do vui đùa; người đời hâm mộ danh tiếng đến học đạo nhiều nên sư cho dựng chùa Chúng Thiện làm nơi lưu trú. Dòng Thiền Nam phương hưng thịnh từ đó.
Nhà Tùy từ lâu nghe tiếng người nước Nam sùng chuộng đạo Phật nay lại có bậc cao tăng đức cao đạo trọng nên Tùy Cao tổ bèn cho đem xá lỵ Phật sang ban cho sư Pháp Hiền để xây tháp cúng thờ. Sư đem chia cho các chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và ở các châu: Phong Châu, Hoan Châu, Trường Châu để dựng tháp thờ.
Khi sư Pháp Hiền còn ở chùa Quán Vân, một hôm Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Quảng Châu đến, gặp sư bèn hỏi:
Ngươi họ gì?
Sư hỏi lại: Hòa thượng họ gì?
Tì Ni Đa Lưu Chi nói: Ngươi không có họ ư?''
Sư đáp: Họ không phải không có, nhưng hòa thượng cần gì phải biết
Tì Ni Đa Lưu Chi quát bảo: Biết để làm gì?
Sư hoát nhiên đại ngộ.
Sư tịch năm Bính Tuất, niên hiệu Đường Vũ Đức thứ chín (626)
Chú thích
Theo nguyên bản Thiền Uyển Tập Anh, Tì Ni Đa Lưu Chi là thế hệ thứ nhất, trước truyền Pháp Hiền có ghi là "đệ nhị thế" (thế hệ thứ hai). Nhưng các số thứ tự tiếp sau Pháp Hiền lại lặp lại số thứ hai, không tính tổ mở dòng mà xem Pháp Hiền là thế hệ thứ nhất.
Nguyên bản chữ Hán |
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung (thường được viết tắt là CIN, theo tiếng Anh Cervical Intraepithelial rNeoplasia) chỉ những thay đổi của niêm mạc cổ tử cung có tiềm năng ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập vào mô đệm.
Đa số hiện tượng này xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa biểu mô lát và biểu mô tuyến (hay biểu mô trụ) của cổ tử cung. Đây là vùng thường xuyên biến đổi và rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường xung quanh nó.
Từ tân sinh trong biểu mô cổ tử cung có thể sẽ diễn tiến thành ung thư tại chỗ, rồi ung thư xâm lấn cổ tử cung – một bệnh nguy hiểm thường gặp ở phụ nữ, nhất là các nước đang phát triển mà việc điều trị khó khăn, tốn kém.
Do đó, việc phát hiện sớm những tổn thương này có ý nghĩa quan trọng. Trong khi đó, cổ tử cung là một cơ quan dễ khảo sát và xét nghiệm đóng vai trò chính trong việc này là phết mỏng tế bào cổ tử cung lại là xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản.
Dịch tễ
Những yếu tố thuận lợi cho sự xuất hiện tân sinh trong biểu mô cổ tử cung:
Giao hợp sớm (trước 17 tuổi). Giao hợp với nhiều người, và giao hợp với người có quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ. Những tình huống trên làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục gây viêm nhiễm cổ tử cung, cũng như gây những sang chấn lên cổ tử cung, là những tác nhân tác động lên vùng chuyển tiếp vốn rất nhạy cảm với các tác nhân này.
Viêm nhiễm sinh dục do HPV (Human Papilloma Virus) là một yếu tố nguy cơ chính. Vai trò của HPV gây tân sinh trong biểu mô cổ tử cung đã được xác nhận. HPV là một loại virus có nhân chứa chất liệu di truyền là DNA, đã được tìm thấy trong hơn 80% các mẫu tế bào cổ tử cung bị kết luận là nghịch sản (hay tân sinh trong biểu mô) hoặc ung thư xâm lấn.
Tuy nhiên nhiễm HPV rất hay gặp ở những phụ nữ tuổi hoạt động tình dục, nhưng chỉ một số ít trong đó bị tân sinh cổ tử cung hay ung thư cổ tử cung. Điều này chứng tỏ còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ gây nghịch sản trong tế bào cổ tử cung. Đầu tiên là chủng HPV bị nhiễm. Đã có 77 chủng HPV được tìm ra, trong đó có 2 nhóm chính gây bệnh ở người. Các chủng HPV 6b và 11 là những chủng gây condyloma sùi ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, cũng được tìm thấy trong những tổn thương nghịch sản nhẹ CIN I, nhưng diễn tiến lành tính và hiếm khi diễn tiến thành ung thư xâm lấn. Trong khi đó chủng HPV 16, 18, 31, 33 là những chủng ác tính, chúng được tìm thấy ở 50-80% các trường hợp nghịch sản và ở 90% các trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn. Sở dĩ các chủng HPV này có khả năng gây bệnh cao vì chúng có khả năng ghép chất liệu di truyền của virus và với DNA của tế bào chủ, gây ra những đột biến gene có tiềm năng sinh ung.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác cũng được coi là yếu tố nguy cơ, đó là điều kiện kinh tế xã hội thấp, vệ sinh kém, hút thuốc lá, và các tác nhân gây suy giảm sức đề kháng như nhiễm HIV,....
Sinh bệnh học
Cổ tử cung gồm 2 phần: cổ ngoài và cổ trong. Trong đó, ở cổ ngoài là các tế bào biểu mô lát giống tế bào biểu mô lát của âm đạo nhưng trơn láng hơn, còn cổ trong là biểu mô tuyến gần giống như biểu mô của nội mạc tử cung. Chỗ tiếp giáp giữa biểu mô lát của cổ ngoài và biểu mô tuyến của cổ trong được gọi là lỗ cổ ngoài mô học.
Đây là vùng chuyển tiếp của hai loại biểu mô. Tại đây có các tế bào dự trữ, có khả năng biến thành biểu mô lát hoặc biểu mô tuyến nhằm tái tạo những tổn thương của cố tử cung. Một sự thay đổi pH của âm đạo có thể do viêm nhiễm, hoẵc tình trạng cường estrogen sẽ làm tăng sinh và tăng tiết các tế bào cổ trong, chúng mọc lan ra ngoài và sẽ có sự hiện diện các tế bào biểu mô tuyến trên bề mặt biểu mô lát của cổ ngoài tử cung. Tình trạng đó được gọi là lộ tuyến cổ tử cung.
Khi những thay đổi trên không còn, lộ tuyến cổ tử cung sẽ biến mất, đó là sự tái tạo của cổ tử cung. Sự tái tạo này còn được gọi là biểu mô hóa – các tế bào tuyến sẽ biến mất nhường chỗ cho các tế bào lát. Trong quá trình này, có sự chuyển sản của các tế bào dự trữ của biểu mô tuyến thành các tế bào lát. Sự tái tạo này có thể đi kèm với một sự tăng sinh bất thường khi có sự hiện diện của một tác nhân nào đó thường nhất là do nhiễm HPV, tạo ra những tế bào bất thường – hiện tượng này chính là tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung.
Ngoài ra trong quá trình tái tạo, vùng chuyển sản cũng có thể chuyển thành biểu mô tuyến và cùng với những yếu tố nguy cơ như trên cũng có thể diễn tiến thành ung thư tế bào tuyến cổ tử cung.
Chẩn đoán
Tân sinh trong biểu mô thường gặp ở phụ nữ trẻ, đỉnh cao là 20–40 tuổi. Người ta ghi nhận diễn tiến từ tân sinh trong biểu mô đến ung thư xâm lấn cần 10–15 năm.
Bệnh không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào các phương tiện cận lầm sàng:
Phết tế bào cổ tử cung
Đây là xét nghiệm tế bào học cổ tử cung. Là một xét nghiệm rẻ tiền, thực hiện đơn giản và dùng để tầm soát ung thư cổ tử cung. Theo Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát.
Soi cổ tử cung
Thực hiện khi bệnh nhân có kết quả phết tế bào cổ tử cung bất thường. Soi giúp xác định vị trí và mức độ lan tỏa của tổn thương, đồng thời hướng dẫn cho sinh thiết cổ tử cung.
Sinh thiết cổ tử cung
Sinh thiết là phương tiện sau cùng và cho kết quả chính xác hơn cả, sinh thiết giúp chẩn đoán giải phẫu bệnh.
Sinh thiết được thực hiện dưới hướng dẫn của máy soi. Đôi khi sinh thiết, ngoài để chẩn đoán còn là một phương pháp điều trị đối với giai đoạn sớm của bệnh, đó là trường hợp khoét chóp cổ tử cung sinh thiết.
Phân độ
Phân độ của CIN thường dựa trên kết quả của mẫu phết mỏng cổ tử cung. Được chia làm 3 mức độ:
Nghịch sản nhẹ, khi chỉ 1/3 dưới của lớp biểu mô bị ảnh hưởng. CIN I còn được xem là tổn thương trong biểu mô lát mức độ thấp (LSIL-Low grade squamous intraepithelial lesion).
Nghịch sản trung bình, khi 2/3 dưới của lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
Nghịch sản nặng, khi 1/3 trên của lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
CIN II và III được xem là tổn thương trong biểu mô lát mức độ cao (HSIL-high grade squamous intraepithelial lesions).
Còn gọi là ung thư tại chỗ khi toàn bộ bề dày lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
Điều trị
Nghịch sản nhẹ
Khoảng 60% có thể tự biến mất trong vài tháng và có khoảng 11% sẽ tiến triển thành ung thư. Do đó cần làm lại phết tế bào cổ tử cung sau khoảng 4–6 tháng. Nếu sang thương vẫn còn, có thể xử trí bằng đốt điện, đốt lạnh hoặc đốt bằng tia laser.
Đối với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, khi thấy kết quả là nghịch sản nhẹ thì có thể sử dụng estrogen bôi tại chỗ trong vòng 2 tháng trước khi kiểm tra lại bằng phết tế bào cổ tử cung.
Nghịch sản trung bình
Chỉ có khoảng 40% là tự khỏi, và khoảng 22% sẽ tiến triển thành ung thư, do đó CIN II buộc phải điều trị với các phương pháp tương tự như trên. Khi sang thương ăn sâu vào lỗ trong thì thực hiện khoét chóp cổ tử cung.
Khoét chóp là phương pháp chính trong chẩn đoán và điều trị những tổn thương giai đoạn sớm. Khoét chóp sẽ lấy đi toàn bộ vùng chuyển tiếp lát-trụ ở quanh cổ tử cung. Tùy theo vùng chuyển tiếp nằm ở đâu thì quyết định chiều sâu của khoét chóp.
Nghịch sản nặng
Khoét chóp là phương pháp được chọn lựa. Tuy nhiên trong một số trường hợp tổn thương lan rộng vào đến lỗ trong cổ tử cung mà khoét chóp không đảm bảo hoặc khi bệnh nhân lớn tuổi, có đủ con, không đủ điều kiện để theo dõi bệnh nhân lâu dài, khi bệnh nhân có các tình trạng bệnh lý khác đi kèm như: u xơ cơ tử cung, rối loạn kinh nguyệt, sa sinh dục... thì cắt tử cung toàn phần là một chọn lựa tốt hơn.
Theo dõi sau điều trị
Trong năm đầu, mỗi 3 tháng phết tế bào cổ tử cung một lần, soi cổ tử cung mỗi 6 tháng.
Nếu bình thường thì làm lại phết tế bào cổ tử cung sau đó 9 tháng.
Khi tất cả các xét nghiệm trên bình thường, thì chỉ theo dõi phết tế bào mỗi năm một lần.
Chủng ngừa chống HPV
Cuộc nghiên cứu tìm thuốc chủng ngừa vaccine cho HPV do hai bác sĩ Ian Frazer và Jian Zhou đã thành công. Trong tương lai gần, phụ nữ nên chủng ngừa để tránh nhiễm siêu vi trùng HPV cổ tử cung và hy vọng bệnh ung thư cổ tử cung sẽ trở thành bệnh hiếm thấy.
Kết luận
Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư thường gặp ở giới nữ. Trong khi cổ tử cung là một cơ quan dễ tiếp cận, do đó phát hiện sớm những tổn thương tiền ung là điều có thể làm được và cần thiết.
Tân sinh trong biểu mô là một tổn thương tiền ung. Nếu được phát hiện ở giai đoạn này, việc điều trị sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn, tiên lượng bệnh nhân cũng tốt hơn.
Trong số những phương tiện để chẩn đoán, thì phết tế bào cổ tử cung là một xét nghiệm đơn giản, ít tốn kém và khá hữu hiệu, có thể áp dụng rộng rãi và thích hợp cho các nước đang phát triển. |
Thanh Biện (zh. qīngbiàn 清辯, sa. bhāvaviveka, bhavya, ja. shōben) là Luận sư quan trọng của Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống khoảng giữa 490 và 570. Sư sinh tại Nam Ấn Độ, theo học giáo lý của Long Thụ (sa. nāgārjuna) tại Ma-kiệt-đà (sa. magadha). Sau đó Sư trở về quê hương và trở thành một luận sư danh tiếng. Trong các tác phẩm được dịch ra chữ Hán và chữ Tây Tạng (phần lớn của nguyên bản Phạn ngữ đã thất truyền), Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) là đối tượng bị Sư chỉ trích. Là người sáng lập hệ phái Trung quán-Y tự khởi (zh. 中觀依自起, sa. mādhyamika-svātantrika, cũng được gọi là Độc lập luận chứng phái 獨立論證派), một trong hai trường phái của Trung quán, Sư cũng đả kích Phật Hộ (sa. buddhapālita), người sáng lập hệ phái Trung quán-Cụ duyên (中 觀 具 緣; prāsaṅgika-mādhyamika) bằng một phương pháp suy luận biện chứng trên cơ sở nhân minh học (sa. hetuvidyā), Nhận thức học (sa. pramāṇavāda). Vào thế kỉ thứ 8, trường phái của Sư được Tịch Hộ (sa. śāntarakṣita) biến thành phái Trung quán-Duy thức (sa. mādhyamika-yogācāra).
Tác phẩm
Các tác phẩm của Sư (trích):
Đại thừa chưởng trân luận (sa. mahāyānatālaratnaśāstra), Huyền Trang dịch;
Bát-nhã đăng luận thích (sa. prajñāpradīpa, cũng có tên prajñāpradīpa-mūlamadhyamaka-vṛtti), Ba-la-phả Mật-đa dịch;
Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
Trung quán tâm quang minh biện luận (sa. madhyamakahṛdayavṛttitarkajvālā), chú giải Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
Trung quán nhân duyên luận (sa. madhyamikapratītyasamutpāda-śāstra), Tạng ngữ;
Nhập trung quán đăng luận (sa. madhyamakāvatārapradīpa), Tạng ngữ;
Nhiếp trung quán nghĩa luận (sa. madhyamārtha-saṃgraha), còn bản Tạng ngữ và Phạn ngữ;
Dị bộ tông tinh thích (sa. nikāyabheda-vibhaṅgavyākhyāna), chỉ còn lưu lại trong Tạng ngữ, nói về các tông phái phật giáo sau khi Phật diệt độ đến thời Thanh Biện, rất giống Dị bộ tông luân luận (sa. samayabhedavyūhacakraśāstra) của Thế Hữu (vasumitra). |
Thiền sư Định Không (730-808) họ Nguyễn, sư người hương Cổ Pháp, thuộc dòng vọng tộc. Thiền sư là một trong 3 thiền sư thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, tu hành ở chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Cơ duyên và hành trạng
Khi tuổi đã nhiều, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền, nghe Thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, quy y đạo Phật. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sự dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.
Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Sư có làm bài tụng như sau:
{|valign=top
|Rồi Sư đọc kệ rằng:
Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp|valign=top |
Dịch thơ:Đất bày dâng pháp khíPhẩm chất thuần túy đồngChuẩn bị cho Phật Pháp hưng longĐặt tên là Cổ Pháp|}
Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông Thiện: Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.
Nói xong, sư cáo biệt rồi qua đời, thọ 79 tuổi. Năm đó là năm Mậu Tý, niên hiệu Đường Nguyên Hòa thứ ba (808).
Nguyên bản chữ Hán
Tham khảo
Thơ văn Lý-Trần, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977.
Thiền uyển tập anh, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1990.
Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh'', Nhà xuất bản TP HCM 1999.
Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt
Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán
Chú thích
Thiền sư Việt Nam
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
người Bắc Ninh |
Bài này viết về một nền văn minh cổ đại. Liên quan đến thành La Mã cổ đại, vui lòng xem Trung tâm lịch sử thành Roma.
La Mã cổ đại là nền văn minh La Mã bắt đầu từ sự kiện thành lập thành phố Rome vào thế kỷ thứ ́8 TCN cho tới sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào thế kỷ thứ 5 CN, bao gồm các thời kỳ Vương quốc La Mã, Cộng hoà La Mã và Đế quốc La Mã cho tới khi đế quốc Tây La Mã sụp đổ. Thuật ngữ này đôi khi chỉ được sử dụng để nhắc đến các thời kỳ vương quốc và cộng hòa, ngoài ra không bao gồm thời kỳ đế quốc tiếp sau.
Nền văn minh này bắt đầu khi một khu định cư của người Italici ở bán đảo Italia, có niên đại vào thế kỷ thứ 8 TCN, đã phát triển tạo nên thành phố Rome và sau đó tên gọi của nó được đặt cho toàn bộ đế quốc mà nó cai trị và cho nền văn minh phổ biến được đế quốc khuếch trương. Đế quốc La Mã đã bành trướng để trở thành một trong những đế quốc lớn nhất trong thế giới cổ đại, mặc dù vẫn được cai trị từ thành phố Rome, cùng với dân số được ước tính là từ 50 tới 90 triệu người (khoảng gần 20% dân số thế giới) và bao phủ 5 triệu kilomet vuông tại thời điểm đỉnh cao của nó vào năm 117 CN.
Trong nhiều thế kỷ tồn tại của mình, nhà nước La Mã đã phát triển từ một nền quân chủ thành một nền Cộng hòa cổ điển và sau đó thành một đế quốc ngày càng chuyên chế. Thông qua việc chinh phục và đồng hóa, nó cuối cùng đã thống trị khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi, và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu. Nó thường được xếp vào thời kỳ Cổ đại cổ điển cùng với Hy Lạp cổ đại, và những nền văn hóa và xã hội tương tự của họ được biết đến như là thế giới Hy Lạp-La Mã.
Nền văn minh La Mã cổ đại đã góp phần tạo nên chính quyền, luật pháp, chính trị, kỹ nghệ, nghệ thuật, văn chương, kiến trúc, công nghệ, chiến tranh, tôn giáo, ngôn ngữ, và xã hội hiện đại. Rome đã chuyên nghiệp hóa và mở rộng quân đội của mình và tạo ra một hệ thống chính quyền gọi là res publica, đây cũng là nguồn cảm hứng cho các nền cộng hòa hiện đại như là Hoa Kỳ và Pháp. Nó đã đạt được những thành tựu ấn tượng về công nghệ và kiến trúc, như là xây dựng một hệ thống cống dẫn nước và đường sá rộng lớn, cũng như xây dựng các tượng đài, cung điện, và các công trình công cộng lớn.
Vào cuối thời kỳ Cộng hòa (27 TCN), Rome đã chinh phục các vùng đất xung quanh khu vực Địa Trung Hải và xa hơn nữa: Lãnh thổ của nó kéo dài từ Đại Tây Dương tới Ả rập và từ cửa sông Rhine tới Bắc Phi. Đế quốc La Mã đã nổi lên cùng với sự kết thúc của nền Cộng hòa và chế độ độc tài của Augustus Caesar. Các cuộc Chiến tranh La Mã-Ba Tư kéo dài 721 năm đã bắt đầu vào năm 92 TCN cùng với cuộc chiến tranh đầu tiên của họ chống lại Parthia. Nó sẽ trở thành cuộc xung đột kéo dài lâu nhất trong lịch sử nhân loại, và gây ra những hậu quả và tác động lâu dài đối với cả hai đế quốc. Dưới thời Trajan, đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó. Những truyền thống và tục lệ của chế độ Cộng hòa đã bắt đầu suy tàn trong thời kỳ đế quốc, cùng với đó những cuộc nội chiến đã trở thành một sự kiện mở đầu thông thường đối với sự trỗi dậy của một hoàng đế mới. Những quốc gia ly khai chẳng hạn như đế quốc Palmyra sẽ tạm thời chia cắt đế quốc trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ 3.
Do những bất ổn nội bộ và bị tấn công bởi nhiều dân tộc di cư, phần phía Tây của đế quốc đã tan vỡ thành những vương quốc độc lập của "người rợ" vào thế kỷ thứ 5 TCN. Sự tan rã này là một cột mốc được các nhà sử học sử dụng để tách biệt thời kỳ cổ đại của lịch sử thế giới khỏi "Kỷ nguyên Tăm Tối" tiền Trung Cổ của Châu Âu. Phần phía đông của đế quốc đã tồn tại qua được thế kỷ thứ 5 và vẫn còn là một cường quốc trong suốt "Kỷ nguyên Tăm Tối" và thời kỳ Trung Cổ cho đến khi nó bị sụp đổ vào năm 1453 CN. Mặc dù các cư dân của đế quốc này không tạo nên sự khác biệt nào, đế quốc này đa phần thường được nhắc đến như là "Đế quốc Byzantine" trong thời kỳ Trung Cổ bởi các sử gia hiện đại để phân biệt giữa quốc gia cổ đại và quốc gia mà nó đã phát triển thành.
Lịch sử
Thời kì Vương chính
Thành phố Roma phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, xấp xỉ mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên dòng sông Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua sông. Do dòng sông và chỗ cạn, Roma ở vị trí quyết định đối với giao thông và buôn bán.
Trong truyền thuyết của người La Mã, Roma được xây dựng bởi Romulus vào ngày 21 tháng 4 năm 753 TCN. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên của thành Roma, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Roma mà người cuối cùng là Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 TCN khi La Mã Cộng hoà được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin Kiêu hãnh).
Thời kì Cộng hoà
Cộng hòa La Mã được thành lập vào năm 509 TCN, theo những tác giả về sau như Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quan chức hành chính địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên lão cứ lớn lên về quy mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quý tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người bình dân.
Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros là Pyrros vào năm 282 TCN.
Trong nửa sau của thế kỷ thứ III TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỷ thứ II TCN, người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải.
Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ.
Vào giữa thế kỷ I TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự.
Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN.
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định là Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius, Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius. Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc). Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông.
Thời kì Đế quốc
Trong thời kì Đế quốc, biên giới đế chế tương đối ổn định vì người La Mã đã chế ngự được các cuộc nổi dậy, những kẻ lăm le quyền lợi đế quốc, những cuộc xâm lược của những "người man rợ" (barbarian) và những khó khăn khác. Để đối phó tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, các hoàng đế bắt đầu chỉ định các vị đồng hoàng đế (co-emperor), mặc dù điều này thường dẫn đến nội chiến. Sau năm 395 đế chế đã bắt đầu tách thành hai phần đông và tây.
Sụp đổ
Trong Đế quốc La Mã, từ "người man di" chỉ bất cứ ai không phải là một công dân La Mã, và được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh hưởng của nền văn hoá Roma. Năm 476, đế quốc Tây La Mã đã sụp đổ bởi sự tấn công của các bộ tộc man di.
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược của các bộ tộc man di (barbarian) do sự suy thoái, mất tinh thần chiến đấu của người dân. Sau một thời gian dài sống trong hòa bình, người dân La Mã đã trở nên lười biếng và uỷ mị, họ giao phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh thuê người man di. Vai trò của lực lượng quân đội người man di trở nên dày đặc và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những người La Mã, Gibbon nói, đã trở thành "ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân sự".
Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của Roma. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh cho đế chế. Thêm nữa, sự nổi lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế chế Byzantine ở Phương Đông. Tuy nhiên, mọi người điều đồng ý rằng sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã rất phức tạp không chỉ có một nguyên nhân.
Các nhà sử học ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau cho sự sụp đổ của đế chế phía tây: việc nhiễm độc chì tại các thùng rượu, bệnh dịch, sự mục nát chính trị, văn hóa đô thị không còn sức sáng tạo, và việc dịch chuyển nghĩa vụ quân sự cho người nước ngoài và người ở ven đế quốc.
Xã hội
Cuộc sống của các cư dân La Mã cổ đại được xác định quanh các thành phố như thành phố Roma. Thành phố có một số lượng khổng lồ các công trình xây dựng như là Colosseum, quảng trường của hoàng đế Trajan và đền thờ các vị thần (Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi nước uống tươi mát được cung cấp thường xuyên bởi những hệ thống dẫn nước dài hàng trăm dặm, các rạp hát, khu thể thao lớn, tổ hợp các phòng tắm phức hợp với thư viện và khu mua sắm, khu chợ lớn, cùng với các khu vực sản xuất hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã, các kiến trúc về nhà ở rất đa dạng, từ những căn nhà đơn giản cho đến các biệt thự quý tộc. Bên trong thủ đô Roma của La Mã cổ đại, là nơi ở của hoàng đế nằm ở trên ngọn đồi thoáng mát, Palatene, có lẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớp cư dân từ trung xuống thấp, sống trong thành phố thì sống trong những căn hộ nhiều người, trông giống như nhiều khu dân cư thời hiện nay.
Người La Mã xây dựng các đường ống dẫn nước hầu hết khắp nơi trong lãnh thổ của mình, từ những vùng đất của người Đức ngày nay cho đến Bắc Phi, đặc biệt là ở thành Roma, với các đường dẫn nước dài tổng cộng 415 km. Với việc xây dựng các hệ thống cầu dẫn nước như Pont du Gard, Cầu máng Segovia, người La Mã cũng đã thiết lập nên 1 nền tảng kỹ thuật mà hơn 1000 năm sau vẫn chưa ai vượt qua được.
Chính phủ
Thời kỳ đầu, Roma được điều hành bởi các vị vua được bầu chọn. Các yêu cầu về năng lực của vua chưa được rõ ràng; ông ta có thể nắm giữ quyền lực gần như độc đoán, hoặc chỉ đơn thuần như một thủ tướng của nghị viện và dân tộc. Ít nhất trong lực lượng quân đội, quyền uy của nhà vua là tuyệt đối. Hơn nữa, vua cũng là lãnh tụ tôn giáo. Để tăng thêm quyền lực của vua, có ba bộ phận hành chính: Nghị viện là nơi tham vấn chính cho vua; Hội đồng Curiata có thể ủng hộ và phê chuẩn các luật lệ mà vua đề xuất; Hội đồng Calata là tập hợp các lãnh đạo tôn giáo của dân chúng nhằm chứng thực hành động đúng, lắng nghe thông cáo và biểu thị sự hăng hái và lên kế hoạch cho ngày hội của tháng tiếp theo.
Sự cạnh tranh quyền lực của nền cộng hòa La Mã thể hiện một cách cai trị đặc sắc của một thể chế chính trị dân chủ. Truyền thống pháp luật La Mã chỉ được thông qua bởi sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân (Hội đồng Tributa). Tương tự vậy, ứng cử viên cho chức vụ công thì phải thực hiện bầu cử của dân chúng. Tuy nhiên, Nghị viện La Mã được xem như là nơi tập trung cao nhất của quyền lực, tập hợp các cố vấn chính. Nền Cộng hòa La Mã nắm giữ quyền lực to lớn (auctoritas), nhưng thực tế lại không có quyền làm luật; nó được hiểu như là một nhóm cố vấn. Tuy nhiên, giống Nghị viện, bản thân các nghị viên là những cá nhân rất có thế lực, gây khó khăn rất lớn cho các quyết định chung của Nghị viện. Một nghị viên mới phải được chọn trong rất nhiều gia đình quyền thế bởi nhân viên kiểm duyệt (censura), người mà có quyền loại bỏ một nghị viên khỏi Nghị viện, nếu phát hiện thấy nghị viên nào có biểu hiện "mất phẩm chất"; lý do để thay đổi có thể bao gồm cả tội hối lộ (đút lót), hay theo như luật dưới thời Cato Già thì một nghị sĩ bị buộc phải sa thải khi ôm vợ người khác ở chốn công đường.
Luật pháp
Nguồn gốc của điều cơ bản luật pháp và thực tiễn của La Mã có thể chỉ ra luật của 12 chương mục (từ 449 TCN) cho đến những luật lệ của Hoàng đế Justinian I (khoảng 530). Luật pháp của La Mã như là các luật lệ của Justinian, bởi vì nó là cơ sở lý luận và thực tiễn trong thời kỳ Đế chế Byzantine và trong lục địa Tây Âu, và được tiếp tục ở các thời kỳ về sau, cho đến tận thời kỳ thế kỷ XVIII của rất nhiều quốc gia.
Luật pháp của La Mã gồm 3 phần chính:
Ius Civile, hay "công luật", áp dụng cho tất cả công dân La Mã và chức vị Praetor Urbanus có trách nhiệm áp dụng luật này,
Ius Gentium, hay "luật quốc tế", áp dụng cho tất cả các người ngoại quốc trong các trường hợp họ tiếp xúc với các công dân La Mã và chức vị Praetor Peregrinus có trách nhiệm áp dụng luật này, và
Ius Naturale, hay "luật tự nhiên", bao gồm tất cả các luật trong tự nhiên và được xem như áp dụng cho tất cả mọi người.
Kinh tế
Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế La Mã đã sáp nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang.
Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng vào mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài chục lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí nghiệp lên đến hàng trăm người.
Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ khởi đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu.
Gia đình
Đơn vị cơ bản của xã hội La Mã là các "tiểu lâu đài" (household) và gia đình (familiy). Tiểu lâu đài bao gồm người đứng đầu, cha (người cha của gia đình), mẹ, các trẻ em, và những người có quan hệ khác. Ở tầng lớp cao hơn, thì nô lệ và đầy tớ luôn luôn là bộ phận của "tiểu lâu đài". Người đứng đầu tiểu lâu đài có một quyền lực rất lớn với những người sống cùng với ông ta: ông ta có thể quyết định cưới hay tách ly (ly hôn), bán trẻ làm nô lệ, yêu sách về tài sản, có quyền định đoạt cuộc sống của thành viên dưới quyền.
Patria potestas là một khái niệm mở rộng với những người đàn ông (con trai trưởng thành) đối với lâu đài của ông ta sinh sống. Người con gái, bắt buộc phải chịu sự điều hành và cai quản của gia đình bên chồng mình.
Tập hợp của các tiểu lâu đài có liên hệ tạo nên một gia đình (gens). Gia đình luôn là nền tảng trên quan hệ huyết thống (hoặc con nuôi được thừa nhận), nhưng thực chất chính là liên minh về quản trị và kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ Cộng Hòa Roman, có một số gia đình siêu quyền thế, thường tham gia vào công việc chính trị của đế chế.
Dưới thời La Mã việc sử dụng các đám cưới được xem trọng như một hình thức củng cố hoặc tìm kiếm mối liên kết về đồng minh hơn là sự lãng mạn của tình yêu, đặc biệt đối với giai cấp quyền thế. Người cha luôn có ý tìm chồng cho con gái của mình khi cô con gái bước vào tuổi từ 12 đến 14 tuổi. Người chồng luôn được gặp gỡ thường xuyên với cô dâu trước ngày cưới. Trong khi, những người con gái của gia đình quyền thế có xu hướng lấy chồng sớm, thì con gái của tầng lớp dưới thường kết hôn muộn hơn.
Các tầng lớp
Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quý tộc và người bình dân. Quý tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào các chức vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quý tộc chỉ có thể được thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những đấu tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc gần như bình đẳng.
Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quý tộc và người bình dân bắt đầu mất đi ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng.
Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có cả người cưỡi ngựa là quý tộc và người bình dân. Sau này nước Cộng hoà đã cố định lượng tài sản được thay bằng quân trang như cơ sở của sự phân chia giai cấp. Những tầng lớp trên có nhiều quyền lực và uy tín chính trị hơn những tầng lớp dưới. Hệ thống này cũng mất đi ý nghĩa của nó sau sự bãi bỏ của nền Cộng hoà.
Cưới xin
Đối với tầng lớp thượng lưu La Mã, người cha thường bắt đầu tìm người chồng cho con gái của mình khi con gái họ vào khoảng 12-14 tuổi. Người chồng có thể lớn hơn cô dâu khoảng hai tuổi hay thậm chí gấp ba lần tuổi cô ta. Thường là các cô không hoặc ít phản đối - mặc dù có bằng chứng rằng một số cô gái có quyền chọn chồng cho mình (con gái và vợ Cicero tự ý tìm chồng cho cô). Trong khi tầng lớp thượng lưu cưới lúc còn rất trẻ, có bằng chứng cho thấy phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu - thường cưới muộn hơn vào khoảng độ tuổi mười mấy, đầu hai mươi. Cưới xin đối với họ không mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và chính trị trong thế giới chính trị La Mã cắt cổ, vì thế không việc gì phải vội.
Bạn bè và gia đình tham dự lễ dạm hỏi trước lễ cưới. Tại buổi lễ này người cha được hỏi liệu ông có hứa gả con gái mình ("cô dâu") và thường thì phải trả lời là có. Cô dâu tương lai sau đó sẽ được nhận các món quà cưới trong đó có một chiếc nhẫn để đeo vào ngón giữa, mà nhiều người tin rằng tại đấy có dây thần kinh nối thẳng với tim.
Giáo dục
Mục tiêu của nền giáo dục ở Roma là làm cho các học sinh trở thành những nhà hùng biện có ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên, do chi phí khá cao so với mặt bằng thu nhập nên thường thì chỉ có các gia đình quý tộc hoặc giàu có mới đủ điều kiện cho con tới trường học. Những gia đình nghèo không có đủ tiền thì con cái của họ phải tự học ở nhà, còn con cái của nô lệ thì không có quyền tới trường.
Trường học khai giảng vào ngày 24 tháng 3 hằng năm. Mỗi ngày học bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài đến hết buổi chiều. Thông thường, những đứa trẻ được dạy đọc và viết bởi cha của chúng. Về sau, khoảng 200 năm TCN, những đứa bé trai và gái được gửi đến trường khi chúng được khoảng 6 tuổi. Nền giáo dục cơ bản của Roma bao gồm đọc, viết, và đếm, và những vật dụng bao gồm những cuộn giấy da và sách. Ở tuổi 13, học sinh học về văn học Hi Lạp và La Mã và cả phần ngữ pháp. Ở tuổi 16, một số học sinh vào học ở trường hùng biện. Những người nghèo hơn thương được dạy ở nhà bởi người cha bởi vì trường học không phải là miễn phí.
Sức khỏe
Đa số người La Mã tắm tại các nhà tắm công cộng hay nhà tắm tư hằng ngày, không chỉ vì sạch sẽ mà còn vì lý do xã hội.
Kinh tế
Nền kinh tế thời kì đầu phụ thuộc vào lực lượng lao động nô lệ, và nô lệ chiếm khoảng 20 phần trăm dân số. Giá của 1 nô lệ phụ thuộc vào kĩ năng của họ, và một nô lệ có huấn luyện y khoa tương đương với 50 nô lệ làm nông nghiệp. Vào các thời kỳ sau, việc thuê sức lao động trở nên kinh tế hơn là sở hữu nô lệ.
Tài chính
Mặc dù việc đổi hàng lấy hàng là thông dụng (và thường được sử dụng trong việc thu thuế) hệ thống tiền tệ đã phát triển ở mức độ cao, với tiền xu bằng đồng thau, đồng thiếc và kim loại quý được lưu thông xuyên suốt đế chế và ra ngoài biên giới (một vài đồng đã được phát hiện ở Ấn Độ).
Buôn bán
Ngựa thì quá đắt, và những súc vật thồ khác thì quá chậm cho buôn bán lớn trên những con đường của người La Mã dùng để nối giữa những bốt quân sự hơn là chợ và hiếm khi được thiết kế để dùng bánh xe. Do đó có rất ít vận chuyển hàng hoá giữa các vùng của La Mã, cho đến sự nổi lên của nền buôn bán bằng đường thủy của người La Mã vào thế kỷ thứ II TCN. Nền buôn bán nông nghiệp tự do đã thay đổi cảnh quan của Ý, và đến thế kỷ I TCN những điền trang nho và oliu rộng lớn đã thế chỗ những nông dân tiểu canh, những người đã không thể địch được với giá ngũ cốc nhập khẩu. Khối lượng buôn bán lớn đến nỗi chỉ một đụn những đồ chứa bằng gốm chưa hoàn tất đã cao tới hơn 40 mét và có chu vi tới 1 kilômét.
Văn hóa
Roma đã sản sinh ra nhiều nhà văn và nhà viết kịch. Rất nhiều tác phẩm văn học viết bởi các tác giả Roma trong thời kì đầu của nền Cộng hoà có tính chất chính trị hoặc trào phúng. Đặc biệt những kết cấu tu từ của Cicero rất được ưa chuộng. Một vài trong số những vở kịch được ưa thích nhất ở thời kì đầu của nền Cộng hoà là những vở hài kịch, đặc biệt là những vở của Terence, một nô lệ La Mã đã được trả tự do bị bắt trong cuộc chiến Punic thứ nhất.
Kĩ thuật
Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kĩ thuật cho sự phát triển của nền văn minh thế giới:
1. Chế tạo thủy tinh (khoảng thế kỉ đầu trước công nguyên)
2. Sử dụng chì
3. Khai thác than
4. Chế tạo xi-măng.
Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng nước nhằm lợi dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm.
Nhân khẩu học
Dân số từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ I CN.
Chú thích |
Bóng đá tại Việt Nam do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) điều hành. Liên đoàn quản lý các đội tuyển bóng đá Quốc gia Việt Nam bao gồm các đội tuyển nam và đội tuyển nữ. Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm về các giải bóng đá quốc gia bao gồm cả V.League 1, giải bóng đá vô địch quốc gia chuyên nghiệp hàng đầu của Việt Nam.
Bóng đá theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam vào năm 1896 dưới thời Pháp thuộc. Đầu tiên, bộ môn thể thao này phát triển ở xứ thuộc địa trực trị của Pháp là Nam Kỳ (miền Nam ngày nay), sau đó thì dần dần lan ra Bắc Kỳ (miền Bắc ngày nay) và Trung Kỳ (miền Trung ngày nay).
Khi Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự ở miền Bắc và miền Nam từ năm 1954 đến năm 1976, hai đội tuyển quốc gia đã tồn tại song song: đội tuyển Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) và đội tuyển Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (miền Nam). Đội tuyển miền Bắc Việt Nam không hoạt động nhiều, hầu như chỉ thi đấu ở các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1966, trong khi đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đã tham dự hai vòng chung kết Asian Cup đầu tiên và đều cán đích ở vị trí thứ tư khi giải chỉ có 4 đội tham dự.
Bóng đá hiện là môn thể thao phổ biến nhất ở Việt Nam. Giải đấu thường niên V.League 1 diễn ra hàng năm kể từ năm 1980 (trừ các năm 1988 và 1999).
Lịch sử
1896–1954: Giai đoạn khởi đầu và phát triển của bóng đá Việt Nam
Tại Nam Kỳ
Những người chơi bóng đầu tiên ở Sài Gòn là những công chức, thương gia hay binh lính người Pháp vào năm 1896, sau đó một số ít người Việt cũng bắt đầu tham gia. Họ tập hợp thành một câu lạc bộ, lấy tên là Cercle Sportif Saigonnais (tiếng Việt: Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn; nay là Cung Văn hóa Lao động Thành phố Hồ Chí Minh). Quả bóng bầu dục xuất hiện lúc đầu được thay hẳn bằng bóng tròn; sân chơi là công viên thành phố, còn gọi là Jardin de la Ville, nay là Công viên Tao Đàn.
Năm 1905, đội bóng của chiến hạm Anh mang tên King Alfred ghé thăm Sài Gòn, và đã đấu giao hữu với một đội gồm những cầu thủ người Pháp và Việt. Đây được coi là trận bóng quốc tế đầu tiên tại Việt Nam.
Năm 1906, E. Breton, một Ủy viên Pháp trong Hội Liên hiệp Thể thao Pháp (tiếng Pháp: L'Union des Sociétés Francaises des Sports Athlétiques) đem luật bóng đá sang Việt Nam phổ biến, và trong vai trò hội trưởng, ông đã chấn chỉnh lại Cercle Sportif Saigonnais theo cách tổ chức của các câu lạc bộ bóng đá bên Pháp. Nhiều câu lạc bộ khác theo đó thành lập và hoạt động như: Infanterie, Saigon Sport, Athletic Club, Stade Militaire, Taberd Club... Các giải bóng đá cũng bắt đầu được tổ chức từ đó. Đội Cercle Sportif Saigonnais do được tổ chức, huấn luyện chuẩn mực nên đã liên tiếp thắng những mùa giải trong các năm 1907, 1909, 1910, 1911, 1912, 1916...
Nhiều người Việt nắm được luật và kỹ thuật bóng đá nên tự lập đội bóng của mình. Hai đội bóng Việt Nam đầu tiên thành lập năm 1907 là Gia Định Sport (Giadinh Sport) do các ông Ba Vẻ, Phú Khai dẫn dắt và đội thứ hai là Ngôi sao Xanh (Étoile Bleue) của ông huyện Nguyễn Đình Trị, về sau hợp nhất lại thành đội Ngôi sao Gia Định (Étoile de Giadinh). Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ Lục tỉnh tân văn đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ Việt diễn ra. Trước năm 1920, đội Ngôi sao Gia Định đã thắng tất cả các đội bóng kể cả đội Cercle Sportif Saigonnais của ông Breton (1917), giành Cúp vô địch.
Ngoài ra còn có các đội như: Victoria Sportive, Commerce Sport, Jean Comte, Sport Cholonaise, Khánh Hội Sport, Tân Định Sport, Gò Vấp, Hiệp Hoà, Chợ Quán, Phú Nhuận, Đồng Nai, Enfants de Troupe...; ở các tỉnh thì có những đội Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Châu Đốc, Mỹ Tho...
Sân bãi cũng được phát triển thêm như sân Citadelle (tức sân Hoa Lư), sân Renault (tức Sân vận động Thống Nhất); sân Fourières (ở Bà Chiểu, gần lăng Lê Văn Duyệt), sân Mayer (góc đường Võ Thị Sáu - Trần Quốc Thảo), sân Marine (ở gần Trung tâm Mắt Thành phố Sài Gòn)...
Sau đó, giới hâm mộ và những nhà dẫn dắt hợp tác thành lập một Tổng cuộc Bóng đá riêng cho người Việt, bầu ông Nguyễn Đình Trị làm Trưởng ban Trị sự, và mua đất làm sân riêng. Lúc ấy đã có một Tổng cuộc Bóng đá do người Pháp chủ trì, nên việc hợp tác giữa hai Tổng cuộc không thể thực hiện, nhưng hai bên vẫn hợp tác tổ chức những cuộc thi đấu, như giải Vô địch Nam Kỳ. Trong trận đấu giữa Cercle Sportif Saigonnais và Ngôi sao Gia Định năm 1925 trên sân vân động Saigon Pérstips Córble, một trọng tài người Pháp đã đuổi cầu thủ Paul Thi ra khỏi sân, khiến cầu thủ này của đội Ngôi sao Gia Định bị treo giò vĩnh viễn làm cho việc hợp tác thêm khó khăn. Giải Vô địch Nam Kỳ bị gián đoạn trong nhiều năm và bắt đầu lại năm 1932, với 6 đội người Việt và 3 đội người Pháp.
Giai đoạn 1925-1935, đội Ngôi sao Gia Định được biết đến với nhiều danh thủ như: Sách, Thơm, Nhiều, Quý, Tịnh, Xường, Trung, Thi, Tư Bá, Gia Vi, Mùi, Tiếc, Rớt, Xơi, Cọp, Tài, Út, Danh, Giỏi, Quang, Sớm,... Trong thời gian này, có khoảng 29 giải bóng đá đủ loại được tổ chức, đội Ngôi sao Gia Định đăng quang 8 lần, số còn lại chia đều cho các đội Victoria, Khánh Hội, Cercle Sportif Saigonnais, Jean Comte, Auto - Hall (Nam), Commerce Sport, Thủ Dầu Một, Biên Hòa...
Giai đoạn 1945-1954, đội Ngôi sao Gia Định có thêm những cầu thủ như: Maurice Tài, Cón, Lý Đức, Dương Văn Quới (Trụ Đồng), Hiếu, Thọ Hai, Tư (Mũi tên Vàng Đông Dương), Dương Bạch Mai, Mỹ (Cọp Đông Nam Á), Đỗ Quang Thách (thuật sỹ bóng đá), Thọ Ve, Bùi Nghẻn, Khê, Đặng Khải,...
Vào năm 1928, một đội bóng từ Việt Nam được cử đi du đấu ở Singapore.[2] Ngoài các giải, cúp được tổ chức tại Sài Gòn và ở các tỉnh, Tổng cuộc Bóng đá An Nam còn tổ chức tiếp đón những đội bóng nước ngoài và cử đội tuyển đi thi đấu tại Thái Lan, Campuchia, Malaysia,...
Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ
Bóng đá xuất hiện ở Bắc Kỳ vào khoảng năm 1906-1907. Báo thời đó đề cập năm 1909, hai đội Lê Dương Đáp Cầu (Legion Đáp Cầu) và Olympique Hải Phòng đã thi đấu với nhau. Trận đầu đội Olympique Hải Phòng thắng 2-1 nhưng ở lần sau đội Lê Dương Đáp Cầu đã thắng lại đội Olympique Hải Phòng 8-1 trên sân vận động Hải Phòng.
Tại Hà Nội, tháng 2 năm 1912, Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (Stade Hanoien) ra đời, gồm các cầu thủ người Việt và một số người Pháp như Menin, Megy, Bernard, Bonardi... Còn về phía quân đội Pháp thì có các đội như Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa (Régiment d'Infanterie Coloniale, RIC), Ngôi Sao Xanh (Étoile Bleue), Lê Dương Đáp Cầu, Lê Dương Việt Trì... Ngày 1 tháng 11 năm 1913, đội Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội đá với Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa, kết quả đội bộ binh Pháp thắng 5-3.
Những năm 1910-1920, các đội bóng ở Bắc Kỳ phát triển nhưng các trận đấu thường diễn ra ở các bãi trống, như các ngã ba, ngã tư phố vắng... Về sau, đội Chớp Nhoáng (Eclair) và Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội mới hợp tác lập ra sân Nhà Dầu (gần cầu Long Biên). Còn sân Manzin (nay là sân Cột Cờ) do Quân đội Pháp quản lý và dùng cho các giải đấu chính thức.
Giai đoạn 1930-1940, Hà Nội có các đội bóng như: Chớp Nhoáng (do Trần Văn Quý đứng đầu), Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội, Racing Club, Lạc Long Ngọn giáo (La Lance), Hoả Xa (Usaga), Trường Bưởi (Chu Văn An hiện nay), Đại học (Université Club), Ngân hàng, Ô-tô Han (Auto Hall). Hải Phòng có các đội Voi vàng Đất cảng, Olympique Hải Phòng, Mũi Tên (La Flèche), Radium (Trung học), Thanh niên Bắc Kỳ (La Jeunesse Tonkinoise). Nam Định có đội Hồng Bàng; Phủ Lý có đội Phủ Lý Thể thao; Lạng Sơn có đội Le Semeur.
Miền Trung Việt Nam có các đội như ASNA (Vinh); Sept (Huế); Touranne (Đà Nẵng) và Faifo (Hội An).
1954–1976: Giai đoạn chia cắt của bóng đá hai miền Việt Nam
Việt Nam có đội tuyển bóng đá cấp quốc gia đầu tiên vào năm 1947 dưới danh nghĩa là Quốc gia Việt Nam. Cho đến năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, phong trào bóng đá ở cả hai miền mới được phục hồi và phát triển trở lại nhưng bị chia cắt thành 2 vùng tập kết quân sự, bóng đá 2 miền từ đó cũng bị chia cắt cho đến 1976.
Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có giải vô địch bóng đá quốc gia với tên gọi giải Hòa Bình do Nha Thể dục Trung ương tổ chức. Ngay từ khi bắt đầu, giải đấu đã có 2 hạng gồm A và B. Từ 1956, giải có tên chính thức là giải bóng đá Hạng A toàn quốc..
Năm 1961, Hội Bóng Đá Việt Nam (VFA), tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam được thành lập. Giải được tổ chức liên tục đến năm 1975 bất chấp tình trạng đất nước chiến tranh. Tính tới hết mùa giải 1976, Thể Công và Công an Hải Phòng là hai đội thành công nhất với 10 chức vô địch mỗi đội, xen giữa là 2 chức vô địch duy nhất của Công an Hà Nội năm 1962 và 1964. Theo lời kể của Tổng thư ký VFF Trần Bảy, có những trận bóng ở miền Bắc phải tổ chức ở miệng hầm và cạnh hố bom. Nhiều lúc cầu thủ đang thi đấu thì máy bay đến ném bom, có những trận đấu dang dở đến 5, 7 lần và có những trận cầu thủ hai bên đá mãi vẫn chưa đủ 90 phút theo luật FIFA. Thậm chí, có trận đấu đá được 80 phút nhưng có sự cố làm gián đoạn thì kết quả đến phút 80 được công nhận.
Ở miền Nam cũng có hệ thống giải đấu quốc nội riêng song song với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bắt đầu từ năm 1961 đến 1975. Theo các thống kê quốc tế, giải đấu ở miền Nam được ghi nhận đã tổ chức được 3 mùa giải. Bóng đá nội địa ở miền Nam không phát triển bằng miền Bắc khi riêng số đội bóng ở Hà Nội (7 câu lạc bộ) đã nhiều hơn toàn bộ số đội bóng ở miền Nam (5 câu lạc bộ). Thậm chí tại Hải Phòng có tới 10 câu lạc bộ hoạt động cùng lúc ở các hạng đấu khác nhau. Do số lượng đội bóng ít nên giải quốc nội ở miền Nam không có sự phân hạng như ở miền Bắc.
Miền Bắc Việt Nam
Tại miền Bắc Việt Nam, giải vô địch quốc gia mang tên Hòa Bình bắt đầu được tổ chức vào năm 1955. Thể Công là câu lạc bộ đầu tiên vô địch giải đấu. Từ 1956, giải có tên chính thức là giải bóng đá Hạng A miền Bắc. Giai đoạn 1976-1979, sau khi đất nước thống nhất, giải có tên chính thức là giải Hạng A Quốc gia. Giải đấu được tổ chức liên tục bất chấp tình trạng chiến tranh.
Đội bóng đá Thể Công, tiền thân của Câu lạc bộ bóng đá Viettel hiện nay, được Quân đội Nhân dân Việt Nam thành lập ngày 23 tháng 9 năm 1954 và là đội bóng thành công nhất giải Hạng A Quốc gia với 13 lần đoạt chức vô địch, trong đó có 9 chức vô địch liên tiếp giai đoạn 1971-1979. Câu lạc bộ Công an Hải Phòng, tiền thân của Câu lạc bộ Hải Phòng hiện nay, được thành lập năm 1952 là câu lạc bộ thành công thứ hai với 11 chức vô địch.
Năm 1960, đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (với thành phần bao gồm cầu thủ của Trường Huấn luyện quốc gia và đội Thể Công) được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc, Đức... đã thi đấu ở các giải GANEFO (Indonesia, 1963) và GANEFO Châu Á (Campuchia, 1966).
Những cầu thủ nổi tiếng của giai đoạn này gồm có: Thọ, Long, Phàn, Ngọc, Chính, Vinh, Từ Hiển, Trần Hùng (Hùng "xồm"), Khánh, Giáp, Thế Anh...
Miền Nam Việt Nam
Tại miền Nam Việt Nam, năm 1954, đội Ngôi sao Gia Định giải tán, nhóm cầu thủ về đầu quân cho đội AJS (Association de la Jeunesse Sportive) hoặc đội Cảnh Sát. Đội AJS, đội Cảnh Sát, đội Tổng Tham mưu (của Quân lực Việt Nam Cộng hòa) và đội Quan Thuế là bốn trong số các câu lạc bộ thống trị bóng đá miền Nam cho đến năm 1975.
Đội tuyển quốc gia Việt Nam Cộng hòa là một trong 4 đội lọt vào vòng chung kết giải vô địch châu Á năm 1960. Ngoài ra, đội từng đoạt huy chương vàng môn bóng đá tại SEAP Games 1959 và, dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên Karl-Heinz Weigang người Đức, đoạt Cúp Merdeka lần thứ 10 năm 1966. Sau khi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam kế tục một cách lâm thời cho đến khi tái thống nhất hòa bình với miền Bắc, trong đó có bóng đá trước khi đất nước Việt Nam thống nhất chính thức vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn 100 cầu thủ giỏi của miền Nam đã chọn cách ở lại để tiếp tục cống hiến với bóng đá. Không lâu sau đó, Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định đã quyết định tổ chức một hoạt động thể thao kỷ niệm 85 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 20 tháng 5 năm 1975. Ngay lập tức, ở Sài Gòn đã hình thành hơn chục đội bóng đá và qua sàng lọc đã xuất hiện 6 đội bóng mạnh như Hải quan, Ngân hàng, Cảng Sài Gòn, Công nhân hóa chất, Tổng cục Vật tư, Lương thực Thực phẩm. Ngày 2 tháng 9 năm 1975, nhân dịp Quốc khánh, Sở Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức trận giao hữu đầu tiên sau ngày thống nhất giữa hai đội Hải quan và Ngân hàng.
1976–1991: Giai đoạn bóng đá Việt Nam thống nhất và khó khăn
Ngày 7 tháng 11 năm 1976, trận đấu đầu tiên giữa một đội bóng miền Nam và một đội bóng miền Bắc diễn ra giữa hai đội Cảng Sài Gòn và Tổng cục Đường sắt, đặt dấu mốc cho sự thống nhất chính thức giữa bóng đá hai miền Nam - Bắc. Trong trận đấu này, Tổng cục Đường sắt thắng 2-0, với chiến thuật 4-3-3 đang thịnh hành tại Châu Âu khác với sơ đồ 4-2-4 phổ biến ở bóng đá miền Nam thập niên 60 vốn có nhiều trận đấu quốc tế hơn. Trong không khí cuồng nhiệt và thiêng liêng, 25.000 khán giả đã bật đứng dậy vỗ tay vang dội và hát bài "Như có Bác trong ngày đại thắng" khi hai đội bước ra sân thi đấu. Do thiếu chỗ ngồi nên nhiều khán giả đã tràn ra cả đường piste, những người không may mắn có vé vào sân phải nghe tường thuật qua sóng radio.
Sau khi đất nước thống nhất về mặt nhà nước vào năm 1976, các đội bóng được chia thi đấu theo khu vực: miền Bắc với giải Hồng Hà, miền Trung với giải Trường Sơn và miền Nam với giải Cửu Long. Các đội vô địch mỗi khu vực sẽ thi đấu tại Hà Nội để chọn đội vô địch, còn các đội đứng cuối sẽ gặp nhau để tìm đội xuống hạng. Tại mùa giải đầu tiên do Hội Bóng đá Việt Nam (tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam hiện nay) tổ chức vào năm 1980, thể thức thi đấu được xây dựng trên cơ sở kết quả mùa giải 1979 (giải phân hạng để sắp xếp lại hệ thống thi đấu), bao gồm 8 đội mạnh nhất của giải Hồng Hà, 2 đội của giải Trường Sơn và 8 đội của giải Cửu Long; các đội còn lại đá ở hạng A2. Đây chính là tiền đề để xây dựng Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam sau này.
Trong những năm 1976-1991, nền kinh tế - xã hội của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức khi vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải giải quyết các cuộc xung đột với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ở biên giới phía Bắc và quân Khmer Đỏ (Campuchia) ở biên giới Tây Nam, và vừa phải đương đầu với chế độ bao cấp yếu kém và lạc hậu. Sự phát triển của nền bóng đá Việt Nam vì thế cũng bị trì trệ trong giai đoạn này. Các câu lạc bộ phần lớn trong tình trạng thiếu thiếu thốn điều kiện hậu cần và cơ sở vật chất, phương tiện đi lại cũng rất khó khăn nhưng vẫn tham gia các giải quốc nội đầy đủ, khán giả vẫn đến sân cổ vũ nhiệt tình và tỷ lệ sân kín khán giả rất cao. Mặc dù các giải đấu trong nước vẫn diễn ra đều đặn nhưng đội tuyển quốc gia thời gian này lại không tham gia các giải đấu quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, bóng đá cấp câu lạc bộ vẫn có sự giao lưu trong nội bộ khối xã hội chủ nghĩa, đáng chú ý là Thể Công với vị trí thứ ba tại giải SKDA (giải đấu dành cho các đội bóng thuộc lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa) vào năm 1989.
Năm 1989, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc cải cách Đổi Mới mang tính cách mạng, một liên đoàn bóng đá mới được thành lập. Sau ba tháng chuẩn bị, tháng 8 năm 1989, Đại hội lần thứ nhất của liên đoàn bóng đá mới đã diễn ra tại Hà Nội, tuyên bố thành lập Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Trịnh Ngọc Chữ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, được bầu làm chủ tịch liên đoàn.
1991–nay: Giai đoạn bóng đá Việt Nam đổi mới và tái phát triển
Sau thống nhất, tới năm 1991, Việt Nam mới bắt đầu cử đội tuyển quốc gia đại diện cho môn bóng đá đi thi đấu quốc tế. Trận đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Việt Nam thống nhất là trận hòa 2–2 trước Philippines tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1991. Trong những năm 1990 và 2000, bóng đá ở Việt Nam không có nhiều thành công, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu sự đầu tư. Các vụ bê bối đã xảy ra, đặc biệt là vấn nạn dàn xếp tỉ số.
Mặc dù vậy, Việt Nam cũng đã có những lần gây chú ý, như tại AFC Asian Cup 2007 khi họ là đội chủ nhà duy nhất giành vé vào tứ kết. Một năm sau, Việt Nam vô địch AFF Cup 2008, đánh dấu một thời kỳ thành công của bóng đá Việt Nam. Sau đó là giai đoạn bóng đá Việt Nam sa sút mạnh mẽ, khi không thể lọt vào vòng chung kết 3 cúp châu Á liên tiếp và thất bại tại 4 kỳ AFF Cup tiếp theo. Trong khi đó, đội tuyển Olympic thi đấu không tốt ở các kỳ Á vận hội và Đông Nam Á vận hội. Mãi đến năm 2016, Việt Nam có hai đội bóng liên tiếp giành quyền tham gia hai giải đấu cấp thế giới, đó là Futsal World Cup 2016 (futsal) và U-20 World Cup 2017 (U-19).
Sau thất bại của U-22 Việt Nam tại SEA Games 29, bóng đá Việt Nam bắt đầu gặt hái những thành công vang dội, đặc biệt là từ khi Park Hang-seo làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia. Đầu năm 2018, đội tuyển bóng đá U-23 Việt Nam đã lập nên kỳ tích tại Giải vô địch U-23 châu Á 2018 khi giành huy chương bạc sau khi để thua Uzbekistan trong trận chung kết. Cùng năm đó, Thái Sơn Nam đã giành được huy chương bạc tại Giải vô địch bóng đá trong nhà các câu lạc bộ Futsal châu Á 2018 sau khi để thua Mes Sungun của Iran trong trận chung kết. Đội tuyển Olympic, với phần lớn các cầu thủ đã thi đấu tại Giải vô địch U-23 vào đầu năm, đã giành vị trí thứ tư của Đại hội Thể thao châu Á 2018 sau khi thua 1–3 trước Hàn Quốc trong trận bán kết và thua UAE ở loạt sút luân lưu trong trận tranh huy chương đồng. Ngày 15 tháng 12 năm 2018, đội tuyển quốc gia Việt Nam đã giành được chức vô địch AFF Suzuki Cup 2018 sau khi đánh bại Malaysia với tổng tỷ số 3–2, qua đó lần thứ hai lên ngôi vô địch Đông Nam Á sau năm 2008.
Với hầu hết các cầu thủ trẻ, Việt Nam đã tạo nên cơn sốt ở AFC Asian Cup 2019, khi đội tuyển quốc gia lọt vào tứ kết và bị đội á quân sau đó Nhật Bản đánh bại với tỷ số 0–1. Sau đó, tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Việt Nam đã giành được huy chương vàng đầu tiên ở môn bóng đá nam từ năm 1959.
Tại vòng loại thứ hai World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam vào bảng G cùng với ba đối thủ Đông Nam Á khác là Thái Lan, Malaysia và Indonesia bên cạnh Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Việt Nam kết thúc vòng loại thứ hai với 17 điểm, đứng thứ 2 sau UAE (18 điểm) và lần đầu tiên giành vé vào vòng loại thứ ba, cũng như tự động vượt qua vòng loại AFC Asian Cup 2023 với tư cách là một trong năm đội nhì có thành tích tốt nhất. Tại vòng loại thứ ba World Cup 2022 khu vực châu Á, Việt Nam nằm ở bảng B cùng Nhật Bản, Úc, Ả Rập Xê Út, Trung Quốc và Oman. Đội tuyển kết thúc vòng ba với 1 trận thắng, 1 trận hòa và 8 trận thua, giành được 4 điểm và đứng cuối bảng, không thể giành quyền tham dự vòng chung kết World Cup.
Đội tuyển futsal quốc gia Việt Nam lọt vào vòng chung kết FIFA Futsal World Cup 2021 và dừng chân tại vòng 16 đội khi để thua Nga với tỷ số 2–3, trở thành đại diện đầu tiên của bóng đá Việt Nam vượt qua 2 giải đấu liên tiếp do FIFA tổ chức.
Với việc là câu lạc bộ xếp thứ nhất tại V-League 2021, đã giành vé tham dự AFC Champions League 2022. Tại đây đã để thua 3 trận, hòa 2 trận và thắng 1 trận, qua đó dừng chân tại vòng bảng AFC Champions League 2022.
Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, Đội tuyển nữ Việt Nam và Đội tuyển U-23 Việt Nam đã bảo vệ thành công tấm huy chương vàng tại SEA Games 30 sau chiến thắng lần lượt trước Đội tuyển nữ Thái Lan và Đội tuyển U-23 Thái Lan cùng với tỉ số 1–0.
Bóng đá nữ
Sự xuất hiện của bóng đá nữ tại Việt Nam được đặt dấu mốc từ năm 1932 với việc thành lập đội bóng đá nữ Cái Vồn (Equipe Feminine de Cai-Von) - đội bóng đá nữ đầu tiên của Việt Nam và châu Á. Phan Khắc Sửu, một kỹ sư nông học, được sự đồng ý của Chính quyền Nam Kỳ và Tổng cục túc cầu đã đưa ra ý tưởng thành lập một đội bóng nữ và đã tập hợp được 30 nữ thanh niên gia nhập đội bóng, hầu hết đều xuất thân từ nghề làm nông. Thời điểm đó, việc vận động phụ nữ tham gia bóng đá là vô cùng khó khăn do những ràng buộc đạo đức phong kiến. Những cái tên nổi bật của đội Cái Vồn gồm có Mười Kén, Út Thôi, Hai Tỉnh, Ba Triệu, Út Lẹo..., trong đó xuất sắc nhất là trung phong người Pháp Marguerite, người sau đó được bầu làm đội trưởng.
Thời gian đầu, do chưa có các đối thủ đồng giới nên đội nữ Cái Vồn thường xuyên thi đấu với các đội bóng nam. Trận ra quân của đội gặp đội bóng đá nam trong làng Mỹ Thuận đã thu hút hàng ngàn người đến theo dõi; sân bóng (là một khu đất ruộng) đã không còn một chỗ trống. Sau trận đấu, Quận trưởng quận Trà Ôn đã xuống sân tặng 24 bộ đồng phục cầu thủ cùng 2.000 đồng tiền Đông Dương nhằm giúp đỡ đội phát triển mạnh hơn. Kể từ đó, đội được mời thi đấu ở hầu khắp các tỉnh miền Tây và có lúc lên đến Sài Gòn, tai những nơi có đội bóng đá nam thách đấu; số lượng người ủng hộ cho đội cũng mỗi lúc một tăng.
Sau thành công của đội bóng đầu tiên, một đội bóng nữ khác được thành lập ở Cần Thơ, lấy tên là đội Xóm Chài. Ngày 2 tháng 7 năm 1933 đánh dấu lần đầu tiên có một trận bóng giữa hai đội bóng đá nữ Cái Vồn và Xóm Chài. Vào ngày 30 tháng 7 năm 1933, đội nữ Cái Vồn đã cầm hòa 2–2 với đội nam Paul Bert (lúc đó là nhà vô địch giải hạng nhì ở Sài Gòn) trên sân Mayer và được coi là một kỳ tích. Sau đó, các nữ cầu thủ đã bắt đầu lập gia đình, và do không có lứa kế cận nên đến năm 1938 đội bóng chính thức tan rã. Cùng thời với đội nữ Cái Vồn còn có thêm đội Bà Trưng ở Rạch Giá - Long Xuyên rồi tiếp đến là các đội Huỳnh Ký, Thủ Dầu Một...
Một thời gian dài sau đó, bóng đá nữ Việt Nam gần như ngưng trệ và chỉ được khôi phục vào những năm 1984, trước tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Quốc Hùng, lúc đó đang là chủ nhiệm Câu lạc bộ bóng đá Lam Sơn đã đi đến việc thành lập đội bóng đá nữ của quận 5, sau này trở thành Trưởng phòng Thể dục Thể thao của quận.. Đầu những năm 1990, đến lượt đội bóng đã nữ Quận 1 được sáng lập bởi Trần Thanh Ngữ, trưởng phòng Thể dục Thể thao Quận 1; sân vận động Tao Đàn trở thành đại bản doanh của đội.. Sau khi đội bóng đá nữ Quận 5 giải thể, các cầu thủ chủ chốt của đội bóng này đã về đầu quân cho đội bóng nữ của ông Trần Thanh Ngữ tại quận 1.
Cùng thời điểm ở miền Bắc, Giám đốc Sở Thể dục Thể thao Hà Nội khi ấy Hoàng Vĩnh Giang cũng đầu tư vào bóng đá nữ tại thủ đô và năm 1992, lứa bóng đá nữ đầu tiên của Hà Nội đã được tuyển chọn để thành lập một đội bóng mang tên Hoa Học Trò (đặt theo tên của tờ báo đã đứng ra bảo trợ cho đội). Năm 1991 ở Quảng Ninh, đội Than Cửa Ông được hình thành dưới sự dẫn dắt của cựu danh thủ Nguyễn Đình Hùng B. Thậm chí, phong trào bóng đá nữ ở Quảng Ninh còn phát triển mạnh khi hầu hết xí nghiệp than ở đây đều có đội bóng nữ thi đấu với nhau và đều ra đời cùng thời với đội Quận 1 (TP.HCM). Tháng 5 năm 1994, bên lề cuộc đua xe đạp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên, một giải đấu biểu diễn giữa ba đội bóng đá nữ Hoa Học Trò, Than Cửa Ông và Quận 1 đã được tổ chức và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ người hâm mộ vùng Tây Bắc. Mô hình này sau đó cũng được áp dụng ở cuộc đua xe đạp "Về cội nguồn" năm 1995.
Năm 1997, đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam được thành lập và ngay lập tức đã đoạt cúp vô địch ở giải đấu tiền SEA Games tại Malaysia. Tại SEA Games 19, đội tuyển nữ Việt Nam dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng Trần Thanh Ngữ đã giành được tấm huy chương đồng. Kể từ năm 2001, đội tuyển nữ đã 8 lần đoạt huy chương vàng SEA Games, với lần gần nhất tại SEA Games 32.
Tại Cúp bóng đá nữ châu Á 2022, Đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam dừng chân tại tứ kết nhưng đã lần đầu tiên lọt vào vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 với vị trí thứ nhất trong 3 đội thi đấu tại Vòng Play-off, trở thành đại diện thứ 3 của bóng đá Việt Nam tham dự vòng chung kết các giải đấu quốc tế của FIFA (sau đội tuyển U-20 Việt Nam và đội tuyển futsal Việt Nam).
Giải bóng đá nữ vô địch quốc gia đầu tiên được tổ chức vào năm 1998 đã có 14 đội thi đấu vòng loại để chọn ra 7 đội vào vòng chung kết tổ chức tại Hà Nội và Hà Tây.
Văn hóa bóng đá ở Việt Nam
Người Việt Nam rất cuồng nhiệt với đội tuyển bóng đá của mình. Các cổ động viên của các đội tuyển Việt Nam, không phân biệt lứa tuổi, thường đến sân và cổ vũ cuồng nhiệt cho đội của đất nước họ. Việt Nam đã nhận được sự công nhận từ cổ động viên các quốc gia khác vì sự ủng hộ nhiệt tình của họ.
Trái ngược với các đội tuyển quốc gia thì không quá nhiều người chú ý đến các giải đấu quốc nội, một phần vì giải đấu này có quá nhiều tranh cãi từ trọng tài cho đến vấn đề một ông chủ nhiều đội bóng. Tuy nhiên, ở một số địa phương như Nam Định, Hải Phòng lượng khán giả đến sân theo dõi thường rất đông.
Lãnh đạo
Hiện nay, Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) là tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động bóng đá tại Việt Nam. VFF là tiền thân của Hội bóng đá Việt Nam (VFA) được sáng lập năm 1960, hiện là thành viên của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF).
Ngoài VFF, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF), thành lập năm 2011, là doanh nghiệp chuyên quản lý và điều hành các giải đấu bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam bao gồm: Giải Vô địch Quốc gia (nam), Cúp Quốc gia (nam), Giải Hạng Nhất Quốc gia (nam).
Đội tuyển quốc gia
Nam
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-22 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà U-20 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Việt Nam
Nữ
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà nữ quốc gia Việt Nam
Giải đấu quốc gia
Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia (V.League 1)
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia (V.League 2)
Giải bóng đá hạng nhì quốc gia
Giải bóng đá hạng ba quốc gia
Giải bóng đá U-21 quốc gia
Giải bóng đá U-19 quốc gia
Giải bóng đá U-17 quốc gia
Giải bóng đá U-15 quốc gia
Giải bóng đá thiếu niên toàn quốc
Giải bóng đá nhi đồng toàn quốc
Giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia
Giải bóng đá bãi biển vô địch quốc gia
Nữ
Giải bóng đá nữ vô địch quốc gia
Giải bóng đá nữ U-19 quốc gia
Cúp nội địa
Giải bóng đá Cúp Quốc gia Việt Nam
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá Trong nhà Cúp Quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá Trong nhà TP Hồ Chí Minh Mở rộng (Cúp LS)
Giải đấu giao hữu quốc tế
Cúp VFF
Cúp VTV-T&T
Cúp U-21 Báo Thanh niên
Cúp U-19 Báo Thanh niên
Cúp Thành phố Hồ Chí Minh
Cúp BTV
Chú thích |
Nam Đàn là một huyện nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Nam Đàn nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, nằm ở hạ lưu sông Lam. Kéo dài từ 18°34’B đến 18°47’B và trải rộng từ 105°24’Đ đếN 105°37’Đ, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 48%, còn nữa là đất lâm nghiệp và đồi núi, ao hồ, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Hưng Nguyên
Phía tây giáp huyện Thanh Chương
Phía nam giáp huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh
Phía bắc giáp huyện Đô Lương và huyện Nghi Lộc.
Huyện lỵ của huyện đặt tại thị trấn Nam Đàn, trên đường Quốc lộ 46 Vinh – Đô Lương, cách thành phố Vinh 21 km về phía tây.
Khí hậu
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn tương đối khắc nghiệt. Hằng năm mùa hanh khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa hàng năm cao nhất là 2,228 mm, thấp nhất là 1,402 mm, trung bình là 1,428 mm. Bão lụt thường xảy ra vào tháng 9 và tháng 10 dương lịch, gây úng lụt trên diện tích rộng, có lúc kéo dài trong một thời gian dài.
Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn đã được miêu tả tóm tắt và khá đúng trong 4 câu thơ chữ Hán sau đây của Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) ghi trong Nghệ An thi tập của ông khi ông làm Đốc đồng trấn Nghệ An (1777 – 1781) dưới thời vua Lê Hiển Tông:
Hạ lai phong tự hỏa
Thu khứ vũ như ma
Thập nguyệt giang hoàn lạo
Trùng cửu cúc vị hoa
Dịch thơ:Hè đến gió Lào như lửa đốtThu qua mưa phùn lấm tấm saTháng mười sông còn tràn nước lũMồng 9 tháng 9 cúc chưa nở hoaDân số
Dân số năm 2018 là 164.530 người. 9% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử
Hán Vũ Đế (140 - 87 TCN) diệt nhà Triệu, chiếm Nam Việt, chia tách nước Nam Việt thành các huyện. Huyện Hàm Hoan bao gồm vùng đất Nam Đàn ngày nay là một trong những huyện lớn của vùng đất thuộc quận Cửu Chân trước đó và Hàm Hoan chính là tên gọi đầu tiên của huyện Nam Đàn ngày nay.
Thời Tam Quốc vùng đất này thuộc Đông Ngô (220 - 265 sau CN) và tên huyện được đổi thành Đô Giao.
Vua Lê Đại Hành trị vì đất nước từ năm 981 đến năm 1005 đã phân định lại địa giới hành chính và đã đổi tên huyện Hàm Hoan thành huyện Hoan Đường thuộc Hoan Châu.
Năm 1036, Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long đã đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An, huyện Hoan Đường vẫn giữ nguyên tên gọi như trước đó.
Hồ Quý Ly lên làm vua (1400 - 1401) đổi tên huyện Hoan Đường thành huyện Thạch Đường.
Nhà Minh xâm chiếm nước ta đã tách thành 3 huyện là Thạch Đường, Kệ Giang và Sa Nam.
Sau khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh, nhà Hậu Lê đã sắp xếp lại bản đồ vào năm 1467 và huyện Hoan Đường được đổi tên thành huyện Nam Đường.
Năm 1886 vua Đồng Khánh lên ngôi, vì vua có tên riêng là Nguyễn Phúc Đường nên để tránh phạm húy, chữ "Đường" được đọc chệch đi thành chữ "Đàn", cái tên Nam Đàn có từ đó.
Năm 1948, huyện Nam Đàn được chia thành 10 xã: Đồng Xuân, Hùng Tiến, Khánh Tân, Nam Hưng, Nam Liên, Nam Tân, Thanh Vân, Xuân Lạc, Xuân Lâm, Tràng Cát.
Sau năm 1954, huyện Nam Đàn gồm thị trấn Nam Đàn và 33 xã: Nam Anh, Nam Cát, Nam Chung, Nam Diên, Nam Đông, Nam Dương, Nam Giang, Nam Hòa, Nam Hoành, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lạc, Nam Lâm, Nam Liên, Nam Lĩnh, Nam Lộc, Nam Long, Nam Mỹ, Nam Phong, Nam Phúc, Nam Quang, Nam Sơn, Nam Tân, Nam Thái, Nam Thắng, Nam Thanh, Nam Thịnh, Nam Thượng, Nam Tiến, Nam Trung, Nam Vân, Nam Xuân, Nam Yên.
Về sau, một số xã sáp nhập với nhau để hình thành các xã mới: Nam Vân và Nam Diên thành Vân Diên; Nam Hùng, Nam Lạc và Nam Tiến thành Hùng Tiến; Nam Hồng và Nam Long thành Hồng Long; Nam Hòa và Nam Yên thành Xuân Hòa; Nam Hoành và Nam Đông thành Khánh Sơn; Nam Sơn và Nam Thắng thành Nam Kim; Nam Phong và Nam Thịnh thành Nam Cường; Nam Dương nhập vào Nam Trung; Nam Chung và Nam Liên thành Kim Liên; Nam Mỹ, Nam Quang và Nam Lâm thành Xuân Lâm. Hai xã được thành lập mới là Nam Nghĩa và Nam Hưng.
Ngày 9 tháng 7 năm 1987, mở rộng thị trấn Nam Đàn trên cơ sở sáp nhập xóm Hạ Long của xã Vân Diên và các xóm Tây Hồ, Quang Trung của xã Xuân Hòa.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập toàn bộ diện tích, dân số của 3 xã Nam Trung, Nam Phúc, Nam Cường thành xã Trung Phúc Cường
Sáp nhập một phần diện tích, dân số của xã Nam Thượng với toàn bộ diện tích, dân số của 2 xã Nam Tân và Nam Lộc thành xã Thượng Tân Lộc
Sáp nhập phần diện tích, dân số còn lại của xã Nam Thượng và toàn bộ diện tích, dân số của xã Vân Diên vào thị trấn Nam Đàn.
Huyện Nam Đàn có 1 thị trấn và 18 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Nam Đàn có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Đàn (huyện lỵ) và 18 xã: Hồng Long, Hùng Tiến, Khánh Sơn, Kim Liên, Nam Anh, Nam Cát, Nam Giang, Nam Hưng, Nam Kim, Nam Lĩnh, Nam Nghĩa, Nam Thái, Nam Thanh, Nam Xuân, Thượng Tân Lộc, Trung Phúc Cường, Xuân Hòa, Xuân Lâm.
Du lịch
Trong các thắng cảnh ở Nam Đàn có núi Đại Huệ. Phong cảnh ở đây đã được Bùi Huy Bích ghi lại khi thăm chùa Đại Tuệ trên núi:Đá nhỏ xếp vòng tới đỉnh caoĐất trời vời vợi dạ nao naoTrời dăng rặng núi như xoè cánhĐất nắn dòng sông giống uốn câuĐường núi xuyên cây, sư khinh hổRoi tre gánh cỏ, trẻ lùa trâuRất yêu Giếng đá luôn đầy nướcSâu chỉ bằng lu múc hết đâuMột thắng cảnh khác là núi Thiên Nhẫn, nơi còn lưu lại bài thơ của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp:Chiu chít liền những núi,Trông như ngựa chạy vòngMiền nam mờ ngọn núi,Cõi bắc uốn khúc sông.Bóng chùa Thiên Nhẫn ánhSuối vọt Lục Niên kềTùng cúc nay còn đóPhong trần vẫn chưa về...Ở Nam Đàn cũng có nhiều chùa. Kiến trúc chùa Nam Đàn đã lưu lại trong câu ca:Thứ nhất Nghi môn Tam TanhThứ nhì là cảnh Yên QuỳnhThứ ba là đình Nam HoaNghi môn Tam Tanh nay là đền vua Bà ở xã Hùng Tiến đã bị thời gian phá huỷ, nhưng vẫn giữ một số giá trị kiến trúc và nghệ thuật. Ở Nam Lạc - Hùng Tiến còn có đình Nhân Hậu cũng nổi tiếng một vùng nhưng do chính sách sai lầm nên đình bị dỡ đi làm chợ, bây giờ về Nam Lạc thăm chợ Cồn Bụt vẫn thấy được đình chợ là đình Nhân Hậu xưa...Đình Nam Hoa là 4 ngôi đình nổi tiếng của 4 làng phía hữu ngạn sông Lam gồm: đình Dương Liễu, đình Đông Sơn, đình Hoành Sơn, đình Trung Cần; trong đó đình Hoành Sơn (thuộc xã Khánh Sơn) và đình Trung Cần (thuộc xã Nam Trung) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam) cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia Việt Nam. Hai đình này đều bằng gỗ, được giới chuyên môn liệt vào bậc nhất trong hệ thống chùa chiền còn ở miền Trung. Tại xã Hồng Long còn lưu giữ phế tích Tháp Nhãn có từ thế kỷ thứ VII, xây toàn bằng đất nung với kỹ thuật lắp ghép độc đáo.
Văn hóa
Hát ví
Ở Nam Đàn tồn tại những làn điệu ví phường vải, ví dặm đò đưa. Con ơi mẹ dặn câu nàyChăm lo đèn sách cho tày áo cơmLàm người đói sạch rách thơmCông danh là nợ nước non phải đền...Các tập tục văn hóa ở Nam Đàn có thể quan sát tại các lễ hội như lễ hội đình Hoành Sơn, lễ hội đền Mai Hắc Đế, lễ rước hến Thanh Đàm và lễ hội Làng Sen trước và trong dịp kỷ niệm ngày sinh Hồ Chí Minh.
Làng nghề
Nam Đàn có các làng nghề như Làng mộc nề Nam Hoa, làng rèn Quy Chính, làng tương Tự Trì, làng nón Đông Liệt, các làng dệt Xuân Hồ, Xuân Liễu, Tầm Tang, làng nồi đồng Bố Ân, Bố Đức, làng gạch ngói Hữu Biệt, làng dầu bông, dầu lạc Đan Nhiệm, Đồng Trung. Còn Tương Nam Đàn thì thôn xã nào cũng làm để ăn hàng ngày cả.Vùng núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn có sản phẩm chè xanh thơm ngon.
Danh nhân
Đại Nam nhất thống chí ghi: Nam Đàn có núi cao sông sâu nên xuất hiện nhiều người văn võ kiêm toàn. Vũ Anh Tú nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội nhân dân Việt Nam. Bùi Dương Lịch, nhà "Nghệ học" thế kỷ 18, viết: Huyện Đông Thành và huyện Nam Đường vĩ nhân đã nhiều, mà khí tiết cũng thiên về mặt Cương Cường Quả Cảm. Hippolyte Le Breton, nguyên Hiệu trưởng Quốc học Vinh đầu thế kỷ 20 viết về Nghệ Tĩnh nói chung: Nghệ Tĩnh trong tất cả mọi thời đại, từ cổ đại cho đến ngày nay là một cái lò phản kháng và là một cái lò trí thức về truyền thống văn hóa (Le Nghe Tinh fut de tous temps – de l’antiquité à nos jours – un foyer de rebellion et un foyer intellectuel en ce qui concerne la tradition culturelle'').
Huyện Nam Đàn là quê hương của các danh nhân Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Nam Đàn cũng là quê hương của 38 vị đại khoa Việt Nam như: Đình nguyên, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt; Thám hoa Nguyễn Văn Giao đời Nguyễn; Đình nguyên Tiến sĩ Vương Hữu Phu (khoa Canh Tuất- 1910)..
Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
Những người nổi tiếng ngày nay có: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, Nhà khoa học Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Thị Thanh Trà, ủy viên ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo GS. TSKH Bành Tiến Long, Thứ trưởng bộ tư pháp - Hiệu trưởng trường đại học Luật HN PGS TS Hoàng Thế Liên, giáo sư hóa học Nguyễn Thạc Cát, Giáo sư Nguyễn Văn Trương (anh hùng lao động), Giáo sư Phạm Như Cương, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào, Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng, Giáo sư Nguyễn Văn Hường, Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ, Giáo sư Nguyễn Thúc Hải, Giáo sư Nguyễn Đình Bảng, Trưởng đoàn đàm phát Thương mại Việt Mỹ Nguyễn Đình Lương, Phó Viện trưởng VKSND tối cao Dương Thanh Biểu; Giáo sư toán học Nguyễn Thị Thiều Hoa; Giáo sư Nguyễn Xuân Quỳnh, Giáo sư toán học Tạ Quang Hải nguyên chủ nhiệm khoa Toán Đại học Vinh; Giáo sư Tiến sĩ Phạm Thị Ngọc Yến- ĐHBK Hà Nội; Trung tướng Giáo sư Phan Anh Việt Nguyên Phó Tổng cục 2 BQP, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam; Trung tướng, Phó Giáo sư Hoàng Nghĩa Khánh, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến BTTM. Đại tá, PGS.TS Trần Đình Mai Giảng viên Học viện Lục Quân Đà Lạt, Tổng giám đốc Binh đoàn Trường Sơn: Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Nhà văn, dịch giả: Ông Văn Tùng; nhà báo Hàm Châu; PGS.TS Trần Văn Thụy giảng viên trường đại học y khoa Hà Nội. Tiến sĩ Trần Đình Hiếu nguyên vụ trưởng UB Kế hoạch Nhà nước; Thiếu tướng Nguyễn Phong Phú, nguyên Trưởng bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6(2), Tổng cục Chính trị, BQP, nguyên Chủ nhiệm Chính trị, Quân khu 4, Tiến sĩ Trần Đình Phương Vụ trưởng Bộ Văn Hoá-TT; Nghệ sĩ xuất sắc của Liên đoàn Nhiếp ảnh Thế giới (FIAP) Hà Hữu Đức; Anh hùng tình báo quân đội Trần Huyền, PGS.TS Sử học Nguyễn Quang Hồng. Hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam Hồ Khải Đại; Nhà báo Tạ Quang Đạm; Trung tướng Hồ Đệ; Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tư lệnh Quân khu 4.
Chú thích |
Trung Thường Thị (中常侍) là một chức quan được lập ra thời Đông Hán tại Trung Quốc.
Nguyên nhà Tây Hán phong chức không xác định, hễ các chư hầu, tướng quân, lang đại phu có chức hàm đều được ra vào chỗ vua ở (cấm trung 禁中). Thời Hán Nguyên Đế, chức này ban đầu được gọi là Thường Thị (sát nghĩa là "thường trực hầu hạ"), sau được cải xưng là Trung Thường Thị. Minh Đế nhà Đông Hán dùng sĩ nhân, hoạn quan hỗn tạp, tổng cộng có bốn người giữ chức này. Thời Hán Hòa Đế, hoạn quan Trịnh Chúng tham dự cơ binh quốc sự nên chức này ngày càng quan trọng, số người tăng lên thành 10, kiêm lĩnh luôn cả những chức quan lớn khác. Thời Hán An Đế, thái hậu Đặng Tuy (鄧綏) lâm triều; vì là nữ chúa nên không tiếp hàng công khanh trong cung. Thế nên, chức Trung Thường Thị này sau chỉ dành riêng cho hoạn quan. Một hoạn quan làm Trung Trường Thị thời này sau này được biết đến như nhà sáng chế ra giấy là Thái Luân. |
Chùa Giác Lâm () còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế tông ở Nam Bộ. Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Giới thiệu sơ lược
Chùa Giác Lâm được cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa có tên là Sơn Can (sơn là núi, can là gò nông), về sau còn được gọi là Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tên là Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm .
Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rõ có vị tăng sĩ nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu . Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.
Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn là nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số sách Phật giáo.
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!"...
Kiến trúc
Chùa đã được trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798–1804. Đến năm 1906–1909, Hòa thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hòa thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và nhà trai (còn gọi là nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).
Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối, thếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu....
Trong chính điện bày trí theo kiểu "tiên bái Phật, hậu bái Tổ". Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và tượng Long Vương.
Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở gian này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành .
Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp thờ Xá Lợi Phật.
Bên trái của chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây, trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông Viên Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới bóng cây bồ đề. Cây này do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 .
Hiện vật quý
Trong chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng. Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma, tượng Long Vương, v.v...
Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Ngoài ra ở đây còn có 9 bao lam, 19 hoành phi, một bàn thờ cổ và đồ thờ cổ .
Hình ảnh
Sách tham khảo chính
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Huỳnh Minh, Gia Định xưa (1973), Nhà xuất bản Thanh Niên in lại năm 2001.
Giáo trình Kiến thức phục vụ du lịch, Nhà xuất bản TP. HCM, 1995.
Võ Văn Tường – Huỳnh Như Phương, Danh lam nước Việt, Nhà xuất bản Mỹ thuật, 1995.
Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất bản Lao động 2006.
Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nhà xuất bản TP. HCM, 1995.
Chú thích
Giác Lâm
Lịch sử Đàng Trong
Tân Bình |
Trong di truyền học, sinh học phân tử, nguyên tắc bổ sung là nguyên tắc liên kết giữa một nucleotide và một nucleotide khác đối diện, trong các đại phân tử DNA hay RNA.
Cụ thể một loại nucleotide Purine (adenine và guanine) sẽ chỉ liên kết với một loại nucleotide pyrimidine (thymine và cytosine):
Adenine liên kết với thymine bằng 2 liên kết hydro.
Guanine liên kết với cytosine bằng 3 liên kết hydro.
Liên kết đối diện là liên kết hydro, khác với liên kết giữa hai nucleotide liên tiếp (liên kết phosphodiester).
Trong 1 gen tỉ số %Adenine=%Thymine;%Guanine=%Cytosine
Các gen liên kết dọc với nhau bằng liên kết hóa trị.
Nguyên tắc bổ sung không chỉ biểu hiện ở những liên kết giữa các nucleotide; giữa các ribonucleotide, giữa nucleotide và ribonucleotide cũng có liên kết Hydro theo nguyên tắc bổ sung. Nhưng các base của các ribonucleotide không có base loại Thymine mà thay vào đó là base Uracil. Vì vậy liên kết giữa các ribonucleotide (nếu có) sẽ theo nguyên tắc:
Adenine liên kết với Uracil bằng 2 liên kết Hydro.
Guanine liên kết với Cytosine bằng 3 liên kết Hydro.
+ NTBS là nguyên tắc cặp đôi giữa các base nitơ trên mạch kép của phân tử DNA, đó là nguyên tắc A của mạch đơn này có kích thước lớn bổ sung cho T của mạch đơn kia có kích thước bé chúng liên kết với nhau bằng 2 liên kết H, G của mạch đơn này có kích thước lớn bổ sung cho X của mạch đơn kia có kích thước bé, chúng liên kết với nhau bằng 3 liên kết H và ngược lại.
+ NT bán bảo toàn (giữ lại một nửa): Trong quá trình tổng hợp phân tử DNA mỗi phân tử DNA con tạo ra gồm một mạch của phân tử DNA mẹ (mạch gốc) và một mạch mới được tổng hợp.
+ NT khuôn mẫu: mạch đơn của DNA con được tổ hợp dựa trên trình tự các nucleotide trên mạch khuôn của mẹ. |
Siêu cúp bóng đá Việt Nam hay Siêu cúp Quốc gia (), còn gọi là Cúp Thaco vì lý do tài trợ, là trận đấu giữa đội vô địch Giải Bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và đội vô địch Cúp Quốc gia Việt Nam, do VPF và báo Tiền Phong đồng tổ chức. Nếu một đội đoạt cả chức vô địch quốc gia và cúp quốc gia thì đội đoạt chức á quân giải vô địch quốc gia sẽ có quyền tham dự trận đấu tranh siêu cúp.
Siêu cúp bóng đá Việt Nam được thành lập năm 1999. Qua 24 lần tổ chức trận tranh siêu cúp, Hà Nội là đội bóng giàu thành tích nhất với 5 lần đoạt siêu cúp quốc gia. Tính đến nay đã có 12 đội bóng vinh dự giành danh hiệu cao quý này là: Thể Công, Sông Lam Nghệ An, Hoàng Anh Gia Lai, Hải Phòng, Long An, Becamex Bình Dương, Thanh Hóa, Hà Nội, SHB Đà Nẵng, Ninh Bình, Than Quảng Ninh và Quảng Nam. Chín đội bóng đã giành quyền tham dự nhưng không đoạt được siêu cúp là: Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Hòa Phát Hà Nội, Nam Định, Hà Nội ACB, Navibank Sài Gòn, Sài Gòn Xuân Thành và Công an Hà Nội.
Năm 2021, trận tranh Siêu cúp Quốc gia không được tổ chức do V.League 2021 và Cúp Quốc gia 2021 không thể kết thúc đúng kế hoạch vì ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Đông Á Thanh Hóa hiện đang nắm giữ siêu cúp sau khi đánh bại Công an Hà Nội với tỷ số 3–1 trong trận tranh Siêu cúp Quốc gia 2023.
Kết quả các trận tranh siêu cúp
2023 - Cúp Thaco
2022 - Cúp Thaco
2020 - Cúp Thaco
2019 - Cúp Thaco
2018 - Cúp Thaco
2017 - Cúp Thaco
2016 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2015 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2014 - Cúp Tiền Phong - Thaco
2013 - Cúp VPP Hồng Hà
2012 - Cúp PV Gas
2011 - Cúp PV Gas
2010 - Cúp 584 Group
2009 - Megastar Cup
2008 - IZZI Cup
2007 - IZZI Cup
2006 - IZZI Cup
2005 - IZZI Cup
2004 - IZZI Cup
2003 - VTC Cup
2002 - Toyota Cup
2001 - Honda Cup
2000 - Toyota Cup
1999 - Toyota Cup
Xếp hạng các nhà vô địch |
Phết tế bào cổ tử cung (tiếng Anh: Pap smear, tức là xét nghiệm Pap) là một xét nghiệm tế bào học để tìm những tế bào bất thường trong lớp biểu mô cổ tử cung. Mục đích của việc này là để phát hiện ung thư cổ tử cung – một bệnh lý ác tính rất thường gặp ở phụ nữ, nhất là ở các nước đang phát triển.
Đây là một xét nghiệm đơn giản, thường được thực hiện ở các phòng khám phụ khoa, và là bước đầu tiên trong bộ ba xét nghiệm dùng để tầm soát đồng thời cũng để chẩn đoán ung thư cổ tử cung.
Cách đọc kết quả một xét mẫu tế bào cổ tử cung cũng khá phức tạp với một số phân loại khác nhau.
Lịch sử
Năm 1928, George Nicolas Papanicolaou – một bác sĩ người Hi Lạp giới thiệu những phát hiện mới của mình về một phương pháp chẩn đoán ung thư mới với tựa đề bài báo là "New Cancer Diagnosis" (Phương pháp chẩn đoán ung thư mới).
Cũng từ năm này, Papanicolaou đến và làm việc tại Hoa Kỳ. Tại đây, năm 1939, ông cùng với một đồng nghiệp của mình là bác sĩ Herbert Traut, một nhà bệnh học về phụ khoa, làm phết tế bào âm đạo cho nhiều bệnh nhân, và từ đó chứng minh khả năng chẩn đoán ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm của phương pháp này.
Năm 1943, họ giới thiệu những kết quả nghiên cứu của mình trong một bài báo nổi tiếng "Diagnosis of Uterine Cancer by the Vaginal Smear" (Chẩn đoán ung thư tử cung bằng phết tế bào âm đạo). Từ đó, phương pháp này được gọi theo tên của người đã khởi xướng nó – xét nghiệm Pap.
Từ đó đến nay, phương pháp làm xét nghiệm này đã có nhiều cải tiến để tăng tính chính xác và hiệu quả, và hiện được dùng rất rộng rãi để tầm soát ung thư cổ tử cung. Cũng cần biết rằng đây là xét nghiệm chỉ dùng để tầm soát, mà không dùng để chẩn đoán và chỉ áp dụng với ung thư cổ tử cung chứ không phải dùng cho ung thư tử cung như bài báo mà Papanicolaou đã viết.
Tại Việt Nam, trước đây xét nghiệm này thường được gọi tên là phết mỏng tế bào âm đạo, nhưng tên gọi trên không chính xác vì thực chất là lấy tế bào của cổ tử cung chứ không phải của âm đạo, nên một số tài liệu mới gần đây đã gọi xét nghiệm này là phết tế bào cổ tử cung, hoặc phết mỏng tế bào cổ tử cung, hoặc cũng gọi tắt là xét nghiệm Pap.
Chỉ định
Phết tế bào cổ tử cung được chỉ định cho những bệnh nhân sau:
Kiểm tra định kỳ cho tất cả các phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Thời gian giữa các lần làm hiện chưa thống nhất. Có một số đề nghị được chấp nhận rộng rãi, như theo đề nghị của Hội Ung thư Hoa Kỳ thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát.
Khi khám phụ khoa phát hiện thấy những tổn thương ở cổ tử cung.
Khi có yếu tố nghi ngờ ung thư cổ tử cung như: xuất huyết âm đạo bất thường...
Kỹ thuật
Điều kiện
Bệnh nhân không đặt thuốc âm đạo, không giao hợp, không thụt rửa âm đạo trong 24-48 giờ trước đó.
Không làm khi có tình trạng viêm nhiễm âm đạo, cổ tử cung nặng, cấp tính, hoặc khi có tình trạng xuất huyết âm đạo, tử cung.
Làm trong lúc không hành kinh (tốt nhất là làm vào ngày thứ 15-20 của chu kì kinh nguyệt)
Cách thực hiện
Bệnh nhân nằm trong tư thế phụ khoa (bệnh nhân nằm ngửa, gối gập, hai chân dang rộng, thả lỏng người)
Đặt mỏ vịt để mở rộng âm đạo.
Dùng một que nhỏ bằng gỗ được gọi là que Ayre đặt áp vào lỗ cổ tử cung, quay một vòng để lấy tế bào trên bề mặt cổ tử cung. Bác sĩ sẽ lấy 2 mẫu của cổ ngoài và cổ trong tử cung bằng 2 đầu của que.
Dùng que Ayre trải đều tế bào lên lame kính. Khi trải, lưu ý chỉ trải một lần duy nhất, không kéo nhiều lần sẽ làm thay đổi hình dạng tế bào.
Mẫu sẽ được cố định bằng cách nhúng vào dung dịch cồn + ête hoặc xịt một lớp keo mỏng lên bề mặt lame.
Đọc kết quả
Hiện có 3 phương pháp đọc kết quả:
Theo Papanicolaou
Tế bào bình thường
Tế bào biến đổi nhân và tế bào chất do viêm: không đặc hiệu
Tế bào dị dạng, dị dạng này có thể do:
Viêm
Dùng thuốc tránh thai
Ung thư
Tế bào dị dạng có nhiều đặc tính nghi ngờ ung thư hoặc ung thư tại chỗ (in situ)
Chắc chắn ung thư (xâm lấn)
Ngày này cách đọc này ít được dùng, vì có nhiều khuyết điểm: không phân định rõ loại tế bào tổn thương, không cho thông tin đầy đủ mức độ ác tính của tổn thương.
Theo hệ thống Bethesda 2001
Đọc theo hệ thống này thì nhà tế bào học phải cho biết những thông tin sau:
Mẫu có đạt tiêu chuẩn không. Một mẫu đạt tiêu chuẩn thì phải có cả tế bào cổ ngoài và tế bào cổ trong cổ tử cung. Bởi vì vùng cần xem xét nhất là vùng chuyển tiếp giữa hai loại tế bào này, và khi thấy được tế bào cổ trong trên tiêu bản thì chứng tỏ đã lấy được tế bào ở vùng chuyển tiếp.
Những tổn thương kèm theo như tổn thương viêm nhiễm chẳng hạn.
Những bằng chứng tổn thương ác tính.
Bảng phân loại Bethesda 2001 là hệ thống mới nhất, do Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ đề nghị và được nhiều nước áp dụng.
Tế bào biểu mô bình thường
Tế bào biểu mô biến đổi lành tính
Viêm nhiễm, có thể do các tác nhân sau:
Chlamydia
Trichomonas
Actinomyces
Candida
Virus herpes simplex
Lưu ý: trong các trường hợp viêm nhiễm được miêu tả trên không có phân loại viêm âm đạo do Human papilloma virus.
Biến đổi tế bào do phản ứng, có thể là:
Viêm teo do giảm hàm lượng estrogen trong cơ thể ở phụ nữ mãn kinh
Do tia xạ
Do đặt vòng tránh thai
Những thay đổi bất thường của tế bào biểu mô
Tế bào biểu mô gai:
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình (ASC: Atypical Squamous Cell) dùng để chỉ những thay đổi nhỏ tìm thấy được ở tế bào biểu mô gai mà nguyên nhân không xác định được, gồm 2 nhóm:
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình không rõ ý nghĩa (ASC-US: Atypical Squamous Cell of Undetermined Significance)
Thay đổi tế bào biểu mô gai không điển hình nhưng không loại trừ được đó là tổn thương trong biểu mô gai mức grad cao (HSIL: High-grade squamous intraepithelial lesions)
Thay đổi tế bào biểu mô gai do tổn thương trong biểu mô gai grad thấp (LSIL: Low-grade squamous intraepithelial lesions), còn được gọi là nghịch sản nhẹ hay tân sinh trong biểu mô độ 1 (CIN I). Phân loại này dùng để chỉ những thay đổi nhỏ của tế bào biểu mô và không có khuynh hướng tiến triển thành ung thư, phân loại này bao gồm cả những tổn thương tế bào do nhiễm HPV
Thay đổi tế bào biểu mô gai do tổn thương trong biểu mô gai grad cao (HSIL: High-grade squamous intraepithelial lesions): Phân loại này để chỉ các thay đổi của tế bào có khả năng tiến triển thành ung thư. Phân loại bao gồm: nghịch sản trung bình - CIN II, nghịch sản nặng - CIN III, ung thư tại chỗ và những tổn thương ung thư nghi ngờ xâm lấn.
Ung thư tế bào biểu mô gai xâm lấm
Tế bào biểu mô tuyến:
Tế bào biểu mô tuyến không điển hình (AGC: Atypical glandular cells)):
Tế bào cổ trong tử cung (từ kênh cổ tử cung)
Tế bào nội mạc tử cung. Những tế bào này bình thường chỉ thấy ở nội mạc tử cung. Tìm thấy trên mẫu xét nghiệm có thể do người phụ nữ đó làm xét nghiệm trong lúc đang hành kinh hoặc một tình trạng tăng sinh của nội mạc tử cung bất thường ở những phụ nữ dùng hormone sinh dục thay thế khi đã mãn kinh.
Tế bào biểu mô tuyến không điển hình, do tân sinh:
Tân sinh của tế bào cổ tử cung trong (kênh cổ tử cung)
Tân sinh của tế bào nội mạc tử cung
Ung thư tại chỗ tế bào tuyến cổ tử cung trong
Ung thư tế bào tuyến xâm lấn
Cổ tử cung trong
Nội mạc tử cung
Từ một cơ quan bên ngoài tử cung
Không rõ nguồn gốc
Những hình ảnh tế bào học theo mức độ tổn thương của niêm mạc cổ tử cung. http://www.cytopathology.org/NIH/index.php
Xử trí theo kết quả phết tế bào
Theo Papanicolaou
Nhóm I và II: tiếp tục theo dõi theo lịch làm phết tế bào cổ tử cung. Điều trị tất cả các tình trạng viêm hoặc những tổn thương lành tính tại chỗ.
Nhóm III: điều trị đặc hiệu từng nguyên nhân. Sau đó 2 tuần kiểm tra lại bằng phết tế bào và soi cổ tử cung.
Nhóm IV và V: tiến hành soi và sinh thiết ngay để có chẩn đoán chính xác hơn.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới
Theo phân loại Bethesda 2001
Các trường hợp tế bào biến đổi lành tính thì điều trị theo nguyên nhân.
Các trường hợp bất thường của tế bào biểu mô gai.
Tế bào biểu mô gai thay đổi không điển hình: Lập lại xét nghiệm 2 lần trong vòng 12 tháng và tìm DNA của virus HPV chủng ác tính (HVP 16, 18, 31, 33...) 2 lần trong 12 tháng.
Nếu kết quả những lần sau bình thường hoặc chủng HPV tìm được là chủng lành tính, trở về lịch theo dõi thông thường.
Nếu kết quả vẫn là thay đổi không điển hình hoặc tiến triển hoặc tìm được HVP chủng ác tính, cần làm soi cổ tử cung và sinh thiết cổ tử cung dưới máy soi.
Các trường hợp LSIL (hay CIN I) và HSIL (hay CIN II và III), cần soi cổ tử cung và sinh thiết để có chẩn đoán. Về điều trị: xin xem bài Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung.
Ung thư tế bào biểu mô gai: soi cổ tử cung và sinh thiết để có chẩn đoán đầy đủ. Về điều trị: xin xem bài Ung thư cổ tử cung.
Các trường hợp bất thường của tế bào biểu mô tuyến
Tế bào tuyến thay đổi không điển hình: Làm lại phết tế bào ngay.
Nếu vẫn bất thường: thực hiện soi cổ tử cung và nạo sinh thiết kênh cổ tử cung, có thể thực hiện sinh thêm thiết lòng tử cung trong trường hợp phụ nữ trên 35 tuổi hoặc có chảy máu bất thường từ lòng tử cung.
Nếu kết quả phết tế bào lần sau bình thường: làm Pap theo định kì.
Bất thường của tế bào tuyến cổ tử cung trong: tiến hành nạo sinh thiết kênh cổ tử cung, đồng thời nạo lòng tử cung để chẩn đoán chính xác. Nếu chỉ là tổn thương của kênh cổ tử cung, điều trị như ung thư cổ tử cung, nếu tế bào ác tính có nguồn gốc từ nội mạc tử cung, điều trị như ung thư nội mạc tử cung.
Bất thường của tế bào nội mạc tử cung: nạo sinh thiết lòng tử cung, và điều trị xin xem bài Ung thư nội mạc tử cung. |
Mã lực hay Sức ngựa, viết tắt là Hp - Horsepower (tiếng Anh) hoặc Ps - Pferdestärke (tiếng Đức) là một đơn vị dùng để chỉ công suất. Nó được định nghĩa là công cần thiết để nâng một khối lượng 75 kg lên cao 1 mét trong thời gian 1 giây hay 1HP = 75 kgf⋅m/s = 735 W.
Trong thực tế để chuyển đổi nhanh chóng giữa các đơn vị "mã lực" và "kW" (kilô watt), người ta hay dùng các hệ số tương đối như sau:
Ở nước Anh: 1 HP = 0,7457 kW
Ở nước Pháp: 1 CV (mã lực) = 0,7355 kW
1 kW = 1,36 CV = 1,34 HP
Có nhiều định nghĩa mã lực, với giá trị khác nhau dao động từ 735 đến 746 W. |
Công suất ℘ (chữ P viết hoa - U+2118) (từ tiếng Latinh Potestas) là một đại lượng cho biết công được thực hiện ΔW hay năng lượng biến đổi ΔE trong một khoảng thời gian T = Δt.
hay ở dạng vi phân .
Công suất trung bình
Trong hệ SI, công suất có đơn vị đo là watt (W).
Đơn vị đo
Trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị đo công suất là Watt (viết tắt là W), lấy tên theo James Watt.
1 Watt = 1 J/s
Ngoài ra, các tiền tố cũng được thêm vào đơn vị này để đo các công suất nhỏ hay lớn hơn như mW, MW.
Một đơn vị đo công suất hay gặp khác dùng để chỉ công suất động cơ là mã lực (viết tắt là HP).
1 HP = 0,746 kW tại Anh
1 CV = 0,736 kW tại Pháp
Trong truyền tải điện, đơn vị đo công suất hay dùng là kVA (kilô Volt Ampe):
1 kVA = 1000 VA
Công suất cơ
Trong chuyển động đều, thời gian Δt, khoảng cách Δs, chuyển động với vận tốc v dưới tác dụng của lực F thì công suất được tính:
hay
Trong chuyển động quay, thời gian Δt, góc quay Δφ, vận tốc góc ω dưới tác dụng của mômen M thì công suất là:
Công suất điện
Công suất điện tức thời với u, i là những giá trị tức thời của hiệu điện thế và cường độ dòng điện.
Nếu u và i không đổi theo thời gian (dòng điện không đổi) thì .
Trong điện xoay chiều, có ba loại công suất: công suất hiệu dụng ℘, công suất hư kháng Q và công suất biểu kiến S, với S = ℘ + iQ (i: đơn vị số ảo) hay S2 = ℘2 + Q2 |
Công trong tiếng Việt có nhiều hơn một nghĩa. Tùy theo ngữ cảnh, nó có thể là:
Cách gọi của công cơ học trong vật lý.
Công trong lao động, thường được tính bằng số lượng công việc một người lao động hoàn thành được trong một ca 8 giờ
Tên gọi chung của ba loài chim thuộc các chi Pavo và Afropavo trong họ Phasianidae (họ gà lôi/chim trĩ). Xem bài Công (chim).
Họ người Á Đông: Công (họ người).
Công tước, một tước vị quý tộc của chế độ quân chủ.
Gọi tắt của công cộng.
Gọi tắt của giai cấp công nhân: công nông
Một đơn vị đo diện tích ruộng đất, thường dùng ở miền Tây Nam bộ Việt Nam, bằng 1000 m² (1/10 ha).
Khái niệm công như trong tam công.
Công suất
Phép tính đúng: công đạo, công bình, công lý...
zh:工
zh:公 |
Ca-lo, còn được gọi là ca-lo-ri (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp calorie ) (thường được ký hiệu là: "kal", hoặc "cal") là một đơn vị vật lý dùng để đo nhiệt lượng, và được định nghĩa là: số nhiệt lượng cần thiết để đun nóng 1 gam nước lên thêm 1 độ C, ở trong điều kiện bình thường.
Vì lý do lịch sử, hai định nghĩa chính về calo đang được sử dụng rộng rãi. Calo nhỏ hoặc gam calo (thường được ký hiệu là cal) là lượng nhiệt năng cần thiết để tăng nhiệt độ của một gam nước lên một độ Celsius (hoặc một Kelvin). Lượng calo lớn, calo thực phẩm, hoặc kilocalories (Cal, calo hoặc kcal), được sử dụng rộng rãi nhất trong dinh dưỡng, là lượng nhiệt cần thiết để gây ra cùng một sự gia tăng trong một kilogram nước. Như vậy, 1 kilocalories (kcal) = 1000 calo (cal). Theo quy ước trong khoa học thực phẩm, calo lớn thường được gọi là Calo (một số tác giả viết hoa C để phân biệt với đơn vị nhỏ hơn). Ở hầu hết các quốc gia, nhãn của các sản phẩm thực phẩm công nghiệp hóa bắt buộc phải chỉ ra giá trị năng lượng dinh dưỡng tính bằng (kilo hoặc lớn) calo trên mỗi khẩu phần ăn hoặc mỗi trọng lượng.
Calo liên quan trực tiếp đến hệ mét, và do đó liên quan đến hệ SI. Nó được coi là lỗi thời trong cộng đồng khoa học, kể từ khi áp dụng hệ SI, nhưng vẫn còn được sử dụng. Đơn vị năng lượng trong hệ SI là Joule.
Lịch sử
Calo lần đầu tiên được giới thiệu bởi Nicolas Clément, như một đơn vị nhiệt năng, trong các bài giảng trong những năm 1819–1824. Đây là lượng calo "lớn", viz. kilocalorie hiện đại. Thuật ngữ này được đưa vào từ điển tiếng Pháp và tiếng Anh từ năm 1841 đến năm 1867. Nó xuất phát từ 'nhiệt' trong tiếng Latinh.
Calo "nhỏ" (calo hiện đại) được Pierre Antoine Favre (Nhà hóa học) và Johann T. Silbermann (Nhà vật lý) đưa ra vào năm 1852. Năm 1879, Marcellin Berthelot phân biệt giữa gam-calo (calo hiện đại) và kilôgam calo (kilocalo hiện đại). Berthelot cũng đưa ra quy ước viết hoa kilôgam calo, là Calo.
Việc sử dụng kilôgam calo (kcal) cho dinh dưỡng đã được giới thiệu với công chúng Mỹ bởi Wilbur Olin Atwater, giáo sư tại Đại học Wesleyan, vào năm 1887.
Calo (cal) hiện đại lần đầu tiên được công nhận là một đơn vị của hệ thống cm-g-s (cgs) vào năm 1896, cùng với đơn vị năng lượng cgs đã tồn tại, erg (được đề xuất lần đầu tiên bởi Clausius vào năm 1864, dưới cái tên ergon, và chính thức được thông qua vào năm 1882).
Ngay từ năm 1928, đã có những phàn nàn nghiêm trọng về sự nhầm lẫn có thể phát sinh từ hai định nghĩa chính về calo và liệu khái niệm sử dụng chữ hoa để phân biệt chúng có đúng hay không.Việc sử dụng calo đã chính thức không được sử dụng bởi Hội nghị chung về Cân nặng và Đo lường lần thứ chín, vào năm 1948.
Cách viết thay thế, calory,là lỗi thời.
Tương quan giữa Jul và ca-lo
công và nhiệt lượng đều là năng lượng cho nên chúng tương đồng với nhau.
1 cal = 4,186 J
1 kcal= 4186
Ý nghĩa vật lý của đơn vị "ca-lo"
Ca-lo chính là định nghĩa sơ khai cho nhiệt dung riêng của nước.
Một calo là lượng năng lượng cần thiết để làm nóng 1 gram nước bằng 1 °C.
Trên các nhãn thực phẩm, thành phần dinh dưỡng được tính theo kCal = 1000 Cal
Hoạt động tiêu tốn calo là hoạt động thể chất và quá trình trao đổi chất nên calo rất cần thiết cho cơ thể. |
Y tế công cộng là khoa học và nghệ thuật phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và tăng cường sức khỏe thông qua những cố gắng có tổ chức của xã hội
Sức khoẻ có nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều tổ chức.Tổ chức y tế thế giới, cơ quan của Liên Hợp Quốc, đặt tiêu chuẩn và cung cấp chương trình kiểm soát bệnh tật đã định nghĩa sức khỏe là:"tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần và các quan hệ xã hội chứ không phải đơn giản là tình trạng không có bệnh hay ốm yếu". Các chuyên gia y tế công cộng cho rằng định nghĩa này chưa đầy đủ, một số thành phần khác trong sức khỏe con người còn có dinh dưỡng, tinh thần và tri thức.
Y tế công cộng có nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ học, sinh thống kê và dịch vụ y tế. Những vấn đề liên quan đến môi trường, xã hội, nhân chủng học và sức khỏe nghề nghiệp cũng là lĩnh vực quan trọng trong y tế công cộng.
Trọng tâm can thiệp của y tế công cộng là phòng bệnh trước khi đến mức phải chữa bệnh thông qua việc theo dõi tình trạng và điều chỉnh hành động bảo vệ sức khỏe. Nói tóm lại, trong nhiều trường hợp thì chữa bệnh có thể gây nguy hiểm đến tính mạng hơn so với phòng bệnh từ trước, chẳng hạn như khi bùng phát bệnh lây nhiễm. Chương trình tiêm chủng vắc-xin và phân phát bao cao su là những ví dụ về các biện pháp dùng trong y tế công cộng.Tuy nhiên ngành này lương thấp và rất khó xin việc. Đa số học viên đều chọn học tại chức vừa học vừa làm.
Khái niệm
Ở Việt Nam, ngành y tế công cộng còn mới và thường bị nhẫm lẫn với ngành y học dự phòng hay vệ sinh-dịch tễ (trước kia). Hiện nay có xu hướng sử dụng thuật ngữ "y tế công cộng" hơn vì:
Đây là thuật ngữ đang được thế giới sử dụng rộng rãi (tiếng Anh: public health).
Bao hàm ý nghĩa liên ngành chứ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y tế.
Mục đích
Các can thiệp của y tế công cộng tập trung vào vấn đề phòng bệnh hơn là chữa bệnh thông qua giám sát các trường hợp và khuyến khích các hành động tốt cho sức khoẻ. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp, chữa một bệnh này có ý nghĩa sống còn để phòng ngừa các bệnh khác, chẳng hạn các vụ bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. Các chương trình tiêm chủng vắc-xin, vệ sinh nước sạch,môi trường là những ví dụ của công tác hoạt động y tế công cộng.
Nhiều quốc gia đã có cơ quan chính phủ riêng, thường là bộ y tế, chịu trách nhiệm về các vấn đề sức khỏe trong gia đình. Ở Hoa Kỳ, vấn đề y tế cộng đồng bắt đầu thu thập từ các cục y tế bang và địa phương. Cơ quan kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh(CDC)đặt tại Atlanta, mặc dù có cơ sở tại Hoa Kỳ, nhưng cũng liên quan tới nhiều vấn đề sức khỏe tại nhiều quốc gia khác mà họ chịu trách nhiệm.
Có một sự khác biệt rất lớn giữa chăm sóc sức khỏe và y tế công cộng giữa các nước đang phát triển và các nước đã phát triển. Tại các nước đang phát triển, nhiều cơ sở hạ tầng y tế công cộng vẫn còn đang được trong giai đoạn xây dựng. Có thể không đủ các cử nhân y tế được đào tạo tốt và nguồn tiền để cung cấp cho thậm chí chỉ ở mức độ cơ bản nhất trong vấn đề chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh. Vấn đề đó kết hợp với tình trạng đói nghèo đã khiến đa số bệnh tật và tử vong hoành hành dữ dội ở các nước đang phát triển. Nhiều nước châu Phi, chính phủ dành ra dưới 10$ cho chăm sóc sức khỏe mỗi người, trong khi tại Hoa Kỳ, chính quyền liên bang chi trả xấp xỉ 4500$ một đầu người.
Nhiều bệnh tật có thể phòng tránh được một cách rất đơn giản, thậm chí bằng phương pháp không liên quan tới y học. Y tế công cộng đống một vai trò hết sức quan trọng trong nỗ lực ngăn ngừa bệnh tật tại các nước đang phát triển, cùng với hệ thống y tế địa phương thông qua các tổ chức phi chính phủ.
Lịch sử của y tế công cộng
Y tế công cộng là khái niệm hiện đại, mặc dù nguồn gốc có từ xa xưa. Từ thời kì sơ khai của nền văn minh con người, tình trạng ô nhiễm nước và thiếu nguyên tắc trong việc bố trí rác thải có thể tạo ra véc-tơ lây truyền bệnh dịch. Nhiều tôn giáo cổ xưa cũng đã đưa ra quy định trong hành vi liên quan tới sức khỏe: từ các loại thức ăn nào thì được dùng, cho tới đánh giá hành vi nào bị coi là buông thả theo khoái cảm, chẳng hạn uống rượu hay quan hệ tình dục. Những chính phủ đã thiết lập nên nơi có quyền lãnh đạo và phát triển chính sách sức khỏe cộng đồng và những chương trình chống lại các nguyên nhân gây bệnh nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn, phồn vinh của quốc gia.
Y tế công cộng thời xa xưa
Từ trước thời La Mã, người ta đã biết nhiều về y tế công cộng: những hành động can thiệp hợp lý của người làm công việc rác thải là rất cần thiết cho sức khỏe cộng đồng ở khu vực thành thị. Người Trung Quốc đã biết phát triển thói quen phòng dịch sau khi trải qua một trận dịch đậu mùa khoảng năm 1.000 trước công nguyên. Người không mắc bệnh có thể nhận được ít nhiều miễn dịch chống lại căn bệnh nhờ nuốt vảy khô của người đã nhiễm. Tương tự, trẻ em cũng có thể được bảo vệ nhờ tiêm vào cẳng tay một vết nhỏ mủ từ một người bệnh. Cách làm này chỉ xuất hiện ở phương tây những năm đầu 1700, và được sử dụng rất hạn chế. Tiêm chủng băng vắc-xin chỉ trở nên phổ biến những năm 1820, sau thành công của Edward Jenner trong việc điều trị đậu mùa.
Trong suốt thế kỷ 14, dịch chết Đen lan rộng ở châu Âu, người ta cho rằng thủ tiêu các cơ thể bị chết có giúp thể ngăn ngừa được nhiễm trùng vi khuẩn này về sau. Điều này đã giải quyết được một phần gốc rễ của dịch bệnh, tuy vậy, căn bệnh lại được lan truyền chủ yếu do bọ chét trên các loài gặm nhấm. Nhiều khu vực trong các thành phố bị đốt chát đã giúp ích rất nhiều bởi vì nó đã tiêu diệt nhiều động vật gặm nhấm mắc bệnh.
Dịch tả, đại dịch thứ hai tàn phá châu Âu từ năm 1829 tới năm 1851.
Y tế công cộng thời hiện đại
Khi tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm ở các nước phát triển giảm xuống trong thể kỷ 20, y tế công cộng bắt đầu tập trung hơn nữa vào các bệnh mãn tính như ung thư và bệnh tim. Trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn còn đang các bệnh truyền nhiễm có thể phòng tránh được hoành hành, tàn phá, cùng với suy dinh dưỡng và nghèo đói.
Gánh nặng của chữa trị lâm sàng do người thất nghiệp, nghèo đói, nhà cửa tồi tàn và ô nhiễm môi trường lên tới 16-22% ngân sách y tế của vương quốc Anh.
Lịch sử phát triển y tế công cộng ở Việt Nam
Từ ngày thành lập nước năm 1945, Việt Nam đã khẳng định y học dự phòng luôn là ưu tiên hàng đầu: phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo tinh thần đó, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống vệ sinh dịch tễ học theo mô hình Liên Xô nhấn mạnh vào việc phòng và chống các bệnh truyền nhiễm bởi lúc đó bệnh truyền nhiễm đóng vai trò chủ yếu trong cấu trúc bệnh tật ở Việt Nam, hoàn toàn có thể khống chế được thông qua các biện pháp đặc hiệu như dùng vắc-xin và không đặc hiệu như tuyên truyền.
Trong khi đó, những tiến bộ trong cách đề cập dịch tễ học đang diễn ra tại những nước phương tây, chủ yếu là các nước nói tiếng Anh, đang ngày một mạnh mẽ. Những tiến bộ đó chỉ được đưa vào một cách không chính thức thông qua các cuốn sách dịch tễ học được những người có dịp đi học, công tác tại các nước phát triển mang về và đại học Y Hà Nội đã nghiên cứu và dần đưa vào giảng dạy đầu những năm 1980.
9 chức năng cơ bản của Y tế công cộng
Theo dõi và phân tích tình hình sức khoẻ
Giám sát dịch tễ học / phòng ngừa và kiểm soát dịch
Xây dựng chính sách và kế hoạch y tế công cộng
Quản lý có tính chiến lược các hệ thống và dịch vụ sức khỏe cộng đồng
Quy chế và thực hành pháp luật để bảo vệ sức khỏe công cộng
Phát triển nguồn nhân lực và lập kế hoạch trong y tế công cộng
Tăng cường sức khỏe, sự tham gia của xã hội trong công tác chăm sóc sức khỏe và làm cho người dân có ý thức thực hiện được đó là quyền lợi của mình
Đảm bảo chất lượng dịch vụ sức khỏe cho cá nhân và cho cộng đồng
Nghiên cứu, phát triển và thực hiện các giải pháp y tế công cộng mang tính chất đổi mới
Những chương trình y tế công cộng
Ngày nay, hầu hết chính phủ các nước nhận thấy tầm quan trọng của những chương trình y tế công cộng trong việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tình trạng ốm yếu, và sự lão hoá, mặc dù y tế công cộng mặc dù nói chung, y tế công cộng nhận được ít hỗ trợ từ các quỹ chính phủ hơn so với y học lâm sàng.Trong những năm gần đây, những chương trình y tế công cộng đã cung ứng vắc-xin tiêm chủng đầy đủ, góp phần tăng cường sức khỏe một cách không thể tin nổi, bao gồm có việc xóa sổ bệnh đậu mùa, một bệnh dịch thảm họa của nhân loại trong hàng nghìn năm.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của y tế công cộng là đương đầu với HIV/AIDS. Bệnh lao, căn bệnh được cho là đã từng cướp đi sinh mạng của Franz Kafka, Charlotte Brontë, và nhà soạn nhạc Franz Schubert hiện nay lại đang nổi lên như một vấn đề lớn, liên quan tới sự gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS và vấn đề kháng thuốc của vi khuẩn.
Một mối quan tâm khác của y tế công cộng là bệnh tiểu đường. Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006, có ít nhất 171 triệu người trên thế giới đang chịu đựng căn bệnh này. Tỷ lệ mắc phải bệnh này đang gia tăng nhanh chóng và ước tính con số này sẽ gấp đôi trước năm 2030.
Y tế công cộng còn có ảnh hưởng tới vấn đề kiểm soát hút thuốc lá. Nhiều quốc gia đã thi hành việc bước đầu cấm hút thuốc lá, chẳng hạ tăng thuế và cấm hút thuốc ở một vài hoặc tất cả các nơi công cộng. Những người khởi xướng điều này cho rằng hút thuốc lá là một trong những "kẻ sát nhân" chính tại tất cả các nước phát triển, và họ đã nỗ lực làm giảm tỷ lệ chết nhờ hạn chế hút thuốc thụ động và bằng thu hẹp cơ hội cho người hút thuốc. Những người phản đối điều này lại nói điều đó hủy hoại tự do và trách nhiệm cá nhân, (họ thường sử dụng ngữ nanny state để chỉ các cảnh sát phạt họ về điều này ở Anh).
Các cơ sở đào tạo trọng điểm về Y tế công cộng ở Việt Nam
Trường Đại học Y tế công cộng: Nơi đào tạo chuyên ngành Y tế công cộng hàng đầu của Việt Nam.
Trường Đại học Y Hà Nội - Khoa Y tế công cộng: Nơi đầu tiên có khóa Cử nhân Y tế công cộng, Bác sĩ Y học dự phòng, Thạc sĩ, Tiến sĩ, BS CK1 YTCC. Ngoài ra Khoa YTCC - Đại học Y Hà Nội còn có các hệ đào tạo ở tất cả các cấp độ về Y học dự phòng, Dịch tễ học, Dinh dưỡng, và các chuyên ngành khac trong lĩnh vực Y tế công cộng.
Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1999. Khoa bắt đầu đào tạo cử nhân Y tế công cộng từ năm 1999 và đào tạo Bác sĩ Y học dự phòng từ năm 2008.
Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Dược Thái Bình
Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Dược Hải Phòng.
Khoa Y tế công cộng, Đại học Y khoa Vinh
Đại học Y dược Cần Thơ
Đại học Y Dược Huế.
Đại học Thăng Long
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng |
Tình yêu, ái tình hay gọi ngắn là tình (Tiếng Anh: love) là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm cá nhân đến niềm vui sướng. Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó.
Tình yêu cũng được coi là một đức tính đại diện cho lòng tốt, lòng trắc ẩn và tình cảm của con người, như "mối quan tâm trung thành và nhân từ không ích kỷ vì lợi ích của người khác". Tình yêu cũng có thể mô tả các hành động từ bi và tình cảm đối với người khác, bản thân hoặc động vật.
Tình yêu với các hình thức khác nhau của nó hoạt động như một cảm xúc hỗ trợ chính cho các mối quan hệ giữa các cá nhân và, do tầm quan trọng tâm lý trung tâm của nó, là một trong những chủ đề phổ biến nhất trong nghệ thuật sáng tạo. Tình yêu đã được đặt ra là một chức năng để giữ cho con người cùng nhau chống lại mối đe dọa và để tạo điều kiện cho sự phát triển của loài người.
Người Hy Lạp cổ đại xác định bốn hình thức của tình yêu: Quan hệ gần gũi của họ hàng hay người thân (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn (philia), ham muốn tình dục và/hoặc cảm xúc lãng mạn (eros), và xúc cảm dành cho các giá trị tôn giáo (agape). Các tác giả hiện đại đã phân biệt các biến thể chi tiết hơn nữa của tình yêu lãng mạn. Các nền văn hóa không phải của phương Tây cũng có các biến thể khác nhau cho các trạng thái cảm xúc này. Sự đa dạng của việc sử dụng và ý nghĩa kết hợp với sự phức tạp của những cảm giác của tình yêu làm cho việc thống nhất xác định thế nào là tình yêu trở nên cực kỳ khó khăn khi so với các trạng thái cảm xúc khác.
Định nghĩa
Từ "tình yêu" có thể có nhiều ý nghĩa liên quan nhưng khác biệt trong các bối cảnh khác nhau. Nhiều ngôn ngữ khác sử dụng nhiều từ ngữ để diễn tả một số khái niệm khác nhau của "tình yêu"; một ví dụ là có 4 từ tiếng Hy Lạp cho "tình yêu" (storge, philia, eros, agape). Khác biệt trong khái niệm tình yêu của các nền văn hóa khác nhau dẫn đến việc thành lập một định nghĩa phổ quát cho tình yêu là rất khó khăn.
Mặc dù bản chất của tình yêu là một đề tài tranh luận thường xuyên, các khía cạnh khác nhau của từ này có thể được làm rõ bằng cách xác định những gì không phải là tình yêu (từ trái nghĩa của nó). Tình yêu như một biểu hiện chung của tâm lý tích cực (một hình thức mạnh mẽ của ưa thích) thường trái ngược với ghét bỏ (hoặc thờ ơ theo nghĩa trung tính); nếu tình yêu như một hình thức tình cảm thân mật bao gồm nhiều cảm xúc lãng mạn và ít cảm xúc tình dục, khi đó thường có nghĩa trái ngược với ham muốn; còn nếu tình yêu như một mối quan hệ giữa các cá nhân với cảm xúc lãng mạn, khi đó tình yêu đôi khi mang nghĩa trái ngược với tình bạn, mặc dù tình yêu thường được áp dụng cho các tình bạn gần gũi. (Nghĩa mơ hồ hơn nữa áp dụng cho các từ như "bạn gái", "bạn trai", hay thành ngữ "chỉ là bạn tốt").
Thảo luận tình yêu một cách trừu tượng thường đề cập đến một trải nghiệm một người cảm thông với một người khác. Tình yêu thường liên quan đến việc chăm sóc cho một người hay một vật (thuyết chăm sóc về tình yêu), bao gồm cả bản thân mình (tự ngưỡng mộ bản thân - narcissism). Ngoài sự khác biệt giữa các văn hóa trong sự hiểu biết về tình yêu, quan điểm về tình yêu cũng đã thay đổi rất nhiều theo thời gian. Một số nhà sử học trong giai đoạn Phục Hưng châu Âu hoặc sau thời Trung Cổ lại có quan niệm hiện đại về tình yêu lãng mạn, mặc dù sự tồn tại các cảm xúc lãng mạn được các bài thơ tình cổ đại ghi nhận.
Tính chất phức tạp và trừu tượng của tình yêu thường tạo ra các thành ngữ về tình yêu, ở đó tình yêu vượt trên mọi cảm xúc khác. Dẫn chứng là một số câu tục ngữ thông thường về tình yêu, từ "Tình yêu sẽ chiến thắng tất cả" của Virgil đến "Tất cả thứ bạn cần là tình yêu" của Beatles. Thánh Thomas Aquinas, sau Aristotle, định nghĩa tình yêu là "tạo ra điều tốt lành cho người khác." Bertrand Russell mô tả tình yêu như một điều kiện "có giá trị tuyệt đối", trái ngược với giá trị tương đối. Nhà triết học Gottfried Leibniz nói tình yêu là "vui mừng vì hạnh phúc của người khác." Nhà sinh học Jeremy Griffith định nghĩa tình yêu là "lòng vị tha vô điều kiện".
Nhà văn Lê Văn Hùng trong cuốn sách Nghệ thuật chinh phục trái tim (NXB Đồng Nai,1994) của ông, nơi trang 12 ông đã định nghĩa tình yêu như sau: “Tình yêu là một tình cảm tự nhiên của con người. Nó có thể là một sự trực cảm từ trái tim đến trái tim; hoặc có khi nó thông qua sự soi sáng của lý trí .Tình cảm đó là mạnh mẽ, thiêng liêng, bất diệt và huyền nhiệm. Nó là cội nguồn, là động lực của tất cả mọi thứ trên trên đời. Và chỉ khi nào bạn nhận ra rằng trên đời này không còn gì quý hơn nó thì đó chính là lúc bạn đã cảm nhận được thế nào là tình yêu”
(Nguồn : https://anhhoahong2.violet.vn/entry/the-nao-la-tinh-yeu-12246108.html)
Tình yêu phi cá nhân
Mọi người có thể nói là yêu một đối tượng, nguyên tắc hoặc mục tiêu mà họ cam kết sâu sắc và có giá trị rất lớn. Ví dụ, sự tiếp cận từ bi và "tình yêu" của người làm công tác tình nguyện về nguyên nhân của họ đôi khi có thể được sinh ra không phải do tình yêu giữa các cá nhân mà là tình yêu phi cá nhân, lòng vị tha và niềm tin chính trị hoặc tinh thần mạnh mẽ. Mọi người cũng có thể "yêu" các vật thể, động vật hoặc các hoạt động nếu họ đầu tư vào việc gắn kết hoặc đồng nhất với những thứ đó. Nếu đam mê tình dục cũng có liên quan, thì cảm giác này được gọi là lệch lạc tình dục - paraphilia. Một nguyên tắc phổ biến mà mọi người nói rằng thứ họ yêu là chính cuộc sống.
Tình yêu cá nhân giữa con người với nhau
Tình yêu thương liên quan đến tình yêu giữa con người. Đó là một tình cảm mạnh mẽ hơn nhiều so với một cảm xúc thích thú đơn giản đối với một người. Tình yêu không được đáp lại liên quan đến những cảm xúc của tình yêu đơn phương. Tình yêu thương người-người gắn liền với mối quan hệ giữa các cá nhân. Tình yêu đó có thể tồn tại giữa các thành viên trong gia đình, bạn bè, và các cặp vợ chồng. Ngoài ra còn có một số rối loạn tâm lý liên quan đến tình yêu, chẳng hạn như erotomania.
Cơ sở sinh học
Các mô hình sinh học tình dục có xu hướng xem tình yêu như động lực của động vật có vú, giống như động lực khi đói hoặc khát. Helen Fisher, một chuyên gia hàng đầu trong chủ đề tình yêu, phân chia trải nghiệm tình yêu thành ba giai đoạn có chồng lấn lên nhau: ham muốn, thu hút và gắn bó. Ham muốn là cảm giác ham muốn tình dục; hấp dẫn lãng mạn xác định những gì con người cho là hấp dẫn và theo đuổi, tiết kiệm thời gian và năng lượng bằng cách lựa chọn; và sự gắn kết liên quan đến việc chia sẻ một gia đình, trách nhiệm làm cha mẹ, bảo vệ lẫn nhau, và ở con người có liên quan đến cảm giác an toàn và an ninh. Ba loại mô thần kinh khác nhau, bao gồm cả các chất dẫn truyền xung thần kinh và ba mô hình hành vi, có liên quan đến ba kiểu tình yêu lãng mạn này.
Ham muốn là đam mê tình dục ban đầu nhằm thúc đẩy giao phối, và liên quan đến sự tăng mạnh của hóa chất như testosterone và estrogen. Những tác dụng này hiếm khi kéo dài hơn một vài tuần hoặc vài tháng. Thu hút là mong muốn cá nhân và lãng mạn hơn đối với một ứng cử viên cụ thể để giao phối, phát triển từ ham muốn như cam kết đối với một người riêng lẻ. Các nghiên cứu gần đây trong khoa học thần kinh đã chỉ ra rằng khi con người rơi vào tình yêu, não liên tục phát hành một tập hợp một số hóa chất, trong đó có hormone dẫn truyền thần kinh, dopamine, norepinephrine, và serotonin, các hợp chất tương tự phát hành bởi amphetamine, kích thích của não trung tâm khoái cảm và dẫn đến tác dụng phụ như tăng nhịp tim, chán ăn và khó ngủ và cảm giác hưng phấn mãnh liệt. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn này thường kéo dài từ một năm rưỡi đến ba năm.
Vì các giai đoạn ham muốn và thu hút đều được coi là tạm thời, nên giai đoạn thứ ba là cần thiết cho các mối quan hệ lâu dài. Gắn bó là sự gắn kết thúc đẩy các mối quan hệ kéo dài trong nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Sự gắn bó thường dựa trên các cam kết như hôn nhân và con cái, hoặc dựa trên tình bạn lẫn nhau dựa trên những thứ như lợi ích chung. Nó đã được liên kết với mức độ cao hơn của hóa chất oxytocin và vasopressin ở mức độ lớn hơn so với các mối quan hệ ngắn hạn tạo ra. Enzo Emanuele và đồng nghiệp đã báo cáo phân tử protein được gọi là yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF) có mức độ cao khi người ta mới yêu, nhưng chúng trở lại mức trước đó sau một năm.
Cơ sở tâm lý
Tâm lý học miêu tả tình yêu như một hiện tượng nhận thức và xã hội. Nhà tâm lý học Robert Sternberg đã đưa ra một lý thuyết tam giác tình yêu và cho rằng tình yêu có ba thành phần khác nhau: sự thân mật, sự cam kết và niềm đam mê. Sự thân mật là một hình thức trong đó hai người chia sẻ những tâm sự và nhiều chi tiết khác nhau về cuộc sống cá nhân của họ, và thường được thể hiện trong tình bạn và những chuyện tình lãng mạn. Cam kết, mặt khác, là kỳ vọng rằng mối quan hệ là vĩnh viễn. Hình thức cuối cùng của tình yêu là sự hấp dẫn và đam mê tình dục. Tình yêu đam mê được thể hiện trong sự mê đắm cũng như tình yêu lãng mạn. Tất cả các hình thức của tình yêu được xem là sự kết hợp khác nhau của ba thành phần này. Không yêu không bao gồm bất kỳ thành phần nào trong số này. Ưa thích chỉ bao gồm sự thân mật. Say đắm chỉ bao gồm đam mê. Tình yêu trống rỗng chỉ bao gồm sự cam kết. Tình yêu lãng mạn bao gồm cả sự thân mật và đam mê. Tình yêu đồng hành bao gồm sự thân mật và cam kết. Tình yêu say đắm bao gồm đam mê và cam kết. Cuối cùng, tình yêu hoàn hảo bao gồm cả ba thành phần. Nhà tâm lý học người Mỹ Zick Rubin đã tìm cách xác định tình yêu bằng tâm lý học vào những năm 1970. Tác phẩm của ông nói rằng ba yếu tố cấu thành tình yêu: là sự gắn bó, quan tâm và sự thân mật.
Sau những phát triển trong các lý thuyết điện như định luật Coulomb, cho thấy các điện tích dương và âm thu hút, các lý thuyết tương tự trong cuộc sống của con người đã được phát triển, như "ngược nhau thu hút nhau". Trong thế kỷ qua, nghiên cứu về bản chất của việc giao phối của con người nói chung đã cho thấy điều này không đúng khi nói về tính cách: con người có xu hướng thích những người giống mình. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực bất thường và cụ thể, chẳng hạn như hệ thống miễn dịch, dường như con người thích những người khác không giống mình (ví dụ, với hệ thống miễn dịch trực giao), vì điều này sẽ dẫn đến một đứa trẻ có cả hai thế giới tốt nhất. Trong những năm gần đây, các lý thuyết liên kết khác nhau của con người đã được phát triển, được mô tả dưới dạng các ràng buộc, liên kết và ái lực. Một số tác giả phương Tây phân chia thành hai thành phần chính, đó là lòng vị tha và tự yêu bản thân. Quan điểm này được thể hiện trong các tác phẩm của Scott Peck, người có công việc trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng đã khám phá các định nghĩa về tình yêu và cái ác. Peck khẳng định rằng tình yêu là sự kết hợp giữa "mối quan tâm đối với sự phát triển tâm linh của người khác" và sự tự yêu bản thân đơn giản. Kết hợp lại, tình yêu là một hoạt động, không chỉ đơn giản là một cảm giác.
Nhà tâm lý học Erich Fromm đã nêu trong cuốn sách Nghệ thuật yêu thương rằng tình yêu không chỉ đơn thuần là một cảm giác mà còn là hành động, và trên thực tế, "cảm giác" của tình yêu là bề ngoài so với cam kết của một người về tình yêu thông qua một loạt các hành động yêu thương qua thời gian. Theo nghĩa này, Fromm cho rằng tình yêu cuối cùng không phải là một cảm giác, mà là một cam kết và tuân thủ, hành động yêu thương đối với người khác, với chính mình, hoặc với nhiều người khác, trong một thời gian bền vững. Fromm cũng mô tả tình yêu là một lựa chọn có ý thức rằng trong giai đoạn đầu của nó có thể bắt nguồn từ một cảm giác không tự nguyện, nhưng sau đó không còn phụ thuộc vào những cảm xúc đó, mà chỉ phụ thuộc vào cam kết có ý thức.
Cơ sở tiến hóa
Tâm lý học tiến hóa đã cố gắng đưa ra nhiều lý do cho tình yêu như là một công cụ sinh tồn. Con người phụ thuộc vào sự giúp đỡ của cha mẹ trong phần lớn cuộc sống của họ so với các động vật có vú khác. Do đó, tình yêu đã được coi là một cơ chế để thúc đẩy sự hỗ trợ của cha mẹ trong thời gian dài này. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu ngay từ đầu Charles Darwin đã xác định các đặc điểm độc đáo của tình yêu con người so với các động vật có vú khác và tình yêu là yếu tố chính để tạo ra các hệ thống hỗ trợ xã hội cho phép phát triển và mở rộng loài người. Một yếu tố khác có thể là các bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể gây ra, trong số các tác động khác, làm giảm khả năng sinh sản vĩnh viễn, gây tổn thương cho thai nhi và làm tăng các biến chứng khi sinh con. Điều này sẽ ủng hộ các mối quan hệ một vợ một chồng hơn là đa phu thê.
So sánh các mô hình khoa học
Các mô hình sinh học của tình yêu có xu hướng xem nó như một động lực của động vật có vú, tương tự như đói hoặc khát. Tâm lý học xem tình yêu là một hiện tượng văn hóa xã hội nhiều hơn. Chắc chắn tình yêu bị ảnh hưởng bởi hormone (như oxytocin), neurotrophins (như NGF) và pheromone, và cách mọi người suy nghĩ và hành xử trong tình yêu bị ảnh hưởng bởi quan niệm của họ về tình yêu. Quan điểm thông thường trong sinh học là có hai động lực chính trong tình yêu: sự hấp dẫn và sự gắn bó tình dục. Sự gắn bó giữa người lớn được cho là hoạt động theo cùng một nguyên tắc khiến trẻ sơ sinh trở nên gắn bó với mẹ. Quan điểm tâm lý truyền thống coi tình yêu là sự kết hợp giữa tình yêu đồng hành và tình yêu đam mê. Tình yêu đam mê là khao khát mãnh liệt, và thường đi kèm với hưng phấn sinh lý (khó thở, nhịp tim nhanh); tình yêu đồng hành là tình cảm và một cảm giác thân mật không đi kèm với hưng phấn sinh lý.
Quan điểm văn hóa
Hy Lạp cổ đại
Tiếng Hy Lạp phân biệt một số giác quan khác nhau trong đó từ "tình yêu" được sử dụng. Hy Lạp cổ đại đã xác định bốn hình thức của tình yêu: quan hệ họ hàng hay quen thuộc (trong tiếng Hy Lạp, storge), tình bạn và/hoặc mong muốn thuần khiết (philia), tình dục và/hoặc ham muốn lãng mạn (eros), và tự quên mình hoặc tình yêu của Thiên Chúa (agape). Các tác giả hiện đại đã phân biệt nhiều loại tình yêu lãng mạn. Tuy nhiên, với tiếng Hy Lạp (cũng như nhiều ngôn ngữ khác), về mặt lịch sử, việc phân tách ý nghĩa của những từ này một cách hoàn toàn là rất khó khăn. Đồng thời, văn bản Hy Lạp cổ đại của Kinh Thánh có ví dụ về động từ agapo có cùng ý nghĩa với phileo.
Agape ( agápē) có nghĩa là tình yêu trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Thuật ngữ s'agapo có nghĩa là tôi yêu bạn trong tiếng Hy Lạp. Từ agapo là động từ tôi yêu. Nó thường đề cập đến một loại tình yêu "thuần khiết", hơn là sự hấp dẫn thể xác của eros. Tuy nhiên, có một số ví dụ về agape được sử dụng có nghĩa tương tự như eros. Nó cũng đã được dịch là "tình yêu của tâm hồn."
Eros ( érōs) (từ vị thần Hy Lạp Eros) là tình yêu nồng nàn, với ham muốn nhục dục và khao khát. Từ erota trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là trong tình yêu. Plato đã tinh chỉnh lại định nghĩa của riêng mình. Mặc dù eros ban đầu được cảm nhận cho một người, nhưng với sự suy ngẫm, nó trở thành sự đánh giá cao vẻ đẹp bên trong người đó, hoặc thậm chí trở thành sự đánh giá cao về chính cái đẹp. Eros giúp linh hồn nhớ lại kiến thức về cái đẹp và góp phần hiểu biết về sự thật tâm linh. Những người yêu thích và triết gia đều được truyền cảm hứng để tìm kiếm sự thật bằng eros. Một số bản dịch liệt kê nó là "tình yêu của cơ thể".
Philia ( philía), một tình yêu đạo đức không khoan nhượng, là một khái niệm được Aristotle đề cập và phát triển trong cuốn sách Nicomachean Ethics VIII của ông. Nó bao gồm sự trung thành với bạn bè, gia đình và cộng đồng, và đòi hỏi phải có đức hạnh, bình đẳng và sự quen thuộc. Philia được thúc đẩy bởi lý do thực tế; một hoặc cả hai bên được hưởng lợi từ mối quan hệ. Nó cũng có thể có nghĩa là "tình yêu của tâm trí."
Storge repositorygē) là tình cảm tự nhiên, giống như cảm xúc của cha mẹ dành cho con cái.
Xenia (ξεί xen xenía), lòng hiếu khách, là một thực hành cực kỳ quan trọng ở Hy Lạp cổ đại. Đó là một tình bạn gần như được nghi thức hóa được hình thành giữa một người chủ nhà và khách, người trước đây có thể là người lạ. Chủ nhà cho ăn và cung cấp chỗ ngủ cho khách, với khách dự kiến sẽ chỉ đáp lại với lòng biết ơn. Tầm quan trọng của điều này có thể được thấy trong các tác phẩm của thần thoại Hy Lạp - đặc biệt là trong các tác phẩm của Homer, Iliad và Odyssey.
La Mã cổ đại (tiếng Latin)
Ngôn ngữ Latinh có một số động từ khác nhau tương ứng với từ tiếng Anh "love". amō là động từ cơ bản có nghĩa là tôi yêu, với amare hàm nghĩa nguyên bản (động từ yêu) như ngày nay vẫn còn áp dụng trong tiếng Ý. Người La Mã đã sử dụng nó cả theo nghĩa trìu mến cũng như theo nghĩa lãng mạn hay tình dục. Từ động từ này đến danh từ amans - người yêu, amator, "người yêu chuyên nghiệp", thường với khái niệm là bạn tình của người dâm dục và amica, "bạn gái" theo nghĩa tiếng Anh, thường được áp dụng với nghĩa hoa mỹ để chỉ một cô gái điếm. Danh từ tương ứng là amor (ý nghĩa của thuật ngữ này đối với người La Mã được minh họa rất rõ trong thực tế, đó là tên của Thành phố, Rome theo tiếng Muffin Latin: Roma được xem như một phép đảo chữ của amor, được sử dụng làm tên bí mật của thành phố này trong các cộng đồng người rộng lớn vào thời cổ đại), cũng được sử dụng ở dạng số nhiều để biểu thị các vấn đề tình yêu hoặc các cuộc phiêu lưu tình dục. Gốc từ chung này cùng cũng phái sinh ra các từ amicus - "người bạn" - và amicitia, "tình bạn" (thường dựa cho lợi ích chung, và tương ứng đôi khi chặt chẽ hơn đến "nợ nần" hoặc "ảnh hưởng"). Cicero đã viết một chuyên luận có tên Về tình bạn (de Amicitia), trong đó ông thảo luận về khái niệm này một cách khá chi tiết. Ovid đã viết một hướng dẫn để hẹn hò được gọi là Ars Amatoria (Nghệ thuật của tình yêu), trong đó đề cập sâu hơn đến tất cả mọi thứ, từ ngoại tình đến những cha mẹ bảo vệ con quá mức.
Latin đôi khi sử dụng từ amare trong khi tiếng Anh chỉ cần nói like (thích). Tuy nhiên, khái niệm này thường được thể hiện bằng tiếng Latinh nhiều hơn bằng thuật ngữ placere hoặc delectāre, được sử dụng nhiều hơn thông thường, sau này được sử dụng thường xuyên trong thơ tình của Catullus. Diligere thường có khái niệm "tình cảm", "quý trọng" và hiếm khi được sử dụng cho tình yêu lãng mạn. Từ này sẽ thích hợp để mô tả tình bạn của hai người đàn ông. Tuy nhiên, danh từ tương ứng diligentia có ý nghĩa của "sự siêng năng" hoặc "cẩn thận" và có ít sự trùng lặp về ngữ nghĩa với động từ. Observare là một từ đồng nghĩa với diligentia; mặc dù nhận thức bằng tiếng Anh, động từ này và danh từ tương ứng của nó, obsantia, thường biểu thị "lòng tự trọng" hoặc "tình cảm". Caritas được sử dụng trong các bản dịch tiếng Latinh của Kinh thánh Kitô giáo có nghĩa là "tình yêu mang tính từ thiện"; ý nghĩa này, tuy nhiên, không được tìm thấy trong văn học La Mã ngoại giáo cổ điển. Vì nó phát sinh từ một sự kết hợp với một từ Hy Lạp, nó không có động từ tương ứng.
Trung Quốc và các nền văn hóa Sinic khác
Hai nền tảng triết học của tình yêu tồn tại trong chữ Hán phồn thể của Trung Quốc, một từ Nho giáo trong đó nhấn mạnh đến hành động và nghĩa vụ trong khi cái còn lại đến từ Mặc gia hướng tới một tình yêu phổ quát. Một khái niệm cốt lõi của Nho giáo là (ren, lòng nhân từ), tập trung vào nghĩa vụ, hành động và thái độ trong một mối quan hệ hơn là chính tình yêu. Trong Nho giáo, người ta thể hiện lòng nhân từ bằng cách thực hiện các hành động như lòng hiếu thảo của con cái, lòng tốt của cha mẹ, sự trung thành với nhà vua, v.v...
Khái niệm về (piyin: ài, âm Hán Việt: ái), được nhà triết học Trung Quốc Mặc Tử phát triển vào thế kỷ thứ 4 TCN nhằm phản ứng với tình yêu nhân từ của Nho giáo. Mặc Tử đã cố gắng để thay thế những gì ông coi là sự quá gắn bó của người Trung Quốc với cấu trúc gia đình và gia tộc với khái niệm "tình yêu phổ quát" (, jiān'ài, âm Hán Việt: kiêm ái). Về vấn đề này, Mặc Tử đã lập luận trực tiếp chống lại Nho giáo, những người tin rằng việc mọi người quan tâm đến những người khác nhau ở các mức độ khác nhau là tự nhiên và đúng đắn. Ngược lại, Mặc Tử tin rằng mọi người về nguyên tắc nên quan tâm đến tất cả mọi người như nhau. Mặc Tử nhấn mạnh rằng thay vì chấp nhận những thái độ khác nhau đối với những người khác nhau, tình yêu nên là vô điều kiện và được trao cho mọi người mà không quan tâm đến việc đáp lại; không chỉ với bạn bè, gia đình và các mối quan hệ Nho giáo khác. Sau này trong Phật giáo Trung Quốc, thuật ngữ Ái () đã được áp dụng để đề cập đến một tình yêu nồng nhiệt, chăm sóc và được coi là một mong muốn cơ bản. Trong Phật giáo, ái được xem là có khả năng hoặc là vị kỷ hoặc là vị tha, và vị tha là yếu tố then chốt để giác ngộ.
Trong tiếng Quan Thoại, (ài, âm Hán Việt: ái) thường được sử dụng như là tương đương với khái niệm tình yêu phương Tây. (ài) được sử dụng làm cả động từ (vd , Wǒ ài nǐ, hoặc "Anh yêu em") và một danh từ (ví dụ như àiqíng, hay "ái tình"). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo (rén, nhân), cụm từ (Wǒ ài nǐ, anh yêu em) mang trong nó ý thức trách nhiệm, cam kết và lòng trung thành rất rõ nét. Thay vì thường xuyên nói "Anh yêu em" như trong một số xã hội phương Tây, người Trung Quốc thường thể hiện cảm xúc yêu thương theo cách giản dị hơn. Do đó, "Anh thích em" (, Wǒ xǐhuan nǐ) là một cách phổ biến hơn để thể hiện tình cảm trong tiếng Trung; nó vui tươi hơn và ít nghiêm trọng hơn. Điều này cũng đúng trong tiếng Nhật (suki da, ).
Nhật Bản
Ngôn ngữ Nhật Bản sử dụng ba từ để truyền đạt tiếng Anh tương đương với "tình yêu". Bởi vì "tình yêu" bao trùm một loạt các cảm xúc và hiện tượng hành vi, có nhiều sắc thái phân biệt ba thuật ngữ. Thuật ngữ , thường được liên kết với tình mẫu tử hoặc tình yêu vị tha, ban đầu được gọi là vẻ đẹp và thường được sử dụng trong bối cảnh tôn giáo. Sau cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868, thuật ngữ này đã gắn liền với "tình yêu" để dịch văn học phương Tây. Trước ảnh hưởng của phương Tây, từ thường thể hiện tình yêu lãng mạn, và thường là đối tượng của bộ sưu tập thơ Nhật Bản phổ biến Man'yōshū. Koi mô tả sự mong muốn một người khác giới và thường được hiểu là có tính ích kỷ. Nguồn gốc của thuật ngữ này xuất phát từ khái niệm cô đơn là kết quả của sự xa cách với người mình yêu thương. Mặc dù việc sử dụng từ koi hiện đại tập trung vào tình yêu và sự mê đắm tình dục, Manyō đã sử dụng thuật ngữ này để đề cập đến một loạt các tình huống, bao gồm sự dịu dàng, lòng nhân từ và ham muốn vật chất. Thuật ngữ thứ ba, , là một cấu trúc hiện đại hơn, kết hợp các ký tự kanji cho cả ai và koi, mặc dù cách sử dụng của nó gần giống với koi dưới dạng tình yêu lãng mạn.
Ấn Độ
Trong văn học đương đại, kama thường đề cập đến ham muốn tình dục. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng đề cập đến bất kỳ sự hưởng thụ cảm giác, sự hấp dẫn cảm xúc và niềm vui thẩm mỹ như từ nghệ thuật, khiêu vũ, âm nhạc, hội họa, điêu khắc và thiên nhiên.
Khái niệm kama được tìm thấy trong một số câu thơ được biết đến sớm nhất trong kinh Vệ đà. Ví dụ, quyển 10 của Rig Veda mô tả việc tạo ra vũ trụ từ hư vô bởi sức nóng lớn. Trong bài thánh ca 129, có ghi:
Ba Tư
Rumi, Hafiz và Sa'di là những biểu tượng của niềm đam mê và tình yêu mà văn hóa và ngôn ngữ Ba Tư thể hiện. Từ trong tiếng Ba Tư cho tình yêu là Ishq, bắt nguồn từ tiếng Ả Rập, tuy nhiên, phần lớn coi từ này là quá khắt khe một thuật ngữ cho tình yêu giữa các cá nhân và thường được thay thế bằng từ "doost dashtan" ("thích"). Trong văn hóa Ba Tư, mọi thứ đều được tình yêu bao bọc và tất cả là vì tình yêu, bắt đầu từ yêu bạn bè và gia đình, chồng và vợ, và cuối cùng đạt đến tình yêu thiêng liêng là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống.
Quan điểm tôn giáo
Tôn giáo Abraham
Do Thái giáo
Trong tiếng Hebrew, (ahava) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất cho cả tình yêu giữa các cá nhân và tình yêu giữa Chúa Trời và các sáng tạo của Chúa Trời. Chesed, thường được dịch là lòng tốt yêu thương, được sử dụng để mô tả nhiều hình thức tình yêu giữa con người.
Điều răn phải yêu thương người khác được đưa ra trong Torah, trong đó tuyên bố:"Hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình" (Leviticus 19:18). Điều răn của Torah là yêu Chúa "bằng cả trái tim, với tất cả tâm hồn và với tất cả sức lực của bạn" (Phục truyền Luật lệ ký 6:5) được Mishnah (một văn bản trung tâm của luật truyền miệng của người Do Thái) đề cập đến những việc tốt, sẵn lòng hy sinh mạng sống của một người thay vì phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng nhất định, sẵn sàng hy sinh tất cả tài sản của mình và biết ơn Chúa bất chấp nghịch cảnh (Berachoth 9:5). Văn học Rabbinic có thấy cách nhìn khác với cách tình yêu này có thể được phát triển, ví dụ, bằng cách suy ngẫm những việc thiêng liêng hoặc chứng kiến những điều kỳ diệu của tự nhiên.
Đối với tình yêu giữa các đối tác hôn nhân, đây được coi là một thành phần thiết yếu cho cuộc sống: "Xem cuộc sống với người vợ mà bạn yêu" (Sách Giảng viên 9:9). Giáo sĩ Do Thái David Wolpe viết rằng "... tình yêu không chỉ là cảm xúc của người đang yêu... Đó là khi một người tin vào một người khác và thể hiện điều đó". Ông nói thêm rằng "... tình yêu... là một cảm giác thể hiện bằng hành động. Những gì chúng ta thực sự cảm thấy được phản ánh trong những gì chúng ta làm." Cuốn sách Kinh thánh Sách Diễm ca được coi là một phép ẩn dụ lãng mạn về tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc của mình, nhưng theo cách đọc đơn giản, nó giống như một bản tình ca. Rabbi Eliyahu Eliezer Dessler của thế kỷ 20 thường được trích dẫn là xác định tình yêu theo quan điểm của người Do Thái là "cho đi mà không mong nhận lại" (từ Michtav me-Eliyahu, Vol. 1).
Kitô giáo
Theo hiểu biết của Kitô giáo, tình yêu đến từ Thiên Chúa. Tình yêu của đàn ông và phụ nữ, eros trong tiếng Hy Lạp và tình yêu không vị kỷ hướng đến người khác (agape), thường được đối lập tương ứng là tình yêu "hướng xuống" và "hướng lên", nhưng cuối cùng lại giống nhau.
Có một số từ Hy Lạp cho "tình yêu" thường được nhắc đến trong giới Kitô giáo.
Agape: Trong Tân Ước, agapē là từ thiện, vị tha, vị tha và vô điều kiện. Đó là tình yêu của cha mẹ, được coi là tạo ra lòng tốt trong thế giới; đó là cách Thiên Chúa được nhìn nhận để yêu thương nhân loại, và nó được coi là loại tình yêu mà các Kitô hữu khao khát dành cho nhau.
Phileo: Cũng được sử dụng trong Tân Ước, phileo là một phản ứng của con người đối với một cái gì đó được tìm thấy là thú vị. Còn được gọi là "tình anh em".
Hai từ còn lại cho tình yêu trong tiếng Hy Lạp, eros (tình yêu nhục dục) và storge (tình cảm của con cái đối với cha mẹ), không bao giờ được sử dụng trong Tân Ước.
Kitô hữu tin rằng yêu Chúa bằng cả trái tim, tâm trí và sức mạnh của mình và yêu người hàng xóm như yêu chính bản thân mình là hai điều quan trọng nhất trong cuộc sống (điều răn lớn nhất của Torah Do Thái, theo Jesus; Phúc âm Máccô chương 12, câu 28-34). Thánh Augustine tóm tắt điều này khi ông viết "Yêu Chúa, và làm như bạn phải làm".
Sứ đồ Phaolô tôn vinh tình yêu là đức tính quan trọng nhất trong tất cả. Mô tả tình yêu theo cách giải thích thơ nổi tiếng trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rinh-tô, ông viết: "Tình yêu là kiên nhẫn, tình yêu là tử tế. Nó không ghen tị, nó không khoe khoang, nó không tự hào. Nó không thô lỗ, nó không tự tìm kiếm, nó không dễ dàng tức giận, nó không có sai lầm. Tình yêu không vui thích với cái ác mà vui mừng với sự thật. Nó luôn bảo vệ, luôn tin tưởng, luôn hy vọng và luôn kiên trì". (1 Côrintô 13: 4-7, NIV)
Sứ đồ Gioan viết: "Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của người xuống, rằng bất cứ ai tin vào Người sẽ không bị diệt vong mà có được sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không gửi Con của Người vào thế gian để kết án thế giới, nhưng để cứu thế giới qua Người". (Gioan 3: 16-17, NIV) Gioan cũng viết: "Các bạn thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu đến từ Thiên Chúa. Mọi người yêu thương đều được Chúa sinh ra và biết Chúa. Ai không yêu thì không biết Chúa, vì Chúa là tình yêu". (1 Gioan 4: 7-8, NIV)
Thánh Augustine nói rằng người ta phải có khả năng giải mã sự khác biệt giữa tình yêu và ham muốn. Đam mê sắc dục theo Saint Augustine, là một sự bội thực, nhưng để yêu và được yêu là điều ông đã tìm kiếm trong suốt cuộc đời mình. Augustinô thậm chí còn nói, tôi đã yêu chính tình yêu. Cuối cùng, ông đã yêu và được Chúa yêu lại. Thánh Augustine nói rằng người duy nhất có thể yêu bạn thực sự và trọn vẹn là Thiên Chúa, bởi vì tình yêu với con người chỉ tạo ra những sai lầm như "ghen tuông, nghi ngờ, sợ hãi, giận dữ và ganh đua". Theo Saint Augustine, yêu Chúa là "đạt được sự bình an vốn là của bạn". (Lời thú tội của Thánh Augustine)
Augustine coi điều răn hai chiều về tình yêu trong Matthew 22 là tâm điểm của đức tin Kitô giáo và sự giải thích của Kinh thánh. Sau khi xem xét học thuyết Kitô giáo, Augustinô xử lý vấn đề tình yêu về mặt sử dụng và hưởng thụ cho đến khi kết thúc quyển I của De Doctrina Christiana (1.22,21-1,40,44;).
Các nhà thần học Kitô giáo xem Thiên Chúa là nguồn gốc của tình yêu, được nhân đôi trong con người và các mối quan hệ yêu thương của chính họ. Nhà thần học Kitô giáo có ảnh hưởng lớn C. S. Lewis đã viết một cuốn sách tên là Bốn yêu thương. Giáo hoàng Benedict XVI viết thư gửi các nhà thờ đầu tiên của mình với tiêu đề Thiên Chúa là tình yêu. Ông nói rằng một con người, được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, vốn là tình yêu, có thể thực hành tình yêu; hiến mình cho Chúa và người khác (agape) và bằng cách nhận và trải nghiệm tình yêu của Chúa trong sự suy ngẫm (eros). Cuộc sống ngập tràn tình yêu này, theo ông, là cuộc sống của các vị thánh như Mẹ Teresa ở Calcutta và Trinh nữ Maria và là hướng đi mà các Kitô hữu thực hiện khi họ tin rằng Chúa yêu họ.
Giáo hoàng Phanxicô đã dạy rằng "Tình yêu đích thực là cả yêu thương và để cho chính mình được yêu thương... điều quan trọng trong tình yêu không phải là tình yêu của chúng ta, mà là cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương". Và vì vậy, trong phân tích của một nhà thần học Công giáo, đối với Giáo hoàng Phanxicô, "chìa khóa của tình yêu... không phải là hoạt động của chúng ta. Đó là hoạt động của nguồn lực lớn nhất và là nguồn gốc của tất cả các quyền lực trong vũ trụ: Chúa Trời".
Trong Kitô giáo, định nghĩa thực tế về tình yêu được Thánh Thomas Aquinô tóm tắt, người đã định nghĩa tình yêu là "sẽ làm điều tốt cho người khác", hoặc mong muốn người khác thành công. Đây là một lời giải thích về nhu cầu của người Kitô hữu để yêu thương người khác, kể cả kẻ thù. Như Thomas Aquinas giải thích, tình yêu Kitô giáo được thúc đẩy bởi nhu cầu nhìn thấy người khác thành công trong cuộc sống, trở thành người tốt.
Về tình yêu dành cho kẻ thù, Giêsu được trích dẫn là đã nói trong Tin mừng Matthew chương năm:
"Bạn đã nghe rằng người ta nói, 'Yêu hàng xóm của bạn và ghét kẻ thù của bạn'. Nhưng tôi nói với bạn, hãy yêu kẻ thù của bạn và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ bạn, rằng bạn có thể là con của Cha trên trời. Cha làm cho mặt trời của mình trỗi dậy trên cái ác và cái thiện, và gửi mưa cho những người công bình và những người bất chính. Nếu bạn yêu những người yêu bạn, bạn sẽ nhận được phần thưởng nào? Thậm chí còn có những người thu thuế làm điều đó. Và nếu bạn chỉ chào hỏi người của bạn, bạn đang làm gì cao hơn những người khác? Thậm chí người ngoại đạo cũng làm điều đó. Do đó, hãy trở nên hoàn hảo, vì Cha trên trời của bạn là hoàn hảo." - Matthew 5: 43-48.
Nhắc nhở mọi người hãy yêu bằng sự tha thứ, Giêsu đã cứu một phụ nữ ngoại tình thoát khỏi việc bị ném đá. Luật Môi-se được phản ánh trong Sách luật Deuteronomy 22: 22-24, cho thấy thế giới của những kẻ giả nhân giả nghĩa cần tình yêu mang tính tha thứ: "Nếu một người đàn ông bị phát hiện ngủ với một người phụ nữ có chồng, thì cả hai sẽ chết - người đàn ông ngủ với người phụ nữ và người phụ nữ, vì vậy bạn sẽ loại cái xấu khỏi Israel. Nếu một phụ nữ trẻ còn trinh được hứa hôn với một người chồng và một người đàn ông ngủ với cô ấy, thì bạn sẽ mang cả hai ra ngoài cổng thành phố đó, và bạn sẽ ném đá họ đến chết, ném đá người phụ nữ trẻ vì cô không khóc trong thành phố, và ném đá người đàn ông vì anh ta hạ nhục vợ người hàng xóm; vì vậy bạn sẽ loại bỏ cái xấu ra khỏi chính bản thân bạn."
Tertullian đã viết về tình yêu dành cho kẻ thù: "Lòng tốt cá nhân, phi thường và hoàn hảo của chúng ta bao gồm việc yêu thương kẻ thù. Yêu bạn bè là một thói quen phổ biến, yêu kẻ thù là một việc chỉ có những người theo Kitô giáo làm."
Hồi giáo
Tình yêu bao bọc quan điểm Hồi giáo về cuộc sống như tình anh em phổ quát áp dụng cho tất cả những ai nắm giữ đức tin. Trong số 99 tên của Thiên Chúa (Allah), có tên Al-Wadud, hay "Người yêu thương", được tìm thấy trong Surah cũng như Surah . Thiên Chúa cũng được nhắc đến ở đầu mỗi chương trong Qur'an là Ar-Rahman và Ar-Rahim, hay "Từ bi nhất" và "Thương xót nhất", cho thấy rằng không ai yêu thương, nhân ái và nhân từ hơn Thiên Chúa. Qur'an (Coran) nói đến Thiên Chúa là "đầy lòng nhân ái".
Qur'an khuyến khích các tín đồ Hồi giáo đối xử với tất cả mọi người, những người không bắt bớ họ, bằng birr hoặc "lòng tốt sâu sắc" như đã nêu trong Surah . Birr cũng được Qur'an sử dụng để mô tả tình yêu và lòng tốt mà trẻ em phải thể hiện với cha mẹ.
Ishq, hay tình yêu thiêng liêng, là điểm nhấn của Sufi giáo trong truyền thống Hồi giáo. Các tín đồ Sufi giáo tin rằng tình yêu là sự phóng chiếu bản chất của Thiên Chúa lên vũ trụ. Thiên Chúa mong muốn nhận ra vẻ đẹp, và như thể người ta nhìn vào gương để thấy chính mình, Thiên Chúa "nhìn" chính mình trong sự năng động của tự nhiên. Vì tất cả mọi thứ là sự phản ánh của Thiên Chúa, Sufi giáo nỗ lực để thấy vẻ đẹp bên trong của những gì thấy xấu xí bên ngoài. Sufi giáo thường được gọi là tôn giáo của tình yêu. Thiên Chúa trong Sufi giáo được nhắc đến trong ba thuật ngữ chính, đó là Người tình, Người được yêu và Người được yêu say đắm, với thuật ngữ cuối cùng thường thấy trong thơ Sufi. Một quan điểm phổ biến của Sufi giáo là thông qua tình yêu, loài người có thể lấy lại sự thuần khiết và ân sủng vốn có của nó. Các vị thánh của Sufi giáo nổi tiếng vì "say sưa" với tình yêu của Thiên Chúa; do đó, thường xuyên có các ám chỉ đến rượu vang trong thơ và nhạc Sufi.
Baha'i giáo
Trong quyển sách Những Bài Giảng Của Đức Abdul-Baha Tại Paris, `Abdu'l-Bahá mô tả bốn loại tình yêu: tình yêu tuôn chảy từ Thiên Chúa sang con người; tình yêu tuôn chảy từ con người đến Thiên Chúa; tình yêu của Thiên Chúa đối với Bản ngã hoặc Bản sắc của Thiên Chúa; và tình yêu của con người dành cho con người.
Các tôn giáo Ấn Độ
Phật giáo
Trong Phật giáo, Kāma là tình yêu về mặt cảm giác, tình dục. Đó là một trở ngại trên con đường dẫn đến giác ngộ, vì nó là ích kỷ. Karuṇā là từ bi và thương xót, làm giảm bớt đau khổ của người khác. Nó là bổ sung cho trí tuệ và cần thiết cho sự giác ngộ. Adveṣa và mettā là tình yêu nhân từ. Tình yêu này là vô điều kiện và đòi hỏi sự chấp nhận bản thân đáng kể. Điều này khá khác biệt với tình yêu thông thường, thường là chỉ sự gắn bó và tình dục và hiếm khi xảy ra mà không có lợi cho bản thân. Thay vào đó, trong Phật giáo, advesa và metta đề cập đến sự tách rời và sự quan tâm không mang tính ích kỷ đối với người khác.
Lý tưởng Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa liên quan đến việc từ bỏ hoàn toàn chính mình để gánh lấy gánh nặng của một thế giới đang đau khổ. Động lực mạnh mẽ nhất mà người ta có để đi theo con đường của Bồ tát là ý tưởng cứu rỗi trong tình yêu vị tha, quên mình cho tất cả chúng sinh.
Ấn Độ giáo
Trong Ấn Độ giáo, kāma là thú vui, tình yêu, được nhân cách hóa bởi vị thần Kamadeva. Đối với nhiều trường phái Hindu, đó là cách kết thúc thứ ba (Kama) trong cuộc đời. Kamadeva thường được mô tả cầm một cây cung làm từ cây mía và một mũi tên làm từ hoa; thần có thể cưỡi trên một con vẹt lớn. Kamadeva thường đi cùng với người phối ngẫu Rati và người bạn đồng hành Vasanta, chúa tể của mùa xuân. Hình ảnh trên đá của Kamadeva và Rati có thể được nhìn thấy trên cửa của ngôi đền Chennakeshava tại Belur, ở Karnataka, Ấn Độ. Maara là tên gọi khác của kāma.
Trái ngược với kāma, premahoặc Premđề cập đến tình yêu nâng cao. Karuna là lòng trắc ẩn và lòng thương xót, thúc đẩy một người giúp giảm bớt đau khổ của người khác. Bhakti là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là "lòng sùng kính yêu thương đối với Thiên Chúa tối cao". Một người thực hành bhakti được gọi là bhakta. Các nhà văn, nhà thần học và triết gia Ấn Độ giáo đã phân biệt chín hình thức bhakti, có thể được tìm thấy trong Bhagavata Purana và các tác phẩm của Tulsidas. Tác phẩm triết học Narada Bhakti Sutras, được một tác giả vô danh (được nhận định là Narada) viết ra, trong đó phân biệt mười một hình thức của tình yêu. |
Tự nhiên hay thiên nhiên (), theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch rời khỏi những hiện tượng tự nhiên.
Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, "tự nhiên" cũng nhắc đến địa chất và thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau, và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác – cách mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên. Khi hiểu theo nghĩa là "môi trường tự nhiên" hoặc vùng hoang dã – động vật hoang dã, đá, rừng, bờ biển, và nói chung những thứ không bị tác động của con người thay đổi hoặc phản kháng trước những tác động của con người. Ví dụ, các sản phẩm được sản xuất hoặc có tác động bởi con người nói chung sẽ không được coi là thuộc về tự nhiên, trừ khi được định nghĩa thành những lớp lang phù hợp, ví dụ, "bản chất con người" (nhân tính) hay "toàn thể tự nhiên". Khái niệm truyền thống này về các vật tự nhiên mà đôi khi ngày nay vẫn sử dụng hàm ý sự phân biệt giữa thế giới tự nhiên và nhân tạo, với những thứ nhân tạo được ngầm hiểu từ tâm thức hoặc tư duy của con người. Phụ thuộc vào từng ngữ cảnh, thuật ngữ "tự nhiên" cũng có thể khác hẳn với từ "không tự nhiên" hay "siêu nhiên".
Từ nguyên
Tiếng Anh
Từ nature có nguồn gốc từ natura trong tiếng Latin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở". Natura trong tiếng Latin là dịch từ physis (φύσις) trong tiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại. Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trước Sokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển của phương pháp khoa học hiện đại trong vài thế kỷ qua.
Trái Đất
Trái Đất là hành tinh duy nhất hiện đã được biết là có hỗ trợ cho sự sống, và các đặc điểm tự nhiên của nó là đối tượng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Trong hệ Mặt Trời, Trái Đất là hành tinh gần Mặt Trời thứ 3; là hành tinh đất đá lớn nhất và là hành tinh lớn thứ 5 trong 8 hành tinh. Đặc điểm khí hậu nổi bật nhất của nó là hai vùng cực rộng lớn, hai đới ôn hòa tương đối hẹp và một vùng trải rộng từ nhiệt đới xích đạo đến cận nhiệt đới. Giáng thủy biến thiên rộng tùy theo vị trí, từ vài met mỗi năm đến ít hơn một milimet. 71% bề mặt Trái Đất là nước mặn, phần còn lại là các lục địa và đảo, với hầu hết con người định cư ở những vùng đất thuộc Bắc Bán cầu.
Trái Đất tiến hóa qua các quá trình sinh học và địa chất đã để lại các dấu vết của những môi trường nguyên thủy. Bề mặt Trái Đất được chia thành các mảng kiến tạo chuyển dịch chầm chậm. Phần bên trong hành tinh vẫn còn hoạt động với một lớp dày được gọi là manti và lõi sắt trong cùng tạo ra một từ trường. Lõi sắt này bao gồm một pha rắn ở trong và một pha lỏng ở ngoài. Sự chuyển động đối lưu trong lõi tạo nên những dòng điện tử thông qua những hoạt động xuất điện, và hình thành nên từ trường Trái Đất.
Các đặc tính khí quyển hiện tại đã thay đổi đáng kể so với môi trường sơ khai do sự hiện diện của các dạng sống, chúng tạo nên sự cân bằng sinh thái, giúp ổn định môi trường bề mặt. Mặc cho những biến động khí hậu trên một khu vực rộng dọc theo vĩ độ và các yếu tố địa lý khác, khí hậu trung bình dài hạn toàn cầu là khá ổn định trong thời kỳ gian băng, và những biến đổi về mức độ hoặc nhiệt độ toàn cầu trung bình trong lịch sử đã tạo ra những ảnh hưởng chính yếu đối với cân bằng sinh thái và địa lý hiện thời của Trái Đất.
Địa chất
Địa chất học là ngành khoa học nghiên cứu về vật chất rắn và lỏng cấu tạo nên Trái Đất. Lĩnh vực địa chất bao gồm việc nghiên cứu về thành phần, cấu tạo, thuộc tính vật lý, động lực và lịch sử của các vật liệu trên Trái Đất và các quá trình mà các vật liệu này được hình thành, di chuyển và biến đổi. Địa chất học là một trường học thuật chính, và cũng rất quan trọng trong khai thác mỏ, dầu khí, những kiến thức về các tai biến thiên nhiên và những giải pháp giảm thiểu các tai biến này, các lĩnh vực địa kỹ thuật, và hiểu về cổ khí hậu và cổ môi trường.
Tiến hóa địa chất
Địa chất của một khu vực liên quan đến thời gian các đơn vị đá kết tụ và đệm chèn, và quá trình biến dạng làm thay đổi hình dạng và vị trí tồn tại ban đầu của chúng.
Các đơn vị đá đầu tiên được hình thành bằng cách tích tụ trên bề mặt hoặc xâm nhập vào các đá có trước. Sự tích tụ xảy ra khi trầm tích lắng đọng trên bề mặt Trái Đất và sau đó biến thành đá tạo thành đá trầm tích, hoặc khi vật liệu núi lửa phun lên ở dạng tro núi lửa hoặc dòng dung nham phủ trên bề mặt. Những loại đá macma xâm nhập như batholith (thể nền), laccolith (thể nấm), dike (thể mạch), và sill, làm đẩy các lớp đá bên trên lên và kết tinh khi chúng xâm nhập vào.
Sau khi lớp đá được hình thành hay tích tụ, các đơn vị đá có thể bị biến dạng hoặc biến chất. Sự biến dạng làm cho các lớp nằm ngang co lại, hoặc kéo giãn ra hoặc di chuyển dọc theo nhau giữa hai phần của đứt gãy. Những cơ chế cấu trúc này liên quan đến các ranh giới hội tụ, ranh giới tách giãn và ranh giới chuyển dạng giữa các mảng kiến tạo.
Quan điểm lịch sử
Trái Đất ước tính được hình thành cách đây 4,54 tỉ năm từ tinh vân Mặt Trời, cùng với Mặt Trời và các hành tinh khác. Mặt Trăng được hình thành khoảng 20 triệu năm sau đó. Ban đầu Trái Đất ở dạng nóng chảy, lớp ngoài cùng của hành tinh nguội dần rồi tạo thành vỏ rắn. Các khí thoát ra và hoạt động núi lửa tạo nên bầu khí quyển nguyên thủy. Phần lớn hoặc tất cả hơi nước ngưng tụ đến từ băng được sao chổi mang đến, tạo ra các đại dương và những nguồn nước khác. Môi trường hóa học năng lượng cao được cho là đã tạo ra các phân tử tự sao chép khoảng 4 tỉ năm về trước.
Các lục địa được hình thành, rồi sau đó vỡ ra và tái sáp nhập thành bề mặt Trái Đất trải qua hàng trăm triệu năm, đôi khi kết hợp với nhau tạo thành các siêu lục địa. Khoảng 750 triệu năm trước, siêu lục địa đầu tiên có tên Rodinia bắt đầu vỡ ra. Các lục địa sau đó kết hợp lại tạo thành Pannotia, lục địa này sau đó tiếp tục vỡ ra vào khoảng 540 triệu năm trước, sau cùng thì sáp nhập tạo thành Pangaea, rồi lại vỡ ra vào khoảng 180 triệu năm trước.
Có bằng chứng rõ ràng về hoạt động băng hà trong suốt Đại Tân Nguyên sinh (Neoproterozoic), băng đã bao phủ phần lớn hành tinh, trong những sông băng và tảng băng. Giả thiết này được gọi là "Quả cầu tuyết Trái Đất", và nó được đặc biệt quan tâm khi nó có trước sự kiện bùng nổ kỷ Cambri mà theo đó các dạng sống đa bào bắt đầu sinh sôi nảy nở khoảng 530–540 triệu năm trước.
Kể từ vụ bùng nổ kỷ Cambri đã có 5 sự kiện tuyệt chủng lớn. Vụ tuyệt chủng lớn gần đây nhất xảy ra vào khoảng 66 triệu năm trước, khi một thiên thạch có lẽ đã va chạm vào Trái Đất làm tuyệt chủng các loài khủng long phi chim và các loài bò sát lớn khác, ngoại trừ những loài động vật nhỏ như động vật có vú. Và hơn 66 triệu năm qua, lớp thú đã tiến hành đa dạng hóa chủng loài.
Kỷ nguyên hiện tại được xem là một phần của sự kiện tuyệt chủng lớn có tên gọi là tuyệt chủng Holocen, đây là thời kỳ tuyệt chủng nhanh chưa từng thấy. Một số tác giả như E. O. Wilson thuộc Đại học Harvard, dự đoán rằng sự phá hoại sinh quyển của con người có thể là nguyên nhân làm tuyệt chủng phân nửa các loài trên Trái Đất trong vòng 100 năm tới. Phạm vi của sự tuyệt chủng hiện tại vẫn đang được nghiên cứu, vẫn còn tranh cãi và tính toán của các nhà sinh học.
Khí quyển, khí hậu, và thời tiết
Khí quyển Trái Đất là yếu tố quan trọng nhằm duy trì hệ sinh thái của hành tinh. Lớp khí mỏng bao bọc Trái Đất được giữ bởi trọng lực của Trái Đất. Không khí khô bao gồm 78% nitơ, 21% oxy, 1% argon và các khí trơ khác, cacbon dioxide...; nhưng không khí cũng chứa một lượng đáng kể hơi nước. Áp suất khí quyển giảm từ từ theo cao độ, và tồn tại trong khoảng khoảng 8 km từ bề mặt Trái Đất: độ cao mà áp suất khí quyển giảm theo hằng số e (hằng số toán học tương đương 2,71...). Tầng ozon của khí quyển Trái Đất có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tia cực tím đến bề mặt Trái Đất. Vì DNA dễ bị hủy hoại bởi các tia UV, nên tầng này giúp bảo vệ sự sống tại bề mặt. Khí quyển cũng giúp duy trì nhiệt vào ban đêm, và giảm nhiệt độ cực nóng vào ban ngày.
Thời tiết trên mặt đất xuất hiện hầu hết ở phần dưới của khí quyển, và có vai trò là hệ đối lưu trong việc tái phân phối nhiệt. Các dòng hải lưu là nhân tố quan trọng khác trong việc xác định khí hậu, đặc biệt là các dòng tuần hoàn muối nhiệt chính dưới nước có vai trò quan trọng trong việc phân phối năng lượng nhiệt trong các đại dương ở xích đạo đến các vùng cực. Các dòng hải lưu này giúp điều hòa sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè ở các vùng ôn đới. Cũng thế, do không có sự tái phân bố năng lượng nhiệt của các dòng hải lưu và khí quyển, nên các vùng nhiệt đới sẽ nóng hơn, và vùng cực lạnh hơn.
Thời tiết có thể có những ảnh hưởng tốt và xấu. Thời tiết cực đoan như vòi rồng, bão nhiệt đới và lốc xoáy, có thể tiêu tốn phần lớn năng lượng trên đường đi của chúng và gây tàn phá. Thảm thực vật trên bề mặt phát triển phụ thuộc vào sự biến động của thời tiết theo mùa, và những thay đổi bất ngờ chỉ trong vài năm có thể ảnh hưởng rất lớn đến thảm thực vật này và cả những động vật sống phụ thuộc vào nó để kiếm ăn.
Khí hậu Trái Đất là thước đo về xu hướng diễn biến trong thời gian dài của khí thời tiết. Nhiều yếu tố khác nhau được cho là ảnh hưởng đến khí hậu như hải lưu, suất phản chiếu bề mặt, khí nhà kính, thay đổi độ chiếu sáng của Mặt Trời, và những thay đổi về quỹ đạo của hành tinh. Dựa trên những dữ liệu lịch sử, Trái Đất từng trải qua những lần biến đổi khí hậu mạnh mẽ trong quá khứ như các thời kỳ băng hà.
Khí hậu của một khu vực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là vĩ độ. Dải vĩ độ của một bề mặt với các đặc điểm khí hậu tương tự tạo thành một vùng khí hậu. Trên Trái Đất người ta chia thành một số vùng khí hậu từ khí hậu nhiệt đới ở xích đạo đến khí hậu vùng cực ở cực bắc và nam. Thời tiết cũng chịu ảnh hưởng theo mùa là kết quả của sự nghiêng của trục Trái Đất so với mặt phẳng quỹ đạo. Vì vậy, tại một thời điểm trong năm trong mùa hè hoặc đông, một phần của hành tinh sẽ hướng thẳng vào các tia bức xạ của Mặt Trời. Sự tiếp xúc này thay đổi luân phiên khi Trái Đất xoay quanh quỹ đạo của nó. Vào bất kỳ thời điểm nào, bất kể mùa, bán cầu bắc và nam đều có các mùa trái ngược nhau.
Thời tiết là một hệ hỗn loạn dễ dàng bị thay đổi theo môi trường, vì vậy việc dự báo thời tiết chính xác hiện còn bị giới hạn chỉ trong vòng vài ngày. Nhìn chung có hai điều đang diễn ra trên toàn cầu: (1) nhiệt độ đang tăng tính theo giá trị trung bình; và (2) khí hậu khu vực đang trải qua những biến đổi rõ rệt.
Nước trên Trái Đất
Nước là một hợp chất hóa học được cấu tạo từ hydro và oxy và là nguồn sống thiết yếu cho tất cả sinh vật. Ở dạng sử dụng thông thường, nước được xem chỉ ở dạng lỏng hoặc trạng thái lỏng, nhưng nước cũng có thể tồn tại ở trạng thái rắn, băng và khí như hơi nước. Nước bao phủ 71% bề mặt Trái Đất. Trên Trái Đất, nước phân bố chủ yếu trong các đại dương và các vực nước lớn khác, chỉ có 1,6% tồn tại trong các tầng chứa nước và 0,001% trong khí quyển ở dạng hơi, mây và hoạt động giáng thủy. Các đại dương chiếm giữ 97% nước mặt, sông băng và chỏm băng ở hai cực chiếm 2,4%, và các dạng nước mặt khác trong sông, hồ và ao chiếm 0,6%. Ngoài ra, còn một lượng nhỏ nước trên Trái Đất tồn tại trong các cơ thể sinh học và những sản phẩm tổng hợp.
Đại dương
Đại dương là vực chứa nước mặn lớn, và là thành phần cơ bản của thủy quyển. Khoảng 71% bề mặt Trái Đất (một vùng trải rộng với diện tích 361 triệu kilomet vuông) được bao phủ bởi đại dương. Các đại dương là các vực nước liên tục, thông thường được chia thành các đại dương chính và các biển nhỏ hơn. Hơn phân nửa khu vực này có độ sâu hơn 3.000 mét. Độ mặn trung bình của đại dương khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%), và gần như toàn bộ nước biển có độ mặn dao động trong khoảng 30 đến 38 ppt. Nhìn chung thì các đại dương được xem là 'tách biệt', nhưng những vùng nước này lại liên kết với nhau tạo nên một đại dương toàn cầu. Khái niệm về đại dương toàn cầu đề cập đến một vực nước liên tục với khả năng trao đổi tương đối tự do giữa các thành phần quan trọng của nó trong hải dương học.
Sự phân chia những đại dương chính được xác định một phần bởi các lục địa, nhiều quần đảo, và các tiêu chí khác: kết quả của sự phân chia (thứ tự giảm dần theo diện tích), gồm: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Băng Dương và Bắc Băng Dương. Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là biển, vịnh, và các tên gọi khác. Cũng có từ hồ muối dùng để chỉ các vực nước nhỏ hơn không được liên kết với các đại dương mà chứa nước mặn, ví dụ như biển Aral và hồ Muối Lớn.
Hồ
Hồ là một vực chứa nước trên bề mặt đất nằm ngay trung tâm của một bồn trũng. Trên Trái Đất, vực nước được xem là hồ khi nó nằm trên đất liền, không có phần nào liên quan đến đại dương, nó sâu hơn và rộng hơn ao, và được sông cung cấp nước. Một thiên thể duy nhất ngoài Trái Đất được biết đang ẩn náu các hồ là Titan, vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, có những hồ chứa etan và đa phần có thể còn pha trộn thêm metan. Dù bề mặt Titan bị chia cắt bởi một lượng lớn đáy sông, nhưng không thể biết được các hồ của Titan có được các sông này chu cấp hay không. Các hồ tự nhiên trên Trái Đất thường được tìm thấy ở các vùng núi, đới tách giãn, và các vùng có băng hà gần đây. Các dạng hồ khác được tìm thấy trong các lòng chảo nội lục hoặc dọc theo các đoạn sông trưởng thành. Ở nhiều nơi trên thế giới, có nhiều hồ là do các kiểu thoát nước hỗn tạp tồn tại từ thời kỳ băng hà gần đây nhất. Tất cả các hồ tồn tại một cách tương đối theo thời gian địa chất, vì chúng sẽ bị lấp đầy chầm chậm bởi trầm tích hoặc tràn ra khỏi lưu vực chứa nó.
Ao
Ao là một vực nước đứng (không chuyển động), tự nhiên hoặc nhân tạo, thường nhỏ hơn hồ. Nhiều kiểu vực nước nhân tạo kích thước khác nhau cũng được xếp vào ao, như các vườn nước được thiết kế cho nghệ thuật trang trí thẩm mỹ, ao cá cho việc nuôi cá, và ao năng lượng được thiết kế cho việc trữ nhiệt. Ao và hồ được phân biệt với các suối thông qua vận tốc dòng chảy. Trong khi các dòng chảy trong suối dễ dàng quan sát, thì ao và hồ có các vi dòng chảy được điều khiển bởi các dòng nhiệt và những cơn gió thoảng nhẹ. Đây chính là những đặc điểm phân biệt ao với nhiều vùng đất ngập nước khác, như vũng suối và bể thủy triều.
Sông
Sông là một nguồn nước tự nhiên, thường là nước ngọt, chảy vào đại dương, hồ, biển hoặc một sông khác. Trong vài trường hợp, sông chảy ngầm dưới đất hoặc bị khô hoàn toàn trước khi đổ vào một vực nước khác. Các sông nhỏ có thể được gọi với nhiều tên gọi khác nhau, như: suối, kênh, rạch, ngòi, lạch; không có nguyên tắc chung để định nghĩa thế nào là con sông. Nhiều tên gọi cho các sông nhỏ cũng tùy theo vị trí địa lý; ví dụ như Burn ở Scotland và Đông Bắc Anh. Đôi khi sông được cho là lớn hơn một con lạch, nhưng không phải lúc nào cũng đúng trong mọi trường hợp, còn tùy vào những ý ngẫm mơ hồ của ngôn ngữ. Sông là một phần của chu trình nước. Nước trong sông thường tụ lại từ hoạt động giáng thủy chảy tràn trên bề mặt, xuất lộ của nước ngầm, suối, và giải phóng từ các dạng chứa nước khác trong tự nhiên như băng tuyết, sông băng.
Suối
Suối là một vực nước chảy được xác định trong giới hạn của đáy và bờ suối. Hoa Kỳ định nghĩa suối là vực nước có bề rộng nhỏ hơn 18 met. Suối đóng vai trò quan trọng là mao dẫn của vòng tuần hoàn nước, công cụ của bổ cấp nước ngầm, và là hành lang cho cá và các loài động vật hoang dã di cư. Những cảnh quan sinh học lân cận dòng suối được gọi là vùng ven. Với hiện trạng đang diễn ra về tuyệt chủng Holocen, các dòng suối đóng vai trò quan trọng như một hành lang liên kết các môi sinh bị chia cắt và những vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học. Nghiên cứu về suối và vực nước nhìn chung liên quan đến nhiều nhánh liên ngành của khoa học tự nhiên và kỹ thuật như thủy văn học, địa mạo bồi tích, thủy sinh thái học, ngư sinh thái học, ven sinh thái học, v.v.
Hệ sinh thái
Hệ sinh thái được cấu thành bởi các thành phần vô sinh và hữu sinh tương tác với nhau. Cấu trúc và thành phần được xác định bởi nhiều yếu tố môi trường tương quan. Những biến đổi về các yếu tố này sẽ khơi mào những thay đổi động lực đến các hệ sinh thái. Một số thành phần quan trọng hơn là đất, khí quyển, bức xạ mặt trời, nước và các sinh vật sống.
Trung tâm của khái niệm hệ sinh thái là ý tưởng về các sinh vật sống tương tác với các yếu tố khác trong môi trường mà chúng sống. Eugene Odum, một nhà sáng lập của sinh thái học nhận định rằng: "Bất cứ thành tố nào bao gồm tất cả sinh vật (như: "quần xã") của một khu vực cho trước tương tác với môi trường vật lý cũng chính là dòng chảy năng lượng dẫn đến sự xác định rõ ràng cơ cấu dinh dưỡng, đa dạng sinh học và các chu trình vật chất (như: trao đổi vật chất giữa những phần vô sinh và hữu sinh) trong hệ thống của một hệ sinh thái." Bên trong hệ sinh thái, các loài có quan hệ với nhau và phụ thuộc nhau qua chuỗi thức ăn, và trao đổi năng lượng và vật chất giữa chúng với nhau cũng như với môi trường mà chúng sinh sống. Khái niệm hệ sinh thái con người căn cứ vào sự giải tỏa cấu trúc giữa hai mặt đối lập loài người/tự nhiên và tiên đề về sự hòa hợp sinh thái giữa tất cả sinh vật, cũng như với những thành phần vô sinh trong sinh cảnh của chúng ta.
Các đơn vị nhỏ hơn của hệ sinh thái được gọi là vi hệ sinh thái. Ví dụ, vi hệ sinh thái có thể là hòn đá và tất cả sinh vật sống bên dưới nó. Một đại hệ sinh thái có thể liên quan đến toàn bộ vùng sinh thái cùng lưu vực của nó.
Vùng hoang dã
Vùng hoang dã được định nghĩa chung là những khu vực không có sự tác động đáng kể bởi các hoạt động của con người. Quỹ WILD đưa ra định nghĩa chi tiết hơn đó là "những khu vực hoang dã tự nhiên không bị xáo động, nguyên vẹn nhất còn lại trên hành tinh của chúng ta – những nơi hoang dã thực sự cuối cùng mà con người không kiểm soát và đã không phát triển với đường giao thông, đường ống dẫn hoặc cơ sở hạ tầng công nghiệp khác". Các vùng hoang dã có thể được tìm thấy trong các khu bảo tồn, điền trang, nông trang, trại chăn nuôi, rừng quốc gia, vườn quốc gia và thậm chí là những vùng đô thị dọc theo sông ngòi, khe sâu và các vùng chưa phát triển khác. Các vùng hoang dã và công viên được bảo vệ được xem là thành phần quan trọng đối với sự sống còn của một số loài nhất định, là nơi nghiên cứu về sinh thái học, bảo tồn, tĩnh tâm và tiêu khiển. Nhiều nhà văn viết về tự nhiên tin rằng các vùng hoang dã là cần thiết cho tinh thần và sự sáng tạo của con người, và các nhà sinh thái học xem các vùng hoang dã là một phần của hệ sinh thái tự nhiên tự duy trì trên Trái Đất (sinh quyển). Chúng cũng có thể bảo tồn những đặc điểm di truyền lịch sử và từ đó cung cấp môi trường sống cho các hệ động và thực vật hoang dã mà khó có thể tạo ra trong phòng thí nghiệm, vườn ươm cây hay vườn bách thú.
Sự sống
Mặc dù chưa có sự đồng thuận nào về định nghĩa của sự sống trên toàn cầu nhưng các nhà khoa học nhìn chung chấp nhận khái niệm rằng biểu hiện sinh học của sự sống được đặc trưng bởi tổ chức sinh vật, trao đổi chất, sinh trưởng, thích nghi, phản ứng lại kích thích và sinh sản. Sự sống cũng có thể được định nghĩa đơn giản bằng trạng thái tính chất của các sinh vật.
Đặc điểm chung của sinh vật trên cạn (thực vật, động vật, nấm, sinh vật nguyên sinh, vi khuẩn cổ và vi khuẩn) là các tế bào, các tổ chức phức tạp được hình thành trên cơ sở cacbon-và-nước, có sự trao đổi chất, có khả năng sinh trưởng phát triển, phản ứng lại các kích thích và sinh sản. Một thực thể có những đặc điểm này nhìn chung được gọi là sự sống. Tuy nhiên, không phải tất cả định nghĩa về sự sống xem tất cả những tính chất trên là cần thiết. Sự sống nhân tạo cũng có thể được xem là sự sống.
Sinh quyển là phần lớp vỏ bao bọc bên ngoài của Trái Đất – bao gồm đất, bề mặt đá, nước, không khí và khí quyển – bên trong đó có sự sống, và các quá trình sinh học lần lượt thay thế hoặc biến đổi. Trên quan điểm địa sinh lý học, sinh quyển là một hệ sinh thái toàn cầu tích hợp tất cả dạng sống và các mối quan hệ giữa chúng, bao gồm sự tương tác giữa chúng với các thành tố như thạch quyển (đá), thủy quyển (nước) và khí quyển (khí). Hiện tại toàn bộ Trái Đất chứa hơn 75 tỉ tấn (khoảng 6,8×1013 kg) sinh khối, trong đó các loài sống ở nhiều môi trường khác nhau trong sinh quyển.Hơn 9/10 tổng sinh khối trên Trái Đất là thực vật sống mà động vật sống phụ thuộc phần lớn vào nó để tồn tại. Hơn 2 triệu loài động và thực vật sống đã được xác định, và ước tính số lượng loài hiện có từ vài triệu đến hơn 50 triệu. Số cá thể của các loài là không đổi ở các cấp thông lượng khác nhau, với các loài mới xuất hiện và các loài khác bị xóa bỏ trên cơ sở liên tục. Tổng số loài hiện đang giảm một cách nhanh chóng.
Tiến hóa
Sự sống được biết là chỉ tồn tại trên Trái Đất. Nguồn gốc sự sống là một quá trình mà con người vẫn chưa hiểu rõ, nhưng nó được cho rằng đã tồn tại từ cách đây ít nhất 3,5 tỉ năm vào liên đại Hỏa thành hoặc liên đại Thái cổ trên Trái Đất nguyên thủy có môi trường khác rất nhiều so với hiện nay. Các dạng sống này sở hữu các đặc điểm cơ bản về quá trình tự sao chép và đặc điểm di truyền. Khi sự sống xuất hiện, quá trình tiến hóa bằng cách chọn lọc tự nhiên đã tạo ra sự phát triển đa dạng sự sống chưa từng có.
Những loài không thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường và sự cạnh tranh của các loài khác thì chúng bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, những hóa thạch lưu giữ những bằng chứng về nhiều loài cổ hơn. Bằng chứng hóa thạch và DNA hiện tại cho thấy tất cả các loài tồn tại có thể có tổ tiên phát triển liên tục từ các dạng sống nguyên thủy đầu tiên.
Sự xuất hiện quá trình quang hợp trong những dạng rất cơ bản của thực vật sống trên khắp Trái Đất đã giúp hấp thụ lượng lớn năng lượng mặt trời để tạo nên điều kiện môi trường cho những dạng sống phức tạp hơn. Sự tích tụ oxy trong khí quyển và dẫn đến sự hình thành tầng ozon. Sự kết hợp các tế bào nhỏ hơn thành các tập đoàn lớn đã tạo ra sự phát triển của các tế bào phức tạp hơn được gọi là sinh vật nhân thực. Các tế bào trong các tập đoàn được biệt hóa mạnh hơn, tạo ra các sinh vật đa bào. Cùng với việc tầng ozon hấp thụ các tia cực tím đã giúp cho các sinh vật có thể định cư được trên bề mặt Trái Đất.
Vi sinh vật
Dạng sống đầu tiên phát triển trên Trái Đất là các vi sinh vật, và chúng vẫn giữ nguyên kiểu hình trên hành tinh này qua hàng tỉ năm khi các sinh vật đa bào bắt đầu xuất hiện. Các vi sinh vật là các sinh vật đơn bào thường có kích thước rất nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy. Chúng bao gồm vi khuẩn, nấm, vi khuẩn cổ và sinh vật nguyên sinh.
Các dạng sống này được phát hiện ở khắp nơi trên Trái Đất nơi có nước lỏng, bao gồm cả cấu trúc bên trong Trái Đất. Sự sinh sản của chúng nhanh chóng và nhiều. Sự kết hợp của tốc độ đột biến và vận chuyển ngang gen cao có khả năng giúp chúng thích nghi cao và có thể sống sót trong các môi trường mới bao gồm cả ngoài không gian. Chúng là một phần thiết yếu của hệ sinh thái trên Trái Đất. Tuy nhiên, nhiều vi sinh vật là tác nhân gây hại đối với sức khỏe của nhiều loài khác.
Thực vật và động vật
Ban đầu Aristotle chia tất cả sinh vật sống thành thực vật và động vật. Trong hệ thống phân loại của Linnaeus, các sinh vật được phân thành giới Vegetabilia (sau này là Plantae) và Animalia. Kể từ đó, việc phân chia trở nên rõ ràng rằng Plantae như ban đầu được xác định bao gồm nhiều nhóm không liên quan, và nấm và nhiều nhóm khác của tảo đã được xếp vào các giới mới. Tuy nhiên, chúng vẫn thường được xem là thực vật trong một số ngữ cảnh. Vi khuẩn đôi khi nằm trong hệ thực vật, và một số hệ thống phân loại dùng từ hệ thực vật vi khuẩn (bacterial flora) tách biệt với hệ thực vật (plant flora).
Trong số nhiều cách phân loại thực vật theo các hệ thực vật khu vực, việc phân chia này phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu, có thể bao gồm thực vật hóa thạch, đó là những thành phần thực vật còn sót lại của thời kỳ trước. Con người ở nhiều vùng và quốc gia khác nhau rất tự hào về những đặc điểm của hệ thực vật tự nhiên của họ, các hệ này có thể phân bố rộng khắp trên toàn cầu do sự khác biệt về khí hậu và địa hình.Hệ thực vật khu vực thường được chia thành thực vật bản địa và thực vật nghề vườn và nông nghiệp, kiểu thực vật vườn đề cập đến các loại cây do con người trồng. Trong số các loại "thực vật bản địa" thực chất có thể là du nhập hàng thế kỷ trước do con người di cư từ vùng này sang vùng khác hoặc từ lục địa này sang lục địa khác, và trở thành một phần không thể thiếu của thực vật bản địa hay hệ thực vật tự nhiên của nơi mà chúng được du nhập đến. Đây là một ví dụ cho sự tương tác của con người với tự nhiên có thể xóa nhòa ranh giới về bản chất tự nhiên.
Một nhóm thực vật khác được ghi lại trong lịch sử là cỏ dại. Cách gọi này được các nhà thực vật học dùng để chỉ các loại thực vật "vô ích", cách dùng không chính thức của từ "cỏ dại" để mô tả những thực vật xứng đáng loại khỏi là minh họa khuynh hướng chung của loài người và cộng đồng xã hội về việc mưu cầu sự biến đổi hay tái tạo lại chiều hướng vận động của tự nhiên. Tương tự vậy, các loài động vật thường được xếp thành các nhóm như thuần hóa, động vật nuôi, đông vật hoang dã, loài vây hại, v.v. theo mối quan hệ của chúng đối với con người.
Động vật nằm trong nhóm có nhiều đặc điểm khác biệt với các sinh vật sống khác. Động vật là các sinh vật nhân thực và thường là đa bào (xem Myxozoa), tách biệt với vi khuẩn, vi khuẩn cổ và hầu hết sinh vật đơn bào. Chúng là các sinh vật dị dưỡng, thường tiêu hóa thức ăn trong các khoang bên trong cơ thể, khác biệt với thực vật và tảo. Chúng cũng được phân biệt với thực vật, tảo và nấm do không có thành tế bào.
Với số ít trường hợp ngoại lệ, phần lớn trong đó là bọt biển (Ngành Bọt biển), động vật có cơ thể chuyên biệt thành những mô biệt hóa. Chúng gồm có cơ bắp, dùng để co rút và điều khiển vận động, và một hệ thần kinh, dùng để gửi và chuyển tiếp tín hiệu. Chúng cũng có một khoang tiêu hóa đặc trưng bên trong. Tế bào nhân thực là nền tảng của tất cả các loài động vật, được bao quanh bởi một chất nền ngoại bào giàu đặc tính, xây dựng từ collagen và những glycoprotein đàn hồi. Cấu trúc này có thể bị vôi hóa trở thành những dạng cấu trúc khác như vỏ, xương và gai, một bộ khung nền để các tế bào có thể di chuyển và tái tổ chức trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển và trưởng thành, cũng như hỗ trợ cho những hệ giải phẫu phức tạp cần thiết cho tính di động.
Tương tác với con người
Mặc dù con người hiện chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng thể sinh khối trên Trái Đất nhưng tác động của con người vào thiên nhiên lại quá lớn. Do sự mở rộng ảnh hưởng của con người, các ranh giới giữa những gì của con người liên quan đến tự nhiên và các "môi trường nhân tạo" là không rõ ràng trừ những trường hợp đặc biệt. Ngay cả ở những trường hợp đặc biệt, số lượng các môi trường tự nhiên mà chưa chịu sự ảnh hưởng của con người một cách rõ rệt hiện cũng đang giảm dần với tốc độ nhanh chóng.Sự phát triển công nghệ của loài người đã cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên tốt hơn và giúp giảm bớt rủi ro từ thiên tai. Tuy nhiên, trong quá trình này, số phận của nền văn minh loài người vẫn gắn liền với những biến đổi của môi trường. Hiện tồn tại một vòng hồi tiếp rất phức tạp giữa việc sử dụng công nghệ tiến bộ và những biến đổi của môi trường, và cũng chỉ được hiểu biết một cách chậm chạp. Những mối đe dọa do chính con người thực hiện đối với môi trường tự nhiên trên Trái Đất như gia tăng dân số, phá rừng, tai biến như tràn dầu, và con người cũng góp phần gây ra sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật và thực vật.
Con người sử dụng tự nhiên vào những hoạt động giải trí và kinh tế, việc tìm kiếm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động công nghiệp vẫn là thành phần chính của nền kinh tế thế giới. Các hoạt động như săn bắn, đánh cá phục vụ cho tiêu dùng và giải trí thì có sự khác biệt giữa các nhóm người. Hoạt động nông nghiệp đã bắt đầu vào khoảng thiên niên kỷ 9 TCN. Thay đổi từ sản xuất lương thực sang năng lượng đã tác động đến sự thịnh vượng của nền kinh tế thế giới.
Mặc dù vào thời kỳ đầu, con người thu lượm những nguyên liệu từ thực vật hoang dại để làm thực phẩm và sử dụng những đặc tính dược học của thực vật để chữa bệnh, còn hầu hết con người hiện đại sử dụng thực vật thông qua các hoạt động nông nghiệp. Sự phát quang một khu vực đất rộng lớn cho trồng trọt đã làm giảm đáng kể diện tích rừng hiện hữu và các vùng đất ngập nước, làm mất môi trường sống của nhiều loài động thực vật cũng như làm gia tăng xói mòn.
Thẩm mỹ và vẻ đẹp
Vẻ đẹp của tự nhiên đã và đang là chủ đề của nhiều tác phẩm nghệ thuật cũng như được ghi lại trong nhiều quyển sách chất đầy thư viện và các nhà sách. Thiên nhiên đã được miêu tả và được ca ngợi nhiều trong nghệ thuật, nhiếp ảnh, thơ và các loại hình văn học nghệ thuật khác thể hiện thế mạnh của nó mà nhiều người đã liên kết hai yếu tố tự nhiên và vẻ đẹp với nhau. Những lý do tại sao các mối liên hệ này tồn tại, và cái gì đã liên kết chúng được nghiên cứu bởi một nhánh triết học được gọi là sự thẩm mỹ. Ngoài những đặc điểm cơ bản mà nhiều triết gia đồng ý về việc giải thích những gì được coi là đẹp, thì những ý kiến khác về cái đẹp hầu như bất tận. Tự nhiên và hoang dã là các chủ đề quan trọng trong nhiều kỷ nguyên của lịch sử thế giới. Nghệ thuật phong cảnh truyền thống sơ khai bắt đầu ở Trung Quốc trong suốt triều đại nhà Đường (618–907). Biểu diễn thiên nhiên qua nghệ thuật là một trong những chủ đề của tranh Trung Quốc và có những ảnh hưởng nhất định đối với nghệ thuật châu Á.
Mặc dù các kỳ quan thiên nhiên được vinh danh trong Thánh Vịnh và Sách Job, việc truyền tải sự hoang dã trong nghệ thuật đã trở nên phổ biến hơn trong thập niên 1800, đặc biệt trong các tác phẩm của phong trào lãng mạn. Các họa sĩ Anh quốc như John Constable và J. M. W. Turner đã chuyển sự chú ý của họ vào việc truyền tải những vẻ đẹp của thế giới tự nhiên đi vào những bức họa. Trước đó, hội họa chủ yếu tập trung vào những hình ảnh tôn giáo hoặc con người. Thơ của William Wordsworth đã miêu tả sự kỳ diệu của thế giới tự nhiên, mà trước đây được xem như là "vùng nguy hiểm". Càng ngày sự coi trọng giá trị của thiên nhiên đã trở thành một khía cạnh của văn hóa phương Tây. Phong trào nghệ thuật này cũng trùng hợp với phong trào siêu việt luận trong thế giới phương Tây. Ý tưởng cổ điển chung của nghệ thuật về cái đẹp liên quan đến sự bắt chước thiên nhiên. Cũng trong lĩnh vực về vẻ đẹp của thiên nhiên là sự hoàn hảo được ngụ ý thông qua những dạng toán học hoàn hảo và tổng quát hơn bởi những cách sắp xếp của tự nhiên theo các khuôn mẫu nhất định. Như David Rothenburg viết, "Cái đẹp là gốc rễ của khoa học và mục đích của nghệ thuật, khả năng cao nhất mà nhân loại có thể hy vọng thấy được nó".
Vật chất và năng lượng
Một số lĩnh vực khoa học xem tự nhiên là vật chất chuyển động tuân theo những quy luật nhất định của tự nhiên mà khoa học đang tìm hiểu. Vì lý do đó, nền tảng cơ bản nhất của khoa học được hiểu một cách chung là "vật lý học" – tên gọi mà vẫn có thể nhận ra nó ám chỉ nghiên cứu về tự nhiên.
Vật chất thường được định nghĩa là chất cấu thành nên vật thể vật lý. Nó cấu tạo nên vũ trụ quan sát được. Các thành phần này của vũ trụ hiện được tin là chỉ chiếm 4,9% tổng khối lượng. Phần còn lại 26,8% là vật chất lạnh tối và 68,3% là năng lượng tối. Số liệu chính xác của các thành phần này vẫn chưa được biết rõ và hiện đang được các nhà vật lý nghiên cứu.
Trạng thái của vật chất và năng lượng thông qua việc quan sát được vũ trụ cho thấy chúng tuân theo các định luật vật lý rõ ràng. Các định luật này được áp dụng để thành lập các mô hình vũ trụ đã giải thích thành công cấu trúc và sự tiến hóa của vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát được. Các biểu thức toán học của các định luật vật lý sử dụng một bộ 12 hằng số vật lý có vẻ như là tĩnh đối với vũ trụ quan sát được. Giá trị của các hằng số này đã được đo đạc cẩn thận nhưng nguyên do để có được các con số này vẫn là điều bí ẩn.
Bên ngoài Trái Đất
Không gian ngoài thiên thể chỉ vùng không gian tương đối rỗng của vũ trụ bên ngoài khí quyển của các thiên thể. Không có ranh giới rõ ràng giữa khí quyển Trái Đất và không gian ngoài thiên thể, vì áp suất khí quyển giảm từ từ theo độ cao tăng dần. Không gian ngoài thiên thể trong hệ Mặt Trời được gọi là không gian liên hành tinh, nó trải rộng đến không gian liên sao tại nơi được gọi là nhật quyển.
Không gian ngoài thiên thể gồm một số ít các loại vật chất phân tử hữu cơ được phát hiện bởi các sóng quang phổ viba, phông nền bức xạ vũ trụ còn tồn dư sau vụ nổ Big Bang và nguồn gốc của vũ trụ, và các tia vũ trụ chứa các hạt nhân nguyên tử bị ion hóa và nhiều loại hạt hạ nguyên tử khác. Cũng có một số chất khí, plasma và bụi, và các thiên thạch nhỏ. Ngoài ra, các dấu hiệu của sự sống loài người phát vào không gian ngày nay như các loại vật liệu còn lại từ các vật thể có và không người lái từng phóng lên không gian có tiềm năng gây hại cho các tàu vũ trụ. Một số mảnh vỡ này theo định kỳ quay trở lại khí quyển Trái Đất.
Mặc dù Trái Đất hiện là thiên thể duy nhất được biết là có sự sống trong hệ Mặt Trời, các bằng chứng hiện tại cho rằng trong quá khứ xa xôi của Sao Hỏa từng tồn tại các vực nước ở dạng lỏng trên bề mặt của nó. Như vậy, Sao Hỏa cũng có khả năng hỗ trợ sự sống và hiện tại người ta cho rằng vẫn còn nước trên hành tinh này ở dạng băng. Nếu sự sống tồn tại trên Sao Hỏa, nhiều khả năng bên dưới mặt đất của nó nước có thể tồn tại.
Các môi trường của các hành tinh đất đá khác như Sao Thủy và Sao Kim cho thấy khó có khả năng hỗ trợ sự sống. Nhưng con người phỏng đoán rằng Europa, vệ tinh lớn thứ tư của Sao Mộc, có thể có biển nước lỏng bên dưới bề mặt của nó và có tiềm năng hỗ trợ sự sống.
Ngày nay, các nhà thiên văn học đã và đang bắt đầu khám phá các hành tinh giống Trái Đất bên ngoài hệ Mặt Trời – các hành tinh nằm trong vùng có thể định cư trong không gian quanh các ngôi sao, mà chúng có thể hỗ trợ cho sự sống. |
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy có thể là:
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (công chúa), con gái thứ 17 của vua Minh Mạng nhà Nguyễn.
Tên húy của vua Bảo Đại trước khi lên ngôi. |
Phạm Xuân Ẩn (ngày 12 tháng 9 năm 1927 – ngày 20 tháng 9 năm 2006) tên thật Phạm Văn Thành là thiếu tướng tình báo của Việt Nam, có các biệt danh là X6, Trần Văn Trung hoặc Hai Trung. Ông làm nhà báo và phóng viên cho hãng tin Reuters, tạp chí Time và tờ báo New York Herald Tribune. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, ông được Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Thân thế
Phạm Xuân Ẩn sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Gia đình ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đình. Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế và được Vua ban Kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư công chánh cao cấp tại Sở Công chánh và công tác trắc địa trên khắp miền Nam. Ông được sinh tại Nhà thương Biên Hòa, do chính các bác sĩ Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không được nhập quốc tịch Pháp.
Thời trẻ
Thời niên thiếu, ông sống tại Sài Gòn, sau chuyển về Cần Thơ học Trường Trung học phổ thông Cần Thơ. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.
Hoạt động tình báo
Năm 1947, ông trở về Sài Gòn để chăm sóc cha đang bệnh nặng. Tại đây, ông tổ chức các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn, đầu tiên là chống Pháp rồi sau chống Mỹ. Ông làm Thư ký cho Công ty Dầu lửa Caltex cho đến năm 1950. Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và quân đội từ Pháp sang Việt Nam và từ Việt Nam về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo đầu tiên của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam Việt Nam. Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. Năm sau đó tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm tới, Phạm Xuân Ẩn được gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay làm bí thư phòng Chiến tranh tâm lý trong Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đã quen biết với Đại tá Edward Lansdale, Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế là người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài Gòn. Theo hồi ức của một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như trong tư liệu Hồi ký Đỗ Mậu của Đỗ Mậu, nguyên trưởng cơ quan tình báo của miền Nam Việt Nam, thì Edward Lansdale là người trực tiếp vạch kế hoạch cũng như chủ trì việc thực hiện các công tác chủ yếu nhằm tạo uy tín, chỗ đứng cho Ngô Đình Diệm trong thời kì giữa thập niên 50. Khi nhận thấy mức độ khó khăn cũng như khối lượng công việc phải làm quá lớn, Ngô Đình Diệm có ý định từ bỏ chức Thủ tướng, chính Landsdale là người cố vấn cho Diệm không quyết định như vậy.
Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đã chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam Cộng hòa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Đặc biệt ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà nòng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt trong quân đội liên hiệp Pháp trước đây. Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo (trong số này có Nguyễn Văn Thiệu, sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa). Trong công tác tình báo, để có thể đi khắp nơi và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất, tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương) Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ học ngành báo chí tại Quận Cam, California, trong hai năm (1957-1959) và là người Việt Nam đầu tiên sang học báo chí tại quận Cam .
Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xã hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xã phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây. Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho Hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1966 ông làm việc cho tuần báo Time, đến năm 1969 thì được nhận vào làm chính thức.. Ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor. Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và người của CIA, Phạm Xuân Ẩn đã có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan tình báo. Những tin tức và phân tích tình báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn được bí mật gửi cho bộ chỉ huy quân sự ở miền Bắc thông qua Trung ương Cục miền Nam. Chúng được cho là sống động và tỉ mỉ đến mức người ta kể rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã reo lên: Chúng ta đang ở trong phòng hành quân của Hoa Kỳ. Tổng cộng, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về căn cứ 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin mà ông thu lượm cùng phân tích và nhận định của bản thân. Cụ thể là:
Giai đoạn 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược... Ông gửi về nguyên bản kế hoạch Staley-Taylor.
Giai đoạn 1965 - 1968: các kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968;
Giai đoạn 1969 - 1973: những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh.
Giai đoạn 1973 - 1975: hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miền Nam"...
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã xảy ra chuyện ly kỳ theo báo Newsweek kể: "Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn (bác sĩ Trần Kim Tuyến) đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.” Phạm Xuân Ẩn cũng là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của Quân đội nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ, thậm chí là cả chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên cộng sản. Từ ngày 23 tháng 4, vợ con ông đã được gửi sang Hoa Kỳ. Họ bay trên chuyến bay sơ tán thân nhân những người làm báo Time. Theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, cấp trên đã đổi ý và quyết định giữ ông lại tại Việt Nam. Giải thích cho việc ông phải ở lại, Đại Tướng Văn Tiến Dũng đã giải thích: "anh Ẩn là vốn quý của đất nước, anh đã làm tình báo mấy chục năm rồi. Nếu bây giờ để anh đi sang đấy tiếp tục khai thác nữa thì với khả năng và điều kiện của mình anh ấy vẫn phát huy tác dụng rất tốt nhưng trong quá trình ra nước ngoài làm nhiệm vụ rất dễ bị lộ, lúc ấy tổn thất là rất lớn". Thế nhưng với các nhà nghiên cứu thời nay lại cho rằng việc để một người có lối tư duy, suy nghĩ "như người Mỹ, hiểu rõ cả địch và ta" như ông Ẩn sang Mỹ là một ván cược và để ông ngoài tầm kiểm soát của Hà Nội là rất mạo hiểm. Nhận xét về quyết định của cấp trên ông Ẩn cho rằng các lãnh đạo của mình đã "quá lo xa": "tôi thực sự không biết họ còn muốn gì ở tôi nữa, có lẽ họ hy vọng rằng các nguồn tin sẽ giúp tôi theo sát được những suy nghĩ bên trong Lầu Năm Góc, nhưng điều đó khó có thể xảy ra bởi rất nhiều đầu mối của tôi lúc bấy giờ đang ở trong trại cải tạo hoặc các trại tị nạn tại Mỹ thì làm sao có thể tiếp cận được cái gì".Đồng thời ông Ẩn cũng phải chịu áp lực từ bên phía tờ báo Time và những người bạn Mỹ của ông: " tôi không có ý định đi Mỹ, tôi không nhận được thông tin nào từ Hà Nội, không có sự chỉ dẫn nào và tôi cũng phải chịu áp lực từ tờ Time là phải đưa ra quyết định, tất cả bạn bè Mỹ đều muốn giúp đỡ tôi chứ không riêng gì báo Time, tôi không biết lãnh đạo của bên trên quyết như thế nào... nếu đi thì thời điểm này là hợp lý nhất rồi. Thế rồi tôi phải đưa ra quyết định sẽ cho vợ con tôi đi trước và tôi sẽ đi sau". Sau ngày giải phóng gia đình ông lại rơi vào cảnh chia ly, suốt những ngày tháng ở Sài Gòn ông cứ nơm nớp một nỗi sợ về việc sẽ bị chính những người đồng đội của mình dí súng "tiễn lên bảng điểm số" bất cứ lúc nào "không có thì giờ để giải thích cho các cậu lính giải phóng trẻ với cây AK-47 trên tay rằng - tôi là Đại Tá của họ. Có lẽ họ sẽ nướng sống con chó của tôi đồng thời giết tôi bất cứ lúc nào ". Một năm sau, vợ con ông mới có thể về tới Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài Gòn.
Sau Chiến tranh Việt Nam
Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Trần Văn Trung (tức Phạm Xuân Ẩn) cán bộ tình báo thuộc Bộ Tham mưu Miền Nam được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang". Lúc này nhiều người mới chính thức biết ông là một tình báo viên thời chiến. Tháng 8 năm 1978 ông ra Hà Nội dự một khóa học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Ông nói rằng đó là do ông đã "sống quá lâu trong lòng địch". Theo Larry Berman, ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử "rất Mĩ" của ông cũng như việc ông giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến năm 1986, sự quản chế mới được nới lỏng dần. Trong vòng gần 10 năm, luôn có một nhân viên công an được giao nhiệm vụ canh gác trước cửa nhà ông. Nhà báo Hoàng Hải Vân trong các cuộc trao đổi riêng với Larry Berman đã bác bỏ những ý kiến trên. Thứ nhất, Phạm Xuân Ẩn được phong Anh hùng ngay đợt đầu tiên sau chiến tranh, điều không thể xảy ra đối với người bị nghi ngờ về nhân cách. Thứ hai, quân hàm của Phạm Xuân Ẩn lúc kết thúc chiến tranh chỉ là trung tá, sau đó mới thăng dần dần lên thiếu tướng. Thứ ba, chuyện đi học chính trị tương ứng với cấp hàm của mình là quy định bắt buộc với sĩ quan, ông Ẩn chưa trải qua lớp đào tạo tương ứng nên phải đi học bổ sung sau chiến tranh là bình thường.
Năm 1990, Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng cấp Thiếu tướng. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối cấp visa cho Phạm Xuân Ẩn đi Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở thành phố New York mà ông được mời với tư cách khách đặc biệt do ông tuổi già và sức yếu thế nhưng ông Ẩn lại chia sẻ rằng "Họ không hiểu tôi, thế nên họ sợ tôi. Tôi có thể hiểu được hoàn toàn lý do vì sao không ai muốn kí vào thị thực xuất cảnh của tôi và chịu trách nhiệm về việc cho phép tôi ra nước ngoài, họ sợ rằng tôi có thể hủy hoại sự nghiệp của họ nếu tôi nói hoặc làm điều gì đó sai" . Năm 2002, ông về hưu. Nhưng cho tới sáu tháng trước khi qua đời, Phạm Xuân Ẩn vẫn đóng vai trò như một cộng tác viên của tình báo Việt Nam. Ông tham gia vào việc bình luận và đánh giá các tài liệu của Tổng cục Tình báo (Tổng cục 2, trực thuộc Bộ Quốc phòng). Con trai lớn của ông, luật sư Phạm Xuân Hoàng Ân, đã từng được những người bạn Mỹ của ông quyên góp để giúp du học tại Mỹ, hiện nay đang làm việc tại Bộ Ngoại giao Việt Nam. Phạm Xuân Hoàng Ân cũng là người phiên dịch cho buổi tiếp xúc giữa Chủ tịch nước Việt Nam, ông Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Mỹ George Bush, khi ông này tới Hà Nội vào năm 2006. Con gái ông hiện đang sinh sống ở Mỹ. Trong những năm cuối đời, ông vẫn ca ngợi chủ nghĩa cộng sản. Ông nói: "Đúng, tôi là một người cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là một học thuyết rất đẹp, học thuyết nhân văn nhất. Lời dạy của Chúa trời, đấng Tạo hóa, cũng hệt như vậy. Chủ nghĩa Cộng sản dạy ta yêu thương nhau, không giết nhau. Cách duy nhất để làm điều này là tất cả mọi người trở thành anh em, điều này thì có thể cần một triệu năm. Nó không tưởng, nhưng nó đẹp." Lúc 11h20 ngày 20 tháng 9 năm 2006, Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn đã qua đời tại Quân y viện 175, TP. Hồ Chí Minh sau một thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 79 tuổi. Tang lễ được tổ chức vào ngày 23 tháng 9 năm 2006 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam. Có hơn 300 đoàn khách trong nước và quốc tế đã đến viếng ông.
Tặng thưởng
Các huân chương, huy chương ông đã được tặng thưởng:
Huân chương Độc Lập hạng nhì
Huân chương Quân công hạng ba
Huân chương Chiến thắng hạng ba
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất
Huân chương Chiến công (1 hạng nhất; 2 hạng nhì; 1 hạng ba)
Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng nhất, nhì, ba
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
Nhận định về Phạm Xuân Ẩn
Trả lời trong bài phỏng vấn đăng trên báo The New Yorker, ông Mai Chí Thọ nói: "Lúc bấy giờ Đảng rất nghèo, nhưng chúng tôi nghĩ việc làm này có nhiều lợi ích. Phạm Xuân Ẩn là người đầu tiên chúng tôi gởi anh sang Mỹ để học biết cái văn hóa của những người thay thế Pháp làm kẻ thù của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn là một người hoàn hảo cho công tác này. Đó là một việc làm thành công lớn của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn có được những nguồn tin tốt nhất và được phép tiếp cận các thông tin mật. Sau chiến tranh, chúng tôi phong tướng cho Phạm Xuân Ẩn và danh hiệu Anh hùng Quân đội nhân dân. Không cần phải nói thêm những chi tiết gì nữa, chỉ điều ấy thôi cũng đủ nói lên tầm quan trọng của những gì Phạm Xuân Ẩn đã làm cho quê hương của anh.".
Theo cuốn Perfect Spy của Larry Berman dựa trên những lần phỏng vấn với ông Ẩn và những người bạn và người thân của ông, ông Ẩn, khác với những thành viên khác trong Đảng Cộng sản Việt Nam, là một người cực kì yêu quý nước Mĩ, người Mỹ và những gì mà người Mỹ bảo vệ. Tuy nhiên, ông cho rằng nước Mĩ không nên can dự vào chuyện nội bộ của Việt Nam. Ông cũng hi vọng rằng sau khi chiến tranh kết thúc, hai nước sẽ hòa giải, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Ước muốn này của ông sau một thời gian dài mới bắt đầu trở thành hiện thực. Cũng khác với các đảng viên khác, ông không căm ghét những người làm việc cho chính quyền Sài Gòn và Mĩ trước chiến tranh mà ngược lại còn tìm cách giúp đỡ họ thoát khỏi sự trừng phạt của chính phủ nhà nước CHXHCN Việt Nam (Trần Kim Tuyến, Cao Giao). Chính điều này cùng với những tính cách khác của ông đã khiến cho rất nhiều người bạn ở "phía bên kia" của ông, mặc dù sau này biết được ông là điệp viên của Hà Nội vẫn không tin rằng mình đã bị ông lợi dụng mà ngược lại tiếp tục yêu quý, tôn trọng và thông cảm cho ông - một con người bị xé đôi giữa tình cảm cá nhân và lòng yêu nước.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Trí, nguyên thủ trưởng cơ quan tình báo miền kể rằng khi nguyên bản toàn bộ các kế hoạch về chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ được chuyển ra Hà Nội, Tổng bí thư Lê Duẩn đã biểu dương cơ quan tình báo quân sự và coi đây là "chiến công có tầm cỡ quốc tế".
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã vào Sài Gòn gặp Phạm Xuân Ẩn. Tướng Dũng đã nghe Phạm Xuân Ẩn nói chuyện về tình hình nội bộ chính quyền Sài Gòn từ sau trận Phước Long (tháng 1 năm 1975). Nghe xong những đánh giá của Phạm Xuân Ẩn, tướng Dũng nói rằng nếu như gặp được Phạm Xuân Ẩn sớm hơn thì những tin tức mà Ẩn cung cấp "sẽ giúp Bộ Chính trị hạ quyết tâm nhanh hơn để giải phóng Sài Gòn".
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói về sự sụp đổ hỗn loạn của Sài Gòn năm 1975, nói: "Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tức tình báo chiến lược. Điều đó là rõ ràng. Nhưng chưa ai 'dẫn con mèo đi ngược', thực hiện một cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra. Cơ quan CIA không có gan làm việc đó".
Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh, sau khi biết tin Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên, nói rằng "thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó.".
Một phóng viên khác, Peter Arnett nói: "Tôi không biết phải xử lý ra sao đối với Phạm Xuân Ẩn. Tôi hiểu anh là một người Việt Nam yêu nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện nghề nghiệp... Trong hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó tôi lại nghĩ ra rằng chẳng qua đó là công việc riêng của anh.".
McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở châu Á nói: "Tôi có căm giận Phạm Xuân Ẩn không lâu sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh? Hẳn nhiên là không. Tôi nghĩ Việt Nam là quê hương của anh. Nếu tình thế đổi ngược lại, chắc tôi cũng sẽ làm như anh mà thôi. Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp của tôi và là một phóng viên sáng giá. Phạm Xuân Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường về hiện tình chính trị Việt Nam, và đáng chú ý là những tin tức tài liệu của anh chính xác một cách lạ thường.".
Trong cuốn sách Making of a Quagmire (Một thế sa lầy đang thành hình) năm 1965 nói về Chiến tranh Việt Nam của David Haberstam, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn tại báo Time, Haberstam đã miêu tả Phạm Xuân Ẩn như là "cái đinh chốt của một mạng lưới tình báo nhỏ nhưng hạng nhất" của các phóng viên. Khi biết về câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn, và trả lời về thái độ cá nhân, ông nói: "Đây là một câu chuyện đầy mưu mô, khói và gươm, nhưng tôi vẫn quý mến Ẩn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị Ẩn phản bội. Anh ta đã phải sống với việc là một người Việt Nam trong một thời điểm gian nan trong lịch sử của họ..." Ông nhận xét: "Câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn nhắc lại tất cả những câu hỏi căn bản do Graham Green từng nêu ra trong tác phẩm The Quiet American: Thế nào là sự trung thành? Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là sự thật? Anh là ai khi anh nói những sự thật ấy?" Và Halberstam kết luận: "Có một mâu thuẫn đối với Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hình dung được. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy ông là một con người bị xẻ làm đôi ở giữa.".
Thomas A. Bass, báo The New Yorker, viết: "Ẩn là một người 'Việt Nam thầm lặng', một nhân vật tiêu biểu, vừa là một người với lý tưởng cách mạng thuần thành, vừa là một người ngưỡng mộ nhiệt tình đối với nước Mỹ. Ông nói rằng ông không bao giờ dối ai, rằng ông cung cấp cho báo Time chính những bài phân tích chính trị mà ông đã gởi cho Hồ Chí Minh. Ông là con người bị xẻ đôi với lòng trung chính cao độ, một người sống trong sự giả dối nhưng lại luôn nói sự thật".
Về việc cứu Trần Kim Tuyến
Dan Southerland, Tổng giám đốc chương trình đài RFA, nhận định:
Mười Hương, Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, người chỉ đạo trực tiếp cho Phạm Xuân Ẩn, nói:
Đại tướng Tám Cao, cũng là một người chỉ đạo trực tiếp khác:
Trong văn hóa đại chúng
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn - tên người như cuộc đời, (đoạt giải A cuộc thi văn học Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống (1995-2005) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức, 2005)
Jean-Claude Pomonti, Un Vietnamien bien tranquille (Một người Việt Nam trầm lặng)
Larry Berman, Perfect Spy: The Incredible Double Life of Pham Xuan An Time Magazine Reporter and Vietnamese Communist Agent, Harper Colins, 2007. Bản dịch tiếng Việt: "Điệp viên hoàn hảo: Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn phóng viên tạp chí Time và điệp viên Cộng sản Việt Nam" Nhà xuất bản Thông Tấn, phát hành tại Việt Nam ngày ngày 1 tháng 10 năm 2007
Huyền thoại về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, phim tài liệu dài tập của Hãng phim TFS, HTV
Larry Berman, Perfect Spy X6 - The Incredible Double Life of PHAM XUAN AN, Reuters, Time, New York Herald Tribune Reporter & Vietnamese Strategic Intelligence General,, bản dịch tiếng Việt mang tên Điệp viên hoàn hảo X6, sách phát hành tại Việt Nam ngày ngày 12 tháng 9 năm 2013, nhà sách First News - Trí Việt.
“Điệp viên Z.21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ”, do nhà xuất bản Nhã Nam và Hồng Đức phát hành. Đây là cuốn sách dịch từ cuốn “The Spy Who Loved Us” của Thomas Bass, hiện giảng dạy Anh ngữ và báo chí tại Phân hiệu Albany của Đại học Tiểu bang New York. Ông Bass cho biết, cuốn “The Spy Who Loved Us” của ông đã bị chỉnh sửa và cắt bỏ nhiều chi tiết, như chiến tranh biên giới năm 79, làn sóng thuyền nhân sau năm 75 và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cho nên mặc dù đã ký hợp đồng dịch từ năm 2009 mãi đến năm 2014 nó mới tới tay bạn đọc ở Việt Nam. Nói với VOA tiếng Việt ông cho rằng dường như chính quyền Việt Nam “nhạy cảm, và muốn bảo toàn quyền lợi của mình” nên phải dùng tới các biện pháp kiểm duyệt.
Qua đời
Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn vừa qua đời lúc 11g20 ngày 20-9-2006 tại Quân y viện 175, TP.HCM, sau một thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 79 tuổi.Sự qua đời của ông như là một mất mát lớn của nước nhà
Chú thích |
Một giao diện lập trình ứng dụng (, viết tắt: API) là một giao diện mà một hệ thống máy tính hay ứng dụng cung cấp để cho phép các yêu cầu dịch vụ có thể được tạo ra từ các chương trình máy tính khác, và/hoặc cho phép dữ liệu có thể được trao đổi qua lại giữa chúng. Chẳng hạn, một chương trình máy tính có thể (và thường là phải) dùng các hàm API của hệ điều hành để xin cấp phát bộ nhớ và truy xuất tập tin. Nhiều loại hệ thống và ứng dụng thực hiện API, như các hệ thống đồ họa, cơ sở dữ liệu, mạng, dịch vụ web, và ngay cả một số trò chơi máy tính. Đây là phần mềm hệ thống cung cấp đầy đủ các chức năng và các tài nguyên mà các lập trình viên có thể rút ra từ đó để tạo nên các tính năng giao tiếp người - máy như: các trình đơn kéo xuống, tên lệnh, hộp hội thoại, lệnh bàn phím và các cửa sổ. Một trình ứng dụng có thể sử dụng nó để yêu cầu và thi hành các dịch vụ cấp thấp do hệ điều hành của máy tính thực hiện. Hệ giao tiếp lập trình ứng dụng giúp ích rất nhiều cho người sử dụng vì nó cho phép tiết kiệm được nhiều thời gian tìm hiểu các chương trình mới, do đó khích lệ mọi người dùng nhiều ứng dụng hơn.
Mô tả
Một trong các mục đích chính của một API là cung cấp khả năng truy xuất đến một tập các hàm hay dùng — ví dụ, hàm để vẽ các cửa sổ hay các icon trên màn hình. Các API, cũng như hầu hết các interfaces, là trừu tượng (abstract). Phần mềm mà muốn cung cấp truy xuất đến chính nó thông qua các API cho sẵn, phải hiện thực API đó. Trong nhiều tình huống, một API thường là một phần của bộ SDK, hay software development kit. Một bộ SDK có thể bao gồm một API cũng như các công cụ/phần cứng, vì thế hai thuật ngữ này không thay thế cho nhau được.
Có nhiều mô hình thiết kế khác nhau cho các APIs. Interfaces nhằm là cách thực thi nhanh nhất thường gồm các tập các hàm, thủ tục, biến và các cấu trúc dữ liệu. Tuy nhiên, các mô hình khác vẫn tồn tại, như bộ thông dịch dùng để ước giá biểu thức trong ECMAScript/JavaScript. Một API tốt thường cung cấp một "hộp đen" hay là một lớp trừu tượng (abstraction layer) bao bọc nó, nhằm đảm bảo là nhà lập trình không thể biết cách hiện thực cụ thể bên trong của mỗi hàm trong API. Điều này làm cho việc thiết kế lại hay cải tiến hàm của API đó trở nên dễ dàng hơn vì nó không làm đổ ỗ các đoạn mã khác mà có sử dụng các hàm đó.
Có hai dòng chính sách đối với việc công bố các APIs:
Một số công ty bảo vệ APIs của họ một cách mạnh mẽ. Ví dụ, Sony thường chỉ cung cấp API chính thức của PlayStation 2 cho các nhà phát triển PlayStation có đăng ký. Điều này là vì Sony muốn giới hạn những người có thể viết trò chơi trên PlayStation 2, và muốn thu lợi nhuận từ những người này càng nhiều càng tốt. Đây thường là chính sách đối với các công ty mà họ không thu lợi từ việc bán các hiện thực API của họ. Tuy nhiên, PlayStation 3 là công bố hoàn toàn APIs.
Một số công ty thì cung cấp miễn phí APIs. Ví dụ, Microsoft công bố hầu như hoàn toàn thông tin về các API, để cho các phần mềm có thể được viết chạy trên nền Windows. Việc bán của các phần mềm hãng thứ 3 đồng thời với việc phải mua Hệ điều hành Microsoft Windows. Đây thường là các công ty thu lợi nhuận từ việc bán các hiện thực API.
Một số APIs, chẳng hạn các API là chuẩn cho một hệ điều hành, được hiện thực dưới dạng các thư viện mã độc lập được phân phối kèm theo hệ điều hành. Một số khác thì đòi hỏi nhà sản xuất phần mềm phải tích hợp API trực tiếp vào trong chương trình. Microsoft Windows APIs đi kèm theo hệ điều hành cho phép mọi người có thể sử dụng chúng. Phần mềm cho các hệ thống nhúng như thiết bị chơi trò chơi thường thuộc vào loại tích hợp vào trong ứng dụng. Trong khi các tài liệu API chính thức của PlayStation là nên đọc, nhưng nó chẳng giúp ích gì nếu ta chẳng có các hiện thực của nó, dưới dạng một thư viện độc lập hay bộ phát triển phần mềm.
Một API mà cho phép truy xuất và sử dụng tự do được gọi là "mở." Các APIs được cung cấp bởi phần mềm mở (như mọi phần mềm được phân phối theo giấy phép đăng ký GNU), là mở theo đúng nghĩa, vì mọi người có thể xem mã nguồn của phần mềm và tìm ra API. Mặc dù việc tham khảo hiện thực vẫn tồn tại cho một API (như với Microsoft Windows cho Win32 API), thì việc tạo thêm các hiện thực bổ sung vẫn có thể diễn ra. Ví dụ, hầu hết các Win32 API có thể được cung cấp từ hệ thống UNIX dùng phần mềm tên là Wine. |
Ête hay ê-te, ê te, ete có thể là:
Trong hóa học, ête là các hợp chất hữu cơ có công thức tổng quát R1-O-R2, trong đó R1 và R2 là các nhóm ankyl. Trong đa số sách mới hiện hành, chất này có tên là ete.
Trong vật lý, ête là môi trường giả định phi vật chất, được tưởng tượng để cố gắng lý giải các hiện tượng điện từ học theo quan điểm của cơ học cổ điển. |
Hệ đơn vị đo Trung Quốc (từ Hán 市制, Hán Việt thị chế, phiên âm Latin shi zhi) là hệ thống đo lường trong mua bán ở Trung Quốc xưa kia.
Lịch sử
Trung Hoa rộng lớn gồm nhiều vùng lãnh thổ, trải nhiều triều đại phong kiến và chế độ chính trị khác nhau. Quá trình tiến triển của hệ thống đơn vị đo ở một đất nước như vậy cũng phức tạp. Có sự không thống nhất khi so sánh các tài liệu khác nhau; ví dụ giữa các tài liêu phương Tây và các sách lịch sử ở Việt Nam.
Các đơn vị đo trong hệ thống cổ truyền ở Trung Quốc được tiêu chuẩn hóa trong thế kỉ 20 để chuyển đổi sang hệ quốc tế về đơn vị đo (SI). Nhiều đơn vị đo Trung Quốc còn dựa trên cơ sở 16 như cũ. Vào đầu thế kỷ 20, Hồng Kông không thuộc Trung Quốc và nằm ngoài sự cải cách này; ngày nay các đơn vị truyền thống vẫn được dùng cùng với các đơn vị SI và hệ đo lường Anh ở Hồng Kông.
Dường như những đơn vị SI không được đặt tên mới ở Trung Quốc. Tên gọi Trung Hoa cho hầu hết các đơn vị SI là dựa trên tên gọi đơn vị truyền thống có giá trị gần nhất. Khi cần nhấn mạnh đến hệ thống cũ được dùng thì người ta thêm chữ "thị" (市, shi), nghĩa là "chợ", trước tên đơn vị truyền thống; còn khi muốn nói thêm đến đơn vị SI, thêm chữ "công" (公, gōng), nghĩa là "chuẩn chung", vào trước.
Chiều dài
1 lý, 1 dặm (市里, li) = 15 dẫn = 500 m
1 dẫn (引, yin) = 10 trượng = 33,33 m
1 trượng (市丈, zhang) = 2 bộ = 3,33 m
1 bộ (步, bu) = 5 xích = 1,66 m
1 xích, (市尺, chi) = 10 thốn = 1/3 m = 33,33 cm
1 thốn (市寸, cun) = 10 phân = 3,33 cm
1 phân (市分, fen) = 10 ly = 3,33 mm
1 ly (市厘, li) = 10 hào = 1/3 mm = 333,3 µm
1 hào (毫, hao) = 10 ty = 33,3 µm
1 ty (丝, si) = 10 hốt = 3,3 µm
1 hốt (忽, hu) = 1/3 àm = 333,3 nm
Hồng Kông
1 xích (尺, chek) = 37,147 5 cm, chính xác
1 thốn (寸, tsun) = 1/10 thước = ~3,715 cm
1 phân (分, fan) = 1/10 thốn = ~3,715 mm
Diện tích
1 khoảnh (市顷, qing) = 100 mẫu = 66 666, 6 m²
1 mẫu (市亩 / 畝, mu) = 10 phân = 60 phương trượng = 666,6 m²
1 phân (市分, fen) = 10 lý = 66,6 m²
1 li(市里, li) = 6,6 m²
1 phương trượng (方丈, zhang²) = 100 phương xích = 11,11 m²
1 phương xích (方尺, chi²) = 100 phương thốn = 1/9 m²= 0,11 m²
1 phương thốn (方..., cun) = 1 111,1 mm²
Thể tích (của các hạt rời như ngũ cốc)
1 thạch (市石, dan) = 10 đẩu/đấu = 100 lít
1 đẩu/đấu (市斗, dou) = 10 thăng = 10 lít
1 thăng (市升, sheng) = 10 hộc = 1 lít
1 hộc (合, ge) = 10 chước = 0,1 lít
1 chước (勺, shao) = 10 toát = 0,01 lít
1 toát (撮, cuo) = 1 ml = 1 cm³
Khối lượng
1 đảm (市担 / 擔, dan) = 100 cân = 50 kg
1 cân (市斤, jin) = 10 lượng = 500 g (cổ: 1 cân = 16 lượng)
1 lượng, lạng (市两, liang) = 10 tiền = 37.3 g
1 tiền (市钱, qian) = 10 phân = 3.73 g
1 phân (市分, fen) = 10 li = 500 mg
1 li (市厘, li) = 10 hào = 50 mg
1 hào (毫, hao) = 10 si = 5 mg
1 ti (絲, si) = 10 hu = 500 µg
1 hốt (忽, hu) = 50 µg
Hồng Kông
1 đảm, 1 picul (担, tam) = 100 cân = 60,48 kg
1 cân, 1 catty (斤, kan) = 604,789 82 g chính xác
1 lượng, 1 tael (兩, leung) = 1/16 cân = 37,8 g
1 tiền, 1 mace (錢, tsin) = 1/10 lượng = 3,78 g
1 phân, 1 candareen (分, fan) = 1/10 tiền = 0,378 g
Theo , catty xuất xứ từ kati ở Malaysia được định nghĩa là "một đơn vị đo khối lượng ở Trung Hoa và một số nước thuộc địa ở Đông Nam Á". Nó xấp xỉ 1 lb (pound) phụ thuộc vào quốc gia:
Malaysia, 1 catty = 604,79 g;
Thái Lan, 1 catty = 600 g;
Trung Hoa, theo 1 catty (觢,斤) = 500 g.
Cân, 斤 hay jin và kan, có thể có chuyển đổi tùy theo các thời kì lịch sử khác nhau: 500 g (10 lượng), 250 g, 604,79 g và 600 g (16 lượng).
Khối lượng kim hoàn Hồng Kông
1 kim vệ lượng, 1 tael troy (金衛兩) = 37,429 g (chính xác)
1 kim vệ tiền, 1 mace troy (金衛錢) = 1/10 kim vệ lượng = 3,743 g
1 kim vệ phân, 1 candareen troy (金衛分) = 1/10 kim vệ tiền = 0,374 g
Thời gian
1 nhật (日, ri) = 12 thời canh = 96 khắc = 1 ngày (24 h).
1 thời canh (时辰, shi chen) = 8 khắc = 2 giờ.
1 khắc (刻, ke) = 60 phân = 15 phút.
1 phân (分, fen) = 15 giây.
Từ sau năm 1645 (trừ các năm từ 1665 đến 1669), các chuyển đổi tương đương về thời gian trên đây là đúng. Nhưng trước năm 1645 (bắt đầu triều đại Thanh), ngoại trừ một số giai đoạn ngắn, chuyển đổi là như sau:
1 nhật (日, ri) = 12 thời canh = 100 khắc
1 thời canh (时辰, shi chen) = khắc = 8 khắc 20 phân
Khảo dị
Theo trang mạng có các khác biệt. Tuy nhiên các đơn vị đo tại trang đó không đề chữ Hán gốc. Chúng được ghi dưới đây với các tên gọi Việt phỏng đoán theo tên Lantin.
Chiều dài
1 lý, 1 dặm (li) = 18 dẫn = 414 m
1 dẫn (yin) = 10 trượng = 23 m
1 trượng (zhang) = 2 bộ = 10 thước = 2.3 m
1 bộ (pou) = 5 thước = 1,15 m
1 thước (1 xích, tchi) = 10 tấc = 0,23 m
1 tấc, thốn (cun) = 10 phân = 2,3 cm
1 phân (fen) = 10 li = 2,3 mm
1 li (li) = 10 hào (hao) = 0,23 mm
Diện tích
1 mẫu (meou) = 10 phân = 614,4 m²
1 phân (fen) = 10 li = 24 bộ vuông (kung, pou²) = 61,44 m²
1 li (lyi) = 10 hào
Khối lượng
1 đảm (dan) = 120 cân = 30 kg
1 cân (jin) = 16 lượng = 0,250 kg
1 lượng (liang) = 24... zhu
1... (zhu) = 100... shu
Thể tích
1 thạch (chei) = 10 đẩu = 103,544 lít
1 đẩu (to) = 10 thăng = 10,354 4 lít
1 thăng (cheng) = 10 hộc = 1,035 44 lít
1 hộc (kho) = 10 chước (chao) |
Một vùng đất thấp có đê bọc () là một vùng đất thấp, thường thấp hơn mực nước biển, hay các sông ngòi chung quanh được đê bảo vệ và có hệ thống thủy lợi để rút nước. Việc rút nước được thực hiện bằng bơm hoặc bằng việc mở các cửa xả ở đê, ở biển khi thủy triều thấp, hay ở sông ngòi khi mùa nước xuống thấp.
Đất thấp có đê bọc thường gặp ở Hà Lan, gọi là các vùng đất lấn biển.
Đất lấn biển và Hà Lan
Bởi vì một phần lớn đất ở Hà Lan là đầm lầy, nên các kỹ sư của họ đã phát triển ra kỹ thuật để hút nước khỏi những vùng đất này, lấy đất để làm nông nghiệp hay các phát triển khác. Để ngăn ngừa nước không bị ngập trở lại khi thủy triều lên, người ta đã xây các đê điều. Ngoài ra, người ta còn đào các con rạch ngang dọc đất để thoát nước còn động lại trên mặt đất. Tổng cộng ở toàn nước Hà Lan có khoảng 3.000 vùng đất lấn biển.
Người Anh do đó có câu: "Thượng đế tạo thế giới nhưng người Hà Lan đã tạo ra nước Hà Lan."
Nghĩa nguyên thủy
Ban đầu nhất là ở vùng gần cửa sông Ems hay là phần dưới sông Oder ở Đức, hay vùng Normandie ở Pháp, Đất thấp có đê bọc để bảo vệ trước nước lớn. Ở những vùng đất này, mặt nước của sông hay biển thường hay luôn cao hơn mặt đất. Bởi vậy nước phải được bơm từ những hố được nước dẫn tới ra khỏi đê, ngày nay bằng lực động cơ, trước thời kỹ nghệ bằng lực của gió. Nhóm cối xay gió trên các con đê ở vùng châu thổ sông Rhein, một biểu hiệu của Hà Lan là những máy bơm bằng gió. |
Trong không gian metric ba chiều, mặt cầu là quỹ tích những điểm cách đều một điểm O cố định cho trước một khoảng không đổi R. Điểm O gọi là tâm và khoảng cách R gọi là bán kính của mặt cầu.
Tập hợp các điểm trong không gian nằm bên trong mặt cầu và bản thân mặt cầu hợp thành khối cầu hay hình cầu.
Mặt cầu là một đối tượng hình học đối xứng hoàn hảo. Trong toán học, thuật ngữ này là bề mặt hay biên của một hình cầu.
Trong cách dùng không chuyên môn về mặt toán học, thuật ngữ này lại có thể hiểu là một hình cầu 3 chiều hay chỉ đơn giản là một mặt cầu.
Mặt cầu là một trường hợp đặc biệt của mặt bậc hai
Các khái niệm toán học trong mặt cầu
Cung tròn
Góc khối
Tam giác cầu
Đa diện nội tiếp
Đa diện ngoại tiếp
Các công thức
Diện tích mặt cầu:
Thể tích khối cầu:
Phương trình mặt cầu
Trong không gian với hệ tọa độ Descartes Oxyz, mặt cầu tâm I(a,b,c) bán kính R thì có phương trình
Ngoài ra, phương trình với là phương trình mặt cầu có tâm I(-a,-b, -c) và bán kính |
Bài này nói về ete như là một lớp chung các hợp chất hữu cơ. Đối với các nghĩa khác, xem bài Ête (định hướng)
Ete hay ête là tên gọi chung cho một lớp hợp chất hữu cơ trong đó có chứa nhóm chức ête — nguyên tử oxy liên kết với hai (được thay thế) nhóm ankyl. Một ví dụ điển hình là dung môi và thuốc gây tê điêtyl ête (êthoxyêtan, CH3-CH2-O-CH2-CH3).
Các cấu trúc tương tự
Không phải mọi hợp chất có công thức R-O-R' đều là các ête. Ête không nên nhầm lẫn với các lớp hợp chất hữu cơ sau có cùng một công thức cấu trúc tổng quát R-O-R'.
Các hợp chất vòng thơm như furan trong đó nguyên tử oxy là một phần của vòng thơm.
Các hợp chất trong đó một trong số các nguyên tử cacbon tiếp ngay sau nguyên tử oxy được liên kết với oxy, nitơ hay lưu huỳnh:
Các este R-C(=O)-O-R
Các axêtal R-CH(-O-R)-O-R
Các aminal R-CH(-NH-R)-O-R
Các anhyđrit R-C(=O)-O-C(=O)-R
Các ête bậc nhất, bậc hai, bậc ba
Các thuật ngữ "ête bậc nhất", "ête bậc hai" và "ête bậc ba" đôi khi được sử dụng và nó chỉ tới nguyên tử cacbon ngay sau nguyên tử oxy của ête. Trong ête bậc nhất thì nguyên tử cacbon này chỉ được nối với một nguyên tử cacbon khác, như trong điêtyl ête CH3-CH2-O-CH2-CH3. Ví dụ về ête bậc hai là điisoprôpyl ête (CH3)2CH-O-CH(CH3)2 và ví dụ về ête bậc ba là đi-tert-butyl ête (CH3)3C-O-C(CH3)3.
Đimêtyl ête, ête bậc nhất, ête bậc hai và ête bậc ba.
Các polyête
Polyête là các hợp chất có nhiều hơn một nhóm ête. Trong khi thuật ngữ này nói chung để chỉ tới các polyme như polyêtylen glycol và polyprôpylen glycol, các hợp chất thấp phân tử như các ete lon đôi khi cũng có thể được gọi như thế.
Tổng hợp
R-OH + R-OH → R-O-R + H2O
Phản ứng trực tiếp này cần các điều kiện mạnh (nhiệt và xúc tác acid) và thông thường không được áp dụng trong thực tế. Các điều kiện như thế có thể phá hủy các cấu trúc nhạy cảm của một số nhóm chức. Tồn tại một số phương pháp nhẹ nhàng hơn để sản xuất ête.
R-O- + R-X → R-O-R + X-
Phản ứng này gọi là tổng hợp ête Williamson. Nó bao gồm việc xử lý rượu gốc với các base mạnh để tạo ra anion ankoxide, tiếp theo là thêm một lượng vừa đủ hợp chất béo chứa nhóm thế thích hợp (R-X). Các nhóm thế thích hợp (X) bao gồm iodide, bromide hay sulfonat. Phương pháp này chỉ cho kết quả tốt nhất đối với các nguyên tử cacbon bậc nhất, do các nguyên tử cacbon bậc hai sẽ tham gia phản ứng khử E2 khi tiếp xúc với các anion ankoxide gốc sử dụng trong phản ứng. Các ête gốc aryl có thể được điều chế theo phản ứng tổng hợp ête Ullmann.
R2C=CR2 + R-OH → R2CH-C(-O-R)-R2 (xúc tác acid)
Tính chất hoá học
Ête là các hợp chất có phản ứng hóa học rất kém. Chúng chỉ bị thủy phân trong những điều kiện rất mạnh chẳng hạn đốt nóng với BF3 hay đun sôi trong HBr. Các acid vô cơ chứa halôgen thấp phân tử khác, chẳng hạn HCl cũng sẽ chia cắt các ête, nhưng rất chậm. Chỉ có HBr và HI là có thể chia cắt chúng với tốc độ nhận thấy được.
Các ête có thể phản ứng như là các base Lewis. Ví dụ, điêtyl ête tạo ra phức chất với các hợp chất của bo, chẳng hạn như triflorua bo điêtyl êterat F3B:O(CH2CH3)2.
Các êpoxide, hay các ête vòng trong các vòng ba thành viên, là rất dễ bị tổn thương trước các tấn công kiểu ái lực hạt nhân (nucleophil) và chúng phản ứng theo cách này.
Các ête bậc nhất và bậc hai với nhóm CH ngay sau nguyên tử oxy của ête dễ dàng tạo ra các peroxide hữu cơ có khả năng gây nổ cao (ví dụ điêtyl ête peroxide) khi có mặt oxy, ánh sáng và kim loại cũng như các tạp chất alđêhít). Vì lý do này các ête như điêtyl ête và THF thông thường không nên sử dụng làm dung môi trong các quy trình công nghiệp.
Ete có thể được dùng làm nhiên liệu
R-O-R’ + O2 -> CO2 + H2O
Điều này quan trọng vì các vùng/quốc gia có khí hậu lạnh như Alaska(Hoa Kỳ) hoặc Nga, Canada, hay các bang từ Washington đến Maine( Hoa Kỳ) thường xuyên có nhiệt độ thấp trong mùa đông.
Ether có thể được khử thành hydrocarbon:
R – O – R’ + 2H2 -> R-H + R’-H + H2O (to, p, xúc tác Mo-Ni hoặc Co-Mo trên nền γ-alumina)
Thuộc tính vật lý
Các phân tử ête không thể tạo ra các liên kết hiđrô với nhau, vì thế kết quả là chúng có điểm sôi tương đối thấp khi so sánh với các ancol tương tự. Các ête là không ưa nước hơn nhiều so với các este hay amit với cấu trúc tương tự.
Danh pháp
Trong hệ thống danh pháp IUPAC, các ête được đặt tên theo nguyên tắc chung "ank-oxy-ankan", ví dụ CH3-CH2-O-CH3 là mêtoxyêtan. Nếu ête là một phần của các phân tử phức tạp hơn thì nó được miêu tả như là gốc thay thế ankoxy, vì thế -OCH3 có thể coi như là nhóm "mêtoxy-". Tên gọi kiểu hai nhóm ankyl và chèn thêm "ête", ví dụ "êtyl mêtyl ête" trong ví dụ trên đây, là cách gọi thông thường.
Các ête quan trọng
Êtylen oxide (epoxide), là ête vòng nhỏ nhất:
Đimêtyl ête, chất đẩy trong các bình xịt:
Điêtyl ête, một dung môi thông dụng có điểm sôi thấp:
Đimêtoxyêtan, dung môi có điểm sôi cao:
Điôxan, ête vòng có điểm sôi cao:
THF, một ête vòng, một trong các ête phân cực đơn giản nhất được sử dụng làm dung môi:
Anisol (mêtoxybenzen), thành phần chính của tinh dầu hồi:
Các ête vòng hoa (crown), các polyête vòng được sử dụng như là các chất xúc tác chuyển pha:
Polyêtylen glycol, polyête thẳng, được sử dụng trong mỹ phẩm: |
T.T.Kh. (tên cách điệu TTKh hay T.T.Kh) là bút danh của một nhà thơ hiện vẫn chưa rõ lai lịch giới tính cụ thể, xuất hiện lần đầu vào khoảng cuối thập niên 1930. Tác giả đã thu hút sự quan tâm của công chúng, báo chí và các nhà khảo cứu văn học Việt Nam, với lượng lớn sách báo ở trong nước lẫn hải ngoại viết về T.T.Kh. bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 đến thế kỷ 21. Đã có nhiều suy đoán về danh tính người đứng sau những bài thơ, trong đó hai giả thuyết nổi bật nhất là Thâm Tâm và Trần Thị Vân Chung, kéo theo tranh cãi trong giới thi đàn sau đó.
Các bài thơ do T.T.Kh. sáng tác – tiêu biểu "Hai sắc hoa Ti-gôn" – đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm của các nhà thơ cùng nhạc sĩ nổi bật sau này, tạo nên sức ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng. Năm 1942, T.T.Kh. được đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam như là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam (1930–1945).
Xuất hiện
Dựa trên đa số nguồn sách báo từ trước đến nay, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội đã đăng truyện ngắn Hoa Ti-gôn của nhà văn Thanh Châu lên số 174, xuất bản vào cuối tháng 9 năm 1937. Nội dung truyện kể về chuyện tình buồn giữa một cô gái với chàng họa sĩ nghèo mới ra trường. Cùng tháng, tòa soạn báo nhận được một bài thơ từ tác giả ký tên T.T.Kh. "Hai sắc hoa Ti-gôn", đăng trên số 179 ra ngày 30 tháng 10 năm 1937. Bài thơ này được cho là có liên hệ tới truyện ngắn của Thanh Châu.
Chưa đầy một tháng sau, một bài thơ khác mang tựa "Bài thơ thứ nhất" tiếp tục được gửi đến, cũng với nét chữ run run, ra mắt tại số 182 ngày 20 tháng 11 năm 1937. Cả hai bài sau khi ra đời đã thành công thu hút sự chú ý từ giới văn đàn và người yêu thơ bởi những vần thơ da diết.
Năm 1938, T.T.Kh. được cho là viết bài nữa có tên "Đan áo cho chồng", mà sau đó bị đưa lên Phụ nữ thời đàm ngày 23 tháng 7. Tác giả đã đưa cho tòa báo Tiểu thuyết thứ bảy "Bài thơ cuối cùng", giới thiệu ở số 217 ra ngày 30 tháng 10 cùng năm. Khi bài thơ này đăng xong thì không còn bài mới nào của T.T.Kh. gửi đến hai tờ báo nữa.
Nhưng theo tác giả Anh Đào, viết tại báo Nhân Loại bộ mới năm 1958, ông cho biết đã tìm ra vài câu thơ của "Bài thơ thứ nhất", "Bài thơ cuối cùng" đăng lần lượt trên số 22 và 15 Hà Nội báo ra ngày 3 tháng 6 và 15 tháng 4 năm 1936. Công bố trên hoàn toàn đi ngược lại với đa số các tư liệu và thông tin về T.T.Kh., tuy nhiên điều này vẫn chưa thể được kiểm chứng thông qua hai số báo gốc hiện nay bị thất lạc và do đó phát hiện trên cũng sớm đi vào quên lãng.
Phân tích
Cấu trúc, chủ đề
nhỏ|Hoa Hiếu nữ (Tigôn) là một hình ảnh hiện đại đặc trưng xuất hiện trong các sáng tác của T.T.Kh.
Ba trong số các bài thơ (xem danh sách bên dưới) được T.T.Kh. viết theo lối thất ngôn tứ tuyệt với giai điệu phảng phất Đường thi. Tất cả sáng tác của nhà thơ đều ở ngôi kể thứ nhất là chính tác giả ("tôi", "em"). Từ ngữ sử dụng trong thơ hầu như là từ thuần Việt, đơn giản và không nhiều những từ địa phương hay Hán-Việt.
Chủ đề thơ T.T.Kh. xoay quanh tình yêu và kỷ niệm mùa thu gắn liền hoa tigôn, phù hợp lý tưởng chung của lớp thanh niên trẻ trước cách mạng. Thơ tác giả nghiêng về ảnh hưởng từ dòng thơ Pháp với các nhà thơ Xuân Diệu, Thế Lữ,... hiện đại từ ngôn ngữ đến hình ảnh. Cũng chính vì phong cách sáng tác này mà T.T.Kh. đã gây nên phân vân cho một số nhà nghiên cứu đương thời trong việc xếp hẳn vào dòng thơ Việt. Dù vậy, nội dung các bài thơ trên vẫn chịu sự ảnh hưởng từ lễ giáo phong kiến và không thể có cái kết đẹp. Theo Phạm Thế Ngũ, lời thơ T.T.Kh. "có chỗ thật thà non vụng, nhưng cũng có nhiều đoạn trơn tru réo rắt, như phát ra từ nguồn thơ và âm điệu tự nhiên của lòng T.T.Kh.".
Tác phẩm
Có tổng cộng 3 tác phẩm của T.T.Kh. đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy:
"Hai sắc hoa Ti-gôn" (1937): gồm 10 hoặc 11 khổ; là tâm sự của một thiếu phụ, hoài niệm về mối tình xưa cũ với chàng trai mà cô đem lòng yêu và bi kịch chia li khi phải lấy người đàn ông khác, cũng như băn khoăn về phản ứng "người ấy" khi biết tin cô đã sang sông.
"Bài thơ thứ nhất" (1937): hồi tưởng về thanh xuân và nỗi cô đơn tâm hồn cô gái bên người chồng hiện tại; gồm 10 khổ 40 câu.
"Bài thơ cuối cùng" (1938): gồm 9 khổ; lời trách móc, "oán hờn" của cô gái về việc bị đăng bài thơ không hề muốn, là thông điệp cuối cùng về sự chia tay.
Bài thơ "Đan áo cho chồng", được viết ở thể thơ lục bát, là lời than thân của thiếu phụ về nỗi đau đớn xót xa nước mắt trong cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Về bài thơ này, đã có những nghi ngờ khác nhau rằng liệu T.T.Kh. có thực sự là tác giả. Việc sáng tác thi phẩm từng được nhà thơ đề cập đến trong "Bài thơ cuối cùng" như là tiền đề cho sự ra đời của tác phẩm, theo đó cho biết bài "Đan áo cho chồng" ban đầu không định đăng báo nhưng một trong số ba người đọc bài thơ đã lén đem đi "rao bán" và "Cho khắp người đời thóc mách xem". Tuy nhiên theo Thanh Châu, bài thơ này có thể không phải của T.T.Kh. mà là bị giả mạo dựa trên những đặc điểm tương đồng, và chỉ có ba bài chắc chắn do T.T.Kh. sáng tác. Các học giả khác thì cho rằng bài thơ không phải của T.T.Kh. vì đăng khác nơi. Mã Giang Lân, viết trên Báo Văn nghệ, đã nghi vấn tác giả thực hai bài thơ cuối bởi có nhiều điểm mâu thuẫn. Trái ngược với số ý kiến nghi ngờ, Trần Đình Thu, tác giả của loạt bài viết về T.T.Kh. trên tờ Thanh Niên, khẳng định dù không giống về hình thức nhưng phong cách sáng tác bài thơ này mang sự nhất quán với những bài còn lại và "rất T.T.Kh.". Cũng theo ông, "Đan áo cho chồng" có thể được viết trước ba bài thơ kia từ khá lâu, và lý do khác biệt trong lối viết là vì T.T.Kh. chỉ làm bài này để gửi cho "người chị nào đó" nên sẽ không cảm xúc bằng viết về/cho "người yêu".
Sau khi Thâm Tâm qua đời vào 1950, T.T.Kh. được cho là viết thêm một bài thơ nữa có tên "Trả lại cho đời cánh hoa tim" để bày tỏ sự thương tiếc. Thế nhưng bài thơ đã bị gọi là "một đoạn thơ "tâm thần"", nhại lại bài "Màu máu Ti-gôn" của Thâm Tâm. Ngoài hai tờ báo là Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ nữ thời đàm đăng thơ T.T.Kh., cũng xuất hiện những bài thơ khác trên các mặt báo cùng thời với người viết tự xưng là T.T.Kh., trong số đó có "Thu ngục thất" đăng báo Phổ thông số 16 (1959) và "Tan vỡ" đăng báo Tiến thủ năm 1958. Tuy vậy, có quan điểm đã nhận định rằng hai bài này không phải của T.T.Kh., xét trên ý thơ và kỹ thuật chưa đạt đến mức độ cảm xúc như tác giả.
Giới tính và gia thế nhân vật trong các bài thơ
Từ các bài thơ viết ở ngôi thứ nhất của T.T.Kh., giới tính nhân vật trữ tình đã được định rõ là nữ. Theo phân tích từ nhà nghiên cứu Trần Đình Thu dựa trên nội dung thơ, T.T.Kh. là một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn đều không phải vướng bận điều gì. Trong thơ, T.T.Kh. thường "nhìn gió ngắm trăng" và sở thích đọc tiểu thuyết. Cách dùng từ tại các bài thơ có thể khẳng định tác giả được cho đi học ở trường Tây và được đào tạo bằng chữ quốc ngữ. Theo thơ, cô từng có mối tình với một nghệ sĩ không cùng quê ("người ấy") nhưng sau đó bị cha mẹ ép thành hôn với chồng "luống tuổi" và có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Người chồng này được cho là họ Nghiêm, 38 tuổi hoặc lớn hơn.
Danh tính
Câu hỏi về tác giả thực sự đằng sau bút danh T.T.Kh. đã gây nên những tranh luận lớn trong giới học thuật và xã hội Việt Nam, kéo dài từ khoảng giữa thế kỉ 20 đến đầu thế kỉ 21. Các bài thơ thời điểm ra mắt nhanh chóng nhận được sự yêu thích của bạn đọc và có nhiều thư từ khắp cả nước gửi về Tiểu thuyết thứ bảy, tò mò về danh tính người sáng tác. Đáng chú ý, chỉ sau sự kiện hai bài thơ đầu đăng tải, có mấy người đàn ông đã nhất quyết cho rằng T.T.Kh. là người yêu của mình. Năm 1942, nhà thơ lần đầu được bộ đôi nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đưa vào Thi nhân Việt Nam, cuốn sách tổng hợp nói về những nhà thơ nổi bật phong trào Thơ mới 1932-1945. Trong sách, người viết bày tỏ sự hiếu kỳ về cuộc sống tác giả sau ba năm kể từ các bài thơ cuối.
Song song khoảng thời gian trên, có nhiều thông tin về cuộc sống và thân phận thực của T.T.Kh. liên tiếp được tung ra. Nhiều tờ báo, nhà xuất bản có tiếng ở Hà Nội khi ấy, đơn cử như Tiểu thuyết thứ bảy và Hà Nội báo, đã cạnh tranh nhau để tìm ra người đứng sau các bài thơ ký tên T.T.Kh. nhằm lôi kéo độc giả, giành thế thượng phong. Thậm chí, có người nhận từng gặp T.T.Kh. ngoài đời. Vô số tài liệu, sách báo khác nhau từ Nam ra Bắc đã viết và đưa ra phán đoán về T.T.Kh., tuy nhiên nhiều trong số đó bị thất lạc do hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng theo Nguyễn Vỹ, câu chuyện của T.T.Kh. không hề gợi một dư luận xôn xao nào đương thời và phải đến thời hậu chiến (tức sau Chiến tranh Đông Dương) mới được biết đến, được "tôn sùng [...] thành một thảm kịch của tình yêu!".
Trong lời lược thuật về tác gia ở cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến, T.T.Kh. có từng đến tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy để gửi "Hai sắc hoa Ti-gôn". Đây là lần đầu tiên và duy nhất "người phụ nữ" xuất hiện; các bài thơ còn lại gửi qua đường bưu cục. Người phụ nữ này được miêu tả là "một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn"... Còn theo Thanh Châu, ông đã nhận bó hoa tigôn trên bàn làm việc khi đang cộng tác tờ Tiểu thuyết thứ bảy; người đưa bó hoa này được cho là T.T.Kh., "một thiếu phụ rất đẹp và sang trọng mang đến nhưng không để lại danh thiếp". Tại số báo thứ 178, tòa báo có đăng câu hỏi địa chỉ nhà thơ, nhưng một bức thư của T.T.Kh. đã gửi tới với lời hồi âm không muốn tiết lộ thân phận.
Thâm Tâm và những người khác
Một trong những giả thiết nổi bật nhất cho rằng T.T.Kh. chính là Thâm Tâm. Tại các bài thơ trả lời T.T.Kh., Thâm Tâm đã tự nhận mình là người yêu tác giả và có bài xưng T.T.Kh. là Khánh. Nhiều báo chí thế kỉ 20 cho biết được Thâm Tâm tâm sự, xác nhận đã chấp bút những bài thơ trên. Cũng có người suy luận đây là sản phẩm tưởng tượng của nhà thơ. Trong một cuộc trò chuyện với Thâm Tâm (1949), Bùi Viết Tân được Thâm Tâm tiết lộ thông tin T.T.Kh. do chính mình viết, và chuyện này duy có Trần Huyền Trân biết. Còn theo Anh Đào (1947) thì chuyện này chỉ Nguyễn Bính làm nhân chứng cho lời kể Thâm Tâm.
Theo lời Nguyễn Vỹ, bạn của Thâm Tâm, trong một lần rủ Thâm Tâm về nhà sau khi bắt gặp nhà thơ đang say rượu, ông đã nghe được chuyện tình của bạn với người con gái có tên Trần Thị Khánh sống ở cuối đường Sinh Từ bên cạnh vườn Thanh Giám (tiếng Pháp: Pagode des Corbeaux). Hai người lén đến vườn Thanh Giám để hẹn hò đúng hai lần. Sau khi từ chối ra mắt bố mẹ cô gái này vì sự nghiệp chưa có gì, một thời gian sau Thâm Tâm nhận tin người yêu sắp kết hôn với một nhà buôn giàu có góa vợ ở phố Hàng Ngang. Để không mang tiếng bị phụ tình, ông quyết định thức trắng một đêm viết nên bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" rồi ký T.T.Kh., ý chỉ tên bạn gái. Sau đó, ông nhờ cô em họ chép lại thơ bằng nét chữ khác và mang bản viết này đến tòa báo nhằm giấu danh tính. Sau khi hai bài thơ đầu được đăng tải, Trần Thị Khánh đã viết một bức thư tới Thâm Tâm, dùng xưng hô "tôi" thay vì "em" như mọi khi để tỏ ý không bằng lòng việc ông dùng tên cô làm thơ, điều có thể gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Thâm Tâm dựa trên lá thư này viết nên "Bài thơ cuối cùng", rồi sau đó tự viết bài thơ trả lời "Dang dở" cùng năm.
Tuy vậy, trong bài viết trên tờ Phổ thông số 28 ra ngày 15 tháng 2 năm 1960, một người từng thân quen Thâm Tâm thời gian đáng kể đã phủ nhận ông là tác giả của T.T.Kh. do chưa hề nghe bạn đề cập đến bao giờ. Nhà văn Thanh Châu cũng bày tỏ quan điểm tương tự. Những người bạn của nhà thơ, trong đó có Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân, khi được hỏi không đưa ra một câu trả lời đồng nhất về liệu tác giả các bài thơ có phải Thâm Tâm. Còn với nữ sĩ Ngân Giang thì những bài thơ này là Thâm Tâm viết hộ cho một người bạn (theo lời ông kể).
Số ý kiến khác thiên về tác giả là một cá nhân khác, như người yêu Thâm Tâm, cụ thể hơn là em họ nhà thơ Tế Hanh (do ông tự nhận, tác giả Giang Tử tường thuật lại); Phạm Thị Sứ (hay Phạm Thị Lý) nữ sinh trường Đồng Khánh; Trần Huyền Trân; Nguyễn Bính; Thẩm Thệ Hà (tên thật Tạ Thành Kỉnh); Đinh Hùng; J. Leiba (theo Vũ Bằng); hay đi xa nữa là ít nhất hai nhân viên ẩn mật quen biết nhau làm tại Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ nữ thời đàm cùng viết ra các bài thơ;... Nhưng theo một số quan điểm, khi đem so sánh T.T.Kh. với các tác giả Nguyễn Bính và Thâm Tâm trong phong trào Thơ mới thì cả hai bị cho là có phong cách, cách dùng từ, giọng thơ khác nhau hoàn toàn, quá "cựu" trong khi T.T.Kh. rất "tân".
Trần Thị Vân Chung
Sách T.T.Kh, nàng là ai?
Có ý kiến đã liên hệ T.T.Kh. với Thanh Châu và rằng hai người có quan hệ ngoài đời thực vì sự trùng hợp giữa truyện ngắn và bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" trong cách nhìn loài hoa tigôn, một hình ảnh tiêu biểu xuất hiện trong hai tác phẩm của hai tác giả. Tuy nhiên thông qua lời thơ, T.T.Kh. giải thích rằng đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Mùa thu năm 1994, bộ đôi tác giả Thế Nhật (Thế Phong, Trần Nhật Thu) đã ra mắt cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ấn hành. Trong đó, cả hai khẳng định Trần Thị Vân Chung (bút danh Vân Nương) – một thành viên của nhóm thơ Quỳnh Dao – chính là T.T.Kh., dựa trên nguồn tin được tiết lộ từ người quen của bà Vân Chung là Thư Linh gồm bài thơ "Hoa tim" do bà sáng tác và bức thư được cho là Vân Chung viết. Các tác giả cũng cho rằng Vân Chung và Thanh Châu có quan hệ tình cảm, từng là người yêu cũ của nhau. Điều này được cho là khá tương đồng với hoàn cảnh các bài thơ và giải quyết nhiều thông tin khúc mắc.
Sau khi T.T.Kh, nàng là ai? ra mắt, cuốn sách mau chóng được bán hết đồng thời tạo nên tranh cãi lớn về chất lượng nội dung và tính xác thực. Các tờ báo lớn ở Việt Nam như Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ,... và ngoài nước đều có bài viết khen ngợi công sức tìm hiểu của tác giả cuốn sách, nhưng cũng không ít độc giả gửi thư phản bác luận cứ trong sách. Nhà văn Thanh Châu, trả lời phỏng vấn in trên tờ Nguyệt san văn hóa số tháng 9 năm 1994, đã nói bà Vân Chung không hề biết gì về T.T.Kh.. Trong một nhận xét tiêu cực hơn, nhà phê bình Nguyễn Thạch Kiên cuốn Về những kỷ niệm quê hương chỉ trích tác giả "bịa đặt [...] vu khống và lừa gạt độc giả" khi cho rằng người viết dựa vào một bài thơ của Nguyễn Bính ("Cô gái vườn Thanh") và bức thư từ Thư Linh mà "áp đặt, múa bút chửi người".
Ngay khi sách được xuất bản, Trần Thị Vân Chung đã viết bài trả lời phủ nhận rằng mình là T.T.Kh. bằng các bằng chứng thuyết phục rồi gửi cho nhà xuất bản, Bộ Văn hóa – Thông tin và đăng lên những tờ báo lớn tại Việt Nam lẫn hải ngoại. Bà ngoài ra còn chỉ trích nhân chứng cuốn sách Thư Linh – người được cho là bạn lâu năm của Vân Chung – khi không có tìm hiểu xác đáng. Những người thân, bạn bè nhà thơ khi được hỏi cũng cho biết sách sai rất nhiều thông tin về gia đình và tính cách bà, khiến người đọc nghi ngờ về tính xác thực của cuốn sách nói trên. Các ý kiến khác thì nhận xét thơ Trần Thị Vân Chung "không xứng tầm" với T.T.Kh. và rằng bà "không thể là T.T.Kh.".
Trong những bài phản hồi Trần Thị Vân Chung sau đó, Thế Nhật đã nhận "sai hết" và đưa ra lý do bào chữa cho lỗi sai của mình, nhưng khẳng định sự thành công của cuốn sách khi gây được dư luận cả trong Việt Nam và quốc tế. Thư Linh cũng viết thư nhận sai, quy phần lớn lỗi về tác giả cuốn sách không tìm hiểu kỹ, dù theo hai tác giả bà đã nhận lời cung cấp thông tin cho họ. Tuy nhiên vẫn có các ý kiến ủng hộ luận điểm Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh.. Trả lời với Trần Đình Thu, nhà văn Thanh Châu xác nhận ông và Vân Chung từng là người yêu một thời gian, biết nhau trước đó thông qua mối quan hệ bạn bè với anh ruột bà Vân Chung. Thế nhưng hai người sớm phải chia tay vì vấn đề môn đăng hộ đối. Một thời gian sau ông được thông báo Vân Chung đã lấy chồng và cả hai xa cách sau 1954, ông ra Bắc còn Vân Chung cùng chồng vào Nam. Dù vậy, Thanh Châu đã nhất mực phủ nhận khi được đặt câu hỏi liệu T.T.Kh. có phải là Trần Thị Vân Chung.
Sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh
Vào tháng 2 năm 2007, Trần Đình Thu đã ra mắt cuốn Giải mã nghi án văn học T.T.Kh dài 192 trang, do Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn và CADASA phát hành. Cũng với lập luận giống Thế Nhật về Trần Thị Vân Chung, Đình Thu khẳng định mình sẽ là "người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ". Trước đó, sau khi hoàn thành xong bản thảo, ông cho đăng các bài phân tích của mình lên báo Thanh Niên và gây được sự quan tâm từ bạn đọc. Cuốn sách từng bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra kiện tụng.
Sau khi sách lưu hành, Trần Thị Vân Chung tiếp tục viết một bức thư phản đối, cáo buộc Trần Đình Thu vì "nêu tên tuổi, đưa hình ảnh và chà đạp lên đời sống cá nhân" mà không xin ý kiến từ người trong cuộc. Trần Đình Thu sau đó trả lời rằng ông chỉ muốn "giải mã" T.T.Kh. và không xúc phạm uy tín, danh dự hay nhân phẩm của bà, cũng như cho rằng nội dung sách không phạm vào điều cấm của luật Xuất bản nên chưa phạm luật. Một số luật sư của đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, trả lời trong bài viết đăng trên báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đã tỏ ra "khá ủng hộ" về khía cạnh tìm hiểu T.T.Kh. của cuốn sách nhưng cũng lưu ý rằng việc công bố những thông tin đời tư cá nhân mà không có sự đồng ý của họ và việc tự ý đăng các bài thơ bà Vân Chung có thể vi phạm luật Dân sự và luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Ảnh hưởng và di sản
Các thi phẩm của T.T.Kh. đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và tạo nên ảnh hưởng lên văn hóa đại chúng. Thơ T.T.Kh. khi ấy tập hợp những thanh niên tri thức có cùng một thế giới quan khi đặt ra lập trường nữ quyền "táo bạo [...] trực tiếp thách thức trật tự xã hội cũ, vốn đã được chứng minh là không phù hợp và khó bị thay đổi bởi giới cầm quyền", trong bối cảnh lớp thế hệ này đã dần hình thành những suy nghĩ về "cải cách xã hội, nới lỏng sự ngột ngạt trong tình cảm, và hiện đại ở mọi mặt đời sống Việt Nam". Những bài thơ T.T.Kh. được nhận định "vừa là lời than thở đau lòng về tình yêu bị ngăn cách, vừa là bản cáo trạng về tục lệ hôn nhân sắp đặt của xã hội Việt Nam mà nay đã bị bài trừ". Học giả Thomas D.Le của Viện Việt-Học coi T.T.Kh. là một trong số các nhà thơ vĩ đại nhất của Việt Nam hiện đại, ví tác gia như một cô gái "dũng cảm cưỡi trên làn sóng mới bắt đầu quét qua tâm hồn và suy nghĩ của một thế hệ tri thức thành thị" và liên hệ T.T.Kh. với phong trào Thơ mới "khiến người phụ nữ có thể vươn lên khỏi những ràng buộc của truyền thống, trước hết là trong con tim, sau đó là đến suy nghĩ".
Đã có những nhà thơ sáng tác thơ trả lời hoặc gửi tặng T.T.Kh., đi xa hơn thì nhận có quen biết với tác giả, như "Màu máu Tigôn", "Dang dở", "Các anh" (hay "Gửi T.T.Kh.") của Thâm Tâm; "Dòng dư lệ" (hay "Cô gái vườn Thanh") của Nguyễn Bính;... J. Leiba từng chép nguyên văn bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" hoặc "Đan áo cho chồng" đăng lên tờ Hà Thành ngọ báo, với lời nhắn gửi (hoặc do ông in lại từ tác giả khác) bằng thơ dành cho T.T.Kh. dài 4 câu. Trong số những bài thơ của T.T.Kh., "Hai sắc hoa Ti-gôn" được nhận định là tác phẩm tiêu biểu, nổi tiếng nhất và là một trong những bài thơ tình hay nhất thi ca Việt Nam. Theo nhà phê bình văn học Thụy Khuê, bài thơ này đã mở đường cho một lối lãng mạn khác với các thi sĩ cùng đề tài như Đông Hồ, Tương Phố, khóc cho tình yêu, cho người ngoài hôn phối và là một "giọt lệ tương tư mới". Nhà phê bình đồng thời ghi nhận đây là lần đầu tiên hai chữ "người ấy" được đưa vào thơ ca Việt Nam, trở nên "cổ điển" và là "ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ". "Bài thơ cuối cùng" cũng được bà xem như là một tác phẩm "huyền thoại" với những lời trách móc "u uẩn" bằng nhịp điệu du dương, lời tha thiết và gắn bó.
Nhờ "Hai sắc hoa Ti-gôn", tên tuổi T.T.Kh. gắn liền với hình ảnh hoa tigôn – được xem như là biểu tượng của tình yêu và đóng vai trò là nguồn cảm hứng cho thơ ca hậu thế, cũng như đi vào âm nhạc Việt Nam khi được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc lại như Trần Thiện Thanh, Hà Phương, Trần Trịnh và Anh Bằng, Từ Vũ, Song Ngọc,... Phạm Duy đã nhại lại bài thơ trong Tục ca số 2 "Tình Hôi", thu âm trước 1975. Sau năm 1954, những người dân di cư vào Nam chuyền tay nhau bài thơ trên của T.T.Kh. và tạo nên xúc động mạnh cho thế hệ bấy giờ. Khoảng giữa thập niên 1970, trong Nam Bộ rộ lên phong trào in lại những tác phẩm văn học của các tác giả trước 1945 và văn thơ cách mạng. Danh tiếng T.T.Kh. đã trở nên phổ biến hơn qua phong trào này với việc thơ tác giả, trong đó có "Hai sắc hoa Ti-gôn", được in theo loại cánh bướm xếp gọn dễ phổ biến và bán với giá rẻ. Nhiều người đã học thuộc lòng bài thơ; khổ cuối bài cũng được nhiều người chế lại, trong đó có bài được cho là của Hồ Dzếnh.
Vào năm 2010, Trần Đình Thu tiết lộ kế hoạch chuyển thể câu chuyện T.T.Kh. lên phim, dựa theo tìm hiểu của ông từ cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh. Ông đã viết xong một kịch bản điện ảnh dài 110 phút mang tên "Chuyện tình Hai sắc hoa ti gôn", sau đó kịch bản này được Phạm Thùy Nhân biên tập lại suốt nhiều tháng và gửi cho một hãng phim, dự kiến sẽ do Lê Cung Bắc đạo diễn. Tuy nhiên, việc thực hiện phim bị đình lại do tác phẩm chỉ chủ yếu dành cho đối tượng là những người trên 40 tuổi và do đó khó đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất. Năm 2017, bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" và câu chuyện của T.T.Kh. với Thâm Tâm được dựng thành vở kịch bolero do đạo diễn Ngọc Tưởng thực hiện. Vở kịch này là một phần của chương trình truyền hình Kịch cùng Bolero, với hai diễn viên thể hiện là Lê Phương và Trung Dũng.
Chú thích
Ghi chú |
Chùa Giác Viên (覺圓寺) hay tổ đình Giác Viên (覺圓祖庭) còn có tên là chùa Hố Đất (vì trước đây ở bên rạch Hố Đất) là một ngôi cổ tự; hiện tọa lạc tại số 161/35/20 đường Lạc Long Quân, phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 43 – VH/QĐ ngày 7 tháng 1 năm 1993.
Lịch sử về chùa
Năm Mậu Ngọ (1798), chùa Giác Lâm được Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (đời thứ 36, trụ trì: 1774 - 1827) cho trùng tu lớn, gần như là làm mới lại tất cả. Gỗ xây dựng chùa được chở từ rừng về bằng đường sông, theo rạch Hố Đất (tức rạch Tân Hòa) vào rạch Ông Bường, rồi đỗ ở bến mà sau này là vị trí của chùa Giác Viên ngày nay.
Sau khi cưa xẻ, những cây ván được đưa về chùa Giác Lâm (cách đó khoảng 2 km) bằng xe trâu. Công trình đại trùng tu đó kéo dài khoảng 6 năm mới xong (1798–1804). Trong khoảng thời gian đó, một ông hương đăng già (lo việc nhang đèn trong chùa, không rõ họ tên) được cử đến trông coi việc cưa xẻ và giữ gìn cây gỗ. Đến đây ông dựng một cốc nhỏ (bên trong có thờ Bồ Tát Quán Thế Âm) vừa làm nơi tu, vừa để lo cho công việc. Đến khi chùa Giác Lâm được trùng tu xong, Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho sửa am thành chùa, đặt tên là Viện Quan Âm.
Năm Canh Tuất (1850), Hòa thượng trụ trì chùa Giác Lâm lúc bấy giờ là Tiên Giác Hải Tịnh (đời thứ 37, trụ trì: 1827 - 1869) cho trùng tu viện thành chùa, đổi tên lại là Giác Viên.
Năm Nhâm Tý (1852), ông hương đăng già (là người sáng lập và trông coi chùa Giác Viên) mất, Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh cử đệ tử là Thiền sư Minh Vi-Mật Hạnh (đời thứ 38) làm trụ trì, đồng thời cho đặt cơ sở học tập khoa ứng phú tại đó .
Năm 1869, Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh thấy mình đã già yếu, nên đưa Thiền sư Minh Vi-Mật Hạnh về làm trụ trì chùa Giác Lâm, đồng thời cử một đệ tử khác là Thiền sư Minh Khiêm-Hoằng Ân (đời thứ 38) sang trụ trì chùa Giác Viên. Sau đó, lần lượt các đời trụ trì chùa là: Như Nhu-Chân Không, Như Phòng-Hoằng Nghĩa, Hồng Từ-Huệ Nhơn, Thích Thiện Phú,...
Kiến trúc, thờ phụng, cổ vật
Chùa Giác Viên được trùng tu lớn vào năm 1958, 1961, 1962. Diện mạo chùa hiện nay có kiến trúc tương tự như chùa Giác Lâm, phật điện ở giữa chùa, hai bên có 2 dãy nhà. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có những dãy nhà phụ làm lớp học, trai đường, nhà bếp,...và khu tháp mộ.
Chùa có tất cả 153 pho tượng lớn nhỏ (đa số bằng gỗ), 57 bao lam (cửa võng) và 60 phù điêu. Hầu hết các cổ vật này được chạm khắc vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nét đặc biệt trong kiến trúc chùa Giác Viên là bộ sườn gỗ chạm trổ tinh vi, tiêu biểu cho kiến trúc cổ truyền tại miền Nam Việt Nam.
Chánh điện thờ đến 120 pho tượng, đáng chú ý có các tượng và bộ tượng: A Di Đà, Bồ Tát Di Lặc, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thập Điện Diêm Vương (10 tượng), Thập Bát La Hán (18 tượng). Ngoài ra, ở bàn thờ Tổ, có ba tượng chân dung của ba vị trụ trì là: Tiên Giác-Hải Tịnh, Như Nhu-Chân Không, và Như Phòng-Hoằng Nghĩa .
Ngoài số cổ vật ấy, chùa còn lưu giữ một chiếc giá võng của triều đình nhà Nguyễn tặng hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh, và một gốc mai cổ thụ. Theo Gia Định xưa, thì gốc mai này "nguyên lấy giống cây mai của ông Mạc Cửu đem từ Trung Quốc sang Việt Nam".
Ảnh có liên quan |
Hoàng Đế (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của Văn minh Trung Hoa, được coi là thủy tổ của mọi người Hán. Chữ Hoàng (黃) ở đây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành Thổ. Hiểu nôm na "Hoàng Đế" là "Vua Vàng", khác với Hoàng (皇) trong Hoàng đế, là danh xưng của các quân chủ kể từ thời nhà Tần (xem bài Tần Thủy Hoàng).
Hoàng Đế thường được coi là một trong Tam Hoàng hoặc Ngũ Đế. Theo huyền sử Trung Quốc, ông trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN và là người sáng lập ra nền văn minh Trung Quốc. Theo truyền thuyết, việc ông rút về phía tây tại trận Trác Lộc (涿鹿) đánh thủ lĩnh Xi Vưu là cái mốc hình thành người Hán.
Nguồn gốc tên gọi
Trước khi Tần Thủy Hoàng lập ra danh hiệu Hoàng đế, thì từ Đế thời kì này dùng để chỉ Thượng đế trong tín ngưỡng nhà Thương. Vào thời Chiến Quốc, danh từ Đế dùng để chỉ các vị thần của những ngọn núi thiêng, trong đó Hoàng Đế (ý nói Vua Vàng) chính là một trong số đó.
Cuối thời Chiến Quốc, Hoàng Đế dần mang tính vũ trụ học của học thuyết ngũ hành, và màu vàng tượng trưng cho thuộc tính Thổ, cũng mang ý nghĩa trung tâm. Việc này cũng được đề cập trong Lã Thị Xuân Thu.
Căn cứ vào khảo cổ học, ghi chép sớm nhất về Hoàng Đế là dựa trên một Kim văn nước Tề thời Chiến Quốc. Trong Sử ký của Tư Mã Thiên, ông cũng đề cập đến việc nước Tần đã tôn thờ một tín ngưỡng Hoàng Đế cùng với Viêm Đế. Bàn thờ cúng đã được tìm thấy tại vùng ngày nay là quận Phượng Tường, Thiểm Tây nơi mà xa xưa từng là kinh đô của nước Tần.
Và cũng trong Sử ký, Tư Mã Thiên đã tổng hợp những thông tin rải rác về Hoàng Đế khi ấy và tổng hợp nên một nhân vật thần thoại và có các thành tựu như ta đã biết ngày nay. Chính những bước đầu tiên này, Sử ký đã có ảnh hưởng sâu rộng đến cái nhìn lịch sử Trung Quốc cổ đại không chỉ với người Trung Hoa mà còn đối với các nước đồng văn.
Thân thế
Hoàng Đế có họ là Công Tôn thị (公孫氏), do sống ở gò tên gọi Hiên Viên (軒轅) nên từ đó ông được gọi là Công Tôn Hiên Viên (公孫軒轅), là con của Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiểu là Phù Bửu (附寶). Mẹ ông đã nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thụ thai sinh ra ông.
Thuở nhỏ, ông rất thông minh, có tính thần linh, dáng vẻ ngoài rất kỳ dị, khi còn bọc trong tã đã biết nói, lớn lên cần cù hiểu biết sáng suốt, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức, được bầu làm tù trưởng bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏). Hoàng Đế sinh ra ở đất Thọ Khâu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) sau chuyển đến sống ở ven sông Cơ Thủy, từ đó mới lấy tên sông làm họ Cơ (姬).
Cai trị
Chiến tranh với Xi Vưu
Cách đây hơn 4000 năm, ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống. Hoàng Đế là một trong những thủ lĩnh bộ lạc nổi tiếng nhất trong truyền thuyết.
Bộ lạc Thiếu Điển, do Hoàng Đế làm thủ lĩnh, ban đầu sống ở vùng Cơ Thủy thuộc tây bắc Trung Quốc, sau dời tới vùng Trác Lộc bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi và trồng trọt. Viêm Đế Thần Nông Thị là thủ lĩnh một bộ lạc khác đồng thời với Hoàng Đế, cư trú tại vùng Khương Thủy ở tây bắc Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Viêm Đế có họ hàng thân tộc với Hoàng Đế. Còn Xi Vưu là thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê. Họ chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ, thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác.
Có lần, Xi Vưu xâm chiếm vùng đất của Viêm Đế. Viêm Đế đem quân chống lại nhưng thất bại. Viêm Đế đành chạy đến Trác Lộc, xin Hoàng Đế giúp đỡ. Hoàng Đế liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Xi Vưu trên cánh đồng Trác Lộc.
Về trận đại chiến này, đã có nhiều truyền thuyết hoang đường, khi quân của Hoàng Đế thừa thắng đuổi theo quân của Xi Vưu, trời bỗng nổi cuồng phong, là do Xi Vưu đã được sự giúp đỡ của thần gió, thần mưa. Hoàng Đế cũng nhờ Thiên Nữ giúp đỡ. Cuối cùng, Xi Vưu bại vong. Những truyền thuyết trên chỉ có tính chất phản ánh sự khốc liệt của cuộc chiến. Từ đó, Hoàng Đế được nhiều bộ lạc ủng hộ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế lại nảy ra xung đột, hai bên đánh nhau một trận ở Phản Tuyền, Viêm Đế thất bại. Từ đó Hoàng Đế trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc các vùng Trung Nguyên.
Trong các truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, Hoàng Đế rất được tôn sùng. Người đời sau đều cho rằng Hoàng Đế là thủy tổ của người Hoa Hạ (tức dân tộc Hán ngày nay) và coi mình là con cháu của Hoàng Đế. Viêm Đế và Hoàng Đế vốn thân thuộc nên sau này hai bộ lạc lại hoà hợp, nên người Trung Quốc thường tự xưng mình là con cháu Viêm-Hoàng, họ tự gọi mình là Viêm Hoàng tử tôn (炎黃子孫).
Để kỉ niệm vị tổ tiên chung đó, người ta xây lăng Hoàng Đế ở Kiều Sơn, phía bắc huyện Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây. Từ sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất, mỗi năm đều có lễ cúng bái lăng Hoàng Đế, được liệt vào hàng Đại điển, vì vậy được gọi là Thiên hạ đệ nhất lăng (天下第一陵). Nhưng thực tế trong lăng chỉ có y quan chôn để tượng trưng mà thôi.
Có truyền thuyết kể rằng, sau khi Hoàng Đế băng hà, một đêm Rồng thiêng đáp xuống tẩm cung đón Hoàng Đế lên trời. Để đáp lại công lao của ông, ông được phong thần, trở thành Ngọc Hoàng.
Thành tựu
Thời Hoàng Đế có nhiều phát minh sáng tạo (trong truyền thuyết) của nhiều người nhưng được quy chung cho Hoàng Đế như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, chế kim chỉ nam, làm lịch, y thuật (Hoàng Đế nội kinh tương truyền là của Hoàng Đế và Kỳ Bá). Lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ Hoàng Đế.
Theo sách Hoài Nam Tử, Hoàng Đế còn có một sử quan tên là Thương Hiệt, đã sáng tạo ra chữ viết cổ. Tuy nhiên, người ta chưa được thấy chữ viết thời đó nên không có cách gì chứng minh cho việc này.
Theo truyền thuyết, Hoàng Đế có người vợ đầu tên là Luy Tổ, hay Loa Tổ (螺祖), là người đã dạy cho phụ nữ nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa. 累 hay 螺 đều có chữ 糸 mịch tức sợi tơ nhỏ. Tuy nhiên, một số người cho rằng các tên trên có thể phiên sai từ Lôi Tổ (雷祖), nghĩa là bà Tổ Sấm. Theo Sơn Hải kinh (山海經), Luy Tổ sinh Xương Ý, Ý sinh Hàn Lưu, và Hàn Lưu sinh ra Chuyên Húc (Cao Dương Thị) vậy. Ông có thứ phi là Mô Mẫu (嫫母), thuộc Tây Lăng Thị (西陵氏), bà tuy không có nhan sắc nhưng đức hành cao thượng, được Hoàng Đế kính trọng. Ngoài ra, ông còn thêm 2 bà phi tên Phong Luy (封嫘), Đồng Ngư (彤魚) và 10 vị tần khác.
Ông có tổng cộng 25 người con, và được phân ra các họ khác nhau, gồm 12 họ là: Cơ (姬), Dậu (酉), Kì (祁), Kỉ (己), Đằng (滕), Dự (葴), Nhậm (任), Tuân (荀), Hi (僖), Cật (姞), Huyên (儇) và Hi (衣). Do vậy, từ đời Thiếu Hạo đến về sau nữa là nhà Chu đều có chung dòng dõi tổ tiên là Hoàng Đế. Theo Sơn Hải kinh (山海經), các tộc Bắc Địch, Khuyển Nhung và Đông Di cũng đều là con cháu của Hoàng Đế.
Cũng có truyền thuyết khác kể rằng Rồng xuất hiện từ thời này. Ngày đó mỗi bộ lạc đều lấy hình một con vật là Tộc Huy cho bộ lạc của mình. Và bộ lạc của Hoàng Đế chọn con rắn.
Sau mỗi lần thu phục 1 bộ lạc, Hoàng Đế sẽ trích 1 phần Tộc Huy của bộ lạc đó để thêm vào Tộc Huy của bộ lạc mình. Như một cách tượng trưng cho chiến thắng và uy danh. Vì vậy nên Tộc Huy của Hoàng Đế có thêm Sừng Nai, Mặt Ngựa, Vẩy Cá, Móng Chim Ưng. Lâu dần biến đổi thành Rồng.
Tầm quan trọng của Hoàng Đế
Qua đó, ta thấy thời vua Hoàng Đế diễn ra một biến cố quan trọng trong lịch sử và chính trị và xã hội của Trung Hoa cổ xưa.
Trong văn hóa Trung Hoa, Hoàng Đế được coi là người tạo ra nhiều di sản và học thuyết. Trong khi nhiều học giả phương tây cho rằng các học thuyết của Đạo giáo đều xuất phát từ Lão Tử, thì những người theo Đạo giáo Trung Hoa lại tự cho rằng những lý thuyết và triết lý Đạo giáo bắt nguồn từ Hoàng Đế. Cuốn Hoàng Đế nội kinh (黄帝内經), một cuốn sách thuộc hàng kinh điển trong Đông y được đặt theo tên của ông. Ngoài ra, ông cũng được nhìn nhận đã viết ra Hoàng Đế tứ kinh (黄帝四經), Hoàng Đế âm phù kinh (黄帝陰符經).
Vào thế kỷ thứ II, vai trò thần thánh của Hoàng Đế dần mất đi bởi một hình ảnh đang nổi lên là Lão Tử. Dẫu vậy, hình tượng Hoàng Đế không hề mất đi với vai trò là một thần linh tối cao và biểu thị cho sự trường thọ.
Chú thích
Sử ký - Tư Mã Thiên
Hán thư - Nhà họ Ban
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
. |
Nhân có thể có các nghĩa:
Phần ở giữa của một vật có nhiều lớp. Ví dụ nhân bánh ngọt là phần nằm giữa một bánh ngọt. Cách dùng "Nhân" theo nghĩa này có thể có gốc Hán Việt (堙) nghĩa là thứ bị vùi lấp bên trong.
Trong tế bào, xem nhân tế bào, Lỗ nhân
Phần ở chính giữa cấu trúc hành tinh, ví dụ Trái Đất, xem nhân hành tinh, lõi Trái Đất,...
Phần giữa của một nguyên tử, xem hạt nhân nguyên tử
Trong khoa học máy tính, hạt nhân là phần của hệ điều hành giao diện với phần cứng, ví dụ hạt nhân Linux.
Hạnh nhân tên một loại hạt cây
Nhân thực
Nhân sơ
Nhân mụn
Từ Hán Việt
Nghĩa là người: 人, như trong nhân loại, nhân ái, nhân khẩu, nhân quyền, nhân viên, nhân danh, nhân dân, nhân tình, nhân sanh, nhân tài, nhân sự, nhân dương, nhân vương, nhân vật, nhân công, nhân lực, nhân gian, nhân chủng, nhân chứng, nhân sỹ, nhân duyên, nhân hóa, nhân dạng, nhân kiệt, nhân ngư, nhân tố, nhân tính, nhân thân, nhân nhượng, nhân họa, nhân giới, Nhân bản, Nhân Bạng Ba, Nhân mã, Nhân mãn, nhân tạo, nhân điện, nhân tửu, nhân hảo, nhân vị, nhân thọ, nhân khí, nhân tượng, nhân ảnh, nhân mỹ, nhân ngưu, nhân mệnh, nhân mạng, nhân thần.
Tên một số loại thực vật như: Bá tử nhân, Sa nhân đỏ, Nhân trần hao, Nhân trần, Nhân sâm , Hỏa ma nhân, Đào Nhân.
Nhân hương phương
Nhân sư tên một bức tượng ở Ai Cập.
Nghĩa là lý do: 因, như trong nguyên nhân, nhân quả, tác nhân.
Vô nhân vị
Nghĩa là đạo lý làm người, yêu người không lợi riêng mình: 仁, như trong nhân đạo, nhân đức, nhân tâm, nhân cách, nhân nghĩa, nhân hiếu, nhân hiền, nhân từ, nhân hậu, nhân hòa, nhân phẩm.
Chỉ hai sự kiện, hành động đi liền nhau, có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ như:nhân dịp năm mới...; nhân khi lửa tắt cơm sôi...;...
Nhân (Nhơn) là một bậc trong Ngũ Chi Đại Đạo
Tên người như: Tào Nhân
Nhân tướng học
Địa điểm: Tụ Nhân, Đồng nhân
Cách gọi xưng hô trong thời phong kiến xưa như quan nhân, giai nhân, mỹ nhân, quả nhân, tiểu nhân, đại nhân (thượng nhân), hiền nhân, thập nhân, tiền nhân, hậu nhân, tư nhân, thánh nhân, thi nhân, thân nhân, tình nhân, quái nhân, tù nhân, phạm nhân, văn nhân, sát nhân, gia nhân, chủ nhân, nam nhân, nữ nhân, miêu nhân, cổ nhân, cố nhân, thuyền nhân, truyền nhân, phu nhân, nghệ nhân, dị nhân, hình nhân, thế nhân, kỳ nhân, phế nhân, mộc nhân, mục nhân, bất nhân, tội nhân, bệnh nhân, thể nhân, thú nhân, ác nhân, thiện nhân, quý nhân, cứu nhân, độ nhân, ân nhân, tiên nhân, chính nhân, thương nhân, dã nhân, chân nhân, vĩ nhân, danh nhân, thần nhân, tăng nhân, ái nhân, Trung nhân (Á nhân), phàm nhân, yếu nhân, giao nhân, Tiện nhân, Hôn nhân, Cơ nhân, tu nhân, siêu nhân, vô nhân, võ nhân, thất nhân, giả nhân, đao nhân, cử nhân, yêu nhân, nhũ nhân, phụ nhân, Cơ đốc nhân, Thiên nhân, nạn nhân, vong nhân, đội nhân, lão nhân, phi nhân, tặc nhân, đạo nhân, phúc nhân, tượng nhân, linh nhân, lãng nhân, Long nhân.
Cao nhân có 2 nghĩa là tên tỉnh, chỉ người.
Cá nhân có nhiều nghĩa như cá nhân luận, cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do cá nhân, cá nhân hóa.
Nghề nghiệp như quân nhân, công nhân, doanh nhân...
Pháp nhân liên quan đến pháp luật.
Đại từ nhân xưng
Tứ nhân bang
Trong toán học
Phép toán cơ bản, theo định nghĩa đơn sơ nhất là: (Phép) nhân là (phép) cộng nhiều số hạng bằng nhau. Ví dụ như nhân đôi, nhân ba...
Nhân tử là một phần tử thành phần của phép toán nhân.
Phát triển về số lượng từ một lượng nhỏ ban đầu, ví dụ: nhân giống, nhân vốn,...
Từ Nhân trong quan điểm của Nho giáo.
Nhân văn có nhiều nghĩa như nhân văn học, nhân văn số, Chủ nghĩa nhân văn, nhân văn giai phẩm.
Nhân trung
Có thể tên một loại tiền tệ như nhân dân tệ, tên tờ báo như báo nhân dân, chính thể nhà nước như cộng hòa nhân dân, cộng hòa dân chủ nhân dân. Danh hiệu cao quý trao cho một người đóng góp cho lĩnh vực đời sống và đất nước, nhân dân như nghệ sỹ nhân dân, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân. Ngoài ra từ nhân dân xuất hiện ở công an nhân dân, quân đội nhân dân.
Nhân chủng học
Tác phẩm thi nhân Việt Nam
Chức vụ quan ngày xưa như đoan nhân, thuận nhân, thục nhân, trinh nhân, huy nhân, thạc nhân, lệnh nhân, cung nhân, nghi nhân, an nhân, nhụ nhân, tĩnh nhân, thận nhân, túc nhân, cẩn nhân, ôn nhân, huệ nhân, tài nhân, toại nhân. |
Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm,thông qua giáo dục hay tự học hỏi. Trong tiếng Việt, cả "tri" lẫn "thức" đều có nghĩa là biết. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Mặc dù có nhiều lý thuyết về tri thức, nhưng hiện không có một định nghĩa nào về tri thức được tất cả mọi người chấp nhận.
Sự thành tựu tri thức liên quan đến những quá trình nhận thức phức tạp: tri giác, truyền đạt, liên hệ, và suy luận. Trong triết học, ngành nghiên cứu về tri thức được gọi là tri thức luận.
Kiến thức có thể đề cập đến một sự hiểu biết lý thuyết hoặc thực tế về một chủ đề. Nó có thể là ẩn (như với kỹ năng thực tế hoặc chuyên môn) hoặc rõ ràng (như với sự hiểu biết lý thuyết về một chủ đề); chính thức hoặc không chính thức; có hệ thống hoặc đặc biệt. Nhà triết học Plato nổi tiếng đã chỉ ra sự cần thiết phải phân biệt giữa kiến thức và niềm tin thực sự trong tác phẩm Theaetetus, khiến nhiều người gán cho ông một định nghĩa về kiến thức là " niềm tin thực sự chính đáng ". Những khó khăn với định nghĩa này được nêu ra bởi vấn đề Gettier đã là chủ đề của cuộc tranh luận rộng rãi trong nhận thức luận trong hơn nửa thế kỷ.
Lý thuyết về tri thức
Định nghĩa về tri thức là vấn đề tranh luận đang diễn ra giữa các nhà triết học trong lĩnh vực nhận thức luận. Định nghĩa cổ điển, được mô tả nhưng cuối cùng không được Plato tán thành, chỉ định rằng một tuyên bố phải đáp ứng ba tiêu chí để được coi là kiến thức: nó phải được chứng minh, đúng dắn và tin cậy. Một số người cho rằng những điều kiện này là không đủ, như ví dụ vấn đề Gettier bị cáo buộc phải chứng minh. Có một số giải pháp thay thế được đề xuất, bao gồm các lập luận của Robert Nozick cho một yêu cầu rằng kiến thức 'theo dõi sự thật' và yêu cầu bổ sung của Simon Blackburn mà chúng tôi không muốn nói rằng những gì đáp ứng bất kỳ điều kiện nào trong số này 'thông qua một khiếm khuyết, lỗ hổng, hoặc thất bại ' có kiến thức trong đó. Richard Kirkham cho rằng định nghĩa về kiến thức của chúng ta đòi hỏi bằng chứng cho niềm tin cần có sự thật của nó.
Trái ngược với cách tiếp cận này, Ludwig Wittgenstein quan sát, theo nghịch lý Moore, người ta có thể nói "Ông tin điều đó, nhưng không phải vậy", nhưng không phải "Ông biết điều đó, nhưng không phải vậy". Ông tiếp tục lập luận rằng những điều này không tương ứng với các trạng thái tinh thần riêng biệt, mà là những cách nói riêng biệt về niềm tin. Điều khác biệt tai đây không phải là trạng thái tinh thần của người nói, mà là hoạt động mà họ tham gia. Ví dụ, trên tài khoản này, để biết rằng ấm đang sôi không phải ở trong một trạng thái tâm trí cụ thể, mà là để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể với tuyên bố rằng ấm đang sôi. Wittgenstein đã tìm cách bỏ qua những khó khăn của định nghĩa bằng cách tìm đến cách "kiến thức" được sử dụng trong các ngôn ngữ tự nhiên. Ông thấy kiến thức là một trường hợp giống với gia đình. Theo ý tưởng này, "kiến thức" đã được xây dựng lại như một khái niệm cụm chỉ ra các tính năng có liên quan nhưng điều đó không được nắm bắt đầy đủ bởi bất kỳ định nghĩa nào.
Truyền tải tri thức
Tiếp thu kiến thức bao gồm các quá trình nhận thức phức tạp; không chỉ nhận thức và lý luận, mà còn giao tiếp.
Các biểu tượng tượng trưng có thể được sử dụng để biểu thị ý nghĩa và có thể được coi là một quá trình động. Do đó việc chuyển giao các đại diện mang tính biểu tượng có thể được xem như là một gán ghép quá trình theo đó kiến thức có thể được chuyển giao. Các hình thức giao tiếp khác bao gồm quan sát và bắt chước, trao đổi bằng lời nói và ghi âm thanh và video. Các nhà triết học về ngôn ngữ và ký hiệu học xây dựng và phân tích các lý thuyết về chuyển giao kiến thức hoặc giao tiếp.
Mặc dù nhiều người đồng ý rằng một trong những công cụ phổ biến và quan trọng nhất để chuyển giao kiến thức là viết và đọc (nhiều cách), tuy nhiên, tranh luận về tính hữu dụng của từ viết vẫn tồn tại, với một số học giả nghi ngờ về tác động của nó đối với xã hội. Trong bộ sưu tập các bài tiểu luận Technopoly, Neil Postman thể hiện lập luận chống lại việc sử dụng văn bản thông qua một đoạn trích từ tác phẩm của Plato Phaedrus (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, tr. 73). Trong đoạn trích này, học giả Socrates kể lại câu chuyện về Thamus, nhà vua Ai Cập và Theuth, người phát minh ra chữ viết. Trong câu chuyện này, Theuth trình bày phát minh mới của mình "viết" cho vua Thamus, nói với Thamus rằng phát minh mới của ông "sẽ cải thiện cả trí tuệ và trí nhớ của người Ai Cập" (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, tr. 74). Vua Thamus hoài nghi về phát minh mới này và từ chối nó như một công cụ hồi ức hơn là giữ lại kiến thức. Ông lập luận rằng chữ viết sẽ lây nhiễm cho người Ai Cập kiến thức giả vì họ sẽ có thể đạt được các sự kiện và câu chuyện từ một nguồn bên ngoài và sẽ không còn bị buộc phải giữ lại một lượng lớn kiến thức (Postman, Neil (1992) Technopoly, Cổ điển, New York, tr. 74).
Các lý thuyết hiện đại cổ điển về kiến thức, đặc biệt là những lý thuyết thúc đẩy chủ nghĩa kinh nghiệm có ảnh hưởng của nhà triết học John Locke, được dựa hoàn toàn hoặc rõ ràng trên một mô hình của tâm trí giống như ý tưởng với từ ngữ. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ và ý nghĩ đã đặt nền tảng cho một quan niệm đồ họa về kiến thức trong đó tâm trí được coi là một cái bàn, một vật chứa nội dung, phải được lưu trữ với các sự kiện được giảm xuống thành chữ, số hoặc ký hiệu. Điều này tạo ra một tình huống trong đó sự liên kết không gian của các từ trên trang mang trọng lượng nhận thức rất lớn, đến nỗi các nhà giáo dục đã rất chú ý đến cấu trúc trực quan của thông tin trên trang và trong sổ ghi chép.
Các thư viện lớn ngày nay có thể có hàng triệu cuốn sách kiến thức (ngoài các tác phẩm hư cấu). Chỉ gần đây, công nghệ âm thanh và video để ghi lại kiến thức đã có sẵn và việc sử dụng chúng vẫn cần thiết bị phát lại và điện. Dạy bằng lời nói và truyền đạt kiến thức chỉ giới hạn ở những người có liên hệ với người truyền hoặc người có thể giải thích công việc bằng văn bản. Viết vẫn là phổ biến nhất và phổ biến nhất trong tất cả các hình thức ghi lại và truyền tải kiến thức. Nó không bị cản trở khi công nghệ tri thức chính của nhân loại được truyền qua các thời đại và cho tất cả các nền văn hóa và ngôn ngữ trên thế giới.
Tri thức định vị
Kiến thức định vị là kiến thức cụ thể cho một tình huống cụ thể. Nó được Donna Haraway sử dụng như một phần mở rộng của các phương pháp tiếp cận nữ quyền của "khoa học kế nhiệm" được đề xuất bởi Sandra Harding, một trong đó "cung cấp một tài khoản tốt hơn, phong phú hơn, tốt hơn về một thế giới, để sống tốt và quan trọng, phản xạ quan hệ với thực tiễn thống trị của chính chúng ta cũng như của người khác và các phần bất bình đẳng của đặc quyền và áp bức tạo nên tất cả các vị trí. " Tình huống này một phần biến khoa học thành một câu chuyện kể, mà Arturo Escobar giải thích là "không phải hư cấu cũng không phải là sự thật." Câu chuyện kể về tình huống này là kết cấu lịch sử được dệt bằng thực tế và hư cấu, và như Escobar giải thích thêm, "ngay cả những lĩnh vực khoa học trung lập nhất cũng là những câu chuyện theo nghĩa này," nhấn mạnh rằng thay vì mục đích coi khoa học là một vấn đề tầm thường, "nó là đối xử (kể chuyện này) theo cách nghiêm túc nhất, không chịu khuất phục trước sự bí ẩn của nó là 'sự thật' hay sự hoài nghi mỉa mai phổ biến đối với nhiều nhà phê bình. "
Lập luận của Haraway bắt nguồn từ những hạn chế trong nhận thức của con người, cũng như sự quá coi trọng ý thức về tầm nhìn trong khoa học. Theo Haraway, tầm nhìn trong khoa học đã được "sử dụng để biểu thị một bước nhảy vọt ra khỏi cơ thể được đánh dấu và nhìn vào một cái nhìn chinh phục từ hư không." Đây là "cái nhìn khắc họa huyền thoại tất cả các cơ quan được đánh dấu, khiến cho thể loại không được đánh dấu khẳng định sức mạnh để nhìn và không được nhìn thấy, để thể hiện trong khi thoát khỏi đại diện." Điều này gây ra sự hạn chế về quan điểm ở vị trí của khoa học như một người chơi tiềm năng trong việc tạo ra kiến thức, dẫn đến vị trí "nhân chứng khiêm tốn". Đây là những gì Haraway gọi là "trò lừa thần", hoặc đại diện đã nói ở trên trong khi thoát khỏi đại diện. Để tránh điều này, "Haraway tiếp tục truyền thống tư tưởng, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ đề về cả trách nhiệm đạo đức và chính trị". Một số phương pháp tạo kiến thức, chẳng hạn như thử và sai, hoặc học hỏi từ kinh nghiệm, có xu hướng tạo ra kiến thức có tính tình huống cao. Kiến thức tình huống thường được nhúng trong ngôn ngữ, văn hóa hoặc truyền thống. Sự tích hợp kiến thức tình huống này là một sự ám chỉ đến cộng đồng và những nỗ lực của nó trong việc thu thập các quan điểm chủ quan vào một phương án "quan điểm từ đâu đó". Kiến thức cũng được cho là liên quan đến năng lực thừa nhận ở con người.
Mặc dù các lập luận của Haraway chủ yếu dựa trên các nghiên cứu về nữ quyền, ý tưởng này về các thế giới khác nhau, cũng như lập trường hoài nghi về kiến thức cơ bản có mặt trong các lập luận chính của chủ nghĩa hậu cấu trúc. Về cơ bản, cả hai tranh luận về sự bất ngờ của kiến thức về sự hiện diện của lịch sử; quyền lực, và địa lý, cũng như sự bác bỏ các quy tắc hoặc luật phổ quát hoặc các cấu trúc cơ bản; và ý tưởng về sức mạnh như một đặc điểm di truyền của sự khách quan hóa.
Tri thức một phần
Một môn học của nhận thức luận tập trung vào kiến thức một phần. Trong hầu hết các trường hợp, không thể hiểu một cách thấu đáo một miền thông tin; kiến thức của chúng ta luôn là không đầy đủ hoặc một phần. Hầu hết các vấn đề thực sự phải được giải quyết bằng cách tận dụng sự hiểu biết một phần về bối cảnh vấn đề và dữ liệu vấn đề, không giống như các vấn đề toán học thông thường mà người ta có thể giải quyết ở trường, nơi tất cả dữ liệu được cung cấp và người ta được hiểu đầy đủ về các công thức cần thiết để giải quyết chúng.
Ý tưởng này cũng được trình bày trong khái niệm về tính hợp lý bị ràng buộc, giả định rằng trong các tình huống thực tế, con người thường có một lượng thông tin hạn chế và đưa ra quyết định phù hợp với nó.
Kiến thức khoa học
Sự phát triển của phương pháp khoa học đã góp phần đáng kể vào cách thức có được kiến thức về thế giới vật chất và các hiện tượng của nó. Để được gọi là khoa học, một phương pháp điều tra phải dựa trên việc thu thập bằng chứng có thể quan sát và đo lường được theo các nguyên tắc cụ thể của lý luận và thử nghiệm. Phương pháp khoa học bao gồm thu thập dữ liệu thông qua quan sát và thử nghiệm, và xây dựng và kiểm tra các giả thuyết. Khoa học, và bản chất của kiến thức khoa học cũng đã trở thành chủ đề của triết học. Khi khoa học đã phát triển, kiến thức khoa học hiện nay bao gồm việc sử dụng rộng rãi hơn trong các ngành khoa học mềm như sinh học và khoa học xã hội - được thảo luận ở nơi khác như siêu nhận thức luận, hay nhận thức di truyền, và ở một mức độ nào đó liên quan đến " lý thuyết phát triển nhận thức ". Lưu ý rằng " nhận thức luận " là nghiên cứu về kiến thức và làm thế nào nó có được. Khoa học là "quá trình được sử dụng hàng ngày để hoàn thành logic những suy nghĩ thông qua suy luận về các sự kiện được xác định bằng các thí nghiệm được tính toán." Sir Francis Bacon rất quan trọng trong sự phát triển lịch sử của phương pháp khoa học; các công trình của ông đã thiết lập và phổ biến một phương pháp quy nạp cho nghiên cứu khoa học. Câu cách ngôn nổi tiếng của ông, " kiến thức là sức mạnh ", được tìm thấy trong Thiền định Sacrae (1597).
Cho đến thời gian gần đây, ít nhất là theo truyền thống phương Tây, người ta chỉ đơn giản chấp nhận rằng kiến thức là thứ chỉ được sở hữu bởi con người - và có lẽ là con người trưởng thành ở đó. Đôi khi khái niệm có thể kéo dài đến Xã hội như vậy, như trong "kiến thức được sở hữu bởi văn hóa Coplic" (trái ngược với các thành viên riêng lẻ của nó), nhưng điều đó cũng không được đảm bảo. Cũng không bình thường để xem xét kiến thức vô thức theo bất kỳ cách có hệ thống nào cho đến khi phương pháp này được Freud phổ biến.
Các lĩnh vực sinh học khác nơi "kiến thức" có thể được cho là cư trú, bao gồm: (iii) hệ thống miễn dịch và (iv) trong DNA của mã di truyền. Xem danh sách bốn "lĩnh vực nhận thức luận": Popper, (1975); và Traill (2008: Bảng S, p. 31) - cũng là tài liệu tham khảo của cả hai trỏ tới Niels Jerne.
Những cân nhắc như vậy dường như đòi hỏi một định nghĩa riêng về "kiến thức" để bao quát các hệ thống sinh học. Đối với các nhà sinh học, kiến thức phải có sẵn cho hệ thống, mặc dù hệ thống đó không cần phải có ý thức. Do đó, tiêu chí dường như là:
Hệ thống này rõ ràng nên năng động và tự tổ chức (không giống như một cuốn sách chỉ ngày của riêng mình).
Kiến thức phải tạo thành một số loại đại diện của "thế giới bên ngoài", hoặc các cách đối phó với nó (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Một số cách phải tồn tại để hệ thống truy cập thông tin này đủ nhanh để nó tỏ ra hữu ích.
Kiến thức khoa học có thể không liên quan đến yêu cầu về sự chắc chắn, duy trì sự hoài nghi có nghĩa là một nhà khoa học sẽ không bao giờ chắc chắn tuyệt đối khi họ đúng và khi không. Do đó, một sự trớ trêu của phương pháp khoa học đúng đắn mà người ta phải nghi ngờ ngay cả khi chính xác, với hy vọng rằng thực tiễn này sẽ dẫn đến sự hội tụ lớn hơn về sự thật nói chung.
Ý nghĩa tôn giáo của tri thức
Trong nhiều biểu hiện của Kitô giáo, như Công giáo và Anh giáo, kiến thức là một trong bảy món quà của Chúa Thánh Thần.
Cây tri thức về thiện và ác trong Cựu Ước chứa đựng kiến thức ngăn cách Con người với Thiên Chúa: "Và Chúa đã phán, Này, con người trở thành một trong chúng ta, để biết điều thiện và điều ác... " ()
Trong thuyết ngộ đạo, kiến thức thiêng liêng hoặc gnosis được hy vọng sẽ đạt được.
विद्या दान (Vidya Daan) tức là chia sẻ kiến thức là một phần chính của Daan, một nguyên lý của tất cả các tôn giáo Dharmic. Kinh thánh Ấn Độ giáo trình bày hai loại kiến thức, Paroksh Gyan và Prataksh Gyan. Paroksh Gyan (cũng đánh vần là Paroksha -Jnana) là kiến thức đã qua sử dụng: kiến thức thu được từ sách, tin đồn, v.v. Pratyaksh Gyan (cũng đánh vần là Pratyaksha-Jnana) là kiến thức được sinh ra từ kinh nghiệm trực tiếp, tức là kiến thức mà người ta tự khám phá ra. Jnana yoga ("con đường tri thức") là một trong ba loại yoga chính được giải thích bởi Krishna trong Bhagavad Gita. (Nó được so sánh và đối chiếu với Bhakti Yoga và Karma yoga.)
Trong Hồi giáo, kiến thức (tiếng Ả Rập: علم, ilm) được gán cho ý nghĩa lớn lao. "Sự hiểu biết" (al-ʿAlīm) là một trong 99 cái tên phản ánh các thuộc tính riêng biệt của Thiên Chúa. Kinh Qur'an khẳng định rằng kiến thức đến từ Thiên Chúa () và nhiều hadith khuyến khích việc tiếp thu kiến thức. Muhammad được báo cáo đã nói "Tìm kiếm kiến thức từ cái nôi đến ngôi mộ" và "Quả thật, những người hiểu biết là những người thừa kế của các nhà tiên tri". Các học giả Hồi giáo, thần học và luật gia thường được trao danh hiệu Alim, có nghĩa là "có kiến thức".
Theo truyền thống Do Thái, kiến thức (tiếng Do Thái: דעת da'ath) được coi là một trong những đặc điểm quý giá nhất mà một người có thể có được. Người Do Thái quan sát đọc ba lần một ngày trong Amidah "Hãy ủng hộ chúng tôi với kiến thức, sự hiểu biết và sự thận trọng đến từ bạn. Cao quý là bạn, Existent-One, người cung cấp kiến thức duyên dáng. " Người Tanakh tuyên bố: "Một người khôn ngoan có được sức mạnh và một người có kiến thức duy trì quyền lực" và "kiến thức được chọn hơn vàng".
Phân loại
Tri thức có 2 dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện.
Tri thức hiện là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn bản, tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ có lời hoặc không lời, nguyên tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây là những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng chuyển giao, thường được tiếp nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy.
Tri thức ẩn là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức này thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó "mã hóa" và chuyển giao, thường bao gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng... VD: Trong bóng đá, các cầu thủ chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận bóng rất tốt. Đây là một dạng tri thức ẩn, nó nằm trong mỗi cầu thủ. Nó không thể "mã hóa" thành văn bản, không thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có bằng cách tự mình luyện tập.
Các hình thức chia sẻ tri thức
Dựa vào sự phân loại tri thức, có thể chia các hình thức chia sẻ tri thức thành bốn dạng chính:
Ẩn - Ẩn: Khi người chia sẻ và người tiếp nhận giao tiếp trực tiếp với nhau (ví dụ: học nghề, giao tiếp, giảng bài...) thì việc tiếp nhận này là từ tri thức ẩn thành tri thức ẩn. Tri thức từ người này không qua trung gian mà chuyển ngay thành tri thức của người kia.
Ẩn - Hiện: Một người mã hóa tri thức của mình ra thành văn bản hay các hình thức hiện hữu khác thì đó lại là quá trình tri thức từ ẩn (trong đầu người đó) trở thành hiện (văn bản, tài liệu, v.v.).
Hiện - Hiện: Tập hợp các tri thức hiện đã có để tạo ra tri thức hiện khác. Quá trình này được thể hiện qua việc sao lưu, chuyển giao hay tổng hợp dữ liệu.
Hiện - Ẩn: Tri thức từ dạng hiện trở thành dạng ẩn. Điển hình quá trình này là việc đọc sách. Học sinh đọc sách (tri thức hiện) và rút ra được các bài học, tri thức cho mình (ẩn).
Tri thức có bốn cấp bậc:
- Nắm bắt được những hình ảnh (eikasia)
- Nhận thức những sự vật khả giác đi cùng với sự tín nhiệm vào thực tại các đối tượng nhận được từ các giác quan (pistis)
- Tri thức về những thực thể toán học qua tiến trình suy lý (dianoia)
- Tri thức trực tiếp và trực giác về ý tưởng thuần túy (noesis)
Quản trị tri thức
Quản trị tri thức xem xét tri thức như là hình thức cao hơn của quản trị thông tin trong đó thông tin đã được tập hợp, xử lý, lưu trữ, chia sẻ và sử dụng.
Chú thích |
Hải lý còn được gọi là dặm biển (ký hiệu: NM hoặc nmi) là một đơn vị chiều dài hàng hải, là khoảng một phút cung của vĩ độ cùng kinh tuyến bất kỳ, nhưng khoảng một phút của vòng cung kinh độ tại đường xích đạo. Theo quy ước quốc tế, 1 hải lý = 1852 m (khoảng 6076.115486 feet).
Nó là một đơn vị tổ chức phi SI (mặc dù được chấp nhận cho sử dụng trong hệ thống quốc tế của các đơn vị BIPM) được sử dụng đặc biệt là hoa tiêu trong ngành công nghiệp vận chuyển và hàng không, và cũng trong thăm dò cực. Nó thường được sử dụng trong luật pháp quốc tế và điều ước, đặc biệt là về các giới hạn của vùng biển. Nó phát triển từ dặm biển và liên quan dặm địa lý.
Hải lý vẫn còn trong sử dụng bằng đường biển và hàng không trên toàn thế giới vì sự tiện lợi của nó khi làm việc với các bảng xếp hạng. Hầu hết các bảng xếp hạng hải lý được xây dựng trên Mercator chiếu có quy mô khác nhau theo từng yếu tố một khoảng sáu từ xích đạo đến 80° vĩ độ bắc hay phía nam. Đó là, do đó, không thể hiển thị quy mô tuyến tính để sử dụng trên các bảng xếp hạng trên quy mô nhỏ hơn khoảng 1/80, 000 đơn Kể từ khi một hải lý, thực tế chuyển hướng, như là một phút vĩ độ, nó rất dễ dàng để đo khoảng cách trên một biểu đồ sử dụng dải phân, sử dụng quy mô vĩ độ ở phía bên của bảng xếp hạng trực tiếp đến phía đông hay phía tây của khoảng cách được đo.
Định nghĩa
Hải lý quốc tế được xác định bởi Hội nghị Thủy văn quốc tế đầu tiên, Monaco (1929) là chính xác 1852 mét. Đây là định nghĩa duy nhất trong hiện trạng sử dụng rộng rãi, và là một trong những được chấp nhận bởi Tổ chức Thủy văn quốc tế và Văn phòng quốc tế về Cân nặng và Đo lường (BIPM). Trước năm 1929, các quốc gia khác nhau có định nghĩa khác nhau, và Liên Xô, Anh Quốc và Hoa Kỳ đã không chấp nhận các giá trị quốc tế.
Định nghĩa hải lý của cả Anh và Mỹ được dựa trên hình tự cầu Clarke (1866): đặc biệt, họ đã xấp xỉ khác nhau với độ dài một phút hồ quang dọc theo một vòng tròn của một giả thuyết lĩnh vực có diện tích bề mặt tương tự như hình tự cầu Clarke hải lý Hoa Kỳ đã được định nghĩa như 1.853,248 mét (6.080,20 feet Mỹ, dựa vào định nghĩa của feet) Mendenhall Đặt hàng của 1893 nó đã bị bỏ rơi trong lợi của hải lý quốc tế năm 1954 hải lý Anh, còn được gọi là dặm Admiralty được quy định tại các điều khoản của các nút là một trong những hải lý chính xác là 6080 feet (1.853,184 m): nó đã bị bỏ rơi trong 1970 , và cho các mục đích quy phạm pháp luật, tài liệu tham khảo cũ cho đơn vị đã lỗi thời hiện nay chuyển đổi chính xác sang 1852 mét.
Dặm biển
Trong việc sử dụng tiếng Anh, hải lý, đối với bất kỳ vĩ độ, độ dài một phút vĩ độ ở vĩ độ đó. Nó thay đổi từ khoảng tại đường xích đạo khoảng tại các cực, với một giá trị trung bình của dặm hải lý của quốc tế đã được lựa chọn là số nguyên mét gần nhất với những dặm nước biển trung bình.
Mỹ sử dụng đã thay đổi gần đây. Các thuật ngữ trong các ấn bản năm 1966 của Bowditch của Mỹ Bowditch định nghĩa một "hải lý" như là một "hải lý" Trong ấn bản năm 2002, thuật ngữ nói: "Một có nghĩa là giá trị gần đúng của hải lý bằng 6.080 phít theo chiều dài của một phút hồ quang dọc theo kinh tuyến tại vĩ độ 48° .
Hải lý cũng đã được định nghĩa là 6000 phít hoặc 1000 sải, ví dụ trong các đơn vị "Dresner của" Đo lường. Dresner bao gồm một nhận xét tác dụng này không được nhầm lẫn với hải lý.
Dặm địa lý
Dặm địa lý là chiều dài của một phút kinh độ dọc theo đường xích đạo, khoảng 1.855,4 m Quốc tế (1924) hình tự cầu tên hoặc về 1.855,325 m WGS 84 ellipsoid. Bowditch định nghĩa nó như là 6.087,08 phít, là 1.855,34 mét. Thuật ngữ "dặm địa lý" cũng đã được sử dụng để tham khảo dặm biển có nghĩa là, sau này sẽ trở thành hải lý quốc tế.
Không nên nhầm lẫn điều này với đơn vị tương tự như nghe geografische Meile, nhìn thấy trong các phép đo lịch sử của Đức. Đơn vị này đã được dự định được chiều dài của phút của vòng cung dọc theo đường xích đạo và tiêu chuẩn hóa là 7.421,6 mét. Tại Đức, "Mile", "UHR" hoặc "Stunde" thường đề cập đến 24.000 phít địa phương. Đây là khoảng cách người ta có thể đi bộ trong một giờ (Stunde).
Dặm điện báo
Một dặm điện báo là chiều dài tròn một phút hồ quang dọc theo đường xích đạo.
Dặm chiến thuật hoặc dặm dữ liệu
Một xấp xỉ, các nhà thiết kế của các hệ thống radar cho tên lửa đạn đạo, hành trình và tên lửa chống tàu được sử dụng bởi NATO lực lượng hải quân sử dụng là tương đương của một hải lý. Trong Hải quân Hoàng gia, điều này còn được gọi là một dặm dữ liệu.
Dặm Radar
Trong lý thuyết radar, những dặm dữ liệu (6.000 feet) là đơn vị chiều dài. Dặm radar là thời gian cần một xung radar đi du lịch một dặm dữ liệu ra và một dặm dữ liệu trở lại một lần nữa, tương đương với 12,277 miligiây. Giá trị này tương ứng với tốc độ ánh sáng (khoảng 3 m/s). Phạm vi của một radar có thể được xác định bằng cách chia thời gian lắng nghe (xung lặp đi lặp lại thời gian trừ đi độ rộng xung) bởi một dặm radar.
Ký hiệu đơn vị
Tổ chức Thủy văn Quốc tế, thành viên cơ bản bao gồm tất cả các quốc gia đi biển, và Văn phòng quốc tế về Cân nặng và Đo lường sử dụng M là chữ viết tắt cho hải lý . viết tắt ưa thích của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế NM. Các chữ viết tắt nm, mặc dù xung đột với các hệ thống quốc tế của các đơn vị SI ký hiệu cho nanomet, cũng được sử dụng rộng rãi. Các biểu tượng SI niutơn mét là (với một không gian) hoặc N·m,Nm, bởi vì tiền tố chỉ có thể giáp một ký hiệu đơn vị
Lịch sử
Hải lý lịch sử đã được định nghĩa là một phút cung cùng một kinh tuyến của Trái Đất (bắc-nam), làm cho một kinh tuyến chính xác 180 × 60 = hải lý lịch sử . Vì vậy có thể được sử dụng cho các biện pháp gần đúng trên một kinh tuyến như là thay đổi của vĩ độ trên hải lý biểu đồ. Định nghĩa ban đầu dự định của đồng hồ là 10−7 của một nửa vòng cung kinh tuyến làm cho có ý nghĩa lịch sử hải lý chính xác (2 )/ = mét lịch sử. Căn cứ vào hiện tại IUGG kinh tuyến của (tiêu chuẩn) mét hải lý lịch sử trung bình là .
Định nghĩa lịch sử khác nhau từ các tiêu chuẩn dựa trên chiều dài trong một phút của vòng cung, và do đó một dặm hải lý, không phải là một chiều dài không đổi ở bề mặt của Trái Đất nhưng dần dần kéo dài theo hướng bắc-nam với khoảng cách từ đường xích đạo, như một hệ quả tất yếu của tính dẹt của Trái Đất, vì vậy cần phải "trung bình" trong câu cuối của đoạn trước. Độ dài này bằng tại các cực và tại đường xích đạo .
Các quốc gia khác đã có định nghĩa khác nhau của hải lý. Điều này đa dạng trong kết hợp với sự phức tạp của đo góc mô tả ở trên cùng với sự không chắc chắn nội tại của các đơn vị có nguồn gốc geodetically giảm nhẹ so với định nghĩa còn tồn tại trong lợi của một đơn vị đơn giản chiều dài tinh khiết. Thỏa thuận quốc tế đã đạt được vào năm 1929 khi Hội nghị bất thường Thủy văn quốc tế được tổ chức tại Monaco thông qua một định nghĩa của một dặm hải lý quốc tế là bằng [[1 E3 m|1852 mét hay 1,852 ki lô mét chính xác, trong hợp đồng xuất sắc (cho một số nguyên) với các giá trị nói trên của mét lịch sử và mét tiêu chuẩn.
Sử dụng các góc dựa trên chiều dài lần đầu tiên được đề xuất bởi E. Gunter (của chuỗi Gunter nổi tiếng). Trong thế kỷ 18, mối quan hệ của một dặm 6000 (hình học) bàn chân, hay một phút của vòng cung trên bề mặt Trái Đất đã được nâng cao như một biện pháp phổ quát đối với đất và biển. Km số liệu đã được chọn để đại diện cho một phút centisimal của vòng cung, trên cơ sở tương tự, với các vòng tròn được chia thành 400 độ 100 phút.
Chuyển đổi cho các đơn vị khác
Một hải lý quốc tế chuyển đổi thành:
1852 m (chính xác)
1.150779 dặm (quy ước) (chính xác: 57.875/50.292 dặm)
2,025.372 lát (chính xác:
6,076.1155 phít (chính xác: 2315000/381 phít hoặc 1822831/300 phít đo đạc)
1,012.6859 sải (chính xác: 1157500/1143 sải)
10 cáp quốc tế (chính xác)
10.126859 cáp Anh (100 sải) (chính xác: 11575/1143 cáp Anh)
8.439049 cáp Mỹ (120 sải) (chính xác: 57.875/6.858 cáp Mỹ)
0.998383 phút cung xích đạo (dặm địa lý truyền thống)
0.9998834 phút cung kinh tuyến trung bình (hải lý lịch sử trung bình)
Đơn vị phối hợp
Các đơn vị có nguồn gốc của tốc độ nút, được định nghĩa như một hải lý mỗi giờ. Thuật ngữ "đăng nhập" được sử dụng để đo khoảng cách một tàu đã di chuyển thông qua các nước. Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để đo tốc độ thông qua các nước (xem con chip đăng nhập), như tốc độ và khoảng cách trực tiếp liên quan.
Các điều khoản "nút" và "đăng nhập" được bắt nguồn từ việc thực hành bằng cách sử dụng "đăng nhập" gắn với một sợi dây thừng thắt nút như một phương pháp đo tốc độ của một con tàu. Một đăng nhập gắn liền với một sợi dây thắt nút đã được ném vào trong nước, sau phía sau tàu. Số lượng hải lý đi ra khỏi tàu và vào nước trong một thời gian nhất định sẽ xác định tốc độ bằng "nút thắt". Đo lường ngày hiện tại của hải lý và đăng nhập được xác định bằng cách sử dụng một kéo cơ khí, điện tử kéo, thân tàu gắn trên đơn vị (mà có thể hoặc có thể không được thu vào), Doppler (hoặc siêu âm hoặc radar), hoặc GPS. Tốc độ đo bằng GPS có sự khác biệt từ những người được đo bằng các phương tiện khác trong đó Tốc độ trên mặt đất (kế toán cho các hiệu ứng của hiện tại) trong khi những người khác là tốc độ Thông qua các nước, không cho hiện tại. |
Than trong tiếng Việt có thể chỉ:
Các loại than thường gặp, trong công nghiệp và dân dụng, có thể là:
Than mỏ
Than nâu
Than đá
Than bùn
Than (nguyên tố) (carbon)
Than hoạt tính
Than gỗ
Than cốc
Than chì
Đơn vị đo diện tích than trong hệ đo lường cổ của Việt Nam. 1 than = 1 ngũ × 1 ngũ = 4 m².
Bệnh than |
Cực giá lạnh là một điểm trên bán cầu Bắc hoặc bán cầu Nam mà nhiệt độ không khí cực tiểu đã từng được ghi nhận.
Cực giá lạnh Nam
Trên bán cầu Nam thì cực giá lạnh nằm gần trạm Nam cực Sa-iu-dơ (gần Vostok), nơi mà vào ngày 21 tháng 7 năm 1983 đã ghi nhận được nhiệt độ thấp nhất trên Trái Đất là -89,3°C.
Cực giá lạnh Bắc
Trên bán cầu Bắc thì cực giá lạnh nằm tại miền Siberia, gần thành phố Oymyakon, nơi có nhiệt độ thấp nhất là -77,8 °C đã được ghi nhận vào ngày 26 tháng 1 năm 1938.
Tại núi Logan, Canada ngày 26 tháng 5 năm 1991, người ta đã đo được nhiệt độ trên đỉnh núi với độ cao 5959 mét là -77.5 °C (-106.6 °F)
Thông thường thì người ta hay dùng khái niệm điểm cực giá lạnh trong khuôn khổ cho mỗi quốc gia. Ví dụ như: Tại Ba Lan thì điểm cực giá lạnh nằm tại Suwałki, nơi có nhiệt độ không khí trung bình trong mùa đông thấp nhất. Nhưng nhiệt độ không khí trong ngày đạt cực tiểu (-41 °C, vào ngày 11 tháng 1 năm 1940) lại được ghi nhận tại Siedlce, là một vùng khác cách xa Suwałki gần 100 km. |
Avril Ramona Lavigne (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1984), thường được biết đến với tên gọi Avril Lavigne, là một nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Canada. Cô sinh ra tại Belleville, Ontario nhưng tuổi thơ cô lại gắn liền với thị trấn nhỏ Napanee. Ở tuổi 15, cô đã được xuất hiện trên sân khấu cùng với Shania Twain; đến năm 16 tuổi, cô ký một hợp đồng thu âm 2 album với hãng ghi âm Arista Records và thu được 2 triệu đô-la. Trong năm 2002, khi cô gần 17 tuổi, Lavigne xâm nhập vào thị trường âm nhạc ra mắt album Let Go. Kề từ khi album đột phá cô đã bán được hơn 40 triệu album và hơn 50 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới. Cô được mệnh danh là "nữ hoàng nhạc pop punk".
Let Go giúp Lavigne trở thành nữ nghệ sĩ solo đầu tiên giành được ngôi vị quán quân ở Anh, album đã được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Tới năm 2009, album đã bán được tổng cộng hơn 16 triệu bản trên toàn thế giới. Đĩa đơn đột phá của cô, "Complicated", cũng giống như Let Go, đã giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Album thứ hai của Lavigne, Under My Skin, được phát hành năm 2004 và cũng là album đầu tiên của cô giành được ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ, đã nhanh chóng đạt doanh số hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới. The Best Damn Thing, album thứ ba của Lavigne và được phát hành trong năm 2007, đã nhanh chóng trở thành album thứ ba của cô leo lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng UK Albums Chart. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Girlfriend", là đĩa đơn đầu tiên của Lavigne giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ. Lavigne đã có tổng cộng sáu đĩa đơn quán quân trên toàn thế giới, đó là "Complicated", "Sk8er Boi", "I'm with You", "My Happy Ending", "Nobody's Home", và "Girlfriend". Với hơn 34 triệu bản album được tiêu thụ toàn cầu, cô trở thành một trong những nghệ sĩ có album phát hành bán chạy nhất tại Mỹ, với hơn 11 triệu album được chứng nhận bởi RIAA. Album phòng thu thứ tư của Lavigne, Goodbye Lullaby, được phát hành vào tháng 3 năm 2011. Goodbye Lullaby giúp Lavigne có được bốn album lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và UK Albums Chart, và cũng là album thứ ba của cô đạt được ngôi vị quán quân ở Nhật và Úc. Chỉ ba tháng sau khi phát hành Goodbye Lullaby, Lavigne đã bắt đầu làm việc cho album phòng thu thứ năm của mình, album được phát hành bởi hãng ghi âm Epic Records, sau khi cô rời khỏi RCA Records.
Ngoài công việc thu âm, Lavigne cũng theo đuổi sự nghiệp diễn xuất bằng một số vai diễn trong các bộ phim hành động, và đồng thời cô cũng thực hiện công việc thiết kế thời trang và nước hoa. Cô từng tham gia lồng tiếng cho một nhân vật trong bộ phim năm 2006, Over the Hedge. Cũng trong năm đó, cô ra mắt công chúng trên màn ảnh rộng với bộ phim Fast Food Nation. Năm 2008, cô giới thiệu tới mọi người thương hiệu thời trang của riêng cô, Abbey Dawn, và tới năm 2009, cô phát hành sản phẩm nước hoa đầu tiên, Black Star, tiếp sau đó là Forbidden Rose năm 2010,
và cuối cùng, sản phẩm nước hoa thứ ba của cô, Wild Rose, được phát hành năm 2011. Tháng 6, 2006, Lavigne tổ chức lễ cưới với người bạn trai hai năm của cô, Deryck Whibley, ca sĩ hát chính và cũng là guitar trưởng của ban nhạc Sum 41. Cuộc hôn nhân của họ chỉ kéo dài hơn ba năm, và trong tháng 10 năm 2009, Lavigne đã đệ đơn ly dị. Dù vậy, Whibley và Lavigne vẫn tiếp tục làm việc cùng nhau, với Whibley là nhà sản xuất cho album phòng thu thứ tư của cô, cùng với đĩa đơn "Alice", được sáng tác riêng cho bộ phim Alice ở Xứ sở Thần tiên của đạo diễn Tim Burton.
Thời thơ ấu
Lavigne chào đời vào ngày 27 tháng 9 năm 1984 tại Belleville, Ontario, Canada. Bố mẹ của cô là Judy và John Lavigne. Mẹ của Lavigne là người đầu tiên phát hiện ra tài năng của cô. Năm 2 tuổi Avril đã bắt đầu hát cùng với mẹ trong những bản nhạc thánh ca ở nhà thờ. Năm Avril 5 tuổi gia đình cô đã chuyển đến Napanee, một thị trấn nhỏ ở tiểu bang Ontairio.
Năm 1998 Avril đã giành chiến thắng trong cuộc thi tìm kiếm ca sĩ hát cùng với Shania Twain trong tour diễn của Twain ở Canada. Avril xuất hiện trên sân khấu và chiếm được cảm tình của khán giả đồng thời lọt vào mắt của nhà quản lý chuyên nghiệp, ông Cliff Fabri, người quản lý đầu tiên của cô.
Sau khi nhận ra khả năng tiềm tàng của Avril, hãng Arista A&R bắt đầu tung mạng lưới tìm kiếm mở rộng, bắt tay với nhà sản xuất kiêm nhạc sĩ Curt Frasca và Sabelle Breer nhằm giúp giọng ca của cô tỏa sáng hơn nữa. Abum đầu tay Let Go được ra đời đã đánh dấu cột mốc thành công trong sự nghiệp của Lavigne
Sự nghiệp âm nhạc
2000–03: Let Go
Let Go xuất hiện ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200, vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album ở Úc, Canada và Vương quốc Anh. Ở tuổi 17, Avril trở thành nữ nghệ sĩ trẻ tuổi nhất có album đứng đầu trên bảng xếp hạng album ở Vương quốc Anh tính vào thời điểm đó.
Let Go là một album pop/rock trong đó có những ca khúc mang âm hưởng của altermative rock.
Sau 6 tháng, "Let Go" đã được hiệp hội ghi âm Mỹ (RIAA) công nhận 4 đĩa bạch kim. Cuối năm 2002 với hơn 7,5 triệu album bán được Avril trở thành nữ nghệ sĩ có album bán chạy nhất năm. Tính đến năm 2007 "Let Go" đã tiêu thụ được 16 triệu bản trên toàn thế giới.
Abum Let Go có tổng cộng 4 đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên là "Complicated", chiếm giữ vị trí quán quân trên bảng xếp hạng đĩa đơn ở Úc và á quân trên Billboard Hot 100, đây cũng là một trong những ca khúc bán chạy nhất ở Canada năm 2002. Hai đĩa đơn tiếp theo là "Sk8er Boi" lọt vào Top 10 ở Mỹ, Úc và "I'm with You" lọt vào Top 5 ở Mỹ và top 10 ở Vương quốc Anh. Đĩa đơn thứ tư là "Losing Grip" giành được vị trí quán quân ở Đài Loan và top 10 ở Chile.
Thành công từ album đầu tay này đã mang lại cho Avril danh hiệu nữ nghệ sĩ trẻ tài năng nhất trong lễ trao giải MTV Video Music Awards năm 2002 cùng với 8 đề cử Grammy và danh hiệu nghệ sĩ pop/rock xuất sắc của giải thưởng World Music Awards. Album này cũng lọt vào top 100 album bán chạy nhất mọi thời đại do website Mediatraffic.de thống kê.
2004–05: Under My Skin
Album thứ hai của Avril mang tên Under My Skin, được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2004 và nhanh chóng chiếm giữ vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Đức, Australia, Canada, México, Thụy Điển, Ailen, Thái Lan, Hàn Quốc và Hồng Kông. Album đã bán được 380.000 bản ngay trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ. Phần lớn các ca khúc trong album đều là những sáng tác hoặc đồng sáng tác của Avril cùng với nhạc sĩ người Canada Chatal Kreviazuk.. "Under My Skin" mang đậm chất alternative với nhiều ca khúc mạnh mẽ và sâu lắng đã tạo nên một phong cách hoàn toàn mới trong âm nhạc của Avril.. Đĩa đơn đầu tiên trong album là "Don't Tell Me", dành quán quân ở Argentina, Mexico và lọt vào top 5 ở UK, Canada, top 10 ở Australia, Brazil. "My Happy Ending" là đĩa đơn thứ hai, single này một lần nữa dành quán quân ở Mexico và lọt cào top 10 trên US Billboard Hot 100. Đĩa đơn thứ ba là "Nobody's Home", mặc dù không lọt vào top 40 ở Mĩ nhưng single này lại rất thành công ở Mexico và Argentina. "He Wasn't" là đĩa đơn thứ tư, single này lọt vào top 30 ở UK và Australia nhưng không được phát hành ở Hoa Kỳ. "Fall To Pieces" là đĩa đơn cuối cùng trong album tuy nhiên nó không được thành công như những single đã phát hành trước đó. Tính đến cuối năm 2007 album "Under My Skin" đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới.
Với những thành công từ "Under My Skin", Avril đã giành chiến thắng trong lễ trao giải World Music Awards 2004 cho hạng mục nghệ sĩ pop/rock xuất sắc nhất và nghệ sĩ Canada có album bán chạy nhất. Trong năm 2005, Avril đã giành chiến thắng ở 3 trong số 5 để cử của giải thưởng âm nhạc Canada Juno Awards cùng với giải thưởng nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất trong lễ trao giải Nickelodeon Kid's Choice. Cũng trong năm này, Avril đã thực hiện một số chuyến lưu diễn nhỏ ở một vài quốc gia trên thế giới. Năm 2006 Lavigne được chọn làm gương mặt đại diện cho Canada tham gia vào lễ bế mạc Thế Vận Hội Mùa Đông 2006 ở Torino, Ý.
2006–08: The Best Damn Thing
The Best Damn Thing là album thứ ba trong sự nghiệp ca hát của Avril. Album này được phát hành vào ngày 17 tháng 4 năm 2007 và dành quán quân 2 tuần liên tục trên bảng xếp hạng US Billboard Hot 200 của Hoa Kỳ. Album này được sản xuất bởi Dr.Luke, Lavigne và chồng cô: Deryck Whibley, nhóm trưởng của ban nhạc rock Sum 41. "The Best Damn Thing" là một album punk-pop với nhiều ca khúc mùa hè sôi động, "Girlfriend" là đĩa đơn đầu tiên trong album, single này đã giúp cho Avril lần đầu tiên giành được vị trí quán quân trên US Billboard Hot 100, và đây đĩa cũng được xem là đĩa đơn thành công nhất trong sự nghiệp của Avril nếu xét về mặt thương mại. "When You're Gone" được chọn làm làm đĩa đơn thứ hai, mặc dù ca khúc này chỉ có thể lọt vào top 25 ở Hoa Kỳ nhưng rất thành công ở châu Âu, châu Á, Australia và Canada. Đĩa đơn thứ ba mang tên "Hot", single này đã lọt vào top 10 ở Canada, Chile và Argentina. Đĩa đơn cuối cùng trong album là "The Best Damn Thing", được phát hành vào đầu tháng 6 năm 2008. Tính đến tháng 10 năm 2008 album đã bán được 6 triệu bản ở trên toàn thế giới
2009–11: Goodbye Lullaby
Album thứ tư của Avril Lavigne - "Goodbye Lullaby" chính thức được phát hành vào ngày 8/3/2011. Album này là kết quả từ quá trình làm việc và hợp tác lâu dài của Avril với một loạt các nhạc sĩ như: Deryck Whibley, Evan Taubenfeld, Butch Walker, Max Martin... Đĩa đơn đầu tiên của album là "What the Hell" được phát hành vào đầu tháng 1/2011, sau đó là "Smile". Album có sự thành công ở thị trường châu Á-Thái Bình Dương. Trong album này Avril thể hiện một ca sĩ chín chắn hơn với nhưng bản acoustic nhẹ nhàng. Tuy nhiên hai single là "What the Hell","Smile" lại đưa đến người nghe một sôi nổi, mạnh mẽ không thể nhầm lẫn của cô ca sĩ cá tính này.
2011-17: Avril Lavigne
Ba tháng sau khi phát hành "Goodbye Lullaby" Avril Lavigne thông báo rằng công việc thu âm cho album thứ năm: Avril Lavigne của cô đã bắt đầu với tám ca khúc đã được viết. Album phát hành trong năm 2013. Lavigne nói: "Tôi đã viết các ca khúc mà tôi biết nó sẽ trở thành các đĩa đơn thành công". Sau đó, tháng 7 năm 2011 Lavigne cho biết tựa đề của hai ca khúc thuộc album thứ năm này, đó là "Fine" và "Gone".
2018: Head Above Water
Sau 5 năm ở ẩn chống chọi với bệnh lyme, Avril Lavigne đã trở lại ca hát với ca khúc và album cùng tên "Head Above Water", ca khúc mà cô đã viết trong một buổi đêm đau đớn vì bệnh tật. Sau đó cô cũng ra đĩa đơn thứ 2 trong album: "Tell Me It's Over", đĩa đơn thứ 3 "Dumb Blonde" ca khúc có sự góp giọng của nữa rapper Nicki Minaj và thứ 4 là "I Fell in Love with the Devil".
Ngày 28 tháng 6 năm 2019 Avril đã thông báo chính thức thực hiện tour diễn vòng quanh Bắc Mỹ Head Above Water Tour sẽ bắt đầu vào ngày 14 tháng 9 năm 2019.
Lavigne phát hành bài hát "We Are Warriors" cùng video âm nhạc vào ngày 30 tháng 4 năm 2020. Video bao gồm các hình ảnh về đại dịch COVID-19, cho thấy các bác sĩ là những chiến binh.
Sự nghiệp điện ảnh
Năm 2006 Avril được mời lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình "Over The Hedge", với cốt truyện được xây dựng từ một bộ truyện tranh nổi tiếng cùng tên. Trong phim này Avril đã tham gia làm việc với nhiều diễn viên nổi tiếng như: William Shatner, Bruce Willis, Garry Shandling, Wanda Sykes, Nick Nolte và Steve Carell. Năm 2007, Avril được diễn xuất cùng với Richard Gere trong bộ phim "The Flock", cô vào vai người bạn gái của một tên tội phạm. Và dự án điện ảnh thứ ba của Avril là vào vai chính trong "Fast Food Nation", bộ phim có kịch bản dựa trên một cuốn truyện yêu thích của cô ấy. Lavigne đã sáng tác và ghi âm "Keep Holding On", bài hát được chọn làm nhạc nền cho bộ phim "Eragon", ca khúc này cũng được phát hành dưới dạng đĩa đơn và xuất hiện trong album "The Best Damn Thing". Ngoài ra Avril còn xuất hiện trong phần giữa của bộ phim truyền hình dài tập "Sabrina, the Teenage Witch", một bộ phim rất được giới trẻ thế giới yêu thích, trong phim này Avril đã xuất hiện tổng cộng 149 lần và trình diễn ca khúc "Sk8er Boi" cùng với các thành viên trong ban nhạc của mình.
Danh sách các phim đã tham gia
Phong cách âm nhạc
Trên trang thông tin MySpace của mình, Avril khẳng định rằng thể loại âm nhạc của cô ấy là Pop/Punk/Rock. Nhưng tạp chí All Music Guide và một số nhà phê bình khác cho rằng phong cách âm nhạc của cô ấy là: "Punk, Punk-pop, Pop/Rock, Alternative Rock, Alternative Pop-Rock, Modern Rock và Post-Grunge". Tuy nhiên Avril thường phát biểu rằng cô không phải là một ca sĩ hát nhạc Punk và cô cũng không muốn bị ràng buộc như vậy. Lavigne đã tỏ thái độ tức giận khi có người xem cô như một "Sk8er Punk". Quê hương của Avril là nơi khởi nguồn của nhiều ban nhóm hát nhạc punk (chẳng hạn như Sid Vicious), nhưng âm nhạc của cô ấy chỉ chịu ảnh hưởng một phần của thể loại punk năm 1970.
Cuộc sống và cá tính
Lavigne có mối quan hệ lãng mạn với tay guitar Jesse Colburn, trong ban nhạc của mình. Cô coi anh là bạn trai đầu tiên trong cuộc đời. Sau khi chia tay, Colburn rời ban nhạc.
Đầu năm 2004, Lavigne bắt đầu hẹn hò với bạn đồng nghiệp, ca sĩ người Canada, Deryck Whibley, thành viên trưởng của ban nhạc rock Sum 41. Whibley trở thành bạn trai thứ hai của cô. Đến tháng 6 năm 2005, Whibley bất ngờ cầu hôn Lavigne trong một chuyến đi sang Venezia. Hai người đã có một buổi dã ngoại lãng mạn sau đó. Ngày 15 tháng 7 năm 2006, Lavigne và Deryck đã tổ chức một đám cưới đơn giản tại tư trang ở thành phố biển Montecito, California. Lavigne mặc chiếc váy cưới của Vera Wang và mang trên tay những bông hồng trắng. Whibley mặc trang phục của Hugo Boss và được hộ tống bởi bốn phù rể. Có khoảng 110 vị khách quý tham dự buổi lễ đặc biệt này. Tuy nhiên, cuối năm 2009 hai người đã chia tay sau 3 năm chung sống. Hôn nhân của cô chính thức kết thúc ngày 16 tháng 11 năm 2010.
Avril được nhiều người chú ý bởi phong cách trình diễn rất lôi cuốn và cá tính mạnh mẽ của mình, cô thường được so sánh với nữ ca sĩ nhạc rock người Canada Alanis Morissette, Avril cũng tự nhận mình có đôi chút ảnh hưởng từ âm nhạc của Alanis. Trong một lần được làm khách mời phỏng vấn của tạp chí Q&A, Lavigne đã phát biểu rằng ca khúc mà cô yêu thích là "Hey Ya" của Outkast. Ngoài ra cô còn rất thích nghe nhạc của Third Eye Blind, Oasis, Marilyn Manson, System of a Down và Blink-182, đặc biệt là ca khúc "I Miss You".
Danh sách phim
Danh sách đĩa nhạc
Let Go (2002)
Under My Skin (2004)
The Best Damn Thing (2007)
Goodbye Lullaby (2011)
Avril Lavigne (2013)
Head Above Water (2019) |
Câu lạc bộ bóng đá Manchester United (tiếng Anh: Manchester United Football Club, hay ngắn gọn là MU hay Man Utd) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Old Trafford, Đại Manchester, Anh. Câu lạc bộ hiện đang chơi tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, giải đấu hàng đầu trong hệ thống bóng đá Anh. Với biệt danh Quỷ Đỏ, câu lạc bộ được thành lập dưới tên Newton Heath LYR Football Club vào năm 1878, đổi tên thành Manchester United vào năm 1902 và chuyển đến sân vận động hiện tại, Old Trafford, vào năm 1910.
Manchester United là câu lạc bộ thành công nhất lịch sử bóng đá Anh khi giữ kỷ lục 20 lần vô địch bóng đá Anh, đoạt 12 Cúp FA, 6 Cúp Liên đoàn và giữ kỷ lục 21 lần đoạt Siêu cúp Anh. Câu lạc bộ đã giành được 3 Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, 1 UEFA Cup Winners' Cup, 1 UEFA Europa league, 1 Siêu cúp châu Âu, 1 Cúp Liên lục địa và 1 FIFA Club World Cup. Trong mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành cú ăn ba trong một mùa giải, gồm các chức vô địch Ngoại hạng Anh, cúp FA và UEFA Champions League.
Thảm họa hàng không München năm 1958 đã cướp đi sinh mạng của tám cầu thủ. Năm 1968, dưới sự dẫn dắt của Matt Busby, Manchester United là câu lạc bộ bóng đá Anh đầu tiên giành Cúp C1 châu Âu. Huấn luyện viên Alex Ferguson đã giành 38 danh hiệu khi dẫn dắt câu lạc bộ kể từ năm 1986, trong đó có 13 chức vô địch Premier League, 5 Cúp FA và 2 UEFA Champions League, trước khi ông tuyên bố nghỉ hưu vào năm 2013. Huấn luyện viên chính gần đây nhất của câu lạc bộ là Erik ten Hag, người được bổ nhiệm vào năm 2022.
Manchester United là câu lạc bộ bóng đá đứng thứ hai về doanh thu trên thế giới trong mùa giải 2013-14, với doanh thu hàng năm 518 triệu euro và đứng thứ ba về giá trị đội bóng trên thế giới trong năm 2015 với trị giá 1,98 tỷ USD. Tính đến tháng 6 năm 2015, câu lạc bộ có giá trị thương hiệu bóng đá lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 1,2 tỷ USD. Đây là một trong những đội bóng có số lượng người hâm mộ lớn nhất trên thế giới. Câu lạc bộ được vận hành dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần từ năm 1991 và sau khi được đưa lên sàn Chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ đã được Malcolm Glazer mua lại vào tháng 5 năm 2005 với giá gần 800 triệu bảng. Câu lạc bộ có một số kình địch, trong đó nổi bật là Liverpool, Manchester City, Arsenal, Leeds United và Chelsea.
Lịch sử
Những năm đầu (1878–1945)
Manchester United được thành lập năm 1878 với tên gọi Newton Heath LYR Football Club bởi bộ phận Toa hành khách và Toa trần của công ty đường sắt Lancashire and Yorkshire Railway (LYR). Ban đầu đội thi đấu với các đội bóng của những bộ phận khác của công ty hay với những công ty đường sắt khác. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1880, họ có trận đấu đầu tiên được ghi chép lại; họ mặc áo mang màu sắc của công ty – xanh lục vàng – và bị đội dự bị của Bolton Wanderers đánh bại 6–0. Tới năm 1888, câu lạc bộ trở thành thành viên sáng lập của The Combination, một giải bóng đá cấp vùng. Tuy nhiên giải này bị giải thể ngay sau mùa giải đầu tiên, do đó Newton Heath gia nhập giải bóng đá mới Football Alliance. Giải này cũng chỉ tồn tại được ba mùa giải trước khi bị sáp nhập vào Football League. Đội bắt đầu mùa giải 1892–93 tại Giải hạng nhất. Khi đó đội bắt đầu tách khỏi công ty đường sắt và bỏ 3 chữ "LYR" ra khỏi tên. Sau hai mùa giải, đội phải xuống chơi tại Giải hạng nhì.
Vào tháng 1 năm 1902, với số nợ 2.670 bảng – tương đương với bảng năm – đội đứng trước nguy cơ bị giải thể. Đội trưởng Harry Stafford sau đó gặp được bốn thương nhân địa phương, trong đó có John Henry Davies (người trở thành chủ tịch câu lạc bộ), mỗi người sẵn lòng bỏ ra 500 bảng để đổi lấy quyền điều hành câu lạc bộ và cũng là những người đổi tên câu lạc bộ. Ngày 24 tháng 4 năm 1902, Manchester United chính thức ra đời. Dưới sự dẫn dắt của Ernest Mangnall, người được bổ nhiệm vào năm 1903, đội giành vị trí á quân Giải hạng nhì năm 1906 và giành quyền lên chơi ở Giải hạng nhất. Vào năm 1908 đội giành chức vô địch quốc gia đầu tiên. Mùa giải sau đó United khởi đầu với chức vô địch Charity Shield và kết thúc với chức vô địch Cúp FA. Manchester United vô địch Hạng nhất lần thứ hai vào năm 1911, nhưng cuối mùa giải sau đó, Mangnall chia tay đội để chuyển đến Manchester City.
Vào năm 1922, ba năm sau khi bóng đá trở lại sau Thế chiến thứ nhất, câu lạc bộ phải xuống chơi ở hạng hai và lên hạng trở lại vào năm 1925. Sau khi một lần nữa xuống hạng năm 1931, Manchester United hết lên rồi lại xuống hạng, trong đó vị trí thấp nhất mà đội sở hữu là vị trí thứ 20 tại giải hạng hai vào năm 1934. Sau khi John Henry Davies qua đời vào tháng 10 năm 1927, tình hình tài chính của câu lạc bộ xuống dốc khiến Manchester United chút nữa phá sản. May thay, vào tháng 12 năm 1931, James W. Gibson đầu tư 2.000 bảng và lên nắm quyền tại câu lạc bộ. Vào mùa giải 1938–39, mùa giải cuối cùng trước khi Thế chiến thứ hai nổ ra, đội kết thức ở vị trí thứ 14 tại giải hạng nhất.
Kỷ nguyên Matt Busby (1945–1969)
Vào tháng 10 năm 1945, vị trí huấn luyện viên trưởng được giao cho Matt Busby, người yêu cầu được kiểm soát việc chọn lựa đội hình, chuyển nhượng cầu thủ và tập luyện của đội. Busby ba lần đưa câu lạc bộ về nhì ở giải vô địch quốc gia các năm 1947, 1948 và 1949, cùng với chức vô địch Cúp FA 1948. Vào năm 1952, câu lạc bộ giành chức vô địch giải hạng nhất, danh hiệu vô địch quốc gia đầu tiên sau 41 năm. Với độ tuổi trung bình là 22, đội hình vô địch quốc gia hai năm liên tiếp 1956 và 1957 được báo chí gọi với biệt danh "Những đứa trẻ của Busby" (The Busby Babes), một minh chứng cho niềm tin của Busby vào các cầu thủ trẻ của ông. Vào năm 1957, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên dự Cúp C1 châu Âu, bất chấp phản đối từ phía The Football League, những người đã không cho Chelsea cơ hội bước ra châu Âu ở mùa giải trước đó. Mặc dù phải dừng bước ở bán kết trước Real Madrid, đội vẫn tạo nên kỳ tích với chiến thắng 10–0 trước Anderlecht của Bỉ. Đây vẫn là thắng lợi đậm nhất trong lịch sử câu lạc bộ.
Vào mùa giải sau, khi đang trên đường trở về nhà sau chiến thắng trước Sao Đỏ Beograd ở tứ kết Cúp C1, chiếc máy bay chở cầu thủ và ban huấn luyện Manchester United cùng các nhà báo gặp nạn trong lúc cố gắng cất cánh sau lần tiếp nhiên liệu tại München, Đức. Thảm họa hàng không München ngày 6 tháng 2 năm 1958 cướp đi sinh mạng của 23 người, trong đó có tám cầu thủ – Geoff Bent, Roger Byrne, Eddie Colman, Duncan Edwards, Mark Jones, David Pegg, Tommy Taylor và Billy Whelan – và làm nhiều người khác bị thương.
Huấn luyện đội dự bị Jimmy Murphy đảm nhiệm cương vị huấn luyện viên trong thời gian Busby hồi phục sức khỏe và đội hình thay thế lọt vào chung kết Cúp FA, nơi họ thất bại trước Bolton Wanderers. Để bù đắp thiệt thòi của đội bóng, Liên đoàn bóng đá châu Âu mời đội tham dự Cúp C1 châu Âu 1958–59 cùng đội vô địch Anh năm đó là Wolverhampton Wanderers. Mặc dù được sự chấp thuận từ phía FA, Football League không cho đội tham dự giải. Busby tái thiết lại câu lạc bộ trong thập niên 1960 bằng việc ký hợp đồng với Denis Law và Pat Crerand, những người kết hợp với thế hệ cầu thủ trẻ kế cận của đội – trong đó có George Best – giành Cúp FA 1963. Mùa giải tiếp theo họ có được vị trí thứ ba ở giải quốc gia, và sau đó giành chức vô địch vào các năm 1965 và 1967. Vào năm 1968, Manchester United trở thành câu lạc bộ Anh đầu tiên (và câu lạc bộ Vương quốc Anh thứ hai) giành được chức vô địch Cúp C1 châu Âu khi đánh bại Benfica 4–1 trong trận chung kết với đội hình gồm ba cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất năm: Bobby Charlton, Denis Law và George Best. Matt Busby rời câu lạc bộ vào năm 1969 và được thay thế bằng huấn luyện viên đội dự bị và cựu cầu thủ Manchester United Wilf McGuinness.
1969–1986
Sau khi kết thúc mùa giải 1969–70 ở vị trí thứ tám và khởi đầu tệ hại ở mùa bóng 1970–71, Busby được câu lạc bộ thuyết phục quay trở lại ghế chỉ đạo, trong khi McGuinness trở lại vị trí huấn luyện đội dự bị. Vào tháng 6 năm 1971, Frank O'Farrell được chỉ định làm huấn luyện viên mới, nhưng chỉ trụ lại được 18 tháng trước khi bị thay thế bởi Tommy Docherty vào tháng 12 năm 1972. Docherty cứu Manchester United khỏi xuống hạng mùa giải năm đó nhưng cuối cùng United vẫn phải xuống hạng vào năm 1974; thời điểm đó bộ ba Best, Law, và Charlton đều đã chia tay câu lạc bộ. Đội thăng hạng ngay ở mùa giải sau đó và lọt vào trận chung kết Cúp FA 1976, nhưng bị Southampton hạ gục tại đây. Họ một lần nữa vào chung kết năm 1977 và đánh bại Liverpool với tỉ số 2–1. Không lâu sau Docherty bị buộc thôi chức vì quan hệ tình ái của ông với người vợ của nhân viên vật lý trị liệu câu lạc bộ bị phanh phui.
Dave Sexton thay thế Docherty làm huấn luyện viên vào mùa hè năm 1977. Mặc dù mang về nhiều bản hợp đồng lớn như Joe Jordan, Gordon McQueen, Gary Bailey và Ray Wilkins, đội vẫn không thể đạt được danh hiệu nào; họ về nhì ở mùa giải 1979–80 và để thua Arsenal trong trận chung kết Cúp FA 1979. Sexton đã bị sa thải vào năm 1981 dù Manchester United giành chiến thắng trong bảy trận cuối cùng dưới sự chỉ đạo của ông. Ông được thay thế bởi Ron Atkinson, người ngay lập tức đã phá vỡ kỉ lục chuyển nhượng ở Anh khi mua về Bryan Robson từ West Bromwich Albion. Dưới quyền Atkinson, United đoạt hai chức vô địch Cúp FA vào các năm 1983 và 1985. Vào mùa giải 1985-86, sau 13 chiến thắng và 2 trận hòa trong 15 trận đầu tiên, đội trở thành ứng cử viên số một cho ngôi vô địch, nhưng cuối cùng chỉ có được vị trí thứ bốn khi mùa giải kết thúc. Mùa giải sau việc United đứng trước nguy cơ bị xuống hạng lần nữa kiến Atkinson bị sa thải ngày 5 tháng 11 năm 1986.
Triều đại Ferguson (1986–2013)
Alex Ferguson cùng trợ lý Archie Knox chuyển tới từ Aberdeen vào ngày mà Atkinson bị sa thải và đưa đội kết thúc mùa giải ở vị trí 11. Mặc dù về nhì ở mùa giải 1987–88, đội trở lại vị trí thứ 11 vào mùa giải sau. Giữa lúc những đồn đoán về nguy cơ bị sa thải lên cao, chiến thắng trước Crystal Palace ở trận đá lại Chung kết Cúp FA 1990 (trước đó hòa 3–3) đã cứu vãn sự nghiệp của Ferguson. Mùa giải sau đó, Manchester United giành chức vô địch Cúp C2 châu Âu đầu tiên cùng chiến thắng trong trận tranh Siêu cúp châu Âu 1991 trước nhà vô địch Cúp C1 Sao Đỏ Beograd tại Old Trafford. Đội tiếp tục vào chung kết Cúp Liên đoàn 1992 và đánh bại Nottingham Forest 1–0 tại Wembley. Vào năm 1993, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên kể từ năm 1967, và một năm sau bảo vệ thành công chức vô địch. Họ hoàn tất cú đúp danh hiệu đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ với chức vô địch Cúp FA 1994.
Vào mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội đầu tiên vô địch Giải Ngoại hạng Anh, Cúp FA và UEFA Champions League – "Cú ăn ba" – trong cùng một mùa giải. Cuộc lội ngược dòng trong thời gian bù giờ trận Chung kết UEFA Champions League 1999 bằng 2 bàn thắng của Teddy Sheringham và Ole Gunnar Solskjær mang về thắng lợi kịch tính trước Bayern München. Chiến thắng này được coi là một trong những cuộc lội ngược dòng vĩ đại nhất mọi thời đại. Đội cũng giành chức vô địch Cúp Liên lục địa sau khi vượt qua Palmeiras với tỉ số 1–0 ở Tokyo. Ferguson sau đó được phong tước hiệp sĩ nhờ những cống hiến cho bóng đá.
Manchester United một lần nữa lên ngôi vô địch vào mùa giải 1999–2000 và 2000–01. Đội về thứ ba ở mùa 2001–02, trước khi đòi lại chức vô địch vào mùa 2002–03. Họ giành chức vô địch Cúp FA 2003–04 khi hạ Millwall 3–0 trong trận chung kết tại Sân vận động Thiên niên kỷ ở Cardiff. Vào mùa giải 2005–06, Manchester United lần đầu tiên sau một thập kỷ không vượt thể vượt qua vòng bảng UEFA Champions League, nhưng vẫn về đích ở vị trí thứ nhì ở Premier League và giành chức vô địch Cúp Liên đoàn 2006 trước Wigan Athletic. Họ trở lại ngôi vương tại Giải Ngoại hạng vào các mùa giải 2006–07 và 2007–08, đồng thời hoàn tất cú đúp với chiến thắng 6–5 trong loạt luân lưu trước Chelsea trong trận Chung kết UEFA Champions League 2008 trên Sân vận động Luzhniki ở Moskva. Đây cũng là trận đấu thứ 759 của Ryan Giggs cho câu lạc bộ, vượt qua kỷ lục của Bobby Charlton. Vào tháng 12 năm 2008, câu lạc bộ giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2008, nối tiếp bằng danh hiệu vô địch Cúp Liên đoàn 2009, cùng chức vô địch Ngoại hạng thứ ba liên tiếp. Mùa hè năm đó Cristiano Ronaldo được bán sang Real Madrid với giá 80 triệu bảng Anh. Vào năm 2010, Manchester United đánh bại Aston Villa 2–1 để bảo vệ thành công chức vô địch Cúp Liên đoàn, đồng thời cũng là lần đầu tiên họ bảo vệ thành công chức vô địch một giải đấu cúp.
Sau khi kết thúc ở vị trí á quân trong mùa giải 2009–10, United đã giành chức vô địch thứ 19 kỷ lục trong mùa giải 2010–11, đảm bảo ngôi vô địch với trận hòa 1–1 trên sân khách trước Blackburn Rovers vào ngày 14 tháng 5 năm 2011. Con số này đã được nâng lên thành 20 chức vô địch trong mùa giải 2012–13, đảm bảo ngôi vô địch với chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Aston Villa vào ngày 22 tháng 4 năm 2013.
2013–nay
Vào ngày 8 tháng 5 năm 2013, Ferguson thông báo rằng ông sẽ nghỉ hưu với tư cách là huấn luyện viên trưởng vào cuối mùa giải, nhưng vẫn sẽ ở lại United với tư cách giám đốc và đại sứ câu lạc bộ. Ông nghỉ hưu với tư cách là vị huấn luyện viên trưởng thành công nhất trong lịch sử bóng đá. Câu lạc bộ đã thông báo vào ngày hôm sau rằng huấn luyện viên của Everton, David Moyes sẽ thay thế Ferguson làm huấn luyện viên từ ngày 1 tháng 7, với bản hợp đồng kéo dài sáu năm. Ryan Giggs tiếp quản vị trí huấn luyện viên kiêm cầu thủ tạm thời 10 tháng sau đó, vào ngày 22 tháng 4 năm 2014, khi Moyes bị sa thải sau một mùa giải kém cỏi, câu lạc bộ đã không thể bảo vệ được danh hiệu Premier League và không đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League lần đầu tiên kể từ mùa giải 1995–96. Họ cũng không thể giành quyền tham dự Europa League, đồng nghĩa với việc đây là lần đầu tiên Manchester United không đủ điều kiện tham dự bất kỳ một giải đấu châu Âu nào kể từ năm 1990. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, đã có thông tin xác nhận rằng Louis van Gaal sẽ thay thế Moyes làm huấn luyện viên trưởng Manchester United theo bản hợp đồng ba năm, với Giggs là trợ lý của ông. Malcolm Glazer, người đứng đầu gia đình sở hữu câu lạc bộ, đã qua đời vào ngày 28 tháng 5 năm 2014.
Dưới thời Van Gaal, United đã giành được danh hiệu FA Cup lần thứ 12, nhưng sự sa sút đáng thất vọng vào giai đoạn giữa mùa giải thứ hai của ông đã dẫn đến những tin đồn về việc ban lãnh đạo sẽ tìm ra người thay thế tiềm năng. Van Gaal cuối cùng cũng bị sa thải chỉ hai ngày sau trận thắng cuối cùng ở Premier League, với việc United đứng thứ 5 tại giải đấu. Cựu huấn luyện viên của FC Porto, Chelsea, Inter Milan và Real Madrid, José Mourinho đã được bổ nhiệm thay thế ông vào ngày 27 tháng 5 năm 2016. Mourinho ký bản hợp đồng ba năm và trong mùa giải đầu tiên của ông đã giành được danh hiệu FA Community Shield, EFL Cup và UEFA Europa League. Wayne Rooney đã ghi bàn thắng thứ 250 cho United, bàn gỡ hòa ở phút bù giờ trong trận đấu với Stoke City vào tháng 1, vượt qua Sir Bobby Charlton để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của câu lạc bộ. Mùa giải tiếp theo, United đứng thứ hai trên bảng xếp hạng – vị trí cao nhất của họ kể từ năm 2013 – nhưng vẫn kém đối thủ cùng thành phố Manchester City 19 điểm. Mourinho cũng dẫn dắt câu lạc bộ đến trận chung kết FA Cup lần thứ 19, nhưng họ để thua Chelsea 1–0. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2018, khi United đang đứng ở vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Premier League, kém 19 điểm so với đội dẫn đầu Liverpool và 11 điểm so với nhóm dự Champions League, Mourinho đã bị sa thải sau 144 trận. Ngày hôm sau, cựu tiền đạo của United, Ole Gunnar Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm thời cho đến cuối mùa giải. Vào ngày 28 tháng 3 năm 2019, sau chuỗi 14 trận thắng trong 19 trận đầu tiên cầm quân, Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng theo bản hợp đồng ba năm.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2021, Manchester United thông báo rằng họ sẽ cùng 11 câu lạc bộ châu Âu khác thành lập European Super League, một giải đấu bao gồm 20 đội bóng được đề xuất nhằm cạnh tranh trực tiếp với UEFA Champions League. Thông báo này đã nhận phải sự phản ứng dữ dội chưa từng có từ những cổ động viên, các câu lạc bộ, đối tác truyền thông, nhà tài trợ, cầu thủ và Chính phủ Vương quốc Anh, buộc United phải rút lui chỉ hai ngày sau đó. Sự thất bại của dự án đã dẫn đến việc phó chủ tịch điều hành câu lạc bộ Ed Woodward từ chức, trong khi các cuộc biểu tình phản đối Woodward và gia đình Glazer dẫn đến việc nhiều cổ động viên lao vào sân trước trận đấu với Liverpool vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Premier League chứng kiến một trận đấu bị hoãn lại do sự phản đối của các cổ động viên.
Trên sân cỏ, United đã có trận thắng đậm nhất trong lịch sử Premier League với chiến thắng 9–0 trước Southampton vào ngày 2 tháng 2 năm 2021, nhưng họ đã kết thúc mùa giải với thất bại trên chấm phạt đền trong trận chung kết UEFA Europa League trước Villarreal, trải qua bốn mùa giải liên tiếp không giành được danh hiệu nào. Vào ngày 20 tháng 11 năm 2021, Manchester United quyết định sa thải Solskjær. Cựu tiền vệ Michael Carrick đảm nhận vai trò chỉ đạo đội bóng trong ba trận đấu tiếp theo, trước khi bổ nhiệm Ralf Rangnick làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến cuối mùa giải.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2022, Erik ten Hag được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng từ cuối mùa giải 2021–22, ký hợp đồng có thời hạn cho đến tháng 6 năm 2025 với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Vào ngày 23 tháng 5 năm 2022, Mitchell van der Gaag và Steve McClaren được xác nhận là trợ lý huấn luyện viên của Ten Hag.
Huy hiệu và màu áo
Huy hiệu của câu lạc bộ được thiết kế dựa trên huy hiệu của Hội đồng Thành phố Manchester, mặc dù huy hiệu ngày nay chỉ giữ lại hình ảnh chiếc thuyền buồm căng gió. Hình ảnh con quỷ bắt nguồn từ biệt danh "The Red Devils"; hình ảnh này xuất hiện trong các tờ chương trình của câu lạc bộ và trên khăn quàng cổ vào thập niên 1960, và được đưa vào huy hiệu câu lạc bộ năm 1970, mặc dù huy hiệu không được in lên ngực áo đấu cầu thủ cho đến năm 1971 (trừ khi đội bóng chơi trong trận chung kết khi đấu cúp).
Một bức ảnh của đội Newton Heath năm 1892 được cho là chụp các cầu thủ mặc áo màu đỏ và màu trắng với quần knickerbocker màu xanh hải quân. Từ 1894-1896, các cầu thủ mặc áo màu xanh lá cây vàng. và được thay thế vào năm 1896 bằng áo sơ mi trắng và quần short màu xanh hải quân.
Sau khi thay đổi tên vào năm 1902, màu sắc của câu lạc bộ được thay đổi thành áo đỏ, quần trắng và tất màu đen; đây cũng chính là màu trang phục sân nhà chuẩn của Manchester United. Áo đấu ít thay đổi cho đến năm 1922 khi câu lạc bộ áp dụng áo sơ mi trắng với chữ "V" màu đỏ đậm quanh cổ, tương tự như chiếc áo mặc trong trận chung kết Cúp FA 1909. Chiếc áo được mặc định làm áo đấu sân nhà cho đến năm 1927. Có một giai đoạn vào năm 1934, chiếc áo đấu phụ màu anh đào sọc ngang màu trắng trở thành áo đấu sân nhà, nhưng mùa giải sau đó chiếc áo màu đỏ được sử dụng lại. Tất màu đen được thay đổi thành màu trắng từ năm 1959 đến năm 1965, đổi thành màu đỏ cho đến năm 1971 khi câu lạc bộ trả lại màu tất đen. Quần đen và/hoặc tất trắng đôi khi cũng được sử dụng với áo đỏ, hầu hết là trong các trận sân khách để tranh trùng màu với đội chủ nhà. Áo sân nhà hiện nay là một chiếc áo được chia thành hai nửa đỏ bên đậm bên nhạt, được phân cách bằng một dải họa tiết sáu cạnh với ba sọc Adidas màu trắng chạy dọc thân bên áo.
Manchester United thi đấu sân khách thường mặc áo trắng, quần đen và tất trắng, nhưng đã có một số trường hợp ngoại lệ. Áo đấu bao gồm một dải màu đen với trang trí màu xanh vàng từ năm 1993 đến năm 1995, những chiếc áo sơ mi màu xanh hải quân với mối xoắn ngang màu bạc trong mùa giải 1999-2000, và các bộ áo đấu màu giải 2011-12 trở đi, trong đó có một áo đấu có nền xanh hoàng gia và sọc được tạo nên từ nhưng dải màu đen và xanh dương, với quần short màu đen và tất màu xanh. Áo đấu màu xám mặc trong mùa giải 1995-1996 bị bỏ chỉ sau năm trận đấu vì cầu thủ khẳng định rất khó khăn khi tìm đồng đội phối hợp. Năm 2001, để kỷ niệm 100 năm đổi tên, Manchester United phát hành áo đấu lộn trái phải như nhau màu trắng/vàng, mặc dù thực tế những chiếc áo khi mang ra thi đấu không lộn trái phải như nhau được.
Bộ áo đấu thứ ba của câu lạc bộ thường là hoàn toàn xanh, đây là trường hợp gần đây nhất là trong mùa giải 2014-15. Trường hợp ngoại lệ bao gồm áo hai nửa màu xanh lá cây vàng từ năm 1992 đến năm 1994, một chiếc áo sọc xanh-trắng mặc trong 1994-1995 và 1995-1996 và một lần trong mùa 1996-97, một bộ áo đấu toàn màu đen mặc trong mùa giải 1998-1999, và áo trắng với mối xoắn ngang màu đen và đỏ mặc từ năm 2003 tới 2005. Từ năm 2006-07 tới 2013-14, áo đấu thứ ba thường giống áo mùa giải trước, những trường hợp ngoại lệ là mùa giải 2008-09 và mùa giải 2014-15.
Huy hiệu
Huy hiệu câu lạc bộ Manchester United thay đổi theo dòng thời gian lịch sử. Huy hiệu của câu lạc bộ gắn liền từ biệt danh của câu lạc bộ là "The Red Devils". Năm 1998, Huy hiệu được thiết kế lại một lần nữa, loại bỏ cụm từ "Football Club".
Trang phục áo đấu
Ghi chú
Sân vận động
Newton Heath ban đầu thi đấu tại sân North Road gần đường ray; sức chứa ban đầu vào khoảng 12.000, nhưng ban lãnh đạo cho rằng cơ sở vật chất như vậy không đủ để câu lạc bộ gia nhập The Football League. Việc mở rộng bắt đầu vào năm 1887 và tới năm 1891, Newton Heath làm thêm hai khán đài, mỗi khán đài có sức chứa 1.000 khán giả. Số khán giả cao nhất được ghi chép lại của một trận đấu tại North Road là 15.000 (gặp Sunderland ngày 4 tháng 3 năm 1893). Số khán giả cũng là tương tự khi đội gặp Gorton Villa vào ngày 5 tháng 9 năm 1889.
Vào tháng 6 năm 1893, sau khi Manchester Deans và Canons, chủ sở hữu của North Road thu hồi quyền sử dụng sân từ tay Manchester United, thư ký A. H. Albut liền có được quyền sử dụng sân Bank Street ở Clayton. Sân ban đầu không có khán đài nhưng trước khi mùa 1893–94 bắt đầu đã có thêm hai khán đài được xây thêm; một khán đài bao trọn chiều dài một phía sân và khán đài còn lại nằm ở phía sau cầu môn có tên "Bradford end". Ở đầu cầu môn bên kia mang tên "Clayton end", dần được xây dựng. Trận đầu tiên của Newton Heath tại Bank Street là trước Burnley vào ngày 1 tháng 9 năm 1893, trong đó 10.000 khán giả chứng kiến cú hat-trick của Alf Farman giúp Newton Heath đi tới thắng lợi 3–2. Các khán đài còn lại được hoàn thành cho trận đấu ba tuần sau với Nottingham Forest. Vào tháng 10 năm 1895, trước chuyến làm khách của Manchester City, câu lạc bộ mua về một khán đài 2.000 chỗ từ câu lạc bộ rugby league Broughton Rangers. Tuy nhiên thời tiết xấu khiến trận đấu với Manchester City chỉ có 12.000 người tới xem.
Khi sân Bank Street tạm thời đóng cửa năm 1902, đội trưởng Harry Stafford quyên góp tiền để trả trận đấu sân khách tiếp theo của đội tại Bristol City và tìm ra một sân vận động tạm thời tại Harpurhey cho trận tiếp theo của đội dự bị gặp Padiham. Sau những đầu tư về mặt tài chính, tân chủ tịch John Henry Davies chi 500 bảng để dựng lên một khán đài 1.000 chỗ có lắp ghế ngồi tại Bank Street.
Tuy nhiên, sau chức vô địch quốc gia đầu tiên của Manchester United vào năm 1908 và Cúp FA năm 1909, Bank Street đã trở nên không đủ với tham vọng của Davies; tới tháng 2 năm 1909, Old Trafford trở thành tên sân vận động mới của Manchester United sau khi câu lạc bộ mua lại mảnh đất có giá 60.000 bảng. Kiến trúc sư Archibald Leitch được giao ngân sách 30.000 bảng để xây dựng; Công trình được xây dựng bởi Messrs Brameld and Smith of Manchester. Lượng khán giả kỷ lục của sân vận động là 76.962 người tới sân vào ngày 25 tháng 3 năm 1939, trong trận bán kết Cúp FA giữa Wolverhampton Wanderers và Grimsby Town.
Những trận oanh tạc bằng bom trong Thế chiến thứ hai phá hủy phần lớn sân vận động; đường hầm trung tâm ở South Stand là phần duy nhất còn lại của khán đài này. Sau chiến tranh, câu lạc bộ nhận được 22.278 bảng tiền bồi thường từ Ủy ban Thiệt hại Chiến tranh. Khi cộng cuộc tái xây dựng sân được tiến hành, đội đá các trận sân nhà tại sân Maine Road của Manchester City; Manchester United phải đóng phí thuê sân là 5.000 bảng 1 năm, cộng thêm một phần nhỏ tiền vé thu được. Một trong những nâng cấp đáng kể của Old Trafford là mái che, đầu tiên là tại khán đài Stretford End và sau đó là khán đài Bắc và Đông. Các cột trụ đỡ mái gây cản trở tầm nhìn của cổ động viên được thay thế bằng kết cấu dầm chìa (cantilever). Bốn cột dàn đèn cao có giá 40.000 bảng lần đầu được dựng lên vào ngày 25 tháng 3 năm 1957, mỗi cột gồm 54 bóng đèn. Các cột này được gỡ vào năm 1987 và được thay bằng hệ thống chiếu sáng gắn vào mái của các khán đài như ngày nay.
Các yêu cầu của Taylor Report dành cho một sân vận động có ghế ngồi góp phần làm giảm số chỗ ngồi của Old Trafford xuống khoảng 44.000 vào năm 1993. Vào năm 1995, North Stand được thiết kế lại thành ba tầng giúp tăng số chỗ ngồi lên 55.000. Cuối mùa giải 1998–99, các khán đài East và West được tăng thêm một tầng nữa, nâng sức chứa lên 67.000, và từ tháng 7 năm 2005 tới tháng 5 năm 2006, 8.000 chỗ ngồi nữa được bổ sung ở hai góc khán đài đông bắc và tây bắc. Một phần chỗ ngồi mới được sử dụng vào ngày 26 tháng 3 năm 2006, khi lượng khán giả 69.070 người trở thành kỷ lục mới tại Giải Ngoại hạng Anh. Kỷ lục dần được đẩy lên cho tới khi chạm đỉnh vào tháng 3 năm 2007 khi có 76.098 khán giả tới chứng kiến thắng lợi 4–1 của Manchester United trước Blackburn Rovers, với chỉ 114 ghế trống (trên tổng số 76.212). Vào năm 2009, việc sắp xếp lại chỗ ngồi khiến số chỗ ngồi giảm xuống còn 75.957. Manchester United là câu lạc bộ có lượng khán giả trung bình chỉ sau Borussia Dortmund.
Người hâm mộ
Manchester United là một trong những câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất trên thế giới, với một lượng khán giả đến sân trung bình cao nhất châu Âu. Câu lạc bộ cho biết lực lượng người hâm mộ trên toàn thế giới của đội bao gồm hơn 200 hội chính thức được công nhận bởi Manchester United Supporters Club (MUSC), tại ít nhất 24 quốc gia. Câu lạc bộ hưởng lợi từ lực lượng người hâm mộ trên thế giới thông qua các tour du đấu mùa hè. Công ty kiểm toán Deloitte ước tính rằng Manchester United có 75 triệu người hâm mộ trên toàn thế giới, trong khi ước tính khác cho rằng con số này gần 333 triệu người hâm mộ. Câu lạc bộ cũng là đội thể thao có số người theo dõi nhiều thứ ba trên mạng xã hội (sau Barcelona và Real Madrid), với trên 71 triệu fan trên Facebook tính tới tháng 9 năm 2016. Một nghiên cứu vào năm 2014 cho thấy Manchester United có người hâm mộ cổ vũ ầm ĩ nhất tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Người hâm mộ được đại diện bởi hai hiệp hội độc lập nhau, Independent Manchester United Supporters' Association (IMUSA) duy trì liên kết chặt chẽ với câu lạc bộ thông qua MUFC Fans Forum, và Manchester United Supporters' Trust (MUST). Sau khi câu lạc bộ được tiếp quản bởi gia đình Glazer vào năm 2005, một nhóm người hâm mộ thành lập một câu lạc bộ riêng mang tên F.C. United of Manchester để phản đối sự kiện này. Khán đài phía tây của Old Trafford – hay "Stretford End" – là khán đài nổi tiếng nơi có các cổ động viên cổ vũ cuồng nhiệt nhất.
Kình địch
Manchester United là kình địch của Arsenal, Leeds United, Liverpool và Manchester City, đối thủ cùng thành phố trong những trận Derby Manchester.
Sự kình địch với Liverpool bắt nguồn từ sự cạnh tranh giữa hai thành phố trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp khi thành phố Manchester nổi tiếng với ngành công nghiệp dệt may trong khi đó Liverpool là một thành phố cảng lớn. Manchester United và Liverpool cũng là hai đội bóng thành công nhất nước Anh và, trong nhiều thời điểm lịch sử, cả hai đội bóng cạnh tranh nhau chức vô địch (gần đây nhất là mùa giải 2008-09). Các trận đấu giữa hai đội thường được cầu thủ và người hâm mộ hai bên coi là trận đấu quan trọng nhất mùa giải.
Sự kình địch với Leeds bắt nguồn từ Chiến tranh Hoa Hồng giữa Nhà Lancaster và Nhà York, với Manchester United đại diện cho Lancashire còn Leeds đại diện cho Yorkshire.
Sự kình địch với Arsenal xuất phát từ những lần hai đội bóng, cũng như hai huấn luyện viên Alex Ferguson và Arsène Wenger, cạnh tranh nhau chức vô địch. Với tổng cộng 33 danh hiệu (20 cho Manchester United, 13 cho Arsenal) cuộc đối đầu giữa hai độ được coi là cuộc so tài thú vị nhất trong lịch sử Premier League.
Thương hiệu toàn cầu
Manchester United được coi là một thương hiệu toàn cầu; một báo cáo năm 2011 của Brand Finance định giá thương hiệu của câu lạc bộ và sở hữu trí tuệ liên quan lên đến 412 triệu bảng Anh - tăng 39 triệu bảng so với năm trước đó, hơn Real Madrid là đội xếp thứ hai khoảng 11 triệu bảng, đồng thời xếp hạng thương hiệu ở mức AAA (cực kỳ mạnh). Trong tháng 7 năm 2012, Manchester United được tạp chí Forbes xếp hạng nhất trong danh sách mười thương hiệu đội thể thao có giá trị lớn nhất, định giá thương hiệu của Manchester United vào khoảng 2,23 tỷ USD. Câu lạc bộ xếp hạng thứ ba trong Deloitte Football Money League (sau Real Madrid và Barcelona) theo doanh thu. Vào tháng 1 năm 2013, câu lạc bộ trở thành đội thể thao đầu tiên trên thế giới được định giá 3 tỷ USD. Tạp chí Forbes đánh giá câu lạc bộ có giá trị khoảng 3,3 tỷ USD - cao hơn 1,2 tỷ USD so với đội thể thao có giá trị nhất tiếp theo.
Sức mạnh cốt lõi thương hiệu toàn cầu của Manchester United thường được cho là nhờ công lao của Matt Busby trong việc xây dựng lại đội bóng và thành công của câu lạc bộ sau thảm họa München, điều thế giới hết lời ca ngợi. Đội hình "biểu tượng" gồm Bobby Charlton và Nobby Stiles (thành viên của đội tuyển Anh vô địch World Cup), Denis Law và George Best. Với lối chơi tấn công (khác hẳn với lối chơi phòng ngự "catenaccio" của các câu lạc bộ Ý cùng thời) "khiến người hâm mộ bóng đá Anh cảm thấy thích thú". Đội bóng của Busby cũng gắn liền với sự tự do hóa của xã hội phương Tây trong thập niên 1960; George Best được gọi là "thành viên thứ năm của ban nhạc The Beatles" (fifth Beatle) nhờ mái tóc đặc trưng của ông, và là cầu thủ bóng đá đầu tiên thực sự tạo dựng hình ảnh ngoài sân cỏ với giới truyền thông.
Với tư cách là câu lạc bộ bóng đá Anh thứ hai xuất hiện trên thị trường chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ tăng vốn đáng kể, và có động lực để tiếp tục phát triển chiến lược thương mại của mình. Sức mạnh của thương hiệu Manchester United được hỗ trợ rất nhiều việc truyền thông chú ý đến các hoạt động bên ngoài sân cỏ của các cầu thủ, đặc biệt là David Beckham (người nhanh chóng phát triển thương hiệu toàn cầu của riêng mình). Sự chú ý này thường tạo ra sự chú ý đặc biệt tới các hoạt động bóng đá của đội, và do đó tạo cơ hội thu hút nhà tài trợ, yếu tố phụ thuộc vào truyền hình. Trong thời gian ở câu lạc bộ, sự nổi tiếng của Beckham trên khắp châu Á đóng vai tò quan trọng đối với thành công về mặt thương mại của câu lạc bộ tại đây.
Do kết quả xếp hạng cao tại giả vô địch quốc gia mang lại giá trị bản quyền truyền hình lớn hơn, thành công trên sân tạo ra thu nhập lớn cho câu lạc bộ. Kể từ khi Premier League ra đời, Manchester United là đội nhận được phần lớn nhất trong doanh thu từ hợp đồng truyền hình với BSkyB. Manchester United cũng luôn là câu lạc bộ bóng đá Anh có doanh thu hàng năm cao nhất. Mùa giải 2005-06, bộ phận thương mại của câu lạc bộ kiếm về khoảng 51 triệu bảng Anh, so với khoảng 42,5 triệu của Chelsea, 39,3 triệu của Liverpool, 34 triệu bảng của Arsenal và 27,9 triệu của Newcastle United. Một trong những nhà tài trợ quan trọng là công ty trang phục thể thao Nike. Nike quản lý hoạt động bán hàng của câu lạc bộ với một hợp đồng 13 năm quan hệ đối tác với giá trị £ 303 triệu bảng Anh bắt đầu vào năm 2002. Ngoài ra, Manchester United mang nhãn hiệu dịch vụ truyền thông với kênh truyền hình dành riêng cho câu lạc bộ, đó là kênh MUTV - đã cho phép câu lạc bộ mở rộng lượng fan hâm mộ của mình vượt ra ngoài tầm Old Trafford.
Nhà tài trợ
Công ty điện tử Sharp Electronics đã trở thành nhà tài trợ áo đầu tiên của câu lạc bộ vào đầu mùa giải 1982-1983 theo một hợp đồng tài trợ ban đầu 5 năm trị giá 500.000 bảng. Bản hợp đồng kéo dài cho đến cuối mùa giải 1999-2000, khi Vodafone đồng ý một hợp đồng 4 năm trị giá 30 triệu bảng. Vodafone đồng ý trả 36 triệu bảng để gia hạn hợp đồng thêm 4 năm, nhưng khi còn hai mùa giải nữa mới hết hợp đồng tài trợ thì Vodafone chuyển sang tập trung tài trợ cho Champions League.
Bắt đầu mùa giải 2006-07, tập đoàn bảo hiểm Mỹ AIG đã đồng ý một hợp đồng tài trợ áo đấu 4 năm với giá trị 56,5 triệu bảng mà trong tháng 9 năm 2006 đã trở thành hợp đồng tài trợ áo đấu có giá trị nhất trên thế giới. Vào đầu mùa giải 2010-11, công ty bảo hiểm Mỹ Aon trở thành nhà tài trợ chính của câu lạc bộ trong một hợp đồng 4 năm với trị giá khoảng 80 triệu bảng Anh. Manchester United công bố hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập đầu tiên trong tháng 8 năm 2011, đồng ý một hợp đồng 4 năm với DHL với trị giá 40 triệu bảng; đó là trường hợp đầu tiên tài trợ áo đấu trong bóng đá Anh. Hợp đồng DHL kéo dài trong hơn một năm trước khi câu lạc bộ mua lại hợp đồng vào tháng 10 năm 2012. Hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập sau đó đã được bán cho hãng Aon vào tháng 4 năm 2013 cho một thỏa thuận trị giá 180 triệu bảng kéo dài 8 năm, trong đó cũng bao gồm việc mua quyền đặt tên cho Trung tâm huấn luyện Trafford.
Umbro từng là nhà sản xuất đồ thể thao cho câu lạc bộ và được thay thế bằng một hợp đồng 5 năm với Admiral Sportswear vào năm 1975. Adidas đã nhận được hợp đồng vào năm 1980, trước khi Umbro tái ký hợp đồng thứ hai vào năm 1992. Umbro tài trợ trong 10 năm, tiếp theo hãng Nike ký hợp đồng kỷ lục 302,9 triệu bảng kéo dài cho đến năm 2015; có 3,8 triệu chiếc áo được bán ra trong 22 tháng đầu tiên. Ngoài Nike và Chevrolet, câu lạc bộ cũng có nhiều nhà tài trợ cấp dưới bao gồm cả Aon và Budweiser.
Ngày 30 tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ ký một hợp đồng 7 năm với tập đoàn ô tô Mỹ General Motors thay thế cho Aon từ mùa giải 2014-15. Hợp đồng mới có giá trị 80 triệu bảng Anh một năm có tổng trị giá 559 triệu bảng trong 7 năm với logo của với tên thương hiệu Chevrolet trên áo đấu. Nike công bố rằng họ sẽ không gia hạn hợp đồng tài trợ cho Manchester United sau mùa giải 2014-15 với lý do chi phí lên cao. Từ mùa giải 2015-16, Adidas sản xuất áo đấu Manchester United với một thỏa thuận hợp đồng 10 năm, đây là hợp đồng tài trợ kỷ lục thế giới trị giá tối thiểu 750 triệu bảng Anh.
Quyền sở hữu và tài chính
Câu lạc bộ ban đầu được Công ty đường sắt Lancashire và Yorkshire cấp vốn hoạt động, sau đó trở thành công ty hữu hạn vào năm 1892 và bán cổ phần cho các cổ động viên địa phương với giá một bảng thông qua mẫu đơn đăng ký. Vào năm 1902, phần lớn quyền sở hữu được chuyển sang cho bốn thương nhân địa phương, trong đó có chủ tịch tương lai John Henry Davies. Những người này đã bỏ ra mỗi người 500 bảng để cứu câu lạc bộ khỏi cảnh phá sản. Sau khi Davies qua đời năm 1927, câu lạc bộ lần nữa đối mặt với nguy cơ phá sản nhưng được James W. Gibson ra tay hỗ trợ vào năm 1931 với khoản đầu tư 2.000 bảng. Gibson tiến cử con trai mình là Alan lên làm việc trong ban quản trị câu lạc bộ vào năm 1948, nhưng ba năm sau thì ông qua đời; gia đình Gibson duy trì quyền sở hữu câu lạc bộ thông qua vợ của James là bà Lillian, nhưng vị trí chủ tịch câu lạc bộ được giao cho cựu cầu thủ Harold Hardman.
Louis Edwards, một người bạn của Matt Busby, được bổ nhiệm vào ban quản trị sau thảm họa München, dần thu về nhiều cổ phần của câu lạc bộ; với khoản đầu tư xấp xỉ 40.000 bảng Anh, ông có nắm giữ 54% cổ phần và chính thức nằm quyền điều hành vào tháng 1 năm 1964. Khi Lillian Gibson qua đời vào tháng 1 năm 1971, cổ phần của bà được chuyển cho Alan Gibson, người mà vào năm 1978 đã bán một lượng cổ phần cho con trai của Louis Edwards là Martin; Martin Edwards trở thành chủ tịch câu lạc bộ sau khi cha ông qua đời vào năm 1980. Nhà tài phiệt truyền thông Robert Maxwell có ý muốn mua lại câu lạc bộ vào năm 1984 nhưng không thể đáp ứng cái giá mà Edwards đưa ra. Vào năm 1989, chủ tịch Martin Edwards có ý định bán câu lạc bộ cho Michael Knighton với giá 20 triệu bảng, nhưng thương vụ đổ bể. Thay vào đó Knighton ngồi vào hàng ngũ giám đốc câu lạc bộ.
Manchester United xuất hiện trên thị trường chứng khoán vào tháng 6 năm 1991, và tiếp tục nhận được đề nghị mua lại vào năm 1998 từ phía tập đoàn British Sky Broadcasting của Rupert Murdoch. Động thái này dẫn tới sự ra đời của Shareholders United Against Murdoch – giờ có tên là Manchester United Supporters' Trust – một nhóm cổ động viên thuyết phục các cổ động viên khác mua cổ phần của câu lạc bộ để ngăn không cho việc tiếp quản thù địch xảy ra. Ban lãnh đạo Manchester United chấp nhận lời đề nghị trị giá 623 triệu bảng, nhưng cuộc tiếp quản không thành do sự ngăn cản của Ban Độc quyền và Sáp nhập vào tháng 4 năm 1999. Vài năm sau, cuộc canh tranh quyền lực xuất hiện giữa huấn luyện viên Alex Ferguson và các đối tác đua ngựa là John Magnier và J. P. McManus. Hai nhân vật này khi đó đang dần thu về phần lớn lượng cổ phần. Trong cuộc tranh cãi bắt nguồn từ việc tranh giành quyền sở hữu chú ngựa Rock of Gibraltar, Magnier và McManus có ý đồ lật đổ Ferguson khỏi vị trí huấn luyện viên trưởng. Sau đó ban lãnh đạo phản ứng bằng việc tiếp cận các nhà đầu tư khác nhằm giảm thiểu ưu thế của hai người Ireland kia.
Vào tháng 5 năm 2005, Malcolm Glazer thu về 28,7 phần trăm số cổ phần câu lạc bộ nắm giữ bởi McManus và Magnier, từ đó có được quyền kiểm soát thông qua công ty đầu tư Red Football Ltd để chính thức mua lại câu lạc bộ với giá 800 triệu bảng. Sau khi thương vụ hoàn tất, câu lạc bộ lập tức bị gạt ra khỏi thị trường chứng khoán. Vào tháng 7 năm 2006, câu lạc bộ thông báo gói tái huy động vốn vay cho khoản nợ 660 triệu bảng khiến tiền lãi phải thanh toán hàng hàng năm giảm 30% xuống còn 62 triệu bảng một năm. Vào tháng 1 năm 2010, với số nợ 716,5 triệu bảng, Manchester United tiếp tục tái huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu trị giá £504 triệu. Điều này giúp họ trả được 509 triệu tiền nợ các ngân hàng quốc tế. Tiền lãi hàng năm phải trả dựa trên trái phiếu – mãn hạn vào ngày 1 tháng 2 năm 2017 – là khoảng 45 triệu bảng mỗi năm. Dù nỗ lực tái cơ cấu nhưng các khoản nợ vẫn gây ra cuộc biểu tình của người hâm mộ vào ngày 23 tháng 1 năm 2010 tại Old Trafford và Trung tâm huấn luyện Trafford. Các nhóm cổ động viên khuyến khích các fan vào sân cổ vũ trong trang phục xanh lục vàng, màu sắc truyền thống của Newton Heath. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2010, Manchester United Supporters' Trust tổ chức các cuộc họp với nhóm các cổ động viên giàu có được gọi là "Red Knights" nhằm mua lại quyền điều hành của nhà Glazer.
Vào tháng 8 năm 2011, báo chí đưa tin nhà Glazer gặp gỡ Credit Suisse nhằm chuẩn bị cho việc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) với mức giá 1 tỉ đô la Mỹ (khoảng 600 triệu bảng Anh) trên thị trường chứng khoán Singapore và định giá câu lạc bộ ở mức 2 tỉ đô la. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ thông báo kế hoạch niêm yết IPO tại New York Stock Exchange. Cổ phần được chào bán với mức giá từ 16 tới 20 đô, nhưng mức giá bị cắt giảm xuống còn 14 đô la trước phiên IPO vào ngày 10 tháng 8 do những bình luận tiêu cực từ các nhà phân tích Phố Wall cũng như màn ra mắt thất vọng trên thị trường chứng khoán của Facebook vào tháng 5. Mặc dù vậy Manchester United vẫn có giá trị 2,3 tỉ đô la và trở thành câu lạc bộ bóng đá giá trị nhất thế giới.
Cầu thủ
Đội hình chính thức
Cho mượn
Đội trẻ và đội học viện
Danh sách cầu thủ U-21 và cầu thủ Học viện thi đấu cùng đội một:
Cựu cầu thủ
Đội trưởng câu lạc bộ
Kỷ lục cầu thủ
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Sir Matt Busby
Ban huấn luyện
Những huấn luyện viên trong lịch sử
Ban lãnh đạo
Chủ sở hữu: Gia đình Glazer thông qua Công ty TNHH Red Football Shareholder
Công ty TNHH Manchester United
Câu lạc bộ bóng đá Manchester United
Thành tích
Manchester United là một trong những câu lạc bộ thành công nhất tại châu Âu. Chiếc cúp đầu tiên của câu lạc bộ là Manchester Cup vào năm 1886 khi còn mang tên là Newton Heath LYR. Vào năm 1908, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên, và giành chức vô địch Cúp FA đầu tiên vào năm tiếp theo. Thời kỳ Manchester United giành nhiều danh hiệu nhất là thập kỷ 1990; năm chức vô địch quốc gia, bốn Cúp FA, một Cúp Liên đoàn, năm Charity Shield (trong đó có một lần đồng đoạt cúp), một UEFA Champions League, một Cúp C2 châu Âu, một Siêu cúp châu Âu và một Cúp Liên lục địa.
Đội hiện nắm giữ kỷ lục vô địch nước Anh nhiều nhất (20) – trong đó có kỷ lục 13 chức vô địch Ngoại hạng Anh – nhiều Siêu cúp Anh nhất (21). Họ cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên giành chức vô địch Cúp C1 vào năm 1968, và họ là đội bóng Vương quốc Anh duy nhất từng vô địch FIFA Club World Cup với danh hiệu năm 2008. United cũng trở thành câu lạc bộ Vương quốc Anh duy nhất vô địch Cúp Liên lục địa năm 1999. Cúp gần đây nhất của câu lạc bộ đến tháng 5 năm 2017 đó là chức vô địch UEFA Europa League 2016-17.
Sau chức vô địch UEFA Europa League 2016-17, United trở thành câu lạc bộ thứ năm trong lịch sử đã giành được 3 cúp Châu âu bao gồm European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League chỉ sau Juventus, Ajax, Bayern Munich và Chelsea.
Danh hiệu chính thức
Quốc gia
Giải vô địch quốc gia: 20 (kỷ lục)
1907–08, 1910–11, 1951–52, 1955–56, 1956–57, 1964–65, 1966–67, 1992–93, 1993–94, 1995–96
1996–97, 1998–99, 1999–00, 2000–01, 2002–03, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012–13
Cúp FA: 12
1908–09, 1947–48, 1962–63, 1976–77, 1982–83, 1984–85, 1989–90, 1993–94, 1995–96, 1998–99, 2003–04, 2015–16
Cúp Liên đoàn Anh: 6
1991–92, 2005–06, 2008–09, 2009–10, 2016–17, 2022–23
Siêu cúp Anh: 21 (kỷ lục)
1908, 1911, 1952, 1956, 1957, 1965*, 1967*, 1977*, 1983, 1990*, 1993
1994, 1996, 1997, 2003, 2007, 2008, 2010, 2011, 2013, 2016 (* đồng vô địch)
Giải hạng nhất Anh: 2
1935–36, 1974–75
Châu âu
UEFA Champions League/Cúp C1: 3
1967–68, 1998–99, 2007–08
UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1
1990–91
UEFA Cup/Cúp C3: 1
2016–17
UEFA Super Cup/Siêu cúp châu Âu: 1
1991
Thể giới
FIFA Club World Cup: 1
2008
Intercontinental Cup: 1
1999
Chú thích |
XSLT (viết tắt của tiếng Anh XSL Transformations) là một ngôn ngữ dựa trên XML dùng để biến đổi các tài liệu XML. Tài liệu gốc thì không bị thay đổi; mà thay vào đó, một tài liệu XML mới được tạo ra dựa trên nội dung của tài liệu cũ. Tài liệu mới có thể là có định dạng XML hay là một định dạng nào đó khác, như HTML hay văn bản thuần. XSLT thường dùng nhất trong việc chuyển đổi dữ liệu giữa các lược đồ XML hay để chuyển đổi dữ liệu XML thành các trang web hay tài liệu dạng PDF.
XSLT ra đời là kết quả của các nỗ lực phát triển Extensible Stylesheet Language (XSL) của W3C trong suốt 1998–1999, cùng với sự ra đời của XSL Formatting Objects (XSL-FO) và XML Path Language, XPath.
Người biên tập cho phiên bản đầu tiên (nhà thiết kế chính của ngôn ngữ) là James Clark. Phiên bản dùng phổ biến hiện nay là XSLT 1.0, là chuẩn gợi ý dùng đưa ra bởi W3C vào ngày 16 tháng 11 năm 1999. Với nhiều mở rộng từ phiên bản 2.0, dưới sự chủ trì biên tập của Michael Kay, XSLT đã đạt đến chuẩn Candidate Recommendation từ W3C vào 3 tháng 11 năm 2005. |
SAX là các API phân tách truy xuất tuần tự đến tài liệu XML. Sax cung cấp một cơ chế cho việc đọc dữ liệu từ một tài liệu XML. Nó là một thay thế tốt và hay dùng thay cho DOM. Tên của nó là viết tắt của "Simple API for XML" (tiếng Anh, tức là "API đơn giản cho XML").
Bộ phân tách mà hiện thực SAX (ví dụ, bộ phân tách SAX Parser) xử lý thông tin XML dưới dạng một dòng dữ liệu (single stream of data). Dòng dữ liệu này là đơn hướng, nghĩa là dữ liệu đã đọc rồi thì không thể đọc lại ngoại trừ phân tách lại từ đầu.
Hầu hết những ai sử dụng XML tin rằng kết quả của mẫu hình SAX là xử lý nhanh hơn DOM. Điều này là vì SAX stream dùng ít bộ nhớ hơn thay vì phải lưu tất cả trong bộ nhớ như với cây DOM.
Bộ phân tách SAX được hiện thực theo mô hình hướng sự kiện (event-driven) mà trong đó nhà lập trình cung cấp các phương thức callback được triệu gọi bởi bộ phân tách như là một phần của quá trình duyệt qua tài liệu XML.
SAX được phát triển bởi sự hợp tác qua việc trao đổi trong danh sách địa chỉ thư điện tử xml-dev, mà không có hội đồng c....
Msdxhính thức nào cả, nhưng sau đó nhanh chóng được hiện thực bởi các công ty lớn. Người phát triển và bảo trì đứng đầu là David Megginson. |
Máy đo gió (tiếng Anh: anemometer, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là "anemos" có nghĩa là gió), Hán Việt: Phong tốc kế 風速計, là một thiết bị dùng để đo tốc độ và áp suất của gió, và là một trong những thiết bị có thể thấy ở các trạm khí tượng.
Máy đo gió được chia làm hai loại: loại dùng để đo tốc độ gió, và loại dùng để đo áp suất của gió. Tuy nhiên giữa tốc độ và áp suất gió có những điểm liên quan mật thiết với nhau, vì vậy một máy đo gió phù hợp với hai loại này sẽ cho cả hai thông tin này.
Đo tốc độ gió
Máy đo tốc độ gió chia làm hai loại: một loại không cần chong chóng chỉ hướng gió, loại còn lại thì cần.
Máy đo hình chén
Dạng máy đo gió hình chén, được phát minh bởi tiến sĩ John Thomas Romney Robinson (1846), đài quan sát Armagh, là thiết bị nổi tiếng và được dùng rộng rãi, và là một trong những thiết bị đo gió đầu tiên.
Máy có 4 chén hình bán cầu, mỗi cái gắn vào một đầu của một tay đòn, có 2 tay đòn nằm ngang vuông góc với nhau. Có một trục đứng ở giữa nằm ở giao điểm 2 tay đòn là tâm mà các chén quay xung quanh; một bộ truyền động đếm số vòng mà trục quay được, và từ số vòng quay được đó trong một khoảng thời gian sẽ tính ra được vận tốc gió.
Các chén được đặt đối xứng ở cuối mỗi tay đòn, vì vậy có thể thấy gió luôn thổi vào phía trong chén; phía sau của chén cũng hướng vào gió, nhưng áp suất của gió thổi vào không đáng kể, và do đó sự xoay vòng được sinh ra; mỗi chén đến lượt nó sẽ tạo ra lực để tiếp tục xoay.
Hai điểm nổi bật của máy đo này là sự đơn giản và không cần chong chóng chỉ hướng gió; tuy nhiên nó không phù hợp để lưu dữ liệu lên giấy tại một thời điểm nhất định, và do đó nó sẽ ghi thiếu thông tin những cơn gió giật mạnh trong thời gian ngắn. Thật không may, khi tiến sĩ Robinson thiết kế máy đo gió, ông phát biểu rằng dù kích thước của chén hay độ dài cánh tay đòn, vận tốc của chén luôn quay bằng ⅓ vận tốc gió. Kết quả này đã được xác nhận bằng các thí nghiệm độc lập, nhưng nó vẫn còn cách xa sự thực, vì tỉ số thực giữa vận tốc gió và vận tốc chén phụ thuộc rất lớn vào kích thước của chén và chiều dài cánh tay đòn, và có thể có giá trị hơn ⅔. Vì vậy kết quả thu được của máy đo gió thường có sai số đến gần 50%.
Máy đo dạng cối xay gió
Một dạng khác của máy đo vận tốc gió có dạng cối xay gió. Trong dạng máy đo gió của Robinson thì trục quay nằm thẳng đứng, nhưng với dạng này thì trục quay nằm song song với hướng gió, do đó nó nằm ngang. Hơn nữa, khi gió đổi chiều thì trục quay cũng thay đổi, chong chóng chỉ hướng gió hoặc những thứ tương tự được tạo ra có cùng mục đích như vậy. Trong trường hợp hướng gió luôn không đổi, như trong trường hợp hệ thống thông gió của mỏ hoặc nhà cao tầng, máy đo gió sẽ cho kết quả rất tốt.
Đo áp suất gió
Đo áp suất gió người ta sử dụng ống pito
Chú ý về đo gió
Bài liên quan |
Rudolf Diesel (tên đầy đủ Rudolf Christian Karl Diesel; 1858–1913) là một nhà phát minh và kỹ sư người Đức. Ông nổi tiếng vì những phát minh về động cơ, nên tên của ông được cho một loại động cơ (động cơ diesel) và một loại nhiên liệu (dầu diesel).
Cuộc đời
Ông Diesel sinh ngày 18 tháng 3 năm 1858 tại Paris. Năm 1872 Diesel quyết định trở thành một kỹ sư và là học sinh tốt nghiệp giỏi nhất các khóa đào tạo tại trường dạy nghề (1873) và trường công nghiệp (mùa hè 1875). Sau đó ông bắt đầu học đại học tại trường Đại học Kỹ thuật München. Tháng 1 năm 1880 ông thi tốt nghiệp tại trường Đại học Kỹ thuật München với điểm tốt nhất từ khi thành lập trường.
Ngày 27 tháng 2 năm 1892 Diesel đăng ký tại cơ quan về bằng phát minh của Đế chế Đức và ngày 23 tháng 2 năm 1893 ông nhận được bằng phát minh DRP 67 207 "về quy trình làm việc và cách chế tạo cho máy đốt". Bằng phát minh thứ hai của ông (DRP 82 168, ngày 29 tháng 11 năm 1893) sửa đổi quy trình của động cơ nhiệt Carnot.
Bắt đầu từ năm 1893 Rudolf Diesel phát triển động cơ Diesel trong nhà máy cơ khí Ausburg (sau này là MAN AG) với sự tham gia về tài chính của công ty Friedrich Krupp. Năm 1897 mô hình động cơ diesel đầu tiên có thể hoạt động được hoàn thành.
Ngày 1 tháng 1 năm 1898 nhà máy động cơ Diesel Ausburg được thành lập, sau đó là Diesel Engine Company vào mùa thu năm 1900 tại London (Vương quốc Anh). Tàu thủy được trang bị động cơ diesel đầu tiên ra đời năm 1903. Năm 1908 động cơ Diesel loại nhỏ đầu tiên, xe tải và đầu tàu hỏa diesel đầu tiên được chế tạo. Động cơ diesel dùng cho ô tô được chế tạo hằng loạt lần đầu tiên trong năm 1936 và được trang bị cho chiếc Mercedes-Benz 260-D.
Mất tích
Ngày 29 tháng 9 năm 1913 Rudolf Diesel lên tàu "Dresden" tại Antwerpen (Bỉ) đi London trên eo biển Manche để tham dự buổi họp mặt của Consolidated Diesel Manufacturing Ltd. Sau đấy người ta không còn thấy ông nữa. Vào ngày 10 tháng 10 thủy thủ của tàu Hà Lan "Coertsen" nhìn thấy một thi thể trôi dạt trên biển trong lúc biển động mạnh. Họ không thể vớt được thi thể mà chỉ có thể vớt được một vài vật nhỏ như ví tiền, dao bỏ túi và bao đựng kính mắt, những vật được Eugen Diesel, con trai của Rudolf Diesel, nhận dạng vào ngày 13 tháng 10 tại Vlissingen (tây nam Hà Lan).
Tình huống dẫn đến cái chết của Rudolf Diesel không được làm sáng tỏ, gia đình của ông hoài nghi giả thuyết cho rằng ông đã tự tử và tin rằng ông đã bị giết chết. Một giả thuyết cho rằng nước Đức lúc bấy giờ đã cho người giết chết ông vì chiến tranh đang đến gần kề và Rudolf Diesel đã cấp giấy phép về kỹ thuật Diesel cho nước Pháp và Anh, là hai quốc gia địch thủ lúc bấy giờ. Một giả thuyết khác cho rằng diesel đã bị các nhà tài phiệt trong ngành công nghiệp dầu mỏ cho người ám sát vì ông đang phát triển loại động cơ diesel sinh học. Mặc dầu vậy việc ông tự tử cũng được cho là rất có thể vì ông đang đứng trước sự sụp đổ về tài chính.
Sau cái chết của Rudolf Diesel việc nghiên cứu về động cơ diesel sinh học bị chấm dứt và chỉ còn loại động cơ diesel dùng dầu diesel có nguồn gốc hóa thạch là được tiếp tục phát triển. |
Football Club Internazionale Milano, thường được gọi là Internazionale () hoặc đơn giản là Inter, và thường được gọi là Inter Milan ở các quốc gia nói tiếng Anh, là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Milano, Lombardia. Inter là đội bóng Ý duy nhất luôn thi đấu ở giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý kể từ khi ra mắt vào năm 1909.
Được thành lập vào năm 1908 sau sự chia rẽ trong Câu lạc bộ bóng đá và cricket Milan (nay là AC Milan), Inter đã giành chức vô địch đầu tiên vào năm 1910. Kể từ khi thành lập, câu lạc bộ đã giành được 35 danh hiệu trong nước, bao gồm 19 chức vô địch quốc gia, 9 Coppa Italia và 7 Siêu cúp Ý. Từ năm 2006 đến 2010, câu lạc bộ đã giành được 5 chức vô địch liên tiếp, cân bằng kỷ lục mọi thời đại vào thời điểm đó. Họ đã ba lần vô địch Champions League: hai lần vào năm 1964 và 1965 và một lần nữa vào năm 2010. Chiến thắng mới nhất của họ đã hoàn thành cú ăn ba mùa giải chưa từng có của Ý, với việc Inter giành được Coppa Italia và Scudetto cùng năm. Câu lạc bộ cũng đã giành được ba UEFA Cup, hai Cúp liên lục địa và một FIFA Club World Cup.
Các trận sân nhà của Inter được diễn ra tại sân vận động San Siro, nơi họ chia sẻ với đối thủ cùng thành phố Milan. Đây là sân vận động lớn nhất của bóng đá Ý với sức chứa 75.817. Họ có mối thù truyền kiếp với Milan, đội mà họ cạnh tranh tại Derby della Madonnina, và Juventus, đội mà họ cạnh tranh tại Derby d'Italia; kình địch của họ với đội Milan là một trong những trận derby được theo dõi nhiều nhất trong bóng đá. , Inter có tỷ lệ tham dự trận đấu trên sân nhà cao nhất ở Ý và tỷ lệ tham dự cao thứ sáu ở Châu Âu. Câu lạc bộ là một trong những câu lạc bộ có giá trị nhất trong bóng đá Ý và thế giới.
Lịch sử
Thành lập và những năm đầu (1908–1960)
Câu lạc bộ được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 1908 với tên gọi Football Club Internazionale, sau sự chia rẽ với Milan Cricket and Football Club (nay là AC Milan). Tên của câu lạc bộ bắt nguồn từ mong muốn của các thành viên sáng lập là chấp nhận không giới hạn các cầu thủ nước ngoài cũng như người Ý.
Câu lạc bộ đã giành chức vô địch đầu tiên vào năm 1910 và lần thứ hai vào năm 1920. Đội trưởng kiêm huấn luyện viên của đội giành chức vô địch đầu tiên là Virgilio Fossati, người sau đó đã tử trận khi đang phục vụ trong quân đội Ý trong Thế chiến thứ nhất. Năm 1922 Inter là đứng trước nguy cơ xuống hạng hai, nhưng họ vẫn ở giải đấu hàng đầu sau khi thắng hai trận play-off.
Sáu năm sau, trong thời kỳ Phát xít, câu lạc bộ buộc phải sáp nhập với Unione Sportiva Milanese và được đổi tên thành Società Sportiva Ambrosiana. Trong mùa giải 1928–29, đội mặc áo thi đấu màu trắng có in hình chữ thập đỏ; thiết kế của áo đấu được lấy cảm hứng từ lá cờ và huy hiệu của thành phố Milan. Năm 1929, tân chủ tịch câu lạc bộ Oreste Simonotti đổi tên câu lạc bộ thành Associazione Sportiva Ambrosiana và khôi phục lại áo thi đấu màu xanh đen trước đây, tuy nhiên những người ủng hộ vẫn tiếp tục gọi đội là Inter, và vào năm 1931, tân chủ tịch Pozzani nhượng bộ trước áp lực của cổ đông và thay đổi cái tên đến Associazione Sportiva Ambrosiana-Inter.
Coppa Italia (Cúp quốc gia Ý) đầu tiên của họ đã giành được vào năm 1938–39, được dẫn dắt bởi huyền thoại Giuseppe Meazza, người mà sau này sân San Siro được đặt tên chính thức. Chức vô địch thứ năm diễn ra vào năm 1940, mặc dù Meazza bị chấn thương. Sau khi Thế chiến II kết thúc, câu lạc bộ đã lấy lại tên ban đầu, giành chức vô địch lần thứ sáu vào năm 1953 và lần thứ bảy vào năm 1954.
Grande Inter (1960–1967)
Năm 1960, huấn luyện viên Helenio Herrera gia nhập Inter từ Barcelona, mang theo tiền vệ Luis Suárez, người đã giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu cùng năm nhờ vai trò trong cú đúp La Liga/Fairs Cup của Barcelona. Ông biến Inter trở thành một trong những đội bóng vĩ đại nhất châu Âu. Ông đã sửa đổi chiến thuật 5–3–2 được gọi là "Verrou" ("chốt cửa") để tạo ra sự linh hoạt hơn cho các cuộc phản công. Hệ thống catenaccio được phát minh bởi một huấn luyện viên người Áo, Karl Rappan. Hệ thống ban đầu của Rappan được triển khai với bốn hậu vệ cố định, chơi theo một hệ thống đánh người nghiêm ngặt, cộng với một playmaker giữa sân, người chơi bóng cùng với hai tiền vệ cánh. Herrera sẽ sửa đổi nó bằng cách thêm một hậu vệ thứ năm, hậu vệ quét hoặc libero phía sau hai trung vệ. Hậu vệ quét hoặc libero đóng vai trò là người tự do sẽ đối phó với bất kỳ kẻ tấn công nào đi qua hai trung vệ. Inter về thứ ba tại Serie A trong mùa giải đầu tiên, thứ hai vào năm sau và thứ nhất trong mùa thứ ba. Sau đó là chiến thắng liên tiếp tại Cúp C1 châu Âu vào các năm 1964 và 1965, mang về cho ông danh hiệu "il Mago" ("Pháp sư"). Nòng cốt trong đội của Herrera là các hậu vệ cánh tấn công Tarcisio Burgnich và Giacinto Facchetti, hậu vệ quét Armando Picchi, người kiến tạo lối chơi Suárez, tiền vệ cánh Jair, tiền vệ trái Mario Corso và Sandro Mazzola, người chơi ở cánh phải.
Năm 1964, Inter lọt vào Chung kết Cúp C1 châu Âu khi đánh bại Borussia Dortmund ở bán kết và Partizan ở tứ kết. Trong trận chung kết, họ gặp Real Madrid, đội đã lọt vào bảy trong số chín trận chung kết cho đến nay. Mazzola ghi hai bàn trong chiến thắng 3–1, và sau đó đội đã giành được Cúp Liên lục địa trước Independiente. Một năm sau, Inter lặp lại kỳ tích khi đánh bại đội từng hai lần vô địch Benfica trong trận chung kết được tổ chức trên sân nhà, nhờ bàn thắng của Jair, và sau đó một lần nữa đánh bại Independiente ở Cúp Liên lục địa. Năm 1967, khi Suárez dính chấn thương, Inter thua 1–2 trong trận Chung kết cúp C1 trước Celtic. Trong năm đó, câu lạc bộ đổi tên thành Football Club Internazionale Milano.
Những thành tựu tiếp theo (1967–1991)
Sau kỷ nguyên vàng của những năm 1960, Inter đã giành được chức vô địch giải đấu thứ 11 vào năm 1971 và lần thứ 12 vào năm 1980. Inter đã bị đánh bại lần thứ hai sau 5 năm trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu, thua 0–2 trước Ajax của Johan Cruyff vào năm 1972. Trong suốt những năm 1970 và 1980, Inter cũng đã thêm hai Coppa Italia vào danh sách của mình, vào các năm 1977–78 và 1981–82.
Hansi Müller (1975–1982 VfB Stuttgart, 1982–1984 Inter Milan) và Karl-Heinz Rummenigge (1974–1984 Bayern Munich, 1984–1987 Inter Milan) chơi cho Inter Milan. Được dẫn dắt bởi bộ đôi người Đức Andreas Brehme và Lothar Matthäus, và Ramón Díaz người Argentina, Inter đã giành chức vô địch Serie A năm 1989. Inter đã không thể bảo vệ danh hiệu của mình mặc dù đã bổ sung đồng hương người Đức Jürgen Klinsmann vào đội và giành được Supercoppa Italiana đầu tiên vào đầu mùa giải.
Sự thịnh vượng hỗn tạp (1991–2004)
Những năm 1990 là một thời kỳ thất vọng. Trong khi các đối thủ lớn của họ là Milan và Juventus đang đạt được thành công ở cả trong nước và châu Âu, thì Inter lại bị bỏ lại phía sau, với nhiều kết quả tầm thường trên bảng xếp hạng giải quốc nội, tệ nhất của họ là vào mùa giải 1993–94 khi họ chỉ cách khu vực xuống hạng đúng một điểm. Tuy nhiên, họ đã đạt được một số thành công ở châu Âu với ba lần vô địch UEFA Cup vào các năm 1991, 1994 và 1998.
Với sự tiếp quản của Massimo Moratti từ Ernesto Pellegrini vào năm 1995, Inter đã hai lần phá kỷ lục thế giới về phí chuyển nhượng trong giai đoạn này (19,5 triệu bảng cho Ronaldo từ Barcelona năm 1997 và 31 triệu bảng cho Christian Vieri từ Lazio hai năm sau đó). Tuy nhiên, những năm 1990 vẫn là thập kỷ duy nhất trong lịch sử của Inter mà họ không giành được chức vô địch Serie A nào. Đối với những người hâm mộ Inter, thật khó để tìm ra ai là người chịu trách nhiệm cụ thể trong thời điểm khó khăn và điều này dẫn đến một số mối quan hệ băng giá giữa họ với chủ tịch, huấn luyện viên và thậm chí một số cá nhân cầu thủ.
Moratti sau đó đã trở thành mục tiêu của người hâm mộ, đặc biệt là khi ông sa thải huấn luyện viên rất được yêu mến Luigi Simoni chỉ sau một vài trận đấu ở mùa giải 1998–99, khi vừa nhận giải thưởng huấn luyện viên người Ý của năm 1998 một ngày trước khi bị sa thải. Mùa giải đó, Inter lần đầu tiên không thể vượt qua vòng loại của bất kỳ giải đấu châu Âu nào sau gần mười năm, kết thúc ở vị trí thứ tám.
Mùa giải tiếp theo, Moratti bổ nhiệm cựu huấn luyện viên Juventus Marcello Lippi, và ký hợp đồng với những cầu thủ như Angelo Peruzzi và Laurent Blanc cùng với các cựu cầu thủ Juventus khác là Vieri và Vladimir Jugović. Đội đã tiến gần đến thành công trong nước đầu tiên kể từ năm 1989 khi họ lọt vào trận chung kết Coppa Italia chỉ để bị đánh bại bởi Lazio.
Những bất hạnh của Inter tiếp tục diễn ra ở mùa giải tiếp theo, thua trận Supercoppa Italiana 2000 trước Lazio với tỷ số 4–3 sau khi vượt lên dẫn trước nhờ công của tân binh Robbie Keane. Họ cũng bị loại ở vòng sơ loại Champions League bởi câu lạc bộ Thụy Điển Helsingborgs IF, với việc Álvaro Recoba bỏ lỡ một quả phạt đền muộn quan trọng. Lippi bị sa thải chỉ sau một trận đấu duy nhất của mùa giải mới sau thất bại đầu tiên tại Serie A của Inter trước Reggina. Marco Tardelli, được chọn để thay thế Lippi, không cải thiện được kết quả và được người hâm mộ Inter nhớ đến với tư cách là huấn luyện viên đã thua 6–0 trong trận derby thành phố với Milan. Các thành viên khác của "gia đình" Inter trong giai đoạn này đã phải chịu đựng những người như Vieri và Fabio Cannavaro, cả hai đều có nhà hàng của họ ở Milan bị phá hoại sau thất bại trước Rossoneri.
Năm 2002, Inter không chỉ lọt vào bán kết UEFA Cup mà còn chỉ cách chức vô địch Scudetto 45 phút khi họ cần duy trì lợi thế dẫn trước một bàn trước Lazio. Inter đã dẫn trước 2–1 chỉ sau 24 phút. Lazio gỡ hòa trong thời gian bù giờ của hiệp một và sau đó ghi thêm hai bàn nữa trong hiệp hai để mang về chiến thắng chung cuộc giúp Juventus lên ngôi vô địch. Mùa giải tiếp theo, Inter kết thúc với vị trí á quân giải đấu và cũng lọt vào bán kết Champions League 2002–03 gặp Milan, thua do luật bàn thắng sân khách.
Sự trở lại và cú ăn ba chưa từng có (2004–2011)
Vào ngày 8 tháng 7 năm 2004, Inter bổ nhiệm cựu huấn luyện viên của Lazio Roberto Mancini làm huấn luyện viên trưởng mới. Trong mùa giải đầu tiên của mình, đội đã thu về 72 điểm sau 18 trận thắng, 18 trận hòa và chỉ thua hai trận, đồng thời giành được Coppa Italia và sau đó là Supercoppa Italiana. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2006, Inter một lần nữa giành được danh hiệu Coppa Italia sau khi đánh bại Roma với chiến thắng chung cuộc 4–1 (tỷ số 1–1 tại Rome và thắng 3–1 tại San Siro).
Inter đã được trao lại chức vô địch Serie A 2005–06 sau khi Juventus xuống hạng và Milan bị tước điểm do vụ bê bối Calciopoli. Trong mùa giải tiếp theo, Inter đã phá kỷ lục 17 chiến thắng liên tiếp ở Serie A, bắt đầu từ ngày 25 tháng 9 năm 2006 với chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước Livorno, và kết thúc vào ngày 28 tháng 2 năm 2007, sau trận hòa 1–1 trên sân nhà trước Udinese. Vào ngày 22 tháng 4 năm 2007, Inter giành Scudetto lần thứ hai liên tiếp — và lần đầu tiên trên sân này kể từ năm 1989 — khi họ đánh bại Siena 2–1 tại Stadio Artemio Franchi. Hậu vệ người Ý vô địch World Cup Marco Materazzi ghi cả hai bàn thắng.
Inter bắt đầu mùa giải 2007–08 với mục tiêu vô địch cả Serie A và Champions League. Đội đã khởi đầu tốt ở giải đấu, đứng đầu bảng ngay từ lượt trận đầu tiên, đồng thời giành quyền vào vòng loại trực tiếp Champions League. Tuy nhiên, sự sụp đổ muộn màng, dẫn đến thất bại 2–0 với mười người đàn ông trước Liverpool vào ngày 19 tháng 2 tại Champions League, đã đặt ra câu hỏi về tương lai của huấn luyện viên Roberto Mancini tại Inter trong khi phong độ trong nước thay đổi rõ rệt may mắn với việc đội không thắng trong ba trận Serie A sau đó. Sau khi bị Liverpool loại ở Champions League, Mancini tuyên bố ý định rời bỏ công việc của mình ngay lập tức chỉ để đổi ý vào ngày hôm sau. Vào ngày cuối cùng của mùa giải Serie A 2007–08, Inter chơi trên sân khách Parma, và hai bàn thắng của Zlatan Ibrahimović đã ấn định chức vô địch thứ ba liên tiếp của họ. Tuy nhiên, Mancini đã bị sa thải ngay sau đó do tuyên bố rời câu lạc bộ trước đó.
Vào ngày 2 tháng 6 năm 2008, Inter đã bổ nhiệm cựu huấn luyện viên trưởng Porto và Chelsea José Mourinho làm huấn luyện viên trưởng mới. Trong mùa giải đầu tiên của mình, Nerazzurri đã giành được Suppercoppa Italiana và danh hiệu vô địch quốc gia thứ tư liên tiếp, mặc dù đã thất bại ở Champions League ở vòng loại trực tiếp đầu tiên trong năm thứ ba liên tiếp, thua đội bóng vào chung kết Manchester United. Khi giành chức vô địch, Inter đã trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong 60 năm qua giành được danh hiệu này lần thứ tư liên tiếp và cùng với Torino và Juventus là những câu lạc bộ duy nhất đạt được thành tích này, cũng như là câu lạc bộ đầu tiên có trụ sở bên ngoài Turin.
Inter vô địch Champions League 2009–10, đánh bại đương kim vô địch Barcelona trong trận bán kết trước khi đánh bại Bayern Munich 2–0 trong trận chung kết với hai bàn thắng từ Diego Milito. Inter cũng giành chức vô địch Serie A 2009–10 khi hơn Roma hai điểm, và Coppa Italia 2010 khi đánh bại đội bóng này với tỷ số 1–0 trong trận chung kết. Điều này khiến Inter trở thành đội bóng Ý đầu tiên giành được cú ăn ba. Cuối mùa giải, Mourinho rời đội để dẫn dắt Real Madrid; ông được thay thể bởi Rafael Benítez.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2010, Inter đánh bại Roma 3–1 và giành Siêu cúp bóng đá Ý 2010, chiếc cúp thứ tư trong năm của họ. Vào tháng 12 năm 2010, họ lần đầu tiên giành được FIFA Club World Cup sau chiến thắng 3–0 trước TP Mazembe trong trận chung kết. Tuy nhiên, sau trận thắng này, vào ngày 23 tháng 12 năm 2010, do phong độ sa sút ở Serie A, đội bóng đã sa thải Benítez. Ông được thay thế bởi Leonardo vào ngày hôm sau.
Leonardo khởi đầu với 30 điểm sau 12 trận, trung bình 2,5 điểm mỗi trận, tốt hơn những người tiền nhiệm Benítez và Mourinho. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2011, Leonardo lập kỷ lục Serie A mới của Ý khi thu về 33 điểm sau 13 trận; kỷ lục trước đó là 32 điểm sau 13 trận do Fabio Capello lập ở mùa giải 2004–05. Leonardo đã dẫn dắt câu lạc bộ đến tứ kết Champions League trước khi thua Schalke 04, và đưa họ đến danh hiệu Coppa Italia. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, anh từ chức và theo sau là những huấn luyện viên mới Gian Piero Gasperini, Claudio Ranieri và Andrea Stramaccioni, tất cả đều được thuê trong mùa giải tiếp theo.
Thay đổi chủ sở hữu (2011–2019)
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2012, câu lạc bộ thông báo rằng Moratti sẽ bán cổ phần thiểu số của câu lạc bộ cho một tập đoàn Trung Quốc do Kenneth Huang đứng đầu. Cùng ngày, Inter công bố một thỏa thuận đã được thành lập với China Railway Construction Corporation Limited cho một dự án sân vận động mới, tuy nhiên, thỏa thuận với người Trung Quốc cuối cùng đã sụp đổ. Mùa giải 2012–13 là mùa giải tồi tệ nhất trong lịch sử câu lạc bộ gần đây với việc Inter đứng thứ 9 tại Serie A và không đủ điều kiện tham dự bất kỳ giải đấu châu Âu nào. Walter Mazzarri được bổ nhiệm thay thế Stramaccioni làm huấn luyện viên cho mùa giải 2013–14 vào ngày 24 tháng 5 năm 2013, sau khi kết thúc nhiệm kỳ của mình tại Napoli. Mazzari đã dẫn dắt câu lạc bộ đến vị trí thứ năm tại Serie A và đến vòng loại UEFA Europa League 2014–15.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 2013, một tập đoàn Indonesia (International Sports Capital HK Ltd.) do Erick Thohir, Handy Soetedjo và Rosan Roeslani đứng đầu, đã ký thỏa thuận mua 70% cổ phần của Inter từ Internazionale Holding S.r.l. Sau khi thương vụ hoàn tất, Internazionale Holding S.r.l của nhà Moratti vẫn giữ 29.5% cổ phần tại Inter Milan. Sau thương vụ này, cổ phần của Inter thuộc sở hữu của một chuỗi các công ty cổ phần, đó là International Sports Capital S.p.A. of Italy (với 70% cổ phần), International Sports Capital HK Limited and Asian Sports Ventures HK Limited of Hong Kong. Asian Sports Ventures HK Limited, bản thân nó là một công ty cổ phần trung gian khác, được sở hữu bởi Nusantara Sports Ventures HK Limited (60% cổ phần, một công ty thuộc sở hữu của Thohir), Alke Sports Investment HK Limited (20% stake) và Aksis Sports Capital HK Limited (20 % cổ phần).
Thohir, người đồng sở hữu câu lạc bộ Major League Soccer (MLS) D.C. United và câu lạc bộ Indonesia Super League (ISL) Persib Bandung, đã thông báo vào ngày 2 tháng 12 năm 2013 rằng Inter và D.C. United đã thiết lập đối tác chiến lược. Trong thời kỳ Thohir, câu lạc bộ bắt đầu sửa đổi cơ cấu tài chính của mình từ cơ cấu phụ thuộc vào đầu tư liên tục của chủ sở hữu sang mô hình kinh doanh tự duy trì bền vững mặc dù vậy câu lạc bộ vẫn vi phạm Luật công bằng tài chính của UEFA năm 2015. Câu lạc bộ đã bị phạt và bị cắt giảm đội hình khi tham giự các giải đấu của UEFA. Trong thời gian này, Roberto Mancini trở lại với tư cách là huấn luyện viên câu lạc bộ vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, khi Inter đứng thứ tám trên bảng xếp hạng Serie A. Inter kết thúc mùa giải 2015–16 ở vị trí thứ tư, không thể trở lại Champions League.
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2016, Suning Holdings Group (thông qua công ty con Great Horizon S.á r.l. có trụ sở tại Luxembourg) một công ty thuộc sở hữu của Trương Cận Đông, đồng sáng lập và chủ tịch của Suning Commerce Group, đã mua lại phần lớn cổ phần của Inter từ tập đoàn International Sports Capital S.p.A. của Thohir và từ số cổ phần còn lại của gia đình Moratti trong Internazionale Holding S.r.l. Theo nhiều hồ sơ khác nhau, tổng số tiền đầu tư từ Suning là 270 triệu euro. Thỏa thuận đã được thông qua bởi một cuộc họp đại hội cổ đông bất thường vào ngày 28 tháng 6 năm 2016, từ đó Tập đoàn Suning Holdings đã mua 68,55% cổ phần của câu lạc bộ.
Tuy nhiên, mùa giải đầu tiên của chủ sở hữu mới bắt đầu với thành tích kém cỏi trong các trận giao hữu trước mùa giải. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2016, Inter chia tay huấn luyện viên trưởng Roberto Mancini theo sự đồng thuận của cả hai do có những bất đồng không thể giải quyết liên quan đến hướng đi của câu lạc bộ. Ông được thay thế bởi Frank de Boer người đã bị sa thải vào ngày 1 tháng 11 năm 2016 sau khi dẫn dắt Inter với thành tích thắng 4–hòa 2–thua 5 trong 11 trận Serie A với tư cách là huấn luyện viên trưởng. Người kế nhiệm, Stefano Pioli, đã không cứu được đội bóng khỏi kết quả vòng bảng tệ nhất trong các giải đấu thuộc UEFA trong lịch sử câu lạc bộ. Bất chấp chuỗi 8 trận toàn thắng cuối giải, Pioli và câu lạc bộ đã chia tay nhau trước khi mùa giải kết thúc khi rõ ràng là họ sẽ đứng ngoài top 3 của giải đấu trong mùa giải thứ sáu liên tiếp. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2017, cựu huấn luyện viên của Roma Luciano Spalletti được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Inter, ký hợp đồng hai năm, và 11 tháng sau, Inter đã giành được một suất tham dự vòng bảng UEFA Champions League sau sáu năm không tham dự Champions League nhờ chiến thắng 3–2 trước Lazio trong trận đấu cuối cùng của Serie A 2017–18. Nhờ thành công này, vào tháng 8, câu lạc bộ đã gia hạn hợp đồng với Spalletti đến năm 2021.
Vào ngày 26 tháng 10 năm 2018, Trương Khang Dương được bổ nhiệm làm chủ tịch mới của câu lạc bộ. Vào ngày 25 tháng 1 năm 2019, câu lạc bộ chính thức thông báo rằng LionRock Capital từ Hong Kong đã đạt được thỏa thuận với International Sports Capital HK Limited, để mua 31,05% cổ phần của họ trong Inter và trở thành cổ đông thiểu số mới của câu lạc bộ. Sau mùa giải Serie A 2018–19, dù Inter xếp thứ 4 nhưng Spalletti đã bị sa thải.
Lịch sử gần đây (2019–nay)
Vào tháng 5 năm 2021, công ty đầu tư của Mỹ Oaktree Capital đã cho Inter vay 336 triệu đô la để bù đắp những tổn thất phát sinh trong đại dịch COVID-19.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2019, Inter đã bổ nhiệm cựu huấn luyện viên Juventus và người Ý Antonio Conte làm huấn luyện viên mới của họ, ký hợp đồng ba năm. Vào tháng 9 năm 2019, Trương Khang Dương được bầu vào hội đồng quản trị của Hiệp hội các Câu lạc bộ Châu Âu. Tại Serie A 2019–20, Inter Milan kết thúc với vị trí á quân khi giành chiến thắng 2–0 trước Atalanta trong trận đấu cuối cùng. Họ cũng lọt vào chung kết UEFA Europa League 2020, thua 3–2 trước Sevilla. Sau trận hòa của Atalanta trước Sassuolo vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, Internazionale đã giành Scudetto sau 11 năm, chấm dứt chuỗi 9 chức vô địch liên tiếp của Juventus. Tuy nhiên, mặc dù giành được vinh quang ở Serie A, Conte đã rời câu lạc bộ theo sự đồng thuận của cả hai vào ngày 26 tháng 5 năm 2021. Sự ra đi được cho là do những bất đồng giữa Conte và hội đồng quản trị về việc chuyển nhượng cầu thủ. Tháng 6 năm 2021, Simone Inzaghi được bổ nhiệm làm người thay thế Conte. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2021, Carlo Cottarelli đã ra mắt cổ phần của những người hâm mộ câu lạc bộ Inter Milan với dự án InterSpac. Ngày 8 tháng 8 năm 2021, Romelu Lukaku được bán cho Chelsea F.C. với giá 115 triệu euro, đại diện cho vụ chuyển nhượng bóng đá đắt nhất của một câu lạc bộ bóng đá Ý từ trước đến nay.
Vào ngày 12 tháng 1 năm 2022, Inter vô địch Supercoppa Italiana, đánh bại Juventus 2–1 tại San Siro. Sau khi để đối phương chọc thủng lưới, Inter đã gỡ hòa bằng một quả phạt đền do công của Lautaro Martínez, và trận đấu kết thúc với tỷ số 1–1 trong thời gian quy định. Ở giây cuối cùng của hiệp phụ, Alexis Sánchez đã ghi bàn thắng quyết định sau một sai lầm trong phòng ngự, mang về cho Inter chiếc cúp đầu tiên của mùa giải, cũng là chiếc cúp đầu tiên của Simone Inzaghi trên cương vị huấn luyện viên Inter. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2022, Inter đã giành được Coppa Italia đánh bại Juventus 4–2 tại Sân vận động Olimpico. Sau khi thời gian bình thường kết thúc với tỷ số 2–2, với Nicolò Barella và Hakan Çalhanoğlu ghi bàn cho Inter, cú đúp của Ivan Perišić trong hiệp phụ đã giúp Inter giành chiến thắng và danh hiệu thứ hai trong mùa giải. Chiến dịch Serie A 2021–22 chứng kiến Inter cán đích ở vị trí thứ hai, là đội có hàng công ghi nhiều bàn thắng nhất với 84 bàn thắng. Vào ngày 18 tháng 1 năm 2023, Inter giành Supercoppa Italiana, đánh bại Milan 3−0 tại Sân vận động Quốc tế Nhà vua Fahd, nhờ vào các bàn thăng của Federico Dimarco, Edin Džeko, và Lautaro Martinez.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2023, Inter thắng Milan tại bán kết UEFA Champions League 2022–23 và lọt vào trận chung kết, lần đầu tiên họ lọt vào trận chung kết tại UEFA Champions League kể từ năm 2010. Tuy nhiên, họ đã bị đánh bại tại Sân vận động Olympic Atatürk 1−0 bởi Manchester City sau bàn thắng trong hiệp hai của Rodri.
Màu sắc và huy hiệu
Một trong những người sáng lập Inter, họa sĩ Giorgio Muggiani, chịu trách nhiệm thiết kế logo đầu tiên của Inter vào năm 1908. Thiết kế đầu tiên kết hợp các chữ cái "FCIM" ở trung tâm của một loạt các vòng tròn tạo thành huy hiệu của câu lạc bộ. Các yếu tố cơ bản của thiết kế vẫn không thay đổi ngay cả khi các chi tiết tốt hơn đã được sửa đổi trong nhiều năm. Bắt đầu từ mùa giải 1999–2000, huy hiệu ban đầu của câu lạc bộ đã được giảm kích thước để nhường chỗ cho việc bổ sung tên câu lạc bộ và năm thành lập tương ứng ở phần trên và phần dưới của biểu trưng.
Năm 2007, logo được đưa trở lại thời kỳ trước 1999–2000. Nó có kiểu dáng hiện đại hơn với ngôi sao Scudetto nhỏ hơn và tông màu sáng hơn. Phiên bản này được sử dụng cho đến tháng 7 năm 2014, khi câu lạc bộ quyết định đổi thương hiệu. Sự khác biệt đáng kể nhất giữa logo hiện tại và logo trước đó là việc bỏ ngôi sao khỏi các phương tiện khác ngoại trừ bộ dụng cụ thi đấu.
Kể từ khi được thành lập vào năm 1908, Inter hầu như luôn mặc trang phục sọc đen và xanh lam, khiến họ có biệt danh là Nerazzurri. Theo truyền thống, màu sắc được sử dụng để tượng trưng cho bầu trời về đêm: trên thực tế, câu lạc bộ được thành lập vào đêm ngày 9 tháng 3, lúc 23:30; hơn nữa, màu xanh lam được chọn bởi Giorgio Muggiani vì ông coi nó là màu đối lập với màu đỏ, được mặc bởi các đối thủ của Câu lạc bộ bóng đá và Cricket Milan.
Tuy nhiên, trong mùa giải 1928–29, Inter buộc phải từ bỏ đồng phục màu xanh đen của họ. Năm 1928, tên gọi và triết lý của Inter khiến Đảng Phát xít cầm quyền không yên tâm; kết quả là trong cùng năm đó, câu lạc bộ 20 tuổi được sáp nhập với Unione Sportiva Milanese: câu lạc bộ mới được đặt tên là Società Sportiva Ambrosiana theo tên vị thánh bảo hộ của Milan. Cờ của Milan (chữ thập đỏ trên nền trắng) thay thế màu xanh đen truyền thống. Năm 1929, áo thi đấu màu xanh đen được khôi phục và sau Thế chiến thứ hai, khi phe Phát xít mất quyền lực, câu lạc bộ trở lại tên ban đầu. Năm 2008, Inter kỷ niệm 100 năm thành lập bằng hình chữ thập đỏ trên áo đấu sân khách. Cây thánh giá gợi nhớ đến lá cờ của thành phố của họ và họ tiếp tục sử dụng mẫu này trên bộ quần áo thứ ba của mình. Vào năm 2014, câu lạc bộ đã sử dụng bộ quần áo bóng đá sân nhà chủ yếu là màu đen với các sọc mỏng màu xanh lam trước khi quay trở lại thiết kế truyền thống hơn vào mùa giải tiếp theo.
Động vật thường được sử dụng để đại diện cho các câu lạc bộ bóng đá ở Ý – rắn cỏ, được gọi là Biscione, đại diện cho Inter. Con rắn là một biểu tượng quan trọng của thành phố Milan, thường xuất hiện trong huy hiệu của người Milan với hình dạng một con rắn lục cuộn tròn với một người đàn ông trong hàm của nó. Biểu tượng hiện diện trên quốc huy của Nhà Sforza (cai trị nước Ý từ Milan trong thời kỳ Phục Hưng), thành phố Milan, Công quốc Milano lịch sử (một quốc gia 400 năm của Đế quốc La Mã Thần thánh) và Insubria (khu vực lịch sử nằm trong thành phố Milan). Đối với mùa giải 2010–11, trang phục thi đấu sân khách của Inter có hình con rắn.
Sân vận động
Sân vận động của đội là San Siro có sức chứa 75.923 chỗ ngồi, có tên chính thức là sân vận động Giuseppe Meazza theo tên cựu cầu thủ từng đại diện cho cả Milan và Inter. Tên được sử dụng phổ biến hơn, San Siro, là tên của quận nơi nó tọa lạc. San Siro là sân nhà của Milan kể từ năm 1926, khi nó được xây dựng bởi tư nhân với sự tài trợ của chủ tịch Milan vào thời điểm đó, Piero Pirelli. Việc xây dựng được thực hiện bởi 120 công nhân và mất 13 tháng rưỡi để hoàn thành. Sân vận động thuộc sở hữu của câu lạc bộ cho đến khi nó được bán cho thành phố vào năm 1935, và kể từ năm 1947, nó được chia sẻ với Inter khi họ được chấp nhận là người thuê chung.
Trận đấu đầu tiên diễn ra tại sân vận động là vào ngày 19 tháng 9 năm 1926, khi Inter đánh bại Milan với tỷ số 6–3 trong một trận giao hữu. Milan chơi trận đầu tiên tại San Siro vào ngày 19 tháng 9 năm 1926, thua 1–2 trước Sampierdarenese. Từ sức chứa ban đầu là 35.000 khán giả, sân vận động đã trải qua một số lần cải tạo lớn. Lần cải tạo cuối cùng là vào cuối năm 2021 để tổ chức trận chung kết UEFA Nations League. Nhân tiện, cuộc cải tạo cấu trúc lớn nhất đã được thực hiện cho Chung kết UEFA Champions League 2016. Sân vận động sẽ được tân trang lại kịp thời cho Milano Cortina 2026.
Dựa trên mô hình sân vận động của Anh, San Siro được thiết kế đặc biệt cho các trận đấu bóng đá, trái ngược với nhiều sân vận động đa năng được sử dụng ở Serie A. Do đó, nó nổi tiếng ở Ý vì bầu không khí tuyệt vời trong các trận đấu do khán đài gần với sân cỏ.
Sân vận động Milano mới
Kể từ năm 2012, nhiều đề xuất và dự án khác nhau của Massimo Moratti đã thay đổi liên quan đến khả năng xây dựng một sân vận động mới của Inter. Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2019, Inter và AC Milan đã công bố thỏa thuận xây dựng một sân vận động chung mới ở khu vực San Siro. Vào mùa đông năm 2021, Giuseppe Sala, thị trưởng Milan, đã chính thức cho phép xây dựng sân vận động mới bên cạnh San Siro, sân vận động này sẽ bị phá bỏ một phần và tái hoạt động sau Thế vận hội Olympic 2026. Đầu năm 2022, Inter và AC Milan tiết lộ "kế hoạch B" nhằm di dời việc xây dựng sân vận động Milano mới ở Đại Milano, cách xa khu vực San Siro.
Cổ động viên và kình địch
Inter là một trong những câu lạc bộ được ủng hộ nhiều nhất ở Ý, theo một nghiên cứu vào tháng 8 năm 2007 của tờ báo Ý La Repubblica. Trong những năm đầu (cho đến Thế chiến thứ nhất), người hâm mộ Inter từ thành phố Milan thường là tầng lớp trung lưu, trong khi người hâm mộ Milan thường là tầng lớp lao động. Trong thời gian Massimo Moratti sở hữu, người hâm mộ Inter được nhìn dưới con mắt chính trị cánh tả ôn hòa. Đồng thời trong triều đại của Silvio Berlusconi, cổ động viên AC Milan được nhìn dưới con mắt chính trị ôn hòa/cánh hữu. Ngày nay, những sự phân hóa này đã lỗi thời.
Nhóm ultras truyền thống của Inter là Boys San; họ giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử của những người cực đoan nói chung do họ là một trong những người lâu đời nhất, được thành lập vào năm 1969. Về mặt chính trị, một nhóm (Irriducibili) của Inter Ultras là cánh hữu và nhóm này có lợi. mối quan hệ với những người cực đoan của Lazio. Ngoài nhóm chính (phi chính trị) của Boys San, còn có năm nhóm quan trọng hơn: Viking (phi chính trị), Irriducibili (cánh hữu), Ultras (phi chính trị), Brianza Alcoolica (phi chính trị) và Imbastisci (cánh tả).
Những người hâm mộ có tiếng nói nhất của Inter được biết là tập trung ở Curva Nord, hoặc đường cong phía bắc của San Siro. Truyền thống lâu đời này đã dẫn đến việc Curva Nord đồng nghĩa với những cổ động viên hết mình nhất của câu lạc bộ, những người giương biểu ngữ và vẫy cờ để ủng hộ đội của họ.
Inter có một số kình địch, hai trong số đó rất quan trọng trong bóng đá Ý; thứ nhất, họ tham gia vào trận chiến nội bộ Derby della Madonnina với AC Milan; sự kình địch đã tồn tại kể từ khi Inter tách khỏi Milan vào năm 1908. Tên của trận derby đề cập đến Maria, người có bức tượng trên đỉnh Nhà thờ chính tòa Milano là một trong những điểm thu hút chính của thành phố. The match usually creates a lively atmosphere, with numerous (often humorous or offensive) banners unfolded before the match. Pháo sáng thường hay xuất hiện, nhưng chúng cũng dẫn đến việc hủy bỏ trận tứ kết lượt về Champions League 2004–05 giữa Milan và Inter vào ngày 12 tháng 4 sau khi một cổ động viên Inter ném pháo sáng từ đám đông vào vai thủ môn Dida.
Sự cạnh tranh đáng kể khác là với Juventus; trận đấu giữa hai câu lạc bộ được gọi là trận Derby d'Italia. Cho đến khi xảy ra bê bối bóng đá Ý 2006, khiến Juventus phải xuống hạng, hai đội bóng này là những câu lạc bộ Ý duy nhất chưa bao giờ chơi dưới Serie A. Vào những năm 2000, Inter nảy sinh sự cạnh tranh với Roma, đội đã về nhì trước Inter trong tất cả các trận trừ một trong năm mùa giải giành Scudetto của Inter từ 2005–06 đến 2009–10. Hai bên cũng đã tranh tài trong năm trận chung kết Coppa Italia và bốn trận chung kết Supercoppa Italiana kể từ năm 2006. Các câu lạc bộ khác, như Atalanta và Napoli, cũng được coi là đối thủ của họ. Cổ động viên của họ thường đi với những biệt danh Interisti, hoặc Nerazzurri.
Danh hiệu
Inter đã giành được 34 danh hiệu trong nước, bao gồm 19 lần vô địch Serie A, 8 lần vô địch Coppa Italia và 7 lần vô địch Supercoppa Italiana. Từ năm 2006 đến năm 2010, câu lạc bộ đã giành được năm chức vô địch liên tiếp, cân bằng kỷ lục mọi thời đại trước năm 2017, khi Juventus giành được chức vô địch thứ sáu liên tiếp. Họ đã ba lần vô địch UEFA Champions League: hai lần liên tiếp vào năm 1964 and 1965 và một lần nữa vào năm 2010; trận cuối cùng đã hoàn thành cú ăn ba chưa từng có của Ý với Coppa Italia và Scudetto. Câu lạc bộ cũng đã giành được ba UEFA Europa League, hai Intercontinental Cup và một FIFA Club World Cup.
Inter chưa bao giờ bị xuống hạng khỏi giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý trong suốt sự tồn tại của nó. Đây là câu lạc bộ duy nhất đã thi đấu ở Serie A và các giải đấu tiền nhiệm của nó trong mọi mùa giải kể từ khi ra mắt vào năm 1909.
Thống kê và kỷ lục của câu lạc bộ
Javier Zanetti giữ kỷ lục về cả số lần ra sân và số lần ra sân ở Serie A cho Inter, với tổng cộng 858 trận chính thức đã chơi và 618 trận ở Serie A.
Giuseppe Meazza là cây săn bàn hàng đầu mọi thời đại của Inter, với 284 bàn sau 408 trận. Xếp sau anh, ở vị trí thứ hai, là Alessandro Altobelli với 209 bàn sau 466 trận, và Roberto Boninsegna ở vị trí thứ ba, với 171 bàn sau 281 trận.
Helenio Herrera có thời gian cầm quân lâu nhất trên cương vị huấn luyện viên của Inter, với 9 năm (tám liên tiếp) cầm quân, và là huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử Inter với ba Scudetti, hai Cúp C1 châu Âu và hai Cúp liên lục địa. José Mourinho, người được bổ nhiệm vào ngày 2 tháng 6 năm 2008, đã hoàn thành mùa giải đầu tiên ở Ý bằng danh hiệu Serie A và Supercoppa Italiana; trong mùa giải thứ hai của ông, ông đã giành "cú ăn ba" đầu tiên trong lịch sử bóng đá Ý: Serie A, Coppa Italia và UEFA Champions League.
Danh sách cầu thủ
Đội hình chính
Các cầu thủ khác theo hợp đồng
Cho mượn
Đội trẻ
Số áo được treo
3 – Giacinto Facchetti, hậu vệ trái, chơi cho Inter 1960–1978 (di cảo). Số áo này được treo vào ngày 8 tháng 9 năm 2006, bốn ngày sau khi Facchetti qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 64. Cầu thủ cuối cùng mặc áo số 3 là trung vệ người Argentina Nicolás Burdisso, người đã khoác áo số 16 trong phần còn lại của mùa giải.
4 – Javier Zanetti, tiền vệ phòng ngự, đã chơi 858 trận cho Inter từ năm 1995 đến khi giải nghệ vào mùa hè năm 2014. Vào tháng 6 năm 2014, chủ tịch câu lạc bộ Erick Thohir xác nhận rằng số 4 của Zanetti sẽ được treo vì sự tôn trọng.
Đội ngũ kỹ thuật
Chủ tịch và huấn luyện viên
Lịch sử chủ tịch
Dưới đây là danh sách các chủ tịch của Inter từ 1908 đến nay.
Lịch sử huấn luyện viên
Dưới đây là danh sách các huấn luyện viên của Inter từ năm 1909 cho đến ngày nay.
Công ty
FC Internazionale Milano S.p.A. được mô tả là một trong những "hố đen" tài chính trong số các câu lạc bộ Ý, vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự đóng góp tài chính từ chủ sở hữu Massimo Moratti. Vào tháng 6 năm 2006, nhà tài trợ áo đấu và cổ đông thiểu số của câu lạc bộ, Pirelli, đã bán 15,26% cổ phần của câu lạc bộ cho gia đình Moratti, với giá 13,5 triệu euro. Nhà sản xuất lốp xe giữ lại 4,2%. Tuy nhiên, do một số lần tăng vốn của Inter, chẳng hạn như sáp nhập đảo ngược với một công ty mẹ trung gian, Inter Capital S.r.l. năm 2006, nắm giữ 89% cổ phần của Inter và số vốn 70 triệu euro vào thời điểm đó hoặc phát hành cổ phiếu mới với giá 70,8 triệu euro vào tháng 6 năm 2007, 99,9 triệu euro vào tháng 12 năm 2007, €86,6 triệu euro năm 2008, 70 triệu euro vào năm 2009, 40 triệu euro vào năm 2010 và 2011, 35 triệu euro vào năm 2012 hoặc cho phép Thoir đăng ký 75 triệu euro cổ phiếu mới của Inter vào năm 2013, Pirelli trở thành cổ đông lớn thứ ba với chỉ 0,5%, . Inter đã có một đợt tái cấp vốn khác được dành cho Suning Holdings Group vào năm 2016. Trong bản cáo bạch về đợt IPO thứ hai của Pirelli vào năm 2017, công ty cũng tiết lộ rằng giá trị của số cổ phần còn lại của Inter thuộc sở hữu của Pirelli, đã xóa sổ về không vào năm tài chính 2016. Inter cũng nhận góp vốn trực tiếp từ các cổ đông để bù đắp khoản lỗ đã bị loại trừ khi phát hành cổ phiếu trước đây. ()
Ngay trước khi Thohir tiếp quản, bảng cân đối kế toán hợp nhất của "Internazionale Holding S.r.l." cho thấy toàn bộ nhóm công ty có khoản nợ ngân hàng trị giá 157 triệu euro, bao gồm khoản nợ ngân hàng của công ty con "Inter Brand Srl", cũng như của chính câu lạc bộ, đối với Istituto per il Credito Sportivo (ICS), cho €15,674 triệu trên bảng cân đối kế toán vào cuối năm tài chính 2012–13. Năm 2006, Inter bán thương hiệu của mình cho công ty con mới, "Inter Brand S.r.l.", một thực thể mục đích đặc biệt với vốn cổ phần là 40 triệu euro, với giá 158 triệu euro (thỏa thuận này khiến Internazionale lỗ ròng chỉ 31 triệu euro trong báo cáo tài chính riêng). Đồng thời, công ty con đã đảm bảo khoản vay 120 triệu euro từ Banca Antonveneta, sẽ được trả dần cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2016; La Repubblica mô tả thương vụ này như "doping". Vào tháng 9 năm 2011, Inter đã đảm bảo khoản vay từ ICS bằng cách bao thanh toán tài trợ cho Pirelli của mùa giải 2012–13 và 2013–14, với giá 24,8 triệu euro, với lãi suất 3 tháng Euribor + chênh lệch 1.95%. Vào tháng 6 năm 2014, Inter Group mới được đảm bảo khoản vay 230 triệu euro từ Goldman Sachs và UniCredit với mức lãi suất mới là 3 tháng Euribor + chênh lệch 5,5%, cũng như thành lập một công ty con mới làm công ty mang nợ: "Inter Media and Communication Srl". 200 triệu euro trong số đó sẽ được sử dụng để tái cấp vốn nợ của tập đoàn. Khoản vay trị giá 230 triệu euro, 1 triệu euro (cộng lãi) sẽ đáo hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2015, 45 triệu euro (cộng lãi) sẽ được hoàn trả thành 15 đợt từ ngày 30 tháng 9 năm 2015 đến ngày 31 tháng 3 năm 2019, cũng như 184 triệu euro (cộng tiền lãi) sẽ đến hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Về phía sở hữu, International Sports Capital HK Limited có trụ sở tại Hồng Kông, đã thế chấp cổ phần của International Sports Capital S.p.A. có trụ sở tại Ý (công ty cổ phần trực tiếp của Inter) cho CPPIB Đầu tư tín dụng trị giá 170 triệu euro vào năm 2015, với lãi suất từ 8% / năm (đến hạn vào tháng 3 năm 2018) đến 15% / năm (đến hạn vào tháng 3 năm 2020). ISC đã hoàn trả các ghi chú vào ngày 1 tháng 7 năm 2016 sau khi họ bán một phần cổ phần của Inter cho Suning Holdings Group. Tuy nhiên, vào cuối năm 2016, cổ phần của ISC SpA lại được ISC HK cầm cố cho các quỹ đầu tư tư nhân của OCP Châu Á với giá 80 triệu đô la Mỹ. Vào tháng 12 năm 2017, câu lạc bộ cũng đã tái cấp vốn cho khoản nợ 300 triệu euro bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường, thông qua Goldman Sachs với tư cách là người ghi sổ, với lãi suất 4,875%/năm.
Chỉ tính riêng doanh thu, Inter đã vượt qua đối thủ cùng thành phố ở Deloitte Football Money League lần đầu tiên, vào mùa giải 2008–2009, đứng ở vị trí thứ chín, kém một bậc so với Juventus ở vị trí thứ tám, với Milan ở vị trí thứ mười. Trong mùa giải 2009–10, Inter vẫn ở vị trí thứ 9, vượt qua Juventus (thứ 10) nhưng Milan lại chiếm vị trí dẫn đầu với vị trí thứ 7. Inter trở thành thứ tám trong mùa giải 2010–11, nhưng vẫn kém Milan một bậc. Kể từ năm 2011, Inter tụt xuống hạng 11 mùa 2011–12, hạng 15 mùa 2012–13, hạng 17 mùa 2013–14, hạng 19 mùa 2014–15 và 2015–16. Mùa giải 2016–17, Inter xếp thứ 15 trên bảng xếp hạng Money League.
Trong Football Money League 2010 (mùa giải 2008–09), doanh thu bình thường hóa là 196,5 triệu euro được chia cho ngày thi đấu (14%, 28,2 triệu euro), phát sóng (59%, 115,7 triệu euro, +7%, +8 triệu euro) ) và thương mại (27%, €52,6 triệu, +43%). Các nhà tài trợ trang phục thi đấu là Nike và Pirelli đã đóng góp lần lượt 18,1 triệu euro và 9,3 triệu euro vào doanh thu thương mại, trong khi doanh thu phát sóng được tăng 1,6 triệu euro (6%) nhờ phân phối Champions League. Deloitte bày tỏ ý kiến rằng các vấn đề trong bóng đá Ý, đặc biệt là vấn đề doanh thu trong ngày thi đấu đang kìm hãm Inter so với những gã khổng lồ châu Âu khác và việc phát triển sân vận động của riêng họ sẽ giúp các câu lạc bộ Serie A cạnh tranh hơn trên đấu trường thế giới.
Trong mùa giải 2009–10, doanh thu của Inter được đẩy mạnh nhờ việc bán Ibrahimović, cú ăn ba và điều khoản giải phóng của huấn luyện viên José Mourinho. Theo số liệu chuẩn hóa của Deloitte trong Football Money League 2011 của họ, trong mùa giải 2009–10, doanh thu đã tăng 28,3 triệu euro (14%) lên 224,8 triệu euro. Tỷ lệ ngày thi đấu, phát sóng và thương mại trong các số liệu đã điều chỉnh là 17%:62%:21%.
Đối với mùa giải 2010–11, các câu lạc bộ Serie A bắt đầu đàm phán chung về bản quyền truyền hình của câu lạc bộ thay vì riêng lẻ. Điều này được dự đoán sẽ dẫn đến doanh thu phát sóng thấp hơn cho các câu lạc bộ lớn như Juventus và Inter, với các câu lạc bộ nhỏ hơn kiếm được từ trận thua. Cuối cùng, kết quả bao gồm khoản thu nhập bất thường trị giá 13 triệu euro từ RAI. Tại Football Money League 2012 (mùa giải 2010–11), doanh thu bình thường hóa là 211,4 triệu euro. Tỷ lệ ngày thi đấu, phát sóng và thương mại trong các số liệu điều chỉnh là 16%:58%:26%.
Tuy nhiên, kết hợp doanh thu và chi phí, trong mùa giải 2006–07, họ đã lỗ ròng 206 triệu euro (€112 triệu cơ sở bất thường, do việc bãi bỏ thông lệ kế toán phi tiêu chuẩn của quỹ khấu hao đặc biệt), tiếp theo là khoản lỗ ròng 148 triệu euro trong mùa giải 2007–08, khoản lỗ ròng 154 triệu euro trong mùa giải 2008–09, khoản lỗ ròng 69 triệu euro trong mùa giải 2009–10, lỗ ròng 87 triệu euro trong mùa giải 2010–11, lỗ ròng 77 triệu € trong mùa giải 2011–12, lỗ ròng 80 triệu euro trong mùa giải 2012–13 và lợi nhuận ròng 33 triệu euro trong mùa giải 2013–14, do thu nhập đặc biệt từ việc thành lập công ty con Inter Media and Communication. Tất cả các số liệu nói trên đều nằm trong báo cáo tài chính riêng. Số liệu từ báo cáo tài chính hợp nhất đã được công bố kể từ mùa giải 2014–15, đó là khoản lỗ ròng €140,4 triệu (2014–15), 59,6 triệu euro (mùa giải 2015–16, trước năm 2017 trình bày lại) và 24,6 triệu euro (2016–17).
Vào năm 2015, Inter và Roma là hai câu lạc bộ Ý duy nhất bị UEFA xử phạt do vi phạm Luật Công bằng tài chính của UEFA, theo sau là AC Milan đã từng bị cấm trở lại thi đấu châu Âu vào năm 2018. Như một sự thử thách để tránh bị trừng phạt thêm, Inter đã đồng ý có tổng thời gian hòa vốn trong ba năm từ 2015 đến 2018, với mùa giải 2015–16 là được phép lỗ ròng tối đa 30 triệu euro, sau đó là hòa vốn trong mùa giải 2016–17 trở đi. Inter cũng bị phạt 6 triệu euro cộng thêm 14 triệu euro trong thời gian quản chế.
Inter cũng thực hiện một cú lừa tài chính trên thị trường chuyển nhượng vào giữa năm 2015, trong đó Stevan Jovetić và Miranda đã được Inter ký hợp đồng tạm thời cộng với nghĩa vụ ký hoàn toàn vào năm 2017, làm cho chi phí của họ ít hơn trong thời gian mượn. Hơn nữa, mặc dù đầu tư rất nhiều vào các bản hợp đồng mới, cụ thể là Geoffrey Kondogbia và Ivan Perišić có khả năng làm tăng chi phí khấu hao, Inter cũng đã bán Mateo Kovačić với giá 29 triệu euro, kiếm được lợi nhuận trời cho. Vào tháng 11 năm 2018, các tài liệu từ Football Leaks tiết lộ thêm rằng các bản hợp đồng cho mượn như Xherdan Shaqiri vào tháng 1 năm 2015, trên thực tế có những điều kiện không thể tránh khỏi để kích hoạt việc mua đứt.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2017, Inter thông báo rằng khoản lỗ ròng của họ (đã điều chỉnh theo FFP) của mùa giải 2015–16 nằm trong giới hạn cho phép là 30 triệu euro. Tuy nhiên, cùng ngày UEFA cũng thông báo rằng việc cắt giảm quy mô đội hình của Inter tại các giải đấu châu Âu sẽ vẫn chưa được dỡ bỏ do việc hoàn thành một phần các mục tiêu trong thỏa thuận dàn xếp. Thông báo tương tự đã được UEFA đưa ra vào tháng 6 năm 2018, dựa trên kết quả tài chính mùa giải 2016–17 của Inter.
Vào tháng 2 năm 2020, Inter Milan đã kiện Major League Soccer (MLS) vì vi phạm nhãn hiệu, tuyên bố rằng thuật ngữ "Inter" đồng nghĩa với câu lạc bộ của họ chứ không phải ai khác.
Nhà tài trợ
Chú thích |
Thioether (còn gọi là thioete) là một nhóm chức trong hóa hữu cơ có cấu trúc R-S-R1, trong đó R, R1 là bất kỳ nhóm hữu cơ nào. Thioether là tương tự như ether ngoại trừ việc nó chứa nguyên tử lưu huỳnh thay vì chứa nguyên tử oxy. Do các thuộc tính hóa học của oxy và lưu huỳnh là tương tự nhau, vì chúng năm cùng một nhóm (nhóm VI) trong bảng tuần hoàn các nguyên tố (hay quen gọi là bảng tuần hoàn Mendeleev), nên các thuộc tính hóa học của cả hai nhóm chức này là tương tự nhau.
Nhóm chức này có tầm quan trọng nhỏ trong sinh học, nổi tiếng nhất là trong amino acid methionin.
Một đặc điểm đặc trưng của các thioether, tương tự như các hợp chất chứa lưu huỳnh khác, là các thioether đơn giản dễ bay hơi đều có mùi hôi khó ngửi.
Một khác biệt với các ether là các ether (R-O-R1) chỉ có thể bị oxy hóa thành các peroxide (R-O-O-R1), trong khi các thioether (R-S-R1) có thể bị oxy hóa tiếp thành các disulfide (R-S-S-R1) hay thành sulfoxide (R-S(=O)-R1), mà chúng lại có thể bị oxy hóa tiếp thành các sulfon (R-S(=O)2-R1).
Về mặt hóa sinh học, liên kết thioether được tạo ra khi nhóm vinyl phản ứng với nhóm sulfurhydryl, chia cắt liên kết đôi và liên kết nguyên tử lưu huỳnh với nguyên tử carbon (không liên kết trước đó với phân tử gốc), như trong phản ứng sau:
R-CH=CH2 + HS-R1 -> R-CH2-CH2-S-R1 |
Họ Ngựa (Equidae) là một họ động vật có vú bao gồm ngựa, lừa, ngựa vằn, và nhiều loài khác chỉ được biết đến từ hóa thạch. Tất cả các loài còn sinh tồn nằm trong chi Equus. Họ này thuộc Bộ Guốc lẻ (Perissodactyla), gồm lợn vòi, tê giác, và một vài họ khác đã bị tuyệt chủng.
Đặc trưng
Động vật họ Ngựa là các loài thú kích thước từ trung bình tới lớn, với đầu dài và cổ có bờm. Các chân mảnh dẻ, chỉ có một móng guốc, được bảo vệ bởi một guốc bằng chất sừng. Chúng có đuôi dài và mảnh dẻ, hoặc là kết thúc bằng một chùm lông hoặc là hoàn toàn được che phủ trong chùm lông rủ xuống. Chúng nói chung đã thích nghi với địa hình thoáng đãng, từ các bình nguyên tới các xavan hay các sa mạc hoặc vùng núi.
Loa tai ("tai") của động vật họ Ngựa rất linh động, cho phép chúng dễ dàng định vị nguồn phát ra âm thanh. Chúng có thị giác hai màu. Các mắt của chúng nằm xa về phía sau của đầu, cho phép chúng có góc nhìn lớn, mà không đánh mất hoàn toàn tầm nhìn hai mắt. Động vật họ Ngựa cũng có cơ quan Jacobson, cho phép các con đực có thể sử dụng phản ứng 'uốn môi trên' để đánh giá tình trạng kích dục của các bạn tình tiềm năng.
Động vật họ Ngựa là động vật ăn cỏ, chủ yếu ăn các loại thức ăn thô dạng sợi như cỏ. Khi cần thiết chúng cũng ăn cả các loại thức ăn nguồn gốc thực vật khác, như lá, quả, vỏ cây, nhưng thông thường là động vật gặm cỏ chứ không phải là động vật bứt cành hay lá. Không giống như động vật nhai lại, với hệ thống các dạ dày phức tạp của chúng, động vật họ Ngựa phân rã xenluloza trong "ruột tịt" (cecum), một phần của ruột kết. Công thức bộ răng của chúng gần như hoàn hảo, với các răng cửa có tính năng cắt để gặm thức ăn, và các răng hàm để nghiền thức ăn mọc ở phía sau các khe răng.
Động vật họ Ngựa là các động vật sống thành bầy. Ngựa cùng với ngựa vằn đồng bằng và ngựa vằn núi nói chung có bầy mang tính chất lâu bền gồm một con đực và một đàn cái, với các con đực còn lại tạo thành các bầy "độc thân" nhỏ. Các loài khác tạo thành bầy có tính chất tạm bợ, kéo dài chỉ vài tháng, trong đó hoặc là hỗn tạp hoặc là một giới. Trong cả hai trường hợp, tôn ti trật tự rõ ràng được thiết lập giữa các cá thể, thường là con cái thống lĩnh sẽ kiểm soát sự tiếp cận các nguồn thức ăn và nước uống còn con đực đầu đàn sẽ kiểm soát các cơ hội giao phối.
Sự rụng trứng ở các con cái nói chung là một trứng, tuy rằng khoảng 24-26% là nhiều trứng (trong đó 99% là hai trứng). Nói chung, khoảng thời gian giữa các lần rụng trứng là 1 ngày. Nồng độ của progesteron (hoóc môn giới tính duy trì thai) sẽ tăng lên sau lần rụng trứng thứ hai. Sau khi giao phối và mang thai trong khoảng 11 tháng thì các con cái sẽ đẻ, thường là chỉ một con non. Các con non có khả năng đi lại chỉ khoảng 1 giờ sau khi sinh ra và chúng được mẹ cho bú trong khoảng 4 tới 13 tháng (động vật họ Ngựa được thuần hóa nói chung cho con bú ít hơn về mặt thời gian). Phụ thuộc vào loài, điều kiện sống và các yếu tố khác, con cái trong hoang dã sẽ sinh đẻ sau mỗi 1 hay 2 năm.
Tại vùng ôn đới, các con cái của động vật họ Ngựa khi không mang thai nói chung có chu kỳ động dục theo mùa, từ đầu mùa xuân tới mùa thu. Phần lớn các con cái sẽ tiến tới trạng thái ngừng động dục trong mùa đông và vì thế không có khả năng thụ thai/đẻ trong thời kỳ này. Chu kỳ sinh sản được kiểm soát bằng chu kỳ chiếu sáng (độ dài thời gian ban ngày), với sự động dục được kích thích khi độ dài thời gian ban ngày dài ra. Ngừng động dục ngăn cản con cái thụ thai trong các tháng mùa đông, do điều đó làm cho khả năng sống sót của con non là rất thấp trong thời gian khắc nghiệt nhất của năm. Tuy nhiên, khi chúng sống gần xích đạo, sự thay đổi về độ dài thời gian ban ngày là không đáng kể thì các con cái không có khoảng thời gian ngừng động dục, ít nhất là về mặt lý thuyết. Ngoài ra, vì các lý do chưa rõ, khoảng 20% ngựa cái đã thuần hóa tại Bắc bán cầu cũng động dục quanh năm, có lẽ là do mất cảm giác đối với melatonin.
Phân loại
Bộ Guốc lẻ Perissodactyla
Phân bộ Hippomorpha
Liên họ Equoidea
Họ Ngựa Equidae
Chi †Haringtonhippus
Chi †Epihippus
Chi †Haplohippus
Chi †Heptaconodon
Chi †Eohippus
Chi †Minippus
Chi †Orohippus
Chi †Pliolophus
Chi †Protorohippus
Chi †Sifrhippus
Chi †Xenicohippus
Chi †Eurohippus
Chi †Propalaeotherium
Phân họ †Anchitheriinae
Chi †Anchitherium
Chi †Archaeohippus
Chi †Desmatippus
Chi †Hypohippus
Chi †Kalobatippus
Chi †Megahippus
Chi †Mesohippus
Chi †Miohippus
Chi †Parahippus
Chi †Sinohippus
Phân họ Equinae
Tông Equini
Chi †Astrohippus
Chi †Calippus
Chi †Dinohippus
Chi Equus: Chi Ngựa
Phân chi Equus
Ngựa nhà, Equus caballus
Ngựa hoang, Equus ferus
†Ngựa Tarpan, Equus ferus ferus
Ngựa Przewalski hay ngựa hoang Mông Cổ, Equus ferus przewalskii
†Ngựa Yukon, Equus lambei
Phân chi Asinus: Lừa
Lừa hoang châu Phi, Equus africanus
Lừa hoang Nubia, Equus africanus africanus
†Lừa hoang Atlas, Equus africanus atlanticus
Lừa hoang Somali, Equus africanus somalicus
Lừa, Equus africanus asinus
†Lừa hoang châu Âu, Equus hydruntinus
Lừa rừng Trung Á hay lừa rừng, Equus hemionus, Equus hemionus onager
Lừa hoang Mông Cổ, Equus hemionus hemionus
†Lừa hoang Syria, Equus hemionus hemippus
Khulan Gobi hay Dziggetai, Equus hemionus luteus
Khulan Turkmenia, Equus hemionus kulan
Lừa hoang Ấn Độ hay Khur, Equus hemionus khur
Lừa hoang Tây Tạng hay Kiang, Equus kiang
Lừa hoang Tây Tây Tạng, Equus kiang kiang
Lừa hoang Đông Tây Tạng, Equus kiang holdereri
Lừa hoang Nam Tây Tạng, Equus kiang polyodon
Lừa hoang Bắc Tây Tạng, Equus kiang chu
†Lừa Cummin, Equus cumminsii
†Lừa rừng chân cà kheo, Equus calobatus
†Lừa rừng lùn, Equus tau
Phân chi Dolichohippus: Ngựa vằn
Ngựa vằn Grevy, Equus grevyi
Phân chi Hippotigris
Ngựa vằn đồng bằng, Equus quagga
†Ngựa vằn Quagga, Equus quagga quagga
Ngựa vằn Burchell, Equus quagga burchellii
Ngựa vằn Grant, Equus quagga boehmi
Ngựa vằn Selous, Equus quagga borensis
Ngựa vằn Chapman, Equus quagga chapmani
Ngựa vằn Crawshay, Equus quagga crawshayi
Ngựa vằn núi, Equus zebra
Ngựa vằn núi Cape, Equus zebra zebra
Ngựa vằn Hartmann, Equus zebra hartmannae
†Phân chi Amerhippus
†Ngựa Scott, Equus scotti
†Ngựa Niobrara, Equus niobrarensis
†Ngựa Mexico, Equus conversidens
†Phân chi Parastylidequus
†Ngựa Mooser, Equus parastylidens
Phân chi incertae sedis
†Ngựa Hagerman hay ngựa vằn Hagerman, Equus simplicidens - có lẽ gần với phân chi Dolichohippus
†Ngựa phương Tây, Equus occidentalis
†Ngựa chân phức tạp, Equus complicatus
†Ngựa Brother, Equus fraternus
†Ngựa Noble, Equus excelsus - phân chi Equus?
†Ngựa 'lớn', nhóm Equus giganteus
† Equus giganteus
† Equus pacificus
† Equus pectinatus
† Equus crinidens
Chi †Heteropliohippus
Chi †Hippidion (gồm cả Parahipparion)
Chi †Onohippidium
Chi †Parapliohippus
Chi †Pliohippus
Chi †Protohippus
Tông †Hipparionini
Chi †Cormohipparion
Chi †Eurygnathohippus (gồm cả Stylohipparion)
Chi †Hipparion
Chi †Hippotherium
Chi †Nannippus
Chi †Neohipparion
Chi †Proboscidipparion
Chi †Pseudhipparion
Tông incertae sedis
Chi †Merychippus
Chi †Scaphohippus
Chi †Acritohippus
Tiến hóa
Các hóa thạch cổ nhất đã biết của động vật dạng ngựa có niên đại từ Tiền Eocen, khoảng 54 triệu năm trước. Loài này, trong chi Hyracotherium (trước đây gọi là Eohippus), là động vật kích thước cỡ con cáo với 3 ngón tại các chân sau và 4 ngón tại các chân trước. Nó là động vật gặm cỏ trên các loại thực vật tương đối mềm và đã thích nghi với việc chạy. Sự phức tạp trong bộ não của nó gợi ý rằng nó là động vật thông minh và luôn cảnh giác. Các loài sau này đã suy giảm số lượng ngón chân và phát triển bộ răng thích hợp hơn với việc nghiền nhỏ cỏ và các thức ăn từ thực vật cứng hơn.
Nhóm này trở nên tương đối to lớn hơn trong thế Miocen, với nhiều loài mới đã xuất hiện. Vào thời gian này, động vật dạng ngựa đã trở thành giống như ngựa thật sự hơn với sự phát triển hình dáng cơ thể điển hình của ngựa hiện đại. Nhiều loài trong số này phân bố trọng lượng chủ yếu của cơ thể chúng trên ngón trung tâm (ngón thứ ba), với những ngón khác đã suy giảm và tiếp xúc xuống mặt đất một cách rõ ràng. Chi sống sót hiện nay, Equus, đã tiến hóa vào đầu thế Pleistocen và phổ biến nhanh chóng trên toàn thế giới.
Giao phối chéo
Các loài khác nhau của họ Equidae có thể tạp giao, mặc dù con non sinh ra nói chung là vô sinh.
Một số con lai trong họ Equidae là:
La, con lai giữa lừa đực và ngựa cái. La là dạng con lai phổ biến nhất trong họ Ngựa và nổi tiếng vì khả năng dẻo dai, chắc chắn, chịu đựng khó khăn tốt của chúng.
Hinny, con lai giữa lừa cái và ngựa đực. Hiếm nhưng ít giá trị hơn la, nói chung nhỏ hơn về kích thước và không chịu đựng được khó khăn như la.
Zeedonk hay Zonkey, con lai giữa lừa và ngựa vằn.
Zony, con lai giữa ngựa vằn/ngựa pony.
Zorse hay zebrula, con lai giữa ngựa vằn đực và ngựa cái; con lai hiếm hơn của cặp ngươc lại đôi khi gọi là hebra.
Bất kỳ con lai nào trong họ ngựa với một phần tổ tiên là ngựa vằn được gọi là zebroid. |
Ngựa vằn núi (Equus zebra) là một trong ba loài ngựa vằn.
Phân loài
Chúng được chia thành hai phân loài:
Ngựa vằn Nam Phi, Equus zebra zebra
Ngựa vằn hoang Hartmann, Equus zebra hartmanni (Matschie, 1898)
Ngựa vằn núi Hartmann có nguồn gốc ở vùng Namibia và người ta tìm thấy chúng trong các khu vực miền núi hay đồi có khí hậu khô cằn và nhiều đá. Thức ăn của chúng là cỏ, vỏ, rễ và lá cây, quả. Ngựa vằn núi Hartmann thích sống thành từng nhóm nhỏ khoảng 7-12 con. Chúng là những động vật leo trèo nhanh nhẹn, có khả năng sống trong các điều kiện khô cằn tại những vùng núi có độ dốc cao. Các vằn sáng màu của chúng có thể là hệ thống tín hiệu cho bầy đàn và cũng có thể có ích trong việc làm các kẻ thù của chúng bị nhầm lẫn.
Một số quần thể được bảo vệ trong các công viên quốc gia. Có một chương trình cho các loài đang nguy cấp của vườn thú châu Âu cho loài ngựa vằn này cũng như là sự phối hợp trong quản lý các quần thể trong các vườn thú trên toàn thế giới.
Hình ảnh
Chú thích |
Lừa hoang Trung Á (Equus hemionus) là một loài lừa lớn thuộc Họ Ngựa, Bộ Guốc lẻ, đặc hữu ở châu Á. Loài này được Pallas mô tả năm 1775. Chúng sinh sống ở các vùng sa mạc của Syria, Iran, Ấn Độ và Tây Tạng.
Giống như nhiều loài động vật ăn cỏ lớn khác, phạm vi phân bố của chúng bị thu hẹp chủ yếu là việc săn bắn và mất môi trường sống. Trong số 6 phân loài thì một đã bị tuyệt chủng và hai loài đang nguy cấp. Lừa hoang Tây Tạng (Equus kiang), một họ hàng gần ở Tây Tạng, nói chung được coi là loài riêng, mặc dù một số học giả vẫn phân loại chúng như là một phân loài của lừa hoang Trung Á (E. hemionus kiang).
Lừa hoang Trung Á lớn hơn so với lừa hoang châu Phi. Chúng nặng khoảng 290 kg và dài khoảng 2,1 mét (độ dài bao gồm đầu và thân). So với ngựa thì chân của chúng ngắn hơn và màu lông của chúng dao động phụ thuộc theo mùa. Nói chung, lông của chúng có màu nâu ánh đỏ trong mùa hè, trở thành nâu ánh vàng trong các tháng mùa đông. Chúng có sọc màu đen có viền màu trắng mở rộng xuống phía dưới của đoạn giữa lưng.
Lừa hoang Trung Á đã được người Sumer cổ đại sử dụng để kéo xe kể từ khoảng năm 2600 TCN.
Phân loài
Lừa hoang Mông Cổ (Equus hemionus hemionus). Tình trạng: Có thể bị đe dọa.
Lừa hoang Ấn Độ hay Khur (Equus hemionus khur). Tình trạng: Nguy cấp.
Lừa hoang Gobi (Equus hemionus luteus). Tình trạng: Có thể bị đe dọa.
Lừa hoang Turkmenia (Equus hemionus kulan). Tình trạng: Cực kỳ nguy cấp.
Lừa hoang Ba Tư (Equus hemionus onager). Tình trạng: Cực kỳ nguy cấp.
Lừa hoang Syria (Equus hemionus hemippus). Tình trạng: Tuyệt chủng từ năm 1927. |
An Nam (Chữ Nho: 安南) là một quốc danh Việt Nam cũ, thông dụng trong giai đoạn 679 - 1945.
Lịch sử
Theo cổ sử, địa danh An Nam xuất hiện năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi Giao Châu tổng quản phủ (từ 622) thành An Nam đô hộ phủ (安南都護府). Về mặt pháp lý, địa danh này tương ứng các cơ quan An Bắc (nay thuộc Bắc Bộ CHND Trung Hoa), An Đông (nay thuộc bán đảo Cao Ly), An Tây (nay thuộc Tây Bộ CHND Trung Hoa).
Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, An Nam là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình Việt Nam với triều đình Trung Hoa, trong khi người Cao Ly, Nhật Bản và muộn hơn là người Âu châu thường gọi Giao Chỉ. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người Việt Nam thường xưng An Nam quốc (安南國) hoặc Nam quốc khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình Trung Hoa chấp thuận danh xưng An Nam quốc nhưng vẫn gọi phiếm Nam bang hoặc Giao Chỉ quốc, từ triều Mạc vì viện cớ Mạc Thái Tổ tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống An Nam đô thống sứ ti (安南都統使司).
Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn Đại Việt làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế Nguyễn Thánh Tổ mới ban đạo dụ nhất quán gọi Đại Nam quốc, tuy nhiên danh xưng An Nam vẫn không dứt.
Bắc thuộc
Thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt Việt Nam (tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay) là An Nam đô hộ phủ (679-757 và 766-866). Thời kỳ 757-766, Việt Nam mang tên Trấn Nam đô hộ phủ. Năm 866, thăng An Nam đô hộ làm Tĩnh Hải quân tiết độ.
Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu An Nam quốc vương (kể từ năm 1164).
Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Chẳng hạn, Cao Hùng Trưng (đời nhà Minh) đã viết cuốn An Nam chí (nguyên) về đất nước Đại Việt.
Ngay cuốn sách in đầu tiên của một người Việt lưu vong ở Trung Hoa bằng chữ Hán năm 1335 cũng có nhan đề là An Nam chí lược (安南志略), do Lê Tắc (黎崱) viết.
Từ đó xuất hiện các cách gọi "người An Nam", "tiếng An Nam".
Tự chủ
Tên gọi An Nam do người Trung Quốc sử dụng dần dần được người châu Âu gọi theo. Chẳng hạn đã xuất hiện:
Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển (tiếng) An Nam - Bồ Đào Nha - Latinh) của Alexandre de Rhodes, năm 1651
Dictionarium Anamitico-Latinum (Từ điển An Nam - Latinh) của Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), soạn năm 1773 và được Jean-Louis Taberd biên tập lại và xuất bản năm 1838
Dictionnaire annamite - français (Từ điển An Nam - Pháp) của J. F. M. Génibrel, năm 1898
Nên nhắc lại là trong những tác phẩm do Alexandre de Rhodes viết nước "Annam" gồm có hai vùng "Tunquin" (Đàng Ngoài) và "Cochinchine" (Đàng Trong). "Cochinchine" lúc ấy, chỉ là miền Trung bây giờ: lúc sách La glorieuse mort d'André catechiste de la Cochinchine được in ra ở Paris vào năm 1653, thì cuộc Nam tiến của Đại Việt chỉ mới vào đến Nha Trang.
Trong lịch sử cận đại, "Annam" được sử dụng trong tiếng Pháp để chỉ phần đất Miền Trung Việt Nam (hay Trung Kỳ) do triều đình Huế của nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Ngày nay, người Việt thường hiểu từ "Annam" theo một nghĩa tiêu cực, mang hàm ý miệt thị dân tộc và vì vậy không thích sử dụng nó.
Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc (1887-1945), Việt Nam bị chia thành ba miền Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine) với ba chế độ quản lý khác nhau.
Annam là vùng đất do triều đình nhà Nguyễn cai quản dưới sự bảo hộ của Pháp. Khu vực hành chính có diện tích 150.200 km² nằm ở miền trung Việt Nam với thủ phủ là Huế. Trong phạm vi lãnh thổ của Annam còn có các đô thị lớn khác như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Quảng Trị, Vinh. Về mặt hình thức Annam là một quốc gia nằm trong Liên Hiệp Pháp, có bộ máy chính quyền đứng đầu bởi vua Nguyễn, có quốc kỳ, quốc ca. Tuy nhiên về thực chất toàn bộ bộ máy chính quyền tại đây đều bị một quan chức thuộc địa của Pháp - Khâm sứ Trung kỳ (Résident Supérieur d'Annam) giám sát và chi phối. Năm 1945, với việc vua Bảo Đại thành lập Đế quốc Việt Nam, Annam với tư cách là một vùng lãnh thổ hành chính về mặt pháp lý chấm dứt tồn tại. |
Nhập Lăng-già kinh (, rù lèngqié jīng; ; ) là một bộ kinh Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giác ngộ nội tại, qua đó mọi hiện tượng nhị nguyên đều biến mất, hành giả đạt tâm vô phân biệt. Đó là tâm thức đã chứng được Như Lai tạng (sa. tathāgata-garbha) vốn hằng có trong mọi loài. Kinh này chỉ rõ là văn tự không đóng vai trò quan trọng gì trong việc trao truyền giáo pháp.
Kinh này có ba bản dịch Hán ngữ song song với nguyên bản tiếng Phạn còn tồn tại:
Bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la (sa. guṇabhadra) dưới tên Lăng-già-a-bạt-đa-la bảo kinh (zh. 楞伽阿跋佗羅寶經) 4 quyển;
Bản của Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhiruci) với tên Nhập Lăng-già kinh, 10 quyển;
Đại thừa nhập Lăng-già kinh (zh. 大乘入楞伽經) của Thật-xoa-nan-đà (sa. śikṣānanda), 7 quyển.
Những thuyết trong kinh này rất gần với quan điểm của Thiền tông. Cùng với kinh Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa và Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra), kinh Nhập Lăng-già là một trong những bộ kinh Đại thừa có ảnh hưởng lớn đến Thiền tông Trung Quốc. Người ta cho rằng bộ kinh này do Bồ-đề-đạt-ma, Sơ tổ thiền Trung Quốc chính tay truyền cho Nhị tổ Huệ Khả. Ngay cả giáo pháp tiệm ngộ (giác ngộ từng bậc) của Thần Tú cũng bắt nguồn từ kinh Nhập Lăng-già này.
Kinh bao gồm 9 chương văn xuôi trộn lẫn với các câu kệ và một chương chỉ toàn văn vần. Kinh này lần đầu được dịch ra Hán văn trong thế kỉ thứ 5. Kinh Nhập Lăng-già được Phật thuyết tại Tích Lan theo lời mời của một nhà vua xứ này, trong đó Phật trả lời những câu hỏi của Bồ Tát Đại Huệ (sa. mahāmati). Giáo pháp trong kinh này là nền tảng của Duy thức tông (sa. yogācāra, vijñānavāda). |
Than hoạt tính là một dạng của carbon được xử lý để có những lỗ rỗng bé thể tích nhỏ để tăng diện tích bề mặt cho dễ hấp phụ hoặc tăng cường phản ứng hóa học. Do mức độ vi mao quản cao, chỉ một gam than hoạt tính có diện tích bề mặt vượt quá 800 – 1000 m², được xác định bởi phương pháp hấp phụ khí. Một mức độ hoạt hóa đủ cho ứng dụng có ích có thể đạt được duy nhất từ diện tích bề mặt cao, hơn nữa, sự xử lý hóa học thường làm tăng tính chất hấp phụ. Than hoạt tính thường thu từ than củi và thỉnh thoảng là than sinh học. Những loại thu được từ than đá hay cốc thì được gọi là than đá hoạt tính hoặc cốc hoạt tính.
Về mặt hóa học gồm chủ yếu là nguyên tố carbon ở dạng vô định hình (bột), một phần nữa có dạng tinh thể vụn grafit. Ngoài carbon thì phần còn lại thường là tàn tro, mà chủ yếu là các kim loại kiềm và vụn cát). Than hoạt tính có diện tích bề mặt ngoài rất lớn nên được ứng dụng như một chất lý tưởng để lọc hút nhiều loại hóa chất.
Cấu tạo
Diện tích bề mặt của than hoạt tính nếu tính ra đơn vị khối lượng thì là từ 500 đến 2500 m2/g (lấy một ví dụ cụ thể để so sánh thì một sân quần vợt có diện tích rộng khoảng chừng 260 m²). Bề mặt riêng rất lớn này là hệ quả của cấu trúc xơ rỗng mà chủ yếu là do thừa hưởng từ nguyên liệu hữu cơ xuất xứ, qua quá trình chưng khô (sấy) ở nhiệt độ cao trong điều kiện yếm khí. Phần lớn các vết rỗng - nứt vi mạch, đều có tính hấp thụ rất mạnh và chúng đóng vai trò các rãnh chuyển tải (kẽ nối). Than hoạt tính thường được tự nâng cấp (ví dụ, tự rửa tro hoặc các hóa chất tráng mặt), để lưu giữ lại được những thuộc tính lọc hút, để có thể thấm hút được các thành phần đặc biệt như kim loại nặng.
Thuộc tính làm tăng ý nghĩa của than hoạt tính còn ở phương diện nó là chất không độc (kể cả một khi đã ăn phải nó), than hoạt tính được tạo từ gỗ và than đá thường có giá thành thấp, từ xơ dừa, vỏ trái cây thì giá thành cao và chất lượng hơn. Chất thải của quá trình chế tạo than hoạt tính dễ dàng được tiêu hủy bằng phương pháp đốt. Nếu như các chất đã được lọc là những kim loại nặng thì việc thu hồi lại, từ tro đốt, cũng rất dễ. Phần lớn than hoạt tính có mặt trong đời sống được làm từ gỗ bằng cách đốt cháy thân cây rồi phun nước lên thân cây đang cháy(loại này còn có tên là than hoa) hoặc nung thân gỗ trong môi trường yếm khí
Những thông số của than hoạt tính
Kích thước, thể tích lỗ xốp và diện tích bề mặt riêng:
Kích thước của lỗ xốp được tính bằng khoảng cách giữa hai cạnh của rãnh hoặc đường kính của ống xốp. Theo tiêu chuẩn của IUPAC thì kích thước lỗ xốp được chia ra làm ba loại: micro pore có kích thước bé hơn 2 nm, meso pore có kích thước từ 2-50 nm và macro pore có kích thước từ 50 nm trở lên.
Diện tích bề mặt riêng của than hoạt tính được đo bằng m²/g và là một thông số hết sức quan trọng đối với than, cho biết khả năng hấp phụ của than hoạt tính. 95% diện tích bề mặt riêng của than là diện tích của những lỗ xốp micro. Những lỗ xốp meso có diện tích bề mặt chiếm không quá 5% tổng diện tích bề mặt của than. Những lỗ xốp kích thước lớn không có nhiều ý nghĩa trong hoạt tính của than vì diện tích bề mặt riêng của chúng không đáng kể.
Chỉ số iod
Đây là một chỉ số cơ bản của than hoạt tính đặc trưng cho diện tích bề mặt của lỗ xốp cũng như khả năng hấp phụ của than. Chỉ số iod được tính bằng khối lượng iod có thể được hấp phụ bởi một đơn vị khối lượng của than.(mg/g). Nguyên lý của phương pháp đo dựa trên sự hấp phụ lớp đơn phân tử iod trên bề mặt của than. Chỉ số iod càng lớn thì mức độ hoạt hóa càng cao. Giá trị của chỉ số iod rơi vào khoảng 500–1200 mg/g. Từ giá trị của chỉ số iod có thể tính ra được diện tích bề mặt riêng của than
Độ cứng
Là khả năng chống chịu mài mòn của than hoạt tính. Đây là một thông số quan trọng bởi vì trong quá trình sử dụng, than hoạt tính còn phải chịu những tác động vật lý như: bị đặt dưới dòng chảy lỏng hoặc khí, dưới tác động của áp suất, do đó than cần phải đảm bảo được những yếu tố về độ cứng nhằm giữ được nguyên vẹn cấu trúc trong quá trình sử dụng và phục hồi. Độ cứng của than phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu đầu vào cũng như mức độ quá trình hoạt hóa.
Phân bố kích thước hạt
Kích thước hạt ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận của chất được hấp phụ tới bền mặt của than. Kích thước càng nhỏ thì khả năng tiếp cập càng dễ và quá trình hấp phụ diễn ra càng nhanh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi hấp phụ trong hệ khí có áp suất thấp. Tính toán kỹ được phân bố kích thước hạt giúp chúng ta có thể chọn lựa được những thông số áp suất tối ưu để giảm thiểu tối đa mức tiêu thụ năng lượng.
Ứng dụng
Than hoạt tính được sử dụng trong tinh chế khí, thức uống không chứa caffein, tinh chế quặng vàng, chiết kim loại, làm tinh khiết nước, y tế, xử lý chất thải, lọc không khí trong mặt nạ phòng độc và khẩu trang.
Ứng dụng công nghiệp
Một ứng dụng công nghiệp chính là xử lý kim loại cuối. Nó được sử dụng rộng rãi trong tinh chế dung dịch mạ điện. Ví dụ, nó là kỹ thuật tinh chế chính trong việc loại bỏ những tạp chất hữu cơ từ dung dịch mạ kền sáng. Nhiều chất hữu cơ được thêm vào dung dịch mạ để cải thiện tính bám dính và tăng tính chất như độ sáng, nhẵn, tính uốn v.v... Sự truyền dòng điện trực tiếp và phản ứng điện hóa của oxy hóa anot và khử catot, những phụ gia hữu cơ sinh ra những sản phẩm phân hủy không mong muốn trong dung dịch. Sự sinh ra quá nhiều của chúng có thể có hại cho chất lượng mạ và tính chất vật lý của kim loại. Sự xử lý bằng than hoạt tính loại bỏ những tạp chất như vậy và trả lại hiệu suất mạ về mức độ mong muốn.
Ứng dụng y tế
Than hoạt tính được sử dụng để xử lý chất độc và sự dùng quá liệu qua đường miệng. Những viên hoặc nang than hoạt tính được sử dụng ở nhiều nước như một thuốc không cần kê toa bác sĩ để xử lý bệnh tiêu chảy, chứng khó tiêu và đầy hơi.
Tuy nhiên, nó không hiệu quả cho nhiều sự ngộ độc của acid hoặc kiềm mạnh, cyanide, sắt, lithi, arsen, methanol, ethanol hay ethylene glycol.
Ứng dụng gián tiếp (ví dụ cho vào phổi) dẫn đến sặc hệ hô hấp, có thể gây chết người nếu không được xử lý y tế ngay lập tức.
Ứng dụng hóa phân tích
Than hoạt tính, hỗn hợp 50/50 khối lượng diatomit và than hoạt tính được sử dụng như pha tĩnh trong sắc khí áp suất thấp cho carbohydrate sử dụng dung dịch rượu (5-50%) như pha động trong đinh chuẩn chuẩn bị và phân tích.
Ứng dụng môi trường
Sự hấp phụ cacbon có nhiều ứng dụng trong loại bỏ chất gây ô nhiễm từ không khí hay nước như:
Làm sạch dầu tràn
Lọc nước ngầm
Lọc nước uống
Làm sạch không khí
Giữ tạp chất hữu cơ không bay hơi từ màu vẽ, lọc khô, bay hơi xăng và những quá trình khác.
Trong suốt đầu sự bổ sung của Luật nước uống an toàn 1974 ở Mỹ, EPA đã phát triển một điều luật đề xuất yêu cầu những hệ thống xử lý nước uống sử dụng than hoạt tính dạng hạt. Nhưng do giá quá cao, điều luật gọi là luật GAC gặp những phản đối mạnh mẽ trong cả nước từ công nghiệp cung cấp nước, bao gồm nhà máy nước lớn nhất ở California, nên luật đã bị bãi bỏ.
Than hoạt tính cũng được dùng để đo nồng độ Radon trong không khí.
Trong y tế (Carbo medicinalis – than dược): để tẩy trùng và các độc tố sau khi bị ngộ độc thức ăn...
Trong kỹ thuật, than hoạt tính là một thành phần lọc khí (trong đầu lọc thuốc lá, miếng hoạt tính trong khẩu trang); tấm khử mùi trong tủ lạnh và máy điều hòa nhiệt độ...
Trong xử lý nước (hoặc lọc nước trong gia đình): để tẩy các chất bẩn vi lượng, diệt khuẩn và khử mùi....v.v.v.
Tác dụng tốt trong phòng tránh tác hại của tia đất. |
Than gỗ hay than củi là một chất màu đen, rất nhẹ, được chế từ gỗ qua quá trình chưng khô gỗ (tách nguyên tố cacbon ra khỏi các thành phần khác, chủ yếu là hơi nước và các chất dễ bay hơi). Than gỗ còn giữ lại được một phần dạng cấu trúc của tế bào gỗ. Chúng có khả năng hấp thụ lớn và được sử dụng làm chất hấp thụ, chất lọc, dược phẩm, chất đốt hoặc làm phụ gia của than hoạt tính và thuốc .
Phân hạng than gỗ
Than gỗ từ buồng đốt
Than gỗ từ buồng đốt là than gỗ nhận được từ sự phân hủy qua chưng khô gỗ của cây lá bản hoặc lá kim, trong điều kiện nhiệt độ khoảng 450 °C, có chứa từ 10–20% thành phần bay hơi và 70-80% cacbon.
Than gỗ từ lò ủ lửa
Than gỗ từ lò ủ lửa là loại than gỗ thu được từ quá trình phân hủy bằng chưng khô gỗ của cây lá bản hoặc lá kim, trong điều kiện nhiệt độ khoảng 700 °C, không chứa trên 4% các thành phần bay hơi.
Đây là cách mà người dân miền núi tại Việt Nam hay dùng để sản xuất than gỗ, từ những thân cây tươi, trong những lò đất hàm ếch với dung tích khoảng 2-3 mét khối. |
Chưng khô (piroliza) là quá trình phân hóa các chất hữu cơ bằng nhiệt, dưới tác động của nhiệt độ cao, trong thời gian dài và trong điều kiện thiếu oxy và các chất oxy hóa khác.
Thường thì trong quá trình chưng khô các hợp chất hóa học phức tạp sẽ bị phân hủy thành các chất đơn giản hơn, có phân tử lượng nhỏ hơn (cracking). Trong một số trường hợp thì qua chưng khô có thể tạo ra các chất nung, là các chất đơn giản hơn về hóa học nhưng lại có cấu trúc mạng không gian, với nhiều thuộc tính vật lý rất thú vị. Cơ chế biến hóa trong quá trình chưng khô thường là khá phức tạp, còn về bản chất của hiện tượng này thì rất khó nghiên cứu trong các điều kiện mà nó tồn tại.
Trong công nghiệp thì chưng khô thường dùng để:
Thu hồi các chất mônôme (có cấu trúc đơn phần) từ polymer (cấu trúc chuỗi đa phần) trong quá trình xử lý chất thải và tái thu hồi (recycling).
Sản xuất đồ sứ.
Sản xuất các vật liệu, nhất là các loại vật liệu chịu nhiệt.
Chưng khô là một công đoạn của quá trình hóa khí. |
Jakarta Server Pages (JSP; trước đây là JavaServer Pages) là một bộ công nghệ giúp các nhà phát triển phần mềm tạo ra các trang web động dựa trên HTML, XML, SOAP hay các loại tài liệu khác. Được phát hành vào năm 1999 bởi Sun Microsystems, JSP tương tự như PHP và ASP, nhưng sử dụng ngôn ngữ lập trình Java.
Để triển khai và chạy Jakarta Server Pages, cần có một máy chủ web tương thích với servlet container, ví dụ như Apache Tomcat hoặc Jetty.
Tổng quan
Về mặt kiến trúc, JSP có thể được coi là một trừu tượng cấp cao của Java servlets. JSP được dịch thành các servlet tại thời gian chạy, do đó JSP chính là một Servlet; mỗi servlet JSP được lưu trữ trong bộ nhớ cache và tái sử dụng cho đến khi JSP gốc bị sửa đổi.
Jakarta Server Pages có thể được sử dụng độc lập hoặc như thành phần chế độ xem của một thiết kế MVC ở phía máy chủ, thường với JavaBeans làm model và Java servlets (hoặc một hệ khung như Apache Struts) làm controller. Đây là một loại kiến trúc Model 2.
JSP cho phép mã Java và một số hành động xử lý đã được định trước nằm xen kẽ với nội dung tĩnh của trang web, ví dụ như HTML. Trang kết quả được biên dịch và thực thi trên máy chủ để cung cấp một tài liệu. Các trang biên dịch, cũng như các thư viện Java phụ thuộc, chứa mã bytecode Java thay vì mã máy. Giống như bất kỳ .jar hoặc chương trình Java nào khác, mã phải được thực thi trong một Máy ảo Java (JVM) có tương tác với hệ điều hành của máy chủ để cung cấp môi trường trừu tượng, độc lập với nền tảng.
JSP thường được sử dụng để cung cấp tài liệu HTML và XML, nhưng thông qua việc sử dụng OutputStream, chúng cũng có thể cung cấp các loại dữ liệu khác.
Web container tạo ra các đối tượng ngầm định JSP như request, response, session, application, config, page, pageContext, out và exception. JSP Engine tạo ra những đối tượng này trong quá trình biên dịch.
JSP và Servlet
Về mặt kiến trúc mà nói, ta có thể xem JSP là một trừu tượng ở mức độ cao của servlet, một phần mở rộng thực thi của Servlet 2.1 API. Cả hai, servlet và, đều nguyên do công ty Sun Microsystems tạo dựng. Bắt đầu từ phiên bản 1.2 đặc tả của JSP, JavaServer Pages đã được xây dựng do Tiến trình cộng đồng Java (Java Community Process). JSR 53 - Java Specification Requests hay "Yêu cầu đặc tả cho Java" - định nghĩa bản đặc tả của cả hai, JSP 1.2 và Servlet 2.4, và JSR 152 định nghĩa bản đặc tả JSP 2.0. Tại thời điểm năm 2006 bản đặc tả JSP 2.1 được xây dựng trên nền của yêu cầu JSR 245.
Cú pháp JSP
Một trang JSP có thể được phân thành từng phần nhỏ như sau:
dữ liệu tĩnh, như HTML
các chỉ thị JSP (JSP directives) như chỉ thị include: <jsp:include>
các phần tử kịch bản JSP (scripting elements) và các biến (variables), ví dụ:
<% scriptlet %>
<%= expression %>
<%! declaration %>
hành động JSP (JSP actions)
thẻ tùy biến (custom tags)
Dữ liệu tĩnh
Vì dữ liệu tĩnh được viết ra trong phần hồi âm HTTP (HTTP response) cũng giống như nó được viết trong tập tin nhận vào (input file), cho nên dữ liệu nhập hợp lệ của JSP thường là một trang HTML bình thường, không có mã java hoặc hành động JSP nhúng trong đó. Với dữ liệu tĩnh này, bất cứ lúc nào trình chủ web hồi âm, trình chủ web cũng sẽ gửi cùng một dữ liệu sang trang trình khách.
Các chỉ phối JSP
Chỉ phối JSP (JSP directives) điều khiển cách mà bộ biên dịch JSP khởi tạo một servlet. Các chỉ phối hiện có được liệt kê như sau:
include – Chỉ phối include thông báo cho bộ biên dịch JSP cho nhập toàn bộ nội dung của một tập tin vào trong nội dung hiện có. Việc làm này tương tự như việc chúng ta lấy nội dung của tập tin đó dán trực tiếp vào trong nội dung của tập tin đang dùng. Tính năng này cũng tương tự như tính năng "#include" của Bộ tiền xử lý C (C preprocessor). Tập tin được nhập thường có đuôi mở rộng (extension) là "jspf" (do JSP Fragment (mảnh, đoạn) mà ra):
<%@ include file="somefile.ext" %>
page (Trang) – Có nhiều tùy chọn với chỉ phối page.
<%@ page import="java.util.*" %> //example import
<%@ page contentType="text/html" %> //example contentType
<%@ page isErrorPage=false %> //example for non error page
<%@ page isThreadSafe=true %> //example for a thread safe JSP
Chú ý: Chỉ có chỉ phối trang "import" là có thể được dùng nhiều lần trong cùng một trang JSP.
taglib – Chỉ phối taglib thông báo rằng chúng ta sẽ sử dụng một thư viện thẻ JSP (JSP tag library). Chỉ phối này đòi hỏi một tiền tố (prefix) (tương tự như namespace trong C++), cũng như kết nối URI của phần mô tả thư viện thẻ (URI for the tag library description) phải được xác định.
<%@ taglib prefix="myprefix" uri="taglib/mytag.tld" %>
Các thành phần trong văn lệnh JSP và các biến
Các biến văn lệnh tiêu chuẩn
Các biến văn lệnh (scripting variables) sau có thể dùng lúc nào cũng được:
out (xuất) – JSPWriter sử dụng nó để ghi dữ liệu vào luồng dữ liệu hồi âm (response stream).
page (trang) – Bản thân servlet.
pageContext (ngữ cảnh của trang) – Một PageContext là một thực thể có chứa dữ liệu liên kết với toàn bộ trang web. Một trang HTML nào đấy có thể được truyền qua nhiều trang JSP.
request (yêu cầu ) – Đối tượng HTTP request
response (hồi âm ) – Đối tượng HTTP response
session (phiên giao dịch ) – Đối tượng HTTP session. Cái này có thể được dùng để theo dõi tin tức về một người dùng, từ yêu cầu này đến yêu cầu khác.
Các thành phần trong văn lệnh
Có 3 thành phần chính trong văn lệnh. Chúng cho phép mã Java được chèn (insert) trực tiếp vào trong servlet.
Một thẻ khai báo (declaration tag) đặt định nghĩa của một biến vào trong lòng phần thân lớp servlet của Java (java servlet class). Những thành viên dữ liệu tĩnh (Static data members) cũng có thể được định nghĩa ở đây nữa.
<%! int serverInstanceVariable = 1; %>
Một thẻ văn lệnh con (scriptlet tag) đặt những câu lệnh đã được bao gọn (contained statements) vào trong phương thức _jspService() của lớp servlet của java.
<% int localStackBasedVariable = 1;
out.println(localStackBasedVariable); %>
Một thẻ biểu thức (expression tag) đặt một biểu thức cần phải được tính toán (evaluate) vào trong lớp servlet của java. Không nên kết thúc biểu thức bằng một dấu chấm phẩy (semi-colon - ";").
<%= "expanded inline data " + 1 %>
Các hành động của JSP
Hành động JSP là các thẻ XML được dùng để khởi động chức năng mà máy chủ web vốn có. Những hành động sau đây được cung cấp:
Ví dụ về các thẻ
jsp:include
<html>
<body>
<jsp:include page="mycommon.jsp" >
<jsp:param name="extraparam" value="myvalue" />
</jsp:include>
name:<%=request.getParameter("extraparam")%>
</body></html>
jsp:forward
<jsp:forward page="subpage.jsp" >
<jsp:param name="forwardedFrom" value="this.jsp" />
</jsp:forward>
Trong ví dụ tiếp tới này, yêu cầu được chuyển về phía trước tới "subpage.jsp". Thao tác xử lý yêu cầu không quay trở lại trang này.
jsp:plugin
<jsp:plugin type=applet height="100%" width="100%"
archive="myjarfile.jar,myotherjar.jar"
codebase="/applets"
code="com.foo.MyApplet" >
<jsp:params>
<jsp:param name="enableDebug" value="true" />
</jsp:params>
<jsp:fallback>
Trình duyệt web của bạn không hỗ trợ những applet này.
</jsp:fallback>
</jsp:plugin>
Ví dụ plugin trên minh họa một phương pháp đồng bộ để nhúng applet trong một trang web. Trước khi thẻ <OBJECT> được tạo ra, chưa có một phương pháp chung nào cho phép người ta nhúng các applet cả. Thiết kế của thẻ này tương đối nghèo nàn. Hy vọng những đặc tả của nó trong tương lai sẽ cho phép những cái như đặc tính năng động (dynamic attributes) (height="${param.height}", code="${chart}" v.v.) và thông số năng động (dynamic parameters). Hiện này, thẻ jsp:plugin không cho phép dùng những applet khởi động một cách năng động. Chẳng hạn, nếu chúng ta có một applet biểu hiện đồ thị và nó cần có các dữ liệu về tọa độ được truyền cho nó thông qua các thông số, chúng ta không thể dùng jsp:params, trừ phi số điểm tọa độ là một số cố định. Chúng ta không thể, ví dụ, luân chuyển qua danh sách loạt kết quả (ResultSet) để kiến tạo các thẻ jsp:param. Chúng ta phải tự tính toán cho từng cái thẻ jsp:param một. Đương nhiên, mỗi một thẻ jsp:param ấy có thể có một cái tên và một giá trị tùy định.
jsp:useBean
<jsp:useBean id="myBean" class="com.foo.MyBean" scope="request" />
<jsp:getProperty name="myBean" property="lastChanged" />
<jsp:setProperty name="myBean" property="lastChanged" value="<%= new Date()%>" />
Những thuộc tính về phạm vi ảnh hưởng (scope attribute) có thể là yêu cầu (request), trang (page), phiên giao dịch (session), hoặc trình ứng dụng (application). Ý nghĩa của các thuộc tính như sau:
yêu cầu (request) — thuộc tính này kéo dài trong toàn bộ thời gian tồn tại của yêu cầu (lifetime of the request). Một khi yêu cầu đã được tất cả cácc trang JSP xử lý, thuộc tính sẽ mất điểm tham chiếu (de-referenced).
trang (page) — thuộc tính chỉ được dùng trong trang hiện tại mà thôi.
phiên giao dịch (session) — thuộc tính được dùng trong toàn bộ thời gian tồn tại phiên giao dịch của người dùng.
trình ứng dụng (application) — thuộc tính có thể được dùng bởi tất cả các thực thể (instance) và sẽ không bao giờ mất điểm tham chiếu. Tương tự như một biến toàn cục (global variable).
Ví dụ trên sử dụng Chương trình quản lý Bean (Bean Manager) để tạo một thực thể (instance) của lớp com.foo.MyBean và lưu trữ thực thể trong thuộc tính (attribute) có tên là "myBean". Thuộc tính tồn tại trong toàn bộ thời gian của yêu cầu. Nó có thể được chia sẻ giữa tất cả các trang JSP đã được bao gồm hay những trang được chuyển về phía trước từ trang JSP nhận yêu cầu đầu tiên.
Thư viện thẻ JSP
Cùng với các hành động JSP định sẵn, các nhà phát triển có thể thêm vào các hành động tùy biến của họ dùng các hàm API của JSP hỗ trợ cho việc mở rộng thẻ (JSP Tag Extension API). Các nhà phát triển sẽ viết một lớp Java (class) để thực thi một trong các thẻ giao diện (Tag interfaces) và cung cấp một tập tin chứa mô tả XML về thư viện thẻ. Tập tin này được dùng để xác định các thẻ và các lớp Java (java classes) thực hiện các thẻ đó.
Xem xét ví dụ sau:
<%@ taglib uri="mytaglib.tld" prefix="myprefix" %>
...
<myprefix:myaction> <%-- thẻ mở đầu %>
...
</myprefix:myaction> <%-- thẻ kết thúc %>
...
Bộ biên dịch JSP sẽ đọc tập tin XML mytaglib.tld và phát hiện rằng thẻ myaction được thực hiện bởi lớp Java (java class) tên MyActionTag (xem ở dưới). Lần đầu tiên, khi thẻ này được dùng trong tập tin JSP, nó sẽ tạo nên một thực thể (instance) của MyActionTag. Sau đó (và mỗi lần thẻ này được dùng lại), nó sẽ khởi động phương thức doStartTag() khi nó gặp thẻ "mở đầu" (start). Nó thẩm tra kết quả của thẻ "mở đầu", và quyết định phương pháp để xử lý phần thân của thẻ. Thân của thẻ là phần văn bản nằm giữa thẻ "mở đầu" và thẻ "kết thúc" (end). Phương thức doStartTag() có thể trả về một trong những hằng sau:
SKIP_BODY - Phần thân giữa thẻ không được xử lý (bỏ qua)
EVAL_BODY_INCLUDE - định giá trị phần thân của thẻ
EVAL_BODY_TAG - định giá trị phần thân của thẻ và đẩn kết quả vào luồng dữ liệu (được lưu trong thuộc tính về nội dung thân của thẻ).
Chú ý: Nếu thẻ là kế thừa (extends) của lớp BodyTagSupport, thì phương thức doAfterBody() sẽ được khởi động khi phần thân được xử lý, trước khi khởi động doEndTag(). Phương thức này dùng để thực hiện cấu trúc lặp vòng.
Khi gặp thẻ "kết thúc", nó gọi phương thức doEndTag(). Phương thức này có thể trả lại một trong hai giá trị:
EVAL_PAGE - ám chỉ rằng phần còn lại của tập tin JSP cần phải được xử lý.
SKIP_PAGE - ám chỉ rằng không còn phần xử lý nào cần phải làm nữa. Quyền khống chế sẽ rời khỏi trang JSP. Phương pháp này được dùng trong hành động chuyển trang (forwarding action).
Thẻ myaction cần phải có một lớp (class) thực thi nó, tương tự như phần sau đây:
public class MyActionTag extends TagSupport {
//Giải phóng mọi thực thể của biến (instance variable) - trong bộ nhớ.
public void release() {...}
public MyActionTag() {... }
//gọi khi gặp thẻ "mở đầu"
public int doStartTag() {... }
//gọi khi gặp thẻ "kết thúc"
public int doEndTag() {... }
}
Quốc tế hóa
Quốc tế hóa trong JSP có thể được thực hiện tương tự như phương pháp làm trong các trình ứng dụng Java thông thường, nghĩa là bằng cách dùng gói tài nguyên (resource bundle).
Việc thay đổi ngôn ngữ thể hiện trên các trang web được thực hiện một cách đơn giản thông qua việc thay đổi đơn vị locale. Bằng cách đó, lập trình viên có thể thực hiện thay đổi nội dung, ngôn ngữ... thông qua thay đổi các resource bundle này chứ không cần trực tiếp tác động lên code của trang JSP hay code của taglib.
JSP 2.0
Phiên bản đặc tả mới của JSP bao gồm những đặc trưng mới nhằm nâng cao hiệu năng của nhà lập trình (hầu cho họ làm việc được nhanh và có kết quả hơn), gọi là:
Ngôn ngữ biểu thức (JSP Expression Language - viết tắt là JSP EL) nhằm cho phép các nhà phát triển tạo ra mẫu (templates) theo phong cách Tốc lực (Velocity) (và những cái khác nữa).
Một phương thức nhanh gọn / dễ dàng để tạo ra các thẻ mới.
Hello, ${param.visitor} <%-- giống như: Hello, <%=request.getParameter("visitor")%> --%>
Mẫu hình MVC
Sun khuyến cáo việc sử dụng mẫu hình MVC (Model-View-Controller - tạm dịch là "Mô hình dữ liệu - giao diện người dùng - lôgic điều khiển", có thể gọi ngắn là "mô hình - giao diện - điều khiển") cho các tập tin JSP để có thể tách biệt phần trình bày (presentation) khỏi phần xử lý yêu cầu (request processing) và lưu trữ dữ liệu (data storage). Hoặc là các servlets thông thường
hoặc là các tập tin JSP phải được sử dụng để xử lý yêu cầu. Sau khi đã hoàn thành việc xử lý yêu cầu, quyền điều khiển được chuyển sang cho một trang JSP khác. Trang này chỉ được dùng để tạo xuất liệu, tức là hiển thị ở đầu ra. Hiện nay có một vài hệ nền (platforms) được tạo dựa trên nền của nguyên lý mẫu hình MVC cho các tầng máy web (web tiers) (chẳng hạn như Struts và cơ cấu Spring (Spring framework))
Ví dụ
Mặc dầu bộ biên dịch JSP kiến tạo mã nguồn Java cho servlet hoặc phát ra mã byte của Java (byte code) trực tiếp, chúng ta cũng nên hiểu quá trình bộ biên dịch JSP biến đổi một trang JSP trở thành một servlet của Java như thế nào. Chẳng hạn, chúng ta thử cân nhắc những dữ liệu nhập của JSP sau đây, và kết quả Java Servlet mà nó sinh tạo.
Trang JSP nhập vào
<nowiki>
<%@ page errorPage="myerror.jsp" %>
<%@ page import="com.foo.bar" %>
<html>
<head>
<%! int serverInstanceVariable = 1;%>
...
<% int localStackBasedVariable = 1; %>
<table>
<tr><td><%= toStringOrBlank("expanded inline data" + 1) %></td></tr>
...
</nowiki>
Kết quả servlet được sinh tạo
<nowiki>
package jsp_servlet;
import java.util.*;
import java.io.*;
import javax.servlet.*;
import javax.servlet.http.*;
import javax.servlet.jsp.*;
import javax.servlet.jsp.tagext.*;
import com.foo.bar; //nhập nội do kết quả của dòng <%@ page import="com.foo.bar" %>
import...
class _myserlvet implements javax.servlet.Servlet, javax.servlet.jsp.HttpJspPage {
//được chèn thêm vào
//do kết quả của dòng <%! int serverInstanceVariable = 1;%>
int serverInstanceVariable = 1;
...
public void _jspService(javax.servlet.http.HttpServletRequest request,
javax.servlet.http.HttpServletResponse response)
throws javax.servlet.ServletException,
java.io.IOException
{
javax.servlet.ServletConfig config =...;//lấy cấu hình của servlet vào
Object page = this;
PageContext pageContext =...;//lấy ngữ cảnh của trang đối với yêu cầu này
javax.servlet.jsp.JspWriter out = pageContext.getOut();
HttpSession session = request.getSession(true);
try {
out.print("<html>\r\n");
out.print("<head>\r\n");
...
//sinh ra từ dòng <% int localStackBasedVariable = 1; %>
int localStackBasedVariable = 1;
...
out.print("<table>\r\n");
out.print(" <tr><td>");
//để ý, toStringOrBlank() đổi biểu thức thành chuỗi ký tự hoặc
// nếu biểu thức không tồn tại (null), dùng chuỗi ký tự trống rỗng (empty string) thay thế.
//từ dòng <%= "expanded inline data " + 1 %>
out.print(toStringOrBlank("expanded inline data " + 1));
out.print(" </td></tr>\r\n");
...
} catch (Exception _exception) {
//dọn dẹp sạch sẽ và chuyển hướng điều khiển tới trang báo lỗi như trong dòng <%@ page errorPage="myerror.jsp" %>
}
}
}
</nowiki>
Sách
JavaServer Pages, Third Edition, Hans Bergsten, O'Reilly & Associates, Inc., Sebastopol, California, 2003. ISBN 0-596-00563-6 |
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai.
Năm 794, Kyoto (lúc đó được gọi là Heian-kyō) được chọn làm kinh đô mới của triều đình Nhật Bản. Các Thiên hoàng Nhật Bản cai trị ở Kyoto trong 11 thế kỷ cho đến năm 1869 khi triều đình chuyển đến Tokyo. Thành phố bị tàn phá trong Chiến tranh Ōnin vào thế kỷ 15 và bước vào thời kỳ suy tàn kéo dài, nhưng dần dần hồi sinh dưới thời Mạc phủ Tokugawa (1600-1868) và phát triển mạnh mẽ để trở thành một thành phố lớn ở Nhật Bản. Thành phố hiện đại của Kyoto được thành lập vào năm 1889. Thành phố đã tránh khỏi sự tàn phá quy mô lớn trong Thế chiến II và kết quả là di sản văn hóa trước chiến tranh của nó được bảo tồn khá nhiều.
Kyoto được coi là thủ đô văn hóa của Nhật Bản và là một điểm đến du lịch lớn. Đây là nơi có nhiều đền thờ Phật giáo, đền thờ Thần đạo, cung điện và vườn, nhiều trong số đó được UNESCO liệt kê là Di sản Thế giới. Các địa danh nổi bật bao gồm Cung điện Hoàng gia Kyoto, Kiyomizu-dera, Kinkaku-ji, Ginkaku-ji và Biệt thự Hoàng gia Katsura. Kyoto cũng là một trung tâm của cao học, với Đại học Kyoto là một trường nổi tiếng thế giới.
Tên gọi
Trong tiếng Nhật, trước đây, Kyoto được gọi là Kyō (), Miyako () hoặc Kyō no Miyako (). Vào thế kỷ 11, thành phố được đổi tên thành "Kyōto" (京都, "kinh đô"), từ Hán trung cổ (cf. Mandarin jīngdū). Sau khi thành phố Edo được đổi tên thành "Tōkyō" (, "Đông kinh") vào năm 1868 và kinh đô chuyển đến đó, Kyoto trong một thời gian ngắn được gọi là Saikyō (, "Tây kinh"). Kyoto đôi khi cũng được gọi là Thiên niên chi đô - Thủ đô nghìn năm ().
Quốc hội Nhật Bản không bao giờ chính thức thông qua bất kỳ luật chỉ định một thủ đô. Các cách viết nước ngoài cho tên thành phố bao gồm Kioto, Miaco (都 miyako, có nghĩa "đô") và Meaco, được sử dụng chủ yếu bởi người vẽ bản đồ Hà Lan. Một thuật ngữ khác thường được sử dụng để chỉ thành phố trong thời kỳ tiền hiện đại là , "thủ đô".
Lịch sử
Nguồn gốc
Bằng chứng khảo cổ học phong phú cho thấy sự định cư của con người ở Kyoto bắt đầu sớm nhất là vào thời kỳ Cổ sinh, mặc dù không có nhiều tài liệu công bố được giữ lại về hoạt động của con người trong khu vực trước thế kỷ thứ 6, khoảng thời gian đó, đền Shimogamo được cho là đã được thành lập.
Heian-kyō
Trong thế kỷ thứ 8, khi các giáo sĩ Phật giáo hùng mạnh và tham gia vào các vấn đề của chính quyền Hoàng gia, Thiên hoàng Kanmu đã chọn di dời thủ đô để tránh xa cơ sở giáo sĩ ở Nara. Lựa chọn cuối cùng của anh cho địa điểm là ngôi làng Uda, thuộc huyện Kadono, tỉnh Yamashiro.
Thành phố mới, , một bản sao thu nhỏ của thủ đô nhà Đường Trung Quốc thời bấy giờ Trường An, trở thành kinh đô triều đình Nhật Bản vào năm 794, bắt đầu thời Heian của lịch sử Nhật Bản. Mặc dù các nhà cai trị quân sự đã thành lập chính phủ của họ ở Kyoto (Mạc phủ Muromachi) hoặc ở các thành phố khác như Kamakura (Mạc phủ Kamakura) và Edo (Mạc phủ Tokugawa), Kyoto vẫn là thủ đô của Nhật Bản cho đến khi triều đình chuyển đến Tokyo vào năm 1869 tại thời điểm Minh Trị Duy tân.
Thành phố đã bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Ōnin từ năm 1467 đến năm 1477 và không thực sự hồi phục cho đến giữa thế kỷ 16. Trong suốt chiến tranh Ōnin, mạc phủ sụp đổ và quyền lực được chia cho các gia đình quân nhân. Các trận chiến giữa các phe phái samurai tràn ra đường và liên quan đến giới quý tộc triều đình (kuge) cùng các phe phái tôn giáo. Lâu đài của những người quý tộc đã được biến thành pháo đài, những rãnh hào sâu được đào khắp thành phố để phòng thủ và nhiều tòa nhà bị đốt cháy. Đây là lần tàn phá khủng khiếp nhất từ trước đến nay.
Vào cuối thế kỷ 16, Toyotomi Hideyoshi đã xây dựng lại thành phố bằng cách xây dựng các đường phố mới để nhân đôi số lượng đường phố bắc nam ở trung tâm Kyoto, tạo ra các khối hình chữ nhật thay thế các khối vuông cổ xưa. Hideyoshi cũng đã xây những bức tường đất gọi là bao quanh thành phố. Đường Teramachi ở trung tâm Kyoto là một khu đền thờ Phật giáo nơi Hideyoshi tập hợp các ngôi đền trong thành phố. Trong suốt thời Edo, nền kinh tế của thành phố phát triển mạnh mẽ và là một trong ba thành phố lớn ở Nhật Bản, hai thành phố khác là Osaka và Edo.
Tân Kyoto
Cuộc nổi dậy Hamaguri năm 1864 đã thiêu rụi 28.000 ngôi nhà trong thành phố, điều này cho thấy sự bất mãn của phiến quân đối với Mạc phủ Tokugawa. Việc di chuyển tiếp theo của Thiên hoàng đến Tokyo vào năm 1869 đã làm suy yếu nền kinh tế. Thành phố hiện đại Kyoto được hình thành vào ngày 1 tháng 4 năm 1889. Việc xây dựng kênh đào hồ Biwa vào năm 1890 là một biện pháp để hồi sinh thành phố. Dân số của thành phố vượt quá một triệu vào năm 1932.
Hoa Kỳ cân nhắc khi nhắm mục tiêu thả bom nguyên tử vào cuối Thế chiến II vào Kyoto bởi vì nó là một trung tâm trí tuệ của Nhật Bản, nó có một dân số đủ lớn để có thể thuyết phục Thiên hoàng đầu hàng. Cuối cùng, Henry L. Stimson, Bộ trưởng Chiến tranh ở chính quyền Roosevelt và Truman khẳng định thành phố đã bị xóa khỏi danh sách các mục tiêu và được thay thế bởi Nagasaki. Thành phố cũng không bị ném bom trong các lần khác mặc dù các cuộc không kích quy mô nhỏ đã gây thương vong.
Do đó, Thành phố Hoàng gia của Kyoto là một trong số ít các thành phố của Nhật Bản vẫn còn rất nhiều tòa nhà trước chiến tranh, như nhà phố truyền thống được gọi là machiya. Tuy nhiên, việc hiện đại hóa đang tiếp tục phá vỡ truyền thống Kyoto để xây các kiến trúc mới hơn, chẳng hạn như khu phức hợp ga Kyōto.
Kyoto trở thành đô thị cấp quốc gia bởi sắc lệnh của chính phủ vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Năm 1997, Kyoto đã tổ chức hội nghị về phát thải khí nhà kính.
Địa lý
Kyoto nằm trong một thung lũng, một phần của lưu vực Yamashiro (hay Kyoto), ở phía đông của khu vực miền núi được gọi là vùng cao nguyên Tamba. Lưu vực Yamashiro bao quanh ba mặt bởi các núi là Higashiyama, Kitayama và Nishiyama với độ cao chỉ hơn 1000 mét trên mực nước biển. Các ngọn núi này đã mang đến mùa Hè nóng và mùa Đông lạnh. Có ba con sông trong lưu vực: Ujigawa ở phía nam, Katsuragawa ở phía tây và Kamogawa ở phía đông. Thành phố Kyoto chiếm 17,9% đất đai trong tỉnh với diện tích 827,9 km².
Thành phố ban đầu được bố trí theo phong thủy truyền thống của Trung Quốc theo mô hình của thủ đô Trường An cổ đại của Trung Quốc. Cung điện hoàng gia nhìn về phía Nam, do đó Ukyō (phần bên phải của kinh đô) nằm ở phía Tây trong lúc Sakyō (phần bên trái) nằm ở phía Đông. Các phố ở các phường ngày nay Nakagyō, Shimogyō và Kamigyō vẫn theo kiểu bố trí này.
Ngày nay, quận kinh doanh chính nằm ở phía Nam của Cung điện hoàng gia cổ, với khu vực phía Bắc thưa dân hơn và vẫn còn nhiều mảng xanh. Các khu vực xung quanh không tuân theo kiểu bố trí như trung tâm thành phố. Kyoto được bao bọc ba bên xung quanh bởi các núi Higashiyama, Kitayama và Nishiyama, với độ cao chỉ khoảng 1000 m dưới mực nước biển.
Kyoto nằm trên những giếng nước ngọt lớn. Do quá trình đô thị hóa quy mô lớn, lượng mưa chảy vào tầng nước ngầm đang cạn dần và các giếng trên toàn khu vực đang khô với tốc độ ngày càng tăng.
Nhân khẩu học
Trong lịch sử, Kyoto là thành phố lớn nhất ở Nhật Bản, sau đó bị Osaka và Edo (Tokyo) vượt qua vào cuối thế kỷ 16. Năm 1947, thành phố đứng vị trí thứ 3. Đến năm 1960, nó đã giảm xuống hạng 5 và đến năm 1990, nó đã giảm xuống hạng 7 và năm 2015 là hạng 9.
Khí hậu
Kyoto có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) với sự thay đổi rõ rệt theo mùa về nhiệt độ và lượng mưa. Mùa hè nóng và ẩm, nhưng mùa đông tương đối lạnh với tuyết rơi thỉnh thoảng. Mùa mưa ở Kyoto bắt đầu vào khoảng giữa tháng 6 và kéo dài đến cuối tháng 7, mang lại một nửa cuối mùa hè nóng và nắng. Kyoto cùng với hầu hết các thành phố ven bờ biển Thái Bình Dương và các khu vực trung tâm của Nhật Bản dễ bị bão trong tháng 9 và tháng 10.
Chính trị và chính phủ
Thị trưởng được bầu trực tiếp tại Kyoto năm 2013 là Daisaku Kadokawa, một đảng độc lập được hỗ trợ bởi Đảng Dân chủ Nhật Bản, Đảng Dân chủ Tự do, Đảng Komeito mới, Đảng của bạn và Đảng Dân chủ Xã hội. Hội đồng thành phố lập pháp có 69 thành viên được bầu.
Hội đồng thành phố Kyoto
Bầu cử
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2008
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2012
Bầu cử thị trưởng Kyoto 2016 (:ja:2016年京都市長選挙)
Khu
Kyoto có 7 .
Chúng cùng nhau tạo nên thành phố Kyoto. Giống như các thành phố khác ở Nhật Bản, Kyoto có một thị trưởng duy nhất và một hội đồng thành phố.
Văn hóa
Mặc dù bị tàn phá bởi chiến tranh, hỏa hoạn và động đất trong suốt 11 thế kỷ là thủ đô nhưng Kyoto vẫn không bị tàn phá bởi bom lửa trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó đã bị xóa khỏi danh sách mục tiêu bom nguyên tử bởi sự can thiệp cá nhân của Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson vì ông muốn cứu trung tâm văn hóa này, nơi ông biết từ tuần trăng mật và các chuyến thăm ngoại giao trước đó. Kyoto đã và vẫn là trung tâm văn hóa của Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang chuyển Cơ quan các vấn đề văn hóa đến Kyoto vào năm 2021.
Với 2000 ngôi đền đạo Phật và 400 đền Thần đạo, cũng như các cung điện, vườn thượng uyển và các công trình kiến trúc còn nguyên vẹn, Kyoto là một trong những thành phố được bảo tồn tốt nhất của Nhật Bản. Trong số các ngôi đền nổi tiếng của Kyoto phải kể đến Kiyomizu-dera, một ngôi đền bằng gỗ nằm trên loạt móng cọc gỗ cắm trên sườn núi dốc; Kinkaku-ji, ngôi đền được dát vàng; Ginkaku-ji, ngôi đền được dát bạc; Ryōan-ji, nổi tiếng về khu vườn đá. Đền Heian Jingū là một đền Shinto đánh dấu thời kỳ hoàng gia (xây dựng năm 1895) và kỷ niệm vị Thiên hoàng đầu tiên và cuối cùng đóng đô tại Kyoto. Có 3 địa điểm đặc biệt liên quan đến Hoàng gia ở Kyoto, đó là Cung điện Hoàng gia Kyoto, nơi ở của các vị Thiên hoàng Nhật trong nhiều thế kỷ; biệt thự Hoàng gia Katsura, một trong những công trình kiến trúc cầu kỳ nhất nước Nhật; và biệt thự Hoàng gia Shugaku-in, một trong những khu vườn Nhật đẹp nhất. Ngoài ra, đền thờ Sennyu-ji còn có lăng mộ của các Thiên hoàng từ Shijō đến Kōmei.
Các địa điểm đáng chú ý khác ở quanh Kyoto gồm có Arashiyama và khu hồ đẹp như tranh vẽ, khu Gion và Pontochō nơi hoạt động của các Geisha, đường đi dạo Philosopher, và các kênh đào chạy dọc theo các con phố cổ.
Các công trình lịch sử của cố đô Kyoto được UNESCO liệt kê trong thành các Di sản Thế giới. Chúng gồm các ngôi đền Kamo (Kami và Shimo), Kinkakuji, Kyō-ō-Gokokuji (Tō-ji), Kiyomizu-dera, Daigo-ji, Ninna-ji, Saihō-ji (Kokedera), Tenryū-ji, Rokuon-ji (Kinkaku-ji), Jishō-ji (Ginkaku-ji), Ryōan-ji, Hongan-ji, Kōzan-ji và lâu đài Nijo, chủ yếu được xây dựng bởi các tướng quan thời. Các công trình khác nằm bên ngoài thành phố cũng được liệt kê trong danh sách.
Kyoto cũng nổi tiếng về các món ăn truyền thống và cách nấu nướng phong phú. Các nghi lễ đặc biệt của Kyoto như một thành phố xa biển và là nơi có nhiều đền thờ Phật tạo ra sự phát triển của các loại rau quả khác nhau rất đặc biệt của vùng Kyoto (京野菜 kyōyasai).
Ngành công nghiệp truyền hình và điện ảnh của Nhật cũng có trung tâm ở Kyoto. Rất nhiều jidaigeki, phim hành động samurai được quay tại Toei Uzumasa Eigamura. Một bộ phim và công viên chủ đề, Eigamura có các bản sao của các tòa nhà truyền thống của Nhật Bản, được sử dụng cho jidaigeki. Trong số các bộ có một bản sao của Nihonbashi cũ (cây cầu ở lối vào Edo), một tòa án truyền thống, một bốt cảnh sát thời Minh Trị và một phần của khu đèn đỏ Yoshiwara cũ. Việc quay phim thực tế thỉnh thoảng diễn ra và du khách được chào đón để quan sát.
Phương ngữ được nói ở Kyoto được gọi là Kyō-kotoba hoặc Kyōto-ben, một phương ngữ cấu thành của phương ngữ Kansai. Khi Kyoto là thủ đô của Nhật Bản, phương ngữ Kyoto là tiêu chuẩn thực của Nhật Bản và ảnh hưởng đến sự phát triển của phương ngữ Tokyo, tiêu chuẩn Nhật Bản hiện đại. Courtesans thực hiện nhiệm vụ tại Tokyo được gọi là "Edokko" (bourgois). Thành ngữ nổi tiếng ở Kyoto là một copula dosu lịch sự, một động từ kết thúc lịch sự -haru, một cụm từ chào mừng okoshi-yasu "xin chào", v.v.
Kinh tế
Ngành du lịch là cơ sở chính của kinh tế Kyoto. Du khách đến tham quan cảnh đẹp và di sản văn hóa của Kyoto. Tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ. Thành phố Kyoto là trung tâm sản xuất áo kimono. Công nghiệp nặng chủ yếu là sản xuất hàng điện tử, đây là nơi đóng trụ sở của các hãng Nintendo, OMRON, Kyocera, và Murata Machinery. Hãng Wacoal lớn cũng hoạt động ở đây. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của ngành công nghệ cao cũng không kịp nhịp suy giảm của công nghiệp truyền thống. Sản lượng công nghiệp của Kyoto đã giảm sút khá nhiều và giảm sút so với các thành phố Nhật Bản.
Đại học cao đẳng
Có 37 viện và trường đại học ở Kyoto. Kyoto là một trong những trung tâm học thuật của Nhật Bản. 3 trường đại học nổi tiếng lớn nhất là Đại học Doshisha, Đại học Kyoto và Đại học Ritsumeikan. Trong số đó, Đại học Kyoto được xem là một trong những đại học hàng đầu Nhật Bản với nhiều người đoạt giải Nobel như Yukawa Hideki và Yamanaka Shinya.
Kyoto có một mạng lưới giáo dục bậc cao duy nhất, đó là Liên hiệp các trường đại học của Kyoto, bao gồm 3 trường đại học quốc gia, 5 trường thuộc tỉnh và thành phố, và 41 trường tư thục, cùng với 4 tổ chức khác của thành phố. Liên hiệp không cấp bằng mà cung cấp các khóa học từng phần của bằng cấp tại các trường thành viên.
Giao thông
Nhà ga Kyoto là đầu mối giao thông của thành phố. Là nhà ga lớn thứ nhì của Nhật, cao 15 tầng, nó bao gồm một trung tâm mua sắm lớn, khách sạn, rạp chiếu phim và siêu thị Isetan. Tuyến đường tàu cao tốc Tōkaidō Shinkansen (xem bên dưới) cũng như tất cả các tuyến đường tàu địa phương đều được kết nối tại đây.
Hệ thống tàu điện ngầm và mạng lưới xe buýt thành phố của Kyoto có phạm vi rất rộng. Các tuyến đường tàu tư nhân cũng hoạt động trong phạm vi thành phố. Khách du lịch cũng thường xuyên tham gia giao thông trên các tuyến xe buýt công cộng, xe buýt du lịch hoặc đi taxi. Xe buýt vận hành trên tất cả các tuyến đường trong thành phố, đặc biệt tại các nơi không có tàu điện. Xe buýt ở Kyoto có thông báo bằng tiếng Anh đi kèm với bảng điện tử báo hiệu điểm dừng tại các bến đỗ có ghi tên dùng ký tự La tinh.
Hầu hết các xe buýt trong thành phố đều có mức giá cố định: 230 yên/người lớn và 120 yên/trẻ em 6-12 tuổi. Bên cạnh đó còn có vé đi không giới hạn 1 ngày trong thành phố (500 yên/người lớn và 250 yên/trẻ em) hay vé kết hợp giữa tàu và xe buýt (1200 yên/người lớn và 600 yên/trẻ em). Hình thức vé này đặc biệt tiện dụng cho việc đi tham quan nhiều địa điểm khác nhau trong 1 ngày của du khách. Trung tâm thông tin xe buýt ở ngay bên ngoài nhà ga trung tâm phụ trách việc bán vé. Công ty vận tải của thành phố cũng phân phát các tờ rơi rất hữu ích, gọi là "Bus Navi". Tờ rơi này bao gồm bản đồ các tuyến đường đi của xe buýt tới hầu hết các địa điểm du lịch cùng với giá vé. Khách du lịch có thể dễ dàng lấy tờ rơi này tại các trung tâm cung cấp thông tin cho khách hàng ở trước cửa các nhà ga chính.
Tuyến tàu điện cao tốc Tōkaidō Shinkansen phục vụ vận chuyển hành khách giữa Kyoto với Nagoya và Tokyo (theo một hướng) và vùng Osaka cũng như các địa điểm khác ở phía tây (theo hướng ngược lại). Tàu Tōkaidō Shinkansen đi từ nhà ga trung tâm Kyoto đến nhà ga trung tâm Tokyo mất khoảng 140 phút. Một đường khác dẫn đến Kyoto là qua sân bay quốc tế Kansai. Tuyến tàu nhanh Haruka Express đưa hành khách từ sân bay tới nhà ga Kyoto trong vòng 72 phút. Ngoài ra cũng có các tuyến tàu khác như JR, Keihan, Hankyu hay Kintetsu và các tuyến khác dẫn đến Kyoto cũng như các thành phố lân cận trong vùng Kansai.
Ngoài ra, đi xe đạp cũng là một cách đi lại phổ biến trong thành phố, thậm chí nó còn như một văn hóa đi xe đạp của cố đô Kyoto. Địa hình và phạm vi của thành phố cũng phù hợp cho việc đi lại bằng xe đạp.
Du lịch
Kyoto chứa khoảng 2.000 ngôi đền và đền thờ.
Di sản thế giới UNESCO
Khoảng 20% Kho báu Quốc gia Nhật Bản và 14% Tài sản Văn hóa Quan trọng tồn tại trong thành phố. Di sản thế giới được UNESCO công nhận là Di tích lịch sử của thành phố cổ Kyoto (thành phố Kyoto, Uji và Otsu) bao gồm 17 địa điểm ở Kyoto, Uji ở tỉnh Kyoto và Ōtsu ở tỉnh Shiga. Địa điểm được chỉ định là Di sản Thế giới năm 1994.
Bảo tàng
Umekoji Steam Locomotive Museum
()
Kitamura Museum ()
The ()
()
Kyoto Municipal Museum of Art
Kyoto City Archaeological Museum ()
Kyoto Art Center
The Kyoto International Manga Museum
The National Museum of Modern Art, Kyoto
The Kyoto National Museum ()
The Kyoto University Museum ()
()
The Museum of Kyoto ()
The Kyoto Botanical Garden ()
()
()
Koryo Museum of Art ()
()
Ryozen Museum of History ()
Sen-oku Hakuko Kan ()
Toei Kyoto Studio Park ()
Nomura Art Museum ()
()
The Yurinkan Museum ()
The ()
The Hosomi Museum ()
Hakusasonso Hashimoto Kansetsu Garden and Museum ()
The Raku Museum ()
Kyoto Museum for World Peace of Ritsumeikan University ()
Ōkōchi Sansō ()
The Kyoto Kaleidoscope Museum ()
Shigureden
Kyoto Railway Museum
Lễ hội
Kyoto nổi tiếng với các lễ hội truyền thống đã được tổ chức trong hơn 1000 năm và là một điểm thu hút khách du lịch lớn. Đầu tiên là Aoi Matsuri vào ngày 15 tháng 5. Hai tháng sau (từ 1 đến 31 tháng 7) là Gion Matsuri được biết đến là một trong 3 lễ hội lớn của Nhật Bản, đỉnh cao là một cuộc diễu hành lớn vào ngày 17 tháng 7. Kyoto đánh dấu Lễ hội Bon với Gozan no Okuribi bằng việc thắp sáng ngọn lửa trên núi để hướng dẫn các linh hồn về nhà (ngày 16 tháng 8). Ngày 22 tháng 10, Jidai Matsuri, Lễ hội thời đại, kỷ niệm quá khứ lừng lẫy của Kyoto.
Quan hệ quốc tế
Kyoto từng là thành phố thủ đô của Nhật Bản, nơi học tập và văn hóa, có mối quan hệ lâu dài với các thành phố lớn khác trên thế giới. Nhiều học giả, nghệ sĩ và nhà văn nước ngoài đã ở lại Kyoto trong nhiều thế kỷ.
Thành phố kết nghĩa
Thành phố Kyoto có mối quan hệ với các thành phố sau đây:
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ (1959)
Cologne, North Rhine-Westphalia, Đức (1963)
Prague, Cộng hòa Séc (1996)
Florence, Toscana, Ý (1965)
Kiev, Ukraine (1971)
Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc (1974)
Guadalajara, Jalisco, México (1980)
Zagreb, Croatia (1981)
Partner cities
Ngoài các thành phố kết nghĩa hợp tác nhiều mặt, Kyoto đã tạo ra một hệ thống "thành phố đối tác" tập trung vào hợp tác dựa trên một chủ đề cụ thể. Hiện tại, Kyoto đã sắp xếp thành phố đối tác với các thành phố sau đây:
Jinju, Tỉnh Nam Gyeongsang, Hàn Quốc (1999)
Konya, Thổ Nhĩ Kỳ (2009)
Paris, Pháp (1958)
Thanh Đảo, Sơn Đông, Trung Quốc (2012)
Huế, Việt Nam (2013)
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ (2013)
Varanasi, Uttar Pradesh, Ấn Độ (2014)
Viên Chăng, Lào (2015)
Thể thao
Trong môn bóng đá, Kyoto có đại diện là Kyoto Purple Sanga who rose to J. League's Division 1 in 2005. With the popularity of the nearby Hanshin Tigers, Kyoto chưa từng có đội bóng nào tham dự giải Bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản, though the Tigers play several neutral-site games at Kyoto's Nishi Kyogoku stadium every year.
Bên cạnh đó, các đội bóng chày của các trường trung học ở Kyoto cũng khá mạnh, cùng với Heian và Toba tạo nên đội quân hùng mạnh tại giải thi đấu hàng năm được tổ chức tại sân vận động Koshien, Nishinomiya gần Osaka. |
Hiện nay có nhiều tên gọi được sử dụng để chỉ Triều Tiên. Trong tiếng Triều Tiên, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (tức Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) dùng tên Chosŏn/Joseon (조선, 朝鮮, Triều Tiên), trong khi Đại Hàn Dân Quốc (tức Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) dùng tên Hanguk (한국, 韓國, Hàn Quốc). Trong giao dịch quốc tế, cả hai bên đều dùng tên tiếng Anh là Korea. Bài này giải thích lịch sử và quá trình sử dụng của những tên này.
Lịch sử
Xem thêm: Lịch sử Triều Tiên
Sử sách lâu đời nhất của Triều Tiên được viết bằng chữ Hán mà người Triều Tiên gọi là hanja, tuy hai ngôn ngữ này không cùng hệ ngôn ngữ. Ngay sau khi Hangul được sáng chế, người Triều Tiên vẫn dùng chữ hanja để viết sử sách, tương tự như chữ nho trong tiếng Việt. Hơn thế nữa, cách đọc của mỗi Hán tự của hai ngôn ngữ có nhiều điểm khác nhau, và thay đổi theo thời gian.
Vì những lý do trên, cùng với sử sách nhiều khi đối nghịch nhau, việc định rõ nghĩa gốc và cách đọc những tên cổ đại vẫn còn khó khăn.
Lịch sử cổ đại
Cổ Triều Tiên
Từ khoảng Công nguyên trở về trước bắc phần Triều Tiên và một phần Mãn Châu thuộc nước Cổ Triều Tiên (古朝鮮, 조선, Gojoseon). Chữ "Cổ" (古, Go), được dùng để phân biệt với các triều đại sau này.
Các nhà cổ học cho rằng âm Triều Tiên có lẽ thời trước đọc là "Jyusin". Sử Trung Hoa ghi lại bằng ba cách:
肅愼 (숙신, suksin) âm Hán Việt: Túc Thận)
稷愼 (직신, jiksin): Tắc Thận
息愼 (식신, siksin): Tức Thận").
Có thuyết thì cho rằng ba âm trên đúng ra là tên gọi tổ tiên giống dân Nữ Chân (여진, 女眞).
Còn về địa danh 朝鮮: Triều Tiên (có nghĩa Hán là buổi sáng tươi đẹp) thì gốc của nó là dịch nghĩa Asadal (아사달) vốn là kinh đô xứ Cổ Triều Tiên. Trong tiếng Hàn asa có nghĩa là buổi sáng, còn tar có nghĩa là đất hay núi.
Hàn
Cũng vào thời điểm này, một số bộ lạc ở miền Nam Triều Tiên hợp thành liên minh, gọi chung là "Tam Hàn" (三韓, 삼한, Samhan). Hàn là một từ gốc Triều Tiên có nghĩa là "lãnh tụ" hay "vĩ đại" như trong maripgan ("vua", nghĩa cổ), halabeoji ("ông"), và có thể là hana ("một") và haneul ("bầu trời").
Hàn được viết trong sử sách Trung Hoa là 韓 (한, han, hàn), 幹 (간, gan, cán), 刊 (간, gan, khan), 干 (간, gan, can) hay 漢 (한, han, hán), nhưng không có liên hệ đến người Trung Quốc, cũng gọi là người Hán.
Cao Câu Ly
Vào khoảng đầu Công nguyên, các phần tản mát của Cổ Triều Tiên bị sụp đổ được thống nhất lại và được mở rộng bởi vương quốc Cao Câu Ly (Koguryo). Tên này cũng là một tên gốc Triều Tiên, chắc được đọc như "Guri". Trong chữ Hán, nó được viết là: 高駒麗 (고구려, goguryeo hay koguryo), 高麗 (고려, goryeo, hay "Cao Ly"), 高離 (고리, gori, hay "Cao Ly") hay 句麗 (구려, guryeo, hay "Cú Ly"). Trong 高駒麗, chữ 高 (cao) là một tính từ, không phải là một phần của tên. Chữ 麗 (ly) đôi khi được đọc là "ri".
Tên gốc trong tiếng Triều Tiên được nhiều người tin là Guru (구루, "tường thành") hay Gauri (가우리, "trung tâm").
Giả thuyết rằng Triều đại sáng lập ra nước Cao Câu Ly là họ Cao (Ko hay Go) đã không được tin nữa (Triều đại đặt tên theo tên quốc gia).
Cao Ly, Triều Tiên và Đại Hàn
Tại miền Nam, các liên minh Hàn đã hợp vào trong các vương quốc Bách Tế (百濟, 백제, Baekje), Tân La (新羅, 신라, Silla), cùng với Cao Cú Ly tạo thành Tam Quốc. Năm 668, Tân La hợp nhất ba vương quốc lại, và năm 935 Tân La thống nhất bị lật đổ.
Vương quốc mới này lấy tên là Cao Ly (고려; 高麗, Goryeo). Qua Con đường tơ lụa, Tân La và Cao Ly được Ấn Độ và Trung Đông biết đến. Cao Ly được phiên âm theo tiếng Ý là "Cauli", tên mà Marco Polo sử dụng trong quyển sách của ông. Từ chữ "Cauli", tiếng Anh phiên âm là "Corea", và nay thành "Korea" (xem Tên gọi trong các ngôn ngữ châu Âu dưới đây).
Năm 1392, Lý Thành Quế đổi tên đất nước thành "Triều Tiên". Năm 1897, quốc gia lại đổi tên, dùng tên gọi Hàn: Đại Hàn Đế quốc (대한제국, 大韓帝國, Daehan Jeguk).
Thế kỷ 20
Khi Triều Tiên rơi vào tay Nhật Bản năm 1910, tên này lại đổi thành Joseon (Triều Tiên, chính thức theo tiếng Nhật đọc là Chosen). Trong thời kỳ này có nhiều nhóm khác nhau ở bên ngoài Triều Tiên đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc này, trong đó có Daehan Minguk Imsi Jeongbu (대한민국 임시정부, 大韓民國 臨時政府, nghĩa là "Đại Hàn Dân Quốc lâm thời chính phủ"; tiếng Anh dịch là Provisional Government of the Republic of Korea).
Triều Tiên trở nên độc lập sau khi Nhật Bản bại trận năm 1945. Đất nước Triều Tiên khi đó bị chia đôi, miền Bắc do Liên Xô chiếm đóng và miền Nam do Mỹ chiếm đóng.
Miền Nam năm 1948 đã lấy tên chính phủ lâm thời đã chọn là Daehan Minguk (대한민국, 大韓民國, tức "Đại Hàn Dân quốc"; tiếng Anh dịch là Republic of Korea) để tự đặt cho mình. Trong khi đó miền Bắc trở thành Chosŏn Minjujuŭi Inmin Konghwaguk (조선 민주주의 인민공화국, 朝鮮民主主義人民共和國, tức "Triều Tiên Dân chủ chủ nghĩa Nhân dân Cộng hòa quốc"; hay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tiếng Anh dịch là Democratic People's Republic of Korea).
Cách dùng hiện nay
Ngày nay, người CHDCND Triều Tiên dùng tên gọi Chosŏn (Triều Tiên) để chỉ toàn bộ hai miền và gọi từng nước (miền) là Bukchosŏn (북조선, 北朝鮮; "Bắc Triều Tiên") và Namjosŏn (남조선, 南朝鮮; "Nam Triều Tiên"). Người Hàn Quốc lại dùng các từ tương ứng là Hanguk (Hàn Quốc), và Bukhan (북한, 北韓; "Bắc Hàn" nghĩa là Triều Tiên).
Tiếng Triều Tiên được gọi là Chosŏnŏ hay Chosŏnmal (Triều Tiên ngữ) ở miền Bắc và Hangugeo hay Hangungmal (Hàn Quốc ngữ) ở miền Nam. Chosŏn'gŭl (chữ Triều Tiên) là tên gọi được dùng ở miền Bắc trong khi ở miền Nam nó được gọi là Hangul (chữ Hàn). Tương tự như vậy, bán đảo Triều Tiên được gọi là Chosŏn Pando (Triều Tiên bán đảo) ở miền Bắc và Hanbando (Hàn bán đảo) ở miền Nam. Các bản đồ chính thức ở cả hai miền đều không vẽ Giới tuyến phi quân sự phân chia hai nước, tạo cảm giác về một đất nước thống nhất.
Cách gọi ở Đông Á và Việt Nam
Gần đây báo chí ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có xu hướng sử dụng tên gọi mà mỗi miền tự dùng cho mình, nghĩa là gọi Bắc Triều Tiên là Chaoxian (朝鲜 "Triều Tiên") và Nam Hàn là Hanguo (韩国 "Hàn Quốc"). Trước đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn còn dùng cách của Bắc Triều Tiên gọi Nam Triều Tiên là Nanchaoxian (南朝鲜 "Nam Triều Tiên").
Từ 1949, Quốc gia Việt Nam đã thân với chính quyền Seoul, có lập trường là chống lại phe cộng sản.
Từ 1954 đến 1976, Bắc Việt Nam gọi hai nước Triều Tiên là Bắc Triều Tiên (hay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) và Nam Triều Tiên (hay Cộng hòa Triều Tiên), trong khi Nam Việt Nam gọi hai nước Triều Tiên là Bắc Hàn và Nam Hàn (hay Đại Hàn). Sau khi 2 nước Việt Nam tái thống nhất năm 1976, một cách gọi của miền Bắc Việt Nam được áp dụng trong toàn quốc cho tới khoảng giữa những năm 1990. Sau khi Hàn Quốc lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (năm 1993), báo chí Việt Nam bắt đầu gọi họ là Cộng hòa Triều Tiên (dịch từ "Republic of Korea"). Hàn Quốc chính thức đề nghị Việt Nam dùng quốc hiệu chính xác của họ là Đại Hàn Dân Quốc, hay gọi tắt là Hàn Quốc. Từ đó tên gọi Hàn Quốc trở thành phổ biến trong tiếng Việt.
Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) thì gọi Bắc Triều Tiên là Beihan (北韓 "Bắc Hàn") và Nam Triều Tiên là Nanhan (南韓 "Nam Hàn"). Tương tự như vậy, dân chúng ở vùng lãnh thổ Hồng Kông (Trung Quốc) và vùng lãnh thổ Macau (Trung Quốc) gọi Bắc Triều Tiên là Bak Hon (北韓 "Bắc Hàn") và Nam Triều Tiên là Nam Hon (南韓 "Nam Hàn").
Ở Nhật Bản, các tên gọi được dùng theo cách mà mỗi miền Triều Tiên vẫn dùng, theo đó thì Bắc Triều Tiên được gọi là Kita-Chosen (北朝鮮; "Bắc Triều Tiên") và Nam Triều Tiên là Kankoku (韓国 "Hàn Quốc"). Tiếng Triều Tiên ở Nhật Bản thường được gọi là Kankokugo (韓国語). Tuy nhiên khi Đài truyền hình NHK phát chương trình dạy tiếng Triều Tiên thì ngôn ngữ này được gọi là Hangulgo (ハングル語), có nghĩa là ngôn ngữ của hệ chữ viết Hangul. Cách gọi này không được dùng trong tiếng Nhật Bản thông thường, mà chỉ cách gọi thỏa hiệp cốt làm vừa lòng cả hai miền Triều Tiên theo kiểu uyển ngữ có tên là kotobagari.
Tên gọi trong các ngôn ngữ châu Âu
Cả miền Bắc và miền Nam Triều Tiên đều dùng tên "Korea" (hoặc tương đương) khi gọi nước mình trong tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ châu Âu khác. Công dân Nga và Trung Á gốc Triều Tiên tự gọi mình là "người Goryeo (Cao Ly)" để tránh 1 xung đột Bắc-Nam mà hòa hợp hòa giải. |
Chùa Linh Phước (chữ Hán: 靈福寺) tọa lạc tại số 120 Tự Phước, thuộc địa bàn Trại Mát, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 8 km, trên quốc lộ 20. Chùa còn được gọi là Chùa Ve Chai vì trong sân chùa có con rồng dài 49 m được làm bằng 12.000 vỏ chai lọ. Chùa Linh Phước là một công trình kiến trúc khảm sành đặc sắc của thành phố Đà Lạt.
Lịch sử
Chùa được khởi công xây dựng vào năm 1949, hoàn thành năm 1950. Năm 1990 thượng tọa Thích Tâm Vị cho trùng tu lại chùa và xây dựng thêm nhiều công trình mới.
Chùa Linh Phước trải qua 5 đời trụ trì:
Hòa thượng Thích Minh Thể (1951–1954)
Hòa thượng Thích An Hòa (1954–1956)
Hòa thượng Thích Quảng Phát (1956–1959)
Hòa thượng Thích Minh Đức (1959–1985)
Thượng tọa Thích Tâm Vị (từ 1985 đến nay)
Kiến trúc
Chánh điện dài 33 m, rộng 12 m có 2 hàng cột rồng khảm sành, bên trên là nhiều bức phù điêu khảm sành giới thiệu về lịch sử Phật Thích Ca và những điển tích trong các kinh Pháp hoa, kinh A di đà.
Sân chùa (Hoa Long Viên) có con rồng dài 49 m, vây rồng được làm bằng 12.000 vỏ chai bia, miệng rồng che phủ tượng Phật Di Lặc. Trước Hoa Long Viên là tòa Linh Tháp 7 tầng cao hơn 37 m, được coi là tháp chuông chùa cao nhất Việt Nam. Trong lòng tháp treo Đại Hồng Chung cao 4,3 m, miệng chuông rộng 2,33 m, nặng 8.500 kg, được đúc vào năm 1999, trước đây được xem là chuông nặng nhất Việt Nam, hiện nay chiếc chuông nặng nhất Việt Nam thuộc về Chuông tại Bảo Tháp của Chùa Bái Đính Ninh Bình. Trước sân chùa là đài Quán Thế Âm. Ngoài ra, nơi đây còn có nhà trưng bày đá quý, sành sứ cổ và đồ gỗ mỹ nghệ.
Ảnh
Chú thích |
Ngựa vằn đồng bằng (Equus quagga) là dạng ngựa vằn thông thường nhất và phân bổ rộng rãi nhất, đã từng được nhìn thấy trên các đồng bằng và đồng cỏ từ miền nam Ethiopia trải dài qua miền đông châu Phi xa về phía nam tới tận Angola và đông Nam Phi. Ngựa vằn đồng bằng hiện nay về số lượng là ít hơn so với trước đây do các hoạt động của con người như săn bắn để lấy thịt và da của chúng, cũng như sự xâm lấn khu vực sinh sống của chúng, nhưng chúng vẫn còn là phổ biến trong các khu vực cấm săn bắn.
Đặc điểm
Ngựa vằn đồng bằng có kích thước trung bình, cơ thể săn chắc và các chân tương đối ngắn. Ngựa vằn trưởng thành cao khoảng 1,4 mét tính từ vai trở xuống, dài khoảng 2,3 mét, và trọng lượng khoảng 230 kg. Giống như các loài ngựa vằn khác, chúng có các vằn màu đen và trắng đậm màu và không có bất kỳ 2 cá thể nào nhìn tương tự nhau. Hiện nay, người ta công nhận chúng có ba phân loài, cộng với hai phân loài khác đã tuyệt chủng.
Tất cả đều có các vằn theo chiều đứng ở phần phía trước của cơ thể, có xu hướng trở thành nằm ngang ở phần phía sau cơ thể. Quần thể phía bắc có các vằn rõ ràng và hẹp hơn; quần thể phía nam có số lượng vằn dao động nhưng ít hơn ở các phần dưới, chân và phần sau cơ thể. Phân loài đầu tiên được miêu tả là Quagga, hiện nay đã tuyệt chủng, có phần sau cơ thể màu nâu. (Về mặt chuyên môn thì do Quagga đã được miêu tả đầu tiên là E. quagga, nên tên gọi chuẩn xác về mặt động vật học cho dạng phổ biến nhất của ngựa vằn đồng bằng là E. quagga burchelli.)
Tập tính
Ngựa vằn đồng bằng có tính sống tập thể cao và thông thường tạo ra các nhóm gia đình nhỏ bao gồm một con đực, một, hai hay vài con cái và các con non mới sinh gần thời gian đó. Các nhóm là vĩnh cửu và kích thước nhóm có xu hướng dao động theo môi trường sống: Ở những khu vực nghèo thức ăn thì các nhóm nhỏ hơn. Theo thời gian, các gia đình ngựa vằn đồng bằng nhóm lại với nhau thành các bầy đàn lớn, có thể với các nhóm khác hay với các loài ăn cỏ khác, chủ yếu là linh dương đầu bò. Chúng là con mồi ưa thích của sư tử, báo săn, linh cẩu, chó rừng và cá sấu. Tuy nhiên, những vằn sọc trên người của ngựa vằn là cách ngụy trang giữa những trảng cỏ giúp chúng thoát khỏi những thú ăn thịt. Và nếu bị dồn vào đường cùng, ngựa vằn có thể chống trả lại. Đã không ít lần những con sư tử bị ngựa vằn đá gãy chân phải bỏ chạy.
Không giống như nhiều loài động vật móng guốc lớn khác ở châu Phi, ngựa vằn đồng bằng ưa thích (nhưng không nhất thiết cần có) cỏ ngắn để gặm. Kết quả là, phạm vi phân bổ của chúng rộng hơn so với nhiều loài khác, thậm chí cả trong các khu vực đồng rừng, và thông thường chúng là loài ăn cỏ đầu tiên xuất hiện ở các khu vực mới có cỏ mọc. Chỉ sau khi chúng đã gặm và dẫm nát các loài cỏ dài thì linh dương đầu bò và linh dương Gazelle mới đến. Tuy nhiên, để bảo vệ mình khỏi các kẻ thù thì ngựa vằn đồng bằng nghỉ ngơi qua đêm ở các khu vực trống trải có thể quan sát tốt về đêm. Chúng ăn nhiều loại cỏ khác nhau, ưa thích nhất là cỏ non và tươi khi có thể, nhưng chúng cũng ăn cả lá và cành non.
Phân loài
Equus quagga quagga †
Equus quagga boehmi
Equus quagga borensis
Equus quagga burchellii
Equus quagga chapmani
Equus quagga crawshayi
Equus quagga selousi
Hình ảnh |
Vũ Hữu (chữ Hán: 武有, 1437–1530) là một nhà toán học người Việt, và cũng là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông còn được coi là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.
Tiểu sử, sự nghiệp
Ông người làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Năm Quang Thuận thứ 4 đời vua Lê Thánh Tông (Quý Mùi 1463), ông đỗ Hoàng giáp.
Vũ Hữu đã kinh qua các chức vụ như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ trong triều đình nhà Hậu Lê, sau được tặng phong Thái bảo. Mặc dù về hưu năm 70 tuổi, đển năm 90 tuổi (1527), ông vẫn được vua tin dùng, sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung. Khi đó ông có tước là Tùng Dương hầu.
Công trình toán học
Công trình toán học ông để lại cho hậu thế nổi bật là Lập Thành Toán Pháp (立 成 算 法). Sách này gồm cách đo ruộng, tính diện tích ruộng; hình vẽ các thửa ruộng có hình phức tạp và cách tính diện tích loại ruộng này; cách tính bằng bàn tính, bằng phép cửu chương, cửu quy; một số bài tính đố, có cho biết đáp số. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).
Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.
Vết ố
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
Năm Quang Thuận thứ 8 (năm 1467), thi khoa Hoành từ. Điểm gọi các quan vào thi, tất cả là 30 người. Bấy giờ, Khâm hình viện lang trung Vũ Hữu, Viên ngoại lang Nguyễn Đình Khoa 5 người đều cáo ốm không vào thi. Vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết họ chỉ thích hối lộ. Nhân thế, vua dụ các quan trong triều rằng:
"Việc hình án phức tạp khó khăn, có ba điều vất vả: Một là suốt ngày cặm cụi vất vả, khổ sở. Hai là xử án không đúng, chịu tội làm sai. Ba là án tụng chất đống, khó lòng xét xử tường tận. Có ba điều vất vả ấy dẫu người không bệnh cũng đến phát ốm, huống chi là có bệnh".
Đó là nói giễu Vũ Hữu.
Chú thích |
Lương Thế Vinh (chữ Hán: 梁世榮; 17 tháng 8 năm 1441 – 2 tháng 10 năm 1496, tên hiệu là Thụy Hiên) là một nhà toán học, nhà thơ và học giả người Việt Nam. Sinh ra tại huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản), tỉnh Nam Định, ông đỗ trạng nguyên và làm Sái phu trong Hội Tao Đàn dưới thời vua Lê Thánh Tông. Ông nổi tiếng là thần đồng, học rộng, tài trí khoáng đạt, được vua và dân coi trọng và được mệnh danh là "Trạng Lường". Hai tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp của ông là Đại thành Toán pháp (biên soạn về toán học) và Hý phường phả lục (khảo cứu về hát chèo).
Cuộc đời
Xuất thân và những năm đầu đời
Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (tức ngày 17 tháng 8 năm 1441) tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định); tên tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên. Lúc còn nhỏ, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng thông minh, nhanh trí. Ông học mau thuộc, mau hiểu mà chơi cũng rất tài tình (thích thả diều, câu cá, bẫy chim cùng các bạn trẻ chăn trâu). Lớn lên, ông học ngày càng giỏi và có phương pháp, vừa học vừa lao động, vui chơi giải trí. Ông học sâu hiểu rộng, nhưng có thời gian thì vẫn thả diều thổi sáo, xem chèo thoải mái. Lúc vui chơi, ông còn nảy ra ý tưởng đo lường các đồ vật xung quanh mình, như chiều dài-chiều cao cây diều, chiều sâu ao hồ, chiều rộng sông ngòi, đo bóng cây và chiều dài của cây.
Đỗ Trạng nguyên và sự nghiệp chính trị
Năm 1463, tức năm 23 tuổi, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông; trong khi Nguyễn Đức Trinh và Quách Đình Bảo lần lượt đỗ Thám hoa và Bảng nhãn. Ông có tổng cộng 32 năm làm quan, từng được thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự (đứng đầu Viện hàn lâm). Ngoài ra, Lương Thế Vinh còn được vua tín nhiệm giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Nhiều bài biểu do ông soạn gửi cho nhà Minh được vua Minh chấp thuận và khen ngợi.
Bên cạnh công việc làm quan, Lương Thế Vinh cũng đi dạy học tại ở Quốc tử giám, Sùng văn quán và Tú lâm cục (những trường cao cấp thời bấy giờ đào tạo nhân tài cho đất nước). Một số học trò của ông đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại (người Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm 1949), Trần Bích Hoành (người Nam Định, đỗ Thám hoa năm 1847), Trần Xuân Vinh (người Nam Định, đỗ Tiến sĩ) và Lương Đắc Bằng (người Thanh Hóa, đỗ Bảng nhãn năm 1499). Cá nhân Lương Đắc Bằng về sau trở thành thầy dạy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tháng 4 năm thứ 8 Quang Thuận (1467), Luơng Thế Vinh đang giữ chức Hàn lâm viện trực học sĩ quyền Công khoa cấp sự trung hặc tội Trấn điện tướng quân Bùi Huấn vì ông này trong lúc tang vợ mà lại đi lấy con gái người bạn mình làm vợ kế; cho rằng việc ấy tệ bạc trong ân ái vợ chồng, khinh miệt đạo cương thường. Vua y theo, giao xuống cho Pháp ty nghị tội.
Tháng 11 năm ấy, ông cùng 29 người trước đã đỗ tiến sĩ hện làm việc ở các nha môn bị triệu đến Phượng Nghi đường. Tại đây, nhà vua ra đầu bài để khảo thí họ. Trong số ấy có thị chế Dương Như Châu vì học nghiệp không tiến, phải xuất ra làm Hồng lô tự thừa.
Một tháng sau, nhà vua hạ lệnh cho các quan trong triều xét những viên huyện lệnh nào là người cương trực thì tiến cử lên triều đình. Lúc ấy Thái bảo Lê Niệm cử ông, khi đó đang làm Công khoa cấp sự trung. Tuy nhiên nhà vua lại cho rằng Lương Thế Vinh làm quan không xứng với chức vụ, bèn lựa bỏ họ tên bọn của ông, chỉ để lại tên hai người ở trong hàng tuyển cử, là: giáo thụ Nguyễn Nhân Tùy và Tri huyện Đinh Bô Cương. Lúc bấy giờ không ai là không phục tài xét đoán sáng suốt của nhà vua. Không lâu sau, vua hạ chiếu quở trách ông vì "học hành không tiến bộ".
Năm thứ 15 Hồng Đức (1484), nhân triều đình cho lập bia tiến sĩ, cho những người thi đỗ trong các khoa từ Nhâm Tuất (1442) đến Tân Sửu (1481). Nhân thể, Thượng thư bộ Lễ Quách Đình Bảo tâu xin đổi Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa làm tiến sĩ cập đệ; chính bản làm tiến sĩ xuất thân; phụ bảng làm đồng tiến sĩ xuất thân. Nhà vua chuẩn và hạ lệnh cho các quan gồm Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuẫn, Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Ngô Luân, Lê Tuấn Nghiên; Nguyễn Đôn Hậu, Lương Thế Vinh (đang là Hàn lâm viện thị thư); Nguyễn Trùng Xác chia nhau biên soạn văn bia.
Mùa hạ năm thứ 17 (1486), ông cho rằng thể lệ trước đây người có quan chức, dầu chưa dự thi Huơng cũng cho vào thi Hội, là không hợp lẽ; mới làm biểu tâu vua rằng
Nhà vua chuẩn y.
Sự nghiệp văn chương và biên soạn
Không chỉ dạy toán ở Tú lâm cục, ông còn giữ chức Cấp sự trung khoa công (chức quan chuyên khảo sát việc tạo tác các công trình như cung điện, đền đài, thành quách, đường sá, đê điều...) Vì chuyên môn cần đến toán học, ông đã tiến hành biên soạn hai cuốn sách đề tài toán học là Đại thành Toán pháp (cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên của Việt Nam) và Khải minh Toán học. Thời bấy giờ, công cụ tính toán ở Đại Việt còn thô sơ, nghèo nàn (chủ yếu là bấm đốt ngón tay hoặc dùng sợi dây có nút thắt để đếm). Do đó Lương Thế Vinh đã chế ra bàn tính gẩy - chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Lúc đầu ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, xâu vào một cái đũi, các xâu buộc cạnh nhau thành một bàn tính. Về sau ông cải tiến dần những "viên tính" bằng đất thành những đốt trúc ngắn, rồi cho những viên tính bằng gỗ sơn màu khác nhau để dễ tính, dễ nhớ.
Ngoài ra, Lương Thế Vinh còn là người am hiểu sâu sắc về hát chèo. Ông cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận đã soạn hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc dùng trong quốc lễ và triều hội. Nhờ nghiên cứu hàng trăm vở chèo, ông đã biên soạn ra cuốn Hý phường phả lục ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa và hát. Năm 1501 (tức 5 năm sau khi ông mất), bạn ông là Quách Hữu Nghiêm đã đề tựa và đưa in tác phẩm này.
Lương Thế Vinh giữ chức Sái phu (chức danh chuyên phê bình, sửa chữa thơ) trong hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông. Trong hội, ông từng nhiều lần ngâm họa với vua Lê như bài "Tướng sĩ nhớ nhà" và "Động Lục Vân". Ông cùng Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận và Đào Cử còn biên soạn nhiều bài ký, văn bia ở Văn Miếu và Chùa Một Cột.
Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc Ngữ văn (hay Phật kinh Thập giới). Đây là áng văn Nôm cổ gồm một đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: Thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn-địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bị các bạn đồng nghiệp (nhà nho) cười chê và ông không được lập đền thờ trong văn miếu Khổng Tử.
Những năm cuối đời
Vào những năm cuối đời, Lương Thế Vinh về hưu và quay lại quê nhà, nhằm có thời gian rảnh rỗi sống yên tĩnh ở quê hương và làm những việc có ích trước khi mất. Hàng ngày, ông leo núi, thả diều, đọc sách, vui chơi với các bô lão ở nông thôn. Ông thậm chí còn đi sâu nghiên cứu về đạo Phật, viết chú giải nhiều kinh Phật và đề tựa cho in nhiều tác phẩm Phật học như Nam tông tự pháp đồ và Thiền môn giáo khoa của nhà sư Thường Chiếu thời Lý. Lương Thế Vinh mất ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (tức ngày 2 tháng 10 năm 1496) tại quê nhà, thọ 55 tuổi. Sau khi mất, Lương Thế Vinh được thờ làm phúc thần. Tên ông được khắc ghi trên thơ văn, kí, bia, giáo khoa nhà chùa, văn từ giao bang... do các tác phẩm mà ông viết nặng về tính quan phương, tôn giáo. Dân làng tại xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản (quê hương ông) cũng xây dựng đền thờ nơi đây để ghi nhớ công ơn của Lương Thế Vinh.
Đời tư
Lương Thế Vinh đã kết hôn với con gái của thầy dạy học. Trong cuốn Những mối tình nổi tiếng trong truyền thuyết và lịch sử Việt Nam (2009), tác giả Hà Phạm có ghi chép mối tình của Lương Thế Vinh với một cô đào mà ông gặp năm 20 tuổi tại một gánh chèo tổ chức ở quê ông. Sau khi cô mất, "Trạng Lường" vô cùng xót thương nên làm bài văn điếu, rồi cho lập miếu thờ cho cô tại giáp Nhất của làng Cao Hương, được dân làng gọi là miếu Ả Đào còn thôn có ngôi miếu thì gọi là Đào thôn hoặc xóm Đầu. Ngoài ra, ông cũng có một mối tình ngắn ngủi với một cô gái tên Thi Liệu ở phố Hàng Đào, trong lúc ông lên kinh dự thi. Ông có một người con trai tên là Lương Trinh Túc, từng giữ chức Hiến sát sứ ở Thanh Hóa.
Đón nhận
Đương thời
Học giả đương thời là Lê Quý Đôn khen Lương Thế Vinh là "người tài hoa danh vọng bậc nhất". Trong bài văn điếu Lương Thế Vinh, vua Lê Thánh Tông đã viết: "Khuất ngón tay than tài cái thế/Lấy ai làm Trạng nước Nam ta".
Thời hiện đại
Trong cuốn Thần đồng xưa của nước ta, tác giả Quốc Chấn khen ngợi khả năng tính toán xuất chúng của Lương Thế Vinh: "Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng". Trong cuốn Những người thầy trong sử Việt, tác giả Nguyễn Huy Thắng ví Lương Thế Vinh là "người thầy khác mọi thầy", cho rằng quan điểm giáo dục của ông không giống những người bạn đồng tráng lứa. Ông chủ trương để học trò học tập chuyên tâm, song cũng khuyến khích kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Trong cuốn sách thiếu nhi Trạng nguyên Việt Nam - đạo học của người xưa, nhóm tác giả Ban Mai cho rằng Lương Thế Vinh, Mạc Đĩnh Chi và Mạc Hiển Tích là những người đặt nền móng cho nền toán học Đại Việt: "Qua những phép tính với số 0, Trạng nguyên Lương Thế Vinh khẳng định thế gian có những vật toàn mãn thực sự... Nhiều Trạng nguyên đã phát triển và bổ sung những tư tưởng toán học này tạo nên một trường phái toán học Đại Việt."
Năm 2011, nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định tại Hội thảo khoa học "Trạng nguyên Lương Thế Vinh – Thân thế và sự nghiệp": hình ảnh trạng nguyên Lương Thế Vinh còn sống mãi trong tâm thức mọi người bằng truyền thuyết và giai thoại về cuộc đời, sự nghiệp, tài đức và lòng yêu nước, yêu dân của ông. Trong cuốn Danh nhân Hà Nội (2004), tác giả kiêm nhà sử học Vũ Khiêu đã nhận định văn thơ của Lương Thế Vinh "nhìn chung thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, thương dân, căm ghét bọn quan lại tham nhũng, thích cuộc sống thanh cao, gần gũi với dân quê". Trong Việt Nam Phật giáo sử lược, học giả và nhà nghiên cứu Phật học Nguyễn Lang ghi nhận Lương Thế Vinh là tác giả Phật giáo duy nhất ở thế kỷ 15, và ca ngợi ông là "nhà trí thức cự phách nhất của thời đại Lê Thánh Tông".
Biệt danh "Trạng Lường"
Nhờ giỏi đo lường và tính toán, Lương Thế Vinh đã được mệnh danh là Trạng Lường. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tâm, nguyên giám đốc Thư viện Viện sử học Việt Nam từng lý giải về biệt danh "Trạng Lường" của ông: "Người ta gọi Lương Thế Vinh là 'Trạng Lường' vì thứ nhất, ông giỏi tính toán và đo lường, thế nên chữ 'Lường' nghĩa là đo lường. Mặt khác, chữ "Lường" có nghĩa là họ Lương, thế nên khi nhắc đến 'Trạng Lường', ai cũng nghĩ tới Lương Thế Vinh, trạng nguyên của thời Lê Thánh Tông".
Di sản và ảnh hưởng
nhỏ|Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh tại quê nhà Nam Định.
Ngày nay, nhiều đường phố và trường học khắp Việt Nam được đặt theo tên Lương Thế Vinh. Qua nhiều triều đại phong kiến, đền thờ Lương Thế Vinh tại Vụ Bản, Nam Định (quê hương ông) được nhiều nhà khoa bảng đến thăm viếng, đề thơ ca ngợi, làm câu đối cúng, như Đỗ Quang Dần, Phạm Đạo Phú, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Khuyến; người dân Nam Định gọi nơi đây là đền "cụ Trạng". Năm 1990, đền thờ được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.
Nhân kỷ niệm 570 năm ngày sinh Lương Thế Vinh, ngày 28 tháng 8 năm 2011, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Ban liên lạc họ Lương Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học "Trạng nguyên Lương Thế Vinh – Thân thế và sự nghiệp" tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội với sự tham gia của đông đảo thành viên họ Lương và giới sử học trên khắp Việt Nam. Cuốn Đại thành Toán pháp do ông biên soạn là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở Việt Nam, được sử dụng làm sách dạy toán cho người Việt đến tận thế kỷ 19. Ngoài ra ông còn là người chế ra chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Lịch sử Việt Nam, tập 1 (1971) đã ghi nhận Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh xuất bản năm 1501 "có thể coi là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm và nêu lên những nguyên tắc có tính chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống."
Tác phẩm
Toán học
Đại thành Toán pháp
Khải minh Toán học
Lịch sử hát chèo
Hý phường phả lục
Phật học
Thập giới Cô hồn Quốc Ngữ văn (hay Phật kinh Thập giới)
Thiền môn Khoa giáo
Ghi chú
Chú thích
Tài liệu trích dẫn
Đọc thêm |
Thâm Tâm (1917–1950) là một nhà thơ và nhà viết kịch Việt Nam. Ông nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành, với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất cao.
Cuộc đời và sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Hà Nội. Từ năm 1938, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báo Quân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Ngoài ra, Thâm Tâm còn có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.
Thâm Tâm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Gia đình
Thâm Tâm sinh ra trong một gia đình đông anh chị em. Cụ thân sinh Nguyễn Tuấn Thịnh, làm thầy giáo nên còn gọi là cụ giáo Thịnh. Thâm Tâm có 2 chị gái, 2 em trai và 2 em gái. Em trai út tên là Nguyễn Tuấn San, bút danh Hoài Niệm, Bắc Thôn, tác giả truyện thiếu nhi "Hai làng Tà Pình và Động Hía".
Bà Phạm Thị An (1920-2005) là vợ Thâm Tâm. Thâm Tâm có một con trai duy nhất, Nguyễn Tuấn Khoa, sinh năm 1946, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Y học Bộ Y tế, tác giả truyện ngắn "Hoa Thạch Trúc báo bình yên". Con dâu là Nguyễn Ngọc Mỹ, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại ngữ, Đại học Dược Hà Nội. Hai cháu nội là Nguyễn Tuấn Huy và Nguyễn Mỹ Trang.
Tác phẩm chính
Thơ
Tống biệt hành
Ngậm ngùi cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
Chiều mưa đường số 5 (1948)
Thơ Thâm Tâm (1988)
Kịch
Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
Nga Thiên Hương
19-8
Lối sống (1945)
Lá cờ máu
Người thợ (1946) |
Kinh Thi () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (tk 11–771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (770–476 TCN), gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ ca dao, dân ca được ghi chép lại thành văn rồi thành kinh điển, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu.
Trong thời Chiến Quốc, Kinh Thi được coi là "sách giáo khoa" toàn xã hội, luôn được các học giả truyền tụng, học tập với phương châm "Không học Thi thì không biết nói" (bất học Thi, vi dĩ ngôn - Khổng Tử). Trong sự kiện đốt sách của nhà Tần, Kinh Thi bị mất mát rất nhiều, sau đó mới được sưu tầm và khôi phục qua công sức của nhiều học giả từ đời Hán trở đi. Trong số đó, bản Kinh Thi do hai thầy trò Mao Hanh, Mao Trường biên soạn là bản thông dụng nhất cho đến ngày nay. Cũng trong thời Hán, Kinh Thi trở thành một trong Ngũ kinh của Nho giáo và luôn được nhiều thế hệ nhà Nho như Trịnh Khang Thành đời Đông Hán, Khổng Dĩnh Đạt đời Đường nghiên cứu, bình giải cả về mặt kinh học và văn học. Đến đời Tống, Chu Hy chú giải lại toàn bộ Kinh Thi với chủ trương "kinh học hóa", "huyền thoại hóa" Kinh Thi nhằm phù hợp với yêu cầu huấn hỗ, giáo huấn để rồi khi Tống Nho chiếm địa vị bá chủ học thuật thì lý giải của Chu Hy về Kinh Thi cũng trở thành bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, đến đời Thanh, Thi kinh tập truyện của Chu Hy bị phản đối mạnh mẽ bởi nhiều học giả muốn nghiên cứu Kinh Thi trên tư cách một tuyển tập văn học chứ không phải một tác phẩm kinh học. Và đó cũng là ý kiến chính thống của giới Thi học hiện nay.
Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của Trung Quốc thời Chu cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú... Do đó, Kinh Thi được coi là nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Nghệ thuật của Kinh Thi cũng rất đặc sắc, nhất là phương pháp "phú", "tỉ", "hứng" và lối trùng chương điệp ngữ rất có ảnh hưởng đến đời sau.
Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. Toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc phát triển dưới sự khơi gợi của tinh hoa Kinh Thi. Bên cạnh đó, Kinh Thi còn là tài liệu giáo dục quan trọng của Nho sĩ Trung Quốc, trở thành giáo trình chính trị - luân lý cho toàn bộ Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc suốt hai nghìn năm phong kiến. Vai trò và ảnh hưởng của Kinh Thi là vô cùng to lớn, chẳng những được truyền bá trên toàn cõi Trung Quốc mà còn đến các nước lân cận, trở thành một phần của cải tinh thần của nhân loại.
Tên gọi
Kinh Thi, còn được gọi là Thi tam bách 詩三百 (Ba trăm bài thơ) hay ngắn hơn là Thi bách 詩百 (Trăm bài thơ), thông thường gọi ngắn hơn nữa là Thi 詩 (Thơ). Trong bài Tiến học giải 進學解 của Hàn Dũ đời Đường có viết Thi chính nhi ba (Kinh Thi nghiêm chỉnh mà tươi đẹp), từ đó Kinh Thi còn được gọi là Ba kinh 經葩. Ngoài ra, Kinh Thi vốn bị nhà Tần đốt mất nguyên bản Tiên Tần, đến đời nhà Hán được bốn nhà Tề, Lỗ, Hàn, Mao phục nguyên, thành ra bốn bản Tề thi 齊詩, Lỗ thi 魯詩, Hàn thi 韓詩, Mao thi 毛詩. Về sau, chỉ có bản Kinh Thi của họ Mao được lưu truyền, vì vậy Kinh Thi còn có tên là Mao thi.
Sưu tầm, biên soạn và chỉnh lý
Chế độ "thái thi"
Kinh Thi là một bộ tổng tập văn chương gồm 305 bài thơ vốn là lời bài hát có nhạc đệm, được lưu truyền trong dân gian từ đầu thời kì Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, trong khoảng thời gian 500 năm (tuy nhiên, có 5 bài thơ được đoán định sáng tác từ đời Thương). Từ lĩnh vực dân gian chuyển sang lĩnh vực thành văn, hơn nữa lại còn được xếp vào loại sách kinh điển, Kinh Thi phải trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn... mới có được bản hiện hành.
Để lý giải quá trình sưu tầm Thi, các nhà Kinh học đời Hán đưa ra thuyết Thái thi 採詩, căn cứ theo sách Lễ ký 禮記. Thiên Vương chế 王制 sách ấy chép điển lễ nhà Chu rằng "Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần. Tháng hai năm ấy đi tuần thú đến núi Đại Tông ở phía đông, thắp hương nến tế vọng núi sông. Thăm chư hầu, hỏi về các bậc cao tuổi và đến gặp. Truyền mệnh cho quan Thái sư trình thơ để xem xét nề nếp của dân chúng. Mệnh cho quan coi chợ trình giá cả để xem xét sự thích, ghét trong dân, ghi chép nết hay nết xấu phổ biến. Mệnh cho quan Điển lễ khảo sát thời tiết, tháng để định ngày trước sau. Xem xét luật lệ, chế độ, y phục, chỉnh lại cho đồng bộ".
Việc thu thập thơ ca trong dân chúng nói ở trên gọi là thái thi (hái thơ), nó đã được nhà Chu thi hành một cách nghiêm túc, có quan đặc trách theo quy chế nhà nước: Thái sư. Vị quan này lại tổ chức một mạng lưới rộng rãi sưu tầm thi ca trong dân gian, đó là các Hành nhân hay còn gọi là quan Thái thi.
Những người được chọn làm quan Thái thi ở nơi thôn dã tương đối cao tuổi. Trong sách Xuân Thu Công Dương Truyện 春秋公洋傳, Hà Hưu chú thích rằng "Đàn ông sáu mươi tuổi, đàn bà năm mươi tuổi, không có con, quan cho mặc cho ăn, sai vào dân gian tìm thơ. Ngoài ra, họ còn phải "đạt" yêu cầu khác như mù lòa và am hiểu âm nhạc, nên đôi khi được gọi là cổ, mông, tẩu 瞽矇瞍. Các Hành nhân thường đi lại trên đường, nhất là vào đầu xuân nhiều lễ hội, tay đánh mõ để sưu tầm thi ca, trình lên cho Thái sư, so sánh với các làn điệu rồi dâng lên cho vua nghe.
Thực ra, trong giới nghiên cứu Kinh Thi cũng có người không tin từ đời Chu đã có được mạng lưới sưu tầm như vậy, theo họ, đây chỉ là phỏng đoán, tưởng tượng của học giả đời Hán chứ trước Hán không thấy tư liệu nào chép việc này, nên cách nói của họ mới không nhất trí.
Các bài thi ca được sưu tầm và biên tập bởi chế độ thái thi đời nhà Chu, chính là phần lớn tư liệu biên soạn Kinh Thi sau này. Bên cạnh đó, còn có những khúc ca tế lễ ở tông miếu, nhạc yến tiệc, nhạc đi săn, nhạc xuất binh, tán tụng công đức vua chúa là âm nhạc của triều đình; nhạc của công khanh liệt sĩ, chư hầu hiến lên Thiên tử mà một số bài vẫn còn tên tác giả. Trừ mấy thiên ở Thương tụng 商頌 đề cập đến đời nhà Thương xa xưa mà nhiều khả năng do người đời sau phóng tác, hầu hết các bài thơ sưu tầm được đều ra đời trong thực tiễn lao động của dân chúng hoặc liên quan mật thiết đến các hoạt động chính trị, quân sự, tôn giáo, giải trí vui chơi của xã hội đương thời.
Những bài trong Kinh Thi không phải ngay từ đầu đã là bài hát theo nhạc; có một số vốn là thơ, khi phổ nhạc, không tránh khỏi sự thêm bớt của nhạc quan. Nhiều bài có những câu xuất xứ từ những khu vực khác nhau, nên chưa hẳn là ngôn ngữ của nguyên tác. Có những bài có đoạn không ăn khớp, không dính liền với những đoạn khác, cũng có thể thấy dấu vết của sự thêm bớt, chắp nối. Ngoài ra, còn có những chỗ thay đổi có tính chất nhuận sắc, như sửa vần, sửa câu, cũng như thay tiếng địa phương bằng lời tao nhã.
Về không gian sưu tầm dân ca, căn cứ theo Thập ngũ Quốc phong trong Kinh Thi, thì các vùng sưu tầm được Thi ngày nay đại để tương ứng với mấy tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hồ Bắc trên diện tích 1020000 km². Điều này cho thấy sự nghiêm túc của Hành nhân trong việc sưu tầm, để tạo nên thành quả là khối lượng thơ đồ sộ trên một địa bàn rộng lớn như vậy.
Theo sử gia Tư Mã Thiên, số thơ sưu tầm được ở đời Chu vốn có 3000 bài, phần nhiều trùng điệp, sau Khổng Tử san định, chỉ lấy 305 bài.
Khổng Tử san định
Thiên Khổng Tử thế gia 孔子世家 trong Sử ký 史記 của Tư Mã Thiên chép rằng "Ngày xưa Kinh Thi có tất cả hơn ba nghìn thiên. Đến thời Khổng Tử, Khổng Tử bỏ bớt những thiên trùng điệp, chỉ lấy 305 thiên có thể có ích cho lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng".
Thiên Tử Hãn 子罕 trong sách Luận ngữ 論語 cũng ghi rằng "Khổng Tử nói: Ta từ nước Vệ trở về Lỗ, sau đó chỉnh đốn âm nhạc, rồi Nhã Tụng đâu ra đấy".
Lục Đức Minh trong Kinh điển thích văn 經典釋文 cũng viết "Khổng Tử san lục Kinh Thi, trước hết chọn lấy những bài về đời Chu, lại lấy cả những bài Thương tụng, phàm ba trăm mười một thiên."
Người ta thường dựa vào các thuyết trên để cho rằng Khổng Tử có chọn lọc, san định để tạo nên bộ Kinh Thi 305 bài ngày nay. Tuy nhiên, một số học giả như Khổng Dĩnh Đạt đời Đường; Trịnh Tiều, Chu Hy đời Tống; Thôi Thuật đời Thanh... vẫn còn hoài nghi việc đó vì Khổng Tử chưa bao giờ nói đến việc mình san định Kinh Thi. Trong Độc phong ngẫu chí 讀風偶識, Thôi Thuật đã biện bạch việc Khổng Tử san Thi như sau
Lý do nữa để chứng minh không có việc Khổng Tử san định Thi là thời gian không khớp. Sách Tả truyện 左傳 chép việc "Quý Trát quan nhạc", kể chuyện công tử nước Ngô là Quý Trát đến nước Lỗ và được nghe nhạc vào năm 544 TCN, năm đầu đời Chu Cảnh Vương. Theo đó thì tên các loại, các phần, thứ tự trước sau những bài thơ nước Lỗ hát cho Quý Trát nghe gần giống như bản Kinh Thi hiện nay, đủ cả Phong, Nhã, Tụng. Mà Khổng Tử sinh vào năm Lỗ Tương Công thứ 22 tức năm 551 TCN, khi Quý Trát nghe nhạc thì ông mới lên 8 tuổi, san định Kinh Thi sao được! Vả chăng, Khổng Tử thường nói đến Thi hoặc Thi tam bách, một số sách trước đó cũng đã nói đến Tam bách thiên...Do đó có thể đoán khi Khổng Tử ra đời, đã có một tập thơ mà số bài và cách biên soạn đại khái giống như bản Kinh Thi ngày nay. Sử ký chép Khổng Tử san định Kinh Thi, có lẽ ông chỉ sửa câu chữ cho hợp với làn điệu mà thôi.
Nhưng cũng không thể phủ nhận công sức lớn lao của Khổng Tử trong việc định hình Thi tam bách từ thơ ca dân gian thành văn bản kinh điển. Thiên Thiên vận 天運 sách Trang Tử 莊子 kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử và nói "Khâu này khảo cứu sáu kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu". Mặc dù vẫn còn tranh luận về vấn đề thời điểm tên gọi Thi kinh xuất hiện, song công lao của Khổng Tử trong truyền bá và sửa chữa Thi là cần khẳng định. "Tư vô tà", nhận xét của Khổng Tử về Thi tam bách trong thiên Vi chính 為政 sách Luận ngữ là một quan điểm được nhiều thế hệ truyền tụng.
Mao thi
Sau khi tiêu diệt sáu nước, Tần Vương Doanh Chính đặt ra danh xưng Hoàng đế, lên ngôi vua, tức Tần Thủy Hoàng, không đặt chư hầu, chia cả nước thành quận huyện, trực tiếp cai trị theo đường lối Pháp gia, thực hiện chính sách "đốt sách chôn Nho", "đốt sách cấm học", "hai người dám bàn nhau về việc Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ". Do vậy, phần lớn sách kinh điển thư tịch đời Tiên Tần đều bị nhà Tần đốt, trong đó có Thi.
Đến đời nhà Hán, Thi mới được sưu tầm và phục nguyên lại. Trong số những học giả có công sưu tầm, phục nguyên Kinh Thi đời Hán, chủ yếu có bốn nhà: Viên Cố Sinh người nước Tề, Thân Bồi người nước Lỗ, Hàn Anh người nước Yên, hai thầy trò Mao Hanh người nước Lỗ và Mao Trường (hoặc Mao Trành) người nước Triệu. Về sau, các học giả nghiên cứu Kinh Thi lấy tên nước hoặc họ của bốn nhà nói trên mà gọi tên của Kinh Thi, thành ra bản của Viên Cố Sinh sưu tầm gọi là Tề thi, của Thân Bồi thì gọi là Lỗ thi, của Hàn Anh thì gọi là Hàn thi, của hai thầy trò họ Mao thì gọi là Mao thi. Bản Mao thi xuất hiện sau cùng, phần lớn có quan hệ với Tả truyện, việc huấn hỗ cũng nhiều chỗ giống Nhĩ Nhã 爾雅, được gọi là bản Cổ văn; ba bản kia gọi là Kim văn.
Vào thời Hán Vũ Đế, triều đình cho lập Học quan nghiên cứu Thi ba nhà Tề, Lỗ, Hàn; Mao thi xuất hiện muộn hơn, chưa được lập Học quan nghiên cứu. Học giả theo Lỗ thi có Vương Giảm, Triệu Quán, Khổng An Quốc, Chu Bá, Hạ Khoan, Từ Yển, Khánh Kỵ; học giả tiếp thu Tề thi có Thương Dực, Tiêu Vọng Chi, Khuông Hành, Sư Đan. Thuyết Hàn thi thì có Tôn Thương, Thái Nghị, Vương Cát, Phiếu Phong, Trương Tựu. Đây đều là những học quan lớn của triều đình đương thời. Ba nhà cùng là Kim văn, nguồn gốc khác nhau, đều có chủ thuyết riêng nên Kinh Thi thành ra có nhiều dị bản, nghĩa lý trở nên mờ mịt.
Riêng Mao thi, ra đời từ Mao Hanh (còn gọi là Đại Mao công), rồi được Mao Trường (còn gọi là Tiểu Mao công) tiếp thu. Tiểu Mao công là quan Bác sĩ của Hà Gian Hiến Vương Lưu Đức - con trai vua Hán Cảnh Đế. Có người cho rằng Khổng Tử truyền các lời giảng về Kinh Thi cho học trò là Tử Hạ, Tử Hạ truyền cho Tăng Thân (con trai Tăng Tử), Tăng Thân truyền cho Lý Khắc, Lý Khắc truyền cho Mạnh Trọng Tử (con trai Mạnh Tử), Trọng Tử truyền cho Căn Mâu Tử, Mâu Tử truyền cho Tôn Khanh, Tôn Khanh truyền cho Mao Hanh, Hanh đem Huấn, Truyện mình làm truyền cho Mao Trường. Các ông Trịnh Chúng, Giả Quỳ đời Đông Hán đều học Mao thi, Mã Dung viết Truyện chú thích cho Mao thi. Vào cuối thời Đông Hán, nhà học giả Trịnh Huyền (hay Trịnh Khang Thành) đã chú thích kĩ cho Mao thi, chú thích của ông có ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu Kinh Thi về sau, người ta gọi là Trịnh tiên 鄭箋. Người học Mao thi ngày càng đông, ba nhà Tề, Lỗ, Hàn dần dần mai một, chỉ còn Mao thi lưu hành đến ngày nay. Học giả Bửu Cầm trong bài viết Giới thiệu Kinh Thi in mở đầu bộ sách Thi kinh tập truyện do Tạ Quang Phát dịch, tái bản năm 2003 thì Tề thi mất về đời nhà Ngụy, Lỗ thi mất về đời nhà Tấn, Hàn thi mất về đời Ngũ Đại Thập Quốc.
Truyện do Mao Hanh làm, học giả Bì Tích Thụy đời Thanh cho là còn "giản lược" trong khi Truyện do Thân Bồi làm thì để khuyết các chỗ còn tồn nghi, không giải thích tỉ mỉ từng câu từng chữ. Các học giả sau đời Hán muốn hiểu rõ nghĩa Mao thi, gặp chỗ khuyết thiếu, thường lấy ý mình suy đoán, sáng tạo giải thích mới, bổ sung thêm. Mao thi được hoàn thiện dần đến đời nhà Tống thì thực sự chiếm vị trí độc tôn trong học đường. Đó là bản Mao thi có Truyện do Chu Hy chú thích.
Kinh Thi qua bàn tay của Chu Hy đã bị "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify), nặng về huấn hỗ (chú giải nghĩa văn để giáo dục, dạy dỗ hay là tạo ra mẫu mực phép tắc) và lý tính để tuyên truyền, minh họa đạo lý Nho gia. Nhưng trào lưu "kinh học hóa","huyền thoại hóa" ấy dần dần bị phản đối, từ đời nhà Minh đã xuất hiện trào lưu nghiên cứu Kinh Thi phản truyền thống, coi trọng thi ý và tình cảm mà coi nhẹ huấn hỗ và lý tính, trào lưu này tiếp tục phát triển mạnh vào đời nhà Thanh. Phương Ngọc Nhuận người đời Thanh viết cuốn Thi kinh nguyên thủy 詩經原始 với phương châm theo chữ để xét nghĩa, tìm nguyên ý gốc của thi nhân. Phương Ngọc Nhuận cho rằng thơ trong Kinh Thi không bị câu nệ bởi Thi tự và Mao truyện, như với thiên Phù dĩ, ông gạt bỏ các thuyết "chữa ác tật" và "chữa khó đẻ"; với thiên Manh, ông cho đây không phải là sáng tác về việc ruồng bỏ vợ. Ông còn nói rằng "Đại để là các nhà nghiên cứu về Kinh Thi trước hết đều bị một cái mũ vừa to vừa rộng chụp vào đầu, rồi sau mới tự mình trình bày ý kiến riêng". Ở Nhật Bản, các học giả từ thời Edo đã kế thừa xu hướng "phản truyền thống" trong nghiên cứu Kinh Thi đời Minh ở Trung Quốc. Các học giả Nhật là hai cha con Ito Jinsai và Ito Togai, Yanagawa Seigan... thời Edo và Ono Kozan thời Meiji đều chủ trương đọc Kinh Thi với tư cách là một tác phẩm văn học. Đó cũng là quan điểm chính thống của giới Thi học khi nghiên cứu về Kinh Thi hiện nay.
Bố cục hiện hành
Bản Kinh Thi hiện hành gồm có 311 bài (xưa gọi là thiên 篇 hay thập 什). Kì thực, không phải tất cả các bài đều mất tên họ tác giả, thậm chí tên họ của họ vẫn còn có thể khảo chứng được. Chẳng hạn, bài Tiệt Nam Sơn trong Tiểu nhã nói rõ "Gia Phủ làm lời thơ này". Hay như trường hợp bài Hạng bá trong Tiểu nhã ghi "Hoạn quan tên là Mạnh Tử làm ra bài thơ này". Bài Tung cao và Chưng dân trong Đại nhã thì nói "Cát Phủ làm bài thơ này" thì Cát Phủ ở đây là Doãn Cát Phủ, Thái sư thời Chu Tuyên Vương. Tả truyện còn chép rằng, bài Tái trì thuộc Dung phong là do bà phu nhân của Hứa Mục Công làm còn Kinh Thư nói bài Si hiêu của Mân phong là do Chu Công Đán làm ra. Tất nhiên, phương pháp dùng thư tịch để khảo cứu thư tịch cũng chưa hoàn toàn đáng tin cậy. Nhìn chung, phần lớn họ tên tác giả các bài thơ trong Kinh Thi đều đã bị rơi rụng trong quá trình lưu truyền, tập hợp, chỉnh lý từ dân gian lên vương thất, trong dòng chảy bất tận của thời gian. Kinh Thi là tổng tập thơ ca vô danh thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Trong số 311 bài thơ, có 6 bài chỉ có đề mục chứ không có lời, gọi là "dật thi" (thơ đã mất). Sáu bài đó là Nam cai南陔(thuộc Lộc minh chi thập 鹿鳴之什); Bạch hoa 白華, Hoa thử華黍, Do canh 由庚, Sùng khâu 崇丘, Do nghi 由儀 (thuộc Bạch hoa chi thập 白華之什). Các nhà nghiên cứu cho rằng, 6 bài này là nhạc ca, tên bài thì còn, nhưng điệu nhạc đã mất, vì vậy không chép vào Kinh Thi được. Chu Hy làm Truyện, gọi những bài ấy là "sênh thi" (cũng đọc "sinh thi"). Chu chú rằng, "Sênh, nhạc được dùng trong yến lễ", "có nhạc nhưng không có lời". Sênh thi tựa như các tác phẩm nhạc không lời ngày nay, mỗi bài thơ là lời của một bản nhạc nhất định, nhạc ngày nay không còn. Chu Hy phỏng đoán thứ tự 6 bài sênh thi này là tuần tự tấu nhạc trong một buổi lễ và Mao Hanh đưa chúng vào Mao thi, dù "hữu mục vô từ" (có đề mục, không có lời) là có dụng ý: trong phần Nhã, mỗi cụm thơ đều đủ 10 bài, đưa sênh thi vào chỉ với mục đích cho đủ số 10 bài.
Với 305 bài thơ còn lại, trong lịch sử học thuật Trung Hoa đã từng có 3 cách phân loại chủ yếu. Một là chia ba phần "Phong, Nhã, Tụng", thấy sớm nhất trong thiên Nho hiệu 儒效 sách Tuân Tử 荀子 và Nhạc ký 樂記. Hai là chia bốn phần "Nam, Phong, Nhã, Tụng", là cách phân loại của học giả đời Tống như Vương Chất trong sách Thi tổng văn 詩總文 và Trình Đại Xương trong sách Thi luận 詩論. Ba là cách chia sáu phần "Phong, Phú, Tỉ, Hứng, Nhã, Tụng" do Trịnh Huyền đời Hán chủ trương. Trong ba cách đó, cách đầu có lịch sử lâu đời nhất và ảnh hưởng rộng nhất.
Phong
Phong 風 là "Thập ngũ quốc phong", tức ca dao của 15 nước chư hầu hoặc khu vực, gồm Chu Nam 周南, Thiệu Nam 召南, Bội phong 邶風, Dung phong 鄘風, Vệ phong 衛風, Vương phong 王風, Trịnh phong 鄭風, Tề phong 齊風, Ngụy phong 魏風, Đường phong 唐風, Tần phong 秦風, Trần phong 陳風, Cối phong 檜風, Tào phong 曹風, Mân phong 豳風 (hoặc Bân phong), cộng 160 bài.
Phong là nhạc điệu, các bài Quốc phong phần nhiều là "thơ ca dân gian" ("dân tục ca dao", chữ dùng của Chu Hy), phần nhạc kèm theo có sắc thái âm nhạc dân gian địa phương, gọi là "thổ nhạc". Chu Hy chú thích rằng "Gọi thơ ấy là Phong, bởi họ nhờ đức hóa ở trên mà phát ra lời, lời lại rất rung động lòng người. Giống như vật vì gió lay động mà phát ra tiếng, rồi tiếng đó lại làm vật hết sức rung động vậy. Bởi thế các chư hầu sưu tầm để dâng lên Thiên tử, Thiên tử nhận và giao cho Nhạc quan, lấy đó để khảo sát cái tốt cái xấu trong phong tục mà dân ưa chuộng, từ đó biết được chỗ được mất trong chính sự. Theo thuyết cũ, Nhị Nam là Chính phong, thơ này được dùng cho gia đình, làng xóm, đất nước và giáo hóa cả thiên hạ vậy. Thơ 13 nước là Biến phong, giao cho Nhạc quan lĩnh lấy, dùng để thời thường học tập". Sách Thi đại tự 詩大序 cho rằng Phong dùng vào giáo hóa, phúng thích, "nói việc của một nước, là gốc của một người". Học giả đời Tống là Trịnh Tiều coi Phong là "do thổ phong mà ra, đại để là lời của những kẻ hèn mọn, tôi tớ, đàn bà, con gái; ý thơ tuy xa song lời thơ thì thiển cận trùng lặp". Học giả Lương Khải Siêu thì cho Phong là lời thơ có thể ngâm đọc chứ không hát được. Riêng Trình Đại Xương và Cố Viêm Vũ thì ngờ rằng ngày xưa không có danh từ "Quốc phong", hai chữ này do người sau hiếu sự đặt ra.
Nhã
Nhã 雅 chia ra Tiểu nhã 小雅 và Đại nhã 大雅, cộng 105 bài. Trong mỗi Đại nhã và Tiểu nhã lại phân làm "chính" và "biến". Theo Chu Hy, Chính Đại nhã là nhạc dùng ở triều hội, Chính Tiểu nhã là nhạc dùng ở yến tiệc, phần nhiều do Chu Công Đán chế tác. Còn Biến nhã thì không biết chức năng ra sao.
Nhã có nghĩa như "chính" 正, nghĩa là "đúng đắn", được hiểu là "vương kỳ chính thanh", là âm nhạc vùng kinh ấp của nhà Chu thời Tây Chu, khu vực này người Chu gọi là Hạ, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay. "Nhã" cũng vốn là tên nhạc khúc, thiên Cổ chung trong Tiểu nhã có câu "Dĩ nhã dĩ nam" có thể chứng minh điều đó. Thời cổ, "Nhã" và "Hạ" có thể dùng thay cho nhau, sách Mặc Tử 墨子 dẫn thơ Đại nhã từng gọi là Đại hạ. Sách Thi đại tự cho Nhã là "nói việc phế hưng chính sự nhà vua là do đâu" còn Trịnh Tiều viết "Nhã thì từ sĩ đại phu ở triều đình làm ra, lời thơ thuần hậu mẫu mực, thể thơ lên bổng xuống trầm có lớp lang, không phải là điều mà hạng hèn mọn, tôi tớ, đàn bà con gái có thể nói lên được". Lương Khải Siêu cho Nhã là những bài thơ rất phổ thông ở đời Chu.
Tụng
Tụng 頌 gồm Chu tụng 周頌, Lỗ tụng 魯頌 và Thương tụng 商頌, cộng 40 bài. Phần Chu tụng ra đời sớm nhất, là tác phẩm đời Tây Chu. Phần Thương tụng là tác phẩm nước Tống, con cháu nhà Thương, sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 - 8 TCN. Còn Lỗ tụng là tác phẩm nước Lỗ vào thế kỉ 7 TCN.
Tụng, theo Chu Hy, là "khúc ca tế lễ ở tông miếu", phần nhiều tán tụng đề cao, ca ngợi công đức của tiên vương, là những sử thi tưởng niệm công đức và cơ nghiệp của tiên tổ, hát kèm theo múa. Sách Thi đại tự cho Tụng là cơ ngợi thịnh đức của nhà vua, "thông qua việc tế tự mà đem sự thành công của mình cáo với thần linh". Học giả đời Tống là Trịnh Tiều giải thích Tụng "thì thoạt đầu không có ý phúng tụng, chỉ nhằm phô trương công đức to lớn mà thôi, lời thơ nghiêm trang, âm thanh có chừng mực, không dám kể lể rườm rà dông dài, cốt tỏ sự tôn kính". Còn Lương Khải Siêu cho Tụng vốn nghĩa là dung (dung mạo) cho nên có thể đem ra hát và múa theo âm điệu, gần như một kịch bản diễn xướng.
Mục lục 311 bài thơ trong Kinh Thi
Danh sách các bài thơ trong Kinh Thi ở đây lấy từ bản Kinh Thi do Chu Hy làm Truyện chú thích và viết tựa vào năm 1177. Bộ Kinh Thi này gồm 8 quyển, quyển 1 - 3 là Quốc phong, quyển 4 - 5 là Nhã và quyển 6 - 8 là Tụng. Nội dung các bài thơ ở đây trong giới Thi học vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn nhiều bất đồng sâu sắc.
Tổng cộng có 311 bài thơ với 1142 chương và 7076 câu thơ được ghi lại trong bản Kinh Thi này
Phát hiện mới về bố cục Kinh Thi
Theo thông tin trên Văn hội báo 文汇报, số ra ngày 16 tháng 8 năm 2000, tại Bảo tàng Thượng Hải có giữ bản Khổng tử thi luận 孔子诗论 bằng thanh trúc thời Chiến Quốc, bản sách đó có ghi lại các bài thơ trong Kinh Thi. Qua so sánh, thấy khác so với thứ tự các phần Phong, Tiểu Nhã, Đại Nhã và Tụng trong bản Thi hiện hành. Chữ dùng cũng không giống nhau, đó là Tụng (phồn thể: 訟, giản thể: 讼), Đại Hạ 大夏, Tiểu Hạ 小夏, và Bang Phong (phồn thể: 邦風, giản thể: 邦风). Điều này đã khơi dậy nhiều suy nghĩ mới về diện mạo ban đầu của Kinh Thi.
Nội dung
Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, giáo dục, sinh hoạt xã hội... cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú...phong phú muôn hình muôn vẻ. Khổng Tử từng nói "Thi, có thể giúp hưng phấn, có thể giúp xem xét, có thể giúp hợp quần, có thể giúp biết oán giận. Gần có thể thờ cha, xa thờ vua, giúp biết được nhiều tên của chim muông, cây cỏ". Dưới đây chỉ là một số nội dung chính của bức tranh rộng lớn Kinh Thi.
Phản ánh lịch sử nhà Chu
Các bài thơ trong Kinh Thi ra đời vào khoảng đầu đời Tây Chu đến cuối thời Xuân Thu, trong bối cảnh nhà Chu chuyển biến từ thịnh sang suy. Do vậy, dù ít dù nhiều, chúng đều chịu ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử đó và có nội dung phản ánh bộ mặt lịch sử từng thời kì.
Tổ tiên nhà Chu khởi nghiệp từ đất Thai, trong lưu vực sông Vị (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), tương truyền có tên là Hậu Tắc hay còn gọi là Khí. Cuộc đời của Hậu Tắc được ghi lại trong bài Sinh dân (Đại Nhã), kể rằng mẹ ông là nàng Khương Nguyên dẫm phải dấu chân thần mà có thai, sinh ra Hậu Tắc; nàng không dám nuôi, đem vứt đi, nhưng vứt đi đâu Hậu Tắc cũng được cứu sống không chết, khi thì được bò dê cho bú, chim muông che chở, khi thì được người tiều phu cứu về, Khương Nguyên đành phải giữ lại nuôi. Khi lớn lên, Hậu Tắc tức thì biết cách trồng lúa làm ruộng, lúa lên vàng ươm, đẹp đẽ, tươi tốt. Bài Sinh dân dài đến 72 câu, có thể coi là lịch sử bằng văn vần hoặc sử thi ca ngợi thủy tổ nhà Chu vậy.
Sau Hậu Tắc ba đời thì đến ông Công Lưu. Công Lưu dẫn bộ tộc Chu từ đất Thai (nay là huyện Vũ Công, địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây) dời đến đất Mân (nay thuộc huyện Tuần Ấp, địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), khai đất hoang, làm nhà và định cư ở đấy. Chuyện này được kể trong bài Công Lưu (Đại Nhã), qua đó hết lời ca ngợi tính trung hậu và tư chất lãnh đạo của Công Lưu. Bài Miên (Đại nhã) lại nói về cuộc thiên cư lần thứ hai của bộ tộc Chu từ đất Mân đến đất Kỳ (nay thuộc huyện Kỳ Sơn, địa cấp thị Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây) dưới sự dẫn dắt của Cổ Công Đản Phủ; lần lượt kể từ khi nhà Chu ở lưu vực sông Thư, sông Thất, chưa có nhà phải ở hang; đến thời Cổ Công Đản Phủ dời đến Kỳ đã biết bói rùa, xây dựng nhà cửa, đặt một số quan chức, lập miếu xã, tổ chức quân đội đánh bại kẻ thù; đến thời Chu Văn Vương thì các nước khác đã phải nể sợ nước Chu. Bài Hoàng hĩ (Đại nhã) kể chuyện Cổ Công Đản Phủ, Ngô Thái Bá, Quý Lịch đến Chu Văn Vương đánh Mật, đánh Sùng. Bài Đại minh (Đại nhã) là một bản ghi chép lịch sử từ khi Chu Văn Vương ra đời đến Chu Vũ Vương đánh Trụ. Cuộc đông chinh dập tắt cuộc nổi loạn Vũ Canh của Chu Công Đán là chủ đề cho hai bài thơ Phá phủ và Đông sơn trong Mân phong. Một số bài khác như Thời mại, Hoàn, Vũ (Chu tụng)... cũng tham gia phản ánh lịch sử đầu Tây Chu.
Vào cuối thời Tây Chu, nền chính trị nhà Chu ngày càng hủ bại, nguy cơ xã hội bộc lộ rõ rệt, nhất là dưới hai triều vua Chu Di Vương và Chu Lệ Vương. Bài Tang nhu (Đại nhã) nói lên cảnh dân chúng chết chóc, nhà cửa tan nát trong cơn loạn lạc, người sống sót lưa thưa như tàn lửa sau vụ cháy. Bài Ức (Đại nhã) công kích triều đình hủ bại, trăm việc bê trễ, chỉ biết hưởng lạc, đó đều là những bài thơ quý tộc đời Lệ Vương oán trách nhà vua. Bài Thập nguyệt chi giao (Tiểu nhã) kể tên bảy kẻ nịnh thần của Chu U Vương như bọn Hoàng Phụ, nói rằng bọn họ với Bao Tự cấu kết với nhau, quyền thế rất ghê gớm. Bài Đại đông phản ánh các cuộc chiến tranh chinh phục dưới đời Chu Tuyên Vương, Chu U Vương, quân nhà Chu đánh bại các chư hầu phía đông, cướp sạch của cải của họ, bắt dân họ làm nô lệ khiến họ oán giận mãi không thôi. Bài Thường vũ (Đại nhã) ca tụng chiến công chinh phạt Từ Di của Tuyên Vương, bài Lục nguyệt (Tiểu nhã) kể chuyện Doãn Cát Phủ giúp Tuyên Vương bắc phạt Hiểm Doãn, bài Thái dĩ tả Phương Thúc nam chinh Kinh Man, phần nhiều do sử quan làm, có tính chất sử ký và ca tụng công đức khá cao.
Sang thời Đông Chu, Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp, nhà Chu suy yếu dần, các chư hầu lớn lấn át thiên tử, gây chiến tranh tiêu diệt lẫn nhau để giành đất đai, của cải trong suốt hai thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Thơ Quốc phong có nhiều bài phản ánh một số sự kiện lịch sử hoặc nhân vật lịch sử của chư hầu, như bài Tải trì (Dung phong) nói về việc nước Vệ bị diệt vong, Vệ Đái công phải bỏ chạy đến ấp Tào, bài Vô y (Tần phong) nói về cuộc kháng chiến của nước Tần chống lại người Khương Nhung hoặc bài Thạc nhân (Vệ phong) tả nàng Trang Khương, vợ Vệ Trang công, bài Tái khu (Tề phong) kể về nàng Văn Khương, vợ Lỗ Hoàn công... Kinh Thi cũng còn có nhiều bài cho ta biết tâm sự của giới quý tộc đời Chu khi gặp cảnh nước nhà suy yếu "ngày nay nước thu hẹp hàng trăm dặm" (Đại nhã, Thiệu mân), "dân bị nạn binh đao, tai họa trùm lên sắp chết hết" (Đại nhã, Tang nhu); qua đó chỉ trích gay gắt chính trị đương thời; khuyên vua "đừng tin lời sàm tấu" (Tiểu nhã Tiểu mân) vì chúng chỉ là bọn gây loạn bốn phương (Tiểu nhã, Thanh nhăng); có bài mạnh dạn lên án nhà vua và triều đình hủ bại. Điều đó cho thấy, việc các học giả thời xưa, nhất là đời Hán, khi chú thích cho nội dung các bài trong Kinh Thi thường thiên về phản ánh sự thực lịch sử không phải là không có cơ sở.
Phản ánh tình yêu và hôn nhân
Thơ nói về tình yêu và hôn nhân chiếm một tỉ trọng rất lớn trong thơ Phong, là một nội dung quan trọng của Kinh Thi. Những bài thơ này phần nhiều có tình cảm thành thật, sôi nổi, chất phác, thẳng thắn; tuy là đề tài tình yêu nhưng nội dung rất ít khi lặp, phàm những nỗi vui sướng, buồn lo, tan hợp về tình yêu đều được thể hiện rõ.
Bài Quan thư (Chu Nam) mở đầu cho Quốc phong và cũng là bài mở đầu cho cả bộ Kinh Thi, chính đã mang nội dung về tình yêu. Đó là bản tình ca đơn phương của chàng trai với một cô gái, gợi hứng từ tiếng kêu hòa hợp của đôi chim thư cưu ngoài xa, lời lẽ mộc mạc tự nhiên, qua đó bộc lộ ước muốn muốn kết thành vợ thành chồng với cô. Thơ tình đơn phương còn có bài Hán quảng (Chu Nam), Đông môn chi thiện (Trịnh phong), Trạch bi (Trần phong), Thấp tang (Tiểu nhã)...tình cảm triền miên, chan chứa, cảm động:
Yêu ai yêu tận đáy lòng
Vì sao e ngại mà không tỏ bày ?
Yêu ai thầm kín ai hay,
Tấm lòng thương nhớ biết ngày nào nguôi ?
(Thấp tang, Tiểu nhã)
Nỗi nhớ nhung trong tình cảm lứa đôi được thể hiện qua một số bài Tử khâm (Trịnh phong), Thái cát (Vương phong), Nguyệt xuất (Trần phong)...Đặc biệt ở bài Thái cát, có câu cho đến bây giờ trở thành quen thuộc, được nhiều thế hệ truyền tụng "Một ngày không thấy/Như ba năm trọn"
Chuyện nam nữ hẹn hò, thề thốt cũng được nhiều bài đề cập, ý thơ thường rất trong sáng, đuôi khi nhuốm tình điệu nguyên thủy, cho thấy tình yêu nam nữ thuộc tầng lớp dưới thời đó tương đối tự do. Như bài Dã hữu tử huân (Thiệu Nam) kể chuyện "chàng trai tốt đẹp" vào rừng săn hươu nai và hái củi, gặp một người con gái mà chàng khen là "đẹp sao như ngọc" rồi yêu cô, ngơ ngẩn lơ lững đi theo cô, khiến cho chó trong nhà cô "cắn ran". Tình điệu chất phác thật thà, rất ăn khớp với cảnh núi rừng ngày xuân. Lại như bài Tĩnh nữ (Bội phong) kể chuyện cặp tình nhân hẹn hò ở góc thành, khi chàng trai đến thì người cô gái chưa đến, khiến anh ta chờ mãi không thấy, sốt ruột quá cứ vò đầu băn khoăn. Khi cô gái đến như hẹn ước và thân mật tặng một nhánh cỏ non thì anh ta mừng quá. Anh cảm thấy nhánh cỏ ấy "xinh đẹp lạ lùng" vì đó là của người đẹp tặng. Tình cảm nam nữ dạt dào, thắm thiết, trong sáng, thật là thú vị! Các bài Thác hề, Trăn Vĩ, Sơn hữu phù tô, Phong vũ, Dã hữu man thảo (Trịnh phong), Tang Trung (Vệ phong), Đông phương chi nhật (Tề phong)... đều nói về tình yêu nam nữ tự do; nhiều bài trong Trịnh phong, người con gái còn ở tư thế chủ động để tỏ bày tình cảm, khiến Khổng Tử phải chê nhạc nước Trịnh là "dâm loạn", Chu Hy cũng thường chỉ trích.
Nhưng bài Tương Trọng Tử trong Trịnh phong phàn nàn về sự gò bó tình yêu, ở đó cô gái dặn dò người yêu là Trọng Tử không nên đến nhà tìm, tuy cô rất yêu chàng, nhưng cũng sợ bố mẹ, anh em, người đời quở trách. Bài Đại xa (Vương phong) lại nói về đôi nam nữ sợ pháp luật và người có quyền thế ngăn cấm mà không dám đến với nhau. Bài Bách chu (Dung phong) cũng nói chuyện bà mẹ can thiệp vào hôn nhân của con gái, nhưng cô gái nhất quyết phản kháng lại, "dù chết cũng không đổi ý". Yêu mà bị ngăm cấm thì rất đau khổ, nên cuối cùng cô gái phải kêu khóc thương tâm rằng
Mẹ ơi mẹ thật như trời
Sao mà chẳng lượng cho người thế ru
Ngoài nỗi đau khổ vì yêu đương bị ngăn trở, Kinh Thi còn tả nỗi đau khổ khi thất tình (như bài Giảo đồng trong Trịnh phong), nỗi đau khổ khi yêu mà không được yêu (như bài Trạch bi trong Trần phong), nỗi đau khổ chia lìa kẻ sống người chết (như bài Cát sinh trong Đường phong)...
Thơ về hôn nhân trong Kinh Thi có những bài tả vợ chồng xứng đôi, gia đình vui vẻ hòa thuận như bài Đào yêu (Chu Nam), Thước sào, Hà bỉ nùng hĩ (Thiệu Nam), Quân tử dương dương (Vương phong), Nữ viết kê minh (Trịnh phong)...Nhưng phần nhiều thơ thể hiện nỗi đau khổ nhớ thương vì li biệt xa cách. Nguyên nhân chính làm cho vợ chồng hoặc đôi tình nhân phải xa cách thời ấy là phu phen và chiến tranh. "Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa" (Mạnh Tử) nên chiến sự liên miên, trai tráng đều bị bắt đi lính, ngoài thì có những người đàn ông không vợ, trong thì có những người đàn bà chất chứa oán hờn, cho nên thơ Kinh Thi nói về việc phu phen khổ sở và mong nhớ người thân tương đối nhiều
Ví dụ như bài Đệ Đỗ (Tiểu Nhã) với tả người chinh phu đi thú lâu ngày, hết hạn vẫn không được về quê vừa tả người vợ ở nhà nhớ chồng bấm đốt tay tính ngày tháng, tưởng tượng người chồng vẫn gần đâu đây, là một bài thơ tình rất hay được người ta truyền tụng. Bài Hà thảo bất hoàng (Tiểu nhã) tả binh sĩ oán trách phải đi khắp đó đây, không được nghỉ ngơi, lại oán trách vợ chồng xa cách, rồi hỏi phẫn nộ "Bọn binh sĩ chúng ta thật tội nghiệp, há không phải là người hay sao ?". Các bài Quyển nhĩ, Nhữ phần (Chu Nam), Ẩn kỳ lôi (Thiệu Nam), Kích cổ, Hùng trĩ (Bội phong), Bá hề (Vệ phong), Cát sinh (Đường phong), Quân tử vu dịch, Thố viên (Vương phong)... cũng có nội dung tương tự.
Lại có những bài tả cuộc hôn nhân bất hạnh, như bài Cốc phong trong Bội phong và Manh trong Vệ phong. Trong hai bài này, người phụ nữ đều bị chồng ruồng rẫy phụ bỏ, họ kể lại cảnh ngộ không may của mình, lên tiếng oán trách anh chồng bạc bẽo, quyến luyến tình xưa nghĩa cũ hoặc hối hận đau khổ, quyết liệt cự tuyệt. Các bài Lục y, Yến yến, Nhật nguyệt (Bội phong), Trung cốc hữu thôi (Vương phong), Tuân đại lộ (Trịnh phong)... đều thuộc chủ đề này. Hoặc là thơ chê trách việc cưới gả ép uổng, không hợp đôi hoặc lỡ thì, gây đau khổ cho người phụ nữ, như bài Tân đài (Bội phong), Phiếu hữu mai (Thiệu Nam). Đây là những bài người phụ nữ oán thán về số phận, sự bất bình đẳng giới tính trong tình yêu và hôn nhân, đồng thời có thể hiện tinh thần muốn được giải phóng, đòi tự do trong yêu đương
Phản ánh đời sống dân chúng
Đời sống dân chúng được phản ánh bằng rất nhiều bài thơ trong Kinh Thi chủ yếu ở hai phần Quốc phong và Tiểu nhã, được giới Thi học chú ý nghiên cứu khoảng từ giữa thế kỷ 20. Điều không khó thấy là các bài thơ đều nói về hiện tượng như người xưa từng tổng kết "Người đói hát về chuyện ăn, người lao động hát về công việc".
Thơ về lao động
Lao động ở đây chủ yếu là công việc nhà nông với những bài thơ có thể coi là tài liệu lịch sử quan trọng để nghiên cứu xã hội đời Chu. Như bài Tải sam (Chu tụng) tả cảnh dân chúng lao động tập thể, đủ cả già trẻ trai gái cùng nhau làm cỏ, be bờ. Bài Lương trĩ (Chu tụng) tả cảnh được mùa, lúa chất "cao như vách tường, liền như răng lược". Bài Phù dĩ (Chu Nam) là bài ca các cô gái hát khi hái hạt phầu, lời ca đơn giản, tiết tấu nhẹ nhàng nhưng có thể khêu gợi trí tưởng tượng rất nhiều. Học giả Phương Ngọc Nhuận đời Thanh trong sách Thi kinh nguyên thủy, bình rằng, đọc bài này "như nghe rõ từng tốp phụ nữ nông thôn, nơi ba người, nơi năm người, hát đối đáp nhau, giữa cảnh gió lộng nắng ấm; tiếng hát véo von, như gần như xa, khi đứt khi đứt". Bài Thập mẫu chi gian (Ngụy phong) cũng nói lên niềm vui nhẹ nhàng của các cô gái sau khi hái dâu gọi nhau trở về, vừa đi vừa hát. Đặc biệt là bài Thất nguyệt trong Mân phong, được Văn Nhất Đa coi là "một bài Hạ tiểu chính hoặc Nguyệt lệnh bằng văn vần". Quả vậy, bài thơ miêu tả tương đối toàn diện cuộc sống của người nông dân trong một năm, giống như bài ca dao về lịch nhà nông. Có thể bài này truyền lại từ một thời xa xôi lắm, và trong khi lưu truyền, được thêm thắt vào mãi. Hình tượng lao động cũng trở thành đối tượng để khởi hứng hoặc làm tỉ dụ trong nhiều bài thơ khác của Kinh Thi.
Thơ oán thán
Kinh Thi có nhiều bài thơ thể hiện sự oán thán, bất bình của dân chúng với tầng lớp trên và những bất công trong xã hội. Bài Chính nguyệt (Tiểu nhã) nói về bọn "tiểu nhân" có tiền sống hoa xa còn dân chúng trong cơn tai biến thì lâm vào cảnh ngộ bi thảm. Bài Bắc sơn (Tiểu nhã) so sánh cuộc sống thư thả, nhàn hạ của tầng lớp quý tộc với sự vất vả, đầu tắt mặt tối của người dân, bày tỏ sự bất mãn cá nhân, cũng nói lên được sự bất bình chung của nhiều người. Bài Hồng nhạn (Tiểu nhã) thì nói về nạn phu dịch nặng nề, đến người quan quả khố rách áo ôm cũng bị bắt làm việc cặm cụi ngoài đồng, bàn tay họ xây nên hàng trăm bức tường thành cao nhưng bản thân thì không có chỗ nương thân
Đắng cay nếm đã đủ phần
Mà đâu đã thấy yên thân chốn nào ?
Sự oán thán của dân chúng trong thơ Quốc phong còn sâu sắc và gay gắt hơn so với thơ Nhã. Tiêu biểu như bài Phạt đàn (Ngụy phong) nói người đẵn gỗ suốt ngày bên sông nhưng không có một tí gì, còn kẻ "quân tử" không cày cấy, không săn bắn mà vẫn thóc lúa đầy kho, thú treo đầy nhà, cuối cùng mỉa mai họ là kẻ "ngồi không ăn dầy". Bài Thạc thử ví tầng lớp trên như loài chuột sù đục khoét, đồng thời bộc lộ khát vọng thoát khỏi quyền lực của những kẻ ăn trên ngồi trốc, sống tự do thanh bình
Ta thề bỏ mày
Đến nơi đất lành
Đất lành đất lành
Chỗ ta đã giành
Bài Bắc phong (Bội phong) phản ánh tình trạng dân chúng chịu nền chính trị bạo ngược, hà khắc, rủ nhau bỏ trốn. Bài thơ ví quạ đen và hồ ly với người cầm quyền và sự thống trị tàn khốc, cả bài là không khí buồn thảm, căng thẳng. Bài Mộ môn đả kích kẻ chấp chính bất lương, lại mượn hình ảnh rìu phạt gai góc trước cửa mộ để nói nguyện vọng muốn trừ bỏ kẻ đó. Các bài Thuần chi bôn bôn, Tướng thử (Dung phong)... đều có ý tương tự.
Trong Quốc phong có rất nhiều bài thơ oán trách việc phu phen và chiến tranh nặng nề gây nên thảm cảnh cho dân chúng. Bài Bảo vũ (Đường phong) tố cáo đau xót tình cảnh người dân phải đi phu đi lính, bỏ cả cày bừa, cha mẹ không nuôi, cũng không biết đến bao giờ mới được sống yên ổn, phải kêu trời kêu đất than ngắn thở dài. Bài Trắc hộ (Ngụy phong) là lời đứa con có hiếu, phải đi quân dịch, ở xa nhớ cha mẹ, tưởng tượng mẹ cha ngóng trông mình trở về, ý oán thán cũng ngầm trong đó. Mấy bài thơ tả tâm tình người vợ nhớ chồng đi lính bên cạnh sự nhớ thương cũng mang giọng điệu oán thán. Các bài Cát lũy, Dương chi thủy (Vương phong)... đều có ý như vậy.
Phản ánh đời sống quý tộc và văn hóa lễ nhạc đời Chu
Thơ phản ánh văn hóa lễ nhạc đời Chu chủ yếu do tầng lớp quý tộc làm ra, chiếm đa số trong Tụng và một phần Nhã. Đây hoặc là thơ dùng trong tế lễ tông miếu hoặc là thơ yến ẩm, biểu thị sâu sắc và dào dạt tinh thần lễ nhạc của con người thời Chu, cũng như phương diện văn hóa của xã hội đương thời. Như bài Thanh miếu (Chu tụng) cho ta hình dung về ngôi miếu thờ tổ tiên nhà Chu, bài Phán thủy (Lỗ tụng) giúp hình dung về nhà học lớn và việc giáo dục đương thời. Bài Na (Thương tụng) lại miêu tả về một buổi đại lễ lớn. Thấp thoáng sau mỗi bài thơ là nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội đời Chu như săn bắn, xây dựng nhà cửa, yến ẩm, lễ hội...của mọi tầng lớp trong xã hội.
Nghệ thuật
• Nói đến Kinh Thi không thể không nói đến phương pháp "phú", "tỉ", "hứng", có hiệu quả nghệ thuật ảnh hưởng rõ rệt đến văn học đời sau.
"Phú", "tỉ", "hứng" được chép sớm nhất ở sách Chu lễ, hợp với "Phong", "Nhã", "Tụng" gọi là "lục nghĩa". Lời chú viết "Phong Nhã Tụng là thể khác nhau của các thiên Kinh Thi, Phú Tỉ Hứng là lời khác nhau về văn của Kinh Thi, lớn nhỏ không như nhau, song gọi chung là Lục nghĩa. Phú Tỉ Hứng là sở dụng của Kinh Thi, Phong Nhã Tụng là sự thành hình của Kinh Thi, dùng ba cái kia để hình thành nên ba cái này, bởi vậy được gọi chung là nghĩa". Trong Thi tập truyện 詩集傳, Chu Hy giải thích về "phú", "tỉ", "hứng" như sau "Phú là trình bày sự việc rồi viết thẳng ra. Tỉ là lấy vật kia so sánh với vật này. Hứng là trước nói một vật khác để dẫn đến lời của thơ". Nói một cách dễ hiểu thì "phú" là thể trần thuật, "tỉ" là ví dụ so sánh, "hứng" là qua một vật, một việc để gợi hứng cho bài thơ.
Trong Kinh Thi, phần Nhã, Tụng phần nhiều dùng phương pháp "phú" để diễn tả; phần Quốc phong thì có một số bài như Thất nguyệt, Trăn Vĩ, Giảo đồng, Kiển thường mà thôi còn đa phần dùng "tỉ", như bài Chung tư (Chu Nam) lấy hình ảnh con dế chọi đẻ nhiều để chúc mừng việc đông con, bài Chung phong (Bội phong) lấy gió lớn để ví với người chồng bạo tàn, bài Thạc nhân (Vệ phong) dùng hình tượng mầm cỏ, mỡ đông, hạt dưa để ví với hình thể người đẹp Trang Khương, bài Thạc thử (Ngụy phong) lại dùng hình tượng con chuột kễnh để ví von với kẻ thống trị. "Hứng" thì được sử dụng thường xuyên trong Quốc phong, có khi liên quan đến ý chính bài thơ nhưng cũng có khi không, có khi gắn liền với tình điệu nhưng cũng có khi chỉ là lấy vần cuối cùng để dẫn đến những câu dưới. Chẳng hạn như bài Quan thư (Chu Nam) lấy hứng từ tiếng chim nước gù nhau rồi dẫn đến chủ đề chính là nỗi mơ tưởng đến người yêu của chàng trai. Bài Thần phong (Tần phong) mở đầu bằng hình tượng chim lớn bay vào rừng rồi chuyển sang chủ đề chính là việc người vợ nhớ chồng. Bài Đào yêu (Chu Nam) tả mùa xuân hoa đào nở mơn mởn, gắn liền với tình điệu chuyện cưới xin ở dưới. Bài Hoàng điểu (Tần phong) khởi hứng từ hình ảnh con chim sẻ vàng kêu chích chích ở bụi cây gai, rồi cây dâu, câu sở mà dẫn đến chuyện tuẫn táng "tam lương" thì có vẻ không liên quan. Thế nhưng âm cức 棘 (cây gai) và âm tích 瘠 (gầy) gần giống nhau, âm tang 桑 (cây dâu) và âm tang 塟 (chết) đồng âm, chữ sở 楚 (cây sở) liên tưởng đến từ "thống sở" 痛楚 (đau xót), ba chữ đó làm ta cho người ta liên tưởng đến những điều buồn bã đau thương. Do đó, tình hình khởi hứng trong Kinh Thi được đánh giá là tương đối phức tạp, có khi nó kiêm cả "tỉ" nữa, như bài Quan thư hay Đào yêu nói trên, hình tượng khởi hứng phần nào gắn liền với chủ đề lứa đôi, cưới xin mà bài thơ diễn tả. Khổng Tử nhận xét về bài Quan thư trong Kinh Thi: "Bài thơ Quan thư trong Kinh Thi đưa đến niềm vui mà không quá buông tuồng, mang lại nỗi buồn mà không đến mức đau thương.".
• Đặc điểm kết cấu dân ca trong Kinh Thi nổi bật nhất là cách "trùng chương điệp cú" (lặp đoạn lặp câu). Trùng chương có lúc để tỏ rõ trình độ và thứ tự tiến triển của sự việc, như bài Thái cát (Vương phong), chương đầu rằng
Dây sắn kia nàng hái đâu xa
Một ngày chẳng thấy bằng ba tháng ròng
Rồi chương hai, chương ba, hái sắn đổi là hái cỏ thơm, hái rau ngải; ba tháng đổi thành ba mùa, ba năm, mức độ phóng đại càng to dần, tỏ mức độ thương nhớ ngày càng sâu sắc, dần dẫn từng bước, rất tự nhiên. Cũng có lúc trùng điệp để mà trùng điệp, chứ không thể hiện mực độ và thứ tự, như bài Tang Trung (Dung phong), chương đầu kể chuyện chàng trai hái rau đường rồi nhớ đến nàng Mạnh Khương, các chương sau đổi thành hái lúa mạch, hái rau phong, tên người con gái cũng thay đổi nhưng cốt chỉ đổi vần để tiện hát đi hát lại, làm phần trữ tình tăng thêm. Kiểu trùng điệp như vậy trong Kinh Thi rất nhiều, nhưng không phải bài nào cũng hoàn chỉnh như nêu trên mà có bài chỉ trùng điệp một vài đoạn trong nhiều đoạn, có bài chỉ trùng điệp mấy câu trong một đoạn, có bài thì vừa trùng chương và điệp cú.
Ngoài trùng điệp, trong Kinh Thi còn có cách "xướng họa", như hai chương trong bài Thập mẫu chi gian (Ngụy phong) có thể là một chương xướng, một chương họa, như lời đối đáp của các cô gái hái dâu. Kết cấu "hòa thanh" (người ngoài hát hòa theo) như bốn chương bài Đông sơn (Bân phong), mỗi chương đều có bốn câu mở đầu như nhau
Từ ngày ta trẩy núi Đông
Năm qua tháng lại vẫn không được về
Hôm nay ta bước ra về
Trời mờ mịt, khắp tứ bề mưa bay
hay bốn câu cuối mỗi chương trong bài Hán quảng (Chu Nam), là một hình thức kết cấu đặc biệt của ca dao.
• Kinh Thi là tập đại thành dân ca cổ xưa của Trung Quốc, mà đã là dân ca thì phải nhất thiết có tiết tấu, vần điệu để hát được. Thơ Kinh Thi có nhạc tính rất đậm, bằng cách sử dụng nhiều điệp từ, phức từ như "quan quan" (quan quan thư cưu - Quan thư, Chu Nam); "thương thương" "thê thê" (kiêm hà thương thương, kiêm hà thê thê - Kiêm hà (gia) - Tần phong)... hoặc điệp cú "phong vũ thê thê, kê minh giê giê" "phong vũ tiêu tiêu, kê minh diêu diêu" (Phong vũ, Trịnh phong); "tích ngã vãng hĩ, dương liễu y y" "kim ngã lai ti, vũ tuyết phi phi" (Thái vi, Tiểu nhã)... tính tượng hình, tượng thanh rất cao. Những bài trong Kinh Thi có cả cước vận và yêu vận, cách gieo vần rất rộng rãi tự do, không bị gò bó trong một khuôn khổ hẹp hòi, theo một định luật nghiêm khắc. Nhờ thế nên văn chương Kinh Thi đã giữ được cái âm điệu uyển chuyển tự nhiên, diễn tả dễ dàng ấn tượng của tác giả và có sức truyền cảm rất mạnh.
Ngôn ngữ trong Kinh Thi cũng hết sức tinh tế, phong phú, một thứ ngôn ngữ phân tích tính (analytic language) cao độ. Tả hình tượng, các động tác của tay có "chuyết", "thái", "tương", "ấp", "đề", "chiết", "đầu"...; tả ánh sáng mặt trời thường là "hạo", ánh sáng Mặt Trăng thường là "hoàng", chớp là "diệp", ánh sáng đèn nến là "tích"... Tả âm thanh, tiếng gà gáy là "giao giao", tiếng côn trùng là "yêu yêu", tiếng hươu là "u u", tiếng xe lớn là "thôn thôn", tiếng xe nhỏ là "lân lân", tiếng chặt gỗ là "khảm khảm", tiếng chim nước kêu là "quan quan".... Tuy vậy, vì đây là văn pháp và từ ngữ đời Chu nên từ trước đến nay, giữa các nhà chú giải Kinh Thi thường có sự bất đồng ý kiến.
Giá trị và ảnh hưởng
Ngay từ thời Tiền Tần, Thi và Thư đã được đặt sánh đôi với nhau, là hai điển tích được kết tập sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Quý tộc đời Chu rất coi trọng việc học Thi, vì ngoài mục đích dùng cho điển lễ, phúng gián, thơ còn được dùng trong quan hệ ngoại giao giữa các nước đời Xuân Thu, dùng để tỏ ý chí, làm cho lời nói thêm hoa mỹ. Khổng Tử nhấn mạnh việc học Thi tam bách, cho rằng "Không học thơ thì không biết nói". Ông ca tụng Thi là "tư vô tà", "có thể giúp hưng phấn, có thể giúp xem xét, có thể giúp hợp quần, có thể giúp biết oán giận. Gần có thể thờ cha, xa thờ vua, giúp biết được nhiều tên của chim muông, cây cỏ". Thiên Thái Bá sách Luận ngữ dẫn lời Khổng Tử "Thơ có thể gây hứng khởi tấm lòng ham điều thiện, ghét điều ác. Lễ có thể khiến cho ta lập thân ở xã hội. Âm nhạc có thể giúp ta hoàn thành việc tu dưỡng nhân cách.". Học giả các học phái đời Tiên Tần, không chỉ Nho gia, đều dùng Thi để ngâm nga, ca hát; dẫn Thi làm dẫn chứng cho đạo lý, khiến việc học Thi nối nhau không đứt đoạn, sang đời Chiến Quốc thì Thi trở thành sách giáo khoa của toàn xã hội. Sau đời Tần, Thi chẳng những không bị mai một qua cuộc "đốt sách chôn Nho" mà còn được suy tôn làm "kinh", được thu thập, biên tập, giải thích lại rất nhiều. Từ chỗ là điển tịch văn hóa xa xưa, là văn bản nghiên cứu của học giả, Kinh Thi trở thành nhận thức chung của toàn xã hội, chỗ dựa cơ bản của văn hóa và triết học Trung Quốc suốt hơn hai nghìn năm nay. Vai trò và ảnh hưởng của Kinh Thi là vô cùng to lớn, chẳng những được truyền bá trên toàn cõi Trung Quốc mà còn đến nhiều nơi trên thế giới, trở thành một phần của cải tinh thần của nhân loại.
• Về phương diện văn học, Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. Toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc phát triển dưới sự khơi gợi của tinh hoa Kinh Thi.
Thứ nhất, Kinh Thi đã khai phá một tầm nhìn rộng lớn bao la về đề tài cho văn học Trung Quốc. Các loại hình thường thấy trong thơ ca các dân tộc văn minh cổ đại thì có sử thi, tình ca, nhạc ca tế lễ, thơ kể việc lao động nông nghiệp, riêng Kinh Thi thì có đủ tất cả. Ngoài ra, Kinh Thi còn có thơ yến ẩm, điều này can hệ đến nền văn hóa lễ nhạc rực rỡ nổi lên đời nhà Chu. Thơ tế tự, thơ yến ẩm, thơ nông sự, thơ chiến tranh, thơ oán thán, thơ tình lưu hành đời sau ở Trung Quốc đều lấy Kinh Thi làm nguồn gốc.
Thứ hai, Kinh Thi đã đặt nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Những bài trong Kinh Thi tả cuộc sống hiện thực về nhiều mặt, thể hiện tình ý của những con người thuộc các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong cuộc sống hiện thực, phản ảnh hiện thực một cách trung thành. Không ít bài trong Phong và Nhã đã nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời thảm đạm và đau khổ của dân chúng, chĩa mũi nhọn phê phán sắc bén vào xã hội bất công, châm biếm xã hội, phê phán chính trị hủ bại. Tinh thần hiện thực đó rất được người đời sau tán thưởng. Tinh thần ưu quốc ưu dân trong các tác phẩm của Khuất Nguyên chính là kế thừa tinh thần đó của Kinh Thi. Tuân Khanh cũng nói trong bài thơ Quỷ thi "Thiên hạ loạn lạc, xin trình bài thơ trái lạ này", điều đó chứng tỏ ông cố ý dùng thơ để nói chuyện thời sự, ảnh hưởng của Kinh Thi rất rõ. Nhạc phủ đời Hán, thơ Kiến An, thơ Đường, từ Tống cho đến tạp kịch Nguyên và tiểu thuyết Minh - Thanh đều bắt nguồn hiện thực từ Kinh Thi.
Các nhà văn đời sau mỗi khi phản đối khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ đều lấy Kinh Thi làm dẫn chứng, như phong trào phản đối thơ phù hoa diễm lệ từ Đông Tấn đến đầu đời Đường, Trần Tử Ngang và Lý Bạch đã đưa Phong Nhã ra làm gương mẫu<ref>Xem bài tựa Túc tru thiên của Trần Tử Ngang và Cổ phong của Lý Bạch</ref>. Bạch Cư Dị cũng suy tôn "phong nhã tỉ hứng", cho rằng thơ ca phải "quan sát thời chính mà bổ khuyết", "nói lên tình cảnh của dân" (Thư gửi Nguyên Chẩn), tức là tiếp thu tinh thần hiện thực của Kinh Thi và đã thu được kết quả tốt đẹp qua phong trào Tân Nhạc phủ nổi tiếng.
Thứ ba, Kinh Thi có công khai phá mở đường cho phong cách nghệ thuật văn học Trung Quốc. Ba phép "phú", "tỉ", "hứng" được sử dụng thường xuyên trong Kinh Thi đã trở thành mẫu mực mà các nhà thơ nói riêng và các nhà văn nói chung phải học tập và phát huy. Ly tao dùng thể tỉ rất nhiều như Vương Dật đã nói trong sách Sở từ chương cú "Chim lành, cỏ thơm ví với kẻ trung trinh; chim ác vật thối ví với kẻ sàm nịnh, người đẹp Linh Tu ví với quân vương, gái đẹp Bật Phi ví với hiền thần, long ly loan phượng ví với quân tử, gió mây ví với tiểu nhân". Những tác phẩm sau này như bài Tặng Phổ đô Tào biệt của Bão Chiếu kể nỗi nhớ biệt ly, bài Minh nhạn của Hàn Dũ kể nỗi bần hàn, từ đầu đến cuối đều dùng chim nhạn để ví, những bài đó dường như chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Kinh Thi. Mười chín bài thơ trong Cổ thi đời Tấn, có mấy bài học phương pháp "hứng" như bài Thanh thanh lăng thượng bách (cây bách xanh trên gò) và Nhiêm nhiêm cô sinh trúc (cây trúc đứng một mình)...Kết cấu trùng điệp, hòa thanh trong thơ Kinh Thi còn được thấy trong các tác phẩm dân ca từ Nhạc phủ trở về sau, một số văn nhân cũng học tập như bài Tứ sầu của Trương Hành đời Đông Hán. Không chỉ văn học tiếp thu kĩ xảo nghệ thuật của Kinh Thi như tô đậm, so sánh, khoa trương, đối ngẫu, bài tỉ... mà đến cả nghệ thuật hí kịch, hội họa, âm nhạc... đều in hằn dấu vết của nghệ thuật Kinh Thi.
Thứ tư, về thể tài, Kinh Thi cũng có ảnh hưởng nhất định đến văn học đời sau. Ví dụ như quan hệ giữa phú và Kinh Thi đã được Ban Cố khẳng định "phú là dòng thơ cổ", Lưu Hiệp cũng nói phú là "lấy sinh mệnh ở thi nhân, khai thác ở Sở từ". Đại khái Kinh Thi ảnh hưởng đến phú về hai mặt, một là phúng dụ, hai là miêu tả, khắc họa. Ngoài phú ra, các loại văn vần như tụng, tán, bi, lũy, châm, minh... nói chung đều dùng câu bốn chữ, không thể nói là không chịu ảnh hưởng của Kinh Thi được
• Ngoài phương diện văn học quan trọng, xét trên các phương diện lịch sử xã hội, lịch sử chính trị, lịch sử kinh tế, lịch sử tư tưởng, lịch sử khoa học kĩ thuật..., ta đều đều có thể tìm thấy ở Kinh Thi một kho báu vô giá. Qua Kinh Thi, ta có thể biết được phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của các nước chư hầu ở Trung Quốc thời Chu. Vì thế nên Tưởng Tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nông nghệ thời cổ, Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung Quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là "thời kỳ thai nghén triết học".
• Về mặt kinh học, từ sau đời Hán, Kinh Thi được đưa vào Ngũ kinh, trở thành kinh điển của Nho gia, là tài liệu giáo dục quan trọng của Nho sĩ Trung Quốc. Mặc dù Kinh Thi vốn là tuyển tập văn học, nhưng do có thuyết cho rằng nó được Khổng Tử san định nên hậu nho đã "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify) thi tuyển ấy. Trào lưu này vốn xuất hiện ngay từ thời nhà Hán với các bản chú giải Kinh Thi như Mao truyện, Trịnh tiên, và tiêu biểu là bản Thi kinh tập truyện của Chu Hy đời Tống. Vì vậy, Kinh Thi còn mang tư cách của một tác phẩm kinh học Nho gia. Kinh Thi chỉ được dạy cho học trò khi họ hoàn thành xong việc học sách Tiểu học 小學 của Chu Hy và Tứ thư của Khổng, Tăng,Tư, Mạnh; khi đã tiếp thu một trình độ nhất định về ứng đối, tiến thoái, hiểu biết được căn bản "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số) mới được học Ngũ kinh và bộ Kinh đầu tiên phải học là Kinh Thi. Do vậy, Kinh Thi trở thành giáo trình chính trị - luân lý cho toàn bộ Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc suốt hai nghìn năm phong kiến, đã gánh vác nhiệm vụ giáo hóa muôn dân mà Khổng Tử gọi là Thi giáo. Kinh Thi cũng trở thành chuẩn mực trong các văn bản hành chính như chiếu lệnh của triều đình, tấu nghị của quần thần đến hoành phi câu đối trong cung điện hoặc ở các chùa quán, tư gia... đều lấy chữ và ý tứ trong Kinh Thi.
Ảnh hưởng của Kinh Thi còn lan đến các quốc gia đồng văn lân cận Trung Quốc như Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản và để lại nhiều dấu ấn trong các trước tác thư tịch, văn chương của các quốc gia này. Kinh Thi vẫn tiếp tục được nghiên cứu sâu rộng bởi giới "Thi học", không chỉ ở Trung Quốc, Việt Nam mà là trên toàn thế giới.
Trong văn hóa Việt Nam
Kinh điển Trung Hoa, trong đó có Kinh Thi, thâm nhập vào Việt Nam có thể kể từ khi bắt đầu thời Bắc thuộc khoảng đầu Công nguyên thông qua con đường giáo dục, mở trường học, truyền bá giáo lý Nho gia. Cho dù sự cai trị của người Hán không còn áp đặt lên Việt Nam từ sau năm 938, nhưng Nho giáo vẫn được coi trọng và truyền bá mạnh mẽ, dần dần trở thành ý thức hệ chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam. Kinh Thi bởi vậy cũng có ảnh hưởng to lớn đến văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng.
• Ảnh hưởng của Kinh Thi với văn hóa Việt Nam sâu rộng nhất là ở lĩnh vực nghệ thuật. Kinh Thi được coi là khuôn vàng thước ngọc cho sáng tác văn chương của nhà nho như Lê Quý Đôn từng ca ngợi "Thơ khởi phát từ trong lòng ta. Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, mà cũng có những bài các văn sĩ đời sau không theo kịp được, như thế là vì nó chân thực". Các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của văn học Việt Nam thời trung đại đều ít nhiều có điển cố, điển tích của Kinh Thi. Khi thì mượn ý tứ để sáng tác, khi thì mượn nguyên vần, có câu lấy hai đến ba hình ảnh trong Kinh Thi, thậm chí có bài phú lấy hầu hết ý trong Kinh Thi để thể hiện ý đồ sáng tác. Như bài thơ Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ tương truyền do vua Trần Trùng Quang sáng tác, đã dùng chữ "hoàng hoa" để chỉ việc đi sứ của Nguyễn Biểu, đó là lấy ý từ bài Hoàng hoàng giả hoa trong Tiểu nhã. Bài Cỗ đầu người của Nguyễn Biểu có câu "Ca lối lộc minh so cũng một", chính là điển tích trong bài Lộc minh của Kinh Thi. Câu thơ ở Chinh phụ ngâmNương song luống ngẩn ngơ lòngVắng chàng điểm phấn trang hồng với aikhá gần gũi với bài Bá hề (Vệ phong). Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là ví dụ tiêu biểu cho sự học tập ngôn ngữ Kinh Thi. Câu "Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì" lấy ý từ bài Đào yêu, lại có câuSầu đong càng lắc càng đầyBa thu dọn lại một ngày dài ghêcó thể coi là sự phiên dịch câu "Một ngày chẳng gặp, dài tựa ba thu" ở bài Thái cát (Vương phong). Thống kê cho thấy, các điển cố Kinh Thi xuất hiện thường xuyên trong văn học Việt Nam là "đào yêu", "lân chỉ", "thuyền bách"....
Trong diễn xướng, vở chèo Quan Âm Thị Kính mở đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi học bài, Thị Kính ngồi khâu. Thiện Sĩ học rất to tiếng và bài học của chàng chính là Quan thư (Chu Nam). Trong chèo Việt Nam còn có điệu Quân tử vu dịch với những câu như "Những khi tựa cửa, ngao ngán cảnh xa chồng. Rày ngóng mai trông...", Quân tử vu dịch chính là tên một bài thơ trong Vương phong.
• Về giáo dục và kinh học, Kinh Thi là tài liệu học tập thường xuyên của mọi Nho sĩ Việt Nam thời phong kiến mà bản Kinh Thi thông dụng nhất thời ấy là bản Mao thi có Chu Hy làm Truyện. Cùng với các bộ sách kinh điển khác của Nho giáo, Kinh Thi từng được dùng làm đề tài trong khoa cử của Việt Nam mà niên đại xưa nhất chúng ta còn biết là từ thời nhà Trần. Hai bộ sách Thi kinh sách lược 詩經策略 ký hiệu VHv.385 và VHv.433 hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam còn ghi chép được hơn 530 bài văn sách có đề tài trong Kinh Thi; sách Ngũ kinh tiết yếu 五經節要 của Bùi Huy Bích, Ngũ kinh loại thuyết 五經類說, Ngũ kinh xuyến châu tự 五經串珠序, đều tóm tắt nội dung và chú giải của năm kinh, trong đó có Kinh Thi, nhằm phục vụ cho học trò trong các kì khoa cử. Các loại sách tham khảo, "luyện thi" như vậy rất nhiều trong khi các trước tác khảo cứu bình giảng kinh văn ở Việt Nam rất ít ỏi. Bởi vì theo quy định từ đời Tống trở về sau, phàm học trò đi thi, khi giải nghĩa sách kinh điển thì phải theo đúng giải nghĩa của tiên nho (cụ thể là Tống Nho), nếu không dù sáng tạo sắc sảo vẫn bị đánh hỏng, khoa cử Việt Nam cũng vậy.
Tuy nhiên, trong giới học thuật Việt Nam vẫn luôn có ý thức bài bác, đưa ra ý kiến trái ngược với chú thích của Tống Nho. Như Hồ Quý Ly đã dịch Kinh Thi và viết sách Quốc ngữ Thi nghĩa 國語詩義 bằng chữ Nôm để giải thích lại Kinh Thi. Bài tựa do ông viết không theo ý của Chu Hy. Đặc biệt là vào khoảng thời Nguyễn, trào lưu "giải kinh học" (declassicize) "giải huyền thoại" (demythify) ở Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tiếp nhận Kinh Thi của nho giả Việt Nam. Tiêu biểu là Nguyễn Văn Siêu khi ông cho rằng lời khảo chứng của Chu Hy "vẫn còn nhiều điều đáng ngờ".
• Phong trào phiên dịch Kinh Thi sang chữ Nôm nở rộ với phát súng mở đầu Quốc ngữ Thi nghĩa của Hồ Quý Ly. Sau đó có Nguyễn Quý Cảnh thích nghĩa Tứ Thư Ngũ Kinh, Nguyễn Thiếp dịch Ngũ Kinh sang chữ Nôm theo yêu cầu của vua Quang Trung, Tùng Thiện Vương Miên Thẩm viết cuốn Thi kinh quốc âm ca 詩經國音歌, nhưng các tư liệu này đều chưa/không tìm được. Thư tịch dịch thuật Kinh Thi cổ xưa nhất của Việt Nam còn lại đến ngày nay là sách Thi kinh giải âm 詩經解音, chưa rõ dịch giả, khắc in năm 1714, rồi được viện Sùng Chính đời Tây Sơn cho tái bản theo chiếu chỉ giục gấp của Quang Trung. Sau đó là tác phẩm Thi kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa 詩經大全節要演義 khắc in các năm 1836 và 1837. Đó là các tác phẩm dịch Kinh Thi sang văn xuôi.
Các tác phẩm dịch Kinh Thi sang thơ gồm có Thập ngũ Quốc phong diễn âm 十五國風演音, Thi Kinh quốc ngữ ca 詩經國語歌 và một số bản dịch lẻ tẻ các thiên Thất nguyệt, Tiểu nhung của Phạm Đình Toái. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam còn lưu giữ được 8 tác phẩm, 19 văn bản, 31 ký hiệu sách với tổng số 5368 trang văn bản dịch.
Vào thế kỉ 20, Kinh Thi lại được dịch sang chữ Quốc ngữ, tập trung nhất là bốn bản dịch.
Đầu tiên là bản tuyển dịch của Tản Đà, Nghiêm Thượng Văn, Đặng Đức Tô do Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản ở Hà Nội năm 1924. Bản này chọn dịch 63 bài, nhưng mỗi bài không nhất thiết chọn hết, gồm các phần: Hán văn, phiên âm Hán Việt, chú thích, dịch thơ, giảng nghĩa. Năm 1992, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh cho in lại, có sửa chữa, in thêm 27 trang Dẫn nhập ở đầu do Trần Văn Chánh viết.
Hai là bản dịch Thi kinh tập truyện của Chu Hy do Tạ Quang Phát dịch, in lần đầu tiên năm 1968 ở Sài Gòn do Trung tâm Học liệu bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa phát hành nhưng mới được tập đầu. Sau đó, Nhà xuất bản Văn học tái bản trọn bộ ba tập vào năm 1991 và 1992, Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản vào năm 2003, Nhà xuất bản Văn học lại tái bản vào năm 2004. Bản này dịch hết 311 bài thơ, gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, bình giảng.
Ba là bản tuyển dịch Kinh Thi tinh tuyển của Phạm Thị Hảo do Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành với 100 bài thơ được dịch, mỗi bài gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, chú thích.
Cuối cùng là bản Kinh Thi in trong bộ sách Ngữ văn Hán Nôm: Ngũ kinh do Trần Lê Sáng giới thiệu và dịch chú, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2002 với 53 thiên được dịch, gồm nguyên bản Hán văn, phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, chú thích. Ngoài ra, Trần Văn Chánh còn cho biết Nam Trân có một bản dịch nhưng chưa công bố.
• Từ nửa cuối thế kỉ 18, khi sưu tầm thơ ca dân gian Việt Nam, các nhà nho Việt Nam cũng có xu hướng học tập kết cấu của Kinh Thi. Trần Danh Án sưu tập và biên soạn Quốc phong giải trào 國風解嘲, Ngô Đình Thái tiếp tục sưu tập và biên soạn Nam phong giải trào 南風解嘲 và Nam phong nữ ngạn thi 南風女諺詩 . Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển soạn Quốc phong thi tập hợp thái 國風詩集合採, Nguyễn Văn Mại thì đặt là Việt Nam phong sử 越南封史.
Họ đều ghi chép tục ngữ ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích theo cách chú giải của Chu Hy vì có ý đem ca dao Việt Nam so sánh với thơ Quốc phong của Kinh Thi. Với hai câu "Thương chồng nên phải gắng công/ Nào ai xương sắt da đồng chi đây", Nguyễn Mại làm truyện rằng "Trưng Vương là đàn bà, báo thù cho chồng mà đánh đuổi Tô Định, thực là gan vàng dạ sắt". Hay như câu "Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng/ Thơm cành thơm rễ, người trồng cũng thơm" thì được ông cho là ám chỉ việc Lý Huệ Tông lấy bà Trần Thị Dung mà họ Trần được vinh hiển. Việc mô phỏng Truyện của Chu Hy để chú thích ca dao như vậy đôi khi là khiên cưỡng, gán ghép, làm sai lạc đi ý nghĩa của mỗi câu ca dao.
Xem thêm
Ngũ kinh
Thập tam kinh
Khổng Tử
Chu Hy
Sở từ''
Văn học Trung Quốc
Chú giải và thư mục
Chú thích |
Phan Thị Mỹ Tâm (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh Mỹ Tâm, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên kiêm nhà làm phim người Việt Nam. Được mệnh danh là "Nữ hoàng V-pop", nhiều tác giả và nhà báo trong nước lẫn quốc tế từng nhìn nhận cô là một trong những nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam. Sinh ra tại Đà Nẵng, Mỹ Tâm sớm bộc lộ năng khiếu về âm nhạc và liên tiếp giành chiến thắng tại nhiều cuộc thi ca hát lớn nhỏ lúc còn ở độ tuổi thiếu niên. Cô khởi nghiệp ca hát bằng album đầu tay Mãi yêu (2001) và album kế tiếp Đâu chỉ riêng em (2002) không lâu sau khi tốt nghiệp thủ khoa tại trường Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Album phòng thu thứ ba, Yesterday & Now (2003) giúp cô lập kỷ lục về doanh số bán ra tại thị trường trong nước.
Trong những năm còn lại của thập niên 2000, Mỹ Tâm phát hành một chuỗi các sản phẩm âm nhạc thành công về mặt chuyên môn và thương mại, bao gồm các album đề cử cho giải Cống hiến Hoàng hôn thức giấc (2005), Vút bay (2006), Trở lại (2008). Năm 2004, Mỹ Tâm tổ chức chương trình biểu diễn "Liveshow Ngày ấy & bây giờ", có mức kinh phí đầu tư lớn nhất tại Việt Nam lúc đó. Trong thập niên 2010, cô thực hiện chuyến lưu diễn Heartbeat và phát hành Tâm (2013), Tâm 9 (2017), liên tiếp gặt hái thành công thương mại. Bên cạnh việc tự sáng tác, cô còn hát các ca khúc của tác giả khác như "Tóc nâu môi trầm", "Họa mi tóc nâu", "Ước gì", "Hát với dòng sông", "Xích lô" hay "Cây đàn sinh viên".
Mỹ Tâm nằm trong danh sách những nghệ sĩ thu âm bán đĩa nhạc chạy nhất tại Việt Nam, với doanh thu khoảng 2 triệu bản. Trong suốt sự nghiệp âm nhạc của mình, Mỹ Tâm giành được 6 giải Cống hiến, 1 giải Âm nhạc châu Âu của MTV, 11 lần liên tiếp nhận giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và 3 năm liên tiếp nhận giải "Gương mặt của năm" của Giải thưởng Làn Sóng Xanh. Tại sự kiện Top Asia Corporate Ball 2014 ở Kuala Lumpur, cô thắng giải "Huyền thoại Âm nhạc châu Á" và là "Nghệ sĩ có album bán chạy nhất lãnh thổ" do Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) công nhận trong năm 2014. Cô xuất hiện trong danh sách "Top 50 Phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam" (2017) do tạp chí Forbes Vietnam công bố. Cô còn là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có một album lọt vào top 10 Billboard World Album vào tháng 1 năm 2018. Mỹ Tâm còn làm giám khảo cho các cuộc thi như Vietnam Idol: Thần tượng Âm nhạc Việt Nam (2012–13, 2023), Sao Mai điểm hẹn (2010), Giọng hát Việt (2015), góp mặt trong phim truyền hình Cho một tình yêu (2010). Năm 2019, cô lần đầu đạo diễn và cũng đóng chính trong bộ phim điện ảnh đầu tay Chị trợ lý của anh. Năm 2023, Mỹ Tâm làm đạo diễn cho bộ phim tài liệu Tri âm The Movie: Người giữ thời gian.
Cuộc đời và sự nghiệp
1981–2000: Thuở niên thiếu và khởi đầu sự nghiệp
Phan Thị Mỹ Tâm sinh ngày 16 tháng 1 năm 1981 tại Đà Nẵng, quê gốc tại xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cô là con út trong một gia đình gồm có tám anh chị em. Sinh ra trong gia đình không có truyền thống về âm nhạc, cô từng có 3 năm theo học ba lê từ lúc sáu tuổi, trước khi chuyển sang học chơi guitar và organ. Cho dù thường xuyên tham gia các hoạt động văn nghệ và Đoàn đội lúc ở trường, cô lại không xem ca hát là sự nghiệp tương lai của mình.
Trong lúc học cấp 2, cô giành giải nhất cuộc thi ca hát toàn trường, đoạt giải A "Liên hoan tiếng hát Miền Trung và Tây Nguyên" và tiếp tục giành Huy chương vàng Giọng hát hay "Xuân 1997" toàn thành phố Đà Nẵng khi mới 15 tuổi. Mỹ Tâm từng được chọn vào Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội tại Hà Nội, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên vào năm 1997, cô đến Thành phố Hồ Chí Minh để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Cùng năm đó, cô bắt đầu theo học Hệ trung cấp chính quy Khoa thanh nhạc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1997 đến năm 1998, cô liên tiếp tham gia những hội diễn văn nghệ và các cuộc thi giọng hát hay của Quận và Thành phố. Tháng 4 năm 1998, cô đoạt giải nhất ở hai hội thi đơn ca tại quận Tân Bình và Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào tháng 11 cùng năm, cô đến tham dự cuộc thi "Giọng ca vàng" do báo Mực Tím tổ chức. Cô giành chiến thắng chung cuộc trong buổi thi chung kết với bài hát "Nhớ mùa thu Hà Nội".
Vào đầu năm 1999, Mỹ Tâm trở thành ca sĩ độc quyền cho trung tâm Vafaco. Bản thu âm đầu tiên của cô thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhạc sĩ Nguyễn Hà, với ca khúc "Nhé anh". Cùng năm Mỹ Tâm cũng giành giải nhất "Hội diễn văn nghệ ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh 1999 - 2000". Đến giữa năm 2000, khi vừa kết thúc hợp đồng cùng công ty Vafaco, cô đồng sáng tác bài hát đầu tay mang tên "Mãi yêu" cùng nhạc sĩ Nguyễn Quang, "Mãi yêu" cùng phần trình bày lại nhạc phẩm "I Love You" của Céline Dion đã giúp cô đạt Huy chương Đồng tại Liên hoan Giọng ca vàng châu Á tại Thượng Hải, Trung Quốc.
2001–2002: Nổi tiếng với Tóc nâu môi trầm; album Mãi yêu và Đâu chỉ riêng em
Ngày 15 tháng 2 năm 2001, Mỹ Tâm cùng với ca sĩ như Thanh Lam, Trần Thu Hà và Thu Phương cho ra mắt CD Tóc nâu môi trầm do hãng phim Phương Nam thực hiện. "Tóc nâu môi trầm" cũng trở thành ca khúc gắn liền với tên tuổi của Mỹ Tâm kể từ đó. Được Mỹ Tâm lăng xê quá tích cực, tuy nhiên, ít ai biết rằng, ca khúc này lại vốn được nhạc sĩ Quốc Bảo sáng tác để dành riêng cho Hiền Thục. Trong buổi giao lưu với bạn đọc nhân dịp ra mắt sách 50 - Hồi ký không định xuất bản, nhạc sĩ Quốc Bảo lần đầu chia sẻ: "Tóc nâu môi trầm" được hãng phim Trẻ đặt hàng cho Thục; sau khi đã hòa âm và thực hiện xong bản thu, Hiền Thục cuối cùng lại từ chối không hát. Lý do được Hiền Thục đưa ra là lúc đó cô mới 20 tuổi nên không hiểu ý nghĩa bài hát. Bị Hiền Thục từ chối, nhạc sĩ Quốc Bảo đã nghĩ ngay đến Mỹ Tâm bởi anh không muốn bỏ phí sáng tác của mình. "Tôi rất tiếc nếu ca khúc không được phát hành, vì thế tôi nói với hãng phim Trẻ là sẽ phối lại và đưa cho người khác hát. Cuối cùng, tôi đưa cho Mỹ Tâm nghe bản demo ngay tại nhà. Chúng tôi quyết định phối lại bài này ở tông cao hơn và tiết tấu nhanh hơn" - Quốc Bảo nhớ lại. Anh hài hước cho biết thêm: "Mỹ Tâm có lẽ cũng không hiểu gì nhưng được cái Mỹ Tâm giống ca sĩ Khánh Ly là "em không hiểu nhưng em thích bài hát này. Rồi đến một lúc nào đó em sẽ hiểu".
Và đúng như dự đoán của nhạc sĩ Quốc Bảo, ca khúc này đã giúp hình ảnh của Mỹ Tâm đến gần hơn với đông đảo khán giả và trở thành một trong những ca khúc thành công nhất của Mỹ Tâm thời điểm đầu năm 2000.
Vào tháng 6 năm 2001, Mỹ Tâm tốt nghiệp thủ khoa hệ trung cấp Nhạc viện Thành phố với số điểm 9,5. Để có kết quả này, cô phải hạn chế đi diễn để tập trung vào việc học tập và luyện thanh. Cô phát hành album phòng thu đầu tay mang tựa đề Mãi yêu do hãng phim Phương Nam sản xuất năm 2001. Album có sự hợp tác cùng các nhạc sĩ Bảo Chấn ("Bài ca đêm"), Võ Thiện Thanh ("Sóng") hay Bảo Phúc ("Tình mãi xanh"). Mỹ Tâm đóng góp 2 bài hát tự sáng tác là "Mãi Yêu" và "Tình mơ", nhạc sĩ Quốc Bảo tham gia với 3 nhạc phẩm "Tóc nâu môi trầm", "Hai muơi" và "Em của tôi". Mãi yêu vượt doanh số 54.000 bản. Cùng năm 2001, Mỹ Tâm được Đài Truyền hình Việt Nam bình chọn là "Nhân vật tiêu biểu trong năm 2001" và lọt vào "Top 5 ca sĩ triển vọng" tại Giải thưởng âm nhạc Hoa Học Trò lần I do bạn đọc báo Hoa Học Trò bình chọn. Mỹ Tâm còn thực hiện video âm nhạc cho "Nhé anh" và "Tình mãi xanh" trong khuôn khổ cuộc thi VTV - Bài hát tôi yêu năm đầu tiên. Trong đêm trao giải diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2002 tại Nhà hát Hòa Bình, cô giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Bài hát được yêu thích nhất" cùng video "Nhé anh".
Năm 2002, Mỹ Tâm tổ chức chuyến lưu diễn xuyên Việt đầu tiên cùng nhãn hàng Sunsilk, mang tên "Sunsilk cùng Mỹ Tâm tỏa sáng ước mơ". Chương trình diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng, với dàn dựng đơn giản dành cho đối tượng học sinh, sinh viên. Cũng trong năm này, cô phát hành "Cây đàn sinh viên", đĩa đơn đầu tiên do Bến Thành Audio-Video sản xuất. Do nhạc sĩ Quốc An sáng tác, bài hát nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong giới trẻ và sinh viên, đồng thời mang về cho Mỹ Tâm giải "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải thưởng Mai Vàng lần VII. Vào tháng 5, cô cho phát hành CD "Ban mai tình yêu" do hãng phim Trẻ & Mỹ Tâm Production với hình thức của một album rút ngắn và đem về thành công với bài hát "Tình lỡ cách xa" phát hành kèm. Đây được xem là đĩa đơn đầu tiên do một ca sĩ tự sản xuất tại Việt Nam. Cô tiếp tục cho ra mắt đĩa đơn "Hát với dòng sông", một ca khúc sáng tác bởi nhạc sĩ Quốc An và Nhất Huy. Tuy không xuất hiện trong sản phẩm âm nhạc chính thức nào và chỉ trình diễn trong một số chương trình ca nhạc, "Hát với dòng sông" trở thành một trong những bài hát trứ danh cho Mỹ Tâm. Bài hát giúp cho Quốc An giành giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích" tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2002.
Album phòng thu thứ hai của Mỹ Tâm, Đâu chỉ riêng em do hãng phim Phương Nam và Mỹ Tâm Production sản xuất giới thiệu lần đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tối 17 tháng 12 năm 2002. Trong album, Mỹ Tâm thể hiện lại các nhạc phẩm nước ngoài nổi tiếng: "Poupée de cire, poupée de son" và "Bang Bang (My Baby Shot Me Down)" phổ lời Việt. Video âm nhạc "Giấc mơ tình yêu" mà Mỹ Tâm thực hiện cùng đạo diễn Huỳnh Phúc Điền tại mùa giải VTV - Bài hát tôi yêu thứ 2 đã thắng giải "Video được khán giả yêu thích nhất" và "Video do Hội đồng Nghệ thuật bình chọn" trong buổi lễ diễn ra vào ngày 23 tháng 12. Lần đầu tiên Mỹ Tâm giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh 2002. Một liveshow nhỏ mang tên "Cho trái tim trẻ thơ tỏa sáng" được tổ chức tại Nhà văn hóa Thanh Niên TP.HCM và thực hiện bởi hãng phim Phương Nam hồi tháng 6.
2003–2005: Yesterday & Now và Hoàng hôn thức giấc
Vào tháng 6 năm 2003, Mỹ Tâm tiếp tục cho phát hành album Yesterday & Now (tựa tiếng Việt: Ngày ấy & Bây giờ) do Bến Thành Audio-Video thực hiện, gồm nhiều sáng tác mới của Trần Huân ("Họa mi tóc nâu"), Võ Thiện Thanh ("Ước gì") và Lê Quang ("Niềm tin chiến thắng"). Được xem là "album được yêu thích rộng rãi nhất" của cô, Yesterday & Now vượt 68.000 đĩa vào đầu tháng 3 năm 2005, mà đến nay đã đạt trên 100.000 bản — con số kỷ lục tại thị trường âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Tháng 7 năm 2003, album VCD Mãi yêu của cô được hãng phim Phương Nam phối hợp cùng Mỹ Tâm Production thực hiện. Trong album có 2 MV được quay ở Hàn Quốc gồm Mãi yêu và Giấc mơ tình yêu; 2 MV còn lại là Một lần và mãi mãi (với diễn viên Kiều Anh phụ hoạ) & Chiếc nhẫn cỏ (phụ hoạ bởi diễn viên Công Dũng) được quay ở Ninh Bình, Việt Nam. Album này phá vỡ kỷ lục đĩa VCD bán ra tại thị trường Việt Nam, với hơn 80.000 bản tính đến tháng 3 năm 2005. Bài hát "Ước gì" trích từ album Yesterday & Now mang về giải "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải Mai Vàng lần IX và giải Làn Sóng Xanh cho "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" thuộc về tác giả Võ Thiện Thanh; "Niềm tin chiến thắng" là một trong các sáng tác ca khúc cổ vũ thể thao xuất hiện trong Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, sau đó được hãng Pepsi chuyển nhượng lại làm nhạc hiệu quảng cáo cổ vũ cho đội tuyển Việt Nam; và "Họa mi tóc nâu" đem về cho tác giả Trần Huân giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2003. Trong cùng một hạng mục giải thưởng, Mỹ Tâm còn đem về cho nhạc sĩ Võ Thiện Thanh giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" với nhạc phẩm "Xích lô"; và một giải nữa cho "Ca sĩ được yêu thích nhất". Kết thúc năm 2003, Mỹ Tâm còn mang về giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" do Vietnamnet bình chọn.
Chiều ngày 20 tháng 1 năm 2004, hãng nước giải khát PepsiCo Việt Nam công bố Mỹ Tâm trở thành ca sĩ độc quyền trong 1 năm và lên đường sang thủ đô Luân Đôn để gặp gỡ những ngôi sao ca nhạc thế giới như Britney Spears, Enrique Iglesias, P!nk và Beyoncé. Vào cuối tháng 3 năm 2004, Mỹ Tâm trình diễn trong "Liveshow Ngày ấy & bây giờ" do Mỹ Tâm Production và hãng phim Phương Nam tổ chức, diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đêm nhạc tạo sự thu hút lớn từ dư luận, khi được đầu tư đến 3 tỷ đồng, mức kinh phí đầu tư lớn nhất trong lịch sử làm đêm nhạc của Việt Nam lúc đó. Đêm diễn đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh thu về 13.000 vé, trong luồng đánh giá trái chiều của các nhà phê bình. Buổi diễn tại Hà Nội ước tính có xấp xỉ một vạn khán giả đến sân Mỹ Đình để xem cô biểu diễn. Sau sự thành công của liveshow, VCD và DVD của chương trình cũng được Mỹ Tâm Production và hãng phim Phương Nam biên tập trong vòng 6 tháng và chính thức phát hành vào tháng 8 năm 2004. Chương trình giúp Mỹ Tâm tham gia mùa giải tiền Cống hiến năm 2004 bằng hai đề cử cho "Chương trình của năm" và "Ca sĩ của năm". Vào tháng 9, cô tiếp tục trình diễn tại đêm nhạc "Quê hương tuổi thơ tôi" nằm trong chương trình "Âm nhạc và những người bạn" do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng. Mỹ Tâm khởi động một chuỗi các liveshow khác mang tên "Sống hết mình", với đêm diễn đầu tiên vào ngày 20 tháng 10 năm 2004 ở Sân khấu Lan Anh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2004, cô cũng giành giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất" và giải "Lá phong" do Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh trao tặng.
Vào tháng 4 năm 2005, album phòng thu thứ 4 Hoàng hôn thức giấc (tựa tiếng Anh: The Color of my Life) ra mắt. Album thực hiện trong suốt 1 năm, với 14 bài hát được chọn xuất hiện chính thức, trong đó có 4 bài hát Mỹ Tâm tự sáng tác ("Vì đâu", "Nụ hôn bất ngờ", "Nhịp đập dại khờ" và "Nhớ"). Đồng thời, có hai bài hát mua bản quyền quốc tế ("Người yêu dấu ơi", nhạc Nhật; "Không còn yêu", nhạc Pháp), cùng các sáng tác mới của Lê Quang, Võ Thiện Thanh và Trần Huân. Album đạt 20.000 bản ngay trong tuần đầu phát hành và đem về cho Mỹ Tâm đề cử cho "Album của năm" và "Ca sĩ của năm" trong khuôn khổ giải Cống hiến năm 2005. Tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2005, Mỹ Tâm đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Tường Văn giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" với nhạc phẩm "Rồi mai thức giấc". Một chuyến lưu diễn xuyên Việt miễn phí dành cho sinh viên đầu tư hơn 3 tỷ đồng mang tên "Sức mạnh của những ước mơ" được Mỹ Tâm triển khai từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 22 tháng 10 năm 2005. Ước tính đã có hơn 12.000 khán giả đến dự đêm diễn đầu tiên tại khu ký túc xá Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (Thủ Đức). Một VCD/DVD thu trực tiếp từ chuyến lưu diễn mang tên "Liveshow Sức mạnh của những ước mơ" cùng CD Album Vol. 4, 5 - "Dường như ta đã" phát hành tháng 2 năm 2006.
2006–2009: Vút bay, Trở lại và Nhịp đập
Sau gần 3 tháng rời Việt Nam để thực hiện album, Mỹ Tâm công bố về album Vút bay (tựa Anh: Fly) trong một đêm nhạc vào ngày 21 tháng 12 năm 2006. Vút bay đánh dấu lần thực hiện album hoàn toàn tại nước ngoài đầu tiên của một ca sĩ Việt Nam. Ở Vút bay, Mỹ Tâm hợp tác cùng công ty Hàn Quốc Nurimaru Pictures, khi hãng tài trợ kinh phí và kết hợp cùng Bến Thành Audio - Video để phát hành album tại Việt Nam. Thực hiện từ ngày 7 tháng 10, Mỹ Tâm trải qua thời gian hai tháng để chuẩn bị cho album này tại Hàn Quốc và mô tả đây là sự đột phá mới của cô về phong cách biểu diễn. Album gồm 11 nhạc phẩm, trong đó có 4 ca khúc được Mỹ Tâm thể hiện bằng tiếng Hàn gồm "Dường như ta đã" (chuyển lời Hàn), "Hãy đến với em", "Giọt sương" và "Ngày hôm nay"; còn lại là các ca khúc nhạc Hàn lời Việt như "Bí mật", "Khóc một mình", "Ô cửa sổ" và "Em chờ anh". Trung Nghĩa từ Tuổi Trẻ nhận thấy album này giúp Mỹ Tâm có "cơ hội bước vào guồng máy công nghệ giải trí phát triển mạnh ở một nước châu Á" như Hàn Quốc. Bán ra 15.000 bản ở tuần đầu phát hành, doanh số của Vút bay kém khởi sắc tại cả hai thị trường Hàn Quốc và Việt Nam. Dù vậy, album vẫn giành được đề cử cho "Album của năm" và "Ca sĩ của năm" tại giải Cống hiến năm 2006, lần đầu giúp Mỹ Tâm giành giải "Nhạc sĩ có ca khúc được yêu thích nhất" ở cương vị tác giả cho bài hát "Dường như ta đã" và "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại giải Làn Sóng Xanh 2006. Đến hết năm 2006, cô còn đem về giải Ngôi sao bạch kim cho "Nữ ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất".
Sau khi tạm vắng bóng trong năm 2007, Mỹ Tâm thực hiện dự án "Thời gian và tôi" kéo dài hơn 1 năm, kể từ ngày 25 tháng 2 năm 2008. Dự án này là sự hợp tác giữa công ty của cô và nhà sản xuất Cho Sung Jin của Hàn Quốc để thực hiện một số hoạt động, trong đó có việc thực hiện album mới, bắt đầu bằng chuyến đi sang Hàn Quốc từ ngày 29 tháng 2 đến đầu tháng 4. Vào đầu năm 2008, cô lên tiếng về album phòng thu thứ 6 Trở lại (tựa Anh: The Return), phát hành vào ngày 4 tháng 4 cùng năm. Album có tổng cộng 12 ca khúc pop ballad, gồm 2 sáng tác gốc của cô và các nhạc sĩ Trần Lê Quỳnh, Dương Thụ, Hồ Hoài Anh và Phương Uyên. Phần guitar xuất hiện trong album được nghệ sĩ Hàn Quốc Sam Lee thực hiện; trong khi nhạc sĩ Lee Han Boem, người từng hợp tác trong nhạc phẩm "Bí mật", lại tiếp tục tham gia trong ca khúc "Và em có anh" cùng nhạc sĩ Quốc Bảo. Bài hát "Hơi ấm ngày xưa" trích từ album này giúp Mỹ Tâm nhận được giải Mai Vàng 2008 cho "Nữ ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất". Vào ngày 1 tháng 9, cô phát hành album thứ 7 Nhịp đập (tựa Anh: To the beat). Cũng vào thời gian này, Mỹ Tâm tổ chức chuyến lưu diễn xuyên Việt mang chủ đề "Sóng đa tần", là lần đầu tiên có một ca sĩ người Việt thực hiện chuyến lưu diễn xuyên quốc gia tại năm thành phố trên cả nước. Một DVD "Live Concert Tour Sóng Đa Tần" phát hành ngày vào ngày 17 tháng 4 năm 2009. Từ năm 2007 đến năm 2008, Mỹ Tâm đã giành giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại lễ trao giải 10 năm Làn Sóng Xanh vào ngày 20 tháng 12 năm 2007, giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất" năm 2007, giải Mai Vàng năm 2008 cho "Nữ ca sĩ nhạc nhẹ", 2 lần liên tiếp giành giải HTV Awards cho "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất", đề cử "Album của năm" cho Trở lại và lần đầu tiên đoạt giải "Ca sĩ của năm" tại giải thưởng âm nhạc Cống hiến năm 2008.
2010–2012: Những giai điệu của thời gian và Cho một tình yêu
Ngày 13 tháng 4 năm 2010, Mỹ Tâm phát hành tập sách ảnh mang tựa đề Những giai điệu của thời gian, mở đầu cho dự án năm 2010 và 2011 với tên gọi "Melodies of Time". Một album đặc biệt có tên đầy đủ Những giai điệu của thời gian: Special Edition cũng đồng thời ra mắt, gồm một số bài hát của Ngô Thụy Miên, Quốc Dũng, Tâm Anh và Y Vân. Cuối năm 2010, Mỹ Tâm nhận lời làm giám khảo của cuộc thi âm nhạc Sao Mai điểm hẹn cùng nhạc sĩ Tuấn Khanh và Hồ Hoài Anh. Chương trình phát sóng từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 1 năm 2011. Sự xuất hiện của cô tại cuộc thi được đánh giá là thành công về mặt hình ảnh. Trong năm 2010, cô đoạt giải HTV Awards cho "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất", đem về 3 giải Làn Sóng Xanh cho "Nhạc sĩ được yêu thích nhất", "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Gương mặt của năm".
Năm 2010, Mỹ Tâm tham gia loạt phim truyền hình Cho một tình yêu do Nguyễn Tranh và Lê Hoá đạo diễn. Trong phim, cô lần đầu tham gia vai chính và làm đạo diễn âm nhạc. Với nội dung phỏng tác theo bộ phim "Corner with Love" của Đài Loan, Mỹ Tâm vào vai Linh Đan, một cô gái nuôi ước mơ về âm nhạc, cùng chuyện tình giữa cô, Hải Đông (Quang Dũng) và Trần Vũ (Tuấn Hưng). Cho một tình yêu nhận nhiều đánh giá tiêu cực, chủ yếu là ở phần diễn xuất của dàn diễn viên. Vào ngày 8 tháng 3 năm 2011, cô ra mắt bài hát "Xin lỗi", trước khi phát hành CD/DVD nhạc phim Cho một tình yêu vào tháng 9 năm 2011.
Đêm 14 tháng 1 năm 2011, Mỹ Tâm tổ chức "Liveshow Những giai điệu của thời gian - Kỉ niệm 10 năm ca hát" tại Thành phố Hồ Chí Minh với mục đích tri ân sự nghiệp âm nhạc. Đêm diễn nhận những phản hồi tích cực, trước khi đưa ra Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội vào ngày 16 tháng 3 cùng năm, với 1.000 vé đặt trước đã bán hết. Một DVD lưu lại đêm diễn mang tên "Liveshow Kỷ niệm 10 năm ca hát" cũng do Mỹ Tâm phát hành trong năm 2011. Ngày 8 tháng 9, cô mở thêm một chương trình ca nhạc kịch khác mang tên "Cho một tình yêu" tại Nhà hát Thành phố. Lấy bối cảnh ở bộ phim cùng tên mà cô thủ vai chính trong năm 2010, đêm diễn kể về câu chuyện tình tay ba của các nhân vật bằng 25 ca khúc cũ và mới cùng nhiều phong cách khác nhau. Đêm diễn nhận nhiều phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình, đề cao khả năng biên tập nội dung và đạo diễn của cô.
Vào ngày 22 tháng 10 năm 2011, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc "Đánh thức bình minh", nằm trong khuôn khổ Giải thưởng Video Âm nhạc Việt. Sau 11 tuần tranh giải, video giành chiến thắng chung cuộc với giải thưởng 300 triệu đồng và giải "Nữ ca sĩ xuất sắc nhất" trong đêm trao giải vào ngày 15 tháng 1 năm 2012, đồng thời được chọn trình chiếu trên kênh MTV châu Á. Mỹ Tâm tham gia ban giám khảo của cuộc thi truyền hình SV 2012 trong các trận đấu vòng loại khu vực miền Trung. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2012, cô cho ra mắt video âm nhạc "Sai" và phát hành đĩa đơn "Chuyện như chưa bắt đầu" vào ngày 2 tháng 6. Video âm nhạc của "Chuyện như chưa bắt đầu" đạt 1 triệu lượt xem chỉ trong vòng 1 tháng phát hành, đồng thời nhận một đề cử cho hạng mục "Bài hát của năm" trong giải Cống hiến lần thứ 8. Trong đêm trao giải, Mỹ Tâm lần thứ hai đem về giải "Ca sĩ của năm".
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2012, Mỹ Tâm tham gia trình diễn trong đêm nhạc MTV Exit bên cạnh nhóm nhạc Mỹ Simple Plan với mục đích tuyên truyền chống lại nạn buôn người trái phép, thu hút 40.000 khán giả tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, cô thông báo thay thế Siu Black làm giám khảo cho cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam mùa thứ 4, lên sóng từ ngày 17 tháng 8 năm 2012 đến 1 tháng 2 năm 2013. Ngày 1 tháng 8 năm 2012, Mỹ Tâm là nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên chính thức trở thành đối tác với hệ thống YouTube. Sau khi phát hành một trích đoạn ngắn vào tháng 11, video âm nhạc chính thức cho "Trắng đen" phát hành vào ngày 8 tháng 11, lọt vào danh sách video âm nhạc được bình luận và yêu thích nhiều nhất trong tuần đầu phát hành trên trang mạng xã hội YouTube. Năm 2012, Mỹ Tâm trở thành nghệ sĩ Việt đầu tiên đoạt giải thưởng Mnet Asian Music Awards (MAMA) cho "Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất" ("Best Asian Artist"). Tại lễ trao giải Làn Sóng Xanh năm 2012, Mỹ Tâm giành chiến thắng tại hạng mục quan trọng "Gương mặt của năm" và giải "Ca sĩ được yêu thích nhất".
2013–2015: Tâm và Giọng hát Việt
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2013, Mỹ Tâm cho ra mắt album phòng thu thứ 8 mang tên Tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Là một sản phẩm mang giai điệu pop soul, album gồm 10 sáng tác gốc của chính cô với sự hợp tác của Cho Sung Jin và các nhà sản xuất âm nhạc Hàn Quốc khác. Album nhận những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình và giành thành công thương mại, đạt 5.000 bản chỉ trong ngày đầu tiên xuất bản và vươn lên vị trí đầu bảng nhiều tuần liền về số lượng tải trên hệ thống iTunes. Nhằm quảng bá cho album, nhiều video âm nhạc đã được đăng tải trên tài khoản YouTube chính thức của cô, với lượng tương tác cao trong thời gian phát hành.
Vào tháng 4 năm 2013, có thông tin Mỹ Tâm bị cắt suất diễn ở hai đêm nhạc trong khuôn khổ các hoạt động của cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế (DIFC) 2013 tại Đà Nẵng do đưa ra cát-xê quá cao. Cô sau đó đã lên tiếng phủ nhận sự việc và số tiền được cho là do quản lý của cô đưa ra. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2013, Mỹ Tâm tổ chức đêm nhạc theo phong cách acoustic mang tên "Gởi tình yêu của em" tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cô tiếp tục đem chương trình này đến biểu diễn tại Hà Nội vào ngày 26 tháng 10, trước khi tổ chức đêm diễn với mục đích từ thiện tại Đà Nẵng vào ngày 16 tháng 1 năm 2014. Một DVD ghi lại chương trình phát hành trong một buổi ký tặng diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 2014. Vào ngày 22 tháng 10, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc cho bài hát "Em phải làm sao", đạt mốc 200.000 lượt người xem trong ngày xuất bản và lọt vào 14 video âm nhạc được yêu thích nhất trong ngày. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2013, Mỹ Tâm xác nhận lần quay trở lại ngôi vị giám khảo trong mùa thứ 5 của cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam. Đêm công bố kết quả chung kết của cuộc thi diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 2014. Mỹ Tâm xuất hiện trong vai trò giám khảo chương trình số 11 của Gương mặt thân quen mùa thứ 2 phát sóng vào ngày 7 tháng 6. Vào ngày 21 tháng 7, Mỹ Tâm hợp tác trong ca khúc "Về bên anh" và "Nụ cười còn mãi", nằm trong album kỷ niệm 1 năm ngày mất của nam ca sĩ Wanbi Tuấn Anh, Khúc ca cho em.
Ngày 1 tháng 3 năm 2014, Mỹ Tâm với tư cách là khách mời trong liveshow Dấu ấn của ca sĩ Hiền Thục. Cùng là hai giọng ca đã có chỗ đứng trong lòng khán giả, lại là lần đầu tiên kết hợp cùng nhau, Hiền Thục và Mỹ Tâm dành khá nhiều thời gian để chỉnh sửa, tập luyện nhằm mang đến tiết mục ưng ý nhất. Không thường xuyên nói về nhau trên truyền thông nên ít ai biết Mỹ Tâm và Hiền Thục là đôi bạn thân cùng học khoa Thanh nhạc, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh khóa học năm 2000. Sau khi tốt nghiệp, cả hai chọn cho mình hướng đi riêng. Nhiều năm phấn đấu, họ đều là những ca sĩ có tên tuổi trong làng giải trí. Sự xuất hiện của cô trong liveshow của Hiền Thục chính là món quà lớn nhất mà "họa mi tóc nâu" dành tặng cô bạn thân. Sau gần 5 năm, bản song ca Tóc nâu môi trầm vẫn khiến người hâm mộ phát cuồng mỗi khi xem lại. Khi chia sẻ về việc từng có chung ca khúc này nhưng mức độ phủ sóng khác nhau, cả Mỹ Tâm và Hiền Thục đều khẳng định đây là kỉ niệm vui chứ không ai so đo, tính toán hơn thua.
Chiều 28 tháng 9 năm 2014, Mỹ Tâm công bố về chuyến lưu diễn miễn phí tại sân vận động đầu tiên của cô sau 10 năm—"Heartbeat", diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Chương trình thu hút 40.000 khán giả đến dự đêm diễn tại Sân vận động Quân khu 7 và khoảng 25.000 người tại Sân vận động Hàng Đẫy. Chương trình được giới phê bình đón nhận một cách tích cực, đồng thời mang về cho cô đề cử giải Cống hiến 2015 ở hạng mục "Chương trình của năm". Trong khi đó, video âm nhạc "Vì mình còn yêu" ra mắt trước thời điểm diễn ra đêm diễn "Heartbeat" lại nhận nhiều phản hồi tiêu cực áp đảo. Một DVD ghi lại chương trình giới thiệu tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 20 tháng 4 năm 2015, trước khi phát hành tại 2 đêm nhạc ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, lần lượt vào ngày 22 và 26 tháng 4 năm 2015, nhằm tái hiện lại không khí của "Heartbeat" với những tiết mục được yêu thích trong chương trình. DVD bán được 3.600 bản chỉ trong 4 tiếng ra mắt, thu về lợi nhuận hơn 1 tỷ 80 triệu đồng và tiếp tục chạm mốc 10.000 bản trong một tháng.
Ngày 12 tháng 4 năm 2015, Mỹ Tâm là người cuối cùng lên tiếng xác nhận tham gia dàn giám khảo trong mùa thi thứ 3 của chương trình Giọng hát Việt. Một ngày sau đó, cô cùng với Đàm Vĩnh Hưng, Thu Phương và Tuấn Hưng đã có buổi ghi hình đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đêm chung kết, thí sinh Đức Phúc từ đội của cô đã giành giải cao nhất. Cô phát hành video âm nhạc "Khi cô đơn anh gọi tên em", một sáng tác tiếng Nhật của Mayumi Itsuwa, vào ngày 17 tháng 10 năm 2015. Mỹ Tâm trình bày bài hát "Thứ tha" tại chương trình Thử thách cùng bước nhảy vào ngày 19 tháng 12 và ra mắt video âm nhạc phong cách thập niên 1960 vào ngày 22 tháng 12.
Trong lễ kỷ niệm hai năm thành lập kênh MTV Việt Nam vào ngày 27 tháng 9 năm 2013, Mỹ Tâm trở thành đại diện đầu tiên của Việt Nam tranh giải "Nghệ sĩ xuất sắc thế giới" ("Best Worldwide Act") tại giải thưởng Âm nhạc châu Âu của MTV, tổ chức vào ngày 10 tháng 11 tại Amsterdam, Hà Lan. Sau khi dừng bước trước đối thủ Lý Vũ Xuân đến từ Trung Quốc, Mỹ Tâm nhận cúp "Nghệ sĩ xuất sắc Đông Nam Á" từ đại diện của kênh MTV Việt Nam trên sân khấu Thần tượng âm nhạc Việt Nam đêm 23 tháng 3 năm 2014 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đêm trao giải diễn ra vào tháng 12 năm 2013, Mỹ Tâm giành giải Làn Sóng Xanh cho "Ca sĩ được yêu thích nhất", trước khi cô công bố rút tên khỏi giải thưởng âm nhạc này kể từ năm 2014. Đài Truyền hình Việt Nam cũng xướng tên Mỹ Tâm khi trao giải "Ấn tượng VTV" cho "Nghệ sĩ ấn tượng nhất VTV 2014". Tối ngày 6 tháng 4 năm 2015, Mỹ Tâm lần thứ 3 giành giải Cống hiến cho "Ca sĩ của năm" trong lễ trao giải lần thứ 10, diễn ra tại Nhà hát Thành phố. Ngày 10 tháng 7, Mỹ Tâm được thông báo chiến thắng hạng mục "Nghệ sĩ châu Á có lượng tiêu thụ sản phẩm tốt nhất" ("Best selling artist of Asia") tại Big Apple Music Awards, giải thưởng tôn vinh nghệ sĩ thuộc lĩnh vực âm nhạc khu vực châu Á, vùng Kavkaz và Trung Đông; với lễ trao giải diễn ra vào ngày 12 tháng 9 tại Hamburg, Đức. Vào ngày 6 tháng 9, Mỹ Tâm lần thứ 2 giành Giải thưởng VTV 2015 cho "Ca sĩ ấn tượng".
2016–2018: Tâm 9 và liveshow "First love"
Vào ngày 16 tháng 1 năm 2016, Mỹ Tâm tổ chức đêm nhạc "Ô cửa màu xanh" tại Nhà hát Hòa Bình để tạo nguồn quỹ từ thiện tại một số tỉnh miền Nam và miền Trung. Các ca khúc trong chương trình được trình bày theo phong cách nhạc kịch và bolero, với sự xuất hiện của khách mời như Trọng Tấn và Quang Dũng. Buổi ký tặng DVD ghi hình của chương trình tổ chức vào tháng 1 năm 2017. Cô ra mắt video âm nhạc cho "Đôi mắt màu xanh" vào ngày 17 tháng 1, "Hãy về với nhau" vào đầu tháng 4 và "Cuộc tình không may" vào tháng 7 năm 2016.
Mỹ Tâm tham gia đêm nhạc miễn phí mừng ngày Quốc tế Phụ Nữ năm 2016 mang tên iConcert - Say it sing it share it do nhạc sĩ Nguyễn Hà cùng ê-kíp Nguyễn Production thực hiện tại sân vận động Quân khu 7. Chương trình này xác lập kỷ lục Guinness Việt Nam mới về số người tặng hoa cho nhau nhiều nhất trong một đêm nhạc. Ngày 26 tháng 1 năm 2017, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc cho ca khúc "Anh thì không". Sau khi ông Vũ Xuân Hùng, tác giả phổ lời của bài hát, lên tiếng vi phạm tác quyền, Mỹ Tâm đã công bố lời xin lỗi, khóa video để tôn trọng bản quyền và công bố một phiên bản khác do Châu Đăng Khoa viết lời ngày 21 tháng 2. Ngày 28 tháng 2 năm 2017, Mỹ Tâm công bố tham gia làm giám khảo chương trình Phiên bản hoàn hảo, bên cạnh Nguyễn Quang Dũng. Chương trình lên sóng trong 15 tập, bắt đầu từ ngày 8 tháng 3 năm 2017. Ngày 4 tháng 8 năm 2017, Mỹ Tâm phát hành video âm nhạc "Điều tuyệt vời".
Ngày 19 tháng 11 năm 2017, Mỹ Tâm công bố về album Tâm 9, được thực hiện trong vòng 1 năm, với các sáng tác "ẩn chứa những góc sâu thẳm, chín muồi nhất trong đời sống tình cảm" của cô. Album phát hành ngày 3 tháng 12, gồm 13 ca khúc pop soul do Mỹ Tâm, Đức Trí, Khắc Hưng, Vũ Cát Tường và Phan Mạnh Quỳnh sáng tác. Hai ca khúc trong album, "Đâu chỉ riêng em" và "Đừng hỏi em", được cô phát hành video âm nhạc lần lượt vào tháng 7 và tháng 10 năm 2017. Album tiêu thụ 20.000 bản, trong đó 5.000 bản bán ra chỉ trong ngày phát hành, phá vỡ kỷ lục của album Tâm năm 2014. Đây là album đầu tiên của một ca sĩ Việt Nam lọt vào top 10 Billboard World Albums và nằm trong danh sách album nhạc soul thịnh hành nhất trên kênh mua sắm trực tuyến Amazon. Để quảng bá, Mỹ Tâm thực hiện nhiều buổi ký tặng đĩa ở phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm, phố đi bộ Nguyễn Huệ và công viên Phạm Văn Đồng (Đà Nẵng) vào đầu tháng 12.
Tháng 3 năm 2018, Mỹ Tâm tái bản lại album đầu tay Mãi yêu sau 17 năm phát hành, cũng như góp giọng vào ca khúc "Rực rỡ tháng năm", trích từ bộ phim Tháng năm rực rỡ của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng. Tại lễ trao giải Cống hiến lần thứ 13, Mỹ Tâm trở lại danh sách bình chọn sau ba năm vắng bóng bằng ba đề cử, giành chiến thắng tại các hạng mục "Ca sĩ của năm" và "Album của năm" cho Tâm 9 vào ngày 22 tháng 3 năm 2018. Vào ngày 20 tháng 10 năm 2018, Mỹ Tâm tổ chức liveshow "First Love" tại sân vận động Jangchung, Hàn Quốc.
2019–nay: Chị trợ lý của anh, liveshow Tri âm và My Soul 1981
Cuối năm 2018, Mỹ Tâm ra mắt dự án phim điện ảnh đầu tay mang tên Chị trợ lý của anh (với vai trò là đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất, diễn viên) hợp tác cùng nam diễn viên Mai Tài Phến. Phim mang đến cho khán giả nhiều tình tiết bất ngờ và thú vị. Mỹ Tâm lấy tên Mira Dương (Mira có nghĩa là tình yêu, bình yên còn Dương là họ mẹ cô).
Ngày 24 tháng 9 năm 2019, Mỹ Tâm đã chính thức tung ra bản ballad mới mang tên "Anh đợi em được không?". Chỉ sau 12 giờ lên sóng, video âm nhạc đã đạt 1,2 triệu lượt xem. Ngày 29 tháng 9 năm 2020, Mỹ Tâm chính thức ra mắt video âm nhạc "Đúng cũng thành sai" do nhạc sĩ Khắc Hưng sáng tác. Ngày 30 tháng 12 năm 2020, Mỹ Tâm chính thức ra mắt video âm nhạc "Anh chưa biết đâu". Ca khúc do nhạc sĩ Khắc Hưng sáng tác, mang thể loại latin với tiết tấu nhanh rộn ràng cùng phần giai điệu mới lạ nhưng bắt tai và dễ nhớ.
Sau hơn 1 tháng tạm hoãn để chung tay cùng cộng đồng chống dịch COVID-19, Mỹ Tâm công bố trở lại với đêm hoà nhạc có tựa đề Tri âm, dành để tri ân những người đã theo dõi và ủng hộ cô trong suốt sự nghiệp của mình. Sự kiện sẽ diễn ra tại Sân vận động Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25 tháng 4 năm 2021 và Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội vào ngày 1 tháng 5 năm 2021. Nhưng sau đó, trên trang Facebook của mình, ekip của nữ ca sĩ Mỹ Tâm đã có thông báo về việc thay đổi địa điểm tổ chức đêm hoà nhạc tại Thành phố Hồ Chí Minh từ sân vận động Quân khu 7 sang Sân vận động Phú Thọ do nhiều lí do chủ quan lẫn khách quan. Để quảng bá cho đêm hoà nhạc, cô đã phát hành đĩa đơn "Hào quang" cùng một video âm nhạc trên YouTube, tái hiện lại toàn bộ sự nghiệp của cô trong vòng 20 năm. Riêng với việc tổ chức liveshow Tri âm tại Hà Nội, Mỹ Tâm cùng ekip tổ chức phải dời lịch diễn do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Mãi đến ngày 15 tháng 9 năm 2022, Mỹ Tâm chính thức công bố thông tin tổ chức liveshow Tri âm tại Hà Nội ngày 5 tháng 11 cùng năm tại Sân vận động Mỹ Đình sau 2 lần bị hoãn do dịch COVID-19. Ngày 17 tháng 10 năm 2021, Mỹ Tâm phát hành album tuyển tập Bolero Edition, bao gồm 11 ca khúc quen thuộc của dòng nhạc bolero như: "Sầu tím thiệp hồng", "Sầu lẻ bóng", "Hoa trinh nữ", "Đôi mắt người xưa", "Chỉ hai đứa mình thôi nhé", "Xin thời gian qua mau", "Chuyện tình không suy tư",...
Ngày 17 tháng 12 năm 2021, Mỹ Tâm đã chính thức công bố thông tin sẽ tổ chức một chuỗi đêm nhạc trực tuyến mang tên My Soul 1981. Ba đêm nhạc đầu tiên của My Soul 1981 sẽ được phát sóng trực tuyến độc quyền trên ứng dụng NETHub vào các ngày 7 tháng 1, 16 tháng 1 và 14 tháng 2 năm 2022. Sau khi chuỗi đêm nhạc trực tuyến đã tạo nên cơn sốt trên diện rộng, Mỹ Tâm quyết định thực hiện đêm nhạc Gala My Soul 1981 dưới hình thức offline ở Đà Lạt vào hai ngày 26 tháng 3 và 27 tháng 3. Mỹ Tâm trở lại làm giám khảo trong Thần tượng âm nhạc Việt Nam – Vietnam Idol 2023 sau 7 năm chương trình vắng bóng. Theo nguồn tin từ Netflix, bộ phim tài liệu âm nhạc Tri âm The Movie: Người giữ thời gian của Mỹ Tâm sẽ phát hành toàn cầu tại hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ vào ngày 29 tháng 7 năm 2023, sau khi ra rạp vào tháng 4 cùng năm và thu về hơn 12 tỷ đồng sau 9 ngày phát hành.
Phong cách nghệ thuật
Từ khi khởi nghiệp bằng album đầu tay vào năm 2001, phong cách âm nhạc của Mỹ Tâm thường được ghi nhận bởi những ảnh hưởng mạnh mẽ của dòng nhạc trẻ. Dù vậy, cô cũng từng tham gia thể nghiệm với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Nếu như ở Hoàng hôn thức giấc (2005), các sáng tác mang yếu tố của dòng nhạc Trung Đông nổi bật hơn cả, thì âm điệu R&B, dance và hip-hop lại được thể hiện rõ rệt với Vút bay (2006) và Nhịp đập (2008). Ngoài ra, cô cũng từng thử sức với dòng nhạc trữ tình, nhạc Latin, ballad hay pop soul. Phong cách trình diễn của cô được so sánh với Britney Spears và Jennifer Lopez. Về ca từ, các nhạc phẩm mà Mỹ Tâm thể hiện thường mang các chủ đề liên quan đến tình cảm lứa đôi, tình bạn và cuộc sống đời thường. Trang Vietnamplus khẳng định Mỹ Tâm "đã mở rộng thế giới pop 'mộc mạc' của mình bằng sự kết hợp và pha trộn nhiều thể loại âm nhạc trẻ trung, thời thượng, hấp dẫn giới trẻ".
Mỹ Tâm sở hữu chất giọng nữ trung, với âm vực rộng 3 quãng tám, quãng giọng cô trải dài từ B2 đến C6. Nhà báo Tùng Lâm đánh giá "Giọng hát điêu luyện, mạnh mẽ và đầy xúc cảm của Mỹ Tâm không chỉ giúp cô có chỗ đứng vững chắc trong làng nhạc Việt, mà còn là cơ sở để người hâm mộ đặt trọn vẹn niềm tin khi cô đại diện cho Việt Nam 'đem chuông đi đánh xứ người'."
Mỹ Tâm còn được công chúng nhìn nhận ở cương vị của một nhạc sĩ. Cô bắt đầu viết nhạc từ khi còn ngồi ở ghế nhà trường tại Đà Nẵng và tiếp tục theo đuổi lối sáng tác chuyên nghiệp từ khi theo học thanh nhạc. Trong khi các nhạc phẩm trước đây của cô như "Tình mơ", "Mãi yêu" hoặc các bài hát nhạc nước ngoài phổ lời Việt ít nhận được sự chú ý của khán giả, thì sự nghiệp sáng tác của cô chỉ bắt đầu nở rộ kể từ khi Hoàng hôn thức giấc (2005) được ra mắt. Trong bài nhận xét album Tâm (2013) trên tờ Tuổi Trẻ, nhà báo Quỳnh Nguyễn từng nhận định "Có lẽ Tâm là ngôi sao nhạc pop duy nhất của Việt Nam thể hiện thành công ca khúc của nhiều nhạc sĩ khác nhau nhưng cũng thành công với những sáng tác của chính mình." Vân An của VnExpress cho rằng "Mỹ Tâm có tài dẫn chuyện vừa chân thật, 'tưng tửng' nhưng lại cuốn hút đến kỳ lạ" khi "dẫn dắt khán giả hòa nhịp cùng dòng cảm xúc của mình để họ cảm được bài hát ấy một cách nhẹ nhàng và tự nhiên nhất".
Các hoạt động khác
Thương hiệu riêng
Vào năm 2007, Mỹ Tâm cho ra mắt công ty giải trí MT Entertainment do chính cô làm giám đốc, đồng thời công bố về nhãn hiệu sữa tắm và nước hoa mang tên "My Time", phối hợp sản xuất với Công ty Mỹ phẩm Sài Gòn. Đây được xem là nhãn hiệu nước hoa đầu tiên do một ca sĩ Việt Nam sở hữu, với 4 mùi hương khác nhau và thực hiện trong vòng 8 tháng.
Vào năm 2012, Mỹ Tâm lên tiếng về thương hiệu thời trang "Nightingale" mà cô tự thiết kế, với thời gian hơn 2 năm chuẩn bị. Cô làm mẫu và công bố dòng thời trang này trên chương trình "Thời trang & Đam mê" vào tháng 8 năm 2013. Trong khi "Nightingale" nhận được những phản hồi trái chiều, cô vẫn tiếp tục cho ra mắt bộ sưu tập dành cho mùa hè vào tháng 4 năm 2014.
Hoạt động từ thiện
Trong chuyến lưu diễn phục vụ miễn phí cho sinh viên xuyên Việt "Sức mạnh của những ước mơ" vào năm 2005, cô hợp tác cùng Honda Việt Nam trong việc trao 50 suất học bổng trị giá 50 triệu đồng cho sinh viên nghèo vượt khó tại mỗi thành phố diễn ra chương trình. Nhân đợt phân phối 7.000 sản phẩm nước hoa "My Time" đầu tiên ra thị trường, Mỹ Tâm trích 10.000 đồng trên doanh thu mỗi chai nước hoa và 70 triệu đồng để làm từ thiện. Đêm diễn "Gởi tình yêu của em" tại Đà Nẵng vào năm 2014 cũng được cô tổ chức nhằm mục đích từ thiện, khi dùng lợi nhuận của việc bán vé để thực hiện chương trình trao quà cho bà con miền Trung chịu nhiều khó khăn và thiệt hại sau những trận bão lũ vào dịp Tết Nguyên Đán.
Ngày 4 tháng 4 năm 2008, Mỹ Tâm thành lập quỹ từ thiện "MT Foundation", nhắm tới đối tượng là những trẻ em mồ côi, khuyết tật và các trẻ em nghèo hiếu học. Bằng việc trích một phần lợi nhuận từ các sản phẩm âm nhạc và kinh doanh riêng, mỗi tháng Mỹ Tâm đều mang những phần quà và tiền từ MT Foundation đến với những mảnh đời cơ cực, cần giúp đỡ và chia sẻ. Bên cạnh đó, cô còn tổ chức chương trình "Nâng bước ngày mai", một hoạt động thường niên của quỹ "MT Foundation", với ước tính trung bình 700 suất học bổng, tương đương 1.4 tỷ đồng được trao cho học sinh nghèo hiếu học ở các tỉnh, bên cạnh các hoạt động từ thiện khác dành cho bà con nghèo diễn ra vào mỗi năm.
Thành tựu và di sản
Được mệnh danh là "nữ hoàng V-pop", nhiều tác giả và nhà báo trong nước lẫn quốc tế từng nhìn nhận Mỹ Tâm là một trong những nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam. Trong danh sách 12 nghệ sĩ "Hiện tượng Pop toàn cầu mà bạn chưa biết" của ABC News, Mỹ Tâm được đánh giá "là một trong những giọng hát được công nhận của khu vực Đông Nam Á". Tờ Tuổi trẻ khẳng định: "Dù yêu thích giọng hát Mỹ Tâm hay không thì cũng rất khó phủ nhận vị trí 'đầu bảng' của cô trong thị trường nhạc trẻ suốt 15 năm qua. Mỹ Tâm cũng là nữ ca sĩ thuộc thế hệ 8X hiếm hoi được cả giới chuyên môn lẫn công chúng yêu mến". Trong quyển Popular Music in Vietnam: The Politics of Remembering, the Economics of Forgetting, nhà phân tích Dale A. Olsen có gọi Mỹ Tâm là "ca sĩ nhạc pop nổi tiếng nhất tại Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21".
Nhiều đồng nghiệp và nghệ sĩ khác từng đề cập đến Mỹ Tâm như là nhân tố có ảnh hưởng hoặc là ca sĩ mà họ yêu mến, bao gồm Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Hiền Thục, Hồng Đăng, Nguyễn Hà, Phú Quang, Xuân Lan, Nam Cường, Nguyễn Ngọc Ngạn và Đặng Thu Thảo. Trong cuốn tản văn Thị Dân (2010), nhạc sĩ Quốc Bảo có chia sẻ: "Tâm đã, đang và sẽ mãi mãi là 1 ngôi sao. Nhưng với tôi, Tâm là cô bé... chẳng sai chút nào. Em nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, hồn nhiên nhưng sâu lắng, giản dị nhưng nhiều khát vọng...". Nữ nghệ sĩ Hàn Quốc Park Jeong-Ah từng chia sẻ mình yêu mến Mỹ Tâm nhờ phong cách ấn tượng trong một lần sang Việt Nam biểu diễn. Là một cộng tác viên lâu năm của Mỹ Tâm, nhà sản xuất âm nhạc Hàn Quốc Cho Sung Jin chia sẻ: "Tôi luôn nhìn thấy sự đam mê, những kỹ năng âm nhạc của cô phát triển hơn sau mỗi ngày" và khẳng định "Mỹ Tâm chính là nghệ sĩ hoàn hảo nhất trong cả cuộc đời âm nhạc của tôi". Sau đêm lưu diễn MTV Exit diễn ra vào tháng 5 năm 2012, nhóm nhạc Simple Plan cho rằng Mỹ Tâm là "siêu sao ca nhạc" và "là một tài năng lớn, có phong cách làm việc chuyên nghiệp". Theo Olsen, việc tham gia của Mỹ Tâm trong việc chuyển ngữ, trình bày và thu âm các bài hát nước ngoài phần nào giúp cô được nhìn nhận là người đi đầu trong các vấn đề về tác quyền tại Việt Nam. Từ khi là đối tác của hệ thống YouTube vào năm 2012, Mỹ Tâm đã rút tên khỏi các trang nhạc số tại Việt Nam nhằm chuẩn hóa các vấn đề bản quyền ở phạm vi trong nước và quốc tế, đồng thời đưa âm nhạc của cô vào khuôn khổ các hệ thống nhạc trả phí.
Trong xuyên suốt sự nghiệp, Mỹ Tâm giành được nhiều giải thưởng, đề cử và vinh danh trong nước và quốc tế. Cho đến nay, cô đã giành được 5 giải Cống hiến, 3 giải HTV Awards, 3 giải Mai Vàng, 1 giải Mnet Asian Music Awards, 1 giải Âm nhạc châu Âu của MTV, 11 lần liên tiếp nhận giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và 3 năm liên tiếp nhận giải "Gương mặt của năm" của Giải thưởng Làn Sóng Xanh. Vào ngày 27 tháng 5, Mỹ Tâm đến dự lễ trao giải diễn ra tại Monaco và trở thành một trong 25 nghệ sĩ khắp thế giới nhận giải "Nghệ sĩ có album bán chạy nhất lãnh thổ" ("Best-selling artists from each major territory") do Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) chứng nhận. Trong sự kiện "Top Asia Corporate Ball 2014" được bảo trợ bởi Bộ Văn hoá Du lịch Malaysia và Bộ Công Thương Malaysia diễn ra vào ngày 21 tháng 11, Mỹ Tâm được vinh danh với giải "Huyền thoại Âm nhạc châu Á" ("Asia's Music Legend") dành cho những nghệ sĩ xuất sắc và biểu tượng trong lĩnh vực âm nhạc. Tháng 3 năm 2017, Mỹ Tâm là một trong 7 nhân vật giải trí xuất hiện trong "Top 50 Phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam năm 2017" do tạp chí Forbes công bố.
Mỹ Tâm còn là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có một album lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Billboard World Albums vào tháng 1 năm 2018.
Danh sách đĩa nhạc
Album phòng thu
Mãi yêu (2001)
Đâu chỉ riêng em (2002)
Yesterday & Now (2003)
Hoàng hôn thức giấc (2005)
Vút bay (2006)
Trở lại (2008)
To the Beat (2008)
Tâm (2013)
Tâm 9 (2017)
Danh sách phim
Cho một tình yêu (2010–2011) – vai Linh Đan
Chị trợ lý của anh (2019) – vai Khả Doanh
Tri âm The Movie: Người giữ thời gian (2023) – chính cô
Biểu diễn trực tiếp
Liveshow: Cùng Sunsilk tỏa sáng ước mơ (2002)
Liveshow: Yesterday & Now (Ngày ấy & Bây giờ) (2004)
Liveshow: Âm nhạc và những người bạn - Quê hương tuối thơ tôi (2004)
Liveshow: Sống hết mình (2004)
Live Tour: The Power of Dreams (Sức mạnh của những ước mơ) (2006)
Live Concert Tour: To The Beat (Sóng đa tần) (2008)
Liveshow: Melodies of Times (Những giai điệu của thời gian) (2011)
Live Concert: Cho một tình yêu (2011)
Live Concert: Letter To My Love (Gởi tình yêu của em) (2013)
Live Concert Tour: Heartbeat (2014)
Live Concert: Dreaming Together In Osaka (2015)
Liveshow: Ô Cửa Màu Xanh (2016)
Showcase: Tâm 9 Showcase (2017)
Live Concert: First Love (2018)
Liveshow: Tri âm (2021–2022)
My Soul 1981 (2022) |
Pierre de Fermat (phiên âm: "Pi-e Đờ Phéc-ma", 17 tháng 8 năm 1607 tại Pháp – 12 tháng 1 năm 1665) là một học giả nghiệp dư vĩ đại, một nhà toán học nổi tiếng và cha đẻ của lý thuyết số hiện đại. Xuất thân từ một gia đình khá giả, ông học ở Toulouse và lấy bằng cử nhân luật dân sự rồi làm chánh án. Chỉ trừ gia đình và bạn bè tâm giao, chẳng ai biết ông vô cùng say mê toán. Mãi sau khi Pierre de Fermat mất, người con trai mới in dần các công trình của cha kể từ năm 1670. Năm 1896, hầu hết các tác phẩm của Fermat được ấn hành thành 4 tập dày. Qua đó, người đời vô cùng ngạc nhiên và khâm phục trước sức đóng góp dồi dào của ông. Chính ông là người sáng lập lý thuyết số hiện đại, trong đó có 2 định lý nổi bật: định lý nhỏ Fermat và định lý lớn Fermat (định lý cuối cùng của Fermat).
Trong hình học, ông phát triển phương pháp tọa độ, lập phương trình đường thẳng và các đường cong bậc hai rồi chứng minh rằng các đường cong nọ chính là các thiết diện cônic. Trong giải tích, ông nêu các quy tắc lấy đạo hàm của hàm mũ với số mũ hữu tỷ bất kỳ, tìm cực trị, tính tích phân những hàm mũ với số mũ phân số và số mũ âm. Nguyên lý Fermat về truyền sáng lại là một định luật quan trọng của quang học.
Dù hoạt động khoa học kiên trì và giàu nhiệt huyết, đem lại nhiều thành quả to lớn như vậy, trong suốt cuộc đời Pierre de Fermat vẫn không coi việc nghiên cứu toán làm nghề chính thức.
Tiểu sử
Pierre de Fermat sinh ngày 17/8/1601 tại xã Beaumont-de-Lomagne, tỉnh Tarn-et-Garonne vùng Occitanie nước Pháp trong một gia đình khá giả. Cha ông, Dominique Fermat là một thương gia buôn bán da. Cha ông có 2 vợ, Françoise Cazeneuve và Claire de Long.
Ông theo học tại Đại học Orléanstừ năm 1623 và nhận bằng cử nhân luật năm 1626 trước khi đến Bordeaux. Ở Bordeaux, ông bắt đầu nghiên cứu nghiêm túc về toán học.
Năm 1630, ông mua văn phòng của một ủy viên hội đồng nghị viện Parlement of Toulouse, một trong những Tòa án Tối cao Pháp viện, và đã được tuyên thệ bởi Grand Chambre vào tháng 5 năm 1631. Ông làm việc trong văn phòng này từ đó cho đến cuối đời. Bằng cách đó, ông đã được đổi tên từ Pierre Fermat thành Pierre de Fermat. Ông thông thạo 6 ngôn ngữ: Tiếng Pháp, Latin, Occitan, tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
Ông để lại phần lớn các công trình của mình dưới dạng thư viết cho những người bạn của ông, thường có khá ít hoặc không có nhiều bằng chứng về các định lí của ông. Ở một vài bức thư, ông đã khám phá rất nhiều ý tưởng cơ bản của Vi tích phân trước Newton hoặc Leibniz. Fermat làm toán theo sở thích nhiều hơn là trở thành một nhà toán học chuyên nghiệp. Dù vậy, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Hình học giải tích, Xác suất, Vi tích phân và Lý thuyết số.
Anders Hald đã từng viết: "Nền tảng toán học Fermat là các luận văn Hy Lạp cổ điển kết hợp với các phương pháp mới của đại số Vieta"
Công việc
Công trình tiên phong của Fermat trong Hình học giải tích (Methodus ad disquirendam maximam et minimam et de tangentibus linearum curvarum) được lưu hành dưới dạng bản thảo vào năm 1636 (dựa trên những kết quả đã đạt được vào năm 1629), trước khi La Géométrie của Descartes xuất bản năm 1637. Bản thảo được xuất bản sau khi ông đã qua đời (1679).
Trong Methodus ad disquirendam maximam et minimam và De tangentibus linearum curvarum, Fermat đã phát triển một phương pháp (bất bình đẳng) cho việc xác định cực đại, cực tiểu và tiếp tuyến với các đường cong khác nhau tương đương với Vi phân.
Cái chết
Pierre de Fermat mất vào ngày 12 tháng 1 năm 1665 tại Castres. Trường trung học cổ nhất và uy tín nhất ở Toulouse được đặt theo tên của ông: Lycée Pierre-de-Fermat. Nhà điêu khắc người Pháp Théophile Barrau đã tạo một bức tượng cẩm thạch và đặt tên là Hommage à Pierre Fermat để tưởng nhớ tới ông, nay bức tượng nằm ở Capitole de Toulouse.
Định lý nhỏ Fermat
Với p là một số nguyên tố và a,p là 2 số nguyên tố cùng nhau thì chia một số a lũy thừa p cho p sẽ có số dư chính bằng a:
Định lý lớn Fermat
Câu chuyện về định lý cuối cùng của Fermat là câu chuyện độc nhất vô nhị trong lịch sử toán học thế giới, khởi nguồn từ cổ đại với nhà toán học Pythagore. Bài toán cuối cùng (sau này giới toán học gọi là Định lý cuối cùng của Fermat, hay Định lý lớn Fermat) có gốc từ định lý Pythagore: "Trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông". Fermat thay đổi phương trình Pythagore và tạo ra một bài toán khó bất hủ.
Xét phương trình Pythagore:
Người ta có thể hỏi những nghiệm số nguyên của phương trình này là gì, và có thể thấy rằng:
và
Nếu tiếp tục tìm kiếm thì sẽ tìm thấy rất nhiều nghiệm như vậy. Fermat khi đó xét dạng bậc ba của phương trình này:
Ông đặt câu hỏi: có thể tìm được nghiệm (nguyên) cho phương trình bậc ba này hay không? Ông khẳng định là không. Thực ra, ông khẳng định điều đó cho họ phương trình tổng quát:
trong đó n lớn hơn 2 không thể tìm được nghiệm (nguyên) nào. Đó là Định lý Fermat cuối cùng.
Điều lý thú ở đây là phỏng đoán này được Fermat ghi bên lề một cuốn sách mà không chứng minh, nhưng có kèm theo dòng chữ: "Tôi có một phương pháp rất hay để chứng minh cho trường hợp tổng quát, nhưng không thể viết ra đây vì lề sách quá hẹp."!!;z^n=(x^2+y^2).z^(n-2)>x^n+y^n
Các nhà toán học đã cố gắng giải bài toán này trong suốt 300 năm. Trong lịch sử đi tìm lời giải cho định lý cuối cùng của Fermat có người phải tự tử và có cả sự lường gạt... Và cuối cùng nhà toán học Andrew Wiles (một người Anh, định cư ở Mỹ, sinh 1953) sau 7 năm làm việc trong cô độc và 1 năm giày vò trong cô đơn đã công bố lời giải độc nhất vô nhị vào mùa hè năm 1993 và sửa lại năm 1995, với lời giải dài 200 trang. |
Rú Mượu là một ngọn núi thuộc dãy núi Đại Huệ, ranh giới của huyện Nam Đàn đi từ thành phố Vinh lên. Rú là tiếng địa phương xứ nghệ nghĩa là núi. Trên núi từng có đền Độc Lôi Sơn được nhiều người coi là linh thiêng.
Núi có độ cao trung bình khoảng 90 m-100 m, đỉnh cao nhất khoảng 230 m. Nhìn từ xa trông giống như một cái yên ngựa.
Phần núi tiếp giáp với quốc lộ 46 từ Vinh đi Nam Đàn hiện là một mỏ đá cung cấp vật liệu cho cả vùng Vinh. |
Windows Media Player là một trình đa phương tiện của Microsoft Windows để phát các phương tiện số đồng thời là một thư viện phương tiện.
Media Player trên Windows 11 là phiên bản Windows Media Player mới nhất. Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 11 năm 2021 trên Windows 11 cho chương trình Windows Insiders tham gia ở Dev Channel. Windows 10 sử dụng Groove Music (cho âm thanh) và Microsoft Phim & TV (cho video) làm ứng dụng phát lại mặc định cho hầu hết các phương tiện truyền thông; Windows Media Player vẫn được bao gồm dưới dạng một thành phần Windows. Windows RT không chạy Windows Media Player.
Windows Media Player cũng có thể chạy trên máy tính cá nhân của các hệ điều hành khác như Mac OS X, Solaris, Pocket PC và các thiết bị sử dụng Windows Mobile khác. Tuy có thể chạy trên Mac OS X nhưng hiện nay Microsoft đã chính thức ngừng phát triển phiên bản mới dành cho hệ điều hành này và chỉ cho người dùng tải về phiên bản mới nhất là 9.0.
Bên cạnh chức năng của một chương trình phát phương tiện, Windows Media Player còn có khả năng phát nhạc từ đĩa compact và đồng bộ dữ liệu với các thiết bị chơi nhạc hoặc các thiết bị di động khác.
Windows Media Player được thay thế cho Media Player, một chương trình phát nhạc và hình ảnh đơn giản thời kỳ đầu của Microsoft.
Định dạng tập tin mặc định của Windows Media Player là WMV (Windows Media Video & Audio), WMA (Windows Media Audio) và ASF (Advanced Streaming Format). Ngoài ra Windows Media Player cũng hỗ trợ thể loại theo định dạng XML gọi là WPL (Windows Playlist).
Lịch sử
Phiên bản đầu tiên của Windows Media Player được phát hành vào năm 1991, khi Windows 3.0 với Multimedia Extensions được phát hành. Ban đầu được gọi là Media Player, thành phần này được bao gồm trong các thiết bị tương thích với "Multimedia PC" nhưng không có sẵn để bán lẻ. Nó có khả năng phát tập tin có định dạng .mmm, và có thể được mở rộng để hỗ trợ các định dạng khác, sử dụng MCI để xử lý tập tin phương tiện. Là một thành phần của Windows, Media Player hiển thị cùng phiên bản với số phiên bản của phiên bản Windows.
Microsoft liên tục sản xuất các chương trình mới để phát các tập tin phương tiện. Vào tháng 11 năm sau, Video cho Windows được giới thiệu với khả năng phát các tập tin video kỹ thuật số ở định dạng AVI, với hỗ trợ codec cho RLE và Video1 và hỗ trợ phát các tập tin chưa nén. Indeo 3.2 đã được thêm vào trong một bản phát hành sau đó. Video cho Windows lần đầu tiên có sẵn dưới dạng phần mở rộng bổ sung cho Windows 3.1 và sau đó được tích hợp vào Windows 95 và Windows NT 4.0. Năm 1995, Microsoft phát hành ActiveMovie với DirectX Media SDK. ActiveMovie kết hợp một cách mới để xử lý các tập tin phương tiện và thêm hỗ trợ cho phương tiện trực tuyến (mà Media Player ban đầu không thể xử lý). Năm 1996, ActiveMovie được đổi tên thành DirectShow. Tuy vậy, tên gọi Media Player tiếp tục được sử dụng cho đến khi Windows XP được phát hành, và được đổi tên thành Windows Media Player v5.1.
Vào năm 1999, phiên bản của Windows Media Player đã tách ra khỏi phiên bản của Windows. Windows Media Player 6.4 xuất hiện dưới dạng bản cập nhật không giới hạn cho Windows 95-98 và Windows NT 4.0 cùng tồn tại với Media Player và trở thành một thành phần tích hợp sẵn của Windows 2000, Windows ME và Windows XP với mplayer2.exe thay vì các phiên bản mới hơn. Windows Media Player 7.0 và các phiên bản kế nhiệm của nó cũng xuất hiện theo cùng một kiểu, thay thế nhau nhưng giữ nguyên Media Player và Windows Media Player 6.4. Windows XP là hệ điều hành duy nhất có ba phiên bản Windows Media Player khác nhau (phiên bản 5.1, 6.4 và 8). Tất cả các phiên bản có thương hiệu Windows Media Player (thay vì chỉ là Media Player) đều hỗ trợ codec DirectShow. Windows Media Player 7 là một bản cải tiến lớn, với giao diện người dùng mới, hình ảnh hóa và chức năng được cải tiến. Tuy nhiên, Windows Vista đã loại bỏ các phiên bản Windows Media Player cũ hơn để thay thế cho phiên bản 11, bao gồm việc loại bỏ Windows Media Source Filter (DirectShow codec).
Năm 2004, Microsoft phát hành kho nhạc kỹ thuật số MSN Music cho Windows Media Player 10 mới để cạnh tranh với Apple iTunes. Tuy nhiên, MSN Music đã ngừng phát triển vào năm 2006 với sự ra mắt của máy nghe nhạc Zune.
Kể từ Windows Vista, Windows Media Player hỗ trợ Media Foundation framework bên cạnh DirectShow; phát một số loại phương tiện nhất định bằng Media Foundation cũng như một số loại phương tiện sử dụng DirectShow. Windows Media Player 12 được phát hành cùng với Windows 7. Nó bao gồm hỗ trợ cho nhiều định dạng phương tiện và thêm các tính năng mới. Tuy nhiên, trên Windows 8, phần mềm không còn nhận được bản nâng cấp.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2012, Microsoft thông báo rằng Windows Media Player sẽ không được đưa vào Windows RT, dòng Windows được thiết kế để chạy trên các thiết bị có bộ xử lý ARM.
Tính năng xoá tất cả các trang đã nhập
Chơi âm thanh, video, hình ảnh với khả năng nhảy tới, lui chọn thời điểm, xem nhanh hay chậm.
Hỗ trợ chơi các tập tin trên máy, trực tuyến cũng như tải về.
Có thể chuyển qua Mini mode. Mini mode được đặt ở taskbar của máy và có những nút cần thiết nhất để dùng WMP
Hỗ trợ bất cứ phương tiện codec nào và nội dung định dạng sử dụng những bộ lọc đặc biệt DirctX.
Có các tính năng quản lý phương tiện với thư viện phương tiện được tích hợp, lập danh mục, sắp xếp theo album, nghệ sĩ, thể loại, ngày phát hành,...
Video Smoothing sử dụng phép nội suy, tự động thêm các khung hình tạo hiệu ứng khiến việc chơi video trở nên mượt mà hơn đối với những tập tin có tỷ lệ cũng như tốc độ khung hình thấp.
Kết hợp bộ cân bằng âm thanh đồ họa 10 dải băng và SRS WOW. Windows Media Player cũng có thể gắn các plug-in hỗ trợ quá trình phát âm thanh và hình ảnh.1
Windows Media Player 11
Windows Media Player 11 là phiên bản mới nhất của WMP. Phiên bản này dành cho Windows XP và có mặt trên Windows Vista. Phiên bản này đã có rất nhiều sự thay đổi so với phiên bản cũ. Media Library không còn được xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới (tree-based listing). Những thể loại hay những playlist không còn để ở bên trái mà ở bên phải. Những icons rất sinh động và thumbnails có hình của album hay là hình khác do người sử dụng tự chọn. Nếu như mà bài hát không có tên album, ca sĩ, nhạc sĩ, năm phát hành, hoặc là hình của album thì Windows Media Player có thể tự động thêm vào nếu có sẵn trong máy hay là nó có thể tự tìm. Windows Media Player 11 có thêm Windows Media Format 11.
Những chức năng khác:
Stacking - stacking có những sự miêu tả sống động về tổng số album ở trong một thể loại hoặc folder. Càng nhiều files thì cái stack sẽ lớn hơn.
Word Wheel - khi đi tìm bất cứ thứ gì trong WMP, bạn không cần đợi để nhấn Enter key để thấy được kế quả. Kết quả sẽ tự động hiện ra phía dưới khi bạn nhấn bất cứ chữ gì.
CD Burning - khi burn, số lượng MB sẽ tự động hiện ra.
URGE - là cửa hàng bán nhạc mới của Microsoft và MTV được đi cùng với Windows Media Player.
Có thể rip audio CDs qua WAV.
Có thể nối kết với lạ những cửa hàng bán nhạc online.
Dics Spanning sẽ cắt burn list ra làm hai nếu đĩa không còn chỗ để chứa.
Microsoft phát hành beta của Windows Media Player 11 cho Windows XP vào ngày 17/5/2006 và bản beta thứ hai ngày 31/8/2006. Bản chính thức của Windows Media Player 11 ra ngày 30/10/2006 và Windows Vista mới sẽ có sẵn WMP 11. Microsoft phải phát hành riêng một phiên bản của Windows Vista mà không có Windows Media Player cho châu Âu vì luật không tin vào Microsoft của họ.
Phiên bản này tên là "Windows Vista N".
Windows Media Player 12
Phát hành tháng 10 năm 2008 Trong Hội nghị phát triển chuyên môn (Professional Developers Conference) là một phần đi kèm trong Windows 7. Không được tải về và sử dụng trong các phiên bản trước.
Windows Media Player 12 hỗ trợ thêm cho H.264 và định dạng video MPEG 4 Part-2, audio AAC và 3GP, định dạng container MP4 và MOV.
Microsoft đã công nhận AVCHD là một trong những triển khai phổ biến các chương trình mã hóa H.264, có phần đuôi là m2ts và mts trước khi đăng ký trong hệ thống. Windows Media Player 12 có thể chỉ mục nội dung của tập tin này, trong khi Windows Explorer có khả năng tạo hình thu nhỏ cho mỗi clip.
Giao diện của Windows Media Player 12 được thiết kế lại đáng kể.
Tính năng đã bị hủy
Advanced Tag Editor cho phép người dùng siêu chỉnh sửa các thông tin của tập tin.
Khả năng hiển thị lời bài hát tĩnh.
Menu ngữ cảnh Tìm trong thư viện đã loại bỏ. Thay vào đó, nó được tích hợp vào thư viện nhạc trong Windows 7.
Pocket PC / Smartphone
Microsoft đã phát hành những phiên bản khác cho Pocket PC chỉ có Pocket PC / Windows Mobile là vẫn được Microsoft tiếp tục phát triển phiên bản mới.
Zune
Zune thật ra là một version khác của WMP. Nhưng Windows Media Player cần có bộ lọc DirectShow thì mới coi được AAC, MPEG-4 và H.264 media. Zune thì có sẵn DirectShow decoders cho AAC (nhưng không tốt lắm) (.mp4,.m4a,.m4b,.mov), MPEG-4 (.mp4,.m4v,.mov) và H.264 (.mp4,.m4v,.mov).
Mac OS X
Windows Media Player 9 là phiên bản cuối cùng của media player mà Microsoft phát hành cho Mac OS X vì có rất nhiều người sử dụng của Mac OS X nói là phiên bản cho Mac OS X không có hỗ trợ nhiều định dạng (format), thiếu ổn định và thiếu tính năng. Phiên bản cũng không có những tính năng căn bản mà Windows Media Player 9 cho Windows có. Microsoft đã tuyên bố ngưng phát triển kể từ ngày ngày 12 tháng 1 năm 2006. Thay vào đó, Microsoft sẽ cung cấp một plugin (gọi là WMV Player) cho phép trình QuickTime của Apple có thể chơi được một số định dạng của Windows Media. Những người sử dụng Mac cũng có thể dùng VLC Media Player. VLC Media Player hỗ trợ WMV-3 / WMV-9 / VC-1 Windows Media files.
Lịch sử phát hành
1998
25 tháng 6 Windows Media Player 6.1
2000
17 tháng 7 Windows Media Player 6.3 cho Mac OS
17 tháng 7 Windows Media Player 6.3 cho Solaris
17 tháng 7 Windows Media Player 7 cho Windows 98 và Windows 2000
14 tháng 9 Windows Media Player 7.0 cho Windows Me gói sẵn với hệ điều hành
12 tháng 12 Windows Media Player 7 cho Pocket PC
2001
24 tháng 7 Windows Media Player 7.0.1 cho Mac OS
25 tháng 10 Windows Media Player 8 cho Windows XP gói sẵn với hệ điều hành khi phát hành
2002
8 tháng 1 Windows Media Player 7.1 cho Mac OS
2003
27 tháng 1 Windows Media Player 9 cho Windows 98 Second Edition, Windows Me, và Windows 2000 và bản riêng lẻ cho Windows XP
23 tháng 6 Windows Media Player 9 cho Pocket PC
7 tháng 11 Windows Media Player 9 cho Mac OS X
2004
10 tháng 8 Windows Media Player 9 cho Windows XP Service Pack 2 gói sẵn với hệ điều hành khi phát hành
Tháng 10 Windows Media Player 10 cho Windows XP gói sẵn với Windows XP Media Center Edition 2005, khi phát hành vào 10/12/2004. Windows Media Player 10 Mobile cho Pocket PC và SmartPhone. Bao gồm trong Windows Mobile 5.0
2006
17 tháng 5 Windows Media Player 11 công bố bản thử nghiệm cho Windows XP
Windows Media Player version 7.0 (và cũ hơn) cho Windows bao gồm phiên bản 6.4 như một ứng dụng riêng lẻ, có thể truy xuất bằng cách gọi tập tin mplayer2.exe trong thư mục cài đặt.
2009
29 tháng 10 Windows Media Player 12 đã ra mắt trong Windows 7. Được coi như là một tính năng có trong Windows 7 và không được tải về cho các phiên bản Windows trước. |
Tân Trúc (chữ Hán: 新竹, bính âm: Xīnzhú, POJ: Sin-tek, Wade–Giles: Hsin¹-chu² , tiếng Anh viết là Hsinchu) là một thành phố lớn nằm tại phía bắc của Đài Loan, cách Đài Bắc khoảng 100 kilômét, nơi đây tập trung rất nhiều công ty chế tạo vi mạch và thiết bị điện tử. Thành phố Tân Trúc bao bọc bởi huyện Tân Trúc về phía bắc và phía đông, huyện Miêu Lật về phía nam, và eo biển Đài Loan về phía tây. Công viên Khoa học Tân Trúc nằm về phía đông của thành phố Tân Trúc, là một phần của huyện Tân Trúc.
Thành phố Tân Trúc gồm 3 quận: quận Bắc, quận Đông và quận Hương Sơn.
Tân Trúc là nơi có Đại học Quốc lập Thanh Hoa, Đại học Quốc lập Giao thông, Đại học Trung Hoa, Đại học Huyền Trang, Viện Khoa học và Công nghệ Bắc Vân và Viện Khoa học Quốc gia đóng tại Khu công nghiệp.
Tân Trúc thường được gọi là Phong Thành (風城) vì gió ở đây rất mạnh. Tân Trúc còn nổi tiếng với các món ăn như mì gạo và thịt viên. |
Nhiệt dung riêng của một chất là nhiệt lượng cần phải cung cấp cho một đơn vị đo lường chất đó để nhiệt độ của nó tăng lên một độ trong quá trình truyền nhiệt.
Trong hệ thống đo lường quốc tế, đơn vị đo của nhiệt dung riêng là Joule trên kilôgam trên Kelvin, J·kg−1·K−1 hay J/(kg·K), hoặc Joule trên mol trên Kelvin.
Kí hiệu là:c
Người ta sử dụng nhiệt dung riêng để tính toán nhiệt lượng khi gia công nhiệt cho vật liệu xây dựng và lựa chọn vật liệu trong các trạm nhiệt.
Công thức: c = Q/(m∆t)
Bảng nhiệt dung riêng |
Các cực bất khả tiếp cận là các điểm nằm trên bề mặt Trái Đất với vị trí đặc biệt là rất khó chinh phục.
Các cực này vốn là một sự thách thức đối với các nhà thám hiểm, du hành. Cực bất khả tiếp cận hoàn toàn không phải là một hiện tượng tự nhiên gì cả, mà về mặt địa hình nó cũng chẳng có gì khác biệt. Đấy chỉ là một điểm địa lý, được xác định bằng toán học dựa theo tính chất cực trị, trên bề mặt Trái Đất, bao gồm các điểm khó tiếp cận nhất ở phương Bắc và phương Nam, trên lục địa và ngoài biển.
Cực bất khả tiếp cận Bắc
Cực này là một điểm nằm trên biển Bắc Băng Dương cách xa nhất với bất kì các bờ biển phía bắc nào của đại lục Á-Âu cũng như của Bắc Mỹ. Tọa độ địa lý của điểm này là , còn khoảng cách của nó tới các bờ biển là khoảng 1.100 km. Mặt biển ở đây bao phủ bởi một lớp băng mỏng (Drift ice).
Phi công người Úc Hubert Wilkins cùng với Carl Ben Eielson đã chinh phục cực bất khả tiếp cận Bắc lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 4 năm 1928. Tên của George Hubert Wilkins hiện được đặt cho đường băng thương mại và duy nhất (tính đến 2008) tại châu Nam Cực.
Ba mươi năm sau, năm 1958 một con tàu phá băng của Liên Xô cũng đã tới đây.
Hiện chưa có công trình cố định nào được xây dựng để đánh dấu khu vực này.
Cực bất khả tiếp cận Nam
Cực bất khả tiếp cận Nam là một điểm thuộc châu Nam Cực, cách xa bờ biển (Nam Băng Dương) nhất – khoảng chừng 1.700 km. Tọa độ địa lý của nó là .
Một đoàn thám hiểm Liên Xô (đoàn thám hiểm phương nam thứ ba) do Yevgeny Ivanovich Tolstikov dẫn đầu đã chinh phục cực bất khả tiếp cận Nam lần đầu tiên vào năm 1957 và họ đã thành lập trạm Nam cực mang tên Sovetskaya (Советская (антарктическая станция)), đã được sử dụng vào mùa hè năm 1957-1958.
14 tháng 12 năm 2005, Ramón Larramendi, Juan Manuel Viu và Ignacio Oficialdegui trong đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã đến gần điểm bất khả tiếp cận Nam, tại tọa độ .
4 tháng 12 năm 2006, đoàn của Team N2i cũng đã đến đây
Cực bất khả tiếp cận đại dương
Cực bất khả tiếp cận đại dương có toạ độ 48°52.6′ Nam, 123°23.6′ Tây (), còn được gọi là Điểm Nemo (đặt theo tên thuyền trưởng Nemo, một nhân vật trong tiểu thuyết Hai vạn dặm dưới biển của Jules Verne), là điểm nằm trên đại dương xa đất liền nhất. Nó nằm trên biển Nam Thái Bình Dương, cách điểm đất liền gần nhất là 2688 km. Nó giáp với đảo Ducie (một phần của đảo Pitcairn) về phía Bắc, Moto Nui (là một phần của đảo Phục Sinh) về phía đông bắc và đảo Mahae (gần đảo Siple, bờ biển Marie Byrd Land) về phía nam. Xa hơn về phía tây giáp với đảo Chatham và phía đông giáp với bờ biển Chile.
Wiki hiện chưa có hình ảnh cụ thể về điểm Nemo này, nhưng có thể hình dung qua vùng phụ cận và tọa độ của nó:
Khu vực này còn được biết đến dưới cái tên "Nghĩa địa của tàu vũ trụ" (tiếng Anh: Spacecraft Cemetery) do đây là nơi mà các vệ tinh, trạm vũ trụ không còn hoạt động được nữa sẽ rơi xuống khu vực này để tránh gây nguy hiểm cho người và các sinh vật khác.
Ngoài điểm khó tiếp cận chung này ra, mỗi đại dương có thể tính ra điểm khó tiếp cận nhất riêng của nó:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Đại Tây Dương:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Ấn Độ Dương:
Điểm khó tiếp cận nhất trên Nam Đại Dương: là điểm bất khả tiếp cận Nam
Điểm khó tiếp cận nhất trên Bắc Băng Dương: là điểm bất khả tiếp cận Bắc
Cực bất khả tiếp cận lục địa
Cực bất khả tiếp cận lục địa là điểm trên đất liền nằm cách xa các bờ biển nhất, thuộc lục địa Á-Âu, có tọa độ , trên miền Bắc Trung Quốc và cách bờ biển gần nhất 2.645 km, cách thành phố Ürümqi 320 km, thuộc khu tự trị Tân Cương, có điểm định cư gần nhất là Hoxtolgay 30 dặm về phía tây nam, Xazgat 13 dặm về phía tây, Suluk 7 dặm về phía đông.
Ngoài ra, mỗi châu lục lại có một điểm bất khả tiếp cận lục địa riêng:
Cực bất khả tiếp cận lục địa của Bắc Mỹ là , thuộc về tây nam của Nam Dakota, cách bờ biển gần nhất 1.650 km.
Cực bất khả tiếp cận lục địa của Nam Mỹ là , nằm trên lưu vực sông Amazon, thuộc đất Brasil
Cực bất khả tiếp cận lục địa của châu Úc nằm tại , cách bờ biển gần nhất 920 km, thị trấn gần nhất là Haasts Bluff, lãnh thổ Bắc Úc 56 km về phía tây bắc
Cực bất khả tiếp cận lục địa của châu Phi là cách bờ biển 1814 km, tại điểm gặp nhau của biên giới Cộng hoà Trung Phi, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo |
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Hàn Quốc.
Nguồn gốc
Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên (對聯) nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù (桃符).
Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa".
Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家), câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.
Những nguyên tắc của câu đối
Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.
Đối ý và đối chữ
Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.
- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền
- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài
- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
Luật bằng trắc
Câu tiểu đối:
- Vế phải: trắc-trắc-trắc
- Vế trái: bằng-bằng-bằng
Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
Phân loại câu đối
Câu đối Trung Quốc
Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:
Phân loại theo cách dùng
Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.
Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.
Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.
Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).
Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật
Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.
Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.
Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.
Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, có chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.
Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.
Câu đối Việt Nam
Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Đán.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.
Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giàu (trầu) nước)
Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?
Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.
Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
Da trắng vỗ bì bạch Vế đối này của Đoàn Thị Điểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới'' được coi là tạm ổn nhất.
"Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông" |
Địa hóa học, theo định nghĩa đơn giản của thuật ngữ này là hóa học của Trái Đất, bao gồm việc ứng dụng những nguyên lý cơ bản của hóa học để giải quyết các vấn đề địa chất.
Địa hóa học coi các nguyên tố hóa học và các đồng vị trong tự nhiên là đối tượng nghiên cứu, bởi vậy nó góp phần hoàn chỉnh những nhận thức và hiểu biết về sự phát triển của hành tinh chúng ta và cho phép ta có cách nhìn nhận mới về cơ chế thành tạo Trái Đất nói chung, về quá trình thành tạo đá, khoáng vật, những quy luật hình thành các mỏ khoáng sản và quy luật biến đổi môi trường sống, nhất là trong thời kỳ phát triển công nghiệp hiện nay.
Địa hóa học là một chuyên ngành khoa học về Trái Đất, trong đó bao hàm những ý tưởng của ngành khoa học nguyên tử hiện đại.
Lịch sử
Thuật ngữ địa hóa học lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà hóa học người Đức gốc Thụy Sĩ Christian Friedrich Schönbein vào năm 1838: "địa hóa học phải được đưa ra so sánh, trước khi địa hóa học có thể trở thành địa chất, và trước bí ẩn về sự hình thành Các hành tinh của chúng ta và vật chất vô cơ của chúng có thể được tiết lộ. Từ địa hóa học đến vũ trụ học: Nguồn gốc của một ngành khoa học, 1915-1955 Tuy nhiên, trong phần còn lại của thế kỷ, thuật ngữ phổ biến hơn là "địa chất hóa học" và đã có ít liên hệ giữa nhà địa chất và nhà hóa học.
Địa hóa học nổi lên như một môn học riêng biệt sau khi các phòng thí nghiệm lớn được thành lập, được bắt đầu với Khảo sát địa chất Hoa Kỳ (USGS) vào năm 1884, và bắt đầu các cuộc khảo sát có hệ thống về hóa học của đá và khoáng sản. Nhà hóa học trưởng của USGS, Frank Wigglesworth Clarke, lưu ý rằng các nguyên tố thường giảm đi sự phong phú khi trọng lượng nguyên tử của chúng tăng lên, và tóm tắt công việc về sự phong phú nguyên tố trong Dữ liệu của địa hóa học .
Thành phần của thiên thạch đã được nghiên cứu và so sánh với các loại đá trên mặt đất vào đầu năm 1850. Năm 1901, Oliver C. Farrington đã đưa ra giả thuyết rằng, mặc dù có sự khác biệt, sự phong phú tương đối vẫn giống nhau. Đây là sự khởi đầu của lĩnh vực vũ trụ học và đã đóng góp phần lớn những gì chúng ta biết về sự hình thành của Trái Đất và Hệ mặt trời.
Thành phần của thiên thạch đã được nghiên cứu và so sánh với các loại đá trên mặt đất vào đầu năm 1850. Năm 1901, Oliver C. Farrington đã đưa ra giả thuyết rằng, mặc dù có sự khác biệt, sự phong phú tương đối vẫn giống nhau. Đây là sự khởi đầu của lĩnh vực vũ trụ học và đã đóng góp phần lớn những gì chúng ta biết về sự hình thành của Trái Đất và Hệ mặt trời.
Nguyên tố hóa học
Các khối vật liệu xây dựng là nguyên tố hóa học. Chúng có thể được xác định bởi số nguyên tử Z, là số proton trong hạt nhân. Một phần tử có thể có nhiều hơn một giá trị cho N, số neutron trong hạt nhân. Tổng của những thứ này là số khối, gần bằng với khối lượng nguyên tử. Các nguyên tử có cùng số nguyên tử nhưng số neutron khác nhau được gọi là đồng vị. Một đồng vị đã cho được xác định bằng một chữ cái cho phần tử đứng trước một siêu ký tự cho số khối. Ví dụ: hai đồng vị phổ biến của clo là 35Cl and 37Cl. Có khoảng 1700 kết hợp Z và N đã biết, trong đó chỉ có khoảng 260 là ổn định. Tuy nhiên, hầu hết các đồng vị không ổn định không xảy ra trong tự nhiên. Trong địa hóa học, các đồng vị ổn định được sử dụng để theo dõi các quá trình và phản ứng hóa học, trong khi các đồng vị chủ yếu được sử dụng để xác định mẫu.
Hành vi hóa học của một nguyên tử - ái lực với các nguyên tố khác và loại liên kết mà nó hình thành - được xác định bởi sự sắp xếp của các electron trong quỹ đạo, đặc biệt là các electron ngoài cùng (hóa trị). Những sắp xếp này được phản ánh ở vị trí của các phần tử trong bảng tuần hoàn. Dựa trên vị trí, các nguyên tố rơi vào các nhóm rộng kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, kim loại chuyển tiếp, bán kim loại (còn được gọi là metallicoid), halogen, khí hiếm, lanthanide và actinide.
Một sơ đồ phân loại hữu ích khác cho địa hóa học là Phân loại Goldschmidt, đặt các yếu tố thành bốn nhóm chính. Litophiles kết hợp dễ dàng với oxy. Các nguyên tố này, bao gồm Na, K, Si, Al, Ti, Mg và Ca, chiếm ưu thế trong vỏ Trái Đất, tạo thành silicate và các oxit khác. Các nguyên tố Siderophile (Fe, Co, Ni, Pt, Re, Os) có ái lực với sắt và có xu hướng tập trung trong lõi. Các yếu tố Chalcophile (Cu, Ag, Zn, Pb, S) sulfide; và các nguyên tố atmophile (O, N, H và các khí hiếm) thống trị bầu khí quyển. Trong mỗi nhóm, một số nguyên tố là vật liệu chịu lửa, duy trì ổn định ở nhiệt độ cao, trong khi các yếu tố khác là dễ bay hơi, bay hơi dễ dàng hơn, do đó sức nóng có thể tách chúng ra.
Phân dị và trộn lẫn
Thành phần hóa học của Trái Đất và các cơ thể khác được xác định bởi hai quá trình đối lập: phân dị và trộn lẫn. Trong lớp phủ của Trái Đất, sự khác biệt xảy ra ở các dải núi giữa đại dương thông qua sự nóng chảy một phần, với nhiều vật liệu chịu lửa còn lại ở đáy thạch quyển trong khi phần còn lại tăng lên tạo thành đá bazan. Sau khi một mảng đại dương rơi xuống lớp phủ, cuối cùng đối lưu trộn hai phần lại với nhau. Xói mòn phân biệt đá granit, tách nó thành đất sét dưới đáy đại dương, sa thạch ở rìa lục địa và khoáng chất hòa tan trong nước biển. Sự biến chất và anatexis (sự tan chảy một phần của đá vỏ) có thể trộn các yếu tố này lại với nhau. Trong đại dương, các sinh vật sinh học có thể gây ra sự khác biệt hóa học, trong khi hòa tan các sinh vật và chất thải của chúng có thể trộn lại các vật liệu một lần nữa
Cất phân đoạn
Một nguồn phân dị chính là cất phân đoạn, một sự phân bố không đồng đều các nguyên tố và đồng vị. Đây có thể là kết quả của các phản ứng hóa học, thay đổi pha, hiệu ứng động học hoặc phóng xạ. Ở quy mô lớn nhất, phân biệt hành tinh là sự phân tách vật lý và hóa học của một hành tinh thành các vùng khác biệt về mặt hóa học. Ví dụ, các hành tinh trên mặt đất hình thành các lõi giàu sắt và lớp vỏ và lớp vỏ giàu silicat. Trong lớp phủ của Trái Đất, nguồn gốc của sự khác biệt hóa học là tan chảy một phần, đặc biệt là gần các dải núi giữa đại dương. Đối lưu thần chú trong Trái Đất và các hành tinh. Điều này có thể xảy ra khi chất rắn không đồng nhất hoặc dung dịch rắn và một phần của sự tan chảy được tách ra khỏi chất rắn. Quá trình này được gọi là cân bằng hoặc mẻ tan chảy nếu chất rắn và tan chảy vẫn ở trạng thái cân bằng cho đến khi tan chảy và phân đoạn hoặc Rayleigh tan chảy loại bỏ liên tục.
Phân đoạn đồng vị có thể có các dạng phụ thuộc khối lượng và không phụ thuộc vào khối lượng. Các phân tử có đồng vị nặng hơn có năng lượng trạng thái mặt đất thấp hơn và do đó ổn định hơn. Kết quả là các phản ứng hóa học cho thấy sự phụ thuộc đồng vị nhỏ, với các đồng vị nặng hơn thích các loài hoặc hợp chất có trạng thái oxy hóa cao hơn; và trong các thay đổi pha, các đồng vị nặng hơn có xu hướng tập trung trong các pha nặng hơn. Phân số phụ thuộc khối lượng lớn nhất trong các phần tử ánh sáng vì sự khác biệt về khối lượng là một phần lớn hơn của tổng khối lượng.
Tỷ lệ giữa các đồng vị thường được so sánh với một tiêu chuẩn. Ví dụ, lưu huỳnh có bốn đồng vị ổn định, trong đó hai đồng vị phổ biến nhất là 32S và 34S. Tỷ lệ nồng độ của chúng, , được báo cáo là
trong đó có cùng tỷ lệ cho một tiêu chuẩn. Bởi vì sự khác biệt là nhỏ, tỷ lệ này được nhân với 1000 để biến nó thành một phần nghìn (được gọi là các phần trên một triệu). Điều này được biểu thị bằng ký hiệu .
Cân bằng
Phân đoạn cân bằng xảy ra giữa các hóa chất hoặc pha ở trạng thái cân bằng với nhau. Trong phân số cân bằng giữa các pha, các pha nặng hơn thích các đồng vị nặng hơn. Đối với hai pha A và B, hiệu ứng có thể được biểu thị bằng hệ số
Trong quá trình chuyển pha hơi-lỏng cho nước, ở 20 độ Celsius là 1,0098 cho 18O và 1.084 cho 2H. Nói chung, phân số lớn hơn tại nhiệt độ thấp hơn. Tại 0 °C, the factors are 1.0117 and 1.111.
Động học
Khi không có trạng thái cân bằng giữa các pha hoặc hợp chất hóa học, phân đoạn động học có thể xảy ra. Ví dụ, tại các giao diện giữa nước lỏng và không khí, phản ứng thuận được tăng cường nếu độ ẩm của không khí nhỏ hơn 100% hoặc hơi nước bị gió di chuyển. Phân đoạn động học nói chung được tăng cường so với phân đoạn cân bằng, và phụ thuộc vào các yếu tố như tốc độ phản ứng, đường phản ứng và năng lượng liên kết. Vì các đồng vị nhẹ hơn thường có liên kết yếu hơn, chúng có xu hướng phản ứng nhanh hơn và làm phong phú các sản phẩm phản ứng.
Phân đoạn sinh học là một dạng của phân đoạn động học, vì các phản ứng có xu hướng theo một hướng. Các sinh vật sinh học thích các đồng vị nhẹ hơn vì có chi phí năng lượng thấp hơn trong việc phá vỡ các liên kết năng lượng. Ngoài các yếu tố đã đề cập trước đó, môi trường và các loài của sinh vật có thể có ảnh hưởng lớn đến việc phân chia.
Chu kỳ
Thông qua một loạt các quá trình vật lý và hóa học, các nguyên tố hóa học thay đổi nồng độ và di chuyển xung quanh theo cái gọi là chu trình địa hóa . Một sự hiểu biết về những thay đổi này đòi hỏi cả mô hình lý thuyết và quan sát chi tiết. Mỗi hợp chất hóa học, nguyên tố hoặc đồng vị có nồng độ là một hàm về vị trí và thời gian, nhưng không thực tế để mô hình hóa sự biến đổi đầy đủ. Thay vào đó, theo cách tiếp cận mượn từ kỹ thuật hóa học, các nhà địa hóa học tập trung mức độ tập trung vào các khu vực trên Trái Đất gọi là hồ chứa địa hóa . Việc lựa chọn hồ chứa phụ thuộc vào vấn đề; ví dụ, đại dương có thể là một hồ chứa duy nhất hoặc được chia thành nhiều hồ chứa. Các khía cạnh cơ bản của các mô hình định lượng cho các chu trình địa hóa. Trong một loại mô hình được gọi là mô hình hộp , một bể chứa được thể hiện bằng một hộp có đầu vào và đầu ra.
Các mô hình địa hóa nói chung liên quan đến thông tin phản hồi. Trong trường hợp đơn giản nhất của chu trình tuyến tính, đầu vào hoặc đầu ra từ một bể chứa tỷ lệ thuận với nồng độ. Ví dụ, muối được loại bỏ khỏi đại dương bằng cách hình thành bốc hơi và với tốc độ bay hơi không đổi trong các lưu vực bay hơi, tốc độ loại bỏ muối phải tỷ lệ thuận với nồng độ của nó. Đối với một thành phần nhất định , nếu đầu vào của một hồ chứa là một hằng số và đầu ra là cho một hằng số , sau đó mass balance phương trình là
Điều này thể hiện một thực tế là bất kỳ thay đổi nào về khối lượng phải được cân bằng bởi những thay đổi ở đầu vào hoặc đầu ra. Trên thang đo thời gian , hệ thống tiếp cận trạng thái ổn định trong đó . Thời gian cư trú được định nghĩa là: khi và là tỷ lệ đầu vào và đầu ra. Trong ví dụ trên, tốc độ đầu vào và đầu ra trạng thái ổn định đều bằng , nên .
Nếu tốc độ đầu vào và đầu ra là các hàm phi tuyến của , chúng vẫn có thể được cân bằng chặt chẽ theo quy mô thời gian lớn hơn nhiều so với thời gian cư trú; nếu không sẽ có biến động lớn trong . Trong trường hợp đó, hệ thống luôn ở gần trạng thái ổn định và sự mở rộng bậc thấp nhất của phương trình cân bằng khối lượng sẽ dẫn đến một phương trình tuyến tính như phương trình (). Trong hầu hết các hệ thống, một hoặc cả hai đầu vào và đầu ra phụ thuộc vào , dẫn đến một phản hồi có xu hướng duy trì trạng thái ổn định. Nếu một lực lượng bên ngoài làm nhiễu hệ thống, nó sẽ trở về trạng thái ổn định theo thang thời gian là
Sự phong phú của các nguyên tố
Hệ Mặt Trời
Thành phần của Hệ mặt trời tương tự như nhiều ngôi sao khác, và ngoài những dị thường nhỏ, nó có thể được coi là hình thành từ tinh vân mặt trời có thành phần đồng nhất và thành phần của Mặt trời Photosphere tương tự như phần còn lại của Hệ mặt trời. Thành phần của không gian ảnh được xác định bằng cách khớp đường hấp thụ trong quang phổ với các mô hình bầu khí quyển của Mặt trời. Cho đến nay, hai nguyên tố lớn nhất tính theo phần trăm của tổng khối lượng là hydro (74,9%) và helium (23,8%), với tất cả các yếu tố còn lại chỉ đóng góp 1,3%. Có một xu hướng chung của giảm theo cấp số mũ trong phong phú với số nguyên tử tăng dần, mặc dù các nguyên tố có số nguyên tử chẵn phổ biến hơn so với các nước láng giềng số lẻ của chúng (quy tắc Oddo bồi Harkins). So với xu hướng chung, lithium, boron và beryllium đã cạn kiệt và sắt được làm giàu một cách bất thường..
Mô hình của sự phong phú nguyên tố chủ yếu là do hai yếu tố. Hydro, heli và một số lithium là được hình thành trong khoảng 20 phút sau Vụ nổ lớn, trong khi phần còn lại là được tạo ra trong nội thất của các ngôi sao.
Thiên thạch
Thiên thạch có nhiều loại chế phẩm, nhưng phân tích hóa học có thể xác định liệu chúng đã từng ở hành tinh mà tan chảy hay khác biệt. ]] s không phân biệt và có các vùi khoáng tròn gọi là chondrule s. Với độ tuổi 4,56 tỷ năm, chúng có niên đại hệ mặt trời sơ khai. Một loại đặc biệt, CI chondrite, có thành phần gần giống với hình ảnh của Mặt trời, ngoại trừ sự cạn kiệt của một số chất bay hơi (H, He, C, N, O) và một nhóm các nguyên tố (Li, B, Be) bị phá hủy bởi sự tổng hợp hạt nhân trong Mặt trời. Do thuộc nhóm thứ hai, chondrites CI được coi là phù hợp hơn cho thành phần của Hệ mặt trời ban đầu. Hơn nữa, phân tích hóa học của CI chondrites chính xác hơn so với quang cầu, do đó, nó thường được sử dụng làm nguồn cho sự phong phú hóa học, mặc dù độ hiếm của chúng (chỉ có năm được phục hồi trên Trái Đất).
Các hành tinh khổng lồ
Các hành tinh của Hệ Mặt Trời được chia thành hai nhóm: bốn hành tinh bên trong là hành tinh trên mặt đất s [[[Mercury (hành tinh)|Mercury]], Venus, Earth và [ [Mars]]), với kích thước tương đối nhỏ và bề mặt đá. Bốn hành tinh bên ngoài là hành tinh khổng lồ, bị chi phối bởi hydro và helium và có mật độ trung bình thấp hơn. Chúng có thể được chia nhỏ thành khổng lồ khí (Jupiter và Saturn) và khổng lồ băng s (Thiên vương và Hải vương) có lõi băng giá lớn.
Hầu hết thông tin trực tiếp của chúng tôi về thành phần của các hành tinh khổng lồ là từ quang phổ. Từ những năm 1930, Sao Mộc được biết là có chứa hydro, metan và amoni. Vào những năm 1960, interferometry đã tăng đáng kể độ phân giải và độ nhạy của phân tích quang phổ, cho phép xác định một tập hợp các phân tử lớn hơn nhiều bao gồm ethane, acetylene, nước và carbon monoxit. Tuy nhiên, quang phổ trên Trái Đất trở nên ngày càng khó khăn hơn với các hành tinh xa hơn, vì ánh sáng phản xạ của Mặt trời mờ hơn nhiều; và phân tích quang phổ ánh sáng từ các hành tinh chỉ có thể được sử dụng để phát hiện sự rung động của các phân tử, nằm trong dải tần số hồng ngoại. Điều này hạn chế sự phong phú của các yếu tố H, C và N.
Nguyên tử helium có các rung động trong phạm vi tia cực tím, được hấp thụ mạnh mẽ bởi bầu khí quyển của các hành tinh bên ngoài và Trái Đất. Do đó, mặc dù có rất nhiều, helium chỉ được phát hiện khi tàu vũ trụ được gửi đến các hành tinh bên ngoài, và sau đó chỉ gián tiếp thông qua sự biến dạng do va chạm trong các phân tử hydro. Thông tin thêm về Sao Mộc được lấy từ [[Đầu dò Galileo| Đầu dò Galileo ']] khi nó được gửi vào khí quyển vào năm 1995; và nhiệm vụ cuối cùng của thăm dò Cassini vào năm 2017 là để vào bầu khí quyển của Sao Thổ. Trong bầu khí quyển của Sao Mộc, Người ta thấy rằng mình bị suy giảm bởi hệ số 2 so với thành phần mặt trời và Ne với hệ số 10, một kết quả đáng ngạc nhiên vì các loại khí cao quý khác và các nguyên tố C, N và S được tăng cường bởi các yếu tố 2 đến 4 (oxy cũng bị cạn kiệt nhưng điều này được quy cho vùng khô bất thường mà Galileo đã lấy mẫu).
Các phương pháp quang phổ chỉ xuyên qua bầu khí quyển của Sao Mộc và Sao Thổ đến độ sâu nơi áp suất bằng khoảng 1 bar, xấp xỉ áp suất khí quyển ở mực nước biển. Đầu dò Galileo thâm nhập tới 22 vạch. Đây là một phần nhỏ của hành tinh, dự kiến sẽ đạt áp lực hơn 40 Mbar. Để hạn chế thành phần trong nội thất, các mô hình nhiệt động lực học được xây dựng bằng cách sử dụng thông tin về nhiệt độ từ phổ phát xạ hồng ngoại và phương trình trạng thái cho các chế phẩm có khả năng. Các thí nghiệm áp suất cao dự đoán rằng hydro sẽ là một chất lỏng kim loại trong phần bên trong Sao Mộc và Sao Thổ, trong khi ở Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, nó vẫn ở trạng thái phân tử. Ước tính cũng phụ thuộc vào các mô hình cho sự hình thành của các hành tinh. Sự ngưng tụ của tinh vân tổng thống sẽ dẫn đến một hành tinh khí có cùng thành phần với Mặt trời, nhưng các hành tinh cũng có thể đã hình thành khi một lõi rắn thu được khí tinh vân.
Trong các mô hình hiện tại, bốn hành tinh khổng lồ có lõi đá và băng có kích thước gần bằng nhau, nhưng tỷ lệ hydro và heli giảm từ khoảng 300 khối lượng Trái Đất ở Sao Mộc xuống 75 ở Sao Thổ và chỉ một số ít ở Thiên vương tinh và Hải vương tinh. Do đó, trong khi những người khổng lồ khí chủ yếu bao gồm hydro và heli, thì những người khổng lồ băng chủ yếu bao gồm các nguyên tố nặng hơn (O, C, N, S), chủ yếu ở dạng nước, metan và amonia. Các bề mặt đủ lạnh để hydro phân tử ở dạng lỏng, vì vậy phần lớn mỗi hành tinh có khả năng là một đại dương hydro phủ lên một trong những hợp chất nặng hơn. Bên ngoài lõi, Sao Mộc có lớp phủ hydro kim loại lỏng và bầu khí quyển hydro và heli phân tử. Hydro kim loại không kết hợp tốt với helium và trong Sao Thổ, nó có thể tạo thành một lớp riêng biệt bên dưới hydro kim loại.
Hành tinh đất đá
Các hành tinh đất đá được cho là đến từ cùng một vật chất tinh vân như các hành tinh khổng lồ, nhưng chúng đã mất hầu hết các nguyên tố nhẹ hơn và có lịch sử khác nhau. Các hành tinh gần Mặt trời hơn có thể có phần tử vật liệu chịu lửa cao hơn, nhưng nếu các giai đoạn hình thành sau này của chúng liên quan đến sự va chạm của các vật thể lớn có quỹ đạo lấy mẫu các phần khác nhau của Hệ Mặt trời, thì có thể có ít sự phụ thuộc hệ thống vào vị trí.
Thông tin trực tiếp về Sao Hỏa, Sao Kim và Sao Thủy phần lớn đến từ các nhiệm vụ tàu vũ trụ. Sử dụng quang phổ tia gamma, thành phần của lớp vỏ Sao Hỏa đã được đo bằng quỹ đạo Mars Odyssey và lớp vỏ của Sao Thủy bằng tàu vũ trụ MESSENGER . Thông tin bổ sung về Sao Hỏa xuất phát từ các thiên thạch rơi xuống Trái Đất (Shergottite, Nakhlite s và Chassignite, được gọi chung là thiên thạch SNC). Sự phong phú cũng bị hạn chế bởi khối lượng của các hành tinh, trong khi sự phân bố bên trong của các yếu tố bị hạn chế bởi những khoảnh khắc quán tính của chúng.
Các hành tinh ngưng tụ từ tinh vân mặt trời và phần lớn các chi tiết về thành phần của chúng được xác định bằng cách phân đoạn khi chúng nguội đi. Các giai đoạn ngưng tụ rơi vào năm nhóm. Đầu tiên để ngưng tụ là các vật liệu giàu các yếu tố chịu lửa như Ca và Al. Chúng được theo sau bởi niken và sắt, sau đó magiê silicat. Dưới khoảng 700 kelvin s (700 K), FeS và các kim loại và silicat giàu dễ bay hơi tạo thành nhóm thứ tư, và trong nhóm thứ năm FeO nhập silicat magnesi. Các thành phần của các hành tinh và Mặt trăng là chondritic , có nghĩa là trong mỗi nhóm, tỷ lệ giữa các yếu tố giống như trong các chondrites carbonaceous.
Các ước tính của các thành phần hành tinh phụ thuộc vào mô hình được sử dụng. Trong mô hình 'ngưng tụ cân bằng', mỗi hành tinh được hình thành từ một "vùng cho ăn", trong đó các thành phần của chất rắn được xác định bởi nhiệt độ trong vùng đó. Do đó, Sao Thủy hình thành ở 1400 K, trong đó sắt vẫn ở dạng kim loại nguyên chất và có ít magnesi hoặc silic ở dạng rắn; Sao Kim ở 900 K, vì vậy tất cả magnesi và silicon ngưng tụ; Trái Đất ở 600 K, vì vậy nó chứa FeS và silicat; và sao Hỏa ở 450 K, vì vậy FeO được tích hợp vào silicat magnesi. Vấn đề lớn nhất với lý thuyết này là các chất bay hơi sẽ không ngưng tụ, do đó các hành tinh sẽ không có bầu khí quyển và Trái Đất không có bầu khí quyển.
Trong các mô hình chondritic trộn , các chế phẩm của chondrites được sử dụng để ước tính các thành phần hành tinh. Ví dụ, một mô hình trộn hai thành phần, một thành phần có thành phần của chondrites C1 và một thành phần chỉ có các thành phần chịu lửa của chondrites C1. Trong một mô hình khác, sự phong phú của năm nhóm phân đoạn được ước tính bằng cách sử dụng một yếu tố chỉ mục cho mỗi nhóm. Đối với nhóm vật liệu chịu lửa nhất, uranium được sử dụng; sắt cho lần thứ hai; tỷ lệ kali và thallium so với urani trong hai lần tiếp theo; và tỷ lệ mol FeO / (FeO + MgO) cuối cùng. Sử dụng các mô hình nhiệt và địa chấn cùng với lưu lượng và mật độ nhiệt, Fe có thể bị hạn chế trong vòng 10 phần trăm trên Trái Đất, Sao Kim và Sao Thủy. Bạn có thể bị giới hạn trong khoảng 30% trên Trái Đất, nhưng sự phong phú của nó trên các hành tinh khác dựa trên "những phỏng đoán có giáo dục". Một khó khăn với mô hình này là có thể có những lỗi đáng kể trong dự đoán của nó về sự phong phú dễ bay hơi vì một số chất bay hơi chỉ bị ngưng tụ một phần.
Vỏ Trái Đất
Các thành phần đá phổ biến hơn là gần như tất cả các oxit; Chloride, sulfide và fluoride là những ngoại lệ quan trọng duy nhất đối với điều này và tổng lượng của chúng trong bất kỳ loại đá nào thường ít hơn 1%. Đến năm 1911, F. W. Clarke đã tính toán rằng hơn 47% vỏ Trái Đất bao gồm oxy. Nó xảy ra chủ yếu trong sự kết hợp như các oxit, trong đó chủ yếu là silica, alumina, oxit sắt và các loại cacbonat khác nhau (calci cacbonat, magnesi cacbonat, natri cacbonat và kali cacbonat). Các silica có chức năng chủ yếu là một axit, tạo thành silicat và tất cả các khoáng chất phổ biến nhất của đá lửa đều có bản chất này. Từ một tính toán dựa trên 1672 phân tích của nhiều loại đá, Clarke đã đưa ra kết quả sau đây là thành phần phần trăm trung bình của vỏ Trái Đất: SiO2 = 59,71, Al2O3 = 15,41, Fe2O3 = 2,63, FeO = 3,52, MgO = 4,36, CaO = 4,90, Na2O = 3,55, K2O = 2,80, H2O = 1,52, TiO2 = 0,60, P2O5 = 0,22, (tổng 99,22%). Tất cả các thành phần khác chỉ xảy ra với số lượng rất nhỏ, thường là ít hơn 1%.
Những oxit này kết hợp một cách khó hiểu. Ví dụ, kali (kali cacbonat) và soda (natri cacbonat) kết hợp để tạo ra fenspat. Trong một số trường hợp, chúng có thể có các dạng khác, chẳng hạn như nepheline, leucite và muscovite, nhưng trong phần lớn các trường hợp chúng được tìm thấy dưới dạng fenspat. Axit photphoric với vôi (calci cacbonat) tạo thành apatit. Titanium dioxide với oxit sắt tạo ra ilmenit. Một phần của vôi tạo thành fenspat vôi. Magnesi carbonate và oxit sắt với silica kết tinh thành olivin hoặc enstatite, hoặc với alumina và vôi tạo thành các silicat ferro-magnes phức tạp mà pyroxen, amphibole và biotit là chủ yếu. Bất kỳ dư thừa silica trên những gì được yêu cầu để trung hòa các base sẽ tách ra thành thạch anh; dư thừa alumina kết tinh như corundum. Chúng chỉ được coi là xu hướng chung. Có thể, bằng phân tích đá, có thể nói xấp xỉ những khoáng chất mà đá chứa, nhưng có rất nhiều ngoại lệ đối với bất kỳ quy tắc nào.
Kết cấu khoáng sản
Ngoại trừ trong đá lửa axit hoặc silic chứa hơn 66% silica, được gọi là đá felsic, thạch anh không có nhiều trong đá lửa. Trong các loại đá cơ bản (chứa 20% silica hoặc ít hơn), rất hiếm khi chúng chứa nhiều silic, chúng được gọi là đá m khủng. Nếu magnesi và sắt trên trung bình trong khi silica thấp, olivin có thể được dự kiến; trong đó silica có mặt với số lượng lớn hơn các khoáng chất ferro-magnesi, như augite, hornblend, enstatite hoặc biotite, xảy ra thay vì olivin. Trừ khi kali cao và silica tương đối thấp, leucite sẽ không có mặt, vì leucite không xảy ra với thạch anh tự do. Nepheline, tương tự, thường được tìm thấy trong đá có nhiều soda và tương đối ít silica. Với độ kiềm cao, pyroxenes và amphibole chứa soda có thể có mặt. Tỷ lệ phần trăm của silica và kiềm càng thấp thì tỷ lệ nhiễm fenspat plagioclase càng cao khi được ký hợp đồng với soda hoặc fenspat kali.
Lớp vỏ Trái Đất bao gồm 90% khoáng chất silicat và sự phong phú của chúng trong Trái Đất như sau: plagioclase feldspar (39%), fenspat kiềm (12%), thạch anh (12%), pyroxene (11%), amphibole (5%), micas (5%), khoáng sét (5%); các khoáng chất silicat còn lại chiếm 3% vỏ Trái Đất. Chỉ 8% Trái Đất bao gồm các khoáng chất không silicat như cacbonat, oxit và sulfide.
Yếu tố xác định khác, cụ thể là các điều kiện vật lý tham dự hợp nhất, đóng vai trò trên một phần nhỏ hơn, nhưng không có nghĩa là không đáng kể. Một số khoáng chất thực tế bị giới hạn trong các loại đá xâm nhập sâu, ví dụ, microcline, muscovite, diallage. Leucite rất hiếm trong khối plutonic; nhiều khoáng chất có đặc thù đặc biệt trong đặc tính vi mô tùy theo chúng kết tinh ở độ sâu hay gần bề mặt, ví dụ, hypersthene, orthoclase, thạch anh. Có một số trường hợp tò mò về các loại đá có cùng thành phần hóa học, nhưng bao gồm các khoáng chất hoàn toàn khác nhau, ví dụ, hornblendite của Gran, ở Na Uy, chỉ chứa hornblend, có cùng thành phần với một số camptonite của cùng một địa phương có chứa fenspat và hornblend của nhiều loại khác nhau. Trong mối liên hệ này, chúng tôi có thể lặp lại những gì đã nói ở trên về sự ăn mòn của khoáng vật por porritic trong đá lửa. Trong rhyolite và trachytes, các tinh thể đầu tiên của hornblend và biotite có thể được tìm thấy với số lượng lớn được chuyển đổi một phần thành augit và Magnetite. Hornblende và biotite ổn định dưới áp suất và các điều kiện khác bên dưới bề mặt, nhưng không ổn định ở mức cao hơn. Trong khối lượng mặt đất của những tảng đá này, augite gần như phổ biến. Nhưng các đại diện plutonic của cùng loại magma, granit và syenit có chứa biotite và hornblend phổ biến hơn nhiều so với augite.
Dấu vết kim loại trong đại dương
Kim loại dấu vết dễ dàng tạo thành phức chất với các ion chính trong đại dương, bao gồm hydroxide, cacbonat và chloride và sự thay đổi hóa học của chúng thay đổi tùy thuộc vào việc môi trường bị oxy hóa hay khử. Benjamin (2002) định nghĩa các phức kim loại có nhiều loại phối tử, trừ nước, là phức chất phối tử. Trong một số trường hợp, một phối tử chứa nhiều hơn một nguyên tử nhà tài trợ, tạo thành các phức chất rất mạnh, còn được gọi là chelate (phối tử là chelator). Một trong những chất thải sắt phổ biến nhất là EDTA (ethylenediaminetetraacetic acid), có thể thay thế sáu phân tử nước và tạo liên kết mạnh với các kim loại có cộng hai điện tích. Với sự phức tạp mạnh hơn, hoạt động thấp hơn của ion kim loại tự do được quan sát. Một hậu quả của khả năng phản ứng thấp hơn của các kim loại phức so với cùng nồng độ của kim loại tự do là sự thải sắt có xu hướng ổn định kim loại trong dung dịch nước thay vì trong chất rắn.
Nồng độ của các kim loại vi lượng cadmium, đồng, molybdenum, mangan, rhenium, uranium và vanadi trong trầm tích ghi lại lịch sử oxy hóa khử của các đại dương. Trong môi trường nước, cadmium (II) có thể ở dạng CdCl+(aq) trong nước oxic hoặc CdS (s) trong môi trường khử. Do đó, nồng độ Cd cao hơn trong trầm tích biển có thể chỉ ra các điều kiện tiềm năng oxy hóa khử thấp trong quá khứ. Đối với đồng (II), một dạng phổ biến là CuCl+ (aq) trong môi trường oxic và CuS (s) và Cu2S trong môi trường giảm. Môi trường nước biển giảm dẫn đến hai trạng thái oxy hóa có thể là đồng, Cu (I) và Cu (II). Molypden có mặt ở trạng thái oxy hóa Mo (VI) dưới dạng MoO42-(aq) trong môi trường oxic. Mo (V) và Mo (IV) có mặt trong các môi trường giảm ở dạng MoO2+(aq) và MoS2(s). Rhenium có mặt ở trạng thái oxy hóa Re (VII) dưới dạng ReO4- trong điều kiện oxi, nhưng bị khử thành Re (IV) có thể tạo thành ReO2 hoặc ReS<phụ>2</sub>. Uranium ở trạng thái oxy hóa VI trong UO2(CO3)34- (aq) và được tìm thấy ở dạng rút gọn UO2(s). Vanadi ở một số dạng ở trạng thái oxy hóa V (V); HVO42- và H2 VO4-. Các dạng rút gọn của nó có thể bao gồm VO2+, VO(OH)3- và V(OH)3. Sự thống trị tương đối của các loài này phụ thuộc vào pH.
Các kim loại có dấu vết phân phối chất dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ với các chu kỳ bên trong của chất hữu cơ hạt, đặc biệt là sự đồng hóa bởi sinh vật phù du. Nồng độ hòa tan thấp nhất của các kim loại này là ở bề mặt đại dương, nơi chúng bị đồng hóa bởi sinh vật phù du. Khi hòa tan và phân hủy xảy ra ở độ sâu lớn hơn, nồng độ của các kim loại vi lượng này tăng lên. Thời gian lưu trú của các kim loại này, chẳng hạn như kẽm, là vài nghìn đến một trăm nghìn năm. Cuối cùng, một ví dụ về kim loại vi lượng được nhặt rác là nhôm, có tương tác mạnh với các hạt cũng như thời gian cư trú ngắn trong đại dương. Thời gian cư trú của kim loại vi lượng nhặt rác là khoảng 100 đến 1000 năm. Nồng độ của các kim loại này cao nhất xung quanh trầm tích đáy, thủy nhiệt và sông. Đối với nhôm, bụi khí quyển cung cấp nguồn đầu vào bên ngoài lớn nhất vào đại dương.
Sắt và đồng cho thấy sự phân phối lai trong đại dương. Họ bị ảnh hưởng bởi tái chế và nhặt rác dữ dội. Sắt là một chất dinh dưỡng hạn chế trong các khu vực rộng lớn của đại dương, và được tìm thấy rất nhiều cùng với mangan gần lỗ thông thủy nhiệt. Ở đây, nhiều kết tủa sắt được tìm thấy, chủ yếu ở dạng sulfide sắt và các hợp chất oxyhydroxide sắt bị oxy hóa. Nồng độ của sắt gần lỗ thông thủy nhiệt có thể lên tới một triệu lần nồng độ được tìm thấy trong đại dương mở.
Sử dụng các kỹ thuật điện hóa, có thể chỉ ra rằng các kim loại vi lượng hoạt tính sinh học (kẽm, coban, cadmium, sắt và đồng) bị ràng buộc bởi các phối tử hữu cơ trong nước biển bề mặt. Những phức chất phối tử này phục vụ để giảm khả dụng sinh học của kim loại vi lượng trong đại dương. Ví dụ, đồng, có thể độc hại đối với thực vật phù du đại dương và vi khuẩn, có thể tạo thành phức hợp hữu cơ. Sự hình thành của các phức hợp này làm giảm nồng độ của các phức vô cơ sinh học đồng có thể gây độc cho sinh vật biển ở nồng độ cao. Không giống như đồng, độc tính kẽm trong thực vật phù du biển thấp và không có lợi thế nào trong việc tăng liên kết hữu cơ của Zn2+. Ở những vùng có chất diệp lục thấp, chất dinh dưỡng thấp, sắt là chất dinh dưỡng hạn chế, với các loài chiếm ưu thế là các phức hữu cơ mạnh của Fe (III).
Một số định nghĩa tham khảo
F.Clarke (1924): "Trong mục tiêu của chúng ta, mỗi loại đá có thể xem như một hệ hóa học cân bằng, trong đó dưới tác động của các tác nhân khác nhau đã xảy ra những biến đổi và mỗi biến đổi như vậy có liên quan đến sự phá hủy cân bằng, dẫn tới xuất hiện một hệ mới bền vững trong điều kiện mới. Nghiên cứu những biến đổi này là nội dung của địa hóa học".
V.I. Vernatski (1927): "Địa hóa học nghiên cứu các nguyên tố hóa học - các nguyên tử của vỏ Trái Đất và có thể cả toàn bộ Trái Đất nữa. Địa hóa học nghiên cứu lịch sử của các nguyên tố hóa học, sự phân bố và vận động của chúng trong không gian theo thời gian, quan hệ nguồn gốc của chúng trong hành tinh của chúng ta"
A.E. Fersman (1932): "Địa hóa học nghiên cứu lịch sử của các nguyên tố hóa học trong vỏ Trái Đất và hành tinh chúng ta trong các điều kiện nhiệt động và hóa lý khác nhau của tự nhiên"
V.M. Goldschmidt (1954 - với sự hiệu đính của A.Meyer): "Địa hóa học hiện đại nghiên cứu hàm lượng của các nguyên tố hóa học trong các khoáng vật, quặng, đất, nước và không khí, các quy luật khống chế sự phân bố của các nguyên tố hóa học và các đồng vị trong Trái Đất".
Là một ngành khoa học mới về Trái Đất, địa hóa học ra đời làm cầu nối giữa ngành khoa học tự nhiên cơ bản như vật lý, hóa học với các ngành khoa học địa chất: khoáng vật học, thạch học. |
Tân Cương (; ; bính âm bưu chính: Sinkiang) tên chính thức là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Tân Cương là đơn vị hành chính đông thứ hai mươi tư về số dân với 24 triệu dân, tương đương với Cameroon, đứng thứ hai mươi sáu về kinh tế Trung Quốc và GDP danh nghĩa đạt 1.220 tỉ NDT (184,3 tỉ USD) tương ứng với Kazakhstan. Tân Cương có chỉ số GDP đầu người đứng thứ mười chín, đạt 49.275 NDT (tương ứng 7.475 USD).
Tân Cương là đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn nhất của Trung Quốc với diện tích lên tới 1,6 triệu km². Tân Cương có biên giới với Nga (giáp vùng Altai), Mông Cổ (giáp các tỉnh Bayan-Ölgii, Khovd, Govi-Altai), Kazakhstan (giáp các tỉnh Đông Kazakhstan và Almaty), Kyrgyzstan (giáp các tỉnh Osh, Naryn và Issyk-Kul), Tajikistan (giáp tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan), Afghanistan (giáp tỉnh Badakhshan), Pakistan (giáp các lãnh thổ Azad Jammu và Kashmir và Gilgit-Baltistan) và Ấn Độ (giáp lãnh thổ liên bang Ladakh). Tân Cương có trữ lượng dầu mỏ và là khu vực sản xuất khí thiên nhiên lớn nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng quản lý về hành chính đối với khu vực Aksai Chin, là nơi Ấn Độ cũng tuyên bố chủ quyền.
Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh. Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là Uyghur (Duy Ngô Nhĩ), Hán, Kazakh, Hồi, Kyrgyz và Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú.
Tên gọi
Khu vực Tân Cương ngày nay từng được gọi với nhiều tên khác nhau trong thời kỳ đầu, bao gồm: 西域 (Xiyu, Tây Vực), Tartary thuộc Trung Hoa, Thượng Tartary, Đông Chagatay, Mugholistan, Kashgaria, Altishahr ('sáu thành phố' của Tarim), Tiểu Bokhara và Serindia.
Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời Nhà Thanh. Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay.
Địa lý
Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. dãy núi Thiên Sơn (Uyghur: غات ىرڭەت, Tengri Tagh) chia tách khu tự trị thành hai bồn địa lớn: Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Hầu hết bồn địa Tarim là sa mạc Taklamakan- điểm thấp nhất của Tân Cương, cũng như toàn Trung Quốc là Vệt lõm Turpan với cao độ 155 mét dưới mực nước biển, điểm cao nhất là K2, trên 8611 mét so với mực nước biển trên biên giới với Pakistan. Các dãy núi khác là Pamir ở phía đông nam, Karakoram ở phía nam và Dãy núi Altai ở phía bắc.
Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn và dãy núi Pamir. Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của Bình nguyên Hoa Bắc.
Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo đường thẳng.
Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối Islamabad, Pakistan với Kashgar trên Hành lang Khunjerab.
Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8.
Kinh tế
Tân Cương được biết đến với các loại hoa quả và sản phẩm khác như nho, dưa, lê, bông, lúa mì, tơ lụa, quả óc chó và cừu. Tân Cương cũng có trữ lượng lớn về khoáng sản và dầu mỏ.
Nhân khẩu
Những người di cư Đông Á đã tới điểm phía đông của bồn địa Tarim khoảng 3000 năm trước, trong khi người Duy Ngô Nhĩ đã tới đây sau sự sụp đổ của Hãn quốc Hồi Hột tại Mông Cổ ngày nay vào khoảng năm 842.
Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là các dân tộc Turk như Uyghur, Uzbek, Kyrgyz, Tatar và Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là Hán, Mông Cổ, Nga, Tích Bá và Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương.
Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ Trung Nguyên.
Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949 lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay. Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương, một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên. Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con.
Lịch sử
Thời sơ khai
Theo J.P. Mallory và Victor H. Mair, các nguồn Trung Hoa mô tả sự hiện diện của những "người da trắng với tóc màu phớt" hoặc người Bạch trong Sơn Hải Kinh, họ sinh sống bên ngoài biên giới tây bắc của Trung Hoa.
Các xác ướp Tân Cương có niên đại từ thế kỷ III TCN có tóc màu hung đỏ hoặc vàng hoe, nay được trưng bày tại Bảo tàng Ürümqi; các xác ướp này được phát hiện trong cùng khu vực lòng chảo Tarim. Các bộ lạc du mục như Nguyệt Chi thuộc nhóm người nhập cư nói tiếng Ấn-Âu, nhóm người này định cư ở phía đông Trung Á (có thể xa đến tỉnh Cam Túc). Văn hóa Ordos ở miền bắc Trung Quốc, nằm ở phía đông lãnh địa của người Nguyệt Chi, là một ví dụ khác.
Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81 của Quản Tử do Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc. Việc cung cấp ngọc thạch từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ Phụ Hảo mộ từ thời nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ Hòa Điền thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông nghiệp."
Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên, trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này:
Người Nguyệt Chi ban đầu sống tại khu vực giữa Kỳ Liên và Đôn Hoàng, sau khi bị Hung Nô đánh bại thì họ di chuyển ra xa [về phía tây], đi qua Uyên, tây kích người Đại Hạ, toại đô ở phía bắc Quy Thủy (媯水, tức Amu Darya). Lập vương đình. Một bộ phận nhỏ người dân không thể tiến hành cuộc hành trình về phía tây đã tìm cách tị nạn ở chỗ người Khương tại Nam Sơn, hiệu "Tiểu Nguyệt Chi".
Thời kỳ tranh chấp Hung Nô và nhà Hán
Từ thế kỷ thứ II TCN, sau khi Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây Vực, nhà Hán và Hung Nô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh kéo dài hơn bảy mươi năm tại Tây Vực.
Theo Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước Đại Uyển thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền.
Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị người Hung Nô khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm. Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý, nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến Trường An, Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục Đại Uyển.
Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về cao nguyên Pamir lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương, đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN, Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười.
Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết: "Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa.
Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn trâu/bò, lừa, ngựa, lạc đà chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung Nô dưới nhiều mức độ khác nhau.
Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức... Luân Đài, Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..."
Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của Con đường tơ lụa, đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh, trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở Trung Nguyên.
Với tầm nhìn rộng lớn của Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua Hán Vũ Đế. Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội địa đến để thay thế và làm tiếp.
Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước Vu Di làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài. Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất là các đồn điền ở Thổ Lỗ Phồn, Cáp Mật, Cát Mộc Tát Nhĩ, Khố Nhĩ Lặc, A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ Issyk Kul thuộc địa phận Kyrgyzstan ngày nay.
Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những bước tiến rõ rệt và sâu sắc.
Đến đời Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN), vua Hung Nô là Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng nhà Hán, bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của Con đường tơ lụa được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời Đông Hán, khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch.
Sau thời Hán
Triều Tây Tấn bị các sắc dân du mục phương Bắc tiêu diệt vào đầu thế kỷ thứ IV. Một số vương quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc đã nối tiếp nhau cai trị phần Tây Bắc: Tiền Lương, Tiền Tần, Hậu Lương và Tây Lương. Sau khi nước Bắc Lương bị diệt, Thư Cừ Vô Húy và Thư Cừ An Chu đã tiến về phía tây để mong phục quốc, chiếm giữ một phần Tân Cương trong một thời gian ngắn. Các nước này đều cố gắng duy trì chế độ bảo hộ với khu vực Tân Cương với các mức độ thành công khác nhau. Sau khi Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Hoa, triều đại này kiểm soát khu vực đông nam Tân Cương ngày nay. Các quốc gia bản địa có thể kể đến như Sơ Lặc, Vu Điền, Quỷ Tử, Thả Mạt, Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ, Thiện Thiện.
Đế chế Đột Quyết
Vào thế kỷ thứ V, Thổ Dục Hồn và Nhu Nhiên bắt đầu mở rộng kiểm soát vào phía nam và bắc Tân Cương. Đến thế kỷ thứ VI thì người Đột Quyết xâm chiếm vùng Altay, đánh bại người Nhu Nhiên và thành lập Đế chế Đột Quyết, kiểm soát hầu hết vùng Trung Á từ biển Aral phía Tây tới hồ Baikal phía đông. Với Tùy - Đường ở Trung Nguyên, Tây Đột Quyết thường hay uy hiếp Tây Vực giống như người Hung Nô đối với thời Lưỡng Hán.
Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các sa mạc phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập, nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết.
Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây A Nhĩ Thái Sơn đến đông Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp.
Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại nhà Đường.
Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của người Ba Tư. Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của phương Tây.
Thời nhà Đường
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Thoạt đầu, nhà Đường đem quân tiễu trừ lực lượng tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658, nhà Đường đặt An Tây Đô hộ phủ tại Quy Từ, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây.
Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến Trường An triều kiến Đường Thái Tông và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại Đình Châu (nay là Jimusar).
A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô đến lưu vực sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường.
Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường. Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657.
Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở Côn Lăng và Mông Trì tại bắc lộ Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên lập Bắc Đình đô hộ phủ ở Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn.
Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư.
Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước Quy Từ (nay là huyện Khố Xa, Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải. Năm Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn.
Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng có.
Đế chế Duy Ngô Nhĩ
Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Duy Ngô Nhĩ gọi là bộ lạc Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực sông Ngạc Nhĩ Hồn và sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhĩ (tức hồ Bunnur). Tùy thư và Đường thư đều nói người Hồi Hột "không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di". Gọi là không có tù trưởng tức là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ lạc khác.
Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả hãn và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).
Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học.
Khi có loạn An Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây.
Khi nước Thổ Phồn chiếm Hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại.
Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực.
Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực.
Đến cuối thế kỷ thứ VIII, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ IX xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt.
Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử.
Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là "Cam Châu Hồi Cốt", một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamakan.
Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á.
Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Duy Ngô Nhĩ hiện nay.
Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng thế kỷ X, cương vực bao gồm vùng đông và nam hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay.
Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị, một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và một là Ca Thập Hát Nhĩ.
Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ thế kỷ X, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo
Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực.
Thời kỳ Tây Liêu
Khi nhà Liêu của người Khiết Đan bị nhà Kim của người Nữ Chân tiêu diệt, một thành viên của hoàng tộc Liêu là Da Luật Đại Thạch đã dẫn một bộ phận người Khiết Đan tiến về phía tây, thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ của Cao Xương Hồi Cốt cũng cam kết lòng trung thành của mình với ông. Da Luật Đại Thạch tăng cường lực lượng của mình, dần dần mở rộng quyền thế đến khu vực Qayaliq và Almaliq. Nỗ lực ban đầu nhằm chiếm Kashgar của lực lượng Da Luật Đại Thạch đã thất bại khi người cai trị của Khách Lạt hãn quốc (Kara-Khanid) tại đó đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, người cai trị tại Balasaghun, gặp khó khăn với các đội quân du mục của người Cát La Lộc (Karluk) và Khương Lý (Qanqli), đã nhờ Đại Thạch giúp đỡ và mời đội quân của ông đến. Đại Thạch thay vào đó đã chiếm thành phố, theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, "lên ngai vàng mà không mất gì.". Đại Thạch sau đó đã thiết lập quyền lực của mình tại Kashgar, Khotan, Kirghiz, và trung tâm của người Duy Ngô Nhĩ tại Beshbalik. Tuy nhiên, một nỗ lực nhằm tái lập triều Liêu tại Trung Quốc đã thất bại. Da Luật Đại Thạch mất năm 1143 khi đang là chủ nhân của phần lớn vùng Trung Á. Khi ông mất, đế quốc Tây Liêu bao trùm các khu vực Transoxiana, Ferghana, Semirechye, Lòng chảo Tarim và Dzungaria. Năm 1211, phò mã người Nãi Man Khuất Xuất Luật đã buộc Da Luật Trực Lỗ Cổ phải nhường ngôi. Khuất Xuất Luật lên nắm quyền, ông được ghi chép là đã thực hiện một chính sách chống Hồi giáo. Theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, ông yêu cầu dân cư theo Hồi giáo của một thị trấn lựa chọn cải sang Cảnh giáo hoặc Phật giáo, hoặc mặc trang phục Khiết Đan, dân cư đã lựa chọn mặc trang phục Khiết Đan. Khuất Xuất Luật đã tấn công thành Almaliq (A Lực Ma Lý), và người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng Triết Biệt (Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại 30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam đến Kashgar, tuy nhiên hành vi cướp bóc và đốt phá trước đây khi ông chiếm được thành, chính sách chống Hồi giáo của ông, cũng như việc quân đội của ông trú chân tại các hộ dân bản địa, đã khiến người dân Kashgar trở nên đối kháng với ông. Khi quân Mông Cổ tiếp cận Kashgar, Khuất Xuất Luật đã không thể tìm được sự trợ giúp tại đây và lại phải chạy trốn một lần nữa. Theo Ata-Malik Juvayni, người dân Kashgar sau đó đã giết chết binh sĩ của ông. Ông tiếp tục đi về phía nam để đến dãy núi Pamir, cuối cùng đến ranh giới giữa Badakhshan và Wakhan vào năm 1218.
Thời kỳ người Mông Cổ cai trị
Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ và khuếch trương lãnh thổ, nhà nước Duy Ngô Nhĩ ở vùng Turfan-Urumqi đã quy phục Mông Cổ vào năm 1209, đóng góp thuế và quân lính cho quân Mông Cổ, đổi lại các vị quân chủ Duy Ngô Nhĩ duy trì quyền lực cai quản vương quốc của họ. Dưới thời Đế quốc Mông Cổ, Tân Cương bị phân chia giữa triều Nguyên và Sát Hợp Đài hãn quốc, sau đó Sát Hợp Đài hãn quốc kiểm soát hầu hết khu vực. Đến giữa thế kỷ XIV, Sát Hợp Đài hãn quốc bị chia cắt thành các hãn quốc nhỏ hơn, Tân Cương do nhiều hãn Mông Cổ bị Ba Tư hóa đồng thời cai quản, bao gồm Mogholistan (với sự trợ giúp của các Emir Dughlat bản địa), Uigurstan (sau là Turpan), và Kashgaria. Các thủ lĩnh này giao chiến với nhau và với triều Timur tại Transoxania ở phía tây và người Ngõa Lạt (Mông Cổ Tây) ở phía đông. Mặc dù khu vực đã phát triển nền văn hóa Ba Tư ở mức độ cao trong giai đoạn này, song các cuộc tranh giành quyền kế vị và phân liệt nội bộ (Kashgaria bị tách làm hai trong hàng thế kỷ) đồng nghĩa với việc có ít tác phẩm viết về khu vực vào thế kỷ XVI và XVII.
Vào thế kỷ XVII, một nhánh của người Mông Cổ là người Chuẩn Cát Nhĩ đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam Siberia. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, khi nó bị triều Thanh chinh phục.
Thời Thanh
Nhà Thanh đã giành quyền kiểm soát đông bộ Tân Cương sau các cuộc chiến kéo dài với người Chuẩn Cát Nhĩ, bắt đầu thế từ thế kỷ XVII. Năm 1755, với sự giúp đỡ của thai cát Ngõa Lạt A Mục Nhĩ Tát Nạp, quân Thanh đã tiến công Y Ninh, bắt được khả hãn của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau khi thỉnh cầu được sách phong là khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ song chưa được chuẩn thuận, A Mục Nhĩ Tát Nạp đã nổi dậy chống nhà Thanh. Hai năm sau đó, quân Thanh đã tiêu diệt dư bộ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và nhiều người Hồi đã chuyển đến khu vực.
Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh đậu mùa. Một nhà văn là Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng." Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh, và phải mất hàng thế hệ để phục hồi.
Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên, vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập trị sở tại Huệ Viễn, 30 km về phía tây của Y Ninh (Yining).
Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng 155.000 người.
Bành trướng Tân Cương
Trong khoảng thời gian 1850 trở đi, Đế quốc Nga không ngừng quan tâm đến Tân Cương. Vùng Turkestan và Đông Siberi thì bị nước Nga đe dọa xâm chiếm. Năm 1868, Tả Tông Đường được triều đình phái đến Cam Túc ổn định tình hình ở đây, đến năm 1873 Tả Tông Đường đã nhờ Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải (Anh Quốc) trợ giúp số tiền 5 triệu lạng bạc làm quân phí, dẫn quân băng qua sa mạc tiến vào vùng Tarim đàn áp cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh A Cổ Bách (Yaqub Beg, 1820 – 1877) lãnh đạo ở Tân Cương, và chiếm miền Y Lê từ tay người Nga.
Trong thời gian này nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm 1875 đến 1878, mặt trận phía Tây (Turkestan, thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng bạc trong vòng 3 năm.
Năm 1865 Hão Hãn Cổ quốc A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm 1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm Ô Lỗ Mộc Tề.
Tháng 5 năm 1872 A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga. Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh đưa đến hàng vạn khẩu súng từ Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu súng, 8 đại bác, 2.000 đạn pháo. Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000 súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện.
Năm 1875 Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ, Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh lương.
Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh Hà Bắc, Phần Châu ở Sơn Tây, Bao Ninh và Thuận Tân ở Tứ Xuyên) và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến Lương Châu, Túc Châu, Ninh Hạ, Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến Cáp Mật và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương.
Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ XVIII khi nhà Thanh đóng quân ở Tân Cương.
Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội - kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy. Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự.
Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này, quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống quân sự hiện đại.
Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho Hồ Tuyết Nham lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương.
Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của Trương Diệu tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục, quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8 vạn người.
Năm 1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp.
Tả Tông Đường Tây chinh
Tả Tông Đường thành lập quân Tây chinh gồm nhiều sắc tộc Hán, Mãn, Hồi. Quân Hán và Hồi do Đổng Phúc Tường chỉ huy, quân Mãn do Ngạc Nhĩ và Khánh Nhạc chỉ huy. Tả Tông Đường giáo dục tinh thần chiến đấu cho binh sĩ ông nói "Tân Cương từ thời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn người A Cổ Bá chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này là để thu hồi biên cương cho Tổ quốc vì thế các tướng sĩ phải có ý thức quân dân một nhà".
Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt. Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc chắn vào kẻ thù.
Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây.
Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận quyết định.
Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống Thái Bình Thiên Quốc. Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng.
Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại.
Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch chinh phạt.
Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, tháng 3 năm 1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở Túc Châu. Tháng 8 năm 1876, quân Thanh bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8 ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành Ô Lỗ Mộc Tề đến tháng 11 thì công hãm thành Mã Nạp Tư Nam (Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do Trương Diệu chỉ huy tiến đến Khắc Thác Khắc Tôn, Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại Khố Nhĩ Lạc (Korla) thế cùng phải tự sát. Tháng 1 năm 1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành Khố Xa, A Khắc Tô (Aksu), Hòa Văn… đến năm 1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Chiếm được Y Lê
Y Lê (Ili) là tên gọi một vùng đất xung quanh lưu vực sông Y Lê (Ili river). Sông này bắt nguồn trong dãy núi Thiên Sơn, chảy về phía đông một đoạn ngắn rồi đột ngột quay về phía tây, sau đó vượt hơn một nghìn cây số trước khi đổ vào hồ Balkhash. Miền Y Lê nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, cư dân chủ yếu là người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và người Kazazh (Cáp Tát Khắc). Dưới thời nhà Thanh, miền Y Lê hoàn toàn thuộc về Trung Quốc; người Nga chiếm Y Lê năm 1871, sau đó vài năm Tả Tông Đường chiếm lại một nửa phía đông Y Lê. Biên giới hai nước được định lại như ngày nay vào năm 1881, và ngày nay miền Y Lê xưa kia nằm trên lãnh thổ nước Kazakhstan và miền tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc. Do nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, nên miền Y Lê đời Thanh còn thường được gọi là Thiên Sơn Bắc Lộ. Thực ra vùng đất Y Lê đã nằm dưới ảnh hưởng Trung Quốc từ thời nhà Hán, nhà Đường, khi ấy thường gọi là Luân Đài (là tên cũ của Urumqi). Trong các bài thơ Đường tả cảnh biên tái thường nhắc đến miền này với những cảnh hoang vu gió tuyết. Sầm Tham có câu: "Luân Đài đông môn tống quân khứ, khứ thì tuyết mãn Thiên Sơn lộ", hùng tráng tuyệt vời! Vào thời Tống, Nguyên, Minh, Trung Quốc không kiểm soát được miền này. Vào thời nhà Thanh, Y Lê là miền đất xa nhất về phía tây thuộc về Trung Quốc, thủ phủ là Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi). Thời nhà Thanh hay nghe cụm từ "đày đi Y Lê", đó là một hình phạt nặng, vì đi từ Bắc Kinh đến Y Lê phải mất vài tháng mới tới nơi.
Năm 1871 Nga viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại". Nhưng 7 năm sau khi Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ Sùng Hậu của nhà Thanh phải ký Điều ước Livadia năm 1879 gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280 vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình. Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt. Từ Hi Thái Hậu lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả Tôn Đường.
Mùa hè năm 1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ Túc Châu tấn công Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga.
Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại Anh và Pháp) vào ngày 24 tháng 2 năm 1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại St. Petersburg, theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm 1879. Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như: Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô, Lan Châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây An cơ khí cục thành lập năm 1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần.
Thời kỳ Dân Quốc
Năm 1912, triều Thanh bị Trung Hoa Dân Quốc thay thế, tuần phủ Viên Đại Hóa (袁大化) chạy trốn. Một thuộc hạ của Viên Đại Hóa là Dương Tăng Tân (楊增新), đã nắm quyền kiểm soát Tân Cương và nhậm chức trưởng quan nhân danh Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 cùng năm. Thông qua các thủ đoạn chính trị và khôn ngoan cân bằng giữa các cử tri đa sắc tộc, Dương Tăng Tân duy trì quyền kiểm soát Tân Cương cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1928.
Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là Kim Thụ Nhân (金樹仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933, Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm Kashgar, Khotan và Aksu ở tây nam Tân Cương. Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ Nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là Abdullah Bughra và Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm 1934. Trong Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc Thịnh Thế Tài(盛世才), ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ Liên Xô. Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của Mao Trạch Đông là Mao Trạch Dân, song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân.
1949–nay
Thời Liên Xô (1949-1991)
Đệ Nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô tại khu vực nay là châu Ili ở bắc bộ Tân Cương. Nước cộng hòa này chấm dứt tồn tại khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương năm 1949. Năm nhà lãnh đạo của nước cộng hòa đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trong không phận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949, trước khi họ có thể đàm phán tình trạng cuối cùng của Đông Turkestan với chính quyền Bắc Kinh. Tướng người Hồi Bạch Sùng Hy của Quốc Dân đảng đã ngăn ngừa việc Liên Xô tràn ngập Tân Cương bằng cách giải tán binh lính.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương.
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920,. Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế.
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.
Từ năm 1992-nay
Vào những năm sau khi Nga ra đời, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân phương Tây của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng Kavkaz. Song, khi Vladimir Putin lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009. Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga.
Chính trị
Hệ thống chính trị Tân Cương được tổ chức theo mô hình thời Xô viết với một chút thay đổi mang chất Trung Quốc. Từ năm 1979 đến nay, chính trị Tân Cương hoàn toàn tổ chức theo mô hình Trung Quốc. Thủ trưởng hành chính Tân Cương là Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với vị trí Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân thường là người bản địa, đứng đầu tối cao Tân Cương là Bí thư Khu ủy Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với cách gọi chung là Bí thư Tỉnh ủy, là người Hán.
Hành chính
a. Không bao gồm dân số của địa khu Altay và địa khu Tháp Thành.
Tôn giáo
Hiện nay, Tân Cương vẫn là một khu vực gồm nhiều tôn giáo, nhưng Đạo Hồi vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội của Tân Cương. Hiện nay, toàn khu vực Tân Cương tổng cộng có hơn 23 nghìn Thánh đường Hồi giáo và nơi tổ chức hoạt động tôn giáo khác như: chùa Lạt-ma, nhà thờ Thiên chúa giáo v.v, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân các dân tộc theo đạo. Tổ chức tôn giáo của Tân Cương chủ yếu có Hiệp hội Hồi giáo, Học viện kinh Islam, Hiệp hội Phật giáo v.v.
Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có người Uyghur (chủ yếu), người Kazakh, người Hồi, người Iran, người Tạng Hồi giáo, người Mông Cổ, người Tatar, người Kyrgyz, người Pakistan, người Tajik, người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương.
Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo Phật giáo Tây Tạng và một số theo Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo Cơ Đốc giáo với 24 nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo Thiên Chúa giáo, 25 nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100 người Nga theo Chính Thống giáo, có hai nhà thờ.
Giao thông vận tải
Nói chung giao thông vận tải ở Tân Cương gặp nhiều trở ngại do thời tiết khắc nghiệt, điều kiện hoang mạc ở vùng này. Hiện nay, các tuyến đường cao tốc xuyên Tân Cương đang được xây dựng để trở thành những tuyến đường huyết mạch phục vụ dầu mỏ và an toàn giao thông trong vùng. Song tình hình khắc nghiệt vẫn cản trở hoạt động phát triển giao thông ở đây.
Du lịch
Văn hóa Tân Cương
Các công trình kiến trúc tại Tân Cương |
Nhà Hậu Tấn (936-947) là một trong năm triều đại, gọi là Ngũ đại trong thời Ngũ đại Thập quốc (907-960) ở Trung Quốc.
Thành lập
Thạch Kính Đường (892-942), người gốc Sa Đà, là con rể Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên. Năm 936, khi đang trấn thủ Hà Đông, ông đã nhờ người Khiết Đan đem đại quân giúp đỡ và lật đổ nhà Hậu Đường. Để trả ơn, Thạch Kính Đường đã cắt đất của 16 châu Yên, Vân (các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây ngày nay) cho họ. Mặt khác, ông cung kính tôn Liêu làm "cha", gọi vua Liêu trẻ hơn mình 11 tuổi là "Vua cha".
Việc làm cung kính ngoại bang và nhất là cắt đất phía bắc của Thạch Kính Đường bị các nhà sử học Trung Quốc phê phán mạnh mẽ, coi là thủ phạm bán nước dẫn đến việc xâm lấn, chiếm đóng của các ngoại tộc nối tiếp nhau (Khiết Đan, Đảng Hạng, Nữ Chân, Mông Cổ) ở phía bắc Trung Quốc suốt hơn 400 năm (từ thời Hậu Tấn tới nhà Minh) mà các chính quyền cai trị Trung Nguyên của Trung Quốc không thể nào khôi phục lại được.
Ông lên ngôi, đổi quốc hiệu là Tấn. Tuy nhiên, trong sách sử viết là nhà Hậu Tấn (Ngũ đại) để phân biệt với nhà Tấn của họ Tư Mã sau thời Tam Quốc (265-420)
Diệt vong
Sau khi Thạch Kính Đường (Tấn Cao Tổ) lên ngôi thì đất đai bị thu hẹp, số thuế thu được giảm đi mà lại phải nộp cống nhiều cho người Khiết Đan. Do đó phải tăng thuế và áp dụng nhiều chính sách bạo ngược đối với dân chúng.
Hành động cung kính ngoại bang của Thạch Kính Đường khiến nhiều tướng địa phương như An Trọng Vinh không phục, nổi dậy làm loạn. Dù sau đó các cuộc làm loạn bị dẹp nhưng chính quyền Hậu Tấn càng suy yếu.
Năm 942, Tấn Cao Tổ chết, con người anh là Thạch Trọng Quý lên ngôi, tức là Tấn Xuất Đế. Phụ chính Cảnh Diên Quảng khuyên Xuất Đế không phục nước Liêu, chỉ xưng là "cháu" mà không tôn Liêu là "vua".
Người Khiết Đan thấy vậy mưu tính việc chiếm trọn miền Bắc Trung Quốc, Vua Liêu Da Luật Đức Quang liền mang quân Nam tiến. Quân Tấn hai lần đẩy lui quân Liêu (944, 945).
Đức Quang liền quay sang cách cũ, chia rẽ nội bộ Tấn, mua chuộc tướng Đỗ Trọng Uy, hứa đưa lên làm vua như giúp Thạch Kính Đường trước đây. Một bộ phận tướng Tấn cũng phản Tấn theo Liêu. Năm 947, người Khiết Đan chiếm được Kinh đô và gần hết miền Bắc Trung Quốc. Thạch Trọng Quý cùng gia quyến bị người Khiết Đan bắt giữ đưa về Bắc và chết già ở đó. Do Trọng Quý bị bắt ra khỏi nước nên được gọi là Xuất Đế.
Nhà Hậu Tấn truyền được mười một năm tổng cộng hai đời, rồi bị Khiết Đan diệt. Lưu Tri Viễn, một bộ tướng của Thạch Kính Đường, nhân khi lòng dân oán ghét ngoại tộc Khiết Đan chiếm đóng bèn đem quân đánh đuổi Khiết Đan năm 947 để thành lập nhà Hậu Hán
Các vị vua nhà Hậu Tấn
Các chủ đề liên quan
Nhà Hậu Đường
nhà Hậu Hán
Lưu Tri Viễn
Khiết Đan |
Tê giác hay con tê là những loài động vật có vú guốc lẻ trong họ Rhinocerotidae. Trong năm loài còn sinh tồn, hai loài sinh sống ở Châu Phi, và ba loài sinh sống ở Nam Á. Thuật ngữ "tê giác" thường được áp dụng rộng rãi hơn cho các loài hiện nay đã tuyệt chủng trong liên họ Rhocerotoidea.
Các thành viên của Họ Tê giác là một trong những động vật trên cạn lớn nhất, với tất cả các loài có thể đạt đến hoặc hơn trọng lượng một tấn. Chúng ăn thực vật, có bộ não nhỏ (400 đến 600 g), có một hoặc hai sừng và lớp da bảo vệ dày (1,5 đến 5 cm) được hình thành từ các lớp collagen nằm trong cấu trúc mạng tinh thể. Chúng thường ăn cỏ và lá cây, mặc dù khả năng lên men thức ăn trong ruột già của chúng cho phép chúng ăn các loại thực vật có sợi hơn khi cần thiết. Không giống như các động vật móng guốc lẻ khác, hai loài tê giác ở châu Phi thiếu răng ở phía trước miệng, thay vào đó dựa vào môi của chúng để nhổ thức ăn.
Tê giác bị giết bởi một số người để lấy sừng của chúng, được mua và bán trên thị trường chợ đen, và được một số nền văn hóa sử dụng làm đồ trang trí hoặc cho y học cổ truyền. Đông Á, cụ thể là Việt Nam, là thị trường lớn nhất trong việc buôn bán sừng tê giác. Theo trọng lượng, sừng tê giác có giá trị như vàng trên thị trường chợ đen. Người ta mài sừng và tiêu thụ chúng, tin rằng bụi của chúng có đặc tính trị liệu. Sừng tê giác được tạo nên từ keratin, loại protein cùng tạo nên tóc và móng tay. Cả hai loài tê giác châu Phi và tê giác Sumatra đều có hai sừng, trong khi tê giác Ấn Độ và tê giác Java chỉ có một sừng. Sách đỏ IUCN đánh giá tê giác đen, Javan và Sumatra là các loài cực kỳ nguy cấp.
Tên gọi
Trước năm 1954, trong phương ngữ tiếng Việt miền Bắc con tê giác được gọi là tê ngưu (chữ Hán: 犀牛) hoặc con tê, cái sừng của con tê ngưu gọi là "tê giác" (犀角), trong đó "giác" (角) là từ Hán Việt, nó có nghĩa là cái sừng. Phương ngữ tiếng Việt miền Nam khi đó gọi con tê giác là tây ngưu (biến thể ngữ âm của "tê giác) hoặc con tây, sừng của con tây ngưu được gọi là "tây giác". Về sau nhiều người không biết "tê giác" chỉ là cái sừng của con tê ngưu, lại tưởng tê giác là tên gọi của con vật có cái sừng đó nên đã gọi con tê ngưu là "tê giác".
Trong tiếng Anh, tê giác được gọi là Rhinoceros hay Rhino - /raɪˈnɒsərəs/, xuất phát từ tiếng Hy Lạp rhinokerōs, nghĩa là 'mũi sừng' (từ rhis nghĩa là 'mũi', và keras nghĩa là 'sừng')
Họ
Một số loài tê giác chỉ mới tuyệt chủng trong thời gian địa chất gần đây, nổi tiếng nhất là các loài trong Chi Thú Xương mỏng và tê giác lông mượt ở đại lục Á-Âu: nguyên nhân của sự tuyệt chủng này là do biến đổi khí hậu hay việc săn bắn của con người vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Các chứng cứ hiện tại cho thấy chúng có lẽ đã sống sót qua nhiều thay đổi khí hậu cho đến khi người hiện đại xuất hiện.
Các động vật tương tự tê giác đã lần đầu tiên xuất hiện trong thế Eocen (34-56 triệu năm trước) như là các động vật có hình dáng ngoài thon thả, và vào thời kỳ cuối thế Miocen (5,3-23 triệu năm trước) đã tồn tại nhiều loài khác nhau. Phần lớn các loài này có bề ngoài đồ sộ. Một loài là Indricotherium đã cân nặng khoảng 30 tấn và (trong số các động vật đã biết) là một trong số các động vật lớn nhất trong số động vật có vú đã từng sống trên Trái Đất. Tê giác bị tuyệt chủng trong thời kỳ thế Pliocen (1,8-5,3 triệu năm trước) ở Bắc Mỹ, và trong thời kỳ thế Pleistocen (10.000 đến 1,8 triệu năm trước) ở Bắc Á và châu Âu.
Năm loài còn sống sót hiện nay thuộc về ba tông. Có ba loại ở châu Á là loài tê giác Sumatra đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp là đại diện duy nhất còn sống sót trong nhóm nguyên thủy nhất- Dicerorhinini- đã xuất hiện trong thế Miocen (khoảng 20 triệu năm trước). Loài tê giác lông tơ đã tuyệt chủng ở miền bắc châu Âu và châu Á cũng là thành viên của tông này. Còn hai loài thuộc tông Rhinocerotini vẫn đang sống sót là tê giác Ấn Độ (nguy cấp) và tê giác Java (cực kỳ nguy cấp), đã phân nhánh từ một gốc khác khoảng 10 triệu năm trước. Hai loài ở châu Phi là tê giác trắng và tê giác đen, đã phân nhánh trong thời kỳ đầu thế Pliocen (khoảng 5 triệu năm trước) nhưng chúng vẫn thuộc về nhóm Dicerotini ở giữa thế Miocen (khoảng 14 triệu năm trước). Khác biệt chính giữa tê giác trắng và tê giác đen là hình dạng môi/miệng của chúng. Tê giác trắng có các môi rộng và phẳng để gặm cỏ còn tê giác đen có các môi dài đầu nhọn để ăn lá cây. Tên gọi tê giác trắng trên thực tế là một sai lầm phổ biến xuất phát từ từ đồng âm trong tiếng Anh chỉ cái môi rộng của chúng.
Con lai của các phân loài tê giác trắng (Ceratotherium simum simum x Ceratotherium simum cottoni) đã sinh nở tại vườn thú Dvur Kralove (vườn bách thú Dvur Kralove nad Labem) tại Tiệp Khắc năm 1977.
Phân loại
Họ Rhinocerotidae
Phân họ Rhinocerotinae
Tông Aceratheriini
†Aceratherium
†Acerorhinus
†Alicornops
†Aphelops
†Chilotheridium
†Chilotherium
†Dromoceratherium
†Floridaceras
†Hoploaceratherium
†Mesaceratherium
†Peraceras
†Plesiaceratherium
†Proaceratherium
†Sinorhinus
†Subchilotherium
Tông Teleoceratini
†Aprotodon
†Brachydiceratherium
†Brachypodella
†Brachypotherium
†Diaceratherium
†Prosantorhinus
†Shennongtherium
†Teleoceras
Tông Rhinocerotini
†Gaindatherium
Rhinoceros - Tê giác Ấn Độ & tê giác Java
Tông Dicerorhinini
†Coelodonta - Tê giác lông mịn
Dicerorhinus - Tê giác Sumatra
†Dihoplus
†Lartetotherium
†Stephanorhinus
Tông Dicerotini
Ceratotherium - Tê giác trắng
Diceros - Tê giác đen
†Paradiceros
Phân họ Elasmotheriinae
†Gulfoceras
Tông Diceratheriini
†Diceratherium
†Subhyracodon
Tông Elasmotheriini
†Bugtirhinus
†Caementodon
†Elasmotherium - Tê giác khổng lồ
†Hispanotherium
†Huaqingtherium
†Iranotherium
†Kenyatherium
†Meninatherium
†Menoceras
†Ougandatherium
†Parelasmotherium
†Procoelodonta
†Sinotherium
† Họ Amynodontidae
Phân họ Amynodontinae
Tông Cadurcodontini
†Cadurcodon
†Lushiamynodon
†Sharamynodon
†Sianodon
Tông Metamynodontini
†Gigantamynodon
†Metamynodon
†Paramynodon
†Zaisanamynodon
Tông incertae sedis
†Amynodon
Phân họ incertae sedis
Amynodontopsis
Armania
Cadurcamynodon
Cadurcopsis
Cadurcotherium
Caenolophus
Euryodon
Hypsamynodon
Megalamynodon
Mesamynodon
Penetrigonias
Procadurcodon
Rostriamynodon
Teilhardia
Toxotherium
Sừng tê giác
Đặc trưng phân biệt rõ nét nhất của tê giác là sừng lớn trên mũi. Sừng tê giác được sử dụng trong y học cổ truyền châu Á (Trung Quốc và Việt Nam), và dùng làm đồ trang sức (cụ thể là cán dao găm) ở Yemen và Oman. Sừng tê giác có thành phần cấu tạo gồm keratin tương tự tóc và móng tay con người, hoàn toàn không có giá trị y học. Tại Đông Nam Á và nhất là ở Việt Nam, người dân mài sừng tê giác pha với nước hay rượu để uống và tin rằng nó có thể dùng để chữa bệnh. Việt Nam cũng là nước tiêu thụ lậu sừng tê giác lớn nhất thế giới.
Cả năm loài tê giác đều không có tương lai an toàn: tê giác trắng có lẽ là ít nguy cấp nhất, tê giác Java hiện chỉ còn một số lượng rất nhỏ (khoảng 60 cá thể vào năm 2002) và là một trong hai hay ba loài động vật có vú lớn đang ở tình trạng nguy cấp nhất trên thế giới. Các chiến dịch bảo vệ tê giác được khởi động từ những năm thập niên 1970, nhưng quần thể tê giác vẫn tiếp tục suy giảm nghiêm trọng. Việc buôn bán các bộ phận cơ thể tê giác bị cấm theo các thỏa ước của CITES, nhưng việc săn bắn trộm vẫn là mối đe dọa nguy hiểm nhất cho tất cả các loài tê giác. Ngày 09 tháng 11năm 2008, bà Vũ Mộc Anh, Bí thư thứ nhất của đại sứ quán Nam Phi đã bị triệu hồi về nước. Báo Tuổi Trẻ trích lời đại sứ Việt Nam tại Pretoria Trần Duy Thi nói bà Vũ Mộc Anh chỉ nhận là bà đã "cầm hộ" sừng tê giác cho hai người Việt Nam.
Hồi tháng 7 năm 2007, hai công dân Việt Nam khác cũng đã bị bắt giữ tại Sân bay quốc tế OR Tambo cùng bốn chiếc sừng tê giác. Đầu năm 2008, 18 kg sừng đã bị thu giữ khi được vận chuyển từ Nam Phi về tới Hà Nội.. Còn nhiều tê giác bị chết một cách đau đớn vì bị cắt mất sừng. Tại Nam phi năm 2012 ít nhất 668 con tê giác bị chết trong trường hợp này. Theo ông Bret Tolman, tổ chức bảo vệ thú vật TRAFFIC, trong chương trình "Tấm gương thế giới" (Weltspiegel), đa số những người buôn lậu hàng này bị bắt tại Nam Phi hay Mozambique là người Việt, ngay cả ở các phi trường Bangkok, Dubai hay Hongkong cũng vậy. 100g sừng tê giác tại một cửa hàng tại Hà Nội trị giá khoảng 2500 Dollar.
Dự án Giải cứu tê giác
Ngày 15/4/2015, trong một cuộc họp báo tại TPHCM, TS Lorinda Hern đại diện cho Rhino Rescue Project (Dự án Giải cứu tê giác) cho biết, họ đã quyết định bơm chất ectoparasiticides vào sừng tê giác để bảo vệ tê giác tại Nam Phi và những nơi có nạn săn bắt trộm. Với tê giác chất này là vô hại, nhưng nó có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe người sử dụng.. Riêng trong năm 2014 đã có tới 1.200 con tê giác chết do nạn săn bắt ở Nam Phi đưa tới nguy cơ diệt chủng.
Nhà chữa cháy
Có nhiều truyền thuyết về việc tê giác dập tắt lửa. Những câu chuyện như thế dường như rất phổ biến ở Malaysia và Myanmar. Loại tê giác này thậm chí có tên riêng trong tiếng Mã Lai, badak api, trong đó badak có nghĩa là tê giác và api nghĩa là lửa. Động vật này sẽ chạy đến khi có lửa trong rừng và dập tắt nó. Điều này đúng hay sai vẫn chưa được kiểm chứng, do chưa có tài liệu nào chứng kiến hay ghi nhận hiện tượng này trong thời gian gần đây. Điều này thiếu chứng cứ có thể là do thực tế là ngày nay tê giác rất hiếm khi được nhìn thấy ở Đông Nam Á, chủ yếu là do sự săn bắn bất hợp pháp rất phổ biến đối với loài động vật đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp này.
Hình ảnh
Chú thích |
Trường Đại học Sư phạm Huế là trường đại học đứng đầu về đào tạo và nghiên cứu khối ngành sư phạm tại miền Trung Việt Nam, được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn là 1 trong 3 trường sư phạm trọng điểm quốc gia. Là trường thành viên của Đại học Huế, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lịch sử
Trụ sở của trường trước đây là Toà Khâm sứ Trung Kỳ được khởi công xây dựng vào mùa hạ, tháng 4 năm 1876 (Tự Đức 28), và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Sau khi xây dựng và đặt xong bộ máy cai trị, Toà Khâm sứ Trung kỳ trở thành thủ phủ của chế độ thực dân Pháp ở Trung kỳ, chi phối toàn bộ hoạt động của nhà nước phong kiến triều Nguyễn. Tháng 3 năm 1957 dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập Viện Đại học Huế gồm 5 phân khoa đại học: Sư phạm, Văn khoa, Luật khoa, Hán học, và Khoa học. Trong niên khóa đầu có 358 sinh viên. đến năm 1960 thì sĩ số tăng lên 1431 sinh viên; năm 1959 mở thêm chương trình dự bị y khoa. Sau khi thống nhất đất nước, trường Đại học Sư phạm Huế được chính thức thành lập vào ngày 27 tháng 10 năm 1976. Năm 1994, thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định chuyển trường Đại học Sư phạm Huế sang trực thuộc Đại học Huế.
Giảng viên đáng chú ý
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, Trần Quang Hóa (phó trưởng khoa Toán) nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp về "Nỗ lực cho hợp tác song phương trong khoa học giữa Pháp với các nước ASEAN." |
Phật Mẫu Man Nương là một nhân vật liên quan đến sự tích Phật giáo Việt Nam khi đạo Phật mới truyền sang đất Việt. Bà có tên là A Man, người làng Mãn Xá vùng Luy Lâu tên tục của làng là kẻ Mèn. Cha mẹ bà là vợ chồng ông Tu Định, một cư sĩ Phật giáo thuần thành và là đệ tử của Khâu Đà La thiền sư. Sau này bà "cải gia vi tự" biến nhà thành chùa nên nhà cũ của bà hiện nay là chùa Tổ (Phúc Nghiêm tự).
Sự tích
Truyền thuyết kể rằng thuở xưa bà là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo tại đây.
Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền.
Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích (gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu ) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.
Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).
Di tích
Bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở bốn ngôi chùa: Dâu, Đậu, Tướng, Dàn ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Làng Mãn Xá lập chùa Phúc Nghiêm thờ Man Nương, gọi là Phật Mẫu, nên gọi chùa này là chùa Tổ. Hàng năm vào ngày hội chùa Dâu ngày 8 tháng Tư (âm lịch), thì ba làng Đậu, Tướng, Dàn rước tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện về chùa Dâu gặp Pháp Vân rồi bốn chị em về chùa Tổ thăm Mẹ. Thời Pháp thuộc, chùa Đậu bị phá nên tượng Pháp Vũ để ở chùa Dâu. Thạch Quang Phật được thờ ở Chùa Tổ sau đó chuyển về thờ ở Chùa Dâu. |
Tê giác Java hay tê giác Sunda, còn được gọi tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) là một trong năm loài động vật guốc lẻ còn sống sót của họ Tê giác. Chúng cùng thuộc 1 chi với loài tê giác Ấn Độ, và cũng có một bộ da nếp gấp giống như 1 bộ áo giáp, tuy nhiên chúng chỉ dài có 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và cao 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft), nhỏ hơn tê giác Ấn Độ và gần tương đương với kích cỡ loài tê giác đen. Sừng của tê giác Java có độ dài thường dưới 25 cm (10 inch), nhỏ hơn các loài tê giác khác.
Trước kia là loài phổ biến nhất trong các loài tê giác châu Á, tê giác Java từng phân bố ở các đảo của Indonesia, trải rộng toàn bộ Đông Nam Á, tới cả Ấn Độ và Trung Quốc. Hiện nay chúng đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp, với chỉ 2 quần thể được ghi nhận trong môi trường tự nhiên và không có con nào trong các vườn thú. Nó có thể là loài động vật có vú lớn hiếm nhất trên thế giới. Một quần thể có ít nhất 40 con sống tại Vườn quốc gia Ujung Kulon trên đảo Java của Indonesia, và quần thể còn lại được xác nhận là đã tuyệt chủng ở Việt Nam vào năm 2011. Sự suy giảm của loài này được cho là do việc săn bắt trộm, chủ yếu để lấy sừng, một loại dược liệu có giá trị cao trong y học phương Đông truyền thống và có thể bán được với giá lên tới 30.000 đôla /1 kg tại các chợ đen. Sự thu hẹp nơi cư trú, đặc biệt do hậu quả chiến tranh, như Chiến tranh Việt Nam tại Đông Nam Á, cũng góp phần làm suy giảm và cản trở việc khôi phục loài. Sự phân bố hiện nay chỉ tập trung ở 2 khu bảo tồn quốc gia, tuy nhiên những con tê giác Java vẫn còn đang gặp nguy hiểm bởi sự săn trộm, bệnh tật và sự giảm sút đa dạng di truyền gây ra bởi giao phối cận huyết.
Loài tê giác Java có thể sống đến khoảng 30–45 năm trong điều kiện hoang dã. Trong quá khứ chúng đã từng sinh sống trong những rừng mưa vùng đất thấp, vùng đồng cỏ ẩm ướt và các bãi bồi triền sông rộng lớn. Loài tê giác Java hầu hết thời gian sống đơn độc, trừ khi kết đôi và nuôi dạy tê giác con, dù rằng thỉnh thoảng chúng có thể tập hợp thành bầy gần các bãi đằm hay bãi liếm đất mặn. Con người là kẻ đi săn duy nhất các con tê giác trưởng thành. Chúng thường tránh xa con người, nhưng có thể sẽ tấn công nếu cảm thấy nguy hiểm. Các nhà khoa học và bảo tồn học hiếm khi nghiên cứu chúng trực tiếp, vì độ hiếm có của chúng và nguy cơ có thể can thiệp vào một loài sinh vật đang nguy cấp. Họ thường dựa vào những bẫy ảnh tự động (camera trap) và các mẫu phân để đánh giá sức khỏe và hoạt động của các con tê giác. Chính vì vậy, tê giác Java vẫn là loài được nghiên cứu ít nhất trong tất cả các loài tê giác hiện nay.
Phân loại và đặt tên
Những nghiên cứu đầu tiên về loài tê giác Java từ các nhà tự nhiên học ngoại quốc diễn ra vào năm 1787, khi hai con vật bị bắn chết tại Java. Xương sọ của chúng được gửi tới nhà tự nhiên học người Đức danh tiếng Petrus Camper, tuy vậy Camper đã mất vào năm 1789 trước khi có thể công bố khám phá mới của ông rằng những con tê giác sống ở Java là một loài riêng biệt. Một con tê giác Java khác bị Alfred Duvaucel bắn tại đảo Sumatra, sau đó ông đã gửi mẫu vật tới người cha dượng của mình là Georges Cuvier, một nhà khoa học nổi tiếng người Pháp. Cuvier đã công nhận đây là một loài mới vào năm 1822, và trong năm đó nó được Anselme Gaëtan Desmarest định danh bằng danh pháp khoa học Rhinoceros sondaicus. Đó là loài cuối cùng trong họ Tê giác được xác định. Desmarest lúc đầu đã coi tê giác Java là sinh vật từ đảo Sumatra, về sau ông đã thay đổi để nói rằng mẫu vật mà ông nghiên cứu đến từ đảo Java.
Tên khoa học của chi Rhinoceros, bao gồm cả loài tê giác Ấn Độ, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, rhino có nghĩa là mũi, và ceros có nghĩa là sừng. Sondaicus bắt nguồn từ sunda, vùng địa sinh học bao gồm các đảo lớn Sumatra, Java, Borneo cùng các hòn đảo nhỏ hơn xung quanh. Nó thường được biết với tên Tê giác một sừng nhỏ (phân biệt với tê giác một sừng lớn, tức loài tê giác Ấn Độ) và ở Việt Nam quen gọi là Tê giác một sừng.
Tê giác Java có ba phân loài khác nhau, trong đó chỉ có hai là còn tồn tại:
Rhinoceros sondaicus sondaicus, phân loài điển hình, được biết với tên Tê giác Java Indonesia, chỉ sống ở Java và Sumatra. Quần thể hiện nay còn khoảng 40-50 con, sống tại Vườn quốc gia Ujung Kulon nằm trên mũi phía Tây của đảo Java. Một nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng tê giác Java ở Sumatra thuộc về một phân loài riêng biệt, có tên R.s. floweri, tuy nhiên ý kiến này không được chấp nhận rộng rãi.
Rhinoceros sondaicus annamiticus là Tê giác một sừng Việt Nam hay còn biết với tên Tê giác Java Việt Nam hay Tê giác Việt Nam, sống ở Việt Nam, Lào, Campuchia, tới cả Thái Lan và Malaysia. Annamiticus bắt nguồn từ tên gọi Annamite của dãy Trường Sơn ở Đông Dương, một phần khu vực phân bố của loài này. Một quần thể đơn lẻ, ước lượng dưới 12 con, sống tại khu vực rừng đất thấp trong Vườn quốc gia Cát Tiên của Việt Nam. Phân tích di truyền cho thấy rằng hai phân loài còn tồn tại (ở Việt Nam và Indonesia) đã có cùng một tổ tiên chung cách đây khoảng chừng 300.000 đến 2 triệu năm trước. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2010, con tê giác cuối cùng của Việt Nam đã bị những tay săn trộm bắn chết ở vườn quốc gia Cát Tiên. Vào tháng 10 năm 2011, tê giác Java Việt Nam đã chính thức được công bố là tuyệt chủng.
Rhinoceros sondaicus inermis, tên thông thường Tê giác Java Ấn Độ, chỉ cư trú từ vùng Bengal đến Miến Điện, tuy nhiên nó được cho là đã tuyệt chủng vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Inermis nghĩa là không có sừng, và đặc tính đặc trưng nhất của phân loài này là những chiếc sừng nhỏ ở các con đực, và thiếu mất sừng ở con cái (con được nghiên cứu đầu tiên của phân loài là một con cái không có sừng). Tình hình chính trị ở Miến Điện đã ngăn cản việc đánh giá loài tê giác Java Ấn Độ ở nước này, tuy vậy sự tồn tại của chúng đã được công nhận một cách không chắc chắn.
Tiến hóa
Những con tê giác tổ tiên bắt đầu tách ra từ những động vật guốc lẻ khác vào thời kỳ Tiền Eocen. Đối chiếu DNA ti thể cho thấy tổ tiên của những con tê giác hiện đại rẽ ra từ tổ tiên của họ Ngựa vào khoảng 50 triệu năm về trước. Họ hiện nay, Rhinocerotidae, xuất hiện lần đầu vào cuối thế Eocen tại lục địa Á-Âu. Tổ tiên của những loài tê giác sống rải rác ở châu Á hiện nay bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ thế Miocen.
Loài tê giác Ấn Độ và tê giác Java, hai thành viên duy nhất của chi Rhinoceros, xuất hiện trong các bằng chứng hóa thạch ở châu Á vào khoảng 1,6 đến 3,3 triệu năm về trước. Tuy nhiên, những đánh giá phân tử cho thấy những loài này có thể tách ra ở thời điểm sớm hơn nhiều, khoảng 11,7 triệu năm trước. Dù thuộc về chi điển hình (tức là chi tiêu biểu, được lấy tên đặt cho họ), hai loài này không được cho là có mối quan hệ gần gũi với các loài tê giác khác. Những nghiên cứu khác đã đưa ra giả thuyết rằng chúng có thể gần gũi với các chi đã tuyệt chủng Gaindetherium và Punjabitherium. Một phân tích nguồn gốc phát sinh chi tiết về họ Tê giác đã đưa chi Rhinoceros và Punjabitherium vào cùng một nhánh với chi Dicerorhinus (tê giác Sumatra). Những nghiên cứu khác cho rằng tê giác Sumatra lại có quan hệ gần gũi hơn với hai loài tê giác châu Phi, chúng có thể tách ra từ những loài tê giác khác khoảng chừng 15 triệu năm trước đó.
Đặc điểm
Loài tê giác Java có kích cỡ nhỏ hơn tê giác Ấn Độ, và tương đương với loài tê giác đen. Chiều dài cơ thể của tê giác Java (bao gồm cả đầu) có thể lên đến 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và chiều cao là 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft). Khi trưởng thành, chúng có cân nặng khác nhau, dao động từ 900 đến 2.300 kg, và do đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp nên vẫn chưa có một nghiên cứu chính xác nào về kích cỡ khối lượng của loài nay, bởi việc đó không phải là ưu tiên hàng đầu. Không có sự khác biệt kích cỡ đáng kể nào giữa hai giới, nhưng con cái có thể to hơn con đực một ít. Những con tê giác Việt Nam thì nhỏ hơn đáng kể so với đồng loại ở Java, dựa trên những bằng chứng hình ảnh hay kích cỡ dấu chân của chúng.
Giống như người anh em Ấn Độ, loài tê giác Java có một sừng (những loài tê giác khác hiện nay đều có hai sừng). Sừng của chúng nhỏ hơn tất cả những loài tê giác còn tồn tại khác, thông thường dài chưa đến 20 cm (7,9 inch) và chiếc sừng dài nhất được ghi nhận cũng chỉ là 27 cm (10,5 inch). Chúng dường như không thường xuyên dùng sừng để tấn công, thay vì thế chúng sử dụng sừng để cạo bùn trong những bãi đầm, hạ đổ cây xuống để kiếm ăn, hay mở đường đi qua những bụi cây cối rậm rạp. Giống với những loài tê giác ăn cành lá khác (tê giác đen, Sumatra và Ấn Độ), tê giác Java có môi trên dài, nhọn giúp cho việc lấy thức ăn. Những răng cửa dưới thì dài và sắc, được chúng sử dụng trong chiến đấu. Sau răng cửa, có hai hàng sáu chiếc răng hàm dưới vây quanh để nhai các thực vật thô. Giống như những tê giác khác, chúng có khả năng ngửi và nghe tốt nhưng lại có thị giác rất kém. Tuổi thọ của tê giác Java khoảng từ 30-45 năm.
Bộ da của chúng không lông, có màu xám lốm đốm hay nâu xám, được phủ thành từng nếp gấp xung quanh vai, lưng và mông. Bộ da có cấu trúc khảm tự nhiên giúp tạo cho những con tê giác một lớp vỏ ngoài bảo vệ như một bộ áo giáp. Những nếp gấp ở cổ tê giác Java nhỏ hơn tê giác Ấn Độ, nhưng vẫn tạo thành hình yên ngựa phủ qua vai. Bởi những rủi ro có thể gây quấy rầy một loài động vật đang gặp nguy cấp, nên các nhà khoa học phải nghiên cứu thông qua mẫu phân và những bẫy ảnh. Tê giác Java rất hiếm khi có thể được bắt gặp, quan sát hay đánh giá một cách trực tiếp.
Phân bố và môi trường sống
Kể cả những đánh giá lạc quan nhất cũng cho thấy có ít hơn 100 con tê giác Java trong điều kiện hoang dã. Chúng được công nhận có thể là loài động vật có vú đang gặp nguy hiểm nhất trên thế giới, dù rằng loài tê giác Sumatra, hiện còn khoảng 300 cá thể, đang ở những khu vực phân bố không được bảo vệ như tê giác Java, và một số nhà môi trường học cho rằng tê giác Sumatra đang ở trong tình trạng nguy hiểm hơn. Tê giác Java hiện nay chỉ được biết đang tồn tại ở một duy nhất: vườn quốc gia Ujung Kulon trên mũi phía Tây đảo Java.
Loài động vật này trước kia đã từng phổ biến ở Assam và Bengal (vùng phân bố của chúng có thể chồng lấn lên cả vùng của tê giác Sumatra và Ấn Độ), hướng về phía Đông tới Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, phía nam tới bán đảo Mã Lai, các đảo Sumatra, Java và có thể cả Borneo. Chúng chủ yếu sinh sống ở các vùng rừng mưa rậm rạp trên đất thấp, những vùng lau sậy và cỏ cao vốn rất nhiều cạnh các con sông, những vùng bãi bồi triền sông rộng lớn, hay những khu vực ẩm ướt với nhiều bãi bùn. Dù trong lịch sử, chúng thích sống ở những nơi thấp, thì phân loài ở Việt Nam đã di chuyển lên nơi cao hơn (2.000 m) bởi sự xâm lấn và săn bắt của con người.
Phạm vi phân bố của tê giác Java bắt đầu thu hẹp lại cách đây ít nhất 3.000 năm. Bắt đầu vào khoảng năm 1000 TCN, khu vực phân bố phía Bắc của tê giác Java, khi đó đã mở rộng lên cả Trung Quốc, bắt đầu chuyển về phía Nam với tốc độ lên tới 0,5 km (0,3 dặm) một năm, bởi các khu định cư của con người nơi đây đã tăng lên. Nó có thể giống như sự tuyệt chủng cục bộ loài này ở Ấn Độ trong thập niên 1990. Chúng đã bị săn bắn đến mức tuyệt chủng tại bán đảo Mã Lai vào năm 1932. Khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, phân loài tê giác Việt Nam được coi là đã tuyệt chủng trên toàn khu vực châu Á, cho đến năm 1989 thì phân loài này mới lại được tìm thấy. Những thợ săn và khai thác gỗ địa phương ở Campuchia khẳng định rằng họ đã từng nhìn thấy tê giác Java trên dãy núi Kravanh, nhưng những khảo sát khu vực này đã không thể tìm ra bất cứ dấu hiệu nào của chúng. Một quần thể cũng có thể đã còn tồn tại trên đảo Borneo, dù rằng đó có thể là loài tê giác Sumatra, với một quần thể nhỏ của chúng ngày nay vẫn còn tồn tại nơi đây.
Hoạt động
Tê giác Java là loài động vật sống đơn độc, ngoại trừ những cặp giao phối và mẹ cùng con non. Thỉnh thoảng chúng sẽ tập hợp thành những nhóm nhỏ ở các bãi liếm đất mặn và bãi bùn. Ngâm mình trong bùn là hoạt động thường thấy của tất cả các loài tê giác, việc này cho phép chúng duy trì nhiệt độ cơ thể luôn mát mẻ và giúp chúng chống được bệnh tật và sinh vật ký sinh. Tê giác Java thông thường không tự đào bãi ngâm bùn của riêng chúng, mà thích sử dụng bãi ngâm của những con vật khác hay các hố xuất hiện tự nhiên, được chúng dùng sừng để mở rộng. Những bãi liếm đất mặn cũng rất quan trọng với chúng bởi đây là nơi cung cấp các chất khoáng thiết yếu. Phạm vi chỗ ở của những con đực rộng hơn, khoảng 12–20 km², so với con cái ở khoảng 3–14 km². Sự chồng lấn lẫn nhau về lãnh thổ của những con đực ít hơn những con cái, tuy nhiên người ta vẫn chưa được biết về những cuộc tranh giành lãnh thổ nếu có.
Những con đực đánh dấu lãnh địa của chúng bằng phân và nước tiểu. Những vết cào trên mặt đất bằng chân và những cây con bị vặn cũng có thể được sử dụng cho mục đích thông tin. Những loài tê giác khác thường có tập tính đặc biệt: thải những cục phân lớn ra ngoài và sau đó cạo phân bằng chân sau. Loài tê giác Java và Sumatra khi thải phân ra lại không có hành động như vậy. Sự thích nghi trong hành vi này được cho là do sinh thái ở những cánh rừng ẩm ướt tại Java và Sumatra, khiến phương pháp này không đạt hiệu quả cho việc phát tán những mùi hương đánh dấu.
Tê giác Java phát tiếng kêu ít hơn nhiều so với tê giác Sumatra, có rất ít tiếng tê giác Java từng được ghi lại. Những con trưởng thành không có kẻ địch nào được biết đến ngoài con người. Loài này, đặc biệt ở Việt Nam, rất nhút nhát và thường trốn chạy vào trong rừng rậm mỗi khi con người tới gần. Dù điều này là đặc điểm rất hữu ích khi đứng trên quan điểm bảo tồn, nhưng nó lại gây khó khăn cho việc nghiên cứu chúng. Tuy nhiên, khi con người tiếp xúc quá gần, chúng có thể trở nên hung dữ và sẽ tấn công; chúng sẽ cắn bằng răng cửa hay hàm dưới và dùng đầu húc mạnh lên phía trên. Hoạt động sống khép kín tương đối phản-xã hội của tê giác Java có thể là sự thích nghi gần đây với các áp lực quần thể; bằng chứng lịch sử đã cho thấy, giống như các loài tê giác khác, trước đây chúng đã từng sống thành bầy đàn nhiều hơn.
Chế độ ăn uống
Tê giác Java là một loài động vật ăn cỏ. Chúng ăn nhiều loại thực vật khác nhau, đặc biệt thích ăn các bộ phận của cây như chồi, lá non, cành con và quả chín. Hầu hết các loại cây mà chúng ưa thích đều mọc ở nơi nhiều ánh sáng, các khoảng rừng thưa, cây bụi và các thảm thực vật mà không có cây lớn khác. Chúng thường hạ đổ những cây con rồi lấy thức ăn bằng chiếc môi trên cử động được. Chúng là loài thích nghi nhất cho việc kiếm ăn ở các loài tê giác. Dù hiện nay, tê giác Java hoàn toàn chỉ là loài ăn cành lá trên cây nhưng chúng đã từng ăn cả cỏ lẫn cành lá trong phạm vi phân bố của chúng trước kia. Hàng ngày, một con tê giác Java ăn khoảng 50 kg thức ăn. Giống như tê giác Sumatra, tê giác Java cũng cần muối khoáng trong khẩu phần. Những bãi liếm mặn, thường có trong khu vực phân bố ngày trước của chúng, lại không có ở Ujung Kulon, nhưng các con tê giác ở đây đã được quan sát khi đang uống nước biển, có thể phù hợp cho nhu cầu dinh dưỡng của chúng.
Sinh sản
Những tập tính sinh sản của tê giác Java rất khó để nghiên cứu do chúng hiếm khi được quan sát trực tiếp ngoài tự nhiên lẫn việc không có con nào trong các vườn thú. Những con cái bắt đầu thuần thục sau 3-4 tuổi trong khi đó con đực lại thuần thục ở tuổi thứ 6. Thời gian mang thai của chúng ước lượng khoảng 16-19 tháng. Khoảng cách giữa các lần đẻ con là 4-5 năm; tê giác con bắt đầu cai sữa sau khoảng 2 năm. Bốn loài tê giác còn lại đều có hoạt động giao phối giống nhau và người ta suy đoán rằng ở loài tê giác Java cũng tương tự như vậy.
Bảo tồn
Nguyên nhân chính cho việc suy giảm liên tục số lượng loài tê giác Java là việc chúng bị săn bắt để lấy sừng, một vấn đề không chỉ của chúng mà còn có ở tất cả các loài tê giác khác. Những chiếc sừng đã trở thành hàng hóa buôn bán ở Trung Quốc trong hơn 2000 năm qua, bởi họ tin rằng chúng có tác dụng hiệu quả trong y học phương Đông cổ truyền. Trong lịch sử, bộ da tê giác đã được người Trung Quốc sử dụng làm áo giáp; và những người dân địa phương Việt Nam lại tin về khả năng giải trừ nọc độc rắn bằng da tê. Bởi người dân nhiều vùng địa phương nơi tê giác cư trú còn nghèo, nhận thức còn thấp, nên rất khó để thuyết phục họ không giết những động vật dường như vô ích trong y học nhưng lại có thể bán được nhiều tiền. Sau khi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) bắt đầu có hiệu lực năm 1975, loài tê giác Java đã được liệt kê bảo vệ ở Phụ lục 1, có nghĩa là: tất cả các giao dịch quốc tế về tê giác Java và các sản phẩm bắt nguồn từ chúng đều là bất hợp pháp. Những khảo sát về tê giác ở chợ đen đã xác định rằng: sừng của những con tê giác châu Á (tê giác Ấn Độ, Java và Sumatra) có thể đạt tới giá 30.000 USD mỗi kilôgam, tức gấp ba lần so với sừng những con tê giác châu Phi cùng họ.
Việc mất đi nơi cư trú bởi ngành nông nghiệp cũng đã góp phần tạo sự suy giảm, dù hiện nay nó không còn là một nhân tố nữa bởi tê giác Java giờ chỉ sống ở hai khu vực bảo tồn quốc gia. Sự suy giảm chất lượng môi trường sống đã ngăn cản việc khôi phục số lượng loài. Cho dù với tất cả các nỗ lực bảo tồn, khả năng tồn tại của chúng vẫn bị đe dọa khốc liệt. Khi quần thể bị giới hạn ở hai khu vực nhỏ, chúng sẽ rất dễ bị bệnh tật và gặp các vấn đề do giao phối cận huyết.
Ujung Kulon
Vườn quốc gia Ujung Kulon tại đảo Java được thành lập vào năm 1980, là nơi tập trung quần thể Rhinoceros sondaicus sondaicus cuối cùng trên thế giới, với khoảng 40-50 cá thể, theo Tổ chức Tê giác Thế giới (International Rhino Foundation) năm 2007, và 45-50 cá thể, theo WWF năm 2008. Khu bảo tồn này bao gồm bán đảo Ujung Kulon và một số đảo nhỏ liền kề, được Bộ Lâm nghiệp Indonesia quản lý, đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1992.
Sau khi bán đảo Ujung Kulon bị núi lửa Krakatoa tàn phá vào năm 1883, những con tê giác bắt đầu xâm lấn trở lại, trong khi đó dân cư nơi đây lại trở nên thưa thớt, vì thế đã tạo một địa điểm trú ẩn an toàn cho chúng. Năm 1931, khi tê giác Java đã đứng trên bờ vực tuyệt chủng ở Sumatra, chính quyền Indonesia đã tuyên bố rằng loài tê giác này là sinh vật được bảo vệ hợp pháp, dù thế sự săn bắn trộm vẫn tiếp diễn. Năm 1967, trong một điều tra lần đầu tiên về tê giác Java ở Ujung Kulon, chỉ có 25 con được ghi nhận. Đến những năm 1970-1980, chính quyền mới sử dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn với những kẻ săn trộm. Nhờ thế đến năm 1980, số lượng tê giác đã tăng lên gấp đôi và vẫn tiếp tục giữ ở khoảng 50 con cho đến nay. Dù ở Ujung Kulon không có kẻ săn mồi, nhưng tê giác Java vẫn phải cạnh tranh nguồn tài nguyên (thức ăn, nước uống, chỗ ở) với các loài ăn cỏ hoang dã khác, điều này có thể kìm hãm số lượng tê giác dưới sức chứa tối đa của khu vực bán đảo chúng sống.
Năm 2006, dấu hiệu về ít nhất bốn con tê giác con đã được các nhà khoa học của WWF khám phá, sự kiện này được coi là một thành tựu đặc biệt trong công cuộc bảo tồn.
Cát Tiên
Vườn quốc gia Cát Tiên tại Đông Nam Bộ, Việt Nam được thành lập vào năm 1992. Cát Tiên vào thời điểm đó có quần thể Rhinoceros sondaicus annamiticus cuối cùng trên thế giới trong khi chúng đã tuyệt chủng bên ngoài Việt Nam. Nằm trên địa bàn ba tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước, cách Thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía Bắc, vườn quốc gia Cát Tiên có đặc trưng là các khu rừng mưa đất thấp ẩm ướt nhiệt đới. Loài tê giác một sừng (tê giác Java Việt Nam) sống tại khu vực Cát Lộc của vườn quốc gia, đã được Sách đỏ Việt Nam xếp vào hạng cao nhất - E (Endangered - Nguy cấp), nhưng vẫn kém hơn so với hạng Cực kỳ nguy cấp của Sách đỏ IUCN.
Dù trước kia đã từng phổ biến trên toàn Đông Nam Á, nhưng sau Chiến tranh Việt Nam, phân loài tê giác Java Việt Nam được coi là đã tuyệt chủng. Những phương pháp sử dụng trong chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng hệ sinh thái của khu vực, ví dụ như sử dụng bom napan, chất độc da cam làm rụng lá, ném bom không kích hay thả mìn. Chiến tranh đã đem tới cho nơi đây hàng loạt những loại vũ khí mà người ta có thể tiếp cận với giá rẻ. Sau chiến tranh, những người dân nghèo, nếu trước kia chỉ dùng hố bẫy, nay lại có những vũ khí gây chết người trong tay, giúp họ trở thành những kẻ săn bắt hiệu quả. Thật bất ngờ khi một con tê giác cái trưởng thành bị bắn chết vào năm 1988. Tin này phản bác giả định rằng tê giác đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Năm sau, tức năm 1989, các nhà khoa học đến khảo sát khu rừng miền Nam Việt Nam để tìm dấu hiệu về những con sống sót còn lại đã phát hiện dấu vết mới của ít nhất 15 con tê giác sinh sống trong khu vực dọc sông Đồng Nai. Do mức độ quan trọng của quần thể này nên khu vực chúng sống đã trở thành Khu bảo tồn tê giác Cát Lộc vào năm 1992, sau đó đã sáp nhập vào Vườn quốc gia Cát Tiên năm 1998, tuy nhiên hai khu vực này lại bị ngăn cách bởi các khu đất nông nghiệp.
Dù được con người quan tâm bảo tồn nhưng diện tích cư trú của tê giác vẫn bị xâm lấn 15% vào năm 1990 và con số tê giác còn sống đã giảm xuống chỉ còn 5-8 con vào năm 1999. Theo đánh giá năm 2000, có khoảng 6 nghìn người sống bên rìa khu vực vườn quốc gia, ở các vùng bãi bồi triền sông, môi trường sống ưa thích của tê giác, bắt đầu xâm lấn để trồng lúa, cộng thêm với lực lượng kiểm lâm bảo vệ ít ỏi (dưới 20 người), nên người ta cho rằng tê giác Việt Nam chỉ có thể tồn tại trong vòng từ 3-5 năm nữa. Sau đó cơ quan bảo tồn ước tính chỉ còn 3-8 con tê giác, và có thể không có con đực nào sống sót. Loài tê giác đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Những nhà bảo tồn tranh luận về cơ hội sống sót của loài tê giác nơi đây; một số người cho rằng nên đem tê giác từ Indonesia sang để duy trì quần thể; những ý kiến khác cho rằng quần thể có khả năng tự phục hồi.
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, người ta phát hiện một con tê giác đã bị kẻ săn trộm bắn chết tại vườn quốc gia Cát Tiên. Đây được xem là một tin buồn cho ngành bảo tồn học Việt Nam. Quỹ WWF muốn chính phủ Việt Nam điều tra khẩn cấp để tìm ra thủ phạm. Đến tháng 10 năm 2011, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên cho biết con tê giác đó là con tê giác cuối cùng tại Việt Nam, và hiện tại loài tê giác Java đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế IRF (International Rhino Foundation) cũng đã khẳng định tin này.
Trong điều kiện nuôi nhốt
Không có con tê giác Java nào được trưng bày trong một thế kỉ qua. Thế kỷ 19, có ít nhất bốn con đã được trưng bày tại Adelaide, Calcutta và London. Theo các tài liệu có tổng số ít nhất 22 con tê giác Java đã bị nuôi nhốt, nhưng cũng có thể con số này lớn hơn vì nhiều khi nó bị nhầm với tê giác Ấn Độ. Tê giác Java chưa bao giờ sinh trưởng tốt trong điều kiện nuôi nhốt, nhiều nhất có con chỉ sống được 20 năm, bằng một nửa tuổi thọ của loài tê giác trong tự nhiên. Con tê giác Java bị giam cuối cùng chết tại Vườn thú Adelaide của Úc vào năm 1907, lúc đó chúng đang còn được biết rất ít và con vật này đã bị coi là thuộc loài tê giác Ấn Độ. Bởi những chương trình kéo dài và tốn kém trong thập niên 1980 và 1990 với mục đích nuôi những con tê giác Sumatra trong các vườn thú đều thất bại thảm hại, nên những cố gắng bảo tồn loài tê giác Java bằng cách tương tự cũng không chắc chắn thành công. |
Múa ba lê (hay múa ballet, bắt nguồn từ từ tiếng Pháp ballet /balɛ/) là một loại hình vũ kịch có nguồn gốc xuất xứ từ triều đình Ý và được phát triển tại Pháp, Nga, Mỹ và Anh thành dạng múa phối hợp. Đây là một dạng múa kỹ thuật hình thể với ngôn từ riêng của mình. Loại hình nghệ thuật này có tầm ảnh hưởng toàn cầu và được giảng dạy tại các trường múa trên khắp thế giới. Múa ballet được dàn dựng bao gồm nhạc (được dàn nhạc biểu diễn nhưng đôi khi được ca sĩ hát), lời ca, và diễn xuất của dàn múa. Loại hình biểu diễn Múa ballet cổ điển nổi tiếng nhất là ballet cổ điển với động tác uyển chuyển và chính xác. Sau này biến thể của ballet cổ điển có múa ballet tân cổ điển và múa ballet đương đại.
Về mặt từ nguyên, từ ba-lê trong tiếng Việt lấy từ tiếng Pháp "ballet", từ tiếng Pháp này cũng được tiếng Anh vay mượn vào khoảng thế kỷ 17. Nguyên gốc của ballet là từ tiếng Ý balletto, một dạng nói giảm của ballo (múa). Ballet lại có từ nguyên sâu xa hơn từ tiếng Latin ballere, có nghĩa là múa.
Lịch sử
Nước Ý là quê hương của hát opera, ballet Ý thời Phục Hưng ra đời nhằm phục vụ cho các lễ cưới hoàng gia và của tầng lớp quý tộc. Trong giai đoạn này, người châu Âu đặc biệt quan tâm đến học vấn và các loại hình nghệ thuật. Cùng lúc đó, thương mại và buôn bán cũng rất phát triển, Các thành phố của Ý trở thành những trung tâm nghệ thuật cũng như thương mại của châu Âu. Catherine de Médicis, người Florence, kết hôn với Henri II, trở thành hoàng hậu của nước Pháp vào năm 1547. Bà đã giới thiệu tới triều đình Pháp loại hình giải trí được biết đến tại Italia. Năm 1661, Louis XIV (Vua mặt trời) thành lập Học viện Múa Hoàng gia (Academie Royale de Danse) nhằm đào tạo các vũ công chuyên nghiệp để biểu diễn cho ông và triều đình. Thời kỳ này chỉ có nam vũ công. Để thể hiện vai nữ, các diễn viên nam sẽ mặc trang phục nữ, đeo mặt nạ và đội tóc giả. Chỉ đến vở ba-lê Le Triomphe de l'Amour (The Triumph of Love) năm 1681 nữ vũ công mới bắt đầu tham gia vào ba-lê. Từ mô hình của Pháp, trường ballet Hoàng gia Nga (Russian Imperial Ballet - hiện nay là Kirov Ballet) được thành lập năm 1738 tại St. Petersburg, sau này trở thành một trong số học viện ballet vĩ đại nhất thế giới, và đoàn Ballet Hoàng gia Đan Mạch năm 1748. Ballett thời kỳ lãng mạn coi phụ nữ là thực thể lý tưởng và, lần đầu tiên trong lịch sử ba-lê, họ được trao cho một vị trí quan trọng hơn hẳn so với nam giới. Nam diễn viên chỉ có vai trò phụ trên sân khâu nhằm nâng đỡ cho các ballerina và cho khán giả thấy họ không trọng lượng ra sao. Sau năm 1850, ba-lê tại Pháp rơi vào thời kỳ thoái trào, trong khi lại thăng hoa tại Nga, nhờ vào sự đóng góp của những bậc thầy ba-lê như August Bournonville, Jules Perrot, Arthur Saint-Léon, Enrico Cecchetti và Marius Petipa. Nửa sau thế kỷ 19, trung tâm thế giới ballet chuyển từ Pháp sang Nga. Một trong những người tạo ra kỷ nguyên vàng cho trường ballet Hoàng gia Nga và đóng vai trò lớn trong việc biến St. Petersburg trở thành kinh đô của ballett thế giới là Marius Petipa. Đoàn ballet của St. Petersburg là nơi đào tạo ra những diễn viên ballet vĩ đại nhất của mọi thời, trong đó nổi bật lên là cái tên Anna Pavlova. |
Ý, Ý Đại Lợi hay Italia ( ), tên chính thức là Cộng hòa Ý () là một quốc gia cộng hòa nghị viện đơn nhất tại châu Âu. Lãnh thổ Ý vươn ra phần trung tâm của Địa Trung Hải, hai đảo lớn nhất là Sicilia và Sardegna. Dãy Anpơ giới hạn phần lãnh thổ phía Bắc của Ý, tạo thành biên giới trên bộ với Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Slovenia, trong khi San Marino và Thành Vatican nằm lọt trong nước cộng hòa. Ý có diện tích là 301.339 km², và phần lớn có khí hậu ôn đới theo mùa và Địa Trung Hải. Do hình dạng lãnh thổ, Ý thường được ví như lo Stivale (chiếc ủng). Dân số Ý đạt 60.184.639 người (2021), là quốc gia đông dân thứ ba trong Liên minh châu Âu, đông dân thứ 5 châu Âu, thứ 25 thế giới. Thủ đô của Ý là Roma, các vùng đô thị lớn khác là Milano, Napoli, Torino.
Đến thế kỷ I TCN, Đế quốc La Mã nổi lên thành thế lực chi phối tại bồn địa Địa Trung Hải, trở thành trung tâm lãnh đạo về văn hoá, chính trị và tôn giáo của văn minh phương Tây trong thời kỳ cổ đại. Di sản của đế quốc này được phổ biến và có thể nhận thấy trong luật dân sự, chính phủ cộng hoà, Cơ Đốc giáo và chữ cái Latinh trên toàn cầu. Đến sơ kỳ Trung cổ, xã hội - chính trị Ý sụp đổ trong quá trình người man di xâm lăng, song đến thế kỷ XI, nhiều thành bang và nước cộng hoà hàng hải, chủ yếu tại miền bắc và miền trung Ý, trở nên rất thịnh vượng nhờ chuyên chở đường biển, thương mại và ngân hàng, đặt nền tảng cho tư bản chủ nghĩa hiện đại. Tuy nhiên, một phần lớn miền Trung Ý duy trì dưới quyền kiểm soát của Lãnh thổ Giáo hoàng, còn miền Nam Ý liên tục bị các thế lực bên ngoài chinh phục. Phục hưng bắt đầu tại Ý và được truyền bá đến phần còn lại của châu Âu. Văn hoá Ý hưng thịnh trong thời kỳ này, sản sinh các học giả, nghệ sĩ và nhà bác học nổi tiếng. Các nhà thám hiểm người Ý như Marco Polo và Cristoforo Colombo khám phá các tuyến đường mới đến Viễn Đông và Tân Thế giới. Tuy vậy, sức mạnh thương mại và chính trị của Ý suy yếu đáng kể khi các tuyến hàng hải xuyên Đại Tây Dương và sang Ấn Độ Dương không đi qua Địa Trung Hải.
Các cuộc chiến tranh Ý trong thế kỷ XV và thế kỷ XVI khiến các thành bang Ý kiệt sức. Các quốc gia Ý đã suy yếu này nhanh chóng bị các cường quốc châu Âu chinh phục và thuộc địa hoá, như Pháp, Tây Ban Nha và Áo. Đến giữa thế kỷ XIX, nổi lên phong trào ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Ý và độc lập khỏi quyền cai trị ngoại bang. Ý cuối cùng thống nhất vào năm 1861, trở thành một đại cường quốc sau nhiều thế kỷ. Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Vương quốc Ý nhanh chóng tiến hành công nghiệp hoá và trở thành một đế quốc thực dân, song chủ yếu là tại miền Bắc, trong khi miền Nam phần lớn bị loại trừ khỏi quá trình này. Ý là nước chiến thắng chính trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, song vương quốc lâm vào một giai đoạn khủng hoảng kinh tế và rối loạn xã hội, mở đường cho chủ nghĩa độc tài phát xít nổi lên vào năm 1922. Ý tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai bên phe Trục và kết quả là thất bại về quân sự, kinh tế bị tàn phá và nội chiến. Sau chiến tranh, Ý bãi bỏ chế độ quân chủ, khôi phục nền dân chủ, đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng suốt một thời gian dài, và trở thành một nền kinh tế tiên tiến với quy mô lớn dù có các giai đoạn náo động về xã hội-chính trị.
Ngày nay, Ý là một cường quốc có nền kinh tế công nghiệp phát triển với kỹ nghệ tiên tiến, có GDP danh nghĩa thực tế lớn thứ 3 trong khu vực đồng Euro và đứng hạng 8 trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 25 thế giới. Quốc gia này luôn được xếp ở mức rất cao về chỉ số phát triển con người (HDI) và cũng xếp hạng rất cao về bình quân tuổi thọ. Ý giữ vai trò nổi bật trong các vấn đề kinh tế, quân sự, văn hoá, chính trị và ngoại giao trong khu vực EU và trên toàn cầu. Quốc gia này là một cường quốc khu vực cũng như Đại cường quốc trên thế giới. Ý là một thành viên tham gia sáng lập và chủ đạo của Liên minh châu Âu, người Ý là dân tộc có nhiều phát minh, đóng góp lớn trải dài trên mọi lĩnh vực trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Ý là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, nổi bật như Liên Hợp Quốc, NATO, OECD, Ủy hội châu Âu, Hội đồng châu Âu, Khu vực Schengen, Câu lạc bộ Paris, OSCE, WTO, G7, G8, G20, Liên minh Địa Trung Hải,... Ý sở hữu 55 di sản thế giới UNESCO, đứng đầu thế giới, và là nước đứng thứ 5 toàn cầu về số lượng du khách nước ngoài ghé thăm mỗi năm.
Từ nguyên
Nguồn gốc tên tiếng Ý
Giới sử học và ngôn ngữ học đã đưa ra nhiều giả thuyết về nguồn gốc tên gọi "Italia". Theo một trong các cách giải thích phổ biến, thuật ngữ Italia, bắt nguồn từ , được mượn từ tiếng Oscan (tại miền Nam Ý) Víteliú qua trung gian là tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "vùng đất bò con" (so với tiếng Latinh vitulus "con bê", tiếng Umbria vitlo "con bê"). Bò đực là một biểu trưng của các bộ lạc miền nam Ý và thường được miêu tả là đang húc con sói La Mã để tượng trưng cho sự thách thức của Ý tự do trong Chiến tranh Đồng Minh (91–88 TCN). Sử gia Hy Lạp Dionysius xứ Halicarnassus nói về giải thích này cùng truyền thuyết rằng Ý được đặt tên theo vị vua Italus trong truyền thuyết, cũng được đề cập bởi Aristotle và Thucydides.
Tên gọi Italia ban đầu chỉ áp dụng cho một phần của miền nam Ý ngày nay - theo lời Antiochus xứ Syracuse, phần miền nam của bán đảo Bruttium (nay là Calabria: tỉnh Reggio và một phần các tỉnh Catanzaro và Vibo Valentia). Tuy nhiên, đến thời Antiochus thì Oenotria và Italia trở nên đồng nghĩa, và tên gọi cũng được áp dụng cho hầu hết Lucania. Người Hy Lạp dần áp dụng tên gọi "Italia" cho một vùng lớn hơn, song đến thời gian trị vì của Hoàng đế Augustus (kết thúc thế kỷ I TCN) thì thuật ngữ được mở rộng để bao gồm toàn thể bán đảo cho đến dãy Alpes.
Nguồn gốc tên tiếng Việt
Tên gọi Ý trong tiếng Việt là dạng rút gọn của một tên gọi khác dài hơn, nay không còn thông dụng nữa là Ý Đại Lợi. Danh xưng Ý Đại Lợi bắt nguồn tên gọi tiếng Hán 意大利 Ý Đại Lợi (âm đọc ghi theo âm Hán Việt). Tên gọi 意大利 Ý Đại Lợi trong tiếng Hán là phiên âm của từ Italy, tên tiếng Anh của nước Ý.
Tên gọi Italia (đọc là "I-ta-li-a") chủ yếu được dùng trong văn viết, nó ít khi được dùng trong khẩu ngữ tiếng Việt, người nói tiếng Việt hay gọi nước Ý bằng tên gọi đơn âm tiết Ý hơn là gọi bằng tên gọi đa âm tiết Italia. Ngoài cách viết Italia, tên gọi Italia còn có cách viết khác, ít gặp hơn là I-ta-li-a. Từ Italia trong tiếng Ý (phát âm là /iˈta.lja/) có ba âm tiết chứ không phải là bốn như từ Italia của tiếng Việt.
Đôi khi trong tiếng Việt, nước Ý bị một số người gọi là Italy ("I-ta-li") dù đã biết đến hai tên gọi Ý và Italia. Tên gọi này bắt nguồn từ tên tiếng Anh Italy. Trong tiếng Anh, từ Italy được phát âm là /ˈɪ.tə.li/. Cách phát âm của tên tiếng Anh phiên âm sang tiếng Việt là "I-tơ-li" nhưng những người đó lại gọi là "I-ta-li" mà không gọi là "I-tơ-li" là vì họ vay mượn hình thức chính tả của từ tiếng Anh nhưng không đọc từ Italy bằng phiên âm tiếng Việt của từ tiếng Anh mà đọc các chữ cái trong từ Italy theo âm mà các chữ cái đó thường biểu thị trong tiếng Việt.
Lịch sử
Tiền sử và cổ đại
Các cuộc khai quật trên khắp nước Ý đã khám phá sự hiện diện của người Neanderthal có niên đại từ thời đồ đá cũ, khoảng 200.000 năm trước, Người hiện đại xuất hiện vào khoảng 40.000 năm trước. Các di chỉ khảo cổ từ giai đoạn này gồm có hang động Addaura, người Altamura, Ceprano, đồi Poggiolo và thị trấn Gravina ở Puglia.
Các dân tộc cổ đại của Ý thời tiền La Mã, như Umbria, Latinh (khởi nguồn của người La Mã), Volsci, Osci, Sanniti, Sabini, Celti, Liguri – thuộc nhóm Ấn-Âu; các dân tộc lớn trong lịch sử có khả năng không mang di sản Ấn-Âu là người Etrusca, người Elimi và Sicani tại Sicilia, và người Sardegna tiền sử sở hữu văn minh Nuraghe. Các dân tộc Ý cổ đại khác thuộc các ngữ hệ chưa xác định song có khả năng là có nguồn gốc phi Ấn-Âu, như người Reti và Cammuni, được biết đến với các hình khắc trên đá.
Giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XI TCN, người Hy Lạp Mycenaea thiết lập liên hệ với Ý và trong thế kỷ VIII và VII TCN, các thuộc địa của Hy Lạp được thành lập suốt dọc bờ biển Sicilia và phần miền nam của bán đảo Ý, chúng được gọi là Magna Graecia (Đại Hy Lạp). Người Phoenicia cũng lập thuộc địa trên bờ biển của hai đảo Sardegna và Sicilia.
La Mã cổ đại
Roma (La Mã) là khu dân cư nằm gần một khúc cạn của sông Tevere, theo quy ước thì nó có mốc thành lập là năm 753 TCN. La Mã nằm dưới quyền cai trị của một chế độ quân chủ trong vòng 244 năm. Ban đầu các quân chủ có nguồn gốc Latinh và Sabini, về sau các quốc vương là người Etrusca. Theo truyền thuyết thì có bảy vị quốc vương kế tiếp nhau từ Romulus đến Tarquinius Superbus. Năm 509 TCN, người La Mã trục xuất vị quốc vương cuối cùng khỏi thành phố của họ, và lập ra một chế độ cộng hoà theo chính thể đầu sỏ.
Sau khi Julius Caesar nổi lên rồi bị giết trong thế kỷ I TCN, La Mã trở thành một đế quốc khổng lồ qua một tiến trình phát triển dài nhiều thế kỷ, có lãnh thổ trải dài từ Anh đến biên giới với Ba Tư, nắm giữ toàn bộ bồn địa Địa Trung Hải, trong đó Hy Lạp cùng La Mã và nhiều nền văn hoá khác hợp nhất thành một nền văn minh độc đáo. Vị hoàng đế đầu tiên là Augustus, thời gian cai trị của ông kéo dài và có nhiều thắng lợi, khởi đầu một thời kỳ hoàng kim với hoà bình và thịnh vượng.
Đế quốc La Mã nằm trong số các thế lực kinh tế, văn hoá, chính trị và quân sự hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Đây cũng là một trong các đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Vào đỉnh cao dưới thời Traianus, đế quốc chiếm giữ 5 triệu km². Di sản La Mã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn minh phương Tây, định hình hầu hết thế giới hiện đại; trong số nhiều di sản của quyền thống trị La Mã, có việc sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ Roman có nguồn gốc từ tiếng Latinh, chữ số La Mã, chữ cái và lịch phương Tây hiện đại, cũng như việc Cơ Đốc giáo nổi lên thành một tôn giáo tầm cỡ thế giới với số lượng tín đồ lớn.
Quá trình suy yếu chậm của đế quốc bắt đầu vào thế kỷ III, đế quốc bị phân thành hai nửa vào năm 395. Đế quốc phía Tây chịu áp lực từ các cuộc xâm lăng của người man di, và cuối cùng tan rã vào năm 476, khi hoàng đế cuối cùng bị một tù trưởng German là Odoacer phế truất, còn Đế quốc phía Đông tồn tại trong gần một nghìn năm nữa.
Trung cổ
Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ, người Ostrogoth thuộc nhóm German chiếm giữ Ý. Đến thế kỷ VI, Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I chinh phục Ý và kiểm soát trong một thời gian ngắn ngủi. Một bộ lạc German khác là người Lombard sau đó xâm chiếm Ý, thu hẹp sự hiện diện của Đông La Mã thành một nhóm các lãnh địa tách biệt nhau (Esarcato di Ravenna), và khởi đầu quá trình không thống nhất về chính trị trên bán đảo kéo dài trong suốt 1.300 năm sau. Đến cuối thế kỷ VIII, Quốc vương của người Frank (cũng thuộc nhóm German) là Charlemagne sáp nhập vương quốc của người Lombard vào Đế quốc Frank. Người Frank cũng giúp thành lập Lãnh thổ Giáo hoàng tại miền trung Ý. Cho đến thế kỷ XIII, chính trị Ý bị chi phối bởi quan hệ giữa các Hoàng đế La Mã Thần thánh và Giáo hoàng, hầu hết các thành bang Ý sát cánh với Hoàng đế (Ghibellini) hoặc Giáo hoàng (Guelfi) theo mối lợi nhất thời.
Trong giai đoạn hỗn độn này, trong các đô thị Ý nổi lên một thể chế khác thường là công xã Trung cổ. Trước việc xuất hiện khoảng trống quyền lực do phân mảnh lãnh thổ cực độ và đấu tranh giữa Đế quốc và Toà Thánh, các cộng đồng địa phương tìm cách tự trị để duy trì pháp luật và trật tự. Năm 1176, một liên minh các thành bang mang tên Liên minh Lombard đánh bại Hoàng đế La Mã Thần thánh/Đức Friedrich I trong trận Legnano, do đó đảm bảo độc lập hiệu quả cho hầu hết các thành phố miền bắc và miền trung Ý. Tại các khu vực ven biển và miền nam, các cộng hoà hàng hải như Venezia, Genova, Pisa và Amalfi tham gia sâu vào Thập tự chinh, và dần chiếm thế chi phối tại Địa Trung Hải và độc quyền các tuyến mậu dịch đến phương Đông.
Tại miền nam, đảo Sicilia trở thành một vương quốc Hồi giáo trong thế kỷ IX, phát triển thịnh vượng cho đến khi người Norman gốc Bắc Âu chinh phục đảo vào cuối thế kỷ XI cùng với hầu hết các thân vương quốc của người Lombard và Đông La Mã tại miền nam Ý. Thông qua một loạt sự kiện phức tạp, miền nam Ý phát triển thành một vương quốc thống nhất dưới quyền Nhà Staufer (Hohenstaufen) gốc Đức, sau đó là dưới quyền Nhà Capet xứ Anjou gốc Pháp, và từ thế kỷ XV thuộc về Vương quốc Liên hiệp Aragon khởi nguồn từ Tây Ban Nha. Tại đảo Sardegna, các tỉnh cũ của Đông La Mã trở thành các nhà nước độc lập (Giudicati) từ thế kỷ IX, song một số phần của đảo nằm dưới quyền cai trị của Genova hoặc Pisa cho đến khi đảo bị Aragon chinh phục vào thế kỷ XV. Dịch bệnh Cái chết Đen năm 1348 hoành hành tại Ý, có thể đã làm chết một phần ba dân số Ý khi đó. Tuy vậy, phục hồi sau dịch bệnh dẫn đến hồi sinh các thành phố, mậu dịch và kinh tế, tạo điều kiện bùng nổ chủ nghĩa nhân văn và Phục hưng, để rồi sau đó được truyền bá tại châu Âu.
Cận đại
Trong thế kỷ XIV và XV, miền bắc và miền trung Ý bị phân chia thành một số thành bang xung khắc lẫn nhau, phần còn lại của bán đảo thuộc về Lãnh thổ Giáo hoàng và Vương quốc Napoli (hậu thân của Vương quốc Sicilia, thuộc Nhà Capet rồi Aragon). Nhiều thành bang về mặt chính thức thường quy phục các quân chủ ngoại bang, như Công quốc Milano về danh nghĩa là một quốc gia cấu thành của Đế quốc La Mã Thần thánh có dân cư chủ yếu là người Đức. Tuy nhiên, các thành bang này thường tìm được cách duy trì độc lập thực tế. Các thành bang mạnh nhất thường sáp nhập các lãnh thổ xung quanh để trở thành bá chủ, các nhà nước khu vực thường nằm dưới quyền của các gia tộc thương gia, họ lập ra các triều đại địa phương. Chiến tranh giữa các thành bang mang tính đặc hữu, và chủ yếu là giao tranh giữa các quân đội đánh thuê gọi là condottieri, các toán lính này được lấy từ khắp châu Âu, đặc biệt là Đức và Thuỵ Sĩ, song phần lớn lãnh đạo là người Ý. Nhiều thập niên giao tranh dẫn đến kết quả chung cuộc là Firenze, Milano và Venezia nổi lên thành các thế lực chi phối, họ đạt được Hoà ước Lodi vào năm 1454, mang lại yên tĩnh tương đối lần đầu tiên cho khu vực suốt nhiều thế kỷ. Tình trạng hoà bình này kéo dài trong bốn muơi năm sau.
Phục hưng là một giai đoạn khôi phục mạnh mẽ về nghệ thuật và văn hoá, nó bắt nguồn tại Ý do một số yếu tố, như các thành thị buôn bán tích luỹ được lượng của cải lớn, các gia đình có thế lực bảo trợ, và các học giả cùng văn bản Hy Lạp đến Ý sau khi người Thổ Ottoman chinh phục Constantinopolis- thủ đô của Đông La Mã (Byzantine). Thời kỳ Phục hưng Ý đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ XVI, cũng vào lúc này các quốc gia bên ngoài đẩy khu vực vào cảnh hỗn loạn trong Các cuộc chiến tranh Ý.
Medici trở thành một gia đình có thế lực của Firenze, họ bồi dưỡng và truyền cảm hứng khai sinh Phục hưng Ý, cùng với các gia đình khác tại Ý như Visconti và Sforza tại Milano, Este tại Ferrara và Gonzaga tại Mantova. Các nghệ sĩ vĩ đại nhất như Leonardo da Vinci, Brunelleschi, Botticelli, Michelangelo, Giotto, Donatello, Tiziano Vecelli và Raffaello tạo ra các tác phẩm truyền cảm hứng. Sử gia nhân văn Leonardo Bruni cũng phân tách lịch sử cổ đại, trung đại và hiện đại.
Các ý tưởng và lý tưởng Phục hưng nhanh chóng được truyền bá đến Bắc Âu, Pháp, Anh và phần lớn châu Âu. Trong khi đó, việc khám phá châu Mỹ và các tuyến đường mới đến châu Á, cũng như việc Đế quốc Ottoman nổi lên đều làm xói mòn vị thế chi phối truyền thống của Ý trong mậu dịch với phương Đông, gây suy thoái kinh tế kéo dài trên bán đảo.
Các cuộc chiến tranh Ý (1494–1559) bắt nguồn từ kình địch giữa Pháp và Tây Ban Nha, các thành bang Ý dần mất độc lập và nằm dưới quyền chi phối của ngoại bang, ban đầu là Tây Ban Nha (1559 đến 1713) và sau là Áo (1713 đến 1796). Năm 1629–1631, một đợt bùng phát dịch bệnh nữa khiến cho khoảng 14% dân số Ý mất mạng. Ngoài ra, khi Đế quốc Tây Ban Nha bắt đầu suy yếu vào thế kỷ XVII, các thuộc địa của họ tại Napoli, Sicilia, Sardegna và Milano cũng tương tự. Đặc biệt, miền nam Ý trở nên bần cùng và tách khỏi dòng chính của các sự kiện tại châu Âu.
Trong thế kỷ XVIII, do hậu quả của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Áo thay thế Tây Ban Nha trong vai trò thế lực ngoại bang chi phối Ý. Trong khi đó, Nhà Savoy nổi lên thành một thế lực khu vực, bành trướng đến Piemonte và Sardegna. Cũng trong thế kỷ XVIII, suy thoái kéo dài hai thế kỷ được tạm ngừng nhờ các cải cách kinh tế và chính quyền do tầng lớp tinh hoa cầm quyền tiến hành tại một số quốc gia. Trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, miền bắc và miền trung Ý bị xâm chiếm và được tái tổ chức thành Vương quốc Ý, một nhà nước phụ thuộc của Đế quốc Pháp, còn nửa phía nam của bán đảo thuộc quyền cai quản của em rể Napoléon là Joachim Murat, người này lên ngôi Quốc vương Napoli. Đại hội Viên 1814 khôi phục tình thế vào cuối thế kỷ XVIII, song lý tưởng của Cách mạng Pháp không thể bị diệt trừ, và nó nhanh chóng nổi lên trong các biến động chính trị mang tính đặc trưng cho phần đầu thế kỷ XIX.
Thống nhất
Vương quốc Ý hình thành là kết quả từ các nỗ lực của những người dân tộc chủ nghĩa và bảo hoàng trung thành với Nhà Savoy, nhằm lập một vương quốc thống nhất bao gồm toàn bộ bán đảo Ý. Trong bối cảnh các cuộc cách mạng tự do năm 1848 tràn khắp châu Âu, đã nổ ra một cuộc chiến độc lập với Áo song thất bại. Vương quốc Sardegna (gồm cả Piemonte) của Nhà Savoy lại tấn công Áo trong chiến tranh độc lập lần thứ nhì vào năm 1859, nhận được giúp đỡ của Pháp, kết quả là giải phóng Lombardia.
Năm 1860–1861, Tướng quân Giuseppe Garibaldi lãnh đạo tiến trình thống nhất tại Napoli và Sicilia, cho phép chính phủ Sardegna dưới quyền lãnh đạo của Bá tước xứ Cavour công bố một vương quốc Ý thống nhất vào ngày 17 tháng 3 năm 1861. Năm 1866, Quốc vương Vittorio Emanuele II liên minh với Phổ trong Chiến tranh Áo-Phổ, tiến hành chiến tranh độc lập lần thứ ba với kết quả là Ý sáp nhập Veneto. Cuối cùng, do Pháp từ bỏ đóng quân tại Roma trong Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870, người Ý cấp tốc lấp khoảng trống quyền lực bằng việc tiếp quản Lãnh thổ Giáo hoàng.
Luật Hiến pháp của Vương quốc Sardegna là Quy chế Albertino năm 1848 được mở rộng cho toàn bộ Vương quốc Ý vào năm 1861, và quy định các quyền tự do cơ bản của nhà nước mới, song luật bầu cử loại trừ quyền bỏ phiếu của các tầng lớp không có tài sản và không được giáo dục. Chính phủ vương quốc mới vận hành trong một khuôn khổ quân chủ lập hiến nghị viện, do các thế lực tự do chi phối. Năm 1913, quyền phổ thông đầu phiếu cho nam giới được thực hiện. Trong khi miền bắc Ý diễn ra công nghiệp hoá nhanh chóng, thì miền nam và các khu vực nông thôn của miền bắc vẫn kém phát triển và quá tải dân số, buộc hàng triệu người di cư ra nước ngoài, trong khi đó Đảng Xã hội Ý liên tục gia tăng sức mạnh, thách thức nền tảng tự do và bảo thủ truyền thống. Bắt đầu từ hai thập niên cuối của thế kỷ XIX, Ý phát triển thành một thế lực thực dân khi ép buộc Somalia, Eritrea, Libya và Dodecanneso (Dodekanisa) nằm dưới quyền cai trị của mình.
Ý liên minh trên danh nghĩa với Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung trong Liên minh Ba bên năm 1882. Tuy nhiên, vào năm 1915 Ý gia nhập Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất với cam kết sẽ nhận được đáng kể lãnh thổ. Chiến tranh ban đầu không có kết quả, do quân Ý bị tấn công trong một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài trên dãy Alpes, đạt được ít tiến triển và chịu tổn thất rất nặng. Cuối cùng, đến tháng 10 năm 1918, người Ý phát động một cuộc tấn công ồ ạt, đỉnh điểm là chiến thắng gần Vittorio Veneto. Thắng lợi của người Ý đánh dấu kết thúc chiến tranh trên Mặt trận Ý, đảm bảo giải thể Đế quốc Áo-Hung và là công cụ chủ yếu để kết thúc Thế chiến chưa đến hai tuần sau đó.
Trong chiến tranh, có trên 650.000 binh sĩ Ý và nhiều thường dân thiệt mạng và vương quốc đi đến bờ vực phá sản. Theo các hiệp định hoà bình Saint-Germain, Rapallo và Roma, Ý giành được hầu hết các lãnh thổ được hứa hẹn, song không có Dalmatia (trừ Zara), khiến các phần tử dân tộc chủ nghĩa cho rằng chiến thắng như là "bị què quặt".
Phát xít
Kích động xã hội diễn ra sau những tàn phá của chiến tranh, lấy cảm hứng từ Cách mạng Nga, dẫn đến các hành động phản cách mạng và đàn áp trên khắp nước Ý. Tổ chức tự do lo ngại một cuộc cách mạng kiểu Xô viết, họ bắt đầu tán thành Đảng Phát xít Ý có quy mô nhỏ của Benito Mussolini. Trong tháng 10 năm 1922, quân Áo đen của Đảng Phát xít quốc gia cố gắng tiến hành đảo chính ("Hành quân đến Roma"), hành động này thất bại song vào phút chót Quốc vương Vittorio Emanuele III của Ý từ chối tuyên bố tình trạng bao vây và bổ nhiệm Mussolini làm thủ tướng. Trong vài năm sau đó, Mussolini cấm chỉ toàn bộ các chính đảng và tước đoạt các quyền tự do cá nhân, do đó hình thành một chế độ độc tài. Các hành động này thu hút sự chú ý của quốc tế và cuối cùng truyền cảm hứng cho các chế độ độc tài tương tự như Đức Quốc xã hay Tây Ban Nha dưới quyền Franco.
Năm 1935, Mussolini xâm chiếm Ethiopia, khiến quốc tế xa lánh Ý và nước này rút khỏi Hội Quốc Liên; Ý liên minh với Đức Quốc xã và Đế quốc Nhật Bản, cũng như ủng hộ mạnh mẽ Francisco Franco trong nội chiến Tây Ban Nha. Năm 1939, Ý sáp nhập Albania, sau khi nắm quyền bảo hộ thực tế nước này trong nhiều thập niên. Ý tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai bên Phe Trục vào ngày 10 tháng 6 năm 1940. Dù có tiến bộ bước đầu tại Somaliland thuộc Anh và Ai Cập, song về sau người Ý chiến bại tại Đông Phi, Hy Lạp, Nga và Bắc Phi. Sau khi Đức cùng Ý tấn công vào Nam Tư, việc đàn áp kháng cự của du kích Nam Tư và các nỗ lực nhằm Ý hoá đã dẫn đến các tội ác chiến tranh của Ý
Đồng Minh bắt đầu xâm chiếm Sicilia vào tháng 7 năm 1943, dẫn đến chế độ phát xít sụp đổ và Mussolini bị hạ bệ vào ngày 25 tháng 7, Ý đầu hàng Đồng Minh. Người Đức nhanh chóng đoạt quyền kiểm soát miền bắc và miền trung Ý. Quốc gia này duy trì là một chiến trường trong giai đoạn còn lại của chiến tranh, do Đồng Minh tiến chậm từ phía nam. Tại phía bắc, người Đức lập ra nhà nước bù nhìn Cộng hòa Xã hội Ý (RSI) và lập Mussolini làm lãnh đạo. Thời kỳ sau đình chiến chứng kiến việc nổi lên một phong trào kháng chiến chống phát xít có quy mô lớn, mang tên Resistenza. Đến cuối tháng 4 năm 1945, khi thất bại hoàn toàn đang dần hiện rõ, Mussolini cố đào thoát về phía bắc, song bị du kích Ý bắt giữ và hành quyết. Tình trạng thù địch kết thúc vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, khi lực lượng Đức tại Ý đầu hàng. Gần nửa triệu người Ý thiệt mạng trong xung đột, và kinh tế Ý gần như bị phá huỷ; thu nhập bình quân vào năm 1944 ở mức thấp nhất kể từ khi bắt đầu thế kỷ XX.
Cộng hoà Ý
Ý trở thành nước cộng hoà sau một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào ngày 2 tháng 6 năm 1946, từ đó ngày này được kỷ niệm với tên gọi là ngày Cộng hoà. Đây cũng là lần đầu tiên phụ nữ Ý được trao quyền bỏ phiếu. Con trai của Vittorio Emanuele III là Umberto II buộc phải thoái vị và lưu vong. Hiến pháp Cộng hoà được phê chuẩn vào ngày 1 tháng 1 năm 1948. Theo hiệp định hoà bình với Ý năm 1947, hầu hết Venezia Giulia bị mất cho Nam Tư, và sau đó Lãnh thổ tự do Trieste bị phân chia giữa Ý và Nam Tư. Ý cũng mất toàn bộ tài sản thuộc địa, chính thức kết thúc Đế quốc Ý.
Cử tri Ý lo ngại về khả năng thế lực cộng sản tiếp quản, điều này tỏ ra là mang tính quyết định trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu lần đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 1948, khi Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo dưới quyền Alcide De Gasperi giành được chiến thắng lớn. Đến năm 1949, Ý trở thành một thành viên của NATO. Kế hoạch Marshall giúp phục hồi kinh tế Ý, Ý có một giai đoạn tăng trưởng kinh tế duy trì liên tục và thường được gọi là "kỳ tích kinh tế" đến cuối thập niên 1960. Năm 1957, Ý là một thành viên sáng lập của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), tiền thân của Liên minh châu Âu (EU).
Từ cuối thập niên 1960 cho đến đầu thập niên 1980, Ý trải qua giai đoạn náo động, có đặc trưng là khủng hoảng kinh tế (đặc biệt là sau khủng hoảng dầu mỏ 1973), xung đột xã hội lan rộng và các vụ tàn sát khủng bố do các nhóm cực đoan đối lập tiến hành, với cáo buộc có sự tham gia của tình báo Hoa Kỳ và Liên Xô.
Trong thập niên 1980, lần đầu tiên kể từ năm 1945 có hai chính phủ nằm dưới quyền lãnh đạo của các thủ tướng không thuộc Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo: Một của những người cộng hoà (Giovanni Spadolini) và một của những người xã hội (Bettino Craxi); tuy nhiên Dân chủ Cơ Đốc giáo vẫn là đảng thống trị chính. Dưới thời chính phủ của Bettino Craxi, kinh tế hồi phục và Ý trở thành quốc gia công nghiệp hoá lớn thứ năm thế giới, được quyền gia nhập nhóm G7. Tuy nhiên, hậu quả từ chính sách chi tiêu của ông là nợ quốc gia tăng vọt.
Vào đầu thập niên 1990, Ý đối diện với các thách thức trọng đại, khi cử tri yêu cầu cải cách cấp tiến do thất vọng với tình trạng tê liệt chính trị, nợ công khổng lồ và tham nhũng lan tràn (gọi là Tangentopoli) được vạch trần trong điều tra 'Mani pulite' (bàn tay sạch). Các vụ bê bối liên quan đến toàn bộ các đảng lớn, song đặc biệt là trong liên minh chính phủ: Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo từng cầm quyền gần 50 năm song đến lúc này trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và cuối cùng phải giải tán vào năm 1994, phân ly thành một vài phe phái. Những người cộng sản tái tổ chức thành một lực lượng dân chủ xã hội. Trong thập niên 1990 và 2000, các liên minh trung-hữu (do ông trùm truyền thông Silvio Berlusconi chi phối) và trung-tả (do giáo sư Romano Prodi lãnh đạo) thay nhau quản lý đất nước.
Đến cuối thập niên 2000, Ý chịu tác động nghiêm trọng do Đại khủng hoảng, trải qua 42 tháng suy giảm GDP từ năm 2008 đến năm 2013. Khủng hoảng kinh tế là một trong các vấn đề chính buộc Berlusconi phải từ chức vào năm 2011. Chính phủ bảo thủ được thay thế bằng nội các kỹ trị của Mario Monti. Sau tổng tuyển cử năm 2013, Phó bí thư của Đảng Dân chủ là Enrico Letta lập chính phủ mới, đứng đầu một đại liên minh hữu-tả. Năm 2014, gặp thách thức từ tân Bí thư Đảng Dân chủ Matteo Renzi, Letta từ chức và người thay thế là Renzi. Tân chính phủ khởi đầu các cải cách hiến pháp quan trọng như giải tán nghị viện và một luật bầu cử mới. Đến ngày 4 tháng 12 năm 2016, các cải cách hiến pháp bị bác bỏ trong trưng cầu dân ý và Renzi từ chức sau đó vài ngày; Bộ trưởng Ngoại giao Paolo Gentiloni được bổ nhiệm làm thủ tướng mới.
Địa lý
Ý nằm tại Nam Âu, giữa vĩ tuyến 35° và 47° Bắc, giữa kinh tuyến 6° và 19° Đông. Tổng diện tích quốc gia là 301.230 km², trong đó 294.020 km² là mặt đất và 7.210 km² là mặt nước. Về phía bắc, Ý có biên giới với Pháp, Thuỵ Sĩ, Áo và Slovenia, và biên giới gần như định theo đường phân thủy của dãy Alpes, bao quanh thung lũng Po và đồng bằng Veneto. Về phía nam, có bán đảo Ý và hai đảo lớn Sicilia và Sardegna trên Địa Trung Hải, cùng các đảo nhỏ hơn. Các quốc gia có chủ quyền San Marino và Thành Vatican nằm lọt trong nước Ý, còn Campione d'Italia là một lãnh thổ tách rời của Ý nằm lọt trong Thuỵ Sĩ. Ý giáp với các biển Adriatic (Adriatico), Ionia (Ionio), Tyrrhenius (Tirreno) và Ligure.
Dãy Appennini tạo thành xương sống của bán đảo, còn dãy Alpes tạo thành hầu hết biên giới phía bắc, trên dãy này có đỉnh cao nhất nước Ý là Monte Bianco với 4.810 m. Po là sông dài nhất tại Ý với 652 km, chảy từ dãy Alpes trên biên giới phía tây với Pháp và vượt qua đồng bằng Padan rồi đổ ra biển Adriatic. Năm hồ rộng nhất theo thứ tự là: Garda (367,94 km²), Maggiore (212,51 km²), Como (145,9 km²), Trasimeno (124,29 km²) và Bolsena (113,55 km²). Hầu hết lãnh thổ Ý thuộc lưu vực Địa Trung Hải.
Ý nằm tại điểm giao nhau của mảng Á-Âu và mảng châu Phi, dẫn đến có nhiều hoạt động địa chấn và núi lửa. Ý có 14 núi lửa, bốn trong số này đang hoạt động: Etna, Stromboli, Vulcano và Vesuvius. Vesuvius là núi lửa hoạt động duy nhất tại đại lục châu Âu và nổi tiếng vì từng tàn phá các thành phố Pompeii và Herculanum khi nó phun trào vào năm 79. Một vài đảo và khu đồi được tạo ra sau hoạt động núi lửa, và vẫn còn một hõm chảo hoạt động với kích cỡ lớn là Campi Flegrei phía tây bắc Napoli.
Môi trường
Sau khi phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh chóng, Ý phải đương đầu với các vấn đề môi trường trong một thời gian dài. Sau một số cải thiện, vào năm 2009 Ý đứng hạng 84 thế giới về tính bền vững sinh thái. Các công viên quốc gia chiếm khoảng 5% diện tích Ý. Trong những năm qua, Ý trở thành một trong các quốc gia hàng đầu thế giới về sản xuất năng lượng tái tạo, xếp hạng tư thế giới về công suất năng lượng Mặt trời được lắp đặt, và đứng thứ sáu về năng lượng gió vào năm 2010. Năng lượng tái tạo có mục tiêu chiếm 17% tiêu thụ năng lượng của Ý vào năm 2020.
Tuy nhiên, ô nhiễm không khí vẫn là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là tại miền bắc công nghiệp hoá, đạt đến vị trí thứ mười thế giới về phát thải cacbon dioxide công nghiệp trong thập niên 1990. Mạng lưới giao thông rộng và tắc nghẽn trong các vùng đô thị lớn gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường và sức khoẻ, song mức sương khói đã giảm mạnh kể từ thập niên 1970 và 1980 và mức lưu huỳnh điôxit đang giảm.
Nhiều nguồn nước và dải ven biển cũng bị nhiễm bẩn do hoạt động công nghiệp và nông nghiệp. Do mực nước biển dâng lên, thành phố Venezia thường xuyên bị ngập lụt trong những năm gần đây. Chất thải từ hoạt động công nghiệp không phải luôn được xử lý bằng các biện pháp hợp pháp, và điều này dẫn đến tác động về sức khoẻ thường xuyên cho cư dân những vùng bị ảnh hưởng. Ý cũng vận hành một vài lò phản ứng hạt nhân từ năm 1963 đến năm 1990, tuy nhiên sau thảm họa Chernobyl tại Liên Xô và một cuộc trưng cầu dân ý thì chương trình hạt nhân bị chấm dứt. Chính phủ đảo ngược quyết định này vào năm 2008, lập kế hoạch xây dựng bốn nhà máy điện hạt nhân theo công nghệ Pháp, tuy nhiên điều này kết thúc trong một cuộc trưng cầu dân ý sau thảm hoạ hạt nhân Fukushima tại Nhật Bản. Nạn phá rừng, phát triển xây dựng bất hợp pháp và quản lý đất đai yếu kém dẫn đến xói mòn đáng kể tại khắp các vùng núi của Ý, dẫn đến các thảm hoạ sinh thái lớn như lũ đập Vajont năm 1963, các vụ lở đất Sarno năm 1998 và Messina năm 2009.
Động thực vật
Ý có mức độ đa dạng sinh học động vật cao nhất tại châu Âu, với trên 57.000 loài được ghi nhận, chiếm hơn một phần ba tổng số động vật của châu Âu. Bán đảo Ý là trung tâm của Địa Trung Hải, tạo thành một hành lang giữa Trung Âu và Bắc Phi, và có 8.000 km đường bờ biển. Ý cũng tiếp nhận các loài từ Balkan, Á-Âu, Trung Đông. Cấu trúc địa chất đa dạng của Ý, bao gồm Alpes và Appennini, vùng rừng Trung Ý, và đất cây bụi garigue và maquis tại miền nam, cũng góp phần vào đa dạng khí hậu và môi trường sống.
Hệ động vật Ý gồm có 4.777 loài đặc hữu, như dơi tai dài Sardegna, hươu đỏ Sardegna, kỳ giông kính phương Nam, cóc bụng vàng Appennini hay rùa biển Sicilia. Có 102 loài thú tại Ý, như macmot Alpes, chuột chù Etrusca (thú nhỏ nhất thế giới) và chuột tuyết châu Âu; các loài thú lớn được chú ý là chó sói Ý, gấu nâu Marsica, sơn dương Pyrénées, dê núi Alpes, cá heo răng nhám, nhím mào và hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải. Ý cũng ghi nhận 516 loài chim và 56213 loài nhuyễn thể.
Hệ thực vật từng được ước tính gồm có khoảng 5.500 loài thực vật có mạch. Tuy nhiên, , 6.759 loài được ghi nhận trong Ngân hàng dữ liệu thực vật có mạch Ý. Về mặt địa thực vật, hệ thực vật Ý được chia sẻ giữa vùng phía bắc (circumboreal) và vùng Địa Trung Hải. Ý là một bên ký kết Công ước Bern về bảo hộ môi trường hoang dã và tự nhiên châu Âu, và Chỉ dẫn môi trường sống, chúng đều cung cấp sự bảo hộ đối với động thực vật Ý.
Khí hậu
Nhờ bán đảo trải dài theo vĩ tuyến và địa thể hầu hết là núi non tại nội địa, nên khí hậu Ý đa dạng cao độ. Tại hầu hết các vùng nội địa miền bắc và miền trung, khí hậu thay đổi từ cận nhiệt đới ẩm đến lục địa ẩm và đại dương. Đặc biệt, khí hậu vùng địa lý thung lũng Po hầu hết mang tính lục địa, có mùa đông khắc nghiệt và mùa hè nóng.
Các khu vực ven biển Liguria, Toscana và hầu hết miền nam thường ứng với khuôn mẫu của khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen Csa). Điều kiện tại các khu vực ven biển của bán đảo rất khác biệt so với các vùng cao và thung lũng nội địa, đặc biệt là trong các tháng mùa đông khi những nơi cao hơn có xu hướng lạnh, ẩm và thường có tuyết. Các khu vực ven biển có mùa đông ôn hoà còn mùa hè thì ấm và thường khô, song các thung lũng vùng thấp có thể khá nóng trong mùa hè. Nhiệt độ mùa đông trung bình dao động từ 0 °C trên dãy Alpes cho đến 12 °C tại Sicilia, cũng như vậy nhiệt độ mùa hè trung bình dao động từ 20 °C đến 25 °C.
Chính trị
Chính phủ
Ý có chế độ nghị viện nhất thể từ ngày 2 tháng 6 năm 1946, khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ thông qua trưng cầu dân ý hiến pháp. Tổng thống Ý là nguyên thủ quốc gia, được Quốc hội bầu ra trong phiên họp toàn thể với nhiệm kỳ 7 năm. Ý có một hiến pháp dân chủ thành văn, là kết quả từ công lao của Hội đồng Lập hiến gồm đại biểu của toàn bộ các lực lượng chống phát xít có đóng góp trong việc đánh bại lực lượng quốc xã và phát xít trong nội chiến.
Chính phủ nghị viện Ý dựa trên hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ. Nghị viện Ý theo chế độ lưỡng viện hoàn toàn: Hạ nghị viện (Camera dei deputati, họp tại Palazzo Montecitorio) và Thượng nghị viện (họp tại Palazzo Madama) có quyền lực tương đương. Thủ tướng có danh xưng chính thức là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Presidente del Consiglio dei Ministri), là người đứng đầu chính phủ của Ý. Thủ tướng và nội các do tổng thống bổ nhiệm, song cần phải qua một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện để được nhậm chức. Hội đồng Bộ trưởng nắm giữ quyền lực hành pháp, thủ tướng cần phải được cơ cấu này tán thành để thi hành hầu hết các hoạt động chính trị. Chức vụ thủ tướng của Ý tương tự như tại hầu hết các hệ thống nghị viện khác, song lãnh đạo của chính phủ Ý không có quyền yêu cầu giải tán Nghị viện.
Khác biệt nữa với các chức vụ tương tự là trách nhiệm chính trị tổng thể về tình báo được trao cho thủ tướng. Theo tinh thần đó, thủ tướng thi hành quyền lực tuyệt đối về các chính sách tình báo phối hợp, xác định các nguồn tài chính và củng cố an ninh mạng quốc gia; áp dụng và bảo vệ bí mật nhà nước; uỷ quyền cho các nhân viên tiến hành hoạt động tại Ý và nước ngoài.
Một điểm khác thường của Nghị viện Ý là quyền đại diện được trao cho các công dân Ý thường trú tại nước ngoài: 12 hạ nghị sĩ và 6 thượng nghị sĩ được bầu ra trong bốn khu vực bầu cử hải ngoại riêng biệt. Ngoài ra, Thượng viện Ý có đặc điểm là một số lượng nhỏ nghị sĩ nhậm chức trọn đời, do tổng thống bổ nhiệm, "vì những công lao ái quốc nổi bật trong lĩnh vực xã hội, khoa học, nghệ thuật hoặc văn học". Các cựu tổng thống mặc nhiên là các thượng nghị sĩ trọn đời.
Ba chính đảng lớn của Ý là Đảng Dân chủ (Partito Democratico), Forza Italia (nước Ý tiến bước) và Phong trào Năm sao (Movimento 5 Stelle). Trong tổng tuyển cử năm 2013, ba đảng này giành được 579 trong số 630 ghế tại Hạ nghị viện và 294 trong số 315 ghế tại Thượng nghị viện. Hầu hết các ghế còn lại thuộc về một khối bầu cử đoản mệnh được thành lập nhằm ủng hộ Thủ tướng Mario Monti sắp phải ra đi.
Pháp luật
Hệ thống tư pháp Ý dựa trên luật La Mã, được bộ luật Napoléon và các đạo luật sau này phỏng theo. Toà án Tối cao Ý xét xử phúc thẩm cả các vụ án hình sự và dân sự. Toà án Hiến pháp Ý (Corte Costituzionale) ra quyết định về tính phù hợp của luật với hiến pháp, đây là một cơ cấu mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ khi xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX, tội phạm có tổ chức và các tổ chức tội phạm tại Ý đã xâm nhập sinh hoạt xã hội và kinh tế của nhiều khu vực tại miền nam Ý, nổi danh nhất trong số đó là Mafia Sicilia, liên minh này về sau phát triển ra một số quốc gia khác như Hoa Kỳ. Các khoản thu của Mafia có thể chiếm đến 9% GDP của Ý.
Một báo cáo vào năm 2009 xác định Mafia hiện diện mạnh tại 610 xã, tổng dân số các xã này là 13 triệu và chiếm 14,6% GDP của Ý. Băng đảng 'Ndrangheta tập trung tại vùng Calabria có lẽ là tổ chức tội phạm mạnh nhất hiện nay tại Ý, chiếm đến 3% GDP toàn quốc. Tuy nhiên, với 0,013 vụ trên 1.000 dân, Ý chỉ có tỷ lệ giết người cao thứ 47 trong một khảo sát gồm 62 quốc gia.
Thực thi pháp luật tại Ý là nhiệm vụ của nhiều lực lượng cảnh sát. Polizia di Stato (cảnh sát nhà nước) là cảnh sát quốc gia dân sự của Ý. Ngoài các nhiệm vụ tuần tra, điều tra và thực thi pháp luật, họ còn tuần tra hệ thống đường cao tốc, giám sát an toàn của đường sắt, cầu và đường thủy. Carabinieri là tên gọi phổ biến của Arma dei Carabinieri, một quân đoàn quân sự giống như hiến binh và họ có các nhiệm vụ cảnh sát. Họ cũng giữ vai trò là quân cảnh của lực lượng vũ trang Ý. Guardia di Finanza (bảo vệ tài chính) là lực lượng nằm dưới quyền của Bộ Kinh tế và Tài chính, có vai trò của lực lượng cảnh sát, chịu trách nhiệm về an toàn tài chính, kinh tế, tư pháp và công cộng. Polizia Penitenziaria (cảnh sát trại cải tạo) điều hành hệ thống nhà tù Ý và quản lý việc vận chuyển tù nhân.
Ngoại giao
Ý là thành viên sáng lập của Cộng đồng châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu, và của NATO. Ý gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1955, và là một thành viên cũng như là bên ủng hộ mạnh mẽ của nhiều tổ chức quốc tế, như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch/Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Ủy hội châu Âu, và Sáng kiến Trung Âu. Ý đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của các tổ chức quốc tế như OSCE vào năm 2018, G8 vào năm 2017 và Hội đồng châu Âu từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2014. Ý cũng là một thành viên không thường trực thường xuyên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, gần đây là vào năm 2017.
Ý ủng hộ mạnh mẽ chính trị quốc tế đa phương, tán thành Liên Hợp Quốc và các hoạt động an ninh quốc tế của tổ chức này. , Ý đã triển khai 5.296 binh sĩ ra bên ngoài, tham gia vào 33 sứ mệnh của Liên Hợp Quốc và NATO tại 25 quốc gia trên thế giới. Ý triển khai quân đến hỗ trợ các sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc tại Somalia, Mozambique, và Đông Timor và cung cấp hỗ trợ cho hoạt động của NATO và Liên Hợp Quốc tại Bosnia, Kosovo và Albania. Ý triển khai 2.000 binh sĩ tại Afghanistan nhằm hỗ trợ Chiến dịch Đảm bảo tự do (OEF) từ tháng 2 năm 2003.
Ý ủng hộ các nỗ lực đa phương nhằm tái thiết và ổn định Iraq, song triệt thoái lực lượng quân đội gồm 3.200 binh sĩ vào năm 2006, chỉ duy trì những người điều hành nhân đạo và các nhân viên dân sự khác, Trong tháng 8 năm 2006, Ý triển khai khoảng 2.450 binh sĩ tại Liban trong sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc. Ý là một trong những bên tài trợ nhiều nhất cho Chính quyền Dân tộc Palestine, đóng góp 60 triệu euro chỉ trong năm 2013.
Quân sự
Các lực lượng vũ trang Ý bao gồm Lục quân, Hải quân, Không quân và Carabinieri, nằm dưới quyền chỉ huy của Hội đồng Quốc phòng Tối cao do Tổng thống chủ trì. Kể từ năm 2005, phục vụ quân đội là việc tự nguyện. Năm 2010, quân đội Ý có 293.202 quân nhân tại ngũ, trong đó 114.778 người thuộc Carabinieri. Tổng chi tiêu quân sự của Ý vào năm 2016 xếp hạng mười một thế giới, với 27,9 tỷ USD, tương đương 1,5% GDP quốc gia. Nằm trong chiến lược chia sẻ hạt nhân của NATO, Hoa Kỳ đưa 90 bom hạt nhân đến Ý, đặt tại các căn cứ không quân Ghedi và Aviano.
Lục quân Ý là lực lượng phòng thủ trên bộ quốc gia, có quân số 109.703 vào năm 2008. Các loại chiến xa được biết đến nhiều nhất của Lục quân Ý là xe chiến đấu bộ binh Dardo, pháo tự hành chống tăng Centauro và xe tăng Ariete, và trong số máy bay của Lục quân Ý có trực thăng chiến đấu Mangusta, trong thời gian qua được triển khai trong các sứ mệnh của EU, NATO và Liên Hợp Quốc. Lục quân Ý cũng bố trí một lượng lớn các loại xe bọc thép Leopard 1 và M-113.
Hải quân Ý vào năm 2008 có 35.200 quân nhân tại ngũ cùng với 85 tàu được biên chế và 123 máy bay. Đây là một lực lượng hải quân có năng lực hoạt động toàn cầu. Trong thời hiện đại, Hải quân Ý tham gia vào nhiều hoạt động gìn giữ hoà bình liên hiệp khắp thế giới. Không quân Ý vào năm 2008 có 43.882 quân nhân, vận hành 585 máy bay, bao gồm 219 máy bay chiến đấu và 114 trực thăng. Năng lực vận chuyển được đảm bảo bằng một phi đội gồm 27 C-130J và C-27J Spartan.
Carabinieri là lực lượng hiến binh và quân cảnh của Ý, giữ trật tự quân sự và dân sự cùng các lực lượng cảnh sát khác. Các nhánh khác nhau của Carabinieri được cho là thuộc các bộ khác nhau trong mỗi chức năng riêng biệt, lực lượng này báo cáo với Bộ Nội vụ khi duy trì trật tự và an ninh công cộng.
Hành chính
Ý được chia thành 20 vùng (regioni), trong đó 5 vùng có vị thế tự trị đặc biệt, cho phép họ có thể ban hành pháp luật về một số vấn đề địa phương của mình. Quốc gia được chia tiếp thành 14 thành phố trung tâm (città metropolitane) và 93 tỉnh (provincia) (đến năm 2016), và chúng lại được chia tiếp thành 8.047 khu tự quản (comuni). Hiến pháp sửa đổi năm 2001 trao thêm nhiều quyền tự chủ cho các vùng, đặc biệt là quyền lập pháp và giảm đáng kể sự can thiệp của trung ương vào công việc của các vùng. Trong tháng 6 năm 2006, cử tri bác bỏ trong trưng cầu dân ý về các đề xuất được cho là sẽ dẫn đến một nhà nước liên bang, với tỷ lệ 61,7% trên 38,3%. Kết quả khác biệt đáng kể giữa các vùng, từ 55,3% ủng hộ tại Veneto đến 82% phản đối tại Calabria. Mỗi vùng có một nghị viện tuyển cử, được gọi là Consiglio Regionale (hội đồng vùng), hoặc Assemblea Regionale tại Sicilia, và một chính quyền gọi là Giunta Regionale (uỷ ban vùng), đứng đầu là một thống đốc gọi là Presidente della Giunta Regionale (chủ tịch uỷ ban vùng) hoặc Presidente della Regione (chủ tịch vùng).
Kinh tế
Ý có kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa, với quy mô lớn thứ ba trong khu vực đồng euro và lớn thứ tám thế giới vào năm 2015. Quốc gia này là một thành viên sáng lập của G7, khu vực đồng euro và OECD. Ý được nhìn nhận là một trong các quốc gia công nghiệp hoá hàng đầu thế giới, và là một quốc gia chủ đạo trong mậu dịch quốc tế. Đây là một quốc gia phát triển cao độ, có chất lượng sinh hoạt cao thứ tám thế giới vào năm 2005 và đứng thứ 26 về chỉ số phát triển con người vào năm 2015. Ý được biết đến với ngành kinh doanh sáng tạo và cải tiến, lĩnh vực nông nghiệp quy mô lớn và cạnh tranh (Ý là nước sản xuất rượu vang lớn nhất thế giới năm 2011), có ảnh hưởng và có chất lượng cao trong các ngành ô tô, máy móc, thực phẩm, thiết kế và thời trang.
Ý là quốc gia sản xuất lớn thứ sáu thế giới, với đặc điểm là có số lượng công ty đa quốc gia ít hơn so với các nền kinh tế khác có quy mô tương đương, và có lượng lớn các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ năng động, tập trung vào một số khu công nghiệp là xương sống của công nghiệp Ý. Khu vực chế tạo thường tập trung vào xuất khẩu thị trường ngách và các sản phẩm xa xỉ, một mặt nó kém năng lực cạnh tranh về số lượng, mặt khác do có sản phẩm chất lượng hơn nên Ý có năng lực hơn trong cạnh tranh với Trung Quốc và các nền kinh tế châu Á mới nổi khác vốn dựa vào chi phí lao động thấp. Ý là nước xuất khẩu lớn thứ bảy thế giới vào năm 2016, các đối tác mậu dịch lớn nhất của Ý là các thành viên khác trong Liên minh châu Âu, chiếm hơn một nửa giao dịch. Các đối tác mậu dịch lớn nhất của Ý trong EU là Đức (12,9%), Pháp (11,4%) và Tây Ban Nha (7,4%) theo dữ liệu năm 2011.. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Ý gồm ô tô (Fiat Group, Aprilia, Ducati, Piaggio), hoá chất, sản phẩm hoá dầu, hàng điện tử (Eni, Enel, Edison), hàng không và công nghệ quốc phòng (Alenia, Agusta, Finmeccanica), vũ khí (Beretta); nhưng các sản phẩm nổi tiếng nhất lại thuộc lĩnh vực thời trang (Armani, Valentino, Versace, Dolce & Gabbana, Benetton, Prada, Gucci, Luxottica), công nghiệp thực phẩm (Barilla Group, Martini & Rossi, Campari, Parmalat), xe hơi hạng sang (Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani) và du thuyền (Ferretti, Azimut).
Ý là bộ phận của thị trường chung châu Âu, một thị trường có trên 500 triệu người tiêu dùng. Một vài chính sách thương mại nội địa được xác định theo các hiệp định giữa các thành viên Liên minh châu Âu và bởi cơ quan lập pháp Liên minh châu Âu. Ý cho lưu hành tiền tệ chung châu Âu là euro vào năm 2002. Khu vực đồng euro có khoảng 330 triệu công dân, chính sách tiền tệ của nó được xác định bởi Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Ý chịu tổn thất rất nặng từ khủng hoảng tài chính 2007–08 và sau đó là khủng hoảng nợ công châu Âu, làm trầm trọng thêm các vấn đề cấu trúc của quốc gia. Thực tế, sau khi tăng trưởng GDP mạnh mẽ 5–6% mỗi năm từ thập niên 1950 đến đầu thập niên 1970, và một cuộc giảm tốc không ngừng trong thập niên 1980-90, quốc gia này gần như đình đốn trong thập niên 2000. Diễn ra các nỗ lực chính trị nhằm khôi phục kinh tế bằng cách chi tiêu công ồ ạt, cuối cùng dẫn đến nợ công tăng vọt, ở mức trên 135% GDP vào năm 2014, xếp thứ hai trong Liên minh châu Âu chỉ sau Hy Lạp (với 174%). Phần lớn nhất trong nợ công Ý thuộc về các chủ nợ người Ý, đây là một khác biệt lớn với Hy Lạp, và mức nợ hộ gia đình thấp hơn nhiều so với mức trung bình của OECD.
Phân chia Nam-Bắc rộng thêm là một yếu tố chính của nhược điểm kinh tế-xã hội Ý. Đáng chú ý là có khác biệt rất lớn về thu nhập theo thống kê giữa các vùng và đô thị miền bắc với miền nam. Vùng giàu nhất là Lombardia đạt được mức GDP bình quân bằng 127% của toàn quốc, còn vùng nghèo nhất là Calabria chỉ đạt 61% Tỷ lệ thất nghiệp của Ý (11,9%) cao hơn đôi chút so với mức trung bình của khu vực đồng euro (2015), song mức trung bình của miền bắc là 7,9% và của miền nam là 20,2%.
Nông nghiệp
Theo điều tra nông nghiệp toàn quốc, Ý có 1,5 triệu trang trại vào năm 2010 (giảm 32,4% từ năm 2000), trên diện tích 12,7 triệu ha (63% thuộc miền nam). Đại đa số (99%) có quy mô gia đình và nhỏ, trung bình chỉ đạt kích thước 8 ha. Trong tổng diện tích mặt đất sử dụng cho nông nghiệp (không tính lâm nghiệp), đồng ruộng lương thực có hạt chiếm 31%, vườn cây ô liu 8,2%, vườn nho 5,4%, vườn cây cam chanh 3,8%, ruộng củ cải đường 1,7%, và làm vườn nhà 2,4%. Phần còn lại chủ yếu dành cho đồng cỏ (25,9%) và lương thực chăn nuôi (11,6%).
Ý là nước sản xuất rượu vang hàng đầu thế giới, và cũng đứng hàng đầu về dầu ô liu, các loại quả (táo, ô liu, nho, cam, chanh tây, lê, cà rốt, hạt phỉ, đào, anh đào, mận mơ, dâu đất và dương đào), và rau (đặc biệt là atisô và cà chua). Các loại rượu vang nổi tiếng nhất của Ý có lẽ là Chianti vùng Toscana và Barolo vùng Piemonte. Các loại rượu vang nổi tiếng khác là Barbaresco, Barbera d'Asti, Brunello di Montalcino, Frascati, Montepulciano d'Abruzzo, Morellino di Scansano, và các loại rượu vang sủi Franciacorta và Prosecco. Các hàng hoá chất lượng chuyên biệt của Ý, đặc biệt là các loại rượu vang đề cập ở trên và các loại pho mát khu vực, thường được bảo hộ dưới nhãn đảm bảo chất lượng DOC/DOP. Chứng nhận chỉ dẫn địa lý này được cho là quan trọng nhằm tránh lẫn lộn với các sản phẩm thế phẩm sản xuất hàng loạt có chất lượng thấp.
Hạ tầng
Năm 2004, lĩnh vực giao thông tại Ý đạt doanh thu khoảng 119,4 tỷ euro, sử dụng 935.700 lao động trong 153.700 doanh nghiệp. Về mạng lưới đường bộ quốc gia, vào năm 2002 có 668.721 km đường có thể sử dụng được tại Ý, trong đó có 6.487 km đường cao tốc, thuộc sở hữu nhà nước song do Atlantia điều hành riêng. Năm 2005, có khoảng 34.667.000 ô tô chở khách (590 xe trên 1.000 dân) và 4.015.000 xe chở hàng lưu thông trên mạng lưới đường bộ quốc gia. Hạn chế tốc độ trong các đô thị thường là 50 km/h và ít phổ biến hơn là 30 km/h. Đường cao tốc đôi đầu tiên trên thế giới khánh thành tại Ý vào năm 1924, nối giữa Milano và Varese. Đến cuối thập niên 1930, trên 400 km đường cao tốc đã được xây dựng trên khắp nước Ý, liên kết các thành phố và thị trấn nông thôn. Hệ thống đường cao tốc (autostrade) của Ý có giới hạn tốc độ tiêu chuẩn là 130 km/h đối với ô tô. Các điều khoản pháp luật cho phép các nhà khai thác xác định giới hạn 150 km/h tại đoạn đường họ được nhượng quyền trên cơ sở tình nguyện nếu đáp ứng một số điều kiện.
Đến năm 2011, tổng chiều dài đường sắt Ý là 19.394 km, trong đó 18.071 km theo khổ tiêu chuẩn và 11.322 km được điện khí hoá. Các tuyến hoạt động tổng cộng dài 16.723 km. Phần lớn mạng lưới đường sắt Ý nằm dưới quyền quản lý và điều hành của Đường sắt Nhà nước Ý (Ferrovie dello Stato Italiane), là công ty quốc doanh. Các cơ quan cấp khu vực khác hầu hết thuộc sở hữu của các thể chế công cộng như chính quyền vùng. Đường sắt tại Ý được chính phủ trợ cấp, nhận được 8,1 tỷ euro vào năm 2009. Các công việc nhằm tăng tốc độ chạy thương mại của đường sắt đã bắt đầu vào năm 1967: Tuyến "siêu trực tiếp" Roma-Firenze" được xây dựng cho các đoàn tàu có tốc độ lên đến 230 km/h, giảm hành trình xuống dưới hai giờ. Đây là tuyến tàu cao tốc đầu tiên được xây dựng tại châu Âu, và bắt đầu hoạt động vào năm 1977. Ngày nay, có thể đi từ Roma đến Milano vòng vòng dưới ba tiếng (2h 55') bằng tàu cao tốc thế hệ mới Frecciarossa 1000. Ý có 11 cửa khẩu đường sắt vượt dãy Alpes nối sang các quốc gia láng giềng.
Ý có 2.400 km đường thủy có thể thông hành, thuộc các loại hình giao thông thương mại khác nhau, song hạn chế về tổng giá trị. Tại các vùng Lombardia và Veneto của miền bắc, các tuyến phà hàng ngày hoạt động trên hồ Garda và hồ Como để liên kết các thị trấn và làng mạc hai bên hồ. Các thủy đạo tại Venezia, bao gồm kênh đào lớn, giữ vai trò là mạng lưới giao thông thiết yếu đối với cư dân và du khách. Năm 2004, Ý có khoảng 30 sân bay lớn (bao gồm hai trung tâm Malpensa tại Milano và Leonardo da Vinci tại Roma) và 43 cảng biển lớn (Genova là cảng lớn nhất của Ý và lớn thứ nhì tại Địa Trung Hải). Năm 2005, Ý duy trì một phi đội dân sự khoảng 389.000 đơn vị và một hạm đội 581 tàu.
Ý cần nhập khẩu khoảng 80% nhu cầu năng lượng của mình. Quốc gia này tiêu thụ lượng năng lượng sơ cấp đạt 185 tấn dầu quy đổi vào năm 2010, hầu hết đến từ các nhiên liệu hoá thạch. Trong số các nguồn được dùng nhiều nhất có dầu mỏ (chủ yếu cho giao thông), khí đốt tự nhiên (dùng để phát điện và sưởi ấm), than đá và các nguồn tái tạo. Năng lượng gió và mặt trời phát triển nhanh chóng do được khuyến khích mạnh. Năm 2014, Ý tiêu thụ 291.083 TWh (4.790 kWh/người) điện năng, mức tiêu thụ hộ gia đình là 1.057 kWh/người. Ý là quốc gia nhập khẩu thuần điện năng: Nhập khẩu 46.747,5 GWh và xuất khẩu 3.031,1 GWh vào năm 2014. Tổng sản lượng vào năm 2014 là 279,8 TWh. Các nguồn năng lượng chính là khí đốt và thủy điện. Ý không có năng lượng hạt nhân do bị cấm theo trưng cầu dân ý năm 1987. Tại Toscana đã xây dựng nhà máy địa nhiệt đầu tiên. Năm 2014, sản lượng địa nhiệt là 5,92 TWh. Toàn bộ các nhà máy địa nhiệt của Ý cho đến nay đều nằm tại Toscana.
Ý không đầu tư đủ để duy trì hạ tầng cung cấp nước uống và cải thiện vệ sinh, trong khi thuế nước và vệ sinh thuộc hàng thấp nhất tại Liên minh châu Âu. Luật Galli được thông qua vào năm 1993 nhằm mục tiêu là nâng cao mức đầu tư và nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ bằng cách hợp nhất các nhà cung cấp dịch vụ, khiến chúng có hiệu quả hơn và gia tăng mức thu hồi chi phí thông qua nguồn thu từ thuế. Bất chấp các cải cách này, mức đầu tư suy giảm và vẫn còn xa mới đủ.
Khoa học
Qua nhiều thế kỷ, Ý bồi dưỡng một cộng đồng khoa học có nhiều khám phá lớn về vật lý học và các ngành khoa học khác. Vào thời Phục hưng, các nhà bác học Ý như Leonardo da Vinci (1452–1519), Michelangelo (1475–1564) và Leone Battista Alberti (1404–72) có các đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực, như sinh học, kiến trúc và kỹ thuật. Galileo Galilei (1564–1642) là một nhà vật lý học, toán học và thiên văn học, ông giữ vai trò lớn trong cách mạng khoa học. Thành tựu của ông gồm có cải tiến trọng yếu về kính thiên văn và hoạt động quan sát thiên văn sau đó, cùng chiến thắng chung cuộc của thuyết Kopernik trước thuyết địa tâm.
Các nhà thiên văn học khác như Giovanni Domenico Cassini (1625–1712) và Giovanni Schiaparelli (1835–1910) có nhiều khám phá quan trọng về hệ Mặt trời. Trong toán học, Joseph Louis Lagrange (tên khai sinh là Giuseppe Lodovico Lagrangia, 1736–1813) hoạt động tích cực trước khi rời Ý. Fibonacci (khoảng 1170–1250) và Gerolamo Cardano (1501–76) tạo ra các tiến bộ căn bản trong toán học. Luca Pacioli thiết lập kế toán cho thế giới. Nhà vật lý học Enrico Fermi (1901–54) lãnh đạo một nhóm tại Chicago để phát triển lò phản ứng hạt nhân đầu tiên và cũng nổi tiếng vì nhiều đóng góp khác của ông cho vật lý học, như đồng phát triển thuyết lượng tử và là một trong các nhân vật chủ chốt trong việc tạo ra vũ khí hạt nhân. Ông cùng với Emilio G. Segrè (1905–89, khám phá các nguyên tố tecneti và astatin, và phản proton), Bruno Rossi (1905–93, tiên phong trong bức xạ vũ trụ và thiên văn học tia X) và một số nhà vật lý học Ý bị buộc phải rời khỏi Ý trong thập niên 1930 do các đạo luật phát xít chống người Do Thái.
Các nhà vật lý học nổi bật khác: Amedeo Avogadro (nổi tiếng nhất vì đóng góp vào thuyết phân tử, cụ thể là định luật Avogadro và hằng số Avogadro), Evangelista Torricelli (phát minh áp kế), Alessandro Volta (phát minh pin điện), Guglielmo Marconi (phát minh radio), Ettore Majorana (khám phá hạt Majorana), Carlo Rubbia (lãnh đạo nhóm khám phá các hạt W và Z tại CERN). Về sinh học, Francesco Redi là người đầu tiên thách thức thuyết tự sinh bằng việc chứng minh rằng giòi bắt nguồn từ trứng ruồi và ông miêu tả chi tiết 180 loài ký sinh, Marcello Malpighi thành lập giải phẫu vi mô, Lazzaro Spallanzani tiến hành nghiên cứu quan trọng về các chức năng thân thể, sinh sản động vật, và thuyết tế bào. Camillo Golgi khám phá bộ máy Golgi, mở đường cho việc thừa nhận học thuyết neuron, Rita Levi-Montalcini khám phá hệ số phát triển tế bào thần kinh. Về hoá học, Giulio Natta nhận giải Nobel cho công trình của bà về polyme cao. Giuseppe Occhialini khám phá phân rã pion hoặc pi-meson vào năm 1947. Ennio de Giorgi giải bài toán Bernstein về mặt cực tiểu, và bài toán thế kỷ XIX của Hilbert về quy tắc giải phương trình vi phân riêng phần elip.
Du lịch
Ý tiếp đón 50,7 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2015, đứng thứ năm thế giới. Tổng đóng góp của lữ hành và du lịch vào GDP (bao gồm các tác động lớn hơn về đầu tư, chuỗi cung cấp và thu nhập phát sinh) là 162,7 tỷ euro vào năm 2014 (10,1% GDP) và tạo ra 1.082.000 việc làm trực tiếp vào năm 2014 (4,8% tổng số công việc).
Ý nổi tiếng với các tuyến du lịch văn hoá và môi trường, và sở hữu 53 di sản thế giới tính đến năm 2017, đứng thứ nhất toàn cầu. Milano là thành phố được tham quan nhiều thứ sáu tại châu Âu và thứ 14 thế giới, đón tiếp bình quân 7,65 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2016; còn thủ đô Roma lần lượt xếp thứ 8 và 16, với 7,12 triệu lượt du khách quốc tế. Ngoài ra, Venezia và Firenze cũng nằm trong 100 điểm đến hàng đầu thế giới.
Các cảnh quan được tham quan nhiều nhất tại Ý là Đấu trường La Mã và Quảng trường La Mã, Pompeii, Bảo tàng triển lãm Uffizi, Bảo tàng triển lãm Viện hàn lâm Firenze, Castel Sant'Angelo, Công viên Boboli, Venaria Reale, Bảo tàng Ai Cập Torino, Nhà triển lãm Borghese, Cung điện hoàng gia Caserta, Bảo tàng Cenacolo Vinciano, Villa d'Este, Cung điện Pitti, Các điểm khai quật tại Herculaneum, Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Napoli, Nhà thờ nhỏ Medici, Điểm khai quật và bảo tàng Ostia Antica, Grotta Azzurra (động màu lam), Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Venezia, Hồ Como và Nhà triển lãm mỹ thuật Brera.
Nhân khẩu
Đến cuối năm 2013, Ý có 60.782.668 cư dân. Mật độ dân số là 202 người/km², cao hơn hầu hết các quốc gia Tây Âu. Tuy nhiên, phân bổ dân cư không đồng đều, khu vực dân cư tập trung nhất là thung lũng Po (chiếm gần một nửa dân số toàn quốc) và các vùng đô thị của Roma và Napoli, trong khi các vùng rộng lớn như dãy Alpes và Appennini, các cao nguyên Basilicata và đảo Sardegna có dân cư rất thưa thớt.
Dân số Ý tăng gần gấp đôi trong thế kỷ XX, song mô hình tăng trưởng cực kỳ không đồng đều do di cư nội bộ quy mô lớn từ miền nam (còn mang tính nông thôn) đến các thành phố công nghiệp tại miền bắc, hiện tượng này diễn ra do kết quả của kỳ tích kinh tế Ý thập niên 1950–1960. Tỷ suất sinh và số ca sinh cao duy trì cho đến thập niên 1970, sau đó bắt đầu giảm mạnh, dẫn đến dân số già hoá nhanh chóng. Đến cuối thập niên 2000, một phần năm người Ý trên 65 tuổi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây Ý trải qua tăng trưởng mức sinh đáng kể. Tổng tỷ suất sinh cũng tăng từ mức thấp kỷ lục 1,18 trẻ mỗi phụ nữ vào năm 1995 lên 1,41 vào năm 2008.
Tổng tỷ suất sinh được dự kiến đạt 1,6–1,8 vào năm 2030.
Từ cuối thế kỷ XIX cho đến thập niên 1960, Ý là một quốc gia xuất cư hàng loạt. Giai đoạn từ năm 1898 đến năm 1914 là đỉnh cao của làn sóng người Ý tha hương, với khoảng 750.000 người Ý xuất cư mỗi năm. Có trên 25 triệu người Ý xuất cư và đây được xem là cuộc di cư hàng loạt lớn nhất trong lịch sử đương đại. Ngày nay, có trên 4,1 triệu công dân Ý sống tại nước ngoài, và có ít nhất 60 triệu người hoàn toàn hoặc có một phần nguồn gốc Ý, nhiều nhất là tại Brasil, Argentina và Hoa Kỳ.
Các vùng đô thị lớn
Nhập cư
Năm 2016, tại Ý có khoảng 5,05 triệu cư dân nước ngoài, chiếm 8,3% tổng dân số. Số liệu này bao gồm hơn nửa triệu trẻ em sinh tại Ý của công dân nước ngoài, tức thế hệ di dân thứ hai, song loại trừ những người nước ngoài có được quyền công dân Ý sau đó; Năm 2016, có khoảng 201.000 người nhận được quyền công dân Ý (130.000 vào năm 2014). Số liệu chính thức cũng loại trừ các di dân bất hợp pháp, theo ước tính vào năm 2008 thì con số này ít nhất là 670.000.
Từ đầu thập niên 1980, Ý thay đổi từ một xã hội đồng nhất về ngôn ngữ và văn hoá sang bắt đầu thu hút dòng người di cư nước ngoài với quy mô đáng kể. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, tiếp đến là mở rộng Liên minh châu Âu vào năm 2004 và 2007, đã xuất hiện các làn sóng di cư quy mô lớn đến từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa cũ tại Đông Âu (đặc biệt là Romania, Albania, Ukraina và Ba Lan). Một nguồn di dân cũng quan trọng ngang bằng là các quốc gia Bắc Phi lân cận (đặc biệt là Maroc, Ai Cập và Tunisia), với số lượng tăng vọt do kết quả của Mùa xuân Ả Rập từ năm 2011. Ngoài ra, gần đây ghi nhận gia tăng nhập cư từ châu Á-Thái Bình Dương (đáng chú ý là Trung Quốc và Philippines) và Mỹ Latinh.
Vào năm 2012, có khoảng một triệu công dân Romania (khoảng 10% trong số đó thuộc dân tộc Di-gan) đăng ký cư trú chính thức tại Ý, là quốc gia đứng đầu về lượng người nhập cư, tiếp đến là người Albania và Maroc. Số lượng người Romania không đăng ký khó ước tính được, song vào năm 2007 có nguồn cho rằng con số này có thể là nửa triệu hoặc cao hơn. Tổng cộng, đến cuối thập niên 2000, cư dân Ý sinh tại nước ngoài đến từ: châu Âu (54%), châu Phi (22%), châu Á (16%), châu Mỹ (8%) và châu Đại Dương (0,06%). Phân bổ di dân không đồng đều ở mức độ lớn: 87% di dân sống tại các phần miền bắc và miền trung, trong khi chỉ 13% sống tại nửa phía nam.
Ngôn ngữ
Tiếng Ý là ngôn ngữ chính thức của Ý. Theo ước tính có khoảng 64 triệu người nói tiếng Ý bản ngữ và tổng số người nói tiếng Ý là khoảng 85 triệu, bao gồm những người sử dụng nó như ngôn ngữ thứ hai. Ý có nhiều phương ngữ/ngôn ngữ khu vực;, tuy nhiên việc thiết lập một hệ thống giáo dục quốc gia đã dẫn đến suy giảm tính đa dạng về các ngôn ngữ được nói tại Ý trong thế kỷ XX. Sự tiêu chuẩn hoá được mở rộng hơn vào thập niên 1950 và 1960 do tăng trưởng kinh tế và sự nổi lên của truyền thông đại chúng và truyền hình (đài quốc gia RAI giúp thiết lập tiếng Ý tiêu chuẩn).
12 ngôn ngữ thiểu số lịch sử được công nhận theo pháp lý: Albania, Catalan, Đức, Hy Lạp, Slovenia, Croatia, Pháp, Franco-Provençal, Friuli, Ladin, Occitan và Sardegna (đạo luật số 482 ngày 15 tháng 12 năm 1999). Tiếng Pháp có vị thế đồng chính thức tại Thung lũng Aosta dù trên thực tế tiếng Franco-Provencal được nói phổ biến hơn tại đây. Tiếng Đức có vị thế đồng chính thức tại Nam Tirol, còn tiếng Ladin cũng có địa vị như vậy tại một số nơi của Nam Tirol và tỉnh Trentino láng giềng. Tiếng Slovenia được công nhận chính thức tại các tỉnh Trieste, Gorizia và Udine.
Do nhập cư đáng kể trong thời gian gần đây, một lượng lớn cư dân Ý có bản ngữ không phải là tiếng Ý. Theo Viện Thống kê Quốc gia Ý, tiếng Romania là ngôn ngữ mẹ đẻ phổ biến nhất trong số cư dân nước ngoài tại Ý: Gần 800.000 người nói tiếng Romania như ngôn ngữ thứ nhất (21,9% cư dân nước ngoài từ 6 tuổi trở lên). Các ngôn ngữ mẹ đẻ phổ biến khác là Ả Rập (trên 475.000 người; 13,1% cư dân nước ngoài), Albanian (380.000 người) và Tây Ban Nha (255.000 người). Một số ngôn ngữ nước ngoài khác được nói tại Ý là Ukraina, Hindi, Ba Lan và Tamil.
Tôn giáo
Công giáo La Mã là tôn giáo lớn nhất tại Ý, song không còn là quốc giáo kể từ năm 1985. Năm 2021, tỷ lệ người Ý tự xác định bản thân là tín đồ Cơ Đốc giáo đạt 85,0%. Ý cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn nhất châu Âu với hơn 55 triệu tín hữu.
Tòa Thánh có thẩm quyền đối với giáo phận Roma, gồm có chính phủ trung ương và toàn thể Giáo hội Công giáo La Mã, trong đó có nhiều cơ quan cần thiết cho quản lý. Về phương diện ngoại giao, Toà Thánh được công nhận theo pháp luật quốc tế là một thực thể có chủ quyền, do Giáo hoàng lãnh đạo và ông cũng là giám mục Roma. Dù thường được gọi là "Vatican", song Toà Thánh không phải là thực thể tương tự với nhà nước Thành Vatican vốn chỉ tồn tại từ 1929.
Các tín ngưỡng Cơ Đốc giáo nhỏ tại Ý gồm có Chính thống giáo Đông phương và các cộng đồng Tin Lành khác. Năm 2021, ước tính có hơn 2 triệu tín đồ Chính thống giáo Đông phương tại Ý, chiếm 3,5% dân số; 0,5 triệu tín đồ Ngũ Tuần và Phúc Âm, 235.685 tín đồ Nhân chứng Jehovah, 30.000 tín đồ Hội Thánh Vaudès, 25.000 tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm, 22.000 tín đồ Thánh hữu Ngày sau của Chúa, 15.000 tín đồ Báp-tít, 7,000 tín đồ Luther, 4.000 tín đồ Giám Lý (liên kết với Giáo hội Vaudès).
Một trong các tín ngưỡng tôn giáo thiểu số được có cơ sở lâu nhất tại Ý là Do Thái giáo, người Do Thái hiện diện tại La Mã cổ đại từ trước khi Jesus sinh ra. Trong nhiều thế kỷ, Ý hoan nghênh những người Do Thái bị trục xuất từ các quốc gia khác, đặc biệt là Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do hậu quả của Holocaust, khoảng 20% người Do Thái Ý thiệt mạng. Sự kiện này cùng với di cư diễn ra trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khiến cho chỉ còn lại một cộng đồng Do Thái nhỏ gồm 28.400 người tại Ý.
Đi cùng với nhập cư gia tăng trong các thập niên gần đây là gia tăng các tín ngưỡng phi Cơ Đốc. Năm 2010, có 1,6 triệu người Hồi giáo tại Ý, chiếm 2,6% dân số. Ngoài ra, còn có trên 200.000 tín đồ các tín ngưỡng có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, trong đó có 70.000 tín đồ Sikh giáo với 22 gurdwara khắp nước Ý, 70.000 tín đồ Ấn Độ giáo, và 50.000 tín đồ Phật giáo. Theo ước tính, có 4.900 tín đồ Bahá'í tại Ý vào năm 2005.
Nhằm bảo vệ tự do tôn giáo, nhà nước Ý phân chia phần thuế thu nhập cho các cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức, theo một chế độ gọi là tám phần nghìn (Otto per mille). Các khoản quyên góp được cho phép gửi đến các cộng đồng Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo; tuy nhiên Hồi giáo bị loại trừ vì không có cộng đồng Hồi giáo nào ký giáo ước với nhà nước Ý. Người đóng thuế nếu không muốn tiền của mình tài trợ cho một tôn giáo thì sẽ góp phần của họ cho hệ thống phúc lợi nhà nước.
Giáo dục
Giáo dục tại Ý được miễn phí và là điều bắt buộc đối với trẻ em từ 6 đến 16 tuổi, và gồm có năm cấp: nhà trẻ (scuola dell'infanzia, trước gọi là asilo), trường tiểu học (scuola primaria, trước gọi là scuola elementare), trường sơ trung học (scuola secondaria di primo grado, trước gọi là scuola media), trường cao trung học (scuola secondaria di secondo grado, trước gọi là scuola superiore) và đại học (università).
Giáo dục tiểu học kéo dài trong tám năm, học sinh tiếp nhận giáo dục cơ bản về tiếng Ý, tiếng Anh, toán học, khoa học tự nhiên, lịch sử, địa lý, nghiên cứu xã hội, thể dục, nghệ thuật thị giác và âm nhạc. Giáo dục trung học kéo dài trong 5 năm, gồm ba loại hình trường học theo truyền thống có các mức hàn lâm khác nhau: liceo chuẩn bị cho học sinh học tập tại bậc đại học với các chương trình giảng dạy cổ điển hoặc khoa học, trong khi istituto tecnico và Istituto professionale chuẩn bị cho học sinh giáo dục nghề nghiệp. Năm 2012, giáo dục trung học Ý được đánh giá thấp hơn một chút so với bình quân của OECD, có cải tiến mạnh mẽ và đều đặn về kết quả khoa học và toán học kể từ năm 2003; tuy nhiên có khoảng cách rộng giữa hai miền, trường học tại miền bắc có thành tích tốt hơn đáng kể trung bình toàn quốc (nằm vào hàng tốt nhất thế giới trong một số môn), còn các trường miền nam có kết quả kém hơn nhiều.
Giáo dục đại học tại Ý gồm các đại học công lập, đại học tư thục, cùng các trường cao cấp (Scuola Superiore Universitaria) có danh tiếng và có chọn lọc, chẳng hạn như Scuola Normale Superiore di Pisa. Hệ thống đại học tại Ý nhìn chung được đánh giá yếu kém khi so sánh với một cường quốc văn hoá thế giới, không có đại học nào của Ý được xếp hạng trong 100 đại học tốt nhất thế giới và chỉ có 20 trường nằm trong top 500. Tuy nhiên, chính phủ có các kế hoạch cải cách và đầu tư lớn nhằm cải thiện tính quốc tế hoá và chất lượng tổng thể của hệ thống.
Y tế
Nhà nước Ý điều hành một hệ thống y tế công cộng phổ quát kể từ năm 1978. Tuy nhiên, y tế được cung cấp cho toàn thể công dân và cư dân theo một hệ thống công-tư hỗn hợp. Khu vực công là Servizio Sanitario Nazionale, được tổ chức dưới quyền Bộ Y tế và được quản lý trên cơ sở phân quyền cấp vùng. Chi tiêu y tế tại Ý chiếm 9,2% GDP toàn quốc vào năm 2012, rất sát bình quân của OECD là 9,3%. Vào năm 2000, Ý được xếp hạng có hệ thống y tế tốt thứ hai thế giới, và thành tích y tế tốt thứ hai thế giới.
Tuổi thọ dự tính của người Ý là 80 năm đối với nam giới và 85 năm đối với nữ giới theo số liệu năm 2016, xếp hạng sáu thế giới. So sánh với các quốc gia phương Tây khác, Ý có mức béo phì người lớn tương đối thấp (dưới 10%), có lẽ là nhờ lợi ích sức khoẻ từ chế độ ăn Địa Trung Hải. Tỷ lệ người hút thuốc lá hàng ngày là 22% vào năm 2012, giảm từ 24,4% vào năm 2000 song vẫn hơn một chút bình quân OECD. Hút thuốc tại các nơi công cộng như quán bar, nhà hàng, câu lạc bộ đêm và văn phòng bị hạn chế trong các phòng thông gió đặc biệt kể từ năm 2005. Năm 2013, UNESCO đưa bữa ăn Địa Trung Hải vào danh sách Danh sách di sản văn hóa phi vật thể của Ý (bên khởi xướng) cùng một số quốc gia khác nằm ven biển Địa Trung Hải.
Văn hoá
Ý trải qua nhiều thế kỷ phân chia về chính trị và địa lý cho đến khi thống nhất vào năm 1861, do đó phát triển một nền văn hoá đặc trưng, được định hình bởi vô số các phong tục khu vực và các trung tâm quyền lực và bảo trợ cấp địa phương. Vào thời Trung cổ và Phục hưng, một số triều đình cạnh tranh để thu hút các kiến trúc sư, nghệ sĩ và học giả giỏi nhất, qua đó sản sinh di sản lớn về các công trình kỷ niệm, hội họa, âm nhạc và văn học.
Ý có 53 di sản thế giới UNESCO tính đến năm 2017, đứng đầu thế giới, và có các bộ sưu tập phong phú về nghệ thuật, văn hoá và văn học từ nhiều giai đoạn khác nhau. Quốc gia này từng cùng với Pháp là 2 trung tâm văn hóa nghệ thuật của thế giới, có ảnh hưởng văn hoá rộng rãi trên thế giới, cũng một phần là do có nhiều người Ý xuất cư sang các quốc gia khác trong làn sóng di dân. Hơn thế, về tổng thể Ý có 100.000 công trình kỷ niệm các thể loại (bảo tàng, cung điện, toà nhà, tượng, nhà thờ, nhà trưng bày nghệ thuật, biệt thự, đài phun nước, nhà lịch sử và tàn tích khảo cổ học).
Kiến trúc
Ý có phong cách kiến trúc rất rộng và đa dạng, không thể chỉ xác định theo giai đoạn mà còn phải theo khu vực, do Ý bị phân chia thành nhiều nhà nước khu vực cho đến năm 1861. Điều này tạo ra tính đa dạng cao độ và phạm vi chiết trung trong thiết kế kiến trúc.
Ý nổi tiếng vì có thành tựu kiến trúc đáng kể, như xây dựng các khung vòm, mái vòm, và các cấu trúc tương tự vào thời La Mã cổ đại, lập nên phong trào kiến trúc Phục hưng vào cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, và là quê hương của kiến trúc Palladio, một phong cách xây dựng truyền cảm hứng cho các phong trào như kiến trúc Tân cổ điển, và ảnh hưởng đến các thiết kế mà giới quý tộc trên khắp thế giới dùng để xây nhà vùng thôn dã của họ, đáng chú ý là tại Anh, Úc và Hoa Kỳ từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Ý có một số công trình tinh tế nhất của kiến trúc phương Tây, như Đấu trường La Mã, Nhà thờ chính tòa Milano, Nhà thờ chính tòa Firenze, Tháp nghiêng Pisa và các thiết kế toà nhà tại Venezia.
Kiến trúc Ý cũng có ảnh hưởng rộng đến kiến trúc thế giới. Kiến trúc sư người Anh Inigo Jones được truyền cảm hứng từ thiết kế của các toà nhà và thành thị Ý, đã đưa các ý tưởng kiến trúc Phục hưng Ý về nước Anh thế kỷ XVII, lấy cảm hứng từ Andrea Palladio. Ngoài ra, kiến trúc Italianate (kiểu Ý) phổ biến ở nước ngoài kể từ thế kỷ XIX, được sử dụng để mô tả công trình kiến trúc tại nước ngoài được xây theo một phong cách Ý, đặc biệt là phỏng theo kiến trúc Phục hưng.
Nghệ thuật thị giác
Lịch sử nghệ thuật thị giác Ý là bộ phận của lịch sử hội họa phương Tây. Mỹ thuật La Mã chịu ảnh hưởng từ Hy Lạp và phần nào có thể cho là một hậu duệ của hội họa Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, hội họa La Mã có các đặc trưng độc đáo quan trọng. Các bức hoạ La Mã duy nhất còn lại là các bức tranh tường, nhiều tác phẩm là trong các biệt thự tại vùng Campania thuộc miền nam. Các bức tranh này có thể nhóm thành bốn "phong cách" hoặc giai đoạn chính và có thể bao gồm các mẫu đầu tiên về trompe-l'œil (đánh lừa thị giác), giả phối cảnh, và cảnh quan thuần tuý.
Tranh bảng trở nên phổ biến hơn trong giai đoạn Romanesque, chịu ảnh hưởng mạnh của hình tượng Byzantine. Vào khoảng giữa thế kỷ XIII, mỹ thuật Trung cổ và hội họa Gothic trở nên hiện thực hơn, khi bắt đầu quan tâm đến miêu tả thể tích và phối cảnh tại Ý với Cimabue và sau đó là học trò của ông, Giotto. Từ thời Giotto trở đi, đối với sáng tác, các họa sĩ giỏi nhất cũng trở nên tự do và sáng tạo hơn nhiều. Họ được nhìn nhận là hai đại sư phụ Trung cổ về hội họa trong văn hoá phương Tây.
Thời kỳ Phục hưng Ý được nhiều người cho là thời đại hoàng kim của hội họa; đại khái trải dài từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII với ảnh hưởng đáng kể vượt ra ngoài biên giới nước Ý hiện đại. Các họa sĩ Ý như Paolo Uccello, Fra Angelico, Masaccio, Piero della Francesca, Andrea Mantegna, Filippo Lippi, Giorgione, Tintoretto, Sandro Botticelli, Leonardo da Vinci, Michelangelo Buonarroti, Raffaello, Giovanni Bellini và Tiziano Vecelli đưa hội họa lên tầm cao hơn thông qua sử dụng phối cảnh, nghiên cứu giải phẫu và cân xứng của con người, và thông qua đó họ phát triển một sự tinh tế chưa từng có trong các kỹ thuật vẽ và sơn. Michelangelo là một nhà điêu khắc tích cực từ khoảng 1500 đến 1520, các đại kiệt tác của ông gồm có David, Pietà, Moses. Các nhà điêu khắc Phục hưng nổi tiếng khác gồm Lorenzo Ghiberti, Luca Della Robbia, Donatello, Filippo Brunelleschi và Andrea del Verrocchio.
Trong các thế kỷ XV và XVI, Phục hưng toàn thịnh dẫn đến nổi lên một kiểu mỹ thuật cách điệu được gọi là trường phái kiểu cách. Thay cho bố trí cân bằng và tiếp cận hợp lý về phối cảnh, những người kiểu cách tìm kiếm tính ổn định, tinh xảo, và hồ nghi. Khuôn mặt và điệu bộ không lo sợ của Piero della Francesca và Các trinh nữ của Raffaello điềm tĩnh bị thay thế bằng biểu cảm lo lắng của Pontormo và cường độ cảm xúc của El Greco. Trong thế kỷ XVII, trong số các họa sĩ vĩ đại nhất của Baroque Ý có Caravaggio, Annibale Carracci, Artemisia Gentileschi, Mattia Preti, Carlo Saraceni và Bartolomeo Manfredi. Sang thế kỷ XVIII, Rococo Ý chủ yếu lấy cảm hứng từ Rococo Pháp, do Pháp là quốc gia sáng lập phong cách đặc thù này, với các nghệ sĩ như Giovanni Battista Tiepolo và Canaletto. Điêu khắc tân cổ điển Ý tập trung vào các khía cạnh duy tâm của phong trào, với các tượng khoả thân của Antonio Canova.
Trong thế kỷ XIX, các họa sĩ lớn của phong cách lãng mạn Ý là Francesco Hayez, Giuseppe Bezzuoli và Francesco Podesti. Trường phái ấn tượng được đưa từ Pháp sang Ý bởi nhóm Macchiaioli, dẫn đầu là Giovanni Fattori và Giovanni Boldini; trường phái hiện thực bởi Gioacchino Toma và Giuseppe Pellizza da Volpedo. Trong thế kỷ XX, với chủ nghĩa vị lai chủ yếu thông qua các tác phẩm của Umberto Boccioni và Giacomo Balla, Ý lại nổi lên thành một quốc gia sản sinh tiến hoá mỹ thuật trong hội họa và điêu khắc. Chủ nghĩa vị lai thành công nhờ các bức họa trừu tượng của Giorgio de Chirico, ông có ảnh hưởng mạnh đến chủ nghĩa siêu thực và các thế hệ nghệ sĩ đi theo.
Văn học và sân khấu
Văn học Ý bắt đầu sau khi thành lập Roma vào năm 753 TCN. Văn học Roma hay Latinh, đã và vẫn có ảnh hưởng cao độ trên thế giới, với nhiều nhà văn, nhà thơ, triết gia và sử gia, như là Pliny Già, Pliny Trẻ, Vergilius, Horace, Propertius, Ovidius và Livius. Người La Mã cũng nổi tiếng vì truyền thống truyền khẩu, thơ, kịch và ngữ lục. Trong những năm đầu của thế kỷ XIII, Francesco d'Assisi được các nhà phê bình văn học nhìn nhận là nhà thơ Ý đầu tiên, với bài ca tôn giáo Khúc ca Mặt trời.
Một tiếng nói khác của Ý bắt nguồn tại Sicilia. Trong triều đình của Hoàng đế Friedrich II, là người cai trị Vương quốc Sicilia trong nửa đầu thế kỷ XIII, thơ trữ tình phỏng theo các thể thức và đề tài Provençal được viết bằng một phiên bản tinh tế của thổ ngữ địa phương. Quan trọng nhất trong các nhà thơ này là Giacomo da Lentini, ông phát minh thể thơ sonnet, song tác giả sonnet nổi tiếng nhất thời kỳ đầu là Petrarca.
Guido Guinizelli được cho là người lập ra Dolce Stil Novo, trường phái này đã đưa thêm một chiều hướng triết học vào thơ tình truyền thống. Sự thấu hiểu tình yêu mới này, biểu thị bằng một phong cách êm dịu, thanh khiết, có ảnh hưởng đến Guido Cavalcanti và nhà thơ Firenze Dante Alighieri, Dante là người lập cơ sở cho tiếng Ý hiện đại; tác phẩm vĩ đại của ông là Thần khúc, được nhận định nằm trong các tác phẩm văn học lỗi lạc nhất được sáng tác tại châu Âu vào thời Trung cổ. Hơn nữa, nhà thơ còn phát minh thể thơ khó terza rima.
Hai nhà văn vĩ đại nhất trong thế kỷ XIV là Francesco Petrarca và Giovanni Boccaccio tìm ra và phỏng theo các tác phẩm thời cổ đại, và tu dưỡng nhân cách nghệ thuật của mình. Petrarca đạt được danh tiếng thông qua bộ sưu tập thơ Il Canzoniere. Thơ tình của Petrarca giữ vai trò làm mẫu trong nhiều thế kỷ. Có ảnh hưởng ngang bằng là Decameron của Boccaccio, là một trong các bộ sưu tập phổ biến nhất về truyện ngắn từng được viết.
Các tác giả Phục hưng Ý sáng tác một số tác phẩm quan trọng, Quân Vương của Niccolò Machiavelli là một trong các bài tiểu luận nổi tiếng nhất thế giới về khoa học chính trị và triết học hiện đại, trong đó lẽ phải thực sự quan trọng hơn bất kỳ tư tưởng trừu tượng nào. Tác phẩm quan trọng khác của giai đoạn này là Orlando Furioso của Ludovico Ariosto, phần mở rộng của tác phẩm lãng mạn còn dở dang Orlando Innamorato của Matteo Maria Boiardo, có lẽ là bài thơ có tinh thần thượng võ vĩ đại nhất từng được viết. Tác phẩm đối thoại Il Cortegiano của Baldassare Castiglione mô tả tư tưởng của quý ông triều đình hoàn hảo và của vẻ đẹp tâm hồn. Nhà thơ trữ tình Torquato Tasso trong La Gerusalemme liberata viết một sử thi Cơ Đốc giáo, sử dụng thể thức ottava rima, chú ý đến các quy tắc đồng nhất của Aristoteles.
Giovanni Francesco Straparola và Giambattista Basile lần lượt sáng tác Le piacevoli notti (1550–1555) và Lo cunto de li cunti/Pentamerone (1634), họ cho in một số bản truyện cổ tích đầu tiên được biết đến tại châu Âu. Vào đầu thế kỷ XVII, một số kiệt tác văn học được tạo ra, như bài thơ thần thoại kéo dài L'Adone của Giambattista Marino. Giai đoạn Baroque cũng sản sinh văn xuôi khoa học dễ hiểu của Galileo, cũng như La città del Sole (thành phố Mặt trời) của Tommaso Campanella mô tả về một xã hội hoàn hảo do triết gia-tu sĩ cai trị. Đến cuối thế kỷ XVII, các viện sĩ Arcadia bắt đầu một phong trào nhằm khôi phục tính đơn giản và tính giản dị cổ điển cho thơ, như trong các vở kịch melo của Metastasio. Đến thế kỷ XVIII, nhà soạn kịch Carlo Goldoni tạo ra các vở kịch đầy kịch tính, nhiều vở phác hoạ tầng lớp trung lưu đương thời.
Chủ nghĩa lãng mạn trùng hợp với một số tư tưởng của Risorgimento- phong trào ái quốc có kết quả là thống nhất về chính trị và tự do cho Ý khỏi sự chi phối của ngoại bang. Các nhà văn Ý đi theo chủ nghĩa lãng mạn vào đầu thế kỷ XIX. Thống nhất nước Ý được báo trước bởi các nhà thơ Vittorio Alfieri, Ugo Foscolo và Giacomo Leopardi. I promessi sposi (phối ngẫu hứa hôn) của nhà văn lãng mạn hàng đầu tại Ý Alessandro Manzoni là tiểu thuyết lịch sử Ý đầu tiên ca ngợi các giá trị Cơ Đốc giáo về tư pháp và Thượng đế, và nó được cho là tiểu thuyết bằng tiếng Ý nổi tiếng nhất và được đọc nhiều nhất.
Đến cuối thế kỷ XIX, một phong trào văn học hiện thực mang tên Verismo giữ một vai trò lớn trong văn học Ý; Giovanni Verga và Luigi Capuana là các nhân tố chính. Trong cùng giai đoạn, Emilio Salgari viết các tác phẩm phiêu lưu hành động và là một nhà tiên phong về khoa học viễn tưởng, ông cho phát hành loạt tiểu thuyết Sandokan về một kẻ cướp biển hư cấu trên khắp biển Đông. Một phong trào gọi là chủ nghĩa vị lai ảnh hưởng đến văn học Ý vào đầu thế kỷ XX. Filippo Tommaso Marinetti viết Manifesto del Futurismo (tuyên ngôn chủ nghĩa vị lai), kêu gọi sử dụng ngôn ngữ và phép ẩn dụ để tôn vinh tốc độ, tính năng động, và tính mãnh liệt của thời kỳ máy móc.
Các nhân vật văn học hiện đại là Gabriele D'Annunzio, nhà thơ dân tộc chủ nghĩa Giosuè Carducci đoạt giải Nobel năm 1906, nhà văn hiện thực Grazia Deledda đoạt giải Nobel năm 1926, tác giả sân khấu hiện đại Luigi Pirandello vào năm 1936, nhà văn truyện ngắn Italo Calvino vào năm 1960, các nhà thơ Salvatore Quasimodo vào năm 1959 và Eugenio Montale vào năm 1975, Umberto Eco vào năm 1980, và tác giả trào phúng và sân khấu Dario Fo vào năm 1997. Tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio năm 1883 của Carlo Collodi là tác phẩm cổ điển cho thiếu nhi nổi danh nhất của một tác giả Ý và là sách phi tôn giáo được dịch nhiều nhất trên thế giới. Các triết gia Ý xuất sắc gồm có Cesare Beccaria, Giordano Bruno, Benedetto Croce, Marsilio Ficino và Giambattista Vico.
Sân khấu Ý có nguồn gốc từ truyền thống La Mã và nó lại chịu ảnh hưởng mạnh từ người Hy Lạp; giống nhiều thể loại văn học khác, các nhà soạn kịch La Mã có xu hướng phỏng theo và dịch lại từ người Hy Lạp. Chẳng hạn, Phaedra của Seneca dựa trên tác phẩm của Euripides, và nhiều hài kịch của Plautus là bản dịch trực tiếp từ các tác phẩm của Menander. Trong thế kỷ XVI và vào đến thế kỷ XVIII, Commedia dell'arte là một thể loại sân khấu ứng tác, và vẫn được trình diễn cho đến nay. Các đoàn kịch rong sẽ dựng một sân khấu ngoài trời và tạo ra sự thích thú bằng các hình thức tung hứng, nhào lộn, và đặc trưng hơn là các vở kịch hài hước dựa trên trình diễn của một nhân vật, gọi là canovaccio.
Âm nhạc
Từ dân gian cho đến cổ điển, âm nhạc luôn giữ một vai trò quan trọng trong văn hoá Ý. Các nhạc cụ gắn với âm nhạc cổ điển như piano và violon được phát minh tại Ý, và nhiều thể loại âm nhạc cổ điển đang thịnh hành như giao hưởng, concerto và sonata có thể truy nguồn gốc đến các phát kiến của âm nhạc Ý thế kỷ XVI và XVII.
Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của Ý gồm có các nhà soạn nhạc thời Phục hưng (thế kỷ XV–XVII) Palestrina và Monteverdi, các nhà soạn nhạc thời Baroque (1600–1760) Scarlatti, Corelli và Vivaldi, các nhà soạn nhạc thời cổ điển (1730–1820) Paganini và Rossini, và các nhà soạn nhạc thời lãng mạn (1815–1910) Verdi và Puccini. Các nhà soạn nhạc hiện đại của Ý như Berio và Nono đã chứng tỏ vị thế quan trọng trong phát triển âm nhạc thể nghiệm và điện tử. Truyền thống âm nhạc cổ điển vẫn có vị thế mạnh tại Ý, minh chứng là danh tiếng của vô số các nhà hát opera như La Scala tại Milano và San Carlo tại Napoli, và các nghệ sĩ trình diễn như nghệ sĩ piano Maurizio Pollini và sau này là giọng nam cao Luciano Pavarotti, song người Ý cũng được tán thưởng không kém về phát triển sân khấu âm nhạc đương đại.
Ý nổi tiếng trong vai trò là nơi khai sinh của opera. Opera Ý được cho là hình thành vào đầu thế kỷ XVII, tại các thành phố như Mantova và Venezia. Về sau, các tác phẩm và các vở opera được soạn ra bởi các nhà soạn nhạc người Ý bản địa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, như Rossini, Bellini, Donizetti, Verdi và Puccini, nằm vào hàng nổi tiếng nhất từng được viết và hiện nay chúng được trình diễn trong các nhà hát opera khắp thế giới. Nhà hát opera La Scala tại Milano nổi danh khi nằm vào hàng xuất sắc nhất thế giới. Các ca sĩ opera Ý nổi tiếng gồm có Enrico Caruso và Alessandro Bonci.
Jazz được truyền sang Ý vào đầu thập niên 1920, nó có được chỗ đứng rất mạnh mẽ tại Ý, và vẫn phổ biến bất chấp các chính sách bài ngoại của chế độ phát xít. Ngày nay, các trung tâm nổi tiếng nhất về nhạc jazz tại Ý là Milano, Roma và Sicilia. Sau đó, Ý đi tiên phong về phong trào progressive rock và pop vào thập niên 1970, có các ban nhạc như PFM, Banco del Mutuo Soccorso, Le Orme, Goblin và Pooh. Trong giai đoạn này cũng diễn ra đa dạng hoá điện ảnh Ý, và các phim của xưởng Cinecittà có các bản dàn bè phức hợp của các nhà soạn nhạc như Ennio Morricone. Sân khấu hip hop Ý bắt đầu vào đầu thập niên 1990 với bộ đôi Articolo 31, chủ yếu chịu ảnh hưởng của East Coast rap.
Ý cũng là một quốc gia quan trọng trong quá trình phát triển của disco và nhạc điện tử, disco Ý có đặc điểm là âm thanh vị lai và sử dụng thường xuyên synthesiser và trống máy, là một trong các thể loại nhạc nhảy điện tử sớm nhất, cùng với các dạng châu Âu của disco ngoài Euro disco ra (về sau ảnh hưởng đến một số thể loại như Eurodance và Nu-disco). Các DJ và remixer nổi tiếng của Ý gồm Benny Benassi, Gigi D'Agostino, và Gabry Ponte, thành viên của nhóm Eiffel 65.
Các nhà sản xuất như Giorgio Moroder, người từng thắng ba giải Oscar, có ảnh hưởng lớn đến bước phát triển của nhạc dance điện tử. Ngày nay, nhạc pop Ý được biểu diễn thường niên trong Nhạc hội Sanremo, có vai trò là nguồn cảm hứng cho cuộc tranh tài ca hát Eurovision, và Lễ hội Hai thế giới tại Spoleto. Các ca sĩ như Mina, Andrea Bocelli, Laura Pausini, Eros Ramazzotti và Tiziano Ferro được quốc tế tôn vinh.
Điện ảnh
Lịch sử điện ảnh Ý bắt đầu một vài tháng sau khi anh em nhà Lumière bắt đầu các cuộc triển lãm hình ảnh động. Bộ phim đầu tiên của Ý kéo dài trong vài giây, thể hiện Giáo hoàng Leo XIII ban phúc cho máy quay. Ngành điện ảnh Ý ra đời trong khoảng giữa năm 1903 và 1908 với ba công ty: Società Italiana Cines, Ambrosio Film và Itala Film. Các công ty khác nhanh chóng tiếp bước tại Milano và tại Napoli. Trong một thời gian ngắn, các công ty đầu tiên này đạt được chất lượng sản phẩm khá, và các bộ phim nhanh chóng được bán ra bên ngoài nước Ý. Điện ảnh sau đó được Benito Mussolini sử dụng, ông cho lập xưởng phim Cinecittà trứ danh tại Roma để sản xuất phim tuyên truyền phát xít cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh, điện ảnh Ý được công nhận và được xuất khẩu rộng rãi cho đến khi xảy ra một cuộc suy thoái nghệ thuật khoảng thập niên 1980. Các đạo diễn phim Ý nổi tiếng trong giai đoạn này gồm có Vittorio De Sica, Federico Fellini, Sergio Leone, Pier Paolo Pasolini, Luchino Visconti, Michelangelo Antonioni và Roberto Rossellini; Fellini được công nhận là một trong các nhà làm phim vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Các bộ phim quý báu phải kể đến như Ladri di biciclette (kẻ trộm xe đạp), La dolce vita (cuộc sống ngọt ngào), 8½, Il buono, il brutto, il cattivo (Thiện, ác, tà) và C'era una volta il West (Thuở ấy ở miền Viễn Tây). Giữa thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950 là thời cực thịnh của phim tân hiện thực, phản ánh điều kiện yếu kém của nước Ý thời hậu chiến.
Do Ý phát triển thịnh vượng hơn vào thập niên 1950, một dạng tân hiện thực gọi là tân hiện thực màu hồng được tiếp bước, sau đó là các thể loại phim khác như "gươm và dép/peplum" với các phim cao bồi Ý, chúng phổ biến trong các thập niên 1960 và 1970. Các diễn viên như Sophia Loren, Giulietta Masina và Gina Lollobrigida trở thành ngôi sao điện ảnh quốc tế trong giai đoạn này. Các câu chuyện tình ái giật gân kiểu Ý, còn gọi là giallo, được sản xuất bởi các đạo diễn như Mario Bava và Dario Argento trong thập niên 1970, chúng cũng ảnh hưởng đến thể loại kinh dị trên thế giới. Trong những năm gần đây, màn ảnh Ý chỉ thỉnh thoảng mới được quốc tế chú ý, với các bộ phim như La vita è bella (Cuộc sống tươi đẹp) của đạo diễn Roberto Benigni, Il Postino (người đưa thư) với Massimo Troisi và La grande bellezza (Đời sống thượng lưu) của đạo diễn Paolo Sorrentino.
Xưởng phim Cinecittà hiện là cơ sở sản xuất phim và truyền hình lớn nhất tại châu Âu lục địa và là trung tâm của điện ảnh Ý, là nơi sản xuất một lượng lớn phim bán vé chạy nhất tại Ý, và là một trong các cộng đồng sản xuất phim lớn nhất thế giới. Trong thập niên 1950, một số tác phẩm quốc tế được sản xuất tại xưởng phim này khiến cho Roma được mệnh danh là "Hollywood trên dòng Tevere". Xưởng tham gia sản xuất trên 3.000 tác phẩm, trong đó 90 phim được đề cử một giải Oscar và 47 phim đã chiến thắng, từ một số tác phẩm kinh điển điện ảnh đến các phim đoạt giải gần đây (như Ben-Hur, Cleopatra, Romeo và Juliet, The English Patient (Bệnh nhân người Anh), Gladiator (Võ sĩ giác đấu), The Passion of the Christ (Cuộc thương khó của Giêsu) và Gangs of New York) (Băng đảng New York).
Ý là quốc gia nhận được nhiều giải nhất trong hạng mục phim ngoại ngữ hay nhất của giải Oscar, từng thắng 14 giải, 3 giải đặc biệt và 31 đề cử. Tính đến năm 2016, các phim Ý cũng từng giành được 12 giải Cành cọ vàng của Liên hoan phim Cannes (đứng thứ hai), 11 giải Sư tử vàng và 7 giải Gấu vàng.
Thể thao
Môn thể thao phổ biến vượt trội tại Ý là bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý (biệt danh Gli Azzurri – "Thiên thanh") nằm trong số các đội tuyển thành công nhất thế giới với bốn chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới (1934, 1938, 1982 và 2006). Các câu lạc bộ của Ý xếp thứ hai châu lục về số cúp châu Âu giành được. Giải bóng đá câu lạc bộ hạng cao nhất của Ý là Serie A, giải được xếp hạng tốt thứ tư tại châu Âu và có hàng triệu người hâm mộ khắp thế giới theo dõi.
Các môn thể thao đồng đội phổ biến khác tại Ý bao gồm bóng chuyền, bóng rổ và rugby. Các đội tuyển bóng chuyền quốc gia Ý của nam và nữ thường được đánh giá nằm vào hàng mạnh nhất thế giới. Thành tích tốt nhất của đội tuyển bóng rổ quốc gia Ý là huy chương vàng tại giải vô địch châu Âu năm 1983 và 1999, và huy chương đồng tại Thế vận hội năm 2004. Lega Basket Serie A được nhận định rộng rãi là một trong các giải đấu cạnh tranh nhất tại châu Âu. Rugby union có mức phổ biến cao, đặc biệt là tại miền bắc, đội tuyển quốc gia của Ý tranh tài tại giải vô địch Sáu nước, và thường xuyên thi đấu tại giải rugby thế giới. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Ý từng giành được ba giải vô địch thế giới trong ba kỳ liên tiếp 1990, 1994 và 1998 và từng giành ba huy chương bạc tại Thế vận hội năm 1996, 2004, 2016.
Ý cũng có truyền thống lâu dài và thành công trong các môn thể thao cá nhân. Đua xe đạp là môn thể thao rất quen thuộc tại đây. Ý là nước giành chiến thắng nhiều thứ hai sau Bỉ trong giải vô địch thế giới UCI. Giro d'Italia là một giải đua xe đạp được tổ chức vào tháng 5 hàng năm, đây là một trong ba giải lớn cùng với Tour de France và Vuelta a España, mỗi giải kéo dài khoảng ba tuần. Trượt tuyết đổ dốc cũng rất phổ biến tại Ý, và quốc gia Nam Âu này là một điểm trượt tuyết phổ biến quốc tế, với các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết. Các vận động viên trượt tuyết của Ý đạt được thành tích tốt tại Thế vận hội Mùa đông, Giải vô địch trượt tuyết đổ đèo thế giới, và Giải vô địch thế giới. Có nhiều người Ý đi theo môn quần vợt, đây là môn thể thao được chơi nhiều thứ tư trong nước. Ý Mở rộng hình thành vào năm 1930 và là một trong các giải đấu quần vợt danh giá nhất thế giới. Các vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Ý từng vô địch Davis Cup vào năm 1976 và Fed Cup vào năm 2006, 2009, 2010 và 2013. Đua xe cũng là môn thể rất phổ biến tại Ý, các tay đua moto của quốc gia này vượt trội về số lần vô địch MotoGP. Scuderia Ferrari của Ý là đội đua lâu năm nhất, cũng là đội đua có số lần vô địch giải Công thức 1 nhiều nhất.
Ý có lịch sử thành công tại Thế vận hội, tham gia đại hội từ kỳ đầu tiên và góp mặt trong 47/48 lần tổ chức. Tính đến năm 2016, Các vận động viên Ý giành được 577 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa hè, và 114 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa đông, tổng cộng đạt 691 huy chương với 243 huy chương vàng, xếp thứ 6 về tổng số huy chương. Ý từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960 tại Roma, Thế vận hội Mùa đông 1956 tại Cortina d'Ampezzo, Thế vận hội Mùa đông 2006 tại Torino và sắp tới sẽ tổ chức Thế vận hội Mùa đông 2026 tại Milano và Cortina d'Ampezzo.
Thời trang
Thời trang Ý có truyền thống lâu dài, và được nhìn nhận thuộc vào hàng quan trọng nhất thế giới. Milano, Firenze và Roma là các thủ phủ thời trang lớn của Ý. Theo xếp hạng năm 2013 của Global Language Monitor, Roma xếp thứ sáu toàn cầu còn Milano xếp thứ 12. Một số nhãn hiệu thời trang lớn của Ý là Gucci, Armani, Prada, Versace, Dolce & Gabbana, cùng các nhãn hiệu khác chúng được đánh giá là nằm trong số các hãng thời trang tinh tế nhất trên thế giới. Tạp chí thời trang Vogue Italia được cho là một trong các tạp chí thời trang có danh tiếng nhất trên thế giới.
Ý cũng xuất sắc trong lĩnh vực thiết kế, đáng chú ý là thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế công nghiệp và thiết kế đô thị. Quốc gia này sản sinh một số nhà thiết kế nội thất nổi tiếng như Gio Ponti và Ettore Sottsass, và các cụm từ tiếng Ý như "Bel Disegno" và "Linea Italiana" đã gia nhập từ vựng của ngành thiết kế nội thất. Máy giặt và tủ lạnh của Zanussi là các ví dụ về hàng hoá trắng và nội thất cổ điển của Ý, hay là sofa "New Tone" của Atrium, và tủ sách kiểu hậu hiện đại của Ettore Sottsass, lấy cảm hứng từ bài hát "Stuck Inside of Mobile with the Memphis Blues Again" của Bob Dylan. Ngày nay, Milano và Torino là các thành phố đứng đầu toàn quốc về thiết kế kiến trúc và thiết kế công nghiệp. Milano có hội chợ thiết kế lớn nhất châu Âu mang tên là Fiera Milano. Milano cũng có các sự kiện và địa điểm thiết kế và liên quan đến kiến trúc với quy mô lớn, như "Fuori Salone" và Salone del Mobile, và là nơi sinh sống của các nhà thiết kế như Bruno Munari, Lucio Fontana, Enrico Castellani và Piero Manzoni.
Ẩm thực
Ẩm thực Ý phát triển qua nhiều thế kỷ biến động về xã hội và chính trị, có nguồn gốc từ thế kỷ IV TCN. Bản thân ẩm thực Ý chịu ảnh hưởng mạnh từ ẩm thực Etrusca, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Byzantine và Do Thái. Các biến đổi đáng kể diễn ra cùng với sự kiện khám phá Tân thế giới, khi có nhiều mặt hàng được truyền đến Ý như khoai tây, cà chua, ớt chuông và ngô, ngày nay chúng là trung tâm của ẩm thực Ý song từ thế kỷ XVIII về trước vẫn chưa đủ số lượng. Ẩm thực Ý được chú ý do có tính đa dạng vùng miền, nhiều khác biệt về vị, và được cho là một trong các nền ẩm thực phổ biến nhất thế giới, có ảnh hưởng mạnh ở nước ngoài.
Các dạng đồ ăn Địa Trung Hải là cơ sở của ẩm thực Ý, phong phú về mì ống, cá, rau quả và có đặc trưng là cực kỳ đơn giản và đa dạng, nhiều món ăn chỉ có bốn đến tám nguyên liệu. Quá trình nấu nướng của người Ý dựa chủ yếu vào chất lượng của nguyên liệu thay vì chuẩn bị công phu. Các món ăn và công thức chế biến thường bắt nguồn từ truyền thống địa phương và gia đình thay vì được các đầu bếp tạo ra, do đó nhiều phương pháp thích hợp cho nấu nướng tại nhà, đây là một trong các lý do chính đằng sau việc ẩm thực Ý ngày càng phổ biến trên toàn cầu, từ châu Mỹ đến châu Á. Các nguyên liệu và món ăn biến đổi nhiều theo khu vực.
Một yếu tố chủ chốt cho thành công của ẩm thực Ý là nó phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm truyền thống; Ý có nhiều đặc sản truyền thống nhất được bảo hộ theo pháp luật Liên minh châu Âu. Pho mát, salumi và rượu vang là các bộ phận chính của ẩm thực Ý, với nhiều biến hoá theo khu vực và chỉ dẫn bảo hộ địa lý, và cùng với cà phê (đặc biệt là espresso) tạo thành một phần rất quan trọng của văn hoá sành ăn Ý. Các món tráng miệng có truyền thống lâu dài trong việc kết hợp các hương vị địa phương như cam chanh, hồ trăn và hạnh đào với các loại pho mát ngọt như mascarpone và ricotta hoặc các vị ngoại lai như cacao, vani, quế. Gelato, tiramisu và cassata nằm trong số các món tráng miệng và bánh ngọt nổi tiếng nhất của Ý. |
Ukraina (phát âm tiếng Việt: U-crai-na; , ) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu. Ukraina giáp với Nga về phía Đông, Belarus về phía Bắc, Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây, România và Moldova về phía Tây Nam và biển Đen cùng biển Azov về phía Nam. Thủ đô là thành phố Kyiv.
Ukraina bao gồm 24 tỉnh, một nước Cộng hòa tự trị (Krym) và hai thành phố có địa vị pháp lý đặc biệt là thủ đô Kyiv và Sevastopol. Ukraina theo thể chế cộng hòa tổng thống.
Lịch sử Ukraina bắt đầu từ khoảng thế kỷ IX của Công Nguyên khi vùng đất này trở thành trung tâm của nền văn minh Đông Slav với quốc gia Rus Kyiv hùng mạnh tồn tại đến thế kỷ XII. Khi đế quốc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy và bành trướng, Rus Kyiv bị Mông Cổ chinh phục và chịu cảnh nô lệ trong suốt nhiều thế kỷ. Sau khi Mông Cổ suy yếu, lãnh thổ của Ukraina lại bị phân chia giữa nhiều thế lực khác nhau tại Châu Âu, cụ thể là Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Đến thế kỷ XIX, khi Nga bành trướng và đánh bại hai địch thủ còn lại, hầu hết lãnh thổ của Ukraina nằm trong Đế quốc Nga. Năm 1922, Ukraina trở thành một nước đồng sáng lập Liên bang Xô viết đồng thời trở thành một nhà nước cộng hòa theo thể chế Xã hội chủ nghĩa nằm trong Liên Xô. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Ukraina lại trở thành một quốc gia độc lập. Từ đó đến nay, Ukraina tiến hành mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường và trở thành quốc gia có trình độ phát triển cao ở Đông Âu. Tuy nhiên trong những năm gần đây, khủng hoảng chính trị cùng chiến tranh với Nga đã làm Ukraina mất quyền kiểm soát ở một số vùng lãnh thổ trọng yếu, khiến cho tình hình đất nước đi xuống trầm trọng.
Từ nguyên
Tên gọi "Ukraina" lần đầu tiên được sử dụng để xác định một phần lãnh thổ của Rus' Kyiv vào thế kỷ thứ 12.
Lịch sử
Buổi đầu lịch sử
Khu định cư của con người trong lãnh thổ Ukraina ít nhất có từ năm 4500 trước Công Nguyên, khi nền văn hoá Cucuteni thời kỳ Đồ đá mới phát triển tại một khu vực lớn bao phủ nhiều vùng của Ukraina hiện đại gồm Trypillia và toàn bộ vùng Dnieper-Dniester. Trong thời kỳ đồ sắt, vùng đất này được cư trú bởi người Cimmeria, Scythia, và Sarmatia. Từ năm 700 trước Công Nguyên tới 200 trước Công Nguyên nó là một phần của Vương quốc Scythian, hay Scythia. Sau này, các thuộc địa của Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, và Đế chế Đông La Mã, như Tyras, Olbia, và Hermonassa, đã được thành lập, bắt đầu ở thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên, trên bờ phía đông bắc Biển Đen, và trở nên thịnh vượng trong thế kỷ thứ VI Công Nguyên. Người Goths sống trong vùng nhưng nằm dưới sự thống trị của người Hung từ những năm 370 của Công Nguyên. Ở thế kỷ thứ VII, lãnh thổ đông Ukraina là trung tâm của Đại Bulgaria Cổ. Cuối thế kỷ đó, đa số các bộ tộc Bulgar di cư theo nhiều hướng và vùng đất lại rơi vào tay người Khazar.
Thời kỳ huy hoàng của Kyiv, sự khai sinh Nga, Belarus và Ukraina
Trong thế kỷ thứ IX, hầu hết lãnh thổ Ukraina ngày nay là nơi sinh sống của các bộ tộc người Rus', hình thành nhà nước liên minh bộ tộc Kyiv Rus'. Lãnh thổ Kyiv Rus' thời cực đại bao gồm hầu như toàn bộ lãnh thổ Ukraina, Belarus và một phần khá lớn trong phần lãnh thổ châu Âu của nước Nga hiện nay. Trong thế kỷ thứ X và XI, nhà nước này đã phát triển thành một nhà nước liên minh bộ tộc lớn nhất và hùng mạnh nhất ở Đông Âu. Trong những thế kỷ tiếp sau, nó đặt nền móng cho tính đồng nhất quốc gia của người Ukraina và người Nga. Kyiv, thủ đô của Ukraina hiện đại, đã trở thành thành phố quan trọng nhất của người Rus'. Theo Biên niên sử Đầu tiên, giới thượng lưu Nga ban đầu gồm những người Varangian từ Scandinavia. Người Varangian sau này bị đồng hoá vào xã hội cư dân Slavơ địa phương và trở thành một phần của triều đại Nga đầu tiên là nhà Ryurik. Kiev Rus' gồm nhiều công quốc do các vương công nhà Ryurik có quan hệ huyết thống với nhau cai trị. Khu vực Kyiv, công quốc thịnh vượng và có ảnh hưởng nhất, trở thành mục tiêu tranh giành giữa các vương công nhà Ryurik và là đích tối thượng cho cuộc tranh giành quyền lực của họ.
Thời kỳ huy hoàng của nước Rus Kyiv bắt đầu với sự cai trị của Vladimir Vĩ đại (980–1015), ông đã đưa Rus' theo Thiên Chúa giáo Byzantine. Trong thời cầm quyền của con trai ông, Yaroslav Thông thái (1019–1054), nhà nước Kyiv Rus' đạt tới cực điểm phát triển văn hoá và quyền lực quân sự. Tiếp sau đó là sự tan rã ngày càng nhanh của quốc gia khi các cường quốc trong vùng lại xuất hiện. Sau một cuộc nổi dậy cuối cùng dưới thời cai trị của Vladimir Monomakh (1113–1125) và con trai ông Mstislav (1125–1132), nước Rus Kyiv cuối cùng tan rã thành nhiều công quốc sau cái chết của Mstislav.
Trong thế kỷ XI và XII, những cuộc xâm lược thường xuyên của các bộ tộc Turk du mục như Pechenegs và Kipchak, gây ra những cuộc di cư lớn của dân cư Slavơ tới những vùng an toàn và có nhiều rừng cây hơn ở phía bắc. Thế kỷ XIII, cuộc xâm lược của Mông Cổ đã tàn phá nước Rus Kyiv. Kyiv bị phá huỷ hoàn toàn năm 1240. Trên lãnh thổ Ukraina, nhà nước Kyiv Rus' được kế tục bởi các công quốc Galich (Halych) và Volodymyr-Volynskyi, chúng sáp nhập thành nhà nước Galicia-Volhynia.
Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Rus Kyiv, theo thời gian các xứ này dần phát triển và trở thành nước Nga ngày nay. Trong khi đó, các vùng miền tây bị Đại công quốc Lietuva và Ba Lan chiếm giữ. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kyiv đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarus và người Ukraina ở phía tây.
Như vậy, 3 quốc gia Nga, Belarus và Ukraina đều chia sẻ chung một cội nguồn là xứ Rus Kyiv của người Rus'. Cho tới nay, 3 quốc gia này tuy độc lập với nhau nhưng có rất nhiều điểm chung về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo.
Sự đô hộ của nước ngoài
Giữa thế kỷ XIV, Galicia-Volhynia bị Kazimierz III của Ba Lan chinh phục, tuy vùng đất trung tâm của Nga, gồm cả Kyiv, rơi vào tay Đai vương công Lietuva là Gediminas sau Trận đánh trên Sông Irpen'. Sau năm 1386 Liên minh Krevo, một liên minh các triều đại giữa Ba Lan và Litva, hầu hết lãnh thổ Ukraina bị giới quý tộc Litva địa phương ngày càng Ruthenia hoá cai trị như một phần của Lãnh địa Đại công tước Litva. Ở thời điểm này, thuật ngữ Ruthenia và người Ruthenia như các phiên bản La tinh hoá của "Rus'", bắt đầu được áp dụng rộng rãi cho vùng đất và con người Ukraina.
Tới năm 1569, Liên minh Lublin thành lập Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, và một phần lớn lãnh thổ Ukraina được chuyển từ quyền cai trị chủ yếu Litva sang cho bộ máy hành chính Ba Lan, như nó đã được chuyển giao cho Vua Ba Lan. Dưới áp lực văn hoá và chính trị của quá trình Ba Lan hoá đa phần thượng Ruthenia chuyển theo Cơ đốc giáo và trở nên không thể phân biệt với giới quý tộc Ba Lan. Vì thế, những người thường dân Ukraina, mất đi những người bảo hộ địa phương của mình trong giới quý tộc Ruthenia, quay sang tìm kiếm sự bảo hộ của người Cossack, họ luôn kiên quyết trung thành với chính thống giáo và có khuynh hướng quay sang dùng bạo lực chống lại những kẻ mà họ cho là kẻ thù, đặc biệt là nhà nước Ba Lan và những đại diện của nó.
Giữa thế kỷ XVII, một quân đội kiểu nhà nước của người Cossack, Đạo quân Zaporozhia được thành lập bởi những người Cossack sông Dnieper và các nông dân Ruthenia chạy trốn chế độ nông nô Ba Lan. Ba Lan ít có quyền kiểm soát thực tế với vùng đất này, quả thực họ thấy rằng người Cossack là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu chống lại người Thổ và người Tatar, ở những thời điểm hai lực lượng liên kết trong các chiến dịch quân sự. Tuy nhiên, quá trình tiếp tục nông nô hoá các nông dân của giới quý tộc Ba Lan được tăng cường thêm bởi tham muốn mãnh liệt khai thác nguồn nhân lực, và quan trọng nhất, là sự đàn áp Nhà thờ Chính thống được thúc đẩy bởi tham muốn của người Cossack rời bỏ Ba Lan. Mong muốn của họ là có đại diện trong Sejm, công nhận các truyền thống Chính thống và sự mở rộng dần dần của Cossack Registry. Tất cả chúng đều bị giới quý tộc Ba Lan kịch liệt phản đối. Cuối cùng người Cossack quay sang tìm kiếm sự bảo hộ của Chính thống giáo Nga, một quyết định sau này sẽ dẫn tới sự sụp đổ của nhà nước Ba Lan-Litva, và sự bảo tồn Nhà thờ Chính thống và tại Ukraina.
Năm 1648, Bohdan Khmelnytsky lãnh đạo những cuộc nổi dậy lớn nhất của người Cossack chống lại Khối thịnh vượng chung và vua Ba Lan Jan II Kazimierz Waza. Bờ tả Ukraina cuối cùng sáp nhập vào Nga như Cossack Hetmanate, sau Hiệp ước Pereyaslav năm 1654 và cuộc Chiến tranh Nga Ba Lan sau đó. Sau cuộc phân chia Ba Lan ở cuối thế kỷ XVIII bởi Phổ, nhà Habsburg của Áo, và Nga, Tây Ukraina Galicia bị Áo chiếm, trong khi phần còn lại của Ukraina dần bị sáp nhập vào Đế quốc Nga. Từ đầu thế kỷ XVI tới cuối thế kỷ XVII các nhóm cướp phá của người Tatar vùng Krym hầu như đột nhập hàng năm vào các vùng đất nông nghiệp Slavơ bắt người để bán làm nô lệ. Sau sự sáp nhập Khả hãn quốc Crimea năm 1783, vùng này là nơi định cư của những người du cư từ các vùng khác của Ukraina. Dù có những lời hứa trao cho Ukraina quyền tự trị trong Hiệp ước Pereyaslav, giới lãnh đạo Ukraina và người Cossack không bao giờ có tự do và tự trị mà họ chờ đợi từ Đế quốc Nga. Tuy nhiên, bên trong Đế chế, người Ukraina lên được những chức vụ cao nhất của nhà nước Nga, và Nhà thờ Chính thống Nga. Ở giai đoạn sau này, chính quyền Sa hoàng tiến hành chính sách Nga hoá các vùng đất Ukraina, cấm sử dụng ngôn ngữ Ukraina trong xuất bản và công cộng.
Cách mạng và Chiến tranh thế giới thứ nhất
Ukraina bước vào Chiến tranh thế giới thứ nhất bên cạnh cả phe Liên minh, với đế quốc Áo-Hung, và phe Hiệp ước, với Nga. 3.5 triệu người Ukraina chiến đấu trong Quân đội Đế quốc Nga, trong khi 250,000 người chiến đấu cho Quân đội Áo-Hung. Trong cuộc chiến, chính quyền Áo-Hung thành lập Quân đoàn Ukraina để chiến đấu chống lại Đế quốc Nga. Quân đoàn này là nền tảng của Quân đội Galician Ukraina chiến đấu chống lại cả những người Bolshevik và Ba Lan trong giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919–23). Những người bị nghi ngờ có các tình cảm thân với Nga tại Áo bị đối xử tàn nhẫn. Lên tới 5,000 người ủng hộ Đế quốc Nga thuộc Galicia bị giam giữ và đưa vào các trại tập trung Áo tại Talerhof, Styria, và trong các khu rừng tại Terezín (hiện ở Cộng hoà Séc).
Với sự sụp đổ của Đế quốc Nga và Áo-Hung sau chiến tranh và cuộc Cách mạng Nga năm 1917, một phong trào quốc gia Ukraina đòi quyền tự quyết tái xuất hiện. Trong giai đoạn 1917–20, nhiều Quốc gia Ukraina riêng biệt xuất hiện trong một giai đoạn ngắn: Cộng hòa Nhân dân Ukraina, Hetmanate, Tổng cục Ukraina và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina (hay Xô viết Ukraina, được đảng Bolshevik giúp đỡ) liên tiếp được thành lập trong các lãnh thổ cũ của Đế quốc Nga; đồng thời Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina xuất hiện một thời gian ngắn trong lãnh thổ của Áo-Hung cũ. Trong bối cảnh cuộc Nội chiến, một phong trào vô chính phủ được gọi là Hắc quân lãnh đạo bởi Nestor Makhno cũng phát triển ở miền Nam Ukraina. Tuy nhiên với sự thất bại của Tây Ukraina trong Chiến tranh Ba Lan-Ukraina tiếp theo là sự thua trận của cuộc tấn công của Ba Lan bị những người Bolshevik đẩy lùi. Theo Hiệp ước Hoà bình Riga được ký kết giữa người Xô viết và Ba Lan, tây Ukraina chính thức bị sáp nhập vào Ba Lan đổi lại Ba Lan công nhận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina vào tháng 3 năm 1919, sau này trở thành một thành viên sáng lập Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết hay Liên xô tháng 12 năm 1922.
Ukraina Xô viết giữa hai cuộc chiến
Sau cuộc cách mạng, chính phủ Xô viết phải đối đầu với sự tàn phá Ukraina. Hậu quả của chiến tranh là 1.5 triệu người chết và hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Xô viết Ukraina phải đối mặt với nạn đói năm 1921. Chứng kiến một xã hội đang kiệt quệ, chính phủ Xô viết trở nên rất mềm dẻo trong thập kỷ 1920. Vì thế, Văn hoá Ukraina và ngôn ngữ đã có sự phục hồi, bởi sự Ukraina hoá trở nên một phần địa phương của việc áp dụng chính sách Korenisation (nghĩa đen bản xứ hoá) trên khắp Liên xô. Người Bolshevik cũng cam kết thực hiện chăm sóc y tế phổ thông, cung cấp các lợi ích giáo dục và an sinh xã hội, cũng như quyền làm việc và có nhà ở. Các quyền của phụ nữ được tăng cường mạnh thông qua các bộ luật mới có mục đích loại bỏ những sự bất bình đẳng từ nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, cách chính sách kinh tế của Lenin đã bị đảo ngược hồi đầu thập niên 1930 sau khi Iosif Stalin dần củng cố quyền lực để trên thực tế trở thành người lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản và Liên bang Xô viết.
Bắt đầu từ cuối thập niên 1920, Ukraina tham gia vào cuộc công nghiệp hoá Liên xô và sản phẩm công nghiệp của nước cộng hoà đã tăng gấp bốn lần trong thập niên 1930. Tuy nhiên, cuộc công nghiệp hoá khiến tầng lớp nông dân phải trả giá đắt, về nhân khẩu họ là xương sống của quốc gia Ukraina. Để đáp ứng nhu cầu của quốc gia về nguồn lương thực ngày càng tăng, và để cung cấp tài chính cho cuộc công nghiệp hoá, Stalin tiến hành một chương trình tập thể hoá nông nghiệp khi nhà nước công hữu hóa ruộng đất và gia súc của nông dân vào trong các trang trại tập thể và ép buộc thực hiện các chính sách bằng quân đội thường trực và cảnh sát. Những người chống đối bị bắt giữ và trục xuất và hạn ngạch sản xuất gia tăng lại được đặt lên vai người nông dân. Stalin tin rằng các nông trường quốc doanh rộng lớn trang bị máy nông nghiệp cơ khí hóa sẽ làm tăng năng suất, nhưng sự tập thể hoá vội vã quá mức thực tế lại gây tác động xấu với sản xuất nông nghiệp. Bởi các thành viên của các nông trang tập thể không được phép nhận bất kỳ hoa lợi nào cho tới khi đạt mức hạn ngạch nộp thuế, sự thiếu ăn đã xảy ra. Trong năm 1932–33, khi hạn hán xảy ra, cả triệu người đã chết trong một nạn đói được gọi là Holodomor. Các học giả đang tranh cãi liệu nạn đói này có thích hợp với định nghĩa diệt chủng, nhưng nghị viện Ukraina và hơn 10 quốc gia khác công nhận nó là như vậy.
Những thời gian công nghiệp hoá và Holodomor cũng trùng với cuộc tấn công của Liên xô vào giới lãnh đạo chính trị và văn hoá quốc gia thường bị buộc tội "chệch hướng quốc gia". Hai làn sóng thanh trừng chính trị và truy tố của Stalin tại Liên bang Xô viết (1929–34 và 1936–38) đã bắt giữ gần bốn phần năm giới lãnh đạo Ukraina và ba phần tư toàn bộ sĩ quan cao cấp của quân đội.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau cuộc Xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939, quân đội Đức và Liên Xô phân chia lãnh thổ Ba Lan. Vì thế, Đông Galicia và Volhynia với dân số Ukraina ở đó được tái thống nhất với phần còn lại của Ukraina. Sự thống nhất Ukraina lần đầu tiên trong lịch sử được hoàn thành và là sự kiện mang tính quyết định trong lịch sử đất nước.
Sau khi Pháp đầu hàng Đức, Rumani nhượng Bessarabia và bắc Bukovina theo các yêu cầu của Liên Xô. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina sáp nhập các quận phía bắc và phía nam của Bessarabia, bắc Bukovina, và vùng chiếm đóng Hertsa của Liên Xô. Nhưng nó nhượng lại phần phía tây Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tự trị Moldavia cho nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia mới được thành lập. Toàn bộ những lãnh thổ giành được đó đều được quốc tế công nhận theo Các Hiệp ước Hoà bình Paris năm 1947.
Quân đội Đức xâm lược Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941, khởi động một cuộc chiến tranh tổng lực kéo dài trong bốn năm liền. Liên minh phe Trục ban đầu tiến nhanh trước những nỗ lực tuyệt vọng nhưng không hiệu quả của Hồng quân. Trận bao vây Kyiv, thành phố được ca ngợi như một "Thành phố anh hùng", diễn ra bởi lo ngại sự kháng cự của Hồng Quân và dân chúng địa phương Hơn 600,000 binh sĩ Xô viết (hay một phần tư của Mặt trận phía Tây) bị giết hay bị bắt giữ tại đó. Dù đại đa số người Ukraina chiến đấu bên cạnh Hồng quân và cuộc kháng chiến Xô viết, một số thành phần quốc gia Ukraina bí mật lập ra một phong trào quốc gia chống Liên Xô tại Galicia, Quân đội Nổi dậy Ukraina (1942) chiến đấu cùng các lực lượng Phát xít và tiếp tục chiến đấu với Liên bang Xô viết trong những năm hậu chiến. Sử dụng các chiến thuật chiến tranh du kích, những người nổi dậy thực hiện ám sát và khủng bố những người họ cho là đại diện, hay hợp tác ở bất kỳ mức độ nào với nhà nước Xô viết. Cùng lúc ấy một phong trào quốc gia khác chiến đấu bên cạnh quân Phát xít. Tổng cộng, số người Ukraina chiến đấu trong mọi cấp bậc Quân đội Liên xô được ước tính từ 4.5 triệu tới 7 triệu. Cuộc kháng chiến du kích của quân kháng chiến ủng hộ Liên xô tại Ukraina ước tính ở con số 47,800 người từ đầu cuộc xâm lược lên tới đỉnh điểm 500,000 người năm 1944; với khoảng 50 phần trăm trong số họ là người Ukraina. Nói chung, các con số lính của Quân đội Nổi dậy Ukraina rất không đáng tin cậy, thay đổi trong khoảng từ 15,000 tới 100,000 chiến binh.
Ban đầu, người Đức được đón nhận như những người giải phóng bởi một số người gốc Ba Lan ở tây Ukraina, họ chỉ mới gia nhập Liên Xô năm 1939. Tuy nhiên, sự cai trị hà khắc của người Đức tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng cuối cùng đã khiến những người ủng hộ họ quay sang chống đối sự chiếm đóng. Các viên chức Phát xít tại các vùng lãnh thổ Liên Xô đã bị chiếm đóng ít có nỗ lực để khai thác sự bất mãn của dân chúng trong lãnh thổ Ukraina với các chính sách kinh tế và chính trị của Stalin. Thay vào đó, Phát xít duy trì hệ thống trang trại tập thể, tiến hành một cách có hệ thống các chính sách diệt chủng chống lại người Do Thái, bắt những người khác tới làm việc tại Đức, và bắt đầu một cuộc di dân có hệ thống tại Ukraina để chuẩn bị cho việc thực dân hoá của Đức, gồm cả phong toả lương thực với Kyiv.
Đại đa số trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra tại Mặt trận phía Đông, và theo nguồn thống kê mang tính thổi phồng của Liên Xô thì Phát xít Đức chịu 93 phần trăm thương vong tại đây (dù tỷ lệ thực tế cũng khá cao là khoảng 75%). Tổng cộng thiệt hại với dân số Ukraina trong cuộc chiến được ước tính trong khoảng năm tới tám triệu người, gồm hơn một nửa triệu người Do thái bị Einsatzgruppen giết hại, thỉnh thoảng với sự giúp đỡ của những kẻ cộng tác người địa phương. Trong ước tính 8.7 triệu lính Xô viết hi sinh trong chiến đấu chống Phát xít, 1.4 triệu là người Ukraina. Vì thế tới ngày nay, Ngày Chiến thắng được coi là một trong mười ngày lễ quốc gia của Ukraina.
Hậu Chiến tranh thế giới thứ hai
Nước cộng hoà bị thiệt hại nặng trong chiến tranh, và cần những nỗ lực to lớn để khôi phục. Hơn 700 thành phố và thị trấn và 28,000 ngôi làng bị phá huỷ. Tình hình càng nghiêm trọng hơn bởi một nạn đói năm 1946–47 do hạn hán và hư hỏng cơ sở hạ tầng khiến hàng chục nghìn người chết.<ref>Kulchytsky, Stanislav, "Demographic losses in Ukraine in the twentieth century", October October 2-8 2004. Available online in Russian and in Ukrainian .</ref>
Năm 1945 Ukraina là một trong những thành viên sáng lập tổ chức Liên hiệp quốc. Máy tính đầu tiên của Liên Xô MESM được chế tạo tại Viện kỹ thuật điện Kyiv và đi vào hoạt động năm 1950.
Theo các con số thống kê, tới ngày 1 tháng 1 năm 1953, người Ukraina đứng thứ hai chỉ sau người Nga trong số người lớn "bị trục xuất đặc biệt", chiếm 20% tổng số. Ngoài người Ukraina, hơn 450,000 người thuộc sắc tộc Đức từ Ukraina và hơn 200,000 người Tatar Crimea là những nạn nhân của những cuộc di cư bắt buộc.
Sau cái chết của Stalin năm 1953, Nikita Khrushchev trở thành lãnh đạo mới của Liên bang Xô viết. Là Thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina trong giai đoạn 1938-49, Khrushchev rất gần gũi với nước cộng hoà sau khi nắm quyền trên toàn liên bang, ông bắt đầu nhấn mạnh tình hữu nghị giữa quốc gia Ukraina và Nga. Năm 1954, kỷ niệm lần thứ 300 Hiệp ước Pereyaslav được tổ chức khắp nơi, và đặc biệt, Krym được chuyển từ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga cho Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina.
Tới năm 1950, nước cộng hoà đã vượt qua mức sản xuất công nghiệp thời tiền chiến. Trong kế hoạch năm năm 1946-1950 gần 20 phần trăm ngân sách Liên xô được đầu tư vào Ukraina Xô viết, tăng 5% so với các kế hoạch tiền chiến. Nhờ thế lực lượng lao động Ukraina tăng 33.2% từ 1940 tới 1955 trong khi sản lượng công nghiệp tăng 2.2 lần trong cùng thời kỳ. Xô viết Ukraina nhanh chóng trở thành một nước dẫn đầu châu Âu về sản xuất công nghiệp. Nó cũng trở thành một trung tâm quan trọng của ngành công nghiệp vũ khí và nghiên cứu kỹ thuật cao của Liên xô. Vai trò quan trọng đó dẫn tới một ảnh hưởng to lớn tới giới tinh hoa địa phương. Nhiều thành viên ban lãnh đạo Liên xô tới từ Ukraina, đáng chú ý nhất là Leonid Brezhnev, người sau này đã lật đổ Khrushchev và trở thành lãnh đạo Liên Xô từ năm 1964 tới năm 1982, cũng như nhiều vận động viên thể thao, nhà khoa học, nghệ sĩ ưu tú khác của Liên xô. Ngày 26 tháng 4 năm 1986, một lò phản ứng của Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl nổ, dẫn tới thảm hoạ Chernobyl, tai nạn lò phản ứng hạt nhân nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Ở thời điểm vụ tai nạn bảy triệu người đang sống tại các vùng lãnh thổ bị ô nhiễm, gồm 2.2 triệu người tại Ukraina. Sau vụ tai nạn, một thành phố mới, Slavutych, được xây dựng bên ngoài khu vực cấm làm nơi ở và hỗ trợ cho các nhân viên của nhà máy chất dứt công việc năm 2000. Một báo cáo do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Tổ chức Y tế Thế giới cho rằng 56 thiệt mạng trực tiếp do vụ tai nạn và ước tính có thể có tới 4,000 ca chết vì ung thư khác.
Độc lập
Ngày 16 tháng 7 năm 1990, một nghị viện mới thông qua Tuyên bố Quốc gia Ukraina có Chủ quyền. Tuyên bố lập ra các nguyên tắc tự quyết của Quốc gia Ukraina, nền dân chủ, sự độc lập chính trị và kinh tế và sự ưu tiên của luật pháp Ukraina trong lãnh thổ Ukraina so với luật pháp Liên Xô. Một tháng trước đó, một tuyên bố tương tự đã được nghị viện Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga thông qua. Các sự kiện trên khởi đầu một giai đoạn ngắn có sự bất đồng giữa chính quyền trung ương Liên Xô và các chính quyền Cộng hoà mới. Tháng 8 năm 1991, Ủy ban Khẩn cấp Nhà nước chỉ huy một số sư đoàn Hồng quân, KBG cùng chính phủ Xô viết các nước Belarus và Azerbaijan tiến hành một cuộc đảo chính để loại bỏ Mikhail Gorbachev và tái lập quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi cuộc đảo chính thất bại, ngày 24 tháng 8 năm 1991 nghị viện Ukraina thông qua Luật Độc lập trong đó nghị viện tuyên bố Ukraina là một nhà nước dân chủ độc lập. Một cuộc trưng cầu dân ý và bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra ngày 1 tháng 12 năm 1991. Ngày hôm đó, hơn 90% người dân Ukraina thể hiện sự ủng hộ Luật Độc lập, và họ bầu chủ tịch nghị viện, Leonid Kravchuk trở thành Tổng thống đầu tiên của đất nước. Tại cuộc gặp gỡ ở Brest, Belarus ngày 8 tháng 12, tiếp sau là cuộc gặp tại Alma Ata ngày 21 các lãnh đạo Belarus, Nga, và Ukraina chính thức giải tán Liên bang Xô viết và lập ra Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS).
Ban đầu Ukraina được coi là một nước cộng hoà có nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế so với các vùng khác của Liên Xô. Tuy nhiên, nước này rơi vào tình trạng giảm phát kinh tế sâu hơn một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ khác. Trong thời kỳ giảm phát, Ukraina mất 60% GDP từ 1991 tới 1999, và có tỷ lệ lạm phát ở mức năm con số. Bất mãn với các điều kiện kinh tế, cũng như tình trạng tội phạm và tham nhũng, người dân Ukraina tiến hành các cuộc biểu tình và bãi công có tổ chức.
Nền kinh tế Ukraina ổn định vào cuối thập niên 1990. Một đồng tiền tệ mới, hryvnia, được đưa vào lưu thông năm 1996. Từ năm 2000, nước này đã có tăng trưởng kinh tế thực bền vững khoảng 7% hàng năm. Một Hiến pháp Ukraina mới được thông qua năm 1996, biến Ukraina thành một nhà nước cộng hoà bán tổng thống và thiết lập một hệ thống chính trị ổn định. Tuy nhiên, Kuchma bị phe đối lập chỉ trích vì tập trung quá nhiều quyền lực vào tay mình, tình trạng tham nhũng, chuyển tài sản vào tay giới đầu sỏ trung thành, không khuyến khích tự do ngôn luận và gian lận bầu cử.
Cách mạng Cam
Năm 2004, Viktor Yanukovych, khi ấy là Thủ tướng, được tuyên bố là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, đã gian lận ở diện rộng, như Toà án Tối cao Ukraina tuyên bố sau này. Các kết quả dẫn tới một sự phản đối của công chúng ủng hộ ứng cử viên đối lập, Viktor Yushchenko, người không thừa nhận kết quả của cuộc bầu cử và lãnh đạo cuộc Cách mạng Cam hoà bình. Cuộc cách mạng đưa Viktor Yushchenko và Yulia Tymoshenko lên nắm quyền lực, biến Viktor Yanukovych thành phe đối lập. Tuy nhiên Yanukovych lại trở thành Thủ tướng năm 2006 cho tới cuộc bầu cử đột xuất vào tháng 9 năm 2007 đưa Tymoshenko lên làm Thủ tướng trở lại.
Các cuộc xung đột với Nga về giá khí tự nhiên (ngắn) đã ngừng toàn bộ nguồn cung cấp khí tự nhiên cho Ukraina năm 2006 và 2009, dẫn tới những thiếu hụt khí đốt tại nhiều nước châu Âu khác (cả hai lần).Q&A: Russia-Ukraine gas row, BBC News (ngày 20 tháng 1 năm 2009)
Vào cuộc bầu cử tổng thống 2010, Viktor Yanukovych đã đánh bại Tymoshenko trong vòng nhì với tỷ lệ 48%-45%.
Euromaidan và Cách mạng 2014
Phong trào Euromaidan là một làn sóng biểu tình ở Ukraina bắt đầu vào đêm 21 tháng 11 năm 2013. Việc này xảy ra khi trước đó cùng ngày chính phủ Ukraina tuyên bố hoãn việc ký kết một thỏa thuận hợp tác và thương mại tự do với Liên minh châu Âu "nhằm đảm bảo an ninh quốc gia" thay vào đó lựa chọn việc thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với Liên bang Nga Kiev protesters gather, EU dangles aid promise , Reuters (ngày 12 tháng 12 năm 2013). Những người biểu tình cho rằng động thái của chính phủ Ukraina là không dân chủ, ảnh hưởng đến đời sống của họ, họ cổ vũ cho quan hệ gần gũi hơn với EU. Rất đông người Ukraina đã xuống đường biểu tình để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với phong trào Euromaidan . Trong khi đó, ở phần đông lãnh thổ của Ukraina nơi mà Người Nga chiếm đa số, một phần lớn dân số tại đây đã bày tỏ sự phản đối của họ đối với Euromaidan, thay vào đó họ ủng hộ chính phủ thân Nga của Yanukovych .
Chẳng bao lâu thì phong trào Euromaidan đã lan rộng ra kêu gọi Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych và chính phủ của thủ tướng Azarov từ chức cũng như phải thả cựu Thủ tướng Ukraina Yulia Tymoshenko. Các cuộc biểu tình được tiến hành bất chấp việc cảnh sát tăng cường lực lượng trấn áp, và số lượng tham gia các cuộc biểu tình ngày càng tăng nhất là từ giới sinh viên đại học. Các cơ quan thực thi pháp luật, cụ thể là Berkut (một đơn vị thuộc Bộ nội vụ) dù không bị khiêu khích đã tấn công một cách tàn bạo đối với những người biểu tình và các phóng viên vào ngày 30 tháng 11 năm 2013. Khoảng 10.000 người biểu tình đã tập trung tại Kyiv vào đêm 29 tháng 11 năm 2013. Cảnh sát đã dùng hơi cay trấn áp người biểu tình khiến nhiều người bị thương. Việc gia tăng bạo lực từ các lực lượng chính quyền đã làm cho số người tham dự biểu tình càng tăng thêm, ước lượng khoảng từ 350.000 – 700.000 người phản đối biểu tình lúc cao điểm tại Kyiv vào ngày 1 tháng 12.. Ngày 8 tháng 12 năm 2013, những người biểu tình quá khích đã giật đổ tượng đài Lenin tại Quảng trường Độc lập ở thủ đô Kyiv, dùng búa đập phá tượng đã có từ năm 1946 này và trương cờ Liên minh châu Âu trên bệ tượng..
Đến giữa tháng 2 năm 2014, những cuộc đàm phán giữa Tổng thống Viktor Fedorovych Yanukovych và phe đối lập đã thất bại. Ukraina đứng trên bờ vực tai họa của một cuộc nội chiến. Ông Yanukovych đã bị Quốc hội Ukraina thông qua bỏ phiếu bãi bỏ tư cách tổng thống vào ngày 22 tháng 2 với 328 trên 340 phiếu thuận. Chủ tịch Quốc hội Oleksander Turchynov cho biết ông Yanukovych đã "từ bỏ trách nhiệm theo hiến pháp, đe dọa chức năng của nhà nước, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraina". Petro Poroshenko, một người thân EU, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sau đó với hơn 50% số phiếu để trở thành Tổng thống mới của Ukraina
Khủng hoảng Crimea và sự can thiệp của Nga
Tại Crimea (hay Krym), các cuộc biểu tình đã được tổ chức bởi các nhóm dân tộc chủ yếu là người gốc Nga phản đối các cuộc biểu tình Euromaidan ở Kyiv và muốn quan hệ gần gũi hoặc sáp nhập Krym vào nước Nga, ngoài việc quyền tự chủ mở rộng hoặc khả năng độc lập cho Krym. Các nhóm khác tại Crimea, bao gồm cả người Tatar thì ngược lại, tuyên bố ủng hộ Euromaidan.
Nhân cơ hội Tổng thống Yanukovych bị lật đổ và tình hình chính trị rối ren đang xảy ra ở Ukraina, Tổng thống Nga Vladimir Putin bắt đầu lên kế hoạch để sáp nhập Crimea trở lại nước Nga vào ngày 23 tháng 2 năm 2014. Bốn ngày sau, vào ngày 27/2/2014, một nhóm người có vũ trang trùm mặt đã chiếm các tòa nhà chính quyền và quốc hội của Krym và cắm quốc kỳ Nga trên các tòa nhà này. Một nhóm khác mặt quân phục nhưng không đeo quân hiệu có vũ trang cũng đã chiếm hai sân bay ở Krym. Tổng thống tạm thời của Ukraina là Oleksandr Turchynov đã cáo buộc Nga triển khai quân đội tại bán đảo Krym để kích động một "cuộc xung đột vũ trang" nhưng phía Nga phủ nhận cáo buộc này. Ngày 1 tháng 3, Thượng viện Nga đã chấp thuận một kiến nghị của Tổng thống Nga Putin cho phép ông được quyền đưa quân vào Ukraina hỗ trợ chính quyền mới do Sergey Aksyonov đứng đầuUkraine crisis: Crimea leader appeals to Putin for help BBC Retrieved on ngày 1 tháng 3 năm 2014 Ngày 2 tháng 3 năm 2014, một số căn cứ quân sự Ukraina đã bị vây hãm hoặc bị tấn công. Ukraina tuyên bố cảnh báo chiến đấu và ra lệnh tổng động viên trên cả nước. Các nước G7 (Hoa Kỳ, Đức Nhật Bản, Canada, Pháp, Ý và Vương quốc Anh) lên án hành động của Nga tại bán đảo Krym, trong một bài tuyên bố chung được công bố bởi phủ tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 02.03.2014, rõ ràng là đã vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Ukraina.,,,. Sau khi quân đội Nga tiến vào Crimea, một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi đã được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 năm 2014 và kết quả chính thức là 97% nguòi dân Crimea đồng ý sáp nhập vùng lãnh thổ này vào Liên bang Nga . Ngày 18 tháng 3 năm 2014, Nga và Cộng hòa Crimea tự xưng đã ký một hiệp ước chính thức tuyên bố Cộng hòa Crimea và Sevastopol gia nhập Liên bang Nga.
13 thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã lên án cuộc bỏ phiếu tại Crimea là bất hợp pháp. Trung Quốc cũng không thể hiện sự ủng hộ cho Nga khi chỉ bỏ phiếu trắng. Samantha Power, Đại sứ Mỹ nói "đó là thời khắc buồn và đáng nhớ". Bà Samantha cũng gọi Nga là quốc gia "cô lập, cô đơn và sai trái". Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý không hợp lệ, và sự sáp nhập Crimea vào Nga là bất hợp pháp..
Sau đó, các cuộc biểu tình của các nhóm thân Nga ở vùng Donbass của Ucraina đã leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang giữa chính phủ Ucraina và lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn tại Donetsk và Lugansk. Vào tháng 4 năm 2014, những người ly khai Ukraina tự tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Cộng hòa Nhân dân Lugansk đồng thời tổ chức trưng cầu dân ý vào ngày 11 tháng 5 năm 2014; những người ly khai đã tuyên bố gần 90% bỏ phiếu ủng hộ độc lập . Cuộc nội chiến giữa một bên là quân đội Ukraina và các tiểu đoàn tình nguyện ủng hộ Ukraina, một bên là các lực lượng của Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Lugansk được Nga hỗ trợ, đã ngày càng trở nên quyết liệt tại Donbass. Vào tháng 12 năm 2014, hơn 6.400 người đã chết trong cuộc xung đột này và theo số liệu của Liên Hợp Quốc, đã có hơn nửa triệu người phải di tản trong cuộc nội chiến Ukraina và hơn 200.000 người tị nạn chạy sang các nước láng giềng Half a million displaced in eastern Ukraine as winter looms, warns UN refugee agency, United Nations (ngày 5 tháng 12 năm 2014)UN Says At Least 6,400 Killed In Ukraine's Conflict Since April 2014, RFE/RL (ngày 1 tháng 6 năm 2015). Đến tháng 12 năm 2015, hơn 9.100 người đã chết (phần lớn là dân thường) trong cuộc chiến tại Donbass, theo số liệu từ Liên hợp quốc
Nga tấn công vào Ukraina
Vào mùa xuân năm 2021, Nga bắt đầu xây dựng lực lượng quân đội dọc biên giới với Ukraina. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2022, Tổng thống Vladimir Putin đã ra lệnh cho các lực lượng quân sự Nga tiến vào các nước cộng hòa ly khai của Ukraina là Donetsk và Luhansk, gọi hành động này là một "sứ mệnh gìn giữ hòa bình". Putin cũng chính thức công nhận Donetsk và Luhansk là các quốc gia có chủ quyền, hoàn toàn độc lập với chính phủ Ukraina. Phản ứng trước những quyết định này, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tuyên bố bắt đầu thực hiện "các biện pháp trừng phạt tài chính nặng nề của Mỹ" đối với Nga và hứa sẽ có các biện pháp trừng phạt tài chính bổ sung nếu quân đội Nga tràn sang Ukraina thích hợp. Các cơ quan tình báo Mỹ đã ước tính rằng lực lượng binh lính Nga ở gần biên giới Ukraina là 150.000 người.
Vào đầu giờ ngày 24 tháng 2 năm 2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố một "hoạt động quân sự đặc biệt" nhằm phi quân sự hóa Ukraina. Sau đó cùng ngày, chính phủ Ukraina thông báo rằng Nga đã nắm quyền kiểm soát Chernobyl, thành phố từng hứng chịu thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử.
Chính trị
Ukraina là một nước cộng hoà bán tổng thống với các nhánh lập pháp, hành pháp, và tư pháp riêng biệt. Tổng thống được bầu bởi các cử tri phổ thông với nhiệm kỳ năm năm là lãnh đạo chính thức của nhà nước.
Nhánh lập pháp Ukraina là nghị viện đơn nhất gồm 450 ghế, tiếng Ukraina gọi là Verkhovna Rada, có nghĩa là "Hội đồng tối cao" Bên cạnh chức năng lập pháp, Nghị viện còn có trách nhiệm phê chuẩn việc thành lập cơ quan hành pháp (Nội các) do Thủ tướng lãnh đạo, được Tổng thống chỉ định.
Luật, đạo luật của nghị viện và nội các, nghị định tổng thống, và đạo luật của nghị viện Crimea có thể bị Toà án Hiến pháp huỷ bỏ, nếu chúng vi phạm Hiến pháp Ukraina. Các đạo luật có tính quy phạm khác cũng là đối tượng xem xét lại của nhánh tư pháp. Toà án Tối cao là cơ quan chính trong hệ thống toà án của tư pháp chung.
Việc tự quản lý của địa phương được chính thức đảm bảo. Các hội đồng địa phương và các thị trưởng thành phố được dân chúng bầu ra và thực hiện quyền kiểm soát với ngân sách địa phương. Các lãnh đạo vùng và các cơ quan hành chính quận được tổng thống chỉ định.
Ukraina có rất nhiều đảng chính trị, nhiều đảng trong số đó có ít thành viên và không được công chúng biết tới. Các đảng nhỏ thường tham gia vào các liên minh đa đảng (khối bầu cử) cho mục tiêu tham gia vào bầu cử nghị viện.
Quân đội
Sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, Ukraina được thừa hưởng một lực lượng quân sự 780,000 lính trên lãnh thổ của mình, được trang bị kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới. Tháng 5 năm 1992, Ukraina ký Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược (START) theo đó nước này đồng ý trao mọi vũ khí hạt nhân cho Nga và gia nhập Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân như một quốc gia phi hạt nhân. Ukraina phê chuẩn hiệp ước năm 1994, và tới năm 1996 nước này không còn sở hữu vũ khí hạt nhân. Quân đội Ukraina hiện tại lớn thứ hai ở châu Âu, sau Nga.
Ukraina đã thực hiện các bước kiên quyết nhằm cắt giảm các vũ khí quy ước. Họ đã ký Hiệp ước về Các lực lượng Vũ trang Quy ước tại châu Âu, kêu gọi giảm bớt số lượng xe tăng, pháo và các phương tiện thiết giáp (các lực lượng quân đội được giảm xuống 300,000 người). Nước này có kế hoạch chuyển chế độ nghĩa vụ quân sự sang một chế độ quân sự tự nguyện không chậm hơn năm 2011.
Ukraina đã đóng một vai trò ngày càng quan trọng hơn trong các chiến dịch gìn giữ hoà bình. Quân Ukraina đã được triển khai tại Kosovo như một phần của Tiểu đoàn Ukraina-Ba Lan. Một đơn vị Ukraina đã được triển khai tại Liban, như một phần của Lực lượng Lâm thời Liên hiệp quốc đảm bảo việc thực hiện thoả thuận ngừng bắn. Cũng có một tiểu đoàn bảo dưỡng và huấn luyện được triển khai tại Sierra Leone. Năm 2003–05, một đơn vị Ukraina được triển khai tại Iraq, như một phần của Lực lượng Đa quốc gia tại Iraq dưới quyền chỉ huy của Ba Lan. Tổng cộng số quân Ukraina được triển khai trên khắp thế giới là 562 người.
Sau khi độc lập, Ukraina tự tuyên bố mình là một nhà nước trung lập. Nước này đã có sự đối tác quân sự hạn chế với Nga, các quốc gia thành viên Hội đồng các quốc gia độc lập khắc và một đối tác của NATO từ năm 1994. Trong những năm 2000, chính phủ nước này nghiêng về phía NATO, và một sự hợp tác sâu hơn với liên minh đã được thiết lập theo Kế hoạch Hành động NATO-Ukraina được ký kết năm 2002. Sau đó nước này đã đồng ý rằng vấn đề gia nhập NATO phải được giải quyết bằng một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Tuy vậy nó đã bị xóa khỏi chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của chính phủ khi tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych được bầu lên vào năm 2010.
Phân cấp hành chính
Hệ thống phân chia hành chính Ukraina phản ánh vị thế quốc gia như một nhà nước đơn nhất (như đã được ghi trong hiến pháp nhà nước) với các chế độ pháp lý và hành chính thống nhất cho mỗi đơn vị.
Nếu như tính cả Sevastopol và Crimea đã được sáp nhập vào Liên Bang Nga từ năm 2014 thì Ukraina được chia thành 24 tỉnh (oblast) và một nước cộng hoà tự trị (), Krym. Ngoài ra, các thành phố Kyiv và Sevastopol đều có vị thế pháp lý đặc biệt. 24 oblast và Krym được chia thành 136 huyện (), là đơn vị hành chính cấp hai.
Các vùng đô thị (thành phố) hoặc có thể phụ thuộc vào các cơ quan hành chính nhà nước (như trong trường hợp của Kyiv và Sevastopol), tỉnh hoặc huyện, phụ thuộc vào dân số và tầm quan trọng kinh tế xã hội của nó. Đơn vị hành chính thấp hơn là hromada, gồm các khu định cư kiểu đô thị, tương tự như các cộng đồng nông nghiệp nhưng đô thị hoá hơn, gồm các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở giáo dục và các kết nối giao thông, và các làng.
Tổng cộng, Ukraina có 457 thành phố, trước năm 2020 thì 176 trong số đó được xếp hạng thuộc tỉnh, 279 nhỏ hơn là các thành phố thuộc huyện (), và hai thành phố có vị thế pháp lý đặc biệt. Tiếp theo đó là 886 khu định cư kiểu đô thị và 28.552 làng.
Địa lý
Với diện tích 603,700 km2 và bờ biển rộng 2782 km2, Ukraina là nước lớn thứ 44 trên thế giới (sau Cộng hoà Trung Phi, trước Madagascar). Nó là nước nằm toàn bộ ở châu Âu lớn nhất và nước lớn thứ hai ở châu Âu (sau phần châu Âu của Nga, trước Mẫu quốc Pháp).
Phong cảnh Ukraina gồm chủ yếu là các đồng bằng phì nhiêu (hay thảo nguyên) và các cao nguyên, bị cắt ngang bởi các con sông như Dnieper (), Seversky Donets, Dniester và Southern Buh khi chúng chảy về phía nam vào Biển Đen và Biển Azov nhỏ hơn. Ở phía tây nam, đồng bằng Danube tạo thành biên giới với Romania. Vùng núi duy nhất của nước này là Núi Carpathian ở phía tây, trong đó đỉnh cao nhất là Hora Hoverla ở độ cao 2061 m, và những ngọn núi trên bán đảo Krym, ở cực nam dọc theo bờ biển.
Ukraina chủ yếu có khí hậu ôn hoà và lục địa, dù một kiểu khí hậu mang nhiều đặc điểm khí hậu Địa Trung Hải hơn có tại bờ biển nam Crimea. Lượng mưa phân bố không đều; cao nhất ở phía tây và phía bắc và thấp nhất ở phía đông và đông nam. Tây Ukraina, có lượng mưa khoảng 1200mm hàng năm, trong khi Krym có lượng mưa khoảng 400mm. Những mùa đông từ mát dọc Biển Đen tới lạnh ở sâu hơn trong lục địa. Nhiệt độ trung bình năm trong khoảng từ 5.5–7 °C (42–45 °F) ở phía bắc, tới 11–13 °C (52–55.4 °F) ở phía nam.
Kinh tế
Trong thời Xô viết, kinh tế Ukraina lớn thứ hai bên trong Liên xô, là một thành phần công nghiệp và nông nghiệp quan trọng trong nền kinh tế kế hoạch của đất nước. Với sự sụp đổ của hệ thống Xô viết, nước này chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Quá trình chuyển tiếp rất khó khăn cho hầu hết dân cư và đa số họ rơi vào tình trạng nghèo khổ. Kinh tế Ukraina giảm phát nghiêm trọng trong những năm sau sự sụp đổ của Liên xô. Cuộc sống hàng ngày cho người dân thường sống tại Ukraina là một cuộc chiến đấu. Một số lớn công dân tại các vùng nông thôn Ukraina sống bằng lương thực tự trồng, thường làm hai hay nhiều việc và có được các nhu yếu phẩm thông qua trao đổi.
Năm 1991, chính phủ tự do hoá hầu hết giá cả để giải quyết sự thiếu hụt hàng hoá trên diện rộng, và đã thành công. Cùng lúc ấy, chính phủ tiếp tục bao cấp cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp do nhà nước quản lý bằng các khoản tiền công khai. Các chính sách tiền tệ lỏng lẻo đầu thập niên 1990 đẩy lạm phát lên các mức độ siêu lạm phát. Năm 1993, Ukraina giữ kỷ lục thế giới về mức lạm phát trong một năm. Những người sống nhờ thu nhập cố định gặp khó khăn nhiều nhất. Giá cả chỉ ổn định lại sau khi đồng tiền tệ mới ra đời, đồng hryvnia, năm 1996.
Nước này cũng chậm chạm trong việc áp dụng các cải cách cơ cấu. Sau khi giành độc lập, chính phủ đã thành lập một cơ cấu pháp lý cho việc tư nhân hoá. Tuy nhiên, sự chống đối lan rộng với các cải cách bên trong chính phủ và từ một phần đông dân chúng nhanh chóng làm đóng băng các nỗ lực cải cách. Một số lớn doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đã bị loại khỏi quá trình tư nhân hoá. Cùng lúc ấy, tới năm 1999, GDP đã rơi xuống thấp hơn 40% so với mức năm 1991, nhưng đã hồi phục tới hơn 100% ở cuối năm 2006. Đầu những năm 2000, nền kinh tế cho thấy sự tăng trưởng mạnh 5 tới 10% và dựa nhiều vào xuất khẩu với sản xuất công nghiệp tăng trưởng hơn 10% mỗi năm. Ukraina đã bị tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 vào tháng 11 năm 2008, IMF đã thông qua một khoản vay khẩn cấp $16.5 tỷ cho nước này. Nền kinh tế của Ukraina đã vượt qua cuộc khủng hoảng nặng nề do xung đột vũ trang ở phần đông nam của đất nước. Sự mất giá lên tới mức 200% của đồng tiền hryvnia Ucraina (đồng tiền quốc gia) trong 2014-2015 đã làm cho hàng hóa và dịch vụ của Ucraina trở nên rẻ hơn và kém cạnh tranh hơn. Trong năm 2016, lần đầu tiên kể từ năm 2010, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng hơn 2%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mức tăng trưởng dự kiến là 2% vào năm 2017 và 3,5% vào năm 2018.
GDP (theo PPP) năm 2016 của Ukraina theo tính toán của IMF, xếp hạng 117 trên thế giới và ước tính ở mức $8,638 tỷ. GDP trên đầu người năm 2016 của nước này theo IMF ở mức $2,125 (theo PPP), xếp hạng 132 thế giới. GDP danh nghĩa (theo dollar Mỹ, được tính theo tỷ giá trao đổi thị trường) là $87.198 tỷ, xếp hạng 66 trên thế giới. Ở thời điểm tháng 7 năm 2008 lương danh nghĩa trung bình tại Ukraina đạt 1,930 hryvnias mỗi tháng. Dù vẫn ở mức thấp hơn các quốc gia trung Âu láng giềng, tăng trưởng thu nhập năm 2008 đứng ở mức 36.8%
Theo UNDP năm 2003 4.9% dân số Ukraina sống với dưới 2 dollar Mỹ mỗi ngày và 19.5% dân cư sống dưới ngưỡng nghèo quốc gia cùng trong năm ấy.
Ukraina chế tạo hầu như mọi kiểu phương tiện vận tải và tàu vũ trụ. Các máy bay Antonov và xe tải KrAZ đã được xuất khẩu tới nhiều quốc gia. Đa số xuất khẩu của Ukraina là sang Liên minh châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập. Từ khi độc lập, Ukraina đã duy trì cơ quan vũ trụ của riêng minh, Cơ quan Vũ trụ Quốc gia Ukraina (NSAU). Ukraina đã trở thành một bên tham gia tích cực vào việc thám hiểm khoa học vũ trụ và các phi vụ tìm kiếm từ xa. Trong giai đoạn 1991 tới 2007, Ukraina đã phóng sáu vệ tinh và 101 phương tiện phóng do họ tự chế tạo, và tiếp tục thiết kế tàu vũ trụ. Vì thế tới ngày nay, Ukraina được công nhận là nước hàng đầu thế giới trong việc chế tạo tên lửa và kỹ thuật liên quan tới tên lửa.
Nước này nhập khẩu hầu hết năng lượng, đặc biệt là dầu mỏ và khí tự nhiên, và ở mức độ lớn hơn phụ thuộc vào Nga trong năng lượng. Tuy 25% khí tự nhiên ở Ukraina có từ các nguồn nội địa, khoảng 35% đến từ Nga và số còn lại 40% từ Trung Á qua các đường vận chuyển thuộc quyền kiểm soát của Nga. Cùng lúc đó, 85% khí của Nga được chuyển tới Tây Âu qua Ukraina.. Trong năm 2014, gần 100% nguồn cung cấp khí tự nhiên của Ukraina đến từ Nga. Từ năm 2016, nguồn cung cấp dầu khí hầu như là đến từ các nước EU.
Ngân hàng Thế giới xếp hạng Ukraina là quốc gia có thu nhập trung bình. Các vấn đề lớn gồm cơ sở hạ tầng và vận tải kém phát triển, tham nhũng và quan liêu. Năm 2007 thị trường chứng khoán Ukraina ghi nhận mức tăng trưởng cao thứ hai thế giới với 130%. Theo CIA, năm 2006 tư bản hoá thị trường của thị trường chứng khoán Ukraina là $111.8 tỷ. Các lĩnh vực đang phát triển của kinh tế Ukraina gồm thị trường công nghệ thông tin (IT), đứng đầu các nước Trung và Đông Âu năm 2007, tăng trưởng khoảng 40%.
Du lịch
Ukraina đứng thứ 8 thế giới về số lượng khách du lịch, theo xếp hạng của Tổ chức Du lịch Thế giới.
Bảy kì quan Ukraina là bảy công trình lịch sử và văn hóa được bình chọn trong một cuộc thi vào tháng 7-2007, ở Ukraina.
Văn hoá
Các phong tục Ukraina bị ảnh hưởng nhiều bởi Thiên chúa giáo, là tôn giáo vượt trội trong nước. Các vai trò giới tính cũng thường có tính truyền thống hơn, và người ông đóng một vai trò lớn hơn trong giáo dục trẻ em so với tại phương Tây. Văn hoá Ukraina cũng đã bị ảnh hưởng bởi các nước láng giềng phía đông và phía tây, nó được phản ánh trong kiến trúc, âm nhạc và nghệ thuật Ukraina.
Thời kỳ cộng sản có một ảnh hưởng khá mạnh trong nghệ thuật và văn học Ukraina. Năm 1932, Stalin đã đưa ra chính sách nhà nước chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tại Liên xô khi ông ban hành nghị định "Về việc Xây dựng các Tổ chức Văn học và Nghệ thuật". Chính sách này đã kìm chế khả năng sáng tác rất nhiều. Trong thập niên 1980 chính sách glasnost (mở cửa) được đưa ra và các nghệ sĩ cùng nhà văn Liên xô đã được tự do thể hiện mình như họ muốn.
Truyền thống trứng Phục sinh, còn được gọi là pysanky, có nguồn gốc từ lâu ở Ukraina. Những quả trứng này được vẽ sáp để tạo ra một hình mẫu; sau đó, trứng được nhuộm màu để khiến nó có những màu sắc vui mắt, màu nhuộm không ăn lên những phần đã được vẽ sáp trước đó trên quả trứng. Sau khi toàn bộ quả trứng được nhuộm, lớp sáp bị loại bỏ chỉ để lại những mẫu hình màu sắc đẹp mắt. Truyền thống này đã có từ hàng nghìn năm, và có trước khi Thiên chúa giáo xuất hiện tại Ukraina. Tại thành phố Kolomya gần chân dãy các ngọn đồi dưới dãy núi Carpathian năm 2000 một bảo tàng Pysanka đã được xây dựng và nó được coi như một công trình hiện đại của Ukraina năm 2007, một phần của hoạt động xây dựng Bảy kỳ quan của Ukraina.
Món ăn truyền thống Ukraina gồm gà, lợn, bò, cá và nấm. Người Ukraina cũng thường ăn rất nhiều khoai tây, ngũ cốc rau tươi. Các món ăn truyền thống bình dân gồm (bánh bao hấp với nấm, khoai tây, dưa cải bắp, phó mát làm từ sữa gạn kem hay anh đào), borscht (súp nấu từ củ cải đường, cải bắp và nấm hay thịt) và (cải bắp cuộn với gạo, cà rốt và thịt). Các món đặc sản Ukraina còn gồm Gà Kyiv và Bánh Kyiv. Các món đồ uống Ukraina gồm quả hầm, các loại nước hoa quả, sữa, nước sửa (họ làm phó mát sữa gạn bằng thứ này), nước khoáng, trà và cà phê, bia, rượu và .
Ngôn ngữ
Theo Hiến pháp, ngôn ngữ nhà nước của Ukraina là tiếng Ukraina. Tiếng Nga, trên thực tế là ngôn ngữ chính thức của Liên xô, được sử dụng rộng rãi, đặc biệt tại phía đông và phía nam Ukraina. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, 67.5 phần trăm dân số tuyên bố tiếng Ukraina là tiếng mẹ đẻ và 29.6 phần trăm tuyên bố là tiếng Nga. Đa số người dùng tiếng Ukraina như tiếng mẹ đẻ biết tiếng Nga như một ngôn ngữ thứ hai.
Các chi tiết kết quả khác biệt nhau rất nhiều tuỳ theo từng cuộc điều tra, và thậm chí một câu hỏi chỉ hơi khác biệt cũng dẫn tới những câu trả lời khác từ một nhóm người khá lớn. Tiếng Ukraina chủ yếu được dùng ở phía tây và trung Ukraina. Ở phía tây Ukraina, tiếng Ukraina cũng là ngôn ngữ phổ biến trong các thành phố (như Lviv). Ở trung Ukraina, tiếng Ukraina và tiếng Nga được sử dụng như nhau trong các thành phố, tiếng Nga hơi phổ biến hơn ở Kyiv, trong khi tiếng Ukraina là ngôn ngữ chính tại các cộng đồng nông thôn. Tại phía đông và phía nam Ukrain, tiếng Nga được dùng chủ yếu trong các thành phố, tiếng Ukraina được dùng ở các vùng nông thôn.
Trong một phần lớn thời gian thời kỳ Xô viết, số người nói tiếng Ukraina giảm sút sau mỗi thế hệ, và tới giữa thập niên 1980, việc sử dụng tiếng Ukraina trong đời sống công cộng đã sụt giảm đáng kể. Sau khi giành độc lập, chính phủ Ukraina bắt đầu chính sách Ukraina hoá, để tăng cường việc sử dụng tiếng Ukraina, trong khi không khuyến khích tiếng Nga, vốn đã bị cấm hay hạn chế trên truyền thông và phim ảnh. Điều này có nghĩa các chương trình tiếng Nga phải được dịch hay chạy tít tiếng Ukraina, nhưng điều này không áp dụng với các tác phẩm truyền thông được thực hiện trong thời Xô viết.
Theo Hiến pháp của Cộng hoà Tự trị Krym, tiếng Ukraina là ngôn ngữ nhà nước duy nhất của nước cộng hoà. Tuy nhiên, hiến pháp nước cộng hoà đặc biệt công nhận tiếng Nga là một ngôn ngữ được đa số người dân của nó sử đụng và đảm bảo việc sử dụng tiếng Nga 'trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng'. Tương tự, tiếng Tatar Crimea (ngôn ngữ của 12% dân số Crimea) được đảm bảo một sự bảo hộ đặc biệt của nhà nước cũng như trong 'các ngôn ngữ của các sắc tộc khác'. Những người nói tiếng Nga chiếm đại đa số dân cư Crimea (77%), tiếng Ukraina chỉ chiếm 10.1%, và người nói tiếng Tatar Crimea chiếm 11.4%. Nhưng trong đời sống hàng ngày đa số người Tatar Crimea và người Ukraina ở Crimea sử dụng tiếng Nga.
Văn học
Lịch sử văn học Ukraina có từ thế kỷ XI, sau sự Thiên chúa giáo hóa Kyiv Rus’. Các tác phẩm thời gian này chủ yếu là về nghi thức tôn giáo và được viết bằng tiếng Nhà thờ Slavơ cổ. Các văn bản lịch sử thời gian này được gọi là biên niên sử, tác phẩm quan trọng nhất là Biên niên sử Đầu tiên. Hoạt động văn học bất thần suy tàn trong thời Mông Cổ xâm lược Rus'.
Văn học Ukraina lại bắt đầu phát triển một lần nữa ở thế kỷ XIV, và tiến bộ vượt bậc ở thế kỷ XVI với sự ra đời của kỹ thuật in và với sự khởi đầu của thời đại Cossack, dưới cả sự ảnh hưởng của Nga và Ba Lan. Người Cossack đã lập ra một xã hội độc lập và truyền bá một kiểu thơ sử thi mới, đánh dấu đỉnh cao của văn học truyền khẩu Ukraina. Những tiến bộ này mất đi trong thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, khi việc xuất bản bằng tiếng Ukraina bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị ngăn cấm. Tuy nhiên, tới cuối thế kỷ XVIII văn học hiện đại Ukraina cuối cùng đã xuất hiện trở lại.
Thế kỷ XIX khởi đầu một thời kỳ tiếng địa phương tại Ukraina, khởi đầu với tác phẩm của Ivan Kotliarevsky, tác phẩm xuất bản đầu tiên của Ukraina hiện đại. Tới thập niên 1830, chủ nghĩa lãng mạn Ukraina bắt đầu phát triển, và nhân vật văn hoá nổi tiếng nhất Ukraina là nhà thơ/họa sĩ lãng mạn Taras Shevchenko. Nếu Ivan Kotliarevsky được coi là người cha của văn học tiếng địa phương Ukraina; Shevchenko là người cha của sự hồi phục quốc gia Ukraina. Sau đó, vào năm 1863, việc sử dụng tiếng Ukraina trong in ấn đã hoàn toàn bị ngăn cấm bởi Đế quốc Nga. Điều này đã hoàn toàn hạn chế hoạt động văn học trong khu vực, và các tác giả Ukraina bị buộc hoặc phải xuất bản tác phẩm bằng tiếng Nga hoặc phát hành chúng tại vùng Galicia do Áo quản lý. Lệnh cấm chưa từng bị chính thức dỡ bỏ, nhưng nó đã mất nhiều hiệu lực sau cuộc cách mạng và khi những người Bolshevik lên nắm quyền.
Văn học Ukraina tiếp tục phát triển trong những năm đầu thời kỳ Xô viết, khi hầu hết mọi khuynh hướng văn học đều được cho phép. Những chính sách này đã thay đổi trong thập niên 1930, khi Stalin áp dụng chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Học thuyết này không đàn áp tiếng Ukraina, nhưng nó buộc các tác giả phải theo một số kiểu cách trong tác phẩm của mình. Các hoạt động văn học tiếp tục bị hạn chế ở một số điểm bởi đảng cộng sản, và chỉ tới khi Ukraina giành độc lập năm 1991 thì các tác giả mới có thể thể hiện mình như mình muốn.
Thể thao
Ukraina được hưởng lợi nhiều từ chính sách nhấn mạnh trên giáo dục thể chất thời Liên xô. Những chính sách này khiến Ukraina có hàng trăm sân vận động, bể bơi, phòng tập thể dục và nhiều cơ sở thể thao khác. Môn thể thao được ưa chuộng nhất là bóng đá. Giải chuyên nghiệp hàng đầu là Vyscha Liha, cũng được gọi là Ukrainian Premier League. Hai đội có nhiều thành tích nhất tại Vyscha Liha là hai đối thủ FC Dynamo Kyiv và FC Shakhtar Donetsk. Dù Shakhtar là nhà đương kim vô địch Vyscha Liha, Dynamo Kyiv có lịch sử giàu truyền thống hơn, đã giành hai UEFA Cup Winners' Cup, một UEFA Super Cup, một kỷ lục 13 lần vô địch Liên xô và kỷ lục 12 lần giành Ukrainian Championship; trong khi Shakhtar chỉ giành bốn Ukrainian championship. Nhiều cầu thủ Ukraina cũng đã chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, đáng chú ý nhất là Ihor Belanov và Oleh Blokhin, người giành giải Quả bóng vàng châu Âu danh giá cho cầu thủ hay nhất năm. Giải thưởng này chỉ được trao cho một người Ukraina sau khi Liên Xô tan rã, đó là Andriy Shevchenko, cựu thủ quân của đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina. Đội tuyển Ukraina lần đầu tiên có mặt tại 2006 FIFA World Cup, và lọt vào tới vòng tứ kết trước khi thua nhà vô địch sau đó, đội tuyển Ý. Người Ukraina cũng ưa thích đấm bốc, nơi hai anh em trai Vitali Klitschko và Vladimir Klitschko đang giữ nhiều chức vô địch quyền anh hạng nặng thế giới. Ukraina lần đầu tiên đồng đăng cai Euro 2012 (cùng với Ba Lan) và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại hai quốc gia thuộc Đông Âu.
Ukraina lần đầu tham dự Olympic tại Olympic Mùa đông năm 1994. Tuy nhiên, Ukraina có nhiều thành công hơn tại Olympic Mùa hè (96 huy chương cho bốn lần tham gia) so với Olympic Mùa đông (năm huy chương vàng cho bốn lần tham gia). Ukraina hiện xếp thứ 35 về số lượng huy chương vàng giành được tại tất cả các kỳ Olympic, nơi tất cả các nước xếp trên, ngoại trừ Nga, đều có số lần tham dự nhiều hơn. Bước mới của Ukraina trong thể thao thế giới là tham gia đăng cai tổ chức Olympic Mùa đông năm 2018. Chính phủ Ukraina đã đưa Bukovel - khu thể thao trượt tuyết mới nhất của Ukraina để làm nơi tổ chức năm 2018. Bên chiến thắng đã được thông báo năm 2011 tại cuộc họp thứ 123 của IOC tại Durban, Nam Phi là thành phố Pyeyongchang của Hàn Quốc.
Nhân khẩu
Theo Điều tra dân số Ukraina năm 2001, nước này khi đó có khoảng 48.5 triệu người nhưng đến 2019 chỉ còn 43.9 triệu, người Ukraina chiếm 77.8% dân số. Các nhóm sắc tộc lớn khác gồm người Nga (17.3%), người Belarus (0.6%), người Moldova (0.5%), người Tatar Crimea (0.5%), người Bulgari (0.4%), người Hungary (0.3%), người Romania (0.3%), người Ba Lan (0.3%), người Do Thái (0.2%), người Armenia (0.2%), người Hy Lạp (0.2%) và người Tatars (0.2%). Các vùng công nghiệp ở phía đông và đông nam có dân số đông đúc nhất, và khoảng 67.2% dân số sống tại các vùng đô thị.
Ukraina được coi là đang ở trong khủng hoảng nhân khẩu vì tỷ lệ tử cao và tỷ lệ sinh thấp. Tỷ lệ sinh hiện tại của Ukraina là 9.55 sinh/1,000 dân, và tỷ lệ tử là 15.93 tử/1,000 dân. Một yếu tố góp phần vào tỷ lệ tử cao là tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao trong nhóm nam ở độ tuổi làm việc từ các lý do có thể tránh được như nhiễm độc rượu và hút thuốc. Năm 2007, dân số nước này giảm ở tỷ lệ nhanh thứ tư thế giới.
Để giúp giải quyết tình trạng này, chính phủ tiếp tục tăng các khoản hộ trợ cho trẻ em. Chính phủ cung cấp khoản chi trả một lần 12,250 Hryvnia cho đứa trẻ thứ nhất, 25,000 Hryvnia cho đứa trẻ thứ hai và 50,000 Hryvnia cho đứa trẻ thứ ba và thứ tư, cùng với các khoản chi trả theo tháng là 154 Hryvnia cho mỗi đứa trẻ. Khuynh hướng nhân khẩu cho thấy các dấu hiệu cải thiện, bởi tỷ lệ sinh đã tăng vững chắc từ năm 2001. Tăng dân số thực trên chín tháng đầu tiên của năm 2007 được ghi nhận ở năm tỉnh (trong số 24 tỉnh), và sự hao hụt dân số cho thấy những dấu hiệu ổn định trên toàn quốc. Năm 2007 tỷ lệ sinh cao nhất thuộc các tỉnh phía tây.
Nhập cư lớn diễn ra ở những năm đầu tiên sau khi Ukraina độc lập. Hơn một triệu người đã tới Ukraina trong giai đoạn 1991–2, chủ yếu từ các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ. Tổng cộng, trong giai đoạn 1991 và 2004, 2.2 triệu người đã nhập cư vào Ukraina (trong số đó 2 triệu người tới từ các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ) và 2.5 triệu người di cư khỏi Ukraina (trong số đó 1.9 triệu người tới các nước cộng hoà thuộc Liên xô cũ). Hiện tại, người nhập cư chiếm khoảng 14.7% tổng dân số, hay 6.9 triệu người; đây là con số lớn thứ tư thế giới. Năm 2006, có ước tính 1.2 triệu người Canada có tổ tiên là người Ukraina, khiến Canada là nước đứng thứ ba thế giới về số người Ukraina sau Ukraina và Nga.
Tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu tại Ukraina là Chính thống giáo Đông phương, hiện thuộc về ba Giáo hội: Giáo hội Chính thống Ukraina - Tòa Thượng phụ Kyiv, Giáo hội Chính thống Ukraina (Tòa Thượng phụ Moskva) cơ quan nhà thờ tự quản thuộc Tòa Thượng phụ Moskva, và Giáo hội Chính thống Độc lập Ukraina. Giáo hội Chính thống giáo Ukraina hợp nhất được Tòa Thượng phụ Constantinopolis công nhận vào tháng 1 năm 2019.
Đứng thứ hai về số lượng tín đồ là Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina thuộc Nghi lễ Đông phương, thực hành truyền thống phụng vụ và tinh thần như Chính thống giáo Đông phương, nhưng hiệp thông với Toà thánh Vatican của Giáo hội Công giáo Rôma và công nhận vị trí lãnh đạo của Giáo hoàng như người lãnh đạo Hội Thánh.
Ngoài ra, có 863 cộng đồng Công giáo Rôma theo Nghi lễ Latin, và 474 giáo sĩ phục vụ khoảng một triệu tín đồ Công giáo Latin tại Ukraina. Nhóm này chiếm khoảng 2.19% dân số và chủ yếu gồm sắc tộc Ba Lan và Hungary, sống tại các vùng phía tây đất nước.Đạo Tin Lành cũng chiếm khoảng 2.19% dân số. Số tín đồ Tin lành đã tăng nhiều kể từ khi Ukraina giành độc lập. Liên đoàn Phúc âm Báp tít Ukraina là nhóm lớn nhất với hơn 150,000 thành viên và khoảng 3000 tăng lữ. Nhà thờ Tin lành đứng thứ hai là Hội thánh Đức tin Phúc Âm Ukraina (Phong trào Ngũ tuần) với 110000 thành viên và 1500 nhà thờ địa phương cùng hơn 2000 tăng lữ, nhưng cũng tồn tại các nhóm và liên hiệp Ngũ tuần khác tất cả là hơn 300,000 người với hơn 3000 nhà thờ địa phương. Tương tự có nhiều trường giáo dục cao học Ngũ tuần như Lviv Theological Seminary và Kyiv Bible Institute. Các nhóm khác gồm thuyết Canvin, Giáo hội Lutheran, Giám lý, Nhân chứng Jehovah và Giáo hội Cơ đốc Phục lâm. Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (Mormon) cũng tồn tại.
Có ước tính 500,000 tín đồ Hồi giáo tại Ukraina, và khoảng 300,000 trong số họ là người Tatar Crimea. Có 487 cộng đồng Hồi giáo có đăng ký, 368 trong số đó ở bán đảo Crimea. Ngoài ra, khoảng 50,000 người Hồi giáo sống tại Kiev; chủ yếu là người sinh ở nước ngoài. Cộng đồng Do Thái chỉ bằng một phần nhỏ cộng đồng có trước Thế chiến II. Các thành phố có đông người Do Thái nhất năm 1926 là Odessa, 154,000 hay 36.5% tổng dân số; và Kyiv, 140,500 hay 27.3%. Cuộc điều tra dân số năm 2001 cho biết có 103,600 người Do Thái tại Ukraina, dù các lãnh đạo cộng đồng tuyên bố dân Do Thái lên tới 300,000 người. Không có các con số thống kê về tỷ lệ người Do Thái Ukraina, nhưng Đạo Do Thái Chính thống có sự hiện diện mạnh nhất tại Ukraina. Các nhóm Cải cách và Bảo thủ (Masorti) cũng có tồn tại.
Giáo dục
Theo hiến pháp Ukraina, giáo dục miễn phí được cung cấp tới mọi công dân. Hoàn thành giáo dục cấp hai là bắt buộc tại các trường nhà nước và đại đa số học sinh đều qua cấp này. Giáo dục cao hơn miễn phí tại các cơ sở giáo dục nhà nước và vùng được cung cấp trên một cơ sở cạnh tranh. Cũng có một số nhỏ trường học và các cơ sở giáo dục cấp cao của tư nhân.
Vì sự nhấn mạnh của Liên xô trên tổng số người tiếp cận giáo dục trên toàn bộ dân số, vẫn tiếp tục đến ngày nay, tỷ lệ biết chữ được ước tính ở mức 99.4%. Từ năm 2005, một chương trình học mười một năm đã được thay thế bằng chương trình mười hai năm: giáo dục cấp một bốn năm (bắt đầu từ khi sáu tuổi), cấp hai năm năm; giáo dục cấp ba ba năm. Ở lớp 12, học sinh thực hiện các bài Kiểm tra Chính phủ, cũng được gọi là kỳ thi ra trường. Những bài kiểm tra này sau đó được sử dụng cho việc vào đại học.
Hệ thống giáo dục cao học Ukraina gồm các cơ sở giáo dục cao học, khoa học và phương pháp luận thuộc liên bang, địa phương và các cơ sở tự quản chịu trách nhiệm giáo dục. Tổ chức giáo dục cao học tại Ukraina được xây dựng theo cơ cấu giáo dục cao học của các nước phát triển trên thế giới, như được định nghĩa bởi UNESCO và UN.
Cơ sở hạ tầng
Đa phần hệ thống đường bộ Ukraina đã không được nâng cấp từ thời Xô viết, và hiện nay đã quá cũ. Chính phủ Ukraina đã cam kết xây dựng khoảng 4,500 km (2,800 dặm) đường cao tốc tới thời điểm năm 2012. Tổng cộng, đường trải nhựa tại Ukraina có chiều dài 164,732 km. Vận tải đường sắt tại Ukraina đóng vai trò quan trọng kết nối mọi vùng đô thị, cơ sở hải cảng và trung tâm công nghiệp quan trọng với các quốc gia láng giềng. Nơi tập trung nhiều mạng lưới đường sắt nhất là vùng Donbas của Ukraina. Mặc dù số lượng hàng hoá được vận chuyển bằng đường sắt đã giảm 7.4% năm 1995 so với năm 1994, Ukraina vẫn là một trong các quốc gia sử dụng đường sắt với mật độ cao nhất thế giới. Tổng chiều dài đường sắt tại Ukraina là 22,473 km, trong số đó 9,250 km đã được điện khí hoá.
Ukraina là một trong những quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn nhất Châu Âu; nước này sử dụng lượng điện gấp đôi Đức, trên mỗi đơn vị GDP. Một phần lớn lượng điện cung cấp tại Ukraina có từ các nhà máy điện hạt nhân, và nước này có được nguồn nguyên liệu hạt nhân chủ yếu từ Nga. Ukraina phụ thuộc nặng vào nguồn năng lượng nguyên tử của mình. Nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu, Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, nằm ở Ukraina. Năm 2006, chính phủ có kế hoạch xây dựng 11 lò phản ứng mới vào năm 2030, trên thực tế, hầu như tăng gấp đôi năng lực sản xuất điện hạt nhân. Lĩnh vực năng lượng Ukraina lớn hàng thứ 12 thế giới về công suất đã xây dựng, với 54 gigawatt (GW). Năng lượng tái tạo vẫn đóng một vai trò yếu kém trong sản xuất điện, vào năm 2005 lượng điện được đáp ứng từ các nguồn sau: hạt nhân (47%), nhiệt điện (45%), thủy điện và khác (8%).
Khác
Ghi chú
a. Trong số những người Ukraina vươn lên các chức vụ cao nhất trong Đế quốc Nga là Aleksey Razumovsky, Alexander Bezborodko, Ivan Paskevich. Trong số những người Ukraina có ảnh hưởng lớn đến Giáo hội Chính thống giáo Nga trong thời kỳ này là Stephen Yavours, Feofan Prokopovich, Dimitry của Rostov.
b. Xem bài viết Đại thanh trừng để biết thêm chi tiết.
c. Ước tính số lượng tử vong khác nhau. Dữ liệu chính thức của Liên Xô không có sẵn vì chính phủ Liên Xô phủ nhận sự tồn tại của nạn đói. Xem bài viết Holodomor để biết chi tiết. Các nguồn khác nhau về việc diễn giải các tuyên bố khác nhau từ các chi nhánh khác nhau của các chính phủ khác nhau về việc liệu chúng có được công nhận chính thức về nạn đói là nạn diệt chủng của đất nước hay không. Chẳng hạn, sau tuyên bố do Latvian Sejm đưa ra vào ngày 13 tháng 3 năm 2008, tổng số quốc gia được đưa ra là 19 (theo người Ukraina BBC: ), 16 (theo Korrespondent, phiên bản tiếng Nga: ), "hơn 10" (theo Korr phóng viên, phiên bản tiếng Ukraina: ) Khôi phục ngày 27 tháng 1 năm 2008.
d. Những con số này có khả năng cao hơn nhiều, vì chúng không bao gồm người Ukraina từ các quốc gia hoặc người Do Thái tại Ukraina, mà thay vào đó chỉ bao gồm người Ukraina, từ Ukraina Xô viết.
e. Con số này không bao gồm các trường hợp tử vong POW.
f. Theo dữ liệu chính thức điều tra 2001 (theo quốc tichh ; theo ngôn ngữ ) khoảng 75 phần trăm dân số Kiev đã trả lời 'tiếng Ukraina' cho câu hỏi điều tra dân số bằng tiếng mẹ đẻ (Ridna Mova) và khoảng 25 phần trăm trả lời "tiếng Nga". Mặt khác, khi câu hỏi "Bạn sử dụng ngôn ngữ nào trong cuộc sống hàng ngày?" đã được hỏi trong cuộc điều tra xã hội học năm 2003, câu trả lời của người Kiev được phân phối như sau: "chủ yếu là người Nga": 52%, "cả người Nga và người Ukraina với số đo bằng nhau": 32%, "chủ yếu là người Ukraina": 14%, "độc quyền tiếng Ukraina": 4,3%.
g. Những bài viết như vậy cũng là cơ sở cho văn học Nga và Belarus
Chú thích
Tham khảo
Edwards Mike: "Ukraine - Running on empty" National Geographic Magazine March 1993
Kuzio, Taras: Contemporary Ukraine: Dynamics of Post-Soviet Transformation, M.E. Sharpe, 1998, ISBN 0-7656-0224-5
Magocsi, Paul Robert, A History of Ukraine. University of Toronto Press, 1996 ISBN 0-8020-7820-6
Overy, Richard: The Dictators, W. W. Norton & Company, 2004, ISBN 0-393-02030-4
Piotrowski Tadeusz, Poland's Holocaust: Ethnic Strife, Collaboration with Occupying Forces and Genocide in the Second Republic, 1918-1947, McFarland & Company, 1998, ISBN 0-7864-0371-3
Shamshur O. V., Ishevskaya T. I., Multilingual education as a factor of inter-ethnic relations: the case of the Ukraine, in Language Education for Intercultural Communication, By D. E. Ager, George Muskens, Sue Wright, Multilingual Matters, 1993, ISBN 1-85359-204-8
Subtelny, Orest. Ukraine: A History, 1st edition. Toronto: University of Toronto Press, 1988. ISBN 0-8020-8390-0.
Weiner, Amir, Making Sense of War: The Second World War and the Fate of the Bolshevik Revolution, Princeton University Press, ISBN 0-691-09543-4, Part II
Wilson, Andrew, Ukrainian Nationalism in the 1990s: A Minority Faith, Cambridge University Press, ISBN 0-521-57457-9
Liên kết ngoài
Chính phủ
The President of Ukraine
Government Portal of Ukraine
The Parliament of Ukraine
Chief of State and Cabinet Members
Thông tin chung
Ukraine information from the United States Department of State
Portals to the World from the United States Library of Congress
Ukraine at UCB Libraries GovPubs''
Văn hoá Ukrainia
Ukrainian art. Most famous modern painters
Kyiv Rus'
Quốc gia châu Âu
Quốc gia Đông Âu
Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia và vùng lãnh thổ Slav
Cộng hòa
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ukraina
Nước cộng hòa thuộc Liên Xô
Nhà nước hậu Xô viết |
{{Infobox weapon|name=AK-47|number=75 triệu khẩu AK-47 và 100 triệu biến thể của AK-47|feed=Hộp tiếp đạn cong 10, 20, 30, 40 viên Hộp tiếp đạn trống 75 và 100 viên (RPK)|range=|velocity=|rate=Tốc độ bắn lý thuyết:600 phát/phútTốc độ bắn chiến đấu:Phát một 40 phát/phútĐiểm xạ 100 phát/phút|action=Trích khí dàiKhóa nòng xoay|cartridge=7.62×39mm|part_length=Chiều dài tổng thể:Chiểu dài rãnh xoắn:|length=Báng gỗ: Báng xếp: |weight=Không có đạn:Băng đạn rỗng: (thép) (nhựa composite) (hợp kim nhẹ)|variants=Xem Các phiên bản|production_date=1948–nay|image=AK-47_assault_rifle.jpg|manufacturer=Tập đoàn Kalashnikov, Degtyaryov Plant (Nga)Norinco (Trung Quốc)Nhà máy Z111 (Việt Nam)...|design_date=1942–1947|designer=Mikhail Kalashnikov|wars=Xem chi tiết
Chiến tranh LạnhChiến tranh Việt NamChiến tranh biên giới Lào – Thái LanNội chiến LàoChiến tranh Nga-UkrainaNga xâm lược Ukraina 2022Khủng hoảng Nga–Ukraina 2021–2022Trận đánh Sievierodonetsk (2022)|used_by=Xem chi tiết
<li><li><li> Khối Warszawa<li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li><li></li/> Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|is_ranged=Yes|type=Súng trường tấn côngSúng tiểu liên |origin=|caption=AK-47 loại 3|image_size=300|sights=100–800m với điểm ruồi}}Súng trường tự động Kalashnikov (Автомат Калашникова (chữ Kirin) hoặc Avtomat Kalashnikov (chữ Latinh), viết tắt là АК hay AK) là một trong những súng trường tấn công (theo phân loại của NATO) hoặc súng tiểu liên (theo phân loại của khối xã hội chủ nghĩa) thông dụng nhất của thế kỷ XX, được thiết kế bởi Mikhail Kalashnikov. Tên gọi thông dụng của súng là AK-47. Theo phân loại của khối xã hội chủ nghĩa, AK-47 thuộc loại súng tiểu liên, họ súng máy. Theo phân loại của NATO, AK-47 thuộc loại súng trường tấn công, cũng thuộc họ súng máy.
Cho đến đầu thế kỷ 21, dù đã có hơn 70 năm tuổi thọ nhưng AK-47 và các phiên bản của nó vẫn là thứ vũ khí được ưa chuộng nhất, được lựa chọn là vũ khí tiêu chuẩn bởi trên 50 quân đội, ngoài ra nó còn phục vụ rất nhiều các lực lượng vũ trang, du kích khác tại hơn 100 quốc gia trên thế giới. Chi phí sản xuất, chi phí bảo dưỡng đều rất thấp, độ tin cậy, hiệu quả, độ bền bỉ rất cao trong điều kiện chiến đấu khắc nghiệt của loại súng này làm cho nó trở thành loại vũ khí cá nhân thông dụng nhất thế giới. Tầm bắn hiệu quả nhất của AK-47 trong khoảng 400 mét, chuyên dùng để tác chiến tầm ngắn và tầm trung., các phiên bản mới hơn có thể đạt tầm bắn hiệu quả xa hơn, khoảng 500 mét.
Với những ảnh hưởng của mình, AK-47 được gọi là một biểu tượng trong quân sự, một thứ vũ khí làm thay đổi bộ mặt chiến tranh. Hiện tại súng AK-47 đang là vũ khí cá nhân tiêu chuẩn cho quân đội của hơn 60 quốc gia trên thế giới. Rất nhiều quốc gia khác nữa sử dụng AK-47 cho các lực lượng cảnh sát, biên phòng. AK-47 còn là lựa chọn của các lực lượng nổi dậy và tội phạm trên khắp thế giới do độ bền rất cao và giá thành lại rẻ. Ngay cả ở Hoa Kỳ, nơi chế tạo ra loại súng đối thủ là M16, AK-47 cùng với các biến thể của nó (như mẫu shotgun như Saiga 12K) vẫn bán rất chạy trên thị trường súng dân sự Mỹ với số lượng hàng triệu khẩu đã được bán, tương đương số lượng súng AK-47 và các biến thể của nó mà quân đội Nga và cảnh sát Nga đang sở hữu
AK-47 là nền tảng để Liên Xô (sau này là Nga) nghiên cứu và phát triển thành các biến thể hiện đại hóa như: АKM, RPK, AK-74, RPK-74, AN-94, AK-103, AK-107, AK-12, RPK-16,... các phiên bản hiện đại hóa được làm bằng vật liệu nhẹ với công nghệ chế tạo hiện đại hơn và được trang bị thêm các phụ kiện như kính ngắm chấm đỏ, kính ngắm quang học, súng phóng lựu, nòng giảm thanh,.... Các quốc gia khác cũng phát triển một loạt mẫu súng mới dựa trên nền tảng của AK-47 như Galil ACE (Israel và Việt Nam), Rk 95 Tp (Phần Lan), Karabinek szturmowy wz. 1996 Beryl (Ba Lan), Zastava M21 (Serbia), K-56 (Trung Quốc và Việt Nam) và STL-1A, GK1, GK3 (Việt Nam).
Lịch sử
Bối cảnh
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc Xã phát triển mẫu súng trường tấn công, dựa vào nghiên cứu cho thấy đa số cuộc đấu súng xảy ra ở cự ly gần, trong vòng 350 mét. Uy lực của súng trường Karabiner 98k là quá mạnh (tầm bắn hiệu quả là 800m) nhưng tốc độ bắn lại quá chậm cho đa số cuộc đấu súng ở cự ly gần (tối đa 30 phát/phút). Súng tiểu liên MP-40 bắn nhanh, mật độ hỏa lực cao nhưng tầm bắn lại ngắn (chỉ khoảng 50 - 100 mét). Kết luận của các nhà quân sự Đức Quốc Xã là cần sáng chế một loại súng kết hợp giữa súng trường và súng ngắn liên thanh có các tính năng cơ bản như hộp tiếp đạn có sức chứa lớn, hỏa lực dày và chính xác với tầm bắn trung bình có hiệu quả đạt đến 350 mét. Súng tiểu liên StG 44 (MP-44) được ra đời, không dùng đạn nhẹ đầu tròn như MP-40 nữa mà chuyển sang dùng loại đạn 7,92x33 mm là loại đạn đầu nhọn có liều thuốc phóng lớn hơn.
Tuy nhiên, trong lịch sử, StG 44 không phải là loại súng đầu tiên có những tính năng này. Khẩu Fedorov ra đời trước đó (1916) đã mang trong mình thiết kế của súng trường tấn công. Fedorov sử dụng cỡ đạn trung bình 6,5x50mm giúp giảm giật, khiến cho khẩu súng bắn nhanh và có thể vừa chạy vừa bắn, nhưng vẫn đảm bảo sức công phá và tầm bắn hơn rất nhiều so với súng ngắn liên thanh. So với tiêu chuẩn của súng trường tấn công ngày nay, StG-44 vẫn chưa hoàn chỉnh: tầm bắn hiệu quả vào khoảng 300 mét (cao hơn súng tiểu liên nhưng thấp hơn súng trường tấn công tiêu chuẩn), không có ốp lót tay (xạ thủ phải nắm lấy băng đạn do không thể cầm vào phần đầu nòng súng dễ bị nóng khi bắn lâu, khiến việc lấy điểm ngắm ở cự ly xa trở nên khó khăn). Tuy nhiên, thiết kế của StG-44 là rất hoàn hảo trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai, tạo ra ưu thế cho lính Đức Quốc Xã trước các loại súng trường bắn phát một hoặc súng ngắn liên thanh thời đó của bộ binh đối phương. Điều này khiến ban lãnh đạo Liên Xô quyết định nghiên cứu, chế tạo ra mẫu súng trường tấn công của họ.
Vài nét về tác giả và quá trình sáng chế
Mikhail Timofeyevich Kalashnikov (Михаил Тимофеевич Калашников) bắt đầu sự nghiệp thiết kế súng từ năm 1942, khi ông đang dưỡng thương trong bệnh xá vào thời gian diễn ra chiến dịch Bryansk. Sau khi nhận thấy những bất ổn trong thiết kế súng tiểu liên, ông tham gia vào cuộc thi vũ khí mới sẽ sử dụng đạn 7,62x41 mm được phát triển bởi Elisarov và Semin vào năm 1943. Lúc đó, Hồng Quân đang mở một cuộc thi thiết kế một loại súng mới với yêu cầu là đáng tin cậy trong môi trường lầy lội, ẩm ướt và giá lạnh của Liên Xô, Kalashnikov tham gia.
Ông thiết kế một mẫu súng carbine dựa trên phần lớn thiết kế khẩu súng M1 Garand của Hoa Kỳ, và mẫu này thua mẫu của Sergei Gavrilovich Simonov (mẫu súng của Simonov sau này trở thành khẩu SKS/CKC). Cùng thời gian đó, quân đội Xô Viết cũng bắt đầu quan tâm với việc phát triển một loại súng trường tấn công thực thụ, sử dụng đạn M43 có kích thước ngắn hơn. Mẫu thiết kế đầu tiên của kiểu súng này được Aleksei Sudayev giới thiệu năm 1944 với tên AS-44. Tuy nhiên trong các cuộc thử nghiệm nó bị đánh giá là quá nặng nề và nòng súng của nó bị nóng lên rất nhanh. Sudayev qua đời vì bị ung thư dạ dày vào năm 1946, nên trước khi qua đời một thời gian, ông đã chỉ định Kalashnikov tiếp quản chương trình này. Một cuộc thi thiết kế khác được tổ chức vào hai năm sau đó, và lần này đội thiết kế của Kalashinkov lại tiếp tục đăng ký tham gia. Đó là một khẩu súng trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trích khí và khóa nòng mở để nạp đạn giống như mẫu carbine năm 1944 của ông, cùng với một hộp đạn cong chứa 30 viên.
Các mẫu súng của ông (ký hiệu AK-1 và AK-2) đã tỏ ra đáng tin cậy và vượt lên mẫu của các đối thủ khác, lọt vào vòng 2 của cuộc thi cùng với các mẫu thiết kế AB-47 của Bulkin và AD-47 của Dimentiev. Cuối năm 1946, khi các khẩu súng bắt đầu được thử nghiệm, một trong những trợ lý của Kalashnikov là Aleksander Zaytsev đề xuất một sự cải tổ lớn đối với thiết kế АК-1 của Kalashnikov với mục đích nâng cao độ tin cậy của súng. Lúc đầu, những người lính Hồng Quân nhận khẩu AK-1 từ Kalashnikov một cách miễn cưỡng. Họ đã quen đối phó với đối thủ bằng khẩu súng trường (hoặc súng tiểu liên) trong tay. Tuy nhiên, Aleksander Zaytsev đã thuyết phục được họ, kết quả là khẩu súng mới đã để lại một chùm lỗ thủng trên bia và vượt qua bài bắn kiểm tra tại trường bắn thử nghiệm. Cũng từ đây, súng trường tấn công Kalashnikov mẫu 1947 đã chứng tỏ được sự đáng tin cậy, tính đơn giản của nó và bắt đầu được trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949 với cái tên Súng trường tự động Kalashnikov (Автомат Калашникова), gọi tắt là AK, cỡ nòng 7,62mm.
Nguyên lý thiết kế
Mặc dù nhà thiết kế Mikhail Kalashnikov đã phủ nhận rằng khẩu AK-47 được ông thiết kế dựa trên khẩu StG 44 của người Đức Quốc Xã, nhưng một số người vẫn cho rằng AK-47 đã chịu ảnh hưởng từ thiết kế của StG-44 khi xét về mặt bề ngoài, cả hai khẩu súng này đều đặt ống trích khí ở ngoài ốp tay trên trong khi M-16 của Mỹ thì để trong ốp tay trên. Trên thực tế, cơ chế đóng khóa nòng của AK-47 khác biệt hoàn toàn so với StG 44. AK-47 sử dụng khóa nòng xoay còn StG-44 dùng khóa nòng trượt. Sau khi viên đạn bay ra khỏi nòng, cả AK-47, M-16 và StG-44 đều trích lại một phần khí, phần khí này sẽ đẩy bệ khóa nòng ra sau; đối với AK-47 và M-16, bệ khóa nòng sau khi bị đẩy ra sau sẽ làm xoay thoi đẩy trước khi thoi đẩy đẩy nạp viên đạn tiếp theo vào ổ súng; đối với StG-44, bệ khóa nòng bị đẩy về sẽ kéo thoi đẩy về cùng 1 lúc để tạo khoảng trống để viên đạn tiếp theo được nạp vào ổ súng. Về hệ thống lò xo, kim hỏa và cơ chế tháo lắp hộp khóa nòng thì StG-44 thậm chí còn giống M-16 của Hoa Kỳ hơn là giống AK-47.
AK-47 đúng là đã tích hợp được những đổi mới công nghệ súng trường so với trước đó: quá trình điểm hỏa được thực hiện bằng bệ khóa nòng lùi có lò xo đẩy về, sử dụng cụm khóa nòng kiểu then xoay như khẩu M1 Garand/M1 Carbine. Nhóm thiết kế của Kalashnikov có điều kiện tiếp cận tất cả các loại vũ khí này và họ không việc gì phải "sáng chế lại cái bánh xe".
Kalashnikov kể lại:
AK-47 được thiết kế với tiêu chí là độ tin cậy phải cao, bảo trì phải thật dễ dàng. Kể cả trong điều kiện chiến đấu rất khắc nghiệt, từ bùn lầy, cát bụi cho tới băng tuyết, xạ thủ vẫn chắc chắn rằng khẩu AK-47 của họ sẽ luôn khai hỏa được. Một câu chuyện nổi tiếng kể rằng: một viên trung tá quân đội Mỹ đi cùng nhà báo chiến trường David Hackworth tìm thấy một khẩu súng AK-47 bị chôn vùi dưới bùn đã hơn một năm, các bộ phận bằng kim loại của súng đã bị nước làm rỉ sét hoàn toàn, vậy mà nó vẫn khai hỏa được mà không bị kẹt đạn cũng như không cần chùi rửa gì.
Trong khi khẩu súng M16 của Mỹ cần những loại dầu cùng thiết bị bảo dưỡng đặc biệt thì việc bảo dưỡng khẩu AK-47 rất đơn giản. Chỉ cần lấy một sợi dây giầy, thắt vài nút, nhúng vào dầu máy và kéo qua nòng súng. Do vậy, AK-47 rất thích hợp với những đội quân "nhà nghèo" hoặc du kích, vốn không có điều kiện bảo dưỡng vũ khí thường xuyên.
Phát triển
Giai đoạn sản xuất ban đầu đã có những khó khăn. Trong mẫu súng đầu tiên, tấm kim loại mỏng của bộ phận đẩy khóa nòng thường hay bị bật ra. Khó khăn cũng xuất hiện khi thanh dẫn hướng được gia công bằng phương pháp hàn thường gây ra hiện tượng trượt lẫy. Những nhà sáng chế không dừng lại, họ thay tấm kim loại mỏng có tác dụng giảm giật bằng một khối kim loại nặng hơn. Quá trình thay thế này gây nên một số tốn kém nhất định nhưng bù lại, khi sử dụng bộ phận đẩy về bằng tay của khẩu Mosin-Nagant trước đây, nó vẫn hoạt động đủ nhanh và đủ chắc chắn. Bộ phận đẩy về của khẩu súng trường này được gia công lại và thay thế vào đó. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô không thể trang bị nhiều súng mới cho quân đội trước năm 1956. Trong thời gian này, súng trường CKC vẫn tiếp tục được sản xuất.
Một khi những khó khăn trong sản xuất đã được khắc phục, phiên bản thiết kế lại có tên AKM (M là chữ cái đầu tiên của từ "Modernizirovanniy", có nghĩa "hiện đại hoá" hoặc "nâng cấp" theo phiên âm tiếng Nga) được đưa vào sản xuất và trang bị năm 1959. Mẫu mới này sử dụng tấm kim loại che bộ phận đẩy về hình vát nghiêng, khuyết cạnh trên vị trí cuối nòng súng, lắp thêm bộ phận giảm giật ở miệng nòng. Ngoài ra, bộ phận hãm búa đập được chế tạo thêm để ngăn vỏ đạn không bắn vào xạ thủ khi chốt khóa nòng liên tục đóng mở trong chế độ bắn nhanh, tự động điểm hỏa. Đây là cũng là điều đôi khi xem như "giải pháp tình thế", hoặc là một "sự đánh đổi", có ảnh hưởng làm giảm nhịp bắn mỗi phút trong chế độ bắn tự động. Nó cũng làm cho súng nhẹ đi gần một phần ba so với mẫu trước đó.
Việc sản xuất AK ở nước ngoài kể cả có giấy phép và không có giấy phép diễn ra khá phổ biến, trong đó nhiều nhất là mẫu AKM. Một phần do thương hiệu sản phẩm dễ hấp dẫn khách hàng nên mẫu này thường có số lượng chế tạo lớn hơn. Tất cả súng trường dựa trên thiết kế súng AK thường bị quy là AK-47S ở miền Tây, mặc dù đây chỉ là sửa đổi súng trường với 3 sản phẩm ban đầu đã được đưa ra sử dụng. Ở đa số các quốc gia thuộc khối Đông Âu, hiểu biết về vũ khí đơn giản chỉ cần là "súng AK". Tấm hình phía trên bên phải minh họa sự khác biệt giữa kiểu sản phẩm thứ 2 nguyên bản và kiểu sản phẩm thứ 4 có thương hiệu, bao gồm sử dụng đinh tán chứ không phải là mối hàn trên sản phẩm có thương hiệu, cũng như cách tạo những gân sóng nhỏ trên ổ đạn làm cho ổ đạn có độ bền tốt hơn.
Vào năm 1978, Liên Xô bắt đầu thay AK-47 và AKM của họ bằng súng trường thiết kế mới hơn: khẩu AK-74. Loại súng trường mới này và đạn chỉ bắt đầu được xuất khẩu tại các quốc gia Đông Âu khi Liên Xô sụp đổ. Sự kiện nghiêm trọng này đã làm chậm lại việc sản xuất các vũ khí này của các nước trong khối Liên Xô cũ.
Các phiên bản của chủng loại súng АК
Các biến thể do Liên Xô và Nga sản xuất
Mặc dù thiết kế vào năm 1947 nhưng quân đội Liên Xô chính thức sử dụng AK-47 vào năm 1949, đến năm 1951 thì toàn bộ quân đội Xô Viết đã sử dụng AK-47. Sau đó, kiểu cải tiến của AK-47 là АKM ra đời vào năm 1959 và được sử dụng rộng rãi vào năm 1961. Năm 1974, kiểu AK-74 ra đời với nhiều cải tiến, đặc biệt là sử dụng cỡ đạn 5,45mm nhỏ hơn nhưng có trọng lượng phần sau đầu đạn lớn hơn phần trước để tăng sức sát thương đối mục tiêu mềm, thay cho cỡ đạn cũ là 7,62mm. Đến năm 1996, khi nhược điểm của loại đạn này thể hiện trong thực tế (sức xuyên phá kém hơn so với đạn 7,62mm), người Nga bắt đầu sản xuất các biến thể dùng lại cỡ đạn 7,62 mm với các mẫu AK mới từ phiên bản АK-103 và hiện nay là phiên bản АK-107.
Để phát triển công nghiệp vũ khí, từ năm 2001, Nga tiếp tục sản xuất song song hai phiên bản AK-107 và АK-108. Trong đó, АK-107 sử dụng đạn tiêu chuẩn Warsawa 5,45x39mm và phiên bản АK-108 có cấu tạo, tính năng như phiên bản АK-107 nhưng thay đổi đường kính nòng để sử dụng đạn tiêu chuẩn NATO 5,56x45mm.
Nhà sản xuất vũ khí lớn nhất của Nga Izhmash đã thiết kế mẫu súng trường Kalashnikov mới thay thế các khẩu АK đã cũ. Loại mới, được gọi là АK-12, có khả năng sử dụng linh hoạt hơn và có gần 20 chi tiết cải tiến so với loại cũ. Các quan chức của Izhmash cho biết, АK-12 có những tính năng đặc biệt, tạo ra sự khác biệt lớn với các loại súng khác và có thể trở thành mô hình cho sự phát triển của súng trường tấn công trong tương lai.
Bộ Nội vụ Nga đã tỏ ý quan tâm đến АK-12 và đã yêu cầu chế tạo hàng trăm khẩu để thử nghiệm. Bộ Quốc phòng Nga thì chưa tỏ ý quan tâm do còn tồn kho đến 7 triệu khẩu АK-74 nên sẽ không có kế hoạch đặt mua thêm bất kỳ loại súng nào trong năm 2012. Loại súng này đã gây ra các cuộc tranh luận vào thời điểm chưa có thông tin nào ngoài hình ảnh được công bố, điểm dễ nhận biết nhất của АK-12 so với AK-47 và АK-74 nhất là phần ray để gắn các phụ kiện nhưng báo chí Nga cho rằng chi tiết này chẳng có gì mới so với các súng trường tấn công M16 của Mỹ, IMI Negev của Israel hay các sản phẩm của Đức, và hỏi là loại súng này có cải tiến đủ nhiều và thêm các chức năng đủ để có thể được gọi là súng thế hệ thứ năm chưa nên một số báo chí Nga đã gọi АK-12 là một sự "lừa phỉnh" khi gọi АK-12 là súng thế hệ thứ năm. Còn hiện tại thì việc thử nghiệm АK-12 do Bộ Nội vụ tiến hành cho kết quả rất tốt.
Năm 2012, Hãng sản xuất AK của Nga Izhmash đã suýt chút nữa tuyên bố phá sản do tình hình tài chính bi đát. Vào năm 2011, Izmash lỗ hơn 80 triệu USD với sản lượng sản xuất giảm đến 45% về giá trị. Lý do quan trọng nhất là AK-47 bị sản xuất lậu ở khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn và rẻ hơn nhiều so với mua chính hãng tại Nga. Trên thị trường vũ khí toàn cầu thì tràn ngập AK được sản xuất lậu ở các nước như: Belarus, Bulgari, Romania, Serbia, ở các quốc gia châu Phi... và đặc biệt là ở Trung Quốc. Sau đó, công ty đã sáp nhập và trở thành một chi nhánh của tập đoàn nhà nước Rostexnology của Nga để tái cơ cấu và tiếp tục sản xuất cũng như tiếp tục nghiên cứu phát triển các mẫu mã mới.
Thông số cơ bản và tính năng của một số phiên bản AK
Mô tả cấu tạo, tính năng, thông số kỹ thuật
Ưu điểm chính của AK-47 chính là thiết kế đơn giản, kích thước nhỏ gọn và dễ sản xuất đại trà. Khẩu súng có chi phí sản xuất thấp, dễ lau chùi và bảo trì, đồng thời độ bền và độ tin cậy cao của nó đã trở thành huyền thoại.
Khẩu AK-47 ban đầu được thiết kế sao cho nó dễ dàng được sử dụng và sửa chữa bởi các binh sĩ Liên Xô đóng quân ở vùng Bắc Cực - đôi bàn tay phải mang những chiếc găng tay chống rét. AK có piston trích khí lớn, độ rơ rộng giữa các bộ phận chuyển động, ngay cả trong trường hợp các chuẩn mực chế tạo bị giảm so với thiết kế vẫn cho phép súng có thể chịu đựng được một lượng lớn tạp chất khi không có điều kiện bảo dưỡng định kỳ. Điều này làm cho độ chính xác trở nên thấp hơn, độ tản mát của các phát bắn trở nên cao hơn, nhưng thực ra vấn đề này không cần phải quan tâm, bởi AK-47 chuyên dùng để tấn công các mục tiêu cự ly dưới 400 mét bằng các loạt bắn liên thanh, ở cự ly này thì độ tản mát vài cm của các loạt đạn cũng chẳng gây ảnh hưởng đến khả năng bắn trúng mục tiêu. Đây là ảnh hưởng của học thuyết bộ binh Liên Xô trong thời gian đó, khi những súng trường tấn công được coi là một phần của sự tập trung hỏa lực bộ binh tầm gần chứ không phải độ chính xác ở tầm xa (nhiệm vụ bắn chính xác ở tầm xa đã có trung liên RPK, đại liên PK và súng bắn tỉa SVD Dragunov). Tuổi thọ của khẩu AK-47 dao động từ 20 đến 40 năm tùy theo môi trường sử dụng và công việc bảo trì vũ khí có thường xuyên hay không.
Một số đặc điểm cấu tạo
Các đặc điểm chính:
Rãnh xoắn: 4 rãnh, bước xoắn: 235 mm
Thước ngắm nằm ở phía đầu hộp khóa nòng (một số biến thể bố trí cuối hộp khóa nòng), có thể điều chỉnh dễ dàng bằng con chạy; được đúc liền với vai ngắm phía sau. Trên vai ngắm xẻ một khe ngắm hình chữ V ở chính giữa.
Đầu ruổi chỉ thị điểm ngắm có hai vách bảo vệ, có thể vặn vít lên cao, xuống thấp để hiệu chỉnh chi tiết về tầm bắn khi bắn chỉnh súng. Đầu ruồi được đặt trên một bệ đầu có chốt ngang dùng để chỉnh hướng. Khi đã chỉnh đúng hướng bắn, chốt này được cố định.
Lỗ trích khí ngang 1/3 nòng súng tính từ ngoài vào
Hệ thống thoi đẩy (pít-tông) liền khối với khóa nòng.
Búa đập quay, có lẫy hãm để bắn từng viên.
Thoi móc đạn kiểu rãnh xoay có tác dụng kéo vỏ đạn khỏi buồng đạn. Khi khóa nòng bị lực của khí trích đẩy lùi hoặc người bắn dùng tay kéo khóa nòng lùi, móc đạn vừa xoay vừa kéo vỏ đạn ra, lực kéo phân chia đều và xoay quanh vành vỏ đạn. So với cơ chế kéo thẳng vào vành vỏ đạn tại một điểm ở một số loại súng, cách xoay kéo vỏ đạn này làm giảm tối đa hiện tượng tắc đạn do không hất được vỏ đạn ra khỏi buồng đạn.
Tính năng
Tốc độ bắn lý thuyết: 600 phát/phút
Tốc độ bắn trong chiến đấu: 40 phát/phút khi bắn phát một và 100 phát/phút khi bắn liên thanh.
Chế độ điểm xạ 2 phát liên tiếp:
Do cấu tạo của súng không có chế độ điểm xạ 3 phát liên tiếp như M16 hoặc AR-15, nhưng do nhịp bắn chậm hơn hai loại súng này nên xạ thủ có thể tập luyện việc bóp cò, nhả cò đúng lúc để hai viên đạn liên tiếp được bắn ra. Phương pháp này được nhiều xạ thủ giỏi của Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng lần đầu trong Chiến tranh Việt Nam, hiện nay đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới mà không phụ thuộc vào tính năng của súng. Một xạ thủ cấp I có thể bắn điểm xạ hai viên AK-47 trúng bia số 7 ở khoảng cách 100 m với hai điểm chạm chỉ cách nhau 10 đến 15 cm.
Tầm bắn hiệu quả:
Chế độ bắn phát một: 800 m
Chế độ bắn liên thanh: 400 m (góc tà bằng 0 hoặc góc tà dương không quá 10 độ); 200 m (góc tà âm không quá 15 độ), có độ chụm cao nhất ở 300 m với góc tà bằng 0.
Trong thực tế thì loại súng này thường được đặt thước ngắm ở cự ly 300m tương ứng với tầm bắn thẳng và xạ thủ tự chỉnh đường ngắm đúng lên trên hoặc xuống dưới so với mục tiêu tùy theo mục tiêu ở trong hay ngoài khoảng cách này. Những xạ thủ giỏi thường cảm nhận được mức độ nảy lên của nòng súng khi điểm hỏa để điều chỉnh lực giữ súng trên ốp che tay cho phù hợp, bảo đảm loạt đạn bắn ra có độ tản mát nhỏ nhất.
Sự phổ biến
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các quốc gia Liên Xô, CHND Trung Hoa, Hoa Kỳ đã cung cấp và viện trợ hàng loạt vũ khí cũng như các công nghệ quân sự cho các tổ chức và quốc gia đồng minh với mình. Lúc đó, các loại súng sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ như M14, M16 rất đắt tiền, vì vậy Hoa Kỳ chủ yếu viện trợ các vũ khí dư thừa thuộc thế hệ cũ hơn cho các đồng minh. Trong khi đó, chi phí sản xuất thấp của súng AK khiến cho Liên Xô có thể chế tạo vũ khí này với số lượng rất lớn và cung cấp cho các đồng minh của họ thay cho các vũ khí thừa thuộc thế hệ cũ. Kết quả là trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, khẩu AK được Liên Xô và Trung Hoa viện trợ với số lượng lớn (thậm chí là cho không) đến các quốc gia và tổ chức đồng minh cộng sản của họ, ví dụ như Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam ở Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Sandinista ở Nicaragua. Những khẩu súng AK đã có mặt trong quân đội của hơn 60 quốc gia và hàng trăm tổ chức bán quân sự khác.
Sau nhiều lần hoàn thiện, AK-47 được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến tranh. Trong toàn bộ thời kỳ chiến tranh lạnh và trong các cuộc xung đột lớn nhỏ trên toàn cầu hiện nay, AK-47 vẫn là loại súng phổ biến nhất thế giới, được rất nhiều lực lượng quân đội, các lực lượng vũ trang của trên thế giới cho đến các tổ chức tội phạm, tổ chức khủng bố sử dụng vì tính năng độ tin cậy rất cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn. Thậm chí, khi vớt khỏi bùn, chỉ cần tháo ra, dùng nước rửa sạch các bộ phận, lắp ráp lại là có thể bắn được. Các nguyên vật liệu để chế tạo súng tương đối phổ cập, chủ yếu là thép và gỗ. Trong điều kiện công nghệ phát triển không cao nhưng nhiều nước đang phát triển và cả một số nước kém phát triển cũng đã chế tạo được khẩu súng này với giá thành rẻ. Theo số liệu của nhà kinh tế Phillip Killicoat, Đại học Oxford, Anh, giá trung bình của một khẩu AK-47 bán vào năm 2005 là 534 USD. Trong khi đó, riêng ở châu Phi, súng AK-47 được bán với giá rẻ hơn khoảng 200 USD (chỉ bằng 1/8 so với giá của 1 khẩu M-16), các khẩu АК có nguồn gốc trôi nổi có thể còn rẻ hơn nữa.
Do cấu tạo không quá phức tạp, dễ tháo lắp, chỉ cần một số dụng cụ cơ khí đơn giản (búa, kìm, đột, tống chốt, giũa, chổi con sâu), xạ thủ có thể bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ dễ dàng. Các bộ phận phụ: ốp che tay, báng, tay nắm bóp cò đều làm bằng gỗ nên rất dễ tự chế theo mẫu. AK có thể chịu được tuyết, bùn, băng giá, nước, cát bụi; rất phù hợp với những chiến trường có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.. Ở Việt Nam, AK-47 được Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam sử dụng liên tục và phổ biến trong Chiến tranh Việt Nam từ giữa thập niên 1960 cho đến hiện tại với số lượng hàng triệu khẩu.
Tính đến giữa năm 2012, thì nhu cầu về súng AK-47 trên thị trường thế giới vẫn rất lớn với hơn 100 triệu khẩu đã được chế tạo trên khắp thế giới. Ngay cả dân Hoa Kỳ cũng đổ xô đi mua và sưu tầm súng AK-47 với số lượng tương đương số lượng mà lực lượng quân đội và cảnh sát Nga sở hữu và được đánh giá là "chất lượng và tính linh hoạt vượt xa bất cứ thứ gì khác trên thị trường". Đến nay, mỗi khi ra chiến trường thì lính Mỹ luôn mang theo băng đạn AK để sẵn sàng cho việc khi khẩu M4 Carbine của họ hết đạn thì họ sẽ nhặt AK của phiến quân khủng bố lên sử dụng tiếp.
Các quốc gia sản xuất AK ngoài Liên Xô
Danh sách này chỉ tính các quốc gia sản xuất AK-47 chỉ với mục đích cung cấp cho quân đội. Tất nhiên AK-47 còn được sản xuất ở những nơi khác và mục đích khác. Một phiên bản AKM nâng cấp vẫn còn được sản xuất ở Nga.
Bản quyền
Nga lâu nay luôn khẳng định rằng một lượng lớn súng AK-47 được sản xuất mà không được cấp phép từ Izmash. Vì vậy, trên lý thuyết, việc những xưởng sản xuất khác ngoài Izhevsk tự tiện sản xuất AK được xem như là bất hợp pháp. Tuy nhiên, hiện nay gần một triệu khẩu AK-47 đã được sản xuất trái phép mỗi năm.
Việc buôn bán trái phép các khẩu súng AK
Khẩu AK và các biến thể của nó là một trong những vũ khí cầm tay thịnh hành nhất trong thị trường chợ đen trên toàn thế giới, nó đã được bán trái phép cho các chính quyền, các phiến quân, các tổ chức tội phạm và các cá nhân với sự giám sát rất lỏng lẻo. Ở một số quốc gia, giá của khấu AK rất rẻ; tại Pakistan, Somalia, Rwanda, Mozambique, CHDC Congo và Ethiopia, giá cả dao động từ 30 đến 125 USD mỗi khẩu và càng ngày càng thấp trong những thập niên gần đây do vô số các sản phẩm nhái của khẩu AK gốc đã được sản xuất. Khi Moisés Naím khảo sát một thị trấn nhỏ của Kenya năm 1986, một khẩu AK-47 có giá bằng 15 con bò nhưng vào năm 2005 giá giảm xuống chỉ còn bốn con bò, việc này có nghĩa là nguồn cung cấp súng AK rất phong phú. AK-47 đã xuất hiện trong các cuộc xung đột vũ trang tại bán đảo Balkan, tại Iraq, Afghanistan và Somalia.
Tổ chức Ngân hàng Thế giới đã ước tính: trong số 500 triệu vũ khí cầm tay được lưu hành trên thế giới, có đến 100 triệu là các vũ khí thuộc họ Kalashnikov, và 75 triệu là các khẩu AK-47. Vì được sử dụng quá rộng rãi nên thương vong do AK-47 gây ra cũng vượt xa các loại vũ khí khác. Người ta ước tính rằng số thương vong do súng trường AK-47 gây ra nhiều hơn số người chết do các loại pháo binh, không kích và rocket cộng lại. Mỗi năm có khoảng 1 triệu người chết do trúng đạn từ súng trường Kalashnikov với nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau.
Trong một hội nghị của Liên Hợp Quốc về việc giải quyết những vấn nạn gây ra bởi các vũ khí được buôn bán trái phép vào năm 2006, Mikhail Kalashnikov nói rằng ông đánh giá cao vai trò của súng AK-47 trong lĩnh vực quốc phòng, nhưng việc những sản phẩm nhái lại khẩu AK, việc những kẻ buôn lậu lợi dụng thương hiệu Kalashnikov để bán loại súng này cho các thành phần khủng bố và những kẻ tội phạm đã khiến ông rất tức giận.
Ảnh hưởng của AK-47 trong văn hóa
Biểu tượng của một số quốc gia và một số tổ chức sử dụng hình dạng của khẩu AK-47 như một yếu tố hình tượng bên cạnh các yếu tố hình tượng khác. Hình ảnh của khẩu AK-47 đã xuất hiện trong Quốc kỳ và quốc huy của Mozambique, một sự thừa nhận rằng các nhà lãnh đạo của các quốc gia này giành được quyền lực phần nào nhờ vào việc sử dụng hiệu quả các khẩu AK-47. AK-47 cũng xuất hiện trên quốc huy Zimbabwe và Đông Timor, quốc huy của Burkina Faso những năm 1984-1997, cờ của tổ chức Hezbollah, và biểu trưng của lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran.
Vào năm 2006, nhạc sĩ kiêm nhà hoạt động hòa bình người Colombia César López đã chế tạo một nhạc cụ mang tên escopetarra, thực chất đây là một chiếc đàn ghi-ta được làm từ một khẩu súng AK. Một cây đàn như thế này đã được bán với giá 17,000 USD trong một buổi gây quỹ từ thiện nhằm giúp đỡ những nạn nhân của mìn. Một cây đàn khác đã được trưng bày tại Hội nghị giải trừ quân bị của Liên Hợp Quốc.
Biểu tượng của quốc gia có hình khẩu AK-47 |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.