text
stringlengths 0
512k
|
---|
Siêu dữ liệu (metadata) là dạng dữ liệu mô tả thông tin chi tiết về dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu, metadata là các sửa đổi dạng biểu diễn khác nhau của các đối tượng trong cơ sở dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu quan hệ thì metadata là các định nghĩa của bảng, cột, cơ sở dữ liệu, view và nhiều đối tượng khác. Trong kho dữ liệu, metadata là dạng định nghĩa dữ liệu như: bảng, cột, một báo cáo, các luật doanh nghiệp hay những quy tắc biến đổi. Metadata bao quát tất cả các phương diện của kho dữ liệu. Trong quản lý tập tin, metadata chứa các thông tin thuộc tính của tập tin đó như: tên tập tin, mô tả tóm tắt, kích cỡ, ngày tạo ra,...
Metadata phải chứa những thông tin:
Cấu trúc của dữ liệu
Thuật toán sử dụng để tổng hợp dữ liệu
Ánh xạ xác định sự tương ứng dữ liệu từ môi trường tác nghiệp sang kho dữ liệu
Metadata là dữ liệu để mô tả dữ liệu. Khi dữ liệu được cung cấp cho người dùng cuối, thông tin metadata sẽ cung cấp những thông tin cho phép họ hiểu rõ hơn bản chất về dữ liệu mà họ đang có. Những thông tin này sẽ giúp cho người dùng có được những quyết định sử dụng đúng đắn và phù hợp về dữ liệu mà họ có.
Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng khác nhau, từng loại dữ liệu khác nhau mà cấu trúc và nội dung dữ liệu metadata có thể có những sự khác biệt. Song, nhìn chung sẽ bao gồm một số loại thông tin cơ bản sau:
Thông tin mô tả về bản thân dữ liệu metadata
Thông tin về dữ liệu mà metadata mô tả
Thông tin về cá nhân, tổ chức liên quan đến dữ liệu metadata và dữ liệu |
Dục Thanh Học hiệu (viết tắt của: Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một ngôi trường do các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận sáng lập vào năm 1907 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ.
Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã dừng chân dạy học một thời gian trước khi vào Sài Gòn trong chuyến xuất ngoại.
Thành lập và hoạt động
Đầu thế kỷ 20, Bình Thuận là nơi hội tụ nhiều sĩ phu yêu nước, ban đầu do phong trào tị địa ở miền Nam, sau đó do sự sách nhiễu của các quan lại phong kiến ở các tỉnh miền Trung, nên vào năm 1905, khi Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp ghé qua Bình Thuận trong một chuyến Nam du, thì hạt giống Duy Tân mọc rễ ở đây.
Với sự giới thiệu của Trương Gia Mô, ba cụ đã gặp các ông Nguyễn Trọng Lội (hay Lợi), Nguyễn Quý Anh (là hai con trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông), Hồ Tá Bang và truyền bá tư tưởng Duy Tân của mình. Với sự góp mặt thêm của các ông Ngô Văn Nhượng, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, sáu ông đứng ra sáng lập ra 3 tổ chức với các nhiệm vụ chính trị - văn hoá - kinh tế gắn liền nhau, tương ứng với cương lĩnh hành động 3 điểm "Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh" của phong trào Duy Tân hồi bấy giờ:
Dục Thanh Học Hiệu: mở trường dạy cho con em người yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, được thành lập năm 1907.
Liên Thành Thư Xã: truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước, được thành lập năm 1905.
Liên Thành Thương Quán: làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân, được thành lập năm 1906.
Liên Thành Thương Quán hoạt động có hiệu quả, bí mật đóng góp một phần tài chính cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và các phong trào giải phóng dân tộc về sau. Liên Thành thư xã do Nguyễn Hiệt Chi phụ trách mời nhiều diễn giả đến diễn thuyết, trong đó có Phan Châu Trinh, gây được tiếng vang sôi nổi. Đặc biệt Dục Thanh học hiệu đã đào tạo được một lớp trẻ học tập theo sách vở và tinh thần mới.
Trường Dục Thanh được xây dựng năm 1907 (cùng năm xây dựng với trường Đông Kinh Nghĩa Thục) ngay trên đất nhà thờ họ Nguyễn ở làng Thành Đức (ngày nay là nhà số 39 phố Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa, Phan Thiết). Cấu trúc chính của trường gồm 2 nhà lớn bằng gỗ dùng làm phòng học, một ngôi nhà lầu nhỏ - Ngoạ Du Sào - là nơi bàn việc, tiếp khách quý, luận đàm văn thơ và nhà Ngự làm nơi ở chung của các thầy và trò xa nhà.
Kinh phí hoạt động của trường nhờ vào 2 nguồn: huê lợi từ 10 mẫu nhất đẳng điền do ông Huỳnh Văn Đẩu - một phú gia có lòng ái quốc ở địa phương - hiến cho và tài trợ của Liên Thành Thương Quán. Nhờ đó học sinh ăn học không phải trả tiền, thầy giáo chỉ nhận trợ cấp mà không hưởng lương.
Trường do ông Nguyễn Quý Anh làm Giám Hiệu, với hai giảng viên chính là Nguyễn Hiệt Chi và Trần Đình Phiên. Trường có 4 lớp học, số học sinh lúc cao nhất vào khoảng 100 học sinh, từ Sài Gòn ra, từ Đà Nẵng, Hội An vào, và nhiều nơi khác ở Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ, do nhiều bà con của các thân sỹ gửi gắm trọ học. Chương trình dạy của trường do Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội biên khảo, chú giải, được gửi vào Phan Thiết qua ông Đình nguyên hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, bạn thân giao của Trần Lệ Chất.
Trường có nội quy rất nghiêm cho tất cả học sinh. Buổi sáng hàng ngày từ lúc 6 giờ sáng, chiều lúc 17 giờ, sau khi tập thể dục xong, học sinh xếp hàng thật ngay ngắn đi vào lớp. Vào lớp rồi, tất cả học sinh xếp tay vòng trước ngực hát bài ca ái quốc, dựa theo Bài thơ "Quốc Hồn Ca" do Phan Chu Trinh viết vào năm 1907, được chọn làm bài học thuộc lòng cho mỗi môn sinh.
Trường Dục Thanh và Nguyễn Tất Thành
Tháng 8 năm 1910, Nguyễn Tất Thành được ông nghè Trương Gia Mô - vốn là bạn đồng liêu cũ của cụ Nguyễn Sinh Sắc - giới thiệu với Hồ Tá Bang đến Phan Thiết dạy học tại ngôi trường này. Một trong những học sinh của trường là Nguyễn Kinh Chi con cụ Nguyễn Hiệt Chi, về sau là Bác sĩ, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội khóa I - IV, là học trò trực tiếp của thầy Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy Chữ Quốc ngữ và Hán văn, ngoài ra, còn kiêm nhiệm dạy môn thể dục. Trong thời gian này, ngoài những nội dung được phân công giảng dạy, Nguyễn Tất Thành còn truyền bá lòng yêu quê hương đất nước, nòi giống tổ tiên cho học sinh. Trong những giờ học ngoại khóa hay những lúc rảnh, Nguyễn Tất Thành còn dẫn học sinh của mình du ngoạn cảnh đẹp ở Phan Thiết như bãi biển Thương Chánh, động làng Thiềng, Đình làng Đức Nghĩa.
Tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh vào Sài Gòn với giấy thông hành tên Văn Ba do Trần Lệ Chất và Hồ Tá Bang lo giúp.
Cuối năm 1911, ông Nguyễn Quý Anh chuyển vào Sài Gòn đảm trách Đổng lý phân cuộc Liên Thành ở Chợ Lớn, không còn ai giám hiệu và vì nhiều lý do khách quan khác nên trường đóng cửa vào năm 1912. Liên Thành Thư xã cũng đóng cửa ít lâu trước đó, chỉ còn công ty Liên Thành thì vẫn hoạt động mãi đến hiện tại. Hiện di tích Trường Dục Thanh thành phố Phan Thiết đã được tỉnh Bình Thuận phục dựng theo mô tả của các học trò cũ của trường vào thời điểm thầy giáo Nguyễn Tất Thành tham gia giảng dạy, là một địa điểm văn hóa du lịch của cả nước. Phần di tích cũ còn lại nguyên vẹn gồm có cây khế mà Nguyễn Tất Thành đã chăm sóc và giếng nước mà Nguyễn Tất Thành mỗi ngày lấy nước tưới cây. |
Bóng đá (hay còn gọi là túc cầu, đá banh, đá bóng; tiếng Anh-Anh: association football hoặc ngắn gọn là football, tiếng Anh-Mỹ: soccer) là một môn thể thao đồng đội được chơi với quả bóng hình cầu giữa hai đội bao gồm 11 cầu thủ mỗi bên. Nó có khoảng hơn 250 triệu người chơi ở hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, khiến nó trở thành môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới. Nó chơi trên một mặt sân hình chữ nhật được gọi là sân bóng đá với một khung thành ở mỗi đầu. Mục tiêu là ghi bàn vào khung thành đối phương. Đội nào có số bàn thắng nhiều hơn sẽ giành chiến thắng.
Bóng đá được chơi theo một bộ luật gọi là Luật bóng đá. Quả bóng có chu vi . Hai đội thi nhau đưa bóng vào khung thành đội đối thủ (giữa cột dọc và dưới xà ngang), qua đó ghi bàn. Các cầu thủ không được phép dùng tay hoặc chạm tay vào bóng khi đang chơi, ngoại trừ thủ môn trong vòng cấm. Những cầu thủ khác chủ yếu dùng chân để tấn công hoặc chuyền bóng, nhưng cũng có thể sử dụng bất kỳ bộ phận nào khác trên cơ thể ngoại trừ bàn tay và cánh tay. Đội nào ghi nhiều bàn thắng hơn vào cuối trận là đội chiến thắng; nếu cả hai đội ghi được số bàn thắng bằng nhau, tỷ số hòa được công nhận hoặc trận đấu sẽ bước vào hiệp phụ hay loạt sút luân lưu tùy theo thể thức thi đấu. Mỗi đội được dẫn dắt bởi một đội trưởng, người chỉ có trách nhiệm chính thức theo quy định của Luật bóng đá: đại diện cho đội của họ tung đồng xu trước khi bắt đầu trận đấu hoặc đá luân lưu.
Bóng đá thế giới được điều hành bởi Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA; ), tổ chức các kỳ World Cup cho cả nam và nữ bốn năm một lần. Giải vô địch bóng đá nam thế giới bắt đầu diễn ra kể từ năm 1930, ngoại trừ năm 1942 và 1946 đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ hai. Khoảng 190–200 đội tuyển quốc gia tham gia thi đấu trong các trận đấu vòng loại thuộc phạm vi từng liên đoàn châu lục để giành được một suất tham dự vòng chung kết. Vòng chung kết, được tổ chức bốn năm một lần, có sự tham gia của 32 đội tuyển quốc gia tranh tài trong thời gian bốn tuần (con số này tăng lên 48 đội vào năm 2026). Đây là giải đấu bóng đá nam danh giá nhất thế giới cũng như là sự kiện thể thao có lượng người xem và theo dõi nhiều nhất trên thế giới, vượt qua Thế vận hội Mùa hè. Tương tự, Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức lần đầu kể từ năm 1991 mặc dù môn thể thao này đã được chơi bởi phụ nữ kể từ khi nó tồn tại. Kỷ lục có 1,12 tỷ người xem giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 tại Pháp.
Những giải đấu danh giá nhất của các câu lạc bộ châu Âu là UEFA Champions League và UEFA Women's Champions League, thu hút lượng khán giả truyền hình đông đảo trên toàn thế giới. Trận chung kết của giải nam, trong những năm gần đây, là sự kiện thể thao thường niên được theo dõi nhiều nhất trên thế giới. Năm giải bóng đá vô địch quốc gia nam hàng đầu châu Âu là Premier League (Anh), La Liga (Tây Ban Nha), Bundesliga (Đức), Serie A (Ý) và Ligue 1 (Pháp). Thu hút hầu hết các cầu thủ xuất sắc nhất thế giới, mỗi giải đấu có tổng chi phí tiền lương vượt quá 600 triệu bảng/763 triệu euro/1,185 tỷ đô la Mỹ.
Tổng quan
Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi theo các quy tắc đề ra trong Luật bóng đá (tiếng Anh: Laws of the Game). Các vận động viên tham gia chơi bóng đá được gọi là các cầu thủ, họ sử dụng một trái bóng hình cầu được gọi đơn giản là quả bóng đá, trái bóng hoặc trái banh. Trong trận đấu bóng đá, hai đội, mỗi đội gồm 11 cầu thủ sẽ tìm cách đưa trái bóng vào khung thành (còn gọi là cầu môn), đội nào đưa bóng vào khung thành đối phương nhiều hơn (ghi được nhiều bàn thắng hơn) sẽ là đội giành chiến thắng, nếu hai đội có số lần đưa bóng vào khung thành đối phương như nhau, hoặc không đội nào làm được việc này thì trận đấu sẽ kết thúc với kết quả hòa.
Quy tắc cơ bản nhất của môn bóng đá là các cầu thủ, trừ người bảo vệ khung thành (được gọi là thủ môn), được phép sử dụng bất cứ bộ phận nào trên cơ thể để chơi bóng trừ hai cánh tay và bàn tay của họ (tuy nhiên cầu thủ phải dùng tay để thực hiện việc ném biên). Trong một trận đấu thông thường, cầu thủ có thể chơi ở bất cứ vị trí nào và có thể đưa quả bóng theo bất cứ hướng nào trên sân, trừ trường hợp cầu thủ rơi vào thế việt vị thì không thể nhận bóng. Dựa vào các quy tắc cơ bản này, cầu thủ thường dùng chân để thực hiện các động tác kỹ thuật như rê bóng, dắt bóng, lừa bóng, chuyền bóng cho đồng đội, sút bóng, với mục đích chính là tìm cách đưa bóng vào khung thành đối phương và ngăn không cho đối phương đưa bóng vào khung thành đội nhà. Cầu thủ hai đội có thể va chạm nhau thông qua các pha tranh bóng, tắc bóng nhưng tuyệt đối không được phạm những lỗi ghi trong luật như chuồi bóng từ phía sau, đẩy người, tiểu xảo. Điều khiển trận đấu là tổ trọng tài bao gồm một trọng tài chính và hai trọng tài biên, trọng tài chính sử dụng một chiếc còi cùng hai loại thẻ, thẻ vàng và thẻ đỏ, và có trách nhiệm bắt đầu, kết thúc hoặc tạm dừng trận đấu. Một trận đấu bóng đá thông thường có hai hiệp, mỗi hiệp 45 phút với khoảng thời gian 15 phút nghỉ giữa hai hiệp.
Tên gọi
Bóng đá là một môn thể thao xuất hiện từ những trận đấu khác nhau trên khắp thế giới từ thời cổ đại. Trong tiếng Anh, nó thường được gọi là "football" ở Vương quốc Anh và hầu hết Ulster ở bắc Ireland. Tuy nhiên, trong các khu vực và quốc gia khác, như Úc, Canada, South Africa, most of Ireland (excluding Ulster), Canada, Nam Phi, phần lớn Ireland (ngoại trừ Ulster) và Hoa Kỳ, nó được biết đến với tên gọi "soccer" theo các quy tắc và mã bóng đá phổ biến khác. Ở Nhật Bản, trò chơi này chủ yếu được gọi là (), xuất phát từ thuật ngữ "soccer". Một ngoại lệ đáng chú ý là New Zealand, nơi trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21, bất chấp sự thống trị của quy tắc bóng bầu dục, "football" đã trở nên phổ biến nhờ tác động của truyền hình quốc tế.
Thuật ngữ "soccer" xuất phát từ ngôn ngữ lóng "Oxford "-er"", được sử dụng phổ biến tại Đại học Oxford ở Anh từ khoảng năm 1875, và được cho là đã được mượn từ ngôn ngữ lóng của Trường Rugby. Ban đầu được viết là "assoccer", sau đó được rút gọn thành cách viết hiện đại. Hình thức lóng này cũng tạo ra các từ "rugger" để chỉ bóng bầu dục, "fiver" và "tenner" để chỉ tờ tiền 5 bảng và 10 bảng của Anh, và từ cũ "footer" cũng là một tên gọi khác cho bóng đá. Từ "soccer" đã đạt được hình thức cuối cùng vào năm 1895 và được ghi nhận lần đầu vào năm 1889 với hình thức trước đó là "socca".
Lịch sử
Các môn thể thao tương tự bóng đá hiện đại (với mục đích đá bóng vào khung thành đối phương) đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới từ rất lâu. Theo FIFA thì dạng bóng đá cổ xưa nhất bao gồm đầy đủ các kỹ thuật chơi bóng có lẽ xuất phát từ Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 2 hoặc 3 TCN, môn xúc cúc (蹴鞠, đá bóng). Ở La Mã cổ đại cũng xuất hiện một môn thể thao chơi bóng có những nét giống bóng đá, đó là môn harpastum.
Môn bóng đá với các luật chơi gần như ngày nay bắt đầu phổ biến từ giữa thế kỷ 19 tại các trường học trên nước Anh. Bộ luật bóng đá hiện đại cổ nhất mà ta biết là bộ luật mà ngày nay thường được biết đến dưới tên Bộ luật Cambridge (tiếng Anh: Cambridge Rules). Sở dĩ có tên gọi này vì chính trong khuôn viên Trinity College thuộc Đại học Cambridge, đại diện của năm trường Eton, Harrow, Rugby, Winchester và Shrewsbury đã tổ chức họp mặt để thống nhất một luật chơi đầu tiên cho môn bóng đá. Cũng trong thập niên 1850, các đội bóng nghiệp dư bắt đầu được thành lập và thường mỗi đội xây dựng cho riêng họ những luật chơi mới của môn bóng đá, trong đó đáng chú ý có câu lạc bộ Sheffield F.C.. Việc mỗi đội bóng có luật chơi khác nhau khiến việc điều hành mỗi trận đấu giữa họ diễn ra rất khó khăn. Nỗ lực đáng kể nhất trong việc chuẩn hóa luật chơi môn bóng đá là việc thành lập Hiệp hội bóng đá Anh (The Football Association, thường viết tắt là FA) vào ngày 26 tháng 10 năm 1863 tại Great Queen Street, Luân Đôn. Sau 5 cuộc họp diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12, bộ luật đầy đủ và toàn diện đầu tiên của môn bóng đá gồm 13 điều đã được FA thông qua dưới sự chủ trì của Ebenezer Cobb Morley. Hiện nay cơ quan chịu tránh nhiệm quản lý và theo dõi luật bóng đá trên thế giới là Ủy ban bóng đá quốc tế (International Football Association Board, thường viết tắt là IFAB). IFAB được thành lập năm 1886 tại Manchester trong một Schoolbuổi họp với sự có mặt của đại diện FA, Hiệp hội bóng đá Scotland (Scottish Football Association), Hiệp hội bóng đá xứ Wales (Football Association of Wales) và Hiệp hội bóng đá Ireland (Irish Football Association).
Giải thi đấu bóng đá đầu tiên, Cúp FA (FA Cup), được C. W. Alcock tổ chức lần đầu cho các câu lạc bộ bóng đá Anh vào năm 1872. Trận thi đấu bóng đá cấp quốc tế đầu tiên giữa đội tuyển Anh và Scotland cũng diễn ra vào năm 1872 tại Glasgow. Nước Anh cũng là quê hương của giải đấu liên đoàn đầu tiên, The Football League, liên đoàn này được thành lập năm 1888 theo sáng kiến của giám đốc câu lạc bộ Aston Villa, ông William McGregor. Giải đấu này bao gồm 12 câu lạc bộ thuộc miền Trung và miền Bắc nước Anh.
Cơ quan quản lý bóng đá thế giới, FIFA (Fédération Internationale de Football Association, Liên đoàn bóng đá quốc tế) được thành lập vào năm 1904 tại Paris với chủ tịch đầu tiên là ông Robert Guérin, một người Pháp, ngay từ khi thành lập FIFA đã tuyên bố sử dụng và tôn trọng bộ luật bóng đá do FA đưa ra. Từ năm 1913, cơ quan theo dõi luật bóng đá IFAB bắt đầu bổ sung các thành viên là đại diện của FIFA. Hiện nay ban điều hành của IFAB bao gồm 4 đại diện của FIFA và 4 đại diện đến từ các liên đoàn khai sinh luật bóng đá là Anh, Scotland, Ireland và xứ Wales. Tính cho đến năm 2008, FIFA có 208 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có đại diện là thành viên, nhiều hơn Ủy ban Olympic Quốc tế 3 thành viên và nhiều hơn Liên Hợp Quốc 16 thành viên.
Ngày nay, bóng đá đã được chơi ở cấp độ chuyên nghiệp trên khắp thế giới với hàng triệu người đến sân theo dõi các trận đấu cũng như hàng tỷ người theo dõi qua truyền hình. Theo một cuộc thăm dò do FIFA tiến hành năm 2001, có trên 240 triệu người từ trên 200 quốc gia thường xuyên chơi bóng đá. Không chỉ là môn thể thao phổ biến nhất thế giới, bóng đá còn có ảnh hưởng lớn đến nền thể thao và xã hội nhiều quốc gia, hãng truyền hình ESPN từng cho rằng chính đội tuyển Bờ Biển Ngà đã giúp ngăn chặn nguy cơ một cuộc nội chiến tại nước này vào năm 2005, ngược lại cũng chính một trận bóng đá đã khởi đầu cho một cuộc chiến với cái tên Chiến tranh bóng đá xảy ra năm 1969 giữa El Salvador và Honduras.
Bóng đá nữ
Phụ nữ có thể đã tham gia vào bóng đá từ thời điểm trò chơi này ra đời. Có bằng chứng cho thấy rằng trong triều đại nhà Hán (25-220 CN), phụ nữ đã chơi một trò chơi cổ xưa tương tự như cuju hoặc tsu chu, được mô tả trong các bức tranh vẽ từ thời kỳ đó Ngoài ra, cũng có báo cáo về các trận đấu bóng đá hàng năm do phụ nữ ở Midlothian, Scotland, chơi vào những năm 1790.
Bóng đá đã ghi nhận sự tham gia của phụ nữ từ rất sớm. Năm 1863, quy tắc chung được đưa ra để giảm bạo lực trên sân, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia. Trận đấu bóng đá nữ đầu tiên được ghi nhận ở Scotland vào năm 1892 và ở Anh vào năm 1895. Bóng đá nữ có truyền thống từ thiện và rèn luyện thể chất, đặc biệt là ở Vương quốc Anh.
Năm 1894, Nettie Honeyball thành lập Câu lạc bộ bóng đá nữ Anh nhằm chứng minh vai trò quan trọng của phụ nữ. Mặc dù gặp phản đối từ các hiệp hội bóng đá Anh, Honeyball và các nữ cầu thủ khác đã mở đường cho sự phát triển của bóng đá nữ. Sự phản kháng này có thể được giải thích bởi sự đe dọa đối với sự "nam tính" của trò chơi.
Bóng đá nữ trở nên phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất khi phụ nữ tham gia ngành công nghiệp nặng, và điều này thúc đẩy sự phát triển của môn thể thao này, tương tự như nam giới 50 năm trước đó. Đội Dick, Kerr Ladies FC của Preston, Anh, đã trở thành đội thành công nhất trong thời kỳ này. Họ đã chơi một trong những trận đấu quốc tế nữ đầu tiên với đội tuyển Pháp XI vào năm 1920 và cũng đối đầu đội tuyển nữ Scotland XI cùng năm đó, giành chiến thắng với tỷ số 22-0.
Mặc dù bóng đá nữ ở Anh trở nên phổ biến hơn và thu hút đến 53.000 khán giả trong một trận đấu năm 1920, vào năm 1921, nó đã gặp một trở ngại lớn khi Hiệp hội bóng đá cấm các trận đấu nữ trên sân của các câu lạc bộ thành viên. Lý do được đưa ra là "trò chơi bóng đá không phù hợp với nữ giới và không nên được khuyến khích". Cầu thủ và nhà văn bóng đá đã cho rằng lệnh cấm này thực tế là do sự ghen tị với sự hút khán giả lớn mà bóng đá nữ thu hút, và FA không kiểm soát được doanh thu từ các trận đấu nữ. Lệnh cấm này đã dẫn đến việc thành lập Hiệp hội bóng đá nữ Anh và trận đấu chuyển sang sân bóng bầu dục.
Từ cuối thế kỷ 19, bóng đá nữ vẫn được tiếp tục chơi bởi phụ nữ. Vào tháng 12 năm 1969, Hiệp hội bóng đá nữ được thành lập ở Anh và vào năm 1971, UEFA đã chính thức công nhận bóng đá nữ. Trong cùng năm 1971, lệnh cấm bóng đá nữ trên sân các câu lạc bộ thành viên của Hiệp hội bóng đá đã được bãi bỏ. Trong những năm cuối thập kỷ 1960 và đầu thập kỷ 1970, bóng đá nữ đã được tổ chức ở Anh và trở thành môn thể thao đồng đội nổi bật nhất cho phụ nữ Anh. Tuy nhiên, bóng đá nữ cũng bị cấm ở một số quốc gia khác. Đáng chú ý là ở Brazil từ 1941 đến 1979, Pháp từ 1941 đến 1970 và Đức từ 1955 đến 1970.
Bóng đá nữ vẫn đối mặt với nhiều thách thức, nhưng sự phát triển toàn cầu của nó đã thể hiện qua việc tổ chức các giải đấu quan trọng cả ở cấp quốc gia và quốc tế, tương tự như bóng đá nam. Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức lần đầu vào năm 1991 và diễn ra mỗi bốn năm kể từ đó. Bóng đá nữ cũng trở thành môn thể thao Olympic kể từ năm 1996. Bắc Mỹ là khu vực thống trị bóng đá nữ, với đội tuyển Hoa Kỳ giành được nhiều chức vô địch thế giới và Olympic. Châu Âu và Châu Á xếp sau với thành công quốc tế, trong khi bóng đá nữ ở Nam Mỹ đã có sự cải thiện đáng kể.
Luật thi đấu
Hiện nay Luật bóng đá chính thức có 17 điều được áp dụng cho mọi cấp độ chơi bóng và chỉ có một vài sửa đổi nhỏ cho phù hợp với bóng đá nữ hay bóng đá trẻ,....
Cầu thủ, trang phục và trọng tài
Mỗi trận đấu bóng đá bao gồm hai đội, mỗi đội gồm có 11 cầu thủ thi đấu chính thức trên sân kể cả 1 thủ môn. Thủ môn là người duy nhất được phép chơi bóng bằng tay, tuy nhiên việc này cũng chỉ được giới hạn trong khu cấm địa phía trước khung thành do thủ môn trấn giữ. Tùy theo từng vị trí mà còn có những tên gọi khác nhau, ví dụ như hậu vệ, tiền vệ, tiền đạo,... và còn một số vị trí khác nữa. Bên cạnh số cầu thủ chính thức mỗi đội cũng còn một số cầu thủ dự bị để thay thế khi cần thiết, thông thường trong một trận bóng đá thi đấu chính thức, mỗi đội chỉ được phép thay đổi 3 cầu thủ. Cầu thủ sau khi được thay ra sẽ không được quay trở lại sân thi đấu. Người chỉ đạo chiến thuật cho đội bóng là huấn luyện viên, vị trí này không phải là quy định bắt buộc được ghi trong Luật bóng đá.
Trang phục thi đấu của các cầu thủ thường bao gồm áo thi đấu (có cánh tay), quần đùi (quần soóc), tất cao đến đầu gối, giày và bảo vệ ống đồng. Cầu thủ thi đấu trên sân bị cấm mặc, đeo hoặc mang theo các đồ vật có thể gây nguy hiểm cho cầu thủ đối phương như vòng, dây chuyền hoặc đồng hồ đeo tay. Do là vị trí được sử dụng tay và thường xuyên phải bay người theo bóng, thủ môn được trang bị kĩ hơn các cầu thủ khác, họ thường mặc áo thi đấu dài tay, đeo bảo vệ ống đồng và bảo vệ khuỷu tay và đeo găng tay thủ môn khi thi đấu, tuy vậy họ thường phải mặc áo khác màu với các cầu thủ còn lại trong đội và các cầu thủ của đội đối phương để trọng tài phân biệt việc dùng tay chơi bóng giữa thủ môn và các cầu thủ khác. Đội trưởng của một đội bóng thông thường rất dễ nhận diện bằng cách đeo một chiếc băng quấn quanh tay áo của anh/cô ấy, được gọi là "băng đội trưởng". Giống như nhiều môn thể thao đồng đội khác, môn bóng đá cũng sử dụng hệ thống số áo để các cầu thủ được nhận diện tốt hơn. Thông thường hệ thống số từ 1 đến 11 sẽ được sử dụng phổ biến hơn, tuy vậy vẫn có nhiều giải đấu hay đội bóng cho phép các cầu thủ có thể lựa chọn số áo từ 1 đến 99. Thủ môn thường được trao chiếc áo số 1 để thi đấu.
Điều khiển trận đấu là tổ trọng tài bao gồm 1 trọng tài chính và 2 trọng tài biên, những người này có toàn quyền điều khiển trận đấu theo các quy định của Luật bóng đá, quyết định của trọng tài chính dù đúng hoặc sai cũng đều thường là quyết định cuối cùng và không thể bị thay đổi. Ngoài ba trọng tài làm việc trên sân còn có một trọng tài thứ tư (còn gọi là trọng tài bàn) quản lý việc thay người, theo dõi thời gian đá bù giờ và thay thế trọng tài trên sân trong trường hợp cần thiết.
Sân thi đấu
Do được hình thành ở Anh, luật bóng đá trước đây quy định các kích thước theo hệ đo lường Anh tuy nhiên hiện nay các số đo này đã được đổi sang hệ SI cho phù hợp với sự phổ biến của bóng đá trên thế giới. Một sân bóng đá tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế có dạng chữ nhật với chiều dài nằm trong khoảng từ 100 đến 110 mét, chiều rộng từ 64 đến 75 m. Còn đối với các trận đấu ở cấp độ thấp hơn, sân bóng có thể có chiều dài nằm trong khoảng từ 90 đến 120 m (100–130 yd) và rộng từ 45 đến 90 m (50–100 yd). Hai cạnh dài của sân bóng được gọi là hai đường biên dọc, hai cạnh còn lại là đường biên ngang. Ở chính giữa hai đường biên ngang là khung thành có dạng chữ nhật với chiều dài 7,32 m và chiều cao 2,44 m. Khung thành thường được giăng lưới để dễ phân biệt tình huống bóng vào khung thành hay ra ngoài, tuy nhiên điều này không nằm trong quy định chính thức của Luật bóng đá.
Phía trước mỗi khung thành là khu cấm địa. Khu vực này cũng có dạng chữ nhật với chiều dài dọc theo đường biên ngang của sân với kích thước 40,3 m dài, 16,5 m rộng. Ở giữa khu cấm địa, cách khung thành 11 m là điểm đá phạt đền, nơi các cầu thủ thực hiện các cú sút phạt đền (do cầu thủ đối phương phạm lỗi trong khu vực cấm địa). Khu cấm địa cũng là nơi duy nhất thủ môn được phép chơi bóng bằng tay. Ở phía trong khu cấm địa có một hình chữ nhật nhỏ hơn với chiều dài dọc theo đường biên ngang có kích thước 18,3 m dài, 5,5 m rộng (thường được gọi là khu 5 mét 50), đây là nơi cầu thủ đối phương tham gia tấn công không được phép va chạm trực tiếp với thủ môn đang trấn giữ khung thành.
Thời gian thi đấu
Một trận thi đấu bóng đá thông thường diễn ra trong hai hiệp chính thức liên tiếp, mỗi hiệp gồm 45 phút ngăn cách bằng 15 phút nghỉ giữa giờ. Sau khi hiệp 1, hai đội bóng sẽ phải đổi sân cho nhau để có sự công bằng trong vòng 1 phút. Người có quyền bắt đầu và kết thúc trận đấu là trọng tài chính. Trong các tình huống phải dừng bóng hoặc bóng ra ngoài sân, trọng tài sẽ tính thêm giờ, thời gian chết này sẽ được chơi bù vào cuối mỗi hiệp đấu (được gọi là những phút bù giờ), thời gian bù giờ là ít hoặc nhiều đều hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của trọng tài chính, kể cả trường hợp nó khác biệt so với thời gian bù giờ do trọng tài thứ tư công bố trên bảng điện tử. Quy định về thời gian đá bù xuất hiện sau trận đấu năm 1891 giữa Stoke và Aston Villa, khi chỉ còn 2 phút là hết giờ, trong tình thế bị dẫn trước 1–0, đội Stoke bất ngờ được hưởng một quả phạt đền, thủ môn của Aston Villa đã cản phá bóng ra khỏi sân và đến khi bóng trở lại sân thì đồng hồ đã điểm 90 phút và Stoke thua trận.
Trong các giải thi đấu vòng tròn, một trận đấu có thể kết thúc với tỉ số hòa, tuy nhiên trong các trận đá loại trực tiếp (như ở các giải Cúp hoặc các trận playoff), bắt buộc phải xác định được một đội giành chiến thắng. Trong trường hợp này, nếu kết thúc 90 phút của 2 hiệp chính hai đội vẫn hòa, họ sẽ phải thi đấu thêm 2 hiệp phụ liên tiếp, mỗi hiệp 15 phút không có nghỉ giữa giờ. Nếu hết 2 hiệp phụ mà kết quả vẫn hòa, hai đội sẽ phải thi đá luân lưu 11 m (hai đội thay phiên nhau thực hiện các quả đá phạt đền) để xác định đội giành chiến thắng. Các bàn thắng ghi được trong hai hiệp phụ sẽ được tính vào kết quả chung cuộc, tuy nhiên các bàn thắng ghi trong những loạt đá luân lưu 11 m sẽ không được tính (mà chỉ dùng để xác định kết quả thắng thua). Trong thập niên 1990 và 2000, IFAB đã cho thử nghiệm luật Bàn thắng vàng, theo đó nếu trong hiệp phụ có một đội ghi được bàn thắng trước, trận đấu sẽ lập tức kết thúc với kết quả thắng cho đội vừa ghi bàn. Luật bàn thắng vàng đã được sử dụng ở cấp độ thế giới trong World Cup 1998 và World Cup 2002 với Pháp là đội tuyển đầu tiên tận dụng được lợi thế này khi giành chiến thắng trước Paraguay bằng bàn thắng vàng của Laurent Blanc (năm 1998), Pháp cũng là đội vô địch ở giải đấu năm 1998. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996, đội tuyển bóng đá quốc gia Đức đã giành chức vô địch sau chiến thắng trước đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc bằng bàn thắng vàng của Oliver Bierhoff. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, luật bàn thắng vàng được thay thế bằng luật Bàn thắng bạc theo đó nếu kết thúc hiệp phụ đầu tiên mà có một đội dẫn trước về tỉ số, trận đấu sẽ kết thúc với chiến thắng dành cho đội có lợi thế về tỉ số. Tuy nhiên hiện nay IFAB đã bỏ việc thử nghiệm cả hai luật này.
Trong các trận đấu loại trực tiếp theo thể thức lượt đi-lượt về, thông thường người ta sẽ tính tới luật bàn thắng sân khách. Theo đó nếu sau hai trận mà hai đội có kết quả chung cuộc hòa nhau, đội nào ghi được nhiều bàn thắng hơn trên sân khách sẽ là đội giành chiến thắng. Tuy nhiên không phải giải đấu lớn nào cũng sử dụng lợi thế này, ví dụ như tại Copa Libertadores ở Nam Mỹ.
Trạng thái bóng trên sân
Theo luật bóng đá, có hai trạng thái bóng chính trên sân, đó là bóng sống và bóng chết. Thời gian bóng sống trong trận đấu được tính từ thời điểm các cầu thủ bắt đầu trận đấu bằng cú phát bóng giữa sân cho đến khi bóng rơi ra ngoài khu vực sân thi đấu hoặc trận đấu bị ngừng lại bởi quyết định của trọng tài (do cầu thủ phạm lỗi, chấn thương hoặc tình huống đặc biệt khác), khi đó bóng rơi vào trạng thái bóng chết. Trận đấu lúc này sẽ được khởi động lại bằng các cách chính sau:
Ném biên: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên dọc do tác động của một cầu thủ đội nhà (dù ở trên mặt sân hay bay trên không). Đội đối phương sẽ được hưởng quyền ném bóng từ vị trí trên đường biên dọc mà bóng rời sân. Từ quả ném biên, bàn thắng chỉ được công nhận khi chạm chân cầu thủ khác
Phát bóng: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ tấn công đối phương. Đội phòng ngự sẽ được hưởng quyền phát bóng lên. Từ quả phát bóng, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng được công nhận.
Phạt góc: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ phòng ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận đấu bằng cú đá từ điểm đá phạt góc (là điểm nối giữa đường biên dọc và đường biên ngang). Từ quả đá phạt góc, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng sẽ được tính.
Đá phạt gián tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nhẹ. Đội đối phương sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận đấu, nếu đá bóng trực tiếp vào cầu môn, bàn thắng không được công nhận. Bàn thắng chỉ được công nhận khi bóng chạm chân một cầu thủ khác
Đá phạt trực tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nặng (lỗi quy định trong điều 12 của Luật bóng đá, ví dụ bị phạm lỗi khi đang có lợi thế tấn công, bị phạm lỗi từ phia sau). Đội đối phương sẽ được quyền đưa bóng vào trận đấu và bàn thắng ghi vào cầu môn từ cú đá phạt này sẽ được tính.
Phạt đền: Khi có cầu thủ tấn công bị phạm lỗi trong khu vực cấm địa của đội phòng ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng cú đá phạt từ vị trí đá phạt 11 m, đây là cú đá chỉ có sự tham gia của một cầu thủ đội tấn công (người sút phạt đền) và thủ môn đội phòng ngự.
Thả bóng: Khi trận đấu bị dừng lại không phải do bóng ra ngoài sân hoặc có cầu thủ bị phạm lỗi (ví dụ bóng trúng người trọng tài, có cầu thủ bị chấn thương, cổ động viên nhảy vào sân,....), trọng tài sẽ là người cầm bóng và thả trước sự có mặt của một cầu thủ mỗi đội.
Phạm lỗi
Một lỗi xảy ra khi có cầu thủ vi phạm các điều ghi trong Luật bóng đá. Các lỗi vi phạm được quy định trong điều 12 của Luật bóng đá (đôi khi còn được gọi là "Luật 12"). Các lỗi trong bóng đá thường xuất hiện là câu giờ, đẩy người, kéo áo, xoạc sau, đánh cùi chỏ,.... Đội có cầu thủ vi phạm sẽ chịu cú đá phạt trực tiếp hoặc đá phạt đền từ phía đối phương.
Để cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi, trọng tài sẽ sử dụng biện pháp nhắc nhở, nặng hơn là phạt thẻ vàng và nặng nhất là phạt thẻ đỏ. Cầu thủ bị phạt 2 thẻ vàng hoặc 1 thẻ đỏ trực tiếp sẽ bị đuổi khỏi sân và không được thay thế bằng cầu thủ dự bị. Cầu thủ ngoài sân nếu có hành vi không đúng mực cũng sẽ bị trọng tài sử dụng thẻ vàng hoặc thẻ đỏ để cảnh cáo. Với các thành viên ban huấn luyện và huấn luyện viên trưởng, trọng tài thường không sử dụng thẻ vàng, thẻ đỏ mà có quyền đuổi trực tiếp người vi phạm ra khỏi sân. Trong tình huống xét thấy tiếp tục cho bóng động có lợi hơn cho đội bị phạm lỗi, trọng tài có quyền tiếp tục cho trận đấu diễn ra và tiến hành việc cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi sau khi bóng chết, tình huống này được gọi là phép lợi thế.
Luật phức tạp nhất của bóng đá là luật việt vị. Luật này đã có nhiều thay đổi kể từ ngày ra đời, theo quy định mới nhất thì một cầu thủ tấn công bị coi là việt vị khi so với đường biên ngang khung thành đội phòng ngự, cầu thủ này đứng thấp hơn 2 cầu thủ phòng ngự cuối cùng của đối phương (kể cả thủ môn).
Cầu thủ và trận đấu
Các hình thức chơi bóng
Với luật chơi đơn giản và trang bị không đòi hỏi cầu kỳ, đắt tiền, mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính khác nhau đều có thể chơi bóng đá như một môn thể thao để giải trí, rèn luyện sức khỏe... trong các sân bãi, tại các giờ học thể dục thể thao ở trường, lớp, ở các công viên, sân chơi, hay thậm chí là trên đường phố.... Tuy nhiên để thi đấu bóng đá chuyên nghiệp thì các cầu thủ thường phải được tuyển chọn vào các trung tâm đào tạo bóng đá trẻ (thường là trực thuộc các câu lạc bộ bóng đá) từ khi còn nhỏ để được huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật cơ bản của môn bóng đá. Tại các lò đào tạo này, các cầu thủ trẻ sẽ được rèn luyện cả về thể lực và kỹ thuật, chiến thuật cũng như được tham gia nhiều trận đấu, giải đấu theo từng lứa tuổi để tích lũy kinh nghiệm. Do tính cạnh tranh rất cao của bóng đá chuyên nghiệp, chỉ một phần khá nhỏ trong số các cầu thủ trẻ từ các cơ sở đào tạo mới có thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, số còn lại thì chấp nhận chơi bóng đá như một sở thích, hoặc tiếp tục sự nghiệp ở các câu lạc bộ bán chuyên nghiệp.
Để chơi trọn vẹn một trận đấu bóng dài 90 phút, cầu thủ cần một sức khỏe và độ bền lớn vì tùy theo vị trí, họ phải di chuyển (chủ yếu là chạy) trên quãng đường tổng cộng dài từ 6 đến 11 km. Bên cạnh đó, cầu thủ bóng đá còn bị đe dọa bởi các chấn thương rất dễ xảy ra trong trận đấu hoặc trong lúc tập luyện, chấn thương thường xảy ra với họ ở chân, ví dụ chấn thương gân khoeo, chấn thương gót chân và đôi khi thậm chí là gãy chân. Những cái chết trên sân đấu hoặc sân tập, tuy khá hiếm gặp nhưng cũng vẫn thường xảy ra trong môn bóng đá (nhất là trong bóng đá chuyên nghiệp), một trường hợp điển hình là cái chết của cầu thủ Antonio Puerta người Tây Ban Nha, anh đã chết trong bệnh viện sau khi bị ngừng tim ngay trong một trận đấu thuộc giải Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha (La Liga) vào ngày 25 tháng 8 năm 2007 giữa Sevilla (đội của anh) và Getafe. Vì sự tiêu tốn thể lực và các mối đe dọa này, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiếm khi có đủ 100% khả năng để thi đấu suốt một mùa giải dài 9 tháng, họ thường có chiến thuật phân bổ sức lực chú trọng cho các trận đấu lớn. Cũng như nhiều môn thể thao hiện đại khác, hiện tượng doping cũng xuất hiện trong bóng đá. Sau một thời gian dài không chấp nhận hợp tác với Ủy ban chống doping quốc tế (AMA), FIFA vào năm 2006 đã đồng ý với đề nghị của IOC về việc tất cả các liên đoàn bóng đá phải ký công ước quốc tế về chống sử dụng doping. Tuy nhiên FIFA vẫn giữ quyền tự quyết định hình thức xử phạt với cầu thủ bị phát hiện dùng doping.
Một trong những đặc điểm hấp dẫn của môn bóng đá là tính bất ngờ của kết quả trận đấu, về mặt này bóng đá và bóng chày được coi là hai môn thể thao đồng đội có tính bất ngờ cao nhất. Có thể kể tới trường hợp của Đan Mạch vốn tham dự Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992 với tư cách đội thay thế Nam Tư bị cấm vận nhưng cuối cùng lại vượt qua nhiều đội mạnh để trở thành nhà vô địch châu Âu, hay chiến thắng 3-2 tại chung kết World Cup 1954 của Tây Đức trước Hungary, đội trước đó đã thắng họ tới 8-3 tại vòng đấu bảng. Có thể tóm tắt sự bất ngờ trong môn bóng đá bằng câu nói nổi tiếng của huấn luyện viên Sepp Herberger của đội tuyển Đức vô địch World Cup 1954:
Môi trường thi đấu
Những cầu thủ bóng đá hiện đại đầu tiên thường là các sinh viên, sau đó mới đến giới thượng lưu và công nhân. Ban đầu họ chỉ là các cầu thủ nghiệp dư và lấy bóng đá như một thú giải trí. Một thời gian dài đầu thế kỷ 20, việc chơi bóng một cách chuyên nghiệp cho các câu lạc bộ của những ông chủ lớn bị coi như hành động "đi làm nô lệ" vì đồng lương thấp và điều kiện thi đấu tồi, ví dụ cầu thủ quốc tế người Pháp Thadée Cisowski được nhận lương mỗi tháng 400 franc vào năm 1961, chỉ nhiều hơn 30% so với mức lương tối thiểu của Pháp (SMIC). Tuy các liên đoàn cầu thủ đã được thành lập ở Anh từ đầu thế kỷ 20, các tổ chức này thực tế đã không đấu tranh được nhiều cho việc cải thiện tình trạng tồi tệ đó. Từ thập niên 1960, điều kiện thi đấu của bóng đá chuyên nghiệp bắt đầu thay đổi, từ năm 1969 cầu thủ bắt đầu được ký hợp đồng có kỳ hạn ở Pháp, ở Anh là từ năm 1978.
Từ thập niên 1970, những "nô lệ đá bóng" bắt đầu trở thành "lính đánh thuê" với điều kiện kinh tế cao hơn khi họ có sự tư vấn của những người hoặc cơ quan đại diện. Tuy nhiên ngay cả mức lương của các ngôi sao tại các giải bóng đá lớn vẫn còn thua kém so với mức lương của các ngôi sao Công thức 1, NBA hoặc quyền Anh chuyên nghiệp. Ví dụ siêu sao Diego Maradona được câu lạc bộ SSC Napoli trả 7,5 triệu franc Pháp mỗi năm trong khi tay đấm Larry Holmes nhận được hơn 45 triệu vào cùng thời gian tương ứng. Theo bảng xếp hạng năm 2006 các vận động viên chuyên nghiệp có thu nhập cao nhất của tạp chí Sports Illustrated thì người có thu nhập cao nhất trong giới cầu thủ, Ronaldinho, nhận khoảng 32,7 triệu USD một năm, tương đương mức của ngôi sao quần vợt Roger Federer (31,3 triệu), nhưng vẫn còn thua xa tay golf Tiger Woods (111,9 triệu).
Cùng với sự gia tăng của lương cầu thủ, số tiền chuyển nhượng một cầu thủ từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ khác cũng tăng lên nhanh chóng, nếu như vào năm 1905, cầu thủ Anh Alf Common trở thành cầu thủ bóng đá đầu tiên được chuyển nhượng với giá 1000 bảng Anh thì vào năm 2001, vụ chuyển nhượng Zinedine Zidane từ Juventus sang Real Madrid đã lập kỷ lục thế giới với giá 76 triệu euro. Tại châu Âu có 2 mùa chuyển nhượng chính diễn ra vào khoảng thời gian giữa hai mùa giải kế tiếp (từ khoảng tháng 6 đến tháng 9 hàng năm) và khoảng thời gian nghỉ Đông của một mùa giải (từ tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm sau).
Cách mạng về chiến thuật
Từ thập niên 1880 đến khoảng năm 1925, chiến thuật phổ biến của các đội bóng là bố trí đội hình gồm 5 cầu thủ tấn công (tiền đạo), 3 cầu thủ chơi giữa sân (tiền vệ) và 2 cầu thủ phòng ngự (hậu vệ). Sở dĩ phải bố trí nhiều tiền đạo như vậy là vì luật việt vị thời gian này quy định tiền đạo phải đứng trên ít nhất 3 cầu thủ đối phương. Việc luật việt vị giảm số cầu thủ phải đứng trên từ 3 xuống còn 2 đã ảnh hưởng lớn đến chiến thuật và số lượng bàn thắng, ngay năm đầu tiên áp dụng luật mới, số bàn thắng ghi ở giải vô địch bóng đá Anh đã tăng từ 4.700 bàn lên 6.373 bàn. Để ứng dụng luật việt vị mới, huấn luyện viên Herbert Chapman đã đưa ra chiến thuật mang tính cách mạng đối với môn bóng đá, chiến thuật "WM" với 3 hậu vệ, 2 tiền vệ công và 3 tiền đạo (W), 2 tiền vệ phòng ngự (M). Bộ tứ tiền vệ ở trung tâm thường được gọi là ô vuông kỳ ảo vì họ đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết bóng, phát động tấn công cũng như ngăn chăn các pha phản công của đối phương.
Chiến thuật WM chính thức phá sản vào năm 1953 sau thất bại nổi tiếng của đội tuyển Anh trước đội tuyển Hungary ngay trên sân vận động Wembley. Với chiến thuật mới "4-2-4", người Hungary đã hạ người Anh với tỷ số 6-3. Sau 4-2-4, bóng đá hiện đại bắt đầu chuyển sang chiến thuật "4-3-3" rồi "4-4-2". Về mặt phòng ngự, bước tiến đáng kể về chiến thuật là đội hình Catenaccio do huấn luyện viên người Argentina Helenio Herrera đưa ra và được áp dụng phổ biến trong các đội bóng Ý. Tại Đức, đội hình phòng ngự lại thường sử dụng một cầu thủ phòng ngự tự do (được gọi là libero) với những đại diện nổi tiếng như Franz Beckenbauer hoặc Lothar Matthaus. Kết hợp việc phòng ngự và tấn công, huấn luyện viên người Hà Lan Rinus Michels đã đưa ra triết lý bóng đá tổng lực theo đó mọi cầu thủ cùng tham gia tấn công hoặc phòng ngự tùy theo tình huống bóng, chiến thuật này đã đem lại thành công cho câu lạc bộ Ajax Amsterdam và đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan trong thập niên 1970 và 1980.
Bóng đá hiện đại ngày nay thường sử dụng những đội hình chắc chắn thay vì chỉ tập trung tấn công hoa mỹ, vì vậy những đội hình thường được các đội bóng sử dụng là 4-4-2, 5-3-2, 4-5-1, 4-3-3, 3-4-3, 3-5-2 và đôi khi là 5-4-1 tùy theo đối thủ và điều kiện thi đấu.
Ngôi sao bóng đá
Bóng đá hiện đại sau hơn 1 thế kỷ hình thành và phát triển đã sản sinh ra nhiều cầu thủ lớn với khả năng và thành tích đặc biệt. Những người này thường được gọi là các ngôi sao bóng đá hay siêu sao bóng đá. Việc xác định một cầu thủ là siêu sao hoặc huyền thoại bóng đá thường gây nhiều tranh cãi, ví dụ danh sách FIFA 100 gồm 125 cầu thủ còn sống được coi là vĩ đại nhất do "vua bóng đá" người Brazil Pelé đưa ra cũng gặp nhiều chỉ trích vì bị cho là đã bỏ qua nhiều cầu thủ vĩ đại của quá khứ. Hàng năm người ta thường tổ chức các cuộc bầu chọn cầu thủ xuất sắc nhất ở cấp độ quốc gia, châu lục và quốc tế. Những giải thưởng cầu thủ được coi là uy tín nhất thế giới gồm giải Quả bóng vàng FIFA (từ năm 2010), giải Quả bóng vàng châu Âu của tạp chí France Football (từ năm 1956 đến năm 2009), giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (từ năm 1991 đến năm 2009), giải Quả bóng vàng châu Phi (từ năm 1970) và giải Cầu thủ Nam Mỹ xuất sắc nhất năm (từ năm 1971).
Tổ chức điều hành
Tổ chức điều hành và quản lý bóng đá toàn thế giới là Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) có trụ sở tại Zürich, Thụy Sĩ. Dưới FIFA có 6 liên đoàn bóng đá cấp châu lục gồm:
Châu Á: Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC)
Châu Âu: Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA)
Châu Đại Dương: Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC)
Bắc, Trung Mỹ và Caribe: Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF)
Nam Mỹ: Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL)
Châu Phi: Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF)
Mỗi một quốc gia thành viên FIFA đều có cơ quan điều hành riêng. Các cơ quan này có mối quan hệ chặt chẽ với FIFA cũng như liên đoàn cấp châu lục của quốc gia đó. Có một số ngoại lệ về quan hệ liên đoàn quốc gia-châu lục, ví dụ như Úc nằm ở Châu Đại Dương tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Úc từ năm 2006 đã chuyển về trực thuộc Liên đoàn bóng đá châu Á, hoặc như Israel thuộc khu vực Tây Á tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Israel lại trực thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu từ năm 1991.
Giải đấu chính
Cấp quốc tế
Giải đấu cấp quốc tế lớn nhất của bóng đá thế giới là World Cup. World Cup là giải đấu FIFA trao quyền tham dự cho các đội tuyển quốc gia vượt qua vòng loại của giải đấu này. Giải được tổ chức lần đầu tiên năm 1930 và đến nay đã trở thành giải thi đấu thể thao được nhiều người theo dõi nhất trên khắp thế giới, vượt qua cả Thế vận hội, một ví dụ là vòng chung kết World Cup 2006 tổ chức tại Đức đã thu hút 26,29 tỷ lượt khán giả xem truyền hình trong đó riêng trận chung kết đã thu hút 715,1 triệu khán giả trên khắp thế giới. World Cup được tổ chức theo thể thức 4 năm một lần với vòng đấu loại có sự tham gia của trên 190 quốc gia thành viên FIFA và vòng chung kết có sự góp mặt của 32 đội tuyển (trước năm 1982 là 16 đội, trước năm 1998 là 24 đội), vòng chung kết của World Cup 2014 được tổ chức tại Brasil.
Trong chương trình Thế vận hội Mùa hè cũng có hạng mục thi đấu của môn bóng đá kể từ năm 1900 (trừ Thế vận hội Mùa hè 1932 tổ chức tại Los Angeles). Cho đến trước Thế vận hội Mùa hè 1984, chỉ có các cầu thủ nghiệp dư được phép tham gia thi đấu (khác với World Cup vốn không phân biệt cầu thủ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư). Hiện nay hạng mục bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè chỉ dành cho các cầu thủ dưới 23 tuổi (với một số cầu thủ nhất định quá 23 tuổi).
Bên cạnh World Cup do FIFA tổ chức, các liên đoàn châu lục cũng có các giải đấu cấp độ châu lục của riêng họ, đó là Giải vô địch bóng đá châu Âu của UEFA, Cúp bóng đá Nam Mỹ của CONMEBOL, Cúp bóng đá châu Phi của CAF, Cúp bóng đá châu Á của AFC, Cúp bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe của CONCACAF và Cúp bóng đá châu Đại Dương của OFC. Các nhà vô địch của các giải đấu cấp châu lục cùng với đương kim vô địch World Cup sẽ gặp nhau tại Cúp Liên đoàn các châu lục, đây là giải đấu khởi động cho World Cup và được FIFA tổ chức trước World Cup 1 năm. Các câu lạc bộ bóng đá của từng châu lục cũng có các giải đấu riêng trong đó đáng chú ý nhất là UEFA Champions League ở châu Âu và Copa Libertadores de América ở Nam Mỹ. Các câu lạc bộ vô địch giải đấu cấp châu lục sẽ gặp nhau trong Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ do FIFA tổ chức.
Cấp quốc gia
Tại mỗi quốc gia, cơ quan điều hành bóng đá cấp quốc gia thông thường sẽ chia giải đấu liên đoàn cấp câu lạc bộ thành nhiều hạng trong đó đội vô địch hạng dưới có thể lên thi đấu tại hạng trên và đội xếp cuối hạng trên sẽ phải xuống thi đấu tại hạng dưới. Các giải đấu liên đoàn này thông thường được tổ chức thành hai lượt đi và về theo đó các câu lạc bộ trong cùng hạng sẽ gặp nhau 2 lần. Các đội đứng đầu giải đấu liên đoàn hạng cao nhất của mỗi quốc gia sẽ tham dự các giải đấu cấp châu lục. Bên cạnh các giải đấu liên đoàn có phân chia thứ hạng, thông thường mỗi quốc gia còn có một giải cúp theo thể thức đấu loại trực tiếp dành cho câu lạc bộ thuộc tất cả các hạng.
Tại một số giải vô địch quốc gia, cầu thủ bóng đá được trả lương rất cao, đặc biệt là các siêu sao bóng đá, có thể kể tới các giải đấu lớn ở châu Âu như La Liga (Tây Ban Nha), Premier League (Anh), Bundesliga (Đức), Serie A (Ý) và Ligue 1 (Pháp).
Bóng đá và truyền thông
Báo viết
Khi bóng đá mới ra đời, nó ít được đề cập đến trong báo chí nói chung và báo chí thể thao nói riêng vì bị coi là quá "bình dân". Thậm chí tờ The Field (xuất bản tại Anh từ năm 1853) vốn chuyên về các môn thể thao "quý tộc" như đánh golf, tennis, đua ngựa chỉ còn mở hẳn một cột báo nhỏ để chê bai và châm biếm môn bóng đá. Một ví dụ khác là tờ L'Auto của Pháp chỉ bắt đầu đăng tin về bóng đá từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tuy nhiên cùng với mức độ phổ biến của bóng đá trên thế giới, báo chí thể thao cũng bắt đầu dành mối quan tâm cho môn thể thao này. Hàng loạt báo và tạp chí chuyên về bóng đá ra đời, ví dụ các tờ A Bola, O Jogo và Record của Bồ Đào Nha, La Gazzetta dello Sport, Tuttosport và Corriere dello Sport - Stadio của Ý, Marca và As của Tây Ban Nha, Olé của Argentina và L'Équipe của Pháp. Những báo và tạp chí chuyên về bóng đá như vậy bắt đầu được xuất bản trong thời gian giữa 2 cuộc đại chiến thế giới, ngoài tờ tuần báo Le Football Association do chính FIFA xuất bản từ tháng 10 năm 1919 thì mãi đến năm 1929, tờ báo chuyên về bóng đá đầu tiên mới được xuất bản, đó là tuần báo Football của Pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tờ báo này được tiếp nối bằng tờ báo nổi tiếng France Football.
Báo viết không chỉ có vai trò quan trọng trong việc quảng bá môn bóng đá với công chúng mà còn tham gia tổ chức và duy trì các giải đấu. Giải đấu danh giá Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu đã được chính tờ L'Équipe của Pháp tổ chức lần đầu năm 1955. Một số câu lạc bộ cũng dần xuất bản những tờ báo của riêng họ, ví dụ câu lạc bộ Celtic FC cho ra đời tuần báo The Celtic View từ năm 1965 để chuyên đăng tin tức về câu lạc bộ Scotland này. Câu lạc bộ của Ý AS Roma cũng sở hữu tờ Il Romanista (xuất bản từ năm 2004) với số lượng khoảng 10.000 bản mỗi kỳ.
Truyền hình
Từ những năm 1920 các trận đấu bóng bắt đầu được tường thuật trực tiếp trên đài phát thanh. Buổi tường thuật lại một trận đấu lần đầu tiên được phát trên sóng phát thanh của Ý ngày 6 tháng 10 năm 1924. Nghề bình luận viên bóng đá cũng bắt đầu xuất hiện với những tên tuổi lớn như Georges Briquet, người được mệnh danh là "Vua bình luận trên đài" của phát thanh Pháp. Ngay cả sau khi truyền hình ra đời, việc tường thuật trận đấu trên sóng phát thanh cũng không vì thế mà lụi tàn vì nhiều người không có điều kiện xem truyền hình vẫn có nhu cầu nghe đài để theo dõi diễn biến trận đấu.
Ngày 16 tháng 9 năm 1937, buổi phát hình đầu tiên một trận đấu bóng đá được đài BBC thực hiện với trận đấu giữa Arsenal và đội dự bị của họ. Arsenal được chọn cho buổi phát hình này với lý do đơn giản là sân đấu của câu lạc bộ gần với trụ sở đài BBC trên Alexandra Palace. Ở cấp độ quốc tế, World Cup 1954 là giải đấu lớn đầu tiên được truyền hình. Ngay từ giai đoạn đầu mối quan hệ giữa truyền hình và bóng đá đã có nhiều xung đột. Matt Busby, huấn luyện viên của Manchester United đã tuyên bố vào năm 1957: "Các cầu thủ bóng đá phải được trả tiền cho giá trị của họ. Không có thù lao, không có phát sóng." Mâu thuẫn về quyền lợi đã dẫn đến việc các sân bóng không cho phép đài truyền hình mang máy quay vào tường thuật trận đấu. Mãi đến thập niên 1980 khi các đài truyền hình chấp nhận chia sẻ lợi nhuận với các câu lạc bộ, những trận đấu cấp câu lạc bộ mới bắt đầu được tường thuật thường xuyên hơn trên màn ảnh nhỏ.
Hiện nay, tiền bản quyền truyền hình đã trở thành một nguồn thu quan trọng của các đội bóng và giải đấu, vì vậy đôi khi lịch thi đấu của các đội phải được điều chỉnh cho phù hợp với giờ theo dõi thuận lợi của khán giả, ví dụ các trận cầu "đinh" của giải Serie A thường bao giờ cũng được tổ chức vào tối Chủ Nhật thay vì tối thứ Bảy như các trận đấu thông thường khác. Để giành quyền phát sóng các giải đấu quan trọng, các đài truyền hình lớn như Sky TV của Anh hay TF1 và Canal+ của Pháp cũng phải cạnh tranh nhau quyết liệt để đưa ra những số tiền bản quyền càng ngày càng tăng. Một ví dụ cho sự phổ biến của việc truyền hình các trận đấu là World Cup 2006, giải đấu này đã được tổng cộng 376 kênh truyền hình phát sóng trực tiếp trên khắp thế giới với tổng lượng khán giả lên tới 26,29 tỷ lượt, tức là trung bình mỗi trận có khoảng 506 triệu người trên Trái Đất theo dõi. Truyền hình không chỉ ảnh hưởng tới bóng đá về mặt kinh tế. Với công nghệ tường thuật ngày càng tiên tiến, các lỗi nhận định của trọng tài hoặc các pha tiểu xảo của cầu thủ trên sân dần không thể qua nổi mắt khán giả. Nghề trọng tài và luật 12 liên quan đến lỗi của cầu thủ vì thế cũng càng ngày càng được hoàn thiện.
Tương tự như báo viết, một số câu lạc bộ cũng bắt đầu thành lập cho riêng họ các kênh truyền hình. Middlesbrough FC là câu lạc bộ đầu tiên của Anh có kênh truyền hình của riêng mình, kênh Boro TV bắt đầu được phát sóng từ năm 2001. Một số kênh truyền hình của câu lạc bộ khác có thể kể tới OM TV, OL TV, Inter Channel, Milan Channel, Roma Channel, Manchester United TV, Real Madrid TV và Barca TV.
Lợi ích kinh tế
Việc khai thác các lợi ích kinh tế của bóng đá bắt đầu diễn ra ngay từ thập niên 1880 ở Anh. Tiền vé vào sân của mỗi trận bóng đá đã giúp các đội bóng tự nuôi sống và xây dựng các sân đấu. Trung bình một trận đấu tại mùa giải vô địch đầu tiên của bóng đá Anh (mùa 1888-1889) thu hút khoảng 4.639 khán giả, cho đến cuối thế kỷ 19 con số này đã tăng lên khoảng 10.000 người và đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất là 20.000 người.
Vé vào sân tiếp tục là nguồn thu chính cho các câu lạc bộ bóng đá cho đến thập niên 1990, sau đó dần được thay thế bằng tiền bản quyền truyền hình. Cùng với truyền hình, các hình thức quảng cáo gắn với đội bóng và trận đấu cũng được tận dụng triệt để. Việc các nhà tài trợ xuất hiện trên áo (thường là ở phần thân áo) cầu thủ bắt đầu xuất hiện ở Pháp từ năm 1969 với các câu lạc bộ đi tiên phong là Nîmes Olympique và Olympique de Marseille. Từ năm 1982, UEFA bắt đầu cho phép cầu thủ mặc áo có quảng cáo trong các giải đấu cấp câu lạc bộ trừ trận chung kết (giới hạn trận chung kết chỉ được dỡ bỏ từ năm 1995). Tuy nhiên việc quảng cáo trên thân áo cấp độ đội tuyển quốc gia cho đến nay vẫn chưa được FIFA chấp nhận.
Theo thống kê của mùa bóng 2006-2007 thì câu lạc bộ có doanh thu lớn nhất thế giới là Real Madrid của Tây Ban Nha với 351 triệu euro, sau đó là Manchester United của Anh (315,2 triệu), FC Barcelona của Tây Ban Nha (290,1 triệu), Chelsea FC và Arsenal FC cùng của Anh (283 và 263,9 triệu). Doanh thu tăng nhưng các câu lạc bộ cũng phải đối mặt với số tiền phải chi trả cho lương cầu thủ, đặc biệt là các ngôi sao của đội. Theo thống kê của mùa bóng 2007-2008, 20 câu lạc bộ của Giải vô địch bóng đá Ý đã phải chi tổng cộng 768,4 triệu euro tiền lương cầu thủ, tăng thêm 101,9 triệu euro chỉ sau một mùa.
Bên cạnh các mối lợi kinh tế trực tiếp, bóng đá cũng đem lại nguồn thu cho các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là du lịch. Ví dụ thành phố Auxerre của Pháp vốn rất nhỏ với chỉ hơn 40.000 dân nhưng nhờ có đội bóng AJ Auxerre có thành tích khá tốt tại giải vô địch Pháp nên kéo theo đó du lịch của thành phố này cũng phát triển. Một ví dụ khác là việc tổ chức World Cup 2006 chỉ trong vòng 1 tháng đã giúp lượng khách du lịch đến Đức trong cả năm 2006 tăng thêm 9%.
Bóng đá và chính trị
Không chỉ là một môn thể thao thông thường, bóng đá đôi khi còn có ảnh hưởng chính trị ở khu vực hoặc thậm chí là quốc tế. Một số câu lạc bộ bóng đá thành công thường được coi là biểu tượng cho địa phương hoặc chủ nghĩa dân tộc nơi đội bóng đóng quân, FC Barcelona được người Catalan coi là biểu tượng cho tinh thần tự trị của họ, hoặc như Athletic Bilbao là niềm tự hào của người dân xứ Basque với lý do tương tự. Ngược lại đôi khi bóng đá cũng được coi là liều thuốc đoàn kết tinh thần của một quốc gia, có thể kể tới chiến thắng của đội tuyển Pháp tại World Cup 1998 hay của Iraq tại Cúp bóng đá châu Á 2007, theo lời chủ tịch Liên đoàn bóng đá Iraq Hussein Saeed thì "người Iraq chỉ sống vì bóng đá, và đó là bí mật để họ có thể đối mặt với mọi khó khăn".
Ở mức độ quốc tế, lịch sử đã ghi nhận Chiến tranh Bóng đá vào năm 1969 là cuộc xung đột đầu tiên bắt nguồn từ một trận đấu bóng đá. Đó là chiến thắng 3-2 tại vòng loại World Cup 1970 của El Salvador trước Honduras. Những xung đột trong và sau trận đấu đã dẫn đến việc El Salvador đem quân tấn công Honduras, cuộc chiến đã khiến hơn 2.000 người thiệt mạng và càng làm trầm trọng sự mâu thuẫn giữa hai nước láng giềng này. Bóng đá cũng trở thành phương tiện tuyên truyền cho Mặt trận giải phóng Algérie trong thời gian Chiến tranh Algérie. Đôi khi bóng đá lại trở thành phương tiện để thúc đẩy hoặc hàn gắn quan hệ ngoại giao giữa các nước có mâu thuẫn, có thể kể tới trận đấu lịch sử giữa Mỹ và Iran tại vòng đấu loại bảng F World Cup 1998 hay World Cup 2002, giải đấu được Nhật Bản và Hàn Quốc, hai quốc gia vốn có nhiều mâu thuẫn lịch sử, tổ chức chung khá thành công.
Bóng đá trong văn hóa đại chúng
Văn hóa bóng đá
Bóng đá được nhiều nghệ sĩ coi là thứ "ngôn ngữ toàn cầu" với những đặc điểm thi đấu, luật lệ và truyền thống riêng của nó. Nhà văn Albert Camus, người từng một thời là thủ môn bóng đá, đã phát biểu rằng:
Tác phẩm văn học về bóng đá có thể kể tới Vua bóng đá của Aziz Nesin hay Fever Pitch (1992) của Nick Hornby,.... Âm nhạc, nhất là các bài hát tập thể, là một yếu tố không thể thiếu của các trận bóng. Các câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia thường có những bài đồng ca để cổ vũ tinh thần cầu thủ và huấn luyện viên. Đây có thể là những bài hát được sáng tác riêng cho câu lạc bộ như Leeds United (của Leeds Utd) hay Good old Arsenal (của Arsenal). Cũng có những bài hát không được viết riêng cho bóng đá nhưng lại trở thành ca khúc yêu thích của các cổ động viên, tiêu biểu là You'll Never Walk Alone, bài hát không chính thức của cổ động viên Liverpool FC. Ngược lại, một số nghệ sĩ cũng lấy cảm hứng từ các trận bóng để sáng tác các bài hát, có thể kể tới We Will Rock You và We Are the Champions của nhóm Queen.
Trong thế giới điện ảnh, bộ phim đầu tiên về bóng đá, Harry The Footballer, được đạo diễn người Anh Lewin Fitzhamon thực hiện từ năm 1911. Các tác phẩm điện ảnh về đề tài bóng đá có nội dung rất đa dạng, từ sự hâm mộ cuồng nhiệt của cổ động viên trong À mort l'arbitre (1984, đạo diễn Jean-Pierre Mocky) đến cái nhìn trào phúng về bóng đá trong Coup de tête (1979, đạo diễn Jean-Jacques Annaud) hay những trận đấu mang dấu ấn lịch sử trong Escape to Victory (1981, đạo diễn John Huston) hoặc Das Wunder von Bern (2003, đạo diễn Sönke Wortmann). Bóng đá đôi khi còn được "mượn" để nói tới các đề tài văn hóa khác, có thể kể tới vở kịch truyền hình Trận bóng của những triết gia do nhóm Monty Python thực hiện năm 1972.
Trò chơi
Bóng đá cũng là một trong những môn thể thao được chuyển thể thành các trò chơi (bởi vì nhờ lượng tín đồ vô cùng đông đảo của môn thể thao này mà nó có thể được coi là một "mảnh đất màu mỡ" cho các nhà làm game để tạo ra các tựa game bóng đá), từ các trò chơi cổ điển ví dụ như bóng đá bàn hay Subbuteo... đến các trò chơi điện tử hiện đại ví dụ như loạt EA Sports FC Mobile (tiền thân là FIFA Mobile) của hãng Electronic Arts, loạt Pro Evolution Soccer của hãng Konami (trò chơi điện tử bán chạy nhất tại Pháp năm 2006) hay loạt Dream League Soccer của hãng First Touch Games....
Cổ động viên
Bóng đá, môn thể thao được hâm mộ nhất thế giới, đã tạo riêng cho nó một nền văn hóa cổ động riêng biệt. Cổ động viên là những người đóng góp tài chính nhiều nhất cho câu lạc bộ hoặc đội tuyển họ yêu thích thông qua nhiều hình thức như mua vé vào sân, mua đồ lưu niệm của đội bóng hoặc tham gia các hội người hâm mộ do đội bóng tổ chức. Bên cạnh đó, các cổ động viên cũng là động lực (và cả sức ép) cho đội bóng trong và ngoài sân đấu, vì vậy đôi khi cổ động viên bóng đá được coi như "cầu thủ thứ 12" của đội bóng.
Tuy nhiên, có một số cổ động viên quá khích được gọi là các hooligan, trong lịch sử bóng đá, không ít trường hợp các hooligan đã bị cấm vào sân vận động vĩnh viễn và cũng không ít trường hợp, các cầu thủ và hooligan đã ẩu đả với nhau.
Các hội cổ động viên bóng đá bắt đầu được hình thành từ cuối thế kỷ 19 tại Anh. Ban đầu các hội này thường phụ thuộc trực tiếp vào các đội bóng nhưng kể từ thập niên 1940 họ bắt đầu tách riêng đứng độc lập. Các hội cổ động viên thường đứng ra tổ chức các hình thức cổ động trên sân, đặc biệt là trong các trận đấu "derby" giữa các đội bóng kình địch. Những trận "derby" giữa các đội bóng kình địch nổi tiếng thường trở thành màn trình diễn không chỉ của các siêu sao hai đội mà còn là của các hội cổ động viên, có thể kể tới các trận "derby" nổi tiếng thế giới như Derby della Madonnina giữa A.C. Milan và Inter Milan của Ý, El Clásico giữa Real Madrid và FC Barcelona của Tây Ban Nha hay El Superclásico giữa CA Boca Juniors và CA River Plate của Argentina và gần đây nhất là Derby Manchester giữa Manchester United và Manchester City (Sau khi Man City có được sự hậu thuẫn của các ông chủ Ả Rập, họ đang ngày càng mạnh lên và trở thành đối trọng với MU).
Thông thường các cổ động viên bóng đá thường cổ vũ trận đấu một cách hòa bình, tuy nhiên đôi khi bạo lực cũng bùng phát, đặc biệt là trong các trận đấu giữa những đội bóng kình địch. Bạo lực thậm chí đã biến một số trận đấu trở thành thảm kịch, ví dụ điển hình là thảm họa Heysel diễn ra trên sân vận động Heysel tại Bỉ năm 1985 đã khiến 39 cổ động viên thiệt mạng, hơn 600 người khác bị thương. Trong một số trường hợp khác, cổ động viên bóng đá quá khích lại tràn xuống sân làm gián đoạn các trận thi đấu, đây là trường hợp của trận giao hữu giữa đội tuyển Algérie và đội tuyển Pháp diễn ra năm 2001 tại Stade de France, các cổ động viên tràn vào sân đã làm trận đấu phải kết thúc sớm 15 phút.
Các loại hình bóng đá khác
Bóng đá thông thường được chơi với hai đội hình 11 người trên sân lớn, tuy nhiên đôi khi môn thể thao này cũng được biến đổi về số người chơi, luật lệ để phù hợp với các điều kiện chơi bóng khác nhau.
Bóng đá mini
Bóng đá mini (hay tiếng lóng là Bóng đá phủi) là một trong những loại hình khác của bóng đá, dành cho mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi thành phần,.... Mỗi trận đấu phải có hai đội, mỗi đội từ 5 đến 7 cầu thủ bao gồm cả thủ môn. Sự khác biệt khác với bóng đá thông thường bao gồm một sân nhỏ hơn, khung thành nhỏ hơn, thời lượng trận đấu giảm. Được chơi trong nhà hoặc ngoài trời trên sân cỏ nhân tạo có thể được đặt trong một rào chắn hoặc "lồng" để ngăn bóng rời khỏi khu vực chơi và giữ cho trò chơi liên tục diễn ra. Khác so với bóng đá chuyên nghiệp, bất kỳ ai cũng có thể chơi bóng đá mini, từ học sinh, sinh viên, cho đến những người đã có nghề nghiệp, công ăn việc làm, đến cả những người đã nghỉ hưu,..., chỉ cần có đam mê bóng đá là có thể chơi được. Chính vì thế mà đây cũng là một dạng bóng đá không chuyên (bóng đá nghiệp dư; bóng đá phong trào).
Futsal
Futsal hay Bóng đá trong nhà là môn thể thao tương tự bóng đá nhưng các trận đấu được diễn ra trong nhà với một số luật lệ được thay đổi cho phù hợp ví dụ kích thước sân và bóng được thu nhỏ, các cầu thủ đi giày đế bằng thay vì giày đinh như ở các trận đấu sân cỏ. Futsal ra đời vào năm 1930 tại Uruguay và liên tục phát triển dưới sự bảo trợ của FIFA. FIFA cũng là tổ chức điều hành Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới. Các đội tuyển quốc gia có truyền thống ở môn thể thao này có thể kể tới Tây Ban Nha, Ý, Argentina và Brasil. Ở châu Á thì Iran và Nhật Bản là hai quốc gia mạnh nhất và độc chiếm toàn bộ chức vô địch của giải AFC Futsal Asian Cup.
Bóng đá bãi biển
Bóng đá bãi biển (Beach Soccer) là môn bóng đá chơi trên bãi cát, thông thường là bãi biển. Các trận đấu bóng đá bãi biển có 2 đội, mỗi đội 5 người với quyền thay người không hạn chế. Các cầu thủ chơi trên một sân nhỏ kích thước 28x37 m trong 3 hiệp, mỗi hiệp 12 phút. Giải vô địch thế giới môn bóng đá bãi biển được FIFA tổ chức từ năm 1995. Trong môn thể thao này, đội tuyển thống trị nhiều năm qua là đội bóng đá bãi biển Brasil, đội này đã 14 lần vô địch thế giới kể từ năm 1995, thành tích vượt xa so với các đội đứng tiếp theo là Nga và Bồ Đào Nha (cùng 3 lần vô địch thế giới) và Pháp (1 lần vô địch thế giới).
Bóng đá đường phố
Loại hình khác
Bóng đá cho người khuyết tật có hai loại hình chính là bóng đá xe lăn (cho người khuyết tật chi) và bóng đá cho người khiếm thị (cho người có khuyết tật về mắt). Môn bóng đá cho người khiếm thị được đưa vào nội dung thi đấu của Paralympic kể từ năm 2004. Tại các loại hình bóng đá này thì những đội tuyển Nam Mỹ như Brasil và Argentina cũng là những người thống trị. Ngoài ra tại các thành thị còn thịnh hành loại bóng đá đường phố.
Bóng đá ba đội, một thể loại bóng đá mà trong mỗi trận đấu có ba đội tham gia thi đấu, đội để thủng lưới ít nhất là đội chiến thắng. Trong mỗi trận, các liên minh tạm thời giữa hai đội đang thủng lưới nhiều hơn sẽ dồn ép đội thủng lưới ít nhất, các liên minh thành lập và tan vỡ liên tục theo tỉ số trận đấu.
Ngoài những loại hình kể trên, cũng còn một số loại hình ít phổ biến hơn như môn jorkyball hay môn bóng đá tennis. |
Tê giác Ấn Độ hay tê giác một sừng lớn (Rhinoceros unicornis) là một loài tê giác có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Chúng được đánh giá là sắp nguy cấp và có trong sách đỏ IUCN, vì các quần thể bị chia cắt và giới hạn dưới 20.000 km2. Hơn thế nữa, mức độ, chất lượng của môi trường sống quan trọng nhất của tê giác là Xavan Terai-Duar phù sa, đồng cỏ và các rừng ven sông đang suy giảm do sự xâm lấn của con người và gia súc. Tính đến năm 2008, ước tính có tổng cộng 2.575 cá thể tê giác trưởng thành sống trong tự nhiên.
Tê giác Ấn Độ từng sinh sống trên toàn bộ đồng bằng Ấn-Hằng, nhưng nạn săn bắn quá mức và phát triển nông nghiệp đã làm giảm phạm vi của chúng xuống còn mười một nơi ở miền bắc Ấn Độ và miền nam Nepal. Vào những năm 1990, ước tính có khoảng 1.870 đến 1.895 con tê giác còn sống.
Phân bố
Tê giác một sừng sống ở vùng đồi thấp dưới chân dãy núi Himalaya thuộc Nepal và Ấn Độ.
Nét đặc trưng
Loài tê giác này có lớp da dày màu nâu ánh bạc tạo ra bởi nhiều lớp trên toàn bộ cơ thể chúng. Các chân trước và vai được che phủ bởi các bướu trông giống như mụn cơm.Chúng có rất ít lông. Con đực trưởng thành to lớn hơn con cái một cách rõ ràng, chúng cao tới 1,8 mét, nặng tới 2.270 kg và dài tới 3,6 mét. Tê giác một sừng có một sừng; sừng này có ở cả con đực và con cái, nhưng không có ở con non mới sinh. Sừng, giống như tóc ở người, được hình thành từ keratin tinh khiết và bắt đầu mọc ở con non sau khoảng 1 năm. Sừng có thể dài từ 20 đến 61 cm.
Chúng là những động vật bơi lội giỏi, có thể chạy với tốc độ 55 km/h trong một thời gian ngắn, có thính giác và khứu giác tốt nhưng thị giác lại kém.
Con đực bắt đầu có khả năng sinh sản ở độ tuổi 9 năm và ở con cái là 5 năm, chúng sinh lứa đầu tiên khi con cái ở độ tuổi từ 6 đến 8 năm. Con cái phát ra tiếng kêu vào mùa sinh sản để báo cho các con đực biết rằng nó đã sẵn sàng để giao phối. Chu kỳ mang thai kéo dài khoảng 16 tháng. Mỗi lần chúng chỉ sinh một con non duy nhất và khoảng thời gian giữa các lần sinh đẻ rơi vào khoảng 3 năm. Tê giác mẹ chăm sóc và bảo vệ con của chúng. Con non thường sống với mẹ trong vài năm. Tê giác mẹ và các con của chúng thường đi cùng nhau, nhưng con bố thì thường đi một mình và chúng là chủ lãnh thổ của gia đình. Tê giác Ấn Độ có thể sống tới 45 năm.
Phân loại
Rhinoceros unicornis là tên khoa học được Carl Linnaeus sử dụng vào năm 1758, người đã mô tả một con tê giác có một sừng. Là một loài địa phương, ông chỉ ra Châu Phi và Ấn Độ.
Loài tê giác một sừng này là một đơn loài. Một số mẫu vật đã được mô tả từ cuối thế kỷ 18 dưới các tên khoa học khác nhau, tất cả đều được coi là các từ đồng nghĩa của Rhinoceros unicornis ngày nay:
R. aimus của Cuvier, 1817
R. asiaticus của Blumenbach, 1830
R. stenocephalus của Gray, 1867
R. Phân loạijamrachi của Sclatter, 1876
R. bengalensis của Kourist, 1970
Từ nguyên
Tên chi Rhinoceros là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại ῥίς (ris) nghĩa là 'mũi' và κέρας (keras) nghĩa là 'sừng của một con vật'. Từ tiếng Latinh ūnicornis có nghĩa là một sừng.
Tiến hóa
Tổ tiên đầu tiên của Rhinoceros chuyển hướng từ các động vật guốc lẻ khác vào đầu thế Eocen. Các so sánh ti thể DNA cho thấy rằng tổ tiên của tê giác hiện đại tách ra từ tổ tiên của họ Ngựa khoảng 50 triệu năm trước. Họ còn tồn tại, họ Rhinocerotidae, xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế Eocen ở Á - Âu, tổ tiên của các loài tê giác còn tồn tại phân tán từ châu Á bắt đầu từ thế Miocen.
Hóa thạch của R. unicornis xuất hiện ở giữa thế Pleistocen. Vào thế Pleistocen, chi Rhinoceros có ở khắp Nam và Đông Nam Á, với các mẫu vật nằm ở Sri Lanka. Vào Thế Holocen, một số con tê giác sống ở phía tây như Gujarat và Pakistan cho đến gần 3.200 năm trước.
Tê giác Ấn Độ và Javan, thành viên duy nhất của chi Rhinoceros, xuất hiện lần đầu tiên trong hồ sơ hóa thạch ở châu Á khoảng 1,6 triệu mật 3,3 triệu năm trước. Tuy nhiên, ước tính phân tử cho thấy loài này có thể đã chuyển hướng sớm hơn nhiều, khoảng 11,7 triệu năm trước. Mặc dù thuộc chi loại, tê giác Ấn Độ và Java không được tin là có họ hàng gần gũi với các loài tê giác khác. Các nghiên cứu khác nhau đã đưa ra giả thuyết rằng chúng có thể có họ hàng gần gũi với các loài đã tuyệt chủng Gaindatherium hoặc Punjabitherium. Một phân tích chi tiết về loài tê giác đã đặt Rhinoceros và loài tuyệt chủng Punjabitherium trong một cuộc chiến với Dicerorhinus, tê giác Sumatra. Các nghiên cứu khác cho thấy tê giác Sumatra có liên quan chặt chẽ hơn với hai loài châu Phi. Tê giác Sumatra có thể đã tách khỏi các loài tê giác châu Á khác từ 15 triệu năm trước.
Tình trạng
Tê giác Ấn Độ thường bị săn bắn trộm để lấy sừng, do trong một số nền văn hóa Đông Á người ta cho rằng sừng tê giác có các tác động tốt đối với sức khỏe và khả năng sinh dục.
Nhiều công viên quốc gia lớn đã được dựng lên để bảo vệ chúng, và đã được chính phủ các nước như Ấn Độ và Nepal thực thi với sự trợ giúp của Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF). Vườn quốc gia Kaziranga và vườn quốc gia Manas ở Assam và Vườn hoàng gia Chitwan ở Nepal là nơi cư ngụ cho loài động vật sắp nguy cấp này.
Chú thích
U
Loài EDGE
Động vật có vú Ấn Độ
Động vật có vú Bangladesh
Động vật có vú Nepal
Động vật được mô tả năm 1758
Động vật có vú châu Á
Động vật Nam Á
Loài dễ thương tổn |
là một lãnh chúa (daimyo) của vùng Kai và vùng Shinano trong thời Chiến Quốc của Nhật Bản. Được mệnh danh là "Mãnh hổ xứ Kai", Takeda Shingen là một trong những lãnh chúa mạnh nhất giai đoạn cuối thời Chiến Quốc.
Tên gọi
Khi sinh ra vào ngày 1 tháng 12 năm 1521, Takeda Shingen được đặt tên là Takeda Katsuchiyo. Khi đến tuổi trưởng thành, ông lại đổi tên là Takeda Harunobu và đến năm 1551, ông lấy tên Takeda Shingen.
Cuộc đời
Takeda Shingen là con trai cả của Takeda Nobutora, một vị lãnh chúa và quân sư tài ba của vùng Kai. Ông đã đóng góp rất lớn trong việc quản lý lãnh địa và được mọi người tôn trọng ngay khi tuổi còn khá nhỏ. Tuy nhiên, sau đó ông lại nổi lên chống lại cha mình và chiếm quyền quản lý dòng họ Takeda. Lý do cuộc đảo chính này đến nay vẫn rõ ràng nhưng nhiều người cho rằng đó là do Takeda Nobutora dự định cho người con trai thứ là Takeda Nobushige làm người kế vị chính thức. Khi Nobutora đến thăm con gái đã gả cho gia tộc Imagawa, Shingen đã cùng các tướng lĩnh chủ chốt chặn đường về Kai của cha mình. Kết quả là Takeda Nobutora bị ép buộc thoái vị (Takeda Nobutora không bị giết hay bị bắt mổ bụng tự sát, đây là kết quả của một cuộc đảo chính không đổ máu). Imagawa Yoshimoto đã thông đồng cùng Takeda Shingen trọng cuộc đảo chính này, và hai dòng họ Imagawa, Takeda vẫn tiếp tục liên kết với nhau sau đó. Liên minh sau đó chuyển thành 3 bên khi có thêm sự gia nhập của nhà Hojo.
Mục tiêu đầu tiên của Shingen sau khi lên ngôi là chinh phục vùng Shinano. Một số lãnh chúa lớn ở vùng Shinano lập tức đưa quân đến Kai nhằm vô hiệu hoá Shingen trước khi ông kịp chiêu quân đánh Shinano. Tuy nhiên, kế hoạch đánh bại Shingen ở Fuchu của các lãnh chúa đó đã thất bại khi họ bị quân của Shingen tấn công bất ngờ ở Sezawa. Shingen nắm lấy cơ hội và đẩy nhanh cuộc tấn công khi quân vùng Shinano còn chưa kịp hoàn hồn. Trong năm đó, ông tiến quân vào Shinano chinh phạt Suwa rồi tiến vào trung tâm Shinano đánh bại Tozawa Yorichika và Takato Yoritsugu. Nhưng Shingen bị chặn lại ở Uehara bởi quân của Murakami Yoshioki. Cuối cùng, Shingen cũng đánh bại được dòng họ Murakami. Murakami Yoshioki buộc phải chạy sang cầu cứu dòng họ Uesugi.
Sau khi chinh phục được Shinano, Shingen đối mặt với Uesugi Kenshin của vùng Echigo. Cuộc đụng độ giữa hai người đã trở thành huyền thoại, gặp nhau năm lần trên chiến trường Kawanakajima (1554, 1555, 1557, 1561, 1564). Tuy nhiên những cuộc đụng độ này chỉ là các cuộc chiến nhỏ, không bên nào nghĩ đến một trận quyết chiến cuối cùng. Cuộc đụng độ lớn nhất là lần thứ tư, quân của Kenshin xông thẳng vào quân của Shingen, tạo ra một con đường thẳng đến chỗ Shingen và hai người đụng độ mặt đối mặt. Truyền thuyết kể rằng Kenshin tấn công Shingen với thanh kiếm của mình, trong khi Shingen đỡ đòn bằng cây quạt sắt (tessen). Hai bên thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến này, đặc biệt là Shingen đã bị mất hai tướng là Yamamoto Kansuke và người em của mình, Takeda Nobushige. Đến 1564, Shingen hoàn toàn chinh phục vùng Shinano và chiếm một số lâu đài của Uesugi. Shingen giữ vững các vùng đất của mình và cho xây dựng đập trên sông Fuji, một trong những hoạt động phát triển nông nghiệp lớn nhất thời bấy giờ.
Sau khi Imagawa Yoshimoto bị Oda Nobunaga đánh bại, Shingen tấn công quân Imagawa đang bị tổn thất nặng nề. Ông thỏa hiệp với Tokugawa Ieyasu tấn công các vùng đất của quân Imagawa. Nhưng sau khi hoàn tất cuộc chinh phạt, Nhà Tokugawa đã liên minh với Oda để bảo vệ lãnh thổ trước sự bành trướng của phe Takeda.
Vận mệnh của toàn Nhật Bản đặt vào tay Shingen, khi ở tuổi 49 là lãnh chúa duy nhất có khả năng ngăn chặn cuộc tiến quân của Oda Nobunaga đến thủ đô của Nhật lúc bấy giờ. Ông đánh bại liên quân Tokugawa năm 1572 ở Mikatagahata và chiếm thành Futamata. Sau khi chiến thắng Tokugawa Ieyasu, cuộc tiến quân của Shingen bị ngưng lại do một số vấn đề đối nội. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành quân vào năm 1573 và bất ngờ qua đời ngày 13 tháng 5 năm 1573.
Takeda Shingen qua đời vì bệnh ở tuổi 53, khi nằm trên giường bệnh, điều làm ông trăn trở nhất chính là cậu con trai cũng là người thừa kế của mình, Takeda Katsuyori. Ngay khi hay tin Takeda Shingen vĩ đại qua đời, chắc chắn tất cả những đối thủ từ trước đến giờ sẽ đồng loạt tấn công.
Đoán trước tình thế, ông đã để lại những lời cuối cùng này cho con trai mình:
“Sau khi ta chết đi, không được điều động binh lính bừa bãi. Cống hiến hết mình để củng cố chính trị trong nước, nếu kẻ địch có đột nhập thì tìm mọi cách phòng thủ, nếu chúng tháo chạy thì đuổi theo. Bằng mọi cách, che giấu việc ta qua đời trong ít nhất 3 năm”.
Đó là tinh thần bất diệt của một Samurai, vào phút cuối đời vẫn đặt đất nước và con trai của mình lên trên cái chết của bản thân.
Các tướng lĩnh dưới quyền
Dưới thời Edo, 24 vị tướng của Shingen là một đề tài nổi tiếng của Ukiyo-e và Bunraku. Tuy việc làm và chức vụ không được nói tới, một số thì đã chết trước khi các tướng lĩnh khác phục vụ nhưng họ đều đó đóng góp rất lớn cho Shingen và dòng họ Takeda. |
Cờ nhanh (Fast chess) là một thể loại trong cờ vua, bao gồm cờ nhanh (Rapid chess), cờ chớp (Blitz chess) và cờ chớp sinh tử (Armageddon). Mỗi bên sẽ được cho ít thời gian hơn trong mỗi ván đấu, nhiều nhất là 60 phút.
Cờ vua nhanh thể hiện sự nhạy bén trong tư duy một cách nhanh nhất mà con người có thể làm được. Mỗi bên cờ nhanh có thể gồm các thể loại 30 phút, 20 phút, 15 phút dành cho mỗi bên. Người chơi phải cố gắng lướt nhanh bàn cờ và suy nghĩ thật nhanh để không bị thua do hết thời gian, bởi chỉ cần một bên "rụng kim" (hết thời gian) thì xem như thua cuộc, bất kể diễn biến trong ván cờ ra sao (trừ khi bên còn thời gian không còn một quân nào trên bàn cờ, không tính quân vua- thì lúc đó sẽ xử hòa).
Tổng thể
Cờ nhanh có rất nhiều thể loại riêng tùy theo lượng thời gian được cho trong mỗi ván đấu. Mỗi thể loại cờ nhanh đều sử dụng đồng hồ tính giờ (cờ vua) để tính thời gian. Bao gồm:
Cờ nhanh (Rapid hoặc Quick): 15 đến 60 phút cho mỗi người chơi, có thể tăng thời gian cho mỗi nước đi (ví dụ tăng 10 giây cho mỗi nước).
Cờ chớp (Blitz): 15 phút hoặc ít hơn cho mỗi bên. Các ván cờ này thường thuộc loại cái chết bất ngờ (Sudden Death) khi không được tăng thời gian cho mỗi nước đi. Tuy nhiên một số trận đấu có thể tăng một khoảng thời gian nhỏ cho mỗi nước đi (ví dụ 1 hoặc 2 giây) tùy thuộc vào người chơi. Thông dụng nhất là thể loại 3 phút, tăng 2 giây cho một nước đi.
Cờ siêu chớp (Bullet): 1 đến 3 phút cho mỗi bên. Thông dụng nhất là 2 phút (cộng 1 giây cho mỗi nước) hoặc 1 phút (cộng 2 giây cho mỗi nước). Thể loại này cũng thường được gọi là Lightning.
Cờ chớp sinh tử (Armageddon): một thể loại cờ chớp chỉ có kết quả thắng hoặc thua. Với Đen, hòa đồng nghĩa với một trận thắng. Để công bằng, Trắng có nhiều thời gian hơn cho mỗi ván. Thông dụng nhất là 6 phút cho Trắng và 5 phút cho Đen hoặc 5 phút cho Trắng và 4 phút cho Đen. Một số trận đấu cũng thường được tăng một khoảng thời gian nhỏ cho mỗi nước đi (ví dụ tăng 2 giây cho mỗi nước). Cờ chớp sinh tử thường được dùng trong các trận tie-break để quyết định người thắng, thua trong các giải đấu nhanh.
Lightning: thường được sử dụng để gọi Blitz (cờ chớp) hoặc Bullet, hoặc để gọi chung cho cờ nhanh. Lightning cũng thường được đề cập đến những trận đấu với thời gian cố định cho mỗi nước đi (ví dự 10 giây cho mỗi nước). Lightning còn được đề cập đến thể loại cờ 1 phút.
Trước khi phát minh ra đồng hồ tính giờ điện tử, mỗi trận đấu cờ nhanh hoặc cờ chớp thường là 5 phút cho mỗi bên. Trước khi đồng hồ tính giờ được giới thiệu (trước thập niên 1950), các trận đấu cờ nhanh thường có một trọng tài với nhiệm vụ hô to sau 10 giây.
Năm 1988, Walter Brown thành lập Hiệp hội Cờ chớp Thế giới (World Blitz Chess Association) với tạp chí Cờ chớp (Blitz Chess), giải thể năm 2003.
Trong một vài giải đấu và trận đấu, thứ hạng cuối cùng của các kỳ thủ có thể được quyết định sau một series các trận đấu với lượng thời gian ít dần như một trận tie-break. Trong trường hợp này, 2 trận thường được chơi với cùng khoảng thời gian, mỗi bên được cầm Trắng và Đen một lần. Với việc có ít thời gian cho việc tính toán mỗi nước đi, các trận đấu này thường có kết quả nằm ngoài dự đoán. Người chơi hết thời gian trước sẽ bị xử thua, trừ trường hợp đội thủ không còn khả năng chiếu hết và kết quả sẽ là hòa. "Thua vì thời gian" rất ít xảy ra trong các trận đấu cờ tiêu chuẩn với lượng thời gian dài nhưng lại xảy ra thường xuyên trong cờ nhanh và cờ chớp.
Các trận đấu cờ nhanh tuân theo các quy định của FIDE, trừ khi các giải đấu có những quy định đặc biệt khác. Một quy định cơ bản trong cờ nhanh là nếu một người chơi đi sai, đối thủ có thể chỉ ra và được yêu cầu chiến thắng. Ví dụ nếu một người chơi để vua của mình bị chiếu mà không bảo vệ trong nước đi tiếp theo, đối thủ có thể yêu cầu chiến thắng. Luật này có thể không được áp dụng trong các trận đấu giao hữu. Trường hợp có tranh cãi giữa hai đối thủ với nhau, người chơi phải dừng đồng hồ lại và gọi trọng tài để phân xử.
Từ blitz hay blitzkrieg trong cờ vua có nghĩa là một đợt tấn công nhanh và sớm vào ô f2 hoặc f7, chiếu vua.
Boxing Cờ vua là một thể loại khác, kết hợp cờ nhanh và boxing.
Bullet thường nhanh hơn cờ chớp (blitz). Chiến thuật và kỹ năng chơi cờ chỉ là thứ yếu cho mỗi nước đi nhanh. Các tính toán sâu và chiến lước hầu như không đáng kể. Theo luật của Liên đoàn Cờ vua Hoa Kỳ (USCF), bullet không được tính trong bảng xếp hạng. Một kỳ thủ thuộc USCF chỉ được tính điểm trong bảng xếp hạng nếu chơi trận đấu 5 phút hoặc nhiều hơn. Với các thể loại cờ nhanh, một người chơi có thể thắng nhờ diễn biến trên bàn cờ hoặc thắng nhờ đối thủ hết thời gian. Một trận đấu dưới 30 phút ảnh hưởng tới điểm trên bảng xếp hạng cờ nhanh, trên 30 phút sẽ ảnh hưởng tới điểm trên bảng xếp hạng cờ tiêu chuẩn. Nếu trận đấu 30 phút thì sẽ ảnh hưởng cả hai.
Những người chơi có hai sự lựa chọn: hãy chiến thắng khi chưa hết thời gian hoặc đánh cầm chừng để hơn đối phương về thời gian. Với cách chọn đầu tiên, họ nên tập trung vào những lúc cao điểm, tức là khi thế cờ phức tạp ở trung cuộc cần đánh những nước thật chính xác dù phải chấp nhận mất nhiều thời gian để suy nghĩ, đến lúc này họ phải chắc chắn mình hơn đối phương về chất, nếu sau lúc đó thế cờ vẫn ngang nhau thì 70% họ có thể thua thời gian. Nếu họ chọn cách thứ hai, hãy đánh thật nhanh, không cần phải nghĩ "cao siêu" gì hết, tất nhiên họ chỉ để lỗ quân một chút thôi để câu giờ, và họ phải dồn ván cờ vào thế phức tạp, chẳng hạn không chịu đổi quân hay "đóng băng" trung tâm, kéo dài càng lâu càng tốt. Người chơi phải nhìn vào đồng hồ liên tục và phải giữ lại ít nhất một con tốt để có thể giành thắng lợi về thời gian.
Giải vô địch
Không chính thức (1970)
Trước năm 1971, các giải cờ vua 5 phút của Liên Xô và Moscow (Liên Xô) đã diễn ra được vài năm với Mikhail Tal, David Bronstein và Tigran Petrosian là các nhà vô địch. Cũng trong năm 1971, Bobby Fischer tham gia một giải đấu cờ chớp ở Câu lạc bộ Cờ vua Manhattan và giành tới 21½/22 điểm. Giải đấu không chính thức đầu tiên "Giải Cờ Tốc độ Thế giới"(Speed Chess Championship of the World) hay ("Giải Vô địch Cờ chớp Thế giới" - World Blitz Championship) được tổ chức tại Herceg Novi vào 8 tháng 4 năm 1970. Giải được tổ chức ngay sau trận đấu đầu tiên giữa trận đấu Liên Xô và Phần còn lại của Thế giới (Rest of the World) (ở Belgrade) với 10 kỳ thủ tham dự. 11 Đại kiện tướng và 1 Kiện tướng tham dự trong một giải đấu vòng tròn, 2 lượt. Bobby Fischer giành chức vô địch với 19/22 điểm. Fischer có 17 thắng, 4 hòa và 1 thua (trước Viktor Korchnoi). Mikhail Tal đứng thứ hai với 4½ điểm kém Fischer. Fischer thắng cả hai trận với Tal, Tigran Petrosian và Vassily Smyslov, đều là những cựu Vô địch Cờ vua Thế giới
Kỳ thủ tham gia và điểm
Bobby Fischer 19
Mikhail Tal 14½
Viktor Korchnoi 14
Tigran Petrosian 13½
David Bronstein 13
Vlastimil Hort 12
Milan Matulović 10½
Vassily Smyslov 9½
Sammy Reshevsky 8½
Wolfgang Uhlmann 8
Borislav Ivkov 7½
Predrag Ostojić 2
Vô địch Cờ chớp Thế giới
Vô địch Cờ nhanh Thế giới
Câu nói nổi tiếng
Rất nhiều kỳ thủ cờ vua chuyên nghiệp không coi cờ nhanh, cờ chớp và bullet một cách nghiêm túc như cờ tiêu chuẩn. Có một vài câu nói nổi tiếng của các kỳ thủ hàng đầu:
"Một người có thể đánh mất thói quen tập trung vài giờ trong các trận đấu nghiêm túc nếu chơi cờ nhanh. Đó là lý do tại sao nếu một người muốn thăng tiến nhanh, anh ta nên hạn chế chơi cờ nhanh." - Vladimir Kramnik
"Như những chú chó thường khụt khịt mỗi khi gặp nhau, các kỳ thủ thường có một quy tắc khi mới lần đầu gặp nhau: họ ngồi xuống và chơi cờ tốc độ." - Anatoly Karpov
"Vâng, tôi có chơi cờ chớp một lần. Đó là trên một chuyến tàu vào năm 1929." - Mikhail Botvinnik
"Ai mà phân tích các ván cờ chớp thật ngu ngốc." - Rashid Nezhmetdinov
"Cờ chớp giết chết ý tưởng của bạn." - Bobby Fischer
"Thú thực, tôi coi cờ bullet hơi trẻ con, và do đó tôi không bao giờ chơi nó." - Vladimir Kramnik
"Cờ chớp - chỉ là thú vui mà thôi." - Vladimir Kramnik |
Tê giác trắng hay tê giác môi vuông (Ceratotherium simum) là một trong năm loài tê giác còn tồn tại và là một trong số rất ít loài động vật ăn cỏ lớn còn tồn tại. Chúng có nguồn gốc ở đông bắc và miền nam châu Phi. Tê giác có xu hướng sống thành bầy đàn từ 1 đến bảy con, mặc dù chúng là những động vật to lớn. Trên mõm của chúng có hai sừng với cấu tạo từ các sợi keratin (không phải xương như ở gạc hươu, nai).
Đặc điểm
Tê giác trắng khác với tê giác đen ở hình dạng miệng của chúng – ở tê giác trắng thì miệng của chúng rộng hơn để gặm được nhiều cỏ; theo một giả thuyết thì thuật ngữ "White" (trắng) trong tiếng Anh thực sự có nguồn gốc từ tiếng Afrikaan "weit", có nghĩa là 'rộng'. Da của tê giác trắng có màu hoàn toàn tương tự như của tê giác đen.
Tê giác trắng cũng có một bướu rõ nét ở phía sau cổ của nó để giữ được cái đầu to lớn. Mỗi chân của tê giác trắng có ba ngón. Chúng đôi khi được gọi là tê giác môi vuông do môi lỗi ra của chúng để hỗ trợ việc gặm các loại cỏ ngắn ở các vùng xavan. Chúng có khả năng đi 4 đến 5 ngày mà không cần nước uống. Tê giác trắng rất ít sinh sản khi bị giam cầm; kể từ năm 1995, chỉ có một con tê giác cái được sinh ra ở Dvur Králové.Vào năm 2019, Safari Phú Quốc đã cho ra đời 1 cá thể tê giác khác.
Phân loài
Có hai phân loài tê giác trắng:
Tê giác trắng phương Nam: Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, ước tính có 17.460 tê giác trắng phương Nam sống trong tự nhiên (IUCN 2008), làm cho chúng thành phân loài tê giác phổ biến nhất trên thế giới. Nam Phi là thành trì cho loài này (93.0%), bảo tồn 16.255 cá thể trong tự nhiên vào năm 2007 (IUCN 2008). Có quần thể nhỏ hơn trong môi trường sống lịch sử của loài này ở Namibia, Botswana, Zimbabwe và Eswatini, và một nhóm nhỏ tồn tại ở Mozambique. Các quần thể nhỏ cũng có tồn tại bên ngoài phạm vi sống trước đây của loài tại Kenya, Uganda và Zambia.
Tê giác trắng phương Bắc (Ceratotherium simum cottoni) được xem là loài có nguy cơ hoặc bị tuyệt chủng trong hoang dã, trước đây tìm thấy ở một số quốc gia Đông Phi và Trung Phi phía nam sa mạc Sahara, phân loài này là một loài động vật sống ở đồng cỏ và rừng hoang mạc. Trên thế giới, hiện nay chỉ còn tồn tại có 3 cá thể được ghi nhận, mà đã được trả lại cho khu vực bảo tồn ở Kenya. Trong thời gian gần trước đó, số lượng Tê giác trắng phương Bắc trong tự nhiên chỉ có trong Vườn quốc gia Garamba ở Cộng hòa Dân chủ Congo (trước đây là Zaire) và có bước đầu phục hồi từ mức thấp trong những năm 1970 đến khoảng 40 cá thể. Tuy nhiên, sau khi cuộc nội chiến và các cuộc tấn công của lực lượng bán quân sự từ Sudan làm số lượng giảm dần và theo tường thuật báo chí từ năm 2008 bị xóa sổ trong tự nhiên.
Ban đầu, sáu con tê giác trắng miền Bắc còn sống trong Vườn thú Dvur Králové ở Cộng hòa Czech. Trong sáu con đó, bốn con còn khả năng sinh sản đã được vận chuyển đến Khu bảo tồn Ol Pejeta Conservancy tại Kenya, châu Phi, môi trường sống lịch sử của chúng với hy vọng chúng sẽ phát triển. Trong năm 2015, chính phủ Kenya đặt con đực còn lại của loài tại Ol Pejeta dưới bảo vệ vũ trang liên tục 24 giờ để ngừa trộm. Một trong hai cá thể còn lại ở Cộng hòa Czech đã chết vào cuối tháng năm 2011. Cả hai con đực cuối cùng có khả năng giao phối tự nhiên qua đời vào năm 2014 (một ở Kenya vào ngày 18 tháng 10 và một ở Công viên động vật hoang dã San Diego, vào ngày 15 tháng 12).
Như vậy, chỉ còn ba con tê giác trắng phương Bắc trên toàn thế giới, tất cả đã quá già và không còn khả năng sinh sản, và được coi là động vật có vú lớn hiếm nhất trên thế giới và IUCN công bố kể từ những năm đầu 2010 trong danh sách đỏ các loài bị đe dọa tuyệt chủng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy là loài tê giác trắng phương Bắc có lẽ là một loài riêng biệt, chứ không phải là một phân loài của tê giác trắng như những gì được biết trước, trong trường hợp đó, tên khoa học chính xác cho loài cũ là cottoni Ceratotherium.
Săn trộm
Giống như tê giác đen, tê giác trắng cũng đang ở dưới các đe dọa do mất khu vực sinh sống và săn bắn trộm, chủ yếu gần đây là do việc bắn hạ của các janjaweed. Điều này làm cho các nhà bảo tồn phải đưa đề nghị di chuyển bằng máy bay các con tê giác trắng còn lại ở Garamba tới Kenya vào tháng 1 năm 2005. Sự can thiệp của các lực lượng ngoại quốc vào công việc của Congo đã ngăn không cho công việc này được thực thi vào tháng 6 năm 2005. Ngược với các thông báo trên, công viên động vật hoang dã Whipsnade tại Vương quốc Anh đã thu được thành công đáng kể trong nhiều năm qua trong việc nhân giống tê giác trắng trong tình trạng giam cầm. Trên thực tế, vào năm 2005, ba con tê giác trắng đã được sinh ra trong bầy đàn ở Whipsnade.
Chú thích |
Hội quán Tuệ Thành (chữ Hán: 穗城會館), thường được gọi là Miếu Thiên Hậu hay Chùa Bà Chợ Lớn, là một cơ sở tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh mẫu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những nơi thờ tự cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên đất Đề Ngạn xưa.
Lịch sử
Hội quán Tuệ Thành được nhóm người Hoa gốc Tuệ Thành (tức Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng và được trùng tu nhiều lần. Do quá lâu đời và không có tài liệu cụ thể nên không biết chính xác hội quán được xây dựng vào năm nào, tuy nhiên có vài ý kiến cho rằng hội quán xây dựng vào năm 1760. Tại Hội quán còn lưu giữ một đại hồng chung, đề "Đạo Quang năm thứ 10" tức làm vào năm 1830. Một bộ lư Pháp lam (cloisonne) vĩ đại, cũng đề một niên hiệu ấy.
Hội quán nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này. Trong Gia Định thành thông chí soạn khoảng năm 1820, tác giả Trịnh Hoài Đức đã có nhắc đến hội quán này:
Sự tích Bà Thiên Hậu
Theo học giả Vương Hồng Sển thì Thiên Hậu Thánh mẫu (vị thần được thờ chính trong chùa) có tên là Lâm Mặc Nương, người đảo Mi Châu, thuộc Bồ Dương (Phước Kiến). Bà sinh ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), đời vua Tống Nhân Tông. Sau đó, 8 tuổi bà biết đọc, 11 tuổi bà tu theo Đạo giáo. 13 tuổi, bà thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ "Nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng lạn một xấp cổ thư khác, rồi coi theo đó mà luyện tập đắc đạo.
Một lần, cha bà tên Lâm Tích Khánh ngồi thuyền cùng 2 con trai (2 anh của bà), chở muối đến tỉnh Giang Tây để buôn, giữa đường thuyền lâm bão lớn... Lúc đó bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ nhưng xuất thần để đi cứu cha và 2 anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo của cha, 2 tay nắm 2 anh, giữa lúc đó mẹ kêu gọi bà, buộc bà phải trả lời, bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được 2 anh. Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến bà. Năm Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu"
Kiến trúc
Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.
Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".
Chùa có gắn các tượng tròn, phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc chùa, mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường... do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908.
Thờ tự
Tiền điện là hai tran thờ hai bên: Phúc Đức Chánh thần (phải) và Môn Quan Vương Tả (trái). Tại đây có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và các bức tranh lớn vẽ cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước.
Trung điện đặt bộ lư có năm món (ngũ sự) đúc năm Quang Tự thứ 12 (1886).
Chính điện, được gọi là Thiên hậu Cung, gian giữa thờ Bà Thiên Hậu, hai bên thờ bà Kim Hoa Nương Nương (phía phải) và Long Mẫu Nương Nương (phía trái).
Được biết pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.
Chùa Bà Chợ Lớn hàng ngày vẫn đón tiếp những người đến cúng lễ khá đông. Nhưng đông hơn là vào các ngày mùng một và rằm hàng tháng, các ngày lễ Tết trong năm của người Hoa như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ... Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và Lễ khai ấn, cầu mong Bà phò trợ cho "Hộ quốc an dân" và "Hợp cảnh bình an". Riêng ngày vía Bà (23 tháng 3 [âm lịch]) được xem là ngày hội chính của chùa.
Vào ngày này, bà con người Hoa, người Việt đến cúng lễ rất đông. Ngay từ đêm hôm trước tại chùa đã cử hành Lễ tắm Bà. Sáng ngày 23, mọi người lại tổ chức Lễ rước Bà: Tượng Bà được đặt vào kiệu do các thanh niên nam nữ ăn mặc đẹp đẽ diễu qua các đường phố quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần được thờ phụng trong chùa, các đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng, các đội nhạc dân tộc vừa biểu diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo nhiệt trong các khu phố đông đảo người Hoa...
Cổ vật quý
Chính điện chùa còn 2 đại đồng chung niên hiệu Càn Long năm thứ 60 (1796) và Đạo Quang năm thứ 10 (1830). Trung điện có bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). Trong tủ kính lớn ở chính điện là tượng Bát Tiên và tướng lĩnh của D'Ariès vào năm 1860 cấm các binh sĩ Phú Lang Sa và Y Pha Nho phá phách. 2 bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, dành rước Bà vào ngày vía Bà với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân, rước theo cùng với kiệu Bà.
Ngoài ra, chùa còn khoảng 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối và 41 tranh nổi... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Giá trị
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác: đó không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người Quảng Đông.
Sự tích Bà Thiên Hậu, qua người kể đôi khi có ít nhiều dị biệt nhưng chủ yếu vẫn là đề cao một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, đức hạnh, dám xả thân vì mọi người... Sự đề cao này nhằm mục đích giáo dục.
Mặt khác trên bước đường nguy nan, nhiều sóng gió khi sang vùng đất mới để mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua được mọi trở ngại và được an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với sự phù trợ của Bà, Chùa Bà Thiên Hậu có vị trí quan trọng đối với người Hoa và cả người Việt.
Chùa Bà được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 7 tháng 1 năm 1993.
Thông tin thêm
Các cơ sở hoạt động từ thiện xã hội của Hội quán Tuệ Thành là Trường THCS Mạch Kiếm Hùng và bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Chùa cũng là nơi dung chứa ông Mạch Kiếm Hùng, một chiến sĩ cách mạng.
Bên cạnh Hội quán Tuệ Thành, ở Thành phố Hồ Chí Minh có ít nhất 6 nơi khác cũng thờ bà Thiên Hậu: Miếu Thiên Hậu Thánh mẫu (284 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3), Quảng Triệu hội quán (156 Võ Văn Kiệt, quận 1), Quỳnh Phủ hội quán (276 Trần Hưng Đạo, quận 5), Tam Sơn hội quán (116 Triệu Quang Phục, quận 5), Hà Chương hội quán (802 Nguyễn Trãi, quận 5), Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, quận Gò Vấp).
Ghi chú
Chú thích |
Tê giác Sumatra hay còn gọi là tê giác hai sừng (danh pháp hai phần: Dicerorhinus sumatrensis) là loài tê giác hiện còn tồn tại có kích thước nhỏ nhất, cũng như là một trong số các loài có nhiều lông nhất. Giống như các loài châu Phi, chúng có hai sừng. Đã từng có thời chúng phổ biến rộng rãi ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 80 cá thể. Chúng là loài đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp do săn bắn trộm, và các cố gắng nhằm phục hồi số lượng của chúng bằng cách nhân giống trong tình trạng bị giam cầm đã gặp rất nhiều khó khăn. Tê giác Sumatra là loài sống sót cuối cùng trong cùng một nhóm với loài tê giác lông mịn đã tuyệt chủng.
Phân loài và đặt tên
Con tê giác Sumatra được ghi nhận đầu tiên bị bắn bên ngoài Fort Marlborough, gần bờ tây của Sumatra vào năm 1793. Bức vẽ con vật và một đoạn văn mô tả nó được gửi tới nhà tự nhiên học Joseph Banks, vào lúc đó là Chủ tịch của Hội Hoàng gia Luân Đôn, người đã cho xuất bản một bài viết về mẫu vật trên vào năm đó. Vào năm 1814, loài này được Johann Fischer von Waldheim đặt tên khoa học.
Tính ngữ xác định loài sumatrensis có nghĩa là "của Sumatra", hòn đảo Indonesia nơi loài tê giác lần đầu được tìm thấy. Carl Linnaeus ban đầu phân loại tất cả tê giác vào một chi Rhinoceros; do đó loài này ban đầu được phân loại là Rhinoceros sumatrensis hoặc sumatranus. Joshua Brookes cho rằng tê giác Sumatra có hai sừng nên là một chi riêng biệt so với chi Rhinoceros có một sừng, và cho nó cái tên Didermocerus vào năm 1828. Constantin Wilhelm Lambert Gloger đã đề xuất cái tên Dicerorhinus vào năm 1841. Vào năm 1868, John Edward Gray đề xuất cái tên Ceratorhinus. Thường thì cái tên lâu đời nhất sẽ được sử dụng, nhưng vào năm 1977 Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học đã quyết định đặt tên chi chính thức là Dicerorhinus. Dicerorhinus bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp, trong đó (, nghĩa là "hai"), (, nghĩa là "sừng"), và (, nghĩa là "mũi").
Có ba phân loài là:
Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis, được gọi là Tê giác Sumatra miền tây, chỉ còn khoảng 75-85 con vào năm 2008 và không thể xác định vào năm 2020, hầu hết trong các Vườn quốc gia Bukit Barisan Selatan, Kerinci Seblat và Gunung Leuser tại Sumatra, nhưng cũng có một số lượng nhỏ ở Vườn quốc gia Way Kambas. Gần đây chúng đã tuyệt chủng tại Malaysia bán đảo. Mối đe dọa chính với phân loài này là mất môi trường sống và nạn săn bắt trộm. Một sự khác biệt nhỏ về mặt di truyền đã được ghi nhận giữa tê giác Sumatra miền tây và tê giác Borneo. Tê giác trên Malaysia bán đảo từng được gọi là D. s. niger, nhưng sau đó được công nhận là một danh pháp đồng nghĩa với D. s. sumatrensis. Ba con đực và bốn con cái hiện đang sống trong tình trạng nuôi nhốt tại Khu bảo tồn Tê giác Sumatra tại Way Kambas, con đực nhỏ tuổi nhất đã được sinh ra tại đó vào năm 2012. Một con non khác, một con cái, đã được sinh ra tại khu bảo tồn vào tháng 5 năm 2016. Hai con đực của khu bảo tồn được sinh ra tại Vườn thú và bách thảo Cincinnati.
Dicerorhinus sumatrensis harrissoni, được gọi là Tê giác Borneo hay Tê giác Sumatra miền đông. Phân loài tê giác này từng phổ biến khắp Borneo; ước chừng hiện tại chỉ còn khoảng 15 cá thể tồn tại. Quần thể đã biết này sống ở East Kalimantan, gần đây chúng đã tuyệt chủng tại Sabah. Các báo cáo về việc có Tê giác Borneo sinh sống ở Sarawak thì vẫn chưa được xác nhận. Phân loại này được đặt tên theo Tom Harrisson, người đã cống hiến nhiều cho lĩnh vực động vật học và nhân loại học Borneo vào thập niên 1960. Phân loài Borneo có đặc trưng là có kích cỡ cơ thể nhỏ hơn so với hai phân loài còn lại. Quần thể đang trong tình trạng nuôi nhốt chỉ bao gồm một con đực và hai con cái tại Khu bảo tồn Tê giác Borneo ở Sabah; con đực chết vào năm 2019 và các con cái chết lần lượt vào năm 2017 và 2019.
Dicerorhinus sumatrensis lasiotis, được gọi là Tê giác Sumatra phương bắc hay Tê giác Chittagong hay tê giác lông dày phương Bắc. Phân loài này từng lang thang khắp Ấn Độ và Bangladesh nhưng hiện tại đã được tuyên bố tuyệt chủng tại các quốc gia này. Các báo cáo chưa xác nhận cho rằng có một quần thể nhỏ có thể vẫn đang sống tại Myanmar, nhưng tình hình chính trị tại quốc gia này đã ngăn cản việc xác nhận tình trạng của phân loài. Cái tên lasiotis bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp có nghĩa "tai lông lá". Các nghiên cứu sau này cho thấy rằng lông tai của chúng thì không dài hơn so với các phân loài Tê giác Sumatra khác, nhưng D. s. lasiotis vẫn được coi là một phân loài bởi vì nó lớn hơn một cách đáng kể so với các phân loài khác. Loài này có thể đã tuyệt chủng.
Phân bố và môi trường sống
Tê giác Sumatra sống ở cả rừng mưa thứ sinh cao nguyên hay đất thấp, đầm lầy và rừng sương mù. Nó sống ở các vùng đồi núi gần với nguồn nước, đặc biệt là các thung lũng dốc với nguồn cây bụi dồi dào. Tê giác Sumatra đã từng sống trong phạm vi liên tục xa lên phía bắc tận Burma, đông Ấn Độ, và Bangladesh. Các báo cáo chưa xác nhận cũng cho rằng nó sống ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Tất cả loài biết được đều phát sinh từ đảo Sumatra. Một số nhà bảo tồn hy vọng tê giác Sumatra có thể vẫn còn ở Burma, mặc dù điều này có khả năng không lớn. Các biến động về chính trị ở Burma đã ngăn chặn việc đánh giá hoặc nghiên cứu về khả năng sinh tồn của loài tại đây. Báo cáo cuối cùng về việc nhìn thấy loài tê giác này trong phạm vi Ấn Độ là vào thập niên 1990.
Tê giác Sumatra phân bố rải rác và rộng rãi trong khoảng phân bố của chúng, rộng hơn nhiều so với các loài tê giác châu Á khác, điều này đã gây khó khăn cho các nhà bảo tồn trong việc bảo vệ các cá thể của loài một cách hiệu quả. Chỉ có bốn khu vực được biết là có tê giác Sumatra: Vườn quốc gia Bukit Barisan Selatan, Vườn quốc gia Gunung Leuser, và Vườn quốc gia Way Kambas tại Sumatra; và tại phía tây Borneo Indonesia của Samarindah.
Vườn quốc gia Kerinci Seblat, vườn quốc gia lớn nhất Sumatra, ước tính có số lượng tê giác khoảng 500 cá thể vào những năm 1980, nhưng do bị săn trộm nên quần thể này hiện bị coi là tuyệt chủng. Vô cùng khó xảy ra việc vẫn còn bất kỳ cá thể nào sống sót ở Bán đảo Malaysia.
Phân tích di truyền của quần thể tê giác Sumatra đã xác định được ba dòng di truyền riêng biệt. Eo biển giữa Sumatra và Malaysia không phải là rào cản đáng kể đối với tê giác như dãy núi Barisan dọc theo chiều dài Sumatra, vì tê giác ở phía đông Sumatra và Bán đảo Malaysia có mối liên hệ chặt chẽ hơn so với tê giác ở phía bên kia dãy núi ở phía tây Sumatra. Trên thực tế, tê giác Sumatra phía đông và tê giác Malaysia cho thấy ít phương sai di truyền đến nỗi hai quần thể này dường như đã không hề tách rời nhau trong thời kỳ Pleistocene, khi mực nước biển thấp hơn nhiều và Sumatra là một phần của lục địa. Tuy nhiên, cả hai quần thể Sumatra và Malaysia đều đủ gần về mặt di truyền đến nỗi việc lai giống sẽ không có vấn đề gì. Mặt khác, tê giác Borneo lại khác biệt đủ để các nhà di truyền học bảo tồn khuyên không nên lai chéo dòng này với các quần thể khác. Các nhà di truyền học bảo tồn gần đây đã bắt đầu nghiên cứu tính đa dạng của nhóm gen trong các quần thể này bằng cách xác định các locus vi vệ tinh. Kết quả thử nghiệm ban đầu cho thấy mức độ biến đổi trong quần thể tê giác Sumatra tương đương với những cá thể trong quần thể tê giác châu Phi ít nguy cấp hơn, nhưng sự đa dạng di truyền của tê giác Sumatra là một lĩnh vực còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Mặc dù tê giác đã bị tuyệt chủng ở Kalimantan kể từ những năm 1990 nhưng vào tháng 3 năm 2013, Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) đã thông báo rằng nhóm nghiên cứu khi theo dõi hoạt động của đười ươi ở West Kutai Regency, Đông Kalimantan đã phát hiện thấy một số dấu vết chân tê giác tươi, hố bùn, dấu vết của những cây tê giác cọ xát, dấu vết của sừng tê giác trên các bức tường của hố bùn và những vết cắn của tê giác trên cành cây nhỏ. Nhóm nghiên cứu cũng xác định rằng tê giác đã ăn hơn 30 loài thực vật. Vào ngày 2 tháng 10 năm 2013, Quỹ Động vật hoang dã Thế giới đã phát hành hình ảnh video được thực hiện với bẫy camera cho thấy tê giác Sumatra ở Kutai Barat, Kalimantan. Các chuyên gia cho rằng các video cho thấy hai cá thể khác nhau, nhưng không chắc chắn lắm. Bộ trưởng Lâm nghiệp Indonesia Zulkifli Hasan gọi bằng chứng video này là "rất quan trọng" và đề cập đến "mục tiêu tăng trưởng số lượng tê giác của Indonesia là ba phần trăm mỗi năm". Vào ngày 22 tháng 3 năm 2016, WWF đã thông báo rằng đã tìm thấy một con tê giác Sumatra còn sống ở Kalimantan; đó là lần tiếp xúc đầu tiên trong hơn 40 năm. Con tê giác cái này đã được chuyển đến một khu bảo tồn gần đó.
Bảo tồn
Tê giác Sumatra từng có số lượng nhiều tại khắp Đông Nam Á. Giờ ước tính có ít hơn 100 cá thể còn sót lại. Loài này được phân loại là cực kỳ nguy cấp (chủ yếu là do săn bắt trái phép) trong khi đó cuộc khảo sát gần đây nhất vào năm 2008 ước tính có khoảng 250 cá thể còn sống. Từ đầu thập niên 1990, việc sụt giảm số lượng cá thể được ước tính là hơn 50% mỗi thập kỷ, các quần thể rải rác giờ đây đối mặt với nguy cơ suy giảm do giao phối cận huyết. Hầu hết các môi trường sống còn lại là các vùng núi gần như không thể tiếp cận được tại Indonesia.
Bộ Môi trường Indonesia bắt đầu chính thức đếm số lượng tê giác Sumatra vào tháng 2 năm 2019. Việc theo dõi và kiểm đếm dự kiến sẽ hoàn thành trong ba năm. |
Tê giác lông mượt (Coelodonta antiquitatis) là một loài tê giác đã tuyệt chủng phổ biến ở khắp Châu Âu và Bắc Á trong kỷ nguyên Pleistocen và tồn tại cho đến cuối thời kỳ băng hà cuối cùng. Tê giác lông cừu là một thành viên của megafauna Pleistocen. Tê giác lông mượt được bao phủ bởi lớp lông dày và dài mà cho phép nó tồn tại ở thảo nguyên voi ma mút cực kỳ lạnh giá. Nó cũng có một cái bướu lớn vươn ra khỏi vai. Nó ăn chủ yếu trên cây thân thảo mọc ở thảo nguyên. Xác ướp được bảo quản trong lớp băng vĩnh cửu và nhiều bộ xương của tê giác lông mượt đã được tìm thấy. Hình ảnh của tê giác lông mượt được tìm thấy trong các bức tranh hang động ở châu Âu và châu Á.
Phân loại
Dấu tích của tê giác lông mượt đã được biết đến từ rất lâu trước khi loài này được mô tả, và là cơ sở cho một số sinh vật thần thoại. Các dân tộc bản địa ở Siberia tin rằng sừng của chúng là móng vuốt của những con chim khổng lồ. Một hộp sọ tê giác được tìm thấy ở Klagenfurt, Áo, vào năm 1335, và được cho là của một con rồng. Vào năm 1590, nó được sử dụng làm cơ sở cho phần đầu trên bức tượng của một con sâu bướm. Gotthilf Heinrich von Schubert vẫn tin rằng những chiếc sừng là móng vuốt của những con chim khổng lồ, và phân loại loài vật này dưới cái tên Gryphus antiquitatis, có nghĩa là "chim nướng cổ đại".
Một trong những mô tả khoa học sớm nhất về loài tê giác cổ đại được đưa ra vào năm 1769, khi nhà tự nhiên học Peter Simon Pallas viết báo cáo về chuyến thám hiểm của mình tới Siberia, nơi ông tìm thấy một hộp sọ và hai chiếc sừng trong lớp băng vĩnh cửu. Năm 1772, Pallas mua lại đầu và hai chân của một con tê giác từ người dân địa phương ở Irkutsk, và đặt tên cho loài này là Rhinoceros lenenesis (theo tên sông Lena). Năm 1799, Johann Friedrich Blumenbach nghiên cứu xương tê giác từ bộ sưu tập của Đại học Göttingen, và đề xuất tên khoa học là Rhinoceros antiquitatis. Nhà địa chất học Heinrich Georg Bronn đã chuyển loài này đến Coelodonta vào năm 1831 vì sự khác biệt về hình thành răng của chúng với các thành viên của chi Rhinoceros. Tên này xuất phát từ tiếng Hy Lạp κοιλία (koilía, "sâu răng") và ὀδούς (odoús "răng"), từ chỗ lõm trong cấu trúc răng hàm của tê giác, tạo ra tên khoa học Coelodonta antiquitatis, "răng rỗng cổ ".
Sự phát triển
Tê giác lông mượt là loài có nguồn gốc nhiều nhất trong chi Coelodonta. Họ hàng gần nhất tuyệt chủng với tê giác lông cừu là chi thú xương mỏng. Hai đường này bị chia cắt trong nửa đầu của Miocen. Xác ướp tê giác Stephanorhinus 1,77 triệu năm tuổi cũng có thể đại diện cho một nhóm chị em với Coelodonta. Tê giác lông mượt có thể là hậu duệ của loài C. tologoijensis Á-Âu hoặc C. thibetana của Tây Tạng. Vào năm 2011, một hóa thạch tê giác lông cừu 3,6 triệu năm tuổi, cổ nhất được biết đến, được phát hiện trên Cao nguyên lạnh giá Thanh Tạng. Một nghiên cứu trên các mẫu DNA từ 40.000 đến 70.000 năm tuổi cho thấy họ hàng gần nhất còn sống của nó là tê giác Sumatra.
Miêu tả
Cấu trúc và hình thức
Một con tê giác lông mượt trưởng thành thường dài từ đầu đến đuôi 3,8 mét (9,8 đến 12,5 ft), với trọng lượng ước tính khoảng 1.800–2.700 kg (4.000–6.000 lb) [18] hoặc 2.000 kg (4.400 lb). Nó cao tới 2 m (6,6 ft) ở vai, có kích thước tương đương với tê giác trắng. Một con bê một tháng tuổi có chiều dài khoảng 120 cm (3,9 ft) và cao tới vai 72 cm (2,36 ft). Hai chiếc sừng được làm bằng keratin, với một chiếc sừng dài vươn về phía trước và một chiếc sừng nhỏ hơn giữa hai mắt. So với các loài tê giác khác, tê giác lông mượt có đầu và thân dài hơn, chân ngắn hơn. Vai của nó nhô lên với một cái bướu mạnh mẽ, dùng để hỗ trợ chiếc sừng trước khổng lồ của con vật. Chiếc bướu cũng chứa một lượng chất béo dự trữ để hỗ trợ sự sống sót qua những mùa đông hoang vắng của thảo nguyên voi ma mút.
Các mẫu vật đông lạnh cho thấy bộ lông dài của tê giác có màu nâu đỏ, với lớp lông tơ dày phủ bên dưới một lớp lông bảo vệ dài và thô dày nhất ở vai và cổ. Lông ngắn hơn bao phủ tứ chi, giúp tuyết không bám vào. Chiều dài của cơ thể kết thúc với một cái đuôi 45 đến 50 cm (1,48 đến 1,64 ft) với một lớp lông thô ở cuối. Con cái có hai núm vú trên bầu vú.
Tê giác lông mượt có một số tính năng làm giảm diện tích bề mặt của cơ thể và giảm thiểu sự mất nhiệt. Tai của nó không dài hơn 24 cm (9,4 in), trong khi tai của tê giác ở vùng khí hậu nóng là khoảng 30 cm (12 in). Đuôi của chúng cũng ngắn hơn. Nó cũng có lớp da dày, từ 5 đến 15 mm (0,20 đến 0,59 in), nặng nhất ở ngực và vai.
Hộp sọ và răng
Hộp sọ có chiều dài từ 70 đến 90 cm (28 đến 35 in). Nó dài hơn so với các loài tê giác khác, tạo cho đầu một tư thế nghiêng sâu, hướng xuống dưới, tương tự như các họ hàng hóa thạch của nó là Stephanorhinus hemiotoechus và Elasmotherium cũng như tê giác trắng. Cơ bắp khỏe mạnh trên xương chẩm dài của nó tạo thành vòng cổ và giữ hộp sọ khổng lồ. Hàm dưới khổng lồ của nó dài tới 60 cm (24 in) và cao 10 cm (3,9 in).
Vách ngăn mũi của tê giác lông mượt đã bị nứt ra, không giống như tê giác hiện đại. Điều này phổ biến nhất ở nam giới trưởng thành. Sự thích nghi này có lẽ đã phát triển do áp lực nặng nề lên sừng và mặt khi tê giác gặm cỏ dưới lớp tuyết dày. Điểm độc nhất của loài tê giác này, xương mũi được hợp nhất với lớp sừng trước, điều này không xảy ra ở các loại Coelodonta cổ hơn hoặc tê giác ngày nay.
Răng của tê giác lông mượt có lớp men dày và một khoang bên trong mở. Giống như những con tê giác khác, con trưởng thành không có răng cửa. Nó có 3 răng tiền hàm và 3 răng hàm ở cả hai hàm. Các răng hàm cao và có một lớp xi măng dày.
Sừng
Cả hai giới đều có hai sừng. Sừng trước dài ít nhất một mét (3,3 ft), lên đến 1,4 mét (4,6 ft) và trọng lượng của nó đạt 15 kilôgam (33 lb). Nó hướng về phía trước, nhiều hơn so với những con tê giác hiện đại. Sừng sau ngắn hơn.
Cổ sinh vật học
Tê giác lông mượt có lịch sử sống tương tự như tê giác hiện đại. Các nghiên cứu về răng sữa cho thấy các cá thể phát triển tương tự như cả tê giác trắng và đen. Hai núm vú ở con cái gợi ý rằng nó nên nuôi một con bê, hoặc hiếm hơn là hai con, cứ sau hai đến ba năm. Nếu tương tự như tê giác hiện đại, con non sống với mẹ trong khoảng 3 năm trước khi tìm kiếm lãnh thổ cá thể của riêng mình, đạt đến độ trưởng thành giới tính trong vòng 5 năm. Tê giác lông cừu có thể đạt khoảng 40 tuổi, giống như họ hàng hiện đại của chúng.
Với cặp sừng và kích thước khổng lồ, con trưởng thành có ít kẻ săn mồi, nhưng những con non có thể bị tấn công bởi các loài động vật như linh cẩu và sư tử hang động. Một hộp sọ được tìm thấy với vết thương cho thấy một cuộc tấn công từ một con mèo, nhưng con vật đã sống sót đến tuổi trưởng thành.
Tê giác lông cừu có thể đã sử dụng sừng của chúng để chiến đấu, có thể bao gồm cả chiến đấu cạnh tranh chủng loài cụ thể như được ghi lại trong các bức tranh hang động, cũng như để di chuyển tuyết để phát hiện thảm thực vật trong mùa đông. Chúng cũng có thể được sử dụng để thu hút bạn tình. Tê giác lông cừu có lẽ có tính lãnh thổ giống như các đồng loại hiện đại của chúng, tự vệ khỏi các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là trong mùa hằn lún. Hộp sọ hóa thạch cho thấy tổn thương từ sừng trước của những con tê giác khác, và hàm dưới và xương sườn sau có dấu hiệu bị vỡ và tái hình thành, cũng có thể là do đánh nhau. Tần suất chiến đấu nội đặc hiệu rõ ràng, so với những con tê giác gần đây, có thể là kết quả của sự thay đổi khí hậu nhanh chóng trong thời kỳ băng hà cuối cùng, khi con vật đối mặt với căng thẳng gia tăng do cạnh tranh với các động vật ăn cỏ lớn khác.
Chế độ ăn
Tê giác lông mượt chủ yếu ăn cỏ và cói mọc ở thảo nguyên voi ma mút. Đầu dài, nghiêng với tư thế hướng xuống và cấu trúc răng đều giúp nó gặm cỏ. Nó có môi trên rộng giống như môi của loài tê giác trắng, cho phép nó dễ dàng nhổ cỏ trực tiếp từ mặt đất. Phân tích phấn hoa cho thấy nó cũng ăn các cây thân gỗ (bao gồm cây lá kim, cây liễu và cây mã đề), dọc theo hoa, forbs và rêu. Nghiên cứu đồng vị trên sừng cho thấy tê giác lông cừu có chế độ ăn theo mùa; các khu vực mọc sừng khác nhau cho thấy rằng nó chủ yếu chăn thả vào mùa hè, trong khi nó tìm kiếm cây bụi và cành vào mùa đông.
Một cuộc điều tra cơ sinh học vectơ chủng đối với hộp sọ, xương hàm và răng của một cá thể được bảo quản tốt trong giai đoạn lạnh giá cuối cùng được phục hồi từ Whitemoor Haye, Staffordshire, cho thấy các đặc điểm cơ và răng hỗ trợ sở thích ăn cỏ. Đặc biệt, sự mở rộng của cơ thái dương và cơ cổ phù hợp với yêu cầu đó để chống lại các lực kéo lớn tạo ra khi lấy một lượng lớn thức ăn gia súc từ mặt đất. Sự hiện diện của một nha khoa lớn hỗ trợ lý thuyết này.
Các so sánh với các loài Bộ Guốc lẻ còn sống xác nhận rằng tê giác lông cừu là loài lên men chân sau với một dạ dày duy nhất, tiêu thụ thức ăn gia súc giàu cellulose, nghèo protein. Nó đã phải tiêu thụ một lượng lớn thức ăn để tạo ra hàm lượng dinh dưỡng thấp trong khẩu phần ăn của nó. Những con tê giác lông cừu sống ở Bắc Cực trong thời kỳ Cực đại băng hà cuối cùng đã tiêu thụ khối lượng tương đương các loại pháo, chẳng hạn như chi Ngải và graminoit.
Nơi sống và phân bố
Tê giác lông cừu chủ yếu sống ở các vùng đất thấp, cao nguyên và thung lũng sông, với khí hậu khô hạn đến khô hạn, và di cư lên các độ cao cao hơn trong các pha khí hậu thuận lợi. Nó tránh các dãy núi, do tuyết dày và địa hình dốc khiến con vật không thể vượt qua dễ dàng. Môi trường sống chính của tê giác là thảo nguyên voi ma mút, một cảnh quan rộng lớn, thoáng đãng được bao phủ bởi những dãy cỏ và bụi rậm. Tê giác lông mượt sống cùng với các loài động vật ăn cỏ lớn khác, chẳng hạn như voi ma mút lông, hươu khổng lồ, tuần lộc, linh dương saiga và bò rừng - một loại động vật được gọi là Tổ hợp động vật Mammuthus-Coelodonta. Với sự phân bố rộng rãi, tê giác lông cừu sống ở một số khu vực cùng với các loài tê giác khác là Stephanorhinus và Elasmotherium.
Vào cuối thời kỳ băng hà Riss khoảng 130 nghìn năm trước, tê giác lông cừu đã sống trên khắp miền bắc Á-Âu, trải dài hầu hết châu Âu, Đồng bằng Nga, Siberia và Cao nguyên Mông Cổ, với nhiệt độ từ 72 ° đến 33 ° N. Các hóa thạch đã được tìm thấy xa về phía bắc đến tận Quần đảo Tân Siberi. Nó có phạm vi rộng nhất trong số các loài tê giác.
Nó dường như đã không vượt qua cây cầu đất Bering trong thời kỳ băng hà cuối cùng (kết nối châu Á với Bắc Mỹ), với sự xuất hiện nhiều nhất ở bán đảo Chukotka, có thể do mật độ cỏ thấp và môi trường sống thích hợp trong Yukon, sự cạnh tranh với các động vật ăn cỏ lớn khác trên cây cầu đất lạnh giá, và các sông băng rộng lớn tạo ra các rào cản vật lý. Ngay cả khi một số đến Bắc Mỹ, điều này có lẽ không phổ biến.
Mối quan hệ với con người
Việc săn bắn
Tê giác lông cừu đã chia sẻ môi trường sống của chúng với con người, nhưng bằng chứng trực tiếp cho thấy chúng tương tác với nhau là tương đối hiếm. Chỉ 11% các địa điểm được biết đến của các bộ lạc Siberia thời tiền sử có di tích hoặc hình ảnh của loài vật này. Nhiều hài cốt của tê giác được tìm thấy trong các hang động (chẳng hạn như hang Kůlna ở Trung Âu), vốn không phải là môi trường sống tự nhiên của tê giác hay con người, và những kẻ săn mồi lớn như linh cẩu có thể đã mang các bộ phận của tê giác ở đó. Đôi khi, chỉ có răng hoặc mảnh xương riêng lẻ được phát hiện, thường chỉ đến từ một loài động vật. Hầu hết các hài cốt của Tê giác ở Tây Âu đều được tìm thấy ở cùng những nơi tìm thấy hài cốt hoặc hiện vật của con người, nhưng điều này có thể xảy ra một cách tự nhiên.
Các dấu hiệu cho thấy con người ban đầu đã săn bắt hoặc lùng sục tê giác đến từ các dấu hiệu trên xương của con vật. Một mẫu vật có vết thương do vũ khí của con người gây ra, với dấu vết của vết thương do vật sắc nhọn đánh dấu ở vai và đùi, và một ngọn giáo được bảo quản được tìm thấy gần xác chết. Một số địa điểm từ giai đoạn đầu của Thời kỳ băng hà cuối cùng vào cuối thời kỳ đồ đá cũ giữa, chẳng hạn như Hang động Gudenus (Áo) và địa điểm ngoài trời Königsaue (Sachsen-Anhalt, Đức), đã bị phá hủy nặng nề xương tê giác lót bằng dấu gạch chéo. Hành động này được thực hiện một phần để chiết xuất phần tủy xương bổ dưỡng.
Cả xương và xương của tê giác đều được sử dụng làm nguyên liệu cho các công cụ và vũ khí, cũng như di vật của nhiều loài động vật khác nhau. Tại khu vực ngày nay là Zwoleń, Ba Lan, thiết bị này được làm từ xương đập của người bại liệt. Những chiếc ném dài nửa mét, được làm từ lông tê giác khoảng 27 nghìn năm trước, đến từ bờ sông Yana. Một ngọn giáo 13.300 năm được tìm thấy trên đảo Bolshoy Lyakhovsky với đầu giác quan, xa nhất về phía bắc mà con người từng được tìm thấy
Người đàn ông trong hang Pinhole là một hình tượng người đàn ông thuộc thời kỳ đồ đá cũ muộn được khắc trên xương sườn của một con tê giác lông cừu, được tìm thấy tại Creswell Crags ở Anh.
Nghệ thuật cổ đại
Nhiều bức tranh hang động từ thời đồ đá cũ trên mô tả những con tê giác bằng lông cừu. Các đặc điểm nhận dạng của con vật được vẽ nổi bật, hoàn chỉnh với phần lưng và bướu nhô cao, tương phản với phần đầu nằm thấp của nó. Hai đường cong tượng trưng cho tai. Sừng của con vật được vẽ với độ cong dài của chúng, và trong một số trường hợp, lớp lông cũng được chỉ ra. Nhiều bức tranh cho thấy một dải đen chia cắt cơ thể.
Khoảng 20 hình vẽ thời kỳ đồ đá cũ về tê giác lông mượt đã được biết đến trước khi phát hiện ra Hang Chauvet ở Pháp. Chúng có niên đại hơn 31.000 năm tuổi, có thể là từ thời Aurignacian, được khắc trên tường hang động hoặc được vẽ bằng màu đỏ hoặc đen. Một cảnh mô tả hai con tê giác chiến đấu với nhau bằng sừng của chúng. Các hình minh họa khác được tìm thấy trong các hang động Rouffignac và Lascaux. Một bức vẽ từ Font-de-Gaume cho thấy tư thế đầu cao hơn đáng kể, và những bức khác được vẽ bằng sắc tố đỏ trong Hang động Kapova ở dãy núi Ural. Một số hình ảnh cho thấy tê giác bị tấn công bằng giáo hoặc mũi tên, biểu thị sự săn bắn của con người.
Địa điểm Dolní Věstonice ở Moravia, Cộng hòa Séc, được tìm thấy với hơn bảy trăm tượng động vật, nhiều tê giác lông mượt.
Sự tuyệt chủng
Nhiều loài động vật lớn thuộc thế kỷ Pleistocen, như tê giác lông mượt, đã tuyệt chủng trong cùng một khoảng thời gian. Việc săn bắn của con người thường được coi là một nguyên nhân. Các giả thuyết khác về nguyên nhân của các vụ tuyệt chủng là sự thay đổi khí hậu liên quan đến Kỷ băng hà đang rút đi và giả thuyết về hyperdisease (q.v. sự kiện tuyệt chủng Đệ tứ). Một trong những giả thuyết được chấp nhận rộng rãi hơn nói rằng, mặc dù tê giác lông cừu chuyên dùng cho thời tiết lạnh giá, nhưng nó có khả năng sống sót ở những vùng khí hậu ấm hơn. Điều này cho thấy rằng biến đổi khí hậu không phải là yếu tố duy nhất góp phần vào sự tuyệt chủng của Tê giác. Các loài thích nghi với lạnh khác, chẳng hạn như tuần lộc, bò xạ hương và Bò bison châu Âu, sống sót sau thời kỳ thay đổi khí hậu này và nhiều loài khác thích nó, ủng hộ giả thuyết 'quá mức cần thiết' đối với tê giác lông mượt.
Xác định niên đại bằng carbon phóng xạ chỉ ra rằng các quần thể sống sót gần đây là 8.000 năm trước Công nguyên ở phía tây Siberia. Tuy nhiên, độ chính xác của niên đại này là không chắc chắn, vì một số cao nguyên cacbon phóng xạ tồn tại vào khoảng thời gian này. Sự tuyệt chủng không trùng với sự kết thúc của kỷ băng hà cuối cùng, mà trùng với một sự đảo ngược khí hậu nhỏ nhưng nghiêm trọng kéo dài trong khoảng 1.000–1.250 năm, Younger Dryas (GS1 — Greenland Stadial 1), được đặc trưng bởi sự băng giá và khắc nghiệt nguội lạnh trên toàn cầu, một đoạn ngắn trong quá trình ấm lên tiếp tục sau khi kết thúc kỷ băng hà lớn cuối cùng (GS2), được cho là do sự ngừng hoạt động của tuần hoàn nhiệt trong đại dương do dòng nước ngọt lạnh từ trước đó băng tan liên tục trong thời gian ấm hơn giữa các tiểu bang (GI1 — Greenland Interstadial 1: khoảng 16.000–11.450 14C năm BP).
Mẫu hoa thạch
Nhiều hài cốt tê giác đã được tìm thấy được bảo quản trong vùng băng vĩnh cửu. Năm 1771, một đầu, hai chân và da sống được tìm thấy ở sông Vilyuy ở phía đông Siberia và được gửi đến Kunstkamera ở Saint Petersburg. Sau đó vào năm 1877, một thương nhân người Siberia đã tìm thấy một đầu và một chân từ một nhánh sông Yana.
Vào tháng 10 năm 1907, những người thợ mỏ ở Starunia, Ukraine, tìm thấy một xác voi ma mút được chôn trong một cái hố bằng ozokerite. Một tháng sau, một con tê giác được tìm thấy bên dưới 5 mét (16 ft). Cả hai đều được gửi đến Bảo tàng Dzieduszycki, nơi mô tả chi tiết được xuất bản trong chuyên khảo của bảo tàng. Các bức ảnh đã được xuất bản trên các tạp chí cổ sinh vật học và sách giáo khoa, và những bức tranh hiện đại đầu tiên về loài này dựa trên mẫu vật được gắn. [68] Con tê giác hiện được đặt trong Bảo tàng Quốc gia Lviv cùng với voi ma mút. Sau đó, vào năm 1929, Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Ba Lan đã cử một đoàn thám hiểm đến Starunia, tìm thấy xác ướp của ba con tê giác. Một mẫu vật, chỉ thiếu sừng và lông, đã được đưa đến Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Thủy cung ở Kraków. Một khuôn bằng thạch cao đã được thực hiện ngay sau đó, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London.
Các mảnh sọ và xương sườn của một con tê giác được tìm thấy vào năm 1972 ở Churapcha, giữa sông Lena và sông Amga. Một bộ xương nguyên vẹn được tìm thấy ngay sau đó, với da, lông và dạ dày được bảo quản. Năm 1976, các học sinh trong một chuyến đi thăm lớp học đã tìm thấy một bộ xương tê giác 20.000 năm tuổi ở tả ngạn sông Aldan, phát hiện ra một hộp sọ có cả sừng, xương sống, xương sườn và xương chi.
Năm 2007, một phần xác tê giác được tìm thấy ở vùng hạ lưu Kolyma. Vị trí hướng lên của nó cho thấy có lẽ con vật đã rơi xuống bùn và chìm. Năm sau vào năm 2008, một bộ xương gần như hoàn chỉnh đến từ sông Chukochya. Cùng năm đó, người dân địa phương gần Amga đã phát hiện ra xác tê giác được ướp xác, và trong hai năm tiếp theo, người ta đã khai quật được xương chậu, đốt sống đuôi và xương sườn cùng với chi trước và chi sau với các ngón chân còn nguyên vẹn.
Vào tháng 9 năm 2014, một xác ướp tê giác con được hai thợ săn Alexander "Sasha" Banderov và Simeon Ivanov, phát hiện tại một nhánh của sông Semyulyakh ở quận Abyysky ở Yakutia, Nga. Đầu và sừng, lông và các mô mềm của nó đã được phục hồi. Một số bộ phận đã được rã đông và ăn vì chúng không bị lớp băng vĩnh cửu bao phủ. Cơ thể được giao cho Học viện Khoa học Yakutia, nơi nó được đặt tên là "Sasha" theo tên một trong những người phát hiện ra nó. Phân tích nha khoa cho thấy rằng con bê khoảng bảy tháng tuổi vào thời điểm nó chết. Với sự bảo quản nguyên vẹn của nó, các nhà khoa học đã tiến hành phân tích DNA.
Vào tháng 8 năm 2020, một con tê giác được tìm thấy, sau khi được tiết lộ bởi lớp băng vĩnh cửu tan chảy, gần với địa điểm phát hiện năm 2014. Con tê giác khoảng từ ba đến bốn tuổi và nó cho rằng nguyên nhân cái chết là do chết đuối. Nó là một trong những động vật được bảo tồn tốt nhất được phục hồi từ khu vực, hầu hết các cơ quan nội tạng của nó còn nguyên vẹn. Khám phá cũng rất đáng chú ý về việc bảo tồn một chiếc sừng mũi nhỏ, một chiếc sừng hiếm vì chúng thường phân hủy nhanh chóng. |
Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai, gọi tắt là Công đồng Vatican lần thứ hai hay Vatican II, là công đồng đại kết thứ 21 của Giao hội Công giáo La Mã. Công đồng được nhóm họp tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô tại Roma trong bốn kỳ họp, mỗi kỳ họp kéo dài từ 8 đến 12 tuần vào mùa thu mỗi năm từ năm 1962 đến năm 1965. Công việc chuẩn bị cho Công đồng kéo dài 3 năm, từ mùa hạ năm 1959 đến mùa thu năm 1962. Công đồng được Giáo hoàng Gioan XXIII khai mạc vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, và do Giáo hoàng Phaolô VI bế mạc ngày 8 tháng 12 năm 1965 (tại vị Giáo hoàng trong 3 kỳ họp cuối sau khi Giáo hoàng Gioan XXIII mất vào ngày 3 tháng 6 năm 1963). Không có bản tuyên bố bất khả ngộ.
Giáo hoàng Gioan XXIII khởi xướng Công đồng này vì cho rằng Giáo hội cần được canh tân (aggiornamento). Để kết nối với các thành phần dân Chúa trong thế kỷ 20, khi mà đời sống trọng vật chất ngày một chiếm lĩnh thế giới, một số hoạt động của Giáo hội cần được canh tân, và giáo lý Công giáo cũng cần được rao giảng trong tương quan và dễ nắm bắt đối với các thành phần dân Chúa thuộc thời đại này. Nhiều Nghị phụ thấu hiểu điều này, trong khi một số khác cố níu giữ quan điểm bảo thủ. Tuy nhiên, nhóm ủng hổ "canh tân" đã chiến thắng trước phía đối lập, và kết quả là 16 văn kiện được Công đồng đưa ra nhằm phát triển mãnh mẽ hệ thống giáo lý và mục vụ như: cải cách sâu rộng hoạt động phụng vụ, đổi mới các học thuyết về Giáo hội, mặc khải và giáo dân, cách tiếp cận mới trong quan hệ giữa Giáo hội và thế giới, về Đại kết, về quan hệ liên tôn và về tự do tôn giáo.
Theo Giáo hoàng Biển Đức XVI thông điệp chính của Công đồng là tính quan trọng của sự Phục sinh với Kitô hữu. Công đồng đổi mới đời sống thánh hiến, cố gắng đối thoại với những tôn giáo khác, và kêu gọi cả thế giới đến sự thánh thiện là mục đích quan trọng nhất theo Đức Giáo hoàng Phaolô VI. Về sau tiếng bản xứ được dùng rộng rãi trong Thánh lễ thay thế tiếng Latin, phẩm phục thường được sử dụng là Gothic thay vì Roman như trước đây, Kinh nguyện Thánh Thể được bổ sung thêm nhiều mẫu, năm phụng vụ được tinh giản, linh mục được phép hướng về giáo dân khi cử hành Thánh lễ, và âm nhạc có nhiều thích nghi với các dân tộc, dù vậy bình ca vẫn là chuẩn mực của thánh nhạc. Nhiều cải cách còn gây tranh cãi trong cộng đồng tín hữu Công giáo.
Trong các người tham dự cuộc họp thứ nhất của Công đồng có bốn ngài trở thành giáo hoàng: Hồng y Giovanni Battista Montini là Giáo hoàng Phaolô VI; Giám mục Albino Luciani là Giáo hoàng Gioan Phaolô I; Giám mục Karol Wojtyła là Giáo hoàng Gioan Phaolô II; và Cha Joseph Ratzinger, có mặt làm cố vấn thần học, là Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Thập kỉ 50 thuyết thần học và nghiên cứu kinh thánh trong Giáo hội bắt đầu mất tính bảo thủ của Công đồng Vatican lần thứ nhất. Những nhà thần học như Karl Rahner và John Courtney Murray dựa trên lời kêu gọi đổi mới của Giáo hoàng Gioan XXIII mà tìm cách tích hợp kinh nghiệm của loài người thời nay với các nguyên tắc giáo hội căn cứ vào Chúa Kitô, còn những người khác như Yves Congar, Henri de Lubac, và Joseph Ratzinger thì lấy sự hiểu biết đúng đắn về kinh thánh và các Giáo phụ của Giáo hội làm cơ sở chấn hưng. Cùng lúc các giám mục phải đối phó với những biến đổi chính trị, xã hội, kinh tế, và công nghệ. Nguyên là Công đồng Vatican lần thứ nhất được triệu tập gần một thế kỷ trước để thu xếp các vấn đề đương đại, vì bị Quân đội Ý cắt ngắn vào năm 1870 nên chỉ thảo luận xong được vai trò của giáo hoàng cùng quan hệ hoà hợp giữa đức tin và lý trí, còn vai trò của giám mục và giáo dân thì chưa quyết định.
Ngày 25 tháng 1 năm 1959 Giáo hoàng Gioan XXIII báo kế hoạch triệu tập Công đồng, chưa đầy ba tháng sau khi đắc cử vào tháng 10 năm 1958, làm kinh ngạc Giáo triều. Những người bên trong Giáo hội ban đầu bày tỏ ít ý kiến, lãnh tụ tôn giáo và phi tôn giáo bên ngoài đều hưởng ứng. Ngày 25 tháng 12 năm 1961 Công đồng được chính thức triệu tập. Trước đó Gioan XXIII thừa nhận đã đến lúc "cho không khí trong lành vào cửa sổ". Những tín hữu khác bên ngoài Giáo hội Công giáo được mời phái quan sát viên đến Công đồng. Cả Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương lẫn các giáo phái Tin Lành đều đồng ý, nhưng không dự vào việc tán thành các văn kiện công đồng.
Niên biểu
Thông báo và Kỳ vọng
Ngày 25 tháng 1 năm 1959 Giáo hoàng Gioan XXIII làm cho ngay những hồng y có mặt ngạc nhiên khi báo ý định triệu tập công đồng ở Rôma. Dưới mặt trăng tròn Giáo hoàng đã báo trước cho những tín hữu cầm nến tụ tập tại quảng trường Thánh Peter và đùa về độ sáng của ánh trăng.
Chỉ mười ngày trước đó, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã thử nói ý định này với một trong các Hồng y hiện diện là Hồng y Ngoại trưởng Domenico Tardini và nhận được sự ủng hộ nhiệt thành. Mặc dù, sau đó, Giáo hoàng nói ý định về Công đồng đến với ông đột ngột khi trò chuyện với Tardini, nhưng có hai Hồng y đã đề cập đến vấn đề này và gây sự chú ý của Đức Giáo hoàng. Hai Hồng y này là những thành viên bảo thủ nhất, Ernesto Ruffini cùng Alfredo Ottaviani. Hai vị đã trình Giáo hoàng Piô XII về ý tưởng này vào năm 1948, và sau đó đề xuất một lần nữa trước khi Đức Gioan XXIII tựu vị, vào ngày 27 tháng 10 năm 1958.
Công tác sửa soạn Công đồng mất hơn hai năm, do 10 uỷ ban đặc trách cùng người đảm nhiệm truyền thông đại chúng với hợp nhất Kitô giáo và một Ủy ban Trù bị trung ương có 120 uỷ viên để phối hợp tổng thể, phần lớn bao gồm các thành viên của Giáo triều Rôma. 737 người đến dự Vatican I, hầu hết từ châu Âu; từ 2.100 đến hơn 2.300 tham dự Vatican II tuỳ theo phiên họp. Ngoài ra có nhiều chuyên gia (periti) đợi sẵn để khuyên bảo về những vấn đề thần học, hoá ra ảnh hưởng lớn kết quả của Công đồng. 17 giáo phái Chính Thống giáo và Tin Lành cử quan sát viên. Hơn ba chục đại diện của những cộng đồng tín hữu khác cũng có mặt ở phiên mở màn, cuối kỳ họp thứ tư con số đã tăng lên gần 100.
Mở màn
Ngày 11 tháng 10 năm 1962 Giáo hoàng Gioan XXIII mở màn Công đồng ở Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Thành Vatican và đọc bản tuyên bố Hãy vui lên, hỡi Mẹ Giáo hội trước các Nghị phụ.
Phiên làm việc đầu tiên của Công đồng mở vào ngày 13 tháng 10 năm 1962. Hôm đó dự định bầu lên các thành viên của mười uỷ ban công nghị, bao gồm 16 uỷ viên được bầu và tám được bổ nhiệm. Hầu hết công việc của Công đồng là do các uỷ ban làm. Mặc dù có suy đoán là thành viên Giáo triều sẽ chiếm số đông trong các uỷ ban công nghị, nhưng Hồng y cao cấp người Pháp Achille Liénart thỉnh cầu Công đồng dời lại cuộc bỏ phiếu để cho giám mục có thời gian tìm hiểu các ứng viên mà lập danh sách một cách thận trọng. Hồng y người Đức Josef Frings tán thành đề nghị. Công đồng nghỉ họp chỉ sau 15 phút.
Ủy ban
Trong các nhóm theo quốc gia và khu vực với các cuộc họp bên lề các giám mục thảo luận thành viên của các uỷ ban cùng những vấn đề khác. Bản nháp (schemata) từ các phiên sửa soạn bị bỏ và bản mới được soạn. Khi Công đồng họp vào ngày 16 tháng 10 năm 1962 thì một danh sách uỷ viên mới được trình bày và được Công đồng duyệt. Một thay đổi quan trọng là số thành viên từ Trung và Bắc Âu tăng đáng kể, vượt ra ngoài các nước như Tây Ban Nha hay Ý. Hơn 100 giám mục từ châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latin là người Hà Lan hoặc người Bỉ và thường liên kết với các giám mục từ những nước đó. Các nhóm mới do Hồng y người Hà Lan Bernardus Johannes Alfrink cùng Hồng y người Bỉ Leo Suenens lãnh đạo.
Rút cục 11 uỷ ban và ba ban thư ký được thành lập:
Ủy ban chuyên trách Giáo lý Đức tin và Đạo đức (De doctrina fidei et morum);
Ủy ban chuyên trách Giám mục và Chính quyền các giáo phận (De episcopis et dioecesium regimine);
Ủy ban chuyên trách các Giáo hội Đông phương (De ecclesiis orientalibus);
Ủy ban chuyên trách Kỷ luật Bí tích (De sacramentorum disciplina);
Ủy ban chuyên trách Kỷ luật Giáo sĩ và Tín hữu (De disciplina cleri et populi christiani);
Ủy ban chuyên trách Tu sĩ (De religiosis);
Ủy ban chuyên trách Phụng vụ Thánh (De sacra liturgia);
Ủy ban chuyên trách Truyền đạo (De missionibus);
Ủy ban chuyên trách Chủng viện, Nghiên cứu và Trường Công giáo (De seminariis, de studiis, et de educatione catholica);
Ủy ban chuyên trách Tông đồ Giáo dân, Báo chí, và Điều hoà Các buổi trình diễn (De fidelium apostolatu và De scriptis prelo edendis et de spectaculis moderandis);
Ủy ban Kỹ thuật và Tổ chức;
Ban Thư ký Thúc đẩy Hợp nhất Kitô giáo (Ad christianorum unitatem fovendam);
Ban Thư ký Hành chính.
Biến cố
Sau khi Công đồng nghỉ họp vào ngày 8 tháng 12 thì việc sửa soạn kỳ họp thứ hai bắt đầu, dự định mở vào năm 1963. Tuy nhiên phải dừng lại lúc Giáo hoàng Gioan XXIII mất vào ngày 3 tháng 6 năm 1963, vì công đồng đại kết tất nhiên bị tạm ngưng sau cái chết của giáo hoàng triệu tập nó, chờ giáo hoàng kế tiếp ra lệnh hoặc tiếp tục hoặc giải tán. Ngày 21 tháng 6 năm 1963 Giáo hoàng Phaolô VI đắc cử và ngay lập tức tuyên bố Công đồng sẽ họp lại.
Kỳ họp thứ hai: năm 1963
Trước kỳ họp thứ hai Giáo hoàng Phaolô VI xử lý một số vấn đề tổ chức và thủ tục nảy ra từ khoá I bằng cách mời thêm các quan sát viên Công giáo và ngoại đạo, giảm số bản nháp được đề xuất xuống còn 17 (được soạn tổng quát hơn cho phù hợp tính mục vụ của Công đồng) và cho phép các phiên họp chung được công khai.
Ngày 29 tháng 9 năm 1963 Giáo hoàng Phaolô mở đầu kỳ họp thứ hai, nhấn mạnh tính mục vụ của Công đồng và đề ra bốn mục đích của nó:
xác định đầy đủ hơn bản chất của Giáo hội và vai trò của giám mục;
đổi mới Giáo hội;
tái thống nhất tất cả các tín hữu, bao gồm mưu cầu sự tha tội cho những tín hữu Công giáo thúc đẩy ly giáo;
bắt đầu đối thoại với thế giới.
Hai văn kiện Thánh Công đồng Chung (Sacrosanctum Concilium) và Giữa những sự kỳ diệu (Inter mirifica) thông qua. Các giám mục tiếp tục sửa đổi bản nháp về Giáo hội, các giám mục cùng giáo phận và về đại kết. Cùng kỳ họp lễ thánh hiến trinh nữ được tu chính và đăng vào năm 1970.
Ngày 8 tháng 11 năm 1963 Hồng y Josef Frings chỉ trích Bộ Giáo lý Đức tin và khẩu chiến với Bộ trưởng Alfredo Ottaviani, một trong những cuộc tranh luận kịch tính nhất của Công đồng. Về sau cố vấn thần học của Frings tên Joseph Ratzinger sẽ làm Hồng y đứng đầu cùng bộ của Toà Thánh và trở thành Giáo hoàng Biển Đức XVI. Kỳ họp thứ hai kết thúc vào ngày 4 tháng 12 năm 1963.
Kỳ họp thứ ba: năm 1964
Các bản nháp tiếp tục được sửa đổi dựa trên ý kiến của các Nghị phụ. Một số bản thảo được giản tỉnh để cho được duyệt trong kỳ họp thứ ba. Việc thi hành các sắc lệnh giao phó cho các uỷ ban sau công đồng.
Cuối kỳ họp thứ hai Hồng y Leo Joseph Suenens từ Bỉ chê Công đồng vắng phụ nữ. Tháng 9 năm 1964 15 phụ nữ được bổ nhiệm làm viên dự thính, sau cùng Vatican II có tổng cộng 23 viên dự thính nữ, 10 người theo đạo. Tuy không có chức vụ chính thức trong các cuộc thảo luận, nhưng vẫn đến họp tiểu ban về các văn kiện của Công đồng, đặc biệt là các văn bản liên hệ tới giáo dân. Hàng tuần gặp nhau để đọc các văn kiện dự thảo và phát biểu ý kiến.
Kỳ họp thứ ba mở vào ngày 14 tháng 9 năm 1964. Rất nhiều đề xuất được giải quyết. Ba văn kiện Tái lập sự hợp nhất (Unitatis redintegratio), các Giáo hội Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum), và Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium) được ban hành.
Bản nháp về đời sống và chức vụ của các linh mục cùng hoạt động truyền giáo của Giáo hội bị gửi về cho uỷ ban viết lại hoàn chỉnh. Những bản nháp còn lại tiếp tục được sửa, đặc biệt là văn kiện về vị trí của Giáo hội trong thế giới hiện nay và về tự do tôn giáo. Một vài sửa đổi về bản nháp tự do tôn giáo gây tranh cãi. Tuy văn kiện không được đem ra biểu quyết trong kỳ họp thứ ba, song Giáo hoàng Phaolô hứa kỳ họp tiếp theo sẽ xem xét bản nháp này đầu tiên.
Ngày 21 tháng 11 năm 1964 Giáo hoàng Phaolô đóng kỳ họp thứ ba. Ông công bố thay đổi việc nhịn ăn Thánh Thể và chính thức xác nhận lại Đức Maria là "Mẹ của Giáo hội". Dù một số người đòi thêm các tín điều về Đức Maria, Phaolô VI xin họ đợi Công đồng hướng dẫn.
Kỳ họp thứ tư: năm 1965
Phaolô VI và hầu hết các giám mục đều muốn kỳ họp thứ tư là kỳ cuối cùng. Hồng y Ritter nhận xét, công việc bị đình trệ do một tiểu số ít trong Giáo triều siêng "giao tiếp" với giáo hoàng hơn số đông tiến thủ. Trước kỳ họp thứ tư 11 bản nháp vẫn chưa soạn xong. Bản nháp 13 về Giáo hội trong thế giới hiện nay được giáo dân giúp sửa đổi.
Ngày 14 tháng 9 năm 1965 Giáo hoàng Phaolô VI mở đầu kỳ họp cuối cùng. Ngày hôm sau ban hành tự sắc thành lập Thượng Hội nghị Giám mục để duy trì sự hợp tác chặt chẽ giữa các giám mục và Giáo hoàng sau Công đồng.
Kỳ họp thứ tư trước tiên xem xét văn kiện Phẩm giá con người (Dignitatis humanae), ngày 21 tháng 9 thông qua theo 1.997 phiếu thuận với 224 phiếu chống, gây tranh cãi nhiều hơn những văn kiện công đồng khác. Tiếp theo các Nghị phụ duyệt ba văn kiện Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes), Đến với muôn dân (Ad gentes), và Chức vụ Linh mục (Presbyterorum ordinis).
Công đồng cũng thông qua những văn kiện khác được xem xét trong các kỳ họp trước, bao gồm Lời Thiên Chúa (Dei verbum) và Chúa Kitô (Christus Dominus), Đức ái hoàn hảo (Perfectae caritatis), Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (Optatam totius), Vai trò rất quan trọng của giáo dục (Gravissimum educationationis), và Hoạt động tông đồ (Apostolicam actuositatem).
Văn kiện Thời đại chúng ta (Nostra aetate) gây tranh cãi vì định rằng một vài người Do Thái thời Chúa Kitô và tất cả mọi người Do Thái thời nay không chịu trách nhiệm giết Chúa Kitô.
Sau Công đồng thì bắt đầu nhấn mạnh cải thiện quan hệ giữa Do Thái giáo và Công giáo.
Một sự kiện quan trọng trong những ngày cuối cùng của Công đồng là việc Giáo hoàng Phaolô cùng Thượng phụ Chính Thống giáo Athenagoras bày tỏ hối tiếc về nhiều hành động trong quá khứ dẫn đến Đại ly giáo giữa giáo hội phương tây và phương đông.
Ngày 8 tháng 12 Công đồng chính thức hạ màn. Các giám mục tuyên bố tuân theo các sắc lệnh của Công đồng. Để giúp thi hành lệnh của Công đồng, Giáo hoàng Phaolô:
thành lập trước đó Ủy ban Giáo hoàng về Phương tiện Truyền thông Xã hội để trợ giúp các giám mục trong việc dùng các phương tiện này cho mục đích mục vụ;
tuyên bố năm Thánh từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 26 tháng 5 năm 1966 (sau đó kéo dài đến ngày 8 tháng 12 năm 1966) để kêu gọi tín hữu Công giáo học tập chấp nhận các quyết định của Công đồng và áp dụng chúng trong việc đổi mới tâm linh;
đổi tên Thánh bộ thành Bộ Giáo lý Đức tin vào năm 1965, cùng tên và quyền hạn của những bộ khác thuộc giáo triều Rôma;
làm thường trực ban thư ký Thúc đẩy Hợp nhất Kitô giáo, ban thư ký ngoại đạo, và ban thư ký người không tin.
Văn kiện
Công đồng Vatican lần thứ hai ra bốn hiến chế và 12 văn kiện khác.
Hiến chế
Hiến chế về Phụng vụ thánh
Thánh Công đồng Chung (Sacrosanctum Concilium) là văn kiện đầu tiên được Công đồng thông qua, về phụng vụ của giáo hội. Giáo hoàng Biển Đức XVI giải thích rằng một ý tưởng cơ bản của Công đồng là "đặt sự thần bí của Phục sinh làm trung tâm của thân phận Kitô hữu, đời sống Kitô hữu, năm Kitô giáo, mùa Kitô giáo, tỏ ra trong lễ Phục sinh và Chúa nhật, luôn luôn là ngày Phục sinh." Vì thế phụng vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, "vừa là đỉnh cao Giáo hội nhắm tới, vừa là nguồn gốc tất cả quyền lực của Giáo hội."
Việc sửa lại phụng vụ lập tức ảnh hưởng đời sống của tín hữu Công giáo. Lý do chính là Công đồng muốn giáo dân tích cực dự vào phụng vụ, tức "thấy được rõ ràng những gì họ đang làm, hăng hái tham gia nghi thức, và lên cao về mặt tinh thần". Từ giữa thập kỷ 60 Thánh lễ được phép cử hành trong tiếng bản địa để cho giáo dân dễ hiểu. Thánh lễ đọc nhiều câu Kinh Thánh hơn. Bản Kinh Thánh văn Latin hiệu đính của Thánh lễ vẫn là bản chính thức để dịch sang những ngôn ngữ khác. Lời kêu gọi giáo dân than gia tích cực hơn vào các hoạt động của Hội thánh không chỉ dừng lại ở sắc lệnh phụng vụ, mà còn được những văn kiện sau này của Công đồng làm rõ thêm;. Tuy nhiên, Hiến chế Phụng vụ thánh không nhằm xoá bỏ truyền thống Phụng vụ như những người Truyền thống nhầm tưởng. Không có sắc lệnh nào cấm việc cử hành Thánh Lễ quay lên, và tiếng Latinh vẫn được Công đồng ra lệnh duy trì trong Phụng vụ.
Hiến chế Tín lý về Giáo hội
Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium) chỉ dẫn cho những văn kiện về sau về đại kết, ngoại đạo, tự do tôn giáo, và chỗ đứng của Giáo hội trong thế giới. Sắc lệnh ra kết luận gây tranh cãi là mặc dù "những cộng đồng tín hữu khác còn khiếm khuyết về mặt tổ chức," song trong một số trường hợp có thể "là phương tiện ban ơn tốt hơn." Giám mục Bỉ Emil de Smedt chê mô hình tổ chức đang có của giáo hội gây nên sự tập giáo quyền, sự cứng nhắc, và sự kiêu ngạo, so với mô hình nhấn mạnh ‘dân Chúa’ được Ánh sáng muôn dân khen ngợi. Theo Giáo hoàng Phaolô VI "mục đích đặc trưng và cơ bản nhất của các giáo huấn của Công đồng" là lời kêu gọi nên thánh toàn cầu, Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi là "khía cạnh vốn có và thiết yếu của lời dạy [của các Nghị Phụ] về Giáo hội", là nơi "mọi Kitô hữu bất kể cấp bậc địa vị đều được kêu gọi đến sự sung mãn của đời sống Kitô hữu và sự hoàn hảo của lòng bác ái" (Lumen gentium, 40). Trong tông thư Evangelii Gaudium (17) Giáo hoàng Phanxicô nói sẽ lấy Ánh sáng muôn dân làm cơ sở thảo luận toàn thể Dân Chúa truyền đạo, tiếp cận truyền giáo, việc hoà nhập người nghèo vào xã hội, và hoà bình với đối thoại trong xã hội. Giáo hoàng Phanxicô cũng bắt đầu lãnh đạo một cách tập thể hơn theo lời gọi của Công đồng, thông qua các hội động giám mục và một hội đồng cố vấn toàn cầu gồm tám hồng y.
Hiến chế Tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa
Lời Thiên Chúa (Dei Verbum) trỏ ra nguyên lý hữu hiệu trong các văn kiện khác của Công đồng là "Việc nghiền ngẫm thánh kinh, có thể nói là linh hồn của thần học thiêng liêng". Có nhận xét rằng Lời Thiên Chúa là văn kiện phá lệ nhất của Công đồng vì đặt Kinh Thánh về làm nền tảng của đời sống Kitô hữu và lời dạy Kitô giáo, hiển nhiên trong những tài liệu khác. Nguyên là mặc dù việc nghiên cứu Kinh Thánh được tán thành một cách dè dặt vào thời Giáo hoàng Piô XII, những học giả bị nghi thiên về tư tưởng đời mới vẫn bị khoá mồm. Lại có những người nghĩ rằng Công đồng Vaticanô II chấm dứt cuộc Phản Cải chính và hạ bệ chủ nghĩa bảo thủ trong Giáo hội và nêu dẫn chứng cho lập luận của họ như: sắc lệnh phụng vụ của Công đồng kêu gọi dùng các văn bản phụng vụ nay bằng tiếng bản ngữ một cách rộng rãi hơn, cùng với rao giảng Kinh Thánh một cách sáng suốt hơn về "mối tình giữa Thiên Chúa và loài người".
Những nhận xét như vậy là cố tình xuyên tạc theo hướng cấp tiến và phủ nhận thành quả bảo vệ Đức tin ngàn năm của Giáo hội. Xin nhắc lại là Công đồng Vaticanô II vẫn ra lệnh duy trì tiếng Latinh trong Phụng vụ ở điều 36 của Hiến chế Phụng vụ thánh, và chỉ cho phép tiếng địa phương trong trường hợp được chuẩn nhận. Một điểm khác là Giáo lý của Giáo hội ngày nay vẫn khẳng định: “Cả Thánh Kinh và Thánh Truyền làm nên một nền tảng Đức tin duy nhất.” Đây là chân lý ngàn đời không thay đổi của Giáo hội, không bao giờ Giáo hội phủ nhận Thánh Truyền để chỉ đặt Thánh Kinh làm nền tảng chân lý Đức tin như phái Kháng cách tin nhận.
Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay
Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes) phát triển cách nhìn Giáo hội là "dân hành hương của Chúa" và là "sự hiệp thông" của Ánh sáng muôn dân, dựa trên lịch sử dạy bảo của Giáo hội và "các dấu chỉ thời đại". Văn kiện phản ánh lời giáo huấn rằng mọi tín hữu được rửa tội có cùng nhiệm vụ Chúa Kitô giao cho Giáo hội: truyền đạo khắp thế giới một cách thức thời trong lúc hợp tác cùng Chúa Thánh Thần. Cũng thách thức những người không cho đàm phán những vấn đề như ham muốn tình dục, bất cứ ai vào thời Giáo hoàng Phanxicô đều thấy rõ.
Những văn kiện khác
Bản tuyên bố mở màn – Hãy vui lên, hỡi Mẹ Giáo hội (Gaudet Mater Ecclesia) là bản tuyên bố mở màn của Công đồng Vatican lần thứ hai, Giáo hoàng Gioan XXIII đọc vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 trước các giám mục cùng các đại biểu của 86 nước và tổ chức quốc tế. Ông chỉ trích những "tiên tri dự báo thảm họa" cho giáo hội hay thế giới. Ông thừa nhận chỗ tốt của việc phân ly chính giáo, song cũng biết thách thức hoà nhập đức tin vào đời sống công cộng. Giáo hội "đáp ứng các nhu cầu ngày nay bằng cách giải thích tính hợp lệ của giáo lý của mình một cách đầy đủ thay vì lên án", bằng cách sửa đổi lại giáo lý cổ xưa cho có hiệu lực mục vụ. Giáo hội cũng "cảm động trước lòng thương xót và sự tốt lành với những đứa con bị ly tán của bà." Trước khi lên ngôi giáo hoàng Gioan XXIII chứng minh tài ngoại giao của ông ở Pháp.
Sắc lệnh về các Phương tiện Truyền thông Xã hội – Giữa những sự kỳ diệu (Inter mirifica) ban hành ngày 4 tháng 12 năm 1963 thảo luận tính quan trọng của phương tiện truyền thông với sự tiến bộ của loài người và những đóng góp tín hữu Công giáo có thể làm.
Sắc lệnh về Hợp nhất – Tái lập sự hợp nhất (Unitatis redintegratio) ban hành ngày 21 tháng 11 năm 1964 định rằng mọi phe đều có lỗi trong tranh chấp gây nên ly giáo và tìm cách đối thoại hợp nhất "những anh em đã chia lìa".
Sắc lệnh về các Giáo hội Công giáo Đông phương – các Giáo hội Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum) ban hành ngày 21 tháng 11 năm 1964 khen ngợi sự nghiệp phụng vụ và thần học của các giáo hội Đông phương, tuy ở xa nhưng vẫn hiệp thông với Rôma.
Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội – Đến với muôn dân (Ad gentes) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truyền giáo bên ngoài Giáo hội, nhất là qua việc hình thành các cộng đoàn ở giáo hội địa phương.
Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân – Hoạt động tông đồ (Apostolicam actuositatem) ban hành ngày 18 tháng 11 năm 1965 khuyến khích giáo dân sống đạo và loan truyền Phúc Âm trong gia đình, nơi sở làm, và hoạt động xã hội.
Sắc lệnh về nhiệm vụ Giám mục – Chúa Kitô (Christus Dominus) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 xác định thẩm quyền và nhiệm vụ của các giám mục trong giáo phận, trong cuộc họp cấp miền, và trong giáo hội nói chung.
Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo – Phẩm giá con người (Dignitatis humanae) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 định phẩm giá căn bản của con người đòi hỏi quyền tự do về vấn đề tôn giáo. Mọi người phải được tự do thờ phượng theo lương tâm.
Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo – Thời đại chúng ta (Nostra aetate) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi cởi mở và cộng tác với các tôn giáo lớn trên thế giới.
Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu – Đức ái hoàn hảo (Perfectae caritatis) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi canh tân cơ cấu tổ chức và quy luật, nhưng coi yếu tố then chốt để canh tân là thể hiện các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục – Chức vụ Linh mục (Presbyterorum ordinis) ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965 làm sáng tỏ nhiệm vụ của linh mục và sự tương giao giữa linh mục với giám mục và giáo dân.
Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục – Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (Optatam totius) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 kêu gọi huấn luyện các linh mục một cách nghiêm chỉnh, kể cả việc chú trọng đến các tiêu chuẩn cao trong việc học, đời sống tâm linh và huấn luyện mục vụ.
Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo – Vai trò rất quan trọng của giáo dục (Gravissimum educationationis) ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965 xác nhận sự quan trọng của việc giáo dục Kitô hữu ở nhà, ở trường, và ở nhà thờ và kêu gọi cập nhật phương pháp giáo dục cho phù hợp các ngành khoa học xã hội.
Bản tuyên bố hạ màn – Một tháng sau khi Công đồng đóng Giáo hoàng Phao-lô VI viết bức thư Udienze Generale nói rõ cách hiểu Công đồng.
Phản đối
Có hai phái không nhận Công đồng Vatican lần thứ hai:
Phái Truyền thống lên án các cải cách từ Công đồng gây nên hậu quả có hại, hành vi tà giáo và sự thờ ơ với các phong tục, tín ngưỡng, và tập quán ngoan đạo của Giáo hội trước năm 1962. Ngoài ra trỏ ra là Công đồng mâu thuẫn với các tuyên bố giáo hoàng trước Công đồng về đức tin, luân lý, và giáo lý. Hơn nữa còn luận rằng Công đồng vừa làm suy yếu địa vị tối cao của Giáo hội Công giáo so với những giáo hội khác, vừa làm nhụt tinh thần ngoan đạo lâu đời của giáo hội. Hầu hết các tín hữu thuộc phái Truyền thống chỉ tuân theo Bộ Giáo luật năm 1917 vì các văn kiện của Công đồng không có tính giáo điều, nên theo họ không thể ràng buộc những tín hữu Công giáo trung kiên, nhất là khi dẫn tới thi hành lỏng lẻo các giáo lý lâu đời được các cựu Giáo hoàng phê chuẩn ủng hộ trước năm 1962.
Phái Tọa khuyết (Sedevacantism) đến nỗi khẳng định, sau khi cắt đứt truyền thống và tán thành tà đạo thì các giáo hoàng hiện tại và về sau không có quyền nắm giữ ngôi báu. Ngôi vẫn trống đến khi một giáo hoàng khác bác bỏ Vatican II và khôi phục truyền thống trước năm 1962.
Bộ Giáo luật năm 1983 quy định tín hữu Công giáo không được coi thường giáo huấn của công đồng đại kết mặc dù không có tính chung quyết và cũng định rằng chỉ Giáo hoàng tại chức có quyền đánh giá tư cách để được hiệp thông cùng Giáo hội.
Hình ảnh
Ghi chú |
Rhinoceros là một chi điển hình của Họ Tê giác. Tên Rhinoceros có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, trong đó rhino có nghĩa là mũi, và ceros có nghĩa là sừng.
Các loài
Hiện nay đã xác định được hai loài thuộc chi này còn tồn tại là:
Rhinoceros sondaicus - Tê giác Java
Rhinoceros unicornis - Tê giác Ấn Độ
Loài tê giác Java hiện nay là một trong những loài động vật có vú lớn đang ở trong tình trạng nguy cấp nhất trên thế giới, với chỉ khoảng 60 cá thể còn sống sót, và chỉ sống ở hai nơi Java, Indonesia (và Việt Nam trước năm 2010).
Phân loại
Chi Tê giác bao gồm:
Tê giác Ấn Độ (R. unicornis) Linnaeus, 1758
Tê giác Java (R. sondaicus) Desmarest, 1822
† R. hemitoxhus
† R. leptorhinus
† R. philippinensis mô tả bởi von Koenigswald năm 1956 là hài cốt hóa thạch được tìm thấy ở Cagayan tỉnh của Philippines.
† R. sinensis
Nguồn gốc tên
Tên chi Tê giác là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại (ris) có nghĩa là 'mũi' và κέρας (keras) có nghĩa là 'sừng của một con vật'.
Hình ảnh |
Tê giác đen (Diceros bicornis) là một loài động vật có vú thuộc bộ guốc lẻ (Perissodactyla) sinh sống tại các khu vực miền đông và trung châu Phi bao gồm Kenya, Tanzania, Cameroon, Cộng hòa Nam Phi, Namibia và Zimbabwe. Tê giác đen là loài nằm trong danh sách các động vật đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp do sự săn bắn trộm thái quá để lấy sừng của chúng, được sử dụng chủ yếu để làm cán dao găm (như là một biểu tượng cho sự giàu có ở nhiều quốc gia). Ngược lại với ý kiến phổ biển cho rằng người ta dùng nó nhiều để làm thuốc kích dục, trên thực tế chỉ có một lượng nhỏ sừng tê giác đen được sử dụng như vậy.
Đặc trưng
Tê giác đen trưởng thành cao khoảng 1,5 mét (5 ft) tính từ vai và dài khoảng 3-3,65 mét (10–12 ft). Tê giác trưởng thành cân nặng khoảng 450 đến 1360 kg (1.000-3.000 lb), với con cái nhỏ và nhẹ hơn. Hai sừng trêu đầu là keratin với sừng phía trước lớn hơn và cao tới 71 cm (28 inch). Thỉnh thoảng còn có cá thể có sừng thứ ba nhỏ hơn. Màu da của chúng phụ thuộc nhiều vào các điều kiện đất đai khu vực sinh sống và thói quen đầm mình dưới nước của chúng hơn bất kỳ các điều khác, vì thế nhiều tê giác đen trên thực tế không có màu da đen.
Tê giác đen nhỏ hơn tê giác trắng và có môi trên nhọn có thể cầm nắm được, được chúng dùng để ăn lá và cành non. Tê giác trắng có các môi vuông để ăn cỏ. Cũng có thể phân biệt tê giác đen với tê giác trắng theo kích thước hộp sọ. Hộp sọ, tai của tê giác đen nhỏ hơn và phần trán của chúng là rõ nét hơn. Tê giác đen cũng không có bướu trên vai dễ phân biệt như tê giác trắng.
Các cá thể trưởng thành thường sống riêng lẻ trong tự nhiên nhưng sẽ cặp đôi trong mùa giao phối, với con cái đi cùng với con của nó trong thời kỳ nuôi con nhỏ. Đôi khi, các con mẹ và các con (con cái) của chúng có thể tạo ra các nhóm nhỏ.
Phân loài
Có bốn phân loài tê giác đen:
Diceros bicornis minor: Tê giác đen trung nam, là phân loài đông nhất về số lượng, chúng đã từng phân bổ rộng khắp từ miền trung Tanzania về phía nam tới Zambia, Zimbabwe và Mozambique tới phía bắc và phía đông của Nam Phi.
Diceros bicornis bicornis: Tê giác đen tây nam, là phân loài thích hợp nhất với các điều kiện khô cằn và bán khô cằn ở xavan của Namibia, miền nam Angola, miền tây Botswana và miền tây Nam Phi.
Diceros bicornis michaeli: Tê giác đen Đông Phi, phân loài này có lịch sử phân bổ từ miền nam Sudan, Ethiopia, Somalia xuống tới Kenya và miền bắc-trung tâm Tanzania. Ngày nay, phạm vi phân bổ của chúng bị giới hạn chủ yếu trong vùng Tanzania.
Diceros bicornis longipes: Tê giác đen Tây Phi, là phân loài hiếm và nguy cấp nhất. Trong lịch sử, chúng đã từng sinh sống ở khắp các xavan Tây Phi. Cuối cùng chỉ còn vài cá thể sống sót ở miền bắc Cameroon. Vào 10 tháng 11 năm 2011, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế thông báo rằng phân loài này đã tuyệt chủng.
Sự thích nghi
Tê giác đen thích nghi với môi trường sinh sống của chúng bằng các đặc trưng sau:
Các lớp da dày bảo vệ chúng khỏi gai và các loại cỏ, lá cây sắc.
Bàn chân của chúng là lớp đệm dày để hấp thụ các loại sốc.
Môi trên được thích ứng với việc nắm giữ và túm lấy các vật thể nhằm hỗ trợ việc tìm kiếm lá cây và các loại thức ăn khác.
Tai lớn có thể xoay để định hướng nguồn âm thanh.
Mũi to và khứu giác tốt giúp chúng phát hiện ra các kẻ thù.
Hai chiếc sừng ghê gớm được sử dụng để phòng thủ và đe dọa.
Thức ăn và sinh sản
Tê giác đen là một loài động vật ăn cỏ chuyên ăn các loại lá cây, cành và chồi non, hoa quả và các loại cây bụi có gai. Thức ăn này của chúng góp phần làm giảm các loại cây thân gỗ và kết quả là tạo ra nhiều không gian cho các loại cỏ phát triển, đem lại lợi ích cho các động vật khác. Da của chúng là nơi sinh sống và ẩn náu của nhiều loại động vật ký sinh-là thức ăn của các loài chim như diệc bạch, là loài chim sống cùng với tê giác.
Con cái trưởng thành đạt độ tuổi sinh sản từ 4 đến 6 năm trong khi con đực mất nhiều thời gian hơn một chút, từ 7 đến 9 năm. Sự sinh sản không thấy có kiểu theo mùa rõ ràng nhưng tỷ lệ sinh con non còn sống cao có xu hướng diễn ra vào cuối mùa mưa ở các môi trường khô cằn hơn. Con non mới sinh cân nặng khoảng 38 kg (85 lb) sau 15-16 tháng mang thai, và chúng có thể chạy theo mẹ chỉ sau khoảng 3 ngày. Con non là mục tiêu săn tìm của linh cẩu và sư tử. Nói chung, khoảng thời gian giữa các lần sinh đẻ của con cái là từ 2 đến 3 năm. Tê giác đen sống từ 25 đến 40 năm nhưng trong điều kiện bị giam cầm có thể sống tới 50 năm.
Quần thể
Trong phần lớn thế kỷ 20 thì tê giác đen là loài tê giác đông đúc nhất về số lượng. Vào khoảng năm 1900 thì số lượng của chúng có thể lên tới vài chục ngàn con sống ở châu Phi. Trong nửa cuối thế kỷ 20 thì số lượng của chúng đã suy giảm nghiêm trọng từ con số ước tính 70.000 vào cuối thập niên 1960 xuống chỉ còn 10.000 - 15.000 vào năm 1981. Vào đầu thập niên 1990 thì số lượng đã giảm dưới 2.500 và vào năm 1995 thì người ta thông báo chỉ còn 2.410 tê giác đen còn sống sót. Theo Quỹ tê giác quốc tế , quần thể tê giác đen đã được phục hồi nhẹ tới 3.610 con vào năm 2003. Tuy nhiên, chỉ còn rất ít cá thể của phân loài Tây Phi còn sống ở miền bắc Cameroon. |
Rootkit (// đọc là rút-kít) là một bộ công cụ phần mềm do kẻ xâm nhập đưa vào máy tính nhằm mục đích cho phép quay lại xâm nhập máy tính đó và dùng nó cho các mục đích xấu mà không bị phát hiện, bộ công cụ này cho phép truy nhập vào hoạt động của máy tính ở mức căn bản nhất. Các mục đích của kẻ xâm nhập khi sử dụng rootkit bao gồm:
thu thập dữ liệu về máy tính (kể các máy tính khác trong cùng mạng) và những người sử dụng chúng (chẳng hạn mật khẩu và thông tin tài chính),
gây lỗi hoặc sai trong hoạt động của máy tính
tạo hoặc chuyển tiếp spam
Có các rootkit khác nhau được viết cho nhiều loại hệ điều hành như Linux, Solaris và các phiên bản Microsoft Windows.
Từ "rootkit" trở nên phổ biến khi có cuộc tranh luận về chống sao chép CD Sony 2005, trong đó các đĩa CD nhạc của Sony BMG cài một roolkit vào các PC chạy Microsoft Windows.
Nguồn gốc của rootkit
Thuật ngữ "rootkit" (còn được viết là "root kit") lúc đầu được dùng để chỉ một bộ công cụ Unix được biên dịch lại như "ps", "netstat", "w" and "passwd" có thể che giấu kĩ lưỡng vết tích của kẻ xâm nhập mà bình thường sẽ bị hiển thị bởi các lệnh trên, vì vậy nó cho phép kẻ xâm nhập duy trì quyền "root" ("siêu người dùng") trên hệ thống mà ngay cả người quản trị hệ thống cũng không thể thấy họ.
Ngày nay thuật ngữ này không chỉ giới hạn ở các hệ điều hành dựa trên Unix mà còn được dùng để chỉ các công cụ thực hiện tác vụ tương tự trên hệ điều hành không Unix như Microsoft Windows (ngay cả khi hệ điều hành đó không có tài khoản "root").
Hoạt động
Chức năng của rootkit
Rootkit tạo đường truy nhập cho kẻ xâm nhập trở lại, việc này được thực hiện bằng cách cài đặt một cửa hậu (backdoor - một phương pháp ẩn cho việc lấy quyền truy nhập máy tính). Cửa hậu này có thể là một daemon truy nhập từ xa, chẳng hạn một phiên bản đã được sửa chữa của telnetd hoặc sshd, được cấu hình để chạy trên một cổng không phải cổng mặc định mà các daemon này thường nghe. (daemon là một loại chương trình chạy ngầm, đợi được kích hoạt bởi một điều kiện hoặc một sự kiện cụ thể, daemon không chịu sự kiểm soát trực tiếp của người dùng).
Một rootkit được thiết kế tốt sẽ có khả năng che giấu hoặc xóa bỏ bất cứ dấu vết nào của việc nó được đưa vào máy tính, sự tồn tại và hoạt động của nó. Ví dụ, nó có thể sửa nhật trình (log) hệ thống để không ghi hoặc xóa bỏ tất cả các thông tin liên quan đến việc nó được đưa vào máy, thông tin về các lần truy nhập tiếp theo của kẻ xâm nhập, và thông tin về các tiến trình (các chương trình được thực thi) mà rootkit chạy. Những kẻ xâm nhập không lành nghề có thể chỉ xóa hoặc tẩy trắng các nhật trình, hiện tượng này có thể là đầu mối cho thấy có chuyện bất thường.
Sử dụng bởi kẻ phá hoại
Trong trường hợp điển hình, rootkit che giấu đăng nhập, tiến trình, tập tin và log và có thể bao gồm phần mềm đánh cắp dữ liệu từ trạm cuối (terminal), các nối kết mạng và bàn phím máy tính. Trong nhiều trường hợp rootkit được xem là Trojan.
Cửa sau cũng cho phép các tiến trình từ người dùng thông thường thi hành các chức năng dành riêng cho siêu người dùng. Rootkit cũng có thể che giấu mọi loại công cụ khác có thể dùng để xâm phạm hệ thống. Điều này bao gồm các công cụ dùng để tấn công thêm vào các hệ thống máy tính có kết nối với hệ thống bị xâm nhập như là công cụ bắt gói tin (packet sniffer) và chương trình ghi tác vụ bàn phím (keylogger). Một cách xâm phạm phổ biến là dùng hệ thống bị chiếm làm bàn đạp cho xâm nhập tiếp theo. Điều này được thực hiện bằng cách làm cho một vụ xâm nhập có vẻ như xuất phát từ mạng hay hệ thống bị chiếm thay vì từ kẻ tấn công. Các công cụ này bao gồm công cụ tấn công từ chối dịch vụ (DDOS), công cụ chuyển tiếp phiên chat và các tấn công spam email.
Một thí dụ gần đây cho việc rootkit được sử dụng trên CD thương mại dùng để quản lý quyền kỹ thuật số là cuộc tranh luận chống sao chép CD Sony 2005.
Lây nhiễm
Cũng như với các phần mềm độc hại khác, máy tính có thể bị lây nhiễm rootkit bằng nhiều đường, trong đó có lây nhiễm qua các chương trình được tải xuống từ Internet, qua tệp gắn kèm tại email, hoặc thậm chí khi truy cập một số trang web nhất định. Rootkit còn có thể được đưa vào máy qua việc đọc một ổ đĩa đặc biệt hoặc thẻ nhớ USB.
Phân biệt
Rootkit không phải là exploit
Rootkit có thể được dùng cùng với một thủ thuật phá hoại (exploit), nhưng rootkit tự nó chỉ là một bộ các chương trình tiện ích. Các chương trình này thường không phụ thuộc vào các lỗi phần mềm (chẳng hạn lỗi tràn bộ đệm) mà các exploit lạm dụng. Nhiều tin tặc có một kho các exploit, nhưng chỉ có một hai chương trình rootkit để dùng kèm. Một khi vào được hệ thống, tin tặc sẽ triển khai rootkit thích hợp, bất kể mình sử dụng exploit nào.
Tuy rootkit không phải là một exploit, nhưng nó có thể chứa một exploit. Rootkit thường cần quyền truy nhập tới nhân hệ điều hành và chứa một vài chương trình bắt đầu chạy khi hệ thống khởi động (boot). Một trong các cách cài một rootkit vào hệ thống là sử dụng một exploit phần mềm, ví dụ lỗi tràn bộ đệm là một cơ chế để nạp mã chương trình vào nhân hệ điều hành.
Rootkit không phải là virus
Virus máy tính là một Chương trình tự nhân bản và phát tán. Trái lại, rootkit không tự nhân bản và không có cơ chế hoạt động độc lập tự chủ. Rootkit nằm hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của một kẻ tấn công là con người,hacker tấn công chúng ta bằng cách này là đa phần, virus thì không. |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 12 năm 2005.
Thứ năm, ngày 1 tháng 12
Tòa án Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính.
Thứ sáu, ngày 2 tháng 12
Nguyễn Tường Vân, một người Úc gốc Việt, bị treo cổ tại Singapore vì tội buôn lậu ma túy.
Xương hóa thạch của chim thủy tổ Archaeopteryx mới được miêu tả đưa ra giả thuyết là nó giống những khủng long loài Theropod.
Thứ bảy, ngày 3 tháng 12
Ở Đài Loan, Quốc dân đảng được hơn số phiếu đảng Dân chủ Cấp tiến trong cuộc bầu cử địa phương giữa nhiệm kỳ.
Chủ nhật, ngày 4 tháng 12
Hàng chục ngàn người xuống đường biểu tình ở Hồng Kông cho quyền bỏ phiếu phổ thông và bình đẳng.
Phong trào Cộng hòa thứ 5 thắng cuộc bầu cử nghị viện ở Venezuela, bởi vì hầu hết đảng đối lập tẩy chay cuộc bầu cử này.
Thứ hai, ngày 5 tháng 12
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 bế mạc tại Philippines.
Một máy bay C-130 Hercules của Không quân Iran bị tai nạn và rơi vào một tòa chung cư tại thủ đô Tehran, làm thiệt mạng ít nhất 128 người.
Thứ tư, ngày 7 tháng 12
Xét xử Saddam Hussein bị hoãn cho hai tuần lễ. Sau khi tố cáo tòa chỉ là "tay sai của nước Mỹ," ông Hussein không có mặt ở ngày cuối cùng để nghe các nhân chứng.
Thứ năm, ngày 8 tháng 12
Nghị định III của Hiệp định Genève được chấp nhận, chọn Tinh thể Đỏ thành biểu trưng thứ ba của Phong trào Chữ thập Đỏ – Trăng lưỡi liềm Đỏ quốc tế, mở đường cho Israel gia nhập phong trào.
Chủ nhật, ngày 11 tháng 12
Tân Hoa xã và nhật báo Quảng Châu đưa tin cảnh sát CHND Trung Hoa đã bắn chết 3 người, làm bị thương 8 người tham gia biểu tình liên quan đến đền bù đất đai ngày 6 tháng 12 ở làng Đông Châu, Quảng Đông. Nguồn tin khác cho hay số người chết có thể đến 20 người. Viên chức ra lệnh nổ súng đã bị bắt, nhưng danh tánh ông này còn được giữ bí mật. Tuổi trẻ BBC BBC
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2005 được tổ chức tại Nhật Bản.
Thứ năm, ngày 15 tháng 12
Người dân Iraq bầu cử trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau khi bị Hoa Kỳ xâm lược.
Thứ bảy, ngày 17 tháng 12
Ít nhất 41 người bị chết đuối vì lũ lụt và đất lở tại miền Trung Việt Nam trong các tuần qua.
Thứ hai, ngày 19 tháng 12
Evo Morales thắng đa số trong cuộc bầu cử tổng thống Bolivia. Ông là người Aymara, tổng thống bản xứ đầu tiên của nước đó.
Thứ sáu, ngày 23 tháng 12
Một nhóm hội thảo tại Đại học Quốc gia Seoul kết luận tiến sĩ Hwang Woo-Suk đã giả mạo một phần nghiên cứu về tế bào gốc.
Cuộc đình công của nhân viên vận tải tại Thành phố New York ngưng lại trong lúc hai bên đang thương lượng; các dịch vụ trở lại bình thường.
Chính phủ nước Tchad tuyên bố "tình trạng chiến tranh" với nước bên Sudan, sau cuộc tấn công do một nhóm chống đối thuộc về tổ chức RDL từ Darfur tại thị xã Adre.
Chủ nhật, ngày 25 tháng 12
Tối cao Pháp viện Libya hủy bỏ kết án và án tử hình của năm y tá Bulgari và một bác sĩ Palestine bị tội làm lây virus HIV cho hàng trăm trẻ em.
Thứ ba, ngày 27 tháng 12
Phong trào Giải phóng Aceh giải thể lực lượng vũ trang, kết thúc 30 năm bạo loạn tại Aceh, Indonesia.
Thứ tư, ngày 28 tháng 12
Andrey Illarionov, cố vấn cấp cao của tổng thống Nga Vladimir Putin từ chức sau khi tuyên bố rằng Nga "không còn là một nước dân chủ".
Thứ năm, ngày 29 tháng 12
Ủy ban điều tra khoa học tại Đại học Quốc gia Seoul thông báo tiến sĩ Hwang Woo-Suk đã giả mạo toàn bộ nghiên cứu về tế bào gốc. |
Windows XP là một hệ điều hành do Microsoft phát triển, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT, hướng tới các máy tính để bàn dành cho gia đình và doanh nghiệp, máy tính xách tay, máy tính bảng và máy tính trung tâm đa phương tiện. Đây là hệ điều hành kế nhiệm của cả của Windows 2000 cho người dùng doanh nghiệp và Windows Me cho người dùng gia đình. Windows XP được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, với doanh số bán lẻ bắt đầu vào ngày 25 tháng 10 năm 2001.
Sự phát triển của Windows XP bắt đầu vào cuối những năm 1990 với tên gọi "Neptune", một hệ điều hành (OS) được xây dựng trên nhân Windows NT và được thiết kế đặc biệt cho người tiêu dùng phổ thông. Phiên bản cập nhật của Windows 2000 cũng được lên kế hoạch ban đầu cho thị trường doanh nghiệp; tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2000, cả hai dự án đều bị hủy bỏ để chuyển sang một hệ điều hành duy nhất có tên mã là "Whistler" sẽ phục vụ như một nền tảng hệ điều hành cho cả thị trường tiêu dùng và doanh nghiệp. Do đó, Windows XP là phiên bản dành cho người tiêu dùng đầu tiên của Windows không dựa trên nhân Windows 95 và MS-DOS.
Sau khi phát hành, Windows XP đã nhận được những phản hồi tích cực vì hiệu suất và độ ổn định (đặc biệt là so với Windows Me), giao diện người dùng trực quan hơn, cải thiện hỗ trợ phần cứng và mở rộng khả năng đa phương tiện. Tuy nhiên, một số nhà đánh giá đã lo ngại về mô hình cấp phép mới và hệ thống kích hoạt sản phẩm. Windows XP và Windows Server 2003 được kế nhiệm bởi Windows Vista và Windows Server 2008 được phát hành lần lượt vào tháng 1 năm 2007 và tháng 2 năm 2008.
Hỗ trợ chính cho Windows XP kết thúc vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014. Vào thời điểm này, hệ điều hành không còn nhận được các bản cập nhật bảo mật hoặc hỗ trợ. Windows Embedded POSReady 2009, dựa trên Windows XP Professional đã nhận được các bản cập nhật bảo mật cho đến tháng 4 năm 2019. Các phương pháp không chính thức đã được cung cấp để áp dụng trên bản cập nhật cho các phiên bản Windows XP khác. Microsoft không khuyến khích điều này vì các vấn đề không tương thích.
, có 0,58% PC chạy Windows XP (trên toàn thế giới, tỉ lệ này là 1%), và có 0,18% các thiết bị trên tất cả các nền tảng chạy Windows XP. Mặc dù vậy, Windows XP vẫn rất phổ biến ở nhiều quốc gia, chẳng hạn như Armenia có hơn 50% máy tính sử dụng Windows XP.
Phát triển
Vào cuối những năm 1990, sự phát triển ban đầu của Windows XP ban đầu được tập trung vào hai sản phẩm riêng lẻ: "Odyssey" sẽ kế nhiệm Windows 2000; và "Neptune", hệ điều hành hướng đến người tiêu dùng sử dụng kiến trúc Windows NT, phiên bản sau của Windows 98 dựa trên MS-DOS.
Cuối cùng, các dự án đã lâm vào bế tắc phát triển. Ngay trước khi phát hành chính thức Windows 2000, nhà văn công nghệ Paul Thurrott cho rằng Microsoft đã bỏ qua cả Neptune và Odyssey để ủng hộ một sản phẩm mới có tên mã "Whistler" được đặt theo tên của Whistler, British Columbia, nơi nhiều nhân viên của Microsoft trượt tuyết tại khu nghỉ mát Whistler-Blackcomb. Mục tiêu của tên mã Whistler là hợp nhất cả dòng Windows dành cho người tiêu dùng và doanh nghiệp dưới một nền tảng duy nhất là Windows NT. Và vì Neptune và Odyssey là cùng một cơ sở mã, nên việc kết hợp chúng thành một dự án duy nhất là rất hợp lý ".
Tại hội nghị PDC vào ngày 13 tháng 7 năm 2000, Microsoft thông báo sản phẩm Whistler sẽ được phát hành trong nửa cuối năm 2001, đồng thời tiết lộ bản dựng xem trước 2250, trong đó có việc triển khai hệ thống kiểu trực quan của Windows XP và các thay đổi giao diện cho Windows Explorer và Control Panel.
Microsoft đã phát hành phiên bản thử nghiệm 2296 ngày 31 tháng 10 năm 2000. Các bản dựng tiếp theo giới thiệu các tính năng mới cho người dùng Windows XP, chẳng hạn như Internet Explorer 6.0, Trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft và ảnh nền Bliss.
Sản phẩm Whistler chính thức được công bố trong một sự kiện truyền thông vào ngày 5 tháng 2 năm 2001 dưới tên Windows XP, trong đó XP là viết tắt của "eXPerience".
Phát hành
Vào tháng 6 năm 2001, Microsoft có kế hoạch cùng với hãng Intel và các nhà sản xuất PC khác, chi ít nhất 1 tỷ đô la Mỹ cho việc tiếp thị và quảng bá Windows XP. Khẩu hiệu "Yes You Can", được thiết kế để nhấn mạnh khả năng tổng thể của nền tảng. Microsoft ban đầu dự định sử dụng khẩu hiệu "Prepare to Fly", nhưng đã bị thay thế vì các vấn đề nhạy cảm sau Sự kiện 11 tháng 9.
Vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, Windows XP build 2600 đã được phát hành cho các nhà sản xuất (RTM). Trong một sự kiện truyền thông tại Microsoft Redmond Campus, các bản sao của bản RTM đã được trao cho đại diện của một số nhà sản xuất PC lớn trong những chiếc cặp, sau đó họ sẽ lên những chiếc trực thăng được trang trí. Các nhà sản xuất PC có thể phát hành các thiết bị chạy hệ điều hành này bắt đầu từ ngày 24 tháng 9 năm 2001, thì XP dự kiến sẽ có mặt trên thị trường bán lẻ nói chung vào ngày 25 tháng 10 năm 2001. Cùng ngày, Microsoft cũng công bố giá bán lẻ cuối cùng của hai phiên bản chính của XP là "Home" (thay thế cho Windows Me cho người dùng gia đình) và "Professional" (thay thế cho Windows 2000 cho người dùng khác).
Tính năng mới và cập nhật
Giao diện người dùng
Mặc dù vẫn có một số điểm tương đồng với các phiên bản trước, nhưng giao diện của Windows XP đã được đại tu với giao diện trực quan mới, với việc tăng cường sử dụng các hiệu ứng tổng hợp alpha, đổ bóng và kiểu trực quan. Điều này đã thay đổi hoàn toàn diện mạo của hệ điều hành. Số lượng hiệu ứng do hệ điều hành xác định dựa trên khả năng xử lý của máy tính và có thể được bật hoặc tắt tùy theo từng trường hợp. XP cũng bổ sung ClearType, một hệ thống kết xuất subpixel mới được thiết kế để cải thiện các phông chữ trên màn hình tinh thể lỏng. Một bộ biểu tượng hệ thống mới cũng được giới thiệu. Hình nền mặc định Bliss, là ảnh chụp phong cảnh ở thung lũng Napa, California, với những ngọn đồi xanh và bầu trời xanh với tầng mây và mây ti.
Start menu đã được đại tu lần đầu tiên trong XP, chuyển sang bố cục hai cột với khả năng liệt kê, ghim và hiển thị các ứng dụng thường dùng, các tài liệu được mở gần đây và menu "All Programs" xếp tầng truyền thống. Thanh tác vụ hiện có thể nhóm các cửa sổ được mở thành một nút trên thanh tác vụ, với menu bật lên liệt kê các cửa sổ riêng lẻ. Khu vực thông báo cũng ẩn các biểu tượng "không hoạt động" thường xuyên theo mặc định. Danh sách "common tasks" đã được thêm và thanh bên của Windows Explorer đã sử dụng thiết kế dựa trên tác vụ mới với danh sách các hành động phổ biến; các tác vụ được hiển thị có liên quan theo ngữ cảnh với loại nội dung trong thư mục (ví dụ: thư mục có màn hình nhạc để phát tất cả các tệp trong thư mục hoặc ghi vào đĩa CD).Tính năng chuyển đổi người dùng cho phép người dùng khác đăng nhập vào Windows XP nhanh chóng mà không cần người dùng hiện tại phải đóng chương trình của họ và đăng xuất. Mặc dù chỉ một người dùng tại thời điểm này có thể sử dụng bảng điều khiển (tức là màn hình, bàn phím và chuột), thì những người dùng trước có thể tiếp tục phiên của họ sau khi họ quay lại bảng điều khiển.
Hệ thống
Windows XP sử dụng tính năng tìm nạp trước để cải thiện thời gian khởi động và khởi chạy ứng dụng. Nếu trình điều khiển được cập nhật làm kết quả không như mong muốn thì có thể hoàn nguyên cài đặt trình điều khiển thiết bị được cập nhật.
Hệ thống bảo vệ bản quyền hay còn được gọi là trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft đã được giới thiệu cùng với Windows XP và phiên bản máy chủ Windows Server 2003. Tất cả các giấy phép Windows phải được đi kèm với một ID duy nhất bằng cách sử dụng thông tin từ phần cứng máy tính, được kích hoạt qua internet hoặc đường dây nóng qua điện thoại. Nếu Windows không được kích hoạt trong vòng 30 ngày kể từ ngày cài đặt, hệ điều hành sẽ ngừng hoạt động cho đến khi được kích hoạt. Windows cũng xác minh định kỳ phần cứng để kiểm tra các thay đổi. Nếu hệ điều hành phát hiện thấy các thay đổi phần cứng đáng kể, quá trình kích hoạt sản phẩm sẽ bị vô hiệu và Windows sẽ buộc phải kích hoạt lại.
Kết nối mạng và chức năng internet
Windows XP ban đầu được bao gồm Internet Explorer 6, Outlook Express 6, Windows Messenger và MSN Explorer. Các tính năng mạng mới bao gồm Internet Connection Firewall, Internet Connection Sharing với UPnP, API truyền tải NAT, tính năng Quality of Service, IPv6 và Teredo, Background Intelligent Transfer Service, tính năng fax mở rộng, bắc cầu mạng, mạng ngang hàng, hỗ trợ cho hầu hết các modem DSL, kết nối IEEE 802.11 (Wi-Fi) với cấu hình tự động và chuyển vùng, TAPI 3.1, kết nối mạng qua FireWire. Tính năng mới Remote Assistance và Desktop Services cho phép người dùng kết nối với máy tính chạy Windows XP thông qua Internet, truy cập các ứng dụng, tệp, máy in và thiết bị hoặc yêu cầu trợ giúp. Các tính năng của IntelliMirror như Offline Files, Roaming user profiles and Folder redirection cũng được cải tiến.
Tương thích ngược
Để bật phần mềm đang chạy nhắm mục tiêu hoặc khóa các phiên bản Windows cụ thể, "Chế độ tương thích" đã được thêm vào. Tính năng này cho phép giả mạo phiên bản Windows trước đó đã chọn sang phần mềm, bắt đầu từ Windows 95.
Mặc dù khả năng này lần đầu tiên được giới thiệu trong Windows 2000 Service Pack 2, nó phải được kích hoạt thông qua "đăng ký máy chủ" và chỉ có sẵn cho người dùng quản trị viên, trong khi Windows XP đã kích hoạt nó cho mọi người dùng thông thường.
Các tính năng khác
Cải thiện khả năng tương thích của ứng dụng so với Windows 2000.
DirectX 8.1, có thể nâng cấp lên DirectX 9.0c.
Một số tính năng mới trong Windows Explorer bao gồm các ngăn tác vụ, hình thu nhỏ và tùy chọn xem ảnh dưới dạng trình chiếu.
Cải thiện các tính năng hình ảnh như Windows Picture và Fax Viewer.
Thời gian khởi động nhanh hơn, (do các chức năng tìm nạp trước được cải tiến) đăng nhập, đăng xuất, ngủ đông và khởi chạy ứng dụng.
Nhiều cải tiến để tăng độ tin cậy của hệ thống như System Restore, Automated System Recovery, và cải tiến độ tin cậy của trình điều khiển thông qua Device Driver Rollback.
Cải tiến hỗ trợ phần cứng như FireWire 800, và hỗ trợ đa màn hình dưới tên "DualView".
Chuyển đổi người dùng nhanh chóng.
Cơ chế kết xuất phông chữ ClearType, được thiết kế để cải thiện khả năng đọc văn bản trên màn hình tinh thể lỏng (LCD) và các màn hình tương tự, đặc biệt là máy tính xách tay.
Công nghệ tổ hợp song song và COM không cần đăng ký.
Các cải tiến chung đối với hỗ trợ như nhiều loại ngôn ngữ và tập lệnh hơn, hỗ trợ MUI trong Terminal Services, cải tiến trình chỉnh sửa phương thức nhập và hỗ trợ ngôn ngữ quốc gia.
Tính năng bị loại bỏ
Một số chương trình và tính năng là một phần của các phiên bản trước của Windows không được đưa vào Windows XP. Các lệnh MS-DOS khác nhau có sẵn trong Windows 9x đã bị loại bỏ, cũng như hệ thống con POSIX và OS/2.
Đối với mạng, NetBEUI, NWLink và NetDDE không còn được thiết lập theo mặc định. Các thiết bị mạng không tương thích (như modem và card mạng) không còn được hỗ trợ.
Gói dịch vụ 2 và Gói dịch vụ 3 cũng đã loại bỏ các tính năng khỏi Windows XP, nhưng ở mức độ ít hơn. Ví dụ: hỗ trợ cho các kết nối TCP bị loại bỏ khỏi Service Pack 2, và thanh địa chỉ trên thanh tác vụ bị loại bỏ trên Service Pack 3.
Thị trường
Các phiên bản dành cho các thị trường nhất định
Windows XP Starter Edition là một phiên bản giá thấp của Windows XP dành cho các thị trường Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Indonesia, Nga, Ấn Độ, Colombia, Brasil, Argentina, Peru, Bolivia, Chile, México, Ecuador, Uruguay và Venezuela. Nó tương tự như Windows XP Home, nhưng giới hạn cho những phần cứng cấp thấp, chỉ có thể chạy 3 chương trình một lúc, và có một số tính năng khác được mặc định tắt hoặc gỡ bỏ. Các phiên bản của mỗi quốc gia cũng được đình chỉnh dành riêng cho quốc gia đó, trong đó có hình nền là địa điểm nổi tiếng tại quốc gia đó, các tính năng trợ giúp được bản địa hóa để giúp đỡ những người không biết tiếng Anh, và các thiết lập mặc định khác giúp dễ dùng hơn so với khi cài đặt Windows XP thông thường. Ví dụ như phiên bản Malaysia có hình nền là khung cảnh của Kuala Lumpur.
Vào tháng 3 năm 2004, Ủy ban châu Âu đã phạt Microsoft 497 triệu euro và ra lệnh cho công ty này phải cung cấp một phiên bản Windows không có Windows Media Player. Ủy ban kết luận rằng Microsoft "đã vi phạm luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu bằng cách đẩy sự độc quyền trong thị trường hệ điều hành dành cho máy tính để bàn sang thị trường dành cho hệ điều hành máy chủ phục vụ nhóm làm việc và trình chơi nhạc". Sau khi kháng án không thành vào năm 2004 và 2005, Microsoft đã có thỏa thuận với Ủy ban sẽ phát hành một phiên bản thể theo bàn án của tòa, Windows XP Edition N. Phiên bản này không có Windows Media Player, thay vào đó, nó khuyến khích người dùng tự chọn và tải về trình chơi nhạc của riêng họ. Microsoft muốn đặt tiên cho phiên bản này là Reduced Media Edition, nhưng tổ chức thi hành của EU đã phản đối và đề nghị tên Edition N, với chỉ N có nghĩa là "not with Media Player" (không có Media Player) cho cả phiên bản Home và Professional của Windows XP. Vì nó được bán ngang giá với phiên bản có Windows Media Player, Dell, Hewlett-Packard, Lenovo và Fujitsu Siemens đã không dùng nó trong sản phẩm. Tuy nhiên, Dell có đưa ra hệ điều hành này một thời gian ngắn. Tỷ lệ người dùng hệ điều hành này thấp, với chỉ 1.500 đơn vị được bán cho OEM, và không thấy có báo cáo về số lượng bán cho người tiêu dùng.
Vào tháng 12 năm 2005, Ủy ban Thương mại Công bằng Hàn Quốc đã yêu cầu Microsoft bán các phiên bản Windows XP và Windows Server 2003 không có Windows Media Player hoặc Windows Messenger.
Cũng cùng năm đó, Microsoft cũng phát hành hai phiên bản Windows XP Home Edition nhắm tới mô hình ra giá dựa trên thuê bao và trả tiền khi xài. Các phiên bản này, được phát hành như một phần của sáng kiến FlexGo của Microsoft, được dùng kèm với một thành phần phần cứng để hạn chế thời gian sử dụng Windows. Thị trường mục tiêu là những nền kinh tế đang nổi như Brasil hay Việt Nam.
Ngôn ngữ
Windows XP có nhiều phiên bản ngôn ngữ. Ngoài ra, gói MUI và Language Interface Pack dùng để dịch giao diện người dùng cũng có ở một số ngôn ngữ hoặc người dùng có thể tải về hoặc dùng bộ gõ UniKey..
Giao diện người dùng
Windows XP phân tích tác động của các hiệu ứng hình ảnh lên hiệu năng và dùng nó để xác định có nên kích hoạt chúng không, do đó ngăn ngừa các tính năng mới ngốn quá nhiều tài nguyên xử lý. Người dùng cũng có thể điều chỉnh các thiết lập này. Một số hiệu ứng, như trộn alpha (trong suốt rồi giảm dần), được xử lý hoàn toàn bởi các loại card đồ họa mới. Tuy nhiên, nếu card đồ họa không có khả năng trộn alpha, hiệu năng có thể bị ảnh hưởng đáng kể, và Microsoft khuyến cáo nên tắt tính năng này bằng tay. Windows XP thêm các khả năng để Windows có thể sử dụng "Kiểu Thị giác" để thay đổi giao diện người dùng. Tuy nhiên, các kiểu thị giác phải được Microsoft ký tên mã hóa thì mới chạy được. Luna là tên của kiểu thị giác mới đi kèm với Windows XP, và được kích hoạt mặc định đối với các máy có bộ nhớ RAM video hơn 64 MiB. Luna dùng để chỉ một kiểu thị giác cụ thể, chứ không phải tất cả các tính năng giao diện mới của Windows XP. Một số người dùng "vá" tập tin uxtheme.dll hạn chế khả năng sử dụng kiểu thị giác trên Windows XP.
Ngoài các chủ đề đi kèm với Windows XP, có một chủ đề trước đó không được phát hành với thanh tác vụ màu xanh đen và thanh cửa sổ tương tự với Windows Vista có tên "Royale Noir" có sẵn để tải về, mặc dù nó không chính thức. Microsoft đã chính thức phát hành một phiên bản chỉnh sửa của chủ đề này với tên chủ đề "Zune", để chào mừng sự ra mắt máy chơi nhạc bỏ túi Zune vào tháng 11 năm 2006. Sự khác nhau duy nhất là cảm giác bóng như gương kèm với một thanh tác vụ màu đen thay vì màu xanh đen và nút Start màu cam thay vì màu xanh lá cây. Ngoài ra, chủ đề "Royale" của Media Center, được kèm trong các phiên bản Media Center, cũng có sẵn để tải về và có thể dùng trên mọi phiên bản Windows XP.
Hình nền mặc định, Bliss, là ảnh phong cảnh ở Thung lũng Napa bên ngoài Napa, California theo định dạng BMP, có những ngọn đồi và bầu trời xanh với các đám mây tầng tích và mây ti.
Các gói dịch vụ
Microsoft thỉnh thoảng phát hành các service pack dành cho hệ điều hành Windows cũng hãng để sửa các lỗi và thêm vào tính năng mới. Mỗi service pack là một gói lớn gồm tất cả các service pack trước đó cùng với những bản vá, do đó chỉ cần cài đặt những service pack mới nhất. Bạn cũng không cần phải gỡ bỏ các service pack cũ hơn trước khi cài một bản service pack mới.
Gói dịch vụ 1
Gói dịch vụ 1 (SP1) dành cho Windows XP được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Nó có các bản sửa lỗi bảo mật hậu-RTM và bản sửa lỗi khẩn cấp, các cập nhật tương thích, hỗ trợ tùy chọn .NET Framework, kích hoạt các công nghệ dành cho thiết bị mới như máy tính bảng, và một phiên bản Windows Messenger 4.7 mới. Tính năng mới đáng chú ý nhất là hỗ trợ USB 2.0 và tiện ích Set Program Access and Defaults nhắm đến những sản phẩm ẩn nằm ở giữa. Người dùng có thể điều khiển ứng dụng mặc định sẽ sử dụng cho các hoạt động như lướt web và tin nhắn nhanh, cũng như ẩn truy cập đến một số chương trình đóng gói của Microsoft. Tiện ích này lần đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành Windows 2000 Service Pack 3. Bản Service Pack này mặc định hỗ trợ SATA và ổ cứng có dung lượng hơn 137GB (hỗ trợ LBA). Máy ảo Java của Microsoft, không có trong phiên bản RTM, đã xuất hiện trong bản Service Pack này.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2003, Microsoft phát hành Service Pack 1a (SP1a). Lần phát hành này đã bỏ đi máy ảo Java của Microsoft do kết quả vụ kiện với Sun Microsystems.
Gói dịch vụ 2
Gói dịch vụ (SP2) (tên mã "Springboard") được phát hành vào ngày 25 tháng 8 năm 2004 sau một vài lần trì hoãn, tập trung vào tính bảo mật.
Service Pack 2 cũng thêm các cải tiến bảo mật mới, bao gồm chỉnh sửa lớn đối với trình tường lửa đi kèm được đổi tên thành Windows Firewall và đã được kích hoạt mặc định, Data Execution Prevention, hỗ trợ phần cứng tốt hơn trong NX bit có thể ngăn được một số dạng tấn công tràn bộ đệm. Ngoài ra, hỗ trợ socket thô cũng bị loại bỏ (để hạn chế thiệt hại do máy tính ma tạo ra). Hơn thế, bản service pack này đã cải tiến một số tính năng bảo mật cho email và duyệt web. Windows XP Service Pack 2 đưa vào Windows Security Center, hiển thị tổng quan tình trạng bảo mật của hệ thống, trong đó có tình trạng của phần mềm diệt virus, Windows Update, và Windows Firewall mới. Các ứng dụng diệt virus và tường lửa của bên thứ ba có thể giao tiếp với Security Center mới này.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, Microsoft thông báo một cập nhật nhỏ cho Service Pack 2, có tên Service Pack 2c (SP2c). Bản cập nhật này sửa vấn đề có quá ít khóa sản phẩm cho Windows XP. Bản cập nhật này chỉ dành cho các nhà xây dựng hệ thống từ nhà phân phối của họ cho Windows XP Professional và Windows XP Professional N. SP2c phát hành vào tháng 9 năm 2007.
Gói dịch vụ 3
Windows XP Gói dịch vụ 3 (SP3) được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 21 tháng 4 năm 2008 và cho công chúng thông qua Microsoft Download Center và Windows Update vào ngày 6 tháng 5 năm 2008.
Bộ service pack này bắt đầu tự động yêu cầu người dùng cập nhật thông qua Automatic Update vào ngày 10 tháng 7 năm 2008. Microsoft đã đăng một bản tổng quan về các tính năng trong đó liệt kê chi tiết các tính năng mới có thể tải độc lập như các bản cập nhật cho Windows XP, cũng như các tính năng backporting từ Windows Vista. Trong SP3, có tổng cộng 1.174 lỗi được sửa. Service Pack 3 có thể cài đặt trên hệ thống bằng Internet Explorer 6 hoặc 7, và Windows Media Player phiên bản 9 trở lên.
Internet Explorer 7 không đi kèm trong SP3.
Các tính năng mới trong Gói dịch vụ 3
Tự động bật chức năng dò lỗ đen
Ủy nhiệm thư Security Service Provider
Bản Microsoft Kernel Mode Cryptographic Module được cập nhật, được chứng nhận FIPS 140-2 (giải thuật SHA-256, SHA-384 và SHA-512)
Các bản cập nhật đã phát hành trước đó
Service Pack 3 cũng đưa vào một số bản cập nhật quan trọng trước đó dành cho Windows XP, nhưng đã không kèm trong SP2, bao gồm:
Windows Imaging Component
Cập nhật IPSec Simple Policy để đơn giản hóa việc khởi tạo và bảo trì các bộ lọc IPSec
Mặc dù đến nay các bản service pack đều mang tính tích lũy, khi cài đặt SP3 trên hệ điều hành Windows XP có sẵn vẫn yêu cầu máy tính ít nhất đã phải cài đặt Service Pack 1.
Service Pack 3 có các bản cập nhật cho các thành phần hệ điều hành của phiên bản Windows XP Media Center Edition (MCE) và Windows XP Tablet PC Edition, và cập nhật bảo mật cho.NET Framework phiên bản 1.0, được kèm trong những SKU của Windows XP này. Tuy nhiên, nó không kèm theo các cập nhật cho ứng dụng Windows Media Center trong Windows XP MCE 2005, SP3 cũng bỏ đi các cập nhật bảo mật cho Windows Media Player 10, mặc dù trình duyệt này được kèm trong Windows XP MCE 2005. Address Bar DeskBand trên Thanh tác vụ không còn kèm trong SP3 do hạn chế về pháp lý.
Yêu cầu hệ thống
Ghi chú
Giới hạn dung lượng RAM
Dung lượng RAM tối đa mà Windows XP có thể hỗ trợ khác nhau tùy thuộc vào phiên bản sản phẩm và kiến trúc bộ xử lý. Hầu hết các phiên bản 32-bit của XP đều hỗ trợ tối đa 4GB, ngoại trừ Windows XP Starter, bị giới hạn ở 512MB. Phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 128 GB.
Giới hạn bộ xử lý
Windows XP Professional hỗ trợ tối đa hai bộ xử lý; và Windows XP Home Edition chỉ hỗ trợ một bộ xử lý.
Tuy nhiên, XP hỗ trợ nhiều bộ xử lý logic hơn: các phiên bản 32-bit hỗ trợ tối đa 32 bộ xử lý logic, trong khi phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 64 bộ xử lý logic.
Khả năng nâng cấp
Một số thành phần Windows XP có thể được nâng cấp lên các phiên bản mới nhất, bao gồm các phiên bản mới được giới thiệu trong các phiên bản Windows mới hơn và các ứng dụng chính khác của Microsoft có sẵn. Các phiên bản mới nhất này dành cho Windows XP bao gồm:
ActiveSync 4.5
DirectX 9.0c (Ngày 5 tháng 2 năm 2010 Có thể phân phối lại)
Internet Explorer 8 trên Windows XP Gói Dịch vụ 2 và 3 (Internet Explorer 6 SP1 và Outlook Express 6 SP1 trên Windows XP trước SP2.)
Windows Media Format Runtime và Windows Media Player 11 trên Windows XP Gói Dịch vụ 2 và 3 (và Windows Media Player 10 trên bản phát hành gốc Windows XP.)
Microsoft Virtual PC 2004 và 2007
.NET Framework lên đến và bao gồm phiên bản 4.0 (4.5 và các phiên bản cao hơn không được hỗ trợ.)
Visual Studio 2005 trên các phiên bản Windows XP dưới SP2, Visual Studio 2008 trên Windows XP SP2 và Visual Studio 2010 trên Windows XP SP3
Windows Script Host 5.7
Windows Installer 4.5
Office 2010 là phiên bản cuối cùng của Microsoft Office tương thích với Windows XP.
Microsoft NetMeeting 3.02
Vòng đời hỗ trợ
Hỗ trợ cho bản phát hành ban đầu của Windows XP (không có gói dịch vụ) đã kết thúc vào ngày 30 tháng 8 năm 2005. Cả Windows XP gói dịch vụ 1 và 1a đã ngừng hỗ trợ vào ngày 10 tháng 10 năm 2006, và cả Windows 2000 và Windows XP SP2 đều ngừng hỗ trợ vào ngày 13 tháng 7 năm 2010, khoảng 24 tháng sau khi Windows XP gói dịch vụ 3 dược ra mắt. Công ty đã ngừng cấp phép chung Windows XP cho các OEM và chấm dứt việc bán lẻ hệ điều hành này vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, 17 tháng sau khi phát hành Windows Vista. Tuy nhiên, một ngoại lệ đã được công bố vào ngày 3 tháng 4 năm 2008, đối với các OEM sản xuất thứ mà họ định nghĩa là "máy tính cá nhân chi phí cực thấp", đặc biệt là netbook, cho đến một năm sau khi Windows 7 ra mắt vào ngày 22 tháng 10 năm 2009. Các nhà phân tích cho rằng động thái này chủ yếu nhằm cạnh tranh với các netbook chạy hệ điều hành Linux, mặc dù Kevin Hutz tuyên bố rằng quyết định này là do nhu cầu thị trường rõ ràng đối với máy tính đời thấp chạy Windows.
Các biến thể của Windows XP dành cho hệ thống nhúng có các chính sách hỗ trợ khác nhau: Windows XP Embedded SP3 và Windows Embedded for Point of Service SP3 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2016. Windows Embedded Standard 2009, được kế nhiệm bởi Windows Embedded Standard 7 và Windows Embedded POSReady 2009, và kế nhiệm của Windows Embedded POSReady 7 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2019. Các bản cập nhật dành cho các phiên bản nhúng cũng có thể được tải xuống trên phiên bản Windows XP tiêu chuẩn sử dụng bản hack Registry, cho phép các bản vá không chính thức cho đến tháng 4 năm 2019. Tuy nhiên, Microsoft đã khuyến cáo người dùng Windows XP không nên cài đặt các bản sửa lỗi này, với lý do các vấn đề không tương thích.
Kết thúc hỗ trợ
Vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, Windows XP đã ngừng hỗ trợ chính và bước vào giai đoạn hỗ trợ mở rộng; Microsoft tiếp tục cung cấp các bản cập nhật bảo mật hàng tháng cho Windows XP, tuy nhiên, hỗ trợ kỹ thuật miễn phí, yêu cầu bảo hành và thay đổi thiết kế đã không còn được cung cấp nữa. Hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, hơn 12 năm sau khi phát hành Windows XP; mặc dù thông thường các sản phẩm của Microsoft có vòng đời hỗ trợ chỉ 10 năm. Ngoài các bản cập nhật bảo mật cuối cùng được phát hành vào ngày 8 tháng 4, không có thêm bản vá bảo mật hoặc thông tin hỗ trợ nào được cung cấp miễn phí cho XP; nhưng "các bản vá quan trọng" sẽ vẫn có sẵn và chỉ cung cấp cho những khách hàng đăng ký gói "Custom Support" trả phí. Vì là một thành phần của Windows nên tất cả các phiên bản của Internet Explorer dành cho Windows XP cũng không được hỗ trợ.
Vào tháng 1 năm 2014, người ta ước tính rằng hơn 95% trong số 3 triệu máy rút tiền tự động trên thế giới vẫn đang chạy Windows XP (phần lớn thay thế OS/2 của IBM làm hệ điều hành chủ yếu trên các máy ATM); máy ATM có vòng đời trung bình từ 7 đến 10 năm, nhưng một số máy đã có vòng đời dài tới 15 năm. Một số nhà cung cấp ATM và khách hàng đã có kế hoạch chuyển sang các hệ thống dựa trên Windows 7 trong suốt năm 2014, trong khi các nhà cung cấp cũng đã xem xét khả năng sử dụng các nền tảng dựa trên Linux trong tương lai để mang lại cho họ sự linh hoạt hơn trong các vòng đời hỗ trợ, và Hiệp hội Công nghiệp ATM (ATMIA) kể từ đó đã xác nhận Windows 10 là một sự thay thế tiếp theo. Tuy nhiên, các máy ATM thường chạy phiên bản nhúng của Windows XP, được hỗ trợ đến hết tháng 1 năm 2016. Tính đến tháng 5 năm 2017, khoảng 60% trong số 220.000 máy ATM ở Ấn Độ vẫn chạy Windows XP.
Hơn nữa, ít nhất 49% tổng số máy tính ở Trung Quốc vẫn chạy XP vào đầu năm 2014. Những cổ phiếu này bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố; giá của các bản sao chính hãng của các phiên bản Windows mới hơn ở nước này cao, trong khi Ni Guangnan thuộc Viện Khoa học Trung Quốc cảnh báo rằng Windows 8 có thể khiến người dùng bị chính phủ Hoa Kỳ giám sát, và chính phủ Trung Quốc sẽ cấm mua các sản phẩm Windows 8 cho mục đích sử dụng của chính phủ vào tháng 5 năm 2014 để phản đối việc Microsoft không thể cung cấp hỗ trợ "được đảm bảo". Chính phủ cũng lo ngại rằng việc hỗ trợ sắp kết thúc có thể ảnh hưởng đến các sáng kiến chống vi phạm bản quyền của họ với Microsoft, vì người dùng chỉ đơn giản là vi phạm bản quyền các phiên bản mới hơn thay vì mua chúng một cách hợp pháp. Do đó, các quan chức chính phủ đã chính thức yêu cầu Microsoft gia hạn thời gian hỗ trợ cho XP vì những lý do này. Trong khi Microsoft không tuân theo yêu cầu của họ, thì một số nhà phát triển phần mềm lớn của Trung Quốc, chẳng hạn như Lenovo, Kingsoft và Tencent, sẽ cung cấp hỗ trợ và tài nguyên miễn phí cho người dùng Trung Quốc chuyển từ XP. Một số chính phủ, đặc biệt là của Hà Lan và Vương quốc Anh, đã chọn đàm phán kế hoạch "Custom Support" với Microsoft để họ tiếp tục sử dụng Windows XP nội bộ; thỏa thuận của chính phủ Anh kéo dài một năm và cũng bao gồm hỗ trợ cho Office 2003 (ngừng hỗ trợ cùng ngày) và có giá £5,5 triệu.
Vào ngày 8 tháng 3 năm 2014, Microsoft đã triển khai bản cập nhật cho XP, vào ngày 8 hàng tháng sẽ hiển thị thông báo bật lên để nhắc nhở người dùng về việc kết thúc hỗ trợ; tuy nhiên, những thông báo này có thể bị vô hiệu hóa bởi người dùng. Microsoft cũng hợp tác với Laplink để cung cấp một phiên bản "tốc hành" đặc biệt của phần mềm PCmover nhằm giúp người dùng di chuyển các tệp và cài đặt từ XP sang máy tính có phiên bản Windows mới hơn.
Mặc dù hỗ trợ sắp kết thúc, vẫn có những phần mềm đáng chú ý đã không di chuyển trong quá khứ XP; và nhiều người dùng đã chọn tiếp tục sử dụng XP vì Windows Vista kém tiếp nhận, doanh số bán máy tính mới hơn với phiên bản Windows mới hơn đã giảm do cuộc đại suy thoái và ảnh hưởng của Vista, đồng thời việc triển khai các phiên bản Windows mới trong môi trường doanh nghiệp đòi hỏi một lượng lớn số lượng lập kế hoạch, bao gồm việc thử nghiệm các ứng dụng về khả năng tương thích (đặc biệt là những ứng dụng phụ thuộc vào Internet Explorer 6, không tương thích với các phiên bản Windows mới hơn). Các nhà cung cấp phần mềm bảo mật lớn (bao gồm cả chính Microsoft) đã lên kế hoạch tiếp tục cung cấp hỗ trợ và định nghĩa cho Windows XP sau khi hết hỗ trợ ở các phạm vi khác nhau, cùng với các nhà phát triển trình duyệt web Google Chrome, Mozilla Firefox và Opera; bất chấp những biện pháp này, các nhà phê bình cũng cho rằng người dùng nên chuyển từ XP sang một nền tảng được hỗ trợ. Nhóm Sẵn sàng Khẩn cấp Máy tính của Hoa Kỳ đã đưa ra một cảnh báo vào tháng 3 năm 2014 khuyến cáo người dùng về việc sắp hết hỗ trợ và thông báo cho họ rằng việc sử dụng XP sau ngày 8 tháng 4 có thể khiến họ không đáp ứng được các yêu cầu bảo mật thông tin của chính phủ Hoa Kỳ. Microsoft tiếp tục cung cấp phần mềm diệt virus Security Essentials và bản cập nhật Malicious Software Removal Tool (MSRT) cho XP đến ngày 14 tháng 7 năm 2015. Khi kết thúc hỗ trợ mở rộng đến gần, Microsoft bắt đầu ngày càng thúc giục khách hàng XP chuyển sang các phiên bản mới hơn như Windows 7 hoặc 8 vì lợi ích bảo mật, cho thấy rằng những kẻ tấn công có thể thiết kế ngược các bản vá bảo mật cho các phiên bản Windows mới hơn và lợi dụng chúng để nhắm mục tiêu các lỗ hổng trong XP. Windows XP có thể bị khai thác từ xa bởi nhiều lỗ hổng bảo mật đã được phát hiện sau khi Microsoft ngừng hỗ trợ.
Tương tự, các thiết bị chuyên dụng chạy XP, đặc biệt là thiết bị y tế, phải có bất kỳ bản sửa đổi nào đối với phần mềm của chúng — thậm chí là các bản cập nhật bảo mật cho hệ điều hành cơ bản — được các cơ quan quản lý có liên quan phê duyệt trước khi chúng có thể được phát hành. Vì lý do này, các nhà sản xuất thường không cho phép bất kỳ bản cập nhật nào đối với hệ điều hành của thiết bị, khiến chúng bị khai thác bảo mật và phần mềm độc hại.
Mặc dù đã ngừng hỗ trợ cho Windows XP, Microsoft vẫn phát hành ba bản cập nhật bảo mật khẩn cấp cho hệ điều hành này để vá các lỗ hổng bảo mật lớn:
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2014 để giải quyết các lỗ hổng được phát hiện gần đây trong Internet Explorer 6 đến 11 trên tất cả các phiên bản Windows.
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2017 để giải quyết lỗ hổng bảo mật đang bị tấn công bởi mẫ độc tống tiền WannaCry.
Một bản vá được phát hành vào tháng 5 năm 2019 để giải quyết lỗ hổng thực thi mã nghiêm trọng trong Remote Desktop Services có thể bị khai thác theo cách tương tự như lỗ hổng WannaCry.
Dư luận
Hiệu năng của giao diện người dùng
Theo những lời bình luận từ báo chí cho rằng giao diện người dùng mặc định của Windows XP (Luna) đã tăng thêm sự hỗn loạn về hình ảnh và hao phí không gian màn hình trong khi không đưa ra chức năng nào mới và khiến cho hiệu năng của máy đã giảm dần. Một số người dùng than phiền như vậy có thể chuyển lại về chủ đề Windows Classic.
Ưu điểm chính hãng của Windows
Trong nỗ lực nhằm kiềm chế vi phạm bản quyền dựa trên các khóa cấp phép theo gói bị rò rỉ hoặc tạo ra trên mạng, Microsoft đã cho mắt Windows Genuine Advantage (WGA). WGA bao gồm hai phần, một công cụ xác minh phải dùng khi tải một số thứ từ Microsoft và một hệ thống thông báo người dùng. WGA dành cho Windows được tiếp nối bằng các hệ thống xác minh dành cho Internet Explorer 7, Windows Media Player 11, Windows Defender, và Microsoft Office 2007. Gần đây Microsoft đã gỡ bỏ xác minh WGA ra khỏi bản cài đặt Internet Explorer 7 nói rằng mục đích của sự thay đổi này là để đưa IE7 đến với mọi người dùng Windows.
Nếu khóa giấy phép bị đánh giá là không thật, nó sẽ hiển thị một màn hình mè nheo thường xuyên yêu cầu người dùng mua giấy phép từ Microsoft. Thêm vào đó, người dùng bị hạn chế khi truy cập vào Microsoft Update để tải các bản cập nhật bảo mật, và như vậy, các bản cập nhật nâng cao mới và các sản phẩm Microsoft khác sẽ không thể được tải về hoặc cài đặt nữa.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2008, Microsoft đã phát hành chương trình kích hoạt WGA mới hiển thị một màn hình nền màu đen nếu máy tính không vượt qua được cuộc xác minh. Hình nền có thể được đổi, nhưng sẽ quay về đen sau 60 phút.
Những chỉ trích phổ biến đối với WGA gồm có việc Microsoft miêu tả nó là "Bản cập nhật bảo mật tối quan trọng", khiến cho Automatic Updates mặc định tải nó về mà người dùng không tài nào can thiệp được, hành vi của nó giống như một phần mềm gián điệp liên tục "gọi về" Microsoft mỗi khi máy tính kết nối vào Internet, việc không thông báo cho người dùng cuối viết WGA đang thực sự làm cái gì sau khi được cài đặt (đã được sửa trong bản cập nhật 2006), không cung cấp một phương cách gỡ bỏ hợp lý trong suốt bản thử nghiệm beta (người dùng được cung cấp hướng dẫn gỡ bỏ bằng tay nhưng không hoạt động cho đến bản chính thức), và sự nhạy cảm của nó đối với sự thay đổi hệ thống phần cứng dẫn đến đòi tái kích hoạt liên tục đối với một số nhà phát triển.
Nói một cách thẳng thắn, việc tải về hay cài đặt Thông báo đều không phải bắt buộc; người dùng có thể thay đổi thiết lập của Automatic Updates của họ để cho phép họ chọn tải về và cài đặt bản cập nhật nào. Nếu bản cập nhật đã được tải về rồi, người dùng có thể chọn không chấp nhận EULA bổ sung đi theo Thông báo. Trong cả hai trường hợp đó, người dùng cũng có thể yêu cầu bản cập nhật không được hiển thị nữa. Các Cập nhật Bảo mật Tối quan trọng mới hơn vẫn có thể cài đặt mà không hiển thị yêu cầu WGA nữa. Tuy nhiên thiết lập này sẽ chỉ có tác dụng trên phiên bản hiện tại của Thông báo, do đó nó có thể xuất hiện lại nếu có phiên bản mới. Vào năm 2006, Microsoft đã có dính líu tới một vụ kiện ở California, về việc công ty đã vi phạm các luật chống phần mềm gián điệp của tiểu bang với chương trình Windows Genuine Advantage Notifications của nó.
'Bẻ khóa' bảo vệ
Những chương trình "tạo khóa", thường được gọi là "keygen", hiện có để tạo ngẫu nhiên các khóa sản phẩm của Windows XP (do đó, không còn các khóa thường dùng để có thể cấm) rồi sau đó kích hoạt Windows mà không cần phải liên hệ với Microsoft. Những khóa này có thể có hoặc không cho phép người dùng nhận được các bản cập nhật mặc dù Microsoft đã cho phép tải về và cài đặt các bản cập nhật bảo mật quan trọng thông qua Windows Update và trang tải về của nó, thậm chí trong các bản ăn cắp bản quyền và không thật của Windows.
Rò rỉ mã nguồn
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2020, mã nguồn của Windows XP Service Pack 1 và Windows Server 2003 đã bị rò rỉ trên 4chan bởi một người dùng không xác định. Những người dùng ẩn danh đã biên dịch mã, cũng như một người dùng Twitter đã đăng video về quy trình trên YouTube để chứng minh rằng đoạn mã là chính xác. Video sau đó đã bị Microsoft xóa vì lý do bản quyền. Bản rò rỉ này không hoàn chỉnh vì thiếu mã nguồn Winlogon và một số thành phần khác. Bản thân vụ rò rỉ ban đầu đã được lan truyền bằng cách sử dụng các liên kết magnet và các tệp torrent ban đầu bao gồm mã nguồn Server 2003 và XP, sau đó được cập nhật với các tệp bổ sung, trong số đó là những rò rỉ trước đó về các sản phẩm của Microsoft, bằng sáng chế của hãng, các phương tiện truyền thông về các thuyết âm mưu về Bill Gates bởi các phong trào chống tiêm chủng và một loạt các tệp PDF về các chủ đề khác nhau.
Microsoft đã đưa ra một tuyên bố rằng họ đang điều tra vụ rò rỉ.
Chú thích
Sách
Microsoft Windows XP Plain & Simple - J. Joyce and M. Moon, Microsoft Press, USA, 2005. ISBN 0-7356-2112-8 |
Newton (viết tắt là N)(Đọc là Niu tơn) là đơn vị đo lực trong hệ đo lường quốc tế (SI), lấy tên của nhà bác học Isaac Newton. Nó là một đơn vị dẫn xuất trong SI nghĩa là nó được định nghĩa từ các đơn vị đo cơ bản.
Cụ thể lực bằng khối lượng nhân gia tốc (định luật 2 Newton):
Định nghĩa
1 Newton là lực gây ra cho một vật có khối lượng 1 kilôgam gia tốc 1 mét trên giây bình phương.
Về cơ bản, đây là quy ước từ khi được khởi xướng.
Các ước số-bội số của newton
Các tiền tố kết hợp với đơn vị newton
Bảng chuyển đổi giá trị giữa các ước số-bội số khác nhau
Chuyển sang các đơn vị khác
Một số ví dụ
1 N là lực gây ra bởi trọng lượng so với Trái Đất của một vật có khối lượng xấp xỉ 102 g ( kg) (tương đương một quả táo nhỏ).
Trên bề mặt Trái Đất, một khối lượng 1 kg sinh ra một lực cỡ 9.81 N (hướng xuống). Một khối lượng 1 kg tương ứng với 10 N là một khối lượng thường dùng trong đời sống hàng ngày và trong kỹ thuật.
Trọng lượng của một người có khối lượng 70 kg so với Trái Đất là xấp xỉ 687 N.
Tích vô hướng của lực và độ dài (N•m), một lực 1 N sinh ra trên độ dài 1 m là một joule hay jun (Việt Nam), là một đơn vị hệ SI của năng lượng.
Vì Newton là một lực khá nhỏ, do đó người ta cũng thường dùng một đơn vị khác để biểu diễn lực là kilonewtons hay kN, trong đó 1 kN = 1 000 N.
Trong điều kiện tiêu chuẩn, 1 tấn (1 000 kg) gây ra trọng lực là 9.8 kN (hay 1 000 kgf). |
Vỏ lục địa hay quyển sial là lớp vỏ cấu thành nên các lục địa trên Trái Đất. Bề dày trung bình của lớp vỏ này khoảng 40 km. Ranh giới giữa vỏ lục địa và manti là mặt Moho. Vỏ lục địa được nghiên cứu bằng phương pháp khảo sát, khoan và địa chấn.
Cấu tạo
Vỏ lục địa được cấu tạo bởi các lớp:
Lớp trầm tích có bề dày trung bình khoảng 3 km. Thành phần chủ yếu gồm các đá trầm tích có tuổi khác nhau từ cổ nhất đến trẻ nhất. Tốc độ truyền sóng địa chấn từ 3,5 đến 5 km/s.
Lớp granitogơnai có tốc độ truyền sóng địa chấn từ 5,5 đến 6,1 km/s.
Lớp bazan được cấu tạo chủ yếu bởi các đá biến chất tướng granulit. |
Núi Tà Cú cao 649 m, nằm ven Quốc lộ 1, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam là một thắng cảnh và là một điểm leo núi của tỉnh Bình Thuận.
Tên gọi tà kóu bắt nguồn từ tiếng chăm cổ "tà là núi 🗻, kóu là già. Nghĩa là núi già
Du lịch
Được khởi xướng năm 1996 hội thi leo núi Tà cú được tổ chức và trở thành một hội thi của địa phương
Để lên tới đỉnh ngọn núi Nọc trù nằm trong khu rừng cấm, du khách có thể cần 2 giờ để vượt qua 2.290 m đường dốc. Bằng Lăng là đoạn dốc cao nhất, nghiêng 45°. Hoặc du khách có thể ngồi 10 phút trong cabin "bay" theo đoạn dây cáp dài 1.600 m ở độ cao 500 m, ngắm nhìn khu rừng xanh bao la.
Nằm ở độ cao 563 m (chưa tới đỉnh) là hai ngôi chùa: chùa Trên (Linh Sơn Trường Thọ) và chùa Dưới (Long Đoàn), cùng bậc thang đá cao và những ngọn tháp. Ở đây có bức tượng Phật Thích Ca nằm, làm bằng bê tông, quét vôi trắng dài 49 m, dài hơn tượng phật nằm ở chùa Wat Pho nổi tiếng của Thái Lan
Núi nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Tà kóu rộng hơn 10000 ha
Địa chất
Nhiệt độ trung bình từ 18 đến 22 °C. Xưa kia đây là một ngọn núi lửa thuộc đệ nhất nguyên đại nên trong đất có vàng sa khoáng và Lưu huỳnh
Chú thích |
Đền Ngọc Sơn (Ngọc Sơn từ 玉山祠) là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Lịch sử và Quá trình xây dựng
Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn (chữ Hán: 玉山), sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ 13.
Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.
Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Khánh Thuỵ và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống phá hủy một phần.
Ngày nay sau nhiều năm lịch sử diện tích Hồ Hoàn Kiếm bị đô thị hoá thu nhỏ lại gấp nhiều lần. Chỉ còn lại chứng tích cũ như Phố Cầu Gỗ khi xưa là có một cây Cầu Gỗ nằm trên con Phố Cầu Gỗ ngày nay để người dân đi lại.
Cung Khánh Thuỵ sau khi bị đổ nát một phần nhân dân trong Làng Tả Khánh lại cùng nhau dựng lên thờ tự lại trên nền đất lịch sử đó và có tên mới là Đền Khánh Thuỵ cho đến ngày nay sâu trong ngõ Hàng Hành thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Trong Đền Khánh Thuỵ vẫn còn lưu giữ lại một bia đá có các thông tin kết nối với di tích Ngọc Sơn khi xưa trên nền đất cũ.
Cung Khánh Thuỵ và đền Khánh Thuỵ ngày nay đều thuộc quần thể di tích Ngọc Sơn lịch sử do vậy mà vị trí Đền Khánh Thuỵ luôn quay cửa Cung về phía Đền Ngọc Sơn còn lưng thì quay ra phố Hàng Hành nên nhiều người đã không được biết đến và chưa có phương án bảo tồn cùng quần thể Ngọc Sơn.
Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân một phần nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...".
Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..."
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
Công trình - Kiến trúc xung quanh Đền Ngọc Sơn
Tháp Bút
Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn cũ), nhà nho Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông dựng ngược, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút.
Đài Nghiên
Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Hai bên có hai câu đối:
Bát đảo, mặc ngân hồ thủy mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao.
Nghĩa là:
Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi
Cầu Thê Húc
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn.
Vào thời kháng chiến chống Pháp, cầu Thê Húc cũ đã sụp đổ do thời gian. Cầu Thê Húc hiện nay được xây dựng bởi cụ Trương Văn Đa (tức Phạm Ngọc Lan), một nhà nho, đồng thời là một kiến trúc sư dưới thời Pháp thuộc.
Đắc Nguyệt Lâu
Cổng đền có tên là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng). Cổng nằm chếch dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.
Đền thờ
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.
Trấn Ba Đình
Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Cột trong đình có đôi câu đối:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Chữ Hán:
劍 有 餘 靈 光 若 水
文 從 大 塊 壽 如 山
Nghĩa là:
Kiếm sót khí thiêng ngời tựa nước
Văn cùng trời đất thọ như non.
Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Hưng Đạo Vương, còn thờ cả Phật A-di-đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.
Ảnh |
Chùa núi Tà Cú (người địa phương hay gọi đơn giản là chùa Núi) là một ngôi chùa tọa lạc trên núi Tà Cú ở độ cao hơn 400 m, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, gần Quốc lộ 1, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam. Chùa này là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam.
Lịch sử
Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên.
Kiến trúc
Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa. |
Trượng là một đơn vị đo chiều dài cổ của Việt Nam và Trung Hoa.
Nó nằm trong các đơn vị đo độ dài cổ theo hệ thập phân dựa trên một cây thước cơ bản. Một trượng bằng 10 thước.
Việt Nam
Trước khi Pháp chiếm đóng Đông Dương, tồn tại nhiều loại thước ở Việt Nam, phục vụ cho các mục đích khác nhau và có độ dài khác nhau. Theo các tư liệu ghi chép và khảo cứu thì có ba loại thước chính: thước đo vải từ 0,6 đến 0,65 mét, thước đo đất khoảng 0,47 mét và thước nghề mộc từ 0,28 đến 0,5 mét. Từ các loại thước trên để suy ra chiều dài các loại trượng tương ứng.
Ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra sắc lệnh quy định, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1898, ở địa bàn Bắc Kỳ thống nhất tất cả các loại thước thành một loại thước ta bằng 0,40 mét. Theo đó, một trượng dài 4 mét. Tuy nhiên, ở Trung Kỳ nước ta vẫn dùng chuẩn cũ với chiều dài 1 trượng = 4,7 mét.
Khảo dị
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1988 (tr. 1093), 1 trượng cũng có thể được hiểu bằng 4 thước mộc, khoảng 1,70 mét.
Trung Hoa
Trong hệ đo lường cổ Trung Hoa, do thước Trung Quốc cổ dài khoảng 0,33 mét, một trượng Trung Hoa dài 3,33 mét. |
Hơi nước là trạng thái khí của nước. Nó là một trong những pha của nước trong thủy quyển. Hơi nước sinh ra từ quá trình bay hơi hoặc sôi của nước lỏng hoặc từ thăng hoa của băng. Không như những trạng thái khác của nước, hơi nước là trong suốt, không nhìn thấy được. Dưới điều kiện khí quyển điển hình, hơi nước liên tục sinh ra từ sự bay hơi hay ngưng tụ thành nước. Nó nhẹ hơn không khí và kích hoạt những dòng đối lưu dẫn đến hình thành các đám mây.
Là một thành phần của thủy quyển và chu trình thủy văn của Trái đất, hơi nước có nhiều trong bầu khí quyển của Trái đất, nơi nó hoạt động như một khí nhà kính mạnh nhất, mạnh hơn các khí khác như carbon dioxide và methane. Sử dụng hơi nước, dưới dạng hơi nước nóng, rất quan trọng để nấu ăn, và là một thành phần chính trong hệ thống sản xuất và vận chuyển năng lượng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp.
Hơi nước là một thành phần khí quyển tương đối phổ biến, có mặt ngay cả trong khí quyển Mặt Trời cũng như mọi hành tinh trong Hệ Mặt Trời và nhiều vật thể thiên văn bao gồm vệ tinh tự nhiên, sao chổi và thậm chí cả các tiểu hành tinh lớn. Tương tự như vậy, việc phát hiện hơi nước ngoài hệ mặt trời sẽ cho thấy sự phân bố tương tự trong các hệ hành tinh khác. Hơi nước có ý nghĩa ở chỗ nó có thể là bằng chứng gián tiếp hỗ trợ sự hiện diện của nước lỏng ngoài Trái đất trong trường hợp của một số vật thể khối lượng cỡ hành tinh.
Thuộc tính
Bay hơi
Bất cứ khi nào một phân tử nước rời khỏi bề mặt và khuếch tán vào một chất khí xung quanh, nó được cho là đã bay hơi. Mỗi phân tử nước chuyển đổi giữa trạng thái liên kết nhiều hơn (lỏng) và trạng thái ít liên kết hơn (hơi / khí) sẽ thực hiện thông qua sự hấp thụ hoặc giải phóng động năng. Phép đo tổng hợp của sự truyền động năng này được định nghĩa là nhiệt năng và chỉ xảy ra khi có sự khác biệt về nhiệt độ của các phân tử nước. Nước lỏng trở thành hơi nước sẽ mang theo một lượng nhiệt, trong một quá trình gọi là làm mát bay hơi. Lượng hơi nước trong không khí quyết định tần suất các phân tử quay trở lại bề mặt. Khi xảy ra hiện tượng bốc hơi ròng, phần nước sẽ trải qua quá trình làm mát thực liên quan trực tiếp đến việc mất nước.
Tại Hoa Kỳ, Cơ quan Thời tiết Quốc gia đo tốc độ bốc hơi thực tế từ một bề mặt nước mở "chảo" được tiêu chuẩn hóa ngoài trời, tại các địa điểm khác nhau trên toàn quốc. Những người khác cũng làm như vậy trên khắp thế giới. Dữ liệu của Hoa Kỳ được thu thập và tổng hợp thành bản đồ bốc hơi hàng năm. Các phép đo nằm trong khoảng từ dưới 30 đến hơn 120 inch mỗi năm. Các công thức có thể được sử dụng để tính tốc độ bay hơi từ bề mặt nước như bể bơi. Ở một số quốc gia, tốc độ bay hơi của nước vượt xa tốc độ kết tủa.
Làm mát bay hơi bị hạn chế bởi các điều kiện khí quyển. Độ ẩm là lượng hơi nước trong không khí. Hàm lượng hơi của không khí được đo bằng các thiết bị được gọi là ẩm kế. Các phép đo thường được biểu thị bằng độ ẩm cụ thể hoặc độ ẩm tương đối phần trăm. Nhiệt độ của khí quyển và bề mặt nước xác định áp suất hơi cân bằng; Độ ẩm tương đối 100% xảy ra khi áp suất riêng phần của hơi nước bằng áp suất hơi cân bằng. Điều kiện này thường được gọi là bão hòa hoàn toàn. Độ ẩm dao động từ 0 gam trên mét khối trong không khí khô đến 30 gam trên mét khối (0,03 oz trên foot khối) khi hơi bão hòa ở 30 °C.
Thăng hoa
Thăng hoa là quá trình các phân tử nước trực tiếp rời khỏi bề mặt của băng mà không trở thành nước lỏng. Sự thăng hoa là nguyên nhân dẫn đến sự biến mất chậm giữa mùa đông của băng và tuyết ở nhiệt độ quá thấp để gây tan chảy. Nam Cực cho thấy hiệu ứng này ở một mức độ độc đáo vì cho đến nay nó là lục địa có tỷ lệ mưa thấp nhất trên Trái đất. Kết quả là, có những khu vực rộng lớn nơi các lớp tuyết hàng nghìn năm tuổi đã thăng hoa, để lại bất kỳ vật liệu không bay hơi nào mà chúng chứa đựng. Điều này cực kỳ có giá trị đối với một số ngành khoa học, một ví dụ ấn tượng là việc thu thập các thiên thạch còn lại trên bề mặt Trái Đất với số lượng vô cùng nhiều và ở trạng thái bảo quản tuyệt vời.
Sự thăng hoa rất quan trọng trong việc chuẩn bị một số lớp mẫu vật sinh học để quét kính hiển vi điện tử. Thông thường, các mẫu vật được chuẩn bị bằng phương pháp đông lạnh và đứt gãy đông lạnh, sau đó bề mặt vỡ được khắc bằng đông lạnh, bị ăn mòn khi tiếp xúc với chân không cho đến khi nó hiển thị mức độ chi tiết cần thiết. Kỹ thuật này có thể hiển thị các phân tử protein, cấu trúc bào quan và lớp kép lipid với mức độ biến dạng rất thấp.
Ngưng tụ
Hơi nước sẽ chỉ ngưng tụ trên bề mặt khác khi bề mặt đó mát hơn nhiệt độ điểm sương, hoặc khi vượt quá trạng thái cân bằng hơi nước trong không khí. Khi hơi nước ngưng tụ trên một bề mặt, bề mặt đó sẽ xảy ra hiện tượng nóng lên. Phân tử nước mang theo nhiệt năng. Đến lượt mình, nhiệt độ của khí quyển giảm nhẹ. Trong khí quyển, sự ngưng tụ tạo ra mây, sương mù và lượng mưa (thường chỉ khi được tạo điều kiện bởi các hạt nhân ngưng tụ mây). Điểm sương của một lô không khí là nhiệt độ mà nó phải nguội trước khi hơi nước trong không khí bắt đầu ngưng tụ. Sự ngưng tụ trong khí quyển tạo thành các giọt mây.
Ngoài ra, sự ngưng tụ thực của hơi nước xảy ra trên các bề mặt khi nhiệt độ của bề mặt bằng hoặc thấp hơn nhiệt độ điểm sương của khí quyển. Sự ngưng kết là một quá trình chuyển pha tách biệt với sự ngưng tụ dẫn đến sự hình thành nước đá trực tiếp từ hơi nước. Băng giá và tuyết là những ví dụ về sự ngưng kết.
Có một số cơ chế làm mát xảy ra hiện tượng ngưng tụ: 1) Mất nhiệt trực tiếp bằng dẫn truyền hoặc bức xạ. 2) Làm mát do giảm áp suất không khí xảy ra khi không khí nâng lên, còn được gọi là làm mát đoạn nhiệt. Không khí có thể được nâng lên bởi các ngọn núi, làm lệch hướng không khí lên trên, bằng đối lưu, và bởi các mặt trước lạnh và ấm. 3) Làm mát hoạt tính - làm mát do chuyển động ngang của không khí.
Phản ứng hoá học
Một số phản ứng hóa học tạo thành nước như là một sản phẩm. Nếu các phản ứng xảy ra ở nhiệt độ cao hơn điểm sương của không khí xung quanh, nước sẽ được hình thành ở dạng hơi và làm tăng độ ẩm cục bộ, nếu dưới điểm sương sẽ xảy ra hiện tượng ngưng tụ cục bộ. Các phản ứng điển hình dẫn đến hình thành nước là đốt cháy hydro hoặc hydrocarbon trong không khí hoặc hỗn hợp khí có chứa oxy khác, hoặc là kết quả của phản ứng với chất oxy hóa.
Theo cách tương tự, các phản ứng hóa học hoặc vật lý khác có thể diễn ra khi có hơi nước dẫn đến hình thành các hóa chất mới như gỉ sắt hoặc thép, xảy ra quá trình trùng hợp (một số bọt polyurethane và keo cyanoacrylate phản ứng khi tiếp xúc với độ ẩm không khí) hoặc các dạng thay đổi chẳng hạn như trong đó hóa chất khan có thể hấp thụ đủ hơi để tạo thành cấu trúc tinh thể hoặc làm thay đổi cấu trúc hiện có, đôi khi dẫn đến thay đổi màu sắc đặc trưng có thể được sử dụng để đo lường.
Đo lường
Việc đo lượng hơi nước trong môi trường có thể được thực hiện trực tiếp hoặc từ xa với các mức độ chính xác khác nhau. Các phương pháp từ xa như vậy có thể hấp thụ năng lượng điện từ của các vệ tinh trên bầu khí quyển hành tinh. Phương pháp trực tiếp có thể sử dụng đầu dò điện tử, nhiệt kế được làm ẩm hoặc vật liệu hút ẩm để đo những thay đổi về tính chất vật lý hoặc kích thước. |
Cân có thể chỉ các khái niệm:
Dụng cụ đo khối lượng: Cân (dụng cụ đo) ''
Hành động đo lường khối lượng
Đơn vị đo: khối lượng cân
Một loại khăn được dùng làm mũ cho nhân vật trong sân khấu tuồng, chèo: cân (sân khấu). |
Yến có thể có các nghĩa:
Các loài chim thuộc họ Apodidae (yến, cụ thể hơn còn gọi là vũ yến) và họ Hemiprocnidae (yến mào)
Gọi tắt của yến sào - món ăn làm từ tổ yến của một số loài thuộc họ Apodidae nói trên; yến tiệc.
Trong văn chương, người ta dùng từ yến để chỉ các loài thuộc họ Hirundinidae (én, gần đây cũng gọi là nhạn)
Một số loài thuộc chi yến hót Serinus
Đơn vị đo khối lượng: yến
Họ người Á Đông: Yến
Tên một con suối tại khu thắng cảnh chùa Hương: suối Yến |
Nitơ (danh pháp IUPAC: nitrogen) là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn các nguyên tố có ký hiệu N và số nguyên tử bằng 7, nguyên tử khối bằng 14. Ở điều kiện bình thường nó là một chất khí không màu, không mùi, không vị và khá trơ và tồn tại dưới dạng phân tử N2, còn gọi là đạm khí. Nitơ chiếm khoảng 78% khí quyển Trái Đất và là thành phần của mọi cơ thể sống. Nitơ tạo ra nhiều hợp chất quan trọng như các amino acid, amonia, acid nitric và các cyanide. Liên kết hóa học cực kỳ bền vững giữa các nguyên tử nitơ gây khó khăn cho cả sinh vật và công nghiệp để chuyển hóa thành các hợp chất hóa học hữu dụng, nhưng đồng thời cũng giải phóng một lượng lớn năng lượng hữu ích khi cháy, nổ hoặc phân hủy trở lại thành khí nitơ. Các ammoniac và nitrat được tổng hợp là các loại phân công nghiệp chính và phân nitrat là các chất ô nhiễm chính gây ra hiện tượng phú dưỡng môi trường nước.
Nitơ có mặt trong tất cả các cơ thể sống, chủ yếu ở dạng các amino acid (và protein) và cũng có trong các acid nucleic (DNA và RNA). Cơ thể người chứa khoảng 3% nitơ theo trọng lượng, là nguyên tố phổ biến thứ tư trong cơ thể sau oxy, carbon và hydro. Chu trình nitơ miêu tả sự chuyển động của nguyên tố này từ không khí vào sinh quyển và các hợp chất hữu cơ, sau đó quay trở lại không khí.
Tính chất
Nitơ là một phi kim, với độ âm điện là 3,04. Nó có 5 điện tử trên lớp ngoài cùng, vì thế thường thì nó có hóa trị III trong phần lớn các hợp chất để đạt cơ cấu bền (8 điện tử hóa trị). Nitơ tinh khiết là một chất khí ở dạng phân tử không màu và chỉ tham gia phản ứng hóa học ở nhiệt độ phòng khi nó phản ứng với Lithi. Nó hóa lỏng ở nhiệt độ 77 K (-196°C) trong điều kiện áp suất khí quyển và đóng băng ở 63 K (-210°C) thành dạng thù hình có tinh thể lục phương đóng kín. Dưới 35,4K (−237.6°C) nitơ được cho là có thù hình của hệ lập phương (được gọi là pha alpha). Nitơ lỏng, có dạng giống như nước, nhưng có tỷ trọng chỉ bằng 80,8% (tỷ trọng nitơ lỏng ở điểm sôi là 0,808 g/mL), là chất làm lạnh phổ biến.
Các thù hình không bền của nitơ có hơn hai nguyên tử đã được tạo ra trong phòng thí nghiệm, như và . Trong điều kiện áp suất cực kỳ cao (1,1 triệu atm) và nhiệt độ cao (2000 K), khi tạo ra bằng diamond anvil cell, nitơ polymer hóa thành các cấu trúc tinh thể lập phương liên kết đơn. Cấu trúc này tương tự cấu trúc của kim cương, và cả hai có các liên kết cộng hóa trị cực mạnh. còn có tên gọi là "kim cương nitơ".
Các dạng thù hình khác (chưa tổng hợp được) bao gồm hexazine (, một vòng benzen) và octaazacuban (, một cubane đơn). Dạng nitơ 6 được dự đoán là không ổn định trong cao, trong khi dạng nitơ 8 được dự đoán là ổn định động học, vì sự đối xứng quỹ đạo.
Đồng vị
Có hai đồng vị ổn định của nitơ là: 14N và 15N. Phổ biến nhất là 14N (99,634%), là đồng vị tạo ra trong chu trình CNO trong các ngôi sao. Phần còn lại là 15N. Trong số 10 đồng vị tổng hợp nhân tạo thì 1 có chu kỳ bán rã là 9 phút còn các đồng vị còn lại có chu kỳ bán rã ở mức độ 1 giây hay nhỏ hơn.
Các phản ứng trung gian sinh học (ví dụ: đồng hóa, nitrat hóa và khử nitrat) kiểm soát chặt chẽ cân bằng động của nitơ trong đất. Các phản ứng này gần như là tạo ra sự làm giàu 15N trong chất nền và làm suy kiệt sản phẩm. Mặc dù nước mưa chứa các lượng tương đương amônium và nitrat, nhưng do amônium là tương đối khó chuyển hóa/hấp thụ hơn so với nitrat khí quyển nên phần lớn nitơ trong khí quyển chỉ có thể đi vào trong đất dưới dạng nitrat. Nitrat trong đất được các loại rễ cây hấp thụ tốt hơn so với khi nitơ ở dưới dạng amônium.
Một phần nhỏ (0,73%) của nitơ phân tử trong khí quyển Trái Đất là isotopologue 14N15N, và hầu hết phần còn lại là 14N2.
Đồng vị phóng xạ 16N là thành phần hạt nhân phóng xạ chiếm ưu thế trong chất làm mát của các lò phản ứng hạt nhân nước áp lực hoặc lò phản ứng nước sôi ở chế độ vận hành bình thường. Nó được tạo ra từ 16O (trong nước) qua phản ứng (n,p). Nó có chu kỳ bán rã khoảng 7,1 giây, nhưng trong khi nó phân rã ngược lại tạo ra 16O thì sinh ra tia phóng xạ gama năng lượng cao (5 đến 7 MeV). Do đó, việc tiếp cận các ống dẫn chất làm lạnh sơ cấp trong lò phản ứng nước áp lực phải được kiểm soát chặt chẽ trong quá trình vận hành lò phản ứng.16N là một trong những công cụ chính được dùng để nhận dạng nhanh các vụ rò rỉ thậm chí nhỏ từ chất làm lạnh sơ cấp đến chu trình hơi thứ cấp.
Phổ điện từ
Nitơ phân tử (14N2) phần lớn có quang phổ trong suốt đến hồng ngoại và nhìn thấy do nó là một phân tử cấu tạo bởi cùng hạt nhân và do đó, không có môment lưỡng cực để kết hợp với bức xạ điện từ ở các bước sóng này. Sự hấp thụ đáng kể xảy ra ở các bước sóng siêu cực tím, bắt đầu vào khoảng 100 nm. Điều này liên quan với sự chuyển tiếp điện tử trong phân tử sang các trạng thái tích điện không được phân bố thậm chí giữa các nguyên tử nitơ. Sự hấp thụ nitơ dẫn đến sự hấp thụ đáng kể các bức xạ cực tím trong thượng tầng khí quyển và khí quyển của các hành tinh khác. Vì các lý do tương tự, các tia laser nitơ phân tử tinh khiết đặc biệt phát xạ ánh sáng trong dải cực tím.
Phản ứng
Nhìn chung, nitơ không hoạt động ở điều kiện nhiệt độ và áp suất chuẩn. Nitơ phản ứng với nguyên tố lithi. Lithi cháy trong không khí có N2 tạo ra lithi nitride:
6 Li + N2 → 2 Li3N
Magiê cũng cháy trong nitơ tạo ra Magiê nitrua :
3 Mg + N2 → Mg3N2
N2 tạo thành nhiều sản phẩm cộng với các kim loại chuyển tiếp như [Ru(NH3)5(N2)]2+ (xem hình). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phối tử N2 thu được bằng cách phân hủy hydrazin, và không phối với đi nitơ tự do. Các hợp chất này hiện có rất nhiều như IrCl(N2)(PPh3)2, W(N2)2(Ph2PCH2CH2PPh2)2, and [(η5-C5Me4H)2Zr]2(μ2, η2,η2-N2). Các phức này minh hoạ bằng cách nào N2 có thể kết hợp với các kim loại trong các enzym nitrogenase và xúc tác cho quá trình Haber. Quá trình xúc tác để khử N2 thành ammoniac bằng cách sử dụng phức molybden với sự có mặt của nguồn proton được công bố năm 2005.
Ứng dụng
Hợp chất nitơ
Phân tử nitơ trong khí quyển là tương đối trơ, nhưng trong tự nhiên nó bị chuyển hóa rất chậm thành các hợp chất có ích về mặt sinh học và công nghiệp nhờ một số cơ thể sống, chủ yếu là các vi khuẩn (xem Vai trò sinh học dưới đây). Khả năng kết hợp hay cố định nitơ là đặc trưng quan trọng của công nghiệp hóa chất hiện đại, trong đó nitơ (cùng với khí thiên nhiên) được chuyển hóa thành amonia (thông qua phương pháp Haber). Amonia, trong lượt của mình, có thể được sử dụng trực tiếp (chủ yếu như là phân bón), hay làm nguyên liệu cho nhiều hóa chất quan trọng khác, bao gồm thuốc nổ, chủ yếu thông qua việc sản xuất acid nitric theo phương pháp Ostwald.
Các muối của acid nitric bao gồm nhiều hợp chất quan trọng như xanpet (hay diêm tiêu- trong lịch sử nhân loại nó là quan trọng do được sử dụng để làm thuốc súng) và nitrat amôni, một phân bón hóa học quan trọng. Các hợp chất nitrat hữu cơ khác, chẳng hạn trinitrôglyxêrin và trinitrotoluen (tức TNT), được sử dụng làm thuốc nổ. Acid nitric được sử dụng làm chất oxy hóa trong các tên lửa dùng nhiên liệu lỏng. Hiđrazin và các dẫn xuất của nó được sử dụng làm nhiên liệu cho các tên lửa.
Khí nitơ
Nitơ dạng khí được sản xuất nhanh chóng bằng cách cho nitơ lỏng (xem dưới đây) ấm lên và bay hơi. Nó có nhiều ứng dụng, bao gồm cả việc phục vụ như là sự thay thế trơ hơn cho không khí khi mà sự oxy hóa là không mong muốn.
để bảo quản tính tươi của thực phẩm đóng gói hay dạng rời (bằng việc làm chậm sự ôi thiu và các dạng tổn thất khác gây ra bởi sự oxy hóa),
trên đỉnh của chất nổ lỏng để đảm bảo an toàn
Nó cũng được sử dụng trong:
sản xuất các linh kiện điện tử như transitor, diode, và mạch tích hợp (IC).
sản xuất thép không gỉ,
bơm lốp ô tô và máy bay do tính trơ và sự thiếu các tính chất ẩm, oxy hóa của nó, ngược lại với không khí (mặc dù điều này là không quan trọng và cần thiết đối với ô tô thông thường)
Ngược lại với một số ý kiến, nitơ thẩm thấu qua lốp cao su không chậm hơn không khí. Không khí là hỗn hợp chủ yếu chứa nitơ và oxy (trong dạng N2 và O2), và các phân tử nitơ là nhỏ hơn. Trong các điều kiện tương đương thì các phân tử nhỏ hơn sẽ thẩm thấu qua các vật liệu xốp nhanh hơn.
Một ví dụ khác về tính đa dụng của nó là việc sử dụng nó (như là một chất thay thế được ưa chuộng cho dioxide cacbon) để tạo áp lực cho các thùng chứa một số loại bia, cụ thể là bia đen có độ cồn cao và bia ale của Anh và Scotland, do nó tạo ra ít bọt hơn, điều này làm cho bia nhuyễn và nặng hơn. Một ví dụ khác về việc nạp khí nitơ cho bia ở dạng lon hay chai là bia tươi Guinness.
Nitơ lỏng
Nitơ lỏng được sản xuất theo quy mô công nghiệp với một lượng lớn bằng cách chưng cất phân đoạn không khí lỏng và nó thường được nói đến theo công thức giả LN2. Nó là một tác nhân làm lạnh (cực lạnh), có thể làm cứng ngay lập tức các mô sống khi tiếp xúc với nó. Khi được cách ly thích hợp khỏi nhiệt của môi trường xung quanh thì nó phục vụ như là chất cô đặc và nguồn vận chuyển của nitơ dạng khí mà không cần nén. Ngoài ra, khả năng của nó trong việc duy trì nhiệt độ một cách siêu phàm, do nó bay hơi ở 77 K (-196°C hay -320°F) làm cho nó cực kỳ hữu ích trong nhiều ứng dụng khác nhau, chẳng hạn trong vai trò của một chất làm lạnh chu trình mở, bao gồm:
làm lạnh để vận chuyển thực phẩm
bảo quản các bộ phận thân thể cũng như các tế bào tinh trùng và trứng, các mẫu và chế phẩm sinh học.
trong nghiên cứu các tác nhân làm lạnh
để minh họa trong giáo dục
trong da liễu học để loại bỏ các tổn thương da ác tính xấu xí hay tiềm năng gây ung thư, ví dụ các mụn cóc, các vết chai sần trên da v.v.
Nitơ lỏng có thể sử dụng như là nguồn làm mát để tăng tốc CPU, GPU, hay các dạng phần cứng khác.
Nitơ lỏng là nitơ ở trạng thái lỏng, nhiệt độ của nó rất là thấp khoảng -196 độ C, ở nhiệt độ này thì bạn cũng biết nó có thể phá hủy mọi thứ liên quan đến cơ thể sống.
Nitơ là một trong các loại khí công nghiệp và có ứng dụng rộng rãi, là khí trơ, không màu, không mùi, không độc hại, không gây cháy nổ.
Nitơ lỏng có trọng lượng riêng là 0,807g/ml và có hằng số điện môi là 1,4. Số nguyên tử của nó là 7.
Nitơ chiếm 78% trong bầu khí quyển, nitơ lỏng được nén lại bằng phương pháp chưng cất phân đoạn không khí => thu được nitơ long và oxi lỏng => Các khí nitơ lỏng sẽ được đưa vào thùng chứa và đưa vào sử dụng trong công nghiệp
Các khí nitơ này được đưa vào công nghiệp sẽ có hệ thống giàn hóa hơi biến khí Nitơ lỏng này trở lại thành khí Nitơ thông thường
Sau khi qua giàn hóa hơi nitơ được hóa hơi sẽ đưa qua các van áp để phân chia vào công nghiệp
Nitơ lỏng được ứng dụng trong hằng trăm lĩnh vực kể không bao giờ hết cả, từ lĩnh vực thực phẩm đến lĩnh vực dệt nhuộm và còn rất nhiều lĩnh vực khác.
Lịch sử
Nitơ (tiếng Latinh: nitrum, tiếng Hy Lạp: Nitron có nghĩa là "sinh ra sôđa", "nguồn gốc", "tạo thành") về hình thức được coi là được Daniel Rutherford phát hiện năm 1772, ông gọi nó là không khí độc hại hay không khí cố định. Có điều này là do một phần của không khí không hỗ trợ sự cháy đã được các nhà hóa học biết đến vào cuối thế kỷ XVIII. Nitơ cũng được Carl Wilhelm Scheele, Henry Cavendish và Joseph Priestley nghiên cứu vào cùng khoảng thời gian đó, là những người nói đến nó như là không khí đã cháy hay không khí phlogiston. Khí nitơ là trơ đến mức Antoine Lavoisier coi nó như là azote vào năm 1789, có nghĩa là không có sự sống; thuật ngữ này đã trở thành tên gọi trong tiếng Pháp để chỉ "nitơ" và sau đó đã lan rộng sang nhiều thứ tiếng khác. Năm 1790, Jean Antoine Chaptal đặt ra tên gọi nitrogen để chỉ nitơ.
Các hợp chất của nitơ đã được biết tới từ thời Trung cổ. Các nhà giả kim thuật đã biết acid nitric (HNO3) như là aqua fortis (tức nước khắc đồng). Hỗn hợp của acid nitric và acid clohiđríc (HCl) được biết đến dưới tên gọi aqua regia (tức nước cường toan), do nó có khả năng hòa tan cả vàng. Các ứng dụng sớm nhất trong công nghiệp và nông nghiệp của các hợp chất nitơ sử dụng nó trong dạng xanpet (có thể là nitrat natri (NaNO3) hay nitrat kali (KNO3)), chủ yếu làm thuốc súng và sau đó là làm phân bón, và muộn hơn nữa là để làm hóa chất bổ sung. Năm 1910, Lord Rayleigh đã phát hiện rằng việc phóng điện trong khí nitơ tạo ra "nitơ hoạt động", là một thù hình được xem là đơn nguyên tử. "đám mây xoáy có ánh sáng vàng rực rỡ" được tạo ra bởi bộ máy của ông phản ứng với thủy ngân để tạo ra chất nổ thủy ngân nitride.
Sự phổ biến
Nitơ là thành phần lớn nhất của khí quyển Trái Đất (78,084% theo thể tích hay 75,5% theo trọng lượng). Henry Cavendish là người đã xác định tương đối chính xác thành phần "khí cháy" (oxy, khoảng 21%) của không khí vào cuối thế kỷ XVIII. Hơn một thế kỷ sau, người ta xác định phần còn lại ("không cháy") của không khí chủ yếu là nitơ.
Nitơ được sản xuất cho các mục đích công nghiệp nhờ chưng cất phân đoạn không khí lỏng hay bằng các biện pháp cơ học khác đối với không khí ở dạng khí (màng thẩm thấu nghịch áp suất hay PSA (viết tắt của từ tiếng Anh: Pressure Swing Adsorption).
Các hợp chất chứa nitơ cũng được quan sát là có trong vũ trụ. Nitơ N14 được tạo ra như là một phần của phản ứng tổng hợp hạt nhân trong các ngôi sao. Phân tử nitơ và các hợp chất nitơ đã được các nhà thiên văn học phát hiện trong môi trường liên sao bằng cách sử dụng Far Ultraviolet Spectroscopic Explorer. Nitơ là thành phần lớn của các chất thải động vật (ví dụ phân), thông thường trong dạng urê, acid uric, và các hợp chất của các sản phẩm chứa nitơ này.
Nitơ ở dạng phân tử đã được biết là có trong khí quyển của Titan, và cũng đã được David Knauth và các cộng sự phát hiện là tồn tại trong không gian liên sao nhờ sử dụng FUSE.
Các hợp chất chính của nitơ
Hydride chính của nitơ là amonia (NH3) mặc dù hiđrazin (N2H4) cũng được biết đến rất nhiều. Amonia là một chất có tính base nhiều hơn nước, và trong dung dịch thì nó tạo ra các cation amôni (NH4+). Amonia lỏng trên thực tế là một chất có tính tạo các ion kép (amôni và amit (NH2-); cả hai loại muối amit và nitride (N3-) đều được biết đến, nhưng đều bị phân hủy trong nước. Các hợp chất của amonia bị thay thế đơn và kép được gọi là các amin. Các chuỗi lớn, vòng và cấu trúc khác của hydride nitơ cũng được biết đến nhưng trên thực tế không ổn định.
Các lớp anion khác của nitơ là azua (N3-), chúng là tuyến tính và đồng electron với dioxide cacbon. Các phân tử khác có cấu trúc tương tự là đinitơ mônoxide (N2O), hay khí gây cười. Đây là một trong các dạng oxide của nitơ, nổi bật nhất trong số các oxide là nitơ mônoxide (NO) và nitơ dioxide (NO2), cả hai oxide này đều chứa các điện tử không bắt cặp. Oxide sau thể hiện một số xu hướng với sự nhị trùng hóa và là thành phần chính trong các loại khói.
Các oxide tiêu chuẩn hơn là đinitơ trioxide (N2O3) và đinitơ pentoxide (N2O5), trên thực tế là tương đối không ổn định và là các chất nổ. Các acid tương ứng là acid nitrơ (HNO2) và acid nitric (HNO3), với các muối tương ứng được gọi là nitrit và nitrat. Acid nitric là một trong ít các acid mạnh hơn hydroni.
Điều chế
Trong công nghiệp, nitơ được sản xuất bằng phương pháp chưng cất phân đoạn không khí lỏng. Sau khi đã loại bỏ CO2 và hơi nước, không khí được hóa lỏng dưới áp suất cao và nhiệt độ thấp. Nâng dần nhiệt độ không khí lỏng đến -196 độ C thì nitơ sôi và tách khỏi được oxy vì oxy có nhiệt độ sôi cao hơn (-183 độ C). Khí nitơ được vần chuyển trong các bình thép, nén dưới áp suất 150 atm.
Trong phòng thí nghiệm, người ta điều chế một lượng nhỏ nitơ tinh khiết bằng cách đun nóng nhẹ dung dịch bão hòa muối amoni nitrit:
NH4NO2 → N2 + 2H2O
Có thể thay muối amoni nitrit kém bền bằng dung dịch bão hòa của muối natri nitrit và amoni chloride
NH4Cl + NaNO2 → N2 + NaCl + 2H2O
Vai trò sinh học
Nitơ là thành phần quan trọng của các amino acid và acid nucleic, điều này làm cho nitơ trở thành thiết yếu đối với sự sống. Nitơ nguyên tố trong khí quyển không thể được động và thực vật sử dụng trực tiếp mà phải qua quá trình khử trùng hoặc cố định. Giáng thủy thường chứa một lượng đáng kể amonia và nitrat, được cho là sản phẩm cố định nitơ bởi các tia sét và các hiện tượng điện khác trong khí quyển. Điều này được Liebig đưa ra đầu tiên vào năm 1827 và sau đó được xác nhận. Tuy nhiên, do amonia được ưu tiên giữa lại bởi tác cây rừng tương đối so với nitrat khí quyển, hầu hết nitơ được cố định đến được bề mặt đất bên dưới cây ở dạng nitrat. Nitrat trong đất được rễ cây ưu tiên hấp thụ so với ammoniac trong đất. Các cây họ Đậu như đậu tương, có thể hấp thụ nitơ trực tiếp từ không khí do rễ của chúng có các nốt sần chứa các vi khuẩn cố định đạm để chuyển hóa nitơ thành amonia. Các cây họ Đậu sau đó sẽ chuyển hóa amonia thành các ion oxide nitơ và các amino acid để tạo ra các protein. Vi khuẩn đặc biệt (như Rhizobium trifolium) sở hữu các enzym nitrogenase có khả năng cố định nitơ trong khí quyển thành các chất hữu ích cho các sinh vật bậc cao hơn. Quá trình này đòi hỏi một lượng năng lượng lớn và các điều kiện thiếu oxy. Các vi khuẩn như thế có thể sống tự do trong đất (như Azotobacter) nhưng thường tồn tại ở dạng cộng sinh trong các nốt sần của rễ câu họ Đậu (như clover, Trifolium, hay đậu nành, Glycine max). Vi khuẩn cố định nitơ cũng cộng sinh với nhiều loài thực vật không liên quan như Alnus, địa y, Casuarina, Myrica, Marchantiophyta, và Gunnera.
Phòng ngừa
Các chất phân bón chứa nitrat bị rửa trôi là nguồn ô nhiễm chính nước ngầm và các con sông. Các hợp chất chứa xyanua (-CN) tạo ra các muối cực độc hại và gây ra cái chết của nhiều động vật.
Hợp chất hóa học của nitơ
Nitơ có 8 số oxy hóa lần lượt là -3; -2; -1; +1; + 2; +3; +4 và +5. Ở điều kiện bình thường mặc dù độ âm điện của nitơ lớn hơn phot pho nhưng lại hoạt động hóa học yếu hơn phot pho do đơn chất nitơ có liên kết ba với năng lượng liên kết lớn.
Oxide của nitơ
Hầu hết các oxide của nitơ đều là các oxide trung tính như NO, N2O nhưng cũng có một số oxide là oxide acid như N2O3, N2O5, NO2.
Nitơ monoxide và Nitơ đioxide
Ở nhiệt độ khoảng 3000oC hay các tia hồ quang điện, nitơ tác dụng với khí oxi trong không khí tạo ra nitơ monoxide (gọi tắt là NO)N2 + O2 <=>[t^o] 2 NO với Trong tự nhiên khí NO được tạo thành khi có cơn giông. Khí NO không màu dễ dàng phản ứng với oxi trong không khí ở điều kiện thường tạo thành khí nitơ đioxide (NO2) có màu đỏ nâu.2NO + O2 -> 2NO2NO2 dễ dàng bị đime hóa thành N2O4 (điniơ tetraoxide, không màu) ở nhiệt độ thấp. Theo nguyên lí Le Chatelier, phản ứng sẽ chuyển dịch theo chiều nghịch tạo thành NO2. khi tăng nhiệt độ.2NO2 <=> N2O4NO2 là oxide acid hỗn hợp khi tác dụng với nước cho ra hỗn hợp acid2NO2 + H2O → HNO3 + HNO2Ngay lập tức HNO2 sẽ phân hủy 3HNO2 → HNO3 + 2NO + H2ONO, NO2 là chất oxy hóa khi tác dụng với các chất khử mạnh khác như SO2, H2SSO2 + NO2 → SO3 + NO2NO + 2H2S → 2S + N2 + H2ONO2 có thể điều chế bằng cách cho lưu huỳnh, cacbon tác dụng với acid nitric đặc, nóng.4HNO3 + C → CO2 + 4NO2 + 2H2O6HNO3 + S → H2SO4 + 6NO2 + 2H2OCho khí amonia tác dụng với oxi ở nhiệt độ cao có mặt xúc tác4NH3 + 5O2 ->[t^o, xt] 4NO + 6H2O
Nitrơ oxide và đinitơ pentoxide
N2O là khí không màu, mùi dễ chịu, vị hơi ngọt. N2O không tác dụng với oxi. Ở 500oC bị nhiệt phân hủy thành N2 và O2. N2O có thể điều chế bằng cách cho NO cháy trong SO2 hoặc nhiệt phân muối amoni nitrat.2NO + SO2 → SO3 + N2ONH4NO3 → N2O + 2H2ON2O5 (Đinitơ pentoxide) là một oxide khi tan vào nước tạo ra acid nitric. N2O5 có thể điều chế bằng cách cho NO2 phản ứng với ozon O32NO2 + O3 → N2O5 + O2
Hydride
Có hai hydride của nitơ là NH3 (amoniac) và N2H4 (hiđrazin), cả hai đều có mùi khai nhưng hiđrazin nguy hiểm hơn.
Hidrazin
Hidrazin là nhiên liệu dùng trong tên lửa do các phản ứng tỏa nhiệt dưới đây3N2H4 → 4NH3 + N2N2H4 → N2 + H2Tuy nhiên cũng có phản ứng là thu nhiệt4NH3 + N2H4 → 3N2 + 8H2Hydrazin được điều chế bằng cách cho amonia tác dụng với hydro peroxide (oxy già)2NH3 + H2O2 → N2H4 + 2H2OHoặc cũng có thể cho phân urê tác dụng với dung dịch natri hipoclorit và xút(NH2)2CO + NaClO + 2NaOH → N2H4 + H2O + N2CO3 + NaCl
Amonia |
Trong tiếng Việt, chỉ có thể bao gồm nhiều nghĩa:
Chỉ: một loại dây (chỉ cước, chỉ may vá).
Chỉ: đơn vị đo trọng lượng thường dùng trong ngành kim hoàn và trong Đông y nặng khoảng 3,75 gram.
Chỉ: đường kẻ hay nét vẽ nhỏ dài (chỉ tay, kẻ chỉ).
Chỉ (止, tiếng Phạn śamatha): thuật ngữ Phật học, chỉ một loại định an chỉ. Cũng được thấy trong thuật ngữ Chỉ quán (止觀, śamatha-vipaśyanā)
Chỉ: một loài thực vật thuộc họ Cửu lý hương (Rutaceae)
Chỉ (chữ Nho: 旨): là một văn bản luật pháp thời phong kiến của các triều đình Việt Nam |
Apache Struts (trước đây là thuộc dự án Apache Jakarta, Struts bây giờ là một dự án độc lập) là một bộ khung mã nguồn mở cho việc phát triển các ứng dụng web bằng J2EE. Nó sử dụng và mở rộng Java Servlet API để giúp cho các nhà phát triển áp dụng kiến trúc MVC (Model-view-controller). Struts ra đời bởi Craig McClanahan và cống hiến cho Tổ chức Apache vào tháng 5, 2000.
Bộ khung (framework) cho phép thiết kế và hiện thực các ứng dụng web ở quy mô lớn có thể được đảm nhiệm bởi nhiều nhóm khác nhau. Cụ thể hơn, các nhà thiết kế trang, các nhà phát triển thành phần và các nhà phát triển khác có thể xử lý phần việc của họ một cách trình tự và độc lập. Nó hỗ trợ I18N (hỗ trợ quốc tế), một thư viện thẻ tùy biến phong phú, hiển thị theo dạng lát gạch và kiểm chứng nội dụng (form validation). Nó cũng hỗ trợ nhiều lớp hiển thị khác nhau (presentation layers), bao gồm JSP, XML/XSLT, JavaServer Faces (JSF), và Velocity, cũng như nhiều lớp mô hình khác nhau, bao gồm JavaBeans và EJB.
Các bộ khung MVC khác
Mặc dù Struts được lập tài liệu hướng dẫn rất tốt, trở thành một bộ khung phổ biến và vững chắc cho việc phát triển các ứng dụng Java, nó vẫn đang gặp những thử thách mới từ các bộ khung MVC "nhẹ và đơn giản hơn" mới ra đời như Spring và Tapestry. Chuẩn và bộ khung mới XForms có thể là một lựa chọn khác cho việc kiểm chứng nội dung các trang web phức tạp (web form validations) kèm theo Struts trong tương lai.
Các bộ khung MVC khác mà không phụ thuộc vào Java gồm có Ruby on Rails và WebObjects. |
Diesel sinh học là một loại nhiên liệu có tính chất tương đương với nhiên liệu dầu diesel nhưng không phải được sản xuất từ dầu mỏ mà từ dầu thực vật hay mỡ động vật. Diesel sinh học nói riêng, hay nhiên liệu sinh học nói chung, là một loại năng lượng tái tạo. Nhìn theo phương diện hóa học thì diesel sinh học là methyl este của những axít béo.
Để kỷ niệm ngày 10 tháng 8 năm 1893, ngày chiếc động cơ Diesel do Rudolf Diesel phát triển tại Ausburg tự chạy lần đầu tiên, ngày 10 tháng 8 là ngày Diesel sinh học Quốc tế (International Biodiesel Day).
Sản xuất
Để sản xuất diesel sinh học người ta pha khoảng 10% mêtanol vào dầu thực vật và dùng nhiều chất xúc tác khác nhau (đặc biệt là hiđrôxít kali, hiđrôxít natri và các ancolat). Ở áp suất thông thường và nhiệt độ vào khoảng 60 °C liên kết este của glyxêrin trong dầu thực vật bị phá hủy và các axít béo sẽ được este hóa với mêtanol. Chất glyxêrin hình thành phải được tách ra khỏi dầu diesel sinh học sau đấy.
Thông qua việc chuyển đổi este này dầu diesel sinh học có độ nhớt ít hơn dầu thực vật rất nhiều và có thể được dùng làm nhiên liệu thay thế cho dầu diesel mà không cần phải cải biến động cơ để phù hợp.
Chữ đầu tự dùng cho tất cả các methyl este từ dầu thực vật theo DIN EN 14214 là PME (có giá trị toàn châu Âu từ 2004).
Tùy theo loại của nguyên liệu cơ bản người ta còn chia ra thành:
RME: Mêthyl este của cây cải dầu (Brassica napus) theo DIN EN 14214 (có giá trị toàn châu Âu từ 2004)
SME: Mêthyl este của dầu cây đậu nành hay dầu cây hướng dương.
PME: Mêthyl este của dầu dừa hay dầu hạt cau.
Bên cạnh đó còn có mêthyl este từ mỡ nhưng chỉ có những sản phẩm hoàn toàn từ dầu thực vật (PME và đặc biệt là RME) là được dùng trong các loại xe diesel hiện đại, khi được các nhà sản xuất cho phép.
Các vấn đề khi chuyển sang dùng diesel sinh học
Khi muốn chuyển sang sử dụng diesel sinh học thì chính sách thông tin của nhà sản xuất xe có thể trở thành một vấn đề lớn. Thường thì chỉ sau khi tốn nhiều thời gian kiên trì đặt câu hỏi người ta mới nhận được thông tin về việc là liệu một kiểu xe nhất định đã được cho phép dùng diesel sinh học hay không và mặc dù là diesel sinh học đã có trên thị trường từ 10 năm nay nhưng phần lớn các ô tô được sản xuất hằng loạt đều không thích nghi với diesel sinh học.
Khi dùng nhiên liệu diesel sinh học cho một xe cơ giới không thích nghi với PME, diesel sinh học sẽ phá hủy các ống dẫn nhiên liệu và các vòng đệm bằng cao su. Nguyên nhân là do diesel sinh học có tính chất hóa học của một chất làm mềm, chất cũng có trong các ống dẫn nhiên liệu và vòng đệm bằng cao su. Diesel sinh học sẽ thay thế các chất làm mềm trong các ống và vòng đệm này, vật liệu lúc đầu sẽ phồng lên, lúc này nếu dùng dầu diesel có nguồn gốc từ dầu mỏ thì dầu diesel này sẽ rửa sạch diesel sinh học. Không có chất làm mềm vật liệu sẽ cứng và bị thẩm thấu nước.
Một vấn đề khác là việc nhiên liệu đi vào nhớt động cơ tại các động cơ Diesel có bộ phun nhiên liệu trực tiếp. Vấn đề này thường xảy ra trong thời gian vận hành khi động cơ được vận hành có những thời gian chạy không tải lâu dài. Lượng nhiên liệu phun càng ít thì chất lượng phân tán của miệng phun càng giảm và vì thế có xu hướng hình thành những giọt nhiên liệu không cháy bám vào thành của xi lanh nhiều hơn và sau đó là đi vào hệ thống tuần hoàn bôi trơn. Tại đây độ bền hóa học kém của RME là một nhược điểm: RME bị phân hủy dần trong hệ tuần hoàn bôi trơn vì nhiệt độ cao tại đây, dẫn đến các chất cặn thể rắn hay ở dạng keo. Vấn đề này và tính bôi trơn kém đi của nhớt động cơ khi có nồng độ nhiên liệu cao có thể dẫn đến việc động cơ bị hao mòn nhiều hơn, vì thế mà người ta khuyên là khi vận hành bằng PME nên rút ngắn thời kỳ thay nhớt.
Một ưu điểm của PME có thể lại trở thành nhược điểm khi được sử dụng thực tế ở các loại xe cơ giới: dễ bị phân hủy bằng sinh học và đi cùng là không bền lâu. Oxy hóa và nước tích tụ sẽ làm xấu đi các tính chất của PME sau một thời gian tồn trữ. Vì thế mà PME thường ít được khuyên dùng cho các xe ít được vận hành.
Ngoài ra thì vì việc đốt cháy khác nhau nên các động cơ mới không được chứng nhận là thích nghi với PME có thể có vấn đề với các bộ phận điện tử của động cơ, những thiết bị mà đã được điều chỉnh để dùng với diesel thông thường. Đặc biệt là những xe cơ giới được trang bị bộ lọc muội than trong khí thải thường hay có vấn đề vì những hệ thống này đã được điều chỉnh trước để tăng lượng nhiên liệu phun sau mỗi 500 đến 1.000 km nhằm đốt các hạt muội than trong bộ lọc. Điều tốt và có lý nếu dùng diesel thông thường này lại trở thành điều xấu khi dùng diesel sinh học: nếu sử dụng diesel sinh học thì việc tăng lượng nhiên liệu phun sẽ làm loãng nhớt động cơ. Nếu sử dụng thuần túy diesel sinh học thì việc đốt các hạt muội than trong bộ lọc trở thành không cần thiết nữa. Vì thế trong tương lai sẽ có những thiết bị cảm biến nhiên liệu dùng để nhận biết chất lượng của nhiên liệu. Lượng và thời điểm phun nhiên liệu đều có thể được tối ưu hóa.
Kinh nghiệm trong lãnh vực xe chuyên chở cho thấy là việc sử dụng diesel sinh học nhiều năm có thể dẫn đến hư hỏng bơm nhiên liệu, đặc biệt là ở những động cơ có bộ phận bơm–phun nhiên liệu trực tiếp. Xe này tuy đã được cho phép vận hành với diesel sinh học nhưng nhà sản xuất bộ phận bơm phun (Bosch AG) thì lại không cho phép công khai dùng với RME. Người ta nói là vì phân tử RME có độ lớn khác với diesel thông thường và các phân tử RME trong các kênh dẫn tinh vi không có khả năng bôi trơn đầy đủ ở áp suất cao và vì thế là nguyên nhân dẫn đến hao mòn nhanh hơn.
Nguyên liệu cây cải dầu
Sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu
Với điều kiện ở châu Âu thì cây cải dầu (Brassica napus) với lượng dầu từ 40% đến 50% là cây thích hợp để dùng làm nguyên liệu sản xuất diesel sinh học. Dầu được ép ra từ cây cải dầu, phần còn lại được dùng trong công nghiệp sản xuất thức ăn cho gia súc. Trong một phản ứng hóa học đơn giản giữa dầu cải và mêtanol có sự hiện diện của một chất xúc tác, glyxêrin và mêtanol trao đổi vị trí cho nhau, tạo thành methyl este của axít béo và glyxêrin.
Ưu và nhược điểm đối với môi trường
Quy trình sản xuất không có chất thải vì tất cả các sản phẩm phụ đều có thể được tiếp tục sử dụng. Bã cây cải dầu được dùng làm thức ăn gia súc và glyxêrin có thể được tiếp tục dùng trong công nghiệp hóa (thí dụ như trong mỹ phẩm).
Thế nhưng cây cải dầu phải được trồng luân canh, tức là chỉ có thể trồng cây cải dầu trên cùng một cánh đồng từ 3 đến 5 năm một lần. Vì nguyên nhân này mà việc tiếp tục tăng sản xuất cải dầu là một việc khó khăn.
Một hạn chế khác là diện tích canh tác. Hiện nay (2006) ở Đức có hơn 1,2 triệu hecta, tức 1/10 diện tích canh tác nông nghiệp, được dùng để trồng cây cải dầu. Theo nhiều chuyên gia, việc mở rộng diện tích canh tác lên khoảng 1,5 triệu hecta là điều không thể. Do đó, tối đa nước Đức chỉ có thể sản xuất được vào khoảng 2 triệu tấn diesel sinh học. Trong khi đó nhu cầu dầu mỏ hiện nay của nước Đức là vào khoảng 130 triệu tấn hằng năm.
Ngoài ra, việc sản xuất diesel sinh học từ cây cải dầu cần dùng rất nhiều năng lượng cho phân bón và xử lý tiếp theo và vì thế tiêu hủy một phần lớn tiềm năng tiết kiệm năng lượng.
Tiềm năng thị trường của diesel sinh học
Diesel sinh học được tạo thành từ một phản ứng hóa học rất đơn giản. Diesel sinh học có nhiều ưu điểm đối với môi trường so với diesel thông thường: Diesel sinh học từ cây cải dầu phát sinh khí thải ít hơn rất nhiều so với nhiên liệu hóa thạch. Bụi trong khí thải được giảm một nửa, các hợp chất hyđrocacbon được giảm thiểu đến 40%. Diesel sinh học gần như không chứa đựng lưu huỳnh, không độc và có thể được dễ dàng phân hủy bằng sinh học. Diesel sinh học hiện nay được coi là một trong những nhiên liệu thân thiện với môi trường nhất trên thị trường. Mặc dầu hiện nay có thể mua diesel sinh học tại rất nhiều trạm xăng (riêng tại Đức là 1.900 trạm) nhưng diesel sinh học chưa được người tiêu dùng sử dụng nhiều do có nhiều nguyên nhân: Nhiều người tiêu dùng không tin tưởng vào loại nhiên liệu mới này vì không tưởng tượng được là có thể lái xe dùng một nhiên liệu hoàn toàn từ thực vật. Một vấn đề khác là rất nhiều người không biết chắc chắn là liệu ô tô của họ có thể sử dụng được diesel sinh học hay không.
Thiếu thông tin cho người tiêu dùng và các câu hỏi về hư hỏng sau này do diesel sinh học gây ra có thể là những vấn đề lớn nhất cho việc chấp nhận rộng rãi việc dùng diesel sinh học. Tại châu Âu đã nhiều lần có ý kiến cho là nên pha thêm vào nhiên liệu diesel thông thường khoảng từ 3% đến 5% diesel sinh học vì phần diesel sinh học này được coi là không có hại ngay cả cho những xe cơ giới chưa được trang bị thích hợp. Ở Pháp việc này đã được thực hiện từ lâu: Diesel thông thường được pha trộn thêm lượng diesel sinh học mà nông nghiệp nước Pháp có khả năng sản xuất. Tại Pháp chất lượng diesel thông thường có thành phần diesel sinh học là 5%, tránh được các nhược điểm kỹ thuật.
Từ đầu năm 2004 các trạm xăng ARAL và Shell ở Đức đã bắt đầu thực hiện chỉ thị 2003/30/EC của EU mà theo đó từ ngày 31 tháng 12 năm 2005 ít nhất là 2% và cho đến 31 tháng 12 năm 2010 ít nhất là 5,75% các nhiên liệu dùng để chuyên chở phải có nguồn gốc tái tạo.
Tại Áo một phần của chỉ thị của EU đã được thực hiện sớm hơn và từ ngày 1 tháng 11 năm 2005 chỉ còn có dầu diesel với 5% có nguồn gốc sinh học là được phép bán.
Các lựa chọn khác
Ngoài ra cũng cần phải nhắc đến các lựa chọn thích hợp khác cho diesel sinh học. Người ta cũng có thể sử dụng nhiên liệu dầu thực vật trực tiếp không cần phải chuyển đổi este. Tùy theo loại động cơ mà phải thay đổi một số thông số cho động cơ Diesel để điều chỉnh thích ứng với các tính chất vật lý khác đi.
Trong tương lai sẽ còn có nhiên liệu sinh khối lỏng (tiếng Anh: Biomass to Liquids) thay vì là dầu thực vật sẽ sử dụng toàn bộ khối lượng của cây như là nguồn cung cấp năng lượng. Các thử nghiệm đầu tiên với nhiên liệu sinh học tổng hợp này đã được tiến hành từ tháng 4 năm 2003 tại Đức. Loại nhiên liệu này, gọi là SunDiesel, được sản xuất từ gỗ và các loại sinh khối khác.
Đọc thêm
Năng lượng tái tạo
Nhiên liệu dầu thực vật |
Điện tử (tương đương tiếng Anh: Electronic) nghĩa Hán Việt là phần tử mang điện, và đã được dùng trong tiếng Việt với các nghĩa:
Ban đầu, điện tử được dùng để gọi tên hạt electron.
Sau này, các hệ thống hoạt động với dòng các điện tử được gọi là linh kiện điện tử.
Môn học nghiên cứu các linh kiện điện tử và công nghệ thiết kế, chế tạo, lắp ráp chúng được gọi là điện tử học.
Phân khoa trong trường đại học giảng dạy về môn điện tử học thường được gọi là "khoa điện tử".
Ngành công nghiệp chế tạo và phân phối các sản phẩm chứa các linh kiện điện tử là công nghiệp điện tử. |
Phần Lan (, ), tên chính thức là Cộng hòa Phần Lan (, ) là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía Bắc và Estonia về phía Nam qua Vịnh Phần Lan. Thủ đô của Phần Lan là Helsinki và cũng là thành phố lớn nhất.
Phần Lan là một trong những quốc gia dân cư thưa thớt nhất châu Âu. Theo số liệu tháng 12 năm 2020, dân số Phần Lan là 5.546.233 người. Với mật độ dân số chỉ khoảng 18 người/km², Phần Lan trở thành quốc gia có mật độ dân cư thấp nhất trong các nước Liên minh châu Âu. Ngôn ngữ chính tại nước này là tiếng Phần Lan - một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ural. Bên cạnh đó, tiếng Thuỵ Điển là ngôn ngữ chính thức thứ hai của nước này.
Trong lịch sử, Phần Lan từng là một phần của Thụy Điển trong một thời gian dài (từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII) rồi sau đó trở thành một đại công quốc dưới sự cai trị của Sa hoàng nước Nga trong khoảng thời gian 1809-1917. Ngày 6 tháng 12 năm 1917, Phần Lan chính thức tuyên bố độc lập, trở thành một nước cộng hòa. Năm 1918, đất nước Phần Lan non trẻ bị chia rẽ bởi cuộc nội chiến, giữa một bên là phe Hồng quân Bolshevik được hỗ trợ bởi nước Nga Xô Viết, và một bên là phe Bạch vệ, được Đế chế Đức hậu thuẫn. Sau một nỗ lực ngắn để thiết lập một vương quốc, đất nước đã trở thành một nền cộng hòa. Trong Thế chiến II, Liên Xô đã liên tục tìm cách chiếm đóng Phần Lan, Phần Lan đã buộc phải cắt nhượng cho Liên Xô một phần lãnh thổ của mình bao gồm Karelia, Salla, Kuusamo, Petsamo và một số đảo, nhưng đất nước vẫn giữ được độc lập. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan giữ vai trò như một nước trung lập và đã chuyển đổi nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp phát triển cao vào hàng bậc nhất châu Âu.
Phần Lan đã xây dựng được một nhà nước phúc lợi rộng rãi dựa trên mô hình Bắc Âu, đem lại sự thịnh vượng cho toàn dân và trở thành một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trên thế giới. Phần Lan giữ thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng quốc tế về giáo dục, khả năng cạnh tranh kinh tế, tự do dân chủ, chất lượng cuộc sống và phát triển con người . Ngày nay, Phần Lan là một quốc gia dân chủ theo chế độ cộng hòa nghị viện. Nước này là thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1955 và gia nhập Liên minh châu Âu vào năm 1995.
Từ nguyên
Tên gọi "Phần Lan" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, Phần Lan được gọi là "Finland". Bằng tiếng Trung, "Fin-land" được phiên âm là “芬蘭” (pinyin: "Fēn lán"). “芬蘭” có âm Hán Việt là “Phân Lan”. Do "Phân" là từ tế nhị, “Phân Lan” trong tiếng Việt được gọi chệch thành “Phần Lan”.
Nguồn gốc xa xưa của tên gọi Phần Lan (Finland) được cho là bắt nguồn từ 3 tảng đá khắc chữ Rune (hệ thống chữ cái của người Bắc Âu từ thế kỉ I đến giữa thời Trung Cổ). 2 tảng đá được tìm thấy ở Uppland, một vùng nhỏ thuộc Thuỵ Điển, và trên 2 tảng này có khắc chữ finlonti (U 582). Tảng đá thứ 3 được tìm thấy ở Gotland, khu biển Ban-tích (Baltic Sea). Trên tảng này có khắc từ Finlandi (G319) và có từ thế kỷ XIII.
Địa lý
Phần Lan nằm ở phía Bắc châu Âu giữa vĩ tuyến 60° và 70°. Một phần tư lãnh thổ là nằm phía bắc của Vòng Bắc Cực (vĩ tuyến 66°33' Bắc). Các nước láng giềng của Phần Lan là Thụy Điển, Na Uy, Nga và Estonia. Phần Lan thuộc Bắc Âu. Gần 1/3 lãnh thổ của Phần Lan nằm ở phía bắc vành đai Bắc cực. Hồ chiếm 1/10 diện tích của Phần Lan (tổng số khoảng 188.000 hồ). Hồ lớn nhất là hồ Saimaa rộng hơn 4.400 km². Phần Lan có 179.000 đảo khác nhau. Vào mùa đông, vịnh Bothnia ở phía Tây và Vịnh Phần Lan ở phía Nam đóng băng, ở các cảng phải sử dụng tàu phá băng. Đất của Phần Lan là đất băng giá. Trừ khu vực núi cao có đỉnh tới 1.342 m ở phía Tây Bắc, phần lớn diện tích còn lại của Phần Lan là đất thấp.
Khí hậu: Mùa hạ ấm. Mùa đông dài và rất lạnh, nhất là ở phía Bắc.
Khí hậu của Phần Lan có sự khác biệt rõ rệt vào mùa đông và mùa hè, nhiệt độ trung bình hằng năm tại thủ đô Helsinki khoảng 5,3°C. Nhiệt độ cao nhất vào ban ngày ở miền Nam của Phần Lan đôi khi cũng lên tới 25 °C. Vào mùa đông, nhất là vào những tháng 1, tháng 2, nhiệt độ thông thường là -20 °C. Phía cực bắc của Phần Lan, dưới vòng Bắc Cực, vào mùa hè có đợt Mặt trời không lặn trong khoảng 73 ngày, đó là những ngày "hè đêm trắng", còn vào mùa đông Mặt Trời không mọc trong 51 ngày liền.
Lịch sử
Khoảng thế kỷ I, người Phần Lan ở Estonia đến định cư ở các vùng phía Nam và đến khoảng năm 800 thì mở rộng đến vùng Karelia, nơi đã xuất hiện những cư dân khác gốc Phần Lan-Ugria, từ phía Đông đến lập nghiệp. Họ buôn bán lông thú rất phát đạt đến khi bị dân Viking cạnh tranh dần khắp vùng phía Nam. Khoảng năm 1150, vua Erik IX của Thụy Điển đã tiến hành một cuộc Thập tự chinh nhằm vào những người Phần Lan vô thần.
Cuộc chinh phục Phần Lan của Thụy Điển bắt đầu từ thế kỷ XII và kết thúc vào năm 1634. Trong cuộc cải cách tôn giáo ở thế kỷ XVIII, phần lớn người Phần Lan theo giáo phái của Martin Luther. Nga xâm lược phần lớn lãnh thổ của Phần Lan vào năm 1809. Trong suốt thế kỷ XIX, Phần Lan là một đại công quốc do Sa hoàng cai quản. Tình hình trở nên căng thẳng khi Đế quốc Nga muốn củng cố quyền lực chính trị và tăng cường ảnh hưởng văn hoá. Năm 1906, Phần Lan được phép triệu tập viện Duma (quốc hội) riêng, nhưng đến năm 1910 lại bị bãi bỏ. Sau cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, nội chiến nổ ra tại Phần Lan. Năm 1919, Lenin và nhà nước Xô Viết của Nga đã buộc phải trao quyền tự do cho Phần Lan. Thể chế cộng hòa độc lập được thiết lập và tồn tại cho tới ngày nay. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan giữ vai trò của một nước độc lập và trung lập.Phần Lan có được phần nào ảnh hưởng do thực hiện nghiêm chỉnh vai trò trung lập của mình, ví dụ vai trò chủ nhà của các phiên họp đầu tiên của Tổ chức Hợp tác và An ninh châu Âu. Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), Phần Lan đã nối lại quan hệ gần gũi vốn có với Nga và xin gia nhập Cộng đồng châu Âu.
Từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX, Phần Lan là phần lãnh thổ lớn thuộc Thụy Điển và sau đó là lãnh thổ tự trị của Nga sau năm 1809. Phần Lan hoàn toàn độc lập vào năm 1917. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan đã bảo vệ được nền độc lập của mình và chống lại sự xâm lược của Liên Xô (Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan) mặc dù bị mất một phần lãnh thổ. Nửa thế kỷ sau đó, người Phần Lan đã có một sự biến đổi lớn từ một nền kinh tế nông-lâm nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế công nghiệp hiện đại đa dạng hoá, thu nhập đầu người tương đương với các nước Tây Âu. Là thành viên của Liên minh châu Âu, Phần Lan là quốc gia Bắc Âu duy nhất tham gia đồng tiền chung euro bắt đầu từ tháng 1 năm 1999.
Niên biểu
1155: Giáo sĩ đầu tiên là người Thụy Điển đến Phần Lan. Phần Lan trở thành một phần lãnh địa của Thụy Điển.
1809: Thụy Điển nhượng Phần Lan cho Nga hoàng, Nga hoàng tuyên thệ Phần Lan là lãnh thổ tự trị thuộc Nga.
1917: 2 tháng sau cuộc Cách mạng Phần Lan tuyên bố độc lập chủ quyền, cũng như không còn là vùng tự trị của Nga hoàng vào ngày 6 tháng 12.
1919: Phần Lan thiết lập hiến pháp, trở thành một quốc gia cộng hòa với sự đứng đầu là tổng thống.
1939-1940: Liên Xô tấn công Phần Lan, nổ ra cuộc Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940).
1941-1944: Cuộc chiến tranh giữa Phần Lan và Liên Xô tiếp tục trong cuộc chiến tranh Tiếp diễn.30% lãnh thổ của Phần Lan phải nhựơng lại cho Liên Xô và 11% sản lượng công nghiệp của nước này bị mất vào tay Liên Xô.
1955: Phần Lan gia nhập Liên hiệp quốc và trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956.
1995: Phần Lan trở thành thành viên của EU.
Chính trị
Phần Lan đã có hiến pháp và hình thức chính quyền riêng khi còn là một đại công quốc tự trị thuộc Nga. Hiến pháp Phần Lan được phê chuẩn ngày 17 tháng 7 năm 1919 và vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. Về cơ bản, hiến pháp đảm bào các quyền công dân, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Quyền lực tối cao nằm trong tay người dân, mà quốc hội là đại diện.
Quốc hội
Quốc hội Phần Lan gồm một viện với 200 ghế. Năm 1928, luật quốc hội được thông qua. Nó đặt ra cơ cấu, trách nhiệm và cơ chế bầu cử quốc hội. Các thành viên trong quốc hội được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo hiến pháp, quốc hội bầu ra thủ tướng, sau đó được tổng thống bổ nhiệm vào nội các. Các bộ trưởng cũng được tổng thống bổ nhiệm dựa trên sự đề xuất của thủ tướng.Trong vài thập kỷ qua quyền lực của Tổng thống đã bị giảm bớt. Trong bản sửa đổi hiến pháp, có hiệu lực vào năm 1991 hoặc 1992 cùng với một hiến pháp mới được soạn thảo năm 2000, được sửa đổi vào năm 2012, Tổng thống đã dần dần trở thành một nhân vật mang tính nghi thức. Nhiều tổng thống đã từng là thủ tướng trước khi tiếp nhận chức tổng thống. Juha Sipilä là Thủ tướng Phần Lan hiện tại, đồng thời là chủ tịch Đảng Trung tâm Phần Lan, một đảng trung dung.
Sau cuộc bầu cử quốc hội ngày 19 tháng 4 năm 2015, các ghế trong quốc hội được phân chia như sau:
Tổng thống
Tổng thống là người đứng đầu nhà nước Phần Lan, được bầu cử với nhiệm kỳ 6 năm. Kể từ năm 1991, không vị tổng thống nào được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống phải là người Phần Lan. Các chính đảng có ít nhất 1 ghế trong quốc hội được quyền đề cử ứng viên tổng thống. Tuy nhiên bất cứ ai thu được hơn 20000 chữ ký cũng có thể ứng cử.
Thủ tướng hiện tại là Sanna Marin, nhậm chức kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2019 tại tuổi 34, trở thành vị Thủ tướng Cộng hòa trẻ nhất đang phục vụ và Thủ tướng Phần Lan trẻ nhất từ trước tới nay.
{| class="wikitable"
|-
!colspan=3|Các đời tổng thống Phần Lan
|-
! Tên!! Năm sinh, năm mất!! Thời gian tại chức
|-
| Kaarlo Juho Ståhlberg || 1865–1952 || 1919–1925
|-
| Lauri Kristian Relander || 1883–1942 || 1925–1931
|-
| Pehr Evind Svinhufvud || 1861–1944 || 1931–1937
|-
| Kyösti Kallio || 1873–1940 || 1937–1940
|-
| Risto Heikki Ryti || 1889–1956 || 1940–1944
|-
| Carl Gustaf Emil Mannerheim || 1867–1951 || 1944–1946
|-
| Juho Kusti Paasikivi || 1870–1956 || 1946–1956
|-
| Urho Kaleva Kekkonen || 1900–1986 || 1956–1981
|-
| Mauno Henrik Koivisto || 1923–2017 || 1982–1994
|-
| Martti Oiva Kalevi Ahtisaari || 1937– || 1994–2000
|-
| Tarja Kaarina Halonen || 1943– || 2000–2012
|-
| Sauli Väinämö Niinistö || 1948- || 2012-
|-
Ngoại giao
Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ quá khứ của lịch sử, trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực; giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, các khối; không tham gia các khối quân sự; ủng hộ và thúc đẩy cho các hoạt động vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế; ủng hộ đối thoại giữa các nước và khu vực.
Năm 2008, Phần Lan là Chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng như các nước Bắc Âu, Nga và các nước ở vùng biển Baltic. Mới đây, Phần Lan đã thông qua Hiệp ước Lisbon. Hiện nay, Phần Lan đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình (Partnership for Peace) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO (tuy nhiên phần lớn dân Phần Lan muốn tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại trung lập). Chính phủ Phần Lan cũng chú trọng phát triển quan hệ với châu Á, nhất là với các nền kinh tế đang nổi lên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Phần Lan thâm nhập thị trường, phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh.
Phần Lan trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1950; Liên Hợp Quốc và Hội đồng Bắc Âu năm 1955; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1969; liên kết với Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ năm 1986; ký Hiệp định Tự do thương mại với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) năm 1973. Phần Lan gia nhập Liên hiệp châu Âu (EU) từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 và EMU từ 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan cũng là thành viên của Tổ chức Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng phát triển trên thế giới như ADB...
Sau chiến dịch quân sự đặc Biệt của Nga năm 2022 Phần Lan đã tuyên bố chấm thời kỳ trung lập và xin gia nhập NATO.
Hành chính
Phần Lan bao gồm 19 khu vực được gọi là maakunta bằng tiếng Phần Lan và landskap bằng tiếng Thụy Điển. Các khu vực được quản lý bởi các hội đồng khu vực đóng vai trò là diễn đàn hợp tác cho các đô thị của một khu vực. Nhiệm vụ chính của khu vực là quy hoạch vùng và phát triển doanh nghiệp và giáo dục. Ngoài ra, các dịch vụ y tế công cộng thường được tổ chức trên cơ sở các vùng. Hiện tại, khu vực duy nhất nơi một cuộc bầu cử phổ biến được tổ chức cho hội đồng là Kainuu. Hội đồng khu vực khác được bầu bởi các hội đồng thành phố, mỗi đô thị gửi đại diện theo tỷ lệ dân số của nó.
Phần Lan được chia thành 6 tỉnh Åland • Đông Phần Lan • Lapland • Nam Phần Lan • Oulu • Tây Phần Lan, ngoài ra, Åland được chỉ định là tỉnh thứ bảy.
Luật pháp
Hệ thống tư pháp của Phần Lan là một hệ thống luật dân sự được phân chia giữa những tòa án với thẩm quyền dân sự và hình sự thường xuyên với những tòa án hành chính có thẩm quyền đối với các vụ kiện giữa các cá nhân và chính quyền công. Luật Phần Lan được luật hóa và dựa trên luật pháp Thụy Điển và rộng hơn là bộ luật La Mã. Hệ thống tòa án dân sự và quyền tài phán hình sự bao gồm các tòa án địa phương (käräjäoikeus, tingsrätt), tòa phúc thẩm khu vực (hovioikeus, hovrätt), và Tòa án tối cao (korkein oikeus, högsta domstolen). Chi nhánh hành chính của tòa án bao gồm các tòa án hành chính (hallinto-oikeus, förvaltningsdomstol) và Tòa án Hành chính Tối cao (korkein hallinto-oikeus, högsta förvaltningsdomstolen). Ngoài các tòa án thông thường, có một vài tòa án đặc biệt ở chi nhánh nhất định của chính quyền. Ngoài ra còn có một Tòa án Tối cao chuyên luận tội đối với các cáo buộc hình sự chống lại các cán bộ cấp cao trong chính quyền.
Khoảng 92% người dân Phần Lan tuyên bố họ tin tưởng vào lực lượng an ninh của đất nước này . Tỷ lệ tội phạm của Phần Lan nhìn chung là không cao trong số các nước EU. Một số loại tội phạm có tỉ lệ ở trên mức trung bình, đáng chú ý tỷ lệ giết người ở Phần Lan là cao nhất trong số các nước Tây Âu .
Phần Lan đã chiến đấu mạnh mẽ để chống lại tình trạng tham nhũng trong bộ máy chính phủ từ những năm 70 và 80. Ngày nay, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng Phần Lan là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất ở châu Âu.
An sinh xã hội
Phần Lan có một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới, một hệ thống đảm bảo tốt điều kiện sống cho tất cả người dân. Kể từ những năm 1980, an sinh xã hội đã được cắt giảm, nhưng hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan vẫn là một trong những hệ thống an sinh xã hội phát triển toàn diện nhất và tiến bộ nhất trên thế giới. Hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh.
Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.
Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương – các chính quyền tự trị – cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp rất cao.
Hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan cung cấp cho người dân:
Các chương trình an sinh xã hội: Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhập được phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội .
Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày .
Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có một con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động .
Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5% .
Trợ cấp gia đình: Được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng. Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó . Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con. Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ ở Phần Lan kéo dài đến 18 tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 70-90% tiền lương. Theo đó trợ cấp dành cho một đứa trẻ mới sinh trong mỗi gia đình là 100 euro/tháng, từ đứa thứ 3 là 141 euro/tháng và từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng. Khoản tiền này có thể được cung cấp cho đến khi đứa trẻ 17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ được chào đời, chính phủ sẽ tặng cho mỗi bà mẹ một chiếc hộp dụng cụ với đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ trẻ em, túi ngủ, đồ dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn miễn phí và được áp dụng với tất cả mọi người không kể giàu nghèo.
Dịch vụ chăm sóc trẻ em: Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp.
Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả… được cung cấp miễn phí .
Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sĩ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sĩ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sĩ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác .
Kinh tế
Từ một nước bị tàn phá sau chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung vào xây dựng đất nước và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển hàng đầu thế giới với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống, có chuyên môn hoá cao như công nghiệp gỗ giấy; luyện kim; đóng tàu và vận tải; cơ khí; điện tử, viễn thông; công nghiệp hoá chất, dược phẩm. Về nông nghiệp, Phần Lan có 2.504 ngàn héc-ta đất trồng trọt (chiếm 8% diện tích), tự túc 85% lương thực.
Chính phủ Phần Lan luôn chú trọng gắn giáo dục với nghiên cứu và sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, trong đó hiện nay tập trung vào công nghệ thông tin. Theo xếp hạng của Ủy ban Sáng tạo châu Âu (EIS), Phần Lan được xếp là nền kinh tế sáng tạo thứ ba thế giới, vượt xa mức trung bình của châu Âu và Mỹ, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2004) đánh giá là đất nước có "văn hóa sáng tạo", trong đó Nokia là một điển hình.
Tình hình kinh tế của Phần Lan hiện nay nhìn chung ổn định. Kinh tế Phần Lan đã chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu (thu nhập từ xuất khẩu, chiếm 40% GDP của Phần Lan, đã giảm mạnh). Tuy nhiên, theo đánh giá mới đây của EU, về trung và dài hạn, Phần Lan có nền kinh tế ổn định và vững chắc. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2017 là là 7,5% (2010 là 8,4%).
Rừng chiếm 2/3 diện tích của Phần Lan và các sản phẩm gỗ chiếm 45% số ngoại tệ thu được ở Phần Lan. Điện thoại di động Nokia (chính gốc là của Phần Lan) hiện đang chiếm một con số đáng kể trong doanh thu của kinh tế Phần Lan. Chế biến kim loại và cơ khí, đặc biệt đóng tàu là các ngành công nghiệp chính của Phần Lan nổi tiếng về chất lượng và thiết kế. Ngoài gỗ, quặng đồng và thủy điện, các nguồn tài nguyên khác đều nghèo. Phần Lan có mức sống cao, mặc dù việc buôn bán với Nga, bạn hàng chủ yếu, bị sụp đổ kéo theo những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế trong những năm 1991-1992. Công nghiệp đánh cá có quy mô đáng kể. Nông nghiệp sản xuất ra các sản phẩm sữa cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Các đối tác thương mại lớn nhất của Phần Lan là với Đức, Nga, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc. Phần Lan là quốc gia Bắc Âu duy nhất tham gia Eurozone.
Tính đến năm 2016, GDP của Phần Lan đạt 239,186 tỷ USD, đứng thứ 44 thế giới và đứng thứ 17 châu Âu.
Công nghiệp
Phần Lan tiến hành công nghiệp hóa nhanh chóng sau Thế chiến II, đạt mức GDP bình quân đầu người ngang bằng với Nhật Bản và Anh vào đầu những năm 1970. Ban đầu, phần lớn sự phát triển dựa trên hai nhóm ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, là "công nghiệp kim loại" (metalliteollisuus) và "công nghiệp rừng" (metsäteollisuus). Các "ngành công nghiệp kim loại" bao gồm đóng tàu, gia công kim loại, ngành công nghiệp xe hơi, các sản phẩm thiết kế như động cơ và điện tử, và sản xuất kim loại (thép, đồng và crom). Những con tàu du lịch lớn nhất thế giới được chế tạo tại các xưởng đóng tàu của Phần Lan. "Ngành công nghiệp rừng" bao gồm lâm nghiệp, gỗ, bột giấy và giấy, và là một sự phát triển hợp lý dựa trên nguồn tài nguyên rừng rộng lớn của Phần Lan (77% diện tích được bao phủ bởi rừng, phần lớn là sử dụng tái tạo). Trong ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nhiều công ty lớn nhất có trụ sở tại Phần Lan (Ahlstrom, Metsä Board, và UPM). Tuy nhiên, nền kinh tế Phần Lan đang dần đa dạng hóa, mở rộng sang các lĩnh vực khác như điện tử (như Nokia), đo lường (Vaisala), nhiên liệu vận tải (Neste), hóa chất (Kemira), tư vấn kỹ thuật (Pöyry) và công nghệ thông tin (ví dụ Rovio Entertainment, nổi tiếng với tựa game Angry Birds), và không còn bị chi phối bởi hai ngành công nghiệp kim loại và rừng. Tương tự như vậy, cấu trúc đã thay đổi, với tỉ trọng các ngành dịch vụ ngày càng tăng, và với việc công nghiệp sản xuất ngày càng giảm tầm quan trọng; nông nghiệp thì chỉ chiếm một phần nhỏ.
Thương mại
Thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Phần Lan, trong đó xuất khẩu chiếm tỷ trọng GDP cao. Ba ngành xuất khẩu quan trọng trong nền kinh tế Phần Lan là: Các sản phẩm thép, máy móc và thiết bị vận tải (chiếm 31,1% xuất khẩu); Thiết bị quang học và điện tử (chiếm 28% xuất khẩu); và sản phẩm giấy và gỗ (chiếm 20,3% xuất khẩu). Công nghiệp Phần Lan phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô, máy móc và phụ kiện cần thiết cho sản xuất các sản phẩm tiêu thụ trong nước cũng như cho xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu chính của Phần Lan là Đức, Thuỵ Điển, Nga và Mỹ. Các đối tác nhập khẩu chính là Đức (15,8%), Nga (14%), Thụy Điển (13,7%) và Hà Lan (6,8%).
Chính sách ODA
Phần Lan luôn coi trọng chính sách viện trợ và hợp tác phát triển, coi đây là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Thông qua viện trợ phát triển, Phần Lan mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, qua đó tăng cường khả năng thu hút đầu tư và thương mại của các nước này ("aid for trade"), hướng tới xoá bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới. Ngày 18 tháng 10 năm 2007, chính phủ Phần Lan đã thông qua Chương trình chính sách phát triển (Development Policy Programme) mới với chủ đề "Toward a Sustainable and Just World Community"(Hướng tới một cộng đồng thế giới công bằng và bền vững). Mục tiêu chính của chính sách phát triển mới này là xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững phù hợp với các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Năm 2009, viện trợ phát triển của Phần Lan đạt 0,5% GDI. Phần Lan cam kết tăng viện trợ phát triển lên 0,58% GDI năm 2011 và 0,7% GDI năm 2015. Hiện nay, hợp tác phát triển của Phần Lan tập trung vào 8 nước đối tác dài hạn gồm: Mozambique, Tanzania, Ethiopia, Zambia, Kenya ở châu Phi; Nicaragua ở châu Mỹ Latin; Việt Nam và Nepal ở châu Á.
Du lịch
Phần Lan đã đón hơn 3 triệu du khách nước ngoài trong năm 2017, trong đó có khoảng 1,5 triệu đến từ các quốc gia Liên minh châu Âu . Năm 2013, giá trị của ngành du lịch chiếm khoảng 2,5% GDP của Phần Lan, và cung cấp khoảng 136 700 việc làm .
Cảnh quan chiếm ưu thế tại Phần Lan là những cánh rừng thông dày và những ngọn đồi thoai thoải, cùng với một số lượng rất lớn các hồ nước và những con lạch. Phần lớn lãnh thổ Phần Lan là nguyên sơ và hoang sơ, bao gồm 40 công viên quốc gia từ bờ biển phía Nam của Vịnh Phần Lan đến vùng núi cao Lapland. Phần Lan cũng có các vùng dân cư với nhiều sự kiện và hoạt động văn hóa.
Các chuyến du lịch thương mại giữa các thành phố cảng biển và ven biển lớn ở khu vực Baltic, bao gồm Helsinki, Turku, Tallinn, Stockholm và Travemünde, đóng một vai trò quan trọng trong ngành du lịch địa phương. Phần Lan được coi là quê hương của Thánh Nicholas hay Ông già Noel, sống ở vùng Lapland phía bắc . Ông già Noel thường được cho là sống ở Rovaniemi vùng Lapland phía bắc Phần Lan. Ở thị trấn Rovaniemi còn có một ngôi làng gọi là Làng Santa Claus cho khách du lịch đến tham quan.
Khu vực nằm bên trong Vòng Bắc Cực, vào giữa mùa đông thường xảy ra hiện tượng đêm vùng cực, một khoảng thời gian mà mặt trời không mọc trong nhiều ngày hoặc vài tuần, hoặc thậm chí hàng tháng, vào giữa mùa hè thì lại có hiện tượng ban ngày vùng cực, khi mà mặt trời vẫn có thể chiếu sáng ngay cả khi nửa đêm (73 ngày liên tục, tại điểm cực bắc). Hiện tượng cực quang cũng thường xuyên xuất hiện ở vùng phía bắc đất nước vào một thời điểm nhất định trong năm, đây cũng là thời điểm thu hút khách du lịch.
Ngoài ra, vào mùa đông, Phần Lan mang đến cơ hội trượt tuyết băng đồng và trượt tuyết trên núi cao. Nhiều khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng nằm ở phía bắc của vòng Bắc cực ở Lapland, ngoài ra còn có khu trượt tuyết Kuusamo ở phía đông bắc của tỉnh Oulu và Himos ở Jämsä, chỉ cách Helsinki 200 km về phía bắc.
Nhân khẩu
Dân số
Dân số của Phần Lan xấp xỉ 5.500.000 người. Phần Lan là quốc gia rộng xếp thứ 6 ở châu Âu, mật độ dân số trung bình 18 người/km². Hầu hết người Phần Lan, khoảng 54% sống ở ngoại ô, trong đó 26% sống ở khu vực vùng xa thành phố. Thành phố Helsinki, thủ đô của Phần Lan, có số dân khoảng 626.305 người, Espoo có khoảng 267.906 người và Vantaa có khoảng 212.473 người; một số các thành phố lớn khác là Tampere với số dân 223.238 người, Bắc Oulu 196.860 người, Turku 184.190 người, Jyväskylä 135.591 người và Kuopio là 111.000 người.
Có khoảng 1,8 triệu gia đình ở Phần Lan. Trong số đó các gia đình có trẻ em chiếm khoảng 1,9%. Vào năm 1960 con số đó là 2,27%. Năm 1999 số lực lượng lao động nữ chiếm 2.5 triệu người. Mức thu nhập của họ chiếm 80% so với nam giới và tuổi thọ của nữ giới cũng cao hơn nam. Trung bình tuổi thọ của nữ giới là 83 trong khi nam giới là 76. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1999, nữ chiếm 74 ghế trong tổng số 200.
Chính sách phúc lợi xã hội của Phần Lan rất tốt.Trẻ em khi sinh ra được chính phủ trợ cấp 100 Euro/tháng cho đến khi đủ 18 tuổi. Phụ nữ mang thai được nghỉ 20 tuần nhưng vẫn được trả 100% lương.
Tôn giáo
Phần Lan là một trong các nước có tỉ lệ dân số theo tôn giáo lớn nhất châu Âu, tuy tỉ lệ này đang giảm. Vào năm 2014, khoảng 74% dân số thuộc Giáo hội Lutheran và khoảng 2% thuộc các nhánh Cơ Đốc giáo khác, hay các cộng đồng tôn giáo khác. Khoảng 23,5% dân số không theo tôn giáo nào. Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan chỉ có dưới 60.000 tín đồ, tức là khoảng 1.1% dân số. Tự do tín ngưỡng ở Phần Lan đã được bảo đảm từ năm 1923.
Sự mộ đạo của Phần Lan đã được mô tả một cách khá đúng là "theo đạo nhưng không thường xuyên dự lễ", vì phần lớn người dân không thường xuyên dự các buổi lễ hàng tuần tại nhà thờ. Vai trò của nhà thờ trong đời sống ở Phần Lan được thể hiện rõ hơn trong các sự kiện hàng năm như lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh, và trong các sự kiện quan trọng trong gia đình như lễ báp têm, lễ kiên tín, lễ cưới, và lễ tang.
Cơ Đốc giáo đến Phần Lan vào thế kỷ XI từ cả hai phía Đông và Tây, khi đó Phần Lan thuộc ảnh hưởng của Thụy Điển. Vua Thụy Điển Gustavus Vasa, người trị vì trong thế kỷ XVI, quyết định ủng hộ cuộc Cải cách Tin Lành trong vương quốc của mình, kết quả là tài sản của Giáo hội Công giáo ở Phần Lan bị tịch thu và Giáo hội Lutheran dần được thiết lập là giáo hội dân tộc cùng với Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan sau này.
Trong một thời gian dài, Giáo hội đảm trách các chức năng quan trọng của xã hội như hành chính địa phương và giáo dục, trong khi đó Nhà nước tham gia một phần trong các vấn đề như hành chính, tài chính và điều lệ của Nhà thờ. Giáo hội Tin Lành Lutheran Phần Lan và Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan tiếp tục giữ vai trò đặc biệt, như trong trường học và các nghi lễ quốc gia.
Tín đồ của hai nhà thờ này trả một khoản lệ phí thành viên dưới dạng thuế nhà thờ khoảng từ 1 đến 2.25%, tùy theo từng giáo xứ, được thu cùng với thuế thu nhập. Ngoài ra, các nhà thờ còn được hưởng một phần nhỏ trong thuế doanh nghiệp do các công ty, tập đoàn hay các tổ chức tương tự như vậy đóng góp. Khoản tiền này được dùng để hỗ trợ quản lý các hoạt động phát triển xã hội của nhà thờ như tạo việc làm cho thanh thiếu niên, công việc xã hội, tu sửa nghĩa trang, duy trì sổ đăng ký của nhà thờ, tu sửa các khu nhà lịch sử.
Ngôn ngữ
Tiếng Phần Lan là thành viên của hệ ngôn ngữ Ural. Tiếng Phần Lan, tiếng Estonia nằm trong một nhánh; tiếng Hungary thuộc nhóm lớn trong nhóm ngôn ngữ người Ugri. Ngôn ngữ chính thức của Phần Lan là tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển được sử dụng như tiếng mẹ đẻ khoảng 6% số dân. Một tiếng bản xứ nữa là tiếng Sami được sử dụng bởi những người Sami, còn được biết đến là người Lapp (miền Bắc của Scandinavia). Tiếng Thụy Điển xuất hiện ở Phần Lan do có lịch sử trước đây, thời kỳ đầu thế kỷ XIII cho đến năm 1809, lúc đó Phần Lan là một phần của lãnh địa Thụy Điển.
Số lượng người nước ngoài sống tại Phần Lan khoảng 322,700 người vào năm 2014, chủ yếu tới từ Nga, Estonia, Somalia, Iraq và Nam Tư .
Giáo dục
Hệ thống giáo dục ở Phần Lan là hoàn toàn miễn phí. Chương trình mầm non được dành cho trẻ từ 4 tuổi đến 6 tuổi. Chương trình giáo dục toàn diện bắt buộc trong 9 năm bắt đầu từ 7 tuổi và kết thúc vào 16 tuổi. 6 năm đầu tiên học sinh sẽ được học với 1 giáo viên duy nhất dạy các môn (trừ các môn năng khiếu), 3 năm cuối cấp sẽ được học theo từng giáo viên bộ môn như: Toán, Khoa học, Kinh tế gia đình,... Đại học hoặc học nghề sau phổ thông (bắt buộc) được thực hiện ở năm 17 tuổi.
Các trường Đại học ở Phần Lan:
Đại học Helsinki
Đại học Metropolia
Đại học Aalto
Đại học Haaga-Helia
Đại học Oulu
Đại học Häme
Đại học Vaasa
Đại học Tampere
Đại học Turku
Văn hóa
Biểu tượng quốc gia
Trinh nữ Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomi-neito, tiếng Thụy Điển: Finlands mö) là một cô gái trẻ được xây dựng thành một hình tượng quốc gia (National personification) của Phần Lan, biểu thị sự hiện thân của Phần Lan.
Văn học
Mặc dù được ghi nhận là một trong những nền văn học xuất hiện muộn nhất địa vực Âu châu, nhưng Phần Lan thường được mệnh danh Ngôi sao phương Bắc vì những thành tựu khiến nhiều nền văn học lâu đời phải ganh tị. Cái bất thường của nền văn học từ khi ra đời đến nay là hầu như không song hành ngôn ngữ bản địa, cho dù ngôn ngữ Phần Lan cũng có lịch sử ít nhất một thiên niên kỷ. Trong thực tế, các giá trị tạo nên văn học Phần Lan lại không hữu hạn trong quốc thổ mà tỏa ra Thụy Điển, Estonia, Nga và đặc biệt Karjala - miền đất huyền thoại này được coi là khởi thủy dòng văn học tiếng Phần Lan. Do vậy, thuật ngữ văn học Phần Lan còn có tính quốc tế khá cao.
Do nhiều biến cố lịch sử, văn học Phần Lan được cấu thành trên ba ngôn ngữ: Thụy Điển, Phần Lan và Nga. Vì thế, đôi khi Phần Lan được giới phê bình gọi vui là nền văn học chân thiên nga. Trong đó, văn học tiếng Thụy Điển có giá trị cao nhất và khối lượng cũng đồ sộ hơn cả. Sau Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Phần Lan cùng các cơ quan đặc trách văn hóa đã ra sức nâng tầm tiếng Phần Lan thành quốc ngữ, qua đó dòng văn học tiếng Phần Lan có sự tăng trưởng mạnh hơn các thời trước. Tuy nhiên, dòng nghệ thuật này lại phổ biến ở Karjala và Estonia hơn.
Ngày nay, văn học Phần Lan được san xẻ chung giữa Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Nga và Estonia như bộ phận rất quan trọng cấu thành văn hóa mỗi quốc gia. Tại Latvia, Lietuva, Belarus và Ba Lan, thậm chí Komi từ đầu thập niên 1990 đã diễn ra những tranh luận sôi nổi trong vấn đề có hay không công nhận dòng văn học Phần Lan từng tồn tại trong diễn trình lịch sử văn học xứ mình, nhiều quan điểm cho rằng đã tới lúc cần chấp nhận nó như một đặc tính bản địa thay vì coi là ngoại lai. |
Phổ Hoá (zh. pǔhuà 普化, ja. fuke), ?-860, cũng được gọi là Trấn Châu Phổ Hoá, là Thiền sư Trung Quốc dòng Mã Tổ Đạo Nhất, môn đệ của Thiền sư Bàn Sơn Bảo Tích. Sư nổi danh vì những hành động quái dị và những hành động này còn được ghi lại trong Lâm Tế lục.
Cơ duyên hoằng hoá
Sau khi Bàn Sơn tịch, sư đến trợ giúp Lâm Tế hoằng hoá trong thời gian đầu. Khi việc đã xong, toàn thân biến mất không để lại dấu vết. Dòng Thiền của sư được Thiền sư người Nhật Tâm Địa Giác Tâm truyền sang Nhật với tên Phổ Hoá tông (ja. fukeshū)
Bàn Sơn sắp tịch, gọi đệ tử đến bảo: "Có người vẽ được chân dung ta chăng?" Tất cả môn đệ đều trình đã vẽ đến nhưng chẳng hợp ý Bàn Sơn. Sư liền ra thưa: "Con vẽ được." Bàn Sơn bảo: "Sao chẳng trình Lão tăng?" Sư liền lộn nhào rồi đi ra. Bàn Sơn liền bảo: "Gã này sau chụp gió chạy loạn đây."
Như Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch tiên đoán trước, sư là người phụ giúp Lâm Tế Nghĩa Huyền hoằng hoá trong thời gian đầu tại Trấn Châu. Lâm Tế lục ghi lại nhiều giai thoại của sư với Lâm Tế. Một trong những câu chuyện thường được nhắc đến nhất là việc thiên hoá của Sư.
Một hôm sư ra giữa chợ hô hào xin người qua lại một cái áo dài. Ai cũng cho nhưng sư không vừa lòng. Lâm Tế nghe vậy liền khiến một vị đệ tử mua một chiếc quan tài. sư đến viện, Lâm Tế bảo: "Ta có cho ông cái áo dài rồi!" Sư bèn tự vác đi quanh chợ kêu lên rằng: "Lâm Tế làm cho tôi một cái áo dài rồi. Tôi qua cửa Đông Thiên hoá đây!" Mọi người đua nhau theo xem, sư bèn nói: "Hôm nay chưa, ngày mai ra cửa Nam thiên hoá!" Cứ như thế ba ngày thì không ai đi theo và đến ngày thứ tư, một mình sư ra ngoài thành, tự đặt mình vào quan tài, nhờ người đóng nắp lại. Tin đồn ra thì mọi người đổ xô lại, mở quan tài ra xem thì không thấy xác đâu, chỉ nghe trên không tiếng chuông văng vẳng xa dần.
Phổ Hoá tông
Phổ Hoá tông (zh. pǔhuà-zōng 普化宗, ja. fuke-shū) là một nhánh thiền nhỏ không quan trọng tại Trung Quốc, được Thiền sư Phổ Hoá khai sáng trong thế kỉ thứ 9. Trong tông này, người ta thay thế việc tụng kinh niệm Phật bằng cách thổi sáo – cây sáo này được gọi là Xích bát (zh. 尺八, ja. shakuhachi).
Phổ Hoá tông được Thiền sư Tâm Địa Giác Tâm (zh. 心地覺心, ja. shinchi kakushin, 1207-1298) truyền sang Nhật trong thời đại Liêm Thương (zh. 鐮倉, ja. kamakura). Các người theo tông này – phần lớn thuộc giới Cư sĩ – chu du khắp nơi, lúc nào cũng mang một cái nón tre che cả khuôn mặt và thổi sáo. Họ được gọi là "Hư vô tăng" (zh. 虛無僧, ja. komusō). Tông này sau bị cấm vì có nhiều hiệp sĩ (thị 侍, ja. samurai) vô chủ, lợi dụng chiếc nón tre che mặt che đậy tông tích, hành vi bất thiện. |
Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. Amitāyurdhyāna Sūtra), còn gọi là Thập Lục Quán Kinh, là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông (cùng với Vô lượng thọ kinh và A-di-đà kinh). Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A-di-đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ của A-di-đà.
Kinh này chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vi-đề-hi, mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-bà-sa-la (sa., pi. bimbisāra). Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc của A-di-đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.
Mười sáu phép quán tưởng đó là: quán mặt trời lặn; quán nước; quán đáy sông; quán cây cối; quán nước cam lộ; quán thế giới thực vật; quán nước và đáy nước; quán toà sen; quán ba báo thân của ba vị thánh A-di-đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; quán ba ứng thân của Phật A-di-đà; của Quán Thế Âm; của Đại Thế Chí; quán A-di-đà trong Tịnh độ; quán ba vị thánh trong Tịnh độ; quán cấp thượng căn trong Tịnh độ; quán cấp trung căn và hạ căn trong Tịnh độ. Các phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A-di-đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc chắn hành giả sẽ được tái sinh về Tịnh độ.
Chú thích |
Tam Thánh Huệ Nhiên, hay còn gọi Tam Thánh Tuệ Nhiên ( hoặc 三圣慧然, ja. sanshō enen), tk. 9, là Thiền sư Trung Quốc, một trong những môn đệ thượng thủ nối pháp của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Sư cũng là người biên soạn những pháp ngữ của Lâm Tế trong Lâm Tế Lục.
Sau khi được Lâm Tế ấn khả, sư chu du khắp nơi, tiếng tăm lừng lẫy. Sư thăm viếng nhiều tùng lâm và đến đâu cũng được tiếp đãi trọng hậu. Công án 49 trong Bích nham lục thuật lại cuộc gặp gỡ của sư với Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn. Sư hỏi: "Cá vàng thoát lưới lấy gì làm thức ăn?" Tuyết Phong đáp: "Đợi ông ra khỏi lưới rồi đến đây sẽ nói." Sư bảo: "Là thiện tri thức của 1500 người mà thoại đầu cũng không biết." Tuyết Phong bèn nói: "Lão tăng trụ trì nhiều việc."
Đến gặp Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn. Hương Nghiêm hỏi: "Từ đâu đến?" Sư đáp: "Từ Lâm Tế đến." Hương Nghiêm hỏi: "Đem được kiếm của Lâm Tế đến chăng?" Sư chẳng nói, lấy toạ cụ đánh Hương Nghiêm rồi đi. Hương Nghiêm im lặng mỉm cười.
Đến viếng Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám. Vừa thấy sư trải toạ cụ ra, Đức Sơn liền bảo: "Chớ có trải cái khăn phủi bụi, nơi đây không có canh cặn cơm thừa." Sư đáp: "Dù có cũng không có chỗ đổ." Đức Sơn liền đánh, sư chụp gậy và đẩy thẳng đến giường thiền. Đức Sơn cười to. Sư nói: "Trời xanh!" rồi xuống nhà tham thiền.
Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch rất mến tài hùng biện của sư. Lúc mới gặp, Ngưỡng Sơn hỏi: "Ông tên gì?" sư thưa: "Huệ Tịch." Ngưỡng Sơn ngạc nhiên bảo: "Huệ Tịch là tên của ta." Sư liền nói: "Huệ Nhiên." Ngưỡng Sơn cười lớn.
Một ông quan đến thăm, Ngưỡng Sơn hỏi: "Quan ở vị nào?" Quan thưa: "Dẹp quan." Ngưỡng Sơn dựng phất tử hỏi: "Lại dẹp được cái này chăng?" Ông quan không đáp được và trong chúng cũng không ai trả lời vừa lòng Ngưỡng Sơn. Lúc đó sư đang nằm tại Niết-bàn đường (nơi nuôi dưỡng bệnh nhân), Ngưỡng Sơn sai thị giả đến trình. sư đáp: "Hoà thượng có việc." Ngưỡng Sơn lại sai thị giả hỏi: "Chưa biết có việc gì?" Sư lại đáp: "Tái phạm chẳng tha." Nghe vậy Ngưỡng Sơn thầm nhận và có ý định truyền Phất tử của Bách Trượng lại cho sư (Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải trao cho Hoàng Bá Hi Vận thiền bản bồ đoàn, trao cho Quy Sơn Linh Hựu phất tử, Quy Sơn lại truyền cho Ngưỡng Sơn) nhưng sư từ chối không nhận vì đã có thầy. Ngưỡng Sơn nhân đây mới biết sư là môn đệ của Lâm Tế.
Sau, sư trụ trì tại Viện Tam Thánh, học chúng đến rất đông.
Không biết sư tịch nơi nào, năm nào. |
Nhất Biến (zh. 一遍, ja. ippen), 1234 - 1289, là Cao tăng Nhật Bản, được xem là vị tổ của Thời tông (時宗), một nhánh của Tịnh độ Phật giáo, có chùa chính là Du Hành tự (zh. 遊行寺) ở thành phố Fujisawa (Đằng Trạch thị 藤沢市).
Nhất Biến sinh ra tại Ehime (Ái Viện huyện 愛媛県) và tu tập rất sớm với một đệ tử của Pháp Nhiên. Sư xuất gia rồi hoàn tục một lần, nhưng sau đó thay đổi ý định. Sau khi hành hương đến Thiện Quang tự (zh. 善光寺, ja. zenkōji), huyện Nagano (Trường Dã huyện 長野県), Sư đến một ngôi chùa hẻo lánh ở Ehime, thực hành pháp tu rất nghiêm mật và cuối cùng, đạt được sự an trú toàn vẹn nơi Phật A-di-đà. Qua kinh nghiệm của mình, Sư trở nên rất tự tin cho rằng với bất kì tầng bực thiết tha tu tập của bất cứ căn cơ nào của chúng sinh, dù nam hay nữ, họ đều có thể được vãng sinh ở Tịnh độ, dù chỉ bằng công đức trì niệm một danh hiệu đức Phật A-di-đà. Sau đó, sư đi khắp nơi trong nước, phát cho mọi người những tờ giấy ghi chép lời chỉ dạy căn bản cho pháp tu Tịnh độ. Có đến hàng ngàn người hành trì theo sự khuyến giáo của sư. Khi biết mình sắp viên tịch vào năm 51 tuổi, sư đốt tất cả những gì sư đã trước tác, nên nay chẳng còn tác phẩm nào của sư được lưu hành.
Chú thích |
Mãn Giác (滿覺), 1052 – 1096, là một thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền sư Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là Bản Tịnh. Với bài thơ "Cáo tật thị chúng", ông được nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu của dòng văn thơ Lý – Trần
Gia thế và cơ duyên
Đại sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường (theo là Lý Trường 李長), cha là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang.
Thiếu thời, Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi. Sư là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Sư làm trụ trì.
Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ, sau này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng:
Nói xong Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45 tuổi. Sau lễ hoả táng, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, vua thuỵ hiệu là Mãn Giác.
Bàn về Cáo tật thị chúng
Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời kỳ văn học Lý – Trần, một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương. Bài thơ mượn cảnh thị tình, lấy tình "trực chỉ chân tâm" nhằm khai phóng nhân sinh.
Dùng tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ bắt đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản, sinh động: Khai, lạc của mai hoa (đào hoa, xuân hoa...) là cái nhãn tiền tự nhiên nhi nhiên:
Xuân khứ bách hoa lạc / Xuân đáo bách hoa khai
Không có mới cũng chẳng có cũ, không có đi cũng chẳng có về; đáo hay khứ thực ra chỉ là một thực tại bị chia cắt thành những khái niệm mà chỉ cần khởi tâm trí tuệ thì bỗng dưng được con mắt sáng mà nhìn, mà nghe, mà cảm nhận cái thi vị của cuộc đời sau những tột cùng vô biên của sự phân chia, tách bạch.
Tự nhiên, có con mắt thứ nhất mở ra phía sau trước nhìn vào chốn sinh linh mà lời rằng: đừng bảo, đừng nói, đừng ngộ nhận, chớ lời, chớ chắc, chớ đoan... và còn con mắt thứ hai dành cho kẻ Xuân Thu biết vui thú du xuân bốn mùa sẽ có được:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cùng với muôn vàn con mắt không phô diễn.
Một cành mai trước sân cũng khiến cho sự liên tưởng (của người đọc) đến tâm thế của kẻ như đứng một mình giữa trời đất mà rơi lệ trong Đăng U Châu đài ca (登幽州臺歌) của Trần Tử Ngang (陳子昂):
thì bỗng dưng thấy con đường trung đạo cho thi thiền quả thật thênh thang vạn dặm:
Khứ (lạc, quá) ------------ nhất chi mai ------------đáo (khai, lai)
Đạo bản vô nhan sắc, nhưng ta (và người) thì có thể thấy được (nhất chi mai) kia là vật của đất trời, rỗng rang độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà như vô sự. Biết đâu lâu nay người sợ hãi là sợ cái có không không đối đãi, thì đây là vật chứng, là hiển nhiên của sinh diệt mà cũng là bất diệt. Cái giả hợp tất chịu đổi thay: còn trẻ răng trắng má hồng, lúc tuổi già răng long tóc bạc. Nhưng trong chỗ diệt diệt sinh sinh ấy có một thứ nhẩn nha ra ngoài sinh tử, và một lúc nào nhận diện được nhành mai trước sân thì tức là đang sống, đang vui đùa với ông Phật vĩnh cửu của chính mình. Tìm kiếm Phật ở bên ngoài thì cũng giống như cá chép tranh nhau nhảy ở Vũ Môn, muôn đời làm sao hóa rồng được (?!)
Chân tánh là vô tánh. Tử – sanh chẳng nói.Vì "không hoa, mặc bướm để lòng chi"? |
Blog, gọi tắt của weblog (tiếng Anh, "nhật ký web"), là một dạng nhật ký trực tuyến, bùng nổ từ cuối thập niên 1990. Các blogger (người viết blog), có thể là cá nhân hoặc nhóm, đưa thông tin lên mạng với mọi chủ đề, thông thường có liên quan tới kinh nghiệm hoặc ý kiến cá nhân, chủ yếu cung cấp thông tin đề cập tới những chủ đề chọn lọc, không giống như các báo truyền thống. Được phần mềm hỗ trợ, dễ sử dụng, blog phổ biến rất nhanh và ai cũng có thể dễ dàng tạo ra một blog cho mình.
Một trang blog có thể chứa các siêu liên kết, hình ảnh và liên kết (tới các trang chứa phim và âm nhạc). Văn bản blog dùng phong cách thảo luận. Một blog thường chỉ liên quan đến một chủ đề yêu thích.
Vào tháng 11 năm 2006, trình tìm kiếm blog Technorati đã theo dõi hơn 57 triệu blog.
Lịch sử
Tin thời sự, sổ tay và nhật ký cá nhân có thể được coi là những ông tổ của blog.
Trước khi blog trở nên phổ biến thì các tổ chức xã hội trên mạng mang nhiều hình thức, bao gồm Usenet, các dịch vụ kinh doanh trực tuyến như GEnie, BiX và CompuServe, gồm cả danh sách email và các hệ thống bảng tin nhắn điện tử (BBS). Trong thập niên 1990, các phần mềm diễn đàn Internet như WebEx, tạo ra các luồng trao đổi thông tin (thread). Các luồng thông tin là các kết nối giữa các lời nhắn trao đổi cùng topic trên một bảng trực tuyến. Một số người đã coi blog là phong trào quan sát tập thể của thế kỷ 20.
1994–2001
Blog hiện nay phát triển từ nhật ký trực tuyến, nơi mọi người ghi lại một phần của cuộc sống riêng tư. Hầu hết những người viết tự gọi mình là người viết nhật ký hoặc nhà báo. Trang webring The Open Pages là một trong những cộng đồng viết nhật ký trực tuyến như vậy. Justin Hall bắt đầu viết blog cá nhân từ năm 1994 khi còn là sinh viên tại Swarthmore College, được coi là blogger lâu đời nhất, as is Jerry Pournelle.
Những dạng khác của những bản tin (hay nhật ký) được giữ trực tuyến cũng đã tồn tại. Một ví dụ đáng chú ý là nhật ký được nhiều người đọc rộng rãi của John Carmack's, được phát hành theo hướng finger protocol. Những trang web, bao gồm cả những site của đoàn thể hoặc những trang web cá nhân (personal homepages), đã và vẫn có phần "Có gì mới" hoặc "tin tức", thường trên trang chủ hoặc trang mặc định (index page) và được sắp xếp theo ngày tháng. Một ví dụ về những tin tức dựa trên weblog là Drudge Report được thành lập bởi phóng viên tự xưng và tự do Matt Drudge, dù hình như anh ta không phải loại này. Một trang khác là Institute for Public Accuracy mà đã bắt đầu đưa lên những tin phát hành một vài tin vắn những trích dẫn một đoạn vài lần trong một tuần từ năm 1998. Một tiền thân đáng chú ý của blog là một trang web trào phúng cá nhân thường xuyên được cập nhật bởi huyền thoại của Usenet, Kibo.
Phân loại
Có rất nhiều loại blog, khác nhau từ nội dung bài đến cách truyền tải.
Bằng phương tiện truyền đạt Một blog có video được gọi là vlog, blog gồm các link gọi là linklog. Một trang gồm những bản phác thảo được gọi là sketchblog hoặc một trang gồm có ảnh được gọi là photoblog. Những blog có bài viết ngắn và gồm nhiều dạng tranh ảnh, video đa dạng được gọi là tumblelog.
Một loại blog ít gặp được để trên Gopher Protocol được biết tới như Phlog.
Bằng phương tiện sáng tác Blog được viết bằng phương tiện di động ví dụ như điện thoại di động hoặc PDA được gọi là moblog.
Thể loại Một số blog tập trung vào một vấn đề cụ thể, ví dụ như blog chính trị, blog du lịch, blog thời trang, blog dự án, hoặc blog pháp luật (tên tiếng Anh là blawg). Một blog không có mục đích chính đáng mà chỉ dành để spam gọi là Splog. Một Slog (Site hoặc website log) là một phần của một website kinh doanh, được hợp nhất trong cả cấu trúc website bình thường, nhưng được viết bởi các phần mềm viết blog.
Tính hợp pháp của người xuất bản Một blog phần lớn được để cá nhân, hoặc được dùng cho mục đích kinh doanh. Blog công ty, có thể được dùng đối nội để hỗ trợ truyền đạt và văn hóa riêng của tập đoàn hoặc dùng đối ngoại để tiếp thị, tạo dựng thương hiệu hoặc PR.
Công cụ tìm kiếm blog Một số các công cụ tìm kiếm blog được dùng để tìm nội dung blog (còn được biết với tên blogosphere, ví dụ như blogdigger, Feedster và Technorati. Technorati cung cấp những thông tin cập nhật về những tìm kiếm phổ biết và tag dùng để phân loại bài viết trong blog.
Sự phổ biến
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã phân tích nguyên do blog được ưa chuộng. Hai thước đo được sử dụng là: số lần được trích dẫn, và số lần được để link liên kết (ví dụ: blogroll). Kết luận ban đầu từ các nghiên cứu về kết cấu blog là mặc dù để trở nên nổi tiếng, một blog mất khá nhiều thời gian, nhưng liên kết link vĩnh viễn làm tăng độ nổi tiếng của blog rất nhanh, và có thể chỉ ra độ ảnh hưởng của một blog hơn blogroll, bởi vì chúng cho biết người đọc có thực sự đọc nội dung blog hay không, và đánh giá blog là đáng đọc trong những trường hợp cụ thể.
Dự án blogdex được bắt đầu bởi những nhà nghiên cứu của MIT Media Lab để dò Web và thu thập thông tin từ hàng ngàn blog và nghiên cứu các tính xã hội của chúng. Thông tin được thu thập trong hơn 4 năm trời, và những thông tin nổi bật nhất lan truyền trong cộng đồng blog được tự động thu thập, và đánh giá dựa vào mức độ nóng hổi và nổi tiếng. Do đó dự án này có thể được coi như cố gắng đầu tiên để memetracker. Mặc dù dự án không còn hoạt động, nhưng tailrank.com hiện nay đã cung cấp một dịch vụ tương tự.
Blog được Technoratti xếp thứ hạng dựa vào số link liên kết và được Alexa Internet xếp dựa vào số lần truy cập của người dùng Alexa Toolbar. Tháng 8/2006, Technorati đã liệt kê blog được liên kết nhiều nhất là của cô diễn viên Trung Quốc Xu Jinglei, và blog được viết bởi một nhóm được đọc nhiều nhất là Boing Boing.
Gartner dự đoán hoạt động blog sẽ lên tới đỉnh điểm trong năm 2007, rồi chững lại khi số người viết có duy trì một trang web cá nhân đạt tới con số 100 triệu. Các nhà phân tích Gartner dự tính rằng blog sẽ giảm độ thu hút vì tính mới lạ, bởi vì hầu hết những người chú ý đến hiện tượng này đều đã xem qua blog, và những người viết blog mới sẽ không vượt quá số lượng những người đã bỏ viết blog do nhàm chán. Công ty này ước lượng rằng có hơn 200 triệu người dừng việc viết nhật ký mạng, tạo nên một số lượng các "dotsam" và "netsam", những thứ bị bỏ bê trên web, gia tăng một cách chóng mặt.
Truyền thông Trung Quốc Xinhua đã báo cáo là blog của Từ Tịnh Lôi (Xu Jinglei) là Xu Jinglei's Blog) nhận được hơn 50 triệu lượt xem, là blog nổi tiếng nhất trên toàn thế giới. Giữa năm 2006, blog này có nhiều link dẫn đến nhất trên toàn Internet.
Mập mờ với phương tiện truyền thông đại chúng
Nhiều blogger tự phân biệt mình với các phương tiện truyền thông đại chúng, và một số khác là người làm việc cho các phương tiện truyền thông đại chúng này, đồng thời tham gia một kênh thông tin khác. Một số tổ chức cho rằng viết blog là một phương tiện để tránh bị kiểm duyệt và trực tiếp đưa thông điệp của mình tới công chúng. Một số các nhà phê bình lo rằng blogger không tôn trọng bản quyền và vị trí của phương tiện truyền thông đại chúng trong việc đưa những thông tin đáng tin cậy đến xã hội.
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nhà báo viết blog, theo như danh sách các J-blog của CyberJournalist.net nhiều hơn con số 300 rất nhiều. Lần đầu tiên một blog được sử dụng trên một trang web thông tin là vào tháng 8 năm 1998, khi Jonathan Dube của tờ Charlotte Observer đăng một ký sự về cơn bão Bonnie.
Blog cũng có tầm ảnh hưởng tới những ngôn ngữ thiểu số, góp phần tập hợp những người nói và học những ngôn ngữ này; ví dụ nổi bật là các blog tiếng Gaelic, với những người viết blog ở rất xa khu vực nói tiếng Gaelic thậm chí ở cả Kazakhstan và Alaska. Xuất bản bằng ngôn ngữ thiểu số có thể tìm đường đến tới độc giả bằng cách tạo blog, không tốn kém và khả thi hơn cách thông thường rất nhiều.
Blogger
Những người hoặc nhóm người hoặc tổ chức viết blog được gọi là blogger... Các blogger được xem là những công dân điện tử của một xã hội điện tử. Tuy nhiên, gần đây một số người gọi những người tham gia các mạng xã hội là blogger, vì họ cũng tham gia vào các xã hội điện tử và viết nhật ký của mình lên đó.
Các dịch vụ blog phổ biến
My Opera
Blogger
Wordpress
Yahoo 360
Yahoo 360 Plus
Drupal
Blog City
Live Journal
Blog Tiếng Việt
Chú thích
Sách đọc thêm
Alavi, Nasrin. We Are Iran: The Persian Blogs, Soft Skull Press, New York, 2005. ISBN 1-ngày 95 tháng 5 năm 3368.
Bruns, Axel, and Joanne Jacobs, eds. Uses of Blogs, Peter Lang, New York, 2006. ISBN 0-8204-8124-6.
Kline, David; Burstein, Dan. Blog!: How the Newest Media Revolution is Changing Politics, Business, and Culture, Squibnocket Partners, L.L.C., 2005. ISBN 1-59315-141-1.
Michael Gorman. "Revenge of the Blog People!". Library Journal.
Initials
Internet
Thuật ngữ Internet
Từ viết tắt |
Điện thoại là thiết bị viễn thông dùng để trao đổi thông tin, thông dụng nhất là truyền giọng nói - tức là "thoại" (nói), từ xa giữa hai hay nhiều người. Điện thoại biến tiếng nói thành tín hiệu điện và truyền trong mạng điện thoại phức tạp thông qua kết nối để đến người sử dụng khác. Hệ thống thực hiện công năng như vậy có hai hợp phần cơ bản:
Thiết bị đầu cuối, thường gọi bằng chính tên "điện thoại", thực hiện biến tiếng nói thành tín hiệu điện để truyền đi, và biến tín hiệu điện nhận được thành âm thanh.
Mạng điện thoại điều khiển kết nối và truyền dẫn, thực hiện nối những người dùng liên quan với nhau và truyền dẫn tín hiệu.
Sự phát triển của kỹ thuật dẫn đến ngày nay mạng điện thoại có nhiều công năng hơn, như truyền fax, internet,... và bên cạnh đôi dây nối truyền thống thì có những cách thức phương tiện truyền dẫn mới.
Giới thiệu
Có bốn cách điện thoại kết nối vào mạng điện thoại sử dụng ngày nay: phương pháp truyền thống điện thoại cố định, dùng dây điện kết nối truyền tín hiệu vào một vị trí cố định; loại điện thoại không dây, dùng cả sóng vô tuyến truyền tín hiệu tương tự hoặc kỹ thuật số; điện thoại vệ tinh, dùng vệ tinh liên lạc; và VoIP (điện thoại qua giao thức Internet), dùng với kết nối Internet băng thông rộng.
Giữa hai người dùng, việc truyền nhận qua mạng có thể dùng cáp quang, kết nối điểm-điểm sóng vi ba hay qua vệ tinh.
Cho đến gần đây, từ "điện thoại" chỉ dùng để nói tới điện thoại có dây. Điện thoại mẹ con và điện thoại di động hiện nay khá phổ biến ở nhiều nơi, với điện thoại di động có triển vọng thay thế điện thoại có dây. Không như điện thoại di động, điện thoại mẹ con cũng phụ thuộc điện thoại có dây vì nó chỉ có ích trong một khoảng cách nhỏ chung quanh trạm phát được kết nối với dây điện thoại.
Việc xác định người phát minh ra điện thoại (Antonio Meucci hay Johann Philipp Reis hoặc Alexander Graham Bell) vẫn còn tranh cãi.
Lịch sử
Những phát triển ban đầu
Nguyên tắc
Từ những chiếc điện thoại thô sơ ban đầu và cách chuyển mạch bằng nhân công, ta có thể nêu cụ thể một cuộc điện đàm như sau:
Một thuê bao A gọi cho một thuê bao B thì tín hiệu (cụ thể là giọng nói) của thuê bao A được chuyển đổi thành tín hiệu điện và chuyển đến tổng đài. Ở đây một nhân viên trực tổng đài có nhiệm vụ gạt cần chuyển mạch sang thuê bao B và cuộc điện đàm được diễn ra. Nhưng nếu thuê bao B đang bận thì cuộc điện thoại đó sẽ bị rớt.
Năm 1854 Pháp mới bắt đầu có điện tín.
Charles Bourseul lúc bấy giờ là nhân viên hành chính về điện tín viết bài trong báo l'Illustration: "Từ ngày 26/08/1854 đây là nguyên tắc cho máy điện thoại".
Năm 1860, một giáo viên người Đức Philippe Reiss thực hiện một máy có thể truyền những âm thanh về nhạc bằng cách dùng điện.
Ông đã thành công trong việc kinh doanh máy của ông nhưng nó vẫn còn yếu kém và không có khả năng truyền lời nói. Tuy nhiên ông Reiss đã tiến đến rất gần cái có thể gọi là điện thoại. Phát minh của P. Reiss được trình bày tại Mỹ.
Hai người Mỹ, Alexander Graham Bell và Eliza Gray cuối cùng thực hiện được máy điện thoại. Graham Bell làm được nhiều mẫu máy truyền âm thanh và năm 1875 cho ra đời hệ thống điện tín hoàn chỉnh. Elisha Gray làm việc cùng lĩnh vực và ngày 14/02/1876, cả hai cùng trình bằng sáng chế điện thoại của họ.
Lịch sử chỉ giữ lại tên của Bell bởi vì sau cuộc tranh chấp pháp luật, Bell được thắng kiện với bằng phát minh số 174465 ngày 7/03/1876.
Tuy nhiên không một điện thoại nào dùng được. Phải đợi đến tháng 6 năm 1876 người ta mới thấy lần đầu tiên điện thoại hoạt động tại hội chợ triễn lãm ở Philadelphie. Điện thoại vào Hoa Kỳ từ năm 1877 sau khi hãng Bell Telephone Company sáng lập.
Cùng năm 1877, Western Union Telegraph yêu cầu Thomas A. Edison làm một điện thoại khác để chống lại Bell Company. Edison bắt đầu từ máy của Reiss và nghiên cứu cho ra một máy phát có điện trở thay đổi nhạy hơn của Bell, và trở thành microphone đầu tiên bằng graphite, ngày 27/04/1877
Vài tuần sau, ngày 9/7/1877, Bell giới thiệu Hand Telephone.
Cuối năm 1877, Frédérick Gower, người Mỹ, cải thiện máy của Bell và hệ thống của ông được lắp đặt tại Paris năm 1879. Đó là trung tâm điện thoại đầu tiên của nước Pháp.
Cuộc gọi đầu tiên
Cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: “Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại dùng để liên lạc.
Cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên
Tổng đài điện thoại đầu tiên được đi vào hoạt động là tại New Haven, bang Connecticut, Mỹ. Vào ngày 21/2/1878, cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên trên thế giới được xuất bản bởi công ty điện thoại New Haven với 1 trang duy nhất liệt kê tên của 50 người đã quyên góp cho công ty nhưng không hề có một số điện thoại nào kèm theo.
Nó chủ yếu được dùng để ghi nhận công lao của những nhà tài trợ, hoàn toàn khác xa với mục đích tra cứu của những cuốn sổ danh bạ mà ngày nay chúng ta vẫn dùng.
Những chiếc điện thoại thời kỳ đầu chỉ để dành cho những người giàu có sử dụng và hiếm thấy có những thiết kế đa dạng mà hầu hết đều rất kiểu cách và cầu kì với nét đặc trưng là có 2 đầu: một ống nói và ống nghe.
Bốt điện thoại ra đời
Chiếc bốt điện thoại khi mới ra đời đã từng được xem là một xu hướng trong tương lai khi mà chúng giúp bạn có thể gọi cho bất cứ ai khi đi trên đường.
Lịch sử gần đây
Điện thoại trong xe
Khi các mẫu điện thoại tiến gần hơn tới “mốc” di động, chúng đã dần trở nên nhỏ gọn hơn để có thể gắn vào trong xe và thực sự trở nên tiện ích rất nhiều với người sử dụng. Có thể là bây giờ, chúng ta nhìn lại thì điện thoại được “tích hợp” trong xe chỉ là một thứ công nghệ thô sơ, lạc hậu vô cùng nhưng vào thời kì đó, đây thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ.
Điện thoại di động
Chiếc điện thoại đầu tiên được cho là “di động” được quảng cáo vào năm 1967 với tên gọi là “Carry phone” đánh dấu một bước tiến gần hơn đến mẫu điện thoại di động nguyên bản. Mang danh là di động nhưng việc sử dụng nó thì vô cùng bất tiện khi người ta cứ phải vác “kè kè” bên mình một chiếc hộp máy to sụ nặng tới 4,5 kg. Giá thành lại rất cao nên nó hầu như không được phổ biến rộng rãi cho đến khi phiên bản nhỏ gọn của nó được tung ra thị trường.
Điện thoại cầm tay
Vào ngày 3/4/1973, mẫu điện thoại cầm tay đầu tiên Motorola Dyna Tac do nhà phát minh Martin Cooper của hãng sáng chế được “trình làng” thực sự đã làm công chúng kinh ngạc và đầy sửng sốt. Tuy nhiên, khi đó chúng đơn thuần là một màn trình diễn công nghệ mới chứ chưa thể được dùng để thay thế hoàn toàn cho điện thoại cố định. Hình dáng ban đầu của chúng trông giống như một “cục gạch” nặng nề với hình dáng thô kệch và vô cùng bất tiện khi mang theo mình.
Dòng điện thoại thông minh Smart Phone
Chiếc điện thoại Iphone của Apple thực sự là một sự sáng tạo đột phá về kiểu dáng với nét đặc trưng là màn hình cảm ứng siêu nhạy giúp người sử dụng có thể thao tác dễ dàng chỉ bằng việc “lướt” nhẹ các ngón tay. Nó tạo nên cơn sốt chưa từng có khi xuất hiện vào năm 2007 và khởi đầu cho một cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng trong phân khúc dòng điện thoại smartphone.
Nhưng thực ra những đóng góp của Apple với công nghệ màn hình cảm ứng phải được ghi nhận từ năm 1983 với mẫu điện thoại để bàn cảm ứng Ciara, tiền đề cho một bước tiến lớn trong ngành công nghệ thông tin.
Điện thoại thông minh (smartphone)
Hiện nay có những hãng smartphone nổi tiếng như Apple, Samsung với những siêu phẩm như IPhone, Samsung Galaxy, Samsung Galaxy Note, Huawei, Oppo, Xiaomi...
Điện thoại sử dụng IP
Thuật ngữ điện thoại IP (IP Telephony) thường dùng để chỉ phương pháp kết nối máy điện thoại tới tổng đài hoặc trung kế sử dụng Giao thức Internet hay phương pháp truyền tín hiệu thoại (VoIP) qua giao thức Internet VoIP. Tuy vậy, trên thực tế, thông thường hai khái niệm vẫn được dùng lẫn cho nhau.
Điện thoại truyền thống dựa trên công nghệ chuyển mạch kênh (curcuit switching) và vì vậy đòi hỏi phải có đường kết nối trực tiếp và dành riêng cho mỗi điểm dầu cuối. Chi phí lắp đặt, bảo dưỡng lớn cũng như khó thêm, bớt, thay đổi hay di chuyển thiết bị đầu cuối. Ngược lại, công nghệ IP là công nghệ chuyển gói tin (packet switching) cho phép sử dụng chung một đường kết nối cho nhiều kênh thoại hoặc kết hợp cùng với dữ liệu mang lại tính kinh tế cao hơn cũng như cho phép thêm, bớt, thay đổi, di chuyển thiết bị đầu cuối dễ dàng.
Thay vì việc sử dụng một đường kết nối trực tiếp và dành riêng để nối máy điện thoại tới hệ thống chuyển mạch như tổng đài hoặc trung kế (PaBX), điện thoại IP sử dụng kết nối Ethernet của mạng IP cho mục đích này. Điện thoại có thể được kết nối tới PaBX thông qua hạ tầng mạng LAN hoặc mạng WAN. Một số nhà cung cấp viễn thông còn cung cấp dịch vụ SIP qua đó thuê bao có thể nối trực tiếp máy điện thoại vào Internet. Đầu cuối của công nghệ điện thoại IP thường là các máy điện thoại được thiết kế riêng hoặc một phần mềm chạy trên máy tính. Chi phí để triển khai điện thoại IP thường lớn hơn so với điện thoại thường nhưng ngược lại, chi phí vận hành, quản lý, khai thác sẽ giảm đáng kể đồng thời chất lượng cuộc gọi và khả năng sử dụng điện thoại và tiếp nhận cuộc gọi được tăng lên.
Công nghệ Truyền giọng nói qua IP (VoIP) chủ yếu liên quan tới việc chuyển các tín hiệu thoại thành các gói tin IP và truyền qua hạ tầng Internet. Một số ví dụ như các dịch vụ 171, 177, 178, Skype, Yahoo Voice v.v. Tùy theo dịch vụ, người sử dụng có thể sử dụng điện thoại bình thường vẫn có thể tận dụng được lợi thế về chi phí do điện thoại Internet mang lại. Lợi ích chính của VoIP là mang lại lựa chọn cho khách hàng về một dịch vụ thoại có chất lượng thấp hơn nhưng cũng có chi phí rẻ hơn và thường áp dụng cho các dịch vụ Điện thoại đường dài. |
Tập đoàn FPT (tiếng Anh: FPT Corporation), tên chính thức là Công ty Cổ phần FPT, được biết đến rộng rãi dưới cái tên FPT, là công ty thuộc top 20 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất tại Việt Nam, với ba lĩnh vực kinh doanh cốt lõi gồm: Công nghệ, Viễn thông và Giáo dục.
Lịch sử
Ngày 13 tháng 9 năm 1988, FPT được thành lập với tên gọi Công ty Công nghệ Thực phẩm hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sấy, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa. (Chữ gốc FPT ban đầu có nghĩa là The Food Processing Technology Company - Công ty Công nghệ Thực phẩm).
Ngày 27 tháng 10 năm 1990, được đổi tên thành The Corporation for Financing Promoting Technology - Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ với hoạt động kinh doanh cốt lõi là CNTT.
Năm 1998, FPT trở thành 1 trong 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên tại Việt Nam, tạo bước phát triển đột phá cho lĩnh vực này tại Việt Nam.
Tháng 4 năm 2002, FPT trở thành công ty cổ phần.
Ngày 8 tháng 9 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký quyết định thành lập trường Đại học FPT trực thuộc Công ty FPT. Hiệu trưởng của trường là Tiến sĩ Lê Trường Tùng, còn Chủ tịch Hội đồng Quản trị là Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Gia Bình.
Ngày 24 tháng 10 năm 2006, FPT đã công bố quyết định phát hành thêm cổ phiếu cho hai nhà đầu tư chiến lược là Quỹ đầu tư Texas Pacific Group (TPG) và Intel Capital. FPT nhận được một khoản đầu tư là 36,5 triệu USD thông qua quỹ đầu tư TPG Ventures và Intel Capital.
Ngày 18 tháng 11 năm 2006, Tập đoàn Microsoft và công ty FPT ký thoả thuận liên minh chiến lược.
Ngày 13 tháng 12 năm 2006, cổ phiếu FPT lên sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE).
Ngày 25 tháng 12 năm 2006, Chủ tịch HĐQT Công ty FPT đã ký quyết hợp nhất các Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT (FIS), Công ty TNHH Giải pháp Phần mềm FPT (FSS) và Trung tâm dịch vụ ERP (FES) kể từ ngày 01/01/2007. Công ty hợp nhất có tên là Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT.
Ngày 1 tháng 1 năm 2007, FPT thành lập Công ty TNHH Bán lẻ FPT với mô hình Công ty TNHH một thành viên.
Ngày 13 tháng 3 năm 2007, thành lập Công ty Cổ phần Quảng cáo FPT (FPT Promo JSC) và Công ty TNHH Phần mềm Châu Á Thái Bình Dương đặt tại Singapore (FAPAC).
Ngày 19 tháng 12 năm 2008, Công ty FPT công bố được chấp thuận đổi tên từ "Công ty Cổ phần Phát triển và Đầu tư Công nghệ" thành "Công ty Cổ phần FPT" viết tắt là "FPT Corporation".
Ngày 24 tháng 12 năm 2008, Công ty FPT công bố quyết định bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới là ông Nguyễn Thành Nam thay ông Trương Gia Bình. Ông Nam là thành viên sáng lập Công ty FPT, Chủ tịch HĐQT của Công ty Phần mềm FPT (FSOFT).
Tháng 2 năm 2011, Hội đồng Quản trị Công ty FPT có nghị quyết bổ nhiệm ông Trương Đình Anh làm Tổng giám đốc thay thế cho ông Nguyễn Thành Nam.
Ngày 31 tháng 7 năm 2013, Hội đồng Quản trị Công ty FPT FPT đã thông qua nghị quyết bổ nhiệm ông Bùi Quang Ngọc, Tiến sĩ về cơ sở dữ liệu, làm Tổng Giám đốc FPT thay thế ông Trương Gia Bình. Ông Ngọc là một trong các thành viên sáng lập và hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị FPT.
Năm 2014, FPT là công ty CNTT đầu tiên của Việt Nam mua lại 1 công ty CNTT nước ngoài, RWE IT Slovakia (đơn vị thành viên của Tập đoàn năng lượng hàng đầu châu Âu, RWE).
Tháng 8 năm 2017, FPT chuyển nhượng 30% vốn tại Công ty Cổ phần Bán lẻ kỹ thuật số FPT (FPT Retail) cho Vina Capital và Dragon Capital, giảm tỷ lệ sở hữu của Công ty tại FPT Retail xuống còn 55%.
Tháng 9 năm 2017, FPT chuyển nhượng 47% vốn tại Công ty Cổ phần Thương mại FPT (FPT Trading) cho Tập đoàn Synnex (Đài Loan), giảm tỷ lệ sở hữu của Công ty tại FPT Retail xuống còn 48%.
Tháng 7 năm 2018, FPT mua 90% cổ phần của Intellinet Consulting (Intellinet), một trong những công ty tư vấn công nghệ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất tại Mỹ.
Tháng 3 năm 2019, FPT đã bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Khoa - Phó Tổng Giám đốc FPT kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT - đảm trách vị trí Tổng Giám đốc FPT, thay thế ông Bùi Quang Ngọc hết nhiệm kỳ.
Tháng 6 năm 2020, FPT ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với Viện nghiên cứu trí tuệ nhân tạo hàng đầu thế giới Mila, mở ra cơ hội cọ xát, nâng cao năng lực công nghệ cho cộng đồng công nghệ trẻ của Việt Nam.
Tháng 5 năm 2021, FPT đầu tư chiến lược vào nền tảng quản trị doanh nghiệp số 1 Việt Nam - Base.vn thúc đẩy chuyển đổi số doanh nghiệp SMEs.
Tháng 7 năm 2021, FPT mua công ty Intertec International - doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin có hơn 20 năm kinh nghiệm ở châu Mỹ Latinh.
Tháng 8 năm 2021, FPT khởi xướng chương trình FPT eCovax - Vaccine số cho doanh nghiệp, hỗ trợ hơn 3.000 doanh nghiệp vận hành, kinh doanh không gián đoạn và tăng trưởng bứt phá trong bình thường xanh.
Tháng 9 năm 2021, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn FPT đã khởi xướng ý tưởng xây dựng một ngôi trường dành cho các em nhỏ mất cha, mẹ do dịch COVID-19. Tròn một năm sau, Trường Hy Vọng (tại quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng) đón nhận 200 học sinh đầu tiên trong năm học 2022-2023.
Tháng 5 năm 2022, FPT tổ chức khởi công xây dựng Tổ hợp giáo dục FPT UniSchool Hà Nam - cơ sở tập trung đào tạo các cấp học từ phổ thông đến cao đẳng với quy mô đào tạo 10.000 người theo học, nâng tổng số cơ sở đào tạo tại 14 tỉnh, thành phố.
Bằng việc mở thêm văn phòng thứ hai tại New York vào tháng 5 năm 2022 và khai trương văn phòng đại diện đầu tiên ở Bắc Âu tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 9 năm 2022, FPT đã tăng cường sự hiện diện tại 27 quốc gia trên thế giới.
Tháng 9 năm 2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Singapore Heng Swee Keat thăm FPT Software (Công ty thành viên của Tập đoàn FPT), đẩy mạnh hoạt động liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân giữa Việt Nam và Singapore.
Tháng 10 năm 2022, FPT trở Thành Cổ Đông Chiến Lược Của LTS, Inc. - công ty trong Top 20 công ty tư vấn, quản trị kinh doanh và chuyển đổi số tại Nhật với hơn 20 năm kinh nghiệm.
Cơ cấu tổ chức
FPT có hệ thống văn phòng tại 27 quốc gia trên thế giới, và hạ tầng viễn thông phủ khắp 59/63 tỉnh, thành phố tại Việt Nam. Công ty đặt trụ sở chính tại Tòa nhà FPT, số 10 Phố Phạm Văn Bạch, Phuờng Dịch Vọng, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, với 8 công ty thành viên và 3 công ty liên kết.
8 Công ty thành viên:
Công ty TNHH Phần mềm FPT (FPT Software)
Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FPT (FPT Information System)
Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom)
Công ty Cổ phần Dịch vụ Trực tuyến FPT (FPT Online)
Công ty TNHH Giáo dục FPT (FPT Education)
Công ty TNHH Đầu tư FPT (FPT Investment)
Công ty TNHH FPT Smart Cloud (FPT Smart Cloud)
Công ty TNHH FPT Digital (FPT Digital)
2 Công ty liên kết:
Công ty Cổ phần Synnex FPT (Synnex FPT)
Công ty Cổ phần Bán lẻ Kỹ thuật số FPT (FPT Retail)
Lĩnh vực hoạt động chính của FPT
Công nghệ: bao gồm Tư vấn chuyển đổi số; Phát triển phần mềm; Tích hợp hệ thống; và Dịch vụ CNTT.
Viễn thông: bao gồm Dịch vụ viễn thông; [Truyền hình FPT] và Nội dung số
Giáo dục: từ tiểu học đến sau đại học, liên kết quốc tế và đào tạo trực tuyến.
Thành tựu
Tại Việt Nam
Huân chương Lao động hạng Nhất (1998-2002) nhận năm 2003
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1998)
Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo bảng xếp hạng VNR500 (Từ năm 2007 tới 2021)
Top 20 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam theo bảng xếp hạng VNR500 (Từ năm 2007 tới 2021)
Top 50 thương hiệu công ty có giá trị nhất Việt Nam (Từ năm 2015 tới 2021)
Số 1 tại Việt Nam cả về doanh thu và nhân lực trong lĩnh vực tích hợp hệ thống; cung cấp dich vụ CNTT, quảng cáo trực tuyến, phân phối sản phẩm công nghệ
Số 2 tại Việt Nam về dịch vụ truy nhập internet băng rộng cố định (Sách trắng CNTT – TT Việt Nam do Bộ Thông tin Truyền thông phát hành năm 2014)
FPT đạt danh hiệu #1 Nơi làm việc tốt nhất trong ngành CNTT/Phần mềm & Ứngdụng/Thương mại điện tử, đồng thời nằm trong Top 50 Doanh nghiệp Việt có Thương hiệu nhà tuyển dụng hấp dẫn năm 2021
Các sản phẩm 'Made by FPT' được vinh danh Sao Khuê (từ năm 2015 tới 2022)
FPT được Forbes Việt Nam vinh danh trong Top 50 Công Ty Niêm Yết Tốt Nhất (Từ năm 2012 tới 2022)
FPT nằm trong top 3 doanh nghiệp nhóm vốn hóa lớn có hoạt động IR được nhà đầu tư yêu thích nhất và top 3 doanh nghiệp nhóm vốn hóa lớn có hoạt động IR được định chế tài chính đánh giá cao nhất (Năm 2022)
Trên thế giới
FPT nằm trong Top 100 nhà cung cấp dịch vụ ủy thác (IAOP) (năm 2014)
FPT nằm trong Top 300 công ty châu Á có hoạt động kinh doanh tốt nhất (năm 2015)
FPT nằm trong Top 130 công ty có môi trường làm việc tốt nhất khu vực châu Á (năm 2018)
FPT được AsiaMoney vinh danh là công ty nổi bật nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin và Dịch vụ viễn thông (Năm 2021 và 2022)
Doanh nghiệp Việt Nam duy nhất được vinh danh ở hạng mục Doanh nghiệp Ứng phó Covid-19 hiệu quả nhất (Most Valuable Corporate Response) theo Stevie® Award.
Đại học FPT là đại học đầu tiên của Việt Nam được QS, tổ chức xếp hạng ĐH uy tín hàng đầu thế giới, xếp hạng 3 sao trong 3 kỳ liên tiếp. |
Hồi sinh là một môn khoa học nghiên cứu về dự phòng và điều trị các tình trạng hấp hối khác nhau. Môn này được hình thành và phát triển từ giữa thế kỷ 20 nhờ những tiến bộ trong phẫu thuật nhất là phẫu thuật tim phổi, mạch máu. Phương pháp hồi sinh là phương pháp khoa học đấu tranh chống lại cái chết. Nhờ phương pháp này, con người có thể khôi phục được các chức phận của cơ thể đã lâm vào thời kỳ hấp hối hay chết lâm sàng. Nói chung phương pháp này có kết quả tốt trong những trương hợp chết não trong khi các cơ quan quan trọng trong cơ thể vẫn còn khá tốt. Những bệnh mãn tính đã gây ra rối loạn chức phận sâu sắc thì kết quả thấp. Người hấp hối có tỷ lệ hồi sinh cao hơn người chết lâm sàng, và chết càng lâu thì khả năng phục hồi càng kém. Khi hồi sinh có kết quả thì tuần hoàn não được khôi phục có tác dụng đem oxy lên cho tổ chức não, làm khôi phục chức năng của hệ thần kinh. Khi khu hành tủy được khôi phục thì hô hấp tự động xuất hiện. Hưng phấn khu hành tủy lan tới trung khu vận mạch có tác dụng cải thiên tuần hào não, phục hồi các chức năng cao cấp khác.
Mặc dù hiểu biết của con người về quá trình chết cũng như kỹ thuật hồi sinh ngày càng hiện đại song chết lâm sàng và chết sinh vật vẫn chưa được hiểu rõ, thường chỉ được kết luận theo kinh nghiệm. Vì vậy đôi khi vẫn có "phép mầu nhiệm" xảy ra: một bệnh nhân được coi là đã chết, các can thiệp y học đã chấm dứt, nhưng vì lý do nào đó xác chết sống lại bất chấp thời gian chết lâm sàng hàng chục tiếng.
Từ tham vọng thay đầu người tới dùng tế bào gốc tái sinh não
Trong một bài phỏng vấn thực hiện trên tờ Ooom, bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Italia Sergio Canavero mới đây cho biết ông có thể hồi sinh một bộ não đã giữ lạnh và cấy ghép vào cơ thể hiến tặng. Bộ não giữ lạnh có thể được lấy từ Tổ chức kéo dài sự sống Alcor – một công ty đang giữ lạnh rất nhiều thi thể với mong ước được tái sinh, tuy nhiên công ty này đã cho biết mình không hề có mối liên hệ nào với bác sĩ Canavero cả.
Trước đó, ông này cũng từng gây xôn xao dư luận khi cho biết mình sẽ thực hiện ca cấy ghép đầu người đầu tiên trên thế giới. Theo những thông tin được tiết lộ, đầu của người cho sẽ được giữ lạnh để giữ cho các tế bào sống. Tiếp đó, cổ sẽ bị cắt ra và các mạch máu sẽ được nối với rất nhiều ống nhỏ. Khi tủy sống bị ảnh hưởng, chiếc đầu sau đó được chuyển sang cho người nhận và lúc này mới là khâu quan trọng nhất: gắn các đầu của tủy sống 2 người với nhau.
Để làm được việc này, Canavero cho biết mình sẽ sử dụng một hóa chất phụ trợ có tên polyethylene glucol, giúp các màng tế bào mỡ nối lại với nhau. Cuối cùng là khâu các mạch máu và cơ trước khi đưa bệnh nhân vào trạng thái hôn mê khoảng 1 tháng. Sau khi tập vật lý trị liệu cường độ cao, bệnh nhân có thể tự điều chỉnh cơ thể và đi lại được.
Phòng trường hợp cơ thể đào thải vật thể lạ, Canavero cho biết ông có thể sử dụng thuốc ức chế miễn dịch để ngăn chặn điều này xảy ra.
Khi giới y học và cả cộng đồng còn đang bàn tán về chuyện thay đầu người thì một startup ở Phaladelphia, Mỹ có tên Bioquark lại cho biết họ sắp tiến hành thử nghiệm việc đưa bệnh nhân chết não sống trở lại nhờ vào tế bào gốc. Cuộc thử nghiệm đáng ra đã diễn ra từ năm 2016 ở Ấn Độ nhưng sau đó nó bị chính quyền nước này chấm dứt.
Ý tưởng này như sau: các nhà khoa học sẽ tiêm tế bào gốc từ mỡ hoặc máu của chính bệnh nhân chết não vào tủy sống của họ. Sau đó, bệnh nhân vẫn tiếp tục được tiêm hỗn hợp protein vào tủy sống với mục đích nuôi dưỡng sự phát trienr của các neuron mới. Bước tiếp theo là kích thích xung điện thần kinh và sử dụng liệu pháp laser trực tiếp với não trong thời gian khoảng hơn 15 ngày để chúng kết nối với nhau, từ đó hồi sinh não.
Còn nhiều rào cản cần vượt qua
Điểm chung giữa 2 ý tưởng trên là gặp phải rất nhiều sự phản đối và nghi ngờ. Ý tưởng cấy ghép đầu người được các nhà khoa học chỉ ra là có khá nhiều điểm bất cập. Thứ nhất: đầu người không thể tự "sống" được sau khi tách khỏi cơ thể hoặc nếu giữ lạnh hay một môi trường muối để giữ các tế bào sống thì cũng chỉ được trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: hệ miễn dịch chắc chắn sẽ phản ứng khi có "vật thể lạ" xâm nhập cơ thể. Khả năng rất cao là cơ thể sẽ đào thải chiếc đầu ghép.
Tiếp nữa là chiếc đầu và tủy phải được cấy ghép một cách vô cùng hoàn hảo để từ đó mới điều chỉnh được toàn bộ cơ thể - trong một thời gian vô cùng ngắn, chỉ khoảng 1 tiếng đồng hồ - trước khi cơ thể hoàn toàn "chết". Đây là một công việc gần như không tưởng bởi có quá nhiều việc phải làm trong khoảng thời gian đó.
Còn với ý tưởng cấy tế bào gốc, nhiều nhà khoa học hàng đầu về thần kinh học như Charles Cox, Trung tâm khoa học sức khỏe, Đại học Texas, Mỹ đã thể hiện sự hoài nghi. "Một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng tế bào ở một vài phàn của não thuộc khu vực hạ lưu có thể phát triển được trong môi trường đặc biệt, ngay cả sau khi một người đã chết. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là điều trị bằng biện pháp tế bào gốc có thể dẫn tới sự hình thành của những neuron mới và cả những liên kết mới. Các neuron sẽ phải rất khó khăn mới sống được bởi những dòng máu chảy tới não đã mất đi ngay khi bệnh nhân chết não".
Còn bác sĩ Ed Cooper - một bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác dụng của xung điện tới vận động ở North Carolina, Mỹ thì cho biết "kỹ thuật này không bao giờ có thể sử dụng được với một người chết não. "Công nghệ này buộc phải sử dụng một cuống não vẫn còn hoạt động – nơi các dây thần kinh vận động đi qua trước khi kết nối với vỏ não thích hợp. Tuy nhiên, ở những người chết não, cuống não đã không còn hoạt động nữa".
Ngoài những hoài nghi về công nghệ, rất nhiều người, đứng trên góc độ đạo đức, tỏ ra lo ngại trước những ý tưởng trên.
Tờ New Scientists dẫn lời bình luận của độc giả cho thấy nhiều người lo ngại mọi người sẽ muốn thay đổi cơ thể vì những lý do thẩm mỹ. và dẫn tới việc phải đưa ra những quy tắc nghiêm ngặt để tránh tính trạng này.
Các nhà thần kinh học như Bác sĩ Ariane Lewwis và nhà sinh học Arthur Caplan thì cho rằng ý tưởng hồi sinh não chỉ tạo ra một "hi vọng giả tạo và tàn độc" với người nhà bệnh nhân về một khả năng hồi phục. Và điều này là độc ác. |
Hấp hối là tình trạng cơ thể trước khi chết.
Tình trạng hấp hối có thể chia làm 3 giai đoạn:
Thời kỳ cuối cùng: trong thời kỳ này, hoạt động của tim và hô hấp ngừng tạm thời 30-90 giây, mất phản xạ mắt, đồng tử giãn rộng. Điểm chủ yếu trong giai đoạn này là sự ức chế vỏ não lan đến các trung tâm quan trọng ở hành tủy. Các hoạt động sống bị rối loạn. Chuyển hóa rối loạn: quá trình giáng hóa mạnh hơn quá trình tổng hợp, dung giải đường mạnh hơn oxy hóa. Tại não bộ glucose, phosphocreatinin giảm, axit lactic và phospho vô cơ tăng... Thời kỳ này kéo dài khoảng 2-3 phút.
Thời kỳ hấp hối: trong thời kỳ này cơ thể sống đấu tranh chống lại cái chết. Hô hấp xuất hiện trở lại nhưng là loại hô hấp có chu kỳ gọi là thở cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trở lai, người bệnh có thể tỉnh lại. Trong thời kỳ này trung tâm điều hòa hành tủy hoạt động đến mức tối đa để duy trì sự hoạt động của các chức phận sinh lý trong điều kiện ức chế các bộ phận thần kinh. Thời kỳ hấp hối kéo dài vài phút tới vài giờ.
Thời kỳ chết lâm sàng: Hoạt động của tim và phổi ngừng. Thường thì phổi ngừng hoạt động trước tim nhưng đôi khi có trường hợp tim đã ngừng hoạt động mà vẫn thấy thở nhè nhẹ ít lâu. Trong lúc thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức chế. Không còn quá trình oxy hóa và có những rối loạn sâu sắc các men hô hấp. Lượng axit lactic tăng vọt, phospho vô cơ cũng tăng lên do sự phá hủy các phức hợp đại năng lượng. ATP, phosphocreatinin đều giảm.
Thời gian chết
Thời gian chết lâm sàng tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
Tuổi: tuổi trẻ thời gian này kéo dài hơn người già vì dự trữ năng lượng lớn và khả năng hồi phục tốt hơn.
Nhiệt độ môi trường: nhiệt độ càng thấp thời gian này càng dài.
Tính chất quá trình tử vong: những trường hợp chết đột ngột (như bị điện giật) có thời gian chết lâm sàng dài hơn là khi chết kéo dài (như chết do ngạt thở).
Thời gian hấp hối: cũng như tính chất quá trình tử vong, hấp hối càng ngắn thời gian chết lâm sàng càng dài và ngược lại. (Do quá trình hấp hối tiêu hao nhiều năng lượng.) Thời gian chết lâm sàng kéo dài khoảng 5-10 phút, bắt đầu từ lúc tim phổi ngừng hoạt động cho tới lúc não có những rối loạn không hồi phục dẫn tới chết sinh vật.
Chết sinh vật
Giai đoạn cuối cùng của quá trình tử vong mà khi mọi khả năng hồi phục không còn nữa. Tổn thương chủ yếu vẫn là rối loạn hoạt động thần kinh trung ương. Do đó có những trường hợp khôi phục chức năng hô hấp, tuần hoàn nhưng không khôi phục được chức năng thần kinh trung ương nên bệnh nhân vẫn chết. |
Thomas Jefferson (13 tháng 4 năm 1743 – 4 tháng 7 năm 1826) là chính khách, nhà ngoại giao, luật sư, kiến trúc sư, nhà triết học người Mỹ. Ông là một trong các kiến quốc phụ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và là tổng thống thứ 3 của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (nhiệm kỳ 1801 – 1809). Jefferson sáng lập ra Đảng Dân chủ-Cộng hòa Hoa Kỳ và là một nhà triết học chính trị có ảnh hưởng lớn, một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại. Ông sinh ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, tiểu bang Virginia, lúc đó còn là vùng biên giới hoang vu, trong một gia đình kĩ sư gốc Anh. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, rồi sau đó vào trường Đại học William & Mary (1760–1762). Năm 23 tuổi, ông trở thành luật sư. 7 năm sau, ông thôi hành nghề với một tài sản kha khá và với mối ác cảm sâu sắc về giới luật sư, rồi sống cuộc sống của một nhà quý tộc nông thôn độc lập.
Tuy nhiên, sự quan tâm đến các vấn đề xã hội của Jefferson không cho phép ông hưởng thú ẩn dật. Ông được cử làm thành viên Viện đại biểu bang Virginia, và khi các vấn đề thuộc địa trở nên gay gắt, ông đóng vai trò tích cực ngày càng tăng trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Những kiến nghị của Jefferson trong đoàn đại biểu Virginia với Hội nghị lục địa được công bố trong quyển sách nhỏ tựa đề "Quan điểm tóm tắt về các quyền của nước Mỹ", đã đưa ông lên vị trí của một trong những nhà lãnh đạo cách mạng hàng đầu. Ông được cử làm công tác đặc biệt ở Anh, và tại Mỹ ông được các cộng sự chọn để dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776.
Từ bỏ ghế đại biểu ở Quốc hội, Jefferson quay ra quan tâm đến việc xây dựng một bản hiến pháp cho quê hương Virginia. Nhiều tư tưởng của ông tập trung trong văn kiện đó, và nhiều ý tưởng khác được thể hiện trong các đạo luật ban hành những năm sau đấy. Năm 1779, Jefferson được bầu làm thống đốc bang Virginia và giữ chức vụ này cho đến năm 1781. Năm 1783, trở lại tham gia Quốc hội một lần nữa, ông đứng đầu ủy ban được cử ra để xem xét hiệp ước hòa bình với Anh. Năm kế ông được cử làm công sứ đại diện cho chính phủ Mỹ non trẻ ở Pháp và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này.
Từ năm 1789, với tư cách là ngoại trưởng Mỹ trong nội các của Tổng thống George Washington, ông đã công bố tư tưởng dân chủ mà dựa vào đó Đảng Dân chủ Hoa Kỳ được xây dựng, điều này đã đưa đến việc Jefferson đắc cử Tổng thống Mỹ năm 1800. Sau 2 nhiệm kì, ông rút lui và cống hiến những năm cuối đời cho việc thiết lập trường Đại học Virginia, được ông xem là một trong những công trình quan trọng nhất của mình.
Jefferson mất ngày 4 tháng 7 năm 1826 ở Monticello, gần Charlottesville, tại căn nhà tự ông xây cất, cùng một ngày với John Adams, hưởng thọ 83 tuổi. Trên mộ bia được ông chọn từ trước, có mang dòng chữ: "Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Thomas Jefferson, tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, của Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng, và là cha đẻ của trường Đại học Virginia".
Tiểu sử
Thomas Jefferson chào đời vào ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, quận Goochland, Virginia, vùng đất mà ngày nay thuộc quận Albemarle. Cha của Thomas, ông Peter Jefferson, là một người đo đất và là chủ một đồn điền. Ông có gốc tổ tiên miền Wales. Mẹ của Thomas, Jane Randolph, là con gái của Isham Randolph, một thuyền trưởng và thỉnh thoảng cũng canh tác đồn điền. Hai người kết hôn với nhau vào năm 1739. Thomas Jefferson không quan tâm mấy đến việc tìm hiểu về tổ tiên của mình, ông chỉ biết về sự tồn tại của ông nội của mình mà thôi.
Thomas là người con thứ ba và là con trai lớn trong một gia đình 4 trai 6 gái, phần lớn đều qua đời khi tuổi còn thơ. Thomas đã trải qua 7 năm trong số 9 năm đầu tiên tại Tuckahoe, một nông trại của gia đình Randolph bên bờ sông James, gần Richmond, Virginia. Năm Thomas lên 9 tuổi, gia đình Jefferson dọn về Shadwell và tại nơi này, cậu Thomas tập đọc và tập viết tại trường học và cậu cũng được cha dạy kèm. Ông Peter dạy con câu cá, săn bắn gà lôi rừng, săn hươu nai gần dòng sông Rivanna cùng cưỡi ngựa. Thomas cũng học kéo đàn vĩ cầm và biết yêu chuộng âm nhạc từ dạo đó. Khi Thomas được 14 tuổi, ông Peter qua đời. Cậu Thomas trở nên gia trưởng vì là con trai lớn trong nhà. Cậu thừa hưởng hơn đất cùng với khoảng 20-40 người nô lệ, trong khi gia sản do người quản gia tên là John Harvie trông nom.
Sự nghiệp học hành
Thomas Jefferson bắt đầu đi học từ khi được 5 tuổi rồi khi lên 9 tuổi vào ở nội trú trong trường của William Douglas, một vị tu sĩ gốc Scotland. Về sau, Thomas còn ghi nhớ rằng các loại bánh nướng trái cây của ông Douglas ngon tuyệt vời và các bài giảng của ông cũng rất xuất sắc, ngoại trừ văn học cổ điển. Ngoài các môn học thông thường, Thomas còn được học về tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp. Sau khi cha chết, Thomas theo học ngôi trường gần Gordonsville của James Maury, một tu sĩ theo Anh giáo kiêm học giả. Ông được huấn luyện về lòng nhân đạo và về niềm tin vào Thượng đế nhưng cậu không hoàn toàn tin tưởng vào một tổ chức tôn giáo nào.
Năm 1760, vào tuổi 16, Thomas Jefferson theo học Học viện Williams and Mary tại Williamsburg. Đây là thủ phủ của thuộc địa Virginia với dân số thời đó chỉ vào khoảng 1,000 người. Thomas làm quen với xã hội thành thị và trong 2 năm trường, ông học về toán học, văn chương và triết học với Tiến sĩ William Small, một học giả gốc Scotland. Năm 1762, Tiến sĩ Small đã thu xếp để Thomas Jefferson học luật với vị Thẩm phán George Wythe, một trong các vị luật gia uyên thâm nhất của địa phương. George Wythe ảnh hưởng tới Thomas Jefferson rất nhiều và sau này, chính Wythe là một trong những người ký tên vào Bản tuyên ngôn độc lập.
Nhờ quen biết với hai Small và Wythe, Thomas Jefferson được giới thiệu với Thống đốc Virginia Francis Fauquier. Bốn người này thường trải qua các buổi chiều tại tư dinh của Thống đốc, bàn luận về thời cuộc cũng như dạo các bản nhạc thính phòng. Cũng nhân dịp này, Thomas Jefferson được gặp Patrick Henry.
Trong thời gian học môn luật, Thomas Jefferson quan tâm tới sự căng thẳng chính trị giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bảy Năm, hay còn được gọi là cuộc Chiến tranh Pháp và người Da đỏ ở Bắc Mỹ đã loại người Pháp ra khỏi tiểu lục địa Ấn Độ và lục địa Bắc Mỹ. Người Pháp đã bị người Anh thay thế và thế lực Anh đã lấn át tại phía tây bán cầu và trên các mặt biển. Nước Anh nhờ thế đã thụ hưởng được sự phát triển thương mại trên rất nhiều lãnh thổ. Năm 1760, vua George III lên ngôi nhưng do sự bất lực của nhà vua này, đã sinh ra các bất ổn đối với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.
Tại miền Bắc Hoa Kỳ, các doanh nhân thường buôn lậu với các kẻ địch và các quốc hội lục địa đã không cung cấp nhân lực và tiếp liệu cho chính quyền Anh trong khi số nợ nần của nước Anh tăng lên do việc quản trị các vùng đất mới. Để có tiền, Quốc hội nước Anh đã thông qua Đạo Luật Tem Thuế vào tháng 3 năm 1765 để gia tăng lợi tức cho nước Anh. Khi đạo luật này được công bố, Thomas Jefferson nghe Patrick Henry hùng biện, đả kích sự bất công và cho rằng Quốc hội Anh không có quyền đánh thuế các thuộc địa Bắc Mỹ. Sau này, Thomas kể lại rằng: "Đối với tôi, ông Henry đã nói hùng hồn giống như Thi hào Hómēros làm thơ vậy".
Năm 1767, Thomas Jefferson được nhận vào Luật sư đoàn và bắt đầu hành nghề luật sư một cách khá thành công. Ông chia thời gian qua lại hai địa điểm là Williamsburg và Shadwell. Tại nơi sau này, ông vẽ kiểu và trông coi xây dựng tòa nhà Monticello trên một ngọn đồi gần đó.
Kết hôn và gia đình
Thomas Jefferson cưới bà góa phụ 23 tuổi Martha Wayles Skelton vào năm 1772. Bà là con gái của ông John Wayles, một luật sư danh tiếng sống gần Williamsburg. Theo chuyện kể lại, chính nhờ âm nhạc mà Thomas đã chiếm được cảm tình của Martha vì một nhân vật khác cũng theo đuổi Martha đã phải bỏ cuộc khi nhìn thấy hai người hòa đàn vĩ cầm và dương cầm. Sau đó, gia đình Jefferson đã an cư tại Monticello, dù cho tòa nhà lớn này chưa xây xong. Martha Jefferson qua đời năm 1782, sau 10 năm kết hôn. Trong cuộc hôn nhân 10 năm, họ có với nhau năm con gái và một con trai: Martha, thường gọi là Patsy, (1772–1836); Jane (1774–1775); một con trai chưa đặt tên (1777); Mary Wayles, thường gọi là Polly, (1778–1804); Lucy Elizabeth (1780–1781); và Lucy Elizabeth (1782–1785). Tuy nhiên chỉ có hai đứa con là Martha và Mary sống cho đến tuổi trưởng thành. Sau cái chết của Martha Jefferson, Thomas Jefferson không lập gia đình nữa mà lo chăm sóc hai người con gái.
Sự nghiệp chính trị từ năm 1775 tới 1800
Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
Tại Quốc hội Lục địa, Thomas Jefferson đã là một trong những nhân vật dẫn đầu. Sau khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ nổ ra, Jefferson được yêu cầu thảo ra "Bản Tuyên bố các nguyên do và sự cần thiết phải cầm lấy vũ khí" (Declaration of the Causes and Necessity of Taking up Arms). Quốc hội sau đó đã thấy rằng bản thảo này "quá mạnh" nên đã nhờ một nhân vật ôn hòa hơn là John Dickinson viết ra một bản thay thế nhưng văn bản mới gồm phần lớn các quan điểm được đưa ra bởi Jefferson.
Vào mùa xuân năm 1776, ý kiến của các đại biểu Quốc hội Lục Địa càng nghiêng về nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ngày 7 tháng 6 năm đó, Richard Henry Lee thuộc xứ Virginia đã đưa ra một bản nghị quyết nổi danh, đó là "Các Thuộc Địa Liên Hiệp này phải có quyền và phải là các xứ tự do và độc lập" (these United Colonies are, and of right ought to be, free and independent states). Sau đó, Quốc hội Lục địa đã chỉ định một ủy ban để soạn thảo ra Bản Tuyên ngôn Độc Lập, sử gọi là Ủy ban Năm Nghị sĩ. Ủy ban này gồm: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston, hoạt động từ ngày 11 tháng 6 năm 1776 cho đến ngày 5 Tháng 7 năm 1776, ngày mà Tuyên ngôn được xuất bản. Ủy ban đồng ý cử Jefferson là người viết ra bản thảo và đã đồng ý với rất ít thay đổi. Ngày 2 tháng 7, Quốc hội Lục địa bắt đầu tranh luận và Bản tuyên ngôn độc lập được chấp thuận vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.
Bản tuyên ngôn độc lập là tác phẩm nổi tiếng nhất của Thomas Jefferson. Bản văn đó đã diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lý, biện hộ thế đứng của cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người. Các ý tưởng này phần lớn không phải là mới lạ vì theo lời ông, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa bình dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ý, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.
Nhà làm luật và thống đốc của Virginia
Tháng 9 năm 1776, Thomas Jefferson rời khỏi Quốc hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates). Ông tự nhận không có khả năng phục vụ Quân đội trong cuộc Chiến tranh Cách mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, Jefferson đã bắt đầu một chương trình cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai. Tại Virginia, một số người giàu có đã chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục. Thomas Jefferson được bầu vào Hội đồng Duyệt Xét. Trong hai năm, ông đã xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quý tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân. Giai cấp quý tộc căn cứ vào tài sản và gia đình đã dần dần phải nhường chỗ cho "giai cấp quý tộc của tài năng và đức hạnh", vì các đạo luật sau của Jefferson: Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế ("Bill for Abolition of Entails"), Đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng ("The Bill Abolishing and Primogeniture"), Đạo luật tự do tôn giáo ("The statute for religious freedom") nhờ đó đã bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách "nhà thờ" và "quốc gia", hủy bỏ các đặc quyền của "nhà thờ Anh Giáo", giới tu sĩ không còn được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không còn phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa.
Trong hai năm 1779 và 1780, Quốc hội xứ Virginia đã bầu Jefferson làm Thống đốc tiểu bang 2 lần, mỗi nhiệm kỳ 1 năm. Trong thời gian nhậm chức của ông, xứ Virginia đã phải chịu đựng nhiều hậu quả nặng nề của cuộc Chiến tranh cách mạng. Theo lời yêu cầu của George Washington, Jefferson đã lấy bớt các tài nguyên và nhân lực bảo vệ xứ Virginia để dùng trợ giúp Quân đội Cách mạng.
Url
Url1
Url
Url1
Url
Url
Url
Url
Url
Url
Ebook (full view)
Url
Url
Url
Url
Url
Nghiên cứu hàn lâm
Ackerman, Bruce. The Failure of the Founding Fathers: Jefferson, Marshall, and the Rise of Presidential Democracy. (2005)
Adams, Henry. History of the United States of America during the Administrations of Thomas Jefferson (1889; Library of America edition 1986) famous 4-volume history
Wills, Garry, Henry Adams and the Making of America (2005), detailed analysis of Adams' History
Banning, Lance. The Jeffersonian Persuasion: Evolution of a Party Ideology (1978)
Channing; Edward. The Jeffersonian System: 1801–1811 (1906), "American Nation" survey of political history
Dunn, Susan. Jefferson's Second Revolution: The Election Crisis of 1800 and the Triumph of Republicanism (2004)
Elkins, Stanley and Eric McKitrick. The Age of Federalism (1995) in-depth coverage of politics of 1790s
Fatovic, Clement. "Constitutionalism and Presidential Prerogative: Jeffersonian and Hamiltonian Perspectives." : American Journal of Political Science, 2004 48(3): 429–444. Issn: 0092-5853 Fulltext: in Swetswise, Ingenta, Jstor, and Ebsco
Finkelman, Paul. Slavery and the Founders: Race and Liberty in the Age of Jefferson (2001), esp ch 6–7
Hatzenbuehler, Ronald L. "I Tremble for My Country": Thomas Jefferson and the Virginia Gentry, (University Press of Florida; 206 pages; 2007). Argues that the TJ's critique of his fellow gentry in Virginia masked his own reluctance to change
Horn, James P. P. Jan Ellen Lewis, and Peter S. Onuf, eds. The Revolution of 1800: Democracy, Race, and the New Republic (2002) 17 essays by scholars
Jayne, Allen. Jefferson's Declaration of Independence: Origins, Philosophy and Theology (2000); traces TJ's sources and emphasizes his incorporation of Deist theology into the Declaration.
Roger G. Kennedy. Mr. Jefferson's Lost Cause: Land, Farmers, Slavery, and the Louisiana Purchase (2003).
Knudson, Jerry W. Jefferson and the Press: Crucible of Liberty. (2006)
Lewis, Jan Ellen, and Onuf, Peter S., eds. Sally Hemings and Thomas Jefferson: History, Memory, Civic Culture. (1999)
McDonald, Forrest. The Presidency of Thomas Jefferson (1987) intellectual history approach to Jefferson's Presidency
Matthews, Richard K. "The Radical Political Philosophy of Thomas Jefferson: An Essay in Retrieval," Midwest Studies in Philosophy, XXVIII (2004)
Mayer, David N. The Constitutional Thought of Thomas Jefferson (2000)
Onuf, Peter S. Jefferson's Empire: The Languages of American Nationhood. (2000). Online review
Onuf, Peter S., ed. Jeffersonian Legacies. (1993)
Onuf, Peter. "Thomas Jefferson, Federalist" (1993) online journal essay
Perry, Barbara A. "Jefferson's Legacy to the Supreme Court: Freedom of Religion." Journal of Supreme Court History 2006 31(2): 181–198. Issn: 1059-4329 Fulltext in Swetswise, Ingenta and Ebsco
Peterson, Merrill D. The Jefferson Image in the American Mind (1960), how Americans interpreted and remembered Jefferson
Rahe, Paul A. "Thomas Jefferson's Machiavellian Political Science". Review of Politics 1995 57(3): 449–481. ISSN 0034–6705 Fulltext online at Jstor and Ebsco.
Sears, Louis Martin. Jefferson and the Embargo (1927), state by state impact
Sloan, Herbert J. Principle and Interest: Thomas Jefferson and the Problem of Debt (1995). Shows the burden of debt in Jefferson's personal finances and political thought.
Smelser, Marshall. The Democratic Republic: 1801–1815 (1968). "New American Nation" survey of political and diplomatic history
Staloff, Darren. Hamilton, Adams, Jefferson: The Politics of Enlightenment and the American Founding. (2005)
Taylor, Jeff. Where Did the Party Go?: William Jennings Bryan, Hubert Humphrey, and the Jeffersonian Legacy (2006), on Jefferson's role in Democratic history and ideology.
Tucker, Robert W. and David C. Hendrickson. Empire of Liberty: The Statecraft of Thomas Jefferson (1992), foreign policy
Urofsky, Melvin I. "Thomas Jefferson and John Marshall: What Kind of Constitution Shall We Have?" Journal of Supreme Court History 2006 31(2): 109–125. Issn: 1059-4329 Fulltext: in Swetswise, Ingenta and Ebsco
Valsania, Maurizio. "'Our Original Barbarism': Man Vs. Nature in Thomas Jefferson's Moral Experience." Journal of the History of Ideas 2004 65(4): 627–645. Issn: 0022-5037 Fulltext: in Project Muse and Swetswise
Wagoner, Jennings L., Jr. Jefferson and Education. (2004).
Wiltse, Charles Maurice. The Jeffersonian Tradition in American Democracy (1935), analysis of Jefferson's political philosophy
PBS interviews with 24 historians
Tôn giáo
Gaustad, Edwin S. Sworn on the Altar of God: A Religious Biography of Thomas Jefferson (2001) Wm. B. Eerdmans Publishing, ISBN 0-8028-0156-0
Sanford, Charles B. The Religious Life of Thomas Jefferson (1987) University of Virginia Press, ISBN 0-8139-1131-1
Sheridan, Eugene R. Jefferson and Religion, preface by Martin Marty, (2001) University of North Carolina Press, ISBN 1-882886-08-9
Edited by Jackson, Henry E., President, College for Social Engineers, Washington, D. C. "The Thomas Jefferson Bible" (1923) Copyright Boni and Liveright, Inc. Printed in the United States of America. Arranged by Thomas Jefferson. Translated by R. F. Weymouth. Located in the National Museum, Washington, D. C.
Đọc thêm |
Viễn thông là việc truyền dẫn thông tin giao tiếp qua một khoảng cách đáng kể để về địa lý.
Vào thời xưa, viễn thông gồm việc dùng các tín hiệu hình ảnh, chẳng hạn như đèn hiệu, tín hiệu khói, điện báo semaphore, tín hiệu cờ, quang báo, hoặc tin nhắn âm thanh như tiếng trống, tiếng tù và, tiếng còi.
Thời hiện đại, viễn thông là việc dùng các thiết bị điện như máy điện báo, điện thoại, máy telex, cũng như dùng thông tin liên lạc vi ba, vô tuyến, sợi quang và kết hợp với vệ tinh thông tin và Internet.
Cuộc cách mạng trong ngành viễn thông không dây bắt đầu vào thập niên 1900 với những phát triển tiên phong trong lĩnh vực vô tuyến và thông tin liên lạc không dây nhờ Nikola Tesla và Guglielmo Marconi. Marconi đã giành giải Nobel Vật lý năm 1909 cho những nỗ lực của ông. Các nhà phát minh và phát triển tiên phong đáng chú ý khác trong lĩnh vực điện và điện tử gồm Charles Wheatstone và Samuel Morse (điện báo), Alexander Graham Bell (điện thoại), Edwin Armstrong, và Lee de Forest (vô tuyến), cũng như John Logie Baird và Philo Farnsworth (truyền hình).
Dung lượng hiệu dụng của thế giới để trao đổi thông tin qua mạng viễn thông hai chiều đã tăng từ 281 petabyte thông tin (đã nén tối ưu) năm 1986 lên 471 petabyte vào năm 1993, và tới 2,2 exabyte (đã nén tối ưu) vào năm 2000, cho đến năm 2007 thì lên tới 65 exabyte (đã nén tối ưu). Lượng thông tin này tương đương với 2 trang báo cho mỗi người trong một ngày vào năm 1986 và toàn bộ 6 tờ báo cho mỗi người một ngày vào năm 2007. Với sự tăng trưởng này, viễn thông đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới và doanh thu của ngành công nghiệp viễn thông toàn thế giới ước tính đạt 3,85 nghìn tỷ USD vào năm 2008. Doanh thu dịch vụ của ngành công nghiệp viễn thông toàn cầu ước tính đạt 1,7 nghìn tỷ USD năm 2008 và dự kiến đạt 2,7 nghìn tỷ USD vào năm 2013.
Nguồn gốc từ ngữ
Từ viễn thông (telecommunication trong tiếng Anh) đã được chuyển thể từ télécommunication trong tiếng Pháp. Đây là từ ghép của tiền tố Hy Lạp tele- (τηλε-), có nghĩa là "xa", và từ communicate trong tiếng Latin có nghĩa là "chia sẻ". Từ tiếng Pháp télécommunication lần đầu tiên xuất hiện tại French Grande École "Telecom ParisTech", trước đây còn được gọi là "École nationale supérieure des télécommunications" vào năm 1904 bởi kỹ sư và tiểu thuyết gia người Pháp Édouard Estaunié.
Kinh tế
10 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới là:
Nippon Telegraph and Telephone, Nhật Bản
Deutsche Telekom, Đức
Verizon, Mỹ
France Télécom, Pháp
Vodafone, Anh
NTT DoCoMo, Nhật
SBC Communications, Mỹ
Telecom Italia, Ý
British Telecom, Anh
Telefónica, Tây Ban Nha
Thời điểm: tháng 11 năm 2004 theo doanh thu. Nguồn:
10 nhà cung cấp trang thiết bị lớn nhất cho doanh nghiệp viễn thông là
Alcatel
Ericsson
Lucent Technologies
Motorola
Nokia
Nortel
Siemens
Marconi |
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, viết tắt UNESCO là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên Hợp Quốc, hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo".
UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên và 9 quan sát viên. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng vài viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới. Hầu hết các văn phòng của UNESCO làm việc với 3 nước hoặc nhiều hơn trong cùng khu vực.
Một số các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại...
Chức năng
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;
Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:
Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:
Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;
Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;
Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.
Nguồn: Công ước thành lập UNESCO
Cơ cấu
UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng Chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng Chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng Chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng Chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng Chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.
Lịch sử
UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO. Ngày 1 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận:
Trung Hoa Dân Quốc
Thập niên 1970 và 1980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa Kỳ và Anh cho rằng đây là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sản và thế giới thứ ba chống lại phương Tây. Hoa Kỳ và Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 1984 và 1985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần lượt vào năm 1997 và 2003.
Những năm cuối thập niên 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).
Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.
Các tổ chức phi chính phủ UNESCO NGO
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Phần lớn số đó được UNESCO gọi là "operational", và một số chọn lọc là "formal".
Mức quan hệ cao nhất với UNESCO là "formal associate" và có 22 NGO như vậy.
Các viện và trung tâm
Các viện và trung tâm
Những ngày Quốc tế của UNESCO
Những ngày hành động quốc tế do UNESCO đề xuất và được thừa nhận
Đại hội đồng
Các chủ tịch từ 1946
Đại hội đồng UNESCO từ 1946:
Hội đồng Chấp hành
Hội đồng Chấp hành được bầu tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO. Mỗi ủy viên được bầu đảm trách nhiệm kỳ 4 năm, tính từ 01 tháng 1 năm sau trúng cử. Kỳ họp tháng 11/2015 chưa có kết quả cuối cùng.
{| class="wikitable"
|+ Hội đồng Chấp hành
|-style="border-top: 2px solid;"
! Nhiệm kỳ
! Nhóm I (9)
! Nhóm II (7)
! Nhóm III (10)
! Nhóm IV (12)
! Nhóm V(a) (14)
! Nhóm V(b) (7)
|- style="background:#eeffee;border-top: 2px solid;"
| 2019-2023
|
|
|
|
|
|
|- style="background:#f7f7c7;border-top: 2px solid;"
|2016-19|
|
|
|
|
|
|-
| 2014-17|
|
|
|
|
|
|- style="border-top: 2px solid;"
| 2012-15'|
|
|
|
|
|
|}
Các văn phòng
UNESCO có văn phòng tại nhiều nơi trên toàn cầu; trụ sở chính của nó đặt tại Place de Fontenoy, Paris, Pháp, hiện tại đã đổi tên thành World Heritage Centre.
UNESCO's field offices are categorized into four primary office types based upon their function and geographic coverage: cluster offices, national offices, regional bureaux and liaison offices.
Các văn phòng theo vùng
Danh sách sau đây bao gồm tất cả các văn phòng UNESCO được phân chia theo vùng và được đánh dấu bằng tên các nước văn phòng đó phục vụ.
Châu Phi
Abuja – Văn phòng Quốc gia Nigeria
Accra – Văn phòng chung cho Bénin, Bờ Biển Ngà, Ghana, Liberia, Nigeria, Sierra Leone và Togo
Addis Ababa – Văn phòng cho Liên minh châu Phi (AU, African Union) và Economic Commission for Africa
Bamako – Văn phòng chung cho Burkina Faso, Guinea, Mali và Niger
Brazzaville – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Congo
Bujumbura – Văn phòng Quốc gia Burundi
Dakar – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục ở châu Phi và Văn phòng chung cho Cape Verde, Gambia, Guinea-Bissau, và Sénégal
Dar es Salaam – Văn phòng chung cho Comoros, Madagascar, Mauritius, Seychelles và Tanzania
Harare – Văn phòng chung cho Botswana, Malawi, Mozambique, Zambia và Zimbabwe
Kinshasa – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo
Libreville – Văn phòng chung cho Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, Gabon và São Tomé và Príncipe
Maputo – Văn phòng Quốc gia Mozambique
Nairobi – Văn phòng cấp vùng cho Sciences in Africa và Văn phòng chung cho Burundi, Djibouti, Eritrea, Kenya, Rwanda, Somalia, Nam Sudan và Uganda
Windhoek – Văn phòng Quốc gia Namibia
Yaoundé – Văn phòng chung cho Cameroon, Cộng hòa Trung Phi và Chad
Các nước A rập
Iraq – Văn phòng Quốc gia Iraq (hiện tại đang đặt ở Amman, Jordan)
Amman – Văn phòng Quốc gia Jordan
Beirut – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Liban, Syria, Jordan, Iraq và Palestine
Cairo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Ai Cập, Libya và Sudan
Doha – Văn phòng chung cho Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen
Khartoum – Văn phòng Quốc gia Sudan
Rabat – Văn phòng chung cho Algérie, Mauritanie, Maroc và Tunisia
Châu Á Thái Bình Dương
Almaty – Văn phòng chung cho Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan
Apia – Văn phòng chung cho Australia, Quần đảo Cook, Fiji, Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, New Zealand, Niue, Palau, Papua New Guinea, Samoa, Quần đảo Solomon, Tonga, Tuvalu, Vanuatu và Tokelau (quan sát viên)
Bangkok – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Thái Lan, Miến Điện, Lào, Singapore, Việt Nam và Campuchia
Bắc Kinh – Văn phòng chung cho Bắc Triều Tiên, Nhật Bản, Mông Cổ, Trung Quốc và Hàn Quốc
Dhaka – Văn phòng Quốc gia Bangladesh
Hà Nội – Văn phòng Quốc gia Việt Nam
Islamabad – Văn phòng Quốc gia Pakistan
Jakarta – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Brunei, Indonesia, Malaysia, the Philippines và Đông Timor
Kabul – Văn phòng Quốc gia Afghanistan
Kathmandu – Văn phòng Quốc gia Nepal
New Delhi – Văn phòng chung cho Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal và Sri Lanka
Phnôm Pênh – Văn phòng Quốc gia Campuchia
Tashkent – Văn phòng Quốc gia Uzbekistan
Tehran – Văn phòng chung cho Afghanistan, Iran, Pakistan và Turkmenistan
Châu Âu và Bắc Mỹ
Brussels – Liaison Office to the European Union và its subsidiary bodies in Brussels
Geneva – Liaison Office to the United Nations in Geneva
New York City – Liaison Office to the United Nations in New York
Moskva – Văn phòng chung cho Armenia, Azerbaijan, Belarus, Moldova và Nga.
Venice – Văn phòng cấp vùng cho Sciences và Culture in Europe và North America
Mỹ Latinh và quần đảo Caribê
Brasilia – Văn phòng Quốc gia Brazil
Thành phố Guatemala – Văn phòng Quốc gia Guatemala
La Habana – Văn phòng cấp vùng cho Văn hóa ở châu Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Cuba, Cộng hòa Dominicana, Haiti và Aruba
Kingston – Văn phòng chung cho Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbados, Belize, Dominica, Grenada, Guyana, Jamaica, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Suriname và Trinidad và Tobago cũng như cho các quan sát viên Quần đảo Virgin thuộc Anh, Quần đảo Cayman, Curaçao và Sint Maarten
Lima – Văn phòng Quốc gia Peru
Thành phố México – Văn phòng Quốc gia México
Montevideo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Argentina, Brazil, Chile, Paraguay và Uruguay
Port-au-Prince – Văn phòng Quốc gia Haiti
Quito – Văn phòng chung cho Bolivia, Colombia, Ecuador và Venezuela
San José – Văn phòng chung cho Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, México, Nicaragua và Panama
Santiago de Chile – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng Quốc gia Chile
Đại sứ thiện chí
Các Đại sứ thiện chí của UNESCO là người sử dụng tài năng hay sự nổi tiếng của mình để truyền bá tư tưởng của UNESCO, đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Chất chuyên ngành khác nhau của người ủng hộ bao gồm những ngưới hoạt động vì hòa bình, hoạt động thể thao, hay làm Đặc phái viên cho UNESCO.
Danh sách giải thưởng UNESCO
UNESCO có 22 giải thưởng trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và hòa bình:
Giải Hòa bình Félix Houphouët-Boigny
Giải L'Oréal-UNESCO dành cho phụ nữ làm khoa học
Giải Văn chương UNESCO King Sejong
Giải Văn chương UNESCO Khổng Tử
Giải UNESCO/Emir Jaber al-Ahmad al-Jaber al-Sabah nhằm quảng bá giáo dục cho người bị thiểu năng trí tuệ
Giải UNESCO King Hamad Bin Isa Al-Khalifa cho việc sử dụng các công nghiệp thông tin và truyền thông nhằm vào mục đích giáo dục
Giải UNESCO/Hamdan Bin Rashid Al-Maktoum cho các hành động xuất sắc trong việc nâng cao tính hiệu quả của giáo viên
UNESCO/Giải Kalinga cho việc phổ cập khoa học
UNESCO/Institut Pasteur Medal for an outstanding contribution to the development of scientific knowledge that has a beneficial impact on human health
UNESCO/Sultan Qaboos Prize for Environmental Preservation
Great Man-Made River International Water Prize for Water Resources in Arid Zones presented by UNESCO (title to be reconsidered)
Michel Batisse Award for Biosphere Reserve Management
UNESCO/Bilbao Prize for the Promotion of a Culture of Human Rights
UNESCO Prize for Peace Education
UNESCO-Madanjeet Singh Prize for the Promotion of Tolerance and Non-Violence
UNESCO/International José Martí Prize
UNESCO/Avicenna Prize for Ethics in Science
UNESCO/Juan Bosch Prize for the Promotion of Social Science Research in Latin America and the Caribbean
Sharjah Prize for Arab Culture
Melina Mercouri International Prize for the Safeguarding and Management of Cultural Landscapes (UNESCO-Greece)
IPDC-UNESCO Prize for Rural Communication
UNESCO/Guillermo Cano World Press Freedom Prize
UNESCO/Jikji Memory of the World Prize
Các giải thưởng ngừng trao tặng
Giải thưởng Carlos J. Finlay cho vi sinh học (ngừng từ 2005)
Giải thưởng Simón Bolívar (ngừng từ 2004)
Giải thưởng UNESCO về Nghiên cứu Nhân quyền
Giải Quốc tế UNESCO/Obiang Nguema Mbasogo cho Nghiên cứu về Khoa học đời sống (ngừng từ 2010)
UNESCO Prize for the Promotion of the Arts
Tranh cãi và cải cách
Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới
UNESCO đã từng là trung tâm của tranh cãi trong quá khứ, đặc biệt là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Singapore và Liên Xô cũ.
Trong những năm 1970 và 1980, UNESCO hỗ trợ cho một "Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới" (New World Information and Communication Order), và báo cáo MacBride (MacBride report) của nó kêu gọi dân chủ hóa phương tiện truyền thông và tiếp cận bình đẳng hơn với các thông tin, đã bị lên án ở các nước vốn có nỗ lực kiềm chế tự do báo chí.
UNESCO đã được một số nước cảm nhận như là sân đấu cho các nước cộng sản và các nhà độc tài của thế giới Thứ ba để tấn công phương Tây. Nó thể hiện rõ rệt trong tố cáo của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Năm 1984, Hoa Kỳ đã cắt giảm của mình đóng góp và rồi rút lui khỏi UNESCO để phản đối, tiếp theo năm 1985 là Vương quốc Anh. Singapore cũng rút theo, với lý do phí thành viên tăng.
Sau khi thay đổi chính phủ trong năm 1997, Anh gia nhập trở lại. Hoa Kỳ gia nhập lại vào năm 2003, tiếp theo là Singapore ngày 08/10/2007.
Israel
Wikileaks và UNESCO
Vào ngày 16 và 17 tháng 2 năm 2012, UNESCO đã tổ chức một hội nghị mang tên Truyền thông thế giới sau WikiLeaks và Tin tức thế giới (The Media World after WikiLeaks and News of the World). Mặc dù tất cả sáu tấm áp phích đều tập trung về WikiLeaks, nhưng lại không có ai từ WikiLeaks được mời là diễn giả. Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson, UNESCO đã mời ông tham dự, nhưng không đưa ra bất kỳ một vị trí trên bảng. Các đề nghị cũng chỉ được đưa ra một tuần trước khi hội nghị được tổ chức tại Paris, Pháp. Những diễn giả khác như David Leigh và Heather Brooke thì lên tiếng công khai chống lại WikiLeaks và người sáng lập Julian Assange trong quá khứ.
WikiLeaks phát hành một thông cáo báo chí vào ngày 15/02/2012 tố cáo UNESCO trong đó nói: "UNESCO đã tự biến mình thành một trò đùa về nhân quyền quốc tế. Sử dụng "tự do ngôn luận" để kiểm duyệt WikiLeaks từ một hội nghị về WikiLeaks là một điều Orwellian'' ngớ ngẩn vượt mọi ngôn từ. Đây là một sự lạm dụng quá quắt Hiến chương UNESCO. Đây là thời gian để chiếm UNESCO." Kèm theo tuyên bố là email trao đổi của người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson và ban tổ chức hội nghị UNESCO. |
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2006, mang tên gọi là Giải bóng đá Cúp Quốc gia Vinakansai Cement 2006 Là giải đấu Cúp của bóng đá Việt Nam được tổ chức lần thứ 14, có 28 câu lạc bộ thuộc hai giải chuyên nghiệp và hạng nhất tham dự. Do đội Cần Thơ bị kỷ luật (tội hối lộ) và phải xuống hạng nhì nên chỉ còn 27 đội.
4 đội vào bán kết Cúp quốc gia mùa trước là Gạch Đồng Tâm Long An, Hải Phòng, Hoàng Anh Gia Lai và Khánh Hoà cùng với câu lạc bộ bóng đá Đông Á (do bốc thăm) được miễn đấu vòng đấu đầu tiên (vòng 1/16).
22 đội tham dự vòng 1/16 để chọn ra 11 đội. 11 đội này cùng với 5 đội được miễn thi đấu vòng 1/16 sẽ tham dự vòng 1/8.
Ngày 23 tháng 12, câu lạc bộ bóng đá Đông Á được chuyển giao cho câu lạc bộ bóng đá Gạch Đồng Tâm Long An và mang tên mới Sơn Đồng Tâm Long An. Vì 2 đội Gạch Đồng Tâm và Sơn Đồng Tâm cùng thuộc một câu lạc bộ, nên Sơn Đồng Tâm sẽ không được tham gia Cúp quốc gia 2006 và trận đấu với Bình Định ở vòng 1/8 bị hủy bỏ. Bình Định giành quyền vào vòng tứ kết.
Vòng 1/16
Vòng 1/8
Vòng Tứ kết
Vòng Bán kết
Trận Chung kết |
George Washington (22 tháng 2 năm 173214 tháng 12 năm 1799) là một nhà lãnh đạo quân sự, chính khách người Mỹ, một trong những người lập quốc, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ từ năm 1789 đến năm 1797. Trước đó, ông đã lãnh đạo lực lượng Yêu nước giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập của quốc gia. Ông chủ trì thực hiện Hội nghị Lập hiến năm 1787, thành lập Hiến pháp Hoa Kỳ và chính phủ liên bang. Washington được gọi là "Cha già của nước Mỹ" vì sự lãnh đạo tài tình của ông trong những ngày hình thành quốc gia mới.
Chức vụ đầu tiên của Washington là Kiểm soát viên chính thức của Quận Culpeper, Virginia từ năm 1749 đến năm 1750. Sau đó, ông được huấn luyện quân sự và tham gia chỉ huy với Trung đoàn Virginia trong Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ. Sau đó, ông được bầu vào Hạ viện Virginia của Burgesses và được chỉ định là đại biểu của Quốc hội Lục địa, nơi ông được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy Quân đội Lục địa. Ông chỉ huy các lực lượng Mỹ, đồng minh với Pháp, trong thất bại và đầu hàng của quân Anh tại Cuộc vây hãm Yorktown. Ông từ chức ủy ban của mình sau Hiệp định Paris năm 1783.
Washington đóng vai trò quan trọng trong việc thông qua và phê chuẩn Hiến pháp và sau đó hai lần được bầu làm tổng thống bởi Cử tri đoàn. Ông đã tạo ra một chính phủ quốc gia mạnh mẽ, được tài trợ tốt và vẫn tỏ ra vô tư trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các thành viên nội các Thomas Jefferson và Alexander Hamilton. Trong cuộc Cách mạng Pháp, ông tuyên bố chính sách trung lập trong khi lên án Hiệp ước Jay. Ông đã đặt ra những tiền lệ lâu dài cho chức vụ tổng thống, bao gồm cả danh hiệu "Ngài Tổng thống", và Bài diễn văn chia tay của ông được nhiều người coi là một tuyên bố nổi bật về chủ nghĩa cộng hòa.
Washington sở hữu nô lệ, và để duy trì sự thống nhất quốc gia, ông ủng hộ các biện pháp được Quốc hội thông qua để bảo vệ chế độ nô lệ. Sau đó, ông gặp rắc rối với thể chế nô lệ của mình theo di chúc năm 1799. Ông cố gắng hòa nhập người Mỹ bản địa vào văn hóa Anh-Mỹ, nhưng chống lại sự phản kháng của người bản địa trong các cuộc xung đột bạo lực. Ông là một thành viên của Anh giáo và Hội Tam điểm, ông đã thúc đẩy tự do tôn giáo rộng rãi trong vai trò là tổng thống. Sau khi qua đời, ông được tôn vinh là "người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và là người đầu tiên có trái tim của những người đồng hương với mình". Ông được tưởng nhớ tại các đài tưởng niệm, nghệ thuật, vị trí địa lý bao gồm thủ đô quốc gia, tên tiểu bang, tem và tiền tệ như một vị anh hùng dân tộc của Mỹ, nhiều học giả và các cuộc thăm dò xếp hạng ông trong số các vị tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ.
Đầu đời: 1732–1753
Gia tộc Washington vốn là một dòng họ thuộc lớp chủ đồn điền ở Virginia, trở nên giàu có nhờ việc đầu cơ đất đai và trồng thuốc lá. Cụ cố của Washington, John Washington, nhập cư thuộc địa Virginia vào năm 1656 từ Sulgrave, Northamptonshire, Anh quốc; ông đã tích lũy được đất đai ở Virginia, bao gồm các mảnh đất quanh Little Hunting Creek, phụ lưu Sông Potomac.
George Washington chào đời ngày 22 tháng 2 năm 1732, tại Popes Creek, Hạt Westmoreland, lúc bấy giờ là thuộc địa Virginia của Anh. Ông là con đầu lòng trong số sáu người con của ông Augustine và bà Mary Ball Washington. Augustine hành nghề thẩm phán hòa giải và là một nhân vật công chúng hết sức nổi bật; trước đó ông kết hôn với Jane Butler và đã có bốn đứa con. Năm 1735, gia đình Washington chuyển đến sống ở Little Hunting Creek. Năm 1738, họ chuyển đến sống ở Nông trang Ferry gần Fredericksburg, Virginia, bên Sông Rappahannock. Khi thân phụ ông qua đời vào năm 1743, Washington kế thừa Nông trang Ferry và mười nô lệ; anh trai cùng cha khác mẹ Lawrence kế thừa mảnh đất Little Hunting Creek và đổi tên nó thành Mount Vernon.
Cái chết của cha khiến cho ông mất cơ hội vượt Đại Tây Dương để nhận sự giáo dục tại Trường Appleby của Anh như những người anh trai của mình đã từng làm. Ông đi học tại Fredericksburg cho đến tuổi 15. Mong muốn gia nhập Hải quân Hoàng gia không thành hiện thực sau khi mẹ ông biết nó rất là khó khăn cho ông. Nhờ mối liên hệ của Lawrence với gia đình quyền lực ở Fairfax nên vào năm 17 tuổi, George trở thành thanh tra quận Culpeper vào năm 1749. Đây là 1 công việc trả lương hậu đã giúp cho ông mua được đất đai trong thung lũng Shenandoah, đây cũng là lần đầu tiên trong số nhiều vụ mua đất đai của ông tại Tây Virginia. Cũng phải nói là nhờ đến sự có mặt của Lawrence trong Công ty Ohio, một công ty đầu tư đất đai được tài trợ bởi những nhà đầu tư tại Virginia và nhờ vào vị trí của Lawrence trong vai trò tư lệnh địa phương quân Virginia nên George được phó thống đốc mới của Virginia là Robert Dinwiddie chú ý đến. Washington khó mà bị lọt ra khỏi tầm mắt của người khác: cao 6 ft 2 inch (188 cm; ước tính về chiều cao của ông có thay đổi), ông cao hơn đa số người đương thời của ông.
Năm 1751, Washington đi đến Barbados cùng với Lawrence, người mắc phải bệnh lao, với hy vọng rằng khí hậu sẽ có lợi cho sức khỏe của Lawrence. Washington mắc phải bệnh đậu mùa trong chuyến đi này khiến cho khuôn mặt của ông có ít nhiều vết sẹo nhưng đã giúp cho ông miễn nhiễm với căn bệnh độc này về sau. Để bảo mật sự riêng tư của họ, Martha Washington đốt hết các thư từ của ông bà viết cho nhau sau khi ông mất. Chỉ còn lại ba lá thư giữa hai người vẫn tồn tại đến ngày nay.
Ngày 18 tháng 12 năm 1799, lễ tang được tổ chức tại Mount Vernon. Ông được chôn cất tại nơi đây.
Với sự ủng hộ của vợ ông, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết chung nhằm xây một tượng đài bằng cẩm thạch trong Tòa Quốc hội Hoa Kỳ để cất giữ thân xác ông. Tháng 12 năm 1800, Hạ viện Hoa Kỳ đưa một đạo luật chi tiêu khoảng $200.000 để xây dựng lăng mộ hình kim tự tháp có đáy rộng 100 bộ vuông (30 mét vuông). Sự phản đối dự án này từ miền Nam đã đánh bại đạo luật vì người miền Nam cảm thấy để xác của ông tại Mount Vernon là tốt nhất (ông là người từ Virginia, một tiểu bang miền Nam vào thời đó).
Năm 1831, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông, một ngôi mộ mới được xây cho ông. Năm đó, có một âm mưu đánh cắp xác của ông đã được thực hiện nhưng được chứng minh là không thành công. Dù vậy, một ủy ban quốc hội chung (ủy ban của cả hai viện lập pháp) vào đầu năm 1832 đã bàn thảo đến việc dời thân thể của Washington ra khỏi Mount Vernon để đưa đến một hầm mộ trong Tòa nhà Quốc hội do Charles Bullfinch xây vào thập niên 1820. Lại thêm một lần nữa, sự chống đối từ miền Nam tỏ ra rất dữ dội, do sự hiềm khích ngày càng sâu rộng giữa miền Nam và miền Bắc. Dân biểu Wiley Thompson của tiểu bang Georgia phát biểu về nỗi lo sợ của người miền Nam khi ông nói:
Điều này làm các cuộc bàn thảo về việc di dời hài cốt của ông chấm dứt, và ông được đưa vào ngôi mộ mới được xây dựng tại đó vào ngày 7 tháng 10 năm 1837 với sự chủ trì của John Struthers từ thành phố Philadelphia. Sau buổi lễ, cửa hầm mộ bên trong được đóng lại và chìa khóa mở ngôi mộ được quăng xuống sông Potomac.
Di sản
Dân biểu Henry "Light-Horse Harry" Lee, một người bạn chiến đấu của ông thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nổi tiếng qua những lời lẽ ca ngợi Washington như sau:
Lời lẽ ca ngợi của Lee đã tạo ra chuẩn mực mà qua đó danh tiếng vượt bậc của Washington có ấn tượng sâu sắc trong ký ức của người Mỹ. Washington đã tạo ra nhiều tiền lệ cho chính phủ quốc gia, và đặc biệt là cho chức vụ tổng thống. Ông được gọi là "cha già dân tộc" bắt đầu kể từ năm 1778. Sinh nhật của Washington (được chào mừng trong ngày Lễ Tổng thống), là một ngày nghỉ lễ liên bang tại Hoa Kỳ.
Trong năm chào mừng "Hoa Kỳ 200 năm", George Washington được vinh thăng lên cấp bậc Đại thống tướng theo nghị quyết chung của Quốc hội Hoa Kỳ (xin xem Công luật 94-479), được thông qua vào ngày 19 tháng 1 năm 1976, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm 1976. Hành động này đã nâng vị trí của Washington lên thành vị sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Cây Cherry
Những câu chuyện mơ hồ về tuổi thơ của Washington gồm có câu chuyện cho rằng ông đánh lướt một đô la bằng bạc chạy băng qua sông Potomac ở Mount Vernon và rằng ông đốn ngã cây cherry của cha ông, và thừa nhận hành vi này khi bị tra hỏi; "Con không thể nói dối, ba à". Giai thoại này lần đầu tiên được Parson Weems, người chuyên viết tiểu sử, tường thuật. Ông này đã phỏng vấn những người biết Washington lúc nhỏ. Phiên bản câu chuyện từ Weems được in ấn rộng khắp suốt thế kỷ 19, chẳng hạn như trong McGuffey Readers. Những người lớn có đầu óc đạo đức luôn mong muốn trẻ em học những bài học luân lý trong quá khứ lịch sử, đặc biệt từ những đại anh hùng quốc gia như Washington. Tuy nhiên sau năm 1890, các sử gia viện dẫn qua những phương pháp nghiên cứu khoa học để chứng thực từng câu chuyện, và họ đã không tìm được bằng chứng nào trong câu chuyện do Weems thuật lại. Vào năm 1904, Joseph Rodman ghi nhận rằng Weems đã đạo văn cho các câu chuyện khác về Washington từ các câu chuyện tiểu thuyết đã được xuất bản tại Anh Quốc; không ai tìm được một nguồn thay thế nào cho câu chuyện về cây cherry nhưng sự tín nhiệm của Weems thì đáng nghi ngờ.
Các con tem tưởng niệm
Hình của George Washington được in trên tiền của Hoa Kỳ trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu. Trên tem thư Hoa Kỳ, hình của Washington được in vô số lần và trong nhiều loại khác nhau. Hình ông có trên một trong số những con tem đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành vào năm 1847 cùng với hình của Benjamin Franklin. Bắt đầu vào năm 1908, Bưu điện Hoa Kỳ phát hành trong thời gian dài nhất một loạt tem thư trong lịch sử Bưu điện Hoa Kỳ khi phát hành bộ tem "Washington-Franklin". Đây là một bộ tem thư gồm có hơn 250 con tem có hình Washington và Franklin. Hình của Washington được in trên tem thư Hoa Kỳ nhiều hơn tất cả những người Mỹ nổi tiếng khác cộng lại, kể cả Abraham Lincoln và Benjamin Franklin.
Các tượng đài và đài tưởng niệm
Ngay sau khi chiến thắng trong cuộc cách mạng Mỹ, có nhiều lời đề nghị xây đựng một tượng đài ghi công Washington. Sau khi ông mất, Quốc hội Hoa Kỳ ra lệnh xây dựng một đài tưởng niệm phù hợp tại thủ đô quốc gia nhưng quyết định này bị đảo ngược khi đảng Cộng hòa nắm kiếm soát Quốc hội vào năm 1801. Các đảng viên Cộng hòa mất tinh thần vì Washington đã trở thành biểu tượng của đảng Liên bang; hơn thế nữa, các giá trị của chủ nghĩa cộng hòa dường như không phù hợp với ý tưởng xây dựng những tượng đài dành cho những người có quyền lực. Thêm chuyện cãi vã chính trị cùng với sự chia rẽ Nam-Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã ngăn cản việc hoàn thành tượng đài Washington mãi cho đến cuối thế kỷ 19. Đến thời điểm đó, hình ảnh của Washington được xem là vị anh hùng quốc gia được cả hai miền Nam và Bắc tôn sùng nên các tượng đài của ông không còn là chuyện gây tranh cãi nữa. Trước khi có tượng đài hình tháp nằm trên National Mall vào khoảng vài thập niên trước đó, công dân của thành phố Boonsboro, Maryland đã xây dựng đài tưởng niệm công cộng đầu tiên để tưởng niệm Washington vào năm 1827.
Ngày nay, hình tượng và khuôn mặt của Washington thường được dùng như những biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ. Hình ảnh ông có mặt trên các loại tiền hiện thời trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu, và trên các loại tem thư của Hoa Kỳ. Ngoài việc hình ảnh ông có mặt trên các loại tem thư đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành năm 1847, Washington cùng với Theodore Roosevelt, Thomas Jefferson, và Lincoln, được tạc tượng trên Đài tượng niệm Núi Rushmore. Tượng đài Washington, một trong số những địa điểm nổi tiếng nhất của Mỹ, được xây để vinh danh ông. Tượng đài Quốc gia Tam điểm George Washington tại Alexandria, Virginia được xây dựng giữa năm 1922 và 1932 với đóng góp tự nguyện của tất cả 52 cơ quan điều hành địa phương của Hội Tam điểm tại Hoa Kỳ.
Nhiều nơi và nhiều thực thể đã được đặt tên Washington để vinh danh ông. Tên Washington trở thành tên của thủ đô quốc gia, Washington, D.C., một trong hai thủ đô quốc gia trên thế giới đã được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ (tên tổng thống Mỹ khác được đặt cho thủ đô của Liberia là Monrovia). Tiểu bang Washington là tiểu bang duy nhất được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ. Đại học George Washington và Đại học Washington tại St. Louis được đặt tên ông cũng như Đại học Washington và Lee đã từng đổi thành Học viện Washington khi Washington quyên tặng rất nhiều tiền cho trường này vào năm 1796. Đại học Washington tại Chestertown, Maryland (do hiến chương tiểu bang Maryland thành lập năm 1782) được Washington ủng hộ suốt cuộc đời mình bằng việc trao tặng 50 đồng tiền vàng Anh và phục vụ trong ban hội đồng đặt trách quan khách và điều hành của trường cho đến năm 1789 (khi Washington được bầu làm tổng thống). Vô số thành phố và thị trấn Mỹ có một đường phố mang tên Washington.
Quốc ấn của Liên minh miền nam Hoa Kỳ nổi bật có hình George Washington trên lưng ngựa, trong tư thế tương tự như một tượng đá hình ông tại thành phố Richmond, Virginia.
Luân Đôn có một tượng đồng Washington, đây là một trong số 22 khuôn mẫu tượng đồng giống nhau. Dựa vào bức tượng bằng cẩm thạch ban đầu do Jean Antoine Houdon điêu khắc và được đặt trong gian phòng hình tròn của Tòa Quốc hội Tiểu bang ở Richmond, Virginia, bức tượng sao chép được Thịnh vượng chung Virginia trao tặng cho người Anh năm 1921. Bức tượng này đứng trước Phòng trưng bày Quốc gia (Luân Đôn) trong Quảng trường Trafalgar.
Viết lách và tài liệu của George Washington
Việc sưu tầm và xuất bản trịnh trọng các tác phẩm viết lách và tài liệu của Washington được bắt đầu bằng tác phẩm tiền phong của Jared Sparks vào thập niên 1830 có tựa đề Life and Writings of George Washington (12 cuốn, xuất bản từ 1834–1837). The Writings of George Washington from the Original Manuscript Sources, 1745-1799 (1931–44) là một bộ sựu tập gồm có 37 cuốn do John C. Fitzpatrick biên tập. Bộ sưu tập này gồm có trên 17.000 lá thư và tài liệu và có thể tìm thấy tại đây .
Phiên bản cuối cùng in toàn chữ (không có hình ảnh) được Đại học Virginia bắt đầu xuất bản vào năm 1968, và đến nay đã có đến 52 cuốn được xuất bản và các cuốn nữa sẽ xuất bản. Bộ sưu tập này gồm có mọi thứ mà Washington viết hoặc do ông ký cùng với đa số thư từ ông nhận được. Một phần của bộ sưu tập này có tại đây.
Đời sống cá nhân
Cùng với gia đình thân thuộc của vợ ông, Martha, có nói ở trên, George Washington có quan hệ gần gũi với cháu trai và cũng là người thừa kế tên là Bushrod Washington, con trai của em trai John Augustine Washington của ông. Sau khi bác qua đời Bushrod trở thành một thẩm phán của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên mối quan hệ của George Washington với mẹ là bà Mary Ball Washington rõ ràng là có gì đó khó khăn và căng thẳng.
Khi còn là một thanh niên, Washington có mái tóc đỏ. Có một truyền thuyết dân gian cho rằng ông đội tóc giả như một kiểu thời trang vào thời đó. Sự thật Washington không có đội tóc giả; thay vào đó ông rắc phấn bột vào tóc của mình, như được thấy trong một số bức họa trong đó có bức họa nổi tiếng nhưng dở dang của họa sĩ Gilbert Stuart.
Washington bị răng của mình hành hạ suốt cả cuộc đời. Ông mất chiếc răng trưởng thành đầu tiên khi ông 22 tuổi và chỉ còn lại 1 chiếc khi ông trở thành tổng thống. John Adams tuyên bố rằng Washington mất răng vì ông dùng nó để cắn hạt Brasil nhưng các sử gia hiện đại cho rằng chính dioxide thủy ngân mà ông uống để trị bệnh như đậu mùa và sốt rét có lẽ đã góp phần vào việc làm rụng răng của ông. Ông được làm một vài bộ răng giả, bốn trong số đó do một nha sĩ có tên là John Greenwood. Không như công chúng nghĩ, các bộ răng giả này không phải làm bằng gỗ. Bộ răng được làm cho ông khi ông trở thành tổng thống là làm bằng ngà voi và ngà hà mã, giữ chặt lại bằng niềng vàng. Vấn đề của răng đã làm cho Washington thường hay đau răng nên ông phải dùng cồn thuốc phiện. Nỗi đau đớn vì chứng đau răng có thể được bộc lộ rõ ràng trong nhiều bức hình được họa khi ông vẫn còn tại chức, trong đó phải kể đến bức hình được sử dụng trên tờ giấy bạc $1 đô la Mỹ.
Vấn đề người nô lệ
Sau cái chết của cha năm 1743, cậu bé George Washington 11 tuối thừa hưởng gia tài gồm 10 người nô lệ. Vào lúc ông kết hôn với Martha Custis năm 1759, cá nhân ông làm chủ ít nhất 36 nô lệ (vợ ông thừa hưởng và mang đến Mount Vernon một số nô lệ của chồng trước quá cố, ít nhất là 85 người). Ông dùng tài sản giàu có của vợ để mua thêm đất, tăng gấp ba lần diện tích đồn điền, và thêm nhiều nô lệ để canh tác đồn điền. Năm 1774, ông trả thuế đánh trên 135 nô lệ (không tính nô lệ của vợ ông được thừa hưởng từ người chồng đầu tiên quá cố của bà). Lần mua nô lệ cuối cùng của ông là vào năm 1772 dù sau này ông có nhận một số nô lệ để trừ nợ. Washington cũng dùng những người da trắng di cư làm người giúp việc gia đính để trả nợ di dân; tháng 4 năm 1775, ông đã trả tiền thưởng để nhận lại hai người da trắng giúp việc nhà sau khi hai người này bỏ trốn.
Một sử gia tuyên bố rằng Washington ước mong những lợi ích vật chất từ việc làm chủ nô lệ và muốn cho gia đình vợ của ông có một tài sản kế thừa thịnh vượng. Trước Cách mạng Mỹ, Washington không bài tỏ vấn đề đạo đức gì về chủ nghĩa nô lệ nhưng vào năm 1786, Washington viết cho Robert Morris như sau "Không ai mong muốn chân thành hơn tôi là thấy một kế hoạch được thông qua nhằm mục đích bãi bỏ chế độ nô lệ". Năm 1778, ông viết thư cho người quản lý của ông ở đồn điền Mount Vernon rằng ông muốn "bỏ hết người da đen". Duy trì một dân số nô lệ lớn và ngày càng già tại Mount Vernon thì không có lợi ích kinh tế. Tuy nhiên Washington không thể bán những "nô lệ thừa kế" của vợ (dower slaves) một cách hợp pháp, và vì những nô lệ này đã liên-hôn với các nô lệ của chính ông nên ông cũng không thể bán nô lệ của mình với lý do nếu ông bán nô lệ của mình thì ông gián tiếp làm cho gia đình họ ly tán.
Lúc làm tổng thống, Washington đưa 7 nô lệ đến Thành phố New York năm 1789 để làm người giúp việc nhà đầu tiên cho tổng thống. Sau khi thủ đô quốc gia chuyển đến Philadelphia năm 1790, ông đưa 9 nô lệ đến làm việc trong dinh tổng thống. Lúc ông mất, có 317 nô lệ làm việc tại Mount Vernon trong số đó Washington làm chủ 123 người, 154 người là "nô lệ thừa kế" của vợ và 40 người được một người hàng xóm mướn. Dorothy Twohig cho rằng Washington đã không lên tiếng công khai chống lại chủ nghĩa nô lệ vì ông không muốn tạo sự chia rẽ trong nước cộng hòa mới thành lập bằng một vấn đề rất nhạy cảm và gây chia rẽ lúc bấy giờ.
Tôn giáo
Washington là một thành viên của Giáo hội Anh giáo, sau này gọi là Giáo hội Giám nhiệm, "có địa vị được thiết lập" tại tiểu bang Virginia (điều đó có nghĩa là tiền thuế được dùng để trả cho các vị chức sắc nhà thờ). Ông là một thành viên phục vụ trong ban điều hành Nhà thờ Christ tại Alexandria, Virginia và Nhà thờ Pohick gần nhà của ông trong đồn điền Mount Vernon cho đến khi chiến tranh bắt đầu; tuy nhiên giáo xứ này là một đơn vị của chính quyền địa phương và giáo xứ này phần lớn lo những công việc dân sự như đường sá và giảm nghèo.
Theo sử gia Paul F. Boller Jr., thực tế mà nói Washington là một người theo thuyết thần giáo tự nhiên, có niềm tin sâu rộng vào "Sự quan phòng của Trời" hay cao hơn là "Ý Trời" bắt nguồn từ một "Đấng Tối cao" kiểm soát các sự kiện của loài người và như trong thần học Calvin thì tiến trình lịch sử đi theo một mô hình trật tự hơn chỉ là sự tình cờ. Năm 1789, Washington tuyên bố rằng "Đấng sáng tạo Vũ trụ" đã tích cực can thiệp về phía Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, theo Boller, Washington chưa bao giờ tìm cách cá nhân hóa quan điểm tôn giáo của chính mình hay bày tỏ sự ái mộ nào tới khía cạnh tốt đẹp của các đoạn văn Kinh thánh. Boller cho rằng "những lời bóng gió về tôn giáo của Washington hoàn toàn thiếu chiều sâu cảm xúc" Về khía cạnh triết lý, ông say mê và chọn triếc lý Stoic của La Mã cổ đại. Triết lý này coi trọng đức hạnh và nhân bản và có thể sánh cao bằng thuyết thần giáo tự nhiên.
Trong một lá thư gởi George Mason năm 1785, Washington viết rằng ông không phải trong số những người bị cảnh báo bởi một đạo luật "bắt người ta phải trả tiền để ủng hộ tôn giáo mà họ theo" nhưng cảm thấy rằng "không khôn ngoan" để thông qua một đạo luật như thế, và mong muốn rằng nó đã chưa từng được đề nghị vì tin rằng nó sẽ làm náo động cuộc sống yên ổn của công chúng.
Washington thường tháp tùng vợ đến lễ nhà thờ; tuy nhiên, không có ghi chép nào nói về việc ông hiệp lễ (nhận lễ ban thánh thể). Ông thường hay rời lễ nhà thờ trước khi hiệp lễ — cùng với những người không hiệp lễ khác. Đến khi bị một mục sư quở trách, ông thôi không tham dự các buổi thánh lễ vào những ngày chủ nhật. Khi làm tổng thống, ông khích lệ mọi người khi ông được người ta thấy tham gia thánh lễ tại vô số các nhà thờ trong đó có các nhà thờ Trưởng lão, Quaker và Công giáo để chứng tỏ sự ủng hộ đại thể của ông cho tôn giáo. Washington nổi tiểng rộng lượng. Ông tham dự nhiều sự kiện từ thiện và tặng tiền cho các trường, các đại học và cho người nghèo. Là công dân hàng đầu của Philadelphia, Tổng thống Washington dẫn đầu trong công cuộc cung cấp từ thiện cho các quả phụ và trẻ mồ côi trong thành phố thủ đô bị dịch sốt vàng hoành hành vào năm 1793.
Michael Novak và Jana Novak cho rằng đây có thể là "ý định của Washington khi duy trì sự mơ hồ có chủ ý (và sự riêng tư cá nhân) liên quan đến nhận thức tôn giáo sâu thẳm nhất của ông, để cho mọi người Mỹ, cả thời đó và mãi sau này, có thể cảm thấy tự ý để tiếp cận ông bằng cách riêng của mình, cũng như có thể cảm thấy mình là thành viên đầy đủ của một nền cộng hòa mới, bình đẳng với mọi người khác". Họ kết luận: "Ông được dưỡng dục trong Giáo hội Giám nhiệm mà ông luôn thuộc về; và quan điểm của tôi [sic] là ông tin vào các giáo lý nền tảng của Kitô giáo như vẫn được dạy trong Giáo hội, theo cách hiểu của ông; nhưng trong đó không có một chút sự bất khoan dung hay thiếu tôn trọng nào với các niềm tin và cách thức thờ phượng của các Kitô hữu thuộc hệ phái khác."
Thành viên Hội Tam Điểm
Năm 1752 Washington được thu nhận vào Hội Tam Điểm. Trong lễ nhậm chức tổng thống năm 1789, Đại sư phụ chi hội New York đã chủ trì lễ tuyên thệ nhậm chức của ông. Ngày 18 tháng 9 năm 1793, ông đặt viên đá góc của Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ có mang dấu hiệu Đại sư phụ Hội Tam Điểm. Washington kính trọng cao độ đối với nội quy của hội và thường hay ca ngợi nó nhưng ông ít khi tham dự các buổi họp của chi hội. Ông bị lôi cuốn bởi sự tận tụy của phong trào đối với những nguyên lý khai sáng; các chi hội Mỹ không chia sẻ triển vọng chống tăng lữ mà đã khiến cho các chi hội tại châu Âu bị tai tiếng
Gia đình và quê hương
George Washington được sinh ra ở tiểu bang Virginia và là con đầu lòng của ông Augustine Washington (1694-1743) với người vợ thứ hai là bà Mary Ball Washington (1708-1789). Trước khi cưới bà Mary Ball, ông Augustine đã có bốn con với người vợ cả là bà Jane Butler, trong số đó có hai người con chết lúc còn trẻ (Lawrence và Jane) và người con đầu bị chết yểu là Butler. Ông Augustine và bà Mary Ball có với nhau 6 người con, trong đó người con gái út mất lúc 1 tuổi do bị sinh non. Như vậy, George Washington có bốn anh chị cùng cha khác mẹ và năm em ruột.
Anh chị cùng cha khác mẹ
Butler Washington (anh trai, 1716-1716)
Lawrence Washington (anh trai, 1718–1752)
Augustine Washington II (anh trai, 1720–1762)
Jane Washington (chị gái, 1722–1735)
Em ruột
Elizabeth Washington (em gái, 1733–1797)
Samuel Washington (em trai, 1734–1781)
John Augustine Washington (em trai, 1736–1787)
Charles Washington (em trai, 1738–1799)
Mildred Washington (em gái, 1739–1740)
Chú thích |
Văn học đời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400).
Tổng quan văn học thời Trần
Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều thiên tài quân sự, tạo nên những chiến công sáng chói trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, nhân tài đời Trần không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, mà còn có rất nhiều nhân vật, nhà văn, thơ kiệt xuất trong lãnh vực văn học. Nếu thi ca và văn chương là nền tảng của tư tưởng Việt, tư tưởng từ đó được hệ thống hóa thành nhân sinh quan và triết lý Việt, thì đóng góp của đời Trần rất quan trọng trong việc phát huy một nền văn hóa thuần túy Việt Nam. Bắt nguồn từ một nhân vật gốc gác ngư dân thuyền chài, không biết gì về văn học, các triều đại nhà Trần đã để lại một nền văn học có phần vượt trội, hơn hẳn đời nhà Lý. Không những thế, dưới các triều đại này việc phổ biến chữ Nôm và Quốc ngữ thi cho ta thấy người Việt đã bắt đầu phát huy một nền văn hóa đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc.
Điều kiện phát triển
Một trong những lý do văn học đời Trần có những thành tựu tốt đẹp là do việc học được khuyến khích không ngừng qua suốt các đời vua. Năm Kiến Trung thứ tám (1232), vua Thái Tông đã cải tổ lại việc thi cử của đời Lý, mở kỳ thi Thái học sinh để tuyển mộ người hiền; năm Thiên Ứng Chính Bình thứ năm (1243) vua đặt Phạm Ứng Thần làm chức quan Thượng thư tri Quốc tử giám đề điệu, ra lệnh các con quan văn phải vào trường này học; năm Thiên Ứng Chính Bình thứ mười (1247) Thái Tông lập thêm tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa để khuyến khích thí sinh; năm Nguyên Phong thứ ba (1253) Thái Tông lập Quốc học viện để giảng dạy, truyền chiếu toàn quốc cho các học giả, khuyên nên vào Quốc học viện giảng đọc Tứ thư Ngũ kinh. Đời Nhân Tông năm Thiệu Bảo thứ ba (1281), vua lập nhà học ở phủ Thiên Trường, cử quan về giảng dạy. Đến đời Phế Đế, năm Xương Phù thứ bảy (1384) lập thư viện ở núi Lạn Kha , cử Trần Tông làm trưởng viện giảng dạy học trò, và vua Nghệ Tông thường đích thân thăm viếng. Đời Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 vua ban chiếu cấp ruộng học cho các châu phủ có lợi tức, đặt quan Đốc học dạy dỗ các học trò. Các việc trên đây cho thấy tuy trải qua nhiều tai biến binh đao, các vua nhà Trần không hề xao lãng trong việc khuyến khích sự học.
Lý do thứ hai văn học đời Trần có những thành công tốt đẹp là do từ đời Thuận Tông trở về trước, việc học chú trọng về kinh thuật, đào tạo cho người học có bản lĩnh suy luận cơ bản, không chú trọng lối học từ chương. Do đó, nhà Trần có những học giả kiệt xuất như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, và những nhà tư tưởng độc lập như Hồ Quý Ly. Có học giả bình luận rằng nhờ vậy văn học đời Trần "...có khí cốt, không ủy mị non nớt như các đời khác..."
Sự xuất hiện của thơ văn chữ Nôm
Hàn Thuyên
Trước đời Trần, văn chương Quốc ngữ nước Việt chỉ có tục ngữ, ca dao, hoặc các loại văn chương bình dân truyền khẩu . Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng tám, mùa thu năm Thiệu Bảo tứ tư đời Nhân Tông (1282) có con ngạc ngư lớn xuất hiện ở sông Phú Lương, vua sai quan Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên viết bài văn vất xuống sông đuổi cá. Con cá bỏ đi, vua xem việc nầy giống sự tích Hàn Dũ ở Trung Quốc, nên ban lệnh đổi tên họ ông thành Hàn Thuyên . Ông có biệt tài làm được thơ phú bằng chữ quốc ngữ, đặt ra Hàn luật. Theo Dương Quảng Hàm thì Hàn luật chính là Đường luật ứng dụng vào Việt ngữ, và công Hàn Thuyên rất lớn, vì nhờ có ông áp dụng vào thơ phú chữ Nôm, nhiều người bắt chước theo ông, nên nền văn chương chữ Nôm được khởi đầu từ đây . Tại Bách khoa toàn thư Việt Nam viết: Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật (kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc).
Thơ văn chữ Nôm đời Trần
Sử chép nhiều người đời Trần bắt chước Hàn Thuyên làm thơ phú quốc âm, gây thành phong trào làm thơ phú và viết văn bằng chữ Nôm . Các bài thơ văn này nay đã thất truyền, nhưng sử còn ghi lại tên một số tác giả và tác phẩm:
Hàn Thuyên viết Phi sa tập.
Nguyễn Sĩ Cố viết một số bài thơ văn chữ Nôm.
Chu Văn An viết Quốc ngữ thi tập.
Hồ Quý Ly viết Quốc ngữ thi nghĩa.
Trong Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng có ghi lại năm bài văn nôm đời Trần chép sự việc Nguyễn Biểu đi sứ, ăn cỗ đầu người, bị tướng Trương Phụ chém, như sau:
a) Bài thơ nôm vua Trần tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ.
b) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu họa lại.
c) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu viết lúc ăn cỗ đầu người.
d) Bài văn tế Nguyễn Biểu chữ nôm do Trần Trùng Quang viết.
e) Bài kệ chữ nôm của vị sư chùa Yên Quốc (nơi Nguyễn Biểu bị hành hình) khen ngợi chí khí của ông.
Các thể loại và một số tác phẩm
Tác giả và tác phẩm tiêu biểu
Trần Quốc Tuấn
Hịch tướng sĩ: Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông thấy thế giặc mạnh, cho vời ông về Hải Dương mà phán: "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân sự tàn hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?" Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn Miếu Xã Tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau hãy hàng!!" Vua nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn ('諭諸裨將檄文), thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.
Binh thư yếu lược: Do Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn soạn, đại ý ghi các điều cốt yếu từ các binh thư về việc dùng binh, giúp các tướng lãnh và quân sĩ trau dồi khả năng quân sự.
Trần Quang Khải
Tòng giá hoàn kinh (從駕還京) (còn được biết đến với các tên Tụng giá hoàn kinh sư, Tụng giá hoàn kinh sứ) do Trần Quang Khải viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ đại ý nói về cảm xúc người tướng khi theo xa giá vua trở về kinh đô khải hoàn. Hiện còn hai bản lưu truyền, một của Trần Trọng Kim , một của Ngô Tất Tố.
Phúc hưng viên (福興園) Sau khi chiến thắng quân Nguyên, Thượng tướng Trần Quang Khải về hưu lúc tuổi già và nghỉ ngơi tại tư dinh của ông, có vườn riêng tên gọi "Phúc hưng viên". Bài thơ này đại ý tả cảnh nhàn nhã thời thanh bình. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
Lưu gia độ (劉家渡) Bài thơ này đại ý tả cảnh khách qua bến đò Lưu gia, nhớ lại ngày xưa từng hộ tống xa giá vua có dừng quân nơi đây, nay non sông thái bình, trở lại chốn cũ đầu đã bạc, thấy hoa mai nở trắng xóa như tuyết bên bờ sông. Hiện còn một bản lưu truyền của Ngô Tất Tố.
Xuân nhật hữu cảm (春日有感) gồm hai bài thơ xuân, hiện còn hai bản lưu truyền của Ngô Tất Tố. Bài thứ nhất đại ý nói mùa xuân, một người đóng chặt cửa, ngồi nhìn mưa bụi bay trên hoa mai, nghĩ đến ba phần ngày xuân đà bỏ phí hết hai, nay năm mươi biết sức đã suy, nhưng hào khí ngày nào vẫn còn, dùng vào chi hơn là đè ngọn gió Đông mà làm một bài thơ. Bài thứ hai nói cảnh đêm xuân gần tàn, dưới bóng trăng mờ thấy hơi lành lạnh ngọn gió đưa đến, sáng ra mấy chùm bông liễu trên không bay lạc vào gác, vài cành trúc đập vào hiên như muốn quấy rầy giấc ngủ, xa xa hình như đang mưa, trong gió đưa lại hơi mát làm mọi sự tươi tỉnh. Người sực nhớ giật mình, thấy mình không còn xuân trẻ, nay chỉ có ba chén rượu giải sầu, nhưng khi say cầm vỗ lại thanh gươm thời trẻ, thấy nhớ ngọn núi xưa nơi đã tung hoành một thời.
Trần Thái Tông
Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh
Ký Thanh phong am Tăng Đức Sơn
Ngưu Mã Bạch Cốt Tinh HOang Dong Thai
Bạch MÃ Sông Toàn Trì Việt Thành Quốc Khà Ái
Trần Thánh Tông
Đề Huyền thiên động
Hạ cảnh
Trần Nhân Tông
Xuân hiểu
Nguyệt
Chu Văn An
Thất trảm sớ (bài sớ xin chém bảy quyền thần) Bài sớ này viết vào đời Dụ Tông, khi Chu Văn An làm quan trong triều và chứng kiến một số quan lại hủ bại, bèn viết sớ xin vua chém các người này. Khi vua không nghe, ông từ quan về hưu và sau đó không còn tham chính .
Trương Hán Siêu
Bạch Đằng giang phú (phú sông bạch đằng) Bài này Trương Hán Siêu tả cảnh sông Bạch Đằng, nhắc nhở công của quân dân nhà Trần đánh quân Nguyên, và khuyên hậu duệ trong nước đời sau nên biết gìn giữ giang sơn .
Linh tế tháp ký
Quan Nghiêm tự bi văn bài này ghi việc xây dựng trùng tu chùa Quan Nghiêm.
Mạc Đĩnh Chi
Ngọc tỉnh liên phú (Phú hoa sen ở giếng ngọc) Năm Hưng Long thứ hai mười hai (1304), đời Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi thi, đỗ trạng nguyên, khi vào chầu, vua thấy người ông nhỏ bé, lại xấu xí, nên không vui. Ông bèn viết bài phú hoa sen ở giếng ngọc, tự ví mình như loài hoa sen hiếm quý chỉ có người sành điệu mới biết thưởng thức. Vua xem khen hay và bổ ông làm quan .
Hồ Quý Ly
Quốc ngữ thi nghĩa sách dùng chữ quốc ngữ chua nghĩa Kinh Thi để các giáo sư dạy hậu phi và cung nhân. Sách này Hồ Quý Ly chú giải theo ý mình, không theo lời chú thích trước của Chu Tử .
Minh đạo lục sách gồm 14 thiên, nay đã thất truyền, nhưng theo sử thì có rất nhiều tư tưởng mới mẻ về học thuật: (a) về đạo thống, Hồ Quý Ly chủ trương nên tôn Chu Công làm tiên thánh, giáng Khổng Tử làm tiên sư; (b) về kinh truyện, ông cho rằng sách Luận ngữ có 4 việc đáng nghi ngờ; (c) về các danh nho người Hán, ông cho Hàn Dũ là hạng đạo nho (ăn cắp văn người khác), Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, Chu Hy, là hạng học rộng nhưng tài kém, chỉ biết răm rắp theo ý cũ. Ngô Tất Tố khi bàn về hiện tượng này cho rằng "...những điều ông ta nói (trong Minh đạo lục) chẳng những ở ta từ trước đến hồi gần đây chưa ai nghĩ tới, mà đến ở Tàu, trừ bọn Thanh nho sinh sau Quý Ly ba bốn thế kỷ, cũng chưa có ai dám nói..."
Lê Trắc
Nội phụ
Đô thành
Sử Hy Nhan
Trảm xà kiếm phú
Đại Việt sử lược |
Tụng giá hoàn kinh sư (còn được gọi là Tòng giá hoàn kinh, giá hoàn kinh sư, Tụng giá hoàn kinh sư, có nghĩa là Phò giá về kinh) là một bài thơ do Trần Quang Khải (1241-1294) viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ này được viết theo thể thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, nói về cảm xúc một vị tướng trên đường theo xa giá vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô. Đồng thời ca ngợi đội quân nhà Trần trong việc bảo vệ non sông đất nước. Hiện còn hai bản lưu truyền, một của Trần Trọng Kim, một của Ngô Tất Tố. Bài thơ hiện đang được đưa vào chương trình sách giáo khoa lớp 7, tập một.
Thời gian
Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), sau khi đuổi quân Thoát Hoan, giải phóng kinh thành Thăng Long, Trần Quang Khải đưa hai vua Trần về lại kinh đô, theo phò giá và làm bài thơ này.
Văn bản
Nguyên văn chữ Hán
從 駕 還 京
奪 槊 章 陽 渡
擒 胡 鹹 子 關
太 平 宜 努 力
萬 古 此 江 山
Phiên âm Hán-Việt:
Tụng Giá Hoàn Kinh
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Bản dịch của Ngô Tất Tố:
Bến Chương cướp giáo giặc,
Ải Hàm bắt quân Hồ.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước vẫn muôn thuở.
Bản dịch của Trinh Đường:
Cướp giáo Chương Dương đó, Bắt thù Hàm Tử đây.
Thái bình nên gắng sức,Muôn thuở nước non này.Bản dịch của Ngô Văn Phú:Bến Chương Dương cướp giáoCửa Hàm Tử bắt thùĐời thái bình gắng gỏi,Đất nước mãi muôn thu. Chú thích
"Việt Nam Sử Lược" Tập II, Trần Trọng Kim, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài Gòn, 1964, tr.147
"Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần''" Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài Gòn, 1960 tr.85-86 |
Lê Thương (1914–1996) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của bộ ba ca khúc Hòn vọng phu bất hủ.
Tiểu sử
Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục.
Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên. Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam. Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, đến năm 1943 thì chuyển về sống tại Sài Gòn. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Bình Đài (Bến Tre) rồi bị quân Pháp bắt giữ. Năm 1948, ông được trao trả tự do, nhưng do đã mất liên lạc với tổ chức nên quyết định trở lại Sài Gòn, không còn liên hệ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nữa. Từ năm 1954 đến 1975, ông công tác ở Bộ Quốc gia Giáo dục của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Ông cũng từng là giáo sư Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus - Ký vào thập niên 60, một trong những học trò của ông là nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn. Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc gia Giáo dục và là giảng viên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ.
Âm nhạc
Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong viết tân nhạc với bài "Bản đàn xuân". Ngoài "Bản đàn xuân", trong thời kỳ ở miền Bắc, Lê Thương còn sáng tác những tác phẩm khác như "Tiếng đàn đêm khuya", "Một ngày xanh", "Trên sông Dương Tử", "Thu trên đảo Kinh Châu"...
Từ khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ thơ nhiều bài như "Lời kỹ nữ" (thơ Xuân Diệu), "Lời vũ nữ" (thơ Nguyễn Hoàng Tư), "Bông hoa rừng" (thơ Thế Lữ), "Tiếng thùy dương" (tức "Ngậm ngùi" thơ Huy Cận) và "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư)...
Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng "Lòng mẹ Việt Nam" hay "Bà Tư bán hàng" nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.
Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như "Nàng Hà Tiên", "Lịch sử loài người", "Hoa thủy tiên"... Đặc biệt hơn cả là bộ ba "Hòn vọng phu", được xem như một trong những tác phẩm nổi tiếng của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản "Hoà bình 48" (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), "Làng báo Sài Gòn" (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), "Đốt hay không đốt" (châm biếm máu Hoạn Thư), "Liên Hợp Quốc"... Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên 1940. Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như "Nhớ Lào" (nhạc Lào), "Bông hoa dại" tức "Ô Đuồng Chăm Pá" (nhạc Lào), "Lòng trẻ trai" (nhạc Hoa Kỳ), "Hoa anh đào" tức "Sakura" (cổ nhạc Nhật Bản), "Màn Brúc đánh giặc" (dân ca Pháp)...
Một thời gian, Lê Thương có cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Và cùng Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản "Tuổi thơ", "Cô bán bánh", "Con mèo trèo cây cau", "Thằng bé tí hon", "Ông Nhang bà Nhang", "Truyền kỳ Việt sử", "Học sinh hành khúc"... Nổi tiếng hơn cả là bài "Thằng Cuội" thường được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, mặc dù nhiều người không biết đó là một ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương:
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe
Ở cung trăng mãi làm chi
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mợ...
Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.
Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có chín người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.
Sau 1975, ông không tham gia hoạt động văn nghệ. Vào thập niên 1990, ông bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Bản đàn xuân
Bông hoa rừng
Cô bán bánh
Con cóc leo võng
Con mèo trèo cây cau
Con muỗi
Cung đàn Nam
Đàn bao tuổi rồi
Đàn tình xưa
Đốt hay không đốt
Hoa thủy tiên
Học sinh hành khúc
Hòn vọng phu 1
Hòn vọng phu 2
Hòn vọng phu 3
Làng báo Sài Gòn
Lịch sử loài người 1 - 2
Lời kỹ nữ
Lời vũ nữ
Lòng mẹ Việt Nam
Một ngày xanh
Nàng Hà Tiên
Người chơi độc huyền
Nhớ Lào
Nhớ thày xưa
Ông Nhang bà Nhang
Ông Nỉnh, ông Nang
Tâm sự ca nhân
Thằng bé tí non
Thằng Cuội
Thu trên đảo Kinh Châu
Tiếng đàn đêm khuya
Tiếng thu
Tiếng thùy dương
Trên sông Dương Tử
Truyền kỳ Việt sử
Tuổi thơ
Xuân yêu đương
Nhận xét
Ảnh hưởng
"Tôi không hẳn là một người tiền phong (của Tân nhạc Việt Nam), mà trước đó đã có những người sáng tác từ lâu. Thí dụ như anh Nguyễn Văn Tuyên, rồi thì anh Nguyễn Xuân Khoát... Nhưng mà có lẽ người làm cho tôi kích động nhất để đi làm âm nhạc thì đó là anh Lê Thương. Những dòng nhạc của anh ấy đem lại hơi thở của một giai điệu Việt Nam."
-Nhạc sĩ Văn Cao trả lời phỏng vấn |
Nhạc tiền chiến là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học. Ban đầu khái niệm nhạc tiền chiến (nhạc trước thời kỳ chiến tranh) dùng để chỉ dòng nhạc mới bằng tiếng Việt theo âm luật Tây phương trước khi nổ ra chiến tranh Việt - Pháp 1945 - 1954, sau này, vì lý do chính trị, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946–1954) cùng phong cách trữ tình lãng mạn, như Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Trăng Mờ Bên Suối của Lê Mộng Nguyên... và cả sau 1954 đối với một số nhạc sĩ ở miền Nam như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... Một số ca khúc trữ tình cách mạng trong chiến tranh Việt - Pháp như Lời người ra đi, Sơn nữ ca của Trần Hoàn khi lưu hành ở miền Nam cũng được gọi là "nhạc tiền chiến". Các bài tiền chiến thường theo điệu Valse, Tango, Slow Waltz, Boston, Blues, March, một số là các trường ca, hay hát theo phong cách cổ điển hoặc bán cổ điển. Trừ số rất ít, hầu hết các ca khúc tiền chiến thuộc dòng thính phòng hay nhạc nhẹ có tính chất thính phòng. Dòng nhạc trữ tình ở miền nam sau này cũng ảnh hưởng của dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow Rock, Slow Ballad, Slow Fox, trong khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng của nhạc tiền chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Văn Tuyên, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn, Cung Tiến...
Các ca khúc như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến, Thiên Thai, Trương Chi, Tình ca, Chiều về trên sông, Đêm tàn bến Ngự, Hòn vọng phu,...
Trên thực tế Tân nhạc Việt Nam trước 1945 có hai thể loại chính là tình ca và hùng ca, một số nghiêng về nhạc cổ điển, nhưng nhiều sáng tác là nhạc nhẹ, đại chúng, bên cạnh đó số ít có tính dân gian, nhưng mảng này nở rộ hơn giai đoạn sau 1945.
Bối cảnh ra đời
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam xuất hiện 1 giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam gây nên những thay đổi lớn. Nhiều giá trị tư tưởng cổ hũ mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ có tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. 1 tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình thành.
Giai cấp tư sản và 1 bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có 1 lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Nếu như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp thì những nhạc sĩ tiền chiến cũng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương
Đầu thế kỷ XX, những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours (vòng), hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn thích đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandolin, guitar hơn nữa là violon, piano để có thể làm quen với những bài hát nước ngoài mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
Những người thành công nhất trong việc sử dụng nhạc điệu Âu Mỹ để đưa ra những bài hát mới, chính là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi. Ông vừa là diễn viên, vừa là soạn giả và còn muốn là người soạn nhạc nữa cho nên ông đã sáng tác những ca khúc ngắn mà ông gọi là "bài ta theo điệu tây" và soạn ra những tiểu ca kịch (opérette) mà ông đặt tên là "hoạt kê hài hước" (opérette comique) trình diễn trên sân khấu các đoàn hát xuất xứ từ miền Nam là Trần Đắt và Phước Cương (gánh hát của Bạch Công Tử) vào khoảng 1933-1934.
Trên sân khấu các đoàn Trần Đắt và Phước Cương, ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt Nam vào lúc đó, nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm nhạc. Ông không muốn dùng các bài bản có tính chất cổ truyền như Lưu Thủy, Hành Vân trong opérette của mình. Với sự phổ biến của máy hát chạy bằng lò xo, những "bài hát theo thời" (chansons à la mode) Âu Mỹ đã bắt đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam. Những bài Pháp như J'ai Deux Amours, Quand On Est Matelot... đã được nhiều người biết đến.
Có thể nói việc làm của nghệ sĩ Tư Chơi đã thành công. Một số bài dù khởi đầu phóng tác từ một điệu Tây, về sau được coi là điệu Việt Nam hoàn toàn. Ví dụ bài Hoà duyên nằm trong nhạc mục của ngành ca kịch cải lương, ít người biết nó khởi sự là một bài ta theo điệu Tây của Tư Chơi, Huỳnh Thủ Trung.
Cùng một lúc với việc Tư Chơi tung ra trên sân khấu những "bài ta theo điệu tây", thì trong giới yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours (vòng). Các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam như Ái Liên, Kim Thoa, lại được các hãng đĩa của người Pháp Odéon, Béka mời thu thanh các bài ta theo điệu tây.
Trong năm 1935-1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... (phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto) và của Mỹ như Good bye Hawaii, South of the border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi 1 nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác.
Đã có những hội "Ái Tino" được thành lập ở Hà Nội, ở Hải Phòng... Một thanh niên có giọng hát tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt đầu cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân.
Phạm Duy gọi giai đoạn 1935-1938 là Thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam.
Tân nhạc hình thành 1938
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Cuối thập niên 1930, nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên, Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung, Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương. Nhưng các nhạc sĩ đó sáng tác và trình bày những ca khúc của mình chỉ trong phạm vi bạn bè. Nguyễn Văn Tuyên là người đầu tiên trình bày ca khúc nhạc cải cách trước công chúng và sau đó những bài hát này được phổ biến rộng rãi trên báo chí.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 Nguyễn Văn Tuyên phổ 1 bài thơ của 1 người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của ông. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với thống đốc của Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó là Pagès (có tài liệu ghi Rivoal). Thống đốc Nam Kỳ nghe Nguyễn Văn Tuyên hát và đã mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc, nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi 1 vòng Việt Nam tới các thành phố Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3/1938, Nguyễn Văn Tuyên có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp 1 cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. 1 phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó cho rằng việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn tại đó.
Tại hội Tri Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng ông đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Và lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín bấy giờ, số 121 ra ngày 31/7/1938 đã đăng bài hát đầu tiên, bài Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát lời ca của Thế Lữ, và sau đó là các bản Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc... ở các số tiếp theo.
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Đầu 1939, nhiều bản nhạc của các nhóm, nhạc sĩ được bày bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong
Nguyễn Xuân Khoát
Được xem như người anh cả trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời, ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết trình cho sự cải cách nhạc Việt, được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm Màu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ, vừa ra đời đã được hoan nghênh lớn.
Lê Thương
Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành 1 nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc, đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo Kinh Châu và Hòn vọng phu.
Văn Cao
Văn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu, Vui lên đường. Năm 1941, Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi, Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân... Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.
Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại 3 nhạc phẩm Đêm thu, Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
Phạm Duy
Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy, nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như Cây đàn bỏ quên, Tình kỵ nữ, Tiếng bước trên đường khuya hay đậm chất dân ca như Em bé quê, Tình ca, Bà mẹ quê, Gánh lúa... Phạm Duy và Văn Cao là 2 người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề, họ từng sáng tác chung các ca khúc Bến xuân, Suối mơ.
Phạm Duy là người có công đầu trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo.
Nhóm Myosotis
Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. 2 xu hướng chính của nhóm là:
Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
Từ 1938 cho tới 1942, nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
Tricéa
Nhóm Tricéa gồm 3 thành viên Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam".
Những năm khoảng 1939, nhiều ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời gian.
Đồng Vọng
Nhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ), Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng ca trong tân nhạc Việt Nam.
Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.
Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng ca trong tân nhạc Việt Nam, nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên mang tính chính trị nhiều hơn.
Tổng Hội Sinh Viên được khởi đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... đã để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1954
Từ năm 1946, có nhiều nhạc sĩ vào chiến khu và viết ca khúc kháng chiến cổ vũ Việt Minh kháng Pháp, nhưng nhiều người trong số này vẫn có những sáng tác lãng mạn như Phạm Duy với "Bên cầu biên giới", Trần Hoàn với Sơn nữ ca, Việt Lang với Tình quê hương, Tô Vũ với Em đến thăm anh một chiều mưa, Tô Hải với Nụ cười sơn cước, Nguyễn Văn Tý với Dư âm,...
Trong vùng đô thị bị Pháp tạm chiếm, cả 2 dòng nhạc yêu nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài phát thanh, trong vũ trường và các quán rượu. Năm 1950, tạp chí Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội đã xuất bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã phát thanh gồm cả những bài hát lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác dành cho những người lính kháng chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt động vào năm 1954, họ đã phát thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.
Một số bài hát được sửa lời bởi tác giả hoặc người khác để phổ biến trong vùng bị Pháp tạm chiếm, ví dụ "Sơn nữ ca" của Trần Hoàn. Bài này ông sáng tác trong thời kỳ tham gia Đoàn Nghệ thuật tuyên truyền tại vùng thâm sơn cùng cốc núi U Bò - rừng Ba Rền thuộc tỉnh Quảng Bình. "Sơn nữ" ở đây là những nữ sinh Huế tham gia kháng chiến mà ông gặp. Bài này khi phổ biến rộng rãi trong vùng tạm chiếm đã được người khác chỉnh lời, về sau bản thân tác giả cũng chấp nhận bản sửa lời.
Sau 1954 ở miền Nam
Sau năm 1954, Việt Nam chia làm hai thể chế chính trị khác nhau ở hai miền. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không muốn phổ biến, hoặc không còn sáng tác những ca khúc trữ tình lãng mạn nữa. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu, xây dựng đất nước, đấu tranh cách mạng... và được xếp vào dòng nhạc đỏ.
Một số nhạc sĩ khác di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương... hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ này trong giai đoạn 1954-1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến, có thể kể đến là "Mộng dưới hoa", trường ca "Hội trùng dương", "Đôi mắt người Sơn Tây" của Phạm Đình Chương, "Hương xưa", "Thu vàng" của Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Duy Trác, Sĩ Phú, Hà Thanh, Hoàng Oanh ("Bài Thơ Huế", "Nhớ Huế",... của Lê Mộng Nguyên).
Số phận nhạc tiền chiến sau 1975
Trong nước Việt Nam
Tại Việt Nam sau 1975, phần lớn những ca khúc tiền chiến bị cấm lưu hành. Cho tới năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ", một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó, những nhạc phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Lê Mộng Nguyên... được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi, trong đó phải kể đến sự trở lại của Ngọc Bảo, và những nỗ lực của ca sĩ Lê Dung, Ánh Tuyết.
Những năm đầu thế kỷ 21, những ca khúc đầu tiên của dòng tân nhạc vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình diễn và thu âm và một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.
Ngoài nước Việt Nam
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều ca nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa rời Việt Nam để định cư tại nhiều nước khác trên thế giới, tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại, các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Cung Tiến,... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến, nhưng dòng nhạc đó vẫn được yêu thích. Những ca sĩ đã thành danh trước 1975 như Anh Ngọc, Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao, Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà,... hay những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ,... thường xuyên trình diễn những nhạc phẩm này.
Tài liệu tham khảo
Jason Gibbs: Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long – Câu chuyện âm nhạc Việt Nam. Bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Trương Quý. (NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008) |
Ổ đĩa cứng, hay còn gọi là ổ cứng (tiếng Anh: Hard Disk Drive, viết tắt: HDD) là thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật liệu từ tính.
Ổ đĩa cứng là loại bộ nhớ "không thay đổi" (non-volatile), có nghĩa là chúng không bị mất dữ liệu khi ngừng cung cấp nguồn điện cho chúng.
Ổ đĩa cứng là một thiết bị rất quan trọng trong hệ thống bởi chúng chứa dữ liệu thành quả của một quá trình làm việc của những người sử dụng máy tính. Những sự hư hỏng của các thiết bị khác trong hệ thống máy tính có thể sửa chữa hoặc thay thế được, nhưng dữ liệu bị mất do yếu tố hư hỏng phần cứng của ổ đĩa cứng thường rất khó lấy lại được.
Ổ đĩa cứng là một khối duy nhất, các đĩa cứng được lắp ráp cố định trong ổ ngay từ khi sản xuất nên không thể thay thế được các "đĩa cứng" như với cách hiểu như đối với ổ đĩa mềm hoặc ổ đĩa quang.
Xem các nghĩa có tên ổ đĩa tại bài định hướng Ổ đĩa
Tổng quan
Ổ đĩa cứng (hay còn gọi là Ổ cứng) thường được biết đến như là một bộ phận của máy tính với việc lưu trữ dữ liệu cho dù chúng xuất hiện muộn hơn so với những chiếc máy tính đầu tiên.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, ổ đĩa cứng có kích thước ngày càng nhỏ đi, trong khi dung lượng thì ngày càng tăng lên. Trong quá khứ, những thiết kế đầu tiên của ổ đĩa cứng chỉ dành cho máy tính,nhưng ngày nay, ổ đĩa cứng còn được sử dụng trong các thiết bị điện tử khác như máy nghe nhạc kĩ thuật số, máy ảnh số, điện thoại di động thông minh (SmartPhone), máy quay phim kĩ thuật số, thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân.v.v...
Không chỉ tuân theo các thiết kế ban đầu, ổ đĩa cứng đã có những bước tiến công nghệ nhằm giúp lưu trữ và truy xuất dữ liệu nhanh hơn, ví dụ: sự xuất hiện của các ổ đĩa cứng lai giúp cho hệ điều hành hoạt động tối ưu hơn, giảm thời gian khởi động của hệ thống, tiết kiệm năng lượng; sự thay đổi phương thức ghi dữ liệu trên các đĩa từ làm cho dung lượng mỗi ổ đĩa cứng tăng lên đáng kể.
Lịch sử phát triển
Năm 1955
Ổ cứng đầu tiên trên thế giới có là IBM 350 Disk File được chế tạo bởi Reynold Johnson ra mắt năm 1955 cùng máy tính IBM 305. Ổ cứng này có tới 50 tấm đĩa kích thước 24" với tổng dung lượng là 5 triệu ký tự. Một đầu từ được dùng để truy nhập tất cả các tấm đĩa khiến cho tốc độ truy nhập trung bình khá thấp.
Năm 1961
Thiết bị lưu trữ dữ liệu IBM 1301 ra mắt năm 1961 bắt đầu sử dụng mỗi đầu từ cho một mặt đĩa.
Ổ đĩa đầu tiên có bộ phận lưu trữ tháo lắp được là ổ IBM 1311. Ổ này sử dụng đĩa IBM 1316 có dung lượng 2 triệu ký tự.
Năm 1973
IBM giới thiệu hệ thống đĩa 3340 "Winchester", ổ đĩa đầu tiên sử dụng kĩ thuật lắp ráp đóng hộp (sealed head/disk assembly - HDA). Kĩ sư trưởng dự án/chủ nhiệm dự án Kenneth Haughton đặt tên theo "súng trường Winchester" 30-30 sau khi một thành viên trong nhóm gọi nó là "30-30" vì các trục quay 30 MB của ổ đĩa cứng. Hầu hết các ổ đĩa hiện đại ngày nay đều sử dụng công nghệ này, và cái tên "Winchester" trở nên phổ biến khi nói về ổ đĩa cứng và dần biến mất trong thập niên 1990.
Trong một thời gian dài, ổ đĩa cứng có kích thước lớn và cồng kềnh, thích hợp với một môi trường được bảo vệ của một trung tâm dữ liệu hoặc một văn phòng lớn hơn là trong môi trường công nghiệp khắc nghiệt (vì sự mong manh), hay văn phòng nhỏ hoặc nhà riêng (vì kích cỡ quá khổ và lượng điện năng tiêu thụ). Trước thập niên 1980, hầu hết ổ đĩa cứng có các tấm đĩa cỡ 8" (20 cm) hoặc 14-inch (35 cm), cần một giá thiết bị cũng như diện tích sàn đáng kể (tiêu biểu là các ổ đĩa cứng lớn có đĩa tháo lắp được, thường được gọi là "máy giặt"), và trong nhiều trường hợp cần tới điện cao áp hoặc thậm chí điện ba pha cho những mô tơ lớn chúng dùng. Vì lý do đó, các ổ đĩa cứng không được dùng phổ biến trong máy vi tính đến tận năm 1980, khi Seagate Technology cho ra đời ổ đĩa ST-506 - ổ đĩa 5,25" đầu tiên có dung lượng 5 MB. Có một thực tế là trong cấu hình xuất xưởng, máy IBM PC (IBM 5150) không được trang bị ổ đĩa cứng.
Thập niên 1990
Đa số các ổ đĩa cứng cho máy vi tính đầu thập kỷ 1980 không bán trực tiếp cho người dùng cuối bởi nhà sản xuất mà bởi các OEM như một phần của thiết bị lớn hơn (như Corvus Disk System và Apple ProFile). Chiếc IBM PC/XT được bán ra đã có một ổ đĩa cứng lắp trong nhưng xu hướng tự cài đặt nâng cấp bắt đầu xuất hiện. Các công ty chế tạo ổ đĩa cứng bắt đầu tiếp thị với người dùng cuối bên cạnh OEM và đến giữa thập niên 1990, ổ đĩa cứng bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng bán lẻ.
Ổ đĩa lắp trong ngày càng được sử dụng nhiều trong PC trong khi các ổ đĩa lắp ngoài tiếp tục phổ biến trên máy Macintosh của hãng Apple và các nền tảng khác. Mỗi máy Mac sản xuất giữa giữa các năm 1986 và 1998 đều có một cổng SCSI phía sau khiến cho việc lắp đặt thêm phần cứng mới trở nên dễ dàng; tương tự như vậy, "toaster" (máy nướng bánh) Mac không có chỗ cho ổ đĩa cứng (hay trong Mac Plus không có chỗ lắp ổ đĩa cứng), các đời tiếp theo cũng vậy thế nên ổ SCSI lắp ngoài là có thể hiểu được. Các ổ đĩa SCSI lắp ngoài cũng phổ biến trong các máy vi tính cổ như loạt Apple II và Commodore 64, và cũng được sử dụng rộng rãi trong máy chủ cho đến tận ngày nay. Sự xuất hiện vào cuối thập niên 1990 của các chuẩn giao tiếp ngoài như USB và FireWire khiến cho ổ đĩa cứng lắp ngoài trở nên phổ biến hơn trong người dùng thông thường đặc biệt đối với những ai cần di chuyển một khối lượng lớn dữ liệu giữa hai địa điểm. Vì thế, phần lớn các ổ đĩa cứng sản xuất ra đều có trở thành lõi của các vỏ lắp ngoài.
Ngày nay
Dung lượng ổ đĩa cứng tăng trưởng theo hàm mũ với thời gian. Đối với những máy PC thế hệ đầu, ổ đĩa dung lượng 20 megabyte được coi là lớn. Cuối thập niên 1990 đã có những ổ đĩa cứng với dung lượng trên 1 gigabyte. Vào thời điểm đầu năm 2005, ổ đĩa cứng có dung lượng khiêm tốn nhất cho máy tính để bàn còn được sản xuất có dung lượng lên tới 40 gigabyte còn ổ đĩa lắp trong có dung lượng lớn nhất lên tới một nửa terabyte (500 GB), và những ổ đĩa lắp ngoài đạt xấp xỉ một terabyte. Cùng với lịch sử phát triển của PC, các họ ổ đĩa cứng lớn là MFM, RLL, ESDI, SCSI, IDE và EIDE, và mới nhất là SATA. Ổ đĩa MFM đòi hỏi mạch điều khiển phải tương thích với phần điện trên ổ đĩa cứng hay nói cách khác là ổ đĩa và mạch điều khiền phải tương thích. RLL (Run Length Limited) là một phương pháp mã hóa bit trên các tấm đĩa giúp làm tăng mật độ bit. Phần lớn các ổ đĩa RLL cần phải tương thích với bộ điều khiển nó làm việc với. ESDI là một giao diện được phát triển bởi Maxtor làm tăng tốc trao đổi thông tin giữa PC và đĩa cứng. SCSI (tên cũ là SASI dành cho Shugart (sic) Associates), viết tắt cho Small Computer System Interface, là đối thủ cạnh tranh ban đầu của ESDI. Khi giá linh kiện điện tử giảm (do nhu cầu tăng lên) các chi tiết điện tử trước kia đặt trên cạc điều khiển đã được đặt lên trên chính ổ đĩa cứng. Cải tiến này được gọi là ổ đĩa cứng tích hợp linh kiện điện tử (Integrated Drive Electronics hay IDE). Các nhà sản xuất IDE mong muốn tốc độ của IDE tiếp cận tới tốc độ của SCSI. Các ổ đĩa IDE chậm hơn do không có bộ nhớ đệm lớn như các ổ đĩa SCSI và không có khả năng ghi trực tiếp lên RAM. Các công ty chế tạo IDE đã cố gắng khắc phục khoảng cách tốc độ này bằng phương pháp đánh địa chỉ logic khối (Logical Block Addressing - LBA). Các ổ đĩa này được gọi là EIDE. Cùng lúc với sự ra đời của EIDE, các nhà sản xuất SCSI đã tiếp tục cải tiến tốc độ SCSI. Những cải tiến đó đồng thời khiến cho giá thành của giao tiếp SCSI cao thêm. Để có thể vừa nâng cao hiệu suất của EIDE vừa không làm tăng chi phí cho các linh kiện điện tử không có cách nào khác là phải thay giao diện kiểu "song song" bằng kiểu "nối tiếp", và kết quả là sự ra đời của giao diện SATA. Tuy nhiên, hiệu suất làm việc của các ổ đĩa cứng SATA thế hệ đầu và các ổ đĩa PATA không có sự khác biệt đáng kể.
Cấu tạo
Ổ đĩa cứng gồm các thành phần, bộ phận có thể liệt kê cơ bản và giải thích sơ bộ như sau:
Cụm đĩa: Bao gồm toàn bộ các đĩa, trục quay và động cơ.
Đĩa từ.
Trục quay: truyền chuyển động của đĩa từ.
Động cơ: Được gắn đồng trục với trục quay và các đĩa.
Cụm đầu đọc
Đầu đọc (head): Đầu đọc/ghi dữ liệu
Cần di chuyển đầu đọc (head arm hoặc actuator arm)
Cụm mạch điện
Mạch điều khiển: có nhiệm vụ điều khiển động cơ đồng trục, điều khiển sự di chuyển của cần di chuyển đầu đọc để đảm bảo đến đúng vị trí trên bề mặt đĩa.
Mạch xử lý dữ liệu: dùng để xử lý những dữ liệu đọc/ghi của ổ đĩa cứng.
Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer): là nơi tạm lưu dữ liệu trong quá trình đọc/ghi dữ liệu. Dữ liệu trên bộ nhớ đệm sẽ mất đi khi ổ đĩa cứng ngừng được cấp điện.
Đầu cắm nguồn cung cấp điện cho ổ đĩa cứng.
Đầu kết nối giao tiếp với máy tính.
Các cầu đấu thiết đặt (tạm dịch từ jumper) thiết đặt chế độ làm việc của ổ đĩa cứng: Lựa chọn chế độ làm việc của ổ đĩa cứng (SATA 150 hoặc SATA 300) hay thứ tự trên các kênh trên giao tiếp IDE (master hay slave hoặc tự lựa chọn), lựa chọn các thông số làm việc khác...
Vỏ đĩa cứng:
Vỏ ổ đĩa cứng gồm các phần: Phần đế chứa các linh kiện gắn trên nó, phần nắp đậy lại để bảo vệ các linh kiện bên trong.
Vỏ ổ đĩa cứng có chức năng chính nhằm định vị các linh kiện và đảm bảo độ kín khít để không cho phép bụi được lọt vào bên trong của ổ đĩa cứng.
Ngoài ra, vỏ đĩa cứng còn có tác dụng chịu đựng sự va chạm (ở mức độ thấp) để bảo vệ ổ đĩa cứng.
Do đầu từ chuyển động rất sát mặt đĩa nên nếu có bụi lọt vào trong ổ đĩa cứng cũng có thể làm xước bề mặt, mất lớp từ và hư hỏng từng phần (xuất hiện các khối hư hỏng (bad block))... Thành phần bên trong của ổ đĩa cứng là không khí có độ sạch cao, để đảm bảo áp suất cân bằng giữa môi trường bên trong và bên ngoài, trên vỏ bảo vệ có các hệ lỗ thoáng đảm bảo cản bụi và cân bằng áp suất.
Đĩa từ
Đĩa từ (platter): Đĩa thường cấu tạo bằng nhôm hoặc thủy tinh, trên bề mặt được phủ một lớp vật liệu từ tính là nơi chứa dữ liệu. Tuỳ theo hãng sản xuất mà các đĩa này được sử dụng một hoặc cả hai mặt trên và dưới. Số lượng đĩa có thể nhiều hơn một, phụ thuộc vào dung lượng và công nghệ của mỗi hãng sản xuất khác nhau.
Mỗi đĩa từ có thể sử dụng hai mặt, đĩa cứng có thể có nhiều đĩa từ, chúng gắn song song, quay đồng trục, cùng tốc độ với nhau khi hoạt động.
Track
Trên một mặt làm việc của đĩa từ chia ra nhiều vòng tròn đồng tâm thành các track.
Track có thể được hiểu đơn giản giống các rãnh ghi dữ liệu giống như các đĩa nhựa (ghi âm nhạc trước đây) nhưng sự cách biệt của các rãnh ghi này không có các gờ phân biệt và chúng là các vòng tròn đồng tâm chứ không nối tiếp nhau thành dạng xoắn trôn ốc như đĩa nhựa. Track trên ổ đĩa cứng không cố định từ khi sản xuất, chúng có thể thay đổi vị trí khi định dạng cấp thấp ổ đĩa (low format ).
Khi một ổ đĩa cứng đã hoạt động quá nhiều năm liên tục, khi kết quả kiểm tra bằng các phần mềm cho thấy xuất hiện nhiều khối hư hỏng (bad block) thì có nghĩa là phần cơ của nó đã rơ rão và làm việc không chính xác như khi mới sản xuất, lúc này thích hợp nhất là format cấp thấp cho nó để tương thích hơn với chế độ làm việc của phần cơ
Sector
Trên track chia thành những phần nhỏ bằng các đoạn hướng tâm thành các sector.
Các sector là phần nhỏ cuối cùng được chia ra để chứa dữ liệu. Theo chuẩn thông thường thì một sector chứa dung lượng 512 byte.
Số sector trên các track là khác nhau từ phần rìa đĩa vào đến vùng tâm đĩa, các ổ đĩa cứng đều chia ra hơn 10 vùng mà trong mỗi vùng có số sector/track bằng nhau.
Bảng sau cho thấy các khu vực với các thông số khác nhau và sự ảnh hưởng của chúng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ cứng Các khu vực ghi dữ liệu của ổ đĩa cứng Hitachi Travelstar 7K60 2,5".
Cylinder
Tập hợp các track cùng bán kính (cùng số hiệu trên) ở các mặt đĩa khác nhau thành các cylinder. Nói một cách chính xác hơn thì: khi đầu đọc/ghi đầu tiên làm việc tại một track nào thì tập hợp toàn bộ các track trên các bề mặt đĩa còn lại mà các đầu đọc còn lại đang làm việc tại đó gọi là cylinder (cách giải thích này chính xác hơn bởi có thể xảy ra trường hợp các đầu đọc khác nhau có khoảng cách đến tâm quay của đĩa khác nhau do quá trình chế tạo).
Trên một ổ đĩa cứng có nhiều cylinder bởi có nhiều track trên mỗi mặt đĩa từ.
Trục quay
Trục quay là trục để gắn các đĩa từ lên nó, chúng được nối trực tiếp với động cơ quay đĩa cứng. Trục quay có nhiệm vụ truyền chuyển động quay từ động cơ đến các đĩa từ.
Trục quay thường chế tạo bằng các vật liệu nhẹ (như hợp kim nhôm) và được chế tạo tuyệt đối chính xác để đảm bảo trọng tâm của chúng không được sai lệch - bởi chỉ một sự sai lệch nhỏ có thể gây nên sự rung lắc của toàn bộ đĩa cứng khi làm việc ở tốc độ cao, dẫn đến quá trình đọc/ghi không chính xác.
Đầu đọc/ghi
Đầu đọc đơn giản được cấu tạo gồm lõi ferit (trước đây là lõi sắt) và cuộn dây (giống như nam châm điện). Gần đây các công nghệ mới hơn giúp cho ổ đĩa cứng hoạt động với mật độ xít chặt hơn như: chuyển các hạt từ sắp xếp theo phương vuông góc với bề mặt đĩa nên các đầu đọc được thiết kế nhỏ gọn và phát triển theo các ứng dụng công nghệ mới.
Đầu đọc trong đĩa cứng có công dụng đọc dữ liệu dưới dạng từ hoá trên bề mặt đĩa từ hoặc từ hoá lên các mặt đĩa khi ghi dữ liệu.
Số đầu đọc ghi luôn bằng số mặt hoạt động được của các đĩa cứng, có nghĩa chúng nhỏ hơn hoặc bằng hai lần số đĩa (nhỏ hơn trong trường hợp ví dụ hai đĩa nhưng chỉ sử dụng 3 mặt).
Cần di chuyển đầu đọc/ghi
Cần di chuyển đầu đọc/ghi là các thiết bị mà đầu đọc/ghi gắn vào nó. Cần có nhiệm vụ di chuyển theo phương song song với các đĩa từ ở một khoảng cách nhất định, dịch chuyển và định vị chính xác đầu đọc tại các vị trí từ mép đĩa đến vùng phía trong của đĩa (phía trục quay).
Các cần di chuyển đầu đọc được di chuyển đồng thời với nhau do chúng được gắn chung trên một trục quay (đồng trục), có nghĩa rằng khi việc đọc/ghi dữ liệu trên bề mặt (trên và dưới nếu là loại hai mặt) ở một vị trí nào thì chúng cũng hoạt động cùng vị trí tương ứng ở các bề mặt đĩa còn lại.
Sự di chuyển cần có thể thực hiện theo hai phương thức:
Sử dụng động cơ bước để truyền chuyển động.
Sử dụng cuộn cảm để di chuyển cần bằng lực từ.
Nguyên lý hoạt động
Giao tiếp với máy tính
Toàn bộ cơ chế đọc/ghi dữ liệu chỉ được thực hiện khi máy tính (hoặc các thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) có yêu cầu truy xuất dữ liệu hoặc cần ghi dữ liệu vào ổ đĩa cứng. Việc thực hiện giao tiếp với máy tính do bo mạch của ổ đĩa cứng đảm nhiệm.
Ta biết rằng máy tính làm việc khác nhau theo từng phiên làm việc, từng nhiệm vụ mà không theo một kịch bản nào, do đó quá trình đọc và ghi dữ liệu luôn luôn xảy ra, do đó các tập tin luôn bị thay đổi, xáo trộn vị trí. Từ đó dữ liệu trên bề mặt đĩa cứng không được chứa một cách liên tục mà chúng nằm rải rác khắp nơi trên bề mặt vật lý. Một mặt khác máy tính có thể xử lý đa nhiệm (thực hiện nhiều nhiệm vụ trong cùng một thời điểm) nên cần phải truy cập đến các tập tin khác nhau ở các thư mục khác nhau.
Như vậy cơ chế đọc và ghi dữ liệu ở ổ đĩa cứng không đơn thuần thực hiện từ theo tuần tự mà chúng có thể truy cập và ghi dữ liệu ngẫu nhiên tại bất kỳ điểm nào trên bề mặt đĩa từ, đó là đặc điểm khác biệt nổi bật của ổ đĩa cứng so với các hình thức lưu trữ truy cập tuần tự (như băng từ).
Thông qua giao tiếp với máy tính, khi giải quyết một tác vụ, CPU sẽ đòi hỏi dữ liệu (nó sẽ hỏi tuần tự các bộ nhớ khác trước khi đến đĩa cứng mà thứ tự thường là cache L1-> cache L2 ->RAM) và đĩa cứng cần truy cập đến các dữ liệu chứa trên nó. Không đơn thuần như vậy CPU có thể đòi hỏi nhiều hơn một tập tin dữ liệu tại một thời điểm, khi đó sẽ xảy ra các trường hợp:
Ổ đĩa cứng chỉ đáp ứng một yêu cầu truy cập dữ liệu trong một thời điểm, các yêu cầu được đáp ứng tuần tự.
Ổ đĩa cứng đồng thời đáp ứng các yêu cầu cung cấp dữ liệu theo phương thức riêng của nó.
Trước đây đa số các ổ đĩa cứng đều thực hiện theo phương thức 1, có nghĩa là chúng chỉ truy cập từng tập tin cho CPU. Ngày nay các ổ đĩa cứng đã được tích hợp các bộ nhớ đệm (cache) cùng các công nghệ riêng của chúng (TCQ, NCQ) giúp tối ưu cho hành động truy cập dữ liệu trên bề mặt đĩa nên ổ đĩa cứng sẽ thực hiện theo phương thức thứ 2 nhằm tăng tốc độ chung cho toàn hệ thống.
Đọc và ghi dữ liệu trên bề mặt đĩa
Sự hoạt động của đĩa cứng cần thực hiện đồng thời hai chuyển động: Chuyển động quay của các đĩa và chuyển động của các đầu đọc.
Sự quay của các đĩa từ được thực hiện nhờ các động cơ gắn cùng trục (với tốc độ rất lớn: từ 3600 rpm cho đến 15.000 rpm) chúng thường được quay ổn định tại một tốc độ nhất định theo mỗi loại ổ đĩa cứng.
Khi đĩa cứng quay đều, cần di chuyển đầu đọc sẽ di chuyển đến các vị trí trên các bề mặt chứa phủ vật liệu từ theo phương bán kính của đĩa. Chuyển động này kết hợp với chuyển động quay của đĩa có thể làm đầu đọc/ghi tới bất kỳ vị trí nào trên bề mặt đĩa.
Tại các vị trí cần đọc ghi, đầu đọc/ghi có các bộ cảm biến với điện trường để đọc dữ liệu (và tương ứng: phát ra một điện trường để xoay hướng các hạt từ khi ghi dữ liệu).
Dữ liệu được ghi/đọc đồng thời trên mọi đĩa. Việc thực hiện phân bổ dữ liệu trên các đĩa được thực hiện nhờ các mạch điều khiển trên bo mạch của ổ đĩa cứng.
Các công nghệ sử dụng ổ đĩa cứng
S.M.A.R.T
S.M.A.R.T (Self-Monitoring, Analysis, and Reporting Technology) là công nghệ tự động giám sát, chẩn đoán và báo cáo các hư hỏng có thể xuất hiện của ổ đĩa cứng để thông qua BIOS, các phần mềm thông báo cho người sử dụng biết trước sự hư hỏng để có các hành động chuẩn bị đối phó (như sao chép dữ liệu dự phòng hoặc có các kế hoạch thay thế ổ đĩa cứng mới).
Trong thời gian gần đây S.M.A.R.T được coi là một tiêu chuẩn quan trọng trong ổ đĩa cứng.
S.M.A.R.T chỉ thực sự giám sát những sự thay đổi, ảnh hưởng của phần cứng đến quá trình lỗi xảy ra của ổ đĩa cứng (mà theo hãng Seagate thì sự hư hỏng trong đĩa cứng chiếm tới 60% xuất phát từ các vấn đề liên quan đến cơ khí): Chúng có thể bao gồm những sự hư hỏng theo thời gian của phần cứng: đầu đọc/ghi (mất kết nối, khoảng cách làm việc với bề mặt đĩa thay đổi), động cơ (xuống cấp, rơ rão), bo mạch của ổ đĩa (hư hỏng linh kiện hoặc làm việc sai).
S.M.A.R.T không nên được hiểu là từ "smart" bởi chúng không làm cải thiện đến tốc độ làm việc và truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng. Người sử dụng có thể bật (enable) hoặc tắt (disable) chức năng này trong BIOS (tuy nhiên không phải BIOS của hãng nào cũng hỗ trợ việc can thiệp này).
Ổ cứng lai
Ổ cứng lai (hybrid hard disk drive) là các ổ đĩa cứng thông thường được gắn thêm các phần bộ nhớ flash trên bo mạch của ổ đĩa cứng. Cụm bộ nhớ này hoạt động khác với cơ chế làm việc của bộ nhớ đệm (cache) của ổ đĩa cứng: Dữ liệu chứa trên chúng không bị mất đi khi mất điện.
Trong quá trình làm việc của ổ cứng lai, vai trò của phần bộ nhớ flash như sau:
Lưu trữ trung gian dữ liệu trước khi ghi vào đĩa cứng, chỉ khi máy tính đã đưa các dữ liệu đến một mức nhất định (tuỳ từng loại ổ cứng lai) thì ổ đĩa cứng mới tiến hành ghi dữ liệu vào các đĩa từ, điều này giúp sự vận hành của ổ đĩa cứng tối hiệu quả và tiết kiệm điện năng hơn nhờ việc không phải thường xuyên hoạt động.
Giúp tăng tốc độ giao tiếp với máy tính: Việc đọc dữ liệu từ bộ nhớ flash nhanh hơn so với việc đọc dữ liệu tại các đĩa từ.
Giúp hệ điều hành khởi động nhanh hơn nhờ việc lưu các tập tin khởi động của hệ thống lên vùng bộ nhớ flash.
Kết hợp với bộ nhớ đệm của ổ đĩa cứng tạo thành một hệ thống hoạt động hiệu quả.
Những ổ cứng lai được sản xuất hiện nay thường sử dụng bộ nhớ flash với dung lượng khiêm tốn ở 256 MB bởi chịu áp lực của vấn đề giá thành sản xuất. Do sử dụng dung lượng nhỏ như vậy nên chưa cải thiện nhiều đến việc giảm thời gian khởi động hệ điều hành, dẫn đến nhiều người sử dụng chưa cảm thấy hài lòng với chúng. Tuy nhiên người sử dụng thường khó nhận ra sự hiệu quả của chúng khi thực hiện các tác vụ thông thường hoặc việc tiết kiệm năng lượng của chúng.
Hiện tại (2007) ổ cứng lai có giá thành khá đắt (khoảng 300 USD cho dung lượng 32 GB) nên chúng mới được sử dụng trong một số loại máy tính xách tay cao cấp. Trong tương lai, các ổ cứng lai có thể tích hợp đến vài GB dung lượng bộ nhớ flash sẽ khiến sự so sánh giữa chúng với các ổ cứng truyền thống sẽ trở lên khác biệt hơn.
Thông số và đặc tính
Dung lượng
Dung lượng ổ đĩa cứng (Disk capacity) là một thông số thường được người sử dụng nghĩ đến đầu tiên, là cơ sở cho việc so sánh, đầu tư và nâng cấp. Người sử dụng luôn mong muốn sở hữu các ổ đĩa cứng có dung lượng lớn nhất có thể theo tầm chi phí của họ mà có thể không tính đến các thông số khác.
Dung lượng ổ đĩa cứng được tính bằng: (số byte/sector) × (số sector/track) × (số cylinder) × (số đầu đọc/ghi).
Dung lượng của ổ đĩa cứng tính theo các đơn vị dung lượng cơ bản thông thường: byte, kB MB, GB, TB.
Theo thói quen trong từng thời kỳ mà người ta có thể sử dụng đơn vị nào, trong thời điểm năm 2007 người người ta thường sử dụng GB. Ngày nay dung lượng ổ đĩa cứng đã đạt tầm đơn vị TB nên rất có thể trong tương lai – theo thói quen, người ta sẽ tính theo TB.
Đa số các hãng sản xuất đều tính dung lượng theo cách có lợi (theo cách tính 1 GB = 1000 MB mà thực ra phải là 1 GB = 1024 MB) nên dung lượng mà hệ điều hành (hoặc các phần mềm kiểm tra) nhận ra của ổ đĩa cứng thường thấp hơn so với dung lượng ghi trên nhãn đĩa (ví dụ ổ đĩa cứng 40 GB thường chỉ đạt khoảng 37-38 GB).
Tốc độ quay của ổ đĩa cứng
Tốc độ quay của đĩa cứng thường được ký hiệu bằng rpm (viết tắt của từ tiếng Anh: revolutions per minute) số vòng quay trong một phút.
Tốc độ quay càng cao thì ổ càng làm việc nhanh do chúng thực hiện đọc/ghi nhanh hơn, thời gian tìm kiếm thấp.
Các tốc độ quay thông dụng thường là:
3.600 rpm: Tốc độ của các ổ đĩa cứng đĩa thế hệ trước.
4.200 rpm: Thường sử dụng với các máy tính xách tay mức giá trung bình và thấp trong thời điểm 2007.
5.400 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng 3,5" sản xuất cách đây 2-3 năm; với các ổ đĩa cứng 2,5" cho các máy tính xách tay hiện nay đã chuyển sang tốc độ 5.400 rpm để đáp ứng nhu cầu đọc/ghi dữ liệu nhanh hơn.
7.200 rpm: Thông dụng với các ổ đĩa cứng sản xuất trong thời gian hiện tại (2007)
10.000 rpm, 15.000 rpm: Thường sử dụng cho các ổ đĩa cứng trong các máy tính cá nhân cao cấp, máy trạm và các máy chủ có sử dụng giao tiếp SCSI
Các thông số về thời gian trong ổ đĩa cứng
Thời gian tìm kiếm trung bình
Thời gian tìm kiếm trung bình (Average Seek Time) là khoảng thời gian trung bình (theo mili giây: ms) mà đầu đọc có thể di chuyển từ một cylinder này đến một cylinder khác ngẫu nhiên (ở vị trí xa chúng). Thời gian tìm kiếm trung bình được cung cấp bởi nhà sản xuất khi họ tiến hành hàng loạt các việc thử việc đọc/ghi ở các vị trí khác nhau rồi chia cho số lần thực hiện để có kết quả thông số cuối cùng.
Thông số này càng thấp càng tốt.
Thời gian tìm kiếm trung bình không kiểm tra bằng các phần mềm bởi các phần mềm không can thiệp được sâu đến các hoạt động của ổ đĩa cứng.
Thời gian truy cập ngẫu nhiên
Thời gian truy cập ngẫu nhiên (Random Access Time): Là khoảng thời gian trung bình để đĩa cứng tìm kiếm một dữ liệu ngẫu nhiên. Tính bằng mili giây (ms). Đây là tham số quan trọng do chúng ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc của hệ thống, do đó người sử dụng nên quan tâm đến chúng khi lựa chọn giữa các ổ đĩa cứng. Thông số này càng thấp càng tốt.
Tham số: Các ổ đĩa cứng sản xuất gần đây (2007) có thời gian truy cập ngẫu nhiên trong khoảng: 5 đến 15 ms.
Thời gian làm việc tin cậy
Thời gian làm việc tin cậy MTBF: (Mean Time Between Failures) được tính theo giờ (hay có thể hiểu một cách đơn thuần là tuổi thọ của ổ đĩa cứng). Đây là khoảng thời gian mà nhà sản xuất dự tính ổ đĩa cứng hoạt động ổn định mà sau thời gian này ổ đĩa cứng có thể sẽ xuất hiện lỗi (và không đảm bảo tin cậy).
Một số nhà sản xuất công bố ổ đĩa cứng của họ hoạt động với tốc độ 10.000 rpm với tham số: MTBF lên tới 1 triệu giờ, hoặc với ổ đĩa cứng hoạt động ở tốc độ 15.000 rpm có giá trị MTBF đến 1,4 triệu giờ thì những thông số này chỉ là kết quả của các tính toán trên lý thuyết. Hãy hình dung số năm mà nó hoạt động tin cậy (khi chia thông số MTBF cho (24 giờ/ngày × 365 ngày/năm) sẽ thấy rằng nó có thể dài hơn lịch sử của bất kỳ hãng sản xuất ổ đĩa cứng nào, do đó người sử dụng có thể không cần quan tâm đến thông số này.
Bộ nhớ đệm
Bộ nhớ đệm (cache hoặc buffer) trong ổ đĩa cứng cũng giống như RAM của máy tính, chúng có nhiệm vụ lưu tạm dữ liệu trong quá trình làm việc của ổ đĩa cứng.
Độ lớn của bộ nhớ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất hoạt động của ổ đĩa cứng bởi việc đọc/ghi không xảy ra tức thời (do phụ thuộc vào sự di chuyển của đầu đọc/ghi, dữ liệu được truyền tới hoặc đi) sẽ được đặt tạm trong bộ nhớ đệm.
Đơn vị thường tính bằng KB hoặc MB.
Trong thời điểm năm 2007, dung lượng bộ nhớ đệm thường là 2 hoặc 8 MB cho các loại ổ đĩa cứng dung lượng đến khoảng 160 GB, với các ổ đĩa cứng dụng lượng lớn hơn chúng thường sử dụng bộ nhớ đệm đến 16 MB hoặc cao hơn. Bộ nhớ đệm càng lớn thì càng tốt, nhưng hiệu năng chung của ổ đĩa cứng sẽ chững lại ở một giá trị bộ nhớ đệm nhất định mà từ đó bộ nhớ đệm có thể tăng lên nhưng hiệu năng không tăng đáng kể.
Hệ điều hành cũng có thể lấy một phần bộ nhớ của hệ thống (RAM) để tạo ra một bộ nhớ đệm lưu trữ dữ liệu được lấy từ ổ đĩa cứng nhằm tối ưu việc xử lý đối với các dữ liệu thường xuyên phải truy cập, đây chỉ là một cách dùng riêng của hệ điều hành mà chúng không ảnh hưởng đến cách hoạt động hoặc hiệu suất vốn có của mỗi loại ổ đĩa cứng. Có rất nhiều phần mềm cho phép tinh chỉnh các thông số này của hệ điều hành tuỳ thuộc vào sự dư thừa RAM trên hệ thống.
Chuẩn giao tiếp
Có nhiều chuẩn giao tiếp khác nhau giữa ổ đĩa cứng với hệ thống phần cứng, sự đa dạng này một phần xuất phát từ yêu cầu tốc độ đọc/ghi dữ liệu khác nhau giữa các hệ thống máy tính, phần còn lại các ổ giao tiếp nhanh có giá thành cao hơn nhiều so với các chuẩn thông dụng.
Trước đây, các chuẩn ATA và SATA thế hệ đầu tiên được sử dụng phổ biến trong máy tính cá nhân thông thường trong khi chuẩn SCSI và Fibre Channel có tốc độ cao hơn được sử dụng chủ yếu nhiều trong máy chủ và máy trạm. Gần đây, các chuẩn SATA thế hệ tiếp theo với tốc độ giao tiếp cao hơn đang được sử dụng rộng rãi trong các máy tính cá nhân sử dụng các thế hệ chipset mới.
Bảng dưới đây so sánh các chuẩn ATA thường sử dụng nhiều với ổ đĩa cứng trong thời gian gần đây.
Tốc độ truyền dữ liệu
Tốc độ của các chuẩn giao tiếp không có nghĩa là ổ đĩa cứng có thể đáp ứng đúng theo tốc độ của nó, đa phần tốc độ truyền dữ liệu trên các chuẩn giao tiếp thấp hơn so với thiết kế của nó bởi chúng gặp các rào cản trong vấn đề công nghệ chế tạo.
Các thông số sau ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng:
Tốc độ quay của đĩa từ.
Số lượng đĩa từ trong ổ đĩa cứng: bởi càng nhiều đĩa từ thì số lượng đầu đọc càng lớn, khả năng đọc/ghi của đồng thời của các đầu từ tại các mặt đĩa càng nhiều thì lượng dữ liệu đọc/ghi càng lớn hơn.
Công nghệ chế tạo: Mật độ sít chặt của các track và công nghệ ghi dữ liệu trên bề mặt đĩa (phương từ song song hoặc vuông góc với bề mặt đĩa): dẫn đến tốc độ đọc/ghi cao hơn.
Dung lượng bộ nhớ đệm: Ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu tức thời trong một thời điểm.
Bảng so sánh tốc độ giữa các vùng ở các ổ cứng khác nhau dưới đây sẽ giúp chúng ta nhận ra một số yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu của ổ đĩa cứng.
Như vậy ta thấy rằng tốc độ truyền dữ liệu thực sự ở mức trung bình 42,27 MBps ở ổ đĩa có giao tiếp Ultra-ATA/100 (với tốc độ thiết kế truyền dữ liệu 100 MBps) chỉ gần bằng 1/2 so với tốc độ giao tiếp.
Kích thước
Kích thước của ổ đĩa cứng được chuẩn hoá tại một số kích thước để đảm bảo thay thế lắp ráp vừa với các máy tính. Kích thước ổ đĩa cứng thường được tính theo inch (")
Kích thước vỏ ngoài các loại ổ đĩa cứng:
{| class="wikitable" style="float:bottom; margin-left: 15px; font-size: 85%;"
|-
! colspan="4" | KÍCH THƯỚC VỎ CÁC Loại Ổ CỨNG
|-
! CAO!! RỘNG!! DÀI!! THỂ TÍCH
|-
! colspan="4" | Loại 5,25 Dùng trong các máy tính các thế hệ trước
|-
|<center>3,25" (82,6mm)||<center>5,75" (146,0mm)||<center>8" (203,2mm)||<center>149,5 ci (2449,9 cc)
|-
|<center>1,63" (41,3mm)||<center>5,75" (146,0mm)||<center>8" (203,2mm)||<center>74,8 ci (1224,9 cc)
|-
! colspan="4" | Loại 3,5" Thường sử dụng đối với máy tính cá nhân, máy trạm, máy chủ
|-
| <center>1,63" (41,3mm) || <center>4" (101,6mm) || <center>5,75" (146,0mm) || <center>37,4 ci (612,5 cc)
|-
|<center>1,00" (25,4mm) || <center>4" (101,6mm) || <center>5,75" (146,0mm) || <center>23,0 ci (376,9 cc)
|-
! colspan="4" | <center>Loại 2,5" Thường sử dụng đối với máy tính xách tay
|-
| <center>19,0mm (0,75") || <center>70,0mm (2,76") || <center>100,0mm (3,94") || <center>133,0 cc (8,1 ci)
|-
| <center>17,0mm (0,67") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>119,0 cc (7,3 ci)
|-
| <center>12,7mm (0,50") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>88,9 cc (5,4 ci)
|-
| <center>12,5mm (0,49") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>87,5 cc (5,3 ci)
|-
| <center>9,5mm (0,37") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>66,5 cc (4,1 ci)
|-
| <center>8,5mm (0,33") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>59,5 cc (3,6 ci)
|-
! colspan="4" | Loại 1,8" hoặc nhỏ hơn dùng trong các thiết bị kỹ thuật số cá nhân
|-
| <center>9,5mm (0,37") || <center>70,0mm (2,76") || <center>60,0mm (2,36") || <center>39,9 cc (2,4 ci)
|-
| <center>7,0mm (0,28") || <center>-nt- || <center>-nt- || <center>29,4 cc (1,8 ci)
|-
! colspan="4" |Loại 1,8" PC Card
|-
| <center>8,0mm (0,31")|| <center>54,0mm (2,13") || <center>78,5mm (3,09") || <center>33,9 cc (2,1 ci)
|-
| <center>5,0mm (0,20")|| <center>-nt- || <center>-nt- || <center>21,2 cc (1,3 ci)
|-
! colspan="4" |Loại 1,0" Micro Device
|-
| <center>5,0mm (0,20")|| <center>42,8mm (1,69") || <center>36,4mm (1,43")|| <center>7,8 cc (0,5 ci)
|-
|}
Sự sử dụng điện năng
Đa số các ổ đĩa cứng của máy tính cá nhân sử dụng hai loại điện áp nguồn: 5 Vdc và 12 Vdc (DC hoặc dc: Loại điện áp một chiều). Các ổ đĩa cứng cho máy tính xách tay có thể sử dụng chỉ một loại điện áp nguồn 5 Vdc. Các ổ đĩa cứng gắn trong các thiết bị số cầm tay khác có thể sử dụng các nguồn có mức điện áp thấp hơn với công suất thấp.
Điện năng cung cấp cho các ổ đĩa cứng phần lớn phục vụ cho động cơ quay các ổ đĩa, phần còn lại nhỏ hơn cung cấp cho bo mạch của ổ đĩa cứng. Tuỳ từng loại động cơ mà chúng sử dụng điện áp 12V hoặc 5 Vdc hơn (thông qua định mức tiêu thụ dòng điện của nó tại các mức điện áp này). Trên mỗi ổ đĩa cứng đều ghi rõ các thông số về dòng điện tiêu thụ của mỗi loại điện áp sử dụng để đảm bảo cho người sử dụng tính toán công suất chung.
Ổ đĩa cứng thường tiêu thụ điện năng lớn nhất tại thời điểm khởi động của hệ thống (hoặc thời điểm đĩa cứng bắt đầu hoạt động trở lại sau khi tạm nghỉ để tiết kiệm điện năng) bởi sự khởi động của động cơ đồng trục quay các đĩa từ, cũng giống như động cơ điện thông thường, dòng điện tiêu thụ đỉnh cực đại của giai đoạn này có thể gấp 3 lần công suất tiêu thụ bình thường.
Ổ cứng thông thường lấy điện trực tiếp từ nguồn máy tính, với các ổ đĩa cứng ngoài có thể sử dụng các bộ cung cấp điện riêng kèm theo hoặc chúng có thể dùng nguồn điện cung cấp qua các cổng giao tiếp USB.
Các thông số khác
Các thông số dưới đây những người sử dụng thường ít chú ý bởi chúng thường không ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất làm việc của ổ cứng. Các thông số này không nên lấy làm chỉ tiêu so sánh giữa các ổ đĩa cứng trong sự lựa chọn trong sự sử dụng thông thường.
Độ ồn
Độ ồn của ổ đĩa cứng là thông số được tính bằng dB, chúng được đo khi ổ đĩa cứng đang làm việc bình thường.
Ổ đĩa cứng với các đặc trưng hoạt động là các chuyển động cơ khí của các đĩa từ và cần di chuyển đầu đọc, do đó chúng không tránh khỏi phát tiếng ồn. Do ổ đĩa cứng thường có độ ồn thấp hơn nhiều so với bất kỳ một quạt làm mát hệ thống nào đang làm việc nên người sử dụng có thể không cần quan tâm đến thông số này.Những tiếng "lắc tắc" nhỏ phát ra trong quá trình làm việc của ổ cứng một cách không đều đặn được sinh ra bởi cần đỡ đầu đọc/ghi di chuyển và dừng đột ngột tại các vị trí cần định vị để làm việc. Âm thanh này có thể giúp người sử dụng biết được trạng thái làm việc của ổ đĩa cứng mà không cần quan sát đèn trạng thái HDD. Chu trình di chuyển
Chu trình di chuyển của cần đọc/ghi (Load/Unload cycle) được tính bằng số lần chúng khởi động từ vị trí an toàn đến vùng làm việc của bề mặt đĩa cứng và ngược lại. Thông số này chỉ một số hữu hạn những lần di chuyển mà có thể sau số lần đó ổ đĩa cứng có thể gặp lỗi hoặc hư hỏng. Sau mỗi phiên làm việc (tắt máy), các đầu từ được di chuyển đến một vị trí an toàn nằm ngoài các đĩa từ nhằm tránh sự va chạm có thể gây xước bề mặt lớp từ tính, một số ổ đĩa có thiết kế cần di chuyển đầu đọc tự động di chuyển về vị trí an toàn sau khi ngừng cấp điện đột ngột. Nhiều người sử dụng năng động có thói quen ngắt điện trong một phiên làm việc trên nền DOS (bởi không có sự tắt máy chính thống) rồi tháo ổ đĩa cứng cho các công việc khác, quá trình di chuyển có thể gây va chạm và làm xuất hiện các khối hư hỏng (bad block). Chu trình di chuyển là một thông số lớn hơn số lần khởi động máy tính (hoặc các thiết bị sử dụng ổ đĩa cứng) bởi trong một phiên làm việc, ổ đĩa cứng có thể được chuyển sang chế độ tạm nghỉ (stand by) để tiết kiệm điện năng nhiều lần.
Chịu đựng sốc
Chịu đựng sốc (Shock - half sine wave): Sốc (hình thức rung động theo nửa chu kỳ sóng, thường được hiểu là việc dao động từ một vị trí cân bằng đến một giá trị cực đại, sau đó lại trở lại vị trí ban đầu) nói đến khả năng chịu đựng sốc của ổ đĩa cứng khi làm việc.
Với các ổ cứng cho máy tính xách tay hoặc các thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân hay các ổ đĩa cứng ngoài thì thông số này càng cao càng tốt, với các ổ đĩa cứng gắn cho máy tính cá nhân để bàn thì thông số này ít được coi trọng khi so sánh lựa chọn giữa các loại ổ cứng bởi chúng đã được gắn cố định nên hiếm khi xảy ra sốc.
Nhiệt độ và sự thích nghi
Tất cả các thiết bị dựa trên hoạt động cơ khí đều có thể bị thay đổi thông số nếu nhiệt độ của chúng tăng lên đến một mức giới hạn nào đó (sự giãn nở theo nhiệt độ luôn là một đặc tính của kim loại), do đó cũng như nhiều thiết bị khác, nhiệt độ là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình làm việc của ổ đĩa cứng nhất là bên trong nó các chuyển động cơ khí cần tuyệt đối chính xác.
Nhiệt độ làm việc của ổ đĩa cứng thường là từ 0 cho đến 40 độ C, điều này thường phù hợp với nhiều môi trường khác nhau, tuy nhiên không chỉ có vậy: độ ẩm là yếu tố liên quan và kết hợp với môi trường tạo thành một sự phá hoại ổ đĩa cứng.
Ổ cứng thường có các lỗ (chứa bộ lọc không khí) để cân bằng áp suất với bên ngoài, do đó nếu như không khí trong môi trường chứa nhiều hơi nước, sự ngưng tụ hơi nước thành các giọt hoặc đóng băng ở đâu đó bên trong ổ đĩa cứng có thể làm hư hỏng ổ nếu ta hình dung được tốc độ quay của nó lớn thế nào và khoảng cách giữa đầu từ với bề mặt làm việc của đĩa từ nhỏ đến đâu.
Chính vì vậy trước khi đưa một ổ đĩa cứng vào làm việc lần đầu tiên (tháo bỏ vỏ nhựa bọc kín nó khi sản xuất) trong thiết bị hoặc ổ đĩa cứng đã sử dụng được đưa đến từ một môi trường khác đến một nơi làm việc mới (có nhiệt độ môi trường cao hơn), nên đặt nó vào khoang chứa trong một số thời gian nhất định trước khi kết nối các dây cấp nguồn và cáp dữ liệu để chúng làm việc.
Thời gian thích nghi đủ lớn để để đảm bảo cho:
Các giọt nước bị bay hơi hoặc các cụm băng tuyết biến thành hơi nước và cân bằng với môi trường bên ngoài.
Đảm bảo sự đồng đều về môi trường bên trong và bên ngoài của ổ đĩa cứng, tránh sự biến đổi (do nhiệt độ thay đổi đột ngột) với các thiết bị cơ khí bên trong khi nhiệt độ của ổ đĩa cứng tăng lên sau một thời gian hoạt động.
Thời gian thích nghi cần thiết: xem bảng.
Tương tự việc đưa một máy tính xách tay từ ngoài trời ở xứ lạnh vào trong phòng làm việc ấm áp cũng nên để thời gian chờ như vậy bởi trong máy tính xách tay cũng có các ổ đĩa cứng - trừ trường hợp khi ở ngoài trời (xứ lạnh) máy đang hoạt động (đảm bảo nó không bị đóng băng tuyết bên trong ổ đĩa cứng).
Với nhiệt độ theo bảng ta có thể thấy rằng khí hậu ở Việt Nam hoặc các nước gần xích đạo khác có nhiệt độ trung bình cao có lẽ ít cần có thời gian thích ứng trước khi đưa ổ đĩa cứng vào sử dụng (trừ những vùng có thể có nhiệt độ thấp và xuất hiện tuyết như Sa Pa ở Việt Nam)
Với sự làm mát ổ đĩa cứng, xem thêm phần thông tin thêm của bài.
Các số thông số về sản phẩm
Phần dưới đây giải thích một số thông số khác của các ổ đĩa cứng.
Model: Ký hiệu về kiểu sản phẩm của ổ đĩa cứng, model có thể được sử dụng chung cho một lô sản phẩm cùng loại có các đặc tính và thông số giống như nhau. Thông thường mỗi hãng có một cách ký hiệu riêng về thông số model để có thể giải thích sơ qua về một số thông số trên ổ đĩa cứng đó.
Serial number: Mã số sản phẩm, mỗi ổ đĩa cứng có một số hiệu này riêng. Thông số này thường chứa đựng thông tin đã được quy ước riêng của hãng sản xuất về thời gian sản xuất hoặc đơn thuần chỉ là thứ tự sản phẩm khi được sản xuất.
Firmware revision: Thông số về phiên bản firmware đang sử dụng hiện thời của ổ đĩa cứng. Thông số này có thể thay đổi nếu người sử dụng nâng cấp các phiên bản firmware của ổ đĩa cứng (nhưng việc nâng cấp này thường rất hiếm khi xảy ra).
Một số hãng sản xuất phần mềm có thể sử dụng các thông số trên của ổ đĩa cứng để nhận dạng tình trạng bản quyền của phần mềm trên duy nhất một máy tính, tuy nhiên cách này không được áp dụng rộng rãi do việc đăng ký phức tạp, không thuận tiện cho quá trình nâng cấp ổ đĩa cứng của người sử dụng.
Thiết đặt các chế độ hoạt động của đĩa cứng
Thiết đặt phần cứng thông qua cầu đấu
Cầu đấu (tạm dịch từ jumper) là một bộ phận nhỏ trên ổ đĩa cứng, chúng có tác dụng thiết đặt chế độ làm việc của các ổ đĩa cứng.
Thiết đặt kênh
Lựa chọn các kênh trên cable IDE: Các ổ đĩa cứng theo chuẩn giao tiếp ATA thường sử dụng hai kênh (trên cùng một cáp truyền dữ liệu), chúng có thể được đặt là kênh chính (Master) hoặc kênh phụ (Slave). Việc thiết lập chỉ đơn giản cần cắm các cầu đấu vào đúng vị trí của chúng trên các chân cắm. Về vị trí, chúng luôn được hướng dẫn trên phần nhãn hoặc viết tắt cạnh cầu đấu như sau: MA (hoặc chỉ M): Master, SL (hoặc chỉ S): Slave; CS (hoặc chỉ C): Cable select (tự động lựa chọn theo cáp truyền dữ liệu).
Để giúp ổ đĩa cứng hoạt động tốt hơn, nên chọn các ổ đĩa cứng chứa các phân vùng có cài hệ điều hành làm kênh chính, các ổ đĩa cứng vật lý có tính dùng phụ, dùng cho lưu trữ hoặc các tập tin không được truy cập thường xuyên nên đặt tại ổ phụ (slave).
Thiết đặt chuẩn giao tiếp
Một số ổ đĩa cứng sử dụng giao tiếp SATA thế hệ thứ 2 (300 MBps) có thể hoạt động phù hợp hơn với bo mạch chủ chỉ hỗ trợ giao tiếp SATA thế hệ đầu tiên (150 MBps) bằng cách đổi các cầu đấu thiết đặt. Hướng dẫn về cách đổi có thể được ghi trên nhãn đĩa hoặc chỉ có thể tìm thấy trong các phần hướng dẫn tại website của hãng sản xuất.
Thiết đặt phần mềm
Thiết đặt phần mềm ở đây là các cài đặt, phân hoạch trên các ổ đĩa cứng giúp cho ổ đĩa cứng làm việc. Trong phạm vi bài viết về Ổ đĩa cứng, các mục dưới đây được trình bày tóm lược.
Phân vùng (Partition)
Phân vùng (partition): là tập hợp các vùng ghi nhớ dữ liệu trên các cylinder gần nhau với dung lượng theo thiết đặt của người sử dụng để sử dụng cho các mục đích sử dụng khác nhau.
Sự phân chia phân vùng giúp cho ổ đĩa cứng có thể định dạng các loại tập tin khác nhau để có thể cài đặt nhiều hệ điều hành đồng thời trên cùng một ổ đĩa cứng. Ví dụ trong một ổ đĩa cứng có thể thiết lập một phân vùng có định dạng FAT/FAT32 cho hệ điều hành Windows 9X/Me và một vài phân vùng NTFS cho hệ điều hành Windows NT/2000/XP/Vista với lợi thế về bảo mật trong định dạng loại này (mặc dù các hệ điều hành này có thể sử dụng các định dạng cũ hơn).
Phân chia phân vùng không phải là điều bắt buộc đối với các ổ đĩa cứng để nó làm việc (một vài hãng sản xuất máy tính cá nhân nguyên chiếc chỉ thiết đặt một phân vùng duy nhất khi cài sẵn các hệ điều hành vào máy tính khi bán ra), chúng chỉ giúp cho người sử dụng có thể cài đặt đồng thời nhiều hệ điều hành trên cùng một máy tính hoặc giúp việc quản lý các nội dung, lưu trữ, phân loại dữ liệu được thuận tiện và tối ưu hơn, tránh sự phân mảnh của các tập tin.
Những lời khuyên dưới đây giúp sử dụng ổ đĩa cứng một cách tối ưu hơn:
Phân vùng chứa hệ điều hành chính: Thường nên thiết lập phân vùng chứa hệ điều hành tại các vùng chứa phía ngoài rìa của đĩa từ (outer zone) bởi vùng này có tốc độ đọc/ghi cao hơn, dẫn đến sự khởi động hệ điều hành và các phần mềm khởi động và làm việc được nhanh hơn. Phân vùng này thường được gán tên là C .
Phân vùng chứa hệ điều hành không nên chứa các dữ liệu quan trọng bởi chúng dễ bị virus tấn công (hơn các phân vùng khác), việc sửa chữa khắc phục sự cố nếu không thận trọng có thể làm mất toàn bộ dữ liệu tại phân vùng này.
Phân vùng chứa dữ liệu thường xuyên truy cập hoặc thay đổi: Những tập tin đa phương tiện (multimedia) nếu thường xuyên được truy cập hoặc các dữ liệu làm việc khác nên đặt tại phân vùng thứ hai ngay sau phân vùng chứa hệ điều hành. Sau khi quy hoạch, nên thường xuyên thực thi tác vụ chống phân mảnh tập tin trên phân vùng này.
Phân vùng chứa dữ liệu ít truy cập hoặc ít bị sửa đổi: Nên đặt riêng một phân vùng chứa các dữ liệu ít truy cập hoặc bị thay đổi như các bộ cài đặt phần mềm. Phân vùng này nên đặt sau cùng, tương ứng với vị trí của nó ở gần khu vực tâm của đĩa (inner zone).
Có nhiều phần mềm có thể sử dụng để quy hoạch các phân vùng đĩa cứng: fdisk trong DOS, Disk Management của Windows (2000, XP) và một số phần mềm của các hãng khác, nhưng có thể chúng chỉ đơn thuần là tạo ra các phân vùng, xoá các phân vùng mà không thay đổi kích thước phân vùng đang tồn tại, chúng thường làm mất dữ liệu trên phân vùng thao tác. Partition Magic (hiện tại của hãng Symantec) thường được nhiều người sử dụng bởi tính năng mạnh mẽ, giao diện thân thiện (sử dụng chuột, giống các phần mềm trong môi trường 32 bit) và đặc biệt là không làm mất dữ liệu khi thao tác với các phân vùng
Định dạng của phân vùng
Lựa chọn định dạng các phân vùng là hành động tiếp sau khi quy hoạch phân vùng ổ đĩa cứng.
Tuỳ thuộc vào các hệ điều hành sử dụng mà cần lựa chọn các kiểu định dạng sử dụng trên ổ đĩa cứng. Một số định dạng sử dụng trong các hệ điều hành họ Windows có thể là:
FAT (File Allocation Table): Chuẩn hỗ trợ DOS và các hệ điều hành họ Windows 9X/Me (và các hệ điều hành sau). Phân vùng FAT hỗ trợ độ dài tên 11 ký tự (8 ký tự tên và 3 ký tự mở rộng) trong DOS hoặc 255 ký tự trong các hệ điều hành 32 bit như Windows 9X/Me. FAT có thể sử dụng 12 hoặc 16 bit, dung lượng tối đa một phân vùng FAT chỉ đến 2 GB dữ liệu.
FAT32 (File Allocation Table, 32-bit): Tương tự như FAT, nhưng nó được hỗ trợ bắt đầu từ hệ điều hành Windows 95 OSR2 và toàn bộ các hệ điều hành sau này. Dung lượng tối đa của một phân vùng FAT32 có thể lên tới 2 TB (2.048 GB).
NTFS (Windows New Tech File System): Được hỗ trợ bắt đầu từ các hệ điều hành họ NT/2000/XP/Vista. Một phân vùng NTFS có thể có dung lượng tối đa đến 16 exabytes.
exFAT (extended File Allocation Table): được thiết kế đặc biệt cho các ổ flash USB.
Không chỉ có thế, các hệ điều hành họ Linux sử dụng các loại định dạng tập tin riêng.
Format
Format là sự định dạng các vùng ghi dữ liệu của ổ đĩa cứng. Tuỳ theo từng yêu cầu mà có thể thực hiện sự định dạng này ở các thể loại cấp thấp hay sự định dạng thông thường.
Format cấp thấp
Format cấp thấp (low-level format) là sự định dạng lại các track, sector, cylinder (bao gồm cả các ‘khu vực" đã trình bày trong phần sector). Format cấp thấp thường được các hãng sản xuất thực hiện lần đầu tiên trước khi xuất xưởng các ổ đĩa cứng. Người sử dụng chỉ nên dùng các phần mềm của chính hãng sản xuất để format cấp thấp (cũng có các phần mềm của hãng khác nhưng có thể các phần mềm này không nhận biết đúng các thông số của ổ đĩa cứng khi tiến hành định dạng lại).
Khi các ổ cứng đã làm việc nhiều năm liên tục hoặc có các khối hư hỏng xuất hiện nhiều, điều này có hai khả năng: sự lão hoá tổng thể hoặc sự rơ rão của các phần cơ khí bên trong ổ đĩa cứng. Cả hai trường hợp này đều dẫn đến một sự không đáng tin cậy khi lưu trữ dữ liệu quan trọng trên nó, do đó việc định dạng cấp thấp có thể kéo dài thêm một chút thời gian làm việc của ổ đĩa cứng để lưu các dữ liệu không mấy quan trọng. Format cấp thấp giúp cho sự đọc/ghi trên các track đang bị lệch lạc trở thành phù hợp hơn khi các track đó được định dạng lại (có thể hiểu đơn giản rằng nếu đầu đọc/ghi bắt đầu làm việc dịch về một biên phía nào đó của track thì sau khi format cấp thấp các đầu đọc/ghi sẽ làm việc tại tâm của các track mới).
Không nên lạm dụng format cấp thấp nếu như ổ đĩa cứng của bạn đang hoạt động bình thường bởi sự định dạng lại này có thể mang lại sự rủi ro: Sự thao tác sai của người dùng, các vấn đề xử lý trong bo mạch của ổ đĩa cứng. Nếu như một ổ đĩa cứng xuất hiện một vài khối hư hỏng thì người sử dụng nên dùng các phần mềm che giấu nó bởi đó không chắc đã do sự hoạt động rơ rão của phần cứng.
Một người viết bài này đã sử dụng một ổ đĩa cứng từ những năm 1995 cho đến nay nhưng chưa thấy có hiện tượng rơ rão cơ khí như nhắc đến trong bài.
Format thông thường
Định dạng mức cao (high-level format) là các hình thức format thông thường mà đa phần người sử dụng đã từng thực hiện (chúng chỉ được gọi tên như vậy để phân biệt với format cấp thấp) bởi các lệnh sẵn có trong các hệ điều hành (DOS hoặc Windows), hình thức format này có thể có hai dạng:
Format nhanh (quick): Đơn thuần là xoá vị trí lưu trữ các ký tự đầu tiên để hệ điều hành hoặc các phần mềm có thể ghi đè dữ liệu mới lên các dữ liệu cũ. Nếu muốn format nhanh: sử dụng tham số " /q" với lệnh trong DOS hoặc chọn "quick format" trong hộp lựa chọn của lệnh ở hệ điều hành Windows.
Format thông thường. Xoá bỏ các dữ liệu cũ và đồng thời kiểm tra phát hiện khối hư hỏng (bad block), đánh dấu chúng để chúng không còn được vô tình sử dụng đến trong các phiên làm việc sắp tới (nếu không có sự đánh dấu này, hệ điều hành sẽ ghi dữ liệu vào khối hư hỏng mà nó không báo lỗi - tuy nhiên khi đọc lại dữ liệu đã ghi đó mới là vấn đề nghiêm trọng).Đối với bộ nhớ Flash thì cũng không nên format nhiều dễ làm hỏng ổ đĩa.
Tham số khi format
Ở dạng format cấp thấp, các thông số thiết đặt phần nhiều do phần mềm của hãng sản xuất xác nhận khi bạn nhập vào các thông số nhìn thấy được trên ổ đĩa cứng (Model, serial number...) nên các thông số này cần tuyệt đối chính xác nhằm tránh sự thất bại khi tiến hành.
Ở dạng format thông thường, nếu là hình thức format nhanh (quick) thì các thông số được giữ nguyên như lần format gần nhất, còn lại có một thông số mà người tiến hành format cần cân nhắc lựa chọn là kích thước đơn vị (nhỏ nhất) của định dạng là cluster (trong Windows XP mục Allocation unit size trong hộp thoại lựa chọn format).
Kích thước cluster có thể lựa chọn bắt đầu từ 512 byte bởi không thể nhỏ hơn kích thước chứa dữ liệu của một sector (với kích thước một sector thông dụng nhất là 512 byte). Các kích thước còn lại có thể là: 1024, 2048, 4096 với quy định giới hạn của từng loại định dạng (FAT/FAT32 hay NTFS).
Sự lựa chọn quan trọng nhất là phân vùng cần định dạng sử dụng chủ yếu để chứa các tập tin có kích thước như thế nào. Để hiểu hơn về lựa chọn, xin xem một ví dụ sau: Nếu lưu một tập tin text chỉ có dung lượng 1 byte (bạn hãy thử tạo một tập tin text và đánh 1 ký tự vào đó) thì trên ổ đĩa cứng sẽ phải dùng đến ít nhất 512 byte để chứa tập tin này với việc lựa chọn kích thước đơn vị là 512 byte, còn nếu lựa chọn cluster bằng 4096 byte thì kích thước lãng phí sẽ là 4096 - 1 = 4095 byte.
Nếu như lựa chọn kích thước cluster có kích thước khá nhỏ thì các bảng FAT hoặc các tập tin MFT (Master File Table) trong định dạng NTFS lại trở lên lớn hơn.
Như vậy ta nhận thấy: Nếu ổ đĩa cứng sử dụng cho các tập tin do các phần mềm văn phòng thường ngày (Winword, bảng tính excel...), nên chọn kích thước nhỏ: 1024 hoặc 2048 byte. Nếu chứa các tập tin là dạng các bộ cài đặt phần mềm hoặc các tập tin video, nên chọn kích thước này lớn hơn. Đặc biệt ở các ổ cứng nhỏ dành cho thiết bị di động thì sự lựa chọn thường là 512 byte (đây cũng thường là lựa chọn khi format các loại thẻ nhớ).
Windows có thể cho bạn biết một tập tin kích thước thực (size) của nó và kích thước chứa trên đĩa (size on disk) của nó bằng cách bấm chuột phải và chọn Properties. Điều này giúp bạn có thể nhận ra sự lãng phí đã nêu
Phần mềm Partition Magic của Symantec có thể so sánh việc lựa chọn kích thước các cluster trên một phân vùng tồn tại dữ liệu.
Ứng dụng
Ổ đĩa cứng được sử dụng chủ yếu trên các máy tính như: máy tính cá nhân, máy tính xách tay, máy chủ, máy trạm…
Với các thiết bị lưu trữ dữ liệu chuyên dụng như: các thiết bị sao lưu dữ liệu tự động hoặc các thiết bị sao lưu dữ liệu dùng cho văn phòng/cá nhân bán trên thị trường hiện nay đều sử dụng các ổ đĩa cứng. Khi ổ đĩa cứng có dung lượng ngày càng lớn, chi phí tính theo mỗi GB dữ liệu rẻ đi khiến chúng hoàn toàn có thể thay thế các hệ thống sao lưu dữ liệu dự phòng trước đây như: băng từ (mà ưu điểm nổi bật của chúng là chi phí cho mỗi GB thấp).
Ngày nay, một số hãng sản xuất ổ đĩa cứng đã có thể chế tạo các đĩa cứng rất nhỏ. Các ổ đĩa cứng nhỏ này có thể được sử dụng thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân, thiết bị cầm tay, điện thoại di động, máy ảnh số, máy nghe nhạc cá nhân, tai nghe không dây, máy quay phim kỹ thuật số (thay cho băng từ và đĩa quang với ưu thế về tốc độ ghi và sự soạn thảo hiệu ứng tức thời)...
Những thiết bị gia dụng mới xuất hiện đáp ứng nhu cầu của con người cũng được sử dụng các ổ đĩa cứng như: Thiết bị ghi lại các chương trình ti vi cho phép người sử dụng không bỏ sót một kênh yêu thích nào bởi chúng ghi lại một kênh thứ hai trong khi người sử dụng xem kênh thứ nhất, hoặc đặt lịch trình ghi lại khi vắng nhà.
Một số thông tin và ghi chú trong bài
Nhiều người sử dụng thường gọi ổ C, ổ D…nhưng thực chất chúng chỉ là các phân vùng (partition) trong ổ đĩa cứng để tiện cho việc phân chia khu vực lưu trữ dữ liệu theo các mục đích riêng. Cách hiểu này nhiều khi được sử dụng ở các bài viết chính thống, tuy nhiên ở các bài viết cẩn thận, người truyền đạt thường sử dụng từ "ổ vật lý" để nói đến toàn bộ khối ổ đĩa cứng, nhằm tránh sự hiểu nhầm đến các "ổ luận lý".
Một số người sử dụng đã làm mát ổ đĩa cứng bằng cách gắn các quạt làm mát thổi trực tiếp vào bo mạch của chúng (thổi từ dưới lên, có một số nơi lại bán sẵn các vỉ làm mát kiểu này), điều này hoàn toàn không cần thiết bởi bo mạch của ổ đĩa thường không tiêu thụ công suất quá lớn khiến các linh kiện của chúng nóng lên và bo mạch được làm mát không thể hấp thụ nhiệt từ các đĩa từ, động cơ của ổ đĩa cứng. Mặt khác điều này còn làm cho bo mạch chứa nhiều bụi sau một thời gian làm việc, chúng có thể trở thành môi trường dẫn điện nếu thời tiết trở nên ẩm thấp. Cách tốt để tản nhiệt ổ đĩa cứng là thổi không khí vào chúng từ phía trên hoặc phía ngang. Một số vỏ máy tính đã thiết kế quạt làm mát thổi song song với ổ đĩa cứng lấy gió từ phía mặt trước của thùng máy.
Trong quá trình làm việc, hệ điều hành hoặc các phần mềm kiểm tra đĩa cứng, nếu chúng đọc và ghi dữ liệu tại một vị trí nào đó không thành công trong vài lần, chúng sẽ đánh dấu "khối hư hỏng" vào đó nhằm tránh sự ghi dữ liệu tiếp theo vào vị trí này. Nhiều trường hợp bởi một lý do khác mà hệ điều hành có thể đánh dấu sai.
Các hãng sản xuất
Có rất nhiều hãng, công ty sản xuất ổ đĩa cứng, có thể kể đến một số thương hiệu như sau (sắp xếp ngẫu nhiên không theo quy luật):
IBM, Seagate, Hitachi, Western Digital. |
Giải bóng đá Cúp Quốc gia (), thường được biết đến với tên ngắn gọn hơn là Cúp Quốc gia, là giải bóng đá cấp câu lạc bộ của Việt Nam trong năm. Giải đấu ra đời vào năm 1992 với đội đoạt chức vô địch đầu tiên là Cảng Sài Gòn.
Các câu lạc bộ tham dự giải sẽ là các câu lạc bộ thi đấu tại V.League 1 và V.League 2. Thể thức bốc thăm chia cặp và đấu loại trực tiếp, tùy thứ hạng mùa giải liền trước đó và số lượng đội bóng tham dự mùa bóng hiện tại để xác định số vòng đấu cũng như vòng đấu phải tham gia của các đội. Từ năm 2020, đội đoạt Cúp Quốc gia cùng á quân V.League 1 sẽ đại diện cho Việt Nam tham dự AFC Cup. Đội vô địch Cúp Quốc gia cũng sẽ tham dự trận tranh Siêu cúp Quốc gia với đội vô địch V.League 1.
Tính đến năm 2023, Sông Lam Nghệ An, Becamex Bình Dương và Hà Nội là những đội bóng có nhiều lần đoạt Cúp Quốc gia nhất với 3 danh hiệu mỗi đội.
Thể thức thi đấu
Các câu lạc bộ được bốc thăm theo cặp, thi đấu theo thể thức loại trực tiếp một trận. Sau khi kết thúc 90 phút thi đấu chính thức, nếu tỷ số hoà, 2 đội sẽ thi đấu loạt sút luân lưu 11m để xác định đội thắng, tương tự như Cúp FA tại Anh.
Trận đấu giữa câu lạc bộ từ V.League 1 và câu lạc bộ từ V.League 2 thì câu lạc bộ từ V.League 1 không được sử dụng cầu thủ ngoại.
Phân loại giải đấu (mùa giải 2023)
Lịch sử
Giải đấu được Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức lần đầu vào năm 1992, dành cho tất cả các đội bóng trong hệ thống thi đấu của bóng đá Việt Nam. Cảng Sài Gòn là chủ nhân của chiếc Cúp Quốc gia đầu tiên sau khi thắng Thể Công trong loạt sút luân lưu ở sân Thống Nhất. Cũng tại đây, Cảng Sài Gòn còn giành chiếc cúp này một lần nữa vào năm 2000. Năm 2004, Cúp Quốc gia được giới hạn lại cho các câu lạc bộ chuyên nghiệp và hạng Nhất.
Có tổng cộng 16 nhà vô địch trong lịch sử của giải đấu. Đó là Cảng Sài Gòn, SHB Đà Nẵng, Bình Định, Công an Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Câu lạc bộ Hải Quan (2 lần), Đồng Tâm Long An, Hà Nội ACB, Nam Định, Sài Gòn Xuân Thành, Hòa Phát Hà Nội, Navibank Sài Gòn, Xi măng The Vissal Ninh Bình, Câu lạc bộ bóng đá Đông Á Thanh Hoá (1 lần), và 3 đội có thành tích tốt nhất là Sông Lam Nghệ An, Hà Nội và Becamex Bình Dương (mỗi đội 3 lần).
Các trận chung kết
2023
2022
2021
2020
2019
2018
2017
2016
2015
2014
2013
2012
2011
2010
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2001-2002
2000-2001
1999-2000
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
Các câu lạc bộ đạt ít nhất hạng ba
Các nhà tài trợ
Danh sách nhà tài trợ của Cúp Quốc gia. |
Trong khoa học vật liệu, hệ số giãn nở nhiệt của một vật liệu là một đại lượng vật lý đặc trưng cho sự thay đổi kích thước của vật liệu đó khi nhiệt độ thay đổi. Có một vài định nghĩa cụ thể cho hệ số giãn nở nhiệt:
hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính
hệ số giãn nở nhiệt thể tích (hay hệ số giãn nở nhiệt toàn phần, hay nhiều khi ngắn gọn là hệ số giãn nở nhiệt)
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần có thể được đo cho mọi vật liệu ở các trạng thái rắn, lỏng, khí khác nhau; trong khi hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính chỉ đo được cho vật liệu rắn.
Với đa số vật liệu, khi áp suất không đổi, thể tích hay kích thước của vật liệu tăng khi nhiệt độ tăng.
Sự giãn nở hay co lại của vật liệu khi nhiệt độ thay đổi cần được quan tâm khi thiết kế các hệ thống lớn liên kết nhiều vật liệu khác nhau, khi dùng thước đo khoảng cách, khi thiết kế hệ thống hoạt động trong dải nhiệt độ rộng,...
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần
Hệ số giãn nở nhiệt toàn phần được định nghĩa bởi (Incropera, 2001 p537)
với ρ là mật độ, T là nhiệt độ, V là thể tích, các đạo hàm được tính khi áp suất P không đổi. Như vậy β là tỷ lệ thay đổi của mật độ khi nhiệt độ tăng và áp suất không đổi.
Đối với vật liệu tinh thể sự giãn nở nhiệt chỉ xảy ra khi trường lực không biến đổi theo hàm bậc hai.
Hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính
Hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính tỷ lệ thay đổi độ dài dọc theo một chiều của một thanh vật liệu rắn cho mỗi độ thay đổi của nhiệt độ:
với L là chiều dài của thanh theo chiều đã định.
Với vật liệu đẳng hướng, hệ số giãn nở nhiệt tuyến tính xấp xỉ bằng 1/3 hệ số giãn nở nhiệt thể tích. |
Có nhiều định luật vật lý mang tên nhà khoa học Isaac Newton:
Định luật cơ học Newton
Định luật 1 Newton
Định luật 2 Newton
Định luật 3 Newton
Định luật vạn vật hấp dẫn Newton
Định luật Newton cho chất lưu
Isaac Newton |
Đám mây Oort (), đôi khi được gọi là đám mây Öpik – Oort, là một đám mây giả thuyết chủ yếu bao gồm các vi thể hành tinh băng giá được cho là bao quanh Mặt Trời ở khoảng cách từ 2.000 đến 200.000 au (0,03 đến 3,2 năm ánh sáng) và được nhà thiên văn học người Hà Lan Jan Oort mô tả lần đầu tiên vào năm 1950. Nó được chia thành hai vùng: đám mây Oort bên trong có hình đĩa (hay đám mây Hills) và đám mây Oort bên ngoài hình cầu. Cả hai khu vực đều nằm ngoài nhật quyển và nằm trong không gian giữa các vì sao. Hai hồ chứa thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương khác là Vành đai Kuiper và đĩa phân tán có khoảng cách so với Mặt Trời lớn chưa đầy một phần nghìn so với đám mây Oort.
Rìa bên ngoài của đám mây Oort xác định ranh giới vũ trụ của Hệ Mặt Trời và phạm vi của quyển Hill của Mặt Trời. Đám mây Oort bên ngoài chỉ liên kết lỏng lẻo với Hệ Mặt Trời, và do đó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn của cả những ngôi sao đi qua và của chính Dải Ngân Hà. Những lực này đôi khi đánh bật các sao chổi ra khỏi quỹ đạo của chúng trong đám mây và đưa chúng về phía bên trong Hệ Mặt Trời. Dựa trên quỹ đạo của chúng, hầu hết các sao chổi chu kỳ ngắn có thể đến từ đĩa phân tán, nhưng một số khác vẫn có thể có nguồn gốc từ đám mây Oort.
Các nhà thiên văn phỏng đoán rằng vật chất tạo nên đám mây Oort được hình thành gần Mặt Trời hơn và bị phân tán ra xa vào không gian do tác động hấp dẫn của các hành tinh khổng lồ trong quá trình tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Mặc dù chưa thực hiện quan sát trực tiếp nào được xác nhận về đám mây Oort, nhưng nó có thể là nguồn gốc của tất cả các sao chổi thời kỳ dài và sao chổi loại Halley đi vào bên trong Hệ Mặt Trời, và cũng của nhiều sao chổi thuộc họ Sao Mộc và centaur.
Giả thuyết
Có hai loại sao chổi chính: sao chổi chu kỳ ngắn (còn gọi là sao chổi hoàng đạo) và sao chổi chu kỳ dài (còn gọi là sao chổi gần đẳng hướng). Sao chổi hoàng đạo có quỹ đạo tương đối nhỏ, dưới 10 au, và đi theo mặt phẳng hoàng đạo, cùng một mặt phẳng mà các hành tinh nằm trên. Tất cả các sao chổi chu kỳ dài đều có quỹ đạo rất lớn, xấp xỉ hàng nghìn au, và xuất hiện từ mọi hướng trên bầu trời.
Vào năm 1907, AO Leuschner cho rằng nhiều sao chổi được cho là có quỹ đạo parabol và do đó chỉ ghé qua Hệ Mặt Trời một lần thì thực ra là có quỹ đạo hình elip và sẽ quay trở lại sau một thời gian rất dài. Vào năm 1932, nhà thiên văn học người Estonia Ernst Öpik đã công nhận rằng các sao chổi chu kỳ dài có nguồn gốc từ một đám mây quay quanh quỹ đạo ở rìa ngoài cùng của Hệ Mặt Trời. Nhà thiên văn học người Hà Lan Jan Oort đã hồi sinh lại ý tưởng này một cách độc lập vào năm 1950 và coi nó là một cách để giải quyết một nghịch lý:
Trong quá trình tồn tại của Hệ Mặt Trời, quỹ đạo của các sao chổi không ổn định, và cuối cùng động lực học quyết định rằng một sao chổi phải va chạm với Mặt Trời hoặc một hành tinh hoặc bị đẩy ra khỏi Hệ Mặt Trời do nhiễu loạn hành tinh.
Hơn nữa, do có thành phần dễ bay hơi nên mỗi khi chúng tiếp cận Mặt Trời thì bức xạ Mặt Trời dần dần sẽ làm sôi các chất bay hơi cho đến khi sao chổi bị tách ra hoặc phát triển một lớp vỏ cách nhiệt ngăn chặn quá trình bốc hơi ra ngoài.
Oort lý luận rằng, chính vì vậy mà một sao chổi không thể hình thành khi đang ở trong quỹ đạo hiện tại của nó mà phải được giữ trong một hồ chứa phía ngoài trong hầu hết toàn bộ thời gian tồn tại của nó. Ông lưu ý rằng sao chổi chu kỳ dài có viễn điểm quỹ đạo (khoảng cách xa nhất của chúng so với Mặt Trời) khoảng 20.000 au có số lượng lớn nhất trong số các sao chổi chu kỳ dài, điều này gợi ra rằng có tồn tại một hồ chứa ở khoảng cách đó với một sự phân bố hình cầu, đẳng hướng. Những sao chổi tương đối hiếm có quỹ đạo khoảng 10.000 au có lẽ đã đi qua một hoặc nhiều quỹ đạo qua Hệ Mặt Trời và quỹ đạo của chúng bị lực hấp dẫn của các hành tinh hút vào trong.
Cấu trúc và thành phần
Đám mây Oort được cho là chiếm một không gian rộng lớn từ khoảng cho tới xa nhất là tính từ Mặt Trời. Một số ước tính đặt ranh giới bên ngoài vào khoảng từ . Nó có thể được chia thành đám mây Oort hình cầu bên ngoài rộng khoảng , và đám mây Oort bên trong hình xuyến có kích thước . Đám mây bên ngoài chỉ liên kết yếu với Mặt Trời và cung cấp các sao chổi chu kỳ dài (và có thể là loại Halley) vào bên trong quỹ đạo của Sao Hải Vương. Đám mây Oort bên trong còn được gọi là đám mây Hills, được đặt theo tên của Jack G. Hills, người đã đề xuất sự tồn tại của nó vào năm 1981. Các mô hình dự đoán rằng đám mây bên trong phải có nhiều hạt nhân sao chổi gấp hàng chục hoặc hàng trăm lần quầng bên ngoài; nó được coi là một nguồn khả thi các sao chổi mới nhằm tiếp tế cho đám mây bên ngoài mỏng manh khi số lượng của đám mây này đang dần cạn kiệt. Đám mây Hills giải thích sự tồn tại tiếp tục của đám mây Oort sau hàng tỷ năm.
Đám mây Oort bên ngoài có thể có hàng nghìn tỷ vật thể lớn hơn , và hàng tỷ với cấp sao tuyệt đối sáng hơn 11 (tương ứng với đường kính khoảng ), với các vật thể lân cận cách nhau hàng chục triệu km. Không rõ tổng khối lượng của nó, nhưng giả sử rằng Sao chổi Halley là một nguyên mẫu thích hợp cho các sao chổi bên trong đám mây Oort bên ngoài thì khối lượng tổng hợp là , nói cách khác là gấp năm lần Trái đất. Trước đây, nó được cho là có khối lượng lớn hơn (tới 380 lần khối lượng Trái đất) nhưng do kiến thức về sự phân bố kích thước của các sao chổi chu kỳ dài được cải thiện dẫn đến một con số ước tính thấp hơn. Chưa có bất kỳ công bố nào về ước tính khối lượng của đám mây Oort bên trong.
Nếu phân tích của sao chổi là đại diện cho toàn bộ thì phần lớn các vật thể trong đám mây Oort có thành phần là các chất dễ bay hơi chẳng hạn như nước, mêtan, etan, cacbon monoxit và axit xianhidric. Tuy nhiên, việc phát hiện ra vật thể - một vật thể có bề ngoài phù hợp với tiểu hành tinh loại D trên quỹ đạo điển hình của một sao chổi chu kỳ dài - đã thúc đẩy các nghiên cứu lý thuyết cho rằng quần thể đám mây Oort bao gồm khoảng một đến hai phần trăm tiểu hành tinh. Phân tích tỷ lệ đồng vị cacbon và nitơ trong cả sao chổi chu kỳ dài và sao chổi họ Sao Mộc cho thấy có ít sự khác biệt giữa hai loại, mặc dù vùng xuất xứ của chúng được cho là rất tách biệt. Điều này cho thấy rằng cả hai đều có nguồn gốc từ đám mây tiền cực ban đầu, và kết luận này cũng được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về kích thước hạt trong sao chổi đám mây Oort và bởi nghiên cứu tác động gần đây của sao chổi Tempel 1 thuộc họ Sao Mộc.
Nguồn gốc
Đám mây Oort được cho là đã phát triển sau khi hình thành các hành tinh từ đĩa tiền hành tinh nguyên thủy khoảng 4,6 tỷ năm trước. Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là các vật thể của đám mây Oort ban đầu liên kết lại gần Mặt Trời hơn nhiều và là một phần của quá trình hình thành các hành tinh và tiểu hành tinh. Sau khi hình thành, các tương tác hấp dẫn mạnh với các hành tinh khí khổng lồ chẳng hạn như Sao Mộc đã làm phân tán các vật thể thành các quỹ đạo hình elip hoặc parabol cực rộng, sau đó bị nhiễu loạn từ các ngôi sao đi ngang qua và các đám mây phân tử khổng lồ biến đổi thành các quỹ đạo tồn tại lâu dài tách ra khỏi phạm vi của các hành tinh khí khổng lồ.
Nghiên cứu gần đây của NASA đặt giả thuyết rằng một số lượng lớn các vật thể trong đám mây Oort là sản phẩm của sự trao đổi vật chất giữa Mặt Trời và các ngôi sao anh chị em của nó khi chúng hình thành và tách rời nhau và người ta cho rằng nhiều —có thể là phần lớn— vật thể đám mây Oort không hình thành ở gần Mặt Trời. Các mô phỏng về sự tiến hóa của đám mây Oort từ thuở sơ khai của Hệ Mặt Trời cho đến nay đã cho thấy khối lượng của đám mây đạt đỉnh vào khoảng 800 hàng triệu năm sau khi hình thành, khi tốc độ bồi tụ và va chạm chậm lại và sự cạn kiệt bắt đầu vượt quá nguồn cung.
Mô hình của Julio Ángel Fernández gợi ý rằng đĩa phân tán, nguồn cấp chính cho các sao chổi tuần hoàn trong Hệ Mặt Trời, cũng có thể là nguồn cấp chính cho các vật thể đám mây Oort. Theo các mô hình thì khoảng một nửa số vật thể phân tán di chuyển ra ngoài về phía đám mây Oort, trong khi đó một phần tư dịch chuyển vào trong quỹ đạo của Sao Mộc và một phần tư bị đẩy ra trong một quỹ đạo hình hypebol. Đĩa phân tán có thể vẫn cung cấp nguyên liệu cho đám mây Oort. Một phần ba số lượng vật thể đĩa phân tán có khả năng kết thúc tại trong đám mây Oort sau 2,5 tỷ năm.
Hiệu ứng thủy triều
Hầu hết các sao chổi được nhìn thấy ở gần Mặt Trời dường như đã đến vị trí hiện tại của chúng thông qua sự nhiễu loạn hấp dẫn của đám mây Oort bởi lực thủy triều gây ra bởi Dải Ngân Hà. Cũng giống như lực thủy triều của Mặt trăng làm biến dạng các đại dương của Trái Đất và khiến thủy triều lên xuống thì thủy triều thiên hà cũng làm biến dạng quỹ đạo của các thiên thể trong Hệ Mặt Trời bên ngoài. Trong các vùng được lập biểu đồ của Hệ Mặt Trời thì những tác động này là không đáng kể so với lực hấp dẫn của Mặt Trời, nhưng ở vùng ngoài của hệ mà lực hấp dẫn của Mặt Trời yếu hơn thì gradient trường hấp dẫn của Dải Ngân Hà có những tác động đáng kể. Lực thủy triều thiên hà kéo căng đám mây dọc theo một trục hướng về trung tâm thiên hà và nén nó dọc theo hai trục còn lại; những nhiễu loạn nhỏ này có thể dịch chuyển quỹ đạo trong đám mây Oort để đưa các vật thể đến gần Mặt trời. Điểm mà lực hấp dẫn của Mặt Trời chịu ảnh hưởng của nó đối với thủy triều thiên hà được gọi là bán kính cắt ngắn thủy triều. Nó nằm ở bán kính từ 100.000 đến 200.000 au, và đánh dấu ranh giới bên ngoài của đám mây Oort.
Một số học giả đặt giả thuyết rằng thủy triều thiên hà có thể đã góp phần vào sự hình thành của các đám mây Oort bằng cách làm tăng cận điểm quỹ đạo (khoảng cách nhỏ nhất đến Mặt Trời) của vi thể hành tinh với viễn điểm quỹ đạo lớn (khoảng cách lớn nhất đến Mặt Trời). Tác động của thủy triều thiên hà khá phức tạp và phụ thuộc nhiều vào hành vi của các vật thể riêng lẻ trong một hệ hành tinh. Tuy nhiên, về tổng thể, nó có thể có ảnh hưởng khá đáng kể: tới 90% tất cả các sao chổi có nguồn gốc từ đám mây Oort có thể là kết quả của thủy triều thiên hà. Các mô hình thống kê về quỹ đạo quan sát được của các sao chổi chu kỳ dài lập luận rằng thủy triều thiên hà là phương tiện chính khiến quỹ đạo của chúng bị xáo trộn về phía bên trong Hệ Mặt Trời.
Ghi chú |
Trong vật lý học, áp suất (tiếng Anh: Pressure) (thường được viết tắt là p) là một đại lượng vật lý, được định nghĩa là lực trên một đơn vị diện tích tác dụng theo chiều vuông góc với bề mặt của vật thể. Trong hệ SI, đơn vị của áp suất bằng Newton trên mét vuông (N/m²), nó được gọi là Pascal (Pa) mang tên nhà toán học và vật lý người Pháp Blaise Pascal thế kỉ thứ 17. Áp suất 1 Pa là rất nhỏ, nó xấp xỉ bằng áp suất của một đồng đô la tác dụng lên mặt bàn. Thường áp suất được đo với tỉ lệ bắt đầu bằng 1kPa = 1000Pa.
Phương trình miêu tả áp suất:
p = F / S
Trong đó: p là áp suất, F là áp lực tác dụng lên mặt bị ép có diện tích tiếp xúc là S.
Đơn vị của áp suất
Trong hệ SI: N/ hay còn gọi là Pa: 1Pa=1N/
p=d*h
NBA
Ngoài ra còn một số đơn vị khác: atmosphere (1atm=101325 Pa), Torr, mmHg (1torr=1mmHg=1/760atm=133,3Pa), at (atmosphere kỹ thuật 1at=0,98. Pa)
Đổi đơn vị đo áp suất
Áp suất chất lỏng
Áp suất chất lỏng là áp suất ở một vài điểm trong chất lỏng như là nước hay không khí. Áp suất chất lỏng xuất hiện ở một trong 2 tình huống sau:
Điều kiện hở, gọi là "dòng trong kênh hở" - như bề mặt đại dương, bể bơi, không khí...
Điều kiện đóng - trong đường ống dẫn khí, dẫn nước...
Cũng như chất khí, chất lỏng truyền đi nguyên vẹn áp suất theo mọi phương. Phương trình Bernoulli có thể được sử dụng để xác định áp suất tại bất kì một điểm trong chất lỏng. Chất lỏng được giả thiết là chất lỏng lý tưởng và không nén được. Chất lỏng lý tưởng là chất lỏng không tồn tại nội ma sát trong lòng chất lỏng, có độ nhớt bằng không. Phương trình được viết giữa hai điểm a và b bất kì trong một hệ thống chỉ tồn tại 1 chất lỏng.
với:
p = áp suất của chất lỏng
γ = ρg = mật độ·gia tốc trọng trường = trọng lượng riêng của chất lỏng. />
v = vận tốc của chất lỏng
g = gia tốc trọng trường
z = độ cao
= chiều cao cột áp (pressure head)
= vận tốc cột áp (velocity head) hay độ cao thủy lực
Trên cùng một mặt phẳng nằm ngang trong lòng chất lỏng thì tất cả các điểm đều có áp suất như nhau.
Áp suất ở những điểm có độ cao khác nhau thì áp suất cũng khác nhau
Công thức tính áp suất chất lỏng: ,
Trong đó :
là trọng lượng riêng của chất lỏng
là độ sâu tính từ điểm áp suất tới mặt thoáng của chất lỏng.
Nguyên lý Pascal
Độ tăng áp suất lên một chất lỏng chứa trong bình kín được truyền nguyên vẹn cho mọi điểm của chất lỏng và của thành bình.
Công thức Pascal: p=png + pgh
png là áp suất ngoài.
Ứng dụng của áp suất chất lỏng
Nguyên lý Pascal ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như máy nén thủy lực, máy nâng vật với trọng lực lớn, phanh thủy lực trong xe mô tô, ô tô, phanh ABS nổi tiếng trên các xe ô tô cũng như xe máy đời mới.
. |
Trong thống kê giới tính ở sinh vật, tỷ số giới tính là thương số giữa số lượng giống đực (nam giới khi nói về dân số của người) và số lượng giống cái (nữ giới khi nói về dân số của người) hoặc ngược lại.
Ở người, khi lấy thống kê trên diện rộng, tỷ lệ này xấp xỉ bằng 1:1, thay đổi tùy theo độ tuổi. Ronald Fisher là người đầu tiên giải thích tỷ lệ giới tính 1:1 ở người. Khi độ tuổi tăng, tỷ lệ này nghiêng về nữ giới. Tỷ số giới tính thay đổi theo tuổi, thường vào khoảng 1,05 lúc sinh, 1,00 lúc 18 tuổi, sau đó <1 do giới nam bị chết nhiều hơn nữ.
Ở một số loài sinh vật, tỷ lệ này rất khác với 1:1. |
Lông là những sợi cấu tạo từ chất sừng, được mọc ở trên da của loài động vật có vú.
Lông được đặt các tên gọi khác nhau tùy thuộc vào vị trí mọc. Trên đầu, nó được gọi là tóc để bảo vệ đầu. Ở mặt nam giới trưởng thành, nó được gọi là râu. Lông có thể có nhiều màu tùy thuộc chủng tộc hay cá nhân; bao gồm màu đen, màu vàng, màu nâu. Những người già thường có tóc hay râu chuyển sang màu trắng, gọi là tóc bạc hay râu bạc.
Cấu trúc
Tóc là cấu trúc sừng hình sợi dài, dẫn xuất của biểu bì da, bao phủ da đầu của người. Tóc có thành phần chủ yếu là chất sừng keratin chiếm trên 70%, calci, giàu biotin, kẽm, lưu huỳnh và nitơ. Màu và dạng của tóc chính là một dấu hiệu nhân chủng học quan trọng. Tóc có thể mang màu đen, nâu, vàng, hung, bạch kim, đỏ... có thể thẳng, xoăn, uốn sóng...
Màu sắc tóc
Màu sắc tóc do sắc tố melanin có trong tóc quyết định và mang tính chất di truyền. Với thời gian, lượng sắc tố đó sẽ giảm đi và phân số các hạt sắc tố cũng có sự biến đổi. Đây chính là lý do tóc bị bạc. Cũng có trường hợp tóc bị mất sắc số, như những người bị bệnh bạch tạng. Tóc mọc dài do các tế bào nang tóc sinh sản thường xuyên. Những sợi tóc chỉ tồn tại một thời gian rồi rụng, với nam giới trung bình 2 năm, ở nữ giới lâu hơn, khoảng 4 đến 5 năm. Ở mỗi người, trung bình khoảng 50 đến 100 sợi tóc rụng mỗi ngày.
Vòng đời của tóc
Có ba giai đoạn chính:
Giai đoạn tăng trưởng (anagen): tóc được hình thành và nhú ra khỏi đầu thoát của tuyến dầu quanh nang tóc. Thân tóc xuất hiện và hoàn thiện quá trình sừng hóa phía ngoài. Giai đoạn tăng trưởng kéo dài 2-4 năm ở đàn ông và 3-7 năm ở phụ nữ. Tóc mọc 0,3-0,4mm một ngày và tối đa là 1 cm trong một tháng.
Giai đoạn dừng tăng trưởng (catagen): trong suốt giai đoạn này, tóc trải qua hàng loạt những thay đổi. Tất cả mọi hoạt động tăng trưởng trong tế bào bầu tóc ngừng lại và co về phía trước. Sự tổng hợp melanin cũng dừng lại. Phần sâu nhất của nang tóc sẽ thoái hóa trong từ 2 đến 3 tuần.
Giai đoạn thoái hóa (telogen): kéo dài 2-4 tháng. Nang tóc giờ đây chỉ còn là một bộ phận không hoạt động. Bộ phận sinh trưởng nằm sâu dưới lớp da,chân tóc tách khỏi nang bây giờ đã co lại, bắt đầu rụng đi và nhường chỗ cho giai đoạn tăng trưởng của sợi tóc mới, vòng đời mới của tóc bắt đầu.
Chất dinh dưỡng cần cho tóc
Biotin: được biết tới như vitamin H – rất quan trọng đối với việc phát triển tóc mới, tạo chân tóc khoẻ mạnh và hỗ trợ quá trình tạo tế bào tóc nhanh.
Vitamin B: bao gồm vitamin B1, B2, B3, B5, B6, B12. B3 và B6 giúp giảm rụng tóc, B5 tăng độ ẩm của tóc, giúp tóc mềm mại. Vitamin B còn có khả năng giúp cơ thể giảm bớt tác hại của stress lên tóc
Silica: hay silcon là chất dinh dưỡng cần cho cơ thể, đặc biệt là tóc và móng. Có thể bổ sung silica từ các loại đậu, rau quả
Sắt: giúp cho tóc mọc nhanh
Kẽm: giúp tóc mọc dày, sợi tóc khỏe, giúp các tế bào ở nang tóc nhận biết sự có mặt của các hormone kích thích tóc tăng trưởng
Vitamin E
Vitamin D
Bệnh thường gặp ở tóc
Rụng tóc
Việc rụng tóc xảy ra trong giai đoạn này có thể diễn ra liên tục hay kèm theo việc nhường chỗ cho một sợi tóc mới phát triển phía dưới. Ngay cả một lực kéo rất nhẹ có thể nhổ tóc được mà không hề gây đau đớn, hoàn toàn ngược lại với tóc khi đang ở trong giai đoạn tăng trưởng. Thông thường mỗi người có khoảng 100.000 sợi tóc trên da đầu của mình và tốc độ rụng tóc tương đồng với tốc độ mọc tóc nên số lượng tóc trên đầu gần như duy trì nguyên vẹn. |
Nhóm nitơ, còn được IUPAC giới thiệu như là nhóm nguyên tố 15, là bất kỳ nguyên tố hóa học thuộc nhóm 15 của bảng tuần hoàn. Các nguyên tố thuộc nhóm này là nitơ (N), phosphor (P), arsenic (As), antimon (Sb), bismuth (Bi) và moscovi (Mc).
Nhóm này có các đặc trưng xác định là mọi nguyên tố thành phần đều có 5 electron ở lớp vỏ electron ngoài cùng, trong đó 2 electron thuộc phân lớp s và 3 electron thuộc phân lớp p. Vì thế, trong trạng thái không bị ion hóa, chúng thiếu 3 electron để có thể lấp đầy lớp vỏ ngoài cùng. Nguyên tố quan trọng nhất trong nhóm này là nitơ (N), nguyên tố này trong dạng phân tử là thành phần cơ bản của khí quyển Trái Đất.
Đặc điểm
Hóa học
Giống như các nhóm khác, các nguyên tố thuộc nhóm này thể hiện các kiểu cấu hình electron tương tự nhau, đặc biệt là ở lớp vỏ ngoài cùng, dẫn đến xu hướng hoạt động hóa học tương tự nhau.
Nhóm này có đặc điểm xác định là tất cả các nguyên tố thành viên đều có 5 electron ở lớp vỏ ngoài cùng, tức là 2 electron ở phân lớp s và 3 electron độc thân ở phân lớp p. Do đó, chúng còn thiếu 3 electron để lấp đầy lớp vỏ electron ngoài cùng ở trạng thái không bị ion hóa. |
Lập trình máy tính hay lập chương trình máy tính, thường gọi tắt là lập trình (, hay programming), là việc lập ra chương trình làm việc cho máy có bộ xử lý, nói riêng là máy tính, để thực thi nhiệm vụ xử lý thông tin nào đó. Chương trình này gồm dãy các chỉ thị (hay lệnh) hợp lý để máy thực hiện theo trình tự thời gian.
Lập trình phải thực hiện cho tất cả các hệ thống xử lý thông tin, từ các dàn máy điện toán lớn, máy tính cá nhân (PC), đến các chip điều khiển lập trình được trong các khối điều khiển thiết bị các loại như trong máy đo đạc phân tích, vũ khí có điều khiển, máy giặt, lò vi sóng, v.v... và trong các thiết bị ngoại vi của máy tính như chip điều khiển ở card màn hình, cổng giao tiếp, v.v...
Dạng chương trình duy nhất mà máy tính có thể thực thi trực tiếp là ngôn ngữ máy hay mã máy, có dạng dãy các số nhị phân. Lập trình trực tiếp ở dạng mã máy là công việc tốn sức, khó kiểm tra và lệ thuộc phần cứng cụ thể. Vì thế giới lập trình phát triển ra các ngôn ngữ lập trình với hệ thống ký hiệu, từ khóa và cú pháp cụ thể để lập trình viên dễ viết mã nguồn ở dạng văn bản mà không quá lệ thuộc vào phần cứng, sau đó biên dịch (compile) ra mã máy.
Ngày nay lập trình ứng dụng trên các máy điện toán được hỗ trợ bằng các thư viện, các công cụ AI bot như chatgpt github codepilot cùng với nhiều AI bot khác, khả năng liên kết mã phát sinh từ các ngôn ngữ khác nhau cũng như viết mã lệnh tự động, và đặc biệt là sử dụng biểu tượng trực quan (visual) cho lập trình. Trong kỹ thuật điện toán việc lập ra bộ chương trình thường được gọi là phát triển phần mềm. Lập trình có các thành tố nghệ thuật, khoa học, toán học, và kỹ nghệ.
Các ngôn ngữ lập trình
Dạng chương trình duy nhất mà máy tính có thể thực thi trực tiếp là ngôn ngữ máy hay mã máy. Nó có dạng dãy các số nhị phân, thường được ghép nhóm thành byte 8 bit cho các hệ xử lý 8/16/32/64 bit. Nội dung byte thường biểu diễn bằng đôi số hex. Để có được bộ mã này ngày nay người ta dùng ngôn ngữ lập trình để viết ra chương trình ở dạng văn bản và dùng trình dịch để chuyển sang mã máy.
Mã máy
Khi kỹ thuật điện toán ra đời chưa có ngôn ngữ lập trình dạng đại diện nào, thì phải lập trình trực tiếp bằng mã máy. Dãy byte viết ra được đục lỗ lên phiếu đục lỗ (punched card) và nhập qua máy đọc phiếu tới máy tính. Sau đó chương trình có thể được ghi vào băng/đĩa từ để sau này nhập nhanh vào máy tính. Ngôn ngữ máy được gọi là "ngôn ngữ lập trình thế hệ 1" (1GL, first-generation programming languages). Lúc đó có nhiều hãng sản xuất máy tính và mã máy chưa hoàn toàn thống nhất, nên lập trình gắn liền với máy của hãng.
Hợp ngữ
Sau đó các mã lệnh được thay thế bằng các tên gợi nhớ và trình được lập ở dạng văn bản (text) rồi dịch sang mã máy. Hợp ngữ (assembly languages) ra đời, là "ngôn ngữ lập trình thế hệ 2" (2GL, second-generation programming languages). Lập trình thuận lợi hơn, khi dịch có thể liên kết với thư viện chương trình con ở cả dạng macro (đoạn chưa dịch) và lẫn mã đã dịch.
Dẫu vậy người lập trình phải nắm chắc về hoạt động của hệ thống xử lý, về các thanh ghi (register), con trỏ (pointer) và vai trò của chúng thì mới tránh được lỗi. Lúc này bắt đầu có sự thống nhất quốc tế về các tập lệnh cần thiết trong kỹ thuật điện toán.
Trong kỹ thuật điện toán hợp ngữ hiện được dùng là ngôn ngữ bậc thấp (low-level programming languages) để tinh chỉnh ngôn ngữ bậc cao thực hiện truy nhập trực tiếp phần cứng cụ thể trong việc lập trình hệ thống, hoặc định tạo các hiệu ứng đặc biệt cho chương trình của mình.
Hợp ngữ hiện là phương tiện lập trình các vi điều khiển trong bảng/khối điều khiển thiết bị điện tử các loại, từ các máy đo, vũ khí, thiết bị dân sinh như máy giặt, lò vi sóng, v.v... Bảng lệnh của vi điều khiển này khác với của máy điện toán, nên hợp ngữ vi điều khiển cũng khác, và đơn giản hơn.
Lập trình mã máy và hợp ngữ cho ra chương trình chạy nhanh nhất trên cùng máy tính, vì nó chứa rất ít chỉ thị thừa hay chỉ thị rác, và giảm lượng mã nhờ việc đặt giá trị các thanh ghi được làm tắt. Các ngôn ngữ bậc cao khi dịch phải bố trí nhiều chỉ thị máy đảm bảo tính khái quát cao nhất, cùng với những câu lệnh thừa của người lập trình mà khi sửa chữa chưa kịp xóa đi.
Ngôn ngữ bậc cao
Ngôn ngữ bậc cao (high-level programming languages) hay "ngôn ngữ lập trình thế hệ 3" (3GL, third-generation programming languages) ra đời vào những năm 1950. Đây là các ngôn ngữ hình thức, dùng trong lập trình máy điện toán và không lệ thuộc vào hệ máy tính cụ thể nào. Nó giải phóng người lập trình ứng dụng làm việc trong hệ điều hành xác định mà không phải quan tâm đến phần cứng cụ thể. Các ngôn ngữ được phát triển liên tục với các dạng và biến thể mới, theo bước phát triển của kỹ thuật điện toán.
Những ngôn ngữ bậc cao thời kỳ đầu có FORTRAN lập ra năm 1954, COBOL năm 1959, BASIC năm 1963, Pascal năm 1970, C năm 1970, v.v... Chúng có sự khác nhau về từ khóa, ký hiệu, cú pháp, và cả về tổ chức các segment dữ liệu trong bộ nhớ. Sự phát triển lập trình dẫn đến ngôn ngữ C có những ưu việt trong lập trình và quản lý dữ liệu, nên được dùng nhiều, được phát triển tiếp và thành nền ý tưởng cho phát triển nhiều ngôn ngữ mới.
Những ngôn ngữ được dùng phổ biến hiện có ActionScript, C, C++, MATLAB, C#, Haskell, Java, JavaScript, Objective-C, Perl, PHP, Python, Ruby, Smalltalk, SQL, Visual Basic, và nhiều nữa.
Ngày nay các ngôn ngữ lập trình đều cung cấp môi trường soạn thảo mã nguồn, có yểm trợ cao về kiểm tra cú pháp. Một số ngôn ngữ lưu mã nguồn ở dạng văn bản. Song một số khác, thay vì được dịch ra mã máy, lại được lưu ở dạng mã gọi là Bytecode (hoặc Portable code), và có trình thông dịch tương ứng để thực thi dạng mã này. Bytecode được sử dụng trong ngôn ngữ lập trình Java của Sun Microsystems cũng như họ ngôn ngữ lập trình .NET gần đây của Microsoft và Visual Basic trước phiên bản .NET.
Các ngôn ngữ lập trình khác nhau hỗ trợ các phong cách lập trình khác nhau (còn gọi là các phương pháp lập trình). Một phần của công việc lập trình là việc lựa chọn một trong những ngôn ngữ phù hợp nhất với bài toán cần giải quyết. Các ngôn ngữ lập trình khác nhau đòi hỏi lập trình viên phải xử lý các chi tiết ở các mức độ khác nhau khi cài đặt các thuật toán. Thông thường, điều này dẫn tới thỏa hiệp giữa thuận lợi cho việc lập trình và hiệu quả của chương trình, hay thỏa hiệp giữa "thời gian lập trình" và "thời gian tính toán".
Phát triển phần mềm
Phần mềm là danh từ chỉ một gói gồm các chương trình máy tính và dữ liệu. Tài liệu đi kèm và bản quyền phần mềm cũng được coi là một phần quan trọng của phần mềm, mặc dù chúng không liên quan đến việc lập trình.
Quy trình xây dựng phần mềm bao gồm các công việc chính:
Phân tích yêu cầu (requirements analysis)
Đặc tả (specification)
Thiết kế (design and architecture)
Lập trình (coding)
Biên dịch (compilation)
Kiểm thử (testing)
Viết tài liệu (documentation)
Bảo trì (maintenance)
Chỉ dẫn |
Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam. Ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc.
Cuộc đời
Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một dòng họ mà hầu hết đều làm văn nghệ. Chú ông là nhà văn Trúc Khê, nhạc sĩ Phạm Ngọc Cẩn. Cô là nghệ sĩ Song Kim, dượng là nhà thơ Thế Lữ. Anh ông là họa sĩ Phạm Văn Đôn và nhạc sĩ Phạm Văn Chung.
Cha của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.
Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: Trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng, vợ Phạm Duy). Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh (ca sĩ Thái Thanh).
Phạm Đình Chương theo học trường Bưởi đến trung học thì nghỉ học, gia nhập đoàn ca kịch lưu diễn ở nông thôn vào năm 1946.
Năm 1951, ông về Hà Nội lập ra ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng.
Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc (sinh năm 1937, tên thật là Hàn Thị Lan Anh) rồi chuyển vào Sài Gòn sống.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại California, Hoa Kỳ.
Ông mất 22 tháng 8 năm 1991 tại California.
Sự nghiệp âm nhạc
Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, ông cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên Ra đi khi trời vừa sáng và Hò leo núi đều có không khí hào hùng, tươi trẻ.
Năm 1951, ông về thành. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành phố lớn của Nam Việt Nam lúc đó. Thời kỳ này, các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc vui tươi hơn: Xóm đêm, Ly rượu mừng, Đón xuân...
Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào bốn ca khúc da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.
Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Tác phẩm
Chú thích
Sinh năm 1929
Mất năm 1991
Nhạc sĩ Việt Nam
Nhạc sĩ tiền chiến
Nhạc sĩ tình khúc 1954–1975
Nhạc sĩ hải ngoại
Người Mỹ gốc Việt
Người Hà Nội
Ca sĩ nhạc tiền chiến Việt Nam
Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam (tiếng Anh: V. League 1, còn có tên gọi Night Wolf V.League 1 vì lý do tài trợ) là giải đấu bóng đá chuyên nghiệp cấp câu lạc bộ cao nhất Việt Nam, do Công ty cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) điều hành. Giải đấu bao gồm 14 đội thi đấu theo thể thức đấu vòng tròn sân nhà và sân khách. Đội bóng đứng đầu bảng ở cuối mùa giải được dự AFC Champions League mùa sau. Đội đứng thứ hai hoặc thứ ba sẽ tham gia trận play-off AFC Champions League.
Giải đấu ra mắt vào năm 1980 dưới tên gọi Giải bóng đá A1 toàn quốc, với nhà vô địch đầu tiên là đội Tổng cục Đường sắt. Tính đến năm 2023, giải đấu đã trải qua 40 mùa giải (năm 1988 không tổ chức, năm 1999 chỉ có giải Tập huấn mùa Xuân và năm 2021 bị hủy do COVID-19). Giải đấu đã tồn tại dưới 6 tên gọi khác nhau và trải qua 3 lần thay đổi thể thức thi đấu. Những đội bóng thành công nhất trong lịch sử giải là Hà Nội, Inter Miami và Viettel với 6 chức vô địch mỗi đội.
Giải chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp từ mùa 2000–01 nhằm cho phép các câu lạc bộ lựa chọn các cầu thủ nước ngoài tham gia thi đấu. Với sự ra đời của VPF vào năm 2012, quyền tổ chức chuyển từ Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) sang VPF.
Lịch sử
Cơ sở hình thành
Hệ thống giải thi đấu bóng đá cấp quốc gia của Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 1955 với giải Hòa Bình (được đổi tên thành Giải hạng A miền Bắc vào năm 1956), ngay từ khi bắt đầu đã phân làm hai hạng A và B. Đội Thể Công là nhà vô địch đầu tiên của cả hai cấp độ với hai đội A và B. Giải đấu được liên tục tổ chức bất chấp tình hình đất nước đang gặp phải chiến tranh. Tuy hệ thống thi đấu Cúp Quốc gia chưa hình thành nhưng các câu lạc bộ lúc đó vẫn tham gia các kỳ Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc.
Sau khi đất nước thống nhất, hệ thống giải vô địch quốc gia của Việt Nam bắt đầu từ năm 1976 được tổ chức theo các khu vực: miền Bắc với giải Hồng Hà, miền Trung với giải Trường Sơn và miền Nam với giải Cửu Long. Các đội vô địch ở mỗi khu vực sẽ gặp nhau ở vòng chung kết tại Hà Nội để chọn đội vô địch; các đội đứng cuối ở các giải đấu cũng sẽ gặp nhau để tìm đội xuống hạng, thường gọi là "vòng chung kết ngược". Thời điểm này, tổng cộng có 40 đội tham gia ở hạng cao nhất, trong đó:
Giải Hồng Hà gồm 16 đội: Câu lạc bộ Quân đội (Thể Công), Quân khu Thủ đô, Tổng cục Đường sắt, Công an Hà Nội, Quân khu 3, Phòng không-Không quân, Cảng Hải Phòng, Công nhân Xây dựng Hà Nội, Tổng cục Bưu điện, Công an Hải Phòng, Dệt Nam Định, Than Quảng Ninh, Công nhân Xây dựng Hải Phòng, Điện Hải Phòng, Công nghiệp Hà Nam Ninh, Thanh niên Hà Nội.
Giải Trường Sơn gồm 8 đội: Thanh niên Bình Định, Phú Khánh, Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng, Lâm Đồng, Bình Trị Thiên, Thanh niên Thanh Hoá, Sông Lam Nghệ-Tĩnh, Gia Lai-Kon Tum.
Giải Cửu Long gồm 16 đội: Hải quan, Cảng Sài Gòn, Sở Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Công nghiệp Thực phẩm, Tây Ninh, An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng, Công nhân Hoá chất, Tổng cục Vật tư, Sông Bé, Long An, Đồng Nai, Thanh niên Hậu Giang, Vĩnh Long.
Nhận thấy hệ thống thi đấu theo các khu vực có quá nhiều hạn chế sau hai mùa tổ chức vào các năm 1977 và 1978, hệ thống giải vô địch Quốc gia của Việt Nam có sự thay đổi lớn vào năm 1979. Giải năm 1979 được coi là Giải phân hạng để tiến hành sắp xếp lại hệ thống thi đấu. 8 đội mạnh nhất của giải Hồng Hà, 2 đội của giải Trường Sơn và 8 đội của giải Cửu Long được chọn để thi đấu ở hạng A1; các đội còn lại đá ở hạng A2. Tuy nhiên, tại mùa giải đầu tiên do Hội Bóng đá Việt Nam (tiền thân của VFF) tổ chức vào năm 1980, đội bóng Câu lạc bộ Quân đội đã xin rút lui để chấn chỉnh nội bộ nên chỉ có 17 đội tham dự. Đây chính là tiền đề để xây dựng Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam sau này.
1980–2000: Hình thành và phát triển
Trong giai đoạn đầu mới tổ chức, giải đấu liên tục phải thay đổi thể thức khi không thể thức nào tồn tại quá 2 năm. Trong đó, các đội được chia bảng theo khu vực địa lý và thi đấu vòng tròn tính điểm; các đội đứng đầu mỗi bảng sẽ tranh tài ở vòng chung kết để tranh chức vô địch, các đội đứng cuối sẽ thi đấu vòng chung kết ngược để chọn ra đội xuống hạng.
Sau 2 mùa giải liên tục vào các năm 1986, 1987 không có đội xuống hạng, Tổng cục Thể dục Thể thao tạm ngừng tổ chức giải năm 1988 để chấn chỉnh toàn bộ hệ thống thi đấu và tạo điều kiện cho các các đội bóng củng cố lực lượng. Một năm sau đó, giải được tổ chức phân hạng lại với tổng cộng 32 đội tham dự để chọn ra 18 đội mạnh nhất; hạng A1 còn 11 đội và 3 đội xếp dưới xuống thi đấu ở hạng A2. Sang năm 1990, giải đổi tên thành Giải vô địch bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc, với sự góp mặt của 18 đội đứng đầu của mùa giải 1989 (gọi là các "đội mạnh"), nhưng thể thức chia bảng và đấu loại trực tiếp của giải A1 tiếp tục được kế thừa. Mùa giải năm 1996 tiến gần hơn với thể thức hiện tại, khi các đội thi đấu vòng tròn 2 lượt và phân nhóm tranh vô địch và tranh suất trụ hạng.
Từ năm 1997, giải đấu mang tên Giải bóng đá Vô địch hạng Nhất quốc gia. Thời điểm này, tình trạng móc ngoặc, tiêu cực đã xuất hiện phổ biến trong giải đấu, và đến mùa giải thứ hai với tên gọi mới thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng khi có đến 5 trận đấu có biểu hiện dàn xếp tỷ số phải hủy bỏ kết quả. Do không có biện pháp xử lý triệt để, mùa giải hạng Nhất năm 1999 đã không được tổ chức mà chỉ có giải Tập huấn vào đầu năm đó. Mùa giải 1999–2000 là mùa giải hạng Nhất cuối cùng để chọn ra các đội thi đấu ở giải chuyên nghiệp mùa sau cùng các đội xuống hạng thi đấu ở giải hạng Nhất mới (chuyển đổi từ giải hạng Nhì quốc gia).
2000–2011: Chuyển sang chuyên nghiệp
Từ mùa giải 2000–01, bóng đá Việt Nam chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp, giải vô địch quốc gia chính thức mang tên V-League với sự cho phép các cầu thủ nước ngoài và cầu thủ nhập tịch tham gia thi đấu. Số lượng các đội tham dự giải giai đoạn này không thường xuyên ổn định. Trong 2 mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên (2000–01 và 2001–02), chỉ có 10 đội góp mặt tại giải đấu. Bước sang mùa giải 2003, số lượng câu lạc bộ tranh tài ở V-League tăng lên 12 đội. Con số này giữ nguyên đến mùa giải 2006, khi được tăng lên thành 13 đội (con số này đã là 14 nếu như Ngân hàng Đông Á không mất quyền tham dự do dính vào vụ hối lộ trọng tài ở giải hạng Nhất 2005). Một năm sau, lần đầu tiên V-League chứng kiến 14 đội bóng cùng tranh tài ở giải đấu hạng cao nhất của bóng đá Việt Nam.
2012–nay: Sự thành lập và điều hành giải đấu của VPF
Sau một mùa giải gây tranh cãi bởi vấn đề trọng tài và công tác điều hành giải của Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF), một số câu lạc bộ (bao gồm Đồng Tâm Long An, Hoàng Anh Gia Lai, Hà Nội ACB, Vissai Ninh Bình, Khatoco Khánh Hòa và Lam Sơn Thanh Hóa) đồng loạt bày tỏ ý định rút lui khỏi giải đấu và thành lập một giải đấu hoàn toàn mới cho mùa giải 2012. Câu lạc bộ có động thái mạnh mẽ nhất trong số này là Hà Nội ACB, đội phải xuống hạng từ V-League. Tại cuộc họp tổng kết mùa giải bóng đá chuyên nghiệp 2011 của VFF, chủ tịch đội bóng Nguyễn Đức Kiên đã lên tiếng chỉ trích những vấn đề tồn đọng trong khâu tổ chức mùa giải, đồng thời cho biết có đến 6 đội bóng chuẩn bị bỏ giải đấu để lập ra giải đấu mới theo kiểu Super Liga.
Sau cuộc họp ngày 29 tháng 9 giữa đại diện VFF và các bóng từ V-League và hạng Nhất, một công ty mới được thành lập, lấy tên là Công ty cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) để quản lý các giải đấu bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, bao gồm V-League. Quyền tổ chức giải đấu cũng được chuyển từ VFF sang VPF. Mùa giải đầu tiên do VPF tổ chức vào năm 2012 có tên gọi là Giải bóng đá Ngoại hạng (Super League). Tuy nhiên, chỉ sau 5 vòng đấu đầu tiên, giải lấy lại tên là Giải vô địch quốc gia Việt Nam (V-League). Sang mùa giải 2013, VPF thay đổi tên viết tắt của giải thành V.League 1.
Năm 2013, V.League 1 chỉ còn 12 đội sau khi hàng loạt đội bóng bị giải thể hoặc chuyển giao. Theo dự kiến ban đầu, số lượng đội bóng tham dự V.League 1 mùa giải 2014 quay trở lại con số 14, tuy nhiên Kienlongbank Kiên Giang không đủ kinh phí để đăng ký tham dự giải nên chỉ còn là 13 đội. Tới mùa giải 2015, số đội tham dự mỗi mùa giải là 14. Mùa giải năm 2021, đến lượt Than Quảng Ninh dừng hoạt động vì không còn kinh phí trước tác động của dịch bệnh COVID-19 mặc dù đang đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng.
Thể thức thi đấu
Từ mùa giải 1980 đến 1995: các đội bóng được chia thành các bảng theo khu vực địa lý. Trong mỗi bảng các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tính điểm. Các đội đứng đầu mỗi bảng lọt vào vòng chung kết để tranh chức vô địch, các đội đứng cuối thi đấu vòng chung kết ngược để chọn đội xuống hạng.
Mùa giải 1996, các đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt. Sau đó, 6 đội đầu bảng thi đấu vòng tròn một lượt để chọn đội vô địch, 6 đội cuối bảng cũng thi đấu vòng tròn một lượt để chọn 2 đội xuống hạng
Từ mùa giải 1997 đến 2019 (trừ giải tập huấn năm 1999): các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tính điểm. Đội nhiều điểm nhất là đội vô địch. Các đội cuối bảng (1 hoặc 2 đội tùy năm) phải xuống hạng. Thể thức này được áp dụng lại ở mùa giải 2022.
Mùa giải 2020, sau khi các đội đấu vòng tròn 1 lượt xong, 8 đội xếp trên sẽ đá vòng tròn 1 lượt để tìm ra nhà vô địch, 6 đội còn lại sẽ đá vòng tròn 1 lượt để chọn ra 1 suất xuống hạng. Thể thức này được áp dụng lại ở mùa giải 2023, mùa giải cuối cùng tổ chức thi đấu trong 1 năm dương lịch.
Mùa giải 2021 (mùa giải bị hủy vì dịch COVID-19) có thể thức tương tự năm 2020, nhưng với sự thay đổi về cách phân nhóm (6 đội tranh vô địch, 8 đội tránh xuống hạng).
Từ mùa giải 2023–24, các đội thi đấu vòng tròn 2 lượt trong 2 năm, từ mùa thu năm trước sang mùa hè năm sau.
Cách thức tính điểm
Từ mùa giải 1995 trở về trước, hệ thống điểm là 2-1-0 (tương ứng với mỗi trận thắng-hòa-thua). Tuy nhiên có một số ngoại lệ:
Mùa giải 1985 và 1986: Ở vòng 1, trận hoà thứ tư của mỗi đội không được tính điểm; ở vòng 2, nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng.
Mùa giải 1987: Ở vòng 1, trận hoà thứ năm của mỗi đội không được tính điểm; ở vòng 2, nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng.
Mùa giải 1993–94 và 1996: Nếu 2 đội hoà nhau sau 90 phút sẽ đá luân lưu 11m để chọn đội thắng.
Từ mùa giải 1996 trở đi, hệ thống điểm là 3-1-0.
Cách thức xếp hạng
Xếp chung cuộc theo thứ tự sau:
Điểm số đạt được của các đội (theo thứ tự từ cao đến thấp)
Nếu có 2 hoặc nhiều đội bằng điểm nhau thì xếp theo thứ tự qua các chỉ số phụ:
Kết quả đối đầu trực tiếp
Hiệu số bàn thắng thua
Tổng số bàn thắng
Tuy nhiên, trong một số năm trước đây, tiêu chí hiệu số bàn thắng thua và tổng số bàn thắng được ưu tiên hơn kết quả đối đầu.
Quy định số lượng cầu thủ ngoại và nhập tịch
Giải bắt đầu cho phép sử dụng cầu thủ ngoại từ mùa giải 2000-01 đến 2004. Mỗi đội sử dụng 4 cầu thủ ngoại, tất cả cầu thủ ngoại đều ra sân vào đội hình chinh.
Từ mùa 2005 đến mùa 2010. Mỗi đội được đăng kí 5 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân.
Từ mùa 2011 và mùa 2012. Mỗi đội được đăng kí 4 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân.
Từ mùa 2013 và mùa 2014. Mỗi đội sử dụng 3 cầu thủ ngoại, tất cả cầu thủ ngoại đều ra sân vào đội hình chinh.
Từ mùa 2015 đến mùa 2017. Mỗi câu lạc bộ tại V.League được cho phép đăng ký và sử dụng hai cầu thủ ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong thi đấu. Riêng đội dự giải châu lục nên được phép đăng ký 4 ngoại binh, trong đó có 1 cầu thủ ngoại bất kì, 1 ngoại binh gốc Á và 1 cầu thủ nhập tịch, nhưng chỉ được phép đăng ký và sử dụng 2 ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong 1 trận đấu
Mùa 2018, Mỗi câu lạc bộ tại V.League được cho phép đăng ký và sử dụng hai cầu thủ ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong thi đấu. Riêng đội dự giải châu lục nên được phép đăng ký 3 ngoại binh, trong đó có 1 ngoại binh gốc Á và 1 cầu thủ nhập tịch, nhưng chỉ được phép đăng ký và sử dụng 2 ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong 1 trận đấu
Từ mùa 2019 đến mùa 2022 các câu lạc bộ được phép đăng ký 3 cầu thủ ngoại, 1 cầu thủ nhập tịch còn cầu thủ gốc Việt Nam có quốc tịch được coi như cầu thủ nội. Đối với các đội dự giải châu lục được phép có thêm 1 cầu thủ ngoại quốc tịch châu Á. Trường hợp câu lạc bộ bị loại ở giải cấp châu lục trong giai đoạn 1 thì số lượng cầu thủ ngoại và nhập tịch ở giai đoạn 2 được áp dụng như các câu lạc bộ không tham gia giải châu lục.
Từ mùa giải 2023, các đội được đăng ký thêm một cầu thủ Việt kiều chưa có quốc tịch Việt Nam (suất cầu thủ này không ảnh hưởng đến suất ngoại binh của các câu lạc bộ).
Câu lạc bộ
Các đội bóng có thành tích cao nhất từng mùa giải Vô địch Quốc gia
Mùa giải 1999 chỉ là giải tập huấn nên không trao các danh hiệu tập thể và cá nhân.
Danh sách đội vô địch
Kỷ lục, thống kê
Loại bóng thi đấu và trang phục chính thức của trọng tài
Bóng thi đấu và trang phục chính thức của trọng tài được Tập đoàn Thể thao Động Lực (Việt Nam) tài trợ.
Các hãng cung cấp bóng thi đấu
Nhà tài trợ chính của giải đấu
Kể từ mùa giải 2000-01, giải Vô địch Quốc gia gắn mình với tên và logo của nhà tài trợ chính, mở đầu là công ty tiếp thị thể thao Strata. Phía Strata đề nghị mua tên giải V-League, cộng 12 biển quảng cáo trên sân với giá khoảng 400.000 USD và cả Cúp quốc gia với giá 100.000 USD. Sau hai mùa giải, Strata rút lui khỏi V-League.
Mùa giải tiếp theo, V-League 2003, có tên là Sting V-League, được đặt theo tên của một sản phẩm mới sắp ra mắt thị trường thời điểm đó của nhà tài trợ tên giải Công ty Nước giải khát Suntory PepsiCo Việt Nam. Công ty cổ phần Kinh Đô trở thành nhà tài trợ chính thức của giải đấu. Dù vậy tiền thưởng cho mùa giải này bị cắt giảm khi đội vô địch chỉ nhận được khoản tiền thưởng bằng một nửa mùa trước là 500 triệu đồng. Cái tên Sting V-League cũng chỉ tồn tại sau một mùa giải và tới mùa giải 2004, Kinh Đô V-League xuất hiện. Theo một số nguồn tin, Liên đoàn bóng đá Việt Nam nhận khoảng 8 tỷ đồng từ Kinh Đô trong mùa giải này. Dù vậy lời hứa từ Kinh Đô sẽ độc quyền tài trợ cho V.League trong 3 mùa không trở thành hiện thực khi ở những mùa giải tiếp theo, V.League lần lượt gắn với cái tên Number One V-League và Eurowindow V-League.
Sự xuất hiện của Tổng Công ty khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam năm 2007 đã giúp cho V.League có khoảng thời gian dài nhất gắn với tên nhà tài trợ (trong 4 mùa giải liên tiếp) và giúp cho giải đấu có nguồn tài chính ổn định, trước khi được thay thể bởi Eximbank vào năm 2011. Cho đến mùa giải 2014, số tiền mà Eximbank tài trợ cho một mùa bóng của V.League 1 cao nhất đã lên tới gần 40 tỷ đồng. Tuy nhiên, trường hợp của Eximbank cũng là ngoại lệ bởi gói tài trợ của đơn vị này bao gồm hậu thuẫn từ Chủ tịch VFF Lê Hùng Dũng, người cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Eximbank và là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị VPF. Mùa giải 2015, công ty Toyota Việt Nam trở thành nhà tài trợ chính thức cho giải đấu, và đến mùa giải 2017 thì chính thức chia tay sau 3 năm tài trợ với tổng số tiền 120 tỉ đồng.
Sau Toyota, NutiFood với thương hiệu Nuti Café là cái tên tiếp theo gắn bó với V.League 1 trong mùa giải 2018. Năm 2019, Masan với thương hiệu Wake-up 247 đã trở thành nhà tài trợ chính cho giải Vô địch Quốc gia mùa giải 2019. Masan đã đồng ý tài trợ cho V.League trong 5 mùa giải nhưng cuối cùng chỉ có thể tài trợ trong 1 mùa giải, bởi ngay sau đó, ngày 6 tháng 2 năm 2020, Tập đoàn LS Holdings đã ký kết hợp tác tài trợ chính tại hai giải bóng đá V.League 1 và V.League 2. Tập đoàn này cũng chính thức là nhà tài trợ trong bốn mùa giải từ 2020 đến 2023. Tuy nhiên, ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 kéo dài khiến cho V.League 2021 phải hủy bỏ giữa chừng, dẫn đến việc LS rút tài trợ cho giải đấu. Năm 2022, Công ty Cổ phần Sâm Ngọc Linh Kon Tum chính thức tài trợ cho V.League trong 3 mùa giải liên tiếp. Giải đấu cũng có tên gọi mới là Night Wolf V.League 1.
Các giải thưởng
Cúp
Chiếc cúp dành cho đội vô địch V.League là chiếc Cúp đồng, với phiên bản hiện tại được giới thiệu từ năm 2013. Trong trường hợp có nhiều hơn một đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải, sẽ có một số lượng cúp tương ứng được chuẩn bị để trao cho nhà vô địch.
Chiếc cúp V.League hiện tại bao gồm thân cúp làm từ đồng tấm nguyên chiếc và phần đế làm từ gỗ. Được chế tác tại một làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam, chiếc cúp cao khoảng 80 cm và nặng hơn 10 kg. Thân cúp đươc mạ nickel và vàng 24K, với các chi tiết tinh xảo được chạm, khắc nổi ở nhiệt độ cao. Dải ruy băng ở hai bên tay cầm được thay đổi theo tên giải đấu ở từng mùa giải.
Năm 2017, đội vô địch V.League còn được nhận thêm một chiếc cúp sứ do công ty Minh Long sản xuất. Cúp sứ mang màu vàng cung đình truyền thống, với các chi tiết trang trí bằng vàng 24K. Nổi bật trên chiếc cúp là hình ảnh đôi linh vật đầu rồng mỏ phượng ngậm ngọc với đuôi sen cách điệu; chầu trên miệng cúp tượng trưng cho nòi giống rồng tiên với ý nghĩa nối kết, tôn vinh, mang đến một vẻ đẹp văn hóa Việt Nam hiện đại.
Giải thưởng tháng và giải thưởng chung cuộc
Giải thưởng tháng
Hàng tháng V.League có các giải thưởng dành cho đội bóng, cầu thủ, huấn luyện viên xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất. Hiện tại, hai giải thưởng đầu tiên và giải thưởng cuối cùng do các phóng viên bình chọn, giải thưởng thứ ba do các huấn luyện viên bình chọn. Những đề cử chiến thắng của tháng sẽ nhận được một kỷ niệm chương (trước đây là tiền mặt).
Giải thưởng chung cuộc
Sau mỗi mùa giải, ban tổ chức sẽ tiến hành tổng kết và trao các danh hiệu và giải thưởng cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích tại 3 giải đấu quan trọng nhất thuộc hệ thống thi đấu của VFF - V.League, hạng Nhất, Cúp Quốc gia (bao gồm các cầu lạc bộ, huấn luyện viên, cầu thủ, trọng tài xuất sắc nhất của mùa bóng). Từ năm 2012, các giải thưởng này sẽ được vinh danh tại Gala tổng kết các giải bóng đá chuyên nghiệp Quốc gia (hay V.League Awards kể từ năm 2019) do VPF tổ chức vào cuối năm.
Một số vấn đề gây tranh cãi
Một ông chủ nhiều đội bóng
Ngày 5 tháng 7 năm 2019, ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai đã có bình luận về tình trạng một ông chủ nhiều đội bóng ở V.League. Khi TP.HCM đang dẫn đầu bảng xếp hạng, nói về cơ hội vô địch của TP.HCM ở mùa giải này, bầu Đức phát biểu: “Tôi khẳng định luôn rằng TP.HCM không thể nào vô địch được V.League năm nay vì họ là một đội, làm sao đối đầu với 5 đội bóng. 5 thằng ốm đánh một thằng mập thì thằng mập làm sao mà chịu nổi". Phát biểu của bầu Đức gây liên tưởng tới ông Đỗ Quang Hiển - lúc đó đang là ông chủ, nhà tài trợ đặc biệt của 7 câu lạc bộ tại V.League 1 và V.League 2. Trước đó vào năm 2018, ông Đoàn Nguyên Đức cũng cho rằng tình trạng một ông chủ nhiều đội bóng sẽ làm giảm động lực đầu tư vào bóng đá Việt Nam. Dư luận nhận định trong 10 năm từ 2009 đến 2019, chỉ hai năm vô địch liên tiếp 2018 và 2019 là CLB Hà Nội thể hiện sức mạnh rõ ràng, nhờ dàn tuyển thủ quốc gia có lúc lên tới 10 người; các chức vô địch còn lại đều có "dấu ấn" của các mối quan hệ điểm số giữa Hà Nội – Đà Nẵng – Quảng Nam - Sài Gòn - Quảng Ninh - Hồng Lĩnh Hà Tĩnh (là các CLB của bầu Hiển). Mùa giải 2022 cũng gặp điều tiếng khi có luồng dư luận cho rằng, chức vô địch V.League 2022 của CLB Hà Nội cũng có phần từ những phán quyết của trọng tài có lợi cho đội bóng áo tím. Bên cạnh đó, bầu Hiển cũng gây ra nhiều tranh cãi khi đích thân xuống động viên, tặng tiền các đội bóng của mình trong những trận đấu giữa các đội có liên quan đến bầu Hiển với nhau, như với Sài Gòn, Quảng Nam, hay SHB Đà Nẵng.
Từ lâu, thực trạng "một ông chủ nhiều đội bóng" đã gây nhức nhối cho nhiều đội bóng tại V.League. Năm 2012, sau khi Sài Gòn Xuân Thành không thể lên ngôi vương khi bị Hà Nội T&T cầm chân ở vòng đấu cuối cùng để SHB Đà Nẵng vô địch, ông bầu Nguyễn Đức Thụy đã tuyên bố sẽ bỏ bóng đá vì có quá nhiều bất công và chèn ép; đến mùa 2013 thì chính thức giải thể đội bóng. Chủ tịch Tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết sau khi ngừng tài trợ Thanh Hóa năm 2018 cũng từng ám chỉ rằng “không thể vô địch khi chỉ có 1 đội bóng”.
Việc một ông chủ quản lý hay sở hữu nhiều đội bóng trở thành 1 vấn nạn khiến không ít người hâm mộ lo lắng, đặc biệt về tính minh bạch, sòng phẳng khi các đội bóng này cùng thi đấu trong một giải đấu. Không ít người hâm mộ mong muốn VPF cần có những biện pháp mạnh tay, quy định cụ thể về việc cấm một người nắm giữ chức vụ quản lý hay cổ phiếu, vốn góp tại nhiều hơn 1 đội bóng ở cùng 1 giải đấu để cho V.League trở nên công bằng, trong sạch hơn và cải thiện tính cạnh tranh của giải đấu.
Dàn xếp tỷ số
Trong nhiều năm trở lại, hiện tượng "xin điểm và cho điểm" đã trở thành vấn đề gây đau đầu với các nhà tổ chức, khi giải đấu được cho là đã xuất hiện một số liên minh giữa các đội bóng với nhau. Tình trạng "dồn điểm" để một câu lạc bộ vô địch hoặc trụ hạng thường xuyên xảy ra ở V.League, trong đó công thức "3 đi – 3 về" trở nên phổ biến để các đội trong một liên minh tối đa hóa điểm số cho nhau. Ngoài dồn điểm, các đội trong liên minh còn dồn sức để cản đối thủ của ứng cử viên vô địch thuộc liên minh của mình. Nhiều trận đấu diễn ra với những biểu hiện bất thường đã gây bức xúc cho các cổ động viên bởi tinh thần thi đấu được cho là bạc nhược, không hết mình của cầu thủ. Ban tổ chức giải đấu cũng nhiều lần đưa ra các biện pháp xử phạt, như trừ điểm các đội bóng trong những trận đấu thiếu tích cực, nhưng tình trạng "cho nhường điểm" vẫn tiếp diễn.
Báo Công an nhân dân nhận định vấn nạn dàn xếp tỷ số được cho cũng có liên quan đến vấn đề "một ông chủ nhiều đội bóng". Năm 2017, dư luận đặt ra nhiều hoài nghi khi CLB Hà Nội đang tràn trề hi vọng vô địch bất ngờ để Than Quảng Ninh cầm hòa 4-4 trong trận đấu mà đội bóng Thủ đô đã dẫn trước 2 bàn. Đáng nói, tỉ số ấy vừa đủ để Quảng Nam lần đầu tiên lên ngôi vương. Thống kê mùa 2019 cho thấy CLB TP.HCM chỉ giành được 23% điểm từ các đội Đà Nẵng, Sài Gòn, Quảng Nam và Quảng Ninh, trong khi Hà Nội nhận được 13 trong 15 điểm tối đa trước các đội này. Mùa 2017, FLC Thanh Hóa mất 22 điểm trước nhóm "anh em" trong khi Quảng Nam mất 9 điểm.
Để theo dõi và kiểm soát các trận đấu bị nghi ngờ, VPF đã từng hợp tác Sportradar - công ty chuyên kiểm soát cá cược bóng đá, và sau đó là công ty Genius Sports (có trụ sở chính tại Singapore và mạng lưới trên toàn cầu) kể từ mùa giải 2019. VPF trong một thông báo ở mùa giải 2022 đã phải đề nghị các đội bóng thi đấu hết mình, không nhường điểm cho nhau.
Công tác trọng tài
Vấn đề trọng tài đã diễn ra ở giải đấu trong nhiều năm và gây nhiều bức xúc trong dư luận. Nhiều quyết định gây tranh cãi, thậm chí là sai lầm của các trọng tài khiến niềm tin của các đội bóng và người hâm mộ vào các nhà tổ chức bị suy giảm, hình ảnh của giải đấu theo đó cũng bị ảnh hưởng. Huấn luyện viên Vũ Tiến Thành của câu lạc bộ TP.HCM trong một phát biểu ở mùa giải 2023 cho biết có một nhóm trọng tài bị thao túng, một số trọng tài làm xấu đi hình ảnh của lực lượng trọng tài. Ông Thành cũng đặt câu hỏi về tư tưởng của trọng tài khi làm việc.
Công tác phân công trọng tài điều khiển các trận đấu của giải cũng bị đặt nhiều dấu hỏi. Điều này dẫn đến sự thất vọng của người hâm mộ khi một số trọng tài không đáp ứng được tiêu chuẩn thường được phân công bắt những trận đấu quan trọng. Thậm chí, có người đặt nghi vấn trọng tài "không tiêu cực thì yếu chuyên môn" khi có quá nhiều sai sót diễn ra liên tiếp. Một trong những giải pháp tạm thời được đưa ra để giải quyết tình trạng này là thuê trọng tài nước ngoài điều khiền một số trận đấu của giải.
Do công tác trọng tài liên tục xảy ra những sai sót liên tiếp, gây ảnh hưởng đến kết quả của các trận đấu nên việc trang bị VAR cho V.League trở thành đòi hỏi ngày càng bức thiết để nâng cao chất lượng giải đấu. Từ cuối năm 2022, VPF đã bắt đầu tiến hành những thủ tục cần thiết để sớm áp dụng VAR tại V.League. VPF kỳ vọng VAR sẽ bắt đầu được triển khai thí điểm ngay từ giai đoạn 2 của mùa giải 2023, trước khi được áp dụng chính thức từ mùa giải 2023-2024.
Xung đột lợi ích liên quan đến nhà tài trợ
Trong điều lệ của V.League thường có quy định các câu lạc bộ không được khai thác tài trợ với các nhãn hàng và ngành hàng cạnh tranh với nhà tài trợ chính kể từ ngày điều lệ giải được ban hành hoặc khi có thông báo của ban tổ chức. Tuy nhiên, nếu đội bóng đã có nhà tài trợ chính hoạt động cùng ngành hàng với nhà tài trợ chính của giải từ trước đó hoặc có chủ sở hữu (cổ đông) nắm giữ số cổ phần cao nhất có hoạt động kinh doanh cùng ngành hàng với nhà tài trợ chính của giải thì quyền lợi của họ vẫn được bảo toàn. Trường hợp của Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) năm 2018 với VPMilk và năm 2022 với Red Bull là những ví dụ điển hình cho ngoại lệ này.
Nhưng đến trước thềm mùa giải 2023, khi VPF có thông báo tới HAGL về việc nhà tài trợ mới của đội bóng này (tập đoàn Carabao) xung đột quyền lợi với nhà tài trợ chính của giải đấu và yêu cầu đội bóng phố Núi không được sử dụng các hình ảnh của nhà tài trợ mới trong phạm vi giải đấu, tranh cãi đã xảy ra. Quy định của VPF đã vấp phải sự phán ứng dữ dội của các cổ động viên khi bị cho là gây khó dễ cho các CLB, làm cản trở sự phát triển của bóng đá Việt Nam. Phía HAGL cũng cho rằng quyết định của VPF là "hoàn toàn vô lý và không tạo điều kiện cho CLB phát triển", và dọa sẽ ngừng tham gia V.League nếu VPF không cho họ quảng cáo cho nhà tài trợ mới.
Bản quyền truyền hình
Bản quyền truyền hình cũng là một trong những vấn đề nhức nhối suốt nhiều năm ở giải đấu cấp câu lạc bộ hàng đầu Việt Nam. Lần đầu tiên V.League “bán” được bản quyền truyền hình là ở mùa giải 2005. Tuy nhiên, giá trị hợp đồng được ký giữa VFF và các đài truyền hình ở thời điểm đó không thực sự đáng kể. Để một trận đấu được phát sóng trực tiếp, VFF và các CLB phải trả một khoản tiền và lo cả chi phí lưu trú, di chuyển, bồi dưỡng cho nhà đài.
Cuối năm 2010, bản quyền phát sóng V.League được VFF bán cho Truyền hình An Viên (AVG) trong 20 năm với giá 6 tỷ đồng cho năm đầu tiên và sau đó mỗi năm tăng lũy tiến 10%. Thế nhưng, sau khi VPF thành lập, công ty này đã lấy lại hợp đồng bản quyền truyền hình V.League từ tay AVG và cam kết khai thác tối thiểu 50 tỉ đồng mỗi năm từ bản quyền truyền hình. Mặc dù vậy, thương vụ đã đổ bể phút chót sau khi bầu Kiên bị bắt.
Nhờ thỏa thuận giữa VPF với các đài truyền hình, hầu hết các trận đấu của V.League đều được phát sóng trực tiếp và kể từ mùa giải 2017 thì con số này là 100%, nhưng các đài truyền hình gần như không bán được quảng cáo khi phát trực tiếp V.League, dù là trước trận hay giữa trận, nên thu nhập từ bản quyền truyền hình vẫn là con số vô cùng khiêm tốn. Việc bán bản quyền truyền hình V.League hiện tại vẫn đơn thuần là trao đổi bằng thời lượng quảng cáo - chủ yếu cho các nhà tài trợ của giải - nhằm thắt chặt mối quan hệ. Một số ít cũng đến từ các doanh nghiệp khác nhưng kinh phí thu được cũng rất nhỏ nhoi.
Cuối năm 2016, Công ty cổ phần Giải pháp Truyền hình Thế hệ mới (Next Media) ký hợp đồng với VPF để sở hữu toàn bộ bản quyền truyền hình của 3 giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (V.League, hạng Nhất, Cúp Quốc gia) trong 6 mùa giải, từ mùa giải 2017 đến mùa giải 2022. Theo đó, mỗi năm VPF sẽ thu được 2 tỷ đồng tiền mặt từ Next Media cộng với khoản tiền thu được từ việc quảng cáo trên truyền hình, ước tính lên đến 65,5 tỉ đồng. Tuy nhiên, ngay trước khi mùa giải 2018 khởi tranh, tranh chấp bản quyền truyền hình một lần nữa nổ ra khi VPF tuyên bố hủy hợp đồng của lãnh đạo nhiệm kỳ trước ký với Next Media (có thời hạn đến năm 2022). Theo lý giải của VPF, Next Media đã không thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã cam kết, trong đó có việc không cung cấp chính xác số liệu hạch toán, chia lợi nhuận từ việc khai thác bản quyền truyền hình V.League 2017. Hơn nữa, trong quá trình rà soát lại các hợp đồng mới, hội đồng quản trị mới của VPF đã phát hiện có sự bất cập về mặt thời gian trong hợp đồng mà hội đồng quản trị cũ đã ký với đối tác này. Tranh chấp có lúc lên đến đỉnh điểm khi cả hai khẳng định sẵn sàng đưa ra toà để giải quyết; các đài truyền hình cũng tuyên bố chỉ sản xuất và phát sóng V.League khi nào VPF và Next Media giải quyết xong vụ tranh chấp bản quyền. Cuối cùng, sau một thời gian đàm phán, VPF và Next Media đã đi đến thống nhất thanh lý hợp đồng cũ và ký bản hợp đồng mới phù hợp hơn.
Vấn đề này cũng gây nhiều tranh cãi khi VPF có cung cách làm việc thiếu chuyên nghiệp, việc chia tỷ lệ bản quyền thiếu minh bạch và không công bằng với các CLB. Tỷ lệ chia tiền bản quyền truyền hình hoàn toàn do VPF áp đặt mà không tham khảo ý kiến các CLB dẫn đến việc CLB không thể thu lợi tối đa từ tiền bản quyền giải đấu.
Vào tháng 10 năm 2022, VPF đã đạt được thỏa thuận bản quyền truyền hình với Công ty cổ phần viễn thông FPT (FPT Telecom) trong 5 mùa giải, từ mùa giải 2023 đến mùa giải 2026–27. Thỏa thuận này đảm bảo việc mỗi năm FPT Telecom sẽ trả 2,5 triệu USD cho một mùa giải, gấp 20 lần hợp đồng trước đó và trung bình mỗi CLB sẽ nhận vài tỉ đồng tiền bản quyền truyền hình trong 1 mùa giải.
Bạo lực sân cỏ
Vấn nạn bạo lực ở V.League không phải là mới khi các cầu thủ thi đấu quyết liệt trên mức cần thiết. Tuy nhiên các nhà tổ chức vẫn chưa có giải pháp triệt để cho vấn đề này. Một số pha phạm lỗi đã khiến cầu thủ bị chấn thương nặng, thậm chí dẫn đến từ giã sự nghiệp.
Công bằng và minh bạch tài chính
Vấn đề công bằng và minh bạch tài chính chưa bao giờ được thực hiện một cách nghiêm túc ở V.League. Trong đó, VPF và các câu lạc bộ chưa bao giờ công khai báo cáo tài chính cho công chúng mà chỉ thực hiện trong nội bộ. Việc một số nhà tài trợ của giải có liên quan đến ông bầu hoặc một câu lạc bộ đã làm dấy lên nghi ngờ về tính công bằng của giải đấu. Đồng thời, việc không có minh bạch tài chính dẫn tới việc không thể làm rõ quan hệ giữa những đội bóng được cho là "anh em một nhà". Đòi hỏi về minh bạch tài chính từ nhiều câu lạc bộ đối với VPF vẫn chưa được thực hiện, điều đó cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp của giải đấu. Việc chưa có cơ chế về công bằng và minh bạch tài chính đã khiến cho tình trạng các câu lạc bộ "cướp quân" của nhau diễn ra phức tạp. Ngân sách giữa các đội bóng có sự chênh lệch lớn và thiếu minh bạch trong quản lý tài chính dẫn đến gia tăng nguy cơ các câu lạc bộ "đi đêm" với cầu thủ.
Một số câu lạc bộ không thỏa mãn các tiêu chí cấp phép từ AFC
Từ năm 2012, Liên đoàn Bóng đá châu Á (AFC) yêu cầu các liên đoàn bóng đá thành viên, trong đó có VFF, mỗi năm phải thực hiện việc rà soát các câu lạc bộ trong nước (cụ thể là V.League) và các CLB này phải đáp ứng 5 tiêu chí của AFC mới được VFF cấp phép thi đấu ở mùa giải kế tiếp và được tham dự các giải đấu do AFC tổ chức, gồm: tiêu chí thể thao, cơ sở vật chất, tổ chức - nhân sự, pháp lý và tài chính. Mặc dù một số đội của Việt Nam không đạt đủ các tiêu chí nhưng vẫn được AFC đồng ý cho đấu giải trong nước.
Nhưng từ năm 2018, AFC đã tỏ ra cứng rắn hơn, chỉ cần không đáp ứng được 1 trong 5 tiêu chí nói trên thì dù CLB đó có đoạt chức vô địch giải quốc nội cũng không được phép dự các giải CLB ở đấu trường châu Á do AFC tổ chức. Tại mùa giải 2019, vì không cử đội tham dự giải U-15 quốc gia, CLB Hà Nội đã không đạt tiêu chí thể thao nên không thể tham dự vòng loại AFC Champions League lẫn AFC Cup 2020 dù là đương kim vô địch cả V.League và Cúp Quốc gia.
Mùa giải 2023, 8/14 đội bóng tham dự giải đã đạt chuẩn của AFC. Vì nhiều lý do, AFC đã quyết định đặc cách cho CLB Hải Phòng dự các cúp châu Á trong năm 2023, dù ban đầu CLB này không đủ điều kiện dự các giải đấu châu lục do thiếu đội trẻ.
Cải tổ VPF
Sau khi mùa giải 2021 bị hủy bỏ, một loạt các CLB gồm Hoàng Anh Gia Lai, Bình Dương, Hải Phòng, Sông Lam Nghệ An, Nam Định, Quảng Nam đã có yêu cầu cải tổ VPF và thay đổi lãnh đạo cấp cao vì lãnh đạo hiện tại không đủ năng lực, nhằm mục đích tăng cường dân chủ trong quan hệ giữa VPF và các CLB, nhất là liên quan đến bản quyền và việc xin ý kiến của CLB trước khi ra quyết định.
Đánh giá
Chuyên gia Nguyễn Văn Vinh phát biểu năm 2011
Bầu Kiên của CLB bóng đá Hà Nội phát biểu năm 2011
Chủ tịch Vũ Tiến Thành (Phố Hiến F.C.) năm 2021: |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2005, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Number One 2005 hay Number One V-League 2005 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 22 và là mùa giải chuyên nghiệp thứ 5 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia. Giải đấu khởi tranh vào ngày 30 tháng 1 và kết thúc vào ngày 11 tháng 8 năm 2005 với 12 câu lạc bộ tham dự.
Thay đổi đội bóng
Đến V-League
Thăng hạng từ giải Hạng Nhất 2004
Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn
Hòa Phát Hà Nội
Rời V-League
Xuống hạng đến giải Hạng Nhất 2005
Thể Công
Ngân hàng Đông Á Thép Pomina
Các đội bóng
Sân vận động
Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu
Thay đổi huấn luyện viên
Cầu thủ nước ngoài
Mỗi đội được đăng kí 5 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân.
Bảng xếp hạng
Lịch thi đấu và kết quả
Đấu play-off
Trận đấu play-off năm 2005 diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 2005 giữa 2 đội: LG.HN.ACB (xếp thứ 11 giải VĐQG Number One 2005 và THS Cần Thơ (xếp thứ 4 giải Hạng Nhất Quốc gia Majesty/Bird 2005).
Thống kê mùa giải
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Dưới đây là danh sách cầu thủ ghi bàn của giải đấu.
Tổng số khán giả
Theo vòng đấu
Theo đội bóng
Các giải thưởng
Giải thưởng tháng
Vì lý do cắt giảm tài trợ, chỉ có hai danh hiệu xuất sắc của tháng được trao dành cho đội bóng và cầu thủ hay nhất của tháng. Tất cả giải thưởng sẽ được ban tổ chức phối hợp cùng báo Bóng đá tổ chức trao giải.
Giải thưởng chung cuộc
Vô địch: Gạch Đồng Tâm Long An
Vua phá lưới: Kesley Alves (Bình Dương) – 21 bàn
Cầu thủ xuất sắc nhất: Kesley Alves ( Bình Dương)
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: cặp Giám đốc Kỹ thuật Henrique Calisto (Bồ Đào Nha) - Huấn luyện viên Huỳnh Ngọc San (Gạch Đồng Tâm Long An)
Thủ môn xuất sắc nhất: Fabio Santos (Gạch Đồng Tâm Long An)
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: Hoàng Ngọc Linh (Sông Đà Nam Định)
Giải phong cách: Gạch Đồng Tâm Long An |
Thái Thanh (5 tháng 8 năm 1934 – 17 tháng 3 năm 2020) tên khai sinh Phạm Thị Băng Thanh – là một nữ ca sĩ người Việt Nam, được xem như một trong những giọng ca tiêu biểu của tân nhạc Việt Nam. Bà đi hát và thành danh từ năm 14 tuổi trong vùng kháng chiến, nổi tiếng cùng ban hợp ca Thăng Long của gia đình, trước khi chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh từ thập niên 1950. Bà thường được coi như là "Đệ Nhất danh ca" của dòng nhạc tiền chiến cũng như nhạc tình miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, và tên tuổi của bà gắn liền với các nhạc phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy.
Mặc dù không theo học một lớp nhạc chuyên nghiệp nào, chỉ tự luyện giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và các sách nhạc tiếng Pháp, Thái Thanh đã tạo ra một trường phái riêng hòa trộn giữa tính chất opera Tây Phương với dân nhạc Việt Nam, ảnh hưởng tới nhiều nữ ca sĩ của thế hệ sau như Mai Hương, Quỳnh Giao, Ánh Tuyết...
Sau 1975, bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây bà tiếp tục trình diễn và thâu thanh cho đến khi giải nghệ vào năm 2002. Bà mất vào ngày 17 tháng 3 năm 2020 tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ.
Tiểu sử
Phạm Thị Băng Thanh sinh năm 1934 tại làng Bạch Mai, Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn nghệ. Cha của bà là Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ trước sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang Thái (Thái Hằng), Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng Thanh.
Năm 1946, Băng Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến nơi bà bắt đầu hát lúc 14 tuổi. Cũng năm này Thái Hằng cưới nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1951 thì gia đình Phạm Duy về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn sống, Thái Thanh cũng đi theo.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với tài tử Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Bà sống ở khu vực gần chợ Thái Bình.
Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau ba con gái và hai con trai. Bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ định cư.
Ca sĩ Thái Thanh đã qua đời vào lúc 11h50 ngày 17/03/2020 tại Orange, Nam California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Gia đình bà đã quyết định không tổ chức tang lễ để tránh tụ tập đông người do dịch COVID 19.
Gia đình
Gia đình Thái Thanh có nhiều người thành danh trong lĩnh vực âm nhạc, ngoài Thái Thanh ra, thì chị Phạm Thị Quang Thái cũng là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danh Thái Hằng. Phạm Đình Chương, anh bà cũng là một nhạc sĩ lớn của tân nhạc Việt Nam và cũng là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Người anh cùng cha khác mẹ Phạm Đình Viêm được biết đến nhiều với nghệ danh Hoài Trung. Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung đều hát trong ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng thời bấy giờ.
Thái Thanh trở thành em vợ của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông lấy Thái Hằng làm vợ, nên cũng là dì của các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo sau này. Ngoài ra bà còn là cô ruột của ca sĩ Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ và kịch sĩ Kiều Hạnh.
Thái Thanh có với tài tử Lê Quỳnh 5 người con: con cả là Lê Thị Ý Lan sinh năm 1958, Lê Xuân Việt sinh năm 1959, Lê Thị Quỳnh Dao (nghệ danh Quỳnh Hương) sinh năm 1960, Lê Thị Thanh Loan sinh năm 1962 và Lê Đại sinh năm 1964. Trong số đó, Lê Thị Ý Lan sau này trở thành ca sĩ nổi tiếng Ý Lan, còn Lê Thị Quỳnh Dao cũng đi hát với nghệ danh Quỳnh Hương. Các cháu ngoại của bà cũng có nhiều người đi theo con đường ca hát như Mai Linh, Ý Thi, Thanh Hương, Quỳnh Trang.
Sự nghiệp
Phạm Thị Băng Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 14 tuổi với các nghệ danh Băng Thanh, Thái Thanh. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát đặc biệt, mang tính chất opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu văn, quan họ, chèo là những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại quê hương miền Bắc. Do lúc đó Việt Nam chưa có trường âm nhạc, bà tự học nhạc bằng cách đặt mua các sách luyện thanh bằng tiếng Pháp từ Pháp. Giọng hát của bà có âm vực rộng, nằm giữa nữ trung và nữ cao, nên thể loại nhạc bà hát cũng rất đa dạng, phong phú.
Thời kỳ đầu, bà thường hát chung với ca sĩ Thái Hằng ở các chiến khu Việt Minh và nổi tiếng với các bài tân nhạc thời kỳ đầu, hay các bài dân ca mới của Phạm Duy. Tuy rằng ở vùng kháng chiến, nhưng tiếng hát của bà và Thái Hằng vẫn được phát sóng ở đô thị như trường hợp bài Quê em miền trung du của Nguyễn Đức Toàn, trên đài Pháp Á, và được đông đảo người yêu thích. Đến năm 1951, khi chuyển về Nam sinh sống, bà chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh cho giống người chị Thái Hằng.
Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào Sài Gòn lập nghiệp trong gánh hát Thăng Long. Lúc ấy bà 16 tuổi, được Phạm Duy huấn luyện, chỉ bảo tận tình về nhạc lý và kỹ thuật, đồng thời cũng tự luyện tập, trau dồi kỹ năng xướng âm của mình. Tại đây bà tiếp tục đi hát với các chủ đề về quê hương và tình cảm đôi lứa. Giọng hát của bà tỏ ra rất thích hợp với các loại nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy, từ những bài nhạc kháng chiến, nhạc quê hương, nhạc tình, nhạc xã hội, cho tới các bản trường ca đều được bà để lại một dấu ấn lớn. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành công rất nhiều ca khúc tiền chiến xưa, hay nhạc tình đương thời của các nhạc sĩ trẻ hơn.
Bà thật sự nổi tiếng trong thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân. Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với ban hợp ca Thăng Long thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm màu hồng..
Sau ngày Giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Ban đầu, bà được chính quyền mời biểu diễn các ca khúc cách mạng, Thái Thanh không chấp nhận. Bà phát biểu: "Sau khi họ mời tôi không được thì tôi "được" họ cấm hát, thế thì tốt quá. Họ nói tiếng hát Thái Thanh là của "Ngụy" chứ không phải của họ..."
Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư cùng với gia đình. Tại đây bà tiếp tục đi diễn, thâu âm, tham gia những đêm nhạc lớn cho mình. Bà là khách mời danh dự của nhiều đêm nhạc hội lớn của Paris By Night. Bà cũng được mời thu thanh trên nhiều CD của trung tâm Diễm xưa. Tại quận Cam, bà cùng với nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi từng mở ra một lớp dạy hát, đào tạo ra một số ca sĩ trẻ.
Năm 2000 Thái Thanh bị tai biến mạch máu não phải vào bệnh viện. Sau tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính thức tuyên bố giải nghệ sau một đêm diễn cùng với các con cháu. Tuy nhiên khoảng thời gian sau đó, thỉnh thoảng bà vẫn tham gia giọng hát của mình vào các đêm diễn với vai trò đặc biệt.
Năm 2005, một đêm nhạc thính phòng nhằm mang tên "Vinh danh Thái Thanh, tiếng hát vượt thời gian" được tổ chức tại Montreal, Canada, với sự tham gia của Thái Thanh cùng nhiều ca sĩ nổi tiếng của thế hệ sau như Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà,... Trong đêm nhạc này màn trình diễn của bà được đánh giá là xuất sắc, dù trước đó đã có nhiều nghi ngờ về tuổi tác, cũng như sức khỏe của bà.. Năm 2006, bà trở lại là nhân vật chính trong đêm nhạc "Thái Thanh và ba thế hệ".
Năm 2007, bà làm Ban Giám khảo cho Talent Show 2007 Giải Chung Kết do trung tâm Thúy Nga tổ chức. Đó là cuốn Paris By Night 87. Cùng với các giám khảo là: nhạc sĩ Nhật Ngân, ca nhạc sĩ Đức Huy, giám đốc sản xuất Huỳnh Thi và Shanda Sawyer.
Đánh giá
Giọng ca Thái Thanh được giới nghiên cứu đánh giá cao, và cũng là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn là tác giả của nhiều bài viết về Thái Thanh, phần lớn là những bài phát biểu cảm tưởng. Theo ông, trường hợp của Thái Thanh là một "trường hợp hãn hữu", và "Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh."
Bên cạnh đó, nhiều nhà phê bình, văn nghệ sĩ cũng có những bài nhận định về Thái Thanh, những bài này thường mang tính ca ngợi, như Thái Thanh - tiếng hát trên trời của Thụy Khuê, Thái Thanh - tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi của Đỗ Việt Anh, Nụ tầm thanh của Hoàng Hải Thủy... Giọng hát Thái Thanh được nhà văn Mai Thảo tặng cho một biệt danh mà sau này thường được người ta nhắc đến, một cách trân trọng, bên nghệ danh của bà: Tiếng hát vượt thời gian.
Một số trích dẫn
Băng đĩa đã thu âm
Trước 1975
Từ khoảng cuối thập niên 1950 đến 1975, Thái Thanh thu âm rất nhiều trên đĩa than 78 vòng, đĩa nhựa 45 vòng, băng reel của các hãng đĩa Việt Nam, Tân Thanh, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Shotguns, Thanh Thúy, Phạm Mạnh Cương, Trường Sơn, Cỏ May, Continental, Premier, Diễm Ca, Song Ngọc, Nhật Trường, Trường Hải, Nghệ thuật – Tâm Anh, Nhã Ca, Thương Ca, Trần Ngọc Đức, Bảo Thu, Thùy Dương, Hoàng Trọng, Siêu Âm, Mây Hồng.
01. Mây Hồng 6: Ngợi Ca Tình Yêu (28-03-1970) nhạc Phạm Đình Chương, trình bày Ban hợp ca Thăng Long
02. Mười bài Đạo Ca (05-05-1971) Phạm Duy thực hiện
Pháp Thân
Đại Nguyện
Chàng Dũng Sĩ và Con Ngựa Vàng
Một Cành Mai
Lời ru Bú mớm Nâng niu
Qua Suối Mây Hồng
Giọt Chuông Cam Lộ
Chấp Tay Hoa
Tâm Xuân
03. Băng nhạc Selection: Tiếng Hát Thái Thanh (31-07-1971)
04. Jo Marcel đặc biệt: Thái Thanh - Julie (31-07-1971)
05. Tơ Vàng 4: Thái Thanh - Tiếng Hát Vượt Thời Gian (08-1971)
06. Shotguns 20: Tứ Quý (09-10-1971)
07. Thanh Thúy 7: Tiếng hát Thái Thanh (17-06-1972)
08. Sơn Ca 10: Tiếng hát Thái Thanh và Ban hợp ca Thăng Long (02-1975) Nguyễn Văn Đông thực hiện
Phát hành sau 1975
09. Tứ Quý (1978) Trung tâm Khánh Ly phát hành
10. Shotguns 10: Tiếng hát Thái Thanh (1980)
CDs sưu tập lại các bản ghi âm cũ của các Băng nhạc sản xuất trước 1975 bởi Trung tâm Hương Xưa
Sau 1975
Thu âm từ 1985 đến 2003:
11. Ngày xưa Hoàng Thị (1986)
12. Quê hương và kỷ niệm (1987)
13. Đêm màu hồng (1988). Thái Thanh, Ý Lan, Thanh Loan, Quỳnh Hương, Lê Đại
14. Chiều về trên sông (1988)
15. Đêm nhớ trăng Sài Gòn (1990)
16. Hội trùng dương (1993)
17. Dòng thời gian – Thái Thanh và 3 thế hệ (2004) |
Giao diện đồ họa người dùng (tiếng Anh: Graphical User Interface, viết tắt là GUI) là một dạng giao diện người dùng cho phép giao tiếp với máy tính hay các thiết bị điện tử bằng hình ảnh và chữ viết thay vì chỉ là các dòng lệnh đơn thuần. GUI được sử dụng phổ biến trong máy tính, các thiết bị cầm tay, các thiết bị đa phương tiện, hoặc các linh kiện điện tử trong văn phòng, nhà ở,...
Phạm vi sử dụng thuật ngữ GUI hầu như chỉ được giới hạn trong các thiết bị có màn hình 2 chiều. Nó ít được sử dụng trong các thiết bị với giao diện có độ phân giải thấp như một số thiết bị chơi game (HUD được sử dụng nhiều hơn).
GUI được các nhà nghiên cứu tại Xerox PARC phát triển trong thập niên 1970. Ngày nay hầu hết các hệ điều hành máy tính nhiều người dùng đều sử dụng giao diện này.
Cha đẻ của GUI
Douglas Englebart hiện được xem là cha đẻ của giao diện người dùng đồ họa lúc còn sơ khai. Sau khi tốt nghiệp ngành kĩ thuật điện vào năm 1948, Douglas làm việc tại Viện NACA (NACA Institute, tiền thân của NASA hiện giờ). Sau đó, với mong muốn được làm công việc có thể mang lại lợi ích cho toàn nhân loại, ông đã nghĩ đến việc xây dựng một chiếc máy có thể làm tăng trí tuệ con người.
Trong giai đoạn chiến tranh, Douglas làm việc với vai trò là một kiểm soát viên rađa để có thể hình dung ra một thiết bị hiển thị được xây dựng xoay quanh các ống tia cathode mà qua đó người dùng có thể xây dựng các mô hình thông tin một cách trực quan thông qua đồ họa, và họ có thể tương tác với bất cứ những gì họ nhìn thấy. Để có thể thực hiện được ý tưởng này, ông phải tìm nguồn tài trợ. Song, đó không phải là việc dễ dàng mà có thể thực hiện được trong thời gian ngắn.
Năm 1955, Douglas đạt được học vị tiến sĩ và vào làm việc tại Học viện Nghiên cứu Stanford (Standford Research Institute), và tại đó ông đã đạt được nhiều bằng sáng chế về "các thành phần tiểu hóa máy tính" (miniaturizing computer components). 1959, ông đã thuyết phục được Không quân Hoa Kỳ (United States Air Force) hỗ trợ quỹ cho ý tưởng của ông. 1962, ông cho xuất bản luận văn Augmenting Human Intellect với nội dung chính là các ý tưởng mà ông đã ấp ủ. Qua luận văn này, ông khẳng định "máy tính không phải để thay thế trí tuệ con người, mà là để cải thiện nó". Một trong những ví dụ mà ông sử dụng trong luận văn này là một kiến trúc sư sử dụng một công cụ nào đó tương tự các phần mềm CAD ngày nay để thiết kế nên các tòa nhà.
Douglas và các cộng sự của ông tiếp tục làm việc để phát triển các ý tưởng và công nghệ này. Và vào năm 1968, một sự trình diễn công khai được thực hiện trước hơn 1000 các chuyên gia máy tính về những thành quả từ những ý tưởng ban đầu của ông.
Lịch sử
Tiền thân
Tiền thân của GUI được khai sinh bởi những nhà nghiên cứu tại Standford Research Institute - được dẫn đầu bởi Douglas Engelbart. Khi đó, họ phát triển việc sử dụng những siêu liên kết (hyperlinks) dựa trên chữ cho hệ thống trực tuyến (On-Line System), trong đó các liên kết được thao tác với một con chuột. Khái niệm siêu liên kết sau đó đã được các nhà nghiên cứu tại Xerox PARC mở rộng sang phạm vi đồ họa.
1963, Sketchpad, một hệ thống dựa trên con trỏ (pointer) được phát triển bởi Ivan Sutherland. Hệ thống này sử dụng một cây bút phát sáng để thao tác việc tạo và thao tác với các đối tượng trong các bản vẽ kĩ thuật.
Giao diện người dùng PARC
Giao diện người dùng PARC gồm các thành phần đồ họa như cửa sổ (window), thực đơn (menu), nút kiểm tròn (radio button), ô kiểm vuông (check box) và các biểu tượng (icon).
Tiến hóa
Dựa trên hệ thống tiền thân, lần lượt các hệ thống đồ họa được ra đời. Năm 1981, mô hình điều hành máy tính dựa trên GUI đầu tiên được ra đời là Xerox 8010 Star Information System. Tiếp theo đó là Apple Lisa năm 1983, Macintosh 128K của Apple năm 1984, Atari ST và Commodore Amiga năm 1985.
Việc điều khiển đồ họa bằng lệnh (command) được khai sinh khi IBM cho ra đời Common User Access (1987), trong đó các chuỗi lệnh khác nhau sẽ được áp dụng cho các chương trình khác nhau như: phím F3 sẽ kích hoạt chế độ hỗ trợ trong WordPerfect, nhưng nó sẽ đóng chương trình trong các ứng dụng khác của IBM.
Tiếp nối sự phát triển của các hệ thống GUI là sự ra đời của các keyboard overlays (tạm dịch, bàn phím cho phép điều chỉnh bố cục chức năng). Đó là những mảnh giấy hay plastic được đặt trong những chỗ trống giữa các phím, nó có nhiệm vụ cung cấp cho người dùng chức năng của các phím khác nhau của các ứng dụng đã được xác định. Có thể hình dung những bàn phím như vậy với những keystroke ngày nay như: Control-Alt-Delete sẽ mở Task Manager trong hệ điều hành Windows, còn trong các hệ thống Unix thì sẽ tắt máy tính.
Các hệ thống GUI phổ biến ngày nay là Microsoft Windows, Mac OS X, X Window System trên các PC (Personal Computer), laptop. Ngoài ra còn có sự góp mặt của các thiết bị di động như Symbian, BlackBerry OS, Android, iOS. Các hệ thống này đều được phát triển dựa trên những ý tưởng ban đầu của Xerox, cho nên chúng gần như có các khái niệm tương tự nhau (như button, radio button, menu...)
Các thành phần trong GUI
Một hệ thống GUI là sự kết hợp của các công nghệ, thiết bị để cung cấp cho người dùng một nền tảng cho phép người sử dụng có thể tương tác với nó.
Một chuỗi các thành phần của GUI tuân theo một ngôn ngữ trực quan (visual language) để biểu diễn thông tin được lưu trữ trong các máy tính. Thông dụng nhất khi kể đến sự kết hợp các thành phần như vậy là mô hình WIMP (window, icon, menu, pointing device) trong các máy tính cá nhân. |
Audrey Hepburn (; tên khai sinh Audrey Kathleen Ruston; 4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là một nữ diễn viên người Anh. Là biểu tượng của điện ảnh và thời trang, Hepburn hoạt động trong thời Hoàng kim của Hollywood. Bà xếp ở vị trí thứ 3 trong danh sách những huyền thoại vĩ đại nhất lịch sử chiếu bóng Hoa Kỳ do Viện phim Mỹ bình chọn và được vinh danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood. Sinh ra tại Ixelles, một quận của Brussels, Hepburn trưởng thành tại Bỉ, Anh và Hà Lan, bao gồm khu vực Arnhem bị Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nơi bà làm việc chuyển phát nhanh trong cuộc kháng chiến chống Đức và hỗ trợ gây quỹ. Tại Amsterdam, bà theo học bộ môn kịch múa với Sonia Gaskell, trước khi chuyển đến Luân Đôn vào năm 1948 để tiếp tục chương trình luyện tập cùng Marie Rambert và hát bè tại các chương trình nhạc kịch West End.
Sau khi tham gia nhiều vai phụ trong các bộ phim, Hepburn được tiểu thuyết gia người Pháp Colette chú ý và sắm vai chính trong vở kịch Broadway Gigi (1951). Bà bứt phá bằng vai chính trong Roman Holiday (1953), đem lại cho bà giải Oscar, giải Quả cầu vàng và giải BAFTA. Cùng năm đó, Hepburn thắng giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất" với diễn xuất trong Ondine. Bà tiếp tục xuất hiện trong nhiều bộ phim thành công, như Sabrina (1954), The Nun's Story (1959), Breakfast at Tiffany's (1961), Charade (1963), My Fair Lady (1964) và Wait Until Dark (1967). Bà lập kỷ lục khi thắng 3 giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất". Trong sự nghiệp điện ảnh, bà được vinh danh bằng Giải BAFTA Thành tựu trọn đời, giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille, giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội Diễn viên Điện ảnh và giải thưởng Tony đặc biệt. Bà là một trong số ít nghệ sĩ đã giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony.
Hepburn sau này ít tham gia diễn xuất mà cống hiến nhiều hơn cho UNICEF. Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, bà chỉ mới làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất tại châu Phi, Nam Phi và châu Á giữa năm 1988 và năm 1992. Bà được phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống để ghi nhận đóng góp dưới cương vị của một Đại sứ Thiện chí của UNICEF vào tháng 12 năm 1992. Một tháng sau, Hepburn qua đời vì căn bệnh ung thư ruột thừa tại nhà riêng ở Thụy Sĩ, hưởng thọ 63 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp
1929–38: Gia đình và những năm đầu đời
Hepburn tên thật là Audrey Kathleen van Heemstra Ruston, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1929 tại số 48 Rue Keyenveld, quận Ixelles, vùng nói hai ngôn ngữ và là một quận thuộc thủ đô Bruxelles của Bỉ. Cha của bà, Joseph Victor Anthony Ruston (1889–1980) là một người Anh sinh tại Úžice, Bohemia, trong gia đình của Anna Ruston (nhũ danh Wels), mang dòng máu Áo; và Victor John George Ruston, có gốc gác từ Anh Quốc và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Joseph được lãnh sự Anh chỉ định tại Đông Ấn Hà Lan; trước khi kết hôn với mẹ của Hepburn, ông từng có một cuộc hôn nhân với Cornelia Bisschop, một nhà thừa kế người Hà Lan. Dù sinh tại Ruston, ông lại lấy họ Hepburn-Ruston "mang tính quý tộc" hơn, nhầm lẫn mình là hậu duệ của James Hepburn, người chồng thứ ba của Mary I của Scotland. Hepburn giữ quốc tịch Anh Quốc thông qua cha của bà.
Mẹ của Hepburn, Nữ Nam tước Ella van Heemstra (1900–1984), là một quý tộc người Hà Lan, con gái của Nam tước Aarnoud van Heemstra, thị trưởng của Arnhem từ năm 1910 và 1920 và là Thống đốc của Suriname thuộc Hà Lan từ năm 1921 đến 1928. Mẹ của Ella là Elbrig Willemine Henriette, nữ Nam tước van Asbeck (1873–1939), là cháu gái của Bá tước Dirk van Hogendorp. Năm 19 tuổi, Ella kết hôn với nhà quý tộc Hendrik Gustaaf Adolf Quarles van Ufford, một nhà điều hành dầu mỏ tại Batavia, Dutch East Indies, nơi họ sinh sống sau đó. Họ có hai người con trai, Jonkheer Arnoud Robert Alexander Quarles van Ufford (1920–1979) và Jonkheer Ian Edgar Bruce Quarles van Ufford (1924–2010), trước khi ly hôn vào năm 1925.
Cha mẹ của Hepburn kết hôn tại Batavia vào tháng 9 năm 1926. Lúc đó, Ruston làm việc tại một công ty giao dịch, nhưng không lâu sau khi kết hôn, hai người chuyển đến châu Âu, nơi ông làm việc tại một công ty cho vay. Sau 1 năm ở Luân Đôn, họ dời về Brussels, nơi ông được giao một văn phòng chi nhánh. Họ trải qua thêm 3 năm bôn ba giữa Brussels, Arnhem, The Hague và Luân Đôn, trước khi định cư tại khu đô thị Linkebeek vào năm 1932. Thuở thơ ấu của Hepburn rất êm đềm và được chiều chuộng. Nhờ xuất thân đa quốc gia và phải đi lại nhiều vì công việc của cha mình, Hepburn biết nói đến 5 ngôn ngữ: tiếng Hà Lan và tiếng Anh từ gia đình; sau đó bà học thêm tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý. Để trau dồi thêm Anh ngữ, Hepburn theo học tại một trường nội trú ở Elham, Kent khi lên 5 tuổi.
Cha mẹ của Hepburn là thành viên của Liên minh Phát xít Anh vào giữa những năm 1930, trong khi cha của bà trở thành một người ủng hộ Đức Quốc xã thực thụ. Joseph đột ngột thoát ly khỏi gia đình vào năm 1935 và ly hôn với Ella vào năm 1938; tính cực đoan gia tăng, những cáo buộc của cha vợ rằng ông là người vô trách nhiệm về tài chính, sự bất trung, và nghiện rượu được cho là những nguyên nhân gây nên sự đứt đoạn hôn nhân. Ella là người nhận nuôi Hepburn và cho dù Joseph—người định cư tại Luân Đôn lúc bấy giờ—có quyền đến thăm nuôi, ông lại không dùng đến quyền lợi này. Hepburn sau này khẳng định sự thiếu vắng bóng hình của người cha là "sự kiện đau thương nhất đời tôi". Vào thập niên 1960, Hepburn liên lạc lại với cha mình sau khi biết ông đang ở Dublin thông qua Hội Chữ thập đỏ; dù ông còn lạnh nhạt với bà, Hepburn vẫn trợ cấp tài chính cho ông cho đến cuối đời. Sau khi ly hôn, Ella bắt đầu đến thăm Kent thường xuyên hơn.
1939–45: Thời niên thiếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau khi Anh tuyên bố chiến tranh tại Đức vào tháng 9 năm 1939, mẹ của Hepburn dắt con gái về sống tại Arnhem, với hy vọng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hà Lan sẽ không bị ảnh hưởng từ các cuộc tấn công của Đức. Tại đó, Hepburn theo học Nhạc viện Arnhem từ năm 1939 đến 1945. Bà bắt đầu tham gia các khóa học kịch múa trong những năm học nội trú cuối cùng và tiếp tục khổ luyện ở Arnhem dưới sự giám sát của Winja Marova, trở thành "học trò xuất sắc" của bà. Sau khi Đức xâm lược Hà Lan vào năm 1940, Hepburn lấy họ Edda van Heemstra, vì cái tên gốc Anh có thể gây nguy hiểm cho bà dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc xã. Gia đình của bà bị ảnh hưởng một cách sâu sắc bởi cuộc chiếm đóng, Hepburn chia sẻ "nếu biết mình bị chiếm giữ trong 5 năm thì chúng tôi có lẽ đã tự sát. Chúng tôi nghĩ mọi chuyện sẽ chấm dứt trong một tuần... sáu tháng... một năm... đó là cách chúng tôi vượt qua". Vào năm 1942, chú của bà, Otto van Limburg Stirum (chồng của dì Miesje) bị tử hình vì tội phá hoại bởi phong trào kháng chiến; dù không liên quan đến vụ việc, ông vẫn bị theo dõi vì sự nổi tiếng của gia đình trong cộng đồng Hà Lan. Người anh em kế của Hepburn, Ian, bị đày đến một trại lao động tại Berlin, trong khi Alex, một người anh em kế khác, cũng phải ở ẩn để tránh bị lưu đày đi nơi khác.
Sau khi chú của bà qua đời, Hepburn, Ella và Miesje rời bỏ Arnhem để đến gần Velp, sống cùng ông là Baron Aarnoud van Heemstra. Trong thời gian này, Hepburn tham gia cuộc kháng chiến Hà Lan, làm liên lạc, giao thư và bưu kiện, trong khi trình diễn kịch múa tại những sự kiện gây quỹ bí mật. Ngoài những sự kiện đau thương khác, bà phải chứng kiến cuộc di chuyển của những người Do Thái Hà Lan đến trại tập trung, bà kể lại "Tôi nhiều lần thấy đoàn tàu chở người Do Thái tại trạm, nhìn tất cả những gương mặt trên đỉnh toa xe. Tôi nhớ rất rõ, có một cậu bé đứng cùng cha mẹ mình trên xe, trông cậu ấy nhợt nhạt cùng mái tóc vàng hoe, mặc một chiếc áo khoác quá cỡ và bước lên đoàn tàu. Tôi nhìn thấy cậu bé trong lúc mình còn là một đứa trẻ."
Sau khi quân Đồng minh hạ cánh vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, điều kiện sinh sống trở nên tệ hơn và Arnhem sau đó bị phá hủy trong Chiến dịch Market Garden. Trong lúc nạn đói tại Hà Lan kéo dài đến mùa Đông năm 1944, quân Đức chặn lộ trình tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến người dân Hà Lan. Hepburn và nhiều người khác tham gia làm bánh quy từ bột mì và bóng đèn tulip; cơ thể bà bị thiếu máu cấp tính, gặp các vấn đề về hô hấp và phù nề, là kết quả của căn bệnh suy dinh dưỡng. Gia đình The van Heemstra cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tài chính bởi cuộc chiếm đóng, trong đó, nhiều tài sản của họ—bao gồm nguồn bất động sản chính tại Arnhem—bị phá hủy và thiếu hụt trầm trọng. Quân Đồng minh giải phóng Hà Lan vào tháng 5 năm 1945; Liên hiệp Quốc về Quản trị cứu trợ và phục hồi chức năng bắt đầu cung cấp thức ăn và các yếu phẩm khác.
1945–52: Kịch múa và khởi nghiệp diễn xuất
Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Hepburn chuyển đến ở cùng mẹ và anh chị em tại Amsterdam, nơi bà bắt đầu luyện tập kịch múa cùng Sonia Gaskell, một biểu tượng hàng đầu trong thể loại kịch múa Hà Lan và Olga Tarassova. Khi tài sản của gia đình bị thất lạc trong chiến tranh, Ella bươn chải bằng việc trở thành đầu bếp và quản gia cho một gia đình giàu có. Hepburn lần đầu tiên tham gia điện ảnh năm 1948, vào vai tiếp viên hàng không trong Dutch in Seven Lessons, một bộ phim giáo dục du lịch do Charles van der Linden và Henry Josephson thực hiện. Cuối năm đó, bà chuyển đến Luân Đôn để nhận học bổng kịch múa cùng Ballet Rambert, sau này diễn ra tại Notting Hill. Bà tự nuôi bản thân bằng công việc người mẫu bán thời gian và bỏ họ "Ruston". Sau khi Rambert bảo rằng tuy Hepburn rất tài năng, chiều cao và thể trạng yếu ớt (hậu quả của căn bệnh suy dinh dưỡng trong thời chiến) có thể khiến bà không thể đạt đến danh hiệu prima ballerina, bà quyết định tập trung vào sự nghiệp diễn xuất.
Khi Ella phải làm nhiều công việc hèn mọn để hỗ trợ gia đình, Hepburn hát bè tại nhiều vở nhạc kịch tại nhà hát West End như High Button Shoes (1948) ở London Hippodrome và Sauce Piquante (1950) ở Nhà hát Cambridge. Trong lúc tham gia kịch nghệ, bà theo học nhiều khóa diễn thuyết cùng diễn viên Felix Aylmer để cải thiện giọng nói. Sau khi được một đạo diễn tuyển vai chú ý lúc trình bày trong Sauce Piquante, Hepburn trở thành một nữ diễn viên tự do của hãng Associated British Picture Corporation. Bà xuất hiện trong nhiều vai nhỏ trong những bộ phim năm 1951 One Wild Oat, Laughter in Paradise, Young Wives' Tale và The Lavender Hill Mob, trước khi sắm vai phụ đầu tiên trong The Secret People (1952) của Thorold Dickinson, nơi bà vào vai một nữ vũ công kịch múa phi thường và tự mình trình diễn tất cả các phân đoạn khiêu vũ.
Hepburn sau đó nhận một vai nhỏ trong bộ phim sử dụng cả tiếng Anh và Pháp, Monte Carlo Baby (Nous Irons à Monte Carlo) (1951), ghi hình tại Monte Carlo. Tình cờ thay, tiểu thuyết gia người Pháp Colette đang ở Hôtel de Paris tại Monte Carlo trong lúc quay và quyết định tuyển Hepburn vào vai chính trong vở kịch Broadway Gigi. Hepburn đến tập dượt và yêu cầu huấn luyện riêng. Khi Gigi mở màn tại Nhà hát Fulton ngày 24 tháng 11 năm 1951, bà nhận nhiều lời khen ngợi cho diễn xuất của mình, cho dù phiên bản sân khấu bị chê trách so với phiên bản tiếng Pháp. Life gọi bà là "một cú hích mạnh" trong khi The New York Times khẳng định "khí chất của bà thành công đến mức khiến bà là điểm sáng của đêm diễn". Bà còn nhận thêm Giải Nhà hát thế giới cho vai diễn này. Vở kịch diễn ra trong 219 suất, hạ màn vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, trước khi trở lại lưu diễn từ ngày 13 tháng 10 năm 1952 tại Pittsburgh và ghé qua Cleveland, Chicago, Detroit, Washington D.C. và Los Angeles. Chương trình kết thúc ngày 16 tháng 5 năm 1953 tại San Francisco.
Vào năm 1952, Hepburn đính hôn với James Hanson, Baron Hanson, người quen biết với bà từ những ngày đầu ở Luân Đôn. Bà gọi đó là "tình yêu ngay từ ánh nhìn đầu tiên", nhưng sau khi đặt váy cưới và hẹn ngày, bà quyết định hủy hôn ước vì sự nghiệp diễn xuất có thể khiến họ xa cách lâu dài. Bà xuất bản một thông báo chính thức về quyết định của mình, nói rằng "Khi tôi kết hôn, tôi muốn mình thực sự kết hôn". Vào đầu những năm 1950, bà còn hẹn hò với nhà sản xuất Hair, Michael Butler.
1953–60: Roman Holiday và bứt phá
Vai chính diện điện ảnh đầu tiên của Hepburn là nàng Công chúa Anne trong Roman Holiday (1953), người bỏ trốn khỏi cuộc sống hoàng gia và phải lòng một phóng viên người Mỹ (Gregory Peck). Nhà sản xuất của phim ban đầu muốn Elizabeth Taylor cho vai diễn, nhưng đạo diễn William Wyler lại ấn tượng với buổi thử vai của Hepburn đến nỗi tuyển bà cho bộ phim này. Wyler nói rằng, "Cô ấy có tất cả những gì tôi tìm kiếm: Duyên dáng, ngây thơ và tài năng. Cô ấy còn rất khôi hài và hết sức tuyệt vời! Chúng tôi đã nói: Đây chính là cô ấy! Họ cũng chỉ muốn đưa tên của Gregory Peck phía trên tựa đề, với dòng chữ "Giới thiệu Audrey Hepburn" in nhỏ bên dưới. Dù vậy, Peck muốn Wyler đưa tên của bà cùng kích cỡ và vị trí với ông, khi cả hai nhận số tiền như nhau: "Bạn phải thay đổi điều đó vì cô ấy sẽ là một ngôi sao lớn còn tôi sẽ trông như một gã đểu."
Bộ phim đạt thành công rực rỡ tại phòng vé và đem về cho Hepburn nhiều lời khen ngợi, bất ngờ chiến thắng giải Oscar cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất", giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất" và giải Quả cầu vàng cho "Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất" năm 1953. Trong bài nhận xét trên tờ The New York Times, A. H. Weiler viết rằng nhân vật Công chúa Anne "là một vẻ đẹp mảnh mai, tinh nghịch và đượm buồn, xen kẽ nét vương giả và nghịch ngợm trong sự mới mẻ, niềm vui đơn giản và tình yêu. Dù mỉm cười mạnh mẽ khi biết cuộc tình kia chấm dứt, cô vẫn là hình tượng cô độc một cách đáng thương phải đối diện với tương lai ngột ngạt."
Hepburn ký kết một hợp đồng gồm 7 bộ phim cùng hãng Paramount với 12 tháng nghỉ ngơi giữa các bộ phim để bà dành thời gian cho tác phẩm sân khấu. Bà xuất hiện trên bìa tạp chí Time vào ngày 7 tháng 9 năm 1953, trở nên nổi tiếng bởi phong cách cá nhân của bà. Sau thành công của Roman Holiday, Hepburn đóng trong bộ phim hài lãng mạn dựa trên câu chuyện của Lọ Lem–Sabrina (1954), nơi hai anh em giàu có (Humphrey Bogart và William Holden) ganh đua để lấy lòng cô con gái ngây thơ của người tài xế (Hepburn). Với vai diễn này, bà giành đề cử cho "Nữ diễn viên xuất sắc nhất" tại lễ trao giải Oscar lần thứ 27 và thắng giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất" trong cùng một năm. Bosley Crowther của The New York Times khẳng định bà là "một quý cô trẻ tuổi với phạm vi biểu hiện sự nhạy cảm và cảm động phi thường chỉ trong một khung hình yếu đuối và mảnh mai. Bà còn tỏa sáng với vai con gái của người tài xế hơn hình tượng nàng công chúa vào năm ngoái và không thể nói được gì hơn."
Hepburn còn trở lại sân khấu năm 1954, vào vai một vị thần nước trong vở kịch Broadway giả tưởng Ondine. Một nhà phê bình trên New York Times có viết "bằng một cách nào đó, Quý cô Hepburn đã truyền tải sự mơ hồ sang ngôn ngữ của sân khấu mà không hề giả dối. Phần trình diễn của bà vô cùng duyên dáng và mê hoặc". Với vai diễn, bà giành giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất", cùng năm bà thắng giải Oscar cho Roman Holiday. Tại một bữa tiệc dạ hội do Gregory Peck tổ chức, bà gặp nam diễn viên người Mỹ Mel Ferrer và cả hai quyết định hợp tác trong Ondine. Trong giai đoạn sản xuất vở kịch, hai người nảy sinh tình cảm và kết hôn 8 tháng sau đó, vào ngày 25 tháng 9 năm 1954, tại Bürgenstock, Thụy Sĩ.
Dù không xuất hiện trong bộ phim mới nào vào năm 1955, Hepburn vẫn giành giải Quả cầu vàng cho "Phim yêu thích thế giới" năm đó. Trở thành một trong những diễn viên bội thu tại phòng vé, bà tiếp tục diễn trong hàng loạt phim thành công ở nửa sau thập kỷ, bao gồm vai diễn Natasha Rostova—giành đề cử giải BAFTA và Quả cầu vàng—trong War and Peace (1956), một phiên bản chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của Tolstoy lấy bối cảnh trong cuộc chiến tranh Napoleon, với sự góp mặt của Henry Fonda và người chồng Mel Ferrer. Năm 1957, bà phô bày kỹ năng khiêu vũ trong phim nhạc kịch Funny Face (1957), nơi Fred Astaire, một nhiếp ảnh gia thời trang, biến một cô nhân viên bán hàng sách thành người mẫu thời trang. Cùng năm đó, bà góp mặt trong phim lãng mạn hài, Love in the Afternoon, bên cạnh Gary Cooper và Maurice Chevalier.
Hepburn diễn vai nữ tu Luke trong The Nun's Story (1959), tập trung vào những tranh đấu của nhân vật để trở thành một nữ tu sĩ, với sự góp mặt của Peter Finch. Vai diễn mang về đề cử giải Oscar thứ ba cho Hepburn và giúp bà đoạt giải BAFTA lần thứ hai. Một đánh giá của Variety có viết "Hepburn đã giành được vai diễn điện ảnh khắt khe nhất và có màn diễn xuất hoàn hảo nhất", trong khi Films in Review khẳng định diễn xuất của bà "sẽ khiến bất kỳ ai nghĩ bà không phải là một diễn viên mà chỉ là một biểu tượng tinh vi của tuổi thơ/một người phụ nữ phải im lặng mãi mãi. Vai Sư cô Luke là một trong những màn diễn xuất hay nhất trên màn ảnh." Theo báo cáo, bà dành nhiều giờ liền trong tu viện với những thành viên của Nhà thờ để khiến vai diễn trở nên trung thực hơn, khẳng định bà "tập trung nhiều thời gian, năng lượng và suy nghĩ nhiều hơn những vai diễn khác."
Sau The Nun's Story, Hepburn nhận nhiều đánh giá ảm đạm với diễn xuất cùng Anthony Perkins trong phim lãng mạn ly kỳ Green Mansions (1959). Bà vào vai Rima, một cô gái rừng xanh phải lòng một du khách người Venezuela và The Unforgiven (1960), bộ phim miền Viễn tây duy nhất của bà, với sự xuất hiện của Burt Lancaster và Lillian Gish trong một câu chuyện về phân biệt chủng tộc với một nhóm người Mỹ bản địa.
1961–67: Breakfast at Tiffany's và tiếp tục thành công
Hepburn đóng vai một cô gái vô công rỗi nghề chuyên quyến rũ đàn ông trong Breakfast at Tiffany's (1961) của Blake Edwards, dựa trên quyển tiểu thuyết cùng tên của Truman Capote. Capote không đồng ý với nhiều thay đổi trong phiên bản chuyển thể điện ảnh này và muốn chọn Marilyn Monroe vào vai chính, dù ông vẫn khẳng định Hepburn "đã nhập vai một cách tuyệt vời". Holly Golightly được xem là một trong những nhân vật biểu tượng của nền điện ảnh Hoa Kỳ và là vai diễn quyết định của Hepburn. Chiếc váy mà bà mặc trong đoạn mở đầu phim được xem là một biểu tượng của thế kỷ XX và có thể là "chiếc đầm đen nhỏ" nổi tiếng nhất mọi thời đại. Hepburn khẳng định đây là vai diễn "vui nhộn nhất sự nghiệp của tôi" và thú nhận: "Tôi là người hướng nội. Đóng một phụ nữ sôi nổi là điều khó nhất tôi từng làm."
Cùng năm đó, Hepburn còn góp mặt trong bộ phim chính kịch nhiều tranh cãi của William Wyler The Children's Hour (1961), nơi bà và Shirley MacLaine vào vai những giáo viên sống trong rắc rối sau khi một học sinh cáo buộc họ là người đồng tính nữ. Vì những định kiến lúc bấy giờ, bộ phim và diễn xuất của Hepburn phần lớn bị phớt lờ, cả về thương mại lẫn phê bình. Bosley Crowther của The New York Times cho rằng bộ phim "có diễn xuất không quá nổi bật", ngoại trừ Hepburn khi "mô tả cảm xúc nhạy cảm và thuần khiết", trong khi tạp chí Variety khen ngợi "nét nhạy cảm nhẹ nhàng", với "sự bổ sung hoàn hảo" của Hepburn và MacLaine.
Hepburn vào vai một người phụ nữ góa phụ trong phim hài ly kỳ Charade (1963), bên cạnh nam diễn viên Cary Grant. Grant lúc đó 59 tuổi, từng từ chối diễn xuất cùng Audrey trong Roman Holiday và Sabrina vì khoảng cách tuổi với Hepburn, khi phải diễn nhiều cảnh thân mật với nữ diễn viên chỉ 34 tuổi. Để giải tỏa lo lắng của ông, các nhà làm phim đồng ý đổi kịch bản sao cho nhân vật của Hepburn là người theo đuổi tình cảm của ông. Bộ phim là một trải nghiệm tích cực của ông, khẳng định "Tất cả những gì tôi muốn cho lễ Giáng sinh là một phim khác cùng Audrey." Vai diễn mang về cho Hepburn giải BAFTA cuối cùng trong sự nghiệp và một đề cử nữa cho giải Quả cầu vàng.
Hepburn tái hợp với diễn viên William Holden trong Paris When It Sizzles (1964), một bộ phim hài kịch điên ("screwball comedy"), nơi bà hóa thân vào một trợ lý biên kịch Hollywood trẻ tuổi. Quá trình sản xuất phim gặp nhiều rắc rối: Holden không thể nối lại sự lãng mạn với Hepburn và chứng nghiện rượu của ông bắt đầu ảnh hưởng đến công việc. Sau khi phim bắt đầu khởi quay, bà yêu cầu sa thải nhà quay phim Claude Renoir vì cảm thấy những đoạn phim thô không tốt. Bà còn đề nghị sử dụng phòng trang điểm số 55 vì đó là con số may mắn của bà và yêu cầu Givenchy, nhà tạo mẫu lâu năm của bà, đề cập đến dòng nước hoa của bà trong đoạn giới thiệu cuối phim. Các nhà phê bình chỉ trích bộ phim, nhưng không quá khắt khe với diễn xuất của Hepburn, mô tả bà là "một tạo hóa độc đáo và mới mẻ trong kỷ nguyên của những đường cong phóng đại".
Bộ phim thứ hai của Hepburn vào năm 1964 là chuyển thể điện ảnh của vở nhạc kịch My Fair Lady, do George Cukor đạo diễn và phát hành vào tháng 11. Soundstage viết rằng "chưa có bộ phim nào gây nhiều hứng thú đến công chúng như My Fair Lady kể từ Gone with the Wind." Phần tuyển vai cho nhân vật Eliza Doolittle gây nhiều tranh cãi. Julie Andrews, người thể hiện nhân vật này trên phiên bản sân khấu, không được mời vì nhà sản xuất Jack L. Warner nghĩ rằng Hepburn hay Elizabeth Taylor là những lựa chọn "sinh lời" hơn Hepburn ban đầu nhờ Warner đưa vai diễn này cho Andrews nhưng bà mới là người được chọn. Nhiều xung đột diễn ra khi—cho dù Hepburn từng hát trong Funny Face và trải qua thời gian luyện giọng cho vai diễn trong My Fair Lady—giọng hát của nhân vật này lại do Marni Nixon đảm nhận vì những bài hát không được sáng tác cho quãng giọng của Hepburn. Hepburn rất tức giận và rời khỏi trường quay khi biết tin.
Giới truyền thông thêu dệt nên câu chuyện ganh đua giữa Hepburn và Andrews, khi Andrews giành giải Oscar cho Mary Poppins tại lễ trao giải lần thứ 37 nhưng Hepburn không được đề cử, dù My Fair Lady tích lũy 8 trên 12 giải thưởng. Dù vậy, các nhà phê bình vẫn khen ngợi màn trình diễn "tinh tế" của Hepburn. Crowther viết rằng "điều hạnh phúc nhất về [My Fair Lady] là Audrey Hepburn đã chứng minh quyết định sáng suốt của Jack Warner khi tuyển bà vào vai chính." Gene Ringgold của Soundstage viết "Mọi người đều đồng ý nếu Julie Andrews không xuất hiện trong bộ phim thì Audrey Hepburn là sự lựa chọn hoàn hảo nhất."
Trong một thập kỷ tới, Hepburn xuất hiện trong nhiều bộ phim theo thể loại khác nhau, bao gồm phim hài How to Steal a Million (1966), nơi bà đóng vai cô con gái của một nhà sưu tầm tranh nổi tiếng, cùng với diễn viên Peter O'Toole. Tiếp đến vào năm 1967, bà góp mặt trong hai bộ phim. Đầu tiên là Two for the Road, một bộ phim hài chính kịch kể về một cuộc hôn nhân đầy rắc rối. Đạo diễn Stanley Donen phát biểu ông thấy Hepburn tự do và hạnh phúc chưa từng thấy cùng nam diễn viên Albert Finney. Bộ phim còn lại thuộc thể loại ly kỳ mang tên Wait Until Dark, khi Hepburn hóa thân vào một người phụ nữ mù bị tấn công. Phim ghi hình vào lúc bà đứng trên bờ vực ly hôn và người chồng lúc bấy giờ, Mel Ferrer là nhà sản xuất của phim. Bộ phim là một khó khăn với Hepburn—bà tụt mất 15 pound do căng thẳng, nhưng nhận được lời động viên của diễn viên Richard Crenna và đạo diễn Terence Young. Hepburn nhận đề cử giải Oscar cuối cùng trong sự nghiệp cho "Nữ diễn viên xuất sắc nhất". Bosley Crowther viết rằng đây là một "vai diễn chua cay" và Hepburn "vô cùng chân thật" trong những cảnh cuối cùng.
Hepburn bị sảy thai hai lần, lần đầu vào tháng 3 năm 1955 và một lần nữa vào năm 1959, khi bà bị ngã trên lưng ngựa trong lúc ghi hình The Unforgiven (1960). Lúc mang thai lần thứ ba, bà nghỉ ngơi cả năm để tránh ảnh hưởng đến thai nhi; con trai của họ, Sean Hepburn Ferrer, hạ sinh ngày 17 tháng 7 năm 1960. Bà bị sảy thai thêm hai lần nữa vào năm 1965 và 1967. Dù có nhiều đồn đoán về cuộc hôn nhân, Hepburn khẳng định bà và Ferrer vẫn hạnh phúc và không thể tách rời, nhưng vẫn thú nhận ông thường hay nổi nóng. Ferrer bị đồn là một người kiểm soát thái quá và thường được nhắc đến là "Svengali" của Hepburn—một cáo buộc khiến Hepburn phì cười. William Holden từng nói rằng "Audrey khiến Mel nghĩ ông ta mang những ảnh hưởng lớn lao đến bà ấy." Sau cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm, cả hai ly hôn ngày 5 tháng 12 năm 1968.
1968–93: Tạm vắng bóng và những dự án cuối cùng
Sau năm 1967, Hepburn quyết định dành nhiều thời gian cho gia đình và ít diễn xuất trong nhiều thập niên sau đó. Bà gặp gỡ người chồng thứ hai, nhà tâm lý học người Ý Andrea Dotti trên con tàu Mediterranean cùng bạn bè vào tháng 6 năm 1968. Họ kết hôn ngày 18 tháng 1 năm 1969; con trai của họ, Luca Dotti, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1970. Trong lúc mang thai Luca vào năm 1969, bà cẩn thận hơn và nghỉ dưỡng nhiều tháng trước khi hạ sinh đứa bé theo phương pháp mổ lấy thai. Bà muốn có thêm một đứa con nữa, nhưng lại bị sảy thai năm 1974. Bà quyết định trở lại điện ảnh vào năm 1976, đồng diễn xuất với Sean Connery trong bộ phim lịch sử đạt thành công vừa phải, Robin and Marian. Năm 1979, Hepburn tái hợp với đạo diễn Terence Young trong bộ phim sản xuất quốc tế Bloodline, cùng với Ben Gazzara, James Mason và Romy Schneider. Bộ phim là một thất bại về doanh thu. Trên phim trường, bà và diễn viên Gazzara có mối quan hệ tình cảm ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân của Dotti-Hepburn kết thúc năm 1982. Sau khi ly hôn, bà chỉ nói chuyện với Dotti hai lần lúc còn sống và vẫn giữ liên lạc với ông.
Vai diễn chính diện cuối cùng của Hepburn nằm trong bộ phim They All Laughed (1981) của đạo diễn Peter Bogdanovich. Bộ phim bị lu mờ bởi cái chết của một trong những diễn viên chính, Dorothy Stratten và chỉ phát hành giới hạn. Sáu năm sau, Hepburn đồng diễn xuất với Robert Wagner trong bộ phim truyền hình Love Among Thieves (1987). Sau khi đóng vai diễn điện ảnh cuối cùng vào năm 1988—một vai nhỏ là một thiên thần trong bộ phim Always của Steven Spielberg—Hepburn chỉ kịp hoàn thiện hai dự án giải trí khác: loạt phim tài liệu PBS Gardens of the World with Audrey Hepburn, được ghi hình tại 7 quốc gia vào mùa Xuân và Hè năm 1990. Một tập phim dài 1 tiếng trình chiếu vào tháng 3 năm 1991, trong khi toàn bộ loạt phim lên sóng một ngày sau khi bà mất, ngày 21 tháng 2 năm 1993. Cho tập phim đầu tiên, Hepburn giành giải Emmy cho "Thành tựu cá nhân nổi bật" sau khi mất. Dự án còn lại là một album kể chuyện mang tên Audrey Hepburn's Enchanted Tales, bao gồm nhiều câu chuyện thiếu nhi kinh điển do bà thu âm vào năm 1992. Album giành giải Grammy "Album kể chuyện trẻ em xuất sắc nhất" sau khi bà mất.
Từ năm 1980 đến khi mất, Hepburn giữ mối quan hệ tình cảm với diễn viên người Hà Lan Robert Wolders, là chồng cũ của diễn viên Merle Oberon. Bà gặp Wolders thông qua một người bạn trong những năm cuối cùng của cuộc hôn nhân thứ hai. Năm 1989, bà gọi chín năm chung sống với ông là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời. Họ sống tại làng La Paisible, Tolochenaz-sur-Morges, Thụy Sĩ và không làm đám cưới.
Hoạt động xã hội
Hepburn là Đại sứ Thiện chí của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). Nhiệm vụ đầu tiên của Hepburn tại UNICEF là đến Ethiopia năm 1988. Bà đến thăm một trại mồ côi đang nuôi dưỡng 500 trẻ em ở Mek'ele và phân phát thức ăn cùng UNICEF. Trong chuyến đi, bà phát biểu rằng "Trái tim tôi đau khổ. Tôi cảm thấy tuyệt vọng." Vào tháng 8 năm 1988, Hepburn đến Thổ Nhĩ Kỳ trong một chiến dịch tiêm chủng. Bà gọi quốc gia này là "ví dụ đáng yêu nhất" trong khả năng của UNICEF." Vào tháng 10, Hepburn đến Nam Phi. Tại Venezuela và Ecuador, Hepburn kể với Quốc hội Hoa Kỳ rằng, "Tôi thấy những ngôi làng và khu ổ chuột nhỏ bé gần núi lần đầu tiên nhận được hệ thống cấp nước bởi một phép màu – và phép màu đó là UNICEF. Tôi nhìn những chàng trai tự xây trường học bằng gạch và xi-măng của UNICEF cung cấp."
Hepburn chu du khắp miền Trung Mỹ vào tháng 2 năm 1989 và gặp nhiều lãnh tụ tại Honduras, El Salvador và Guatemala. Tháng 4, bà đến thăm Sudan và Wolders trong chuyến đi mang tên "Operation Lifeline". Vì cuộc nội chiến mà thức ăn tại các trung tâm y tế bị thiếu hụt. Chiến dịch mang thức ăn đến vùng nam Sudan. Hepburn phát biểu, "Tôi thấy một sự thật hiển nhiên: Đây không là thiên tai mà là thảm họa nhân tạo vì vậy chỉ có một cách khắc phục bởi nhân loại — hòa bình." Vào tháng 10, Hepburn và Wolders đến Bangladesh. John Isaac, một nhiếp ảnh gia của UN, nói rằng "Thường thì bọn trẻ dính đầy ruồi nhặng, nhưng bà vẫn đến ôm chúng. Tôi chưa bao giờ thấy điều tương tự. Những người khác có một khoảng cách do dự nhất định, nhưng bà ấy thì cứ tóm lấy chúng. Những đứa trẻ cứ chạy đến vòng tay của bà, chạm vào bà — bà hệt như Pied Piper vậy."
Vào tháng 10 năm 1990, Hepburn đến Việt Nam, nhằm kết hợp với chính quyền cho chương trình tiêm chủng và tuyên truyền sử dụng nước sạch của UNICEF. Bà phát biểu "Tôi muốn đưa lại nhiều bức hình về đất nước - con người Việt Nam để người dân trên khắp thế giới có thể hiểu hơn về nơi đây, hiểu rằng Việt Nam có nhiều điều để họ tìm hiểu, chứ không chỉ có một cuộc chiến tranh. Chiến tranh là một con quỷ và con quỷ đó đã đến lúc cần phải nằm xuống." Tháng 9 năm 1992, 4 tháng trước khi mất, Hepburn đến Somalia. Bà kể lại, "Tôi như bước vào một cơn ác mộng. Tôi từng thấy nạn đói ở Ethiopia và Bangladesh, nhưng chưa bao giờ chứng kiến điều gì như thế này — còn tồi tệ hơn những gì tôi có thể tưởng tượng. Tôi chưa sẵn sàng cho chuyện này." Dù sợ hãi, Hepburn vẫn còn nhiều hy vọng: "Chăm sóc trẻ em không liên quan đến chính trị. Tôi nghĩ có lẽ với thời gian [...] rồi chính trị sẽ được nhân đạo hóa."
Công nhận
Tổng thống Mỹ George H. W. Bush trao cho bà Huân chương Tự do Tổng thống để ghi nhận những đóng góp của bà với UNICEF và Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao cho bà Giải thưởng Nhân đạo Jean Hersholt cho những cống hiến của bà với nhân loại, do con trai của Hepburn nhận thay. Cảm thấy bản thân may mắn sau cuộc chiếm đóng của quân Đức khi còn nhỏ, bà dành phần còn lại của đời mình để giúp đỡ những trẻ em khó khăn tại những quốc gia nghèo đói nhất.
Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, kể từ năm 1954 với sự hỗ trợ phát thanh, bà bắt đầu làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất. Vào năm 2002, tại "Tọa đàm đặc biệt về trẻ em" của Liên hiệp Quốc, UNICEF vinh danh nỗ lực nhân đạo của Hepburn bằng việc khánh thành một bức tượng mang tên "The Spirit of Audrey" tại trụ sở của UNICEF ở New York. Dịch vụ cho trẻ em của bà cũng được công nhận thông qua "Audrey Hepburn Society" của Quỹ Hoa Kỳ UNICEF.
Qua đời
Khi trở về từ Somalia đến Thụy Sĩ vào cuối tháng 9 năm 1992, Hepburn bắt đầu có những dấu hiệu đau dạ dày. Trong lúc những khám nghiệm tại Hà Lan đưa ra kết quả không rõ ràng, một cuộc mổ nội soi diễn ra tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai, Los Angeles vào đầu tháng 11 cho thấy một dạng ung thư ruột hiếm thấy—mang tên pseudomyxoma peritonei— đang phát triển. Do phát triển chậm trong nhiều năm, căn bệnh đã di căn thành một lớp mỏng bao phủ trên ruột non của bà. Sau khi phẫu thuật, Hepburn bắt đầu hóa trị. Một cuộc phẫu thuật vào đầu tháng 12 cho thấy căn bệnh đã lan quá rộng và đang trong giai đoạn cuối.
Hepburn và gia đình trở về quê nhà tại Thụy Sĩ để ăn mừng lễ Giáng sinh cuối cùng. Vì vẫn còn hồi phục sau cuộc phẫu thuật, bà không thể sử dụng máy bay thương mại thông thường. Người bạn lâu năm của bà, Hubert de Givenchy, sắp xếp cùng Rachel Lambert "Bunny" Mellon để đưa bà từ Los Angeles đến Genève trên một chiếc phản lực Gulfstream riêng và chất đầy hoa. Bà dành những ngày cuối cùng tại nhà riêng ở Tolochenaz, Vaud và đủ khỏe để đi bộ trong vườn nhưng cuối cùng lại trở nên yếu dần và nằm nghỉ trên giường.
Đêm 20 tháng 1 năm 1993, Hepburn qua đời trong giấc ngủ tại nhà. Sau khi mất, Gregory Peck xuất hiện trước máy quay và xúc động đọc lại bài thơ yêu thích của bà, "Unending Love" của Rabindranath Tagore. Lễ tang diễn ra tại nhà thờ địa phương ở Tolochenaz vào ngày 24 tháng 1 năm 1993. Maurice Eindiguer, mục sư trong lễ cưới của Hepburn và Mel Ferrer, cũng là người làm lễ rửa tội cho con trai Sean của bà năm 1960, đã làm chủ tọa cho lễ tang, trong khi Prince Sadruddin Aga Khan của UNICEF đọc bài điếu văn. Nhiều thành viên gia đình và bạn bè đến dự lễ tang, bao gồm những người con trai của bà, người tình Robert Wolders, anh kế Ian Quarles van Ufford, những người chồng cũ Andrea Dotti và Mel Ferrer, chủ tịch UNICEF, Hubert de Givenchy và các diễn viên Alain Delon và Roger Moore. Gregory Peck, Elizabeth Taylor và gia đình hoàng gia Hà Lan đã gửi hoa đến buổi lễ. Cuối ngày hôm đó, Hepburn an táng tại Nghĩa trang Tolochenaz.
Di sản
Di sản ở cương vị một nữ diễn viên và tính cách của Audrey Hepburn vẫn kéo dài sau khi bà mất. Viện phim Mỹ liệt Hepburn ở vị trí thứ 3 trong danh sách những nữ ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất. Bà là một trong những ngôi sao giải trí hiếm hoi giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony. Trong những năm cuối đời, bà vẫn hiện hữu trong thế giới điện ảnh. Hiệp hội điện ảnh của Trung tâm Lincoln năm 1991 có tưởng nhớ đến bà và bản thân Hepburn thường xuyên giới thiệu tại các lễ trao giải Oscar. Sau khi qua đời, đã có nhiều bộ phim tiểu sử về Hepburn, trong đó có bộ phim chính kịch The Audrey Hepburn Story (2000) do Jennifer Love Hewitt và Emmy Rossum đóng. Ngôi sao của Hepburn trên Đại lộ Danh vọng Hollywood nằm ở số 1652, Vine Street, đặt ngày 8 tháng 2 năm 1960.
Sean Ferrer thành lập Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn để tưởng nhớ mẹ mình không lâu sau khi bà mất. Quỹ Hoa Kỳ UNICEF cũng thành lập nên Audrey Hepburn Society do Luca Dotti làm chủ tịch. Ferrer cũng là người bảo trợ cho Quỹ từ thiện Pseudomyxoma Survivor, hỗ trợ những bệnh nhân mắc căn bệnh ung thư hiếm thấy mà Hepburn trải qua pseudomyxoma peritonei và đại diện cho European Organisation for Rare Diseases năm 2015.
Sau khi mất, hình ảnh của Audrey Hepburn vẫn tiếp tục sử dụng rộng rãi. Năm 2003, Bưu điện Hoa Kỳ đã phát hành con tem Audrey Hepburn, được thiết kế bởi Michael J. Deas. Tại Đức, một con tem tưởng niệm Audrey Hepburn được dự định phát hành vào năm 2001. Sau đó kế hoạch đã bị hủy bỏ vì lý do hình ảnh con tem, Audrey trong Breakfast at Tiffany's với điếu thuốc lá trên môi, bị con trai bà phản đối. Nhưng có vài bản mẫu đã được đóng dấu, gửi đi trong khoảng 2003 tới 2004. Ngay lập tức chúng được các nhà sưu tầm chú ý, trở nên nổi tiếng và đắt giá. Một trong số đó đã được bán đấu giá ngày 7 tháng 10 năm 2005 tại Düsseldorf với giá 135 nghìn euro. Tại Nhật Bản, thượng hiệu Kirin cũng dùng các hình cảnh của Roman Holiday cho chiến dịch quảng bá sản phẩm trà đen. Ở Mỹ, nhãn hiệu thời trang Gap Inc. phát hành một video dựng từ những cảnh trong phim Funny Face vào cuối năm 2006. Cùng với chiến dịch này, Gap cũng đã ủng hộ cho Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn.
Biểu tượng thời trang
Hepburn được ghi nhận bởi những lựa chọn thời trang và diện mạo độc đáo của bà; nhà báo Mark Tungate mô tả bà là một thương hiệu dễ nhận biết. Khi nổi tiếng với vai diễn trong Roman Holiday (1953), công chúng xem Hepburn là một hình tượng nữ tính lý tưởng, hấp dẫn với phụ nữ hơn là đàn ông, so với những vẻ đẹp đẫy đà và gợi cảm hơn của Marilyn Monroe, Grace Kelly và Elizabeth Taylor. Với kiểu tóc ngắn, lông mày rậm, cơ thể gầy và vẻ ngoài hơi "nam tính", bà đại diện cho diện mạo mà giới nữ trẻ dễ dàng sao chép hơn những ngôi sao điện ảnh lộng lẫy khác. Năm 1954, nhiếp ảnh gia thời trang Cecil Beaton gọi Hepburn là "hiện thân của lý tưởng nữ giới mới mẻ trong lòng công chúng" từ tạp chí Vogue. Phiên bản Anh Quốc của tạp chí này thường xuyên báo cáo về phong cách của bà trong suốt một thập kỷ kế đến. Cùng với người mẫu Twiggy, Hepburn được cho là một trong những hình tượng công chúng chủ chốt đưa vẻ đẹp gầy trở nên thời thượng.
Được Danh sách mặc đẹp quốc tế xướng tên vào năm 1961, Hepburn chọn phong cách nhỏ gọn, thường mặc trang phục đơn giản nhấn mạnh vào cơ thể gầy của bà, mang màu sắc tối giản và thi thoảng đeo những phụ kiện nổi bật. Học giả Rachel Moseley cho rằng "những chiếc quần đen nhỏ, hài đế bằng theo kiểu ba-lê và áo nịt len đen" là các trang phục nổi tiếng của bà, ngoài bộ đầm đen, nhận thấy phong cách này mới mẻ vào thời điểm đó, khi phụ nữ vẫn mặc váy và giày cao gót hơn là quần và giày đế bằng.
Hepburn có liên quan mật thiết đến nhà thiết kế thời trang người Pháp Hubert de Givenchy, người lần đầu được thuê thiết kế trang phục trên màn ảnh cho bà trong bộ phim Hollywood thứ hai, Sabrina (1954) khi Hepburn vẫn còn là một diễn viên vô danh và ông chỉ là một thợ may trẻ tuổi bắt đầu xây dựng sự nghiệp. Dù ban đầu thất vọng khi biết "Quý cô Hepburn" không phải là Katharine Hepburn như ông vẫn nghĩ, Givenchy và Hepburn đã xây dựng một tình bạn lâu dài. Bà trở thành nàng thơ của ông và hai người thân thiết đến mức học giả Jayne Sheridan khẳng định "chúng ta có thể hỏi 'Liệu Audrey Hepburn tạo nên Givenchy hay ngược lại?'".
Ngoài Sabrina, Givenchy còn thiết kế phục trang cho bà trong Love in the Afternoon (1957), Breakfast at Tiffany's (1961), Funny Face (1957), Charade (1963), Paris When It Sizzles (1964) và How to Steal a Million (1966), cũng như trong đời thường. Theo Moseley, thời trang đóng một vai trò quan trọng trong nhiều bộ phim của Hepburn, khẳng định "trang phục không gắn liền với nhân vật, mà hoạt động 'một cách thầm lặng' theo bối cảnh, nhưng 'thời trang' lại trở thành sức hút thẩm mỹ theo một hướng rất riêng". Hepburn khẳng định Givenchy "tạo nên vẻ ngoài, thể loại, đề bật cho tôi. Ông vẫn và sẽ luôn là người tuyệt nhất. Vì ông ấy giữ nguyên phong cách mà tôi yêu thích." Bà còn là gương mặt cho sản phẩm nước hoa đầu tiên của Givenchy, L'Interdit năm 1957. Ngoài Givenchy, Hepburn còn được xem là người tăng doanh số cho chiếc áo khoác Burberry khi mặc một lần trong phim Tiffany's và liên quan đến hãng giày dép Ý Tod's.
Trong đời sống riêng tư, Hepburn thường mặc những bộ quần áo giản dị và dễ chịu, khác với những trang phục may đo cao cấp bà mặc trong những sự kiện công chúng và trên màn ảnh. Dù được ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp của mình, Hepburn chưa bao giờ xem mình là một người quyến rũ, khẳng định "bạn có thể nói rằng tôi ghét bản thân mình trong một thời gian nhất định."
Ảnh hưởng của Hepburn dưới vai trò của một biểu tượng phong cách tiếp tục diễn ra trong nhiều thập kỷ sau khi bà đạt đến đỉnh cao sự nghiệp trong những năm 50, những năm 60. Moseley nhận thấy sau khi qua đời năm 1993, bà được người đời tôn vinh như một biểu tượng của thời trang, khi những tạp chí thường đưa ra lời khuyên đến người đọc để tái tạo vẻ ngoài của bà, trong khi các nhà tạo mẫu xem bà như một nguồn cảm hứng. Năm 2004, Hepburn được vinh danh là "người phụ nữ đẹp nhất mọi thời đại" và "người phụ nữ đẹp nhất thế kỷ XX" theo những cuộc bình chọn công khai của Evian và QVC. Năm 2015, Samsung bình chọn bà là "người Anh phong cách nhất mọi thời đại". Những trang phục của bà mang về số tiền lớn trong nhiều buổi đấu giá: Một trong những chiếc đầm đen nhỏ do Givenchy thiết kế cho Breakfast at Tiffany's được nhà đấu giá Christie's bán với giá tiền kỷ lục 467.200 bảng Anh vào năm 2006.
Sự nghiệp diễn xuất
Roman Holiday (1953)
Sabrina (1954)
War and Peace (1956)
Love in the Afternoon (1957)
Funny Face (1957)
Green Mansions (1959)
The Nun's Story (1959)
The Unforgiven (1960)
Breakfast at Tiffany's (1961)
The Children's Hour (1961)
Charade (1963)
Paris When It Sizzles (1964)
My Fair Lady (1964)
How to Steal a Million (1966)
Two for the Road (1967)
Wait Until Dark (1967)
Robin and Marian (1976)
Bloodline (1979)
They All Laughed (1981)
Always (1989) |
Bo mạch âm thanh (Tiếng Anh:sound card, Phiên âm: Saocạt) trong máy tính là một bo mạch mở rộng các chức năng về âm thanh (và một số chức năng khác về giải trí, kết nối...) trên máy tính, thông qua các phần mềm nó cho phép ghi lại âm thanh (đầu vào) hoặc trích xuất âm thanh (đầu ra) thông qua các thiết bị chuyên dụng khác.
Sơ lược về bo mạch âm thanh
Lịch sử và sự phát triển
Bo mạch âm thanh xuất hiện từ khi máy tính ra đời bởi các hệ thống máy tính cá nhân (IBM-PC) đầu tiên được phát triển với sự trú trọng vào cấu trúc và sự định hướng của bộ vi xử lý. "Âm thanh" trên máy tính khi này chỉ là những tiếng "bíp" với chức năng chính để báo lỗi trong quá trình khởi động hệ thống (POST) hoặc các lỗi tràn bộ đệm của bàn phím..
Với những máy Macintosh, ngay từ khi ra đời (khoảng năm 1984) chúng đã có các chức năng âm thanh có chất lượng khá tốt, nhưng với các dòng máy PC của IBM, chức năng mở rộng âm thanh chỉ được phát triển sau những năm 1980 bởi những công ty (và phòng thí nghiệm) như AdLib, Roland, Creative Lab. Chính sự cạnh tranh của các công ty này và các công ty phát triển phần cứng về sau này đã tạo ra sự phát triển của bo mạch âm thanh.
Cho đến nay các bo mạch âm thanh đã được cải tiến rất nhiều với rất nhiều tính năng mở rộng, các bộ xử lý âm thanh còn có số transistor nhiều hơn các dòng CPU thời trước, chất lượng và các tính năng mở rộng của bo mạch âm thanh đã vượt khỏi chuẩn truyền thống khiến người sử dụng có một cách nhìn khác hơn về công nghệ giải trí trên máy tính.
Chức năng chính
Mọi hoạt động của bo mạch âm thanh phải được điều khiển bằng phần mềm hoặc trình điều khiển (driver) trên máy tính. Các hoạt động của bo mạch âm thanh có thể là:
Trích xuất các tín hiệu âm thanh dạng tín hiệu tương tự (analog) hoặc tín hiệu số (digital) tới các loa để phát ra âm thanh mà con người nghe được.
Ghi lại về âm thanh để lưu trữ (hoặc phục vụ xử lý) âm thanh trong: tiếng nói, âm thanh tự nhiên, âm nhạc, phim...thông qua các ngõ đầu vào.
Xử lý và phát lại âm thanh từ các thiết bị khác: Phát âm thanh trực tiếp từ các ổ đĩa quang, thiết bị phát MIDI.
Kết nối với các bộ điều khiển game (joytick)
Là thiết bị kết nối trung gian: (Cổng IEEE-1394)
Phân loại bo mạch âm thanh
Phân loại theo bus sử dụng, bo mạch âm thanh có các thể loại sau:
Bo mạch âm thanh sử dụng bus ISA: Là loại bo mạch âm thanh cổ điển nhất, sử dụng các bus ISA thông qua các khe cắm ISA trên máy tính.
Bo mạch âm thanh sử dụng bus PCI: Loại bo mạch âm thanh thông dụng hiện nay đang sử dụng, chúng sử dụng bus PCI thông qua các khe cắm PCI mở rộng trong máy tính.
Bo mạch âm thanh sử dụng bus USB: Sử dụng các cổng USB với các bo mạch âm thanh gắn ngoài thùng máy đối với máy tính cá nhân hoặc đối với các máy tính xách tay
Phân loại bo mạch âm thanh theo các kiểu loa hỗ trợ:
Cách phân loại này thông dụng hơn cách phân loại trên bởi nó phù hợp hơn đối với các loa sử dụng với bo mạch âm thanh hơn.
Bo mạch âm thanh chỉ sử dụng với loa 2.0
Bo mạch âm thanh sử dụng với loa X.1: Chỉ hỗ trợ đến tối đa X loa vệ tinh (X được hiểu là một số nào đó cụ thể tuỳ từng loại loa)
Phân loại bo mạch âm thanh theo dạng thức vật lý:
Bo mạch âm thanh rời: là một phần tách rời khỏi bo mạch chủ.
Bo mạch âm thanh liền (onboard): được tích hợp sẵn trên bo mạch chủ.
Các kiểu kết nối vào/ra trong bo mạch âm thanh
Các đường kết nối vào/ra (I/O) mặt sau của bo mạch âm thanh bao gồm các loại như sau:
Đường Line in: Đường nối tín hiệu đầu vào cho bo mạch âm thanh, sử dụng phi muốn phối trộn âm thanh (mix) hoặc ghi âm từ nguồn âm thanh của các bên ngoài (ti vi, radio, CD/DVD player...).
Đường Speaker-out: Đường công suất cho loa hoặc các tai nghe (headphone). Trong một số bo mạch âm thanh đường Speaker-out được tích hợp chung với đường line-out.
Đường Line out: Đường tín hiệu cho đầu ra cho loa (được gắn sẵn bộ khuếch đại công suất âm thanh) hoặc các thiết bị âm thanh khác. Đường line out có thể được sử dụng chung với nhiều đường khác nếu đầu ra cho các loại loa hỗ trợ X.1.
Line out 1: Cho các tín hiệu đầu ra các loa phía trước (front)
Line out 2: Cho các tín hiệu đầu ra các loa phía sau (rear)
Line out 3: Cho tín hiệu đầu ra với loa giữa và loa trầm (center and subwoofer)
Line out 4: Thường dùng cho các loại loa 7.1
Đường Micro in: Sử dụng cho micro cắm vào bo mạch âm thanh.
Đường Game/MIDI: Sử dụng cho các bộ điều khiển phục vụ chơi game (joystick) hoặc các thiết bị có kết nối chơi nhạc MIDI (như các loại đàn organ)
Ngoài các đường kết nối mặt sau, trên bo mạch âm thanh rời hoặc tích hợp trên bo mạch chủ còn có thể có các cổng kết nối sau:
Đường AUX: Đường tín hiệu đầu vào bo mạch âm thanh: Thường sử dụng với một nguồn âm thanh khác sẵn có trên máy tính, ví dụ bo mạch thu sóng ti vi/FM (khi sử dụng cần kết nối đầu ra audio với đường AUX hoặc Line in để phát âm thanh trên loa.
Đường CD-in: kết nối với CD Out của ổ CD/DVD, thường là tín hiệu tương tự.
TAD: kết nối với các thiết bị truyền thông lắp trong, như modem lắp trong.
PC-SPK: kết nối với loa máy tính, thường có 2 chân cắm (chỉ có trong các bo mạch âm thanh rất cũ, đa số các bo mạch chủ đều có đường âm thanh riêng cho các loa phát tín hiệu trong quá trình POST của máy tính)
Đường tín hiệu số S/PDIF in hoặc out: dùng cho cáp quang hoặc cáp đồng trục.
Những yêu cầu về bo mạch âm thanh tuỳ thuộc mục đích sử dụng
Do có rất nhiều loại bo mạch âm thanh khác nhau do các hãng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng với chất lượng, giá thành rất khác nhau. Tuỳ theo từng nhu cầu của những người sử dụng khác nhau mà có các lựa chọn bo mạch âm thanh riêng cho phù hợp. Để đáp ứng mọi mục đích sử dụng, thị trường có sẵn các loại bo mạch âm thanh cao cấp, tuy nhiên giá thành của chúng rất cao. Để lựa chọn hợp lý theo mục đích sử dụng, đáp ứng mức ở mức độ đạt yêu cầu từng mục đích cụ thể, có thể có các yêu cầu riêng như sau:
Nhu cầu thông thường
Mọi bo mạch âm thanh thường đáp ứng các nhu cầu đơn giản nhất luôn có tối thiểu 2 đường tín hiệu âm thanh đầu ra; 01 đường line in; 01 đường micro. Với các mức độ tối thiểu này có thể đáp ứng hầu hết các như cầu của người sử dụng nhưng chất lượng chỉ đạt ở mức tối thiểu, với một số ứng dụng đòi hỏi cấu hình cao các bo mạch loại này có thể không được chấp nhận.
Chơi game
Bo mạch âm thanh phục vụ cho việc chơi game thông dụng hiện nay cần có các yêu cầu sau:
Phải có các đường âm thanh phía sau (rear), tức là tối thiểu phải thuộc loại 4.0 để đảm bảo có thể phát đầy đủ âm thanh trong môi trường khi chơi game.
Phần xử lý của bo mạch âm thanh hỗ trợ âm thanh ba chiều (3D sound); hỗ trợ tăng tốc âm thanh (audio acceleration) giúp hệ thống không cần xử lý nhiều trên CPU.
Hỗ trợ tốt cho micro đầu vào (đây cũng là yêu cầu tối thiểu) để phục vụ việc hội thoại khi chơi game theo chế độ từng nhóm đội ở các vị trí khác nhau.
Hỗ trợ bộ điều khiển chơi game (Gaming controller), nhưng chức năng này có thể sử dụng các giao tiếp USB trên bo mạch chủ
Nghe nhạc, xem phim chất lượng cao
Bộ xử lý âm thanh 24bit.
Hỗ trợ Dolby 5.1, 6.1, 7.1 (phần mềm sử dụng cần có khả năng giải mã MPEG/DVD)
Thiết lập chế độ làm việc của bo mạch âm thanh
Thiết lập chế độ làm việc của bo mạch âm thanh bao gồm hai phần, thiết lập phần cứng và các thiết lập khi sử dụng bằng phần mềm. Các chế độ thiết lập nhằm đảm bảo cho bo mạch âm thanh hoạt động đúng thiết kế và cho kết quả tốt nhất đối với người sử dụng.
Thiết lập phần cứng
Phần cứng các bo mạch âm thanh loại rời là bo mạch stereo (Bo mạch 3D) và kể cả loại onboard (Bo mạch Mono) giả lập âm thanh nổi có thể sử dụng các "cầu đấu chuyển mạch" (jump) hoặc mở rộng các cổng kết nối nhập/xuất trong thùng máy để lựa chọn các chế độ làm việc phù hợp nhất hoặc thuận tiện đối với người sử dụng.Đều phải cài đặt driver, mặc dù có bo mạch rời stereo nhưng do không được cài đặt thủ công thì âm thanh đầu ra cũng chỉ là giả lập âm thanh nổi.
Lựa chọn kiểu tín hiệu đầu ra
Thông dụng nhất là các cầu đấu chuyển mạch để chuyển chế độ tín hiệu đầu ra trong các bo mạch âm thanh sử dụng chung đường speaker-out và line-out. Thông thường mọi bo mạch âm thanh đều có thể đưa ra tín hiệu có công suất nhỏ để sẵn sàng sử dụng với các loại tai nghe (headphone) nên bo mạch âm thanh luôn có một IC khuếch đại công suất có công suất nhỏ (vài chục mW đến một vài W). Mạch khuếch đại công suất này thường gây nhiễu vào tín hiệu đầu ra tạo ra các tiếng sôi nhỏ làm giảm chất lượng âm thanh. Để đảm bảo chất lượng âm thanh tốt nhất với các loa công suất lớn có gắn liền công suất hoặc các hệ thống (dàn) âm thanh dân dụng, người sử dụng nên chọn đường line-out. Trên một số bo mạch âm thanh có các cầu đấu chuyển mạch cho phép chuyển đổi qua lại giữa các loại tín hiệu đầu ra (lựa chọn giữa thể loại tín hiệu đơn thuần và đường âm thanh công suất). Người sử dụng nên đọc kỹ hướng dẫn sử dụng của bo mạch âm thanh để thực hiện sự chuyển đổi này cho phù hợp.
Đối với bo mạch âm thanh loại tích hợp trên bo mạch chủ cũng có thể có sự chuyển đổi này, người sử dụng nên đọc kỹ tài liệu về bo mạch chủ trước khi thực hiện.
Thiết lập các đường Line-in, AUX-in
Khi hệ thống máy tính sử dụng một modem lắp trong (hoặc modem ngoài), các tính năng tự động trả lời, ghi âm cuộc thoại... nếu sử dụng mà modem đó không có chức năng điều hợp âm thanh thì có thể cắm các đường speaker hoặc line-out trên modem với đường AUX-in hoặc line-in của bo mạch âm thanh.
Tương tự đối với các bo mạch bắt sóng ti vi/FM, cũng có thể sử dụng như với modem.
Thiết lập các dây nối với các ngõ xuất phía trước thùng máy
Các vỏ máy tính hiện nay đa số đều có các ngõ xuất/nhập (I/O) để thuận tiện cho người sử dụng, các ngõ này thường bao gồm một đường speaker-out, một đường mic-in và hai giao tiếp USB, IEEE-1394.
Để các ngõ xuất/nhập này hoạt động được, cần sử dụng các đầu cắm của chúng để cắm vào bo mạch chủ (đối với loại bo mạch âm thanh tích hợp) hoặc trên bo mạch âm thanh rời.
Không có một hướng dẫn cụ thể nào phù hợp với mọi bo mạch âm thanh, cần đọc tài liệu kèm theo bo mạch âm thanh hoặc bo mạch chủ.
Thiết lập trên trình điều khiển hoặc các phần mềm đi kèm
Bo mạch âm thanh khi làm việc trên các hệ điều hành mới đây đều phải sử dụng các trình điều khiển (driver) cũng giống như các thiết bị khác. Để hệ thống làm việc đúng cần cài đặt trình điều khiển ngay sau khi lắp đặt bo mạch âm thanh vào hệ thống.
Việc thiết lập trình điều khiển ngoài các cách cài đặt thông thường, cần thiết lập chú ý đến:
Chế độ làm việc: 16bit hoặc 24bit: Chế độ thiết lập mặc định của driver và các phần mềm đi kèm theo bo mạch âm thanh thường thiết lập tại chế độ 16 bit. Để các phần mềm phát DVD hoạt động tốt hơn, cho chất lượng âm thanh cao hơn, cần thiết lập theo chế độ 24bit (Bit depth = 24 bit). Việc thiết lập này đa phần trên các phần mềm cài đặt kèm theo bo mạch âm thanh, chúng có thể xuất hiện tại thư mục cài đặt riêng hoặc trong Control Panel.
Điều chỉnh âm sắc (equalizer), môi trường giả lập (enviroment, EAX...)...: Lựa chọn chế độ âm thanh theo sở thích của người sử dụng.
Thiết lập quy ước các cổng xuất nhập trên phần mềm: Một số bo mạch âm thanh tích hợp sẵn trên bo mạch chủ có thể lựa chọn các cổng xuất/nhập dựa trên phần mềm, khi này chúng thường có các bộ cảm biến để nhận biết mỗi sự kết nối (hoặc bằng cách đo điện trở và so sánh), người sử dụng cần xác nhận lại sự chính xác của các thiết bị kết nối (đặc biệt là cần thiết đối với thứ tự các loa theo đúng thứ tự). Đối với thể loại bo mạch chủ này, không có sự tuyệt đối giữa các cổng xuất/nhập (ví dụ: đường mic-in cũng có thể được lựa chọn thành line-out qua cách thiết lập phần mềm)
Những thiết bị kết nối đầu vào và đầu ra của bo mạch âm thanh
Kết nối đầu vào
Micro độc lập hoặc được gắn kèm với tai nghe.
Ti vi, đầu phát đĩa CD/DVD dùng để ghi lại âm thanh hoặc sử dụng vào các mục đích biên tập video, nén âm thanh...
Kết nối đầu ra
Đầu ra của bo mạch âm thanh có thể bao gồm các thiết bị sau:
Loa có kèm bộ khuếch đại công suất.
Tai nghe (headphone) dùng cho nghe âm thanh gọn nhẹ hoặc không làm ồn đến môi trường xung quanh.
Các loại dàn âm thanh giải trí dân dụng cùng hệ thống loa của nó.
Các thiết bị ghi âm. |
Bùi Bằng Đoàn (chữ Hán: 裴鵬摶, 11 tháng 9 năm 1889 – 13 tháng 4 năm 1955) là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I (1946–1955). Ông cũng đã từng là tri huyện ở Nghĩa Hưng - Nam Định, tri huyện Thanh Ba - Phú Thọ, Đại Từ - Thái Nguyên, Tiên Du - Bắc Ninh, tri phủ Xuân Trường - Nam Định.
Tiểu sử
Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19 tháng 9 năm 1889, tại xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay thuộc thành phố Hà Nội) trong một gia đình truyền thống Nho học. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng làm Giám khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh đánh dẹp giặc Ngô Côn. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa.
Cha mẹ đều mất sớm, cả sáu anh em được người chú dượng là Dương Lâm (tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.
Khoa thi năm Bính Ngọ 1906, ba anh em Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn đều ứng thí. Kết quả, Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn cùng đỗ Cử nhân. Ba anh em được mệnh danh là Hà đông tam bằng.
Về sau Bùi Bằng Thuận còn đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1916 cùng với Bùi Bằng Phấn đều làm quan Nam triều đến hàng Tuần phủ, về hưu trước năm 1945.
Thời gian làm quan Nam triều
Con đường quan lộ của ông hanh thông năm 1907 thi vào trường Hậu Bổ tại Hà Nội. Ông thông thạo cả Pháp văn và Hán văn.
Năm Tân Hợi (1911), ông tốt nghiệp, được bổ làm Tri huyện, sau đó làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam định), Án sát tỉnh Bắc Ninh; Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình; rồi làm đến Thượng thư bộ Hình của triều đình Huế, trong nội các của Phạm Quỳnh năm 1933, hàm Thái tử Thiếu bảo.
Khi làm quan ông nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính trực, chăm dân. Trên công đường ở những nơi ông làm quan, đều có treo một bảng thông báo "không nhận quà biếu". Với người nhà, ông rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi thì phải mang đi trả lại.
Lúc làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định) ông đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng lúa, dâu rộng lớn. Ghi công đức ông, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị "phụ mẫu chi dân" trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức.
Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Ông đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu bật lên những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Những kiến nghị xác đáng của bản báo cáo đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiếu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.
Năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam định) nhưng ông vẫn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức "an trí ở Huế".
Đầu năm 1933 ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, không lâu sau đó khi Phạm Quỳnh tổ chức Nội các ông được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Hình. Trong mười hai năm ở kinh đô Huế ông trông nom việc xử kiện tại tất cả các tỉnh Trung Kỳ, chỉ đạo việc soạn thảo các luật cho Trung Kỳ đều bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra chữ Hán.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Đế quốc Việt Nam độc lập. Bản tuyên bố ngoài chữ ký của Bảo Đại còn có chữ ký của 6 vị thượng thư, trong đó có Bùi Bằng Đoàn. Cơ mật viện giải tán để chuẩn bị thành lập Nội các mới. Bùi Bằng Đoàn cáo quan về quê nhưng được Chính phủ Nam triều giao cho giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Ở thời điểm "đêm trước" của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc và mời ông làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị.
Tham gia bộ máy chính quyền cách mạng
• Ngày 17 tháng 11 năm 1945 Hồ Chủ tịch mời ông tham gia Ban cố vấn Chủ tịch nước, thành viên Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đất nước. Trong bức thư đề ngày gửi là 17-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
• Ngày 6 tháng 1 năm 1946 ông ra ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam DCCH tại tỉnh Hà Đông và trúng cử, đồng thời được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cử ông làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, (tương đương với chức Tổng Thanh tra Chính phủ).
• Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội, tham gia thành lập Hội liên hiệp quốc dân.
• Ngày 8 tháng 11 năm 1946, ông được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cho ông Nguyễn Văn Tố. Những năm 1947 và 1948, ông làm việc ở chiến khu Việt Bắc.
• Cuối năm 1948, ông bị bệnh bán thân bất toại ở Việt Bắc, Hồ chủ tịch trực tiếp chỉ thị tổ chức đưa ông về Liên khu 3 để chữa bệnh.
• Từ tháng 10 năm 1948, tại Việt Bắc (thủ đô của kháng chiến), ông được Quốc hội cử giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội để điều hành Quốc hội.
• Hòa bình lập lại, ông trở về Hà Nội để dưỡng bệnh.
• Ngày 13 tháng 4 năm 1955, ông qua đời tại Hà Nội.
Gia đình
Vợ ông là bà Đoàn Thị Đức. Ông bà có tám người con gái và hai người con trai là:
• Đại tá, nhà báo Bùi Tín (nhân vật bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam).
• Doanh nhân Bùi Nghĩa - Chủ tịch Câu lạc bộ Doanh nghiệp họ Bùi Việt Nam.
Cuối năm 1948 Hồ Chủ tịch và Trung ương đã quyết định đưa ông về xuôi để dưỡng bệnh. Khi về gần đến nhà thì gặp lính Pháp đang càn quét ở Vân Đình, ông phải lánh đi. Khi đó, một mình bà Đoàn Thị Đức ở nhà, đang cất giấu tài liệu thì bị giặc Pháp ập vào và bắn chết. Sự hy sinh của bà mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà ông mới được biết.
Tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất
Huy chương Kháng chiến hạng Nhất
Vinh danh, kỉ niệm
• Tên ông được đặt cho một con phố tại phường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, Hà Nội. Một phố cạnh trường Đại học sư phạm kỹ thuật Nam Định, tại Thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định và một phố ở trong khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
• Ngày 16/9/2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội chủ trì tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của ông.
Thơ ca
Ông còn nổi tiếng về việc xướng họa thơ từ với Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948. Hồ Chủ tịch đã tặng ông bài thơ bằng chữ Hán:
Ông đã họa lại như sau:
Chú thích |
Súng là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt hoàn toàn mục tiêu. Súng được trang bị cho cá nhân hoặc một nhóm sử dụng. Loại vũ khí có nguyên tắc cấu tạo như súng nhưng lớn hơn về kích thước nòng, đạn, tầm bắn, phương pháp xạ kích... được gọi là pháo. Theo quy ước của phương Tây, trong kỹ thuật vũ khí, cỡ nòng của vũ khí nhỏ hơn 20 mm thì được gọi là súng, còn lớn hơn gọi là pháo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp ngoại lệ, ví dụ như các súng chống tăng (như RPG-2 (B40), RPG-7 (B41) hay súng cối (súng cối bộ binh), chúng tuy có cỡ nòng lớn hơn 20mm từ 1.5 đến vài chục lần, nhưng vẫn được gọi là súng.
Súng được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, mỗi tiêu chuẩn sẽ do mỗi quân đội của mỗi nước khác nhau quy định. Có thể kể đến như: kích thước (ngắn, dài, lớn, vừa, nhỏ); số lượng nòng (súng đơn nòng, súng đa nòng); kết cấu nòng (súng nòng trơn và súng nòng khương tuyến); đặc tính cấu tạo; mức độ tự động hoá (súng tự động, súng bán tự động, súng không tự động,...); tính năng tác dụng (súng trường, súng máy,...); loại đạn sử dụng (7.62, 5.56, 5.45,...); ....
Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên hay đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su", hay các ống phụt dùng làm công cụ cũng được gọi là súng, như "súng bắn đinh". Loại dùng trong quân sự như súng phun lửa (chúng phun hỗn hợp lửa và vật liệu cháy để gây sát thương hoặc tiêu diệt đối phương) có lúc cũng không phải là súng đúng nghĩa.
Hiện nay, có nhiều loại súng khác nhau đã được chế tạo, nhưng nhiều hơn cả là loại súng sử dụng đạn có vỏ và đầu đạn bằng kim loại, sử dụng thuốc súng để đạn qua một cái ống. Cái ống đó được gọi là "nòng". Nòng súng là bộ phận có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn bắn chính xác về phía mục tiêu. Nòng súng vì phải làm việc trong môi trường có nhiệt độ cao, áp suất lớn và độ mài mòn mạnh nên chúng đòi hỏi chi phí (vật liệu, công nghệ, nhân công) và thời gian gia công rất tốn kém để có độ bền cao hơn.
Phân loại
Theo nguồn năng lượng sinh công khi bắn, có súng hỏa khí, súng hơi, súng cơ và súng điện tử.
Theo đặc điểm kết cấu và tính năng hoạt động, có: Súng ngắn, súng trường, cácbin, tiểu liên, súng máy (bao gồm tiểu liên, trung liên, đại liên), súng phóng lựu...
Theo kết cấu nòng súng, có: Súng nòng trơn và súng nòng có rãnh xoắn.
Theo đối tượng trang bị, có: Súng bộ binh, súng trên máy bay, súng trên xe chiến đấu...
Theo biên chế sử dụng, có: Súng cá nhân và súng tập thể.
Theo phương pháp sử dụng, có Súng cầm tay và súng có giá.
Theo đối tượng tác chiến, có: Súng chống bộ binh, súng chống tăng, súng máy phòng không...
Theo mức độ tự động hóa, có: Súng không tự động, súng bán tự động (tự động nạp đạn) và súng tự động.
Theo số nòng, có: Súng một nòng, súng hai nòng và súng nhiều nòng...
Súng có thể bắn ra các loại đạn (đạn súng thông thường, đạn chì, đạn ghém, đạn lựu phóng, đạn chống tăng...) hoặc phương tiện sát thương khác (như chất cháy, mũi tên...). Đạn có thể nạp từ đuôi hay đầu nòng, từng viên hay nhiều viên chứa trong các hộp, băng...
Các kiểu súng đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XIII - XIV ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XVI về trước chủ yếu sử dụng súng hỏa mai, Súng kíp ra đời cuối thế kỷ XV và được dùng rộng rãi đến giữa thế kỷ XIX. Sau đó xuất hiện súng có rãnh xoắn, phát hỏa bằng kim hỏa. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện súng tự động - loại súng phổ biến nhất hiện nay.
Nguồn gốc súng
Thuốc phóng xuất xứ từ Trung Á, nơi sa mạc có nhiều mỏ diêm sinh tự nhiên, sau đó truyền vào Trung Quốc vào khoảng đầu Công nguyên, cùng với kỹ thuật chế những chất dễ cháy. Trong thiên niên kỷ thứ nhất người ta đã dùng "hỏa hổ", là một thứ súng phun lửa. Đến thời nhà Tống cũng xuất hiện những giàn tên lửa đầu tiên. Đến cuối đời Nam Tống, vào năm 1259, ở phủ Thọ Xuân, huyện Thọ, tỉnh An Huy (Trung Quốc), người ta đã chế tạo ra "đột hỏa thương", sử dụng thuốc phóng nhồi vào ống tre và nhồi tiếp một viên đạn hình cầu; đốt cháy thuốc nổ, viên đạn được bắn đi. Từ đầu thiên niên kỷ thứ 2, kỹ thuật luyện kim và trộn thuốc phóng hoàn thiện, người ta dần dần chế ra súng sát thương bằng đạn, thay cho lửa. Từ đó, ở phương Đông, súng có tên là "bác" (tức "súng"), "thần công" (công phá như thần), "thần cơ" (có nguyên lý hay máy móc của thần), "hỏa thương" (thương lửa), "hỏa mai" (mồi bằng lửa)... Từ thời nhà Tống, tiếng súng còn được dùng làm hiệu lệnh, nên còn có tên là "pháo", loại súng chuyên để làm việc này còn gọi là "súng lệnh", để phân biệt với "pháo lệnh" là ống tre nhồi thuốc phóng không nòng.
Ngày nay trong tiếng Việt, "pháo" chỉ "súng lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng từ Hán-Việt "đại bác". Đồng thời, chữ "pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm. "Súng" trong ngôn ngữ thường nói hay dùng để chỉ súng cầm tay.
Trong khoa học quân sự, hiện có rất nhiều môn nghiên cứu về súng như: Nguyên lý kết cấu Vũ khí có nòng, nguyên lý máy tự động vũ khí.... Khoa học nghiên cứu về chuyển động của đạn, gọi là "thuật phóng", bao gồm các môn nhỏ hơn là "thuật phóng trong" mô tả chuyển động của đạn trong nòng và "thuật phóng ngoài" mô tả chuyển động của đạn ngoài nòng, thuật phóng trung gian nghiên cứu chuyển động từ khi đạn ra khỏi nòng đến khi nó đạt vận tốc lớn nhất, có thể coi thuật phóng trung gian là một phần của thuật phóng ngoài.
Súng trong hệ Nato cũng được chia thành rất nhiều loại, ví dụ Assault Rifles (Súng trường tiến công), Pistols (Súng ngắn), Machineguns (súng máy)...
Thuật phóng
Trong lịch sử, thuật phóng trong được xây dựng qua ba giai đoạn, theo khả năng tính toán tăng lên, người ta tăng khối lượng tính. Ban đầu, các nhà bác học coi tốc độ cháy của thuốc phóng là nhanh tức thời, khí cháy không có tỷ khối, áp suất trong nòng luôn đồng đều. Điều này có thể mô tả gần đúng những súng yếu thời cổ nhồi thuốc nổ đen, chỉ cần tính toán đơn giản. Tiếp theo, đầu thế kỷ XX, người ta đã biết cắt lớp khối khí thuốc và mô tả dược tốc độ cháy, điều này chứng minh được áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều trong nòng, đặc biệt quan trọng khi lượng thuốc nhồi tăng, lớn gấp nhiều lần khối lượng đầu đạn. Mức thuật phóng này cũng đã mô tả được gần đúng ống phóng không giật và cho ra đời các súng chống tăng phản lực như B41, ĐKZ, mô tả được biến đổi áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều ở các đoạn khác nhau trong nòng. Ban đầu, thuật phóng được mô tả thành các bài toán song song, cho hàng nhiều người tính thủ công một lúc, người Nga có nhưng đơn vị tính toán lớn. Giai đoạn 3, hiện nay chạy được trên máy tính, băm nhỏ khí thuốc ra thành những phần tử nhỏ. Điều này mô tả được các hiện tượng cuộn, thắt dòng và những hiện tượng khác liên quan đến áp suất và tốc độ không đồng đều trên mặt cắt nòng, chứng minh được ảnh hưởng của kết cấu buồng nổ, đưa ra những phương án nòng hay ống phóng ưu việt nhất. (Đoạn mang tính chất tham khảo)
Hiện nay (2016), khoa học về súng, pháo tại Việt Nam đã gần như hoàn thiện, các bộ môn đã nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề vũ khí nói chung và súng pháo nói riêng. Hoàn toàn có thể tính toán thiết kế các loại súng khác nhau, tuy nhiên do hạn chế về công nghệ luyện kim nên việc sản xuất chế tạo còn nhiều hạn chế.
Trong lịch sử, ngoài việc Hồ Nguyên Trừng làm rạng danh đại bác Việt Nam thì năm 1947, ông Trần Đại Nghĩa cũng chế dược bazooka kiểu 1944 Mỹ, góp phần quan trọng vào chiến công thắng Pháp. Trong Khởi nghĩa Hương Khê cuối thế kỷ XIX, lãnh tụ Cao Thắng cũng chế được súng trường kiểu Pháp, tuy nhiên chưa có khương tuyến (rãnh xoắn).
Thế kỷ XIX
Thế kỷ XX
Pháo (đại bác)
Pháo (còn gọi là đại bác) là loại súng/vũ khí cộng đồng có cỡ nòng lớn từ 20 mm trở lên để phóng hoặc bắn các loại đạn nhằm tiêu diệt sinh lực và phương tiện của đối phương. Ngoài ra, nó cũng được dùng cho các nhiệm vụ khác (tạo khói, chiếu sáng...). Trong lịch sử, đại bác có sự phát triển đi trước các loại súng cá nhân và cộng đồng khác. Ở phương Đông, bản thân từ đại bác dùng để chỉ loại pháo cỡ lớn. Từ pháo trong thuật ngữ quân sự cũng khác với từ pháo trong dân gian dùng để chỉ các loại quả nổ bằng giấy quấn quanh một liều thuốc nổ (hoặc thuốc cháy) nhỏ để sử dụng cho mục đích giải trí. Pháo là vũ khí cơ bản của binh chủng pháo binh, có mặt trong các quân chủng: Hải quân (pháo binh hải quân), lục quân (pháo mặt đất, pháo bờ biển), phòng không (pháo cao xạ), binh chủng đặc biệt (pháo laser).
Pháo được chia làm nhiều loại:
Theo môi trường và đối tượng tác chiến có pháo mặt đất, pháo bờ biển, pháo phòng không (cao xạ), pháo hạm, pháo tăng, pháo chống tăng.
Theo tính năng: pháo lựu, pháo nòng dài, pháo cối, pháo không giật
Theo cách thức dẫn đạn: Pháo có nòng, pháo phản lực
Theo cấu tạo mặt trong của nòng: pháo có nòng rãnh xoắn, pháo nòng trơn.
Theo khả năng cơ động: pháo cố định (thường đặt trong pháo đài), pháo xe kéo, pháo tự hành, pháo mang vác (pháo nhẹ, sơn pháo).
Cơ cấu hãm lùi, đẩy lên
Khi bắn, tỷ lệ khối lượng giữa nòng pháo và đạn càng cao thì càng ít giật, do tỷ lệ động năng tác động vào pháo giảm. Do giá pháo của Thần cơ thương pháo còn tồi nên đúc nòng rất nặng, ví dụ Hải pháo Thế kỷ XIX trên, thừa kế các pháo nòng dày cổ đại. Điều này làm pháo thì nặng mà bắn đạn thì nhẹ. Điều này được cải tiến trong Thế kỷ XX, cùng với việc dùng những hợp kim mới cho phép nòng mỏng, dài mà chịu được áp lực lớn. Pháo nhẹ mà ít giật.
Pháo bắn thẳng và lựu pháo có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng. Bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau, tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về. Đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Tuy là máng nhưng của Nga và Đức là ống tròn, đến giờ thì các pháo hầu như ống tròn.
Thông thường có ba loại máy đẩy về và hãm lùi. Các lựu pháo dùng máy hỗn hợp, dùng khoang chứa dầu không đầy hoặc piston trôi, một máy chung hai chức năng. Các pháo bắn chính xác như pháo chống tăng dùng máy lùi và máy đẩy về riêng, có cơ chế lùi tự do khi đang bắn. Pháo trên xe tăng trước đây là pháo giá cứng, dùng toàn bộ khối lượng xe hãm pháo. Các xe tăng hiện đại dùng lùi ngắn (T-80, T-90 lùi 300mm).
Đạn, liều và khóa nòng.
Thuốc phóng đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ XX vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren), khóa nòng ren cắt. Sau này, súng dùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then xoay. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dày làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập qua tấm mỏng vào, ép hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng-hạt nổ, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn, quay tầm hướng, tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay thiết giáp hạm (đúng hơn là "tàu chiến đấu"). Các hệ thống đối kháng dùng súng này chuyên để diệt nhau, có hai nhiệm vụ lớn nhất là bắn loại súng diệt nhau và chống lại đạn.
Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá
Ba cải tiến quan trọng trong thế kỷ XIX là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá.
Nhờ nòng xoắn có các rãnh xoắn trong thành nòng, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước tâm khối lượng. (Có thể hình dung như con quay đồ chơi, luôn lộn ngược trên đinh). Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Những nòng xoắn đầu tiên có từ thế kỷ XV, nhưng nhồi thuốc miệng nòng dùng nòng xoắn rất khó.
Các thuốc phóng mới có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ống trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn, cháy lâu hơn. Nhờ điều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng lựu pháo, nòng dày của pháo hạm vì thế dần được thay bằng nòng mỏng như M-46.
Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ XX (khoảng năm 1902). Đến giữa thế kỷ XX, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành "pháo tự hành" và "xe tăng". Súng cũng được đặt trên các tàu biển bọc thép lớn, hệ thống diệt tàu trên biển này được gọi là tàu chiến đấu (battle ship), tuy nhiên, dịch theo Hán-Việt là thiết giáp hạm hơi khác.
Súng ngắn
Các súng cầm tay nhỏ gọn nòng ngắn gọi chung là "súng ngắn", tiếng Anh là pistol. Những súng cầm tay nòng ngắn mạnh thường sử dụng đạn ngắn nhưng đường kính lớn, giảm hạn chế do chiều dài nòng gây ra.
Súng ngắn có ổ xoay còn được gọi trong tiếng Anh là revolver.
Súng ngắn bắn phát một
Tuy từ "súng ngắn" trong khoa học quân sự chỉ chung các loại súng cầm tay nòng ngắn nhưng dùng trong ngôn ngữ thông thường hơi khác, loại súng cầm tay nòng ngắn gọn nhỏ bắn phát một được gọi là súng ngắn. "Súng ngắn" gọn nhỏ chứa ít đạn, bắn phát một dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Súng này còn hay được gọi là "súng lục", "súng sáu". Súng ngắn có từ thời súng kíp, để tăng số lượng đạn nạp sẵn, người ta làm 2 nòng. Khẩu Colt-1851 Mỹ hồi giữa thế kỷ XIX dùng ổ quay 6 buồng đốt, đạn vỏ giấy, có lẽ là súng dùng đạn có vỏ đầu tiên, vì nó mà có tên "súng lục". Đến đầu thế kỷ XX các súng ngắn phát một dùng băng xoay vẫn phổ biến, như Browning, Nagant M1895.
Ví dụ về súng ngắn ngày nay (còn gọi là súng ngắn tự động) như Fedor Tokarev TT-33 thế chỗ Nagant M1895. (Tokarev-Tula kiểu 33, Tokarev ở Tula, hay được gọi tên tiếng Việt là K-54), khẩu này ban đầu bắn đạn 7,63 x 25mm, các phiên bản hiện đại (vẫn sản xuất) dùng cỡ đạn 9mm. Colt M1911 cũng thay thế cho các súng ổ xoay. Thời đó hàng là FN M1900 John Browning (1896). Makarov là đời thay thế cho TT-33. Thay cho ổ xoay là khóa nòng lùi.
Trong hồ sơ thuế, hải quan của Việt Nam phân biệt súng ngắn và súng ổ xoay-để tương thích với tài liệu tư pháp nước ngoài. Nhưng trong ngôn ngữ dùng chung vẫn thường gọi là súng ngắn.
Súng máy nhỏ
Loại súng máy dùng chung đạn với các súng ngắn gọi là "súng máy nhỏ", ví dụ PPSh-41 hồi thế chiến 2 (tên Việt Nam là K-50). Khẩu súng máy nhỏ nổi tiếng ngày nay là Uzi của Israel, thiết kế đầu những năm 1950, đến năm 1951 được chấp nhận trang bị, năm 1956 tham chiến lần đầu tạo thành công lớn. Súng Uzi dùng cỡ đạn 9x19mm Parabellum, cải tiến từ khẩu CZ Model 25 của Tiệp Khắc. Các súng trường và súng liên thanh nhỏ đều có những ưu thế riêng. Súng liên thanh nhỏ có uy lực rất mạnh ở tầm gần. Tuy nhiên, cũng rất khó sử dụng chúng ở tầm 200 mét như các thông báo. MP7 mang đạn đường kính nhỏ 4,6x30mm nên gọn hơn, nặng 2 kg đầy đủ băng 40 viên.
Một số súng cạc bin tính năng không khác nhiều súng ngắn bắn nhanh, như AK-74U (AK-74 nòng ngắn) nặng 2,71 kg. Các súng ngắn bắn liên thanh có thể dùng khóa nòng lùi với trích khí thẳng hoặc trích khí ngang (MP7).
Nhiều người hay nhầm submachine gun (súng máy cỡ nhỏ) là súng tiểu liên.
Vũ khí cá nhân chính
Súng trường, đọc tiếng Việt đúng là súng dài, tuy nhiên trong tiếng châu Âu ngày nay, súng trường được gọi là rifle, tức là nòng xoắn, đây là thói quen nói tắt súng dài nòng xoắn. Thực ra các súng hỏa mai, súng kíp nòng trơn đã phân ra súng nòng dài làm vũ khí chính của bộ binh, súng nòng ngắn dắt lưng cho gọn, súng trung bình là cạc bin (súng kỵ sĩ).
Khác với đại bác, súng trường được thiết kế sao cho gọn nhẹ, tin cậy, chính xác nhưng tầm bắn hiệu quả thấp. Những súng trường nòng xoắn đầu tiên xuất hiện trước thế kỷ XIX, nhưng đến hết thế kỷ này mới phổ biến súng trường có vỏ đạn và nòng xoắn. Do lượng thuốc nổ nhỏ nên không dùng viên trụ rỗng và dùng miếng thuốc dẹt. Người ta cũng thấm các chất làm chậm tốc độ cháy lên bề mặt thuốc, để khi giảm diện tích bề mặt, tốc độ thuốc cháy ăn sâu nhanh lên, điều hòa tốc độ cháy. Vỏ đạn có gờ hay khe phía sau cùng để một cái móc trên khóa nòng móc vào, kéo vỏ đạn ra khỏi nòng. Gờ dần thay bằng khe tin cậy hơn.
Súng trường trợ chiến
Đầu thế kỷ XIX, trong khi châu Á vẫn mải mê với đại bác thì châu Âu đã phát triển và trang bị nhiều súng trường, từ đó, súng này trở thành vũ khí chính. Cuối thế kỷ XIX, súng trường bắn phát một có các loại khóa nòng then xoay, đòn bẩy, bơm, khối quay. Tên gọi súng trường trợ chiến do tính năng ban đầu của nó chưa ưu việt, thời gian nạp thuốc đạn, đạn, ngắm bắn, khai hỏa tương đối dài, tốc độ bắn rất chậm (như pháo), nên chỉ được dùng để hỗ trợ cho các loại vũ khí lạnh khác đang thông dụng như đao, kiếm, lưỡi lê.
Để thống nhất, người ta chọn ra một mẫu súng trường, lấy làm tiêu chuẩn cho quân đội mỗi nước trong một thời kỳ. Súng đó sẽ được gọi là "súng trường trợ chiến". Điều này làm thuận tiện việc huấn luyện, hậu cần, trang bị...đảm bảo huy động sức mạnh tối đa của đất nước khi có chiến tranh. Loại súng được chọn sẽ được chế tạo và đưa vào sử dụng hàng loạt sau khi đăng ký bản quyền. Từ bản quyền được cấp, các hãng sẽ duyệt mẫu súng riêng với chủ bản quyền như quân đội, từ đó nhận hợp đồng chế tạo và súng sẽ hơi khác ở mỗi hãng.
Sau Nga và Đức, mãi đến gần Thế chiến 2 các nước khác mới đặt ra yêu cầu trang bị súng trường trợ chiến nhưng ở mức độ phổ cập hơn. Ví dụ như Mỹ, họ chỉ đặt ra yêu cầu trang bị lại cho quân đội từ kiếm và súng ngắn sang trang bị phổ biến là súng trường. (trừ cấp chỉ huy vẫn giữ kiếm và súng ngắn như cũ)
Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser
Đây là tên thường gọi của hai loại súng trường phục vụ của Nga và Đức. Chúng ra đời thập niên 189x. Các súng này ra đời cùng với việc xuất hiện đạn có vỏ, đáy vỏ dày, có gờ hay rãnh móc, đầu đạn có vỏ mềm.
Mosin và Mauser đều là tên hai nhà thiết kế, sản xuất súng. Mosin thường được phương Tây gắn chữ Mosin Nagant để kể công, nhưng thật ra cái bộ phận Nagant trong đó đã biến mất từ lâu. Mosin và Mauser là hai súng trường được sản xuất nhiều và dùng lâu nhất thế giới. Hàng trăm triệu các súng này đã được làm và dùng cho đến nay, gấp hàng chục lần các súng trường hạng nặng khác. Chúng đều không phải là một khẩu cụ thể, mà là một tập hợp các tiêu chuẩn về hình học, vật liệu, công nghệ, tính năng, sử dụng...được sản xuất ở nhiều nước, nhiều hãng khác nhau trong các điều kiện rất khác nhau.
Mosin và Mauser là những súng trường trợ chiến điển hình, trong khi đó, ở các nước Anh-Mỹ-Pháp không có khái niệm súng trường trợ chiến hoàn chỉnh như chúng. Khác với các súng khác, bản quyền Mosin và Mauser được nhà nước nắm giữ và đặt hàng rộng rãi. Chúng được thiết kế để sản xuất ở nhiều điều kiện khác nhau. Trong khi đó, các súng trường Mỹ chỉ sản xuất trong điều kiện của một hãng nào đó. Phần công cộng duy nhất là trang bị, chứ không phải thiết kế và sản xuất.
Các súng Mosin và Mauser đều được ra đời trong một cuộc thi tuyển thiết kế rộng và lâu, rồi một quá trình cải tiến cũng lâu dài. Kết quả của những cuộc thiết kế đó là hai khẩu súng có chất lượng, số lượng sản xuất, thời gian và khu vục sử dụng vượt xa so với tất cả các loại súng trường cùng thời khác. Thời gian và không gian sản xuất các súng này cũng vậy, những cải tiến Mauser mới nhất được Trung Hoa Dân quốc sản xuất dập theo mẫu có sẵn trong các công xưởng được trang bị rất thô sơ.
Cả hai khẩu ban đầu đều được thiết kế trên hai phiên bản súng trường và cạc-bin, nhưng sau những năm 1930, chỉ còn phiên bản cạc-bin của chúng được sản xuất.
Mauser là súng trường trang bị chính trong quân chủ lực Việt Minh thời trước Cách mạng tháng Tám. Nguồn cung chủ yếu là chiến lợi phẩm lấy từ Pháp và Trung Hoa Dân quốc, sau đó là từ viện trợ. Thời đầu kháng chiến chống Pháp, cũng có một ít súng Mosin đến tay Việt Minh từ người Nhật, nhưng lại là phiên bản rất cổ do quân đội Nhật thu được từ chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905). Cuối cuộc kháng chiến, người ta nhận được một số phiên bản Mosin chính hãng từ nguồn viện trợ. Nhưng do không thống nhất về loại đạn có thể sử dụng nên QĐNDVN chuyển giao cho các đơn vị quân địa phương và dân quân du kích. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì kiểu súng Mauser được loại bỏ khỏi biên chế vũ khí bộ binh của QĐNDVN sau Kế hoạch Z. Phần lớn số súng còn được dùng để huấn luyện tân binh, dân quan du kích hoặc cho vào lò luyện thép.
Vào năm 1882, người Nga đã đặt ra yêu cầu thiết kế súng có hộp đạn trong. Ban đầu là những cải tiến của khẩu súng Berdan cũ đang dùng. Tuy nhiên, người Nga nhanh chóng phát hiện ra rằng, cần phải thay đổi hoàn toàn bằng một loại súng mới. Họ tổ chức một cuộc thi tuyển thiết kế súng trên quy mô toàn châu Âu trong nhiều năm, năm 1888, thành lập Hội đồng thử nghiệm súng có băng đạn.
Sergei Ivanovich Mosin thiết kế một khẩu súng năm 1889. Đến năm 1891, trong cuộc chọn chung kết, Mosin thắng với một điều kiện là sử dụng tay kéo khóa nòng của Nagant. Tiền bản quyền được Hội đồng trả tiền cho Nagant và Mosin được tổ chức sản xuất súng. Ban đầu, có 3 phiên bản, phiên bản dành cho bộ binh nặng, phiên bản dành cho long kỵ binh và phiên bản dành cho kỵ binh nhẹ (còn gọi là Kỵ binh Cosack) ngắn hơn, phù hợp với việc tác chiến trên lưng ngựa. Đến năm 1930, phiên bản Mosin 1891/30 ngắn theo các bản dành cho kỵ binh Cosack được gọi là cạc-bin. Phiên bản Mosin 1891/44 ra đời năm 1944 khá hoàn thiện và được dùng nhiều ở Việt Nam (tên Việt Nam là K-44). Trong cơ chế nạp đạn, hất vỏ đạn cũ ra, người Nga chọn loại đạn gờ móc, lạc hậu nhưng thích hợp với công nghệ bậc thấp của Nga lúc đó. Điều này về sau cản trở việc phát triển súng máy Nga mà rất khó bỏ. Mauser hoạt động êm, đỡ giật hơn nhưng Mosin khỏe hơn, kích thước và trọng lượng của nó thích hợp với người Nga nhưng lại nặng và dài so với các loại súng khác. Mosin có khả năng sản xuất hàng loạt hơn do cấu tạo đơn giản, nguyên vật liệu phổ biến gồm chủ yếu là thép và gỗ thông.
Mauser ra đời dần dần. Tiến bộ hơn Nga, từ những năm 1870 Đức đã có những súng trường tiên tiến nội địa, Mauser đã dẫn đầu về thiết kế súng và ông hoàn thiện nó liên tục. Cũng như Nga, cuối những năm 1880 Đức đặt ra Hội đồng Súng cầm tay. Không hiểu sao, Mauser đã không tham gia hội đồng. Hội đồng nhanh chóng tiếp cận hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật mới: công nghệ dập vỏ đạn, công nghệ bọc đầu đạn, sản xuất súng... đặc biệt là chấm dứt việc sử dụng thuốc nổ đen. Gewehr 1888 (bộ binh 1888, G88) là khẩu súng trường trợ chiến đầu tiên được chấp nhận. G88 cũng có bản cạc bin, nó được sản xuất ít vì phiên bản Mauser ra liền theo. Khẩu này thiết kế không có đóng góp của Mauser và được gọi là Súng theo kiểu 88. Tuy vậy, G-88 thừa kế rất nhiều đặc điểm của các khẩu Mauser trước đó.
Xem thêm G88.
Mauser nhanh chóng nhận thấy vai trò của Hội đồng và đem kỹ thuật của mình đóng góp, hãng hoàn thiện G88 và cho ra các Model 1889/90/91, đã hình thành nên cấu tạo súng Mauser. Nhưng chỉ đến năm 1898, khi loại đạn mới hoàn chỉnh, Mauser 1891/98 mới giống các súng sau này. Khoảng những năm 1930, phiên bản cạc bin mới được hoàn thiện và được sản xuất lớn ở rất nhiều nước. Đạn hoàn toàn không có gờ móc, hết sức tiên tiến lúc đó và thuận lợi sau này. Năm 1898, hình thành Mauser báng cải tiến ngắn Model 98k (k=kurz ngắn). Phiên bản cạc bin báng ngắn có ký hiệu Karabiner 98k K98k. Cũng có người viết G98, nội bộ Đức hay dùng cách viết súng bộ binh 98.
Trung Hoa Dân quốc đã sao chép khẩu Mauser để sản xuất ngay từ những ngày đầu tiên lập quốc ở Quảng Đông. Không thể thống kê được, nhưng chỉ tính trước Thế chiến II đã có hàng chục triệu khẩu Mauser chỉ tính riêng loại do Trung Hoa Dân quốc sản xuất theo mẫu. Tốc độ sản xuất của Mosin cũng đáng kinh ngạc không kém, trong điều kiện công nghiệp kỹ thuật rất thấp kém mà đến 1904, Nga đã có gần 4 triệu khẩu.
Ví dụ về các súng trường không đạt hoàn toàn khái niệm phục vụ là Springfield Model 1903. Mỹ thuê Mauser thiết kế Springfield Model 1903 để thay thế Springfield Model 1892 (sao chép súng trường Krag. Tuy nhiên, Springfield Model 1903 không có khóa an toàn kim hỏa đặc trưng của Mauser. Springfield Model 1903 có đạn giống Mauser, cỡ đạn 0,308inch (hơi to hơn đạn Mosin 7,62mm do quy định rãnh xoắn), nhưng đạn sùng thuốc súng Cordic Mỹ. Loại đạn 30-03 đầu tù được thay bởi 30-06 năm 1907 với kiểu đầu đạn nhọn nặng đuôi (giống đạn Mauser và Mosin năm 1898). Việc chọn kích thước viên đạn không hợp lý (thuốc phóng ít, đầu đạn nặng) và Springfield Model 1903 trở nên yếu kém hơn Mauser và Mosin. Springfield Model 1903 cũng không bao giờ được chấp nhận trong biên chế vũ khí của quân Hoa Kỳ và được rút ra khỏi vai trò súng trường chủ lực vào những năm 1930.
Mauser
Mauser
Mauser
Mauser
Súng trường không tự động
Đầu thế kỷ XX, thường người ta sử dụng súng trường có khóa nòng then xoay điều khiển tay. Mỗi lần bắn phải nạp đạn lại. Để nạp đạn, người bắn xoay cần gạt để mở hãm khóa nòng, kéo cần gạt về sau, vỏ đạn va phải một gờ nhô ra, bật ra khỏi súng. Sau đó, người ta chế ra băng đạn trong súng, đạn dự trữ sẵn trong súng 5-10 viên, mỗi lần bắn xong chỉ cần kéo cần gạt là tháo vỏ và nạp đạn lại được. Khóa nòng có mấu gạt móc đạn từ trong băng. Các viên đạn còn lại được lò xo đẩy vào khoảng trống.
Các khẩu Mosin và Mauser đều là Súng trường không tự động.
Súng trường hạng nặng
Khẩu Winchester Model 70, bắt đầu sản xuất từ 1936, nay vẫn được cải tiến và sản xuất, đây là loại súng trường hạng nặng. Đầu thế kỷ XX, những súng trường hạng nặng còn dược gọi là "súng trường chiến đấu", có nòng dài nhất và đường kính đạn cũng lớn. "Súng trường hạng nặng" đầu thế kỷ XX là vũ khí chính của bộ binh, nay hay dùng cho mục đích đặc biệt, như bắn tầm xa, bắn tỉa, bắn chính xác... ví như
VSSK Vychlop 12,7mm
KSVK 12,7mm
Hai khẩu Mosin và Mauser đều nằm trong nhóm Súng trường hạng nặng. Lúc đó, cỡ súng này là vũ khí chính. Ban đầu Mosin và Mauser đều có phiên bản cạc bin, sau 1930, chúng đều được cải tiến làm ngắn gọn tiếp và đầu Thế chiến II, vẫn là súng chủ lực.
Súng trường bán tự động
Sau những súng trường không tự động còn lại của thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX xuất hiện súng trường bán tự động. Có nhiều cơ chế vận hành súng tự động, lấy năng lượng từ phát đạn. Ví dụ: lùi dài, lùi ngắn, lùi dùng khối quán tính, trích khí hành trình, trích khí xung. Súng trường bán tự động dùng năng lượng phát nổ để tháo vỏ, nạp viên khác và lên cò, nhưng chỉ bắn phát một. Khẩu Fedorov Avtomat bắn đạn 8,5 g đi 860 m/s, thiết kế năm 1911, đến thế chiến 1 dùng băng đạn tháo được, nhưng sản xuất rất ít (25 ngàn khẩu) do những khó khăn về đạn, tuy vậy, nó vẫn là khẩu súng trường tự động đầu tiên được chấp nhận quy mô lớn. Fedorov Avtomat dùng cơ chế lùi ngắn. Sau này, súng trường tự động thường dùng trích khí, khóa nòng xoay. Hồi đầu Thế chiến 2 có SVT-38, SVT-40. Phía Mỹ có khẩu M1 Garand khóa dùng nòng trích khí then xoay, nhưng vẫn dùng kẹp đạn, thiết kế đầu những năm 1930, đưa vào trang bị 1937.
Phần lớn các Súng trường bán tự động sau Thế chiến II đều có cấu tạo và tính năng lai súng trường cỡ lớn-trung liên và thường có trong biên chế cấp tiểu đội. Nhưng trong Chechnya-1999, Nga có xun hướng tách riêng các chức năng này. Nguyên nhân chính là do súng cá nhân AK-74 có cỡ đạn quá nhỏ (5,54 mm) khó thống nhất với Tiểu liên cỡ lớn (còn được NATO gọi là "súng trường tấn công") như AK-47 và AKM, trong khi chức năng bắn tỉa hiện đại lại yêu cầu tăng kích thức đạn lên đến cỡ trọng liên 12,7mm. Ví dụ: VSSK Vychlop 12,7mm và KSVK 12,7mm
Súng cạc-bin, súng trường nòng ngắn
Khẩu súng trường nòng ngắn đầu tiên là khẩu Remington, xuất hiện trong Chiến tranh miền Tây Hoa Kỳ, được trang bị cho quân đội (trong đó, kỵ binh được trang bị nhiều nhất), cảnh sát và cả dân thường. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có được tính ưu việt của các khẩu cạc-bin sau này do vẫn phải lên đạn bằng tay, mặc dù cơ cấu kéo khóa nòng đã được nhất thể hoá với vòng cò, làm cho xạ thủ lên đạn nhanh và dễ dàng hơn. Súng cạc-bin ra đời đầu thế kỷ XX có chiều dài nhỏ súng trường, có thể dùng cùng loại đạn với súng trường gọi là cạc-bin, trong tiếng Việt từ này xuất xứ tiếng Pháp. Sau "súng trường cỡ lớn" thì cạc-bin lên ngôi làm vũ khí chính của bộ binh do nó gọn nhẹ hơn, người lính mang được nhiều đạn hơn và đặc biệt là bắn nhanh hơn nhời cơ cấu nạp đạn và điểm hỏa bán tự động. Hồi đầu thế chiến 2, những súng trường tự động và súng máy nhỏ xuất hiện nhiều, tỏ ra ưu thế. Khẩu Cạc-bin M1, sau được cải tiến thành Cạc-bin M2 và Cạc-bin M3. Khẩu Cạc-bin M4, phiên bản nhỏ gọn của súng trường M16A2) là những ví dụ về súng cạc-bin.
Tiểu liên, trung liên
Tiểu liên
Có tên tiếng Anh là: Sub-machine gun (Súng máy cỡ nhỏ - SMG); là vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ súng máy; tầm bắn lý thuyết có thể đến 500 m (K-50, Thompson, M3, Tull) nhưng cự li sát thương có hiệu quả không quá 300 m, có loại chỉ 100 m (M3); cỡ nòng từ 5,56 mm (M16) đến 12 mm (M3), phổ biến nhất là hai cỡ nòng 5,56 mm (tiêu chuẩn NATO) và 7,62 mm (tiêu chuẩn khối Vacsava). Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại tiểu liên cỡ lớn (AK-47) có thể lắp lưỡi lê để có thể giáp lá cà. Trong chiến đấu, tiểu liên tạo mật độ hỏa lực cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng ngự, tiểu liên phát huy độ chính xác khá cao khi bắn điểm xạ (2 đến 3 phát liên tục).
Tiểu liên cỡ lớn
Có tên tiếng Anh: Light Machine Gun (Súng máy hạng nhẹ - LMG), là vũ khí cá nhân chủ yếu của bộ binh, được NATO gọi là "Súng trường tấn công" (do tên lóng bằng tiếng Anh là assault rifle). Tên này được nước Đức đặt ra, yêu cầu của họ là người bộ binh có hỏa lực mạnh. Do có uy lực gần bằng súng trường và sử dụng được đạn súng trường nên người ta còn gọi nó là súng trường tự động.
Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, chỉ ngắn hơn súng trường bán tự động và súng trường hạng nặng một chút, kết hợp các ưu thế của súng trường và súng máy nhỏ, tầm bắn hiệu quả đến 400 mét. Những súng trường trước đây có thể sát thương ở rất xa, nhưng hiệu quả xạ kích thấp, ngay cả ở tầm bắn gần do tốc độ bắn chậm. Đến sau thế chiến 2, tiểu liên cỡ lớn đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc, dùng khe móc thay cho gờ móc với băng đạn cong tháo lắp nhanh, khóa nòng then xoay và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Để phát bắn đầu tiên chính xác, các súng trường tấn công đều bắn khi nòng đã khóa, người thiết kế phải tính cân bằng súng để ổn định khi bắn. Để tiết kiệm đạn, súng cho phép chọn giữa các chế độ bắn: AK có hai chế độ chọn bắn từng phát và liên thanh, M16 có chế độ chọn bắn 3 viên và liên thanh. Do điều kiện tác chiến, bộ binh Việt Nam đã hoàn thiện chế độ bắn hai viên liên tiếp cho súng AK, được gọi là kỹ năng điểm xạ, dựa vào kỹ thuật bóp và nhả cò nhanh và vừa đủ của xạ thủ. Các tiểu liên cỡ lớn đều có thể thay băng đạn nhanh chóng. Bằng kinh nghiệm chiến tranh, người Đức chế ra MP44, còn gọi là StG 44 (súng bão 44). Năm 1943, người thợ làm súng ba đời Kalashnikov kết hợp với kinh nghiệm chiến trường chế ra hai mẫu AK-1 và AK-2 khi ông bị thương và đang nằm viện. Đến năm 1947, ông hoàn thiện và trình làng khẩu Avtomat Kalashnikov 1947 (AK-47). Khẩu súng đã được Hội đồng quốc phòng Liên Xô duyệt và trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949. Sau đó, người Mỹ đưa ra M16. Sau này, M16 có nhiều cải tiến cho ra đời khẩu AR-15 (tiểu liên cực nhanh), có một số chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn tiết kiệm đạn, ổn định, tin cậy. Thời điểm diễn ra những cải tiến này khoảng 1970. Tuy nhiên, không khẩu súng nào thành công như AK-47.
Người Đức đã thiết kế STG45 ngay trong Thế chiến 2 nhưng không kịp trang bị, sau này Tây Ban Nha mua bản quyền STG45 chế ra khẩu CETME những năm 1950, khẩu SIG 510 Thụy Sĩ cũng theo mẫu này nhưng dùng vật liệu mới. Các súng này dùng cơ chế làm chậm lùi hãm cho khóa nòng. Cơ chế lùi khóa nòng này dùng đòn bẩy tăng tốc dộ khối lùi, giảm khối lượng. Kỹ sư Youriy Alexandrov người Nga đưa ra mẫu khóa nòng mới là Balanced Automatics Recoil System (BARS, hệ thống lùi tự động cân bằng) đầu những năm 1970. Hệ thống này gọn nhẹ, bắn nhanh, êm, ít thay đổi hướng súng khi bắn liên thanh, dần dần thay cho kiểu khóa nòng trích khí ngang của AK-47. Khẩu súng đầu tiên dùng kiểu này là AL-7 nhưng không được duyệt sử dụng, AK-107 dùng khóa nòng lùi này.
Ngày nay, tiểu liên cỡ lớn phát triển theo xu hướng dùng đạn đường kính nhỏ, tăng sơ tốc, tăng tốc độ bắn vừa phải, hoạt động cân bằng ổn định. Nhờ đó tăng khả năng sát thương và bắn trúng, tăng uy lực súng mà giảm được khối lượng súng đạn bộ binh mang theo. Cỡ đạn hay dùng là 5,45x39 mm Nga; 5,8×42 Trung Quốc; 5,56x45 mm NATO. Những đại diện của súng trường tấn công ngày nay là AK-107 đạn Nga, AK-108 đạn NATO (giống hệt AK-107), M16 Mỹ, các phiên bản M16A2, M16A3 M16A4, SIG 510 Thụy Sĩ xuất xứ từ STG45, FAMAS của Pháp (dùng khối lùi đòn bẩy làm chậm cũng làm cho súng nhẹ hơn như khối lùi then ngang làm chậm) và QBZ-95 Trung Quốc, sao chép FAMAS Pháp, bắn đạn Trung Quốc. M4 cạc bin Mỹ, tức M16A2 phiên bản nhỏ gọn, là loại cạc bin được sử dụng như súng trường tấn công. Trong các súng trường tấn công hiện đại đó, ngày nay chỉ còn người Mỹ giữ khóa nòng xoay trích khí.
Các tiêu chuẩn đặt ra cho tiểu liên cỡ lớn ngày nay là:
Tầm bắn hiệu quả từ 300 mét trở lên.
Chọn 2 đến 3 chế độ bắn.
Tiết kiệm đạn ở chế độ bắn chậm.
Uy lực mạnh ở chế độ bắn nhanh.
Xạ thủ mang được nhiều đạn.
Độ tin cậy cao, bền, dễ sử dụng khi chiến đấu.
Trung liên
Có tên tiếng Anh là Medium Machine Gun (Súng máy hạng trung - MMG); là vũ khí cá nhân tầm trung, thuộc họ súng máy, có chân chống đỡ nòng súng hình chữ A có thể gập lại dọc thân súng; cự li sát thương có hiệu quả đến 1000 m, tầm bắn lý thuyết có thể đạt 3000 m; cỡ nòng từ 5,56 mm đến 8 mm. Trọng lượng trung liên lớn hơn tiểu liên, thông thường từ 6 đến 10 kg. Khi trang bị cho bộ binh, trung liên chỉ cần một người sử dụng. Nó cũng có thể được gắn trên mô tô, ô tô, xe bọc thép, máy bay, trực tăng chiến đấu nhưng không phổ biến vì tầm hỏa lực hạn chế. Trung liên chỉ bắn liên thanh, không thể bắn từng phát (trừ trường hợp người bắn nạp đạn từng viên bằng tay). Riêng loại RPK có chế độ bắn giống như AK-47. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 750 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 250 phát/phút. Với mật độ hỏa lực cao, trung liên được sử dụng phổ biến tạo hỏa lực yểm hộ cấp tiểu đội, trung đội.
Mẫu súng trung liên M1918 (thường gọi là V-3) là một trong các mẫu đầu tiên. Nó được trang bị cho quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai để dùng làm súng hỏa lực cấp trung đội. Khi mới ra đời, các mẫu súng trung liên đều có loại đạn riêng. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, để nhất thể hóa các cỡ đạn dùng cho các loại súng bộ binh cá nhân, các loại trung liên dùng chung đạn với súng trường và súng tiểu liên lần lượt ra đời. Các loại RPD, RPK của Liên Xô dùng chung đạn với AK-47, CKC và K-63. Đặc biệt, RPK và AK-47 có thể dùng chung hộp đạn (cả tròn và dài) mà không càn chuyển đạn do cấu tạo của cụm gắn kết hộp đạn - thân súng giống hệt nhau.
Súng bắn tỉa
Súng bắn tỉa được chế tạo công phu, chính xác. Vì kỹ thuật phát triển mà ngày nay súng trường và súng bắn tỉa đi theo hai hướng ngược nhau, súng bắn tỉa thì đạn to, súng trường ngược lại đạn nhỏ. Trước đây, thường hay lấy súng trường chiến đấu làm súng bắn tỉa. Ví dụ là khẩu súng nổi tiếng của chiến tranh Việt Nam SVD, bất kể là ta hay địch, đều quý khẩu này như vàng và vồ lấy mỗi khi gặp. SVD bắn đạn 7.62×54mmR. Một ưu thế nổi bật của SVD là duy trì độ chính xác rất cao kể cả trong điều kiện dã chiến lâu ngày, cũng như việc hiệu chỉnh súng dễ dàng.
SVD trong thực tế cho thấy một hiện tượng lạ, nữ bắn tỉa tốt hơn nam.
Sau này, các LMG (súng máy hạng nhẹ) có chức năng bắn phát một kiêm chức súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa cấp tiểu đội. Súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa kiểu này còn được gọi là súng trường tầm xa (viễn tân bộ thương). Ví dụ như trung liên RPK, hiểu chính xác hơn đây là súng đa năng kiêm chức hỏa lực tiểu đội + súng trường tầm xa + súng trường chiến đấu. Tuy nhiên, khi cải tiến dùng đạn nhỏ như AK-74.
Cuộc chiến đấu của súng bắn tỉa là cuộc chiến đấu cuối của những súng trường chiến đấu. Các xạ thủ tránh bị phát hiện trong khi đó lại ra sức phát hiện trước đối thủ, ngắm bắn cẩn thận và trang bị súng tầm xa. Một hướng nữa là thiết kế các súng bắn tỉa tàng hình, không phát âm thanh và hồng ngoại. Sau Chechnya 1999, Nga phát triển kiểu súng bắn tỉa công nghệ cao, súng bắn tỉa VSSK Vykhlop 12,7mm không phát âm thanh và hồng ngoại, tốc độ đầu đạn dưới âm 290/s, đầu đạn rất nặng (56gram và 76gram-1170grain) xuyên 16mm thép ở 200 mét, xuyên qua giáp bảo vệ bộ binh cấp 5 Nga ở 100 mét. Súng chỉ dùng cho FSB vì quân khủng bố săn lùng nó gắt gao.
Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy
Hồi thế kỷ XIX người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ (ban đầu quay tay). Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Một số súng máy lại dùng khóa nòng hoạt động bằng trích khí, khóa nòng xoay thay then chống. Loại súng máy này cỡ nhỏ, bán đạn súng trường, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then chống như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ. Gatling là súng máy dùng động cơ ngoài, ngày nay được cải tiến dùng trích khí, nhiều nòng. Gatling có hậu duệ là khẩu GAU-8 30mm, có thể bắn đạn xuyên giáp mật độ cao, được trang bị cho máy bay chống tăng A-10 (trang bị năm 1975, 1976) nhưng sau đó được thay bởi tên lửa có điều khiển. Trong Chiến tranh Việt Nam có khẩu M61 Vulcan 20mm và M134 7.62mm lắp trên trực thăng.
Loại Gatling đặt trên phương tiện vận chuyển còn được gọi là Minigun, do cỡ đạn quá nhỏ so với cỡ súng. Ví dụ, khẩu cối 82mm chỉ nặng bằng khẩu Galing 20mm.
Năm 1862, Gatling ở Mỹ đưa ra mẫu súng Gatling, nhưng chỉ đến 1890, khi vỏ đạn hoàn thiện thì súng máy Gatling mới thực sự là khẩu súng máy. Hiram Maxim đưa ra súng máy dùng năng lượng phát bắn cuối thế kỷ XIX.
Đại liên, Trọng liên
Đại liên: có tên tiếng Anh là Heavy Machine Gun (Súng máy hạng nặng), là vũ khí cộng đồng tầm xa, thuộc họ súng máy, được đặt trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe hoặc gắn trên các phương tiện chiến đấu như mô tô, ô tô, xe bọc thép, xe tăng, trực thăng, máy bay chiến đấu. Trọng lượng toàn bộ từ 20 đến dưới 50 kg, cỡ nòng từ 7,62 mm đến 12,7 mm. Tầm bắn tối đa đến 5000 m, cực ly sát thương có hiệu quả từ 1500m đến 3000 m tùy theo loại súng. Súng chỉ bắn liên tục, không bắn được từng phát một. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 800 phát phút, tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 300 phát phút. Khi sử dụng cho bộ binh, mỗi khẩu đại liên thường cần ít nhất 2 người vận hành. Khi gắn trên các phương tiện chiến đấu, chỉ cần một người vận hành hoặc được tự động hoá vận hành bởi người điều khiển phương tiện. Do có hỏa lực mạnh ở mật độ cao, đại liên thường được dùng làm vũ khí hỏa lực yểm hộ từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn.
Trọng liên: Vũ khí cộng đồng tầm xa, cỡ lớn, thuộc họ súng máy; thường gắn trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe, trên xe kéo (rơ moóc) hoặc trên các phương tiện chiến đấu cơ giới trên bộ, trên mặt nước hoặc phương tiện bay. Trọng lượng toàn bộ từ 28 đến trên 50 kg. Mỗi khẩu có từ 1 đến 4 nòng có thể phát hỏa cùng lúc. Riêng loại M61 Vulcan của Hoa Kỳ có 6 nòng xoay tròn quanh trục thay nhau phát hoả. Cỡ nòng từ 12,7 mm đến 23 mm (trên 23 mm được coi là pháo). Tầm bắn xa nhất có thể đạt 5000m, tầm bắn có hiệu quả từ 2000 đến 4000 m. Tốc độ bắn trong thử nghiệm đạt 550 đến 1000 phát/phút mỗi nòng. Tốc độ bắn trong thực tế từ 100 đến 300 phát/phút mỗi nòng.
Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ.
Gọi là súng máy lớn tiếng Anh General purpose machine gun (súng máy đa chức năng) vì đây có lẽ là súng máy lớn mà bộ binh mang được khi đi bộ. Trang bị cho tiểu đội hay trung đội khi đi xe, trang bị cho đại đội khi đi bộ. Súng đại liên PKMS được mang vác bởi một người nhưng vẫn trang bị cho tổ 3 người, mang thêm đạn, nòng thay thế và cảnh giới. Súng này cũng hạn chế tốc độ bắn 1200 phát phút vì bộ binh đi bộ không mang được nhiều đạn. Súng được lắp trên một số xe như hỏa lực chống bộ binh. Ứng dụng rộng rãi trên vai lính đi bộ. Một đại đội bộ binh di bộ Việt Nam trang bị 2 khẩu, do hai tổ 3 người sử dụng.
Trước đây người ta phân ra hai loại LMG và HMG (súng máy nhẹ và súng máy nặng). LMG là các trung liên như trung liên RPK và trung liên RPD, súng máy nặng như đại liên M1910 Maxim, đại liên DS-38, hay trọng liên DShK 1938 12,7mm.
Từ Thế chiến I, người ta thường làm chức năng trung liên LMG chung với súng trường mạnh. Các đơn vị mạnh của Việt Nam những năm 199x hiện đại hóa dần theo hướng Nga. Trung liên RPD trước đây dùng ở trung đội nay bỏ đi, thay vào mỗi tiểu đội một RPK, kiêm chức năng súng trường tấn công tầm xa và trung liên. Tuy nhiên, RPK-74 mang đạn nhỏ và gây ra cuộc tranh cãi bên Nga về chức năng súng trường tấn công, nhất là với bộ binh đi bộ. Ở Chechnya 1999, thấy Nga dùng nhiều súng bắn tỉa KSVK 12,7mm. Tuy nhiên, ở đây là bộ binh cơ giới, vấn đề mỗi lính mang một vài súng không quan trọng.
VSSK Vychlop 12,7mm được chế tạo trên kinh nghiệm Chechnya, một súng trường chiến đấu điển hình, giảm âm giảm nhiệt, có vẻ như Nga đã tách chức năng súng máy ra hoàn toàn.
Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG.
HMG viết tắt của Heavy Machine Gun, súng máy hạng nặng, trọng liên.
Trọng liên cơ giới-Minigun
Là súng máy đặt giá cố định. Súng này thoải mái tăng khối lượng súng và tốc độ bắn. M61 Vulcan bắn hỏng được xe cộ nhỏ, tầm xa, bắn nhanh có thể xuyên qua giáp thép dày 2 cm. Súng này chỉ được lắp trên xe, thường sử dụng động cơ điện. Súng Gatling cồng kềnh phức tạp cần chăm sóc nhiều, lực giật rất mạnh do nhịp bắn quá cao không dùng được cho bộ binh. Nó có cỡ nòng quá nhỏ so với khối lượng súng. Súng cũng không có khả năng xạ kích điểm vì 0,5 giây đầu nó bắn rất chậm cho dù tốc độ chung 4000 phát/phút.
Ưu thế của kiểu máy này là động cơ điện và nhiều nòng, tốc độ bắn cao, có thể áp dụng làm mát cưỡng bức, bắn nhiều cỡ đạn... thích hợp cho phương tiện cơ giới. Nga sản xuất các loại bắn đạn 7,62mmx54R và 12,7mm tốc độ bắn lên đến 10000 phát/phút. Tuy vậy, các kiểu máy trích khí vấn được áp dụng cho bộ nòng xoay, gọi là Gatling lai, cho khả năng hoạt động tin cậy và tốc độ khởi động tức thời, khắc phục những nhược điểm của máy Gatling.
Kiểu súng này cũng hay được áp dụng cho các pháo phòng không nhỏ bắn nhanh như AK-130 30mm. GSh-6-23M là loại pháo bắn nhanh nhất thế giới, 23mm, một vạn phát phút, máy trích khí. Những súng này được dùng trê các hệ thống phòng không tầm ngắn và cực ngắn, ngày nay có vai trò quan trọng trong chống đạn tự hành, tạo thành giáp điện tử của tàu chiến và đội hình bộ binh.
Nhiều khẩu G-8 đặt trên máy bay hạng nặng C-130, được hỗ trợ bởi các phương tiện định vị dẫn đường điện tử, có tác dụng như pháo hạm (cũng được gọi là gun ship). Hệ thống này mang được hàng chục tấn đạn dược từ hậu phương trút dữ dội vào mục tiêu. Đây là hệ thống sử dụng trọng liên lớn nhất được chế tạo. Tuy nhiên, số lượng chế tạo không được nhiều và lịch sử tham chiến không mấy vinh quang.
Súng có biệt danh Minigun vì cỡ đạn quá nhỏ so với khối lượng súng. Ví dụ, khẩu Gatling 20mm có khối lượng bằng cối 120mm.
Trọng liên bộ binh, 12,7mm
Ví dụ về 12,7mm: Degtyarev DP-27 LMG 1929, DShK, DShKM-46, NSV-12,7 "Utes", Kord 12,7, Browning M2HB, General Dynamics 12.7mm /.50 XM312. Các súng 12,7mm thường dùng khóa nòng trích khí hay lùi có làm chậm, một số dùng lùi tự do.
Khác với Galing, những khẩu này chỉ có một nòng, tuy khá nặng, cần có tổ 2 đến 3 người mang vác khi hành quân và tác chiến trên bộ. Uư điểm của nó là có thể tháo nòng súng và thay nòng dự bị rất nhanh chóng.
Trọng liên 12,7mm có tầm bắn tối đa đến 7–8 km, tầm bắn hiệu quả đến 5 km, bắn được xuyên qua các vỏ xe, kể cả một số loại xe có giáp ở tầm hàng km. Súng cũng bắn xuyên qua vỏ nhiều loại công sự. các loại trọng liên dòng Degtyarev thường được sử dung để bắn máy bay tầm thấp.
Trọng liên 12,7mm thường được dùng làm hỏa lực cấp đại đội và tiểu đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ. Khi súng được lắp trên các xe cơ giới, nó cần ít phương tiện bảo đảm. Đây là mặt ưu việt hơn nhiều so với Gatling có cấu tạo phức tạp và phải có nguồn điện để điểm hoả. Các xe tăng Liên Xô, Nga và phương Tây đa phần sử dụng 12,7mm làm súng phụ gắn trên tháp pháo hoặc súng đồng trục với pháo tăng được bắn từ trong tháp pháo.
Khẩu DShK (bên phải) và các hậu duệ của nó được dùng nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra, người Việt Nam còn sử dụng nhiều súng Browning chiến lợi phẩm. Về cuối cuộc chiến, người Việt Nam còn được viện trợ và sử dụng khẩu Degtyarov - Shpagin DShKM 12,7 mm có khóa nòng kiểu trống xoay, phần khóa nòng giống Gatling nhưng dùng chung một nòng cho nhẹ.
Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh, tiểu liên, trung liên.
Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Hiện nay, loại súng ngắn phản lực đã thay thế súng ổ quay.
Súng máy nhỏ SMG, Sub-Machine gun, súng ngắn bắn nhanh, có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Nó hay bị nhầm với tiểu liên, là súng máy cá nhân trước đây biên chế trong tiểu đội, khi mà các súng chủ lực là súng trường bắn phát một hoặc cạc bin, ví dụ về tiểu liên là AR-16 và M-16. Tiểu liên ngày nay thường được chỉ các súng trường tấn công.
Súng máy nhẹ LMG, Light Sub Machine gun, thường được dùng như là súng hỏa lực cấp trung đội trước đây, này được dùng ở cấp tiểu đội và tổ. Súng này thường được dùng với tên cũ súng liên thanh trung đội, trung liên. SMG dùng đạn súng ngắn còn LMG dùng đạn súng trường. Nhiều khẩu cạc bin của súng trường như AK-74U, cạc bin của AK-74, tác dụng rất giống SMG.
Súng chống tăng và Súng trường chống tăng:Là vũ khí dùng hỏa lực mạnh mục đích phá hủy giáp của xe tăng cũng như tiêu diệt các đơn vị tăng thiết giáp của đối phương. Hay phá hủy công sự hay đồn bốt của đối phương hay tiêu diệt sinh lực địch với sức công phá mạnh.
Súng phóng lựu: là súng dùng để phóng lựu đạn thay vì dùng tay ném lựu đạn.
súng cối: là một loại trong bốn loại hoả pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, lựu pháo, pháo phản lực và súng cối).
Cơ cấu dạng súng trong bom nguyên tử
Bom nguyên tử có cấu tạo cơ bản gồm 2 khối kim loại phóng xạ được làm giàu có khối lượng mỗi khối thấp hơn khối lượng tới hạn. Để kích nổ bom nguyên tử, người ta dùng hai cơ cấu có dạng như súng để bắn một trong hai khối này nhập làm một với khối kia, làm cho khối lượng toàn bộ kim loại phóng xạ đó lớn hơn khối lượng tới hạn, phản ứng hạt nhân bắt đầu diễn ra và bom nguyên tử phát nổ.
Vai trò
Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu Thế kỷ XIX, thay thế vai trò của thương, giáo.
Ngày nay, tên lửa và đạn tự hành xuất hiện nhiều. Có những vị trí đạn tự hành hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tàu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng. |
Ngày 15 tháng 10 là ngày thứ 288 trong lịch Gregory (thứ 289 trong các năm nhuận). Còn 77 ngày trong năm.
Sự kiện
869 – Quân của triều đình Đường chiếm được Bành thành, kết thúc biến loạn của các binh sĩ Từ châu, tức ngày Tân Dậu (7) tháng 9 năm Kỉ Sửu.
1582 – Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Liên bang Ba Lan–Litva, và nhiều quốc gia Ý trở thành các quốc gia đầu tiên thay thế lịch Julius bằng lịch Gregory.
1894 – Trong Vụ Dreyfus, Alfred Dreyfus, một pháo thủ gốc Do Thái trong quân đội Pháp, bị bắt giữ bất công vì tội mưu phản.
1923 – Nguyễn An Ninh đọc bài diễn thuyết "L’ideál de la Jeunesse Annamite" bằng tiếng Pháp (thường được dịch là "Cao vọng của thanh niên An Nam") tại Hội khuyến học Nam Kỳ, kêu gọi lý tưởng thanh niên Việt Nam đối với vận mệnh nước nhà.
1949 – Hiệp định Hợp nhất Tripura có hiệu lực, Tripura gia nhập Liên bang Ấn Độ.
1951 – Khánh thành Air Viet Nam.
1956 – Thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 10 năm 1956, Đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam toàn quốc lần thứ I được khai mạc tại Nhà hát lớn Thủ đô Hà Nội, gồm 420 đại biểu chính thức, 300 đại biểu dự thính trong và ngoài nước, miền Nam và miền Bắc, có cả đại biểu Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Thế giới tham gia.
1967 – Tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi được khánh thành tại Volgograd, Liên Xô, là tượng cao nhất thế giới tại thời điểm đó.
1990 – Nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachyov được trao giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực của ông nhằm làm dịu đi căng thẳng trong Chiến tranh Lạnh và mở cửa đất nước.
2003 – CHND Trung Hoa phóng lên Thần Châu 5, chuyến bay vũ trụ đầu tiên có người lái của nước này, chở phi hành gia Dương Lợi Vĩ.
2006 – Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam được khánh thành tại Hà Nội sau gần hai năm xây dựng.
Sinh
70 TCN – Virgil, nhà thơ lớn của La Mã cổ đại (m. 19 TCN)
1065 – Minh Không, thiền sư, Quốc sư, danh y trong thời Lý, ông Tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
1542 – Akbar Đại đế, Hoàng đế Ấn Độ (m. 1605)
1608 – Evangelista Torricelli, nhà toán học, nhà vật lý người Ý (m. 1647)
1726 – Ngô Thì Sĩ, nhà sử học, nhà văn, nhà thơ ở thế kỷ 18 tại Việt Nam (m. 1780)
1814 – Mikhail Yuryevich Lermontov, nhà thơ Nga (m. 1841)
1840 – Nguyễn Phúc Trinh Nhu, phong hiệu Mỹ Trạch Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1902)
1872 – Nguyễn Văn Trình, danh sĩ Nho học Việt Nam (m. 1949)
1884 – Friedrich Nietzsche, nhà triết học người Phổ (m. 1900)
1900 – Mervyn LeRoy, đạo diễn, diễn viên người Mỹ (m. 1987)
1914 – Lâm Hữu Phúc, chính trị gia người Singapore (m. 1984)
1919 – Dzoãn Mẫn, nhạc sĩ nhạc tiền chiến người Việt Nam (m. 2007)
1920 – Mario Puzo, nhà văn, nhà biên kịch người Mỹ gốc Ý (m. 1999)
1923 – Italo Calvino, nhà văn Ý (m. 1985)
1926 – Michel Foucault, triết gia Pháp (m. 1984)
1955 – Tanya Roberts, diễn viên người Mỹ (m. 2021)
1968 – Didier Deschamps, cựu cầu thủ bóng đá Pháp
1969 – Vítor Baía, cựu cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
1971 – Andy Cole, cầu thủ bóng đá Anh
1974 – Lâm Chí Dĩnh, diễn viên, tay đua F1 Đài Loan
1976 – Minh Tuyết, ca sĩ người Việt Nam
1976 – Việt Hương, diễn viên, đạo diễn, dẫn chương trình truyền hình, giám khảo người Việt Nam
1977 – David Trezeguet, cầu thủ bóng đá Pháp
1981 – Elena Dementieva, vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Nga
1986 – Donghae, ca sĩ Super Junior Hàn Quốc
1988 – Mesut Özil, cầu thủ bóng đá Đức–Thổ Nhĩ Kỳ
1990 – Kiko Mizuhara, người mẫu, diễn viên Nhật Bản
1992 – Vincent Martella, diễn viên lồng tiếng Phineas Flynn trong phim hoạt hình Phineas and Ferb (Mỹ)
Mất
1917 – Mata Hari, vũ nữ người Hà Lan, điệp viên nhị trùng cho Pháp và Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (s. 1876)
1934 – Raymond Poincaré, chính khách Pháp (s. 1860)
1946 – Hermann Göring, chính khách người Đức, một trong những người đứng đầu Đảng Đức Quốc xã (s. 1893)
1964 – Nguyễn Văn Trỗi, người đã thực hiện cuộc đánh bom không thành nhằm vào Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara (s. 1940)
2000 – Konrad Emil Bloch, nhà hóa sinh người Mỹ, từng đoạt Giải Nobel Sinh lý và Y khoa (s. 1912)
2023_Tùng lâm, kịch sĩ (s. 1934)
Những ngày lễ và kỷ niệm |
Bùi () là một họ người thuộc vùng Văn hóa Đông Á gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên.
Tại Việt Nam họ Bùi phổ biến đứng hàng thứ 9 trong hơn 200 dòng họ, chiếm 2% dân số ở Việt Nam. Ở Trung Quốc họ Bùi phổ biến ở các tỉnh phía bắc Trung Quốc.
Việt Nam
• Họ Bùi Việt Nam là một họ bản địa, có gốc trên đất Việt từ xa xưa đến thời các vua Hùng dựng nước.
- Theo "Lịch sử Việt Nam" của các nhà sử học Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, trước thời các vua Hùng thì người Việt bản địa đã có mặt từ lâu. Bởi vậy chưa có bằng chứng nào để nói rằng tổ tiên họ Bùi có gốc tích từ Trung Quốc. Về điểm này cũng phải làm rõ một thực tế lịch sử: Người Hán vốn gốc ở lưu vực sông Hoàng Hà. Còn từ sông Trường Giang trở về phía Nam xưa kia là đất sinh tụ của người Bách Việt. Qua quá trình chinh phục và đồng hoá, các tộc Việt khác đều bị Hán hoá, chỉ còn các tộc Âu Việt và Lạc Việt làm nền tảng cho triều đại Hùng Vương.
• Họ Bùi có một tỉ lệ cao là người Mường được xem như người Việt cổ. Nay nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện trong các phong tục, tập quán của người Mường khác hẳn của người Hán (có truyền thuyết cũng như nhiều tư liệu cho thấy "Tản Viên Sơn Thánh" cũng là người Mường), chứng minh họ Bùi vốn có gốc từ người bản địa. Nhân chủng học, ngôn ngữ học… đều phù hợp với điều đó.
• Dân tộc Mường ở miền Bắc Việt Nam có tỷ lệ cao mang họ Bùi, sống tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La, Ninh Bình.
Thời đại Hùng Vương và Văn minh Đại Việt
Theo tư liệu của Bộ Lễ, triều Lê Anh Tông, do đại thần "Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ" Nguyễn Bính soạn, có đầu đề "Ngọc Phả cổ lục đức Đổng Sóc xung thiên Đại thánh Thần Vương triều nhà Hùng, họ Việt Thường. Phiên thần thượng đẳng, bộ chi cẩn". Bản gốc còn lưu lại Viện Hán - Nôm, ngoài bì có đóng dấu bầu dục của Viễn đông Bác Cổ thời Pháp thuộc" thì: Từ thời Hùng Vương thứ 6 được ghi nhận có niên đại từ 1401 đến 1121 TCN, trong thời gian đó xảy ra sự kiện Phù Đổng đánh giặc Ân, sự kiện đã được dân gian huyền thoại hoá, nhưng qua những chứng cứ, tư liệu về trang Khê Đầu ghi rõ có cụ Bùi Cẩn và Phạm Thị Hoà sinh ra bà Bùi Thị Dung, mẹ của Thánh Gióng .
- Trong bài vị biên chép về lịch sử của vua Lê Đại Hành trong đó có ghi: "vào năm 257 trước Công nguyên, nhà Thục xâm chiếm nước ta, có 4 dòng họ gồm: Ngô tộc, Bùi tộc, Lê tộc, Trần tộc được vua Hùng (Duệ Vương) triệu tập 4 vị Đại Thần cùng 5000 binh mã đã đánh thắng trận đầu, giặc bị tiêu diệt máu chảy thành sông vang dội núi sông."
• Thời Hai Bà Trưng có 2 danh tướng là Bùi Thạch Đa và Bùi Thạch Đê mà lăng mộ hiện vẫn tồn tại suốt gần 2.000 năm nay trên vùng đất tổ Hùng Vương, ở Tam Nông, Phú Thọ.
•Thời vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) có khai quốc công thần Trình Quốc công Bùi Quang Dũng.
• Bùi Mộc Đạc là một danh thần đời nhà Trần, vốn tên thật là Phí Mộc Lạc nhưng vì vua Trần Nhân Tông cho là Mộc Lạc là tên xấu, mang điềm chẳng lành (Mộc Lạc trong tiếng Hán nghĩa là cây đổ, cây rụng), vua còn cho họ Phí hiếm gặp, nên đổi tên Phí Mộc Lạc thành Bùi Mộc Đạc với nghĩa Mộc Đạc là cái mõ đánh vang. Bùi Mộc Đạc làm đại thần trải 3 triều vua Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Sau này, nhiều người họ Phí trong nước hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, đua nhau đổi làm họ Bùi". Chắt nội Bùi Mộc Đạc (Phí Mộc Lạc) tên là Bùi Quốc Hưng là người tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, phong ông là Nhập nội Thiếu úy, tước Hương thượng hầu, sau thăng Nhập nội Tư đồ, được vua ban Quốc tính họ Lê, nên đổi là Lê Quốc Hưng. Theo gia phả của nhánh họ Bùi gốc Phí ở Nam Sách (Hải Dương) thì một trong số hậu duệ của cụ Bùi Mộc Đạc là Bùi Thị Hý chính là người đã khai sinh ra làng gốm Chu Đậu, được thờ là tổ nghề của làng gốm Chu Đậu.
• Thời Lê sơ có các nhân vật Bùi Bị, Bùi Ư Đài, Bùi Cầm Hổ, Bùi Xương Trạch. Con gái Bùi Cẩm Hổ là Bùi Quý phi, vợ của vua Lê Thái Tông, sinh ra cung vương Lê Khắc Xương. Bùi Xương Trạch quê gốc ở xã Cát Xuyên, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá chuyển sang làng Định Công, Hà Nội, sau đó chuyển sang Thịnh Liệt sinh sống, lập nghiệp, lập nên gia tộc họ Bùi làng Thịnh Liệt, còn được gọi là Sơn Nam vọng tộc. Về sau dòng họ có các nhân vật như Bùi Huy Bích.
• Thế kỷ XVI có Bùi Tá Hán là một cận thần của đại thần Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) lập Lê Trang Tông. Đến thế kỷ XVIII có Bùi Thế Đạt làm trấn thủ trông coi cả vùng biển Đông thuộc Bắc Trung bộ ngày nay. Bùi Dương Lịch là đại thần ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Hay thời cận đại có nhà cải cách hải quân Bùi Viện...
• Tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, mở khoa thi đầu tiên (năm 1075) lấy 4 vị tiến sĩ thì có 1 vị họ Bùi. Từ đó đến cuối triều nhà Nguyễn, trải qua 10 thế kỉ về khoa bảng, họ Bùi có đến 76 vị tiến sĩ, trong đó có 4 vị là bảng nhãn và một vị thủ khoa Nho học là Bùi Quốc Khái (đỗ triều Lý Cao Tông).
Những nhân vật tiêu biểu:
Khoa bảng
Bùi Quốc Khái (1141-1234) thủ khoa Tiến sĩ thời vua Lý Cao Tông.
Bùi Đình Viên, Thượng thư Đại học sĩ thời nhà Lê
Bùi Xương Trạch (1451 - 1529) Thượng thư Trưởng Lục bộ thời Lê Thánh Tông.
Bùi Khắc Nhất (1533 - 08/11/1609) Bảng nhãn đời vua Lê Anh Tông- Hộ bộ thượng thư, tước bá.
Tiến sĩ:
Bùi Mộng Hoa (1353)
Bùi Dục Tài (1502)
Bùi Sĩ Tiêm (1715)
Bùi Ngọc Quỹ(1829)
Bùi Tuấn (1841)
Bùi Duy Phan (1841)
Bùi Văn Phan (1844)
Bùi Thức Kiên (1848)
Bùi Ước (1868)
Bùi Thức (1898)
Bùi Hữu Tụy (1910)
Bùi Bằng Thuận (1916)
Bùi Hữu Hưu (1919)
Phó bảng:
Bùi Sĩ Tuyến (1848)
Bùi Thố (1849)
Bùi Văn Quế (1865)
Bùi Văn Dị (1865)
Bùi Kỷ (1888)
Bùi Hữu Thứ (1919)
Đại thần thời Phong kiến
Bùi Mộc Đạc, đại thần 3 triều vua Trần (tên thật là Phí Mộc Lạc, sau được vua Trần đổi tên thành Bùi Mộc Đạc)
Bùi Quốc Hưng, văn thần tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn.
Bùi Cầm Hổ, đại thần nhà Lê sơ.
Bùi Ư Đài, đại thần nhà Lê sơ.
Bùi Bỉnh Uyên, đại thần nhà Lê trung hưng.
Bùi Huy Bích (1744 - 1818), Tham tụng nhà Lê-Trịnh.
Bùi Đắc Tuyên, Thái sư dưới triều vua Cảnh Thịnh trong lịch sử Việt Nam.
Bùi Văn Dị, quan đại thần triều Nguyễn
Bùi Viện, nhà cải cách, nhà ngoại giao thời Nguyễn.
Bùi Dương Lịch (1757 - 1828), nhà văn hóa, nhà nghiên cứu và danh sĩ Việt Nam thời Lê mạt, Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872), hay Thủ Khoa Nghĩa, là nhà Văn hoá Việt Nam, triều thần nhà Nguyễn.
Quân sự
Tướng Bùi Minh Trí
Bùi Đình Chấn
Bùi Thiên Quý
Bùi Văn Thốn
Hai danh tướng Bùi Thạch Đa và Bùi Thạch Đê (thời Hai Bà Trưng)
Bùi Quang Dũng, tướng thời Đinh Tiên Hoàng.
Bùi Bá Kỳ, tướng nhà Trần (sau này đã dẫn giặc Minh vào xâm lược Việt Nam).
Bùi Bị, tướng nhà Lê sơ.
Bùi Tá Hán, tướng thời Lê Trung Hưng.
Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn: Tây Sơn ngũ phụng thư thời Tây Sơn.
Bùi Điền, nghĩa sĩ phong trào Cần Vương.
Thời đại Hồ Chí Minh
Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu
Bà mẹ VNAH Bùi Thị Mè (Năm Mè) 1928-2014, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, có 3 con là Liệt sĩ .
Bùi Thị Thêm (bí danh Ba Bé) sinh năm 1924, quê huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ là “Nữ kiện tướng đánh tàu trên sông Cái Lớn”. Mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng .
3 Bà mẹ VNAH là 3 chị em ruột họ Bùi: Bùi Thị Hai, Bùi Thị Dị, Bùi Thị Sáu (quê ở Hàm Chính - Hàm Thuận - Bình Thuận): Bà Hai có chồng và 4 con là liệt sĩ; bà Dị có 3 con là liệt sĩ; bà Sáu có 4 con là liệt sĩ.
Con dâu họ Bùi: Liệt sỹ Đoàn Thị Nghiệp (Tám Nghiệp), nguyên Tỉnh đội phó Tỉnh Mỹ Tho - vợ đồng chí Bùi Văn Thôn (Tám Thôn), quê: Cai Lậy, Tiền Giang có 2 con là 2 Nhà báo Liệt sĩ (Bùi Văn Thưởng, Bùi Văn Tấn). Bà Tám Nghiệp được Nhà nước truy phong danh hiệu: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1978) và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (1995) .
Bùi Thị Con - quê tại Gio Hải, Gio Linh, Quảng Trị. gia đình Mẹ có 7 liệt sĩ, gồm: chồng (ông Trần Văn Trình), 4 người con trai (Trần Văn Tự , Trần văn Niên , Trần văn Hải, trần văn Tiềm) và 2 người con dâu (Võ thị Mai , Hồ thị Ơn). Mẹ Bùi Thị Con được Nhà nước trao danh hiệu Bà mẹ VNAH.
Quốc phòng, an ninh
Trần Quý Hai họ tên thật: Bùi Chấn (1913-1985), Trung tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN; Đảng viên Đảng Cộng sản năm 1930, Ủy viên DK Xứ uỷ Trung kỳ; Ủy viên Trung ương Đảng khoá III (Chính thức từ 12/1963) - Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao vàng (truy tặng 2008).
Bùi Thiện Ngộ (1929-2006) Thượng tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Ủy viên Trung ương Đảng khoá VI, Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII. Đại biểu Quốc hội khóa IX - Huân chương Hồ Chí Minh (2006).
Bùi Phùng (1920-1999), Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHNN, Ủy viên Trung ương Đảng khoá IV, V. Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII - Huân chương Hồ Chí Minh (1993) .
Bùi Văn Huấn (sinh 1945)- Thượng tướng, nguyên Phó Chủ nhiệmTổng cục Chính trị, Ủy viên BCH Trung ương Đảng khoá VIII, XI, X - Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Bùi Nam Hà (1924-2019)- Thiếu tướng, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng, Giám đốc Học viện Hậu cần. - Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Bùi Như Nho (1924-1988) - Thiếu tướng, Nguyên Phó Chính uỷ Quân khu 9 - Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Bùi Thanh Vân (1927-1994), Trung tướng, nguyên Phó Tư lệnh cách quân phía tây (232) trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Tư lệnh Quân khu 7.; Ủy viên Trung ương Đảng khoá VII. Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Bùi Công Ái (1928 - 1994) Trung tướng. Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự. Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Bùi Đức Tạm (1923 - 2016) - Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật BQP. Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Bùi Sỹ Vui (Sinh 1948), Trung tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương.
Bùi Xuân Chủ (Sinh 1948), Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Hậu cần.
Bùi Văn Tâm (Sinh 1957), Trung tướng, nguyên Chính ủy Học viện Quốc phòng.
Bùi Thị Cúc - họ tên thật là Trần thị Lan (1930 - 1950), đã được Hồ Chủ tịch truy tặng sáu chữ: "Sống anh dũng, chết vẻ vang". Anh hùng LLVT nhân dân (truy tặng năm 1995)..
Bùi Văn Nhỏ - là một trong 5 người tham gia trực tiếp bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Bùi Ngọc Dương (1943 - 1968) - Liệt sĩ, anh hùng LLVT nhân dân. Ông được xem là La Văn Cầu trong kháng chiến chống Mỹ.
Bùi Ngọc Đủ (1942 - 2017), Anh hùng LLVT nhân dân, người dũng sỹ diệt Mỹ gắn với bài hát “Ơi con suối La La”.
Bùi Văn Tùng (sinh 1930), đại tá, Chính uỷ Lữ đoàn Xe tăng 203. Ông là nhân vật của lịch sử trong Sự kiện lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, người đã thảo văn bản đầu hàng vô điều kiện cho Đại tướng Dương Văn Minh- Tổng thống VNCH đọc trên Đài phát thanh Sài Gòn. Đồng thời ông cũng thay mặt Quân Giải phóng tuyên bố tiếp nhận đầu hàng của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chấm dứt Chiến tranh Việt Nam.
Bùi Quang Thận (1948-2012) - Anh hùng LLVT nhân dân, người lính Quân giải phóng đầu tiên cắm lá cờ chiến thắng của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 .
Bùi Văn Nam (sinh 1955)-Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an - 2 Huân chương Quân công hạng Nhì (2010, 2020).
Bùi Quang Bền (sinh 1955) -Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an - Huân chương Quân công hạng Nhất.
Bùi Xuân Sơn (sinh 1956), Trung tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần - kỹ thuật Bộ CA.
Bùi Bá Định (sinh 1958), Trung tướng, nguyên. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Bộ CA.
Bùi Mậu Quân (sinh 1960), Trung tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Bộ CA.
Bùi Văn Thành (sinh 1958) từng là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an; ông bị cách chức Đảng và chính quyền, giáng cấp hàm xuống Đại tá và lĩnh án 30 tháng tù giam ).
Bùi Quốc Huy (sinh 1945), từng là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, từng được tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Trong Vụ án Năm Cam và đồng phạm , ông đã bị cách chức Đảng và chính quyền, bị tước quân hàm và danh hiệu Anh hùng LLVTND, bị Toà tuyên phạt 4 năm tù giam.
Chính trị, tôn giáo
Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955), nguyên Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ nước Việt Nam DCCH, Trưởng ban Thường trực (Chủ tịch) Quốc hội khoá I nước Việt Nam DCCH (1946–1955) - Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Bùi Quang Chiêu (1873-1945) là một trí thức yêu nước, một chính trị gia nổi tiếng của Nam Kỳ tranh đấu đòi tự trị cho Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Bùi Trình Khiêm (1880 - 1951) nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I nước Việt Nam DCCH (1946 - 1951).
Bùi Hữu Diên (1903-1935), nhà hoạt động cách mạng. Năm 1930 ông bị kết án mười năm khổ sai đày đi Côn Đảo, sau đó bị lưu đày sang Guyane (Nam Mỹ), năm 1935, ông hy sinh trong tù khi mới 32 tuổi.
Bùi Lâm, tên khai sinh: Nguyễn Văn Dị (1905-1974) nhà lão thành cách mạng, một chính khách Việt Nam, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, Chánh án Toà án Quân sự đặc biệt; Viện trưởng Viện Công tố Trung ương nước Việt Nam DCCH; Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam DCCH khóa II (1960-1965).
Bùi Quang Tạo (1913-1995), nguyên Bộ trưởng Bộ Kiến trúc, Bí thư Thành ủy Hải phòng, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Chính phủ. 4 khoá là Ủy viên Trung ương Đảng (II, III, IV, V) và 6 khoá là đại biểu Quốc hội (II, III, IV, V, VI, VII). Huân chương Hồ Chí Minh.
Bùi Đăng Chi (1913-1990), nhà hoạt động cách mạng.
Bùi San (1914 - 2003) lão thành cách mạng, Đảng viên cộng sản năm 1930, nguyên Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ; Trưởng Tiểu ban Dân tộc Trung ương (nay là Ủy ban Dân tộc).
Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985), tên khai sinh là: Bùi Phong Tư, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tác giả cuốn tự truyện "Bất khuất". Anh hùng LLVTND.
Bùi Thanh Khiết (1924-1984), nguyên Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đạo tạo, nguyên Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân giải phóng miền Nam. Huân chương Hồ Chí Minh.
Phạm Hưng (1927 – 2018), tên thật Bùi Văn Tường, nguyên Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. Huân chương Độc lập hạng Nhất,
Bùi Danh Lưu (1935 - 2010), Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Huân chương Độc lập hạng nhất.
Bùi Xuân Nhật, nguyên Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên hợp quốc.
Bùi Quang Vinh, sinh 1953, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ủy viên Trung ương Đảng khoá X, XI. ĐB Quốc hội khoá XIII.
Bùi Xuân Khu, sinh 1950; nguyên Thứ trưởng Thường trục Bộ Công thương (nghỉ hưu từ 9/2014), hiện là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Việt Nam thương tín (VIETBANK) .
Bùi Hồng Lĩnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Bùi Sỹ Lợi (sinh 1959) là đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục 4 khoá 11, 12, 13 và 14. Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội.
Bùi Thanh Sơn (sinh: 1962), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Ủy viên Trung ương Đảng khoá XII, XIII; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa XIV.
Bùi Thị Minh Hoài (sinh 1965), Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII; Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Ủy viên Trung ương Đảng khóa X (dự khuyết), XI, XII, XIII.
Bùi Văn Cường (sinh 1965) Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, đại biểu Quốc hội khoá XIII, XIV. Ủy viên Trung ương Đảng khoá XI (dự khuyết), XII, XIII.
Bùi Huyền Mai (sinh 1975), Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (nhiệm kì 2020 - 2025) , Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khoá XIV.
Bùi Công Trừng (1905-1977) nguyên Bí thư xứ ủy Nam Kỳ Đảng cộng sản Đông Dương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, nguyên Thứ trưởng Bộ Kinh tế Chính phủ Việt Nam DCCH.
Bùi Tín (1927-2018) bút danh: Thành Tín - là một nhân vật bất đồng chính kiến, từng là Phó Tổng biên tập của báo Nhân dân, Đại tá Quân đội NDVN. Ông là con trai lớn cụ Bùi Bằng Đoàn. Năm 1990, khi được cử sang Pháp công tác, ông đã đào nhiệm và xin tị nạn chính trị tại Pháp, rồi ở đó đến khi qua đời.
Bùi Diễm (sinh 1923) là Đảng viên Đảng Đại Việt; nguyên Bộ trưởng Phủ Thủ tướng VNCH (1965); từ 1967 là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ. Ông là con trai cụ Bùi Kỷ; Từ sau 30-4-1975, ông tị nạn tại Hoa Kỳ.
Tôn giáo:
Đình Tây tên thật là Bùi Văn Tây (1826 – 1914) cao đồ của Phật Thầy Tây An.
Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh , tên thật Bùi Thanh Đàm (1840 - 1936) là vị Pháp chủ đầu tiên trong giai đoạn Chấn hưng Phật giáo Việt Nam.
Phaolô Bùi Chu Tạo (1909 - 2001), Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận Phát Diệm.
Thích Phổ Tuệ tên thật là Bùi Văn Quý (1917-2021) là Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Huân chương Hồ Chí Minh.
Gioan Baotixita Bùi Tuần (sinh 1927), Giám mục chính tòa Giáo phận Long Xuyên (1997 - 2003)
Phaolô Bùi Văn Đọc (1944 - 2018), Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2013 - 2016 ; Tổng giám mục ,Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh (khi qua đời)
Khoa học, kinh tế
Bùi Huy Đáp (1919-2004), giáo sư nông học. Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
Bùi Thanh Liêm (1949-1981), nhà du hành vũ trụ, phi hành gia dự bị trong chuyến bay Soyuz 37 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô. - Huân chương Hồ Chí Minh (1980).
Bùi Công Ái (1928 - 1994), Trung tướng, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự, QĐND-VN. Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Bùi Cát Vũ, tên thật là Bùi Văn Bê (1924-2019), Thiếu tướng QĐND, Tiến sĩ khoa học Quân sự chuyên ngành Pháo binh, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7 . Ông còn có các biệt danh: ‘’Trùm đại bác Đông Dương’’ hay ‘’Võ Tòng chiến khu Đ’’.
Bùi Đại (sinh 1924) Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân, Giáo sư, TSKH, Viện sĩ viện hàn lâm khoa học New York , Thày thuốc Nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân Y, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108- Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học Y dược, Huân chương Độc lập hạng Ba.
Bùi Phan Kỳ (sinh 1926)- Thiếu tướng, Phó Giáo sư , nguyên Trưởng Ban nghiên cứu KHQS thuộc Viện Chiến lược BQP - Huân chương Độc lập hạng Ba.
Bùi Trọng Liễu (1934 - 2010), Tiến sĩ nhà nước về khoa học, ngành Toán.
Bùi Huy Đường (1937 - 2013), Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp.
Bùi Tường Phong (1942 - 1975), nhà tin học, tác giả của thuật toán tô bóng Phong (Phong shading).
Bùi Thị An (sinh 1943), PGS.TS. Viện Trưởng Viện Tài nguyên môi trường, Phó Chủ tịch hội Hoá học VN, Đại biểu Quốc hội khoá XIII - Ủy viên Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường Quốc hội.
PGS.TS. Bùi Nhật Quang (sinh năm 1975), Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa XII, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII.
Kinh tế:
Bùi Thị Hý, quê tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là bà tổ nghề Gốm Chu Đậu, cũng là nữ doanh nhân tài hoa đầu tiên của Việt Nam, bà nổi danh từ thế kỷ 15 khi đưa Gốm Chu đậu của Việt Nam rạng danh khắp nơi trên Thế giới .
Bùi Kiến Thành (sinh 1932), nhà tài chính người Mỹ gốc Việt.
Bùi Thành Nhơn (sinh 1958), Chủ tịch Tập đoàn Novaland .
Kỹ sư Bùi Quang Độ (1946-2021), cựu giảng viên Đại học Bách Khoa (Hà Nội), cựu Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh Tin học (Gen Pacific), đồng Sáng lập viên, Chủ tịch HĐQT trường Đại học dân lập Văn Lang .
Tiến sĩ Bùi Quang Ngọc (sinh 1956), Phó Chủ tịch- nguyên TGĐ Tập đoàn FPT .
Doanh nhân Bùi Mạnh Lân (sinh năm 1957), Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Tập đoàn Hưng Thịnh. Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba.
Văn hoá, nghệ thuật
Bùi Kỷ (1888–1960), là nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, một nhân sĩ trí thức yêu nước tham gia thành viên của chính phủ Việt Nam DCCH, ông được cử làm Trưởng ban Bình dân học vụ toàn quốc. Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Huân chương kháng chiến hạng Nhất.
Bùi Xuân Phái (1920 - 1988), họa sĩ nổi tiếng Việt Nam và quốc tế, Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
Bùi Trang Chước (1915-1992) là họa sĩ nổi tiếng Việt Nam, với tác phẩm để đời: "Quốc huy Việt Nam" .
Hoàng Cầm, tên thật Bùi Tằng Việt (1922 – 2010) là tác giả bài thơ "Lá Diêu bông".
Bùi Sơn Tùng, (bút danh Sơn Tùng), sinh 1928, nhà văn với nhiều tác phẩm về lãnh tụ Hồ Chí Minh và các danh nhân cách mạng, danh nhân văn hóa Việt Nam, tiêu biểu là tiểu thuyết “Búp sen xanh”. Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Bùi Đình Hạc, (sinh 1934) Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III (2007) và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt 1 (1984).
Phương Lựu, tên thật là Bùi Văn Ba, sinh năm 1936, là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, nhà văn - Nhà giáo Nhân dân (2002). Ông là một trong những trường hợp hiếm hoi ở Việt Nam vừa đồng thời được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ và Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật..
Nhà thơ cận-hiện đại:
Bùi Lão Kiều (Huyền Kiêu-tiền chiến)
Bùi Tằng Việt (Hoàng Cầm)
Bùi Đình Diệm (Quang Dũng)
Bùi Giáng (1926-1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam.
Nhà văn cận-hiện đại:
Bùi Đức Ái (Nhà văn Anh Đức)
Bùi Hiển (1919 - 2009)
Bùi Nhật Tiến (hải ngoại)
Bùi Ngọc Tấn (đương đại).
Bùi Huy Phồn, nhà thơ, nhà văn, nhà báo Việt Nam.
Bùi Hạnh Cẩn (1919 - 2020), nhà báo, nhà thơ (là con trai của cụ Bùi Trình Khiêm, đại biểu QH khoá I; là bố của Bùi Thị An, đại biểu QH khoá XIII).
Bùi Phụng, tác giả cuốn Từ điển Việt-Anh.
Bùi Ý, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhà biên dịch Việt Nam.
Bùi Hiền, nhà nghiên cứu ngôn ngữ và giảng viên tiếng Nga, người đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ năm 2017.
Bùi Văn Bảo, nhà giáo và soạn giả.
Bùi Công Kỳ, nhạc sĩ
Tuyết Mai tên thật: Bùi Thị Thái (1925-3/2022), ca sĩ, phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân (năm 1993).
Bùi Ngọc Bảo (ca sĩ tài tử Ngọc Bảo): 1925-2006.
Châu Loan (Bùi Thị Loan) 1926-1972, ca sỹ, Nghệ sĩ Nhân dân
Bùi Gia Tường (sinh 1937), là Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân.
Bùi Đình Thảo, nhạc sĩ
Bùi Cường sinh 1947, với vai diễn để đời "Chí Phèo", ông được truy tặng danh hiệu NSND (2019).
Bùi Đắc Sừ (1948-2020), nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam, -Nghệ sĩ Nhân dân (2007), Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2012).
Bùi Quang Tuấn (1953 - 2020) Nhạc sỹ, tác giả của "Tộc ca HỌ BÙI VIỆT NAM".
Bùi Bài Bình (sinh 1956), Nghệ sĩ nhân dân.
Trung Anh (tên khai sinh là Bùi Trung Anh), sinh năm 1961, diễn viên, Nghệ sĩ Nhân dân (2019).
Bùi Thế Thông (Thế Thông), nhạc sĩ
Bùi Thị Oanh (Lệ Thu)- (1943-2021), ca sĩ.
Bùi Thương Tín, diễn viên điện ảnh
Bùi Xuân Hinh (sinh 1960), Nghệ sĩ Ưu tú, là nam Diễn viên hài, hề chèo cổ Việt Nam.
Bùi Thị Phương Thanh (ca sĩ Phương Thanh), Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến.
Thanh Bùi (Bùi Vũ Thanh) sinh: 1983, ca sĩ.
Bùi Anh Tuấn, ca sĩ
Bùi Bích Phương, Hoa hậu Báo Tiền phong 1988 (tên cũ của cuộc thi Hoa hậu Việt Nam), là Hoa hậu đầu tiên từ khi Việt Nam thống nhất.
Bùi Phương Nga, Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2018, đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018.
Bùi Đình Hoài Sa, Á hậu 2 Hoa hậu Chuyển giới Việt Nam 2018, đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2020.
Bùi Quỳnh Hoa, Giải Vàng Siêu mẫu Việt Nam 2018, Quán quân Siêu mẫu Quốc tế 2022.
Thể thao
Bùi Lương (sinh 2-2-1939): 9 lần vô địch giải Việt dã toàn quốc và Marathon - Giải thưởng “Thành tựu cống hiến trọn đời” - Cúp chiến thắng năm 2016 .
Bùi Tử Liêm (sinh 1925): Nguyên Nguyên Tổng thư ký (đầu tiên) Uỷ ban Ô-lim-pích Việt Nam; Vụ trưởng Vụ thể thao thành tích cao - Giải thưởng “Thành tựu cống hiến trọn đời” - Cúp Chiến thắng năm 2019
Bùi Thị Thu Thảo (sinh 1992): vận động viên điền kinh.
Bùi Tiến Dũng, (sinh 28-2-1997) người Mường, thủ môn bóng đá.
Bùi Tiến Dụng, người Mường, em trai thủ môn Bùi Tiến Dũng, chơi ở vị trí hậu vệ.
Bùi Tiến Dũng, người Kinh, cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí hậu vệ.
Đại võ sư Bùi Công Hóa (1894-1958), Sáng lập và là Chưởng môn võ phái Nội Quyền -Tây Sơn Nhạn .
Bùi Yến Ly (sinh 1995) nữ vận động viên giành huy chương Vàng thế giới môn Muay Thái ở hạng cân 51 kg, tại World Games (Đại hội Thể thao Thế giới - năm 2017)
Trung Quốc
Theo Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống, mục Thị tộc lược, tổ tiên họ Bùi là dòng dõi Bá Ích, con trai của Tần Hoàn Công là Hậu Tử Châm. Tộc nhân họ Bùi thời Hán cư trú chủ yếu tại lưu vực Hoàng Hà, xuất hiện một chi nổi bật ở huyện Văn Hỷ, tức Văn Hỷ Bùi gia, tạo nên thuyết Thiên hạ vô nhị Bùi. Qua thời Ngụy và Tấn, họ Bùi dần dần lớn mạnh, trở thành thế lực chính trị lớn xưng Hà Đông Bùi thị, nắm nhiều quyền hành thời Đường.
Nhân vật
Quân sự
Bùi Khải, tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc, cháu họ Bùi Tiềm.
Bùi Quả, đại tướng nhà Tây Ngụy.
Bùi Thúc Nghiệp, đại tướng nhà Bắc Tề.
Bùi Thúy, đại tướng nhà Nam Lương.
Bùi Văn Cử, tướng nhà Bắc Chu.
Bùi Khoan, tướng nhà Bắc Chu.
Bùi Quả, tướng nhà Bắc Chu.
Bùi Nhân Cơ, danh tướng thời Tùy mạt Đường sơ.
Bùi Hành Nghiễm, danh tướng thời Tùy mạt Đường sơ.
Bùi Độ, tướng lĩnh thời Đường Hiến Tông.
Bùi Hoài Lượng, Thượng tướng Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa.
Chính trị
Bùi Tiềm, đại thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc.
Bùi Tuấn, đại thần nhà Thục Hán thời Tam Quốc, em trai Bùi Tiềm.
Bùi Tú, đại thần nhà Tây Tấn.
Bùi Giai, đại thần nhà Tây Tấn.
Bùi Bá Mậu, quan nhà Bắc Ngụy.
Bùi Chiêu Minh, đại thần triều Bắc Tề.
Bùi Hiệp, quan Bắc Chu.
Bùi Tịch, đại thần nhà Tùy và nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
Bùi Củ, đại thần ba triều Bắc Chu, Tùy, Đường.
Bùi Chính, luật học gia thời Tùy.
Bùi Viêm, đại thần nhà Đường.
Văn hóa
Bùi Kính Hiến, quan nhà Bắc Ngụy.
Bùi Tùng Chi, nhà sử học Đông Tấn, đồng tác giả Tam quốc chí chú.
Bùi Nhượng Chi, quan nhà Bắc Tế.
Bùi Văn Trung, nhà khảo cổ học Trung Quốc.
Bùi Diễm Linh, diễn viên Trung Quốc.
Nhân vật hư cấu
Bùi Nguyên Thiệu, nhân vật trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa.
Bùi Nguyên Khánh, nhân vật trong tiểu thuyết Thuyết Đường diễn nghĩa.
Bùi Thúy Vân, nhân vật trong tiểu thuyết Thuyết Đường diễn nghĩa, con gái Bùi Nhân Cơ, vợ Trình Giảo Kim.
Bùi Tuyên, nhân vật tiểu thuyết trong Thủy Hử.
Triều Tiên
Những nhân vật tiêu biểu mang họ Bùi tại Triều Tiên:
Bùi Đạt Tuấn (Bae Tal-jun), nguyên Chủ tịch Ủy ban Xây dựng Nhà nước, hiện tại là Bộ trưởng Bộ Xây dựng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Kiến trúc sư Triều Tiên.
Bùi Cát Chu (Pae Gil-su), vận động viên Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Huy chương Vàng Thế vận hội 1992.
Bùi Anh Chu (Bae Young-soo), vận động viên bóng chày Hàn Quốc.
Bùi Dong Vận (Bae Yong-kyun), nhà làm phim Hàn Quốc.
Bùi Dũng Tuấn (Bae Yong-jun), diễn viên điện ảnh Hàn Quốc, đóng phim Mối tình đầu, Bản tình ca mùa đông,...
Bùi Sắt Kỳ (Bae Seul-ki), ca sĩ Hàn Quốc.
Bùi Tông Ngọc (Bae Jong-ok), nữ diễn viên Hàn Quốc.
Bùi Hải Dân (Bae Hae-min), cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Hàn Quốc.
Bùi Khởi Chung (Bae Ki-jong), cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Hàn Quốc.
Suzy tên thật là Bae Soo-ji (Bùi Tú Trí), ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Miss A
Bae Sang-moon (Bùi Thượng Mưu), vận động viên golf chuyên nghiệp Hàn Quốc.
Irene tên thật là Bae Joo-hyun (Bùi Châu Hiền), thành viên nhóm nhạc Red Velvet
Bae Woohee, ca sĩ, người mẫu Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Dal Shabet.
Bae Jin Young, ca sĩ, người Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Wanna One
Yubin tên thật là Bae Yoo-bin (Bùi Hữu Bân), thành viên nhóm nhạc Oh My Girl.
Bae tên thật là Bae Jinsol, ca sĩ, thành viên nhóm nhạc NMIXX
Khác
Mark Pae, giáo mục Anh giáo ở Hàn Quốc, quốc tịch Mỹ. |
Casablanca là một bộ phim chính kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1942. Phim do đạo diễn Michael Curtiz dàn dựng, dựa trên kịch bản sân khấu Everybody Comes to Rick's của Murray Burnett và Joan Alison. Phim có diễn xuất của Humphrey Bogart, Ingrid Bergman, Paul Henreid, Claude Rains, Conrad Veidt, Sydney Greenstreet, Peter Lorre và Dooley Wilson. Lấy bối cảnh giai đoạn đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Casablanca đề cập tới một người đàn ông bị giằng xé bởi lựa chọn khó khăn giữa tình yêu dành cho một người phụ nữ và trách nhiệm giúp cô cùng chồng—là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc—thoát khỏi Maroc, lúc này thuộc quyền quản lý của chính quyền Vichy Pháp thân Đức Quốc xã.
Nhà dựng phim Irene Diamond đã thuyết phục nhà sản xuất Hal B. Wallis mua lại tác quyền vở kịch vào tháng 1 năm 1942. Hai anh em Julius và Philip G. Epstein ban đầu được chỉ định viết kịch bản cho bộ phim. Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án để hợp tác trong Why We Fight của Frank Capra. Howard E. Koch đảm nhận kịch bản này cho tới khi anh em nhà Epsteins trở lại một tháng sau đó. Casey Robinson viết lại kịch bản trong ba tuần, nhưng không được ghi nhận. Curtiz trở thành đạo diễn của bộ phim sau khi William Wyler, lựa chọn đầu tiên của Wallis, không thể tham gia. Quá trình ghi hình chính bắt đầu từ ngày 25 tháng 5 năm 1942, kết thúc ngày 3 tháng 8; hầu hết bộ phim quay tại Warner Bros. Studios, Burbank, với chỉ một cảnh quay ở Sân bay Van Nuys, Los Angeles.
Mặc dù là một bộ phim hạng A với dàn diễn viên nhiều ngôi sao cùng đội ngũ sản xuất tên tuổi, không ai trong đoàn làm phim tin rằng nó sẽ trở thành một sản phẩm vượt trội so với hàng chục bộ phim Hollywood khác được sản xuất cùng năm. Được đưa ra rạp công chiếu sớm nhằm tận dụng sự kiện quân Đồng minh tấn công Bắc Phi, phim công chiếu lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Thành phố New York và ra mắt tại Mỹ vào ngày 23 tháng 1 năm 1943.
Tại phòng vé, phim thu về 3.7 triệu USD trong lần phát hành gốc, là phim có doanh thu cao thứ 7 của năm 1943. Tại giải Oscar lần thứ 16, phim chiến thắng 3 hạng mục: "Phim hay nhất", "Đạo diễn xuất sắc nhất" (Curtiz) và "Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất" (anh em nhà Epsteins và Koch). Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nó được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Hollywood với nhiều câu thoại, hình tượng nhân vật và phần nhạc phim đã trở thành mẫu mực trong lịch sử điện ảnh. Hơn 60 năm sau ngày công chiếu đầu tiên, Casablanca vẫn thường xuyên đứng ở nhóm đầu trong các bảng xếp hạng những bộ phim hay nhất trong lịch sử.
Nội dung
Rick Blaine (Humphrey Bogart) là một người Mỹ lưu vong sống tại thành phố biển Casablanca của Maroc thuộc Pháp. Anh là ông chủ của một quán bar sang trọng kiêm sòng bạc nổi tiếng có tên "Rick's Café Américain", nơi tập trung đủ mọi thành phần của thành phố, từ những viên chức Vichy Pháp hay sĩ quan Đức Quốc xã cho tới những người tị nạn bị mắc kẹt tại thành phố cảng trên đường chạy trốn cuộc chiến đang lan rộng ở châu Âu. Có vẻ ngoài lạnh lùng và không bao giờ tiếp rượu khách tới quán bar, Rick thực tế lại là một người Mỹ nhiệt huyết từng chiến đấu bên cạnh những người Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chống lại phe phát xít của Francisco Franco.
Một buổi tối, Ugarte (Peter Lorre), vốn kiếm sống bằng những mánh khóe lặt vặt và là khách quen của Rick, tới Rick's Café Américain với hai tờ giấy thông hành mà gã lấy được sau khi giết chết hai nhân viên đưa thư người Đức. Đây là những giấy tờ có giá trị cực lớn đối với những người bị mắc kẹt ở Casablanca vì nó cho phép người mang chúng được phép đi lại tự do trong vùng của Đức Quốc xã kiểm soát tại châu Âu, đồng nghĩa với việc họ có thể đặt chân tới Lisboa, Bồ Đào Nha để rồi từ đó bay tới Mỹ và thoát khỏi sự tàn khốc của cuộc chiến. Dự định bán lại hai tờ thông hành với giá cao của Ugarte không thành khi gã bị viên đại úy cảnh sát Louis Renault bắt ngay tại quán cà phê. Nhưng Renault và các sĩ quan Đức Quốc xã không biết rằng trước khi bị bắt Ugarte đã kịp giao lại hai tờ thông hành cho Rick. Cùng thời điểm với vụ bắt giữ Ugarte, Rick gặp hai người khách mà anh không hề mong đợi, đó là người yêu cũ của anh, Ilsa Lund (Ingrid Bergman) cùng chồng của cô là Victor Laszlo (Paul Henreid). Laszlo vốn là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc đã từng chạy thoát khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã và đang tìm cách vượt khỏi Casablanca tới Mỹ nhằm tiếp tục tổ chức cuộc kháng chiến tại châu Âu. Ilsa Lund tìm thấy người bạn là nhạc sĩ dương cầm Sam và yêu cầu chơi bản "As Time Goes By."
Sau cuộc nói chuyện với ông Ferrari (Sydney Greenstreet), chủ quán bar cạnh tranh với Rick Blaine, Victor Laszlo tin rằng Rick đang có hai tờ thông hành trong tay và quyết định thuyết phục Rick nhượng chúng lại cho mình. Trước lời đề nghị của Laszlo, Rick thẳng thừng từ chối với lời giải thích đơn giản rằng Laszlo hãy về hỏi lý do từ người vợ của mình. Trong lúc đó bên ngoài quán bar, các viên sĩ quan Đức đang hát vang bài hát mà họ rất tự hào là "Die Wacht am Rhein", để đáp trả, Laszlo đề nghị ban nhạc của quán chơi bản quốc ca của Pháp "La Marseillaise" và bắt nhịp cho toàn bộ khách trong quán hát theo át lời người Đức. Hành động của Laszlo khiến viên thiếu tá Strasser của Đức Quốc xã tức giận tới mức ông ta buộc đại úy cảnh sát người Pháp Renault đóng cửa ngay lập tức cơ sở kinh doanh của Rick.
Đêm hôm đó, đích thân Ilsa tới gặp Rick tại quán cà phê sau khi Laszlo phải tham gia một cuộc họp bí mật của những người kháng chiến. Một lần nữa Rick từ chối giao lại hai tờ thông hành khiến Ilsa phải rút súng ra đe dọa, tuy nhiên cô nhanh chóng thừa nhận rằng mình không thể bắn anh và rằng cô vẫn còn rất yêu anh. Ilsa giải thích với Rick rằng khi hai người phải lòng nhau ở Paris trong những ngày trước khi thành phố rơi vào tay người Đức, cô không biết rằng người chồng tưởng như đã chết trong trại tập trung của cô thực tế vẫn còn sống và thậm chí đã thoát được về ngoại ô thành phố. Đứng trước trách nhiệm chăm sóc người chồng bị thương, cô buộc phải ở lại thành phố mà không thể tới ga tàu cùng Rick như lời ước hẹn. Mặc dù còn tỏ ra chua cay vì mối tình tan vỡ, Rick vẫn hứa giúp chồng Ilsa chạy thoát để rồi sau đó anh cùng cô có thể một lần nữa sống bên nhau.
Tại quán Rick's Café Américain, Laszlo tới gặp Rick để tiết lộ rằng mình đã biết về tình cảm của Ilsa với Rick và anh đề nghị Rick dùng những tờ thông hành để đưa vợ mình tới nơi an toàn. Ngay lúc này Renault ập tới bắt Laszlo khi đang giao dịch giấy thông hành với Rick, với tội danh dính líu tới giấy tờ bị đánh cắp. Lúc này Rick trở mặt với kế hoạch vạch sẵn ban đầu vốn để lừa Renault, rút súng buộc ông thả Laszlo và đưa cả hai vợ chồng Ilsa tới sân bay để bắt chuyến bay đêm tới Lisboa. Tại sân bay Rick bộc lộ kế hoạch thực sự của mình, đó là cho cả hai vợ chồng Ilsa chạy trốn vì theo Rick, Ilsa không thể ở lại sống cùng anh bởi cô là một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của Laszlo sau này. Sau đó anh còn tiếp tục giết viên sĩ quan Strasser khi ông ta tìm cách ngăn cản chuyến bay của hai người. Chiếc máy bay chở Ilsa cùng Laszlo cất cánh cùng lúc Renault quyết định rời bỏ Casablanca để cùng Rick tới vùng do Chính phủ tự do Pháp quản lý ở Brazzaville. Cả hai bước vào màn sương mù dày đặc với câu thoại cuối cùng của Rick: "Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp." ("Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship.")
Diễn viên
Trong vở kịch, diễn viên có tổng cộng 16 đoạn hội thoại và nhiều cảnh bổ sung; kịch bản phim mở rộng thành 22 đoạn hội thoại và hàng trăm cảnh bổ sung.
Dàn diễn viên của Casablanca đa dạng về quốc tịch, chỉ có 3 trong số các diễn viên được giới thiệu là người Mỹ. Ngoài các diễn viên chính là Paul Henreid, Conrad Veidt và Peter Lorre, nhiều vai diễn quần chúng chủ yếu là các diễn viên châu Âu phải rời bỏ quê hương để chạy trốn chế độ Đức Quốc xã, như Louis V. Arco, Trude Berliner, Ilka Grünig, , Richard Ryen, Ludwig Stössel, Hans Twardowski và Wolfgang Zilzer. Một nhân chứng tại buổi quay cảnh phim "song đấu" giữa hai bài La Marseillaise và Die Wacht am Rhein kể lại rằng rất nhiều diễn viên đã khóc và "nhận ra họ chính là những người tị nạn thật sự". Theo Aljean Harmetz thì các diễn viên lưu vong đã đem lại cho Casablanca sự am hiểu và cảm xúc tuyệt vọng mà nếu chỉ tuyển các diễn viên thông thường thì bộ phim sẽ không bao giờ có.
Diễn viên hài Jack Benny đã có thể tham gia vào một vai phụ, như lời dẫn xuất hiện trong quảng cáo báo chí và quyển sách thông cáo của Casablanca. Trong mục "Movie Answer Man", nhà phê bình Roger Ebert trả lời, "Có thể là anh ấy. Tôi chỉ nói được đến vậy." Sau này, ông nói thêm "Đúng vậy đấy. Câu lạc bộ hâm mộ Jack Benny giờ đây có thể được thanh minh rồi."
Diễn viên chính
Humphrey Bogart trong vai Rick Blaine. Vốn là ngôi sao của các bộ phim hình sự, Rick là vai diễn lãng mạn đầu tiên của Bogart. Theo một số thông tin thì vai diễn này từng được hãng phim nhắm cho Ronald Reagan nhưng thực tế thì hãng Warner Bros khi đó đã biết rằng ngôi sao này phải nhập ngũ, vì vậy họ chưa từng thực sự có ý định để Reagan đóng vai Rick Blaine.
Ingrid Bergman trong vai Ilsa Lund. Theo trang web chính thức của Bergman thì Ilsa là vai diễn nổi tiếng và có sức sống lâu bền nhất của ngôi sao người Thụy Điển. Vốn khởi đầu sự nghiệp ở Hollywood từ năm 1939 với Intermezzo, Casablanca là thành công lớn đầu tiên của Bergman. Theo ý kiến của nhà phê bình Roger Ebert, Ingrid Bergman đã thực sự tỏa sáng và đóng cặp rất ăn ý với ngôi sao lớn Humphrey Bogart. Trước Bergman, một số nữ diễn viên từng được thử vai Ilsa là Ann Sheridan, Hedy Lamarr, Michèle Morgan, bản thân Bergman cũng chỉ có thể tham gia bộ phim sau khi Wallis cho David O. Selznick mượn lại một ngôi sao khác là Olivia de Havilland.
Paul Henreid trong vai Victor Laszlo. Henreid vốn là một diễn viên Áo rời quê hương từ năm 1935, ông chỉ miễn cưỡng nhận vai Laszlo sau khi được hứa trả khoản thù lao cao hơn cả hai Bogart và Bergman. Quan hệ giữa Henreid và hai diễn viên chính còn lại cũng không thực sự tốt trong quá trình quay phim, ông coi Bogart là một diễn viên "tầm thường" ("mediocre"), ngược lại Bergman cũng nhận xét rằng Henreid là một người khó tính và hay giận dỗi.
Diễn viên phụ
Claude Rains trong vai Đại úy Louis Renault. Rains là một diễn viên Anh từng cộng tác với Curtiz trong Những cuộc phiêu lưu của Robin Hood.
Peter Lorre trong vai Ugarte. Lorre là một diễn viên gốc Hungary phải rời Đức sang Mỹ năm 1933.
Sydney Greenstreet trong vai Ngài Ferrari. Greenstreet là đồng hương của Rains, ông đã từng đóng chung với Lorre và Bogart trong bộ phim nổi tiếng The Maltese Falcon (1941).
Conrad Veidt trong vai Thiếu tá Heinrich Strasser. Veidt vốn là một diễn viên Đức từng tham gia tác phẩm huyền thoại của điện ảnh Đức The Cabinet of Dr. Caligari (1920) trước khi phải chạy trốn chế độ Quốc xã.
Diễn viên khác
Dooley Wilson trong vai Sam. Wilson là một trong số rất ít các diễn viên Mỹ tham gia Casablanca. Vốn là một tay trống, ông không hề biết chơi piano và mãi đến sau khi hoàn thành bộ phim, nhà sản xuất Wallis vẫn có ý định lồng tiếng diễn viên khác thay cho tiếng của Wilson trong các bài hát. Vai diễn Sam cũng từng được Hal Wallis dự kiến là một vai nữ mà trong số các ứng cử viên có sự góp mặt của Hazel Scott và Ella Fitzgerald.
Joy Page trong vai Annina Brandel. Tuy vào vai một phụ nữ lưu vong người Bulgaria nhưng Page lại là người Mỹ, cô là con gái của ông chủ hãng Warner Bros. Jack Warner.
S. Z. Sakall trong vai Carl. Cũng giống như đạo diễn Curtiz và Peter Lorre, Sakall là một diễn viên người Hungary chạy trốn chế độ Đức Quốc xã. Sakall là bạn của Curtiz từ ngày hai người còn làm việc tại Budapest, ông có ba người thân thiệt mạng trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.
Curt Bois trong vai kẻ móc túi. Bois là diễn viên người Do Thái gốc Đức. Sự nghiệp điện ảnh của ông kéo dài từ năm 1907 tới năm 1987.
Leonid Kinskey trong vai Sascha, tay pha chế người Nga đã say đắm Yvonne. Ông sinh trong một gia đình người Do Thái tại Nga và chuyển tới Hoa Kỳ. Ông chia sẻ với Aljean Harmetz, tác giả cuốn Round Up the Usual Suspects: The Making of Casablanca, rằng vì ông là bạn rượu của Bogart nên mới giành được vai diễn này. Leo Mostovoy là lựa chọn đầu tiên cho vai này, nhưng bị cho là không đủ hài hước.
Madeleine LeBeau trong vai Yvonne, cô bạn gái bị Rick từ chối. LeBeau kết hôn với đồng nghiệp trong Casablanca Marcel Dalio cho đến khi ly hôn năm 1942. Bà là diễn viên còn sống cuối cùng của đoàn làm phim, trước khi qua đời ngày 1 tháng 5 năm 2016.
John Qualen trong vai Berger. Ông sinh ra tại Canada, nhưng lớn lên ở Hoa Kỳ. Ông xuất hiện trong nhiều bộ phim của John Ford.
Sản xuất
Kịch bản
Kịch bản gốc của Casablanca là kịch bản sân khấu chưa được sản xuất của Murray Burnett và Joan Alison có tựa đề Everybody Comes to Rick's. Vở kịch này dựa trên cảm hứng từ chuyến đi châu Âu năm 1938 của Murray Burnett, lúc ông đã tới Viên chỉ một thời gian ngắn sau khi sự kiện Anschluss xảy ra và tận mắt chứng kiến sự phân biệt đối xử của chính quyền Đức quốc xã. Tiếp đó, nhà biên kịch còn tới một hộp đêm ở miền Nam nước Pháp nơi ông gặp những khách hàng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới và một nhạc công mà ông lấy làm hình mẫu cho nghệ sĩ người da đen Sam trong phim sau này. Trong kịch bản sân khấu gốc, nhân vật Ilsa là một cô gái Mỹ có tên Lois Meredith, cô không biết Laszlo cho tới sau khi kết thúc cuộc tình với Rick, vốn là một luật sư, ở Paris. Để tăng tính chân thực về động cơ của Rick, Wallis, Curtiz và các tác giả đã quyết định đưa bối cảnh bộ phim về sau khi Trận Trân Châu Cảng diễn ra. Trên The Guardian, Paul Fairclough khẳng định Cinema Vox ở Tangier là niềm cảm hứng cho Rick's Cafe trong Casablanca. Đây là công trình lớn nhất tại châu Phi khi khánh thành năm 1935, sức chứa 2.000 chỗ ngồi và có một mái vòm kéo.
Sau khi đọc kịch bản, nhà phân tích của hãng Warner Bros. là Stephen Karnot cho rằng đây là một "kịch bản sáo rỗng nhưng tinh tế" ("sophisticated hokum"), với kết quả là biên tập viên Irene Diamond thuyết phục nhà sản xuất Hal Wallis mua lại bản quyền kịch bản Everybody Comes to Rick's với giá 20.000 USD, số tiền lớn nhất từng được trả cho một kịch bản sân khấu chưa bao giờ công diễn. Sau khi mua lại kịch bản sân khấu, các nhà sản xuất đổi tên dự án thành Casablanca nhằm bắt chước tựa đề của bộ phim ăn khách Algiers (1938). Các biên kịch đầu tiên được giao chuyển thể tác phẩm sân khấu này là anh em Julius và Philip Epstein. Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án này và chuyển sang hợp tác trong Why We Fight theo yêu cầu Frank Capra tại Washington, DC. Người thứ ba tham gia nhóm chuyển thể là nhà biên kịch Howard Koch, đã viết nên 30 tới 40 trang trong lúc anh em nhà Epstein văng mặt. Khi anh em nhà Epstein trở lại khoảng một tháng sau đó, đóng góp của Koch bị loại bỏ—ngược lại những gì Kock khẳng định trong 2 cuốn sách của mình. Theo lượng kinh phí cuối cùng mà hãng Warner Bros. chi trả cho bộ phim, anh em nhà Epsteins nhận 30.416 USD, trong khi Koch chỉ được trả 4.200 USD.
Tuy không được nhắc tới trong thành phần biên kịch, Casey Robinson cũng đóng góp cho kịch bản chuyển thể của Casablanca trong 3 tuần, tham gia chỉnh sửa những cuộc gặp gỡ của Rick và Ilsa ở quán bar. Curtiz quyết định ưu tiên các trường đoạn lãng mạn của bộ phim và những cảnh phim hồi tưởng của Rick và Ilsa về giai đoạn hai người còn ở Paris. Kock lại đề nghị nhấn mạnh yếu tố chính trị và tình cảm lãng mạn của kịch bản gốc. Mặc dù trải qua tay nhiều biên kịch với những ý đồ chuyển thể khác nhau, Ebert vẫn xem đây là một kịch bản "hết sức chặt chẽ và thống nhất". Còn theo Koch nhận xét sau này thì chính sức ép giữa ý đồ chuyển thể của ông và của Curtiz đã giúp kịch bản phim có được sự thống nhất đó. Tuy không hoàn toàn tán thành với kịch bản chuyển thể cuối cùng, Julius Epstein cũng thừa nhận rằng dù sao thì bộ phim được hoàn thành suôn sẻ vẫn là điều tốt nhất.
Kịch bản chuyển thể Casablanca còn gặp rắc rối ở cơ quan kiểm duyệt của Hollywood là Production Code Administration khi Joseph Breen phản đối chi tiết viên đại úy Renault tìm cách tống tiền những người mắc kẹt ở Casablanca hay chi tiết Rick và Ilsa từng ngủ cùng nhau ở Paris. Một số thay đổi nhỏ trong kịch bản được thực hiện tuy nhiên thực tế thì cả hai chi tiết này đều vẫn được giữ nguyên trong kịch bản cuối cùng. Do quy định của luật điện ảnh Mỹ (Hays Code) thời đó nên Casablanca không thể kết thúc với việc một người đàn bà đã có chồng bỏ đi với người đàn ông khác, vì vậy vấn đề của kịch bản chuyển thể không phải là Ilsa có ra đi cùng Laszlo hay không mà là sự kiện đó sẽ diễn ra thế nào. Vì vậy Casey Robinson đã đề nghị với Hal Wallis về một đoạn kết có nút thắt với việc Rick giả như sẽ giữ Ilsa ở lại cùng mình trong khi thực tế thì anh quyết định sẽ để cả hai người cùng ra đi. Theo Casey thì đoạn kết này sẽ giải quyết được mối tình tay ba trong phim cũng như nêu bật được ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống phát xít vốn có vị trí quan trọng nhất vào thời điểm chiến tranh này.
Quay phim
Bộ phim được khởi quay ngày 25 tháng 5 năm 1942 và hoàn thành chưa đầy ba tháng sau, vào ngày 3 tháng 8, với kinh phí 1.039.000 đô la Mỹ (vượt dự toán 75.000 USD), đây là một số tiền không phải quá lớn nhưng cũng vượt hơn kinh phí trung bình của một bộ phim Hollywood thời bấy giờ.
Lựa chọn đầu tiên của Wallis cho vị trí đạo diễn Casablanca là William Wyler, tuy nhiên đạo diễn nổi tiếng này không thể tham gia dự án, và Wallis quyết định quay sang người bạn thân của mình là Michael Curtiz, một đạo diễn vốn là người Do Thái gốc Hungary di cư tới Mỹ trong thập niên 1920 và có một số người thân phải tị nạn tới Mỹ để tránh chính quyền Đức Quốc xã. Một số nhà phê bình cho rằng cách làm phim của Curtiz không đóng góp nhiều về mặt cốt truyện cho Casablanca trong khi đó một số khác lại đánh giá cao phong cách đạo diễn của Michael Curtiz, ví dụ Sidney Rosenzweig đã đánh giá Casablanca là điển hình cho phong cách nhấn mạnh vào những xung đột về đạo đức của Curtiz. Bên cạnh nhóm làm phim chính của Curtiz, một tổ quay phụ cũng được thành lập dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Don Siegel để thực hiện những cảnh quay về người tị nạn ở Casablanca và cảnh quân Đức tiến vào Paris.
Tất cả phân cảnh của Casablanca được quay trong trường quay, trừ cảnh thiếu tá Strasser lái xe tới sân bay, vốn được quay trực tiếp tại Sân bay Van Nuys. Các đường phố phục vụ cho phần ngoại cảnh Casablanca vốn vừa được xây dựng trước đó cho bộ phim The Desert Song, các nhà sản xuất chỉ cần thay đổi sửa chữa lại để chúng phù hợp với những đường phố Paris nơi Rick và Ilsa trải qua những giờ phút hạnh phúc. Quán bar của Rick được thiết kế gồm ba phần riêng biệt để thuận lợi cho các góc quay khác nhau. Ở trường đoạn cuối cùng của phim, chiếc máy bay Lockheed Model 12 Electra Junior được làm ở dạng mô hình và để che lấp những khiếm khuyết của nó người ta đã tận dụng tới sương mù. Mặc dù vậy, công viên chủ đề Disney's Hollywood Studios ở Orlando, Florida sau này lại mua hẳn một chiếc Lockheed 12A thật và tuyên bố rằng chiếc máy bay này đã được sử dụng để quay Casablanca.
Theo nhà phê bình Roger Ebert, nhà sản xuất Wallis là "một động lực sáng tạo chính" của Casablanca khi ông quan tâm tới từng chi tiết nhỏ của bộ phim, ông buộc người trong đoàn làm phim phải kiếm cho bằng được một con vẹt thật để phục vụ cho bối cảnh quán bar Blue Parrot (Quán Con vẹt xanh). Vị trí quay phim của Casablanca được giao cho nhà quay phim Arthur Edeson, người từng tham gia quay nhiều bộ phim kinh điển như Frankenstein (1931) và The Maltese Falcon (1941). Edeson đặc biệt chú trọng tới các cảnh quay có sự xuất hiện của nữ diễn viên Ingrid Bergman, cô thường được quay từ phía bên trái ưa thích, các khung hình của Bergman thường được lấy nét mềm và bố trí ánh sáng sao cho đôi mắt của nữ diễn viên này trở nên lấp lánh, giúp cho nhân vật Ilsa có được vẻ đẹp buồn bã, nhẹ nhàng và mang chút hoài cổ. Nhiều cảnh quay trong Casablanca dùng biểu tượng bóng cột dài đổ trên nhân vật tạo cảm giác họ bị cầm tù, những dải bóng ngang dọc cũng để ám chỉ Chữ thập Lorraine, biểu tượng của Chính phủ Tự do Pháp cũng như các xung đột về tinh thần của nhân vật. Theo Rosenzweig, những hiệu quả hình ảnh này là chi tiết kinh điển trong các bộ phim của Curtiz bên cạnh cách di chuyển máy bay và sử dụng bối cảnh phim để phân đoạn.
Một rắc rối trong quá trình quay Casablanca là sự chênh lệch về chiều cao giữa Bergman và Bogart, nữ diễn viên gốc Thụy Điển cao hơn bạn diễn chừng 5 cm nên cô thường đề nghị Curtiz cho Bogart đứng ở tầm cao hơn hoặc ngồi trong các cảnh quay cùng cô. Câu thoại cuối cùng ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") được Wallis nghĩ ra sau khi đoàn làm phim đã đóng máy, vì vậy mãi một tháng sau Bogard mới được mời lại để lồng tiếng cho câu cuối cùng này. Người ta còn có dự định quay thêm một cảnh phim mô tả Renault và những binh lính của chính phủ Pháp Tự do tham gia cuộc tấn công Bắc Phi của quân Đồng minh, tuy nhiên việc mời lại Claude Rains là quá khó khăn và đạo diễn nổi tiếng David O. Selznick cũng cho rằng thay đổi cái kết có sẵn của Casablanca sẽ là một "sai lầm tồi tệ" ("terrible mistake").
Nhạc phim
Phần nhạc phim của Casablanca được giao cho nhà soạn nhạc nổi tiếng Max Steiner, người vào năm 1939 đã sáng tác phần nhạc cho bộ phim bất hủ Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind). Bài hát chủ đề của phim, "As Time Goes By" do Herman Hupfeld sáng tác đã được Burnett chọn ngay từ kịch bản sân khấu. Steiner vốn dự định bỏ "As Time Goes By" để thay mới hoàn toàn bằng nhạc của ông, tuy nhiên do Bergman vừa cắt tóc ngắn cho vai diễn María trong Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls) nên cô không thể quay lại các cảnh có xuất hiện giai điệu của As Time Goes By và kết quả là Max Steiner quyết định dựa trên bài hát này cùng bản quốc ca Pháp "La Marseillaise" để viết nhạc phim cho phù hợp với sự thay đổi tâm trạng nhân vật.
Trong cảnh quay đáng nhớ khi Laszlo bắt nhịp khách hàng trong quán hát La Marseillaise át tiếng sĩ quan Đức đang hát Die Wacht am Rhein, bài hát Đức ban đầu được chọn là "Horst Wessel Lied", tác phẩm được coi là quốc ca thứ hai của Đức Quốc xã, tuy nhiên các nhà làm phim đã không thể sử dụng bài hát này do nó vẫn còn hạn bản quyền. Một số bài hát khác được sử dụng trong Casablanca, chủ yếu thông qua tiếng hát của người nhạc công da đen Sam, là "It Had to Be You" (1924, nhạc của Isham Jones, lời của Gus Kahn), "Knock on Wood" (nhạc của M.K. Jerome, lời của Jack Scholl) và "Shine" (1910, nhạc của Ford Dabney, lời của Cecil Mack và Lew Brown). Từ năm 1999, As Time Goes By được Warner Bros. dùng làm nhạc hiệu mở đầu cho hãng.
Chiếc đàn dương cầm trong những cảnh phim hồi tưởng tại Paris được chào mua tại hệ thốg Sotheby's, Thành phố New York vào ngày 14 tháng 12 với giá 600.000 USD. Chiếc dương cầm của Sam tại quán Rick's Café Américain được Turner Classic Movies và Bonhams đấu giá tại New York vào tháng 11 năm 2014, với số tiền 3.4 triệu USD.
Danh sách bài hát
Phát hành
Bộ phim được công chiếu chính thức tại Hollywood Theater ở Thành phố New York ngày 26 tháng 11 năm 1942, trùng với dịp quân Đồng minh tấn công Bắc Phi và chiếm Casablanca. Casablanca sau đó được công chiếu rộng rãi từ ngày 23 tháng 1 năm 1943 nhằm tận dụng tiếng vang của Hội nghị Casablanca, một hội nghị cấp cao của phe Đồng minh với sự xuất hiện của cả thủ tướng Anh Winston Churchill và tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Cơ quan thông tin chiến tranh Hoa Kỳ (United States Office of War Information) đã ngăn việc chiếu Casablanca cho binh lính ở Bắc Phi vì họ sợ bộ phim sẽ khiến những người ủng hộ chính phủ Vichy Pháp tức giận.
Tiếp nhận
Trong nhà hát Hollywood gồm 1.500 ghế ngồi, bộ phim thu về 255.000 USD sau hơn 10 tuần. Bộ phim đem lại cho các nhà sản xuất 3.7 triệu đô la Mỹ trong lần đầu công chiếu ở Hoa Kỳ, đây là bộ phim ăn khách thứ 7 ở nước này trong năm 1943.
Phần lớn ý kiến phê bình trong thời gian Casablanca ra mắt lần đầu đều là tích cực. Bên cạnh diễn xuất của Bogart và Bergman, tờ Variety còn khen ngợi phim là một tác phẩm tuyên truyền chống phe Trục tuyệt vời, về đánh giá này Koch sau đó đã nhận xét: "đó là một bộ phim khán giả cần... có những giá trị... đáng để người ta hy sinh. Và nó được kể một cách hết sức hấp dẫn". Bài phê bình phim trên tờ The New York Times cho rằng bộ phim là một tác phẩm cảm động tới "sởn gai ốc" và rằng các nhà làm phim đã kết hợp rất tốt các yếu tố tình cảm, hài hước và cảm động; NY Times cũng đánh giá cao chất lượng kịch bản và diễn xuất của dàn diễn viên trong phim. Không phải toàn bộ ý kiến phê bình đều đánh giá cao Casablanca, tờ The New Yorker chỉ đánh giá bộ phim là "tạm được" ("pretty tolerable"). Còn theo Pauline Kael thì bộ phim còn lâu mới có thể coi là một tác phẩm lớn mà chỉ là một bộ phim lãng mạn rẻ tiền. Tương tự Kael, Umberto Eco đánh giá "theo bất cứ tiêu chuẩn phê bình chính xác nào thì Casablanca cũng là một bộ phim hết sức tầm thường" với tuyến nhân vật không phải phức tạp mà là đầy sự mâu thuẫn.
Bộ phim có một số sai sót về mặt lịch sử và lôgic. Ví dụ tờ thông hành trong phim theo lời Ugarte là nó có chữ ký của cả Weygard, toàn quyền Vichy Pháp tại các thuộc địa Bắc Phi, và De Gaulle, lãnh tụ chính phủ Pháp Tự do lưu vong, trong khi thực tế thì tòa án quân sự của chính quyền Vichy Pháp đã kết án vắng mặt De Gaulle tội phản quốc với án chung thân vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, vì vậy một tờ thông hành có chữ ký của De Gaulle thì hoàn toàn vô giá trị trong lãnh thổ do Vichy Pháp quản lý. Theo Harmetz thì tờ thông hành này được Joan Allison nghĩ ra cho kịch bản sân khấu và nó chưa bao giờ bị đặt dấu hỏi về mức độ chính xác về mặt lịch sử. Một chi tiết không hợp lý khác là việc Laszlo được đi lại tự do ở Casablanca sau khi trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc xã vì "đây vẫn là vùng chưa bị chiếm đóng của nước Pháp", chi tiết này hoàn toàn không hợp lý vì chính quyền Vichy Pháp quản lý thành phố vốn có quan hệ cực kỳ chặt chẽ với Đức Quốc xã và chắc chắn Laszlo phải bị bắt ngay khi xuất hiện trước mặt cảnh sát Pháp. Một câu thoại của Renault cũng đề cập tới chi tiết ông từng "đi cùng người Mỹ khi họ tiến về Berlin năm 1918", thực tế thủ đô nước Đức chưa bao giờ bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, việc Renault bị các sĩ quan Đức giám sát trực tiếp cũng là vô lý vì quân đội Đức không hề chính thức có mặt ở Casablanca suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Casablanca còn gặp một số lỗi về tính liên tục trên phim, điển hình là cảnh Rick ướt sũng khi tới ga tàu để rời Paris nhưng khi anh lên tàu thì chiếc áo khoác lại khô cong, theo lời Michael Curtiz thì những lỗi về tính liên tục Casablanca gặp phải là do ông "làm bộ phim quá nhanh và chẳng ai để ý".
Di sản
Casablanca sau khi ra đời đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử điện ảnh Mỹ. Murray Burnett đã nhận xét rằng bộ phim luôn "chân thực với ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai". Nhân dịp kỉ niệm lần thứ 50 ngày Casablanca được công chiếu lần đầu, tờ Los Angeles Times nhận xét rằng bộ phim đã đạt được sự cân bằng gần như hoàn hảo của cả ba thể loại phim ly kì, tình cảm và hài hước, tờ LA Times cho rằng sức sống lâu bền của bộ phim chính là tinh túy của các bộ phim Hollywood giai đoạn hoàng kim. Theo nhà phê bình Roger Ebert thì Casablanca có lẽ là bộ phim nằm trong nhiều danh sách Phim hay nhất hơn tất cả các bộ phim khác, kể cả Công dân Kane: Công dân Kane "xuất sắc hơn" nhưng Casablanca "được yêu thích hơn". Ebert cho rằng sự phổ biến của bộ phim đến từ cách xây dựng hình ảnh nhân vật vô cùng đẹp đẽ trong phim, theo sự phát triển của tình tiết phim, các nhân vật càng bộc lộ sự tốt đẹp của mình tuy rằng một số nhân vật như Laszlo được sáng tạo quá hoàn hảo tới mức thiếu thực tế.
Ảnh hưởng
Sức ảnh hưởng của Casablanca được thể hiện qua nhiều chi tiết của bộ phim được tái hiện trong các tác phẩm điện ảnh ra đời sau nó. Năm 1944, bộ phim Passage to Marseille tập hợp gần như toàn bộ dàn diễn viên chính của Casablanca với Bogart, Rains, Curtiz, Greenstreet và Lorre. Riêng Humphrey Bogart đã có thêm hai bộ phim có rất nhiều điểm tương tự với Casablanca, đó là To Have and Have Not (1944) và Sirocco (1951). Casablanca còn được gợi lại qua nhiều bộ phim khác như A Night in Casablanca (1946) của anh em nhà Marx, The Cheap Detective (1978) của Neil Simon, Brazil (1985) của Terry Gilliam, Barb Wire (1996) hay Out Cold (2001). Steven Soderbergh trong bộ phim The Good German (2006) đã tái sử dụng rất nhiều kỹ thuật quay và chi tiết phim của Casablanca để tưởng nhớ tới bộ phim, The Good German nói về một vụ giết người xảy ra tại Berlin thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, tác phẩm được hoàn toàn quay bằng phim đen trắng và kết thúc bằng cảnh hai nhân vật chính (do George Clooney và Cate Blanchett thủ vai) ở sân bay, tương tự với cảnh kết của Casablanca, thậm chí áp phích của bộ phim cũng được thiết kế tương tự với áp phích nổi tiếng của Casablanca. Nhiều bộ phim còn tưởng nhớ tới Casablanca thông qua chính tựa đề của nó, ví dụ bộ phim Play It Again, Sam (1972) của Woody Allen gợi tới câu thoại "Play it, Sam. Play As Time Goes By!" còn The Usual Suspects (1995) của Bryan Singer lại sử dụng câu thoại ở phần kết của Casablanca là "Round up the usual suspects". Bộ phim Caboblanco (1980) thì thậm chí gần như là một tác phẩm làm lại Casablanca với bối cảnh Nam Mỹ. Bản thân hãng Warner Bros. vào năm 1995 cũng cho làm một bộ phim nhái lại Casablanca với tựa đề Carrotblanca, đây là một tập phim hoạt hình thuộc loạt Bugs Bunny. Trên truyền hình, ảnh hưởng của Casablanca có thể thấy rõ qua cốt truyện của bộ phim Overdrawn at the Memory Bank (1983) hay tập phim Casablanca của loạt Moonlighting trong đó hai nhân vật chính có tên "Rick" (Curtis Armstrong) và "Agnes" (Allyce Beasley). Trò chơi máy tính được đánh giá cao năm 1998 Grim Fandango cũng chịu nhiều ảnh hưởng của bộ phim, cụ thể rõ nhất là ở cảnh II, Rubacava, khi các nhân vật chính của game là Manny Calavera và Glottis mặc trang phục giống Rick Blaine và Sam.
Tại Hoa Kỳ, Casablanca luôn được chiếu lại trong tuần kiểm tra cuối kì của Đại học Harvard, truyền thống này đã được nhiều trường đại học Mỹ khác bắt chước. Trong khi nhiều bộ phim sản xuất thập niên 1940 dần bị quên lãng theo thời gian thì Casablanca cho tới năm 1977 vẫn là tác phẩm điện ảnh được chiếu lại nhiều nhất trên truyền hình Mỹ. Năm 1982 trong một bài báo trên tờ American Film, Chuck Ross đã tuyên bố rằng ông vừa thử nghiệm việc đánh máy lại kịch bản Casablanca, chỉ thay lại tựa đề thành Everybody Comes to Rick's và thay tên nghệ sĩ chơi piano thành Dooley Wilson rồi gửi nó tới 217 đại diện môi giới. Trong số 85 đại diện đọc nó thì 38 đại diện thẳng thừng từ chối kịch bản này, 33 nhận ra được nó là kịch bản cũ (tuy chỉ có 8 là xác định được đây là kịch bản Casablanca), 3 nhận xét rằng nó có khả năng thương mại hóa, và 1 thì đề nghị chuyển kịch bản thành tiểu thuyết.
Giải thưởng và xếp hạng
Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 16 (1942), Casablanca giành tổng cộng 8 đề cử giải Oscar. Bộ phim chiến thắng tại 3 hạng mục quan trọng là Phim hay nhất (cho Hal B. Wallis), Đạo diễn xuất sắc nhất (cho Michael Curtiz) và Kịch bản chuyển thể hay nhất (cho Julius J. Epstein, Philip G. Epstein và Howard Koch). Đây là giải Oscar đầu tiên của đạo diễn Michael Curtiz sau 3 lần đề cử vào các năm 1942 và 1938. Với Curtiz và Hal B. Wallis, đây đều là chiến thắng duy nhất của họ ở giải thưởng này. Với vai diễn xuất sắc của mình, Humphrey Bogart cũng có một đề cử ở hạng mục Vai nam chính xuất sắc nhất tuy nhiên tượng vàng cuối cùng lại được trao cho Paul Lukas, một đồng hương người Hungary của đạo diễn Curtiz, với vai diễn trong bộ phim Watch on the Rhine (tên tiếng Anh của bài hát Die Wacht am Rhein được nhắc tới trong trường đoạn nổi tiếng của Casablanca). Tuy là người được đứng tên nhận giải phim hay nhất nhưng Wallis lại không được giữ giải thưởng vì ông chủ hãng phim Jack Warner đã giữ lại tượng vàng, tức giận vì hành động này của Warner, Wallis đã cắt hợp đồng với hãng phim ngay tháng 4 cùng năm.
Năm 1989, bộ phim đã được Viện lưu trữ phim quốc gia của Mỹ chọn vào danh sách bảo tồn của viện ngay trong đợt đầu tiên. Trong các danh sách xếp hạng phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, Casablanca thường xuyên được lựa chọn, ví dụ trong danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ, Casablanca đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng 1998 và thứ 3 trong bảng xếp hạng 2007. Những câu thoại nổi tiếng của bộ phim cũng thường được nhắc tới trong các danh sách câu thoại nổi tiếng, Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ có tới 6 câu thoại trích từ bộ phim: "Here's looking at you, kid." ("Nhìn em kìa, cô bé") (thứ 5), "Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship." ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") (thứ 20), "Play it, Sam. Play 'As Time Goes By.'" (thứ 28), "Round up the usual suspects." (thứ 32), "We'll always have Paris." (Trong chúng ta luôn có Paris) (thứ 43) và "Of all the gin joints in all the towns in all the world, she walks into mine." ("Trong vô vàn những quán rượu ở mọi thành phố trên khắp thế giới này, cô ấy lại tới đúng chỗ của tôi") (thứ 67). Với 6 câu thoại, Casablanca là bộ phim có nhiều câu thoại đứng trong danh sách nhất, đứng trên Cuốn theo chiều gió và The Wizard of Oz. Trong số 6 câu thoại thì "Here's looking at you, kid" không hề nằm trong kịch bản gốc mà nó xuất phát từ một câu nói ngẫu hứng của Bogart khi ông dạy Bergman chơi bài poker trong thời gian nghỉ giữa các cảnh quay.
Chuyển thể
Sau khi bộ phim đạt được thành công lớn cả về nghệ thuật và doanh thu, các nhà sản xuất đã lập tức dự định về một phần tiếp theo của Casablanca. Phần kết này được dự định lấy tên Brazzaville, tên thành phố mà viên cảnh sát Renault nhắc tới ở cảnh cuối cùng, tuy vậy Brazzaville chưa bao giờ được đưa vào sản xuất thực sự. Cũng từng có những dự án làm lại bộ phim tuy nhiên không có dự án nào được hiện thực hóa, đạo diễn nổi tiếng người Pháp François Truffaut vào năm 1974 đã từ chối một dự án như vậy vì theo ông bộ phim đã trở thành một tác phẩm được sinh viên Mỹ tôn thờ. Ở bên ngoài Hollywood, một nhà làm phim Ấn Độ của Bollywood là Rajeev Nath vào năm 2007 cũng đưa ra một dự án làm lại Casablanca như một cách tưởng nhớ tới bộ phim nổi tiếng.
Đã có hai bộ phim truyền hình ngắn được sản xuất dựa trên Casablanca, chúng đều được coi là những phần trước của bộ phim. Loạt phim truyền hình đầu tiên được hãng ABC phát sóng trong hai năm 1955 và 1956 với Charles McGraw thủ vai Rick và Marcel Dalio thủ vai Renault. Đây là một trong các tác phẩm của chương trình Warner Bros. Presents với tổng thời lượng các tập là 10 tiếng. Loạt phim thứ hai có tổng thời lượng 5 tiếng do đài NBC phát sóng năm 1983 với David Soul vào vai Rick còn Ray Liotta vào vai Sacha. Casablanca còn được chuyển thể thành kịch truyền thanh nhiều lần trong đó đáng chú ý có vở kịch dài 30 phút phát trên The Screen Guild Theater vào ngày 26 tháng 4 năm 1943 với sự góp mặt của cả Bogart, Bergman và Henreid, hay phiên bản chuyển thể dài 1 tiếng phát trên Lux Radio Theater vào ngày 24 tháng 1 năm 1944 với Alan Ladd vào vai Rick còn Hedy Lamarr vào vai Ilsa. Biên kịch Casablanca là Julius Epstein từng hai lần dự định chuyển thể bộ phim lên sân khấu Broadway vào các năm 1951 và 1967 nhưng cả hai lần dự định của Epstein đều không thành hiện thực. Vở kịch gốc của Casablanca là Everybody Comes to Rick's cũng từng được công diễn ở Newport, Rhode Island vào tháng 8 năm 1946 và Luân Đôn tháng 4 năm 1991 nhưng đều không phải là những vở diễn thành công.
Casablanca được hãng Warner Bros. cho phép nhà văn Michael Walsh chuyển thể thành tiểu thuyết với tựa đề As Time Goes By, tác phẩm được xuất bản năm 1998. Ngoài những tình tiết có trong phim, tiểu thuyết còn đề cập tới nhiều chi tiết khác không có trong Casablanca như quá khứ bí ẩn của Rick ở Mỹ. Tuy nhiên không giống như bộ phim gốc, tiểu thuyết As Time Goes By không phải là một tác phẩm thành công.
Dạng phát hành khác
Trong thập niên 1980, Casablanca từng được chuyển thành phim màu trong một dự án gây nhiều tranh cãi. Phiên bản màu này được phát sóng trên truyền hình và phát hành dưới dạng băng VHS tuy nhiên chúng không được người xem đón nhận. Con trai của Humphrey Bogart là Stephen đã nhận xét về dự án màu hóa bộ phim này như sau: "Nếu các ngài định màu hóa Casablanca thì tại sao không thêm tay cho Tượng thần Vệ Nữ?".
Casablanca được Warner Home Video phát hành dưới dạng đĩa lade vào năm 1991 và băng VHS vào năm 1992. Tới năm 1997, bộ phim được hãng MGM phát hành dưới dạng đĩa DVD kèm theo đoạn phim giới thiệu và một phim tài liệu ngắn nói về quá trình sản xuất. Năm 2003 phiên bản DVD Casablanca đặc biệt gồm 2 đĩa được ra mắt công chúng, phiên bản này ngoài nội dung phim với hình ảnh được phục chế còn có phần bình luận và các phim tài liệu đính kèm. Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Casablanca được phát hành dưới dạng HD DVD với phần nội dung tương tự bản DVD năm 2003. Phiên bản này được khen ngợi vì phần hình ảnh phim có chất lượng rất tốt. Tới năm 2008, tới lượt phiên bản Blu-ray của Casablanca xuất hiện với một số phần kèm thêm mới. |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2006, có tên chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Eurowindow 2006 hay Eurowindow V-League 2006 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 23 và là mùa giải chuyên nghiệp thứ 6 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia. Giải đấu khởi tranh vào ngày 15 tháng 1 và kết thúc vào ngày 20 tháng 8 năm 2006 với 13 câu lạc bộ tham dự. Công ty Eurowindow trở thành nhà tài trợ chính thức của giải đấu kể từ vòng đấu thứ 10.
Đây là lần đầu tiên, giải đấu có 13 đội cùng tranh tài. Câu lạc bộ thứ 14 là Ngân hàng Đông Á mất quyền tham dự vì bê bối hối lộ trọng tài tại giải Hạng Nhất 2005 (mùa giải này Đông Á xếp thứ 3). Các đội bóng sẽ thi đấu vòng tròn 2 lượt. Đội vô địch, thứ 2 và thứ 3 lần lượt được thưởng 700, 350 và 150 triệu đồng. Đội xếp thứ 13 sẽ phải xuống chơi tại giải Hạng Nhất, trong khi đội xếp thứ 12 sẽ đá play-off với đội xếp thứ 3 giải Hạng Nhất 2006.
Tin tức
21 tháng 2, ông Đoàn Minh Xương - huấn luyện viên câu lạc bộ bóng đá Bình Dương từ chức. Người thay thế là ông Lê Thụy Hải.
27 tháng 2, ông Arjhan Somgamsak - huấn luyện viên Hoàng Anh Gia Lai từ chức. Người thay thế là ngôi sao của đội, Kiatisuk Senamuang.
26 tháng 4, Đội LG.HN.ACB đổi tên thành ACB-Hà Nội
8 tháng 5, ông Vũ Trường Giang - huần luyện viên đội Tiền Giang bị sa thải. Ông Nguyễn Kim Hằng về thay thế.
3 tháng 8, ông Nguyễn Văn Dũng - huần luyện viên đội Hải Phòng từ chức. Ông Phạm Văn Hùng, Giám đốc điều hành câu lạc bộ, lên thay.
Cầu thủ nước ngoài
Mỗi đội được đăng kí 5 cầu thủ nước ngoài, nhưng chỉ được sử dụng tối đa 3 cầu thủ nước ngoài cùng lúc trên sân.
Bảng xếp hạng
Truyền hình
Các trận đấu của Eurowindow V-League 2006 được lựa chọn và tường thuật trực tiếp trên VTV3, VCTV, HTV, BTV và một số đài truyền hình địa phương khác. Ngoài ra, Truyền hình kỹ thuật số VTC cũng trực tiếp một trận mỗi vòng kể từ lượt về.
Lịch thi đấu và kết quả
Đấu play-off
Trận đấu play-off diễn ra giữa đội xếp thứ 12 giải chuyên nghiệp và đội xếp thứ 3 giải hạng nhất.
Tổng số khán giả
Theo vòng đấu
Theo câu lạc bộ
Số khán giả cao nhất
Các giải thưởng
Giải thưởng tháng
Do chậm trễ trong việc tìm kiếm nhà tài trợ nên bắt đầu từ tháng 4 mới có các giải thưởng hằng tháng dành cho đội bóng, cầu thủ, HLV xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất. Danh hiệu Bàn thắng đẹp nhất được xác định dựa trên kết quả bình chọn của khán giả qua tin nhắn điện thoại đến hệ thống VTC Mobile. Tất cả giải thưởng đến từ nhà tài trợ VTC.
Giải thưởng chung cuộc
Vô địch: Gạch Đồng Tâm Long An
Vua phá lưới: Elenildo De Jesus (Brasil, TMN.CSG) – 18 bàn
Cầu thủ xuất sắc nhất: Lê Công Vinh (Sông Lam Nghệ An)
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Huỳnh Ngọc San và Henrique Calisto (Gạch Đồng Tâm Long An)
Thủ môn xuất sắc nhất:
Cầu thủ trẻ U-23 xuất sắc nhất:
Giải phong cách: Khatoco Khánh Hòa
Đội hình tiêu biểu: |
Phosphor (từ tiếng Hy Lạp: phôs có nghĩa là "ánh sáng" và phoros nghĩa là "người/vật mang"), là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu P và số nguyên tử 15. Là một phi kim đa hóa trị trong nhóm nitơ, phosphor chủ yếu được tìm thấy trong các loại đá phosphat vô cơ và trong các cơ thể sống. Do độ hoạt động hóa học cao, không bao giờ người ta tìm thấy nó ở dạng đơn chất trong tự nhiên. Nó phát xạ ra ánh sáng nhạt khi bị phơi ra trước oxy (vì thế có tên gọi của nó trong tiếng Latinh để chỉ "ngôi sao buổi sáng", từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "ánh sáng" và "mang"), và xuất hiện dưới một số dạng thù hình. Nó cũng là nguyên tố thiết yếu cho các cơ thể sống. Sử dụng quan trọng nhất trong thương mại của nó là để sản xuất phân bón. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong các loại vật liệu nổ, diêm, pháo hoa, thuốc trừ sâu, kem đánh răng và chất tẩy rửa.
Các đặc trưng nổi bật
Dạng phổ biến của phosphor là chất rắn dạng sáp có màu trắng có mùi đặc trưng khó ngửi tương tự như tỏi. Dạng tinh khiết của nó là không màu và trong suốt. Phi kim này không hòa tan trong nước nhưng hòa tan trong carbon disulfide. Phosphor tinh khiết bắt cháy ngay trong không khí và tạo ra khói trắng chứa phosphor pentoxide P2O5.
Thù hình
Phosphor tồn tại dưới ba dạng thù hình cơ bản có màu: trắng, đỏ và đen. Các dạng thù hình khác cũng có thể tồn tại. Phổ biến nhất là phosphor trắng và phosphor đỏ, cả hai đều chứa các mạng gồm các nhóm phân bổ kiểu tứ diện gồm 4 nguyên tử phosphor. Các tứ diện của phosphor trắng tạo thành các nhóm riêng; các tứ diện của phosphor đỏ liên kết với nhau thành chuỗi. Phosphor trắng cháy khi tiếp xúc với không khí hay khi bị tiếp xúc với nguồn nhiệt và ánh sáng.
Phosphor cũng tồn tại trong các dạng ưa thích về mặt động học và nhiệt động lực học. Chúng được tách ra ở nhiệt độ chuyển tiếp -3,8 °C. Một dạng gọi là dạng "alpha", dạng kia gọi là "beta". Phosphor đỏ là tương đối ổn định và thăng hoa ở áp suất 1 atm và 170 °C nhưng cháy do va chạm hay nhiệt do ma sát. Thù hình phosphor đen tồn tại và có cấu trúc tương tự như graphit – các nguyên tử được sắp xếp trong các lớp theo tấm lục giác và có tính dẫn điện.
Ứng dụng
Acid phosphoric đậm đặc, có thể chứa tới 70% - 75% P2O5 là rất quan trọng đối với ngành nông nghiệp do nó được dùng để sản xuất phân bón. Nhu cầu toàn cầu về phân bón đã dẫn tới sự tăng trưởng đáng kể trong sản xuất phosphat (PO43-) trong nửa sau của thế kỷ XX. Các sử dụng khác còn có:
Các phosphat được dùng trong sản xuất các loại thủy tinh đặc biệt được sử dụng trong các loại đèn hơi natri.
Tro xương, calci phosphat, được sử dụng trong sản xuất đồ sứ.
Natri triphosphat được sản xuất từ acid phosphoric được sử dụng trong bột giặt ở một số quốc gia, nhưng lại bị cấm ở một số quốc gia khác.
Acid phosphoric được sản xuất từ phosphor nguyên tố được sử dụng trong các ứng dụng như các đồ uống chứa soda. Acid này cũng là điểm khởi đầu để chế tạo các phosphat cấp thực phẩm. Các hóa chất này bao gồm calci phosphat được dùng trong bột nở và natri triphosphat và các phosphat khác của natri. Trong số các ứng dụng khác, các hóa chất này được dùng để cải thiện các đặc trưng của thịt hay pho mát đã chế biến. Người ta còn dùng nó trong thuốc đánh răng. natri phosphat được dùng trong các chất làm sạch để làm mềm nước và chống ăn mòn cho các đường ống/nồi hơi.
Phosphor được sử dụng rộng rãi để sản xuất các hợp chất hữu cơ chứa phosphor, thôngqua các chất trung gian như phosphor pentachloride và phosphor sulfide. Các chất này có nhiều ứng dụng, bao gồm các chất làm dẻo, các chất làm chậm cháy, thuốc trừ sâu, các chất chiết và các chất xử lý nước.
Nguyên tố này cũng là thành phần quan trọng trong sản xuất thép, trong sản xuất đồng thau chứa phosphor và trong nhiều sản phẩm liên quan khác.
Phosphor trắng được sử dụng trong các ứng dụng quân sự như bom lửa, tạo ra các màn khói như trong các bình khói và bom khói, và trong đạn lửa.
Phosphor đỏ được sử dụng để sản xuất các vỏ bao diêm an toàn, pháo hoa và nhất là methamphetamin (C10H15N).
Với một lượng nhỏ, phosphor được dùng như là chất thêm vào cho các loại bán dẫn loại n.
Phosphor P32 và phosphor P33 được dùng như là các chất phát hiện dấu vết phóng xạ trong các phòng thí nghiệm hóa sinh học (xem Đồng vị dưới đây)
Vai trò sinh học
Phosphor là nguyên tố quan trọng trong mọi dạng hình sự sống đã biết. Phosphor vô cơ trong dạng phosphat PO43- đóng một vai trò quan trọng trong các phân tử sinh học như DNA và RNA trong đó nó tạo thành một phần của phần cấu trúc cốt tủy của các phân tử này. Các tế bào sống cũng sử dụng phosphat để vận chuyển năng lượng tế bào thông qua adenosin triphosphat (ATP). Gần như mọi tiến trình trong tế bào có sử dụng năng lượng đều có nó trong dạng ATP. ATP cũng là quan trọng trong phosphat hóa, một dạng điều chỉnh quan trọng trong các tế bào. Các phospholipid là thành phần cấu trúc chủ yếu của mọi màng tế bào. Các muối calci phosphat được các động vật dùng để làm cứng xương của chúng. Trung bình trong cơ thể người chứa khoảng gần 1 kg phosphor, và khoảng ba phần tư số đó nằm trong xương và răng dưới dạng apatit. Một người lớn ăn uống đầy đủ tiêu thụ và bài tiết ra khoảng 1-3 g phosphor trong ngày trong dạng phosphat.
Theo thuật ngữ sinh thái học, phosphor thường được coi là chất dinh dưỡng giới hạn trong nhiều môi trường, tức là khả năng có sẵn của phosphor điều chỉnh tốc độ tăng trưởng của nhiều sinh vật. Trong các hệ sinh thái sự dư thừa phosphor có thể là một vấn đề, đặc biệt là trong các hệ thủy sinh thái, xem thêm sự dinh dưỡng tốt và bùng nổ tảo.
Lịch sử
Phosphor (từ tiếng Hy Lạp phosphoros, có nghĩa là "vật mang ánh sáng" và nó cũng là tên gọi cổ đại của Sao Kim) đã được nhà giả kim thuật người Đức là Hennig Brand tình cờ phát hiện ra năm 1669 thông qua việc điều chế (ông đã chưng cất 60 xô nước tiểu) nước tiểu để biến chúng thành vàng. Làm việc ở Hamburg, Brand đã cố gắng chưng cất các muối bằng cách cho bay hơi nước tiểu, và trong quá trình đó ông đã thu được một khoáng chất màu trắng phát sáng trong bóng đêm và cháy sáng rực rỡ. Kể từ đó, từ lân quang, liên quan đến các ánh sáng lân tinh của phosphor, đã được sử dụng để miêu tả các chất phát sáng trong bóng tối mà không cần cháy. Tuy nhiên bản chất vật lý của hiện tượng lân quang không trùng với cơ chế phát sáng của phosphor: Brand đã không nhận ra rằng thực tế phosphor cháy âm ỉ khi phát sáng.
Các loại diêm đầu tiên sử dụng phosphor trắng trong thành phần của chúng, nó là nguy hiểm do độc tính của phosphor trắng. Các trường hợp giết người, tự sát và các vụ ngộ độc ngẫu nhiên là hậu quả của việc sử dụng chất này. Ngoài ra, sự phơi nhiễm trước hơi phosphor đã làm cho nhiều công nhân bị mắc chứng bệnh hoại tử xương hàm. Khi phosphor đỏ được phát hiện, khả năng cháy kém hơn cũng như độc tính thấp hơn của nó đã làm cho dạng phosphor này được nhanh chóng chấp nhận như là một chất thay thế cho phosphor trắng trong sản xuất diêm.
Sự phổ biến
Do độ hoạt động hóa học cao đối với oxy trong không khí và các hợp chất chứa oxy khác nên phosphor trong tự nhiên không tồn tại ở dạng đơn chất, mà nó phân bổ rộng rãi trong các loại khoáng chất khác nhau. Các loại đá phosphat, trong đó một phần cấu tạo là apatit (khoáng chất chứa calci phosphat dạng không tinh khiết) là một nguồn quan trọng về mặt thương mại của nguyên tố này. Các mỏ apatit lớn có ở Nga, Maroc, Florida, Idaho, Tennessee, Utah v.v. Tại Việt Nam có mỏ apatit tại Lào Cai. Tuy nhiên, đang có các e ngại là các mỏ apatit sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Hoa Kỳ sẽ không còn các mỏ apatit vào khoảng năm 2035. Trung Quốc và Maroc sở hữu các mỏ apatit lớn nhất đã biết hiện nay, nhưng rồi chúng cũng sẽ cạn kiệt. Cùng với sự cạn kiệt các mỏ này thì sẽ nảy sinh các vấn đề nghiêm trọng đối với việc sản xuất lương thực, thực phẩm của thế giới do phosphor là một thành phần cơ bản trong các loại phân bón.
Thù hình màu trắng của phosphor có thể được sản xuất theo nhiều cách khác nhau. Trong một quy trình, phosphat tricalci thu được từ các loại đá phosphat, được nung nóng trong các lò nung với sự có mặt của carbon và silica. Phosphor dạng nguyên tố sau đó được giải phóng dưới dạng hơi và được thu thập lại dưới dạng acid phosphoric.
Phòng ngừa
Đây là nguyên tố có độc tính với 50 mg là liều trung bình gây chết người (phosphor trắng nói chung được coi là dạng độc hại của phosphor trong khi phosphat và orthophosphat lại là các chất dinh dưỡng thiết yếu). Thù hình phosphor trắng cần được bảo quản dưới dạng ngâm nước do nó có độ hoạt động hóa học rất cao với oxy trong khí quyển và gây ra nguy hiểm cháy và thao tác với nó cần được thực hiện bằng kẹp chuyên dụng do việc tiếp xúc trực tiếp với da có thể sinh ra các vết bỏng nghiêm trọng. Ngộ độc mãn tính phosphor trắng đối với các công nhân không được trang bị bảo hộ lao động tốt dẫn đến chứng chết hoại xương hàm. Nuốt phải phosphor trắng có thể sinh ra tình trạng mà trong y tế gọi là "hội chứng phân bốc khói". Các hợp chất hữu cơ của phosphor tạo ra một lớp lớn các chất, một số trong đó là cực kỳ độc. Các ester florophosphat thuộc về số các chất độc thần kinh có hiệu lực mạnh nhất mà người ta đã biết. Một loạt các hợp chất hữu cơ chứa phosphor được sử dụng bằng độc tính của chúng để làm các thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm v.v. Phần lớn các phosphat vô cơ là tương đối không độc và là các chất dinh dưỡng thiết yếu.
Khi phosphor trắng bị đưa ra ánh sáng Mặt Trời hay bị đốt nóng thành dạng hơi ở 250 °C thì nó chuyển thành dạng phosphor đỏ, và nó không tự cháy trong không khí, do vậy nó không nguy hiểm như phosphor trắng. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với nó vẫn cần sự thận trọng do nó cũng có thể chuyển thành dạng phosphor trắng trong một khoảng nhiệt độ nhất định và nó cũng tỏa ra khói có độc tính cao chứa các phosphor oxide khi bị đốt nóng.
Khi bị phơi nhiễm phosphor, trong quá khứ người ta đề nghị rửa bằng dung dịch chứa 2% sulfat đồng CuSO4 để tạo ra một hợp chất không độc có thể rửa sạch. Tuy nhiên, theo báo cáo của Hải quân Mỹ gần đây thì "...đồng(II) sulfat có độc tính và việc sử dụng nó sẽ được dừng lại. Sulfat đồng có thể gây độc cho thận và não cũng như phá hủy hồng cầu trong mạch máu."
Hướng dẫn này cũng đề xuất thay thế là "dung dịch bicarbonat để trung hòa acid phosphoric...".
Có thể tìm thêm tài liệu về xử lý ngộ độc phosphor tại Emergency War Surgery NATO Handbook: Phần I: Types of Wounds and Injuries: Chương III: Burn Injury: Chemical Burns And White Phosphorus injury.
Đồng vị
Các đồng vị phóng xạ của phosphor bao gồm:
P32: chất tạo bức xạ beta (1,71 MeV) với chu kỳ bán rã 14,3 ngày. Nó được dùng trong các phòng thí nghiệm khoa học nghiên cứu về sự sống, chủ yếu để tạo ra các mẫu DNA và RNA đánh dấu phóng xạ, ví dụ để sử dụng trong các phương pháp đánh dấu Northern hay đánh dấu Southern. Do các hạt beta cao năng lượng được tạo ra thâm nhập qua da và giác mạc, và do bất kỳ lượng P32 nào được đi vào cơ thể theo các đường tiêu hóa, hô hấp hay hấp thụ qua các đường khác đều kết hợp lại trong xương và các acid nucleic, OSHA yêu cầu là mọi người làm việc với P32 bắt buộc phải dùng quần áo bảo hộ, găng tay và kính bảo hộ, và phải tránh sự tiến hành công việc trên các thùng chứa hở để bảo vệ mắt. OSHA cũng yêu cầu phải có sự giám sát cá nhân, quần áo và bề mặt bị phơi nhiễm. Ngoài ra, do năng lượng cao của các hạt beta, thông thường người ta hay sử dụng các vật liệu nặng để che chắn (chẳng hạn chì), nhưng điều này lại tạo ra bức xạ thứ cấp các tia X, thông qua một tiến trình được biết đến như là Bremsstrahlung, có nghĩa là bức xạ phanh. Vì thế, các tấm che phải kèm theo với các vật liệu nhẹ như plexiglas, acrylic, lucit, chất dẻo, gỗ hay nước .
P33; chất tạo bức xạ beta (0,25 MeV) với chu kỳ bán rã 25,4 ngày. Nó được dùng trong các phòng thí nghiệm khoa học về sự sống trong các ứng dụng mà bức xạ beta thấp năng lượng là ưu thế hơn, ví dụ trong sắp xếp chuỗi DNA.
Hợp chất
Amoni phosphat ((NH4)3PO4)
Phosphin (PH3)
Diphosphan (P2H4)
Calci phosphat (Ca3(PO4)2)
Supephosphat (Ca(H2PO4)2)
Calci phosphide (Ca3P2)
Sắt(III) phosphat (FePO4)
Sắt(II) phosphat (Fe3(PO4)2)
Acid hypophosphorơ (H3PO2)
Thuốc thử Lawesson (C14H14O2P2S4)
Parathion (C10H14NO5PS)
Acid phosphoric (H3PO4)
Acid phosphorơ (H3PO3)
Phosphor pentabromide (PBr5)
Phosphor pentoxide (P2O5)
Phosphor tribromide (PBr3)
Phosphor trichloride (PCl3)
Phosphor triiodide (PI3)
Sarin (C4H10FO2P)
Somon
Kali biphosphat (KH2PO4)
Natri phosphat (Na3PO4)
VX (C11H26NO2PS) |
In lụa là một dạng trong kỹ thuật in ấn. In lụa là tên thông dụng do giới thợ đặt ra xuất phát từ lúc bản lưới của khuôn in làm bằng tơ lụa. Sau đó, khi mà bản lưới lụa có thể thay thế bởi các vật liệu khác như vải bông, vải sợi hóa học, lưới kim loại để làm thì tên gọi được mở rộng như là in lưới.
In lụa thực hiện theo nguyên lý giống như in mực dầu trên giấy nến theo nguyên lý chỉ một phần mực in được thấm qua lưới in, in lên vật liệu in bởi trước đó, một số mắt lưới khác đã được bịt kín bởi hóa chất chuyên dùng.
Kỹ thuật này có thể áp dụng cho nhiều vật liệu cần in như nilông, vải, thủy tinh, mặt đồng hồ, mạch điện tử, một số sản phẩm kim loại, gỗ, giấy... hoặc sử dụng thay cho phương pháp vẽ dưới men trong sản xuất gạch men.
Lịch sử
Kỹ thuật này được Châu Âu sử dụng vào năm 1925 với việc in trên giấy, bìa, thủy tinh, tấm kim loại, vải giả da....
Nhưng, hơn 1000 năm trước "người ta phát minh ra rằng sợi tơ khi kéo căng trên một khung gỗ, với hình ảnh khuôn tô gắn phía dưới khung bằng keo hồ có thể dùng để sao chép các hình ảnh nhiều lần trên nhiều vật liệu khác nhau bằng cách phết mực xuyên qua các lỗ tròn khuôn tụ".
Những công trình nghiên cứu sử dụng vải tơ làm lưới in sau đó được tiến hành tại Pháp và Đức trong khoảng thập niên 1870. Sau đó tại Anh Quốc, vào năm 1907, Samuel Simon đã sáng chế ra quá trình làm lưới bằng các sợi tơ. Năm 1914, tại San Francisco, California, phương pháp in lưới nhiều màu được John Pilsworth phát triển.
Phân loại kỹ thuật in lụa
Theo cách thức sử dụng khuôn in, có thể gọi tên in lụa theo các kiểu sau:
In lụa trên bàn in thủ công
In lụa trên bàn in có cơ khí hóa một số thao tác
In lụa trên máy in tự động
Theo hình dạng khuôn in, có thể phân làm hai loại:
In dùng khuôn lưới phẳng
In dùng khuôn lưới tròn kiểu thùng quay
Theo phương pháp in, có tên gọi:
In trực tiếp: là kiểu in trên sản phẩm có màu nền trắng hoặc màu nhạt, màu nền không ảnh hưởng đến màu in
In phá gắn: là kiểu in trên sản phẩm có nền màu, mực in phải phá được màu của nền và gắn được màu cần in lên sản phẩm, và
In dự phòng: là in trên sản phẩm có màu nhưng không thể dùng kiểu in phá gắn được
Kỹ thuật
Cho dù in thủ công, bán thủ công hay thực hiện bằng máy thì kỹ thuật in lụa cũng bao gồm những công đoạn chính như sau: làm khuôn in; chế tạo bàn in, dao gạt; pha chế chất tạo màu, hồ in; và in.
Làm khuôn in
Khuôn in có thể làm bằng gỗ hay kim loại, trên đó được căng tấm lưới đã tạo những lỗ trống để mực in có thể chảy qua trong quá trình in. Quá trình tạo những lỗ trống được gọi là "chuyển hình ảnh cần in" lên khuôn lưới. Thời gian đầu thợ in thường dùng phương pháp chuyển trực tiếp bằng cách vẽ lên lớp nến trắng, vẽ trên lớp đất sét hay vẽ lên lớp dầu bóng nhưng về sau người ta thường dùng hơn với phương pháp gián tiếp như là vẽ trên giấy nến hoặc là ngày nay đa số đều dùng phương pháp cảm quang.
Vẽ trên lớp nến trắng là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút gỗ hoặc tre khắc hoa văn lên một tấm lưới đã được nhúng vào dung môi nến nóng chảy và làm nguội.
Vẽ trên lớp đất sét là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút gỗ, tre hoặc kim nhọn khắc, đục lỗ theo hình dạng hoa văn trên một tấm lưới đã được nhúng vào hồ đất sét đã làm khô.
Vẽ trên lớp dầu bóng là kỹ thuật tạo lỗ trống của lưới in bằng cách dùng bút lông vẽ hình dạng hoa văn trên một tấm lưới đã được quét một lớp dầu bóng và làm khô. Sau khi vẽ nhiều lần sẽ tạo những lỗ trống cần thiết trên bề mặt lưới.
Vẽ trên giấy nên là phương pháp gián tiếp để tạo những lỗ trống trên bề mặt lưới in. Dùng dao "khắc" hình trên giấy nến để tạo những khoảng trống cần thiết, úp mặt giấy nến đã khắc lên lưới và dùng bản ủi làm nóng chảy nến. Sau khi để nguội, những chỗ không cần thiết sẽ được nến bít lại.
Ngày nay, phương pháp cảm quang được xem như là phương pháp tiến bộ trong việc chế tạo bản in. Với phương pháp này có thể sao chép lại các tác phẩm nghệ thuật mà vẫn giữ được tính chân thực về đường nét của nó.
Những bản in được họa sĩ vẽ mẫu thiết kế, thiết kế trên máy tính hoặc tách màu từ một tấm ảnh trên máy tính rồi in ra trên giấy can, mỗi màu được tách sẽ làm một phim tương ứng, phim sau đó được chuyển tải lên tấm lưới. Thao tác đó gọi là chụp bản.
Công đoạn chụp bản được tiến hành trong buồng tối, phim đặt lên bản lưới cùng chiều với mẫu in thật, rọi đèn. Ánh sáng của đèn sẽ xuyên qua phim và đập lên lưới. Vì lưới trước đó đã được quét phủ dung dịch cảm quang nên chỉ những chỗ không bị cản bởi mực sẽ đóng rắn dưới tác dụng ánh sáng. Khi mang bản đi rửa, những chỗ không bị chiếu sáng sẽ bị rửa trôi tạo thành những khoảng trống, khi in mực in sẽ lọt qua những chỗ trống này và bắt vào sản phẩm cần in.
Việc lựa chọn lưới in đóng vai trò quyết định đến chất lượng in ấn, nhất là độ mịn độ nét của hình ảnh cần in. Các thông số quan trong của lưới là độ mịn của lưới (ký hiệu N(chỉ số) hay T(chỉ số)) và tỷ lệ đường kính sợi lưới và chiều rộng mắt lưới. Thí dụ lưới ký hiệu T40 hay N40 có nghĩa là lưới này có 40 sợi/cm và 1600lỗ/cm². Khi in trên giấy, thông thường chọn lưới có ký hiệu T90 - T140; khi in bao bì PVC: T120-T180; khi in vải T30-T100...
Những dung dịch cảm quang thường dùng trong in lưới đó là dung dịch keo Crom-Gelatin hoặc dung dịch Crom-PVA:
Dung dịch Keo Crom-Gelatin được chế tạo từ NH4)2Cr2O7 (amoni đicromat) hoặc K2Cr2O7 (kali đicromat) nồng độ 3,5% được pha với keo gelatin nồng độ 20% theo tỷ lệ 1:1.
Dung dịch Crom-PVA được chế tạo với polyvinyl acetates 12% thêm vào dung dịch bao gồm (NH4)2Cr2O7 hoặc K2Cr2O7 (1,5g); nước (20ml) và C2H5OH:96% (7ml) theo tỷ lệ 1:1.
Những dung dịch trên sau khi chế tạo phải được bảo quản ở nơi thích hợp vì nó là chất nhạy sáng.
Bàn in, dao gạt
Bàn in làm từ kim loại hoặc gỗ. Bàn in đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nét in được in chính xác, đều và đạt độ nét cao. Yêu cầu quan trọng nhất đối với bàn in là phẳng, chắc và có độ đàn hồi nhất định để khuôn in có thể tiếp xúc đều với mặt sản phẩm in. Trong những trường hợp khác nhau, bàn in có thể nằm ngang hay nghiêng góc để người thợ thao tác dễ dàng hơn.
Dao gạt hồ in là công cụ dùng để đẩy, phết mực màu khiến mực thấm qua lưới in, chuyển mực lên sản phẩm cần in. Gọi là dao theo thuật ngữ của thợ nhưng nó có thể làm bằng bọt biển, con lăn cao su hay đơn giản là một miếng gạt cao su.
Chất nhuộm màu và hồ in
Những chất nhuộm màu trong in lụa là những hợp chất mà khi tiếp xúc với vật liệu khác thì có khả năng bắt màu và giữ màu trên vật liệu bằng các lực liên kết lý học hay hoá học.
In lụa thường sử dụng các chất tạo màu là các hợp chất màu hữu cơ. Có thể phân làm hai loại tan và không tan trong nước.
Chất nhuộm màu trong nước có thể là: thuốc nhuộm trực tiếp, thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm hoạt tính, thuốc nhuôm base-cation...
Chất nhuộm màu không tan trong nước có thể là: thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan, thuốc nhuộm lưu huỳnh, pigmen, thuốc nhuộm azo không tan...
Hồ in sau khi pha trộn với thuốc nhuộm được gọi là mực in, sau khi in sẽ được gắn vào sản phẩm cần in. Do đó, tuỳ loại nhóm vật liệu cần in phải có những công thúc pha chế khác nhau. Nhóm vật liệu in được phân các loại sau: vật liệu xenlulo, vật liệu tơ tằm, len; sợi hoá học và xơ tổng hợp; nhựa; gốm sứ; kim loại; thủy tinh...Nhung cho dù in trên chất liệu gì, hồ in cũng phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Phải đồng nhất về thành phần và lượng màu thích hợp để đạt cường độ màu mong muốn
Độ đặc, đột nhớt, độ dính phải bảo đảm để dính được vào vật liệu in và cho hoạ tiết sắc nét
Hồ phải tương đối bền khi bảo quản
Một số hồ in cho vải cần có tính dễ trương nở khi hấp để "nhả" thuốc nhuộm cho vải, và
Không chứa các chất có thể làm hại lưới in
In ấn
Sau khi định vị khuôn in lên bàn in, vật liệu cần in đặt dưới lưới in. Cho mực in thích hợp với một lượng cần thiết vào khuôn in, sau đó dùng dao gạt để mực thấm qua lưới và ăn vào sản phẩm cần in. Điều chỉnh lượng mực in, tốc độ gạt để đạt kết quả tốt nhất.
Sau khi in, mực in chỉ mới cố định cơ học tạm thời trên vật liệu nên cần có quy trình xử lý để gắn màu cố định cho hình in. Tùy loại mực in, vật liệu in để có những cách xử lý thích hợp, như là: sấy, hấp, gia nhiệt khô, hiện màu ướt (trong dung dịch axit loãng), hay hiện màu theo phương pháp ngâm ép, cuộn ủ lạnh...
Một số kiểu in đặc biệt
Có thể dùng những loại mực in khác nhau, hoặc những nguyên liệu đặc biệt để tạo ra những hiệu ứng khác nhau, ví dụ như in chuyển, tạo chữ nổi, in bắn cắm lông...
In chuyển: còn gọi là in nhiệt, in nhiệt khô, in nhiệt chuyển, in chuyển hay là in thăng hoa. Nguyên tắc chung của phương pháp này là không in trực tiếp lên sản phẩm mà in trung gian qua một lớp giấy nền, sau đó ép nóng để thuốc mực in nhả từ giấy nền bắt vào vật liệu in.
In nổi: Trong mực in, có các chất gây nở để tạo hình nổi. Sau khi in và sấy, sản phẩm được hấp ở 130-150 °C bằng hơi nước bão hoà. Mực sẽ chuyển thành màng xốp, có hình nổi trên sản phẩm.
In bắn cắm lông: Lông nhiều màu có chiều dài 0,3mm được đựng vào những hộp riêng. Lông được bắn qua những lỗ trên lưới in và dính vào vải đã quét nhựa bán đa tụ, quá trình này được thực hiện trong điện trường 6000V và không dùng dao gạt. Kết quả là những tấm vải có nhiều màu bằng lông mịn như tuyết nhung và nổi trên mặt vải.
Văn chương
Парыгин А.Б. Искусство шелкографии. ХХ век (история, феноменология. техники, имена). — СПб, 2010. — 304 с. (nga).
Bigeleisen J. I. Screen Printing: A Contemporary Guide. – New-York, 1972. (anh).
Caza M. La Sérigraphie – Genève: Bonvent, 1973. (pháp).
Chú thích |
Washington, D.C., tên chính thức là Đặc khu Columbia (), còn được gọi là Washington hoặc D.C., là thủ đô và là đặc khu liên bang duy nhất của Hoa Kỳ. Nó tọa lạc trên bờ đông sông Potomac, tạo thành vùng biên giới phía tây nam và phía nam với tiểu bang Virginia, và có chung đường biên giới trên bộ ở các phía còn lại với tiểu bang Maryland. Thành phố được đặt theo tên của George Washington, một Người lập quốc và là tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, và đặc khu liên bang được đặt theo tên của Columbia, một hiện thân nữ của quốc gia. Là nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang Hoa Kỳ và một số tổ chức quốc tế khác, thành phố là một thủ đô chính trị quan trọng của thế giới. Đây là một trong những thành phố được ghé thăm nhiều nhất ở Hoa Kỳ, với hơn 20 triệu du khách vào năm 2016.
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định một đặc khu liên bang thuộc thẩm quyền riêng của Quốc hội; do đó, đây không phải là một phần của bất kỳ tiểu bang nào của Hoa Kỳ (kể cả tiểu bang của chính nó). Đạo luật cư trú được ký kết vào ngày 16 tháng 7 năm 1790, phê duyệt việc thành lập một quận thủ đô nằm dọc theo sông Potomac gần bờ biển phía Đông của đất nước. Thành phố Washington được thành lập vào năm 1791 với vai trò là thủ đô quốc gia và Quốc hội đã tổ chức kỳ họp đầu tiên tại đây vào năm 1800. Năm 1801, vùng lãnh thổ, trước đây là một phần của Maryland và Virginia (bao gồm những khu dân cư ở Georgetown và Alexandria), chính thức được công nhận là đặc khu liên bang. Năm 1846, Quốc hội trao trả lại vùng đất ban đầu do Virginia nhượng lại, bao gồm cả thành phố Alexandria; vào năm 1871, nó đã thành lập một chính quyền thành phố duy nhất cho phần còn lại của đặc khu. Kể từ thập niên 1880, đã có nhiều nỗ lực để đưa thành phố trở thành một tiểu bang, phong trào này đã tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây, và Hạ viện đã thông qua một dự luật thành lập bang vào năm 2021.
Thành phố được chia ra thành bốn phần, lấy Điện Capitol làm trung tâm, và có đến 131 khu phố. Theo Điều tra dân số năm 2020, Washington có dân số 689.545 người, khiến nó trở thành thành phố đông dân thứ 20 ở Hoa Kỳ, thành phố đông dân thứ ba ở cả Trung-Đại Tây Dương và Đông Nam, và có dân số lớn hơn hai tiểu bang: Wyoming và Vermont. Những người đi làm từ các vùng ngoại ô Maryland và Virginia lân cận đã nâng dân số ban ngày của thành phố lên hơn một triệu người trong tuần làm việc. Vùng đô thị Washington, lớn thứ sáu ở Hoa Kỳ (bao gồm một phần của Maryland, Virginia và Tây Virginia), có dân số ước tính năm 2019 là 6,3 triệu người.
Ba nhánh của chính phủ liên bang Hoa Kỳ tập trung ở đặc khu: Quốc hội (lập pháp), tổng thống (hành pháp) và Tòa án tối cao (tư pháp). Washington là nơi có nhiều di tích và bảo tàng quốc gia, chủ yếu nằm trên hoặc xung quanh National Mall. Thành phố có 177 đại sứ quán nước ngoài cũng như là trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, công đoàn, tổ chức phi lợi nhuận, nhóm vận động hành lang và hiệp hội nghề nghiệp, bao gồm Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, AARP, Hội Địa lý Quốc gia, Chiến dịch Nhân quyền, Tổ chức Tài chính Quốc tế và Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ.
Một thị trưởng được bầu chọn ở địa phương và một hội đồng gồm 13 thành viên đã điều hành đặc khu này từ năm 1973. Quốc hội duy trì quyền lực tối cao trong thành phố và có quyền vô hiệu hóa các điều lệ do hội đồng thành phố thông qua. Cử tri D.C. bầu ra một dân cử đại diện cho toàn đặc khu vào Hạ viện nhưng dân cử đó không có quyền biểu quyết, và đặc khu cũng không có đại biểu tại Thượng viện. Cử tri đặc khu chọn ra ba đại cử tri phù hợp với Tu chính án thứ 23 của Hiến pháp Hoa Kỳ, được phê chuẩn vào năm 1961.
Lịch sử
Khi những người châu Âu đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, một sắc dân Algonquia với tên gọi Nacotchtank đã cư trú ở khu vực quanh sông Anacostia trong vùng Washington ngày nay. Tuy nhiên, phần lớn những người Mỹ bản thổ đã rời bỏ khu vực này vào đầu thế kỷ XVIII. Năm 1751, Georgetown được tỉnh Maryland cấp phép thành lập trên bờ bắc sông Potomac. Thị trấn này là một phần của lãnh thổ liên bang mới được thành lập gần 40 năm sau đó. Thành phố Alexandria, Virginia, thành lập năm 1749, ban đầu cũng nằm trong đặc khu.
Trong bài phát biểu mang tên Federalist No. 43 vào ngày 23 tháng 1 năm 1788, James Madison, vị tổng thống tương lai, đã giải thích sự cần thiết của một đặc khu liên bang. Madison cho rằng thủ đô quốc gia cần phải là một nơi rõ ràng khác biệt, không phụ thuộc vào bất cứ tiểu bang nào để dễ quản lý và gìn giữ an ninh. Vụ tấn công chống quốc hội của một nhóm binh sĩ nổi giận tại thành phố Philadelphia, được biết với tên gọi vụ nổi loạn Pennsylvania năm 1783, đã cho chính phủ thấy cần thiết phải xem xét về vấn đề an ninh của chính mình. Vì thế, quyền thiết lập một thủ đô liên bang đã được ghi rõ trong Điều khoản một, phần 8 của Hiến pháp Hoa Kỳ, cho phép lập một "Đặc khu (không quá mười dặm vuông) như có thể, bằng phần đất nhượng lại của các tiểu bang nào đó, và được Quốc hội nhận lấy để trở thành nơi đặt trụ sở của chính phủ Hoa Kỳ". Tuy nhiên Hiến pháp Hoa Kỳ không định rõ vị trí cho thủ đô mới. Trong một thỏa hiệp mà sau này được biết đến là "thỏa hiệp năm 1790", James Madison, Alexander Hamilton, và Thomas Jefferson đã đi đến một đồng thuận rằng chính phủ liên bang sẽ lãnh hết nợ chiến tranh mà các tiểu bang đã thiếu với điều kiện là thủ đô quốc gia mới sẽ được đặt tại miền nam Hoa Kỳ.
Ngày 16 tháng 7 năm 1790, Đạo luật Dinh cư (Residence Act) đã cho ra đời một thủ đô mới vĩnh viễn được đặt trên bờ sông Potomac, ngay tại khu vực mà Tổng thống George Washington đã chọn lựa. Như đã được Hiến pháp Hoa Kỳ cho phép, hình dạng ban đầu của đặc khu liên bang là một hình vuông, mỗi cạnh dài 10 dặm Anh (16 km), tổng diện tích là 100 dặm vuông (260 km²). Trong suốt thời gian từ năm 1791–1792, Andrew Ellicott và một số phụ tá trong đó có Benjamin Banneker đã thị sát các ranh giới giữa đặc khu với cả Maryland và Virginia. Cứ mỗi một dặm Anh, họ đặt đá làm mốc ranh giới mà nhiều cột trong số đó vẫn còn lại cho đến ngày nay. Một "thành phố liên bang" mới sau đó được xây dựng trên bờ bắc sông Potomac, kéo dài về phía đông tại Georgetown. Ngày 9 tháng 9 năm 1791, thành phố liên bang được đặt tên để vinh danh George Washington và đặc khu được đặt tên Lãnh thổ Columbia. Columbia cũng là tên thi ca để chỉ Hoa Kỳ được dùng vào thời đó. Ngày 17 tháng 11 năm 1800, Quốc hội mở phiên họp đầu tiên tại Washington.
Đạo luật tổ chức Đặc khu Columbia năm 1801 (District of Columbia Organic Act of 1801) chính thức tổ chức Đặc khu Columbia và đưa toàn bộ lãnh thổ liên bang, bao gồm các thành phố Washington, Georgetown và Alexandria, dưới sự kiểm soát đặc biệt của Quốc hội Hoa Kỳ. Thêm vào đó, lãnh thổ chưa hợp nhất nằm trong Đặc khu được tổ chức thành hai quận: Quận Washington trên bờ bắc sông Potomac, và Quận Alexandria trên bờ nam. Theo đạo luật này, các công dân sống trong đặc khu không còn được xem là cư dân của Maryland hoặc Virginia, vì thế họ không có đại diện của mình tại quốc hội.
Vào ngày 24–25 tháng 8 năm 1814, trong một cuộc càn quét mang tên vụ đốt phá Washington, các lực lượng Anh xâm nhập thủ đô để trả đũa vụ đốt phá thành phố York, tức Toronto ngày nay. Tòa Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, và Tòa Bạch Ốc bị đốt cháy và phá hủy trong suốt cuộc tấn công. Phần lớn các dinh thự chính phủ được nhanh chóng sửa chữa trừ tòa nhà quốc hội. Lúc đó tòa quốc hội phần lớn còn đang xây dựng và chưa hoàn thành cho đến năm 1868.
Kể từ năm 1800, cư dân của đặc khu đã liên tiếp chống đối việc họ thiếu đại diện biểu quyết tại quốc hội. Để sửa đổi, nhiều đề nghị đã được đưa ra nhằm trả lại phần đất được Maryland và Virginia nhượng lại để thành lập đặc khu. Diễn tiến này được biết đến với tên Hồi trả Đặc khu Columbia. Tuy nhiên, những nỗ lực tương tự đều thất bại trong việc giành lấy đủ sự ủng hộ cho đến thập niên 1830, khi quận miền nam là Alexandria của đặc khu lâm vào suy thoái kinh tế với sự thờ ơ của Quốc hội. Alexandria cũng là thị trường chính trong giao thương buôn bán nô lệ ở Mỹ, và có nhiều tin đồn được truyền đi khắp nơi rằng những người theo chủ nghĩa bãi nô tại quốc hội đang tìm cách chấm dứt chế độ nô lệ tại đặc khu; một hành động như vậy sẽ khiến cho nền kinh tế của Alexandria thêm suy thoái. Vào năm 1840, do không hài lòng với việc quốc hội kiểm soát Alexandria, dân chúng trong quận bắt đầu thỉnh cầu trao trả lãnh thổ miền nam của đặc khu về bang Virginia. Lập pháp tiểu bang Virginia đồng ý việc lấy lại Alexandria vào tháng 2 năm 1846, một phần vì việc trở lại của Alexandria sẽ cung cấp thêm hai đại diện ủng hộ chế độ nô lệ tại Hội đồng lập pháp Virginia. Ngày 9 tháng 7 năm 1846, quốc hội đồng ý giao trả lại tất cả lãnh thổ của đặc khu nằm ở phía nam sông Potomac về Khối thịnh vượng chung Virginia.
Đúng như những người Alexandria ủng hộ chế độ nô lệ lo lắng, Thỏa hiệp năm 1850 đã đưa đến việc đặt giao thương buôn bán nô lệ ngoài vòng pháp luật (mặc dù chưa bãi bỏ chính thức chế độ nô lệ) tại đặc khu. Năm 1860, khoảng 80% cư dân người Mỹ gốc châu Phi của thành phố là người da đen tự do. Việc bùng phát cuộc Nội chiến Hoa Kỳ năm 1861 đã mang đến sự phát triển dân số đáng kể trong đặc khu vì sự mở rộng hoạt động của chính phủ liên bang và một làn sóng di cư ồ ạt của những người nô lệ tự do mới đến. Năm 1862, Tổng thống Abraham Lincoln ký Đạo luật giải phóng và bồi thường nô lệ (Compensated Emancipation Act), kết thúc chế độ nô lệ tại Đặc khu Columbia và giải thoát khoảng 3.100 người đang bị cầm giữ làm nô lệ, vào 9 tháng trước khi Tuyên ngôn giải phóng nô lệ (Emancipation Proclamation) ban bố. Năm 1870, dân số của đặc khu phát triển lên đến gần 132.000 người. Mặc dù thành phố phát triển nhưng Washington vẫn còn các con đường đất và thiếu nền tảng vệ sinh căn bản. Tình hình tồi tệ đến nỗi một số thành viên quốc hội đã đề nghị di chuyển thủ đô đến một nơi khác.
Bằng một đạo luật tổ chức đặc khu năm 1871, quốc hội đã thiết lập ra một chính quyền mới cho toàn bộ lãnh thổ liên bang. Đạo luật này có hiệu lực kết hợp các thành phố Washington, Georgetown, và Quận Washington thành một đô thị tự quản duy nhất có tên là Đặc khu Columbia. Mặc dù thành phố Washington chính thức kết thúc sau năm 1871 nhưng cái tên của nó vẫn tiếp tục được sử dụng và toàn bộ thành phố bắt đầu được biết đến rộng rãi là Washington, D.C.. Trong cùng đạo luật đó, quốc hội cũng bổ nhiệm một ban công chánh lo về việc hiện đại hóa thành phố. Năm 1873, Tổng thống Grant bổ nhiệm thành viên có ảnh hưởng nhất trong ban là Alexander Shepherd vào vị trí thống đốc mới. Năm đó, Shepherd chi ra 20 triệu đô la (tương đương 357 triệu đô la năm 2007) vào công chánh, để hiện đại hóa Washington nhưng cũng làm cho thành phố bị khánh kiệt. Năm 1874, quốc hội bãi bỏ văn phòng của Shepherd để trực tiếp quản lý. Các dự án khác nhằm thay hình đổi dạng thành phố cũng không được thực hiện cho đến khi có Kế hoạch McMillan năm 1901.
Dân số đặc khu tương đối vẫn không mấy thay đổi cho đến thời Đại khủng hoảng trong thập niên 1930, khi chương trình cải tổ kinh tế mới gọi là New Deal của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã mở rộng bộ máy chính quyền tại Washington. Chiến tranh thế giới thứ hai làm gia tăng thêm hoạt động của chính phủ và kết quả là tăng thêm số nhân viên liên bang làm việc tại thủ đô; Vào năm 1950, dân số của đặc khu lên đến đỉnh điểm là 802.178 người. Tu chính án 23 Hiến pháp Hoa Kỳ được chấp thuận vào năm 1961, cho phép đặc khu ba phiếu bầu trong đại cử tri đoàn.
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo tranh đấu cho nhân quyền, tiến sĩ Martin Luther King, Jr. ngày 4 tháng 4 năm 1968, các vụ bạo loạn bùng phát tại đặc khu, chủ yếu ở các hành lang ở Đường U, Đường số 14, Đường số 7 và Đường H. Đây là những khu trung tâm thương mại và khu vực cư ngụ của người da đen. Các vụ bạo động kéo dài khoảng ba ngày cho đến khi trên 13.000 binh sĩ liên bang và binh sĩ thuộc vệ binh quốc gia của Đặc khu Columbia được phái đến dẹp loạn. Nhiều cửa tiệm và tòa nhà khác bị thiêu cháy; đa số vẫn còn bị để hoang tàn và không được tái thiết cho đến cuối thập niên 1990.
Năm 1973, quốc hội ban hành Đạo luật Nội trị Đặc khu Columbia (District of Columbia Home Rule Act), cho phép đặc khu được bầu lên một thị trưởng dân cử và một hội đồng thành phố. Năm 1975, Walter Washington trở thành thị trưởng dân cử đầu tiên và cũng là thị trưởng da đen đầu tiên của đặc khu. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ từ cuối thập niên 1980 và cả thập niên 1990, các chính quyền của thành phố bị chỉ trích vì sai phạm quản lý và hoang phí. Năm 1995, quốc hội thành lập Ban Giám sát Tài chính Đặc khu Columbia (District of Columbia Financial Control Board) để trông coi tất cả việc chi tiêu của và cải tổ chính quyền thành phố. Đặc khu lấy lại quyền kiểm soát tài chính của mình vào tháng 9 năm 2001 và các hoạt động của Ban giám sát bị đình chỉ.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, một nhóm khủng bố cướp chuyến bay 77 của American Airlines và đâm thẳng chiếc máy bay vào Ngũ Giác Đài nằm ở thành phố Arlington, Virginia lân cận. Chuyến bay 93 của United Airlines, theo lộ trình đến Washington, D.C., rơi xuống Pennsylvania do nỗ lực ngăn chặn của hành khách.
Địa lý
Đặc khu Columbia có tổng diện tích là 68,3 dặm vuông (177 km²), trong đó diện tích mặt đất chiếm 61,4 dặm vuông (169 km²) và phần còn lại, 6,9 dặm vuông (18 km²) hay 10,16% là mặt nước. Do phần phía nam lãnh thổ đã được trao trả lại cho Thịnh vượng chung Virginia vào năm 1846, Washington, D.C. ngày nay không còn diện tích 100 dặm vuông (260 km²) như ban đầu. Vùng đất còn lại hiện tại của đặc khu chỉ là khu vực được tiểu bang Maryland nhượng lại. Vì thế Washington bị bao quanh bởi các tiểu bang Maryland ở phía đông nam, đông bắc, tây bắc và Virginia ở phía tây nam. Washington, D.C. có ba dòng chảy thiên nhiên chính là: sông Potomac, sông Anacostia và lạch Rock. Sông Anacostia và lạch Rock là các nhánh của sông Potomac. Lạch Tiber, một dòng chảy trước kia đi ngang qua Khu dạo chơi Quốc gia (National Mall), đã hoàn toàn bị san lấp trong thập niên 1870.
Washington không được xây trên những vùng đất lấn đầm lầy. Trong lúc vùng đất ngập nước bao phủ những khu vực dọc theo hai con sông và các suối thiên nhiên khác, phần lớn lãnh thổ của đặc khu bao gồm đất nông nghiệp và những ngọn đồi có cây. Địa điểm tự nhiên cao nhất của Đặc khu Columbia nằm tại Tenleytown, cao 409 ft (125 mét) so với mực nước biển. Điểm thấp nhất là mặt biển tại sông Potomac. Trung tâm địa lý của Washington nằm gần ngã tư Đường số 4 và Đường L Tây-Bắc (tên đường phố ở Hoa Kỳ thường gồm có tên khu định hướng như Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc).
Khoảng 19,4% diện tích Washington, D.C. được dành cho công viên, đồng hạng với New York về tỉ lệ đất công viên cao nhất trong số các thành phố Hoa Kỳ có mật độ dân cư cao. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý phần lớn những môi trường sống thiên nhiên tại Washington, D.C., gồm có Công viên Rock Creek, Công viên Lịch sử Quốc gia Kênh Chesapeake và Ohio, Khu dạo chơi Quốc gia, Đảo Theodore Roosevelt, và Công viên Anacostia. Khu vực môi trường sống thiên nhiên nổi bật duy nhất không do Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý là Vườn Thực vật Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Arboretum), do Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ điều hành. Thác Lớn của sông Potomac nằm trên phía thượng nguồn (tức phía tây bắc) Washington. Trong thế kỷ XIX, Kênh Chesapeake và Ohio bắt đầu từ Georgetown được dùng để cho phép các xà lan đi qua con thác.
Khí hậu
Washington có khí hậu ôn đới hải dương, ẩm ướt (Phân loại khí hậu Köppen: Cfa), đây là khí hậu đặc trưng của khu vực các tiểu bang giữa duyên hải Đại Tây Dương (Mid-Atlantic states), có bốn mùa rõ rệt. Đặc khu nằm trong vùng chịu đựng nhiệt độ (Hardiness zone) cấp 8a gần trung tâm thành phố, và vùng chịu đựng nhiệt độ cấp 7b ở những nơi khác trong thành phố. Điều này chứng tỏ Washington, D.C. có một khí hậu ôn hòa. Mùa xuân và mùa thu khí hậu dịu, ít ẩm ướt trong khi mùa đông mang đến nhiệt độ khá lạnh và lượng tuyết rơi trung bình hàng năm là 16,6 inch (420 mm). Nhiệt độ thấp trung bình vào mùa đông là quanh 30 °F (-1 °C) từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 2. Những cơn bão tuyết gây ảnh hưởng cho Washington trung bình xảy ra cứ mỗi bốn đến sáu năm một lần. Những cơn bão mạnh nhất được gọi là "nor'easter" (bão đông bắc) thường có đặc điểm là gió mạnh, mưa nhiều và đôi khi có tuyết. Những cơn bão này thường ảnh hưởng đến phần lớn vùng ven biển Đông Hoa Kỳ.
Mùa hè có chiều hướng nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình hàng ngày trong tháng 7 và tháng 8 vào khoảng 80-89 °F (khoảng 26,7-31,7 °C). Sự kết hợp giữa nóng và ẩm trong mùa hè mang đến những cơn bão kèm sấm chớp rất thường xuyên. Một số cơn bão lớn đôi khi tạo ra lốc xoáy trong khu vực. Trong khi đó các cơn bão nhiệt đới (hurricane), hay tàn dư của nó, đôi khi hoành hành trong khu vực vào cuối hè và đầu thu. Thường thì chúng bị yếu dần khi đến Washington, một phần vì vị trí của thành phố nằm bên trong đất liền. Tuy nhiên lụt lội trên sông Potomac do sự kết hợp của thủy triều cao, sóng biển dâng lên cao lúc có bão được biết đến là đã nhiều lần gây thiệt hại tài sản nặng nề tại Georgetown.
Nhiệt độ cao nhất kỷ lục tại Washington, D.C. là 106 °F (41 °C) được ghi nhận vào ngày 20 tháng 7 năm 1930 và ngày 6 tháng 8 năm 1918, trong khi nhiệt độ thấp nhất kỷ lục là −15 °F (−26.1 °C) được ghi nhận vào trong trận bão tuyết ngày 11 tháng 2 năm 1899. Trung bình, mỗi năm thành phố có 36,7 ngày nóng trên 90 °F (32 °C), và 64,4 đêm dưới độ đóng băng.
Cảnh quan thành phố
Washington, D.C. là một thành phố được quy hoạch ngay từ khi khởi thủy. Thiết kế cho thành phố phần lớn là công trình của Pierre Charles L’Enfant, một kỹ sư, kiến trúc sư và nhà quy hoạch đô thị người Pháp. Pierre Charles L’Enfant đến Vùng các thuộc địa Mỹ trong vai trò của một kỹ sư công binh cùng với Hầu tước Lafayette vào thời Cách mạng Hoa Kỳ. Năm 1791, Tổng thống Washington giao L'Enfant nhiệm vụ thiết kế thành phố thủ đô mới. Bản quy hoạch của L'Enfant dựa trên mẫu kiểu Baroque, theo đó các đường phố rộng hội tụ tại các điểm hình chữ nhật và hình tròn, tạo nên cảnh quan với nhiều khoảng không gian trống. Vào tháng 3 năm 1792, Tổng thống Washington bãi nhiệm L'Enfant vì ông nhất định theo dõi sát việc điều hành quy hoạch thành phố, gây ra xung đột với ba ủy viên do Washington bổ nhiệm giám sát xây dựng thủ đô. Andrew Ellicott, người từng làm việc với L'Enfant thị sát thành phố, được giao nhiệm vụ để hoàn thành các dự án sau đó. Tuy Ellicott có chỉnh sửa các bản quy hoạch gốc, trong đó bao gồm việc sửa đổi một số hình thể đường phố, nhưng L'Enfant vẫn được ghi nhận là người đã thiết kế tổng thể thành phố Washington, D. C. Ngày nay, thành phố Washington được giới hạn bởi Đường Florida ở phía bắc, lạch Rock ở phía tây, và sông Anacostia ở phía đông.
Sang đầu thế kỷ XX, viễn cảnh của L'Enfant về một thủ đô có những công viên mở và đài tưởng niệm quốc gia lớn đã bị những căn nhà ổ chuột và các tòa nhà mọc ngang nhiên làm hoen ố, trong đó có trạm xe lửa trên National Mall (Khu dạo chơi Quốc gia). Năm 1900, quốc hội thành lập một ủy ban hỗn hợp dưới sự lãnh đạo của thượng nghị sĩ James McMillan, có trách nhiệm làm đẹp phần trung tâm nghi lễ của thành phố Washington. Dự án mang tên McMillan được hoàn thành vào năm 1901. Dự án đã tái phối trí quang cảnh khu vực đồi Capitol và Nation Mall, xây dựng các tòa nhà liên bang và đài tưởng niệm, san bằng các nhà ổ chuột, cũng như thiết lập một hệ thống công viên thành phố mới. Các kiến trúc sư do ủy ban tuyển mộ đã giữ mô hình gốc của thành phố và công việc của họ được xem như sự hoàn thành chính của bản đồ án mà L'Enfant dự định.
Sau khi Tòa nhà Chung cư Cairo 12 tầng được xây dựng vào năm 1899, quốc hội thông qua Đạo luật về chiều cao của nhà cao tầng vào năm 1910 (Heights of Buildings Act of 1910) trong đó tuyên bố không có tòa nhà nào được phép xây cao hơn Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Đạo luật này được sửa đổi lại vào năm 1910 nhằm hạn chế chiều cao của nhà cao tầng bằng với độ rộng của đường phố gần bên cạnh cộng thêm 20 ft (6,1 mét). Ngày nay, đường chân trời của thành phố vẫn thấp và trải dài, giữ đúng ước nguyện của Thomas Jefferson: muốn biến Washington thành một "Paris của nước Mỹ" với các tòa nhà "thấp và tiện lợi" bên trên những đường phố "sáng sủa và thoáng khí". Kết quả là Tượng đài Washington vẫn là tòa kiến trúc cao nhất đặc khu. Tuy nhiên, việc hạn chế chiều cao các tòa nhà của Washington, D.C. đã bị chỉ trích như một lý do chính khiến thành phố có ít nhà ở giá phải chăng, kèm theo các vấn đề về giao thông vì đô thị phải mở rộng ra xa. Để tránh hạn chế về chiều cao của đặc khu, các tòa nhà cao tầng gần trung tâm thành phố thường được xây cất bên kia sông Potomac tại Rosslyn, Virginia, không thuộc Washington D.C..
Thành phố Washington được chia thành bốn khu định hướng không đồng đều: Tây Bắc (NW); Đông Bắc (NE); Đông Nam (SE); và Tây Nam (SW). Các trục chia cắt khu định hướng tỏa ra từ Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Tất cả tên các đường phố đều gồm có tên viết tắt khu định hướng để chỉ vị trí của nó trong thành phố. Trong phần lớn thành phố, các đường phố được ấn định theo định dạng đường kẻ ô với đường phố nằm theo trục đông-tây sẽ mang tên bằng mẫu tự (thí dụ như C Street SW có nghĩa là Đường C, khu tây nam) và đường phố năm theo trục bắc-nam sẽ mang tên bằng số (thí dụ 4th Street NW có nghĩa là Đường số 4, khu tây bắc). Các con đường tỏa ra từ các vòng quanh lưu thông từ ban đầu đã được đặt tên của các tiểu bang; tất cả 50 tiểu bang cũng như Puerto Rico và cả đặc khu đều được dùng làm tên đường trong thành phố. Một số đường phố của Washington đáng được chú ý đặc biệt như Đại lộ Pennsylvania nối Nhà Trắng với Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ, và Đường K có nhiều văn phòng của nhiều nhóm vận động hành lang. Washington tiếp nhận 173 đại sứ quán ngoại quốc, 57 trong số đó nằm trên một đoạn của Đại lộ Massachusetts, có tên không chính thức là "Embassy Row" hay dãy phố đại sứ quán.
Kiến trúc
Thành phố Washington có một kiến trúc rất đa dạng. Sáu trong số mười tòa nhà xếp hạng đầu trong danh sách kiến trúc yêu thích nhất năm 2007 của Viện Kiến trúc sư Mỹ nằm trong Đặc khu Columbia, trong đó có: Tòa Bạch Ốc; Thánh đường Quốc gia Washington; Nhà tưởng niệm Thomas Jefferson; Tòa Quốc hội Hoa Kỳ; Nhà tưởng niệm Lincoln; và Đài tưởng niệm Cựu chiến binh tại Việt Nam. Các hình thái kiến trúc tân cổ điển, george, gothic, và hiện đại, tất cả được phản ánh trong sáu công trình kiến trúc đó và trong nhiều công trình kiến trúc nổi bật khác tại Washington. Những hình thái kiến trúc ngoại lệ nổi bật gồm có các tòa nhà được xây theo kiểu Đệ Nhị đế chế Pháp như Tòa Cựu văn phòng Hành chánh (Old Executive Office Building) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.
Bên ngoài trung tâm Washington, các kiểu kiến trúc thậm chí càng đa dạng hơn. Những tòa nhà lịch sử được thiết kế chính yếu theo kiểu kiến trúc Nữ hoàng Anne, Châteauesque, Richardsonian Romanesque, phục hưng George, Beaux-Arts, và đa dạng các kiểu Victoria. Loại nhà phố liền căn đặc biệt nổi bật trong những khu phát triển sau nội chiến và điển hình theo những kiểu thiết kế chủ nghĩa liên bang và cuối thời Victoria. Vì Georgetown được thành lập trước thành phố Washington, khu dân cư này có đặc điểm kiến trúc xưa cổ nhất trong đặc khu. Tòa nhà Old Stone của Georgetown được xây dựng năm 1765 là tòa nhà còn tồn tại lâu đời nhất trong thành phố. Tuy nhiên phần lớn nhà cửa hiện tại trong khu dân cư được xây vào thập niên 1870 và phản ánh kiểu thiết kế cuối thời Victoria. Đại học Georgetown được xây dựng vào năm 1789 khá khác biệt so với khu dân cư này và mang đặc điểm tổng hợp giữa hai nền kiến trúc Roman và kiến trúc Gothic Phục hưng. Tòa nhà Ronald Reagan là tòa nhà lớn nhất trong đặc khu với tổng diện tích khoảng 3,1 triệu ft² (288.000 m²).
Nhân khẩu
Năm 2018, Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính dân số của đặc khu là 702.455 người, tiếp tục chiều hướng gia tăng dân số trong thành phố kể từ cuộc điều tra dân số năm 2000, thời điểm dân số thành phố đạt 604.453 người. Tuy nhiên trong suốt tuần làm việc, số người ra vào thành phố từ các khu ngoại ô lân cận đã làm cho dân số của đặc khu tăng cao, ước tính khoảng 79,2% trong năm 2010, khiến số người tại thành phố vào ban ngày lên đến trên 1,1 triệu. Vùng đô thị Washington bao gồm các quận xung quanh nằm trong hai tiểu bang Maryland và Virginia là vùng đô thị lớn thứ sáu tại Hoa Kỳ với hơn 6,1 triệu người. Khi kết hợp với Baltimore cùng các khu ngoại ô của nó, Vùng đô thị Baltimore-Washington có dân số vượt hơn 9,6 triệu người, lớn thứ tư tại Hoa Kỳ.
Năm 2017, thành phần dân số của thành phố gồm có 47.1% người Mỹ da đen, 45.1% người Mỹ da trắng, 4.3% người Mỹ da vàng, 0.6% người Mỹ da đỏ (gồm có người bản thổ Mỹ, người bản thổ Alaska, người bản thổ Hawaii, và người Mỹ gốc đảo Thái Bình Dương), 11% người nói tiếng Tây Ban Nha (tất cả chủng tộc) và 2,7% hợp chủng (hai hoặc ba chủng tộc). Cũng có khoảng ước tính 74.000 di dân ngoại quốc sống tại Washington, D.C. trong năm 2007. Nguồn gốc di cư chính là từ El Salvador, Việt Nam, và Ethiopia. Trong đó những di dân từ Salvador sống tập trung tại khu dân cư Mount Pleasant.
Duy nhất trong các thành phố có tỉ lệ cao người Mỹ gốc Phi, Washington có tỷ lệ dân số người da đen cao ngay từ khi thành lập thành phố. Đây là kết quả của việc giải phóng nô lệ tại nửa phía bắc miền Nam Hoa Kỳ (gọi là Upland South) sau Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Dân số da đen tự do trong vùng vọt lên từ con số ước tính 1% trước chiến tranh đến 10% vào năm 1810. Trong đặc khu, cư dân da đen chiếm khoảng 30% dân số giữa năm 1800 và 1940. Dân số người da đen của Washington còn đạt tới 70% dân số thành phố vào năm 1970. Tuy nhiên kể từ đó dân số người Mỹ gốc Phi của Washington, D.C. dần hạ xuống vì có nhiều người rời thành phố để đến các khu ngoại ô lân cận. Một số cư dân cao tuổi hơn đã trở về miền Nam vì có sự liên hệ gia đình và chi phí nhà cửa thấp hơn. Cũng khoảng thời gian đó, dân số người da trắng của thành phố dần tăng lên, một phần vì sự ảnh hưởng của việc dời cư của người da màu tại những khu dân cư truyền thống của người da đen tại Washington. Đây là bằng chứng của sự sụt giảm 7,3% dân số người da đen, và sự gia tăng 17,8% dân số người da trắng kể từ năm 2000. Tuy nhiên, một số người Mỹ gốc Phi, đặc biệt là những sinh viên đại học vừa tốt nghiệp và những người trong giới chuyên gia trẻ, đang di chuyển đến thành phố từ các tiểu bang miền bắc và trung tây. Chiều hướng này được mệnh danh là "New Great Migration" (có nghĩa là cuộc đại di cư mới). Washington, D.C. là một điểm đến hàng đầu cho những người da đen như thế vì có nhiều cơ hội việc làm ngày gia tăng.
Điều tra dân số năm 2000 cho thấy con số ước tính 33.000 người lớn trong Đặc khu Columbia nhận mình là đồng tính hoặc song tính, chiếm khoảng 8,1% dân số trưởng thành của thành phố.. Một thống kê cho biết có 4.822 cặp đồng giới ở Đặc khu Columbia vào năm 2010 . Một đạo luật cho phép kết hôn đồng giới đã được thông qua vào năm 2009 .
Năm 2017, thu nhập trung bình hộ gia đình trung bình ở Washington DC là 77.649 USD; cũng trong năm 2017, cư dân WWashington DC có thu nhập cá nhân trên đầu người là 50.832 USD (cao nhất trong số 50 tiểu bang) . Tuy nhiên, 19% cư dân Washington sống dưới mức nghèo trong năm 2005, cao hơn bất kỳ tiểu bang nào ngoại trừ Mississippi. Năm 2019, tỷ lệ nghèo đạt mức 14,7% dân số .
Về tôn giáo, theo thống kê năm 2010 thì 17% dân số theo Đạo Baptist, 13% theo Công giáo La Mã, 6% theo Tin lành Phúc âm, 3% theo Do Thái giáo, 2% theo Chính thống giáo, 1% theo Hồi giáo, 1% theo Phật giáo, 1% theo Ấn Độ giáo .
Một báo cáo năm 2007 cho thấy khoảng một phần ba cư dân của thành phố Washington bị mù chữ chức năng, so với tỉ lệ quốc gia là khoảng một phần năm. Điều này một phần là do các di dân không rành tiếng Anh. Một cuộc nghiên cứu năm 2005 cho thấy rằng 85,16% cư dân Washington, D.C. trên năm tuổi chỉ nói tiếng Anh ở nhà và 8,78% nói tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Pháp là ngôn ngữ nói xếp thứ ba với 1,35%. Ngược lại tỉ lệ mù chữ cao, gần 46% cư dân Đặc khu Columbia có ít nhất một bằng cấp đại học bốn năm.
Tội phạm
Trong khoảng thời gian của làn sóng tội phạm bạo lực đầu thập niên 1990, Washington, D.C. được biết đến như là thủ đô của các vụ giết người ở Hoa Kỳ và thường được xếp ngang tầm với New Orleans về số lượng các vụ sát nhân. Con số các vụ giết người lên đỉnh điểm vào năm 1991 với 482 vụ, nhưng mức độ bạo lực giảm đáng kể trong suốt thập niên 1990. Năm 2006, con số các vụ giết người hàng năm tại thành phố giảm xuống còn 169 vụ. Tổng cộng, tội phạm bạo lực giảm gần 47% kể từ 1995 đến 2007. Tội phạm xâm phạm bất động sản gồm có trộm cắp, cướp bóc giảm chừng 48% trong cùng giai đoạn này.
Cũng giống như đa số các thành phố lớn khác, các vụ phạm tội xảy ra nhiều nhất tại các khu vực có liên quan đến băng đảng và buôn bán ma túy. Các khu dân cư giàu có hơn của Tây Bắc Washington có mức độ tội phạm thấp nhưng phạm vi ảnh hưởng của tội phạm càng gia tăng khi đi xa về phía đông. Từng bị tội phạm hoành hành, hiện nay các khu dân cư của Đặc khu Columbia như Columbia Heights và Logan Circle đang dần trở nên các khu vực an toàn và nhộn nhịp vì ảnh hưởng của việc tái phân bố dân cư. Kết quả là tội phạm trong đặc khu đang có chiều hướng đi xa về phía đông và về phía bên kia ranh giới vào trong Quận Prince George của Maryland.
Ngày 26 tháng 6 năm 2008, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra phán quyết vụ Đặc khu Columbia đối đầu với Heller rằng luật cấm súng ngắn năm 1976 của thành phố đã vi phạm tu chính án 2 quyền sở hữu súng. Tuy nhiên, phán quyết này không cấm tất cả các hình thức kiểm soát súng; những luật bắt buộc đăng ký súng vẫn có hiệu lực cũng như luật cấm vũ khí loại tấn công của thành phố.
Vào năm 2012, số vụ giết người ở Washington đã giảm xuống còn 88, mức thấp nhất kể từ năm 1961 .
Trong năm 2016, cảnh sát thành phố ghi nhận 135 vụ giết người, tăng 53% so với năm 2012 nhưng giảm 17% so với năm 2015 .
Kinh tế
Washington có một nền kinh tế phát triển đa dạng với khuynh hướng thiên về dịch vụ thương mại và nghiệp vụ. Tổng sản phẩm nội địa của đặc khu năm 2018 là 141 tỷ đô la . Năm 2008, chính phủ liên bang là nguồn cung cấp khoảng 27% việc làm tại Washington, D.C. Người ta cho rằng Washington không bị ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế quốc gia vì chính phủ liên bang vẫn tiếp tục các hoạt động thậm chí trong suốt những thời khủng hoảng. Tuy nhiên vào tháng 1 năm 2017, những nhân công liên bang tại vùng Washington chỉ chiếm 25% tổng số lực lượng lao động của chính phủ liên bang . Nhiều tổ chức như các hãng luật, những cơ sở làm việc theo hợp đồng độc lập (tính cả quốc phòng và dân sự), các tổ chức bất vụ lợi, các nhóm vận động hành lang, liên đoàn lao động, các nhóm trao đổi công nghiệp, và các hội đoàn nghiệp vụ có tổng hành dinh của họ bên trong hoặc gần Đặc khu Columbia để gần bên chính phủ liên bang. Cho đến năm 2011, Vùng đô thị Washington có một tỉ lệ thất nghiệp 6,2%, là một tỉ lệ thấp thứ hai trong số 49 vùng đô thị lớn nhất tại Hoa Kỳ. Tỉ lệ này cũng thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp trung bình của quốc gia trong cùng kỳ thời điểm là 6,5%. Riêng Đặc khu Columbia có tỉ lệ thất nghiệp 9,8% trong cùng khoảng thời gian.Washington cũng có những ngành công nghiệp phát triển không liên quan trực tiếp đến chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, tài chính, chính sách công cộng, và nghiên cứu khoa học. Đại học George Washington, Đại học Georgetown, Trung tâm Bệnh viện Washington, Đại học Howard, và ngân hàng cho vay Fannie Mae là những nơi thuê mướn nhân công trong thành phố, không có liên hệ đến chính phủ. Có năm công ty nằm trong nhóm Fortune 1000 đóng tại Washington, và hai trong số này thuộc Fortune 500.
Washington D.C. đã trở thành một trong những nơi hàng đầu về lĩnh vực đầu tư bất động sản trên thế giới, xếp sau Luân Đôn, New York, và Paris. Năm 2006, tờ Expansion Magazine xếp Đặc khu Columbia trong số 10 khu vực hàng đầu ở Hoa Kỳ hấp dẫn mở rộng thương nghiệp. Washington có trung tâm thành phố lớn thứ ba tại Hoa Kỳ tính theo sức chứa văn phòng thương mại, đứng ngay sau New York và Chicago. Mặc dù khủng hoảng kinh tế quốc gia và giá nhà hạ giảm nhưng Washington được xếp thứ hai trên danh sách những thị trường nhà ở tốt nhất tại Hoa Kỳ của Forbes.
Du lịch cũng là một ngành kinh tế mũi nhọn của Washington. Khoảng 18,9 triệu du khách đã đóng góp ước tính 4,8 tỷ USD cho nền kinh tế của thành phố vào năm 2012 . Đặc khu cũng là nơi tọa lạc của 200 đại sứ quán nước ngoài và cũng là nơi đặt trụ sở của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Những nỗ lực di dời dân cư đang được tiến hành tại Washington D.C., đáng nói là tại các khu dân cư Logan Circle, Shaw, Columbia Heights, hành lang Đường U, và Đường 14. Quá trình này đã diễn ra tại một số khu dân cư nhờ vào việc xây dựng tuyến đường xanh (green line) thuộc hệ thống xe điện ngầm "Metrorail" của Washington, nối liền các khu dân cư này với các khu vực của trung tâm thành phố vào cuối thập niên 1990. Tháng 3 năm 2008, một trung tâm bán hàng mới được mở cửa tại Columbia Heights, trở thành trung tâm bán lẻ lớn đầu tiên tại đặc khu trong vòng 40 năm. Như tại nhiều thành phố, sự di dời dân cư đang làm sống lại nền kinh tế của Washington, nhưng những lợi ích của nó không được phân bố đều trong thành phố và không trực tiếp giúp ích cho người nghèo..Từ năm 2009 đến năm 2016, GDP bình quân đầu người ở Washington đã liên tục được xếp hạng cao nhất trong số các tiểu bang của Hoa Kỳ. Năm 2016, ở mức 160.472 USD, GDP bình quân đầu người của đặc khu cao gần gấp ba lần so với tiểu bang đứng thứ hai là Massachusetts .
Văn hóa
Những địa điểm lịch sử và viện bảo tàng
Trong trung tâm thành phố, khu công viên National Mall, có nghĩa Khu dạo chơi Quốc gia, mở rộng với Tượng đài Washington giữa. Cũng nằm trong khu vực này còn có Nhà tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Quốc gia Chiến tranh thế giới thứ hai nằm ở cuối phía đông Hồ phản chiếu Tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam, và Đài tưởng niệm Albert Einstein. Cơ quan Quản lý Văn khố Quốc gia (National Archives and Records Administration) cất giữ hàng ngàn tài liệu quan trọng đối với lịch sử Mỹ trong đó có bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Hiến pháp Hoa Kỳ và Đạo luật nhân quyền Hoa Kỳ. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ là tổ hợp thư viện lớn nhất thế giới với bộ sưu tập hơn 147 triệu cuốn sách, bản thảo cùng với vô số tài liệu khác.
Nằm ngay phía nam khu dạo chơi National Mall là Tidal Basin, một vịnh nước nhỏ, một phần do nhân tạo, có trồng những hàng cây hoa anh đào do Nhật Bản tặng cho thành phố. Khu tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt, Khu tưởng niệm Martin Luther King, Nhà tưởng niệm Jefferson, và Đài tưởng niệm Chiến tranh Đặc khu Columbia nằm gần Tidal Basin.
Viện Smithsonian là một cơ sở giáo dục được Quốc hội Hoa Kỳ ban hành hiến chương vào năm 1846 để trông coi, bảo quản phần lớn các phòng triển lãm nghệ thuật và viện bảo tàng chính thức của quốc gia tại Washington D.C. Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ một phần cho viện, vì thế các hiện vật trưng bày của viện được mở cửa cho công chúng xem miễn phí. Bảo tàng có nhiều người thăm viếng nhất trong số các bảo tàng của Viện Smithsonian trong năm 2007 là Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Tự nhiên nằm trên Khu dạo chơi Quốc gia National Mall. Các viện bảo tàng và triển lãm khác của Smithsonian nằm trên khu dạo chơi National Mall là: Bảo tàng Quốc gia Không gian và Hàng không; Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Phi châu; Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Mỹ; Bảo tàng Quốc gia Người bản thổ Mỹ; Phòng triển lãm Arthur M. Sackler và Phòng triển lãm Nghệ thuật Freer. Cả hai phòng triển lãm này tập trung về văn hóa và nghệ thuật châu Á; Bảo tàng Hirshhorn và Vườn Điêu khắc; Tòa nhà Công nghiệp và Nghệ thuật; Trung tâm S. Dillon Ripley; và Tòa nhà Viện Smithsonian, cũng còn được biết tên là "The Castle", phục vụ với vai trò như tổng hành dinh của viện.
Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian (trước đây tên là Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Mỹ) và Phòng triển lãm Hội họa Quốc gia nằm trong cùng tòa nhà, đó là Trung tâm Donald W. Reynolds, gần phố Tàu của Washington. Trung tâm Reynolds cũng còn được biết đến là "Old Patent Office Building". Phòng triển lãm Renwick chính thức là một phần của Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian nhưng nằm trong một tòa nhà khác gần Tòa Bạch Ốc. Các viện bảo tàng và phòng triển lãm của Viện Smithsonian còn có: Bảo tàng Anacostia nằm ở đông nam Washington, Bảo tàng Bưu điện Quốc gia gần Trạm Union, và Công viên Vườn thú Quốc gia Smithsonian trong Công viên Woodley.
Phòng triển lãm Nghệ thuật Quốc gia nằm trên Khu vui chơi Quốc gia gần Tòa Quốc hội Hoa Kỳ nhưng không phải là một phần của Viện Smithsonian. Thay vào đó nó do chính phủ Hoa Kỳ làm chủ hoàn toàn; do đó phòng triển lãm này cũng cho vào cửa tự do. Cánh tây của phòng triển lãm có chứa bộ sưu tập quốc về nghệ thuật châu Âu và Mỹ xuyên suốt thế kỷ XIX. Cánh đông của phòng, do kiến trúc sư I. M. Pei thiết kế, có các tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ Smithsonian và Phòng triển lãm Hội họa Quốc gia thường bị lầm lẫn với Phòng triển lãm nghệ thuật Quốc gia trong khi chúng thực sự hoàn toàn là những cơ sở riêng biệt. Bảo tàng Xây dựng Quốc gia nằm gần Quảng trường Công Lý (Judiciary Square) được Quốc hội Hoa Kỳ bảo trợ, có triển lãm các hiện vật tạm thời và các hiện vật được luân chuyển.
Có nhiều bảo tàng nghệ thuật tư nhân trong Đặc khu Columbia trình bày các hiện vật và bộ sưu tập lớn, mở cửa cho công chúng như: Bảo tàng Quốc gia Phụ nữ trong Nghệ thuật, Phòng triển lãm Nghệ thuật Corcoran là bảo tàng tư nhân lớn nhất tại Washington và Bảo tàng Sưu tập Phillips (The Phillips Collection) ở Dupont Circle là bảo tàng nghệ thuật hiện đại đầu tiên tại Hoa Kỳ. Những bảo tàng tư nhân khác tại Washington còn có Newseum, Bảo tàng Điệp vụ Quốc tế, bảo tàng Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ, và Bảo tàng Khoa học Marian Koshland. Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ (United States Holocaust Memorial Museum) nằm gần Khu dạo chơi Quốc gia lưu giữ các hiện vật, tài liệu và các di vật có liên quan đến Holocaust.
Âm nhạc và nghệ thuật trình diễn
Washington, D.C. là một trung tâm nghệ thuật quốc gia. Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn John F. Kennedy là nơi biểu diễn của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia, Nhạc kịch Quốc gia Washington và Đoàn múa Ba lê Washington. Giải thưởng vinh dự Trung tâm Kennedy (Kennedy Center Honors) được trao tặng mỗi năm cho những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật trình diễn mà đã góp phần to lớn đến đời sống nghệ thuật của Hoa Kỳ. Tổng thống và Đệ Nhất Phu nhân thường khi tham dự buổi lễ vinh danh này vì Đệ Nhất Phu nhân là chủ tịch danh dự của Ban ủy thác Trung tâm Kennedy. Washington cũng có một truyền thống kịch nghệ độc lập địa phương. Các đoàn kịch như Arena Stage, Đoàn kịch Shakespeare và "Studio Theatre" trình diễn các tác phẩm cổ điển và kịch mới Mỹ.
Hành lang Đường U trong vùng tây-bắc Đặc khu Columbia thường được biết đến như "Washington's Black Broadway" (có nghĩa là sân khấu Broadway da đen của Washington) là nơi tập trung các khu trình diễn nghệ thuật như Bohemian Caverns và Nhà hát Lincoln với các tài năng âm nhạc như Duke Ellington (s. trưởng tại Washington D.C.), John Coltrane, và Miles Davis. Những nơi trình diễn nhạc jazz khác có biểu diễn nhạc blues hiện đại như Madam's Organ Blues Bar tại Adams Morgan và Blues Alley tại Georgetown. Đặc khu Columbia có thể loại nhạc bản xứ của mình có tên là go-go. Người biểu diễn thành công nhất là trưởng nhóm ban nhạc D.C. là Chuck Brown. Ông đã mang nhạc go-go đến sát bờ công nhận quốc gia với album năm 1979 của ông mang tên Bustin' Loose.
Washington cũng là một trung tâm quan trọng cho văn hóa và âm nhạc indie tại Hoa Kỳ. Hãng thu âm đĩa hát Dischord Records, do Ian MacKaye thành lập, là một trong những hãng thu âm đĩa hát độc lập quan trọng nhất đối với thể loại nhạc punk thập niên 1980 và dần dần là thể loại nhạc indie rock trong thập niên 1990. Lịch sử thu âm thể loại nhạc indie của Washington có thể kể tới các hãng TeenBeat Records, Dischord Records, Simple Machines, và ESL Music trong số nhiều hãng thu âm khác. Các tụ điểm âm nhạc indie và rock hiện đại như The Black Cat và 9:30 Club gần Đường U mang những hoạt động thân thiết đến với công chúng.
Truyền thông
Washington, D.C. là một trung tâm nổi bật đối với truyền thông quốc gia và quốc tế. Nhật báo The Washington Post, thành lập năm 1877, là nhật báo địa phương có nhiều độc giả nhất và lâu đời nhất tại Washington. Có lẽ tờ báo này được biết tới nhiều nhất nhờ đăng tải các đề tài nói về chính trị quốc tế và quốc gia cũng như từng phơi bày vụ bê bối chính trị Watergate. The Post, tên thường gọi của The Washington Post, tiếp tục chỉ phát hành ba phiên bản chính, mỗi phiên bản cho một khu vực là Đặc khu Columbia, Maryland và Virginia. Mặc dù không có phiên bản mở rộng ra ngoài, tờ báo này đứng hạng sáu về số lượng phát hành của tất các nhật báo tại Hoa Kỳ tính đến năm 2011. USA Today, nhật báo lớn nhất quốc gia tính theo số lượng phát hành có tổng hành dinh đặt gần McLean, Virginia.
Từ năm 2003 đến năm 2019, Công ty Washington Post phát hành nhật báo miễn phí dành cho người di chuyển ra vào thành phố hàng ngày mang tên là Express. Tờ báo này tóm tắt các sự kiện, thể thao và giải trí cũng như tờ báo tiếng Tây Ban Nha El Tiempo Latino. Một nhật báo địa phương khác là tờ The Washington Times, và tờ tuần báo Washington City Paper cũng có số độc giả đáng kể trong vùng Washington. Một số tờ báo chuyên đề và cộng đồng tập trung vào các vấn đề văn hóa và khu dân cư gồm có: tuần báo Washington Blade và Metro Weekly tập trung về các vấn đề đồng tính, dị tính; tờ Washington Informer và The Washington Afro American điểm qua các đề tài đáng quan tâm của cộng đồng người da đen; và các tờ báo khu dân cư được phát hành bởi The Current Newspapers. Các tờ báo The Hill và Roll Call đặc biệt tập trung vào các vấn đề có liên quan đến quốc hội và chính phủ liên bang.
Vùng đô thị Washington là thị trường truyền thông truyền hình lớn thứ 9 tại Hoa Kỳ với con số 2.308.290 hộ, chiếm 2,05% dân số Hoa Kỳ. Một số công ty truyền thông và kênh truyền hình cáp có tổng hành dinh trong khu vực, có thể kể đến C-SPAN; Black Entertainment Television; National Geographic Channel; Hệ thống Smithsonian; XM Satellite Radio; National Public Radio; Travel Channel (tại Chevy Chase, Maryland); Discovery Channel (tại Silver Spring, Maryland); và PBS (tại Arlington, Virginia). Tổng hành dinh của Tiếng nói Hoa Kỳ được đặt gần Tòa Quốc hội Hoa Kỳ ở tây nam Washington. Vùng Đặc khu Columbia cũng là nơi đóng bản doanh của Radio One, tập đoàn phát thanh và truyền hình người Mỹ gốc Phi lớn nhất Hoa Kỳ do đại gia truyền thông Cathy Hughes thành lập.
Thể thao
Washington, D.C. là sân nhà của năm đội nam thể thao nhà nghề. Đội Washington Wizards thuộc Hội Bóng rổ Quốc gia và đội Washington Capitals thuộc Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia đều chơi tại Trung tâm Verizon trong khu phố Tàu. Trung tâm có tên Nationals Park, được mở cửa ở đông nam Đặc khu Columbia năm 2008, là sân nhà của đội Washington Nationals thuộc liên đoàn bóng chày tên Major League Baseball. Đội D.C. United thuộc liên đoàn bóng đá có tên Major League Soccer chơi ở Sân vận động Tưởng niệm Robert F. Kennedy. Đội Washington Redskins thuộc Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) chơi gần FedExField ở Landover, Maryland.
Vùng Washington cũng là sân nhà của một số đội thể thao nhà nghề của nữ. Đội Washington Mystics thuộc Hội Nữ Bóng rổ Quốc gia chơi ở Trung tâm Verizon. Đội Washington Freedom tái xuất vào mùa xuân năm 2009 thuộc liên đoàn nữ bóng đá nhà nghề.
Washington là một trong chỉ 13 thành phố tại Hoa Kỳ có các đội nhà nghề của bốn môn thể thao chính của nam: bóng bầu dục, bóng rổ, bóng chày và khúc côn cầu trên băng. Khi bóng đá được đưa vào, Washington là một trong tám thành phố có tất cả năm môn thể thao nhà nghề của nam. Các đội thể thao nhà nghề của Đặc khu Columbia đã giành được một con số tổng cộng là 11 giải quán quân: Đội bóng đá D.C. United đoạt được bốn giải (nhiều nhất trong lịch sử giải bóng đá "Major League Soccer" tại Hoa Kỳ); Đội Washington Redskins thắng ba; Đội Washington Bayhawks thắng hai; và đội Washington Wizards và đội Washington Glory mỗi đội thắng một lần duy nhất giải quán quân. Trung tâm Quần vợt William H.G. FitzGerald ở Công viên Rock Creek là nơi tổ chức giải Legg Mason Tennis Classic. Giải chạy Marathon của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và giải Marathon Quốc gia được tổ chức hàng năm tại Washington. Khu vực Đặc khu Columbia là nơi có một hệ thống truyền hình thể thao vùng tên là Comcast SportsNet có bản doanh tại Bethesda, Maryland.
Chính quyền
Điều I, Đoạn 8 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã dành cho Quốc hội quyền lực tối cao trên Washington, D.C. Đặc khu Columbia đã từng không có chính quyền dân cử thành phố cho đến khi Đạo luật Nội trị Đặc khu Columbia được quốc hội phê chuẩn vào năm 1973. Đạo luật này trao một số quyền lực của quốc hội trên Đặc khu Columbia cho một chính quyền địa phương được một thị trưởng dân cử, hiện tại là Adrian Fenty, và Hội đồng Đặc khu Columbia gồm 13 thành viên điều hành. Tuy nhiên, quốc hội vẫn giữ quyền xem xét và bãi bỏ các luật lệ mà hội đồng thành phố lập ra và cũng như có quyền can thiệp vào các vấn đề địa phương. Mỗi trong số tám phân khu của thành phố bầu lên một thành viên hội đồng duy nhất. Năm thành viên hội đồng khác kể cả chủ tịch hội đồng được cả thành phố bầu lên. Có 37 ủy ban tham vấn khu dân cư (Advisory Neighborhood Commission) được các khu dân cư bầu lên. Ủy ban tham vấn khu dân cư theo truyền thống có rất nhiều ảnh hưởng và chính quyền thành phố theo thường lệ nhận những lời khuyến nghị của họ một cách nghiêm túc.
Thị trưởng và hội đồng trông coi ngân sách địa phương nhưng phải được quốc hội chấp thuận. Các thứ thuế địa phương, thuế bán hàng và thuế bất động sản cung ứng khoảng 67% tiền thu nhập để chi cho các dịch vụ và các ban ngành chính quyền thành phố. Giống như 50 tiểu bang, Đặc khu Columbia nhận được sự trợ giúp liên bang cho các chương trình trợ cấp như chăm sóc sức khỏe. Quốc hội cũng chi tiền thích ứng cho chính quyền thành phố để giúp bù lại một số khoản chi phí dành cho an ninh của thành phố; số tiền này tổng cộng lên đến 38 triệu đô la năm 2007, khoảng 0,5% ngân sách của thành phố. Chính phủ liên bang điều hành hệ thống tòa án của đặc khu. Tất cả cơ quan duy trì pháp luật liên bang, rõ ràng nhất là Cảnh sát Công viên Hoa Kỳ, có thẩm quyền tại thành phố và cũng giúp giữ an ninh cho thành phố. Tất cả các tội đại hình địa phương đều do biện lý Hoa Kỳ đặc trách Đặc khu Columbia xét xử. Các biện lý Hoa Kỳ do tổng thống bổ nhiệm và được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ tài trợ. Tổng cộng, chính phủ liên bang cung cấp 28% tổng số tiền thu nhập của đặc khu. Tính theo trung bình, quỹ liên bang cung cấp khoảng 30% tiền thu nhập của mỗi tiểu bang trong năm 2007.
Chính quyền thành phố, đặc biệt là dưới thời của thị trưởng Marion Barry, đã bị chỉ trích vì quản lý sai lầm và hoang phí. Barry được bầu làm thị trưởng năm 1978, phục vụ ba nhiệm kỳ bốn năm liên tiếp. Tuy nhiên, sau khi ở tù 6 tháng vì phạm tội có liên quan đến ma túy vào năm 1990, Barry không ra tái tranh cử. Năm 1991, Sharon Pratt Kelly trở thành phụ nữ da đen đầu tiên lãnh đạo một thành phố lớn của Hoa Kỳ. Barry được bầu lại vào năm 1994, và đến năm sau đó thì thành phố gần như khánh kiệt. Thị trưởng Anthony A. Williams thắng cứ năm 1998. Chính quyền của ông chứng kiến một thời kỳ thịnh vượng lớn hơn, thay đổi bộ mặt đô thị, và dư thừa ngân sách. Kể từ khi được bầu làm thị trưởng năm 2006, Adrian Fenty ưu tiên đặt trọng tâm vào việc cải cách giáo dục. Ngay sau khi nhậm chức, ông được hội đồng thành phố tán đồng cho phép trực tiếp điều hành và dẹp bỏ hệ thống trường công không hữu hiệu của thành phố.
Washington, D.C. tôn trọng tất cả các ngày lễ liên bang. Đặc khu cũng tổ chức mừng ngày giải phóng nô lệ 16 tháng 4, là ngày kỷ niệm ký Đạo luật giải phóng và bồi thường nô lệ của tổng thống Abraham Lincoln năm 1862.
Washington, DC có truyền thống ủng hộ Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên Đảng Dân chủ đã luôn giành được đa số phiếu bầu tại đây kể từ năm 1964. Kể từ năm 1972, các ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa chưa bao giờ nhận được quá 20% số phiếu bầu của cư dân tại đây.
Hôn nhân đồng giới đã được hợp pháp hóa kể từ năm 2010, và trị liệu chuyển đổi đã bị cấm kể từ năm 2015. Một đạo luật hợp pháp hóa trợ tử đã được ký thông qua bởi thị trưởng Muriel Bowser vào năm 2016 và sẽ có hiệu lực vào năm 2017, biến Washington DC trở thành khu vực tài phán thứ bảy tại Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc trợ tử, cùng với Washington, Oregon, California, Colorado, Hawaii, Montana và Vermont.
Thuế và đại biểu liên bang
Công dân của Đặc khu Columbia không có đại diện biểu quyết tại Quốc hội Hoa Kỳ. Họ chỉ có một đại biểu không quyền biểu quyết (non-voting delegate) tại Hạ viện Hoa Kỳ. Đại biểu duy nhất này có thể ngồi họp với các ủy ban trong quốc hội, tham gia tranh luận, và giới thiệu một dự luật nhưng không thể tham gia biểu quyết tại hạ viện. Đặc khu Columbia không có đại diện tại Thượng viện Hoa Kỳ. Không như các vùng quốc hải của Hoa Kỳ như Puerto Rico hay Guam cũng có các đại biểu không quyền biểu quyết, công dân của Đặc khu Columbia phải chịu các thứ thuế liên bang Hoa Kỳ trong khi công dân các vùng quốc hải thì không. Trong năm tài chánh 2007, các doanh nghiệp và cư dân Đặc khu Columbia đã trả 20,4 tỉ thuế liên bang; nhiều tiền thuế thu được hơn từ 19 tiểu bang gộp lại và đứng cao nhất tỉ lệ thu thuế liên bang tính theo đầu người.
Một cuộc thăm dò năm 2005 cho thấy 78% người Mỹ không biết là các cư dân của Đặc khu Columbia có ít quyền đại diện tại Quốc hội Hoa Kỳ hơn cư dân của 50 tiểu bang. Những nỗ lực kêu gọi sự chú ý của mọi người về vấn đề này gồm có những chiến dịch vận động của các tổ chức tự nhóm lại cũng như việc đưa ra một khẩu hiệu không chính thức của thành phố là "Đóng thuế nhưng không có đại diện" (Taxation Without Representation) được in trên các bảng số đăng ký xe. Có bằng chứng cho thấy sự ủng hộ trên phạm vi quốc gia về quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia; nhiều cuộc thăm dò khác nhau cho thấy 61 đến 82% người Mỹ tin rằng Đặc khu Columbia nên có đại diện có quyền biểu quyết tại quốc hội. Mặc dù có sự ủng hộ của công chúng, nhiều nỗ lực nhằm tranh thủ quyền có đại diện biểu quyết vẫn không thành công. Các nỗ lực nói trên gồm có Phong trào đòi quyền trở thành tiểu bang của Đặc khu Columbia và đề nghị một Tu chính án về quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia. Một số ý kiến khác đề xuất sáp nhập Đặc khu Columbia vào tiểu bang Maryland.
Những người phản đối quyền biểu quyết của Đặc khu Columbia cho rằng những nhân vật lập quốc của Hoa Kỳ chưa bao giờ có ý cho cư dân của đặc khu một phiếu bầu tại Quốc hội Hoa Kỳ vì Hiến pháp Hoa Kỳ có nói rõ là đại diện phải là từ các tiểu bang. Những người chống đối biến Đặc khu Columbia thành một tiểu bang cho rằng một hành động như thế sẽ phá vỡ khái niệm về một thủ đô quốc gia riêng biệt và rằng việc đặc khu thành một tiểu bang sẽ không công bằng khi nó có được đại diện trong Thượng viện Hoa Kỳ trong lúc chỉ là một thành phố đơn độc.
Y tế
Với 16 trung tâm y tế và bệnh viện, Washington, D.C. là một trung tâm chăm sóc bệnh nhân và nghiên cứu y tế quốc gia. Viện Y tế Quốc gia nằm trong Bethesda, Maryland lân cận. Trung tâm Bệnh viện Washington (WHC), khu bệnh viện lớn nhất trong đặc khu, vừa là bệnh viện bất vụ lợi lớn nhất và bệnh viện tư lớn nhất trong vùng Washington. Gần ngay Trung tâm Bệnh viện Washington là Trung tâm Nhi khoa Quốc gia. Đây là một trong những bệnh viện nhi khoa xếp hạng cao nhất tại Hoa Kỳ theo tạp chí U.S. News and World Report. Nhiều trường đại học nổi tiếng của thành phố trong đó có George Washington, Georgetown, và Howard có trường y khoa và bệnh viện dành cho giảng dạy. Trung tâm Quân y Walter Reed nằm ở tây bắc Washington và cung ứng dịch vụ y tế cho các quân nhân về hưu, quân nhân tại ngũ và những thân nhân phụ thuộc của họ.
Giao thông
Washington, D.C. thường được nói đến với những ùn tắc và lưu thông tồi tệ Nhất Hoa Kỳ. Năm 2010, những người ra vào thành phố làm việc (commuter) phải tốn mất trung bình 70 giờ một năm ngồi chờ đợi trên đường. Điều này khiến thành phố bị xếp hạng lưu thông tồi tệ nhất nước Mỹ cùng với Chicago.. Tuy nhiên, 37,7% người ra vào thành phố làm việc ở Washington dùng phương tiện công cộng để đi làm, đứng hạng hai tỉ lệ cao nhất ở Hoa Kỳ.
Cơ quan quản lý liên vận vùng đô thị Washington (Washington Metropolitan Area Transit Authority, WMATA) điều hành hệ thống trung chuyển nhanh của thành phố trong đó có Metrorail (thường được gọi nhất là the Metro) cũng như Metrobus. Hệ thống xe buýt và xe điện ngầm phục vụ cả Đặc khu Columbia và các khu ngoại ô lân cận nằm bên Maryland và Virginia. Metrorail khai trương vào ngày 27 tháng 3 năm 1976 và hiện thời có 86 trạm và 106,3 dặm (171,1 km) đường ray. Với trung bình 950.000 chuyến mỗi tuần làm việc năm 2008, Metrorail là hệ thống trung chuyển nhanh bận rộn thứ hai tại Hoa Kỳ, chỉ đứng sau hệ thống xe điện ngầm New York City Subway của Thành phố New York.
Cơ quan quản lý liên vận Vùng đô thị Washington hiện kỳ vọng sẽ có trung bình một triệu người dùng hệ thống Metrorail mỗi ngày vào năm 2030. Nhu cầu gia tăng công suất phục vụ đã giúp tái tục các kế hoạch để tăng thêm 220 toa xe điện vào hệ thống và điều chỉnh lại các chuyến xe điện để đối phó với vấn đề quá tải tại các trạm bận rộn nhất. Sự phát triển dân số trong vùng đã làm sống lại những lời đề nghị trước đây xây thêm hai tuyến đường Metro phục vụ vùng phụ cận, cũng như một hệ thống xe điện nội thành mới nối các khu dân cư của thành phố. Tuyến xe điện nội thành đầu tiên được trông đợi mở vào cuối năm 2009. Các thẩm quyền khu vực lân cận trong vùng Washington có những hệ thống xe buýt như hệ thống Ride On của Quận Montgomery, Maryland bù khuyết những dịch vụ do Cơ quan quản lý liên vận vùng đô thị Washington phục vụ. Metrorail, Metrobus và tất cả các hệ thống xe buýt công cộng địa phương nhận thẻ thông minh tên SmarTrip, là thẻ thông hành trung chuyển có thể được nạp thêm tiền phí vào.
Trạm Union là trạm xe lửa bận rộn thứ hai tại Hoa Kỳ sau Trạm Pennsylvania tại New York. Nó phục vụ như trạm miền nam cuối cùng của tuyến đường hành lang đông bắc và tuyến đường tốc hành Acela của hệ thống xe lửa Amtrak. Các xe điện dành cho người di chuyển hàng ngày vào thành phố như MARC Train của Maryland và Virginia Railway Express của Virginia, và tuyến đỏ của Metroline cũng có phục vụ đến Trạm Union. Dịch vụ xe buýt nội thành do xe buýt Greyhound, xe buýt Peter Pan, BoltBus, Megabus và nhiều tuyến xe buýt của người Hoa phục vụ.
Được tiến hành kể từ năm 2010, Washington DC sở hữu một trong những hệ thống xe đạp chia sẻ công cộng lớn nhất trong cả nước với hơn 4.351 xe đạp và hơn 395 trạm cung cấp xe đạp, tất cả đều được điều hành bởi PBSC Urban Solutions .
Ba sân bay chính, một tại Maryland và hai tại Virginia, phục vụ Washington, D.C. Sân bay Quốc gia Ronald Reagan Washington, nằm trong Quận Arlington, Virginia ở phía bên kia sông Potomac từ trung tâm D.C., là sân bay duy nhất của vùng Washington có trạm xe điện Metrorail. Do nằm sát thành phố nên Sân bay Quốc gia Reagan có thêm nhiều quan tâm lưu ý về mặt an ninh bắt buộc vì đây là vùng nhận dạng phòng không D.C., cũng như giới hạn thêm về tiếng ồn. Sân bay Reagan không có Cục Quan thuế và Biên phòng Hoa Kỳ và vì thế chỉ có thể phục vụ các chuyến bay quốc tế đến các sân bay ngoại quốc cho phép Cục Quan thuế và Biên phòng của Hoa Kỳ kiểm tra trước trong đó có các điểm tại Canada và vùng Caribbe.
Các chuyến bay quốc tế chính đến và đi từ Sân bay Quốc tế Washington Dulles, nằm cách thành phố khoảng 26,3 dặm (42,3 km) về phía tây trong quận Fairfax và Loudoun của Virginia. Sân bay Dulles là sân bay trung chuyển chính ở duyên hải miền đông của hãng hàng không United Airlines. Sân bay Thurgood Marshall Quốc tế Baltimore-Washington, nằm cách thành phố 31,7 dặm (51.0 km) về phía đông bắc trong Quận Anne Arundel, Maryland là một sân bay trung chuyển của các hãng hàng không Southwest Airlines và Airtran Airways.
Giáo dục
Đặc khu Columbia có tổng cộng 123 trường K-12 và trung tâm giáo dục thuộc hệ thống công lập. Kể từ năm 1999, số học sinh của hệ thống trường công giảm đều đặn và năm học 2008–2009, có 46.208 học sinh ghi danh học trong hệ thống trường công lập.. Trong năm học 2010-2011, 46.191 học sinh đã ghi danh vào hệ thống trường công . Hệ thống trường công của đặc khu là một trong những hệ thống trường công lập tốn kém nhất nhưng ít hiệu quả nhất tại Hoa Kỳ cả về mặt cơ sở vật chất và chất lượng giảng dạy. Tổng giám hiệu của hệ thống trường công lập dưới quyền của thị trưởng Adrian Fenty là Michelle Rhee, đã tạo những thay đổi lớn lao trong hệ thống trường công bằng cách đóng cửa các trường học, thay thế thầy cô giáo, sa thải các hiệu trưởng và dùng các dịch vụ giáo dục tư nhân để giúp phát triển chương trình giáo dục.
nhỏ|Đại học Georgetown tọa lạc bên bờ sông Potomac là viện đại học đầu tiên tại Mỹ được thành lập dưới hiến chương quốc hội
Vì hệ thống trường học công cộng của D.C. có nhiều vấn đề nên con số ghi danh theo học các trường bán công gia tăng 13% mỗi năm kể từ năm 2001. Ban đặc trách trường bán công Đặc khu Columbia quản lý 60 trường bán công trong thành phố. Tính đến mùa thu 2008, các trường bán công D.C. có tổng số học sinh ghi danh là 26.494. Đặc khu cũng là nơi có một số trường trung học tư thục hàng đầu quốc gia. Năm 2006, khoảng 18.000 học sinh trung học ghi danh trong 83 trường tư của thành phố.
Washington là nơi có nhiều viện đại học nghiên cứu tư thục nổi tiếng trong đó có Đại học Georgetown (GU), Đại học George Washington (GW), Đại học Mỹ (AU), Đại học Công giáo Hoa Kỳ (CUA), Đại học Howard, Đại học Gallaudet, và Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp Paul H. Nitze (SAIS) thuộc Đại học Johns Hopkins. Đại học Đặc khu Columbia (UDC) là một đại học công lập với giáo dục bậc cử nhân và sau đại học. Các viện giáo dục cấp cao khác cũng có các chương trình giáo dục dành cho người lớn, giáo dục chuyển tiếp và giáo dục từ xa.
Thành phố kết nghĩa
Washington, D.C. có 15 thành phố kết nghĩa chính thức. Paris và Roma được công nhận là thành phố đối tác vì chính sách một thành phố kết nghĩa đặc biệt của hai thành phố.
Băng Cốc, Thái Lan (1962, tái ký kết năm 2002 và 2012)
Dakar, Senegal (1980, tái ký kết năm 2006)
Bắc Kinh, Trung Quốc (1984, tái ký kết năm 2004 và 2012)
Brussels, Bỉ (1985, tái ký kết năm 2002 và 2011)
Athens, Hy Lạp (2000)
Paris, Pháp (2000, tái ký kết năm 2005)
Pretoria, Nam Phi (2002, tái ký kết năm 2008 và 2011)
Seoul, Hàn Quốc (2006)
Accra, Ghana (2006)
Sunderland, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (2006, tái ký kết năm 2012)
Roma, Ý (2011, tái ký kết năm 2013)
Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ (2011)
Brasília, Brasil (2013)
Addis Ababa, Ethiopia (2013)
San Salvador, El Salvador (2018)
Ghi chú
Vào năm 1790, các tiểu bang miền nam phần lớn đã trả hết nợ ngoại quốc mượn thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Các tiểu bang miền bắc thì chưa trả xong, và muốn chính phủ liên bang mới phải chịu lãnh nợ cho họ. Nếu như việc này thực hiện thì coi như các tiểu bang miền nam phải nhận chia sẻ một phần nợ của miền bắc. Đổi lại, miền nam vận động để có thủ đô liên bang được đặt gần họ hơn. Xem:
Đạo luật Dinh cư cho phép tổng thống chọn lựa một vị trí trong tiểu bang Maryland xa về phía đông đến sông Anacostia. Tuy nhiên, Tổng thống Washington chuyển ranh giới lãnh thổ liên bang về phía đông nam để bao gồm thành phố Alexandria ở mũi phía nam của đặc khu. Năm 1791, Quốc hội Hoa Kỳ tu chính Đạo luật Dinh cư để chấp thuận vị trí mới trong đó có phần đất Virginia nhượng lại. Xem:
Thuật từ lãnh thổ (territory) và đặc khu (district) được dùng thay thế nhau trong suốt thế kỷ XIX cho đến khi lãnh thổ được chính thức đặt tên lại là Đặc khu Columbia năm 1871. Xem:
Dữ liệu lấy từ Cho đến năm 1890, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ tính Thành phố Washington, Georgetown, và những phần đất chưa hợp nhất của Quận Washington như ba khu vực khác nhau. Dữ liệu được đưa ra trong bài này là từ trước năm 1890 được tính giống như Đặc khu Columbia là một đô thị tự quản như nó ngày nay. Để xem dữ liệu về dân số cho mỗi khu vực nào đó từ trước cho đến năm 1890, xin xem: |
Cung Tiến (sinh 27 tháng 11 năm 1938 - mất 10 tháng 5 năm 2022) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài "Thu vàng" năm 14 tuổi, "Hoài cảm" năm 15 tuổi. Mặc dù Cung Tiến tự nhận là một người nghiệp dư trong âm nhạc và chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như "Hương xưa" (viết năm 19 tuổi), "Hoài cảm", "Nguyệt cầm".
Thân thế và đào tạo
Ông tên thật là Cung Thúc Tiến, sinh tại Hà Nội. Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, Cung Tiến du học ở Úc ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney.
Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge, Anh, ông đã dự thêm các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó.
Nhạc phẩm
Về ca khúc, Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954 trừ các bài "Thu vàng", "Hoài cảm". Hai tác phẩm này được ông viết năm 1953 khi mới 14-15 tuổi, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận mình là một người nghiệp dư trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc. Các nhạc phẩm "Hoài cảm", "Hương xưa" của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam.
Ra hải ngoại, ông làm việc trong lãnh vực tài chính ngân hàng nhưng hoạt động thêm về âm nhạc. Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1988 tại San Jose, California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988.
Năm 1992, Cung Tiến hoàn thành tập Ta về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, dẫn đọc, ngâm thơ và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, với tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này. Năm 2003, Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại "Lơ thơ tơ liễu buông mành" dựa trên một điệu dân ca Quan họ. Ông là hội viên của hội nhạc sĩ sáng tác ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ.
Ông qua đời tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ, ở tuổi 83, Lễ tang và lễ hỏa táng của được cử hành ngày 2 tháng 6 năm 2022 tại California, Mỹ.
Biên soạn
Ngoài sáng tác, Cung Tiến còn đóng góp nhiều khảo luận và nhận định về nhạc dân gian Việt Nam cũng như nhạc Hiện đại Tây phương. Trong lãnh vực văn học, những thập niên 1950 và 1960, với bút hiệu Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan điểm, và Văn. Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là cuốn Hồi ký viết dưới hầm của Dostoievsky và cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovitch của Solzhenitsyn. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh Đăng Hoàng.
Nhận định
Nhà thơ Du Tử Lê viết về Cung Tiến như sau:
"Nhiều người cùng giới với nhạc sĩ Cung Tiến cho rằng đa số ca khúc của họ Cung được viết trên căn bản bán cổ điển Tây phương, nên giai điệu rất sang trọng.
Theo tôi, chúng ta có không ít nhạc sĩ xây dựng sáng tác của mình trên khung, nền bán cổ điển Tây phương. Nhưng rất ít người cho phần ca từ của họ nhiều hồn tính Đông phương như Cung Tiến".
Tác phẩm
Tổ khúc Bắc Ninh
Nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm
Ta Về
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Tổ khúc Bắc Ninh
Đĩa nhạc
Cung Tiến art songs - với Camille Huyền, Walther Giger
Ca khúc
Đêm (thơ Thanh Tâm Tuyền)
Đêm hoa đăng
Đẹp xưa (thơ Huy Cận) (1954)
Đôi bờ (thơ Quang Dũng)
Hoài cảm (1953)
Hoàng hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch)
Hương xuân
Hương xưa (1957, viết tặng Duy Trác)
Kẻ ở (Mai chị về) (thơ Nguyễn Đình Tiên, thường bị nhầm là của Quang Dũng)
Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang)
Lệ đá xanh (thơ Thanh Tâm Tuyền, viết tặng Phạm Đình Chương)
Mắt biếc (khác bài mắt biếc của Ngô Thụy Miên)
Mùa hoa nở
Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu)
Thu vàng (1953)
Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ)
Vang vang trời vào xuân (thơ Thanh Tâm Tuyền)
Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) |
Câu lạc bộ bóng đá Panathinaikos ( ), được biết đến là Panathinaikos, hoặc theo tên đầy đủ và tên của câu lạc bộ thể thao gốc của câu lạc bộ, Panathinaikos A.O. hoặc PAO (; Panathinaïkós Athlitikós Ómilos, "All-Athenian Athletic Club"), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hy Lạp có trụ sở ở Athens, Hy Lạp.
Thành tích
Vô địch Hy Lạp: 20
1930, 1949, 1953, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1969, 1970
1972, 1977, 1984, 1986, 1990, 1991, 1995, 1996, 2004, 2010
Cúp bóng đá Hy Lạp: 18
1940, 1948, 1955, 1967, 1969, 1977, 1982, 1984, 1986, 1988,
1989, 1991, 1993, 1994, 1995, 2004, 2010, 2014
Siêu cúp bóng đá Hy Lạp: 3
1988, 1993, 1994
Cúp Balkan: 1
1977
Đội hình hiện tại
Cầu thủ nổi tiếng
Antonis Antoniadis, Stratos Apostolakis, Angelos Basinas, Dimitrios Domazos, Giorgos Donis, Kostas Eleftherakis, Panagiotis Fissas, Kostas Frantzeskos, Mike Galakos, Giorgos Georgiadis, Takis Ikonomopoulos, Ioannis Kalitzakis, Aristidis Kamaras, Giorgos Kapouranis, Anthimos Kapsis, Giorgos Karagounis, Ioannis Kirastas, Sotiris Kirjakos, Kostas Linoxilakis, Spiros Livathinos, Takis Loukanidis, Spiros Marangos, Angelos Messaris, Apostolos Nikolaidis, Antonios Nikopolidis, Nikos Nioplias, Nikos Sarganis, Dimitris Saravakos, Giourkas Seitaridis, Nikos Vamvakoulas
Oscar Alvarez, Juan Jose Borelli, Juan Ramon Rotcha, Juan Ramon Veron
Júlio César da Silva, Flávio Conceição
Rene Henriksen, Jan Michaelsen
Markus Münch, Karlheinz Pflipsen
Aljoša Asanović, Robert Jarni, Goran Vlaovic, Velimir Zajec
Eric Mykland
Emmanuel Olisadebe, Josef Wantzik, Krzysztof Warzycha
Paolo Sousa
PAO 2006/2007 |
{{Thông tin nghệ sĩ âm nhạc
| background = nhạc sĩ không biểu diễn
| image =
| imagesize =
| caption =
| tên thật = Ngô Quang Bình
| ngày sinh =
| nơi sinh = Hải Phòng, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
| ngày mất =
| nơi mất =
| nghề nghiệp = Nhạc sĩ
| dòng nhạc = Tình khúc 1954–1975
| ca khúc = Áo lụa Hà ĐôngNiệm khúc cuốiRiêng một góc trời
| ca sĩ = Lệ Thu Khánh LyTuấn NgọcSĩ PhúDuy TrácElvis PhươngBằng Kiều
}}
Ngô Quang Bình (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948), nghệ danh là Ngô Thụy Miên, là một nhạc sĩ Việt Nam từ trước năm 1975.
Tiểu sử
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948 tại Hải Phòng, và là con thứ hai trong một gia đình 7 người con. Ông lớn lên trong môi trường sách vở và thơ văn, do gia đình ông có mở một nhà sách tên Thanh Bình ở Hải Phòng, và sau này ở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) khi vào định cư ở Sài Gòn. Tại đây, ông học trường Trung học Nguyễn Trãi và sau đó là Trường Đại học Khoa học Sài Gòn.
Trong thập niên 1960, Ngô Thụy Miên có theo học vĩ cầm với Giáo sư Đỗ Thế Phiệt, và nhạc pháp với Giáo sư Hùng Lân tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Thời gian học ở đây, ông quen biết với Đoàn Thanh Vân (con gái của diễn viên Đoàn Châu Mậu), và hai người đã có một mối tình.
Từ năm 1970 đến 1975, Ngô Thụy Miên làm kiểm soát viên không lưu tại sân bay Tân Sơn Nhất. Cũng khoảng thời gian đó, ông là Trưởng ban nhạc Luân Phiên tại Đài phát thanh Quân đội.
Năm 1963, ông bắt đầu viết nhạc. Tình khúc đầu tiên mà ông sáng tác là bài "Chiều nay không có em" hoàn tất vào tháng 2 năm 1965, được giới sinh viên học sinh lúc bấy giờ hưởng ứng rất nồng nhiệt.
Vài năm sau, ông cho xuất bản một tập nhạc đầu tay lấy tựa "Tình khúc Đông Quân" (Đông Quân chính là bút hiệu đầu đời của ông trước khi đổi qua bút hiệu Ngô Thụy Miên bây giờ) in ronéo phát hành tại Sài Gòn năm 1969. Trong đó có nhiều bài đáng chú ý như: "Giáng ngọc", "Mùa thu này cho em" (sau đổi là "Mùa thu cho em"), "Gọi nắng" (sau đổi là "Giọt nắng hồng"), "Dấu vết tình yêu" (sau đổi là "Dấu tình sầu"), "Cho những mùa thu" (sau đổi là "Thu trong mắt em"), "Tình khúc tháng 6", "Mùa thu về trong mắt em" (sau đổi là "Mắt thu") và "Ngày mai em đi"... Tiếp theo, Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của nhà thơ Nguyên Sa như: "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi 13"...
Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng nhạc đầu tay Tình Ca Ngô Thụy Miên gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 – 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ và nhạc sĩ như Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Duy Quang,...
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông vượt biên đến tị nạn tại đảo Pulau Bidong của Malaysia, và chính thức ra mắt một sáng tác viết từ năm 1975 là bài "Em còn nhớ mùa xuân" gởi tặng riêng cho người yêu của ông là Đoàn Thanh Vân. Sau 6 tháng ở trại tị nạn, nhạc sĩ được nước thứ ba bảo lãnh cho sang Montréal (Canada) vào tháng 4 năm 1979.
Từ San Diego (Hoa Kỳ), Đoàn Thanh Vân được tin người yêu đã đến được Canada, đã bay sang nối kết lại cuộc tình đã bị dở dang vì thời cuộc. Cùng năm 1979, cả hai qua sống tại San Diego rồi dời lên Quận Cam, California. Qua năm 1980, Ngô Thụy Miên bắt đầu đi làm về ngành điện toán cho trường UCLA, tại thành phố Olympia thuộc tiểu bang Washington.
Trong thập niên 1990, nhạc sĩ tiếp tục sáng tác với những ca khúc mới như "Cần thiết", "Em về mùa thu", "Trong nỗi nhớ muộn màng",… và nhất là Riêng một góc trời (1996). Năm 2000, nhạc phẩm "Mưa trên cuộc tình tôi" của ông được khán thính giả đón nhận một cách đặc biệt.
Tổng cộng đến nay, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã sáng tác được trên 70 ca khúc, với khoảng 20 bài từ trong nước. Theo đánh giá của nhiều người, thì Ngô Thụy Miên chính là "một nhạc sĩ tài hoa đích thực"...
Trung tâm Thúy Nga từng thực hiện chương trình vinh danh và những sáng tác của ông:Paris By Night 21 - Tình Ca Ngô Thụy MiênParis By Night 66 - Người Tình Và Quê Hương'' (cùng với hai nhạc sĩ Trần Trịnh và Nhật Ngân)
Nói về việc bén duyên với các bản tình ca, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên cho biết:
"Với tôi, chiến tranh chỉ là giai đoạn. Tình yêu mới là vĩnh cửu. Từ khi bắt đầu viết nhạc, tôi đã chọn cho mình một hướng đi, đó là tình ca. Và trước tôi cũng như sau tôi đã có nhiều nhạc sĩ viết về chiến tranh, về quê hương, về thân phận… Tất cả chúng tôi đều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, mỗi người một khuynh hướng khác nhau. Tôi chỉ xin được nhớ đến như một người viết Tình Ca không hơn không kém.
Tôi không viết nhạc để sống, mà tôi sống để viết nhạc… Nếu đời hay người đời chia sẻ được với tôi thì đó là một niềm vui".
Sáng tác
Ái xuân
Áo lụa Hà Đông (thơ Nguyên Sa)
Bản tình cuối
Bài tình ca cho em
Biết bao giờ trở lại
Biển và em
Bốn mùa quạnh hiu
Cần thiết (thơ Nguyên Sa)
Chiều nay không có em
Chiều qua công viên
Chiều xuống Paris
Dấu tình sầu
Dấu vết tình yêu
Dốc mơ
Em còn nhớ mùa xuân
Em về mùa thu
Giáng ngọc
Giã từ em Cali
Giọt buồn mùa đông
Giọt nắng hồng
Giọt nước mắt ngà
Gọi tên anh
Mắt biếc
Mắt thu
Mây bốn phương trời
Miên khúc
Một cõi tình phai
Một đời quên lãng
Mùa thu cho em
Mùa thu xa em
Nắng Paris, nắng Sài Gòn
Người em sáng trong cô độc (thơ Nguyên Sa)
Ngày mai em đi (1972)
Niệm khúc cuối
Nỗi đau muộn màng
Nỗi đau từ đấy
Ở nơi nào em còn nhớ
Paris (thơ Nguyên Sa)
Paris có gì lạ không em (thơ Nguyên Sa)
Qua vùng biển nhớ
Riêng một góc trời
Tháng giêng và anh
Tháng sáu trời mưa (thơ Nguyên Sa)
Thu khóc trên ngàn
Thu Sài Gòn
Thu trong mắt em
Tình cuối chân mây
Tình khúc buồn
Tình khúc mùa xuân
Tình khúc tháng sáu
Trong nỗi nhớ muộn màng
Từ giọng hát em
Tuổi mười ba (thơ Nguyên Sa)
Tóc xưa (thơ Dương Văn Thiệt)
Về soi bóng mình (thơ Hoài Linh Phương)
Ghi chú
Chú thích |
Jeanne xứ Arc là một nữ anh hùng người Pháp, sinh sống trong khoảng năm 1412 – 30 tháng 5 năm 1431. Trong tiếng Pháp, tên cô thường được gọi là Jeanne d'Arc (, phát âm tiếng Việt như là Gian-đa, có biệt danh "Trinh nữ xứ Ooc-lê-an" (). Cô nổi tiếng vì là một lãnh chúa, người chỉ huy quân sự và anh hùng trong các cuộc chiến đấu ở Chiến tranh Trăm Năm giữa Pháp và Anh, và đã được Giáo hội Công giáo La Mã phong thánh.
Sinh ra trong một gia đình nông dân ở miền đông nước Pháp, Gioanna tuyên bố mình đã nhận được thiên khải từ Tổng lãnh thiên thần Thánh Michael, dẫn dắt cô đến trợ giúp Charles VII giải phóng nước Pháp khỏi sự thống trị của quân Anh trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh trăm năm. Charles VII, khi đó chưa lên ngôi, đã gửi Gioanna đến cứu viện trong Cuộc vây thành Orléans. Cuộc tấn công bị đẩy lùi chỉ sau 9 ngày, giúp Gioanna trở thành một nhân vật tinh thần quan trọng trong quân đội Pháp. Một vài chiến thắng quan trọng khác đã góp phần đưa Charles VII lên ngai vàng, đặt dấu ấn quan trọng trong việc củng cố sĩ khí của quân đội và mở đường cho thắng lợi sau cùng của quân Pháp trước quân Anh.
Ngày 23 tháng 5 năm 1430, cô bị phe Burgundy, phe phái quý tộc Pháp thân Anh, bắt sống tại Compiègne, và bị giao cho quân Anh. Cô bị đưa ra xét xử bởi giám mục phe thân Anh, bị kết tội là phù thủy và bị thiêu sống vào ngày 30 tháng 5 năm 1431, khi mới 19 tuổi. Năm 1456, Giáo hoàng Canlíctô Tam Thế cho tra xét lại vụ án, xóa bỏ các cáo buộc chống lại cô và tuyên bố cô vô tội, sau đó phong Gioanna là một người tử vì đạo. Đến thế kỉ 16, Gioanna trở thành biểu tượng của Liên đoàn Công giáo Pháp, và đến năm 1803, cô được công nhận là một anh hùng dân tộc của nước Pháp dưới thời Napoleon Bonaparte. Cô được nhận chân phước năm 1909 và được phong thánh năm 1920. Gioanna xứ Arc là một trong chín vị Thánh bảo trợ của nước Pháp.
Trong văn hóa đại chúng
Jeanne xứ Arc là một nhân vật nổi tiếng và được nhắc đến rộng rãi trong văn chương, hội họa, điêu khắc và các tác phẩm văn hóa nghệ thuật khác như điện ảnh, âm nhạc và trò chơi điện tử.
Nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm năm
Vào thời Joan d'Arc, nước Pháp đang trong tình trạng thê thảm. Cuộc chiến tranh trăm năm bắt đầu từ năm 1337 khi cuộc tranh cãi về quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp nổ ra, xen lẫn với các giai đoạn tương đối yên bình. Gần như tất cả các cuộc giao tranh đều diễn ra trên nước Pháp. Người Anh sử dụng chiến thuật chevauchée, tức chiến thuật dùng các cánh quân kỵ binh nhỏ đột kích, đốt phá, tàn sát để tàn phá nước Pháp. Dân số Pháp chưa kịp hồi phục sau nạn Đại dịch hạch từ thế kỷ trước, thương mại bị cắt đứt khỏi thị trường nước ngoài. Người Anh lúc đó đã gần như đạt được mục tiêu của mình nhằm thiết lập một hệ thống lưỡng đầu chế, dưới quyền điều khiển của người Anh, ngược lại quân Pháp chưa bao giờ giành được một chiến thắng đáng kể nào trong suốt cả một thế hệ. Theo lời sử gia DeVries, "vương quốc Pháp không còn đáng là cái bóng của chính nó ở thế kỷ mười ba."
Vị vua trị vì nước Pháp khi Jeanne ra đời là Charles VI, thỉnh thoảng lại lên cơn điên, nên không thể trị vì được. Em trai nhà vua, Công tước Louis xứ Orléans và em họ vua Jean sans Peur, Công tước xứ Burgundy, tranh giành ngôi nhiếp chính nước Pháp và quyền bảo trợ cho con cái nhà vua. Cuộc tranh giành này dẫn tới việc họ buộc tội Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ngoại tình, và bắt cóc con cái nhà vua. Đỉnh điểm của cuộc xung đột diễn ra khi Công tước xứ Burgundy hạ lệnh cho người ám sát Công tước xứ Orléans năm 1407.
Những người ủng hộ hai phe này được gọi là phe Armagnac và phe Burgundy. Lợi dụng tình hình rối ren, vua Anh là Henry V xâm lược Pháp rồi chiến thắng oanh liệt trong trận Agincourt năm 1415, đánh chiếm các thành phố ở miền bắc nước Pháp. Vị vua tương lai của nước Pháp, Charles VII, thụ phong Dauphin khi mới 14 tuổi, vì cả bốn anh trai của ông đều đã qua đời trước đó. Hành động quan trọng đầu tiên của ông là ký hiệp ước hòa bình với phe Burgundy năm 1419. Nhưng nỗ lực này thất bại khi những người ủng hộ phe Armagnac ám sát John Dũng cảm trong buổi triều kiến, dù Charles đã hứa bảo đảm an toàn cho ông. Vị công tước mới xứ Burgundy, Philippe le Bon, buộc Charles phải chịu trách nhiệm cho sự phản trắc này và liên minh với người Anh, với kết quả là một phần lớn lãnh thổ của Pháp bị người Anh chiếm mất.
Năm 1420, Hoàng hậu Isabeau xứ Bavaria ký Hiệp ước Troyes, theo đó vua Henry V nước Anh và con cháu của ông được kế vị ngai vàng nước Pháp, thay cho con trai bà là Charles. Thỏa thuận này làm sống lại lời đồn đại là bà có quan hệ tình ái với vị Công tước xứ Orléans đã mất, và khiến người ta nghi ngờ vị Thái tử "Dauphin" là con hoang, chứ không phải con nhà vua. Henry V và Charles VI chết chỉ cách nhau hai tháng năm 1422, để lại một đứa con nhỏ, Henry VI của Anh, vua trên danh nghĩa của cả hai vương quốc. Em trai Henry V, John xứ Lancaster, Quận công Bedford đệ nhất làm nhiếp chính.
Kể từ năm 1429, gần như toàn bộ miền bắc nước Pháp và một số vùng ở vùng tây nam bị ngoại bang chiếm đóng. Người Anh cai quản Paris, trong khi người Burgundy giữ Reims. Thành phố này rất quan trọng, vì nó theo truyền thống là nơi đăng quang của nhà vua, đặc biệt khi cả hai nhân vật tranh giành ngai vàng nước Pháp đều chưa được tôn lên làm vua. Người Anh lúc đó đang tiến hành cuộc vây hãm Orléans, thành phố duy nhất ở phía bắc sông Loire còn trung thành với triều đình Pháp. Nó có vị trí chiến lược án ngữ dòng sông, là lá chắn cho trung tâm nước Pháp. Theo lời các sử gia hiện đại, "số mệnh vương quốc treo trên Orléans." Không ai tin tưởng thành phố có thể kháng cự trong một thời gian dài được.
Cuộc đời và sự nghiệp
Jeanne là con ông Jacques d'Arc và bà Isabelle Romée tại Domrémy, một làng khi đó thuộc lãnh địa quận công xứ Bar (về sau nhập vào tỉnh Lorraine và đổi thành Domrémy-la-Pucelle). Cha mẹ cô sở hữu 50 mẫu đất (0.2 km²), và để thêm thu nhập cha cô còn làm viên chức thu thuế trong làng, cũng như chỉ huy đội dân quân. Họ sống tại một vùng đất hẻo lánh thuộc vùng đông bắc còn trung thành với triều đình Pháp, dù nằm lọt thỏm trong lãnh địa của phe Burgundy. Khi cô còn nhỏ, thỉnh thoảng làng của cô bị đột kích và đốt phá.
Jeanne cho biết cô 19 tuổi khi phiên tòa xử tội cô diễn ra, như vậy cô sinh năm 1412; cô sau này cho biết cô nhận được thiên khải đầu tiên vào khoảng năm 1424 lúc 12 tuổi, khi đó cô đang ở ngoài đồng một mình thì nghe thấy tiếng nói (của thiên sứ). Cô thuật lại là đã òa lên khóc khi họ biến mất vì họ quá sức đẹp đẽ. Cô cho biết Tổng thiên sứ Michael, Thánh nữ Catherine xứ Alexandria, và Thánh nữ Đồng trinh Margaret truyền cho cô đánh đuổi người Anh và đưa Dauphin đến Reims để lên ngôi vua.
Khi 16 tuổi, cô nhờ một người họ hàng, Durand Lassois, đưa cô đến Vaucouleurs để thỉnh cầu chỉ huy đơn vị quân đóng tại đó là Bá tước Robert de Baudricourt cho phép tiếp kiến triều đình Pháp tại Chinon. Bá tước Baudricourt chế giễu cô, nhưng không làm cô nhụt chí. Tới tháng 1, cô lại trở lại, và lần này được hai nhân vật quan trọng ủng hộ Jean de Metz và Bertrand de Poulengy. Nhờ được họ bảo trợ, cô được gặp Bá tước lần thứ hai, và tiên đoán hết sức chính xác về việc quân Pháp thất trận Herrings gần Orléans.
Thành công
Robert de Baudricourt cấp một toán quân bảo vệ cô đến Chinon, sau khi nhận được tin tức từ mặt trận xác nhận lời tiên đoán của cô trước đó. Cô băng qua lãnh địa của phe đối nghịch Burgundy bằng cách cải nam trang. Tới triều đình, cô gây ấn tượng trong buổi hội đàm kín đến mức Charles VII phải hết sức kinh ngạc. Ông sau đó cho người thẩm tra lý lịch và giáo lý cô tại Poitiers. Cùng lúc đó, mẹ vợ Charles là Violant của Aragon, Nữ công tước xứ Anjou bỏ tiền ra chuẩn bị một đạo quân cứu viện Orléans. Jeanne thỉnh cầu được gia nhập đoàn quân và vũ trang như một hiệp sĩ, với áo giáp trắng, ngựa, cờ, thị đồng đều do người ta quyên góp. Sử gia Stephen W. Richey cho biết cô là niềm hy vọng duy nhất của cả một vương triều sắp sụp đổ:
Cô đến Orléans ngày 29 tháng 4 năm 1429, nhưng Jean de Dunois (tức Jean d'Orléans), trưởng dòng công tước xứ Orléans, ban đầu không để cô tham gia họp trong hội đồng quân sự, và cũng không thông báo cho cô biết khi quân Pháp giao chiến với địch quân. Tuy nhiên việc này không ngăn cản được cô có mặt tại hầu hết các cuộc họp và các trận giao tranh. Người ta vẫn còn tranh cãi về ảnh hưởng và quyền chỉ huy trên thực tế của cô, với các sử gia truyền thống như Édouard Perroy cho rằng cô chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mang lại hiệu quả tinh thần là chính. Tuy nhiên sự phân tích này dựa trên bản chép phiên toà xét xử cô, khi cô tuyên bố ưa cầm cờ hơn là cầm kiếm. Các học giả hiện đại tập trung vào phiên toà phục hồi danh dự của cô, nhấn mạnh là các sĩ quan tùy tùng rất khâm phục cô như một chiến thuật gia cừ khôi và là một nhà chiến lược giỏi. Ví dụ như Stephen W. Richey cho biết: "Cô dẫn quân đội đến một loạt chiến thắng ngoạn mục, xoay chiều cuộc chiến." Dù thế nào đi chăng nữa, các sử gia cũng đồng ý là quân Pháp giành được nhiều thắng lợi vang dội trong thời kỳ sự nghiệp ngắn ngủi của cô.
Chiến tranh xoay chiều
Cô không lặp lại chiến thuật khi đó của ban chỉ huy Pháp vốn tỏ ra quá thận trọng. Trong vòng 5 tháng bị vây hãm, quân Pháp chỉ đột kích có đúng một lần, và thất bại thảm hại. Tới ngày 4 tháng 5, quân Pháp công kích và đánh chiếm được tòa thành ngoại vi Saint Loup. Thừa thắng, cô cho quân tiến đánh pháo đài thứ hai, gọi là Saint Jean le Blanc. Pháo đài này hóa ra bị bỏ trống, nên quân Pháp giành được thắng lợi mà chẳng bị tổn thất gì. Ngày tiếp theo, trong cuộc họp hội đồng quân sự, cô bác lại kế hoạch của Jean d'Orleans và đòi tiến hành một cuộc đột kích nữa vào địch quân. Jean D'Orleans hạ lệnh khóa cửa thành lại để ngăn không cho cô giao chiến với quân địch, nhưng cô triệu tập dân chúng và binh sĩ lại và đòi thị trưởng phải mở cửa thành. Chỉ có một viên cai đội hỗ trợ, cô dẫn quân tiến ra và đánh chiếm pháo đài Saint Augustins. Trong tối đó, cô được tin mình đã bị loại ra khỏi hội đồng quân sự, và các chỉ huy hội đồng đã quyết định chờ viện quân trước khi tiếp tục giao tranh. Bất chấp quyết định đó, cô vẫn cương quyết đòi tấn công cứ điểm chính của quân Anh là "les Tourelles" ngày 7 tháng 5. Người đương thời ghi nhận sự anh hùng của cô trong trận chiến, dù trúng một mũi tên vào cổ, cô vẫn quay trở lại chiến trường để dẫn quân xông lên trong đợt xung phong cuối cùng và hạ thành.
Chiến thắng bất ngờ tại Orléans làm quân Pháp phấn chấn, rất nhiều người muốn tiến hành chiến dịch phản công quân Anh. Quân Anh dự tính quân Pháp có lẽ sẽ tìm cách đánh chiếm Paris hoặc mở cuộc tấn công vào Normandy. Sau chiến thắng tại Orleans, cô thuyết phục Charles VII giao quyền đồng chỉ huy quân đội cho cô và Công tước John II xứ Alençon và được nhà vua chấp thuận cho phép cô đánh chiếm các cây cầu bắc qua sông Loire để chuẩn bị tiến đánh Reims. Đây là một kế hoạch táo bạo, vì Reims nằm cách xa gấp đôi Paris, sâu trong lãnh thổ đối phương.
Quân Pháp tái chiếm Jargeau ngày 12 tháng 6, đánh thắng trận Meung-sur-Loire ngày 15, rồi trận Beaugency ngày 17. Công tước Alençon chấp thuận tất cả các đề xuất của Jeanne. Các chỉ huy khác, bao gồm cả Jean d'Orléans vốn đã hết sức khâm phục cô kể từ trận Orléans, nay trở thành những người nhiệt thành ủng hộ cô. Alençon ghi công cô cứu mạng tại Jargeau, khi cô cảnh báo ông về một cuộc pháo kích bởi đại bác. Cũng trong trận này, cô trúng một viên đạn thần công bằng đá trúng mũ trụ khi đang leo lên thang đánh thành. Một đạo quân Anh cứu viện bất ngờ xuất hiện ngày 18 tháng 6 dưới quyền chỉ huy của Hầu tước John Fastolf. Trận Patay diễn ra và quân Pháp đại thắng, chiến thắng này có thể coi là bản sao ngược của trận Agincourt. Tiền quân Pháp xung trận trước khi xạ thủ Anh dùng trường cung kịp chuẩn bị trận địa phòng ngự, kết quả là quân Anh bị đánh tơi bời, rút chạy toán loạn. Quân Pháp truy kích và tiêu diệt phần lớn đạo quân này, phần lớn sĩ quan chỉ huy quân Anh bị bắt sống. Hầu tước Fastolf chạy thoát với một dúm quân, để trở thành con dê tế thần cho người Anh trút mối nhục chiến bại. Quân Pháp thắng trận mà chỉ tổn thất không đáng kể.
Quân Pháp xuất phát từ Gien-sur-Loire, hướng về Reims ngày 29 tháng 6, chấp nhận đầu hàng từ thành phố Auxerre do phe Burgundy giữ ngày 3 tháng 7. Tất cả các thị trấn nằm trên đường tiến quân của họ đều hạ vũ khí quay về với vua Pháp. Thành Troyes, nơi ký kết hiệp định tước quyền thừa kế của Charles VII, qui hàng sau khi bị vây hãm có bốn ngày mà không cần giao chiến. Quân Pháp lúc tiến tới Troyes thì thiếu lương thực trầm trọng. Edward Lucie-Smith dùng việc này như một ví dụ rằng Jeanne may hơn khôn: trước đó một vị thầy tu lang thang tên là Tu sỹ Richard thuyết giáo về sự tận thế tại Troyes và thuyết phục dân chúng trồng đậu là một thứ cây lương thực ngắn ngày. Đạo quân đói khát đến nơi khi đậu vừa kịp thu hoạch.
Theo lệ thường thì thân nhân có thể dùng tiền để chuộc lại tù binh. Không may là gia đình cô không có tiền. Nhiều sử gia lên tiếng chỉ trích vua Charles VII không làm gì cả để can thiệp. Cô mấy lần định vượt ngục, có lần nhảy từ tòa tháp cao 70 bộ (21 m) ở Vermandois xuống một cái hào khô, rồi sau đó bị chuyển đến thị trân Arras do quân Burgundy kiểm soát. Chính quyền Anh mua lại cô từ Công tước Philip xứ Burgundy. Giám mục Pierre Cauchon xứ Beauvais, một người thân Anh, đóng vai trò chính trong việc đàm phán mua lại cô và trong phiên tòa xét xử cô sau này.
Phiên tòa xét xử
Tòa án dị giáo này được thúc đẩy bởi lý do chính trị. Công tước Bedford thay mặt cho cháu trai của mình là Henry VI tranh giành ngai vàng của nước Pháp. Jeanne là người đã trợ giúp cho việc đăng quang của vị vua đối nghịch, do đó việc kết tội cô là một nỗ lực nhằm hạ bệ tính hợp pháp của lễ đăng quang của vua Charles VII. Các thủ tục pháp lý đã được tiền hành từ ngày 9 tháng 1 năm 1431 tại Rouen, thuộc khu vực kiểm soát của chính quyền Anh. Vụ xét xử này có một số điểm bất thường.
Tóm tắt một vài vấn đề chính như sau:
Theo luật của Giáo hội, Giám mục Cauchon thiếu thẩm quyền xét xử trường hợp này. Ngài được bổ nhiệm xét xử nhờ sự chống đỡ thiên vị của chính quyền Anh, và chính quyền Anh đã tài trợ cho cuộc xét xử này. Giáo sĩ công chứng viên Nicolas Bailly được bổ nhiệm đi thu thập lời chứng chống lại Jeanne nhưng đã không thể tìm thấy bất kỳ chứng cứ chống đối nào. Tòa án đã mở cuộc xét xử mà không hề có chứng cứ nào như thế. Tòa án cũng vi phạm luật của Giáo hội khi từ chối quyền được có cố vấn pháp lý của Jeanne. Trong cuộc thẩm tra công khai đầu tiên, Jeanne tố cáo rằng tất cả những người hiện diện lúc đó đều là những người theo phe Anh chống lại cô, và yêu cầu phải có những giáo sĩ của phía Pháp được mời.
Nhiều viên chức tòa án sau này đã làm chứng rằng những phần quan trọng của bản ghi chép đã được sửa đổi nhằm chống lại cô. Nhiều giáo sĩ đã bị cưỡng bức tham gia, trong đó có cả quan tòa Jean Le Maitre, thậm chí một số người còn bị chính quyền Anh đe dọa giết. Theo những hướng dẫn dành cho tòa án dị giáo thì Jeanne phải được nhốt trong một nơi giam giữ thuộc Giáo hội dưới sự trông nom của những người canh gác thuộc nữ giới, nghĩa là các nữ tu. Nhưng không, chính quyền Anh đã giữ cô trong một nhà tù thế tục được canh gác bởi những người lính của họ. Giám mục Cauchon đã từ chối đơn kháng án của Jeanne lên Hội đồng Basel và Giáo hoàng vì điều này có thể ngừng việc xét xử của ông.
Mười hai lời buộc tội tóm tắt bản tuyên án của tòa mâu thuẫn với hồ sơ tòa án đã bị sửa đổi. Bị cáo mù chữ dưới áp lực bị đe dọa tử hình ngay lập tức đã ký vào một văn kiện tuyên bố bội giáo mà cô không hiểu. Tòa án đã thay thế một lời tuyên bố bội giáo khác trong hồ sơ chính thức.
Bị hành quyết
Tội dị giáo chỉ bị kết án tử hình nếu đương sự liên tục phạm tội. Thoạt đầu Jeanne chấp nhận mặc quần áo phụ nữ, nhưng trong khi bị giam cầm, cô đã bị quấy rối tình dục. Vì thế nên cô mặc lại quần áo đàn ông để tự vệ khỏi bị quấy nhiễu, hoặc là theo lời chứng của Jean Massieu, vì quần áo của cô bị lấy trộm và cô không có đồ gì khác để mặc.
Các nhân chứng kể lại cuộc hành quyết bằng cách thiêu sống trên dàn thiêu ngày 30 tháng 5 năm 1431. Bị trói trên một cây cọc cao tại Vieux-Marche ở Rouen, cô xin hai vị giáo sĩ, linh mục Martin Ladvenu và linh mục Isambart de la Pierre, nâng cây thánh giá trước mặt mình. Một người nông dân cũng làm một cây thập tự nhỏ mà cô dùng để gài trước áo. Sau khi cô chết, người Anh gạt đống tro ra, để lộ thân xác cháy thiêu của cô, để không ai có thể cho là cô đã trốn thoát, rồi lại đốt thi thể cô hai lần nữa để biến nó thành tro bụi, sao cho không ai có thể thu thập được mảnh thân xác nào làm thánh tích. Họ ném tro bụi xác cô xuống sông Seine. Viên đao phủ, Geoffroy Therage, về sau nói là ông ta "...khiếp sợ sẽ bị đày xuống địa ngục."
Phục hồi danh dự
Philippe-Alexandre Le Brun de Charmettes là sử gia đầu tiên viết một cuốn sách hoàn chỉnh về Jeanne d'Arc năm 1817, trong nỗ lực nhằm khôi phục danh tiếng của gia đình cô. Ông trở nên quan tâm về Jeanne khi nước Pháp vẫn còn phải nỗ lực tìm bản sắc của mình sau cuộc Cách mạng Pháp chiến tranh Napoleon. Đặc trưng quốc gia của Pháp khi ấy là tìm kiếm một anh hùng chân chính, không có tai tiếng. Với tư cách một người ủng hộ nhiệt thành nhà vua và đất nước, Jeanne d'Arc là một hình mẫu có thể chấp nhận được với những người theo đường lối bảo hoàng. Là một người yêu nước và là con gái của một gia đình bình dân, cô được xem như hình tượng ban đầu của những chiến sĩ tình nguyện thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, (the soldats de l'an II), những người đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng cho cuộc cách mạng Pháp năm 1802, và như vậy có thể được xem như hình tượng của một người Cộng hòa. Là một người tử vì đạo, cô rất được lòng giới giáo dân Công giáo mộ đạo. Cô được phong nữ Thánh năm 1920 bởi Đức giáo hoàng Bênêdictô XV. Cuốn Orleanide của De Charmette, ngày nay đã bị quên lãng, là một ví dụ về việc người ta tạo ra một "đặc trưng quốc gia", giống như các nhà văn Virgil (với cuốn Aeneid), hay Camoens (cuốn Lusiad) đã làm cho La Mã và Bồ Đào Nha.
Đoạn kết cuộc chiến
Cuộc chiến tranh trăm năm còn tiếp tục kéo dài thêm 22 năm kể từ ngày cô mất. Charles VII giữ được địa vị vua chính thống của Pháp, dù phe đối địch với ông làm lễ đăng quang cho Henry VI tháng 12 năm 1431, khi cậu bé tròn 10 tuổi. Trước khi nước Anh kịp tái tổ chức lực lượng chỉ huy và đạo quân cung thủ dùng trường cung, bị tiêu diệt năm 1429, họ mất đi đồng minh Bourgogne sau Hòa ước Arras năm 1435. Quận công Bedford cũng qua đời cùng năm đó, và Henry VI trở thành vị vua thiếu niên trẻ nhất của Anh cai trị không có nhiếp chính, và sự non yếu của ông có lẽ là lý do quan trọng nhất khiến cuộc chiến chấm dứt. Sử gia Kelly DeVries cho rằng chiến thuật tấn công bằng đại bác và tập kích vỗ mặt mà Jeanne d'Arc sử dụng có ảnh hưởng đến chiến thuật mà quân Pháp sử dụng cho tới hết chiến tranh.
Minh oan và vinh danh
Jeanne d'Arc trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong suốt bốn thế kỷ tiếp theo. Nguồn thông tin chính về cô đến từ các bản kỷ yếu, năm bản chép tay về phiên tòa xét xử cô được tìm thấy trong đống tư liệu cổ vào thế kỷ 19. Không lâu sau đó, các sử gia tìm được toàn bộ bản ghi về phiên tòa minh oan cho cô, trong đó bao gồm lời chứng từ 115 nhân chứng, và nguyên bản tiếng Pháp của bản thảo tiếng Latin của phiên tòa xét xử cô. Nhiều bức thư đương thời cũng được tìm thấy, ba trong số đó mang chữ ký "Jehanne", với nét chữ run run của một người đang tập viết. Nguồn tư liệu phong phú bất ngờ này là lý do để DeVries phải thốt lên, "Không có nhân vật nào từ thời Trung Cổ, đàn ông hay phụ nữ, lại được quan tâm nghiên cứu đến như thế".
Jeanne d'Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, chỉ là một cô thôn nữ thất học mà nổi lên như một nhân vật xuất chúng khi còn chưa quá tuổi thiếu niên. Cuộc chiến tranh giành ngôi giữa vua Anh và vua Pháp dựa trên bộ luật Salic cổ kéo dài đằng đẵng, sự xuất hiện của cô mang lại ý nghĩa cho câu hỏi "Liệu có nên đuổi nhà vua khỏi vương quốc; và liệu chúng ta có trở thành người Anh?" Theo Stephen Richey, "Cô biến một cuộc chiến giành ngai vàng giữa hai triều đại, khiến nhân dân trở nên vô cảm vì mất mát, thành một cuộc chiến tranh ái quốc được nhân dân ủng hộ." Theo Richey:
"Những người quan tâm đến cô trong suốt năm thế kỷ sau đó tìm cách gán cho cô đủ loại phẩm chất: cuồng tín ma quỷ, tâm linh huyền bí, ngây thơ và bị sử dụng một cách bi thảm bởi những kẻ có thế lực, người sáng lập và biểu tượng của chủ nghĩa ái quốc hiện đại, nữ anh hùng được yêu quý, nữ thánh. Cô kiên định, dù bị đe dọa tra tấn và chết trên giàn hỏa, rằng mình được dẫn dắt bởi giọng nói của Thượng đế. Dù có thế nào đi chăng nữa, thành quả mà cô gặt hái được khiến người nghe không khỏi lắc đầu kinh ngạc."
Năm 1452, trong một cuộc điều tra, Nhà thờ tuyên bố một vở kịch tôn giáo để tưởng niệm cô tại Orléans có giá trị như một đặc ân hành hương tới đất thánh. Cô trở thành biểu tượng cho Liên minh Công giáo (Pháp) thời thế kỷ 16. Ngài Félix Dupanloup, Giám mục xứ Orléans từ 1849 tới 1878 là người đi đầu trong nỗ lực phong thánh cho cô, nhưng ông không còn sống để thấy điều đó trở thành hiện thực.
Người Công giáo truyền thống tại Pháp và các nơi khác xem cô như biểu hiện của nguồn cảm hứng, và so sánh việc rút phép thông công Tổng Giám mục Marcel Lefebvre năm 1988 (người sáng lập ra Hội thánh Pius X và người bất đồng với các cải cách Vatican II) với việc cô bị rút phép thông công. Ba con tàu của Hải quân Pháp được đặt theo tên cô, gồm cả hàng không mẫu hạm cho máy bay trực thăng Jeanne d'Arc (R 97) nay vẫn còn hoạt động.
Ảnh hưởng
Đã từng có nhiều câu chuyện và những bộ phim truyền hình kể về cuộc đời của cô. Và cuộc đời đấu tranh và phục vụ cho nước Pháp của cô được thể hiện trong game chiến thuật dàn trận nổi tiếng Age of Empires II - The Age of Kings.
Việt Nam
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ Ngã Sáu còn được gọi là Nhà thờ Thánh Jeanne d'Arc
Chú thích |
Jeans (Miền Bắc Việt Nam gọi là quần bò) là một loại quần xuất xứ từ các nước phương Tây. Quần jeans là một loại quần, thường được làm từ vải denim hoặc dungaree. Thông thường thuật ngữ "quần jeans" đề cập đến một phong cách cụ thể của quần, được gọi là "quần jeans xanh", được phát minh bởi Jacob W. Davis hợp tác với Levi Strauss &Co. Quần jeans được cấp bằng sáng chế bởi Jacob W. Davis và Levi Strauss vào ngày 20 tháng 5 năm 1873. Quần jeans là một trong những biểu tượng của xã hội phương tây vào thế kỷ XX. Cụ thể, nó đã từng là biểu tượng cho tuổi trẻ, sự phản kháng, tự do và cho chủ nghĩa cá nhân của mọi tầng lớp nhân dân ở phương tây. Đây là phần y phục được bán nhiều nhất trên thế giới. Cả hai giới tính và mọi tầng lớp xã hội, thuộc nhiều nền văn hóa đều có thể mặc jeans.
Lịch sử
Levi Strauss được coi là cha đẻ của quần jeans. Ông sinh ra ngày 26 tháng 2 năm 1829, trong một gia đình nghèo khó ở Buttenheim, Đức. Hai năm sau khi người cha của Levi là Hirsch Strauss qua đời, bà góa phụ Rebecca đã cùng Levi lúc đó vừa đúng 18 tuổi và 2 cô con gái là Fanny và Mathilde quyết định di dân sang Mỹ vào năm 1847. Trạm định cư đầu tiên của gia đình Strauss là thành phố New York. Ba năm sau, 1850, cũng như bao gia đình nghèo khổ khác, Levi đã dời cư đến San Francisco, California theo cao trào tìm vàng.
Califonia nằm ở trung tâm mỏ vàng nên hàng ngàn người đàn ông đến đó để đào vàng và Strauss đến để bán canvas cho những người thợ đào vàng. Canvas là loại vải dày nên Strauss nghĩ rằng những thợ đào vàng cần nó để che lều trại. Vào một ngày, Strauss nghe một người thợ mỏ than phiền rằng anh ta không thể tìm được loại vải nào đủ bền cho công việc mà anh đang làm. Từ đó, Strauss chợt nảy ra một ý tưởng. Ông nhanh chóng lấy một ít vải để may quần và những chiếc quần này đúng là những gì mà người thợ mỏ cần. Chỉ trong một ngày, Strauss đã bán hết toàn bộ những chiếc quần mà ông làm ra. Khi có tiền, ông muốn cải tiến chiếc quần tốt hơn. Ông mua một loại vải chéo mềm hơn nhưng có độ bền tương tự. Loại vải này có nguồn gốc từ Nîmes, một thành phố ở Pháp, còn được gọi là "Serge de Nîmes". Những người thợ mỏ thích loại vải này hơn và họ gọi nó là "denim" (từ de Nîmes). Tuy nhiên, vải denim không có màu, nhìn không hấp dẫn và dễ dàng bám bẩn. Để giải quyết vấn đề này, Strauss nhuộm vải chéo denim thành màu xanh và quần Jeans xanh ra đời từ đó.
Dù mang tiếng là đi tìm vàng nhưng Levi Strauss không tìm ra được gì hết. Ông ta chỉ có nhận xét là các người đồng hành đi đào vàng với áo quần thật rách rưới trong khi chung quanh nơi sinh sống cắm trại thì lại có nhiều vải thô để dựng lều che mưa nắng. Từ nhận xét đó, Levi Strauss liền bắt tay vào việc. Từ những mảnh vải may lều, ông ta cắt may thành quần cho người đi đào mỏ vàng. Để cho quần được bảo đảm hơn nữa ở những mối chỉ may, qua sáng kiến của Jacob Davis, ông cho đóng những đinh tán vào đó. Ngày 20 tháng 5 năm 1873, Jacob và Levi nhận bằng sáng chế số #139,121, cho quần với các đinh tán của họ từ Phòng Bằng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ; đây là ngày ra đời chính thức của quần jeans. Chiếc quần của Levi dần dần được các thợ mỏ vàng yêu chuộng vì không sờn rách như trước đây. Levi đặt tên cho chiếc quần của ông là "Waist overall".
Những chiếc quần jeans bắt đầu còn là màu vàng nâu, sau qua màu xanh đậm. Từ loại vải thô dùng để căng lều, Levi đổi qua dùng loại vải dệt theo phương pháp "Serge de Nîmes" của Pháp. Cũng chỉ vài năm sau, Levi Strauss đã trở thành người giàu có. 1890 là năm ra đời Công ty "Levi Strauss & Company". Cơ sở đầu tiên của Công ty được đặt tại San Francisco. Chiếc quần "Waist overall" của Levi được đặt tên hiệu sản xuất là "501®". Quần dần dần được thêm thắt nho nhỏ nhưng mang đầy tính lịch sử như là 2 đường chỉ chạy cong vòng sau túi quần (arcuate). Tấm nhãn hiệu da với hình hai con ngựa (Two Horse Patch) cộng thêm nhãn hiệu màu đỏ của công ty (Red Tab). Cho đến năm 1920, "Waist overall" mới được đổi thành Blue Jeans.
Quần vải thô màu xanh này xuất hiện tại châu Âu rất trễ so với thời gian lúc ra đời tại California. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lính Mỹ đã du nhập loại quần này vào châu Âu. châu Âu dần dần bị Mỹ hóa đầu tiên qua áo quần. Vào thập niên 1960, thời gian của hippies và phản kháng, chiếc quần jean trở thành bộ đồng phục cho những người muốn sống tự do không ràng buộc. Thời gian này khi nói đến tự do, nói đến phản kháng, đến chối từ thì phải nói đến quần jean. Chỉ với quần jean, tuổi trẻ cảm nhận mình đã hơn người, mình "đã sống, đang sống và biết sống" hơn người.
Sau khi cách mạng đời sống chấm dứt thì triết lý "quần jean" cũng tàn lụi theo. Jean trở thành loại quần áo cho tầng nhóm xã hội bình thường. Từ biểu tượng cho "tự do", nay Jeans trở thành chiếc quần của thời gian rảnh rỗi, qua đó biểu tượng của Jeans trở nên buồn chán. Jeans không còn "sôi nổi" nữa.
Để chặn đứng tình trạng xuống dốc của quần Jeans, các nhà tạo mode đã thay đổi nhiều kiểu mẫu: lúc quần ống rộng, khi thì bó mông. Nhờ vào hóa chất acid và đá bọt, chiếc quần Jeans mới được bỏ vào trong máy giặt để trở thành loại "stone-washed", "double-stone-washed" cho đến "destroyed". Ai mà thích quần rách rưới thì có loại "Shotgun Denim" - vải quần được bắn nát với đạn Schrotflinte. Một số trong giới thanh niên thiếu nữ cho rằng quần càng hư hỏng rách rưới người mặc mới được xem là "ngầu".
Quần Levi's đến thập niên 2000 vẫn còn giữ hàng đầu nhưng đã điêu đứng vì bị cạnh tranh bởi những nhà tạo mode may quần áo rất đắt từ Mailand cho đến New York. Một số tài tử Hollywood hoặc một số đông nhà triệu phú, trong số này có cả tổng thống Bush (của Hoa Kỳ) và tổng thống Putin (của Nga), vẫn thích mặc quần Jeans, trông trẻ trung hơn.
Tác động môi sinh
Ngoài những loại jean có "hiệu", hiện nay quần jean nam giá sỉ rẻ tiền may từ Viễn Đông cũng đang tràn ngập thị trường. Quần được may từ những xứ nghèo khổ. Người thợ may được trả lương một cách thảm thương lại còn bị hành hạ không được công đoàn bảo vệ như tại các nước Tây Âu. Cây bông để tạo ra vải hầu như hoàn toàn được trồng tại các quốc gia nghèo đang phát triển. Người thợ trồng bông cũng như môi trường tại đây hàng ngày phải đối đầu trực tiếp với chất bảo vệ thực vật độc hại được dùng để chống sâu rầy. Một phần tư số thuốc trừ sâu được sử dụng trên toàn thế giới nằm trên các ruộng trồng cây bông.
Do đặc tính chung dễ phai màu trong dung dịch nước tẩy rửa nên việc giặt đồ jean cần tuân theo các quy tắc nhất định. Hầu hết các loại quần áo jeans co giãn đều có thể giữ được độ đàn hồi tốt, không cần thiết phải giặt sau mỗi lần mặc. Giặt quá nhiều có thể làm đổi màu đồ jeans của bạn. 4 -5 lần mặc/1 lần giặt là vừa đủ. Không cần thiết phải giặt đồ jean mới mua. |
WYSIWYG (viết tắt của What You See Is What You Get trong tiếng Anh), thường được dịch là "những gì bạn đang thấy là những gì bạn sẽ nhận được" và hiểu như là "Giao diện tương tác tức thời - mắt thấy tay làm", thường được dùng trong các chương trình ứng dụng văn phòng, các chương trình biên soạn, thiết kế web... Các công cụ dùng giao diện này cho phép ta có thể thấy ngay những thay đổi mà người viết mã, hay một thiết kế viên web vừa thực hiện, nhằm tiết kiệm thời gian chỉnh sửa các lỗi hay những điểm không ưng ý một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Tại sao dùng các chương trình WYSIWYG?
Một ví dụ đơn giản, HTML cho phép viết bằng bất cứ trình soạn thảo văn bản nào, từ đơn giản nhất (như Notepad) đến phức tạp, cao cấp hơn (như Microsoft Office Word, K-Word). Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ vẫn ổn thỏa cho đến khi người viết mã, hay nhân viên thiết kế muốn vẽ lên những bảng biểu phức tạp bắt buộc phải có, khi đó những dòng mã sẽ cần phải phức tạp và các thẻ (tag) thường chồng chéo lên nhau. Dẫn việc giao diện càng đẹp, càng phức tạp, mã phát sinh nhiều và dày đặc, những sai sót sẽ xuất hiện. Người sử dụng bị chìm ngập trong mớ bòng bong ngổn ngang những mã lệnh mà không biết làm thế nào. Các trình biên soạn WYSIWYG sẽ tự động phát sinh và chèn các mã lệnh cần thiết vào đúng nơi mà người sử dụng mong muốn. Thêm vào đó, các trình biên soạn WYSIWYG cũng hiển thị cấu trúc, phân cấp các mã lệnh có hệ thống chặt chẽ và làm nổi bật chúng bằng nhiều màu sắc khác nhau.
Dĩ nhiên, WYSIWYG cũng có nhược điểm trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn việc biên soạn những văn bản có kích thước lớn, liên quan đến nhiều thao tác cắt, dán, chuyển chỗ những khối văn bản lớn hay các hình ảnh, các phần mềm WYSIWYG đều thực hiện rất chậm. Ngược lại nếu thao tác trên các file chữ sẽ không gặp khó khăn này.
Các phương thức sử dụng phổ biến
Với các ứng dụng văn phòng
Các văn bản được mã hóa theo định dạng, sau đó có thể xuất bản ra dạng bản in để chuyển cho máy in in ra giấy.
Với các trình thiết kế web
Các văn bản sẽ được chuyển sang dạng mã HTML (tự động sinh mã theo đúng yêu cầu người viết). Xuất bản ra dạng HTML đầy đủ để người dùng có thể đưa nó lên web.
Với các mục nhập trên web
Đối với các mục nhập (Entry) trực tiếp, cũng giống như trình thiết kế web, sinh mã HTML. Khác biệt là không dùng phần mềm để chỉnh sửa mà dùng ngay chính trang web, với trình duyệt được hỗ trợ, để chỉnh sửa. Thường thì mã HTML dạng này đơn giản hơn và bị khóa một số thẻ HTML.
Một số trình biên soạn web dùng WYSIWYG tiêu biểu
Microsoft FrontPage (bản gần đây nhất là MS-FrontPage 2007 SP2)
Microsoft Expression Web (Bản mới nhất là Expression Web 3)
Adobe Dreamweaver (bản gần đây nhất là Adobe Dreamweaver CS6)
Adobe Golive (mới nhất là Adobe Golive CS2)
Netscape Composer (gần đây nhất là phiên bản 7.0)
Các ứng dụng văn phòng
Microsoft Office (bản mới nhất Microsoft Office 2021)
OpenOffice.org (bản mới nhất là 4.1.1)
Các trình soạn thảo tích hợp trên website
CKeditor
Spaw
TinyMCE |
Lý Chiêu Hoàng (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), Chiêu Hoàng Đế (昭皇帝) hay Chiêu Thánh Hoàng Hậu (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của đế quốc Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là Nữ Hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ giới đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ Vương Trưng Trắc. Bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ -Trần Thủ Độ, người đang nắm quyền lực trong triều, đồng thời cũng là cậu của bà.
Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 vì không sinh được con nối dõi. Thuận Thiên Công Chúa, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Trần Thái Tông khỏi bị truy kích trong lần quân Nguyên vào cướp. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng Vị Hầu-Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy Công Chúa-Lê Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.
Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, khi trở thành một nhân vật chủ chốt trong cuộc biến chuyển triều đại đầy kịch tính giữa nhà Trần và nhà Lý. Vốn dĩ là công chúa, sau trở thành nữ hoàng đế, rồi lại trở thành hoàng hậu và bị giáng làm công chúa, cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng khiến hậu thế đánh giá là một quá trình đầy phức tạp, cũng trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi, ca, nhạc, họa và điện ảnh.
Thân thế
Lý Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi theo tên húy là Lý Thiên Hinh (李天馨), là con gái thứ hai của Lý Huệ Tông-Lý Hạo Sảm - vị vua thứ 8 của triều đại nhà Lý. Mẹ của bà là Linh Từ Quốc Mẫu-Trần Thị, thường bị dã sử và người hiện đại gọi là "Trần Thị Dung", con gái của Trần Lý, sau trở thành hoàng hậu của Huệ Tông. Không rõ Lý Thiên Hinh sinh ngày bao nhiêu, chỉ biết bà được sinh vào khoảng tháng 9 (ÂL), năm Mậu Dần (1218), tức năm thứ 8 niên hiệu Kiến Gia, nơi bà được sinh ra có lẽ là tại kinh đô Thăng Long. Tước hiệu ban đầu là Chiêu Thánh Công Chúa (昭聖公主).
Trên bà có một chị gái là Thuận Thiên Công Chúa, sau được gả cho Khâm Minh Đại Vương-Trần Liễu - con trai trưởng của Trần Thừa và là anh trưởng của Trần Thái Tông-Trần Cảnh. Vào thời điểm bà được sinh ra, Lý Huệ Tông đã sớm phát bệnh điên, triều đình hoàn toàn rơi vào tay họ Trần mà đại biểu là Trần Tự Khánh - khi ấy đang giữ chức vụ Thái Úy, quyền phụ chính. Trần Tự Khánh là anh thứ của Trần Thị Dung, tức là bác ruột của Chiêu Thánh. Một người bác khác của Chiêu Thánh là Trần Thừa, giữ chức "Nội Thị Phán Thủ" (内侍判首) - cai quản các quan nội thị phục vụ gần cho Lý Huệ Tông.
Năm Nhâm Ngọ, tức năm Kiến Gia thứ 12 (1222), Huệ Tông đem các lộ trong nước đều chia cho hai cô công chúa con gái của mình (triều Lý có tổng 24 lộ), lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ, chia nhau làm giáp. Sau khi Trần Tự Khánh qua đời, Trần Thừa được dùng tiếp làm Thái Úy Phụ Chính, vào triều không xưng tên, một người cậu khác của Chiêu Thánh là Trần Thủ Độ lại được Huệ Tông giao cho nắm giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (殿前指揮使), quản lý các cơ cấu quân sự chủ chốt của hoàng cung.
Hoàng đế cuối cùng
Được nhường ngôi
Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông ra chỉ lập Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử (皇太子) rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道), tôn hiệu là Chiêu Hoàng (昭皇). Lý Huệ Tông xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội.
Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban chức tước quan trọng cho con em trong họ, đáng kể nhất là rất nhiều con cháu họ Trần được tuyển vào cung để sung vào các chức vụ hầu trong đại nội, gần gũi với Chiêu Hoàng, bao gồm: "Lục Hỏa Thị Cung Ngoại" (六火侍宫外), "Chi Hầu" (祗侯) và "Nội Nhân Thị Nội" (内人侍内), thường thay nhau trực chầu hầu. Lúc này, chức vụ của Trần Thủ Độ đã bao quát đến nỗi "coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị", trong các con em vào cung hầu Chiêu Hoàng thì có Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú - được phong "Cận Thị Thự Lục Cục Chi hậu" (近侍署六局祗候), ngoài ra còn có Trần Thiêm làm "Chi Ứng Cục" (祗應局) và Trần Cảnh làm "Chánh Thủ" (政首). Chánh Thủ-Trần Cảnh, là con trai thứ 2 của quan Thái Úy-Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng, ban đầu chỉ là ở bên ngoài điện, sau đó phụ trách đưa nước rửa mặt cho Chiêu Hoàng nên vào hầu bên trong. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chánh bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.
Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông. Chiêu Hoàng được Thái Tông lập làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh. Từ đây nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.
Quá trình truyền ngôi
Cuốn sách được xem là bộ biên niên sử sớm nhất của Việt Nam - Đại Việt Sử Lược - đã chép lại quá trình truyền ngôi cho dòng họ nhà Trần rất phức tạp. Theo như sách này ghi lại, Huệ Tông truyền ngôi xong vẫn giữ vai trò chính trị quan trọng, và ông đã chủ trương dàn xếp nhường ngôi, dưới sự góp phần không nhỏ của Thái Úy-Trần Thừa cùng Trần Thủ Độ (sách này chép Thủ Độ đang giữ tước "Thượng Phẩm Phụng Ngự" 上品奉御), sau khi truyền ngôi cho họ Trần thì Huệ Tông mới xuất gia.
Quá trình mà Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho họ Trần, thông tin từ sách Đại Việt sử ký toàn thư chép có ý khẳng định là do Trần Thủ Độ đứng sau và thao túng, vai trò của Trần Thừa và Lý Huệ Tông hoàn toàn bị lược bỏ đi:
Theo đó, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng.
Sự việc Phùng Tá Chu khuyên can không được ghi chi tiết ở Toàn thư mà chỉ ghi ở Sử lược, tuy nhiên khi ghi chép về sự việc nhường ngôi thì Ngô Sĩ Liên đã gián tiếp chứng thực câu chuyện Phùng Tá Chu khuyên Huệ Tông nhường ngôi họ Trần: "Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Võ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý". Điều này chứng tỏ thông tin Phùng Tá Chu ảnh hưởng chuyện Huệ Tông quyết định chọn Trần Cảnh làm rể từ Sử lược là chính xác. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có lời nhận định rằng:
Nửa đời sau
Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được lập làm hoàng hậu, trở thành vị hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 8 tuổi. Bà chung sống với Trần Thái Tông hơn 10 năm, không có ghi chép gì cụ thể về bà trong suốt thời gian này.
Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hơn 10 năm mà Thái Tông cùng Chiêu Thánh không có con, Thái Sư-Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu là Thuận Thiên Công Chúa đang có thai 3 tháng. Trần Thái Tông cảm thấy chuyện này hổ thẹn, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng Thái Tông cũng phải chịu nghe theo. Thuận Thiên Công Chúa được lập làm hoàng hậu thay thế, Chiêu Thánh bị giáng làm "công chúa" - tức hàng ngoại mệnh phụ. Vì chuyện này, Hoài Vương-Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết. Sau đó, Liễu được đổi phong hiệu làm "An Sinh Vương" (安生王), được ban các vùng An Sinh, An Phụ, An Dưỡng, An Hưng, An Bang làm ấp thang mộc (nay thuộc hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Những tướng sĩ và quân lính đi theo Trần Liễu làm loạn đều bị xử tử.
Từ ấy đến hơn 20 năm sau, chính sử không hề đề cập hành trạng của bà. Sách "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" của Lê Thái Dũng có đề cập về một truyền thuyết rằng Chiêu Thánh sau khi bị giáng đã xuất gia tại chùa Linh Tiên của làng Giao Tự (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội), thế nhưng văn bản chứng minh rất mơ hồ. Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ trong dịp người Nguyên vào cướp, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh cho quan Ngự Sử Trung Tướng- Lê Phụ Trần, vốn tên Lê Tần (黎秦), người Ái Châu, vì có công phò giúp nhà Vua nên được Thái Tông ban tên "Phụ Trần" (có nghĩa giúp họ Trần) và ban cho chức Ngự Sử Đại Phu, sách An Nam Chí Lược ghi Lê Phụ Trần được phong "Nhập Nội Phán Thủ" (入內判首) và còn được ban tước "Bảo Văn Hầu" (保文侯). Khi quyết định ban hôn, Thái Tông còn nói: "Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau".
Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh Công Chúa- Lý thị qua đời, thọ 61 tuổi. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277). Khi bà Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần thì bà đã ở vào khoảng năm 40 tuổi, hai người sống với nhau 20 năm, sinh ra con trai là Thượng Vị Hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy Công Chúa tên là Khuê. Chính sử không chép nơi an táng và lễ nghi của bà Chiêu Thánh, và dù khi qua đời bà vẫn chỉ là "Chiêu Thánh Công chúa", nhưng hậu thế vẫn thường gọi bà theo tôn hiệu "Lý Chiêu Hoàng".
Nhìn nhận
Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng thường được nhìn nhận là bi kịch khi trở thành con rối chính trị lúc còn quá nhỏ. Có một số ý kiến việc đền Lý Bát Đế (tức Đền Đô) chỉ thờ 8 vị Hoàng đế nhà Lý là vì đổ tội Lý Chiêu Hoàng làm mất nhà Lý, đồng thời còn cho rằng người đương thời lên án và xem trách nhiệm hoàn toàn do Lý Chiêu Hoàng. Trước mắt, căn cứ vào cuốn sách chính sử hàng đầu của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư được soạn vào thời Lê sơ, người đời Lê nhận xét việc triều Lý mất hoàn toàn do số trời mà không phải là lỗi một cá nhân từ Lý Chiêu Hoàng. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi bàn về việc này có nói:
Bên cạnh đó, về việc tái hôn của Chiêu Hoàng mà tác giả là Trần Thái Tông, sách Toàn Thư chê trách nặng lời việc nhà Vua mang bà là vợ cũ, hơn nữa còn là Cựu Hoàng Đế, gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi. Ngô Sĩ Liên viết gay gắt: "Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa".
Sự việc sau cái chết của Lý Chiêu Hoàng tiếp tục được đồn thổi với rất nhiều truyền thuyết. Sách Việt Sử Tiêu Án, một cuốn sử đời Lê Trung Hưng do Ngô Thì Sĩ soạn đã có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: "Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công Chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy! Bà Chiêu Hoàng nhất sinh ra là người dâm cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu còn trinh tiết như lời người ta truyền lại". Do thời đại đã trôi qua, thời kỳ Lê trung hưng đã có cái nhìn khắt khe hơn với chuyện về Lý Chiêu Hoàng, bên cạnh chê bai họ Trần như cũ thì cuốn sách này cũng phê phán Lý Chiêu Hoàng rất lớn trong việc tái giá này. Ngoài nhận định Chiêu Hoàng "nhất sinh là người dâm cuồng" như trên, thì còn có nhận xét khác:
Học giả Lê Thái Dũng trong cuốn "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có ghi lại một tương truyền rằng trước khi qua đời, bà Lý Chiêu Hoàng đã về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) và qua đời tại đó. Khi mất, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào, cũng vì những thông tin này mà trong sách còn đề cập một giả thiết rằng Lý Chiêu Hoàng được gả cho Lê Phụ Trần là một "thế thân", mà Lý Chiêu Hoàng thực tế vẫn còn ở trong cung, hoặc đã qua đời, hoặc đã xuất gia, tuy nhiên những điều trên mà Lê Thái Dũng ghi chép đều chỉ mang tính truyền miệng của dân gian, hoàn toàn không được xem là chứng cứ. Sau khi mất, chính sử không chép về nơi Lý Chiêu Hoàng được an táng, tuy nhiên không biết từ bao giờ mà có thông tin rằng Lý Chiêu Hoàng được an táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức (nơi an táng của các vị Vua nhà Lý), do vậy người đời sau lập đền thờ gọi là Long Miếu (đền Rồng) - hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh). Cũng theo Lê Thái Dũng, sở dĩ Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý.
Nhà thơ Tản Đà có bài thơ Vịnh Lý Chiêu Hoàng như sau:
Quả núi Tiên Sơn có nhớ công
Mà em đem nước để theo chồng
Ấy ai khôn khéo tài dan díu
Những chuyện hoa tình có biết không?
Một gốc mận già thôi cũng phải
Hai trăm năm lẻ thế là xong
Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo
Khách khứa nhà ai áo mũ đông.
Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:
Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!
Hậu duệ
Với Trần Thái Tông Trần Cảnh (có nghi vấn):
Hoàng thái tử Trần Trịnh (陳鄭), không ghi rõ là Chiêu Hoàng sinh ra ở bất kỳ sách sử nào. Trong sách Toàn thư, Thái tử Trịnh không được ghi năm sinh mà chỉ ghi hôm ấy mất, Ngô Sĩ Liên bèn nghĩ rằng "vừa sinh ra đã mất", chứ hoàn toàn không chắc chắn Thái tử là vừa sinh đã mất, càng không nói đến Thái tử do Chiêu Hoàng sinh ra.
Thiên Thành Trưởng công chúa (?), phu nhân của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, mẹ sinh hai hoàng hậu của Trần Nhân Tông là Khâm Từ Hoàng hậu và Tuyên Từ Hoàng hậu.
Với Bảo Văn Hầu-Thiếu Sư-Lê Phụ Trần:
Lê Tông (黎琮), con trai duy nhất, được ban tước Thượng Vị Hầu. Có suy đoán đây là Bảo Nghĩa Vương-Trần Bình Trọng.
Ứng Thụy Công Chúa, tên Khuê (珪), con gái duy nhất. Không rõ hành trạng. Tiểu thuyết của Lê Thái Dũng gọi là "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có thông tin ghi trong "Niên biểu Lý Chiêu Hoàng" rằng công chúa lấy Trạng Nguyên-Trần Cố, quê ở xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần. Hiện không rõ Lê Thái Dũng lấy thông tin này ở đâu.
Quan hệ với Trần Bình Trọng
Không có bất kì ghi chép lịch sử nào giữa Lý Chiêu Hoàng với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không.
Sách Toàn thư chỉ nói: "Vương (tức Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng) là dòng dõi Lê Đại Hành", và PGS. Tiến sĩ Trần Bá Chí trong cuốn "Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn" đã dựa vào "Lê triều miêu duệ" và "Cổ Mai bi ký" để giả định Trần Bình Trọng là con của Lê Phụ Trần, và Trần Bá Chí nhấn mạnh "nếu Phụ Trần chỉ lấy một mình Chiêu Thánh Công chúa" thì Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng. Nếu đúng là như vậy, thì Lý Chiêu Hoàng là ngoại tổ mẫu nhiều đời của Trần Minh Tông-Trần Mạnh - cháu 4 đời của Trần Thái Tông, vì mẹ của Minh Tông là Chiêu Từ Hoàng Thái Hậu - con gái của Trần Bình Trọng.
Trong văn hoá đại chúng
Chú thích |
Đây là bài con của Trí tuệ nhân tạo, nội dung chú trọng vào sự phát triển và lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo.
Sự phát triển của lý thuyết trí tuệ nhân tạo
Trí tuệ nhân tạo là đột phá công nghệ mới nhất, là ngành khoa học đang định hình lại xã hội của chúng ta. Đồng thời trí tuệ nhân tạo có tác động sâu sắc đến các ngành công nghiệp máy móc và công ty cung cấp năng lượng.
Với sự phát triển nhanh chóng về kiến thức và tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo đang thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về các dịch vụ kỹ thuật số mới để giúp khai thác công nghệ này với tiềm năng cao nhất. Cải thiện các sản phẩm đã có trên thị trường để tất cả chúng ta đưa vào sử dụng trong cuộc sống hàng ngày sẽ là cốt lõi cho tương lai của trí tuệ nhân tạo AI.
Đa số trọng tâm của các nghiên cứu trí tuệ nhân tạo ban đầu được lấy từ cách tiếp cận bằng thực nghiệm của tâm lý học, và xem trọng cái gọi là "trí tuệ ngôn ngữ" - việc hiểu biết ngôn ngữ con người (xem Thử nghiệm Turing, Turing test).
Các hướng nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo không liên quan đến ngôn ngữ bao gồm ngành robotic và ngành thông minh tập thể (colective intelligence). Hai hướng tiếp cận này tập trung vào việc chủ động tác động lên môi trường hoặc việc đưa ra quyết định bằng đồng thuận về một vấn đề nào đó. Các hướng nghiên cứu này có nguồn gốc từ các mô hình thông minh xuất phát từ sinh học và chính trị học.
Lý thuyết trí tuệ nhân tạo còn được rút ra từ các nghiên cứu về động vật, đặc biệt là côn trùng, do có thể dễ dàng được mô phỏng con trùng bằng robot (xem thêm sự sống nhân tạo (artificial life)) cũng như các động vật với nhận thức phức tạp hơn, ví dụ như loài khỉ, chúng có thể bắt chước con người trong nhiều trường hợp nhưng lại hạn chế về sự phát triển trong việc lập kế hoạch và nhận thức. Các nhà nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo đưa ra kết luận rằng những loài động vật, có nhận thức đơn giản hơn con người, đáng ra có thể dễ dàng mô phỏng được. Tuy nhiên, đến giờ vẫn chưa có mô hình tính toán đủ tốt mô phỏng trí thông minh của động vật.
Có những bài báo đưa ra khái niệm trí thông minh của máy (machine intelligence) như bài A Logical Calculus of the Ideas Immanent in Nervous Activity (Tính toán logic của các ý tưởng nội tại trong hoạt động thần kinh) (1943), do Warren McCulloch và Walter Pitts viết; On Computing Machinery and Intelligence (Về bộ máy tính toán và trí thông minh) (1950), được viết bởi Alan Turing; và Man-Computer Symbiosis viết bởi J.C.R. Licklider. Xem thêm phần điều khiển học (cybernetics) và Thử thách Turing.
Trước đó cũng đã có các bài báo phủ nhận khả năng tồn tại trí thông minh của máy dựa vào các lý do logic hay triết học như Minds, Machines and Gödel (1961) của John Lucas .
Với sự phát triển của các kỹ thuật thực hành dựa trên các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, những người ủng hộ ngành trí tuệ nhân tạo đã cho rằng phe chống đối ngành này đã liên tục thay đổi lập trường của họ trong các vấn đề như máy tính chơi cờ hay nhận dạng tiếng nói, mà trước đây chúng đã từng được coi là thông minh, để phủ nhận các thành tựu của ngành trí tuệ nhân tạo. Bởi vậy, Douglas Hofstadter, trong cuốn Gödel, Escher, Bach, đã chỉ ra rằng chính sự chuyển dịch đó đã định nghĩa trí thông minh là bất cứ việc gì mà con người làm được còn máy móc thì không.
John von Neumann (trích dẫn trong E.T. Jaynes) đã thấy trước được điều này vào năm 1948 khi trả lời một lời bình luận tại một buổi diễn thuyết cho rằng may móc không thể suy nghĩ: "Bạn nhất quyết rằng có một điều gì đó mà máy móc không thể làm được. Nếu bạn nói cho tôi một cách chính xác đó là điều gì, thì tôi sẽ luôn luôn làm được một cái máy mà sẽ chỉ thực hiện được điều đó!". Von Neumann được cho là đã có ý nói đến luận đề Church-Turing khi khẳng định rằng bất kì một thủ tục có hiệu lực nào cũng có thể được mô phỏng bởi một máy tính (tổng quát) nào đó.
Vào năm 1969 McCarthy và Hayes đã bắt đầu thảo luận về bài toán khung (frame problem) với bài luận của họ, Some Philosophical Problems from the Standpoint of Artificial Intelligence (Một số vấn đề triết học từ điểm khởi đầu của trí tuệ nhân tạo).
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo thực nghiệm
Trí tuệ nhân tạo đã được bắt đầu nghiên cứu từ thập niên 1950 bởi những nhà tiên phong như Allen Newell và Herbert Simon, người sáng lập phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo đầu tiên ở Đại học Carnegie Mellon, và John McCarthy và Marvin Minsky, người sáng lập phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo tại MIT, MIT AI Lab, năm 1959. Họ đã cùng dự hội thảo về trí tuệ nhân tạo tại Đại học Dartmouth vào mùa hè năm 1956, do McCarthy, Minsky, Nathan Rochester của IBM và Claude Shannon tổ chức.
Vào thời điểm đó, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo gồm hai trường phái chính "ngăn nắp" và "bê bối". Trường phái trí tuệ nhân tạo "ngăn nắp" cổ điển hay biểu tượng thường sử dụng các biểu tượng và khái niệm phức tạp. Song song với nó là trường phái "bê bối" (scruffy hay connectionist). Ví dụ điển hình nhất của cách tiếp cận này là mạng thần kinh nhân tạo. Nó "tiến hóa" sự thông minh qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống bằng một quá trình tự động thay cho việc thiết kế cách thi hành nhiệm vụ một cách có hệ thống. Cả hai cách tiếp cận này đều xuất hiện sớm trong lịch sử trí tuệ nhân tạo. Trong thập niên 1960 và 1970, trường phái "bê bối" suy tàn, nhưng sau này đã được khôi phục vào thập niên 1980 khi những hạn chế của trường phái "ngăn nắp" bắt đầu xuất hiện. Dù vậy, những phương pháp hiện nay dùng cả hai cách tiếp cận này đều có những hạn chế nghiêm trọng.
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo rất được chú trọng về kinh phí vào thập niên 1980 bởi Cơ quan các dự án nghiên cứu phòng vệ tiên tiến (Defense Advanced Research Projects Agency) của Mỹ và dự án máy tính thế hệ thứ năm ở Nhật. Các nghiên cứu được cấp kinh phí thời đó đã không thể cho ra kết quả tức thời. Do đó, bất chấp những dự tính quy mô của những nhà tiên phong, ngân sách chính phủ dành cho nghiên cứu đã bị cắt giảm mạnh vào cuối thập niên 1980, dẫn đến sự ngưng trệ trong nghiên cứu và tạo ra "mùa đông của trí tuệ nhân tạo". Trong thập niên tiếp theo, nhiều nhà nghiên cứu trí tuệ nhân tạo đã chuyển sang nghiên cứu những lĩnh vực tương tự như học máy, robot học (robotics) và computer vision, nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo thuần túy chỉ còn ở mức độ thấp.
AI hiện đại
Việc nghiên cứu TTNT hiện đại chú trọng vào các nhiệm vụ thiên về kỹ thuật thực tế (Những người ủng hộ chiều hướng Trí tuệ nhân tạo mạnh có lẽ sẽ gọi nó là "Trí tuệ nhân tạo yếu".)
Có một vài lĩnh vực của AI, một trong số đó là ngôn ngữ tự nhiên. Rất nhiều lĩnh vực thuộc "Trí tuệ nhân tạo yếu" có phần mềm hoặc những ngôn ngữ lập trình chuyên dụng được tạo riêng cho chúng. Ví dụ, một trong những chatterbot (ngôn ngữ tự nhiên gần ngôn ngữ con người nhất) là A.L.I.C.E., nó sử dụng một ngôn ngữ lập trình với tên gọi AIML để đặc tả các chương trình, và có một bản khác với tên gọi Alicebot. Tuy nhiên, A.L.I.C.E thực tế là vẫn dựa trên kỹ thuật đối sánh mẫu và chưa có bất cứ sự suy luận nào. Kỹ thuật này tương tự như kỹ thuật Eliza, một chatterbot đầu tiên, được sử dụng vào cuối năm 1966. Jabberwacky có một chút gần gũi với "Trí tuệ nhân tạo mạnh", khi nó học cách làm thế nào để cải thiện dần từ cơ bản lên mà chỉ dựa trên tương tác của người dùng. Mặc dù thế, kết quả có được thực tế là vẫn rất hạn chế, và có thể hợp lý mà nói rằng thực sự không có một trí tuệ nhân tạo nào mà có thể dùng cho đa mục đích được.
Khi được xem xét với một độ hoài nghi vừa phải, TTNT có thể xem là "một tập các bài toán trong khoa học máy tính mà không có lời giải tốt vào thời điểm này". Khi mà một ngành con của TTNT ứng dụng tốt cho một công việc nào đó, nó sẽ thoát ra khỏi TTNT và có tên riêng. Một vài ví dụ là nhận dạng mẫu, xử lý ảnh, mạng neuron, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, robot học và lý thuyết trò chơi. Trong khi cội rễ của các ngành này đều được thiết lập vững chắc từ TTNT, chúng bây giờ lại được xem là một cái gì đó tách biệt.
Trong khi các nỗ lực để hướng tới một mục tiêu cuối cùng là có trí thông minh như con người càng trở nên chững lại, thì nhiều ngành con mới ra đời lại phát triển. Một vài ví dụ điển hình bao gồm các ngôn ngữ lập trình LISP và Prolog, được ra đời phục vụ cho việc nghiên cứu TTNT nhưng bây giờ lại dành cho các công việc không thuộc TTNT. Nền văn hóa của hacker ban đầu cũng xuất phát từ các phòng thí nghiệm TTNT, đặc biệt ở MIT AI Lab, ngôi nhà của nhiều ngôi sao sáng như McCarthy, Minsky, Seymour Papert (người đã phát triển Logo ở đó), Terry Winograd (người đã từ bỏ TTNT sau khi phát triển SHRDLU).
Nhiều hệ thống hữu ích khác cũng đã được xây dựng dùng các kĩ thuật mà ít nhất một lần từng được dùng cho nghiên cứu TTNT. Một vài ví dụ bao gồm:
Chinook được xem là Nhà vô địch thế giới Máy-Người trong thu tiền vào năm 1994.
Deep Blue, máy tính chơi cờ vua, đã đánh bại Garry Kasparov trong một trận đấu nổi tiếng vào năm 1997.
InfoTame, một động cơ tìm kiếm và phân tích văn bản được phát triển bởi KGB để tự động sắp xếp hàng triệu giấy tờ để có thể ngăn chặn giao tiếp khi cần thiết.
Logic mờ, một kĩ thuật đưa ra suy luận khi không chắc chắn, được dùng rộng rãi trong các hệ thống điều khiển công nghiệp.
Hệ chuyên gia vẫn đang được sử dụng ở một mức độ nào đó trong ngành công nghiệp.
Machine translation systems such as SYSTRAN are widely used, although results are not yet comparable with human translators.
Mạng neuron được dùng cho nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ hệ thống chống xâm nhập đến trò chơi máy tính.
Các hệ thống nhận dạng ký tự quang học có thể chuyển các tài liệu viết tay bằng tiếng châu Âu bất kì sang văn bản lưu trong máy.
Nhận dạng chữ viết tay được sử dụng trong hàng triệu thiết bị PDA.
Nhận dạng tiếng nói có các sản phẩm thương mại và được sử dụng rộng rãi.
Computer algebra system, như Mathematica và Macsyma, là những điển hình.
Các hệ thống Machine vision đã được sử dụng trong nhiều ứng dụng công nghiệp từ kiểm định phần cứng (hardware verification) tới các hệ thống bảo vệ.
Các phương pháp lập kế hoạch TTNT đã được sử dụng để tự động lập phương án chuyển quân Mỹ trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Nhiệm vụ này có thể tiêu tốn thời gian tới nhiều tháng và tiền tới hàng triệu đô-la nếu làm bằng tay. Cơ quan nghiên cứu phòng vệ tiên tiến Mỹ đã tuyên bố rằng riêng lượng tiền tiết kiệm được nhờ ứng dụng này đã nhiều hơn tổng chi phí của họ cho các nghiên cứu TTNT trong vòng 30 năm qua.
AlphaGo, máy tính chơi cờ vây, đã đánh bại Lee Sedol vào tháng 5 năm 2016.
Viễn cảnh của TTNT thay thế sự tác động của con người đã có nhu cầu từ rất lâu trước đây, và ngày nay trong một số lĩnh vực chuyên biệt nơi mà các "hệ chuyên gia" được sử dụng hằng ngày để làm tăng thêm hay thay thế các quyết định của con người trong một số lĩnh vực kĩ thuật và y khoa. Một ví dụ về hệ chuyên gia là Clippy, cái kẹp giấy trong Microsoft Office. Nó cố gắng dự đoán những lời khuyên mà người dùng mong muốn.
Trí tuệ nhân tạo thế giới nhỏ
Thế giới thực đầy rẫy các chi tiết khó hiểu và làm mất tập trung: thông thường, khoa học phát triển bằng cách tập trung vào các mô hình nhân tạo đơn giản về thực tế (ví dụ, trong vật lý, các mặt phẳng không có ma sát và các vật thể hoàn toàn cố định). Năm 1970, Marvin Minsky và Seymour Papert, phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo tại MIT, đề nghị rằng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo cần tập trung vào việc phát triển các chương trình có khả năng thể hiện các hành vi thông minh trong các tình huống nhân tạo đơn giản được gọi là các thế giới nhỏ. Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào cái gọi là thế giới khối, bao gồm các khối có màu sắc và các hình dạng kích thước khác nhau đặt trên một mặt phẳng. Micro-World AI
Ứng dụng
Xử lý ngôn ngữ tự nhiên
Program synthesis
Robotics
Computer vision
Ngôn ngữ, Phong cách lập trình và Văn hoá phần mềm
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo cổ điển thường được thực hiện bằng các ngôn ngữ Lisp hoặc Prolog. Tính toán Bayes thường sử dụng Matlab hoặc ngôn ngữ lập trình Lush (một biến thể của Lisp). Các ngôn ngữ này kèm theo nhiều thư viện xác suất chuyên dụng. Các hệ thống thực, đặc biệt các hệ thống thời gian thực, thường sử dụng C++.
Các lập trình viên trí tuệ nhân tạo thường là các nhà nghiên cứu và thường chú trọng vào việc phát triển nhanh (rapid development) và tạo nguyên mẫu (prototyping) hơn là các nguyên tắc kỹ nghệ phần mềm. Do đó, các ngôn ngữ thông dịch được sử dụng để có thể cho phép nhanh chóng thực hiện thực nghiệm và test dòng lệnh. Trong lịch sử, văn hóa trí tuệ nhân tạo gắn bó chặt chẽ với văn hóa Unix và văn hóa hacker, do chúng cùng chia sẻ nơi chôn rau cắt rốn tại MIT.
Chương trình trí tuệ nhân tạo cơ bản nhất là một lệnh Nếu-Thì đơn, chẳng hạn "Nếu A, thì B". Nếu bạn gõ một chữ 'A', máy tính sẽ in cho bạn một chữ 'B'. Về cơ bản, bạn đang dạy máy tính làm một nhiệm vụ. Bạn cho dữ liệu vào là một thứ, máy tính sẽ đáp lại bằng một cái gì đó bạn bảo nó làm hoặc nói. Mọi chương trình đều có các điều kiện Nếu-Thì. Một ví dụ phức tạp hơn là: nếu bạn gõ từ "Xin chào", máy tính đáp lại "Bạn có khỏe không?" Phản ứng này không phải ý nghĩ của máy tính mà chẳng qua chỉ là một dòng lệnh bạn đã viết từ trước trong chương trình. Mỗi khi bạn gõ "Xin chào", máy tính sẽ luôn luôn trả lời "Bạn có khỏe không?". Nhìn qua thì có vẻ như máy tính đang sống và suy nghĩ, nhưng thực ra đó chỉ là một phản hồi tự động. Trí tuệ nhân tạo thường là một chuỗi dài các lệnh Nếu-Thì.
Có thể dùng thêm một chút ngẫu nhiên để tạo hai hoặc nhiều hướng trả lời. Ví dụ, nếu bạn gõ từ "Xin chào", máy tính có thể đáp "Bạn có khỏe không?" hoặc "Hôm nay trời đẹp nhỉ?" hay "Công việc của bạn dạo này tốt chứ?". Bây giờ có thể có ba phản ứng (hay ba kiểu 'thì') thay vì chỉ có một. Một chương trình trí tuệ nhân tạo có thể có 1000 cách trả lời cùng một dữ liệu vào. Điều đó làm cho nó đỡ đoán trước được và gần với kiểu trả lời của một người bình thường hơn, vì một người bình thường sẽ trả lời một cách không đoán trước được.
Nhiều trò chơi, chẳng hạn cờ và các trò chơi chiến lược, sử dụng các phản ứng bằng hành động, do đó, người có thể chơi với máy tính. Các robot với các bộ não trí tuệ nhân tạo cũng sẽ sử dụng các lệnh Nếu-Thì và các lựa chọn ngẫu nhiên để đưa ra các quyết định và nói. Tuy nhiên, dữ liệu vào có thể là các đối tượng trước mặt robot thay vì một dòng chữ "Xin chào", và phản ứng có thể là nhặt đối tượng lên thay vì in một dòng chữ ra màn hình.
AI trong thương mại
Theo Haag, Cummings (2004) có bốn kỹ thuật TTNT đã được sử dụng trong kinh doanh:
Hệ chuyên gia áp dụng khả năng suy luận để đạt tới một kết luận. Một hệ chuyên gia có thể xử lý một lượng lớn thông tin đã biết và cung cấp các kết luận dựa trên các thông tin đó.
Mạng nơ-ron là TTNT có khả năng tìm kiếm và phân biệt các mẫu. Các Phòng Cảnh sát sử dụng mạng nơ-ron để nhận dạng tham nhũng.
Các Giải thuật di truyền được thiết kế để áp dụng quá trình đấu tranh sinh tồn để tạo các lời giải ngày càng tốt hơn cho bài toán. Các chuyên gia đầu tư sử dụng Giải thuật di truyền để tạo tổ hợp tốt nhất của các cơ hội đầu tư cho các khách hàng của họ.
Một Agent thông minh là phần mềm hỗ trợ ta hoặc thay mặt ta thực hiện các công việc có liên quan tới máy tính. Ví dụ, chúng được sử dụng dưới dạng các chương trình khai phá dữ liệu và các agent kiểm soát và theo dõi.
Lập trình Logic đã từng được coi là một ngành của TTNT, nhưng hiện giờ thì không. |
Mons là một thành phố, thủ phủ của tỉnh Hainaut, một trong 10 tỉnh của Vương quốc Bỉ. Vào năm 2005, dân số của Mons là 91.083, sống trên một diện tích khoảng 146,56 km².
Mons nổi tiếng bởi lễ hội đánh rồng của Thánh Georges (Ducasse de Mons).
Thị trưởng thành phố là ông Elio Di Rupo (đảng Xã hội - PS).
Mons (đọc [mɔ̃s], tiếng Hà Lan Bergen, tiếng Picard Mont) là một thành phố nói tiếng Pháp, nằm ở vùng Wallonie của nước Bỉ. Cựu thủ đô của các Bá tước, thủ phủ của tỉnh Hainaut, thành phố chính của quận Mons, đây cũng là một trong năm trung tâm tòa thượng thẩm quốc gia.
Cách thủ đô Bruxelles 50 km về hướng tây nam, cách Paris khoảng 200 km về hướng đông bắc, cách Lille 75 km về hướng đông và cách Aachen 150 km về hướng tây, thành phố Mons nằm ở nơi giao thoa của các nhánh đường cao tốc quan trọng: E19 (Paris-Bruxelles-Antwerpen-Amsterdam) và E42 (Lille-Charleroi-Liège-Frankfurt am Main).
Đánh dấu bởi lịch sử và nhờ vào sự phong phú về kho tàng kiến trúc và văn hóa, Mons trở thành thủ đô văn hóa của vùng Wallonie từ 2002 và đang khao khát trở thành thủ đô văn hóa châu Âu vào năm 2015. |
Giải vô địch bóng đá hạng nhất Việt Nam 2005 với tên gọi Giải hạng nhất quốc gia 2005 - Cúp Majesty/Bird vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 8 của Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam kể từ khi thành lập năm 1997. Mùa giải này, có 12 đội bóng tham dự: Tôn Hoa Sen-Cần Thơ, Bưu điện Hồ Chí Minh, Khatoco Khánh Hoà, Đá Mỹ Nghệ, Tiền Giang, Thể Công.Vietel, Halida-Thanh Hoá, Starta-Đồng Nai, Đông Á thép Pomina, Quảng Nam, An Giang và Huda-Huế. Với sự góp mặt của 12 đội bóng trên khắp cả nước tranh tài để xác định 2 suất thăng hạng lên chơi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia và chỉ 1 suất xuống chơi tại Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia, đội bóng xếp thứ 4 đó là Tôn Hoa Sen-Cần Thơ phải xuất hạng vì hối lộ trọng tài, diễn ra từ 29 tháng 1 đến 30 tháng 7 2005.
Danh sách các đội bóng tham dự
Cầu thủ ngoại binh
Mỗi CLB phải đăng ký 4 cầu thủ ngoại nhưng chỉ ra sân là 3 cầu thủ ngoại
Bảng xếp hạng
Lịch thi đấu và kết quả
Thông tin thêm
Sau khi phải xuống hạng nhì, câu lạc bộ bóng đá Bưu điện đã bị giải thể sau 3 năm tồn tại.
Câu lạc bộ bóng đá Đông Á mất quyền lên hạng chuyên nghiệp vì đã hối lộ trọng tài. Huấn luyện viên trưởng Nguyễn Thành Vinh và Giám đốc Điều hành Vũ Tiến Thành bị bắt giam. Ngày 23 tháng 12, Đông Á được chuyển giao cho câu lạc bộ bóng đá Gạch Đồng Tâm Long An và mang tên mới Sơn Đồng Tâm Long An.
Tôn Hoa Sen-Cần Thơ cũng bị buộc tội hối lộ trọng tài nên bị giáng xuống hạng nhì.
Tổng kết mùa giải
Vô địch: Khatoco Khánh Hoà
Lên hạng chuyên nghiệp: Tiền Giang và Đông Á
Đá play-off với đội xếp thứ 11 giải chuyên nghiệp: Tôn Hoa Sen-Cần Thơ
Xuống hạng nhì: Bưu điện
Chú thích |
Nghĩa trang Père-Lachaise (tiếng Pháp: Cimetière du Père-Lachaise) là nghĩa trang lớn nhất của thành phố Paris, Pháp và là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế giới. Nằm tại quận 20, nghĩa trang Père-Lachaise là một trong những địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất tại Paris, mỗi năm hàng trăm ngàn lượt người đã đến đây để được thăm viếng những ngôi mộ nổi tiếng đã có từ 200 năm qua.
Lịch sử
Nghĩa trang Père-Lachaise nằm trên một trong bảy ngọn đồi cổ ở Paris. Thời kỳ Trung cổ, ngọn đồi có tên Champ-l'Evêque (vùng đất của Giám mục) vì nó thuộc về Tổng Giám mục Paris. Từ thế kỉ 12, vùng đất này thường được gọi là Mont-aux-Vignes (đồi nho) do người ta trồng nho ở đây. Năm 1430, một thương gia giàu có tên là Régnault de Wandonne đã mua lại mảnh đất này để xây dựng một folie - một ngôi biệt thự cực kì sang trọng (xuất phát từ danh từ folie trong tiếng Pháp có nghĩa là điên khùng, chi tiêu vô độ).
Hai thế kỉ sau đó, những linh mục Dòng Tên đã mua lại ngôi biệt thự và mảnh đất để làm nơi nghỉ ngơi và dưỡng bệnh. Biệt thự đã từng là nơi nghỉ ngơi trong vài tiếng đồng hồ của vua Louis XIV, vì vậy ngọn đồi được đổi tên thành Mont-Louis (đồi vua Louis). Tuy vậy người ta thường biết đến ngọn đồi vì đây là nơi ở từ năm 1675 đến khi mất năm 1709 của linh mục François d'Aix de La Chaise (1624-1709), thường được gọi là le Père La Chaise (Cha La Chaise), giáo sĩ nghe xưng tội của vua Louis XIV, người đã tác động đến vua Louis XIV giúp hạn chế việc đàn áp những người theo Giáo lý Jansen (jansénisme).
Bá tước de la Chaise, em trai của linh mục Lachaise, đã tổ chức nhiều buổi lễ hội trên vùng đất này để phô trương sự giàu có. Nhưng đến năm 1762, giáo hội Dòng Tên đã phải nhượng lại quả đồi để trả nợ cho Giám mục Jacy. Theo năm tháng, những khu vườn trên đồi bị bỏ hoang không ai chăm sóc, vì vậy ngày 9 tháng Thông gió năm XI (tức là ngày 28 tháng 2 năm 1803), những người thừa kế đã một lần nữa bán lại quả đồi cho Nicolas Frochot, tỉnh trưởng tỉnh Seine (Préfet de la Seine) để đổi lấy 180.000 franc.
Ngày 1 tháng 12 năm 1780, nghĩa trang Những người vô tội (cimetière des Innocents) được lệnh đóng cửa theo luật cấm nghĩa trang trong nội đô Paris năm 1786 để bảo vệ sức khỏe người dân. Thành phố Paris bắt đầu lâm vào tình trạng thiếu nơi chôn cất, vì vậy để giải quyết quyền chôn cất cho những người không theo đạo, những người bị rút phép thông công, các diễn viên kịch và những người nghèo, Napoléon Bonaparte, lúc này là Quan tổng tài Pháp đã ra sắc lệnh:
"chaque citoyen a le droit d'être enterré quelle que soit sa race ou sa religion" - "Mỗi công dân đều có quyền được chôn cất bất kể nguồn gốc hay tôn giáo"
Từ đầu thế kỉ 19, một loạt nghĩa trang mới đã được thành lập tại ngoại vi Paris, đó là Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Montparnasse ở phía nam, Nghĩa trang Passy ở phía tây và Nghĩa trang Đông. Chính quyền tỉnh Paris quyết định chuyển đổi 17,58 hécta (17.580 mét vuông) đất của đồi Mont-Louis thành Nghĩa trang Đông. Việc thiết kế nghĩa trang được giao cho kiến trúc sư theo trường phái tân cổ điển (néo-classique) Alexandre Théodore Brongniart vào năm 1803. Với cương vị Tổng giám sát các công trình công cộng của tỉnh Seine (département de la Seine) và thành phố Paris (ville de Paris), Brongniart đã lần đầu tiên thiết kế khu vườn của nghĩa trang theo kiểu Anh, với những lối đi không đều và rất nhiều loại cây bao quanh những khu mộ được điêu khắc cẩn thận.
Ngày 1 tháng Đồng cỏ năm XII (tức ngày 21 tháng 5 năm 1804), nghĩa trang được chính thức khai trương bằng buổi lễ chôn cất một bé gái 5 tuổi tên là Adélaïde Paillard de Villeneuve, con gái của một người đánh chuông ở Faubourg Saint-Antoine.
Phát triển
Ban đầu nghĩa trang được thiết kế làm nơi chôn cất cho những người dân Paris ở một trong bốn quận ở bờ phải sông Seine (các quận 5, 6, 7 và 8 của Paris thời đó) trong các huyệt chung (fosse commune) hoặc các mảnh đất được nhượng vĩnh viễn (concession perpétuelle). Tuy vậy Père-Lachaise ít được người dân Paris chú ý vì họ chán ngấy cảnh phải làm lễ mai táng trên các quả đồi xa Paris, hơn thế lại còn trong một khu phố nghèo. Trong năm 1804, Nghĩa trang Père-Lachaise chỉ có 13 ngôi mộ, các năm sau cũng không khá hơn với 44 ngôi mộ năm 1805, 49 năm 1806, 62 năm 1807 và mãi đến năm 1812 cũng chỉ có 833 ngôi mộ.
Vì vậy những người quản lý đã lập ra một kế hoạch quảng bá cho nghĩa trang bằng cách khuếch trương sự kiện di chuyển mộ của La Fontaine và Molière về Père-Lachaise năm 1804. Năm 1817, người ta lại một lần nữa quảng cáo cho nghĩa trang bằng việc di chuyển hài cốt của Pierre Abélard và Héloïse. Chiến lược quảng bá này đã đem lại hiệu quả khi người dân Paris bắt đầu tranh nhau giành quyền chôn cất tại Père-Lachaise bên cạnh những người nổi tiếng. Các ghi chép cho thấy, chỉ trong vòng vài năm, nghĩa trang đã phát triển từ con số vài chục năm 1804 lên tới hơn 33.000 ngôi mộ năm 1830. Trong thời kì này, Père-Lachaise đã năm lần được mở rộng vào các năm 1824, 1829, 1832, 1842 và 1850 với diện tích tăng từ 17 hécta ban đầu lên gần 44 hécta (43.930 mét vuông) với 70.000 ngôi mộ. Cho đến đầu thế kỉ 21, đã có hơn 1000.000 người được chôn cất tại Père-Lachaise, và còn nhiều người hơn nữa được cất giữ tro hỏa táng của họ ở nhà để tro của Père-Lachaise.
Nghĩa trang Père-Lachaise thực sự là một bảo tàng các tác phẩm điêu khắc giá trị thế kỉ 19 của các tác giả nổi tiếng như Hector Guimard, Charles Garnier, Louis Visconti hay Barris. Nhà nguyện, cổng chính ở đại lộ Ménilmontant là tác phẩm của kiến trúc sư Étienne-Hippolyte Godde vào các năm 1823 và 1825. David d'Angers là người thiết kế phần lớn các đài tưởng niệm ở Khu thống chế (Quartier des Maréchaux d'Empire). Mãi đến cuối thế kỉ 19, năm 1894, nhà để tro (columbarium) và nơi hỏa táng (crématorium) trong nghĩa trang mới bắt đầu được xây dựng theo phong cách tân-byzantin (néo-byzantin) do Jean-Camille Formigé thiết kế.
Bức tường Công xã (Mur des Fédérés) nổi tiếng cũng nằm trong phạm vi nghĩa trang Père-Lachaise ở phía nam. Đó là nơi 147 chiến sĩ Công xã Paris, những chiến sĩ tự vệ cuối cùng của khu Belleville, bị bắn chết vào ngày Chủ nhật, 28 tháng 5 năm 1871, ngày cuối cùng của "Tuần lễ đẫm máu" (Semaine Sanglante) và đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của Công xã Paris. Vì ý nghĩa đặc biệt của bức tường này, Père-Lachaise đã trở thành nghĩa trang được lựa chọn để chôn cất phần lớn các nhà lãnh đạo cánh tả của Pháp và là nơi làm lễ kỉ niệm hàng năm của những người cánh tả với số lượng lên từ vài trăm đến vài nghìn người (cá biệt năm 1936 có tới 600.000 người tham gia lễ kỉ niệm), các buổi lễ này được tổ chức bởi lãnh đạo của các đảng cánh tả và các tổ chức cánh tả khác.
Tổ chức
Nghĩa trang Père-Lachaise được thiết kế với chủ ý kiêm luôn chức năng của một công viên cho Paris. Hiện nay đây có thể coi là một trong những khu vực cây xanh rộng và đẹp nhất của thủ đô với diện tích trên 44 hécta và 5.300 cây xanh, nhiều nhất là cây thích, cây tần bì, cây trắc bách diệp và cây dẻ. Ngoài ra, đây cũng có thể coi là thiên đường của các loại chim, mèo hoang và thằn lằn. Ngày 1 tháng 4 năm 1986, nghĩa trang đã trở thành vườn bảo tồn (jardin du souvenir) của Paris và cho đến nay vẫn là khu vực cây xanh duy nhất của thủ đô nước Pháp có danh hiệu này.
Hiện nay các ngôi mộ trong Nghĩa trang Père-Lachaise được chia thành 97 khu (division) khác nhau, trong đó riêng khu 87 là nhà để tro (columbarium) và nơi hỏa táng (crématorium). Ở trung tâm nghĩa trang, nằm ở khu 55 đối diện với cổng chính ở đại lộ Ménilmontant là một nhà thờ nhỏ (chapelle) và đài tưởng niệm những người đã khuất (monument aux morts). Ngoài ra còn có một số đài tưởng niệm khác:
Đài tưởng niệm tháng 6 năm 1848 (monument juin 1848) nằm ở khu 6.
Đài tưởng niệm chiến tranh 1870 (monument guerre 1870) nằm ở khu 54 và 72.
Một loạt đài tưởng niệm các nạn nhân trại tập trung Đức Quốc xã (monuments aux déportés) nằm ở khu 97, đối diện với Bức tường Công xã. Khu 97 cũng là khu gần như dành riêng để chôn cất các chiến sĩ tình nguyện Pháp trong Nội chiến Tây Ban Nha, chiến sĩ kháng chiến Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai và các nhà hoạt động cánh tả của Pháp.
Ngoài khu 97 dành riêng cho các chiến sĩ kháng chiến và đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, khu 28, 29, 38 và 39 có thể được coi là khu thống chế khi rất nhiều mộ của các thống chế, đặc biệt là các thống chế nổi tiếng dưới thời Napoléon được chôn ở đây như "thống chế thép" Louis Nicolas Davout (khu 28), thống chế Joachim Murat (khu 39), "người dũng cảm nhất" (le Brave des Braves) Michel Ney (khu 29),...
Những ngôi mộ nổi tiếng
Guillaume Apollinaire (1880-1918), thi sĩ
Honoré de Balzac (1799-1850), nhà văn, ông được chôn cất cùng nữ bá tước Ewelina Hańska, người tình lâu năm của Balzac, hai người cưới nhau chỉ 5 tháng trước khi Balzac qua đời.
Fulgence Marie Auguste Bienvenüe (1852-1936), người khai sinh hệ thống tàu điện ngầm Paris.
Georges Bizet (1838-1875), nhạc sĩ viết nhạc cổ điển, tác giả vở nhạc kịch Carmen nổi tiếng.
Maria Callas (1923-1977), ca sĩ opéra người Hy Lạp, di hài của bà đã được hỏa táng và thả xuống Biển Égée, ngôi mộ ở Père-Lachaise chỉ là mộ giả
Frédéric Chopin (1810-1849), nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan, ông được chôn cất tại Père-Lachaise theo đúng ý nguyện trước khi mất. Trái tim của Chopin sau này đã được chuyển về Ba Lan và được đặt trong Nhà thờ Thánh giá ở Warszawa.
Paul Éluard (1895-1952), thi sĩ, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Mộ của Éluard được đặt cạnh mộ của bí thư Đảng cộng sản Pháp là Maurice Thorez (1900-1964).
Félix Faure (1841-1899), tổng thống Cộng hòa Pháp, chết đột ngột khi còn đang trong nhiệm kì. Ngôi mộ của Faure được trang trí bằng một bức tượng được điêu khắc theo đúng dáng nằm của ông khi mất.
Jean de La Fontaine (1621-1695), thi sĩ nổi tiếng, tác giả của ngụ ngôn La Fontaine. Mộ của La Fontaine khá đơn giản so với các ngôi mộ khác và được đặt cạnh mộ của Molière (1622-1673), nhà soạn kịch nổi tiếng cùng thời. Di hài của hai người được chuyển về Nghĩa trang Père-Lachaise cùng một đợt và là hai trong số những ngôi mộ đầu tiên tại nghĩa trang này.
Joseph Fourier (1768-1830), nhà toán học và vật lý.
Jim Morrison (1943-1971), ca sĩ chính của ban nhạc The Doors, đây là ngôi mộ thu hút nhiều khách tham quan nhất trong khu vực nghĩa trang mặc dù nó nằm ở vị trí khá khuất và bị bao quanh bởi nhiều ngôi mộ lớn khác.
Jean Moulin (1899-1943), nhà lãnh đạo phong trào kháng chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hài cốt của ông đã được chuyển vào Điện Panthéon Paris ngày 19 tháng 12 năm 1964.
Sully Prudhomme (1839-1907), nhà văn, người đầu tiên được trao Giải Nobel Văn học.
Claude Henri de Saint-Simon (1760-1828), nhà kinh tế học, một trong những người khai sinh ra kinh tế học hiện đại. Tuy vậy mộ của Saint-Simon trông rất cũ kĩ và có vẻ ít được quan tâm nếu so với những ngôi mộ của người nổi tiếng khác.
Oscar Wilde (1854-1900), nhà văn và nhà biên kịch người Ireland. Ngôi mộ của Wilde có in dấu rất nhiều vết môi của những người hâm mộ nhà văn này.
Hình ảnh |
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19.
Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên "ấn tượng" do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Tổng quan
Khoảng năm 1862, có những họa sĩ trẻ cho rằng nghệ thuật đã xơ cứng do các quy tắc quá cứng nhắc được giảng dạy ở trường Mỹ thuật và họ kết hợp với nhau ở Paris quanh Claude Monet. Trên con đường được Eugène Boudin và Johan Barthold Jongkind vạch ra trong những năm 1850-60, họ vẽ tranh ngoài trời, theo mẫu sống, và tìm cách thu tóm những biểu hiện thoáng qua của bầu khí quyển. Bằng cách tránh xưởng vẽ và những giá trị giả tạo của nó, họ thu nhận những cảm giác thị giác từ phong cảnh, vẽ ánh sáng và những tác động của nó.
Các họa sĩ được đào tạo trong các xưởng vẽ tư nhân và tự do (xưởng vẽ Gleyre, trường Mỹ thuật Thụy Sĩ) và trao đổi ý tưởng ở quán cà phê Guerbois. Mỹ học ấn tượng, do William Turner bố cáo, tiếp nhận ảnh hưởng của Gustave Courbet và trường phái hiện thực. Các "môn đồ" tôn sùng Delacroix là người thử nghiệm trước họ sự phân chia sắc độ, các màu bổ túc và các tương phản màu sắc.
Họ cũng thăm dò những nguồn cảm hứng mới, tranh thủ ấn họa Nhật Bản và nhiếp ảnh mới được phát minh năm 1839.
Bị các Phòng trưng bày từ chối và bị coi là những kẻ "bôi bác", các nghệ sĩ sống trong cảnh khốn cùng nên tìm cách làm cho người ta biết đến mình bằng những cuộc triển lãm riêng. Sự biểu lộ đầu tiên diễn ra ở Paris vào năm 1874 trong xưởng làm việc của nhà nhiếp ảnh Félix Nadar, đường Capucines. Dịp này nhà báo Louis Leroy của tờ Charivari đã khai sinh từ "chủ nghĩa ấn tượng" bằng cách mỉa mai nhan đề bức tranh nổi tiếng "Ấn tượng, mặt trời mọc" của Claude Monet. Bảy cuộc triển lãm khác nối tiếp nhau cho tới năm 1886. Từ thời điểm này nhóm bắt đầu chia nhỏ rồi tan rã.
Từ những năm 1880-1890, phong trào liên lạc với các nghệ sĩ nước ngoài, nhưng chủ yếu là mở đường cho những phản ứng mỹ học phóng khoáng.
Bất chấp sự thù nghịch của nhiều người, Émile Zola và nhà buôn tranh Paul Durand-Ruel ủng hộ hội họa ấn tượng nay đã chuyển qua một thế giới êm ả trong đó không xuất hiện các khó khăn xã hội, chính trị và kinh tế của thời đại. Nhà báo và phê bình nghệ thuật Thédore Duret mua tranh và xuất bản quyển Lịch sử Ấn tượng vào năm 1904.
Lịch sử
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại.
Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.
Đặc điểm của trường phái ấn tượng
Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ mảnh, nhỏ, song vẫn có thể nhìn thấy rõ, bố cục thoáng, kèm theo sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh độ miêu tả chính xác về sự thay đổi chất lượng của ánh sáng trong tranh (thường để làm nổi bật rõ ảnh hưởng của dòng thời gian),vật mẫu đời thường, và góc nhìn khác lạ.
Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.
Một vài tác phẩm tiêu biểu
Mary Cassalt (1844 -1926)
Các họa sĩ tiêu biểu
Mary Cassatt
Paul Cezanne (tuy sau này đã rời bỏ phong trào)
Edgar Degas
Max Liebermann
Édouard Manet (tuy Manet không xem mình thuộc phong trào)
Claude Monet
Berthe Morisot
Camille Pissarro
Pierre-Auguste Renoir
Zinaida Yevgenyevna Serebryakova
Alfred Sisley
Vincent van Gogh
Các nghệ sĩ ấn tượng |
Claude Monet (, , 14 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 12 năm 1926) là họa sĩ nổi tiếng người Pháp, một trong những người sáng lập trường phái ấn tượng và là họa sĩ nhất quán và nhiều tác phẩm nhất của phong trào triết học miêu tả những nhận thức của con người trước thiên nhiên, đặc biệt khi được áp dụng để vẽ phong cảnh ngoài trời. Thuật ngữ trường phái ấn tượng (impressionism) được bắt nguồn từ tên một tác phẩm ông Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc), tác phẩm được trưng bày năm 1874 trong buổi triển lãm độc lập đầu tiên của ông được tổ chức bởi Monet và những đồng nghiệp như một sự thay thế cho Salon de Paris (tên một nơi tổ chức triển lãm nghệ thuật).
Những tham vọng của Monet về việc ghi lại nông thôn nước Pháp đã đưa ông tới như là một đại diện của một phương pháp vẽ quang cảnh nhiều lần giống nhau để bắt được sự thay đổi của ánh sáng và qua các mùa. Từ năm 1883, Monet đã sống trong Giverny, nơi ông đã mua một ngôi nhà và bất động sản và đã bắt đầu một dự án phong cảnh lớn bao gồm những cây hoa súng mà có thể đã trở thành những đề tài của những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Ông đã bắt đầu vẽ hoa súng trong năm 1899, những quang cảnh dọc đầu tiên với một chiếc cầu Nhật Bản như một nét đặc trưng và sau đó trong một loạt những bức tranh quy mô lớn mà đã ảnh hưởng liên tục cho 20 năm tiếp theo của cuộc đời ông.
Tiểu sử
Thời thơ ấu
Claude Monet sinh ngày 14 tháng 11 năm 1840 trên tầng 5 của số 45 đường rue Laffitte, quận 9 của Paris . Ông là con thứ hai của Claude Adolphe Monet và Louise Justine Aubrée Monet, cả hai đều là người Paris hai đời. Ngày 20 tháng 5 năm 1841, ông được báp-têm (rửa tội) trong nhà thờ địa phương, Notre-Dame-de-Lorette (Đức Bà vùng Loreto), tên thánh là Oscar-Claude, nhưng cha mẹ ông đơn giản gọi ông là Oscar. Mặc dù được làm phép báp-têm bởi Công giáo, Monet sau này là một người vô thần .
Năm 1845, gia đình ông chuyển đến Le Havre ở Normandy. Cha của ông muốn ông tham gia kinh doanh tạp hóa và xếp-dỡ hàng tàu bè của gia đình , nhưng Monet lại muốn trở thành một họa sĩ. Mẹ ông là một ca sĩ, và đã ủng hộ mong muốn của Monet cho một sự nghiệp nghệ thuật .
Vào ngày 1 tháng 4 năm 1851, Monet vào Trường Trung học nghệ thuật Le Havre. Người dân địa phương thì đã biết rõ ông qua những bức biếm hoạ bằng chì than của ông, thường thì ông sẽ bán từ 10 đến 20 franc. Monet có được các bài học đầu tiên của mình từ Jacques-François Ochard, cựu sinh viên của Jacques-Louis David. Trên bãi biển Normandy vào khoảng năm 1856, ông gặp Eugène Boudin, người đã trở thành người thầy của ông và dạy ông sử dụng sơn dầu. Boudin đã dạy cho Monet "en plein air" (ngoài trời) và các kỹ thuật vẽ tranh. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của Johan Barthold Jongkind.
Ngày 28 tháng 1 năm 1857, mẹ ông qua đời. Năm 16 tuổi, ông rời trường học và sống cùng với người cô góa chồng, không có con, Marie-Jeanne Lecadre.
Paris và Algeria
Khi Monet đi du lịch đến Paris để thăm Bảo tàng Louvre, ông đã chứng kiến các họa sĩ sao chép từ các bậc thầy cổ điển. Có mang sơn và vài công cụ vẽ khác, ông đã ngồi bên cạnh một cửa sổ và vẽ những gì ông thấy thay vì đi loanh quanh. Monet đã ở Paris trong nhiều năm và gặp gỡ các họa sỹ trẻ khác, bao gồm Édouard Manet và một vài người khác, sau này họ trở thành bạn bè và thành những họa sĩ Ấn tượng khác.
Sau khi rút ra một lá phiếu thấp vào tháng 3 năm 1861, Monet được đưa vào Trung đoàn I Khinh kỵ binh Châu Phi (Chasseurs d'Afrique) ở Algeria trong bảy năm nghĩa vụ quân sự. Người cha giàu có của ông đáng lẽ có thể cho Monet không phải đi quân đội, nhưng lại không làm như vậy khi con trai quyết định không từ bỏ nghiệp vẽ. Tại Algeria, Monet chỉ có một vài phác thảo những cảnh casbah, (Thủ phủ ở Bắc Phi) một bức phong cảnh đơn lẻ, và một vài bức chân dung của các sĩ quan, tất cả nay đều bị thất lạc. Trong một cuộc phỏng vấn của Le Temps năm 1900, ông nhận xét rằng màu sắc tươi sáng và sống động của Bắc Phi "chứa mầm mống các tìm tòi tương lai của tôi" . Sau khoảng một năm đóng quân ở Algiers, Monet đã trúng bệnh sốt thương hàn và được vắng mặt trong một thời gian ngắn mà không cần nghỉ phép. Sau khi hồi phục, cô của Monet đã can thiệp để đưa ông ra khỏi quân đội nếu Monet đồng ý hoàn thành một khóa học tại một trường nghệ thuật. Có thể là họa sĩ người Hà Lan Johan Barthold Jongkind, người mà Monet quen, có thể đã thúc giục cô của Monet về vấn đề này.
Năm 1862, Monet trở thành sinh viên của Charles Gleyre ở Paris, nơi ông gặp Pierre-Auguste Renoir, Frédéric Bazille và Alfred Sisley. Họ cùng nhau chia sẻ những phương pháp tiếp cận mới với nghệ thuật, vẽ ra các hiệu ứng ánh sáng en plein air (ngoài trời) nhẹ nhàng với màu sắc vỡ và với những cú đánh bút nhanh, những cái mà sau này được gọi là trường phái Ấn tượng.
Vào tháng 1 năm 1865, Monet đã làm việc cho một phiên bản của Le déjeuner sur l'Herbe (Ăn trưa trên bãi cỏ), nhằm trưng bày tại Salon, để thay cho bức Le déjeuner sur l'herbe của Manet hai năm trước . Tranh của Monet rất lớn và không thể hoàn thành kịp thời (bây giờ nó được chia ra, và trưng bày ở nhiều triển lãm các mảnh khác nhau). Monet trình một bức tranh thay thế, Camille hay Người phụ nữ trong trang phục màu xanh (La femme à la robe verte), một trong nhiều tác phẩm sử dụng người vợ tương lai của ông là Camille Doncieux, làm hình mẫu. Cả hai bức tranh này và một bức tranh cảnh quan nhỏ đã được treo. Năm sau, Monet sử dụng Camille để làm mẫu cho Women in the Garden (Người phụ nữ trong vườn), và On the Bank of the Seine (Bên dòng sông Seine), Bennecourt vào năm 1868. Camille đã mang thai và sinh đứa con đầu lòng của họ, Jean, vào năm 1867. Monet và Camille kết hôn vào ngày 28 tháng 6 năm 1870, ngay trước khi Chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra,, và sau chuyến đi London và Zaandam, họ chuyển đến Argenteuil vào tháng 12 năm 1871. Trong thời gian này Monet vẽ nhiều tác phẩm khác nhau của cuộc sống hiện đại. Ông và Camille sống trong cảnh bần hàn trong phần lớn thời gian này. Sau khi triển lãm thành công một số bức tranh hàng hải và chiến thắng Huy chương Bạc tại Le Havre, bức tranh của Monet đã bị các chủ nợ tịch thu, và từ đó chủ nợ lại bán lại cho một thương gia, Gaudibert, người cũng là người bảo trợ cho Boudin.
Trường phái Ấn tượng
Từ cuối thập niên 1860, Monet và các họa sỹ có cùng tư tưởng khác đã bị gạt ra khỏi Académie des Beaux-Arts (Học viện Mỹ thuật) bảo thủ, cũng chính là Học viện tổ chức triển lãm hàng năm tại Salon de Paris. Trong nửa sau của năm 1873, Monet, Pierre-Auguste Renoir, Camille Pissarro và Alfred Sisley đã tổ chức Société anonyme des artistes peintres, sculpteurs et graveurs (Hiệp hội Vô danh gồm các Họa sĩ, Thợ khắc và Thợ trổ) để trưng bày tác phẩm của họ một cách độc lập. Tại triển lãm đầu tiên của họ, tổ chức vào tháng 4 năm 1874, Monet đã trưng bày bức tranh mà cái tên đã ghi một dấu son trên tiến trình Hội họa của nhân loại. Ông được truyền cảm hứng bởi phong cách và chủ đề của các họa sỹ hiện đại trước đó là Camille Pissarro và Edouard Manet .
Đó chính là bức "Ấn tượng mặt trời mọc" (Impression, soleil levant) danh giá, được vẽ vào năm 1872, mô tả cảnh quan cảng Le Havre. Từ cái tên của bức tranh, nhà phê bình nghệ thuật Louis Leroy, trong bài báo "L'Exposition des Impressionnistes" (Sự trưng bày ấn tượng) in trên tờ Le Charivari, đã đặt ra thuật ngữ "Ấn tượng" (Impressionism) . Thuật ngữ được dự định đặt ra như một sự nhạo báng nhưng các nhà họa sĩ mới đã sử dụng luôn thuật ngữ cho chính họ. (Impressionists - Nhà Họa sĩ Ấn tượng)
Chiến tranh Pháp - Phổ và Argenteuil
Sau cuộc chiến tranh Pháp-Phổ (19 tháng 7 năm 1870), Monet và gia đình ông đã trú ẩn tại Anh vào tháng 9 năm 1870 , nơi ông nghiên cứu các tác phẩm của John Constable và Joseph Mallord William Turner, những tranh phong cảnh của cả hai người đã truyền cảm hứng cho sự đổi mới của Monet trong nghiên cứu về màu sắc. Vào mùa xuân năm 1871, tác phẩm của Monet đã bị từ chối cấp quyền triển lãm, bao gồm cả ở Viện Hoàng gia .
Tháng 5 năm 1871, ông rời London để sống ở Zaandam, Hà Lan , nơi ông đã vẽ được 25 bức tranh (và cảnh sát nghi ngờ ông có dính líu đến hoạt động "cách mạng") . Ông cũng đi chuyến thăm đầu tiên đến gần Amsterdam. Tháng 10 hoặc tháng 11 năm 1871, ông trở về Pháp. Từ tháng 12 năm 1871 đến năm 1878, ông sống ở Argenteuil, một ngôi làng bên bờ sông Seine gần Paris, một điểm đến "cuối tuần" nổi tiếng của người Paris, nơi đây, ông đã vẽ một số tác phẩm nổi tiếng nhất của mình. Năm 1873, Monet mua một chiếc thuyền nhỏ được trang bị để sử dụng như một studio nổi. Từ studio nổi, Monet vẽ tranh phong cảnh và vẽ cả chân dung của Édouard Manet và vợ; Manet đến lượt miêu tả bức tranh Monet trên chiếc thuyền, cùng với Camille vào năm 1874. Năm 1874, ông quay trở lại Hà Lan một thời gian ngắn.
Hội họa Ấn tượng
Triển lãm Ấn tượng được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1874 tại 35 boulevard des Capucines, Paris, từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 5. Mục đích chính của những người tham gia không phải là để thúc đẩy một trường phái mới, mà còn để thoát khỏi những kìm ép, gượng gạo của Salon de Paris. Triển lãm, mở cho bất cứ ai sẵn sàng trả 60 franc, cho phép các nghệ sỹ cơ hội thể hiện tác phẩm của họ mà không có sự can thiệp của hội thẩm tra .
Renoir chủ trì hội đồng và tự làm hầu hết công việc một mình, vì những thành viên khác không thể trình diện được .
Ngoài "Ấn tượng mặt trời mọc", Monet trình bày bốn bức tranh sơn dầu và bảy bức với tông pastels - dịu nhẹ, vừa mắt. Trong số những bức tranh ông trưng bày là The Luncheon (Bữa trưa) (1868), miêu tả Camille Doncieux và Jean Monet, và từng bị Salon de Paris từ chối năm 1870. Cũng trong triển lãm này, một bức tranh có tên Boulevard des Capucines [tên một con phố], một bức tranh vẽ cảnh đại lộ được hoàn thành tại căn hộ số 35 của Nadar - một nhiếp ảnh gia. 35. Monet đã vẽ bức tranh này hai lần, và không biết rõ bức nào (một bức bây giờ ở Bảo tàng Pushkin ở Moscow, bức còn lại trong Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins ở Kansas City) là bức tranh trưng bày vào năm 1874, mặc dù gần đây bức tranh Moscow có vẻ xác thực hơn . Tổng cộng đã có 165 tác phẩm được trưng bày tại triển lãm, bao gồm 4 sơn dầu, 2 màu pastels và 3 màu nước bởi Morisot; 6 sơn dầu và 1 pastel của Renoir; 10 tác phẩm của Degas; 5 của Pissarro; 3 của Cézanne; và 3 bởi Guillaumin. Vài tác phẩm được cho mượn, bao gồm Modern Olympique của Cézanne, bức Hide and Seek (Trốn tìm) của Morisot (thuộc sở hữu của Manet) và 2 bức tranh phong cảnh của Sisley đã được mua bởi Durand-Ruel .
Tổng số người tham dự ước tính là 3.500 và một số tác phẩm đã bán, mặc dù một số nhà triển lãm đã đặt giá quá cao. Pissarro đã yêu cầu 1000 franc cho The Orchard (Vườn cây trái) và Monet tương tự cho Ấn tượng mặt trời mọc, cả hai đều không được bán. Renoir cũng thất bại trong việc cố bán với giá 500 franc mà anh yêu cầu cho La Loge (Hộp chiếu bóng), nhưng sau đó đã bán nó cho 450 franc cho Père Martin, đại lý và người ủng hộ của nhóm.
Tác phẩm trong những năm 1858 - 1872
Camille qua đời
Năm 1876, Camille Monet bị bệnh lao. Con trai thứ hai của họ, Michel, sinh ngày 17 tháng 3 năm 1878. Đứa con thứ hai này càng làm suy yếu sinh lực đang phai dần của cô. Vào mùa hè năm đó, gia đình chuyển đến làng Vétheuil, nơi họ ở chung với gia đình của Ernest Hoschedé, một chủ cửa hiệu giàu có và người bảo trợ nghệ thuật. Năm 1878, Camille Monet được chẩn đoán mắc ung thư tử cung Bà qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1879 ở tuổi ba mươi hai
Monet đã nghiên cứu về sơn dầu từ người vợ quá cố. Nhiều năm sau, Monet thú nhận với người bạn là Georges Clemenceau rằng nhu cầu của ông là phân tích màu mà chứa đựng cả niềm vui và sự đau khổ của cuộc đời ông. Ông đã giải thích:Một ngày nọ tôi thấy mình nhìn gương mặt người vợ yêu dấu quá cố của tôi và một cách có hệ thống, tôi,theo phản xạ tự động, chú ý đến các màu sắc!John Berger mô tả tác phẩm như một "cơn bão tuyết của màu trắng, xám, sắc tía ảm đạm... một trận bão tuyết khổng lồ của sự mất mát sẽ xóa nhòa dấu vết của cô. Trên thực tế, có rất ít bức tranh vẽ giường-người-chết được cảm thấy dữ dội hoặc biểu lộ chủ quan như vậy. "
Vétheuil
Sau vài tháng khó khăn sau cái chết của Camille, Monet bắt đầu tạo ra một số bức tranh đẹp nhất của mình vào thế kỷ 19. Vào đầu những năm 1880, Monet vẽ một số nhóm cảnh quan và cảnh biển trong những gì ông coi là nhiệm vụ để ghi lại vùng nông thôn Pháp. Những bức tranh này bắt đầu phát triển thành một sê-ri các bức họa, trong đó ông ghi lại cùng một cảnh nhiều lần để nắm bắt sự thay đổi của ánh sáng và dòng chảy của các mùa trong năm.
Một người bạn của Monet là Ernest Hoschedé bị phá sản, và rời bỏ Pháp vào năm 1878 đến Bỉ. Sau cái chết của Camille Monet vào tháng 9 năm 1879, và trong khi Monet tiếp tục sống trong ngôi nhà ở Vétheuil, Alice Hoschedé đã giúp Monet nuôi hai con trai ông, Jean và Michel. Cô đưa họ đến Paris để sống cùng với sáu đứa con của mình, Blanche (sau này kết hôn với Jean Monet), Germaine, Suzanne, Marthe, Jean-Pierre, và Jacques. Vào mùa xuân năm 1880, Alice Hoschedé và tất cả các trẻ em rời Paris và đến ở cùng Monet tại Vétheuil. Năm 1881, tất cả họ chuyển đến Poissy, nơi mà Monet không ưa lắm. Tháng 4 năm 1883, khi nhìn ra cửa sổ xe lửa nhỏ đang đi giữa vùng Vernon và Gasny, ông đã phát hiện ra một nơi thật tuyệt vời, Giverny vùng Normandy Monet, Alice Hoschedé cùng những đứa trẻ chuyển đến Vernon, rồi đến ngôi nhà tại Giverny, nơi ông trồng một khu vườn rộng lớn và là nơi ông vẽ trong phần còn lại của cuộc đời. Sau cái chết của người chồng xa lạ của mình, Alice Hoschedé cưới Monet năm 1892.
Tác phẩm những năm 1873 - 1879
Giverny
Nhà vườn của Monet
Monet thuê và cuối cùng mua một căn nhà (chính xác hơn là biệt thự) và những khu vườn ở Giverny. Vào đầu tháng 5 năm 1883, Monet và đại gia đình thuê ngôi nhà và 2 mẫu Anh (0,81 ha) từ một chủ đất địa phương. Ngôi nhà nằm gần con đường chính nối giữa các thị trấn của Vernon và Gasny ở Giverny. Có một cái nhà kho, được chia đôi để làm một phòng vẽ tranh, một khu vườn cây ăn trái và một khu vườn nhỏ. Ngôi nhà cũng gần trường học địa phương để các con nhỏ tham dự, và cảnh quan xung quanh gợi nên nhiều đề tài phù hợp cho nghề vẽ của Monet.
Gia đình đã làm việc và xây dựng các khu vườn, và số phận bắt đầu mỉm cười với Monet vì người bán tranh của ông, Paul Durand-Ruel, đã càng ngày càng thành công trong việc bán các bức tranh. Vào tháng 11 năm 1890, Monet đã thịnh vượng đủ để mua ngôi nhà, vài tòa xung quanh và khu vườn của mình. Trong những năm 1890, Monet xây dựng một nhà kính và một studio thứ hai, một tòa nhà rộng rãi được thắp sáng bởi một cái giếng trời.
Monet đã viết chỉ dẫn hàng ngày cho người làm vườn của mình, thiết kế chính xác và bố cục để trồng cây, và hoá đơn mua hoa và bộ sưu tập sách thực vật học của ông. Khi tài sản của Monet tăng lên, khu vườn ngày càng phong phú. Ông vẫn là kiến trúc sư chính, ngay cả sau khi ông thuê bảy người làm vườn .
Monet đã mua thêm đất với một bãi cỏ nước. Năm 1893 ông bắt đầu một dự án "bài trí" lại cảnh quan với quy mô lớn bao gồm" ao súng nước, mà sau này đã trở thành đối tượng trên các kiết tác nổi tiếng nhất của ông. Các hoa súng trắng của Pháp được trồng cùng với các giống nhập từ Nam Mỹ và Ai Cập, tạo ra một dải màu sắc bao gồm vàng, xanh dương và màu hồng của bông súng trắng già. Vào năm 1899, ông bắt đầu vẽ những cây hoa súng nước, đầu tiên là nhìn trực diện với một cây cầu Nhật Bản như là một điểm chính trung tâm, và sau đó là hàng loạt các bức tranh quy mô lớn ròng rã, liên tục trong 20 năm tiếp theo. Phong cảnh này, với ánh sáng luân phiên và ánh-phản-chiếu- gương, đã trở thành một phần không thể tách rời trong tranh của ông. Vào giữa những năm 1910 Monet đã có được:một phong cách hoàn toàn mới, mềm mại, và có phần táo bạo trong bức tranh, trong đó ao hoa súng đã trở thành điểm xuất phát cho một hành trình nghệ thuật đến với trừu tượng- Gary Tinterow Gary Tinterow, Modern Europe, Metropolitan Museum of Art (New York, N.Y.), 1 tháng 1 năm 1987Chùm tranh vườn của Monet
Những năm cuối đời
Giảm thị lực
Người vợ thứ hai của Monet, Alice, qua đời năm 1911, và con trai cả, cũng là đứa con mà Monet quý nhất: Jean (đã cưới con gái của Alice, Blanche) qua đời năm 1914. Sau khi Alice qua đời, Blanche chăm sóc Monet. Chính trong thời gian này Monet bắt đầu phát triển các dấu hiệu đầu tiên của bệnh đục thủy tinh thể .
Trong Thế chiến thứ nhất, trong đó con trai nhỏ của ông Michel đi nghĩa vụ và người bạn và cũng là người ngưỡng mộ ông, ông Georges Clemenceau, đang lãnh đạo quốc gia Pháp, Monet đã vẽ một loạt tranh các cây liễu rủ ảm đạm để tỏ lòng tôn kính đối với những người lính Pháp đã ngã xuống. Năm 1923, ông đã trải qua hai lần phẫu thuật để loại bỏ chứng đục thủy tinh thể của mình. Các bức tranh được thực hiện trong giai đoạn thị lực giảm sút của ông có một tông màu phớt đỏ chung, cũng là một đặc điểm tầm nhìn khi bị đục thủy tinh thể. Cũng có thể là sau phẫu thuật, ông có thể nhìn thấy các bước sóng cực tím nhất định của ánh sáng (mắt người khỏe mạnh không thể thấy được); điều này có thể đã có ảnh hưởng đến màu sắc mà ông cảm nhận. Sau khi phẫu thuật, ông thậm chí còn sơn lại một số bức tranh, với bông hoa súng "xanh" hơn trước.
Qua đời
Monet mất vì ung thư phổi ngày 5 tháng 12 năm 1926, thọ 86 tuổi. Ông được chôn cất trong nghĩa trang nhà thờ Giverny . Monet từng nhấn mạnh rằng tang lễ phải thật đơn giản; do đó chỉ có khoảng năm mươi người tham dự hôm đó.
Nhà của ông, khu vườn và hồ hoa súng, đã được truyền qua con trai Michel, người thừa kế duy nhất của ông, đến Học viện Mỹ thuật Pháp (một phần của Institut de France) vào năm 1966. Thông qua Fondation Claude Monet, ngôi nhà và vườn được mở cửa cho khách du lịch thăm vào năm 1980, sau khi phục chữa. Ngoài những vật lưu niệm của Monet và các kỉ vật khác trong cuộc đời, ngôi nhà còn có bộ sưu tập các bản khắc gỗ của Nhật Bản. Tòa biệt thự và sân vườn, cùng với Bảo tàng Ấn tượng, là điểm thu hút chính trong Giverny, nơi đón khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới.
Những bức vẽ muộn của Monet
Phương pháp của Monet
Monet được mô tả là "động lực thúc đẩy của Trường phái Ấn tượng" . Điều quan trọng nhất đối với nghệ thuật của các họa sỹ theo phong cách Ấn tượng là hiểu những ảnh hưởng của ánh sáng đối với màu xung quanh của vật thể, và hiệu ứng của các màu sắc xếp cạnh nhau . Phần lớn sự nghiệp của Monet với tư cách là một họa sĩ được dùng để theo đuổi mục tiêu này.
Năm 1856, cuộc gặp gỡ với Eugene Boudin, một hoạ sỹ vẽ cảnh bãi biển nhỏ, thế giới Monet mở ra với hội họa và kỹ thuật "ngoài trời". Từ thời điểm đó, trừ một khoảng gián đoạn ngắn cho nghĩa vụ quân sự, ông đã tự mình tìm kiếm và phát triển các phương pháp mới cho sự biểu hiện "thật hội họa". Để đạt được mục tiêu này, khi còn là một thanh niên, ông đã đến Salon de Paris và làm quen với những tác phẩm của các họa sỹ lớn tuổi, và kết bạn với các nghệ sĩ trẻ khác. Năm năm mà ông trải qua ở Argenteuil, dành nhiều thời gian trên sông Seine trong một studio nhỏ, đã hình thành nên những nghiên cứu của ông về những hiệu ứng ánh sáng và sự phản chiếu. Ông bắt đầu suy nghĩ về màu và hình chứ không phải là cảnh và vật. Ông sử dụng màu sắc tươi sáng trong cú chấm nhẹ, những nét lướt và những nét cong. Sau khi từ chối những lời dạy hàn lâm của studio Gleyre, ông tự giải phóng mình khỏi lý thuyết, và nói rằng "Tôi thích vẽ như một con chim đang hót."
Năm 1877, một loạt các bức tranh tại Bến tàu St-Lazare, Monet đã để tâm đến khói và hơi nước và cách chúng ảnh hưởng đến màu sắc và khả năng hiển thị, đôi khi đôi khi thì mờ đục nhưng đôi khi lờ mờ. Ông đã tiếp tục sử dụng những quan sát này trong bức tranh về những ảnh hưởng của sương mù và mưa trên cảnh quan. Tìm hiểu ảnh hưởng của không gian khiến ông đã vẽ một loạt các bức tranh, trong đó Monet đã vẽ lại cùng một đối tượng trong các ánh sáng khác nhau vào những giờ khác nhau trong ngày, và thông qua sự thay đổi của thời tiết và mùa. Những loạt tranh kiểu như vậy được bắt đầu vẽ từ những năm 1880 và tiếp tục cho đến khi cuộc đời ông khép lại năm 1926.
Bộ tranh đầu tiên của ông được trưng bày, ví dụ như tập Đống cỏ khô, "Haystacks", được vẽ từ các điểm nhìn khác nhau và vào các thời điểm khác nhau trong ngày. Mười lăm bức tranh được trưng bày tại Galerie Durand-Ruel năm 1891. Năm 1892, ông đã tạo ra bộ tranh có lẽ là nổi tiếng nhất của ông, hai mươi sáu góc nhìn của Nhà thờ chính tòa Rouen . Trong những bức tranh này, Monet đã phá vỡ các truyền thống vẽ tranh, bằng cách chia nhỏ đối tượng để chỉ có một phần mặt tiền được nhìn thấy trên tấm canvas. Các bức tranh không tập trung vào tòa nhà Trung cổ, mà là sự xoay vần của sáng và tối trên bề mặt của nó, kiến trúc tòa nhà tưởng là khối thuần nhất mà hóa ra không thuần nhất .
Những bộ trang khác bao gồm Cây dương "Poplars", Buổi sáng trên sông Seine "Mornings on the Seine", và Hoa súng nước "Water Lilies" được vẽ tại nhà của ông ở Giverny. Từ năm 1883 đến năm 1908, Monet đã đi đến Địa Trung Hải, nơi ông vẽ các địa danh, cảnh quan và cảnh biển, và bao gồm một loạt các bức tranh ở Venice. Tại London, ông đã vẽ bốn chuỗi tranh: Tòa nghị viện Luân Đôn "The Houses of Parliament", Luân Đôn "London", Cầu Charing Cross "Charing Cross Bridge", Cầu Waterloo Waterloo Bridge, và Cảnh quan cầu Westminster "Views of Westminster Bridge". Helen Gardner viết:"Monet, với một độ chính xác khoa học, đã cho chúng ta một bản thu vô tiền khoáng hậu ghi lại bước đi của thời gian, qua chuyển động của ánh sáng trên những hình mẫu giống hệt nhau." Một vài bức được trích từ các tập tranh của ông
Danh tiếng
Năm 2004, bức Tòa nghị viện Luân Đôn, mặt trời qua sương mù (1904), bán được với giá 20,1 triệu đô la Mỹ . Năm 2006, tạp chí Tiến trình của hội Hoàng gia "Proceedings of the Royal Society" cho đăng một bài báo cho thấy rằng tranh được sơn ngay tại Bệnh viện St Thomas qua sông Thames.
Bức Vách đá gần Dieppe ( Falaises près de Dieppe ) đã bị đánh cắp trong hai lần riêng biệt: một lần vào năm 1998 (trong đó người quản lý bảo tàng đã bị kết tội trộm cắp và bị bỏ tù trong 5 năm và hai tháng cùng với hai kẻ đồng lõa) và gần đây nhất vào tháng 8 năm 2007. Nó được tìm thấy vào tháng 6 năm 2008.
Bức Le Pont du chemin de fer à Argenteuil của Monet, một bức tranh sơn dầu vẽ một cây cầu đường sắt bắc qua sông Seine gần Paris, đã được mua bởi một nhà cung cấp điện thoại nặc danh với mức giá kỷ lục là 41,4 triệu đô la Mỹ trong cuộc bán đấu giá Christie ở New York hồi 6 tháng 5 năm 2008. Kỷ lục trước đó là 36,5 triệu đô la . Chỉ vài tuần sau đó, Le bassin aux nymphéas (từ bộ tranh Hoa súng nước) được bán tại cuộc đấu giá Christie vào ngày 24 tháng 6 năm 2008 tại London, lô 19, với giá 36.500.000 bảng ($ 71.892.376,34) (giá chốt hạ) hoặc £ 40,921,250 ($ 80,451,178) với các phí phụ, nâng gấp đôi giá kỷ lục của họa sĩ và ghi tên vào một trong 20 cái giá cao nhất được trả cho một bức tranh ở thời điểm đó. |
Michael Curtiz (24 tháng 12 năm 1886 – 10 tháng 4 năm 1962) là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.
Tiểu sử và sự nghiệp
Michael Curtiz tên thật là Manó Kertész Kaminer, sinh ra trong một gia đình Hungary gốc Do Thái. Ông được đánh giá là đạo diễn hàng đầu của Warner Bros và là bậc thầy của nhiều thể loại điện ảnh mà không có đạo diễn của Hollywood nào có thể sánh kịp.
Phim đã thực hiện
Casablanca
Các cuộc phiêu lưu của Robin Hood |
Lang Gốm Bát Tràng là tên gọi chung của các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát (鉢) là bát ăn của nhà sư (tiếng Phạn là Patra), chữ Tràng (場, còn đọc là Trường) nghĩa là "cái sân lớn", là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Như vậy, tên gọi Bát Tràng có thể hiểu là "cái sân lớn chuyên sản xuất bát". Tuy nhiên, theo một số tài liệu khác, tên gọi Bát Tràng có thể bắt nguồn từ tên gọi Bạch Thổ Phường, nghĩa là "phường đất sét trắng".
Vị trí
Xã Bát Tràng (社鉢場) gồm hai thôn là Bát Tràng và Giang Cao, thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Làng Bát Tràng được hình thành từ khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, người dân làng Bồ Bát (xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại, nay là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình), theo vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra khu vực gần Thăng Long lập nên ngôi làng này.
Khi những người dân Bạch Bát đến vùng đất bồi trên bờ sông Hồng, Họ đã lập phường làm nghề gốm; lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường, sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ và buôn bán , làm quan.
Năm 1958, nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải - Đại thủy nông Bắc Hưng Hải làm thủy lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của 3 tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng, vì vậy từ Hà Nội, có thể theo đường thủy từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua sông Hồng rồi theo đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng (khoảng 15 km) hoặc theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng (khoảng hơn 20 km).
Ngày nay việc đến Bát Tràng rất thuận lợi vì từ năm 2006, công ty vận tải Hà Nội đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng cổ Bát Tràng là điểm cuối bến.
Lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời Lý. Khi Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, 5 dòng họ làm nghề gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên (nay thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) là Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã quyết định đưa các nghệ nhân làm gốm và gia đình dời làng di cư về kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Đến Bạch Thổ phường thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An (nay là xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội) - nơi có nguồn nguyên liệu tốt để làm đồ gốm là đất sét trắng, 5 dòng họ đã kết hợp với dòng họ Nguyễn ở đây mở lò sản xuất gốm, lập nên làng gốm Bát Tràng.
Theo ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có dòng họ Nguyễn Ninh Tràng. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Ninh Bình, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn... ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14 - đầu thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long hành nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Cũng ở thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) (hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho các làng nghề gốm Việt Nam. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm.
Thế kỉ 15–16
Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương "ức thương" như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mĩ quốc công phu nhân... Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
Thế kỉ 16–17
Sau những phát kiến địa lý vào cuối thế kỉ 15, nhiều nước phát triển của Tây Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... bắt đầu thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và với thị trường thế giới đang hình thành.
Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn bán với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng Đông Nam Á. Khi nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng (1567) nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua đó nhiều đồ gốm Bát Tràng được nhập cảng vào Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan. Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều kiện phát triển mạnh.
Thế kỉ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thủy nối liền hai đô thị này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á.
Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong phương thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuối thế kỉ 17& đầu thế kỉ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài.
Thế kỉ 18–19
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với những hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỉ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lý do khiến một số làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường. Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước.
Thế kỉ 19 đến nay
Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.
Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ, con địa chủ của thôn Giang Cao (sau cải cách ruộng đất năm 1955) góp vốn thành lập công ty gốm Trường Thịnh, để sản xuất gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội, đây là nền tảng khởi đầu cho Xí nghiệp sứ Bát Tràng. Năm 1958 nhà nước làm công tư hợp doanh, chuyển đổi công ty gốm Trường Thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát Tràng vào làm việc. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự chịu khó, cần cù đã tạo nên được một thế hệ có tay nghề gốm vững chãi. Cùng lúc đó một số hợp tác xã như Hợp Thành (1962), đóng ở phần đất gần với xã Đa Tốn, Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1978), Thống Nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ (1984)Xí nghiệp X51, X54 (1988)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam,Trần Hợp... đào tạo được nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh.
Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Xã Bát Tràng nay đã trở thành một trung tâm gốm lớn.
Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc...
Quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng
Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò".
Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành (五行) là kim (金), mộc (木), thủy (水), hoả (火) và thổ (土). Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác.
Quá trình tạo cốt gốm
Chọn đất
Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn.
Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hoá học (tính trung bình theo % trọng lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al203: 27,07; Si02: 55,87; Fe203 1,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O: 2,01; Ti02: 0,81. Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng oxide sắt khá cao, độ ngót khi sấy khô lớn và bản thân nó không được trắng.
Xử lý, pha chế đất
Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.
Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước (thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thủy của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã "chín" (cách gọi dân gian), đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng.
Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ". Tại bể ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất). Thời gian ủ càng lâu càng tốt.
Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.
Tạo dáng
Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném ("bắt nẩy") để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau khi quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào "bửng". Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc khá phổ biến ở mỗi lò gốm cổ Việt Nam (không chỉ riêng Bát Tràng) nhưng lại rất xa lạ đối với một số người thợ gốm bên phương Tây. Tuy thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện nay không còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc này nữa. "Be chạch" cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm.
Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt.
Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch cao hay khuôn gỗ) được tiến hành như sau: đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật "đúc" hiện vật. Muốn có hiện vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót: đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy" để tạo dáng sản phẩm.
Phơi sấy và sửa hàng mộc
Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần.
Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" cho đất ở chân "vóc" chặt lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi là "lùa"). Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm (như vòi ấm, quai tách...), khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bàn".
Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm...
Quá trình trang trí hoa văn và phủ men
Kỹ thuật vẽ
Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu...
Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1 hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng. Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung.
Chế tạo men
Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu, thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp oxide sắt và oxide mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (có chứa oxide côban) đá thối (chứa oxide mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250 °C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội (thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương) có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn.
Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phương pháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đồ vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất, vì thế mà có câu "nhỏ tro to đàn".
Tráng men
Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm... Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây.
Sửa hàng men
Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là "sửa hàng men".
Quá trình nung
Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò.
Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch (hay lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn.
Lò nung
Lò ếch là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi, hiện nay mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.
Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại.
Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250–1300 °C.
Lò bầu, hay lò rồng, xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300 °C.
Lò hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt độ lò có thể đạt 1250 °C.
Lò con thoi (hay lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò liên tục): Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải là những lò truyền thống của Bát Tràng.
Bao nung
Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng).
Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có màu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỉ lệ 25–35% đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần.
Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần dùng bao nung.
Nhiên liệu
Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi phác và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò gốm ở Bát Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò.
Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được ngay.
Chồng lò
Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu tiên) nơi dành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than.
Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người (3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1 thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm mộc phục vụ cho cả ba nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên), nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa (xếp ba lớp giữa), còn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò). Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Tây) và Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chuyên phục vụ chơ các lò gốm Bát Tràng.
Đốt lò
Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa trong toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9-10 bó củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Trong phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới), bốn người chuyên ném củi bửa qua các lỗ giòi (đốt trên).
Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.
Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người thợ đốt lò dù có dày dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật (nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.
Những đặc điểm của gốm Bát Tràng
Căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu men, đề tài trang trí và đặc biệt nhờ các dòng minh văn, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của gốm cổ Bát Tràng.
Loại hình
Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia loại hình của đồ gốm Bát Tràng như sau:
Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén, khay trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ.
Đồ gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm. Trong đó, chân đèn, lư hương và đỉnh là những sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại vì lẽ trên nhiều chiếc có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả, quê quán và năm tháng chế tạo, nhiều chiếc còn ghi khắc cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó là một nét đặc biệt trong đồ gốm Bát Tràng.
Đồ trang trí: Bao gồm mô hình nhà, long đình, các loại tượng như tượng nghê, tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng người ba đầu, tượng đầu khỉ mình rắn và tượng rồng.
Trang trí
Thế kỉ 14–15: Hình thức trang trí trên gốm Bát Tràng bao gồm các kiểu như khắc chìm, tô men nâu theo kĩ thuật gốm hoa nâu thời Lý–Trần, kết hợp với chạm nổi và vẽ men lam. Khoảng thời gian này đánh dấu sự ra đời của dòng gốm hoa lam đồng thời xuất hiện những đồ gốm hoa nâu vẽ theo gốm hoa lam. Đề tài trang trí còn giới hạn trong các đồ án hoa lá, tiếp nối gốm hoa nâu thời Trần.
Thế kỉ 16, cùng với việc xuất hiện những chân đèn, lư hương có kích thước lớn hơn, kĩ thuật trang trí chạm nổi kết hợp vẽ men lam đạt đến trình độ tinh xảo. Đề tài trang trí phổ biến có các loại: rồng, phượng, xen kẽ cụm mây, ngựa có cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thủy... Trang trí vẽ men lam còn giữ được nhịp độ phát triển, nhiều loại văn hình học và hoa lá còn thấy gần gũi với đồ gốm hoa lam xuất hiện cùng thời ở Chu Đậu, (Hải Dương).
Thế kỉ 17, kĩ thuật chạm khắc, đắp nổi trên gốm Bát Tràng càng tinh tế, cầu kì, gần gũi với chạm đá và gỗ. Đề tài trang trí tiếp nối thế kỉ 16, đồng thời xuất hiện các đề tài trang trí mới: bộ tứ linh, hổ phù, nghê, hạc... Những đề tài chạm nổi, để mộc điển hình khác như bông cúc hình ôvan, bông hoa 8 cánh, bông cúc tròn, cánh hoa hình lá đề, cánh sen vuông, các chữ Vạn-Thọ (chữ Hán)... Việc sử dụng men lam kém dần, tuy đề tài trang trí vẽ tương đồng với chạm nổi. Thế kỉ 17 xuất hiện dòng gốm men rạn với sự kết hợp trang trí đề tài nổi bật như rồng, tứ linh, hoa lá, cúc-trúc-mai. Trong khoảng thời gian này còn xuất hiện loại gốm nhiều màu, nổi trội nhất là màu ngọc với các đề tài trang trí độc đáo: hoa sen, chim, nghê, hình người...
Thế kỉ 18, trang trí chạm nổi gần như chiếm chủ đạo thay thế hẳn trang trí vẽ men lam trên gốm Bát Tràng. Các kỹ thuật đúc nổi, dán ghép, chạm khắc nổi đã thích ứng với việc sử dụng men đơn sắc (men trắng xám và men rạn). Đề tài trang trí ngoài bộ tứ linh, rồng, nghê còn thể hiện các loài cây tượng trưng cho bốn mùa. Ngoài đề tài sen, trúc, chim và hoa lá còn thấy xuất hiện các loại văn bát quái, lá lật... Hoa văn đường diềm phát triển manh các nền gấm, chữ vạn, cánh sen nhọn, hồi văn, sóng nước...
Thế kỉ 19, gốm hoa lam Bát Tràng phục hồi và phát triển phong cách kết hợp sử dụng nhiều loại men vào trang trí. Bên cạnh các đề tài đã có, Bát Tràng còn xuất hiện thêm các đề tài du nhập từ nước ngoài theo các điển tích Trung Quốc như Ngư ông đắc lợi, Tô Vũ chăn dê, Bát tiên quá Hải, Ngư ông kéo lưới...
Đối với các nhà khảo cổ, các nhà sưu tầm đổ cổ và các nhà nghiên cứu mỹ thuật, chủ đề rồng thể hiện qua các thời kì được nhiều người quan tâm nhất vì nó có những sự thay đổi đáng kể. Rồng là đề tài thường được trang trí trên nhiều loại hình, đặc biệt trên chân đèn và lư hương.
Thế kỉ 16, rồng được đắp nổi hoặc để mộc như trên đồ gốm thời Nguyên (Trung Quốc) hay vẽ men lam, rồng có đôi cánh mọc ra từ chân trước, cong như cánh bướm. Rồng cùng với phượng mở ra cấu trúc trang trí rồng bay phượng múa.
Đầu thế kỉ 17, rồng vẫn giữ nhiều nét tương đồng rồng thế kỉ 16, nhưng sau đó được cách điệu với 4 khúc không đều nhau, mở ra một kiểu rồng mới, khác lạ. Rồng bố cục theo chiều ngang, dáng rồng ngắn, thân uốn hình cánh cung, tay trước nắm râu. Rồng chạm nổi trong hình khánh hay thấu kính có thân nhỏ và đều có những dải mấy lửa kiểu đao mác. Nửa sau thế kỉ 17 lại xuất hiện dáng rồng gần gũi với rồng điêu khắc trên gỗ. Đuôi rồng từ bên trái trườn qua bên phải, đầu quay vào giữa. Mặt rồng tả chính diện, tay trước nắm râu. Xung quanh rồng có nhiều dải mây nổi vẽ men lam. Một kiểu rồng nữa được thể hiện trên lư hương, đế nghê, mô hình nhà là rồng nổi, đuôi vút lên trên, hai chân trước chống, đầu uốn lên, bố cục trong hình chữ nhật.
Thế kỉ 18, rồng thân dài, đắp nổi theo dạng phù điêu, đầu nghiêng, hai mắt lồi, sừng và râu cong, bờm gáy dày, vây cá nhọn, vảy rắn, xung quanh rồng có những dải mây nổi hình 3 ngọn lửa. Sau đó, rồng ổ xuất hiện bao gồm một rồng mẹ và 6 rồng con, xen kẽ các dải mây hình khánh. Rồng được thể hiện trên bình con voi, lư hương hoặc trên bao kiếm thờ...Với rồng đắp nổi, chỉ thể hiện đầu rồng chính diện, hai chân trước dang rộng, lộ mũi hẹp, mắt lồi, miệng ngậm vòng tròn hay chữ Thọ kiểu triện còn được thể hiện trên những chiếc đỉnh.
Thế kỉ 19, rồng lại được thể hiện theo phong cách tượng tròn với thân ngắn, mình tròn, đầu rồng có miệng rộng, mũi cao, vây cá, vảy tròn và được trang trí theo kiểu đắp nổi hoặc vẽ men lam trên đỉnh gốm hoặc trên bình men rạn vẽ nhiều màu. Ngoài ra, còn có đầu rồng với mặt nhìn chính diện, hai chân xoè ngang năm hai dải mây, miệng ngậm vòng...
Các dòng men
Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng được thể hiện qua mỗi thời kì khác nhau để tạo nên những sản phẩm đặc trưng khác nhau: men lam xuất hiện khởi đầu ở Bát Tràng với những đồ gốm có sắc xanh chì đến đen sẫm; men nâu thể hiện theo phong cách truyền thống và được vẽ theo kĩ thuật men lam; men trắng ngà sử dụng trên nhiều loại hình đồ gốm từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, men này mỏng, màu vàng ngà, bóng thích hợp với các trang trí nổi tỉ mỉ; men ngọc được dùng kết hợp với men trắng ngà và nâu tạo ra một đòng Tam thái rất riêng của Bát Tràng ở thế kỉ 16–17 và men rạn là dòng men chỉ xuất hiện tại Bát Tràng từ cuối thế kỉ 16 và phát triển liên tục qua các thế kỉ 17–19.
Men lam
Đây là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng từ thế kỉ 14. Men lam là men gốm được cộng thêm với gốc màu là oxide côban. Thợ Bát Tràng sử dụng men lam đồng thời với kĩ thuật dùng bút lông làm công cụ vẽ trên đồ gốm. Men lam không để để trần như men nâu mà bao giờ cũng được phủ lớp men màu trắng bóng, có độ thủy tinh hoá cao sau khi nung. Men lam có sắc độ từ xanh chì đến xanh sẫm. Bên cạnh điểm tương đồng với các loại bình gốm hoa lam sản xuất ở lò Chu Đậu (Hải Dương), gốm hoa lam Bát Tràng ngay ở thời kì đầu đã có những nét riêng về dáng và về hoạ tiết trang trí. Những bát, âu, lọ, chân đèn gốm hoa lam của Bát Tràng thế kỉ 14–15 có nét chung dễ nhận là lối vẽ phóng bút, dù là vẽ phong cảnh, hoa dây lá hay vẽ rồng.
Gốm hoa lam Bát Tràng thế kỉ 16, có sắc xanh đen. Men lam dùng để vẽ mây kết hợp với trang trí hình rồng nổi để mộc, vẽ cánh sen, các băng đường diềm các cặp chân đèn ngoài ra men lam dùng vẽ vào các hình trang trí nổi rồng, hoa dây và cánh sen của chân đèn và lư hương.
Thế kỉ 17 là một thời kì men lam kém phát triển tại Bát Tràng. Trên một số các chân đèn, lư hương, hũ, tượng gốm Bát Tràng (thế kỉ 17) hiện còn, lớp men vẽ trang trí màu nâu ở những chỗ men phủ màu trắng ngà rạn bị bong tróc, chỗ còn men phủ, màu nâu có sắc xanh chì, đặc biệt là chân đèn và lư hương, các hình vẽ men lam kém chau chuốt và tình trạng khá phổ biến men lam chảy nhoè, không nhận ra các họa tiết. Trong khi đó khắc chạm nổi, để mộc rất tỉ mỉ, đạt tới đỉnh cao.
Cuối thế kỉ 18, trong đỉnh cao về men rạn, Bát Tràng xuất hiện lối kết hợp trang trí nổi với vẽ lam như trên chân đèn, men lam được khôi phục trở lại trên đồ gốm Bát Tràng.
Thế kỉ 19, men lam được vẽ trang trí trên lư, choé, bình, lọ, bát hương, nậm rượn phủ men rạn trắng ngà hoặc đỉnh gốm, bình gốm men nhiều màu. Nét biểu hiện đặc trưng của men lam gốm Bát Tràng là sắc màu và lối vẽ, nhìn chung có sắc trầm. Dùng men lam vẽ phong cảnh sơn thủy, nhà cửa, lâu đài, nhân vật khá thành công trên bình. Men lam có sắc tươi dùng tô vẽ trang trí nồi trên đỉnh có thể là một trong số những tiêu bản gốm hoa lam đẹp nhất của gốm Bát Tràng ở cuối thế kỉ 19.
Trong xu hướng ảnh hưởng kiểu dáng, đề tài và cạnh tranh thị trường với gốm sứ Trung Quốc, đồ gốm Bát Tràng ở thế kỉ 19 còn có nhiều trường hợp dùng nhiều màu men. Chẳng hạn, để thể hiện đê tài Bát Tiên quá hải người thợ Bát Tràng dùng men nâu và men lam tô lên các hình trang trí nồi sau đó phủ men trắng rạn. Men lam cùng với men trắng vẽ các đề tài mã liễu, tiêu tượng, tùng lộc trên lư gốm men nâu, men lam vẽ cành liễu, khóm lan, bụi cỏ trong bức tranh nổi Tô Vũ chăn dê, men lam cùng với men nâu sắc sẫm và nhạt tạo nên chiếc đỉnh gốm men nhiều màu đồ sộ. Đó cũng là bằng chứng sinh động về bàn tay tài khéo của nhiều đời thợ gốm Bát Tràng được kế thừa và không ngừng tiến triển.
Men nâu
Một trong số các loại men sử dụng đầu tiên ở Bát Tràng là men nâu, sắc độ màu của men phụ thuộc nhiều vào xương gốm (xương gốm Bát tràng dày và thường có màu nâu xám). Trên các đồ gốm có niên đại thế kỉ 14 đầu thế kỉ 15, men nâu được dùng tô lên các đồ án trang trí kết hợp với men nền màu trắng ngà bao gồm chân đèn, thạp, chậu, âu, đĩa...Men nâu có sắc độ đỏ nâu hay gọi là màu bã trầu (chocolate), men này không bóng, trên bề mặt men thường có vết sần. Men nâu còn được dùng phủ toàn bộ rồi cạo bỏ phần men tạo thành đồ án hoa văn mộc. Thế kỉ 14, thợ gốm Bát Tràng đã biết hạn chế sự ảnh hưởng màu men nâu do mộc bằng cách vẽ men nâu trên lớp men trắng ngà để chuyển men nâu đỏ sang vàng nâu.
Trong các loại hình của nhóm đồ gốm men nhiều mâu thế kỉ 16–17, men nâu được dùng xen lẫn với men ngọc, men ngà, tạo ra các sắc độ khác nhau. Men nâu giữ vị trí các đường chỉ chia băng, tô lên hoa sen hoặc các hình rồng, đối với lư hương chữ nhật men nâu tô lên phần chân đế...
Các đồ gốm thế kỉ 18 tiếp tục sử dụng men nâu nhiều theo cách thức cổ truyền, một số nghệ nhân tìm tòi phát huy thêm để làm phong phú màu men này, đặc biệt trên cặp tượng hổ chế tạo khoảng năm 1740, men nâu dưới lớp men rạn tạo nên bộ da hổ có màu sắc đa dạng hơn.
Thế kỉ 19, men nâu dùng làm nền cho các trang trí men trắng và xanh. Những bình, lọ men rạn ngà, thể hiện đề tài trang trí: Ngư ông đắc lợi, tùng hạc, Tô Vũ chăn dê, Bát tiên quá hải... men nâu dùng để tô trên những thân cây tùng, cây liễu hoặc điểm thêm vào các dải mây, tà áo của Bát tiên. Thế kỉ 19 là thời điểm đánh dấu men nâu đã chuyển sắc thành một loại men bóng (thường gọi là men da lươn), sử dụng rộng rãi ở Bát Tràng cho tới tận ngày nay.
Men trắng (ngà)
Đây là loại men trắng, nhiều trường hợp ngả màu vàng ngà, bóng khi nhiệt độ nung đạt độ cao nhưng cũng nhiều trường hợp có màu trắng xám, trắng sữa, đục. Cùng với kiểu dáng và trang trí, men trắng ngà cũng tạo nên một nét riêng biệt của đồ gốm Bát Tràng. Men trắng ngà đã thấy sử dụng phủ lên trang trí men lam hay men nâu, nhưng trong rất nhiều đồ gốm Bát Tràng chỉ thấy dùng men trắng ngà.
Gốm Bát Tràng thế kỉ 17 đạt đỉnh cao trong kĩ thuật trang trí nổi với hầu hết các thủ pháp kĩ thuật chạm trổ, dán ghép. Men trắng ngà được sử dụng trên các lư hương để phủ trên các rìa, ước và đường viền ngoài phần trang trí nổi, rất ít khi phủ lên hình trang trí. Vì men trắng mỏng, xương gốm được lọc luyện kĩ và độ nung cao nên có chất lượng tốt, một số sản phẩm men trắng ngà phủ lên trang trí nổi dày vẫn có vết rạn men.
Thế kỉ 18, men trắng ngà còn thấy sử dụng trên một số loại hình khác nhau cùng trang trí nổi để mộc. Những lư hương tròn được đắp nổi hình rồng và mặt nguyệt, phần còn lại phủ men trắng ngà.
Vào thế kỉ 19, gốm Bát Tràng chưa mất hẳn kiểu trang trí nổi để mộc, men ngà còn thấy sử dụng trên các loại bình, lọ, lư hương, tượng tròn. Bình gốm có nắp có các hình rồng mây và lục bảo trang trí nổi để mộc, phần còn lại phủ men trắng ngà. Trên các loại bình, lư hương quai tùng, lư hương chữ Thọ; cặp tượng đầu khỉ thân rắn, tượng rồng trang trí kiến trúc, tượng ba đầu, tượng Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen đều thấy sử dụng men ngà, xám.
Men ngọc
Thế kỉ 14–19 men ngọc được dùng khá nổi trội cùng với men trắng ngà và nâu. Men ngọc, men ngà và nâu tạo ra loại Tam thái riêng của gốm Bát Tràng thế kỉ 16–17. Trên chân đèn men ngọc tô lên những bông sen nổi, băng hoa tròn của dải cánh sen các bông hoa tròn hình bánh xe, các hình rồng, các bông hoa nổi đường diềm quanh vai.
Men ngọc còn dùng vẽ mây, tô lên nhiều góc mảng diềm, đế và các cột dọc của long đình; men rêu sắc sẫm ở các cột vuông mô hình nhà 2 tầng hay một số mảng đường diềm lư hương chữ nhật. Men ngọc, sắc nhạt, trên chân đèn, đế nghê. Trên lư hương tròn men ngọc thấy điểm vào 4 hình chữ S nổi giữa thân và chân cùng một đôi chỗ trên bụng. Men ngọc sắc sẫm còn thấy tô trên một số mảng trang trí nổi, hình nghê của lư tròn và trên diềm trang trí nổi chân trước tượng nghê.
Men ngọc, dù ở các sắc độ khác nhau nhưng sự xuất hiện của nó mang ý nghĩa rất lớn vì chỉ thấy trên đồ gốm Bát Tràng thế kỉ 16–17 và có thể xem đây là một dữ kiện đoán định niên đại khá chắc chắn cho các đồ gốm Bát Tràng trên nhiều loại hình khác nhau.
Men rạn
Đây là một loại men độc đáo tạo ra do sự chênh lệch về độ co giữa xương gốm và men. Cho đến nay các tài liệu gốm men cổ ở Việt Nam xác nhận mang men rạn chỉ được sản xuất tại lò gốm Bát Tràng từ khoảng cuối thế kỉ 16 và kéo dài tới đầu thế kỉ 20.
Lư hương khắc minh văn, do gia đình Đỗ Phủ sản xuất vào cuối thế kỉ 16 thể hiện lớp men rạn trên 2 phần dưới của lư hương tròn có thể xem là tiêu bản gốm men rạn sớm nhất. Men rạn có sắc ngà xám các vết rạn chạy dọc và ngang chia ra nhiều hình tam giác, tứ giác.
Cặp chân đèn do "Đỗ phủ xã Bát Tràng" tạo tạo khoảng năm 1600–1618, trong đó men rạn phủ toàn bộ từ miệng tới chân, có màu vàng ngà, rạn trong men, đường chỉ rạn màu đen. Những cặp hiện vật men rạn này rêu có trang trí nổi, ngoài men rạn ra không còn loại men nào khác, đó là những tiêu bản men rạn chuẩn mực của Bát Tràng vào thế kỉ 17.
Thế kỉ 18 Bát Tràng còn được sản xuất nhiều loại đồ gốm men rạn có ghi niên đại. Đỉnh gốm men rạn được chế tạo vào năm 1736, men rạn có màu trắng xám. Một đỉnh gốm men rạn khác, có nắp, thân và đế, chế tạo vào khoảng năm 1740–1768 lại dùng men rạn có màu vàng ngà... Men rạn còn được sù dụng trên các loại hình như: chân nến trúc hoá long; ấm có nắp, đài thờ các nắp, cặp tượng nghê.
Thế kỉ 19, các đồ gốm dòng men rạn còn tiếp tục phát triển, bên cạnh việc sử dụng kết hợp men rạn với trang trí vẽ lam. Trên các đồ gốm, thợ Bát Tràng còn đắp nổi, khắc chìm hoặc không trang trí, men rạn có màu trắng xám.
Minh văn
Gốm Bát Tràng nhiều trường hợp có minh văn, thể hiện bằng khắc chìm hay viết bằng men lam dưới men trắng. Một số minh văn cho biết rõ năm sản xuất, họ tên quê quán tác giả chế tạo cùng họ tên, có khi là cả chức tước của người đặt hàng.
Thế kỉ 15, một minh văn khắc trên phần dưới chân đèn có ghi: Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã tín thí Hoàng Li tỉnh thê Nguyễn Thị Bảo. Trên đai tô nâu giũa phần dưới chân đèn có viết bằng men 6 chữ Hán: Thời Trung xã, Hoàng Phúc tạo. Hoặc cặp phần dưới chân đèn minh văn cho biết: Tác giả: Vũ Ngộ Trên, Bùi Thị Đỗ, Hoàng Thị Vệ, Bùi Huệ, và Trần Thị Ngọ; Thời gian chế tạo: niên hiệu Diên Thành. Có minh văn ghi rõ người đặt hàng như cặp chân đèn hai phần: Người đặt hàng: Lê Thị Lộc, ở Vân Hoạch, Xuân Canh huyện Đông Ngạn. Thời gian chế tạo: Năm Diên Thành thứ 2. Một cặp chân đèn khác có khắc minh văn dài, một bên khắc 3 dòng và một bên 14 dòng, cho biết: Tác giả: Bùi Huệ và Bùi Thị Đỗ; thời gian chế tạo: ngày 25 tháng 11 năm Diên Thành thứ 3; những người đặt hàng: gia đình họ Lưu cùng họ Nguyễn, Lê, Đinh... Trong đớ, họ Lưu, tước Ninh Dương Bá, làm việc ở Thanh Tây vệ, Ti Đô chỉ huy sứ, Đô chỉ huy kiểm sự. Quê quán nhà họ Lưu: xã Lai Xá, huyện Đan Phượng, Phủ Quốc Oai...
Và còn rất nhiều sản phẩm có ghi minh văn, những sản phẩm này một số đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số tại các bảo tàng nước ngoài, một số hiện được sở hữu bởi các nhà sưu tầm đồ cổ, một số lưu lạc trong dân gian và một số còn chìm sâu trong lòng đất.
Hình ảnh sản phẩm
Chú thích |
Luận thuyết trung tâm hay học thuyết trung tâm, giáo lý trung tâm (central dogma) là một học thuyết sinh học (chủ yếu trong di truyền học và sinh học phân tử) cho rằng DNA là trung tâm của tính di truyền: chính DNA là vật chất mang thông tin di truyền của mọi sinh vật, từ đó quy định các tính trạng của cơ thể thông qua vai trò trung gian của RNA tổng hợp nên prôtêin (hình 1).
Khái niệm này dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: central dogma được đề xuất bởi một trong các người khai sinh ra sinh học phân tử là Francis Crick vào khoảng năm 1955, sau khi phát hiện vĩ đại của thế kỷ XX là "mô hình DNA" được công bố ít lâu.
Nội dung tóm tắt nhất của luận thuyết này là sơ đồ sau đây mà mọi học sinh phổ thông Việt Nam đều đã được học:
DNA RNA Prôtêin. Sơ đồ này cần được hiểu là: DNA tạo ra RNA, còn RNA tạo ra Prôtêin, từ đó quy định các tính trạng của sinh vật (trích từ ý của F.Crick: "DNA makes RNA, RNA makes proteins, proteins make us.").
Khi mới hình thành, luận thuyết này mới như là một tiên đoán, chứ chưa phải là một học thuyết (theory) khoa học thực sự, do đó mới gọi là dogma ("lý luận" hay "giáo lý").
Từ khoảng những năm 1970 đến nay, luận thuyết được công nhận là đúng đắn hoàn toàn về mặt khoa học. Nó phản ánh dòng thông tin di truyền trong cơ thể sống theo 2 giai đoạn chính là phiên mã ("transcription" ở hình 1), dịch mã tạo nên prôtêin.
Tuy nhiên, cũng từ khoảng những năm 1970 trở đi, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, các nhà nghiên cứu còn nhận ra rằng mô hình F. Crick đã nêu là chưa đầy đủ - điều này là tất yếu đối với bất kỳ nha khoa học nào, do ai cũng bị hạn chế bởi thời đại của mình. Do đó, ở dạng tóm tắt nhất, mô hình thể hiện dòng thông tin trong cơ thể sống đầy đủ hơn như sơ đồ hình 2.
Phiên mã
Phiên mã là quá trình mà tại đó thông tin di truyền chứa trong đoạn DNA được chuyển sang cho RNA thông tin (pre-mRNA) mới được tổng hợp. Tuy nhiên, chuỗi DNA có chứa cả intron và exon, trong đó chỉ có exon có vai trò chứa thông tin mã hóa cho protein. Nên phân tử RNA tạo ra được gọi là pre-mRNA. Nó cần phải được loại bỏ các intron không cần thiết. Quá trình này gọi là cắt xén.
Cắt xén
Trong tế bào eukaryote hay các tế bào đa nhân khác, sản phẩm của phiên mã (pre-mRNA) cần được tinh giản. Cụ thể là các (intron) bị loại bỏ. Bên cạnh việc loại bỏ các intron, cơ chế cắt xén này cho phép tạo ra các phân tử mRNA hoàn thiện khác nhau, vì trong phân tử RNA có nhiều exon và việc xuất hiện nhiều exon cho phép biểu hiện thành nhiều protein liên quan nhau, tạo ra sự đa dạng về số lượng protein tạo thành. Ví dụ là protein fibronecitin. Tuy nhiên, không phải mọi tế bào sống đều có quá trình cắt xén; việc cắt xén không có trong prokaryote. Điều này cũng dễ hiểu vì chiều dài của mRNA hoặc DNA trong vi khuẩn rất ngắn, nên việc loại bỏ sự tồn tại của các intron là cần thiết. Nó giúp làm tăng số lượng gene có thể mã hóa lên.
Dịch mã
Cuối cùng, mRNA trưởng thành sẽ đi ra ngoài nhân và tìm đường đến ribosome, tại đó nó sẽ được dịch mã. Trong các tế bào prokaryotic, nơi không có màng ngăn nhân, ngay khi đầu 5' cap của mRNA ló ra ngoài vị trí tổng hợp của RNA polymerase thì ribosome sẽ tiếp cận và bắt đầu quá trình dịch mã. Vì thế trong vi khuẩn, quá trình phiên mã và dịch mã là đồng thời. Trong các tế bào eukaryotic, do có màng nhân ngăn cách, việc phiên mã (trong nhân) diễn ra tách biệt với việc dịch mã (trong tế bào chất). Vì thế mRNA phải được vận chuyển ra ngoài nhân tới tế bào chất, đến ER thô (rough endoplasmic reticulum), nơi mà phân tử RNA có thể kết hợp với ribosome. Tại đó, mRNA được đọc bởi ribosome dưới dạng mã bộ ba (thuật ngữ tiếng Anh là codon). Và bộ ba mở đầu (start codon) đánh dấu bắt đầu một gene là AUG. Các bộ ba kết thúc (stop codon) đánh dấu kết thúc một gene là UAG, UGA, UAA.
Ngoại lệ liên quan đến luận thuyết trung tâm
Phiên mã ngược
Người ta đã phát hiện ra sự tồn tại của quá trình phiên mã ngược, tại đó thông tin di truyền được truyền từ RNA trở lại DNA. Các phát hiện được tìm thấy trên retrovirus, cụ thể là HIV, và ở một số eukaryote, trong quá trình tổng lợp telomere và retrotransposon.
Nhân đôi RNA
Nhân đôi từ một RNA thành một RNA mới. Rất nhiều virus làm theo cách này khi mà cơ sở di truyền là RNA chứ không phải DNA.
Dịch mã trực tiếp từ DNA sang protein
Điều này đã có thể thực hiện được trong môi trường ống nghiệm, dùng các chiết xuất từ E.Coli có chứa ribosomes, nhưng không phải trong môi trường tế bào. Các phân mảnh của tế bào này có thể biểu hiện ra thành một protein từ một DNA template ngoại lai, và neomycin là chất kháng sinh được xem là hỗ trợ quá trình này.
Prion
Prion là loại protein có khả năng làm thay đổi cấu trúc 3D của các phân tử protein cùng loại. Điều này làm thay đổi chức năng của protein. Trong nấm, nó có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tức là có sự truyền tải di truyền từ protein → protein. Mặc dù đây cũng là một biểu hiện của sự truyền tải thông tin, nhưng nó không được xem là một ngoại lệ của luận thuyết trung tâm vì cấu trúc chuỗi trong protein vẫn được giữ nguyên. Nhưng nếu xem DNA là trung tâm của luận thuyết thì đây lại được xem là 1 ngoại lệ vì trong luận thuyết trung tâm, protein chỉ có thể được tổng hợp, không thể được nhân lên từ một protein khác.
Phê bình việc sử dụng luận thuyết trung tâm làm chiến lược nghiên cứu
Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sinh học hệ thống cho rằng các nhà khoa học thường sai lầm khi dùng luận thuyết trung tâm là mục tiêu nghiên cứu. Họ cho rằng việc đọc luận thuyết trung tâm mà thiếu óc nhận xét có thể làm cản trở sự hiểu biết vè sự phát triển của cơ thể đa bào cũng như bệnh tật trong cơ thể đa bào; và rằng luận thuyết trung tâm thường được dùng làm mục tiêu nghiên cứu từ thấp lên, cố gắng giải thích các hiện tượng sinh học ở mức tế bào.
Nguồn trích dẫn
1958 Crick, F.H.C., On Protein Synthesis. in Symp. Soc. Exp. Biol. XII, 139-163. (pdf, early draft of original article)
1970 Crick, F., Central Dogma of Molecular Biology. Nature 227, 561-563.
2005 Werner, E., Genome Semantics, In Silico Multicellular Systems and the Central Dogma , FEBS Letters 579, pp 1779–1782 (21 tháng 3 năm 2005). |
John Thomas Romney Robinson (23 tháng 4 năm 1792 – 28 tháng 2 năm 1882) là nhà thiên văn và nhà vật lý người Ireland.
Robinson sinh tại Dublin. Ông học tại trường Trinity College, Dublin, và nhận được học bổng năm 1814; ông làm phó giáo sư khoa học tự nhiên vài năm, cho đến năm 1821 ông nhận được trợ cấp của trường Enniskillen. Năm 1823 ông được chỉ định làm nhà thiên văn học tại đài quan sát Armagh, nơi mà ông nhận thêm được trợ cấp của Carrickmacross (từ năm 1824), nhưng ông luôn cư ngụ tại đài quan sát, tiến hành các nghiên cứu liên quan đến thiên văn học và vật lý cho đến khi ông mất năm 1882.
Robinson có nhiều bài báo khoa học, và hàng ngàn sao quan sát được trong danh mục sao của Armagh từ năm 1828 đến 1854 tại Đài quan sát Armagh, Dublin, (1859). Ông được biết đến nhiều nhất nhờ phát minh máy đo gió dạng chén để đo vận tốc gió. |
Trong hình học Euclid, góc là những gì nằm giữa hai đường thẳng cắt nhau tại một điểm. Hai đường thẳng được gọi là cạnh của góc. Giao điểm của chúng gọi là đỉnh của góc. Khi hai đường thẳng song song với nhau, không cắt nhau tại điểm nào (hoặc cũng có thể hiểu là cắt nhau tại vô cực), góc giữa chúng bằng không và không có đỉnh xác định (hoặc đỉnh ở vô cực).
Nếu lấy một vòng tròn đơn vị có tâm tại giao điểm O của hai đường thẳng và hai đường thẳng cắt vòng tròn đơn vị tại A1, A2 và B1, B2. Góc giữa hai đường thẳng sẽ là độ dài cung nối giữa Ai và Bj, với i và j bằng 1 hoặc 2 tùy theo quy ước, chia cho đơn vị độ dài để loại bỏ thứ nguyên và nhân với hằng số tỷ lệ tùy thuộc vào đơn vị đo góc.
Trong không gian ba chiều, góc giữa hai mặt phẳng (còn được gọi là góc khối) là phần không gian giới hạn bởi hai mặt phẳng đó, được đo bằng góc giữa hai đường thẳng trên hai mặt phẳng cùng trực giao với giao tuyến của hai mặt phẳng.
Khái niệm góc cũng được mở rộng cho đại số tuyến tính. Để loại bỏ rắc rối trong quy ước tính góc, có thể thay các đường thẳng bằng các véctơ thể hiện không chỉ độ nghiêng mà còn cả hướng. Khi tịnh tiến các véctơ về cùng tâm O và lấy một vòng tròn đơn vị tại tâm này, các véctơ sẽ chỉ cắt vòng tròn này tại hai điểm A và B. Độ lớn góc giữa hai véctơ sẽ là độ dài cung trên vòng tròn nối A và B chia cho đơn vị độ dài.
Dụng cụ đo góc
Thước đo góc
Người ta thường dùng thước đo góc để đo góc. Trên thước ghi các số đo từ 0 đến 180 theo 2 vòng cung ngược nhau để việc đo góc được thuận tiện.
Giác kế
Giác kế ngang
Giác kế ngang dùng để đo góc trên mặt đất. Nó gồm một đĩa tròn được đặt nằm ngang trên giá 3 chân. Mặt đĩa tròn được chia độ sẵn. Trên mặt đĩa có thanh quay xung quanh tâm đĩa; 2 đầu thanh quay có gắn 2 tấm thẳng đứng, mỗi tấm có một khe hở, 2 khe ở và tâm của đĩa luôn thẳng hàng.
Để đo một góc trên mặt đất, ta đặt giác kế sao cho mặt đĩa tròn nằm ngang và tâm của nó nằm trên đường thẳng đứng đi qua đỉnh của góc cần đo. Sau đó:
Điều chỉnh thanh quay về vị trí 0, rồi đồng thời điều chỉnh mặt đĩa và thanh quay sao cho cạnh thứ nhất của góc thẳng hàng với 2 khe hở.
Giữ cố định mặt đĩa và đưa thanh quay sao cho cạnh thứ hai của góc thẳng hàng với 2 khe hở. Số đo góc cần tìm chính là vị trí mà thanh quay chỉ vào sau bước này.
Giác kế đứng
Giác kế đứng dùng để đo góc theo phương thẳng đứng. Bộ phận chính của giác kế đứng là thước đo góc có thể quay quanh trục O cắm vuông góc với cọc PQ đặt ở vị trí thẳng đứng. Ở 2 đầu của thước ngắm có gắn 2 chiếc đinh tại A và B. Tại O có treo dây dọi OF (trong hình b, E là vạch ứng với điểm 0 trên thước đo góc. Ta có góc hợp bởi OE và OF là góc tạo bởi phương ngắm và phương nằm ngang)
Đơn vị đo lường của góc
Radian
Trong hệ đo lường quốc tế, góc được đo bằng radian.
Một góc bẹt bằng π radian.
Độ
Độ lớn của một góc cũng được đo bằng đơn vị thông dụng là độ, có ký hiệu là °.
Một góc bẹt bằng 180 độ.
Độ được chia thành các đơn vị thấp hơn là phút và giây
1 Độ = 60 phút. Kí hiệu là '
1 Phút = 60 giây. Kí hiệu là "
Vòng
Vòng là một đơn vị đo có độ lớn bằng 1 đường tròn (360 độ).
Các loại góc
Đại số tuyến tính
Trong đại số tuyến tính; góc g; nằm giữa hai véctơ, v1 và v2, được định nghĩa qua phép nhân vô hướng của hai véctơ:
Với
"." là phép nhân vô hướng hai vecto
|vi| là độ lớn của véctơ
cos(g) là hàm cos của góc g.
Khi hai véctơ trực giao, góc giữa chúng là góc vuông, thì:
v1. v2 = 0
Tia phân giác
Tia phân giác của góc là tia nằm giữa hai cạnh của góc và tạo với hai cạnh ấy hai góc bằng nhau. Nó là quỹ tích của các điểm cách đều hai cạnh của góc. Bất kỳ điểm nào nằm trên tia phân giác đều cách đều hai tia đó.
Biến thay thế góc
Giống như giá trị số, số đo góc cũng đó biến thế: α (alpha), β (beta), γ (gamma), δ (delta), ε (epsilon), ζ (zeta), η (eta), θ (theta), ι (iota), κ (kappa), Λ (lambda), μ (mu), ν (nu), ξ (xi), ο (omicron), ρ (rho), τ (tau), υ (upsilon), φ (phi), χ (chi), ψ (psi) và ω (omega).
Các tính chất của góc
Một tia cũng là một góc và có số đo là 0 độ.
Nếu tia OA nằm giữa Oz và Oy thì A nằm trong góc zOy.
Nếu tia Oa nằm giữa Ox và Oy thì: xOa + aOy = xOy.
Tia phân giác Oa của góc xOy khi:
- Oa nằm giữa Ox và Oy (xOa + aOy = xOy)
- Hai góc được chia ra bởi tia bằng nhau (xOa = aOy).
Hai góc kề nhau là hai góc có cạnh chung, hai cạnh còn lại nằm trên hai nửa mặt phẳng đối nhau.
Hai góc phụ nhau có tổng số đo bằng một góc vuông.
Hai góc bù nhau có tổng số đo bằng một góc bẹt.
Hai góc kề bù là hai góc vừa kề nhau vừa bù nhau, có số đo bằng 1 góc bẹt
Hai tia đối nhau tạo thành một góc bẹt.
- Các đường thẳng đồng quy tại 1 điểm sẽ tạo ra các cặp 2 góc đối đỉnh nhau. 2 góc đối đỉnh nhau thì có cùng số đo. |
Các ion arsenide là các nguyên tử asen với ba điện tử dư thừa và có điện tích -3.
Các hợp chất arsenide là các hợp chất với asen trong trạng thái oxy hóa -3.
Ví dụ
Natri arsenide (Na3As)
Gali(III) arsenide (GaAs)
Platin arsenide (PtAs2) là khoáng chất có tên gọi sperrylit |
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh ( – UEH), còn được gọi là Đại học UEH, là một đại học công lập đa ngành trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, nằm trong nhóm đại học trọng điểm quốc gia. Đây là đại học đầu ngành về đào tạo kinh tế, kinh doanh và quản lý ở miền Nam Việt Nam; là một trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao của Việt Nam và cũng là trung tâm nghiên cứu các chính sách kinh tế, quản lý cho chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nổi danh là nơi đào tạo ra nhiều lãnh đạo cao cấp nhất ở các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng của Việt Nam và thế giới.
Năm 1976, trường được thành lập với tên gọi là Trường Đại học Kinh tế trực thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Đến năm 1996, Trường Đại học Kinh tế (cũ) sáp nhập cùng với 2 đơn vị khác trở thành Trường Đại học Kinh tế trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi cơ cấu, tách Trường Đại học Kinh tế ra thành trường độc lập và trở thành Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đến tháng 10 năm 2021, ban lãnh đạo nhà trường quyết định tái cấu trúc, thành lập nhiều trường thành viên và phát triển theo hướng đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Kể từ tháng 10 năm 2023, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã được chính thức chuyển thành Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay trường đang hoạt động với 10 cơ sở giảng dạy chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, một phân hiệu tại Vĩnh Long, 3 ký túc xá sinh viên và một số khuôn viên trường khác. Trụ sở chính của trường hiện nay được đặt tại địa chỉ 59C đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trải qua gần một nửa thế kỷ tồn tại, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ, công viên chức phục vụ trong bộ máy nhà nước, nhiều doanh nhân thành đạt và nhiều chính trị gia, lãnh đạo chính phủ nổi tiếng, đáp ứng nguồn cung nhân lực chất lượng cao cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Trường thường được đánh giá là một trong những trường đại học chuyên ngành kinh tế - kinh doanh đứng đầu khu vực và thế giới theo nhiều tổ chức xếp hạng uy tín, chẳng hạn như QS, Eduniversal và U-Multirank. Hàng năm, nhà trường tổ chức nhiều phong trào, chiến dịch tình nguyện, các hoạt động của Đoàn Thanh niên – Hội Sinh viên và một loạt cuộc thi học thuật nổi tiếng trong cộng đồng sinh viên cả nước. CYM Group - một câu lạc bộ học thuật của sinh viên trường, là nhóm sinh viên đầu tiên của Việt Nam thiết lập Kỷ lục Thế giới Guinness vào năm 2011.
Lịch sử
Quá trình hình thành và phát triển
Phiên hiệu của trường được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trên cơ sở sáp nhập Trường Đại học Luật khoa (nay là Cơ sở A đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3 của trường) thuộc Viện Đại học Sài Gòn và các Trường Đại học Kinh tế khác của miền Nam trước 1975, trực thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngày 23 tháng 11 năm 1976, khoá học đầu tiên của trường khai giảng.
Năm 1986, Khoa Triết - Kinh tế thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh được tách thành Khoa Triết và Khoa Kinh tế. Trong đó, Khoa Kinh tế có chức năng đào tạo đại học, sau đại học và tổ chức nghiên cứu khoa học về lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh, đặc biệt ở chuyên ngành Kinh tế chính trị và Kinh tế học. Từ năm 1990, khoa đào tạo bậc cử nhân theo các chuyên ngành: Kinh tế học, Kinh tế đối ngoại và Quản trị kinh doanh; đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành Kinh tế học.
Cơ sở II của Trường Đại học Kế toán Hà Nội tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 10 năm 1988. Ngày 15 tháng 10 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 155/HĐBT công nhận chính thức việc thành lập Trường Đại học Tài chính - Kế toán Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 27 tháng 1 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 16/CP về việc thành lập Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Sau đó, ngày 9 tháng 7 năm 1996, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 2819/GD-ĐT ngày 9 tháng 7 năm 1996 thành lập Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở hợp nhất 3 đơn vị gồm Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (cũ), Trường Đại học Tài chính – Kế toán Thành phố Hồ Chí Minh và Khoa Kinh tế thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Đến ngày 10 tháng 10 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 118/2000/QĐ-TTg, thay đổi tổ chức của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tách Trường Đại học Kinh tế ra khỏi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trọng điểm quốc gia trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thực hiện mục tiêu đào tạo, nghiên cứu và tư vấn của UEH tại Đồng bằng sông Cửu Long, ngày 4 tháng 12 năm 2019, Phân hiệu Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tại tỉnh Vĩnh Long được thành lập theo Quyết định số 4650/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long. Phân hiệu đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 2020.
Nâng cấp và mở rộng trường
Tháng 10 năm 2015, UEH đã tổ chức khánh thành công trình cải tạo Cơ sở C tại số 91 Đường 3/2, Quận 10. Đây là cơ sở dành cho Trung tâm Pháp - Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, Cơ sở B1 tại 279 Nguyễn Tri Phương của trường đã được hoàn tất xây dựng, mở rộng khu giảng đường và văn phòng làm việc. Dự án là một tòa nhà hiện đại với 15 tầng nổi, 2 tầng hầm, 5 thang máy và cầu đi bộ kết nối với tòa nhà B2, xây dựng trên khu đất có diện tích là 1.015 m2. Công trình chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 2020.
Tháng 1 năm 2021, dự án Cơ sở N - đường Nguyễn Văn Linh, huyện Bình Chánh chính thức đi vào hoạt động sau hơn 2 năm thi công. Cơ sở mới có diện tích quy hoạch 11.1 ha, với tòa nhà trung tâm cao 10 tầng, khu giảng đường 5 tầng và khu vực công viên, quảng trường lớn. Trong tương lai, dự án còn được xây thêm một khu ký túc xá cho sinh viên lưu trú.
Trong năm 2021 và 2022, Nhà trường cũng đã mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất tại Cơ sở A 59C Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3; Cơ sở H 1A Hoàng Diệu, Quận Phú Nhuận; và khánh thành Cơ sở D của Viện ISB tại 196 Trần Quang Khải, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Những cải tiến này là một phần của quá trình tái cơ cấu và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, nghiên cứu, cải tiến cơ sở vật chất của Nhà trường.
Tái cấu trúc
Ngày 27 tháng 10 năm 2021, như một phần của lộ trình tái cấu trúc của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhà trường đã công bố đổi tên trường thành Đại học UEH - Đa ngành và Bền vững với 3 trường thành viên là Trường Kinh doanh UEH; Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước UEH; và Trường Công nghệ và thiết kế UEH. Các trường thành viên được thành lập trên cơ sở hợp nhất các khoa cùng lĩnh vực. Trường Kinh doanh UEH được thành lập từ các khoa: Kinh doanh, Marketing, Quản trị chuỗi cung ứng, Tài chính - Ngân hàng - Bảo hiểm, Kế toán - Kiểm toán và Du lịch - Khách sạn. Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước UEH được tạo nên từ các khoa: Kinh tế và hành vi, Tài chính công, Quản lý nhà nước, Pháp luật, Môi trường, Chính sách nông nghiệp và Sức khoẻ. Trường Công nghệ và thiết kế UEH hình thành từ các lĩnh vực gồm: Toán - Thống kê, Hệ thống thông tin kinh tế, Công nghệ - Máy tính, Đổi mới sáng tạo, Kiến trúc - Quy hoạch thông minh, Thiết kế đa phương tiện.
Ngày 4 tháng 10 năm 2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký Quyết định 1146/QĐ-TTg về việc chuyển đổi Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thành Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, chính thức đưa trường trở thành cơ sở giáo dục đại học thứ 7 tại Việt Nam hoạt động theo mô hình "đại học đa ngành, đa lĩnh vực", đồng nhất và hội nhập với hệ thống các đại học tiên tiến trên thế giới.
Các đời hiệu trưởng
PGS.TS Đào Công Tiến (1990 - 1995)
NGND - GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền (1995 - 2001)
PGS.TS. Phạm Văn Năng (2001 - tháng 6 năm 2011)
GS.TS. Nguyễn Đông Phong (tháng 6 năm 2011 - tháng 9 năm 2020)
GS.TS. Sử Đình Thành (tháng 9 năm 2020 - nay)
Khuôn viên trường và phân hiệu trực thuộc
Các cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Kinh tế đang hoạt động với 10 cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Cơ sở A (trụ sở chính): 59C Nguyễn Đình Chiểu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3
Cơ sở B, gồm tòa nhà B1 và B2: 279 Nguyễn Tri Phương, Phường 5, Quận 10
Cơ sở C: Trụ sở của Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG), 91 Ba Tháng Hai, Phường 11, Quận 10
Cơ sở D: 196 Trần Quang Khải, Phường Tân Định, Quận 1
Cơ sở E: 54 Nguyễn Văn Thủ, Phường Đa Kao, Quận 1
Cơ sở H: 1A Hoàng Diệu, Phường 10, quận Phú Nhuận
Cơ sở I: 17 Phạm Ngọc Thạch, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3
Cơ sở N: Đường Nguyễn Văn Linh, Khu chức năng số 15, Khu đô thị mới Nam thành phố, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh
Cơ sở V: Viện Đổi mới sáng tạo (UII - UEH Institute of Innovation), Viện Đô thị thông minh và Quản lý (ISCM) và Khách sạn UEH (UEH Boutique Hotel): 232/6 Võ Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3
Trung tâm thể dục thể thao UEH: 144 Phạm Đức Sơn, Phường 16, Quận 8
Khách sạn UEH tại Cơ sơ V được thành lập năm 2020 trên cơ sở chuyển đổi từ Nhà khách UEH của trường, đạt tiêu chuẩn tương đương 3 sao, với mục đích học thuật là giúp sinh viên các ngành du lịch, khách sạn thực hành kiến thức nghề nghiệp. Khách sạn có 35 phòng ngủ, được xây dựng trên diện tích 500 m2, với 1 tầng trệt và 3 lầu. Khách sạn đủ điều kiện và tiêu chuẩn để thực hiện các hoạt động lễ tân, đón tiếp, phục vụ lưu trú cho các chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đến thăm, làm việc, nghiên cứu tại trường.
Để thuận tiện cho việc di chuyển của người học giữa các cơ sở, từ tháng 2 năm 2022, trường chính thức triển khai dịch vụ xe buýt nhanh mang tên UEH Shuttle Bus, chuyên phục vụ cho cả cán bộ, giảng viên và sinh viên của trường. Dịch vụ hỗ trợ việc di chuyển giữa các cơ sở A, B, N và các ký túc xá, mỗi ngày 10 chuyến, vé xe được đặt trước thông qua ứng dụng trên thiết bị di động. Đây là trường đại học đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh mở dịch vụ này.
Phân hiệu trực thuộc
Từ cuối năm 2019, UEH sáp nhập và quản lý Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long, tại địa chỉ 1B Nguyễn Trung Trực, Phường 8, TP Vĩnh Long, Vĩnh Long.
Nhà trường cũng đang chuẩn bị khởi động dự án Phân hiệu UEH tại Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Thư viện
Trường hiện đang có 2 thư viện, được đặt tại các Cơ sở B và N, với tổng sức chứa của phòng đọc là hơn 1000 chỗ ngồi. Thư viện thông minh UEH tại Cơ sở B gồm 15 phòng đọc với tổng diện tích là 1.315 m². Hiện nay, tổng số sách được lưu trữ tại Thư viện là 398.000 đầu sách thuộc các lĩnh vực kinh tế, trong đó có 600 đầu sách đến từ Harvard. Đồng thời thư viện kết nối cơ sở dữ liệu với hơn 90 nhà xuất bản các trường đại học như: Đại học Oxford, Đại học Cambridge, Đại học Harvard, v.v. Đây là một thư viện chuyển đổi số, được đầu tư hạ tầng hiện đại và tự động hóa trong tất cả các khâu. Người dùng có thể tìm sách, mượn sách đặt phòng với 1 chiếc điện thoại thông minh kết nối internet.
Không gian bên trong thư viện được thiết kế theo phong cách hiện đại, trang bị nhiều camera, cảm biến điện tử và thiết bị thu thập thông tin khác như bụi mịn, nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn và cường độ ánh sáng. Nhờ ứng dụng công nghệ IoT, các thông số như số lượng người đang tập trung ở trong thư viện, chất lượng không khí được hệ thống thu thập để đưa ra những điều chỉnh phù hợp.
Trường còn tòa 1 thư viện riêng đặt tại khuôn viên Cơ sở N đang trong quá trình chuẩn bị xây dựng.
Ký túc xá
Trường có 2 ký túc xá tại khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện tích là 6.376 m², gồm 227 phòng, sức chứa xấp xỉ 1.600 sinh viên (3,8 m²/sinh viên):
Ký túc xá 135 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng sức chứa là 765 sinh viên, diện tích mỗi phòng khoảng 25–30 m².
Ký túc xá 43-45 Nguyễn Chí Thanh, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng sức chứa là 804 sinh viên, diện tích mỗi phòng 30 m².
Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long quản lý 1 ký túc xá tại địa chỉ 1B Nguyễn Trung Trực, Phường 8, Thành phố Vĩnh Long, với tổng sức chứa 414 sinh viên.
Hệ thống quản lý và đào tạo
Hội đồng trường, Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng
Chủ tịch Hội đồng Trường UEH: GS.TS.NGƯT. Nguyễn Đông Phong
Hiệu trưởng UEH: GS.TS. Sử Đình Thành
Phó Hiệu trưởng UEH: TS. Bùi Quang Hùng, PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, TS. Đinh Công Khải
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn chiến lược và chính sách: PGS.TS. Phan Thị Bích Nguyệt
Tổng biên tập Tạp chí JABES: GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài
Đội ngũ giảng viên
Năm 2022, UEH có gần 800 giảng viên. Trong đó, có 25 giáo sư, 53 phó giáo sư, 175 tiến sĩ, 335 thạc sĩ, 126 giảng viên cao cấp và 150 chuyên gia người nước ngoài. Trường có 7 cá nhân là nhà giáo nhân dân và 35 nhà giáo ưu tú.
Các đơn vị thành viên
Hiện nay, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức thành các trường thành viên, phân viện và phân hiệu sau:
Trường Kinh doanh
Ban Giám hiệu: Quyền Hiệu trưởng là GS.TS. Sử Đình Thành và Phó Hiệu trưởng là PGS.TS. Bùi Thanh Tráng.
Khoa Quản trị
Khoa Kinh doanh quốc tế - Marketing
Khoa Tài chính
Khoa Ngân hàng
Khoa Kế toán
Khoa Du lịch
Trung tâm Đào tạo ngắn hạn (phát triển từ Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực)
Phòng tổng hợp
Trường hiện đào tạo 13 ngành bậc Cử nhân: Quản trị kinh doanh, Kinh doanh quốc tế, Marketing, Kinh doanh thương mại, Tài chính - Ngân hàng, Tài chính quốc tế, Bảo hiểm, Kế toán, Kiểm toán, Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành, Quản trị khách sạn, Logistics & Quản lý chuỗi cung ứng, Quản lý bệnh viện và 04 ngành bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ: Quản trị kinh doanh, Kinh doanh thương mại, Tài chính - Ngân hàng, Kế toán.
Trường Kinh tế - Luật - Quản lý nhà nước
Tổ chức: Quyền Hiệu trưởng là GS.TS. Sử Đình Thành, Phó Hiệu trưởng là TS. Đinh Công Khải và Phó Hiệu trưởng là TS. Phạm Khánh Nam.
Khoa Kinh tế
Khoa Tài chính công
Khoa Luật
Khoa Quản lý nhà nước
Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển
Viện Chính sách công
Viện Kinh tế môi trường Đông Nam Á
Viện Nghiên cứu chính sách nông nghiệp và sức khỏe
Viện Tài chính bền vững
Trung tâm Đào tạo ngắn hạn
Phòng tổng hợp
Trường đào tạo 12 ngành bậc Cử nhân: Kinh tế, Kinh tế đầu tư, Kinh tế Chính trị, Bất động sản, Tài chính công, Quản lý Thuế, Quản trị Hải quan & Ngoại thương, Quản trị nhân lực, Quản lý công, Kinh doanh nông nghiệp, Luật, Luật Kinh tế; 08 ngành bậc Thạc sĩ: Quản trị nhân lực, Quản lý kinh tế, Kinh tế Chính trị, Tài chính công, Quản lý công, Chính sách công, Luật Hiến pháp & Luật Hành chính, Luật Kinh tế; và 04 ngành bậc Tiến sĩ: Kinh tế phát triển, Kinh tế Chính trị, Tài chính công, Luật Kinh tế.
Trường Công nghệ và Thiết kế
Tổ chức: Quyền Hiệu trưởng là TS. Bùi Quang Hùng và Phó Hiệu trưởng là PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo.
Khoa Toán - Thống kê
Khoa Công nghệ thông tin kinh doanh
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
Viện Đổi mới sáng tạo
Viện Toán ứng dụng
Viện Công nghệ thông minh và tương tác
Phòng tổng hợp
Trường đào tạo 08 ngành bậc Cử nhân: Toán Kinh tế, Thống kê Kinh tế, Hệ thống thông tin quản lý, Thương mại điện tử, Kỹ thuật phần mềm, Khoa học dữ liệu, Kiến trúc và thiết kế Đô thị thông minh, Công nghệ & Đổi mới sáng tạo; 05 ngành bậc Thạc sĩ: Toán Kinh tế, Thống kê Kinh tế, Hệ thống thông tin quản lý, Toán ứng dụng, Quản lý đô thị thông minh & sáng tạo; và 01 ngành bậc Tiến sĩ: Thống kê.
Các đơn vị đào tạo khác
Viện Đào tạo quốc tế (ISB): Đào tạo Chương trình Cử nhân tài năng – ISB BBUS (hoàn toàn bằng tiếng Anh) và các chương trình Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ liên kết với các đối tác nước ngoài với tên gọi là Global Pathways.
Viện Đào tạo Sau đại học
Khoa Lý luận chính trị
Khoa Ngoại ngữ
Ban Giáo dục thể chất
Đơn vị tham gia quản lý và phục vụ đào tạo
Thư viện thông minh (Smart Library)
Phòng Chăm sóc và Hỗ trợ người học (DSA)
Trung tâm Phát triển khởi nghiệp
Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Trạm Y tế
Đơn vị Khoa học công nghệ – Thông tin kinh tế
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Viện Ngôn ngữ – Quốc tế học (ILACS)
Viện Nghiên cứu kinh doanh
Trung tâm Dữ liệu – Phân tích kinh tế
Trung tâm Nghiên cứu và phát triển quản trị (CEMD)
Hội đồng tư vấn
Hội đồng Khoa học và đào tạo
Hội đồng Tư vấn chiến lược và chính sách
Hội đồng Đảm bảo chất lượng
Các Hội đồng tư vấn khác
Phân hiệu UEH tại Vĩnh Long
Tổ chức: Giám đốc là TS. Bùi Quang Hùng và Phó Giám đốc thường trực là ThS. Nguyễn Thị Thúy Liễu.
Khoa Kế toán
Khoa Tài chính - Ngân hàng
Khoa Quản trị
Khoa Công nghệ thông tin
Khoa Cơ bản
Trung tâm Đào tạo quốc tế Mekong
Hoạt động
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến không chỉ là nơi đào tạo các doanh nhân thành đạt, mà còn là môi trường mang lại cho sinh viên những kỹ năng sống, những hoạt động thiết thực, khẳng định bản thân và phát triển tài năng. UEH nổi tiếng là một trong những trường đại học có những phong trào hoạt động Đoàn – Hội mạnh nhất trong cả nước. Các hoạt động thường niên như Hội thao cấp trường, cấp ký túc xá, khoa, viện, Hội diễn văn nghệ, Hoạt động Nối vòng tay lớn, Sức trẻ Kinh tế, Phong trào Mùa hè xanh, và nhiều cuộc thi học thuật nổi tiếng trong cộng đồng sinh viên cả nước.
Hoạt động văn hóa
Hằng năm, nhà trường tổ chức chương trình Nối vòng tay lớn để chào đón các tân sinh viên. Chương trình được chia hai phần Ngày hội và Đêm hội với các gian hàng các khoa, ký túc xá; Câu lạc bộ/Đội/Nhóm sinh viên trực thuộc tổ chức hoạt động giới thiệu truyền thống, lịch sử hoạt động của mình đến tân sinh viên thông qua các trò chơi và các tiết mục văn nghệ.
Một sự kiện truyền thống thường niên khác nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là Sức trẻ kinh tế. Đây là sự kiện văn hóa nổi bật của Trường, cung cấp môi trường học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các sinh viên. Các hoạt động bao gồm ngày hội và đêm hội với các trò chơi vận động, trò chơi dân gian và gian hàng ẩm thực.
Ngày 24 và 25 tháng 2 năm 2022, Hội Sinh viên UEH đã tổ chức Ngày hội Sinh viên 5 tốt với mục đích tạo cơ hội cho sinh viên tìm hiểu và khám phá về danh hiệu "Sinh viên 5 tốt", góp phần thúc đẩy phong trào Sinh viên 5 tốt của Hội Sinh viên Việt Nam.
Hoạt động học thuật
UEH tổ chức một số cuộc thi học thuật cho sinh viên trong và ngoài trường. Bên cạnh những cuộc thi thường niên, trường cũng thường xuyên tổ chức cuộc thi mới để đáp ứng nhu cầu hội nhập và sự biến động của nền kinh tế. Nhà trường đã được đánh giá rất cao cho những nỗ lực đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và tiên phong trong hội nhập.
Các cuộc thi nổi bật bao gồm Cuộc thi Olympic các môn khoa học Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cuộc thi CPA tiềm năng, Tìm kiếm CEO tương lai, Kiến thức thuế – Vận dụng trong kinh doanh, Bản lĩnh Giám đốc tài chính CFO, ... đã và đang thu hút rất nhiều thí sinh tham dự.
Hoạt động tình nguyện
Hằng năm, UEH triển khai các chương trình tình nguyện và công tác xã hội dưới sự chỉ đạo của Đoàn Thanh niên và Khoa, Viện. Chiến dịch Hiến máu tình nguyện được biết đến như là hoạt động thiện nguyện nổi bật nhất của trường. Hàng năm, Hội Sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đều tổ chức Tuần lễ hiến máu tình nguyện thu hút được nhiều sinh viên tham gia, đồng thời gây quỹ học bổng Điểm sáng Tương lai của Hội Sinh viên trường dành cho các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.
Hằng năm, Đoàn - Hội các Khoa thường tổ chức các chiến dịch tình nguyện như Vui hội trăng rằm, nằm trong chuỗi hoạt động Chiến dịch Tình nguyện Sinh viên Kinh tế diễn ra vào mùa hè, với mục tiêu mang đến cho trẻ em nhỏ tại các khu vực vùng sâu, vùng xa một mùa Tết Trung Thu trọn vẹn.
Các hoạt động khác
Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm với những vị khách mời chuyên môn cao cho sinh viên tiếp cận kiến thức, kinh nghiệm thực tế từ những doanh nhân, nhà đầu tư thành công. Bên cạnh đó, các cuộc thi tài năng như Hoa khôi UEH, Miss and Mr UEH thu hút rất nhiều sinh viên tham dự.
Một chương trình được thành lập năm 2016, bởi những cựu sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, mang tên UEH Mentoring, với mục đích giúp đỡ cho hàng nghìn sinh viên trên khắp Việt Nam. UEH Mentoring thực hiện nhiệm vụ là tư vấn và hỗ trợ cho sinh viên các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp, cung cấp kinh nghiệm cần thiết để phát triển bản thân. Chương trình tạo ra một môi trường tích cực gồm các nhà cố vấn và người được cố vấn, với các hoạt động giúp cung cấp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần có đến các sinh viên. Đồng thời, các cựu sinh viên cũng có thể kết nối, giúp đỡ những người đang đi học hoặc mới ra trường. Từ năm 2022, Chương trình Vietnam Alumni Mentoring (VAM) hoạt động dưới sự bảo trợ của Cộng đồng Cựu sinh viên Kinh tế (UEH Alumni) và sự hỗ trợ của Your Study Support.
Ngày 17 tháng 11 năm 2022, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã ký kết hợp tác với Sân khấu Kịch Hồng Vân, dưới sự dẫn dắt của NSND Hồng Vân ra mắt sân khấu kịch học đường UEH Theatre, với hoạt động đầu tiên là vở kịch "Quyền lực và tình yêu", đã diễn ra vào tối 20 tháng 11. Với mục tiêu thúc đẩy hoạt động lan tỏa và truyền cảm hứng nghệ thuật trên cơ sở phát huy thế mạnh của hai bên. Dự án được NSND Hồng Vân ấp ủ với mong muốn học sinh, sinh viên có một mô hình sân khấu kịch học đường, nhằm tạo nên một thế hệ người trẻ văn minh, tri thức, biết thưởng thức và trân trọng các giá trị nghệ thuật. Theo Nghệ sĩ Hồng Vân, UEH Theatre ngoài trình việc diễn các vở diễn còn triển khai các khóa đào tạo nghệ thuật ngắn hạn. Đồng hành cùng trong dự án còn có Nghệ sĩ Hoàng Sơn, Ốc Thanh Vân, Ngọc Tưởng, Kim Huyền, Quốc Thuận, đạo diễn Thanh Hiệp,... Không chỉ tham gia diễn, họ còn hỗ trợ dìu dắt học trò trong các khóa dạy đài từ, hóa trang.
Nghiên cứu khoa học
Đóng góp khoa học
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là đại học đầu ngành về khối kinh tế, kinh doanh và quản lý của Việt Nam nói chung và khu vực phía Nam nói riêng. Đây là một trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao và là trung tâm nghiên cứu các chính sách kinh tế, quản lý, đầu tư phát triển cho chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Nhóm các nhà nghiên cứu của trường đã và đang nghiên cứu và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm triển khai hiệu quả ứng dụng công nghệ cao vào phát triển kinh tế – xã hội ở các tỉnh thành phía Nam và đã đạt được những thành tựu nhất định.
Năm 2022, Tổ chức xếp hạng U-Multirank công bố kết quả đánh giá bao gồm tỉ lệ trích dẫn, số lượng công bố quốc tế cùng với đồng tác giả quốc tế của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đạt điểm A và trường được đánh giá là "Đại học Tốt nhất Việt Nam" và nằm trong top 66 đại học hàng đầu châu Á, trong số 467 trường được xếp hạng.
Tạp chí JABES
Tạp chí JABES, trước đây là tạp chí Phát triển Kinh tế với ấn phẩm tiếng Việt đầu tiên xuất bản năm 1990. Ấn phẩm tiếng Anh đầu tiên xuất bản năm 1994 với tên gọi Economic Development Review, sau đó đổi thành Journal of Economic Development từ năm 2012. Kể từ tháng 1 năm 2018, tạp chí chính thức đổi tên thành Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á (Journal of Asian Business and Economic Studies - JABES), bao gồm hai phiên bản: tiếng Việt (JABES-V) và tiếng Anh (JABES-E). JABES-V xuất bản 12 số mỗi năm, được Hội đồng Giáo sư Nhà nước tính điểm cao nhất trong các tạp chí xuất bản tại Việt Nam. JABES-E xuất bản 4 số mỗi năm trên hệ thống Nhà xuất bản Emerald từ tháng 5 năm 2018. Đây cũng là tạp chí khối kinh tế và khoa học xã hội - nhân văn đầu tiên của Việt Nam được liệt kê vào danh mục trích dẫn ESCI và Scopus.
Câu lạc bộ, đội, nhóm sinh viên
UEH được biết đến là một trường đại học có nhiều câu lạc bộ, đội, nhóm sinh viên và hoạt động tích cực trong thành phố. Hiện nay, UEH có khoảng 30 câu lạc bộ, đội, nhóm, từ các lĩnh vực chuyên ngành đào tạo, sở thích/năng khiếu, đến các câu lạc bộ học tập, nghiên cứu khoa học và hỗ trợ sinh viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2011, Câu lạc bộ Kỹ năng Tư duy (CYM Group) của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đầu bởi Tiến sĩ Đỗ Kiên Trung, đã xác lập Kỷ lục Thế giới Guinness về "bức tranh ghép hình nhiều mảnh nhất thế giới". Bức tranh ghép mô tả một bông hoa sen với sáu cánh đại diện cho sáu lĩnh vực kiến thức, được thể hiện bằng phương pháp sơ đồ tư duy. Kích thước bức tranh là 14.85 x 23.20 m, diện tích phần ghép bằng tay là 345 m2, bao gồm 551.232 mảnh ghép, kích thước mỗi mảnh là 2,5x2,5 cm. Công trình được thực hiện bởi hơn 1.600 sinh viên trong 17 giờ và đã phá Kỷ lục Guinness trước đó là 212.323 mảnh, được lập bởi Singapore vào năm 2002. Đồng thời, bức tranh cũng phá kỷ lục về tổng diện tích của bức tranh bản đồ tư duy lớn nhất thế giới, với tổng diện tích là 660 m2, vượt qua kỷ lục của Trung Quốc thiết lập vào năm 2010 là 600 m2.
Các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế
Các chương trình liên kết quốc tế, học tập tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, cấp bằng của trường đại học nước ngoài.
Chương trình Victoria Wellington (New Zealand):
Bậc đào tạo: Đại học. Bằng cấp: Cử nhân Thương mại và Quản trị
Chương trình Fulbright (Mỹ):
Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Chính sách công
Chương trình Cao học Hà Lan:
Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Kinh tế Phát triển
Chương trình CFVG (Pháp):
Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: MBA, Thạc sĩ Kinh tế, Thạc sĩ Ngân hàng và Tài chính, Thạc sĩ Marketing
Chương trình Western Sydney (Úc):
Bậc đào tạo: Thạc sĩ. Bằng cấp: Thạc sĩ Quản trị kinh doanh và Thương mại
Bậc đào tạo: Nghiên cứu sinh. Bằng cấp: Tiến sĩ Kinh tế (Nghiên cứu sinh học giai đoạn 1 tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2 tại Đại học Western Sydney)
Thành tích và xếp hạng
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng nhà trường:
Danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 2006;
Huân chương Độc lập hạng Nhì cho nhà trường vào năm 2010;
6 Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba cho nhà trường vào các năm 1986, 1991 và 1996;
3 Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba cho Công đoàn trường vào các năm 1996, 2001 và 2006;
2 Huân chương Lao động hạng Nhì và Ba cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của nhà trường vào các năm 1997 và 2002;
Huân chương Lao động hạng Ba cho Hội Sinh viên Việt Nam của nhà trường vào năm 2006;
Huân chương Lao động hạng Ba cho nhà trường về thành tích đền ơn đáp nghĩa và công tác xã hội từ thiện vào năm 2000.
Huân chương Độc lập hạng nhất năm 2021
Vị trí trên các bảng xếp hạng quốc tế:
Top 49 trong BXH của SCImagoir về các cơ sở nghiên cứu về Kinh tế - Tài chính Khu vực châu Á;
Top 1000 Trường đào tạo kinh doanh tốt nhất thế giới (Theo BXH Eduniversal) từ năm 2014;
Top 551+ trong BXH các Trường Đại học tốt nhất Châu Á (Theo BXH QS châu Á) (2022);
Top 25 đại học tốt nhất thế giới đóng góp cho sự phát triển nghề nghiệp suốt đời (Theo BXH U-Multirank) (2016, 2017, 2018 2020);
Top 100 Trường đào tạo Thạc sĩ tốt nhất thế giới (Theo BXH Eduniversal) (2018);
Top 01 trong các trường kinh tế, kinh doanh và Top 10 trường đại học tốt nhất Việt Nam (Theo BXH Webometrics) (07/2021);
Top 10 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam (2019);
Top 05 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam (2020);
Top 01 trường đại học công bố quốc tế uy tín nhiều nhất Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh (2020);
Top 01 các trường đại học tốt nhất Việt Nam theo Bảng xếp hạng U-Multirank (2022).
Sự cố
Từ ngày 10 đến 25 tháng 6 năm 1989 xảy ra sự cố xô xát giữa tự vệ phường Nguyễn Cư Trinh với sinh viên ở Ký túc xá 135 Trần Hưng Đạo tại Quận 1, xuất phát từ một vụ va quẹt xe. Khi hay tin sinh viên cùng trường là người va quẹt xe bị tự vệ của phường đánh, 200 sinh viên trường đã kéo đến trụ sở phường, sau đó hai bên xảy ra xô xát. Vào ngày hôm sau 11 tháng 6, sinh viên viết văn bản kiến nghị chính quyền giải quyết vụ đánh sinh viên.
Năm 2017, một giảng viên của trường đã đăng tải trên Facebook cá nhân và group Tư vấn tuyển sinh UEH-K43 những bài viết mang tính chất chê bai, hạ nhục các trường Đại học đào tạo về lĩnh vực Kinh tế lân cận (cụ thể là trường Đại học Ngoại thương và Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM cùng 1 số trường Đại học tư thục khác). Chuỗi bài viết và bình luận của giảng viên này đã gây ra sự phẫn nộ và kích động cho hàng ngàn sinh viên ở các trường Đại học được nhắc tên. Sau khi tiến hành điều tra, nhà trường xác nhận Facebook đăng tải các bài viết đúng là của giảng viên UEH và đăng tải thông cáo báo chí, yêu cầu giảng viên trực tiếp xin lỗi các đối tượng liên quan, đồng thời cho biết sẽ có các phương án kỷ luật nội bộ đối với giảng viên này về việc đăng tải các thông tin chưa được kiểm chứng với lời lẽ kích động, gây tranh cãi
Năm 2018, một giảng viên trẻ của nhà trường đã bị tố cáo có những hành vi không đứng đắn với sinh viên và bị nghi ngờ sửa điểm nhiều bài thi. Tuy nhiên, các điều tra sau đó chứng minh rằng giảng viên trên chấm sai cơ cấu điểm của bài thi. Nhà trường đã ra quyết định kỷ luật giảng viên này với hình thức kỷ luật là cảnh cáo 12 tháng vì vi phạm về tác phong, lời nói, hành động không phù hợp với môi trường giáo dục.
Ngày 10 tháng 10 năm 2021, Ký túc xá 43-45 Nguyễn Chí Thanh, Quận 5 đã xảy ra vụ cháy tại một phòng ở tầng 4. Vào thời điểm cháy, chỉ có 60 sinh viên ở tại đây, do trong thời gian giãn cách xã hội của Đại dịch COVID-19. Đám cháy không gây thiệt hại về người nhưng có thiệt hại về một số tài sản trong phòng.
Cựu sinh viên nổi bật
Những nhân vật nổi bật từng học tập tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh:
Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyên Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, XIV nhiệm kỳ 2016-2021.
Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
Nguyễn Phú Cường, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội.
Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Chính phủ.
Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nguyễn Phước Thanh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nguyễn Hồng Hà, Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước.
Nguyễn Hữu Chí, Thứ trưởng Bộ Tài chính.
Nguyễn Nam Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương.
Nguyễn Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Huỳnh Thị Nhân, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Đặng Công Huẩn, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ.
Phan Văn Mãi, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thành Phong, Nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XIII, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương.
Cao Thị Ngọc Dung, Chủ tịch Công ty cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (HoSE: PNJ).
Phạm Hồng Hải, Tổng Giám đốc Ngân hàng HSBC (Việt Nam).
Nguyễn Văn Lê, Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (HoSE: SHB).
Võ Minh Tuấn, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.
Nguyễn Hữu Đặng, Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE: HDB).
Nguyễn Đức Tài, sáng lập và Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc tại Tập đoàn Thegioididong.com (HoSE: MWG).
Trần Mộng Hùng, sáng lập và hiện đang làm thành viên Hội đồng quản trị tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Á Châu (HoSE: ACB).
Đặng Thị Hoàng Yến, sáng lập Tập đoàn Công nghiệp Tân Tạo (HoSE: ITA).
Nguyễn Văn Huynh, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị LienVietPostBank (HoSE: LPB), Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thẩm định giá và dịch vụ Tài chính Sài Gòn.
Phạm Thị Kim Dung, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quảng cáo Thương mại Sen Vàng
Lê Thy Ngọc (MisThy), nữ streamer, YouTuber và diễn viên người Việt Nam.
Trần Minh Hiếu (HIEUTHUHAI), nam rapper, nhạc sĩ và diễn viên người Việt Nam. |
Sperrylit là một khoáng chất platin asenua. Về mặt hóa học, nó được gọi là platin điasenua, công thức của nó là PtAs2. Nó là khoáng chất có màu trắng đục giống thiếc kim loại, nó kết tinh trong hệ tinh thể cùng kích thước, cấu trúc như nhóm pyrit. Nó tạo thành các tinh thể lập phương, bát giác hay tương tự như pyrit. Nó có độ cứng Mohs khoảng 6–7 và có tỷ trọng riêng rất cao, khoảng 10,6.
Khoáng chất này đã được Francis Louis Sperry, một nhà hóa học người Mỹ phát hiện năm 1889 ở Sudbury.
Nguồn phổ biến nhất của sperrylit là trong các quặng niken ở thung lũng Sudbury ở Ontario, Canada. Nó cũng xuất hiện trong các lớp đá mácma ở khu vực Bushveld thuộc Nam Phi và mỏ đồng-niken Oktyabrskoye ở khu vực miền đông Siberi, Liên bang Nga. |
Abraham Lincoln (; 12 tháng 2 năm 1809 – 15 tháng 4 năm 1865) là một chính khách và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861 cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1865. Lincoln đã lãnh đạo đất nước vượt qua Nội chiến Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng đạo đức, văn hóa, hiến pháp và chính trị lớn nhất của quốc gia này. Ông đã thành công trong việc bảo vệ Liên bang, xóa bỏ chế độ nô lệ, củng cố chính phủ liên bang và hiện đại hóa nền kinh tế Hoa Kỳ.
Lincoln sinh ra trong một gia đình làm nghề khai hoang nghèo khó và chủ yếu lớn lên ở vùng biên giới Indiana. Ông đã tự học và trở thành một luật sư, lãnh đạo Đảng Whig, nhà lập pháp bang Illinois, và Nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Illinois. Năm 1849, ông trở lại hành nghề luật sư nhưng đã trở nên phẫn nộ với việc mở thêm các vùng đất khác cho chế độ nô lệ do Đạo luật Kansas–Nebraska. Ông trở lại chính trường vào năm 1854 và trở thành một nhà lãnh đạo của Đảng Cộng hòa, ông tham gia vào một cuộc tranh luận năm 1858 với Stephen Douglas. Lincoln tranh cử Tổng thống năm 1860, giành chiến thắng toàn diện tại miền Bắc. Các phần tử ủng hộ chế độ nô lệ ở miền Nam đã đánh đồng chiến thắng của ông với việc miền Bắc từ chối quyền thực thi chế độ nô lệ, và các bang miền Nam bắt đầu ly khai khỏi liên bang. Nhằm đảm bảo nền độc lập, Liên minh miền Nam đã tấn công Pháo đài Sumter, một pháo đài của Hoa Kỳ ở miền Nam, Lincoln đã kêu gọi các lực lượng để trấn áp cuộc nổi dậy và thiết lập lại Liên bang.
Là nhà lãnh đạo ôn hòa thuộc Đảng Cộng hòa, Lincoln điều hướng một loạt các phe phái gây chia rẽ với đồng minh và đối thủ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Đảng Dân chủ Chiến tranh đã tập hợp một nhóm lớn những người từng là đối thủ vào phe ôn hòa của ông, nhưng những người Cộng hòa Cấp tiến đã phản đối họ và yêu cầu đối xử hà khắc hơn với Liên minh miền Nam. Những người theo Đảng Dân chủ chống chiến tranh (được gọi là "Copperheads") căm ghét ông, và các phần tử ủng hộ Liên bang không thể hòa giải đã âm mưu ám sát ông. Lincoln quản lý các phe phái bằng việc lợi dụng sự thù địch lẫn nhau của họ, phân công các chức vụ chính trị, kêu gọi sự ủng hộ của người dân Hoa Kỳ. Bài diễn văn Gettysburg của ông trở thành một lời kêu gọi lịch sử cho chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng hòa, quyền bình đẳng, tự do và dân chủ. Lincoln đã xem xét kỹ lưỡng các chiến lược và chiến thuật trong cuộc chiến, bao gồm cả việc lựa chọn các tướng lĩnh và dùng hải quân phong tỏa thương mại ở miền Nam. Ông đình chỉ habeas corpus và ngăn cản sự can thiệp của người Anh. Ông chính thức chấm dứt chế độ nô lệ bằng Tuyên ngôn giải phóng nô lệ. Ông cũng khuyến khích các tiểu bang biên giới cấm chế độ nô lệ và thúc đẩy Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ, cấm chế độ nô lệ trên toàn quốc.
Lincoln đã giám sát chiến dịch tái tranh cử thành công của mình. Ông tìm cách hàn gắn quốc gia bị chiến tranh tàn phá thông qua hòa giải. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1865, chỉ vài ngày sau khi chiến tranh kết thúc tại Appomattox, Lincoln đang xem một vở kịch tại Nhà hát Ford cùng với người vợ Mary thì ông bị ám sát bởi John Wilkes Booth. Lincoln được nhớ đến như là một vị anh hùng dân tộc của Hoa Kỳ và luôn được xếp hạng là một trong những tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Gia cảnh và tuổi thơ
Thiếu thời
Abraham Lincoln sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809, là con thứ hai của Thomas Lincoln và Nancy Lincoln (nhũ danh Hanks), trong một căn nhà gỗ một phòng ở Nông trại Sinking Spring rộng 348 acre (1.4 km²) ở phía đông nam Quận Hardin, Kentucky, khi ấy còn bị coi là biên giới (nay là một phần của Quận LaRue, ở Nolin Creek, cách Hodgenville 3 dặm (5 km). Cậu được đặt theo tên của ông nội, người đã dời gia đình từ Virginia đến Quận Jefferson, Kentucky, tại đó ông bị thiệt mạng trong một trận phục kích của người da đỏ năm 1786 trước sự chứng kiến của các con, trong đó có cha của Lincoln, Thomas. Sau đó, Thomas một mình tìm đường đến khu biên thùy. Mẹ của Lincoln, Nancy, là con gái của Lucy Hanks, sinh tại một địa điểm nay là Quận Mineral, West Virginia, khi ấy thuộc bang Virginia. Lucy đem Nancy đến Kentucky. Nancy Hanks kết hôn với Thomas, lúc ấy Thomas đã là một công dân khả kính trong cộng đồng. Gia đình gia nhập một nhà thờ Baptist chủ trương tuân thủ nghiêm nhặt các chuẩn mực đạo đức, chống đối việc uống rượu, khiêu vũ, và chế độ nô lệ.
Cha mẹ Lincoln là những nông dân thất học và mù chữ. Khi Lincoln đã trở nên nổi tiếng, những nhà báo và những người viết truyện đã thổi phồng sự nghèo khổ và tối tăm của ông khi ra đời. Tuy nhiên, Thomas Lincoln là một công dân khá có ảnh hưởng ở vùng nông thôn Kentucky. Ông đã mua lại Trang trại Sinking Spring vào tháng 12 năm 1808 với giá $200 tiền mặt và một khoản nợ. Trang trại này hiện được bảo tồn như một phần của Địa điểm di tích lịch sử quốc gia nơi sinh Abraham Lincoln. Thomas được chọn vào bồi thẩm đoàn, và được mời thẩm định giá trị các điền trang. Vào thời điểm con trai của ông Abraham sinh, Thomas sở hữu hai nông trang rộng , vài khu đất trong thị trấn, bầy gia súc và ngựa. Ông ở trong số những người giàu có nhất trong hạt. Tuy nhiên, đến năm Thomas bị mất hết đất đai trong một vụ án vì sai sót trong việc thiết lập chủ quyền điền thổ.
Ba năm sau khi mua trang trại, một người chủ đất trước đó đưa hồ sơ ra trước Toà án Hardin Circuit buộc gia đình Lincoln phải chuyển đi. Thomas theo đuổi vụ kiện cho tới khi ông bị xử thua năm 1815. Những chi phí kiện tụng khiến gia cảnh càng khó khăn thêm. Năm 1811, họ thuê được 30 mẫu Anh (0.1 km²) trong trang trại Knob Creek rộng 230 mẫu Anh (0.9 km²) cách đó vài dặm, nơi họ sẽ chuyển tới sống sau này. Nằm trong lưu vực Sông Rolling Fork, đó là một trong những nơi có đất canh tác tốt nhất vùng. Khi ấy, cha Lincoln là một thành viên được kính trọng trong cộng đồng và là một nông dân cũng như thợ mộc tài giỏi. Hồi ức sớm nhất của Lincoln bắt đầu có ở trang trại này. Năm 1815, một nguyên đơn khác tìm cách buộc gia đình Lincoln phải rời trang trại Knob Creek. Nản chí trước sự kiện tụng cũng như không được các toà án ở Kentucky bảo vệ, Thomas quyết định đi tới Indiana, nơi đã được chính phủ liên bang khảo sát, nên quyền sở hữu đất đai cũng được bảo đảm hơn. Có lẽ những giai đoạn tuổi thơ ấy đã thúc đẩy Abraham theo học trắc địa và trở thành một luật sư.
Gia đình băng qua sông Ohio để dời đến một lãnh thổ không có nô lệ và bắt đầu cuộc sống mới ở Hạt Perry, Indiana. Tại đây, năm 1818 khi Lincoln lên chín, mẹ cậu qua đời vì bệnh nhiễm độc sữa do bò ăn phải loại cỏ độc. Sarah, chị của Lincoln, chăm sóc cậu cho đến khi ông bố tái hôn năm 1820; về sau Sarah chết ở lứa tuổi 20 trong lúc sinh nở.
Vợ mới của Thomas Lincoln, Sarah Bush Johnston, nguyên là một góa phụ, mẹ của ba con. Lincoln rất gần gũi với mẹ kế, gọi bà là "Mẹ". Khi còn bé, Lincoln không thích nếp sống lao động cực nhọc ở vùng biên thùy, thường bị người nhà và láng giềng xem là lười biếng. Nhưng khi đến tuổi thiếu niên, cậu tình nguyện đảm trách tất cả việc nhà, trở thành một người sử dụng rìu thành thục khi xây dựng hàng rào. Cậu cũng được biết tiếng nhờ sức mạnh cơ bắp và tính gan lì sau một trận đấu vật quyết liệt với thủ lĩnh một nhóm côn đồ gọi là "the Clary's Grove boys". Cậu cũng tuân giữ tập tục giao hết cho cha toàn bộ lợi tức cậu kiếm được cho đến tuổi 21. Giáo dục tiểu học cậu bé Lincoln tiếp nhận chỉ tương đương một năm học do các giáo viên lưu động giảng dạy, hầu hết là do cậu tự học và tích cực đọc sách. Trên thực tế Lincoln là người tự học, đọc mọi cuốn sách có thể mượn được. Cậu thông thạo Kinh Thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh, lịch sử Mỹ, và học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Lincoln không thích câu cá và săn bắn vì không muốn giết hại bất cứ một con vật nào kể cả để làm thực phẩm dù cậu rất cao và khoẻ, cậu dành nhiều thời gian đọc sách tới nỗi những người hàng xóm cho rằng cậu cố tình làm vậy để tránh phải làm việc chân tay nặng nhọc.
Năm 1830, để tránh căn bệnh nhiễm độc sữa mới vừa bùng nổ dọc theo sông Ohio, gia đình Lincoln di chuyển về hướng tây và định cư trên khu đất công ở Hạt Macon, Illinois, một tiểu bang không có nô lệ. Năm 1831, Thomas đem gia đình đến Hạt Coles, Illinois. Lúc ấy, là một thanh niên đầy khát vọng ở tuổi 22, Lincoln quyết định rời bỏ gia đình để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Cậu đi xuồng xuôi dòng Sangamon đến làng New Salem thuộc Hạt Sangamon. Mùa xuân năm 1831, sau khi thuê mướn Lincoln, Denton Offutt, một thương nhân ở New Salem, cùng một nhóm bạn, vận chuyển hàng hóa bằng xà lan từ New Salem theo sông Sangamon và Mississippi đến New Orleans. Tại đây, lần đầu tiên chứng kiến tận mắt tệ nạn nô lệ, Lincoln đi bộ trở về nhà.
Trong một tự truyện, Lincoln miêu tả mình trong giai đoạn này - ở lứa tuổi 20, rời bỏ vùng rừng núi hẻo lánh để tìm đường tiến vào thế giới – như là "một gã trai kỳ dị, không bạn bè, không học thức, không một xu dính túi".
Hôn nhân và con cái
Năm 1840, Lincoln đính hôn với Mary Todd, con gái của một gia đình giàu có sở hữu nô lệ ở Lexington, Kentucky. Họ gặp nhau lần đầu ở Springfield, Illinois vào tháng 12 năm 1839, rồi đính hôn vào tháng 12 năm sau. Hôn lễ được sắp đặt vào ngày 1 tháng 1, 1841, nhưng bị Lincoln đề nghị hủy bỏ. Sau này họ lại gặp nhau và kết hôn ngày 4 tháng 11 năm 1842, hôn lễ tổ chức tại ngôi biệt thự của người chị của Mary ở Springfield.
Ngay cả khi đang chuẩn bị cho hôn lễ, Lincoln vẫn cảm thấy lưỡng lự. Khi được hỏi cuộc hôn nhân này sẽ dẫn ông đến đâu, Lincoln trả lời, "Địa ngục, tôi nghĩ thế."
Năm 1844, hai người mua một ngôi nhà ở Springfield gần văn phòng luật của Lincoln. Mary Todd Lincoln là người vợ đảm đang, chu tất việc nội trợ như đã từng làm khi còn sống với cha mẹ ở Kentucky. Cô cũng giỏi vén khéo với đồng lương ít ỏi chồng cô kiếm được khi hành nghề luật. Robert Todd Lincoln sinh năm 1843, kế đó là Edward (Eddie) trong năm 1846. Lincoln "đặc biệt yêu thích lũ trẻ", và thường tỏ ra dễ dãi với chúng. Robert là người con duy nhất còn sống cho đến tuổi trưởng thành. Edward mất ngày 1 tháng 1, 1850 ở Springfield do lao phổi. "Wille" Lincoln sinh ngày 21 tháng 12 năm 1850 và mất ngày 20 tháng 2 năm 1862. Đứa con thứ tư của Lincoln, "Tad" Lincoln, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1853, và chết vì mắc bệnh tim ở tuổi 18 (16 tháng 7 năm 1871).
Cái chết của những cậu con trai đã tác động mạnh trên cha mẹ chúng. Cuối đời, Mary mắc chứng u uất do mất chồng và các con, có lúc Robert Todd Lincoln phải gửi mẹ vào viện tâm thần trong năm 1875. Abraham Lincoln thường khi vẫn "u sầu, phiền muộn", ngày nay được coi là triệu chứng của bệnh trầm cảm.
Robert có ba con và ba cháu. Không một ai trong số cháu của ông có con, vì thế dòng dõi Lincoln chấm dứt khi Robert Beckwith (cháu trai của Lincoln) chết ngày 24 tháng 12 năm 1985.
Khởi nghiệp
Năm 1832, ở tuổi 23, Lincoln cùng một đối tác mua chịu một cửa hàng tạp hóa ở New Salem, Illinois. Mặc dù kinh tế trong vùng đang phát triển, doanh nghiệp của họ phải vất vả để tồn tại, cuối cùng Lincoln phải sang nhượng cổ phần của ông. Tháng 3 năm ấy, Lincoln bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng cách tranh cử vào Nghị viện Illinois. Ông giành được thiện cảm của dân địa phương, thu hút nhiều đám đông ở New Salem bằng biệt tài kể chuyện đầy hóm hỉnh, mặc dù ông thiếu học thức, thân hữu có thế lực, và tiền bạc, là những yếu tố có thể khiến ông thất cử. Khi tranh cử, ông chủ trương cải thiện lưu thông đường thủy trên sông Sangamon.
Trước cuộc bầu cử, Lincoln phục vụ trong lực lượng dân quân Illinois với cấp bậc đại úy suốt trong Chiến tranh Black Hawk (một cuộc chiến ngắn ngủi chống lại người da đỏ). Sau chiến tranh, ông trở lại vận động cho cuộc bầu cử ngày 6 tháng 8 vào Nghị viện Illinois. Với chiều cao , Lincoln cao và "đủ mạnh để đe dọa bất kỳ đối thủ nào." Ngay từ lần diễn thuyết đầu tiên, khi nhìn thấy một người ủng hộ ông trong đám đông bị tấn công, Lincoln liền đến "túm cổ và đáy quần gã kia" rồi ném hắn ra xa. Lincoln về hạng tám trong số mười ba ứng cử viên (chỉ bốn người đứng đầu được đắc cử).
Lincoln quay sang làm trưởng bưu điện New Salem, rồi đo đạc địa chính; suốt thời gian ấy ông vẫn say mê đọc sách. Cuối cùng ông quyết định trở thành luật sư, bắt đầu tự học bằng cách nghiền ngẫm quyển Commentaries on the Laws of England của Blackstone, và những sách luật khác. Về phương pháp học, Lincoln tự nhận xét về mình: "Tôi chẳng học ai hết." Lincoln thành công khi ra tranh cử lần thứ hai năm 1834. Ông vào viện lập pháp tiểu bang. Sau khi được nhận vào Đoàn Luật sư Hoa Kỳ năm 1836, ông dời đến Springfield, Illinois bắt đầu hành nghề luật dưới sự dẫn dắt của John T. Stuart, một người anh em họ của Mary Todd. Dần dà, Lincoln trở thành một luật sư tài năng và thành đạt. Từ năm 1841 đến 1844, ông cộng tác với Stephen T. Logan, rồi với William Herndon, ông đánh giá Herndon là "một thanh niên chuyên cần".
Năm 1841, Lincoln hành nghề luật cùng William Herndon, một người bạn trong Đảng Whig. Năm 1856, hai người tham gia Đảng Cộng hoà. Sau khi Lincoln chết, Herndon bắt đầu sưu tập các câu chuyện về Lincoln từ những người từng biết ông ở Illinois, và xuất bản chúng trong cuốn Lincoln của Herndon.
Trong kỳ họp 1835-1836, ông bỏ phiếu ủng hộ chủ trương mở rộng quyền bầu cử cho nam giới da trắng, dù có sở hữu đất đai hay không. Ông nổi tiếng với lập trường "free soil" chống chế độ nô lệ lẫn chủ trương bãi bỏ nô lệ. Lần đầu tiên trình bày về chủ đề này trong năm 1837, ông nói, "Định chế nô lệ được thiết lập trên sự bất công và chính sách sai lầm, nhưng tuyên bố bãi nô chỉ làm gia tăng thay vì giảm thiểu tội ác này." Ông theo sát Henry Clay trong nỗ lực ủng hộ việc trợ giúp những nô lệ được tự do đến định cư tại Liberia ở châu Phi. Ông phục vụ bốn nhiệm kỳ liên tiếp ở Viện Dân biểu tiểu bang Illinois, đại diện cho Hạt Sangamon.
Nghị trường Liên bang
Từ đầu thập niên 1830, Lincoln là thành viên kiên trung của đảng Whig, tự nhận mình là "một đảng viên Whig bảo thủ, một môn đệ của Henry Clay". Đảng Whig ủng hộ hiện đại hóa nền kinh tế trong các lĩnh vực ngân hàng, dùng thuế bảo hộ để cung ứng ngân sách cho phát triển nội địa như đường sắt, và tán thành chủ trương đô thị hóa.
Năm 1846, Lincoln đắc cử vào Viện Dân biểu Hoa Kỳ, phục vụ một nhiệm kỳ hai năm. Ông là đảng viên Whig duy nhất trong đoàn đại biểu đến từ Illinois, ông sốt sắng bày tỏ lòng trung thành với đảng của mình trong các cuộc biểu quyết và phát biểu ủng hộ chủ trương của đảng. Cộng tác với Joshua R. Giddings, một dân biểu chủ trương bãi nô, Lincoln soạn thảo một dự luật nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ tại Hạt Columbia, nhưng ông phải từ bỏ ý định vì không có đủ hậu thuẫn từ trong đảng Whig. Về chính sách ngoại giao và quân sự, Lincoln lớn tiếng chống cuộc chiến Mễ-Mỹ, chỉ trích Tổng thống James K. Polk là chỉ lo tìm kiếm "thanh danh về quân sự - một ảo vọng nhuốm máu".
Bằng cách soạn thảo và đệ trình Nghị quyết Spot, Linconln quyết liệt bác bỏ quan điểm của Polk. Cuộc chiến khởi phát do người México sát hại binh sĩ Mỹ ở vùng lãnh thổ đang tranh chấp giữa México và Hoa Kỳ; Polk nhấn mạnh rằng binh sĩ México đã "xâm lăng lãnh thổ chúng ta" và làm đổ máu đồng bào chúng ta ngay trên "đất của chúng ta". Lincoln yêu cầu Polk trình bày trước Quốc hội địa điểm chính xác nơi máu đã đổ và chứng minh địa điểm đó thuộc về nước Mỹ. Quốc hội không chịu thảo luận về nghị quyết, báo chí trong nước phớt lờ nó, và Lincoln bị mất hậu thuẫn chính trị ngay tại khu vực bầu cử của ông. Một tờ báo ở Illinois gán cho ông biệt danh "spotty Lincoln". Về sau, Lincoln tỏ ra hối tiếc về một số phát biểu của ông, nhất là khi ông tấn công quyền tuyên chiến của tổng thống.
Nhận thấy rằng Clay không thể thắng cử, Lincoln, năm 1846 đã cam kết chỉ phục vụ một nhiệm kỳ tại Viện Dân biểu, ủng hộ Tướng Zachary Taylor đại diện đảng Whig trong cuộc đua năm 1848 tranh chức tổng thống. Khi Taylor đắc cử, Lincoln hi vọng được bổ nhiệm lãnh đạo Tổng cục Địa chính (General Land Office), nhưng chức vụ béo bở này lại về tay một đối thủ của ông, Justin Butterfield, người được chính phủ đánh giá là một luật sư lão luyện, nhưng theo Lincoln, Butterfield chỉ là một "tảng hóa thạch cổ lỗ". Chính phủ cho ông giải khuyến khích là chức thống đốc Lãnh thổ Oregon. Vùng đất xa xôi này là căn cứ địa của đảng Dân chủ, chấp nhận nó đồng nghĩa với việc chấm dứt sự nghiệp chính trị và luật pháp của ông ở Illinois, Lincoln từ chối và quay trở lại nghề luật.
Luật sư vùng Thảo nguyên
Lincoln trở lại hành nghề luật ở Springfield, xử lý "mọi loại công việc dành cho luật sư vùng thảo nguyên". Hai lần mỗi năm trong suốt mười sáu năm, mỗi lần kéo dài hai tuần, ông phải có mặt tại quận lỵ nơi tòa án quận có phiên xét xử. Lincoln giải quyết nhiều vụ tranh chấp trong lĩnh vực giao thông ở miền Tây đang mở rộng, nhất là việc điều vận xà lan sông qua gầm cầu đường hỏa xa mới được xây dựng. Lúc đầu, Lincoln chỉ nhận những vụ ông thích, về sau ông làm việc cho bất cứ ai chịu thuê mướn ông.
Ông dần được biết tiếng, và bắt đầu xuất hiện trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, tranh luận trong một vụ án liên quan đến một chiếc thuyền bị chìm do va chạm cầu. Năm 1849, ông được cấp bằng sáng chế về phương tiện đường thủy ứng dụng cho việc lưu thông thuyền trên dòng nước cạn. Dù ý tưởng này chưa từng được thương mại hóa, Lincoln là vị tổng thống duy nhất từng được cấp bằng sáng chế.
Lincoln xuất hiện trước Tòa án Tối cao bang Illinois trong 175 vụ án, 51 vụ ông là luật sư biện hộ duy nhất cho thân chủ, trong đó có 31 phán quyết của tòa có lợi cho ông.
Vụ án hình sự nổi bật nhất của Lincoln xảy ra năm 1858 khi ông biện hộ cho William "Duff" Armstrong, bị xét xử vì tội danh sát hại James Preston Metzker. Vụ án nổi tiếng do Lincoln sử dụng một sự kiện hiển nhiên để thách thức sự khả tín của một nhân chứng. Sau khi một nhân chứng khai trước tòa rằng đã chứng kiến vụ án diễn ra dưới ánh trăng, Lincoln rút quyển Niên lịch cho nhà nông, chỉ ra rằng vào thời điểm ấy Mặt Trăng còn thấp nên giảm thiểu đáng kể tầm nhìn. Dựa trên chứng cứ ấy, Armstrong được tha bổng. Hiếm khi Lincoln phản đối trước tòa; nhưng trong một vụ án năm 1859, khi biện hộ cho Peachy Harrison, một người anh em họ, bị cáo buộc đâm chết người, Lincoln giận dữ phản đối quyết định của thẩm phán bác bỏ một chứng cứ có lợi cho thân chủ của ông. Thay vì buộc tội Lincoln xúc phạm quan tòa, thẩm phán là một đảng viên Dân chủ đã đảo ngược phán quyết của ông, cho phép sử dụng chứng cứ và tha bổng Harrison.
Đảng Cộng hòa 1854 – 1860
"Một nhà tự chia rẽ"
Trong thập niên 1850, chế độ nô lệ được xem là hợp pháp tại các tiểu bang miền Nam trong khi ở tiểu bang miền Bắc như Illniois nó bị đặt ngoài vòng pháp luật. Lincoln chống chế độ nô lệ và việc mở rộng chế độ nô lệ đến những vùng lãnh thổ mới ở miền Tây. Vì muốn chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska (1854) ông đã trở lại chính trường; đạo luật này được thông qua để hủy bỏ Thỏa hiệp Missouri hạn chế chế độ nô lệ. Thượng Nghị sĩ lão thành Stephen A. Douglas của Illinois đã liên kết quyền phổ thông tự quyết vào Đạo luật. Điều khoản của Douglas mà Lincoln bác bỏ là cho những người định cư quyền tự quyết cho địa phương của họ công nhận chế độ nô lệ trong những vùng lãnh thổ mới của Hoa Kỳ.
Foner (2010) phân biệt quan điểm của nhóm chủ trương bãi nô cùng nhóm Cộng hòa cấp tiến ở vùng Đông Bắc là những người xem chế độ nô lệ là tội lỗi, với các đảng viên Cộng hòa bảo thủ chống chế độ nô lệ vì họ nghĩ rằng nó làm tổn thương người da trắng và kìm hãm sự tiến bộ của đất nước. Foner tin rằng Lincoln theo đường lối trung dung, ông phản đối chế độ nô lệ vì nó vi phạm các nguyên lý của chế độ cộng hòa xác lập bởi những nhà lập quốc, nhất là với quyền bình đằng dành cho mọi người và quyền tự quyết lập nền trên các nguyên tắc dân chủ đã được công bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 16 tháng 10 năm 1854, trong "Diễn văn Peoria", Lincoln tuyên bố lập trường chống nô lệ dọn đường cho nỗ lực tranh cử tổng thống. Phát biểu với giọng Kentucky, ông nói Đạo luật Kansas "có vẻ vô cảm, song tôi buộc phải nghĩ rằng ẩn chứa trong nó là một sự nhiệt tình thực sự dành cho nỗ lực phổ biến chế độ nô lệ. Tôi không thể làm gì khác hơn là căm ghét nó. Tôi ghét nó bởi vì sự bất công đáng ghê tởm của chế độ nô lệ. Tôi ghét nó bởi vì nó tước đoạt ảnh hưởng công chính của hình mẫu nền cộng hòa của chúng ta đang tác động trên thế giới..."
Cuối năm 1854, Lincoln ra tranh cử trong tư cách đảng viên đảng Whig đại diện Illinois tại Thượng viện Hoa Kỳ. Lúc ấy, viện lập pháp tiểu bang được dành quyền bầu chọn thượng nghị sĩ liên bang. Sau khi dẫn đầu trong sáu vòng bầu cử đầu tiên tại nghị viện Illinois, hậu thuẫn dành cho Lincoln suy yếu dần, ông phải kêu gọi những người ủng hộ ông bầu phiếu cho Lyman Trumbull, người đã đánh bại đối thủ Joel Aldrich Matteson. Đạo luật Kansas gây ra sự phân hóa vô phương cứu chữa trong nội bộ đảng Whig. Lôi kéo thành phần còn lại của đảng Whig cùng những người vỡ mộng từ các đảng Free Soil, Tự do, Dân chủ, ông hoạt động tích cực trong nỗ lực hình thành một chính đảng mới, Đảng Cộng hòa. Tại đại hội đảng năm 1856, Lincoln là nhân vật thứ hai trong cuộc đua giành sự đề cử của đảng cho chức vụ phó tổng thống.
Trong khoảng 1857-58, do bất đồng với Tổng thống James Buchanan, Douglas dẫn đầu một cuộc tranh đấu giành quyền kiểm soát Đảng Dân chủ. Một số đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ Douglas trong nỗ lực tái tranh cử vào Thượng viện năm 1858 bởi vì ông chống bản Hiến chương Lecompton xem Kansas là tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ. Tháng 3 năm 1857, khi ban hành phán quyết trong vụ án Dred Scott chống Sandford, Chánh án Roger B. Taney lập luận rằng bởi vì người da đen không phải là công dân, họ không được hưởng bất kỳ quyền gì quy định trong Hiến pháp. Lincoln lên tiếng cáo giác đó là âm mưu của phe Dân chủ, "Các tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập không ‘nói mọi người bình đẳng trong màu da, thể hình, trí tuệ, sự phát triển đạo đức, khả năng xã hội’, song họ ‘thực sự xem mọi người sinh ra đều bình đẳng trong những quyền không thể chuyển nhượng, trong đó có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc.’"
Sau khi được đại hội bang Đảng Cộng hòa đề cử tranh ghế tại Thượng viện năm 1858, Lincoln đọc bài diễn văn Một nhà tự chia rẽ, gợi ý từ Phúc âm Mác trong Kinh Thánh:
Bài diễn văn đã tạo dựng được một hình ảnh sinh động liên tưởng đến hiểm họa phân hóa đất nước gây ra bởi những bất đồng về chế độ nô lệ, và là lời hiệu triệu tập hợp đảng viên Cộng hòa khắp miền Bắc.
Tranh luận giữa Lincoln và Douglas
Năm 1858 chứng kiến bảy cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas khi diễn ra cuộc vận động tranh cử vào Thượng viện, đây là những cuộc tranh luận chính trị nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lincoln cảnh báo rằng chế độ nô lệ đang đe dọa những giá trị của chủ thuyết cộng hòa, và cáo buộc Douglas là bẻ cong các giá trị của những nhà lập quốc về nguyên lý mọi người sinh ra đều bình đẳng, trong khi Douglas nhấn mạnh đến quyền tự quyết của cư dân địa phương xem họ có chấp nhận chế độ nô lệ hay không.
Các ứng cử viên Cộng hòa giành nhiều phiếu phổ thông hơn, nhưng những người Dân chủ chiếm được nhiều ghế hơn trong viện lập pháp tiểu bang. Viện Lập pháp đã tái bầu Douglas vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù bị thất bại cay đắng, khả năng hùng biện của Lincoln mang đến cho ông danh tiếng trên chính trường quốc gia.
Diễn văn Cooper Union
Ngày 27 tháng 2 năm 1860, giới lãnh đạo đảng ở New York mời Lincoln đọc diễn văn tại Liên minh Cooper, trước một cử tọa gồm những nhân vật có thế lực trong đảng Cộng hòa. Lincoln lập luận rằng những nhà lập quốc không mấy quan tâm đến quyền tự quyết phổ thông, nhưng thường xuyên tìm cách kìm chế chế độ nô lệ. Ông nhấn mạnh rằng nền tảng đạo đức của người Cộng hòa đòi hỏi họ phải chống lại chế độ nô lệ, và mọi sự "cám dỗ chấp nhận lập trường trung dung giữa lẽ phải và điều sai trái."
Việc phô bày khả năng lãnh đạo đầy trí tuệ đã đưa Lincoln vào nhóm những chính trị gia hàng đầu của đảng và dọn đường cho ông trong nỗ lực giành sự đề cử của đảng tranh chức tổng thống. Nhà báo Noah Brooks tường thuật, "Chưa từng có ai tạo được ấn tượng mạnh mẽ như thế như lần đầu tiên ông hiệu triệu một cử tọa ở New York." Donald miêu tả bài diễn văn là "một động thái chính trị siêu đẳng cho một ứng cử viên chưa tuyên bố tranh cử, xuất hiện ở chính tiểu bang của đối thủ (William H. Seward), ngay tại một sự kiện do những người trung thành với đối thủ thứ hai (Salmon P. Chase) bảo trợ, mà không cần phải nhắc đến tên của họ trong suốt bài diễn văn."
Chiến dịch Tranh cử Tổng thống năm 1860
Đại hội tiểu bang Đảng Cộng hòa tổ chức tại Decatur trong hai ngày 9 và 10 tháng 5 năm 1860. Lincoln nhận được ủng hộ để ra tranh cử tổng thổng. Ngày 18 tháng 5, tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1860, tổ chức ở Chicago, ở vòng bầu phiếu thứ ba, Lincoln giành được sự đề cử, một người từng là đảng viên Dân chủ đến từ Maine, Hannibal Hamlin, được chọn đứng cùng liên danh với ông để tạo thế cân bằng. Thành quả này có được là nhờ danh tiếng của ông như là một chính trị gia có lập trường ôn hòa về vấn đề nô lệ cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông dành cho các chương trình của Đảng Whig cải thiện các vấn đề trong nước và bảo hộ hàng nội địa.
Trong suốt thập niên 1850, Lincoln không tin sẽ xảy ra cuộc nội chiến, những người ủng hộ ông cũng bác bỏ việc ông đắc cử sẽ dẫn đến khả năng chia cắt đất nước. Trong lúc ấy, Douglas được chọn làm ứng cử viên cho Đảng Dân chủ. Những đoàn đại biểu từ 11 tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ bỏ phòng họp vì bất đồng với quan điểm của Douglas về quyền tự quyết phổ thông, sau cùng họ chọn John C. Breckinridge làm ứng cử viên.
Lincoln là ứng cử viên duy nhất không đọc diễn văn tranh cử, nhưng ông theo dõi sát sao cuộc vận động và tin cậy vào bầu nhiệt huyết của đảng viên Cộng hòa. Họ di chuyển nhiều và tạo lập những nhóm đa số khắp miền Bắc, in ấn và phổ biến một khối lượng lớn áp-phích, tờ rơi, và viết nhiều bài xã luận trên các nhật báo. Có hàng ngàn thuyết trình viên Cộng hòa quảng bá cương lĩnh đảng và những trải nghiệm sống của Lincoln, nhấn mạnh đến tuổi thơ nghèo khó của ông. Mục tiêu của họ là trình bày sức mạnh vượt trội của quyền lao động tự do, nhờ đó mà một cậu bé quê mùa lớn lên từ nông trại nhờ nỗ lực bản thân mà trở thành một chính trị hàng đầu của xứ sở. Phương pháp quảng bá hiệu quả của Đảng Cộng hòa đã làm suy yếu các đối thủ; một cây bút của tờ Chicago Tribune viết một tiểu luận miêu tả chi tiết cuộc đời Lincoln, bán được khoảng từ 100 đến 200 ngàn ấn bản.
Sự nghiệp tổng thống
Bầu cử năm 1860
Ngày 6 tháng 11 năm 1860, Lincoln đắc cử để trở thành tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ. Ông vượt qua Stephen A. Douglas của Đảng Dân chủ, John C. Breckinridge của Đảng Dân chủ miền Nam, và John Bell của Đảng Liên minh Hiến pháp mới được thành lập năm 1860. Lincoln là đảng viên Cộng hòa đầu tiên đảm nhận chức vụ tổng thống. Chiến thắng của ông hoàn toàn dựa trên sự ủng hộ ở miền Bắc và miền Tây. Không có phiếu bầu cho Lincoln tại mười trong số mười lăm tiểu bang miền Nam sở hữu nô lệ; ông chỉ về đầu ở 2 trong số 996 hạt trên tất cả các tiểu bang miền Nam. Lincoln nhận được 1.866.452 phiếu bầu, trong khi Douglas có 1.376.957 phiếu, Breckinridge 849.781 phiếu, và Bell được 588.789 phiếu.
Ly khai
Khi kết quả bầu cử đã rõ ràng, những người chủ trương ly khai nói rõ ý định của họ là sẽ tách khỏi Liên bang trước khi Lincoln nhậm chức vào tháng 3 tới. Ngày 20 tháng 12 năm 1860, tiểu bang South Carolina dẫn đầu bằng cách chấp nhận luật ly khai; ngày 1 tháng 2 năm 1861, Florida, Mississippi, Alabama, Georgia, Louisiana, và Texas tiếp bước. Sáu trong số các tiểu bang này thông qua một bản hiến pháp, và tuyên bố họ là một quốc gia có chủ quyền, Liên minh miền Nam. Các tiểu bang Delaware, Maryland, Virginia, North Carolina, Tennessee, Kentucky, Missouri, và Arkansas có lắng nghe nhưng không chịu ly khai. Tổng thống đương nhiệm Buchanan và Tổng thống tân cử Lincoln từ chối công nhận Liên minh, tuyên bố hành động ly khai là bất hợp pháp. Ngày 9 tháng 2 năm 1861, Liên minh miền Nam chọn Jefferson Davis làm Tổng thống lâm thời.
Khởi đầu là những nỗ lực hòa giải. Thỏa hiệp Crittenden mở rộng thêm những điều khoản của Thỏa hiệp Missouri năm 1820, phân chia thành các vùng tự do và vùng có nô lệ, điều này trái ngược với cương lĩnh của Đảng Cộng hòa. Bác bỏ ý tưởng ấy, Lincoln phát biểu, "Tôi thà chết còn hơn chấp nhận... bất cứ sự nhượng bộ hoặc sự thỏa hiệp nào để có thể sở hữu chính quyền này, là chính quyền chúng ta có được bởi quyền hiến định." Tuy nhiên, Lincoln ủng hộ Tu chính Corwin được Quốc hội thông qua nhằm bảo vệ quyền sở hữu nô lệ tại những tiểu bang đã có sẵn chế độ nô lệ. Chỉ vài tuần lễ trước khi xảy ra chiến tranh, Lincoln đi xa đến mức viết một bức thư gởi tất cả thống đốc kêu gọi họ ủng hộ việc thông qua Tu chính Corwin, ông xem đó như là nỗ lực tránh nguy cơ ly khai.
Trên đường đến lễ nhậm chức bằng tàu hỏa, Lincoln diễn thuyết trước những đám đông và các viện lập pháp khi ông băng ngang qua lãnh thổ phương Bắc. Ở Baltimore, nhờ Allen Pinkerton, trưởng toán cận vệ, dùng thân mình che Tổng thống tân cử mà ông thoát chết. Ngày 23 tháng 2 năm 1861, Lincoln phải ngụy trang khi đến Washington, D.C., trong sự bảo vệ của một toán binh sĩ. Nhắm vào dân chúng miền Nam, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ nhất, Lincoln tuyên bố rằng ông không có ý định hủy bỏ chế độ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam:
Kết thúc bài diễn văn, Tổng thống kêu gọi dân chúng miền Nam: "Chúng ta không phải là kẻ thù, nhưng là bằng hữu. Không thể nào chúng ta trở thành kẻ thù của nhau... Sợi dây đàn màu nhiệm của ký ức, trải dài từ những bãi chiến trường và mộ phần của những người yêu nước đến trái tim của mỗi người đang sống, đến chỗ ấm cúng nhất của mỗi mái ấm gia đình, khắp mọi nơi trên vùng đất bao la này, sẽ làm vang tiếng hát của ban hợp xướng Liên bang, khi dây đàn ấy được chạm đến một lần nữa, chắc chắn sẽ như thế, bởi phần tốt lành hơn trong bản chất của chúng ta."
Chiến tranh
Chỉ huy trưởng Đồn Sumter ở tiểu bang South Carolina, Thiếu tá Robert Anderson, yêu cầu tiếp liệu từ Washington, và khi Lincoln chỉ thị đáp ứng yêu cầu ấy, phe ly khai xem đó là hành động gây chiến. Ngày 12 tháng 4 năm 1861, lực lượng Liên minh tấn công doanh trại Sumter, buộc họ phải đầu hàng. Chiến tranh bùng nổ. Sử gia Allen Nevins cho rằng tổng thống vừa nhậm chức đã tính toán nhầm khi tin rằng ông có thể duy trì Liên bang. William Tecumseh Sherman, viếng thăm Linconln trong tuần lễ diễn ra lễ nhậm chức, đã "thất vọng trong đau buồn" vì thấy Lincoln không thể nhận ra sự thật là "đất nước đang ngủ mê ngay trên ngọn núi lửa", và miền Nam đang chuẩn bị cho chiến tranh. Donald đúc kết, "Chính nỗ lực của Lincoln nhiều lần cố tránh va chạm trong thời gian giữa lễ nhậm chức và trận Đồn Sumter chỉ ra rằng ông trung thành với lời hứa sẽ không phải là người khởi phát cuộc huynh đệ tương tàn. Mặt khác, ông cũng thề hứa không chịu để các đồn binh bị thất thủ. Giải pháp duy nhất cho phe Liên minh là họ phải khai hỏa trước; và họ đã hành động."
Ngày 15 tháng 4, Lincoln kêu gọi các tiểu bang gởi 75.000 binh sĩ tái chiếm các đồn binh, bảo vệ Washington, và "duy trì Liên bang", theo ông, vẫn đang còn nguyên vẹn bất kể hành động của những bang ly khai. Lời kêu gọi này buộc các tiểu bang phải quyết định dứt khoát. Virginia tuyên bố ly khai, liền được ban thưởng để trở thành thủ đô của Liên minh. Trong vòng hai tháng, North Carolina, Tennessee, và Arkansas cũng biểu quyết ly khai. Cảm tình ly khai phát triển ở Missouri và Maryland, nhưng chưa đủ mạnh để chiếm ưu thế, trong khi Kentucky cố tỏ ra trung lập.
Binh sĩ di chuyển về hướng nam đến Washington để bảo vệ thủ đô, đáp lời kêu gọi của Lincoln. Ngày 19 tháng 4, những đám đông chủ trương ly khai ở Baltimore chiếm đường sắt dẫn về thủ đô. George William Brown, Thị trưởng Baltimore, và một số chính trị gia khả nghi khác ở Maryland bị cầm tù mà không cần trát lệnh, Lincoln đình chỉ quyền công dân được xét xử trước tòa. John Merryman, thủ lĩnh nhóm ly khai ở Maryland, thỉnh cầu Chánh án Tối cao Pháp viện Roger B. Taney ra phán quyết cho rằng vụ bắt giữ vụ bắt giữ Merryman mà không xét xử là vi phạm pháp luật. Taney ra phán quyết, theo đó Merryman phải được trả tự do, nhưng Lincoln phớt lờ phán quyết. Từ đó, và trong suốt cuộc chiến, Lincoln bị chỉ trích dữ dội, thường khi bị lăng mạ, bởi những đảng viên Dân chủ chống chiến tranh.
Hành xử quyền lực trong thời chiến
Sau khi Đồn Sumter bị thất thủ, Lincoln nhận ra tầm quan trọng của việc trực tiếp nắm quyền chỉ huy nhằm kiểm soát cuộc chiến và thiết lập chiến lược toàn diện để trấn áp phe nổi loạn. Đối đầu với cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự chưa từng có, Lincoln, với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân lực, sử dụng quyền lực chưa từng có. Ông mở rộng những quyền đặc biệt trong chiến tranh, áp đặt lệnh phong tỏa trên tất cả thương cảng của Liên minh, ra lệnh cầm tù không qua xét xử hàng ngàn người bị nghi là ủng hộ Liên minh. Quốc hội và công luận miền bắc ủng hộ ông. Hơn nữa, Lincoln phải đấu tranh để củng cố sự ủng hộ mạnh mẽ từ những tiểu bang có nô lệ ở vùng biên, và phải kiềm chế cuộc chiến không trở thành một cuộc tranh chấp quốc tế.
Nỗ lực dành cho cuộc chiến chiếm hết thời gian và tâm trí của Lincoln cũng như khiến ông trở nên tâm điểm của sự dèm pha và miệt thị. Nhóm phản chiến trong Đảng Dân chủ chỉ trích Lincoln không chịu thỏa hiệp trong vấn đề nô lệ, trong khi nhóm cấp tiến trong Đảng Cộng hòa phê phán ông hành động quá chậm trong nỗ lực bãi nô. Ngày 6 tháng 8 năm 1861, Lincoln ký ban hành Luật Tịch biên, cho phép tịch biên tài sản và giải phóng nô lệ của những người ủng hộ Liên minh trong cuộc chiến. Trong thực tế, dù ít khi được áp dụng, luật này đánh dấu sự ủng hộ chính trị dành cho nỗ lực bãi bỏ chế độ nô lệ.
Lincoln mượn từ Thư viện Quốc hội quyển Elements of Military Art and Science của Henry Halleck để đọc và nghiên cứu về quân sự. Lincoln nhẫn nại xem xét từng báo cáo gởi bằng điện tín từ Bộ Chiến tranh ở Washington D. C., tham vấn các thống đốc tiểu bang, một số tướng lãnh được tuyển chọn dựa trên thành tích của họ. Tháng 1 năm 1862, sau nhiều lời than phiền về sự thiếu hiệu quả cũng như những hành vi vụ lợi ở Bộ Chiến tranh, Lincoln bổ nhiệm Edwin Stanton thay thế Cameron trong cương vị Bộ trưởng. Stanton là một trong số nhiều đảng viên Dân chủ bỏ sang đảng Cộng hòa dưới quyền lãnh đạo của Lincoln. Mỗi tuần hai lần, Lincoln họp với Nội các. Ông học hỏi từ Tướng Henry Halleck về sự cần thiết kiểm soát các điểm chiến lược, như sông Mississippi; ông cũng biết rõ tầm quan trọng của thị trấn Vicksburg, và hiểu rằng cần phải triệt tiêu sức mạnh quân sự của đối phương chứ không chỉ đơn giản là chiếm được lãnh thổ.
Tướng McClellan
Năm 1861, Lincoln bổ nhiệm Thiếu tướng George B. McClellan làm tổng tham mưu trưởng quân lực Liên bang thay thế tướng Winfield Scott về hưu. Tốt nghiệp Trường Võ bị West Point, từng lãnh đạo công ty đường sắt, và đảng viên Dân chủ từ Pensylvania, McClellan phải mất đến vài tháng để lập kế hoạch cho chiến dịch Penisula nhằm chiếm Richmond để tiến về thủ đô của Liên minh. Sự chậm trễ này đã gây bối rối cho Lincoln và Quốc hội.
Tháng 3 năm 1862, Lincoln bãi chức McClellan và bổ nhiệm Henry Wager Halleck thay thế. Trên biển, chiến hạm CSS Virginia gây thiệt hại ba chiến hạm của Liên bang ở Norfolk, Virginia trước khi bị chiến hạm USS Monitor đánh bại. Trong lúc tuyệt vọng, Lincoln phải mời McClellan trở lại lãnh đạo lực lượng vũ trang khu vực Washington. Hai ngày sau, lực lượng của Tướng Lee băng qua sông Potomac tiến vào Maryland, đánh với Liên bang trong trận Antietam tháng 9 năm 1862. Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ dù chiến thắng thuộc về Liên bang, và cũng là cơ hội để Lincoln công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ nhằm tránh những đồn đoán cho rằng Lincoln phải công bố bản tuyên ngôn vì đang ở trong tình thế tuyệt vọng. McClellan chống lại lệnh của tổng thống yêu cầu truy đuổi Tướng Lee, trong khi đồng đội của ông, Tướng Don Carlos Buell không chịu động binh đánh quân nổi dậy ở phía đông Tennessee. Lincoln bổ nhiệm William Rosecrant thay thế Buell; sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, ông chọn Ambrose Burnside thay thế McClellan. Hai nhà lãnh đạo quân sự mới đều có quan điểm chính trị ôn hòa và đều ủng hộ vị Tổng tư lệnh quân lực.
Tháng 12, do vội vàng mở cuộc tấn công băng qua sông Rappahannock, Burnside bị Lee đánh bại trong trận Fredericksburg khiến hàng ngàn binh sĩ bất mãn và đào ngũ trong năm 1863. Lincoln thay thế Burnside bằng Joseph Hooker, mặc dù Hooker là người luôn khăng khăng yêu cầu thành lập một chế độ độc tài quân sự.
Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1862, đảng Cộng hòa mất nhiều ghế ở Viện Dân biểu do cử tri bất bình với chính phủ vì không thể kết thúc sớm cuộc chiến, và vì nạn lạm phát, tăng thuế, những đồn đại về tham ô, và nỗi e sợ thị trường lao động sẽ sụp đổ nếu giải phóng nô lệ. Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ được công bố vào tháng 9 đã giúp đảng Cộng hòa giành phiếu bầu ở các khu vực nông thôn vùng New England và phía bắc vùng Trung Tây, nhưng mất phiếu ở các đô thị và phía nam vùng Tây Bắc. Đảng Dân chủ được tiếp thêm sức mạnh và hoạt động tốt ở Pennsylvania, Ohio, Indiana, và New York. Tuy nhiên, đảng Cộng hòa vẫn duy trì thế đa số ở Quốc hội và các tiểu bang quan trọng ngoại trừ New York. Theo tờ Cincinnati, cử tri "thất vọng vì thấy cuộc chiến tiếp tục kéo dài, cũng như sự cạn kiệt tài nguyên quốc gia mà không có sự tiến bộ nào."
Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ
Lincoln hiểu rằng quyền lực của Chính phủ liên bang để giải phóng nô lệ đang bị hạn chế bởi Hiến pháp, mà hiến pháp, từ trước năm 1865, đã dành quyền này cho các tiểu bang.
Lúc bắt đầu cuộc chiến, Lincoln cố thuyết phục các tiểu bang chấp nhận giải phóng nô lệ có bồi thường (nhưng chỉ được Washington, D. C. áp dụng) Ông bác bỏ các đề nghị giới hạn việc giải phóng nô lệ theo khu vực địa lý.
Ngày 19 tháng 6 năm 1862, với sự ủng hộ của Lincoln, Quốc hội thông qua luật cấm chế độ nô lệ trên toàn lãnh thổ liên bang. Tháng 7, dự luật thứ hai được thông qua, thiết lập trình tự tài phán để tiến hành giải phóng nô lệ của những chủ nô bị kết án ủng hộ phe phiến loạn. Dù không tin Quốc hội có quyền giải phóng nô lệ trong lãnh thổ các tiểu bang, Lincoln phê chuẩn dự luật để bày tỏ sự ủng hộ dành cho ngành lập pháp.
Ông cảm nhận rằng tổng thống trong cương vị Tổng tư lệnh quân lực có thể sử dụng quyền hiến định hành động trong tình trạng chiến tranh để thực thi luật pháp, và ông lập kế hoạch hành động. Ngay trong tháng 6, Lincoln thảo luận với Nội các nội dung bản Tuyên ngôn, trong đó ông viết, "như là một biện pháp quân sự cần thiết và thích đáng, từ ngày 1 tháng 1, 1863, mọi cá nhân bị xem là nô lệ trong các tiểu bang thuộc Liên minh, từ nay và vĩnh viễn, được tự do."
Trong chỗ riêng tư, Lincoln khẳng quyết rằng không thể chiến thắng mà không giải phóng nô lệ. Tuy nhiên, phe Liên minh và thành phần chống chiến tranh tuyên truyền rằng giải phóng nô lệ là rào cản đối với nỗ lực thống nhất đất nước. Lincoln giải thích rằng mục tiêu chính của ông trong cương vị tổng thống là bảo vệ sự thống nhất của Liên bang:
Công bố ngày 22 tháng 9 năm 1862, bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1863, tuyên bố giải phóng nô lệ trong 10 tiểu bang ngoài vòng kiểm soát của Liên bang, với sự miễn trừ dành cho những khu vực trong hai tiểu bang thuộc Liên bang. Quân đội Liên bang càng tiến sâu về phía Nam càng có nhiều nô lệ được tự do cho đến hơn ba triệu nô lệ trong lãnh thổ Liên minh được giải phóng. Lincoln nhận xét về bản Tuyên ngôn, "Chưa bao giờ trong đời tôi tin quyết về những gì tôi đang làm là đúng như khi tôi ký văn kiện này."
Sau khi ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, tuyển mộ cựu nô lệ vào quân đội là chủ trương chính thức của chính phủ. Lúc đầu còn miễn cưỡng, nhưng từ mùa xuân năm 1863, Lincoln khởi xướng chương trình "Tuyển mộ đại trà binh sĩ da đen". Trong thư gởi Andrew Johnson, thống đốc quân sự Tennessee, Lincoln viết, "Chỉ cần quang cảnh 50.000 chiến binh da đen được huấn luyện và trang bị đầy đủ cũng có thể chấm dứt cuộc nổi loạn ngay lập tức."
Cuối năm 1863, theo chỉ đạo của Lincoln, Tướng Lorenzo Thomas tuyển mộ 20 trung đoàn da đen từ Thung lũng Mississippi. Frederick Douglass có lần nhận xét: "Khi gặp Lincoln, chưa bao giờ tôi nhớ đến xuất thân thấp hèn, hoặc màu da không được ưa thích của mình."
Diễn văn Gettysburg
Tháng 7 năm 1863, Binh đoàn Potomac dưới quyền tướng George Meade thắng lớn trong trận Gettysburg. Trên chính trường, nhóm Copperheads bị thất bại trong kỳ tuyển cử mùa thu ở Ohio, nhờ đó Lincoln duy trì sự ủng hộ bên trong đảng cùng vị thế chính trị vững chãi đủ để tái thẩm định cuộc chiến. Tình thế thuận lợi cho Lincoln vào thời điểm ông đọc bài diễn văn tại nghĩa trang Gettysburg.
Trái với lời tiên đoán của Lincoln, "Thế giới không quan tâm, cũng chẳng nhớ những gì chúng ta nói ở đây," thì bài diễn văn của ông đã trở nên một trong những diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc.
Diễn văn Gettysburg được đọc trong lễ cung hiến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia tại Gettysburg, Pennsylvania, vào chiều thứ Năm, ngày 19 tháng 11 năm 1863. Chỉ với 271 từ, trong bài diễn văn kéo dài ba phút này, Lincoln nhấn mạnh rằng đất nước được sản sinh, không phải năm 1789, mà từ năm 1776, "được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng."
Ông định nghĩa rằng chiến tranh là sự hi sinh đấu tranh cho nguyên tắc tự do và bình đẳng cho mọi người. Giải phóng nô lệ là một phần của nỗ lực ấy. Ông tuyên bố rằng cái chết của các chiến sĩ dũng cảm là không vô ích, rằng chế độ nô lệ sẽ thất bại và cáo chung, tương lai của nền dân chủ sẽ được bảo đảm, và "chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất." Lincoln đúc kết rằng cuộc nội chiến có một mục tiêu cao quý – sản sinh một nền tự do mới cho dân tộc.
Tướng Grant
Sự kiện Meade không thể khống chế đạo quân của Lee khi ông này triệt thoái khỏi Gettysburg cùng với sự thụ động kéo dài của Binh đoàn Potomac khiến Lincoln tin rằng cần có sự thay đổi ở vị trí tư lệnh mặt trận. Chiến thắng của Tướng Ulysses S. Grant trong trận Shiloh và trong chiến dịch Vicksburg tạo ấn tượng tốt đối với Lincoln. Hồi đáp những lời chỉ trích Grant sau trận Shiloh, Lincoln từng nói: "Tôi rất cần người này. Ông ta chiến đấu." Vào năm 1864, Grant phát động Chiến dịch Overland đẫm máu thường được mô tả là chiến tranh tiêu hao, khiến phía Liên bang thiệt hại nặng nề trong các mặt trận như Wilderness và Cold Harbor. Dù được hưởng lợi thế của phía phòng thủ, quân đội Liên minh cũng bị tổn thất không kém.
Do không có nguồn lực dồi dào, đạo quân của Lee cứ hao mòn dần qua mỗi trận chiến, bị buộc phải đào hào phòng thủ bên ngoài Petersburg, Virginia trong vòng vây của quân đội Grant.
Linconln cho phép Grant phá hủy cơ sở hạ tầng của Liên minh như nông trang, đường sắt, và cầu cống nhằm làm suy sụp tinh thần cũng như làm suy yếu khả năng kinh tế của đối phương. Di chuyển đến Petersburg, Grant chặn ba tuyến đường sắt từ Richmond, Virginia về phía nam tạo điều kiện cho Tướng Sherman và Tướng Philip Sheridan hủy phá các nông trang và các thị trấn ở Thung lũng Shenandoah thuộc Virginia.
Vào ngày 1 tháng 4 năm 1865, Grant thọc sâu vào sườn của lực lượng của Lee trong trận Five Forks và bao vây Petersburg, chính phủ Liên minh phải di tản khỏi Richmond. Lincoln đến thăm thủ đô của Liên minh khi vừa bị thất thủ, người da đen được tự do chào đón ông như một vị anh hùng trong khi người da trắng tỏ vẻ lạnh lùng với tổng thống của phe chiến thắng. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1865, tại làng Appomattox Court House, Lee đầu hàng trước Grant, kết thúc cuộc nội chiến.
Năm 1864, tái tranh cử
Là chính trị gia lão luyện, Lincoln không chỉ có khả năng đoàn kết tất cả phe phái chính trong đảng Cộng hòa mà còn thu phục những người Dân chủ như Edwin M. Stanton và Andrew Johnson. Ông dành nhiều giờ trong tuần để đàm đạo với các chính trị gia đến từ khắp đất nước, và sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của ông để tạo sự đồng thuận giữa các phe nhóm trong đảng, xây dựng hậu thuẫn cho các chính sách của ông, và đối phó với nỗ lực của nhóm cấp tiến đang cố loại ông khỏi liên danh năm 1864.
Đại hội đảng năm 1864 chọn Andrew Johnson đứng cùng liên danh với Lincoln. Nhằm mở rộng liên minh chính trị hầu lôi cuốn các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa, Lincoln tranh cử dưới danh nghĩa của Đảng Liên hiệp Quốc gia tân lập.
Khi các chiến dịch mùa xuân của Grant đi vào bế tắc trong khi tổn thất tiếp tục gia tăng, sự thiếu vắng các chiến thắng quân sự phủ bóng trên triển vọng đắc cử của Tổng thống, nhiều đảng viên Cộng hòa trên khắp nước e sợ Lincoln sẽ thất cử.
Khi cánh chủ hòa trong đảng Dân chủ gọi cuộc chiến là một "thất bại" thì ứng cử viên của đảng, Tướng George B. McClellan, ủng hộ chiến tranh và lên tiếng bác bỏ luận cứ của phe chủ hòa. Lincoln cấp thêm lính cho Grant, đồng thời vận động đảng của ông tăng cường hỗ trợ cho Grant. Trong tháng 9, Thắng lợi của Liên bang khi Sherman chiếm Atlanta và David Farragut chiếm Mobile dập tắt mọi hoài nghi;
Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng, một số nhà lãnh đạo và phần lớn quân nhân quay sang ủng hộ Lincoln. Một mặt, Đảng Liên hiệp Quốc gia đoàn kết chặt chẽ hỗ trợ cho Lincoln khi ông tập chú vào chủ đề giải phóng nô lệ; mặt khác, các chi bộ Cộng hòa cấp tiểu bang nỗ lực hạ giảm uy tín phe chủ hòa. Lincoln thắng lớn trong cuộc tuyển cử, giành được phiếu bầu của tất cả ngoại trừ ba tiểu bang.
Ngày 4 tháng 3 năm 1865, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai, Lincoln bày tỏ rằng sự tổn thất lớn lao từ hai phía là do ý chỉ của Thiên Chúa. Sử gia Mark Noll xếp diễn từ này vào trong "một số ít các văn bản hàm chứa tính thiêng liêng, nhờ đó người dân Mỹ ý thức được vị trí của mình trên thế giới."
Tái thiết
Thời kỳ tái thiết đã khởi đầu ngay từ lúc còn chiến tranh, khi Lincoln và các phụ tá của ông tính trước phương cách giúp các tiểu bang miền nam tái hội nhập, giải phóng nô lệ, và quyết định số phận của giới lãnh đạo Liên minh. Không lâu sau khi Tướng Lee đầu hàng, khi được hỏi nên đối xử với phe thất trận như thế nào, Lincoln trả lời, "Hãy để họ thoải mái".
Trong nỗ lực tiến hành chính sách hòa giải, Lincoln nhận được sự ủng hộ của nhóm ôn hòa, nhưng bị chống đối bởi nhóm cấp tiến trong đảng Cộng hòa nhự Dân biểu Thaddeus Stevens, các Thượng Nghị sĩ Charles Summer và Benjamin Wade, là những đồng minh chính trị của ông trong các vấn đề khác. Quyết tâm tìm ra giải pháp hiệp nhất dân tộc mà không thù địch với miền Nam, Lincoln thúc giục tổ chức bầu cử sớm theo các điều khoản phóng khoáng. Tuyên cáo Ân xá của tổng thống ngày 8 tháng 12 năm 1863 công bố không buộc tội những ai không có chức vụ trong Liên minh, chưa từng ngược đãi tù binh Liên bang, và chịu ký tuyên thệ trung thành với Liên bang.
Sự chọn lựa nhân sự của Lincoln là nhằm giữ hai nhóm ôn hòa và cấp tiến cùng làm việc với nhau. Ông bổ nhiệm Salmon P. Chase thuộc nhóm cấp tiến vào Tối cao Pháp viện thay thế Chánh án Taney.
Sau khi Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực, dù không được áp dụng trên tất cả tiểu bang, Lincoln gia tăng áp lực yêu cầu Quốc hội ra một bản tu chính đặt chế độ nô lệ ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ. Lincoln tuyên bố rằng một bản tu chính như thế sẽ "giải quyết dứt điểm toàn bộ vấn đề". Tháng 6 năm 1864, một dự luật tu chính được trình Quốc hội nhưng không được thông qua vì không đủ đa số hai phần ba. Việc thông qua dự luật trở thành một trong những chủ đề vận động trong cuộc bầu cử năm 1864. Ngày 13 tháng 1, 1865, sau một cuộc tranh luận dài ở Viện Dân biểu, dự luật được thông qua và được gửi đến các viện lập pháp tiểu bang để phê chuẩn để trở thành Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12 năm 1865.
Khi cuộc chiến sắp kết thúc, kế hoạch tái thiết của tổng thống tiếp tục được điều chỉnh. Tin rằng chính phủ liên bang có một phần trách nhiệm đối với hàng triệu nô lệ được giải phóng, Lincoln ký ban hàng đạo luật Freedman’s Bureau thiết lập một cơ quan liên bang đáp ứng các nhu cầu của những cựu nô lệ, cung ứng đất thuê trong hạn ba năm với quyền được mua đứt cho những người vừa được tự do.
Tái định nghĩa khái niệm cộng hòa và chủ nghĩa cộng hòa
Những sử gia đương đại như Harry Jaffa, Herman Belz, John Diggins, Vernon Burton, và Eric Foner đều nhấn mạnh đến nỗ lực tái định nghĩa các giá trị cộng hòa của Lincoln. Từ đầu thập niên 1850 khi các luận cứ chính trị đều hướng về tính thiêng liêng của Hiến pháp, Lincoln đã tập chú vào bản Tuyên ngôn Độc lập, xem văn kiện này là nền tảng của các giá trị chính trị của nước Mỹ mà ông gọi là "thành lũy" của chủ nghĩa cộng hòa.
Sự kiện bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến quyền tự do và sự bình đẳng dành cho mọi người, trái ngược với Hiến pháp dung chịu chế độ nô lệ, đã làm thay đổi chiều hướng tranh luận. Luận điểm của Lincoln đã gây dựng được ảnh hưởng vì ông làm sáng tỏ nền tảng đạo đức của chủ nghĩa cộng hòa, thay vì chỉ biết tuân thủ hiến pháp.
Các đạo luật
Lincoln trung thành với chủ thuyết của đảng Whig về chức vụ tổng thống, theo đó Quốc hội có trách nhiệm làm luật và nhánh hành pháp thực thi luật pháp. Chỉ có bốn dự luật đã được Quốc hội thông qua đã bị Lincoln phủ quyết. Năm 1862, ông ký ban hành đạo luật Homestead bán cho người dân với giá rất thấp hàng triệu héc-ta đất chính phủ đang sở hữu. Đạo luật Morrill Land-Grant Colleges ký năm 1862 cung ứng học bổng chính phủ cho các trường đại học nông nghiệp tại mỗi tiểu bang. Đạo luật Pacific Railway năm 1862 và 1864 dành sự hỗ trợ của liên bang cho công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa hoàn thành năm 1869.
Lincoln cũng mở rộng ảnh hưởng kinh tế của chính phủ liên bang sang các lãnh vực khác. Đạo luật National Banking cho phép thành lập hệ thống ngân hàng quốc gia cung ứng mạng lưới tài chính dồi dào trên toàn quốc, cũng như thiết lập nền tiền tệ quốc gia. Năm 1862, Quốc hội đề xuất và tổng thống phê chuẩn việc thành lập Bộ Nông nghiệp. Năm 1862, Lincoln cử Tướng John Pope bình định cuộc nổi dậy của bộ tộc Sioux. Tổng thống cũng cho lập kế hoạch cải cách chính sách liên bang đối với người da đỏ.
Lincoln là nhân tố chính trong việc công nhận Lễ Tạ ơn là quốc lễ của Hoa Kỳ. Trước nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln, Lễ Tạ ơn là ngày lễ phổ biến ở vùng New England từ thế kỷ XVII. Năm 1863, Lincoln tuyên bố thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 là ngày cử hành Lễ Tạ ơn.
Tối cao Pháp viện
Lincoln bổ nhiệm năm thẩm phán cho tòa án tối cao. Noah Haynes Swayne, được đề cử ngày 21 tháng 1, 1862 và bổ nhiệm ngày 24 tháng 1, 1862; ông là luật sư, chống chế độ nô lệ và ủng hộ Liên bang. Samuel Freeman Miller, được đề cử và bổ nhiệm ngày 16 tháng 7 năm 1862; ông ủng hộ Lincoln trong cuộc bầu cử năm 1860, và là người chủ trương bãi nô. David Davis, được đề cử ngày 1 tháng 12 năm 1862 và bổ nhiệm ngày 8 tháng 12 năm 1862; ông là người điều hành chiến dịch tranh cử năm 1860 của Lincoln, từng là thẩm phán tòa phúc thẩm liên bang ở Illinois. Stephen Johnson Field, được đề cử ngày 6 tháng 3 năm 1863 và bổ nhiệm ngày 10 tháng 3 năm 1863; từng là thẩm phán tòa tối cao bang California. Cuối cùng là Bộ trưởng Ngân khố của Lincoln, Salmon P. Chase, được đề cử và bổ nhiệm trong ngày 6 tháng 12 năm 1862 vào chức vụ Chánh án Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Lincoln tin Chase là một thẩm phán có khả năng, sẽ hỗ trợ công cuộc tái thiết trong lĩnh vực tư pháp, và sự bổ nhiệm này sẽ liên kết các nhóm trong đảng Cộng hòa.
Các Tiểu bang gia nhập Liên bang
Ngày 20 tháng 6 năm 1863, tiểu bang West Virginia xin gia nhập Liên bang, bao gồm những hạt cực tây bắc từng tách khỏi tiểu bang sau khi bang này rút lui khỏi Liên bang. Nevada, tiểu bang thứ ba thuộc vùng viễn tây được gia nhập ngày 31 tháng 10 năm 1864.
Ám sát
Một diễn viên nổi tiếng, John Wilkes Booth, là gián điệp của Liên minh đến từ Maryland; dù chưa bao giờ gia nhập quân đội Liên minh, Booth có mối quan hệ với mật vụ Liên minh. Năm 1864, Booth lên kế hoạch bắt cóc Lincoln để đòi thả tù binh Liên minh. Nhưng sau khi dự buổi diễn thuyết của Lincoln vào ngày 11 tháng 4 năm 1865, Booth giận dữ thay đổi kế hoạch và quyết định ám sát tổng thống. Dò biết Tổng thống, Đệ Nhất Phu nhân, và Tướng Ulysses S. Grant, nhân dịp ăn mừng việc chấm dứt chiến tranh, sẽ đến Nhà hát Ford, Booth cùng đồng bọn lập kế hoạch ám sát Phó Tổng thống Andrew Johnson, Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward, và Tướng Grant. Ngày 14 tháng 4, Lincoln đến xem vở kịch "Our American Cousin" mà không có cận vệ chính Ward Hill Lamon đi cùng. Đến phút chót, thay vì đi xem kịch, Grant cùng vợ đến Philadelphia.
Trong lúc nghỉ giải lao, John Parker, cận vệ của Lincoln, rời nhà hát cùng người đánh xe đến quán rượu Star kế cận. Lợi dụng cơ hội Tổng thống ngồi trong lô danh dự mà không có cận vệ bên cạnh, khoảng 10 giờ tối, Booth lẻn vào và bắn vào sau đầu của Tổng thống từ cự ly gần. Thiếu tá Henry Rathbone chụp§ bắt Booth nhưng hung thủ đâm trúng Rathbone và trốn thoát.
Sau mười ngày đào tẩu, người ta tìm thấy Booth tại một nông trang ở Virginia, khoảng phía nam Washington D. C. Ngày 26 tháng 4, sau một cuộc đụng độ ngắn, Booth bị binh sĩ Liên bang giết chết.
Sau cơn hôn mê kéo dài chín giờ, Lincoln từ trần lúc 7 giờ 22 phút sáng ngày 15 tháng 4. Mục sư Phineas Densmore Gurley thuộc Giáo hội Trưởng Lão được mời cầu nguyện sau khi Bộ trưởng Chiến tranh Stanton chào tiễn biệt và nói, "Nay ông thuộc về lịch sử."
Thi thể của Lincoln được phủ quốc kỳ và được các sĩ quan Liên bang hộ tống dưới cơn mưa về Tòa Bạch Ốc trong tiếng chuông nhà thờ của thành phố. Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức lúc 10:00 sáng ngay trong ngày Tổng thống bị ám sát. Suốt ba tuần lễ, đoàn tàu hỏa dành cho tang lễ Tổng thống mang thi thể ông đến các thành phố trên khắp miền Bắc đến các lễ tưởng niệm có hàng trăm ngàn người tham dự, trong khi nhiều người khác tụ tập dọc theo lộ trình giăng biểu ngữ, đốt lửa, và hát thánh ca.
Niềm tin tôn giáo
Giới học giả viết nhiều về các chủ đề liên quan đến đức tin và triết lý sống của Lincoln. Ông thường sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ tôn giáo để trình bày đức tin cá nhân hoặc để thuyết phục cử tọa, phần lớn trong số họ là tín hữu Kháng Cách theo trào lưu Tin Lành. Dù chưa bao giờ chính thức gia nhập giáo hội nào, Lincoln rất gần gũi với Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn và tán dương Kinh Thánh.
Trong thập niên 1840, Lincoln ngả theo "Học thuyết Tất yếu" tin rằng tâm trí con người ở dưới sự kiểm soát của một quyền lực cao hơn. Đến thập niên 1850, Lincoln thừa nhận "ơn thần hựu" theo cách chung, nhưng hiếm khi sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tôn giáo của người Tin Lành. Ông dành sự tôn trọng cho chủ nghĩa cộng hòa của những nhà lập quốc gần như là niềm tin tôn giáo. Song, khi đau khổ vì cái chết của con trai ông, Edward, Lincoln thường xuyên nhìn nhận rằng ông cần phải trông cậy Thiên Chúa. Khi một con trai khác của Lincoln, Willie, lìa đời trong tháng 2 năm 1862, ông càng hướng về tôn giáo để tìm câu giải đáp và sự an ủi.
Quan điểm về chủng tộc
Có ý kiến cho rằng tuy Abraham Lincoln ủng hộ việc bãi bỏ chế độ nô lệ, nhưng ông làm điều này vì ông cho là chế độ nô lệ làm rạn vỡ sự thống nhất của nước Mỹ chứ không phải vì ông ủng hộ quyền bình đẳng của người da đen. Trong buổi tranh luận với Nghị sỹ Douglas được tổ chức tại Charleston, South Carolina, Abraham Lincoln đã có những tuyên bố phân biệt chủng tộc rõ ràng, và ông không ủng hộ quyền bình đẳng giữa người da trắng và da đen. Ông cho rằng người da trắng và da đen có những khác biệt về mặt sinh học, nên sự bình đẳng giữa 2 chủng tộc là không thể xảy ra:
"...Tôi sẽ nói sau đó rằng tôi không, cũng như không bao giờ, ủng hộ việc mang lại bất kỳ điều gì về bình đẳng xã hội và chính trị giữa các chủng tộc da trắng và da đen - [khán giả vỗ tay]... và tôi sẽ nói thêm rằng có một sự khác biệt về thể chất giữa các chủng tộc da trắng và da đen mà tôi tin rằng sẽ mãi mãi ngăn hai chủng tộc được bình đẳng với nhau về mặt xã hội và chính trị... và tôi cũng như bất kỳ người đàn ông nào khác có vai trò thượng đẳng được giao cho chủng tộc da trắng."
Tuy nhiên, khi phản đối phán quyết Douglas của tòa án tối cao Mỹ (phán quyết năm 1856, theo đó không cấm chế độ nô lệ), Lincoln đã tuyên bố rằng: "Không có lý do gì trên thế giới này khiến cho người da đen không được hưởng tất cả các quyền được liệt kê trong Tuyên ngôn Độc lập - quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Họ cần được hưởng ngang bằng những người da trắng."
Trong bài diễn văn tại Cincinnati, Ohio vào ngày 17 tháng 12 năm 1859, Lincoln đã nói: "Tôi nghĩ rằng chế độ nô lệ là sai trái, cả về mặt đạo đức lẫn chính trị. Tôi mong rằng nó sẽ không lan rộng hơn nữa tại Hoa Kỳ, và tôi sẽ không phản đối nếu nó dần dần chấm dứt trong toàn bộ Liên minh" .
Trong một bức thư gửi tới Albert G. Hodges vào năm 1864, Lincoln đã từng viết rằng: "Tôi là người chống chế độ nô lệ một cách tự nhiên. Nếu chế độ nô lệ không phải là sai trái, thì không có gì là sai trái cả."
Tư tưởng phân biệt chủng tộc của Abraham Lincoln bắt đầu được khơi lên từ cuối thập niên 1960, khi những sử gia như Lerone Bennett xem xét lại quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc. Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương "chủng tộc da trắng là thượng đẳng". Những người ủng hộ Lincoln như Dirk và Cashin thì phản bác rằng thái độ phân biệt chủng tộc của Lincoln dù sao vẫn nhẹ hơn hầu hết các chính trị gia Mỹ thời ấy.
Theo nhà sử học Eric Foner thì trước khi nội chiến Mỹ nổ ra, Lincoln thực hiện các biện pháp xóa bỏ chế độ nô lệ nhưng rất chậm, bởi vì ông là người mang tư tưởng phân biệt chủng tộc. Kaplan lập luận: Lincoln miễn cưỡng hành động dứt khoát chống lại chế độ nô lệ, điều đó phản ánh sự thỏa hiệp giữa cả hai mặt cá nhân của ông – một sự tận tâm mạnh mẽ đối với Hiến pháp và sự thống nhất của Liên bang, và sự do dự bởi tư tưởng phân biệt chủng tộc: Lincoln tin rằng nước Mỹ "đã và luôn luôn là quốc gia của một người da trắng". Lincoln chắc chắn đã có rất nhiều định kiến chủng tộc mà người trong thời đại của ông thường có. Tuy nhiên, khi nội chiến Mỹ diễn ra, quan điểm về chủng tộc của Lincoln đã dần thay đổi. Mặt khác, nhu cầu của chiến tranh buộc ông phải dứt khoát xóa bỏ chế độ nô lệ để có thể tuyển thêm binh lực từ người da đen. Trong sự nghiệp của mình, Lincoln thực sự nói rất ít về vấn đề chủng tộc. Không giống như nhiều người đương thời, ông đã không đưa ra nền tảng về vinh quang của chủng tộc da trắng. Lincoln cũng là tổng thống đầu tiên gặp người da đen ở Nhà Trắng. Đến cuối nhiệm kỳ, ông ủng hộ quyền bầu cử cho một bộ phận những người da đen "có học thức" hoặc từng tham gia quân đội. Tuy nhiên, Lincoln bị ám sát và những kế hoạch trao quyền cho người da đen vào thời kỳ Tái thiết sau đó đã sớm chấm dứt. Nhưng nếu Lincoln không bị ám sát thì cũng sẽ không có sự khác biệt, bởi Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ảnh hưởng quá sâu đậm trong xã hội Mỹ thời đó.
Vinh danh
Theo bảng Xếp hạng Tổng thống trong Lịch sử Hoa Kỳ được thực hiện từ thập niên 1940, Lincoln luôn có tên trong ba người đứng đầu, thường khi là nhân vật số 1. Trong phần lớn các cuộc khảo sát bắt đầu thực hiện từ năm 1948, Lincoln được xếp vào hàng đầu: Schlesinger 1948, Schlesinger 1962, 1982 Murray Blessing Survey, Chicago Tribune 1982 poll, Schlesinger 1996, CSPAN 1996, Ridings-McIver 1996, Time 2008, and CSPAN 2009. Đại thể, những tổng thống chiếm ba vị trí đầu là 1) Lincoln; 2) George Washington; và 3) Franklin D. Roosevelt, mặc dù đôi khi cũng có sự đảo ngược vị trí với nhau giữa Lincoln và Washington, Washington và Roosevelt.
Lincoln sở hữu tính cách điềm tĩnh cần thiết cho một chính khách, nhất là trong tình thế phức tạp. Suốt trong năm 1862, không có ngày nào trôi qua mà không có một bài diễn thuyết kêu gọi tổng thống chấp nhận những quyết sách táo bạo nhằm chống lại nạn nô lệ và Tướng McClellan, nhưng Lincoln vẫn bất động. Ông cần phải cân nhắc cho từng bước đi để thuyết phục chính mình và giới cử tri ôn hòa ở phía Bắc rằng ông đã thử hết mọi phương cách.
Ngay cả sau khi cách chức Tướng McClellan và giải phóng nô lệ, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi đến thời điểm thích hợp. Sự mòn mỏi chờ đợi một chiến thắng để có thể công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có lẽ là giai đoạn nhạy cảm nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln. Thời kỳ chuyển tiếp là cần thiết bởi vì Lincoln biết rằng trong những lúc đất nước đang bị phân hóa nghiêm trọng thì lập trường trung dung là con đường dẫn đến thành công cho nhà lãnh đạo.
Một ngày mùa hè năm 1862, một nhóm các nhân vật tiếng tăm chủ trương bãi nô từ vùng New England đến gặp Lincoln nhằm yêu cầu ông phải chống nạn nô lệ triệt để hơn. Sau một lúc im lặng, Lincoln hỏi xem họ còn nhớ sự kiện Blondin đi dây ngang qua thác Niagara không. Dĩ nhiên là họ nhớ. Một người trong số họ thuật lại lời của Tổng thống, "Giả sử toàn bộ giá trị vật chất trên đất nước vĩ đại này của chúng ta, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương – sự giàu có, thịnh vượng, những thành quả của nó trong hiện tại và cả niềm hi vọng cho tương lai – được tập trung lại và giao cho Blondin đem chúng băng qua thác trong chuyến đi kinh khủng này;" và giả sử "bạn đang đứng trên bờ thác khi Blondin đi trên dây, khi anh đang cẩn thận dò dẫm từng bước chân và đang cố giữ thăng bằng với thanh ngang trên tay bằng kỹ năng tinh tế của mình để băng qua thác nước khổng lồ đang gầm rú bên dưới. Bạn sẽ gào thét, ‘Blondin, qua phải một bước!’ ‘Blondin, qua trái một bước!’ hay là bạn lặng lẽ đứng yên, nín thở và cầu nguyện xin Đấng Toàn Năng hướng dẫn và giúp anh ấy vượt qua cơn thử thách?"
Khi nghe tin Liconln từ trần, Walt Whitman viết bài thơ O Captain! My Captain! gọi ông là thuyền trưởng lèo lái con thuyền qua những vùng biển động để đến bến bờ bình yên, nhưng khi sắp đến nơi thì người thuyền trưởng đã không còn. Trong khi người da trắng xem Lincoln như là nhà lãnh đạo có công duy trì nền thống nhất của đất nước thì người Mỹ da đen vinh danh ông như một nhà giải phóng. Trong chuyến viếng thăm Richmond, Lincoln được người dân ở đây chào đón như một người cha. Họ còn ví sánh ông với Moses trong Kinh Thánh, người giải phóng dân Do Thái và dẫn dắt họ trên đường đến Đất Hứa nhưng từ trần trước khi dân tộc ông đặt chân vào vùng đất này.
Ngay cả Frederick Douglass, người thường chỉ trích Lincoln trong suốt nhiệm kỳ tổng thống, sau khi Lincoln bị ám sát đã gọi ông là "vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên chết vì chính nghĩa," và ca ngợi tính cách của Lincoln, "Với Abraham Lincoln, niềm tin vào chính mình và lòng tin dành cho đồng bào của ông thật vĩ đại và đáng kinh ngạc, thật sáng suốt và vững chắc. Ông hiểu rõ người dân Mỹ hơn cả chính họ, và chân lý của ông được lập nền trên sự hiểu biết này". Douglass cũng liệt kê những phẩm chất của một nhà lãnh đạo mà ông tìm thấy ở Lincoln, "Mặc dù ở địa vị cao trọng, những người thấp hèn nhất có thể tìm đến ông và cảm thấy thoải mái khi gặp ông. Mặc dù sâu sắc, ông rất trong sáng; mặc dù mạnh mẽ, ông rất dịu dàng; mặc dù quyết đoán trong xác tín, ông khoan hòa đối với những ai khác quan điểm, và kiên nhẫn lắng nghe lời chỉ trích."
Chính là bởi vì vụ ám sát mà Lincoln được xem là vị anh hùng xả thân vì dân tộc. Trong mắt của những người chủ trương bãi nô, ông là nhà tranh đấu cho quyền tự do của con người. Đảng viên Cộng hòa liên kết tên tuổi ông với đảng của họ. Ở miền Nam, nhiều người, tuy không phải tất cả, xem ông là một tài năng kiệt xuất.
Theo Schwartz, cuối thế kỷ XIX thanh danh của Lincoln tiến triển chậm cho mãi đến Giai đoạn Phát triển (1900 – thập niên 1920) ông mới được xem như là một trong những vị anh hùng được tôn kính nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ngay cả trong vòng người dân miền Nam. Đỉnh điểm của sự trọng vọng này là vào năm 1922 khi Đài Tưởng niệm Lincoln được cung hiến tại Washington. Trong thời kỳ New Deal, những người cấp tiến ca tụng Lincoln không chỉ như là người tự lập thân hoặc vị tổng thống vĩ đại trong chiến tranh, mà còn là nhà lãnh đạo quan tâm đến thường dân là những người có nhiều cống hiến cho chính nghĩa của cuộc chiến. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hình ảnh của Lincoln được tôn cao như là biểu tượng của tự do, là người mang hi vọng đến cho những người bị áp bức.
Trong thập niên 1970, Lincoln được những người có chủ trương bảo thủ trong chính trị dành cho sự ngưỡng mộ đặc biệt do lập trường dân tộc, chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp, tập chú vào nỗ lực chống nô lệ, và nhiệt tâm của ông đối với các nguyên lý của những nhà lập quốc. James G. Randall nhấn mạnh đến tính bao dung và thái độ ôn hòa của Lincoln trong "sự chú tâm của ông đối với sự tăng trưởng trong trật tự, sự nghi ngờ đối với những hành vi khích động nguy hiểm, và sự miễn cưỡng của ông đối với các kế hoạch cải cách bất khả thi." Randall đúc kết, "ông là người bảo thủ khi ông triệt để bác bỏ cái gọi là "thuyết cấp tiến" chủ trương bóc lột miền Nam, căm ghét chủ nô, thèm khát báo thù, âm mưu phe phái, và những đòi hỏi hẹp hòi muốn các định chế của miền Nam phải được thay đổi cấp tốc bởi tay người bên ngoài."
Đến cuối thập niên 1960, những người cấp tiến như sử gia Lerone Bennett, xem xét lại sự việc, đặc biệt là quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc. Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương người da trắng là chủng tộc thượng đẳng. Ông nhận xét rằng Lincoln thích gièm pha chủng tộc, chế giễu người da đen, chống đối sự công bằng xã hội, và đề nghị gởi nô lệ được tự do sang một đất nước khác. Những người ủng hộ Lincoln như các tác gia Dirk và Cashin, phản bác rằng Lincoln còn tốt hơn hầu hết các chính trị gia thời ấy; rằng ông là người đạo đức có viễn kiến đã làm hết sức mình để thăng tiến chủ nghĩa bãi nô.
Hình tượng Lincoln cũng thường được khắc họa rất tích cực trên màn ảnh của Hollywood.
Tưởng niệm
Nhiều thị trấn, thành phố, và quận hạt mang tên Lincoln, trong đó có thủ phủ bang Nebraska. Tượng đài đầu tiên được dựng lên để tưởng niệm Lincoln đặt trước Tòa Thị chính Hạt Columbia năm 1868, ba năm sau khi ông bị ám sát. Tên và hình ảnh của Lincoln xuất hiện tại nhiều địa điểm khác nhau như Đài Tưởng niệm Lincoln ở Washington D. C. và tượng điêu khắc Lincoln trên Núi Rushmore.
Người ta cũng thiết lập những công viên lịch sử tại các địa điểm liên quan đến những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Lincoln như: nơi ông sinh (Abraham Licoln Birthplace National Historical Park) ở Hodgenville, Kentucky, chỗ ông trải qua thời niên thiếu (Lincoln Boyhood National Memorial) tại Lincoln City, Indiana, nơi ông trưởng thành (Lincoln’s New Salem) ở Illinois, và nơi ông khởi nghiệp (Lincoln Home National Historic Site) tại Springfield, Illinois.
Nhà hát Ford và tòa nhà Petersen (nơi Lincoln từ trần) được giữ lại làm viện bảo tàng, cũng như Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln ở Springfield.
Phần mộ Lincoln trong Nghĩa trang Oak Ridge ở Springfield, Illinois, là nơi chôn cất Lincoln, vợ ông Mary cùng ba trong số bốn con trai của ông, Edward, William, và Thomas.
Ngay trong năm Lincoln từ trần, hình ảnh của ông được gởi đi khắp thế giới qua những con tem bưu điện. Hình ảnh của ông cũng xuất hiện trên tờ năm đô-la, và đồng xu Lincoln, đây là đồng tiền đầu tiên của Hoa Kỳ có đúc hình một nhân vật.
Ngày 28 tháng 7 năm 1920 một pho tượng Lincoln được đặt tại một địa điểm gần Điện Westminster, Luân Đôn. Hải quân Hoa Kỳ đã đặt tên ông cho một số chiến hạm, trong đó có hàng không mẫu hạm USS Abraham Lincoln và tiềm thủy đỉnh SSBN Abraham Lincoln.
Mặc dù ngày sinh của Lincoln, 12 tháng 2, chưa bao giờ được công nhận là quốc lễ, nó từng được cử hành tại 30 tiểu bang. Từ năm 1971 khi Ngày Tổng thống trở thành quốc lễ, trong đó có ngày sinh của Lincoln kết hợp với ngày sinh Washington, được cử hành thay thế lễ kỷ niệm ngày sinh của ông. |
San Marino, có tên đầy đủ là Cộng hòa Đại bình yên San Marino (tiếng Ý: Serenissima Repubblica di San Marino), là một trong những nước nhỏ nhất trên thế giới, nằm ở Châu Âu, và hoàn toàn nằm trong lãnh thổ nước Ý cùng với Vatican.
Lịch sử
Theo truyền thuyết, San Marino được thành lập vào thế kỷ IV bởi một người thợ khắc đá Công giáo tên là Marinus từ vùng Dalmatia đến đây lánh nạn tránh cuộc truy lùng, bách hại đạo dưới triều Hoàng đế Diocletianus. Nền độc lập của San Marino được Giáo hoàng Urbanô VIII thừa nhận năm 1631. Có lẽ đây là một trong những quốc gia cộng hòa độc lập lâu đời nhất trên thế giới.
Năm 1862, San Marino và Ý ký hiệp ước thuế quan và hiệp ước hữu nghị, hiệp ước được ký kết lại theo định kì. San Marino tuyên chiến với Đức trong Thế chiến thứ nhất, nhưng lại cố gắng duy trì tính trung lập trong Thế chiến thứ hai. San Marino gia nhập Liên Hợp Quốc năm 1992.
San Marino trong thế kỷ XX
Trong Thế chiến thứ nhất, khi Ý tuyên chiến với Đế quốc Áo-Hung ngày 23 tháng 5 năm 1915, San Marino vẫn thái độ trung lập và Ý đã có một cái nhìn thù địch về tính trung lập của San Marino, nghi ngờ rằng San Marino có thể là gián điệp Áo. Ý đã cố gắng để buộc San Marino thành lập một đội quân gọi là Carabinieri và sau đó Ý đã cắt đường dây điện thoại của San Marino khi nước này đã từ chối yêu cầu của Ý. Hai nhóm người gồm 10 tình nguyện viên đã tham gia vào lực lượng quân đội của Ý trong cuộc chiến trên mặt trận Ý, đây là các chiến binh San Marino đầu tiên và lần thứ hai như là một hoạt động quân đoàn y tế một bệnh viện Chữ thập đỏ để cứu chữa cho lính Ý. Sự tồn tại của bệnh viện này sau đó làm cho Đế quốc Áo-Hung đình chỉ quan hệ ngoại giao với San Marino.
Từ năm 1923 đến 1943, San Marino được cai trị bởi đảng phát xít San Marino (PFS).
Trong Thế chiến thứ hai, San Marino vẫn trung lập, mặc dù nó đã được báo cáo sai là đã tuyên chiến với Vương quốc Anh ngày 17 tháng 9 năm 1940.
Ba ngày sau sự sụp đổ của Benito Mussolini ở Ý, Mỹ cai trị Ý và San Marino sau sự sụp đổ này và chính phủ mới của San Marino tuyên bố trung lập trong cuộc xung đột. Nhóm phát xít giành lại quyền lực vào ngày 1 tháng 4 năm 1944 nhưng vẫn giữ thái độ trung lập. Mặc dù vậy, vào ngày 26 tháng 6 năm 1944, San Marino đã bị đánh bom bởi quân Hoàng gia Anh, do nhầm lẫn tin rằng San Marino đã bị tàn phá bởi quân Đức và San Marino đã được sử dụng thành nơi để tích lũy đạn dược cho quân Phát xít Đức. Ít nhất 35 người đã thiệt mạng trong hoạt động không kích của không quân Anh. San Marino chấp nhận hàng ngàn người tị nạn dân sự khi các lực lượng Đồng minh đã đi qua vùng Gothic. Trong tháng 9 năm 1944, San Marino đã nhanh chóng bị Đức chiếm đóng, tuy nhiên quân Đức đã bị tấn công bởi lực lượng Đồng Minh ở mặt trận San Marino. Quân Đồng minh rút khỏi San Marino trong thời gian ngắn sau đó.
San Marino đã có một chính phủ cộng sản đầu tiên được bầu dân chủ trên thế giới, từ năm 1945 và năm 1957 và giữa năm 2006 và 2008.
San Marino là quốc gia nhỏ thứ năm thế giới.
San Marino đã trở thành một thành viên của Hội đồng châu Âu vào năm 1988 và của Liên Hợp Quốc vào năm 1992. Nó không phải là một thành viên của Liên minh châu Âu.
Chính trị
San Marino là nước cộng hòa dân chủ đại diện và đa đảng: với hai vị Nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ, Vị nhiếp chính thứ nhất đứng đầu Chính phủ kiêm nhiệm vị trí Bộ trưởng Ngoại giao, lo về các vấn đề chính trị của đất nước. Vị nhiếp chính thứ hai lãnh đạo Nhà nước. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủ và Hội đồng nhân dân (quốc hội). Tư pháp độc lập với hành pháp và cơ quan lập pháp.
San Marino ban đầu được dẫn dắt bởi các Arengo, hình thành từ người đứng đầu của mỗi gia đình. Trong thế kỷ XIII, quyền lực đã được trao cho Hội đồng nhân dân. Năm 1243, hai vị nhiếp chính đầu tiên đã được đề cử bởi Hội đồng. Đến năm 2010, phương pháp được đề cử vẫn còn sử dụng.
Cơ quan lập pháp của nền cộng hòa San Marino Hội đồng nhân dân (Consiglio grande e Generale). Hội đồng này là một cơ quan lập pháp đơn viện với 60 thành viên. Có cuộc bầu cử năm năm một lần đại diện tỷ lệ trong tất cả chín huyện hành chính. Các quận, huyện (thị trấn) tương ứng với các giáo xứ cũ của nền cộng hòa.
Công dân từ 18 tuổi trở lên có đủ điều kiện để bỏ phiếu. Bên cạnh pháp luật nói chung, Hội đồng nhân dân còn có quyền phê duyệt ngân sách và bầu các vị nhiếp chính, người đứng đầu Hội đồng nhân dân, Hội đồng 12 người (mà hình thức \ là chi nhánh tư pháp trong cơ quan lập pháp của Hội đồng), các Ủy ban Tư vấn, và Chính phủ Liên hiệp. Hội đồng cũng có quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế với các nước khác. Hội đồng được chia thành năm Ủy ban Tư vấn khác nhau bao gồm mười lăm thành viên hội đồng để kiểm tra, đề xuất và thảo luận về việc thực hiện pháp luật mới trên các cuộc đề nghị của Hội đồng.
Mỗi 6 tháng, Hội đồng nhân dân lại bầu hai nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ. Nhiếp chính được lựa chọn từ các bên đối lập để có một sự cân bằng quyền lực giữa các đảng phái. Họ phục vụ một nhiệm kỳ sáu tháng. Lễ tuyên thệ nhậm chức của hai vị nhiếp chính diễn ra vào ngày 1 tháng 4 và ngày 1 tháng 10 hàng năm. Sau khi nhậm chức, công dân có ba ngày để khiếu nại về hoạt động của hai vị nhiếp chính.
San Marino là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Hai đảng chính là Đảng Dân chủ Kitô giáo San Marino (PDC) và Đảng Xã hội Dân chủ PSD (đảng này một sự hợp nhất của Đảng Xã hội San Marino và Đảng Cộng sản San Marino). Chưa có bất kỳ đảng nào giành thắng lợi tuyệt đối để tự thành lập chính phủ, và hầu hết các chính phủ San Marino được điều hành bởi liên minh giữa hai đảng này. Trong cuộc bầu cử năm 2006, PSD đã giành được 20 ghế trong Hội đồng nhân dân và hiện đang điều chỉnh việc liên minh với đảng Dân chủ Kitô giáo San Marino.
Ý là quốc gia chịu trách nhiệm về quốc phòng và cung cấp các viện trợ về nhiều mặt hàng năm cho San Marino.
Quân đội
Quân đội San Marino là một trong những lực lượng quân sự nhỏ nhất trên thế giới. Quân đội nước này có các ngành khác nhau với chức năng đa dạng, bao gồm: thực hiện nhiệm vụ nghi lễ, tuần tra biên giới, bảo vệ các tòa nhà chính phủ và cảnh sát hình sự. Cảnh sát không có trong quân đội của San Marino.
Quân đoàn Crossbow
Mặc dù được xem là trung tâm của quân đội San Marino, nhưng Quân đoàn Crossbow bây giờ chỉ là một lực lượng nghi lễ với khoảng 80 tình nguyện viên. Kể từ 1295, Quân đoàn Crossbow đã cung cấp đội bắn nỏ tại lễ hội. Mặc dù một đơn vị quân sự theo luật định, nhưng ngày nay Quân đoàn Crossbow không có chức năng quân sự.
Lực lượng Rock
Lực lượng Rock là một đơn vị trong quân đội San Marino, lực lượng này có nhiệm vụ tuần tra biên giới và bảo vệ dân chúng. Trong vai trò của họ như là đội Fortress, họ chịu trách nhiệm về bảo vệ các tòa nhà của chính phủ ở thành phố San Marino. Trong vai trò này họ là lực lượng có thể nhìn thấy hầu hết các khách du lịch, và được biết đến với buổi lễ đầy màu sắc của họ về thay đổi lực lượng Cảnh sát. Theo quy chế năm 1987, Lực lượng Rock được ghi danh là cảnh sát hình sự (ngoài vai trò quân sự của họ) và hỗ trợ cảnh sát điều tra tội phạm. Quân phục thống nhất của Lực lượng Rock là quần màu đỏ đặc biệt và áo màu xanh lá cây.
Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân và nhiếp chính
Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân thường được gọi là Lực lượng Cảnh sát của Hội đồng hoặc địa phương quân Guard của nhà quý tộc, được hình thành năm 1740, là một đơn vị tình nguyện với nhiệm vụ nghi lễ. Do màu xanh nổi bật, màu trắng, và đồng phục vàng, nó có lẽ là phần nổi tiếng nhất của quân đội San Marino, và xuất hiện vô số lần trên tấm bưu thiếp của San Marino. Các chức năng của lực lượng này là để bảo vệ Nhiếp chính, để bảo vệ Hội đồng và bảo vệ các phiên họp chính thức của Hội đồng.
Lực lượng dân quân tự vệ địa phương
Trong thời gian trước đây, tất cả các gia đình San Marino đều phải có hai hay nhiều người thành niên là nam giới được yêu cầu phải ghi danh cho một nửa trong số họ trong Lực lượng dân quân tự vệ địa phương. Đơn vị này vẫn là lực lượng chiến đấu cơ bản của Quân đội San Marino, nhưng phần lớn là nghi lễ. Được trở thành thành viên của lực lượng này là một niềm tự hào dân sự đối với nhiều người San Marino, và tất cả các công dân với ít nhất là sáu năm cư trú ở San Marino mới có thể tham gia lực lượng.
Quân phục thống nhất của Lực lượng dân quân tự vệ địa phương là màu xanh đậm, với một mũ kepi mang chùm lông màu xanh và trắng.
Lực lượng Ensemble
Lực lượng này chính thức là một phần của quân đội San Marino, và là ban nhạc nghi lễ quân sự của San Marino. Nó bao gồm khoảng 50 nhạc sĩ.
Lực lượng hiến binh
Được thành lập năm 1842, Lực lượng hiến binh của San Marino là một cơ quan thực thi pháp luật quân sự. Lực lượng hiến binh có trách nhiệm bảo vệ công dân và tài sản, và bảo đảm quyên thực thi pháp luật và an ninh trật tự của quốc gia.
Địa lý
Với diện tích 61 km², San Marino là quốc gia nhỏ nằm ở khu vực Nam Âu, và nằm hoàn toàn trong lãnh thổ của Ý. Phía Bắc, Tây và Đông giáp tỉnh Rimini, phía Nam giáp tỉnh Pesaro và Urbino. San Marino nằm gần biển Adriatic phía đông nước Ý. Hầu hết lãnh thổ quốc gia trải dài trên sườn núi Titano.
San Marino có khí hậu Địa Trung Hải với mùa đông ẩm và mát, mùa hè nóng và khô.
Hành chính
San Marino được chia thành 9 thành phố, được biết đến với từ ngữ địa phương là Castelli (có nghĩa là "lâu đài").
Chín thành phố của San Marino là:
San Marino
Acquaviva
Borgo Maggiore
Chiesanuova
Domagnano
Faetano
Fiorentino
Montegiardino
Serravalle
Ngoài 9 thành phố San Marino còn được chia nhỏ thành 43 thôn trong các thành phố là:
Cà Berlone, Cà Chiavello, Cà Giannino, Cà Melone, Cà Ragni, Cà Rigo, Cailungo, Caladino, Calligaria, Canepa, Capanne, Casole, Castellaro, Cerbaiola, Cinque Vie, Confine, Corianino, Crociale, Dogana, Falciano, Fiorina, Galavotto, Gualdicciolo, La Serra, Lesignano, Molarini, Montalbo, Monte Pulito, Murata, Pianacci, Piandivello, Poggio Casalino, Chiesanuova Poggio, Ponte Mellini, Rovereta, San Giovanni sotto le Penne, Santa Mustiola, Spaccio Giannoni, Teglio, Torraccia, Valdragone, Valgiurata và Ventoso.
Kinh tế
San Marino là nước có nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát triển.
Kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên truyền thống (nho, đá xây dựng), phát hành tem thư và nhất là du lịch. Ngành du lịch đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội của San Marino. Năm 1997, có hơn 3,3 triệu du khách đến San Marino. Các ngành dịch vụ và công nghiệp chính gồm có: ngân hàng, dệt may, điện tử và đồ gốm.
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm có ngô, lúa mì, nho, ô liu; ngựa, bò, lợn, pho mát, da thuộc.
Tính đến năm 2016, GDP của San Marino đạt 1.556 tỷ USD, đứng thứ 171 thế giới và đứng thứ 46 châu Âu.
Dân cư - tôn giáo
Dân số San Marino hiện nay là khoảng 34.090 người, gồm 2 dân tộc chính là người Sammarin và người Italia. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Italia.
San Marino là một nhà nước có đa số dân theo Công giáo Rôma - hơn 97% dân số tuyên xưng đức tin Công giáo Rôma, nhưng nó không phải là tôn giáo của quốc gia. Khoảng một nửa trong số những người xưng là Công giáo thực hành đức tin, không thấy Giám mục ở San Marino. Trong lịch sử, các giáo xứ khác nhau ở San Marino đã được phân chia giữa hai giáo phận Ý, chủ yếu trong giáo phận Montefeltro, và một phần trong giáo phận Rimini. Năm 1977, biên giới giữa Montefeltro và Rimini đã được điều chỉnh để tất cả các giáo xứ ở San Marino tách khỏi giáo phận Montefeltro. Các Giám mục Montefeltro-San Marino nằm ở Pennabilli, Ý.
Tuy nhiên, có một quy định về thuế thu nhập mà đối tượng nộp thuế có quyền yêu cầu phân bổ 0,3% thuế thu nhập của họ với Giáo hội Công giáo Rôma hoặc các tổ chức từ thiện khác. Các nhà thờ khác bao gồm hai giáo phái của Kitô giáo là Giáo hội Waldensian và Nhân Chứng Giê-hô-va.
Sự hiện diện của Do Thái giáo ở San Marino đã có ít nhất là 600 năm qua được đề cập đến đầu tiên bởi người Do Thái ở San Marino cuối thế kỷ XIV, trong các văn bản chính thức có ghi lại các giao dịch kinh doanh của người Do Thái. Có nhiều tài liệu trong suốt thế kỷ XV và thế kỷ XVII mô tả các giao dịch của người Do Thái và xác minh sự hiện diện của một cộng đồng Do Thái ở San Marino. Người Do Thái đã được yêu cầu đeo phù hiệu đặc biệt và sống cách biệt với người Công giáo, nhưng cũng được phép có sự bảo vệ chính thức của chính phủ.
Giao thông
Có 220 km đường bộ trong cả nước, tuyến đường chính là Xa lộ San Marino. Các nhà chức trách cấp giấy phép cho các phương tiện tư nhân với biển số San Marino đặc biệt, có màu trắng với các hình màu xanh và quốc huy, thường là một chữ cái theo sau là tối đa bốn số. Nhiều xe cũng mang mã nhận dạng xe quốc tế (màu đen trên nhãn dán hình bầu dục màu trắng), đó là "RSM".
Không có sân bay công cộng nào ở San Marino, nhưng có một đường băng tư nhân nhỏ nằm ở Torraccia và một sân bay trực thăng quốc tế nằm ở Borgo Maggiore. Hầu hết khách du lịch đến bằng đường hàng không đều hạ cánh tại Sân bay quốc tế Federico Fellini gần thành phố Rimini, sau đó di chuyển bằng xe buýt.
Có hai con sông chảy qua San Marino, nhưng không có phương tiện giao thông đường thủy chính, và không có bến cảng. |
{{Bảng phân loại
| color = rgb(235,235,210)
| name = Động vật
| fossil_range = Kỷ Ediacara – gần đây
| image =
| image_width = 250
| image_caption =
| domain = Eukaryota
| unranked_regnum = Opisthokonta
| regnum = Animalia
| regnum_authority = Linnaeus, 1758
| subdivision_ranks = Các siêu ngành/ngành/phân ngành/phân giới /nhánh/không phân hạng
| subdivision =
Ngành Agmata (Không xác định liên ngành hoặc phân giới)
Phân giới/Siêu ngành Vendobionta †
Petalonamae †
Proarticulata †
Trilobozoa †
Medusoid †Phân giới Parazoa Placozoa
Archaeocyatha
Porifera
Calcarea
Silicarea
Hexactinellida
Homoscleromorpha
Demospongiae
StromatoporoideaPhân giới Eumetazoa Radiata (không phân hạng) Ctenophora (Sứa lược)
Cnidaria (Sứa lông châm)
Trilobozoa † (có lẽ)
Bilateria (không phân hạng) Xenacoelomorpha
Acoelomorpha
Xenoturbellida
Nhánh Nephrozoa
Siêu ngành Deuterostomia Chordata (Dây sống)
Cephalochordata
Nhánh Olfactores
Tunicata
Vertebrata
Nhánh Ambulacraria
Hemichordata (Bán dây sống)
Echinodermata
(Không phân hạng) Cambroernida †
Vetulicolia †
Saccorhytida †
(Không phân hạng) Protostomia
Siêu ngành Ecdysozoa Lớp Palaeoscolecida †
Nhánh Cycloneuralia
Nhánh Scaplidophora
Kinorhyncha
Loricifera
Priapulida
Nhánh Nematoida
Nematoda
Nematomorpha
(Không phân hạng) Panarthropoda
Chi Sialomorpha †
Lobopodia †
Onychophora
Nhánh Tactopoda
Tardigrada
Arthropoda
(Không phân hạng) Spiralia
Platytrochozoa
Siêu ngành Platyzoa Nhánh Rouphozoa
Platyhelminthes
Gastrotricha
Nhánh Gnathifera
Rotifera
Acanthocephala
Gnathostomulida
Micrognathozoa
Cycliophora
Siêu ngành Lophotrochozoa Cycliophora
Annelida
Sipuncula
Mollusca
Nhánh Kryptotrochozoa
Nhánh Lophophorata
Nhánh Bryozoa s.l.
Bryozoa
Entoprocta
Nhánh Brachiopoda
Phoronida
Brachiopoda
Hyolitha †
(Không phân hạng) Mesozoa
Monoblastozoa
Orthonectida
Dicyemida
|superdomain=Neomura}}Động vật là một nhóm sinh vật đa bào, nhân chuẩn, được phân loại là giới Động vật (Animalia, đồng nghĩa: Metazoa''') trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết động vật có khả năng di chuyển một cách tự nhiên và độc lập.
Hầu hết các ngành động vật được biết đến nhiều nhất đã xuất hiện hóa thạch vào thời kỳ Bùng nổ kỷ Cambri, khoảng 542 triệu năm trước. Động vật được chia thành nhiều nhóm nhỏ, một vài trong số đó là động vật có xương sống (chim, động vật có vú, lưỡng cư, bò sát, cá); động vật thân mềm (trai, hàu, bạch tuộc, mực, và ốc sên); động vật Chân khớp (cuốn chiếu, rết, côn trùng, nhện, bọ cạp, tôm hùm, tôm); giun đốt (giun đất, đỉa); bọt biển và sứa.
Từ nguyên
Từ "animal" xuất phát từ tiếng Latin animalis'', có nghĩa là "có thở". Trong sử dụng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, từ "động vật" thường bị sử dụng dương vật để phối giống - từ "động vật" đó dùng để chỉ tất cả các thành viên của giới Animalia trừ con người. Theo nghĩa sinh học , "động vật" dùng để chỉ tất cả các thành viên của giới Animalia, bao gồm cả con người.
Đặc điểm
Động vật có vài đặc điểm riêng tách chúng ra khỏi các sinh vật sống khác. Động vật là sinh vật nhân chuẩn và đa bào, giúp phân biệt chúng với vi khuẩn và hầu hết sinh vật đơn bào. Động vật sống dị dưỡng, tiêu hóa thức ăn trong cơ thể, giúp phân biệt chúng với thực vật và tảo. Chúng cũng khác biệt với thực vật ở chỗ thiếu thành tế bào cứng (thành cellulose). Tất cả động vật có thể di chuyển, ít nhất là trong một giai đoạn sống. Ở hầu hết động vật, phôi trải qua giai đoạn phôi nang (blastula), một giai đoạn riêng biệt đặc trưng ở động vật.
Cấu trúc
Trừ vài ngoại lệ, như là bọt biển (ngành Porifera) và Placozoa, động vật có cơ thể được chia thành các mô. Chúng có cơ bắp, dùng để thực hiện và kiểm soát vận động, các mô thần kinh, dùng để gửi và xử lý tín hiệu. Thông thường, cơ thể có một hệ tiêu hóa, với một miệng (như thủy tức) hay cả miệng và hậu môn (như cá). Tất cả động vật có tế bào nhân chuẩn.
Sinh sản và phát triển
Gần như tất cả động vật trải qua một số hình thức sinh sản hữu tính. Chúng có những tế bào nhỏ có chức năng sinh sản, di chuyển được như tinh trùng hay lớn hơn, không di chuyển được như trứng. Tình trùng và trứng sẽ kết hợp để tạo thành hợp tử, hợp tử phát triển để tạo thành cá thể mới.
Nhiều loài động vật cũng có khả năng sinh sản vô tính. Việc này có thể xảy ra thông qua trinh sản, trứng được tạo ra mà không cần giao phối, phân chồi, hay phân mảnh.
Hợp tử ban đầu phát triển thành một khối tế bào hình cầu rỗng, được gọi là phôi nang, sau sẽ được sắp xếp lại. Ở bọt biển, ấu trùng phôi nang bơi đến một vị trí mới và phát triển thành một con bọt biển mới. Trong các nhóm khác, phôi nang trải qua những sắp xếp phức tạp hơn.
Nguồn gốc và hóa thạch
Loài động vật đầu tiên thường được coi là tiến hóa từ một loại trùng roi có tế bào nhân chuẩn. Họ hàng gần gũi nhất được biết đến của chúng là Choanoflagellatea. Nghiên cứu phân tử đặt động vật trong một siêu nhóm được gọi là Opisthokonta (sinh vật lông roi sau), cùng với choanoflagellate, nấm và một số sinh vật nguyên sinh ký sinh nhỏ. Tên này đến từ vị trí của roi trong tế bào có thể chuyển động, như tinh trùng ở hầu hết động vật, trong khi các sinh vật nhân chuẩn khác có lông roi trước.
Những hóa thạch đầu tiên được cho có thể là động vật xuất hiện ở thành hệ Trezona, tây Central Flinders, Nam Úc. Những hóa thạch này được xem là loài bọt biển đầu tiên. Chúng được tìm thấy trong lớp đá 665 triệu năm tuổi.
Hóa thạch tiếp theo có thể là động vật cổ nhất được tìm thấy vào thời kỳ Tiền Cambri, khoảng 610 triệu năm trước. Hóa thạch này khó mà liên quan đến các hóa thạch sau nó. Tuy nhiên, hóa thạch này có thể đại diện cho động vật tiền thân của động vật ngày nay, nhưng chúng cũng có thể là một nhóm tách biệt hoặc thậm chí không phải động vật thực sự.
Lịch sử phân loại
Aristotle chia sinh vật sống ra làm động vật và thực vật, Carolus Linnaeus (Carl von Linné) cũng làm theo cách này trong lần phân loại thứ bậc đầu tiên. Kể từ đó các nhà sinh học đã bắt đầu nhấn mạnh mối quan hệ tiến hóa, ví dụ sinh vật đơn bào ban đầu được xem là động vật bởi khả năng di chuyển của chúng, nhưng nay được tách riêng.
Trong sơ đồ ban đầu của Linnaeus, động vật là một trong ba giới, phân chia thành các lớp Vermes, Insecta, Pisces, Amphibia, Aves, và Mammalia. Kể từ đó, bốn lớp cuối được gộp thành một ngành duy nhất, Chordata, trong khi hai lớp còn lại bị tách ra.
Sự đa dạng |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.