text
stringlengths 0
512k
|
---|
Victor-Marie Hugo (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một nhà văn, chính trị gia thi sĩ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d'automne (1831) hay Les Contemplations (1856). Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles (1859 và 1877). Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng. Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell (1827) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani (1830) và Ruy Blas (1838).
Victor Hugo đã cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thơ ca và sân khấu. Ông được người đương thời ngưỡng mộ nhưng cũng gây ra tranh cãi ở một số tác gia hiện đại. Cuộc lưu đày 20 năm trong đế chế thứ hai của ông đặt ra sự suy ngẫm cho nhiều thế hệ về vai trò của một nhà văn trong đời sống chính trị xã hội.
Những lựa chọn mang tính đạo đức và chính trị của Victor Hugo, cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại đó. Khi qua đời, Victor Hugo được nhà nước cử lễ quốc tang và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon.
Đầu đời
Victor-Marie Hugo sinh ngày 26 tháng 2 năm 1802 tại Besançon ở miền Đông nước Pháp. Ông là đứa con thứ 3, và là con út, của đại tướng Joseph Léopold Sigisbert Hugo (1774–1828), một vị tướng trong quân đội Napoléon, và họa sĩ Sophie Trébuchet (1772–1821); hai người anh của ông là: Abel Joseph (1798–1855) và Eugène (1800–1837). Gia đình Hugo đến từ Nancy ở Lorraine, ông nội của Victor Hugo là một thương gia buôn gỗ. Cha ông gia nhập quân đội Cách mạng Pháp năm mười bốn tuổi, ông là một người vô thần và là người ủng hộ nhiệt thành cho nền cộng hòa được thành lập sau khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ vào năm 1792. Sophie, mẹ của Victor, là một người Công giáo sùng đạo, trung thành với Vương tộc Bourbon đã bị phế truất. Họ gặp nhau ở Châteaubriant, cách Nantes vài dặm vào năm 1796 và kết hôn vào năm sau đó.
Vì cha của Hugo là một sĩ quan trong quân đội của Napoléon, gia đình ông phải thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác, Sophie sinh được ba người con trong vòng bốn năm." Victor Hugo tin rằng ông đã được sinh ra vào ngày 24 tháng 6 năm 1801, đây là nguồn gốc của số 24601 của Jean Valjean, nhân vật chính trong tiểu thuyết Những người khốn khổ do chính ông viết.
Vào năm 1810, cha của Hugo được vua Tây Ban Nha Joseph Bonaparte khi đó là Bá tước Hugo de Cogolludo y Sigüenza, mặc dù có vẻ như tước hiệu Tây Ban Nha không được công nhận hợp pháp ở Pháp. Hugo sau đó tự xưng là tử tước, và chính là "Vicomte Victor Hugo", ông được bổ nhiệm làm người Peerage của Pháp vào ngày 13 tháng 4 năm 1845.
Mệt mỏi vì phải chuyển nơi ở liên tục trong cuộc sống quân ngũ, Sophie tạm thời tách khỏi Léopold và định cư ở Paris vào năm 1803 với các con trai của mình, bà bắt đầu gặp Tướng Victor Fanneau de La Horie, cha đỡ đầu của Hugo, người từng là đồng đội của Tướng Hugo trong chiến dịch ở Vendee. Vào tháng 10 năm 1807, gia đình tái gia nhập Leopold, lúc này là Đại tá Hugo, Tỉnh trưởng tỉnh Avellino. Tại thành phố đó, Victor được dạy toán bởi Giuseppe de Samuele Cagnazzi, anh trai của nhà khoa học người Ý Luca de Samuele Cagnazzi. Sophie phát hiện ra rằng Leopold đã sống bí mật với một phụ nữ người Anh tên là Catherine Thomas.
Ngay sau đó cha của Hugo được gọi đến Tây Ban Nha để chiến đấu trong Chiến tranh Bán đảo. Madame Hugo và các con của bà được gửi trở lại Paris vào năm 1808, sau đó họ chuyển đến một tu viện cũ, 12 Impasse des Feuillantines, một dinh thự biệt lập trong một phần tư hoang vắng của tả ngạn sông Seine. Ẩn trong một nhà nguyện ở sau vườn, là Victor Fanneau de La Horie, người đã âm mưu khôi phục lại nhà Bourbons và đã bị kết án tử hình vài năm trước đó. Anh ấy đã trở thành một người cố vấn cho Victor và những người anh em của anh ấy.
Năm 1811, gia đình ông cùng cha đến Tây Ban Nha, Victor và các anh trai được gửi đến trường trong khi Sophie trở về Paris một mình, hiện đã chính thức ly thân với chồng. Năm 1812, Victor Fanneau de La Horie bị bắt và bị xử tử. Vào tháng 2 năm 1815, Victor và Eugene được đưa đi khỏi mẹ và được cha của họ đưa vào Pension Cordier, một trường nội trú tư nhân ở Paris, nơi Victor và Eugène ở lại ba năm trong khi cũng tham gia các bài giảng tại Lycée Louis le Grand.
Vào ngày 10 tháng 7 năm 1816, Hugo đã viết trong nhật ký của mình: “Tôi sẽ là Chateaubriand hoặc không là gì cả”. Năm 1817, ông đã viết một bài thơ cho một cuộc thi do Academie Française tổ chức, cuộc thi mà ông đã được vinh danh. Các Viện sĩ từ chối tin rằng ông chỉ mới mười lăm. Victor chuyển đến ở với mẹ tại 18 Rue des Petits-Augustins năm sau và bắt đầu theo học trường luật. Victor yêu và bí mật đính hôn, trái với mong muốn của mẹ anh, với người bạn thời thơ ấu Adèle Foucher. Vào tháng 6 năm 1821 Sophie Trebuchet qua đời, và Léopold kết hôn với người tình lâu năm của mình là Catherine Thomas một tháng sau đó. Victor kết hôn với Adèle vào năm sau. Năm 1819, Victor và các anh trai của ông bắt đầu xuất bản một tạp chí định kỳ có tên là Le Conservateur littéraire .
Nghề nghiệp
Hugo xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên sau khi kết hôn (, 1823), và cuốn thứ hai của ông xuất bản là ba năm sau (Bug-Jargal, 1826). Từ năm 1829 đến năm 1840, ông xuất bản thêm năm tập thơ (, Năm 1829; , Năm 1831; Les Chants du crépuscule, Năm 1835; , năm 1837; và , 1840), các tiểu thuyết của ông góp phần củng cố danh tiếng của ông như một trong những nhà thơ trữ tình và điện ảnh vĩ đại nhất thời đại. Giống như nhiều nhà văn trẻ cùng thế hệ, Hugo chịu ảnh hưởng sâu sắc của François-René de Chateaubriand, nhân vật nổi tiếng trong trào lưu văn học Chủ nghĩa lãng mạn và là nhân vật văn học lỗi lạc của Pháp đầu thế kỷ XIX. Khi mới mười bốn tuổi, Hugo viết trong cuốn nhật kí của mình rằng "Tôi muốn là hoặc không gì cả", và cuộc đời của ông sẽ song song với cuộc đời của những người tiền nhiệm theo nhiều cách. Thích , Hugo tiếp tục phát triển sự nghiệp theo Chủ nghĩa lãng mạn, ông còn tham gia vào chính trị (chủ yếu là người đấu tranh cho chủ nghĩa Cộng hòa), và ông bị buộc phải lưu vong do lập trường chính trị của mình.
Niềm đam mê sớm và khả năng hùng biện trong công việc ban đầu của Hugo đã mang lại thành công và danh tiếng ngay từ khi còn nhỏ. Tập thơ đầu tiên của ông: () được xuất bản vào năm 1822 khi ông mới 20 tuổi và nhận được tiền trợ cấp hoàng gia từ Louis XVIII. Mặc dù các bài thơ được ngưỡng mộ vì sự nhiệt tình và trôi chảy của chúng, bộ sưu tập tiếp theo bốn năm sau vào năm 1826 () cho thấy Hugo là một nhà thơ vĩ đại, một bậc thầy thiên bẩm về trữ tình và sáng tạo ca khúc.
Tác phẩm tiểu thuyết chính thức đầu tiên của Victor Hugo được Charles Gosselin xuất bản lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1829 mà không có tên tác giả và phản ánh lương tâm xã hội gay gắt sẽ ngấm vào tác phẩm sau này của ông. (Ngày cuối cùng của một tử tù) có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà văn sau này như Albert Camus, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky. , một truyện ngắn tài liệu về một kẻ sát nhân có thật đã bị hành quyết ở Pháp, xuất hiện vào năm 1834 và sau đó được chính Hugo coi là tiền thân của tác phẩm vĩ đại về bất công xã hội, Những người khốn khổ.
Hugo trở thành đầu tàu của phong trào văn học lãng mạn với các vở kịch Cromwell (1827) và Hernani (1830). Hernani thông báo sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn tại Pháp: được biểu diễn tại Comédie-Française, nó đã được chào đón bằng nhiều buổi biểu diễn náo nhiệt với những người theo chủ nghĩa lãng mạn và những người theo chủ nghĩa truyền thống xung đột về việc cố tình coi thường các quy tắc tân cổ điển của vở kịch. Sự nổi tiếng của Hugo với tư cách là một nhà viết kịch đã tăng lên với các vở kịch sau đó, chẳng hạn như Marion Delorme (1831), The King Amuses Himself (1832), và Ruy Blas (1838).
Cuốn tiểu thuyết (Nhà thờ Đức Bà Paris) được xuất bản năm 1831 và nhanh chóng được dịch ra các thứ tiếng khác trên khắp châu Âu. Một trong những tác động của cuốn tiểu thuyết là làm nhục cả thành phố Paris cho đến khi họ khôi phục lại Nhà thờ Đức Bà, một công trình bị lãng quên đương thời và hiện là nơi đang thu hút hàng nghìn khách du lịch đã đọc cuốn tiểu thuyết nổi tiếng này. Cuốn sách cũng truyền cảm hứng cho sự đánh giá mới đối với các tòa nhà thời kỳ tiền Phục hưng, để rồi thời gian sau chúng đã được tích cực bảo tồn.
Hugo bắt đầu lên kế hoạch cho một cuốn tiểu thuyết lớn về sự khốn cùng và bất công của xã hội ngay từ những năm 1830, nhưng phải mất đến 17 năm nữa để cho cuốn Những người khốn khổ hoàn thiện rồi mới được xuất bản vào năm 1862. Ông đã đến Toulon để thăm nhà tù Bagne vào năm 1839 và ghi chép nhiều thông tin, mặc dù ông không bắt đầu viết cuốn sách cho đến năm 1845. Trên một trong những trang ghi chú của mình về nhà tù, ông đã viết bằng các chữ cái lớn một cái tên khả quan cho người hùng của mình: "JEAN TRÉJEAN". Sau khi sách được viết xong, Tréjean trở thành Jean Valjean .Hugo có nhận thức sâu sắc về chất lượng của cuốn tiểu thuyết này, bằng chứng là trong một lá thư ông viết cho nhà xuất bản của mình, Albert Lacroix, vào ngày 23 tháng 3 năm 1862, "Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ là một trong những đỉnh cao, nếu không muốn nói là nổi bật nhất trong sự nghiệp của tôi." Tác phẩm Những người khốn khổ thuộc về người trả giá cao nhất. Nhà xuất bản và đã thực hiện một chiến dịch tiếp thị bất thường đương thời, đó chính là phát hành thông cáo báo chí về tác phẩm sáu tháng trước khi ra mắt. Ban đầu nó cũng chỉ xuất bản phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết ("Fantine"), và đã được phát hành đồng thời ở các thành phố lớn. Các phần của cuốn sách đã được bán hết chỉ trong vài giờ và có tác động không tưởng đến xã hội Pháp.
Cơ sở phê bình nói chung là thù địch với cuốn tiểu thuyết này; thấy nó không chân thành, phàn nàn về sự thô tục, cho rằng nội dung "không phải sự thật cũng không hề vĩ đại", anh em nhà Goncourt chê bai tính giả tạo, và - mặc dù đã đưa ra những đánh giá tích cực trên các tờ báo - vẫn cho rằng nó "thật ghê tởm và vô dụng". Những người khốn khổ đã chứng tỏ được mức phổ biến của nó đối với quần chúng khi những vấn đề mà nó tô đậm đã sớm nằm trong chương trình nghị sự của Quốc hội Pháp. Ngày nay, cuốn tiểu thuyết vẫn là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Nó mang tính phổ biến trên toàn thế giới và đã được chuyển thể cho điện ảnh, truyền hình và các chương trình sân khấu.
Một câu chuyện ngụy thư về thư từ ngắn nhất trong lịch sử được cho là giữa Hugo và nhà xuất bản Hurst và Blackett của ông vào năm 1862. Hugo đã đi nghỉ khi Những người khốn khổ được xuất bản, công bố. Ông hỏi về phản ứng đối với tác phẩm bằng cách gửi một bức điện có một ký tự duy nhất đến nhà xuất bản của mình, hỏi rằng "". Nhà xuất bản đã trả lời bằng một "" để chỉ ra sự thành công của nó.
Hugo quay lưng lại với các vấn đề xã hội/chính trị trong cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình, (Lao động biển cả), xuất bản năm 1866. Cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt, có lẽ do thành công trước đó của Những người khốn khổ. Tác phẩm dành riêng cho hòn đảo Guernsey, nơi ông đã trải qua 15 năm sống lưu vong. Trong truyện, Hugo kể về một người đàn ông cố gắng giành được sự chấp thuận của người cha thân yêu của mình bằng cách giải cứu con tàu của họ, vị thuyền trưởng của con tàu cố ý trốn thoát với một kho tiền đang vận chuyển, thông qua một trận chiến kiệt sức của kỹ thuật con người chống lại sức mạnh của biển và trận chiến chống lại một con mực khổng lồ được cho là quái vật thần thoại của biển cả. Vẻ ngoài là một cuộc phiêu lưu, một trong những tiểu sử gia của Hugo gọi nó là một "phép ẩn dụ cho thế kỷ XIX, khi tiến bộ kỹ thuật, sự sáng tạo tài năng và nỗ lực chăm chỉ vượt lên cái ác nội tại của thế giới vật chất."
Sau đó, Hugo trở lại viết về các vấn đề chính trị và xã hội trong cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình, (Người đàn ông cười), được xuất bản năm 1869 và vẽ nên một bức tranh phê bình tầng lớp quý tộc. Cuốn tiểu thuyết không thành công như những nỗ lực trước đó của ông, và chính Hugo cũng bắt đầu nhận xét rằng khoảng cách giữa ông và những văn hào đương thời như và ngày một lớn, những cuốn tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên của họ đã bấy giờ vượt mức độ phổ biến của các tác phẩm ông viết.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là (Chín mươi ba), xuất bản năm 1874, đề cập đến một chủ đề mà Hugo đã né tránh trước đó: Triều đại khủng bố trong Cách mạng Pháp. Mặc dù sự nổi tiếng của Hugo đã giảm vào thời điểm xuất bản, nhiều người hiện coi Chín mươi ba là một tác phẩm ngang hàng với những tiểu thuyết nổi tiếng hơn của Hugo.
Cuộc sống chính trị và lưu vong
Sau ba lần thất bại, Hugo cuối cùng cũng được bầu vào năm 1841, từ đó củng cố được vị trí của mình trong thế giới nghệ thuật và thư từ Pháp. Một nhóm các viện sĩ Pháp, đặc biệt là , đã chiến đấu chống lại "sự tiến hóa của văn học lãng mạn" và đã tìm được cách trì hoãn cuộc bầu cử của Victor Hugo. Vì vậy nên sau này ông ngày càng tham gia nhiều hơn vào chính trường Pháp.
Vào cuộc đề cử của Vua , Hugo bước vào Thượng viện Quốc hội với tư cách là một vào năm 1845, nơi ông lên tiếng chống lại án tử hình và sự bất công xã hội, ủng hộ quyền tự do báo chí và chế độ tự trị cho Ba Lan.
Năm 1848, Hugo được bầu vào Quốc hội của nền Cộng hòa thứ hai Đệ Nhị Pháp với tư cách là một người theo phe bảo thủ. Năm 1849, ông đoạn tuyệt với phe bảo thủ khi có bài phát biểu nổi tiếng kêu gọi chấm dứt sự khốn khổ và nghèo đói. Các bài phát biểu khác đã kêu gọi phổ thông đầu phiếu và giáo dục miễn phí cho mọi trẻ em. Chủ trương xóa bỏ án tử hình của Hugo đã trở nên trứ danh trên toàn thế giới.
Các bài phát biểu của quốc hội này được đăng trên tạp chí . Cuộn xuống đầu đề và các trang tiếp theo. Khi Louis Napoléon (Napoléon III) nắm hoàn toàn quyền lực vào năm 1851, thiết lập một hiến pháp chống nghị viện, Hugo bị phe đối lập tuyên bố công khai rằng ông là kẻ phản bội nước Pháp. Ông chuyển đến Brussels, sau đó là Jersey, từ đó ông bị trục xuất vì ủng hộ một tờ báo của Jersey khi họ chỉ trích Nữ hoàng Victoria. Cuối cùng, ông định cư với gia đình tại nhà Hauteville ở Cảng Saint Peter, Guernsey, nơi ông đã sống cuộc đời lưu vong từ tháng 10 năm 1855 cho đến năm 1870.
Tại thời điểm sống lưu vong, Hugo đã viết nên và xuất bản hai bài luận chính trị ngắn nổi tiếng chống Napoléon III, và . Các bài luận này đã bị cấm ở Pháp nhưng dù sao vẫn có tác động mạnh mẽ ở đó. Ông cũng đã sáng tác hoặc xuất bản một số tác phẩm hay nhất của mình khi còn ở Guernsey, bao gồm Những người khốn khổ, và ba tập thơ được ca ngợi rộng rãi gồm (,1853, , 1856 và , 1859).
Như những người đương thời, Victor Hugo đã biện minh cho chế độ Chủ nghĩa Thực dân trong giới hạn là nó được dùng trong các nhiệm vụ khai hóa và bãi bỏ mạng lưới buôn bán nô lệ trên bờ biển Barbary. Trong một bài phát biểu vào ngày 18 tháng 5, năm 1879, tại buổi yến tiệc ăn mừng sự xóa bỏ chế độ nô lệ, trước sự hiện diện của văn hào bãi nô và nghị sĩ Victor Schœlcher, Hugo đã tuyên bố rằng dòng biển Địa Trung Hải đã tạo nên một đường phân chia tự nhiên giữa "nền đỉnh cao văn minh và [...] sự man rợ không tưởng," thêm vào đó, ông nói rằng "Thượng Đế đã ban Châu Phi cho Châu Âu thì hãy lấy nó đi," để góp phần khai hóa nhân dân bản địa nơi ấy.
Có lẽ lí do trên đã phân tích được phần nào sự im lặng của ông về vấn đề ở Algeria mặc dù bản thân quan tâm sâu sắc và tham gia vào các vấn đề chính trị. Ông biết về những hành động tàn bạo mà Quân đội Pháp đã gây ra trong cuộc chinh phục Algeria của Pháp được thông qua nhật ký của ông nhưng ông chưa bao giờ tố cáo chúng một cách công khai; tuy nhiên trong Những người khốn khổ, Hugo đã viết: "Algeria bị cai trị quá khắc nghiệt, và, như trường hợp của sự cai trị Ấn Độ bởi người Anh, với sự man rợ của nhà cầm quyền còn nhiều hơn là văn minh khai hóa".
Sau khi được dịp gặp Victor Schœlcher, văn hào ủng hộ bãi nô và chế độ thực dân Pháp tại vùng Caribe, ông bắt đầu vận động đấu tranh chống chế độ nô lệ. Vào ngày 6 tháng 7, năm 1851, Hugo đã viết trong một lá thư gửi đến Maria Wetson Chapman, người Hoa Kỳ theo chủ nghĩa bãi nô, rằng: Chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ! Đấy là một tấm gương xấu mà chính nền Cộng hòa bên đó phải có nghĩa vụ xóa bỏ... Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ phải bác bỏ tự do nếu không làm thế được chế độ nô lệ. Năm 1859, ông viết một lá thư gửi cho Chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu họ tha mạng cho người ủng hộ bãi nô John Brown để danh tiếng họ sau này không bị ảnh hưởng xấu. Hugo đã biện minh cho hành động của John Brown qua những lời sau: "Nếu như nổi dậy là một nghĩa vụ linh thiêng thì chắc chắn rằng sự thiêng liêng đó được dùng để chống chế độ nô lệ." Hugo đã đồng ý truyền tin và bán một trong những bức tranh nức tiếng nhất của ông, "Le Pendu" (Người bị treo), bức tranh được xem là sự tôn kính của ông dành cho John Brown, vì như thế thì một người có thể "giữ cho kí ức người giải phóng các anh em da đen của chúng ta còn sống mãi trong mọi tâm hồn, kí ức về người liệt sĩ quả cảm John Brown khi ông đã hi sinh vì Chúa như Chúa cũng đã ra đi."
Victor Hugo đã chiến đấu suốt đời để xóa bỏ án tử hình với tư cách là một tiểu thuyết gia, nhà viết báo và thành viên Nghị viện. Quyển Ngày cuối cùng của một tử tù xuất bản năm 1829 đã phân tích nỗi đau của một người đàn ông đang chờ bị hành quyết; một số mục của Things Seen (Choses vues), cuốn nhật ký mà ông lưu giữ từ năm 1830 đến 1885, thể hiện sự lên án kiên quyết của ông đối với những gì ông coi là một bản án man rợ; vào ngày 15 tháng 9 năm 1848, bảy tháng sau Cách mạng Pháp năm 1848, ông đọc một bài phát biểu trước Quốc hội và kết luận, "Bạn đã lật đổ ngai vàng. […] Bây giờ lật đổ đoạn đầu đài. " Ảnh hưởng của ông được ghi nhận trong việc loại bỏ án tử hình khỏi hiến pháp tại Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha và Colombia . Ông cũng đã cầu xin Benito Juárez tha cho hoàng đế Maximilian I của Mexico mới bị bắt nhưng vô ích.
Mặc dù Napoléon III đã ban lệnh ân xá cho tất cả những người lưu vong chính trị vào năm 1859, nhưng Hugo đã từ chối, vì điều đó có nghĩa là ông sẽ phải hạn chế những lời chỉ trích của mình đối với chính phủ. Chỉ sau khi Napoléon III mất quyền lực và nền Cộng hòa thứ ba được tuyên bố, Hugo mới trở về quê hương vào năm 1870, sau đó ông nhanh chóng được bầu vào Quốc hội và Thượng viện.
Ông đã ở Paris trong cuộc bao vây của Quân đội Phổ vào năm 1870, nổi tiếng là ăn thịt những con vật do Sở thú Paris tặng cho ông. Khi cuộc bao vây tiếp tục, và thực phẩm ngày càng trở nên khan hiếm hơn, anh ta viết trong nhật ký rằng anh ta đã giảm "ăn những thứ không biết".
Trong thời gian Công xã Paris - chính quyền cách mạng lên nắm quyền vào ngày 18 tháng 3 năm 1871 và bị lật đổ vào ngày 28 tháng 5 - Victor Hugo đã chỉ trích gay gắt những hành động tàn bạo của cả hai bên. Vào ngày 9 tháng 4, ông viết trong nhật ký của mình, “Nói ngắn gọn, cái Công xã này dốt bao nhiêu thì Quốc hội dữ bấy nhiêu. Hai bên đều có trò dại dột hết." Tuy nhiên, ông đã đưa ra quan điểm khi đề nghị hỗ trợ các thành viên của Công xã bị đàn áp dã man. Ông đã ở Brussels từ ngày 22 tháng 3 năm 1871 khi trong số ra ngày 27 tháng 5 của tờ báo Bỉ l'Indépendance Victor Hugo tố cáo việc chính phủ từ chối cấp tị nạn chính trị cho những người Cộng sản bị đe dọa bỏ tù, trục xuất hoặc hành quyết. Điều này gây náo động đến nỗi vào buổi tối, một đám đông từ năm mươi đến sáu mươi người đàn ông đã cố gắng xông vào nhà của nhà văn và hét lên "Cái chết cho Victor Hugo! Treo hắn đi! Chết cho tên vô lại!".
Victor Hugo, người đã nói "Một cuộc chiến tranh giữa những người Châu Âu là một cuộc nội chiến", là một người ủng hộ nhiệt tình cho việc thành lập Hợp chủng quốc Châu Âu . Ông trình bày quan điểm của mình về chủ đề này trong một bài phát biểu tại Đại hội Hòa bình Quốc tế diễn ra ở Paris năm 1849. Đại hội, mà Hugo là Chủ tịch, đã chứng tỏ là một thành công quốc tế, thu hút các triết gia nổi tiếng như Frederic Bastiat, Charles Gilpin, Richard Cobden và Henry Richard . Hội nghị đã giúp thiết lập Hugo trở thành một diễn giả nổi bật trước công chúng và làm nổi tiếng quốc tế của ông, đồng thời thúc đẩy ý tưởng về "Hợp chủng quốc Châu Âu". Vào ngày 14 tháng 7 năm 1870, ông đã trồng cây "sồi của Hợp chủng quốc Châu Âu" trong khu vườn của Ngôi nhà Hauteville, nơi ông đã ở trong thời gian lưu vong tại Guernsey từ năm 1856 đến năm 1870. Cuộc thảm sát những người theo đạo Cơ đốc Balkan bởi người Thổ vào năm 1876 đã truyền cảm hứng cho ông viết bài Pour la Serbie (Vì Serbia) trên tờ báo Le Rappel của các con trai ông. Bài phát biểu này ngày nay được coi là một trong những hành vi sáng lập của lý tưởng châu Âu.
Vì quan tâm đến quyền của nghệ sĩ và quyền tác giả, ông là thành viên sáng lập của , dẫn đến Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, trong tài liệu lưu trữ đã xuất bản, ông tuyên bố mạnh mẽ rằng "bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có hai tác giả: những người cảm nhận một cách khó hiểu điều gì đó, một người sáng tạo dịch những cảm xúc này và những người hiến dâng tầm nhìn của mình về cảm giác đó. Khi một trong các tác giả qua đời, quyền hoàn toàn nên được trao lại cho người kia, người dân ". Ông ấy là một trong những người ủng hộ khái niệm người trả tiền Người trả lương công cộng Domainel, theo đó một khoản phí danh nghĩa sẽ được tính cho việc sao chép hoặc biểu diễn các tác phẩm trong phạm vi công cộng, và khoản tiền này sẽ được đưa vào một quỹ chung dành riêng cho việc giúp đỡ các nghệ sĩ, đặc biệt là những người trẻ tuổi.
Quan điểm tôn giáo
Quan điểm tôn giáo của Hugo đã thay đổi hoàn toàn trong suốt cuộc đời của ông. Khi còn trẻ và dưới ảnh hưởng của mẹ mình, ông là một người Công giáo và tuyên bố tôn trọng hệ thống phẩm trật và thẩm quyền của Giáo hội. Từ đó, ông trở thành một người Công giáo không theo đạo và ngày càng thể hiện quan điểm chống Công giáo và chống giáo sĩ. Ông lui tới Thông linh luận trong lưu vong của mình (nơi ông cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động Lên đồng được tiến hành bởi Madame Delphine de Girardin) và trong những năm sau đó định cư thành một chủ nghĩa duy lý tự nhiên thần giáo tương tự như tán thành bởi Voltaire. Năm 1872, một nhân viên điều tra dân số hỏi Hugo rằng ông có phải là người Công giáo không, và ông trả lời: "Không. Tư tưởng tự do".
Sau năm 1872, Hugo không bao giờ hết ác cảm với Giáo hội Công giáo. Ông cảm thấy Giáo hội thờ ơ trước cảnh ngộ của giai cấp công nhân dưới sự áp bức của chế độ quân chủ. Có lẽ ông cũng khó chịu vì tần suất tác phẩm của ông xuất hiện trong danh sách sách bị cấm của Giáo hội. Hugo thống kê được 740 vụ tấn công Những người khốn khổ trên báo chí Công giáo. Khi con trai của Hugo là Charles và François-Victor chết, ông khăng khăng rằng họ được chôn cất mà không có một cây thánh giá hay linh mục nào. Trong di chúc của mình, ông đã quy định tương tự về cái chết và tang lễ của chính mình.
Tuy nhiên, ông tin vào sự sống sau cái chết và cầu nguyện mỗi sáng và tối, tin chắc như ông đã viết trong The Man Who Laughs (Người đàn ông cười) rằng “Lễ Tạ ơn đã chắp cánh và bay đến đúng đích của nó. Lời cầu nguyện của bạn biết theo cách của nó tốt hơn bạn làm ".
Chủ nghĩa duy lý của Hugo có thể được tìm thấy trong các bài thơ như Torquemada (1869, về sự cuồng tín tôn giáo), The Pope (1878, chống giáo sĩ ), Các tôn giáo và tôn giáo (1880, phủ nhận tính hữu dụng của nhà thờ) và, được xuất bản sau đó, The End of Satan và Thiên Chúa (1886 và 1891 tương ứng, trong đó ông đại diện cho thiên Chúa giáo như một Điểu sư và chủ nghĩa duy lý như một thiên thần). Vincent van Gogh đã viết câu nói "Các tôn giáo qua đi, nhưng Chúa vẫn còn", của Jules Michelet, cho Hugo.
Ảnh hưởng với âm nhạc
Mặc dù tài năng của Hugo không bao gồm khả năng âm nhạc đặc biệt, nhưng ông đã có tác động lớn đến thế giới âm nhạc thông qua nguồn cảm hứng mà các tác phẩm của ông cung cấp cho các nhà soạn nhạc của thế kỷ 19 và 20. Bản thân Hugo đặc biệt thích âm nhạc của Gluck và Weber. Trong Những người khốn khổ, ông gọi đoạn điệp khúc trong Euryanthe của Weber rằng: "có lẽ là bản nhạc đẹp nhất từng được sáng tác". Ông cũng rất ngưỡng mộ Ludwig van Beethoven và đánh giá cao các tác phẩm của các nhà soạn nhạc từ những thế kỷ trước như Palestrina và Monteverdi.
Hugo có hai người bạn là nhạc sĩ nổi tiếng của thế kỷ 19: Hector Berlioz và Franz Liszt. Sau đó, ông đã chơi Beethoven tại nhà của Hugo, và Hugo đã nói đùa trong một bức thư gửi cho một người bạn rằng, nhờ những bài học piano của Liszt, anh đã học được cách chơi một bài hát yêu thích trên piano-chỉ bằng một ngón tay. Hugo cũng đã làm việc với nhà soạn nhạc Louise Bertin, viết libretto cho vở opera La Esmeralda năm 1836 của cô, dựa trên nhân vật trong Nhà thờ Đức Bà Paris. Mặc dù vì nhiều lý do khác nhau, vở opera đã sớm đóng cửa sau buổi biểu diễn và ngày nay nó ít được biết đến, nó đã được hưởng một sự hồi sinh hiện đại, cả trong một phiên bản hòa tấu piano, bài hát của Liszt tại 2007 và trong một phiên bản đầy đủ cho dàn nhạc được trình bày vào tháng 7 năm 2008 tại .
Hơn một nghìn tác phẩm âm nhạc đã được lấy cảm hứng từ các tác phẩm của Hugo từ thế kỷ 19 cho đến ngày nay. Đặc biệt, các vở kịch của Hugo, trong đó ông từ chối các quy tắc của sân khấu cổ điển để ủng hộ kịch lãng mạn, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà soạn nhạc, những người đã chuyển thể chúng thành các vở opera. Hơn một trăm vở opera dựa trên tác phẩm Hugo của và trong số đó là Lucrezia Borgia (1833) của Donizetti, (1851) và Ernani (1844) của Verdi, và (1876) của .
Tiểu thuyết của Hugo, cũng như các vở kịch của ông, đã là nguồn cảm hứng tuyệt vời cho các nhạc sĩ, khuấy động họ để tạo ra không chỉ opera và ballet mà còn cả các nhà hát âm nhạc như và Những người khốn khổ ngày càng nổi tiếng. Vở nhạc kịch hoạt động lâu nhất của London West End. Ngoài ra, những bài thơ tuyệt đẹp của Hugo đã thu hút một lượng lớn sự quan tâm đặc biệt từ các nhạc sĩ, và nhiều giai điệu đã được các nhà soạn nhạc như , , , , , , , , Rachmaninoff, và .
Ngày nay, tác phẩm của Hugo tiếp tục là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác mới. Ví dụ, cuốn tiểu thuyết chống lại hình phạt tử hình của Hugo, Ngày cuối cùng của một tử tù, đã được chuyển thể thành một vở opera bởi , với văn ca kịch của và được ra mắt bởi anh trai của hai người, giọng nam cao , vào năm 2007. Tại Guernsey, cứ hai năm một lần, Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Victor Hugo thu hút rất nhiều nhạc sĩ và buổi ra mắt các bài hát được đặt hàng đặc biệt từ những nhà soạn nhạc như , , và và dựa trên thơ của Hugo.
Đáng chú ý rằng nguồn cảm hứng cho các tác phẩm âm nhạc không chỉ nằm ở tác phẩm văn học của Hugo mà còn ở các tác phẩm chính luận của ông. Ví dụ, vào năm 2009, nhà soạn nhạc người Ý Matteo Sommacal được Festival "Bagliori d'autore" ủy quyền và đã viết một tác phẩm cho dàn diễn giả và hòa tấu thính phòng có tựa đề Actes et paroles, với một đoạn văn do Chiara Piola Caselli soạn thảo sau bài phát biểu chính trị cuối cùng của Victor Hugo đề cập đến Assemblée législative, "Bản sửa đổi của Hiến pháp Sur la" (18 tháng 7 năm 1851), và được công chiếu lần đầu tại Rome vào ngày 19 tháng 11 năm 2009, trong khán phòng của Institut français, Trung tâm Saint-Louis, Đại sứ quán Pháp tại Tòa thánh của Piccola Accademia degli Specchi với sự góp mặt của nhà soạn nhạc Matthias Kadar.
Cuối đời và qua đời
Khi Hugo trở lại Paris vào năm 1870, cả nước đã ca ngợi ông như một anh hùng dân tộc. Ông tự tin rằng mình sẽ được loại bỏ chế độ độc tài, thể hiện qua những ghi chép mà ông lưu giữ vào thời điểm đó: “Chế độ độc tài là một tội ác. Đây là một tội ác mà tôi sẽ phạm phải" ông cảm thấy mình phải gánh vác trách nhiệm đó. Mặc dù nổi tiếng, Hugo vẫn thất cử trong cuộc tái tranh cử vào Quốc hội năm 1872.
Trong suốt cuộc đời của mình, Hugo luôn tin tưởng vào sự tiến bộ không ngừng của con người. Trong bài phát biểu cuối cùng trước công chúng vào ngày 3 tháng 8 năm 1879, ông đã tiên tri một cách lạc quan quá mức, “Trong thế kỷ XX chiến tranh sẽ chết, đoạn đầu đài sẽ chết, hận thù sẽ chết, biên cương giới hạn sẽ chết, những giáo điều sẽ chết; con người sẽ sống."
Trong một thời gian ngắn, ông bị đột quỵ nhẹ, con gái Adèle của ông bị đưa vào nhà thương điên, và hai con trai của ông qua đời. (Tiểu sử của Adèle đã truyền cảm hứng cho bộ phim Câu chuyện về Adele H.) Vợ ông Adèle đã qua đời vào năm 1868
Người tình chung thủy của ông, Juliette Drouet qua đời năm 1883, chỉ hai năm trước khi ông qua đời. Bất chấp nổi đau tin thần, Hugo vẫn cam kết vì sự nghiệp thay đổi chính trị. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1876, ông được bầu vào Thượng viện mới được thành lập. Giai đoạn cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông được coi là một thất bại. Hugo không đạt được nhiều thành tích trong Thượng viện.
Hugo bị đột quỵ nhẹ vào ngày 27 tháng 6 năm 1878.Để tôn vinh ông đã bước vào tuổi 80, một trong những lễ tưởng nhớ lớn nhất dành cho một nhà văn còn sống đã được tổ chức. Lễ kỷ niệm bắt đầu vào ngày 25 tháng 6 năm 1881, khi Hugo được tặng bằng bình hoa, món quà truyền thống dành cho các vị vua. Vào ngày 27 tháng 6, một trong những cuộc diễu hành lớn nhất trong lịch sử nước Pháp đã được tổ chức.
Những người tuần hành trải dài từ , nơi tác ông đang sống, ở , và tất cả các con đường đến trung tâm của Paris. Những người diễu hành đã diễu hành trong sáu giờ khi Hugo ngồi bên cửa sổ nhà mình. Mỗi inch và chi tiết của sự kiện đều dành cho Hugo, hướng dẫn viên chính thức thậm chí còn đeo hoa ngô như một sự ám chỉ đến bài hát của Fantine trong . Vào ngày 28 tháng 6, thành phố Paris đổi tên Đại lộ d'Eylau thành Đại lộ Victor-Hugo. Từ đó, các bức thư gửi tới đây được dán nhãn "Gửi cho ông Victor Hugo, Tại đại lộ của ông, Paris".
Hai ngày trước khi chết, ông đã để lại một bức thư với những lời cuối cùng: "Yêu là phải hành động".
Vào ngày 20 tháng 5 năm 1885, Le Petit Journal đã xuất bản bản tin y tế chính thức về tình trạng sức khỏe của Hugo. "Bệnh nhân lừng lẫy" đã hoàn toàn tỉnh táo và nhận thức được rằng không còn hy vọng nào cho mình. Họ cũng báo cáo từ một nguồn đáng tin cậy rằng vào một thời điểm trong đêm ông đã thì thầm alexandrin, "En moi c'est le combat du jour et de la nuit" - "Trong tôi, đây là cuộc chiến giữa ngày và đêm". Le Matin đã xuất bản một phiên bản dịch khác, "Đây là trận chiến giữa ngày và đêm."
Hugo qua đời vì bệnh viêm phổi vào ngày 22 tháng 5 năm 1885, ở tuổi 83. Tang lễ của ông được cử hành quốc tang long trọng. Ông không chỉ được tôn kính như một nhân vật vĩ đại trong văn học, mà còn là một chính khách đã định hình nên nền Cộng hòa thứ ba và nền dân chủ ở Pháp. Trong suốt cuộc đời của mình, ông vẫn là một người bảo vệ tự do, bình đẳng và tình huynh đệ cũng như một nhà vô địch kiên quyết của nền văn hóa Pháp. Năm 1877, 75 tuổi, ông viết, “Tôi không thuộc kiểu của mấy ông già dễ tính. Tôi vẫn sẽ nổi nóng và bạo lực. Tôi hét lên và tôi cảm thấy phẫn nộ và tôi khóc. Khốn cho ai làm hại nước Pháp! Tôi tuyên bố sẽ chết một người yêu nước cuồng tín."
Mặc dù ông đã yêu cầu một tang lễ một cách giản dị, tuy nhiên ông đã được tổ chức tang lễ cấp nhà nước theo sắc lệnh của Tổng thống Jules Grévy. Hơn hai triệu người tham gia đám tang của ông ở Paris từ Khải Hoàn Môn đến điện Panthéon, nơi ông được chôn cất. Ông được chôn trong hầm mộ cùng với và . Hầu hết các thị trấn và thành phố lớn của Pháp đều có đường phố hoặc quảng trường mang tên ông.
Hugo để lại năm câu như di chúc cuối cùng của mình, sẽ được xuất bản chính thức:
Hội hoạ
Hugo đã xuất bản hơn 4.000 bản vẽ. Thập kỉ 1830 là lúc ông đã sáng tác khá nhiều bản phác thảo và các bức biếm họa, đồng thời việc vẽ tranh núi hoặc tượng kỷ niệm bằng bút chì trong quyển nhật kí lưu vong của ông đã trở thành một thói quen. Ban đầu được ông xem như một sở thích bình thường, hội họa dần trở nên quan trọng hơn đối với Hugo ngay trước khi sống lưu vong khi ông quyết định ngừng viết để cống hiến cho chính trị. Hugo chỉ vẽ trên giấy, và thường là những bức tranh nhỏ có màu nâu sẫm hoặc màu đen của bút và mực, đôi khi có màu trắng.
Tranh của ông bắt đầu có một kiểu mẫu mới kể từ khi được truyền cảm hứng từ các chuyến đi bên bờ sông Rhein với Juliette Drouet, họa tiết các bức ấy gồm nhiều nét than chì tượng trưng cho những thành phố điển hình ở thung lũng Rhein. Trong những năm lưu vong tại quần đảo Eo Biển ở Jersey và Guernsey từ 1852 đến 1870, Victor Hugo được truyền cảm hứng từ cảnh biển bao la và đã sáng tác nhiều bức đỉnh cao, đa số là tranh cảnh biển, bão tố và thuyền bị đắm, với sự ứng dụng của vài kĩ thuật đồ họa độc đáo như giấy nến, đường giấy cắt, và in ren. Các bản vẽ còn sót lại được hoàn thiện một cách đáng ngạc nhiên và "hiện đại" trong phong cách và cách thực hiện chúng, báo trước các kỹ thuật thử nghiệm của Chủ nghĩa Siêu thực và Chủ nghĩa biểu hiện Trừu tượng .
Ông sẽ không ngần ngại sử dụng giấy nến, vết mực, vũng nước và vết bẩn, ấn tượng bằng ren của con mình, "" hoặc gấp (ví dụ: Rorschach blots), "" hoặc cọ xát, thường sử dụng than từ que diêm hoặc ngón tay của mình thay vì bút hoặc bút lông. Đôi khi ông còn cho cà phê hoặc bồ hóng vào để đạt được hiệu quả như ý muốn. Có thông tin cho rằng Hugo thường vẽ bằng tay trái hoặc không nhìn vào trang sách, hoặc trong các buổi Lên đồng Spiritist, để tiếp cận tâm trí vô thức của mình, một khái niệm chỉ được Sigmund Freud phổ biến sau này.
Mặc dù những tác phẩm hội họa của ông đa phần khá thân mật, một số lại được dùng để minh họa cho các tác phẩm văn chương của ông (như những bức vẽ dành cho Les Travailleuirs de la Mer (Lao động biển cả), Les Rhin, , và La Légende des siècle). Các bức tranh còn lại là chủ đề của một tác phẩm được xuất bản năm 1862 mang tên Những bức tranh của Victor Hugo. Sau khi ông mất, vào năm 1888, một số bức tranh được chưng bày để góp phần gây quỹ cho công trình xây dựng đài kỷ niệm tưởng nhớ nhà thơ. Mãi sau này các tác phẩm hội họa của Hugo mới được đưa vào những triển lãm danh giá như Mặt trời mực tại Petit Palais nhân lễ kỷ niệm bách chu niên của ông vào năm 1985, tương tự vào năm 2021 gần đây, triển lãm "Victor Hugo, các tác phẩm hội họa" được dự tính ra mắt tại Maison de Victor Hugo. Nhiều công trình triển lãm khác cũng xuất hiện ngoại quốc như ở Bologna, Bruxelles, Madrid, Zurich, Lausanne, New York, Los Angeles, và tại nhiều thành phố ở Nhật Bản.
Hugo đã giấu tác phẩm nghệ thuật của mình ra khỏi mắt công chúng, vì sợ nó sẽ làm lu mờ tác phẩm văn học của ông. Tuy nhiên, ông rất thích nói về những bức vẽ của mình với gia đình và bạn bè, nhiều trong số đó được tặng làm quà cho những người đến thăm khi ông sống lưu vong chính trị. Một số tác phẩm của ông đã được đánh giá cao bởi các nghệ sĩ đương đại như Vincent van Gogh và người thứ hai bày tỏ quan điểm rằng nếu Hugo quyết định trở thành một họa sĩ thay vì một nhà văn, ông sẽ thua kém các nghệ sĩ trong thế kỷ của họ. Ông đã quyết định trao lại mọi bức vẽ và toàn bộ bản thảo của mình cho Thư viện Quốc gia Pháp.
Đời tư
Gia đình
Hôn nhân
Victor Hugo kết hôn với Adèle Foucher, bạn thân 10 năm đầu đời, vào tháng 10 năm 1822 sau khi thiết lập một mối quan hệ lãng mạn giữa hai người vào năm 1819. Một số không ít bài thơ mà ông xuất bản từ 1822 đến 1835 đều được dành tặng cho người vợ của ông. Từ năm 1830 đến năm 1837 Adèle có quan hệ tình cảm với Charles-Augustin Sainte Beuve, một nhà phê bình và nhà văn.
Vào năm 1863, Adèle Foucher xuất bản tác phẩm "Victor Hugo thuật lại từ một nhân chứng của đời ông", đây là một bộ sưu tầm những ký ức riêng tư của chồng bà và những lời khai quý giá về cuộc đời của văn hào. Tác phẩm đã có sự cống hiến của Charles Hugo, Auguste Vacquerie, và đích thân chồng bà, Victor Hugo, cũng đã giúp hoàn thiện bộ sưu tầm này.
Bất chấp công việc riêng, Adèle và Hugo đã sống với nhau gần 46 năm cho đến khi bà qua đời tại Brussels vào ngày 27 tháng 8, năm 1868. Hugo khi đó vẫn bị trục xuất khỏi Pháp, ông đã không thể tham dự lễ tang của bà ở Villequier, nơi con gái ông Léopoldine được chôn cất.
Con cái
Adèle và Victor Hugo có đứa con đầu lòng vào năm 1823, nhưng cậu bé đã chết khi còn nhỏ. Vào ngày 28 tháng 8 năm 1824, đứa con thứ hai Léopoldine được sinh ra, tiếp theo là Charles vào ngày 4 tháng 11 năm 1826, François-Victor vào ngày 28 tháng 10 năm 1828, và Adèle vào ngày 28 tháng 7 năm 1830.
Người con gái lớn nhất và được Victor Hugo yêu thương nhất, Léopoldine, qua đời năm 1843 ở tuổi 19, ngay sau cuộc hôn nhân của cô với Charles Vacquerie. Vào ngày 4 tháng 9, cô bị chết đuối trên sông Seine tại Villequier khi chiếc thuyền của cô bị lật. Người chồng trẻ của cô cũng đã chết khi cố gắng cứu cô. Cái chết khiến cha cô đau đớn tột cùng; Vào thời điểm đó, Hugo đang đi du lịch ở miền Nam nước Pháp, ông biết về cái chết của Léopoldine từ một tờ báo mà ông đọc trong một quán cà phê. Sau đó, ông đã viết nhiều bài thơ về cuộc sống và cái chết của con gái mình. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông về vụ việc này là "Demain, dès l'aube" (Ngày mai, lúc Bình minh), trong đó ông mô tả việc đi thăm mộ con gái ông.
Ông mô tả cú sốc và đau buồn của mình trong bài thơ nổi tiếng "À Villequeir" (Ở Villequier):
Lưu đài
Hugo quyết định sống lưu vong sau cuộc đảo chính của Napoléon III vào cuối năm 1851 . Sau khi rời Pháp, Hugo sống ở Brussels một thời gian ngắn vào năm 1851, và sau đó chuyển đến Quần đảo Channel, đầu tiên đến Jersey (1852–1855) và sau đó đến hòn đảo nhỏ hơn Guernsey vào năm 1855, nơi ông ở lại cho đến khi Napoléon III mất quyền lực vào năm 1870. Mặc dù Napoléon III tuyên bố đại xá năm 1859, theo đó Hugo có thể trở về Pháp một cách an toàn, nhưng tác giả vẫn sống lưu vong, chỉ trở về khi Napoléon III bị tước bỏ quyền lực do thành lập nền Cộng hòa thứ ba của Pháp vào năm 1870, do kết quả của thất bại của Pháp trong trận Sedan trong Chiến tranh Pháp-Phổ . Sau Cuộc vây hãm Paris từ 1870 đến 1871, Hugo sống một lần nữa ở Guernsey từ 1872 đến 1873, và sau đó cuối cùng trở về Pháp cho phần còn lại của cuộc đời. Năm 1871, sau cái chết của con trai Charvles, Hugo giành quyền chăm sóc các cháu Jeanne và Georges-Victor.
Các mối quan hệ khác
Juliette Drouet
Từ tháng 2 năm 1833 cho đến khi bà qua đời vào năm 1883, Juliette Drouet đã dành trọn cuộc đời cho Victor Hugo, người không bao giờ kết hôn với bà kể cả sau khi vợ ông qua đời vào năm 1868. Anh đưa cô đi nhiều chuyến và cô theo anh lưu vong ở Guernsey . Ở đó Hugo thuê một ngôi nhà cho cô gần nhà Hauteville , ngôi nhà của gia đình anh. Cô ấy đã viết khoảng 20.000 bức thư trong đó cô ấy bày tỏ niềm đam mê của mình hoặc trút sự ghen tuông lên người yêu của cô ấy. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1870 trong Cuộc vây hãm Paris (19 tháng 9 năm 1870 - 28 tháng 1 năm 1871) Hugo lo sợ điều tồi tệ nhất. Ông đã để lại cho các con của mình một bức thư có nội dung như sau:
“JD Cô ấy đã cứu mạng tôi vào tháng 12 năm 1851. Đối với tôi, cô ấy đã trải qua cuộc sống lưu vong. Chưa bao giờ linh hồn cô ấy rời bỏ tôi. Hãy để những người đã yêu tôi yêu cô ấy. Hãy để những người đã yêu thương tôi tôn trọng cô ấy. Cô ấy là góa phụ của tôi." VH
Léonie d'Aunet
Trong hơn bảy năm, Léonie d'Aunet, một phụ nữ đã có gia đình, vướng vào mối quan hệ yêu đương với Hugo. Cả hai bị bắt quả tang ngoại tình vào ngày 5 tháng 7 năm 1845. Hugo, người đã là thành viên của Phòng những người ngang hàng kể từ tháng 4, tránh bị kết án trong khi tình nhân của ông phải ngồi tù hai tháng và sáu trong một tu viện. Nhiều năm sau khi chia tay, Hugo đã quan tâm đến việc hỗ trợ cô về mặt tài chính.
Khác
Hugo đã tự do kiềm chế sự gợi cảm của mình cho đến vài tuần trước khi qua đời. Ông đã tìm kiếm rất nhiều phụ nữ ở mọi lứa tuổi, có thể là gái điếm, diễn viên, người ngưỡng mộ, người hầu hoặc nhà cách mạng như Louise Michel để hoạt động tình dục. Vừa là graphomaniac và erotomaniac, ông đã báo cáo một cách có hệ thống các công việc bình thường của mình bằng cách sử dụng mã riêng của mình, như Samuel Pepys đã làm, để đảm bảo rằng chúng sẽ được giữ bí mật. Ví dụ, ông viện đến từ viết tắt tiếng Latin (osc. nghĩa là những nụ hôn) hoặc Tây Ban Nha (Misma. Mismas cosas: Giống nhau. Những điều tương tự). Các từ đồng âm không ít khi xảy ra: Seins (Vú) trở thành Saint (Thánh); Poële (Bếp) thực chất là để chỉ Poils (Lông mu ). Phép tương tự cũng cho phép ông che giấu ý nghĩa thực sự: Suisses (Thụy Sĩ) của phụ nữ là bộ ngực của cô - do Thụy Sĩ nổi tiếng về sữa. Sau cuộc hẹn với một phụ nữ trẻ tên là Laetitia, Hugo sẽ viết Joie (Hạnh phúc) vào nhật ký của mình. Nếu ông thêm t.n. (toute nue) thì có nghĩa là cô ấy đã cởi truồng trước mặt ông. Các chữ cái đầu S.B. được phát hiện vào tháng 11 năm 1875 có thể ám chỉ Sarah Bernhardt .
Vinh danh
Di sản của ông đã được vinh danh trên nhiều phương diện, bao gồm cả việc chân dung của ông được đặt trên đồng tiền của Pháp.
Guernsey đã dựng một bức tượng của nhà điêu khắc Jean Boucher ở Vườn Candie (Cảng Saint Peter) để tưởng nhớ thời gian ông ở lại quần đảo. Thành phố Paris đã bảo tồn các dinh thự của ông Hauteville House, Guernsey, và , Paris, như viện bảo tàng. Ngôi nhà nơi ông ở tại Vianden, Luxembourg, vào năm 1871 cũng đã trở thành một bảo tàng kỷ niệm.
Đại lộ Victor-Hugo ở quận 16 của Paris mang tên của Hugo và liên kết với đến vùng lân cận của bằng cách đến . Quảng trường này được phục vụ bởi một trạm dừng Paris Métro cũng được đặt tên để vinh danh ông. Tại thị trấn có một con phố chính, một trường học, bệnh viện và một số quán cà phê được đặt theo tên của Hugo, và một số đường phố và đại lộ trên khắp nước Pháp được đặt theo tên của ông. Trường học được thành lập tại thị trấn nơi ông sinh ra, Ở Pháp. , nằm ở Shawinigan, Quebec, được đặt tên để tôn vinh ông. Một con phố ở San Francisco, Phố Hugo, được đặt theo tên ông.
Tại thành phố Avellino, Ý, Victor Hugo đã sống một thời gian ngắn tại nơi mà ngày nay được gọi là khi đoàn tụ với cha mình, , vào năm 1808. Hugo sau đó đã viết về thời gian ngắn ngủi của mình ở đây, trích dẫn (Đó là một cung điện bằng đá cẩm thạch).
Có một bức tượng của Hugo đối diện với Museo Carlo Bilotti ở Rome, ÝVictor Hugo là tên của thành phố Hugoton, Kansas.
Ở Havana, Cuba, có một công viên mang tên ông.
Một bức tượng bán thân Hugoton của Hugo đứng gần lối vào của Cung điện Mùa hè Cổ ở Bắc Kinh.
Một bức tranh khảm kỷ niệm Hugo được đặt trên trần của Tòa nhà Thomas Jefferson của Thư viện Quốc hội
Đường sắt Luân Đôn và Tây Bắc được đặt tên là 'Prince of Wales' Class 4-6-0 No 1134 theo tên Hugo. Đường sắt Anh đã duy trì đài tưởng niệm này, đặt tên Đơn vị Điện 92001 theo tên ông.
Hugo được tôn là vị thánh của Việt Nam, một tôn giáo mới được thành lập ở Việt Nam vào năm 1926.
Hình ảnh
Tác phẩm
Kịch
Cromwell (1827)
Hernani (Trận chiến Hernani, 1830)
Marion Delorme (1831)
Le Roi s'amuse (Vị vua tiêu khiển,1832)
Lucrèce Borgia (1833)
Marie Tudor (1833)
Angelo, tyran de Padoue (Angelo, bạo chúa thành Padoue, 1835)
Ruy Blas (1838)
Les Burgraves (1843)
Torquemada (1882)
Théâtre en liberté (1886)
Tiểu thuyết
Bug Jargal - Người nô lệ da đen (Bug-Jargal) (1820)
Han d'Islande (Hãn của Islande) (1823)
Ngày cuối cùng của một tử tù (Le Dernier Jour d'un condamné) (1829)
Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) (1831)
Claude, thằng cùng (Claude Gueux) (1834)
Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862)
Lao động biển cả (Les Travailleurs de la mer) (1866)
Thằng cười (L'Homme qui rit) (1869)
Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize) (1874)
Thơ
Tác phẩm di cảo
La Fin de Satan (Cái kết của quỷ Satan, 1886)
Toute la Lyre (1888)
Dieu (Thiên chúa, 1891)
Toute la Lyre - nouvelle série (Trọn tiếng đàn) (1893)
Les Années funestes (1898)
Dernière Gerbe (1902)
Océan. Tas de pierres (1942)
Choses vues - 1re série (Những điều trông thấy I, 1887)
Alpes et Pyrénées (1890)
France et Belgique (1892)
Correspondances - Tome I (Trận chiến I, 1896)
Correspondances - Tome II (Trận chiến II, 1898)
Choses vues - 2e série (Những điều trông thấy II, 1900)
Post-scriptum de ma vie (1901)
Mille Francs de récompense (1934)
Pierres (1951)
Mélancholia
Tác phẩm khác
Chú thích sách
Afran, Charles (1997). "Victor Hugo: French Dramatist". Website: Discover France. (Originally published in Grolier Multimedia Encyclopedia, 1997, v.9.0.1.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Victor Hugo". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 11–13.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Hernani". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 20–23.) Retrieved November 2005.
Bates, Alfred (1906). "Hugo’s Cromwell". Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. các trang 18–19.) Retrieved November 2005.
Bittleston, Misha (uncited date). "Drawings of Victor Hugo". Website: Misha Bittleston. Truy cập November 2005.
Burnham, I.G. (1896). "Amy Robsart". Website: Theatre History. (Originally published in Victor Hugo: Dramas. Philadelphia: The Rittenhouse Press, 1896. các trang 203–6, 401-2.) Retrieved November 2005.
Columbia Encyclopedia, 6th Edition (2001-05). "Hugo, Victor Marie, Vicomte" . Website: Bartleby, Great Books Online. Truy cập November 2005. Truy cập November 2005.
Haine, W. Scott (1997). "Victor Hugo" . Encyclopedia of 1848 Revolutions. Website: Ohio University. Truy cập November 2005.
Karlins, N.F. (1998). "Octopus With the Initials V.H." Website: ArtNet. Truy cập November 2005.
Liukkonen, Petri (2000). "Victor Hugo (1802-1885)" . Books and Writers. Website: Pegasos: A Literature Related Resource Site. Truy cập November 2005.
Meyer, Ronald Bruce (2004). "Victor Hugo". Website: Ronald Bruce Meyer. Truy cập November 2005.
Robb, Graham (1997). "A Sabre in the Night". Website: New York Times (Books). (Excerpt from Graham, Robb (1997). Victor Hugo: A Biography. New York: W.W. Norton & Company.) Retrieved November 2005.
Roche, Isabel (2005). "Victor Hugo: Biography" . Meet the Writers. Website: Barnes & Noble. (From the Barnes & Noble Classics edition of The Hunchback of Notre Dame, 2005.) Retrieved November 2005.
Uncited Author. "Victor Hugo" . Website: Spartacus Educational. Truy cập November 2005.
Uncited Author. "Timeline of Victor Hugo". Website: BBC. Truy cập November 2005.
Uncited Author. (2000-2005). "Victor Hugo". Website: The Literature Network. Truy cập November 2005.
Uncited Author. "Hugo Caricature" . Website: Présence de la Littérature a l’école. Truy cập November 2005.
Đọc thêm
Barbou, Alfred (1882). Victor Hugo and His Times. University Press of the Pacific: 2001 paper back edition. Book sources
Barnett, Marva A., ed. (2009). Victor Hugo on Things That Matter: A Reader. New Haven, CT: Yale University Press. Book sources
Brombert, Victor H. (1984). Victor Hugo and the Visionary Novel. Boston: Harvard University Press. Book sources
Davidson, A.F. (1912). Victor Hugo: His Life and Work. University Press of the Pacific: 2003 paperback edition. Book sources
Dow, Leslie Smith (1993). Adele Hugo: La Miserable. Fredericton: Goose Lane Editions. Book sources
Falkayn, David (2001). Guide to the Life, Times, and Works of Victor Hugo. University Press of the Pacific. Book sources
Feller, Martin, Der Dichter in der Politik. Victor Hugo und der deutsch-französische Krieg von 1870/71. Untersuchungen zum französischen Deutschlandbild und zu Hugos Rezeption in Deutschland. Doctoral Dissertation, Marburg 1988.
Frey, John Andrew (1999). A Victor Hugo Encyclopedia. Greenwood Press. Book sources
Grant, Elliot (1946). The Career of Victor Hugo. Harvard University Press. Out of print.
Halsall, A.W. et al. (1998). Victor Hugo and the Romantic Drama. University of Toronto Press.Book sources
Hart, Simon Allen (2004). Lady in the Shadows: The Life and Times of Julie Drouet, Mistress, Companion and Muse to Victor Hugo. Publish American. Book sources
Houston, John Porter (1975). Victor Hugo. New York: Twayne Publishers. Book sources
Hovasse, Jean-Marc (2001), Victor Hugo: Avant l'exil. Paris: Fayard. Book sources
Hovasse, Jean-Marc (2008), Victor Hugo: Pendant l'exil I. Paris: Fayard. Book sources
Ireson, J.C. (1997). Victor Hugo: A Companion to His Poetry. Clarendon Press. Book sources
Laster, Arnaud (2002). Hugo à l'Opéra. Paris: L'Avant-Scène Opéra, no. 208.
Maurois, Andre (1956). Olympio: The Life of Victor Hugo. New York: Harper & Brothers.
Maurois, Andre (1966). Victor Hugo and His World. London: Thames and Hudson. Out of print.
Pouchain, Gérard and Robert Sabourin (1992). Juliette Drouet, ou, La dépaysée. Paris: Fayard. Book sources
Robb, Graham (1997). Victor Hugo: A Biography. W.W. Norton & Company: 1999 paperback edition. Book sources, (description/reviews at wwnorton.com)
Tonazzi, Pascal (2007) Florilège de Notre-Dame de Paris (anthologie) Paris, Editions Arléa ISBN 2-86959-795-9 |
Moulin rouge (trong tiếng Pháp có nghĩa là "cối xay gió đỏ") là một tiệm hát (cabaret) nổi tiếng của Paris, được xây dựng năm 1889 bởi Joseph Oller. Nó nằm trong khu phố Pigalle, một "khu đèn đỏ" của Paris, trên Đại lộ Clichy, gần với đồi Montmartre.
Từ một trăm năm nay Moulin rouge được cả thế giới biết đến qua hình ảnh chiếc cối xay gió đỏ với các vũ nữ chân dài quyến rũ trong điệu nhảy Cancan nổi tiếng.
Henri de Toulouse-Lautrec sơn nhiều áp phích và cảnh thú vui về đêm tại Moulin rouge.
Tranh
áp phích
Những bộ phim về Moulin rouge
Moulin rouge được đưa lên màn ảnh nhiều lần, gần đây nhất là bộ phim ca nhạc được sản xuất năm 2001 với diễn viên Nicole Kidman thủ vai chính.
1928, Moulin Rouge của Ewald André Dupont
1934, Moulin Rouge của Sidney Lanfield, với Lucille Ball
1939, Moulin Rouge của André Hugon
1944, Moulin Rouge của Yves Mirande
1952, Moulin Rouge của John Huston, với Zsa Zsa Gabor
1955, French Can Can của Jean Renoir
2001, Moulin Rouge! của Baz Luhrmann, với Jim Broadbent, Ewan McGregor, Nicole Kidman, John Leguizamo, Kylie Minogue
Thư viện ảnh |
Notre Dame (có nghĩa là "Đức bà" trong tiếng Pháp) là tên của nhiều nhà thờ Kitô giáo, bao gồm:
Tại Việt Nam
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
Tại Pháp
Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) tại Paris
Nhà thờ Đức Bà Bảo vệ (Notre-Dame de la Garde) tại Marseille
Nhà thờ Đức Bà Reims (Notre-Dame de Reims) tại Reims
Nhà thờ Đức Bà Strasbourg (Notre-Dame de Strasbourg) tại Strasbourg
Thánh đường Đức Bà Aiguebelle (Basilica Notre-Dame d'Aiguebelle) tại Aiguebelle
Thánh đường Đức Bà Brebières (Basilica Notre-Dame de Brebières) tại Albert
Nhà thờ Đức Bà Amiens (Basilica Notre-Dame d'Amiens) tại Amiens
Thánh đường Đức Bà Arcachon (Basilica Notre-Dame d'Arcachon) tại Arcachon
Nhà thờ Đức Bà des Doms (Basilica Notre-Dame des Doms) tại Avignon
Thánh đường Đức Bà Avioth (Basilica Notre-Dame d'Avioth) tại Avioth
Thánh đường Đức Bà Beaune (Basilica Notre-Dame de Beaune) tại Beaune
Thánh đường Đức Bà May vá (Basilica Notre-Dame de Couture) tại Bernay
Nhà thờ Đức Bà Rouen (Cathédrale Notre-Dame de Rouen) tại Rouen
Thánh đường Đức Bà Ba ngôi (Basilica Notre-Dame de la Trinité) tại Blois
Thánh đường Đức Bà Bon-Secours (Basilica Notre-Dame de Bon-Secours) tại Bonsecours
Thánh đường Đức Bà Boulogne (Basilica Notre-Dame de Boulogne) tại Boulogne
Nhà thờ Đức Bà Ân huệ (Basilica Notre-Dame de Grâce) tại Cambrai
Thánh đường Đức Bà Ceignac (Basilica Notre-Dame de Ceignac) tại Ceignac
Thánh đường Đức Bà Kỳ vọng (Basilica Notre-Dame d'Espérance) tại Charleville-Mézières
Nhà thờ Đức Bà Chartres (Notre-Dame de Chartres) tại Chartres
Thánh đường Đức Bà của Trẻ con (Basilica Notre-Dame des Enfants) tại Châteauneuf-sur-Cher
Tại Canada
Thánh đường Đức Bà Montréal (Basilica Notre-Dame de Montréal) tại Montréal
Thánh đường Đức Bà Québec (Notre-Dame de Québec) tại Thành phố Québec
Thánh đường Đức Bà du Cap (Notre-Dame du Cap) tại Trois-Rivières
Thánh đường Đức Bà Ottawa (Notre-Dame d'Ottawa) tại Ottawa
Tại Bỉ
Thánh đường Đức Bà Hòa bình và Hòa đồng (Notre-Dame de Paix et de Concorde) tại Basse-Wavre
Thánh đường Đức Bà Bonsecours (Notre-Dame de Bonsecours) tại Bonsecours
Thánh đường Đức Bà Hanswijk (Notre-Dame de Hanswijk) tại Mechelen
Thánh đường Đức Bà Montaigu (Notre-Dame de Montaigu) tại Scherpenheuvel
Thánh đường Đức Bà Tongre (Notre-Dame de Tongre) tại Tongre-Notre-Dame
Thánh đường Đức Bà Chèvremont (Notre-Dame de Chèvremont) tại Vaux-sous-Chèvremont
Thánh đường Đức Bà Kỳ vọng (Notre-Dame de Bonne Espérance) tại Vellereille-Les-Brayeux
Tại Luxembourg
Nhà thờ Đức Bà Luxembourg (Notre-Dame de Luxembourg)
Tại Haiti
Nhà thờ Đức Bà Quy thiên (Notre-Dame de l'Assomption) tại Port-au-Prince |
Bộ chuyển mạch hay thiết bị chuyển mạch (tiếng Anh: switch) là một thiết bị dùng để kết nối các đoạn mạng với nhau theo mô hình mạng hình sao (star). Theo mô hình này, switch đóng vai trò là thiết bị trung tâm, tất cả các máy tính đều được nối về đây.
Switch làm việc như một Bridge nhiều cổng. Khác với Hub nhận tín hiệu từ một cổng rồi chuyển tiếp tới tất cả các cổng còn lại, switch nhận tín hiệu vật lý, chuyển đổi thành dữ liệu, từ một cổng, kiểm tra địa chỉ đích rồi gửi tới một cổng tương ứng.
Hỗ trợ công nghệ Full Duplex dùng để mở rộng băng thông của đường truyền mà không có repeater hoặc Hub nào dùng được
Trong mô hình tham chiếu OSI, switch hoạt động ở tầng liên kết dữ liệu, ngoài ra có một số loại switch cao cấp hoạt động ở tầng mạng.
Tầng 1
Một hub (một cổng vào, nhiều cổng ra), hoặc bộ lặp (một cổng vào, một cổng ra), là những thiết bị mạng đơn giản không quản lý bất kỳ lưu lượng truy cập nào đến qua nó. Bất kỳ gói tin nào vào cổng được "lập lại" trên tất cả các cổng khác, ngoại trừ cổng nhập vào. Vì mỗi gói được lặp lại trên mỗi cổng khác, sự va chạm của gói ảnh ảnh hưởng đến toàn bộ mạng, giới hạn dung lượng chung của nó. Bộ lặp được dùng để bù suy hao tín hiệu bằng cách chuyển tiếp tất cả các tín hiệu điện đến từ cổng vào tới cổng ra sau khi đã khuếch đại. Trong khi một hub được dùng để nối với nhiều thiết bị ethernet.
Từ đầu những năm 2000, có ít khác biệt về giá cả giữa một hub và một switch cấp thấp, cho nên hub hầu như được thay thế.
Switch tầng 2
Switch ở layer 2, ở một mức độ rất cơ bản, thực chất là một cầu nối trong suốt (transparent bridging) với nhiều port, mỗi port là một đoạn trong Ethernet LAN, biệt lập với các port còn lại. Việc truyền gói tin dựa hoàn toàn vào địa chỉ MAC chứa trong gói, nó sẽ không được truyền đi khi chưa biết được địa chỉ gốc.
Ích lợi của Switch:
Các thiết bị kết nối gián tiếp thông qua các port của switch
Switch làm cho các host có thể hoạt động ở chế độ song công (có thể đọc – ghi, nghe – nói) cùng lúc.
Không cần phải chia sẻ băng thông. Các port của switch sẽ quyết định băng thông truyền đi như thế nào.
Giảm tỷ lệ lỗi trong frame. Frame sẽ được kiểm tra lỗi. Các gói tin tốt khi được nhận sẽ được lưu lại trước khi chuyển đi (công nghệ store-and-forward).
Có thể giới hạn lưu lượng truyền đi ở một mức ngưỡng nào đó.
Một Switch L2 đi kèm với các loại giao diện khác nhau như 10Mbps, 100Mbps, 1Gbps, 10Gbps... và nó cũng hỗ trợ giao tiếp full-duplex trên mỗi cổng của nó. Nó cũng tạo điều kiện mở rộng mạng và kết nối với phần còn lại của mạng thông qua các cổng tốc độ cao được gọi là các cổng uplink có thể được kết nối với các thiết bị chuyển mạch L2 khác hoặc các bộ định tuyến L3.
Khác biệt giữa Switch L2 và repeater
Trong khi repeater là một thiết bị tầng vật lý (tầng 1 của Mô hình OSI) hoạt động trên tín hiệu điện từ và quang học, một Switch L2 là một thiết bị tầng liên kết dữ liệu hoạt động trên khung L2. Ngoài ra, một bộ lặp chủ yếu được sử dụng để mở rộng chiều dài của một phân đoạn LAN hoặc tăng số nút trong mạng LAN, trong khi Switch L2 mạnh hơn và thực sự được sử dụng để chuyển các frame một cách thông minh giữa các nút nguồn và đích của mạng LAN.
Nếu một bộ lặp được sử dụng để kết nối hai phân đoạn của mạng LAN, sau đó cả hai phân đoạn tạo thành một miền va chạm đơn, vì bộ lặp chuyền mỗi khung từ một phân đoạn vô điều kiện vào đoạn khác. Mặt khác, nếu một Switch L2 được sử dụng để kết nối nhiều phân đoạn của một mạng LAN, thì nó sẽ giúp giữ cho từng phân đoạn như một miền va chạm riêng biệt. Nếu các nút trong cùng một phân đoạn giao tiếp với nhau, thì giao thông bị giới hạn trong phân đoạn bởi Switch L2. Chỉ giao thông giữa các nút trên các phân đoạn được chuyển tiếp qua các cổng của L2.
Một điểm khác biệt nữa là mặc dù Repeater có nhiều cổng nhưng tất cả các cổng đều có cùng tốc độ, trong khi L2 Switch có thể có các cổng có tốc độ khác nhau. Ngoài ra, một cổng duy nhất trong Switch L2 có khả năng làm việc ở các tốc độ khác nhau dựa trên tốc độ vận hành của nút kết nối với cổng. Vì Switch L2 hỗ trợ nhiều loại giao diện, thậm chí nó có thể được sử dụng để kết nối các phân đoạn của mạng LAN với các công nghệ khác nhau (ví dụ như phân đoạn Ethernet và phân đoạn vòng Token).
Khác biệt giữa Switch L2 và bridge
Bridge là tên cũ trước đó của switch L2 khi nó (phần cứng) còn cần thêm phần mềm riêng biệt để hoạt động. Trước đây Bridge chính yếu được dùng để nối các phần của LAN với nhau để mở rộng LAN và cũng để giúp giữ cho từng phân đoạn của một LAN như một miền va chạm riêng biệt. |
Tiên Phước là một huyện trung du nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tiên Phước nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 25 km về phía tây, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Phú Ninh
Phía tây giáp huyện Hiệp Đức
Phía nam giáp huyện Bắc Trà My
Phía bắc giáp huyện Thăng Bình.
Huyện Tiên Phước có diện tích 453,22 km², dân số năm 2019 là 66.238 người, mật độ dân số đạt 146 người/km².
Điều kiện tự nhiên
Là một huyện trung du nên khí hậu trong vùng tương đối khắc nghiệt, nhiều hạn hán, thiên tai. Phần lớn diện tích trong vùng là đất nông nghiệp nhưng kém màu mỡ và tỷ lệ đất thịt rất thấp. Đây là một vùng kinh tế nghèo của tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm cấu tạo địa hình nên sông Tiên - con sông chảy quanh địa bàn huyện được mệnh danh là "con sông chảy ngược", không xuôi về biển Đông mà ngược về hướng tây-nam, đổ ra sông Thu Bồn.
Hành chính
Huyện Tiên Phước có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tiên Kỳ và 14 xã: Tiên An, Tiên Cẩm, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hà, Tiên Hiệp, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Thọ.
Lịch sử
Sau năm 1975, huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 15 xã: Tiên An, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hiệp, Tiên Kỳ, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Minh, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Quang, Tiên Sơn và Tiên Thọ.
Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 79-HĐBT. Theo đó:
Chuyển xã Tiên Kỳ thành thị trấn Tiên Kỳ (thị trấn huyện lỵ huyện Tiên Phước)
Chia xã Tiên Quang thành 2 xã: Tiên Cẩm và Tiên Hà
Chuyển xã Tiên Minh về huyện Trà My quản lý (nay là 2 xã Trà Đông và Trà Dương thuộc huyện Bắc Trà My).
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam vừa được tái lập, bao gồm 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.
Danh nhân và địa danh lịch sử
Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947): Chí sĩ, danh sĩ, nhà yêu nước, Viện trưởng, chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo Tiếng Dân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyền Chủ tịch nước (năm 1946).
Hồ Truyền (1902–1967): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; nguyên Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ; Bí thư Huyện ủy Nam Tam Kỳ, phụ trách vành đai diệt Mỹ Chu Lai.
Lê Cơ (1870–1918): Nhà thực hành duy tân xuất sắc; chí sĩ yêu nước của phong trào Duy Tân.
Nguyễn Đình Tựu (1828-1888): Nhà giáo triều Nguyễn, Đốc học tỉnh Quảng Nam.
Phan Chu Trinh (1872–1926): Chí sĩ, danh sĩ, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng.
Lê Vĩnh Khanh: Danh thần triều Nguyễn, ông làm quan trải qua các chức: Hàn lâm viện Kiểm khảo, Tri huyện Phù Cát (Bình Định), Tri phủ Tuy Hòa (Phú Yên).
Trần Ngọc Sương (1940–1972): Liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Ông là thiếu uý, Huyện đội phó huyện Tiên Phước.
Trần Huỳnh (1858 –1908): Lập trường Tân Xuân dạy chữ Quốc ngữ, trường Dục Thanh dạy võ dân tộc. Trần Huỳnh làm Tổng lãnh binh và Trần Tùy Vân làm Phó lãnh binh.
Lê Vĩnh Huy (1842–1916): Chí sĩ yêu nước.
Cây Cốc là một địa danh thuộc xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước. Tại đây, ngày 01 tháng 10 năm 1954, trước việc chính quyền Mỹ - Diệm vô cớ bắt ông Nguyễn Thông, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính - Kháng chiến xã Tiên Thọ, đồng bào đã kéo đến bao vây, buộc bọn lính phải thả ông Thông và yêu cầu chúng phải tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Giơ ne vơ.
Đặc sản
Tiêu là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao của Tiên Phước, rất phù hợp với loại đất có tỷ lệ màu mỡ thấp. Đặc điểm của cây tiêu: thân dây, được trồng quanh hồ (tự tạo) hoặc cọc (chói) bám vào cây tự nhiên, độ cao từ 3–10 m là có thể cho hạt. Hạt tiêu Tiên Phước có vị cay, nồng nhưng rất thơm và là một loại nông sản được xuất khẩu sang các nước châu Á và châu Âu. Cùng với cây tiêu, Tiên Phước còn có quế, lòn bon, thanh trà cũng là các loại cây nông sản đặc trưng của vùng.
Chú thích |
Borax hay trong dân gian còn gọi là hàn the là tên gọi để chỉ các khoáng chất hay hợp chất hóa học có quan hệ gần nhau:
Borax khan hay natri tetraborat khan (Na2B4O7)
Borax pentahydrat (Na2B4O7·5H2O)
Borax decahydrat (Na2B4O7·10H2O)
Thuật ngữ borax thông thường được dùng để chỉ borax decahydrat. Từ đây trở đi thuật ngữ này được dùng để chỉ borax decahydrat.
Borax cũng được gọi là natri tetraborat ngậm 10 nước, là một hợp chất hóa học quan trọng của bor. Nó là một chất rắn kết tinh màu trắng, mềm, nhiều cạnh, có vị ngọt mặn dễ dàng hòa tan trong nước nhưng không tan trong cồn 90 độ. Khi để ngoài không khí khô, nó bị mất nước dần và trở thành khoáng chất tincalconit màu trắng như phấn (Na2B4O7·5H2O). Borax thương phẩm được bán ra thông thường bị mất nước một phần.
Sự phổ biến
Borax có trong tự nhiên trong các trầm tích evaporit được tạo ra khi các hồ nước mặn bị bay hơi lặp lại theo mùa (xem hồ sa mạc). Các trầm tích có tầm quan trọng thương mại chủ yếu được tìm thấy gần Boron, California và các khu vực khác ở tây nam Hoa Kỳ, sa mạc Atacama ở Chile và ở Tây Tạng. Borax cũng có thể sản xuất nhân tạo từ các hợp chất chứa bor khác.
Nguồn gốc tên gọi
Nguồn gốc của tên gọi borax có lẽ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư "bürah". Từ này được sử dụng một cách khinh miệt trong thập niên 1940 để chỉ các đồ nội thất hiện đại thiết kế lòe loẹt và các sản phẩm sản xuất công nghiệp khác. Một số khác cho rằng cách nói này có nguồn gốc từ các quảng cáo đối với những người lau dọn trong gia đình, mặc dù có thể nó có nguồn gốc từ tiếng Yiddish "boraxhs", có nghĩa là các đồ nội thất được thuê mượn.
Sử dụng
Borax được sử dụng rộng rãi trong các loại chất tẩy rửa, chất làm mềm nước, xà phòng, chất khử trùng và thuốc trừ sâu. Một trong các ứng dụng được quảng cáo nhiều nhất là sử dụng làm nước rửa tay cho công nhân trong công nghiệp. Nó cũng được sử dụng làm men thủy tinh men gốm, thủy tinh và làm cứng đồ gốm sứ. Nó cũng rất dễ dàng chuyển thành acid boric hay các borat khác, và chúng có nhiều ứng dụng.
Một lượng lớn borax pentahydrat được sử dụng trong sản xuất sợi thủy tinh và cellulose cách nhiệt như là chất làm chậm cháy và hợp chất chống nấm. Một lượng lớn sử dụng trong sản xuất natri peborat để sử dụng trong bột giặt.
Hỗn hợp của borax và amoni chloride (NH4Cl) được sử dụng như là chất trợ chảy khi hàn các hợp kim chứa sắt như thép. Nó hạ thấp điểm nóng chảy của các oxide sắt không mong muốn, cho phép nó chảy ra. Borax cũng được trộn với nước làm chất trợ chảy khi hàn các kim loại quý như vàng hay bạc. Nó cho phép que hàn nóng chảy chảy tràn lên các mối nối cần thiết.
Khi sử dụng trong hỗn hợp, borax cũng có thể dùng để giết kiến đục gỗ và bọ chét. Borax là một thành phần trong chất lỏng nhớt slime.
Borax cũng là một phụ gia thực phẩm tại một số quốc gia (nó bị cấm sử dụng tại Hoa Kỳ, Việt Nam), với số E là E285. Nó sử dụng tương tự như muối ăn, và nó có trong món trứng cá muối của Pháp và Iran. Mặc dù nó được sử dụng như là thuốc trừ sâu và có độc tính, nhưng liều gây chết 50% (LD50) của borax là tương tự như của muối ăn (cả hai đều khoảng 3.000 mg/kg thể trọng).
Sử dụng để tạo ra chất lỏng bôi trơn slime: trộn 2,5 ly nước, 2 ly keo PVA và 4 thìa trà borax.
Khác
Món trứng cá muối chứa borax được thể hiện như là phần quan trọng trong cuốn sách "Murder at the British Embassy" (Kẻ sát nhân ở đại sứ quán Anh) của Margaret Truman. |
Điện Biên Phủ là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Điện Biên, Việt Nam.
Lịch sử
Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc Thái nghĩa là Xứ Trời, gắn với truyền thuyết về sự phát sinh ra dân tộc Thái. Đây là đất tổ của nhiều ngành Thái ở Đông Nam Á.
Khi Lạng Chạng đưa một bộ phận người Thái Đen từ Mường Lò (Nghĩa Lộ ngày nay) đến Mường Thanh thì vùng đất này còn gọi là Song Thanh vì có hai mường: Thanh Nưa (Thanh trên) từ bản Noong Hét ngược về đầu nguồn sông Nậm Rốm và Thanh Tẩu (Thanh dưới) từ bản Noong Hét đến cuối sông Nậm Rốm. Tại đây có Viềng Xam Mứn (thành Tam Vạn) cổ kính của người Thái. Các mường thuộc Mường Thanh xưa gồm: Mường Phăng, Mường Nha, Mường Luân, Mường Lèo, Mường Lói nay thuộc huyện Điện Biên; Mường U nay thuộc tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào; Mường Và, Sốp Cộp nay thuộc tỉnh Sơn La.
Tên gọi Mường Thanh xuất hiện lần đầu trong sách Hưng Hóa xứ Phong Thổ lục của Hoàng Bình Chính. Hoàng Công Chất nổi dậy chống lại vua Lê chúa Trịnh, chiếm đất Mường Thanh, xây đắp thành lũy gọi là Phủ Chiềng Lễ, phiên âm Hán -Việt là Trình Lệ. Ông đã ở đây từ năm 1754 đến năm 1769.
Năm 1778 nhà Lê bình được Hoàng Công Toản (con trai Hoàng Công Chất) và đặt ra châu Ninh Biên thay cho tên gọi Mường Thanh, thuộc phủ An Tây. Ninh Biên có 12 mường nhỏ gộp lại.
Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên; Điện (奠) nghĩa là kiến lập, Biên (邊) nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Điện Biên Phủ thời vua Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu.
Thành phố Điện Biên Phủ được biết đến với trận Điện Biên Phủ năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc kết thúc vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương, và đưa tới việc ký kết hiệp định chia Việt Nam ra thành 2 miền: Bắc và Nam. Trận Điện Biên Phủ được nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại nhất của các nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương Tây. Trong trận này, lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân đội Pháp. Bằng cách huy động sức người một cách tối đa và với lực lượng hậu cần đông đảo của mình, Việt Minh đã làm nên một trong những chiến thắng quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện nay chạy dọc thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra cuộc đọ sức lịch sử năm xưa là đại lộ 279 (nay là Đại lộ Võ Nguyên Giáp), con phố chính và lớn nhất thành phố Điện Biên Phủ.
Sau năm 1954, địa bàn thành phố Điện Biên Phủ ngày nay thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu.
Bắt đầu từ năm 1958, một nông trường quân đội được xây dựng ở đây, kéo theo di dân từ đồng bằng Bắc Bộ, sau đó thị trấn Nông trường Điện Biên được thành lập, sau lại tách một phần diện tích của thị trấn nông trường Điện Biên để thành lập thị trấn Điện Biên, thị trấn huyện lỵ của huyện Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu.
Đến cuối năm 1991, huyện Điện Biên có thị trấn Điện Biên (huyện lỵ), Nông trường Điện Biên và 30 xã: Chiềng Sơ, Háng Lìa, Keo Lôm, Luân Giới, Mường Luân, Mường Mươn, Mường Nhà, Mường Nói, Mường Phăng, Mường Pồn, Na Son, Nà Tấu, Na Ủ, Noọng Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thom, Phì Nhừ, Phình Giang, Pù Nhi, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Minh, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên, Xa Dung.
Ngày 18 tháng 4 năm 1992, thị xã Điện Biên Phủ chính thức được thành lập trên cơ sở điều chỉnh 6335,5 ha diện tích tự nhiên và 25.000 người của huyện Điện Biên (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của thị trấn Điện Biên và xã Thanh Minh thuộc huyện Điện Biên) .
Giải thể thị trấn Điện Biên để thành lập 2 phường Mường Thanh, Him Lam
Chia xã Thanh Minh thành hai xã: Thanh Minh, Noong Bua.
Sau khi thành lập, thị xã Điện Biên Phủ có 4 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 2 phường và 2 xã. Tỉnh lỵ của tỉnh Lai Châu dời từ thị xã Lai Châu về thị xã này.
Ngày 26 tháng 5 năm 1997, diều chỉnh 64,5 ha diện tích tự nhiên và 1.622 nhân khẩu của xã Thanh Luông thuộc huyện Điện Biên vào thị xã Điện Biên Phủ, chuyển phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Thanh Luông thành phường Thanh Bình.
Ngày 18 tháng 8 năm 2000, chia phường Mường Thanh thành 2 phường: Mường Thanh, Tân Thanh .
Cuối năm 2002, Thị xã Điện Biên Phủ có 6 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 4 phường: Him Lam, Mường Thanh, Tân Thanh, Thanh Bình và 2 xã: Noong Bua, Thanh Minh.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP, thành lập thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở toàn bộ 5.120,80 ha diện tích tự nhiên và 56.345 người của thị xã Điện Biên Phủ. Đồng thời, mở rộng địa giới hành chính thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Mường Thanh, một phần diện tích và dân số của các xã Thanh Luông và Thanh Nưa thuộc huyện Điện Biên và thành lập 3 phường mới trực thuộc:
Thành lập phường Nam Thanh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của thị trấn Mường Thanh
Thành lập phường Thanh Trường trên cơ sở điều chỉnh phần diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Thanh Luông và xã Thanh Nưa thuộc huyện Điện Biên.
Thành lập phường Noong Bua trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Noong Bua.
Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và xã Thanh Minh.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11, thành lập tỉnh Điện Biên trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và quy mô dân số của tỉnh Lai Châu. Thành phố Điện Biên Phủ trở thành tỉnh lỵ tỉnh Điện Biên.
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, chia phường Noong Bua thành 2 đơn vị hành chính: phường Noong Bua và xã Tà Lèng.
Cuối năm 2018, thành phố Điện Biên Phủ có diện tích tự nhiên 64,27 km², dân số là 59.748 người, mật độ dân số đạt 929 người/km², gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 2 xã: Tà Lèng, Thanh Minh.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 815/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Điện Biên (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Chuyển 4 xã: Mường Phăng, Pá Khoang, Nà Nhạn, Nà Tấu thuộc huyện Điện Biên về thành phố Điện Biên Phủ quản lý
Điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và quy mô dân số xã Thanh Luông và một phần diện tích tự nhiên của xã Thanh Hưng thuộc huyện Điện Biên về phường Thanh Trường quản lý
Điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Thanh Hưng thuộc huyện Điện Biên về phường Nam Thanh quản lý
Giải thể xã Tà Lèng, sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của xã Tà Lèng vào xã Thanh Minh.
Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và 5 xã như hiện nay.
Địa lý
Thành phố Điện Biên Phủ nằm ở trung tâm địa lý của tỉnh Điện Biên, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Điện Biên Đông và huyện Mường Ảng
Phía tây và phía nam giáp huyện Điện Biên
Phía bắc giáp huyện Mường Chà.
Điện Biên Phủ cách trung tâm thủ đô Hà Nội 455 km về phía tây bắc. Trung tâm thành phố nằm trên cánh đồng Mường Thanh với chiều dài khoảng 23 km, chiều rộng trung bình 6 km đến 8 km và tổng diện tích khoảng 150 km².
Khí hậu
Thành Phố Điện Biên Phủ có khí hậu cận nhiệt đới ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa (Koppen: Cwa). Mùa đông lạnh, khô do ảnh hưởng của áp cao Siberia., kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Mùa hè nóng, rất ẩm do ảnh hưởng của gió mùa, kéo dài liên tục từ tháng 4 đến tháng 9.
Hành chính
Thành phố Điện Biên Phủ có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 5 xã: Mường Phăng, Nà Nhạn, Nà Tấu, Pá Khoang, Thanh Minh.
Dân số
Thành phố Điện Biên Phủ có diện tích 308,18 km², dân số năm 2018 là 80.366 người. Cư dân sống ở đây bên cạnh người Kinh còn có một số đông là người Thái, người H'Mông, người Si La. Các dân tộc thiểu số chiếm 1/3 dân số của thành phố.
Thành phố Điện Biên Phủ có diện tích 306,58 km², dân số năm 2022 là 84.672 người, mật độ dân số đạt 276 người/km².
Kinh tế
Ngày nay Điện Biên Phủ là một điểm du lịch. Cùng với việc tham quan trận địa, du khách còn có thể thưởng ngoạn thung lũng Mường Thanh, tham quan các ngôi làng lân cận.
Vì chỉ cách biên giới Lào 30 km, nên Điện Biên Phủ là một trung tâm thương mại quan trọng. Thực phẩm từ đây chuyển sang Lào và Thái Lan và hàng hóa chuyển đến các tỉnh phía bắc của Việt Nam.
Hiện nay, thành phố đã và đang có nhiều dự án phục vụ phát triển Kinh tế - xã hội: Khu đô thị mới Nậm Rốm, Nhà khách Quân khu 2 (phường Thanh Bình), Dự án trụ sở Vietinbank, Cục Hải quan tỉnh (phường Mường Thanh)..., cùng nhiều Trung tâm mua sắm, thương mại; đặc biệt là tổ hợp trung tâm thuơng mại Vincom Plaza và nhà ở thuơng mại của Tập đoàn Vingroup đang được xây dựng tại đường Võ Nguyên Giáp, liền kề với quảng trường 7/5, dự kiến khánh thành vào tháng 9/2023. Ngoài ra, TP. Điện Biên Phủ có khu du lịch sinh thái Him Lam (phường Him Lam) với nhà sàn gỗ lim lớn nhất Việt Nam và các dịch vụ du lịch phong phú.
Giao thông
Về đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6.
Về đường hàng không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ nối với Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.
Các tuyến đường
Võ Nguyên Giáp (trước đây là đường 7/5)
Nguyễn Chí Thanh
Hoàng Văn Thái
Hoàng Công Chất
Nguyễn Hữu Thọ
Sùng Phái Sinh
Đường số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 (Phường Noong Bua)
Phan Đình Giót
Trần Can
Trần Văn Thọ
13 tháng 3
Tôn Thất Tùng
Lò Văn Hặc
Lê Trọng Tấn
Trường Chinh
Trần Đăng Ninh
Bế Văn Đàn,...
Chú thích |
Trứng cá muối là trứng của nhiều loại cá khác nhau được chế biến bằng cách ướp muối, mà nổi tiếng nhất là từ trứng cá tầm. Nó được buôn bán trên thị trường thế giới như là đồ cao lương mỹ vị và được ăn chủ yếu trong dạng đồ phết trên các đồ nguội khai vị hay ăn với sushi.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là caviar, có nguồn gốc từ خاگآ (Khag-avar) trong tiếng Ba Tư, có nghĩa là "vật sinh trứng". Trên thực tế, trong tiếng Ba Tư, tên gọi này được dùng để chỉ chính cá tầm và sản phẩm của nó là trứng cá tầm.
Việc khai thác trứng cá muối
Hiện nay, trứng cá muối tốt nhất có được là từ cá tầm được Nga và Iran đánh bắt ở biển Caspi. Các loại trứng cá muối đắt nhất là các loại Beluga, Ossetra, and Sevruga (lưu ý rằng trứng cá muối Beluga thu được từ cá tầm trắng, tiếng Nga: Белуга-Beluga, mà không phải từ cá voi trắng cũng có tên bằng tiếng Nga là Белуга-Beluga).
Loại trứng cá muối màu vàng từ cá tầm sông Danube đã từng là món ăn khoái khẩu của các vị vua chúa phương Tây nhưng ngày nay loài cá này đã gần như tuyệt chủng.
Việc đánh bắt và khai thác quá tải cũng như sự ô nhiễm nguồn nước đã làm cho người ta phải tìm các nguồn thay thế rẻ tiền hơn, được chế biến từ trứng cá hồi trắng và cá hồi Bắc Đại Tây Dương và làm cho chúng trở nên phổ biến hơn.
Đây cũng là lý do tại sao ngày nay trong một số văn bản thì người ta dịch caviar thành trứng cá hồi. Từ "malossol" trên tem mác các loại trứng cá muối trong tiếng Nga có nghĩa là "ít muối", và nó chỉ ra rằng các loại trứng cá này được chế biến với một lượng tối thiểu muối ăn.
Trong những năm gần đây, việc nuôi cá tầm đã tăng lên, đặc biệt là tại Pháp, Uruguay và miền nam California của Hoa Kỳ và trứng cá tầm thìa đã được phổ biến trên thị trường.
Các loại trứng cá muối giá rẻ này cũng thu được từ các loại cá thuộc họ cá tầm. Gần đây thì lượng cá cho phép khai thác tự nhiên đã giảm xuống và nó là lý do của sự tăng giá các loại trứng cá muối.
Do giá cả rất cao của nó, nên trong văn hóa phương Tây thì các loại trứng cá muối đồng nghĩa với sự xa xỉ và giàu có giống như máy bay, du thuyền và lâu đài của cá nhân. Tại Nga và một số nền văn hóa khác, mặc dù là món ăn xa xỉ, nhưng trứng cá muối là một phần phổ biến trong các ngày lễ hay đám cưới.
Trứng cá muối được đựng trong các đồ dùng nhà bếp bằng sừng, gỗ hay vàng (xà cừ và nhựa cũng rất phổ biến), chứ ít khi trong các đồ bằng bạc hay thép không rỉ, là các đồ dùng có thể có ảnh hưởng đến hương vị và màu sắc của trứng cá muối.
Sản xuất trứng cá muối thương mại bao gồm việc đánh bắt, xẻ thịt cá (thông thường với thân và đầu) và tách ổ trứng ra, mặc dù hiện nay một số nông dân đang thử nghiệm việc tách ổ trứng bằng phẫu thuật từ cá tầm sống và điều này cho phép cá tầm cái có thể tạo ra nhiều trứng hơn trong thời gian sinh sống của chúng.
Trứng cá muối là một sản phẩm từ động vật vì thế nó không thể coi là món ăn chay. Tuy vậy, hiện nay trên thị trường cũng có loại "trứng cá muối" làm từ đậu tương và nó là một đồ ăn chay thực thụ.
Bảo vệ nguồn trứng cá
Đầu thập niên 1900, cả Canada và Hoa Kỳ là các nhà cung cấp chính trứng cá muối vào châu Âu bằng cách khai thác trứng của cá tầm hồ ở miền trung phía tây các quốc gia này, cũng như từ cá tầm mũi ngắn và cá tầm Đại Tây Dương khi chúng vào các con sông ở bờ biển phía đông vào mùa sinh đẻ.
Tuy nhiên vậy nhưng hiện nay thì cá tầm mũi ngắn đã được liệt kê như là dễ tổn thương trong sách đỏ của IUCN về các loài đang ở tình trạng nguy cấp và là nguy cấp trong Luật về các loài đang nguy cấp của Hoa Kỳ.
Dịch vụ cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ đã chính thức cấm việc nhập khẩu trứng cá muối Beluga được đánh bắt từ biển Caspi vào tháng 9 năm 2005 trong cố gắng nhằm bảo vệ loài cá tầm trắng đang gặp nguy hiểm tuyệt chủng này. Một tháng sau, lệnh cấm này đã được mở rộng cho trứng cá tầm muối được đánh bắt từ biển Đen vì các lý do tương tự.
Tháng một năm 2006, CITES- công ước về buôn bán các loài đang nguy cấp, đã thông báo rằng họ "không thể cấp hạn ngạch xuất khẩu" năm 2006 cho các loại trứng cá muối khai thác từ các nguồn hoang dã. Nếu điều này không được giải quyết thì việc buôn bán trứng cá muối sẽ bị giới hạn cho các loại cá tầm được nuôi nhân tạo.
Chú thích
Món mặn
Sản phẩm từ cá
Trứng
Ẩm thực Azerbaijan
Ẩm thực Iran
Ẩm thực Kazakhstan
Ẩm thực Liên bang Nga
Ẩm thực Pháp
Hải sản |
Ghiyāth al-Dīn Abū al-Fatḥ ʿUmar ibn Ibrāhīm Nīsābūrī (ngày 18 tháng 5 năm 1048 – ngày 4 tháng 12 năm 1131), thông thường được biết đến với tên gọi Omar Khayyám (),, là một nhà bác học người Ba Tư xưa, được biết đến bởi những cống hiến của ông cho toán học, thiên văn học, khoáng sản học, triết học và thơ ca. Ông sinh ra tại Nishapur, thủ phủ trước kia của Đế chế Seljuk (gần thủ đô Mashad, miền đông Iran ngày nay). Ông là một học giả cùng thời với sự cai trị của triều đình Seljuk quanh thời điểm của cuộc Thập tự chinh đầu tiên.
Là một nhà toán học, ông được chú ý nhiều nhất cho những cố gắng trong công cuộc phân loại và giải nghiệm các phương trình khối (bậc ba). Theo đó, ông đã phát kiến ra các phương án giải bằng hình học qua giao điểm của các đường conic. Khayyam đồng thời cũng đóng góp cho những hiểu biết về tiên đề song song. Là một nhà thiên văn, ông đã tính toán được thời lượng của năm mặt trời với độ chính xác và tinh vi đáng kinh ngạc. Ông đã thiết kế ra bộ lịch Jalali, một bộ lịch dựa theo mặt trời với chu kỳ 33 năm xen kẽ cực kỳ chuẩn xác, đặt làm nền móng cho bộ lịch Ba Tư vẫn còn được sử dụng sau gần một thiên niên kỷ.
Có một truyền thống về việc quy gán thơ ca cho Omar Khayyam, được viết theo thể thơ bốn câu tứ tuyệt(rubāʿiyāt ). Thể thơ này trở nên được biết đến rộng rãi tới bạn đọc tiếng Anh qua một bản dịch bởi Edward Fitzgerald (Rubaiyat của Omar Khayyam, 1859) và nhận được về thành công vang dội trong trường phái chủ nghĩa phương đông Orientalism của fin de siècle.
Cuộc đời
Omar Khayyam ra đời, thuộc dân tộc Khorasani Ba Tư cổ, tại Nishapur vào năm 1048 thời Trung Cổ. Cha của Khayyam có lẽ từng là một người Hỏa giáo đã cải sang đạo Hồi.Trong các văn bản Ba Tư thời ấy, ông thường đơn giản được gọi là Hakim Omar Khayyam. Dẫu cho những nghi vấn còn bỏ ngỏ, người ta vẫn thường cho rằng các tổ tiên của ông theo nghề làm lều. bởi Khayyam có nghĩa là người làm túp lều trong tiếng Ả-rập. Nhà sử học Bayhaqi, người quen biết thân thích với Omar, cung cấp đầy đủ chi tiết về lá số tử vi horoscope của ông: "Omar là thuộc chòm Song Tử Gemini, mặt trời và sao Thuỷ đang ở thế thượng phong[...]". Điều này khiến cho các học giả hiện đại công bố ngày sinh của ông là vào 18 tháng 5, năm 1048.
Khayyam dành tuổi thơ của mình tại Nishapur, một chốn thành thị tiên phong dưới Triều đại Seljuq Vĩ đại. Nó từng là một trung tâm chính của giáo phái Hoả giáo. Toàn bộ tên đầy đủ của ông, như được ghi trong các nguồn tài liệu Ả-rập, là Abu’l Fath Omar ibn Ibrahim al-Khayyam. Tài năng của ông được phát hiện bởi các thầy kèm dạy đầu tiên. Họ gửi ông tới theo học chỗ Imam Muwaffaq Nishaburi, giáo viên tài giỏi nhất của vùng Khorasan, người kèm cặp cho các con em của giới quý tộc thượng lưu nhất. Omar và Imam trở thành cặp thầy trò tri giao tuyệt vời qua bao năm liền. Khayyam cũng đồng thời được dạy bởi nhà toán học Hoả giáo, Abu Hassan Bahmanyar bin Marzban. Sau khi học tập khoa học, triết học, toán học và thiên văn tại Nishapur, vào khoảng năm 1068, Omar lên đường tới tỉnh Burakha, nơi ông thường xuyên lui tới thư viện trứ danh của Ark Burakha. Vào khoảng năm 1070, ông chuyển tới ở Samarkand, nơi ông đã bắt đầu biên soạn công trình nổi tiếng của mình về đại số dưới sự bảo trợ của Abu Tahir Abd al-Rahman ibn ʿAlaq, quan tổng đốc và tổng thẩm phán của thành phố. Omar Khayyam được đón tiếp rất tử tế bởi Shams al-Mulk Nasr, người cai trị Karakhanid, mà theo như Bayhaqi, sẽ "bày tỏ với ông niềm hân hạnh vinh dự to lớn nhất, to đến nỗi có thể cho [Omar] ngồi cạnh mình trên ngai".
Vào tháng 4, năm 1073, hoà bình được ký kết với quốc vương Sultan Malik-Shah I, người từng thực hiện các cuộc tiến công vào các lãnh địa của Karakhanid. Khayyam đi vào phục vụ cho Malik-Shah vào tháng 5, năm 1074 khi ông nhận được lời mời từ quan Đại Tể Tướng Nizam al-Mulk tới gặp gỡ Malik-Shah trong thành phố của Marv. Sau buổi gặp gỡ ấy, Khayyam được giao nhiệm vụ thiết đặt một đài quan sát ở Isfahan và lãnh đạo một nhóm các khoa học gia trong việc thực hiện các quan sát thiên văn tinh vi nhằm tu chỉnh lại bộ lịch Ba Tư. Công việc đảm nhận có thể bắt đầu vào năm 1076 và kết thúc vào năm 1079 khi Omar Khayyam cùng các đồng nghiệp kết thúc các quan sát về độ dài của năm, và báo cáo nó là 365,24219858156 days. Nếu giả thiết rằng, độ dài của năm thay đổi tại vị trí thập phân thứ sáu trong khoảng thời gian một đời người, điều này thực sự là chính xác, tinh vi đến đáng kinh ngạc. Để dễ hình dung, độ dài của năm vào cuối thế kỷ 19 là 365.242196 ngày, trong khi ngày nay nó là 365.242190 ngày.
Sau cái chết của Malik-Shah và tể tướng của mình (bị sát hại, được cho là thực hiện bởi các sát thủ theo mệnh lệnh Ismaili). Omar bị thất sủng tại triều đình. Kết cục là ông phải sớm khăn gói hành hương tới Mecca. Một nguyên do động cơ thầm kín cho chuyến hành hương của ông được báo cáo bởi Al-Qifti, đó là một màn thể hiện công khai cho công chúng đức tin của ông nhằm xoa dịu những nghi hoặc đối với chủ nghĩa hoài nghi và bác bỏ những cáo buộc về sự không chính thống (bao gồm cả những đồng cảm hoặc tuân thủ có thể có đối với Hỏa giáo) do một giáo sĩ thù địch nhằm vào ông. Sau đó, ông được quốc vương Sultan Sanjar mới mời đến Marv, khả năng là để làm việc với tư cách là một nhà chiêm tinh của triều đình. Sau đó, Khayyam được chấp thuận hồi hương quê nhà tại Nishapur do sức khỏe ngày càng giảm sút. Khi trở về, ông dường như đã sống một cuộc sống ẩn dật.
Omar Khayyam qua đời ở tuổi 83 tại quê nhà Nishapur vào ngày 4 tháng 12 năm 1131. Ông được mai táng tại nơi mà hiện nay là Lăng mộ Omar Khayyam. Một trong các đệ tử của ông, Nizami Aruzi, thuật lại câu chuyện rằng, đâu đó trong khoảng năm 1112 và 1113, Khayyam lúc ấy ở tại Balkh trong một đoàn thể của Al-Isfizari (một trong những khoa học gia đã cộng tác cùng ông trong dự án lịch Jalali) khi ông đưa ra một lời tiên đoán rằng "lăng mộ của ta sẽ ở vị trí mà ngọn gió phương bắc sẽ trải hoa hồng lên đó". Bốn năm sau khi ông đã khuất, Aruzi đặt phần lăng mộ của ông trong một nghĩa trang. Nghĩa trang này lại nằm trong một phân khu rộng lớn và nổi tiếng của Nishapur trên đường tới Marv. Như đã được liệu đoán trước bởi Khayyam, Aruzi còn xác định mộ phần của ông đặt tại chân bức tường một khu vườn, nơi những cây lê và cây đào vươn mình ra và thả những nụ hoa của chúng để bia mộ của ông được ẩn giấu bên dưới.
Toán học
Khayyam từng là một nhà toán học rất nổi tiếng trong lúc còn bình sinh. Các công trình toán học còn lưu giữ được của ông bao gồm: Một nhận xét về các khó khăn liên quan đến các mệnh đề trong cuốn "Các nguyên tố" (Elements) của Euclid (, hoàn thành vào tháng 12, năm 1077). Về phép chia góc phần tư của hình tròn (, chưa được định ngày tháng nhưng đã hoàn thành trước chuyên luận về đại số) và Về các chứng minh cho các vấn đề liên quan đến Đại số (, rất có thể được hoàn thành vào năm 1079). Ông tiến tới viết một luận đề về phân phối nhị thức và trích xuất căn bậc n của các số tự nhiên, nhưng công trình này đã bị thất lạc.
Lý thuyết về các đường song song
Một phần nhận xét của Khayyam về cuốn "Nguyên tố" của Euclid là về mệnh đề song song. Chuyên luận của Khayyam có thể được cho là ý kiến đầu tiên về mệnh đề mà không bị phụ thuộc vào petitio principii (lỗi ngộ nhận), mà dựa vào một mệnh đề trực quan hơn. Khayyam bác bỏ các cố gắng trước đó của những nhà toán học khác trong việc chứng minh mệnh đề, chủ yếu với lập luận rằng mỗi người trong số họ đều đã giả thiết một điều gì đó không dễ dàng chấp nhận được hơn chính Mệnh Đề Thứ Năm đó. Rút ra từ các đánh giá của Aristotle, ông bác bỏ việc sử dụng chuyển động (movement) trong hình học và do đó, từ chối luôn cả những nỗ lực cố gắng khác của Al-Haytham. Không được thoả mãn với thất bại của các nhà toán học trong việc chứng minh tuyên bố của Euclid từ các định đề khác của mình, Omar đã cố gắng nối kết tiên đề với Mệnh Đề Thứ Tư, theo đó nói rằng tất cả các góc vuông là đều bằng nhau.
Khayyam là người đầu tiên áp dụng ba trường hợp riêng biệt của góc nhọn, góc tù và góc vuông cho các góc đỉnh của một tứ giác Khayyam-Saccheri. Sau khi chứng minh một số các định lý về chúng, ông cho thấy được rằng, Định Đề Thứ Năm là một kết quả của giả thiết về góc vuông, và đã bác bỏ các trường hợp góc tù và góc nhọn như một điều tự mâu thuẫn. Nỗ lực công phu của ông trong việc chứng minh mệnh đề song song là đặc biệt có ý nghĩa cho sự phát triển tấn tới của hình học, do nó rõ ràng cho chúng ta thấy các hình học phi Euclid là điều khả thi. Những giả thuyết liên quan đến các góc nhọn, góc tù, và góc vuông hiện đã được biết đến là đã dẫn tới phát kiến tương ứng của hình học phi Euclid hyperbola của Gauss-Bolyai-Lobachevsky, cho tới hình học Riemann, và tới hình học Euclid.
Các bình luận của Tusi về cách xử lý của Khayyam với đường song song cũng lan truyền tới châu Âu. John Wallis, giáo sư hình học tại Oxford, đã dịch bình luận của Tusi sang tiếng Latinh. Nhà hình học dòng Jesuit Girolamo Saccheri, người có tác phẩm (euclides ab omni naevo vindicatus, 1733) thường được coi là bước đầu tiên trong sự phát triển tất yếu của hình học phi Euclid, đã khá quen thuộc với công trình của Wallis. Nhà sử học toán học người Mỹ David Eugene Smith đề cập rằng Saccheri "đã sử dụng cùng một bổ đề như của Tusi, thậm chí còn ký hiệu cho hình hoạ trùng hợp theo cùng một cách và sử dụng bổ đề cho cùng mục đích". Ông nói thêm, "Tusi nói một cách tường minh rằng đó là do Omar Khayyam, và từ văn bản, có vẻ như rõ ràng đó chính là người đã truyền nguồn cảm hứng cho ông."
Khái niệm số thực
Chuyên luận này về Euclid chứa đựng một đóng góp khác liên quan tới lý thuyết về tỷ lệ và với sự kết hợp của các tỷ lệ. Khayyam thảo luận về mối quan hệ giữa khái niệm tỷ lệ và khái niệm số và nêu rõ ra nhiều khó khăn về mặt lý thuyết khác nhau. Cụ thể, ông đóng góp vào nghiên cứu lý thuyết của khái niệm số vô tỷ.[citation needed] .Không hài lòng với định nghĩa của Euclid về các tỷ số bằng nhau, ông đã định nghĩa lại khái niệm về của con số bằng cách sử dụng một phân số liên tục làm phương tiện biểu thị tỷ số. Rosenfeld và Youschkevitch (1973) lập luận rằng, "bằng cách đặt các đại lượng và các số vô tỷ trên cùng một quy mô hoạt động, [Khayyam] đã bắt đầu một cuộc cách mạng thực sự trong học thuyết về số.". Tương tự như vậy, D. J. Struik đã lưu ý rằng Omar "đang trên con đường tiến tới mở rộng khái niệm số, dẫn đến khái niệm về số thực."
Đại số hình học
Rashed và Vahabzadeh (2000) đã lập luận rằng, do cách tiếp cận hình học triệt để của ông đối với các phương trình đại số, Khayyam có thể được xem là tiền thân của Descartes trong việc phát minh ra hình học giải tích. Trong "Chuyên luận về phép chia góc phần tư của hình tròn", Khayyam đã áp dụng đại số vào hình học. Trong việc này, ông chủ yếu dành tâm huyết để nghiên cứu xem liệu có thể chia một góc phần tư hình tròn thành hai phần sao cho các đoạn thẳng chiếu từ điểm phân chia đến các đường kính vuông góc của hình tròn tạo thành một tỷ lệ cụ thể hay không. Theo đó, giải pháp của ông đã sử dụng một số cách xây dựng đường cong dẫn đến các phương trình chứa các số hạng bậc ba và bậc bốn.
Giải phương trình khối bậc ba
Khayyam dường như là người tiên phong nghĩ ra một lý thuyết tổng quát về phương trình bậc ba và là người đầu tiên sử dụng hình học để giải mọi loại phương trình bậc ba, miễn là đề cập đến nghiệm dương. Chuyên luận về đại số có chứa công trình của ông về phương trình bậc ba. Nó được chia làm ba phần: (i) các phương trình có thể giải bằng compa và thước thẳng, (ii) các phương trình có thể giải bằng đường cung cônic, và (iii) các phương trình liên quan đến nghịch đảo của ẩn số.
Khayyam đã đưa ra một danh sách đầy đủ tất cả các phương trình khả hữu liên quan đến đường thẳng, hình vuông và hình lập phương. Ông xem xét ba phương trình nhị thức, chín phương trình tam thức và bảy phương trình tứ thức. Đối với các đa thức bậc nhất và bậc hai, ông đưa ra nghiệm số bằng cách xây dựng hình học. Ông kết luận rằng, có mười bốn loại hình khối khác nhau mà không thể rút gọn được thành một phương trình có bậc thấp hơn. Đối với những loại này, ông đã không thể hoàn thành việc xây dựng đoạn thẳng ẩn số của mình bằng compa và thước thẳng. Ông đã tiến hành trình bày các đáp án hình học cho tất cả các loại phương trình bậc ba bằng cách sử dụng các tính chất của các đường cung cônic. Các bổ đề tiên quyết cho chứng minh hình học của Khayyam bao gồm Euclid VI, Mệnh đề 13, và Apollonius II, Mệnh đề 12. Nghiệm dương của một phương trình khối bậc ba được xác định là trục hoành của giao điểm của hai hình nón conic, ví dụ như, giao điểm của hai parabol, hoặc giao điểm của một parabol và một đường tròn, v.v. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng vấn đề số học của các hình khối này vẫn chưa được giải quyết, đồng thời bổ sung rằng, "có khả năng ai đó khác sẽ khám phá ra nó sau chúng ta". Nhiệm vụ này vẫn còn bỏ ngỏ cho tới thế kỷ 16, khi mà nghiệm đại số của phương trình khối bậc ba được Cardano, Del Ferro và Tartaglia tìm ra theo dạng tổng quát của nó vào thời Phục hưng Ý.
Trên thực tế, công trình của Khayyam là một nỗ lực nhằm thống nhất đại số và hình học. Cách giải bằng hình học cụ thể này của phương trình khối bậc ba đã được M. Hachtroudi nghiên cứu sâu hơn và mở rộng để giải các phương trình bậc bốn. Mặc dù các phương pháp tương tự đã xuất hiện lẻ tẻ kể từ thời Menaechmus, và được phát triển thêm bởi nhà toán học thế kỷ thứ 10 Abu al-Jud, công trình của Khayyam có thể được xem là nghiên cứu có hệ thống đầu tiên và phương pháp chính xác đầu tiên để giải các phương trình khối bậc ba. Nhà toán học Woepcke (1851), người đã phiên dịch đại số của Khayyam sang tiếng Pháp đã ca ngợi ông cho "năng lực khái quát hóa và quy trình hệ thống chặt chẽ của ông."
Định lý nhị thức và khai thác nghiệm
{{Quote box|quote=Từ những người Ấn Độ, người ta có các phương pháp để lấy căn bậc hai và căn bậc ba, các phương pháp ấy dựa trên hiểu biết về các trường hợp riêng lẻcụ thể là hiểu biết về các bình phương trong số chín chữ số 12, 22, 32 (v.v.) và các tích tương ứng của chúng, ví dụ 2 x 3 v.v.. Chúng ta đã viết một chuyên luận về bằng chứng cho tính hợp lệ của các phương pháp ấy và rằng chúng thực sự đáp ứng các điều kiện. Thêm vào đó, chúng ta đã gia tăng các kiểu loại của chúng, cụ thể là việc xác định các căn bậc bốn, năm, sáu, hay bất kỳ bậc mong muốn nào. Chưa có ai vượt qua được chúng ta về điều này và những chứng minh đó hoàn toàn là số học, dựa trên số học của cuốn "Các nguyên tố" của Euclid.|source = —Omar Khayyam, Chuyên luận về Trình bày Các vấn đề của Đại số"| width = 35%}}
Trong chuyên luận đại số của mình, Khayyam ám chỉ đến một cuốn sách mà ông đã viết về việc khai thác căn bậc của các số bằng cách sử dụng một định lý mà ông đã khám phá ra mà không phụ thuộc vào các hình hoạ hình học. Cuốn sách này rất có thể có tựa đề là Những khó khăn của số học (), và không còn được lưu giữ nữa. Dựa trên ngữ cảnh, một số nhà sử học toán học như D. J. Struik, tin rằng Omar hẳn đã biết công thức khai triển nhị thức , trong đó là một số nguyên dương. Trường hợp của lũy thừa 2 được phát biểu rõ ràng trong cuốn "Các nguyên tố" của Euclid và trường hợp lớn nhất là lũy thừa 3 đã được các nhà toán học Ấn Độ khám phá thiết lập. Khayyam là nhà toán học nhận ra được tầm quan trọng của định lý nhị thức tổng quát. Lập luận ủng hộ cho khẳng định rằng Khayyam đã có một định lý nhị thức tổng quát dựa trên khả năng khai thác các nghiệm của ông. Một trong những người tiền nhiệm của Khayyam, Al-Karaji, đã khám phá ra quy luật sắp xếp theo hình tam giác của các hệ số của khai triển nhị thức mà người châu Âu sau này biết tới qua tên gọi tam giác Pascal; Khayyam đã phổ biến sắp xếp tam giác này ở Iran, do vậy ngày nay nó được gọi là tam giác Omar Khayyam.
Thiên văn học
Vào tháng 5, năm 1074, Omar Khayyam được quốc vương Sultan Malik-Shah ủy nhiệm xây dựng một đài quan sát tại Isfahan và cải cách bộ lịch Ba Tư. Có một nhóm gồm tám học giả làm việc dưới sự chỉ đạo của Khayyam để thực hiện các quan sát thiên văn quy mô lớn và sửa đổi lại các bảng thiên văn. Việc hiệu chỉnh lại bộ lịch đã ấn định ngày đầu tiên của năm vào đúng thời điểm tâm của Mặt trời đi qua điểm xuân phân. Điều này đánh dấu sự bắt đầu của mùa xuân hoặc Nowrūz (tết Ba Tư), ngày mà Mặt trời đi vào phân độ đầu tiên của Bạch Dương (Aries) trước buổi trưa. Thành quả bộ lịch được đặt tên để vinh danh Malik-Shah ấy là bộ lịch Jalālī, và được khánh thành vào ngày 15 tháng 3 năm 1079. Bản thân đài quan sát đã không được dùng đến nữa sau cái chết của Malik-Shah vào năm 1092.
Bộ lịch Jalālī đích thực là một bộ lịch mặt trời, trong đó thời lượng của mỗi tháng bằng với khoảng thời gian Mặt trời đi qua cung Hoàng đạo tương ứng. Việc cải cách bộ lịch đã cho ra một chu kỳ xen kẽ 33 năm đặc trưng. Như được chỉ ra từ các công trình của Khazini, nhóm của Khayyam đã triển khai một hệ thống xen kẽ dựa trên các năm nhuận 4 năm và năm nhuận 5 năm một lần. Do đó, bộ lịch bao gồm 25 năm bình thường bao gồm 365 ngày và 8 năm nhuận bao gồm 366 ngày. Bộ lịch vẫn được sử dụng trên khắp Đại Iran từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20. Năm 1911, lịch Jalālī trở thành bộ lịch quốc gia chính thức của Qajar Iran. Năm 1925, nó được đơn giản hóa và tên của các tháng được hiện đại hóa, trở thành bộ lịch Iran hiện đại. Lịch Jalālī chính xác hơn lịch dương Gregorian của năm 1582, với sai số của một ngày được tích lũy trong hơn 5000 năm, so với một ngày sau mỗi 3330 năm trong lịch Gregorian. Moritz Cantor cho rằng nó là bộ lịch hoàn hảo nhất từng được nghĩ ra.
Một trong những học trò của ông, Nizami Aruzi của Samarcand, thuật lại rằng, Khayyam rõ ràng không có niềm tin vào chiêm tinh học và bói toán: "Tôi không quan sát thấy ông ấy (tất nhiên là Omar Khayyam) có bất kỳ niềm tin lớn nào vào các dự đoán chiêm tinh, tôi cũng chưa từng thấy hay nghe nói về bất kỳ [nhà khoa học] vĩ đại nào có niềm tin như vậy." Khi làm việc cho quốc vương Sultan Sanjar dưới tư cách là một nhà chiêm tinh, ông được yêu cầu dự đoán thời tiết – một công việc mà ông rõ ràng là đã làm không tốt. George Saliba (2002) giải thích rằng thuật ngữ , được sử dụng trong nhiều nguồn tư liệu khác nhau mà trong đó có thể tìm thấy các tài liệu tham khảo về cuộc đời và công việc của Omar, đôi khi bị dịch không chính xác sang nghĩa chiêm tinh học. Ông nói thêm: “ít nhất là từ giữa thế kỷ thứ mười, theo cách liệt kê các ngành khoa học của Farabi, thì ngành khoa học này, , đã được phân chia ra làm hai phần rồi, một phần nghiên cứu về chiêm tinh học và phần còn lại nghiên cứu về lý thuyết toán thiên văn học."
Trong một số tác phẩm đã bị mất của Khayyam, có một bản đồ các vì sao mà ông vẽ năm 1079.
Những công trình khác
Khayyam có một chuyên luận ngắn về nguyên lý của Archimedes (Tựa đề đầy đủ Về sự Lừa dối khi Tìm hiểu Lượng Vàng và Bạc trong một Hợp kim được Cấu thành từ cả Hai). Đối với một hợp kim của vàng được pha trộn với bạc, ông mô tả một phương pháp để đo một cách chính xác hơn trọng lượng trên mỗi dung tích của mỗi nguyên tố. Nó bao gồm việc cân đo hợp kim cả trong không khí lẫn trong nước, vì trọng lượng dễ đo được chính xác hơn là đo thể tích. Bằng cách lặp lại tương tự với đồng thời cả vàng cả bạc, người ta biết được chính xác rằng vàng, bạc và hợp kim nặng hơn bao nhiêu so với nước. Chuyên luận này đã được kiểm tra chuyên sâu bởi Eilhard Wiedemann, ông tin rằng giải pháp của Khayyam chính xác và tinh vi phức tạp hơn so với của Khazini và Al-Nayrizi, những người cũng giải quyết vấn đề này từ vị trí khác.
Một chuyên luận ngắn khác liên quan đến lý thuyết âm nhạc, theo đó ông thảo luận về mối liên hệ giữa âm nhạc và số học. Đóng góp của Khayyam đó là cung cấp sự phân loại có hệ thống các thang âm nhạc, và thảo luận về mối quan hệ toán học giữa các nốt, nốt thứ, nốt trưởng và tứ âm.
Văn chương thơ ca
Có khoảng 450 bài thơ tứ tuyệt rubaiyat (thơ 4 câu) được cho là của ông, mang nặng triết lý về rượu và tình yêu. Việc ám chỉ sớm nhất về thơ của Omar Khayyam là từ nhà sử học Imad ad-Din al-Isfahani, một người trẻ tuổi đương thời với Khayyam, người đã xác định rõ rằng, ông vừa là nhà thơ vừa là nhà khoa học (, 1174). Một trong những mẫu vật sớm nhất của văn phẩm Rubiyat của Omar Khayyam là từ học giả Fakhr al-Din Razi. Trong tác phẩm (khoảng năm 1160) của mình, Razi trích dẫn một trong những bài thơ của Khayyam (tương ứng với khổ tứ tuyệt LXII trong ấn bản đầu tiên của Fitzgerald). Daya trong các thư tích của mình (, khoảng năm 1230) có trích dẫn hai bài tứ tuyệt, một trong số đó giống với bài đã được ghi nhận bởi Razi. Một bài tứ tuyệt bổ sung được trích dẫn bởi nhà sử học Juvayni ( ,khoảng năm 1226–1283). Năm 1340, Jajarmi đưa mười ba bài tứ tuyệt của Khayyam vào công trình của mình, bao gồm một tuyển tập các tác phẩm của những nhà thơ Ba Tư nổi tiếng (), hai trong số đó cho đến nay đã được biết đến là từ các nguồn tài liệu cũ hơn. Một bản thảo tương đối muộn là bản thảo của thư viện Bodleian, MS. Ouseley 140, viết tại Shiraz vào năm 1460, bao gồm 158 bài tứ tuyệt viết trên 47 tán lá. Bản thảo thuộc về William Ouseley (1767–1842) và được Thư viện Bodleian mua lại vào năm 1844.
Thỉnh thoảng có những đoạn trích dẫn những câu thơ được cho là của Omar trong các văn bản được cho là của các tác giả thế kỷ 13 và 14, nhưng những câu này có tính xác thực đáng nghi ngờ, vì vậy các học giả hoài nghi chỉ ra rằng toàn bộ truyền thống có thể là bút ký giả. Hans Heinrich Schaeder năm 1934 nhận xét rằng, tên của Omar Khayyam "sẽ bị gạch ra khỏi lịch sử văn học Ba Tư" do thiếu bất kỳ những tư liệu nào mà có thể tự tin gán cho ông. De Blois (2004) trình bày một thư mục về truyền thống viết tay bản thảo, kết luận một cách bi quan rằng tình hình vẫn không thay đổi đáng kể kể từ thời của Schaeder.
Năm trong số các bài tứ tuyệt mà sau này được cho là của Omar được tìm thấy sớm nhất là 30 năm sau khi ông qua đời, được trích dẫn trong "Sindbad-Nameh". Mặc dù điều này chứng tỏ rằng những câu thơ cụ thể này đã được lưu hành vào thời của Omar hoặc sau đó không lâu, nhưng điều đó không có nghĩa là những câu thơ đó phải là của ông. De Blois kết luận rằng, ít nhất quá trình gán thơ cho Omar Khayyam dường như đã bắt đầu từ thế kỷ 13. Edward Granville Browne (1906) ghi nhận sự khó khăn trong việc tách bạch câu thơ chân thực và câu thơ giả mạo: "Mặc dù chắc chắn là Khayyam đã viết nhiều bài thơ tứ tuyệt, nhưng gần như là không thể, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, khẳng định một cách chắc chắn rằng ông đã viết bất kỳ bài thơ nào mà đã được gán cho ông".
Ngoài những bài thơ tứ tuyệt Ba Tư, còn có 25 bài thơ Ả Rập được cho là của Khayyam. Chúng đã được chứng thực bởi các nhà sử học như al-Isfahani, Shahrazuri (, khoảng năm 1201–1211), Qifti (, 1255 ), và Hamdallah Mustawfi (, 1339).
Boyle và Frye (1975) nhấn mạnh rằng, có một số học giả Ba Tư khác thỉnh thoảng viết thơ tứ tuyệt, bao gồm Avicenna, Ghazzali và Tusi. Họ kết luận, cũng có thể là đối với Khayyam, thơ ca là một thú tiêu khiển trong những giờ rỗi rãi của ông: "những bài thơ ngắn này dường như thường là thành quả của các học giả và nhà khoa học, những người đã sáng tác chúng, có nhẽ là trong những giây phút thư giãn để khai sáng hoặc giải trí trong giới nội bộ các đệ tử của họ".
Thơ ca được cho là của Omar Khayyam đã góp phần rất lớn vào danh tiếng vang dội của ông trong thời kỳ hiện đại. Nguyên nhân trực tiếp là sự nổi tiếng nức danh của bản dịch những câu thơ ấy sang tiếng Anh bởi Edward FitzGerald (1859). "Rubaiyat của Omar Khayyam" bởi Fitzgerald chứa các bản dịch lỏng lẻo của các bài tứ tuyệt quatrain từ bản thảo Bodleian. Nó đạt được thành công trong thời kỳ fin de siècle đến nỗi một thư mục được biên soạn vào năm 1929 đã liệt kê hơn 300 ấn bản riêng biệt, và còn nhiều ấn bản khác đã được xuất bản từ khi đó.
Triết học
Khayyam tự xem mình là học trò của Avicenna. Theo Al-Bayhaqi, ông đã đọc siêu hình học trong "Sách chữa lành" của Avicenna trước khi qua đời. Có sáu bài viết triết học được cho là của Khayyam viết. Một trong số đó, Về sự tồn tại (), nguyên bản được viết bằng tiếng Ba Tư, đề cập đến chủ đề sự tồn tại và mối quan hệ của nó với các toàn thể. Một bài viết khác, có tiêu đề Sự cần thiết của mâu thuẫn trong thế giới, thuyết tất định và sự tồn sinh (), được viết bằng tiếng Ả Rập và đề cập đến ý chí tự do (free will) và thuyết tất định. Tựa đề các tác phẩm khác của ông là Về sự hiện hữu và tất yếu cần thiết (), Chuyên luận về Sự siêu việt trong Tồn tại (), Về kiến thức của các nguyên tắc tồn tại phổ quát (), và Sự rút gọn liên quan đến các hiện tượng tự nhiên ().
Chính Khayyam đã từng nói:
Các quan điểm tôn giáo
Việc đọc các bài tứ tuyệt của Khayyam theo nghĩa đen dẫn đến việc giải thích thái độ triết học của ông đối với cuộc sống như một sự kết hợp của chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa sử thi Epicurus, thuyết định mệnh và thuyết bất khả tri. Quan điểm này được tiếp nhận bởi các nhà Iran học như Arthur Christensen, H. Schaeder, Richard N. Frye, E. D. Ross, E. H. Whinfield và George Sarton. Ngược lại, các bài tứ tuyệt có thiên hướng Khayyam cũng được mô tả như là thơ Sufi thần bí. Bên cạnh những bài thơ tứ tuyệt Ba Tư của Khayyam, J. C. E. Bowen (1973) đề cập rằng, những bài thơ Ả Rập của Khayyam cũng "thể hiện quan điểm bi quan hoàn toàn phù hợp với vẻ ngoài của một nhà triết học duy lý trí sâu sắc mà Khayyam được biết đến trong lịch sử." Edward FitzGerald nhấn mạnh chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo mà ông thấy ở Khayyam. Trong lời nói đầu của Rubáiyát, ông nhận rằng ông "bị những người Sufi căm ghét và khiếp sợ", và đã phủ nhận mọi sự giả bộ trước những câu chuyện ngụ ngôn thần thánh: "Rượu của anh thực sự là Nước ép từ Nho: Quán rượu của anh, nơi nó từng đã có: Saki của anh, Thịt và Máu đã đổ ra cho anh.”. Sadegh Hedayat là một trong những người ủng hộ đáng chú ý nhất của triết học Khayyam đó là chủ nghĩa hoài nghi bất khả tri, và theo như Jan Rypka (1934), ông thậm chí còn xem Khayyam là một người vô thần. Hedayat (1923) nói rằng, "trong khi Khayyam tin vào sự biến tính và chuyển đổi của cơ thể con người, ông ấy không tin vào một linh hồn riêng biệt; nếu chúng ta may mắn, các phần tử cơ thể của chúng ta sẽ có thể được sử dụng để làm ra một bình rượu vang.". Thơ ca của Omar Khayyam đã được trích dẫn trong bối cảnh của Chủ nghĩa Vô thần Mới, chẳng hạn như trong "The Portable Atheist" của Christopher Hitchens.
Al-Qifti (khoảng năm 1172–1248) dường như xác nhận quan điểm này về triết học của Omar. Trong tác phẩm Lịch sử của những Người Uyên bác của mình, ông ghi nhận rằng các bài thơ của Omar chỉ theo phong cách Sufi về bề ngoài mà thôi, nhưng được viết với một tư tưởng chống tôn giáo. Ông cũng đề cập rằng, Khayyam đã có lúc bị truy tố vì tội bất kính, nhưng đã đi hành hương để chứng tỏ mình là người ngoan đạo. Bản ghi nhận cho biết, khi trở về thành phố quê nhà, ông che giấu niềm tin sâu sắc nhất của mình và thực hành một cuộc sống tôn giáo nghiêm ngặt, sáng tối đến nơi thờ phượng.
Khayyam nói về kinh Koran (đoạn trích 84):
Một bản tường thuật về ông, được viết vào thế kỷ thứ 13, cho thấy ông là người "thông thạo tất cả sự khôn ngoan của người Hy Lạp", và thường nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc nghiên cứu khoa học theo đường lối Hy Lạp. Trong số các tác phẩm văn xuôi của ông, có hai tác phẩm đứng vững trước nhà cầm quyền, lần lượt đề cập đến đá quý và khí hậu học. Không còn nghi ngờ gì nữa, nhà thơ kiêm nhà thiên văn là người không hề sùng đạo; và thiên văn học của ông chắc chắn đã giúp ông trở thành như vậy. Một người đương thời viết rằng: "Tôi không quan sát thấy ông ấy có bất kỳ niềm tin lớn nào vào các dự đoán chiêm tinh; tôi cũng chưa từng thấy hay nghe nói về bất kỳ (nhà khoa học) vĩ đại nào sở hữu niềm tin như vậy. Ông dành sự tuân thủ của mình cho trường phái không tôn giáo nào cả. Thuyết bất khả tri, mà không phải đức tin, là từ khoá trong các tác phẩm của ông. Trong số các giáo phái, ông thấy đầy rẫy khắp nơi những xung đột và hận thù mà ông không thể nhập cuộc...."
Tiểu thuyết gia Ba Tư Sadegh Hedayat kể rằng, Khayyám từ "khi còn trẻ cho đến khi qua đời vẫn là một người theo chủ nghĩa duy vật, bi quan, bất khả tri. Khayyam nhìn nhận mọi câu hỏi về tôn giáo bằng con mắt hoài nghi", Hedayat tiếp tục, "và ghét bỏ chủ nghĩa cuồng tín, hẹp hòi, và tinh thần báo thù của các giáo sĩ mulla, những người được gọi là các học giả tôn giáo."
Trong bối cảnh của một văn phẩm có tựa đề Về kiến thức của các Nguyên lý Tồn tại, Khayyam tán thành đường lối thần bí Sufi. Csillik (1960) gợi ý đến khả năng rằng, Omar Khayyam có thể nhìn thấy ở trường phái thần bí Sufism một đồng minh chống lại tôn giáo chính thống. Các nhà bình luận khác không chấp nhận được rằng thơ ca của Omar có tư tưởng chống tôn giáo và diễn giải những đề cập của ông đến rượu và say theo nghĩa ẩn dụ thông thường phổ biến trong trường phái thần bí Sufism. Dịch giả tiếng Pháp J. B. Nicolas cho rằng không nên hiểu việc Omar thường xuyên khuyến khích uống rượu theo nghĩa đen, mà hơn là nên được xem xét dưới ánh sáng của tư tưởng Sufi, theo đó cơn say cuồng nhiệt của "rượu" được hiểu như một phép ẩn dụ cho trạng thái giác ngộ hoặc sự sung sướng hân hoan thần thánh của "baqaa". Quan điểm xem Omar Khayyam như là một Sufi được bảo vệ bởi Bjerregaard (1915), Idries Shah (1999), và Dougan (1991), những người cho rằng danh tiếng của chủ nghĩa khoái lạc là do những thất bại trong bản dịch của Fitzgerald, cho rằng thơ của Omar nên được hiểu như một điều "bí truyền sâu sắc". Mặt khác, các chuyên gia Iran như Mohammad Ali Foroughi và Mojtaba Minovi bác bỏ giả thuyết rằng Omar Khayyam từng là một Sufi. Foroughi tuyên bố rằng, những ý tưởng của Khayyam có nhẽ là có thể nhất quán với tư tưởng của những người Sufi đương thời nhưng không có bằng chứng rằng ông chính thức là một Sufi. Aminrazavi (2007) tuyên bố rằng, "Diễn giải Sufi đối với Khayyam chỉ có thể khả thi nếu như đọc kỹ và sâu Rubāʿīyyāt của ông và chèo kéo bóp méo nội dung cho phù hợp với học thuyết Sufi cổ điển.". Hơn nữa, Frye (1975) nhấn mạnh rằng, Khayyam bị bất mãn cực kỳ bởi một số nhà thần bí Sufi nổi tiếng cùng thế kỷ. Bao gồm cả Shams Tabrizi (người hướng đạo tinh thần của Rumi), Najm al-Din Daya, người đã mô tả Omar Khayyam là "một triết gia, người vô thần, và người theo chủ nghĩa duy vật bất hạnh", và Attar, người đã không coi ông như một đồng đạo thần bí mà là một nhà khoa học có tư tưởng tự do, người đang chờ đợi sự trừng phạt sau này.
Seyyed Hossein Nasr lập luận rằng, việc sử dụng cách diễn giải theo nghĩa đen các câu thơ của ông (nhiều câu trong số đó không chắc chắn về tính xác thực ngay từ đầu) là "đơn giản hóa" để thiết lập triết lý của Omar Khayyam. Thay vào đó, ông trích dẫn bản dịch diễn giải của Khayyam chuyên luận của Avicenna Diễn ngôn về sự thống nhất (), tại đó Khayyam bày tỏ các quan điểm chính thống về Sự thống nhất Thiêng liêng đồng tình với tác giả. Các tác phẩm văn xuôi được cho là của Omar được viết theo phong cách Peripatetic và rõ ràng là hữu thần, đề cập đến các chủ đề như là sự tồn tại của Chúa và thần học. Như Bowen đã lưu ý, những tác phẩm này cho thấy sự tham gia của Khayyam trong các vấn đề siêu hình học hơn là vào những điều tinh tế của Sufism. Như bằng chứng cho đức tin của Khayyam và/hoặc việc tuân thủ các phong tục Hồi giáo, Aminrazavi đề cập rằng, trong các chuyên luận của Khayyam, ông đưa ra những lời chào và lời cầu nguyện, ca ngợi Chúa và Muhammad. Trong hầu hết các trích đoạn tiểu sử, ông được nhắc đến bằng những kính ngữ tôn giáo như , Người bảo trợ của Đức tin (), và Bằng chứng của Sự thật (). Aminrazavi cũng lưu ý rằng, những người viết tiểu sử ca ngợi tính cách mộ đạo của Khayyam thường tránh đề cập đến thơ của ông, trong khi những người đề cập đến thơ ca Khayyam lại thường không ca ngợi tính cách tôn giáo của ông. Ví dụ, theo lời kể của Al-Bayhaqi, sớm hơn trước đó vài năm so với những ghi nhận tiểu sử khác, nói về Omar như một người rất ngoan đạo, người đã tuyên xưng quan điểm chính thống cho tới giờ phút cuối cùng của mình.
Trên cơ sở tất cả các chứng cứ văn bản và tiểu sử hiện có, câu hỏi vẫn còn phần nào bỏ ngỏ, và kết quả là Khayyam đã nhận về cả những ghi nhận và phê bình trái chiều gay gắt.
Sự tiếp nhận
Các trích đoạn tiểu sử khác nhau đề cập đến Omar Khayyam có mô tả ông là một người có kiến thức khoa học và thành tựu vô song trong thời đại của mình. Nhiều người gọi ông bằng danh hiệu Vua Thông Thái (). Shahrazuri (mất năm 1300) đánh giá cao ông với tư cách là một nhà toán học, và tuyên bố rằng ông có thể được xem là "người kế tục Avicenna trong các lĩnh vực triết học khác nhau". Al-Qifti (mất năm 1248), mặc dù không đồng thuận với các quan điểm của ông, vẫn thừa nhận rằng ông "có kiến thức vô song về triết học tự nhiên và thiên văn học". Mặc dù được một số nhà viết tiểu sử ca ngợi là một nhà thơ, nhưng theo như Richard N. Frye, "vẫn có thể tranh luận rằng, vị thế nhà thơ hạng nhất của Khayyam là một sự phát triển tương đối muộn."
Thomas Hyde là người châu Âu đầu tiên kêu gọi sự chú ý đến Omar và dịch một trong những bài thơ tứ tuyệt của ông sang tiếng Latinh (Historia religionis veterum Persarum eorumque magorum, 1700). Sự quan tâm của phương Tây đối với Ba Tư đã lớn dần cùng với phong trào Chủ nghĩa phương Đông Orientalism vào thế kỷ 19. Joseph von Hammer-Purgstall (1774–1856) đã dịch một số bài thơ của Khayyam sang tiếng Đức năm 1818, và Gore Ouseley (1770–1844) dịch sang tiếng Anh năm 1846, nhưng Khayyam vẫn còn tương đối ít được biết đến ở phương Tây cho tới sau khi cuốn sách Rubaiyat of Omar Khayyam của Edward FitzGerald được xuất bản vào năm 1859. Thành quả của Fitzgerald lúc đầu không thành công nhưng đã được phổ biến bởi Whitley Stokes từ năm 1861 trở đi, và tác phẩm đã được nhóm nghệ thuật Pre-Raphaelites vô cùng ngưỡng mộ. Năm 1872, Fitzgerald đã cho in ấn bản thứ ba, điều này làm gia tăng sự quan tâm đến tác phẩm tại Mỹ. Đến những năm 1880, cuốn sách cực kỳ nổi tiếng trên khắp cộng đồng nói tiếng Anh, tới mức hình thành nên nhiều quán rượu mang tên ông, các "Câu lạc bộ Omar Khayyam" và một "hội sùng bái fin de siècle dành cho Rubaiyat". Những bài thơ của Khayyam đã và đang còn được dịch ra nhiều thứ tiếng; nhiều trong số những bản dịch gần đây được dịch sát nghĩa hơn cả bản của Fitzgerald.
Bản dịch của Fitzgerald là một yếu tố khơi dậy nên sự quan tâm đến Khayyam với tư cách là một nhà thơ ngay cả tại quê hương Iran của ông. Sadegh Hedayat, trong Những bài ca Khayyam (Taranehha-ye Khayyam, 1934) của mình, đã giới thiệu lại di sản thơ ca của Omar cho Iran hiện đại. Dưới triều đại Pahlavi, một tượng đài mới làm từ đá cẩm thạch trắng do kiến trúc sư Houshang Seyhoun thiết kế đã được dựng lên trên lăng mộ của ông. Một bức tượng của Abolhassan Sadighi đã được dựng lên ở Công viên Laleh, Tehran vào những năm 1960, và một bức tượng bán thân của cùng nhà điêu khắc đặt gần lăng mộ Khayyam ở Nishapur. Năm 2009, nhà nước Iran đã quyên tặng một toà đài điêu khắc cho Văn phòng Liên hợp quốc tại Vienna, khánh thành tại Trung tâm Quốc tế Vienna. Năm 2016, ba bức tượng của Khayyam được khánh thành: một ở Trường đại học Oklahoma, một ở Nishapur và một ở Florence, Ý. Hơn 150 nhà soạn nhạc đã sử dụng Rubaiyat làm nguồn cảm hứng của họ. Nhà soạn nhạc đầu tiên như vậy là Liza Lehmann.
Fitzgerald chuyển tên của Omar thành "Người làm túp lều", và cái tên được Anh ngữ hoá "Omar, người làm túp lều (Omar the Tentmaker)" đã gây được tiếng vang trong văn hóa đại chúng nói tiếng Anh trong một thời gian. Do đó, Nathan Haskell Dole đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết có tên Omar, người làm túp lều: Một chuyện tình Ba Tư Cũ (Omar, the Tentmaker: A Romance of Old Persia) vào năm 1898. Omar, người làm túp lều của Naishapur (Omar the Tentmaker of Naishapur) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử của John Smith Clarke, xuất bản năm 1910. "Omar the Tentmaker" cũng là tựa đề của một vở kịch năm 1914 do Richard Walton Tully lấy bối cảnh phương Đông, được chuyển thể thành phim câm năm 1922. Tướng Hoa Kỳ Omar Bradley được đặt cho biệt danh "Omar the Tent-Maker" (Omar người làm túp lều) trong Thế chiến thứ hai.
Bài tứ tuyệt Ngón tay chuyển động (The Moving Finger)
Bài thơ tứ tuyệt của Omar Khayyam được biết đến với tên gọi "Ngón tay Chuyển động" (The Moving Finger), theo bản dịch của nó bởi nhà thơ người Anh Edward Fitzgerald là một trong những bài tứ tuyệt nổi tiếng nhất trong vùng ngôn ngữ tiếng Anh. Thơ rằng:
Tựa đề của cuốn tiểu thuyết "The Moving Finger" do Agatha Christie viết và xuất bản năm 1942 được lấy cảm hứng từ bài thơ tứ tuyệt này trong bản dịch "Rubaiyat của Omar Khayyam" của Edward Fitzgerald. Martin Luther King cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này của Omar Khayyam trong một bài diễn văn của ông "Beyond Vietnam: A Time to Break Silence" (Bên kia Việt Nam: Thời điểm để Phá vỡ Im lặng):
Trong bài diễn văn thứ lỗi cho vụ scandal Clinton–Lewinsky, tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ Bill Clinton cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này.
Trong văn hoá đại chúng
Nhà văn người Pháp gốc Li-băng Amin Maalouf đã dựa vào ông để viết nửa đầu cuốn tiểu thuyết hư cấu lịch sử 'Samarkand về cuộc đời của Khayyam và quá trình tạo ra Rubaiyat của ông. Nhà điêu khắc Eduardo Chillida đã tạo ra bốn tác phẩm bằng sắt khổng lồ mang tên Mesa de Omar Khayyam (Bàn của Omar Khayyam) vào những năm 1980.
Hố Mặt trăng Omar Khayyam được đặt tên để vinh danh ông vào năm 1970, cũng như tiểu hành tinh 3095 Omarkhayyam được nhà thiên văn Liên Xô Lyudmila Zhuravlyova phát hiện vào năm 1980.
Google đã phát hành hai Google Doodles để tưởng nhớ ông. Lần đầu tiên là vào sinh nhật lần thứ 964 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2012. Lần thứ hai là vào sinh nhật lần thứ 971 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2019.
Trưng bày |
là thuật ngữ tiếng Nhật mô tả các loại hoạt hình vẽ tay và máy tính có nguồn gốc từ Nhật Bản hoặc có sự gắn kết mật thiết với Nhật Bản. Bên ngoài Nhật Bản, thuật ngữ này thường được sử dụng nhằm ám chỉ tính đặc trưng và riêng biệt của hoạt hình Nhật Bản hoặc như một phong cách hoạt hình phổ biến tại Nhật Bản thường được vẽ nên bởi đồ họa tràn đầy màu sắc, các nhân vật sống động và những chủ đề tuyệt vời. Hoạt hình sản xuất bên ngoài Nhật Bản với phong cách tương tự như anime được gọi là hoạt hình chịu sự ảnh hưởng của anime.
Hoạt hình Nhật Bản giao thương rất sớm từ năm 1917 và quá trình sản xuất các tác phẩm anime tại Nhật Bản kể từ đó vẫn tiếp tục tăng đều đặn. Phong cách nghệ thuật anime đặc trưng được nổi bật trong những năm 1960 với các tác phẩm của Tezuka Osamu trước khi nhanh chóng lan rộng ra quốc tế trong những năm ở cuối thế kỷ 20 và dần phát triển thành một lượng lớn khán giả người Nhật và quốc tế. Anime được phân phối tại các rạp chiếu phim, phát sóng qua hệ thống đài truyền hình, xem trực tiếp từ phương tiện truyền thông tại nhà và trên internet. Nó được phân loại thành nhiều thể loại hướng đến các mục đích đa dạng và những đối tượng khán giả thích hợp.
Anime là một phương tiện đa dạng kết hợp kết hợp phương pháp sản xuất đặc biệt thích ứng cùng công nghệ mới nổi. Nó là sự kết hợp giữa nghệ thuật đồ họa, phương thức mô tả nhân vật, kỹ thuật dựng phim, trí tưởng tượng và chủ nghĩa cá nhân. So với hoạt hình phương tây, sản xuất anime thường ít tập trung vào chuyển động mà thay vào đó là các kĩ thuật như dựng phim, lia máy hay chụp góc. Một số phong cách nghệ thuật khác như tỉ lệ nhân vật hay đặc điểm trong thể loại này đa dạng với đặc trưng những đôi mắt to và có hồn.
Năm 2015, ngành công nghiệp anime Nhật Bản có khoảng 662 xưởng phim hoạt hình trong đó có một số những cái tên nổi tiếng trong ngành như Kyoto Animation, Ghibi, Toei Animation hay A-1 Pictures. Mặc dù chỉ chiếm một thị phần nhỏ trong thị trường phim nội địa tại Nhật Bản nhưng lại đem đến một thị phần khá lớn doanh thu băng đĩa tại quốc gia này. Sự gia tăng trong văn hóa đại chúng quốc tế dẫn đến nhiều phim hoạt hình không phải của người Nhật sử dụng phong cách anime, những tác phẩm này thường được miêu tả như hoạt hình chịu ảnh hưởng từ anime hơn là anime đúng nghĩa. Tính đến năm 2016, anime chiếm 60% các phim hoạt hình truyền hình trên toàn thế giới.
Từ nguyên
Anime là một hình thái nghệ thuật, hoạt họa đặc trưng bao gồm các thể loại được xây dựng trong điện ảnh nhưng bản thân anime cũng thường bị phân loại nhầm lẫn như một thể loại. Trong tiếng Nhật, thuật ngữ anime được sử dụng như một thuật ngữ cây dù để đề cập đến tất cả các dạng phim hoạt hình trên thế giới. Nhưng trong tiếng Anh, anime (/ˈænəˌmeɪ/) được dùng trong phạm vi giới hạn hơn để chỉ "phim điện ảnh hoặc giải trí truyền hình theo phong cách Nhật Bản" hoặc như "một phong cách hoạt hình được sáng tạo tại Nhật Bản".
Từ nguyên học của từ "anime" đã gây ra nhiều tranh luận. Trong tiếng Nhật, thuật ngữ "animation" tiếng Anh được viết bằng chữ katakana dưới dạng アニメーション (animēshon, phát âm là [animeːɕoɴ]) và là アニメ(anime) trong cách viết ngắn gọn. Một vài nguồn tin nói rằng anime bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Pháp về hoạt họa là dessin animé, nhưng một số nguồn tin khác cho rằng thông tin đó là không xác thực bắt nguồn từ sự phổ biến truyền thông đại chúng tại Pháp trong cuối thập niên 1970 và thập niên 1980.
Trong tiếng Anh, khi anime được dùng như một danh từ chung thì chức năng của nó như một danh từ không đếm được. (Ví dụ "Do you watch anime? [Bạn đã xem anime chưa?]" hay "How much anime have you collected? [Bạn đã sưu tập được bao nhiêu anime?"). Trước khi thuật ngữ anime được sử dụng, Japanimation là thuật ngữ được dùng phổ biến trong khoảng thời gian từ thập niên 1970 cho đến thập niên 1980 trước khi được anime dần thay thế. Còn trong hiện tại, thuật ngữ này chỉ xuất hiện trong các tác phẩm đương đại hiện nay nhằm phân biệt các loại hoạt hình khác với hoạt hình Nhật Bản.
Từ "anime" cũng đã từng nhiều lần bình phẩm như vào năm 1987, khi Miyazaki Hayao, nhà đồng sáng lập xưởng phim hoạt hình Ghibi, phát biểu rằng ông xem thường từ bị cắt xén "anime" bởi vì với ông thì nó thể hiện sự hoang tàn của ngành công nghiệp này. Ông đã đặt ngang hàng sự hoang tàn đó với các họa sĩ diễn hoạt thiếu động lực và các sản phẩm thái quá chủ nghĩa biểu hiện được sản xuất hàng loạt, dựa vào một biểu tượng học cố định của biểu cảm khuôn mặt cùng những phân cảnh hành động bị kéo dài và phóng đại quá mức nhưng lại thiếu đi chiều sâu và sự tinh tế bên trong do họ không cố gắng truyền đạt cảm xúc hoặc suy nghĩ.
Giáo sư Marc Yamada định nghĩa hoạt hình là "một phương tiện truyền thông gồm những hình ảnh được xử lý để xuất hiện như những hình ảnh chuyển động" và liên tục được mở rộng với những tiến bộ công nghệ trong suốt 100 năm qua; ngược lại, anime là một phong cách hoạt hình đặc trưng, hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi "tiếp thị và buôn bán nước ngoài, một sự thay đổi dựa vào người hâm mộ và những thành tựu công nghệ tại Nhật Bản". Còn với giáo sư Ian Condry, ông cho rằng sự thành công toàn cầu của anime là "sự phát triển từ năng lượng xã hội tập thể với hoạt động giao thoa giữa các ngành công nghiệp như điện ảnh, truyền hình, manga, đồ chơi và các buôn bán cấp phép khác, kết nối giữa những người hâm mộ với các nhà sáng tạo anime." Theo ông, chính những năng lượng xã hội tập thể này là linh hồn của anime.
Định dạng
Định dạng đầu tiên của anime là hình thức chiếu rạp mà khởi đầu trước tiên với các sản phẩm thương mại vào năm 1917. Các tập sách lật được hoạt họa ban đầu thô và được yêu cầu phối nhạc trước khi thêm phần âm thanh và giọng hát để sản xuất. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, Nippon TV đã phát sóng Mogura no Abanchūru với phiên bản vừa là phim anime màu đầu tiên và truyền hình đầu tiên ra mắt. Mãi cho đến thập niên 1960 khi các loạt phim truyền hình dài tập đầu tiên được phát sóng và định dạng truyền hình là một phương tiện phổ biến kể từ đó. Các tác phẩm đã được phát hành trong một định dạng video trực tiếp với tên gọi "original video animation" (OVA) hoặc "original video animation" (OAV); và thường không phát hành tại rạp chiếu phim hoặc truyền hình trước khi phát hành trên các phương tiện tại gia. Sự xuất hiện của internet đã khiến một số họa sĩ diễn hoạt phân phối các tác phẩm trực tuyến trong một định dạng gọi là "original net anime" (ONA).
Phân phối băng đĩa tại gia trong việc phát hành anime đã được phổ biến rộng rãi vào thập niên 1980 với các định dạng VHS và đĩa lade. Định dạng video NTSC VHS được sử dụng tại Nhật Bản và Hoa Kỳ đã được công nhận, cũng như hỗ trợ sự gia tăng tính đại chúng của anime trong thập niên 1990. Các định dạng VHS và đĩa lade đã bị định dạng DVD vượt qua nhờ cung cấp nhiều ưu điểm độc đáo, bao gồm nhiều phụ đề tích hợp và nhiều kênh thoại lồng tiếng trên cùng một đĩa phim. Định dạng DVD cũng có những hạn chế trong sử dụng mã hóa vùng được ngành công nghiệp anime chấp nhận để giải quyết việc cấp phép, các vấn đề vi phạm bản quyền và xuất khẩu, cũng như giới hạn khu vực được chỉ định trên đầu đĩa DVD. Định dạng Video CD (VCD) rất phổ biến tại Hồng Kông và Đài Loan, nhưng chỉ là một định dạng ít phổ biến tại Hoa Kỳ được liên kết chặt chẽ với các bản sao lậu.
Lịch sử
Hoạt hình Nhật Bản bắt đầu hình thành vào những năm đầu của thế kỷ 20, khi các nhà làm phim Nhật Bản tiến hành thử nghiệm với các kỹ thuật hoạt hình đang được phát triển tiên phong tại Pháp, Đức, Hoa Kỳ và Nga. Một xác nhận cho rằng bộ phim hoạt hình Nhật Bản xuất hiện sớm nhất là Katsudō Shashin, một tác phẩm không công khai và chưa xác định được thời gian sản xuất do một tác giả vô danh thực hiện. Năm 1917, các tác phẩm chuyên nghiệp và được trình chiếu công khai bắt đầu xuất hiện. Nhiều họa sĩ diễn hoạt như Shimokawa Ōten và Kitayama Seitarō đã tạo ra nhiều tác phẩm; trong đó tác phẩm Namakura Gatana của Kōuchi Jun'ichi là bộ phim còn được lưu trữ lâu nhất, đó là một clip dài 2 phút mô tả một samurai đang thử một thanh kiếm mới mua vào các mục tiêu của anh ta nhưng phải chịu thất bại đau đớn. Đại thảm họa động đất Kantō 1923 dẫn đến sự tàn phá trên diện rộng các cơ sở hạ tầng tại Nhật Bản và nhà kho ở Shimokawa cũng đã bị phá hủy; do đó làm hủy hoại hầu hết các tác phẩm đầu tiên này.
Hoạt hình những năm 1930 đã được củng cố vững chắc tại Nhật Bản như một hình thức thay thế cho ngành công nghiệp phim người đóng. Nó đã chịu sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất và những họa sĩ diễn hoạt nước ngoài; Ōfuji Noburō và Murata Yasuji vẫn tiếp tục làm hoạt hình cắt dán có giá thành rẻ hơn hoạt hình cel. Các tác giả khác như Masaoka Kenzō và Seo Mitsuyo đã tạo ra không ít những bước tiến lớn trong kỹ thuật hoạt hình, họ được hưởng lợi từ sự bảo trợ của chính phủ khi chính các họa sĩ diễn hoạt được thuê để sản xuất những bộ phim ngắn mang tính chất giáo dục và tuyên truyền. Anime phim nói đầu tiên là Chikara to Onna no Yo no Naka được sản xuất bởi Masaoka vào năm 1933. Năm 1940, các tổ chức của nhiều họa sĩ anime đã tăng lên, bao gồm Shin Mangaha Shudan và Shin Nippon Mangaka. Phim dài hoạt hình đầu tiên là Momotarō: Umi no Shinpei, được Seo đạo diễn vào năm 1944 cùng với sự tài trợ từ Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Sự thành công từ phim dài Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (năm 1937) của Công ty Walt Disney đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản. Trong những năm 1960, họa sĩ manga kiêm họa sĩ diễn hoạt Tezuka Osamu đã mô phỏng lại và giản lược hóa nhiều kỹ thuật hoạt hình của Walt Disney nhằm giảm bớt chi phí và giới hạn số khung hình trong quá trình sản xuất. Tezuka Osamu đã chủ định điều đó như một biện pháp tạm thời cho phép ông sản xuất các bộ phim trên một lịch trình chặt chẽ cùng với đội ngũ hoạt họa còn thiếu kinh nghiệm. Bộ phim Three Tales phát sóng năm 1960, là anime đầu tiên được chiếu trên truyền hình. Loạt anime theo tiêu chuẩn phim truyền hình đầu tiên là Otogi Manga Calendar, phát sóng từ năm 1961 đến năm 1964.
Những năm 1970 cho thấy sự phát triển đột biến mang tính đại chúng của manga, truyện đồ họa, sách tranh Nhật Bản; nhiều trong số đó đã được hoạt họa hóa sau này. Tác phẩm của Tezuka Osamu đã thu hút được sự chú ý: ông đã được gọi là một "huyền thoại" và "Thần manga". Tác phẩm của Tezuka Osamu và những người tiên phong khác trong lĩnh vực này đã truyền cảm hứng cho anime những đặc trưng và các thể loại mà vẫn còn ảnh hưởng đến các quy tắc cơ bản của hoạt hình hiện tại. Thể loại robot khổng lồ (hay còn được gọi là "mecha" bên ngoài Nhật Bản) là một ví dụ: căn bản dựa trên hình dáng robot trong tác phẩm của Tezuka Osamu, rồi sau đó được Nagai Go cùng những tác giả khác phát triển thành thành thể loại "Siêu Robot"; tiếp tục được Tomino Yoshiyuki cách mạng hóa vào cuối thập kỷ khi phát triển thành thể loại "Robot thực". Anime robot như loạt phim Gundam và Chōjikū yōsai Macross đã lập tức trở thành kinh điển trong những năm 1980, và thể loại anime robot tiếp tục là một trong những thể loại phổ biến tại Nhật Bản và trên toàn thế giới hiện tại. Thập niên 1980, anime đã được đón nhận nhiều hơn trong thị hiếu đại chúng tại Nhật Bản (mặc dù ít hơn manga), và trải qua một thời kỳ phát triển bùng nổ trong việc sản xuất. Sau một vài phiên bản anime chuyển thể thành công tại thị trường nước ngoài trong những năm 1980, anime đã gia tăng được nhiều hơn sự đón nhận tại thị trường nước ngoài những năm 1990 và thậm chí còn nhiều hơn khi bước sang thế kỷ XXI. Năm 2002, bộ phim Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của Studio Ghibli do Miyazaki Hayao đạo diễn giành được giải thưởng Gấu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Berlin; đồng thời cũng chiến thắng Giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 75 năm 2003.
Tham chiếu văn hóa
Thần đạo, Phật giáo
Thần đạo là tôn giáo sắc tộc của Nhật Bản, được đặc trưng bởi một nhận thức thuyết vật linh về tự nhiên. Thần đạo là hình thức ứng xử hòa hợp với tự nhiên và linh hồn tổ tiên; các kami này chống lại những oni hung bạo. Do đó, vô số thần thoại và truyền thuyết được tạo lập từ truyền thống Thần đạo, bắt nguồn từ những truyền thuyết được ghi chép trong Cổ sự ký và Nhật Bản thư kỷ (các văn bản thế kỷ 8) nhằm giải thích nguồn gốc các linh hồn với nhiều hơn một gợi dẫn dành cho những câu chuyện được thuật lại ở Nhật Bản. Đặc biệt, một đặc điểm đặc trưng của Thần đạo là sự kết hợp các yếu tố kỳ ảo vượt qua ngưỡng nhận thức của con người với cuộc sống thường ngày, một đặc điểm dễ được nhận thấy trong nhiều tác phẩm hoạt hình Nhật Bản.
Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông Nhật Bản thường đóng một vai trò trong cốt truyện. Không chỉ hiện diện thường xuyên trong các câu chuyện của một Tì-kheo diễn đạt biếm họa và nghiêm túc, truyền thống Thiền tông Nhật Bản còn đưa cách tiếp cận trực diện và ngữ dụng học đối với thực tế, ít thiên về xây dựng các hệ thống quan niệm yêu cầu giải thích dẫn đến tuyến nhân vật trong cốt truyện thiên về hành động, tâm hồn nhân vật tự tại và bộc lộ.
Võ sĩ đạo
Anime chứa đựng các yếu tố truyền thống, giai thoại, vị thế mà chắc chắn đạo đức võ thuật về cơ bản có thể truy nguyên từ các quy tắc ứng xử phức tạp được cấu thành trong "con đường chiến binh cao quý" võ sĩ đạo (Bushidō ). Cốt truyện trong anime đặc biệt có xu hướng hợp nhất các khía cạnh của bujutsu và budō để không chỉ thể hiện mức độ ngoạn mục của trận chiến mà còn đại diện cho võ đạo và kỹ nghệ võ thuật của nhân vật chính. Trong một số trường hợp, anh hùng trong anime cũng có thể được thần thánh hóa như trong thần thoại Hy Lạp. Tuy nhiên, do võ sĩ đạo được đặc trưng bởi sự hiện diện các quy tắc phẩm chất đạo đức (như công lý, ý thức bổn phận, trung thành, đồng cảm, danh dự, trung thực, can đảm) nên nền tảng văn hóa võ sĩ đạo không chỉ được thể hiện trong anime với tuyến nhân vật tập trung vào chiến đấu, xung đột hoặc bối cảnh phong kiến Nhật Bản mà còn hiện diện trong nhiều cốt truyện cuộc sống học đường và gia phong Nhật Bản đương đại. Sự huấn luyện nghiêm khắc shugyō ) bởi samurai hoặc budōka để hướng đến tự chủ và tự giác, nhằm biểu thị con đường và tiến hóa của các nhân vật chính trong anime, thường được gắn kết trong các nhiệm vụ gian khổ để kiểm chứng tiềm năng bên trong nhân vật khi cần phải vượt qua nỗi sợ hãi và điểm yếu của bản thân. Đôi khi, mục tiêu cuối cùng của con đường thông qua kiểm soát khí năng lượng bên trong nhằm đạt được một nhận thức về tính không của vạn vật, dẫn đến từ bỏ các tuyên bố bản ngã và đánh giá cao sự phù du của vật chất hữu hình, thậm chí không còn sợ hãi cái chết. Tuy nhiên, việc tìm kiếm và định nghĩa về bản sắc người anh hùng chính là nguyên nhân dẫn đến sự từ bỏ này, trái ngược với yêu cầu tiêu chuẩn hóa của xã hội Nhật Bản.
Senpai – Kōhai
Con đường hướng đến budōka không thể bắt đầu mà không có một chỉ dẫn, có thể từ một người cha hoặc một người thầy (sensei) để dẫn dắt hướng hành vi của một người. Mối quan hệ này trong xã hội Nhật Bản thường được đại diện qua senpai–kōhai , khi người thứ nhất là 'người bắt đầu trước' và người thứ hai là 'người bắt đầu sau'; khác với quan hệ dōryō. Mối quan hệ này hàm ý sự kính trọng và thành tâm của kōhai đối với senpai, senpai phải khuyên răn và chỉ dẫn cuộc sống cho kōhai; điều này có thể được nhận diện trong từng bối cảnh xã hội, từ trường học đến nơi làm việc, từ thể thao đến chính trị và chắc chắn cũng được phản chiếu trong anime khi senpai–kōhai thường được xây dựng như mối quan hệ chính giữa các nhân vật.
Vòng lặp, ý thức bổn phận
Theo quan niệm sống của người Nhật, sức mạnh nội tại thực sự nằm ở việc không mưu cầu hạnh phúc cho bản nhân mà một lòng tìm về một lý tưởng và hoàn thành nghĩa vụ, thông qua đó họ đi tìm một con đường trong tâm thức (ikigai ). Tham chiếu đến bổn phận trả món nợ mà có thể chống lại Thiên hoàng, cha mẹ, tổ tiên và thậm chí chống lại chính bản thân; nhưng trong cốt truyện của nhiều anime đưa đến việc chống lại toàn thế giới với nhân vật chính vượt qua cảm xúc cá nhân và sự cô lập nhằm ngụ ý những di sản đa dạng thường thấy, gánh vác trách nhiệm cứu tinh cho đến tự hy sinh cực đoan (gaman ) được truyền cảm hứng từ lịch sử quân sự Nhật Bản. Tuy nhiên, trong một quan niệm hoàn toàn thế tục, đạo đức trong thế giới quan người Nhật thì vạn vật được coi là vô ngã và vô thường (wabi-sabi ). Nhiều ví dụ trong anime về một thiết lập văn hóa như vậy, được nhận diện trong nền tảng của các loạt phim mecha (robot khổng lồ) vào thập niên 1970 và thập niên 1980 với những sắc thái khác nhau. Không chỉ vậy, một phái sinh rõ ràng như Saint Seiya cũng đã đề cập đến nhiều quan niệm văn hóa bên trong.
Nhân loại, tự nhiên và công nghệ
Xã hội Nhật Bản thời hậu chiến với nền kinh tế phát triển thịnh vượng đặt trong bối cảnh yên bình nhưng buồn chán ('ngày dài vô tận' xuất hiện phổ biến, wari-naki nichijō, endless everyday) mà không thể được thay đổi bằng những ý tưởng cách mạng như đã từng diễn ra trong các phong trào sinh viên và xã hội Nhật Bản thập niên 1960. Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 khiến nhiều người Nhật tranh luận rằng 'tính đều đặn' (nichijō-sei, everydayness) đã thay đổi hoặc kết thúc, dẫn đến một sự đổ bóng lên các phê phán về hoạt hình Nhật Bản khi tranh luận rằng anime chủ đề 'tính đều đặn' sẽ đánh mất đam mê của họ. Vài ngày sau Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, một số anime truyền hình (như Tōkyō Magunichūdo 8,0 hay Oniichan no Koto Nanka Zenzen Suki Janain Dakara ne—!!) có chủ đề gợi nhắc đến sóng thần, thảm họa, sự cố hạt nhân đã bị cắt một số tập hoặc bị thay lịch chiếu vào tháng 11 năm 2011. Truyền thống Thần đạo đã được phản chiếu trong anime qua việc tranh luận phức tạp mối quan hệ giữa tự nhiên và công nghệ, một vấn đề quan trọng tồn tại từ lâu trong xã hội Nhật Bản (cũng như trên toàn thế giới). Bộ phim Momotarō: Umi no Shinpei thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên (đại diện bởi các động vật trên một hòn đảo) và công nghệ (một hình thức tuyên truyền trong chiến tranh thế giới thứ hai) phát triển vượt bậc như một phần của giai đoạn hậu chiến. Trong thể loại khoa học viễn tưởng như mecha (robot khổng lồ) có thể giải thích hướng công nghệ phát triển thay vì ý nghĩa tích cực (đảm bảo hạnh phúc, giải trừ thảm họa) lại bắt đầu trở thành nguồn gốc của sự tàn phá và hủy diệt, nghịch lý mâu thuẫn này như một góc nhìn bao quát và phủ nhận cùng một lúc khi thiệt hại được phục hồi bằng công nghệ tương tự. Công nghệ với giá trị cứu rỗi (các tác phẩm của Nagai Go) hoặc thể hiện sự tàn phá trong các tác phẩm của Miyazaki Hayao và Yoshida Tatsuo. Một khái niệm khác là cyberpunk với bộ phim Akira được coi là tiên phong. Trong Ghost in the Shell và Serial Experiments Lain, khái niệm nhân loại được tích hợp sinh học với công nghệ, nhân tính ít quan trọng hơn và thường đi kèm với chủ nghĩa hiện sinh. Nói cách khác, mối quan hệ công nghệ-con người thông qua các anime chứa đựng và diễn giải lại theo một chuyển vị hiện đại, cuối cùng tạo nên sự kết hợp không thể tách rời giữa cái cũ và cái mới.
Xã hội Nhật Bản
Nhiều anime có tuyến nhân vật thanh thiếu niên được nêu bật hoặc ít nhất ám chỉ vai trò ngày càng tăng của công nghệ trong khuyến khích mất kết nối với phần còn lại của xã hội hoặc tạo điều kiện cho tự sát tập thể, thể hiện sự chán nản và những lo lắng tương lai của giới trẻ Nhật Bản đương đại (Serial Experiments Lain, Chào mừng đến với N.H.K!). Sự thể hiện quá mức nhân khẩu học giới trẻ trong các tác phẩm liên quan đến tự sát mâu thuẫn với hoàn cảnh thực tế tại Nhật Bản khi nhân khẩu học trung niên và cao niên thường có xu hướng tự sát lớn hơn; nguyên nhân một phần do giới trẻ chiếm đa số thị phần khán thính giả mục tiêu hoặc giới trẻ sẵn sàng khám phá chủ đề cấm kỵ tự sát hơn các nhóm nhân khẩu học khác (Colorful, Haibane Renmei, Sayonara Zetsubō Sensei). Hiện tượng hikikomori thường được sử dụng như bối cảnh phụ (Shin Seiki Evangelion) hoặc điểm khởi đầu để phát triển (Higashi no Eden), đôi khi hikikomori đóng vai trò trong tuyến nhân vật chính và trở thành phần lớn cốt truyện (Chào mừng đến với N.H.K!); nội dung anime gắn với hikikomori thường bắt nguồn từ chấn thương quá khứ (bắt nạt, áp lực xã hội) hoặc từ chối trường học, từ chối xã hội. Nhân vật hikikomori trong anime hiếm khi rời khỏi nhà, tương tác kết nối gia đình ít, paranoia, bỏ học, tư thế xấu, tái hòa nhập xã hội. Xã hội thời kỳ Minh Trị bước đầu giải phóng phụ nữ Nhật Bản với việc thành lập trường học dành cho thiếu nữ, ham muốn của nam giới xen lẫn sự lo lắng về giải phóng phụ nữ được thể hiện thông qua thập niên 1920. Anime thường xây dựng hình mẫu người phụ nữ Nhật Bản truyền thống và dần mở rộng với hình tượng chủ nghĩa nữ quyền. Người Nhật chưa bao giờ chính thức thừa nhận thất bại của hải quân Đế quốc Nhật Bản và tiếp tục suy diễn về những chiến thắng tưởng tượng trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, anh hùng anime hoàn toàn kiểm soát vận mệnh của họ và đạt được chiến thắng hoàn toàn bất chấp sự sụp đổ xung quanh (Laputa: Lâu đài trên không, Nàng công chúa ở Thung lũng gió). Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki được tham chiếu trong anime với sự hủy diệt trực tiếp (Barefoot Gen, Góc khuất của thế giới) hoặc theo hướng cam chịu (lý thuyết tận thế về chiến tranh Lạnh, sự yếu đuối của xã hội khoa học công nghệ Nhật Bản sau khủng hoảng dầu mỏ 1973 với Genma Taisen, Uchū Senkan Yamato, Chōjikū yōsai Macross) hoặc phản ánh xung đột chiến tranh hạt nhân (Hokuto no Ken) hoặc hậu chấn tâm lý (Akira, Chōjikū yōsai Macross, Ghost in the Shell, Shin Seiki Evangelion). Anime thập niên 1980 chịu ảnh hưởng bởi khái niệm mà Miyazaki Hayao là một ví dụ khi tuyên bố làm phim cho người Nhật và không quan tâm đến quan điểm của người nước ngoài, Nhật Bản nhân luận tiếp tục ảnh hưởng đến anime thập niên 1990 thông qua sự phổ biến thể loại cyberpunk khi cho rằng chủ nghĩa cá nhân là một đặc điểm tiêu cực đe dọa sự ổn định của xã hội Nhật Bản.
Phê bình, nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt hình manh nha bắt đầu từ năm 1934 nhưng chỉ nổi bật khi Imamura Taihei xuất bản "Manga Eiga ron" [Lý thuyết về phim hoạt hình] vào năm 1941; nội dung thảo luận về các phương pháp biểu cảm đặc trưng cho hoạt hình Nhật Bản, đặc biệt là các phương pháp được vẽ từ manga - nghệ thuật - âm nhạc Nhật Bản. Thập niên 1950, Toei Animation được thành lập và anime chiếu rạp được sản xuất định kỳ với tốc độ mỗi phim một năm, sách báo xuất bản bài viết đánh giá về từng anime cụ thể trong chuyên mục điện ảnh như Asahi Shimbun. Phê bình anime thập niên 1950 dần hình thành khi các nhà phê bình điện ảnh Nhật Bản tham khảo cách viết tiểu luận phê bình hoạt hình của châu Âu và Hoa Kỳ. Năm 1966, Mori Takuya xuất bản nghiên cứu "Giới thiệu về hoạt hình" với nhiều dữ liệu nghiên cứu lịch sử hoạt hình thế giới. Thập niên 1960 đến thập niên 1970, tiểu luận và nghiên cứu về hoạt hình được xuất bản tại Nhật Bản chủ yếu đề cập đến hoạt hình Hoa Kỳ. Tạp chí Fantoche giới thiệu nhân vật Starsha trong phim Uchū Senkan Yamato trên trang bìa vào tháng 4 năm 1976, Tokuma Shoten phát hành ấn phẩm hỗn hợp gồm sách và tạp chí "TV anime no sekai" [Thế giới anime truyền hình] với bài phân tích về bộ phim nổi bật Uchū Senkan Yamato, tạp chí Gekkan Out (chuyên viết về tokusatsu và phim hạng B điện ảnh Hoa Kỳ) lần đầu tiên xuất bản một bài viết dài 60 trang về hiện tượng Uchū Senkan Yamato vào năm 1977. Cùng năm 1977, Yamaguchi Katsunori và Yasushi Watanabe xuất bản nghiên cứu "Lịch sử hoạt hình Nhật Bản", đây là thế hệ học giả đầu tiên nghiên cứu anime. Tạp chí anime đầu tiên Animage ra mắt vào tháng 7 năm 1978, trang bìa minh họa bộ phim đánh dấu sự bùng nổ anime tại Nhật Bản là Uchū Senkan Yamato; sau đó xuất hiện nhiều tạp chí anime chuyên biệt tại Nhật Bản vào cuối thập niên 1970 (Animec, My Anime, The Anime, Animedia). Uchū Senkan Yamato đã phá vỡ khuôn mẫu anh hùng hướng đến trẻ em và gắn kết thế hệ người Nhật trưởng thành đã từng quen thuộc với các loạt anime phát sóng vào thập niên 1960 (Astro Boy, Tetsujin 28-go, 8 Man). Hikawa Ryūsuke, Oguchi Yuichiro, Masahiro Hara, Shigeru Shimotsuki, Nakajima Shinsuke bắt đầu công việc nghiên cứu anime không thường xuyên và chỉ hoạt động tích cực từ năm 2000. Animage tập trung giới thiệu một cách hệ thống về lịch sử chế tác phim của các tác giả, Animec và Gekkan Out xuất bản các bài viết phê bình điện ảnh dựa trên nhu cầu của người hâm mộ. Thập niên 1980, các tạp chí anime (như Break Time) biến mất rồi tái xuất hiện trong mối quan hệ cộng sinh với các loạt bài phê bình điện ảnh, phỏng vấn quá trình sản xuất phim vào thời kỳ bùng nổ anime (Gundam, Chōjikū yōsai Macross, các phim hợp tác phương Tây-Nhật Bản). Từ giữa thập niên 1980 đến thập niên 1990, các tạp chí anime (Newtype, Gekkan Out) làm phương tiện quảng bá phim cho nhiều hãng sở hữu anime và thần tượng áo tắm, phân tích và phê bình điện ảnh dần biến mất. Thập niên 1990, các phim thành công của Miyazaki Hayao, Oshi Mamoru và hiện tượng Shin Seiki Evangelion trở thành chủ đề kinh doanh, nhiều sách nghiên cứu tập trung vào các phim nổi tiếng và tác giả nổi bật liên tục được phát hành. Nghiên cứu anime thường bị phân cực với Nhật Bản học: nhân loại học/xã hội học (nghiên cứu anime thông qua đại diện văn hóa xã hội Nhật Bản như tôn giáo, thần thoại, văn hóa dân gian, đặc biệt về đại diện giới tính) thể hiện sự khác biệt với học giả truyền thông (nghiên cứu anime thông qua chủ nghĩa dân tộc mới (neo-nationalism), triết học chính trị, quan hệ quốc tế gắn với thương hiệu quốc gia Cool Japan). Nghiên cứu anime thường có khuynh hướng được xếp vào văn hóa đại chúng Nhật Bản. Học giả truyền thông nghiên cứu anime trong nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau: khía cạnh tâm lý học của các sự kiện người hâm mộ, đặc trưng anime trong lịch sử nghệ thuật Nhật Bản, khía cạnh xuyên văn hóa và bản sắc lai, du lịch.
Chính sách văn hóa quốc gia
Thúc đẩy phân phối và tiếp thị anime toàn cầu (qua chính sách thương hiệu quốc gia Cool Japan) như một sản phẩm văn hóa đại chúng Nhật Bản kết hợp với các loại hình truyền thông khác (manga, light novel, mô hình nhân vật, trò chơi) cùng các hoạt động (tác phẩm phái sinh, hội chợ anime, cosplay) tạo ra quan niệm anime như một sản phẩm địa phương và trở thành bản sắc "hoạt hình đại chúng Nhật Bản". Truyền thông hỗn hợp là phương pháp truyền thống phổ biến của công nghiệp văn hóa tại Nhật Bản từ thập niên 1980, hình thành sơ kỳ qua buôn bán vật phẩm với nhân vật anime (Astro Boy, Tetsujin 28-go) được sao chép lại trong nhiều loại hình truyền thông khác nhau như đồ chơi, văn phòng phẩm, hàng gia dụng, trang phục, thức ăn nhẹ. Anime gia tăng sự gắn kết với Nhật Bản, chuyển từ một sản phẩm ngách thành một hình thái truyền thông miêu tả Nhật Bản như một quốc gia toàn cầu. Anime là mô hình nhận nuôi / khuếch tán văn hóa điển hình: những sản phẩm quen thuộc ban đầu kết hợp với các sản phẩm liên kết khác biệt, tạo thành vòng văn hóa kết tụ với vị trí trung tâm sản phẩm nhận nuôi ban đầu và ngoại vi các sản phẩm văn hóa khác xoay quanh; các sản phẩm quen thuộc tạo những chuyển thể để bước đầu tiến vào một thị trường đích nhất định. Một số thay đổi quan trọng của công nghiệp anime thập niên 2000 liên quan đến ảnh hưởng từ các chính sách văn hóa cộng đồng (như chiến lược Cool Japan) nhằm quảng bá các sản phẩm địa phương hoặc vật phẩm Nhật Bản và dịch vụ hải ngoại bằng cách thu hút sự nhạy cảm của người tiêu dùng thông qua nhãn hiệu quốc gia hoặc văn hóa địa phương. Các chiến lược sở hữu trí tuệ được khuyến khích tại Nhật Bản từ năm 2002 nhằm thực hiện một kiến trúc công nghiệp "tri thức tích hợp" hơn là 'tích hợp lao động' và biến Nhật Bản thành 'quốc gia sở hữu trí tuệ', trong đó xúc tiến thương mại nội dung trở thành chìa khóa hồi sinh kinh tế Nhật Bản. Cool Japan được gắn kết chặt chẽ như một đánh giá thực tế về lối sống và lý tưởng người Nhật, hoặc dựa trên mong muốn xây dựng lại Nhật Bản giả tưởng'. Linh vật Aoshima Megu đại diện không chính thức cho thành phố Shima, Mie bị chỉ trích với lý do xúc phạm nghề kai jin truyền thống trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị thượng đỉnh G7 lần thứ 42 được coi như ví dụ về 'Nhật Bản giả tưởng' không nhằm tái hiện giá trị lịch sử mà tận hưởng một thế giới giàu trí tưởng tượng kết hợp văn hóa đại chúng truyền thống và hiện đại. Xu hướng hợp tác sản xuất anime được xem xét nhằm vượt qua rào cản quan liêu và thúc đẩy cấp phép nhanh hơn từ các quốc gia, 'Cool Japan' được gắn kết giữa cân bằng giá trị thương hiệu và lợi ích tiềm năng cao nhất. Người hâm mộ nhiệt thành tạo ra những xã hội mới trong bối cảnh địa phương và khu vực thông qua giao tiếp truyền thông và ý tưởng vượt qua ranh giới địa lý, góp phần hình thành nên một nhóm lai văn hóa có nhiều ý tưởng - suy nghĩ - cảm xúc gắn kết với nhiều phẩm chất con người được chia sẻ từ những nền tảng tương đồng và kích thích mới.
Đặc điểm
Anime khác biệt rất nhiều so với các khuôn mẫu hoạt hình khác bởi phong cách nghệ thuật đa dạng của nó, các phương pháp hoạt họa, sự trình bày của nó và quá trình sản xuất. Một cách trực quan, anime là một hình thái nghệ thuật phong phú, bao hàm một sự rộng lớn các phong cách nghệ thuật, có sự khác nhau giữa từng người sáng tạo, từng họa sĩ, xưởng phim. Trong khi chưa có một phong cách nghệ thuật nào chiếm ưu thế vượt trội trong anime hoàn toàn, họ chỉ đóng góp một vài đặc tính giống nhau trong các thuật ngữ của kỹ thuật hoạt hình và thiết kế nhân vật.
Kỹ thuật hoạt hình
Anime tiếp nối quá trình sản xuất đặc trưng của hoạt hình, bao gồm: kịch bản phân cảnh, diễn xuất thanh âm, thiết kế nhân vật, hoạt hình cel (Shirobako là bộ phim nói rất rõ các kỹ thuật hoạt hình, nổi bật nhiều khía cạnh phức tạp trong quá trình sản xuất anime). Từ những năm 1990, các họa sĩ diễn hoạt đã tăng cường sử dụng hoạt hình máy tính (CGI) để cải thiện hiệu suất quá trình sản xuất. Các họa sĩ như Ōfuji Noburō đã đi tiên phong sớm nhất trong các tác phẩm anime, lựa chọn thử nghiệm và có sự phù hợp với những hình ảnh được vẽ trên bảng đen, hoạt hình tĩnh vật từ cắt giấy, hoạt hình rọi bóng. Hoạt hình cel dần phổ biến cho đến khi lấn át hẳn phương tiện khác. Trong thế kỷ 21, việc sử dụng các kỹ thuật hoạt hình khác hầu hết bị giới hạn trong các phim ngắn độc lập, bao gồm hoạt hình tĩnh vật rối được sản xuất bởi Mochinaga Tadahito, Kawamoto Kihachirō và Murata Tomoyasu. Máy tính đã được tích hợp vào quá trình sản xuất phim hoạt hình trong những năm 1990, nhiều tác phẩm như Ghost in the Shell và Mononoke Hime kết hợp giữa hoạt hình cel với các hình ảnh được máy tính tạo ra. Fujifilm, một công ty lớn sản xuất cel hàng đầu đã tuyên bố dừng sản xuất cel, gây ra hoảng loạn cho ngành công nghiệp về việc mua nhập khẩu cel và đẩy nhanh chuyển đổi sang quá trình kỹ thuật số.
Trước khi tới thời đại kỹ thuật số, anime được sản xuất với các phương pháp hoạt hình truyền thống sử dụng một phép xấp xỉ tạo dáng gần đúng. Phần lớn xu hướng anime sử dụng một ít các khung chính để diễn đạt và nhiều hoạt họa xen khung. Chủ tịch Mitsushisa Ishikawa của Production I.G nói rằng phương pháp kết hợp giữa 2D và 3D được áp dụng rộng rãi trong công nghiệp anime: vẽ trên giấy trước tiên, scan vào máy vi tính, sau đó thêm màu và các hiệu ứng; cơ bản vẫn là vẽ tay, đặc biệt không dùng cel nữa. Workstation là một thiết lập phụ trợ quan trọng cho việc scan các khung hình vào máy tính nhằm gia công phần hoạt họa xen khung trong công nghiệp anime. Đặc biệt, khi bộ phim có một phân cảnh hoạt họa gây ấn tượng thị giác mạnh mẽ hoặc sự tinh tế sắc sảo trong cách thể hiện sẽ được gọi là một cảnh sakuga, là một đặc trưng có tính chu kỳ trong anime hiện đại cho phép các họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản thể hiện phong cách nghệ thuật đặc trưng cá nhân. Một số thuật ngữ sakuga nền tảng ảnh hưởng đến phương pháp hoạt họa tại Nhật Bản và tiếp tục được nhiều họa sĩ sử dụng với nhiều biến đổi khác nhau như: "Itano Circus", "Yutapon Cubes", "Ebata Walk", "Akai Smile".
Các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật về hoạt hình giản lược, và đã cho anime một bộ quy ước riêng biệt. Không giống hoạt hình Disney nhấn mạnh về cử động, anime nổi bật về chất lượng nghệ thuật và cho phép kỹ thuật hoạt hình giản lược bù đắp việc phần thiếu thời gian cho cử động. Nhiều kỹ thuật như vậy thường được sử dụng không chỉ để đáp ứng hạn chót dự án, mà còn như những cách thức mang tính nghệ thuật. Các cảnh quay anime chú trọng vào việc đạt được góc nhìn 3 chiều, và hậu cảnh góp phần tạo bầu không khí cho tác phẩm. Hậu cảnh không phải lúc nào cũng được sáng tạo và đôi khi dựa trên những địa điểm đời thực, như Lâu đài bay của pháp sư Howl hay Suzumiya Haruhi. Oppliger nói rằng anime là một trong những phương tiện hiếm có khi đặt vào đồng thời một dàn diễn viên toàn sao thường xuất hiện "cực kỳ ấn tượng".
Các hiệu ứng điện ảnh của anime đã rất khác biệt với chính bản thân nó từ giai đoạn chuyển mình dựa trên hoạt hình Hoa Kỳ. Anime là cảnh phim nghệ thuật điện ảnh gần như do máy ảnh thực hiện, bao gồm việc đảo máy (panning), cách thu phóng (zooming), cự ly quay và các góc quay để phức hợp tính động lực học trong các cảnh phim mà sẽ khó thực hiện trong đời thực. Trong anime, hoạt họa được thực hiện trước diễn xuất thanh âm, trái ngược với hoạt hình Hoa Kỳ khi chọn diễn xuất thanh âm trước; điều này có thể gây ra một số lỗi nhép môi trong các phiên bản Nhật Bản.
Nhân vật
Tỷ lệ cơ thể của các nhân vật anime con người có xu hướng phản ánh chính xác tỷ lệ cơ thể con người trong thực tế. Chiều cao của đầu được các họa sĩ xem xét coi là đơn vị cơ bản của tỷ lệ. Chiều cao của đầu có thể khác nhau, nhưng hầu hết các nhân vật anime đều cao từ bảy đến tám cái đầu. Họa sĩ anime thỉnh thoảng thực hiện các sửa đổi có chủ ý đối với tỷ lệ cơ thể để tạo ra các nhân vật siêu biến dạng có một thân hình nhỏ không cân đối so với đầu; nhiều nhân vật siêu biến dạng cao từ hai đến bốn cái đầu. Một số tác phẩm anime như Shin – Cậu bé bút chì hoàn toàn coi nhẹ các tỷ lệ này, giống như cách thức biếm họa cartoon phương Tây.
Một quy ước thiết kế nhân vật anime phổ biến là kích thước mắt phóng đại. Hoạt họa về các nhân vật có đôi mắt to trong anime có thể được tìm thấy dấu tích ở Tezuka Osamu, một người bị ảnh hưởng sâu sắc từ những nhân vật hoạt hình đầu tiên như Betty Boop với đôi mắt to không cân xứng. Tezuka là một nhân vật quan trọng trong lịch sử anime và manga, có phong cách nghệ thuật quy ước và thiết kế nhân vật cho phép toàn bộ cảm xúc của con người được miêu tả chỉ qua đôi mắt. Các họa sĩ thêm màu sắc thay đổi bóng cho đôi mắt, đặc biệt là giác mạc để cung cấp cho chúng độ sâu lớn hơn. Nói chung, một phối trộn của một bóng sáng, tông màu và một bóng tối đã được sử dụng. Nhà nhân học văn hóa Thorn Matt cho rằng các họa sĩ diễn hoạt và khán giả Nhật Bản không cảm nhận được đôi mắt bị cách điệu vốn đã mang ít nhiều tính nước ngoài. Tuy nhiên, không phải tất cả anime đều có đôi mắt to, tròn. Ví dụ, các tác phẩm của Miyazaki Hayao được biết đến với đôi mắt có tỷ lệ thực tế, cũng như màu tóc thực tế của các nhân vật.
Tóc trong anime cũng thường sống động không tự nhiên, nhiều màu sắc hoặc được thiết kế độc đáo. Sự chuyển động của tóc trong anime được phóng đại và "hành động mái tóc" được sử dụng để nhấn mạnh hành động và cảm xúc của nhân vật nhằm tăng thêm hiệu ứng thị giác. Poitras theo dõi màu sắc kiểu tóc bao gồm các hình minh họa trên manga, nơi tác phẩm nghệ thuật bắt mắt và các tông màu sáng và sặc sỡ có sức hấp dẫn cho manga trẻ em. Mặc dù được sản xuất cho thị trường trong nước nhưng anime nổi bật các nhân vật có chủng tộc hoặc quốc tịch không phải lúc nào cũng được xác định, và đây thường là một quyết định có chủ ý như trong loạt phim hoạt hình Pokémon.Các họa sĩ anime và manga thường vẽ từ một tiêu chuẩn chung của các minh họa biểu hiện trên khuôn mặt để biểu thị tâm trạng và suy nghĩ đặc biệt. Những kỹ thuật này thường khác về hình thức so với các đối tác của họ trong hoạt hình phương Tây, và chúng bao gồm một biểu tượng học cố định được sử dụng như bảng viết tắt của một số cảm xúc và tâm trạng nhất định. Ví dụ, một nhân vật nam có lẽ dễ chảy máu cam khi bị khơi gợi. Một loạt các biểu tượng trực quan được sử dụng, bao gồm cả một hoặc nhiều những giọt mồ hôi chảy xuống để miêu tả sự căng thẳng, có thể nhìn thấy những hình chéo đỏ trên mặt biểu hiện cho sự xấu hổ, hoặc đôi mắt phát sáng do một ánh sáng chói lóa dữ dội.
Vai diễn khách mời
Các nhân vật có thể chất tương tự hay câu chuyện giống hệt hoặc tương tự trong nhiều anime có thể được tham chiếu đến một anime khác, một video game, manga, visual novel, light novel. Ví dụ, hai nhân vật chính trong phim Vườn ngôn từ là Yukino Yukari và Akizuki Takao có vai diễn khách mời trong phim Your Name – Tên cậu là gì?. Những nhân vật ngoài đời cũng trở thành vai diễn khách mời trong anime. Ví dụ, các tác giả sáng tạo trò chơi Angry Video Game Nerd và chương trình Nostalgia Critic đều xuất hiện trong phim Zettai Karen Children.
Tính cách nhân vật
Tsundere: Nhân vật thường có thái độ lạnh lùng () nhưng hành động có thể rất ngọt ngào với những người họ thích (()).
Yandere: Nhân vật bảo vệ tình yêu thái quá thông qua bạo lực, kết hợp giữa yanderu (病んでる?, bệnh lý tinh thần) và deredere (でれでれ?, tình cảm mạnh mẽ).
Kuudere: Nhân vật có vẻ ngoài hòa nhã và bàng quan, chỉ mở lòng với người họ thích.
Dandere: Nhân vật có vẻ ngoài ngại ngùng xấu hổ, khó giao tiếp, chỉ thoải mái khi trò chuyện với những người thực sự tin tưởng.
Nhạc phim
Bài hát mở đầu và chuỗi danh đề của hầu hết các tập phim anime truyền hình đều đi kèm với các bài hát rock hoặc pop Nhật Bản, thường được các ban nhạc nổi tiếng thể hiện. Các bài hát có thể được viết theo cảm hứng, nhưng cũng được nhắm vào thị trường âm nhạc nói chung, thường ám chỉ một cách mơ hồ hoặc không nói về các chủ đề hay cốt truyện của loạt phim. Các bài rock hoặc pop cũng thỉnh thoảng sử dụng phần nhạc ngẫu nhiên ("insert songs") trong một tập phim, thường để làm nổi bật những cảnh đặc biệt quan trọng. Thời lượng bài hát mở đầu và bài hát kết thúc của mỗi tập phim thường từ ba đến năm phút, bài hát có thể được thay đổi sau 12-15 tập phim nếu là anime truyền hình dài tập. Bài hát trong anime là một hình thức quảng bá cho các hãng thu âm và ca sĩ Nhật Bản, có thể chèn thêm quảng cáo truyền hình. Một số nhà soạn nhạc tiêu biểu như Kanno Yoko, Kajiura Yuki, Takanashi Yasuharu, Sato Naoki và Kato Tatsuya.
Phân loại
Anime thường được phân loại theo nhân khẩu học mục tiêu, bao gồm kodomo, shōjo, shōnen và một phạm vi đa dạng thể loại hướng đến khán giả trưởng thành như seinen hay Josei. Anime shōnen và shōjo thỉnh thoảng bao hàm các yếu tố phổ biến với trẻ em cả hai giới trong một nỗ lực gia tăng sự hấp dẫn giao thoa. Anime cho người trưởng thành có lẽ nổi bật với một nhịp độ chậm hơn hoặc một cốt truyện phức tạp hơn mà khán giả trẻ hơn có thể cảm thấy không hấp dẫn, cũng như những chủ đề và tình huống trưởng thành. Một số thể loại khám phá đồng tính luyến ái như yaoi (tình dục đồng giới nam) và yuri (tình dục đồng giới nữ). Trong khi thường được dùng trong một bối cảnh người lớn, các thuật ngữ này cũng có thể được dùng trong một bối cảnh rộng hơn để miêu tả hoặc tập trung vào các chủ đề hoặc sự phát triển của những mối quan hệ tình dục đồng giới lãng mạn.
Phân loại về thể loại anime khác biệt so với các dạng thể loại khác của hoạt hình và không nên trộn lẫn anime với phân loại thông thường. Gilles Poitras so sánh việc gắn nhãn Gundam 0080 và cách miêu tả phức tạp của phim về chiến tranh như một anime "robot khổng lồ" gần giống với gắn nhãn đơn giản Chiến tranh và hòa bình là một "tiểu thuyết chiến tranh". Khoa học viễn tưởng là một thể loại anime lớn, bao gồm nhiều tác phẩm lịch sử quan trọng như Astro Boy của Tezuka Osamu hay Tetsujin 28-go của Yokoyama Mitsuteru. Một tiểu thể loại lớn của khoa học viễn tưởng là mecha, với chuỗi nhượng quyền Gundam trở thành biểu tượng. Thể loại kỳ ảo gồm nhiều tác phẩm dựa trên truyền thuyết và văn học dân gian phương Đông lẫn phương Tây; nhiều dẫn chứng bao gồm chuyện điển tích phong kiến Nhật Bản như InuYasha, hay sự mô tả các vị thần Bắc Âu tới Nhật Bản bảo vệ một máy tính tên là Yggdrasil trong Aa Megami-sama. Giao thoa thể loại trong anime cũng phổ biến: pha trộn giữa kỳ ảo và hài kịch trong Doragon Hāfu, hợp nhất hài cường điệu (slapstick) trong anime điện ảnh có chủ đề tội phạm Lâu đài của Cagliostro. Các tiểu thể loại khác hình thành trong anime bao gồm mahō shōjo, harem, thể thao, võ thuật, chuyển thể văn học, Trung Cổ học và chiến tranh. Công nghiệp anime
Năm 2004, ngành công nghiệp anime có khoảng 440 công ty sản xuất với một số xưởng phim lớn (Toei Animation, Gainax, Madhouse, Gonzo, Sunrise, Bones, TMS Entertainment, Nippon Animation, P.A.Works, Studio Pierrot, Studio Ghibli), khoảng 70% xưởng phim nhỏ với 30 nhân viên hoặc ít hơn. Năm 2015, Nhật Bản có khoảng 622 công ty chế tác anime với khoảng 50.000 người làm việc, 542 công ty có trụ sở tại Tokyo chiếm 87,1% tổng số công ty anime Nhật Bản. Nhiều xưởng phim thuộc hiệp hội thương mại Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản, những người hoạt động trong ngành thuộc nghiệp đoàn Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản. Các xưởng phim cũng thường hợp tác cùng nhau để sản xuất các dự án phức tạp và tốn kém hơn, giống như cách thực hiện Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của Studio Ghibli. Một tập anime có thể cần chi phí từ khoảng 100.000 US$ - 300.000 US$ để chế tác. Sự phổ biến và thành công của anime được nhận thấy qua lợi nhuận của thị trường DVD với đóng góp gần 70% doanh thu. Theo báo cáo năm 2016 của Nihon Keizai Shimbun, các đài truyền hình Nhật Bản đã mua cấp phép anime hơn 60 tỷ JP¥ từ các công ty sản xuất 'trong vài năm qua', so với dưới 20 tỷ JP¥ từ nước ngoài. Sự gia tăng mạnh mẽ trong việc bán các phim cho nhiều đài truyền hình ở Nhật Bản đến từ anime đêm khuya với khán thính giả mục tiêu là đối tượng trưởng thành, mang lại nhiều lợi nhuận 'hơn một sản phẩm ngách' ở nước ngoài. Pokémon cuối thập niên 1990 đã xóa bỏ khái niệm "thị trường Nhật Bản quan trọng nhất, thị trường ngách ở nước ngoài". Mặc dù anime chiếu rạp thành công trong nhiều năm (Ghost in the Shell, các phim của Miyazaki Hayao), nhưng anime truyền hình nội địa vẫn đóng vai trò trụ cột ngành công nghiệp với doanh thu hàng năm hơn 5 tỷ US$ và gấp 10 lần doanh thu chiếu rạp. Anime thị trường nước ngoài dần phát triển từ thị trường ngách thành thị trường đại chúng, trở thành một thị phần trong công nghiệp cấp phép. Năm 2016, xếp hạng cấp phép Toei Animation thứ 26 thế giới với doanh thu bán lẻ 2,6 tỷ US$, Viz Media xếp hạng 150 thế giới với doanh thu bán lẻ 60 triệu US$. Sen và Chihiro ở thế giới thần bí (năm 2001) là phim có doanh thu cao nhất tại Nhật Bản, và xếp thứ hai trong danh sách anime có doanh thu cao nhất toàn cầu sau Your Name – Tên cậu là gì?. Anime hiện diện phần lớn trong danh sách các phim Nhật Bản có doanh thu cao nhất hàng năm, chiếm sáu vị trí trong nhóm 10 phim doanh thu cao nhất năm 2014 cũng như năm 2015 và năm 2016.
Giải thưởng
Công nghiệp anime có nhiều giải thưởng thường niên nhằm vinh danh các bộ phim tốt nhất của năm. Các anime điện ảnh cũng được nhận đề cử và chiến thắng trong các giải thưởng không dành riêng cho anime như giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất, giải thưởng Gấu Vàng.
Phát sóng
Anime truyền hình thường được sản xuất theo bốn mùa phim trong một năm:
Anime mùa xuân: được phát sóng từ khoảng tháng 4 đến tháng 6.
Anime mùa hạ: được phát sóng từ khoảng tháng 7 đến tháng 9.
Anime mùa thu: được phát sóng từ khoảng tháng 10 đến tháng 12.
Anime mùa đông: được phát sóng từ khoảng tháng 1 đến tháng 3.
Mỗi anime truyền hình phát sóng trong một mùa thường gồm 10-13 tập, có những anime chiếu cả hai mùa (khoảng từ 22-26 tập) hoặc phát sóng trong nhiều năm như One Piece, Naruto.
Một số anime được phát sóng trên đài truyền hình tại Nhật Bản vào giờ vàng từ 19 giờ đến 22 giờ (Pokémon, Naruto, Doraemon), phần lớn "shinya anime" (anime đêm khuya) được chiếu vào khoảng từ 23 giờ đến 4 giờ sáng trên các đài truyền hình như TV Tokyo hay TBS nên khán giả phải thức khuya để xem hoặc thu hình lại. Anime đêm khuya thường hướng đến khán giả chuyên biệt; ví dụ Shin Seiki Evangelion mang cảm giác xa lạ khi chiếu vào khung giờ khán giả đại chúng nhưng lại thành công khi đài truyền hình phát sóng vào đêm khuya. Khán giả có thể không xem được anime do một số đài truyền hình độc lập không có mạng lưới toàn quốc như Tokyo MX, hoặc có thể chênh lệch ngày phát sóng giữa các vùng ở Nhật Bản trên sóng quốc gia. Nếu bỏ lỡ thời gian phát sóng tập phim truyền hình, khán giả Nhật Bản phải chờ đến ngày phát hành đĩa phim nhiều tháng. Phần lớn 'anime mùa mới' không phát sóng bên ngoài mạng truyền hình Tokyo, khán giả Nhật Bản phải kết hợp dịch vụ stream và truyền hình cáp để theo kịp; một số tựa 'anime mùa mới' được chiếu miễn phí vào những khung giờ vô lý. Nửa cuối thập niên 1990, thị phần anime đêm khuya mở rộng trên các đài truyền hình, truyền hình băng tần UHF và truyền hình vệ tinh. Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản (AJA) báo cáo thị trường truyền hình thay đổi với anime đêm khuya vượt số lượng anime phát sóng ban ngày vào năm 2015; xu hướng đó tiếp tục vào năm 2016. Sản xuất, phân phối và buôn bán anime tại Nhật Bản gồm một số công ty lớn như TV Asahi, Fuji TV, Bandai Namco Entertainment, Sony Pictures, Toei Animation, Animate. Phân phối anime tại Nhật Bản qua mạng lưới đài truyền hình, dịch vụ stream (AbemaTV, Niconico, Bandai Channel, GYAO!, DoCoMo anime store, DMM.com, dTV, J:COM On Demand, Hikari TV, VideoMarket, Rakuten TV, U-NEXT, DAZN, Tver của NTT DoCoMo, Hulu, Prime Video, Netflix, Google Play), truyền hình cáp (Animax, AT-X, BS11) kết hợp với sự kiện chiếu anime truyền hình mùa mới trên màn hình lớn.
Phân phối
Đầu thập niên 1970 đến thập niên 1980, nhiều phim hoạt hình hợp tác sản xuất châu Âu-Nhật Bản xuất hiện. Thập niên 1980, các kênh truyền hình quốc gia ở châu Âu được tư nhân hóa cùng với truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh cạnh tranh phân phối phim truyền hình Hoa Kỳ cũng như anime, một thế hệ người hâm mộ tại châu Âu đã thúc đẩy các sự kiện văn hóa đại chúng Nhật Bản trên khắp lục địa. Tháng 1 năm 2009, TV Tokyo hợp tác cùng Crunchyroll nhằm trình chiếu anime trực tuyến đồng bộ thời gian phát sóng với Nhật Bản. Theo báo cáo của GEM Partners, quy mô thị trường phim trực tuyến theo yêu cầu tại Nhật Bản đạt 183 tỷ JP¥ (1,7 tỷ US$) năm 2018 và tăng 12,2% so với năm 2017, dự đoán tăng lên 255 tỷ JP¥ (2,4 tỷ US$) vào năm 2022. Theo báo cáo từ Hiệp hội Nội dung số Nhật Bản, quy mô thị trường phân phối video trực tuyến năm 2018 tại Nhật Bản đạt 220 tỷ JP¥ và tăng 19% so với 185 tỷ JP¥ năm 2017, đự đoán đạt 295 tỷ JP¥ năm 2023. Tháng 3 năm 2019, Bilibili tại Trung Quốc và Funimation tại Bắc Mỹ hợp tác mua bản quyền anime và mở rộng thị trường.
Châu Á
Hoạt hình Nhật Bản rất phổ biến ở Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đông Nam Á; ví dụ như loạt phim dài tập dành cho trẻ em là Doraemon đã có thành công lớn tại Thái Lan và Philippines trong thập niên 1990, cũng như Pokémon sau này. Theo dữ liệu hội thảo TIFFCOM năm 2017, thị trường anime tại châu Á năm 2011 đạt 1,2 tỷ US$ và tăng trưởng đạt 2,7 tỷ US$ năm 2016. Fuji TV hợp tác với AEON phân phối anime tại Trung Quốc và Đông Nam Á từ năm 2019, nghiên cứu của PricewaterhouseCoopers ước tính quy mô thị trường nội dung khu vực (Trung Quốc, Đông Nam Á) đạt 426,8 tỷ US$ năm 2018 và dự đoán tăng lên 30% thành 549,1 tỷ US$ vào năm 2022.
Châu Âu
Anime tại châu Âu phát triển mạnh mẽ trên sóng truyền hình; các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Pháp trong thập niên 1970 và thập niên 1980 đã nhận một 'cuộc xâm lược hòa bình'. Thập niên 1960, Hakujaden đã được chiếu rạp tại Pháp. Giai đoạn 1971-2009, anime chiếm 66% với 318 trong tổng số 484 phim Nhật Bản nhập khẩu đã chiếu trên truyền hình Pháp. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland gần như không phát sóng anime trên truyền hình, nhưng khi thị trường băng đĩa tại gia được hợp nhất từ cuối thập niên 1980 với kỷ lục doanh thu băng đĩa VHS của Akira và Manga Entertainment thành lập năm 1991 thì thực tế này đã thay đổi; khác với Ý và Pháp khi anime tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chỉ phổ biến vào nửa cuối thập niên 1990.
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ nhập khẩu ba anime chiếu rạp của Toei Animation vào năm 1961 (Shōnen Sarutobi Sasuke, Hakujaden, Saiyūki) nhưng không thành công về thương mại sau đó anime truyền hình đầu tiên Astro Boy phát sóng trên NBC vào năm 1963-1964 gần như đồng thời với Nhật Bản. Cuối thập niên 1960 đến thập niên 1970, Hoa Kỳ nhập khẩu Mach GoGoGo, Sư tử trắng Kimba, Gatchaman, Uchū Senkan Yamato. Thời đại hoàng kim thập niên 1980 với các loạt phim kinh điển phát sóng trên nhiều kênh truyền hình khác nhau, mặc dù thường xuyên bị biên tập lại hội thoại và cốt truyện theo thị hiếu công chúng Bắc Mỹ trong các loạt phim ghép nối nổi bật như Force Five, Voltron, Robotech. Loạt phim dài tập Force Five được hợp nhất từ năm anime riêng biệt (Daiku Maryu Gaiking, Wakusei Robo Danguard Ace, Starzinger SF Saiyuki, Getter Robo G, UFO Robot Grendizer) thành 130 tập (mỗi anime bị rút gọn còn 26 tập). Loạt phim Voltron được hợp nhất từ hai anime nguyên tác (Hyakujū ō Golion, Kikō kantai Dairugger XV); Robotech được hợp nhất từ ba anime (Chōjikū yōsai Macross, Kiko soseiki Mospeada, Chōjikū kidan Southern Cross) thành 85 tập. Khi Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong thập niên 1980, các lớp học tiếng Nhật xuất hiện ở phương Tây và anime/manga thời điểm đó đóng vai trò như công cụ giáo dục. Thập niên 1990 phát sóng lại phim từ thập niên 1960-1980 trên truyền hình (Mach GoGoGo trên MTV, Voltron trên Toonami, Ginga Tetsudō 999 trên Syfy) và nhập khẩu phim mới tác động đến văn hóa đại chúng Hoa Kỳ (Dragon Ball, Thủy thủ Mặt Trăng, Tenchi Muyō!, Mobile Suit Gundam Wing). Năm 1998, Nintendo phát hành Pokémon và trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng tại Hoa Kỳ. Các công ty phân phối băng đĩa tại gia xuất hiện trong thập niên 1990 như AnimEigo, U.S. Renditions, Central Park Media, Manga Entertainment, A.D. Vision, Media Blasters, Viz Media, Urban Vision, Right Stuf Inc. Sau thành công của Akira tại rạp chiếu thập niên 1990, sự chú ý đến anime gia tăng qua phân phối truyền hình và băng đĩa tại gia, đến mức trong mười năm qua anime tại Hoa Kỳ đã phát triển bùng nổ. Sự thành công vang dội của Gundam và Pókemon, cùng việc Ghost in the Shell đứng đầu bảng xếp hạng Billboard năm 1998 hay sự phổ biến ngày càng tăng các phim Ghibli đã biến Hoa Kỳ thành thị trường anime lớn thứ hai sau Nhật Bản với 38 loạt phim phát sóng cùng 500 băng đĩa đã phát hành năm 2007 và giá trị công nghiệp băng đĩa tại gia ước tính đạt 400 triệu US$ năm 2006 ngay cả khi bị giảm. Từ năm 2000 đến năm 2008, công nghiệp anime tại Hoa Kỳ bị các công ty Mỹ khai thác cấp phép bản quyền nhiều nhất có thể. Các phim chưa bị biên tập phổ biến qua băng đĩa tại gia, hoặc chiếu vào buổi tối trên các đài truyền hình Cartoon Network, Syfy, Toonami, Adult Swim với đối tượng trưởng thành như Cowboy Bebop, Outlaw Star, Gundam, Hành trình U Linh Giới, Rurouni Kenshin, Đại chiến Titan, Kiseijū, Afro Samurai, Death Note. Space Dandy, Ghost in the Shell: Stand Alone Complex và mùa hai The Big O được đồng tài trợ từ nguồn quỹ Hoa Kỳ. Các dịch vụ stream như Hulu, Netflix, Prime Video, Crunchyroll, Funimation liên kết sản xuất và phân phối trực tuyến với các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản. Tháng 12 năm 2018, Funimation kết thúc hợp tác với Crunchyroll, Funimation ký hết hợp tác với Hulu. Tháng 3 năm 2019, Crunchyroll chia sẻ cấp phép phát sóng anime trên truyền hình Toonami của Adult Swim vào tối thứ bảy.
Mỹ Latinh
Anime bắt đầu được phân phối ở Mỹ Latinh trong thập niên 1970 tại México, Peru, Chile, Argentina, Brasil, Costa Rica, Panama, Colombia (Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Ribon no Kishi, Mach GoGoGo, Candy Candy). Thập niên 1980, phân phối anime mở rộng sang Venezuela, Guatemala, Cộng hòa Dominica, Colombia, Puerto Rico với mecha (Mazinger Z, Robotech, UFO Robot Grendizer, Voltron) và phim chuyển thể (Remi, Sư tử trắng Kimba, Mitsubachi Māya no Bōken). Thập niên 1990, anime bùng nổ tại Mỹ Latinh khi phát sóng liên tục các loạt phim Saint Seiya, Ranma ½, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Thủy thủ Mặt Trăng, Dragon ball, Slam Dunk, Pokémon. Thập niên 2000, anime hiện diện liên tục theo thời gian trên các đài truyền hình quốc gia Mỹ La tinh, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh (Locomotion, Animax, Cartoon Network, Magic Kids, Fox Kids, ETC) với các phim như Cardcaptor Sakura, InuYasha, Giả kim thuật sư, Shin Seiki Evangelion, Naruto. Phân phối các tựa anime mới trên truyền hình Mỹ Latinh giảm từ năm 2006 (Toonami của Cartoon Network dừng năm 2007, Animax dừng năm 2011, ZAZ dừng năm 2012, Cloverway Inc. giải thể năm 2007), phân phối trực tuyến gia tăng (Netflix, Crunchyroll). México phát sóng Astroboy trên Canal 5 thuộc Televisa vào năm 1974, TV Azteca và Televisa phát sóng anime trong thập niên 1970 (Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Ribon no Kishi, Mach GoGoGo, Candy Candy). Sự ảnh hưởng của anime tại México thập niên 1980 nhờ thị trường mô hình nhân vật anime phát triển (Ultraman, Robotech, Mazinger Z) và nhiều đức tính của Nhật Bản được tìm thấy trong anime. México thập niên 1990 xuất hiện các fanzine, buôn bán vật phẩm hình thành; fanzine đầu tiên tại México là 'Figuras en Movimiento' năm 1992, sau đó phân tách thành Animanga và Domo vào năm 1994. Anime bùng nổ tại México trong thập niên 1990: Thủy thủ Mặt Trăng thúc đẩy chủ nghĩa nữ quyền cho phụ nữ México thập niên 1990 và khám phá người đồng tính nữ, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Saint Seiya, Dragon ball. Crunchyroll phát trực tuyến tại Brasil vào năm 2012 và hợp tác với Rede Brasil phát sóng anime trên truyền hình vào năm 2018.
Úc và New Zealand
Úc bắt đầu nhập khẩu anime từ thập niên 1960 với Astro Boy và Sư tử trắng Kimba, người Úc ấn tượng mạnh mẽ về sự khác biệt giữa anime với hoạt hình Hoa Kỳ. Anime bùng nổ tại Úc vào cuối thập niên 1980-1990 với sự thành công lớn trong doanh thu chiếu rạp (Akira, Ghost in the Shell) và sự phổ biến trên truyền hình (Pókemon, Shin Seiki Evangelion, Ranma ½, Thủy thủ Mặt Trăng), dần được người hâm mộ tại Úc gắn kết với biểu hiện của 'châu Á mới' và 'nữ quyền châu Á mới'. Úc và New Zealand từ thập niên 1990 đã trở thành nhà nhập khẩu lớn của hoạt hình Nhật Bản với các hoạt động phát hành đĩa phim tại gia của Madman Entertainment và kênh Animax dành cho điện thoại di động.
Châu Phi
Đầu thập niên 1980, Ai Cập bắt đầu nhập khẩu mecha tác động đến văn hóa đại chúng (Astroganga, UFO Robot Grendizer, Mazinger Z, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ). Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng với nhiều thế hệ tại Nam Phi năm 1979, giai đoạn phân biệt chủng tộc apartheid và quy định thời gian phát sóng tiếng Anh và Afrikaans bằng nhau; phiên bản Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps lồng tiếng Afrikaans như một biểu tượng gợi nhắc xung đột người Afrikaner-châu Âu và quan niệm người Afrikaner tại Nam Phi ngang hàng với Đức Quốc Xã. Thập niên 1980 và thập niên 1990, thời đại hoàng kim của anime tại Maroc với Taigā Masuku, Tsubasa Giấc mơ sân cỏ, Fushigi no Umi no Nadia, Voltron, UFO Robot Grendizer, Nhóc Maruko, Purinsesu Sēra. Hoạt hình Nhật Bản tiến vào thị trường châu Phi từ năm 2000, truyền hình Nam Phi bắt đầu nhập khẩu một số phim hướng đến trẻ em (Dragonball Z, Naruto, Pokémon). Năm 2007, Sony ra mắt kênh truyền hình vệ tinh Animax tại một số quốc gia châu Phi như Nam Phi, Namibia, Kenya, Botswana, Zambia, Mozambique, Lesotho, Zimbabwe.
Các vấn đề có liên quan
Toàn cầu hóa
Anime đã thu được lợi nhuận thương mại tại phương Tây, được chứng minh bằng thành công thương mại rất sớm của các phim chuyển thể anime tại phương Tây như Astro Boy và Mach GoGoGo. Các phim chuyển thể anime tại Hoa Kỳ trong thập niên 1960 giúp Nhật Bản mở rộng vào sâu bên trong thị trường châu Âu lục địa; đầu tiên với các sản phẩm hướng đến đối tượng trẻ em tại châu Âu và Nhật Bản như Heidi, Cô bé đến từ vùng núi Alps, Vicky the Vicking hay Barbapapa được phát sóng tại nhiều quốc gia. Đặc biệt Ý, Tây Ban Nha và Pháp gia tăng một sự quan tâm với xuất khẩu anime của Nhật Bản, do giá bán rẻ và số lượng sản xuất lớn. Ý nhập khẩu nhiều anime nhất tại thị trường bên ngoài Nhật Bản. Việc nhập khẩu số lượng lớn đã tạo ảnh hưởng văn hóa đại chúng anime tại thị trường Nam Mỹ, thế giới Ả Rập, Đức và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Irelannd.
Từ năm 1980 đã chứng kiến các loạt anime dài tập Nhật Bản tiến sâu vào văn hóa người Mỹ. Thập niên 1990, hoạt hình Nhật Bản dần dần đạt được tính phổ biến đại chúng tại Hoa Kỳ. Nhiều công ty truyền thông như Viz Media hay Mixx Entertainment bắt đầu xuất bản và phát hành anime bên trong thị trường Hoa Kỳ. Phim Akira năm 1988 được công nhận có ảnh hưởng rất lớn tới đại chúng hóa anime tại thế giới phương Tây trong đầu thập niên 1990, trước khi anime được phổ biến văn hóa đại chúng hơn qua các loạt phim như Pokémon, Dragon Ball và Ghost in the Shell cuối thập niên 1990. Sự phát triển của Internet cung cấp cho khán giả phương Tây một cách thức truy cập dễ dàng hơn tới nội dung Nhật Bản. Điều này càng đặc biệt khi có các dịch vụ trực tuyến như Netflix và Crunchyroll. Như kết quả tất yếu, nhiều sự quan tâm xoay quanh Nhật Bản đã tăng lên. Anime được coi như phương tiện quảng bá văn hóa Nhật Bản trong chính sách Cool Japan của chính phủ Nhật Bản với thế giới, đóng vai trò ngoại giao công chúng và ngoại giao văn hóa của Nhật Bản.
Phản ứng của người hâm mộ Các câu lạc bộ anime phát triển thành các hội chợ anime trong thập niên 1990 với tên gọi "anime boom", một giai đoạn đánh dấu sự gia tăng văn hóa đại chúng của anime. Những hội chợ này được dành riêng cho anime, manga và bao gồm các yếu tố như thi cosplay hay những khách mời từ công nghiệp anime. Cosplay là từ kết hợp giữa "costume play, hóa thân vào trang phục", không chỉ có duy nhất mỗi anime mà cosplay đã phổ biến trong các cuộc thi và dạ hội giả trang tại nhiều hội chợ anime. Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản đã đi sâu vào cách dùng tiếng Anh qua truyền thông đại chúng, bao gồm otaku - một thuật ngữ tiếng Nhật không tốt và thường được sử dụng trong tiếng Anh để chỉ một người hâm mộ manga và anime. Một từ khác xuất hiện để miêu tả những người hâm mộ tại Hoa Kỳ là wapanese, nghĩa là những người da trắng mong muốn là người Nhật; hoặc sau này được biết như weeaboo để chỉ những người thể hiện một sự quan tâm mạnh mẽ trong tiểu văn hóa anime Nhật Bản, thuật ngữ này được bắt nguồn từ nội dung sỉ nhục trong các bài viết được đăng trên bảng tin công khai từ 4chan. Trong tiếng Tây Ban Nha từ thập niên 2010, gafotaku miêu tả nhóm người hâm mộ không theo thị hiếu đại chúng và hứng thú với các tác phẩm chất lượng. Tiểu văn hóa ACG (đôi khi gọi 'dongman zu' hoặc 'harizu) hình thành tại Trung Quốc vào thập niên 1980, tại Đài Loan sau giải trừ luật giới nghiêm năm 1987 và bùng nổ mạnh mẽ khi dỡ bỏ hạn chế nhập khẩu nội dung Nhật Bản vào năm 1994, tại Hồng Kông từ thập niên 1990. Những người hâm mộ thường tạo ra fan fiction và fan art, bao gồm bản vẽ đồ họa máy tính và video âm nhạc anime; ô tô itasha hoặc chế biến lại các công thức ẩm thực trong anime. Kể từ thập niên 2010, nhiều người hâm mộ sử dụng diễn đàn trực tuyến hay cơ sở dữ liệu như MyAnimeList để thảo luận anime và đánh dấu tiến trình xem phim của riêng họ. Cộng đồng người hâm mộ thường sử dụng thuật ngữ riêng, tên sách tranh hoặc tựa hoạt hình ưa thích, các bài luận hoặc phê bình điện ảnh phổ biến, sự hiểu biết tiểu văn hóa độc đáo này khiến người bên ngoài mang cảm giác của người mù chữ. 'Niềm vui anime' của người hâm mộ thường liên quan đến phá vỡ giới hạn chủ đề tính dục và niềm vui đối kháng từ văn hóa giới trẻ nhằm trải nghiệm sự tự do tạm thời, trốn tránh tạm thời các quy phạm xã hội. Anime ảnh hưởng mạnh mẽ bởi "sự sụp đổ các siêu tự sự và những lời hứa xã hội hiện đại, xã hội đã bị bỏ lại một khoảng trống giá trị"; anime lấp khoảng trống đó "để trấn an những người trẻ bị cô lập ngày nay, cung cấp một nơi ẩn náu cho chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa yếm thế hậu hiện đại". Tiếp cận sakuga qua các họa sĩ diễn hoạt khung chính, người hâm mộ tìm kiếm những phân đoạn hoạt họa tuyệt vời hơn là coi anime như một diễn giải về Nhật Bản (hoặc xã hội Nhật Bản), thừa nhận tính xuyên quốc gia của những người hoạt động trong công nghiệp anime.
Fansub hình thành tại Hoa Kỳ vào thập niên 1980, chia sẻ phim qua thư điện tử và câu lạc bộ anime vào thập niên 1990; sau đó bùng nổ tải xuống từ website, mạng ngang hàng và IRC khi băng thông rộng xuất hiện. Các nội dung chia sẻ thường được thu lại từ truyền hình Nhật Bản hoặc từ đĩa phim Blu-ray hoặc từ dịch vụ stream bản quyền; sau đó đính kèm phụ đề vào phim và tải lên internet qua mạng ngang hàng. Nhiều người hâm mộ chọn bản sao từ fansub và không mua đĩa phim từ các nhà phân phối dù biết vi phạm bản quyền do chi phí băng đĩa tại gia, giá cước vận chuyển quốc tế, tựa anime chưa được cấp phép, yếu tố bản dịch chính xác. Sản phẩm của fansub và tác phẩm nguyên tác là quan hệ hàng hóa bổ sung: sản phẩm của fansub giúp phổ biến tác phẩm nguyên tác và cạnh tranh với tác phẩm nguyên tác. Nhiều người hâm mộ từ fansub đã trở thành dịch giả tại các hãng phân phối anime. Khảo sát năm 2005 của Thời báo Hoàn Cầu và Sina với 8.782 người Trung Quốc sinh sau thập niên 1980 quan tâm đến Nhật Bản, 82,81% tiếp xúc hàng ngày với anime và manga. Theo thống kê của iResearch Consulting Group từ 33.000 người tại Trung Quốc năm 2016, 82% thường xuyên xem anime. Khảo sát năm 2015 từ 339 người hâm mộ tại Nhật Bản của Mynavi cho rằng anime truyền cảm hứng nghề nghiệp và để lại ấn tượng tích cực lâu dài, nhưng cũng có thể khiến cuộc sống một số tệ đi. Tháng 3 năm 2019, Crunchyroll trình chiếu loạt phim tài liệu "Fan Chronicles [Biên niên sử người hâm mộ]" nói về cuộc sống của những người hâm mộ tiêu biểu được truyền cảm hứng từ anime.
Hành hương anime
Đầu thập niên 1990, người hâm mộ Nhật Bản và du khách nước ngoài du lịch văn hóa đại chúng đến các địa điểm được hoạt hình Nhật Bản lấy bối cảnh. Xu hướng hành hương anime thập niên 2000 được cho là bắt đầu từ phim Onegai ☆ Teacher (dựa trên bối cảnh khu dân cư tại thành phố Hamamatsu thuộc tỉnh Shizuoka và nhiều người hâm mộ đã đến thăm địa điểm này, một đề nghị kiềm chế hành hương đã được đăng trên các tạp chí và fansite năm 2005), sau đó gia tăng với Lucky Star, Suzumiya Haruhi, K-On!, Kem đá, Love Live!, Your Name – Tên cậu là gì?. Hành hương anime hình thành do các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản sử dụng hình ảnh kỹ thuật số các địa điểm thực tế cho hậu cảnh trong anime từ thập niên 2000. Những thường say mê tìm kiếm địa điểm thực tế và cố gắng xác định chính xác từng cảnh trong anime; việc tìm kiếm bối cảnh trong anime thường dựa vào các thảo luận blog cá nhân, bảng thông báo, dịch vụ mạng xã hội, bình luận trong đĩa Blu-ray, công cụ truy vấn dữ liệu. Cộng đồng butaitanbou (BTC) tăng từ sáu thành viên ban đầu lên tới vài trăm người trong 11 năm, tổ chức nhiều cuộc gặp mặt đều đặn và ghi nhận nỗ lực của thành viên bằng các giải thưởng. Người hâm mộ thường đăng các bài viết so sánh góc nhìn giống nhau giữa hình chụp màn hình anime và địa điểm bối cảnh thực tế; trong mỗi chuyến tham quan thường để lại lưu niệm như ema, ema có thể trở thành công cụ giao tiếp giữa các cá nhân với nhân vật anime và chính những người hành hương. Nhiều sự kiện truyền thống được tạo ra từ anime như "lễ hội Bonbori [lễ hội Đèn lồng giấy]" tại Yuwaku Onsen thuộc Kanazawa được tổ chức hàng năm dựa theo phim Hanasaku Iroha năm 2011, đạo diễn phim cho biết chính quyền thành phố đã đề nghị hãng phim tạo một lễ hội giả tưởng nhằm thúc đẩy kinh tế khu vực sau những thiệt hại từ đợt mưa vào năm 2008. Silver Spoon dựa theo bối cảnh đua ngựa Ban’ei và lịch sử nông nghiệp vùng Hokkaidō, được Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản trao tặng giải thưởng lớn tại 'Giải Nội dung Văn hóa Ẩm thực Nhật Bản', giúp thúc đẩy chiến lược 'Thung lũng ẩm thực Tokachi' từ năm 2011. Năm 2010, Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (JNTO) đã xuất bản ấn phẩm 'hướng dẫn du lịch anime Nhật Bản' giới thiệu các địa điểm liên quan đến anime. Năm 2013, công ty DIP ra mắt ứng dụng "bản đồ hành hương" với 2.000 địa điểm bối cảnh, Sony ra mắt ứng dụng Butai Meguri hướng dẫn tham quan 70 địa điểm kết hợp thực tế tăng cường (AR) và hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Tựa sách 'Anime Tanbou: Seichi Junrei Guide' [Du lịch anime: Hướng dẫn hành hương thánh địa] xuất bản năm 2014, sách tổng hợp các địa điểm tại Nhật Bản được minh họa trong 150 anime. Năm 2016, Hiệp hội Du lịch Anime thành lập dựa trên sự hợp tác của Kadokawa Dwango, JTB Corp, Japan Airlines, Tập đoàn Sân bay quốc tế Narita nhằm lựa chọn 88 địa điểm hành hương anime thông qua kết quả khảo sát từ người hâm mộ, 88 địa điểm hành hương anime được mô phỏng theo 88 ngôi đền trong hành hương Shikoku. Kết quả bầu chọn "88 địa điểm hành hương anime" năm 2017 từ Nhật Bản và 60% từ nước ngoài bị chỉ trích thiếu minh bạch, kết quả năm 2019 được bầu chọn từ 75% nước ngoài (Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan). Tính đến năm 2019, Hiệp hội Du lịch Anime đã thành lập ba trung tâm thông tin tại Tokyo nhằm giới thiệu các địa điểm hành hương anime: tầng 88 Tòa nhà chính phủ Tokyo Metropolitan, cửa số 1 Sân bay quốc tế Narita, tầng hai tòa nhà Kadokawa Fujimi. Ngày 17 tháng 3 năm 2018, Kodokawa Shoten phát hành một sách hướng dẫn chính thức về 88 địa điểm hành hương anime của năm 2018. Du khách quốc tế hành hương văn hóa tới Nhật Bản phản ánh sự hình thành bản sắc xuyên quốc gia và giao thoa văn hóa, cho thấy du lịch quốc tế và bản sắc có liên quan chặt chẽ. Người hâm mộ liên tục đắm mình trong văn hóa đại chúng Nhật Bản, cảm giác quen thuộc với văn hóa Nhật Bản tạo nên mong muốn hoài niệm và thúc đẩy họ đi du lịch trải nghiệm Nhật Bản 'thực sự'. Địa điểm tham quan có thể được liên kết với văn hóa manga (Bảo tàng Ghibli, Comiket, Bảo tàng Manga quốc tế Kyoto), văn hóa giới trẻ (Akihabara, Harajuku, Shibuya) hoặc nơi người hâm mộ đã quen thuộc (tháp Tokyo, Đại học Tōkyō, Lumine).
Tác động văn hóa
Truy cập và phân phối nội dung do người dùng tạo từ anime cùng với sự phát triển của web 2.0 đã hình thành văn hóa tham gia, trong đó việc lạm dụng phụ đề (chú thích văn hóa Nhật Bản hoặc lộng ngữ tiếng Nhật trong anime) của fansub và các hãng phân phối thương mại được miêu tả như "một sản phẩm mã hóa của một nền văn hóa được giải mã bởi một nền văn hóa rất khác biệt". Lạm dụng phụ đề được khuyến khích bởi công nghệ băng đĩa, xu hướng hãng phân phối phát hành thương mại đồng thời các phiên bản địa phương hóa và phiên bản nguyên tác tiếng Nhật, vai trò trung tâm của người hâm mộ trong nhu cầu tìm hiểu văn hóa Nhật Bản. Ngày 19 tháng 3 năm 2008, bộ trưởng Bộ ngoại giao Nhật Bản Kōmura Masahiko bổ nhiệm nhân vật Doraemon là đại sứ anime. Trong bối cảnh chính trị tương đối khép kín của Trung Quốc (hòa hợp xã hội và tuân theo chính quyền), giới trẻ Trung Quốc tiêu thụ các sản phẩm văn hóa Nhật Bản đã thúc đẩy sự hình thành các ý thức hệ và giá trị mới (tự do, công lý, du lịch Nhật Bản, học tiếng Nhật) nhưng vẫn giữ quan điểm dân tộc trong quan hệ Nhật Bản–Trung Quốc. Tiếng Trung Quốc có các từ mượn gốc tiếng Nhật bắt nguồn từ anime thông qua dịch vụ mạng xã hội dần trở nên phổ biến trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí, các phương tiện truyền thông, đời sống hàng ngày; từ mượn tiếng Nhật giúp giới trẻ Trung Quốc thách thức truyền thống và làm nổi bật sự tồn tại của họ, xu hướng bắt kịp thị hiếu, đa dạng thẩm mỹ và giới tính. Địa phương hóa toàn cầu anime tại Trung Quốc thể hiện qua tạo hình châm biếm nhân hóa moe Nương Đập Lục () của người dùng internet đối với phần mềm kiểm soát nội dung internet trên máy tính Hộ tống Thanh niên Đập Lục () năm 2009, giễu nhại bằng cách sử dụng văn hóa đại chúng Nhật Bản mà chính phủ Trung Quốc đang cố kiềm chế. Các trò chơi có chủ đề anime mới phát hành chiếm gần 40% doanh thu công nghiệp trò chơi Trung Quốc trong quý ba năm 2018. Dựa vào dữ liệu của Trung tâm khảo sát xã hội tổng hợp Nhật Bản (JGSS) giai đoạn 2000-2012 cho thấy xu hướng cha mẹ người Nhật nhiều khả năng xem anime cho dù không hứng thú khi họ có con dưới 12 tuổi. Cục giao thông thành phố Kyōto sử dụng hình ảnh linh vật anime trên hệ thống tàu điện ngầm Kyoto vào năm 2011 và mở rộng toàn bộ Nhật Bản vào năm 2013 nhằm tăng số lượng hành khách, một tiểu thuyết và một anime được truyền cảm hứng từ hình ảnh các linh vật. Toyo Suisan sử dụng mã âm thanh hướng dẫn nấu ăn được seiyū lồng tiếng theo phong cách anime in trên mặt sau gói ramen thô vào năm 2014 và năm 2015, doanh số bán ramen thô của Toyo Suisan năm 2015 tăng 7% so với cùng kỳ và trái ngược với mức giảm 7% của thị trường; Snow Brand Milk Products minh họa nhân vật anime lên gói cà phê Yukijirushi từ năm 2013 giúp chấm dứt suy giảm doanh số 3-4% mỗi năm trước khi chiến lược bắt đầu; Lotte xây dựng chiến lược "Gum Kare" với hình minh họa nhân vật anime trên kẹo cao su nhằm tìm kiếm ảnh hưởng trên truyền thông đại chúng. Nhiều công ty có xu hướng xúc tiến chiến lược truyền thông thương hiệu bằng các đoạn phim quảng cáo theo phong cách anime hoặc chọn linh vật nhân hóa moe phong cách anime như Microsoft (Aizawa Inori, Aizawa Hikaru). Ngày 4 tháng 5 năm 2018, Coca-Cola bán chai minh họa các nhân vật của anime Ohenro' tại Shikoku. Hoa hậu Hoàn vũ Nhật Bản Kato Yuumi tại Hoa hậu Hoàn vũ 2018 trình diễn trang phục dân tộc kunoichi màu đỏ truyền thống và sau đó biến đổi thành nữ chiến binh Thủy thủ Mặt Trăng. Tháng 11 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019, Bảo tàng Phong cách sống thời kỳ Chiêu Hòa tổ chức triển lãm mô phỏng lại lối sống và bối cảnh xã hội Nhật Bản trong Góc khuất của thế giới. Văn hóa kawaii trong anime dẫn đến góc nhìn sai khác về nữ sinh Nhật Bản nhút nhát, ngây thơ, trẻ con trong văn hóa đại chúng phương Tây.
Hoạt hình phong cách anime
Một trong những điểm chính làm anime khác biệt so với một số ít hoạt hình phương Tây là tiềm năng thể hiện nội dung cảm xúc. Một sự kỳ vọng các khía cạnh hấp dẫn thị giác hoặc hoạt họa chỉ dành cho trẻ em được đặt qua một bên, khán giả có thể nhận được các chủ đề bao gồm bạo lực, khổ sở, tính dục, đau đớn, cái chết có thể trở thành các yếu tố kể chuyện được dùng trong anime nhiều như các loại hình truyền thông khác. Tuy nhiên, khi chính việc anime trở lên ngày càng phổ biến, phong cách anime chắc chắn là chủ đề của các tác phẩm sáng tạo nghiêm túc và châm biếm. Các tập phim Chinpokomon và Good Times with Weapons của South Park, Perfect Hair Forever của Adult Swim, Kappa Mikey của Nickelodeon là những ví dụ miêu tả châm biếm trào phúng về văn hóa Nhật Bản và anime, nhưng các dụ pháp anime cũng bị châm biếm bởi một số anime như KonoSuba.
Truyền thống chỉ quan niệm các tác phẩm Nhật Bản mới được coi là anime, nhưng một vài tác phẩm đã làm dấy lên tranh luận về sự xóa nhòa ranh giới giữa anime và hoạt hình Hoa Kỳ, ví dụ như sản xuất theo phong cách anime người Mỹ là Avatar: The Last Airbender và The Boondocks. Các tác phẩm mang phong cách anime này dần được định nghĩa như hoạt hình chịu ảnh hưởng từ anime trong một nỗ lực phân loại tất cả phim phong cách anime mà không có nguồn gốc từ Nhật Bản. Một số tác giả của những tác phẩm tham chiếu đến anime như một nguồn cảm hứng, ví dụ như nhóm nhà làm phim người Pháp chuyển đến Tokyo để hợp tác với một nhóm nhà làm phim người Nhật nhằm thực hiện Ōban Star-Racers. Khi anime được định nghĩa như một 'phong cách' hơn là một sản phẩm quốc gia, mở ra khả năng anime sẽ được sản xuất tại các quốc gia khác. Định nghĩa anime như phong cách đã gây ra tranh luận giữa những người hâm mộ; Oppliger John cho rằng "Việc nhấn mạnh tham chiếu đến nghệ thuật gốc Hoa Kỳ giống như 'anime' hoặc 'manga' Nhật Bản cướp đi những tác phẩm mang bản sắc văn hóa của nó", ý kiến khác cho rằng anime là hoạt hình được sản xuất, trình chiếu và định hướng tới khán giả người Nhật.
Một bộ phim truyền hình hợp tác sản xuất giữa Philippines-U.A.E là Torkaizer, được lồng tiếng như 'anime đầu tiên của Trung Đông', hiện đang trong quá trình sản xuất và tìm kiếm nguồn tài trợ. Phim truyền hình hợp tác Philippines-Nhật Bản (TV Asahi thiết kế nhân vật và giám sát, Synergy88 viết kịch bản và chế tác) là Barangay 143 được coi như 'anime đầu tiên của Philippines' nhằm hướng đến thị trường Philippines. Netflix đã sản xuất nhiều anime truyền hình khi hợp tác với các xưởng phim hoạt hình Nhật Bản, do đó đang đưa ra một kênh phân phối nhiều tiếp cận hơn cho thị trường phương Tây.
Loạt phim RWBY phát hành trên website do công ty Rooster Teeth có trụ sở tại Texas sản xuất theo phong cách nghệ thuật anime và được miêu tả là 'anime' theo nhiều nguồn. Ví dụ trong tiêu đề ở một trong các bài báo của Adweek đã miêu tả loạt phim là "anime làm bởi người Mỹ", trong tiêu đề khác của HuffPost đã miêu tả loạt phim đơn giản là 'anime' mà không đề cập đến nguồn gốc quốc gia của loạt phim. Năm 2013, tác giả của RWBY là Monty Oum nói 'một số người chỉ tin rằng thứ giống Scotland cần được làm tại Scotland, một công ty Mỹ không thể làm anime. Tôi nghĩ rằng đó là một cách hẹp hòi để nhìn nó. Anime là một hình thức nghệ thuật, việc nói rằng chỉ duy nhất một quốc gia có thể làm được nghệ thuật này là sai lầm'. RWBY đã được phát hành tại Nhật Bản với một phiên bản lồng tiếng Nhật, tổng giám đốc điều hành công ty Rooster Teeth là Matt Hullum bình luận 'đây là lần đầu tiên bất kỳ anime làm bởi người Mỹ được bán ra tại Nhật Bản. Nó chắc chắn thường thực hiện theo cách thức khác xung quanh, chúng tôi thực sự hài lòng về điều đó'.
Nhượng quyền truyền thông
Trong giải trí và văn hóa Nhật Bản, truyền thông hỗn hợp là một chiến lược phân tán nội dung qua nhiều đại diện: truyền thông phát sóng khác nhau, công nghệ trò chơi, điện thoại di động, đồ chơi, công viên giải trí và các cách thức khác. Đó là một thuật ngữ tiếng Nhật để chỉ một nhượng quyền đa truyền thông. Thuật ngữ này được lưu hành vào cuối thập niên 1980, nhưng khởi nguồn của chiến lược có thể được bắt nguồn từ thập niên 1960 với sự tăng trưởng nhanh của anime kết hợp của truyền thông cùng hàng hóa thường dùng.
Một số nhượng quyền truyền thông anime đạt được sự nổi tiếng toàn cầu đáng kể và thuộc danh sách nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất. Pokémon là nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất mọi thời đại, cao hơn Chiến tranh giữa các vì sao và vũ trụ điện ảnh Marvel. Các nhượng quyền truyền thông anime khác cũng thuộc nhóm 20 nhượng quyền truyền thông có doanh thu cao nhất toàn cầu bao gồm Hello Kitty, Gundam, Dragon Ball, trong nhóm 30 bao gồm Hokuto no Ken, Yu-Gi-Oh!, Shin Seiki Evangelion.
Điện ảnh toàn cầu
Phong cách anime được sử dụng trong điện ảnh Hoa Kỳ như Kill Bill, The Animatrix. Ma trận được thừa nhận ảnh hưởng từ hoạt hình Nhật Bản Ninja Scroll và Akira, đặc biệt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ghost in the Shell. Ghost in the Shell được thừa nhận tạo nguồn cảm hứng cho James Cameron trong Avatar; hoặc được tham chiếu trong A.I. Artificial Intelligence của Steven Spielberg và Surrogates của Jonathan Mostow. Perfect Blue của Kon Satoshi đã được thừa nhận ảnh hưởng đáng kể đến Aronofsky Darren (đạo diễn của Thiên nga đen và Nguyện cầu cho một giấc mơ); một số nhà phê bình điện ảnh và học giả đã tranh luận rằng Inception bị ảnh hưởng từ Paprika của Kon Satoshi bởi cốt truyện tương đồng, nhân vật tương đồng, các phân cảnh tương đồng. Stranger Things được thừa nhận chịu ảnh hưởng từ Akira và Elfen Lied. Một số phim chuyển thể từ anime của điện ảnh Hoa Kỳ trở thành bom xịt (như 7 viên ngọc rồng, Death Note, Vỏ bọc ma) trái ngược với những chuyển thể thành công (Vua tốc độ, Alita: Thiên thần chiến binh), nguyên nhân một phần bởi các nhà làm phim người Mỹ không thực sự hiểu đầy đủ những điều hấp dẫn của nguyên tác và phóng tác cốt truyện, khác biệt về thanh điệu và diễn xuất cường điệu của anime. Blade Runner năm 1982 của Ridley Scott được Anime News Network cho rằng có ảnh hưởng đến nhiều loạt phim anime như Baburugamu Kuraishisu, Tenkū no Esukafurōne, Ghost in the Shell, Ergo Proxy, Witchi Hantā Robin, các phim của Watanabe Shinichirō.
Tại Việt Nam
Vào những năm 2000, anime được phát sóng chủ yếu trên các kênh truyền hình như HTV3, VTV2. Có một số bộ gắn liền với tuổi thơ của nhiều người Việt như Doraemon chú mèo máy đến từ tương lai, Thám tử lừng danh Conan, Lovely Complex - Rắc rối đáng yêu, Sakura - Thủ lĩnh thẻ bài,.... Hiện nay anime đã được phát trên nhiều nền tảng như FPT Play, Muse Việt Nam,...
Xem thêm
Light novel
Manga
Kính ngữ tiếng Nhật
Điện ảnh Nhật Bản''
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài Tiếng Nhật Hiệp hội Hoạt hình Nhật Bản (AJA)
Hội Hoạt hình học Nhật Bản (JSAS)
Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản (JAniCA)
Hiệp hội Phần mềm Video Nhật Bản (JVA)
Tăng tốc Thương mại hoạt hình Tokyo
Japanese Anime Staff Wiki. Danh sách nhà làm phim hoạt hình Nhật Bản.
Sakuga Wiki. Bảng tra cứu hoạt họa sakuga tại Nhật Bản.Tiếng Anh'''
Anime News Network Encyclopedia. Bách khoa toàn thư danh sách anime của Anime News Network.
Animators Corner . Bách khoa từ điển danh sách tra cứu các họa sĩ diễn hoạt Nhật Bản.
Sakugabooru. Bách khoa tra cứu trích đoạn ngắn về kỹ thuật hoạt họa sakuga.
Bài cơ bản dài
Giới thiệu năm 1917
Anime
Phát minh của Nhật Bản
Thuật ngữ anime và manga |
Điện Biên là một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bộ Việt Nam. Ngoài ra, tên gọi Điện Biên còn có thể chỉ:
Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
Phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Phủ Điện Biên: một phủ thuộc tỉnh Hưng Hóa dưới thời nhà Nguyễn; nay tương ứng với tỉnh Điện Biên và một phần các tỉnh Lai Châu, Sơn La
Thị trấn cũ Điện Biên, thị trấn huyện lỵ huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu; nay tương ứng với một phần thành phố Điện Biên Phủ |
Cổ Long (1938 - 1985; tiếng Trung: 古龍) là nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng. Ông cũng là nhà biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn. Các tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần trên phim truyền hình cũng như điện ảnh.
Tiểu sử
Cổ Long tên thật là Hùng Diệu Hoa (熊耀華). Có tài liệu nói ông sinh tại Hồng Kông, có tài liệu nói ông sinh ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, quê quán (tổ tịch) của ông là ở Giang Tây (江西, Jiangxi), Trung Quốc. Ông là một tác giả tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng mọi thời đại, là người khởi nguồn cho dòng tiểu thuyết kiếm hiệp tân phái.
Năm 1952, Cổ Long theo cha mẹ di cư sang Đài Loan sinh sống. Thời thơ ấu, Cổ Long luôn cảm thấy lẻ loi, cô độc. Do hoàn cảnh khó khăn, ông thường phải chứng kiến cảnh cha mẹ bất hòa, gây gổ với nhau. Sau đó, gia đình tan vỡ, cha mẹ chính thức ly dị. Bởi lý do đó mà ông bỏ nhà, sống một mình tại trấn Thụy Phương, ở ngoại ô quận Đài Bắc (台北縣瑞芳鎮), tự lực tìm cách sinh nhai và học hành. Ngay từ thuở nhỏ, Cổ Long đã đọc và rất yêu thích các tác phẩm võ hiệp cổ điển của Trung Quốc. Sau đó mấy năm, ông còn đọc thêm các bộ tiểu thuyết cận đại của Nhật Bản, các tác phẩm văn học của Tây phương.
Cổ Long bắt đầu viết văn từ rất sớm. Từ khi học năm thứ hai ở Bộ Sơ trung, Trường Cao cấp Trung học, thuộc Đại học Sư phạm Đài Loan 師大附中初中部 (tương đương lớp 7 ở Việt Nam), ông đã bắt đầu phiên dịch các tác phẩm văn học ngắn của Tây phương. Bản dịch đầu tiên của ông gửi đăng ở tạp chí Thanh niên Tự do (自由青年) và kiếm được một ít nhuận bút. Tuy nhiên, sự nghiệp văn chương của Cổ Long chính thức bắt đầu là vào thời gian cuối cấp II. Năm 1956, Cổ Long đã viết bài văn "Từ miền Bắc đến miền Nam" (從北國到南國) gửi đăng ở tạp chí "Ánh mai" (tức "Thần quang" 晨光) do Ngô Khải Vân chủ biên (吳凱雲主編) và nhận được khoản nhuận bút kha khá. Bắt đầu từ đó, Cổ Long tiếp tục viết thêm nhiều bộ tiểu thuyết và văn xuôi, tuy nhiên các tác phẩm thuở ấy chỉ thuần về văn học và chủ yếu là viết về tình yêu nam nữ.
Sau khi tốt nghiệp Cấp III tại trường Trung học Thành Công (成功中學), năm 1957, Cổ Long thi đậu vào Trường Cao đẳng dân lập chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang" (淡江私立高等英語專科學校, trường này thành lập từ năm 1950, đến 1980 được nâng cấp thành Trường Đại học Đạm Giang, 淡江大學). Tuy nhiên, sang năm thứ hai thì Cổ Long nghỉ học, chính thức sống bằng nghề viết văn.
Năm 1960, qua sự động viên và ủng hộ của bạn bè, Cổ Long đã viết bộ Thương khung thần kiếm (蒼穹神劍). Đây là bộ truyện mở đầu cho sự nghiệp tiểu thuyết võ hiệp của ông, vì vậy, kỹ thuật viết không hay, nó giống như là thuật lại sơ lược một câu chuyện.
Trong thời gian 1960-1964, Cổ Long viết được hơn chục bộ truyện võ hiệp nhưng hầu hết đều ở mức trung bình. Chỉ đến năm 1965 thì sự nghiệp mới bắt đầu chín mùi, lúc đó ông có thể viết cùng lúc hai ba bộ tiểu thuyết với nội dung đặc sắc và luôn giao bản thảo sớm hơn thời gian quy định. Mười năm sau, không biết có phải sức khoẻ suy thoái do tửu sắc mà các tác phẩm võ hiệp của ông dần dần mất đi những ý tưởng độc đáo (năm 1977 ông đã phát hiện mình mắc bệnh viêm gan, sức khoẻ ngày càng suy giảm nhưng vẫn cứ tiếp tục uống rượu). Năm 1980, trong khi ăn tiệc ở nhà hàng "Ngâm Tùng Các" (吟松阁), không biết ông gây xích mích rồi ẩu đả như thế nào mà bị người ta chém. Vết thương khá nặng, làm cho ông mất máu khá nhiều, nghe nói đến 2 lít. Khoảng thời gian đó đến cuối đời, Cổ Long bắt đầu sa sút, luôn nhận tiền nhuận bút trước của các nhà xuất bản nhưng thường giao bản thảo trễ hạn. Hoặc tác phẩm mở đầu thì khá nhưng về sau có lẽ do viết tháu để nộp bài cho kịp, vì vậy mà câu chuyện đầu voi đuôi chuột (Hổ đầu xà vĩ). Có đôi lúc Cổ Long lại bỏ dỡ nửa chừng, nhà xuất bản buộc phải tìm những Sinh viên Đại học có khả năng để viết tiếp phần cuối. Lúc ấy trên lĩnh vực tiểu thuyết võ hiệp xuất hiện bút danh "Thượng Quan Đỉnh" (上官鼎), đó tuyệt không phải là bút danh của một nhà văn nào mà chính là nhiều sinh viên Đài Loan, người này tiếp nối người kia để viết bổ sung cho tác phẩm của Cổ Long. Việc làm này đưa đến một sự kiện dở khóc dở cười là ở tác phẩm "Kiếm độc Mai Hương" (劍毒梅香), Thượng Quan Đỉnh viết phần cuối càng về sau càng trật bản lề, dẫn đến việc độc giả lo âu nghiêm trọng. Ngay cả Cổ Long, khi xem lại phần viết thêm của Thượng Quan Đỉnh cũng cảm thấy muốn té xỉu. Để sửa sai, Cổ Long phải chấp bút viết lại phần cuối của bộ sách này.
Trong suốt cuộc đời của Cổ Long, có lẽ bị ảnh hưởng từ gia đình mà ông rất sợ cô độc. Bởi thiếu thốn tình yêu thương trong gia đình, ông giao thiệp với bạn bè rất rộng và đối xử với họ rất tốt. Ông uống rượu nhiều và thường kết giao với bạn bè qua bàn rượu, vì vậy mà quan hệ bạn bè của Cổ Long khá phức tạp. Những người bạn cùng học với ông ở Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang" kể lại rằng ông có quan hệ tốt với bạn học và cũng rất quý trọng tình bạn. Vì vậy mà trong rất nhiều tác phẩm của Cổ Long, tên của các bạn học thời ấy đã được Cổ Long sử dụng làm tên nhân vật, thậm chí là mô tả tướng mạo, tính cách đều rất sát với con người thật.
Cổ Long yêu gái đẹp và quan hệ với rất nhiều cô. Ngay từ thời học sinh đã sống chung với vũ nữ Trịnh Lợi Lợi (鄭莉莉), có với cô này một đứa con trai. Rồi ông lại say mê vũ nữ Diệp Tuyết (葉雪), cũng có với cô này một đứa con trai. Sau đó, ông kết hôn với Mai Bảo Châu, là nữ sinh học Cấp III (高中生梅寶珠). Do không chịu được tính khí của Cổ Long, dù đã có với ông một đứa con trai, Mai Bảo Châu đã ly hôn với ông. Cuối cùng, Cổ Long kết hôn với Vu Tú Linh (于秀玲) và ở với nhau cho đến cuối đời. Ngoài những mối tình chính thức kể trên, Cổ Long cũng âm thầm quan hệ với nhiều người phụ nữ khác.
Tương truyền bút danh "Cổ Long" của ông cũng có liên quan đến một người con gái. Trong khi theo học tại Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang", lớp của ông có tất cả là 36 học sinh, tuy nhiên trong số đó chỉ có 4 nữ. Trong số 4 nữ sinh ấy, có một cô tên "Cổ Phụng" là đẹp nhất nhưng lại tỏ ra cô độc, rất hiếm khi chuyện trò với các bạn cùng học. Các bạn trai trong lớp thường hay trêu chọc cô gái này, họ đã đặt cho cô ta biệt hiệu là "Chim" (鳥). Hùng Diệu Hoa cảm thấy yêu thích Cổ Phụng, vì vậy mà chủ động tiếp cận, làm quen. Tuy nhiên, với vóc người lùn thấp (khoảng 1,56 mét), đầu thì to như quả dưa, miệng rộng, mắt hí (các bạn học đặt cho Hùng Diệu Hoa biệt hiệu "Đầu to" 大頭), Cổ Phụng không thèm để mắt đến anh chàng này. Sau đó một thời gian, cha của Cổ Phụng qua đời. Hùng Diệu Hoa hay được tin, mặc dù lúc ấy đang mưa to như thác đổ, cũng vội tìm đến nhà Cổ Phụng để an ủi. Lúc Hùng Diệu Hoa đến nhà thăm viếng, vì Cổ Phụng không có người thân nào bên cạnh nên rất xúc động, sà vào lòng của anh ta mà khóc nức nở. Hùng Diệu Hoa cũng liên tưởng đến hoàn cảnh đáng thương của gia đình mình nên cùng khóc theo cô nàng. Lát sau, Cổ Phụng bớt đi đau thương thì chợt thấy mình đang tựa vào lòng của Hùng Diệu Hoa, vì vậy mà vội xê người ra và lên tiếng mời Hùng Diệu Hoa rời khỏi nhà mình. Hùng Diệu Hoa cố gắng giãi bày, nói rõ tình cảm của mình đối với Cổ Phụng là chân thành và sâu sắc, tuy nhiên Cổ Phụng vẫn không chấp nhận. Hùng Diệu Hoa bèn lập lời thề là nếu không được sống chung với Cổ Phụng, ông sẽ làm cho cô ta mãi mãi nhớ đến mình. Từ đó, Hùng Diệu Hoa bắt đầu sử dụng bút danh "Cổ Long" (Không rõ có phải vì câu chuyện này mà Hùng Diệu Hoa bỏ học vào năm thứ hai ở Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang").
Khoảng thời gian 1984-1985, sức khoẻ của Cổ Long sa sút trầm trọng. Ông mất vào lúc 18 giờ 3 phút ngày 21 tháng 9 năm 1985 vì biến chứng của bệnh xơ gan, làm giãn vỡ tĩnh mạch thực quản, gây xuất huyết trầm trọng. Trong đám tang của Cổ Long, những người phụ nữ từng quen biết hoặc quan hệ với ông trước đây đều không có ai đến viếng (Người ta kể rằng: câu nói cuối cùng của Cổ Long trước lúc qua đời là "Sao chẳng có người bạn gái nào đến thăm tôi cả?"). Lúc hạ huyệt, bạn bè của ông lần lượt đem rượu đến đặt bên quan tài. Có lẽ họ đã bàn bạc với nhau từ trước, vì vậy mà người ta đếm được có tất cả 48 chai rượu loại XO (là loại rượu Cổ Long thích uống nhất khi còn sống), tương ứng với số tuổi mà Cổ Long hưởng dương (dựa theo chi tiết này thì Cổ Long sinh vào năm 1937).
Tác phẩm
Có tài liệu nói Cổ Long đã viết 82 tác phẩm, tuy nhiên con số này bao gồm cả những truyện "giả" Cổ Long (của tác giả khác nhưng lấy bút danh Cổ Long), hoặc Cổ Long nhờ người khác viết cho kịp giao nhà xuất bản. Khi biên tập bộ Cổ Long tác phẩm tập, Hội Văn học võ hiệp Trung Quốc đã xác định con số 69 tác phẩm.
Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ hiệp tiểu thuyết gia cùng thời và trước đó. Truyện của ông hoàn toàn hư cấu về thời gian và không gian nhưng tâm lý và quan hệ của các nhân vật trong truyện lại rất thật. Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người có những mâu thuẫn, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ Long. Kết thúc truyện của ông đôi khi rất dở dang nhưng chính sự dở dang đó đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc, giúp chúng ta hiểu ra được nhiều điều. Bản niêu biểu truyện Cổ Long được trích từ "Cổ Long tác phẩm tập" của nxb Chu Hải.
Sự nghiệp sáng tác của ông tạm chia ra làm 3 giai đoạn đó là:
Cổ Long thời kỳ đầu (1960-1964): giai đoạn này Cổ Long còn chưa định hình được phong cách, không có gì đặc biệt.
Thời kỳ đỉnh cao (1965-1979): Giai đoạn này ông viết rất sung sức, có những tác phẩm, những nhân vật tuyệt vời đưa Cổ Long lên ngang hàng với Kim Dung trở thành 2 tác giả lớn nhất của làng tiểu thuyết võ hiệp.
Giai đoạn cuối (1980 đến cuối đời): Lúc này sức khoẻ của ông đã rất kém, hậu quả của lối sống phóng túng. Ông viết không còn nhiều ý tưởng, ảm đạm và thường không còn viết được trọn một tác phẩm nào.
(1960) Nguyệt dị tinh tà, 月異星邪 Yue Yi Xing Xie (Strange Moon, Evil Star) (Tên xuất bản trước 1975: Dị Kiếm khách)
(1960) Thương khung thần kiếm 蒼穹神劍 Cang Qiong Shen Jian'(Divine Sky Sword) - 10 hồi
(1960) Kiếm khí thư hương 劍氣書香 Jian Qi Shu Xiang (The Aura of the Sword and the Fragrance of the Book) (Tên xuất bản trước 1975: Đoạn kiếm thù) (1960) Tương phi kiếm 湘妃劍 Xiang Fei Jian Madame Xiang's Sword (1960) Kiếm độc mai hương 劍毒梅香 Jian Du Mei Xiang (The Poisonous Sword and the Fragrant Plum Blossom) (1960) Cô tinh truyện 孤星傳 Gu Xing Chuan (Lone Star Story) (1961) Thất hồn dẫn, 失魂引 Shi Hun Yin (Guide to Lost Souls) (1961) Du hiệp lục 遊俠錄 You Xia Lu (Wandering Hero) - 8 hồi
(1962) Hộ hoa linh, 護花鈴 Hu Hua Ling, tên cũ: Bất tử thần long, tên mới: Hộ hoa kiếm khách (1962) Thái hoàn ca 彩環曲 Cai Huan Qu - 12 hồi
(1962) Tàn kim khuyết ngọc Can Jin Que Yu (Broken Gold and Incomplete Jade) (1963) Phiêu hương kiếm vũ 飄香劍雨 Piao Xiang Jian Yu (Fragrant Sword Rain) (1963) Kiếm huyền lục Jian Xuan Lu (The Tale of a Remarkable Sword) (1963) Kiếm khách hạnh 劍客行 Jian Ke Hang (Swordsman's Honor) (1964) Hoán hoa tẩy kiếm lục 浣花洗劍錄 Huan Hua Xi Jian Lu (Sword Bathed in Flowers) (Tên xuất bản trước 1975: Ân thù kiếm lục) (1964) Tình nhân tiễn 情人箭 Qing Ren Jian (Lover's Arrow) (Tên xuất bản trước 1975: Xuyên tâm lịnh) (1965) Đại kì anh hùng truyện 大旗英雄傳 Da Qi Ying Xiong Chuan (The Legend of the Hero's Banner) - 44 hồi
(1965) Võ lâm ngoại sử 武林外史 Wu Lin Wai Shi (The Legend of Wulin) - 44 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Võ lâm tuyệt địa) (1966) Danh kiếm phong lưu 名劍風流 Ming Jian Feng Liu (The Sword and the Exquisiteness) - 40 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Huyết sử võ lâm) (1967) Tuyệt đại song kiêu 絕代雙嬌 Jue Dai Shuang Jiao (The Legendary Twins) (Tên xuất bản trước 1975: Giang hồ thập ác & Tuyệt đại song hùng) Sở Lưu Hương hệ liệt 楚留香系列 Chu Liu Xiang Xi Lie (The Adventures of Chu Liu Xiang) - viết trong thời gian 1968 - 1979
(1968) Huyết hải phiêu hương, 血海飄香 Xie Hai Piao Xiang (Fragrance in the Sea of Blood) - 27 hồi
(1969) Đại sa mạc, 大沙漠 Da Sha Mo (Vast Desert) - 36 hồi
(1970) Họa mi điểu, 畫眉鳥 Hua Mei Niao (The Thrush) - 36 hồi
(1970) Quỷ luyến hiệp tình, 鬼戀傳奇 Gui Lian Chuan Ji (The Legend of the Ghost Lover) - 12 hồi
(1971) Biên bức truyền kỳ 蝙蝠俠 Bian Fu Chuan Ji (Legend of the Bat) - 23 hồi
(1972) Đào hoa truyền kỳ, 桃花傳奇 Tao Hua Chuan Ji (Legend of the Peach Blossom) - 15 hồi
(1978) Tân Nguyệt truyền kỳ, 新月傳奇 Xin Yue Chuan Ji (Legend of the New Moon) - 12 hồi
(1979) Ngọ dạ lan hoa, 午夜蘭花 Wu Ye Lan Hua (Midnight-Blooming Orchid) - 14 hồi
Tiểu Lý Phi Đao hệ liệt: là nhóm truyện có chung các nhân vật: Lý Tầm Hoan, Diệp Khai, Phó Hồng Tuyết... gồm có
Đa tình kiếm khách vô tình kiếm, 多情劍客無情劍 Duo Qing Jian Ke Wu Qing Jian (Sentimental Swordsman, Ruthless Sword); 89 hồi
Biên thành lãng tử,邊城浪子 Bian Cheng Lang Zi
Cửu nguyệt ưng phi, Jiu Yue Ying Fei (Nine Moons, Flying Eagle)
Thiên nhai - Minh nguyệt - Đao, 天涯‧明月‧刀 Tian Ya Ming Yue Dao (Midnight, Bright Moon, Saber)
Biên thành đao thanh, Bian Cheng Dao Sheng (The Sound of the Sabre in a Border Town)
(1971) Hoan lạc anh hùng Huanle Yingxiong (A Merry Hero) (Tên xuất bản trước 1975: Giang hồ tứ quái)
(1971) Đại nhân vật, 大人物 Da Ren Wu (Great Hero) - 32 hồi (Tên xuất bản trước 1975: Cát bụi giang hồ)
(1973) Lưu tinh, hồ điệp, kiếm, 流星.蝴蝶.劍 Liu Xing. Hu Die. Jian (Meteor. Butterfly. Sword) - 29 hồi
(1973) Tiêu thập nhất lang, 蕭十一郎 Xiao Shi Yi Lang (The Eleventh Son)
(1976) Hoả Tính Tiêu thập nhất lang Huopin Xiao Shiyi Lang (The Sequel to The Deer-Carving Sabre aka Treasure Raiders)
(1975) Thất sát thủ, 七殺手 Qi Sha Shou (Seven Murderous Hands)
(1975) Kiếm, hoa, yên vũ, Giang Nam Jian, Hua, Yianyu, Jiang Nan (Sword, Flower, Misty Rain, South of the Yangzi River)
(1975) Tuyệt bất đê đầu 絕不低頭 Jue Bu Di Tou (The Proud)
(1975) Tam thiếu gia đích kiếm, 三少爺的劍 San Shao Ye De Jian (Third Young Master's Swords)
Thất chủng vũ khí hệ liệt, 七種武器系列 Qi Zhong Wu Qi Xi Lie' (The Seven Weapon Series) (1974) Trường sinh kiếm, 長生劍 Chang Sheng Jian (Immortal Sword) (1974) Bích ngọc đao, 碧玉刀 Bi Yu Dao (Jasper Saber) (1974) Khổng tước linh, 孔雀翎 Kong Que Ling (Peacock Tail Feathers) (1974) Đa tình hoàn, 多情環 Duo Qing Huan Passionate Ties (1975) Bá vương thương, 霸王槍 Ba Wang Qiang (The Overlord's Spear) (1976) Ly biệt câu 離別鉤 Li Bie Gou (Farewell, Enticement) (1978) Quyền đầu 拳頭 Quan Tou (Knucklehead) Lục Tiểu Phụng hệ liệt 陸小鳳系列 Liu Xiao Feng Xi Lie (The Adventures of Liu Xiao Feng) - viết trong thời gian 1976 - 1981
(1976) Lục Tiểu Phụng truyền kỳ 陸小鳳傳奇 Liu Xiao Feng Chuan Ji (The Legend of Liu Xiao Feng) (Tên xuất bản trước 1975: Lục Tiểu Phụng) (1976) Tú hoa đại đạo 繡花大盜 Xiu Hua Da Dao (Embroidery Bandit) (Tên xuất bản trước 1975: Phượng gáy trời nam) (1976) Quyết chiến tiền hậu 決戰前後 Jue Zhan Qian Hou (Before and After the Duel) (Tên xuất bản trước 1975: Tiền chiến, Hậu chiến) (1977) Ngân câu đổ phường 銀鉤賭坊 Yin Gou Du Fang (The Silver Hook Gambling House) (1977) U Linh sơn trang 幽靈山莊 You Ling Shan Zhuang (Stealth Mountain Village) (1978) Phụng vũ cửu thiên 鳳舞九天 Feng Wu Jiu Tian (The Phoenix Dances for Nine Days) (1981) Kiếm thần nhất tiếu 劍神一笑 Jian Shen Yi Xiao (Laughter of the Sword God) (1976) Bạch ngọc lão hổ 白玉老虎 Bai Yu Lao Hu (House of White Jade and Tigers) - 9 hồi
(1981) Bạch ngọc điêu long Bai Yu Diao Long (White-Jade Carved Dragon) (1976) Huyết anh vũ 血鸚鵡 Xie Ying Wu (Blood Parrot) (1976) Đại địa phi ưng 大地飛鷹 Da Di Fei Ying (Flight of the Great Eagle) (1977) Viên Nguyệt Loan Đao Yuan Yue Wan Dao (Full Moon Curved Sabre) (1977) Phi đao, hựu kiến phi đao 飛刀,又見飛刀 Fei Dao, You Jian Fei Dao (Flying Dagger, Again Meet Flying Dagger) - 12 hồi
(1977) Bích huyết tẩy ngân thương 碧血洗銀槍 Bi Xue Xi Yin Qiang (Silver Spear Cleansed in Blood), 1977 - 39 hồi
(1978) Anh hùng vô lệ 英雄無淚 Ying Xiong Wu Lei (Hero without Tears) (1978) Thất tinh long vương 七星龍王 Qi Xing Long Wang (Seven Star Dragon King) (1980) Phong linh trung đích đao thanh 風鈴中的刀聲 Feng Ling Zhong De Dao Sheng (Wind Chimes and the Sound of Saber) - 25 hồi
(1982) Nộ Kiếm Cuồng Hoa Nu Jian Kuang Hua (Furious Sword and Mad Flowers) (1982) Na nhất kiếm đích phong tình, 那一劍的風情 Na Yi Jian De Feng Qing (Swordplay) - 31 hồi
(1984) Đổ cục hệ liệt 賭局系列 Du Ju Xi Lie (Gambling House Series) - 34 hồi
Nhân vật
Thám hoa Lý Tầm Hoan
Tứ mi mao Lục Tiểu Phụng
Đạo soái Sở Lưu Hương
Tiêu Thập Nhất Lang
Tiểu Ngư nhi
Phim ảnh
Biên kịch
Độc Tí Song Hùng, Hồng Kông 1977 - Vương Vũ, Khương Đại Vệ Quyền Thương Quyết Đấu, Đài Loan 1977 - Vương Vũ Hồn Đao, Đài Loan 1977 - Mạnh Phi, Long Quân Nhi Hiệp Cốt Nhu Tình, Hồng Kông 1978 - Nhạc Hoa, Phan Nghinh Tử, Văn Giang Long Lãng Tử Nhất Chiêu, Hồng Kông 1978 - Trần Tinh, Chu Giang, Mao Anh Linh Lung Ngọc Thủ Kiếm Linh Lung, Đài Loan 1978 - Trương Linh, Điền Bằng Phỉ Thí Hồ Ly, Đài Loan 1979 - Hoàng Nhất Long, Lâm Y Oa Lãng Tử Khoái Đao, Đài Loan 1979 - Điền Bằng, Vương Quan Hùng Huyết Kỳ Biến, Đài Loan 1980 - Lưu Vĩnh, Tỉnh Lỵ, Từ Thiếu Cường Hàn Kiếm Cô Tinh, Hồng Kông 1980 - Hứa Thánh Vũ Thiên Nhai Quái Khách, Hồng Kông 1981 - La Liệt, Yến Nam Hi Tái Thế Anh Hùng, Đài Loan 1981 - Lưu Đức Khải, Lý Liệt Tình Nhân Khán Đao, Đài Loan 1984 - Trịnh Thiếu Thu, Lâm Thanh Hà, Nhĩ Đông Thăng Tiểu Lý Phi Đao hệ liệt
Truyền hình
Tiểu Lý Phi Đao, TVB 1978 - Chu Giang, Hoàng Nguyên Thân, Hoàng Hạnh Tú Tiểu Lý Phi Đao, Đài Loan 1982 - Vệ Tử Vân, Long Truyện Nhân Đa Tình Kiếm Khách, Trung Quốc 1990 - Vu Kiện, An Di. Tiểu Lý Phi Đao, TVB 1994 - Quan Lễ Kiệt, Phó Minh Hiến Tiểu Lý Phi Đao, Trung Quốc 1999 - Tiêu Ân Tuấn, Ngô Kinh Phi Đao Vấn Tình, Trung Quốc 2000 - Tiêu Ân Tuấn, Trương Diên Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Trung Quốc 2003 - Trương Trí Lâm, Lâm Tâm Như Tiểu Lý Phi Đao, Trung Quốc 2007 - Hoàng Tử Đằng, Trần Hi Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Trung Quốc 2015 - Lưu Khải Uy, Dương Dung, Nghiêm Khoan Điện ảnh
Đa Tình Kiếm Khách Vô Tình Kiếm, Shaw Brothers 1977 - Địch Long, Nhĩ Đông Thăng Ma Kiếm Hiệp Tình, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, Nhĩ Đông Thăng, Phó Thanh Phi Đao Hựu Kiến Phi Đao, Shaw Brothers 1982 - Khương Đại Vệ, Từ Thiếu Cường Tiểu Lý Phi Đao, 1984 - Lăng Vân, Lý Tu Hiền, Lục Tiểu Phân Tiểu Lý Phi Đao Ngoại Truyện, 2000 - Vương Kiệt, Lê Tư Sở Lưu Hương hệ liệt
Truyền hình
Hiệp Đạo Phong Lưu, ATV 1979 - Phan Chí Văn, La Lạc Lâm, Vạn Tử Lương, Văn Tuyết Nhi, Ngụy Thu Hoa Sở Lưu Hương, TVB 1979 - Trịnh Thiếu Thu, Triệu Nhã Chi, Uông Minh Thuyên Tân Nguyệt Truyền Kỳ, Đài Loan 1982 - Trương Xung, Hiệp Văn Sở Lưu Hương: Biến Bức Truyền Kỳ, TVB 1984 - Miêu Kiều Vỹ, Ông Mỹ Linh, Nhậm Đạt Hoa Sở Lưu Hương Tân Truyện, Đài Loan 1985 - Trịnh Thiếu Thu, Mễ Tuyết, Cao Hùng Hương Soái Truyền Kỳ, Đài Loan 1995 - Trịnh Thiếu Thu, Dương Lệ Thanh Tây Môn Vô Hận, Hợp Tác 2000 - Tiêu Anh Tuấn, Lưu Ngọc Đình, Lưu Đức Khải Tân Sở Lưu Hương, Hợp Tác (Đài Loan - TVB) 2001 - Nhậm Hiền Tề, Lê Tư, Lâm Tâm Như Sở Lưu Hương Truyền Kỳ, Trung Quốc (CCTV) 2007 - Chu Hiếu Thiên, Hồ Tĩnh Sở Lưu Hương Tân Truyện, Trung Quốc (ChinaTV) 2012 - Trương Trí Nghiêu, Phàn Thiếu Hoàng Điện ảnh
Sở Lưu Hương, Shaw Brothers 1977 - Địch Long, Lăng Vân, Nhạc Hoa Biên Bức Truyền Kỳ, Shaw Brothers 1978 - Địch Long, Lăng Vân, Nhĩ Đông Thăng Chiết Kiếm Truyền Kỳ, Đài Loan 1979 - Điền Bằng, Dương Quân Quân Sở Lưu Hương Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Lưu Đức Khải, Quy Á Lôi Sở Lưu Hương Và Hồ Thiết Hoa, Đài Loan 1980 - Lưu Đức Khải, Lý Kiếm Bình Tân Nguyệt Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Lăng Vân, Dương Quân Quân Hiệp Ảnh Lưu Hương, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Long Quân Nhi
Đào Hoa Truyền Kỳ, Đài Loan 1980 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Trung Nguyên Nhất Điểm Hồng, Đài Loan 1980 - Lăng Vân, Long Quân Nhi, Bối Đế Sở Lưu Hương: U Linh Sơn Trang, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, Cố Quán Trung Đạn Chỉ Thần Công, Đài Loan 1982 - Mạnh Phi, Triệu Nhã Chi, Khương Đại Vệ Phong Linh Trung Đích Đao Thanh, Đài Loan 1983 - Điền Bằng, Khương Đại Vệ, Triệu Nhã Chi Ngọc Kiếm Lưu Hương, Hồng Kông 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Dư An An Sở Lưu Hương Đại Kết Cục, Đài Loan 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Từ Thiếu Cường Ngọ Dạ Lan Hoa, Đài Loan 1983 - Trịnh Thiếu Thu, Lâm Thanh Hà Tiếu Hiệp Sở Lưu Hương, Hồng Kông 1993 - Quách Phú Thành, Khâu Phục Trinh, Trương Mẫn Tây Môn Vô Hận, Đài Loan 1993 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Đạo Soái Lưu Hương, Hồng Kông 2004 - Trương Đạt Minh, Mã Đức Chung Lục Tiểu Phụng hệ liệt
Truyền hình
Lục Tiểu Phụng, TVB 1976 - Lưu Tùng Nhân, Hoàng Nguyên Thân, Trịnh Thiếu Thu Lục Tiểu Phụng, Đài Loan 1984 - Vệ Tử Vân Lục Tiểu Phụng: Phụng Vũ Cửu Thiên, TVB 1986 - Vạn Tử Lương, Trần Tú Châu Lục Tiểu Phụng, Hợp Tác 2000 - Lâm Chí Dĩnh, Đào Hồng Lục Tiểu Phụng: Phụng Vũ Cửu Thiên, Hợp Tác 2001 - Tôn Diệu Uy, Lê Tư Lục Tiểu Phụng, Trung Quốc 2007 - Trương Trí Lâm, Trương Trí Nghêu Lục Tiểu Phụng Và Hoa Mãn Lâu, Trung Quốc 2014 - Lâm Phong, Trương Mông Điện ảnh
Tú Hoa Đại Đạo, Shaw Brothers 1978 - Lưu Vĩnh, Lăng Vân, Tỉnh Lỵ, Nhạc Hoa Quyết Chiến Tiền Hậu, Shaw Brothers 1981 - Lưu Vĩnh, Nhạc Hoa, Bạch Bưu Kiếm Thần Nhất Tiếu, Hồng Kông 1981 - Lưu Đức Khải Phụng Vũ Cửu Thiên, Đài Loan 1981 - Mạnh Phi, Dương Quân Quân Phụng Vũ Cửu Thiên, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Dương Thu Sanh Quyết Chiến Tử Cấm Thành, Hồng Kông 2000 - Lưu Đức Hoa, Trịnh Y Kiện, Trương Gia Huy Tuyệt Đại Song Kiêu
Truyền hình
Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan 1977 - Hạ Linh Linh, Giang Minh, Bối Đế Tuyệt Đại Song Kiêu, TVB 1979 - Hoàng Nguyên Thân, Thạch Tú, Hoàng Hạnh Tú, Mễ Tuyết Tân Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan1986 - Dương Phán Phán, Hoàng Hương Liên Tuyệt Đại Song Kiêu, TVB 1988 - Lương Triều Vỹ, Lê Mỹ Nhàn, Ngô Đại Dung Tuyệt Đại Song Kiêu, Đài Loan 1999 - Lâm Chí Dĩnh, Tô Hữu Bằng Tuyệt Thế Song Kiêu, Đài Loan 2002 - Lâm Chí Dinh, Đường Thần Vũ Tiểu Ngư Nhi Và Hoa Vô Khuyết, Trung Quốc 2004 - Tạ Đình Phong, Trương Vệ Kiện, Phạm Băng BăngTân Tuyệt Đại Song Kiêu, Trung Quốc 2020 - Hồ Nhất Thiên, Trần Triết Viễn Điện ảnh
Ngọc Diện Hiệp, Shaw Brothers 1971 - Hà Lị Lị, Cao Viễn, Phan Nghinh Tử Tuyệt Đại Song Kiêu, Shaw Brothers 1979 - Phó Thanh, Ngũ Vệ Quốc, Văn Tuyết Nhi Tuyệt Đại Song Kiêu, Hồng Kông 1992 - Lưu Đức Hoa, Lâm Thanh Hà, Trương Mẫn Tiêu Thập Nhất Lang
Truyền hình
Tiêu Thập Nhất Lang, TVB 1978 - Tạ Hiền, Lý Tư Kỳ, Hoàng Thục Nghi Tiêu Thập Nhất Lang, TVB 2001 - Huỳnh Nhật Hoa, Hướng Hải Lam, Thiệu Mỹ Kỳ Tiêu Thập Nhất Lang, Hợp Tác 2002 - Ngô Kỳ Long, Chu Ân, Vu Ba Tiêu Thập Nhất Lang, Trung Quốc 2014 (Nghiêm Khoan, Can Đình Đình, Lý Y Hiểu, Chu Nhất Long) Điện ảnh
Tiêu Thập Nhất Lang, Shaw Brothers 1971 - Vi Hoằng, Kim Phi Tiêu Thập Nhất Lang, Shaw Brothers 1978 - Địch Long, Tỉnh Lỵ, Lưu Vĩnh Đại Kỳ Anh Hùng Truyện (Thiết Huyết Đại Kỳ Môn)
Truyền hình
Thiết Huyết Đại Kỳ Môn, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Dương Lệ Tinh, Quan Thông Thiết Huyết Đại Kỳ Môn, TVB 1989 - Thạch Tú, Lưu Thanh Vân Đại Kỳ Anh Hùng Truyện, Trung Quốc 2007 - Đỗ Thuần, Thôi Âm Điện ảnh
Đại Kỳ Anh Hùng Truyện, Shaw Brothers 1982 - Địch Long, La Mãng, Liệu Lệ Linh Võ Lâm Ngoại Sử
Truyền hình
Võ Lâm Ngoại Sử, ATV 1977 - Vệ Tử Vân, Mễ Tuyết, Lưu Giang, Văn Tuyết Nhi Minh Nhật Thiên Nhai, Đài Loan 1983 - Giang Bân, Sử Lan Hoa, Tần Vỹ Võ Lâm Ngoại Sử, Đài Loan 1986 - Mạnh Phi, Trần Ngọc Mai, Lý Đại Lâm Võ Lâm Ngoại Sử, Trung Quốc 2001 - Huỳnh Hải Băng, Vương Diễm, Trương Diễm Diễm Điện ảnh
Khổng Tước Vương Triều, SB 1979 - Khương Đại Vệ, Tỉnh Lỵ, Dư An An Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục (Ân Thù Kiếm Lục)
Truyền hình
Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, ATV 1979 - Trương Quốc Vinh, Văn Tuyết Nhi Kiếm Khiếu Giang Hồ, ATV 1996 - Lưu Tùng Nhân, Trang Tịnh Nhi, Từ Thiếu Cường Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, Hợp Tác 2008 - Kiều Chấn Vũ, Tạ Đình Phong (người áo trắng), Chung Hân Đồng (Châu Nhi) Điện ảnh
Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục, Shaw Brothers 1982 - Lưu Vĩnh, Huỳnh Hạnh Tú, Nhạc Hoa, La Liệt Tình kiếm, Trung Quốc 2015 - Kiều Chấn Vũ, Tạ Đình Phong, Chung Hân Đồng Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm
Truyền hình
Liên Hoa Tranh Bá, 1993 - Lý Nam Tinh Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Trung Quốc 2003 - Trịnh Thiếu Thu, Đinh Tử Tuấn Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Trung Quốc 2010 - Trần Sở Hà, Vương Diễm, Trần Ý Hàm Điện ảnh
Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Shaw Brothers 1976 - Nhạc Hoa, Cốc Phong, Tỉnh Lỵ Tân Lưu Tinh Hồ Điệp Kiếm, Hồng Kông 1993 - Lương Triều Vỹ, Dương Tử Quỳnh, Chung Tử Đan Tam Thiếu Gia Đích Kiếm
Truyền hình
Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, ATV 1977 - Vạn Tử Lương, Từ Thiếu Cường Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, Trung Quốc 2000 - Hà Trung Hoa, Du Phi Hồng Điện ảnh
Tam Thiếu Gia Đích Kiếm, Shaw Brothers 1977 - Nhĩ Đông Thăng, Lăng Vân, Dư An An Thần kiếm (2016): đạo diễn Nhĩ Đông Thăng, sản xuất Từ Khắc, diễn viên Lâm Canh Tân, Giang Nhất Yến, Hà Nhuận Đông, Tưởng Mộng Tiệp
Danh Kiếm Phong Lưu
Danh Kiếm Phong Lưu, TVB 1979 - Hạ Vũ, Phan Nghinh Tử, Hoàng Mẫn Nghi Danh Kiếm Phong Lưu, Đài Loan 1981 - Vương Quan Hùng, Vu San Danh Kiếm Phong Lưu, Đài Loan 1985 - Dương Hoài Dân, Hiệp Phi, Trần Lệ Lệ Đại Nhân vật
Hồng Phấn Động Giang Hồ, Shaw Brothers 1981 - Mễ Tuyết, Trần Quan Thái Phàm Nhân Dương Đại Đầu, Hợp Tác 2003 - Ngô Kinh, Quý CầnĐại Nhân vật, Trung Quốc 2008 - Tạ Đình Phong, Nghiêm Ngật Khoan Anh Hùng Vô Lệ
Anh Hùng Vô Lệ, TVB 1979 - Hoàng Thụ Đường, Tạ Hiền Anh Hùng Vô Lệ, Shaw Brothers 1980 - Phó Thanh, Nhĩ Đông Thăng, Triệu Nhã Chi Anh Hùng Vô Lệ, TVB 1984 - Miêu Kiều Vỹ, Lưu Gia Linh Anh Hùng Vô Lệ, Trung Quốc 1995 - Tu Khánh, Lý Diễm Thu Lệ Ngân Kiếm, Hợp Tác 2006 - Tiêu Ân Tuấn, Thái Thiếu Phân Biên Thành Lãng Tử - Cửu Nguyệt Ưng Phi - Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao
Truyền hình
Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, ATV 1985 - Phan Chí Văn, La Lạc Lâm Cửu Nguyệt Ưng Phi, ATV 1986 - Lưu Tùng Nhân, Trần Phục Sanh, Ngụy Thu Hoa Biên Thành Lãng Tử, TVB 1988 - Ngô Đại Dung, Tạ Ninh, Trương Thiệu Huy Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, Trung Quốc 2012 - Chung Hán Lương, Trần Sở Hà, Trương Mông, Khương Đại Vệ Tân Biên Thành Lãng Tử, Trung Quốc 2015 - Chu Nhất Long, Trương Hinh Dư Điện ảnh
Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, Shaw Brothers 1976 - Địch Long, La Liệt, Tỉnh Lỵ Nguyệt Dạ Trảm, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Lăng Vân, Phan Nghinh Tử, Vương Quan Hùng Biên Thành Lãng Tử, Hồng Kông 1993 - Địch Long, Trần Huân Kỳ, Viên Vịnh Nghi, Trần Ngọc Liên, Viên Khiết Oánh, Trương Trí Lâm Viên Nguyệt Loan Đao
Viên Nguyệt Loan Đao, Shaw Brothers 1979 - Nhĩ Đông Thăng, Uông Minh Thuyên, Lâm Kiến Minh Đao Thần, TVB 1979 - Lưu Tùng Nhân, Triệu Nhã Chi, Hàn Mã Lợi Viên Nguyệt Loan Đao, TVB 1997 - Cổ Thiên Lạc, Ôn Bích Hà, Lương Tiểu Băng Tân Viên Nguyệt Loan Đao, Trung Quốc 2012 - Trương Trí Nghiêu, Dương Tuyết, Đường Quốc Cường Đại Địa Phi Ưng
Đại Địa Phi Ưng, Điện ảnh Đài Loan 1978, Vương Quan Hùng, Lăng Vân Đại Địa Phi Ưng, TVB 1992 - Ngô Trấn Vũ, Lê Mỹ Nhàn, Lưu Gia Huy Tác phẩm Khác
Tuyệt Bất Đê Đầu, Shaw Brothers 1977 - Tông Hoa, Lưu Vĩnh, Miêu Khả Tú Kiếm Hoa Yên Vũ Giang Nam, Điện ảnh Hồng Kông 1977 - Thành Long, Từ Phong, Đông Lâm Phiêu Hương Kiếm Vũ, Điện ảnh Đài Loan 1978 - Điền Bằng, Bạch Ưng Ly Biệt Câu, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Vệ Tử Vân, Dư An An Kiếm Khí Tiêu Tiêu Khổng Tước Linh, Điện ảnh Đài Loan 1980 - Điền Hạc, Tôn Gia Lâm Huyết Anh Vũ, Shaw Brothers 1981 - Bạch Bưu, Lương Trân Ni, Lưu Vĩnh Du Hiệp Trương Tam Phong (Đại Nhân vật Cải Biên), ATV 1981 - Vạn Tử Lương, Trần Tú Văn, Trương Quốc Vinh Bích Huyết Tẩy Ngân Thương, TVB 1984 - Đào Đại Vũ, Trần Phục Sanh Đại Nội Thần Bộ (Thất Sát Thủ Cải Biên), Điện ảnh Hồng Kông 1987 - Cố Quán Trung, Liên Vỹ Kiện Thất Tinh Bích Ngọc Đao, Điện ảnh Trung Quốc 1991 - Triệu Dương, Lý Điện Phương Sách Mã Khiếu Tây Phong, Trung Quốc 2001 - Ngô Kinh, Du Phi Hồng Thất Chủng Binh Khí: Khổng Tước Sơn Trang, Trung Quốc 2010 - Thích Tiểu Long, Mục Đình ĐìnhNhững số liệu thống kê
Nhân vật có biệt hiệu dài nhất: Kim Cung Ngân Đạn Trảm Hổ Đao Truy Vân Tróc Nguyệt Thủy Thượng Phiêu Lệ Thanh Phong
Theo bài của N. Tuyết Lan "Cổ Long-cuộc đời và tác phẩm", mục những cái nhất trong tác phẩm Cổ Long có liệt kê: |
Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) là một bộ ngữ lục, 1 quyển, do Lục tổ Huệ Năng thuyết, nên còn gọi là Lục tổ đàn kinh (六祖壇經). Lúc Lục tổ Huệ Năng ở chùa Bảo Lâm, Tào Khê có Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Tổ vào chùa Đại Phạm để diễn giảng pháp Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật. Bài giảng của Huệ Năng được đệ tử là Pháp Hải ghi lại thành sách, về sau gọi là Đàn kinh. Trải qua nhiều lần sửa chữa thêm thắt, xuất hiện hơn 10 bản khác nhau, nhưng đại khái có thể phân làm bốn bản quan trọng hơn cả:
Bản Đôn Hoàng (敦煌本), gọi đủ là Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật kinh Lục tổ Huệ Năng Đại sư ư Thiều Châu Đại Phạm tự thí pháp đàn kinh (南宗頓教最上大乘摩呵般若波羅蜜經六祖惠能大師于韶州大梵寺施法壇經). Bản này gồm có 57 tiết, chẳng chia phẩm mục, chữ nghĩa chất phác, được xem là bản có sớm nhất. Bản này hiện được xếp vào Đại Chính tạng tập 48, số hiệu 2007, trang 337.
Bản của Huệ Hân (惠昕), tên Lục tổ đàn kinh (六祖壇經), chia làm 2 quyển thượng và hạ, gồm 11 môn, khoảng hơn 14.000 chữ, ít hơn bản Đôn Hoàng 1.000 chữ. Bài tựa của Huệ Hân viết: Bản xưa văn rườm rà được đệ tử xem qua, trước vui sau chán. Có thể thấy rằng bản này đã được lược bớt chút ít.
Bản của Khế Tung, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh Tào Khê nguyên bản (六祖大師法寶壇經曹溪原本), gọi tắt là Tào Khê nguyên bản, gồm 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Khế Tung biên sửa lại vào khoảng niên hiệu Chí Hoà (1054-1056) đời nhà Tống.
Bản của Tông Bảo, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh (六祖大師法寶壇), 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Tông Bảo (宗寶) biên tập lại vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời nhà Nguyên, đây là bản thường thấy lưu hành, được xếp vào Đại Chính tạng tập 48, số hiệu 2008, trang 345.
Các bản ở trên không ghi chép trung thực về lời giảng ban đầu của Tổ Huệ Năng mà có sự trộn lẫn, sửa đổi về cuộc đời của Tổ cho đến những lý giải về Thiền tông. Nội dung chủ yếu của Đàn kinh bản Đôn Hoàng đại khái chia làm 3 phần:
Thuật lại quá trình Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trao truyền y pháp cho Huệ Năng.
Huệ Năng giảng pháp cho đệ tử và các lời ứng đối của Ngài với người hỏi pháp.
Những lời dặn dò đệ tử trước khi Tổ Huệ Năng thị tịch.
Kinh này nói về pháp Ma-ha-bát-nhã và phát triển thành Đốn giáo "Nhất siêu trực nhập". Đem lý luận "Vô niệm", "Vô tướng" và "Vô trụ" trong kinh Kim cương kết hợp lại, rồi đề xướng "Vô niệm là tông", "Vô tướng là thể" và "Vô trụ là bản" làm phương pháp thực tu của Thiền tông. Lại có cách giải thích mới về thiền định: "Ngoài lìa các tướng là thiền, trong không loạn là định", tức là chỉ cần đạt đến vô niệm thì chính đó là thiền định. Tóm lại Thiền tông sau Lục tổ Huệ Năng phát triển rất nhiều tư tưởng đặc sắc, như Tự tính cụ túc, kiến tính thành Phật, tự tâm đốn ngộ, trực chỉ nhân tâm, và chúng đều được phản ánh trong Đàn kinh. Có thể nói Đàn kinh đặt nền tảng cho sự phát triển của Thiền tông phương Nam. |
Guild Wars là một MMORPG thay đổi phá cách được phát hành bởi hãng NCSoft và phát triển bởi ArenaNet từ ngày 26 tháng 4 năm 2005. Guild Wars nhận được nhiều sự khen ngợi vì tính phá cách đó. Thoạt tiên là việc đóng phí, hầu như các game hay trên thế giới hiện nay đều đóng 15 đô la Mỹ một tháng. Tuy nhiên, để chơi Guild Wars người chơi chỉ cần mua đĩa bản quyền (50–60 đô la một đĩa) và không cần phải đóng tiền giờ chơi hàng tháng nữa.
Sau thành công khá vang dội của Lineage 2. Mặc dù LA nhận được không ít lời phàn nàn từ người chơi ở khu vực châu Âu và Mỹ nhưng bù lại NCSoft đã thắng lớn ở châu Á. Trên tinh thần đó, NCSoft quyết định tung ra thêm Guild Wars nhằm chứng tỏ vị trí đứng của mình trong ngành công nghiệp giải trí khổng lồ.
Khi tung ra Guild Wars, NC Soft không ngờ rằng sản phẩm mới của mình lại tiến xa vượt bậc so với sản phẩm trước đó. Thực vậy, số lượng client tung ra được tiêu thụ với số lượng khổng lồ khiến cho Guild Wars lập tức nằm trong "Bảng đánh giá game có thứ hạng cao nhất" do nhiều người chơi game bình chọn và tuyệt nhiên qua mặt được đại gia World of Warcraft. |
Trạm vũ trụ Quốc tế hay Trạm Không gian Quốc tế (, viết tắt: ISS, , МКС, , SSI) là một tổ hợp công trình quốc tế nhằm nghiên cứu không gian trên quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất, nhờ sự hợp tác của năm cơ quan không gian: NASA (Hoa Kỳ), RKA (Nga), JAXA (Nhật Bản), CSA (Canada) và 10 trong 17 nước thành viên của ESA (châu Âu).
Trạm vũ trụ Quốc tế ISS được xây dựng dựa trên sự hợp tác giữa nhiều quốc gia, được vận hành bởi sự đóng góp hàng năm của các nước tham gia dự án. Theo Russia Beyond, 15 quốc gia đang tham gia vào dự án Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS). Hơn 20 năm hoạt động của nó tiêu tốn đến 160 tỷ USD. NASA là đại diện quản lý các hoạt động trên trạm. Trong 160 tỷ USD được sử dụng cho các sứ mệnh trên ISS thì Mỹ chi tới 100 tỷ USD, theo đó mỗi năm NASA phải bỏ ra từ 3-4 tỷ USD để vận hành trạm. Con số này của châu Âu chỉ khoảng 1 tỷ USD/năm và Nga là 500 triệu USD/năm. Trạm vũ trụ Quốc tế ISS tuy được xây dựng dựa trên sự hợp tác giữa nhiều quốc gia. Cơ chế ra quyết định cho các hoạt động trên ISS được quy định trong các thỏa thuận gọi là 'Biên bản ghi nhớ' (MOU). MOU chỉ định NASA là đại diện quản lý các hoạt động trên trạm, do vậy phòng điều hành bay của cả trạm được đặt tại trung tâm vũ trụ Lyndon B. Johnson ở Texas (Mỹ).
Trạm vũ trụ Quốc tế được là kết quả của sự hợp nhất hai dự án lớn, nhưng thiếu kinh phí để có thể thực hiện riêng biệt là Trạm vũ trụ Tự do (Freedom) của Hoa Kỳ và Trạm vũ trụ Hòa Bình 2 (Mir-2) của Nga. Ngoài các mô-đun của Hoa Kỳ và của Nga đã được lên kế hoạch, các mô-đun Columbus của Châu Âu (kế hoạch) và mô-đun thí nghiệm của Nhật Bản cũng sẽ được ghép vào trạm. Cơ quan không gian Brasil (AEB, Brasil) tham gia dự án này thông qua một hợp đồng riêng với NASA. Cơ quan Không gian Ý cũng có vài hợp đồng tương tự cho nhiều hoạt động, nằm ngoài khuôn khổ các nhiệm vụ của ESA trong dự án ISS (Ý cũng là một thành viên trong ESA). Có thông tin cho rằng, Trung Quốc cũng thể hiện sự quan tâm của họ đối với dự án, đặc biệt nếu họ được phép hợp tác với RKA, tuy nhiên Trung Quốc vẫn chưa được mời tham gia.
Do quỹ đạo của Trạm vũ trụ Quốc tế trùng với quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất (còn gọi là Quỹ đạo LEO - Low Earth Orbit), độ cao cách mặt đất chỉ trong khoảng từ 400 km, trạm có các tấm pin mặt trời rộng, phản chiếu tốt ánh sáng Mặt Trời nên có thể quan sát ISS từ mặt đất. ISS di chuyển trong không gian với vận tốc trung bình là 27.743,8 km/giờ, ứng với 15,79 lần bay quanh Trái Đất mỗi ngày.
Theo kế hoạch, Trạm vũ trụ Quốc tế sẽ hoàn thành vào năm 2011 và sẽ hoạt động đến năm 2016. Từ năm 2007, ISS đã trở thành vệ tinh nhân tạo lớn nhất trong quỹ đạo Trái Đất, lớn hơn bất kỳ trạm vũ trụ nào khác. Trạm vũ trụ Quốc tế là trạm vũ trụ duy nhất có người thường trực, thực hiện các công việc nghiên cứu. Phi hành đoàn không gian Expedition 1 là nhóm phi hành gia đầu tiên tới Trạm vũ trụ Quốc tế vào ngà TVBy 2 tháng 11 năm 2000, đây là bước đi đầu tiên trong kế hoạch đưa người làm việc lâu dài trong không gian của ISS. Hiện tại ở trên trạm là phi hành đoàn Expedition 66. Expedition 66 tới trạm vào tháng 10 năm 2021 và dự kiến trở về Trái Đất vào tháng 3 năm 2022. Trạm vũ trụ được cung cấp các nhu yếu phẩm, thiết bị cần thiết từ tàu vũ trụ Soyuz, Tàu vận tải Tiến bộ (Progress) của Nga và các phi thuyền con thoi của Mỹ (đã ngừng hoạt động vào năm 2011). Hiện nay trạm có thể chứa được 3 người. Những người đến trạm đầu tiên đều là các nhà du hành thuộc chương trình không gian của Nga và Hoa Kỳ. Phi hành gia người Đức, Thomas Reiter, đã đến trạm trong nhóm các nhà du hành thuộc Expedition 13 vào tháng 7 năm 2006, trở thành người đầu tiên từ cơ quan không gian khác đến trạm. Thành phần của phi hành đoàn Expedition 16 đã đại diện cho cả năm cơ quan không gian, để củng cố quan hệ cộng tác của dự án ISS. Đến nay, ISS đã đón các phi hành gia từ 14 nước khác nhau, trong đó có năm khách du lịch vũ trụ.
Đầu tiên, trạm được đề nghị đặt tên là "Аlpha" nhưng bị Nga bác bỏ vì ký tự Hi Lạp α thường được dành cho những cái đầu tiên, trong khi trạm vũ trụ quốc tế đầu tiên lại là Hòa bình của Nga. Khi Roskosmos (Роскосмос, Cơ quan Vũ trụ Liên bang, Nga) đề nghị tên "Аtlant" thì lại bị Hoa Kỳ bác bỏ vì sự nhầm lẫn với Tàu con thoi Аtlantis.
Lịch sử
Năm 1984, tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan thông báo việc bắt đầu xây dựng trạm quỹ đạo của Hoa Kỳ. NASA dự định sẽ đưa các mô-đun của trạm quỹ đạo này với tên Trạm vũ trụ Tự do, được coi là bản sao của trạm vũ trụ Salyut và Mir của Liên Xô lên quỹ đạo bằng tàu con thoi. Tuy nhiên, dự án bị hủy bỏ sau sự kiện Liên Xô sụp đổ, đi liền với việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và cả cuộc chạy đua vào không gian. Các quan chức trong ngành không gian của Hoa Kỳ nhanh chóng tiến hành đàm phán với các đối tác quốc tế, bao gồm Châu Âu, Nga, Nhật Bản và Canada, nhằm xây dựng một trạm vũ trụ quốc tế vào đầu thập niên 1990. Dự án này được công bố lần đầu tiên vào năm 1993 và được gọi là Trạm vũ trụ Alpha. Dự án lập kế hoạch liên kết tất cả các dự kiến xây dựng trạm vũ trụ của các cơ quan không gian: Trạm vũ trụ Tự do của NASA, Mir-2 (trạm kế thừa của Trạm vũ trụ Hòa Bình, với trọng tâm là mô-đun Zvezda (Ngôi sao), hiện nay là một trong các mô-đun của ISS) của Nga, và Columbus của ESA. Hiện nay, có kế hoạch phát triển Columbus thành một phóng thí nghiệm không gian độc lập.
Bộ phận đầu tiên, Khối chức năng hàng hóa Zarya (Bình minh), được phóng lên quỹ đạo vào tháng 11 năm 1998 bằng tên lửa Proton-M của Nga. Hai bộ phận tiếp theo (Mô-đun Unity và Mô-đun dịch vụ Zvezda) cũng được phóng lên quỹ đạo, trước chuyến bay của phi hành đoàn đầu tiên Expedition 1. Expedition 1 gồm một phi hành gia người Mỹ, William Shepherd và hai phi hành gia người Nga là Yuri Pavlovich Gidzenko và Sergei Konstantinovich Krikalyov đã kết nối thành công với ISS vào ngày 2 tháng 11 năm 2000.
Tóm tắt quá trình hình thành ISS:
17 tháng 6 năm 1992 - Nga và Hoa Kỳ ký kết thỏa thuận về hợp tác trong nghiên cứu vũ trụ. Theo đó Cơ quan Vũ trụ Nga (Российское космическое агентство, viết tắt là РКА hay RKA trong ký tự Latin) và NASA chuẩn bị chương trình hợp tác "Hòa bình-Tàu con thoi". Từ đây, ý tưởng hợp nhất các chương trình quốc gia của việc xây dựng các trạm quỹ đạo đã nảy sinh.
Tháng 3 năm 1993 - Tổng giám đốc RKA Yuri Коptev và Tổng công trình sư Tổ hợp Khoa học Sản xuất Năng lượng (NPO Energia, НПО Энергия) Yuri Semenov đề nghị với Giám đốc NASA Daniel Goldin xây dựng Trạm vũ trụ Quốc tế.
1 tháng 11 năm 1993 - RKA và NASA ký "Kế hoạch chi tiết các công việc cho Trạm vũ trụ Quốc tế."
Tháng 11 năm 1994 - tại Moskva, các buổi góp ý kiến đầu tiên của các cơ quan vũ trụ của Nga và Hoa Kỳ được tổ chức. Hợp đồng với các công ty tham gia dự án, Boeing, Mc Donnell-Douglas, General Electric, Rockwell và Công ty tên lửa vũ trụ Năng lượng mang tên Коrоlyov (RKK Energia, РКК Энергия им. С. П. Королева), được ký kết.
Tháng 3 năm 1995 - tại Trung tâm Không gian Lyndon B. Johnson ở Houston, mô hình phác thảo của trạm được phê chuẩn.
1996 - cấu hình của trạm được phê chuẩn. Nó gồm 2 phần: Nga (phương án hiện đại hóa của "Mir-2") và Hoa Kỳ (với sự tham gia của Canada, Nhật, Ý, Cơ quan Vũ trụ châu Âu và Brasil).
20 tháng 11 năm 1998 - Nga phóng thành phần đầu tiên của trạm: khối chức năng hàng hóa Zarya (Заря).
7 tháng 12 năm 1998 - Tàu con thoi Endeavour đưa lên và gắn vào trạm mô-đun NODE-1 (Unity) của Hoa Kỳ.
26 tháng 7 năm 2000 - mô-đun dịch vụ Zvezda (Звезда) được gắn vào khối chức năng hàng hóa Zarya.
2 tháng 11 năm 2000 - phi hành gia đầu tiên lên trạm vũ trụ ISS.
2 tháng 11 năm 2000 - tàu vận tải "Soyuz ТМ-31" đưa lên trạm phi hành đoàn đầu tiên.
18 tháng 4 năm 2005 - Giám đốc NASA Michael D. Griffin trong khi điều trần trước Ủy ban Thượng viện về Không gian và Khoa học, đã tuyên bố về sự cần thiết của việc cắt giảm tạm thời các nghiên cứu khoa học ở phần trạm của Hoa Kỳ. Điều này là cần thiết, nhằm giải phóng các nguồn lực để tập trung vào xây dựng CEV - phương tiện thám hiểm có người lái (bảo đảm việc xây dựng đến năm 2010, và không muộn hơn 2014). CEV là cần thiết để đảm bảo việc đi lên trạm của Mỹ không bị phụ thuộc (vốn bị tạm ngưng sau tai nạn tàu con thoi Columbia năm 2003). Như vậy đến năm 2010 có kế hoạch kết thúc việc sử dụng hạm đội "Tàu con thoi không gian."
19 tháng 6 năm 2008 - Trạm vũ trụ Quốc tế được đưa lên cao thêm 7 km để bảo đảm an toàn cho trạm.
Lắp ghép
Zarya (Bình minh), mô-đun đầu tiên của ISS, được phóng lên bởi một tên lửa Proton vào tháng 11 năm 1998. Sau đó hai tuần, sứ mệnh STS-88 được tiến hành mang theo Unity, một trong ba mô-đun nút, và kết nối nó với Zarya. Hai mô-đun hạt nhân tối thiểu này vận hành tự động trong một năm rưỡi, cho đến tháng 6 năm 2000, khi mô-đun Zvezda (Ngôi sao) của Nga được kết nối thêm vào, cho phép một phi hành đoàn tối thiểu ba người lưu lại lâu dài trên ISS. Từ năm 2000 đến năm 2006, mô-đun điều áp chính duy nhất được thêm vào trạm là Mô-đun phòng thí nghiệm Destiny, do STS-98 mang lên vào năm 2001.
Khi việc lắp ráp hoàn thành, ISS sẽ có thể tích được điều áp khoảng chừng 1.000 m³, với trọng lượng khoảng 400.000 kg (400 tấn), có thể tạo ra xấp xỉ 100 kilowatt năng lượng, chiều dài toàn bộ giàn đỡ là 108,4 m, chiều dài tất cả mô-đun là 74 m, và chứa được 6 phi hành gia. Việc xây dựng trạm đầy đủ sẽ cần đến hơn 40 chuyến bay lắp ráp. Trong số những chuyến bay này, hiện có 33 chuyến dự định dùng tàu con thoi để vận chuyển thiết bị, với 28 chuyến bay đã thực hiện và 5 chuyến trong khoảng từ nay tới 2010. Các chuyến bay lắp ráp khác gồm có những mô-đun được phóng lên bởi tên lửa Proton của Nga hoặc bằng tên lửa Soyuz (Liên hiệp) như trường hợp của bộ phận Nút thông khí Pirs.
Ngoài những chuyến bay lắp ráp và hậu cần, khoảng 30 chuyến bay sẽ được thực hiện bằng Tàu vận tải Tiến bộ để cung cấp đầy đủ nhu yếu phẩm cho đến năm 2010. Thiết bị thí nghiệm, nhiên liệu và những thứ tiêu dùng khác sẽ được gửi đến trên mọi phương tiện ghé thăm trạm ISS gồm: tàu con thoi, tàu Tiến bộ, ATV của châu Âu (đã có chuyến bay đầu tiên vào tháng 3 năm 2008), và HTV của Nhật Bản (dự kiến vào cuối năm 2009).
Trạm ISS khi được hoàn thành sẽ gồm các mô-đun điều áp gắn kết với nhau nối với một Giàn cấu trúc hợp nhất, trên đó gắn bốn cặp mô-đun tế bào quang điện PV - photovoltaic lớn (các tấm pin mặt trời). Mô-đun điều áp và giàn đỡ sẽ được đặt vuông góc với nhau: giàn đỡ mở rộng từ mạn phải đến mạn trái và khu vực có người ở trải dài tiếp tục ở phần trục hai đầu của trạm. Dù trong thời gian xây dựng góc nghiêng của trạm có thể thay đổi, nhưng khi tất cả bốn cặp mô-đun tế bào quang điện được đặt đúng vị trí ở hai đầu của trạm, nó sẽ nằm đúng theo hướng di chuyển.
Tổng cộng có 10 mô-đun điều áp (Zarya, Zvezda, mô-đun phòng thí nghiệm Destiny, mô-đun Unity (Node 1), mô-đun Harmony (Node 2), Node 3, mô-đun phòng thí nghiệm Columbus, mô-đun thí nghiệm Nhật Bản Kibo, PMM và RM), đã được lên danh sách để thực hiện lắp ráp. Đây là những thành phần của ISS theo dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2010. Một số những bộ phận điều áp nhỏ sẽ được thêm vào như tàu vũ trụ Soyuz (2 tàu như tàu cứu hộ - thay đổi luân phiên trong 6 tháng), tàu vận tải Progress (2 hoặc hơn), mô-đun thông khí Quest và Pirs, cũng như Mô-đun hậu cần đa mục đích định kỳ, Tàu vận tải không người lái ATV và Tàu vận tải H-II).
Thảm họa Columbia và những thay đổi trong kế hoạch xây dựng
Thảm họa và hậu quả
Thảm họa Phi thuyền con thoi Columbia 1 tháng 2 năm 2003, tiếp đó là hai năm rưỡi đình chỉ Chương trình tàu con thoi của Hoa Kỳ, cùng với hàng loạt vấn đề trong việc tiếp tục cho các tàu con thoi hoạt động trở lại vào năm 2005, đem đến một tương lai không chắc chắn cho ISS đến tận năm 2006.
Chương trình tàu con thoi của NASA tiếp tục vào ngày 26 tháng 7 năm 2005, với sứ mệnh Bay trở lại STS-114 của tàu Discovery. Nhiệm vụ của tàu Discovery là đến ISS để kiểm tra những biện pháp an toàn mới kể từ thảm họa Columbia và cung cấp đồ tiếp tế cho trạm. Dù nhiệm vụ đã thành công an toàn, nhưng không phải là không có sự rủi ro; người ta vẫn lo ngại về những tấm cách nhiệt ốp ở thùng nhiên liệu ngoài có thể bị rơi ra bất kỳ lúc nào và gây ra thảm họa, khiến cho lãnh đạo NASA phải tuyên bố tạm ngưng các chuyến bay cho đến khi vấn đề này được giải quyết.
Trong thời gian giữa thảm họa Columbia và bắt đầu lại việc phóng tàu con thoi, những sự thay đổi phi hành đoàn trên ISS đều do tàu vũ trụ Soyuz của Nga chuyên chở. Bắt đầu từ Expedition 7, chỉ có hai phi hành gia được phóng lên ISS, trong khi trước đây có đến ba phi hành gia. Vì ISS không được tàu con thoi cung cấp nhu yếu phẩm trong một thời gian dài, một số lớn những vật phẩm trong kế hoạch đã không được sử dụng thích hợp, khiến cho hoạt động của trạm bị cản trở tạm thời vào năm 2004. Tuy nhiên các tàu vận tải Tiến bộ và chuyến bay con thoi STS-114 đã giải quyết vấn đề này.
Những thay đổi trong kế hoạch xây dựng
Việc xây dựng ISS đã kéo dài hơn nhiều so với kế hoạch dự kiến hoàn thành vào năm 2004 hoặc 2005. Nguyên nhân của sự chậm trễ này là do các quan chức NASA lưỡng lự trong việc ra quyết định về các chuyến bay của tàu con thoi sau khi xảy ra Thảm họa Columbia vào đầu năm 2003. Một lý do khác cũng phải kể đến là việc cơ quan vũ trụ của Nga cũng bị cắt giảm ngân sách hoạt động cho chương trình ISS. Trong thời gian hoãn phóng tàu con thoi, việc xây dựng ISS được tạm dừng và các thí nghiệm khoa học được tiến hành trên tàu cũng bị hạn chế vì phi hành đoàn lúc bấy giờ chỉ còn lại 2 người.
Kể từ đầu năm 2006, có nhiều thay đổi so với kế hoạch dự kiến ban đầu, thậm chí cả kế hoạch trước thảm họa Columbia. Những mô-đun và các kết cấu khác bị hủy bỏ hoặc thay thế, số lượng các chuyến bay của tàu con thoi đến ISS cũng giảm bớt về số lượng so với kế hoạch trước đây. Theo thông báo mới nhất về tiến độ xây dựng trạm ISS, 80% kết cấu phần cứng của trạm đã được hoàn thành và đang hoạt động trên quỹ đạo, dự kiến trạm sẽ được hoàn thành vào năm 2010. Số thành viên phi hành đoàn sẽ trên trạm sẽ tăng từ 3 lên 6 người vào khoảng tháng 5 năm 2009, sau khi tàu con thoi thực hiện 12 chuyến bay xây dựng tiếp theo sứ mệnh Bay trở lại thứ hai mang tên STS-121. Các sứ mệnh STS-126 và STS-119 đã giúp chuẩn bị cho trạm sẵn sàng cho sự tăng số thành viên này. Để đáp ứng được số lượng phi hành gia đông như thế, trạm cần phải đáp ứng được các yêu cầu bao gồm việc tăng cường hỗ trợ môi trường trên ISS, một tàu Soyuz cố định thứ hai trên trạm với chức năng như một "tàu cứu hộ" thứ hai, các chuyến bay thường xuyên hơn của tàu Tiến bộ để cung cấp gấp đôi lượng hàng hóa cần dùng trên trạm, tăng thêm nhiên liệu để nâng cao sự vận động của trạm trên quỹ đạo, và cung cấp đủ các thiết bị thí nghiệm.
Các thành phần mô-đun lắp ráp hiện này
Trạm ISS hiện nay gồm có 7 mô-đun điều áp chính gồm 2 mô-đun của Nga mang tên Zarya (Bình minh) và Zvezda (Ngôi sao), 3 mô-đun của Hoa Kỳ mang tên Destiny (Vận mệnh), Unity (Thống nhất) và Harmony (Hòa hợp), module Columbus của châu Âu và KIBO (Hi vọng) của Nhật Bản. Các bộ phận điều áp khác trong cấu trúc trạm hiện nay là Quest Joint Airlock, Gian nối Pirs và module hậu cần điều áp của KIBO. Tàu vũ trụ kết nối với ISS cũng góp phần mở rộng thể tích điều áp trong trạm. Luôn có ít nhất một tàu vũ trụ Soyuz được nối với trạm như một "tàu cứu hộ" và cứ 6 tháng một lần được thay thế bởi một tàu Soyuz khác cùng với sự thay đổi phi hành đoàn.
Mặc dù không kết nối thường xuyên với ISS, một bộ phận của ISS là Mô-đun Hậu cần Đa mục đích (MPLM) thường được mang theo trong các chuyến bay của tàu con thoi. MPLM được kết nối với Unity và được sử dụng để cung cấp phần hậu cần cho các chuyến bay.
Kể từ tháng 4 năm 2016 trạm gồm có các mô-đun và bộ phận sau:
{| class="wikitable" style="clear: both"
|-
! Bộ phận/Mô-đun!! Chuyến bay!! Phương tiện phóng!! Ngày phóng(UTC)
!Cấu hình trạm sau khi gắn mô-đun
!Ảnh bộ phận/Mô-đun
!Ảnh trạm sau khi lắp ghép mô-đun/bộ phận
|-
| Mô-đun Khối Hàng hóa Chức năng FGB Zarya/ФГБ Заря (Functional Cargo Block)
| 1 A/R
| Tên lửa Proton
| style="text-align:center;"| 20 tháng 11 năm 1998
|
|244x244px
|
|-
| Mô-đun Unity (Node 1)
| 2A - STS-88
| Endeavour
| style="text-align:center;"| 4 tháng 12 năm 1998
|
|220x220px
|
|-
| Mô-đun dịch vụ Zvezda/Звезда (Service Module)
| 1R
| Tên lửa Proton-K
| style="text-align:center;"| 12 tháng 7 năm 2000
|
|238x238px
|
|-
| Giàn (Truss) Z1
| 3A - STS-92
| Discovery
| style="text-align:center;"| 11 tháng 10 năm 2000</tt>
|
|220x220px
|
|-
| Giàn P6, tấm pin năng lượng mặt trời*
| 4A - STS-97
| Endeavour
| style="text-align:center;"| 30 tháng 11 năm 2000</tt>
|
|221x221px
|
|-
| Mô-đun Phòng Thí nghiệm Destiny
| 5A - STS-98
| Atlantis
| style="text-align:center;"| 7 tháng 2 năm 2001
|
|220x220px
|
|-
|Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-1)
|5A.1 - STS-98
|Atlantis
| style="text-align: center;| 7 tháng 2 năm 2001
|
|257x257px
|
|-
| Cánh tay rô bốt Canadarm2 (Mobile Servicing System/MSS)
| 6A - STS-100
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 19 tháng 4 năm 2001
|
|220x220px
|
|-
| Mô-đun khóa khí (airlock) Quest/Joint
| 7A - STS-104
|Atlantis
| style="text-align:center;" | 12 tháng 7 năm 2001
|
|220x220px
|
|-
| Mô-đun cập bến, khóa khí Pirs/Пирс (Docking Comparment/Airlock)
| 4R
|Soyuz-U
| style="text-align:center;" | 14 tháng 9 năm 2001
|
|220x220px
|
|-
| Giàn S0
| 8A - STS-110
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 8 tháng 4 năm 2002
|
|220x220px
|
|-
|Hệ thống nền di động (Mobile Base System) của Canadarm2 (gắn trên giàn S0)
| UF-2 - STS-111
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 5 tháng 6 năm 2002
|
|220x220px
|
|-
| Giàn S1
| 9A - STS-112
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 7 tháng 10 năm 2002
|
|220x220px
|
|-
| Giàn P1
| 11A - STS-113
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 24 tháng 11 năm 2002
|
|220x220px
|
|-
| Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-2)
| LF 1 - STS-114
| Discovery
| style="text-align:center;" | 26 tháng 7 năm 2005
|
|220x220px
|
|-
|Giàn P3/P4, tấm pin năng lượng mặt trời
| 12A - STS-115
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 9 tháng 9 năm 2006
|
|220x220px
|
|-
|Giàn P5
| 12A.1 - STS-116
| Discovery
| style="text-align:center;" | 10 tháng 12 năm 2006
|
|220x220px
|
|-
|Giàn S3/S4, tấm pin năng lượng mặt trời
| 13A - STS-117
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 8 tháng 6 năm 2007
|
|220x220px
|
|-
|Giàn S5
| rowspan="2" |13A.1 -
STS-118
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |8 tháng 6 năm 2007
| rowspan="2" |
|220x220px
| rowspan="2" |
|-
|Nền chất hàng bên ngoài (External Stowage Platform) (ESP-3)
|220x220px
|-
|Mô-đun Harmony (Node 2)
| 10A - STS-120
| Discovery
| style="text-align:center;" | 23 tháng 10 năm 2007
|
|
|
|-
|Mô-đun Phòng Thí nghiệm Châu Âu Columbus
| 1E - STS-122
| Atlantis
| style="text-align:center;" | 6 tháng 12 năm 2007
|
|220x220px
|
|-
|Mô-đun Hậu cần thí nghiệm Nhật Bản (Japanese Logistics Module) (JEM-ELM-PS)
| 1J/A - STS-123
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 11 tháng 3 năm 2008
|
|220x220px
|
|-
|Bàn tay rô bốt Dextre (Special Purpose Dexterous Manipulator/SPDM)
| 1J/A - STS-123
| Endeavour
| style="text-align:center;" | 11 tháng 3 năm 2008
|
|220x220px
|
|-
|Mô-đun có áp suất Nhật Bản (Japanese Pressurized Module) (JEM-PM)
| 1J - STS-124
| Discovery
| style="text-align:center;" |31 tháng 5 năm 2008
|
|220x220px
|
|-
|Cánh tay rô bốt của Mô-đun Thí nghiệm Nhật Bản (Japanese Experiment Module Remote Manipulator System/JEM-RMS)
| 1J - STS-124
| rowspan="2" |Discovery
| style="text-align:center;" |31 tháng 5 năm 2008
|
|220x220px
|
|-
|Giàn S6, tấm pin năng lượng mặt trời
| 15A - STS-119
| style="text-align:center;" |15 tháng 3 năm 2009
|
|220x220px
|
|-
|Cơ sở bên ngoài (Exposed Facility/JEM-EF)
|2J/A -
STS-127
|Endeavour
|15 tháng 7 năm 2009
|
|220x220px
|
|-
|Mô-đun Thí nghiệm mini 2 Poisk/Поиск (Mini-Research Module/MRM-2)
|5R
|Soyuz-U
|10 tháng 11 năm 2009
|
|220x220px
|
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ExPRESS Logistics Carrier/ELC) (ELC-1,2)
|ULF3 -
STS-129
|Atlantis
|16 tháng 11 năm 2009
|
|331x331px
|
|-
|Mô-đun Tranquility (Node 3)
| rowspan="2" |20A -
STS-130
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |8 tháng 2 năm 2010
| rowspan="2" |
|220x220px
|
|-
|Mô-đun quan sát Cupola
|220x220px
|
|-
|Mô-đun Thí nghiệm mini 1 Rassvet/Рассвет (Mini-Research Module/MRM-1)
|ULF4 -
STS-132
|Atlantis
|14 tháng 5 năm 2010
|
|220x220px
|
|-
|Mô-đun đa mục đích vĩnh viễn Leonardo
| rowspan="2" |ULF-5 -
STS-133
| rowspan="2" |Discovery
| rowspan="2" |24 tháng 2 năm 2011
| rowspan="2" |
|220x220px
| rowspan="2" |
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ELC-4)
|330x330px
|-
|Máy đo phổ từ Alpha (Alpha Magnetic Spectrometer)
| rowspan="2" |ULF-6 -
STS-134
| rowspan="2" |Endeavour
| rowspan="2" |16 tháng 5 năm 2011
| rowspan="2" |
|220x220px220x220px
| rowspan="2" |
|-
|Nền chứa hậu cần ExPRESS (ELC-3)
|220x220px
|-
|Mô-đun hoạt động có thể mở rộng Bigelow (Bigelow Expandable Activity Module)
|SpaceX CRS-8
|Falcon 9/Cargo Dragon
|8 tháng 4 năm 2016
|
|220x220px
|
|-
|Mô-đun khóa khí Nanoracks(Nanoracks Airlock Module)
|SpaceX CRS-21
|Falcon 9 Block 5
|6 tháng 12 năm 2020
|
|
|
|-
|Mô-đun phòng thí nghiệm đa mục đích Nauka/Наука (Multipurpose Laboratory Module-Upgrade MLM-U)
| rowspan="2" |3R
| rowspan="2" |Proton-M
| rowspan="2" |21 tháng 7 năm 2021
| rowspan="2" |
|
|
|-
|Cánh tay rô-bốt Châu Âu (European Robotic Arm)
|
|
|-
|Mô-đun nút (node) Prichal/Узловой (Prichal Module/UM)
|
|Tên lửa Soyuz-2.1b
|24 tháng 11 năm 2021
|
|
|
|}
*Giàn đỡ P6 đã được di chuyển từ vị trí tạm thời trên giàn Z1 tới vị trí cuối cùng cạnh giàn đỡ P5 trong sứ mệnh STS-120.
Các thành phần sẽ được phóng
Những hệ thống chính trên ISS
Hệ thống cung cấp năng lượng
Nguồn điện năng cho ISS là từ Mặt Trời - ánh sáng được chuyển đổi thành điện qua những tấm pin mặt trời. Trước khi chuyến bay lắp ráp 4A (sứ mệnh tàu con thoi STS-97, 30 tháng 11 năm 2000) được thực hiện, nguồn năng lượng duy nhất trên trạm là từ những tấm pin mặt trời của Nga được gắn trên mô-đun Zarya và Zvezda - khu vực của Nga trên trạm sử dụng 28 vôn điện thế của dòng một chiều (giống như tàu con thoi). Trong phần còn lại của trạm, điện được cung cấp bởi những tấm pin mặt trời gắn tại một giàn đỡ cung cấp dòng điện một chiều có hiệu điện thế từ 130-180 vôn. Năng lượng được ổn định và phân phối tới các bộ phận ở điện áp là 160 vôn và sau đó được chuyển đổi đến điện áp sử dụng là 124 vôn. Năng lượng có thể được chia sẻ giữa 2 khu vực trên trạm qua những bộ biến đổi, và đặc tính này rất quan trọng một khi người ta hủy bỏ bộ phận mô-đun Science Power Platform của Nga - khu vực của người Nga sẽ phải phụ thuộc vào việc xây dựng các tấm pin mặt trời của Hoa Kỳ để cung cấp năng lượng.
Mô-đun 'Zarya' của Nga là mô-đun đầu tiên được phóng lên quỹ đạo, nó do do Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ đặt hàng và chi tiền ngân sách chế tạo. Trên lý thuyết nó là tài sản của nước Mỹ, nhưng Nga với tư cách là bên chế tạo vẫn có quyền vận hành Zarya.
Hệ thống hỗ trợ sự sống
Hệ thống hỗ trợ sự sống và kiểm soát môi trường của trạm ISS sẽ cung cấp hay kiểm soát những yếu tố như áp suất không khí, mức ôxy, nước, và dập tắt lửa nếu có hỏa hoạn, và vài thứ khác. Hệ thống Elektron sinh ra ôxy trên trạm. Ưu tiên cao nhất cho hệ thống hỗ trợ sự sống là không khí trong trạm ISS, nhưng hệ thống cũng kiểm soát mức tiêu dùng các yếu tố như nước và không khí từ phi hành đoàn, đồng thời tiến hành tái chế lại nước và không khí được thải đi. Ví dụ, hệ thống sẽ tái chế lại chất lỏng từ các bồn nước trên trạm, vòi tắm, nước tiểu, và ngưng tụ. Những bộ lọc bằng than hoạt tính là phương pháp chủ yếu để loại bỏ những sản phẩm phụ trong sự trao đổi chất của con người từ không khí.
Hệ thống điều hướng
Hướng đi của trạm được duy trì bởi 2 cơ chế. Thông thường, có một hệ thống sử dụng vài con quay hồi chuyển mômen điều khiển (CMG - Control Moment Gyroscope) để giữ cho trạm đi đúng hướng, có nghĩa là với mô-đun Destiny ở phía trước của Unity, giàn đỡ P ở bên cạnh trái và Pirs ở phía hướng về Trái Đất (điểm thấp nhất). Khi hệ thống CMG trở nên bão hòa, nó có thể mất khả năng điều hướng cho trạm. Nếu điều này xảy ra, hệ thống điều khiển trạng thái của Nga có thể lấy lại sự định hướng cho trạm, nó sử dụng những lực đẩy để duy trì trạng thái của trạm và cho phép hệ thống CMG khử được sự bão hòa. Hệ thống này sẽ tự động khởi động như một biện pháp an toàn, chẳng hạn như trong thời gian diễn ra chuyến bay Expedition 10. Khi tàu con thoi cập vào trạm, nó có cũng được sử dụng để duy trì trạng thái của trạm. Quy trình này cũng được sử dụng trong lúc STS-117 nối vào trạm như giàn đỡ S3/S4.
Nghiên cứu khoa học
Một trong những mục đích chính của ISS là cung cấp một địa điểm để giám sát thực hiện các thí nghiệm và đòi hỏi một hoặc nhiều điều kiện đặc biệt hiện nay trên trạm cho công việc này. Những lĩnh vực nghiên cứu chính bao gồm sinh học (gồm nghiên cứu y sinh và công nghệ sinh học), vật lý (gồm vật lý chất lỏng, khoa học vật liệu, và cơ học lượng tử), thiên văn học (bao gồm vũ trụ học), và khí tượng học. Kể từ năm 2007, những thí nghiệm nhỏ khác như nghiên cứu những ảnh hưởng lâu dài của hiện tượng không trọng lượng tới con người đã được tiến hành trên trạm. Với 4 mô-đun nghiên cứu mới được bố trí để hoàn thành trên ISS vào năm 2010, những thí nghiệm khoa học sẽ được diễn ra nhiều hơn và chất lượng hơn, với những mô-đun nghiên cứu như vậy, nhiều nghiên cứu chuyên dụng đã được mong đợi để được bắt đầu.
Mô-đun khoa học trên ISS
Mô-đun phòng thí nghiệm Destiny là phương tiện nghiên cứu chính hiện thời trên trạm ISS. Nó được sản xuất bởi NASA và được phóng vào tháng 2 năm 2001, đây là một phương tiện nghiên cứu cho những thí nghiệm chung. Mô-đun Columbus là một phương tiện nghiên cứu khác được thiết kế bởi Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) cho trạm ISS. Mục đích của nó là tạo những điều kiện thuận lợi cho những thí nghiệm khoa học và đã được phóng vào không gian bằng tàu con thoi trong một sứ mệnh mang tên STS-122 vào ngày 6 tháng 12 năm 2007. Columbus cung cấp một phòng thí nghiệm chung cũng như một trong số những thiết kế đặc biệt dành cho sinh học, nghiên cứu y sinh và vật lý chất lỏng. Có một số mở rộng dự kiến sẽ được thực hiện để tạo công cụ cho sự nghiên cứu Cơ học lượng tử và vũ trụ học. vào tháng 2 năm 2008, tàu con thoi Atlantis mang theo một mô dun để lắp vào ISS, đây sẽ là mô đun đầu tiên thuộc quyền sở hữu của Cơ quan vũ trụ châu Âu.
Mô-đun Thí nghiệm Nhật Bản, cũng còn được biết đến với tên gọi Kibō, được dự kiến hoàn thành sau sứ mệnh STS-127 vào tháng 6 năm 2009. Được phát triển bởi Cơ quan thám hiểm không gian Nhật Bản (JAXA), mô-đun này sẽ có chức năng như một đài quan sát thiên văn và đo các dữ liệu thiên văn khác nhau. Dự án ExPRESS Logistics Carrier, được phát triển bởi NASA, đây là dự án với các mô-đun hàng hóa vận chuyển lên trạm ISS, các mô-đun sẽ được phóng bằng tàu con thoi trong sứ mệnh mang tên STS-129, người ta hy vọng sẽ thực hiện sứ mệnh này trước 11 tháng 9 năm 2009. Nó sẽ cho phép những cuộc thí nghiệm được tiến hành và điều khiển trong chân không, cung cấp lượng điện năng cần thiết, và tính toán xử lý dữ liệu cục bộ cho các cuộc thí nghiệm. Mô-đun phòng thí nghiệm vạn năng, được chế tạo bởi Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga (RKA), nó được trông đợi sẽ phóng lên ISS vào cuối năm 2009. Mô-đun này sẽ cung cấp những tài nguyên thích hợp cho thí nghiệm chung về môi trường không trọng lực.
Hai trong số những mô-đun nghiên cứu trong kế hoạch đã bị hủy bỏ, đó là Mô-đun Điều tiết Máy ly tâm (được sử dụng để tạo ra các mức trọng lực nhân tạo khác nhau trong trạm) và Mô-đun Nghiên cứu Nga (được sử dụng cho những thí nghiệm chung). Một vài cuộc thí nghiệm đã được lên kế hoạch trước, như Phổ từ kế Alpha cũng đã bị hủy bỏ.
Những lĩnh vực nghiên cứu
Có một số kế hoạch nghiên cứu sinh vật học trên ISS. Mục đích thứ nhất là để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về sự ảnh hưởng lâu dài của môi trường không trọng lực trong không gian đến cơ thể con người. Những vấn đề như teo cơ, loãng xương và những thay đổi về chất lỏng được nghiên cứu với mục đích sử dụng những dữ liệu này phục vụ cho cuộc sống của con người trong không gian và du lịch vũ trụ dài ngày, nếu chúng được ứng dụng thành công thì những chuyến bay của con người dài ngày trong vũ trụ sẽ khả thi hơn. Những ảnh hưởng của tình trạng mất trọng lượng trong sự tiến hóa, sự phát triển và sự tăng trưởng, những quá trình bên trong thực vật và động vật cũng được nghiên cứu. Những dữ liệu kết quả nghiên cứu mới đây đã đưa ra giả thiết rằng vi trọng lực cho phép sự tăng trưởng của các mô trong cơ thể con người tăng lên gấp 3 lần và các tinh thể protein đặc biệt có thể được hình thành trong không gian, NASA tỏ ra rất mong muốn được điều tra nghiên cứu những hiện tượng này.
NASA cũng quan tâm nghiên cứu đến những vấn đề nổi bật trong vật lý. Vật lý chất lỏng trong môi trường vi trọng lực vẫn chưa được hiểu biết hoàn toàn, và những nhà nghiên cứu muốn tìm một cách nào đó để tìm ra được mô hình chính xác của chất lỏng trong tương lai. Đồng thời, vì những chất lỏng trong không gian có thể kết hợp gần như hoàn toàn bất chấp tỷ trọng của chúng, các nhà nghiên cứu đang quan tâm đến việc nghiên cứu sự kết hợp của những chất lỏng không có tính pha trộn tốt khi thực hiện ở Trái Đất, những chất lỏng này sẽ được thí nghiệm trong không gian để tìm hiểu về sự kết hợp trong môi trường vi trọng lực. Bằng việc nghiên cứu những phản ứng được làm chậm bởi trọng lực và nhiệt độ thấp, những nhà khoa học cũng hy vọng tìm kiếm được sự hiểu biết mới sâu sắc hơn liên quan đến những trạng thái của vật chất (đặc biệt trong hiện tượng siêu dẫn).
Đồng thời, các nhà khoa học cũng hy vọng nghiên cứu sự cháy trong môi trường trọng lực bé hơn ở Trái Đất. Bất kỳ kết quả tìm kiếm nào liên quan đến hiệu quả của sự đốt cháy hay tạo thành những sản phẩm phụ đều có thể cải thiện quá trình sản xuất năng lượng, mà đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong ngành kinh tế và môi trường. Kế hoạch của các nhà khoa học là sử dụng ISS để nghiên cứu khí dung, ôzôn, hơi nước và ôxy trong bầu khí quyển của Trái Đất cũng như tia vũ trụ, bụi vũ trụ, phản vật chất và vật chất tối trong vũ trụ.
Những mục đích dài hạn của các nghiên cứu này sẽ được áp dụng để pháp triển công nghệ cần thiết cho nhiều lĩnh vực như: xây dựng căn cứ trong không gian, thám hiểm các hành tinh và sự có mặt lâu dài của con người trong không gian (bao gồm những hệ thống hỗ trợ sự sống, hệ thống an toàn, kiểm tra môi trường trong không gian,...), những cách mới để điều trị các căn bệnh, những phương pháp hiệu quả hơn trong sản xuất vật chất, những kết quả đo lường chính xác hơn mà không thể đạt được nếu làm trên Trái Đất.
Những biến cố chính
Thảm họa Columbia năm 2003
Sau thảm họa tàu Columbia vào 1 tháng 2 năm 2003, người Mỹ đã đình chỉ Chương trình tàu con thoi hai năm rưỡi, sau đó là các vấn đề trong việc nối lại hoạt động của các chuyến bay vào năm 2005, từ những sự cố đó, người ta không chắc chắn về tương lai của trạm ISS đến năm 2006. Trong khoảng thời gian giữa thảm họa Columbia và bắt đầu tiếp tục việc phóng tàu con thoi, những chuyến bay thay đổi phi hành đoàn trên ISS đều do tàu vũ trụ Soyuz của Nga thực hiện. Bắt đầu với Expedition 7, chỉ có 2 số với con số 3 nhà du hành được phóng lên trong những lần trước. Điều này là do ISS không có sự cung cấp nhu yếu phẩm thường xuyên bởi tàu con thoi trong một thời gian dài, đa số các kế hoạch đã bị hủy bỏ, tạm thời gây cản trở đến hoạt động của trạm vào năm 2004. Tuy nhiên tàu vận chuyển Tiến bộ và chuyến bay của tàu con thoi trong sứ mệnh mang tên STS-114 đã giải quyết vấn đề này của trạm.
Sự cố khói năm 2006
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2006, phi hành đoàn trong cuộc hành trình thứ 13 mang tên Expedition 13 đã kích hoạt báo động cháy trong khu vực của Nga trên Trạm vũ trụ Quốc tế, khi khói từ một trong số 3 máy cung cấp ôxy thoát ra, nó đã gây ra một sự sợ hãi trong chốc lát do lo sợ lửa có thể bùng cháy trong mô-đun. Kỹ sư trên chuyến bay là Jeffrey Williams đã thông báo một mùi khác thường, nhưng những quan chức đã nói rằng không có lửa trong mô-đun và phi hành đoàn không phải chịu bất kỳ sự nguy hiểm nào.
Phi hành đoàn đã thông báo giải thích về khói và mùi phát ra trong cabin của mô-đun về trung tâm điều khiển sau khi tìm hiểu vụ việc. Nguyên nhân là do một sự rò rỉ Kali hydroxide từ một lỗ thông ôxy. Thiết bị này ngay lập tức đã bị dừng hoạt động. Kali hydroxide không có mùi, và mùi mà Williams nói đã ngửi thấy là do một tấm đệm bằng cao su đã bị đốt nóng gây ra mùi khét trong hệ thống Elektron.
Trong bất kỳ trường hợp nào, hệ thống thông hơi của trạm sẽ bị tắt để ngăn ngừa khói hoặc các chất ô nhiễm khác lan ra các khu vực khác của phòng thí nghiệm liên hợp. Một bộ lọc không khí bằng than đã được đặt ở trong trạm để làm sạch không khí nếu như xảy ra hiện tường rò rỉ khói kali hydroxide dù là nhỏ nhất ở trên trạm ISS. Giám đốc chương trình trạm vũ trụ nói rằng phi hành đoàn chưa bao giờ phải mang mặt nạ phòng độc, nhưng trong biện pháp phòng ngừa, người ta vẫn yêu cầu các phi hành gia mang găng tay và mặt nạ phòng độc để ngăn ngừa sư tiếp xúc với bất kỳ chất gây ô nhiễm nào.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 2006, các bộ phận thiết bị thay thế được Tàu vũ trụ Progress số hiệu M-58 của Nga mang lên trạm, cho phép phi hành đoàn sửa chữa Elektron bằng phụ tùng thay thế.
Sự cố hỏng hóc máy tính năm 2007
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2007, trong thời gian diễn ra cuộc hành trình mang tên Expedition 15 và ngày thứ 7 của sứ mệnh STS-117 trên trạm ISS, một máy tính đã bị trục trặc dẫn đến ngừng hoạt động trong khu vực của Nga lúc 06:30 UTC làm cho phần bên trái của trạm không có lực ép, mất sự cung cấp ôxy, máy lọc carbon dioxide ngừng hoạt động, và các hệ thống kiểm soát môi trường khác cũng ngừng hoạt động, nguyên nhân dẫn đến máy tính bị hỏng là do nhiệt độ tăng quá cao. Khi máy tính khởi động lại thành công đã dẫn đến một báo động hỏa hoạn sai, báo động này đã đánh thức phi hành đoàn vào lúc 11:43 UTC. Hai hệ thống máy tính (chỉ huy và dẫn đường) từng hệ thống bao gồm 3 máy tính kết nối. Mỗi máy tính được gán như một Lane.
Ngày 15 tháng 6, máy tính chính của Nga được kết nối trực tuyến trở lại và việc liên lạc với phần khu vực của Hoa Kỳ trên trạm đã phải sử dụng đường dây khác. Những hệ thống phụ chưa kết nối trực tuyến và làm các công việc cần giải quyết khác. NASA có những chọn lựa để gia hạn hoạt động của STS-117 nếu những vấn đề không thể được giải quyết và họ đã định "lựa chọn để từ giã" nếu ít nhất một trong số những máy tính trên trạm không được kiểm soát ổn định và 3 thành viên phi hành đoàn phải ngay lập tức quay trở lại Trái Đất bằng tàu con thoi Atlantis. Nếu không có máy tính để kiểm soát mức ôxy, trạm ISS chỉ có 56 ngày sử dụng số ôxy dự trữ còn lại.
Vào buổi chiều ngày 16 tháng 6, giám đốc chương trình ISS là Michael Suffredini đã xác nhận tất cả sáu máy tính chính trong hệ thống điều khiển và dẫn đường, bao gồm cả hai chiếc máy tính có khả năng suy nghĩ đã bị hỏng, khu vực của Nga trên trạm đã được kết nối trực tuyến trở lại và sẽ được kiểm tra bên trong vào khoảng thời gian từ 1 đến 2 ngày sau. Hệ thống làm lạnh là hệ thống đầu tiên được kết nối lại. NASA tin tưởng những mạch bảo vệ dòng siêu tải được thiết kế sẽ bảo vệ mỗi máy tính khỏi sự cố đột biến năng lượng và giúp máy tính tránh được hiện tượng giao thoa tăng lên, hay "tạp nhiễu", từ môi trường plasma của trạm có liên quan đến sự bổ sung của giàn đỡ bên phải và các tấm pin năng lượng mặt trời. Sự phân tích những hỏng hóc liên tiếp trong hệ thống máy tính trên trạm ISS, sẽ giúp cho Mô-đun phòng thí nghiệm Columbus và tàu vận tải không người lái ATV của ESA tránh được các hỏng hóc tương tự như trên ISS, do hầu hết các hệ thống máy tính đều cùng được cung cấp bởi công ty EADS Astrium Space Transportation. Theo giám đốc của chương trình ISS của NASA là Michael Suffredini, giả thiết về trường plasma gây ra hỏng hóc cho trạm đã bị bác bỏ khi hình dạng của trạm thay đổi do thêm vào các đoạn giàn đỡ mới hay "khi trạm càng lớn, điện thế sẽ tiếp tục tăng lên" và "người Nga đã lưu ý đến những thay đổi trong hệ thống của họ khi mà chúng ta đang phát triển."
Các tàu vũ trụ đã kết nối với ISS
Phi thuyền con thoi - phương tiện chuyên chở bộ phận lắp ráp, hậu cần và luân chuyển các phi hành đoàn (đã được nghỉ hưu vào đầu năm 2011).
Tàu vũ trụ Soyuz - luân chuyển phi hành đoàn và làm phương tiện cứu hộ khẩn cấp, được thay thế 6 tháng một lần.
Tàu vận tải Tiến bộ - phương tiện chuyên chở hàng hóa.
Tàu vận tải tự hành (Automated Transfer Vehicle - ATV) của cơ quan không gian châu Âu (ESA) là tàu vũ trụ không người lái cung cấp đồ tiếp tế (gồm cả các giá đựng (rack)) cho trạm ISS (phóng lên lần đầu vào tháng 3 năm 2008).
Các tàu trong kế hoạch
Tàu vận tải H-II (HTV) của Nhật Bản (JAXA), dùng để mang hàng hóa và thiết bị (sẽ phóng vào cuối năm 2009).
Tàu Orion có thể dùng để luân chuyển phi hành đoàn và cung cấp khả năng vận tải (dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2014 thay cho tàu con thoi).
Các tàu trong đề án
SpaceX Dragon được sử dụng cho chương trình Dịch vụ vận chuyển quỹ đạo thương mại của NASA (lên kế hoạch phóng vào năm 2009).
Rocketplane Kistler Phương tiện K-1 được sử dụng cho chương trình Dịch vụ vận chuyển quỹ đạo thương mại của NASA (lên kế hoạch phóng vào năm 2009).
Phi thuyền con thoi của Nga mang tên Kliper có thể được dùng để vận chuyển phi hành đoàn và cung cấp khả năng chuyên chở (lên kế hoạch phóng vào năm 2012).
Hệ thống vận chuyển người vào không gian Soyuz được bắt đầu bằng sự hợp tác giữa Nga-Châu Âu để luân chuyển phi hành đoàn và vận chuyển hàng hóa (lên kế hoạch phóng vào năm 2014).
Các cuộc hành trình lên ISS
Mọi phi hành đoàn đến trạm ISS thường xuyên đều được mang tên là "Expedition N", ở đây N là số thứ tự của chuyến hành trình đến ISS. Các chuyến hành trình thường kéo dài trong khoảng nửa năm.
Trong lịch sử Trạm vũ trụ Quốc tế phần lớn các chuyến viếng thăm trạm là do các tàu vũ trụ thực hiện. Kể từ 11 tháng 9 năm 2006, đã có 159 lượt người (không phân biệt rõ ràng) đặt chân đến trạm ISS. Trạm Mir có 137 lượt người (không phân biệt rõ ràng) đặt trên đến trạm (Xem Trạm vũ trụ). Số lượng người được xác định đến trạm ISS để làm nhiệm vụ là 124 người (xem Danh sách người đến thăm Trạm vũ trụ Quốc tế).
Những khía cạnh pháp luật
Thỏa thuận
Kết cấu pháp lý đã quy định việc xây dựng trạm vũ trụ được phân thành nhiều phần. Phần đầu tiên được soạn thảo nhằm mục đích thiết lập những trách nhiệm và quyền lợi giữa những đối tác xây dựng trạm ISS theo Hiệp định Tồn tại Trạm vũ trụ (IGA), một hiệp ước quốc tế được ký vào ngày 28 tháng 1 năm 1998 bởi 15 chính phủ có liên quan đến dự án Trạm vũ trụ. Gồm có Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Liên bang Nga và 11 thành viên khác thuộc Cơ quan Vũ trụ châu Âu (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Anh). Điều 1 đã thảo ra những nét chính của mục đích dự án:
"Hiệp định này là một khung hợp tác quốc tế dài hạn trên cơ sở của quan hệ đối tác xác thực, đối với thiết kế chi tiết, sự phát triển, hoạt động, và sử dụng trạm vũ trụ dân sự có người ở lâu dài với mục đích hòa bình, theo luật pháp quốc tế."
Phần thứ hai của hiệp định IGA đặt ra giai đoạn hợp tác giữa những thành viên ký hiệp định được đề cập với tên gọi "Biên bản ghi nhớ" (Memoranda of Understanding - MOU), nêu ra 4 vấn đề hợp tác giữa NASA và mỗi đối tác trong 4 đối tác khác. Không có biên bản giữa ESA, Roskosmos, CSA và JAXA vì thực tế NASA được coi như là "giám đốc" của dự án ISS. MOU được sử dụng để miêu tả những vai trò và trách nhiệm của những đối tác chi tiết hơn.
Phần thứ 3 gồm có sự thay đổi những thỏa thuận bằng hợp đồng hay dịch vụ thương mại trong quyền lợi và nhiệm vụ của các đối tác, bao gồm thỏa thuận khung thương mại giữa NASA và Roskosmos vào năm 2005, nó có 4 điều khoản và điều kiện theo sau, trong đó NASA sẽ sử dụng khả năng vận chuyển phi hành đoàn, hàng hóa của tàu vũ trụ Soyuz và tàu không người lái Tiến bộ để chuyên chở lên trạm ISS.
Phần pháp lý thứ 4 là những thỏa thuận thi hành và bổ sung, gồm 4 Biên bản ghi nhớ nữa. Đáng chú ý trong số đó là luật lệ quản lý ISS, được đặt ra để các quy định về quyền xét xử người phạm tội, chống quấy nhiễu và một số hành vi khác liên quan đến phi hành đoàn trên ISS.
Phân chia quyền lợi sử dụng
Không có tỷ lệ phần trăm cố định trong quyền sở hữu đối cho toàn bộ trạm vũ trụ. Điều 5 của hiệp định IGA đã chỉ ra điều đó: "mỗi đối tác sẽ được giữ quyền hạn và quyền kiểm soát đối với các yếu tố được đăng ký và đối với nhân sự trong hoặc trên trạm vũ trụ thuộc quốc gia của mình." Bởi vậy, mỗi mô-đun của ISS chỉ có duy nhất một quốc gia có quyền sở hữu. Còn những thỏa thuận để sử dụng những phương tiện trên trạm vũ trụ phức tạp hơn rất nhiều.
Ba mô-đun trong kế hoạch của người Nga là Zvezda, Mô-đun Phòng thí nghiệm Vạn năng và Mô-đun Nghiên cứu Nga, chúng đều được chế tạo và sở hữu bởi Liên bang Nga, và chúng sẽ vẫn do Nga sở hữu trong thời điểm hiện nay và tương lai (Zarya, dù được thiết kế chế tạo và phóng lên không gian bởi Nga, nhưng kinh phí lại do NASA chi trả, do đó chính thức thì Zarya thuộc về quyền sở hữu của NASA). Để sử dụng những bộ phận của Nga trên trạm, những đối tác khác sẽ phải sử dụng hiệp ước song phương (phần thứ 3 và 4 trong kết cấu pháp lý). Phần còn lại của trạm, (môđun điều áp của Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản cũng như những giàn đỡ, các tấm pin năng lượng mặt trời và 2 cánh tay máy) đã được thỏa thuận sử dụng theo tỷ lệ sau (tỷ lệ % phụ thuộc thời gian mà mỗi kết cấu có thể được sử dụng bởi mỗi đối tác):
Columbus: 51% cho ESA, 49% cho NASA và CSA (CSA đã thỏa thuận với NASA để sử dụng 2,3% công trình không thuộc sở hữu của Nga trên ISS).
Kibo: 51% cho JAXA, 49% cho NASA và CSA (2,3%).
Phòng thí nghiệm Destiny: 100% cho NASA và CSA (2,3%).
Thời gian phi hành đoàn lưu lại và năng lượng từ kết cấu pin mặt trời, cũng như quyền lợi liên quan đến dịch vụ hỗ trợ (dịch vụ tải lên/tải xuống dữ liệu và thông tin liên lạc) 76,6% cho NASA, 12.8% cho JAXA, 8,3% cho ESA và 2,3% cho CSA.
Chi phí xây dựng
Chi phí để xây dựng trạm ISS tính đến hiện nay đã vượt xa những tính toán trước đây. ESA đánh giá chi phí toàn bộ từ khi bắt đầu dự án vào cuối thập niên 1980 đến khi trạm hoàn thành vào năm 2010 sẽ vào khoảng 130 tỷ USD (100 tỷ euro).
Rất khó để xác định chính xác chi phí xây dựng trạm ISS: ví dụ, khó có thể xác định được những khoản đóng góp của Nga trong chương trình ISS hay có bao nhiêu khoản đóng góp của Nga đã được thực hiện đều đặn, cũng do những chi phí của Cơ quan Vũ trụ Nga thấp hơn khi đổi sang USD so với các đối tác khác.
NASA
Tổng quan
Phần lớn toàn bộ những chi phí do NASA bỏ ra đều được dùng để duy trì hoạt động của các chuyến bay và toàn bộ chi phí cho việc quản lý toàn bộ trạm ISS. Những chi phí ban đầu là chế tạo các phần của mô-đun ISS, cấu trúc ngoài ở tại mặt đất và xây dựng trong không gian, cũng như huấn luyện phi hành đoàn và những chuyến bay tiếp tế tới ISS, sao cho chi phí ít hơn so với chi phí hoạt động chung khi dự toán.
NASA không tính chi phí chương trình Phi thuyền con thoi vào tổng chi phí xây dựng chương trình ISS, dù Tàu con thoi đã được chỉ định sử dụng riêng cho việc xây dựng và tiếp tế cho ISS từ tháng 12 năm 1998 (từ năm 2002 chỉ có 2 sứ mệnh STS-107 và STS-125 là không liên quan tới ISS).
Ngân sách chi phí cho các hạng mục của ISS trong những năm từ 1994 đến 2005 của NASA (không tính chi phí về tàu con thoi) là 25,6 tỷ USD. Từ năm 2005 đến 2006, khoảng 1,7 đến 1,8 tỷ USD đã được giải ngân cho chương trình ISS. Chi phí hàng năm sẽ tăng thêm cho đến năm 2010 khi ngân sách một năm dành cho ISS sẽ đạt là 2,3 tỷ USD và dừng lại ở mức ngân sách này, tuy nhiên chi phí sẽ được điều chỉnh theo lạm phát, cho đến năm 2016, thời điểm kết thúc chương trình. NASA đã cấp từ 300 đến 500 triệu USD gọi là chi phí cho "sự đóng cửa" chương trình vào năm 2017.
Ngân sách dành cho ISS năm 2005
Có 1,8 tỷ USD đã được chi trong năm 2005 gồm các phần:
Phát triển những phần cứng mới: 70 triệu USD đã được chi cho những sự phát triển trọng tâm, ví dụ như phát triển hệ thống dẫn đường, hỗ trợ dữ liệu hay môi trường.
Hoạt động của trạm vũ trụ: 800 triệu USD gồm có 125 triệu USD cho toàn bộ phần mềm, hệ thống hoạt động bên ngoài tàu, hậu cần và bảo dưỡng. 150 triệu USD bổ sung được chi dùng cho các chuyến bay, hệ thống điện tử hàng không và phi hành đoàn. 250 triệu USD được sử dụng cho việc quản lý toàn bộ ISS.
Hoạt động phóng và sứ mệnh của tàu con thoi: Mặc dù chi phí phóng tàu con thoi không nằm trong ngân sách của ISS, nhưng các sứ mệnh và sứ mệnh hợp nhất của những tàu con thoi vẫn chiếm 300 triệu USD, hỗ trợ y học 25 triệu USD và sửa chữa địa điểm phóng tàu con thoi chiếm 125 triệu USD trong ngân sách của ISS.
Chương trình hợp nhất hoạt động: 350 triệu USD đã được chi cho việc giữ gìn và duy trì các chuyến bay, nền phần cứng, phần mềm để bảo đảm sự toàn vẹn trong thiết kế và liên tục mở rộng của trạm ISS.
Hàng hóa/phi hành đoàn trên ISS: 140 triệu USD được dành cho việc cung cấp hàng tiếp tế, hàng hóa, phi hành đoàn lên trạm bằng các chuyến bay trên tàu vũ trụ Progress và Soyuz.
Chi phí dành cho tàu con thoi như một phần trong chi phí của ISS
Chỉ có chi phí cho các sứ mệnh, sứ mệnh hợp nhất và chuẩn bị bệ phóng cho 33 chuyến bay của tàu con thoi phục vụ trong chương trình ISS là thuộc vào chi phí cho dự án của NASA. Những chi phí cơ bản của chương trình tàu con thoi, như đề cập ở trên, không phải là một phần được xem xét trong toàn bộ những chi phí bởi NASA cho chương trình ISS, vì chương trình tàu con thoi được coi là một chương trình độc lập đối với trạm ISS. Từ tháng 12 năm 1998 tàu con thoi, tuy nhiên, gần như chỉ sử dụng dành riêng cho các chuyến bay lên trạm ISS (kể từ chuyến bay đầu tiên lên ISS vào tháng 12 năm 1998, đến tháng 12 năm 2006, chỉ có 5 chuyến bay của tàu con thoi ngoài 25 chuyến bay khác là không dùng cho chương trình ISS, và chỉ có kế hoạch bảo dưỡng Kính viễn vọng Hubble dự kiến sẽ diễn ra vào năm 2009 (xem STS-125) là không liên quan đến ISS, trong khi có tới 14 kế hoạch phóng tàu dành cho ISS cho đến khi kết thúc chương trình tàu con thoi vào năm 2010).
Chi phí của chương trình tàu con thoi trong thời gian ISS hoạt động từ năm 1999 đến năm 2005 (không tính đến chuyến bay đầu tiên lên ISS vào tháng 12 năm 1998) đã có giá trị xấp xỉ khoảng 24 tỷ USD (năm 1999: 3.028,0 triệu USD, năm 2000: 3.011,2 triệu USD, năm 2001: 3.125,7 triệu USD, năm 2002: 3.278,8 triệu USD, năm 2003: 3.252,8 triệu USD, năm 2004: 3.945,0 triệu USD, năm 2005: 4.319,2 triệu USD). Trong những chi phí liên quan đến ISS, những chi phí của các chuyến bay không liên quan đến ISS cần phải trừ đi, con số này chiếm khoảng 20% trong tổng số hay gần 5 tỷ USD. Trong khoảng thời gian 2006-2011, NASA dự kiến sẽ chi khoảng 20,5 tỷ USD cho chương trình tàu con thoi (2006: 4.777,5 triệu USD, năm 2007: 4.056,7 triệu USD, năm 2008: 4.087,3 triệu USD, năm 2009: 3.794,8 triệu USD, năm 2010: 3.651,1 triệu USD, năm 2011: 146,7 triệu USD). Nếu sứ mệnh bảo dưỡng Hubble được loại trừ khỏi những chi phí đó, thì chi phí cho các chuyến bay của tàu con thoi liên quan đến ISS sẽ xấp xỉ khoảng 19 tỷ USD từ năm 2006 đến 2011. Tổng cộng, chi phí chương trình tàu con thoi liên quan đến ISS sẽ xấp xỉ khoảng 38 tỷ USD.
Tổng chi phí của NASA cho ISS
Giả sử NASA chi trung bình 2,5 tỷ USD từ năm 2011 đến 2016 và đến khi kết thúc việc chi tiền cho trạm ISS vào năm 2017 (khoảng 300-500 triệu USD) sau khi kết thúc dự án vào năm 2016, thì tổng chi phí dự án ISS của NASA kể từ khi công bố chương trình vào năm 1993 đến khi kết thúc là vào khoảng 53 tỷ USD (25,6 tỷ cho giai đoạn từ 1994-2005 và khoảng 27 đến 28 tỷ cho giai đoạn từ 2006-2017).
Ở đây cũng phải kể đến những chi phí đáng kể để thiết kế Trạm vũ trụ Tự do vào thập niên 1980 và đầu những năm 1990, trước khi chương trình ISS bắt đầu vào năm 1993. Những kế hoạch của Trạm vũ trụ Tự do được sử dụng lại cho Trạm vũ trụ Quốc tế.
Tính tổng cộng, mặc dù chi phí hiện nay của NASA cho trạm ISS được công bố trên các phương tiện truyền thông là khoảng 50 tỷ USD, nhưng nếu còn tính cả chi phí cho chương trình tàu con thoi và thiết kế trạm vũ trụ Tự do thì tổng chi phí mà một mình NASA phải chi ra là trên 100 tỷ USD.
ESA - Cơ quan Vũ trụ châu Âu
ESA tính toán rằng đóng góp của họ trong 30 năm tồn tại của dự án sẽ là 8 tỷ €. Chi phí cho Phòng thí nghiệm Columbus tổng cộng sẽ hơn 1 tỷ € (euro), chi phí phát triển cho ATV (tàu vận tải tự hành) là hơn 100 triệu € và khi dùng tên lửa Ariane 5 phóng lên không gian thì chi phí sẽ hết khoảng 150 triệu € mỗi lần phóng, mỗi tàu ATV phóng lên sẽ phải chi thêm một khoản ngân sách nữa. Ngoài ra ESA đã xây dựng một trạm điều khiển mặt đất ở miền Nam nước Đức để điều khiển Phòng thí nghiệm Columbus.
JAXA - Cơ quan Thám hiểm Không gian Nhật Bản
Việc phát triển Phòng thí nghiệm Kibo chính là sự đóng góp chính của JAXA cho sự án ISS, nó có giá trị khoảng 350 tỷ Yên (khoảng 2.8 tỷ USD) Vào năm 2005, JAXA đã chi khoảng 40 tỷ Yên (khoảng 350 triệu USD) cho chương trình ISS. Những chi phí vận hành hàng năm của Kibo tổng cộng khoảng từ 350 đến 400 triệu USD. Ngoài ra JAXA đã cam kết tự mình phát triển và phóng tàu vận tải-HTV, do đó tổng chi phí là gần 1 tỷ USD. Như vậy trong vòng 24 năm tồn tại của chương trình ISS, JAXA sẽ đóng góp trên 10 tỷ USD cho chương trình này.
Roskosmos - Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga
Một phần đáng kể ngân sách của Cơ quan Vũ trụ Nga được sử dụng cho ISS. Từ năm 1998 đã có trên 24 chuyến bay của các tàu vũ trụ Soyuz và Progress, chủ yếu được sử dụng để chuyên chở phi hành đoàn, và vận chuyển hàng hóa từ năm 2003. Một câu hỏi được đặt ra là Nga đã chi bao nhiêu cho trạm quốc tế (tính ra USD), tuy nhiên không dễ dàng đối với câu trả lời. Hai mô-đun hiện thời trong quỹ đạo đều bắt nguồn từ chương trình Mir và bởi vậy những chi phí cho phát triển là thấp hơn nhiều so với những mô-đun khác. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái giữa đồng rúp và USD không tương xứng, và nó không đủ chính xác để đưa ra một sự so sánh thực sự cho những chi phí mà Nga đã thực sự chi trả.
CSA - Cơ quan Không gian Canada
Đóng góp chính của Canada cho trạm ISS là Canadarm2 (hệ thống bảo dưỡng lưu động), trong khoảng thời gian 20 năm qua, Canada đã đóng góp gần 1,4 tỷ đô la Canada cho kinh phí của trạm ISS.
ISS nhìn từ Trái Đất
Có thể quan sát Trạm vũ trụ Quốc tế từ mặt đất bằng mắt thường bởi vì trạm có kích thước lớn và trạm có các tấm pin mặt trời có khả năng phản chiếu ánh sáng mạnh. ISS là vật thể sáng thứ 3 có thể quan sát được trên bầu trời. Một khi trạm trong quỹ đạo Trái Đất, thì còn cần cả góc Mặt Trời và vị trí người quan sát cũng trùng khớp thì mới có thể nhìn thấy trạm, nó chỉ rõ ràng trong một thời gian ngắn.
NASA cung cấp dữ liệu để có thể nhìn thấy trạm ISS từ mặt đất thông qua trang web Sightings , và tại trang web của Cơ quan Vũ trụ châu Âu.
Những chuyện ngoài lề
Đám cưới và du lịch trong vũ trụ
Tính đến năm 2007, đã có 5 khách du lịch đến thăm trạm ISS. Để lên tới đây bằng tàu vũ trụ của Nga, mỗi người phải trả từ 20 đến 25 triệu USD.
Trên ISS cũng đã tổ chức hôn lễ cho nhà du hành vũ trụ Yuri Ivanovich Malenchenko với Ekaterina Dmitrieva trong khi cô dâu đang ở tại bang Texas, Hoa Kỳ. Hôn lễ diễn ra vào ngày 10 tháng 8 năm 2003, giờ Texas.
Đánh golf vòng quanh thế giới là một sự kiện đặc biệt diễn ra trên trạm, trong một chuyến đi bộ không gian, một quả bóng golf đặc biệt, trang bị một thiết bị theo dõi, đã được đánh đi từ trạm và nhắm vào quỹ đạo thấp của trạm, chi phí do một công ty chuyên trang bị dụng cụ golf của Canada chi trả cho Cơ quan Hàng không Liên bang Nga để họ thực hiện công việc này. Nhiệm vụ này ban đầu dự định thực hiện trong chuyến bay Expedition 13, nhưng đã bị hoãn lại, rồi được thực hiện trên Expedition 14.
Vi trọng lực
Trên độ cao của trạm ISS, trọng lực của Trái Đất đã giảm mất 88% so với ở trên mặt đất. Trạng thái mất trọng lượng xảy ra do trạm rơi vào hiện tượng rơi tự do, nó tuân theo nguyên lý tương đương, ở đây trọng lượng đã biến mất. Tuy nhiên, vì (1) còn có lực kéo từ khí quyển, (2) dao động gia tốc do hệ thống máy móc và phi hành đoàn trên ISS, (3) sự hiệu chỉnh quỹ đạo trên trạm ISS do con quay hồi chuyền hoặc lực đẩy, và (4) sự tình trạng chia cắt không gian từ khối tâm của ISS, môi trường trên trạm thường được mô tả là môi trường vi trọng lực, với mức trọng lực từ 2 đến 1000 phần 1 triệu của g (giá trị sẽ thay đổi nếu tần số nhiễu loạn thay đổi; giá trị thấp xảy ra ở tần số dưới 0,1 Hz, giá trị lớn xảy ra ở tần số 100 Hz hoặc hơn). |
Bình Thủy là một quận nội thành thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Địa lý
Quận Bình Thủy nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Cần Thơ, có vị trí địa lý:
Phía đông và phía bắc giáp huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Phía tây giáp quận Ô Môn
Phía nam giáp quận Ninh Kiều và huyện Phong Điền.
Quận có diện tích 67,20 km², dân số năm
2019 là 142.164 người, mật độ dân số đạt 2.014 người/km²
Lịch sử
Nguồn gốc địa danh Bình Thủy và Long Tuyền
Ban đầu, Bình Thủy chỉ là tên một thôn và sau đó là làng thuộc địa bàn tỉnh Cần Thơ cũ. Đến năm 1906, làng Bình Thủy đổi tên thành làng Long Tuyền và sau năm 1956, làng Long Tuyền lại đổi thành xã Long Tuyền. Từ đó, địa danh Bình Thủy chỉ còn được dùng để chỉ tên một ngôi chợ và tên vùng đất quanh khu vực gần cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy (lúc bấy giờ còn gọi là Long Tuyền Cổ miếu). Tuy nhiên, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh Bình Thủy lại được sử dụng nhiều để chỉ tên gọi các phi trường và khu vực căn cứ quân sự ở vùng đất này.
Sau năm 1975, xã Long Tuyền được tách ra để thành lập mới phường Bình Thủy. Trong giai đoạn 1975-2003, Bình Thủy chỉ là tên một phường thuộc thành phố Cần Thơ (lúc bấy giờ còn là thành phố trực thuộc tỉnh). Từ năm 2004, khi Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc trung ương, địa danh Bình Thủy chính thức được dùng cho cả hai đơn vị hành chính: phường Bình Thủy và quận Bình Thủy. Hiện nay, trung tâm hành chính quận Bình Thủy được đặt ở phường Bình Thủy.
Thuở xa xưa, Long Tuyền có tên là Bình Hưng, sau đổi lại là Bình Phó. Nguồn nước sông trong lành suốt khu vực từ Cồn Linh cho đến xã Thới Bình, sông sâu mà không có sóng to gió lớn. Theo tư liệu tại Bảo tàng Hậu Giang (Cần Thơ), trào Tự Đức thứ 5 (1852), quan Khâm sai đại thần Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một chiếc hải thuyền vừa đến Cồn Linh thì gặp một trận cuồng phong dữ dội, cả thuyền ai nấy hoảng sợ. Quan khâm sai cho thuyền nấp vào con rạch yên ổn, qua cơn sóng to gió lớn, quan đại thần bèn mở cuộc vui chơi ba ngày cùng dân làng và đổi tên nơi nầy là Bình Thủy.
Đổi tên gọi Bình Thủy vì quan Khâm sai Huỳnh Mẫn Đạt nhận xét thấy địa thế nầy tốt đẹp, yên lành; ngọn rạch thường yên lặng, không hề có sóng to gió lớn, hoa màu thịnh vượng, dân lạc nghiệp an cư.
Năm Giáp Thìn 1906, trong một buổi họp mời đông đủ thân hào nhân sĩ tại công sở bàn việc đổi tên làng, Tri phủ Nguyễn Đức Nhuận (người làng Bình Thủy) đã đề nghị: Cuộc đất chúng ta đang ở rất tốt. Con rạch thì nguồn nước chảy uốn khúc như rồng nằm, miệng ngậm trái châu là cồn án ngang rạch. Lại có bốn chân: hai chân trước là hình thế rạch Ngã Tư lớn và Ngã Tư bé ngang nhau; hai chân sau là rạch Miếu Ông và rạch Cái Tắc ngang nhau. Cái đuôi uốn khúc nằm vắt qua làng Giai Xuân. Địa hình địa cuộc đã trổ ra như thế, tôi muốn đặt tên làng lại là Long Tuyền.... Cai tổng Lê Văn Noãn phụ họa: chữ Long Tuyền thật đầy ý vị. Nhưng hai chữ Bình Thủy cũng khá hay. Ý tôi muốn giữ lại cái tên Bình Thủy cho chợ nầy, và dùng chữ Long Tuyền để chỉ toàn xã thì chẳng gì bằng....
Mọi người có mặt vỗ tay đồng ý. Và vùng đất nầy mang tên Bình Thủy - Long Tuyền mãi đến sau nầy.
Về sau, do tình hình phát triển mở rộng thành phố Cần Thơ, và do dân cư đông đúc, địa giới hành chánh được phân bổ lại nên Long Tuyền - Bình Thủy được tách ra và lập nên phường xã riêng: Phường Bình Thủy và xã Long Tuyền.
Vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy xưa kia hiện nay tương ứng với các phường An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền. Riêng các phường Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc trước đây cùng thuộc địa bàn làng Thới An Đông (sau năm 1956 là xã Thới An Đông).
Thời phong kiến
Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất quận Bình Thủy ngày nay chính là địa bàn thôn Bình Thủy và thôn Thới An Đông. Hai thôn này ban đầu cùng thuộc tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), hai thôn Bình Thủy và Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, tuy nhiên lại chuyển sang thuộc sự quản lý của huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang.
Thời Pháp thuộc
Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định đặt huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc, đồng thời lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú. Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành hạt mới lấy tên là hạt Trà Ôn, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, các thôn đổi thành làng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt tham biện Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các hạt tham biện ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Cần Thơ. Tổng Định Thới ban đầu trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1906, làng Bình Thủy lại đổi tên thành làng Long Tuyền. Mặc dù không còn được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" vẫn được giữ lại để chỉ tên ngôi chợ trong địa phận làng, gần khu vực cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy.
Năm 1918, thực dân Pháp thành lập quận Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ. Từ đó, tổng Định Thới trực thuộc quận Ô Môn. Về sau, làng Long Tuyền cũng được giao về cho tổng Định Bảo thuộc quận Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý, riêng làng Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, quận Ô Môn như cũ.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Ban đầu, Ô Môn vẫn là tên quận thuộc tỉnh Phong Dinh. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên thành quận Phong Phú. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Thời Việt Nam Cộng hòa, xã Long Tuyền vẫn thuộc quận Châu Thành; xã Thới An Đông vẫn thuộc quận Ô Môn và sau đó là quận Phong Phú như cũ.
Thời Việt Nam Cộng hòa, mặc dù cũng không được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính cấp xã hoặc quận, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ tên gọi vùng đất thuộc địa bàn ấp Bình Lạc, xã Long Tuyền. Bên cạnh đó, địa danh "Trà Nóc" được dùng để chỉ tên gọi vùng đất gần khu vực cầu Trà Nóc và Khu kỹ nghệ Tây Đô (ngày nay là Khu công nghiệp Trà Nóc) vốn thuộc địa bàn xã Thới An Đông.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, theo Sắc lệnh số 115-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm, thị xã Cần Thơ được chính thức tái lập và là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Khi đó, ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền được giao cho thị xã Cần Thơ quản lý và được đổi lại thành phường An Thới thuộc quận 1 (quận Nhứt), thị xã Cần Thơ. Các ấp còn lại vẫn thuộc xã Long Tuyền, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh cho đến năm 1975.
Chính quyền Cách mạng
Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ, đồng thời vẫn duy trì tên gọi huyện Ô Môn trực thuộc tỉnh Cần Thơ như cũ trong giai đoạn 1956-1976. Lúc bấy giờ, phía chính quyền Cách mạng cũng gọi vùng đất quận Châu Thành thuộc tỉnh Phong Dinh bằng danh xưng là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ, còn quận Phong Phú thuộc tỉnh Phong Dinh thì gọi là là huyện Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ.
Về phía chính quyền Cách mạng, huyện Ô Môn ban đầu vẫn quản lý xã Thới An Đông như cũ. Về sau, xã Thới An Đông lại được giao về cho huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý.
Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định hình thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, là đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng với tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, ở khu vực thành phố Cần Thơ, chính quyền Cách mạng cho thành lập mới phường Bình Thủy, đồng thời giải thể phường An Thới cũ và sáp nhập vào địa bàn phường Bình Thủy.
Giai đoạn 1976-2003
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tỉnh Hậu Giang. Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố do thành phố Cần Thơ lúc này chuyển thành thành phố trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang. Lúc này vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy có những thay đổi như sau:
Chia phường Bình Thủy thành 2 phường: Bình Thủy và An Thới (gồm cả Cồn Sơn).
Chia xã Long Tuyền thành 2 xã: Long Hoà và Long Tuyền.
Sáp nhập xã Mỹ Khánh, xã Giai Xuân và ấp Thới Thuận, ấp Thới Hoà, ấp Thới Ngươn của xã Thới An Đông thuộc huyện Châu Thành vào thành phố Cần Thơ.
Sau này, vùng đất ven sông Hậu thuộc xã Thới An Đông cũng được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ, đồng thời toàn bộ phần đất còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ khi đó đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ cho đến cuối năm 2003.
Từ năm 2004 đến nay
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11, về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Đầu năm 2004, quận Bình Thủy được thành lập khi thành phố Cần Thơ chính thức tách ra khỏi tỉnh Cần Thơ và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngày 02 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Nội dung về việc thành lập quận Bình Thủy và các phường trực thuộc theo Nghị định như sau:
Thành lập quận Bình Thủy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của các phường: Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc và các xã: Long Hoà, Long Tuyền và Thới An Đông (thuộc thành phố Cần Thơ cũ). Quận Bình Thủy có 6.877,69 ha diện tích tự nhiên và 86.279 nhân khẩu.
Thành lập phường Long Hoà trên cơ sở toàn bộ 1.395,08 ha diện tích tự nhiên và 13.471 nhân khẩu của xã Long Hoà (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Thành lập phường Long Tuyền trên cơ sở toàn bộ 1.413,55 ha diện tích tự nhiên và 13.250 nhân khẩu của xã Long Tuyền (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Thành lập phường Thới An Đông trên cơ sở toàn bộ 1.167,56 ha diện tích tự nhiên và 9.438 nhân khẩu của xã Thới An Đông (thuộc thành phố Cần Thơ cũ).
Quận Bình Thủy sau khi được thành lập có 6.877,69 ha diện tích tự nhiên và 86.279 nhân khẩu; có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc, Long Hoà, Long Tuyền và Thới An Đông.
Ngày 06 tháng 11 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 162/2007/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập xã, phường thuộc quận Bình Thủy, quận Ô Môn, huyện Thốt Nốt và huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Nội dung về việc thành lập các phường thuộc quận Bình Thủy như sau:
Thành lập phường Bùi Hữu Nghĩa trên cơ sở điều chỉnh 637,12 ha diện tích tự nhiên và 11.185 nhân khẩu của phường An Thới. Phường Bùi Hữu Nghĩa có 637,12 ha diện tích tự nhiên và 11.185 nhân khẩu.
Thành lập phường Trà An trên cơ sở điều chỉnh 565,67 ha diện tích tự nhiên và 5.339 nhân khẩu của phường Trà Nóc. Phường Trà An có 565,67 ha diện tích tự nhiên và 5.339 nhân khẩu.
Quận Bình Thủy có 7.059,31 ha diện tích tự nhiên với 97.051 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính phường trực thuộc, bao gồm các phường: Trà Nóc, Trà An, An Thới, Bùi Hữu Nghĩa, Thới An Đông, Bình Thủy, Long Tuyền và Long Hoà.
Hành chính
Quận Bình Thủy có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền, Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc.
Đường phố
Bùi Hữu Nghĩa
Cách Mạng Tháng Tám
Đặng Thị Nhường
Đặng Thùy Trâm
Đặng Văn Dầy
Đinh Công Chánh
Đỗ Trọng Văn
Đồng Ngọc Sứ
Đồng Văn Cống
Hồ Trung Thành
Huỳnh Mẫn Đạt
Huỳnh Phan Hộ
Lạc Long Quân
Lê Hồng Phong
Lê Thị Hồng Gấm
Lê Văn Bì
Lê Văn Sô
Nguyễn Chánh Tâm
Nguyễn Chí Thanh
Nguyễn Đệ
Nguyễn Thanh Sơn
Nguyễn Thị Tạo
Nguyễn Thị Tính
Nguyễn Thị Tồn
Nguyễn Thông
Nguyễn Truyền Thanh
Nguyễn Văn Linh
Nguyễn Viết Xuân
Phạm Hữu Lầu
Phạm Ngọc Hưng
Phạm Thị Bang
Rạch Ông Đội
Rạch Ông Kính
Tạ Thị Phi
Thái Thị Nhạn
Tô Vĩnh Diện
Trần Quang Diệu
Trần Văn Nghiêm
Võ Văn Kiệt
Vườn Mận
Xóm Lưới
Xuân Hồng
Kinh tế - xã hội
Quận Bình Thủy là quận có đóng góp lớn vào tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ cho thành phố Cần Thơ: Toàn quận hiện nay có 2 cảng lớn là Cảng Trà Nóc và Cảng Hoàng Diệu. Hiện nay Cảng Trà Nóc: Tiếp nhận tàu 5.000 – 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 1,0 – 1,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 2,5 -3,0 triệu tấn/năm và cảng Hoàng Diệu: Tiếp nhận tàu đến 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 2,0 – 2,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 3,0 triệu tấn/năm. 2 khu công nghiệp gồm KCN Hưng Phú I và KCN Trà Nóc I. Trong đó KCN Trà Nóc I hiện đã thu hút hơn 123 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký lên đến 340 triệu USD.
Ngoài ra quận có một hệ thống sông rạch chi chít, sông liền sông, vườn nối vườn. Với môi trường xanh, sạch, đẹp cùng với việc bảo tồn những nét văn hoá đặc trưng, truyền thống, du lịch Bình Thủy mang một sắc thái riêng, độc đáo và hấp dẫn.
Ngoài ra, quận Bình Thủy còn có sân bay quốc tế Cần Thơ lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long có các chuyến bay đi trong nước và quốc tế với thành phố.
Quận Bình Thủy là một phần đô thị truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy về các công trình mang tính lịch sử thuộc khu đô thị trung tâm thành phố. Hiện nay quận đóng vai trò như một đầu mối giao thông quan trọng của thành phố liên vận quốc tế về đường hàng không lẫn đường thủy như sân bay Cần Thơ, cảng Hoàng Diệu, cảng Trà Nóc và cùng với đó là các trường Đại học, Cao đẳng và các cơ quan quan trọng của chính phủ và thành phố Cần Thơ.
Giáo dục
Một số trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp đóng trên địa bàn quận Bình Thủy:
Đại học Công nghệ - Kỹ thuật (cơ sở 2)
Đại học Cảnh sát Nhân dân III
Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại (cơ sở Cần Thơ)
Cao đẳng Y dược Pasteur (cơ sở Cần Thơ)
Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật TPCT (khu vực C)
Cao đẳng Văn hoá - Nghệ Thuật TP.Cần Thơ
Cao đẳng Nghề Cần Thơ
Cao đẳng Đại Việt
Trung cấp Công an nhân dân
Trung cấp Y Dược Mekong
Trung cấp Quốc tế Mekong
Trung cấp Hồng Hà cùng với các trường bậc phổ thông của quận.
Y tế
Hiện nay trên địa bàn quận có Bệnh viện Đa khoa quận Bình Thủy, Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Bệnh viện Tâm Minh Đức, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm y tế Phường Bình Thủy, Trung tâm chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Phòng Khám Chuyên Khoa Nhi
Văn hóa
Thơ ca về quận Bình Thủy
Di tích
Công sở
Một số cơ quan thuộc chính phủ và thành phố trên địa bàn quận Bình Thủy
• Phòng Tài Nguyên & Môi Trường Thành Phố Cần Thơ
• Cục Hải Quan Thành Phố Cần Thơ
• Cảng Vụ Hàng Hải Thành Phố Cần Thơ
• Cục Dự Trữ Nhà Nước Khu Vực Tây Nam Bộ
• Cục Thú Y - Chi Cục Thú Y Vùng 7
• Cục Quản Lý Chất Lượng Nông Lâm Sản & Thủy Sản Vùng 6
• Chi Cục Hải Quan Tây Đô
• Sân Vận Động Quân Khu 9
• Bộ Tư Lệnh Quân Khu 9
• Cảng Vụ Đường Thủy Nội Địa Khu Vực 4
• Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Thành phố Cần Thơ
• Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Khu Vực 5 Quân Khu 9
• Đài Thông Tin Duyên Hải Thành phố Cần Thơ
• Trung Tâm Tần Số Vô Tuyến Điện Kvh
• Cục Tần Số Vô Tuyến Điện Thành phố Cần Thơ
• Chi Cục Kiểm Dịch Thực Vật Vùng IX
• Trạm Quan Trắc Khí Tượng Nông Nghiệp Lắng Động AXIT ĐBSCL
• Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường Thành phố Cần Thơ
Giao thông
Các tuyến đường chính
Cách mạng Tháng 8 (quốc lộ 91 đi qua các phường An Thới và Bùi Hữu Nghĩa)
Lê Hồng Phong (quốc lộ 91 đi qua các phường Bình Thủy, Trà An và Trà Nóc)
Nguyễn Văn Linh (quốc lộ 91B đi qua các phường Long Hòa, Long Tuyền và Thới An Đông)
Võ Văn Kiệt (đi qua các phường An Thới, Bình Thủy và Long Hòa)
Bùi Hữu Nghĩa (tỉnh lộ 918 đi qua các phường Bình Thủy, Long Hòa và Long Tuyền)
Nguyễn Chí Thanh (tỉnh lộ 917 đi qua các phường Trà Nóc và Thới An Đông)
Tỉnh lộ 920 (đi qua phường Trà Nóc)
Tỉnh lộ 922 (đi qua phường Thới An Đông)
Đường địa phương
Phường An Thới: Đồng Ngọc Sứ, Đồng Văn Cống, Lê Văn Bì, Lê Quang Chiểu, Lê Văn Sô, Nguyễn Đệ, Nguyễn Thông, Nguyễn Việt Dũng, Phạm Hữu Lầu, Phạm Ngọc Hưng, Thái Thị Nhạn, Trần Quang Diệu, Trần Văn Nghiêm
Phường Bùi Hữu Nghĩa: Đặng Thị Nhường, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thị Tính
Phường Bình Thủy: Đặng Văn Dầy, Đỗ Trọng Văn, Huỳnh Phan Hộ, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Truyền Thanh, Lạc Long Quân
Phường Trà An: Hồ Trung Thành, Huỳnh Phan Hộ, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Viết Xuân
Phường Long Hòa: Đinh Công Chánh, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thị Tạo
Phường Long Tuyền: Đinh Công Chánh, Lê Thị Phỉ, Nguyễn Văn Trường, Đặng Xuân Hồng.
Phường Thới An Đông: Nguyễn Viết Xuân, Phạm Thị Ban.
Các trục sẽ hình thành mới
Huỳnh Phan Hộ (đi qua các phường Trà An, Long Hoà) giai đoạn 1 và giai đoạn 2 đi qua (phường Thới An Đông).
Đường nối 918 - CMT8 (đi qua các phường An Thới, Long Hoà và Long Tuyền) qua 3 giai đoạn.
Vành đai sân bay (đi qua phường Trà An, Long Hoà, Thới An Đông) giai đoạn 2. Đã hình thành giai đoạn 1, quy mô toàn tuyến dài 5km.
Trục vành đai phía Tây (đi qua các phường Thới An Đông, Long Tuyền).
Trục ĐT918 mới (Thới An Đông).
ĐT922 mới (Thới An Đông) đã hình thành.
Đặng Văn Dày giai đoạn 3 đi qua 3 phường (Bình Thủy, Long Hoà, Long Tuyền).
Trần Hoàng Na nối dài với chiều dài 7,6km đi qua các phường ( Long Hoà, Long Tuyền).
Trần Bạch Đằng ( nối khu đô thị Cửu Long phường Long Hoà với phường An Khánh, quận Ninh Kiều )
Nguyễn Tri Phương ( đi qua phường Long Hoà )
Hạ tầng
Các dự án đã và đang triển khai và kêu gọi đầu tư trên địa bàn quận
Hạ tầng đô thị
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 1 quy mô 280ha.
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 2 quy mô 249ha.
• Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 3 quy mô 300ha.
• Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 4 quy mô 12ha.
• Khu đô thị mới 2 bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 5 quy mô 85,35ha.
• Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 9 phường An Thới và phường An Hoà, quận Ninh Kiều quy mô 30ha.
• Khu đô thị - tái định cư Cửu Long 54ha ( Phường Long Hoà ) đã hình thành
• Khu đô thị Stella Mega City 150ha ( Phường Bình Thủy ) đã hình thành.
• Khu tái định cư số 1 quy mô 18,5ha ( Long Tuyền ) khu Long Hoà 3.
• Khu tái định cư số 12 ( Ô Môn - Bình Thủy ) 215ha. Trong đó 42ha/215ha tại phường Thới An Đông.
• Khu tái định cư số 13 quy mô 89ha tại phường Thới An Đông.
• Khu tái định cư Long Hoà 1 quy mô 4ha ( Trà An - Long Hoà ) đã hình thành.
• Khu tái định cư Long Hoà 2 quy mô 10ha, chuẩn bị cho công tác đầu tư.
Hạ tầng kỹ thuật xã hội khác
• Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao phường Long Tuyền quy mô 42,46ha.
• Dự án trường cao đẳng văn hoá Nghệ Thuật thành phố Cần Thơ 7,72ha tại phường Long Tuyền.
• Dự án trường Đại học Kỹ Thuật - Công Nghệ cơ sở 2 tại phường Long Tuyền quy mô 17,22ha.
• Cụm CN Bình Thủy quy mô 75ha tại phường Thới An Đông.
• Mở rộng sân bay Cần Thơ về hướng Nam quận quy mô 728,9 ha tại các phường Trà An, Long Hoà và Thới An Đông.
• Trung tâm logistics chuyên dụng hàng không kết nối với hàng không quốc tế Cần Thơ quy mô 100ha.
• Trung tâm liên kết sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản phẩm khu 2 diện tích 50ha.
Hình ảnh
Chú thích |
Whisky (tiếng Anh, tiếng Pháp: Whisky) và phần lớn nước Mỹ là Whiskey là một loại đồ uống có chứa cồn được sản xuất từ ngũ cốc bằng cách lên men và chưng cất. Từ Whisky được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1736 xuất phát từ usisge beatha trong tiếng Gaelic tại Scotland hay từ uisce beatha trong tiếng Gaelic tại Ireland và có nghĩa là "nước của cuộc sống" (uisge/uisce: "nước", beatha: "sống"). Khái niệm này đã phổ biến ngay từ thế kỷ 16-thế kỷ 17 nhưng thời đấy người ta hiểu đấy không chỉ riêng là Whisky mà còn là những loại rượu chưng cất khác có thêm đồ gia vị.
Lịch sử hình thành
Nguồn gốc
Vào thế kỷ thứ 5 các nhà tu Ki-tô giáo, mà trước tiên là thánh Saint Patrick của Ireland, bắt đầu truyền giáo trong xứ sở của người Celt và mang các dụng cụ kỹ thuật cũng như hiểu biết về cách chế tạo dược phẩm và nước hoa đến Ireland và Scotland. Theo truyền thuyết thì họ là những người đầu tiên đã chưng cất một chất lỏng trong suốt: aqua vitae hay uisge beatha. Sự hiểu biết này lan truyền trong các thế kỷ sau nhờ vào các tu viện được thành lập mà vào thời gian đó mà thường là trung tâm của các làng mạc và có mở quán rượu riêng.
Năm 1494 aquavite lần đầu tiên được nhắc đến trong các văn kiện thuế ở Scotland (Exchequer Rolls) khi nhà tu dòng Saint Benedict, John Cor, của tu viện Lindores (thuộc vùng đất phong bá tước Fife) mua 8 boll mạch nha tại thủ đô của Scotland lúc bấy giờ là Dunfermline. Boll là một đơn vị đo lường dùng để đong ngũ cốc cũ của Scotland, tương đương với 210,1 lít hay 62 kg). Lượng 8 boll tương đương với khoảng 500 kg, đủ để sản xuất vào khoảng 400 chai rượu Whisky.
Sau cuộc di dân đến châu Mỹ, Whisky cũng được thử sản xuất từ ngũ cốc. Vì cây lúa mạch (Hordeum) khó trồng ở đây nên những người nông dân ở Bắc Mỹ bắt đầu cho lên men các loại ngũ cốc tăng trưởng tốt ở đấy là lúa mạch đen (Secale) và lúa mì (Triticum). Các lò nấu rượu lâu đời nhất xuất hiện ở Việt Nam, Pennsylvania và Virginia. Vì không kiếm được than bùn nên không ứng dụng được công thức sản xuất Whisky cổ truyền và vì thế mà rượu nấu ra không được ngon. Thông qua việc đốt thành than vách các thùng đựng rượu người ta cố gắng mang lại hương khói quen thuộc vào phần cất. Mãi cho đến cuối thế kỷ 18 mới có những lò chuyên nấu rượu Whisky.
Thuế, đấu tranh và hợp thức hóa
Bắt đầu từ 1643 tại Ireland, và từ 1644 tại Scotland, Whisky bị đánh thuế chính thức. Nhưng vì không có ai thi hành nên Whisky bị cấm, đầu tiên ở Ireland vào năm 1661 và sau đấy cũng ở Scotland vào năm 1707, ngoại trừ trường hợp có giấy phép của chính phủ. Trong những năm sau đó đã có những cuộc đụng độ đẫm máu vì thuế giữa những người thu thuế và người buôn lậu.
Whisky cũng bị đánh thuế ở Mỹ: năm 1794 George Washington, người cũng có một lò nấu rượu, ra sắc lệnh thu thuế Whiskey vì nhu cầu tài chính cao của quốc gia trẻ sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh giành độc lập. Thế nhưng những người di dân không chấp nhận loại thuế này và ở Pennsylvania đã có Cuộc nổi loạn Whiskey, chỉ được dập tắt bởi một đạo quân 13.000 người dưới quyền chỉ huy của Henry Lee. Những người nấu rượu Whiskey sau đấy tiếp tục đi về miền Tây đến các bang Kentucky và Tennessee, cho đến ngày nay phần lớn sản lượng đều xuất xứ từ những bang này.
Năm 1822 đạo luật về chưng cất trái phép (Illicit Destillation Act) của Scotland ra đời, đơn giản hóa các điều luật về thuế nhưng lại thêm quyền lợi cho đại điền chủ. Lại có những cuộc bạo động. Năm 1823 một đạo luật mới, Act of Excise, được thông qua, cho phép nấu rượu Whisky với lệ phí là 10 Pound Sterling cộng với một khoản tiền không đổi cho mỗi gallon Whisky. George Smith là người đầu tiên xây dựng lò nấu rượu Glenlivet của ông theo luật lệ mới. Nhờ vào đạo luật mới mà cuối cùng là việc sản xuất Whisky công khai bắt đầu mang lại lợi nhuận, trong vòng 10 năm hằng ngàn lò nấu lậu đã biến mất ở Scotland và Ireland.
Công nghiệp hóa
Năm 1826 Robert Stein đăng ký bản quyền phát minh một phương pháp chưng cất liên tục mới cũng có thể nấu từ hạt ngũ cốc không cần phải gây mạch. Năm 1832 phương pháp này được cải tiến bởi người Ireland là Aeneas Coffey. Với cách thức của Coffey (Coffey still) người ta có thể sản xuất một sản phẩm tinh khiết hơn. Thế nhưng người Ireland không thích loại Whiskey được sản xuất theo kiểu mới này và vì thế Coffey bỏ đi đến Scotland.
Năm 1856 một người Scot là Andrew Usher, Jr. sản xuất loại Blended Whiksy đầu tiên. Cha của ông đã chào mời "Old Vatted Glenlivet" từ năm 1844. Loại Blended đầu tiên với tên "Usher's Green Stripe" vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay trên thị trường. Các thương gia khác pha trộn Whisky từ mạch nha và lúa mì, loại mà có thể được sản xuất nhờ vào phương pháp của Coffey, thành "Blended Scotch". Loại Whisky mới này được tiêu thụ nhiều tại Anh và sau đó là trên toàn thế giới, một phần cũng là nhờ vào tai họa sâu của cây nho từ 1858 cho đến 1863, đã phá hủy gần như toàn bộ cây nho ở Pháp, và vì thế mà rượu vang, Cognac và Brandy trở thành khan hiếm và rất đắt.
Vì đạo luật cấm bán rượu (1920-1933) mà phần lớn các lò nấu rượu nhỏ ở Mỹ phải đóng cửa. Tại Scotland luật này cũng dẫn đến việc nhiều lò nấu rượu phải đóng cửa. Sau khi việc cấm rượu chấm dứt, những tập đoàn lớn kiểm soát việc sản xuất công khai mới. Ngay trong các nước xuất xứ cũng có sự tập trung ngày càng mạnh của các lò nấu rượu và vô chai vào các tập đoàn lớn hoạt động trên toàn thế giới. Chỉ còn riêng lẻ một vài hãng nhỏ là còn vận hành lò nấu rượu riêng.
Phương pháp sản xuất
Phương pháp chung
Các phương pháp sản xuất Whisky khác nhau rất nhiều, nhưng có một điều mà tất cả các phương pháp đều cùng chung đó là trước tiên ngũ cốc được xay thành hạt tấm và được trộn với nước ấm trong thùng kín (mash tun). Qua đó tinh bột được hóa đường. Tiếp theo đó nước mạch nha được trộn với men trong một thùng lên men (wash back hay fermenters) và được lên men.
Chất lỏng phát sinh có khoảng 5% đến 10% rượu, được gọi là wash, ale hay distiller's beer và quả thật là gợi nhớ đến bia. Trong các thiết bị chuyên môn, chất lỏng này được chưng cất nhiều lần. Hơi phát sinh (rượu, chất tạo hương vị) được ngưng tụ (new make). Sau khi được pha loãng với một ít nước, new make được trữ trong thùng gỗ nhiều năm. Mỗi năm có vào khoảng 2,5% rượu bốc hơi ra khỏi các thùng gỗ đã được đóng kín, được gọi là phần của thiên thần (angels share hay angels'dram). Sau quá trình này thường thì Whisky được pha trộn (blend), làm loãng, lọc (ở loại Whisky đặc biệt thì được bỏ qua giai đoạn này) và đóng vào chai.
Các phương pháp đặc biệt
Để sản xuất loại Malt-Whisky, lúa mạch được chế biến thành mạch nha bằng cách làm cho ẩm và cho nảy mầm. Nhờ vậy enzyme được tạo thành và tạo khả năng hóa đường tinh bột sau đó. Sau 5 đến 8 ngày mạch nha xanh được hong khô. Tại Scotland người ta dùng một loại lò cổ truyền (kiln) và đốt một lượng than bùn nhất định trong lò. Việc này mang lại hương khói đặc trưng của một số Whisky Scotland. Mặc dầu là phương pháp này vẫn còn được sử dụng lác đác, việc gây mạch nha ngày nay được tiến hành trong các nhà máy lớn chuyên môn.
Để sản xuất Malt-Whisky của Scotland và Pot-Still-Whiskey của Ireland "bia" được chưng cất trong những bình bằng đồng có hình giống củ hành (pot still) có cổ phía trên giống như cổ của thiên nga (swan neck). Phần cất có nồng độ rượu từ 60% đến 75%. Tất cả các thử nghiệm thay thế đồng bằng các kim loại ít bị rỉ sét, dễ gia công và rẻ tiền hơn đều thất bại vì hương vị không đạt của Whisky được sản xuất. Việc chưng cất được tiến hành gián đoạn vì bao giờ cũng chỉ có thể gia công được một phần wash nhất định.
Các loại Whisky khác phần lớn được chưng cất bằng cột chưng cất (patent still, column still hay Coffey still). Loại cột này do một người Scot là Robert Stein phát minh và thử nghiệm vào năm 1826 và được người Ireland là Aeneas Coffey cải tiến trong những năm sau đó. Bằng những cột chưng cất này, phần cất được sản xuất có nồng độ rượu tối đa là 94,8%. Loại cột này làm việc liên tục và đây cũng là một ưu điểm lớn về mặt phí tổn.
Kiểu Lomond (Lomond still) do Alistair Cunningham và Arthur Warren phát triển vào năm 1955, một phương pháp pha trộn giữa pot still và column still với một ống xi lanh có nhiều tấm bằng đồng di động bên trong, không đột phá được. Tuy đã được sử dụng trong nhiều lò nấu rượu, ngày nay phương pháp này chỉ còn được sử dụng tại hãng nấu rượu Whisky Scapa.
Trong Liên minh châu Âu Whisky phải đạt được những tiêu chuẩn được quy định trong chỉ thị số 1576/89 ngày 29 tháng 5 năm 1989:
Được sản xuất bằng cách chưng cất từ nước mạch nha của ngũ cốc.
Được chưng cất đến nồng độ rượu ít hơn 94,8 phần trăm thể tích.
Được lưu trữ ít nhất là 3 năm trong thùng gỗ có thể chứa 700 lít hay ít hơn.
Có nồng độ rượu ít nhất là 40 phần trăm thể tích.
Nếu như sản phẩm không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu trên thì không được bán trong Liên minh châu Âu như là Whisky.
Các nước khác có những quy định khác đối với những tiêu chuẩn trên, thí dụ như tại Uruguay thời gian lưu trữ ngắn nhất được quy định là 2 năm.
Tên gọi
Phân loại theo loại ngũ cốc
Whisky được bán trên thị trường dưới nhiều tên khác nhau, trong đó một phần là tên loại ngũ cốc được dùng để sản xuất Whisky:
Malt là loại Whisky được làm từ mạch nha.
Grain là tên loại Whisky được sản xuất từ lúa mạch mà thông thường là sử dụng thiết bị chưng cất cột được gọi là "kiểu Coffey".
Rye là tên gọi loại Whisky chủ yếu được sản xuất từ lúa mạch đen, ít nhất là 51%.
Bourbon là tên gọi loại Whisky chủ yếu được sản xuất từ bắp (ít nhất là 51%) và được chưng cất với tối đa là 81 phần trăm thể tích rượu, đổ vào thùng chứa với tối đa là 63 phần trăm thể tích rượu.
Phân loại theo quy trình sản xuất
Mặt khác tên gọi một phần cũng thể hiện rõ quy trình sản xuất của từng loại Whisky:
Single là loại Whisky có nguồn gốc chỉ từ một lò nấu rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Scotland: Single-Malt-Whisky).
Straight cũng là loại Whisky có nguồn gốc chỉ từ một lò nấu rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whiskey của Mỹ)
Blend là một loại Whisky đã được pha trộn. Trong lúc sản xuất (blending) nhiều loại Whisky khác nhau từ nhiều lò nấu rượu khác nhau được pha vào với nhau. Trong một số sản phẩm có đến 70 loại Whisky khác nhau.
Pot Still là loại Whisky được sản xuất chỉ dùng loại bình nấu cổ điển (thường dùng cho một số loại Whiskey của Ireland).
Pure Pot Still là loại Whisky được sản xuất chỉ dùng mạch nha trong các bình nấu rượu cổ điển (thường dùng cho một số loại Whiskey riêng lẻ của Ireland).
Trước năm 2005 các tên Vatted (pha trộn Malt-Whisky từ nhiều lò nấu rượu khác nhau) hay Pure (tên không thống nhất có nghĩa là Blend hay Vatted) vẫn còn thông dụng.
Các tên khác
cask strength (độ mạnh thùng): Sau khi được trữ trong thùng người ta không cho thêm nước vào Whisky nữa để đạt đến một nồng độ rượu nhất định. Nồng độ rượu của những loại Whisky này khác nhau vì thay đổi tùy theo thời gian trữ, điều kiện môi trường, chất lượng của thùng chứa và nồng độ rượu của phần cất nguyên thủy.
vintage (năm sản xuất): Loại Whisky được sử dụng có nguồn gốc từ năm được ghi chú.
single cask (thùng riêng lẻ): Loại Whisky này có nguồn gốc từ một thùng rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Scotland).
single barel (thùng riêng lẻ): Loại Whisky này có nguồn gốc từ một thùng rượu riêng lẻ (thường dùng cho Whisky của Mỹ).
Các tên gọi Scotch, Irish hay American tất nhiên là thể hiện xuất xứ của sản phẩm. Một số tên gọi xuất xứ này được luật pháp bảo vệ và gắn liền với một số điều kiện nhất định (thí dụ như tuổi tối thiểu).
Xuất xứ
Whisky Scotland
Hiện nay Whisky Scotland được sản xuất trong khoảng 90 lò nấu rượu tại Scotland (thời điểm tháng 10 năm 2005). Ngoài ra trong thời gian gần đây còn có hằng trăm lò nấu rượu khác đang ngưng hoạt động hay không còn tồn tại nữa. Để có được một cái nhìn tổng quát, các lò nấu rượu riêng lẻ và các loại Whisky được sản xuất từ các lò nấu rượu này được phân chia theo vùng. Các loại Whisky riêng lẻ của từng vùng cũng được cho là có cùng một khẩu vị đặc trưng. Cho đến nay người ta không đi đến được một cách phân chia thống nhất có sự đồng thuận theo vùng địa phương:
Vùng Highlands trải dài ở phía Bắc của đường thẳng tưởng tượng giữa Edinburgh và Glasgow. Vùng này lại thường được tiếp tục chia ra thành Central Highlands, Northern Highlands, Western Highlands và Eastern Highlands. Các loại Whisky ở đây được cho là mạnh.
Speyside được hiểu là vùng đất dọc theo sông Spey trong các vùng đất bá tước Morayshire và Banffshire và như vậy thật ra là lại nằm trong vùng Highlands. Vùng này được coi là vùng trung tâm của Whisky Scotland với trên 50 lò nấu rượu tập trung trong một diện tích hẹp.
Vùng Lowlands nằm ở phía Nam của đường tưởng tượng giữa Edinburgh và Glasgow. Whisky được sản xuất ở đây "mềm" và nhẹ.
Whisky xuất xứ từ đảo Islay thông thường được xem là "đặc biệt mạnh" bất chấp là có hương khói và hương than nhiều hay ít.
Ngược lại, Whisky từ các đảo khác như Arran, Mull, Jura, Skye, Orkney, và có thể là lúc nào đó cũng từ Shetland, thì đúng ra là không có đặc trưng chung.
Việc chia Campbeltown ra thành một vùng riêng biệt với chỉ còn 3 lò nấu rượu tồn tại thật ra chỉ còn tính chất lịch sử, vì thế mà vùng này cũng được xếp vào vùng Highlands hay vùng đảo.
Bên cạnh các doanh nghiệp là chủ của các lò nấu rượu còn có nhiều hãng đóng chai độc lập bán Whisky trên thị trường. Các hãng này mua từ các nhà sản xuất phần nhiều là các loại Whisky đặc biệt còn trong thùng và bán đi sau khi vô chai dưới nhãn hiệu riêng. Nổi tiếng là các loại chai Whisky của Teacher's, Macallan, Highland Park hay Laphroaig và nhiều hãng khác. Nhưng chủ nhân của các lò nấu rượu, các tập đoàn rượu mạnh lớn, cũng chào bán trên thị trường các xê ri rượu của các năm sản xuất hay của các lò nấu rượu đã được lựa chọn. Các xê ri có tiếng thí dụ như là xê ri Teacher's Single Malt hay Blend Scotch Teacher's 25yo.
Phần cất từ mạch nha là nền tảng của Malt-Whisky từ Scotland mà trong đó mạch nha thường còn được hun khói bằng than bùn. Lúa mạch đã nảy mầm được hong khô trong một lò gọi là kiln. Nếu được hong khô bằng cách dùng than bùn Whisky có phảng phất hương khói. Độ hương khói được biểu thị bằng nồng độ ppm (parts per million) của phênol. Các loại Whisky như của hãng Lagavulin (khoảng 30 ppm) hay của hãng Laphroaig (trên 30 ppm) là các loại Whisky có nồng độ phênol cao. Whisky có hương khói than bùn nhiều nhất là Octomore của lò nấu rượu Bruichladdich, được cho là có trên 80 ppm phênol. Những người trong cuộc còn nói là có cả những mẫu của phần cất với nồng độ phênol lên đến 300 ppm.
Một phần cất được phép gọi là Scotch Whisky khi được sản xuất trong một lò chưng cất tại Scotland, có ít nhất 40 phần trăm thể tích rượu và được trữ ít nhất là 3 năm tại Scotland trong những thùng làm từ gỗ sồi có niêm phong của thuế quan. Thời gian trữ thông thường là 8 đến 12 năm nhưng cũng có thể kéo dài đến 15, 20, 25, 30 và 50 năm. Tùy theo lò nấu rượu, sau nhiều năm trữ khác nhau mà Whisky đạt đến được một tối ưu cân bằng giữa đặc tính chưng cất và ảnh hưởng của thời gian lưu trữ. Ở tại đa số các loại Whisky thời gian này nằm giữa 12 và 15 năm. Các Whisky lâu đời thì đặc biệt là hay "mềm" và "nhẹ" nhưng lại trả giá bằng tính chất riêng biệt vì ảnh hưởng của thùng ngày càng chiếm ưu thế. Vì thế quan niệm phổ biến cho rằng Whisky càng lâu đời càng tốt chỉ đúng có giới hạn.
Ngược với Mỹ, gần như không bao giờ những thùng gỗ sồi còn mới được sử dụng để trữ mà chỉ những thùng trước đó chứa Bourbon hay Sherry, trong vài trường hợp riêng lẻ là những thùng chứa rượu Porto hay Rum (trường hợp ngoại lệ duy nhất: "Glenfiddich Solera Reserve" – một phần của loại Whisky này được trữ chín mùi trong một thời gian ngắn trong các thùng mới). Được sử dụng chủ yếu là các thùng gỗ sồi (Quercus alba) từ Mỹ mà vừa trữ Whiskey Mỹ xong. Đầu tiên xuất phát từ nguyên do phí tổn, ngày nay việc này trở thành một phần quan trọng trong truyền thống của Whisky vì việc này mang lại cho tất cả các loại Whisky một phần lớn vị đặc trưng của chúng. Ngoài ra việc trữ trong các thùng mới không khuyến khích đặc tính riêng biệt của một Single-Malts vì vị vanill-caramel đặc trưng của Bourbon Whiskey sẽ phủ trùm lên các tính chất này. Nguyên nhân phí tổn vẫn còn đóng một vai trò quan trọng: giá một thùng từ Mỹ vào khoảng 30 Euro trong khi thùng từ Tây Ban Nha là 300 Euro. Các thùng đã chứa Sherry từ Tây Ban Nha (Quercus robur) rất thích hợp cho loại Whisky "ngọt" của Speyside trong khi loại thùng gỗ sồi Mỹ đã chứa Bourbon được dùng cho Whisky của các đảo vì hương khói. Hãng làm thùng Speyside Cooperage tại Craigellachie đóng hằng năm khoảng 100.000 thùng gỗ sồi và sửa chữa thùng cho những lò nấu rượu lân cận. Trong năm 2004 vào khoảng 18 triệu thùng Whisky được trữ tại Scotland.
Whisky trong thùng, tùy theo độ mạnh lúc vô chai và thời gian trữ theo lệ thường có đến 70 phần trăm thể tích, được pha loãng với nước đến nồng độ uống. Loại vô chai không pha loãng, trực tiếp vô chai với độ mạnh của thùng và vì vậy hay có mùi thơm nồng hơn, ngày càng được ưa chuộng.
Scotland xuất khẩu hằng năm 700 triệu chai Whisky, chủ yếu là sang Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha và Nhật.
Whiskey Ireland
Nhiều yếu tố khác nhau trong quá khứ đã dẫn đến sự tập trung cao độ trong ngành sản xuất Whiskey trên toàn đảo Ireland. Hiện nay người ta chỉ còn sản xuất đáng kể gần 100 loại khác nhau tại 3 địa điểm. Irish Distellers Group, từ 1987 thuộc về nhóm Pernod Ricard của Pháp, sản xuất trong một nhà máy công nghiệp hiện đại tại Midleton, quận Cork ở miền Nam của Cộng hòa và song song với nhà máy này là tại quận Antrim ở Bắc Ireland. Antrim là địa điểm của lò nấu rượu nổi tiếng Old Bushmills, được thành lập năm 1608 hay 1784, là lò nấu rượu lâu đời nhất vẫn còn sản xuất trên thế giới.
Tại Midleton nhiều loại Whiskey John Jameson khác nhau được sản xuất từ năm 1780, thí dụ như Paddy và nhiều thương hiệu nhỏ hơn khác cho thị trường Ireland như John Power và Tullamore Dew là nhãn hiệu đặc biệt được biết đến nhiều tại Đức và Đan Mạch. Cooley Distillery, độc lập và sáng tạo, vừa được thành lập năm 1987 tại Riverstown gần Bắc Ireland đóng một vai trò đặc biệt và mới đây vừa qua nhiều thương hiệu cũng được sản xuất tại hãng này.
Khách tham quan có thích thú về Whiskey Ireland có thể đến tham quan lò chưng cất biểu diễn Old Jameson tại Midleton cũng như bắt đầu từ năm 1997 là trong trung tâm thành phố Dublin, tại Smithfield Village, Bow Street. Bên cạnh đó cũng có thể tham quan Lockes Distillery tại Kilbeggan. Các thiết bị lịch sử được trưng bày và thông tin về lịch sử của Whiskey được cung cấp trong lò nấu rượu đã ngưng hoạt động từ năm 1953 này.
Theo lệ thường thì lửa than bùn không được sử dụng cho Whiskey Ireland, vì thế mà Whiskey Ireland nhẹ (gần như ngọt) hơn các Whisky Schottland phần nhiều có hương khói. Whiskey Ireland được chưng cất theo truyền thống 3 lần. Ngược với Whisky Scotland, ngoại trừ một ít trường hợp ngoại lệ, nói chung là được chưng cất 2 lần. Ngược với việc sử dụng cái gọi là Coffey-Still cho việc sản xuất Grain-Whisky, các lượng cần thiết để pha trộn được sử dụng trong những Pot-Stills tại Ireland.
Whiskey Ireland phần nhiều là blend, thế nhưng trong thời gian vừa qua Single Malts cũng được chào mời nhiều hơn. Pure Pot Still là tên gọi chất lượng thêm miêu tả việc sử dụng duy nhất một thiết bị chưng cất pot still.
Việc pha trộn (blend) Whiskey Ireland khác với việc pha trộn Whisky Scotland trước tiên là ở chỗ thông qua việc kết hợp nhiều quy trình làm chín mùi khác nhau trong nhiều loại thùng khác nhau (thùng Sherry, Bourbon, rượu vang Porto để có ảnh hưởng đến khẩu vị. Vì thế mà người ta cũng gọi blend ở Ireland là vatting (từ vat trong tiếng Anh, có nghĩa là "thùng trộn").
Các blend nổi tiếng là:
Crested Ten
Inishowen
Jameson
Midleton Very Rare
Paddy
Tullamore Dew
John Power & Son
Các Single Malt nổi tiếng là:
Bushmills
Connemara
Locke's 8 Year Old
Tyrconnell
Red Breast
Whiskey Mỹ
Whiskey Mỹ được sản xuất từ lúa mạch đen, bắp, lúa mạch hay hiếm hơn là lúa mì, thành phần của các loại ngũ cốc khác nhau tùy theo vùng.
Bourbon là loại Whiskey phải được sản xuất từ ít nhất là 51% bắp, thường được dùng là một thành phần bắp khoảng 65% đến 75% trong nước ủ rượu. Ngoài ra còn có thời gian lưu trữ được quy định theo pháp luật là 2 năm trong những thùng mới từ gỗ sồi trắng, bên trong được đốt thành than. Việc sử dụng thùng gỗ sồi mới mang lại một phần lớn vị ngon cho Bourbon thật ra không được dùng vì lý do khẩu vị mà là vào đầu thế kỷ 20 chính phủ muốn giúp đỡ kinh tế cho những vùng kém phát triển có nhiều rừng (thí dụ như Arkansas). Bourbon Whiskey có được độ chín mùi chỉ sau vài năm nhờ vào gỗ mới của thùng và điều kiện khí hậu của vùng sản xuất. Tên gọi xuất phát từ quận Bourbon ở Kentucky.
Rye Whiskey hay đơn giản chỉ là Rye là anh em của Bourbon được nhiều người sành điệu diễn tả là mạnh hơn và thơm hơn, nước ủ rượu của Rye phải chứa ít nhất là 51% lúa mạch đen. Rye là Whisky khởi đầu trên toàn Bắc Mỹ. Chỉ đến cuối thời kỳ cấm rượu Rye mới bị Bourbon hay Tennessee Whisky vượt qua về mức độ ưa chuộng và ngày nay gần như là một loại hiếm.
Tennessee Whiskey từ Tennessee có nguồn gốc ít nhất là 51% từ bắp và ít nhất là 20% từ lúa mạch đen, lúa mì hay lúa mạch. Trước khi được đưa vào thùng trữ Tennessee Whiskey được lọc qua than gỗ làm cho Whiskey này rất êm dịu. Phương pháp này được gọi là charcoal mellowing, leaching hay chính xác là Lincoln County Process. Than gỗ này được sản xuất từ cây gỗ thích (Acer)
Corn Whiskey là Whiskey làm từ bắp với ít nhất là 80% phần bắp trong nước ủ rượu. Whiskey được phép chưng cất tối đa đến 80% và phải trữ ít nhất là 2 năm trong thùng gỗ sồi mới hay đã qua sử dụng, không được đốt thành than.
Những hiệu nổi tiếng:
Jim Beam (Bourbon, Rye)
Wild Turkey (Bourbon, Rye)
Bernheim (Bourbon, Rye)
Four Roses (Bourbon)
Buffalo Trace (Bourbon, trước đây là Ancient Age)
Labrot & Graham (Bourbon)
Van Winkel (Bourbon)
Jack Daniel's (Tennessee Whiskey)
George Dickel (Tennessee Whisky)
Maker's Mark (Kentucky Straight Bourbon Whisky)
Maker’s Mark được sản xuất từ năm 1953 ở gần Loretto, Kenticky, từ gia đình nấu rượu Samuels với số lượng tương đối nhỏ (20 đến 40 thùng một ngày). Trong giới những người yêu thích thì đây là loại Bourbon "thanh lịch" nhất.
Southern Comfort, thỉnh thoảng được gọi là Whiskey, thuộc vào các rượu mùi-Whiskey. Đây là một sự pha trộn từ Bourbon và rượu mùi làm từ trái đào có thêm trái đào, chanh và gia vị. Năm 1874 người đứng bar Martin Wilkes Heron ở New Orleans phát minh ra một loại cocktail với tên Cuffs and Buttons như là loại tương phản với Hats and Tails đang được ưa chuộng lúc bấy giờ và bán trên thị trường từ năm 1889 một cải tiến loại cocktail này dưới tên Southern Comfort.
Yếu tố kinh tế Whisky
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong năm 2004 có trên 11.000 người làm việc trong ngành công nghiệp Whisky, thêm vào đó còn khoảng 57.000 người trong công nghiệp cung cấp phụ thuộc trực tiếp. Trên 953 triệu chai Whisky đã được bán, trong đó là 55 triệu chai Single Malt và mang lại cho quốc gia vào khoảng 800 triệu Bảng Anh) thu nhập từ thuế rượu. Doanh thu từ xuất khẩu Whisky là hơn 2 tỉ Bảng Anh, trên 90% là từ Blended Whisky.
Thưởng thức Whisky
Whisky như là một hình thức đặc biệt của rượu mạnh thông thường được uống để thưởng thức. Đóng góp vào đó trước tiên là những chất mang lại vị và hương thơm có bên trong. Vì thế mà nhiều phương pháp khác nhau có thể tham gia vào việc tăng độ thưởng thức của Whisky bằng cách tăng cường giải phóng những chất này.
Có thể đạt đến bằng cách pha loãng với nước. Phần nhiều các Whisky trên thị trường với 40 hay 43 phần trăm thể tích đã được pha loãng với nước trước đó đến độ mạnh có thể uống được. Việc giảm thêm nồng độ rượu trong ly đến khoảng 35% hay được khuyên nhủ, điều mà đặc biệt là tiếp tục giải phóng thêm hương thơm. Các loại Whisky được đong vào chai với độ mạnh của thùng (trong khoảng 60 phần trăm thể tích) thường quá mạnh để có thể uống không thêm nước. Qua việc cho thêm nước độ mạnh của rượu được giảm đi và những chất thơm của Whisky được giải phóng. Ngay người Scot và người Ireland cũng thường uống Whisky của họ với tỉ lệ pha loãng vào khoảng 1:1, việc phục vụ Whisky với một ly/bình nước là bắt buộc ở đấy.
Ngoài ra Whisky cũng thường được uống có thêm nước đá (Whisky on the rocks). Điều này thông thường làm giảm hương thơm vì một phần lớn các chất cho hương thơm (rượu trung bình, este, phênol) bị lắng xuống do nhiệt độ lạnh, Whisky trở nên đục thấy rõ.
Người ta nên dùng Whisky ngon để pha chế cocktail nhưng Single Malts thì gần như là quá phí. Các Whisky này chỉ thích hợp một phần vì đặc tính có mùi khói. Các loại nhẹ hơn như Whisky Canada thích hợp tốt hơn. Bourbon Whisky được sử dụng trong cocktail chua (sour) vì vị những Whisky khác hài hòa không tốt với phụ gia chua. |
Tara (zh. 多羅, sa. tārā, Tara, Drolma, bo. sgrol-ma སྒྲོལ་མ་) từ tiếng Phạn Tārā, là tên của một vị nữ Bồ Tát thường gặp trong Phật giáo Tây Tạng. Tên này dịch ý là Độ Mẫu (zh. 度母), Cứu Độ Mẫu (zh. 救度母), là "người mẹ cứu độ chúng sinh". Lục Độ Mẫu (vị cứu độ mẫu thực hành Lục độ ba la mật, chữ "lục " này là 6 khác với chữ "lục " là xanh để chỉ vị đại diện là Tara Xanh, tóm lại khi Lục Độ Mẫu là 21 vị Tara khi đó lục có nghĩa là 6, khi chỉ riêng mình Tara xanh thì lục là màu xanh lá cây.)
Biểu tượng
Bổn Tôn Tara biểu hiện là một vị Bổn Tôn trẻ đẹp, có khả năng hóa thân. Ngài có thể hiện ra trong màu xanh, màu trắng, đỏ, hay màu của vàng. Mỗi màu đều có ý nghĩa riêng. Phía sau đầu của Bổn Tôn Tara là ánh sáng của trăng tròn, là biểu tượng của áng sáng soi sáng trái đất. Ánh sáng đem lại sự mát lành, xóa tan đau khổ của vòng luân hồi. Ngài ngồi trên một tòa sen nở và một chiếc đĩa tròn. Vòng quanh thần là một vòng lửa màu vàng, mà lời kinh cầu nguyện số 21 nói rằng: "như lửa cháy ở cuối thời đại này".
Trên mỗi bàn tay, Ngài nhẹ nhàng cầm một cành hoa dài màu xanh trắng, hoa utpala, một loại hoa có mùi hương thơm ngọt giống như hoa sen, loại hoa mọc trên bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hoa utpala là sự trong sạch tự nhiên, mà theo Gehlek Rinpoche nói "để có thể là người trong sạch, hãy hành động một cách trong sạch".
Ba ngón tay của tay trái Ngài chỉ lên để biểu hiện ba thứ quý giá, đó là: Đức Bụt, Pháp Bụt và Giác Ngộ, hay sự tự giải phóng (tự tại). Tay phải duỗi ra, ngửa bàn tay về phía trước với một cử chỉ mời gọi. Genlek Rinpoche nói "Bổn Tôn Tara nói với những người bị mất hi vọng và không có ai giúp đỡ, rằng: hãy lại đây, ta đang ở đây. Y áo có những sợi lụa mềm được trang điểm bằng những hạt châu báu, dái tai dài và thanh nhã. Trên thực tế, các Đức Bụt thì không đeo châu báu, nhưng Bổn Tôn Tara lại mang châu báu. Những châu báu này sáng lấp lánh như sự cảnh báo về những đau khổ trên trần thế.
21 Thánh Độ Mẫu
Cứu Độ Tốc Dũng Mẫu
Bách Thu Lãng Nguyệt Mẫu
Lam Kim Cứu Độ Mẫu
Như Lai Đỉnh Kế Mẫu
TARA Tự mẫu TUTARA HUNG
Thích Phạm Hỏa Thiên Mẫu
Trát Phét Cứu Độ Phật Mẫu
Ture Phẫn Nộ Mẫu
Tam Bảo Nghiêm Ấn Mẫu
Uy Đức Hoan Hỷ Mẫu
Thủ Hộ Chúng Địa Mẫu
Đỉnh Quan Nguyệt Tướng Mẫu
Như Tận Kiếp Hỏa Mẫu
Thủ Án Đại Địa Mẫu
An Thiện Tĩnh Tịch Mẫu
Phổ Biến Cực Hỷ Mẫu
Ture Đốn Túc Mẫu
Cụ Hải Thâm Tướng Mẫu
Chư Thiên Vân Tập Mẫu
Nhật Nguyệt Quảng Viên Mẫu
Cụ Tam Bảo Tướng Mẫu.
Một danh sách danh hiệu 21 Độ Mẫu tương tự như sau:
Lục Độ Mẫu
Cứu Tai Nạn Độ Mẫu
Cứu Thủy Tai Độ Mẫu
Cứu Địa Tai Độ Mẫu
Cứu Hỏa Tai Độ Mẫu
Cứu Phong Tai Độ Mẫu
Tăng Phúc Tuệ Độ Mẫu
Cứu Thiên Tai Độ Mẫu
Cứu Binh Tai Độ Mẫu
Cứu Ngục Nạn Độ Mẫu
Cứu Đạo Nạn Độ Mẫu
Tăng Uy Quyền Độ Mẫu
Cứu Ma Nạn Độ Mẫu
Cứu Súc Nạn Độ Mẫu
Cứu Thú Nạn Độ Mẫu
Cứu Độc Nạn Độ Mẫu
Phục Ma Độ Mẫu
Dược Vương Độ Mẫu
Trường Thọ Độ Mẫu
Bảo Nguyện Độ Mẫu
Như Ý Độ Mẫu
Các Câu Chuyện Cảm ứng
Tara Cứu Độ Mẫu là đối tượng cầu nguyện của đại đa số phật tử theo truyền thống Kim Cương thừa - Đại thừa bởi bản nguyện của ngài nên bất kỳ ai chân thành cầu nguyện đều dễ dàng Thành tựu mọi tâm nguyện thế gian hoặc xuất thế gian. Có thể cầu nguyện tới Ngài bằng cách tán tụng bài 21 lục Độ Mẫu hoặc trì chân ngôn của ngài " OM TARE TUTTARE TURE SOHA"
ở Ấn Độ có người rất nghèo, khi thấy tượng Độ mẫu liền quỳ xuống cầu khẩn, chợt thấy tượng chỉ tới nơi tháp, người ấy tới đào lên thấy bình tràn đầy chau báu. Lẽ ra người ấy phải chịu 7 đời nghèo khổ, nhưng từ đây nghiệp nghèo khổ của 7 đời tan hết, đời đời được sinh làm người giàu có.
ở Ấn Độ có vị sadi đang đi đường thấy nơi thờ cúng thiên thần, vị sadi liền bước qua. Thiên thần nổi giận dùng sấm sét để giết, sadi sợ hãi kêu cầu Độ mẫu rồi quay về thỉnh 500 người cùng trì tụng chân ngôn Độ Mẫu, sấm sét chẳng thể hại được.
Lại có người nương theo bóng đêm dùng lửa đốt nhà kè thù, trong nhà chỉ có cô gái yếu đuối bị lửa bức bách. Cô lớn tiếng kêu cứu Độ mẫu, đột nhiên có vị Độ Mẫu màu vàng xuất hiện đứng trên lửa tuôn mưa xuống như trút nước, nhờ vậy lửa bị dập tắt.
Lại có 100 vị tăng đi qua sông, bị nước cuốn đến giữa dòng sông, bèn niệm Độ Mẫu. Đột nhiên thấy tượng Độ Mẫu đang được thờ cúng trên bờ sống đi ra cứu giúp. Về sau tượng Độ Mẫu này được gọi là Phong Thủy Cứu Độ Mẫu.
Lại có 5000 người nương theo thuyền lớn vào biển tìm báu vật. Đến xứ Đại Tử Đàn, Long vương chẳng thích. Lúc quay về bỗng gặp gió lớn đưa thuyền qua vô số biển có nhiều màu sắc. Mọi người kêu gọi Nhật, Nguyệt, Thượng đế đều vô hiệu. Dây cột buồm lại đứt nguy hiểm vạn phần tính như hơi thở ra thở vào. Bỗng trong chúng có người tụng chú Độ Mẫu, đột nhiên gió thổi ngược chiếc thuyền quay trở lại. Qua một đếm chiếc thuyền chở đầy châu báu và mọi người trở về nhà an toàn.
Lại có vị tăng chủ mắc bệnh rụng lông mày, 5 vị tăng khác cũng bị bệnh này. Thịt rụng lông mày rơi chẳng có thuốc trị không ai dám đến gần sợ bị truyền nhiễm. Trên đường đi khất thực các vị thấy tảng đá khắc chữ Độ Mẫu và tượng của Độ Mẫu liền khóc lóc cầu khẩn. Trên tay tượng bỗng tuôn ra chất nước có dạng như thuốc. Các vị ấy lấy rửa thì bệnh khỏi tướng mạo lại đẹp đẽ trang nghiêm như người Thiên Giới.
Tại Ấn Độ có tháp Bồ Đề trên tháp có tượng Độ Mẫu, một vị tăng nói đùa với tượng rằng " hướng mặt vào trong tháp đừng hướng ra ngoài tháp há chẳng tiện hơn sao ? " nói xong bỗng nghe bức tượng đáp " ông đã không vừa ý ta quay thân như thế nào đây ? ". Tượng đó liền quay thân hướng mặt vào bên trong. Đang lúc quay ngược thân thì cửa tháp và tượng đều tùy theo thân tượng quay ngược lại. Đến nay còn được gọi là Phản Thân Độ mẫu.
Vùng Đông Bắc Ấn Độ có vị tỳ kheo ở gần nơi cấp nước. Xứ đó có tảng đá khắc tượng Độ Mẫu mà xứ này tu theo. Vị tỳ kheo tiểu thừa thấy kinh điển Đại thừa liền thiêu đốt lại rất ghét Mật Tông, hay phá tượng Mật Tông. Đức Vua nổi giận liền muốn bắt vị tỳ kheo để trừng phạt. Tỳ kheo này bỗng quỳ xuống trước tượng Độ Mẫu cầu cứu. Đột nhiên nghe Độ Mẫu nói chuyện " khi ngươi vô sự chẳng cầu ta sao ?" bèn chỉ nằm trong cái rãnh nước kia thì có thể thoát. Vị tỳ kheo thấy cái rãnh nước dưới bậc thềm nhỏ như cái bát liền nghĩ " làm sao có thể nằm được ? thật khó quá ! ". Độ Mẫu thúc dục " nằm mau xuống, người đi bắt đến cửa rồi ". Vị tỳ kheo sợ hãi không kịp suy nghĩ liền nằm xuống. Nhà vua chẳng bắt được bèn tha cho.
Thời A DỤC Vương ở Ấn Độ có vị trưởng lão rất giàu, nhà vua khởi tâm ác muốn hại nên ra lệnh bắt vị trưởng lão. Vị ấy sợ hãi liền kêu cứu với Độ Mẫu. Khi chân mới đạp lên bậc cửa thềm thì cửa thêm liền biến thành vàng, vị ấy liền dâng cho vua. Lúc trong ngục hư không lại tuôn châu báu như mưa, vị trưởng lão lại đem dâng vua. Khi ấy cây khô héo hóa ra cây đầy quả trái, vua vui thích liền cho vị trưởng lão làm đại thần. |
Loveless (tiếng Nhật: ラブレス) là một anime shonen-ai được dựa trên manga cùng tên của Kouga Yun. Anime này gồm 12 tập, mỗi tập 23 phút. Anime Loveless được J.C.Staff và Nanatsu no Tsuki sản xuất. Âm nhạc anime do Nakanishi Nobuaki thực hiện và đạo diễn anime là Kou Yuu. Loveless Anime đã được phát sóng trên TV Asahi từ tháng 4 năm 2005. Hiện anime đã được hãng Media Blaster của Mĩ mua bản quyền, dự kiến sẽ ra trong năm 2006.
Tóm lược
Aoyagi Ritsuka, một cậu bé 12 tuổi đã gặp Agatsuma Soubi trong ngày đầu chuyển trường. Lúc đầu, Soubi nói rằng anh là bạn của anh trai cậu – Seimei Aoyagi, người đã chết vài năm trước. Thân phận thật của Soubi đã bị Ritsuka khám phá khi 2 người bị 1 cặp Fighter và Sacrifice là Ai và Midori tấn công. Sự thực về kẻ giết chết Seimei lộ ra, Seimei bị tổ chức Seven Moon (ななつの月) ám sát, còn Ai và Midori là thành viên của tổ chức đó. Soubi thực ra là Fighter của Seimei và giờ đây, anh trở thành Fighter của Ritsuka. Từ đó dần dần hiện ra sự thực về tổ chức Seven Moon và lý do cái chết của Seimei ngày một rõ hơn.
Nhân vật của anime
Aoyagi Ritsuka
Lồng tiếng bởi Minagawa Junko
dù chỉ là một cậu bé lớp 6 nhưng có lẽ cái cuộc sống quanh cậu không được như bao người khác. Từ sau cái chết của Seimei, mẹ cậu trở nên điên loạn và lâu lâu lại muốn giết cậu. Bản thân cậu cũng không còn ký ức về quá khứ xưa. Tự cô lập và tách mình khỏi bạn bè. Nhưng điều này đã thay đổi khi Soubi xuất hiện. Trong trường học Seven Moons, cậu được gọi là Loveless (nghĩa là "không có tình yêu").
Agatsuma Sōbi
Lồng tiếng bởi Konishi Katsuyuki
vốn là fighter của Seimei – anh trai của Ritsuka. Thường thì khi một sacrifice chết, fighter của họ sẽ chết theo nhưng Soubi đã theo những lời để lại của Seimei và tìm đến bảo vệ Ritsuka. Trên cổ anh khắc chữ Beloved và đó cũng là tên của Seimei.
Aoyagi Seimei
Lồng tiếng bởi Narita Ken
dù không xuất hiện nhiều trong anime nhưng nếu không có anh thì cậu chuyện này không tồn tại. Anh bị giết bởi tổ chức Seven Moon nhưng thực sự thế nào thì không ai hay biết. Một con người mang đầy những bí ẩn.
Shinonome Hitomi
Lồng tiếng bởi Mamiko Noto
là giáo viên ở trường của Ritsuka, Yayoi và Yuiko. Cô không thực sự đóng vai trò lớn trong anime nhưng với Ritsuka, cô cũng như một người bạn. Cô thầm yêu Soubi, nhưng vì rất ngây thơ và không biết chuyện giữa Ritsuka và Soubi, mà cô đã bị Soubi từ chối thẳng thừng. Khi gặp Youji, cô đã bị trêu vì đến năm 23 tuổi vẫn có tai.
Ai và Midori
Lồng tiếng bởi Koshimizu Ami và Takagi Motoki
Ai là fighter và Midori là sacrifice. Hai người còn gọi là Breathless. Đay là nhóm đầu tiên mà Seven Moon gửi đi để bắt Ritsuka nhưng đã thất bại và quay về.
Youji và Natsuo
Lồng tiếng bởi Yoshino Hiroyuki và Saiga Mitsuki
Nhóm thứ 2 được gửi đến. Hai người gọi là "Zero" (số không). Điều đã làm Sōbi khó khắn lắm mới chiến thằng được nhóm này là đúng với cái tên Zero là họ không có cảm giác đau đớn về thể xác. Nhưng sau khi Soubi thắng thì họ lại không thể quay về vì với Nagisa-sensei thì thất bại là điều không được chấp nhận. Họ đã lưu lại nhà Kaido Kio, bạn của Soubi. Đây là một cặp Shounen ai.
Kouya và Yamato
Nhóm cuối cùng và cũng mang tên Zero. Hai người này là thành phẩm hoàn hảo của Nagisa vì cái lỗi lớn nhất của nhóm Zero là nhiệt lạnh thì ở nhóm Zero này đã được sửa chữa. Sau thất bại, bản chất họ không thể quay về. Nhưng với Nagisa thì bà ta chỉ cần Kouya còn Yamato sẽ bị thay thế. Hai người họ đã theo chân nhóm trước và không quay về. Đây là một cặp Shoujo ai.
Kaidō Kio
Lồng tiếng bởi Ken Takeuchi
là bạn cùng học của Sōbi. Anh ta gặp khá nhiều rắc rối về Sōbi và có vẻ như cũng biết khá nhiều vè chuyện Soubi và Seimei. Anh yêu Sōbi dù biết anh là fighter của một người đã chết và giờ là một thằng bé 12 tuổi. Tính tình vui vẻ, hoạt bát và nói nhiều.
Ritsu-sensei và Nagisa-sensei
Lồng tiếng bởi Koyasu Takehito và Kobayashi Sanae
Ritsu là người đã đào tạo ra tài năng của Soubi hiện nay. Anh còn là một người khá lạnh lùng và có hứng thú với bướm (butterfly). Trái ngược với Ritsu, Nagisa luôn khoác lên mình vẻ trẻ con ngây thơ nhưng thực tế cô ta là một người tàn độc và bất chấp thủ đoạn.
Yayoi và Yuiko Hawatari
Lồng tiếng bởi Fukuyama Jun và Ueda Kana
Hai con người vui vẻ và trẻ con với đúng với cái tuổi 12. Yayoi thích Yuiko nhưng Yuiko lại hướng về Ritsuka. Nói chung là một cặp đôi khá quái đản và hài hước.
Âm nhạc trong Anime
Một điều quan trọng thảo ra thành công của anime là âm nhạc. Và nếu chấm thang điểm trên 10 thì Loveless được khoảng 8 đến 9. Ngoài mở đầu và kết thúc khá ấn tượng. OST của Loveless cũng thực sự tạo được sự thu hút lớn.
Mở đầu: "Tsuki no Curse" do Okina Reika trình bày
Kết thúc: "Michiyuki" do Kaori Hikita trình bày
Fighter và Sacrifice
Đây là một điểm đặc biệt của anime này.
Fighter ở đây theo đúng nghĩa của nó là người chiến đấu, Fighter sử dụng những câu thần chú (spell), hay những lời nói hoa mỹ làm vũ khí tấn công. Có thể xem tốc độ phản ứng và cách sử dụng từ ngữ là thước đo khả năng của Fighter. Phản ứng càng nhanh, từ ngữ càng phong phú thì Fighter đó được coi là mạnh.
Sacrife là người được Fighter bảo vệ. Mỗi lần Fighter của đối phương tấn công, Sacrife sẽ là người hứng trọn các đòn tấn công đó cho Fighter của mình. Mục đích của việc tấn công Sacrife là bắt giữ hoàn toàn Sacrifice ấy (restrain).
Trong ep9 có xuất hiện một luật: nếu Fighter tự đầu hàng (bỏ cuộc) trong một trận đấu, thì Fighter đó sẽ mất tư cách và trở thành người bình thường. Chưa rõ luật này có áp dụng cho Sacrife hay không
Người tai mèo
Mọi người trong anime này khi sinh ra đều có tai mèo. Nhưng nếu họ đã có quan hệ với một người khác thì tai và đuôi sẽ rụng. Vì lý do đó nên những người khá lớn tuổi mà vẫn còn tai và đuôi thì có nghĩa là họ vẫn còn chưa có quan hệ với ai.
Tên các tập
Breathless
Memoryless
Bondless
Friendless
Sleepless
Painless
Tearless
Trustless
Skinless
Nameless
Warless
Endless |
Dây sống là một trong những đặc trưng của ngành động vật có dây sống, gồm các lớp bò sát, chim, cá sụn v.v... mà không ngành nào khác có được.
Dây sống, với nhiệm vụ là bộ xương trong của những loài động vật này, nâng đỡ chúng trong việc di chuyển và bảo vệ những cơ quan quan trọng như hệ thần kinh, phổi...
Cấu tạo
Trong giải phẫu động vật, dây sống là một dây linh hoạt với cấu tạo rắn và xốp (gần giống như sụn), có nguồn gốc từ nội bì gồm toàn những tế bào có không bào lớn. Dây sống nằm dọc theo cơ thể từ đầu đến đuôi, thường là gần với lưng hơn so với bụng của động vật.
Dây sống được cho là có lợi thế (cả trong bối cảnh tiến hóa và phát triển) bởi vì nó cung cấp cấu trúc chắc chắn để gắn cơ, nhưng vẫn linh hoạt.
Ở các nhóm động vật có mức độ tiến hóa thấp, dây sống vẫn tồn tại trong suốt cuộc đời như sự hỗ trợ trục chính của cơ thể, trong khi ở hầu hết các động vật bốn chân nó trở thành lõi nhân của đĩa đệm.
Ở các loài động vật có xương sống tiến hóa cao (như bò sát, chim, thú) dây sống chỉ tồn tại ở giai đoạn phôi thai, sau đó bị các tế bào xương sống chèn ép làm cho thoái hoá chỉ để lại vết tích ở trung tâm thân đốt sống hoặc thoái hoá không để lại vết tích gì. |
Mã hóa âm thanh tiên tiến hay Advanced Audio Coding (viết tắt: AAC) - (ISO 14496-3) là một định dạng âm thanh đa năng nén kiểu lossy được định nghĩa theo tiêu chuẩn MPEG-2 và được phát triển bởi liên minh Fraunhofer, Dolby, Sony và AT&T. AAC được phát triển nhằm thay thế cho định dạng âm thanh đã quá nổi tiếng MP3 để tích hợp trong container MP4-một container của MPEG-4 tiêu chuẩn hỗ trợ đầy đủ các tính năng phụ (xem thêm phần MPEG-4).
Dạng định này được phát triển để xóa đi những chỗ yếu của MP3 và nâng cao phương pháp mã hóa đã có. Do vậy những tín hiệu thu của âm thanh hay tiếng động sẽ được nhận biết và mã hóa một cách hiệu quả hơn hoặc những vấn đề của Pre-Echo sẽ giảm thấp xuống nhiều.
AAC có thể tích hợp tới 48 kênh âm thanh (có sample rate tới 96KHz) cộng thêm 15 kênh âm thanh tần số thấp (Low Frequency Enhancement-LFE) giới hạn sample rate ở 120 Hz.
Một số Profile của AAC (HE-AAC, LC-AAC, LD-AAC, AAC, SSR.AAC)
Đây là một vài profile của MPEG-4 AAC tiêu chuẩn.
Low Complexity (LC) nghĩa là “ít phức tạp”. Ở mức độ Bitrate trung bình đến cao, được sử dụng trong hệ thống mua bán nhạc trực tuyến của Apple và RealNetWorks hoặc được cài sẵn trong phần cứng.
High Efficiency (HE) nghĩa là “hiệu quả cao”. HE-AAC cũng được hiểu theo cách khác là AACPlus, AAC+ hay AAC SBR(Spectral Band Replication)... HE-AAC được phát triển nhằm sử dụng trong việc mã hóa với bitrate thấp – đặc biệt có tác dụng với tập tin âm thanh đa kênh (multichannel).
Low Delay (LD) nghĩa là "Thời gian trễ thấp". Được sử dụng cho thời gian dật nhỏ (khoảng 20ms) ở mức Bitrate trung bình đến mức độ cao. Được sử dụng trong lĩnh vực liên lạc, ví dụ như trong hệ thống Video Họp.
Main Profile - Profile chính
Scalable Sample Rate (SSR) - dành cho "Streaming" hay "coi trực tuyến". Nó cho phép đưa lại dự liệu liên tục mà không bị vấp bằng cách giảm độ Bitrate, nếu như băng thông đường truyền không cho phép, hoặc độ băng thông cho phép bỗng nhiên giảm mạnh.
Ý nghĩa của AAC
AAC là dạng định nén âm có tiêu hao về chất lượng, được sử dụng rộng rãi qua các kênh mua bán nhạc trực tuyến như iTunes Store, Real Music Store, LiquidAudio được gắn kèm với hệ thống chống sao chép DRM (ví dụ như FairPlay của Apple).
Trên máy iPod của Apple hay máy điện thoại di động của Nokia, Samsung, Sony Ericsson, Siemens bạn có thể chơi những dữ liệu dạng AAC này. AAC đem lại độ nén cao hơn so với những dạng định khác với mức nén có thể tới 1:16. Ví vậy ngay ở mức 64 kbit/sec/chanel audio thì đã đạt được mức chất lượng khá, ở mức 192 kbit/sec/chanel audio thì có thể ngang với chất lượng CD.
Như :
352,8Kbps, 16bit/44100Hz = CD Quality.
384Kbps,16bit/48000Hz = DVD Quality (tương đương Hi-Res Audio).
Weblinks
Apple với MPEG-4 - AAC Audio (english)
Thông số kỹ thuật Knowledge Base and Open Source AAC Codecs của AudioCoding.com (englisch)
Thông tin bản quyền: Via Licensing Corporation - patent licensing services - MPEG-4 AAC (englisch)
1 Trang khá hay về chủ đề Nén dữ liệu: Ultimate compression resources catalog: AAC (englisch) |
Trong giải tích, vật lý học hay kỹ thuật, trường thế vô hướng, thường được gọi tắt là thế vô hướng, trường thế hay thế, là một trường vô hướng mà trái dấu của gradient của nó là một trường vectơ.
Giả sử có một trường vector v, thế vô hướng φ của v là một trường vô hướng có trái dấu gradient của nó là v:
(1)
Mọi trường thế vô hướng đều có trường vectơ tương ứng. Nhưng chỉ có các trường vectơ bảo toàn, v, với đạo hàm riêng liên tục mới có trường thế tương ứng φ, định nghĩa bằng tích phân đường, so với điểm mốc r0:
(2)
Ở đây, là vectơ vị trí trong tích phân.
Hai phương trình (1) và (2) là tương đương, theo định lý cơ bản của giải tích. Ứng với mỗi trường vectơ bảo toàn v có vô số trường thế φ thỏa mãn (1). Theo (2), việc chọn điểm mốc r0 giúp cố định φ cụ thể, phụ thuộc vào φ(r0). Tuy nhiên trong kết quả của (2), khi φ(r0) có thể thay đổi tùy lựa chọn, giá trị của trường vectơ tương ứng vẫn không đổi.
Trường thế vô hướng có nhiều ứng dụng trong vật lý. Mở rộng cho đại lượng có hướng của trường thế vô hướng là trường thế vectơ.
Ví dụ
Trường thế có thể được định nghĩa cho nhiều trường vectơ bảo toàn trong vật lý:
Trường thế của trường điện gọi là điện thế
Trường thế của trường lực bảo toàn gọi là thế năng
Trường thế của lực hấp dẫn gọi là thế năng hấp dẫn |
Trong điện học, điện thế là trường thế vô hướng của điện trường; tức là gradien của điện thế là vectơ ngược hướng và cùng độ lớn với điện trường.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, điện thế có giá trị tùy theo quy ước điện thế của điểm lấy mốc. Trong kỹ thuật điện và điện tử học, khái niệm hiệu điện thế hay điện áp thường được dùng khi so sánh điện thế giữa hai điểm, hoặc nói về điện thế của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có điện thế bằng 1.
Ký hiệu và đơn vị đo lường điện thế
Trong hệ đo lường quốc tế, điện thế đo bằng Volt (viết tắt là v) và có ký hiệu V.
Hiệu điện thế giữa 2 điểm
Trong điện học, điện thế là trường thế vô hướng của điện trường; tức là gradien của điện thế là vectơ ngược hướng và cùng độ lớn với điện trường.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, điện thế có giá trị tùy theo quy ước điện thế của điểm lấy mốc. Trong kỹ thuật điện và điện tử học, khái niệm hiệu điện thế hay điện áp thường được dùng khi so sánh điện thế giữa hai điểm, hoặc nói về điện thế của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có điện thế bằng 1.
Như mọi trường vectơ có dạng tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách (ví dụ lực hấp dẫn), trường véctơ cường độ điện trường là một trường vectơ bảo toàn. Điều này nghĩa là mọi tích phân đường của vectơ cường độ điện trường E từ vị trí r0 đến r:
Đều có giá trị không phụ thuộc vào đường đi cụ thể từ r0 đến r.
Như vậy tại mỗi điểm r đều có thể đặt giá trị gọi là điện thế:
Với
Φ(r0) là giá trị điện thế quy ước ở mốc r0.
Hiệu điện thế giữa 2 điểm
Điện thế không đổi theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế biến đổi đều theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế biến đổi không đều theo thời gian sẽ có công thức
Điện thế của dẫn điện
Điện tích điểm
2 Điện tích điểm âm dương
Với 2 điện tích khác loại có cùng điện lượng, điện thế được tính như sau
Với
Tụ điện
Với một tụ điện tạo từ 2 bề mặt song song với nhau, điện thế được tính như sau
Điện trở
Với một điện trở tạo từ một cộng dây thẳng dẫn điện , điện thế được tính như sau
Cuộn từ
Phân loại
Việc phân loại hiệu điện thế phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và quy ước của từng quốc gia.
Trong truyền tải điện công nghiệp ở Việt Nam, EVN quy ước:
Nguồn điện lưới nhỏ hơn 1 kV là hạ thế
Từ 1kV đến 66kV là trung thế
Lớn hơn 66kV là cao thế
Cụ thể theo , lưới truyền tải điện ở Việt Nam năm 1993 là:
Cao thế có 4 mức: 66kV, 110kV, 220kV và 500kV
Trung thế có 5 mức: 6kV, 10kV, 15kV, 22kV và 35 kV
Hạ thế có 2 mức: 0,4kV và 0,2kV
Trong mục tiêu đồng bộ lưới điện đến năm 2010, tại Việt Nam sẽ có:
Cao thế có 4 mức: 66kV, 110kV, 220kV và 500kV
Trung thế có 2 mức: 22kV và 35 kV
Hạ thế có 1 mức: 0,4kV
Theo , hành lang an toàn lưới điện ở Việt Nam có quy định lớn hơn 1000V là cao thế.
Đối với đồ điện dân dụng, trong bóng hình tivi, điện thế 15-22kV được gọi là cao áp. |
Tết Nguyên Tiêu (Chữ Nho: 節元宵), Tết Thượng Nguyên, Rằm Tháng Giêng là ngày lễ hội truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc . Lễ hội trăng rằm từ giữa đêm 14 (đêm trước trăng rằm) trọn ngày 15 (ngày rằm) cho đến nửa đêm 15 (đêm trăng rằm) của tháng giêng Âm lịch.
Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, ngày rằm Tháng Giêng là dịp dân chúng lên chùa cúng sao giải hạn, ước nguyện điều lành, tuy kinh điển nhà Phật không nói đến. Các chùa thường tụng kinh Dược Sư và khuyên các Phật tử cùng tụng niệm và hồi hướng công đức để thế giới được an lành.
Lễ hội đêm trăng rằm hiện được nhiều nơi Việt Nam khôi phục truyền thống văn hóa cổ, tổ chức đêm Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam, hiện nay đã thành nếp thường xuyên ở nhiều địa phương. Đặc biệt ở những nơi có đông cộng đồng người Hoa sinh sống như Chợ Lớn, Hội An, lễ hội trăng rằm có nhiều sinh hoạt đặc biệt. Tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày và đêm rằm Tháng Giêng thường được cộng đồng người Việt gốc Hoa tổ chức ở khu Chợ Lớn, quận 5 và dân gian có câu thành ngữ "Giao thừa ra quận Nhất, Nguyên tiêu về quận 5".
Tết Nguyên tiêu của người Hoa ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh với phần lễ, hội đa dạng, đặc sắc và phong phú tại các Hội quán, gia đình như: các nghi thức lễ, diễu hành đường phố thể hiện phong tục tập quán của các nhóm ngôn ngữ người Hoa như nghệ thuật xiếc, bát tiên đi cà kheo..., múa lân sư rồng, trình diễn ca kịch cổ truyền, đố chữ, thư pháp, thư họa, trình diễn âm nhạc (Đại la cổ Triều Châu, Nhạc lễ Phúc Kiến), đốt nhang vòng, dán giấy cầu an, lì xì, đố đèn, dâng dầu đèn, chui bụng ngựa, trò chơi dân gian, lễ hội ẩm thực với đa dạng các món ăn Việt - Hoa như phở, bún bò, hủ tiếu, mì, gỏi cuốn, dimsum, há cảo, mì trường thọ, xá xíu, chè… được chế biến và biểu diễn, hướng dẫn thực hiện từ những chuyên gia ẩm thực, đầu bếp chuyên nghiệp; đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2020. Sau Tết Nguyên Tiêu, người dân sẽ tháo tất cả các trang trí Xuân Tết để chấm dứt không khí lễ hội với hy vọng sẽ chú tâm vào một năm làm việc mới đầy thành công và hiệu quả.
Tập tục và lễ hội ở Trung Hoa
Ở Trung Quốc và Đài Loan, Tết Nguyên Tiêu là Tết Thượng Nguyên, hay Tết Trạng nguyên, ngày xưa là dịp nhà vua hội họp các ông Trạng để thết tiệc và mời vào vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh, làm thơ. Theo sách Trung Hoa, lễ Thượng Nguyên không phải là một ngày lễ Phật. Hiện nay, Tết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng, đêm rằm đầu tiên của năm mới) được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới và còn được gọi là “Lễ hội đèn hoa” hoặc “Hội hoa đăng”, có thể bắt nguồn từ tục cúng tế thời Hán Vũ Đế, với tập tục trưng đèn trên cây nêu trước cửa nhà, đốt đèn, chơi lồng đèn ngũ sắc, có thể kéo dài từ 13 đến 17 tháng giêng. Những lồng đèn có hình thù rồng, phượng, 12 con giáp hoặc những nhân vật cổ trong truyền thuyết, cổ tích được yêu chuộng.
Ngoài ra còn những tập tục khác như cúng tế cầu an cầu phước, ăn bánh trôi (gọi là “thang viên” – viên tròn trong nước), thi đoán hình thù trên lồng đèn, ngâm thơ. Người Đài Loan còn ghi những câu ước nguyện của mình vào đèn lồng và thả bay lên trời. Nhiều người còn coi đây là mùa Valentine phương Đông, tương tự như lễ Thất Tịch. Thơ Đường xưa đã viết: Nguyên tiêu chi dạ hoa lộng nguyệt, mùa trăng tròn lung linh sắc màu hoa đăng rực rỡ cũng là dịp Ngưu Lang Chức Nữ gặp gỡ se duyên.
Rằm tháng Giêng tại các quốc gia khác
Tại Hàn Quốc, rằm tháng Giêng là lễ Daeboreum (대보름), người dân chơi các trò chơi truyền thống là Samulnori (쥐불 놀이) đêm trước Daeboreum (còn có tên là Lễ hội lửa Jeongwol Daeboreum). Họ đốt cỏ khô, rơm hoặc đống cành cây (gọi là Daljip, xếp thành hình tam giác, để tạo ra một "ngôi nhà" cho mặt trăng mọc; một cánh cửa nhỏ được đặt ở phía đông để mặt trăng đi vào) trên rặng núi giữa cánh đồng lúa và nhảy muá xung quanh để để xua đuổi tà ma; trong khi trẻ em xoay những cái lon có đục nhiều lỗ và có than lửa cháy đỏ bên trong. Tại nông thôn, người dân leo núi, bất chấp thời tiết lạnh, cố gắng để thành người đầu tiên nhìn thấy mặt trăng mọc, qua đó sẽ gặp may mắn cả năm hoặc một mong muốn sẽ được thành tựu. Buổi sáng, họ thường ăn Ogokbap (오곡밥 / 五穀 밥), một loại cơm nấu bằng năm loại ngũ cốc và ăn Yaksik, một thức ăn ngọt làm từ gạo nếp. Đồ uống được lựa chọn cho lễ Daeboreum là rượu Gwibalgisul. Đây là một loại rượu gạo được ướp lạnh.
Tại Nhật Bản, rằm tháng Giêng âm lịch là lễ 小 正月 (Koshōgatsu), ngày nay được cử hành vào ngày 15 tháng 1 dương lịch. Các sự kiện chính của Koshōgatsu là nghi lễ và thực hành cầu nguyện cho một vụ mùa bội thu, và cháo gạo với đậu đỏ (小 豆粥 azuki gayu?) thường ăn vào buổi sáng. Ngoài ra, những thứ trang trí năm mới được hạ xuống và tháo dỡ, và một số đền đài tổ chức các sự kiện.
Ở Philippines, có lễ hội diễu hành truyền thống vào ngày rằm tháng Giêng, đánh dấu khởi đầu năm mới. Trong dịp này, bầu không khí ở Binondo cực kỳ sôi động: Đám đông ở Quận Binondo, thủ đô Manila vây quanh những người múa lân, múa rồng, các chính trị gia địa phương và những người nổi tiếng đi xe hơi sang trọng đến phát kẹo hoặc đồ trang sức may mắn miễn phí cho người dân, trong tiếng trống rộn ràng, tiếng pháo nổ vang. Dọc đường phố bày bán đầy ắp thức ăn, đồ chơi bằng nhựa và bùa may mắn hứa hẹn sẽ mang lại sự thịnh vượng trong năm mới.
Thành ngữ
Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng
Giỗ tết cả năm không bằng ngày rằm tháng Giêng
Ăn chay niệm Phật cả năm, Không bằng dự hội ngày Rằm tháng Giêng
Giao Thừa ra quận Nhất, Nguyên Tiêu về quận Năm |
Hiệu điện thế hay điện áp (ký hiệu , thường được viết đơn giản là U, có đơn vị là đơn vị của điện thế: V, kV, mV, ...) là sự chênh lệch về điện thế giữa hai cực của 1 nguồn. Hiệu điện thế giữa hai điểm trong điện trường tĩnh là đại lượng đặc trưng cho khả năng thực hiện công của điện trường khi có một điện tích di chuyển giữa hai điểm đó. Hiệu điện thế có thể đại diện cho nguồn năng lượng (lực điện), hoặc sự mất đi, sử dụng, hoặc năng lượng lưu trữ (giảm thế). Hiệu điện thế có thể được sinh ra bởi các điện trường tĩnh, dòng điện chạy qua từ trường, các trường từ thay đổi theo thời gian, hoặc sự kết hợp của 3 nguồn trên. Dụng cụ để đo hiệu điện thế là: vôn kế, tĩnh điện kế... |
Điện cao thế (hay còn gọi là điện thế cao) là dòng điện có điện áp đủ lớn để gây hại đến sinh vật sống. Thiết bị và các dây dẫn mang dòng điện cao cần phải bảo đảm các yêu cầu và quy trình an toàn. Trong các ngành công nghiệp, điện cao thế nghĩa là dòng điện cao hơn một ngưỡng nào đó. Điện cao thế được dùng chủ yếu trong việc phân phối điện năng, trong ống phóng tia cathode, sản sinh tia X và các chùm hạt để thể hiện hồ quang điện, cho sự xẹt điện, trong đèn nhân quang điện, và các đèn điện tử chân không máy khuếch đại năng lượng cao và các ứng dụng khoa học và công nghệ khác. |
là bộ anime thuộc series Gundam của Nhật Bản do Fukuda Mitsuo đạo diễn và được sản xuất bởi công ty Sunrise. Tương tự như các loạt phim Gundam đi trước, tuy vẫn lấy bối cảnh Trái Đất, cốt truyện của Gundam SEED xảy ra trong một thời đại hoàn toàn khác biệt có tên là Cosmic Era. Truyện phim xoay quanh nhân vật Kira Yamato và cuộc chiến giữa hai giống người: Người tự nhiên (Natural) và người chuyển gen (Coordinator).
Bộ anime kéo dài 50 tập, được trình chiếu ở Nhật trong gần một năm từ ngày 5 tháng 10 năm 2002 đến 27 tháng 9 năm 2003 trên các đài thuộc hệ thống truyền hình JNN là TBS và MBS. Nó đã được chuyển thể thành một bộ manga do nhà xuất bản Kodansha ấn hành, ra mắt lần đầu vào 17 tháng 2, 2003. Gundam SEED được tiếp nối bởi .
Hãng Bandai Entertainment cấp phép cho bộ anime Gundam SEED vào tháng 2 năm 2004, và nó được ra mắt tại Mỹ và Canada lần lượt vào các năm 2004 và 2005.
Kidō Senshi Gundam SEED đã đoạt giải Animage Anime Grand Prix lần thứ 25 vào năm 2002. Đây là bộ anime thứ hai trong loạt phim Gundam giành giải thưởng trên, sau Kidō Senshi Gundam. Trong lần trao giải thứ 26 năm 2003, Gundam SEED rơi xuống vị trí thứ 2, kém vị trí thứ nhất Fullmetal Alchemist 1800 phiếu bầu .
Ở Nhật, cái tên Kidō Senshi Gundam SEED có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Loạt phim đã đạt nhiều giải thưởng và có doanh số bán đĩa nhạc phim và DVD rất cao. Phần hình ảnh và phát triển nhân vật của phim nhận được nhiều lời khen ngợi, tuy nhiên những chi tiết quá giống với các loạt phim Gundam đi trước cũng làm dấy lên nhiều so sánh và chỉ trích trong cộng đồng người hâm mộ.
Khái quát nội dung
Trở nên hoàn hảo là ước mơ muôn đời của con người từ ngày xưa đến nay. Chuyện tưởng chừng như khoa học không làm được đã xảy ra, nhưng con người lai gien với sức khỏe tốt hơn, thông minh hơn những con người bình thường đã ra đời và được gọi là "Coordinator". Điều này cũng là sự bắt đầu cho Cosmic Era. Mọi người đổ xô đi cấy gien, lai tạo gien để tạo ra những đứa con Coordinator cho mình mà không hề nghĩ đến một cuộc chiến tranh sẽ đến trong tương lai. Và cũng chẳng cần chờ lâu, ghen tị - cái bản chất vốn ăn sâu trong máu thịt con người đã nổi dậy. Những con người bình thường hay còn được gọi là "Natural" cho rằng sự hiện diện của các Coordinator là đi ngược lại với tự nhiên vì họ trở nên tốt hơn nhờ máy móc chứ không phải bẩm sinh và điều này là không công bằng khi các Coordinator luôn luôn làm tốt hơn Natural.
Các Natural theo chủ trường chống Coordinator đã xuống tay hạ sát hàng loạt Coordinator. Một số chính phủ dần dần đồng tình và Coordinator bị xua đuổi. Khi bị dồn vào đường cùng, bản năng sinh tồn trỗi dậy và họ đã rời Trái Đất và đi ra ngoài vũ trụ, tạo ra nhóm vệ tinh PLANT - nơi các Coordinator sinh sống mà không phải lo sợ bị Natural tấn công. Những tưởng đó đã là một cái kết, nhưng Natural không bỏ cuộc. Ngày 14 tháng 2 năm C.E 70, họ gửi bom hạt nhân đến tấn công Junius Seven, một trong các vệ tinh của PLANT. Hậu quả là gần như toàn bộ cư dân Junius Seven chết, hành tinh bị hủy diệt, thảm kịch này còn được gọi là Bloody Valentine Day (ngày lễ tình nhân đẫm máu).
Sự việc nói trên đã châm ngòi cho những cuộc chiến nhỏ và các mâu thuẫn vốn có giữa PLANT và Trái Đất. Hai bên liên tục tấn công lẫn nhau, gây thương vong chết chóc vô số. Các hành tinh và các nước trung lập dần dần hình thành. Ở nơi đó, không có sự phân biệt Natural hay Coordinator, những người ở đây có chung một ý nguyện là tránh xa cuộc chiến.
Cậu thanh niên 16 tuổi Kira Yamato cũng là một trong số đó. Cậu sống ở Heliopolis, một vệ tinh nhỏ gần Trái Đất. Vài năm trước, người bạn thân nhất của Kira là Athrun Zala đã về PLANT khi cuộc chiến giữa Trái Đất và PLANT trở nên căng thẳng. Thời gian trôi đi, mọi chuyện chỉ còn là ký ức. Vào vài năm sau khi Athrun đi, Kira vẫn ở lại Heliopolis và cậu cũng đã có được những người bạn ở đây. Nhưng không may khi chính quyền nơi này lại giúp Trái Đất chuyển vũ khí mới "Gundam" và con tàu "Archangel". ZAFT - lực lượng quân đội của PLANT đã sớm biết chuyện này và gửi một nhóm qua đánh cướp những vũ khí mới này. Hai bên có một số trận đánh nhỏ và Kira vô tình bị dính vào đó. Cậu gặp lại Athrun - người bạn cũ giờ đây đã trở thành một thành viên của ZAFT. Tiếc thay, giờ Kira lại phải về phe Trái Đất để bảo vệ những người bạn khác của mình. Thế là hai người bạn thân từ thuở nào nay lại là kẻ thủ địch. Đây cũng là bắt đầu cho những nỗi đau.
Phát triển
Kidō Senshi Gundam SEED được đạo diến bởi Fukuda Mitsuo với phần âm nhạc do Sahashi Toshihiko đảm nhận . Phim lần đầu được thông báo tới khán giả vào tháng 6 năm 2002, phần trailer ra mắt vào tháng 9 cùng năm trên trang web chính thức của xê-ri. Có tổng cộng 8 biên kịch làm việc cho bộ anime này. Phần thiết kế nhân vật được giao cho Hisashi Hirai, trong khi nhiệm vụ thiết kế máy móc thuộc về Kunio Ohkawara và Kimitoshi Yamane. Koichi Inoue, nhà quản lý sản xuất của Kidō Senshi Gundam cho biết đoàn làm phim Gundam SEED là một đội ngũ trẻ và sẽ còn tiếp tục thực hiện các loạt phim Gundam sau đó. Bản thân Inoue sẽ chỉ tham gia thực hiện các dự án anime dựa theo bộ Gundam đầu tiên. Theo đạo diễn Fukuda, ban đầu câu chuyện Gundam SEED được kể dưới góc nhìn cá nhân của Kira, tuy nhiên về sau góc nhìn này được chuyển sang các nhân vật khác. Mục tiên lớn nhất của ông với xê-ri này là giúp khán giả giải trí, do đó cao trào kịch tính của bộ anime sẽ được phát triển xuyên suốt theo chiều hướng tương tự với các loạt Gundam tiền nhiệm. Cốt truyện là phần đầu tiên được hoàn thành, sau đó mới đến các cảnh hành động, và các nhân vật người trong phim được chú trọng đầu tư hơn là các cỗ máy chiến đấu. Đạo diễn Fukuda cho rằng mong muốn đấu tranh của nhân vật Kira là điều tất yếu, phát sinh từ khao khát bảo vệ bạn bè của anh. Fukuda đã cân nhắc quyết định những hành động của Kira dựa trên nền tảng lối suy nghĩ truyền thống của người Nhật Bản.
Phát hành
Anime
Gundam SEED bắt đầu được công chiếu lần đầu trên hai kênh MBS and TBS, vào lúc 18 giờ thứ 7 hàng tuần sau khi bộ tokusatsu Ultraman Cosmos kết thúc.. Các khách hàng sử dụng dịch vụ phía đông và tây của công ty viễn thông Nippon Telegraph and Telephone với trình duyệt Windows media hoặc Real có thể thoải mái xem xê-ri phim trên internet vào ngày hôm sau. Từ ngày 28 tháng 3 năm 2003 đến 26 tháng 3 năm 2004, loạt anime được phát hành tại Nhật dưới dạng 13 đĩa DVD tổng hợp. Tập OVA dài 5 phút "After Phase: In the Valley of Stars" xuất hiện trong đĩa DVD thứ 13, cũng là DVD cuối cùng.. Ngày 23 tháng 10 năm 2010, bộ đĩa DVD tổng hợp của xê-ri được tung ra thị trường. Loạt anime tiếp nối của Gundam SEED là Kidō Senshi Gundam SEED Destiny sau đó được trình chiếu tại Nhật từ ngày 9 tháng 10 năm 2004 đến ngày 1 tháng 10 năm 2005. Câu chuyện trong Gundam SEED Destiny diễn ra 2 năm sau Gundam SEED với nhân vật chính Shinn Asuka.
Phiên bản tái xử lý HD của Gundam SEED được công bố vào tháng 8 năm 2011, tuy nhiên theo lời đạo diễn Fukuda, thông tin này đã bị lọt ra ngoài sớm hơn vài ngày so với dự định thông báo chính thức. Tháng 11 cùng năm, hãng Bandai thông báo sẽ phát hành lại xê-ri dưới dạng 3 đĩa Blu-ray tổng hợp trong vòng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2012. Tháng 12 năm 2011, tập phim đầu tiên của phiên bản này xuất hiện trên trang web của kênh Bandai và bắt đầu lên sóng truyền hình từ tháng 1 năm 2012.
Phần lồng tiếng Anh ngữ của Gundam SEED được thực hiện và thu âm bởi Ocean Studios tại Vancouver, Canada. Xê-ri phim lần lượt được phát hành thành 10 đĩa DVD với hai thứ tiếng Nhật - Anh trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng 8, 2004 đến ngày 20 tháng 5, 2005. Tuy nhiên, OVA "After Phase: In the Valley of Stars" không xuất hiện trong số 10 đĩa DVD này, do Sunrise không ủy quyền cho Bandai; tuy nhiên nó đã xuất hiện trong DVD cuối cùng phát hành tại thị trường châu Âu. Từ ngày 13 tháng 6 năm 2005 đến ngày 6 tháng 3 năm 2006, hãng Beez Entertainment cũng phát hành xê-ri này dưới dạng 10 đĩa DVD. Phiên bản DVD 2 phần mang tên "Anime Legends Edition" ra mắt vào hai ngày 8 tháng 1, 2008 và 4 tháng 3 2008, mỗi phần gồm 5 đĩa DVD.
Phim tổng hợp
Bộ phim tổng kết gồm 3 phần của Gundam SEED đã được phát hành dưới cái tên Gundam SEED: Special Edition . Mỗi phần phim kéo dài 90 phút, kể lại nội dung của xê-ri Gundam SEED với các cảnh mới hoặc cảnh vẽ lại, giống như cách thức các nhà làm phim đã làm với xê-ri Gundam đời đầu Kidō Senshi Gundam. Các phần phim nói trên được phát hành dưới dạng DVD từ ngày 27 tháng 8 đến 22 tháng 10 năm 2004. Tháng 2 năm 2010, chúng cũng được phát hành lại đồng thời với 4 phần phim tổng hợp tương tự của Gundam SEED Destiny. Gundam SEED: Special Edition được Bandai Entertainment cấp phép tại thị trường Bắc Mỹ và ra mắt DVD Anh ngữ từ ngày 11 tháng 7 đến 22 tháng 11 năm 2005. Một bộ DVD gồm 3 phần phim này được Bandai phát hành ngày 26 tháng 11 năm 2008 với tiêu đề "Kidō Senshi Gundam SEED Complete Feature Collection". Dưới đây là danh sách các phim tổng hợp của loạt anime Gundam SEED:
Kidō Senshi Gundam SEED Movie I: The Empty Battlefied
Kidō Senshi Gundam SEED Movie II: The Far-Away Dawn
Kidō Senshi Gundam SEED Movie III: The Rumbling Sky
Nhạc phim
Phần âm nhạc của xê-ri do nhạc sĩ Sahashi Toshihiko đảm nhiệm với sự trợ giúp của Kajiura Yuki, các đĩa nhạc được hãng Victor Entertainment phát hành. Các nghệ sĩ nổi bật tham gia hát cho loạt phim bao gồm nữ ca sĩ trẻ Nami Tamaki, ban nhạc See-Saw, và T.M. Revolution, người đồng thời cũng lồng tiếng cho nhân vật Miguel Aiman. Tổng cộng có 4 đĩa nhạc phim ra mắt từ ngày 4 tháng 12 năm 2002 đến 16 tháng 12 năm 2004. Các đĩa này bao gồm phần nhạc nền, các ca khúc mở đầu, kết thúc và đi kèm trong toàn bộ xê-ri. Tháng 5 năm 2004, đĩa nhạc Symphony SEED -Symphonic Suit Kidō Senshi Gundam SEED- phát hành với 10 chương nhạc phim Gundam SEED do Dàn nhạc giao hưởng London trình bày. Một đĩa DVD tổng hợp bao gồm 4 video clip của 4 ca khúc trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny, cũng ra mắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2006 dưới tựa đề Kidō Senshi Gundam SEED & SEED DESTINY Clipping 4 Songs.
5 đĩa CD nhân vật với các ca khúc do các diễn viên lồng tiếng trình bày lần lượt phát hành từ ngày 21 tháng 3 đến 23 tháng 7 năm 2003. Ngoài ra còn có một album tổng hợp là Kidō Senshi Gundam SEED COMPLETE BEST gồm 13 ca khúc, phát hành ngày 22 tháng 11 năm 2006
Kidō Senshi Gundam SEED ~ SEED DESTINY BEST "THE BRIDGE" Across the Songs from Gundam SEED & SEED DESTINY là bộ đĩa tổng hợp gồm 2 CD, bao gồm tất cả các bài hát mở đầu, kết thúc, đi kèm, và các ca khúc nhân vật trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny. Ngoài ra, toàn bộ những ca khúc trong Gundam SEED và Gundam SEED Destiny do T.M.Revolution trình bày còn được tổng hợp trong đĩa CD riêng của anh mang tựa đề X42S-REVOLUTION, phát hành ngày 24 tháng 3 năm 2010. Phiên bản đặc biệt số lượng giới hạn của đĩa này bao gồm một đĩa DVD với phần video âm nhạc sử dụng hình ảnh từ hai loạt anime.
Manga
Bản manga Gundam SEED do họa sĩ Masatsugu Iwase vẽ, gồm 5 tập tankōbon được nhà xuất bản Kodansha phát hành rải rác từ 20 tháng 3 năm 2003 đến 21 tháng 1 năm 2005 Ở thị trường Bắc Mỹ, Del Rey Manga giữ quyền xuất bản bản dịch tiếng Anh và đã lần lượt cho ra mắt độc giả toàn bộ loạt truyện trong khoảng thời gian từ ngày 27 tháng 4 năm 2004 đến 20 tháng 8 năm 2005 . Bộ manga cũng được phát hành tại Singapore bởi nhà xuất bản Chuang Yi .
Trong thời gian từ ngày 28 tháng 4 năm 2004 đến 26 tháng 2 năm 2005, bộ manga ngoại truyện mang tiêu đề Kidō Senshi Gundam SEED Astray do tác giả Chiba Tomohiro lên kịch bản và họa sĩ Tokita Kōichi đảm nhận phần minh họa cũng được Kadokawa Shoten phát hành ở Nhật dưới dạng 3 cuốn tankōbon. Tháng 12 năm 2003, độc giả Bắc Mỹ được thông báo loạt truyện sẽ được xuất bản tại thị trường này thông qua TOKYOPOP , thời gian phát hành là từ ngày 11 tháng 5 tới ngày 9 tháng 11 năm 2004.
Ngoài ra, còn hai ngoại truyện khác là Kidō Senshi Gundam SEED Astray R và Kidō Senshi Gundam SEED X Astray . Tokita Kouichi vẫn là họa sĩ minh họa cho Kidō Senshi Gundam SEED X Astray, còn trong Kidō Senshi Gundam SEED Astray R, vai trò này thuộc về Toda Yasunari. Kidō Senshi Gundam SEED Astray R xoay quanh câu chuyện về hoa tiêu Lowe Guele của Red Flame cùng các đồng đội trong hội Junk Guild trong suốt cuộc chiến Bloody Valentine. Bộ manga gồm 4 tập, được phát hành rải rác từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 8 năm 2004. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 2005, bản dịch tiếng Anh do TokyoPop ấn hành cũng ra mắt độc giả. Trong khi đó, nhân vật chính của Gundam SEED X Astray là Canard Pars, một thử nghiệm thất bại do chương trình Ultimate Coordinator tạo ra. Canard luôn nuôi hi vọng tìm kiếm và đánh bại Kira Yamato, sản phẩm thành công duy nhất của chương trình, nhằm chứng minh rằng mình không phải là "phế phẩm". Hai tập truyện của bộ manga đã được lần lượt phát hành vào tháng 5 và tháng 10 năm 2005 tại Nhật, trong khi ấn bản tiếng Anh ra mắt vào tháng 10 năm 2006 và tháng 2 năm 2007.
Tháng 8 năm 2005, một ngoại truyện dưới dạng "tiểu thuyết hình ảnh" mang tên Kidō Senshi Gundam SEED Astray B do Toda Yasunari thực hiện được phát hành. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính Gai Murakumo và nhóm hoa tiêu đánh thuê Serpent Tail mà anh lãnh đạo.
là bộ manga ngoại truyện của tác giả Azu Maria nói về các nhân vật trong xê-ri anime Gundam SEED và phần tiếp theo của nó, Gundam SEED Destiny. Đây là loạt truyện tranh mang phong cách hài hước, nội dung mỗi truyện thường nằm gọn trong 4 khung tranh (yonkoma). Loạt truyện được tổng hợp thành ba phần với bản quyền thuộc về Kadokawa Shoten. Phần đầu ra mắt vào tháng 8 năm 2005. Phần 2 và phần 3 (phát hành lần lượt vào tháng 8 năm 2006 , và tháng 9 năm 2007 ) bao gồm cả các nhân vật trong Seed Destiny.
Tiểu thuyết
Phiên bản chuyển thể light novel của xê-ri ra đời dưới ngòi bút của tác giả Goto Riu, nguyên bản do Ogasawara Tomofumi minh họa in trên phụ trang của tạp chí Kadokawa Sneaker Bunko. Sau này tiểu thuyết được chia thành 5 tập, do Kadokawa Shoten ấn hành. Tập đầu tiên ra mắt vào tháng 3 năm 2003 và tập cuối cùng phát hành vào tháng 1 năm 2004. Từ 11 tháng 10 năm 2005 đến ngày 9 tháng 5 năm 2006, Tokyopop cũng lần lượt cho ra mắt ấn bản Anh ngữ của 3 tập đầu. Hai tập light novel chuyển thể từ xê-ri ngoại truyện Kidō Senshi Gundam SEED Astray do tác giả Chiba Tomohiro chắp bút được Kadokawa phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2003 và ngày 1 tháng 7 năm 2004.
Video games
Đã có rất nhiều game được sản xuất dựa theo nội dung của loạt anime, tiêu biểu là game arcade Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. II, và Gundam SEED: Battle Assault trên hệ máy Game Boy Advance, Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T., Kidō Senshi Gundam SEED, Kidō Senshi Gundam SEED: Never Ending Tomorrow, Kidō Senshi Gundam SEED Destiny: Generation of CE,và Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. 2 Plus cho PlayStation 2. Ngoài ra còn có một game PlayStation Portable mang tên Gundam SEED: Federation vs. Z.A.F.T. Portable cùng một game cho điện thoại di động, Kidō Senshi Gundam SEED Phase-Act Delivery.
Nhân vật của Gundam SEED cũng từng nhiều lần xuất hiện trong các game của loạt anime Gundam, chẳng hạn như Kidō Senshi Gundam: Gundam vs. Gundam Next, loạt game SD Gundam G cùng một vài game trong loạt Gundam Battle Assault, Dynasty Warriors: Gundam 2, andvà Dynasty Warriors: Gundam 3. Bên cạnh đó, có thể kể thêm nhiều game khác như xê-ri Super Robot Wars, Another Century's Episode 3 và Another Century's Episode: R.
Sản phẩm khác
Có rất nhiều sách xuất bản ăn theo nội dung Gundam SEED, tiêu biểu là cuốn ra mắt ngày 10 tháng 7 năm 2003 do Kodansha ấn hành. Ngày 18 tháng 7 năm 2003, Kadokawa Shoten tung ra thị trường Nhật Bản hai cuốn sách hướng dẫn chính thức, đó là và tập trung chủ yếu vào hai nhân vật chính Kira Yamato và Athrun Zala. Cũng trong tháng này, loạt sách giới thiệu nhân vật của xê-ri cũng ra mắt người hâm mộ Nhật Bản dưới cái tên chung "Official File" ("Hồ sơ chính thức"). Một tập sách có tựa đề được phát hành vào ngày 19 tháng 4 năm 2004, bao gồm các bài phân tích tỉ mỉ về cốt truyện cũng như nhân vật của bộ anime. Một cuốn sách khác, , chứa các bài viết chi tiết về nhân vật, công nghệ và bối cảnh trong Gundam SEED, ra mắt tháng 3 năm 2006. Ngày 26 tháng 7 năm 2004, tập artbook mang tên chính thức phát hành.
Đánh giá và giải thưởng
Gundam SEED được đánh giá là một trong những xê-ri Gundam nổi tiếng nhất tại Nhật Bản, với chỉ số người xem rất cao và doanh số bán DVD khổng lồ. Theo số liệu hãng Bandai Visual công bố, tính đến tháng 4 năm 2004, đã có một triệu đĩa DVD Gundam SEED được tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản, trong đó đĩa DVD đầu tiên đã vượt ngưỡng 100,000 bản Các đĩa nhạc phim cũng gặt hái nhiều thành công thương mại, bài hát kết thúc đầu tiên của xê-ri, Anna ni Issho Datta no ni trở thành một trong những đĩa nhạc bán chạy nhất năm 2002 ở Nhật. Cho đến thời điểm tháng 7 năm 2004, đã có hơn 10 triệu mô hình nhựa của Gundam SEED được bán ra trên toàn thế giới. Cũng trong tháng này, Jerry Chu, giám đốc marketing của Bandai Entertainment đưa ra thông báo về phản ứng tích cực của khán giả đối với bộ anime, và Gundam SEED đã phá vỡ kỉ lục về số lượng người xem trong lần đầu ra mắt. Ông Chu cho biết, đây là bộ anime của Bandai nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt nhất trong vòng 6 năm qua tại thị trường Bắc Mỹ . Theo nhận định của nhà phê bình John Oppliger từ AnimeNation, Gundam SEED là xê-ri Gundam đầu tiền mà thành công không chỉ giới hạn trong "Những người hâm mộ Gundam và các otaku" mà cả với những "khán giả xem truyền hình Nhật Bản bình thường". Năm 2003, Gundam SEED đã chiến thắng ở hạng mục TV Feature tại giải Animation Kobe và giải Grand Prix tại lễ trao giải Otaku Nhật Bản . Trước đó, vào năm 2002, Gundam SEED cũng đoạt giải Anime Grand Prix của tạo chí Animage, đồng thời hai nhân vật chính của xê-ri là Kira Yamato và Lacus Clyne lần lượt đứng đầu danh sách bình chọn nhân vật nam và nữ của năm . Bộ anime từng giành vị trí quán quân trong bảng xếp hạng anime năm 2004 do độc giả tạp chí Newtype bình chọn. Tuy nhiên, xê-ri phim không được các khán giả lớn tuổi đánh giá cao. Tháng 2 năm 2004, chủ tịch Sunrise, ông Takayuki Yoshii, cho rằng lý do của việc này là bởi Gundam SEED kết hợp nhiều yếu tố của các phim truyền hình nhiều tập. Thay vì tập trung vào các mẫu robot như các phim Gundam trước, xê-ri phim này tập trung nhiều hơn vào các nhân vật của mình.. Mặt khác, theo báo cáo của Bandai Visual vào tháng 4 cùng năm, Gundam SEED có phổ khán giả rộng lớn và sức hút mạnh mẽ đối với người xem ở lứa tuổi trưởng thành.
Gundam SEED được khen ngợi bởi vị trí nổi bật của nó trong hàng loạt xê-ri của chuỗi anime Gundam . Về mặt phát triển cốt truyện, xê-ri được đánh giá cao bởi các cảnh chiến đấu cũng như khai thác chiều sâu nhân vật đều tạo ấn tượng tốt và không làm lu mờ lẫn nhau. Diễn biến câu chuyện trong Gundam SEED có xu hướng chậm dần với phần phát triển nhân vật gắn liền với chủ đề chính trị xuyên suốt, gây hứng thú cho khán giả. Trong phần đầu của xê-ri, mối quan hệ giữa các nhân vật được đề cập khá nhiều. Đặc biệt, mối quan hệ giữa hai nhân vật nam chính Kira Yamato và Athrun Zala nhận được nhiều lời tán dương bởi những cảnh hành động chiến đấu gay cấn giữa hai bên cũng như gợi trí tó mò của người xem về việc liệu hai người có sát cánh bên nhau trong các tập phim về sau. Cao trào của xê-ri được nhận xét là đem lại nhiều bất ngờ cả về diễn biến của cuộc chiến cũng như vai trò của nhân vật. Nhìn chung, các nhà phê bình có cùng một nhận xét rằng Gundam SEED là sự pha trộn nhiều yếu tố từ những loạt Gundam đi trước nhưng lại được đẩy nhanh tốc độ, bởi vậy vừa có sức hấp dẫn đối với khán giả trẻ tuổi mà vẫn giữ được những khán giả quen thuộc trung thành với chuỗi anime Gundam Tác giả Carl Kimlinger từ trang web Anime News Network khẳng định, Gundam SEED đã chuyển thể nổi dung của xê-ri gốc Kidō Senshi Gundam năm 1979 đến với khán giả đương đại theo cách thức tương tự như Kidō Senshi Gundam 00 làm với Kidō Senshi Gundam Wing sau này. Theo Bamboo Dong, một tác giả khác của Anime News Network, tuy điều này là một trong mục tiêu chỉ trích của nhiều anti-fan, song nó không thể ngăn cản Gundam SEED trở thành một xê-ri anime đáng xem và thu hút thêm nhiều người hâm mộ đến với thế giới Gundam.
Bàn về chất lượng đồ họa của xê-ri, tác giả Derrick L. Tucker trên trang THEM Anime Reviews viết "(Gundam SEED) là xê-ri Gundam đỉnh cao nhất từ trước đến nay". Bên cạnh đó, phần nhạc phim cũng rất được ưa chuộng do có sự góp giọng của nhiều nghệ sĩ J-pop có tiếng tăm như Tamaki Nami và T.M. Revolution. Việc mời được nhiều diễn viên lồng tiếng tài năng như Tanaka Rie, Seki Tomokazu và Kuwashima Houko tham gia đã đáp ứng được nhu cầu chiều sâu cảm xúc mà các nhân vật cần có . Bản lồng tiếng Anh ngữ nhìn chung để lại ấn tượng tốt, song đôi lúc vẫn để lộ rõ nhược điểm so với bản gốc tiếng Nhật, đặc biệt trong quá trình khắc họa nhân vật chính Kira Yamato.
Tranh cãi
Tập thứ 16 của Gundam SEED xuất hiện một cảnh phim với Kira Yamato, người hùng 16 tuổi của xê-ri, đang mặc lại quần dài sau khi ra khỏi chiếc giường nơi nhân vật 15 tuổi Flay Allster đang ngủ, trên người không mặc quần áo; ám chỉ một mối quan hệ bao gồm cả quan hệ tình dục. Ủy ban hành động vì Chất lượng truyền hình Nhật Bản (Japanese Commission for Better Broadcasting) đã có báo cáo về việc nhiều khán giả than phiền về cảnh phim trên bởi xê-ri được phát sóng vào lúc 6 giờ chiều khi có cả khán giả là trẻ em theo dõi. Tuy nhiên Mecha Anime HQ nhận định rằng cảnh phim nói trên là phù hợp với toàn bộ nội dung của xê-ri. Cảnh này còn được kéo dài thêm trong bản phim tổng hợp.
Phần nối tiếp |
Trịnh Hòa (phồn thể: 鄭和; giản thể: 郑和; Hán ngữ bính âm: Zhèng Hé; Wade-Giles: Cheng Ho), tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝; pinyin: Mǎ Sānbǎo tên Ả Rập: Hajji Mahmud Shams), 1371–1433, là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Trung Quốc nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Tam Bảo Thái giám hạ tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433. Tạp chí Life xếp Trịnh Hòa đứng thứ 14 trong số những người quan trọng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua. Ông là người Hồi.
Tiểu sử
Trịnh Hòa là một người Hồi và phục vụ bên cạnh hoàng đế thứ ba của nhà Minh - Minh Thành Tổ (trị vì từ 1403 đến 1424). Theo tiểu sử của ông trong Minh sử, ông có tên thật là Mã Tam Bảo (馬 三保) và quê ở Côn Dương (昆阳, ngày nay là Tấn Ninh (晋宁)), tỉnh Vân Nam. Ông có 4 chị-em và một người anh. Gia đình ông là người Hồi. Trịnh Hòa thuộc về đẳng cấp Semur và theo Hồi giáo (gia đình ông theo đạo Hồi). Ông là hậu duệ đời thứ sáu của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, một viên quan cai trị tỉnh Vân Nam thời nhà Nguyên và đến từ Bukhara, ngày nay thuộc Uzbekistan. Họ "Mã" của ông có từ người con thứ năm của Shams al-Din là Masuh. Cả ông nội và cha của ông, Charameddin và Mir Tekin, đều đã hành hương tới thánh địa Mecca, và một điều không còn nghi ngờ là ông đã được nghe ông và cha mình kể lại các câu chuyện về các chuyến đi tới những vùng đất lạ. Ông có một phần vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Hồi Giáo. Sau khi quân đội nhà Minh chiếm đóng Vân Nam, ông đã bị bắt giữ khi còn là một cậu bé con và bị hoạn, vì thế ông đã trở thành một thái giám phục vụ cho hoàng đế. Tên gọi Trịnh Hòa do vua Minh Thành Tổ đặt cho ông để thưởng công giúp đảo chính lật đổ vua Minh Huệ Đế. Ông học tại Nam Kinh Thái học.
Các sứ mệnh của ông đã chỉ ra một minh chứng đầy ấn tượng về khả năng tổ chức và sức mạnh công nghệ, nhưng đã không dẫn tới các hoạt động thương mại đáng kể, vì Trịnh Hòa là một quan chức và người chỉ huy của thủy quân chứ không phải là một nhà buôn. Có những lời đồn cho rằng ông cao ít nhất 2 mét (7 ft).
Trịnh Hòa vượt biển tới Malacca vào thế kỷ 15. Vào giữa thế kỷ 15, công chúa Trung Hoa là Hán Lệ Bảo được gả cho quốc vương Malacca, vua Mansur Shah. Công chúa đi cùng với đoàn tùy tùng của mình - gồm 500 con trai của các quan vài trăm cung nữ. Đoàn người này cuối cùng định cư tại Bukit Cina ở Malacca. Hậu duệ của những người này, sinh ra từ các cuộc hôn nhân với dân bản xứ, ngày nay được biết đến như là những người Peranak: Baba (tước hiệu của đàn ông) và Nyonya (tước hiệu của đàn bà). (MP)
Năm 1424 Minh Thành Tổ chết. Người kế nghiệp là hoàng đế Minh Nhân Tông (trị vì từ năm 1424 đến năm 1425), đã quyết định hạn chế ảnh hưởng của nội cung. Trịnh Hòa cũng đã thực hiện một chuyến đi nữa dưới thời trị vì của Minh Tuyên Tông (trị vì từ năm 1426 đến năm 1435), nhưng sau đó những chuyến tàu đi tìm của cải của người Trung Quốc đã chấm dứt do chính sách đóng cửa một thời gian của Chính phủ Trung Quốc.
Các chuyến đi
"Tây dương" chỉ những khu vực ở châu Á và châu Phi mà Trịnh Hòa đã thám hiểm, bao gồm:
Đông Nam Á
Sumatra
Java
Tích Lan (Ceylon)
Ấn Độ
Có thể là châu Mỹ
Ba Tư
Vịnh Ba Tư
Bán đảo Ả Rập,
Hồng Hải tới xa nhất là Ai Cập và
Xa nhất về phía Nam tới eo biển Mozambique
Đài Loan, 7 lần
Đảo Darwin, Bắc Úc
Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua Alagonakkara của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các hoàng đế Trung Hoa.
Một số suy đoán rằng hạm đội của Trịnh Hòa có thể đã vượt qua mũi Hảo Vọng. Cụ thể, một tu sĩ và một nhà lập bản đồ người Venezia là Fra Mauro đã miêu tả trong bản đồ Fra Mauro năm 1457 các chuyến đi của các con "thuyền lớn từ Ấn Độ" tới 2.000 dặm vào Đại Tây Dương năm 1420.
Bản thân Trịnh Hòa viết về các chuyến đi của mình như sau:
"Chúng tôi đã vượt qua hơn 100.000 lý (50.000 km) các vùng nước mênh mông và ngắm nhìn thấy trên đại dương các con sóng khổng lồ tương tự như các trái núi sừng sững ở phía chân trời, và chúng tôi đã ngắm nhìn các khu vực hoang dã ẩn xa trong làn sương khói màu xanh lam, trong khi các con thuyền của chúng tôi, kiêu ngạo giương cánh buồm giống như các đám mây ngày và đêm, vẫn tiếp tục cuộc hành trình của chúng (rất nhanh) giống như các vì sao, vượt qua các con sóng hung dữ này như thể là chúng tôi đang đi trên một con đường lớn..."
Bảy chuyến đi
Hạm đội
Theo các nguồn sử liệu Trung Quốc thì hạm đội của Trịnh Hòa gồm 30.000 người và có trên 300 thuyền buồm vào lúc cao điểm nhất.
Chuyến thám hiểm năm 1405 bao gồm 27.800 người và 317 thuyền, trong đó có:
Các "thuyền châu báu" (bảo thuyền), được dùng cho chỉ huy và các phó chỉ huy của hạm đội, có chín cột buồm, dài khoảng 120 mét (400 ft) và rộng khoảng 50 m (160 ft).
Các "thuyền chở ngựa", chở cống phẩm và vật liệu sửa chữa cho hạm đội, có tám cột buồm, dài khoảng 103 m (339 ft) và rộng khoảng 42 m (138 ft).
Các "thuyền hậu cần", chuyên chở lương thực và thực phẩm cho thủy thủ đoàn, có bảy cột buồm, dài khoảng 78 m (257 ft) và rộng khoảng 35 m (115 ft).
Các "thuyền chở quân lính", sáu cột buồm, dài khoảng 67 m (220 ft) và rộng khoảng 25 m (83 ft).
Các "thuyền chiến Phú Xuyên", năm cột buồm, dài khoảng 50 m (165 ft).
Các "thuyền tuần tra", có tám mái chèo, dài khoảng 37 m (120 feet).
Các "thuyền chở nước", để đảm bảo cấp nước ngọt trong vòng một tháng.
Các đặc trưng phong phú của tàu thuyền Trung Quốc vào thời kỳ đó đã được các nhà thám hiểm châu Âu trước đó gián tiếp xác nhận, chẳng hạn như Ibn Battuta và Marco Polo. Theo Ibn Battuta, người đã đến Trung Quốc vào năm 1347 thì:
...Chúng tôi dừng lại trên cảng Calicut, trong khi ấy đã có 13 con thuyền của người Trung Quốc đang bốc dỡ hàng. Trên biển Trung Hoa việc đi lại chỉ có thể có được nhờ các con thuyền Trung Hoa, vì thế chúng tôi sẽ miêu tả các sắp xếp của chúng. Các tàu thuyền Trung Quốc có ba loại: loại thuyền lớn được gọi là thuyền mành, loại trung bình gọi là thuyền buồm và loại nhỏ là kakam. Loại lớn có thể có từ 3 đến 12 buồm, được làm từ các thanh tre gắn kết lại như cái mành. Chúng không bao giờ bị hạ xuống, nhưng xoay theo hướng gió; khi bỏ neo thì chúng được thả để tự do xoay theo gió.
Một thuyền có thể chở tới cả ngàn người, sáu trăm người trong số đó là các thủy thủ và bốn trăm người được trang bị vũ khí, bao gồm các cung thủ, những người mang mộc và nỏ để bắn các loại tên có lửa. Ba thuyền nhỏ hơn,..., đi kèm theo thuyền lớn. Các thuyền này được đóng ở Tuyền Châu và Quảng Châu. Thuyền có 4 khoang và chứa các phòng, cabin và phòng lớn cho các thương nhân; trong cabin có các phòng và buồng vệ sinh, và nó có thể đóng lại khi có người sử dụng... (Ibn Battuta).
Liên quan với lịch sử Trung Quốc đế quốc cận đại
Một niềm tin phổ biến cho rằng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa thì Trung Quốc lại xa rời biển cả và đi vào thời kỳ trì trệ về công nghệ. Mặc dù các nhà lịch sử như John Fairbank và Joseph Needham đã phổ biến quan điểm này trong thập niên 1950, nhưng phần lớn các nhà sử học hiện đại của Trung Quốc đều đặt câu hỏi về tính chính xác của nó. Họ cho rằng thương mại đường biển của Người Trung Quốc đã không bị dừng lại sau thời Trịnh Hòa, và các con thuyền Trung Quốc vẫn tiếp tục ngự trị trong thương mại vùng Đông Nam Á cho đến tận thế kỷ 19 và các hoạt động ngoại thương tích cực của Trung Quốc với Ấn Độ và Đông Phi vẫn tiếp tục một thời gian dài sau thời Trịnh Hòa. Các chuyến đi của các thuyền buồm lớn của Trung Quốc như Kì Anh tới Hoa Kỳ và Anh trong khoảng thời gian từ 1846 đến 1848 đã chứng tỏ sức mạnh của tàu thuyền Trung Quốc cho đến tận thế kỷ 19.
Mặc dù nhà Minh đã cấm vận chuyển bằng tàu thuyền trên đại dương trong vài chục năm bằng chỉ dụ Hải cấm, nhưng cuối cùng họ cũng đã bãi bỏ lệnh cấm này. Quan điểm khác viện dẫn thực tế là bằng lệnh cấm tàu thuyền này thì nhà Minh (và sau này là nhà Thanh) đã làm gia tăng số lượng người buôn lậu trên chợ đen. Điều này làm giảm nguồn thu thuế của chính quyền và làm gia tăng nạn hải tặc. Sự thiếu vắng của hải quân trên biển đã làm cho Trung Hoa dễ bị tổn thương bởi nạn hải tặc uy khấu (wakou) đã hoành hành vùng bờ biển Trung Quốc trong thế kỷ 16.
Có một điều chắc chắn. Đó là các sự hỗ trợ của chính quyền cho hoạt động hàng hải đã suy giảm nghiêm trọng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa. Từ đầu thế kỷ 15 Trung Quốc đã phải chịu áp lực ngày càng tăng từ các bộ lạc Mông Cổ mới trỗi dậy ở phía bắc. Năm 1421 vua Minh Thành Tổ đã dời đô từ Nam Kinh về Bắc Kinh như là một sự thừa nhận sự hiện hữu của mối đe dọa này cũng như là để gần với khu vực quyền lực của dòng họ. Từ kinh đô mới ông có thể kiểm soát tốt hơn các cố gắng nhằm bảo vệ biên cương phía bắc. Với phí tổn đáng kể, Trung Quốc hàng năm tiến hành các cuộc viễn chinh nhằm làm suy yếu người Mông Cổ. Các phí tổn cho các chiến dịch trên bộ này đã cạnh tranh trực tiếp với ngân sách cần thiết dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải.
Năm 1449 kỵ binh Mông Cổ đã phục kích cuộc hành quân do đích thân hoàng đế Minh Anh Tông chỉ huy chưa đầy một ngày sau khi đội quân này rời khỏi cổng kinh thành. Trong trận chiến pháo đài Thổ Mộc, người Mông Cổ đã đánh bại quân đội nhà Minh và bắt sống hoàng đế Trung Hoa. Trận chiến này có hai ảnh hưởng nổi bật. Thứ nhất, nó minh chứng một cách rõ ràng mối đe dọa của các bộ lạc miền bắc. Thứ hai, người Mông Cổ đã gây ra khủng hoảng chính trị tại Trung Quốc khi họ trả tự do cho Anh Tông sau khi người em cùng cha khác mẹ là Chu Kì Ngọc tự xưng làm vua với niên hiệu Cảnh Thái. Sự ổn định về chính trị chỉ trở lại vào năm 1457 khi Anh Tông trở lại ngai vàng. Sau khi ông trở lại nắm quyền thì Trung Quốc đã từ bỏ chiến lược thám hiểm các vùng đất mới hàng năm và thay vào đó là bắt tay vào việc củng cố và mở rộng Vạn Lý Trường Thành vô cùng tốn kém. Trong hoàn cảnh đó, ngân khố dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải đơn giản không tồn tại nữa.
Một cách cơ bản hơn, không giống như các chuyến thám hiểm sau này của các quốc gia châu Âu, các tàu thuyền chở của cải của người Trung Quốc dường như bị hao hụt dần đến cạn kiệt sau các chuyến đi dài, do các chuyến đi này thiếu động cơ kinh tế. Chúng chủ yếu để làm tăng uy thế của hoàng đế và các chi phí cho chuyến đi cũng như tặng phẩm cho các vị vua chúa và sứ giả nước ngoài còn lớn hơn cả các món lợi thu được từ các cống phẩm. Vì thế khi tài chính của nhà nước chịu áp lực (giống như các quốc gia thời Trung cổ đã làm), thì ngân sách dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải không được cấp nữa. Trái lại, vào thế kỷ 16, phần lớn các chuyến thám hiểm của người châu Âu có lãi từ các hoạt động thương mại cũng như từ việc chiếm đoạt các nguồn tài nguyên/đất của thổ dân để có thể tự trang trải, cho phép họ có thể tiếp tục thám hiểm mà không phải sử dụng đến ngân khố quốc gia.
Khía cạnh văn hóa
Một giả thuyết gây mâu thuẫn gần đây (giả thuyết 1421) được Gavin Menzies đưa ra trong cuốn sách của ông đã giả thiết rằng Trịnh Hòa đã đi vòng quanh thế giới và phát hiện ra châu Mỹ trong thế kỷ 15 trước cả Ferdinand Magellan và Christopher Columbus.
Những thương nhân trong đoàn thám hiểm Thanh Hà (青河) được nói bóng gió trong truyện khoa học viễn tưởng A Fire Upon the Deep của Vernor Vinge (và sau đó được tưởng tượng rõ nét hơn trong A Deepness in the Sky) phản ánh tên của Trịnh Hòa. Các chuyến đi của Trịnh Hòa và sự từ bỏ thám hiểm hàng hải sau đó của các hoàng đế Trung Hoa đã trở thành biểu tượng trong cộng đồng ủng hộ chương trình thăm dò vũ trụ về các thành công và sự hủy bỏ của chương trình Apollo.
Hình tượng của Trịnh Hòa cũng được miêu tả trong cuốn sách của Kim Stanley Robinson The Years of Rice and Salt.
Một số nhà sử học cũng như trong bài viết gần đây của National Geographic về Trịnh Hòa, cho rằng thuyền trưởng Sindbad (từ tiếng Ả Rập السندباد-As-Sindibad) và tập hợp các câu chuyện về thám hiểm hàng hải đã tạo ra Bảy chuyến đi của thuyền trưởng Sindbad, được tìm thấy trong Nghìn lẻ một đêm chịu ảnh hưởng sâu nặng của các câu chuyện được tích lũy trong nhiều người đi biển đã từng theo, buôn bán và làm việc trong các tàu thuyền hỗ trợ khác nhau cho hạm đội của nhà Minh. Niềm tin này được hỗ trợ một phần bằng sự tương tự trong tên của Sindbad và các diễn giải khác nhau của tên gọi của Trịnh Hòa trong tiếng Ả Rập và tiếng Trung (phồn thể: 鄭和; giản thể: 郑和; Hán ngữ bính âm: Zhèng Hé; Wade-Giles: Cheng Ho; tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝; pinyin: Mǎ Sānbǎo tên Ả Rập: Hajji Mahmud Shams) cùng với sự tương tự trong số lần (7) và các khu vực giống nhau trong các chuyến đi của Sindbad và Trịnh Hòa.
Tháng 1 năm 2006, BBC News và The Economist cả hai cùng có bài viết mới liên quan đến triển lãm bản đồ hàng hải Trung Quốc, được cho là có từ năm 1763, trong đó có thông tin là nó được sao chép từ một bản đồ khác vẽ năm 1418. Bản đồ có các miêu tả chi tiết về cả các thổ dân châu Mỹ và Australia. Theo chủ sở hữu của bản đồ, ông Lưu Cương-một luật sư Trung Quốc và là một nhà sưu tập đồ cổ, ông đã mua bản đồ này với giá 500 USD từ một người ở Thượng Hải năm 2001.
Sau khi Lưu Cương đọc cuốn sách 1421:The Year China discovered the World (1421: Năm Trung Quốc phát hiện ra Thế giới) của Gavin Menzies, ông nhận ra tầm quan trọng của bản đồ này. Tấm bản đồ này hiện đang được kiểm tra để xác định tuổi của mực và giấy dùng để vẽ nó, với kết quả sẽ có trong tháng 2 năm 2006. Nếu như bản đồ được xác nhận là vẽ vào năm 1763, thì câu hỏi còn lại là nó có phải bản sao chính xác của tấm bản đồ sớm hơn vào năm 1418 hay không, hay chỉ đơn giản là sự sao chép cùng thời của các bản đồ của người châu Âu.
Một số học giả về lịch sử Trung Quốc đặt câu hỏi về tính xác thực của tấm bản đồ này. Một số đề cập tới việc sử dụng kiểu ánh xạ tương tự như kiểu Mercator, chính xác là liên quan tới kinh độ và định hướng theo hướng Bắc. Không có đặc trưng nào trong số này đã được sử dụng trong các tấm bản đồ tốt nhất được vẽ ra ở châu Á hay châu Âu trong thời kỳ này (ví dụ, xem Cương lý đồ (năm 1410) và Fra Mauro (1459)). Người ta cũng đề cập tới sự miêu tả sai đảo California, một lỗi phổ biến thường bị lặp lại trong các bản đồ của người châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Geoff Wade ở Viện nghiên cứu châu Á của trường Đại học Quốc gia Singapore đã tranh cãi kịch liệt về tính xác thực của tấm bản đồ này và cho rằng nó hoặc là đồ giả mạo ở thế kỷ 18 hoặc thế kỷ 21. Ông cũng chỉ ra một số điểm sai lầm xuất hiện trên bản đồ và các chú giải của nó. Ví dụ, trong đoạn văn bản bên cạnh Đông Âu được dịch ra như sau "Người ở đây phần lớn tin Chúa Trời và tôn giáo của họ được gọi là 'Jing'", Wade lưu ý rằng từ Trung Quốc để chỉ Chúa Trời của người Thiên chúa giáo là "Thượng đế", việc sử dụng từ Jing là do các nhà truyền giáo phương Tây đặt ra vào khoảng thế kỷ 16.
Trịnh Hòa trong văn hóa hiện đại
Trịnh Hòa xuất hiện trong loạt phim truyền hình "郑和下西洋" (dịch: "Trịnh Hòa hạ tây dương") do CCTV vào tháng 4 năm 2009, La Gia Lương trong vai Trịnh Hòa và Đường Quốc Cường trong vai Minh Thành Tổ.
Năm 2011, trong bộ phim "Hồng Vũ tam thập nhị" do TVB sản xuất, nhân vật Trịnh Hòa thời trẻ xuất hiện với tên gọi Mã Tam Bảo do Trần Kiện Phong thủ vai bên cạnh Minh Thành Tổ do Mã Đức Chung đóng.
Ngày Hàng hải
Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, 11 tháng 7 là ngày Hàng hải Trung Quốc (中国航海日) để tưởng nhớ chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa.
Thư viện ảnh |
Nó được chỉ định là:
Năm Sa mạc và Sa mạc hóa quốc tế
Năm Rembrandt, kỷ niệm sinh nhật thứ 400 của họa sĩ Hà Lan Rembrandt Harmenszoon van Rijn
Năm Mozart, kỷ niệm sinh nhật thứ 250 của nhà soạn nhạc Áo Wolfgang Amadeus Mozart
Năm Tesla, kỷ niệm sinh nhật thứ 150 của nhà kỹ thuật điện Nikola Tesla
Năm Asperger quốc tế, kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của bác sĩ Hans Asperger, người nhận ra Chứng Asperger
Năm đi Du học (do nghị quyết của Thượng Nghị viện Hoa Kỳ)
Năm Bảo Bình, người chở nước trong chiêm tinh phương Tây
Sự kiện
Tháng 1
20 tháng 1: Tổ chức Cúp bóng đá châu Phi 2006 tại Ai Cập.
Tháng 2
Ủy ban Hành động Hồi giáo (MAC) được thành lập.
Tháng 3
10 tháng 3: Tổ chức giải vô địch điền kinh trong nhà thế giới 2006 tại Moskva (Nga).
Tháng 4
Ngày 2 tháng 4, 2006: Tổng thống Georgia Eduard Shevardnadze từ chức sau cuộc biểu tình và bạo động ở thủ đô Tbilisi.
Ngày 6 tháng 4, 2006: Cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2006 diễn ra tại Los Angeles, Hoa Kỳ, và cuộc thi này đã đánh dấu chiến thắng của Zuleyka Rivera từ Puerto Rico.
Ngày 14 tháng 4, 2006: Trạm không gian quốc tế ISS (International Space Station) được gắn kết với tàu thám hiểm Discovery, đánh dấu sự kết nối giữa Mỹ và Nga trong vấn đề không gian.
Ngày 26 tháng 4, 2006: Tại Làng Thế vận hội Mùa hè 2006 tại Torino, Ý, lễ bế mạc diễn ra.
Ngày 27 tháng 4, 2006: Ngày này, tòa án Liên bang Mỹ tại San Francisco quyết định rằng cấm hôn nhân đồng giới ở California vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ.
Tháng 5
2 tháng 5: Tổ chức Giải vô địch bóng đá trong nhà Đông Nam Á 2006 tại Băng Cốc (Thái Lan).
Tháng 6
9 tháng 6: Tổ chức Cúp bóng đá Thế giới năm 2006 tại Đức
26 tháng 6: Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Tháng 7
11 tháng 7: Microsoft chính thức ngừng hỗ trợ mọi kĩ thuật cho các hệ điều hành Windows 98, Windows ME.
Tháng 8
Tháng 9
1 tháng 9: Roblox được ra mắt trong cộng đồng
Tháng 10
Tháng 11
4 tháng 11: Tổ chức Giải vô địch bi-a 9 bi thế giới 2006 tại Manila (Philippines).
18 tháng 11 đến 20 tháng 11: Hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC diễn ra tại Hà Nội.
Tháng 12
1 tháng 12: ASIAD 2006 được tổ chức tại Doha (Qatar).
10 tháng 12: Tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2006 tại Nhật Bản.
30 tháng 12: Tổng thống Iraq Saddam Hussein bị treo cổ tại Baghdad.
Sinh
10 tháng 3: Hồ Thanh Ân, vận động viên Taekwondo Việt Nam
10 tháng 3: Robert Biden II, cháu trai của Tổng thống Mỹ Joe Biden
14 tháng 3: Quỳnh Lê, nữ ca sĩ người Việt Nam
20 tháng 3: Barron Trump, con trai của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump
3 tháng 6: Leonore Marie Irene Enrica, Nữ bá tước xứ Oranje-Nassau
18 tháng 6: Nữ bá tước Zaria của Orange - Nassau
27 tháng 6: Ruby Bảo An (Nguyễn Ngọc Bảo An), nữ ca sĩ người Việt Nam
6 tháng 9: Hoàng tử Hisahito, đứng thứ 3 trong danh sách kế vị ngai vàng Nhật Bản
Mất
Tháng 1
1 tháng 1 – Harry Magdoff, nhà kinh tế học Mỹ (sinh 1913)
4 tháng 1 – Irving Layton, thi sĩ Canada, tác giả (sinh 1912)
4 tháng 1 – Jacques Charby, diễn viên Pháp (sinh 1920)
5 tháng 1 – Lord Merlyn Rees, chính trị gia Anh (sinh 1920)
7 tháng 1 – Gabor Zavadszky, cầu thủ bóng đá Hungary (sinh 1974)
7 tháng 1 – Urano Teixeira da Matta Bacellar, tướng Brasil (sinh 1948)
8 tháng 1 – Tony Banks, chính trị gia Anh (sinh 1943)
8 tháng 1 – Manfred Bofinger, nghệ sĩ tạo hình Đức, họa sĩ biếm họa (sinh 1941)
8 tháng 1 – Elson Becerra, cầu thủ bóng đá (sinh 1978)
9 tháng 1 – Andy Caldecott, người đua mô tô Úc (sinh 1964)
9 tháng 1 – Mimmo Rotella, nghệ nhân Ý (sinh 1918)
11 tháng 1 – Eric Namesnik, vận động viên bơi lội Mỹ (sinh 1970)
12 tháng 1 – Brendan Cauldwell, diễn viên Ireland (sinh 1922)
12 tháng 1 – Günther Landgraf, nhà vật lý học Đức (sinh 1928)
12 tháng 1 – Udo Thomer, diễn viên Đức (sinh 1945)
12 tháng 1 – Meinrad Schütter, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ (sinh 1910)
14 tháng 1 – Shelley Winters, nữ diễn viên Mỹ, Giải Oscar (sinh 1920)
14 tháng 1 – Jacques Faizant, họa sĩ biếm họa Pháp (sinh 1918)
14 tháng 1 – Henri Colpi, đạo diễn Thụy Sĩ (sinh 1921)
14 tháng 1 – Rolf von der Laage, nhà báo Đức (sinh 1932)
18 tháng 1 – Jan Twardowski, nhà thơ trữ tình Ba Lan (sinh 1915)
19 tháng 1 – Franz Seitz, đạo diễn phim Đức, nhà sản xuất, tác giả kịch bản (sinh 1921)
19 tháng 1 – Wilson Pickett, ca sĩ nhạc soul Mỹ (sinh 1941)
20 tháng 1 – Pio Taofinu'u, Hồng y Giáo chủ (sinh 1923)
20 tháng 1 – Anthony Franciosa, diễn viên Mỹ (sinh 1928)
21 tháng 1 – Ibrahim Rugova, tổng thống của Kosovo (sinh 1944)
21 tháng 1 – Karlheinz Liefers, đạo diễn phim Đức (sinh 1941)
22 tháng 1 – Gerhard Funke, triết gia Đức (sinh 1914)
22 tháng 1 – Thomas Christian David, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1925)
23 tháng 1 – Josef-Severin Ahlmann, nhà phát minh Đức, doanh nhân (sinh 1924)
24 tháng 1 – Chris Penn, diễn viên Mỹ (sinh 1965)
24 tháng 1 – Nicholas Shackleton, nhà khoa học Anh (sinh 1937)
27 tháng 1 – Johannes Rau, chính trị gia Đức, tổng thống Cộng hòa Liên bang Đức 1999–2004 (sinh 1931)
29 tháng 1 – Nam June Paik, nghệ nhân Hàn Quốc (sinh 1932)
30 tháng 1 – Wendy Wasserstein, nữ soạn kịch Mỹ (sinh 1950)
30 tháng 1 – Feng Xiliang, nhà báo Trung Hoa (sinh 1920)
30 tháng 1 – Otto Lang, nhà sản xuất phim Mỹ (sinh 1908)
31 tháng 1 – Moira Shearer, nữ diễn viên Anh, nữ nghệ sĩ múa (sinh 1926)
Tháng 2
1 tháng 2 – Jean-Philippe Maitre, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1949)
1 tháng 2 – Otto Wiesner, nhà văn Đức (sinh 1910)
3 tháng 2 – Romano Mussolini, nhạc sĩ jazz Ý, họa sĩ (sinh 1927)
3 tháng 2 – Tilo Medek, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1940)
3 tháng 2 – Reinhart Koselleck, nhà sử học Đức (sinh 1923)
3 tháng 2 – Al Lewis, diễn viên Mỹ (sinh 1910)
4 tháng 2 – Marquard Bohm, diễn viên Đức (sinh 1941)
4 tháng 2 – Betty Friedan, nhà văn nữ Mỹ (sinh 1921)
4 tháng 2 – Ulrich Klöti, nhà chính trị học Thụy Sĩ (sinh 1943)
4 tháng 2 – Hellmut Kalbitzer, chính trị gia Đức (sinh 1913)
6 tháng 2 – Karin Struck, nhà văn nữ Đức (sinh 1947)
8 tháng 2 – Akira Ifukube, nhạc sĩ Nhật Bản (sinh 1914)
8 tháng 2 – Larry Black, vận động viên điền kinh Mỹ (sinh 1951)
9 tháng 2 – Freddie Laker, doanh nhân Anh (sinh 1922)
9 tháng 2 – Ron Greenwood, huấn luyện viên bóng đá Anh (sinh 1921)
9 tháng 2 – Ibolya Csák, nữ vận động viên điền kinh Hungary (sinh 1915)
10 tháng 2 – Phil Brown, diễn viên Mỹ (sinh 1916)
10 tháng 2 – Dionis Bubani, nhà văn Albania (sinh 1926)
11 tháng 2 – Ken Fletcher, vận động viên quần vợt Úc (sinh 1940)
11 tháng 2 – Peter Benchley, tác giả Mỹ (sinh 1940)
12 tháng 2 – Otto Paetz, họa sĩ Đức, nghệ sĩ tạo hình (sinh 1914)
12 tháng 2 – Rudi Geil, chính trị gia Đức (sinh 1937)
12 tháng 2 – Wolfgang Mittmann, tác giả Đức (sinh 1939)
13 tháng 2 – Charles Ortega, họa sĩ Pháp (sinh 1925)
13 tháng 2 – Andreas Katsulas, diễn viên Mỹ (sinh 1946)
15 tháng 2 – Andrei Petrow, nhà soạn nhạc Nga (sinh 1930)
17 tháng 2 – Jorge Pinto Mendonça, cầu thủ bóng đá Brasil (sinh 1954)
17 tháng 2 – William Cowsill, nam ca sĩ Mỹ (sinh 1948)
18 tháng 2 – Richard Bright, diễn viên Mỹ (sinh 1937)
18 tháng 2 – Hans Heinz Hahnl, nhà văn Áo (sinh 1923)
19 tháng 2 – Otto Kery, đạo diễn phim Áo, diễn viên (sinh 1923)
20 tháng 2 – Luca Coscioni, chính trị gia Ý (sinh 1967)
21 tháng 2 – Paul Casimir Marcinkus, tổng giám mục Mỹ (sinh 1922)
21 tháng 2 – Gennadi Ajgi, nhà văn Nga (sinh 1934)
22 tháng 2 – Angelica Adelstein-Rozeanu, nữ vận động viên thể thao Romania (sinh 1921)
22 tháng 2 – Hilde Domin, nhà văn nữ Đức (sinh 1909)
23 tháng 2 – Telmo Zarraonandia, (Zarra), cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha (sinh 1921)
23 tháng 2 – Frederick Busch, nhà văn Mỹ (sinh 1941)
23 tháng 2 – Benno Besson, diễn viên Thụy Sĩ, đạo diễn phim (sinh 1922)
24 tháng 2 – Don Knotts, diễn viên Mỹ (sinh 1924)
25 tháng 2 – Darren McGavin, diễn viên Mỹ (sinh 1922)
25 tháng 2 – Robert Royston Amos Coombs, nhà nghiên cứu miễn dịch Anh (sinh 1921)
27 tháng 2 – Octavia E. Butler, nhà văn nữ Mỹ (sinh 1947)
27 tháng 2 – Ferenc Bene, cầu thủ bóng đá Hungary (sinh 1944)
28 tháng 2 – Arno Wallaard, tay đua xe đạp Hà Lan (sinh 1979)
28 tháng 2 – Owen Chamberlain, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1920)
Tháng 3
1 tháng 3 – Jack Wild, diễn viên Anh (sinh 1952)
1 tháng 3 – Peter Osgood, cầu thủ bóng đá Anh (sinh 1947)
2 tháng 3 – Leopold Gratz, chính trị gia Áo (sinh 1929)
6 tháng 3 – Dana Reeve, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1961)
10 tháng 3 – Anna Moffo, nữ ca sĩ opera Mỹ (sinh 1932)
11 tháng 3 – Slobodan Milošević, chính trị gia (sinh 1941)
14 tháng 3 – Eugen Oker, nhà văn Đức (sinh 1919)
17 tháng 3 – Ray Meyer, huấn luyện viên bóng rổ Mỹ (sinh 1913)
18 tháng 3 - Dan Gibson, nhiếp ảnh gia, nhà điện ảnh và nhà ghi âm Canada (sinh 1922)
21 tháng 3 – Bernard Lacoste, nhà thiết kế y phục thời trang Pháp (sinh 1931)
25 tháng 3 – Tom Toelle, đạo diễn phim Đức (sinh 1931)
27 tháng 3 – Paul Dana, đua xe Mỹ (sinh 1975)
27 tháng 3 – Stanisław Lem, nhà văn khoa học giả tưởng Ba Lan (sinh 1921)
28 tháng 3 – Wilfried Baasner, diễn viên Đức (sinh 1940)
Tháng 4
12 tháng 4 – William Sloane Coffin, nhà thần học Mỹ (sinh 1924)
12 tháng 4 – Christiane Maybach, nữ diễn viên Đức (sinh 1932)
15 tháng 4 – Schnuckenack Reinhardt, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
20 tháng 4 – Albert Scott Crossfield, phi công lái máy bay thử nghiệm Mỹ (sinh 1921)
20 tháng 4 – Maurice de Gandillac, triết gia Pháp (sinh 1906)
20 tháng 4 – Wolfgang Unzicker, người đánh cờ Đức (sinh 1925)
27 tháng 4 – Branko Sbutega, linh mục Công giáo (sinh 1952)
29 tháng 4 – John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học, tác giả, nhà ngoại giao (sinh 1908)
30 tháng 4 – Corinne Rey-Bellet, nữ vận động viên chạy ski Thụy Sĩ (sinh 1972)
25 tháng 4 – Ho Viet Trung, triết gia Viet Nam (sinh 1985)
Tháng 5
3 tháng 5 – Karel Appel, họa sĩ Hà Lan (sinh 1921)
3 tháng 5 – Wolfgang Schwenke, nhà động vật học Đức, nhà lâm học (sinh 1921)
5 tháng 5 – Franz-Josef Steffens, diễn viên Đức (sinh 1924)
14 tháng 5 – Stanley Kunitz, nhà thơ trữ tình Mỹ (sinh 1905)
14 tháng 5 – Günther Nenning, nhà báo Áo, tác giả (sinh 1921)
15 tháng 5 – Eberhard Esche, diễn viên Đức (sinh 1933)
15 tháng 5 – Klaus Dahlen, diễn viên Đức (sinh 1938)
17 tháng 5 – Eva-Maria Bauer, nữ diễn viên Đức (sinh 1923)
22 tháng 5 – Balduin Baas, diễn viên Đức (sinh 1922)
22 tháng 5 - Lee Jong-wook, người Hàn Quốc, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (sinh năm 1945)
23 tháng 5 – Kazimierz Górski, cầu thủ bóng đá Ba Lan, huấn luyện viên (sinh 1921)
25 tháng 5 – Otto Matthäus Zykan, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1935)
Tháng 6
8 tháng 6 – Mykola Kolessa, nhà soạn nhạc, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1903)
9 tháng 6 – Drafi Deutscher, nhà sản xuất, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1946)
10 tháng 6 – Hubertus Czernin, nhà báo Áo, nhà xuất bản (sinh 1956)
12 tháng 6 – György Ligeti, nhà soạn nhạc (sinh 1923)
13 tháng 6 - Charles Haughey, Thủ tướng Ireland (sinh 1925)
14 tháng 6 – Jean Roba, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Bỉ (sinh 1930)
18 tháng 6 – Markus Zimmer, nhạc sĩ Đức, nam ca sĩ (sinh 1964)
30 tháng 6 – Robert Gernhardt, họa sĩ Đức, nhà thơ trữ tình (sinh 1937)
Tháng 7
1 tháng 7 –
Chu Huy Mân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (sinh 1913)
Hashimoto Ryūtarō, Thủ tướng thứ 53 của Nhật Bản (sinh 1937)
7 tháng 7 – Syd Barrett, nhạc sĩ nhạc pop Anh (Pink Floyd)(sinh 1946)
8 tháng 7 – June Allyson, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1917)
10 tháng 7 - Shamil Basayev, thủ lĩnh quân chống đối chính phủ Chechnya (sinh 1965)
10 tháng 7 – Fred Wander, nhà văn Áo (sinh 1917)
17 tháng 7 – Elfriede Kuzmany, nữ diễn viên Áo (sinh 1915)
20 tháng 7 – Charles Bettelheim, nhà kinh tế học Pháp (sinh 1913)
20 tháng 7 – Philipp von Bismarck, chính trị gia Đức
21 tháng 7 - Ta Mok, thủ lĩnh quân đội Khơme Đỏ (sinh năm 1926)
21 tháng 7 – Makoto Iwamatsu, diễn viên Nhật Bản (sinh 1933)
25 tháng 7 – Karin Hübner, nữ diễn viên Đức (sinh 1936)
26 tháng 7 – Vojtech Zamarovský, nhà sử học Slovakia, nhà văn, dịch giả (sinh 1919)
27 tháng 7 – Elisabeth Volkmann, nữ diễn viên Đức (sinh 1936)
28 tháng 7 – Rut Brandt, vợ thứ nhì của thủ tướng Đức Willy Brandt (sinh 1920)
Tháng 8
2 tháng 8 – Holger Börner, chính trị gia Đức, thủ tướng bang Hessen (sinh 1931)
3 tháng 8 – Arthur Lee, nam ca sĩ của ban nhạc rock Love (sinh 1945)
5 tháng 8 – Daniel Schmid, đạo diễn phim Thụy Sĩ (sinh 1941)
5 tháng 8 – Hugo Schiltz, chính trị gia Bỉ (sinh 1927)
9 tháng 8 – James van Allen, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1914)
9 tháng 8 – Jenny Gröllmann, nữ diễn viên Đức (sinh 1947)
10 tháng 8 – Yasuo Takei, doanh nhân Nhật Bản (sinh 1930)
10 tháng 8 – Irving São Paulo, diễn viên Brasil (sinh 1964)
13 tháng 8 – Payao Poontarat, võ sĩ quyền Anh người Thái Lan (sinh 1957)
14 tháng 8 – Bruno Kirby, diễn viên Mỹ (sinh 1949)
14 tháng 8 – John Jahr junior, nhà xuất bản Đức (sinh 1933)
16 tháng 8 – Alfredo Stroessner, tổng thống của Paraguay (sinh 1912)
21 tháng 8 – Klaus Höhne, diễn viên Đức (sinh 1927)
24 tháng 8 – Herbert Hupka, nhà báo Đức, chính trị gia (sinh 1915)
24 tháng 8 – John Weinzweig, nhà soạn nhạc Canada (sinh 1913)
26 tháng 8 – Rainer Barzel, chính trị gia Đức (sinh 1924)
30 tháng 8 – Glenn Ford, diễn viên Mỹ (sinh 1916)
Tháng 9
2 tháng 9 – Bob Mathias, vận động viên điền kinh Mỹ, huy chương Thế Vận Hội (sinh 1930)
3 tháng 9 – Annemarie Wendl, nữ diễn viên Đức (sinh 1914)
4 tháng 9 – Giacinto Facchetti, cầu thủ bóng đá Ý (sinh 1942)
4 tháng 9 – Steve Irwin ("Kẻ săn cá sấu"), nhà nghiên cứu tự nhiên người Úc (sinh 1962)
9 tháng 9 - Matt Gadsby, cầu thủ bóng đá Anh (sinh 1979)
9 tháng 10 - Paul Hunter, vận động viên snooker người Anh (sinh năm 1978)
11 tháng 9 – Joachim C. Fest, nhà sử học Đức, nhà báo, tác giả (sinh 1926)
12 tháng 9 – Leo Navratil, bác sĩ tâm thần Áo (sinh 1921)
17 tháng 9 – Patricia Kennedy-Lawford, chị em của John F. Kennedy (sinh 1924)
20 tháng 9 – Don Walser, nhạc sĩ country Mỹ (sinh 1934)
27 tháng 9 – Bruni Löbel, nữ diễn viên Đức (sinh 1920)
Tháng 10
4 tháng 10 – Oskar Pastior, nhà văn (sinh 1927)
5 tháng 10 – Friedrich Karl Flick, tỉ phú Đức (sinh 1927)
7 tháng 10 – Anna Politkovskaya, nữ nhà báo Nga (sinh 1958)
9 tháng 10 – Klaus Renft, nhạc sĩ Đức (sinh 1942)
15 tháng 10 – Eddy Blay, võ sĩ quyền Anh (sinh 1942)
20 tháng 10 – Maxi Herber, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (sinh 1920)
26 tháng 10 – Pontus Hultén, sử gia về nghệ thuật Thụy Điển, triết gia, giáo sư đại học (sinh 1924)
27 tháng 10 – Ghulam Ishaq Khan, cựu tổng thống của Pakistan (sinh 1915)
28 tháng 10 – Arnold Jacob Auerbach, huấn luyện viên bóng rổ Mỹ (sinh 1917)
31 tháng 10 – Pieter Willem Botha, tổng thống của Cộng hòa Cộng hòa Nam Phi từ 1984 đến 1989 (sinh 1916)
Tháng 11
3 tháng 11 - Paul Mauriat, nhạc sĩ người Pháp (sinh năm 1925)
5 tháng 11 – Bülent Ecevit, chính trị gia Thổ Nhĩ Kỳ (sinh 1925)
6 tháng 11 – Francisco Fernández Ochoa, cựu vận động viên chạy ski Tây Ban Nha (sinh 1950)
7 tháng 11 – Jean-Jacques Servan-Schreiber, nhà báo Pháp, nhà văn tiểu luận, chính trị gia (sinh 1924)
8 tháng 11 – Annette Rogers, nữ vận động viên điền kinh Mỹ, người đoạt huy chương Thế Vận Hội (sinh 1913)
10 tháng 11 – Hans-Peter Minetti diễn viên Đức (sinh 1926)
10 tháng 11 – Willy Knupp, nhà báo về thể thao (sinh 1936)
17 tháng 11 - Ferenc Puskás, cầu thủ bóng đá người Hungary (sinh năm 1927)
19 tháng 11 – Francis Girod, nhà sản xuất Pháp, tác giả kịch bản, diễn viên (sinh 1944)
19 tháng 11 – Horst Michael Neutze, diễn viên Đức (sinh 1923)
20 tháng 11 – Robert Altman, đạo diễn phim Mỹ, nhà sản xuất phim (sinh 1925)
21 tháng 11 – Pierre Amine Gemayel, chính trị gia (sinh 1972)
23 tháng 11 – Philippe Noiret, diễn viên Pháp (sinh 1930)
28 tháng 11 – Max Merkel, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Đức, huấn luyện viên bóng đá (sinh 1918)
29 tháng 11 – Allen Carr, nhà văn Anh (sinh 1934)
29 tháng 11 – Leon Niemczyk, diễn viên Ba Lan (sinh 1923)
30 tháng 11 – Shirley Walker, nhà soạn nhạc Mỹ, nghệ sĩ dương cầm, nhà sản xuất (sinh 1945)
Tháng 12
1 tháng 12 – Claude Jade, nữ diễn viên Pháp (sinh 1948)
2 tháng 12 – Mariska Veres, nữ ca sĩ Hà Lan (sinh 1947)
2 tháng 12 – Kurt Wasserfallen, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1947)
4 tháng 12 – Wolfram Kistner, mục sư Nam Phi, nhà thần học (sinh 1923)
4 tháng 12 – Lenard "Len" Sutton, đua xe Mỹ (sinh 1925)
5 tháng 12 – Peter Blake, kiến trúc sư Mỹ, tác giả (sinh 1920)
6 tháng 12 – Gernot Jurtin, cầu thủ bóng đá Áo (sinh 1955)
7 tháng 12 – Jeane Kirkpatrick, nhà nữ chính trị học Mỹ (sinh 1926)
8 tháng 12 – Heinrich Riethmüller, nhạc sĩ Đức, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
10 tháng 12 – Augusto Pinochet (sinh 1915)
10 tháng 12 – Wigand của Salmuth, doanh nhân Đức (sinh 1931)
11 tháng 12 – Nguyễn Văn Đạo, nhà cơ học hàng đầu Việt Nam (sinh 1937)
12 tháng 12 – Peter Boyle, diễn viên Mỹ (sinh 1935)
12 tháng 12 – Oscar Klein, nhạc sĩ nhạc jazz Áo (sinh 1930), khánh thành cầu Thị Nại ở Quy Nhơn
12 tháng 12 – Cor van của Hart, cầu thủ bóng đá Hà Lan, huấn luyện viên (sinh 1928)
13 tháng 12 – Peter Dienel, nhà thần học Đức (sinh 1923)
13 tháng 12 – Loyola de Palacio, nữ chính trị gia Tây Ban Nha (sinh 1950)
13 tháng 12 – Robert Long, nhà soạn nhạc Hà Lan (sinh 1943)
14 tháng 12 – Gerhard Heintze, nhà thần học Đức (sinh 1912)
14 tháng 12 – Sivuca, nhạc sĩ jazz Brasil (sinh 1930)
17 tháng 12 – Albert Hetterle, diễn viên Đức, đạo diễn phim (sinh 1918)
18 tháng 12 – Joseph Barbera, nhà làm phim hoạt hình người Mỹ (sinh năm 1911)
18 tháng 12 – Ruth Bernhard, nữ nhiếp ảnh gia (sinh 1905)
21 tháng 12 – Sydney Wooderson, vận động viên điền kinh Anh (sinh 1914)
25 tháng 12 – James Brown, nam ca sĩ Mỹ (sinh 1933)
26 tháng 12 – Gerald R Ford, tổng thống thứ 38 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (sinh 1913).
26 tháng 12 – Chris Brown, cầu thủ bóng chày Mỹ (sinh 1961)
26 tháng 12 – John Heath-Stubbs, thi sĩ Anh, dịch giả (sinh 1918)
30 tháng 12 – Saddam Hussein (sinh 1937)
31 tháng 12 – Liese Prokop, nữ vận động viên thể thao Áo, nữ bộ trưởng (sinh 1941)
Giải Nobel
Hóa học - Roger D. Kornberg
Hòa bình - Muhammad Yunus và Ngân hàng Grameen
Kinh tế - Edmund Phelps
Văn học - Orhan Pamuk
Vật lý - John C. Mather, George F. Smoot
Y học - Andrew Z. Fire, Craig C. Mello |
Nguyễn Hiến Lê (ngày 8 tháng 1 năm 1912 – ngày 22 tháng 12 năm 1984) là học giả, nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập Việt Nam, có 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế, v.v.
Cuộc đời
Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912, quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Hà Nội). Thân phụ ông tên Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như, là con trai út của một nhà Nho. Thân mẫu ông tên Sâm, làng Hạ Đình (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn. Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút danh Lộc Đình. Ông kể: "gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy..." và "Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy."
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách Đời viết văn của tôi. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.
Ông qua đời lúc 8 giờ 50 phút ngày 22 tháng 12 năm 1984 khi đang điều trị tại Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 72 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời. Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của ông được an táng ngay trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), thì ông vẫn được an táng ngay trên phần mộ của bà.
"Tự bạch"
Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT - "Lời mở đầu" của tác phẩm "Đời viết văn của tôi".
Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau:
Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,...
Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.
Nhận xét
Người thầy Nguyễn Hiến Lê trước 1975, Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt ông vì quan điểm chính trị của ông. Dù là người có quan điểm thiên cộng nhưng ông vẫn dám nói thật, viết thẳng theo tinh thần "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:
{{cquote|Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: "Tôi không làm công việc thất đức đó được". Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà !"|||Nguyễn Hiến Lê|}}
Tác phẩm
Bản quyền các tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê đang được Công ty cổ phần Sách BIZBooks nắm giữ.
Văn học - Tiểu thuyếtHương sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) - 1955Cổ văn Trung Quốc - 1966Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) - 1968Sử Ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) - 1970Tô Đông Pha - 1970Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) - 1970Kiếp người (dịch Somerset Maugham) - 1962Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969Chiến tranh và hoà bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) - 1968Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) 1969Quê hương tan rã (dịch C. Acheba) - 1970Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) - 1972Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968Con đường thiên lý - (Xuất bản 1990)Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn)Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) - (Xuất bản 2002)
Kinh DịchĐắc Nhân Tâm (dịch Dale Carnegie) - (Xuất bản 1951)
Triết họcNho giáo một triết lý chính trị - 1958Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) - 1965Nhà giáo họ Khổng - 1972Liệt tử và Dương tử - 1972
Một lương tâm nổi loạn - 1970Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại - 1971
Mạnh Tử - 1975
Trang Tử - (Xuất bản 1994)
Hàn Phi Tử - (Xuất bản 1994)
Tuân Tử - (Xuất bản 1994)Mặc học - (Xuất bản 1995)
Lão Tử - (Xuất bản 1994)
Luận ngữ - (Xuất bản 1995)
Khổng Tử - (Xuất bản 1992)
Kinh Dịch, đạo của người quân tử - (Xuất bản 1990)
Lịch sửLịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) - 1955
Đông Kinh Nghĩa Thục - 1956Bài học Israel - 1968Bán đảo Ả Rập - 1969Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) - 1971Bài học lịch sử (dịch Will Durant) - 1972Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) - 1974Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) - 1975Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) - (Xuất bản 1997)Sử Trung Quốc (3 tập) 1982
Giáo dục – giáo khoaThế hệ ngày mai - 1953Thời mới dạy con theo lối mới - 1958Tìm hiểu con chúng ta - 1966Săn sóc sự học của con em - 1954Tự học để thành công - 195433 câu chuyện với các bà mẹ - 1971Thế giới bí mật của trẻ em - 1972Lời khuyên thanh niên - 1967Kim chỉ nam của học sinh - 1951Bí quyết thi đậu - 1956Để hiểu văn phạm - 1952Luyện văn I (1953), II & III (1957)Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) - 1963Tôi tập viết tiếng Việt - 1990Muốn giỏi toán hình học phẳng - 1956Muốn giỏi toán hình học không gian - 1959Muốn giỏi toán đại số - 1958
Chính trị - Kinh tếMột niềm tin - 1965Xung đột trong đời sống quốc tế - 1962
Gương danh nhânGương danh nhân - 1959Gương hi sinh - 1962Gương kiên nhẫn - 1964Gương chiến đấu - 1966Ý chí sắt đá - 197140 gương thành công - 1968Những cuộc đời ngoại hạng - 196915 gương phụ nữ - 1970Einstein - 1971Bertrand Russell - 1972Đời nghệ sĩ - (Xuất bản 1993)Khổng Tử - (Xuất bản 1995)Gogol - (Xuất bản 2000)Tourgueniev - (Xuất bản 2000)Tchekhov - (Xuất bản 2000)
Khảo luận – tùy bút – du kýĐế Thiên Đế Thích – 1968Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954Nghề viết văn - 1956Vấn đề xây dựng văn hoá - 1967Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) - 1971Sống đẹp - 1964Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) - 1968Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) - 1971Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970Hoa đào năm trước - 1970Con đường hoà bình - 1971Cháu bà nội tội bà ngoại - 1974
Ý cao tình đẹp - 1972Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) - 197010 câu chuyện văn chương - 1975Đời viết văn của tôi - (Xuất bản 1996)Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - (Xuất bản 1992)Để tôi đọc lại - (Xuất bản 2001)
Tự luyện – Học làm ngườiTương lai trong tay ta - 1962Luyện lý trí - 1965
Rèn nghị lực - 1956Sống 365 ngày một năm - 1968Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) - 1955
Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) - 1951Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) - 1957
Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) - 1951
Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) - 1955Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) - 1956Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) - 1952Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) - 1965Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) - 1966Sống đời sống mới (dịch Powers) - 1965Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) - 1967Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969Con đường lập thân (dịch Ennever) - 1969Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) - 1971Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) - 1971Tổ chức gia đình - 1953
Các bài đăng trên tạp chí
242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ''. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.
Chú thích |
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt là Chính phủ Việt Nam hay đơn giản hơn là Chính phủ) là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Trước khi có tên là Chính phủ, cơ quan này được gọi với tên là Hội đồng Chính phủ trong giai đoạn 1959-1980 và Hội đồng Bộ trưởng trong giai đoạn 1980-1992.
Lịch sử
Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946 lần đầu tiên quy định về Chính phủ. Thiết chế nhà nước ở thời điểm này có sự khác biệt, khi mà Chủ tịch nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ, giúp việc cho Chủ tịch nước có Nội các do Thủ tướng đứng đầu cùng các Bộ trưởng, Thứ trưởng, Phó Thủ tướng.
Hiến pháp 1959, có hiệu lực từ ngày 31 tháng 12 năm 1959, gọi với tên gọi Hội đồng Chính phủ. Từ bản Hiến pháp này, thiết chế của nhánh hành pháp trở về Thủ tướng đứng đầu Chính phủ như hiện tại thay vì là Chủ tịch nước như bản Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1980, có hiệu lực từ ngày 18 tháng 12 năm 1980, gọi là Hội đồng Bộ trưởng.
Hiến pháp 1992, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 1992 được đổi lại là Chính phủ.
Hiến pháp 2013, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 vẫn giữ nguyên tên gọi Chính phủ.
Nhiệm kì
Hiến pháp 2013, Điều 97 quy định:
"Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ".
Trong đó, Điều 71 quy định nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm.
Thành phần
Hiến pháp 2013, Điều 95 Mục 1 có quy định:
"Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số."
Nhiệm vụ và quyền hạn
Hiến pháp 2013, Điều 96 quy định:
"Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình."
Trách nhiệm
Chính phủ chịu sự giám sát của Chủ tịch nước và Quốc hội. Chính phủ phải chấp hành:
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
Chính phủ phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chủ tịch nước, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, cách thức hoạt động của Chính phủ được quy định tại: Chương VII Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Chính phủ 2015 (sửa đổi 2019), và Nghị định Ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ 2016.
Nghị định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở Việt Nam.
Danh sách các cơ quan trong bộ máy Chính phủ
Chính phủ hiện nay có 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ và 8 đơn vị trực thuộc.
Các Bộ:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Y tế
Bộ Tư pháp
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Bộ Công Thương
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Bộ Giao thông vận tải
Bộ Xây dựng
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ Thông tin và Truyền thông
Bộ Ngoại giao
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ Công an
Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Tài chính
Bộ Nội vụ
Bộ Quốc phòng
Các Cơ quan ngang Bộ :
Văn phòng Chính phủ
Thanh tra Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ủy ban Dân tộc
Các Đơn vị thuộc Chính phủ :
Đài Truyền hình Việt Nam
Đài Tiếng nói Việt Nam
Thông tấn xã Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Đại học thuộc Chính phủ
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra Chính phủ Việt Nam còn tổ chức các Ủy ban Quốc gia về nhiều lĩnh vực . Các Ủy ban Quốc gia không phải là một cơ quan hay bộ máy riêng biệt, mà thành phần gồm có các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng từ các Bộ và cơ quan khác liên quan. Các Ủy ban Quốc gia đóng vai trò là cơ quan cố vấn cho Thủ tướng Chính phủ về các chính sách, cũng như tổ chức phối hợp liên ngành và liên Bộ, cho nên không có quyền lực hành pháp hoặc hành chính. Các Ủy ban Quốc gia được thành lập và kết thúc sứ mạng tùy thuộc vào tình hình thực tế. Hiện tại có 9 Ủy ban Quốc gia:
Ủy ban Quốc gia Đổi mới Giáo dục và Đào tạo
Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số
Ủy ban Quốc gia về Biến đổi Khí hậu
Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia
Ủy ban Quốc gia Phòng chống AIDS và Phòng chống Tệ nạn Ma túy, Mại dâm
Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn
Ủy ban An ninh Hàng không Dân dụng Quốc gia
Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế
Sơ đồ tổ chức Chính phủ Việt Nam
Nhiệm vụ của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng trong Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ
1- Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự đảng Chính phủ
a) Lãnh đạo, quản lý toàn diện mọi hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
b) Trực tiếp chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác sau đây:
- Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
- Chiến lược, chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ quốc gia.
- Chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Công tác cán bộ; tổ chức bộ máy; cải cách hành chính; địa giới hành chính; những vấn đề chung về công tác thi đua, khen thưởng.
- Quan hệ phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
c) Theo dõi và chỉ đạo: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
d) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Ủy ban Chỉ đạo nhà nước về Biển Đông - Hải đảo; Chủ tịch Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo An toàn, An ninh mạng quốc gia; Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ; Chủ tịch một số Hội đồng, Ủy ban quốc gia và Trưởng các Ban Chỉ đạo khác.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Nội chính, Ngoại giao
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Công tác xây dựng thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải cách tư pháp.
- Ngoại giao và quan hệ đối ngoại (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân).
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài.
- Hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; xử lý tranh chấp, khiếu kiện quốc tế.
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
- Quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông - Hải đảo.
- Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam. Các vấn đề về nhân quyền.
- Công tác dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo, những vấn đề thường xuyên về thi đua khen thưởng.
- Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
- Phòng, chống tội phạm; phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Đặc xá.
- Phối hợp công tác giữa Chính phủ với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Nội Vụ, Bộ Tư pháp, Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội.
c) Làm nhiệm vụ: Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế, Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc; Phụ trách Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền; Trưởng Ban Chỉ đạo về Nhân quyền; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện 03 Chương trình mục tiêu Quốc gia: xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Trưởng Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm; Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông quốc gia; Chủ tịch Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Kinh tế tổng hợp, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Khối kinh tế tổng hợp, bao gồm: kế hoạch; tài chính, giá cả; tiền tệ, ngân hàng; thị trường vốn, thị trường chứng khoán; các nguồn đầu tư tài chính; dự trữ Nhà nước; dự báo và chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
- Chi ngân sách nhà nước, sử dụng dự phòng ngân sách Nhà nước, Quỹ dự trữ tài chính, Quỹ dự trữ ngoại hối và các Quỹ khác của Nhà nước; phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ.
- Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội.
- Phát triển các loại hình doanh nghiệp.
- Kinh tế tập thể, hợp tác xã.
- Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
- Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; Trưởng Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp; Trưởng Ban Chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Khoa giáo - Văn xã
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Giáo dục, đào tạo và dạy nghề.
- Khoa học và công nghệ.
- Lao động, việc làm và các vấn đế xã hội.
- Thông tin và truyền thông.
- Văn hóa; du lịch; thể dục, thể thao.
- Y tế, dân số, gia đình và trẻ em.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Y tế; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực; Chủ tịch Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch; Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm; Chủ tịch Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách Kinh tế ngành
a) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
- Công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại – xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
- Chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.
- Chỉ đạo bảo đảm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
- Các công trình trọng điểm quốc gia; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo phân cấp của pháp luật.
- Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất...
- Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
b) Thay mặt Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
c) Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quy hoạch quốc gia; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải; Trưởng Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch phân ban Việt Nam trong Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Hình thức hoạt động
Hình thức hoạt động tập thể của Chính phủ là các phiên họp Chính phủ. Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số (trong trường hợp biểu quyết có tỷ lệ là 50-50 thì kết quả theo bên có Thủ tướng Chính phủ).
Theo ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Việt Nam, trước đây, Chính phủ Việt Nam hầu như chỉ trình các báo cáo lên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước mà không trình Quốc hội Việt Nam. Chỉ sau khi Bộ Chính trị kết luận thì báo cáo mới được trình Quốc hội. Trong một vài khóa Quốc hội Việt Nam gần đây (trước khóa 14), Bộ Chính trị cho phép Đảng đoàn Quốc hội hoặc Ủy ban kinh tế của Quốc hội có ý kiến trước đối với những vấn đề liên quan.
Ban cán sự đảng Chính phủ
Xem thêm: Ban Cán sự Đảng Chính phủ Việt Nam
Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban cán sự đảng Chính phủ
Lãnh đạo Chính phủ thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị.
Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Chính phủ.
Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự đảng.
Phối hợp với Đảng ủy khối và Đảng ủy cơ quan xây dựng Đảng bộ cơ quan Văn phòng Chính phủ trong sạch, vững mạnh.
Tổ chức của Ban cán sự đảng Chính phủ
Ban cán sự đảng có từ 7 đến 9 ủy viên, gồm các đồng chí đảng viên là Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và một số đồng chí Bộ trưởng.
Bí thư, Phó Bí thư và các ủy viên Ban cán sự đảng do Bộ Chính trị chỉ định.
Ban cán sự đảng chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Ban cán sự đảng có con dấu.
Thành viên Ban cán sự đảng Chính phủ hiện gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an; thành viên khác (nếu có) do Ban cán sự đảng đề nghị, Bộ Chính trị quyết định. Thủ tướng Chính phủ làm Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ làm Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ.
Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất hoặc trình
Tình hình đặc biệt về kinh tế – xã hội nổi lên trong năm và các giải pháp cần tập trung chỉ đạo khắc phục theo yêu cầu của Bộ Chính trị hoặc khi thấy cần thiết.
Về việc xét tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho cá nhân.
Kiến nghị xử lý trách nhiệm cá nhân cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý khi có vi phạm trong hoạt động của Chính phủ.
Những vấn đề khác Ban cán sự đảng Chính phủ thấy cần xin ý kiến Bộ Chính trị.
Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất hoặc trình
Về việc xét tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho cá nhân.
Kiến nghị xử lý trách nhiệm cá nhân cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản lý khi có vi phạm trong hoạt động của Chính phủ. (trích Quy định (Bổ sung) số 216-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2009'')
Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ: Phạm Minh Chính
Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ: Lê Minh Khái
Chính phủ hiện nay
Các chính phủ trong lịch sử Việt Nam
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chính phủ Việt Nam 1976 – 1981
Chính phủ Việt Nam 1981 – 1987
Chính phủ Việt Nam 1987 – 1992
Chính phủ Việt Nam 1992 – 1997
Chính phủ Việt Nam 1997 – 2002
Chính phủ Việt Nam 2002 – 2007
Chính phủ Việt Nam 2007 – 2011
Chính phủ Việt Nam 2011 – 2016
Chính phủ Việt Nam 2016 – 2021
Chính phủ Việt Nam 2021 – 2026
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (28/8/1945 - 31/12/1945)
Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1/1/1946 - 2/3/1946)
Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/3/1946 - 3/11/1946)
Chính phủ Liên hiệp Quốc dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/11/1946 - 22/9/1955)
Chính phủ Mở rộng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (22/9/1955 – 1960)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960 – 1964)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1964 – 1971)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1971 – 1975)
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1975 – 1976)
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (6/6/1969 - 2/7/1976)
Việt Nam Cộng hòa
Chính phủ Đệ nhất Cộng hòa (1955 - 1963)
Chính phủ quân quản (1963 - 1967)
Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975)
Quốc gia Việt Nam
Chính phủ Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955)
Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam (1948 - 1949)
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ
Chính phủ Lâm thời Nam Kỳ (1946)
Chính phủ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946 - 1947)
Chính phủ Lâm thời Nam Phần (1947 - 1948)
Đế quốc Việt Nam
Chính phủ Đế quốc Việt Nam (1945) |
Trong vật lý, thế năng (Tiếng Anh: potential energy, nghĩa đen: năng lượng tiềm tàng) là năng lượng được giữ bởi một vật do vị trí của nó so với các vật khác, các lực nén bên trong bản thân, điện tích hoặc các yếu tố khác.
Các dạng thế năng phổ biến bao gồm thế năng hấp dẫn của một vật phụ thuộc vào khối lượng của nó và khoảng cách của nó với trọng tâm của một vật khác, thế năng đàn hồi của lò xo kéo dãn và thế năng của điện tích trong một điện trường. Đơn vị đo năng lượng trong Hệ đo lường quốc tế (SI) là jun, có ký hiệu J.
Thuật ngữ năng lượng tiềm năng được đưa ra bởi kỹ sư và nhà vật lý người Scotland ở thế kỷ 19 William Rankine, mặc dù nó có liên quan đến khái niệm về tiềm tàng của nhà triết học Hy Lạp Aristotle. Thế năng liên quan tới các lực tác dụng lên một cơ thể mà tổng công do các lực này thực hiện lên thể chỉ phụ thuộc vào vị trí ban đầu và vị trí cuối cùng của cơ thể trong không gian. Những lực này, được gọi là lực bảo toàn, có thể được biểu diễn tại mọi điểm trong không gian bằng vectơ được biểu thị dưới dạng các bậc của một hàm vô hướng nhất định được gọi là potential. Hiểu một cách chính xác hơn thì trong cơ học, thế năng là trường thế vô hướng của trường véctơ lực bảo toàn.
Vì công của các lực tiềm tàng tác dụng lên một vật thể chuyển động từ vị trí đầu đến vị trí cuối chỉ được xác định bởi hai vị trí này, và không phụ thuộc vào đường của cơ thể đó, nên có một hàm được gọi là potential có thể được xác định tại hai vị trí đó để xác định công này.
Cũng như mọi trường thế vô hướng, thế năng có giá trị tùy theo quy ước thế năng của điểm lấy mốc. Đôi khi, khái niệm hiệu thế năng thường được dùng khi so sánh thế năng giữa hai điểm, hoặc nói về thế năng của một điểm khi lấy điểm kia là mốc có thế năng bằng 0.
Với mọi trường véctơ lực bảo toàn, tích phân đường của véctơ lực E từ vị trí r0 đến r:
đều có giá trị không phụ thuộc vào đường đi cụ thể từ r0 đến r.
Như vậy tại mỗi điểm r đều có thể đặt giá trị gọi là thế năng:
với φ(r0) là giá trị thế năng quy ước ở mốc r0.
Thế năng hấp dẫn
Thế năng hấp dẫn (thế năng trọng trường) của một vật là dạng năng lượng tương tác giữa Trái Đất và vật; nó phụ thuộc vào vị trí của vật trong trọng trường.
Lực hấp dẫn là một lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này gọi là thế năng hấp dẫn, còn gọi là thế năng trọng trường.
Ví dụ, tại một điểm nhỏ trên bề mặt hành tinh lớn, có thể coi lực hấp dẫn lên vật thể (trọng lực) không đổi:
F = m g
với tại bề mặt, vật. Lúc đó nếu lấy mốc thế năng của vật tại bề mặt bằng 0 thì thế năng tại độ cao h so với bề mặt (h rất nhỏ so với bán kính của hành tinh) là:
φ = m |g| z
Khi ở trên mặt đất thế năng trọng trường có công thức: Wt = mgz đơn vị Jun
m là khối lượng đơn vị kg
g là vectơ gia tốc trọng trường. Là hằng số 9,81
z là độ cao đơn vị là m
Thế năng tĩnh điện
Lực tĩnh điện là một lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này là thế năng tĩnh điện.
Lực tĩnh điện F là:
F = q E
với q là điện tích của hạt mang điện, E là cường độ điện trường.
Trong khi đó, điện thế, V, lại là trường thế vô hướng ứng với trường véc tơ cường độ điện trường:
Suy ra:
φ = q V
nghĩa là thế năng tĩnh điện bằng điện thế nhân với điện tích.
Thế năng đàn hồi
Thế năng đàn hồi là dạng năng lượng của một vật chịu tác dụng của lực đàn hồi.
Lực đàn hồi của lò xo lý tưởng là lực bảo toàn, và thế năng trong trường hợp này gọi là thế năng đàn hồi.
Nếu lò xo tuân theo định luật Hooke với lực đàn hồi, F, tỷ lệ với biến dạng, x:
|F| = k x
Thì thế năng đàn hồi của lò xo là:
φ = k x2/2
Có thể lấy mốc thế năng bằng 0 khi lò xo không bị biến dạng. |
Năng lượng hấp dẫn hay thế năng hấp dẫn là thế năng mà một vật thể khối lượng lớn có được liên quan tới một vật thể khối lượng lớn khác do lực hấp dẫn. Nó là thế năng có quan hệ với trọng trường, được giải phóng (chuyển thành động năng) khi các vật rơi về phía nhau. Thế năng trọng trường tăng khi đưa hai vật ra xa nhau.
Đối với hai điểm tương tác theo cặp, thế năng hấp dẫn được xác định bởi
trong đó và là khối lượng của hai điểm, là khoảng cách giữa chúng và là hằng số hấp dẫn.
Ở gần bề mặt Trái đất, trường hấp dẫn xấp xỉ không đổi và thế năng hấp dẫn của một vật giảm xuống còn
trong đó là khối lượng của vật thể, là lực hấp dẫn của Trái đất và là chiều cao của trọng tâm của vật thể trên một mức tham chiếu đã chọn.
Chú thích |
Mã Tam Bảo có thể là:
Mã Tam Bảo, tướng lĩnh khai quốc nhà Đường.
Mã Tam Bảo, tức Trịnh Hòa, thái giám, nhà hàng hải Trung Quốc thời Minh. |
In ấn hay ấn loát là một quá trình tái tạo hàng loạt văn bản và hình ảnh bằng cách sử dụng biểu mẫu hoặc mẫu chính. Các sản phẩm không phải giấy sớm nhất liên quan đến in ấn bao gồm con dấu hình trụ và các vật thể như Cyrus Cylinder và Cylinders of Nabonidus. Hình thức in ấn sớm nhất được biết đến áp dụng cho giấy là in khắc gỗ, xuất hiện ở Trung Quốc trước năm 220 sau Công nguyên. Những phát triển sau này trong công nghệ in bao gồm loại có thể di chuyển được Bi Sheng phát minh vào khoảng năm 1040 sau Công Nguyên và máy in do Johannes Gutenberg phát minh vào thế kỷ 15. Công nghệ in đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ Phục hưng và cuộc cách mạng khoa học, đồng thời đặt cơ sở vật chất cho nền kinh tế tri thức hiện đại và sự truyền bá học tập đến quần chúng.
Hình thức sớm nhất của in ấn là in bằng âm bản khắc gỗ, với các nghiên cứu hiện tại thì in ấn đã xuất hiện ở Trung Quốc có niên đại từ trước năm 220 trước Công nguyên và Ai Cập vào thế kỷ IV. Phát triển sau này trong in ấn được lan rộng, đầu tiên được phát triển ở Trung Quốc, đặc biệt trở thành một công cụ hiệu quả hơn cho các ngôn ngữ phương Tây với bảng chữ cái hạn chế của họ, được phát triển bởi Johannes Gutenberg vào thế kỷ XV.
Lịch sử
In mộc bản
In mộc bản là một kỹ thuật in văn bản, hình ảnh hoặc hoa văn đã được sử dụng rộng rãi khắp Đông Á. Nó có nguồn gốc từ thời cổ đại ở Trung Quốc như một phương pháp in trên vải và sau đó là giấy. Là một phương pháp in trên vải, các ví dụ sớm nhất của in mộc bản còn sót lại từ Trung Quốc có niên đại trước năm 220 sau Công nguyên.
Ở Đông Á
Những mảnh vỡ in khắc gỗ sớm nhất còn sót lại là từ Trung Quốc. Chúng được làm bằng lụa in hoa ba màu từ thời nhà Hán (trước năm 220 sau Công Nguyên). Chúng là ví dụ sớm nhất về in khắc gỗ trên giấy và xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ bảy ở Trung Quốc.
Vào thế kỷ thứ chín, việc in trên giấy đã bắt đầu phát triển, và cuốn sách in hoàn chỉnh đầu tiên còn tồn tại có ghi niên đại của nó là Kinh Kim Cương (Thư viện Anh) năm 868. Đến thế kỷ thứ mười, 400.000 bản in một số kinh điển và tranh ảnh, và các tác phẩm kinh điển của Nho giáo đã được in. Một thợ in lành nghề có thể in tới 2.000 tờ chứa hai trang mỗi ngày.
Việc in ấn sớm lan rộng đến Hàn Quốc và Nhật Bản, những quốc gia cũng sử dụng logogram của Trung Quốc, nhưng kỹ thuật này cũng được sử dụng ở Turpan và Việt Nam bằng cách sử dụng một số chữ viết khác. Kỹ thuật này sau đó lan sang Ba Tư và Nga. Kỹ thuật này được truyền đến châu Âu thông qua thế giới Hồi giáo, và vào khoảng năm 1400 đã được sử dụng trên giấy cho các bản in chủ cũ và chơi bài. Tuy nhiên, người Ả Rập không bao giờ sử dụng điều này để in Kinh Qur'an vì những giới hạn áp đặt bởi học thuyết Hồi giáo.
Trong thế giới Hồi giáo
In khối, được gọi là tarsh trong tiếng Ả Rập, được phát triển ở Ả Rập Ai Cập trong thế kỷ thứ chín và thứ mười, chủ yếu để in nội dung cầu nguyện và làm bùa hộ mệnh. Có một số bằng chứng cho thấy những khối in này được làm từ vật liệu không phải gỗ, có thể là thiếc, chì hoặc đất sét. Tuy nhiên, các kỹ thuật được sử dụng là không chắc chắn, và chúng dường như có rất ít ảnh hưởng bên ngoài thế giới Hồi giáo. Mặc dù châu Âu đã áp dụng cách in khắc gỗ từ thế giới Hồi giáo, ban đầu cho vải, kỹ thuật in khối kim loại vẫn chưa được biết đến ở châu Âu. In khối sau đó đã không còn được sử dụng trong thời kỳ Phục hưng Timurid của Hồi giáo. Thời kỳ Hoàng kim của Hồi giáo chứng kiến việc in ấn các văn bản, bao gồm cả các đoạn từ Kinh Qur'an và Hadith, thông qua thủ công làm giấy của Trung Quốc, đã phát triển nó và áp dụng nó rộng rãi trong thế giới Hồi giáo, dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong việc sản xuất các văn bản viết tay. Kỹ thuật in ở Ai Cập đã được chấp nhận sao chép các văn bản trên các dải giấy và cung cấp chúng thành các bản sao khác nhau để đáp ứng nhu cầu.
Ở châu Âu
In khối lần đầu tiên đến Châu Âu như một phương pháp in trên vải, nơi nó phổ biến vào năm 1300. Hình ảnh in trên vải cho mục đích tôn giáo có thể khá lớn và công phu. Khi giấy trở nên tương đối dễ dàng, vào khoảng năm 1400, kỹ thuật này đã chuyển rất nhanh chóng sang các hình ảnh tôn giáo khắc gỗ nhỏ và chơi bài in trên giấy. Những bản in này được sản xuất với số lượng rất lớn từ khoảng năm 1425 trở đi.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15, sách đóng khối, sách khắc gỗ có cả văn bản và hình ảnh, thường được chạm khắc trong cùng một khối, nổi lên như một sự thay thế rẻ hơn cho các bản thảo và sách in bằng con chữ di động. Đây đều là những tác phẩm ngắn được minh họa nhiều, bán chạy nhất trong ngày, được lặp lại trong nhiều phiên bản sách khối khác nhau: Ars moriendi và Biblia pauperum là phổ biến nhất. Vẫn còn một số tranh cãi giữa các học giả về việc liệu sự ra đời của chúng có trước hay, theo quan điểm của đa số, theo sau sự ra đời của con chữ di động, với phạm vi niên đại ước tính là từ khoảng 1440 đến 1460.
In kiểu con chữ di động
Con chữ có thể di chuyển là hệ thống in ấn và kiểu chữ sử dụng các mảnh kim loại có thể di chuyển được, được tạo ra bằng cách đúc từ các ma trận được đánh bằng máy dập lỗ. Con chữ có thể di chuyển cho phép thực hiện các quy trình linh hoạt hơn nhiều so với sao chép tay hoặc in khối.
Khoảng năm 1040, hệ thống loại có thể di chuyển được đầu tiên được biết đến đã được Bi Sheng tạo ra ở Trung Quốc bằng sứ. Bi Sheng sử dụng loại đất sét, loại dễ vỡ, nhưng Wang Zhen vào năm 1298 đã chạm khắc một loại bền hơn từ gỗ. Ông cũng phát triển một hệ thống phức tạp gồm các bảng quay vòng và liên kết số với các ký tự Trung Quốc được viết ra để giúp việc sắp chữ và in ấn hiệu quả hơn. Tuy nhiên, phương pháp chính được sử dụng ở đó vẫn là in khắc gỗ (xylography), phương pháp "được chứng minh là rẻ hơn và hiệu quả hơn để in tiếng Trung Quốc, với hàng nghìn ký tự".
Kiểu in di động bằng đồng bắt nguồn từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ 12. Nó được sử dụng trong việc in tiền giấy với quy mô lớn do triều đại Bắc Tống phát hành. Loại có thể di chuyển được lan sang Hàn Quốc trong triều đại Goryeo.
Vào khoảng năm 1230, người Triều Tiên đã phát minh ra loại máy in di động bằng kim loại sử dụng đồng. Jikji, xuất bản năm 1377, là cuốn sách in bằng kim loại sớm nhất được biết đến. Kiểu đúc đã được sử dụng, phỏng theo phương pháp đúc tiền xu. Nhân vật được cắt bằng gỗ dẻ gai, sau đó được ép vào đất sét mềm để tạo thành khuôn, và đổ đồng vào khuôn, và cuối cùng là loại được đánh bóng. Hình thức di chuyển bằng kim loại của Triều Tiên được học giả người Pháp Henri-Jean Martin mô tả là "cực kỳ giống với của Gutenberg".
Máy in
Khoảng năm 1450, Johannes Gutenberg giới thiệu hệ thống in loại có thể di chuyển đầu tiên ở Châu Âu. Ông đã cải tiến những cải tiến trong kiểu đúc dựa trên ma trận và khuôn tay, thích ứng với máy ép vít, sử dụng mực gốc dầu, và tạo ra một loại giấy mềm hơn và thấm hút hơn. Gutenberg là người đầu tiên tạo ra các mảnh ghép loại của mình từ hợp kim của chì, thiếc, antimon, đồng và bismuth - những thành phần tương tự vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Johannes Gutenberg bắt đầu làm việc trên máy in của mình vào khoảng năm 1436, hợp tác với Andreas Dritzehen - người trước đây ông đã hướng dẫn cắt đá quý - và Andreas Heilmann, chủ sở hữu của một nhà máy giấy.
So với in mộc bản, thiết lập trang con chữ di động và in bằng máy in nhanh hơn và bền hơn. Ngoài ra, các mảnh kim loại cứng hơn và chữ đồng đều hơn, dẫn đến kiểu chữ và phông chữ. Chất lượng cao và giá cả tương đối thấp của Kinh thánh Gutenberg (1455) đã tạo nên ưu thế của loại có thể di chuyển đối với các ngôn ngữ phương Tây. Máy in nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu, dẫn đến thời kỳ Phục hưng, và sau đó là trên toàn thế giới.
Những đổi mới của Gutenberg trong lĩnh vực in dùng con chữ di chuyển được gọi là phát minh quan trọng nhất của thiên niên kỷ thứ hai.
Máy in quay vòng
Máy in quay vòng được phát minh bởi Richard March Hoe vào năm 1843. Nó sử dụng các lần hiển thị cong quanh một hình trụ để in trên các cuộn giấy dài liên tục hoặc các chất nền khác. In trống quay sau đó đã được cải tiến đáng kể bởi William Bullock. Có nhiều loại công nghệ in xoay vẫn được sử dụng ngày nay: in offset, in ống đồng và in flexo.
Công suất in
Bảng liệt kê số trang tối đa mà các máy in khác nhau có thể in mỗi giờ.
Công nghệ in thông thường
Tất cả quá trình in đều liên quan đến hai loại khu vực trên đầu ra cuối cùng:
Vùng hình ảnh (vùng in)
Vùng không hình ảnh (vùng không in)
Sau khi thông tin đã được chuẩn bị cho quá trình sản xuất (bước chuẩn bị), mỗi quy trình in ấn có các biện pháp dứt khoát để tách hình ảnh khỏi các vùng không phải hình ảnh.
In thông thường có bốn loại quy trình:
Planographics, trong đó các khu vực in và không in nằm trên cùng một bề mặt phẳng và sự khác biệt giữa chúng được duy trì về mặt hóa học hoặc tính chất vật lý, ví dụ như: in thạch bản offset, in keo và in lụa.
Relief, trong đó các khu vực in nằm trên một bề mặt phẳng và các khu vực không in nằm dưới bề mặt, ví dụ: flexography và letterpress.
Intaglio, trong đó vùng không in nằm trên một bề mặt phẳng và vùng in được khắc hoặc khắc bên dưới bề mặt, ví dụ: khắc khuôn thép, ống đồng
Porous, trong đó các khu vực in nằm trên màn lưới mịn mà qua đó mực có thể xâm nhập và các khu vực không in là một lớp giấy nến trên màn hình để chặn dòng chảy của mực trong các khu vực đó, ví dụ: in lụa, trình sao chép giấy nến.
Kỹ thuật in ấn hiện đại
Sách báo ngày nay thường được in bằng kĩ thuật in ốp sét - offset. Các kĩ thuật in phổ biến khác gồm in nổi (dùng chủ yếu trong các cuốn ca ta lốc), in lụa, in quay, in phun và in la de. Nhà in thương mại và công nghiệp lớn nhất trên thế giới là Montréal, ở Quebec, Quebecor World.
In kĩ thuật số phần lớn sử dụng hiện tượng tĩnh điện để chuyển đặt mực in lên trên chất nền. Công nghệ này phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây với các sản phẩm đa dạng từ các máy sao chép (copier) màu hay đen trắng cho tới các máy in màu hiện đại như Xerox iGen3, Kodak Nexpress, hay loạt máy HP Indigo. iGen3 và Nexpress sử dụng trống mực còn Indigo dùng mực lỏng.
In tẩy màu
In tẩy màu (Discharge printing) là kỹ thuật in được ứng dụng rộng rãi ngày nay, đặc biệt là in trên chất liệu vải, áo thun.
Sự khác biệt giữa chính giữa in gốc nước và in tẩy là bước cuối cùng bao gồm một phụ gia tẩy màu được nhuộm nguyên thủy trên vải, và thay thế nó bằng màu sắc mong muốn. In tẩy Discharge là một sự lựa chọn tối ưu khi in trên chất liệu vải tối màu bởi khả năng loại bỏ màu nền của nó. Màu thay thế vùng bị tẩy sẽ trông rất nổi và không bị ám màu như khi in chồng lên màu nền của vải. In tẩy màu Dischard sẽ giúp mức độ chi tiết tăng lên rõ rệt hơn hẳn in sol dẻo. Bằng việc lựa chọn và thiết kế kỹ càng, in tẩy còn có thể giúp vải lụa nhân tạo trở nên rực rỡ hơn.
Điểm yếu của in tẩy màu là kỹ thuật phức tạp hơn rất nhiều so với các loại in khác.
In gốc nước
In gốc nước (water-based printing): chủ yếu in trên mực in gôc nước. Có độ bóng khá cao nên thường được sử dụng trong các ấn phẩm cao cấp |
Tử hình là việc hành quyết một người theo một quy trình luật pháp như một sự trừng phạt cho một hành động tội phạm. Nó được xem là giải pháp ngăn cản tội ác hữu hiệu nhất (loại trừ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi xã hội). Mục đích của án tử hình không chỉ là để trừng trị kẻ phạm tội ác nghiêm trọng, mà còn là sự cảnh cáo nghiêm khắc nhất với những kẻ có ý định phạm tội tương tự, qua đó hạn chế tối đa những tội ác tương tự tái diễn trong tương lai. Những người này thường được gọi là Tử tù.
Tử hình hầu như đã được thực hiện ở mọi xã hội, và ví thể có thể được coi là một văn hoá toàn cầu hay gần như vậy, ngoại trừ những xã hội có tôn giáo quốc gia cấm hình phạt đó. Trong thế kỷ XVIII ở châu Âu, các nhà nhân quyền không chấp nhận quyền này của nhà cầm quyền và đòi bãi bỏ án tử hình. Ngày nay, án tử hình về mặt đạo đức, hình sự và thực tế là một vấn đề tranh cãi sôi nổi ở nhiều nước và quốc gia, và các quan điểm có thể khác biệt bên trong một vùng văn hoá hay ý thức hệ duy nhất.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên EU, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình. Ngược lại, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc... vẫn sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Hơn 65% dân số thế giới sống tại các quốc gia nơi có án tử hình, và bốn quốc gia đông dân nhất thế giới (Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Indonesia) vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình và sẽ không xoá bỏ nó trong một tương lai gần.
Tính đến đầu năm 2016, 65 quốc gia vẫn còn hình phạt tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ hình phạt này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ tuyên tử hình với những tội đặc biệt như tội phạm chiến tranh, tội phản quốc, giết người hàng loạt), và 30 nước vẫn còn án tử hình nhưng đã lâu không áp dụng.
Thuật ngữ
Chữ "tử hình" có nguồn gốc từ Hán Việt 死刑 (pinyin: sǐxíng), có nghĩa là hình phạt chết.
Một số cách tử hình
Xử bắn
Đóng đinh
Thiêu sống
Đun sôi
Xử trảm
Chôn sống
Treo cổ
Ghế điện
Ném đá
Phanh thây
Phòng hơi ngạt
Tiêm thuốc độc
Thả trôi sông
Tùng xẻo
Voi giày
Tứ mã phanh thây/Ngũ mã phanh thây
Xẻ đôi người (theo chiều dọc)
Lột da
Cung hình
Tru di
Chém ngang lưng
Các đối tượng không áp dụng, không thi hành án tử hình
Bộ luật Hình sự ở Việt Nam quy định về án tử hình như sau:
Không áp dụng
Khoản 2 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với:
1. Phụ nữ mang thai
2. Phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi
3. Người dưới 18 tuổi khi phạm tội
4. Người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc xét xử
Không thi hành
Khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015: Không thi hành án tử hình (chuyển thành tù chung thân):
1. Phụ nữ có thai
2. Phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi
3. Người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc xét xử
4. Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Trong trường hợp quy định không tại khoản 3 Điều 40 hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.
Án tử hình trên thế giới
Tính đến đầu năm 2016, 65 quốc gia vẫn còn luật tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ án phạt này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ duy trì án tử hình trong những trường hợp đặc biệt như tội ác chiến tranh, phản quốc), và 30 còn án tử hình nhưng đã lâu không áp dụng trong thực tế.
Trong một số các quốc gia có án tử hình, nó chỉ được dùng cho tội giết người và tội liên quan đến chiến tranh. Trong một số quốc gia khác, như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Indonesia, Malaysia, Singapore, Ả Rập Xê Út, Việt Nam... nó còn được áp dụng cho các tội bất bạo động như buôn lậu ma túy và tham nhũng... Nói chung, việc quy định án tử hình dành cho tội danh nào tùy thuộc vào nhu cầu an ninh và mức nghiêm trọng của các loại tội danh tại quốc gia đó.
Ví dụ như Singapore có những quy định tử hình rất nghiêm khắc đối với tội phạm ma túy. Cụ thể những đối tượng mang theo các chất sau với khối lượng tương ứng sẽ bị kết án tử hình: heroin (từ 15 gr trở lên), cocaine (từ 30 gr trở lên), morphine (từ 30 gr trở lên), hashish (từ 200 gr trở lên), methamphetamine (từ 250 gr trở lên), cần sa (từ 500 gr trở lên) và thuốc phiện (từ 1.200 gr trở lên). Với những quy định nghiêm khắc bậc nhất thế giới về kiểm soát ma túy, người Singapore tự hào với tỉ lệ nghiện ma túy tại nước họ thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác.
Tranh luận
Tổ chức Ân xá quốc tế khuyến khích các quốc gia bãi bỏ án tử hình, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên EU, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình.
Ngược lại, nhiều quốc gia tuyên bố sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Lập luận này dựa trên các phân tích sau:
Nếu dựa vào Điều 3 "Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền" (rằng "Mọi người đều có quyền sống, tự do và được bảo vệ an toàn") để diễn giải rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm nhân quyền thì diễn giải đó là vô lý. Bởi vì, nếu tử hình một ai đó tức là "vi phạm quyền sống" và phải xóa bỏ bản án này, thì đồng thời chính phủ các nước cũng phải xóa bỏ các trại giam tội phạm vì khi giam giữ một ai đó cũng là sự vi phạm "quyền tự do".
Mặt khác, khoản 2 Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: "Ở những quốc gia chưa xóa bỏ hình phạt tử hình thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…". Điều này cho thấy, công ước thừa nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể mà có thể duy trì hình phạt tử hình "với những tội nghiêm trọng nhất", và thế nào là "những tội nghiêm trọng nhất" cũng không có khái niệm cụ thể mà đó là nội bộ mỗi quốc gia tự quyết định.
Tính nhân đạo của pháp luật phải dung hòa lợi ích của xã hội và lợi ích của người phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi lợi ích của toàn xã hội không thể xem là thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật. Một người phạm tội rất nghiêm trọng, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng và còn tiếp tục đe dọa đến sự an toàn của xã hội, thì việc nhân đạo đối với tội phạm chính là vô nhân đạo đối với toàn thể cộng đồng xã hội.
Tại Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam Nghị định 82, có hiệu lực từ ngày 1/11/2011, bãi bỏ hình thức xử bắn mà thay bằng tiêm thuốc độc. Tuy nhiên nghị định này quy định rõ ba loại thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình (Natri thiopental gây mê, Kali chloride ngưng tim, Pancuronium bromide liệt thần kinh và cơ bắp), nhưng đều là thuốc mà Việt Nam chưa sản xuất được. Các nước phương Tây lại từ chối bán thuốc độc cho Việt Nam khi biết mục đích là để thi hành án tử hình. Vì vậy, Việt Nam đã tự sản xuất thuốc sử dụng cho thi hành án tử hình từ năm 2014.
Tuy nhiên, Nghị định 82 đã hết hiệu lực vào ngày 15/04/2020 và đã được thay thế bằng Nghị định 43/2020/NĐ-CP. Nghị định 43 đã quy định rõ thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm 03 loại thuốc sau:
- Thuốc làm mất tri giác;
- Thuốc làm liệt hệ vận động;
- Thuốc làm ngừng hoạt động của tim .
Tại Việt Nam, án tử hình chỉ áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gồm: Tội xâm phạm an ninh quốc gia/phản quốc, tội giết người, tội hiếp dâm trẻ em, tội phạm về ma túy, tội tham nhũng và tội phạm chiến tranh. Nếu được ân giảm thì chuyển thành tù chung thân. Người chưa đủ 18 tuổi khi gây án, người quá 75 tuổi sẽ không bị tuyên án tử hình.
Nhận xét
Nhà chính trị học Nga Vladimir Kolotov, Trưởng bộ môn lịch sử các nước Viễn Đông Đại học Tổng hợp St. Petersburg, cho rằng phương Tây đang lợi dụng việc "bãi bỏ án tử hình" để can thiệp vào nội bộ các nước, nhằm làm suy yếu luật pháp và an ninh các nước đó. Ông ủng hộ việc Nhà nước Việt Nam duy trì án tử hình với các loại tội phạm nghiêm trọng:
"Tại Việt Nam, pháp luật nhà nước nghiêm khắc đang chứng minh tính hiệu quả. Không có tội phạm có tổ chức, không có khủng bố. Buôn bán ma túy tuy hiện diện ở Việt Nam như ở tất cả các nước Đông Nam Á, nhưng không có quy mô khổng lồ, ví dụ như Philippines là nơi gần 1/3 dân số là người nghiện. Nhưng khi tổng thống Philippines kiên quyết tuyên chiến với những kẻ buôn lậu ma túy thì phương Tây lại hô hào "bảo vệ quyền con người"... Giờ đây, người Anh, người Úc, người Mỹ đang lo lắng cho "quyền con người" ở Việt Nam, đặc biệt là quyền của những kẻ buôn ma túy thường bị kết án tử hình. Cần nhắc rằng, chính người Anh đã đem nha phiến vào Trung Quốc và biến quốc gia này thành con nghiện khổng lồ, còn sản xuất ma túy ở Afghanistan đã tăng gấp nhiều lần sau khi người Mỹ đem quân đánh đổ chính quyền Taliban tại đây...
Việt Nam cần tiến hành chính sách bảo vệ an ninh quốc gia và trừng phạt nghiêm khắc những tội phạm nghiêm trọng theo Luật Hình sự được Quốc hội thông qua. Chấp nhận để phương Tây dẫn dắt và bãi bỏ án tử hình, Việt Nam lập tức sẽ đối đầu với sự gia tăng tổn thất sinh mạng do tội phạm hình sự, làn sóng tội phạm ma túy và tham nhũng, là thực tế mà chúng ta đã chứng kiến ở nhiều quốc gia và đáng tiếc là cả ở Nga"
Luật pháp Việt Nam quy định không tuyên án tử hình với người dưới 18 tuổi hoặc người trên 75 tuổi. Hiện nay, sau một số vụ trọng án nhưng không bị tuyên án tử hình do chưa đủ 18 tuổi (ví dụ như Vụ án Lê Văn Luyện giết 3 người), có nhiều dư luận tại Việt Nam đề nghị cần hạ độ tuổi không bị tuyên án tử hình.
Những quốc gia không còn áp dụng hình thức tử hình
Hiện nay có những nước như sau không còn áp dụng hình thức tử hình:
Các nước thuộc Liên minh châu Âu
Canada, Úc, Mexico.
.
Những quốc gia còn áp dụng hình thức tử hình
Hiện nay trên thế giới có 94/193 quốc gia là thành viên của Liên Hợp Quốc vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, trong đó có 7 quốc gia chỉ xử tử hình trong các trường hợp đặc biệt (tội phản quốc, thảm sát hàng loạt...): Kazakhstan, Israel, El Salvador, Brazil, Chile, Peru và Fiji. Nhiều quốc gia trong số này trong một khoảng thời gian khá lâu chưa có một vụ xử tử hình nào được thi hành, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel... Quốc gia có số vụ tử hình đứng đầu thế giới là Trung Quốc, Hoa Kỳ... Trong đó có 11 quốc gia vẫn tồn tại hình phạt treo cổ song song với xử bắn: Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Ấn Độ, Pakistan, Iran, Iraq, Liban, Israel, Jordan và Ai Cập. Đặc biệt duy nhất Ả Rập Xê Út là quốc gia duy nhất vẫn còn giữ hình thức xử tử công khai bằng cách chặt đầu. Có 6 quốc gia áp dụng hình thức tiêm thuốc độc thay cho xử bắn: Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan (không phải thành viên của Liên Hợp Quốc), Hoa Kỳ và Guatemala. Một số bang tại Hoa Kỳ cho tù nhân được chọn giữa hai hình thức tử hình: ghế điện hay tiêm thuốc độc.
Châu Đại Dương
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
Châu Âu
Châu Phi
Châu Á
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
Châu Mỹ
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
(Tử hình trong một số trường hợp đặc biệt)
Tường thuật 2017
Tổ chức Ân xá Quốc tế tường thuật, năm 2016, có 1.032 vụ tử hình được ghi nhận, nhưng con số thực sự sẽ cao hơn nhiều (do nhiều nước không công bố số liệu hoặc thống kê không đầy đủ), con số này giảm 37% so với năm trước. Benin và Nauru hủy bỏ luật tử hình. Tổng cộng 141 nước đã hủy bỏ luật tử hình hoặc đã lâu không thi hành nó nữa. Việt Nam theo Bộ Công an từ tháng 8 năm 2013 đến 30 tháng 6 năm 2016 có 429 người bị xử tử hình, và như vậy trở thành nước có số án tử hình nhiều thứ 3 sau Trung Quốc và Iran. |
Vòng tròn đồng ruộng (tiếng Anh: crop circle) là một khu vực trồng ngũ cốc hay cây trồng nói chung bị san phẳng một cách có hệ thống thành nhiều mẫu hình học khác nhau.
Dù nhiều chuyên gia tự phong quy nguyên nhân cho những hiện tượng thiên nhiên huyền bí hay người ngoài hành tinh, có sự đồng thuận khoa học rằng hầu như tất cả các trường hợp là do con người. Tuy nhiên hầu như không có nghiên cứu khoa học nghiêm túc nào về hiện tượng này. Chỉ có ba bài báo có bình duyệt được đăng, hai trong số đó là của TS Levengood, ủng hộ giả thuyết phi nhân tạo.
Năm 1991, Bower và Chorley tuyên bố là tác giả của nhiều vòng trong khắp nước Anh và một trong những vòng tròn của họ đã được chứng nhận là không thể tạo ra bởi con người bởi một nhà điều tra vòng tròn trước các nhà báo.
Lịch sử
Hiện tượng vòng tròn đồng ruộng được ghi nhận sớm trong lịch sử, bức tranh khắc gỗ "Mowing-Devil" vào thế kỷ 14, miêu tả một kẻ kỳ lạ đang tạo nên vòng tròn trên cánh đồng ngô.
Bower và Chorley
Năm 1991, Doug Bower và Dave Chorley đã nổi tiếng khi tự thú nhận đã khởi động hiện tượng này năm 1978 bằng những công cụ đơn giản bao gồm một tấm ván gỗ, dây thừng, và một chiếc mũ bóng chày đựng một cuộn dây để giúp họ đi thẳng. Để chứng minh, họ tạo một vòng tròn trước mặt các nhà báo; một "cereologist" (người cổ vũ cách lý giải siêu nhiên), Pat Delgado, đã nghiên cứu vòng tròn và xác định nó là thật trước khi người ta bật mí nó là một trò lừa. Lấy cảm hứng từ những câu chuyện về vòng tròn đồng ruộng ở Úc từ 1966, Bower và Chorley nói họ chịu trách nhiệm cho tất cả các vòng tròn trước 1987 và hơn 200 cái trong khoảng 1978-1991 (với khoảng 1000 cái khác không phải của họ). Sau tuyên bố của họ, hai người trình diễn việc tạo ra một vòng tròn đồng ruộng. Theo giáo sư Richard Taylor, "những hình họ vẽ đã truyền cảm hứng cho lan sóng thứ hai của những nghệ sĩ đồng ruộng. Hoàn toàn không xẹp xuống, các vòng tròn đồng ruộng tiến triển thành một hiện tượng quốc tế, với hàng trăm hình vẽ phức tạp xuất hiện hàng năm khắp địa cầu."
Tạp chí Smithsonian viết:
Từ khi các vòng tròn của Bower và Chorley xuất hiện, các thiết kế hình học đã tăng tiến về quy mô và độ phức tạp, khi mỗi năm những nhóm vô danh đặt bẫy những du khách New Age. |
La Hối (1920 – 1945) là một nhạc sĩ Việt Nam, chiến sĩ chống phát xít Nhật, tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Xuân và tuổi trẻ.
Tiểu sử
La Hối sinh năm 1920 tại Hội An (Quảng Nam) trong một gia đình gốc Quảng Đông (Trung Quốc) đã định cư nhiều đời tại Việt Nam. Ngay từ nhỏ ông đã thể hiện năng khiếu về âm nhạc. Trong những năm 1936–1938 La Hối học ở Sài Gòn, thời gian này ông có dịp học hỏi, trau dồi âm nhạc cổ điển phương Tây.
Năm 1939, La Hối và các bạn thành lập Hội yêu Nhạc (Société Philharmonique), ông làm hội trưởng. Một số nhạc sĩ nổi tiếng bây giờ như Dương Minh Ninh (tác giả ca khúc Gấm vàng), Lê Trọng Nguyễn (tác giả Nắng chiều), Lan Đài (tác giả Chiều tưởng nhớ)... đã từng được ông hướng dẫn âm nhạc.
Năm 1945 La Hối gia nhập và trở thành một trong những người lãnh đạo một tổ chức chống phát xít Nhật. Ông cùng các đồng chí in truyền đơn, nổ bom, phá đường, phá cầu, tập kích quân đội Nhật. Tháng 5 năm 1945, La Hối và 10 đồng chí bị hiến binh Nhật bắt. Sau khi bị tra tấn tàn nhẫn tất cả bị xử bắn chôn chung một mộ tại chân núi Phước Tường, nay đã được cải táng về Nghĩa trang Chống phát xít Nhật ở Hội An. Khi ấy ông vừa mới 25 tuổi.
Nhạc phẩm Xuân và tuổi trẻ của ông vốn do Diệp Truyền Hoa đặt lời tiếng Hoa. Sau khi ông mất, nhà thơ Thế Lữ đến Quảng Nam, biết được gương hy sinh dũng cảm của ông, đã xúc động mà đặt lời Việt cho ca khúc. Ngoài Xuân và tuổi trẻ La Hối còn một ca khúc khác là Xuân sắc quê hương. |
Câu lạc bộ bóng đá Chelsea () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Anh có trụ sở tại Fulham, London. Được thành lập vào năm 1905, câu lạc bộ hiện đang thi đấu tại Premier League, giải đấu hàng đầu của bóng đá Anh. Chelsea là một trong những câu lạc bộ thành công nhất nước Anh, giành được hơn 30 danh hiệu, bao gồm 6 chức vô địch quốc gia và 7 danh hiệu châu Âu. Sân nhà của họ là Stamford Bridge.
Chelsea giành được danh hiệu lớn đầu tiên, chức vô địch Football League vào năm 1955. Câu lạc bộ đã giành được Cúp FA lần đầu tiên vào năm 1970 và danh hiệu châu Âu đầu tiên của họ, Winners' Cup, vào năm 1971. Sau một thời gian sa sút vào cuối những năm 1970 và 1980, câu lạc bộ đã hồi sinh vào những năm 1990 và gặt hái được nhiều thành công hơn trong các giải đấu cúp. Hai mươi lăm năm qua là giai đoạn thành công nhất trong lịch sử của Chelsea: họ giành được năm chức vô địch Premier League, bảy FA Cup, bốn League Cup, một FIFA Club World Cup, hai UEFA Champions League và hai UEFA Europa League. Chelsea là một trong năm câu lạc bộ đã vô địch cả ba giải đấu cấp câu lạc bộ chính của UEFA, là câu lạc bộ Anh đầu tiên giành được cú ăn ba giải đấu của UEFA và là câu lạc bộ London duy nhất vô địch Champions League.
Màu sắc trang phục sân nhà của Chelsea là áo sơ mi màu xanh hoàng gia và quần đùi với tất trắng. Huy hiệu của câu lạc bộ có hình một con sư tử chồm hung hăng cầm cây quyền trượng. Câu lạc bộ là đội bóng kình địch với Arsenal, Tottenham Hotspur và Leeds United. Dựa trên số liệu tham khảo, câu lạc bộ có lượng người hâm mộ lớn thứ sáu ở Anh. Xét về giá trị câu lạc bộ, Chelsea là câu lạc bộ bóng đá có giá trị lớn thứ sáu trên thế giới, đáng giá 2,13 tỷ bảng Anh (2,576 tỷ đô la) và là câu lạc bộ bóng đá có thu nhập cao thứ tám trên thế giới, với thu nhập hơn 428 triệu euro trong mùa giải 2017–18. Kể từ năm 2022, Chelsea thuộc sở hữu của tỷ phú người Mỹ Todd Boehly.
Lịch sử
Giai đoạn đầu
Năm 1904, Gus Mears mua lại sân vận động thể thao Stamford Bridge với mục đích biến nó trở thành một sân bóng đá. Lời đề nghị cho câu lạc bộ ở gần đó Fulham thuê sân đã bị từ chối, vì thế Mears tự làm chủ một câu lạc bộ để sử dụng sân bóng đá. Do đã có đội bóng mang tên Fulham ở trong quận, tên của quận lân cận Chelsea được lựa chọn cho câu lạc bộ mới; các tên như Kensington FC, Stamford Bridge FC và Luân Đôn FC cũng đã được xem xét chọn lựa. Chelsea được thành lập ngày 10 tháng 3 năm 1905 tại quán rượu The Rising Sun (nay là The Butcher's Hook), đối diện với lối vào chính của sân vận động ngày nay nằm trên đường Fulham Road, và được lựa chọn vào Football League ngay sau đó.
Câu lạc bộ lên First Division ngay trong mùa giải thứ hai của họ, và lên xuống hạng thường xuyên giữa First và Second Divisions trong những năm đầu thành lập. Họ vào tới Chung kết FA Cup 1915, nơi đã để thua Sheffield United trên sân Old Trafford, và kết thúc ở vị trí thứ ba tại First Division năm 1920, thành tích tốt nhất của câu lạc bộ tại giải quốc gia thời điểm đó. Chelsea thu hút một lượng đông đảo khán giả tới sân và tạo được danh tiếng vì ký được hợp đồng với những cầu thủ có tên tuổi, nhưng thành công vẫn lẩn trốn câu lạc bộ những năm giữa hai cuộc chiến.
Cựu tiền đạo trung tâm của Arsenal và tuyển Anh Ted Drake trở thành huấn luyện viên trưởng năm 1952 và tiến hành hiện đại hóa câu lạc bộ. Ông đã cho bỏ biểu trưng người hưu trí Chelsea, cải thiện hệ thống đào tạo trẻ và phương pháp luyện tập, tái xây dựng đội bóng với những cầu thủ từ các giải đấu thấp hơn và nghiệp dư, ông đã dẫn dắt Chelsea giành được danh hiệu lớn đầu tiên – chức vô địch quốc gia – mùa giải 1954–55. Mùa giải sau đó UEFA tạo ra European Champions' Cup, nhưng do sự phản đối từ The Football League và FA Chelsea đã bị buộc thuyết phục rút lui khỏi giải đấu từ trước khi nó khởi tranh. Chelsea đã thất bại trong việc duy trì thành công và chỉ kết thúc ở khu vực giữa bảng xếp hạng trong những năm 1950 sau đó Tommy Docherty lên làm huấn luyện viên kiêm cầu thủ.
Docherty xây dựng đội bóng mới xung quanh một nhóm các cầu thủ trẻ tài năng đang nổi từ hệ thống đào tạo trẻ của câu lạc bộ, Chelsea luôn nằm trong nhóm tranh chấp danh hiệu suốt những năm 1960, tuy nhiên đều không thành công. Mùa giải 1964–65 họ có cơ hội giành cú ăn ba League, FA Cup và League Cup đến những vòng đấu cuối cùng, tuy nhiên họ chỉ giành được League Cup và thất bại ở hai giải đấu còn lại. Trong ba mùa giải đội bóng để thua ở ba trận bán kết của các giải đấu lớn và một lần giành á quân FA Cup. Dưới thời người kế nhiệm Docherty, Dave Sexton, Chelsea giành chức vô địch FA Cup năm 1970, đánh bại Leeds United 2–1 trong trận đá lại chung kết. Chelsea cũng giành danh hiệu châu Âu đầu tiên, UEFA Cup Winners' Cup, năm sau đó, trong một trận đá lại khác, lần này là trước Real Madrid ở Athens.
Cuối những năm 1970 đến những năm 1980 là một thời kỳ hỗn loạn của Chelsea. Do tham vọng mở rộng Stamford Bridge đã đe dọa đến tình hình tài chính của câu lạc bộ, các cầu thủ ngôi sao bị bán đi còn đội bóng thì xuống hạng. Vấn đề khác nữa là các nhóm hooligan khét tiếng ở trong cổ động viên, làm đau đầu câu lạc bộ hàng thập kỷ. Năm 1982, Chelsea đã gặp may trong giai đoạn đen tối nhất khi được thu mua lại bởi Ken Bates với giá tượng trưng một bảng Anh, mặc dù lúc đó quyền sử dụng sân Stamford Bridge đã bị bán cho các nhà phát triển bất động sản, điều đó có nghĩa câu lạc bộ phải đối mặt với nguy cơ mất sân nhà. Trên sân cỏ, đội bóng có cải thiện theo chiều hướng tốt hơn, từ việc đối mặt với nguy cơ xuống Third Division lần đầu tiên, nhưng đến năm 1983 huấn luyện viên John Neal đã tạo nên một đội bóng mới ấn tượng với kinh phí hạn hẹp. Chelsea giành chức vô địch Second Division mùa 1983–84 và trụ vững tại giải đấu cao nhất, trước khi xuống hạng một lần vào năm 1988. Câu lạc bộ ngay lập tức trở lại sau khi vô địch Second Division mùa 1988–89.
Sau một thời gian dài đấu tranh pháp lý, Bates giành lại quyền sử dụng sân cho câu lạc bộ vào năm 1992 với thỏa thuận với ngân hàng chủ nợ của công ty bất động sản, công ty bị phá sản do sụp đổ thị trường. Thành tích của Chelsea khi thi đấu tại giải đấu Premier League mới là tương đối thuyết phục, mặc dù họ chỉ vào đến Chung kết FA Cup 1994 với Glenn Hoddle. Cho đến khi bổ nhiệm Ruud Gullit với tư cách cầu thủ kiêm huấn luyện viên năm 1996, số phận câu lạc bộ thay đổi. Ông mang về những cầu thủ quốc tế hàng đầu, câu lạc bộ vô địch FA Cup năm 1997 và một lần nữa trở lại với vị thế của một trong những câu lạc bộ hàng đầu nước Anh. Gullit được thay thế bởi Gianluca Vialli, người đưa đội bóng giành chức vô địch League Cup, UEFA Cup Winners' Cup và UEFA Super Cup năm 1998, FA Cup năm 2000 và lần đầu tham dự UEFA Champions League. Vialli bị sa thải và được thay bởi Claudio Ranieri, người đưa Chelsea tới Chung kết FA Cup 2002 và vòng loại Champions League mùa 2002–03.
Thời chủ tịch Roman Abramovich (2003-2022)
Nhiệm kỳ đầu của Mourinho (2004-2007)
Tháng 6 năm 2003, Bates bán Chelsea cho tỉ phú người Nga Roman Abramovich với giá 140 triệu bảng Anh. Trong năm đầu làm chủ tịch Chelsea, Roman Abramovich đã chi ra tổng cộng gần 111 triệu bảng Anh để tái thiết lại Chelsea. Những tân binh được mua về bao gồm Hernán Crespo, Adrian Mutu, Claude Makélélé hay Damien Duff. Với số tiền đã bỏ ra, Chelsea được mong đợi trở thành một ông lớn, tuy nhiên dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Claudio Ranieri, niềm hi vọng đó bị dập tắt khi Chelsea không giành được bất kì một danh hiệu nào, họ xếp sau Arsenal tại Giải ngoại hạng, và bị đối thủ này loại ở Cúp FA. Ở UEFA Champions League năm 2004, Chelsea cũng đã lọt vào vòng bán kết trước khi dừng bước trước AS Monaco. Với việc trắng tay trên tất cả các giải đấu, Ranieri đã bị sa thải sau đó.
Sang mùa giải tiếp theo, Chelsea đã mời được huấn luyện viên người Bồ Đào Nha, ông José Mourinho về dẫn dắt The Blues. Mùa hè năm ấy, Chelsea đã có những sự bổ sung lực lượng quan trọng sau một mùa giải trắng tay như thủ môn Petr Čech, tiền đạo Didier Drogba hay hậu vệ Ricardo Carvalho. Mùa giải ấy Chelsea đã lật đổ sự thống trị của Arsenal và Manchester United khi đăng quang ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh cùng điểm số kỷ lục 95 điểm với 29 trận thắng, hòa 8 trận và chỉ thua duy nhất 1 trận. Ngoài ra họ cũng giành được một danh hiệu khác là Cúp liên đoàn Anh sau chiến thắng kịch tính 3-2 sau 120 phút thi đấu tại trận chung kết với câu lạc bộ Liverpool. Tại Cup châu Âu năm ấy, Chelsea của Người Đặc Biệt José Mourinho dễ dàng vượt qua vòng bảng với thành tích xếp thứ nhất. Tại vòng 1/16, The Blues tiếp đón gã khổng lồ xứ Catalan, câu lạc bộ Barcelona. Mặc dù để thua 1-2 ở trận lượt đi trên sân Camp Nou, nhưng với chiến thắng bằng phong độ xuất sắc với tỷ số 4-2 ở trận lượt về diễn ra trên sân Stamford Bridge đã giúp Chelsea tiến vào vòng tứ kết. Đối thủ tiếp theo của Chelsea là câu lạc bộ số một nước Đức, Bayern Munich. Trận lượt đi diễn ra vào tháng 4 năm 2005, Chelsea đã đánh bại đại diện đến từ Đức với tỷ số 4-2. Mặc dù ở trận lượt về sau khi dẫn trước 2-1, Chelsea đã để Bayern ghi liền 2 bàn thắng và sau đó để thua 2-3, nhưng vẫn đủ để giúp The Blues giành vé vào vòng 4 đội mạnh nhất. Ở vòng 4 đội, Chelsea đón tiếp một đối thủ cũng đến từ nước Anh là câu lạc bộ Liverpool. Mặc dù đã cầm hòa được Lữ đoàn Đỏ ở trận lượt đi trên sân nhà, nhưng với "Bàn thắng ma" ở trận lượt về đã khiến đoàn quân của Mourinho đành dừng bước.
Mùa giải 2005-06 của Chelsea mở đầu bằng trận tranh Cúp FA Community Shield với đối thủ cùng thành phố Arsenal. Kết quả Chelsea đã vượt qua kình địch thành Luân Đôn với cú đúp của tiền đạo Didier Drogba, qua đó giành lấy danh hiệu đầu tiên của mùa giải. Tuy nhiên mùa giải 2005-06 chỉ có thể xem là tạm chấp nhận được khi Chelsea chỉ giành được 1 chức vô địch quốc gia. Tại giải Ngoại hạng Anh, họ tiếp tục vô địch với thành tích 29 trận thắng như mùa trước, hòa 4 và thua 5 trận. Đáng chú ý là trận thắng 3-0 của The Blues trước câu lạc bộ Manchester United. Tại Cup Liên Đoàn Anh, Chelsea bất ngờ trở thành cựu vương khi để thua 1 câu lạc bộ được đánh giá thấp hơn đến từ giải hạng dưới, Charlton Athletic. Dù được thi đấu trên sân nhà, nhưng Chelsea vẫn bị Charlton cầm chân 1-1 dẫn đến loạt sút luân lưu. Trên chấm phạt đền, hậu vệ Robert Huth đã đá hỏng trong khi 5 cầu thủ bên phía Charlton đều thực hiện thành công, qua đó khiến Chelsea bị loại. Còn tại Cúp FA, câu lạc bộ dừng chân trước đối thủ Liverpool sau khi để đối thủ này nhanh chóng dẫn trước 2-0, dù gỡ được 1 bàn nhờ công của Drogba nhưng Chelsea đành chấp nhận thất bại 1-2 và bị loại. Tại cúp châu Âu, một lần nữa The Blues lại gặp đối thủ Barcelona. Những lần này người bị loại lại là Chelsea sau khi để thua 1-2 trên sân nhà ở trận lượt đi, và chỉ có kết quả hòa 1-1 trên sân Camp Nou.
Mùa hè năm 2006, Chelsea đã ký hợp đồng với tiền đạo Andriy Shevchenko với mức phí 30 triệu bảng, nhưng đây là một bản hợp đồng có thể bị xem là hớ khi Shevchenko không thể tỏa sáng và mờ nhạt trước khi bị Mourinho cho dự bị. Mùa giải 2006-07 mở đầu khi đội bóng áo xanh để thua trận tranh Siêu cúp nước Anh trước Liverpool với tỉ số 1-2. Tiếp theo, đây cũng là mùa giải Chelsea không thể bảo vệ thành công ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh. Câu lạc bộ xếp vị trí thứ 2 chung cuộc sau Manchester United. Mặc dù mất ngôi vô địch vào tay đối thủ đến từ Manchester nhưng Chelsea của Mourinho vẫn có thêm 2 danh hiệu từ Cúp FA và Cup Liên Đoàn Anh. Đối thủ tại 2 trận chung kết ấy chính là kình địch lâu năm của The Blues, câu lạc bộ Arsenal và tân vương Manchester United. Tại trận chung kết Cúp Liên Đoàn diễn ra tại Sân vận động Thiên niên kỷ ở Cardiff, Arsenal sớm có bàn thắng vượt lên dẫn trước nhờ bàn thắng của Theo Walcott nhưng với cú đúp của chân sút tốt nhất của Chelsea những mùa giải gần đây, Didier Drogba đã giúp Chelsea lật ngược thế cờ và giành được danh hiệu đầu tiên của mùa giải. Còn trận chung kết FA Cup tiếp đón Manchester United diễn ra trên Sân vận động Wembley, vẫn là bàn thắng của tiền đạo Drogba đã giúp Chelsea vượt qua MU để có được danh hiệu thứ 2 trong mùa giải. Tại UEFA Champions League năm 2007, Chelsea một lần nữa lọt vào vòng tứ kết, nhưng họ lại tiếp tục dừng bước trước đối thủ quen thuộc Liverpool. Cả hai lượt trận khép lại tổng tỉ số hòa 1-1 với chiến thắng 1-0 cho mỗi đội, trong loạt sút luân lưu, Chelsea với 2 pha đá hỏng ăn của Arjen Robben và Geremi Njitap đã giúp cho Liverpool có chiến thắng còn Chelsea bị loại.
Mùa giải 2007-08 được xem là mùa giải cuối cùng mà José Mourinho dẫn dắt Chelsea. Truyền thông đã đưa tin rằng Người đặc biệt đang có xích mích với ông chủ người Nga, Roman Abramovich về việc Mourinho ép tiền đạo Andriy Shevchenko phải ngồi dự bị. Chelsea khởi đầu mùa giải bằng trận thua trước Manchester United tại trận tranh Siêu cúp nước Anh. Sau 120 phút với tỉ số hòa 1-1, 2 đội tiến đến loạt sút luân lưu và danh hiệu đã thuộc về MU sau khi 3 cầu thủ bên phía Chelsea là Frank Lampard, Claudio Pizarro và Shaun Wright-Philipps đá hỏng. Khi Giải ngoại hạng Anh diễn ra, Chelsea khởi đầu khá thuận lợi sau 4 trận đầu giành được 10 điểm. Nhưng tại vòng 5 họ bất ngờ bị Aston Villa đánh bại với tỉ số 2-0, và sau đó để Blackburn Rovers cầm hòa trên sân nhà, cộng với việc mối quan hệ bất đồng giữa huấn luyện viên Mourinho và chủ tịch Abramovich thì vào ngày 20 tháng 9, Mourinho chính thức bị sa thải, thay thế ông là Avram Grant. Nhưng Avram Grant cũng chỉ có thể giúp Chelsea giành ngôi á quân tại giải vô địch quốc gia, sau đó là trận thua 1-2 trước câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại trận chung kết Cúp Liên Đoàn. Và cay đắng hơn, năm đó Chelsea đã lọt vào trận Chung kết UEFA Champions League 2008 gặp Manchester United. Sau 120 phút hòa nhau 1-1, thì trong loạt sút luân lưu, tưởng chừng chức vô địch đã thuộc vể Chelsea sau pha đá hỏng của Cristiano Ronaldo, nhưng bất ngờ trung vệ John Terry lại trượt chân trong loạt sút của mình dẫn đến quả bóng bay chạm cột dọc và ra ngoài, sau đó pha đá của Nicolas Anelka bị thủ môn Edwin van der Sar cản phá dẫn đến thất bại của Chelsea. Với việc phải về nhì cả ba lần, khi mùa giải kết thúc, Avram Grant phải ra đi.
Thời hậu Mourinho
Trước khi mùa giải 2008-09 khởi tranh, Chelsea đã bổ nhiệm huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari, người từng vô địch World Cup 2002 để dẫn dắt đội bóng. Scolari đã giúp Chelsea dẫn đầu bảng xếp hạng sau 13 vòng đấu trước khi phải xuống vị trí thứ 2 sau trận hòa 0-0 với Newcastle United. Sau đó câu lạc bộ lần lượt để thua các đổi thủ lớn như Arsenal, Manchester United và Liverpool. Tại Cúp Liên Đoàn, Chelsea còn để thua mất mặt trước Burnley trên sân nhà và phải bị loại sớm. Đến đầu tháng 2, Chelsea đã rơi xuống vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng sau trận hòa thất vọng trước Hull City trên sân nhà Stamford Bridge. Hệ quả sau đó Scolari bị sa thải, và thay thế ông là huấn luyện viên tạm quyền người Hà Lan, Guus Hiddink. Mặc dù Hiddink không thể giúp Chelsea giành ngôi vô địch nhưng vị trí thứ ba của Chelsea trên bảng xếp hạng cũng giúp ông chiếm được cảm tình từ phía người hâm mộ, trong đó có trận thắng đậm đà 4-1 trên sân của kình địch cùng thành phố Arsenal. Tại Cúp châu Âu, Chelsea cũng vào đến vòng bán kết gặp Barcelona. Lượt đi Chelsea đã có lợi thế khi không để thua trước Barca và cầm chân đối thủ trên sân Camp Nou. Lượt về tại Stamford Bridge, Chelsea có khởi đầu tốt khi Michael Essien lập công đưa Chelsea vượt lên dẫn trước. Tuy nhiên trong cả trận đấu, The Blues đã bị trong tài từ chối 5 quả Penalty và kết quả vào phút 90+3, tiền vệ Andres Iniesta bên phía Barca với 1 cú sút xa thành bàn để cân bằng tỉ số 1-1, qua đó Chelsea bị loại bởi luật bàn thắng trên sân khách. Danh hiệu duy nhất mà Hiddink giúp Chelsea có được là chiếc Cúp FA. Trong trận chung kết gặp Everton, Louis Saha đã ghi bàn đưa đội bóng thành phố cảng vượt lên dẫn trước, để rồi sau đó Didier Drogba và Frank Lampard lần lượt lập công giúp Chelsea đánh bại Everton và thoát khỏi một mùa giải trắng tay. Sau đó Guus Hiddink đã chia tay câu lạc bộ sau khi hết hạn hợp đồng, người thay thế ông là Carlo Ancelotti, cựu huấn luyện viên của AC Milan.
Mùa giải 2009-10, huấn luyện viên Ancelotti đã làm rất tốt công việc của mình khi ông giúp Chelsea đánh bại Man Utd ở trận tranh Siêu Cúp nước Anh, ngoài ra đưa đội bóng lên ngôi vô địch Giải Ngoại hạng Anh lần thứ 4 trong lịch sử. Đây được xem là mùa giải kịch tính nhất của đội bóng. Bởi cho đến vòng đấu thứ 32, Chelsea vẫn đang xếp sau Manchester United với 2 điểm ít hơn. Và tại vòng đấu thứ 33 được xem là trận chung kết để quyết định ngôi vương khi Chelsea tiếp đón Man United trên sân Old Trafford của đối thủ. Mặc dù thi đấu trên sân của đối phương và chịu sức ép từ phía cổ động viên của đối thủ, nhưng Chelsea đã giành được chiến thắng với tỉ số 2-1 qua đó vượt lên chính MU để lên ngôi nhất bảng. Cả Chelsea lẫn Man Utd còn cạnh tranh nhau cho đến vòng đấu cuối cùng bởi cách biệt chỉ là 1 điểm. Kết quả vòng thứ 38, Chelsea đại thắng Wigan Athletic với tỉ số 8-0 trong đó có cú hattrick của Didier Drogba, qua đó chấm dứt hi vọng của Manchester United và lần thứ 4 lên ngôi vô địch. Ancelotti còn giúp Chelsea đăng quang 1 đấu trường khác là Cúp FA. Đội bóng áo xanh đã vượt qua những đối thủ khó chịu để đến với trận chung kết. Một lần nữa tiền đạo Drogba tỏa sáng với một pha sút phạt ghi bàn vào lưới Portsmouth để ấn định tỉ số 1-0 cho Chelsea. Ở Cúp Liên Đoàn, Chelsea tiến đến trận đấu thứ 3 trước khi thất bại 3-4 trong loạt sút luân lưu với Blackburn Rovers. Còn tại UEFA Champions League mùa giải 2009-10, Chelsea cũng đã vượt qua vòng bảng với vị trí nhất bảng đấu. Đối thủ của họ tại vòng 1/16 là câu lạc bộ Inter Milan đang được dẫn dắt bởi một người cũ José Mourinho. Chelsea đành dừng cuộc chơi sau khi để thua 1-2 ở lượt đi và 0-1 ở lượt về. Mặc dù không thể giúp Chelsea vô địch Cúp châu Âu, nhưng cú đúp danh hiệu ngay trong mùa đầu tiên dẫn dắt cũng là một sự thành công của Ancelotti và đội bóng.
Sang mùa giải tiếp theo, mùa giải 2010-11 được xem là một năm thi đấu thất bại của Chelsea. Đầu tiên là thất bại 1-3 ở trận tranh Siêu Cúp đầu mùa, sau đó họ bị Manchester United bỏ xa trên bảng xếp hạng, đồng thời để mất điểm trong một số những trận cầu lớn khi đối đầu với Liverpool, Manchester City, hay Everton và Arsenal. Câu lạc bộ nhanh chóng bị loại khỏi Cúp Liên Đoàn khi thua trên sân nhà 3-4 trong một trận cầu có 7 bàn thắng được ghi trước câu lạc bộ Newcastle United. Khi nhận thấy tiền đạo Didier Drogba đã có tuổi, đồng thời hàng hậu vệ thường mắc những sai lầm, nên vào kì chuyển nhượng mùa đông năm 2011, Chelsea đã ký hợp đồng với tiền đạo Fernando Torres của Liverpool với mức phí 50 triệu bảng Anh, kỉ lục của câu lạc bộ, đồng thời mua hậu vệ David Luiz của Benfica để bổ sung hàng thủ. Nhưng Torres đã đánh mất phong độ kể từ khi chuyển sang Chelsea, một mình David Luiz thì không đủ để giúp Chelsea tránh những bàn thua. Mãi đến gần cuối mùa giải, phong độ của Chelsea mới được hồi phục bằng 8 trận thắng và hòa 1 trận. Tuy nhiên trận thua 1-2 trước Manchester United đã khiến Chelsea đành chấp nhận trở thành cựu vương, trực tiếp trao chức vô địch cho đối thủ. Còn ở Cúp FA, Chelsea cũng phải dừng bước trước Everton dù được thi đấu trên sân nhà. Sau khi hòa nhau 1-1 qua 120 phút, ở loạt sút luân lưu, 2 cầu thủ bên phía Chelsea là Nicolas Anelka và Ashley Cole đã đá hỏng, qua đó dẫn đến thất bại 3-4 trong loạt sút khiến Chelsea bị loại. Ở Cúp châu Âu mùa giải ấy, Chelsea đã tiến đến vòng tứ kết, và một lần nữa họ lại bị đối thủ ở nước Anh của mình là Manchester United loại khi đã để thua ở cả hai lượt trận (0-1 lượt đi và 1-2 lượt về). Với kết quả trắng tay sau một mùa giải, Chelsea đã có một cuộc họp đi đến quyết định sa thải huấn luyện viên Carlo Ancelotti.
Giai đoạn vô địch châu Âu
Sang mùa hè năm 2011, Chelsea đã tìm được người thay thế huấn luyện viên Ancelotti, đó là một người Bồ Đào Nha, ông André Villas-Boas, một huấn luyện viên trẻ vừa giúp Porto đăng quang ngôi vô địch UEFA Europa League mùa giài trước, đồng thời được mệnh danh là Mourinho đệ Nhị. Được kỳ vọng rất nhiều, nhưng Villas-Boas không thể giúp Chelsea khẳng định được mình tại Giải ngoại hạng Anh. Đầu tiên là việc Chelsea để thua Manchester United 1-3 vào tháng 9 năm 2011, sau đó là trận thua mất mặt 3-5 trên sân nhà trước kình địch cùng thành phố Arsenal và thất bại 1-2 trước Liverpool ở cả giải vô địch quốc gia và 0-2 ở Cúp Liên Đoàn. Đến tháng 3 năm 2012, sau trận thua 0-1 trên sân của West Brom, sự kiên nhẫn của Abramovich đã đạt giới hạn, ngay sau trận thua, Chelsea đã ra phương án sa thải huấn luyện viên người Bồ, và thay thế ông là trợ lý Roberto Di Matteo. Di Matteo sau đó đã giúp Chelsea thi đấu cực kỳ thăng hoa. Từ chỗ họ đã để thua 1-3 tại UEFA Champions League bởi đại diện đến từ Ý, Napoli, câu lạc bộ đã thi đấu cực kì xuất sắc ở trận lượt về, và đánh bại đối thủ 4-1 để tiến vào vòng tứ kết một cách thuyết phục. Sau đó đối thủ của Chelsea là Benfica. Chelsea đã không gặp khó khăn khi đánh bại câu lạc bộ của Bồ Đào Nha với tổng tỉ số 3-1 sau 2 lượt trận (1-0 lượt đi và 2-1 lượt về) để vào vòng 4 đội mạnh nhất. Tại bán kết Chelsea gặp đối thủ duyên nợ của mình là Barcelona. Lượt đi diễn ra trên sân Stamford Bridge, từ 1 pha phản công cuối hiệp 1, Chelsea đã có được 1 bàn thắng nhờ công của Drogba, đó cũng là bàn thắng duy nhất của trận đấu. Tại trận lượt về ở Camp Nou, mặc dù để Barca nhanh chóng dẫn 2-0, nhưng Chelsea vẫn tìm được 1 bàn thắng rút ngắn tỉ số còn 1-2 trước khi Fernando Torres có một pha đi bóng qua thủ môn và ấn định tỉ số hòa 2-2, đưa Chelsea vào chung kết. Đối thủ cuối cùng của họ là câu lạc bộ Bayern Munich, cũng là chủ nhà đăng cai trận chung kết. Tại trận Chung kết UEFA Champions League 2012, tưởng chừng như Chelsea lại lỡ hẹn với chức vô địch châu Âu khi Thomas Müller đánh đầu mở tỉ số vào phút thứ 85, nhưng chỉ vài phút sau đó, Didier Drogba cũng một pha đánh đầu đưa bóng vào lưới của thủ môn Manuel Neuer cân bằng tỉ số 1-1. Trận đấu bước vào hiệp phụ và Bayern Munich có cơ hội đánh bại Chelsea khi Arjen Robben bị phạm lỗi và Chelsea phải chịu một quả 11m. Nhưng thủ môn Petr Čech đã đoán được hướng bóng và cản phá thành công. Trận đấu phải phân định thắng thua trên loạt sút luân lưu, khó khăn lại đến với Chelsea khi tiền vệ Juan Mata đá hỏng quả đầu tiên trong loạt sút của mình, nhưng may mắn đã thuộc về đội bóng áo xanh khi lần lượt Ivica Olić và Bastian Schweinsteiger bên phía Bayern thực hiện không thành công, tạo cơ hội cho Didier Drogba sút tung lưới của Neuer ấn định chiến thắng 4-3 sau loạt luân lưu đồng thời mang chiếc cúp bạc về cho Chelsea. Đây là danh hiệu vô địch châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử và cũng là đội bóng thành Luân Đôn đầu tiên giành chức vô địch ở UEFA Champions League. Ngoài Cúp châu Âu ra, Di Matteo còn giúp Chelsea có được một danh hiệu khác là chiếc cúp FA. Trong trận chung kết gặp Liverpool, Chelsea đã vượt lên dẫn trước 2-0 ở đầu hiệp 2, mặc dù Liverpool đã có 1 bàn gỡ, nhưng chiến thắng vẫn thuộc về The Blues.
Sau chức vô địch UEFA Champions League, Chelsea trở thành bến đỗ lý tưởng của nhiều cầu thủ. Với số tiền kiếm được từ mùa giải trước, Chelsea đã có được những chữ ký mới trong đội hình như ngôi sao mới nổi của bóng đá Bỉ Eden Hazard, Oscar dos Santos hay César Azpilicueta, đồng thời Roberto Di Matteo được trao một bản hợp đồng chính thức sau những thành tích mùa giải vừa qua. Chelsea khởi đầu mùa giải với thảm bại 1-4 trước Atletico Madrid tại SIêu cúp Châu âu 2012. Sau đó Chelsea cũng thua Manchester City 2-3 ở trận tranh Siêu Cúp Anh. Mặc cho thành tích đầu mùa kém cỏi, nhưng Di Matteo giúp Chelsea mở đầu mùa giải tại ngoại hạng Anh một cách thuận lợi khi thắng 7 và hòa 1 trong 8 vòng đầu tiên. Tuy nhiên sau trận thua 2-3 trước Man United, Chelsea trải qua chuỗi 6 trận không thắng tại Giải ngoại hạng Anh. Đồng thời Chelsea bị loại ở Cúp châu Âu ngay từ vòng bảng sau trận thua 0-3 trước Juventus, và trở thành đội bóng có thời gian giữ chức vô địch ngắn nhất trong lịch sử Champions League. Với thành tích tệ hại đó, Roberto Di Matteo bị sa thải, thay thế ông là Rafael Benítez. Mặc dù bị sa thải, nhưng Di Matteo vẫn được ghi tên vào lịch sử Chelsea khi là vị huấn luyện viên đầu tiên đưa câu lạc bộ lên ngôi vô địch Champions League. Khi Benitez lên dẫn dắt Chelsea, ông cũng không giúp đội bóng chiến thắng tại hai giải cúp quốc nội là Cúp FA sau khi để thua Manchester City 1-2 tại bán kết, và thất bại 0-2 trước Swansea City ở Cúp Liên Đoàn, cùng với đó là để Corinthians đánh bại trong trận chung kết FIFA Club World Cup 2012. Sau khi xuống chơi tại UEFA Europa League, Benitez với biệt danh "Vua đấu cúp" đã giúp câu lạc bộ này tiến thẳng đến trận chung kết để gặp lại Benfica, đối thủ mà Chelsea đã loại ở Champions League mùa giải trước. Tại trận chung kết, sau hiệp 1 không có bàn thắng, thì từ một pha phát bóng lên của thủ môn Petr Čech, tiền đạo Fernando Torres đã đỡ bóng khôn ngoan trước khi thực hiện 1 pha đi bóng qua thủ môn sở trường của mình để mở tỉ số cho Chelsea. Sau đó Benfica cũng có 1 bàn gỡ nhờ công của Óscar Cardozo trên chấm 11m. Khi trận đấu diễn ra đến phút bù giờ thứ 3, từ một pha đá phạt góc, trung vệ Branislav Ivanović bật cao đánh đầu đưa bóng vào lưới của Benfica, ấn định chiến thắng 2-1, mang về danh hiệu vô địch châu Âu cho Chelsea. Đây là danh hiệu châu Âu thứ hai của Chelsea trong vòng 2 mùa giải, và câu lạc bộ cũng trở thành đội bóng đầu tiên vô địch UEFA Europa League sau khi đã vô địch UEFA Champions League mùa giải trước.
2013–2015: Nhiệm kỳ thứ 2 của Mourinho
Ngày 3 tháng 6 năm 2013, Chelsea thông báo bổ nhiệm José Mourinho lần thứ 2 với bản hợp đồng 4 năm, ông mở đầu nhiệm kỳ bằng trận tranh siêu cup Châu Âu với nhà vô địch UEFA Champions League 2012–13 Bayern Munich, họ cầm hòa 2-2 sau trong thời gian đấu chính thức và hiệp phụ, nhưng để thua 4-5 trên chấm phạt đền, trong mùa giải đầu tiên, Chelsea trắng tay lần đầu tiên kể từ mùa giải 2010–11, khi kết thúc Ngoại hạng anh tại vị trí thứ 3, dừng bước tại bán kết UEFA Champions League khi để thua Atlético Madrid 1-3 sau 2 lượt trận, nhưng Mourinho nói đó là mùa giải chuyển giao của câu lạc bộ.
Trong mùa giải tiếp theo, Chelsea giành chức vô địch Premier League thứ 4 khi đạt 87 điểm, bỏ xa 8 điểm nhiều hơn đội á quân Manchester City, Mourinho cũng giúp Chelsea vô địch League Cup khi đánh bại Tottenham Hotspur 2-0 tại chung kết, nhưng đổi lại họ dừng bước trước PSG tại vòng 16 đội UEFA Champions League, cũng như thua Bradford City tại vòng 4 FA cup.
Mùa giải 2015–16 bắt đầu bằng trận thua 0-1 trước Arsenal tại Siêu cup Anh, sau đó là phong độ tệ hại của nhà vô địch Premier League, cùng với đó là "vụ lùm xùm" của Mourinho với Eva Carneiro. Từ tháng 8 tới tháng 12, Chelsea chỉ thắng 5 trong số 19 trận, và tới ngày 17 tháng 12, Mourinho bị câu lạc bộ sa thải sau khi để thua 1-2 trước Leicester City.
Hậu nhiệm kỳ thứ 2 của Mourinho
Sau khi sa thải Mourinho, Guus Hiddink được mời về làm huấn luyện viên tạm quyền trong phần còn lại của mùa giải 2015–16. Đội bóng có được chuỗi 12 trận bất bại kể từ sau khi Mourinho bị sa thải, với 6 trận thắng và 6 trận hòa. Chuỗi trận kết thúc ngày 16 tháng 2 năm 2016 sau khi Chelsea để thua Paris Saint-Germain trong trận đấu lượt đi vòng 16 đội Champions League. Chelsea sau đó thua trong trận lượt về 2–1 trên sân nhà qua đó bị loại khỏi giải đấu vào ngày 9 tháng 3. Sau đó Chelsea tiếp tục bị loại khỏi FA Cup ngày 12 tháng 3 sau trận thua 2–0 trước Everton. Thành tích tại giải quốc nội được cải thiện khi từ vị trí thứ 16 với 1 điểm hơn nhóm xuống hạng đã leo lên vị trí thứ 8 sau màn ngược dòng khó tin với tỉ số 1–2 trên sân khách trước Southampton.
Thành tích đội bóng bắt đầu đi xuống trận hòa 1–1 thất vọng trên sân nhà trước Stoke City, và 2–2 cũng trên sân nhà trước West Ham, kết quả là Chelsea tụt xuống vị trí thứ 10. Chelsea có chiến thắng 4–1 trên sân của AFC Bournemouth, với lần đầu Eden Hazard ghi bàn trong mùa giải tại giải quốc gia, và sau đó là màn ngược dòng từ tỉ số 0–2 trước đối thủ Tottenham, để có trận hòa 2–2, Hazard một lần nữa ghi bàn để dập tắt hy vọng vô địch của Tottenham tại giải Premier League. Chelsea hòa 1–1 trên sân của Liverpool và hòa 1-1 trên sân nhà trước Leicester City, tại đây Claudio Ranieri– cựu huấn luyện viên của Chelsea, đã được xếp hàng chào danh dự tại vòng cuối. Cựu huấn luyện viên Juventus và huấn luyện viên đương nhiệm của đội tuyển Italia khi đó Antonio Conte được xác nhận là huấn luyện viên trưởng của Chelsea vào tháng 4 năm 2016.
2016–2018: Thời kỳ Antonio Conte
Antonio Conte bắt đầu công việc của mùa giải 2016–17 sau khi Italia hoàn thành UEFA Euro 2016, trong mùa giải đầu tiên Conte giúp Chelsea giành chức vô địch Premier League thứ 5 khi đạt 93 điểm, đồng thời đưa đội vào chung kết FA cup nhưng thua Arsenal 1-2. Trong mùa giải tiếp theo, dù mang về Álvaro Morata từ Real Madrid với mức giá 58 triệu bảng, nhưng Chelsea mở đầu mùa giải khi hòa 1-1 trước Arsenal sau đó thua 1-4 trên chấm phạt đền tại Siêu cup Anh, sau đó Chelsea thi đấu thiếu ổn định cả mùa và trở thành cựu vương khi chỉ đứng thứ 5 với 70 điểm, qua đó mất suất dự Champions League, dù sau đó ông giúp Chelsea đánh bại Man United 1-0 để giành chức vô địch FA Cup, Chelsea đã quyết định sa thải Conte sau khi ông vô địch FA Cup. Như vậy, sau 2 năm dẫn dắt Chelsea, Conte ra đi với 1 danh hiệu Ngoại hạng Anh và 1 FA Cup. Người kế nhiệm Conte nhiều khả năng là Maurizio Sarri.
2018–2019: Thời kỳ Maurizio Sarri
Vào hôm 14/7/2018, Chelsea thông báo ký hợp đồng 3 năm với cựu HLV của Napoli Maurizio Sarri, Sarri mang về Jorginho - trò cưng của ông ở Napoli với mức giá vào khoảng 57 triệu £, cùng thủ môn đắt giá nhất thế giới Kepa Arrizabalaga với mức giá 71 triệu £, ông mở đầu nhiệm kỳ bằng trận thua 0-2 trước Manchester City tại Siêu cup Anh, Sarri giúp đội bóng có 12 trận bất bại đầu muà trước khi thua Tottenham Hotspur 1-3 ở vòng 13, Chelsea kết thúc mùa 2018-19 khi đứng thứ 3 với 72 điểm, Sarri đồng thời đưa đội vào chung kết League Cup nhưng để Manchester City giành chiến thắng 4–3 trên chấm phạt đền sau khi hòa 0-0 cả trận, trong trận Maurizio Sarri muốn thực hiện quyền thay người để đưa Caballero - lão tướng dày dặn kinh nghiệm bắt penalty vào sân thay Kepa. Tuy nhiên, thủ môn người Tây Ban Nha đã kiên quyết từ chối ra sân khiến HLV Sarri rất bực tức.Tuy chỉ gắn bó 1 mùa nhưng ông đã giúp Chelsea vô địch UEFA Europa League lần thứ 2 với tỉ số 4–1 trước Arsenal trong trận chung kết và cũng là danh hiệu đầu tiên của ông trong sự nghiệp cầm quân
2019–2021: Thời kỳ Frank Lampard
Vào ngày 4 tháng 7 năm 2019, Lampard được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới tại câu lạc bộ cũ Chelsea theo hợp đồng 3 năm, trở thành HLV người Anh đầu tiên của CLB trong hơn 2 thập kỷ. Trong trận đấu đầu tiên của Lampard với Chelsea, câu lạc bộ đã thua 4-0 trước Manchester United vào ngày khai mạc mùa giải Premier League 2019-20. Đó là thất bại lớn nhất đối với một HLV Chelsea trong trận đấu đầu tiên của họ kể từ khi đội bóng của Daniel Blanchflower bị Middlesbrough đánh bại vào ngày 7 tháng 2 năm 1978. Trong trận đấu thứ hai của Lampard với Chelsea, họ đã thua một lần nữa, lần này trước Liverpool ở UEFA Super Cup khi hòa 1-1 cả trận và thua 5-4 trên chấm phạt đền. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2019, Lampard có được chiến thắng đầu tiên với tư cách là huấn luyện viên Chelsea tại Premier League trước Norwich City, trong chiến thắng 2-3 trên sân khách. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2019, Chelsea đã giành chiến thắng trên sân nhà đầu tiên của họ dưới thời của Lampard khi đánh bại đội bóng Hạng 2 Anh Grimsby Town 7-1 trong EFL Cup. Đội hình trận đấu của Lampard với Grimsby có mười cầu thủ tốt nghiệp học viện, với Marc Guehi, Reece James, Tino Anjorin và Ian Maatsen đều được ra sân cho câu lạc bộ, cùng với đó là suất đá chính ngay từ đầu của Billy Gilmour cho Chelsea. Lampard đã giành giải thưởng Huấn luyện viên của tháng tại Premier League vào tháng 10 năm 2019 sau khi kỷ lục giành chiến thắng 100% của Chelsea trong tháng đó. Anh trở thành người thứ ba đã từng nhận cả giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng và HLV xuất sắc nhất tháng sau Gareth Southgate và Stuart Pearce. Lampard giúp Chelsea về thứ 4 cuối mùa, đồng thời đưa đội vào chung kết FA cup nhưng thua Arsenal 1-2, còn tại Champions League, Chelsea để thua nhà vô địch cuối mùa Bayern Munich 1-7 tại vòng 16 đội.
Ngày 25 tháng 1 năm 2021, Chelsea sa thải Lampard vì thành tích yếu kém của đội bóng, chưa đầy một ngày sau khi thắng Luton 3-1 ở Cup FA, ông đã bị sa thải sau khi Chelsea trải qua chuỗi trận tồi tệ ở giải Ngoại hạng khi thua 5/8 vòng đấu gần nhất – kết quả khiến đội bóng này tụt xuống tận thứ 9 trên bảng xếp hạng.
2021–2022: Thời kỳ Thomas Tuchel
Thomas Tuchel ký hợp đồng 18 tháng, có tùy chọn gia hạn thêm 1 năm với Chelsea 1 ngày sau khi Lampard bị sa thải, truóc đó Tuchel bị PSG sa thải đúng Giáng sinh, dù nửa năm trước giúp đội bóng Pháp lần đầu vào chung kết Champions League. Tuchel giúp đội có chuỗi 14 trận bất bại, nhưng kết thúc sau thất bại thảm hại 2-5 ngay trên sân nhà trước đội áp chót West Bromwich Albion vào ngày 3 tháng 4. Tuchel đã đưa Chelsea lọt vào trận chung kết FA Cup, nhưng để thua 0-1 trước Leicester City, cũng như đưa Chelsea về thứ 4 cuối mùa tại Ngoại hạng Anh. Tuchel cũng đã giúp Chelsea lọt vào Chung kết Champions League sau khi lần lượt vượt qua Atletico Madrid, Porto và Real Madrid, qua đó trở thành huấn luyện viên đầu tiên lọt vào 2 trận chung kết Champions League liên tiếp với 2 câu lạc bộ khác nhau. Cuối cùng, ông đã đưa Chelsea vô địch Champions League lần thứ 2 với chiến thắng 1–0 trước Manchester City trong trận chung kết. Chỉ 6 ngày sau khi vô địch Champions League, Chelsea thông báo gia hạn hợp đồng với Thomas Tuchel đến hè 2024. Chelsea thắng Villarreal CF 6–5 trên chấm luân lưu sau khi hòa 1–1 sau hiệp phụ để có danh hiệu Siêu cúp châu Âu thứ 2. Chelsea sau đó đánh bại Palmeiras 2-1 sau hiệp phụ ở trận tranh ngôi vô địch FIFA Club World Cup 2021 diễn ra tại UAE để có lần đầu đạt danh hiệu này. Dù vậy, đội đã trở thành cựu vương tại Champions League khi thua Real Madrid 5-4 tại tứ kết, cũng như 2 lần thất bại trước Liverpool tại chung kết Cup Liên đoàn & FA Cup đều sau loạt sút phạt đền, và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3 tại Ngoại hạng Anh.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2021, Chelsea được công bố là câu lạc bộ sáng lập của giải đấu ly khai ở châu Âu The Super League, tuy nhiên đã tuyên bố rút lui khỏi giải đấu sau đó dưới sức ép từ công chúng.
Roman Abramovich quyết định trao quyền Chủ tịch cho Quỹ từ thiện của CLB vào ngày 26/2/2022 trong bối cảnh Nga bị phản đối vì đưa quân vào Ukraine,tuy nhiên các ủy viên của Quỹ từ thiện vẫn chưa chấp nhận lời đề nghị tiếp quản Chelsea, vì họ thận trọng tỏ ra nghi ngờ về việc, liệu hoạt động với tư cách là người được ủy thác của một tổ chức từ thiện có tương thích với việc được giao quyền quản lý câu lạc bộ hay không, sự không chắc chắn về việc thay đổi vai trò sẽ liên quan đến đại diện trong Hội đồng quản trị và lo ngại họ có thể bị buộc tội "rửa thể thao". Sau đó vào đầu tháng 3, ông tuyên bố rao bán Chelsea sau 19 năm sở hữu, đồng thời cho biết tất cả thu nhập ròng từ việc bán Chelsea sẽ được quyên góp, ủng hộ cho các nạn nhân của chiến tranh tại Ukraine, cũng như xoá nợ số tiền 1,5 tỷ bảng ông đầu tư cho câu lạc bộ. Vào ngày 10 tháng 3, chính phủ Anh đã công bố các lệnh trừng phạt đối với Abramovich có liên quan đến Chelsea. Chelsea không thể bán vé, quần áo và sẽ không thể mua hay bán cầu thủ trên thị trường chuyển nhượng; tuy nhiên, câu lạc bộ đã được cấp một giấy phép đặc biệt để cho phép đội bóng có thể tiếp tục thi đấu các trận đấu, trả lương cho cầu thủ, nhân viên và cho phép những cổ động viên đã có vé đến xem các trận đấu. Đội bóng vẫn có thể nhận được tiền từ bản quyền phát sóng và tiền thưởng từ các giải đấu.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2022, Chelsea xác nhận rằng các điều khoản cho một nhóm sở hữu mới đã được chấp thuận, dẫn đầu bởi Todd Boehly, Clearlake Capital, Mark Walter và Hansjörg Wyss, để mua lại câu lạc bộ.
2022–nay: Kỷ nguyên Boehly–Clearlake
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2022, chính phủ đã phê chuẩn việc tiếp quản Chelsea của tập đoàn do Boehly đứng đầu trị giá 4,25 tỷ bảng Anh. Vào ngày 30 tháng 5 năm 2022, vụ mua bán hoàn tất, chấm dứt 19 năm sở hữu câu lạc bộ của Abramovich. Câu lạc bộ sau đó đã thông báo vào ngày 20 tháng 6 rằng Bruce Buck, người giữ chức Chủ tịch từ năm 2003, sẽ thôi giữ vai trò của mình kể từ ngày 30 tháng 6 mặc dù ông sẽ tiếp tục làm việc với tư cách Cố vấn cấp cao. Tiếp đó là sự ra đi của giám đốc câu lạc bộ đã phục vụ lâu năm và giám đốc thể thao trên thực tế Marina Granovskaia vào ngày 22 tháng 6. Petr Čech rời vai trò Cố vấn Kỹ thuật và Phong độ 5 ngày sau đó.
Ở kỳ chuyển nhượng mùa hè 2022, Chelsea chi nhiều tiền trong một kỳ chuyển nhượng hơn bất kỳ câu lạc bộ nào khác trong lịch sử giải đấu. Đội đã chi hơn 250 triệu bảng cho những cầu thủ như: Raheem Sterling, Marc Cucurella, Kalidou Koulibaly và Pierre-Emerick Aubameyang. Tuy nhiên, sau khi bất ngờ để thua Dinamo Zagreb 0-1 trong ngày ra quân Champions League mùa giải 2022-2023, Chelsea đưa ra thông báo sa thải Thomas Tuchel vào ngày 7/9/2022, ông nhận được 13 triệu bảng tiền đền bù hợp đồng, bên cạnh đó, các trợ lý của ông cũng nhận được 2 triệu bảng. Chelsea sau đó bổ nhiệm Graham Potter từ Brighton với bản hợp đồng 5 năm. Trong kỳ chuyển nhượng mùa đông, Chelsea đã phá kỷ lục chuyển nhượng của Anh khi ký hợp đồng với Enzo Fernández với giá 120 triệu Euro, trước đó đội đã sở hữu Mykhaylo Mudryk từ Shakhtar Donetsk với mức phí 100 triệu euro. Bằng cách chi hơn 300 triệu bảng trong kỳ chuyển nhượng mùa đông, họ trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong lịch sử chi tiêu nhiều hơn cả 4 giải đấu lớn cộng lại. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2023, Chelsea thông báo chia tay Graham Potter, một ngày sau khi đội thua Aston Villa và rớt xuống nửa dưới bảng điểm. Frank Lampard trở lại Chelsea sau đó trong vai trò tạm quyền, theo hợp đồng đến tháng 6. Mùa giải đầu tiên dưới thời chủ tịch Boehly kết thúc khi Chelsea đứng thứ 12 tại Ngoại hạng Anh, và dừng bước tại tứ kết trước Real Madrid.
Trước khi mùa giải kết thúc, Chelsea công bố Mauricio Pochettino ký hợp đồng 3 năm, và bắt đầu dẫn Chelsea từ mùa giải 2023-2024.
Sân vận động
Chelsea chỉ có một sân nhà duy nhất, Stamford Bridge, nơi họ thi đấu từ những ngày đầu thành lập. Nơi đây được chính thức mở cửa vào 28 tháng 4 năm 1877 và trong 28 năm đầu tồn tại nó chủ yếu được sử dụng bởi London Athletic Club là nơi diễn ra các sự kiện thể thao mà không phải tất cả cho bóng đá. Năm 1904 sân được thu mua bởi doanh nhân Gus Mears và người em trai Joseph, họ cũng mua luôn cả khu đất rộng lớn gần đó (trước đó là một khu vườn chợ lớn) với mục đích là tổ chức các trận bóng đá trên khu đất rộng 12.5 mẫu Anh (51,000 m²). Stamford Bridge được thiết kế cho gia đình Mears là kiến trúc sư bóng đá có tiếng Archibald Leitch, người cũng thiết kế các sân Ibrox, Craven Cottage và Hampden Park. Phần lớn các câu lạc bộ được thành lập rồi mới tìm sân thi đấu, còn Chelsea được thành lập là vì Stamford Bridge.
Thiết kế ban đầu của sân như một chiếc bát mở với một mái che, Stamford Bridge có sức chứa vào khoảng 100.000 người. Đầu những năm 1930 phần khán đài phía nam được lắp mái che bao phủ một phần năm khán đài. Hiện nay nó được gọi là "Shed End", ngôi nhà của những cổ động viên có tiếng nói và trung thành nhất của Chelsea, đặc biệt là trong những năm 1960, 70 và 80..
Đầu những năm 1970, những người chủ của câu lạc bộ đưa ra thông báo hiện đại hóa Stamford Bridge với kế hoạch xây một sân vận động 50000 chỗ ngồi hiện đại nhất. Công việc bắt đầu ở Khán đài phía Đông năm 1972 nhưng dự án bị cản trở bởi nhiều vấn đề và không được hoàn thành; cái giá mà câu lạc bộ phải nhận là việc gần như bị phá sản, mà đỉnh điểm là việc bán quyền sử dụng cho các nhà phát triển bất động sản. Sau cuộc chiến pháp lý dài, phải đến giữa những năm 1990 tương lai của Chelsea tại sân mới được đảm bảo và kế hoạch cải tạo lại sân được tiếp tục. Khán đài phía bắc, tây và nam của sân được chuyển thành khán đài ngồi và đưa sát gần hơn với mặt sân, quá trình được hoàn thành vào năm 2001.
Khi Stamford Bridge được tái phát triển trong kỷ nguyên Bates nhiều điểm được đưa vào tổ hợp với hai khách sạn, căn hộ, quán bar, nhà hàng, Chelsea Megastore, và một địa điểm thu hút khách tham quan gọi là Chelsea World of Sport. Ý định của những cơ sở vật chất này là nhằm tăng thêm thu nhập để hỗ trợ việc kinh doanh trong bóng đá, nhưng nó không được thành công như mong đợi và tới trước khi Abramovich tiếp quản năm 2003 các khoản nợ là một gánh nặng với câu lạc bộ. Ngay sau khi tiếp quản một quyết định được đưa ra là bỏ đi thương hiệu "Chelsea Village" và tập trung vào Chelsea với tư cách là một câu lạc bộ bóng đá. Tuy nhiên sân vận động vẫn được coi là một phần của "Chelsea Village" hay "The Village".
Quyền sử dụng Stamford Bridge, mặt sân, cửa quay vào tên gọi Chelsea được sở hữu bởi Chelsea Pitch Owners, một tổ chức phi lợi nhuận mà các cổ động viên là cổ đông. CPO được tạo ra nhằm tránh việc sân có thể bị bán cho các nhà bất động sản một lần nữa. Một điều kiện để sử dụng tên Chelsea FC, câu lạc bộ phải thi đấu các trận đấu của đội một tại Stamford Bridge, điều đó có nghĩa nếu câu lạc bộ chuyển tới một sân vận động mới, họ phải đổi tên. Sân tập của Chelsea nằm ở Cobham, Surrey. Chelsea chuyển tới Cobham năm 2004. Trước đó sân tập họ nằm ở Harlington nơi được sử dụng bởi QPR từ năm 2005. Cơ sở vật chất ở Cobham được hoàn thiện năm 2007.
Stamford Bridge được sử dụng cho một vài sự kiện thể thao quan trọng từ năm 1905. Đây là nơi tổ chức Chung kết FA Cup từ 1920 tới 1922, mười trận bán kết FA Cup (gần nhất là năm 1978), mười trận FA Charity Shield (lần cuối 1970), và ba trận đấu quốc tế của Anh, lần cuối vào năm 1932; nơi đây cũng diễn ra một trận đấu thuộc Victory International năm 1946. Trận Chung kết UEFA Women's Champions League 2013 được diễn ra tại Stamford Bridge. Tháng Mười 1905 nơi đây diễn ra một trận đấu rugby union giữa All Blacks và Middlesex, và năm 1914 tổ chức một trận đấu bóng chày giữa New York Giants và Chicago White Sox. Đây từng là nơi diễn ra trận đấu quyền Anh giữa nhà vô địch thế giới hạng ruồi Jimmy Wilde và Joe Conn năm 1918. Đường chạy quanh sân từng diễn ra cuộc đua ô tô từ năm 1928 tới 1932, đua chó từ 1933 tới 1968, và đua xe cỡ nhỏ năm 1948. Năm 1980, Stamford Bridge tổ chức trận đấu cricket có đèn chiếu sáng đầu tiên ở Vương quốc Anh, giữa Essex và West Indies. Đây cũng là sân nhà của đội bóng bầu dục Mỹ London Monarchs mùa giải 1997.
Chủ sở hữu hiện tại của câu lạc bộ cho rằng một sân vận động lớn hơn là cần thiết để giúp Chelsea có thể cạnh tranh với các câu lạc bộ đối thủ có sân với sức chứa lớn hơn đáng kể như Arsenal và Manchester United. Do nằm cạnh một tuyến đường chính và hai đường xe lửa, các cổ động viên chỉ có thể vào sân thông qua đường Fulham Road, mà gặp khó khăn trong việc mở rộng do những quy định về an toàn và sức khỏe. Câu lạc bộ luôn khẳng định muốn giữ Chelsea ở lại sân hiện tại, nhưng vẫn có động thái để chuyển tới một vài địa điểm gần kề bao gồm Trung tâm triển lãm Earls Court, Trạm điện Battersea và Doanh trại Chelsea. Tháng Mười 2011, một lời đề xuất từ câu lạc bộ được đưa ra nhằm mua lại quyền sử dụng đất ở Stamford Bridge nhưng bị biểu quyết bác bỏ bởi các cổ đông Chelsea Pitch Owners. Tháng Năm 2012, câu lạc bộ đưa ra lời đề nghị chính thức mua Trạm điện Battersea, với mục đích làm địa điểm cho sân vận động mới, nhưng để thua một tập đoàn từ Malaysia. Câu lạc bộ sau đó đưa ra kế hoạch tái xây dựng Stamford Bridge thành một sân vận động có sức chứa 60000 chỗ ngồi.
Biểu trưng và màu sắc
Biểu trưng
Chelsea có bốn biểu trưng chính, mà tất cả đều đã qua những sự thay đổi nhỏ. Đầu tiên, được sử dụng từ những ngày đầu thành lập câu lạc bộ, là hình ảnh một người hưu trí Chelsea, những cựu chiến binh quân động sống gần Bệnh viện Hoàng gia Chelsea. Điều này góp phần tạo nên biệt danh ban đầu của câu lạc bộ "pensioner", và tiếp tục cho đến nửa thế kỷ sau, mặc dù nó chưa từng xuất hiện trên áo đấu của câu lạc bộ. Khi Ted Drake trở thành huấn luyện viên trưởng Chelsea năm 1952, ông bắt đầu hiện đại hóa câu lạc bộ. Tin rằng biểu trưng người hưu trí Chelsea đã lỗi thời, ông nhấn mạnh việc thay thế nó. Một huy hiệu có chữ viết tắt C.F.C. được sử dụng trong một năm. Năm 1953, biểu trưng của câu lạc bộ được thay đổi với một con sư tử xanh đứng thẳng ngoảnh đầu lại và trên tay cầm một cây gậy. Nó được dựa trên các chi tiết trong huy hiệu của Metropolitan Borough of Chelsea với "sư tử chồm lên" lấy từ huy hiệu của chủ tịch câu lạc bộ khi ấy Tử tước Chelsea và cây gậy từ Cha trưởng tu viện Westminster, cựu Chúa tể Lãnh địa Chelsea. Nó cũng có ba bông hồng đỏ, đại diện cho nước Anh, và hai quả bóng. Đây là biểu trưng đầu tiên của Chelsea được in lên áo đấu vào đầu những năm 1960.
Năm 1986, khi đó Ken Bates là chủ của đội bóng, biểu trưng của Chelsea lại được đổi một lần nữa nhằm hiện đại hóa vì hình ảnh sư tử đứng chồm không thể đăng ký thương hiệu. Biểu trưng mới là một con sư tử tự nhiên, bằng màu vàng không phải màu xanh, đứng trên từ viết tắt C.F.C.. Nó được sử dụng trong 19 năm tiếp theo, với một số thay đổi như việc sử dụng màu sắc khác nhau, bao gồm màu đỏ từ 1987 tới 1995, vàng từ 1995 tới 1999, trước khi trở lại màu trắng. Khi Roman Abramovich trở thành chủ mới của câu lạc bộ, và lễ kỷ niệm một trăm năm đến gần, kết hợp với nguyện vọng của các cổ động viên về việc khôi phục biểu trưng nổi tiếng vào những năm 1950, biểu trưng của câu lạc bộ lại được quyết định thay đổi một lần nữa năm 2005. Biểu trưng mới bắt đầu được sử dụng từ mùa giải 2005–06 và đánh dấu sự trở lại của thiết kế cũ, được sử dụng từ 1953 tới 1986, với một con sư tử xanh chồm lên cầm một cây gậy. Trong mùa giải kỷ niệm có kèm thêm dòng chữ '100 YEARS' và 'CENTENARY 2005–2006' ở lần lượt trên và dưới biểu trưng.
Màu sắc
Chelsea luôn luôn mặc áo màu xanh, mặc dù ban đầu họ sử dụng màu xanh nhạt hơn, được lấy từ màu xe ngựa của chủ tịch câu lạc bộ khi đó, Earl Cadogan, và được mặc với quần trắng, tất xanh đậm hoặc đen. Áo xanh nhạt được thay bằng màu xanh đậm vào khoảng năm 1912. Những năm 1960 huấn luyện viên Chelsea Tommy Docherty thay đổi một lần nữa, chuyển sang quần xanh (duy trì đến hiện tại kể từ đó) và tất trắng, vì tin rằng nó sẽ làm cho câu lạc bộ trở lên hiện đại và đặc biệt do thời đó chưa có câu lạc bộ nào sử dụng kiểu kết hợp đó; trang phục này lần đầu được mặc ở mùa giải 1964–65. Kể từ đó Chelsea luôn sử dụng tất trắng trong các trận đu sân nhà ngoài một thời gian ngắn từ 1985 tới 1992, khi tất xanh được sử dụng lại.Trang phục sân khách của Chelsea thường là màu vàng hoặc toàn trắng với những điểm xanh. Gần đây, câu lạc bộ có một số bộ sân khách màu đen hoặc xanh đậm. Cũng như nhiều đội khác, họ cũng có một số bộ khác thường. Theo chỉ thị của Docherty, tại bán kết FA Cup 1966 họ mặc áo màu xanh với sọc đen dựa theo áo của Inter Milan. Giữa những năm 1970, áo sân khách là áo trắng với sọc đỏ và xanh lá cây dựa trên cảm hứng của đội tuyển quốc gia Hungary những năm 1950. Những mẫu áo sân khách đáng nhớ khác bao gồm bộ ngọc bích giai đoạn 1986–89, kim cương đỏ và trắng giai đoạn 1990–92, màu quýt và chỉ giai đoạn 1994–96, vàng chói 2007–08. Bộ áo màu quýt và chì được liệt vào danh sách những trang phục bóng đá xấu nhất lịch sử.
Cổ động viên
Chelsea là một trong những câu lạc bộ có lượng cổ động viên đông đảo nhất thế giới. Họ là câu lạc bộ có lượng bình quân khán giả tới sân cao thứ sáu của bóng đá Anh với khoảng 40,000 cổ động viên tới sân Stamford Bridge; họ có số lượng cổ động viên cao thứ bảy trong các đội Premier League mùa 2013–14, với lượng trung bình khán giả tới sân là 41,572. Cổ động viên truyền thống của Chelsea đến từ tất cả các khu vực của Đại Luân Đôn bao gồm từ giai cấp công nhân của Hammersmith và Battersea, đến giới thượng lưu giàu có Chelsea và Kensington, và từ các home counties. Ngoài ra còn rất nhiều hội cổ động viên chính thức ở Vương quốc Anh và trên toàn thế giới. Giai đoạn 2007 tới 2012, Chelsea xếp thứ tư trên thế giới về doanh số bán áo hàng năm với bình quân 910.000 chiếc. Tài khoản Twitter chính thức của Chelsea có 6,29 triệu người theo dõi, xếp thứ năm trong các câu lạc bộ bóng đá.
Trong các trận đấu, các cổ động viên Chelsea hát những bài hát như "Carefree" (theo giai điệu của Lord of the Dance, lời bài hát có thể được viết bởi cổ động viên Mick Greenaway), "Ten Men Went to Mow", "We All Follow the Chelsea" (theo giai điệu của "Land of Hope and Glory"), "Zigga Zagga", và ăn mừng "Celery", kèm theo sau đó là nghi lễ ném cần tây. Rau quả bị cấm ở Stamford Bridge sau vụ việc liên quan tới tiền vệ Arsenal Cesc Fàbregas trong trận chung kết League Cup 2007.
Đặc biệt trong những năm 1970 và 1980, các cổ động viên Chelsea có liên quan tới hooligan bóng đá. "Hội" của câu lạc bộ, ban đầu được gọi là Chelsea Shed Boys, sau đó được biết đến với tên gọi Chelsea Headhunters, nổi tiếng toàn quốc với hành vi bạo lực, cùng với hội hooligan của các câu lạc bộ khác như Inter City Firm của West Ham United và Bushwackers của Millwall, trước, giữa và sau các trận đấu. So sự gia tăng hooligan những năm 1980 khiến chủ tịch Ken Bates đề xuất dựng lên một hàng rào điện để ngăn chặn họ xâm nhập vào sân, nhưng lời đề xuất bị Hội đồng Đại Luân Đôn bác bỏ.
Từ những năm 1990, đã có sự suy giảm đáng kể về những rắc rối trên khán đài, là kết quả của việc quản lý chặt chẽ hơn, CCTV được lắp trong sân và sự xuất hiện của khán đài ngồi. Năm 2007, câu lạc bộ khởi động chiến dịch 'Back to the Shed' nhằm cải thiện bầu không khí trong các trận đấu sân nhà, đạt được những thành công đáng chú ý. Theo số liệu từ Home Office, 126 cổ động viên Chelsea bị bắt vì liên quan đến bóng đá mùa 2009–10, cao thứ ba giải đấu, và 27 lệnh cấm được đưa ra, cao thứ năm.
Sự kình địch
Trong nước
Arsenal
Đối thủ chính của Chelsea là câu lạc bộ cùng thành phố Arsenal. Hai câu lạc bộ hàng đầu ở Luân Đôn luôn luôn có sự thù địch từ những năm 1930. Các trận đấu giữa họ thường sẽ thu hút một lượng khán giả lớn. Những người hâm mộ Chelsea đã trả lời khảo sát nói rằng họ coi Arsenal là đối thủ chính thực sự của họ, còn Tottenham và Queens Park Rangers là đối thủ truyền thống của họ.
Cuộc đối đấu đầu tiên giữa hai đội diễn ra vào ngày 09 tháng 11 năm 1907 tại sân Stamford Bridge. Đây là lần đầu tiên Giải Bóng đá hạng nhất Anh chứng kiến trận đấu giữa hai câu lạc bộ cùng thành phố Luân Đôn và đã thu hút một lượng cổ động viên đến sân xem thi đấu với kỷ lục 65.000 người. Một trận đấu giữa các câu lạc bộ tại Stamford Bridge vào năm 1935 đã thu hút người xem đến 82.905. Họ gặp nhau trong hai lần trong trận tranh FA Cup vòng bán kết vào năm 1950, kết quả Arsenal đều giành chiến thắng cả hai lần. Trong những năm 1960 Chelsea thống trị về thành tích đối đầu với 14 trận thắng, hai trận hòa và chỉ thua hai trận trong suốt thập kỷ.
Tại các giải tranh cup thể thức đấu loại trực tiếp, hai câu lạc bộ đã gặp nhau ở hai trận Chung kết Cúp FA 2002, khi đó Arsenal giành chiến thắng 2-0, và Cúp liên đoàn Anh năm 2007, Chelsea thắng 2-1. Hai đội cũng đã gặp nhau tại UEFA Champions League vòng tứ kết trong mùa giải 2003-04, ở lượt đi mặc dù bị cầm hòa 1-1 trên sân nhà Stamford Bridge, nhưng lượt về Chelsea đã thắng 2-1 tại Sân vận động Highbury để tiến vào vòng bán kết.
Trong năm 2006, vụ chuyển nhượng của Ashley Cole từ Arsenal sang Chelsea tiếp tục làm dấy lên sự cạnh tranh, bởi Ashley Cole đã bị bắt gặp khi đang đàm phán với Chelsea 1 tháng trước khi chính thức chuyển sang Stamford Bridge thi đấu.
Trận thua đậm nhất của Chelsea trước Arsenal là vào mùa giải 2011-12, Chelsea khi ấy dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên người Bồ Đào Nha, ông André Villas-Boas đã để thua với tỷ số 3-5, trong đó có 1 cú hat-trick của tiền đạo Robin van Persie bên phía Arsenal.
Còn trận thắng đậm nhất của Chelsea trước kình địch cùng thành phố Luân Đôn là nó diễn ra đúng vào ngày Arsène Wenger kỉ niệm 1000 trận dẫn dắt Arsenal vào năm 2014. Khi ấy Chelsea của José Mourinho, một người cũ vốn có những bất đồng với Wenger đã bất ngờ giành chiến thắng với tỷ số 6-0. Đó có thể coi là màn trả thù ngọt ngào của The Blues khi đã thua 3-5 vào năm 2011.
Tottenham Hotspur
Ngoài Arsenal ra, Tottenham được xem là đối thủ kình địch thứ hai của Chelsea. Hai câu lạc bộ ở Luân Đôn luôn có sự quyết liệt mạnh mẽ từ năm 1967. Trận đấu giữa họ thường sẽ thu hút khán giả lớn và đôi khi sẽ kết thúc trong các cuộc đụng độ bạo lực giữa những người ủng hộ. Theo một cuộc khảo sát năm 2004 của Planetfootball.com, Chelsea và Tottenham đều coi nhau là đối thủ thứ hai của họ, đứng đầu là câu lạc bộ Arsenal.
Trận đấu giải đấu đầu tiên giữa hai đội diễn ra vào ngày 18 Tháng 12 năm 1909 tại Stamford Bridge, Chelsea giành chiến thắng 2-1. Tuy nhiên, sự cạnh tranh bắt đầu diễn ra từ năm 1967 trong trận chung kết FA Cup, đó là trận chung kết đầu tiên của giải đấu chứng kiến một cuộc đối đầu nội bộ giữa giữa hai đội bóng đến từ Luân Đôn và vì thế trận đấu thường được mệnh danh là Cockney Cup. Tottenham khi ấy đã thắng 2-1 để lên ngôi vô địch. Đối với người hâm mộ Chelsea, đó là một cú sốc lớn khi họ nhìn thấy hai cựu cầu thủ của mình, Jimmy Greaves và Terry Venables lên ngôi vô địch cùng đối thủ Tottenham.
Sự cạnh tranh đã được tiếp tục bùng lên trong mùa giải 1974-1975. Khi đó cả Chelsea và Tottenham đang chiến đấu để thoát ra khỏi nhóm xuống hạng từ Giải hạng nhất. Trước khi trận đấu trực tiếp, Chelsea với một điểm nhiều hơn đang xếp phía trên Tottenham, và đối thủ của Chelsea đang ở trong khu vực xuống hạng. Tottenham cuối cùng giành chiến thắng 2-0. Sau đó, Chelsea không thể giành chiến thắng trong hai trận đấu còn lại của họ và cuối cùng bị xuống hạng từ giải hạng nhất còn Tottenham trụ hạng với 1 điểm nhiều hơn.
Từ những năm 1990, Chelsea đã thống trị trong các lần đối đầu với Tottenham, họ bất bại trước đối thủ của họ hơn một thập kỷ, mà đỉnh cao là chiến thắng 6-1 trên sân White Hart Lane của Tottenham. Đó cũng là trận thắng đậm nhất của Chelsea trước Tottenham, cũng là trận thắng đậm nhất trên sân của đối thủ. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2006, Tottenham đánh bại Chelsea 2-1 trên sân White Hart Lane, kết thúc thời gian dài 16 năm mà không có nổi một chiến thắng trước The Blues.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2015, Chelsea đã giành Cúp Liên đoàn bóng đá Anh sau chiến thắng 2-0 trước Tottenham, hai bàn thắng được ghi bởi John Terry và Diego Costa. Sau trận đấu, các fan đã đụng độ trong một tàu điện ngầm.
Châu Âu
Barcelona
Tại châu Âu, đối đầu mà Chelsea gặp nhau nhiều nhất là câu lạc bộ đến từ Tây Ban Nha, Barcelona. The Blues đã chạm trán với đội bóng xứ Catalan tổng cộng 12 lần với thành tích 4 thắng, 3 thua và 5 hòa. Lần đầu tiên 2 đội gặp nhau tại Cup châu Âu là ở vòng tứ kết UEFA Champions League mùa giải 1999-2000, Chelsea khi ấy đã đánh bại được Barca ở trận lượt đi với tỉ số 3-1, nhưng lượt về họ bất ngờ để Barca đè bẹp 1-5 trên sân Camp Nou và bị loại.
Vào năm 2005, lá thăm đã đưa Chelsea khi ấy được dẫn dắt bởi José Mourinho gặp lại Barcelona tại vòng 1/16. Trận lượt đi trên đất Tây Ban Nha, dù đã mở tỉ số trước, nhưng Chelsea đã để đối thủ ghi liên tiếp 2 bàn trong vòng 10 phút và thất bại với tỉ số 1-2. Nhưng ở trận lượt về trên sân Stamford Bridge, sau 20 phút thi đấu, Chelsea đã vượt lên dẫn trước với tỉ số 3-0, dù đã để Ronaldinho bên phía Barca lập cú đúp rút ngắn tỉ số xuống còn 2-3, nhưng với pha lập công phút 76 của trung vệ John Terry cũng đủ để giúp Chelsea tiến vào vòng trong sau chiến thắng 4-2 ở trận lượt về và 5-4 sau cả hai lượt trận.
1 năm sau đó, duyên nợ lại đưa Chelsea gặp Barca tại vòng 1/16 UEFA Champions League mùa giải 2005/06. Lượt đi tại Stamford Bridge, Chelsea đã vượt lên dẫn trước nhờ pha phản lưới nhà của Thiago Motta, nhưng kịch bản trận lượt đi ở mùa trước lập lại, người hung một năm trước, John Terry đá phản lưới nhà giúp Barca cân bằng tỉ số 1-1 trước khi Samuel Eto'o ấn định chiến thắng 2-1 cho Barca trên sân khách. Và sau đó ở trận lượt về, dù Frank Lampard đã ghi bàn phút 90 giúp Chelsea cầm hòa 1-1 trên sân Camp Nou nhưng không đủ giúp Chelsea vượt qua vòng 1/16.
Mùa giải 2008/09, Chelsea dưới thời của Guus Hiddink tiếp tục gặp Barca tại vòng bán kết. Sau trận lượt đi hòa nhau 0-0 trên sân Camp Nou, Chelsea được thi đấu trận lượt về trên sân nhà. Cả trận đấu Chelsea đã bị cướp mất 5 quả Penalty khi trọng tài từ chối cho đội nhà được hưởng, đồng thời quyết định khó hiểu của trọng tài khi rút chiếc thẻ đỏ để đuổi tiền đạo Didier Drogba ra khỏi sân, hệ quả dù Chelsea bảo vệ tỉ số 1-0 nhưng đến phút bù giờ, Andres Iniesta ghi bàn giúp Barca cầm hòa 1-1 qua đó Chelsea bị loại bởi luật bàn thắng trên sân khách.
Năm 2012, hai đội gặp nhau tại bán kết Cup châu Âu năm đó. Trận lượt đi với lợi thế sân nhà, Chelsea đã đánh bại Barcelona với tỉ số 1-0 nhờ pha ghi bàn của tiền đạo Didier Drogba vào những phút cuối hiệp 1. Lượt về Barca nhanh chóng dẫn trước 2-0, dù trung vệ John Terry bị đuổi nhưng Chelsea đã gỡ được 1 bàn trước khi tiền đạo Fernando Torres từ 1 pha phản công đi bóng qua thủ môn để ấn định tỉ số hòa 2-2, đưa Chelsea vào trận chung kết gặp Bayern Munich.
Kỷ lục
Người có nhiều lần ra sân nhất cho Chelsea là cựu đội trưởng Ron Harris, người đã có 795 ra sân thi đấu chính thức trong giai đoạn 1961 tới 1980. Kỷ lục dành cho thủ môn Chelsea được nắm giữ bởi người đồng đội cùng thời với Harris, Peter Bonetti, người ra sân 729 trận (1959–79). Với 103 lần khoác áo đội tuyển quốc gia (101 khi ở câu lạc bộ), Frank Lampard của Anh là cầu thủ có số trận đấu quốc tế nhiều nhất trong các cầu thủ Chelsea.
Frank Lampard là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất Chelsea trong lịch sử, với 211 bàn trong 648 trận (2001–2014); vượt qua người đã giữ vị trí này một thời gian dài Bobby Tambling vời 202 bàn tháng 5 năm 2013. Bảy cầu thủ khác cũng ghi hơn 100 bàn cho Chelsea bao gồm: George Hilsdon (1906–12), George Mills (1929–39), Roy Bentley (1948–56), Jimmy Greaves (1957–61), Peter Osgood (1964–74 và 1978–79), Kerry Dixon (1983–92) và Didier Drogba (2004–12 và 2014–2015). Greaves giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa (43 mùa 1960–61).
Chiến thắng đậm nhất của Chelsea trong một trận đấu chính thức là 13–0, khi gặp Jeunesse Hautcharage tại Cup Winners' Cup năm 1971. Chiến thắng đậm nhất tại giải đấu cao nhất nước Anh là chiến thắng 8–0 trước Wigan Athletic năm 2010, và với tỉ số tương tự năm 2012 với Aston Villa. Trận thua đậm nhất của Chelsea là trận thua 8–1 trước Wolverhampton Wanderers năm 1953. Theo thống kê chính thức, trận đấu mà Chelsea làm chủ nhà có đông khán giả đến sân nhất là 82.905 người trong một trận đấu First Division gặp Arsenal ngày 12 tháng 10 năm 1935. Tuy nhiên, ước tính có khoảng 100.000 người đã tới xem trận giao hữu với đội bóng Liên Xô Dinamo Moskva ngày 13 tháng 11 năm 1945. Với sự hiện đại hóa của Stamford Bridge những năm 1990 và việc đưa khán đài ngồi vào khiến cho kỷ lục này khó có thể bị phá trong tương lai. Sức chứa hiện tại của Stamford Bridge là 41.837. Tất cả các cầu thủ đá chính cho Chelsea trong 57 trận đấu của mùa giải 2013–14 là cầu thủ quốc tế – một kỷ lục mới của câu lạc bộ.
Chelsea giữ kỷ lục nước Anh với số điểm cao nhất giành được trong một mùa giải (95), để lọt lưới ít nhất trong một mùa giải (15), có nhiều trận thắng tại Premier League nhất trong một mùa giải (29), có tổng số trận giữ sạch lưới nhiều nhất trong một mùa giải Premier League (25) (tất cả đều được thiết lập trong mùa giải 2004–05), và giữ sạch lưới nhiều trận liên tiếp nhất kể từ đầu giải (6, ược thiết lập trong mùa giải 2005–06). Chiến thắng với tổng tỉ số 21–0 trước Jeunesse Hautcharage tại UEFA Cup Winners' Cup năm 1971 vẫn đang là kỷ lục của châu Âu. Chelsea giữ kỷ lục có chuỗi bất bại dài nhất trên sân nhà tại giải đấu cao nhất nước Anh, trải qua 86 trận từ 20 tháng 3 năm 2004 tới 26 tháng 10 năm 2008. Họ bắt đầu thiết lập kỷ lục vào ngày 12 tháng 8 năm 2007, vượt qua kỷ lục 63 trận bất bại của Liverpool giai đoạn 1978 tới 1980. Chelsea có chuỗi mười một trận thắng liên tiếp trên sân khách tại giải quốc gia, từ 5 tháng 4 năm 2008 tới 6 tháng 12 năm 2008, đây cũng là kỷ lục của giải đấu cấp cao nhất nước Anh.
Chelsea, cùng với Arsenal, là câu lạc bộ đầu tiên mang số áo thi đấu, vào ngày 25 tháng 8 năm 1928 trong trận đấu gặp Swansea Town. Họ cũng là đội bóng Anh đầu tiên sử dụng máy bay để di chuyển tới sân khách trong một trận đấu quốc nội, khi họ tới gặp Newcastle United ngày 19 tháng 4 năm 1957, và là đội bóng của First Division đầu tiên thi đấu vào ngày Chủ nhật, khi họ đối đầu với Stoke City ngày 27 tháng Giêng 1974. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên của Anh cho ra sân đội hình chính thức với toàn cầu thủ nước ngoài (không cầu thủ Anh Quốc hoặc Ireland) trong một trận đấu tại Premier League gặp Southampton.
Tháng Năm 2007, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên vô địch FA Cup trên Sân vận động Wembley mới, họ cũng đồng thời là câu lạc bộ cuối cùng vô địch trên sân Wembley cũ. Họ là câu lạc bộ Anh đầu tiên xếp thứ nhất trong bảng xếp hạng năm năm của UEFA của thế kỷ XXI. Họ là đội bóng đầu tiên của Premier League ghi được hơn 100 bàn trong một mùa giải, chạm tới cột mốc này trong vòng đấu cuối cùng của mùa 2009–10. Chelsea là câu lạc bộ duy nhất của Luân Đôn vô địch UEFA Champions League, sau khi đánh bại Bayern Munich trong trận chung kết năm 2012. Khi họ giành UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành câu lạc bộ duy nhất của Anh vô địch cả bốn danh hiệu châu Âu và là câu lạc bộ duy nhất là đồng thời là đương kim vô địch của cả Champions League và Europa League.
Top 10 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho Chelsea
Top 10 cầu thủ ra sân nhiều nhất cho Chelsea
Phong cách chuyển nhượng
Khi Roman Abramovich lên nắm quyền tại Chelsea, ông chủ người Nga này đã bỏ ra rất nhiều tiền nhằm xây dựng Chelsea trở thành đội bóng vĩ đại nhất xứ sở sương mù. Mùa giải đầu tiên khi Abramovich chính thức ngồi vào chiếc ghế chủ tịch Chelsea, ông đã bỏ ra số tiền hơn 111 triệu bảng Anh, để đem về những cầu thủ chất lượng. Có thể kể đến như Hernán Crespo từ Inter Milan giá 17 triệu bảng, Adrian Mutu với 16 triệu bảng hay ký hợp đồng với một trong những tiền vệ thu hồi bóng xuất sắc nhất thế giới, Claude Makélélé của Real Madrid với mức phí 16 triệu bảng. Tuy nhiên mùa giải này Chelsea không thể giành danh hiệu nào, khiến Abramovich không hài lòng.
Hệ quả sau đó, Chelsea đã có huấn luyện viên mới, một người Bồ Đào Nha, José Mourinho. Từ đó Abramovich ưu tiên mua những cầu thủ quốc tịch Bồ Đào Nha hay những cầu thủ mà Mourinho yêu cầu để dễ dàng làm việc với Người đặc biệt. Lần lượt Paulo Ferreira, Ricardo Carvalho, Michael Essien và chân sút xuất sắc sau này của Chelsea là Didier Drogba đều đến Luân Đôn chơi bóng. Với chiến lược chuyển nhượng hiệu quả, Chelsea mùa giải đó đã lên ngôi vô địch Ngoại hạng Anh sau hơn 50 năm và tiếp tục bảo vệ thành công chức vô địch 1 năm sau đó.
Tuy nhiên những năm sau, Abramovich bắt đầu nhúng tay vào chuyên môn gây ảnh hưởng đến thành tích của Chelsea. Ông ký hợp đồng với tiền đạo Andriy Shevchenko khi ấy đã 29 tuổi với mức phí cao ngất ngưỡng 30 triệu bảng. Có những tin đồn cho rằng Abramovich chiêu mộ chân sút người Ukraine chỉ vì Shevchenko có mối quan hệ bạn bè thân thiết với chủ tịch của Chelsea. Và sau đó Shevchenko thi đấu không thực sự thành công trong màu áo The Blues, liên tục bị Mourinho cho ngồi dự bị và dẫn đến sự rạn nứt giữa Người đặc biệt với ông chủ người Nga.
Sự can thiệp của Abramovich đã làm ngân sách Chelsea thu hẹp, dẫn đến việc chi tiêu lặt vặt vào thị trường chuyển nhượng khiến Chelsea mất vị thế ở Giải Ngoại Hạng. Vào kỳ chuyển nhượng mùa Đông năm 2011, Chelsea khi ấy đang là Đương kim vô địch của Giải đã thi đấu bết bát, hàng công mờ nhạt, hàng thủ chắp vá, Abramovich đã mang về sân Stamford Bridge tiền đạo Fernando Torres của Liverpool với mức giá kỷ lục của CLB là 50 triệu bảng Anh và trung vệ David Luiz của Benfica với 25 triệu bảng, Tuy nhiên chỉ một trong hai bản hợp đồng thi đấu thành công. Trong khi Luiz là thủ lĩnh hàng thủ thì Torres lại mờ nhạt trên hàng công. Điều này dẫn đến một mùa giải trắng tay của Chelsea.
Mùa giải tiếp theo, với mong muốn chinh phục UEFA Champions League, Chelsea đã chiêu mộ một trong những tiền vệ kiến thiết xuất sắc nhất ở Tây Ban Nha, Juan Mata với mức phí chuyển nhượng 24 triệu bảng. Và mong muốn của Abramovich đã thành hiện thực, Mata góp công lớn giúp Chelsea đăng quang chức vô địch vào cuối mùa giải đó. Mùa hè sang năm, với việc vô địch châu Âu, Stamford Bridge trở thành điểm đến của nhiêu ngôi sao trên thế giới. Chelsea tiếp tục ký hợp đồng với tiền vệ cánh Eden Hazard giá 32 triệu bảng và Oscar dos Santos với 23 triệu bảng. Mặc dù không thể bảo vệ ngôi vô địch tại đấu trường hạng nhất châu Âu, nhưng bộ đôi này cũng giúp The Blues đăng quang tại UEFA Europa League năm 2013.
Vào năm 2014, mùa giải thứ 2 trong nhiệm kỳ thứ hai của José Mourinho tại Chelsea, CLB đã lần lượt chia tay các công thần Frank Lampard, Ashley Cole, Fernando Torres ở cả ba tuyến và để chiều theo mong muốn của Mourinho, Abramovich đã chiêu mộ Diego Costa, Cesc Fabregas và Filipe Luís với tổng trị giá hơn 70 triệu bảng. Mùa giải đó, Diego Costa tỏ chứng tỏ giá trị của mình với 20 pha lập công, còn tiền vệ Cesc Fabregas đóng vai trò nhạc trưởng đã phát huy đúng sở trường của mình và sự đáp ứng về nhu cầu đó đã giúp Chelsea vô địch giải Ngoại hạng Anh vào cuối mùa, đồng thời đánh bại Tottenham Hotspur với tỉ số 2-0 trong đó có 1 bàn thắng của bản hợp đồng đầu mùa Diego Costa để giành lấy Cúp Liên Đoàn.
Mùa giải sau đó, Roman Abramovich chỉ đem về một bản hợp đồng lớn là Pedro Rodríguez từ Barcelona với mức phí khoảng 21 triệu bảng, còn lại là những cầu thủ trẻ, mà không bổ sung thêm bất cứ nhân sự nào, dẫn đến lối chơi của Chelsea bị bắt bài, kết quả mùa giải đó, Chelsea trắng tay trong khi José Mourinho đành bất lực và phải rời khỏi cương vị HLV. Nhận thấy cần sự đổi mới, ngay mùa hè 2016, Chelsea đã ký liền hợp đồng với ngôi sao mới nổi của bóng đá Bỉ, Michy Batshuayi với mức giá 33,2 triệu bảng Anh, qua đó trở thành bản hợp đồng đắt giá thứ 2 trong lịch sử CLB khi ấy, chỉ sau Fernando Torres. Đồng thời khi nhận thấy Nemanja Matic đã đánh mất phong độ của 1 tiền vệ đánh chặn, BLĐ của Chelsea đã thuyết phục được tiền vệ N'Golo Kanté, cầu thủ đã góp công lớn giúp Leicester lập kỳ tích vô địch Giải ngoại hạng mùa giải trước gia nhập đội bóng thành Luân Đôn khi trả cho "bầy cáo" 30 triệu bảng để lấy đi cầu thủ đánh chặn hay nhất của họ. Ngoài ra ông chủ người Nga này cũng đã mời gọi lại một người cũ, hậu vệ David Luiz từ Paris SG với số tiền phá vỡ hợp đồng là 30 triệu bảng đồng thời chiêu mộ 1 hậu vệ cánh người Tây Ban Nha, Marcos Alonso khi trả cho Fiorentina một khoản tiền lên đến 23 triệu bảng. Trong khi David Luiz và Marcos Alonso đóng vai trò thiết yếu trong sơ đồ 3-5-2 của tân huấn luyện viên Antonio Conte thì bản hợp đồng đắt giá Michy Batshuayi lại phải ngồi dự bị đã cho thấy chiến lược chuyển nhượng cho hàng tiền đạo của The Blues vẫn đang có vấn đề.
Những thương vụ mua đắt giá nhất
Những thương vụ bán đắt giá nhất
Chủ sở hữu và tài chính
Chelsea F.C. được thành lập bởi Gus Mears năm 1905. Sau khi qua đời năm 1912, những hậu duệ của ông tiếp tục làm chủ đội bóng tới năm 1982, khi Ken Bates mua lại từ cháu trai Mears Brian Mears bới giá £1. Bates mua lại cổ phần kiểm soát câu lạc bộ và đưa Chelsea lên sàn chứng khoán AIM tháng 3 năm 1996. Tháng 7 năm 2003, Roman Abramovich thu mua hơn 50% cổ phần của Chelsea Village plc, bao gồm 29.5% của Bates, với giá 30 triệu bảng và trong những tuần sau đó mua lại 35% của hầu hết trong số 12.000 cổ đông còn lại, hoàn thành vụ thu mua 140 triệu bảng. Các cổ đông khác vào thời điểm tiếp quản là bất động sản Matthew Harding (21%), BSkyB (9.9%) và một vài nhà ủy thác vô danh. Sau khi vượt qua ngưỡng 90% cổ phần, Abramovich đưa câu lạc bộ trở lại tư nhân, hủy bỏ niêm yết trên AIM ngày 22 tháng 8 năm 2003. Ông cũng chịu trách nhiệm trả số nợ 80 triệu bảng của câu lạc bộ một cách nhanh chóng.
Sau đó, Abramovich đổi tên công ty sở hữu thành Chelsea FC plc, thuộc công ty mẹ Fordstam Limited, được kiểm soát bởi ông. Chelsea được tài trợ thêm bởi Abramovich thông qua khoản vay mềm không lãi suất mà được chuyển qua từ công ty mà ông nắm giữ Fordstam Limited. Khoản vay tính tới tháng 12 năm 2009 là 709 triệu bảng, khi họ chuyển đổi tất cả sang cổ phần của Abramovich, giúp câu lạc bộ thanh toán hoàn toàn số nợ, mặc dù vẫn còn một vài khoản nợ với nợ với Fordstam. Kể từ năm 2008 câu lạc bộ không còn khoản nợ nào bên ngoài.
Chelsea không có lợi nhuận trong chín năm đầu Abramovich sở hữu, kỷ lục là để thua lỗ 140 triệu bảng tháng 6 năm 2005. Tháng 12 năm 2012, Chelsea công bố lợi nhuận 1,4 triệu bảng cho tài khóa kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2012, lần đầu tiên câu lạc bộ có lãi dưới thời Abramovich. Say khi để thua lỗ năm 2013 họ lại có lợi nhuận kỷ lục 18,4 triệu bảng năm 2014.
Chelsea được xem là một thương hiệu toàn cầu; một báo cáo năm 2012 của Brand Finance xếp Chelsea là thương hiệu bóng đá xếp thứ năm với giá trị $398 triệu đô la Mỹ – tăng 27% so với năm trước đó, hơn 10 triệu đô so với thương hiệu thứ sáu, đối thủ thành Luân Đôn Arsenal – và được xếp hạng thương hiệu AA (rất mạnh). Năm 2016, tạp chí Forbes xếp Chelsea là câu lạc bộ bóng đá giá trị thứ bảy thế giới với giá trị 1,15 tỉ bảng Anh (1,66 tỉ đô la Mỹ). Cũng trong năm 2016, Chelsea xếp thứ tám trong Deloitte Football Money League với doanh thu thương mại hàng năm đạt 322,59 triệu bảng.
Nhà tài trợ
Trang phục thi đấu của Chelsea đã được Nike sản xuất từ tháng 7 năm 2017. Trước đó, trang phục thi đấu này được sản xuất bởi Adidas, công ty ban đầu được ký hợp đồng cung cấp trang phục thi đấu của câu lạc bộ từ năm 2006 đến năm 2018. Mối quan hệ hợp tác này đã được gia hạn vào tháng 10 năm 2010 trong một thỏa thuận trị giá 160 triệu bảng trong hơn 8 năm. Thỏa thuận này một lần nữa được gia hạn vào tháng 6 năm 2013 trong một thỏa thuận trị giá 300 triệu bảng Anh trong 10 năm nữa. Vào tháng 5 năm 2016, Adidas thông báo rằng theo thỏa thuận chung, việc tài trợ trang phục thi đấu sẽ kết thúc sớm sáu năm vào ngày 30 tháng 6 năm 2017. Chelsea phải trả 40 triệu bảng tiền bồi thường cho Adidas. Vào tháng 10 năm 2016, Nike được công bố là nhà tài trợ trang phục thi đấu mới, trong một thỏa thuận trị giá 900 triệu bảng Anh trong 15 năm, cho đến năm 2032. Trước đây, bộ quần áo bóng đá này được sản xuất bởi Umbro (1975–81), Le Coq Sportif (1981–86), The Chelsea Collection (1986–87), Umbro (1987–2006) và Adidas (2006–2017).
Nhà tài trợ áo thi đấu đầu tiên của Chelsea là Gulf Air, được đồng ý trong mùa giải 1983–84. Câu lạc bộ sau đó được tài trợ bởi Grange Farms, Bai Lin Tea và Simod trước khi một thỏa thuận dài hạn được ký kết với Commodore International vào năm 1989; Amiga, một nhánh của Commodore, cũng xuất hiện trên áo sơ mi. Chelsea sau đó được tài trợ bởi bia Coors (1994–97), Autoglass (1997–2001), Emirates (2001–05), Samsung Mobile (2005–08), Samsung (2008–15) và Yokohama Tires (2015–20). Từ tháng 7 năm 2020, nhà tài trợ của Chelsea là Three, tuy nhiên, nó đã tạm thời ngừng tài trợ vào tháng 3 năm 2022 để đáp lại lệnh trừng phạt của chính phủ Vương quốc Anh đối với Abramovich. Nó khôi phục tài trợ của mình sau khi thay đổi quyền sở hữu của câu lạc bộ.
Sau khi giới thiệu các nhà tài trợ tay áo ở Premier League, Chelsea đã có Alliance Tires là nhà tài trợ tay áo đầu tiên trong mùa giải 2017–18, tiếp theo là Hyundai Motor Company trong mùa giải 2018–19. Bắt đầu từ mùa giải 2022–23, Tập đoàn Amber trở thành nhà tài trợ tay áo mới, với nền tảng tài sản kỹ thuật số hàng đầu WhaleFin xuất hiện trên tay áo của cả đội nam và nữ.
Câu lạc bộ cũng có nhiều nhà tài trợ và đối tác chính thức khác, bao gồm Cadbury, EA Sports, GO Markets, Hublot, Levy Restaurants, MSC Cruises, Parimatch, Singha, Trivago và Zapp.
Nhà cung cấp kit và nhà tài trợ áo đấu
Điều hành
Ban lãnh đạo
Chelsea FC plc là công ty sở hữu Chelsea. Công ty mẹ của Chelsea FC plc là Fordstam Limited và người kiểm soát Fordstam Limited là Roman Abramovich.
Ngày 22 tháng 10 năm 2014, Chelsea thông báo Ron Gourlay, sau mười năm thành công cùng câu lạc bộ trong đó có năm năm làm Giám đốc điều hành, rời Chelsea để theo đuổi cơ hội kinh doanh mới. Ngày 27 tháng 10 năm 2014, Chelsea công bố Christian Purslow sẽ gia nhập câu lạc bộ để điều hành các hoạt động thương mại toàn cầu và sau đó cũng không bổ nhiệm thêm bất cứ vị trí cấp cao nào khác khi Chủ tịch Bruce Buck và Giám đốc Marina Granovskaia đảm nhận trách nhiệm điều hành.
{|class="wikitable"
|-
!Vị trí
!Nhân sự
|-
|Chủ sở hữu||rowspan="2"| Todd Boehly
|-
|Chủ tịch
|-
|Chủ tịch danh dự|| Richard Attenborough (1923–2014)
|-
|Cố vấn cao cấp|| Bruce Buck
|-
|rowspan="8"|Giám đốc|| Behdad Eghbali
|-
| José E. Feliciano
|-
| Mark Walter
|-
| Hansjörg Wyss
|-
| Jonathan Goldstein
|-
| Barbara Charone
|-
| Daniel Finkelstein
|-
| James Pade
|-
|Giám đốc điều hành|| David Barnard
|-
|Giám đốc thể thao|| Todd Boehly (interim)
|-
|Đại sứ|| Carlo Cudicini
Ban huấn luyện
{|class="wikitable"
|-
!Vị trí
!Nhân sự
|-
|HLV trưởng|| Mauricio Pochettino
|-
|rowspan="1"|Trợ lý HLV trưởng|| Jesus Perez
|-
|rowspan="3"|Trợ lý huấn luyện|| Miguel D'Agostino
|-
| Björn Hamburg
|-
| Bruno Saltor
|-
|rowspan="3"|HLV thủ môn|| Henrique Hilário
|-
| Ben Roberts
|-
| James Russell
|-
|rowspan="2"|HLV thể lực|| Matt Birnie
|-
| Will Tullett
|-
|Trưởng nhóm tuyển trạch quốc tế|| Scott McLachlan
|-
|Giám đốc y tế|| Paco Biosca
|-
|Trưởng nhóm phát triển cầu thủ trẻ|| Neil Bath
|-
|HLV đội trẻ|| Andy Myers
|-
Trong văn hóa đại chúng
Năm 1930, Chelsea xuất hiện ở một trong những bộ phim về bóng đá sớm nhất, The Great Game. Cựu tiền đạo trung tâm của Chelsea, Jack Cock, khi ấy đang thi đấu cho Millwall, là ngôi sao của bộ phim với một vài cảnh được quay ở Stamford Bridge, bao gồm trên sân, phòng họp và phòng thay đồ. Bộ phim có sự góp mặt với vai trò khách mời bởi các cầu thủ Chelsea khi đó Andrew Wilson, George Mills, và Sam Millington. Do những tai tiếng của Chelsea Headhunters, một hội bóng đá có liên hệ với câu lạc bộ, Chelsea cũng xuất hiện trong các bộ phim về nạn hooligan bóng đá, bao gồm bộ phim năm 2004 The Football Factory. Chelsea cũng xuất hiện trong bộ phim tiếng Hindi Jhoom Barabar Jhoom. Tháng Tư 2011, chương trình hài của Montenegro Nijesmo mi od juče thực hiện một tập mà trong đó Chelsea thi đấu với FK Sutjeska Nikšić ở vòng loại UEFA Champions League.
Cho tới những năm 1950, câu lạc bộ đã có sự liên kết dài lâu với các ca vũ trường; họ thường cung cấp các nghệ sĩ hài như George Robey. Đỉnh điểm là khi nghệ sĩ hài Norman Long phát hành một ca khúc mới lạ năm 1933, với tiêu đề "On the Day That Chelsea Went and Won the Cup", lời bài há mô tả một loạt các điểm kỳ lạ và không thường xuyên xảy ra vào ngày mà Chelsea cuối cùng cũng giành được một danh hiệu. Trong bộ phim năm 1935 The 39 Steps của Alfred Hitchcock, Mr Memory tuyên bố lần cuối Chelsea giành Cup là vào năm 63 trước công nguyên, "trong chiều đại của Hoàng đế Nero." Một cảnh trong tập phim năm 1980 của Minder được ghi hình trong một trận đấu thật tại sân Stamford Bridge giữa Chelsea và Preston North End khi Terry McCann (do Dennis Waterman thủ vai) đứng trên nóc khán đài.
Ca khúc "Blue is the Colour" được cho ra mắt đĩa đơn để khơi gợi tinh thần trước trận chung kết League Cup 1972, khi tất cả các cầu thủ đội một Chelsea góp giọng hát; ca khúc đã đạt vị trí thứ năm tại UK Singles Chart. Bài hát sau đó được một số câu lạc bộ thể thao trên thế giới lựa chọn làm ca khúc của câu lạc bộ, bao gồm cả Vancouver Whitecaps (với tựa "White is the Colour") và Saskatchewan Roughriders (với tựa "Green is the Colour"). Để lên tinh thần cho Chung kết FA Cup 1997, ca khúc "Blue Day", được biểu diễn bởi Suggs và các thành viên Chelsea, đạt vị trí thứ 22 trong bảng xếp hạng Anh Quốc. Bryan Adams, một cổ động viên của Chelsea, dành riêng bài hát "We're Gonna Win" trong album 18 Til I Die cho câu lạc bộ.
Đội nữ Chelsea
Chelsea có một đội bóng đá nữ, Chelsea Women. Họ bắt đầu có liên kết với đội nam từ năm 2004 và là một phần trong chương trình phát triển cộng đồng của câu lạc bộ. Họ thi đấu các trận đấu sân nhà trên sân Wheatsheaf Park, sân nhà của câu lạc bộ Conference South Staines Town. Câu lạc bộ lên Premier Division lần đầu năm 2005 với tư cách đội vô địch Southern Division và từng giành Surrey County Cup các năm 2003–04, 2006–10, 2012, và 2013. Năm 2010 Chelsea Women trở thành một trong tám thành viên sáng lập FA Women's Super League. Năm 2015, Chelsea Women vô địch FA Women's Cup lần đầu tiên, đánh bại Notts County Ladies trên sân vận động Wembley, và một tháng sau giành chức vô địch FA Women's Super League để hoàn thành cú đúp danh hiệu. John Terry, cựu đội trưởng của đội nam Chelsea, là Chủ tịch của Chelsea Women.
Đội hình
Đội hình chính
Cho mượn
Đội trẻ và Học viện
Số áo vinh danh:
25: Gianfranco Zola
Cầu thủ xuất sắc nhất năm
Nguồn: Chelsea F.C.
Các huấn luyện viên nổi bật
Dưới đây là các huấn luyện viên giành ít nhất một danh hiệu khi dẫn dắt Chelsea:
Danh hiệu
Sau khi giành chức vô địch UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành đội thứ năm trong lịch sử giành đủ "Bộ ba cúp châu Âu" với European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League sau Juventus, Ajax, Bayern Munich, Manchester United và cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên sở hữu cả ba danh hiệu lớn của UEFA.
Sau khi giành chức vô địch UEFA Europa League 2012–13, Chelsea trở thành đội thứ năm trong lịch sử giành đủ "Bộ ba cúp châu Âu" với European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League sau Juventus, Ajax, Bayern Munich, Manchester United và cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên sở hữu cả ba danh hiệu lớn của UEFA.
Quốc nội
Giải quốc gia
First Division / Premier League
Vô địch (6): 1954–55, 2004–05, 2005–06, 2009–10, 2014–15, 2016–17Second Division / Championship Vô địch (2): 1983–84, 1988–89
Cúp
FA Cup
Vô địch (8): 1969–70, 1996–97, 1999–2000, 2006–07, 2008–09, 2009–10, 2011–12, 2017–18 Football League Cup Vô địch (5): 1964–65, 1997–98, 2004–05, 2006–07, 2014–15 FA Community Shield Vô địch (4): 1955, 2000, 2005, 2009
Full Members' Cup
Vô địch (2): 1985–86, 1989–90
Châu Âu
UEFA Champions League
Vô địch (2): 2011–12, 2020–21
UEFA Europa League
Vô địch (2): 2012–13, 2018–19 UEFA Cup Winners' Cup Vô địch (2): 1970–71, 1997–98
UEFA Super Cup
Vô địch (2): 1998, 2021
Giải thế giới
FIFA Club World Cup
Vô địch (1): 2021
Cú đúp
1997–98: League Cup và European Cup Winners' Cup
2004–05: League và League Cup
2006–07: FA Cup và League Cup
2009–10: Premier League và FA Cup
2011–12: FA Cup và UEFA Champions League
2014–15: Premier League và League Cup
Ghi chú
Chú thích |
Nishikawa Takanori (tiếng Nhật: 西川貴教; Hán-Việt: Tây Xuyên Quý Giáo; sinh ngày 19 tháng 9 năm 1970 tại Shiga, Nhật Bản) là một ca sĩ bắt đầu nghề nghiệp của mình từ việc hát nhạc cho các anime. Sau một khoảng thời gian dài, anh đã tạo dựng được sự nghiệp khá vững chắc của mình và cũng có được tiếng tăm ở Nhật Bản. Ngoài ra, anh lại còn được biết đến qua Gundam Seed và Gundam Seed Destiny. Hiện anh đang là ca sĩ của Sony Music Entertainment (Epic Records) ở Nhật Bản và Tofu Records ở Mỹ.
Nghệ danh của Nishikawa Takanori là T.M Revolution, viết tắt của "Takanori Makes Revolution" (Takanori tạo ra cách mạng).
Tham gia
Trình bày nhạc
Anime
Mobile Suit Gundam Seed (TV): trình bày bài mở đầu 1
Mobile Suit Gundam Seed Destiny (TV): trình bày bài mở đầu 1, Vestige và Meteor
Mobile Suit Gundam Seed MSV Astray (giới thiệu OAV): trình bày bài Zips
Mobile Suit Gundam Seed Special Edition: trình bày nhạc (Zips/Meteor/Invoke)
Rurouni Kenshin (TV): trình bày bài kết 3
Không thuộc anime
Game "Sengoku Basara": trình bày nhạc
Lồng tiếng
Anime
Mobile Suit Gundam Seed (TV) trong vai Miguel Aiman (tập 1-3); Dẫn chuyện (tập 26)
Mobile Suit Gundam Seed Destiny (TV) trong vai Heine Westenfluss; Miguel Aiman (tập 20)
Mobile Suit Gundam Seed Special Edition trong vai Miguel Ayman
Rurouni Kenshin (TV) trong vai Orochi no Ren
Không thuộc anime
Game "Mobile Suit Gundam SEED: Owaranai Asu e" trong vai Miguel Aiman
Live action "Beautiful Life" trong vai Satoru Kawamura
Game "Genshin Impact" trong vai Arataki Itto
Sở thích và khả năng
Màu sắc: Đen, xám, cam và màu bạc
Đồ ăn: đồ ăn Nhật
Game: Final Fantasy, Dragon Quest
Nhân vật Gundam: Miguel Aiman
Gundam Series: Gundam Seed (sau này) và Gundam I (từ khi còn nhỏ).
Manga: Monster, Berserk
Mobile Suit: Miguel Aiman's Ginn.
Âm nhạc: Thích gần hết các loại nhạc, đặc biệt là Rock với giai điệu mạnh.
Hoa: hoa hồng
Mùa: mùa thu
Diễn viễn: Yuusaku Matsuda
Ca sĩ: Michael Jackson, Joe, Prince [etc]
Câu nói: "Be kind to others, but kinder to yourself" (Tốt với mọi ngươi nhưng tốt hơn với bản thân)
Dạng người anh thán phục: người có thể tự chăm sóc mình
Việc thích làm: Game RPG, lái ô tô và Manga
Khả năng đặc biệt: Nói và hát khi ngủ
Danh sách đĩa nhạc
1996
Dokusai - Monopolize (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 13/05/1996
hesosyukujo (臍淑女, hesosyukujo) -Venus-(Đĩa đơn) Ngày phát hành: 15/07/1996
Makes Revolution (Album) Ngày phát hành: 12/08/1996
Heart of Sword - Yoakemae (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 11/11/1996
Live Revolution 1 - Makes Revolution (VHS Video) Ngày phát hành: 01/12/1996
1997
Restoration Level 3 (Album) Ngày phát hành: 21/02/1997
Level 4 (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 21/08/1997
Video (Title Unknown) (VHS Video) Ngày phát hành: 21//05/1997
High Pressure (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 01/07/1997
Live Revolution 2 - Ishin Level 3 (VHS Video) Ngày phát hành: 01/08/1997
White Breath (Single) Ngày phát hành: 22/10/1997
1998
triple joker (Album) Ngày phát hành: 21/01/1998
Aoi Hekireki (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 15/02/1998
triple joker (VHS Video) Ngày phát hành: 01/031998
Hot Limit (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 24/07/1998
Thunderbird (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 07/10/1998
Burnin' X'mas (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 28/10/1998
1999
Wild Rush (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 03/02/1999
The Force (Album) Ngày phát hành: 10/03/1999
2000
Black or White? version 3 (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 19/04/2000
Heat Capacity (Đĩa đơn) Ngày phát hành: ngày 24 tháng 5 năm 2000
Discordanza Try My Remix - Single Collections (Album) Ngày phát hành: 28/07/2000
Madan - Der Freischutz (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 06/09/2000
progress (Album) Ngày phát hành: 12/10/2000
2001
Boarding (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 07/02/2001
2002
Out of Orbit - Triple Zero (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 20/02/2002
Out of Orbit - Triple Zero (Album) Ngày phát hành: 20/02/2002
B☆E☆S☆T (Album) Ngày phát hành: 01/07/2002
T.M. Revolution 0001 (DVD Video) Ngày phát hành: 01/07/2002
INVOKE (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 30/10/2002
2003
coordinate (Album) Ngày phát hành: 26/03/2003
Sonic Warp the Visual Fields (DVD Video) Ngày phát hành: 19/11/2003
2004
Albireo (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 25/02/2004
SEVENTH HEAVEN (Album) Ngày phát hành: 17/03/2004
2005
vertical infinity (Album) Ngày phát hành: 26/01/2005
vestige (Đĩa đơn) Ngày phát hành: 17/08/2005
2006
UNDER:COVER (Album) Ngày phát hành: 01/01/2006
2008
resonance (đĩa đơn) Ngày phát hành: 11/06/2008 |
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Liverpool, Anh, hiện đang thi đấu ở Premier League, giải đấu hàng đầu của hệ thống bóng đá Anh. Ở trong nước, câu lạc bộ đã giành được 19 chức vô địch Ngoại hạng Anh, 8 FA Cup, kỷ lục 9 League Cup và 16 FA Community Shield. Trong các giải đấu quốc tế, câu lạc bộ đã giành được sáu Cúp C1 Châu Âu, nhiều hơn bất kỳ một câu lạc bộ Anh nào khác, ba Cúp UEFA, bốn Siêu cúp UEFA và một FIFA Club World Cup.
Liverpool được thành lập vào ngày 3 tháng 6 năm 1892 bởi John Houlding và lên chơi tại giải cấp quốc gia trong năm kế tiếp. Đội đã sử dụng sân nhà Anfield từ khi thành lập cho đến nay. Đội thi đấu rất thành công trong thập niên 70 và 80, dưới thời các huấn luyện viên Bill Shankly và Bob Paisley, họ đã giành được 11 chức vô địch quốc gia cùng 7 danh hiệu châu Âu.
Liverpool có lượng cổ động viên hùng hậu và rất trung thành. Những kình địch lâu đời của họ là đội bóng hàng xóm Everton và đội Manchester United. Bài hát truyền thống của đội là "You'll Never Walk Alone" (tạm dịch: "Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"). Cầu thủ Liverpool lần đầu mặc trang phục thi đấu toàn bộ đỏ vào năm 1964, khi huấn luyện viên Bill Shankly cho rằng màu đỏ sẽ gây tác động đến tâm lý đối phương.
Đội bóng có mặt trong hai sự kiện đáng buồn của bóng đá châu Âu. Đầu tiên là thảm họa tại sân Heysel vào năm 1985, nhiều cổ động viên Liverpool quá khích đã tấn công cổ động viên Juventus khiến một bức tường khán đài sập xuống, gây ra cái chết của 39 người. Năm 1989, đến lượt thảm họa thứ hai là Hillsborough khi 97 cổ động viên Liverpool đã thiệt mạng do bị xô đẩy dồn ép vào dải rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ.
Lịch sử
Những mùa giải đầu tiên
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm bắt đầu từ năm 1884. Tới năm 1891, John Houlding, chủ tịch Everton đồng thời là người đứng tên hợp đồng thuê sân Anfield, mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding nên các thành viên còn lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, nằm ở phía bắc công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng vào ngày 15 tháng 3 năm 1892. Đội bóng đã giành được Giải Lancashire League trong mùa giải ra mắt của mình và gia nhập Giải hạng hai Football League vào đầu mùa giải 1893-94. Sau khi kết thúc ở vị trí đầu tiên, câu lạc bộ đã được thăng lên hạng Nhất và giành chiến thắng vào năm 1901 và một lần nữa vào năm 1906.
Câu lạc bộ Liverpool được thành lập và chơi tại sân Anfield đang bỏ trống. Tên ban đầu là Everton F.C. and Athletic Grounds, Ltd (gọi tắt là Everton Athletic), nhưng sau đó được đổi thành Liverpool Football Club vào tháng 3 năm 1892 do Liên đoàn bóng đá Anh từ chối công nhận cái tên Everton và được công nhận chính thức ba tháng sau đó.
Liverpool đã lọt vào chung kết FA Cup đầu tiên vào năm 1914, thua 1-0 trước Burnley. Câu lạc bộ vô địch Giải Hạng nhất hai năm liên tiếp vào các mùa 1921-22 và 1922-23, nhưng sau đó không vô địch danh hiệu nào cho tới 1946-47 khi họ vô địch giải quốc gia lần thứ năm dưới quyền của cựu trung vệ West Ham Utd, George Kay. Câu lạc bộ vào đến trận chung kết Cúp FA 1950 nhưng thua Arsenal. Liverpool bị xuống hạng Nhì vào mùa giải 1953-54. Trong giai đoạn này họ đã phải chịu một trận thua 2-1 ở Cúp FA trước đội bóng ít tên tuổi Worcester City, mùa 1958-59 thì Bill Shankly được bổ nhiệm làm HLV trưởng.
Dưới thời Bill Shankly và Bob Paisley
Không lâu sau kết quả mất mặt này, Bill Shankly được bổ nhiệm làm huấn luyện viên, lúc này Liverpool đang suy yếu, với trang thiết bị luyện tập cũ nát, đội ngũ ban huấn luyện kém cỏi. Ông đã sa thải 24 cầu thủ và thay đổi một phòng ở Anfield, ban đầu được dùng để khởi động thành một phòng gọi là Boot Room, nơi các cầu thủ cùng huấn luyện viên có thể bàn bạc chiến thuật và uống trà. Tại đây, Shankly cùng các thành viên ban đầu của Boot Room, gồm Joe Fagan, Reuben Bennett và Bob Paisley, bắt đầu cải tổ lại đội bóng.
Lên lại Giải Hạng nhất vào mùa giải 1961-62, và vô địch lần đầu tiên sau 17 năm vào mùa 1963-64. Mùa 1965-66, họ vô địch Giải Hạng nhất rồi đoạt Cúp FA đầu tiên, nhưng sau đó thua trước Borussia Dortmund trong trận chung kết Cúp các đội đoạt cúp. Mùa giải 1972-73 đội bóng vô địch Giải Hạng nhất, đoạt Cúp UEFA - đây là cúp châu Âu đầu tiên trong lịch sử đội bóng, và tiếp đó 1973-74 đoạt Cúp FA. Sau 15 năm dẫn dắt đạt được nhiều thành công, đưa Liverpool trở thành một trong những câu lạc bộ hàng đầu châu Âu, tháng 7 năm 1974, Shankly tuyên bố nghỉ hưu, ông rời đội bóng và trợ lý Bob Paisley lên thay.
Paisley thậm chí còn đạt được nhiều thành công hơn Shankly khi giúp đội bóng vô địch Giải Hạng nhất và Cúp UEFA ngay trong mùa giải 1975-76 - mùa thứ hai ông làm huấn luyện viên. Mùa tiếp đó, họ bảo vệ thành công danh hiệu vô địch Giải Hạng nhất, đoạt được cúp vô địch châu Âu (Cúp C1) đầu tiên trong lịch sử đội bóng, nhưng để thua trong trận chung kết Cúp FA, bỏ lỡ cơ hội đoạt cú ăn ba. Mùa 1977-78, Liverpool bảo vệ thành công ngôi vô địch Cúp C1 và vô địch Giải Hạng nhất lần nữa với số điểm 68, chỉ để thủng lưới 16 bàn trong 42 trận.
Trong 9 mùa bóng Paisley dẫn dắt đội bóng, Liverpool đã vô địch 21 danh hiệu, bao gồm: 3 Cúp C1, 1 Cúp UEFA, 6 chức vô địch Giải Hạng nhất, 3 Cúp Liên đoàn cùng nhiều danh hiệu khác. Danh hiệu duy nhất ông không giành được là Cúp FA. Kỉ nguyên của Paisley là kỉ nguyên của các ngôi sao lớn: Graeme Souness, Ian Rush, Alan Hansen và Kenny Dalglish.
Paisley rời băng ghế huấn luyện vào năm 1983 và (cũng giống như Shankly đã làm) để lại chiếc ghế huấn luyện cho thành viên của Boot Room, trợ lý huấn luyện viên Joe Fagan. Liverpool có được ngay 3 danh hiệu trong mùa giải 1983-84 - mùa đầu tiên Fagan tiếp quản, gồm: Giải Hạng nhất, Cúp Liên Đoàn và Cúp C1, trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành được cú ăn ba trong một mùa giải. Liverpool chơi trận chung kết Cúp C1 lần nữa vào ngày 29 tháng 5 năm 1985, trận gặp Juventus trên sân vận động Heysel, thành phố Brussels, nước Bỉ.
Những thảm họa
Trước khi trận chung kết bắt đầu, nhiều cổ động viên Liverpool chủ động tấn công cổ động viên Juventus bằng chai lọ rồi tràn qua phần khán đài của họ. Kết quả nhiều cổ động viên Juventus bị dồn vào một bức tường khiến bức tường này đổ sập, giết chết 39 người trong số họ, hầu hết là cổ động viên người Ý. Trận đấu sau đó vẫn diễn ra và Liverpool thua 1-0 bởi bàn thắng phạt đền của Michel Platini ở phút 57. Các đội bóng Anh sau đó đã bị cấm thi đấu ở các giải châu Âu trong 5 năm, Liverpool nhận mức phạt 10 năm, sau đó được giảm xuống còn 6 năm. 14 cổ động viên Liverpool phải nhận mức án 3 năm tù cho tội ngộ sát. Thảm họa này được gọi là "Giờ đen tối nhất trong lịch sử các cuộc đấu UEFA".
Fagan từ chức ngay sau thảm hoạ và Kenny Dalglish được bổ nhiệm trên cương vị huấn luyện viên kiêm cầu thủ. Trong thời gian ông nắm quyền, đội bóng 3 lần vô địch Giải Hạng nhất và đoạt 2 Cúp FA, bao gồm một cú ăn hai vào mùa giải 1985-86.
Chỉ 4 năm sau thảm họa Heysel, năm 1989, thêm một thảm họa khác liên quan đến cổ động viên của Liverpool xảy ra. Trong trận bán kết Cúp FA gặp Nottingham Forest tại sân Hillsborough ngày 15 tháng 4 năm 1989, sân quá tải khiến nhiều người bị dồn ép vào hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, giẫm đạp lên nhau trong vô vọng. 94 cổ động viên đã thiệt mạng vào ngày hôm đó. Bốn ngày sau, số người thiệt mạng là 95 khi một cậu bé 14 tuổi qua đời. Bốn năm sau, tới lượt cổ động viên thứ 96 qua đời trên giường bệnh sau một thời gian dài sống thực vật. Sau thảm họa này, chính quyền đã phải kiểm tra mức độ an toàn của các sân bóng. Theo như Báo cáo Taylor (Taylor Report), nguyên nhân chính của thảm hoạ là do sự quá tải dẫn tới việc cảnh sát không thể kiểm soát được tình hình.
Một luật lệ đã được ban hành và mọi sân vận động ở giải đấu vô địch nước Anh phải dỡ bỏ hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, các khán đài phải được phủ kín bởi ghế ngồi. Mùa giải 1988-89 cũng chứng kiến Liverpool bị mất chức vô địch Hạng nhất một cách bất ngờ nhất kể từ khi giải đấu ra đời, khi câu lạc bộ mất danh hiệu bởi hiệu số bàn thắng-thua vào đúng phút cuối của mùa giải, trong trận thua trước chính nhà vô địch mùa đó là Arsenal.
Dưới thời Souness và Houllier
Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Dalglish bất ngờ tuyên bố từ chức, người thay thế ông là Graeme Souness. Ngoại trừ Cúp FA vào năm 1992, Souness không giành thêm được thành công nào và bị thay thế bởi cựu thành viên Boot Room Roy Evans. Evans đạt được một chút thành công: chức vô địch Cúp Liên đoàn năm 1995 là danh hiệu duy nhất của ông. Điểm sáng nữa là chiến thắng 4-3 trước Newcastle United ở Anfield ngày 3 tháng 4 năm 1996 được đánh giá là trận đấu hay nhất của Giải Ngoại hạng trong 10 năm.
Trong giai đoạn này, Liverpool sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do họ tự đào tạo và xây dựng một lối chơi tấn công đẹp mắt. Đặc biệt là bộ ba Spice Boys gồm: Steve McManaman, Jamie Redknapp và Robbie Fowler, sau đó được bổ sung thêm các nhân tố tấn công như Patrik Berger, Stan Collymore và đặc biệt là tiền đạo trẻ tuổi Michael Owen.
Trong khi họ thực hiện một số thách thức danh hiệu dưới thời Evans, kết thúc ở vị trí thứ ba vào năm 1996 và 1998 là điều tốt nhất họ có thể thực hiện, Gérard Houllier được bổ nhiệm là đồng huấn luyện viên cùng Roy Evans vào mùa giải 1998-99, nhưng được toàn quyền dẫn dắt sau khi Evans từ chức vào tháng 11 năm 1998. Trong năm 2001, Liverpool giành được giành được cú ăn ba gồm: Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA; cùng 2 danh hiệu khác là Siêu cúp châu Âu và Siêu cúp Anh. Houllier phải thực hiện một ca phẫu thuật tim trong mùa giải 2001-02 và Liverpool về đích vị trí thứ nhì tại Giải Ngoại hạng, sau Arsenal. Mùa 2002-03, họ giành được thêm Cúp Liên đoàn nhưng tới mùa sau đó thì không đoạt bất kì danh hiệu nào, và lối chơi trong giai đoạn này cũng không thuyết phục.
Thời hoàng kim Benítez và sau đó
Khi Benítez lên dẫn dắt đội bóng, hàng loạt cầu thủ Tây Ban Nha đã đến Anfield chơi bóng, có thể kể đến những tên tuổi như Xabi Alonso, Luis García. Tại Giải ngoại hạng Anh, Liverpool thi đấu không thực sự tốt, họ xếp thứ 5 chung cuộc trên bảng xếp hạng vào cuối mùa. Ở cúp FA, câu lạc bộ cũng lọt đến trận chung kết gặp Chelsea, nhưng thất bại 2-3 sau 120 phút thi đấu. Câu lạc bộ cũng sớm bị loại khỏi Cúp liên đoàn sau khi bất ngờ để thua Burnley với tỉ số 0-1. Cúp châu Âu là danh hiệu duy nhất mà họ giành được trong mùa giải. Ở vòng bảng Lữ đoàn Đỏ xếp thứ 2 sau câu lạc bộ AS Monaco. Sau đó Liverpool lần lượt vượt qua các đối thủ Bayer Leverkusen, Juventus, và trả được món nợ tại trận chung kết Cúp FA khi loại Chelsea để tiến vào trận chung kết gặp AC Milan. Trận chung kết diễn ra trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Đây được xem là đêm Istanbul huyền thoại, khi chỉ trong hiệp 1, Liverpool đã để lọt lưới 3 bàn, và trong hiệp 2, Đội bóng đến từ thành phố cảng đã gỡ hòa 3-3 với bàn thắng của Steven Gerrard, Vladimír Šmicer và Xabi Alonso, qua đó cầm chân Milan vào loạt sút luân lưu. Trên chấm luân lưu, Liverpool đã giành chiến thắng với tỉ số 3-2, qua đó lần thứ 5 lên ngôi vô địch châu Âu.
Mùa tiếp theo, Liverpool đứng vị trí thứ 3 với 82 điểm, số điểm cao nhất mà họ giành được kể từ năm 1988. Họ vô địch Cúp FA bằng việc đánh bại West Ham United 3-1 trên chấm luân lưu sau khi hiệp chính kết thúc với tỉ số 3-3.
Benitez đã thực hiện những cuộc cải cách khi giảm dần nhân tố Đông Âu trong đội hình của Liverpool bằng việc loại bỏ những cầu thủ như Milan Baros, Dudek, Vladimír Šmicer... thay vào đó ông chiêu mộ nhiều cầu thủ gốc La-tinh như Luis Garcia, Fabio Aurelio, Javier Mascherano, Xabi Alonso.... và đặc biệt là tiền đạo Fernando Torres; xây dựng lối chơi tấn công dựa trên bộ đôi Gerrard-Torres. Sự thay đổi này đã được báo giới đặt tên là Rafalution, một cách chơi chữ của từ revolution, nghĩa là cuộc cách mạng của Rafa.
Mùa giải 2006-07, đội bóng tìm kiếm những nguồn đầu tư mới và hai doanh nhân người Mĩ là George Gillet và Tom Hicks đã tới mua lại đội bóng với mức giá 218,9 triệu bảng. Năm đó, họ cũng vào tới trận chung kết Cúp C1, nhưng thua 2-1 trước đội bóng mà họ đã đánh bại trong trận chung kết Cúp C1 2005 AC Milan. Kết thúc mùa giải 2008-09, Liverpool đứng ở vị trí thứ nhì sau Manchester United, giành được 86 điểm - số điểm cao nhất mà họ từng giành được kể từ khi giải đấu mang tên Giải Ngoại hạng.
Giai đoạn này, Liverpool tuy không giành được nhiều danh hiệu nhưng họ đã chơi tốt tại đấu trường châu Âu. Họ có những trận đấu đẹp, kịch tích và những chiến thắng thuyết phục trước các đội bóng lớn của châu Âu và nước Anh, làm mưa làm gió trong giai đoạn này. Báo chí thường nhắc đến họ với cái tên "Vua đấu cúp".
Mùa giải 2009-10, câu lạc bộ không đoạt được bất kì danh hiệu nào và thất bại trong việc tìm một suất dự cúp C1 với vị trí thứ 7 Giải Ngoại hạng. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của Rafael Benitez vào sau mùa giải này. Roy Hodgson lên dẫn dắt, nhưng chiến thuật của ông không phù hợp khiến đội bóng liên tục nằm ở nửa dưới bảng xếp hạng và các chủ nợ của câu lạc bộ đã yêu cầu Tòa án tối cao cho phép bán câu lạc bộ, vượt qua mong muốn của Hicks và Gillett. Tháng 10 năm 2010 cũng đánh dấu các sự kiện: chia tay với nhà tài trợ Carlsberg sau nhiều năm hợp tác và John W. Henry chủ sở hữu của Boston Red Sox và của Fenway Sports Group mua lại câu lạc bộ.
Ngày 8 tháng 1 năm 2011, Roy Hodgson rời Liverpool bằng "thoả thuận đôi bên", người thay thế ông là Kenny Dalglish, đúng như nguyện vọng của nhiều cổ động viên. Dalglish giúp Liverpool chấm dứt chuỗi 6 năm không danh hiệu với việc vô địch Cúp Liên đoàn 2012. Tuy nhiên, sau khi đội bóng kết thúc Giải Ngoại hạng 2011-12 ở vị trí thứ 8, tệ nhất trong 18 năm, Dalglish bị sa thải vào tháng 5 năm 2012. Kết thúc cuộc tìm kiếm vị huấn luyện viên trưởng thay thế Kenny Dalglish, Brendan Rodgers được lựa chọn. Ông rất thành công với Swansea City mùa giải trước đó và hứa hẹn sẽ đưa lối chơi Tiqui-Taca dựa trên khả năng cầm giữ bóng tốt đến Liverpool. Mùa giải đầu tiên ông dẫn dắt, Liverpool kết thúc ở vị trí thứ 7 giải Ngoại hạng vào được vòng 32 đội ở đấu trường Europa League. Mùa tiếp đó, Liverpool có được bước tiến vượt bậc về thứ hạng khi họ cán đích chỉ ở sau nhà vô địch Manchester City và ghi được 101 bàn thắng, tốt nhất kể từ mùa giải 1895-1896 với 106 bàn, đồng thời họ có được suất dự cúp C1 lần đầu tiên sau nhiều năm chờ đợi.
Mùa giải 2014-15 là mùa giải thứ ba của Brendan Rodgers, Liverpool thi đấu không thật sự tốt khi bị loại ở vòng bảng UEFA Champions League khi kết thúc với vị trí thứ 3 và xuống chơi ở Europa League, câu lạc bộ cũng không mấy thành công. Còn ở giải ngoại hạng, Liverpool đứng ở vị trí thứ 6, đây là năm trắng tay thứ 3 liên tiếp. Niềm an ủi duy nhất với Lữ đoàn đỏ là chiếc vé dự Europa League thay cho nỗi buồn về thành tích thi đấu hay sự ra đi của huyền thoại đội trưởng Steven Gerrard.
Mùa giải 2015-16, mặc dù đã đổ vào thị trường chuyển nhượng hàng chục triệu bảng đem về những tân binh chất lượng như Roberto Firmino, Christian Benteke, nhưng kết quả vẫn nối tiếp sự thất vọng của mùa trước với những thành tích bạc nhược, sau 10 trận gần nhất chỉ thắng được 1, Brendan Rodgers đã bị sa thải ngay sau khi kết thúc trận đấu derby Merseyside ở vòng 8 với Everton. Thay thế ông là cựu huấn luyện viên của Dortmund, ông Jürgen Klopp.
2015-nay: "Kỷ nguyên" Jürgen Klopp
Ngày 9 tháng 10 năm 2015, trang chủ của Liverpool thông báo đội bóng đã bổ nhiệm chiến lược gia người Đức Jürgen Klopp làm huấn luyện viên trưởng sau khi sa thải HLV Brendan Rodgers trong 3 năm. Liverpool đã có những dấu hiệu khởi sắc dưới thời tân chiến lược gia người Đức. Họ đã tiến vào chung kết League Cup gặp Manchester City, đội hòa 1-1 cả trận nhưng thua 3-1 sau loạt phạt đền
Ngày 15 tháng 4 năm 2016, Liverpool tiếp đón Dortmund trong khuôn khổ lượt về tứ kết Europa League với lợi thế trận hòa 1-1 ở lượt đi. Trận đấu đầy cảm xúc làm gợi lại đêm Istanbul huyền diệu khi Liverpool đã lội ngược dòng thành công với tỉ số 4-3 sau khi bị dẫn trước 2-0 từ rất sớm, The Kop đã chơi một thứ bóng đá đầy cảm xúc, một trận đấu xứng đáng được ghi vào lịch sử CLB. Tại bán kết Liverpool gặp câu lạc bộ đến từ Tây Ban Nha, Villarreal. Tại trận lượt đi mặc dù thi đấu tốt nhưng The Kop phải đón nhận bàn thua ở những phút chót và đành chấp nhận thất bại 0-1. Tuy nhiên ở trận lượt về, Liverpool của Klopp đã thi đấu xuất sắc để lật ngược tình thế với chiến thắng cách biệt 3-0 để tiến vào trận chung kết trước khi để thua một câu lạc bộ khác của Tây Ban Nha là Sevilla với tỉ số 1-3. Dù thất bại ở 2 trận chung kết, nhưng Jürgen Klopp đã chiếm nhiều cảm tình từ phía người hâm mộ bằng một lối chơi kỷ luật và đầy máu lửa.
Vào tháng 7 năm 2016, Liverpool thông báo đã gia hạn với huấn luyện viên Jürgen Klopp thêm 6 năm, hợp đồng sẽ mãn hạn vào hè năm 2022. Trước đó, CLB đã sở hữu bản hợp đồng trị giá 30 triệu bảng từ Southampton, tiền đạo Sadio Mané. Mùa giải trọn vẹn đầu tiên của ông kết thúc khi đưa đội đứng thứ 4
Tháng 6 năm 2017, câu lạc bộ đã chiêu mộ thành công cầu thủ người Ai Cập Mohamed Salah từ A.S. Roma với mức giá chuyển nhượng 42 triệu Euro, cùng Virgil van Dijk với mức phí chuyển nhượng kỷ lục 75 triệu bảng vào mùa đông, và bán Philippe Coutinho cho FC Barcelona với mức giá 160 triệu Euro. Mùa giải 2017-18, nhờ sự xuất sắc của bộ ba Salah - Firmino - Mané, Liverpool đứng thứ 4 chung cuộc ở giải ngoại hạng. Còn ở đấu trường Champions League, đội bóng đã lần lượt vượt qua Porto, Man City và A.S. Roma để vào đến trận chung kết gặp Real Madrid. Tuy nhiên, The Kop để thua với tỉ số 1-3.
Đến mùa giải 2018-2019, Liverpool xuất sắc sau khi bỏ xa Manchester City tận 7 điểm để nắm chắc ngôi đầu nhưng sau đó là hàng loạt cú sẩy chân trong tháng 3 khiến họ rơi xuống vị trí thứ 2, chung cuộc Liverpool về nhì với 97 điểm, số điểm cao nhất trong lịch sử của đội bóng này nhưng vẫn ít hơn đội vô địch là Manchester City với 98 điểm. Tại Champions League, đội bóng lần lượt vượt qua Bayern Munich, Porto để vào bán kết gặp Barcelona. Trận gặp Barcelona tại lượt về bán kết Champions League là một trong những trận đấu ngược dòng kinh điển của lịch sử Champions League. Sau khi để thua lượt đi tại Camp Nou với tỉ số 3-0, đội bóng đã ngược dòng không tưởng tại trận lượt về tại Anfield với tỉ số 4-0 bởi cú đúp của Origi và Georginio Wijnaldum, qua đó kết thúc trận đấu với tỷ số 4-3 để vào đến trận chung kết gặp đối thủ cùng quốc gia là Tottenham. Ở trận chung kết diễn ra tại thành phố Madrid, với 2 pha lập công của Salah và Origi đã giúp Liverpool đánh bại đối thủ, qua đó mang về danh hiệu đầu tiên dưới thời Jürgen Klopp và là danh hiệu thứ 6 cho đội bóng tại đấu trường này. Sau đó, đội còn giành được thêm 2 danh hiệu quốc tế là UEFA Super Cup trước Chelsea và FIFA Club World Cup trước đại diện đến từ Brazil Flamengo để kết thúc một năm 2019 đầy rực rỡ.
The Kop bước sang năm 2020 với vị trí đầu bảng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh,dẫn trước đội xếp thứ 2 là Manchester City tới 16 điểm. Tuy nhiên đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động thể thao trên thế giới, Ngoại hạng Anh cũng đồng thời bị hoãn. Liverpool đang dẫn đầu bảng xếp hạng Ngoại Hạng Anh với 82 điểm, bỏ xa đội thứ 2 Manchester City với 57 điểm. Ban tổ chức Ngoại hạng Anh đã lên kế hoạch trao cúp vô địch sớm cho Liverpool nhưng các đội bóng khác đã lên tiếng phản đối và yêu cầu hủy kết quả mùa giải, tiêu biểu là West Ham United và Tottenham.
Rạng sáng ngày 26 tháng 6 năm 2020, ở vòng 31, Chelsea đánh bại Man City 2-1. Cùng với việc Liverpool thắng Crystal Palace khiến khoảng cách giữa Man City và Liverpool được nới rộng lên thành 23 điểm. Vì Ngoại Hạng Anh chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc nên thầy trò HLV Guardiola đã chính thức hết cơ hội bám đuổi Liverpool. Ngôi vương đã thuộc về Juergen Klopp và các học trò một cách đầy xứng đáng. Liverpool lập kỷ lục vô địch sớm 7 vòng đấu.
Rạng sáng ngày 5 tháng 10 năm 2020, ở vòng 5, Liverpool đã nhận cú sốc lớn khi để thua 2-7 trước Aston Villa. Cùng với chấn thương của các trụ cột, Liverpool thi đấu sa sút và chỉ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3.
Sang mùa giải 2021-22, Liverpool đã 2 lần đánh bại Chelsea ở chung kết Carabao Cup, và FA Cup đều ở loạt luân lưu. Tuy nhiên, đội về nhì tại giải quốc nội với 92 điểm, đứng sau Manchester City với 1 điểm ít hơn, và nhận thất bại 0-1 tại chung kết Champions League trước Real Madrid.
Tóm tắt hoạt động
Màu áo và biểu trưng
Vào thời kì đầu, khi đội bóng tiếp quản sân Anfield từ tay Everton, họ dùng màu áo của Everton là xanh và trắng. Năm 1896, Liverpool chọn trang phục thi đấu chính thức là áo đỏ và quần trắng. Họ vẫn sử dụng nó trong hơn 60 năm tiếp theo. Màu tất đã được thay đổi nhiều lần trong những năm đó: từ đỏ, sang đen, tới trắng rồi trở lại đỏ. Biểu trưng con chim Liver bắt đầu được gắn trên ngực trái áo đấu vào năm 1955. Tới năm 1964, huấn luyện viên Bill Shankly quyết định để các cầu thủ mặc trang phục toàn bộ đỏ lần đầu tiên trong trận gặp R.S.C Anderlecht, và Ian St. John đã nói lại điều này trong cuốn tự truyện của ông: Shankly nghĩ rằng màu sắc sẽ tác động tới tâm lý - màu đỏ cho nguy hiểm, màu đỏ cho sức mạnh.
"Trận đấu đối đầu với Anderlecht tại Anfield đúng là một đêm đáng nhớ. Chúng ta đã lần đầu tiên được mang bộ đồng phục đỏ. Chúa ơi, những cầu thủ lớn. Và chúng ta cũng chơi theo kiểu cầu thủ lớn".
Trang phục sân khách từng được sử dụng nhiều hơn cả là áo trắng hoặc vàng với quần đen, nhưng cũng có một vài ngoại lệ. Bộ trang phục màu xám được giới thiệu lần đầu vào năm 1987, và họ sử dụng nó cho tới mùa giải kỉ niệm 100 năm thành lập câu lạc bộ 1991–92, nó bị thay thế bởi bộ trang phục kết hợp giữa hai màu xanh lá cây và trắng. Sau nhiều lần thay đổi màu sắc trong những năm 1990, bao gồm vàng và màu hải quân, vàng sáng, đen và xám, và xám - vàng nhạt. Câu lạc bộ đã luân phiên sử dụng những bộ trang phục sân khách màu vàng và trắng cho tới mùa giải 2008–09, khi trang phục màu xám được sử dụng lại. Trang phục phụ được thiết kế dành cho các giải châu Âu, nhưng đôi khi được dùng tại các giải đấu quốc nội khi màu trang phục sân khách trùng với màu của đội chủ sân. Tháng 1 năm 2012, câu lạc bộ công bố bản hợp đồng với hãng thể thao Warrior Sports để được nhận tài trợ 25 triệu £/1 mùa và sản xuất trang phục thi đấu trong vòng 6 năm, bắt đầu từ mùa giải 2012-13. Vào tháng 2 năm 2015, công ty mẹ của Warrior, New Balance tuyên bố sẽ tham gia vào thị trường bóng đá toàn cầu, với các đội được Warrior tài trợ hiện đang được New Balance trang bị. Trước đó, tài trợ trang phục là hãng Adidas từ năm 2006 đến năm 2012, hãng này cũng đã tài trợ trong giai đoạn 1985-1996. Giai đoạn 1973-1985, trang phục tài trợ bởi Umbro và giai đoạn 1996-2006 bởi Reebok.
Biểu trưng của Liverpool gồm hình con chim Liver bird (biểu trưng thành phố Liverpool, được chọn làm biểu trưng đội bóng vào năm 1901), được đặt bên trong hình một tấm khiên. Năm 1992, để kỉ niệm 100 năm thành lập, câu lạc bộ giới thiệu mẫu biểu trưng mới, thêm vào ở phía trên tấm khiên hình tượng trưng cho cánh cổng Shankly với dòng chữ "YOU'LL NEVER WALK ALONE" ("Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"). Hai ngọn lửa tượng trưng cho đài tưởng niệm Hillsborough được thêm trong năm tiếp đó. Năm 2012, biểu trưng trên bộ trang phục mới do hãng Warrior Sports thiết kế đã loại bỏ tấm khiên và cánh cổng Shankly, trở về hình Liver bird giống những năm 1970; hai ngọn lửa được chuyển ra sau cổ áo, ở hai bên số 96, số người chết do thảm họa Hillsborough.
Trang phục từ năm 2000-nay
Nhà tài trợ
Liverpool là đội bóng chuyên nghiệp đầu tiên ở Anh in biểu trưng nhà tài trợ trên áo, sau khi họ đồng ý in tên hãng Hitachi vào năm 1979. Kể từ đó họ được tài trợ bởi Crown Paints, Candy, Carlsberg và hiện nay là ngân hàng Standard Chartered. Hợp đồng với Carlsberg được ký vào năm 1992 và kết thúc năm 2010 - là bản hợp đồng lâu nhất trong lịch sử bóng đá Anh.
Khoản tiền tài trợ trang phục
Sân vận động
Liverpool đã chơi trên sân Anfield từ khi được thành lập vào năm 1892. Anfield được xây năm 1884 trên mảnh đất gần công viên Stanley, ban đầu được sử dụng bởi Everton nhưng sau đó Everton chuyển câu lạc bộ đến công viên Goodison sau mối bất hòa với chủ sân Anfield. Họ rời khu đất vào năm 1892, rồi người chủ của Anfield là John Houlding, quyết định sẽ thành lập một đội bóng mới chơi trên sân này. Sức chứa của sân lúc đó là khoảng 20.000 người, mặc dù chỉ có khoảng 100 cổ động viên đến xem trận đấu đầu tiên của Liverpool tại sân.
Năm 1906, câu lạc bộ thuê kiến trúc sư Archibald Leitch để thiết kế xây dựng và nâng cấp lại sân Anfield. Khán đài ở cuối sân được đổi tên thành Spion Kop, theo tên một ngọn đồi ở KwaZulu-Natal, Nam Phi, ngọn đồi này là nơi diễn ra trận Spion Kop trong cuộc chiến tranh với người Nam Phi gốc Hà Lan lần thứ hai, khoảng 300 người vùng Lancashire đã tử trận vào ngày 24 tháng 1 năm 1900, phần lớn trong số họ đến từ thành phố Liverpool. Trong lịch sử, khán đài The Kop từng có thể chứa khoảng 28,000 chỗ ngồi và là một trong những khán đài lớn nhất thế giới. Nhiều sân vận động ở Anh khác cũng đặt tên khán đài mình là Spion Kop, nhưng khán đài của Anfield là lớn nhất thời điểm đó, thậm chí có thể chứa được nhiều khán giả hơn cả một số sân vận động. Khán đài này bị cắt giảm sức chứa để đảm bảo an toàn sau thảm hoạ Hillsborough. Nó được chuyển thành khán đài phủ kín chỗ ngồi vào năm 1994, và giảm sức chứa xuống còn 12.390 chỗ ngồi.
Anfield có thể chứa hơn 60.000 cổ động viên ở thời kỳ đỉnh cao và có sức chứa 55.000 cho đến những năm 1990. Báo cáo Taylor và các quy định của Premier League bắt buộc Liverpool phải chuyển Anfield thành một sân vận động với sức chứa xuống còn 45.276 cho mùa giải 1993-1994. Khán đài Anfield Road đối diện với The Kop, là nơi các cổ động viên đội khách ngồi. Được xây lại vào năm 1998 với sức chứa 9,074 chỗ ngồi, đó là khán đài mới nhất của Anfield. Hai khán đài còn lại là Main Stand có sức chứa 12,227 chỗ ngồi và Centenary Stand có sức chứa 11.762 chỗ. Khán đài Main Stand là khán đài cũ kỹ nhất sân Anfield, được hoàn thành vào năm 1982. Nó là nơi đặt phòng thay đồ của cầu thủ và phòng bình luận. Nằm ở phía giữa khán đài này, gần vạch kẻ sân là đường hầm ra sân và khu vực kỹ thuật - nơi ngồi của huấn luyện viên và các cầu thủ dự bị. Khán đài Centenary Stand trước đây là khán đài Kemlyn Road, đổi tên lại như hiện nay sau khi được xây thêm một tầng và đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 9 năm 1992, nhân kỉ niệm 100 năm thành lập đội bóng. Một loạt các cột đỡ và cột hỗ trợ đã được chèn thêm để tạo thêm sự ổn định cho tầng trên cùng của khán đài sau khi có sự rung lắc được báo cáo vào đầu mùa 1999-2000.
Do hạn chế về sức chứa của Anfield, Liverpool công bố kế hoạch di chuyển đến một sân vận động mới tại công viên Stanley kề đó vào tháng 5 năm 2002. Cấp phép quy hoạch đã được cấp vào tháng 7 năm 2004 vào ngày 8 tháng 9 năm 2006, Hội đồng thành phố Liverpool chấp thuận việc xây sân, họ cũng đồng ý sẽ cấp cho Liverpool quyền sử dụng khu đất ở công viên Stanley với thời hạn 999 năm. Với việc hai vị đồng chủ tịch George Gillet và Tom Hicks tiếp quản đội bóng vào tháng 2 năm 2007, bản thiết kế của sân vận động mới được thay đổi. Vào tháng 11 năm 2007, bản thiết kế mới được phê chuẩn bởi Hội đồng thành phố, và chuẩn bị bắt đầu vào tháng 6 năm 2008. Tập đoàn HKS được giao nhiệm vụ xây sân mới. Sân dự kiến mở cửa vào tháng 8 năm 2011 với sức chứa 60.000 chỗ ngồi. Song đã không có công trình nào được xây bởi George Gillet và Tom Hicks đã không có đủ khả năng tài chính cho dự án.
Vào tháng 10 năm 2012, BBC Sport tường thuật rằng chủ sở hữu mới của Liverpool là Fenway Sports Group quyết định sẽ nâng cấp sân Anfield thay vì xây dựng sân Stanley Park. Theo kế hoạch đề ra, sức chứa của Anfield sẽ tăng từ 45,276 lên xấp xỉ 60,000 chỗ ngồi, và chi phí ước tính sẽ khoảng 150 triệu bảng Anh. Tháng 9 năm 2016, giai đoạn đầu việc nâng cấp được hoàn thành với việc khánh thành tầng thứ ba của khán đài Main, nâng sức chứa của sân lên 54,047 chỗ và việc này đã tốn chi phí khoảng 100 triệu bảng Anh. Huấn luyện viên Jurgen Klopp đã khen ngợi về sự ấn tượng sau khi nâng cấp khán đài Main. Giai đoạn nâng cấp tiếp theo sắp thực hiện sẽ là thêm 4,800 chỗ ngồi vào khán đài Anfield Road, nâng tổng sức chứa của sân lên khoảng 59,000 chỗ.
Sân tập
Melwood ở West Derby đã trở thành sân tập của Liverpool từ năm 1950. Nó không liên quan tới Học viện ở Kirby. Khu đất này trước đây thuộc về trường học địa phương St Francis Xavier.
Cổ động viên
Liverpool là một trong những câu lạc bộ sở hữu cổ động viên trung thành nhất thế giới, trung bình lượng cổ động viên tới sân thuộc hàng cao nhất châu Âu. Câu lạc bộ có hơn 200 hội cổ động viên chính thức ở hơn 30 quốc gia được Hiệp hội các chi nhánh quốc tế (Association of International Branches) công nhận. Các nhóm đáng chú ý bao gồm Spirit of Shankly. Với lợi thế lượng cổ động viên đông đảo, Liverpool thường xuyên tổ chức các tour du đấu quốc tế vào mùa hè, trong đó bao gồm chơi trước 101.000 cổ động viên ở Michigan, Hoa Kỳ và 95.000 cổ động viên ở Melbourne, Úc. Cổ động viên Liverpool thường thích tự gọi họ là những Kopites, điều này để nói tới những fan lúc đứng, lúc lại ngồi trên khán đài The Kop. Năm 2008, một nhóm người hâm mộ đã quyết định thành lập câu lạc bộ A.F.C. Liverpool.
Bài hát "You'll Never Walk Alone", ban đầu xuất hiện trong vở kịch Carousel của nhà Rodger và nhà Pacemaker, sau đó được thu âm bởi nhạc sĩ Gerry & The Pacemakers và được cổ động viên hát lên ở sân Anfield từ đầu những năm 1960. Nó đã trở nên phổ biến trong số người hâm mộ của các câu lạc bộ khác trên thế giới.Tên bài hát được viết trên cổng Shankly, được dựng lên vào ngày 2 tháng 8 năm 1982 nhằm tưởng nhớ huấn luyện viên huyền thoại Bill Shankly. Hàng chữ "You'll Never Walk Alone" trên cánh cổng Shankly cũng là tiêu ngữ của đội bóng.
Cổ động viên của câu lạc bộ cũng có mặt trong hai sự kiện đáng quên. Đầu tiên là Thảm họa Heysel xảy ra vào năm 1985 khi 39 cổ động viên thiệt mạng, hầu hết là người Ý. Họ bị các cổ động viên Liverpool dồn vào một bức tường, dưới sức ép của nhiều người, bức tường đổ sập. Vì những hành động trên, Liverpool đã bị UEFA cấm thi đấu ở các giải đấu châu Âu trong 5 năm. Liverpool đã bị cấm thêm một năm, ngăn không cho họ tham dự Cúp châu Âu 1990, mặc dù họ đã vô địch Cúp Liên đoàn năm 1990. 27 người đã bị bắt giữ, phần lớn trong số này đến từ Merseyside, một số người từng tham gia vào các vụ bạo lực bóng đá. Năm 1989, sau 5 tháng điều tra ở Bỉ, 14 cổ động viên Liverpool đã phải nhận mức án 3 năm tù vì tội ngộ sát.
Sự kiện đáng buồn thứ hai là trong trận bán kết cúp FA ngày 15 tháng 4 năm 1989, giữa Liverpool và Nottingham Forest trên sân Hillsborough của đội Sheffield Wednesday ở Sheffield. Việc sân quá tải dẫn đến chen lấn xô đẩy đã khiến tổng cộng 96 người thiệt mạng và 766 người bị thương (tất cả đều là cổ động viên Liverpool), đây được biết đến là thảm họa Hillsborough. Bốn ngày sau thảm họa, tờ báo The Sun trong một bài viết mang tiêu đề "Sự thật" đã tố cáo các cổ động viên Liverpool cướp bóc, tấn công cảnh sát và cả nhân viên cứu hộ khi họ đang cố gắng cứu sống các nạn nhân. Điều tra sau đó đã chứng minh những cáo buộc này là sai lầm và điều này đã dẫn đến một cuộc tẩy chay của toàn thành phố đối với tờ báo trong suốt 20 năm. Biên tập viên của The Sun là Kelvin MacKenzie đã phải xin lỗi công chúng. Nhiều tổ chức đã được thành lập như là một kết quả của thảm hoạ ở Sheffield như "Chiến dịch Tư pháp Hillsborough", đại diện cho các gia đình có người chết, người sống sót và những người ủng hộ, vận động công lý cho 96 người chết vì thảm họa.
Biệt danh
Liverpool hiện nay có các biệt danh như:
The Kop là tên gọi khác của Liverpool, hay nói cách khác đây là biệt danh mà những người hâm mộ dành cho Liverpool. Từ The Kop được bắt đầu từ những năm 1928. Trước đó ở mùa giải 1900-1901, Liverpool lần đầu tiên giành được danh hiệu vô địch. Tuy nhiên hai năm sau đó, Liverpool đã không duy trì được phong độ và để bị xuống hạng. Mùa giải 1904-1905, câu lạc bộ đã vươn lên giành chức vô địch lần hai. Sau khi nhận giải, Liverpool đã xây dựng khán đài Spion Kop, tên của một quả đồi ở Natal, nơi bị chịu tổn thất nặng nề trong một cuộc chiến Nam Phi (Cuộc chiến Boer), khi ấy rất nhiều người Liverpool đã hy sinh. Từ "Spion Kop" tiếng địa phương có ý nghĩa là "điểm thắng". Đến năm 1928, sân vận động Spion Kop đã được làm mái che và mở rộng hơn với sức chứa được khoảng hơn 30 nghìn người. Cũng trong thời gian này từ The Kop được hình thành. Có thể hiểu từ The Kop là Vua đấu Cúp vì từ "Kop" cũng có phát âm khá giống với từ "Cúp". Sau đó cũng có một số người gọi Liverpool là The King of Prizes (Vua của những danh hiệu) để thể hiện sức mạnh của đội bóng.
The Reds cũng là một biệt danh của đội bóng vùng Merseyside. Biệt danh này gắn với màu áo đỏ truyền thống của đội. Vào giai đoạn hoàng kim thập niên 60, Liverpool là nỗi khiếp sợ của toàn nước Anh cũng như Châu Âu, đội từng được gọi là Quỷ đỏ. Tuy nhiên những người Liverpool lại không thích cái tên này bằng tên "bông hồng nhung Liverpool", sau này được đổi thành The Reds để tránh nhầm lẫn với "Quỷ đỏ thành Manchester" hay Manchester United. Tại Việt Nam, những người hâm mộ đã Việt hóa biệt danh The Reds thành "Lữ đoàn đỏ".
Bài hát truyền thống
Bài hát truyền thống của câu lạc bộ là "You'll Never Walk Alone" ("Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc"), vốn là một ca khúc được viết cho một vở kịch mang tên Carousel tại sân khấu kịch Broadway vào năm 1945. Oscar Hammerstein II sáng tác phần lời và Richard Rodgers sáng tác phần nhạc.
Bài hát này cũng đã được dùng cho một chương trình ca nhạc cùng tên, nhằm quyên tiền ủng hộ các nạn nhân của thảm hoạ tại sân vận động Bradford vào năm 1985. Nó cũng xuất hiện trong những đợt vận động phòng chống bệnh AIDS tại Hoa Kỳ. Bài hát thường xuyên được người hâm mộ đội Liverpool ca lên khi ủng hộ đội nhà và cũng được hát phổ biến bởi cổ động viên của nhiều câu lạc bộ khác trên thế giới.
Trước "You'll Never Walk Alone", bài hát truyền thống của câu lạc bộ là "Hurrah for the Reds", được sáng tác bởi W.Seddon vào ngày 31 tháng 8 năm 1907, tức 15 năm sau khi câu lạc bộ được thành lập.
Kình địch
Everton
Đối thủ truyền kiếp của Liveprool là đội bóng hàng xóm Everton, đối thủ của họ trong những trận derby Merseyside. Ban đầu, câu lạc bộ bóng đá Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm bắt đầu từ năm 1884. Tới năm 1891, ông John Houlding là chủ tịch Everton khi ấy đồng thời cũng là người đứng ra thuê sân Anfield đã mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding nên các thành viên còn lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, sân nhà của Everton ngày nay, nằm ở phía bắc công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng vào ngày 15 tháng 3 năm 1892. Ban đầu đội bóng có tên là Everton Athletic nhưng bị Hiệp hội bóng đá từ chối nên sau đó câu lạc bộ đã lấy tên mới là Liverpool Football Club và cái tên này đã tồn tại đến ngày nay. Những trận derby Merseyside luôn được bán hết vé. Các trận derby này có tổng số thẻ đỏ nhiều nhất trong lịch sử Giải Ngoại hạng. Đây là một trong số ít những trận "derby thân thiện" ("friendly derby") vì không bắt buộc tách cổ động viên hai đội ra. Kể từ giữa những năm 1980, sự ganh đua đã tăng cả trong và ngoài sân cỏ và kể từ khi bắt đầu Ngoại hạng Anh năm 1992, trận derby vùng Merseyside đã có nhiều cầu thủ bị đuổi hơn bất kỳ trận đấu nào khác ở Premier League. Nó đã được gọi là "Những trận đấu vô kỷ luật và bùng nổ nhất của Giải Ngoại hạng Anh". Các cổ động viên của Liverpool thường chế giễu câu lạc bộ Everton là sân sau của kình địch Manchester United vì đội bóng áo xanh thường xuyên bán các ngôi sao tài năng cho đội bóng đến từ Manchester và thu mua những cầu thủ đã hết thời của họ.
Manchester United
Liverpool cũng có mối thù với Manchester United. Nguyên nhân của điều này chủ yếu do sự thành công của hai đội bóng và sự cạnh tranh thương mại giữa hai thành phố Liverpool và Manchester trong cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỷ XIX. Sự kình địch giữa hai đội tăng lên từ những năm 1960, tuy Liverpool là đội bóng Anh đoạt nhiều cúp vô địch châu Âu nhất nhưng Manchester United lại là đội bóng Anh đoạt cúp này sớm nhất (vào năm 1968). Mặc dù có 39 chức vô địch và chín cúp châu Âu giữa họ, hai đối thủ hiếm khi thành công cùng một lúc - cuộc đua danh hiệu của Liverpool trong những năm 1970 và 1980 trùng với đáy thảm họa 26 năm của Manchester United và thành công của United trong Kỷ nguyên Premier League cũng trùng khớp với thảm họa đang diễn ra của Liverpool. Tuy nhiên, cựu huấn luyện viên của Manchester United, Alex Ferguson, nói vào năm 2002, "Thử thách lớn nhất của tôi là đánh bại Liverpool ngay lập tức" và cầu thủ cuối cùng được chuyển đến giữa hai câu lạc bộ là Phil Chisnall, người chuyển đến Liverpool từ Manchester United vào năm 1964.
Sở hữu và tài chính
Là chủ sở hữu Anfield và là người sáng lập Liverpool, John Houlding trở thành chủ tịch đầu tiên của câu lạc bộ, ông giữ cương vị này từ năm thành lập 1892 đến năm 1904. John McKenna tiếp quản vị trí này sau sự ra đi của Houlding. McKenna sau đó trở thành chủ tịch của giải bóng đá vô địch Anh. Vị trí chủ tịch được thay đổi nhiều lần trước khi John Smith, người có cha là cổ đông đội bóng, lên giữ vào năm 1973. Ông điều hành giai đoạn thi đấu thành công nhất của câu lạc bộ trước khi rời chức năm 1990. Sau đó, David Moores, người có gia đình là chủ sở hữu đội bóng trong hơn 50 năm, tiếp quản vị trí này. Chú ông, John Moores cũng là một cổ đông đội bóng và là chủ tịch của Everton trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1973. Là người sở hữu 51% câu lạc bộ, năm 2004, David Moores bày tỏ việc muốn bán cổ phần của mình.
Ngày 6 tháng 2 năm 2007, Moores bán đội bóng cho hai doanh nhân người Mỹ là George Gillett và Tom Hicks. Thỏa thuận này bao gồm giá trị và khoản nợ chưa thanh toán của câu lạc bộ, tổng cộng là 218,9 triệu £ (Bảng Anh). Bộ đôi này đã trả 5.000 £ cho mỗi cổ phần, hoặc 174,1 triệu £ cho tổng số cổ phần và 44,8 triệu £ để trang trải các khoản nợ. Sau đó vì những bất đồng giữa Gillett và Hicks, cộng thêm sự phản đối từ người hâm mộ, khiến bộ đôi này tìm cách bán đội bóng. Martin Broughton nhận chức chủ tịch vào ngày 16 tháng 4 năm 2010 để giám sát việc bán. Tháng 5 năm 2010, tài khoản câu lạc bộ được công khai, gồm 350 triệu £ tiền nợ cùng 55 triệu £ tiền lỗ, được công ty kiểm toán KPMG xác nhận. Các chủ nợ của Liverpool, trong đó có Ngân hàng hoàng gia Scotland, đã đưa Gillett và Hicks ra tòa để buộc bộ đôi này nhường lại việc bán cho Hội đồng quản trị câu lạc bộ đảm trách. Một thẩm phán của toà án tối cao, ông Christopher Floyd, đã ra phán quyết có lợi cho những chủ nợ, mở đường cho Fenway Sports Group (tên lúc đó là New England Sports Ventures) mua lại đội bóng, dù Gillett và Hicks vẫn còn khả năng kháng cáo. Ngày 15 tháng 10 năm 2010, Liverpool được bán cho Fenway Sports Group với giá 300 triệu £.
Liverpool được xem như là một thương hiệu toàn cầu, một báo cáo năm 2010 định giá các thương hiệu của câu lạc bộ và tài sản trí tuệ liên quan ở mức 141 triệu bảng, tăng 5 triệu bảng vào năm trước. Liverpool được đánh giá hạng AA (Rất mạnh). Trong tháng 4 năm 2010, tạp chí Forbes xếp hạng Liverpool là đội bóng có giá trị thứ 6 thế giới, sau Manchester United, Real Madrid, Arsenal, Barcelona và Bayern Munich, giá trị câu lạc bộ vào khoảng 832 triệu $ (Đô la Mỹ), không bao gồm nợ. Kiểm toán Deloitte xếp Liverpool ở vị trí thứ 8 trong Deloitte Football Money League, xếp hạng các câu lạc bộ bóng đá thế giới về doanh thu. Liverpool kiếm được thu nhập 225,3 triệu € (Euro) trong mùa giải 2009-10.
Liverpool F.C. đối với truyền thông và văn hoá
Là một trong những đội bóng thành công nhất trong lịch sử bóng đá Anh, Liverpool là hình tượng trong đời sống văn hoá Anh khi nói về bóng đá và xuất hiện trong nhiều sự kiện đặc biệt của truyền thông. Đội bóng xuất hiện trong số đầu tiên của chương trình "Trận đấu của ngày" (Match of the Day) trên BBC, nói đến trận đấu với Arsenal ở Anfield vào ngày 22 tháng 4 năm 1964. Liverpool cũng xuất hiện trong buổi truyền hình bóng đá trên vô tuyến màu đầu tiên, đó là lần truyền hình trực tiếp trận gặp West Ham United vào tháng 3 năm 1967. Các cổ động viên Liverpool đã được ban nhạc Pink Floyd nhắc đến trong bài hát "Fearless", bài hát cũng trích một đoạn từ bài "You'll Never Walk Alone". Liverpool cho ra mắt bài hát với tên gọi "Anfield Rap" vào dịp trước trận chung kết Cúp FA gặp Wimbledon năm 1988. Trong bài này, John Barnes đã trình diễn rap cùng một số thành viên khác trong đội hình xuất phát.
Một bộ phim tài liệu về thảm hoạ Hillsborough, viết bởi Jimmy McGovern, đã được trình chiếu vào năm 1996. Diễn viên Christopher Eccleston đã vào vai Trevor Hicks, tâm điểm của những câu truyện được kể lại. Hicks, người đã mất hai cô con gái trong thảm hoạ, đã tham gia vào các hoạt động làm cho những sân vận động an toàn hơn và giúp đỡ những gia đình có người thân thiệt mạng trong thảm hoạ Hillsborough. Câu lạc bộ đã xuất hiện trong bộ phim The 51st State (hoặc Formula 51). Felix DeSouza (Robert Carlyle) là một cổ động viên nhiệt thành của đội bóng và cảnh cuối cùng của bộ phim được thực hiện trong một trận đấu giữa Liverpool và Manchester United. Đội bóng cũng xuất hiện trong một chương trình dành cho trẻ em với tên gọi Scully; nội dung xoay quanh một cậu bé, Francis Scully, người cố gắng để được đá thử một trận cùng Liverpool. Một số người nổi tiếng của Liverpool như Kenny Dalglish đã xuất hiện trong chương trình.
Đội hình
Đội hình chính
Cho mượn
Đội trẻ và học viện
Các cầu thủ trong lịch sử
Đội trưởng câu lạc bộ
Kể từ khi thành lập câu lạc bộ vào năm 1892, 45 cầu thủ đã thay nhau trở thành đội trưởng của câu lạc bộ Liverpool. Andrew Hannah trở thành đội trưởng đầu tiên của câu lạc bộ sau khi Liverpool tách khỏi Everton và thành lập câu lạc bộ của riêng mình. Alex Raisbeck từng là đội trưởng của câu lạc bộ từ năm 1899 đến 1909, là đội trưởng phục vụ lâu nhất trước khi bị Steven Gerrard vượt qua khi giữ chức đến 12 mùa với tư cách đội trưởng của Liverpool bắt đầu từ mùa giải 2003-04. Đội trưởng hiện tại là Jordan Henderson, anh đã thay thế Gerrard trong mùa giải 2015-16 sau khi Gerrard chuyển đến thi đấu cho LA Galaxy.
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải
Quan chức, lãnh đạo
Chủ sở hữu: Fenway Sports Group
Chủ tịch danh dự: David Moores
Đại sứ: Ian Rush, Robbie Fowler, Michael Owen
Liverpool Football and Athletics Grounds Limited
Chính chủ: John W. Henry
Chủ tịch: Tom Werner
Phó chủ tịch: David Ginsberg
Tổng giám đốc điều hành quản lý: Peter Moore
Giám đốc thương mại: Billy Hogan
Giám đốc tài chính: Philip Nash
Nguồn:
Liverpool Football Club
Giám đốc: John W. Henry, Tom Werner, David Ginsberg, Michael Gordon, Michael Egan
Giám đốc danh dự: Kenny Dalglish
Giám đốc hoạt động: Andrew Parkinson
Giám đốc truyền thông: Susan Black
Lãnh đạo văn phòng truyền thông: Matthew Baxter
Giám đốc trông coi sân: Dave Fallows
Trưởng trông coi sân: Barry Hunter
Giám đốc kỹ thuật: Michael Edwards
Nhân viên trông coi sân chính: Dave McCulloch
Quản lý sân vận động: Ged Poynton
Nguồn:
Huấn luyện viên và nhân viên y tế
Huấn luyện viên trưởng: Jürgen Klopp
Trợ lý huấn luyện viên chính: Pepijn Lijnders, Peter Krawietz
Huấn luyện viên phát triển tính ưu tú: Vitor Matos
Huấn luyện viên thủ môn đội chuẩn: John Achterberg
Trợ lý huấn luyện viên thủ môn đội chuẩn: Jack Robinson
Huấn luyện viên thể chất: Conall Murtagh, Tom King
Trợ lý huấn luyện viên thể chất: Jordan Fairclough
Trưởng phòng thể hình & điều dưỡng: Andreas Kornmayer
Huấn luyện viên ném biên: Thomas Grønnemark
Trưởng vật lý trị liệu: Lee Nobes
Trợ lý sức lực & phục hồi chức năng: David Rydings
Trưởng phòng dịch vụ y tế: Andrew Massey
Huấn luyện viên phục hồi thể hình: Philipp Jacobsen
Xoa bóp: Paul Small, Sylvan Richardson
Chuyên gia vật lý trị liệu: Christopher Rohrbeck, Richie Partridge, Jose Luis Rodriguez, Joe Lewis
Nhà trị liệu thể thao: Pedro Philippou
Chuyên gia tư vấn dinh dưỡng: Mona Nemmer
Tư vấn khoa học trong thể thao: Barry Drust
Nhà phân tích hiệu suất: James French
Nhà phân tích tuyển trạch viên và tuyển dụng: Kyle Wallbanks
Điều phối viên quản lý: Lee Radcliffe, Graham Carter
Giám đốc học viện: Alex Inglethorpe
HLV U-23: Neil Critchley
Huấn luyện viên đội dự bị: Rodolfo Borrell
Theo dõi kỹ thuật - đối phương: Greg Mathieson
Phân tích trước trận: Mark Leyland
Nguồn:
Danh sách huấn luyện viên và những thành tích
Thống kê danh sách HLV và thành tích đạt được (không tính Giải hạng nhất)
Thành tích
Liverpool là một trong những câu lạc bộ giàu truyền thống nhất nước Anh xét trên bình diện quốc tế. Năm 1901, họ vô địch giải vô địch quốc gia lần đầu tiên, và chiếc cúp FA đầu tiên họ giành được là vào năm 1965. Ở thập niên 80, Liverpool đã gặt hái được rất nhiều thành công, như 6 Giải vô địch quốc gia, 2 Cup FA, 4 League Cup, 5 Siêu cúp Anh, 1 Football League Super Cup và 2 Cúp C1.
Liverpool được mệnh danh là "Vua đấu Cúp của nước Anh" bởi số danh hiệu CLB đạt được chỉ trong một mùa giải như cú ăn 2 FA Cup và League Cup năm 1986, vô địch quốc gia lẫn châu Âu vào năm 1977 và 1984. Liverpool cũng có vị trí kết thúc giải đấu trung bình cao nhất (3,3) trong giai đoạn 50 năm đến 2015 và vị trí kết thúc giải đấu trung bình cao thứ hai trong giai đoạn 1900-1999 sau Arsenal, với tỷ lệ trung bình là 8,7. Và đáng nói nhất là cú ăn ba đấu cúp vào năm 2001 khi câu lạc bộ giành chiến thắng ở ba đấu trường Cup FA, League Cup và UEFA Cup.
Với chức vô địch Champions League vào năm 2019, Hiện Liverpool tiếp tục giữ kỉ lục của nước Anh khi 6 lần vô địch châu Âu. Đội cũng đồng thời lập kỉ lục là đội bóng Anh thứ hai giành được 3 danh hiệu cấp độ châu lục, với chức vô địch UEFA Champions League, Siêu Cup châu Âu, FIFA Club World Cup sau Manchester United.
Quốc nội
Giải vô địch quốc gia
First Division/Premier League
Vô địch (19): 1900–01, 1905–06, 1921–22, 1922–23, 1946–47, 1963–64, 1965–66, 1972–73, 1975–76, 1976–77, 1978–79, 1979–80, 1981–82, 1982–83, 1983–84, 1985–86, 1987–88, 1989–90, 2019–20
Second Division
Vô địch (4): 1893–94, 1895–96, 1904–05, 1961–62
Lancashire League
Vô địch (1): 1892–93
Giải đấu cúp
Cúp FA Vô địch (8): 1964–65, 1973–74, 1985–86, 1988–89, 1991–92, 2000–01, 2005–06, 2021–22
Cúp Liên đoàn Anh/Cúp EFL Vô địch (9): 1980–81, 1981–82, 1982–83, 1983–84, 1994–95, 2000–01, 2002–03, 2011–12, 2021–22
Football League Super Cup Vô địch (1): 1985–86
FA Charity Shield/FA Community Shield Vô địch (16): 1964*, 1965*, 1966, 1974, 1976, 1977*, 1979, 1980, 1982, 1986*, 1988, 1989, 1990*, 2001, 2006, 2022 (* đồng danh hiệu)
Sheriff of London Charity Shield Vô địch (1): 1906
Châu Âu
Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League Vô địch (6): 1976–77, 1977–78, 1980–81, 1983–84, 2004–05, 2018–19
Cúp UEFA Vô địch (3): 1972–73, 1975–76, 2000–01
Siêu cúp châu Âu Vô địch (4): 1977, 2001, 2005, 2019
Toàn cầu
FIFA Club World Cup Vô địch (1): 2019
Những cú ăn hai và ăn ba
Cú ăn hai: League và Cúp FA (1): 1985–86
League và Cúp Liên đoàn (2): 1981–82, 1982–83
League và Cúp C1 châu Âu (1): 1976–77
League và Cúp UEFA (2): 1972–73, 1975–76
Cúp Liên đoàn và Cúp C1 châu Âu (1): 1980–81
Cúp FA và Cúp Liên đoàn (1): 2021–22
Cú ăn ba: League, Cúp Liên đoàn và Cúp C1 châu Âu (1): 1983–84
Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA (1): 2000–01
Kỷ lục, thống kê và chuyển nhượng
Ian Callaghan giữ thành tích là người ra sân nhiều nhất cho Liverpool với 857 trận trong 19 mùa giải, từ năm 1958 tới năm 1978; và giữ kỉ lục ra sân ở giải vô địch quốc gia với 640 lần. Cầu thủ chơi nhiều thứ nhì cho đội bóng là Jamie Carragher, với 737 lần ra sân tính đến cuối tháng 5 năm 2013.
Người ghi nhiều bàn thắng nhất cho Liverpool trong lịch sử đó là Ian Rush, người ghi 346 bàn cho đội bóng trong giai đoạn 1980–1987 và 1988–1996. Rush đồng thời giữ kỉ lục người ghi nhiều bàn nhất trong một mùa giải với thành tích 47 bàn ở mùa 1983-84. Tuy nhiên, Rush không thể vượt qua Roger Hunt về thành tích ghi bàn tại giải vô địch quốc gia cho đội bóng, hiện là 245 bàn (của Rush là 229). Trong mùa giải 1961-62, Hunt ghi 41 bàn, đó là kỉ lục của đội bóng về số bàn ghi tại giải vô địch quốc gia trong một mùa. Gordon Hodgson - người ghi nhiều bàn thứ ba trong lịch sử đội bóng với 241 bàn; ông lập được 17 hattrick - một kỷ lục của đội bóng. Số bàn thắng nhiều nhất mà một cầu thủ ghi trong một trận đấu là 5; John Miller, Andy McGuigan, John Evans, Ian Rush và Robbie Fowler đều đã đạt được thành tích này. Fowler cũng giữ kỉ lục của đội bóng và Giải Ngoại hạng Anh về thời gian lập một cú hattrick: ông ghi 3 bàn trong 4 phút 32 giây, trong trận gặp Arsenal mùa giải 1994-95. Steven Gerrard là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Liverpool tại đấu trường châu Âu với 38 bàn.
Trận đấu chính thức đầu tiên của Liverpool là chiến thắng 8-0 tại Giải Lancashire League trước đối thủ Higher Walton. Chiến thắng đậm nhất của Liverpool là 11-0 trước Strømsgodset IF vào năm 1974. Trận thắng 10-1 trước Rotherham Town vào năm 1896 là trận thắng đậm nhất của họ tại giải vô địch quốc gia. Khoảng cách này được lập lại trong trận gặp Crystal Palace khi họ thắng 9-0 ở Anfield vào năm 1989. Trận thua đậm nhất của Liverpool là 1-9 trước Birmingham vào năm 1954. Chiến thắng 8-0 của Liverpool trước Beşiktaş J.K. ở Cúp C1 là chiến thắng đậm nhất trong lịch sử của giải đấu này.
Thống kê
Top 10 cầu thủ ra sân nhiều nhất
Top 10 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất
Chuyển nhượng
Liverpool kể từ giai đoạn suy thoái sau chức vô địch UEFA Champions League vào năm 2005 thường bị đánh giá là một gã hề trên thị trường chuyển nhượng. Với việc quản lý kém cỏi, sự keo kiệt trong việc chi tiêu đầu tư và khoảng nợ lớn đến từ 2 ông chủ Tom Hicks và George Gilletl đã khiến đội bóng mất hút vào mỗi phiên chợ hè. Trong bối cảnh kình địch Manchester United mua sắm ồ ạt trên thị trường, còn Chelsea và Manchester City thì luôn được các ông chủ sở hữu giàu có bơm tiền để mang lại những vinh quang, thì Liverpool vẫn ngập lặn và chỉ có thể thu về những cầu thủ hạng trung không đủ sức cạnh tranh. Đã có thời điểm vào năm 2009, hàng thủ của câu lạc bộ Liverpool đang ở giai đoạn khủng hoảng khi trung vệ Daniel Agger dính chấn thương, huấn luyện viên của câu lạc bộ khi ấy là ông Rafael Benitez đã gặp BHL để yêu cầu mua thêm cầu thủ ở vị trí hàng thủ. Kết quả ông chỉ nhận được khoản tiền 1,5 triệu bảng để mang về hậu vệ vốn không mấy tên tuổi, Sotirios Kyrgiakos. Kể cả sau khi Liverpool đã chính thức đổi chủ sang Tập đoàn thể thao Fenway Sport Group, đội bóng vẫn liên t iếp mắc sai lầm trong việc mua bán. Sau khi bán đi tiền đạo Fernando Torres cho Chelsea với mức giá 50 triệu bảng vào năm 2011, đội bóng vùng Merseyside đã ký hợp đồng với 2 tiền đạo khác là Luis Suarez và Andy Carroll. Tuy nhiên chỉ một trong số đó tỏa sáng. Người đắt giá hơn, Andy Carroll (35 triệu bảng) đã không đóng góp vào lối chơi chung của đội bóng. Một ví dụ điển hình khác, sau khi kết thúc mùa giải 2013-14 với vị trí Á quân tại Premier League, do những scandal tại World Cup 2014, tiền đạo Luis Suarez đá được bán cho Barcelona với mức phí 75 triệu bảng. Tuy nhiên thay vì đầu tư vào những bản hợp đồng bom tấn khỏa lấp vị trí của tiền đạo người Uruguay để lại, Liverpool đã liên tục mắc sai lầm khi đem về hàng loạt những cầu thủ không mang lại chiều sâu cho đội bóng: Lazar Markovic, Mario Balotelli, Rickie Lambert với mức phí tổng cộng 40 triệu bảng. Sau đó những cầu thủ này đều phải cuốn gói khỏi sân Anfield sau những mùa bóng thất vọng.
Tuy nhiên mọi thứ chỉ thực sự thay đổi khi huấn luyện viện Jurgen Klopp đến sân Anfield và Michael Edwards được bổ nhiệm vào vị trí giám đốc thể thao. Tại đây những bản hợp đồng có chiều sâu mới thực sự nổ ra cùng với chiến lược mua bán thông minh. Sau khi kết thúc mùa giải 2015-16 với những khả quan nhất định: lọt vào chung kết League Cup và chung kết Europa League. Jurgen Klopp và giám đốc Edwards đã nhận thấy đội bóng cần những bản hợp đồng chất lượng hơn để vực dậy khỏi giai đoạn khủng hoảng hơn một thập kỷ. Tiền đạo Sadio Mane đã được mang về trước sự cạnh tranh của Manchester United. Bên cạnh đó, một phong cách chuyển nhượng mới của Liverpool được hình thành. Đó là rút ruột trụ cột của những đội bóng đã xuống hạng với mức phí hợp lý. Thương vụ đầu tiên điển hình là tiền vệ người Hà Lan, Georginio Wijnaldum. Anh vốn đóng vai trụ cột của Newcatsle United mùa giải trước đó, nhưng việc phải xuống chơi ở Giải hạng Nhất đã giúp cho Liverpool nhanh chóng lấy đi trung tâm tuyến giữa với mức phí rẻ bèo 23 triệu bảng. Trường hợp tiếp theo là hậu vệ trái Andy Robertson từ câu lạc bộ Hull City với giá trị 8 triệu bảng. Cùng với đội ngũ phân tích cùng hàng trăm bài báo cáo về hàng nghìn cầu thủ trên thế giới để tìm ra những nhân tố phù hợp cho lối chơi chung của câu lạc bộ. Trong mùa giải đó Liverpool đã bổ sung thêm 3 bản hợp đồng quan trọng khác là tiền đạo Mohamed Salah, tiền vệ Oxlade-Chamberlain và trung vệ Virgil van Dijk. Những sự bổ sung ấy đã giúp Liverpool lọt vào trận chung kết UEFA Champions League và chỉ thất bại trước Real Madrid. Việc Loris Karius mắc sai lầm khiến cho The Kop mất chức vô địch về tay đội bóng Madrid, Liverpool cần một vị trí gác đền mới. Thủ môn số một của đội tuyển Brazil, Alisson Becker đã được mang về cùng với một đồng hương khác, Fabinho thay thế cho Emre Can đã ra đi. Trước đó tiền vệ Fabinho vốn được báo chí rầm rộ rằng anh nhận được sự theo đuổi gắt gao từ Manchester United và không hề có một thông tin nào về việc Liverpool theo đuổi anh. Sau cùng giám đốc thể thao Michael Edwards đã mang anh về đội bóng trong sự ngỡ ngàng. Dưới sự huấn luyện của Jurgen Klopp, chất lượng của những bản hợp đồng mà Edwards đã mang lại cùng tài năng của các cầu thủ đã mang về chức vô địch châu Âu lần thứ 6 cho câu lạc bộ. Chỉ đúng 1 năm sau thất bại tại Kiev trước Real Madrid. Liverpool tiếp tục gặt hát vinh quang khi vô địch Premier League sau 30 năm chờ đợi mà không bổ sung nhiều vào mùa hè trước đó bởi chiều sâu đội hình vốn được đáp ứng. Mùa hè 2020, câu lạc bộ không thể mua được Jamal Lewis từ Norwich City khi đội bóng vừa xuống hạng yêu cầu mức phí 20 triệu bảng. Ngay lập tức The Kop đã mang về hậu vệ Tsimikas trong chưa đầy 48 tiếng khi bị từ chối. Trong bối cảnh dịch Covid khiến nhiều đội bóng lâm nguy về tài chính, tài năng đàm phán của Michael Edwards lại được thể hiện. Ông mang về tiền vệ nhạc trưởng Thiago Alcantara từ Bayern Munich với mức phí 20 triệu bảng dù đội đương kim vô địch châu Âu luôn thể hiện quan điểm cứng rắn, chỉ cho phép Thiago ra đi khi nhận đủ 30 triệu bảng. Sau khi mang về nhạc trưởng người Tây Ban Nha, Liverpool tiếp tục ra mắt tân binh Diogo Jota từ Wolverhampton dù chẳng có một thông tin hay tờ báo nào cho thấy Liverpool đang theo đuổi tiền đạo này cả. Cả hai bản hợp đồng Thiago Alcantara và Diogo Jota đều được thanh toán dưới hình thức trả góp. Với năm đầu Thiago là 5 triệu bảng và Diogo Jota trả trước 10% là 4.1 triệu bảng, như vậy Lữ đoàn đỏ chỉ tốn 9.1 triệu bảng để mang về những tân binh chất lượng cho việc bảo vệ ngôi vương.
Ngoài việc mua cầu thủ, Michael Edwards đã giúp câu lạc bộ cải thiện tình hình ngân sách đội bóng khi bán đi những cầu thủ không còn muốn cống hiến cho câu lạc bộ với mức giá cao. Điển hình là Philippe Coutinho (120 triệu bảng, số tiền đó đã dùng để tái đầu tư cho thương vụ Virgil van Dijk và Alisson), Dominic Solanke (19 triệu bảng), Danny Ings (20 triệu bảng), Ki-Jana Hoever (10 triệu bảng), Mamadou Sakho (24 triệu bảng), Christian Benteke (27 triệu bảng). Liverpool đã thu về tổng cộng 196 triệu bảng trong khi trước đó chỉ chi ra 70 triệu bảng để mang về các cầu thủ trên. Như vậy với việc thay đổi chiến lược mua sắm trên thị trường chuyển nhượng đã mang lại sự phục hưng cho câu lạc bộ và những vinh quang khác.
Kỷ lục mua cầu thủ
Kỉ lục bán cầu thủ
Những trận đấu
Những trận đầu tiên
Trận đầu tiên: Liverpool 7-1 Rotherham Town, trận giao hữu, 01 tháng 9 năm 1892.
Trận đầu tiên tại giải Lancashire League: Liverpool 8-0 Higher Walton, 03 tháng 9 năm 1892.
Trận đầu tiên tại giải quốc gia: Liverpool 2-0 Middlesbrough Ironopolis, giải giải hạng nhì Anh, 02 tháng 9 năm 1893.
Trận đầu tiên tại cúp FA: Liverpool 3-0 Grimsby Town, vòng 1, 27 tháng 1 năm 1894.
Trận đầu tiên tại cúp Liên đoàn Anh: Liverpool 1-1 Luton Town, vòng 2, 19 tháng 10 năm 1960.
Trận đầu tiên tại cúp châu Âu: Liverpool 6-0 KR Reykjavik, Cúp C1, vòng 1, 17 tháng 8 năm 1964.
Những trận thắng
Kỷ lục thắng đậm: 11-0 trận đấu với Strømsgodset tại cúp C2, 17 tháng 9 năm 1974.
Chiến thắng đậm nhất tại giải quốc gia: 10-1 trận đấu với Rotherham Town, giải hạng nhì Anh, 18 tháng 2 năm 1896.
Chiến thắng đậm nhất tại cúp C1: 8-0 trận đấu với Beşiktaş, 6 tháng 11 năm 2007.
Nhiều trận thắng nhất trong 1 mùa giải tại giải vô địch Anh: 30 trận thắng trong 42 trận, mùa giải 1978-79.
Ít trận thắng nhất trong 1 mùa giải tại giải vô địch Anh: 7 trận thắng trong tổng số 30 trận, mùa giải 1894-1895.
Những trận thua
Trận thua đậm nhất: 1-9 trận đấu với Birmingham City tại giải giải hạng nhì Anh, 11 tháng 12 năm 1954.
Trận thua đậm nhất tại Anfield: 2-6 trận đấu với Sunderland tại giải vô địch Anh, 19 tháng 4 năm 1930.
Trận thua có nhiều bàn thắng nhất: 2-9 trận đấu với Newcastle United tại giải vô địch Anh, 1 tháng 1 năm 1934.
Nhiều trận thua nhất trong một mùa giải: 24 trận thua trên 42 trận đấu, mùa giải 1953-54.
Ít trận thua nhất trong một mùa giải: bất bại 37 trận đấu, mùa giải 2018-19.
Những bàn thắng
Nhiều bàn thắng nhất tại giải quốc gia: 106 bàn trong 30 trận đấu, giải hạng nhì Anh mùa giải 1895-96.
Ít bàn thắng nhất tại giải quốc gia: 42 trong 34 và 42 trận đấu, giải vô địch Anh, mùa giải 1901-02 và 1970-71.
Nhiều bàn thua nhất tại giải quốc gia: 97 trong 42 trận đấu, giải vô địch Anh mùa giải 1953-54.
Ít bàn thua nhất tại giải quốc gia: 16 trong 42 trận đấu, giải vô địch Anh mùa giải 1978-79.
Những điểm số
Nhiều điểm nhất trong 1 mùa giải:
1 chiến thắng giành 2 điểm: 68 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1978-79.
1 chiến thắng giành 3 điểm:
90 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1987-88.
99 trong 38 trận đấu tại giải Ngoại Hạng Anh, mùa giải 2019-20.
Ít điểm nhất trong 1 mùa giải:
1 chiến thắng giành 2 điểm: 22 trong 30 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1894-95.
1 chiến thắng giành 3 điểm:
59 trong 42 trận đấu tại giải vô địch Anh, mùa giải 1992-93.
54 trong 38 trận đấu tại giải Ngoại hạng Anh, mùa giải 1998-99.
Khán giả tại Anfield
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận: 61.905 (trận đấu với Wolverhampton Wanderers, FA Cup vòng 5, mùa giải 1951-52).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận giải quốc gia: 58.757 (trận đấu với Chelsea, giải vô địch Anh mùa giải 1949-50).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận cúp Liên đoàn Anh: 50.880 (trận đấu với Nottingham Forest, mùa giải 1979-80).
Lượng khán giả đông nhất trong 1 trận cúp châu Âu: 55.104 (trận đấu với FC Barcelona, mùa giải 1975-76).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận: 1.000 (trận đấu với Loughborough, giải hạng nhì mùa giải 1895-96).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp FA: 4.000 (trận đấu với Newton, mùa giải 1892-93).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp Liên đoàn Anh: 9.902 (trận đấu với Brentford, mùa giải 1983-84).
Lượng khán giả ít nhất trong 1 trận cúp châu Âu: 12.021 (trận đấu với Dundalk, mùa giải 1982-83).
Chú thích
Ghi chú
Đọc thêm
Liên kết ngoài Trang web chính thức''':
Website chính thức của Liverpool F.C.
Liverpool
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1892
Câu lạc bộ bóng đá Anh
Vô địch Cúp FA
Câu lạc bộ Premier League
Khởi đầu năm 1892 ở Anh
Vô địch Cúp EFL
Câu lạc bộ English Football League
Lancashire League (bóng đá) |
Cúp bóng đá châu Phi 2006 là Cúp bóng đá châu Phi lần thứ 25, được tổ chức tại Ai Cập từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2 năm 2006. Chủ nhà Ai Cập giành chức vô địch lần thứ 5 sau khi vượt qua Bờ Biển Ngà 4-2 trên chấm 11m sau 120 phút thi đấu chung kết với tỉ số không bàn thắng.
Vòng loại
Vòng loại của giải diễn ra từ 10 tháng 3 năm 2003 đến 8 tháng 10 năm 2005. Khác với những giải trước, giải này không có vòng sơ loại. Do đó vòng loại chia ra nhiều bảng hơn gồm 49 đội chia làm 5 bảng để chọn lấy 13 đội đầu bảng và đội thứ nhì có thành tích tốt nhất vào vòng chung kết cùng đương kim vô địch Cameroon và chủ nhà Tunisia. Vòng loại này cùng là vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006.
Các đội tham dự
Cầu thủ tham dự
Địa điểm
Vòng bảng
Đội in màu xanh lục giành quyền vào tứ kết.
'Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+2)''
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Vòng đấu loại trực tiếp
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Vô địch
Danh sách cầu thủ ghi bàn
5 bàn
Samuel Eto'o
4 bàn
Ahmed Hassan
Pascal Feindouno
Francileudo dos Santos
3 bàn
Emad Moteab
Flávio
Didier Drogba
2 bàn
Mohamed Aboutreika
Albert Meyong Ze
Ousmane Bangoura
Kaba Diawara
Obafemi Martins
Henri Camara
Mamadou Niang
1 bàn
Norberto Maurito
Geremi
Lomana LuaLua
Tresor Mputu
Arouna Koné
Bakari Koné
Yaya Touré
Hossam Hassan
Mido
Amr Zaki
Baba Adamu
Matthew Amoah
Sambégou Bangoura
Abdusalam Khames
Garba Lawal
John Obi Mikel
Victor Nsofor Obinna
Christian Obodo
Taye Ismaila Taiwo
Issa Ba
Souleymane Camara
Papa Bouba Diop
Mohamed Kader
Mamam Cherif Touré
Selim Ben Achour
Riadh Bouazizi
Karim Haggui
James Chamanga
Christopher Katongo
Elijah Tana
Benjani Mwaruwari
phản lưới nhà
Abdel-Zaher El-Saqua (trong trận gặp )
Issah Ahmed (trong trận gặp )
Đội hình tiêu biểu
Thủ môn
Essam El-Hadary
Hậu vệ
Emmanuel Eboué
Rigobert Song
Wael Gomaa
Taye Taiwo
Tiền vệ
Stephen Appiah
Mohamed Aboutreika
Ahmed Hassan
Pascal Feindouno
Tiền đạo
Didier Drogba
Samuel Eto'o |
{{Bảng phân loại
| image = Hoa đậu xanh.jpg
| image_caption = Cây đậu xanh đang trổ hoa và trái non
| image_width = 250px
| regnum = Plantae
| unranked_divisio = Angiospermae
| unranked_classis = Eudicots
| unranked_ordo = Rosids
| ordo = Fabales
| familia = Fabaceae
| subfamilia = Faboideae
| tribus = Phaseoleae
| subtribus = Phaseolinae
| genus = Vigna
| species = V. radiata
| binomial = Vigna radiata
| binomial_authority = (L.) R. Wilczek
| synonyms =
}}Đậu xanh hay đỗ xanh theo phương ngữ miền Bắc (danh pháp khoa học: Vigna radiata) là một loại đậu có kích thước hạt nhỏ, đường kính khoảng 2–2,5 mm. Ở Việt Nam, đậu xanh là loại đậu thường được sử dụng để làm xôi, làm các loại đồ ăn như: Bánh khọt, bánh đậu xanh, bánh ngọt, chè; hoặc được ủ cho lên mầm để làm thức ăn (giá đỗ).
Đặc điểm
Cây đậu xanh là loại cây thân thảo, mọc đứng, chiều cao khoảng 50 cm. Lá có lông ở cả 2 mặt. Hoa nở ở nách lá và có màu vàng lục. Quả đậu xanh hình trụ, mảnh và có lông, bên trong chứa nhiều hạt có hình trụ ngắn, màu xanh, ruột vàng và có mầm ở giữa.
Lá mọc kép 3 chia, có lông hai mặt. Hoa màu vàng lục mọc ở kẽ lá. Quả hình trụ thẳng, mảnh nhưng số lượng nhiều, có lông, trong chứa hạt hình tròn hơi thuôn, kích thước nhỏ, màu xanh, ruột màu vàng, có mầm ở giữa.
Loài Vigna radiata gồm các thứ:
V. radiata var. grandiflora;
V. radiata var. radiata
V. radiata var. sublobata
Giá trị dinh dưỡng
Theo một số phân tích hàm lượng, trong khoảng 202 gr đậu xanh luộc chứa các thành phần dinh dưỡng:
Calo: 212
Chất béo: 0,8g
Protein: 14,2g
Chất xơ: 15,4g
Folat (B9): 80% DV
Mangan: 30% DV
Magnesi: 24% DV
Vitamin B1: 22% DV
Phosphor: 20% DV
Sắt: 16% DV
Đồng: 16% DV
Kali: 15% DV
Kẽm: 11% DV
(DV (Daily Value): Lượng tiêu thụ khuyến nghị hằng ngày)
Ngoài các vitamin và khoáng chất trên, đậu xanh còn chứa nhiều vitamin B2, B3, B5, B6 , selen, flavonoid và carotenoid. Loại đậu này cũng chứa nhiều các loại axit amin thiết yếu như isoleucine, valine, lysine, phenylalanine, leucine, arginine, ...
Tác dụng
Đối với sức khỏe:
Giúp hạn chế sốc nhiệt
Đậu xanh vị ngọt, hơi tanh, tính hàn, không độc, bổ nguyên khí, thanh nhiệt mát gan. Nhờ những chất chống oxy hóa Vitexin và Isovitexin trong đậu xanh có thể giúp bảo vệ tế bào khỏi các tổn thương do sốc nhiệt. Thích hợp với các bệnh nhân bị say nắng, miệng khát, người nóng, thấp nhiệt, ung nhọt,...
Hỗ trợ giảm huyết áp, phòng ngừa bệnh tim
Kali và protein trong đậu xanh có thể ức chế các enzym làm tăng huyết áp một cách tự nhiên, từ đó giúp giảm huyết áp. Trong đậu xanh còn có thành phần chất xơ cao giúp làm giảm lượng cholesterol trong cơ thể bằng cách giảm bớt sự hấp thu chất béo, duy trì mức cholesterol trong mức cho phép. Nó còn giúp cho cơ thể phòng chống chứng xơ cứng động mạch và bệnh cao huyết áp, đồng thời có công hiệu bảo vệ gan và giải độc.
Ngăn ngừa một số bệnh mãn tính, ung thư, tăng cường hệ miễn dịch
Trong đậu xanh chứa nhiều chất chống oxy hóa lành mạnh như axit phenolic, flavonoid, axit caffeic, axit cinnamic... Các nghiên cứu trong ống nghiệm in vitro chỉ ra rằng các chất chống oxy hóa từ đậu xanh này có thể giảm sự phát triển ung thư ở phổi và dạ dày do gốc tự do; tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, giảm tái phát u xơ tuyến tiền liệt. Hàm lượng chất xơ cao trong đậu xanh giúp hỗ trợ hệ thống tiêu hóa duy trì ổn định, giảm áp lực lên đường ruột, từ đó cũng phòng ngừa ung thư đại tràng và ung thư đường tiêu hóa.
Hỗ trợ hệ tiêu quá, dạ dày, giảm cân
Chất xơ trong đậu xanh có tác dụng hỗ trợ tăng tốc độ tiêu hóa thức ăn, giảm trào ngược axit dạ dày thực quản, trĩ, táo bón. Không những vậy, chất kháng tinh bột trong đậu xanh còn có ích cho lợi khuẩn đường ruột. Các lợi khuẩn này sẽ tiêu hóa kháng tinh bột và biến loại tinh bột này thành các axit béo chuỗi ngắn như butyrate có chức năng nuôi dưỡng các tế bào ruột già, tăng cường khả năng miễn dịch đường ruột và thậm chí làm giảm nguy cơ ung thư ruột già.
Đối với những người có mong muốn giảm cân, giữ dáng, khi ăn các loại đậu sẽ giúp cảm thấy no hơn 31% so với khi ăn mì ống hay bánh mì. Vậy nên, nhờ vào hàm lượng chất xơ cao của đậu xanh mà bạn có thể kiểm soát cơn đói và giảm lượng calo nạp vào, từ đó giảm cân dễ dàng hơn.
Trong đời sống hàng ngày
Đậu xanh được dùng làm rất nhiều món như nấu canh, chè, làm bánh, xay thành bột làm miến, rang vàng tán bột làm thực phẩm ngũ cốc dinh dưỡng. Hạt đậu xanh còn được làm giá đỗ. Lá đậu xanh có thể tận dụng làm dưa nhưng không phổ biến. Vỏ đậu xanh có tính nóng nên nhiều người thường nấu cả vỏ
Chữa tiêu chảy nôn mửa: Đậu xanh rang vàng 100g, muối rang 10g, hạt tiêu 50g. Tán bột trộn chung cho đều cất kín vào trong lọ. Người lớn mỗi lần uống 7g, cách nhau 3giờ
Giải say rượu: Nấu cháo đậu xanh để nguội, cho ăn liền vài bát hoặc nhai một nắm lá sống đã rửa sạch thật kỹ rồi nuốt
Trị trúng nắng: Đậu xanh vo sạch, cho vào nồi, đổ nước đun sôi qua, chắt lấy nước, để nguội rồi uống. Tác dụng của nước đậu sẽ kém đi nếu nấu quá đục..
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Nấu canh đậu xanh 200g cùng 2 quả lê và củ cải 250g ăn hàng ngày trong một liệu trình 10 ngày liên tục
Phòng bệnh sởi: Đậu xanh 30g sắc cùng rễ cỏ tranh tươi 30g với 700ml nước, chia ra 3 phần uống trong ngày, dùng liên tục trong 3 ngày
Tác dụng phụ
Tuy không phải là tất cả nhưng một số người có thể gặp phải tác dụng phụ, hiện tượng dị ứng khi ăn đậu xanh.
Chất axit phytic liên kết với canxi, kẽm và các khoáng chất quan trọng khác và ngăn cản hấp thụ các chất này gây nên sự thiếu hụt dinh dưỡng
Lectin là các protein gắn kết carbohydrate tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm nhưng thường có trong các loại đậu, có thể gây cảm giác khó tiêu khi dung nạp quá nhiều. Tương tự acid phytic, nên nấu chín, mềm đậu xanh để giảm lượng lectin
Đối với một số người, vỏ các loại đậu bao gồm cả đậu xanh, nếu không được nấu kỹ hoặc loại bỏ cũng gây ảnh hưởng không tốt tới hệ tiêu hóa
Một vài hình ảnh |
Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam Tống gọi 3 nhà nước của nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý từ 975 đến 1164.
Từ nguyên
Hiện có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của địa danh Giao Chỉ. Sau đây là một số thuyết giải nghĩa dân gian (folk etymology) dựa trên các văn liệu, sử liệu thời cổ:
Theo thiên Vương Chế (王制) trong Lễ ký (禮記), hai chữ Giao Chỉ (交趾) được dùng để mô tả đặc điểm ngoại hình của các tộc Nam Man, và có thể được giải nghĩa là "chân trẹo hướng vào nhau" (James Legge) hoặc "ngón chân cái... bắt chéo" (James M. Hargett).
Hậu Hán Thư (後漢書) dẫn đoạn tương tự trong Lễ ký, nhưng lại giải nghĩa Giao Chỉ là phong tục tắm chung sông của nam nữ xứ đó.
Đỗ Hựu trong bộ Thông điển cho rằng: "Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)".
Bộ Thái bình ngự lãm (太平御覽) thời nhà Tống trích lời của sử gia Ưng Thiệu (應劭) trong Hán quan nghi (漢官儀) rằng: "Vũ Hoàng Đế nam bình Bách Việt [...] đặt Giao Chỉ (交阯) [...] khai thủy ở phương Bắc, toại giao (交) ở phương Nam, vì tử tôn cơ chỉ (阯) tại đó."
Dưới đây là một vài ý kiến của các học giả phương Tây về vấn đề từ nguyên Giao Chỉ:
Theo nhà ngôn học Michel Ferlus (2009), chữ Giao trong Giao Chỉ (交趾), tộc danh của người Lào (lǎo 獠), và người Cờ Lao (仡佬) có dạng từ nguyên được phỏng đoán là *k(ə)ra:w. Người Lào xưa gọi người Kinh là Keo/ Kæw kɛːwA1, hiện nay mang hàm ý hơi miệt thị sắc tộc. Người Pu Péo gọi người Tày (Thái Trung tâm) ở Bắc Việt Nam trong tiếng Pu Péo (thuộc chi Kra) là kew.
Nhà ngôn học nhân chủng Frederic Pain (2008) đề xuất rằng *k(ə)ra:w có nghĩa là "con người", và gốc rễ của từ này nằm trong ngữ hệ Nam Á: ông chỉ ra sự tương đồng của nó với căn tố địa phương *trawʔ , có nghĩa là củ taro. Căn tố tổ tiên này phái sinh thành nhiều từ khác nhau trong các nhánh Nam Á, chẳng hạn: nhánh Môn có krao của khẩu ngữ Môn và traw của tiếng Nyah Kur; nhánh Palaung có kraɷʔ của tiếng Tung-wa và klao của tiếng Sem; nhánh Cơ-Tu có raw của tiếng Ong và ʰraw của tiếng Souei. Theo Pain, điều này hàm ý "một phương thức canh tác cụ thể được áp dụng bởi các cộng đồng Môn-Khmer có nông nghiệp quy mô nhỏ — trái ngược với các xã hội trồng ngũ cốc phức tạp và tân tiến hơn.”
Chú ý rằng từ taro trong tiếng Anh vốn dĩ là một từ mượn của tiếng Maori Nam Đảo, và nó có thể được dịch sang tiếng Việt thành các loại củ khác nhau như khoai môn, khoai nước hoặc khoai sọ. Thành tố sọ trong khoai sọ đã được Mark Alves (2020) phục nguyên như sau:
Chuyên gia về ngôn ngữ Kra-Dai James R. Chamberlain (2016) cũng cho rằng chữ Giao và tộc danh Lào rất có thể là hai từ đồng nguyên (cognate). Chamberlain, đồng ý kiến với nhà nghiên cứu Joachim Schlesinger, cho rằng tiếng Việt ban đầu không phải là thổ ngữ của đồng bằng sông Hồng. Theo họ, vùng châu thổ sông Hồng vốn là nơi sinh sống của người Tai, và rằng khu vực này chỉ bắt đầu nói tiếng Việt từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9 CN, hoặc thậm chí muộn hơn vào thế kỷ thứ 10, do người nói tiếng Việt di cư lên từ phía nam, tức là từ vùng Bắc Trung Bộ hiện đại. Theo ghi chép đời Hán-Đường, phía đông Giao Chỉ và bờ biển Quảng Đông, Quảng Tây là nơi cư trú của cộng đồng nói tiếng Tai-Kadai (người Trung Quốc đương thời gọi họ là 俚 và 獠). Catherine Churchman đề xuất rằng chữ 獠 là phiên âm rút gọn của một danh xưng bản địa; nhận thấy rằng các từ 鳩獠 Qiūlǎo, 狐獠 Húlǎo và 屈獠 Qūlǎo được phục nguyên ngữ âm lần lượt là *kɔ-lawʔ, *ɣɔ-lawʔ và *kʰut-lawʔ trong giai đoạn tiếng Hán trung cổ, bà phỏng đoán danh xưng giả định phiên âm bởi từ 獠 là *klao, có lẽ liên quan đến từ klao "người" trong các ngôn ngữ Kra, hoặc là hình vị ghép của tiền tố k- chỉ "người" với đại từ *rəu số nhiều ngôi nhất "chúng tôi" của tiếng Tai nguyên thủy, có nghĩa là "dân tộc chúng tôi". Mặc dầu vậy, Michael Churchman thừa nhận rằng "Chẳng có một sử liệu nào chép về sự biến chuyển dân số quy mô lớn, điều đó chứng tỏ một quần thể dân cư nói tiếng Nam Á tổ tiên của tiếng Việt đã tồn tại tương đối ổn định ở Giao Chỉ suốt thời Hán-Đường." Các bằng chứng khảo cổ cũng chứng tỏ người Việt mới là dân tộc kế thừa văn hóa Đông Sơn có phạm vi tại đồng bằng sông Hồng, và do vậy, tổ tiên người Việt đã sinh sống ở đồng bằng sông Hồng từ lâu.
Lịch sử
Thời Văn Lang
Giao Chỉ nguyên là tên gọi của một bộ trong số 15 bộ của nước Văn Lang thời xưa. Bộ Giao Chỉ thời Hùng Vương tương đương miền Hà Nội ngày nay và miền hữu ngạn sông Hồng.
Thời Bắc thuộc
Lần thứ nhất
Triệu Đà sau khi thôn tính Âu Lạc đã chia Âu Lạc thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Khi nhà Hán đô hộ Nam Việt vào năm 111 trước Công nguyên thì đất Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ và Cửu Chân. Đứng đầu quận là thái thú. Quận Giao Chỉ (Giao Chỉ quận) nằm trong bộ Giao Chỉ (Giao Chỉ bộ). Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một thứ sử. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái. Quận trị của quận Giao Chỉ có thể ban đầu đã đặt tại Mê Linh, sau này đặt tại Liên Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi Chu Xưởng làm thái thú quận Giao Chỉ đã dời quận trị đến Long Biên.
Bộ Giao Chỉ là một cấp hành chính của nhà Tây Hán, bao trùm toàn bộ lãnh thổ cũ của nước Nam Việt cộng thêm 3 quận mới lập là Châu Nhai, Đạm Nhĩ và Nhật Nam, được đặt chính thức vào năm 106 TCN, gồm 9 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Nhật Nam được thành lập sau khi nhà Tây Hán chiếm được thêm vùng đất phía nam quận Cửu Chân), Đạm Nhĩ, Châu Nhai (Đạm Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm và Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông). Năm 203 nhà Đông Hán đổi bộ Giao Chỉ thành châu Giao trên cơ sở đề nghị của thứ sử Trương Tân và Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ. Tên gọi của bộ Giao Chỉ tồn tại được 300 năm (106 TCN - 203).
Theo sách Tiền Hán thư, địa lý chí thì quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Luy Lâu, An Định, Cẩu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương (Dịch?), Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên. Thời Tây Hán, trụ sở quận Giao Chỉ đặt tại huyện Luy Lâu, thời Đông Hán đặt tại Long Biên. Theo nhận định của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2005) dựa vào các sách cổ thì quận Giao Chỉ phủ kín đất Bắc Bộ ngày nay, trừ vùng thượng lưu sông Đà và thượng lưu sông Mã, đồng thời ăn sang cả vùng tây nam Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Riêng góc tây nam tỉnh Ninh Bình là địa đầu của quận Cửu Chân (nay thuộc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Sau này nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam ở phía nam quận Cửu Chân (khoảng từ đèo Ngang vào đến Bình Định).
Tích Quang sang làm thái thú quận Giao Chỉ từ đời vua Hán Bình Đế (năm 1 đến năm 5) nhà Tây Hán và Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân đời vua Hán Quang Vũ Đế đều là những viên quan cai trị tốt đối với dân chúng nên được nhiều người nể trọng.
Thời Hán mạt và Tam Quốc, nhân dân quận Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó nhà Hán đã phong cho thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam trung lang tướng, tổng đốc 7 quận. Năm 210, Tôn Quyền nước Đông Ngô sai Bộ Chất sang làm thứ sử Giao Châu thì Sĩ Nhiếp tuân phục.
Đời vua Hán Linh Đế (168-189), Lý Tiến là người bản xứ đầu tiên làm thứ sử bộ Giao Chỉ. Lý Tiến dâng sớ xin vua cho người Giao Chỉ được bổ làm quan như người Hán. Nhưng vua Hán chỉ cho những người đỗ Mậu Tài hoặc Hiếu Liêm làm một số chức nhỏ trong xứ Giao Chỉ mà thôi.
Lý Cầm, một lính túc vệ người Giao Chỉ (sau này làm tới chức Tư lệ Hiệu úy) ra sức kêu cầu nên người Giao Chỉ mới được làm quan ở cả nơi khác.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
"Bấy giờ người nước Việt ta là Lý Cầm làm túc vệ ở đài, bèn rủ người đồng hương là bọn Bốc Long 5, 6 người, giữa ngày đầu năm các nước triệu hội, đến quỳ lạy ở sân điện tâu rằng:
"Ơn vua ban không đều".
"Hữu ty hỏi vì cớ gì?"
Cầm nói: "Nước Nam Việt ở xa không được trời che đất chở, cho nên mưa ngọt không xuống, gió mát không đến".
Lời ý khẩn thiết đau đớn. Vua Hán xuống chiếu an ủi, lấy một người đỗ Mậu Tài nước ta đi làm Huyện lệnh huyện Hạ Dương, một người đỗ Hiếu Liêm đi làm Huyện lệnh huyện Lục Hợp. Sau Lý Cầm làm quan đến Tư lệ Hiệu úy, Trương Trọng làm Thái thú Kim Thành. Như thế nhân tài nước Việt ta được cùng tuyển dụng như người Hán là mở đầu từ Lý Cầm, Lý Tiến vậy."
Khởi nghĩa hai bà Trưng
Năm 40, Trưng Trắc và Trưng Nhị dấy binh đánh đuổi thái thú Tô Định tàn ác và xưng vương. Năm 43, Mã Viện được nhà Hán phái sang đánh bại Hai Bà Trưng, đã cho dựng một trụ đồng có khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt, nghĩa là trụ đồng đổ thì Giao Chỉ bị tuyệt diệt. Thấy thế, người Giao Chỉ qua đây, ai cũng bỏ thêm đất đá cho cột đồng càng chắc, nghe nói sau này phủ kín cả cột đồng, không biết nó ở chỗ nào nữa. Còn một cách giải thích khác là ai đi qua nhìn thấy cũng nổi lòng căm ghét, mỗi người ném một hòn đá vào cột, lâu ngày che đi.
Lần thứ hai
Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm 2 châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (mới) gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (trị sở tại Long Biên) và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đới Lương (戴良) và thứ sử Quảng Châu là Lã Đại cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng rồi lừa giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ. Năm 264 lại tái lập Quảng Châu.
Năm 265, nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc làm thái thú quận Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú quận Cửu Chân. Năm 272, tướng Đông Ngô là Đào Hoàng đánh chiếm lại được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu, sau này Tôn Hạo phong cho làm Giao Châu mục.
Quận Giao Chỉ lúc này có 14 huyện: Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Luy Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An và Quân Bình với 12.000 hộ.
Thời Lưu Tống, quận Giao Chỉ gồm 12 huyện và 4.233 hộ, là: Long Biên, Câu Lậu, Chu Diên, Ngô Hưng, Tây Vu, Định An, Vọng Hải, Hải Bình, Vũ Ninh, Luy Lâu, Khúc Dương, Nam Định (Vũ An cũ).
Thời Nam Tề, quận Giao Chỉ gồm 11 huyện: Long Biên, Vũ Ninh, Vọng Hải, Câu Lậu, Ngô Hưng, Tây Vu, Chu Diên, Nam Định, Khúc Dịch (Dương?), Hải Bình, Luy Lâu.
Lần thứ ba
Đến đời nhà Tùy, quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương và An Nhân.
Nhà Đường sau khi lên thay nhà Tùy, đã đặt ra phủ Giao Châu. Năm 679, Giao Châu đô đốc phủ đổi thành An Nam đô hộ phủ, chia làm 12 châu, trong đó có Giao Châu. Giao Châu mới bao gồm 8 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình.
Huyện Giao Chỉ ra đời năm 622 do chia tách đất Tống Châu đặt ra hai huyện Giao Chỉ và Hoài Đức. Đến năm 627, đổi huyện Giao Chỉ thành Nam Từ Châu, nhập 3 huyện Giao Chỉ, Hoài Đức và Hoằng Giáo vào huyện Tống Bình.
Lần thứ tư
Nhà Minh vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Việt Nam thành lập Giao Chỉ thừa tuyên bố chính sứ ty, hay tỉnh Giao Chỉ. Lúc này tỉnh Giao Chỉ chính là nước Việt Nam thời nhà Hồ và được chia thành 15 phủ (sau tăng lên 17 phủ) và 5 châu lớn (năm 1407):
15 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình (Kiến Hưng thời Hồ), Tân Yên (Tân Hưng thời Hồ), Kiến Xương, Phụng Hóa (Thiên Trường thời Hồ), Thanh Hóa, Trấn Man (Long Hưng thời Hồ), Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa.
5 châu đứng riêng: Thái Nguyên, Tuyên Hóa (Tuyên Quang thời Hồ), Gia Hưng, Quy Hóa, Quảng Oai.
Ngoài ra còn có các châu trực thuộc phủ, tổng cộng có 47 châu lớn nhỏ.
Sang năm 1408, châu Thái Nguyên và châu Tuyên Hóa được thăng làm phủ Thái Nguyên và phủ Tuyên Hóa, nâng tổng số phủ lên 17. Sau này lại bỏ phủ Diễn Châu, còn lại châu Diễn.
Như vậy phủ Giao Châu nằm trong quận Giao Chỉ (lúc này cấp phủ thấp hơn cấp quận).
Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lên làm vua, ông đã bỏ các đơn vị hành chính cũ và chia cả nước thành 5 đạo. Các tên gọi Giao Châu và Giao Chỉ với tư cách là những đơn vị hành chính chính thức đã chấm dứt từ đó. |
Giao Châu (chữ Hán: 交州) là một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Quốc ngày nay.
Nhà Đông Hán
Năm 203, Giao Châu được vua Hiến Đế nhà Đông Hán đổi tên từ bộ Giao Chỉ trên cơ sở đề nghị của Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ và Trương Tân, thứ sử bộ Giao Chỉ.
Khi đó Giao Châu là một cấp hành chính (châu), gồm 9 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai (Đam Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông). Trị sở ban đầu đặt tại huyện Liên Lâu rồi dời sang huyện Quảng Tín (thành phố Ngô Châu thuộc Quảng Tây ngày nay), sau chuyển về Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Thời Hán mạt và Tam Quốc, nhân dân Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó Nhà Hán đã phong cho thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam Trung lang tướng, tổng đốc 7 quận.
Tam Quốc
Năm 210, Tôn Quyền sai quan là Bộ Chất sang làm thứ sử Giao Châu, Thái thú Sĩ Nhiếp tuân phục nhà Đông Ngô, giữ chức Tả tướng quân.
Sau khi Sĩ Nhiếp mất (226), Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô cho Lữ Đại (Lã Đại) làm Thứ sử và Giao Châu (mới) gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cho Đái Lương làm Thứ sử. Trần Thì làm Thái thú Giao Châu thay Sĩ Nhiếp. Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đới Lương và thứ sử Quảng Châu là Lã Đại cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Sau đó Đông Ngô lại sáp nhập Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lã Đại làm thứ sử Giao Châu. Lã Đại tiến quân đến quận Cửu Chân tàn sát hàng vạn người. Giao Châu mới gồm có 7 quận: là 4 quận cũ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 3 quận mới: Tân Xương, Vũ Bình và Cửu Đức, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay (ba quận mới được thành lập thời Tôn Hạo và giữ nguyên đến thời nhà Tấn).
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (tức Bà Triệu) bị thứ sử Giao Châu là Lục Dận (Đông Ngô - cháu Lục Tốn) dập tắt.
Thái thú Tôn Tư (孫諝) cai trị Giao Châu tàn ác, dân chúng quận Giao Chỉ và Nhật Nam nổi dậy. Vua Đông Ngô là Tôn Hưu sai Đặng Tuân sang làm sát chiến để giám sát Tôn Tư nhưng cả hai lại cùng hợp tác vơ vét của cải nhân dân. Năm 263, Lã Hưng, viên quan ở quận Giao Chỉ, cùng hào kiệt nổi dậy giết chết Tư và Tuân, mang quận Giao Chỉ về hàng Tào Ngụy dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Đến năm 264, trước hành động của Lã Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu vội chia tách Giao châu thành hai châu Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Giao châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Cuối năm 263, Tào Ngụy tiến hành chiến dịch tiêu diệt Thục Hán thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân danh Ngụy Nguyên Đế phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, coi việc binh ở Giao châu và sai Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống giết chết.
Năm 265, Nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành chiến tranh với Tấn để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu.
Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu. Giao Châu lại thuộc Đông Ngô nhưng vẫn chia riêng với Quảng Châu. Sau này Tôn Hạo phong cho Đào Hoàng làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn (280) thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
Năm 353, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu (nhà Đông Tấn) đánh vua Lâm Ấp do nước này hay ra cướp phá hai quận Nhật Nam và Cửu Chân. Năm 413, vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại ra cướp phá Cửu Chân, bị thứ sử Đỗ Tuệ Độ đuổi đánh, chém được tướng Lâm Ấp bắt sống hơn 100 người.
Năm 471 (thời Nam Bắc triều), nhà Lưu Tống tách khu vực Hợp Phố ra khỏi Giao Châu và hợp với một số quận khác để lập ra Việt Châu. Khi đó Giao Châu chia ra thành 8 quận, bao gồm: Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương, Tống Bình (Tống thư chỉ liệt kê tên gọi của 7 quận).
Thời Nam Tề (479-502), Giao Châu gồm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Vũ Bình, Tân Xương, Cửu Đức, Nhật Nam, Tống Bình, Nghĩa Xương, Tống Thọ (năm 480 cắt về Việt Châu). Khi Lý Bí nổi lên đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư tàn ác, thì vua nhà Lương cử Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân đánh Lý Bí.
Phủ Giao Châu Nhà Đường
Năm Vũ Đức thứ 5 (622), Nhà Đường sau khi lên thay nhà Tùy, đã đặt ra tổng quản phủ Giao Châu (Giao Châu tổng quản phủ), quản lãnh 10 châu: Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu, Long Châu, bao trùm miền Bắc Việt Nam. Quan đứng đầu phủ Giao Châu là đại tổng quản Khâu Hòa, vốn là thái thú Giao Chỉ.
Năm 679, Giao Châu đô đốc phủ đổi thành An Nam đô hộ phủ, chia làm 12 châu, trong đó có Giao Châu. Giao Châu mới bao gồm 8 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình và chỉ là một phần nhỏ của miền Bắc Việt Nam. 11 châu còn lại là: Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Diễn Châu, Trường Châu. Quan cai trị An Nam đô hộ phủ gọi là đô hộ.
Thời này xuất hiện nhà sư La Quý là 1 đaị sư nổi tiếng đã trồng cây gạo nối Long Mạch do Cao Biền trấn yểm, từ đó khai sinh ra Lý Công Uẩn (Triều Lý)
Tuy miền Bắc Việt Nam chính thức không còn gọi là Giao Châu nữa (đổi là An Nam, sau lại đổi là Tĩnh Hải), nhưng sử sách Trung Quốc vẫn quen gọi nơi đây là xứ Giao Châu.
Phủ Giao Châu Nhà Minh
Nhà Minh vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Việt Nam lại khôi phục phủ Giao Châu. Phủ Giao Châu là một trong 15 phủ (sau tăng lên 17 phủ), cùng với 5 châu lớn khác nằm trong tỉnh Giao Chỉ, tức địa bàn Việt Nam thời bấy giờ.
Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lên làm vua, ông đã bỏ các đơn vị hành chính cũ và chia cả nước thành 5 đạo. Các tên gọi Giao Châu và Giao Chỉ với tư cách là những đơn vị hành chính chính thức đã chấm dứt từ đó.
Địa Lý Phong Thủy
Từ xa xưa các Thái Thú nhà Hán đã tấu về Triều đình về các bùa phép của bộ tộc phương Nam có thể điều khiển thú rừng và đánh trận. Các thầy bùa có thể ban phép để quân sĩ hăng hái đánh trận.
Sau thời Cao Biền xuất hiện các đại sư La Quý, và đặc biệt sau này có sư Vạn Hạnh giỏi về Phong thủy đã xây dựng nên kinh đô Thăng Long
Thủ phủ Giao Châu qua các thời kỳ
Huyện Luy Lâu/Liên Lâu 羸婁 (111 TCN - 106 TCN)
Huyện Long Biên (thời Tây Hán)
Huyện Luy Lâu (thời Đông Hán)
Huyện Mê Linh (thời Đông Hán)
Huyện Quảng Tín 廣信 (106 TCN - 210 SCN)
Huyện Phiên Ngung/Phiên Ngu 番禺 (210 - 226)
Huyện Long Uyên 龍淵 (226; 264 - 544; 602 - 605)
Huyện Giao Chỉ 交趾 (605 - 627)
Huyện Tống Bình (từ năm 607)
Đại La |
Nó được chỉ định là:
Trăm năm liên bang của Úc
Năm Người tình nguyện quốc tế
Năm Đối thoại giữa Văn minh Liên Hợp Quốc
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1: Moritz Leuenberger trở thành Tổng thống Thụy Sĩ.
6 tháng 1:
Bầu cử quốc hội Thái Lan.
Ariel Sharon được bầu thành làm Thủ tướng Israel.
7 tháng 1: John Agyekum Kufuor trở thành Tổng thống Ghana.
9 tháng 1: iTunes được thành lập.
13 tháng 1: Động đất tại El Salvador khiến 852 người chết.
15 tháng 1: Ngày thành lập Wikipedia.
20 tháng 1: Gloria Macapagal Arroyo trở thành Tổng thống Philippines.
26 tháng 1: Động đất tại Gujarat, Ấn Độ, khoảng 20.000 người chết.
Tháng 2
2 tháng 2: José Maria Neves trở thành Thủ tướng Cabo Verde.
7 tháng 2: Ariel Scharon trở thành Thủ tướng Israel.
13 tháng 2: Động đất tại El Salvador làm 315 người chết.
18 tháng 2: Hyakujuu Sentai Gaoranger chính thức phát sóng.
25 tháng 2: Pedro Pires trở thành Tổng thống Cabo Verde.
Tháng 3
25 tháng 3: Na Uy trở thành thành viên của Hiệp ước Schengen.
Tháng 4
3 tháng 4: Cuộc thi Hoa hậu Trái Đất ra đời tại Philippines.
29 tháng 4: Bầu cử quốc hội Sénégal.
Tháng 5
8 tháng 5: Serbia và Montenegro trở thành thành viên Ngân hàng Thế giới
Tháng 6
7 tháng 6: Tony Blair tái đắc cử thủ tướng Anh.
17 tháng 6: Bầu cử quốc hội Bulgaria.
20 tháng 6: Pervez Musharraf trở thành nhà lãnh đạo quốc gia Pakistan.
24 tháng 6: Ilir Meta trở thành lãnh đạo chính phủ Albania.
Tháng 7
28 tháng 7: Alejandro Toledo Manrique trở thành Tổng thống Peru
Tháng 8
Tháng 9
10 tháng 9: Bầu cử quốc hội Na Uy.
11 tháng 9: Sự kiện 11 tháng 9 khiến gần 3000 người chết.
21 tháng 9: Arnold Rüütel trở thành Tổng thống Estonia.
21 tháng 9: Nổ tại thành phố Toulouse, Pháp khiến 31 người thiệt mạng.
23 tháng 9: Bầu cử quốc hội Ba Lan.
Tháng 10
19 tháng 10:
Kjell Magne Bondevik trở thành Thủ tướng Na Uy.
Leszek Miller trở thành lãnh đạo chính phủ Ba Lan.
25 tháng 10: Microsoft chính thức phát hành Windows XP.
Tháng 11
3 tháng 11: Bầu cử tại Singapore.
5 tháng 11: Bầu cử quốc hội Azerbaijan.
12 tháng 11: Chuyến bay 587 của American Airlines đang bay gặp phải sự cố ngay sau khi cất cánh vào khu phố cảng Harbor của Queens, một quận của New York. Tất cả 260 người trên máy bay (251 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn) đã thiệt mạng, cùng với 5 người dưới mặt đất.
Tháng 12
16 tháng 12:
Bầu cử quốc hội Chile.
Bầu cử tổng thống Madagascar.
31 tháng 12: Microsoft chính thức khai tử hàng loạt phiên bản Microsoft Windows từ Windows 1.0 đến Windows 95.
Sinh
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
9 tháng 3: Jeon Somi, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc I.O.I và thí sinh chương trình Produce 101
18 tháng 3: Quang Anh, ca sĩ Việt Nam
Tháng 4
15 tháng 4: Anastasia Margriet Joséphine van Lippe-Biesterfeld van Vollenhoven, con gái của hoàng tử Maurits của Oranje-Nassau và Marilène van den Broek
Tháng 5
18 tháng 5: hoàng tử Alfons Constantin Maria, con trai của hoàng tử Maximilian của Liechtenstein và Angela Gisela Brown
Tháng 6
Tháng 7
20 tháng 7: Đỗ Thị Hà, người mẫu, hoa hậu Việt Nam 2020
Tháng 8
Tháng 9
23 tháng 9: Lai Kuan-lin, ca sĩ Hàn Quốc, thí sinh Produce 101 và thành viên nhóm nhạc Wanna One
Tháng 10
26 tháng 10: Elisabeth Thérèse Marie Hélène, con gái của Vua Philippe của Bỉ và Mathilde d'Udekem d'Acoz
Tháng 11
Tháng 12
1 tháng 12: Công chúa Aiko, con gái của Thái tử Naruhito của Nhật Bản và Owada Masako
12 tháng 12: Rosy (Mai Huyền My), nữ ca sĩ người Việt Nam, thành viên nhóm nhạc nữ LipB
18 tháng 12: Billie Eilish, nữ ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ
Mất
Tháng 1
1 tháng 1: Ray Walston, diễn viên Mỹ (s. 1914)
2 tháng 1: William P. Rogers, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ (s. 1913)
12 tháng 1: Luiz Bonfá, nhạc công ghita, nhà soạn nhạc Brasil (s. 1922)
12 tháng 1: William Hewlett, nhà tư bản công nghiệp Mỹ, người thành lập tập đoàn Hewlett-Packard (s. 1913)
12 tháng 1: Adhemar Ferreira da Silva, vận động viên điền kinh Brasil (s. 1927)
12 tháng 1: Witold Szalonek, nhà soạn nhạc Ba Lan (s. 1927)
14 tháng 1: Karl Bednarik, họa sĩ, nhà văn Áo (s. 1915)
16 tháng 1: Laurent-Désiré Kabila, Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo (s. 1939)
21 tháng 1: Ludwig Engelhardt, nhà điêu khắc Đức (s. 1924)
24 tháng 1: Eduard Schütz, nhà thần học Đức (s. 1928)
26 tháng 1: Ingeborg Bingener, nữ chính khách và tác gia Đức (s. 1922)
28 tháng 1: Hartmut Reck, diễn viên Đức (s. 1932)
28 tháng 1: Max Weiler, họa sĩ Áo (s. 1910)
31 tháng 1: Heinz Starke, chính khách Đức (s. 1911)
Tháng 2
4 tháng 2: J. J. Johnson, nhạc sĩ jazz Mỹ (s. 1924)
8 tháng 2: Giuseppe Casoria, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1908)
8 tháng 2: Tisa voncủa Schulenburg, nữ nghệ nhân Đức (s. 1903)
11 tháng 2: Maurice Zermatten, nhà văn Thụy Sĩ (s. 1910)
12 tháng 2: Kristina Söderbaum, nữ diễn viên Thụy Điển (s. 1912)
13 tháng 2: Manuela, nữ ca sĩ Đức (s. 1943)
17 tháng 2: Richard Wurmbrand, nhà thần học Romania (s. 1909)
18 tháng 2: Balthus, họa sĩ (s. 1908)Dale Earnhardt, Mỹ NASCAR-Fahrer (s. 1951)
19 tháng 2: Charles Trenet, nam ca sĩ, nhà soạn nhạc, thi sĩ và họa sĩ Pháp (s. 1913)
19 tháng 2: Stanley Kramer, nhà sản xuất, đạo diễn điện ảnh Mỹ (s. 1913)
20 tháng 2: Karl Hasel, nhà lâm học Đức (s. 1909)
21 tháng 2: José Alí Lebrún Moratinos, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1919)
22 tháng 2: Evelyn Holt, nữ diễn viên Đức (s. 1908)
24 tháng 2: Claude Elwood Shannon, nhà toán học Mỹ (s. 1916)
25 tháng 2: Paul Huber, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ (s. 1918)
26 tháng 2: Jale Inan, nhà nữ khảo cổ học Thổ Nhĩ Kỳ (s. 1917)
26 tháng 2: Arturo Uslar Pietri, nhà văn, nhà ngoại giao và chính khách (s. 1906)
Tháng 3
4 tháng 3: Gerardo Barbero, kỳ thủ Argentina (s. 1961)
6 tháng 3: Ngọc Lan, ca sĩ hải ngoại (s. 1956)
12 tháng 3: Robert Ludlum, nhà văn, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ (s. 1927)
13 tháng 3: Alen Pivac, cầu thủ bóng đá người Thụy Sĩ (s. 1976)
22 tháng 3: William Hanna, đạo diễn, diễn viên lồng tiếng, nhạc sĩ và Nhà sản xuất,phim hoạt hình người Mỹ (s.1910)
31 tháng 3: Clifford Shull, nhà vật lý học Mỹ (s. 1915)
31 tháng 3: Gillian Dobb, nữ diễn viên Mỹ (s. 1929)
Tháng 4
1 tháng 4: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (s. 1939).
3 tháng 4: Martin Christoffel, kỳ thủ Thụy Sĩ (s. 1922)
7 tháng 4: Beatrice Straight, nữ diễn viên Mỹ (s. 1914)
15 tháng 4: Joey Ramone, nam ca sĩ Mỹ (s. 1951)
16 tháng 4: Klaus Kindler, diễn viên Đức (s. 1930)
20 tháng 4: Giuseppe Sinopoli, nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà y học và nhà khảo cổ học người Ý (s. 1946)
23 tháng 4: Albert Oeckl, giáo sư Đức (s. 1909)
25 tháng 4: Michele Alboreto, tay đua ô tô người Ý (s. 1956)
28 tháng 4: Evelyn Künneke, nữ ca sĩ, vũ công, diễn viên Đức (s. 1921)
28 tháng 4: Marie Jahoda, nhà nữ xã hội học Áo (s. 1907)
29 tháng 4: Andy Phillip, cầu thủ bóng rổ Mỹ (s. 1922)
30 tháng 4: Andreas Kupfer, cầu thủ bóng đá Đức (s. 1914)
Tháng 5
2 tháng 5: Heinz te Laake, nghệ nhân Đức (s. 1925)
2 tháng 5: Wolfgang Greese, diễn viên Đức (s. 1926)
4 tháng 5: Rudi Strahl, nhà thơ trữ tình, nhà soạn kịch người Đức (s. 1931)
9 tháng 5: Heinz Bethge, nhà vật lý học Đức (s. 1919)
9 tháng 5: Y Ngông Niê Kdăm, chính khách, Nhà giáo Nhân dân người dân tộc Êđê Việt Nam (s. 1922).
9 tháng 5: Johannes Poethen, nhà văn Đức (s. 1928)
9 tháng 5: Nikos Sampson, Tổng thống Cộng hòa Kypros (s. 1935)
10 tháng 5: Werner Schuster, chính khách Đức (s. 1930)
11 tháng 5: Douglas Adams, nhà văn Anh (s. 1952)
11 tháng 5: Klaus Schlesinger, nhà báo, nhà văn Đức (s. 1937)
12 tháng 5: Perry Como, nam ca sĩ Mỹ (s. 1912)
13 tháng 5: Jason Miller, nhà soạn kịch, diễn viên người Mỹ (s. 1939)
26 tháng 5: Alberto Korda, nhiếp ảnh gia Cuba (s. 1928)
28 tháng 5: Tony Ashton, nhạc sĩ nhạc rock Anh (s. 1944)
28 tháng 5: Francis Bebey, nhà văn, nhạc sĩ Pháp (s. 1929)
28 tháng 5: Francisco Varela, triết gia, nhà sinh vật học Chile (s. 1946)
Tháng 6
1 tháng 6: Birendra, vua của Nepal (s. 1945)
3 tháng 6: Anthony Quinn, diễn viên Mỹ (s. 1915)
4 tháng 6: Felicitas Kukuck, nhà soạn nhạc Đức (s. 1914)
4 tháng 6: John Hartford, nhà soạn nhạc Mỹ (s. 1937)
6 tháng 6: Douglas Lilburn, nhà soạn nhạc New Zealand (s. 1915)
11 tháng 6: Pierre Étienne Louis Eyt, Hồng y Tổng Giám mục Bordeaux (s. 1934)
13 tháng 6: Siegfried Naumann, nhà soạn nhạc Thụy Điển (s. 1919)
17 tháng 6: Thomas Joseph Winning, Hồng y Tổng Giám mục Glasgow (s. 1925)
21 tháng 6: John Lee Hooker, nhạc sĩ nhạc blues Mỹ (s. 1917)
25 tháng 6: Kurt Hoffmann, đạo diễn phim Đức (s. 1910)
27 tháng 6: Jack Lemmon, diễn viên Mỹ (s. 1925)
28 tháng 6: Emil Bücherl, nhà khoa học Đức (s. 1919)
28 tháng 6: Arno Reinfrank, nhà văn, nhà xuất bản và dịch giả Đức (s. 1934)
28 tháng 6: Joan Sims, nữ diễn viên Anh (s. 1930)
29 tháng 6: Silvio Angelo Pio Oddi, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1910)
30 tháng 6: Chet Atkins, nhạc sĩ nhạc country Mỹ (s. 1924)
30 tháng 6: Joe Henderson, nhạc sĩ jazz Mỹ (s. 1937)
Tháng 7
3 tháng 7: Johnny Russell, nhà soạn nhạc, nhạc sĩ nhạc country Mỹ (s. 1940)
3 tháng 7: Mordecai Richler, nhà văn Canada (s. 1931)
5 tháng 7: Ernie K-Doe, nam ca sĩ Mỹ (s. 1936)
5 tháng 7: Hélène de Beauvoir, nữ họa sĩ Pháp (s. 1910)
8 tháng 7: Ernst Baier, vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (s. 1905)
8 tháng 7: Christl Haas, nữ vận động viên chạy ski Áo (s. 1943)
8 tháng 7: Ernst Baier, vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (s. 1905)
16 tháng 7: Morris, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Bỉ, tác giả (Lucky Luke) (s. 1923)
21 tháng 7: Sivaji Ganesan, diễn viên Ấn Độ (s. 1927)
21 tháng 7: Einar Schleef, nhà văn, đạo diễn Đức (s. 1944)
21 tháng 7: Steve Barton, nam ca sĩ Mỹ (s. 1954)
25 tháng 7: Josef Klaus, chính khách Áo (s. 1910)
26 tháng 7: Giuseppe Maria Sensi, Hồng y Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1907)
29 tháng 7: Wau Holland, nhà báo Đức, hacker (s. 1951)
31 tháng 7: Francisco da Costa Gomes, Thống chế, Tổng thống Bồ Đào Nha (s. 1914)
Tháng 8
5 tháng 8: Hans Holt, diễn viên Áo (s. 1909)
6 tháng 8: Jorge Amado, tác gia Brasil (s. 1912)
6 tháng 8: Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa (s. năm 1916)
9 tháng 8: Otti Pfeiffer, nữ văn sĩ, thi sĩ trữ tình Đức (s. 1931)
10 tháng 8: Otto Schulmeister, nhà xuất bản Áo, tổng biên tập báo (s. 1916)
10 tháng 8: Werner Pirchner, nhà soạn nhạc Áo (s. 1940)
13 tháng 8: Út Trà Ôn, nghệ sĩ cải lương, được báo chí gọi là "Đệ Nhất Danh Ca" (s. 1919)
18 tháng 8: Roland Cardon, nhà soạn nhạc Bỉ, giáo sư (s. 1929)
19 tháng 8: Donald Woods, nhà báo, luật gia Nam Phi (s. 1933)
20 tháng 8: Fred Hoyle, nhà thiên văn học, nhà toán học, tác gia Anh (s. 1915)
22 tháng 8: Otto Borst, nhà sử học Đức (s. 1924)
23 tháng 8: Kathleen Freeman, nữ diễn viên Mỹ (s. 1919)
24 tháng 8: Bernard Heuvelmans, nhà động vật học (s. 1916)
24 tháng 8: Donald A. Prater, nhà văn, nhà ngoại giaoAnh (s. 1918)
25 tháng 8: Ken Tyrrell, tay đua xe người Anh (s. 1924)
25 tháng 8: Aaliyah, nữ ca sĩ nhạc R&B (s. 1979)
Tháng 9
2 tháng 9: Lothar Dombrowski, nhà báo Đức (s. 1930)
2 tháng 9: Christiaan Barnard, nhà y học Nam Phi (s. 1922)
7 tháng 9: Franz Muhri, chính khách Áo (s. 1924)
10 tháng 9: Alexei Suetin, kỳ thủ Nga (s. 1926)
12 tháng 9: Rudolf Pörtner, nhà văn, nhà sử học Đức (s. 1912)
13 tháng 9: Jaroslav Drobný, vận động viên khúc côn cầu trên băng (s. 1921)
13 tháng 9: Dorothy McGuire, nữ diễn viên Mỹ (s. 1916)
13 tháng 9: Charles Régnier, diễn viên Đức (s. 1914)
15 tháng 9: Herbert Burdenski, cầu thủ bóng đá Đức, huấn luyện viên bóng đá (s. 1922)
16 tháng 9: Samuel Z. Arkoff, nhà sản xuất, đạo diễn phim người Mỹ (s. 1918)
20 tháng 9: Marcos Pérez Jiménez, Tổng thống Venezuela (s. 1914)
20 tháng 9: Karl-Eduard von Schnitzler, nhà báo Đức (s. 1918)
23 tháng 9: nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (s. 1929)
23 tháng 9: Bruno Wiefel, chính khách, nghị sĩ quốc hội liên bang Đức (s. 1924)
23 tháng 9: Henryk Tomaszewski, diễn viên kịch câm Ba Lan (s. 1919)
25 tháng 9: Herbert Klein, vận động viên bơi lội Đức (s. 1923)
27 tháng 9: Philip Rosenthal, chính khách, doanh nhân Đức (s. 1916)
29 tháng 9: Georg Schuchter, diễn viên Áo (s. 1952)
29 tháng 9: Nguyễn Văn Thiệu, cựu tổng thống Việt Nam Cộng hòa (s. năm 1923)
30 tháng 9: Gerhard Ebeling, nhà thần học Thụy Sĩ (s. 1912)
30 tháng 9: Jenny Jugo, nữ diễn viên Áo (s. 1905)
Tháng 10
9 tháng 10: Herbert Ross, biên đạo múa, đạo diễn phim người Mỹ (s. 1927)
14 tháng 10: David Lewis, triết gia Mỹ (s. 1941)
18 tháng 10: Micheline Ostermeyer, nữ vận động viên điền kinh, nghệ sĩ dương cầm người Pháp (s. 1922)
21 tháng 10: Anna Maria Jokl, nữ văn sĩ (s. 1911)
23 tháng 10: Ken Aston, trọng tài bóng đá Anh (s. 1915)
23 tháng 10: Ismat T. Kittani, nhà ngoại giao Iraq (s. 1929)
28 tháng 10: Dietmar Kamper, triết gia, nhà văn Đức (s. 1936)
31 tháng 10: Régine Cavagnoud, nữ vận động viên chạy ski Pháp (s. 1970)
Tháng 11
1 tháng 11: Juan Bosch, chính khách, lãnh đạo nhà nước, nhà văn (s. 1909)
4 tháng 11: Dirk Schneider, chính khách Đức (s. 1939)
6 tháng 11: Anthony Shaffer, tác gia kịch bản Anh (s. 1926)
12 tháng 11: Tony Miles, kiện tướng cờ vua Anh (s. 1955)
14 tháng 11: Oliver Hasenfratz, diễn viên Đức (s. 1966)
14 tháng 11: Lonzo Westphal, nhạc sĩ Đức (s. 1952)
15 tháng 11: Đoàn Chuẩn, nhạc sĩ Việt Nam (s. 1924)
23 tháng 11: Gerhard Stoltenberg, chính khách Đức, bộ trưởng liên bang (s. 1928)
24 tháng 11: Melanie Thornton, nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ (s. 1967)
26 tháng 11: Grete von Zieritz, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm Áo (s. 1899)
26 tháng 11: Werner-Viktor Toeffling, họa sĩ Đức (s. 1912)
26 tháng 11: Regine Hildebrandt, nhà nữ sinh vật học, chính khách người Đức (s. 1941)
28 tháng 11: Hermann Barche, chính khách Đức (s. 1913)
29 tháng 11: George Harrison, nhạc sĩ Anh (The Beatles) (s. 1943)
Tháng 12
6 tháng 12: Alois Brügger, bác sĩ Thụy Sĩ (s. 1920)
6 tháng 12: Carla Hansen, nữ văn sĩ Đan Mạch (s. 1906)
8 tháng 12: Rolf Heyne, nhà xuất bản Đức (s. 1928)
13 tháng 12: Chuck Schuldiner, nhạc công ghita, ca sĩ người Mỹ (s. 1967)
14 tháng 12: W. G. Sebald, nhà văn Đức (s. 1944)
15 tháng 12: Rufus Thomas, nhạc sĩ blues Mỹ (s. 1917)
16 tháng 12: Stefan Heym, nhà văn Đức (s. 1913)
16 tháng 12: Christian Loidl, nhà văn Đức (s. 1957)
20 tháng 12: Léopold Sédar Senghor, thi sĩ, chính khách (s. 1906)
22 tháng 12: Angèle Durand, nữ ca sĩ, diễn viên Bỉ (s. 1925)
22 tháng 12: Grzegorz Ciechowski, nhạc sĩ nhạc rock Ba Lan (s. 1957)
30 tháng 12: Hans Hermsdorf, chính khách Đức (s. 1914)
31 tháng 12: Eileen Heckart, nữ diễn viên Mỹ (s. 1919)
Giải Nobel
Vật lý: Eric A. Cornell, Wolfgang Ketterle, Carl E. Wieman
Hóa học: William S. Knowles, Ryoji Noyori, K. Barry Sharpless
Y học: Leland H. Hartwell, R. Timothy Hunt, Paul M. Nurse
Văn học: V S. Naipaul
Hòa bình: Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký Kofi Annan
Kinh tế học: George A. Akerlof, Michael Spence, Joseph E. Stiglitz |
Năm 2002 được chỉ định là:
Năm Du lịch sinh thái và Núi quốc tế
Năm vùng Xa xôi hẻo lánh ở Úc
Năm Khoa học quốc gia ở Vương quốc Anh
Năm Hiểu biết về Tự kỷ ở Vương quốc Anh
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1:
Kaspar Villiger trở thành tổng thống của Thụy Sĩ.
Đồng Euro được đưa vào sử dụng.
2 tháng 1:
Levy Mwanawasa trở thành tổng thống Zambia.
Eduardo Duhalde trở thành tổng thống mới của Argentina.
Tháng 2
11 tháng 2: Bầu cử quốc hội tại Liechtenstein.
12 tháng 2: Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng chính thức kênh VTV5.
24 tháng 2: Bầu cử quốc hội tại Lào.
Tháng 3
3 tháng 3: Ít nhất 166 người chết trong vụ Động đất tại vùng Hindu Kush, Afghanistan.
10 tháng 3: Bầu cử quốc hội tại Colombia.
17 tháng 3: Bầu cử quốc hội tại Bồ Đào Nha.
25 tháng 3: Động đất tại vùng Hindu Kush, Afghanistan khiến ít nhất khoảng 1000 người thiệt mạng.
Tháng 4
14 tháng 4: Bầu cử tổng thống Comoros.
Tháng 5
5 tháng 5: Jacques Chirac tái đắc cử tổng thống Pháp.
6 tháng 5: Marc Ravalomanana trở thành tổng thống Madagascar.
12 tháng 5: Amadou Toumani Touré trở thành tổng thống của Mali.
20 tháng 5: Đông Timor độc lập.
25 tháng 5: Bầu cử quốc hội tại Lesotho.
30 tháng 5: Bầu cử quốc hội tại Algérie.
31 tháng 5: Tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tháng 6
22 tháng 6: Động đất tại Iran, 261 người chết.
26 tháng 6: Hải chiến tại Yeonpeong lần 2, 6 người chết.
30 tháng 6: Bầu cử quốc hội tại Cameroon.
Tháng 7
25 tháng 7: Avul Pakir Jainulabdeen Abdul Kalam trở thành tổng thống Ấn Độ.
27 tháng 7: Fatos Nano trở thành lãnh đạo chính phủ tại Albania.
Tháng 8
7 tháng 8: Álvaro Uribe Vélez trở thành tổng thống của Colombia.
15 tháng 8: Michael Somare trở thành lãnh đạo chính phủ tại Papua Tân Guinea.
Tháng 9
10 tháng 9: Thụy Sĩ gia nhập Liên Hợp Quốc.
15 tháng 9: Bầu cử quốc hội tại Macedonia.
16 tháng 9: Ibrahim Boubacar Keïta trở thành thủ tướng của Mali.
27 tháng 9: Bầu cử quốc hội tại Maroc.
29 tháng 9: Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức tại Busan (Hàn Quốc).
Tháng 10
5 tháng 10: Bầu cử quốc hội tại Latvia.
10 tháng 10: Bầu cử quốc hội tại Pakistan.
16 tháng 10: Khai trương Bibliotheca Alexandrina tại Cairo, Ai Cập.
29 tháng 10: Xảy ra vụ cháy Trung tâm thương mại quốc tế ITC tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hơn 200 người chết, Đây được xem là vụ cháy kinh hoàng nhất làm chấn động cả Việt Nam thời điểm đó.
Tháng 11
7 tháng 11: Idrissa Seck trở thành thủ tướng của Sénégal.
21 tháng 11: Zafarullah Khan Jamali trở thành lãnh đạo chính phủ tại Pakistan.
27 tháng 11: Anders Fogh Rasmussen trở thành thủ tướng Đan Mạch.
Tháng 12
15 tháng 12: Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2002 tổ chức tại Indonesia và Singapore.
30 tháng 12: Mwai Kibaki trở thành tổng thống của Kenya.
Sinh
Tháng 1
17 tháng 1: Kim Samuel, ca sĩ người Mĩ gốc Hàn Quốc
Tháng 2
5 tháng 2 : Park Jisung, ca sĩ người Hàn, thành viên nhóm nhạc NCT.
24 tháng 2: Arietta Morales, con gái của công chúa Alexia của Hy Lạp và Carlos Morales
Tháng 3
Tháng 4
30 tháng 4: Miguel Urdangarín y de Borbón, con trai của Cristina của Tây Ban Nha và Iñaki Urdangarin
Tháng 5
13 tháng 5: Elisabeth Maria Angela Tatjana, con gái của công chúa Tatjana của Liechtenstein và Philipp của Lattorf
14 tháng 5: Isabella Lily Juliana van Vollenhoven, con gái của hoàng tử Bernhard van Oranien-Nassau, van Vollenhoven và công chúa Annette van Oranien-Nassau, van Vollenhoven, Sekreve
Tháng 6
8 tháng 6: Eloise Sophie Beatrix Laurence, con gái của hoàng tử Constantijn của Oranien-Nassau và công chúa Laurentien của Oranien-Nassau der Hà Lan
13 tháng 6
Nam Da-reum, diễn viên Người Hàn Quốc
Russell Horning (Backpack Kid), vũ công Mỹ.
Tháng 7
1 tháng 7: Huỳnh Thị Thanh Thủy, người mẫu, hoa hậu Việt Nam 2022
22 tháng 7: hoàng tử Felix Henrik Valdemar Christian của Đan Mạch, con trai của Prinz Joachim của Đan Mạch và Alexandra Manley
Tháng 8
Tháng 9
27 tháng 9: Jenna Ortega, diễn viên người Mỹ
Tháng 10
6 tháng 10: Nguyễn Thiện Nhân, ca sĩ Việt Nam
26 tháng 10: Lucas Maurits Pieter Henri van Lippe-Biesterfeld van Vollenhoven, con trai củan hoàng tử Maurits van Oranien-Nassau, van Vollenhoven và công chúa Mariléne van Oranien-Nassau, van Vollenhoven, van den Broek
Mất
Tháng 1
1 tháng 1: Paul Hubschmid, diễn viên sân khấu Thụy Sĩ (sinh 1917)
12 tháng 1: Cyrus Vance, chính trị gia Mỹ (sinh 1917)
17 tháng 1: Camilo José Cela, nhà văn Tây Ban Nha (sinh 1916)
19 tháng 1: Franz Innerhofer, nhà văn Áo (sinh 1944)
21 tháng 1: Peggy Lee, nữ ca sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1920)
23 tháng 1: Pierre Bourdieu, nhà xã hội học Pháp (sinh 1930)
24 tháng 1: Franz Innerhofer, nhà văn Áo (sinh 1944)
27 tháng 1: Franz Meyers, chính trị gia Đức (sinh 1908)
27 tháng 1: Alain Vanzo, ca sĩ opera Pháp (sinh 1928)
28 tháng 1: Astrid Lindgren, nhà văn nữ người Thụy Điển (sinh 1907)
30 tháng 1: Inge Morath, nữ nhiếp ảnh gia Mỹ (sinh 1923)
Tháng 2
1 tháng 2: Hildegard Knef, nữ diễn viên Đức (sinh 1925)
6 tháng 2: Max Ferdinand Perutz, nhà hóa học Anh (sinh 1914)
8 tháng 2: Joachim Hoffmann, nhà sử học Đức (sinh 1930)
10 tháng 2: Dave Van Ronk, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1936)
14 tháng 2: Abdul Rahman, chính trị gia (sinh 1953)
14 tháng 2: Günter Wand, người điều khiển dàn nhạc Đức (sinh 1912)
22 tháng 2: Barbara Valentin, nữ diễn viên Đức (sinh 1940)
22 tháng 2: Jonas Savimbi, chính trị gia Angola (sinh 1966)
22 tháng 2: Chuck Jones, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Mỹ, đạo diễn phim (sinh 1912)
24 tháng 2: Eva Hoffmann-Aleith, nhà văn nữ người Đức (sinh 1910)
24 tháng 2: Leo Ornstein, nghệ sĩ dương cầm Nga, nhà soạn nhạc (sinh 1895)
27 tháng 2: Oskar Sala, nhà soạn nhạc Đức, nhà vật lý học (sinh 1910)
Tháng 3
4 tháng 3: Margarete Neumann, nhà văn nữ Đức (sinh 1917)
11 tháng 3: James Tobin, nhà kinh tế học Mỹ (sinh 1918)
11 tháng 3: Marion nữ bá tước Dönhoff, nữ nhà báo Đức, nhà nữ xuất bản (sinh 1909)
13 tháng 3: Hans-Georg Gadamer, triết gia Đức (sinh 1900)
13 tháng 3: Christian Graf von Krockow, nhà chính trị học Đức (sinh 1927)
17 tháng 3: Văn Tiến Dũng, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (sinh 2 tháng 5 năm 1917)
18 tháng 3: Gösta Winbergh, nam ca sĩ (sinh 1943)
19 tháng 3: Marco Biagi, chính trị gia Ý, nhà khoa học, nhà xuất bản (sinh 1951)
27 tháng 3: Billy Wilder, đạo diễn phim Mỹ, tác giả kịch bản, nhà sản xuất (sinh 1906)
30 tháng 3: Elizabeth Bowes-Lyon, mẹ của Queen Elisabeth II (sinh 1900)
Tháng 4
1 tháng 4: Heinrich Popitz, nhà xã hội học Đức (sinh 1925)
3 tháng 4: Heinz Drache, diễn viên Đức (sinh 1923)
3 tháng 4: Frank Tovey, nhạc sĩ Anh (sinh 1956)
6 tháng 4: Martin Sperr, nhà văn Đức, diễn viên (sinh 1944)
13 tháng 4: Ivan Desny, diễn viên (sinh 1922)
16 tháng 4: Herbert Wernicke, đạo diễn phim Đức (sinh 1946)
18 tháng 4: Thor Heyerdahl, nhà nhân loại học Na Uy (sinh 1914)
19 tháng 4: Đào Duy Khương, Giáo sư, Bác sĩ (sinh 1927)
22 tháng 4: Victor Weisskopf, nhà vật lý học Áo (sinh 1908)
23 tháng 4: Manfred Bieler, nhà văn Đức (sinh 1934)
25 tháng 4: Lisa Lopes, nữ rapper, ca sĩ Mỹ (sinh 1971)
27 tháng 4: Hans-Heinrich Thyssen-Bornemisza, nhà tư bản công nghiệp Đức (sinh 1921)
30 tháng 4: Karel Milota, thi sĩ Séc, nhà văn, dịch giả (sinh 1937)
Tháng 5
1 tháng 5: Karel Ptáčník, nhà văn Séc (sinh 1921)
2 tháng 5: Richard Stücklen, chính trị gia Đức (sinh 1916)
5 tháng 5: Hugo Banzer Suárez, chính trị gia, tổng thống Bolivia (sinh 1926)
6 tháng 5: Pim Fortuyn, chính trị gia Hà Lan (sinh 1948)
10 tháng 5: Gabriele Mucchi, họa sĩ Ý (sinh 1899)
10 tháng 5: David Riesman, nhà xã hội học Mỹ (sinh 1909)
13 tháng 5: Walerij Lobanowskyj, huấn luyện viên bóng đá Ukraina (sinh 1939)
18 tháng 5: Wolfgang Eduard Schneiderhan, nhạc sĩ Áo (sinh 1915)
19 tháng 5: John Grey Gorton, thủ tướng Úc (sinh 1911)
20 tháng 5: Stephen Jay Gould, nhà cổ sinh vật học Mỹ, nhà địa chất (sinh 1941)
21 tháng 5: Niki de Saint Phalle, nữ điêu khắc gia Pháp, nữ họa sĩ (sinh 1930)
Tháng 6
13 tháng 6: Ralph Shapey, người điều khiển dàn nhạc Mỹ, nhà soạn nhạc (sinh 1921)
17 tháng 6: Fritz Walter, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1920)
20 tháng 6: Erwin Chargaff, nhà hóa sinh Mỹ, nhà văn (sinh 1905)
20 tháng 6: Martinus Osendarp, vận động viên điền kinh Hà Lan (sinh 1916)
23 tháng 6: Alice Stewart, nữ bác sĩ Anh
26 tháng 6: Alfred Lorenzer, nhà xã hội học Đức (sinh 1922)
27 tháng 6: John Entwistle, nhạc sĩ nhạc rock Anh, The Who (sinh 1944)
29 tháng 6: Alfred Dregger, chính trị gia Đức (sinh 1920)
29 tháng 6: Rosemary Clooney, nữ diễn viên, nữ ca sĩ Mỹ (sinh 1928)
Tháng 7
2 tháng 7: Jean-Yves Daniel-Lesur, nhà soạn nhạc Pháp, nghệ sĩ đàn ống (sinh 1908)
6 tháng 7: John Frankenheimer, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1930)
9 tháng 7: Rod Steiger, diễn viên Mỹ (sinh 1925)
11 tháng 7: Rosco Gordon, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1928)
16 tháng 7: Joseph Luns, chính trị gia Hà Lan (sinh 1911)
25 tháng 7: Johannes Joachim Degenhardt, Hồng y Giáo chủ Đức (sinh 1926)
26 tháng 7: Jutta Hecker, nhà văn nữ Đức (sinh 1904)
28 tháng 7: Archer John Porter Martin, nhà hóa học Anh, nhận Giải thưởng Nobel (sinh 1910)
30 tháng 7: Willy Mattes, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1916)
Tháng 8
5 tháng 8: Francisco Coloane, nhà văn Chile (sinh 1910)
11 tháng 8: Jiří Kolář, thi sĩ Séc, nghệ nhân tạo hình (sinh 1914)
19 tháng 8: Eduardo Chillida, nhà điêu khắc (sinh 1924)
25 tháng 8: Karolina Lanckorońska, nữ sử gia về nghệ thuật Ba Lan, nhà văn nữ (sinh 1898)
27 tháng 8: Jane Tilden, nữ diễn viên Đức (sinh 1910)
29 tháng 8: Lance Macklin, đua xe Anh (sinh 1919)
31 tháng 8: Lionel Hampton, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1908)
Tháng 9
7 tháng 9: Eugenio Coseriu, nhà ngôn ngữ học Romania (sinh 1921)
8 tháng 9: Georges-André Chevallaz, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1915)
22 tháng 9: Marga Petersen, nữ vận động viên điền kinh Đức (sinh 1919)
23 tháng 9: Eberhard Werner, nghệ nhân Đức, họa sĩ phong cảnh (sinh 1924)
30 tháng 9: Hans-Peter Tschudi, chính trị gia Thụy Sĩ (sinh 1913)
Tháng 10
6 tháng 10: Wolfgang Mischnick, chính trị gia Đức (sinh 1921)
12 tháng 10: Ray Conniff, nhạc sĩ, nhà soạn nhạc (sinh 1916)
19 tháng 10: Manuel Álvarez Bravo, nhiếp ảnh gia Mexico (sinh 1902)
21 tháng 10: Jesse Leonard Greenstein, nhà thiên văn học Mỹ (sinh 1909)
23 tháng 10: Marianne Hoppe, nữ diễn viên Đức (sinh 1909)
25 tháng 10: Richard Harris, diễn viên Ireland (sinh 1930)
25 tháng 10: René Thom, giáo sư Pháp về toán học (sinh 1923)
26 tháng 10: Siegfried Unseld, nhà xuất bản Đức (sinh 1924)
Tháng 11
7 tháng 11: Rudolf Augstein, nhà báo Đức, nhà xuất bản, nhà xuất bản (sinh 1923)
10 tháng 11: Gert Westphal, diễn viên Đức (sinh 1920)
17 tháng 11: Abba Eban, chính trị gia Israel, nhà ngoại giao (sinh 1915)
18 tháng 11: James Coburn, diễn viên Mỹ (sinh 1928)
24 tháng 11: John Rawls, triết gia Mỹ (sinh 1921)
25 tháng 11: Karel Reisz, đạo diễn phim Anh (sinh 1926)
29 tháng 11: Daniel Gélin, diễn viên Pháp (sinh 1921)
30 tháng 11: Hans Hartz, nhạc sĩ Đức, nhà soạn nhạc (sinh 1943)
Tháng 12
2 tháng 12: Ivan Illich, tác giả Áo, triết gia, nhà thần học (sinh 1926)
3 tháng 12: Klaus Löwitsch, diễn viên Đức (sinh 1936)
5 tháng 12: Bob Berg, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1951)
6 tháng 12: Gerhard Löwenthal, nhà báo Đức (sinh 1922)
9 tháng 12: Tố Hữu (sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920),nhà thơ,chính trị gia nổi tiếng người Việt Nam
9 tháng 12: Mary Hansen, nữ nhạc sĩ Úc (sinh 1966)
10 tháng 12: Ian MacNaughton, đạo diễn phim Anh (sinh 1925)
21 tháng 12: José Hierro, nhà văn Tây Ban Nha
22 tháng 12: Joe Strummer, nhạc sĩ nhạc rock Anh (sinh 1952)
26 tháng 12: Herb Ritts, nhiếp ảnh gia Mỹ (sinh 1952)
27 tháng 12: George Roy Hill, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1922)
Giải thưởng Nobel
Vật lý: Raymond Davis Jr., Masatoshi Koshiba, Riccardo Giacconi
Hóa học: Kurt Wüthrich, John B. Fenn, Koichi Tanaka
Y học: Sydney Brenner, H. Robert Horvitz, John E. Sulston
Văn học: Imre Kertész
Hòa bình: Jimmy Carter
Kinh tế học: Daniel Kahneman, Vernon L. Smith |
Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay Hải quân Trung Quốc () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là cấp Quân chủng trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc thực hiện chức năng quản lý và xây dựng lực lượng hải quân trong thời bình và hiệp đồng phối hợp với các Chiến khu khi tác chiến trong thời chiến.
Trước thập niên 1980, Hải quân Trung Quốc đóng vai trò thứ yếu so với Lục quân. Từ thập niên 1980 đến nay, lực lượng hải quân được Trung Quốc được ưu tiên hiện đại hóa và phát triển nhanh chóng, đến nay bao gồm gần 600 tàu chiến, 35.000 lính Hải quân Biên phòng và 56.000 Thủy quân Lục chiến, cùng 56.000 quân thuộc Lực lượng Không quân Hải quân, với vài trăm chiến đấu cơ trên bờ và các trực thăng trên các chiến hạm. Xét về quy mô thì Hải quân Trung Quốc hiện đứng thứ 2 thế giới (sau Hải quân Hoa Kỳ).
Lịch sử
Năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố "Để chống lại bọn đế quốc xâm lược, ta cần có một lực lượng hải quân hùng mạnh". Một năm sau, vào tháng 03 năm 1950, trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Đại Liên với đa số giảng viên là người Nga. Tháng 09 cùng năm, Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chính thức thành lập, quân số khởi đầu chọn từ các lực lượng hải quân địa phương trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu tại Khương Yển (nay đặt tại Thái Châu, thuộc tỉnh Giang Tô). Lực lượng này thoạt đầu chỉ là một nhóm chiến hạm ô hợp tịch thu của Trung Hoa Quốc Dân đảng, và hai năm sau tăng cường thêm lực lượng không chiến. Giống như tổ chức quân đội chung, các chính ủy đều được đưa vào mỗi chiến hạm để nắm chắc các hạm trưởng.
Đến năm 1954, số cố vấn hải quân Liên Xô tăng lên đến 2.500 người – tỉ lệ một cố vấn Liên Xô cho 30 quân nhân hải quân Trung Quốc – và Liên Xô bắt đầu viện trợ các loại chiến hạm tối tân hơn. Với viện trợ của Liên Xô, năm 1954-1955, Hải quân Trung Quốc tổ chức lại thành ba hạm đội. Các chức vụ và cấp bậc sĩ quan hải quân cũng được thành lập từ đội ngũ sĩ quan lục quân. Ban đầu, việc chế tạo các chiến hạm nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng về sau, Trung Quốc tiến dần từ việc bắt chước chế tạo theo mẫu thiết kế các chiến hạm Liên Xô, đến có thể tự thiết kế và chế tạo chiến hạm các loại. Từng có một thời, quan hệ hai bên mật thiết đến độ có cả bàn tính dự định tổ chức một hạm đội chung cho cả hai lực lượng hải quân Xô-Trung.
Tuy cũng trải qua những biến động chính trị của thập niên 1950 và 1960, Hải quân Trung Quốc không bị ảnh hưởng nặng nề như Lục quân hoặc Không quân. Dưới thời lãnh đạo của Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu, Hải quân vẫn được đầu tư khá nhiều trong những năm nghèo đói sau Đại nhảy vọt. Trong Cách mạng Văn hóa, tuy một số chính ủy, tư lệnh đầu não bị truất quyền, và một số lực lượng hải quân được sử dụng để đàn áp cuộc bạo loạn tại Vũ Hán tháng 07 năm 1967, nhưng nói chung Hải quân Trung Quốc ít bị dính líu vào các biến động đang xảy ra trên toàn quốc vào thời điểm đó. Hải quân Trung Quốc vẫn tiếp tục công việc đóng thêm chiến hạm, huấn luyện thủy thủ và tu bổ các hạm đội. Tuy vậy, Hải quân Trung Quốc vẫn chủ yếu là một lực lượng bảo vệ bờ biển, hiếm khi triển khai lực lượng quá 100 dặm tính từ bờ biển.
Đến thập niên 1970, khi ngân sách quốc phòng dành cho hải quân lên đến 20% ngân sách quốc gia, thì Hải quân Trung Quốc phát triển vượt bực. Lực lượng tàu ngầm thông thường tăng vọt từ 35 đến 100 chiếc, các chiến hạm có khả năng bắn tên lửa tăng từ 20 lên đến 200 chiếc, và các chiến hạm loại lớn và các chiến hạm yểm trợ loại tuần dương cũng được chế tạo thêm. Hải quân Trung Quốc cũng đóng thêm tàu ngầm loại xung kích và loại chiến lược phóng tên lửa với động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu ngầm loại này đều có tầm hoạt động rất xa.
Đến thập niên 1980, dưới thời Tư lệnh Lưu Hoa Thanh, Hải quân Trung Quốc trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung Quốc còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Bằng chứng cho khả năng hoạt động tầm xa của Hải quân Trung Quốc đã tăng trưởng: (a) cuộc trục vớt một tên lửa liên lục địa (ICBM) năm 1980 do một hạm đội gồm 20 chiến hạm hành quân đến Tây Thái Bình Dương, (b) một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Đông (Nam Hải) năm 1984 và 1985, (c) hai chiến hạm Trung Quốc có chuyến thăm giao hữu ba nước thuộc vùng Ấn Độ Dương năm 1985.
Năm 1979, Trung Quốc có hơn 140 tàu tên lửa, 53 tàu hộ tống, 12 khinh hạm, 11 tàu khu trục, 75 tàu ngầm và 15 tàu đổ bộ. Ngay cả khi đó, hầu hết các tàu vẫn ở mức lỗi thời, chỉ được trang bị các tên lửa và cảm biến đời cũ hơn khiến chúng không thể so sánh với các lực lượng hải quân lớn trên thế giới.
Đến thập niên 1980, dưới thời Tư lệnh Lưu Hoa Thanh, Hải quân Trung Quốc trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung Quốc còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Bằng chứng cho khả năng hoạt động tầm xa của Hải quân Trung Quốc đã tăng trưởng: (a) cuộc trục vớt một tên lửa liên lục địa (ICBM) năm 1980 do một hạm đội gồm 20 chiến hạm hành quân đến Tây Thái Bình Dương, (b) một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Đông (Nam Hải) năm 1984 và 1985, (c) hai chiến hạm Trung Quốc thăm giao hữu ba nước thuộc vùng Ấn Độ Dương năm 1985.
Ngoài việc đẩy mạnh phát triển tầm hoạt động, Hải quân Trung Quốc cũng phát triển thêm về khả năng phóng tên lửa từ các chiến hạm và tàu ngầm. Năm 1982 Hải quân Trung Quốc bắn thử thành công một phi đạn bắn từ tàu ngầm. Hải quân Trung Quốc cũng chế tạo thành công một số tên lửa loại hạm-đối-hạm, hạm-đối-đất, đất-đối-hạm, và không-đối-hạm.
Hiện đại hóa
Kế hoạch và ưu tiên chiến lược
Trong vài năm gần đây, Hải quân Trung Quốc trở nên quan trọng vì có sự thay đổi trong tầm nhìn chiến lược của Trung Quốc. Các mối đe dọa chiến lược bao gồm giao tranh với Hoa Kỳ, hoặc tranh chấp với Nhật hay Đài Loan, hoặc giao tranh tại quần đảo Trường Sa. Trong sách lược hiện đại hóa hải quân nói chung, một trong những ưu tiên dài hạn là cải tổ và phát huy Hải quân Trung Quốc thành một Hải quân Viễn dương (远洋海军, blue-water navy).
Đầu những năm 1990, có nhiều nguồn tin cho rằng Hải quân Trung Quốc dự định chế tạo hoặc mua một hàng không mẫu hạm, nhưng ý tưởng này có vẻ không được ưu tiên so với những nhu cầu hiện đại hóa khác. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng nếu Trung Quốc không hiện đại hóa cả lực lượng hải quân, thì hàng không mẫu hạm không những có cũng vô dụng, mà còn tốn hao lây vào những chi phí khác của quân đội. Nhận định này có vẻ được sự đồng tình ủng hộ của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị. Năm 1998, Trung Quốc đã mua được hàng không mẫu hạm Varyag hạng Kuznetsov và kéo về cảng Đại Liên, đến năm 2012 họ đã hoàn tất việc tân trang và đưa nó vào hoạt động, chủ yếu dùng để huấn luyện phi công cất cánh và đáp trên biển.
Tháng 6 năm 2005, có nguồn tin trên mạng loan báo Hải quân Trung Quốc dự định sẽ chế tạo một hàng không mẫu hạm trị giá 30 tỉ nhân dân tệ (362 triệu US$), với trọng tải 78.000 tấn và do hãng đóng tàu Giang Nam đóng. Năm 2019, chiếc Hàng không mẫu hạm lớp 002 Sơn Đông với giãn nước tải 67.000 tấn được hạ thủy, đây là chiếc tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc tự đóng trong nước.
Thay đổi lớn trong thế kỷ 21
Hải quân Trung Quốc đã có bước nhảy vọt về chất lượng trong những năm 1990 khi họ quyết định mua loại khu trục hạm Sovremenny và mua tàu ngầm lớp Kilo của Nga. Các khu trục hạm Sovremenny được trang bị tên lửa chống chiến hạm loại SS-N-22, còn gọi là Tên lửa chống hạm vận tốc vượt âm 3M-80E. Theo các nhà nghiên cứu quốc phòng Tây phương, loại tên lửa này có khả năng tiêu diệt hàng không mẫu hạm, và nhiều chiến hạm trang bị loại tên lửa này đã được Trung Quốc tự đóng thêm.
Kỹ thuật đóng tàu của hải quân Trung Quốc ngày nay đã tiến rất xa qua sự giúp đỡ của Nga, và các khu trục hạm mới nhất của Trung Quốc sử dụng trang bị nội hóa có chất lượng không kém so với tiêu chuẩn phương Tây, với ra đa loại AEGIS và sườn tàu thiết kế kiểu chống ra-đa. Tiêu biểu là khu trục hạm lớp 055 được hạ thủy chiếc đầu tiên vào tháng 6/2017, nó có thể thực hiện phòng không tầm xa, tác chiến chống tàu mặt nước, tác chiến chống máy bay đối phương và cả tác chiến chống ngầm. Lớp Type 055 dài 180 mét, rộng 20 mét, là thiết kế phát triển từ lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Type 052D Lữ Dương III, nhưng giãn nước đạt tới gần 13.000 tấn. Với kích thước của nó, Bộ Quốc phòng Mỹ đã phân loại Type 055 là tàu tuần dương (CG) chứ không phải là tàu khu trục. Vũ khí chính của Type 055 bao gồm 112 hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) có khả năng phóng các loại tên lửa đối không tầm xa, tên lửa chống hạm và tên lửa hành trình tấn công mặt đất, nó được xem là một trong những loại tàu chiến nổi có kích thước lớn và vũ trang mạnh nhất thế giới. Chỉ trong 4 năm (từ 2017 tới 2021), Trung Quốc đã hạ thủy 8 tàu Type 055.
Năm 2018, Hải quân Trung Quốc đã thực hiện các bước tiếp theo để mở rộng kế hoạch sản xuất hàng không mẫu hạm trong nước, đánh dấu sự phát triển nhanh chóng tham vọng hải quân nước xanh của Bắc Kinh. Năm 2020, Trung Quốc đã vận hành hai tàu sân bay với giãn nước mỗi chiếc khoảng 67.000 tấn: Chiếc Type 001 Liêu Ninh được đóng lại từ tàu lớp Kuznetsov được Trung Quốc mua từ Ukraine vào năm 1998; và chiếc tàu sân bay lớp 002 Sơn Đông là tàu sân bay đầu tiên được chế tạo trong nước, được chuyển giao cho Hạm đội Nam Hải vào năm 2019. Ngành đóng tàu của Trung Quốc đã chuẩn bị cho ra đời hàng không mẫu hạm tiếp theo, chiếc Type 003 với giãn nước khoảng 85.000 tấn và máy phóng điện từ, được cho là sẽ đi vào hoạt động năm 2023.
Trung Quốc có kế hoạch triển khai nhiều nhóm tác chiến tàu tàu sân bay (CSG), bao gồm tàu khu trục hạm tàng hình Type 055 mới, tàu khu trục phòng không Type 052D và một số tàu ngầm tấn công để hộ tống các tàu sân bay. Các tàu sân bay này dự kiến sẽ trang bị tiêm kích trên hạm Shenyang FC-31 mới, một máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm trên tàu sân bay. Trung Quốc được cho là đang có kế hoạch trang bị 6 tàu sân bay vào năm 2035. Một nguồn tin quân sự nói thêm rằng Trung Quốc có kế hoạch trang bị tổng cộng 10 tàu sân bay vào năm 2049.
Trong 11 năm (2008-2019), hải quân Trung Quốc đã đạt được tổng cộng gần 211 triệu giờ công lao động trong ngành đóng tàu và bảo dưỡng tàu, con số này tăng xấp xỉ 5 lần so với khoảng thời gian 11 năm trước đó. Riêng năm 2016, Hải quân Trung Quốc đã đưa 18 tàu chiến cỡ lớn vào hoạt động. Chất lượng tàu của Trung Quốc cũng đã được cải thiện: Theo ghi nhận của tổ chức RAND, hơn 70% hạm đội của Trung Quốc có thể được xếp vào loại hiện đại trong năm 2017, tăng so với mức dưới 50% trong năm 2010.
Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc cũng có những bước tiến lớn. Các tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga có khả năng hoạt động rất im lặng, và được trang bị hai loại vũ khí mới nhất: tên lửa chống chiến hạm loại 3M-54 Klub (biến thể xuất khẩu tầm bắn 220 km), và tên lửa thủy lôi loại VA-111 Shkval có tốc độ trên 320 km/giờ và tầm hoạt động 7,5 km. Các tàu ngầm loại mới của Hải quân Trung Quốc, kể cả loại Kilo, có thể được trang bị loại động cơ đẩy hoạt động không cần không khí, có nằm chờ rất lâu dưới biển để đột kích kẻ thù. Một số ước tính cho rằng năng lực tấn công tàu sân bay Mỹ của tàu ngầm Trung Quốc đã tăng khoảng hơn 20 lần từ năm 1996 đến năm 2017.
Năm 2020, Hải quân Trung Quốc đã trở thành lực lượng hải quân lớn nhất thế giới với 350 tàu chiến, so với 293 tàu của Hải quân Mỹ. Trong khi Hải quân Mỹ vẫn lớn hơn nhiều về tổng trọng tải tàu, lợi thế đó sẽ sớm bị san bằng do kế hoạch đóng tàu dày đặc của Trung Quốc. Một số chuyên gia nước ngoài đã dự báo đến năm 2035, hải quân Trung Quốc có thể sẽ sở hữu 430 tàu chiến hiện đại, bao gồm 270 tàu cỡ lớn (bao gồm 6 - 7 tàu sân bay) và 160 tàu cỡ nhỏ, chưa kể đến các loại tàu khác như tàu quét ngư lôi, tàu đổ bộ cỡ nhỏ và các tàu phụ trợ. Khi đó, hải quân Trung Quốc sẽ đạt đến quy mô lớn nhất thế giới, bất kể là đánh giá theo tiêu chí nào.
Hiện đại hóa vũ khí
Trong giai đoạn 1960 - 1980, vũ khí chống hạm của hải quân Trung Quốc chủ yếu được nhập khẩu hoặc sản xuất theo công nghệ mà Liên Xô chuyển giao. Tên lửa chống hạm chủ yếu của Trung Quốc thời kỳ này được chế tạo phỏng theo mẫu tên lửa P-15 Termit của Liên Xô, có tầm bắn 80 km và tốc độ cận âm.
Trong giai đoạn 1980 - 2000, tên lửa chống hạm chủ yếu của Trung Quốc được chế tạo phỏng theo mẫu tên lửa Exocet của Pháp, loại tên lửa này có tầm bắn khoảng 70 – 130 km (tùy theo phiên bản) và tốc độ cận âm. Năm 1997, Trung Quốc cũng nhập khẩu một số tên lửa Kh-31 vận tốc siêu âm của Nga để trang bị cho máy bay cũng như để nghiên cứu.
Từ thập niên 2000 trở đi, việc nghiên cứu chế tạo tên lửa chống hạm của Trung Quốc có bước tiến lớn về chất lượng, dần đạt mức hiện đại trên thế giới. Năm 2020, Trung Quốc có 3 loại tên lửa chống hạm chủ lực:
YJ-12 là tên lửa hành trình chống hạm vận tốc siêu âm có tầm bắn đạt tới 400 km, vận tốc Mach 3. YJ-12 giống như là 1 phiên bản phóng to của tên lửa Kh-31, nó là một mối đe dọa lớn đối với các tàu chiến hiện đại do tầm xa và tốc độ siêu âm.
YJ-18 là tên lửa hành trình chống hạm được phỏng theo nguyên mẫu 3M-54 Klub của Nga. Tên lửa đạt tốc độ Mach 0,8 ở giai đoạn bay hành trình đầu và giữa, sau đó phần đầu tên lửa tách ra và tăng tốc độ lên khoảng Mach 2,5-3 ở giai đoạn bay cuối gần 40 km. Giai đoạn bay siêu âm YJ-18 khiến đối phương còn rất ít thời gian để phản ứng với cuộc tấn công. Còn giai đoạn bay dưới âm giúp tiết kiệm nhiên liệu và tăng tầm tấn công. YJ-18 sử dụng hệ dẫn kết hợp quán tính, vệ tinh định vị Bắc Đẩu và đầu tự dẫn radar, mang phần chiến đấu kiểu nổ phá 300 kg hoặc kiểu chống radar/xung điện từ để phá hủy thiết bị điện tử trên tàu đối phương, có tầm bắn 220–540 km. Tín năng của YJ-18 đã gần đạt mức tương đương so với tên lửa 3M-54 Klub hiện đại của Nga.
DF-21 là tên lửa đạn đạo chống hạm phóng từ bệ phóng di động trên mặt đất, có tầm bắn trên 1.500 km, mang đầu đạn nặng khoảng 600 kg. Tên lửa được trang bị đầu dò radar chủ động nên có khả năng tấn công chính xác tàu sân bay đang di chuyển. Với tầm bắn trên 1.500 km của DF-21, Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn chặn việc hàng không mẫu hạm của Mỹ tấn công vào lãnh thổ nước này hoặc vào eo biển Đài Loan. Phiên bản cải tiến mới nhất là DF-21D được trang bị thêm nhiều đầu đạn mồi để đánh lừa radar của tàu địch, ngoài ra, đầu đạn của DF-21D có thể lao xuống mục tiêu với tốc độ Mach 10, tương đương 12.000 km/giờ nên rất khó khăn cho việc đánh chặn. Theo truyền thông Mỹ, tới năm 2018, Trung Quốc đã trang bị ít nhất 10 lữ đoàn tên lửa Đông Phong-21 (mỗi lữ đoàn có 6 tiểu đoàn). 60 tiểu đoàn này có thể đồng thời phóng được 360 quả tên lửa đạn đạo DF-21, đủ để thực hiện cuộc tấn công đồng loạt đối với 3 đội tàu sân bay Mỹ (mỗi tàu sân bay sẽ bị tới 120 tên lửa nhắm vào, khiến các hệ thống phòng thủ của đội tàu sân bay Mỹ không kịp đánh chặn hết). Một giáo sư tại Học viện Hải quân Mỹ đã nhận định rằng với DF-21D, tàu sân bay Mỹ sẽ không còn vị thế độc tôn trên biển như đã từng có kể từ kết thúc Thế chiến II. Năm 2015, Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu DF-26 (Đông Phong-26). So với DF-21, DF-26 có tầm bắn lớn hơn nhiều, ước tính đạt tới 3.000 - 5.000 km. Với tầm bắn này, các bệ phóng ở miền đông Trung Quốc có thể tấn công tàu sân bay Mỹ ở tận căn cứ ở Guam. DF-26 cũng có thể mang đầu đạn nặng tới 1,2 - 1,8 tấn (gấp 2-3 lần so với DF-21D), đủ sức đánh chìm cả 1 tàu sân bay cỡ lớn chỉ với 1-2 quả trúng đích
Các hoạt động
Theo nguồn tin từ các chuyên gia quân sự Nga (được Interfax-ABN trích dẫn), Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch thành lập 2 hạm đội xuyên đại dương hùng mạnh trước năm 2050 với tên gọi: Kế hoạch Con rồng đỏ (Xích long). Hạm đội này có thể triển khai tác chiến ở bất kỳ khu vực nào trên Thái Bình Dương. Trung Quốc cũng có kế hoạch hiện đại hóa các "hạm đội nước vàng" (hạm đội ven bờ) của họ thành "hạm đội nước sâu" (hạm đội biển khơi) trước năm 2020 với 2 nhiệm vụ "Mạch đảo" nhiệm vụ kiểm soát đến các tuyến chiến lược:
Mạch đảo thứ nhất: phía Bắc đến Vladivostok (Nga), Hokkaido (bắc Nhật Bản), Nampo (thuộc Hàn Quốc), Ryuku (Trung Quốc gọi là Lưu Câu Kiều, quần đảo Điếu Ngư Đài (Trung Quốc đang tranh chấp với Nhật Bản), Quần đảo Trường Sa của Việt Nam, quần đảo Philippines; các vùng biển Hoàng hải, Đông Hải (tức biển Hoa Đông), Nam Hải (tức Biển Đông) đến eo biển Malacca (Singapore) và quần đảo Indonesia. Trọng điểm của giai đoạn "Mạch đảo thứ nhất" là Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa)
Mạch đảo thứ hai: phía Bắc đến quần đảo Aleutians (Hoa Kỳ), qua các vùng đảo Kuril (quần đảo đang có sự tranh chấp Nga-Nhật), Mariana, Carolina (thuộc Mỹ) và New Guinea (Bắc Australia). Trọng điểm của giao đoạn "Mạch đảo thứ hai"" là khống chế Hawai và bờ Tây nước Mỹ.
Tháng 9 năm 2005, phát ngôn viên quân sự Bộ Quốc phòng Nhật thông báo một số chiến hạm Hải quân Trung Quốc gồm một tuần dương hạm trọng tải 23.000 tấn, một khu trục hạm hạng Sovremenny trọng tải 7.940 tấn, một hộ tống tên lửa trọng tải 6.000 tấn, hai hải phòng hạm hạng Giang Hồ I (江湖, Jianghu I-class) trọng tải 1.702 tấn đã có mặt tại khu dầu khí Chunxiao (người Nhật gọi Shirakaba). Đây là nơi từng xảy ra tranh chấp gay gắt giữa Trung Quốc và Nhật.
Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 11 năm 2007, Hải quân Trung Quốc tập trận tại khu vực Quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phản đối hoạt động này, do phía Trung Quốc đã không tôn trọng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông, và khu vực này thuộc lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hoạt động trong biển Đông
Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 11 năm 2007, Hải quân Trung Quốc tập trận tại khu vực Quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phản đối hoạt động này, do phía Trung Quốc đã không tôn trọng bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông, và khu vực này thuộc lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hải quân Trung Quốc đã có những hành động mà phía Việt Nam cho là gây hấn như: bắt giữ các tàu cá của ngư dân, thậm chí bắn vào tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam làm vỡ tàu, chết người trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, đồng thời tịch thu toàn bộ phương tiện đánh bắt cá và sản phẩm đánh bắt của ngư dân Việt Nam rồi đưa ra tòa phạt vi cảnh, hoặc cho tàu cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam..
Lãnh đạo hiện nay
Tư lệnh: Đô đốc Đông Quân
Chính ủy: Đô đốc Tần Sinh Tường
Tham mưu trưởng: Phó Đô đốc Trương Văn Đán
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Tư lệnh
Tiêu Kính Quang(1/1950—1/1980)
Diệp Phi(1/1980—8/1982)
Lưu Hoa Thanh(8/1982—1/1988)
Trương Liên Trung(1/1988—11/1996)
Thạch Vân Sinh(11/1996—6/2003)
Trương Định Phát(6/2003—8/2006)
Ngô Thắng Lợi(8/2006—1/2017)
Thẩm Kim Long (1/2017—8/2021)
Chính ủy
Tô Chấn Hoa(2/1957—1/1967)
Lý Tác Bằng(5/1967—9/1971, Chính ủy đệ Nhất)
Vương Hoàng Khôn(5/1966—10/1977,Chính ủy đệ Nhị)
Tô Chấn Hoa(3/1973—2/1979,Chính ủy đệ Nhất)
Đỗ Nghĩa Đức(10/1977—1/1980,Chính ủy đệ Nhị)
Hiệp Phi(2/1979—1/1980)
Lý Diệu Văn(10/1980—4/1990)
Ngụy Kim Sơn(4/1990—12/1993)
Chu Khôn Nhân(12/1993—7/1995)
Dương Hoài Khánh(7/1995—6/2003)
Hồ Ngạn Lâm(6/2003—7/2008)
Lưu Hiểu Giang(7/2008—12/2014)
Miêu Hoa(12/2014—9/2017)
Tần Sinh Tường(9/2017—nay)
Các hạm đội
Lực lượng tác chiến của Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội:
Hạm đội Bắc Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Thanh Đảo thuộc tỉnh Sơn Đông. Hạm đội này có khu vực trách nhiệm vùng vịnh Bột Hải và Hoàng Hải. Soái hạm của hạm đội nầy là khu trục hạm Cáp Nhĩ Tân, thuộc loại trang bị tên lửa có điều khiển (guided-missile destroyer - DDG).
Hạm đội Đông Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Ninh Ba, thuộc tỉnh Chiết Giang. Hạm đội nầy có khu vực trách nhiệm vùng Đông Hải. Soái hạm là tuần dương hạm J302 Sùng Minh Đảo.
Hạm đội Nam Hải
Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Trạm Giang thuộc tỉnh Quảng Đông. Hạm đội nầy có trách nhiệm kiểm soát vùng Nam Hải. Soái hạm là tuần dương hạm AOR/AK 953 Nam Xương. Hạm đội Nam Hải là lực lượng trực tiếp giao tranh với Hải quân Việt Nam trong những cuộc tranh chấp lãnh hải vào các thập niên 1970 và 1980.
Trang bị (năm 2020)
Tàu sân bay
1 Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh
1 Hàng không mẫu hạm lớp 002 Sơn Đông
1 Hàng không mẫu hạm lớp 003 Phúc Kiến
Khu trục hạm (Destroyer)
4 Khu trục hạm 956/ 956EM Hạng Sovremenny; Trọng tải 7.940 tấn
1 Khu trục hạm 051B hạng Luhai (Lữ Hải); Trọng tải 6.100 tấn
2 Khu trục hạm 051C hạng Luzhou (Lữ châu):Trọng tải 7.100 tấn
2 Khu trục hạm 052B hạng Luyang (Lữ Dương): Trọng tải 6.500 tấn
6 Khu trục hạm 052C hạng Luyang II (Lữ Dương 2): Trọng tải 6.500 tấn
15 Khu trục hạm 052D hạng Luyang III (Lữ Dương 3): Trọng tải 7.500 tấn
5 Khu trục hạm 055 hạng Renhai: Trọng tải 13.000 tấn
Tổng cộng: 35 chiếc
Khinh hạm (Frigate)
2 tàu Loại 052 hạng Luhu (Lữ Hộ); Trọng tải: 4800 tấn
2 tàu Loại 054 Lớp Jiangkai I (Giang Khải I), Trọng tải: 4300 tấn
30 tàu Loại 054A Lớp Jiangkai II (Giang Khải II), Trọng tải: 4200 tấn
7 tàu Loại 053H3 Lớp Jiangwei II (Giang Vệ II), Trọng tải: 2400 tấn
7 tàu Loại 053H1/H1G Lớp Jianghu (Giang Hộ), Trọng tải: 2000 tấn
Tổng cộng: 48 chiếc
Tàu hộ vệ tên lửa (Corvette)
22 tàu Loại 056 Trọng tải: 1.500 tấn
40 tàu Loại 056A Trọng tải: 1.500 tấn
Tổng cộng: 62 chiếc
Tàu tên lửa cỡ nhỏ (Guided Missile Boats)
6 tàu Loại 037-II Lớp Houjian Trọng tải 520 tấn
9 tàu Loại 037IG Houxin (Hậu Tần) trọng tải 478 tấn
83 tàu Loại 022 Lớp Houbei (Hồ bắc) Trọng tải 220 tấn
tổng số: 98
Tàu ngầm
SSBN (Ballistic Missile Nuclear Submarine)
Loại 092 - Lớp Hạ Xia-class – 01 chiếc, trọng tải 8.000 tấn
Loại 094 - Lớp Tấn Jin-class – 06 chiếc, trọng tải 11.000 tấn
SSN (Nuclear Attack Submarine)
Loại 091 - Lớp Hán Han-class – 03 chiếc, trọng tải 5.500 tấn
Loại 093 - Lớp Thương Shang-class – 09 chiếc, trọng tải 7.000 tấn
SSK (Diesel-Electric Attack Submarine)
Loại 039 - Lớp Tống Song-class – 13 chiếc, gồm: 01 tàu loại 039 số hiệu 320 (dừng hoạt động năm 1998); 03 tàu loại 039G (314, 321 và 322); 10 tàu loại 039G1 (315, 316, 318, 323, 324, 325, 327,…).
Lớp Kilo – 12 chiếc, gồm: 02 tàu loại 877EKM (số hiệu: 364, 365); 02 tàu loại 636 (số hiệu: 366, 367); 08 tàu loại 636M – (số hiệu: 368, 369, 370, 371, 372, 373, 374, 375).
Loại 041 - Lớp Nguyên Yuan-class – 20 chiếc (số hiệu: 330,...).
Loại 031 -Lớp Golf -1 chiếc
Loại 033 - Lớp Romeo Romeo-class – 06 chiếc.
Loại 035G - Lớp Minh Ming-class – 12 chiếc.
SSG (Guided Missile Submarine) – phát triển từ loại 033 - 01 chiếc.
DSRV (Salvage Submarine) – 01 chiếc.
Trong nhiều tài liệu, tư liệu về Hải quân Trung Quốc trên phương tiện truyền thông, việc bố trí và số lượng các tàu ngầm của Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải hoàn toàn không thể hiện.
Tàu đổ bộ
LST
Loại 072 - Lớp Vũ Khang (Yukan) – 07 chiếc.
Loại 072-II - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 11 chiếc.
Loại 072-III - Lớp Vũ Đình (Yuting) – 08 chiếc.
Lớp Sơn (Shan) LST-1 – 03 chiếc.
LSM
Loại 073-II - Lớp Vũ Đảo (Yudao) – 01 chiếc.
Loại 073-III - Lớp Vũ Đăng (Yudeng) – 01 chiếc.
APA (attack transport)
Lớp Hùng Sa (Qiongsha) – 04 chiếc.
Lớp Hùng Sa (Qiongsha AH) – 02 chiếc.
Loại 071 (LPD): 07 chiếc
Loại 075: đang đóng |
Thập niên 2000 hay thập kỷ 2000 chỉ đến những năm từ 2000 đến 2009, kể cả hai năm đó. Không chính thức, nó cũng có thể bao gồm vài năm vào cuối thập niên trước hay vào đầu thập niên sau. Đây là thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Sự kiện
Năm 2001
11 tháng 9: Sự kiện 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ do Al-Qaeda thực hiện. |
Harry Potter và Hoàng tử lai (tiếng Anh: Harry Potter and the Half-Blood Prince) là quyển sách thứ sáu trong bộ sách giả tưởng nổi tiếng Harry Potter của tác giả J.K. Rowling. Cũng như các quyển trước, nó cũng trở thành một trong những best-seller (sách bán chạy nhất) của năm nó xuất bản. Quyển sách này được tung ra bản tiếng Anh cùng lúc trên toàn thế giới vào ngày 16 tháng 7 năm 2005, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, Canada và Úc. Chỉ trong 24 giờ đầu tiên, nó đã bán được hơn 6,9 triệu quyển khắp nước Mỹ.
Cuộc phiêu lưu mới này gồm một loạt các khám phá về quá khứ của Chúa tể Voldemort, kèm theo những miêu tả sinh động về tuổi mới lớn với những xúc cảm ngây thơ, vui nhộn và nỗi căm hận đắng cay của Harry đối với "Hoàng tử Lai".
Tại Việt Nam, quyển truyện Harry Potter này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo bản dịch của dịch giả Lý Lan vào ngày 24 tháng 9 năm 2005. Cũng như quyển năm, bản dịch này được in trọn bộ thay vì chia ra thành nhiều tập như bản dịch các quyển 1-4.
Nội dung
Một thời đại tăm tối đã cận kề. Voldemort đã trở lại, và các Tử thần Thực tử ngang nhiên lộng hành. Chúng tàn phá Hẻm Xéo, sát hại rất nhiều người, thậm chí tàn phá cả thế giới Muggle. Một ngày nọ, cụ Dumbledore bất ngờ xuất hiện tại nhà Dursley và đưa Harry đến một ngôi làng, nơi họ gặp một vị giáo sư đã về hưu là Horace Slughorn, cựu giáo viên môn Độc dược và cũng là cựu Chủ nhiệm Nhà Slytherin. Ông hiện tại đang bị đám Tử Thần Thực Tử truy nã và phải thay đổi nơi ở liên tục. Mục đích của cụ Dumbledore là muốn Slughorn trở lại Hogwarts dạy học và canh chừng Harry, và Slughorn đã đồng ý. Cụ sau đó đưa Harry đến nhà Weasley. Cả Hermione và Fleur Delacour, giờ là bạn gái của Bill, con trai cả nhà Weasley, cũng đang ở đây. Ron cho biết cha mẹ cậu không muốn cậu và Ginny đến Hogwarts, và cha mẹ của Hermione cũng vậy. Harry trấn an cả hai rằng Hogwarts là nơi an toàn nhất, vì có cụ Dumbledore ở đó.
Trong một ngày mưa gió, Bellatrix Lestrange cùng chị gái là Narcissa Malfoy, mẹ của Draco đến nhà của Snape. Narcissa rất lo lắng vì mệnh lệnh mà Chúa tể Hắc ám giao cho Draco. Snape hứa với bà ta sẽ bảo vệ Draco và giúp nó hoàn thành nhiệm vụ. Bellatrix bắt cả hai phải lập lời thề Bất Khả Bội – lời thề mà kẻ làm trái sẽ chết ngay lập tức.
Hôm sau, Harry, Ron và Hermione đến Hẻm Xéo giờ đã thành đống đổ nát, ngoại trừ tiệm giỡn Wỉ Woái mà Fred và George mới lập ra. Bỗng cả bọn thấy Draco cùng mẹ của nó đang tham gia nghi lễ gì đó cùng với các Tử thần Thực tử tại tiệm Borgins & Burkes. Trong chuyến tàu đến Hogwarts, Harry dùng Áo choàng Tàng hình, trốn lên chỗ để hành lý của Draco để điều tra xem nó đang làm gì. Nhưng cậu lại bị Draco phát hiện. Nó dùng bùa Đông Cứng với cậu và dồn toàn bộ sự căm hận vào cú đá khiến cậu gãy mũi, vì từ chỗ ganh ghét, Draco chuyển sang căm hận Harry vì cậu là lý do khiến cha nó bị tống vào Azkaban. Harry nằm bất động với cái mũi bị gãy, rất may là Luna Lovegood đã ở đó để cứu cậu.
Trong buổi tiệc đầu năm, cụ Dumbledore thông báo sự thay đổi trong bộ máy giáo viên. Giáo sư Slughorn trở lại với môn Độc dược, và Snape phụ trách môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Cụ cũng thông báo về việc an ninh của trường sẽ được thắt chặt, và dặn đám học sinh phải biết giữ mình, vì một học sinh tài giỏi, chăm chỉ như Tom Riddle cũng có thể trở thành Chúa tể Hắc ám.
Dù đối mặt với tương lai đen tối, năm học vẫn phải tiếp diễn như bình thường. Harry và Ron được đặc cách học lớp Độc dược của thầy Slughorn, dù điểm số môn này của cả hai trong kỳ thi năm ngoái không đủ để được tiếp tục học. Cả hai không chuẩn bị sách, và phải dùng những cuốn sách cũ trong tủ sách ở lớp. Thầy Slughorn yêu cầu cả lớp điều chế dung dịch Cái Chết Đang Sống, với phần thưởng là một lọ Phúc Lạc Dược. Harry vớ được cuốn sách với rất nhiều ghi chép chằng chịt trong đó, ghi lại cách điều chế khác hoàn toàn chỉ dẫn trong sách. Cậu làm theo những chỉ dẫn đó và đã điều chế thành công. Harry sau đó được gọi lên phòng Hiệu trưởng. Cụ Dumbledore gửi lời khen của thầy Slughorn đến cậu. Cụ cũng cho cậu biết lý do thật sự việc cụ muốn gặp riêng cậu là cho cậu xem ký ức về lần đầu tiên cụ gặp Tom Riddle, khi đó mới 10 tuổi. Chính cụ không ngờ rằng việc cho Tom đi học tại Hogwarts lại gián tiếp tạo ra một Chúa tể Hắc ám. Cụ cũng tiết lộ lý do thật sự của việc mời thầy Slughorn trở lại là do ông đang giữ một ký ức quan trọng về Tom Riddle, và yêu cầu Harry phải lấy được nó bằng mọi giá để có thể đánh bại Voldemort.
Về phần cuốn sách kỳ lạ kia, Harry vì cảm thấy hứng thú nên đọc ngấu nghiến mọi lúc mọi nơi khiến bạn bè của cậu khó chịu. Cậu cũng không thể giấu cuốn sách lâu hơn được nữa. Hóa ra nó từng thuộc về một học sinh có bí danh “Hoàng Tử Lai”. Ron hiện tại cũng được chỉ định trở thành Huynh trưởng của Nhà Gryffindor, và là thủ môn của đội Quidditch, còn có một fan cứng là Lavender Brown. Cô bé liên tục hò hét tên của Ron trong trận đấu khiến Hermione rất ngứa mắt và khó chịu.
Hôm sau, Harry, Ron và Hermione đến quán Ba Cây Chổi, và được thầy Slughorn mới đến dự bữa tiệc Giáng Sinh. Cả bọn thấy Ginny đang hẹn hò với Dean Thomas, khiến Ron điên tiết và Harry cảm thấy ghen tuông, vì cậu cũng có tình cảm với Ginny sau khi chia tay Cho Chang. Khi ra về, cả ba thấy một cảnh tượng kinh hoàng: một cô bé bị vong nhập và ngất xỉu, bên cạnh là một chiếc dây chuyền đã bị yểm bùa. Cả bọn cũng thấy Draco lảng vảng quanh quán nên đã nghi ngờ rằng nó là thủ phạm. Tối hôm đó, cả ba đến dự bữa tiệc Giáng Sinh của thầy Slughorn. Sau bữa ăn, Harry gặp riêng Slughorn để cố gắng moi móc thông tin về Tom Riddle năm xưa, nhưng bị ông đuổi đi ngay lập tức. Ron hôm sau đã trở thành người hùng của đội Quidditch, và chấp nhận lời tỏ tình của Lavender, để lại Hermione ghen tuông và tổn thương sâu sắc.
Harry trở về Trang trại Hang sóc trong kỳ nghỉ cùng gia đình Weasley, Hermione, thầy Lupin và Nymphadora Tonks. Nhưng một đêm, Bellatrix cùng đám Tử Thần Thực Tử xuất hiện và dụ Harry vào đầm lầy. Harry lập tức đuổi theo, khiến mọi người cũng phải bám theo cậu. Nhưng khi quay trở lại, mọi người thấy căn nhà đã bị thiêu rụi, khiến Harry rất hối hận.
Đến ngày trở lại trường, cụ Dumble lại gọi Harry lên phòng Hiệu trưởng để cho xem nốt những ký ức về Tom Riddle. Tom lúc này là một trong những học sinh xuất sắc nhất Hogwarts, và cũng được thầy Slughorn ưu ái. Sau bữa tiệc Giáng Sinh, Tom hỏi thầy Slughorn về Trường Sinh Linh Giá và cách tạo ra chúng, nhưng bị Slughorn mắng và đuổi đi. Cụ Dumbledore khẳng định những ký ức này đã bị chỉnh sửa, và Slughorn có lẽ đã quá nhục nhã về điều đó. Cụ yêu cầu Harry phải lấy được những ký ức thật sự.
Đến ngày Valentine, Ron bị trúng tình dược của Ronmilda, và Harry phải nhờ thầy Slughorn chữa trị. Nhưng khi uống một ngụm rượu của thầy, Ron liền lên cơn co giật. Hóa ra đã có kẻ đầu độc chai rượu mà Slughorn định tặng cho cụ Dumbledore. Sau khi hồi phục, Ron thì thầm tên Hermione, khiến Lavender rất tức giận và bỏ đi. Harry nghi ngờ Draco đã đầu độc chai rượu nên đã bám theo, và dồn được nó vào nhà vệ sinh. Cả hai đánh nhau, và Harry sử dụng câu thần chú “Sectumsempra” mà cậu học được từ cuốn sách của Hoàng Tử Lai. Nhưng nó lại khiến Draco bị thương nặng và mất máu rất nhiều. Rất may, Snape can thiệp kịp thời và cứu sống Draco. Sau chuyện đó, Ginny khuyên Harry không nên giữ cuốn sách nữa, và cất nó trong Phòng Yêu Cầu. Tại đây, hai người phát hiện ra một chiếc Tủ Biến Mất, nhưng không quan tâm đến nó cho lắm. Ginny cũng bày tỏ tình cảm với Harry, do cô bé đã chia tay Dean Thomas từ lâu. Cô bé tiến đến hôn Harry, trong khi lén giấu cuốn sách đi.
Hôm sau, Harry quyết định dùng Phúc Lạc Dược để có thể lấy thông tin từ Slughorn. Cả hai gặp nhau tại căn lều của Hagrid khi ông đang làm lễ tưởng niệm cho cái chết của Aaragog. Tại căn lều, Harry cuối cùng cũng thuyết phục thành công thầy Slughorn đưa cho cậu những ký ức thật sự. Ký ức cho thấy Slughorn đã giải thích tất cả cho Tom Riddle về Trường Sinh Linh Giá – những đồ vật mà người ta có thể cất giữ linh hồn của mình để giữ cho bản thân được sống sót, kể cả thân xác có bị phá hủy, nói cách khác là trở nên bất tử. Harry và cụ Dumbledore đều rất sốc khi biết Tom đã xé nhỏ linh hồn của hắn để tạo thành không chỉ một, mà là rất nhiều Trường Sinh Linh Giá. Cụ Dumbledore cho biết cuốn nhật ký của Tom và cả chiếc nhẫn gia truyền của mẹ hắn đều là những Trường Sinh Linh Giá. Cụ sau đó đưa Harry đến một hòn đảo hoang vắng, cũng là nơi cất giữ Trường Sinh Linh Giá, và yêu cầu Harry phải làm theo bất cứ điều gì cụ bảo. Trên đảo có một hang động dẫn đến một cái hồ, và ở giữa hồ là một chậu độc dược. Cụ Dumbledore nói rằng bên dưới cái chậu này là một Trường Sinh Linh Giá, và Harry sẽ phải ép cụ uống hết chỗ độc dược trong chậu để Trường Sinh Linh Giá hiện ra. Sau khi cụ uống hết chỗ độc dược và yếu dần đi, Harry tìm thấy Trường Sinh Linh Giá là chiếc mề đay của Salazar Slytherin. Ngay lúc đó, một đám Âm binh từ dưới hồ ngoi lên tấn công cậu. Nhưng cụ Dumbledore đã kịp bình phục, đuổi hết bọn chúng và cùng Harry quay trở lại Hogwarts.
Cả hai đáp xuống tháp Thiên Văn trong trường. Cụ Dumbledore lập tức bảo Harry đi tìm Snape, nhưng lại nghe thấy tiếng bước chân nên bảo cậu trốn xuống tầng dưới. Tiếng bước chân đó là Draco. Nó tiến đến, vung đũa lên định giết thầy, nhưng lại ngập ngừng, hét lên trong đau khổ rằng nếu nó không giết cụ, Chúa tể Hắc ám sẽ giết cả nhà nó. Hóa ra đây chính là nhiệm vụ mà Voldemort giao cho Draco, như một sự trừng phạt cho sự thất bại của Lucius. Draco thường xuyên trốn học để vào Phòng Yêu Cầu, sửa chiếc Tủ Biến Mất để đưa một đám Tử thần Thực tử vào trường thông qua một chiếc tủ khác tại Borgins & Burkes. Chính nó cũng đưa chiếc vòng cổ bị nguyền cho Katie Bell, khiến cô bé rơi vào trạng thái bị vong nhập, và đầu độc chai rượu của thầy Slughorn, khiến Ron suýt mất mạng. Snape cũng xuất hiện bên cạnh Draco. Cụ Dumbledore nói “Làm ơn” và Snape lập tức niệm lời nguyền Chết Chóc về phía cụ, khiến cụ rơi khỏi tòa tháp và mất mạng.
Snape, Draco cùng các Tử thần Thực tử rời trường. Harry đuổi theo, dùng câu thần chú “Sectumsempra” nhưng bị Snape phản ngược lại. Ông ta nói rằng mình chính là Hoàng Tử Lai, cũng là người tạo ra câu thần chú mà cậu vừa dùng.
Harry trở về trường và thấy mọi người đang thương tiếc cho cụ Dumbledore. Giáo sư McGonagall đến an ủi Harry, yêu cầu cậu mở lòng với bà nhưng Harry từ chối. Gặp lại những người bạn, Harry cho biết Trường Sinh Linh Giá mà cậu lấy được là đồ giả. Chiếc mề đay thật đã bị một người có bí danh R.A.B lấy đi, và người đó cũng đang tìm cách tiêu diệt Voldemort. Harry cũng bảo cậu sẽ không học năm cuối mà sẽ đi tìm và phá hủy Trường Sinh Linh Giá. Ron và Hermione nói rằng họ sẽ luôn ở bên cậu.
Các bản in
Hãng Bloomsbury (Anh, Canada, Úc):
ISBN 0-7475-8108-8 Bìa cứng
ISBN 0-7475-8110-X Bìa cứng (Bản dành cho người lớn)
Hãng Raincoast (Canada):
ISBN 1-55192-756-X Bìa cứng
ISBN 1-55192-760-8 Bìa cứng (Bản dành cho người lớn)
ISBN 0-7475-8152-5 Bìa cứng (Bản in chữ lớn)
Hãng Scholastic (Mỹ):
ISBN 0-439-78454-9 Bìa cứng
ISBN 0-439-79132-4 Bản đẹp, đắt tiền |
Mộc nhĩ là tên chung để chỉ một trong ba loài sau, do chúng đều có hình dạng giống như tai và mọc trên thân cây:
Mộc nhĩ đen: Hai loài có họ hàng gần nhưng khác nhau của các loại nấm ăn được thuộc bộ Auriculariales, được sử dụng chủ yếu trong ẩm thực châu Á, đặc biệt là các nước phương Đông:
Auricularia auricula-judae: tức nấm mèo. Tên gọi mộc nhĩ đen để chỉ loài này có lẽ chính xác hơn để chỉ loài dưới.
Auricularia polytricha: tức mao mộc nhĩ hay vân nhĩ.
Mộc nhĩ trắng: Một loài nấm ăn được, có màu trắng, thuộc bộ Tremellales là Tremella fuciformis |
Mao mộc nhĩ (毛木耳, pinyin: máo mù ěr) hay vân nhĩ (云耳, pinyin: yún ěr), có nơi còn gọi chệch thành mâu mộc nhĩ (danh pháp khoa học: Auricularia polytricha) hay đơn giản chỉ là mộc nhĩ (木耳, pinyin: mù ěr) là một loài nấm. Nó có màu nâu xám sẫm, hình tai người và thường được sử dụng trong ẩm thực châu Á. Trong tiếng Nhật nó được gọi là kikurage. Nó cũng được gọi là mộc nhĩ đen, do khi phơi khô cũng có màu đen.
Loài mộc nhĩ này mọc trên các thân cây gỗ mục. Màu của nó nâu sẫm nhưng trong mờ. Nó thường được bán ở dạng đã sấy hay phơi khô và cần ngâm nước trước khi dùng. Nó gần như không có mùi vị, nhưng được đánh giá cao nhờ kết cấu tựa cao su, tương đối cứng và giòn cũng như một số tính chất y học có lợi cho sức khỏe, bao gồm cả tính chất chống đông tụ mới được phát hiện gần đây.
Auricularia auricula-judae, một loài có họ hàng gần, cũng được sử dụng trong ẩm thực châu Á.
Mộc nhĩ trắng, một loài nấm ăn được khác và có màu trắng, là một loài riêng có danh pháp khoa học Tremella fuciformis thuộc bộ Tremellales.
Chú thích |
Nấm mèo hay mộc nhĩ đen (danh pháp khoa học: Auricularia auricula-judae) (Tiếng Anh: Wood-Ear Mushroom hoặc Tree ear)được biết đến do hình dạng tựa tai người, có màu nâu sẫm đến đen, mọc trên các thân cây mục. Nó có kết cấu tựa cao su, tương đối cứng và giòn.
Loài này được sử dụng trong ẩm thực châu Á. Tại Trung Quốc, nó gọi là 木耳 (pinyin: mù ěr -mộc nhĩ) hay 黑木耳 (pinyin: hēi mù ěr-hắc mộc nhĩ), và trong tiếng Nhật là kikurage. Auricularia polytricha (vân nhĩ), một loài có quan hệ họ hàng gần, cũng được sử dụng trong ẩm thực châu Á.
Mộc nhĩ trắng, một loài nấm ăn được khác, có màu trắng và hình dạng tương tự, là một loài khác với danh pháp khoa học Tremella fuciformis.
Thư viện ảnh
Chú thích |
Mộc nhĩ trắng (danh pháp khoa học: Tremella fuciformis), hay gọi là nấm tuyết nhĩ, ngân nhĩ hay nấm tuyết, là một loài nấm được sử dụng trong ẩm thực của một số nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam. Tại Trung Quốc, nó được gọi là 银耳 (ngân nhĩ) hay 白木耳 (bạch mộc nhĩ), và trong tiếng Nhật là shiro kikurage.
Loại mộc nhĩ này mọc trên thân cây và có màu trắng nhạt trong mờ.
Sản phẩm được bán trong dạng sấy khô và cần ngâm nước trước khi dùng. Nó được sử dụng trong cả các món ăn mặn và món ăn ngọt. Nó không có mùi vị gì nhưng được sử dụng và đánh giá cao nhờ kết cấu giống như thạch cũng như một số tính chất bổ dưỡng.
Thành phần dinh dưỡng
Vitamin: A, B1, B2, B3, B5, B6, B9, B12, C, D, Carotene.
Chất dinh dưỡng: protein, chất béo, cacbohydrate.
Khoáng chất: Calci, Phosphor, Kẽm, Đồng,Kali, Natri, Selen, Magne.
Năng lượng: 200 kcal.
Chất xơ: 33,7g. |
Venezia phương Bắc là tên gọi một số thành phố ở phía Bắc châu Âu, có kênh đào, so sánh với Venezia, Ý, thành phố nổi tiếng với hệ thống kênh đào.
Danh sách
Chú thích
Danh sách biệt danh thành phố
Venezia |
Mũi Hảo Vọng (tiếng Afrikaans: Kaap die Goeie Hoop, tiếng Hà Lan: Kaap de Goede Hoop) được sử dụng theo hai ngữ cảnh:
Nghĩa đen (sensu stricto): Nó là mũi đất hoang dã và nhiều đá ở Cộng hòa Nam Phi, ở rìa phía nam của bán đảo Cape, cách thành phố Cape Town khoảng 30 km về phía nam.
Nghĩa bóng (sensu lato): Nó là tên gọi được dùng để chỉ toàn bộ vùng thuộc địa ban đầu của người châu Âu ở mỏm phía nam của châu Phi, đặc biệt là trong giai đoạn thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Năm 1825, một người từ Swellendam đến châu Phi có lẽ đã từng nói "Tôi đến từ mũi Hảo Vọng", thậm chí nơi sinh sống của người này đã cách xa vùng đất hoang vắng đó tới cả trăm dặm. Nhiều người dân sống ở "mũi Hảo Vọng" theo nghĩa bóng này thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy mũi Hảo Vọng.
Mũi Hảo Vọng theo nghĩa đen nằm ở tọa độ: 34°21′23″vĩ nam, 18°29′ 15″kinh đông. Không nên nhầm lẫn nó với mũi Point. Hai mũi đất này chỉ cách nhau khoảng 1 km nhưng chúng là các địa danh địa lý khác hẳn nhau. Cả hai mũi đất này được tạo ra từ sa thạch của nhóm dãy núi Table và về mặt địa chất chúng là cùng loại với các khối đất đá của dãy núi này. Theo truyền thống (nhưng không chính xác) thì mỏm đất phía nam của bán đảo Cape được coi là điểm đánh dấu để phân chia Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
Về mặt kỹ thuật, người ta có thể cho rằng sự phân chia giữa hai đại dương nằm xa hơn về phía đông nam tại mũi Agulhas, hoặc ranh giới này dao động theo sự thay đổi của các dòng hải lưu chính trong khu vực; theo khu vực mà dòng hải lưu Benguela lạnh ở bờ biển phía tây và dòng hải lưu Agulhas ấm ở bờ biển phía đông trộn lẫn vào nhau. Cả mũi Hảo Vọng và mũi Point đều có phong cảnh đẹp. Trên thực tế toàn bộ phần phía nam của bán đảo Cape là công viên quốc gia hoang dã, đồi núi lởm chởm, có phong cảnh đẹp và chưa bị bàn tay con người tàn phá và hầu như rất ít biến đổi trong vòng 500 năm qua, kể từ khi người châu Âu bắt đầu để mắt tới nó. Mũi Hảo Vọng là quê hương truyền thuyết của con tàu "Người Hà Lan bay". Do những thủy thủ bóng ma đau khổ và bị nguyền rủa điều khiển, nó phải chịu số phận bi đát vĩnh cửu là đi luẩn quẩn trong vùng nước mênh mông xung quanh đó mà không bao giờ có thể cập bờ vào vùng mũi đất.
Sách của người Việt thế kỷ 19 còn gọi địa danh này là Mũi Độc.
Lịch sử
Mũi Hảo Vọng hiện được coi là do nhà hàng hải người Bồ Đào Nha là Bartolomeu Dias vượt qua lần đầu tiên năm 1488. Ông đã đặt tên cho nó là "Mũi bão táp" (Cabo de las Tormentas). Sau này nó được vua Bồ Đào Nha là John II đổi tên thành "Mũi Hảo Vọng" (Cabo de Buena Esperanza) do có sự lạc quan lớn nhờ mở ra một hành trình trên đại dương để đi về phía đông.
Vùng đất xung quanh Kaap De Goede Hoop (tiếng Hà Lan để chỉ mũi Hảo Vọng) là quê hương của người Khoikhoi (Hottentot) khi người Hà Lan đầu tiên đặt chân tới đây vào năm 1652. Người Khoikhoi đã là những người đầu tiên đến đây vào khoảng 1.500 năm trước.
Thương nhân người Hà Lan là Jan van Riebeeck đã thiết lập trạm tiếp tế cho Công ty Đông Ấn Hà Lan gần mũi Hảo Vọng vào ngày 6 tháng 4 năm 1652 và nó sau này đã phát triển lên thành Cape Town. Sự cung cấp thực phẩm tươi sống đã là cực kỳ quan trọng đối với các chuyến đi dài ngày xung quanh châu Phi, và do vậy Cape Town đã trở thành cái gọi là "Quán trọ của đại dương".
Vào ngày 31 tháng 12 năm 1687, một nhóm những người theo đạo Tin lành (Huguenot) đã từ Hà Lan đến mũi Hảo Vọng. Họ đã chạy từ Pháp qua Hà Lan để tránh những vụ đàn áp tôn giáo tại quốc gia này đang diễn ra khi đó. Công ty Đông Ấn Hà Lan khi đó đang có nhu cầu về thợ có tay nghề đến làm việc tại mũi Hảo Vọng và chính quyền Hà Lan nhận ra cơ hội cho những người Huguenot và gửi họ đến đây. Dân cư và lãnh thổ thuộc địa này đã phát triển dần dà theo năm tháng trong 150 năm sau đó hoặc cho đến khi nó mở rộng xa hàng trăm kilômét về phía bắc và đông bắc.
Vương quốc Anh đã xâm lược và chiếm đóng mũi Thuộc địa này vào năm 1795 ("Lần chiếm đóng thứ nhất") nhưng đã từ bỏ sự kiểm soát vùng đất này vào năm 1803. Tuy nhiên, quân đội Anh đã trở lại vào ngày 19 tháng 1 năm 1806 và chiếm đóng mũi đất này một lần nữa ("Lần chiếm đóng thứ hai"). Lãnh thổ này được nhượng lại cho Anh theo Hiệp ước Anh-Hà Lan năm 1814 và từ đó trở đi người Anh đã quản lý mũi Thuộc địa. Nó là thuộc địa của Anh cho đến khi được sáp nhập vào Liên hiệp Nam Phi độc lập năm 1910 (ngày nay là Cộng hòa Nam Phi).
Chính quyền Bồ Đào Nha đã dựng lên hai đèn hiệu hàng hải ở đây, là Diaz Cross và Da Gama Cross, để kỷ niệm hai nhà hàng hải Vasco da Gama và Bartolomeu Dias. Khi nối với nhau, nó sẽ đi qua Whittle Rock (tọa độ: 34°14′48″ vĩ nam, 18°33′36″ kinh đông), một chướng ngại lớn, ngầm và vĩnh cửu đối với tàu thuyền trên vịnh False. Hai đèn hiệu khác tại Simonstown tạo ra sự giao nhau với đường trên. |
Pháo trong tiếng Việt có nhiều nghĩa, tùy theo ngữ cảnh, có thể là:
Tên gọi chung của các loại hỏa khí - súng lớn có uy lực dùng trong quân đội các nước để tiêu diệt sinh lực và vũ khí của đối phương. Xem bài: Pháo và các loạt bài liên quan như Pháo cao xạ, pháo dã chiến, sơn pháo, lựu pháo, pháo chống tăng, v.v.
Tên gọi chung của mặt hàng, trước đây được làm từ thuốc pháo, có vỏ bằng giấy nhuộm màu (xanh, đỏ, tím, vàng, v.v) và có ngòi dẫn cháy dùng để tạo ra tiếng nổ và khói, sử dụng trong các lễ hội (Tết, cưới xin, v.v.). Có nhiều loại như pháo tép (pháo cóc), pháo đại (pháo đùng, pháo cối). Hiện nay đang bị cấm sử dụng tại Việt Nam và Trung Quốc. Xem bài: Pháo (lễ hội).
Tên gọi của một loại quân cờ trong môn Cờ tướng, tên gọi này có lẽ có nguồn gốc từ pháo theo nghĩa thứ nhất.
Trong các cụm từ như:
Pháo binh: Một binh chủng trong quân đội, sử dụng pháo (theo nghĩa thứ nhất) làm vũ khí.
Pháo đài: Một kiểu công trình quân sự, được xây dựng ở các nơi hiểm yếu, chủ yếu nhằm mục đích phòng thủ trong chiến tranh.
"Pháo đài bay": Từ để chỉ các loại máy bay quân sự lớn.
Pháo đất, một trò chơi dân gian Việt Nam.
Pháo hạm, từ chỉ loại tàu chiến sử dụng pháo, phân biệt với loại tàu chiến có trước kỷ nguyên súng đạn.
Pháo hoa hay pháo bông: Được sử dụng chủ yếu để tạo màu sắc trong đêm các lễ hội quan trọng.
Pháo kích: một loại hoạt động tấn công của pháo binh.
Cà pháo- Một loài thực vật có hoa, quả ăn được. Danh pháp khoa học là Solanum undatum, họ: Solanaceae.
Pháo (rapper) |
A Lưới là một huyện miền núi biên giới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
Địa lý
Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 160 00'57'' đến 16027’ 30'' vĩ độ Bắc và từ 1070 0' 3’ đến 1070 30' 30'' kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Hương Thủy và huyện Nam Đông
Phía tây giáp huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị và nước CHDCND Lào
Phía nam giáp huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam
Phía bắc giáp thị xã Hương Trà và huyện Phong Điền.
Huyện A Lưới nằm trên trục đường Hồ Chí Minh chạy qua địa phận 14 xã, thị trấn trong huyện đã phá thế ngõ cụt, nối liền A Lưới thông suốt với hai miền Bắc-Nam đất nước; cách không xa quốc lộ 9- trục đường xuyên Á, có thể thông thương thuận lợi với các nước trong khu vực qua cửa khẩu Lao Bảo-Quảng Trị; đồng thời, Quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với Quốc lộ 1, đây là trục giao thông Đông-Tây quan trọng kết nối A Lưới với Quốc lộ 1, thành phố Huế và các huyện đồng bằng. Có 85 km đường biên giới giáp với nước CHDCND Lào và là huyện duy nhất trong tỉnh có 2 khẩu quốc tế A Đớt-Tà Vàng (tỉnh Sê Kông) và cửa khẩu Hồng Vân-Kutai (tỉnh SaLavan) liên thông với CHDCND Lào, đây là các cửa ngõ phía Tây quan trọng, là lợi thế để huyện mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa với nước bạn Lào và các nước trong Khu vực.
Huyện A Lưới tiếp giáp với Lào ở phía tây, cách thành phố Huế 70 km về phía đông.
Về mặt giao thông, nó được nối với thành phố Huế bằng quốc lộ 49, là một quốc lộ rất hiểm trở có ba đèo cao và vực sâu, trong đó đèo A Co dài 16 km.
A Lưới là vùng đất có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống như: Tà Ôi, Cơ Tu, Vân Kiều,...
Các địa danh được biết đến ở A Lưới trong Chiến tranh Việt Nam gồm: đèo Mẹ Ơi, suối Máu, đồi A Bia (người Mỹ gọi là Hamburger Hill - đồi Thịt Băm, nơi xảy ra trận Đồi Thịt Băm),...
Địa hình
A Lưới là huyện miền núi, nằm trong khu vực địa hình phía Tây của dãy Trường Sơn Bắc, có độ cao trung bình 600–800 m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình 20-250.
Địa hình A Lưới gồm hai phần:
Phần phía Đông Trường Sơn, địa hình hiểm trở, độ dốc lớn, có các đỉnh cao là Động Ngai 1.774 m ở giáp giới huyện Phong Điền, đỉnh Cô Pung 1.615 m, Re Lao 1.487 m, Tam Voi 1.224 m v.v. Đây là vùng thượng nguồn của ba con sông lớn là sông Đakrông, sông Bồ và sông Tả Trạch đổ về vùng đồng bằng của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Phần phía Tây Trường Sơn, địa hình có độ cao trung bình 600 m so mặt nước biển, bao gồm các đỉnh núi thấp hơn và một vùng thung lũng với diện tích khoảng 78.300 ha. Thung lũng A Lưới có địa hình tương đối bằng phẳng với chiều dài trên 30 km, đây là địa bàn tập trung đông dân cư của huyện.
Khí hậu
A Lưới nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam.
Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 22 °C- 25 °C. Nhiệt độ cao nhất khoảng 34 °C- 36 °C, nhiệt độ thấp nhất trong khoảng 7 °C- 12 °C.
Lượng mưa các tháng trong năm từ 2900– 5800 mm.
Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm 86-88%.
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, trong đó lượng mưa lớn tập trung vào 10 đến tháng 12, thường gây lũ lụt, ngập úng.
Mùa khô kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8, mưa ít, chịu ảnh hưởng gió Tây khô nóng, lượng bốc hơi lớn gây ra khô hạn kéo dài.
Thủy văn
A Lưới là khu vực thượng nguồn của năm con sông lớn, trong đó có 2 sông chảy sang Lào là sông A Sáp và sông A Lin; 3 sông chảy sang phía Việt Nam là sông Đakrông, sông Bồ và sông Tả Trạch (nhánh tả của sông Hương). Ngoài ra A Lưới còn có mạng lưới các suối phân bố hầu khắp trên địa bàn huyện. Phần lớn sông suối có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, lòng sông hẹp, thường bị sạt lở vào mùa mưa, gây khó khăn cho xây dựng cầu, đường và đi lại.
Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất
Hiện trạng đất đang sử dụng: Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện A Lưới là 1.224,63 km², trong đó:
Đất nông nghiệp: Diện tích 114.052,58 ha, chiếm 93,1% tổng diện tích tự nhiên, được sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Đất phi nông nghiệp: Diện tích 4.997,99 ha, bao gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất tôn giáo-tín ngưỡng, đất nghĩa trang-nghĩa địa và sông suối, mặt nước chuyên dùng.
Đất chưa sử dụng: Toàn huyện còn 3.413,03 ha đất chưa sử dụng, chiếm 2,78% diện tích tự nhiên, chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng phân bố ở những vùng ít có điều kiện thuận lợi về tưới và giao thông đi lại khó khăn.
Đặc điểm thổ nhưỡng: Đất đai, thổ nhưỡng trên địa bàn A Lưới khá đa dạng, một số nhóm đất chiếm diện tích lớn bao gồm: 1) Nhóm đất feralit đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs), chiếm 63% diện tích của huyện; 2) Nhóm đất feralit vàng trên đá cát (Fc), chiếm 28%; 3) Các nhóm đất khác, chiếm diện tích 9%.
Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt: Nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn huyện A Lưới là hệ thống các sông và mạng lưới các khe suối. Trong phạm vi huyện A Lưới có các sông chính là sông A Sáp, A Lin, Tà Rình, Đakrông, sông Bồ.
Nguồn nước ngầm: Mực nước ngầm của các khu vực trong huyện khá cao. Qua khảo sát thực tế cho thấy các giếng đào của dân cho thấy mực nước ngầm có ở độ sâu từ 4 m trở lên.
Tài nguyên rừng
A Lưới có diện tích đất lâm nghiệp lớn 107.849,63 ha, trong đó diện tích đất rừng sản xuất có 45.903,28 ha, đất rừng phòng hộ 46.322,34 ha, rừng đặc dụng 15.489,10 ha; đất rừng tự nhiên là 86.647,16 ha, đất rừng trồng là 15.858,79 ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt 75%. Trữ lượng gỗ khoảng 6-7 triệu m³, với nhiều loại gỗ quí như lim, gõ, sến, mun, vàng tâm, dổi, kiền, tùng v.v. và nhiều loại lâm sản khác như tre, nứa, luồng, lồ ô, mây... Động vật rừng đa dạng và có một số loài như sao la, chồn hương, mang, nai...thuộc nhóm động vật quý hiếm cần được bảo vệ.
Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn huyện A Lưới tài nguyên khoáng sản khá phong phú, trữ lượng lớn có thể khai thác theo quy mô công nghiệp, trong đó đáng kể nhất là các mỏ cao lanh, đá xây dựng, vàng, nước khoáng nóng v.v.
Tài nguyên du lịch
A Lưới là vùng núi cao mang trong mình nhiều cảnh đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng kỳ vỹ. Thác A Nô là một thắng cảnh nổi tiếng nằm trên địa phận xã Hồng Kim. Cách trung tâm huyện 30 km là những cánh rừng nguyên sinh và suối nước nóng rất cuốn hút và độc đáo thuộc địa phận xã A Roàng. Đây là khu rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn, với diện tích khoảng 3.000 ha kéo dài từ A Lưới đến tận Quảng Nam với nhiều thác cao, vực sâu, rất hấp dẫn đối với loại hình du lịch sinh thái và dành cho những người yêu thích phiêu lưu, mạo hiểm. A Lưới còn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch khác như động Tiến Công, núi Ta Lơng Ai, sông Tà Rình v.v.
Bên cạnh những tiềm năng du lịch thiên nhiên sinh thái hấp dẫn, A Lưới còn có nhiều di tích lịch sử cách mạng ghi dấu các chiến công anh dũng của dân và quân A Lưới cùng cả nước. Toàn huyện có 72 di tích lịch sử, trong đó có 7 điểm di tích cấp quốc gia với những cái tên quen thuộc như sân bay A So, địa đạo A Đon, địa đạo Động So, đồi A Biah, đường Hồ Chí Minh huyền thoại v.v.
A Lưới được nhắc đến như là một vùng đất còn lưu trữ nhiều giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc. Đặc biệt là các lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó đậm nét nhất là lễ hội A Riêu Ping của người Pa Cô và lễ Aza. Các điệu múa, hát cha Chấp, dân ca cổ, cồng chiêng, khèn và cùng các món ăn đặc sản truyền thống như cơm nếp nương, bánh nếp A Coác, rượu đoác, rượu cần, cá suối v.v. tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc đặc sắc nơi đây; làm cho A Lưới càng trở nên hấp dẫn để có thể khai thác phát triển du lịch văn hóa, lịch sử và du lịch cộng đồng v.v.
Hành chính
Huyện A Lưới có 18 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn A Lưới (huyện lỵ) và 17 xã: A Ngo, A Roàng, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Vân, Hương Nguyên, Hương Phong, Lâm Đớt, Phú Vinh, Quảng Nhâm, Sơn Thủy, Trung Sơn.
Lịch sử
Hình thành và phát triển
A Lưới là căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh, cả nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đồng bào các dân tộc A Lưới đã có nhiều tấm gương tiêu biểu như: Anh hùng liệt sỹ A Vầu, xã Hồng Kim; Anh hùng liệt sỹ Cu Lối, xã Hồng Nam; Anh hùng Cu Trip, Anh hùng Hồ Vai, Kăn Lịch, Kăn Đơm, Bùi Hồ Dục, Hồ A Nun và nhiều tấm gương tiêu biểu khác; đồng thời, đã đóng góp 33.837 tấn lương thực, thực phẩm, 4.560 lượt dân công hỏa tuyến, 7.850 lượt công dân lên đường nhập ngũ, 1,5 triệu ngày công phục vụ chiến đấu; 577 liệt sỹ, 1.086 thương binh, hàng ngàn gia đình có công, gần 10 nghìn người và 5.000 hộ gia đình tham gia cách mạng. Nhờ những đóng góp to lớn cho cách mạng mà đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương, phong tặng huyện A Lưới danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 16 xã, thị trấn được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8 cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 12 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 19 tập thể anh hùng lực lượng vũ trang.
Đồng thời, huyện A Lưới là địa bàn sinh sống, tụ cư lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số anh em: Pa Kô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy trong các thung lũng dọc Trường Sơn, sát với nước bạn Lào anh em, đến năm 1976, huyện A Lưới được thành lập và có thêm 3 xã kinh tế mới Sơn Thủy, Phú Vinh, Hương Phong là đồng bào kinh lên xây dựng quê hương mới tại A Lưới.
Đến nay, sau 38 năm (1976- 2014) trưởng thành và phát triển, huyện A Lưới hôm nay đã thay da đổi thịt, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều khởi sắc, kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển và đã đạt được những kết quả quan trọng: Thu nhập bình quân đầu người 14 triệu đồng/người/năm; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 15%; tỷ lệ hộ nghèo còn 13,64%; cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư, xây dựng, như: Điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, nước sinh hoạt,… nhờ vậy, đã có 100% thôn, bản có đường giao thông, 90% hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh, 100% xã, thị trấn có điểm bưu điện văn hóa xã (số liệu năm 2013).
Lịch sử hành chính
Sau năm 1975, huyện A Lưới thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, gồm 20 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Tiến, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong và Nhâm.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, thành lập 2 xã Phú Vinh và Sơn Thủy thuộc vùng kinh tế mới.
Ngày 18 tháng 5 năm 1981, chuyển xã Hồng Tiến về huyện Hương Trà quản lý (nay là thị xã Hương Trà). Huyện A Lưới có 21 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong, Nhâm, Phú Vinh, Sơn Thủy.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Thừa Thiên Huế được tái lập từ tỉnh Bình Trị Thiên, huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 22 tháng 11 năm 1995, thành lập thị trấn A Lưới (thị trấn huyện lỵ huyện A Lưới) trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hồng Nam.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã A Đớt và xã Hương Lâm thành xã Lâm Đớt, sáp nhập xã Hồng Quảng và xã Nhâm thành xã Quảng Nhâm, sáp nhập xã Bắc Sơn và Hồng Trung thành xã Trung Sơn.
Huyện A Lưới có 1 thị trấn và 17 xã như hiện nay.
Giáo dục
Trên địa bàn huyện có 3 trường THPT công lập là:
Trường THPT A Lưới (đóng tại thị trấn A Lưới).
Trường THCS & THPT Trường Sơn (trên cơ sở hợp nhất trường THCS Hương Lâm và trường THPT Hương Lâm từ ngày 01/12/2021) (đóng tại xã Lâm Đớt).
Trường THCS và THPT Hồng Vân (đóng tại xã Hồng Vân).
Ngoài ra, còn có Trung tâm GDNN-GDTX huyện A Lưới.
Ở các xã, thị trấn đều có các trường THCS, Tiểu học, Mầm non.
Dân số
Theo số liệu thống kê năm 2013, dân số toàn huyện có 46.417 nghìn người, mật độ dân số 38 người/km², trong đó trên 80% là dân tộc thiểu số, bao gồm chủ yếu là các dân tộc Pa Kô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy và dân tộc Kinh. Chính vì thế, nơi đây hội tụ đa dạng những truyền thống văn hóa dân tộc rất đặc sắc, giá trị.
Thủy điện
Thủy điện A Lưới có công suất 170 MW với 2 tổ máy, xây dựng với hồ nước ở thượng nguồn dòng sông A Sáp (hay Sê A Sáp) chuyển nước về nhà máy điện xả nước ra sông Bồ , khởi công tháng 6/2007 hoàn thành tháng 6/2012 . Tên ban đầu của công trình là thủy điện A Sáp. .
Thủy điện A Roàng có công suất 7,2 MW với 2 tổ máy, xây dựng trên thượng nguồn sông Bồ tại vùng đất xã A Roàng, khánh thành tháng 1/2016 .
Chỉ dẫn
Chú thích |
Lợn hươu Buru (danh pháp khoa học: Babyrousa babyrussa), là một động vật giống như lợn, có nguồn gốc ở Celebes và các đảo xung quanh của Indonesia. Là thành viên duy nhất trong chi của nó (chi Babyrousa), nó thông thường được phân loại trong họ Lợn (Suidae).
Khu vực sinh sống của nó là các bụi cây rậm trong rừng rậm nhiệt đới và các bụi lau sậy cũng như bên bờ các dòng sông và hồ nước. Chúng có ít hoặc không lông, lớp da lốm đốm màu nâu và xám, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ngụy trang của chúng.
Lợn hươu Buru được biết đến nhờ hai cặp răng nanh của chúng: cả hai cặp răng nanh trên và dưới đều khá lớn, cong ngược và uốn về phía sau rồi sau đó uốn ngược trở lại phía trước; trên thực tế, cặp răng nanh trên của lợn đực là cong và lớn đến mức chúng nổi rõ qua lớp thịt, xuyên ra ngoài qua các lỗ để vượt qua phần đỉnh của mõm.
Sau thời gian mang thai khoảng 125 đến 150 ngày, con cái thường đẻ hai con .
Loài này hiện đang ở trong danh sách các loài đang gặp nguy hiểm.
Hình ảnh nổi
Các hình dưới đây có thể xem bằng kính màu 3 chiều để có ấn tượng 3 chiều về vật thể. |
Họ Lợn (Suidae) là một họ động vật có vú gồm các loài được gọi là lợn hay heo (tiếng Anh: Pig, Hog, Swine hoặc Boar) trong Bộ Guốc chẵn. Cùng với nhiều loài hóa thạch, hiện có 18 loài còn sinh tồn được công nhận, (hoặc 19 loài nếu tính riêng lợn nhà và lợn rừng), được phân loại vào từ 4 - 8 chi. Trong Họ này, chi Sus bao gồm lợn nhà (Sus Scrofa localus hoặc Sus localus), và nhiều loài lợn hoang từ châu Âu đến Thái Bình Dương. Các chi khác bao gồm lợn hươu và lợn bướu. Tất cả các loài lợn có nguồn gốc từ Cựu Thế giới, phân bố từ châu Á đến châu Âu và châu Phi.
Hóa thạch Suidae cổ nhất có niên đại từ thế Oligocen ở châu Á, rồi các loài hậu duệ lan đến châu Âu vào thế Miocen. Các loài hóa thạch thích ứng với nhiều chế độ ăn khác nhau, từ ăn thuần thực vật đến có lẽ cả ăn xác chết (Phân họ Tetraconodontinae).
Phân loại
Mười bảy loài trong họ Lợn sau hiện được công nhận:
Chi tuyệt chủng
Danh sách chi tuyệt chủng chưa đầy đủ, đơn vị phân loại tuyệt chủng được đánh dấu dấu chữ thập "†":
Suidae
Phân họ †Cainochoerinae
Chi †Albanohyus
Chi †Cainochoerus
Phân họ †Hyotheriinae
Chi †Aureliachoerus
Chi †Chicochoerus
Chi †Chleuastochoerus
Chi †Hyotherium
Chi †Nguruwe (formerly placed in Kubanochoerinae)
Chi †Xenohyus
Phân họ †Listriodontinae
Tông †Kubanochoerini
Chi †Kubanochoerus (danh pháp đồng nghĩa của Libycochoerus, Megalochoerus)
Tông †Listriodontini
Chi †Eurolistriodon
Chi †Listriodon (danh pháp đồng nghĩa của Bunolistriodon)
Tông †Namachoerini
Chi †Lopholistriodon
Chi †Namachoerus
Subfamily Suinae
Tông Suini
Chi †Eumaiochoerus (Miocen)
Chi †Hippopotamodon (Miocen đến Pleistocen)
Chi †Korynochoerus (Miocen đến Pliocen)
Chi †Microstonyx (Miocen)
Chi Porcula
Chi Sus (Miocen đến nay)
Tông Potamochoerini
Chi †Celebochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Hylochoerus (Pleistocen đến recent)
Chi †Kolpochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Potamochoerus (Miocen đến nay)
Chi †Propotamochoerus (Miocen đến Pliocen)
Tông †Hippohyini
Chi †Hippohyus (Pliocen)
Chi †Sinohyus (Pliocen)
Chi †Sivahyus (Pliocen)
Tông Phacochoerini
Chi †Metridiochoerus (Pliocen đến Pleistocen)
Chi Phacochoerus (Pliocen đến nay)
Chi †Potamochoeroides (Pliocen, có lẽ cả Pleistocen)
Chi †Stylochoerus (Pleistocen)
Tông Babyrousini
Chi Babyrousa (Pleistocen tới nay)
Phân họ †Tetraconodontinae
Chi †Conohyus
Chi †Notochoerus
Chi †Nyanzachoerus
Chi †Parachleuastochoerus
Chi †Sivachoerus
Chi †Tetraconodon
Chưa rõ phân họ (incertae sedis)
Chi †Hemichoerus
Chi †Hyosus
Chi †Kenyasus (trước xếp vào Kubanochoerinae)
Chi †Schizochoerus
Chi †Sinapriculus
Chú thích |
Chèo (chữ Nôm: 掉) là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng đồng bằng sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài từ thế kỉ 10 tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn... hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, ca kịch… Từ năm 2021, Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nguồn gốc hình thành chèo
Chèo được hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung đã được nhà vua phong chức quan Ưu Bà chuyên truyền dạy nghề múa hát. Sau đó chèo phát triển rộng ra toàn lãnh thổ Đại Cồ Việt gồm khu vực châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.
Đến thế kỷ 14, sự phát triển của sân khấu Việt Nam có một mốc quan trọng là thời điểm một con hát quân đội Nguyên Mông đã bị bắt ở Việt Nam tên gọi Lý Nguyên Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên nên đã được tha tội chết và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem, Ai cũng cho là hay. Qua đó lan tỏa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam, tác động trực tiếp đến các loại hình sân khấu tuồng, chèo. Các loại vai diễn cũng ảnh hưởng theo sự kiện này như đán nương (đào), quan nhân (kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề)...
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông thôn, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Chèo do các Nho sĩ soạn, chẳng hạn Lưu Bình-Dương Lễ do danh sĩ Vũ Trinh, thời cuối Lê- đầu Nguyễn soạn. Các vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo khai thác một số tích truyện ảnh hưởng của tuồng như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.
Đặc trưng của chèo
Chèo là nghệ thuật tổng hợp, muốn thấy được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc của chèo phải trực tiếp đến với các chiếu chèo, các vở diễn. Đặc trưng của chèo là vẫn những câu chuyện đó, tích cũ đó nhưng lối hát, lối diễn của từng nghệ sĩ lại làm nên sự phong phú khác biệt riêng nên đi xem chèo, nghe chèo cũng là xem các đào, các kép diễn xuất. Đặc biệt, nếu thuộc được một số làn điệu thì mới thấy được sức cuốn hút lạ kỳ của chèo. Hát chèo là lối hát sân khấu, có thể đơn ca, song ca hoặc đồng ca. Giai điệu của các làn điệu hát chèo rất phù hợp với giọng tự nhiên và ngôn ngữ của người Việt.
Hát chèo được hình thành trong các sáng tác văn học dân gian và hội tụ tất cả những dòng dân ca vùng châu thổ sông Hồng như hát văn, hát xẩm, hát ghẹo, hát xoan, hát Quan họ, hát đúm, ca Huế, ca trù... Hát chèo là loại hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu bền, độc đáo và phổ biến. Nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và phục vụ đắc lực cho đời sống tinh thần của nhân dân nên chèo luôn được nhân dân yêu mến, gìn giữ. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Về nội dung, không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo thường miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn, ca ngợi những phẩm chất cao cả của con người. Trong chèo, cái thiện thường thắng cái ác, các sĩ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc trong Quan Âm Thị Kính hay thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn với 5 loại chính: Sinh, Đào, Lão, Mụ, Hề. Theo giáo sư Trần Bảng thì Hề, Lão, Mụ, thường diễn theo phong cách dân gian; còn Sinh, Đào thường diễn theo phong cách gần như cổ điển, gần với hình tượng văn học của văn chương cổ điển. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng như thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề...
Hề chèo là một vai diễn rất đặc trưng trong các vở diễn chèo, điều đó đã được khẳng định qua nhiều vở chèo truyền thống - “phi hề bất thành chèo”. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến như vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Nghệ thuật tung hứng của các anh hề trong tích chèo đã không chỉ mang lại tiếng cười cho người xem mà nó còn chứa đựng, chuyển tải cả những tinh thần, tư tưởng khác của vở diễn. Có hai loại hề chính là: hề áo dài và hề áo ngắn. Hề áo ngắn gồm có hề Gậy và hề Mồi. Hề Gậy thường là các anh chàng hề đồng lóc cóc mang gậy chạy theo hầu thầy. Hề Mồi là những nhân vật hầu hạ sai vặt trong nhà hoặc lính canh hầu nơi quan phủ, thường ra sân khấu trước mang theo chiếc mồi quấn bằng giẻ tẩm dầu đốt sáng như đuốc dọn dẹp, đón quan đủng đỉnh ra sau. Loại hề áo dài là các nhân vật như thầy bói, thầy phù thủy, thầy đồ... không phải kẻ hầu hạ. Hề áo dài thường hóa trang xấu xí, nhọ nhem, hả hê vui sướng tự giễu cợt mình, tự lột mặt nạ bản thân và tự đẩy mình vào tình huống lố bịch.
Chèo sử dụng tối thiểu là ba loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt, đàn nhị và đàn bầu đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn tam thập lục, tiêu v.v...
Các làn điệu chèo
Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200 làn điệu, chủ yếu được hình thành và bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, ca dao, thơ giàu chất văn học đằm thắm trữ tình...
Làn điệu chèo được chia ra thành hệ thống như sau:
Hệ thống làn điệu đối đáp, trữ tình: 22 điệu,
Hệ thống làn điệu đường trường: 17 điệu, Hệ thống đường trường thường là những điệu hát có cấu trúc lớn bao gồm nhiều trổ và có kĩ thuật phức tạp. Những điệu hát trong hệ thống này thường mang tính chất trữ tình và diễn tả những trạng thái nội tâm khá phức tạp của nhân vật.
Hệ thống làn điệu sắp: 29 điệu. Mô hình hát sắp thường mang tính chất hát nói, tiết tấu nhanh, vui vẻ, sôi nổi, thể hiện sự phấn chấn, lạc quan trong đó có cả những bài hát sắp mang tính giễu cợt để dùng cho các vai hề như: Sắp mưa ngâu, sắp đan lồng, sắp dựng.
Hệ thống làn điệu hề: 28 điệu. Đây là những hệ thống làn điệu chuyên dùng cho các vai: Hề gậy, hề mồi có tính chất vui vẻ, gây cười và nhiều lúc dùng để châm biếm và giễu cợt.
Hệ thống làn điệu ra trò: 36 điệu. Tiêu biểu như: Gió thổi màn loan, Quá giang, Con gà rừng
Hệ thống làn điệu vãn, thảm: 10 điệu. Hát vãn thường dùng cho nhân vật trong những hoàn cảnh buồn khổ, than thân trách phận, ngậm ngùi xót xa.
Hệ thống làn điệu nói sử: Hát sử và nói sử là lối nói đặc biệt quan trọng trong việc hình thành phong cách âm nhạc kể chuyện của chèo, nó mang tính tự sự rõ rệt nhưng rất chú ý đến việc vận dụng ngữ khí âm sắc. Khi thể hiện thì lại mang âm điệu đĩnh đạc và có tiết tấu nhất định. Nó dùng để thể hiện cho nhiều nhân vật ở những hoàn cảnh cần phải thể hiện rõ nét hơn.
Hệ thống làn điệu sa lệch: Hệ thống sa lệch thể hiện tính chất trữ tình, đằm thắm thiết tha, đôi khi có chút dỗi hờn và sự buồn thương man mác.
Hệ thống làn điệu nói, vỉa, ngâm vịnh.
Hệ thống chỉ có một làn điệu như một bài hát riêng được gọi là bài ca lẻ trong chèo. Bài ca lẻ không đứng trong một hệ thống làn điệu nhưng mang giá trị thẩm mỹ cao như: Quân tử vu dịch, Đào liễu, Đào lý, Tình thư hạ vi, Bình thảo, Chức cẩm hồi văn, Lới lơ... bản thân mỗi làn điệu đó cũng là một mô hình âm nhạc nhưng chưa được bẻ làn nắn điệu và chuyển hóa mô hình thành một điệu khác.
Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở Quan âm Thị Kính có điệu kể hạnh, ru kệ, ba than cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu con gà rừng, hát xuôi hát ngược… dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như lới lơ, luyện năm cung.
Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như:
Vở chèo Quan Âm Thị Kính: Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, Cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt...
Vở chèo Lưu Bình Dương Lễ: Hề sư cụ, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu...;
Vở chèo Trương Viên: Hề mồi đồn rằng, Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Hoài thai, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện...;
Vở chèo Từ Thức gặp tiên: Đường trường thu không, Ván cờ tiên, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi, các làn điệu hề gậy theo thầy...;
Vở chèo Kim Nham: Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Hề cu sứt, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1, Hề tiểu gấm hoa chanh...
Vở chèo Chu Mãi Thần: Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề, Hề mồi ba mươi tết'
Vở chèo Trinh Nguyên: Hề ông đồ (Bồ kếch bồ các), Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói;
Vở chèo Tấm Cám:Chinh phụ, Hát ru, Ru bống; vở chèo Kiều: Du xuân, Quạt màn, Hải đường...
Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể. Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: Đào liễu, Lới lơ, Đò đưa, Làn thảm chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Du xuân, Tứ quý… thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói… Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân…; trạng thái buồn tủi có: Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình…; tâm sự yêu thương có: Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện…
Tứ chiếng chèo
Tứ chiếng chèo là cách phân vùng không gian nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng kể từ thế kỷ 15, khi chèo rời kinh đô trở về vùng nông thôn. Chiếng chèo là những phường chèo hoạt động trong một vùng văn hóa nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc tương ứng với 4 trấn Hải Đông, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc xung quanh thủ đô Hà Nội. Mỗi chiếng có những ngón nghề riêng, đặc trưng riêng rất khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và đặc trưng văn hóa địa phương.
Chiếng chèo Đông nay thuộc các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và phía đông bắc Hưng Yên. Vùng này xưa là trấn Hải Đông. Chèo xứ Đông thiên về lối diễn mực thước, đĩnh đạc, tinh tế với lối hát chậm rãi, chau chốt của các vai diễn nho sinh, kép chính, đào chín, ông lão, bà lão và kém hơn hai chiếng chèo Nam, chèo Bắc ở các vai diễn hề và đào lệch. Chèo Đông hợp với các làn điệu Đường trường, Sử bằng, Sử chuyện, Du xuân, Chinh phụ, Ngâm, Vỉa.... Câu ca dao xứ Đông của vùng cửa biển Hải Phòng, Quảng Ninh: Anh về xẻ ván cho dày / Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang đã được chèo hóa thành làn điệu chèo Hát đúm rất độc đáo cho màn đối đáp giao duyên giữa hai nhân vật Nô - Màu là một trong những làn điệu chèo tiêu biểu của xứ Đông.
Chiếng chèo Đoài nay thuộc khu vực tây Hà Nội và các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, phía nam Tuyên Quang. Vùng này xưa là trấn Sơn Tây. Chèo xứ Đoài mang âm hưởng của hát xoan, hát dô, dân ca Phú Thọ và cò lả. Làn điệu chèo tiêu biểu của xứ Đoài là điệu chèo Tứ quý, vốn xuất phát từ điệu dân ca mừng hội cướp bông trong các lễ hội cướp bông vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn Tây để tôn vinh sơn thần và các nhân vật thời Hùng Vương đã được chèo khai thác đặt lời rất tài tình thành điệu Tứ quý rất độc đáo. Các làn điệu khác như Duyên phận phải chiều, Cách cú, Hồi tiếu cũng có nguồn gốc từ dân ca xứ Đoài.
Chiếng chèo Nam nay thuộc các tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa và phần phía nam của Hưng Yên, Hà Nội. Vùng này xưa là trấn Sơn Nam. Chèo xứ Nam rất đa dạng và độc đáo. Những làn điệu đặc trưng chèo Nam như: Chèo quế hay Hạ vị tả cảnh du thuyền thăm các thắng cảnh ở Ninh Bình, Bà chúa con cua gắn với tín ngưỡng chầu văn Nam Định, Nhịp đuổi gắn với tích trấn thủ Lưu Đồn ở Thái Bình hay các làn điệu độc đáo xứ Nam như Đò đưa, Đường trường thu không, Đường trường tải lương, Tình thư hạ vị...
Chiếng chèo Bắc nay thuộc khu vực bắc Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Vùng này xưa là trấn Kinh Bắc. Chèo xứ Bắc mang âm hưởng của dân ca quan họ, phát triển mạnh ở các vùng chèo Yên Dũng, Quế Võ, Gia Bình. Các làn điệu chèo đặc trưng của chiếng chèo Bắc như: Con nhện giăng mùng, Đường trường vị thủy, Đường trường trong rừng, Rủ nhau lên núi Thiên Thai, Sắp sông dâu...
Trung tâm Thăng Long - Hà Nội là nơi giao thoa của tứ chiếng chèo vì thế mà chèo Hà Nội mang nét đặc trưng là tinh túy, nhẹ nhàng và hội tụ. Với việc mở rộng địa giới hành chính, các huyện ngoại thành của thủ đô hiện nay từng là một phần của các chiếng chèo Đoài, Nam và Bắc xưa. Hiện 3 nhà hát Chèo chuyên nghiệp mạnh nhất Việt Nam đều đóng ở Hà Nội là Nhà hát Chèo Quân đội (Việt Nam), Nhà hát Chèo Việt Nam và Nhà hát Chèo Hà Nội.
Trong tứ chiếng chèo xưa thì hiện nay thì chiếng chèo Nam được bảo tồn tốt hơn cả vì là quê hương của nghệ thuật chèo và có các địa phương mạnh về chèo như Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định và Hà Nam. Tiếp theo là chiếng chèo Đông với các vùng chèo Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh. Chiếng chèo xứ Đoài trước đây với trung tâm là vùng Thạch Thất - Sơn Tây nay đã bị sáp nhập về Hà Nội, phần còn lại thuộc các tỉnh trung du Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang. Xứ Bắc là quê hương của quan họ nên nghệ thuật chèo ít được quan tâm hơn, nhưng vẫn tồn tại ở nhiều làng quê Bắc Giang, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Các tổ chức chèo hiện nay
Các tổ chức chèo hiện nay gồm có các nhà hát chèo, đoàn chèo chuyên nghiệp và các câu lạc bộ chèo không chuyên
Quy mô lớn nhất của các đơn vị nghệ thuật Chèo là Nhà hát Chèo rồi đến Đoàn Chèo, một số tỉnh chỉ biên chế đội hoặc tổ Chèo thuộc đoàn nghệ thuật hoặc trung tâm nghệ thuật tỉnh. Ở Việt Nam hiện có 18 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp có chèo trong đó gồm:
8 nhà hát chèo: Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Chèo Ninh Bình, Nhà hát Chèo Thái Bình, Nhà hát Chèo Hải Dương, Nhà hát Chèo Hưng Yên, Nhà hát Chèo Bắc Giang.
1 đoàn chèo độc lập: Đoàn Chèo Hải Phòng
9 đoàn nghệ thuật chèo đã sáp nhập vào các nhà hát nghệ thuật tỉnh từ năm 2020: Đoàn Chèo Quảng Ninh, Đoàn Chèo Phú Thọ, Đoàn Chèo Yên Bái, Đoàn Chèo Thái Nguyên, Đoàn Chèo Thanh Hóa, Đoàn Chèo Tuyên Quang, Đoàn Chèo Nam Định, Nhà hát Chèo Hà Nam, Đoàn chèo Vĩnh Phúc.
Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ chèo hiện đại đã vượt ra khỏi không gian làng xã và trở thành nơi tập hợp những người yêu chèo. Các câu lạc bộ Chèo cấp tỉnh, huyện, xã, thôn do các nghệ sĩ chèo hoặc những người yêu chèo sáng lập nhiều nơi như: Bắc Giang có 40 CLB chèo, Bắc Ninh có 60 CLB chèo, Hà Nam có 70 CLB chèo, Hải Dương có 190 CLB chèo, Nam Định có 200 CLB chèo...
Các nghệ sĩ nổi tiếng
Các cố nghệ sĩ
Tổ nghề Phạm Thị Trân và các vị hậu tổ nghệ thuật chèo được chép trong Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh gồm: Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất và Chính Vịnh Càn.
Nguyễn Đình Nghị (1886-1954) quê làng Thụy Lôi, xã Thụy Lôi, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Ông có công đầu trong việc gìn giữ và cách tân Chèo. Ông đi từ Chèo sân đình, qua Chèo văn minh và thành đạt ở Chèo cải lương.
Trùm Thịnh (Cụ Nguyễn Văn Thịnh), (1883-1973), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; là người phục hồi nghệ thuật chèo và xây dựng sân khấu chèo hiện đại. Vở Lưu Bình Dương Lễ lời trò do cụ Trịnh Thị Lan đọc và có bổ sung của cụ Nguyễn Văn Thịnh năm 1956.
Cả Tam (Cụ Trịnh Thị Lan), (1888 - 1971), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; một trong những nghệ nhân có công khôi phục vốn chèo cổ đồng thời có đóng góp lớn cho việc hiện đại hoá chèo.
An Văn Mược (Cả Mược): Nghệ nhân trùm chèo nổi tiếng ở Ninh Bình, có công lưu giữ các làn điệu chèo. cung cấp các vở Quan Âm Thị Kính (cùng với Phạm Hồng Lô) và Kim Nham (cùng với Phạm Hồng Lô, Nguyễn Mầm, Nguyễn Văn Tích).
Tào Mạt: là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước kể về lịch sử Việt Nam thời nhà Lý với nhân vật chính là Lý Thánh Tông, Nguyên phi Ỷ Lan và Lý Nhân Tông.
Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm Thịnh (1883 - 1973), người đã cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả Tam (1888 - 1971) đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ 20.
Dịu Hương (1919-1994), người Bình Lục, Hà Nam, thành công với những trích đoạn Xuý Vân giả dại và Thị Màu lên chùa.
Năm Ngũ, Tư Liên, Lý Mầm, Mạnh Tuấn, những nghệ nhân nổi danh với loại vai hề chèo
Hoa Tâm (1906 - 1986), người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Phạm Hồng Lô: Nghệ nhân chèo người Yên Khánh, Ninh Bình.
Vũ Thị Tý (1936-1974); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Kính trong "Quan âm Thị Kính"; Đào Huế trong "Chu Mãi Thần"; Mụ quán trong "Xúy Vân" (tác giả: Hàn Thế Du); Chị Út Tịch trong "Cô Giải phóng" (tác giả: Tào Mạt); Chị Tâm trong "Phiến đá" (tác giả: Hà Văn Cầu).
Kiều Bạch Tuyết (1939-1975); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Mầu trong "Quan Âm Thị Kính"; Đào nấp trong "Chu Mãi Thần"; Mụ Cám trong "Tấm Cám" (tác giả: Lưu Quang Thuận)
Các nghệ sĩ đương đại
Nhà hát Chèo Việt Nam: NSND Thanh Ngoan, NSƯT Thùy Dung, NSUT Ngọc Bích, NSUT Kim Liên, NSUT Thu Hương, NS Hà Cường...
Nhà hát Chèo Quân Đội: NSND Đình Óng, NSND Quốc Trượng, NSND Minh Tiến, NSƯT Thùy Linh, NSƯT Ngọc Sơn...
Nhà hát Chèo Hà Nội: NSUT Thu Huyền, NSƯT Thảo Quyên, NSƯT Minh Huệ, NSƯT Hồng Nam, NS Quốc Phòng, NSƯT Việt Thắng, biên đạo múa Hoài Anh...
Nhà hát Chèo Ninh Bình: NSND Mai Thủy, NSND Quang Thập, NSƯT Huyền Diệu, NSƯT Anh Tú, NS Thanh Tuyền, NS Đỗ Lý, NSƯT Bá Toản...
Nhà hát Chèo Thái Bình: NSƯT Văn Bằng, NSUT Thu Hà, NSND Vũ Cải, NSUT Ánh Điện...
Nhà hát Chèo Bắc Giang: Thanh Hường, Quang Lẫm, Phạm Quỳnh Mai, Hà Văn Quân, Vũ Ngọc Anh, Đức Anh, Xuân Hải, Thành Trung...
Nhà hát Chèo Hải Dương: Mạnh Thắng, Thanh Sóng, NSƯT Quốc Anh, Trần Quang Minh, Bùi Đức Thiện, Đoàn Thị Bẩy, Đoàn Thị Nga, Phạm Minh Hiếu...
Nhà hát Chèo Hưng Yên: NSUT Xuân Sanh, Mạnh Đán, Bích Họa, Phương Nhàn, Khắc Nghĩa, Hữu Nam, Đức Đạt, Thanh Lam...
Đoàn Chèo Hải Phòng: NSƯT Kim Liên, Quốc Kiên, Thanh Bình, Thùy Dung, Văn Mởn, Hương Huế, Văn Tạo
Hội Nghệ sĩ sân khấu VN: NSND Thúy Ngần, NSND Thúy Mùi, NSND Vân Quyền, NSND Mạnh Phóng, NSND Hồng Ngát, NSND Huyền Phin, NSND Thúy Hiền
Tác phẩm chèo tiêu biểu
7 vở chèo truyền thống trong tuyển tập chèo cổ Việt Nam, được xem là những tác phẩm kinh điển của nghệ thuật chèo gồm: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Chu Mãi Thần, Kim Nham , Lưu Bình - Dương Lễ, Trinh Nguyên và Từ ThứcCác vở chèo khác ra đời sau đó đã có tác giả như Bài ca giữ nước ( Tào Mạt), Tấm Cám ( Lưu Quang Thuận, Nàng Si ta ( Lưu Quang Vũ), Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Nghêu sò ốc hến, Trần Tử Lệ......Các vở chèo về đề tài hiện đại: Những vần thơ thép, Danh chiếm bảng vàng, Chiến trường không tiếng súng, Cà phê chín đỏ, Bến nước đời người, Giếng thơi trong lòng phố, Quả ngọt trái mùa, Đất làng, Nắng quái chiều hôm...
Một số trích đoạn tiêu biểu được xem là mẫu mực, kinh điển, được đưa vào giảng dạy cho các sinh viên học khoa Kịch hát dân tộc, chuyên ngành chèo như: Thị Mầu lên chùa, Xã trưởng - Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính); Xúy Vân giả dại, Cả sứt dặn em, Phù thủy sợ ma, Mụ Quán và thằng Khoèo (vở Kim Nham), Tuần Ty Đào Huế (vở Chu Mãi Thần); Thày bói đi chợ, Thày đồ dạy học (vở Trinh Nguyên); Nghinh Hương quán, Lưu Bình vinh quy bái tổ (vở Lưu Bình Dương Lễ); Từ Thức gặp Tiên, Giáng Hương vào chùa, Hề gậy theo thầy (vở Từ Thức)...
Nghiên cứu về chèo
Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phả Lục là tài liệu nghiên cứu chèo xưa nhất ở Việt Nam. Tác phẩm viết về các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa hát, các vị tổ chèo, nôi chèo.
Hà Văn Cầu (1964), Tim hiểu phương pháp viết Chèo, Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
Hà Văn Cầu (1973), Hề Chèo, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
Hà Văn Cầu (1976), Tuyển tập Chèo cổ, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
Hà Văn Cầu (2005), Lịch sử nghệ thuật Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Bùi Đức Hạnh (2006), 150 làn điệu chèo cổ, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu Sân khấu Chèo, Nhà xuất bản Lửa thiêng, Sài Gòn.
Nguyễn Thanh Phương (2003), Âm nhạc sân khấu chèo nửa cuối thể kỷ XX, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.
Trần Bảng (1985), Những vấn đề sân khấu (vấn đề sáng tác âm nhạc trong những vở chèo mới), Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Bảng (1995), Chèo-một hiện tượng sân khấu dân tộc, Nxb Hội sân khấu, Hà Nội.
Trần Bảng (1999), Khái luận về Chèo, Viện Sân khấu-Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
Trần Bảng (2006), Đạo diễn Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Lê Ngọc Canh (2003), Nghệ thuật múa Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Lê Thanh Hiền (sưu tầm) (1996), Tổng luận Nghệ thuật chèo nửa sau thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Trần Đình Khải (1970), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
Nguyễn Thúc Khiêm (1930), “Khảo cứu về hát tuồng và hát chèo”, Tạp chí Nam Phong, (141), tháng 1.
Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
Hoàng Kiều (2003), Tìm hiểu các làn điệu Chèo cổ, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (1993), Đường trường phải chiều, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (1997), Đường trường chông chênh, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2003), Tào Mạt và Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2004), Hệ thống lý luận cơ bản của kịch hát truyền thống Việt Nam (chèo và tuồng), đề tài NCKH cấp Bộ, tư liệu Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2005), Nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đình Ngôn (2010), Nghệ thuật biểu diễn chèo truyền thống, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Đức Ngôn (2000), “Chức năng nghệ thuật của không gian, thời gian trong kịch bản chèo cổ”, đặc san 20 năm đào tạo của Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội.
Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều (1964), Tìm hiểu sân khấu chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (1969), Vấn đề nhạc Chèo, tư liệu Viện Sân khấu, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (1996), Về nghệ thuật Chèo, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
Trần Việt Ngữ (chủ biên) (1998), Chèo cổ Thái Bình, Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, Thái Bình.
Nhiều tác giả (1990), Mấy vấn đề nghệ thuật Chèo, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện Sân khấu và Sở Văn hoá-Thông tin Hà Nội, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1995), Thực trạng chèo hôm nay, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2002), Bàn về làn điệu Chèo mới, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2003), Tào Mạt và bộ ba Bài ca giữ nước, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu và Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2010), Nghệ thuật Chèo trong đời sống hôm nay, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu-Điện ảnh, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2011), Trần Huyền Trân với nghệ thuật Chèo, Kỷ yếu hội thảo, Viện Sân khấu-Điện ảnh, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2012), Nghệ thuật Chèo với đề tài hiện đại, Kỷ yếu Hội thảo, Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
Nhóm nguồn Việt (1974), Hát chèo của dân tộc Việt Nam, Nxb Đường Sáng, Sài gòn.
Nguyễn Thị Nhung (1998), Nhạc khí gõ và trống đế trong chèo truyền thống, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
Tất Thắng (2001), Nghệ thuật Chèo-nhận thức từ một phía, Nxb Văn học và Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, Hà Nội.
Trần Quốc Thịnh (2007), Chèo cổ truyền làng Thất Gian, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Trần Trí Trắc (2002), “Nghệ thuật chèo truyền thống phục hồi và phát triển”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (1), tr. 70-74.
Đôn Truyền (2006), Đến với nhạc Chèo, Viện Sân khấu Điện ảnh, Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
Viện Sân khấu (1995), Thực trạng chèo hôm nay, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Trần Vinh (2011), Nhạc Chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
Bảo tồn nghệ thuật chèo
Đề cử di sản văn hóa thế giới
Năm 2021 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã xây dựng hồ sơ "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" để trình UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hà Nam là tỉnh tiên phong trong việc lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận nghệ thuật hát Chèo là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là chủ trương được cụ thể trong theo Quyết định này Quy hoạch phát triển văn hoá, thể dục thể thao tỉnh Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ngày 20/10/2021, Văn phòng Chính phủ ban hành văn bản 7611/VPCP-KGVX đồng ý để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai lập Hồ sơ di sản đối với Nghệ thuật Chèo Đồng bằng sông Hồng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Hội diễn sân khấu chèo
Các cuộc thi nghệ thuật Sân khấu Chèo chuyên nghiệp toàn quốc dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là hoạt động mang tính thi đua cao nhằm đánh giá, tổng kết hoạt động nghệ thuật Chèo của các đơn vị trên toàn quốc sau thời gian 3 năm; từ đó định hướng cho 3 năm tiếp theo. Thời gian tổ chức Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là 3 năm một lần. Ngoài ra còn các cuộc thi dành cho nhóm nghệ sĩ, cá nhân nghệ sĩ như: Cuộc thi tài năng trẻ diễn viên Sân khấu Tuồng, Chèo; Cuộc thi tài năng trẻ đạo diễn Sân khấu toàn quốc; Cuộc thi tài năng biểu diễn Múa; Cuộc thi tài năng trẻ biên đạo Múa.
Liên hoan nghệ thuật sân khấu Chèo là hoạt động giao lưu, trao đổi, học tập, tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong sáng tạo nghệ thuật. Liên hoan chỉ tổ chức cho các loại hình nghệ thuật Chèo không tham gia các Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo. Đơn vị tổ chức các cuộc Liên hoan nghệ thuật Chèo tại Việt Nam xây dựng chủ đề cho mỗi cuộc, gắn với việc kỷ niệm các ngày lễ trọng đại của dân tộc, các sự kiện chính trị diễn ra hàng năm. Các cuộc Liên hoan tổ chức xen kẽ trong khoảng thời gian giữa hai kỳ tổ chức các Cuộc thi.
Lễ hội truyền thống
Niềm đam mê chèo của người dân Việt thể hiện qua việc khát khao đến với các lễ hội dân gian truyền thống:Ăn no rồi lại nằm khoèoNghe giục trống chèo vỗ bụng đi xemChẳng thèm ăn chả ăn nemThèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo''.
Các lễ hội ở vùng châu thổ sông Hồng thường có biểu diễn nghệ thuật hát chèo dưới dạng sân khấu chèo, chiếu chèo hoặc tổ chức hội thi, hội diễn chèo. Các lễ hội tiêu biểu luôn có hát chèo làm chủ đạo tiêu biểu như:
Lễ hội Hoa Lư ở Ninh Bình với hội thi hát Chèo không chuyên và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Ninh Bình thực hiện.
Lễ hội Côn Sơn Kiếp Bạc ở Hải Dương với hội thi hát Chèo và các tiết mục nghệ thuật do Nhà hát Chèo Hải Dương thực hiện.
Lễ hội chùa Keo ở Nam Định với hội thi hát Chèo và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Nam Định thực hiện.
Lễ hội chùa Keo ở Thái Bình với hội thi hát Chèo và các tiết mục sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Thái Bình thực hiện..
Lễ hội đền Trần ở Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình và Quảng Ninh đều có hát chèo chủ đạo trong phần biểu diễn nghệ thuật.
Lễ hội chùa Thầy ở Quốc Oai, Hà Nội, tôn vinh vị hậu tổ của nghệ thuật chèo Từ Đạo Hạnh
Chú thích
Nhạc cổ truyền Việt Nam
Âm nhạc Việt Nam
Văn hóa Việt Nam
Vũ đạo ở Việt Nam |
, hay còn gọi là Cờ tướng Nhật Bản, là một loại cờ phổ biến tại Nhật Bản. Trò chơi trí tuệ này rất được ưa chuộng tại Nhật Bản, được xem là có chung nguồn gốc với cờ vua, cờ tướng (Trung Quốc), makruk, janggi từ trò chơi chaturanga của Ấn Độ..
Môn cờ này độc đáo với nước thả quân: quân đã bị bắt có thể được đưa lại vào bàn cờ bởi người bắt nó. Luật thả quân này được cho là đã được phát minh vào thế kỷ XV, có thể liên quan đến hiện tượng lính đánh thuê khi bị bắt thì đổi phe thay vì bị xử tử ở thời kỳ này.
Trò chơi chaturanga - tổ tiên của shogi - xuất phát từ Ấn độ từ thế kỷ VI, có lẽ đã được truyền bá qua Trung Quốc hoặc Hàn Quốc và đến Nhật Bản khoảng sau thời kỳ Nara. Shogi với luật chơi như ngày nay bắt đầu hoàn thiện từ khoảng thế kỷ XVI; trước đó biến thể shogi không có luật thả quân đã được ghi chép lại từ năm 1210 trong tập bách khoa thư .
Bàn cờ và quân cờ
Hai người chơi ngồi đối diện nhau, người đi trước gọi là , người đi sau gọi là , trên một bàn cờ hình chữ nhật gồm có 9 và 9 tạo thành 81 ô vuông. Khác với cờ vua, các ô trên bàn cờ shogi không có phân biệt gì về màu sắc. Ở giữa bàn cờ có đánh dấu 4 điểm sao để đánh dấu vùng phong cấp của hai bên.
Trong biên bản ván cờ sử dụng ký hiệu hình quân cờ shogi màu đen (☗) cho bên Tiên và màu trắng (☖) cho bên Hậu (điều này có thể là do ảnh hưởng của cờ vây), do đó đã dẫn đến cách gọi Tiên là bên Đen (Black), Hậu là bên Trắng (White) ở cả cộng đồng shogi quốc tế và Việt Nam. Tuy nhiên về bản chất đây là cách gọi không chính xác, bởi lẽ quân cờ hai bên đều cùng màu với nhau. Do đó trong thời gian gần đây, cộng đồng shogi quốc tế đã chuyển về cách gọi gốc trong tiếng Nhật là Sente và Gote.
Mỗi người chơi điều khiển 20 quân cờ hình nêm ngũ giác, có kích thước khác nhau đôi chút. Trừ hai quân Vua, các quân cờ của hai bên không có dấu hiệu hay màu sắc khác nhau để phân biệt. Thay vào đó, các quân cờ hướng về phía trước bằng cách hướng mũi nhọn về phía đối phương, nhìn hướng của quân sẽ biến quân đó của bên nào. Các quân cờ của mỗi bên bao gồm:
1 Vua
1 Xe
1 Tượng
2 Vàng (Tướng vàng)
2 Bạc (Tướng bạc)
2 Mã
2 Thương
9 Tốt
Những tên gọi quân cờ trên đây được CLB Shogi Việt Nam (chi nhánh của Liên đoàn Shogi Nhật Bản tại Việt Nam) dịch và thống nhất sử dụng dựa trên thói quen của cộng đồng người chơi cũng như tương quan với các môn cờ phổ biến khác tại Việt Nam, do đó không phải là cách dịch sát nghĩa so với tên quân cờ trong tiếng Nhật.
Mỗi quân có tên gồm 2 chữ Hán thường được khắc trên mặt quân bằng mực đen. Trên mỗi mặt trái của quân, trừ quân Vua và quân Vàng, là một hay hai chữ khác (trong các bộ quân dành cho người mới chơi thường được khắc bằng mực đỏ để dễ phân biệt), thường được viết theo kiểu chữ thảo, dùng để chỉ ra là quân này đã được phong cấp.
Ở những bộ quân cờ cao cấp, mặt lưng của hai quân Vua (mặt hướng về phía người chơi khi quân cờ đặt trên bàn) sẽ khắc thêm nội dung liên quan đến kiểu thư pháp được sử dụng trên quân cờ cũng như nghệ nhân khắc bộ quân cờ đó.
Sau đây là bảng tên gọi các quân cờ trong tiếng Nhật và tên gọi tương ứng trong tiếng Việt. Tên viết tắt được dùng trong ghi chép biên bản ván cờ (kỳ phổ) và cũng thường được sử dụng khi bình luận cờ.
Cộng đồng người chơi shogi ở Việt Nam thường gọi Xe phong cấp và Tượng phong cấp lần lượt là Long vương và Long mã, theo tên tiếng Nhật của những quân cờ này. Tướng vàng và Tướng bạc được gọi tắt là Vàng và Bạc.
Chữ viết trên mặt phong cấp của quân cờ thường được viết theo kiểu chữ thảo. Trong các bộ quân cờ dành cho người mới chơi, mặt phong cấp được khắc bằng mực đỏ để dễ phân biệt. Chữ viết trên mặt phong cấp của các quân có dạng phong cấp đi như quân Vàng chính là những dị thể thảo thư của chữ (HV: Kim) - với giá trị quân càng giảm thì chữ viết càng tắt và đơn giản hơn. Trong văn bản in, những ký tự thảo thư này có các dạng tương đương như sau: - Bạc phong cấp, - Mã phong cấp, - Thương phong cấp, và - Tốt phong cấp. Một quy ước khác cho các văn bản in sử dụng chữ của giá trị gốc quân cờ nhưng bớt nét đi: - Mã phong cấp , - Thương phong cấp , trong khi Bạc phong cấp vẫn sử dụng chữ , và chữ hiragana được sử dụng cho quân Tokin.
Nhiều người cho rằng chữ Hán trên mặt quân đã làm nản lòng nhiều người không biết chữ Hán đến với shogi. Điều này đã dẫn đến việc một số người chơi shogi sáng tạo ra các loại quân cờ quân được phương Tây hóa, hoặc quốc tế hóa, bằng cách thay các chữ Hán khó đọc bằng các chữ viết tắt của các quân (K, R, B v.v.) hoặc bằng hình vẽ phỏng theo quân cờ vua. Tuy vậy chúng đều không phổ biến bằng các quân cờ chữ Hán truyền thống, bởi lẽ hầu hết người chơi đều có thể nhận dạng được mặt chữ trên quân cờ, phần vì các quân cờ có kích thước khác nhau trong đó quân nào mạnh hơn thì có kích thước lớn hơn. Các quân cờ vẽ hình ảnh động vật cũng được sáng tạo để trẻ em học chơi shogi, tiêu biểu là bộ cờ Dōbutsu shogi do kỳ thủ Kitao Madoka Nữ lưu Nhị đẳng sáng tạo.
Xếp cờ và cách chơi
Ở thế khởi đầu, quân được bố trí ở 3 hàng dưới cùng của bàn cờ, hướng về phía đối phương (xem hình).
Ở hàng dưới cùng:
Vua đặt ở giữa;
Hai quân Vàng đặt cạnh Vua;
Hai quân Bạc đặt cạnh Vàng;
Hai quân Mã đặt cạnh Bạc;
Hai quân Thương được đặt ở hai góc bàn cờ, cạnh hai Mã.
Như vậy hàng đầu tiên được xếp như sau:
{| class="wikitable"
|- style="text-align:center;"
| Th || M || B || Vg || V || Vg || B || M || Th
|}
Hoặc
{| class="wikitable"
|- style="text-align:center;"
|||||||||||||||||
|}
Ở hàng thứ hai:
Quân Tượng ở tay trái người chơi, phía trên quân Mã trái;
Quân Xe ở tay phải người chơi, phía trên quân Mã phải.
Ở hàng thứ ba xếp 9 quân Tốt.
Người đi trước sẽ được xác định bằng cách , thực hiện như sau: Một trong hai người chơi (thường là người cầm Vương Tướng) cầm 5 quân Tốt, xóc lên và thả xuống một bề mặt phẳng bất kỳ. Nếu số Tokin (と) ngửa mặt nhiều hơn số Tốt (歩) ngửa mặt, người thực hiện furigoma sẽ cầm Hậu và ngược lại.
Sau khi furigoma, ván đấu bắt đầu. Nếu thi đấu nhiều ván liên tiếp nhau, sau mỗi ván hai bên sẽ đổi lượt đi cho nhau (bên trước đó cầm Tiên sẽ cầm Hậu và ngược lại). Trong mỗi lượt, người chơi có thể di chuyển quân cờ trên bàn cờ (và có thể phong cấp nó, hoặc bắt quân đối phương, hoặc cả hai) hoặc thả quân đã bắt trước đó của đối phương trở lại bàn cờ. Những nước đi này sẽ được giải thích rõ hơn ở phần sau.
Luật chơi
Mục đích
Giống như những bộ môn cùng nguồn gốc từ Chaturanga khác, mục đích của một ván shogi là chiếu hết quân Vua của đối phương.
Cách đi quân
Đa số quân cờ trong shogi chỉ có thể đi được đến những ô liền kề nó. Một số quân cờ có thể đi tầm xa khắp bàn cờ. Mã có thể nhảy qua đầu các quân khác.
Thương, Xe và Tượng là các quân viễn chiến: những quân này có thể di chuyển số ô tùy ý dọc theo một đường thẳng đến khi gặp quân cản hoặc rìa bàn cờ. Nếu quân cản là quân đối phương, có thể bắt quân này ra khỏi bàn cờ và thế chỗ bằng quân bắt. Nếu quân cản là quân mình, quân di chuyển phải dừng lại ở ô liền kề quân cản; nếu quân mình nằm ngay cạnh quân di chuyển, nó không thể di chuyển theo hướng đó.
Vua (玉/王) đi được 1 ô theo mọi hướng.
Xe (飛) có thể đi ngang dọc tùy ý cho đến khi gặp quân cản.
Tượng (角) có thể đi chéo tùy ý cho đến khi gặp quân cản. Do Tượng không thể đi thẳng, Tượng chưa phong cấp chỉ có thể kiểm soát một nửa bàn cờ, trừ khi bắt được Tượng đối phương và thả lại bàn cờ.
Vàng (金) đi ngang dọc 1 ô, hoặc đi chéo tiến 1 ô, như vậy có tổng cộng 6 cách đi. Vàng không thể đi chéo lùi.
Bạc (銀) đi chéo 1 ô, hoặc tiến thẳng 1 ô, như vậy có tổng cộng 5 cách đi. Như vậy Bạc chưa phong cấp có khả năng đi lùi cơ động hơn so với Bạc phong cấp, do đó thường để một Bạc chưa phong cấp ở phía đối phương. (Xem phần Phong cấp.)
Mã (桂) đi theo hình chữ L, có thể hình dung là đi tiến 1 ô và đi chéo tiến 1 ô trong cùng 1 nước đi. Như vậy Mã chỉ có 2 cách đi. So với Mã trong cờ vua, Mã trong shogi không thể đi ngang hay đi lùi. Mã là quân duy nhất có thể nhảy qua quân cản. Mã không bị cản bởi quân đứng giữa đường đi của nó, nhưng cũng không thể bắt quân này. Do đó thường sẽ hữu ích khi để một Mã chưa phong cấp ở phía đối phương. Tuy nhiên, Mã bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến một trong hai hàng cuối bàn cờ. (Xem phần Phong cấp.)
Thương (香) đi như Xe nhưng không thể đi ngang hay đi lùi. Do đó thường sẽ hữu ích khi để một Thương chưa phong cấp ở phía đối phương. Tuy nhiên, Thương bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến hàng cuối bàn cờ. (Xem phần Phong cấp.)
Tốt (歩) đi thẳng 1 ô về phía trước. Tốt không thể đi lùi. Khác với Tốt trong cờ vua, Tốt trong shogi có cách bắt quân tương tự cách đi. Tốt bắt buộc phải phong cấp nếu nó đi đến hàng cuối bàn cờ. (Xem thêm phần Phong cấp.) Tuy nhiên trên thực tế, người ta thường phong cấp Tốt ngay khi có thể. Có 2 giới hạn về việc thả Tốt. (Xem phần Thả quân.)
Trừ Mã, các quân còn lại có thể đi ngang, đi dọc hoặc đi chéo. Trong cùng một nước đi không thể kết hợp những hướng đi này mà phải chọn 1 hướng nhất định.
Mọi quân đều có thể chặn không cho quân khác (trừ Mã) đi qua ô mình đang chiếm giữ.
Nếu một quân cờ chiếm giữ vị trí hợp lệ của quân đối phương, quân đối phương sẽ bị bắt ra khỏi bàn cờ và thay bằng quân bắt nó. Quân bắt không được đi tiếp quá ô bắt quân trong lượt đó. Cách bắt quân của các quân trong shogi tương tự cách đi quân.
Thông thường khi đi quân (hay bắt/thả quân), người chơi đập quân lên bàn cờ bằng đầu ngón tay đi quân để tạo tiếng động gây chú ý cho đối phương. Trên bàn cờ shogi gỗ truyền thống, âm thanh này có phần trầm và nhẹ nhàng hơn.
Phong cấp
Vùng phong cấp của một người chơi là 3 hàng cuối bàn cờ, tức là 3 hàng xếp quân của đối phương khi khởi đầu ván cờ. Vùng phong cấp thường được đánh dấu trên bàn cờ bằng 2 điểm sao. Khi đi quân, nếu một phần đường di chuyển của quân đó nằm trong vùng phong cấp (tức là nếu quân cờ di chuyển vào vùng phong cấp, ra khỏi vùng phong cấp hoặc bên trong vùng phong cấp; ngoại trừ khi quân cờ được thả vào vùng phong cấp – xem phần Thả quân), người chơi có quyền phong cấp quân cờ ở cuối nước đi này. Hành động phong cấp được thể hiện bằng việc lật ngược quân cờ, ngửa mặt phong cấp lên trên.
Thông thường phong cấp là không bắt buộc; tuy nhiên nếu Tốt hoặc Thương đi đến hàng cuối cùng, hoặc nếu Mã đi đến một trong hai hàng cuối cùng thì bắt buộc phải phong cấp (nếu không thì những quân này không thể di chuyển hợp lệ ở bất kỳ nước đi nào tiếp theo). Bạc không bao giờ bắt buộc phải phong cấp, và thường sẽ lợi hơn nếu giữ một Bạc không phong cấp (như vậy sẽ dễ rút lui một Bạc từ trại của đối phương hơn chẳng hạn, nếu Bạc đã phong cấp thì chỉ có 1 nước đi lùi và như vậy dễ bị cản lại hơn). Xe, Tượng và Tốt thường được phong cấp ngay khi có thể, do những quân này không bị mất nước đi ban đầu sau khi phong cấp.
Phong cấp một quân sẽ làm thay đổi cách đi của quân đó. Cách đi của các quân cờ đã phong cấp như sau:
Bạc, Mã, Thương và Tốt sau khi phong cấp sẽ mất cách đi cũ và có cách đi của Vàng.
Xe và Tượng giữ nguyên nước đi cũ và cộng thêm khả năng đi 1 ô theo mọi hướng (tức là thêm cách đi của Vua). Đối với Tượng rồng, điều này có nghĩa rằng bây giờ nó có thể di chuyển đến khắp bàn cờ.
Vua và Vàng không phong cấp. Quân đã phong cấp rồi không thể phong cấp thêm.
Khi bị bắt khỏi bàn cờ, quân cờ trở về trạng thái chưa phong cấp. Ngoại trừ trường hợp đó ra, quân phong cấp không thể trở về trạng thái cũ được nữa.
Xe rồng/Xe phong cấp ("vua rồng", 龍王 ryūō; ký hiệu: 龍, 竜) có cách đi của Xe và của Vua. Quân cờ này còn được gọi là Long vương.
Tượng rồng/Tượng phong cấp ("ngựa rồng", 龍馬 ryūma; ký hiệu: 馬) có cách đi của Tượng và của Vua. Quân cờ này còn được gọi là Long mã.
Bạc phong cấp (成銀 narigin; ký hiệu: 全, dạng chữ thảo của 金), Mã phong cấp (成桂 narikei; ký hiệu: 圭, 今, dạng chữ thảo của 金), Thương phong cấp (成香 narikyō; ký hiệu: 杏, 仝, dạng chữ thảo của 金) và Tốt phong cấp (と金 tokin; ký hiệu: と, 个, dạng chữ thảo của 今) đều có cách đi của Vàng. Tốt phong cấp thường được gọi bằng tên gốc tiếng Nhật Tokin ở cả bên ngoài Nhật Bản.
Thả quân
Trong shogi, các quân bị "bắt" theo đúng nghĩa đen, tức là quân bị bắt được giữ lại "trên tay" và có thể được đưa lại vào bàn cờ, trở thành quân của người đã bắt nó. Trong tiếng Nhật, quân trên tay được gọi là hoặc . Khi đến lượt, thay vì đi quân, kỳ thủ có thể đưa một quân bị bắt từ trước và đặt chúng (dưới dạng chưa phong cấp) ở bất kỳ ô nào còn trống. Quân được thả, kể từ đó, trở thành một quân của kỳ thủ đó. Hành động này gọi là thả quân. Một lần thả quân được tính là một nước đi độc lập.
Nước đi thả quân không được ăn quân của đối phương, và quân được thả không được phong cấp ngay nếu được thả trong vùng phong cấp. Tuy nhiên nó có thể ăn quân và được phong cấp như bình thường ở các nước đi kế tiếp.
Giới hạn: Có ba giới hạn sau đây cho việc thả quân, hai điều sau chỉ áp dụng cho quân Tốt.
Quân cờ không có nước đi hợp lệ ( ikidokorononaikoma): Không được phép thả Tốt, Thương và Mã ở hàng xa nhất (hàng 9) và không được thả Mã ở hàng áp chót (hàng 8) theo góc nhìn của người thả quân; bởi nếu thả như vậy, những quân này không có nước đi hợp lệ ở bất kỳ nước đi nào sau đó (do những quân này chỉ có thể đi tiến).
Hai Tốt ( nifu): Không được thả Tốt trên cùng cột với một quân Tốt chưa phong cấp khác của cùng bên (không tính Tốt đã phong cấp).
Thả Tốt chiếu hết ( uchifuzume): Không được thả Tốt để chiếu hết Vua ngay lập tức. (Luật này chỉ áp dụng với nước thả quân Tốt để chiếu hết − cụ thể, được phép thả quân không phải Tốt để chiếu hết ngay lập tức, được phép chiếu hết bằng quân Tốt đã có sẵn trên bàn cờ, và được phép thả Tốt để chiếu Vua miễn sao không tạo thành thế chiếu hết ngay lập tức).
Hệ quả của điều 2 là nếu kỳ thủ có Tốt chưa phong cấp trên tất cả các cột sẽ không thể thả Tốt ở bất cứ đâu. Vì lý do này, các kỳ thủ thường thí 1 Tốt để rộng đường thả quân.
Quân bị bắt thường được đặt trên một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ gọi là , thường được đặt bên tay phải người chơi, mép dưới gióng thẳng hàng với mép dưới bàn cờ. Không được phép giấu hay che các quân cờ mình đã bắt được.
Đổi Tượng sớm ở đầu ván cờ là chiến thuật khá phổ biến do hai quân Tượng nằm đối diện nhau. Điều này khiến mỗi bên đều có một Tượng trên tay để thả về sau. Luật thả quân khiến shogi trở nên phức tạp biến hóa và giàu tính chiến thuật. Luật này cũng khiến cho không quân cờ nào bị loại hẳn ra khỏi ván cờ, do đó rất hiếm thấy những ván hòa cờ trong shogi.
Chiếu
Khi người chơi đi một nước dọa bắt Vua đối phương ở nước đi tiếp theo, nước đi đó gọi là nước chiếu Vua và Vua đó đang bị chiếu. Đấu thủ có Vua bị chiếu phải thực hiện nước đi loại bỏ nước chiếu, nếu có thể. Các cách loại bỏ nước chiếu bao gồm chạy Vua khỏi đường chiếu, bắt quân đang chiếu, hoặc di chuyển/thả quân để chặn đường chiếu.
Để hô "chiếu!" trong tiếng Nhật, có thể nói ōte (), dẫu vậy điều này không bắt buộc và có thể là do ảnh hưởng của cờ vua. Trong các ván đấu có người mới chơi, có thể nói ōte để họ dễ nhận biết, hoặc trong các giải đấu quy định rõ rằng phải hô "chiếu". Ít khi thấy các kỳ thủ hô "chiếu" trong các giải đấu chuyên nghiệp.
Kết thúc ván cờ
Kết thúc thường gặp của các ván shogi là khi một bên chiếu hết được Vua của đối phương, sau đó bên thua cuộc phải chịu đầu hàng. Khác với cờ vua hay cờ tướng, hầu hết các ván đấu shogi đều kết thúc bằng chiếu hết, bởi lẽ không quân cờ nào bị loại hẳn ra khỏi bàn cờ, do đó gần như luôn có đủ quân cờ để tạo thành thế chiếu hết. Tuy nhiên có 3 cách kết thúc ván cờ khác như sau: lặp lại nước đi ( sennichite), thế cờ bế tắc ( jishōgi), và nước đi phạm luật ( hansokute). Hai trường hợp đầu tiên (lặp lại nước đi và thế cờ bế tắc) rất hiếm gặp. Trong các ván đấu chuyên nghiệp cũng hiếm khi có nước đi phạm luật, dẫu vậy điều này có thể không đúng với các ván đấu nghiệp dư (nhất là ở những người mới chơi).
Khác với cờ vua, trong shogi hai bên không được phép đề nghị hòa cờ.
Chiếu hết
Nếu Vua đang bị chiếu và không còn nước đi nào để bảo vệ Vua, nước đi này được gọi là chiếu hết (tsumi 詰み) Vua đối phương. Điều này có nghĩa là người chơi chiếu hết đã thắng ván cờ, do đối phương không còn nước đi hợp lệ nào. (Xem thêm: tsumeshogi, hisshi.)
Xin thua
Thông thường người chơi đang ở thế thua sẽ xin thua khi họ thấy rằng thế cờ không thể cứu vãn được nữa. Người chơi có thể xin thua bất kỳ lúc nào trong lượt của mình. Mặc dù có thể chờ đến khi bị chiếu hết mới xin thua, trong các ván cờ thông thường sẽ không chơi đến lúc bị chiếu hết, do thông thường người chơi sẽ xin thua ngay khi cảm thấy không thể tránh được việc bị thua - ví dụ như khi họ đọc ra chuỗi nước đi ép chiếu hết (tsume). Tương tự, nếu một người chơi sắp thua trong tình huống Đôi Nhập Ngọc (xem phần bên dưới) do có ít hơn 24 điểm (hay theo các luật nghiệp dư khác liên quan đến thế cờ bế tắc), người chơi sẽ xin thua trước thời điểm đó.
Thông thường trong các giải đấu sẽ yêu cầu tuyên bố xin thua chính thức - tức là, chiếu hết không phải là điều kiện đủ để chiến thắng và kết thúc ván cờ. Tuyên bố xin thua được thể hiện bằng cử chỉ cúi đầu và/hoặc nói "Tôi xin thua" (負けました makemashita) và/hoặc đặt bàn tay phải lên komadai. Cử chỉ đặt bàn tay phải lên komadai bắt nguồn từ phong tục xin thua trong quá khứ bằng cách cầm các quân trên tay và thả nhẹ lên bàn cờ để thể hiện xin thua. Nếu muốn thay đổi cho phù hợp với phong tục phương Tây, có thể thay bằng bắt tay đối thủ.
Nước đi phạm luật
Trong các ván đấu chuyên nghiệp và các ván đấu nghiêm túc (đánh giải) nghiệp dư, kỳ thủ thực hiện nước đi phạm luật sẽ bị xử thua ngay lập tức. Kết quả thua cuộc vẫn giữ nguyên kể cả khi hai bên không nhận ra, tiếp tục ván cờ và nhận ra nước phạm luật ở thời điểm muộn hơn. Tuy nhiên, nếu không ai trong hai kỳ thủ và không bên thứ ba nào chỉ ra nước đi phạm luật trước khi một bên xin thua, kết quả xin thua sẽ tính là kết quả cuối cùng của ván cờ.
Các nước đi phạm luật bao gồm:
Phạm luật Hai Tốt (nifu) (Xem phần Thả quân bên trên)
Phạm luật Thả Tốt chiếu hết (uchifuzume)
Thả quân hoặc đi quân đến ô mà nó không thể có nước đi hợp lệ trong bất kỳ nước đi nào sau đó (ví dụ như thả Mã vào một trong hai hàng cuối bàn cờ, v.v.)
Thả quân ở dạng phong cấp
Không có lượt mà lại đi quân, ví dụ đi 2 nước trong 1 lượt, hoặc bên Hậu đi trước
Chiếu lặp 4 lần (xem phần sennichite)
Để mặc Vua bị chiếu hoặc di chuyển Vua vào thế bị chiếu
Đi quân sai cách đi của nó (ví dụ di chuyển Vàng như Bạc, hoặc di chuyển Tượng sai đường chéo)
Trong các ván đấu giải trí nghiệp dư, thỉnh thoảng luật này được nhân nhượng, người chơi có thể rút lại nước đi phạm luật và thực hiện nước đi khác đúng luật.
Cá biệt có nước phạm luật Hai Tốt là nước phạm luật thường gặp nhất trong các ván đấu chuyên nghiệp. Toyokawa Takahiro Lục đẳng khi đối đầu với Tamura Kōsuke Ngũ đẳng tại Giải vô địch Shogi Cúp NHK đã thực hiện nước phạm luật Hai Tốt gây tai tiếng lớn, do nó được phát sóng trên truyền hình. Ở nước thứ 109, Toyokawa cầm Tiên đã thả T*29 khi đang có Tốt khác chưa phong cấp ở 23, và do đó bị xử thua.
Lặp lại nước đi (hòa cờ)
Nếu cùng một thế cờ xuất hiện lặp lại 4 lần với cùng lượt đi và quân trên tay giống nhau cho cả hai bên, ván cờ kết thúc do , miễn sao thế cờ lặp lại không phải do chiếu lặp. Chiếu lặp (連続王手の千日手 renzokuōte no sennichite) là nước đi phạm luật (xem phần bên trên), trong thi đấu hành động này sẽ bị xử thua.
Trong thi đấu shogi chuyên nghiệp, kết quả hòa do lặp lại nước đi không được tính là kết quả cuối cùng, bởi về cơ bản các ván hòa đều không được tính. Mỗi ván đấu chỉ có thể kết thúc bằng kết quả thắng thua. Trong trường hợp hòa do lặp lại nước đi, hai bên phải thi đấu lại ván mới (hoặc nhiều ván mới, nếu cần thiết) và đổi lượt đi cho nhau (bên cầm Tiên trước đó sẽ cầm Hậu và ngược lại), để phân định kết quả thắng thua. Thông thường các giải đấu quy định ván đấu lại trong trường hợp này sẽ thi đấu bằng phần thời gian còn lại của ván đấu trước đó.
Do đó hướng đến ván hòa do lặp lại nước đi có thể lại là một chiến thuật nghiêm túc cho bên Hậu để được đánh ván đấu lại cầm Tiên, bởi người cầm Tiên có một chút lợi thế và có quyền chủ động hơn trong ván đấu. Ví dụ, chiến pháp Tứ gian Phi Xa đổi Tượng là chiến pháp thụ động đối với bên Hậu, có mục tiêu hướng đến ván hòa do lặp lại nước đi (do khi sử dụng chiến pháp này sẽ mất 2 nhịp - chuyển Xe sang cột 4 và đổi Tượng), tuy nhiên đối với bên Tiên đây lại là chiến pháp tấn công mạnh bạo.
Các ván hòa do lặp lại nước đi khá hiếm gặp trong shogi chuyên nghiệp, chiếm tỉ lệ khoảng 1-2% tổng số ván đấu. Trong shogi nghiệp dư, hòa do lặp lại nước đi còn hiếm gặp hơn nữa. Trong shogi chuyên nghiệp, các ván hòa do lặp nước tường xảy ra ở khai cuộc bởi một số thế cờ trên lý thuyết là bất lợi cho cả hai bên (zugzwang kép). Trong shogi nghiệp dư, hòa do lặp lại nước đi thường xảy ra ở trung cuộc và tàn cuộc do những nước đi lỗi của hai bên.
Thế cờ bế tắc
Ván cờ đạt đến khi cả hai Vua đều đã tiến vào vùng phong cấp của mình – thế cờ này được gọi là – và hai bên đều không có khả năng chiếu hết hoặc bắt thêm quân. Thế bế tắc có thể dẫn đến kết quả thắng thua hoặc hòa cờ. Khi xảy ra thế bế tắc, sẽ phân định thắng thua như sau: mỗi kỳ thủ đồng ý kết thúc ván cờ ở thế bế tắc, sau đó tính điểm: Xe hoặc Tượng, bất kể trạng thái phong cấp, mỗi quân được tính 5 điểm, các quân còn lại trừ Vua mỗi quân được tính 1 điểm. Bên nào có dưới 24 điểm sẽ bị xử thua ván cờ. (Lưu ý rằng mỗi bên có 27 điểm khi bắt đầu ván cờ). Nếu không bên nào ít hơn 24 điểm, ván cờ hòa. Trong shogi chuyên nghiệp, ván cờ kết thúc ở thế bế tắc luôn luôn dẫn đến kết quả hòa, do kỳ thủ nào biết mình không đủ 24 điểm sẽ xin thua trước khi giải quyết bằng quy trình thế cờ bế tắc. Kiểu hòa cờ này được xem là kết quả ván cờ chứ không bị hủy bỏ như hòa do lặp lại nước đi, nhưng thực tế cũng không khác biệt gì. Do cả hai bên cần phải đồng ý thì mới có thể kết thúc ván cờ ở thế bế tắc, kỳ thủ có thể không đồng ý kết thúc ván cờ và tiếp tục cố gắng thắng ván cờ ở những nước đi sau. Do điều này, để tránh ván cờ diễn ra quá lâu, Liên đoàn Shogi Nhật Bản đã đặt ra điều luật mới - ván cờ sẽ tự động kết thúc sau 500 nước đi và được xem là kết thúc ở thế bế tắc, trừ khi ở nước đi thứ 500 đang có một chuỗi nước chiếu liên tục thì ván cờ sẽ tự động kết thúc khi chiếu hết hoặc khi chuỗi nước chiếu liên tục kết thúc.
Ngoài ra, Liên đoàn cũng quy định một kỳ thủ khi đạt đến trạng thái Nhập Ngọc (đưa Vua vào vùng phong cấp) thì có thể tuyên bố Nhập Ngọc và kết thúc ván cờ khi thỏa mãn đủ cả 4 điều kiện sau:
Quân Vua của đấu thủ này đang ở trong vùng phong cấp của họ;
Ngoài quân Vua ra, có ít nhất 10 quân khác của đấu thủ này đang ở trong vùng phong cấp của họ;
Quân Vua của đấu thủ này đang không bị chiếu;
Theo cách tính điểm nói trên (chỉ tính quân trên tay đấu thủ này và các quân nằm ở vùng phong cấp của họ trừ quân Vua):
Nếu đấu thủ tuyên bố có từ 24 đến 30 điểm, ván đấu kết thúc bằng kết quả hòa.
Nếu đấu thủ tuyên bố có từ 31 điểm trở lên, đấu thủ này được xử thắng và đối phương bị xử thua.
Chỉ cần tuyên bố không thỏa mãn một trong 4 điều kiện trên, đấu thủ tuyên bố sẽ bị xử thua. Quy định này có thể là ảnh hưởng từ các cách giải quyết thế cờ bế tắc của các giải đấu nghiệp dư (xem phần bên dưới) .
Các giải đấu nghiệp dư quy định những cách thức khác để phân định kết quả thắng thua khi đạt thế bế tắc để tránh kết quả hòa.
Ván cờ hòa do bế tắc xảy ra lần đầu tiên vào năm 1731 trong một ván chấp Tượng giữa Itō Sōkan Tam thế - Thất thế Danh Nhân và em trai ông, Ōhashi Sōkei Bát thế - Bát đẳng.
Nhập Ngọc
Trên thực tế, khi Vua đối phương đi vào vùng phong cấp (tức là vào trại của đấu thủ đang được nói đến), nhất là khi có quân bảo vệ đi kèm, quân Vua này sẽ rất khó chiếu hết, bởi lẽ hầu hết quân cờ shogi có xu hướng tiến về phía trước. Trạng thái này được gọi là . Nếu cả hai bên đều đạt đến trạng thái Nhập Ngọc, khả năng cao sẽ xảy ra hòa cờ do bế tắc.
Trong hình bên, mặc dù Vua bên Hậu đang ở trong thành Anaguma rất chắc chắn, Vua bên Tiên đã xâm nhập vào trại của bên Hậu cùng với nhiều quân bảo vệ, như vậy Hậu rất khó có thể chiếu hết Tiên. Do đó trong thế cờ này, bên Tiên đang có lợi thế hơn.
Một ví dụ điển hình của thế Nhập Ngọc xảy ra ở Ván 4 trong loạt 7 ván tranh ngôi Vương Vị kỳ 60 giữa Toyoshima Masayuki Vương Vị và Kimura Kazuki Cửu đẳng vào ngày 20-21/08/2019. Sau khi thất bại trong việc tấn công Kimura cũng như phòng thủ Vua trong trại của mình, Toyoshima cầm Hậu đã di chuyển Vua tránh các quân tấn công của Kimura bằng cách chạy lên hàng 2, dần dần tiến vào trại của Kimura ở nước thứ 150. Mặc dù Toyoshima đã đạt được trạng thái Nhập Ngọc, anh vẫn chỉ có 23 điểm - thiếu 1 điểm để có thể xin hòa cờ do bế tắc, trong khi Kimura cầm Tiên đang có 31 điểm. Trong vòng 134 nước đi tiếp theo, Toyoshima cố gắng nâng điểm số của mình lên con số 24, nhưng nó chỉ biến động trong khoảng 17 ~ 23 điểm. Ở nước thứ 231 ván cờ đạt đến trạng thái Đôi Nhập Ngọc, và đến nước thứ 285 Kimura vẫn giữ được điểm số của Toyoshima dưới mức cần thiết. Ở nước đi này, khi chỉ còn 20 điểm (trong khi Kimura có 34 điểm), Toyoshima đã xin thua. Ván đấu này cũng đã phá kỷ lục ván đấu dài nhất trong một trận tranh danh hiệu.
Cách giải quyết ở các giải nghiệp dư
Trong các ván đấu nghiệp dư, có khá nhiều cách giải quyết tình trạng bế tắc, nhưng hầu như không được chuẩn hoá thành luật. John Fairbairn có ghi lại một điều luật của Hiệp hội Shogi phương Tây (nay đã ngừng hoạt động) từ những năm 1980, giải quyết tình trạng này bằng cách một trong hai bên di chuyển toàn bộ quân của mình vào vùng phong cấp và sau đó tính điểm để kết thúc ván cờ.
Một cách giải quyết khác là Luật 27 điểm (27点法), được sử dụng ở một số giải nghiệp dư. Phiên bản đơn giản nhất của luật này quy định bên nào có 27 điểm hoặc nhiều hơn sẽ được xử thắng ván cờ bế tắc. Một phiên bản khác là luật Tuyên bố 27 điểm, được áp dụng trên trang chơi shogi trực tuyến 81Dojo. Ở phiên bản này, người chơi muốn tuyên bố thắng ván cờ khi có thế bế tắc phải thoả mãn những điều kiện sau:
Vua đang nằm trong vùng phong cấp
Ngoài Vua ra phải có 10 quân khác nằm trong vùng phong cấp
Không bị chiếu
Chưa bị hết thời gian
Phải đủ 28 điểm trở lên nếu cầm Tiên, 27 điểm trở lên nếu cầm Hậu
Nếu thoả mãn toàn bộ điều kiện này, người tuyên bố bế tắc sẽ được xử thắng bất kể đối phương có đồng ý kết thúc ván cờ ở thế bế tắc hay không.
Một cách giải quyết nữa cho thế cờ bế tắc là luật Try (トライルール torairūru). Luật này quy định rằng sau khi cả hai Vua đều đã đi vào vùng phong cấp của mình, bên nào đưa được Vua đến ô khởi đầu của Vua đối phương trước (đối với Tiên là ô 51, đối với Hậu là ô 59) sẽ được xử thắng. Ứng dụng chơi shogi trực tuyến Shogi Wars do tập đoàn HEROZ Inc. phát triển đã sử dụng luật Try cho đến năm 2014. (Hiện tại ứng dụng này sử dụng một phiên bản khác của Luật Tuyên bố 27 điểm, nhưng khác với luật của 81Dojo). Luật này bắt nguồn từ bộ môn bóng bầu dục.
Các ván hoà trong các giải đấu
Ở các giải đấu chuyên nghiệp, thông thường sẽ quy định các ván hoà phải được đánh lại và hai bên đổi lượt đi cho nhau, và thường giảm thời gian thi đấu xuống. Tỉ lệ hoà trong shogi rất thấp so với cờ vua và cờ tướng, chỉ ở 1-2% cả ở những ván đấu nghiệp dư.
Loạt tranh ngôi Danh Nhân kỳ 40 (1982) giữa Katō Hifumi Thập Đẳng và Nakahara Makoto Danh Nhân lại có tỉ lệ hoà cao bất thường. Ván 1 (Đôi Yagura) diễn ra vào ngày 13-14/4/1982 kết thúc bằng kết quả hoà do bế tắc, đây mới chỉ là ván hoà do bế tắc lần thứ 5 trong suốt 40 năm diễn ra Thuận Vị Chiến - Danh Nhân Chiến. Ván đấu này (Katō Thập Đẳng cầm Tiên) kéo dài 223 nước, trong đó có nước đi phải mất tới 114 phút suy nghĩ. Một trong những lý do ván đấu này kéo dài đến vậy là vì Nakahara Danh Nhân cầm Hậu đã suýt không thể duy trì số điểm tối thiểu 24 để thủ hoà ván cờ. Do đó giai đoạn cuối tàn cuộc mang nặng tính chiến lược để giữ cho điểm của bên Hậu không tụt xuống dưới 24 điểm. Ở loạt tranh ngôi này, tại ván 6 và ván 8 đã xảy ra kết quả hoà do lặp lại nước đi. Như vậy loạt tranh ngôi 7 ván này đã kéo dài 8 ván trong vòng 3 tháng với bên Tiên không thua ở bất kỳ ván đấu nào. Chung cuộc, Katō Thập Đẳng giành chiến thắng với tỷ số 4-3 và thành công đoạt ngôi Danh Nhân.
Thời gian thi đấu
Cũng giống như cờ vua, các ván đấu shogi chuyên nghiệp đều tính giờ (giới hạn thời gian cho các kỳ thủ thực hiện nước đi trong một ván đấu), tuy nhiên các kỳ thủ shogi chuyên nghiệp hầu như không cần phải tự bấm đồng hồ, trừ một số giải cờ nhanh như ABEMA Tournament. Thay vào đó, một người thứ ba được phân công làm người bấm giờ, thường là học viên Trường Đào tạo Kỳ thủ. Thời gian thi đấu trong shogi kéo dài hơn nhiều so với cờ vua, đặc biệt nếu áp dụng thể thức thời gian truyền thống - . Ở thể thức này, thời gian đã sử dụng được làm tròn xuống đến số phút gần nhất (chẳng hạn nếu sử dụng 3 phút 59 giây cho một nước đi sẽ xem là sử dụng 3 phút). Do đó thời gian thi đấu thực tế kéo dài hơn khoảng thời gian định sẵn rất nhiều, chẳng hạn như thời gian thi đấu cho loạt tranh ngôi Danh Nhân là 9 tiếng mỗi ván cho mỗi bên theo thể thức này, nhưng trên thực tế các ván đấu đều kéo dài trong vòng 2 ngày.
Nếu ván đấu sử dụng , thời gian sẽ không bị làm tròn, tuy nhiên nếu kỳ thủ hết thời gian chính thức sẽ có thêm một khoảng thời gian bổ sung không tích luỹ (thường là 60 giây) cho mỗi nước đi sau đó. Nếu kỳ thủ chưa sử dụng hết 60 giây, thời gian này sẽ được trả về 60 giây cho nước đi tiếp theo. Khoảng thời gian bổ sung này thường được gọi là , do trong vòng 1 phút cuối cùng theo cả 2 thể thức tính giờ, người bấm giờ sẽ đếm thành tiếng số giây cho kỳ thủ được biết. Người bấm giờ sẽ đọc các mốc 30, 40 và 50 giây, và trong 10 giây cuối cùng sẽ đếm xuôi từ 1 đến 10 - nếu hết giờ, kỳ thủ sẽ bị xử thua ngay lập tức.
Ở các ván đấu nghiệp dư, thường kỳ thủ sẽ phải tự bấm trên đồng hồ điện tử và thường theo thể thức đồng hồ cờ vua kèm thời gian byōyomi. Đồng hồ sẽ phát ra tiếng bíp cảnh báo khi đến thời gian byōyomi và sau mỗi 1 giây trong 10 giây cuối cùng. Những mẫu đồng hồ shogi hiện đại còn có chức năng phát ra tiếng đếm giây được ghi âm từ trước.
Xếp hạng kỳ thủ & chấp quân
Có nhiều hệ thống xếp hạng kì thủ shogi trên thế giới, nhưng hệ thống được coi trọng và đánh giá cao nhất là hệ thống xếp hạng chuyên nghiệp của .
Nhìn chung, hệ thống xếp hạng của shogi sử dụng hai đơn vị là và tương tự như ở cờ vây hay judo. Có 2 hệ thống xếp hạng riêng biệt: nghiệp dư và chuyên nghiệp.
Xếp hạng nghiệp dư bắt đầu từ 15-kyu (thập ngũ cấp), tiến lên dần tới 1-kyu (nhất cấp), sau đó chuyển sang 1-dan (Sơ đẳng), tiếp tục tới 8-dan (Bát đẳng). Trước đây hạng Bát đẳng nghiệp dư chỉ được trao tặng danh dự cho những người nổi tiếng. Mặc dù hiện tại trên lý thuyết có thể đạt hạng Bát đẳng nghiệp dư qua thi đấu (bằng cách giành danh hiệu Long Vương nghiệp dư 3 lần), chưa ai có thể đạt được thành tích này.
Kỳ thủ tham gia hệ thống đào tạo chuyên nghiệp của Liên đoàn - sẽ được xếp vào các đẳng/cấp theo hệ thống chuyên nghiệp từ 6-kyu (lục cấp) đến 3-dan (Tam đẳng). Sau khi đạt đến trình độ 3-dan, các kỳ thủ sẽ tham gia để đạt điều kiện thăng lên 4-dan (Tứ đẳng) - trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Lưu ý rằng khi đạt tới mức xếp hạng chuyên nghiệp (4-dan), kỳ thủ sẽ không thể bị giáng hạng nữa, do đó hệ thống này ít nhiều chỉ mang ý nghĩa cột mốc chứ không phản ánh đúng trình độ hiện tại của các kỳ thủ. Trong hệ thống này, để lên được đẳng (dan) cao hơn, các kỳ thủ phải đạt được một số điều kiện nhất định như thắng đủ số ván đấu quy định hoặc có được một số lần danh hiệu.
Các kỳ thủ chuyên nghiệp được xếp hạng từ 4-dan (Tứ đẳng) lên đến 9-dan (Cửu đẳng). Lưu ý rằng trình độ giữa các hạng giống nhau của hệ thống chuyên nghiệp và nghiệp dư chênh lệch nhau khá nhiều, chẳng hạn Tứ đẳng nghiệp dư chỉ mạnh ngang Lục cấp chuyên nghiệp mà thôi.
Hệ thống chuyên nghiệp nữ (Nữ Lưu kỳ sĩ) cũng sử dụng xếp hạng đẳng/cấp, tuy nhiên chúng không tương đương với đẳng/cấp trong hệ thống chuyên nghiệp. (Xem thêm Các giải đấu)
Hiện nay ở một số liên đoàn shogi ngoài Nhật Bản, hệ thống đẳng/cấp được sử dụng song song với hệ số Elo như của cờ vua. Khác biệt rõ nhất giữa 2 hệ thống là đẳng cấp dan-kyu chỉ tăng hoặc giữ nguyên không cấp thêm chứ không lên xuống như hệ số Elo. Ngoài ra, hệ số Elo sẽ cho người xem biết rõ hơn về phong độ tức thời của một kì thủ nhất định, thay vì là mức xếp hạng đẳng-cấp mà không thể bị giáng hạng. Thay vì sử dụng hệ số Elo, trong hệ thống shogi chuyên nghiệp sẽ căn cứ vào hạng và tổ của kỳ thủ tại Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến để nhận định phong độ tức thời của kỳ thủ đó.
Chấp quân
Tương tự cờ vây, shogi cũng có hệ thống chấp quân, theo đó các ván đấu có sự chênh lệch lớn về trình độ sẽ được điều chỉnh sao cho người có trình độ cao hơn (người chấp) phải chịu những bất lợi nhất định để bù vào sự chênh lệch trình độ. Trong một ván chấp quân, sẽ loại bỏ một hay nhiều quân của mình ra khỏi bàn cờ. Bên chấp quân luôn là bên đi trước. Bên còn lại là
Sự mất cân bằng khi chấp quân này không lớn như trong cờ vua vì lợi thế hơn quân trong shogi không lớn như vậy do các quân cờ trong shogi nhờ luật thả quân có thể quay trở lại bàn cờ.
Chấp quân không được áp dụng trong các giải đấu, nhưng được sử dụng nhiều trong các trận đấu luyện tập hoặc giảng dạy.
Sau đây là một số cách chấp quân thông dụng:
: bên chấp bỏ quân Thương trái.
: bên chấp bỏ quân Tượng.
: bên chấp bỏ quân Xe.
: bên chấp bỏ Xe và Thương trái.
: bên chấp bỏ Xe và Tượng.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng và hai Thương.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng, hai Thương và hai Mã.
: bên chấp bỏ Xe, Tượng, hai Thương, hai Mã và hai Bạc.
: bên chấp chỉ có Vua trên bàn cờ và 3 Tốt trên tay.
: bên chấp chỉ có Vua.
Ghi chép ván cờ
Trên thế giới có hai hệ thống ký hiệu thường dùng để ghi chép nước đi trong : hệ thống ký hiệu truyền thống được sử dụng trong các văn bản tiếng Nhật, và hệ thống ký hiệu phương Tây do các kỳ thủ George Hodges và Glyndon Townhill tạo ra, sử dụng tiếng Anh. Hosking đã chỉnh lý lại hệ thống này để bám sát hơn với ký hiệu gốc tiếng Nhật (sử dụng 2 chữ số để biểu thị tọa độ ô cờ thay vì một chữ số và một chữ cái). Ngoài ra cũng có những hệ thống ký hiệu khác để ghi lại thế cờ. Khác với cờ vua, ô gốc tọa độ (ô 11) nằm ở góc trên bên phải bàn cờ thay vì góc dưới bên trái.
CLB Shogi Việt Nam sử dụng hệ ký hiệu phương Tây có điều chỉnh, trong đó sử dụng tên viết tắt của các quân cờ theo tiếng Việt.
Trong hệ thống ký hiệu phương Tây, cú pháp ghi nước đi bao gồm:
Ký hiệu viết tắt tên quân cờ + Cách di chuyển + Tọa độ điểm đến
Tên viết tắt các quân cờ như sau:
Ký hiệu cho cách di chuyển bao gồm: đi quân dùng dấu gạch nối -, bắt quân dùng chữ x và thả quân dùng dấu hoa thị *. Các cột được đánh số từ 1 đến 9 từ phải sang trái theo góc nhìn của Tiên. Hệ ký hiệu của Hodges ký hiệu các hàng bằng các chữ cái từ a đến i, tuy nhiên Hosking đã chỉnh sửa lại và đánh số hàng từ 1 đến 9 để khớp với hệ ký hiệu Nhật Bản. Các hàng được đánh số từ trên xuống dưới theo góc nhìn của Tiên. Như vậy, chẳng hạn Rx24/Xx24 nghĩa là "Xe bắt quân ở 24". Các quân phong cấp được ký hiệu bằng cách thêm dấu cộng + vào trước ký hiệu quân ban đầu (ví dụ +Rx24/+Xx24). Việc phong cấp quân cờ cũng được ký hiệu bằng dấu cộng + thêm vào sau cùng nước đi (ví dụ S-21+/B-21+), trong khi đó việc không phong cấp khi có cơ hội phong cấp được ký hiệu bằng dấu bằng = (ví dụ S-21=/B-21=). Trong trường hợp hai hay nhiều quân cùng loại có thể cùng đến 1 ô, sẽ chỉ rõ bằng cách thêm ô xuất phát vào trước ký hiệu cách di chuyển (ví dụ N65-53+/M(65)-53+ có nghĩa là "Mã từ 65 đi đến 53, phong cấp", để phân biệt với N45-53+/M(45)-53+).
Hệ ký hiệu Nhật Bản sử dụng ký tự tiếng Nhật để ký hiệu quân cờ, thể hiện sự phong cấp và dùng chữ số Hán tự thay cho chữ số Ả Rập để đánh số hàng. Thường không có ký hiệu cách di chuyển, ngoại trừ thả quân (tuy nhiên nếu thả quân là nước đi duy nhất của loại quân đó đến ô chỉ định thì ký hiệu này cũng không cần thiết). Trường hợp hai hay nhiều quân cùng loại có thể cùng đến 1 ô, cách phân biệt cũng khá khác so với hệ ký hiệu phương Tây. Chẳng hạn:
Thông thường trên các trang web, sách báo, v.v... về shogi, kết quả trận đấu được ký hiệu bằng vòng tròn màu trắng (○) đối với ván thắng và vòng tròn màu đen (●) đối với ván thua, mặc dù điều này không quy định trong hệ thống ký hiệu ghi chép ván cờ.
Chiến lược và chiến thuật
Mặc dù là bộ môn gần giống với cờ vua, shogi có cây trò chơi (game tree) phức tạp hơn nhiều vì những yếu tố như luật thả quân, số quân lớn hơn và bàn cờ nhiều ô hơn. Trung bình một ván shogi có 140 nước đi (tương đương 70 nước theo cách đếm của cờ vua - đếm nước đi của cả 2 bên là 1 nước), trong khi trung bình một ván cờ vua chỉ có khoảng 80 nước đi (40 nước theo cách đếm của cờ vua).
Dẫu vậy, tương tự cờ vua, một ván shogi có thể chia thành khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc, mỗi giai đoạn cần có chiến lược và chiến thuật khác nhau. Khai cuộc bao gồm xây dựng cấu trúc phòng thủ, thông thường là thành, và bố trí lực lượng tấn công; trung cuộc là giai đoạn vừa tấn công để phá cấu trúc phòng thủ của đối phương, vừa phòng thủ cấu trúc của mình; tàn cuộc là giai đoạn khi cấu trúc phòng thủ của một hoặc cả hai bên bị phá vỡ, thường là cuộc đua xem ai chiếu hết đối phương trước.
Trong hình bên, Tiên chọn khai cuộc Chấn Phi Xa (cụ thể là Tứ gian Phi Xa - Xe cột IV), ở đây Xe di chuyển ra khỏi vị trí ban đầu của nó sang cánh trái bàn cờ. Tiên cũng đang sử dụng thành Ngân quán (Vương miện Bạc, Ginkanmuri), đây là cấu trúc thành tạo bởi 1 Bạc và 2 Vàng bảo vệ Vua nằm bên trong. Cái tên Ngân quán là do quân Bạc nằm ngay trên đầu Vua ở ô 27 hệt như một chiếc vương miện. Trong hình, Hậu chọn khai cuộc Cư Phi Xa - giữ nguyên Xe ở vị trí ban đầu. Khai cuộc Cư Phi Xa trong hình là Cư Phi Xa Anaguma, sử dụng thành Anaguma. Đây là chiến thuật thường được sử dụng để chống lại Chấn Phi Xa. Anaguma là loại thành xây bằng cách đưa Vua vào tận trong góc bàn cờ ở ô 11 với Bạc nằm ở 22 để đóng kín lỗ hổng và hai Vàng ở 31 và 32 để gia cố thêm cho cấu trúc thành. Thế cờ này được tạo thành sau 33 nước đi (12 nước theo cách đếm của cờ vua).
Nghi thức
Là môn cờ mang nặng tính lễ nghi và văn hóa, người chơi shogi cần tuân theo những nghi thức bên cạnh luật chơi đã được mô tả trên đây. Thông thường nghi thức khi chơi shogi bao gồm:
Cúi chào đối thủ trước và sau ván đấu
Tránh các hành động ảnh hưởng đến đối phương trong khi ván đấu diễn ra hay sau khi ván đấu kết thúc, ví dụ:
Không rút lại nước đi sau khi đã thực hiện trên bàn cờ
Khi không muốn chơi tiếp thì không có những hành động gây ảnh hưởng đối phương như ném quân cờ tung tóe lên bàn cờ để tỏ thái độ khó chịu
Tuyên bố xin thua bằng lời nói
Thông thường các bộ shogi có 2 quân Vua có khắc chữ khác nhau là 王将 (Vương Tướng) và 玉将 (Ngọc Tướng). Người chơi có đẳng cấp, trình độ, địa vị xã hội hoặc tuổi tác cao hơn sẽ cầm quân Vương Tướng. Ví dụ, trong các ván đấu tranh danh hiệu, người đang giữ danh hiệu sẽ cầm quân Vương Tướng.
Người chơi ở địa vị cao hơn ngồi đối diện với cửa ra vào, và là người lấy quân cờ ra khỏi hộp.
Shogi không có luật chạm quân như trong các giải đấu cờ vua hay trong chu shogi. Tuy nhiên trong các ván đấu chuyên nghiệp, nước đi được coi là đã hoàn thành khi quân cờ rời tay. Trong các ván đấu nghiệp dư và cả chuyên nghiệp, có thể chạm bất cứ quân nào để chỉnh quân cờ cho cân với ô nó đang đứng.
Không được phép rút lại nước đi (待った matta) trong các ván đấu chuyên nghiệp. Tuy nhiên trong các ván đấu giải trí nghiệp dư thường cho phép rút lại nước đi.
Các kỳ thủ chuyên nghiệp cũng phải tuân theo một số quy tắc nặng tính lễ nghi, hình thức khác, ví dụ như quy tắc về trang phục hay ngồi ở tư thế chính tọa trong lúc xếp cờ cũng như khi chào nhau trước và sau ván đấu, v.v.
Xếp cờ
Theo truyền thống, cần phải xếp quân cờ theo thứ tự. Có hai cách xếp được sử dụng là kiểu và kiểu . Thứ tự xếp cờ cụ thể như sau, với các quân Vàng, Bạc, Mã và Thương luôn được xếp từ trái sang phải:
Vua
Vàng
Bạc
Mã
Theo kiểu Itō sẽ tiếp tục xếp như sau:
5. Tốt (từ trái sang phải)
6. Thương
7. Tượng
8. Xe
Theo kiểu Ōhashi sẽ tiếp tục xếp như sau:
5. Thương
6. Tượng
7. Xe
8. Tốt (bắt đầu từ cột trung tâm, sau đó tỏa dần ra ngoài, luân phiên xếp trái trước phải sau)
Furigoma (tung quân cờ)
Ở các giải đấu nghiệp dư, người có đẳng/cấp cao hơn hoặc người đang giữ chức vô địch/danh hiệu sẽ thực hiện furigoma. Trong các ván đấu chuyên nghiệp, một người thứ ba, thường là người bấm thời gian hoặc khách mời sẽ thực hiện furigoma thay cho kỳ thủ có đẳng/cấp cao hơn hoặc kỳ thủ giữ danh hiệu. Người này sẽ quỳ bên cạnh kỳ thủ này và tung quân lên một tấm vải lớn trải trên mặt sàn. Trong các ván đấu giải trí nghiệp dư, theo phép lịch sự một bên sẽ đề nghị đối phương thực hiện furigoma, hoặc cũng có thể oẳn tù tì để chọn người thực hiện furigoma.
Lịch sử
Trang The Chess Variant Pages viết:
Không rõ môn cờ du nhập vào Nhật Bản vào thời điểm nào. It is not clear when chess was brought to Japan. Shogi được cho là được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử ở cuốn của tác giả Akihira Fujiwara (1058–1064). Di tích khảo cổ cổ nhất tìm thấy được về shogi là 16 quân cờ shogi tìm thấy trong lòng đất Chùa Hưng Phúc ở tỉnh Nara. Do những di tích này liên quan trực tiếp đến một tấm bảng gỗ khắc vào năm Thiên Hỷ thứ 6 (1058), có lẽ những quân cờ này được chế tác trong khoảng đó. Những quân cờ này được chế tác đơn giản bằng cách cắt tấm bảng gỗ ra thành hình ngũ giác như các quân cờ hiện đại, và viết tên quân cờ lên mặt quân.
Cuốn bách khoa thư (khoảng 1210-1221) tổng hợp dựa trên hai cuốn và mô tả hai biến thể shogi là "dai shogi" (大将棋, "shogi lớn") và "sho shogi" (小将棋, "shogi nhỏ"). Những biến thể này ngày nay được gọi là Heian shogi (平安将棋) và Heian dai shogi (平安大将棋). Shogi hiện đại hình thành dựa trên Heian shogi, tuy nhiên cuốn Nhị Trung Lịch cũng viết rằng một bên sẽ thắng ván cờ nếu bên kia chỉ còn lại Vua, có thể là dấu hiệu cho thấy biến thể này chưa có nước thả quân. Theo Shimizu Kōji - Giám đốc Nghiên cứu tại Viện Khảo cổ học Kashihara, tỉnh Nara, tên các quân cờ trong Heian shogi giữ các quân cơ bản của chaturanga (tướng, voi, ngựa, xe và tốt/lính) và thêm vào 5 bảo vật của Phật giáo (ngọc, vàng, bạc, "quế" (liên hương) và hương).
Biến thể dai shogi (大将棋, "shogi lớn", khác với Heian dai shogi ở trên) hình thành vào khoảng thế kỷ XIII với số quân tăng lên nhiều so với Heian shogi. Cùng thời gian đó xuất hiện biến thể sho shogi, bổ sung thêm quân Xe, Tượng và Túy tượng từ dai shogi vào Heian shogi. Quân Túy tượng (酔象, "voi say") đi được 1 ô theo mọi hướng trừ đi lùi thẳng, phong cấp thành Thái tử (太子), có vai trò như quân Vua thứ hai mà đối phương cần phải bắt cùng với quân Vua để có thể thắng ván cờ. Khoảng thế kỷ XV, luật của dai shogi được đơn giản hóa và trở thành biến thể chu shogi. Biến thể này, giống như tiền thân của nó là dai shogi, có nhiều quân cờ đặc trưng, ví dụ như quân Bôn vương (đi như Hậu cờ vua) và quân Sư tử (đi như Vua nhưng được đi 2 lần trong 1 lượt, có thể ăn quân 2 lần trong 1 lượt, và có những nước đi đặc biệt khác). Chu shogi dần trở nên phổ biến hơn hẳn trong khi dai shogi không còn phổ biến nữa. Chu shogi phổ biến ngang ngửa với sho shogi cho đến khi sho shogi có luật thả quân, dù vậy chu shogi vẫn khá phổ biến đến khoảng sau Thế chiến thứ 2, đặc biệt là ở Kyoto.
Người ta cho rằng luật shogi hiện đại đã được hoàn thiện ở thế kỷ 16 khi loại bỏ quân Túy tượng ra khỏi sho shogi. Tuy nhiên không tài liệu nào ghi lại thời điểm luật thả quân được đưa vào shogi.
Trong thời kỳ Edo sinh ra nhiều biến thể shogi như tenjiku shogi, dai dai shogi, maka dai dai shogi, tai shogi, và taikyoku shogi. Tuy nhiên người ta cho rằng những biến thể này chỉ được chơi trong phạm vi rất hẹp. Mạc phủ Tokugawa khuyến khích phát triển cả hai bộ môn cờ vây và shogi hiện đại. Vào năm 1612, triều đình Mạc phủ thông qua đạo luật tài trợ cho các kỳ thủ shogi hàng đầu như các Danh Nhân. Vào thời Tướng quân thứ 8 Tokugawa Yoshimune, các giải đấu shogi trong thành được tổ chức hằng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch, theo đó hiện nay ngày 17 tháng 11 theo lịch Gregorian được chọn làm Ngày Shogi.
Danh hiệu Danh Nhân tại thời điểm đó mang tính cha truyền con nối trong hai gia tộc Ōhashi và Itō cho đến khi Mạc phủ sụp đổ. Sau đó danh hiệu này được trao trên cơ sở tiến cử. Hiện nay, danh hiệu Danh Nhân được trao cho người giành chiến thắng loạt tranh ngôi Danh Nhân Chiến, đây cũng là trận đấu tranh danh hiệu đầu tiên của shogi hiện đại. Từ khoảng năm 1899, các tờ báo lớn bắt đầu xuất bản kỳ phổ các trân đấu shogi chuyên nghiệp, đồng thời các kỳ thủ đẳng cấp cao bắt đầu liên kết với nhau thành tổ chức để xuất bản các ván đấu của họ trên các báo. Tổ chức được thành lập vào năm 1909, sau đó được thành lập vào năm 1924. Hai tổ chức này là tiền thân của , và tổ chức này lấy năm 1924 làm năm thành lập.
Vào năm 1935, Sekine Kinjirō Danh Nhân thoái vị để danh hiệu Danh Nhân được trao tặng thông qua thi đấu - giải đấu . là kỳ thủ đầu tiên giành danh hiệu Danh Nhân qua hệ thống này vào năm 1937. Điều này đã khởi nguồn cho các giải đấu shogi tranh danh hiệu sau này. Sau Thế chiến thứ 2, một số giải đấu khác được nâng lên thành giải tranh danh hiệu, và đến năm 2017 với sự hình thành danh hiệu Duệ Vương, tổng cộng hiện tại có 8 danh hiệu trong hệ thống shogi chuyên nghiệp Nhật Bản. Hiện tại có khoảng gần 200 kỳ thủ chuyên nghiệp đang hoạt động và thi đấu. Mỗi năm, kỳ thủ giữ danh hiệu sẽ phòng thủ danh hiệu trước người thách đấu (khiêu chiến giả) được chọn ra qua giải đấu của danh hiệu đó, theo thể thức vòng tròn hoặc loại trực tiếp.
Sau Thế chiến thứ 2, chính quyền của quân Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản (Tổng Tư lệnh tối cao của lực lượng Đồng minh, SCAP) cố gắng loại bỏ các yếu tố "phong kiến" khỏi xã hội Nhật Bản, trong danh sách những yếu tố có thể bị loại bỏ có bao gồm shogi cùng với Võ sĩ đạo và những yếu tố văn hóa khác. Lý do cấm shogi được SCAP đưa ra do luật thả quân có thể ngầm chỉ việc lạm dụng tù nhân chiến tranh. Tuy nhiên Masuda Kōzō Bát đẳng, đương thời là một trong những kỳ thủ shogi hàng đầu, khi bị SCAP thẩm vấn đã chỉ trích góc nhìn này về shogi, cho rằng không phải shogi mà chính cờ vua mới là môn có thể ngầm chỉ việc lạm dụng tù nhân, bởi lẽ trong cờ vua quân đối phương bị bắt xem như bị "giết", trong khi shogi có phần nhân đạo và dân chủ hơn khi cho các "tù nhân" có cơ hội quay trở lại ván cờ. Masuda cũng cho rằng cờ vua đi ngược lại lý tưởng bình đẳng giới của xã hội châu Âu, bởi vì quân Vua dùng quân Hậu để che chắn và chạy trốn. Lập luận này của Masuda được cho là đã giúp cho shogi không bị cấm sau đó.
Các giải đấu
Liên đoàn Shogi Nhật Bản là tổ chức lớn nhất điều hành các giải đấu shogi chuyên nghiệp cũng như quản lý các kỳ thủ chuyên nghiệp tại Nhật Bản. Các kỳ thủ chuyên nghiệp hàng đầu nhận được thu nhập cao từ tiền thưởng của các giải đấu. Trong năm 2022, các kỳ thủ có thu nhập cao nhất gồm có Fujii Sōta Long Vương (122,05 triệu yên) và Watanabe Akira Danh Nhân (70,63 triệu yên).
Có hai loại kỳ thủ chuyên nghiệp được Liên đoàn công nhận: và . Đẳng/cấp của hai hệ thống này không tương đương mà chênh lệch nhau khá nhiều, và tiêu chí thăng đẳng/cấp cũng không giống nhau. Mặc dù hệ thống kỳ thủ chuyên nghiệp mở rộng cho cả hai giới nam và nữ, trong lịch sử chưa từng có kỳ thủ nữ nào đủ khả năng trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Do đó, hệ thống Nữ Lưu kỳ sĩ được Liên đoàn thành lập từ năm 2006 dành riêng cho các kỳ thủ nữ (tương tự hệ thống danh hiệu dành cho nữ trong cờ vua). Thành tích cao nhất mà một kỳ thủ nữ đạt được là Tam đẳng chuyên nghiệp tại Trường Đào tạo Kỳ thủ. Đến nay mới chỉ có Satomi Kana Nữ lưu Ngũ quán, Nishiyama Tomoka Nữ lưu Tam quán và Naka Nanami Tam đẳng là những kỳ thủ nữ đạt được thành tích này.
Vào năm 2007, một nhóm Nữ Lưu kỳ sĩ đã tách khỏi Liên đoàn và thành lập . Tổ chức này cùng với Nữ Lưu kỳ sĩ hội (tổ chức con của Liên đoàn) quản lý các Nữ Lưu kỳ sĩ cũng như tổ chức các giải đấu Nữ Lưu. Hai tổ chức cũng đã đi đến thỏa thuận hợp tác để quảng bá bộ môn này thông qua các giải đấu và các sự kiện khác.
Liên đoàn Shogi Nhật Bản là tổ chức duy nhất có quyền tổ chức các giải đấu chuyên nghiệp, có thể kể đến tám giải đấu tranh danh hiệu (Bát đại danh hiệu) và các giải đấu chuyên nghiệp khác. Vào năm 1996, Habu Yoshiharu trở thành người đầu tiên đạt được thành tích Thất quán - giữ cùng lúc 7 danh hiệu lớn của shogi Nhật Bản. Sau khi thành lập danh hiệu thứ tám (Duệ Vương) vào năm 2017, Fujii Sōta là kỳ thủ thứ hai đạt được thành tích Thất quán vào năm 2023 sau khi đánh bại Watanabe Akira để giành danh hiệu Danh Nhân. Fujii cũng đã trở thành kỳ thủ đầu tiên đạt thành tích Bát quán - độc chiếm cùng lúc 8 danh hiệu lớn, sau khi giành danh hiệu Vương Toạ từ tay Nagase Takuya tại Vương Toạ Chiến kỳ 71 (2023).
Liên đoàn Shogi Nhật Bản cùng với Hiệp hội Shogi chuyên nghiệp nữ Nhật Bản đều tổ chức các giải đấu Nữ Lưu (chung và riêng). Hệ thống Nữ Lưu cũng có 8 danh hiệu lớn, các giải đấu nghiệp dư có thể do chính Liên đoàn hay Hiệp hội chuyên nghiệp nữ tổ chức, hoặc do các CLB, các tờ báo địa phương, các công ty, cơ sở giáo dục hoặc chính quyền địa phương tổ chức dưới sự hướng dẫn của Liên đoàn và Hiệp hội.
Từ những năm 1990, shogi bắt đầu phát triển ra ngoài biên giới Nhật Bản, đặc biệt là tại Trung Quốc, châu Âu, Nam Mỹ và Đông Nam Á. Những khu vực này cũng đã hình thành những tổ chức shogi cho riêng mình, nổi bật nhất là Liên đoàn Shogi châu Âu (FESA).
Shogi máy tính
Trong các biến thể cờ phổ biến, shogi là bộ môn phức tạp nhất. Từ những năm 1970, máy tính bắt đầu phát triển vượt bậc về khả năng chơi shogi. Vào năm 2007, Habu Yoshiharu ước tính rằng kỳ lực của Bonanza, phần mềm shogi vô địch shogi máy tính thế giới năm 2006, ngang với Nhị đẳng chuyên nghiệp tại Trường đào tạo.
Trước đây, Liên đoàn từng hạn chế không cho các kỳ thủ chuyên nghiệp thi đấu với máy tính trước công chúng khi chưa được cho phép, với lý do quảng bá môn shogi và để kiếm tiền từ các sự kiện thi đấu giữa người - máy tính.
Vào ngày 12 tháng 10 năm 2010, sau khoảng 35 năm phát triển, lần đầu tiên máy tính đã đánh bại con người - Shimizu Ichiyo Nữ lưu Lục đẳng đã thất bại trước phần mềm Akara2010 trong một ván đấu kéo dài khoảng 6 tiếng đồng hồ.
Vào ngày 24 tháng 7 năm 2011, các phần mềm máy tính Bonanza và Akara đã lần lượt đánh bại một đội gồm hai kỳ thủ nghiệp dư trong 2 ván đấu. Thời gian suy nghĩ cho hai kỳ thủ nghiệp dư là 1 tiếng (đồng hồ cờ vua) + 3 phút mỗi nước đi sau khi hết giờ, trong khi thời gian cho máy tính là 25 phút (đồng hồ cờ vua) + 10 giây mỗi nước đi sau khi hết giờ.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, phần mềm GPS Shogi đã đánh bại Miura Hiroyuki Bát đẳng trong một ván đấu kéo dài 102 nước đi trong vòng hơn 8 tiếng đồng hồ.
Vào ngày 13 tháng 12 năm 2015, tài khoản có hệ số Elo cao nhất trên trang shogi trực tuyến Shogi Club 24 là phần mềm máy tính Ponanza với Elo là 3455.
Vào ngày 10 tháng 4 năm 2016, phần mềm Ponanza đã đánh bại Yamasaki Takayuki Bát đẳng trong vòng 85 nước. Yamasaki Bát đẳng đã sử dụng tới 7 giờ 9 phút suy nghĩ.
Vào tháng 10 năm 2017, công ty DeepMind tuyên bố rằng phần mềm AlphaZero do công ty này phát triển, sau 9 tiếng luyện tập đã đánh bại phần mềm elmo sau loạt 100 ván đấu, trong đó thắng 90 ván, thua 8 ván và hòa 2 ván.
Trên góc nhìn về độ phức tạp tính toán, nhìn chung shogi là bài toán EXPTIME-complete.
Văn hóa
Habu Yoshiharu Cửu đẳng cho rằng ở Nhật Bản shogi không chỉ được xem là một trò chơi giải trí hay một môn thể thao trí tuệ, mà là một môn nghệ thuật - một phần của văn hóa truyền thống Nhật Bản cùng với thơ haiku, thơ tanka, kịch nō, nghệ thuật cắm hoa ikebana và trà đạo. Shogi đạt đến địa vị này nhờ hệ thống iemoto do triều đình Mạc phủ thiết lập.
Thành phố Tendō thuộc tỉnh Yamagata là nơi có làng nghề truyền thống sản xuất quân và bàn cờ shogi, là nơi cung cấp quân và bàn cờ shogi chất lượng cao đi khắp Nhật Bản. Ở đây có được tổ chức vào tháng 4 nàng năm.
Chữ Mã 馬 (ký hiệu quân Tượng rồng/Long mã) ngược (左馬, hidari uma) thường xuất hiện trên các mặt hàng lưu niệm (như tượng quân cờ khổng lồ để trang trí, móc khóa, bùa may mắn và các vật phẩm khác) bán tại thành phố Tendō, Yamagata như là một biểu tượng may mắn. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của biểu tượng này. Giả thuyết phổ biến nhất là uma (うま) đọc ngược lại sẽ là まう mau (舞う), nghĩa là nhảy múa, và hình tượng ngựa nhảy múa trong văn hóa Nhật Bản được cho là mang lại may mắn.
Trong văn hóa đại chúng
Trong loạt manga và anime Naruto, shogi đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nhân vật Nara Shikamaru. Cậu thường chơi cờ với thầy của cậu là Sarutobi Asuma, lần nào cũng đánh thắng thầy. Asuma hy sinh trong 1 trận chiến với Hidan và Kakuzu của Akatsuki. Trước khi nhắm mắt Asuma đã nói với Shikamaru những lời cuối cùng khiến cậu nhớ mãi: "Tất cả ninja đều giống như những quân cờ, hi sinh để bảo vệ Vua. Và quân Vua chính là những đứa trẻ - thế hệ mai sau của Làng Lá."
Shogi đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện của các loạt manga - anime Quân Vua của Shion, Sư tử tháng 3, loạt light novel - anime Công việc của Long Vương, cũng như loạt manga - phim truyền hình 81diver.
Trong loạt manga - anime Durarara!!, nhân vật môi giới tin tức Orihara Izaya chơi một môn cờ nhập cả cờ vua, cờ vây và shogi trên cùng một bàn cờ, biểu trưng cho những cuộc ẩu đả ở Ikebukuro.
Trong loạt manga - anime Soredemo Ayumu wa Yosetekuru, học sinh năm 2 Trung học Phổ thông Yaotome Urushi là chủ tịch CLB shogi của trường cô, tuy nhiên CLB này không được công nhận do không có đủ thành viên - thành viên duy nhất ngoài cô là chàng học sinh năm nhất Tanaka Ayumu. |
Liên đoàn bóng đá châu Phi ( - CAF) là một trong sáu liên đoàn bóng đá cấp châu lục, điều hành bóng đá ở Châu Phi. CAF được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1957. Chủ tịch hiện nay là ông Ahmad Ahmad, người Madagascar.
Chủ tịch CAF
Abdel Aziz Abdallah Salem (Ai Cập): 1957 - 1958.
Tướng Abdel Aziz Mostafa (Ai Cập): 1958 - 1968.
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan): 1968 - 1972.
Ydnekatchew Tessema (Ethiopia): 1972 - 1987.
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan): 1987 - 1988.
Issa Hayatou (Cameroon): 1988 - 2017.
Ahmad Ahmad (Madagascar): 2017 - nay.
Chủ tịch danh dự
Tướng Abdel Aziz Mostafa (Ai Cập) +
Ydnekatchew Tessema (Ethiopia) +
Tiến sĩ Abdel Halim Mohamed (Sudan).
Tổng thư ký CAF
Youssef Mohamed (Ai Cập): 1957 - 1958.
Mustafa Kamel Mansour (Ai Cập): 1958 - 1961.
Mourad Fahmy (Ai Cập): 1961 - 1982.
Mustapha Fahmy (Ai Cập): 1982 - 1999.
Sodiq Kola (Nigeria): 1999 - 2017.
Amr Fahmy (Ai Cập): 2017 - nay.
Bảng xếp hạng FIFA
Bóng đá nam
Bảng xếp hạng được công bố bởi FIFA
Cập nhật lần cuối: 24 tháng 10 năm 2019
Bóng đá nữ
Bảng xếp hạng được công bố bởi FIFA.
Các giải thi đấu cấp đội tuyển quốc gia
Cúp bóng đá châu Phi
Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Phi
Giải vô địch bóng đá trẻ châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Phi
Cúp bóng đá nữ châu Phi
Giải vô địch bóng đá nữ U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá nữ U-17 châu Phi
Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Phi
Giải vô địch bóng đá bãi biển châu Phi
Đại hội Thể thao Toàn Phi
Các giải thi đấu cấp câu lạc bộ
Giải vô địch các câu lạc bộ châu Phi
Cúp Liên đoàn CAF
Siêu cúp CAF
Cúp các câu lạc bộ CECAFA
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi
Các giải đấu quốc tế của nam
World Cup
CAN
Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới
Thế vận hội Mùa hè
African Games
Cúp bóng đá U-23 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới
Cúp bóng đá U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới
Cúp bóng đá U-17 châu Phi
Các giải đấu quốc tế của nữ
World Cup
CAN
Thế vận hội Mùa hè
African Games
Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới
Giải vô địch bóng đá U-20 châu Phi
Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Phi
Các giải đấu quốc tế khác
Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới |
Đa nguyên theo nghĩa tổng quát triết học là sự xác nhận và chấp nhận tính đa dạng. Khái niệm này thường được dùng theo nhiều cách khác nhau trong nhiều vấn đề khác nhau. Trong chính trị, sự xác nhận tính phong phú về các mối quan tâm và niềm tin của toàn thể công dân là một trong số các đặc tính quan trọng của nền dân chủ hiện đại. Trong khoa học, khái niệm này thường miêu tả quan điểm cho rằng có vài, không phải duy nhất, phương pháp, lý thuyết hay quan điểm là hợp lý hoặc đáng tin cậy. Thái độ này được cho là một yếu tố quan trọng cho tiến bộ khoa học. Thuật ngữ đa nguyên cũng được dùng với một số nghĩa khác trong ngữ cảnh tôn giáo và triết học.
Trong chính trị, Đa nguyên được hiểu là sự đa dạng về ý thức hệ. Trong văn hóa – dân tộc, Đa nguyên là sự đa dạng về sắc màu văn hóa – dân tộc.
Triết học
Học thuyết triết học đa nguyên luận chỉ thừa nhận sự tồn tại của nhiều nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế giới, thế giới được hợp thành bởi nhiều bản nguyên.
Tôn giáo tín ngưỡng,tâm linh học
Trong tôn giáo học, tính đa nguyên còn chỉ sự tồn tại của nhiều tôn giáo trong một xã hội. Hiện nay trong cuộc sống, nhiều chính quyền đã phải thừa nhận xu hướng "Đa nguyên trong tôn giáo", nghĩa là chấp nhận nhiều tôn giáo mới du nhập trên mặt pháp lý lẫn thực địa.
Việc thừa nhận nhiều tôn giáo trong một xã hội xuất hiện nhiều ở các nước Phương Đông hơn các nước Phương Tây vì ở Phương Tây Kitô giáo mang một tính chất độc quyền, phản đối tính đa nguyên tôn giáo, gắn cho các tôn giáo khác cái mác dị giáo trong một thời gian dài.
Kinh tế – chính trị
Học thuyết đa nguyên trong kinh tế – chính trị học cho rằng cần có nhiều lực lượng chính trị, nhiều đảng phái trong một quốc gia (chống lại vai trò độc quyền lãnh đạo của một đảng); nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và đua tranh với nhau, không có thành phần kinh tế chủ đạo. |
Nam châm là một vật liệu hoặc vật thể tạo ra từ trường. Từ trường này là vô hình nhưng chịu trách nhiệm cho tính chất đáng chú ý nhất của nam châm: tạo ra một lực kéo các vật liệu sắt từ khác, như sắt, và hút hoặc đẩy các nam châm khác.
Nam châm vĩnh cửu là một vật thể được làm từ một vật liệu được từ hóa và tạo ra từ trường ổn định của chính nó. Một ví dụ hàng ngày là một nam châm tủ lạnh được sử dụng để giữ ghi chú trên cửa tủ lạnh. Vật liệu có thể được từ hóa, mà còn là những vật được thu hút mạnh mẽ đối với một nam châm, được gọi là sắt từ (hoặc ferrimagnetic). Chúng bao gồm các nguyên tố sắt, nickel và cobalt và hợp kim của chúng, một số hợp kim của kim loại đất hiếm và một số khoáng chất tự nhiên như lodestone. Mặc dù vật liệu sắt từ (và sắt từ) là những vật liệu duy nhất bị nam châm hút đủ mạnh để được coi là từ tính, nhưng tất cả các chất khác phản ứng yếu với từ trường, bởi một trong một số loại từ tính khác.
Vật liệu sắt từ có thể được chia thành các vật liệu "mềm" từ tính như sắt ủ, có thể được từ hóa nhưng không có xu hướng bị từ hóa, và các vật liệu "cứng" từ tính. Nam châm vĩnh cửu được chế tạo từ các vật liệu sắt từ "cứng" như alnico và ferrite được xử lý đặc biệt trong từ trường mạnh trong quá trình sản xuất để sắp xếp cấu trúc vi tinh thể bên trong của chúng, khiến chúng rất khó bị khử từ. Để khử từ một nam châm bão hòa, phải sử dụng một từ trường nhất định và ngưỡng này phụ thuộc vào lực kháng từ của vật liệu tương ứng. Vật liệu "cứng" có lực kháng từ cao, trong khi vật liệu "mềm" có lực kháng từ thấp. Sức mạnh tổng thể của một nam châm được đo bằng mômen từ của nó hoặc, thay vào đó, tổng từ thông mà nó tạo ra. Sức mạnh cục bộ của từ tính trong vật liệu được đo bằng từ hóa của nó.
Một nam châm điện được tạo ra từ một cuộn dây có tác dụng như một nam châm khi một dòng điện đi qua nó nhưng dừng lại là một nam châm khi dòng điện dừng lại. Thông thường, cuộn dây được quấn quanh lõi của vật liệu sắt từ "mềm" như thép carbon, giúp tăng cường đáng kể từ trường do cuộn dây tạo ra.
Tên gọi
Từ Nam Châm (南針) được lấy từ Chỉ Nam Châm (指南針), có nghĩa là "Kim chỉ Nam" hay đầy đủ hơn là "cây kim chỉ về phía Nam". Khi cây kim nhiễm từ và ở trạng thái treo, theo Lực từ của Trái Đất, nó sẽ chỉ về hướng Nam. Và đó chính là ứng dụng cơ bản cho La bàn. Ngày nay từ "Kim chỉ Nam" thường dùng với nghĩa đen là la bàn và nghĩa bóng là "sự dẫn hướng đúng đắn và hợp lý", còn "Nam Châm" thường dùng để gọi vật đang có từ trường và có thể hút được vật liệu sắt từ.
Khám phá và phát triển
Người cổ đại đã học về từ tính từ đá vôi (hoặc từ tính) là những mảnh quặng sắt được từ hóa tự nhiên. Từ magnet đã được đưa vào tiếng Anh từ tiếng Latin magnetum " cục nam châm ", mà đến từ Hy Lạp (Magntis [lithos]) có nghĩa là "[đá] từ Magnesia", một phần của Hy Lạp cổ đại nơi tìm thấy các lodestone có từ tính. Lodestone, được treo lơ lửng để chúng có thể quay, là những la bàn từ tính đầu tiên. Các mô tả sớm nhất còn tồn tại của nam châm và tính chất của chúng là từ Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 2500 năm trước. Các đặc tính của lodestone và mối quan hệ của chúng đối với sắt được Pliny the Elder viết lại trong bách khoa toàn thư của ông Naturalis Historia.
Vào thế kỷ 12 đến 13 sau Công nguyên, la bàn từ tính đã được sử dụng trong định vị hoa tiêu ở Trung Quốc, Châu Âu, Bán đảo Ả Rập và các nơi khác.
Vật lý
Từ trường
Mật độ từ thông (còn gọi là từ trường B hoặc chỉ từ trường, thường được ký hiệu là B) là một trường vectơ. Vectơ từ trường B tại một điểm nhất định trong không gian được chỉ định bởi hai thuộc tính:
Hướng của nó, đó là dọc theo hướng của kim la bàn.
Độ lớn của nó (còn được gọi là sức mạnh), tỷ lệ thuận với mức độ mạnh mẽ của kim la bàn hướng dọc theo hướng đó.
Trong các đơn vị SI, cường độ của từ trường B được tính bằng tesla.
Mômen từ
Khoảnh khắc từ của nam châm (còn gọi là mômen lưỡng cực từ và thường được ký hiệu là μ) là một vectơ đặc trưng cho tính chất từ tính tổng thể của nam châm. Đối với một thanh nam châm, hướng của mô men từ chỉ từ cực nam của nam châm đến cực bắc của nó, và độ lớn liên quan đến mức độ mạnh và khoảng cách giữa các cực này. Trong các đơn vị SI, mô men từ được đo bằng A · m² (ampe mét bình phương).
Một nam châm vừa tạo ra từ trường riêng của nó vừa phản ứng với các từ trường khác. Độ mạnh của từ trường mà nó tạo ra là tại bất kỳ điểm nào cho tỉ lệ với độ lớn của mô men từ của nó. Ngoài ra, khi nam châm được đưa vào một từ trường bên ngoài, được tạo ra bởi một nguồn khác, nó phải chịu một mô-men xoắn có xu hướng định hướng mô men từ song song với từ trường. Lượng mô-men xoắn này tỷ lệ thuận với mô men từ và trường ngoài. Một nam châm cũng có thể chịu một lực đẩy nó theo hướng này hay hướng khác, theo vị trí và hướng của nam châm và nguồn. Nếu trường đồng nhất trong không gian, nam châm không chịu lực ròng, mặc dù nó chịu mô-men xoắn.
Một sợi dây có dạng hình tròn có diện tích A và mang dòng điện cường độ I sẽ có momen từ bằng IA.
Từ hóa
Từ hóa của vật liệu từ hóa là giá trị cục bộ của mô men từ của nó trên một đơn vị thể tích, thường được ký hiệu là M, với đơn vị A/m. Đó là một trường vectơ, thay vì chỉ là một vectơ (như mô men từ), bởi vì các khu vực khác nhau trong một nam châm có thể được từ hóa với các hướng và cường độ khác nhau (ví dụ, vì các miền, xem bên dưới). Một thanh nam châm tốt có thể có mô men từ có cường độ 0,1 A • m² và thể tích 1 cm 3 hoặc 1×106 m³, và do đó cường độ từ hóa trung bình là 100.000 A/m. Sắt có thể có từ hóa khoảng một triệu ampe mỗi mét. Một giá trị lớn như vậy giải thích tại sao nam châm bằng sắt rất hiệu quả trong việc tạo ra từ trường.
Mô hình nam châm
Hai mô hình khác nhau tồn tại cho nam châm: cực từ và dòng nguyên tử.
Mặc dù đối với nhiều mục đích, thật thuận tiện khi nghĩ rằng nam châm có cực từ nam và bắc riêng biệt, khái niệm về cực không nên được hiểu theo nghĩa đen: nó chỉ là một cách để chỉ hai đầu khác nhau của nam châm. Nam châm không có các hạt phía bắc hoặc phía nam riêng biệt ở hai bên đối diện. Nếu một thanh nam châm bị vỡ thành hai mảnh, trong nỗ lực tách hai cực bắc và nam, kết quả sẽ là hai nam châm thanh, mỗi thanh có cả hai cực bắc và nam. Tuy nhiên, một phiên bản của phương pháp cực từ được các nhà nghiên cứu từ tính chuyên nghiệp sử dụng để thiết kế nam châm vĩnh cửu.
Trong phương pháp này, sự phân kỳ của từ hóa ∇ · M bên trong một nam châm và thành phần bình thường bề mặt M · n được coi là sự phân bố của các đơn cực từ. Đây là một thuận tiện toán học và không ngụ ý rằng thực sự có các đơn cực trong nam châm. Nếu phân phối cực từ được biết đến, thì mô hình cực cho từ trường H. Bên ngoài nam châm, trường B tỷ lệ với H, trong khi bên trong từ hóa phải được thêm vào H. Một phần mở rộng của phương pháp này cho phép tích điện từ bên trong được sử dụng trong các lý thuyết về sắt từ.
Phân cực
Cực bắc của nam châm được định nghĩa là cực mà khi nam châm lơ lửng tự do, hướng về cực Bắc của Trái Đất ở Bắc Cực (các cực từ và địa lý không trùng nhau, nhìn thấy sự suy giảm từ tính). Do các cực đối diện (bắc và nam) thu hút, cực từ Bắc thực sự là cực nam của từ trường Trái Đất. Như một vấn đề thực tế, để cho biết cực của nam châm ở phía bắc và phía nam, không nhất thiết phải sử dụng từ trường của Trái Đất. Ví dụ, một phương pháp sẽ là so sánh nó với một nam châm điện, có thể xác định được cực của chúng bằng quy tắc bàn tay phải. Các đường sức từ của một nam châm được coi là theo quy ước xuất hiện từ cực bắc của nam châm và nhập lại ở cực nam.
Vật liệu từ tính
Thuật ngữ nam châm thường được dành riêng cho các đối tượng tạo ra từ trường liên tục của riêng chúng ngay cả khi không có từ trường ứng dụng. Chỉ một số lớp vật liệu nhất định có thể làm điều này. Tuy nhiên, hầu hết các vật liệu tạo ra một từ trường để đáp ứng với từ trường ứng dụng - một hiện tượng được gọi là từ tính. Có một số loại từ tính, và tất cả các vật liệu trưng bày ít nhất một trong số chúng.
Hành vi từ tính tổng thể của vật liệu có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào cấu trúc của vật liệu, đặc biệt là cấu hình electron của nó. Một số dạng hành vi từ đã được quan sát thấy trong các vật liệu khác nhau, bao gồm:
Sắt từ và ferrimagnetic là những vật liệu bình thường coi như có từ tính; chúng bị hút bởi một nam châm đủ mạnh với sự hấp dẫn thấy được. Những vật liệu này là những vật liệu duy nhất có thể giữ được từ hóa và trở thành nam châm; một ví dụ phổ biến là một nam châm tủ lạnh truyền thống. Vật liệu Ferrimagnetic, trong đó bao gồm ferrites và vật liệu từ tính lâu đời nhất magnetite và đá nam châm, cũng tương tự như nhưng yếu hơn ferromagnetics. Sự khác biệt giữa vật liệu sắt và sắt từ có liên quan đến cấu trúc kính hiển vi của chúng, như được giải thích trong Từ học.
Các chất thuận từ, chẳng hạn như bạch kim, nhôm và oxy, bị thu hút với lực yếu khi đến gần hai cực của nam châm. Điểm thu hút này yếu hơn hàng trăm nghìn lần so với vật liệu sắt từ, do đó, nó chỉ có thể được phát hiện bằng cách sử dụng các dụng cụ nhạy cảm hoặc sử dụng nam châm cực mạnh. Nước từ có từ tính, mặc dù chúng được làm từ các hạt sắt từ nhỏ lơ lửng trong chất lỏng, đôi khi được coi là thuận từ vì chúng không thể bị nhiễm từ.
Nghịch từ có nghĩa là bị đẩy lùi bởi cả hai cực. So với các chất thuận từ và sắt từ, các chất nghịch từ tính, như carbon, đồng, nước và nhựa, thậm chí còn bị đẩy mạnh hơn bởi nam châm. Độ thấm của vật liệu từ tính nhỏ hơn độ thấm của chân không. Tất cả các chất không sở hữu một trong các loại từ tính khác là từ tính; điều này bao gồm hầu hết các chất. Mặc dù lực tác dụng lên một vật thể từ tính từ một nam châm thông thường quá yếu để có thể cảm nhận được, bằng cách sử dụng nam châm siêu dẫn cực mạnh, các vật thể từ tính như mảnh chì và thậm chí cả các con chuột có thể được nâng lên trong không trung. Các chất siêu dẫn đẩy các từ trường từ bên trong của chúng và có tính từ tính mạnh.
Có nhiều loại từ tính khác nhau, chẳng hạn như kính xoay, siêu màng từ, siêu thuận từ, và siêu vật liệu. |
Hiệu ứng Meissner hay hiệu ứng Meissner-Ochsenfeld là hiệu ứng từ thông hoàn toàn bị đẩy ra khỏi bên trong của vật siêu dẫn. Hiện tượng này là hiện tượng nghịch từ hoàn hảo (:en:Superdiamagnetism). Từ thông sinh ra bởi vật siêu dẫn bù trừ hoàn toàn từ thông ở môi trường ngoài. Do đó, từ thông bên trong vật siêu dẫn bằng 0. Hiện tượng này được khám phá bởi hai nhà vật lý người Đức Walther Meissner và Robert Ochsenfeld vào năm 1933.
Thí nghiệm
Hiệu ứng Meissner-Ochennfeld được hai nhà khoa học Đức Walther Meissner và Robert Ochsenfeld phát hiện vào năm 1933 một cách gián tiếp bằng cách đo sự phân bố từ trường bên ngoài các mẫu thiếc và chì siêu dẫn. Các mẫu đã bị phá hủy bởi điều kiện thí nghiệm, nhưng hai ông đã phát hiện ra sự bảo toàn từ thông: khi từ thông bên trong giảm, từ thông bên ngoài tăng. Đặc biệt hơn, đường sức từ vốn dĩ chạy xuyên qua vật thể, giờ đây đi vòng qua vật thể. Tính chất từ của vật liệu siêu dẫn đã thay đổi hoàn toàn so với vật liệu gốc.
Lý giải
Khi thả một nam châm lên một vật liệu siêu dẫn, do sự di chuyển của nam châm, từ thông qua bề mặt vật liệu biến thiên. Khi đó, trong vật xuất hiện dòng điện Foucault. Theo định luật Lenz, dòng này có xu hướng chống lại nguyên nhân tạo ra nó (trong trường hợp này là sự chuyển động). Thông thường dòng này sẽ yếu đi nhanh chóng do điện trở, nhưng vì vật liệu siêu dẫn không có điện trở, dòng này không bị suy giảm. Do dòng điện vẫn duy trì cường độ, lực kháng sự di chuyển của nam châm không suy giảm mà vẫn giữ nguyên, khiến nam châm lơ lửng. Khi đó, từ trường trong lòng của chất siêu dẫn gần như bằng không và bị "đẩy" ra ngoài, vì từ trường bên trong nó sinh ra do dòng Foucault triệt tiêu với từ trường ngoài tác dụng vào nó.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra khi vật siêu dẫn được thả trên một nam châm. Dòng Foucault xuất hiện trong vật siêu dẫn kháng lại mọi sự chuyển động, khiến nó bị "khóa cứng" phía trên nam châm.
Ứng dụng
Hiện tượng Meissner-Ochsenfeld còn có khá ít ứng dụng trong thực tế. Trong phòng thí nghiệm, hiện tượng này là một trong các tiêu chí nhận diện vật liệu siêu dẫn. Ngoài ra, có một số ứng dụng khác sẽ được áp dụng trong tương lai khi chất siêu dẫn điều kiện thường xuất hiện. |
Tiếng Quảng Châu (phồn thể: 廣州話, giản thể: 广州话, phiên âm Yale: Gwóngjāu wá, Hán-Việt: Quảng Châu thoại) hay tiếng tỉnh Quảng Đông là một phương ngữ tiếng Trung được nói tại Quảng Châu và các vùng phụ cận ở Đông Nam Trung Quốc. Đây là phương ngữ ưu thế nhất trong nhóm phương ngữ tiếng Quảng Đông, là tiếng mẹ đẻ của khoảng trên 80 triệu người.
Tại Trung Quốc Đại lục, đây là lingua franca của tỉnh Quảng Đông và một phần khu tự trị Quảng Tây. Đây cũng là ngôn ngữ chính thức và có ưu thế nhất tại Hồng Kông và Ma Cao. Ngoài ra, đây là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất trong cộng đồng Hoa kiều Đông Nam Á (tại các nước Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Campuchia,...) và phương Tây (tại các nước Canada, Úc, Tây Âu, Hoa Kỳ,...).
Tiếng Quảng Châu đôi khi còn được gọi là tiếng Quảng Đông (廣東話 / 广东话, Quảng Đông thoại). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học, tiếng Quảng Đông đề cập đến một nhóm lớn các phương ngữ của tiếng Trung Quốc, trong đó tiếng Quảng Châu là phương ngữ ưu thế.
Tiếng Quảng Châu rất khác biệt với các ngữ âm khác trong tiếng Trung Quốc, đặc trưng cho đặc điểm văn hóa và đặc tính dân tộc của một bộ phận người Trung Quốc.
Tên gọi
Tiếng Quảng Châu đôi khi còn được gọi là tiếng Quảng Đông hay Việt ngữ (粵語/粤语, vì tỉnh Quảng Đông còn được gọi là tỉnh Việt 粵/粤, đồng âm khác nghĩa với Việt (越) trong Việt Nam (越南)). Tuy nhiên, xét về mặt ngôn ngữ học, Việt ngữ là một nhánh rộng hơn, gồm một số phương ngữ như tiếng Đài Sơn, tiếng Cao Dương,...
Trong lịch sử, người ta gọi tên là tiếng Quảng Châu, mặc dù phạm vi nói của thứ tiếng này rộng hơn nhiều. Tại Quảng Đông và Quảng Tây, người ta gọi đây là tiếng tỉnh thành (省城話/省城话, tỉnh thành thoại) hoặc bạch thoại (白話/白话) hoặc tiếng Quảng Phủ (廣府話/广府话, Quảng Phủ thoại). Người Hoa hải ngoại nói tiếng Quảng Châu là tiếng mẹ đẻ, họ tự gọi ngôn ngữ của mình là tiếng Đường (唐話, Đường thoại), vì họ tự gọi mình là người Đường (唐人, Đường nhân).
Tại Hồng Kông, Ma Cao và những cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, người ta thường gọi ngôn ngữ này là tiếng Quảng Đông (廣東話/广东话) (vì nguồn gốc dân cư là từ di cư từ khu vực này đến) hay đơn giản hơn là tiếng Trung (中文: trung văn) (vì trong lịch sử ngôn ngữ này từng có giai đoạn thịnh hành ở Trung Quốc, trước khi bị tiếng Trung phổ thông thay thế).
Do là phương ngữ ưu thế trong Việt ngữ, ngôn ngữ này còn được gọi là Việt ngữ tiêu chuẩn (標準粵語/标准粤语).
Lịch sử
Do thiếu những văn kiện lịch sử, nguồn gốc của tiếng Quảng Châu chỉ có thể dựa vào ước đoán. Sự khác biệt giữa các thứ tiếng địa phương ở Trung Quốc cổ đại được ghi nhận sớm nhất vào thời Xuân Thu (770-476 trước Công Nguyên). Một vài nguồn suy đoán rằng tiếng Quảng Châu cùng với tiếng Ngô và tiếng Tương (tiếng Hồ Nam ngày nay) đã hình thành vào khoảng thời nhà Tần (221-206 trước Công Nguyên). Cho đến cuối thời Tần, người Hán đã định cư tại khu vực tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay cùng với ngôn ngữ của họ. Trong sách vở, tiếng Hán được dùng để đề cập đến ngôn ngữ phương Bắc. Ngôn ngữ này được dùng như ngôn ngữ chính thức vào thời Tần. Sau thời nhà Hán (202 trước Công Nguyên đến 220), quãng thời gian hỗn loạn chính trị kéo dài và phân tách lãnh thổ liên miên dẫn đến sự tách biệt giữa phương ngữ địa phương và phương ngữ phương Bắc. Việc giao tiếp qua lại với người bản địa cũng giúp hình thành loại phương ngữ đặc biệt mà ngày nay gọi là Việt ngữ. Mặc dù không được ghi nhận rõ ràng trong lịch sử, nhiều người đồng tình rằng vào thời nhà Đường (618-907), tiếng Quảng Châu có những đặc trưng ngôn ngữ giống với thứ tiếng Trung phổ biến thời kỳ này hơn các phương ngữ khác.
Vào thời Nam Tống, Quảng Châu trở thành trung tâm văn hoá của khu vực. tiếng Quảng Châu phát triển thành nhánh phương ngữ có uy thế nhất của Việt ngữ khi thành phố cảng Quảng Châu ở đồng bằng sông Châu Giang trở thành hải cảng lớn nhất Trung Quốc, với mạng lưới thương mại trải rộng đến tận Ả Rập. Tiếng Quảng Châu cũng được sử dụng trong loại hí kịch truyền thống Quảng Đông có tên gọi là "Việt kịch" hay "đại kịch". Thêm vào đó, trong quá trình phát triển, ngôn ngữ này đã hình thành nên một dòng văn học đặc biệt có cách phát âm từ thời Trung cổ gần giống với tiếng Quảng Châu hiện đại hơn bất kỳ phương ngữ Trung Quốc nào khác ngày nay, kể cả tiếng Hoa phổ thông.
So với tiếng phổ thông và tiếng Ngô, tiếng Quảng Châu gần với tiếng Khách Gia và tiếng Mân hơn.
Khi Quảng Châu trở thành trung tâm thương mại, nơi thực hiện phần lớn giao thương với nước ngoài vào thế kỷ 18, tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ chủ yếu được sử dụng để giao tiếp với thế giới phương Tây. Suốt giai đoạn này và kéo dài đến tận thế kỷ 20, tổ tiên hầu hết dân cư Hồng Kông và Ma Cao đều đến từ Quảng Châu và những khu vực lân cận sau khi hai nơi này biến thành thuộc địa của Anh và Bồ Đào Nha.
Tại Trung Quốc lục địa, tiếng Hoa phổ thông là đối tượng cốt lõi dùng để giảng dạy và học tập ở trường học, đồng thời là ngôn ngữ chính thức, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền từ năm 1949. Trong khi đó, tiếng Quảng Châu vẫn được xem là ngôn ngữ chính thức tại Hồng Kông và Ma Cao kể từ thời kỳ thuộc địa cho đến nay.
Vị trí phân bố
Hồng Kông và Ma Cao
Trung Quốc
Đông Nam Á
Hiện nay, tiếng Quảng Châu được sử dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới trong đó có cả Việt Nam. Khi xưa người Trung Quốc di cư sang Việt Nam và tập trung đa phần ở miền Nam Việt Nam. Những người Trung Quốc này chủ yếu là đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến. Họ đem theo nền văn hóa cũng như tiếng nói Quảng Đông đặc trưng của mình. Khi sang Việt Nam người ta thường gọi họ là người Hoa.
Ngày nay người Hoa tập trung đông đúc và chủ yếu ở Chợ Lớn thuộc Quận 5, Quận 6 và Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Người Hoa ở đây chủ yếu dùng tiếng Quảng Đông để giao tiếp và buôn bán hàng ngày.
Bắc Mỹ
Tây Âu
Vai trò văn hoá và xã hội
Ngôn ngữ giao tiếp Trung Quốc khác nhau rất lớn tuỳ theo vùng và khu vực, phần lớn không thể dùng để giao tiếp lẫn nhau được. Hầu hết những loại ngôn ngữ bản địa này ít gặp tại những địa phương khác, dù vẫn có thể gặp người sử dụng chúng ở bên ngoài Trung Quốc. Từ sau sắc lệnh năm 1909 của nhà Thanh, tiếng Hoa phổ thông trở thành ngôn ngữ sử dụng trong giáo dục, truyền thông và giao tiếp. Tuy nhiên, tuyên bố đưa tiếng Hoa phổ thông làm ngôn ngữ chính thức quốc gia không được các nhà chức trách ở khu vực sử dụng ngôn ngữ này hoàn toàn chấp nhận vào đầu thế kỷ 20. Tiếng Quảng Châu vẫn kiên trì được sử dụng ở một số đài truyền hình và phát thanh Quảng Đông ngày nay, xen lẫn với tiếng phổ thông. Riêng tại Hồng Kông, hầu hết mọi chương trình và đài phát thanh đều phát tiếng Quảng Châu. Do chính sách năm 1949, ngày càng nhiều người Quảng Đông dùng song song hai thứ tiếng này cùng lúc, đặc biệt là trong môi trường giáo dục và hành chính. Ở Hồng Kông, ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng phổ thông mà là tiếng Anh.
Những năm gần đây việc sử dụng tiếng Quảng Châu ở Trung Quốc lục địa va phải một số nỗ lực hạn chế. Nổi bật nhất là một đề nghị năm 2010, yêu cầu đài truyền hình Quảng Châu tăng thời lượng phát sóng tiếng phổ thông, sử dụng kinh phí của những chương trình tiếng Quảng Châu. Điều này dẫn đến
cuộc biểu tình lớn tại Quảng Châu. Kết quả là đã ngăn cản được chuyện ép buộc thay đổi ngôn ngữ của các nhà chức trách. Thêm vào đó, có những tin tức về việc sinh viên bị phạt do nói thứ tiếng không phải tiếng phổ thông tại trường học. Những việc này càng làm gia tăng thêm vai trò của tiếng Quảng Châu trong văn hoá địa phương, người ta xem ngôn ngữ là đặc trưng nhận dạng người bản địa để phân biệt với những người dân nhập cư phần lớn đến từ những miền nghèo hơn ở Trung Quốc - họ chủ yếu nói tiếng phổ thông.
Do lịch sử ngôn ngữ tại Hồng Kông và Ma Cao cùng với việc sử dụng tiếng Quảng Châu phổ biến trong cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, phạm vi sử dụng quốc tế của tiếng Quảng Châu lan rộng tỉ lệ thuận với số người nói. tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ nói chiếm ưu thế tại Hồng Kông và Ma Cao. Tại những khu vực này, những bài diễn thuyết, phát biểu chính trị hầu hết đều bằng tiếng Quảng Châu, khiến nó trở thành phương ngữ Trung Quốc duy nhất ngoài tiếng phổ thông được sử dụng cho chức năng chính sự.
Đặc biệt từ sau khi Hồng Kông được Anh trao trả lại cho Trung Quốc, tiếng Quảng Châu càng được sử dụng như một biểu tượng bản địa tại Hồng Kông, càng phổ biến hơn nữa qua chính sách phát triển dân chủ tại Hồng Kông và chính sách thoát ly Trung Quốc nhằm bất đồng hoá với Trung Quốc lục địa và chính quyền của nó.
Tình huống tương tự cũng xảy ra tại Hoa Kỳ, tại đây mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng trong cộng đồng người Mỹ gốc Hoa do một lượng lớn dân cư nói tiếng phổ thông từ Đài Loan và Trung Quốc tràn vào Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Trong khi nhiều di dân từ Đài Loan đã học tiếng Quảng Châu để củng cố quan hệ với cộng đồng người Mỹ gốc Hoa nói tiếng Quảng Châu truyền thống, ngày càng nhiều người dân mới nhập cư gần đây và phần lớn dân nhập cư từ Trung Quốc đại lục vẫn tiếp tục dùng tiếng phổ thông, đôi khi họ dùng nó như thứ ngôn ngữ duy nhất của họ thay vì cố gắng sử dụng tiếng Anh. Điều này đã góp phần tạo nên sự chia rẽ cộng đồng dựa trên sự phân biệt nói những loại tiếng Trung khác nhau. Song song đó là việc ngày càng nhiều người Mỹ gốc Hoa (bao gồm những người Hoa sinh ra tại Mỹ) nói tiếng Quảng Châu bảo vệ nền văn hoá từ xưa đến nay của cộng đồng của họ trước luồng dân di cư nói tiếng phổ thông.
Cũng như tiếng Hoa phổ thông và tiếng Phúc Kiến, tiếng Quảng Châu cũng sở hữu dòng nhạc riêng, thường gọi là Cantopop hay HK-pop. Tại Hồng Kông, nhạc tiếng Quảng Châu giữ vị trí thống trị trong dòng nhạc thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ đến từ Bắc Kinh và Đài Loan phải học tiếng Quảng Châu để tạo ra phiên bản ca khúc tiếng Quảng Châu. Nhiều ca sĩ nói tiếng phổ thông bản địa như Vương Phi, Vu Khải Hiền,... và những ca sĩ đến từ Đài Loan phải học tiếng Quảng Châu để biểu diễn tại đây.
Từ buổi đầu sơ khai của nền điện ảnh Trung Quốc, người ta đã làm những bộ phim tiếng Quảng Châu. Bộ phim đầu tiên có tên là "Bạch Kim Long" (白金龍/白金龙) được hãng phim Thiên Nhất của Thượng Hải sản xuất năm 1932. Bất chấp lệnh cấm đối với phim tiếng Quảng Châu do chính quyền Nam Kinh đưa ra vào thập niên 1930, hãng phim tiếng Quảng Châu tiếp tục làm phim tại Hồng Kông - khi đó vẫn đang là thuộc địa của Anh. Từ giữa thập niên 1970 đến thập niên 1990, những bộ phim tiếng Quảng Châu sản xuất tại Hồng Kông đều rất phổ biến trong giới cộng đồng người Hoa ở hải ngoại.
Chữ viết
Do là ngôn ngữ chính thức tại hai đặc khu hành chính Hồng Kông, Ma Cao và sử dụng nhiều bởi người Hoa hải ngoại, tiếng Quảng Châu sử dụng bộ chữ Hán phồn thể thay vì bộ bộ giản thể như tiếng Trung Quốc phổ thông. Ngoài ra, tiếng Quảng Châu còn có một số từ ngữ không có trong văn viết của tiếng Trung Quốc phổ thông. Một số từ phát âm giống hoặc gần giống nhau, nhưng phần lớn là khác biệt. Cách dùng từ, đặc biệt là trong giao tiếp đôi khi không giống nhau. Ví dụ như từ "không có", tiếng phổ thông là 没有 (méi yǒu), tiếng Quảng Châu là 冇 (mou5). Văn nói tiếng Quảng Châu thường có những câu tận cùng bằng từ 啊 (aa3) nhiều hơn so với tiếng phổ thông.
Do Quảng Châu và Hồng Kông từ thế kỷ 18 là nơi có nhiều người nước ngoài sinh sống, một số từ vựng chịu ảnh hưởng phát âm tiếng Anh.
Về ngữ pháp, tiếng phổ thông và Quảng Châu có đôi chút khác biệt. Tuy nhiên, nếu một người sử dụng một trong hai thứ tiếng và đọc được cả hai loại chữ giản thể và phồn thể, họ có thể hiểu được văn bản viết bằng văn phong chính luận của thứ tiếng kia (tuy không thể nghe hiểu được), nhưng nếu viết bằng văn phong hội thoại sẽ khó hiểu hơn.
Phiên âm La tinh
Hệ thống phiên âm Latinh tiếng Quảng Châu dựa trên giọng nói của người dân bản địa và Hồng Kông, hỗ trợ tạo nên khái niệm gọi là tiếng Quảng Đông chuẩn. Các hệ thống phiên âm chính gồm Barnett–Chao, Meyer–Wempe, phiên âm La tinh tiếng Quảng Đông của chính phủ Trung Quốc, Yale và Việt bính (粵拼/jyutping). Các hệ thống phiên âm này về cơ bản không khác nhau nhiều.
Nhà ngôn ngữ học Hồng Kông Sidney Lau đã sửa đổi hệ thống Yale trong giáo trình tiếng Quảng Đông nổi tiếng của ông và vẫn được sử dụng rộng rãi ngày nay. Hệ thống phiên âm La tinh tiếng Quảng Đông của Ma Cao khá khác biệt so với Hồng Kông, phát âm chịu ảnh hưởng cơ bản từ tiếng Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, vài từ ngữ trong hệ thống phiên âm của Ma Cao cũng tương tự như của Hồng Kông (ví dụ 林 là "Lam" và 陳 là "Chan"). Những từ trong hệ thống phiên âm của Hồng Kông dùng "u" thì được thay bằng "o" trong hệ thống phiên âm của Ma Cao (ví dụ 周 là "Chau" và "Chao", 梁 là "Leung" và "Leong"). Trong khi đó, cả hai hệ thống phiên âm này đều khác nhiều với hệ thống bính âm tiếng Quảng Đông của Trung Quốc.
Giáo trình và bộ gõ chữ
Một giáo trình dạy tiếng Quảng Châu phổ biến hiện nay là Pimsleur Cantonese.
Số người theo học tiếng Quảng hiện nay ít hơn so với tiếng Trung Quốc phổ thông bởi tiếng Trung Quốc phổ thông là ngôn ngữ được sử dụng chính thức và nhiều nhất tại CHND Trung Hoa.
Bộ gõ chữ Hán tiếng Quảng Châu phổ biến hiện nay là Cantonese Phonetic IME rất thuận lợi cho những người mới tiếp xúc với tiếng Quảng Châu. |
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là tuyên bố được thông qua bởi cuộc họp của Đệ nhị Quốc hội Lục địa tại Tòa nhà bang Pennsylvania (nay là Independence Hall) ở Philadelphia, Pennsylvania, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Tuyên ngôn này tuyên bố rằng Mười ba thuộc địa trong tình trạng chiến tranh với Vương quốc Liên hiệp Anh sẽ coi mình là mười ba quốc gia độc lập có chủ quyền,không còn dưới sự cai trị của người Anh và nước Anh .Với Tuyên ngôn độc lập các quốc gia mới này đã thực hiện bước đầu tiên tập thể để hình thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.Tuyên ngôn được ký bởi các đại diện từ New Hampshire, vịnh Massachusetts, Rhode Island, Connecticut, New York, New Jersey, Pennsylvania, Maryland, Delaware, Virginia, Bắc Carolina, Nam Carolina và Georgia.
Nghị quyết Lee về độc lập đã được thông qua vào ngày 2 tháng 7 mà không có phiếu chống đối. Hội đồng Năm đã soạn thảo Tuyên ngôn để sẵn sàng khi Quốc hội bỏ phiếu độc lập. John Adams, một nhà lãnh đạo thúc đẩy độc lập, đã thuyết phục ủy ban chọn Thomas Jefferson để soạn thảo bản thảo gốc của tài liệu, mà Quốc hội chỉnh sửa để tạo ra phiên bản cuối cùng. Tuyên ngôn là một lời giải thích chính thức về lý do tại sao Quốc hội đã bỏ phiếu tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh, hơn một năm sau khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ nổ ra. Adams đã viết thư cho vợ Abigail như sau: "Ngày thứ hai của tháng 7 năm 1776, sẽ là Kỷ nguyên đáng nhớ nhất, trong Lịch sử Hoa Kỳ" - mặc dù Ngày Độc lập thực sự được tổ chức vào ngày 4 tháng 7, ngày mà Chữ nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập đã được phê duyệt.
Sau khi phê chuẩn văn bản vào ngày 4 tháng 7, Quốc hội đã ban hành Tuyên ngôn độc lập dưới nhiều hình thức. Ban đầu nó được xuất bản dưới dạng bản in Dunlap được phát hành rộng rãi và đọc cho công chúng. Bản sao nguồn được sử dụng cho việc in ấn này đã bị mất và có thể là bản sao trong tay Thomas Jefferson. Bản nháp gốc của Jefferson được lưu giữ tại Thư viện Quốc hội, được hiệu chỉnh với những thay đổi được thực hiện bởi John Adams và Benjamin Franklin, cũng như các ghi chú của Jefferson về những thay đổi được thực hiện bởi Quốc hội. Phiên bản nổi tiếng nhất của Tuyên bố là một bản sao đã ký được trưng bày tại Cục Lưu trữ Quốc gia ở Washington, D.C., và được coi là tài liệu chính thức. Bản sao bằng chữ to này (bản hoàn chỉnh, bản sao thư pháp) đã được Quốc hội đặt hàng vào ngày 19 tháng 7 và ký chủ yếu vào ngày 2 tháng 8.
Các nguồn và giải thích của Tuyên bố đã là chủ đề của nhiều cuộc điều tra học thuật. Tuyên bố biện minh cho sự độc lập của Hoa Kỳ bằng cách liệt kê 27 bất bình của thuộc địa chống lại Vua George III và bằng cách khẳng định một số quyền tự nhiên và pháp lý, bao gồm cả quyền cách mạng. Mục đích ban đầu của nó là tuyên bố độc lập, và các tài liệu tham khảo về văn bản của Tuyên bố là rất ít trong những năm tiếp theo. Abraham Lincoln đã biến nó thành trung tâm của các chính sách và tài hùng biện của mình, như trong Diễn văn Gettysburg năm 1863. Kể từ đó, nó đã trở thành một tuyên bố nổi tiếng về quyền con người, đặc biệt là câu thứ hai:
Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Đây được gọi là "một trong những câu nổi tiếng nhất trong tiếng Anh", có chứa "những từ có tiềm năng và hệ quả nhất trong lịch sử Hoa Kỳ". Đoạn văn đã thể hiện một tiêu chuẩn đạo đức mà Hoa Kỳ nên phấn đấu. Quan điểm này được Lincoln đề cao một cách đáng chú ý, người coi Tuyên ngôn là nền tảng của triết lý chính trị của mình và cho rằng đó là một tuyên bố về các nguyên tắc mà theo đó Hiến pháp Hoa Kỳ nên được giải thích.
Tuyên ngôn độc lập đã truyền cảm hứng cho nhiều tài liệu tương tự ở các quốc gia khác, lần đầu tiên là Tuyên ngôn 1789 của nước Bỉ thống nhất được ban hành trong cuộc Cách mạng Brabant ở Hà Lan thuộc Áo. Nó cũng là mô hình chính cho nhiều tuyên bố độc lập ở châu Âu và châu Mỹ Latinh, cũng như châu Phi (Liberia) và Châu Đại Dương (New Zealand) trong nửa đầu thế kỷ 19.
Bối cảnh
Vào thời điểm Tuyên ngôn Độc lập được thông qua vào tháng 7 năm 1776, Mười ba thuộc địa và Vương quốc Anh đã có chiến tranh trong hơn một năm. Mối quan hệ đã xấu đi giữa các thuộc địa và nước mẹ kể từ năm 1763. Quốc hội ban hành một loạt các biện pháp để tăng doanh thu từ các thuộc địa, như Đạo luật tem năm 1765 và Đạo luật Townshend năm 1767. Quốc hội tin rằng những hành vi này là một biện pháp hợp pháp về việc các thuộc địa phải trả phần chi phí hợp lý của họ để giữ họ nằm trong Đế quốc Anh.
Tuy nhiên, nhiều người dân thuộc địa đã phát triển một quan niệm khác về đế quốc. Các thuộc địa không được đại diện trực tiếp trong Nghị viện và thực dân cho rằng Nghị viện không có quyền đánh thuế đối với họ. Tranh chấp về thuế này là một phần của sự khác biệt lớn hơn giữa các diễn giải của Anh và Mỹ về Hiến pháp Anh và phạm vi quyền lực của Nghị viện tại các thuộc địa. Quan điểm chính thống của Anh, có từ Cách mạng Vinh quang năm 1688, là Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao trên toàn đế quốc, và theo định nghĩa, bất cứ điều gì mà Nghị viện làm đều là hiến pháp. Tuy nhiên, tại các thuộc địa, ý tưởng đã phát triển rằng Hiến pháp Anh công nhận một số quyền cơ bản nhất định mà không chính phủ nào có thể vi phạm, ngay cả Nghị viện. Sau Đạo luật Townshend, một số nhà tiểu luận thậm chí bắt đầu đặt câu hỏi liệu Quốc hội có quyền tài phán hợp pháp nào ở các thuộc địa hay không. Dự đoán sự sắp xếp của Khối thịnh vượng chung Anh, trước năm 1774 nhà văn Mỹ như Samuel Adams, James Wilson, và Thomas Jefferson đang tranh luận rằng Nghị viện chỉ là cơ quan lập pháp của Vương quốc Anh, và rằng các thuộc địa, có cơ quan lập pháp riêng, là kết nối với phần còn lại của đế chế chỉ thông qua lòng trung thành của họ với Vương miện.
Triệu tập Đại hội
Vấn đề thẩm quyền của Nghị viện ở các thuộc địa đã trở thành một cuộc khủng hoảng sau khi Nghị viện thông qua Đạo luật cưỡng chế (được gọi là Đạo luật Không thể dung thứ ở các thuộc địa) vào năm 1774 để trừng phạt những kẻ thực dân vì vụ Gaspee năm 1772 và Tiệc trà Boston năm 1773. Đạo luật cưỡng chế là vi phạm Hiến pháp Anh và do đó là mối đe dọa đối với quyền tự do của tất cả các thuộc địa Mỹ, vì vậy Quốc hội Lục địa đầu tiên đã triệu tập tại Philadelphia vào tháng 9 năm 1774 để phối hợp trả lời. Quốc hội đã tổ chức tẩy chay hàng hóa của Anh và kiến nghị nhà vua bãi bỏ các Đạo luật trên. Các biện pháp này đã không thành công vì Vua George và Thủ tướng, Bá tước North đã quyết tâm thực thi quyền tối cao của quốc hội tại Mỹ. Như nhà vua đã viết cho North vào tháng 11 năm 1774, "những cú đánh phải quyết định, họ phải chịu sự chi phối của đất nước này hoặc độc lập".
Hầu hết những người dân thuộc địa vẫn hy vọng hòa giải với Vương quốc Anh, ngay cả sau khi giao tranh bắt đầu trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ tại Lexington và Concord vào tháng 4 năm 1775. Đệ Nhị Quốc hội Lục địa được triệu tập tại Tòa nhà bang Pennsylvania ở Philadelphia vào tháng 5 năm 1775 và một số đại biểu hy vọng độc lập cuối cùng, nhưng không ai ủng hộ tuyên bố đó. Nhiều người dân thuộc địa không còn tin rằng Quốc hội có bất kỳ chủ quyền nào đối với họ, nhưng họ vẫn tuyên bố trung thành với Vua George, người mà họ hy vọng sẽ thay mặt họ. Họ đã thất vọng vào cuối năm 1775 khi nhà vua từ chối kiến nghị thứ hai của Quốc hội, đưa ra Tuyên ngôn nổi loạn và tuyên bố trước Quốc hội vào ngày 26 tháng 10 rằng ông đang xem xét "đề nghị hỗ trợ nước ngoài một cách thân thiện" để đàn áp cuộc nổi loạn. Một nhóm thiểu số thân Mỹ trong Quốc hội cảnh báo rằng chính phủ đang đẩy thực dân tiến tới độc lập.
Hướng tới độc lập
Cuốn sách nhỏ của Thomas Paine, Lẽ Thông Thường được xuất bản vào tháng 1 năm 1776, ngay khi các thuộc địa thấy rõ rằng nhà vua không có khuynh hướng hành động như một hòa giải viên. Paine chỉ vừa mới đến các thuộc địa từ Anh, và ông lập luận ủng hộ độc lập thuộc địa, ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa như là một thay thế cho chế độ quân chủ và cai trị. Lẽ Thông Thường đã đưa ra một trường hợp đầy thuyết phục và sôi nổi về giành độc lập, chưa được xem xét nghiêm túc về mặt trí tuệ ở các thuộc địa của Mỹ. Paine kết nối độc lập với niềm tin Tin lành như một phương tiện để thể hiện bản sắc chính trị rõ rệt của Mỹ, do đó kích thích tranh luận công khai về một chủ đề mà trước đây ít ai dám thảo luận công khai, và sự ủng hộ của công chúng về việc tách khỏi Vương quốc Anh tăng dần sau khi xuất bản.
Một số người thực dân vẫn giữ hy vọng hòa giải, nhưng sự phát triển vào đầu năm 1776 càng củng cố thêm sự ủng hộ của công chúng cho nền độc lập. Vào tháng 2 năm 1776, những người dân thuộc địa biết được thông qua Đạo luật ngăn cấm của Quốc hội, nơi đã thiết lập một cuộc phong tỏa các cảng của Mỹ và tuyên bố tàu Mỹ là tàu của kẻ thù. John Adams, một người ủng hộ độc lập mạnh mẽ, tin rằng Nghị viện đã tuyên bố độc lập một cách hiệu quả trước khi Quốc hội có thể. Adams đã gán cho Đạo luật Ngăn cấm là "Đạo luật Độc lập", gọi đó là "Sự chia cắt hoàn hảo của Đế quốc Anh". Sự ủng hộ tuyên bố độc lập thậm chí còn tăng lên khi được xác nhận rằng Vua George đã thuê lính đánh thuê người Đức sử dụng để chống lại người Mỹ.
Mặc dù sự ủng hộ quần chúng ngày càng tăng đối với việc độc lập, Quốc hội thiếu thẩm quyền rõ ràng để tuyên bố. Các đại biểu đã được bầu vào Quốc hội bởi 13 chính phủ khác nhau, bao gồm các công ước ngoại khóa, ủy ban đặc biệt và các hội đồng được bầu, và họ bị ràng buộc bởi các chỉ thị dành cho họ. Bất kể ý kiến cá nhân của họ, các đại biểu không thể bỏ phiếu để tuyên bố độc lập trừ khi có chỉ thị cho phép một hành động như vậy. Trên thực tế, một số thuộc địa đã cấm các đại biểu của họ thực hiện bất kỳ bước nào để tách khỏi Vương quốc Anh, trong khi các phái đoàn khác có những chỉ dẫn mơ hồ về vấn đề này;, do đó, những người ủng hộ độc lập đã tìm cách sửa đổi các chỉ thị của Quốc hội. Để Quốc hội tuyên bố độc lập, đa số các phái đoàn sẽ cần ủy quyền bỏ phiếu cho nó, và ít nhất một chính quyền thuộc địa sẽ cần chỉ thị cụ thể cho phái đoàn của mình đề xuất tuyên bố độc lập tại Quốc hội. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1776, một "cuộc chiến chính trị phức tạp" đã được tiến hành để mang lại điều này.
Sửa đổi chỉ thị
Trong chiến dịch sửa đổi các hướng dẫn của Quốc hội, nhiều người Mỹ chính thức bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với việc tách khỏi Vương quốc Anh trong những tuyên bố độc lập của bang và địa phương một cách hiệu quả. Nhà sử học Pauline Maier xác định hơn chín mươi tuyên bố như vậy được ban hành trong suốt mười ba thuộc địa từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1776. Những "tuyên bố" này có nhiều hình thức. Một số là các hướng dẫn chính thức bằng văn bản cho các phái đoàn của Quốc hội, chẳng hạn như các Nghị quyết Halifax ngày 12 tháng 4, trong đó Bắc Carolina trở thành thuộc địa đầu tiên ủy quyền rõ ràng cho các đại biểu của mình bỏ phiếu độc lập. Những người khác là các hành động lập pháp chính thức chấm dứt sự cai trị của Anh tại các thuộc địa riêng lẻ, chẳng hạn như cơ quan lập pháp Rhode Island tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh vào ngày 4 tháng 5, thuộc địa đầu tiên làm như vậy. Nhiều "tuyên ngôn" là các nghị quyết được thông qua tại các cuộc họp của thị trấn hoặc quận nhằm hỗ trợ cho việc độc lập. Một số ít xuất hiện dưới hình thức chỉ thị của bồi thẩm đoàn, chẳng hạn như tuyên bố được đưa ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1776, bởi Chánh án William Henry Drayton ở Nam Carolina: "luật đất đai cho phép tôi tuyên bố... rằng George Đệ tam, Vua của Vương quốc Anh... không có thẩm quyền đối với chúng tôi và chúng tôi không phải vâng lời ông ta. " Hầu hết các tuyên bố này hiện không rõ ràng và đã bị lu mờ bởi tuyên bố được Quốc hội phê chuẩn vào ngày 2 tháng 7 và ký ngày 4 tháng 7.
Một số thuộc địa đã kìm chế koi sự độc lập được tán thành. Kháng chiến tập trung ở các thuộc địa miền Trung gồm New York, New Jersey, Maryland, Pennsylvania và Delaware. Những người ủng hộ độc lập coi Pennsylvania là nơi cốt yếu; nếu thuộc địa đó chuyển sang ủng hộ độc lập, người ta tin rằng những thuộc địa khác sẽ làm theo. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 5, những người phản đối độc lập vẫn giữ quyền kiểm soát Hội đồng Pennsylvania trong một cuộc bầu cử đặc biệt tập trung vào vấn đề độc lập. Đáp lại, Quốc hội đã thông qua một nghị quyết vào ngày 10 tháng 5 đã được thúc đẩy bởi John Adams và Richard Henry Lee, kêu gọi các thuộc địa không có "chính phủ đủ để giải quyết vấn đề của họ" để thông qua các chính phủ mới. Nghị quyết đã được nhất trí thông qua, và thậm chí còn được John Dickinson, lãnh đạo phe chống độc lập tại Quốc hội ủng hộ, người tin rằng nó không ảnh hưởng đến thuộc địa của mình.
Lời mở đầu ngày 15 tháng 5
Theo thông lệ, Quốc hội đã chỉ định một ủy ban soạn thảo một lời mở đầu để giải thích mục đích của nghị quyết. John Adams đã viết lời mở đầu, trong đó tuyên bố rằng vì Vua George đã từ chối hòa giải và đang thuê lính đánh thuê nước ngoài sử dụng để chống lại các thuộc địa, "cần phải thực thi mọi loại quyền lực dưới vương miện nói trên".] Lời mở đầu của Adams là nhằm khuyến khích sự lật đổ của chính phủ Pennsylvania và Maryland, nơi vẫn thuộc quyền quản lý độc quyền. Quốc hội đã thông qua lời mở đầu vào ngày 15 tháng 5 sau nhiều ngày tranh luận, nhưng bốn trong số các thuộc địa giữa đã bỏ phiếu chống lại nó, và phái đoàn Maryland đã đi biểu tình. Adams coi lời mở đầu ngày 15 tháng 5 của mình là một tuyên bố độc lập của Mỹ, mặc dù một tuyên bố chính thức vẫn sẽ phải được thực hiện.
Nghị quyết của Lee
Cùng ngày mà Quốc hội đã thông qua lời mở đầu cực đoan của Adams, Công ước Virginia đã tạo tiền đề cho một tuyên bố độc lập chính thức của Quốc hội. Vào ngày 15 tháng 5, Công ước đã chỉ thị cho phái đoàn quốc hội của Virginia "đề xuất với cơ quan đáng kính đó tuyên bố các Bang tự do và độc lập của Hoa Kỳ, được miễn trừ khỏi mọi sự trung thành hoặc phụ thuộc vào Vương miện hoặc Nghị viện của Vương quốc Anh". Theo các hướng dẫn đó, Richard Henry Lee của Virginia đã trình bày nghị quyết gồm ba phần trước Quốc hội vào ngày 7 tháng 6 Đề xuất đã được John Adams tán thành, kêu gọi Quốc hội tuyên bố độc lập, hình thành các liên minh nước ngoài và chuẩn bị một kế hoạch của liên minh thuộc địa. Một phần của nghị quyết liên quan đến tuyên bố độc lập là:
Vấn đề đã được giải quyết, rằng các Thuộc địa Thống nhất này phải là các bang độc lập và tự do, rằng họ phải được miễn trừ khỏi mọi sự trung thành với Vương quốc Anh, và tất cả các kết nối chính trị giữa họ và Nhà nước Anh đều phải được, và nên được dẹp tan hoàn toàn.
Nghị quyết của Lee đã gặp phải sự kháng cự trong cuộc tranh luận sau đó. Những người phản đối nghị quyết thừa nhận rằng việc hòa giải là không thể xảy ra với Vương quốc Anh, trong khi lập luận rằng tuyên bố độc lập lúc bấy giờ còn quá sớm, và đảm bảo viện trợ nước ngoài nên được ưu tiên. Những người ủng hộ nghị quyết phản bác rằng các chính phủ nước ngoài sẽ không can thiệp vào một cuộc đấu tranh nội bộ của Anh, và vì vậy cần có một tuyên bố độc lập chính thức trước khi có thể xin viện trợ nước ngoài. Tất cả những gì Quốc hội cần làm đó là "tuyên bố một sự thật đã tồn tại". Các đại biểu từ Pennsylvania, Delaware, New Jersey, Maryland và New York vẫn chưa được phép bỏ phiếu độc lập, tuy nhiên, một số người trong số họ đe dọa sẽ rời Quốc hội nếu nghị quyết được thông qua. Do đó, Quốc hội đã bỏ phiếu vào ngày 10 tháng 6 để hoãn thảo luận thêm về nghị quyết của Lee trong ba tuần. Cho đến lúc đó, Quốc hội đã quyết định rằng một ủy ban nên chuẩn bị một tài liệu công bố và giải thích sự độc lập trong trường hợp nghị quyết của Lee được phê chuẩn khi nó được đưa ra một lần nữa vào tháng Bảy.
Chú thích cuối cùng
Hỗ trợ cho một tuyên ngôn độc lập của Quốc hội đã được củng cố trong những tuần cuối cùng của tháng 6 năm 1776. Vào ngày 14 tháng 6, Hội đồng Connecticut đã chỉ thị cho các đại biểu của mình đề xuất độc lập và ngày hôm sau, các cơ quan lập pháp của New Hampshire và Delaware đã ủy quyền cho các đại biểu của họ tuyên bố độc lập. Tại Pennsylvania, các cuộc đấu tranh chính trị đã kết thúc bằng việc giải tán hội đồng thuộc địa và một Hội nghị ủy ban mới dưới thời Thomas McKean ủy quyền cho các đại biểu của Pennsylvania tuyên bố độc lập vào ngày 18 tháng 6. Đại hội tỉnh New Jersey đã điều hành tỉnh này từ tháng 1 năm 1776; họ đã quyết tâm vào ngày 15 tháng 6 rằng Thống đốc Hoàng gia William Franklin là "kẻ thù đối với tự do của đất nước này" và đã bắt giữ ông. Vào ngày 21 tháng 6, họ đã chọn các đại biểu mới vào Quốc hội và trao quyền cho họ tham gia tuyên bố độc lập.
Chỉ Maryland và New York vẫn chưa cho phép độc lập vào cuối tháng Sáu. Trước đây, các đại biểu của Maryland đã đi ra ngoài khi Quốc hội Lục địa thông qua lời mở đầu ngày 15 tháng 5 của Adams, và đã gửi đến hội nghị Annapolis để được hướng dẫn. Vào ngày 20 tháng 5, hội nghị Annapolis đã từ chối lời mở đầu của Adams, hướng dẫn các đại biểu của mình tiếp tục chống lại độc lập. Nhưng Samuel Chase đã đến Maryland và nhờ các nghị quyết địa phương ủng hộ độc lập, đã có thể khiến hội nghị Annapolis thay đổi quyết định vào ngày 28 tháng 6. Chỉ có các đại biểu New York không thể nhận được hướng dẫn sửa đổi. Khi Quốc hội đang xem xét nghị quyết độc lập vào ngày 8 tháng 6, Đại hội tỉnh New York đã nói với các đại biểu chờ đợi. Nhưng vào ngày 30 tháng 6, Đại hội tỉnh đã sơ tán New York khi các lực lượng Anh tiếp cận, và sẽ không triệu tập lại cho đến ngày 10 tháng 7. Điều này có nghĩa là các đại biểu của New York sẽ không được phép tuyên bố độc lập cho đến khi Đại hội ra quyết định.
Dự thảo và thông qua
Sự vận động chính trị đã tạo tiền đề cho một tuyên bố độc lập chính thức trong khi một tài liệu được viết để giải thích quyết định này. Vào ngày 11 tháng 6 năm 1776, Quốc hội đã chỉ định một "Hội đồng Năm" để soạn thảo một bản tuyên bố, bao gồm John Adams của Massachusetts, Benjamin Franklin của Pennsylvania, Thomas Jefferson của Virginia, Robert R. Livingston ở New York và Roger Sherman ở Connecticut. Ủy ban không mất một phút nào, vì vậy có một số điều không chắc chắn về quá trình soạn thảo được tiến hành như thế nào; các bản sao mâu thuẫn đã được viết và nhiều năm sau đó bởi Jefferson và Adams, quá nhiều năm để được coi là hoàn toàn đáng tin cậy mặc dù bản sao của họ cũng thường được trích dẫn. Điều chắc chắn là ủy ban đã thảo luận về đề cương chung mà bản tuyên ngôn nên tuân theo và quyết định rằng Jefferson sẽ viết bản thảo đầu tiên. Ủy ban nói chung, và Jefferson nói riêng, nghĩ rằng Adams nên viết tài liệu, nhưng Adams đã thuyết phục họ chọn Jefferson và hứa sẽ đóng góp ý kiến cá nhân của mình. Xem xét lịch trình bận rộn của Quốc hội, có lẽ Jefferson đã giới hạn thời gian viết trong 17 ngày tới và có khả năng ông đã viết một bản thảo nhanh chóng. Sau đó, ông đã tham khảo ý kiến của những người khác và thực hiện một số thay đổi, và sau đó tạo ra một bản sao khác kết hợp những thay đổi này. Ủy ban đã trình bản sao này cho Quốc hội vào ngày 28 tháng 6 năm 1776. Tiêu đề của bản tuyên ngôn là "Tuyên ngôn của các Đại diện Hoa Kỳ, trong Đại hội đồng được tập hợp."
Quốc hội đã ra chỉ thị rằng để dự thảo "trên bàn" và sau đó chỉnh sửa một cách có phương pháp bản thảo chính của Jefferson trong hai ngày tiếp theo, rút ngắn nó xuống một phần tư, loại bỏ từ ngữ không cần thiết và cải thiện cấu trúc câu. Họ đã xóa bỏ khẳng định của Jefferson rằng Vương quốc Anh đã ràng buộc chế độ nô lệ vào các thuộc địa để bản Tuyên ngôn trở nên ôn hòa và xoa dịu những người ở Vương quốc Anh ủng hộ Cách mạng. Jefferson đã viết rằng Quốc hội đã "đọc sai" phiên bản dự thảo của mình, nhưng bản Tuyên ngôn cuối cùng được tạo ra là "một văn kiện hùng vĩ đã truyền cảm hứng cho cả người đương thời và hậu thế", theo lời của nhà viết tiểu sử John Ferling.
Quốc hội đã công bố bản dự thảo tuyên ngôn vào thứ Hai, ngày 1 tháng 7 và chuyển nó sang một ủy ban toàn diện, với chủ tịch Benjamin Harrison của Virginia, và họ đã tiếp tục cuộc tranh luận về nghị quyết độc lập của Lee. John Dickinson đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để trì hoãn quyết định, cho rằng Quốc hội không nên tuyên bố độc lập mà không đảm bảo liên minh nước ngoài và hoàn thiện Các điều khoản Hợp bang. John Adams đã có một bài phát biểu khi trả lời Dickinson, khôi phục lại vụ kiện để tuyên bố ngay lập tức.
Một cuộc bỏ phiếu đã được thực hiện sau một ngày dài các bài phát biểu, mỗi thuộc địa bỏ một phiếu bầu như mọi khi. Phái đoàn mỗi thuộc địa được đánh số từ hai đến bảy thành viên và mỗi phái đoàn đã bỏ phiếu để xác định phiếu bầu của thuộc địa. Pennsylvania và Nam Carolina đã bỏ phiếu chống lại tuyên ngôn độc lập. Phái đoàn New York đã bỏ phiếu trắng vì không được phép bỏ phiếu độc lập. Delaware không bỏ phiếu vì phái đoàn đã bị chia rẽ giữa Thomas McKean, người đã bỏ phiếu đồng ý và George Read, người đã bỏ phiếu chống. Chín phái đoàn còn lại đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập, điều đó có nghĩa là nghị quyết đã được ủy ban toàn diện phê chuẩn. Bước tiếp theo là nghị quyết được bầu bởi chính Quốc hội. Edward Rutledge của Nam Carolina đã phản đối nghị quyết của Lee nhưng mong muốn sự nhất trí, và anh ta cảm động khi biết rằng cuộc bỏ phiếu sẽ bị hoãn lại cho đến ngày hôm sau.
Vào ngày 2 tháng 7, Nam Carolina đã đổi ý và bỏ phiếu độc lập. Trong phái đoàn Pennsylvania, Dickinson và Robert Morris đã bỏ phiếu trắng, cho phép phái đoàn bỏ phiếu ba thắng hai ủng hộ độc lập. Sự cân bằng trong phái đoàn Delaware đã bị phá vỡ bởi sự xuất hiện kịp thời của Caesar Rodney, người đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Phái đoàn New York đã bỏ phiếu trắng một lần nữa vì họ vẫn không được phép bỏ phiếu độc lập, mặc dù họ được phép làm như vậy một tuần sau đó bởi Đại hội tỉnh New York. Nghị quyết độc lập đã được thông qua với mười hai phiếu thuận và một phiếu trắng, và các thuộc địa chính thức cắt đứt quan hệ chính trị với Vương quốc Anh. John Adams đã viết cho vợ vào ngày hôm sau và dự đoán rằng ngày 2 tháng 7 sẽ trở thành một ngày lễ lớn của nước Mỹ Ông nghĩ rằng cuộc bỏ phiếu độc lập sẽ được kỷ niệm; ông đã không biết rằng người Mỹ thay vào đó sẽ kỷ niệm Ngày quốc khánh vào ngày mà thông báo về hành động đó được hoàn tất.
Tôi có thể tin rằng [Ngày quốc khánh] sẽ được tổ chức, bởi các Thế hệ kế cận, như là Lễ hội kỷ niệm lớn. Nó nên được tưởng niệm, như Ngày Giải phóng bằng Hành động thành tâm đầy tôn nghiêm để gửi đến Thiên Chúa toàn năng. Nó nên được tổ chức long trọng với nghi thức trang trọng và diễu binh, với các chương trình, trò chơi, hoạt động thể thao, bắn súng, rung chuông, bắn pháo bông và thắp đèn màu từ đầu này đến đầu kia của lục địa từ thời khắc này cho đến mãi về sau.
Quốc hội tiếp theo chuyển sự chú ý đến dự thảo tuyên bố của ủy ban. Họ đã thực hiện một vài thay đổi về từ ngữ trong vài ngày tranh luận và xóa gần một phần tư văn bản. Từ ngữ của Tuyên ngôn Độc lập đã được phê duyệt vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và được gửi đến nhà in để xuất bản.
Có một sự thay đổi rõ rệt trong cách diễn đạt từ bản in đại trà ban đầu này của Tuyên ngôn và bản sao chính thức cuối cùng. Từ "nhất trí" được chèn vào do kết quả của nghị quyết của Quốc hội được thông qua vào ngày 19 tháng 7 năm 1776:
Đã được giải quyết, Tuyên ngôn đó đã được thông qua vào ngày 4, bằng chữ khá to với giấy da, với tiêu đề và bản tuyên bố "Tuyên ngôn nhất trí của mười ba Hoa Kỳ," và tương tự, với bản chữ to, được ký bởi mọi thành viên Quốc hội
Nhà sử học George Billias nói:
Độc lập lên tới một tình trạng phụ thuộc lẫn nhau mới: Hoa Kỳ hiện là một quốc gia có chủ quyền được hưởng các đặc quyền và trách nhiệm đi kèm với tình trạng đó. Do đó, Mỹ trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế, có nghĩa là trở thành nhà sản xuất các hiệp ước và liên minh, một đồng minh quân sự trong ngoại giao và là đối tác trong ngoại thương trên cơ sở bình đẳng hơn.
Văn bản chú thích của tuyên ngôn bằng chữ to
Tuyên bố không được chia thành các phần chính thức; nhưng nó thường được thảo luận bao gồm năm phần: giới thiệu, mở đầu, cáo trạng của Vua George III, tố cáo của người Anh và kết luận.
Ảnh hưởng và tình trạng pháp lý
Các nhà sử học thường tìm cách xác định các nguồn có ảnh hưởng nhiều nhất đến các từ ngữ và triết lý chính trị của Tuyên ngôn Độc lập. Bằng sự thừa nhận của chính Jefferson, Tuyên bố không có ý tưởng nào độc đáo, mà thay vào đó là một tuyên bố đầy tình cảm được chia sẻ rộng rãi bởi những người ủng hộ Cách mạng Mỹ. Như ông đã giải thích vào năm 1825:
Không nhằm mục đích làm độc đáo về nguyên tắc hay tình cảm, cũng không được sao chép từ bất kỳ văn bản cụ thể nào trước đó, nó được dự định là một biểu hiện của tâm hồn người Mỹ, và để cung cấp cho biểu hiện đó giai điệu và tinh thần thích hợp được kêu gọi trong dịp này.
Các nguồn trực tiếp nhất của Jefferson là hai tài liệu được viết vào tháng 6 năm 1776: bản thảo của ông về phần mở đầu của Hiến pháp Virginia và bản dự thảo Tuyên ngôn Nhân quyền Virginia của George Mason. Ý tưởng và cụm từ từ cả hai tài liệu này xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập. Đến lượt họ, họ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1689 của Anh, chính thức chấm dứt triều đại của Vua James II. Trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, Jefferson và những người Mỹ khác đã xem Tuyên ngôn Nhân quyền của Anh như là một mô hình về cách chấm dứt triều đại của một vị vua bất công. Tuyên ngôn Arbroath của Scotland (1320) và Đạo luật Chối bỏ Hà Lan (1581) cũng đã được đưa ra làm mô hình cho Tuyên bố của Jefferson, nhưng những mô hình này hiện được một số học giả chấp nhận.
Jefferson đã viết rằng một số tác giả đã gây ảnh hưởng chung đến các từ của Tuyên bố. Nhà lý luận chính trị người Anh John Locke thường được coi là một trong những người có ảnh hưởng chính, một người đàn ông mà Jefferson gọi là một trong "ba người đàn ông vĩ đại nhất từng sống". Năm 1922, nhà sử học Carl L. Becker đã viết, "Hầu hết người Mỹ đã tiếp thu các tác phẩm của Locke như một loại phúc âm chính trị, và Tuyên ngôn, dưới hình thức, theo cách nói của nó, theo các câu nhất định trong Hai luận thuyết về chính phủ của Locke." Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của Locke đối với Cách mạng Mỹ đã bị một số học giả sau đó nghi ngờ. Nhà sử học Ray Forrest Harvey đã lập luận vào năm 1937 về ảnh hưởng chi phối của luật sư Thụy Sĩ Jean Jacques Burlamaqui, tuyên bố rằng Jefferson và Locke là "hai cực đối lập" trong triết lý chính trị của họ, bằng chứng là việc sử dụng của ông Peter trong Tuyên ngôn Độc lập của cụm từ "theo đuổi hạnh phúc "thay vì" tài sản ". Các học giả khác nhấn mạnh ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng hòa hơn là chủ nghĩa tự do cổ điển của Locke. Nhà sử học Garry Wills lập luận rằng Jefferson bị ảnh hưởng bởi Khai sáng Scotland, đặc biệt là Francis Hutcheson, chứ không phải Locke, một cách giải thích đã bị chỉ trích mạnh mẽ.
Nhà sử học pháp lý John Phillip Reid đã viết rằng sự nhấn mạnh vào triết lý chính trị của Tuyên ngôn đã bị đặt sai chỗ. Tuyên ngon không phải là một vấn đề triết học về quyền tự nhiên, Reid lập luận, thay vào đó là một tài liệu pháp lý, một bản cáo trạng chống lại vua George vì vi phạm quyền lập hiến của thực dân. Như vậy, nó tuân theo quy trình của Tuyên bố Magdeburg năm 1550, đã hợp pháp hóa cuộc kháng chiến chống lại Hoàng đế La Mã thần thánh Charles V trong một công thức pháp lý gồm nhiều bước được gọi là học thuyết của thẩm phán Ít hơn. Nhà sử học David Armitage đã lập luận rằng Tuyên ngôn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Luật Quốc gia của de Vattel, chuyên luận luật quốc tế thống trị thời kỳ này, và một cuốn sách mà Benjamin Franklin nói là "liên tục nằm trong tay các thành viên của Quốc hội chúng ta". Armitage viết, "Vattel làm cho nền độc lập trở thành nền tảng cho định nghĩa của ông về chế độ nhà nước"; do đó, mục đích chính của Tuyên bố là "thể hiện chủ quyền pháp lý quốc tế của Hoa Kỳ". Nếu Hoa Kỳ có bất kỳ hy vọng nào được các cường quốc châu Âu công nhận, thì các nhà cách mạng Mỹ trước tiên phải nói rõ rằng họ không còn phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Tuyên ngôn Độc lập không có lực lượng pháp luật trong nước, tuy nhiên nó có thể giúp cung cấp sự rõ ràng về lịch sử và pháp lý về Hiến pháp và các luật khác.
Ký kết
Tuyên ngôn đã được chính thức hóa khi Quốc hội bỏ phiếu cho nó vào ngày 4 tháng 7; chữ ký của các đại biểu là không cần thiết để làm cho nó chính thức. Bản sao viết tay của Tuyên ngôn Độc lập được Quốc hội ký ngày 4 tháng 7 năm 1776. Chữ ký của năm mươi sáu đại biểu được đóng dấu; tuy nhiên, ngày chính xác khi mỗi người ký tên từ lâu đã là chủ đề tranh luận. Jefferson, Franklin và Adams đều viết rằng Tuyên ngôn đã được Quốc hội ký ngày 4 tháng 7. Nhưng vào năm 1796, người ký Thomas McKean đã tranh luận rằng Tuyên ngôn đã được ký vào ngày 4 tháng 7, chỉ ra rằng một số người ký đã không có mặt, bao gồm một số người thậm chí không được bầu vào Quốc hội cho đến sau ngày đó.
Tuyên bố được chuyển trên giấy, được Quốc hội Lục địa thông qua và được ký bởi John Hancock, Chủ tịch Quốc hội, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, theo hồ sơ các sự kiện năm 1911 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời Bộ trưởng Philander C. Knox. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1776, một bản sao giấy tờ của Tuyên ngôn đã được ký bởi 56 người. Nhiều người trong số những người ký tên này đã không có mặt khi Tuyên bố ban đầu được thông qua vào ngày 4 tháng 7 Người ký Matthew Thornton từ New Hampshire đã ngồi trong Đại hội lục địa vào tháng 11; ông đã yêu cầu và nhận được đặc quyền thêm chữ ký của mình tại thời điểm đó và ký vào ngày 4 tháng 11 năm 1776.
Các nhà sử học thường chấp nhận phiên bản sự kiện của McKean, cho rằng phiên bản Tuyên ngôn nổi tiếng đã được tạo ra sau ngày 19 tháng 7 và không được Quốc hội ký cho đến ngày 2 tháng 8 năm 1776. Năm 1986, nhà sử học pháp lý Wilfred Ritz lập luận rằng các nhà sử học đã hiểu sai các tài liệu chính và trao quá nhiều tín nhiệm cho McKean, người đã không có mặt tại Quốc hội vào ngày 4 tháng 7. Theo Ritz, khoảng ba mươi bốn đại biểu đã ký Tuyên bố vào ngày 4 tháng 7 và những người khác đã ký vào hoặc sau ngày 2 tháng 8 Các nhà sử học phủ nhận buổi ký kết ngày 4 tháng 7 và xác nhận là hầu hết các đại biểu đã ký vào ngày 2 tháng 8, và những người ký cuối cùng không có mặt đã thêm tên của họ sau đó.
Hai tổng thống tương lai của Hoa Kỳ nằm trong số những người ký kết: Thomas Jefferson và John Adams. Chữ ký nổi tiếng nhất trên bản sao chữ to là của John Hancock, người có lẽ đã ký đầu tiên với tư cách là Chủ tịch Quốc hội. Chữ ký lớn, lòe loẹt của Hancock đã trở thành biểu tượng và thuật ngữ John Hancock nổi lên ở Hoa Kỳ như một từ đồng nghĩa không chính thức cho "chữ ký". Một tài khoản thường được lưu hành nhưng tận thế tuyên bố rằng, sau khi Hancock ký, đại biểu đến từ Massachusetts đã bình luận: "Người Anh có thể đọc tên đó mà không cần đeo kính." Một báo cáo đáng ngờ khác nói rằng Hancock tự hào tuyên bố: "Đấy! Tôi đoán Vua George sẽ có thể đọc được nó!"
Nhiều truyền thuyết khác nhau xuất hiện nhiều năm sau đó về việc ký Tuyên ngôn, khi tài liệu này đã trở thành một biểu tượng quốc gia quan trọng. Trong một câu chuyện nổi tiếng, John Hancock được cho là đã nói rằng Quốc hội, đã ký Tuyên ngôn, giờ đây "tất cả phải đoàn kết với nhau" và Benjamin Franklin trả lời: "Vâng, chúng tôi thực sự phải đoàn kết với nhau, hoặc chắc chắn nhất là tất cả chúng tôi sẽ độc lập cùng nhau." Các trích dẫn đã không xuất hiện trong bản in cho đến hơn năm mươi năm sau cái chết của Franklin.
Giá để bút mực Syng được sử dụng trong buổi ký kết cũng được sử dụng trong buổi ký kết Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787.
Công bố và phản ứng
Sau khi Quốc hội phê chuẩn văn từ cuối cùng của Tuyên ngôn vào ngày 4 tháng 7, một bản sao viết tay đã được gửi một vài khối tới cửa hàng in của John Dunlap. Qua đêm, Dunlap đã in khoảng 200 bản phát hành để phân phối. Không lâu sau, nó đã được đọc cho khán giả và được in lại trên các tờ báo trên khắp 13 tiểu bang. Các bài đọc công khai chính thức đầu tiên của tài liệu diễn ra vào ngày 8 tháng 7, tại Philadelphia (bởi John Nixon trong sảnh của Hội trường Độc lập), Trenton, New Jersey, và Easton, Pennsylvania; tờ báo đầu tiên xuất bản nó là Pennsylvania Evening Post ngày 6 tháng 7. Bản dịch tiếng Đức của Tuyên ngôn đã được xuất bản tại Philadelphia vào ngày 9 tháng 7.
Chủ tịch Quốc hội John Hancock đã gửi một bản tới Tướng George Washington, để ông đọc tuyên ngôn "với tư cách là Người đứng đầu Quân đội theo cách ông sẽ nghĩ là đúng đắn nhất". Washington đã đọc Tuyên bố gửi cho quân đội của mình tại thành phố New York vào ngày 9 tháng 7, với hàng ngàn lính Anh trên các tàu trong bến cảng. Washington và Quốc hội hy vọng rằng Tuyên ngôn sẽ truyền cảm hứng cho các binh sĩ và khuyến khích những người khác gia nhập quân đội. Sau khi nghe Tuyên bố, đám đông ở nhiều thành phố xé xuống và phá hủy các biển hiệu hoặc biểu tượng của chính quyền hoàng gia. Một bức tượng cưỡi ngựa của vua George ở thành phố New York đã bị kéo xuống và đầu được sử dụng để tạo ra những quả bóng súng hỏa mai.
Các quan chức Anh ở Bắc Mỹ đã gửi các bản sao của Tuyên ngôn tới Vương quốc Anh. Nó được xuất bản trên các tờ báo của Anh bắt đầu vào giữa tháng 8, nó đã đến Florence và Warsaw vào giữa tháng 9, và một bản dịch tiếng Đức xuất hiện ở Thụy Sĩ vào tháng Mười. Bản sao đầu tiên của Tuyên ngôn gửi đến Pháp đã bị mất và bản sao thứ hai chỉ đến vào tháng 11 năm 1776. Nó đến được nước Mỹ Bồ Đào Nha bởi sinh viên y khoa người Brazil "Vendek" José Joaquim Maia e Barbalho, người đã gặp Thomas Jefferson ở Nîmes.
Chính quyền Mỹ gốc Tây Ban Nha đã cấm lưu hành Tuyên ngôn, nhưng nó đã được truyền tải và dịch rộng rãi: bởi một người Venezuela, ông Manuel García de Sena, người Colombia Miguel de Pombo, bởi Vicente Rocafuerte người Ecuador, và Richard Cleveland và William Shaler người New England, người phân phối Tuyên ngôn và Hiến pháp Hoa Kỳ giữa các Creoles ở Chile và Ấn Độ ở Mexico năm 1821. Bộ miền Bắc không đưa ra câu trả lời chính thức cho Tuyên ngôn, mà thay vào đó, bí mật ủy thác tờ rơi John Lind để công bố một phản hồi mang tên Phản hồi Tuyên ngôn của Quốc hội Hoa Kỳ. Học thuyết Anh đã tố cáo những người ký Tuyên ngôn không áp dụng các nguyên tắc tương tự "cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc" cho người Mỹ gốc Phi. Thomas Hutchinson, cựu thống đốc hoàng gia Massachusetts, cũng phản bác. Những cuốn sách nhỏ này đã thách thức các khía cạnh khác nhau của Tuyên ngôn. Hutchinson lập luận rằng Cách mạng Hoa Kỳ là công việc của một số kẻ âm mưu muốn giành độc lập ngay từ đầu, và cuối cùng đã đạt được nó bằng cách thúc đẩy thực dân trung thành khác nổi dậy. Cuốn sách nhỏ của Lind đã có một cuộc tấn công nặc danh vào khái niệm quyền tự nhiên được viết bởi Jeremy Bentham, một lập luận mà ông đã lặp lại trong Cách mạng Pháp. Cả hai cuốn sách nhỏ đều hỏi làm thế nào những người chủ nô Mỹ trong Quốc hội có thể tuyên bố rằng "tất cả đàn ông được tạo ra như nhau" mà không giải phóng nô lệ của chính họ.
William Whipple, một người ký Tuyên ngôn độc lập đã chiến đấu trong chiến tranh, đã giải thoát nô lệ Prince Whipple của mình vì lý tưởng cách mạng. Trong những thập kỷ sau chiến tranh, những người chủ nô khác cũng giải phóng nô lệ của họ; từ 1790 đến 1810, tỷ lệ người da đen tự do ở Thượng Nam tăng lên 8,3% từ dưới một phần trăm dân số da đen. Tất cả các bang miền Bắc đã bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1804.
Lịch sử của các tài liệu
Bản sao chính thức của Tuyên ngôn Độc lập là bản in vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, dưới sự giám sát của Jefferson. Nó đã được gửi đến các tiểu bang và Quân đội và được đăng lại rộng rãi trên các tờ báo. "Bản sao chu to" hơi khác biệt (hiển thị ở đầu bài viết này) đã được thực hiện sau đó để các thành viên ký tên. Phiên bản chu to là phiên bản được phân phối rộng rãi trong thế kỷ 21. Lưu ý rằng các dòng mở đầu khác nhau giữa hai phiên bản.
Bản sao của Tuyên bố được ký bởi Quốc hội được gọi là bản sao chữ to hoặc giấy da. Nó có lẽ đã được thảo (nghĩa là viết tay cẩn thận) bởi thư ký Timothy Matlack. Một bản fax được thực hiện vào năm 1823 đã trở thành nền tảng của hầu hết các bản sao hiện đại thay vì bản gốc vì bảo tồn kém bản sao chữ to trong suốt thế kỷ 19. Năm 1921, quyền lưu giữ bản sao Tuyên ngôn chữ to đã được chuyển từ Bộ Ngoại giao sang Thư viện Quốc hội, cùng với Hiến pháp Hoa Kỳ. Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng năm 1941, các tài liệu đã được chuyển đến để giữ an toàn cho Kho lưu trữ vàng thỏi của Hoa Kỳ tại Fort Knox ở Kentucky, nơi chúng được lưu giữ cho đến năm 1944. Năm 1952, Tuyên ngôn chữ to đã được chuyển đến Cục lưu trữ và Quản lý tài liệu quốc gia và hiện được trưng bày vĩnh viễn tại Cục Lưu trữ Quốc gia trong "Phòng lớn dành cho Hiến chương Tự do".
Tài liệu được ký bởi Quốc hội và được lưu giữ trong Cục Lưu trữ Quốc gia thường được coi là Tuyên ngôn Độc lập, nhưng nhà sử học Julian P. Boyd cho rằng Tuyên ngôn, như Magna Carta, không phải là một tài liệu duy nhất. Boyd coi các bản in được Quốc hội ra lệnh là văn bản chính thức. Tuyên bố lần đầu tiên được xuất bản dưới dạng một bản phát hành được in vào đêm 4 tháng 7 bởi John Dunlap của Philadelphia. Dunlap đã in khoảng 200 bản, trong đó 26 bản được biết là còn tồn tại. Bản sao thứ 26 được phát hiện trong Cơ quan lưu trữ quốc gia ở Anh năm 2009.
Năm 1777, Quốc hội ủy quyền cho Mary Katherine Goddard in một bản in mới liệt kê những người ký Tuyên ngôn, không giống như bản in của Dunlap. Chín bản sao của Goddard được biết là vẫn còn tồn tại. Một loạt các bản in được in bởi các tiểu bang cũng còn tồn tại.
Một số bản sao viết tay ban đầu và bản nháp của Tuyên ngôn cũng đã được bảo tồn. Jefferson đã giữ một bản thảo dài bốn trang mà cuối đời ông gọi là "bản nháp thô gốc". Người ta không biết có bao nhiêu bản nháp mà Jefferson đã viết trước đó, và bao nhiêu văn bản được đóng góp bởi các thành viên ủy ban khác. Năm 1947, Boyd đã phát hiện ra một đoạn của một bản thảo trước đó bằng chữ viết tay của Jefferson. Jefferson và Adams đã gửi các bản sao của bản thảo thô cho bạn bè, với những thay đổi nhỏ.
Trong quá trình viết, Jefferson đã đưa ra bản thảo thô cho Adams và Franklin, và có lẽ cho các thành viên khác trong ủy ban soạn thảo, người đã thực hiện một vài thay đổi nữa. Franklin, chẳng hạn, có thể đã chịu trách nhiệm thay đổi cụm từ gốc của Jefferson "Chúng tôi giữ những sự thật này là thiêng liêng và không thể chối cãi" thành "Chúng tôi giữ những sự thật này là hiển nhiên". Jefferson đã kết hợp những thay đổi này thành một bản sao được đệ trình lên Quốc hội dưới danh nghĩa của ủy ban. Bản sao được đệ trình lên Quốc hội vào ngày 28 tháng 6 đã bị mất và có lẽ đã bị hủy trong quá trình in, hoặc bị hủy trong các cuộc tranh luận theo quy tắc bí mật của Quốc hội.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2017, người ta đã phát hiện ra rằng một bản sao chữ to thứ hai đã được phát hiện trong kho lưu trữ tại Hội đồng Hạt West Sussex ở Chichester, Anh. Được người tìm thấy đặt tên là "Tuyên ngôn Sussex", nó khác với bản sao ở cục Lưu trữ Quốc gia (mà những người tìm thấy gọi là "Tuyên ngôn Matlack") ở chỗ các chữ ký trên đó không được nhóm bởi các bang. Làm thế nào nó đến được ở Anh vẫn chưa được biết, nhưng những người tìm thấy tin rằng sự ngẫu nhiên của các chữ ký chỉ ra một nguồn gốc với người ký tên James Wilson, người đã lập luận mạnh mẽ rằng Tuyên ngôn không phải do Hoa Kỳ mà là của toàn dân.
Di sản
Tuyên ngôn đã được chú ý rất ít trong những năm ngay sau Cách mạng Hoa Kỳ, đã phục vụ mục đích ban đầu của nó là tuyên bố độc lập của Hoa Kỳ. Lễ kỷ niệm sớm ngày quốc khánh phần lớn đã bỏ qua Tuyên ngôn, cũng như lịch sử ban đầu của Cách mạng. Hành động tuyên bố độc lập được coi là quan trọng, trong khi văn bản tuyên bố hành động đó thu hút ít sự chú ý. Tuyên ngôn hiếm khi được đề cập trong các cuộc tranh luận về Hiến pháp Hoa Kỳ và ngôn ngữ của nó không được đưa vào tài liệu đó. Dự thảo Tuyên ngôn nhân quyền Virginia của George Mason có ảnh hưởng lớn hơn và ngôn ngữ của nó được lặp lại trong các hiến pháp tiểu bang và các dự luật về nhân quyền của tiểu bang thường xuyên hơn so với những lời của Jefferson. "Trong những tài liệu này", Pauline Maier đã viết, "có bằng chứng nào cho thấy Tuyên ngôn Độc lập trong tâm trí con người như một tuyên bố kinh điển về các nguyên tắc chính trị của Mỹ."
Ảnh hưởng ở các nước khác
Nhiều nhà lãnh đạo của Cách mạng Pháp ngưỡng mộ Tuyên ngôn Độc lập nhưng cũng quan tâm đến các hiến pháp mới của nhà nước Mỹ. Cảm hứng và nội dung của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1789) nổi lên phần lớn từ những lý tưởng của Cách mạng Hoa Kỳ. Dự thảo quan trọng của nó đã được chuẩn bị bởi Lafayette, làm việc chặt chẽ ở Paris với người bạn Thomas Jefferson. Nó cũng mượn ngôn ngữ từ Tuyên ngôn nhân quyền Virginia của George Mason. Tuyên bố cũng ảnh hưởng đến Đế quốc Nga. Tài liệu này có tác động đặc biệt đến Khởi nghĩa tháng Chạp và các nhà tư tưởng Nga khác.
Theo nhà sử học David Armitage, Tuyên ngôn Độc lập đã chứng tỏ có ảnh hưởng quốc tế, nhưng không phải là một tuyên bố về quyền con người. Armitage lập luận rằng Tuyên bố là lần đầu tiên trong một thể loại tuyên ngôn độc lập mới tuyên bố thành lập các nhà nước mới.
Các nhà lãnh đạo Pháp khác bị ảnh hưởng trực tiếp bởi văn bản Tuyên ngôn Độc lập. Tuyên ngôn của tỉnh Flanders (1790) là bản phát hành nước ngoài đầu tiên của Tuyên ngôn; khác bao gồm Tuyên ngôn độc lập của Venezuela (1811), Tuyên ngôn độc lập của Liberia (1847), Tuyên bố ly khai của Liên minh miền Nam (1860-61), và Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam (1945). Những tuyên bố này lặp lại Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ trong việc tuyên bố độc lập của một quốc gia mới, mà không nhất thiết phải tán thành triết lý chính trị của bản gốc.
Các quốc gia khác đã sử dụng Tuyên bố làm nguồn cảm hứng hoặc có các phần được sao chép trực tiếp từ nó. Chúng bao gồm tuyên ngôn Haiti ngày 1 tháng 1 năm 1804, trong Cách mạng Haiti, Các tỉnh thống nhất của New Granada năm 1811, Tuyên ngôn độc lập Argentina năm 1816, Tuyên ngôn độc lập Chile năm 1818, Costa Rica năm 1821, El Salvador năm 1821, Guatemala năm 1821, Honduras năm (1821), Mexico năm 1821, Nicaragua năm 1821, Peru năm 1821, Chiến tranh giành độc lập của Bolivia năm 1825, Uruguay năm 1825, Ecuador năm 1830, Colombia năm 1831, Paraguay năm 1842, Cộng hòa Dominica năm 1844, Tuyên ngôn Độc lập Texas vào tháng 3 năm 1836, Cộng hòa California vào tháng 11 năm 1836, Tuyên ngôn Độc lập Hungary năm 1849, Tuyên ngôn Độc lập New Zealand năm 1835 và Tuyên ngôn độc lập Tiệp Khắc từ năm 1918 được soạn thảo tại Washington DC với Gutzon Borglum trong số những người soạn thảo. Tuyên ngôn độc lập đơn phương của Rhodesia, được phê chuẩn vào tháng 11/1965, cũng dựa trên cơ sở của người Mỹ; tuy nhiên, nó bỏ qua các cụm từ "tất cả đàn ông được tạo ra bằng nhau" và "sự đồng ý của người được cai trị". Tuyên bố ly khai của Nam Carolina từ tháng 12 năm 1860 cũng đề cập đến Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, mặc dù nó cũng giống như tuyên bố của người Rhodesia, không dùng các đoạn "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" và "là do có sự ưng thuận của nhân dân".
Phục hưng sự quan tâm
Sự quan tâm đến Tuyên ngôn đã được hồi sinh vào những năm 1790 với sự xuất hiện của các đảng chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ. Trong suốt những năm 1780, rất ít người Mỹ biết hoặc quan tâm đến người đã viết Tuyên ngôn. Nhưng trong thập kỷ tiếp theo, những người Đảng Dân chủ-Cộng hòa đã tìm kiếm lợi thế chính trị so với những người Đảng Liên bang đối thủ của họ bằng cách phát huy cả tầm quan trọng của Tuyên ngôn và Jefferson với tư cách là tác giả của nó. Những người liên bang đã phản ứng bằng cách nghi ngờ về quyền tác giả hoặc tính nguyên bản của Jefferson, và bằng cách nhấn mạnh rằng sự độc lập đã được toàn bộ Quốc hội tuyên bố, với việc ông chỉ là một thành viên của ủy ban soạn thảo. Những người liên bang nhấn mạnh rằng hành động tuyên bố độc lập của Quốc hội, trong đó đảng viên đảng Liên bang John Adams đã đóng một vai trò quan trọng, quan trọng hơn tài liệu công bố nó. Nhưng quan điểm này đã biến mất, giống như chính Đảng Liên bang và không lâu sau đó, hành động tuyên bố độc lập đã trở thành đồng nghĩa với tài liệu này.
Một sự đánh giá ít đảng phái hơn đối với Tuyên ngôn đã xuất hiện trong những năm sau Chiến tranh năm 1812, nhờ một chủ nghĩa dân tộc Mỹ đang phát triển và một mối quan tâm mới trong lịch sử Cách mạng. Năm 1817, Quốc hội đã ủy thác bức tranh về những người ký tên nổi tiếng của John Trumbull, được trưng bày trước đám đông trước khi được lắp đặt tại Tòa nhà Quốc hội. Các bản in kỷ niệm sớm nhất của Tuyên ngôn cũng xuất hiện vào thời điểm này, cung cấp cho nhiều người Mỹ cái nhìn đầu tiên về tài liệu đã ký. Tiểu sử tập thể của những người ký tên được xuất bản lần đầu tiên vào những năm 1820, khai sinh ra thứ mà Garry Wills gọi là "giáo phái của những người ký tên". Trong những năm sau đó, nhiều câu chuyện về việc viết và ký tài liệu đã được xuất bản lần đầu tiên.
Khi quan tâm đến Tuyên bố được hồi sinh, các phần quan trọng nhất vào năm 1776 không còn phù hợp: thông báo về sự độc lập của Hoa Kỳ và sự bất bình chống lại Vua George. Nhưng đoạn thứ hai đã được áp dụng rất lâu sau khi chiến tranh kết thúc, với phần nói về những sự thật hiển nhiên và quyền không thể thay đổi. Hiến pháp và Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ thiếu các tuyên bố sâu rộng về quyền và bình đẳng, và những người ủng hộ các nhóm có khiếu nại đã chuyển sang Tuyên bố để được hỗ trợ. Bắt đầu từ những năm 1820, các biến thể của Tuyên bố đã được ban hành để tuyên bố các quyền của công nhân, nông dân, phụ nữ và những người khác. Ví dụ, vào năm 1848, Hội nghị Thác Seneca về những người ủng hộ quyền phụ nữ tuyên bố rằng "tất cả đàn ông và phụ nữ đều được tạo ra như nhau".
Bức tranh Tuyên ngôn độc lập của John Trumbull (1817-1826)
Bức tranh Tuyên ngôn Độc lập của John Trumbull đã đóng một vai trò quan trọng trong các quan niệm phổ biến về Tuyên ngôn Độc lập. Bức tranh có kích thước 12 x 18 feet (3,7 x 5,5 m) và được Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền vào năm 1817; nó đã được treo tại phòng mái vòm Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ từ năm 1826. Đôi khi nó được mô tả là việc ký Tuyên ngôn Độc lập, nhưng nó đang diển tả cảnh Hội đồng Năm trình bày dự thảo Tuyên ngôn của họ cho Đệ Nhị Quốc hội Lục địa vào ngày 28 tháng 6 năm 1776 chứ không phải là việc ký văn bản, diễn ra sau đó.
Trumbull đã vẽ các nhân vật còn sống bất cứ khi nào có thể, nhưng một số đã chết và không thể xác định được hình ảnh; do đó, bức tranh không bao gồm tất cả những người ký Tuyên ngôn. Một nhân vật đã tham gia soạn thảo nhưng không ký vào tài liệu cuối cùng; một người khác từ chối ký. Trên thực tế, tư cách thành viên của Đại hội lục địa lần thứ hai đã thay đổi theo thời gian, và các nhân vật trong bức tranh không bao giờ ở cùng một phòng cùng một lúc. Tuy nhiên, đó là một mô tả chính xác của căn phòng trong Hội trường Độc lập, trung tâm của Công viên Lịch sử Quốc gia Độc lập ở Philadelphia, Pennsylvania.
Bức tranh của Trumbull đã được miêu tả nhiều lần trên tiền tệ và tem bưu chính của Hoa Kỳ. Lần sử dụng đầu tiên của nó là mặt trái của tờ 100 đô la giấy bạc quốc gia phát hành năm 1863. Vài năm sau, bản khắc thép được sử dụng để in tiền giấy ngân hàng đã được sử dụng để sản xuất một con tem 24 cent, được phát hành như một phần của phát hành tranh ảnh năm 1869. Một bản khắc của cảnh ký đã được đặc trưng ở mặt trái của tờ tiền hai đô la Mỹ kể từ năm 1976.
Chế độ nô lệ và Tuyên ngôn
Mâu thuẫn rõ ràng giữa tuyên bố rằng "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" và sự tồn tại của chế độ nô lệ Mỹ đã thu hút bình luận khi Tuyên bố được công bố lần đầu tiên. Như đã đề cập ở trên, Jefferson đã thêm một đoạn trong dự thảo ban đầu của mình, người đã cáo buộc mạnh mẽ vai trò của Vương quốc Anh trong buôn bán nô lệ, nhưng điều này đã bị xóa khỏi phiên bản cuối cùng. Bản thân Jefferson là một chủ nô nổi tiếng ở Virginia, sở hữu hàng trăm nô lệ. Đề cập đến mâu thuẫn có vẻ mâu thuẫn này, Thomas Day, người theo chủ nghĩa bãi nô người Anh đã viết trong một bức thư năm 1776, "Nếu có một đối tượng thực sự lố bịch, đó là một người yêu nước Mỹ, vừa ký một tuyên ngôn độc lập vừa cầm roi chống lại những nô lệ đang khiếp đảm của họ. "
Vào thế kỷ 19, Tuyên bố mang một ý nghĩa đặc biệt đối với phong trào bãi bỏ. Nhà sử học Bertram Wyatt-Brown đã viết rằng "những người theo chủ nghĩa bãi nô có xu hướng giải thích Tuyên ngôn Độc lập như một thần học cũng như một tài liệu chính trị". Các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa bãi nô, Benjamin Lundy và William Lloyd Garrison, đã sử dụng "hòn đá song sinh" của "Kinh thánh và Tuyên ngôn độc lập" làm cơ sở cho các triết lý của họ. "Miễn là vẫn còn một bản sao của Tuyên ngôn Độc lập, hoặc Kinh thánh, trên đất của chúng tôi," Garrison viết, "chúng tôi sẽ không tuyệt vọng." Đối với những người theo chủ nghĩa bãi nô triệt để như Garrison, phần quan trọng nhất của Tuyên ngôn là sự khẳng định quyền cách mạng. Garrison kêu gọi phá hủy chính phủ theo Hiến pháp và thành lập một nhà nước mới dành riêng cho các nguyên tắc của Tuyên ngôn.
Câu hỏi gây tranh cãi về việc có nên thêm các bang có nô lệ vào Hoa Kỳ trùng với tầm vóc ngày càng tăng của Tuyên ngôn hay không. Cuộc tranh luận công khai lớn đầu tiên về chế độ nô lệ và Tuyên ngôn đã diễn ra trong cuộc tranh luận ở Missouri năm 1819 đến 1821. Các nghị sĩ chống độc quyền lập luận rằng ngôn ngữ của Tuyên ngôn chỉ ra rằng Nhóm lập quốc Hoa Kỳ đã chống lại chế độ nô lệ về nguyên tắc, và vì vậy không nên thêm các bang có nô lệ mới vào nước này. Các nghị sĩ đảng Cộng hòa do Thượng nghị sĩ Nathaniel Macon của Bắc Carolina dẫn đầu lập luận rằng Tuyên ngôn không phải là một phần của Hiến pháp và do đó không liên quan đến câu hỏi.
Với phong trào chống độc quyền đang có được động lực, những người bảo vệ chế độ nô lệ như John Randolph và John C. Calhoun thấy cần phải lập luận rằng tuyên bố của Tuyên ngôn rằng "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" là sai, hoặc ít nhất là nó không áp dụng cho người da đen. Ví dụ, trong cuộc tranh luận về Đạo luật Kansas-Nebraska năm 1853, Thượng nghị sĩ John Pettit của Indiana lập luận rằng tuyên bố "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" không phải là "sự thật hiển nhiên" mà là "lời nói dối tự hiển nhiên". Những người phản đối Đạo luật Kansas-Nebraska, bao gồm Salmon P. Chase và Benjamin Wade, đã bảo vệ Tuyên ngôn và những gì họ coi là các nguyên tắc chống chế độ nô lệ của nó.
Lincoln và Tuyên ngôn
Mối quan hệ của Tuyên ngôn với chế độ nô lệ đã được đưa ra vào năm 1854 bởi Abraham Lincoln, một cựu Dân biểu ít được biết đến, người đã thần tượng các Cha sáng lập. Lincoln nghĩ rằng Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện những nguyên tắc cao nhất của Cách mạng Hoa Kỳ, và những Người sáng lập đã dung túng chế độ nô lệ với mong muốn cuối cùng nó sẽ khô héo. Để Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc mở rộng chế độ nô lệ trong Đạo luật Kansas-Nebraska, Lincoln nghĩ, là để từ chối các nguyên tắc của Cách mạng. Trong bài phát biểu Peoria tháng 10 năm 1854, Lincoln nói:
Ý nghĩa của Tuyên bố là một chủ đề lặp đi lặp lại trong các cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Lincoln và Stephen Douglas vào năm 1858. Douglas lập luận rằng cụm từ "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" trong Tuyên ngôn chỉ nói đến đàn ông da trắng. Mục đích của Tuyên ngôn, theo ông, chỉ đơn giản là để biện minh cho sự độc lập của Hoa Kỳ, và không tuyên bố sự bình đẳng của bất kỳ "chủng tộc thấp kém hay suy thoái" nào. Tuy nhiên, Lincoln nghĩ rằng ngôn ngữ của Tuyên ngôn là cố ý phổ quát, đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức cao mà nền cộng hòa Mỹ nên khao khát. "Tôi đã nghĩ rằng Tuyên ngôn đã dự tính sự cải thiện tiến bộ trong tình trạng của tất cả đàn ông ở khắp mọi nơi," ông nói. Trong cuộc tranh luận chung thứ bảy và cuối cùng với Steven Douglas tại Alton, Illinois vào ngày 15 tháng 10 năm 1858, Lincoln đã nói về tuyên ngôn:
Theo Pauline Maier, cách giải thích của Douglas chính xác hơn về mặt lịch sử, nhưng quan điểm của Lincoln cuối cùng đã thắng thế. "Trong tay Lincoln," Maier viết, "Tuyên ngôn độc lập trở thành tài liệu sống đầu tiên và quan trọng nhất" với "một loạt các mục tiêu sẽ được hiện thực hóa theo thời gian".
Giống như Daniel Webster, James Wilson và Joseph Story trước ông, Lincoln lập luận rằng Tuyên ngôn độc lập là một tài liệu sáng lập của Hoa Kỳ, và điều này có ý nghĩa quan trọng để giải thích Hiến pháp, đã được phê chuẩn hơn một thập kỷ sau Tuyên ngôn. Hiến pháp đã không sử dụng từ "bình đẳng", nhưng Lincoln tin rằng khái niệm "tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng" vẫn là một phần của các nguyên tắc sáng lập của quốc gia. Ông nổi tiếng bày tỏ niềm tin này vào câu mở đầu của Diễn văn Gettysburg năm 1863: "Bốn điểm và bảy năm trước [tức là vào năm 1776] cha ông chúng tôi đã đưa ra lục địa này, một quốc gia mới, được hình thành trong Tự do và đề xuất rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng."
Quan điểm của Tuyên bố của Lincoln đã trở nên có ảnh hưởng, coi đó là một hướng dẫn đạo đức để giải thích Hiến pháp. "Đối với hầu hết mọi người bây giờ," Garry Wills đã viết vào năm 1992, "Tuyên ngôn có nghĩa là những gì Lincoln nói với chúng tôi, nó là một cách sửa chữa Hiến pháp mà không lật đổ nó." Những người hâm mộ của Lincoln như Harry V. Jaffa đã ca ngợi sự phát triển này. Các nhà phê bình Lincoln, đặc biệt là Willmoore Kendall và Mel Bradford, cho rằng Lincoln đã mở rộng một cách nguy hiểm phạm vi của chính phủ quốc gia và vi phạm các quyền của các bang bằng cách đọc Tuyên ngôn trong Hiến pháp.
Quyền bầu cử của phụ nữ và Tuyên ngôn
Vào tháng 7 năm 1848, hội nghị về nữ quyền đầu tiên, hội nghị Seneca Falls, được tổ chức tại Seneca Falls, New York. Hội nghị được tổ chức bởi Elizabeth Cady Stanton, Lucretia Mott, Mary Ann McClintock và Jane Hunt. Trong "Tuyên ngôn tình cảm", theo khuôn mẫu của Tuyên ngôn độc lập, các thành viên hội nghị đòi hỏi sự bình đẳng chính trị xã hội cho phụ nữ. Phương châm của họ là "Tất cả đàn ông và phụ nữ sinh ra đều bình đẳng" và công ước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Phong trào quyền bầu cử được hỗ trợ bởi William Lloyd Garrison và Frederick Doulass.
Thế kỷ XX và sau đó
Tuyên ngôn được chọn là văn bản số hóa đầu tiên (1971).
Đài tưởng niệm 56 người ký Tuyên ngôn độc lập được dành riêng vào năm 1984 tại Vườn Hiến pháp trên National Mall ở Washington, D.C., nơi chữ ký của tất cả những người ký ban đầu được khắc trên đá với tên, nơi cư trú và nghề nghiệp.
Tòa nhà Trung tâm Thương mại Một Thế giới mới ở Thành phố New York (2014) cao 1776 feet để tượng trưng cho năm mà Tuyên ngôn Độc lập được ký kết.
Văn hóa đại chúng
Việc thông qua Tuyên ngôn độc lập đã được kịch tính trong vở nhạc kịch 1776 đoạt giải Tony Award năm 1969 và phiên bản phim năm 1972, cũng như trong bộ phim truyền hình năm 2008 John Adams. Năm 1970, The 5th Dimension đã ghi lại phần mở đầu của Tuyên ngôn trong album Chân dung của họ trong bài hát "Tuyên ngôn". Nó được trình diễn lần đầu tiên trên Ed Sullivan Show vào ngày 7 tháng 12 năm 1969 và nó được coi là một bài hát phản đối chiến tranh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập cũng là một thiết bị cốt truyện trong bộ phim Kho báu quốc gia của Mỹ năm 2004. |
Dưới đây là danh sách các đảng phái chính trị của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Danh sách này chỉ liệt kê những đảng chính trị từng đăng ký chính thức, hoặc có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam.Hiện tại, các đảng chính trị khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, đều không được chính quyền Việt Nam công nhận do Hiến pháp 2013 (đặc biệt Điều 4) chỉ công nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Danh sách các đảng |
Lực lượng vũ trang là lực lượng chiến đấu của nhà nước nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Do tính chất nhiệm vụ đặc biệt không cho người phi hành quân đội, công an và dân quân , khu vực không cho ai vào , cho nên lực lượng này được hưởng những chế độ đặc biệt. Nó được trang bị vũ khí cùng với những quyền hạn rất lớn. Thông thường, ở các nước, dù khác nhau về hệ thống chính trị hay địa lý, nhưng lực lượng vũ trang vẫn bao gồm những lực lượng chính là quân đội, công an và dân quân. Có nhiều nước chỉ tính quân đội.
Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm.
Công an có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự nội địa.
Dân quân là lực lượng bán vũ trang, thường được các quốc gia tổ chức như là một lực lượng dự phòng nhằm huy động sức mạnh từ số đông quần chúng.
Ngoài ra, còn một lực lượng nữa cũng nằm trong lực lượng vũ trang là lực lượng an ninh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia.
Tùy theo tổ chức nhà nước mà các bộ phận này được đặt ở các cơ quan quản lý khác nhau. Thông thường, quân đội được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tổng tham mưu (hay Hội đồng tham mưu liên quân), lực lượng an ninh do Ủy ban An ninh Quốc gia điều động, còn cảnh sát thuộc quyền của Bộ Nội vụ.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng Quân đội nhân dân bao gồm Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an nhân dân bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công An. Lực lượng Dân quân tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương.
Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Việt Nam là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Chức vụ này thường do Chủ tịch nước đảm nhiệm, trừ một trường hợp ngoại lệ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trao chức Tổng Tư lệnh khi đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Chú thích
Chính phủ
Quân đội
Quân sự |
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (, viết tắt ASEAN) là một tổ chức kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, tại Bangkok, Thái Lan. Những thành viên đầu tiên của Hiệp hội bao gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines, nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng báo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải đợi đến năm 1991, khi Thái Lan đề xuất thành lập khu vực thương mại tự do thì Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác. Hiện tại, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên: Brunei, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Hai quốc gia bày tỏ ý muốn gia nhập ASEAN là Đông Timor và Papua New Guinea hiện đang giữ vai trò quan sát viên. Trong tuyên bố ngày 11 tháng 11 năm 2022, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã nhất trí về nguyên tắc để kết nạp Đông Timor vào ASEAN, trở thành thành viên thứ 11 của khối.
ASEAN có diện tích đất 4,46 triệu km², chiếm 3% tổng diện tích đất của Trái Đất, và có dân số khoảng 600 triệu người, chiếm 8,8% dân số thế giới. Vùng biển của ASEAN có diện tích gấp ba lần so với diện tích đất. Năm 2018, tổng GDP ước tính của tất cả các quốc gia ASEAN lên tới xấp xỉ 2,92 nghìn tỷ USD. Nếu coi ASEAN là một thực thể duy nhất thì thực thể này sẽ xếp hạng 5 trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới theo GDP thực tế, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức. Dự kiến đến năm 2030, thực thể này có thể vươn lên thứ 4 thế giới.
Vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC) được thành lập.
Lịch sử
Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia, gọi tắt ASA). ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm Philippines, Malaysia và Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các Ngoại trưởng của 5 quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao Thái Lan ở Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok, để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. 5 ngoại trưởng Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thái Lan được coi là những sáng lập viên của tổ chức này.
3 động lực tạo ra ASEAN là mục đích xây dựng đất nước và mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị và an ninh. Các quốc gia trong vùng khi đã mất tin tưởng vào các cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong bối cảnh của thập niên 1960 để hỗ trợ lẫn nhau. Đối với Indonesia, thì nước này còn có tham vọng bá chủ trong khu vực, trong khi Malaysia và Singapore thì lại muốn dùng ASEAN để kiềm chế Indonesia, đưa nước này vào một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Khác với Liên minh châu Âu với mô hình phân giảm quyền hành tập trung ở mỗi quốc gia, ASEAN có mục đích bảo vệ và chấn hưng chủ nghĩa quốc gia.
Năm 1976, Papua New Guinea được trao quy chế quan sát viên. Trong suốt thập niên 1970, tổ chức này bám vào một chương trình hợp tác kinh tế, sau Hội nghị thượng đỉnh Bali năm 1976. Nó đã giảm giá trị hồi giữa thập niên 80 và chỉ được hồi phục khoảng năm 1991 nhờ một đề xuất của Thái Lan về một khu vực tự do thương mại cấp vùng. Sau đó khối này mở rộng khi Brunei trở thành thành viên thứ 6 sau khi gia nhập ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi họ giành được độc lập ngày 1 tháng 1.
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7. Lào và Myanmar gia nhập ngày 23 tháng 7 năm 1997. Campuchia đã dự định gia nhập cùng Lào và Myanmar, nhưng bị trị hoãn vì cuộc tranh giành chính trị nội bộ. Nước này sau đó gia nhập ngày 30 tháng 4 năm 1999, sau khi đã ổn định chính phủ.
Trong thập niên 1990, khối có sự gia tăng cả về số thành viên cũng như khuynh hướng tiếp tục hội nhập. Năm 1990, Malaysia đề nghị thành lập một Diễn đàn Kinh tế Đông Á gồm các thành viên hiện tại của ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, với mục tiêu cân bằng sự gia tăng ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) cũng như tại vùng châu Á như một tổng thể. Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại bởi nó gặp sự phản đối mạnh mẽ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Dù vậy, các quốc gia thành viên tiếp tục làm việc để hội nhập sâu hơn. Năm 1992, kế hoạch Biểu thuế Ưu đãi chung (CEPT) được ký kết như một thời gian biểu cho việc từng bước huỷ bỏ các khoản thuế và như một mục tiêu tăng cường lợi thế cạnh tranh của vùng như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế giới. Điều luật này sẽ hoạt động như một khuôn khổ cho Khu vực Tự do Thương mại ASEAN. Sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Đông Á năm 1997, một sự khôi phục lại đề nghị của Malaysia được đưa ra tại Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến Chiang Mai, kêu gọi sự hội nhập tốt hơn nữa giữa các nền kinh tế của ASEAN cũng như các quốc gia ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc).
Bên cạnh việc cải thiện nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên, khối hiệp ước cũng tập trung trên hoà bình và sự ổn định của khu vực. Ngày 15 tháng 12 năm 1995, Hiệp ước Đông Nam Á Không Vũ khí hạt nhân đã được ký kết với mục tiêu biến Đông Nam Á trở thành Vùng Không Vũ khí hạt nhân. Hiệp ước có hiệu lực ngày 28 tháng 3 năm 1997 nhưng mới chỉ có một quốc gia thành viên phê chuẩn nó. Nó hoàn toàn có hiệu lực ngày 21 tháng 6 năm 2001, sau khi Philippines phê chuẩn, cấm hoàn toàn mọi loại vũ khí hạt nhân trong vùng.
Sau khi thế kỷ XXI bắt đầu, các vấn đề chuyển sang khuynh hướng môi trường hơn. Tổ chức này bắt đầu đàm phán các thoả thuận về môi trường. Chúng bao gồm việc ký kết Thoả thuận về Ô nhiễm Khói bụi Xuyên biên giới ASEAN năm 2002 như một nỗ lực nhằm kiểm soát ô nhiễm khói bụi ở Đông Nam Á. Không may thay, nó không thành công vì những vụ bùng phát khói bụi Malaysia năm 2005 và khói bụi Đông Nam Á năm 2006. Các hiệp ước môi trường khác do tổ chức này đưa ra gồm Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á, the ASEAN-Wildlife Enforcement Network in 2005, và Đối tác châu Á Thái Bình Dương về Phát triển Sạch và Khí hậu, cả hai đều nhằm giải quyết những hiệu ứng có thể xảy ra từ sự thay đổi khí hậu. Thay đổi khí hậu cũng là vấn đề được quan tâm hiện nay.
Trong Hiệp ước Bali II năm 2003, ASEAN đã tán thành khái niệm hoà bình dân chủ, có nghĩa là mọi thành viên tin rằng các quá trình dân chủ sẽ thúc đẩy hoà bình và ổn định trong khu vực. Tương tự, các thành viên phi dân chủ đều đồng ý rằng đây là điều mà mọi quốc gia thành viên đều mong muốn thực hiện.
Các lãnh đạo của mỗi nước, đặc biệt là Mahathir Mohamad của Malaysia, cũng cảm thấy sự cần thiết hội nhập hơn nữa của khu vực. Bắt đầu từ năm 1997, khối đã thành lập các tổ chức bên trong khuôn khổ của họ với mục tiêu hoàn thành tham vọng này. ASEAN+3 là tổ chức đầu tiên trong số đó được thành lập để cải thiện những quan hệ sẵn có với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp đó là Hội nghị cấp cao Đông Á còn rộng lớn hơn, bao gồm tất cả các nước trên cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand. Nhóm mới này hoạt động như một điều kiện tiên quyết cho Cộng đồng Đông Á đã được lên kế hoạch, dự định theo mô hình của Cộng đồng châu Âu hiện đã không còn hoạt động nữa. Nhóm Nhân vật Nổi bật ASEAN đã được tạo ra để nghiên cứu những thành công và thất bại có thể xảy ra của chính sách này cũng như khả năng về việc soạn thảo một Hiến chương ASEAN.
Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Đổi lại, tổ chức này trao vị thế "đối tác đối thoại" cho Liên hiệp quốc. Hơn nữa, ngày 23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một yêu cầu chính thức về vị thế thành viên và hy vọng quá trình gia nhập sẽ kết thúc ít nhất năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một thành viên chính thức.
Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng 8 năm 2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Tháng 11 năm 2007 các thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý mọi quan hệ bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể luật pháp quốc tế. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại Cebu ngày 15 tháng 1 năm 2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại nhiên liệu quy ước.
Ngày 27 tháng 2 năm 2009, một Thỏa thuận Tự do Thương mại giữa 10 quốc gia thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác thân cận của họ là Úc đã được ký kết, ước tính rằng thỏa thuận này sẽ làm tăng GDP của 12 quốc gia lên thêm hơn 48 tỷ USD trong giai đoạn 2000–2020.
Các thành viên
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:
Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967):
Cộng hòa Indonesia
Liên bang Malaysia
Cộng hòa Philippines
Cộng hòa Singapore
Vương quốc Thái Lan
Các quốc gia gia nhập sau:
Nhà nước Brunei Darussalam (ngày 8 tháng 1 năm 1984)
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28 tháng 7 năm 1995)
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Cộng hòa Liên bang Myanmar (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
Vương quốc Campuchia (ngày 30 tháng 4 năm 1999)
Ứng viên xin gia nhập, hiện đang là quan sát viên:
Nhà nước Độc lập Papua New Guinea (quan sát viên từ năm 1976)
Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste (quan sát viên từ năm 2015)
Cơ cấu tổ chức
Bộ máy hoạt động của ASEAN được quy định như sau:
Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit): Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội, họp chính thức 2 năm/lần.
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting – AMM): theo Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers – AEM):AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết. Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Singapore.
Hội nghị Bộ trưởng các ngành: Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm nghiệp. Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
Các hội nghị bộ trưởng khác: Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
Hội nghị liên Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting – JMM): JMM được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
Tổng Thư ký ASEAN: Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN được tham dự các cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng. Tổng thư ký hiện nay là ông Lâm Ngọc Huy (Lim Jock Hoi) cựu Bí thư thường trực Bộ Ngoại thương Brunei.
Ủy ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee – ASC): ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting – SOM): SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Manila 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting – SEOM): SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Manila 1987. Tại hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
Cuộc họp các quan chức cao cấp khác: Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về môi trường,ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting – JCM): Cơ chế họp JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN, SOM, SEOM, các Tổng giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng Thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng Thư ký ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
Các cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại: ASEAN có 11 bên đối thoại: Úc, Canada, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, UNDP, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ.ASEAN cũng đối thoại theo từng lĩnh vực với Pakistan.
Trước khi có cuộc họp với các Bên đối thoại, các nước ASEAN tổ chức cuộc họp trù bị để phối hợp có lập trường chung. Cuộc họp này do quan chức cao cấp của nước điều phối (Coordinating Country) chủ trì và báo cáo cho ASC.
Ban thư ký ASEAN quốc gia: Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.
Ủy ban ASEAN ở các nước thứ ba: Nhằm mục đích tăng cường trao đổi và thúc đẩy mối quan hệ giữa ASEAN với bên đối thoại đó và các tổ chức quốc tế ASEAN thành lập các uỷ ban tại các nước đối thoại. Ủy ban này gồm những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao của các nước ASEAN tại nước sở tại. Hiện có 10 Ủy ban ASEAN tại: Bonn (Đức), Brussel (Bỉ), Canberra (Úc), Genève (Thụy Sĩ), Luân Đôn (Anh), Ottawa (Canada), Paris (Pháp), Seoul (Hàn Quốc), Washington, D.C., (Hoa Kỳ), Wellington (New Zealand).
Ban thư ký ASEAN: Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao lần thứ hai Bali,1976 tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN, phục vụ các hội nghị của ASEAN.
Phương thức ASEAN
Trong thập niên 1960, sự thúc đẩy giải thực đã mang lại chủ quyền cho Indonesia và Malaysia cùng các quốc gia khác. Bởi việc xây dựng quốc gia luôn là khó khăn và dễ gặp sự can thiệp từ bên ngoài, giới cầm quyền muốn được tự do thực hiện các chính sách độc lập, với nhận thức rằng các nước láng giếng sẽ kiềm chế không can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Về lãnh thổ, các thành viên nhỏ như Singapore và Brunei luôn lo ngại về các biện pháp bạo lực và cưỡng bức từ các nước láng giềng lớn hơn như Indonesia và Malaysia. "Thông qua đối thoại chính trị và xây dựng lòng tin, căng thẳng sẽ không leo thang thành đối đầu bạo lực trong các quốc gia thành viên ASEAN từ khi nó được thành lập hơn ba thập niên trước".
Phương thức ASEAN có thể truy nguồn gốc từ việc ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á. "Các nguyên tắc nền tảng được thông qua trong hiệp ước này gồm: tôn trọng lẫn nhau về độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tính toàn vẹn lãnh thổ, và bản sắc quốc gia của tất cả các nước; quyền của mọi Nhà nước duy trì sự tồn tại quốc gia của mình không gặp trở ngại từ sự can thiệp, phá hoại, cưỡng bức từ bên ngoài; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết các khác biệt hay tranh chấp bằng biện pháp hoà bình; từ bỏ đe dọa hay sử dụng bạo lực; và hợp tác có hiệu quả với nhau".
Ngoài mặt, quá trình tư vấn và đồng thuận được cho là một cách tiếp cận trong việc đưa ra quyết định, nhưng Phương thức ASEAN đã được điều khiển thông qua những tiếp xúc thân cận giữa các cá nhân chỉ trong giới lãnh đạo, họ thường cùng chần chừ trong việc định chế hoá và pháp điển hoá sự hợp tác, có thể làm tổn hại tới sự kiểm soát của chế độ của họ với việc tiến hành hợp tác trong vùng. Vì thế, tổ chức có một vị thư ký điều hành.
Tất cả các đặc tính trên, nói gọn là không can thiệp, không chính thức, tối thiểu hoá việc định chế hoá, tư vấn và đồng thuận, không sử dụng vũ lực và không đối đầu đã tạo thành cái được gọi là Phương thức ASEAN.
Từ cuối thập niên 1990, nhiều học giả đã cho rằng nguyên tắc không can thiệp đã làm tổn hại tới những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Myanmar, vi phạm nhân quyền và ô nhiễm khói bụi trong vùng. Tuy nhiên, với cách tiếp cận dựa trên đồng thuận, mọi thành viên trên thực tế đều có quyền phủ quyết và các quyết định thường bị giảm xuống mức mẫu thức chung thấp nhất. Có một sự tin tưởng rộng rãi rằng các thành viên ASEAN phải có một quan điểm ít cứng nhắc hơn về hai nguyên tắc chủ yếu này khi họ muốn được coi là một cộng đồng liên kết chặt chẽ và có liên quan.
Chính sách
Dù các cuộc thảo luận Track II thỉnh thoảng được nêu ra như những ví dụ về sự liên quan của xã hội dân sự trong quá trình đưa ra quyết định cấp vùng của các chính phủ và các bên thứ hai khác, các tổ chức phi chính phủ hiếm khi tiếp cận được với nó, tuy nhiên những người tham gia từ các cộng đồng hàn lâm là một nhóm 12 cố vấn. Tuy nhiên, những cố vấn này, trong hầu hết các trường hợp, có kết nối chặt chẽ với các chính phủ của họ, và sự phụ thuộc vào nguồn tài chính của chính phủ cho các hoạt động hàn lâm và liên quan tới chính sách đó, và nhiều công việc trong Track II đã từng có trải nghiệm quá trình quan liêu. Những gợi ý của họ, đặc biệt trong việc hội nhập kinh tế, thường gần gũi với các quyết định của ASEAN hơn là lập trường của phần còn lại của xã hội dân sự.
Track hoạt động như một diễn đàn cho xã hội dân sự ở Đông Nam Á được gọi là Track III. Những người tham gia Track III nói chung là các nhóm dân sự xã hội đại diện cho một ý tưởng hay nhóm riêng biệt. Các mạng lưới của Track III tuyên bố đại diện cho các cộng đồng và những người phần lớn ở bên ngoài các trung tâm quyền lực chính trị và không có khả năng thực hiện thay đổi hữu ích mà không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Track này tìm cách gây ảnh hưởng trực tiếp tới các chính sách của chính phủ bằng cách lobby, tạo áp lực qua truyền thông. Những người tham gia Track III cũng tổ chức và/hay tham gia các cuộc họp cũng như các hội nghị để tiếp cận với các quan chức của Track I.
Xem xét ba Track, rõ ràng cho tới hiện tại, ASEAN đã được điều hành bởi các quan chức chính phủ, những người khi mà các vấn đề ASEAN, Tiến sĩ Susilo Bambang Yudhoyono đã thừa nhận:
"Tất cả các quyết định về các hiệp ước, và khu vực tự do thương mại, về các tuyên bố và các kế hoạch hành động, đều do các Lãnh đạo chính phủ, các bộ trưởng và quan chức cao cấp thực hiện. Và thực tế rằng trong đông đảo đại chúng, có ít sự hiểu biết, chưa nói tới sự đánh giá, về những sáng kiến lớn mà ASEAN đang thực hiện thay mặt cho họ."
Các cuộc họp
Hội nghị cấp cao ASEAN
Tổ chức này tổ chức các cuộc họp, được gọi là Hội nghị cấp cao ASEAN, nơi các nguyên thủ quốc gia của mỗi thành viên gặp mặt để thảo luận và giải quyết các vấn đề khu vực, cũng như để tổ chức các cuộc hội họp khác với các nước bên ngoài khối với mục đích thúc đẩy quan hệ bên ngoài.
Hội nghị cấp cao Chính thức các nhà Lãnh đạo ASEAN được tổ chức lần đầu tại Bali, Indonesia năm 1976. Cuộc họp thứ ba được tổ chức tại Manila năm 1987 và trong cuộc họp này, các lãnh đạo đã quyết định sẽ gặp nhau năm năm một lần. Sau đó, hội nghị cấp cao thứ tư được tổ chức tại Singapore năm 1992 nơi các nhà lãnh đạo lại đồng ý sẽ gặp gỡ thường xuyên hơn, quyết định tổ chức hội nghị cấp cao ba năm một lần. Năm 2001, họ quyết định gặp nhau hàng năm để giải quyết các vấn đề cấp bách ảnh hưởng tới khu vực. Các quốc gia thành viên được sắp xếp đứng ra tổ chức hội nghị cấp cao theo tên nước trong bảng chữ cái ngoại trừ Myanmar vốn đã từ bỏ quyền đăng cai hội nghị năm 2006 của mình vào năm 2004 vì áp lực từ Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.
Tới tháng 12 năm 2008, Hiến chương ASEAN bắt đầu có hiệu lực và cùng với nó, Hội nghị cấp cao ASEAN sẽ được tổ chức 2 lần/năm.
Cuộc họp cấp cao chính thức diễn ra trong ba ngày. Chương trình nghị sự như sau:
Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một cuộc họp nội bộ tổ chức.
Lãnh đạo các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một hội thảo cùng với các ngoại trưởng của Diễn đàn Khu vực ASEAN.
Một cuộc họp, được gọi là ASEAN+3, được tổ chức cho các lãnh đạo của ba Đối tác Đối thoại (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc)
Một cuộc họp riêng rẽ, được gọi là ASEAN-CER, được tổ chức cho các lãnh đạo của hai Đối tác Đối thoại khác (Úc, New Zealand).
Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức luân phiên giữa các quốc gia thành viên, và quốc gia nào tổ chức thường kiêm luôn chức Chủ tịch luân phiên ASEAN, thường là vị tổng thống hay thủ tướng quốc gia đó.
Trong cuộc họp cấp cao thứ năm tại Bangkok, các lãnh đạo đã quyết định gặp gỡ "không chính thức" với nhau trong mỗi hội nghị chính thức:
Năm 2020, trong năm đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN và Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 Đặc biệt nhằm bàn luận về vấn đề dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp.
Hội nghị cấp cao Đông Á
Hội nghị cấp cao Đông Á hay Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) là một diễn đàn liên châu Á được các lãnh đạo 16 quốc gia Đông Á và khu vực tổ chức hàng năm, với ASEAN có một lập trường chỉ đạo chung. Hội nghị cấp cao thảo luận các vấn đề gồm thương mại, năng lượng và an ninh và hội nghị cấp cao có một vai trò trong việc xây dựng cộng đồng vùng.
Các thành viên của hội nghị gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand tổng cộng chiếm tới gần một nửa dân số thế giới. Nga cũng đã xin gia nhập làm thành viên cuộc họp cấp cao vào năm 2005 là một khách mời cho EAS Đầu tiên theo lời mời của nước chủ nhà - Malaysia.
Hội nghị cấp cao đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur ngày 14 tháng 12 năm 2005 và các cuộc họp sau đó được tổ chức sau cuộc gặp gỡ hàng năm của các lãnh đạo ASEAN.
Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm
Một hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm là một hội nghị do một quốc gia không thuộc ASEAN tổ chức để đánh dấu một dịp kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ giữa ASEAN và quốc gia tổ chức. Quốc gia tổ chức mời các lãnh đạo chính phủ các quốc gia thành viên ASEAN tới để thảo luận tương lai của việc hợp tác và đối tác.
Diễn đàn Khu vực
Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) là một cuộc đối thoại chính thức, đa bên trong vùng châu Á ‒ Thái Bình Dương. Tới thời điểm tháng 7 năm 2007, nó gồm 27 bên tham gia. Các mục tiêu của ARF là khuyến khích đối thoại và tham vấn, và thúc đẩy xây dựng lòng tin và chính sách ngoại giao ngăn chặn trong khu vực. ARF được tổ chức lần đầu năm 1994. Các bên tham gia ARF hiện tại như sau: toàn bộ thành viên ASEAN, Úc, Bangladesh, Canada, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, New Zealand, Pakistan, Papua New Guinea, Nga, Đông Timor, Hoa Kỳ và Sri Lanka. Trung Hoa Dân Quốc (cũng gọi là Đài Loan) đã bị trục xuất từ khi ARF thành lập, và các vấn đề về Eo biển Đài Loan không được thảo luận tại các cuộc họp của ARF cũng như được đề cập tới trong Tuyên bố của Chủ tịch ARF.
Các cuộc gặp khác
Ngoài các cuộc họp ở trên, các cuộc họp thường xuyên khác cũng được tổ chức. Chúng bao gồm Cuộc họp Bộ trưởng ASEAN Thường niên cũng như các uỷ ban nhỏ hơn khác, như Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á. Các cuộc họp tập trung vào các chủ đề riêng biệt, như quốc phòng hay môi trường, và do các Bộ trưởng, thay vì các nguyên thủ quốc gia tham dự.
Cộng Ba
ASEAN+3 là một cuộc họp giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và chủ yếu được tổ chức trong mỗi kỳ họp cấp cao ASEAN.
Diễn đàn Hợp tác Á–Âu
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) là một quá trình đối thoại không chính thức được đưa ra sáng kiến năm 1996 với mục tiêu tăng cường hợp tác giữa các quốc gia châu Á và châu Âu, đặc biệt giữa các thành viên Liên minh châu Âu và ASEAN. ASEAN, được đại diện bởi vị Tổng thư ký của mình, là một trong 45 đối tác ASEM. Họ cũng chỉ định một đại diện trong ban quản lý Quỹ Á-Âu (ASEF), một tổ chức văn hoá xã hội gắn liền với cuộc Gặp gỡ.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Nga
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Nga là một cuộc gặp gỡ hàng năm giữa các lãnh đạo các quốc gia thành viên và Tổng thống Nga.
Ba trụ cột Cộng đồng ASEAN
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
ASEAN đã nhấn mạnh trên việc hợp tác khu vực trong "ba trụ cột" về an ninh, văn hoá xã hội và hội nhập kinh tế. Các nhóm khu vực đã có những thành quả lớn nhất trong hội nhập kinh tế, với mục tiêu tạo lập một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.
Khu vực Tự do Thương mại
Nền tảng của AEC là Khu vực Tự do Thương mại ASEAN (AFTA), một kế hoạch thuế xuất ưu đãi bên ngoài chung để khuyến khích dòng chảy tự do của hàng hoá bên trong ASEAN. Khu vực Tự do Thương mại ASEAN (AFTA) là một thoả thuận của các quốc gia thành viên ASEAN liên quan tới chế tạo địa phương tại mọi quốc gia ASEAN. Thoả thuận AFTA được ký ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Singapore. Khi thoả thuận AFTA được ký lần đầu tiên, ASEAN có sáu thành viên là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Việt Nam gia nhập năm 1995, Lào và Myanmar năm 1997, và Campuchia năm 1999. Những thành viên gia nhập sau vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các quy định của AFTA, nhưng họ đã chính thức được coi là một phần của AFTA khi họ bị yêu cầu ký thoả thuận này khi gia nhập vào ASEAN, và được trao các khung thời gian dài hơn để đạt tới các quy định về miễn giảm thuế của AFTA.
Khu vực Đầu tư Toàn diện
Khu vực Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ khuyến khích dòng chảy tự do của đầu tư bên trong ASEAN. Các nguyên tắc chính của ACIA như sau
Mọi ngành công nghiệp đều phải được mở cửa cho đầu tư, ngoại trừ những ngành sẽ từ từ bị loại bỏ theo lộ trình
Quy tắc đối xử quốc gia được trao ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN với ít ngoại lệ
Hạn chế ngăn trở đầu tư
Hợp lý hoá quá trình và các thủ tục đầu tư.
Tăng cường minh bạch
Tiến hành các biện pháp khuyến khích đầu tư
Việc thực hiện đầy đủ ACIA với việc loại bỏ các danh sách ngoại lệ hiện tại trong chế biến nông nghiệp, đánh cá, lâm nghiệp và khai thác mỏ được quy định vào năm 2010 cho hầu hết thành viên ASEAN và năm 2015 cho Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam.
Thương mại trong Dịch vụ
Một Thoả thuận Khung của ASEAN về Thương mại trong Dịch vụ được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Bangkok tháng 12 năm 1995. Theo AFAS, các quốc gia thành viên ASEAN tham gia vào các vòng đàm phán tự do hoá thương mại trong dịch vụ liên tục này với mục tiêu ngày càng tạo ra các cam kết cấp độ cao hơn. Các cuộc đàm phán đã dẫn tới các cam kết đặt ra các lộ trình cho các cam kết cụ thể là một bộ phận của Thoả thuận Khung. Các lộ trình thường được gọi là các gói cam kết dịch vụ. Hiện tại, ASEAN đã ký kết bảy gói cam kết theo AFAS.
Thị trường hàng không duy nhất
Thị trường Hàng không Duy nhất ASEAN (SAM), do Nhóm Làm việc Vận tải Hàng không ASEAN đệ trình, được Cuộc họp các Quan chức Vận tải Cao cấp ASEAN ủng hộ, và được các Bộ trưởng Vận tải ASEAN xác nhận, sẽ đưa ra một thoả thuận bầu trời mở cho khu vực vào năm 2015. ASEAN SAM được mong đợi sẽ hoàn toàn tự do hoá đi lại bằng đường hàng không giữa các quốc gia thành viên, cho phép ASEAN được hưởng lợi ích trực tiếp từ sự tăng trưởng giao thông đường không trên thế giới, và cũng tự do hoá cho các dòng chảy du lịch, thương mại, đầu tư và dịch vụ giữa các quốc gia thành viên. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 2008, những hạn chế trên các quyền tự do hàng không thứ ba và thứ tư giữa các thành phố thủ đô của các quốc gia thành viên về dịch vụ chở khách đường không sẽ bị xoá bỏ, trong khi đó từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, sẽ có sự tự do hoá hoàn toàn trong việc chuyên chở hàng hoá bằng hàng không trong khu vực Tới ngày 1 tháng 1 năm 2011, quyền tự do lưu thông thứ năm giữa mọi thành phố thủ đô sẽ được tự do hoá.
Các thoả thuận tự do thương mại với các quốc gia khác
ASEAN đã ký kết các thoả thuận tự do thương mại với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, New Zealand và gần đây nhất là Ấn Độ. Ngoài ra, hiện nay tổ chức này đang đàm phán thoả thuận tự do thương mại với Liên minh châu Âu. Đài Loan cũng đã thể hiện sự quan tâm tới một thoả thuận với ASEAN nhưng cần vượt qua những trở ngại về ngoại giao từ Trung Quốc.
Cộng đồng An ninh – Chính trị ASEAN (APSC)
Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC)
Hiến chương Asean
Ngày 15 tháng 12 năm 2008 các thành viên ASEAN gặp gỡ tại thủ đô Jakarta của Indonesia để đưa ra một hiến chương, được ký kết tháng 11 năm 2007, với mục tiêu tiến gần hơn tới "một cộng đồng kiểu Liên minh châu Âu". Hiến chương biến ASEAN thành một thực thể pháp lý và các mục tiêu tạo lập một khu vực tự do thương mại duy nhất cho khu vực gồm 500 triệu dân. Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono đã nói rằng "Đây là một sự phát triển quan trọng khi ASEAN đang đoàn kết, hội nhập và biến mình thành một cộng đồng. Nó đã được hoàn thành khi ASEAN tìm kiếm một vai trò tích cực hơn trong các vấn đề châu Á và quốc tế ở thời điểm khi hệ thống thế giới đang trải qua một sự thay đổi chấn động" ông thêm, đề cập tới sự thay đổi khi hậu và dịch chuyển kinh tế. "Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ, bị chiến tranh tàn phá như trong thập niên 1960 và 1970". Các nguyên tắc nền tảng bao gồm:
a) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng sự toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc quốc gia của mọi quốc gia thành viên ASEAN;
b) Có chung cam kết và trách nhiệm trong việc tăng cường hoà bình khu vực, an ninh và thịnh vượng;
c) Bác bỏ sự gây hấn và đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác theo bất kỳ cách nào không thích hợp với luật pháp quốc tế;
d) Dựa trên sự giải quyết hoà bình các tranh chấp;
e) Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ASEAN;
f) Tôn trọng quyền của mọi Quốc gia bảo đảm sự tồn tại của mình và không bị sự can thiệp, lật đổ hay ép buộc từ bên ngoài;
g) Tăng cường tham vấn về những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích chung của ASEAN;
h) Trung thành với sự cai trị của pháp luật, quản lý tốt, các nguyên tắc dân chủ và định chế chính phủ;
i) Tôn trọng các quyền tự do nền tảng, khuyến khích và bảo vệ nhân quyền, và khuyến khích công bằng xã hội;
j) Tán thành Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, gồm cả luật nhân đạo quốc tế, đã được tán thành bởi các quốc gia thành viên ASEAN;
k) Tránh tham gia vào bất kỳ chính sách hay hoạt động nào, gồm cả việc sử dụng lãnh thổ của mình, được theo đuổi bởi một quốc gia thành viên hay không phải là thành viên của ASEAN hay bất kỳ một bên phi quốc gia nào, đe doạ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định kinh tế chính trị của các quốc gia thành viên ASEAN;
l) Tôn trọng những sự khác biệt văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo của người dân ASEAN, trong khi nhấn mạnh những giá trị chung theo tin thần thống nhất trong đa dạng;
m) Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng cộng đồng ASEAN;
n) Tôn trọng các quy định thương mại đa bên và các quy định của ASEAN dựa trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế và dần giảm bớt hướng tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế định hướng thị trường".
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn ra đã được coi như một mối đe doạ với những mục tiêu của bản hiến chương, và cũng đặt ra ý tưởng về một cơ cấu nhân quyền sẽ được đàm phán trong cuộc hội nghị cấp cao sắp tới vào tháng 2 năm 2009. Đề xuất này đã gây ra tranh cãi, bởi cơ quan này sẽ không có quyền áp đặt cấm vận hay trừng phạt các quốc gia vi phạm vào quyền của công dân nước mình và vì thế sẽ không có nhiều hiệu quả.
Các hoạt động văn hoá
ASEAN có tổ chức các hoạt động văn hoá trong một nỗ lực nhằm hội nhập hơn nữa cho khu vực. Chúng gồm các hoạt động thể thao và giáo dục cũng như các giải thưởng văn chương. Các ví dụ gồm Mạng lưới Trường đại học ASEAN, Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN, Giải thưởng Nhà khoa học và Nhà kỹ thuật Xuất sắc ASEAN, cuộc thi hoa hậu Kinh đô Asean 2020 và Học bổng ASEAN do Singapore tài trợ.
S.E.A. Write Award
Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (S.E.A. Write Award) là một giải thưởng văn học được trao hàng năm cho các nhà văn và nhà thơ Đông Nam Á từ năm 1979. Giải thưởng này hoặc được trao cho một tác phẩm riêng biệt hay như một sự công nhận với thành tựu cả đời của một nhà văn. Các tác phẩm được trao giải rất đa dạng và gồm cả thi ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, dân gian cũng như các tác phẩm hàn lâm và tôn giáo. Các buổi lễ được tổ chức tại Bangkok và được chủ trì bởi một thành viên của gia đình hoàng gia Thái Lan.
ASAIHL
ASAIHL hay Hiệp hội các Định chế Cao học Đông Nam Á là một tổ chức phi chính phủ được thành lập năm 1956 với mục tiêu tăng cường các định chế cao học, đặc biệt trong giảng dạy, nghiên cứu, và dịch vụ công, với tham vọng tạo ra một bản sắc khu vực và sự phụ thuộc lẫn nhau.
Các di sản vườn quốc gia
Các Vườn quốc gia Di sản ASEAN là một danh sách các vườn quốc gia được đưa ra năm 1984 và được sửa đổi năm 2004. Nó có mục đích bảo vệ các tài nguyên tự nhiên trong khu vực. Hiện có 35 khu vực như thế đang được bảo tồn, gồm Vườn Đá ngầm Biển Tubbataha và Vườn Quốc gia Kinabalu.
Học bổng
Học bổng ASEAN là một chương trình học bổng của Singapore dành cho 9 quốc gia thành viên khác về giáo dục cấp ba, cao đẳng và đại học. Nó bao gồm nơi ăn ở, các lợi ích y tế và bảo hiểm, phí học tập và phí thi cử.
Mạng lưới đại học
Mạng lưới Đại học ASEAN (AUN) là một tập hợp các trường đại học Đông Nam Á. Ban đầu nó được 11 trường đại học bên trong các quốc gia thành viên thành lập tháng 11 năm 1995. Hiện tại AUN gồm 21 trường đại học tham gia.
Bài ca chính thức
The ASEAN Way (Con đường ASEAN) - bài hát chính thức của khu vực ASEAN, âm nhạc của Kittikhun Sodprasert và Sampow Triudom ; Lời của Payom Valaiphatchra .
ASEAN Song of Unity hay ASEAN Hymn, âm nhạc của Ryan Cayabyab .
Let us move ahead, một bài hát ASEAN, sáng tác của Candra Darusman .
Thể thao
SEA Games
Đại hội Thể thao Đông Nam Á (), thường được gọi là SEA Games, là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần với các vận động viên từ 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. Sự kiện này nằm dưới sự quản lý của Liên đoàn đại hội thể thao Đông Nam Á và dưới sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) và Hội đồng Olympic châu Á.
ASEAN Para Games
Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á () là một sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần sau mỗi kỳ SEA Games dành cho các vận động viên khuyết tật. Sự kiện này được các vận động viên của cả 11 quốc gia Đông Nam Á tham gia. ASEAN Para Games được tổ chức theo mô hình Paralympic Games, và dành cho các vận động viên khuyết tật về thể hình như khả năng vận động, khuyết tật thị giác, người mất chân tay và những người liệt não.
AFF Championship
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á () là một sự kiện bóng đá được tổ chức hai năm một lần bởi Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á, được FIFA công nhận và với sự tham gia của các đội tuyển quốc gia Đông Nam Á. Giải đầu tiên tổ chức năm 1996 với tên gọi Tiger Cup, dưới sự tài trợ của Asia Pacific Breweries. Năm 2008, giải mang tên AFF Suzuki Cup, dưới sự tài trợ của Suzuki. Từ năm 2022, giải mang tên AFF Mitsubishi Electric Cup, dưới sự tài trợ của Mitsubishi Electric.
Chỉ trích
Các quốc gia phương Tây đã chỉ trích ASEAN về cách tiếp cận quá mềm dẻo của họ trong việc khuyến khích dân chủ và nhân quyền ở Myanmar do một hội đồng quân sự điều hành. Dù có những lời lên án của quốc tế về vụ chính phủ sử dụng vũ lực đàn áp những người biểu tình hoà bình tại Yangon, ASEAN đã từ chối ngừng quy chế thành viên của Myanmar và cũng bác bỏ các đề xuất áp dụng trừng phạt kinh tế. Điều này đã gây nên những lo ngại khi Liên minh châu Âu, một đối tác thương mại tiềm năng, đã từ chối tiến hành các cuộc đàm phán tự do thương mại ở cấp vùng vì những lý do chính trị đó. Các nhà quan sát quốc tế coi tổ chức như một "nơi hội họp", ngụ ý rằng tổ chức này chỉ "mạnh miệng lên án mà ít hành động".
Tại cuộc họp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 ở Cebu, nhiều nhóm hoạt động đã tổ chức các cuộc tuần hành phản đối toàn cầu hoá và chống Arroyo. Theo các nhà hoạt động, lộ trình hội nhập kinh tế sẽ có ảnh hưởng xấu tới các ngành công nghiệp của Philippines và sẽ khiến hàng nghìn người Philippines mất việc. Họ cũng coi tổ chức như một tổ chức đế quốc đe dọa tới chủ quyền quốc gia. Một luật sư nhân quyền từ New Zealand cũng đã đệ trình bản phản đối về tình hình nhân quyền trong vùng nói chung. |
Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi của France Football được trao cho cầu thủ bóng đá châu Phi xuất sắc nhất hàng năm bởi tập chí France Football (Pháp) từ năm 1970 đến 1994. Giải bị kết thúc năm 1995 sau khi Quả bóng vàng châu Âu (Ballon d'or) được mở rộng cho cả những cầu thủ không thuộc quốc tịch châu Âu, và George Weah được giải thưởng này năm đó. Nó đã được thay với giải thưởng chính thức, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi, trao bởi Liên đoàn bóng đá châu Phi từ năm 1992. Samuel Eto'o (Cameroon) và Yaya Touré (Bờ Biển Ngà) là hai cầu thủ đoạt giải nhiều lần nhất, cùng 4 lần.
Danh sách các cầu thủ đoạt giải
Xếp hạng theo nước
* Được biết đến là Zaire từ năm 1971 đến năm 1997
† Được biết đến là Cộng hòa Nhân dân Congo từ năm 1970 đến năm 1992 |
Vệ tinh khí tượng là một loại vệ tinh nhân tạo được dùng chủ yếu để quan sát thời tiết và khí hậu trên Trái Đất. Các vệ tinh khí tượng không chỉ quan sát được mây và các hệ mây. Nó có thể quan sát được ánh sáng của thành phố, các vụ cháy, ô nhiễm, cực quang, cát và bão cát, vùng bị tuyết bao phủ, bản đồ băng, hải lưu, năng lượng lãng phí... và các thông tin môi trường khác được thu thập bởi vệ tinh khí tượng. Vệ tinh có thể quay quanh cực hoặc quanh đường xích đạo.
Ảnh từ vệ tinh khí tượng giúp giám sát các đám tro núi lửa từ núi St. Helens và các hoạt động núi lửa khác như núi Etna. Khói từ các vụ cháy rừng phía Tây Hoa Kỳ như Colorado và Utah cũng được giám sát.
Các vệ tinh theo dõi môi trường khác có thể phát hiện những thay đổi trong thảm thực vật, trạng thái mặt biển, màu nước biển và băng nguyên của Trái Đất. Ví dụ, vụ tràn dầu tàu Prestige năm 2002 ở ngoài khơi bờ biển phía tây bắc Tây Ban Nha đã được vệ tinh ENVISAT châu Âu theo dõi cẩn thận, mặc dù không phải là vệ tinh thời tiết, để có thể nhìn thấy những thay đổi trên mặt biển. Thêm vào đó, vệ tinh thời tiết quan sát được thời tiết toàn cầu.
El Niño và các hiệu ứng thời tiết của nó cũng được giám sát hằng ngày bằng hình ảnh từ vệ tinh thời tiết. Nói chung, các vệ tinh thời tiết phần lớn thuộc sở hữu của Hoa Kỳ, Châu Âu, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản cung cấp các quan sát gần như liên tục cho một chiếc đồng hồ thời tiết toàn cầu.
Lịch sử
Ngay từ năm 1946, ý tưởng về các camera quay theo quỹ đạo để quan sát thời tiết đã được phát triển. Điều này là do phạm vi quan sát dữ liệu yếu ớt và chi phí sử dụng tên lửa quan sát thời tiết quá tốn kém cho mỗi lần quan sát. Đến năm 1958, các nguyên mẫu ban đầu cho TIROS và Vanguard (được phát triển bởi Quân đoàn Tín hiệu Quân đội) đã được tạo ra. Vệ tinh khí tượng đầu tiên, Vanguard 2, được phóng vào ngày 17 tháng 2 năm 1959. Nó được thiết kế để đo sự che phủ của mây. Tuy nhiên, do trục quay không chính xác nên nó không thu thập được nhiều dữ liệu có ích.
Vệ tinh khí tượng được xem là thành công đầu tiên là TIROS-1, được phóng bởi NASA vào ngày 1 tháng 4 năm 1960. TIROS hoạt động trong 78 ngày và được chứng minh là thành công hơn nhiều so với Vanguard 2. TIROS mở đường cho nhiều vệ tinh khí tượng cao cấp hơn trong tương lai, trong đó có chương trình Nimbus. Bắt đầu với vệ tinh Nimbus 3 vào năm 1969, thông tin nhiệt độ qua cột tầng đối lưu từ phía đông Đại Tây Dương và hầu hết Thái Bình Dương, dẫn đến những cải thiện đáng kể cho dự báo thời tiết.
Các vệ tinh quay quanh cực ESSA và NOAA vận hành từ cuối những năm 1960 trở đi. Các vệ tinh địa tĩnh theo sau, bắt đầu với các vệ tinh loại ATS và SMS vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, sau đó tiếp tục với loại GOES từ những năm 1970 trở đi. Các vệ tinh quay quanh cực như QuikScat và TRMM bắt đầu chuyển thông tin gió gần bề mặt đại dương bắt đầu từ cuối những năm 1970, với hình ảnh vi sóng giống như màn hình radar, giúp cải thiện đáng kể các dự đoán về sức mạnh của bão nhiệt đới, cường độ và vị trí trong những năm 2000 và 2010.
Quan sát
Việc quan sát thường được thực hiện thông qua các 'kênh' khác nhau của phổ điện từ, đặc biệt là các phần nhìn thấy và hồng ngoại.
Một số kênh này bao gồm:
Nhìn thấy và cận hồng ngoại: 0,6-1,6 μm để ghi lại mây che trong ngày
Hồng ngoại: 3,9-7,3 μm (hơi nước), 8,7-13,4 μm (hình ảnh nhiệt)
Phổ nhìn thấy được
Hình ảnh ánh sáng nhìn thấy được từ các vệ tinh thời tiết ban ngày rất dễ thấy ngay cả với mắt người bình thường; các đám mây, hệ thống mây và bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, băng tuyết, hỏa hoạn và ô nhiễm như khói, sương mù, bụi và khói mù là điều dễ thấy. Ngay cả gió cũng có thể được xác định bởi các mô hình đám mây, sự sắp xếp và chuyển động từ các bức ảnh liên tiếp.
Phổ hồng ngoại
Hình ảnh nhiệt hoặc hồng ngoại được ghi lại bởi các cảm biến gọi là bức xạ kế cho phép một nhà phân tích được đào tạo để xác định độ cao và loại mây, để tính toán nhiệt độ nước và mặt nước và xác định vị trí các đặc điểm bề mặt đại dương. Hình ảnh vệ tinh hồng ngoại có thể được sử dụng hiệu quả cho bão nhiệt đới với mắt bão có thể nhìn thấy được, sử dụng kỹ thuật Dvorak, trong đó chênh lệch giữa nhiệt độ của mắt ấm và vùng mây lạnh xung quanh có thể được sử dụng để xác định cường độ của nó (vùng mây lạnh hơn thường xác định đó là một cơn bão dữ dội hơn). Hình ảnh hồng ngoại mô tả các sắc thái đại dương hoặc xoáy lốc và dòng chảy như Gulf Stream có giá trị đối với ngành vận tải biển. Ngư dân và nông dân quan tâm đến việc biết nhiệt độ đất và nước để bảo vệ cây trồng của họ chống lại băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt từ biển. Ngay cả hiện tượng El Nino có thể được phát hiện. Sử dụng các kỹ thuật số hóa màu, hình ảnh nhiệt phổ màu xám có thể được chuyển đổi thành màu sắc khác để dễ dàng xác định thông tin muốn thu thập.
Các loại vệ tinh khí tượng
Vệ tinh khí tượng thường có hai loại quỹ đạo cơ bản: quỹ đạo địa tĩnh (vệ tinh địa tĩnh) và quỹ đạo cực.
Vệ tinh khí tượng địa tĩnh
Vệ tinh khí tượng địa tĩnh bay vòng quanh Trái Đất phía trên xích đạo ở độ cao khoảng 35.880 km (22.300 dặm). Ở quỹ đạo này, các vệ tinh có chiều quay cùng chiều với Trái Đất, do đó nó có vị trí cố định so với mặt đất. Do đó, nó có thể truyền các hình ảnh của bán cầu phía dưới liên tục bằng các máy ảnh và bộ cảm biến hồng ngoại của nó. Các hãng thông tấn đưa tin tức về thời tiết dùng các ảnh từ vệ tinh này trong các chương trình dự báo thời tiết như là các ảnh chụp, hoặc ghép lại thành ảnh động để thể hiện sự thay đổi thời tiết. Chúng cũng có sẵn trên các trang dự báo của www.noaa.gov.
Hiện nay, có nhiều vệ tinh khí tượng địa tĩnh đang được sử dụng. Hoa Kỳ có sáu vệ tinh đang hoạt động thuộc dòng GOES (vệ tinh). GOES-15, GOES-16 và GOES-17. GOES-16 và GOES-17 theo thứ tự vẫn hoạt động trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. GOES-15 sẽ kết thúc sứ mệnh vào đầu tháng 7 năm 2019. Trước đó Mỹ cũng đã có ba vệ tinh thời tiết và đã hoàn thành sứ mệnh bao gồm GOES-12 được mệnh danh là GOES-East, nằm phía trên sông Amazon và cung cấp hầu hết thông tin thời tiết của Hoa Kỳ. GOES-10 còn được gọi là GOES-West nằm ở trên phía Đông Thái Bình Dương. GOES-9 cho Nhật mượn thông qua một thỏa thuận quốc tế do vệ tinh GMS-5 của Nhật đã hư hỏng và việc phóng vệ tinh thay thế (vệ tinh MTSAT-1) thất bại; nó bay trên vùng giữa Thái Bình Dương.
Vệ tinh thời tiết thế hệ mới của Nga Elektro-L No.1 hoạt động ở tọa độ 76°Đ trên Ấn Độ Dương. Nhật Bản có MTSAT-2 nằm ở giữa Thái Bình Dương ở tọa độ 145°Đ và Himawari 8 ở 140°Đ. Châu Âu có các vệ tinh Meteosat-8 (3,5°T) và Meteosat-9 (0°) bay trên Đại Tây Dương và Meteosat-5. Meteosat-6 (63°Đ) và Meteosat-7 (57,5°Đ) bay trên Ấn Độ Dương. Nga có vệ tinh GOMS bay trên xích đạo phía Nam Moskva. Ấn Độ cũng có vệ tinh địa tĩnh gọi là INSAT chứa các thiết bị thời tiết. Trung Quốc có vệ tinh Phong Vân (Tiếng Anh: Feng-Yun, Tiếng Trung Quốc: 風雲) là vệ tinh địa tĩnh. Vệ tinh được phóng gần đây nhất là FY-2E,,FY-2F và FY-2G hoạt động lần lượt tại kinh độ 86,5°Đ, 123,5°Đ và 105°Đ.
Vệ tinh quỹ đạo cực bay vòng quanh Trái Đất ở độ cao từ 850 km (530 dặm) từ hướng bắc đến nam hoặc ngược lại và đi ngang qua các địa cực trên đường đi. Vệ tinh quỹ đạo cực có quỹ đạo đồng bộ mặt trời , có nghĩa là nó có thể quan sát bất kỳ vị trí nào trên Trái Đất và mỗi ngày 2 lần với cùng điều kiện ánh sáng vì giờ địa phương chỗ nó đi qua gần như không thay đổi. Các vệ tinh thời tiết quay quanh cực cung cấp độ phân giải tốt hơn nhiều so với các vệ tinh địa tĩnh do gần Trái Đất hơn.
Hoa Kỳ có những vệ tinh NOAA là vệ tinh khí tượng quỹ đạo cực, hiện tại NOAA-15 và NOAA-18, NOAA-19 (POES) và NOAA-20 (JPSS). Châu Âu có vệ tinh MetOp-A và MetOp-B vận hành bởi EUMETSAT. Nga có những vệ tinh Meteor và RESURS. Trung Quốc có FY-3A, 3B và 3C. Ấn Độ cũng có những vệ tinh quỹ đạo cực.
Ảnh chụp ánh sáng bình thường của vệ tinh khí tượng chụp ban ngày người bình thường vẫn có thể hiểu được; mây, hệ mây như bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, tuyết, cháy, ô nhiễm, khói, sương mù... đều hiện ra. Ngay cả gió vẫn có thể xác định được dựa trên hình dạng mây, cách sắp xếp và sự di chuyển từ những bức ảnh trước đó.
Ảnh hồng ngoại và ảnh chụp nhiệt độ được chụp bằng các sensor cho phép các nhà phân tích xác định độ cao và loại mây, tính nhiệt độ mặt đất và mặt nước, đặt điểm mặt biển. Các ảnh hồng ngoại mô tả những xoáy nước trên biển và bản đồ các dòng hải lưu có giá trị kinh tế và công nghiệp hàng hải. Ngư dân và nông dân cũng cần biết nhiệt độ mặt đất và mặt nước để bảo vệ mùa màng trước sự băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt trên biển. Hiện tượng El Niño cũng có thể được xác định. Dùng kỹ thuật tô màu ảnh kỹ thuật số, các sắc độ xám của ảnh được chuyển thành các màu để xác định các thông tin mong muốn một cách dễ dàng. |
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là , song được biết đến với tên gọi thông tục hơn là , vì thế có thể gọi theo cách dân dã là "Lá cờ mặt trời". Nhật chương kỳ được xem là biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc.
Nisshōki đã được chỉ định làm quốc kỳ theo Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được công bố và có hiệu lực vào ngày 13 tháng 8 năm 1999. Mặc dù trước đó không có bất kỳ luật nào chỉ định quốc kỳ chính thức cho nước Nhật nhưng hiệu kỳ mặt trời đã là quốc kỳ trên thực tế của Nhật Bản. Thái chính quan ban hành hai đạo luật vào năm 1870, mỗi đạo luật có một điều khoản về thiết kế của quốc kỳ. Theo Tuyên bố số 57 Minh Trị 3, ngày 27 tháng 2 năm 1870, hiệu kỳ mặt trời được thông qua làm hiệu kỳ sử dụng cho thương thuyền. Theo Tuyên bố 651 Minh Trị 3 ngày 27 tháng 10 cùng năm, hiệu kỳ mặt trời là quân kỳ sử dụng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Việc sử dụng Hinomaru bị hạn chế vô cùng nghiêm ngặt trong những năm đầu Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những hạn chế này sau đó đã được nới lỏng.
Mặt trời có một vai trò quan trọng trong thần thoại và tôn giáo của người Nhật Bản, thiên hoàng được cho là hậu duệ trực tiếp của nữ thần mặt trời Amaterasu, và tính hợp pháp của nhà cai trị dựa trên mối quan hệ thiêng liêng này, nữ thần mặt trời là vị thần đứng đầu của Thần đạo. Tên gọi của đất nước cũng như lá cờ phản ánh ý nghĩa quan trọng của mặt trời. Quyển lịch sử Nhật thời cổ đại là Shoku Nihongi đã ghi rằng Thiên hoàng Monmu từng sử dụng một lá cờ tượng trưng cho mặt trời trong triều đình của mình vào năm 701, và đây cũng là lần đầu tiên một lá cờ có họa tiết mặt trời được sử dụng ở Nhật Bản. Lá cờ lâu đời nhất Nhật Bản được bảo tồn trong đền Unpō, Kōshū, Yamanashi, có từ trước thế kỷ thứ 16, một truyền thuyết cổ nói rằng lá cờ đã được Thiên hoàng Go-Reizei trao cho ngôi đền vào thế kỷ thứ 11. Trong cuộc Minh Trị Duy tân, cả hiệu kỳ mặt trời và Húc Nhật kỳ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã trở thành những biểu tượng quan trọng trong thời đại Đế quốc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ. Áp phích tuyên truyền, sách giáo khoa và phim mô tả lá cờ là nguồn tự hào và lòng yêu nước. Trong các gia đình ở Nhật Bản, công dân được yêu cầu phải treo cờ trong các ngày lễ quốc gia, lễ kỷ niệm và các dịp khác theo quy định của chính phủ. Các biểu tượng khác dành cho quốc gia và thiên hoàng có họa tiết Hinomaru ngày càng trở nên phổ biến từ sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai cũng như các cuộc chiến tranh khác.
Quan niệm của công chúng ở Nhật về quốc kỳ không giống nhau. Từ lâu, truyền thông phương Tây và Nhật Bản đều khẳng định lá cờ là một biểu tượng mạnh mẽ và bền bỉ đối với người Nhật. Từ khi Thế chiến II chấm dứt, việc sử dụng quốc kỳ và quốc ca Kimigayo trở thành vấn đề gây tranh cãi cho các trường công lập ở Nhật Bản. Tranh cãi về việc sử dụng các biểu tượng này đã dẫn đến các cuộc biểu tình và các vụ kiện. Cờ không được treo thường xuyên ở Nhật Bản do liên hệ của nó với chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Đối với một số người dân Okinawa, lá cờ đại diện cho sự kiện Thế chiến II và sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ sau chiến tranh. Đối với một số quốc gia từng bị Nhật Bản chiếm đóng, lá cờ bị xem là biểu tượng của sự xâm lược và chủ nghĩa đế quốc mà người Nhật đã gây ra cho họ. Hinomaru được sử dụng như một công cụ chống lại các quốc gia bị Nhật chiếm đóng với mục đích đe dọa, khẳng định sự thống trị và sự phục tùng vào Nhật Bản. Một số biểu ngữ quân sự của Nhật Bản thiết kế dựa theo Hinomaru, bao gồm cả biểu tượng hải quân. Hinomaru cũng đóng vai trò như một khuôn mẫu cho các lá cờ Nhật Bản khác trong việc sử dụng tư nhân và công cộng.
Lịch sử
Trước 1900
Vẫn chưa rõ về nguồn gốc chính xác của Hinomaru, song biểu tượng mặt trời mọc với ý nghĩa tượng trưng đã có kể từ đầu thế kỷ 7 (quần đảo Nhật Bản nằm về phía đông lục địa châu Á, do đó là nơi mặt trời "mọc"). Năm 607, một quốc thư bắt đầu bằng "nhật xuất xứ thiên tử" (thiên tử xứ mặt trời mọc) được gửi cho Tùy Dạng Đế. Nhật Bản thường được gọi là "xứ mặt trời mọc". Trong Bình gia vật ngữ (平家物語) từ thế kỷ 12 có chép rằng trên quạt của những samurai có vẽ hình mặt trời. Có một truyền thuyết về quốc kỳ liên quan vị hòa thượng Nichiren (日蓮: Nhật Liên) của đạo Phật, trong đó nói rằng, khi quân Mông Cổ xâm lược Nhật Bản vào thế kỷ 13, vị hòa thượng đã trao một hiệu kỳ mặt trời cho Đại tướng quân để đem ra chiến trường. Mặt trời cũng có liên hệ chặt chẽ với hoàng thất, do có truyền thuyết kể rằng các thiên hoàng là hậu duệ của nữ thần Amaterasu.
Một trong những hiệu kỳ cổ nhất của Nhật Bản nằm tại đền Unpō thuộc tỉnh Yamanashi. Theo truyền thuyết thì Thiên hoàng Go-Reizei đã trao cho Minamoto no Yoshimitsu và được xem là một bảo vật của gia tộc Takeda trong suốt 1.000 năm, và hiệu kỳ này đã có ít nhất 1.600 năm tuổi.
Các hiệu kỳ xuất hiện sớm nhất tại Nhật Bản được ghi nhận có niên đại từ Thời kỳ Azuchi-Momoyama vào cuối thế kỷ 16. Mỗi daimyō có hiệu kỳ riêng và được sử dụng chủ yếu trên chiến trường. Hầu hết hiệu kỳ là các dải dài thường mang mon (gia văn) của daimyō. Các thành viên trong cùng một gia tộc cũng có hiệu kỳ khác nhau để mang ra chiến trường. Các tướng lĩnh cũng có hiệu kỳ riêng của mình, hầu hết trong số đó khác biệt với hiệu kỳ của binh sĩ vốn có hình vuông.
Năm 1854, vào thời Mạc phủ Tokugawa, các thuyền đi biển của Nhật Bản được lệnh kéo Hinomaru nhằm phân biệt chúng với thuyền của ngoại quốc. Trước đó, các kiểu Hinomaru khác nhau được sử dụng trên những thuyền buôn bán với người Mỹ và người Nga. Hinomaru được quy định là hiệu kỳ thương mại của Nhật Bản vào năm 1870 và là quốc kỳ theo pháp luật từ năm 1870 đến năm 1885, đây là quốc kỳ đầu tiên được Nhật Bản thông qua.
Mặc dù khái niệm biểu tượng quốc gia còn xa lạ với người Nhật Bản, song chính phủ Minh Trị cần chúng để giao thiệp với thế giới bên ngoài. Điều này trở nên quan trọng sau khi Phó đề đốc Hoa Kỳ Matthew C. Perry đổ bộ lên vịnh Yokohama. Chính phủ Minh Trị còn quy định thêm những biểu tượng nhận dạng cho Nhật Bản, trong đó có quốc ca Kimigayo và quốc huy. Năm 1885, toàn bộ các luật trước đó không được ban hành trong Công báo chính thức của Nhật Bản đều bị bãi bỏ. Do quy định này, Hinomaru là quốc kỳ trên thực tế do không có pháp luật nào quy định về nó sau Minh Trị Duy tân.
Những xung đột ban đầu và Chiến tranh Thái Bình Dương
Việc sử dụng quốc kỳ gia tăng khi Nhật Bản mưu cầu mở rộng đế quốc của họ, Hinomaru hiện diện tại các lễ kỷ niệm sau những chiến thắng Chiến tranh Thanh-Nhật và Chiến tranh Nga-Nhật. Quốc kỳ cũng được sử dụng trong những nỗ lực chiến tranh trên toàn quốc. Một bộ phim tuyên truyền của Nhật Bản trong năm 1934 phác hoạ những quốc kỳ ngoại quốc là có thiết kế không hoàn chỉnh và có khuyết điểm, còn quốc kỳ Nhật Bản thì hoàn toàn hoàn hảo. Năm 1937, một nhóm thiếu nữ từ tỉnh Hiroshima thể hiện tình đoàn kết với những binh sĩ Nhật Bản chiến đấu tại Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật bằng cách ăn "bữa cơm quốc kỳ" gồm có umeboshi. Hinomaru bento trở thành biểu tượng chính trong việc động viên và đoàn kết chiến tranh của Nhật Bản đối với binh lính, kéo dài cho đến thập niên 1940.
Hinomaru được sử dụng trong các lễ kỷ niệm khi Nhật Bản giành được các thắng lợi trong Chiến tranh Trung-Nhật. Mọi người Nhật đều cầm quốc kỳ trong các dịp lễ.
Sách giáo khoa trong thời kỳ này cũng in Hinomaru cùng những khẩu hiệu khác, nhằm biểu đạt lòng trung thành với Thiên hoàng và quốc gia. Lòng ái quốc được dạy như một đức tính cho thiếu nhi Nhật Bản. Những biểu hiện của lòng ái quốc, như trưng quốc kỳ hoặc kính bái Thiên hoàng hàng ngày đều là một phần của một "người Nhật tốt."
Quốc kỳ là một công cụ của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản tại các khu vực Đông Nam Á bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai: người dân các nước bị chiếm đóng phải sử dụng quốc kỳ Nhật Bản, và học sinh phải hát Kimigayo trong lễ thượng kỳ vào buổi sáng. Các lá cờ địa phương được phép sử dụng tại một số khu vực như Philippines, Indonesia và Mãn Châu Quốc. Trong một số thuộc địa như Triều Tiên, Hinomaru và những biểu tượng khác được sử dụng nhằm giáng người Triều Tiên xuống vị thế hạng hai trong đế quốc.
Đối với người Nhật, Hinomaru là "lá cờ Mặt trời mọc sẽ thắp sáng bóng tối trên toàn thế giới." Đối với người phương Tây, đó là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của quân đội Nhật Bản.
Thời kỳ Hoa Kỳ chiếm đóng
Hinomaru là quốc kỳ Nhật Bản trên thực tế trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai và trong thời kỳ bị chiếm đóng. Trong thời gian Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh, cần phải có sự chấp thuận từ Tư lệnh Tối cao của Đồng Minh tại Nhật Bản thì mới được treo Hinomaru. Nhiều nguồn khác nhau chỉ nói đến mức độ sử dụng Hinomaru là hạn chế; một số nguồn sử dụng thuật ngữ "bị cấm". Ban đầu có những hạn chế nghiêm ngặt về việc treo Hinomaru, song không đến mức độ cấm hoàn toàn.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các thuyền dân sự của Nhật Bản sử dụng một thuyền kỳ do Hoa Kỳ cấp. Thuyền kỳ này được sửa đổi từ mã dấu hiệu E, được sử dụng từ tháng 9 năm 1945 đến khi thời kỳ chiếm đóng kết thúc. Tàu thuyền của Hoa Kỳ hoạt động tại vùng biển Nhật Bản sử dụng hiệu kỳ dấu hiệu "O" sửa đổi làm thuyền kỳ.
Ngày 2 tháng 5 năm 1947, Tướng Douglas MacArthur bãi bỏ việc cấm treo Hinomaru trong khuôn viên Tòa nhà Quốc hội Nhật Bản, Hoàng cung Tokyo, dinh Thủ tướng và Tòa án Tối cao cùng với việc phê chuẩn Hiến pháp Nhật Bản mới. Những hạn chế này được nới lỏng hơn nữa vào năm 1948, khi nhân dân được phép treo quốc kỳ vào những dịp quốc lễ. Đến tháng 1 năm 1949, những hạn chế bị bãi bỏ và bất cứ ai cũng có thể treo Hinomaru vào bất kỳ thời gian nào mà không cần sự cho phép. Kết quả là cho đến đầu thập niên 1950, các trường học và hộ gia đình được khuyến khích treo Hinomaru.
Sau chiến tranh đến 1999
Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, quốc kỳ Nhật Bản bị phê phán do có liên hệ với quá khứ quân phiệt của quốc gia. Sự phản đối tương tự cũng dành cho quốc ca của Nhật Bản là Kimigayo. Cảm nghĩ về Hinomaru và Kimigayo nhìn chung biến đổi từ một cảm giác ái quốc về "Đại Nhật Bản" sang một nước Nhật hòa bình và chống quân phiệt. Do biến đổi về tư tưởng này, quốc kỳ được sử dụng ít thường xuyên tại Nhật Bản từ sau chiến tranh, mặc dù những hạn chế bị bãi bỏ vào năm 1949.
Do Nhật Bản bắt đầu tái lập quan hệ ngoại giao với các nước, Hinomaru được sử dụng như một công cụ chính trị tại nước ngoài. Trong một chuyến công du của Thiên hoàng Hirohito và Hoàng hậu Kōjun đến Hà Lan, một số công dân Hà Lan đốt Hinomaru yêu cầu Thiên hoàng về nước và phải xét xử vấn đề tù binh chiến tranh người Hà Lan bị sát hại trong Thế chiến II. Ở trong nước, Hinomaru không được sử dụng trong hoạt động kháng nghị một hiệp định địa vị quân đồn trú mới được Hoa Kỳ và Nhật Bản đang đàm phán. Lá cờ được sử dụng phổ biến bởi công đoàn và những người kháng nghị khác là lá cờ đỏ.
Hinomaru và quốc ca lại gặp phải vấn đề mới khi Tokyo đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1964. Trước Thế vận hội, kích cỡ của hình mặt trời trên quốc kỳ được cải biến một phần là do hình mặt trời không nổi bật khi trưng cùng những quốc kỳ khác. Chuyên gia về màu sắc Tadamasa Fukiura chọn đặt hình tròn mặt trời chiếm 2/3 chiều cao của quốc kỳ. Fukiura lựa chọn màu sắc cho cờ trong Thế vận hội năm 1964 cũng như trong Thế vận hội Mùa đông 1998 tại Nagano.
Năm 1989, Thiên hoàng Hirohito băng hà, sự kiện này lại làm nổi lên vấn đề tinh thần của quốc kỳ. Phe bảo thủ cho rằng nếu quốc kỳ có thể được sử dụng trong tang lễ mà không khơi lại nỗi đau thương cũ, họ có thể có cơ hội đề xuất Hinomaru trở thành quốc kỳ mà không bị thách thức về mặt ý nghĩa của nó. Trong tang kỳ chính thức kéo dài sáu ngày trên toàn Nhật Bản, các lá quốc kỳ được treo rủ hoặc bọc trong dải màu đen. Mặc dù có những báo cáo về việc những người kháng nghị phá hoại Hinomaru trong ngày an táng Thiên hoàng, song việc các trường học treo Hinomaru rủ mà không bị hạn chế giúp đem đến thắng lợi cho phe bảo thủ.
Từ năm 1999 đến nay
Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được thông qua vào năm 1999, Hinomaru và Kimigayo được chọn lựa trở thành những biểu tượng quốc gia của Nhật Bản. Việc thông qua luật này bắt nguồn từ một vụ tự tử của hiệu trưởng ở Sera, Hiroshima, Toshihiro Ishikawa, ông đã không thể giải quyết được tranh chấp giữa hội đồng trường và giáo viên của ông về việc sử dụng Hinomaru và Kimigayo. Đạo luật này là một trong những luật gây tranh cãi nhiều nhất trong Quốc hội kể từ khi thông qua "Luật về hiệp lực với các hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc" vào năm 1992.
Thủ tướng Obuchi Keizō của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã quyết định soạn thảo bộ luật để biến Hinomaru và Kimigayo thành biểu tượng chính thức của Nhật Bản vào năm 2000. Bộ trưởng Nội các của ông, Hiromu Nonaka, muốn bộ luật hoàn thành vào dịp kỷ niệm 10 năm hoàng đế Akihito lên ngôi. Đây không phải là lần đầu tiên mà pháp luật được xem xét nhằm thiết lập cả hai biểu tượng trở thành biểu tượng chính thức. Năm 1974, sau bối cảnh trở lại chủ quyền Nhật của Okinawa vào năm 1972 và cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, Thủ tướng Tanaka Kakuei nói ẩn ý về một đạo luật sẽ được thông qua bao gồm hai biểu tượng trong luật pháp Nhật Bản. Ngoài việc hướng dẫn các trường dạy và hát Kimigayo, Tanaka muốn học sinh treo cờ Hinomaru trong lễ mỗi buổi sáng, và áp dụng một giáo trình dạy đạo đức dựa trên Bản trích dẫn Hoàng gia về Giáo dục do Thiên hoàng Minh Trị đưa ra vào năm 1890. Tanaka đã không thành công trong việc thông qua bộ luật trong quốc hội vào năm đó.
Những nhóm ủng hộ chính của dự luật là LDP và Đảng Công Minh (CGP), trong khi phe đối lập bao gồm Đảng Dân chủ Xã hội (SDPJ) và Đảng Cộng sản (JCP), họ đã phản đối vì ý nghĩa cả hai biểu tượng trong thời kỳ chiến tranh. CPJ tiếp tục phản đối vì không cho phép vấn đề được quyết định bởi công chúng. Trong khi đó, Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) không thể thúc đẩy sự đồng thuận trong đảng về vấn đề này. Chủ tịch DPJ và là thủ tướng tương lai của Nhật Kan Naoto tuyên bố DPJ buộc phải ủng hộ dự luật vì DPJ đã công nhận cả hai biểu tượng này là biểu tượng của Nhật Bản. Phó tổng thư ký và thủ tướng tương lai Hatoyama Yukio hiểu rằng dự luật này sẽ gây ra một sự chia rẽ hơn nữa trong xã hội và trong các trường công lập. Hatoyama đã bỏ phiếu cho dự luật trong khi Kan bỏ phiếu chống lại.
Trước khi tiến hành bỏ phiếu, đã có những lời kêu gọi tách đôi bộ luật tại Quốc hội. Giáo sư Đại học Waseda, Norihiro Kato tuyên bố Kimigayo là một vấn đề riêng biệt phức tạp hơn Hinomaru. Nỗ lực chỉ định Hinomaru là quốc kỳ của DPJ, và của các bên khác trong cuộc bỏ phiếu cho dự luật đã bị Quốc hội từ chối. Hạ viện đã thông qua dự luật vào ngày 22 tháng 7 năm 1999 với số phiếu thuận 86 trên 403. Dự luật đã được gửi đến Hạ viện vào ngày 28 tháng 7 và được thông qua vào ngày 9 tháng 8. Nó đã được ban hành thành luật vào ngày 13 tháng 8.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2009, một bức ảnh được chụp tại một cuộc biểu tình của DPJ trong Tổng tuyển cử Nhật Bản năm 2009 cho thấy một biểu ngữ được treo trên trần nhà. Biểu ngữ làm bằng hai lá cờ Hinomaru được cắt và khâu lại với nhau để tạo thành hình dạng của logo DPJ. Điều này gây phẫn nộ cho LDP và Thủ tướng Asō Tarō, họ nói đây là hành động không thể tha thứ. Đáp lại, Chủ tịch DPJ Yukio Hatoyama (người đã bỏ phiếu cho Luật về Quốc kỳ và Quốc ca) nói rằng biểu ngữ không phải là Hinomaru và không nên xem như vậy.
Thiết kế
Quy tắc số 57 năm 1870 có hai điều khoản liên quan đến quốc kỳ, điều khoản đầu tiên quy định về người treo và cách treo, điều khoản thứ hai quy định về cách sản xuất quốc kỳ. Tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng là 7:10. Hình tròn màu đỏ tượng trưng cho mặt trời và có đường kính bằng ba phần năm tổng chiều dài đứng. Luật quy định hình tròn nằm tại trung tâm, song thường được đặt lệch 1% hướng về phía vận thăng. Ngày 3 tháng 10 cùng năm, các quy định về thiết kế thương thuyền kỳ và các hải quân kỳ khác được thông qua. Đối với thương thuyền kỳ, tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng là 2:3. Kích cỡ hình tròn trong vẫn giữ nguyên, song hình tròn được đặt lệch 5% hướng về phía vận thăng.
Khi Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca được thông qua, kích thước của quốc kỳ có biến đổi nhỏ. Tỷ lệ tổng thể của quốc kỳ quy định chiều cao bằng 3:5 chiều rộng. Hình tròn đỏ chuyển dịch về chính tâm, song kích cỡ tổng thể của hình tròn vẫn không đổi. Nền của quốc kỳ là màu trắng (白色, bạch sắc) và hình tròn mặt trời là màu đỏ (紅色, hồng sắc), song sắc độ chính xác không được định rõ trong pháp luật năm 1999. Gợi ý duy nhất là đối với màu đỏ phải là màu "đậm".
Cục Phòng vệ Nhật Bản (nay là Bộ Quốc phòng) vào năm 1973 (năm Chiêu Hòa thứ 48) định rõ đặc điểm kỹ thuật của màu đỏ trên quốc kỳ là 5R 4/12 và của màu trắng là N9 trong hệ màu Munsell. Văn kiện này được thay đổi vào ngày 21 tháng 3 năm 2008 nhằm tương phối dựng hình của quốc kỳ với pháp luật hiện hành và hệ màu Munsell cập nhật. Văn kiện này quy định sợi acrylic và ni lông được sử dụng để sản xuất quốc kỳ sử dụng trong quân sự. Đối với acrylic, sắc độ màu đỏ là 5.7R 3.7/15.5 và màu trắng là N9.4; đối với ni lông sắc độ màu đỏ là 6.2R 4/15.2 và sắc độ màu trắng là N9.2. Trong một văn kiện do Cơ quan viện trợ phát triển chính phủ (Nhật Bản) (ODA) công bố, sắc độ màu đỏ của Hinomaru và biểu trưng của Cơ quan là DIC 156 và CMYK 0-100-90-0. Trong hội nghị thẩm định về Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca, có đề nghị sử dụng sắc độ đỏ nhạt (赤色, xích sắc) hoặc hệ màu của Quy cách công nghiệp Nhật Bản. Cờ được sản xuất tại Nhật Bản thường sử dụng thuốc nhuộm màu đỏ son.
Bảng màu
Sử dụng và phong tục
Khi Hinomaru lần đầu tiên ra mắt ở Nhật Bản, chính phủ đã yêu cầu công dân chào đón Hoàng đế bằng cờ. Có một số người Nhật phản đối, dẫn đến một số cuộc biểu tình. Phải mất một thời gian sau thì cờ mới được người dân chấp nhận.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có một phong tục phổ biến là bạn bè, bạn học và thân nhân của một quân nhân tại ngũ sẽ viết vào một Hinomaru và tặng nó cho anh ta. Quốc kỳ cũng được sử dụng như một bùa vận khí tốt và là một vật cầu nguyện quân nhân bình an trở về từ chiến trường. Một thuật ngữ về loại bùa này là . Một truyền thống là các chữ viết không được chạm vào hình mặt trời. Sau các trận chiến, những quốc kỳ này thường bị đối phương đoạt lấy, hoặc được tìm thấy trên người những quân nhân Nhật Bản tử trận. Những quốc kỳ này trở thành vật kỷ niệm, song ngày càng có nhiều quốc kỳ được gửi trả lại cho hậu duệ của những quân nhân Nhật Bản tử trận. Truyền thống ký lên Hinomaru như một lá bùa may mắn vẫn còn tiếp tục mặc dù khá hạn chế. Có thể thấy Hinomaru Yosegaki tại các sự kiện thể thao nhằm cổ động cho các đội tuyển quốc gia Nhật Bản.
là một headband màu trắng (bandana) với mặt trời đỏ ở giữa. Các cụm từ thường được viết trên đó. Chúng được đeo như một biểu tượng cho sự kiên trì, nỗ lực và can đảm của người mang chúng. Đây là những vật được mang trong nhiều dịp bởi khán giả cổ vũ thể thao, phụ nữ khi sinh, sinh viên trong trường luyện thi, nhân viên văn phòng, nhà buôn như niềm tự hào của họ, v.v. Trong Thế chiến II, các cụm từ hoặc "Bảy cuộc đời" được viết trên hachimaki và được các phi công kamikaze mang trên đầu. Điều này thể hiện tinh thần sẵn sàng chết vì đất nước của người phi công.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, toàn bộ các hộ gia đình được yêu cầu treo Hinomaru vào những ngày quốc lễ. Sau chiến tranh, việc treo quốc kỳ Nhật Bản hầu hết bị hạn chế trong các tòa nhà liên hệ với chính phủ quốc gia và địa phương như tòa thị chính; quốc kỳ hiếm khi xuất hiện tại các hộ gia đình hoặc tòa nhà thương mại, song một số cá nhân và công ty chủ trương treo quốc kỳ trong những ngày lễ. Mặc dù chính phủ Nhật Bản khuyến khích công dân treo Hinomaru trong những dịp quốc lễ, song việc này không mang tính pháp lý. Kể từ sinh nhật lần thứ 80 của Thiên hoàng vào ngày 23 tháng 12 năm 2002, Công ty Đường sắt Kyushu cho treo Hinomaru tại 330 trạm.
Bắt đầu từ năm 1995, ODA đã sử dụng họa tiết Hinomaru trong logo chính thức của họ. Bản thiết kế đó không phải do chính phủ tạo ra (logo được chọn từ 5.000 mẫu thiết kế do công chúng gửi) nhưng chính phủ đang cố gắng tăng trực quan hóa của Hinomaru thông qua các gói viện trợ và chương trình phát triển của họ. Theo ODA, việc sử dụng cờ là cách hiệu quả nhất tượng trưng cho viện trợ do người dân Nhật Bản cung cấp.
Văn hóa và nhận thức
Theo các cuộc thăm dò được thực hiện bởi truyền thông chính thống, hầu hết người dân Nhật Bản đã coi lá cờ của Nhật Bản là cờ quốc gia ngay cả trước khi thông qua Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca năm 1999. Mặc dù vậy, những tranh cãi xung quanh việc sử dụng cờ trong các sự kiện ở trường học hoặc phương tiện truyền thông vẫn còn. Ví dụ, các tờ báo tự do như Asahi Shimbun và Mainichi Shimbun thường đăng các bài viết phê phán lá cờ của Nhật Bản, phản ánh một phổ quát chính trị từ các độc giả của họ. Đối với những người Nhật Bản khác, lá cờ đại diện cho thời kỳ mà nền dân chủ bị đàn áp khi Nhật Bản là một đế chế.
Việc treo quốc kỳ tại hộ gia đình và doanh nghiệp cũng được tranh luận trong xã hội Nhật Bản. Bởi vì liên kết của nó với các nhà hoạt động uyoku dantai (cánh hữu), những người chính trị phản động và cực đoan, một số hộ và doanh nghiệp không treo cờ. Không có yêu cầu treo cờ trong bất kỳ ngày lễ quốc gia hoặc sự kiện đặc biệt nào. Thị trấn Kanazawa, Ishikawa, đã đề xuất kế hoạch vào tháng 9 năm 2012 sử dụng các quỹ của chính phủ để mua cờ với mục đích khuyến khích người dân treo cờ vào các ngày lễ quốc gia. Đảng Cộng sản Nhật Bản thì phát ngôn chống lại lá cờ.
Suy nghĩ tiêu cực về quốc kỳ vẫn tồn tại ở các thuộc địa cũ của Nhật Bản cũng như trong chính lãnh thổ Nhật Bản, chẳng hạn như ở Okinawa. Một ví dụ đáng chú ý về điều này, vào ngày 26 tháng 10 năm 1987, một chủ siêu thị người Okinawa đã đốt cờ trước khi bắt đầu Đại hội Thể thao Quốc gia Nhật Bản. Người đốt cờ là Shōichi Chibana đã đốt cháy Hinomaru không chỉ để thể hiện sự phản đối sự tàn bạo của quân đội Nhật Bản mà còn phản đối sự hiện diện liên tục của lực lượng Hoa Kỳ, và còn nhằm ngăn không cho nó xuất hiện trước công chúng. Các sự cố khác ở Okinawa là việc xé cờ trong các buổi lễ ở trường, và học sinh từ chối tôn vinh lá cờ khi nó được kéo lên cùng nhạc "Kimigayo".
Tại thủ phủ Naha, Okinawa, Hinomaru được kéo lên lần đầu tiên khi Okinawa trở về với Nhật Bản trong dịp kỷ niệm 80 năm thành phố vào năm 2001. Tại Trung Quốc và Hàn Quốc, cả hai đều bị chiếm đóng bởi Đế quốc Nhật Bản, việc áp dụng chính thức Hinomaru vào năm 1999 là phản ứng của Nhật Bản chủ động hơn về an ninh và tái vũ trang. Các cuộc tranh cãi về tình trạng của đền Yasukuni, Hợp tác quân sự Mỹ-Nhật và tiến hành chương trình phòng thủ tên lửa. Ở các quốc gia khác mà Nhật Bản từng chiếm đóng, luật năm 1999 đã gặp phải những phản ứng trái chiều và bị che đậy. Ở Singapore, thế hệ cũ vẫn có những cảm xúc xấu đối với cờ trong khi thế hệ trẻ không giữ quan điểm như vậy vì họ phần nhiều chấp nhận các khía cạnh văn hóa Nhật Bản thông qua anime, game và Uniqlo. Chính phủ Philippines không chỉ tin rằng Nhật Bản sẽ không trở lại chủ nghĩa quân phiệt, mà còn tin mục tiêu của luật năm 1999 là chính thức thiết lập hai biểu tượng (cờ và quốc ca) trong luật pháp và mọi quốc gia đều có quyền tạo ra các biểu tượng quốc gia của họ. Nhật Bản không có luật hình sự đối với việc đốt Hinomaru, nhưng cờ nước ngoài không thể bị đốt ở Nhật Bản.
Lễ nghi
Theo lễ nghi, Hinomaru có thể treo từ bình minh cho đến hoàng hôn; các doanh nghiệp và trường học được phép treo quốc kỳ từ khi mở cửa đến khi đóng cửa. Khi treo quốc kỳ Nhật Bản cùng quốc kỳ khác đồng thời, quốc kỳ Nhật Bản được đặt ở vị trí vinh dự và quốc kỳ ngoại quốc nằm ở bên phải, cả hai có kích cỡ bình đẳng. Khi treo cùng từ hai quốc kỳ khác trở lên, Hinomaru được xếp theo thứ tự của bảng chữ cái theo quy định của Liên Hiệp Quốc. Khi các quốc kỳ không còn thích hợp để sử dụng, nó thường được đốt một cách kín đáo. Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca không định rõ cách sử dụng quốc kỳ, song các tỉnh khác nhau lại ban hành các quy định riêng về việc sử dụng Hinomaru và các huyện kỳ của họ.
Tưởng niệm
Hinomaru có hai kiểu treo để tang, một là treo theo kiểu (cờ rủ) giống như tại nhiều quốc gia khác. Những cơ quan của Bộ Ngoại giao treo bán kỳ trong thời gian tang lễ của một nguyên thủ quốc gia ngoại quốc.
Một kiểu treo rủ thay thế là , gắn thêm một dải băng màu đen ở phía trên Hinomaru, kiểu này truy nguyên từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, khi Nhật hoàng Minh Trị băng hà và Nội các quyết định ban một sắc lệnh rằng Hinomaru cần phải được treo để tang khi Nhật hoàng băng hà. Nội các có thẩm quyền trong việc công bố treo quốc kỳ nhằm để tang.
Trường công lập
Từ sau Thế chiến II, Bộ Giáo dục ban hành các tuyên bố và quy định nhằm thúc đẩy việc sử dụng cả Hinomaru và Kimigayo tại các trường thuộc thẩm quyền của họ. Tuyên bố đầu tiên trong số này được ban hành vào năm 1950, với nội dung mong muốn nhưng không bắt buộc, đối với việc sử dụng cả hai biểu tượng. Điều này sau đó được mở rộng bao gồm sử dụng các biểu tượng vào các ngày lễ và trong các buổi tưởng niệm nhằm khuyến khích học sinh về các ngày lễ quốc gia và thúc đẩy giáo dục quốc phòng. Trong cuộc cải cách năm 1989 về định hướng giáo dục, chính phủ của LDP yêu cầu cờ phải được sử dụng trong các nghi lễ của trường và phải tôn trọng đúng mức đối với nó, và đối với cả Kimigayo. Hình phạt đối với quan chức nhà trường không tuân theo lệnh này cũng được ban hành trong cuộc cải cách năm 1989.
Hướng dẫn chương trình giảng dạy năm 1999 (学習指導要領 Gakushū shidō yōryō) do Bộ Giáo dục ban hành sau khi thông qua "Đạo luật về Quốc kỳ và Quốc ca" quy định rằng "vào lễ khai giảng và lễ tốt nghiệp, các trường phải giương cờ Nhật Bản và hướng dẫn học sinh hát "Kimigayo" (quốc ca), nâng cao ý nghĩa của cờ và bài hát." Ngoài ra, bình luận của Bộ về Hướng dẫn chương trình giảng dạy năm 1999 cho các trường tiểu học lưu ý rằng: "đưa ra tiến bộ quốc tế hóa, cùng việc thúc đẩy lòng yêu nước và nhận thức về người Nhật, điều quan trọng là nuôi dưỡng thái độ tôn trọng của trẻ em đối với quốc kỳ Nhật Bản và Kimigayo để họ trưởng thành lòng tự tôn công dân Nhật Bản trong một xã hội quốc tế hóa." Bộ cũng tuyên bố rằng nếu sinh viên Nhật Bản không thể tôn trọng biểu tượng của chính họ, thì họ sẽ không thể tôn trọng biểu tượng của các quốc gia khác.
Các trường học là trung tâm của tranh cãi về cả quốc ca và quốc kỳ. Hội đồng Giáo dục Tokyo yêu cầu sử dụng cả quốc ca và cờ trong các sự kiện thuộc thẩm quyền của họ. Lệnh yêu cầu giáo viên nhà trường phải tôn trọng cả hai biểu tượng hoặc có nguy cơ mất việc. Một số người phản đối các quy định đó vi phạm Hiến pháp Nhật Bản, nhưng Hội đồng đã lập luận rằng các trường học là cơ quan công lập, giáo viên phải có nghĩa vụ dạy học sinh của mình cách để trở thành một người công dân Nhật Bản tốt. Nhưng đã xảy ra các cuộc phản đối, các trường học từ chối treo Hinomaru trong lễ tốt nghiệp của trường và một số phụ huynh xé cờ. Các giáo viên thất bại trong việc khiếu nại hình sự chống Thống đốc Tokyo Shintarō Ishihara và các quan chức cấp cao, vì hành động đã ra lệnh cho các giáo viên tôn vinh Hinomaru và Kimigayo. Sau các cuộc phản đối trước đó, Liên đoàn giáo viên Nhật Bản chấp nhận sử dụng cả cờ và quốc ca; Liên minh giáo viên và nhân viên Nhật Bản vẫn phản đối cả hai biểu tượng và việc sử dụng chúng trong hệ thống trường học.
Hiệu kỳ có liên quan
Quân kỳ
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản sử dụng một phiên bản Hinomaru với tám tia màu đỏ hướng ra ngoài, gọi là . Một viền màu vàng nằm xung quanh rìa lá cờ.
Một biến thể nổi tiếng của Hinomaru là Hinomaru với 16 tia đỏ, từng được quân đội Nhật Bản sử dụng, đặc biệt là Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Thuyền kỳ (cờ hải quân) được thông qua làm cờ chiến tranh lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 5 năm 1870, và được sử dụng đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1945. Thuyền kỳ được tái thông qua vào ngày 30 tháng 6 năm 1954 và nay được sử dụng làm cờ hải quân của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản (JGSDF) và Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tham mưu trưởng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản Katsutoshi Kawano nói rằng lá cờ là "niềm kiêu hãnh" của Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Do từng được sử dụng bởi Quân đội Đế quốc Nhật Bản, lá cờ này vẫn mang đến tình cảm tiêu cực ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Họ phản đối lá cờ này vì là biểu tượng gắn liền với chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến II. JMSDF cũng sử dụng một cờ hiệu vận hành. Được thông qua lần đầu tiên vào năm 1914 và được tái tuyên bố vào năm 1965, cờ hiệu này chứa một phiên bản đơn giản của biểu tượng cờ hải quân đặt cuối tàu, với phần lớn cờ có màu trắng. Tỷ lệ cờ hiệu nằm trong khoảng từ 1:40 đến 1:90.
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JASDF) được thành lập một cách độc lập vào năm 1952, chỉ có đĩa mặt trời đơn giản như biểu tượng của nó. Đây là chi nhánh dịch vụ duy nhất có biểu tượng không theo Tiêu chuẩn Hoàng gia. Tuy nhiên, chi nhánh có một thiết kế để treo ở các căn cứ và trong các cuộc diễu hành. Thiết kế được tạo ra vào năm 1972, đây là lần thứ ba được JASDF sử dụng kể từ khi thành lập. Thiết kế chứa biểu tượng của chi nhánh tập trung trên nền màu xanh.
Mặc dù không phải là quốc kỳ chính thức, cờ tín hiệu Z đóng vai trò chính trong lịch sử hải quân Nhật Bản. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1905, Đô đốc Heihachirō Tōgō của tàu chiến Mikasa đang chuẩn bị giao chiến với Hạm đội Baltic của Nga. Trước khi Hải chiến Tsushima bắt đầu, Togo đã giương cờ Z trên Mikasa nhằm giao chiến với hạm đội Nga, kết quả chiến thắng cho Nhật Bản. Ông nói với hải đoàn như sau: "Số phận của Hoàng gia Nhật Bản đặt vào trận chiến này; mọi cánh tay sẽ nỗ lực và làm hết sức mình." Cờ Z cũng được treo trên tàu sân bay Akagi vào đêm trước cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, Hawaii, vào tháng 12 năm 1941.
Cờ hoàng gia
Bắt đầu từ năm 1870, cờ được tạo ra cho Thiên hoàng Nhật Bản (lúc đó là Thiên hoàng Minh Trị), hoàng hậu và cho các thành viên khác trong hoàng tộc. Lúc đầu, cờ của Thiên hoàng được trang trí công phu, với một mặt trời nằm ở trung tâm của mẫu cờ. Thiên hoàng có những lá cờ được sử dụng trên đất liền, trên biển và trên xe ngựa. Gia đình hoàng gia cũng được cấp cờ để sử dụng trên biển và trên đất liền (một để cắm, và một cờ khi di chuyển). Các lá cờ trên xe ngựa là một bông hoa cúc đơn sắc với 16 cánh hoa, được đặt ở trung tâm của một nền đơn sắc. Những lá cờ này được loại bỏ vào năm 1889 khi Thiên hoàng quyết định sử dụng hoa cúc trên nền đỏ làm cờ của ông. Với những thay đổi nhỏ về sắc thái và tỷ lệ màu sắc, những lá cờ được thông qua vào năm 1889 vẫn được sử dụng bởi gia đình hoàng gia.
Cờ của Thiên hoàng hiện tại là một bông hoa cúc 16 cánh màu vàng, tập trung trên nền đỏ với tỷ lệ 2:3. Hoàng hậu sử dụng cùng một lá cờ, có hình dạng đuôi én. Hoàng tử kế vị và công chúa kế vị sử dụng cùng một mẫu lá cờ, ngoại trừ với một bông hoa cúc nhỏ hơn và một đường viền màu trắng ở giữa các lá cờ. Hoa cúc đã gắn liền với ngai vàng của Hoàng đế kể từ thời Thiên hoàng Go-Toba vào thế kỷ thứ 12, nhưng nó không trở thành biểu tượng độc quyền của ngai vàng cho đến năm 1868.
Cờ địa phương
Mỗi tỉnh trong số 47 tỉnh tất cả của Nhật Bản có một lá cờ riêng, giống như quốc kỳ, bao gồm một biểu tượng - được gọi là mon - được đặt trên một mặt nền đơn sắc (trừ tỉnh Ehime, nơi nền được tô màu). Có một số cờ tỉnh, như Hiroshima, phù hợp với thông số kỹ thuật của họ để làm lá cờ quốc gia (tỷ lệ 2:3, mon đặt ở trung tâm và chiều dài của lá cờ). Một số mon hiển thị tên tỉnh bằng chữ Nhật; một số khác được mô tả cách điệu về địa điểm hoặc một điểm đặc biệt khác của tỉnh. Một ví dụ về cờ của tỉnh là Nagano, ký tự katakana ナ (na) màu cam xuất hiện ở trung tâm của một đĩa trắng. Một cách giải thích của mon là biểu tượng na đại diện cho một ngọn núi và đĩa trắng là một cái hồ. Màu cam đại diện cho mặt trời trong khi màu trắng đại diện cho tuyết của khu vực.
Đơn vị hành chính cấp hạt cũng có thể áp dụng cờ của riêng họ. Các thiết kế của cờ thành phố tương tự như cờ của tỉnh: một mon trên nền đơn sắc. Một ví dụ là lá cờ của Amakusa ở tỉnh Kumamoto: biểu tượng thành phố bao gồm ký tự Katakana ア (a) và được bao quanh bởi những con sóng. Biểu tượng này được tập trung vào một lá cờ trắng, với tỷ lệ 2:3. Cả biểu tượng thành phố và cờ được thông qua năm 2006.
Thiết kế khác
Ngoài những lá cờ được sử dụng bởi quân đội, một số mẫu thiết kế cờ khác được lấy cảm hứng từ quốc kỳ. Cờ Tổng công ty Bưu chính Nhật Bản trước đây bao gồm Hinomaru với một thanh ngang màu đỏ được đặt ở trung tâm của lá cờ. Ngoài ra còn có một vòng trắng mỏng xung quanh mặt trời đỏ. Sau đó, nó đã được thay thế bằng một lá cờ bao gồm dấu bưu điện 〒 màu đỏ trên nền trắng.
Có hai lá cờ quốc gia được thiết kế gần đây giống với lá cờ Nhật Bản. Năm 1971, Bangladesh giành được độc lập từ Pakistan, nước này đã thông qua một lá cờ quốc gia có nền màu xanh lá cây, có một đĩa tròn màu đỏ ngoài ở trung tâm chứa bản đồ vàng của Bangladesh. Cờ hiện tại được thông qua vào năm 1972, đã bỏ bản đồ vàng và giữ các chi tiết còn lại. Chính phủ Bangladesh chính thức gọi đĩa đỏ là một vòng tròn; màu đỏ tượng trưng cho máu đã đổ ra để tạo ra đất nước của họ. Quốc đảo Palau sử dụng một lá cờ có thiết kế tương tự, nhưng cách phối màu hoàn toàn khác nhau. Trong khi Chính phủ Palau không trích dẫn lá cờ Nhật Bản như một ảnh hưởng trên lá cờ quốc gia của họ, khi Nhật Bản từng quản lý Palau từ năm 1914 cho đến năm 1944. Lá cờ của Palau mang màu sắc của trăng tròn trên nền màu xanh da trời. Mặt trăng tượng trưng cho hòa bình và một quốc gia non trẻ trong khi nền màu xanh tượng trưng cho sự chuyển đổi của chính quyền Palau từ năm 1981 đến năm 1994, khi nó giành được độc lập hoàn toàn.
Biểu tượng hải quân Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến việc thiết kế các lá cờ khác. Một thiết kế cờ như vậy được sử dụng bởi Asahi Shimbun. Ở dưới cùng của lá cờ, một phần tư mặt trời được hiển thị. Ký tự kanji 朝 được hiển thị trên lá cờ, với màu trắng, bao gồm hầu hết mặt trời. Các tia sáng kéo dài từ mặt trời, xuất hiện theo thứ tự xen kẽ đỏ và trắng, đỉnh điểm là 13 sọc. Lá cờ thường thấy tại Giải vô địch bóng chày trường trung học quốc gia, vì Asahi Shimbun là nhà tài trợ chính của giải đấu. Các cờ cấp bậc và biểu tượng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng dựa trên các thiết kế của họ trên biểu tượng của hải quân.
Thư viện ảnh |
Nitơ lỏng là nitơ trong trạng thái lỏng ở nhiệt độ siêu thấp. Nó được sản xuất công nghiệp bằng cách chưng cất phân đoạn không khí lỏng. Nitơ lỏng là chất lỏng trong suốt, không màu, trọng lượng riêng 0,807 g/ml ở điểm sôi của nó và hằng số điện môi 1.4. Nitơ lỏng thường được gọi bằng LN2, viết tắt hoặc "LIN" hoặc "LN "và có số UN 1977.
Ở áp suất khí quyển, nitơ lỏng sôi ở nhiệt độ 77 K (-196 °C, -321 °F) và là một chất lỏng đông lạnh có thể gây đóng băng nhanh chóng khi tiếp xúc với mô sống, có thể dẫn đến bị tê cóng. Khi được cách nhiệt thích hợp với nhiệt độ xung quanh, nitơ lỏng có thể được lưu trữ và vận chuyển, ví dụ trong bình chân không. Ở đây, nhiệt độ rất thấp được duy trì liên tục tại 77 K bằng cách làm chậm sự sôi của nitơ. Tùy thuộc vào kích thước và thiết kế, thời gian lưu trữ trong bình chân không trung bình từ vài giờ đến vài tuần.
Nitơ lỏng có thể dễ dàng chuyển đổi thành dạng rắn bằng cách đặt nó trong một khoang chân không được bơm bằng một máy bơm chân không quay. Nitơ lỏng đóng băng ở 63 K (-210 °C, -346 °F) . Dù có vai trò quan trọng trong việc làm lạnh, hiệu quả của nitơ lỏng là chất làm mát bị hạn chế bởi thực tế là nó sôi ngay lập tức khi tiếp xúc với một đối tượng ấm hơn, bao quanh các đối tượng trong lớp bong bóng khí nitơ cách nhiệt. Hiệu ứng này, được gọi là hiệu ứng Leidenfrost, xảy ra khi bất kỳ chất lỏng nào tiếp xúc với một đối tượng có nhiệt độ cao hơn đáng kể so với điểm sôi của nó. Việc làm mát nhanh hơn có thể đạt được bằng cách nhúng vật vào hỗn hợp nitơ lỏng và nitơ rắn thay vì chỉ sử dụng nitơ lỏng.
Nitơ được hoá lỏng đầu tiên tại Đại học Jagiellonia ngày 15 tháng tư 1883 bởi 2 vật lý Ba Lan, Zygmunt Wroblewski và Karol Olszewski. Nitơ lỏng từng được sử dụng để bảo quản thi thể. |
Theodor Schwann (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1810, Neuss, Đức; mất ngày 11 tháng 1 năm 1882, Köln, Đức), là một nhà tế bào học, mô học và sinh lý học người Đức. Ông là một trong những người tiên phong trong việc miêu tả tế bào như cấu trúc cơ bản của mô động vật.
Ông là học trò của Johannes Müller và làm giáo sư ở trường Đại học Louvain (từ 1838 đến 1848) và trường Liège (từ 1848). Là đồng tác giả của thuyết tế bào (cùng với Matthias Schleiden), Schwann đã mở rộng công trình của Schleiden và cho thấy tế bào là nền tảng của cả mô động vật lẫn thực vật. Ông đã nhận ra ý nghĩa sinh lý và hình thái học của tế bào trước các nhà khoa học khác cùng thời thế kỉ 19 và có thể được gọi là ông tổ của tế bào học. Ông tách triết được pepsin vào năm 1836 vào năm 1848 ông đã miêu tả lớp vỏ myelin, tế bào bọc ngoài của tế bào thần kinh, sau này được gọi theo tên ông (tế bào Schwann). Ông cũng giải thích bản chất sống của nấm men và đưa ra thuật ngữ chuyển hoá để diễn tả quá trình biến đổi hoá học xảy ra trong tế bào. Tác phẩm có ảnh hưởng lớn là Nghiên cứu ở mức độ hiển vi về tính thống nhất trong cấu trúc và sự phát triển của động vật và thực vật (1839).
Tiểu sử
Cha của Schwann là một người rất có tài về cơ khí, lúc đầu là một người thợ kim hoàn, sau đó ông lập ra cơ nghiệp in ấn. Schwann được thừa hưởng sở thích của người cha, và niềm vui hồi nhỏ của ông là xây dựng những cái máy móc nhỏ đủ loại. Ông học ở trường cao đẳng Jesuit ở Köln và sau đó ở Bonn, nơi ông gặp Johannes Peter Müller, và không lâu sau trở thành người phụ tá cho những thí nghiệm sinh lý của Müller. Sau đó ông tới Wurzburg để tiếp tục học y khoa, và từ đó tới Berlin để tốt nghiệp vào năm 1834. Ở đây ông gặp lại Müller, lúc đó cũng tới Berlin, và đã được Müller thuyết phục đi vào con đường nghiên cứu khoa học và chỉ định làm phụ tá ở một viện giải phẫu. Năm 1838, Schwann được gọi vào làm về giải phẫu học tại trường Đại học Louvain của người Công giáo La Mã ở Louvain, Bỉ, nơi ông đã ở lại 9 năm. Năm 1847 ông tới làm giáo sư ở Liège, và ông đã làm việc ở đây cho tới lúc mất, năm 1882. Ông là người đặc biệt lịch sự, hoà nhã tốt bụng, và sùng đạo Thiên chúa giáo trong suốt cuộc đời.
Sự nghiệp khoa học
Trong 4 năm dưới sự ảnh hưởng của Müller ở Berlin, những công trình có giá trị nhất của Schwann đã được hoàn thành. Müller trong lúc này đang hoàn thành cuốn sách nổi tiếng của ông về sinh lý, và Schwann đã giúp đỡ ông trong các thí nghiệm cần thiết cho công trình đó. Vì thế sự quan tâm của ông được hướng về mô thần kinh và cơ.
Müller cũng hướng sự quan tâm của ông về quá trình tiêu hoá. Năm 1836, trong khi ở Đại học Berlin, Schwann đã chỉ ra sự phụ thuộc cốt yếu của quá trình tiêu hóa vào sự có mặt của một chất lên men mà ông gọi là pepsin, trong dịch tách triết từ biểu mô dạ dày. Sau này, người ta biết đây là một loại enzyme tiêu hóa. Pepsin là enzyme đầu tiên tách được từ mô động vật. Năm 1837, Schwann đã kết luận rằng có cái gì đó trong không khí (mà bị phân hủy bởi nhiệt độ) là tác nhân gây ra sự thối rữa, nhưng bản thân không khí thì không. Schwann cũng xem xét lại câu hỏi về "học thuyết nảy sinh ngẫu phát" (spontaneous generation). Học thuyết nảy sinh ngẫu phát cho rằng bệnh là do lam sơn chướng khí. Ông đã phản biện nó sau này; và ông cũng khám phá ra bản chất hữu cơ của nấm men trong quá trình thí nghiệm. Thực tế là lý thuyết về mầm sống của Louis Pasteur cũng như ứng dụng của Joseph Lister vào việc khử trùng, đều có phần ảnh hưởng của ông.
Một lần khi ông ăn tối với Matthias Jakob Schleiden năm 1837, câu chuyện chuyển sang nhân của tế bào thực vật. Schwann nhớ là đã nhìn thấy một cấu trúc tương tự trong tế bào của dây sống (notochord) (được chỉ ra bởi Müller) và ngay lập tức nhận ra điều cốt yếu kết nối hai hiện tượng này. Sự giống nhau đã được xác nhận bởi cả hai nhà quan sát, và kết quả là một hợp tác khoa học về thuyết tế bào được tiến hành trong suốt hai năm sau đó.
Năm 1838, Schwann trở thành giáo sư tại Đại học Louvain, Bỉ. Thời gian này, ông cùng với Matthias Schleiden, phát triển thuyết tế bào. Học thuyết đã xác minh tế bào là phần tử cơ bản của thực vật và động vật. Schwann và Schleiden ghi nhận rằng một số loài là đơn bào, một số là đa bào. Họ cũng ghi nhận màng tế bào, nhân và tế bào chất là đặc điểm chung của mọi tế bào và miêu tả chúng bằng cách so sánh nhiều mô thực vật và động vật khác nhau. Năm 1839, Schwann đưa ra giả thuyết rằng tất cả các loài đều được cấu tạo từ tế bào. Cùng với Matthias Schleiden, ông đã hệ thống hoá thuyết tế bào của sự sống. Những quan sát này cùng với thuyết tế bào đã được ghi lại trong tác phẩm của Schwann Nghiên cứu ở mức độ hiển vi về tính thống nhất trong cấu trúc và sự phát triển của động vật và thực vật xuất bản năm 1839 ở Berlin.
Lý thuyết tế bào vì thế được hình thành, và Schwann là học trò đầu tiên của Müller đã phá vỡ "thuyết sống" cổ điển và tìm ra cách giải thích về mặt lý hoá học của sự sống. Trong quá trình xác minh thuyết tế bào, ông đã xét kỹ lưỡng lại toàn bộ mô học, và chứng minh nguồn gốc và sự phát triển từ tế bào của những mô biệt hoá ở mức độ cao nhất như móng sừng, lông vũ hay men. Sự tổng quát hoá của ông trở thành nền móng cho mô học hiện đại, và đối với Rudolf Virchow (người có những nghiên cứu về tế bào bệnh học được suy diễn từ Schwann), sự tổng quát hoá ấy đã đặt bệnh học hiện đại trên một cơ sở khoa học thực sự.
Năm 1848, Schwann làm giáo sư tại Đại học Liège, Bỉ. Trong khi ở đó, ông đã tìm ra rằng sự lên men của đường và tinh bột là kết quả của một quá trình sống, có sự tham gia của nấm men. Ông cũng đã nghiên cứu sự co cơ cùng với cấu trúc thần kinh, và cũng tìm ra cơ vân ở phần trên thực quản và lớp vỏ myelin ở axon ngoại biên mà chúng ta gọi là tế bào Schwann. Bên cạnh việc khám phá ra lớp vỏ của sợi thần kinh mang tên ông, ông cũng bắt đầu những nghiên cứu về sự co cơ mà sau đó được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn bởi Emil du Bois-Reymond và những người khác. Ông cũng thực hiện những thí nghiệm nhằm bác bỏ thuyết "nảy sinh ngẫu phát" (spontaneous generation). Schwann đặt ra thuật ngữ "chuyển hóa" để miêu tả sự biến đổi hoá học trong các mô sống và hệ thống hoá những nguyên tắc cơ bản của phôi thai học bằng cách quan sát thấy trứng là một tế bào đơn và phát triển thành cơ thể hoàn thiện. |
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh (), thường được biết đến với tên gọi English Premier League hoặc EPL, là hạng đấu cao nhất của hệ thống các giải bóng đá ở Anh. Gồm 20 câu lạc bộ, giải đấu sử dụng hệ thống thăng hạng và xuống hạng với English Football League (EFL). Mùa giải kéo dài từ tháng 8 đến tháng 5 với mỗi đội chơi 38 trận đấu (đấu với 19 đội khác trên sân nhà và sân khách). Đa số các trận đấu được diễn ra vào chiều Thứ Bảy và Chủ Nhật.
Giải đấu được thành lập vào ngày 20 tháng 2 năm 1992 với tên gọi FA Premier League sau quyết định của các câu lạc bộ tham dự Football League First Division tách khỏi Football League, một giải đấu khởi nguồn từ năm 1888, nhằm tận dụng lợi thế về các thỏa thuận bản quyền truyền hình. Thỏa thuận trong nước trị giá 1 tỉ bảng/năm được ký cho mùa 2013–14, với việc BSkyB và BT Group giành quyền phát sóng lần lượt 116 và 38 trận đấu. Giải đấu thu về 2,2 tỉ euro/năm tiền bản quyền truyền hình trong nước và quốc tế. Tính đến mùa 2014–15, các câu lạc bộ được chia khoản lợi nhuận 1,6 tỉ bảng, và 2,4 tỉ bảng vào mùa 2016–17.
Hiện tại, Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Trong mùa giải 2014–15, trung bình 1 trận đấu tại Premier League thu hút khoảng 36,000 khán giả tới sân, cao thứ 2 trong các giải bóng đá chuyên nghiệp sau Bundesliga với 43.500 khán giả. Phần lớn các sân bóng đều được lấp đầy khán giả. Premier League xếp thứ 1 trong Hệ số UEFA dành cho các giải đấu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ tại các giải đấu châu Âu trong 5 mùa giải, tính đến năm 2021.
Đã có tất cả 50 câu lạc bộ tham dự kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League năm 1992, nhưng mới chỉ có 7 trong số đó giành được chức vô địch: Manchester United (13), Manchester City (7), Chelsea (5), Arsenal (3), Blackburn Rovers, Leicester City và Liverpool (1).
Lịch sử hình thành
Bối cảnh
Sau thành công tại châu Âu những năm 1970 và đầu 1980, đến cuối những năm 80 đánh dấu những bước lùi của bóng đá Anh. Các sân vận động xuống cấp, những cổ động viên phải sử dụng cơ sở vật chất nghèo nàn, hooligan đầy rẫy, và các câu lạc bộ Anh bị cấm thi đấu tại các giải châu Âu trong 5 năm sau thảm họa Heysel năm 1985. Football League First Division, giải đấu cao nhất của nước Anh ra đời năm 1888, xếp sau Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha về số lượng khán giả cũng như doanh thu, một vài cầu thủ Anh nổi bật chuyển ra nước ngoài thi đấu.
Đầu thập niên 1990, xu hướng dần đảo ngược: tại World Cup 1990, lọt tới vòng bán kết; UEFA, cơ quan quản lý bóng đá châu Âu, dỡ bỏ lệnh cấm các câu lạc bộ Anh thi đấu tại các giải đấu châu Âu cũng trong năm đó, kết quả là Manchester United giành chức vô địch UEFA Cup Winners' Cup một năm sau đó, cùng với đó Lord Justice Taylor đưa ra bản báo cáo vào tháng 1 năm đó sau thảm họa Hillsborough, đề nghị các sân vận động phải nâng cấp trở thành những sân vận động gồm tất cả các khán đài ngồi.
Vào thập niên 1980, những câu lạc bộ lớn ở Anh bắt đầu chuyển dịch thành những dự án kinh doanh khi áp dụng các cơ chế thị trường vào quản lý câu lạc bộ để tối đa hóa lợi nhuận. Martin Edwards của Manchester United, Irving Scholar của Tottenham Hotspur và David Dein của Arsenal là những người dẫn đầu trong sự chuyển dịch này. Điều này đem lại cho các câu lạc bộ lớn nhiều quyền lực hơn. Bằng cách đe dọa sẽ ly khai, các câu lạc bộ ở Division One đã cố gắng làm tăng quyền chi phối biểu quyết của họ. Họ còn chiếm 50% cổ phần từ thu nhập truyền hình và tài trợ vào năm 1986. Doanh thu về truyền hình cũng dần trở nên quan trọng hơn: Football League nhận được 6,3 triệu bảng trong một thỏa thuận hai năm năm 1986, nhưng khi gia hạn hợp đồng mới năm 1988, giá trị đã tăng lên 44 triệu bảng cho bốn năm, với các đội bóng lớn chiếm 75% số tiền. Theo Scholar, người trực tiếp tham gia những cuộc đàm phán về thỏa thuận truyền hình, các đội bóng ở giải Hạng Nhất chỉ nhận được khoảng 25.000 bảng từ tiền bản quyền truyền hình, nhưng con số đó đã tăng lên vào khoảng 50.000 bảng trong đàm phán năm 1986 và 600.000 bảng vào năm 1988. Những cuộc đàm phán năm 1988 là những dấu hiệu đầu tiên của một giải đấu ly khai: 10 câu lạc bộ dọa rời khỏi và thành lập một "siêu giải đấu", nhưng cuối cùng đã được thuyết phục để ở lại, khi các đội bóng lớn chiếm phần lớn nhất của thỏa thuận. Khi mà các sân vận động được tu bổ, lượng khán giả và doanh thu tăng lên, các câu lạc bộ hàng đầu lại một lần nữa cân nhắc việc rời khỏi Football League để tận dụng dòng tiền chảy vào các môn thể thao.
Thành lập
Năm 1990, giám đốc điều hành của London Weekend Television (LWT), Greg Dyke, đã gặp mặt đại diện của những đội bóng "big five" ở Anh (Manchester United, Liverpool, Tottenham, Everton và Arsenal) trong một bữa tối. Mục đích của cuộc gặp là sự mở đường cho cuộc ly khai khỏi Football League. Dyke tin rằng việc này sẽ đem lại lợi ích cho LWT nếu chỉ có những đội bóng lớn hơn trong nước xuất hiện trên truyền hình quốc gia, đồng thời muốn xác minh liệu các câu lạc bộ có quan tâm đến cổ phần tiền bản quyền truyền hình lớn hơn hay không. Tuy nhiên giải đấu sẽ không có uy tín nếu như không có sự ủng hộ của Liên đoàn bóng đá Anh (FA), vì thế David Dein của Arsenal đã đàm phán với FA để tiếp nhận ý tưởng. FA vốn đang không có mối quan hệ tốt với Football League vào thời điểm đó nên coi đó như là một cách làm suy yếu đi vị thế của Football League.
Kết thúc mùa bóng 1991, một lời đề nghị đã được đưa ra về việc tạo ra giải đấu mới sẽ mang về nhiều tiền hơn. Bản hiệp định các thành viên sáng lập do các câu lạc bộ của giải đấu cấp cao nhất lúc đó ký ngày 17 tháng 7 năm 1991, nhằm lập ra các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập FA Premier League.> Giải đấu cấp cao nhất mới được thành lập này sẽ độc lập tài chính với Hiệp hội bóng đá Anh và Football League, giúp cho FA Premier League tự chủ về việc thỏa thuận các hợp đồng tài trợ và bản quyền truyền hình. Lý lẽ được đưa ra khi đó là việc tăng thu nhập sẽ giúp các câu lạc bộ Anh tăng khả năng cạnh tranh với các đội bóng khác ở châu Âu. Mặc dù Dyke đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh, Dyke và ITV lại thất bại trong cuộc đấu thầu bản quyền phát sóng khi BSkyB là đơn vị giành gói thầu với trị giá 304 triệu bảng trong 5 năm, còn BBC nhận gói phát sóng các chương trình tổng hợp vòng đấu trên Match of the Day.
Năm 1992, các câu lạc bộ Hạng Nhất đồng loạt từ bỏ Football League và tới ngày 27 tháng 5 năm 1992, FA Premier League thành lập 1 công ty trách nhiệm hữu hạn làm việc tại văn phòng của Hiệp hội bóng đá Anh sau đó đặt trụ sở chính ở Lancaster Gate. Điều đó có nghĩa Football League chấm dứt 104 năm hoạt động với bốn giải đấu; Premier League sẽ hoạt động như một hạng đấu riêng còn Football League chỉ còn ba hạng. Không có sự thay đổi nào về thể thức; vẫn giữ nguyên số đội ở hạng đấu cao nhất, việc lên xuống hạng giữa Premier League và Hạng Nhất mới vẫn giữ nguyên như giữa Hạng Nhất và Nhì cũ với 3 đội lên hạng và 3 đội xuống hạng.
Mùa giải đầu tiên diễn ra vào 1992–93 và có 22 câu lạc bộ tham dự. Bàn thắng đầu tiên tại Premier League được ghi bởi Brian Deane của Sheffield United trong trận thắng 2–1 trước Manchester United. 22 thành viên ban đầu của Premier League mới là Arsenal, Aston Villa, Blackburn Rovers, Chelsea, Coventry City, Crystal Palace, Everton, Ipswich Town, Leeds United, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Middlesbrough, Norwich City, Nottingham Forest, Oldham Athletic, Queens Park Rangers, Sheffield United, Sheffield Wednesday, Southampton, Tottenham Hotspur, và Wimbledon. Luton Town, Notts County và West Ham United là 3 đội bị xuống hạng ở giải hạng nhất cũ mùa 1991–92, nên không được tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League.
"Top Four" thống trị (thập niên 2000)
Một dấu hiệu nổi bật của Ngoại hạng Anh vào giữa thập niên 2000 là sự thống trị của nhóm "Top Four" gồm bốn câu lạc bộ: Arsenal, Chelsea, Liverpool và Manchester United. Trong thập kỷ đó, cá biệt là từ 2002 tới 2009, họ thống trị 4 vị trí đầu, nơi có suất tham dự UEFA Champions League. Họ góp mặt cả trong 4 vị trí này 5 trong 6 mùa giải từ 2003–04 tới 2008–09, cùng với đó là việc Arsenal giành chức vô địch mà không thua trận nào mùa 2003–04, lần duy nhất diễn ra tại Premier League.
Trong thập niên 2000 có bốn đội bóng ngoài "Big Four" đã giành được một suất trong top 4 Ngoại hạng Anh và giành vé tới đấu trường UEFA Champions League. Đó là Leeds United (1999–2000), Newcastle United (2001–02 và 2002–03), Everton (2004–05) và Tottenham Hotspur (2009–10) – mỗi đội đều đứng ở vị trí thứ 4 và giành suất cuối cùng dự Champions League, riêng Newcastle ở mùa bóng 2002–03, họ kết thúc ở vị trí thứ ba.
Tháng 5 năm 2008, Kevin Keegan phát biểu rằng việc thống trị của "Top Four" đe dọa đến giải đấu: "Giải đấu này có nguy cơ trở thành một trong những giải đấu lớn nhưng nhàm chán nhất thế giới." Giám đốc điều hành Premier League, Richard Scudamore phản biện lại rằng: "Có nhiều sự cạnh tranh khác nhau ở Premier League tại các vị trí đầu bảng, giữa bảng hay cuối bảng xếp hạng. Điều đó làm nên sự thú vị của giải đấu."
Trên đấu trường châu Âu, từ năm 2005 đến năm 2012, các đội bóng trong Big Four xuất hiện ở chung kết Champions League đến 7 trong tổng số 8 lần (ngoại trừ năm 2010). Liverpool (2005), Manchester United (2008) và Chelsea (2012) đã giành được chức vô địch, với Arsenal (2006), Liverpool (2007), Chelsea (2008) và Manchester United (2009 và 2011) đều để thua chung kết Champions League. Arsenal là đội bóng duy nhất trong "Big Four" chưa giành được chức vô địch Champions League nào trong lịch sử. Leeds United là đội bóng duy nhất ngoài Big Four tiến tới bán kết Champions League (2000–01).
Ở các cúp châu Âu khác (UEFA Cup và Europa League sau này), bốn đội bóng Anh đã tiến đến các trận chung kết của UEFA Cup (hay Europa League sau này), trong đó chỉ Liverpool đoạt cúp vào năm 2001. Arsenal (2000), Middlesbrough (2006) và Fulham (2010) đều thua trận chung kết.
Từ Top 4 tới "Top 6"
Từ sau năm 2009, đánh dấu sự thay đổi cấu trúc của "Top 4" với việc Tottenham Hotspur và Manchester City cùng lọt vào top 4. Trong mùa giải 2009–10, Tottenham kết thúc ở vị trí thứ tư, qua đó trở thành đội bóng đầu tiên lọt vào top bốn kể từ sau Everton năm 2005. Tuy nhiên, những chỉ trích về khoảng cách giữa nhóm các "siêu câu lạc bộ" và phần còn lại của Premier League thì vẫn tiếp diễn, do họ chi tiêu nhiều hơn so với các câu lạc bộ khác ở Premier League. Kể từ khi liên tục có sự hiện diện của Manchester City và Tottenham Hotspur ở các vị trí đầu bảng xếp hạng, không có đội bóng nào bảo vệ thành công chức vô địch Ngoại hạng Anh. Ngoài ra, Premier League là giải vô địch quốc gia duy nhất tại các quốc gia thuộc UEFA mà không có câu lạc bộ nào bảo vệ thành công chức vô địch. Manchester City vô địch mùa 2011–12, trở thành câu lạc bộ đầu tiên ngoài "Top Four" vô địch kể từ mùa 1994–95. Đó cũng là mùa đầu tiên 2 trong 4 đội Top Four (Chelsea và Liverpool) kết thúc ngoài top 4 kể từ 1994–95.
Chỉ với 4 vị trí đầu tiên của giải đấu có được suất dự UEFA Champions League mà hiện nay có sự cạnh tranh lớn hơn 4 suất đó, mặc dù chỉ mới mở ra đến 6 đội bóng. Nếu các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng, một trận đấu phân định suất dự cúp Châu Âu sẽ được chơi ở sân trung lập. Trong năm mùa giải tiếp theo sau mùa bóng 2011–12, Manchester United và Liverpool đều đứng ngoài top bốn 3 lần trong khi Chelsea kết thúc ở vị trí 10 trong mùa giải 2015–16. Arsenal khép lại giải đấu ở vị trí thứ 5 vào mùa bóng 2016–17, kết thúc kỷ lục của họ với 20 lần liên tiếp kết thúc trong top bốn.
Mùa bóng 2015–16, top bốn đã bị phá vỡ bởi một đội bóng nằm ngoài nhóm Big Six lần đầu tiên kể từ sau Everton năm 2005. Leicester City viết thành công câu chuyện cổ tích khi giành được chức vô địch Premier League và được tham dự vòng bảng Champions League.
Ngoài sân cỏ, "Top 6" nắm giữ sức mạnh và tầm ảnh hưởng về tài chính, các đội bóng này cho rằng họ nên được hưởng phần doanh thu lớn hơn do tầm vóc của câu lạc bộ của họ trên toàn cầu và thứ bóng đá hấp dẫn mà họ nhắm đến. Những người phản đối điều đó cho rằng cơ cấu doanh thu bình đẳng ở Premier League giúp duy trì tính cạnh tranh của giải đấu, điều đó rất quan trọng cho sự thành công trong tương lai.
Quá trình phát triển
Do yêu cầu của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá quốc tế, rằng các giải đấu trong nước phải giảm số trận đấu, số câu lạc bộ giảm xuống còn 20 năm 1995, với việc 4 đội xuống hạng và chỉ có 2 lên hạng. Và cao nhất chỉ có 22 đội vào năm đầu tiên của mùa giải.
Ngày 8 tháng 6 năm 2006, FIFA yêu cầu tất cả các giải đấu lớn của châu Âu, gồm cả Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha giảm xuống còn 18 đội bắt đầu từ mùa 2007–08. Premier League phản ứng bằng cách đưa ra các ý định của họ để phản đối việc cắt giảm. Cuối cùng, mùa 2007–08 vẫn khởi tranh với 20 đội.
Giải đấu được đổi tên FA Premier League đơn giản hơn thành Premier League năm 2007.
Cơ cấu tổ chức
Football Association Premier League Ltd (FAPL) được tổ chức như 1 công ty và được sở hữu bởi 20 thành viên câu lạc bộ. Mỗi câu lạc bộ là 1 cổ đông, với 1 phiếu mỗi khi biểu quyết về các vấn đề như thay đổi quy tắc và hợp đồng. Các câu lạc bộ lựa chọn ra 1 chủ tịch, giám đốc điều hành, và các thành viên ban giám đốc để giám sát các hoạt động của giải đấu.
Chủ tịch hiện tại là Sir Dave Richards, được bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1999, và giám đốc điều hành là Richard Scudamore, được bổ nhiệm tháng 11 năm 1999. Cựu chủ tịch và giám đốc điều hành, John Quinton và Peter Leaver, bị buộc từ chức vào tháng 3 năm 1999 sau khi trao hợp đồng tư vấn cho cựu giám đốc Sky Sam Chisholm và David Chance. Liên đoàn bóng đá Anh không trực tiếp tham gia vào việc điều hành Premier League, nhưng có quyền phủ quyết với tư cách cổ đông đặc biệt trong việc lựa chọn chủ tịch và giám đốc điều hành và khi các luật mới được đưa ra áp dụng cho giải đấu.
Premier League có đại diện tại Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu của UEFA, số câu lạc bộ và những câu lạc bộ được lựa chọn theo hệ số UEFA. Mùa giải 2012–13, Premier League có 10 đại diện trong Hiệp hội: Arsenal, Aston Villa, Chelsea, Everton, Fulham, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và Tottenham Hotspur. Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu có trách nhiệm lựa chọn ra 3 thành viên tham gia Ủy ban các giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA, nơi tham gia điều hành các giải đấu của UEFA như Champions League và UEFA Europa League.
Thể thức giải đấu
Giải đấu
Có 20 câu lạc bộ tại Premier League. Trong một mùa giải (từ tháng 8 tới tháng 5), mỗi câu lạc bộ sẽ thi đấu với các đối thủ khác 2 lần (vòng tròn 2 lượt) bao gồm 1 trận sân nhà và 1 trận sân khách, tính ra có 38 trận đấu. Các đội sẽ giành được 3 điểm/trận thắng, 1 điểm/trận hòa và không có điểm khi thua trận. Các đội sẽ được xếp hạng theo tổng số điểm giành được, rồi sau đó mới xét tới hiệu số bàn thắng và thành tích đối đầu. Nếu vẫn bằng điểm nhau, các đội sẽ được tính là xếp cùng vị trí. Nếu việc bằng nhau đó quyết định tới chức vô địch, xuống hạng hay giành quyền tham dự 1 giải đấu khác, 1 trận play-off sẽ được diễn ra trên sân trung lập để xác định thứ hạng. 3 vị trí thấp nhất sẽ xuống chơi tại Football League Championship, còn 2 đội đứng đầu Championship, cùng với đội thắng vòng play-off dành cho các đội xếp từ thứ 3 tới thứ 6 Championship, sẽ giành quyền lên hạng.
Năm 2008 đã từng có đề xuất thêm vòng đấu 39 nhưng ý tưởng này đã bị hủy bỏ.
Tư cách tham dự các giải đấu châu Âu
Mùa giải 2009–10, suất tham dự UEFA Champions League thay đổi, 4 đội đứng đầu Premier League giành quyền tham dự UEFA Champions League, với việc 3 đội dẫn đầu lọt trực tiếp vào vòng bảng. Trước đó chỉ có 2 đội dẫn đầu lọt trực tiếp. Đội xếp thứ 4 tham dự Champions League ở vòng play-off dành cho các đội không vô địch và phải thắng sau 2 lượt trận mới được vào vòng bảng.
Đội xếp thứ 5 Premier League sẽ trực tiếp tham dự UEFA Europa League, đội thứ 6 và thứ 7 được tham dự hay không, phụ thuộc vào đội vô địch 2 cúp quốc nội là FA Cup và League Cup. Hai suất Europa League sẽ được dành cho đội vô địch của giải đấu đó; nếu đội vô địch FA Cup hoặc League Cup đã giành quyền tham dự Champions League, thì suất đó sẽ dành cho đội có vị trí kết thúc ở vị trí cao hơn tại Premier League. Một suất tham dự UEFA Europa League khác cũng có thể giành được nhờ giải Fair Play. Nếu Premier League là một trong ba giải đứng bảng xếp hạng Fair Play của châu Âu, đội xếp cao nhất trong bảng xếp hạng Fair Play Premier League nếu chưa giành quyền tham dự cúp châu Âu sẽ được tham dự từ vòng loại thứ nhất UEFA Europa League.
Một ngoại lệ xảy ra năm 2005, khi Liverpool vô địch Champions League năm trước đó, nhưng họ không giành được quyền tham dự Champions League tại Premier League mùa giải đó. UEFA dành cho Liverpool quyền đặc biệt tham dự Champions League, giúp Anh có 5 đội tham dự. UEFA sau đó đưa ra quy định đội đương kim vô địch mặc nhiên được tham dự vào mùa sau bất chấp kết quả của họ tại giải quốc nội. Tuy nhiên, đối với những quốc gia có 4 suất tham dự Champions League, nếu nhà vô địch Champions League kết thúc ở vị trí ngoài đội đứng đầu ở giải quốc nội, đội đó sẽ lấy suất tham dự của đội xếp thứ 4. Tại thời điểm đó, không có một liên đoàn nào có hơn 4 đại diện tham dự Champions League. Điều này diễn ra vào năm 2012, khi Chelsea – đội vô địch Champions League năm trước đó nhưng xếp thứ 6 tại giải trong nước – giành suất tham dự Champions League của Tottenham Hotspur, đội phải tham dự Europa League.
Bắt đầu từ mùa 2015–16, đội vô địch Europa League sẽ được tham dự Champions League mùa giải tiếp theo, suất tối đa tham dự Champions League cho mỗi quốc gia được nâng lên 5. Một quốc gia có 4 suất Champions League, như Anh, sẽ chỉ kiếm được suất thứ 5 nếu một câu lạc bộ không giành được quyền tham dự Champions League thông qua giải quốc nội mà vô địch Champions League hoặc Europa League.
Năm 2007, Premier League trở thành giải đấu đứng đầu bảng xếp hạng Các giải đấu châu Âu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu trong giai đoạn 5 năm. Điều này đã phá vỡ sự thống trị 8 năm của giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha, La Liga.
Các câu lạc bộ Premier League tại các giải quốc tế
Từ mùa 1992–93 tới 2021–22, các câu lạc bộ Premier League đã 6 lần giành chức vô địch UEFA Champions League (và 8 lần giành á quân), xếp sau La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần và Serie A của Italia với 5 lần, và Bundesliga của Đức với 4 lần vô địch. FIFA Club World Cup (hay FIFA Club World Championship, theo tên gọi ban đầu) từng 3 lần được các câu lạc bộ Premier League giành được (Manchester United năm 2008, Liverpool năm 2019, Chelsea năm 2021), họ cũng 2 lần giành chức á quân (Liverpool vào 2005, Chelsea vào 2012), xếp sau và La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần, và Brasileirão của Brazil với 4lần.
Lên, xuống hạng
Các câu lạc bộ của Giải Ngoại hạng và Giải bóng đá hạng nhất Anh có sự chuyển đổi hạng thi đấu sau mỗi mùa giải. Cụ thể, ba đội bóng đứng cuối bảng xếp hạng của giải Ngoại hạng Anh sẽ trực tiếp xuống chơi tại Giải bóng đá hạng nhất Anh. Còn 2 đội đứng đầu bảng của giải hạng nhất Anh sẽ trực tiếp thăng hạng lên Ngoại hạng Anh, một câu lạc bộ còn lại sẽ lên hạng sau chiến thắng trong trận play-off giữa các đội đứng thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 giải hạng nhất Anh. Số lượng các câu lạc bộ có sự chuyển đổi hạng thi đấu được thể hiện như sau:
Câu lạc bộ
Có tổng cộng 50 câu lạc bộ từng tham dự Premier League từ khi thành lập năm 1992, tính đến mùa 2021–22.
Các đội vô địch
Số lần vô địch theo câu lạc bộ
Các câu lạc bộ theo giai đoạn
Do việc lên xuống hạng, chỉ có 6 thành viên sáng lập Premier League chưa từng xuống hạng, trong khi đó 6 đội sáng lập khác chưa thể trở lại sau khi xuống hạng. Có 25 câu lạc bộ giành được quyền thăng hạng, chỉ có 3 đội không xuống hạng trong mùa tiếp theo, trong khi đó có 7 đội xuống hạng ngay sau 1 giai đoạn. Số còn lại 15 câu lạc bộ lên xuống nhiều lần, như trường hợp của thành viên sáng lập Crystal Palace là 5 giai đoạn khác nhau.
Mùa 2023–24
Dưới đây là 20 câu lạc bộ tham dự Premier League mùa 2023–24:
Burnley, Watford và Norwich City xuống chơi tại Championship mùa giải 2022–23, trong khi đó Norwich City, Watford và Brentford, lần lượt là đội vô địch, á quân và đội thắng trong trận chung kết playoff, lên thi đấu từ Championship mùa giải 2021–22.
Brighton & Hove Albion và Brentford là 2 câu lạc bộ vẫn tiếp tục tại Premier League sau lần lên hạng đầu tiên với mùa giải thứ 5 và 2 (trong tổng cộng 31 mùa).
a: Thành viên sáng lập Premier League
b: Chưa từng xuống hạng từ Premier League
c: Một trong 12 đội Football League ban đầu
Các câu lạc bộ ngoài Anh
Wales
Năm 2011, câu lạc bộ của Wales tham dự Premier League lần đầu tiên, khi Swansea City giành suất lên hạng. Trận đấu đầu tiên của Premier League diễn ra bên ngoài nước Anh là trận đấu sân nhà của Swansea City ở Sân vận động Liberty gặp Wigan Athletic ngày 20 tháng 8 năm 2011. Mùa 2012–13, Swansea giành quyền tham dự Europa League khi vô địch League Cup. Số câu lạc bộ của Wales tại Premier League được tăng lên 2 lần đầu tiên mùa 2013–14, khi Cardiff City giành quyền thăng hạng, nhưng Cardiff City đã xuống hạng ngay mùa đó. Cardiff được quay lại vào 2017-18 nhưng số lượng đội của Xứ Wales vẫn tương tự.
Vì họ là thành viên của Hiệp hội bóng đá Wales (FAW), vấn đề là những câu lạc bộ như Swansea nên đại diện cho Anh hay Wales ở các giải đấu châu Âu đã đặt ra những cuộc thảo luận kéo dài tại UEFA. Swansea giành một trong ba suất của Anh tham dự Europa League mùa 2013–14 sau khi vô địch League Cup 2012–13. Quyền của các câu lạc bộ Wales thi đấu dưới danh nghĩa đại diện của Anh được tranh cãi cho tới khi Welsh UEFA làm rõ vấn đề tháng 3 năm 2012.
Scotland và Ireland
Việc tham dự Premier League của một vài câu lạc bộ Scotland hay Ireland được đưa ra thảo luận vài lần nhưng không có kết quả. Ý tưởng khả thi nhất là vào năm 1998, khi Wimbledon được Premier League chấp thuận di chuyển tới Dublin, Ireland, nhưng cuối cùng bị chặn lại bởi Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Ireland. Thêm vào đó, giới truyền thông thi thoảng lại đưa ra ý tưởng về việc hai đội bóng lớn nhất Scotland, Celtic và Rangers, nên hoặc sẽ gia nhập Premier League, nhưng không có gì ngoài các cuộc thảo luận.
Các nhà tài trợ
Từ 1993 tới 2016, Premier League đã bán quyền tài trợ giải đấu cho hai công ty; Barclays là nhà tài trợ gần nhất, họ tài trợ cho Premier League từ năm 2001 tới 2016 (trước 2004, tài trợ thông qua thương hiệu Barclaycard trước khi trở lại với nhãn hiệu ngân hàng chính năm 2004).
Hợp đồng của Barclays với Premier League kết thúc vào cuối mùa giải 2015–16. FA thông báo vào ngày 4 tháng 6 năm 2016, rằng sẽ không còn bất cứ nhà tài trợ nào gắn tên với Premier League nữa, họ muốn xây dựng một thương hiệu "sạch" cho giải đấu giống như các giải đấu thể thao nhà nghề Mỹ.
Ngoài nhà tài trợ chính của giải đấu, Premier League còn có một số đối tác chính thức và các nhà cung cấp. Bóng chính thức được cung cấp bởi Nike có hợp đồng từ mùa 2000–01 khi họ giành được quyền từ tay Mitre.
Tài chính
Premier League là giải đấu bóng đá có doanh thu cao nhất thế giới, với tổng doanh thu các câu lạc bộ là 2.48 tỉ Euro mùa 2009–10. Mùa 2013–14, do doanh thu truyền hình được cải thiện và kiểm soát chi phí, Premier League đã có lợi nhuận ròng vượt trên 78 triệu bảng Anh, vượt qua tất cả các giải bóng đá khác. Năm 2010 Premier League giành Giải thưởng Nữ hoàng dành cho doanh nghiệp trong hạng mục Thương mại quốc tế tôn vinh những đóng góp xuất sắc của họ đối với thương mại quốc tế và giá trị mà nó mang lại cho bóng đá Anh và ngành công nghiệp truyền hình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
Premier League có một vài câu lạc bộ giàu nhất thế giới. Bảng xếp hạng "Football Money League" của Deloitte có bảy câu lạc bộ Premier League nằm trong top 20 trong mùa giải 2009–10, và cả 20 câu lạc bộ nằm trong top 40 toàn cầu tới cuối mùa 2013–14, phần lớn là kết quả của việc tăng doanh thu bản quyền truyền hình. Từ năm 2013, giải đấu thu về 2.2 tỉ Euro một năm tiền bản quyền truyền hình nội địa và quốc tế.
Các câu lạc bộ tại Premier League đã đồng ý về nguyên tắc trong tháng 12 năm 2012, để kiểm soát chi phí mới một cách triệt để. Hai đề xuất bao gồm quy tắc hòa vốn và một mức trần mà các câu lạc bộ có thể tăng quỹ lương của họ theo từng mùa.
Bản quyền truyền hình
Vương quốc Anh và Ireland
Từ năm 1992, sau khi 20 CLB hàng đầu nước Anh rời hệ thống Football League, Ngoại hạng Anh ra đời và hoạt động như một tập đoàn. Nó được điều hành bởi chính các đội bóng tham dự, độc lập với Liên đoàn bóng đá Anh. Sky là kênh phát sóng chủ yếu giải đấu này tại Vương quốc Anh và Ireland, sau này có thêm các kênh khác cùng phát như ESPN, Setanta Sports, hiện nay là BT Sport, BT Sport bắt đầu nhảy vào tranh chấp miếng bánh ngon này với Sky, kênh truyền hình từ trước đến nay vốn độc quyền giải đấu trên lãnh thổ Anh từ năm 2013. Khi ấy, nhờ luật "đấu thầu mù" của Ngoại hạng Anh, hãng này bất ngờ lần đầu tiên giành quyền phát sóng 38 trận mỗi mùa. Từ khi BT Sport nhảy vào, giá bản quyền truyền hình trong lãnh thổ Anh tăng đột biến, từ 1,5 tỷ đôla mỗi mùa trong khoảng thời gian 2013–2016 lên 2,6 tỷ đôla trong giai đoạn 2016–2019. Tính ra, mỗi trận đấu từ năm 2016 sẽ có giá 15 triệu đôla chỉ riêng trên đất Anh.
Toàn thế giới
Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Tại Việt Nam, từ hơn 20 năm trước, người hâm mộ vẫn được thưởng thức miễn phí EPL trên truyền hình khi giải phát trên sóng VTV3. Nhưng sau đó, một số đài truyền hình trả tiền tại Việt Nam muốn tăng thị phần nên đã sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua độc quyền bản quyền phát sóng EPL. Cuộc đua giữa các nhà đài luôn diễn ra rất căng thẳng khiến giá bản quyền EPL tăng với tốc độ phi mã. Kể từ năm 2010 đến nay, công ty truyền hình số vệ tinh VSTV (K+ - liên doanh giữa VTV và Canal Plus) đã đánh bật các đối thủ khác trong nước và trở thành đơn vị duy nhất sở hữu tất cả các trận đấu của mỗi mùa giải.
Khoảng cách với các giải đấu thấp hơn
Khoảng cách giữa Premier League và Football League ngày càng tăng. Kể từ khi tách khỏi Football League, nhiều câu lạc bộ sáng lập Premier League vẫn đang vật lộn ở các giải thi đấu thấp hơn. Do một phần lớn là sự chênh lệch về doanh thu bản quyền truyền hình giữa các giải đấu, nhiều câu lạc bộ mới lên hạng rất khó khăn để trụ lại sau mùa giải đầu tiên của họ tại Premier League. Ở mọi mùa bóng trừ 2001–02, 2011–12 và 2017–18 có ít nhất một đội bóng mới lên Premier League phải quay trở lại với Football League. Mùa 1997–98, cả ba đội mới lên hạng đều phải xuống hạng vào cuối mùa bóng.
Premier League vẫn phân chia một phần doanh thu bản quyền truyền hình cho các câu lạc bộ phải xuống hạng. Bắt đầu từ mùa 2013–14, khoản này đã vượt quá 60 triệu bảng cho bốn mùa bóng. Mặc dù đã có kế hoạch để giúp các đội bóng điều chỉnh sự không cân đối về doanh thu truyền hình (trung bình các đội Premier League nhận 55 triệu bảng trong khi đó các câu lạc bộ Football League Championship chỉ là 2 triệu), người ta cho rằng chính các khoản được chia này đã làm sâu thêm khoảng cách giữa các đội từng được tham dự Premier League với các câu lạc bộ khác, dẫn đến việc các câu lạc bộ thường trở lại sau khi xuống hạng. Một vài câu lạc bộ không thể quay trở lại ngay với Premier League, các vấn đề về tài chính, bao gồm một vài trường hợp bị chính quyền tiếp quản hoặc thậm chí là phá sản.
Các sân vận động
Tính tới mùa 2017–18, Premier League đã được diễn ra trên 58 sân vận động kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League. Sau thảm họa Hillsborough năm 1989 và kết quả của Báo cáo Taylor đề nghị loại bỏ khán đài đứng; kết quả là các sân vận động tại Premier League đều là khán đài ngồi. Từ khi thành lập Premier League, các sân bóng ở Anh đã được nâng cấp sức chứa và cơ sở vật chất, một số câu lạc bộ còn chuyển tới những sân vận động xây mới. 9 sân vận động từng diễn ra Premier League đã bị phá hủy. Các sân đấu của mùa 2010–11 sân có sức chứa lớn nhất là: Old Trafford, sân nhà của Manchester United với sức chứa 75,957 còn nhỏ nhất là Vitality stadium, sân nhà của
Bournemouth A.F.C., với sức chứa 11464. Tổng sức chứa của các sân vận động Premier League mùa 2017–18 là 806,033 trung bình là 40,302 một sân.
Khán giả tới sân là một nguồn thu đáng kể của các câu lạc bộ Premier League. Mùa 2016–17, trung bình có 35,838 khán giả tới xem một trận đấu tại Premier League trong tổng số 13,618,596. Con số này tăng 13,089 so với số 21,126 khán giả ghi nhận trong mùa giải đầu tiên (1992–93). Tuy nhiên, sau mùa bóng 1992–93, sức chứa của các sân giảm xuống do phải loại bỏ khán đài đứng và đến hạn chót là mùa 1994–95 các sân phải bao gồm toàn bộ khán đài ngồi. Kỉ lục trung bình khán giả tới sân tại Premier League là 36,144 được thiết lập vào mùa giải 2007–08. Kỉ lục đó sau đó bị phá mùa 2013–14 với 36,695 khán giả, cao nhất kể từ năm 1950.
Huấn luyện viên
Huấn luyện viên tại Premier League phụ trách đội bóng ngày qua ngày bao gồm tập luyện, lựa chọn đội hình và mua bán cầu thủ. Tầm ảnh hưởng của họ thay đổi từ cầu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác và có liên quan tới chủ sở hữu đội bóng và mối quan hệ với các cổ động viên. Các huấn luyện viên phải đạt chứng chỉ UEFA Pro Licence bằng cấp cao nhất, sau khi hoàn thành cả UEFA 'B' và 'A' Licences. UEFA Pro Licence là yêu cầu cần thiết đối với những người muốn huấn luyện lâu dài tại Premier League (nghĩa là dưới 12 tuần là thời gian huấn luyện viên tạm quyền được cho phép huấn luyện đội bóng). Vị trí tạm quyền sẽ được bổ nhiệm trong khoảng thời gian trống chờ đợi huấn luyện viên chính thức mới. Một vài huấn luyện viên đã được bổ nhiệm làm huấn luyện viên chính thức sau thời gian tạm quyền; ví dụ như trường hợp của Paul Hart ở Portsmouth hay David Pleat ở Tottenham Hotspur.
Huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất là Alex Ferguson, người nắm quyền Manchester United từ tháng 11 năm 1986 tới khi nghỉ hưu mùa 2012–13, nghĩa là ông huấn luyện cả 21 mùa đầu tiên của Premier League. Arsène Wenger hiện là huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất, khi dẫn dắt Arsenal tại Premier League từ 1996.. Hiện tại ông đã không còn dẫn dắt Arsenal F.C
Các huấn luyện viên giành chức vô địch
Các HLV hiện tại
Cầu thủ
Cầu thủ nước ngoài và quy định chuyển nhượng
Trong mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, ở vòng đấu mở màn chỉ có 11 cầu thủ ra sân trong đội hình xuất phát đến từ bên ngoài của Vương quốc Anh hoặc Ireland. Tới mùa 2000–01, số cầu thủ nước ngoài tham dự Premier League là 36%. Mùa 2004–05 con số tăng lên 45%. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên tại Premier League ra sân với toàn cầu thủ nước ngoài, còn ngày 14 tháng 2 năm 2005, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên đăng ký cả 16 cầu thủ cho 1 trận đấu là người nước ngoài. Tới năm 2009, chỉ còn dưới 40% cầu thủ tham dự Premier League là người Anh.
Để đối phó với những lo ngại rằng các câu lạc bộ ngày càng bỏ qua các cầu thủ trẻ Anh để sử dụng các cầu thủ nước ngoài, năm 1999, Cục Xuất nhập cảnh Vương quốc Anh thắt chặt quy định của cấp giấy phép lao động cho cầu thủ đến từ ngoài Liên minh châu Âu. Một cầu thủ ngoài EU chỉ được cấp giấy phép lao động khi thi đấu 75% số trận đấu hạng 'A' mà cầu thủ đó được lựa chọn trong vòng 2 năm, và quốc gia của cầu thủ đó trung bình phải xếp ít nhất là thứ 70 trong bảng xếp hạng FIFA trong vòng 2 năm. Nếu 1 cầu thủ không đạt được những tiêu chí đó, câu lạc bộ muốn ký hợp đồng với cầu thủ đó có thể đưa ra lời yêu cầu.
Các cầu thủ sẽ chỉ được chuyển nhượng khi thị trường chuyển nhượng mở cửa bởi Hiệp hội bóng đá. Sẽ có 2 kỳ chuyển nhượng bắt đầu từ ngày cuối cùng của mùa giải tới 31 tháng 8 và từ 31 tháng 12 tới 31 tháng Giêng. Cầu thủ đã được đăng ký sẽ không được thay đổi trong kì chuyển nhượng đó trừ khi có giấy phép đặc biệt từ FA, thường là trong trường hợp khẩn. Tới mùa 2010–11, Premier League đưa ra luật mới về việc các câu lạc bộ chỉ được phép đăng ký tối đa 25 cầu thủ trên 21 tuổi, cùng với đó là danh sách đội hình chỉ được phép thay đổi trong kì chuyển nhượng hoặc trong trường hợp đặc biệt. Cùng với đó là khái niệm 'home grown' cũng được áp dụng, theo đó cũng từ năm 2010 ít nhất là 8 trong số 25 cầu thủ đăng ký phải là 'cầu thủ home-grown'.
Lương cầu thủ và phí chuyển nhượng
Không có mức lương trần dành cho một cá nhân hay một đội bóng nào tại Premier League. Đây là kết quả của những bản hợp đồng bản quyền truyền hình ngày càng hấp dẫn, lương các cầu thủ tăng mạnh kể từ khi Premier League ra đời khi mà mức lương trung bình của cầu thủ chỉ là 75.000 bảng Anh một năm. Mức lương trung bình vào mùa 2008–09 là 1,1 triệu bảng. Tới năm 2015, trung bình lương của Premier League cao nhất trong các giải bóng đá trên thế giới.
Kỷ lục chuyển nhượng dành cho một cầu thủ Premier League tăng đều đặn qua từng năm. Trước khi bắt đầu mùa giải Premier League đầu tiên Alan Shearer mới trở thành cầu Anh có mức chuyển nhượng trên 3 triệu bảng. Các kỷ lục tăng đều đặn trong vài mùa giải đầu tiên ở Premier League, cho đến khi Alan Shearer đã phá vỡ kỷ lục 15 triệu bảng khi chuyển tới Newcastle United vào năm 1996. Ba kỉ lục chuyển nhượng cao nhất lịch sử thể thao thì đều là các câu lạc bộ Premier League bán đi, khi Tottenham Hotspur bán Gareth Bale cho Real Madrid với giá 85 triệu bảng năm 2013, Manchester United bán Cristiano Ronaldo cho Real Madrid với mức giá 80 triệu bảng năm 2009, và Liverpool bán Luis Suárez cho Barcelona thu về 75 triệu năm 2014.
Giá trị chuyển nhượng
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Nghiêng cầu thủ vẫn đang thi đấu chuyên nghiệp.Đậm hiện đang thi đấu tại Premier League.
Chiếc giày vàng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại Premier League vào cuối mỗi mùa bóng. Cựu tiền đạo Blackburn Rovers và Newcastle United Alan Shearer đang giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League với 260. Ba mươi tư cầu thủ đã đạt cột mốc 100 bàn thắng.
Kể từ mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, hơn 26 cầu thủ đến từ 12 câu lạc bộ khác nhau đã giành hoặc chia sẻ danh hiệu vua phá lưới giải đấu. Thierry Henry giành danh hiệu vua phá lưới thứ tư với 27 bàn vào mùa 2005–06. Erling Haaland giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải (36) – cho Manchester City. Ryan Giggs của Manchester United giữ kỉ lục ghi bàn trong nhiều mùa liên tiếp nhất, với việc ghi bàn trong cả 21 mùa giải đầu tiên.
Giải thưởng
Cúp
Premier League có 2 chiếc cúp – một chiếc cúp thật (được giữ bởi nhà đương kim vô địch) và một bản sao dự trữ. Hai chiếc cúp sẽ được sử dụng trong trường hợp hai câu lạc bộ có thể có cơ hội vô địch ở ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải. Trong trường hợp có nhiều hơn hai đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải – thì một bản sao từng được giành bởi một câu lạc bộ trước đó sẽ được sử dụng.
Chiếc cúp Premier League hiện tại được tạo ra bởi Royal Jewellers Asprey of London. Chiếc cúp bao gồm thân cúp với chiếc vương miện bằng vàng và chiếc đế bằng malachit. Chiếc đế nặng còn thân cúp nặng . Cả thân và đế cao , rộng và sâu .
Thân chính được làm từ bạc đặc thật và bạc mạ vàng, trong khi đó đế được làm từ malachit, một loại đá quý. Đế có một dải bạc xung quanh chu vi của nó, nơi ghi tên các nhà vô địch giải đấu. Malachit màu xanh cũng là tượng trưng cho màu xanh của cỏ trên sân. Chiếc cúp được thiết kế dựa trên huy hiệu của Tam Sư kết hợp với bóng đá Anh. Hai con sư tử được đặt ở hai bên chiếc cúp phía trên tay nắm– con thứ ba được biểu tượng chính là người đội trưởng của đội vô địch người nâng cao chiếc cúp, và khi ấy chiếc vương miện vàng sẽ ở trên đầu của anh ta. Các ruy băng treo lên tay nắm được thể hiện bằng màu của đội vô địch giải đấu năm đó.
Năm 2004, một phiên bản vàng đặc biệt được trao cho Arsenal khi họ giành chức vô địch mà không để thua một trận đấu nào.
Các giải thưởng cho cầu thủ và huấn luyện viên
Bên cạnh việc cúp dành cho đội vô địch và huy chương dành cho các cá nhân cầu thủ, Premier League cũng trao các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng và Cầu thủ xuất sắc nhất hàng tháng. Có cả các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa giải, Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải.
Hàng năm có giải Chiếc giày vàng và Găng tay vàng hàng năm.
Giải thưởng 20 năm
Năm 2012, Premier League kỉ niệm thập niên thứ hai bằng lễ trao Giải thưởng 20 năm:
Đội hình tiêu biểu
Chuyên gia bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Rio Ferdinand, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Roy Keane, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer
Khán giả bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Nemanja Vidić, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Steven Gerrard, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Sir Alex Ferguson
Cầu thủ xuất sắc nhất: Ryan Giggs
Ra sân nhiều lần nhất: Ryan Giggs (598)
Ghi được nhiều bàn thắng nhất: Alan Shearer (260)
Giữ sạch lưới nhiều nhất: David James (173)
Câu lạc bộ 500: Ryan Giggs, David James, Gary Speed, Frank Lampard, Emile Heskey, và Sol Campbell.
Bàn thắng đẹp nhất: Wayne Rooney, 12 tháng 2 năm 2011, Man. United vs Man. City
Cứu thua xuất sắc nhất: Craig Gordon, 18 tháng 12 năm 2010, Sunderland vs Bolton
Đội bóng bất bại trong một mùa giải: Arsenal 2003-04
Chú thích
Tài liệu tham khảo |
Heinrich Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ và nhà sinh vật học người Đức. Ông nổi tiếng như một người đã tìm ra trực khuẩn bệnh than (năm 1877), trực khuẩn lao (năm 1882) và vi khuẩn bệnh tả (năm 1883), đồng thời là người đã đưa ra nguyên tắc Koch. Ông đã được trao giải Nobel dành cho Sinh lý và Y học cho các công trình về bệnh lao vào năm 1905. Ông cũng được coi là một trong số những người đặt nền móng cho vi khuẩn học.
Tiểu sử
Robert Koch sinh ngày 11 tháng 12 năm 1843 tại thị trấn nhỏ Clausthal nằm dưới chân dãy núi Harz, Vương quốc Hannover (nay là miền Trung nước Đức). Là con trai của một người kĩ sư mỏ, ông làm bố mẹ phải kinh ngạc khi nói với họ rằng ông đã tự học đọc bằng một tờ báo. Đó là dấu ấn đầu tiên về sự thông minh và tính kiên trì về mặt phương pháp – những đức tính đã theo ông trong suốt cuộc đời sau này. Ông học ở một trường cấp 3 địa phương (trường Gymnasium). Ở đó ông đã thể hiện mối quan tâm tới sinh học, và cũng như bố, Koch cũng có sở thích đi du lịch khám phá.
Năm 1862, Koch tới Đại học Göttingen để học y khoa. Tại đây, Koch bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của giáo sư môn giải phẫu học là Friedrich Gustav Jakob Henle về bệnh truyền nhiễm là do những loài sinh vật sống ký sinh (luận điểm này đã được xuất bản vào năm 1840). Sau khi lấy bằng bác sĩ vào năm 1866, Koch tới Berlin trong sáu tháng để học hoá học dưới sự dẫn dắt của Virchow. Cùng năm, Koch cưới Emmy Fraats. Bà đã sinh cho ông một người con gái duy nhất là Gertrud (sinh năm 1865), người mà sau này trở thành vợ của tiến sĩ E. Pfuhl.
Năm 1867, ông bắt đầu ổn định cuộc sống sau thời gian thực tập, đầu tiên ở Langenhagen và không lâu sau đó, năm 1869, ở Rackwitz, tỉnh Posen. Ở đây ông đã vượt qua kì thi nhân viên y tế của tỉnh. Năm 1870, ông tham gia tình nguyện phục vụ trong cuộc Chiến tranh Pháp – Phổ và từ năm 1872 tới 1880 là nhân viên ngành y của tỉnh Wollstein. Cũng chính ở đây, ông đã thực hiện những nghiên cứu bước ngoặt, những nghiên cứu đã đưa ông lên vị trí cao trong giới khoa học.
Các nghiên cứu
Bệnh than vào thời đó đang xuất hiện trong các trang trại chăn nuôi ở tỉnh Wollstein. Mặc dù không có công cụ nghiên cứu khoa học nào và còn bị tách biệt với thư viện và giới khoa học, Koch đã lao vào nghiên cứu bệnh này bất chấp sức ép từ công việc bận rộn của ông. Phòng thí nghiệm của ông là căn nhà 4 phòng và cũng chính là nhà ông, còn dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài cái kính hiển vi vợ ông tặng, đều do ông tự trang bị. Trước đó thì trực khuẩn than đã được tìm ra bởi Pollender, Rayer và Davaine; và Koch đặt ra mục tiêu là chứng minh loài trực khuẩn này chính là tác nhân gây bệnh than, nếu có thể thì tìm ra cách chữa trị.
Ông cấy vào chuột, bằng miếng gỗ tự chế, trực khuẩn than lấy từ lá lách của những động vật trong nông trại đã bị chết bởi bệnh than, và thấy rằng những con chuột này cũng bị chết bởi trực khuẩn. Trong khi cùng lúc những con chuột được cấy bằng máu từ lách của những con vật nuôi khoẻ mạnh thì không bị mắc bệnh than. Điều này củng cố cho những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng bệnh này có thể lây qua đường máu từ những con vật đã bị bệnh.
Nhưng điều đó chưa thoả mãn Koch. Ông còn muốn biết những con trực khuẩn than chưa bao giờ phát triển trong động vật thì có khả năng gây bệnh hay không. Để giả quyết vấn đề này, ông đã triết xuất pure culture của trực khuẩn bằng cách nuôi cấy chúng trong dịch lấy từ mắt bò. Bằng cách nghiên cứu, vẽ và chụp hình lại những môi trường nuôi cấy này, Koch đã ghi lại sự nhân lên của trực khuẩn và nhận thấy rằng điều kiện nuôi cấy không thích hợp với chúng, chúng đã tạo ra bào tử (spore) bên trong chúng để chống lại điều kiện bất lợi đặc biệt là thiếu oxy, và khi điều kiện thuận lợi trở lại, bào tử có thể trở lại thành trực khuẩn. Koch nuôi trực khuẩn qua vài thế hệ trong pure culture và chỉ ra rằng cả khi chúng không hề lớn lên trong động vật thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh than.
Kết quả của công việc lao khổ này đã được Koch trình bày cho Ferdinand Cohn, giáo sư thực vật học ở Đại học Breslau, người đã tổ chức một cuộc họp cùng với những đồng nghiệp của mình cùng làm chứng cho sự trình bày của Koch trong số đó có giáo sư Cohnheim, giáo sư về giải phẫu bệnh học. Cả Cohn và Cohnheim đều bị ấn tượng bởi công trình của Koch và khi Cohn, vào năm 1876, xuất bản công trình của Koch trong một tờ báo của ngành thực vật học mà ông làm biên tập viên thì Koch đã lập tức trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc ở Wollstein 4 năm sau đó và trong thời gian đó đã tiến bộ hơn nhiều trong kĩ năng cố định, nhuộm và chụp hình vi khuẩn đồng thời nghiên cứu thêm một số công trình quan trọng nữa về bệnh gây ra bởi vi khuẩn trong các vết thương, và xuất bản công trình vào năm 1878. Trong những công trình này ông đã nêu lên, cũng như những gì ông đã làm với bệnh than, bản chất khoa học và thực nghiệm cho cách kiểm soát những bệnh truyền nhiễm đó.
Tuy nhiên Koch vẫn còn thiếu điều kiện cho công việc của ông và phải tới năm 1880, khi ông được bổ nhiệm làm thành viên của Reichs-Gesundheitsamt (Cục Y tế Hoàng gia) ở Berlin, thì ông mới được cung cấp đầu tiên là một phòng hẹp, thiếu thốn nhưng sau đó là một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn, trong đó ông đã làm việc với các phụ tá là Loeffler, Gaffky và những người khác. Ở đây, Koch tiếp tục hoàn thiện phương pháp nghiên cứu vi khuẩn mà ông đã dùng ở Wollstein. Ông phát minh ra phương pháp mới Reinkulturen – cấy pure culture của vi khuẩn vào môi trường nuôi cấy rắn như khoai tây, hay thạch đựng trong một loại đĩa đặc biệt phát minh bởi đồng nghiệp của ông là Julius Richard Petri, mà tới nay nó vẫn được sử dụng phổ biến. Ông cũng phát minh ra một phương pháp nhuộm vi khuẩn mới làm chúng dễ nhìn hơn và giúp xác minh chúng. Kết quả của những công trình này là sự mở đầu cho phương pháp nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trong đó vi khuẩn có thể dễ dàng tách ra trong pure culture, không nằm trong cơ thể sinh vật và vì vậy chúng có thể được xác định.
Koch cũng đặt ra tiêu chuẩn, được biết đến như nguyên tắc Koch (Koch's postulate). Để chấp nhận một vi khuẩn nào đó là nguyên nhân gây ra một bệnh nhất định hay không thì tất cả tiêu chuẩn của "nguyên tắc Koch" cần được thoả mãn.
Hai năm sau khi tới Berlin, Koch phát hiện ra trực khuẩn lao và phương pháp nuôi cấy nó trên pure culture. Năm 1882, ông xuất bản công trình kinh điển của ông về trực khuẩn. Ông vẫn tiếp tục bận rộn nghiên cứu cho tới khi ông được cử tới Ai Cập vào năm 1883 với vai trò Chủ tịch Ủy ban về bệnh tả của Đức, để điều tra về dịch tả đang bùng phát ở đó. Ở đây ông đã phát hiện ra vi khuẩn vibrio là nguyên nhân gây bệnh tả và mang được pure culture của vi khuẩn này về Đức. Ông cũng nghiên cứu cả vi khuẩn tả ở Ấn Độ.
Trên cơ sở những kiến thức của ông về đặc điểm sinh học và sự phân bố của vi khuẩn tả, Koch đã hệ thống hoá nguyên tắc để kiểm soát dịch tả và điều đó đã được chấp thuận bởi Quyền tối cao ở Dresden vào năm 1893 và nó đã trở thành nền móng cho việc kiểm soát dịch tả ngày nay. Công trình của ông về bệnh tả đã được nhận giải thưởng 100 ngàn mark Đức đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc có kế hoạch bảo vệ nguồn nước sinh hoạt.
Năm 1885, Koch được phong Giáo sư về vệ sinh học của Đại học Berlin và Giám đốc của Viện vệ sinh mới được thành lập lúc đó tại trường này. Năm 1890 ông được phong thượng tướng và người có đặc quyền (Freeman) của thành phố Berlin. Năm 1891 ông trở thành Giáo sư Danh dự của khoa Y ở Berlin và Giám đốc Viện các bệnh truyền nhiễm, nơi ông đã may mắn gặp được những đồng nghiệp như Ehrlich, von Behring và Kitasato, cũng là những nhà phát minh nổi tiếng. Năm 1893, Koch cưới người vợ thứ hai là Hedwig Freiberg.
Trong thời gian này, Koch quay lại với những nghiên cứu về bệnh lao. Ông cố gắng hãm lại quá trình phát triển bệnh bằng chất mà ông gọi là tuberculin, được làm từ môi trường nuôi cấy trực khuẩn lao. Ông chuẩn bị các mẫu tuberculin, mới và cũ, và sự thông báo về mẫu tuberculin cũ đã gây rất nhiều tranh cãi. Khả năng chữa trị của chất này theo như những gì Koch tuyên bố là một sự thổi phồng, và bởi vì hi vọng từ nó không được thoả mãn, dư luận quay ra chống lại nó và chống lại Koch. Chất tuberculin mới được Koch công bố vào năm 1896 và khả năng chữa trị của nó cũng làm thất vọng mọi người; nhưng nó đã dẫn tới sự phát hiện của một chất có giá trị về mặt chẩn đoán.
Trong khi công trình về tuberculin vẫn tiếp tục, đồng nghiệp của ông ở Viện về các bệnh truyền nhiễm là von Behring, Ehrlich và Kitasato nghiên cứu và xuất bản công trình mang tính bước ngoặt của họ về sự miễn dịch của bệnh bạch hầu.
Năm 1896, Koch tới Nam Phi để nghiên cứu nguyên nhân của bệnh dịch virut Rinde (rinderpest) và mặc dù ông không tìm được nguyên nhân, ông cũng đã thành công trong việc hạn chế sự bùng phát của bệnh dịch bằng cách tiêm cho những con gia súc khoẻ mạnh mật lấy từ túi mật của những con đã bị bệnh. Rồi sau đó là các nghiên cứu ở Ấn Độ và châu Phi về sốt rét, sốt rét tiểu đen (blackwater fever), bệnh xura (surra) ở gia súc, ngựa và bệnh dịch hạch và xuất bản những quan sát của ông về các bệnh này vào năm 1898. Không lâu sau khi quay lại Đức, ông lại được cử tới Ý và vùng nhiệt đới nơi ông xác nhận công trình của Ronald Ross về sốt rét và làm được một số công việc có ích trong nghiên cứu về nguyên nhân của các dạng khác nhau của sốt rét và việc kiểm soát nó bằng thuốc ký ninh.
Trong những năm cuối của cuộc đời, Koch đi tới kết luận là trực khuẩn gây bệnh lao ở người và bò là khác nhau, và tuyên bố của ông về điều này tại Hội nghị Y học quốc tế về Lao ở Luân Đôn năm 1901 đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng bây giờ thì quan điểm đấy của ông đã được công nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của ông về bệnh sốt Rickettsia đã dẫn đến ý tưởng mới, rằng căn bệnh này được truyền dễ dàng từ người sang người hơn là từ nước uống, và vì thế dẫn đến phương pháp kiểm soát bệnh mới.
Tháng 12 năm 1904, Koch được cử tới vùng Đông Phi của người Đức để nghiên cứu bệnh sốt ở Bờ Biển Đông trên gia súc và ông đã tiến hành những quan sát quan trọng, không chỉ với dịch bệnh này mà còn với những loài gây bệnh Babesia và Trypanosome và bệnh xoắn khuẩn spirochaet có nguồn gốc lây truyền qua ve, bọ; và tiếp tục công việc của ông trên những sinh vật này khi ông trở về nhà.
Danh hiệu
Với nhiều khám phá quan trọng về y học, Koch đã nhận rất nhiều giải thưởng và huân chương, học vị tiến sĩ danh dự của Đại học Heidelberg và Bologna, công dân danh dự của thành phố Berlin, Wollstein và quê hương ông Clausthal, thành viên danh dự của giới khoa học hàn lâm ở Berlin, Viên, Posen, Perugia, Napoli và New York. Ông cũng được huân chương danh dự Đức (German Order of the Crown), Bắc đẩu bội tinh của German Order of the Red Eagle (lần đầu tiên giải thưởng cao quý này được trao cho một người trong ngành Y), và huân chương của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Rất lâu sau khi ông mất, ông còn được ghi công bằng tượng đài kỉ niệm và nhiều hình thức khác ở một số nước.
Năm 1905, ông nhận được giải thưởng Nobel dành cho Sinh lý và Y học. Năm 1906, ông quay lại Trung Phi để nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh trùng mũi khoan (trypanosomiasis), và ở đó ông đã báo cáo rằng atoxyl có tác dụng chống lại bệnh này giống như thuốc ký ninh đối với sốt rét. Sau đó Koch tiếp tục công việc thực nghiệm về vi khuẩn học và huyết thanh học.
Bác sĩ Koch mất ngày 27 tháng 5 năm 1910 tại Baden-Baden. |
Phúc Yên là một thành phố trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam.
Thành phố Phúc Yên là đô thị cửa ngõ của tỉnh Vĩnh Phúc, là một trong những đô thị vệ tinh của Vùng thủ đô Hà Nội; là trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, thể dục thể thao và đào tạo, là trung tâm kinh tế công nghiệp - dịch vụ, trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ, giữ vị trí chiến lược quan trọng về phát triển công nghiệp và thương mại - du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần kết nối giao lưu phát triển kinh tế với vùng thủ đô Hà Nội.
Địa lý
Thành phố Phúc Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 km, cách thành phố Vĩnh Yên 25 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 5 km. Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
Phía tây giáp huyện Bình Xuyên
Phía nam giáp huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
Phía bắc giáp thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên có hệ thống giao thông đa dạng: đường bộ có các tuyến Quốc lộ 2, Quốc lộ 23, đường xuyên Á Hà Nội - Lào Cai đi qua; có đường sắt Hà Nội - Lào Cai, giáp cảng hàng không quốc tế Nội Bài, tạo điều kiện cho Phúc Yên tiềm lực, lợi thế để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, giao lưu kinh tế, văn hoá. Thành phố Phúc Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 Km. Thành phố Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên.
Thành phố Phúc Yên là một đô thị lớn của tỉnh Vĩnh Phúc, đạt tiêu chuẩn đô thị loại III vào năm 2013 và cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại II vào năm 2025, là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, du lịch và dịch vụ tổng hợp của tỉnh, đồng thời còn là một trong những trung tâm của vùng.
Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Thành phố Phúc Yên có địa hình đa dạng, tổng diện tích là 12.029,55 ha, chia thành 2 vùng chính là vùng đồi núi bán sơn địa (Ngọc Thanh, Cao Minh, Xuân Hoà, Đồng Xuân), diện tích 9700 ha; vùng đồng bằng gồm các phường: Nam Viêm, Tiền Châu, Phúc Thắng, Hùng Vương, Trưng Trắc, Trưng Nhị, diện tích 2300 ha, có Hồ Đại Lải, Sông Cà Lồ và nhiều đầm hồ khác có thể phát triển các loại hình du lịch.
Địa chất
Nhìn chung, đất đai của thành phố Phúc Yên không nhiều, không giàu chất dinh dưỡng nhưng lại nằm gần kề thủ đô Hà Nội cho nên tài nguyên đất của thành phố đã trở thành tài nguyên có giá trị kinh tế cao.
Tài nguyên khoáng sản quý hiếm của thành phố hầu như không có gì ngoài đá granit, nước mặt và nước ngầm phong phú đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
Khí hậu, thủy văn
Thành phố Phúc Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân năm là 23 °C, có nét đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khô và lạnh kéo dài về mùa đông. Khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng.
Nhiệt độ không khí có các đặc trưng sau:
Cực đại trung bình năm là 20,5 °C
Cực đại tuyệt đối 41,6 °C
Cực tiểu tuyệt đối 3,1 °C
Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm là 83%, độ ẩm cực tiểu tuyệt đối là 16%.
Hướng gió chủ đạo về mùa đông là Đông – Bắc, về mùa hè là Đông – Nam, vận tốc gió trung bình năm là 2,4 m/s. Vận tốc gió cực đại có thể xảy ra theo chu kỳ thời gian 5 năm là 25 m/s; 10 năm là 32 m/s, 20 năm là 32 m/s.
Hành chính
Thành phố Phúc Yên có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 2 xã: Cao Minh, Ngọc Thanh.
Dân số
Thành phố Phúc Yên có 82.730 người (1/1/2004), mật độ dân số trung bình là 700 người/km².
Năm 2008 là 104.092 người, mật độ dân số là 870 ng/km².
Năm 2018 là 155.500 người (bao gồm cả quy đổi), mật độ dân số là 1260 ng/km².
Tốc độ tăng dân số tự nhiên của thành phố so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,93%. Dân số của thành phố trong những năm qua có xu hướng tăng nhanh ở khu vực thành thị và tăng không nhiều ở nông thôn. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,9%.
Lịch sử
Phúc Yên được thành lập ngày 31 tháng 10 năm 1905, là tỉnh lỵ tỉnh Phúc Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, chuyển thành thị trấn rồi được tái lập thành thị xã ngày 1 tháng 2 năm 1955.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, một lần nữa Phúc Yên chuyển thành thị trấn thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú. Khi huyện Yên Lãng hợp nhất với huyện Bình Xuyên thành huyện Mê Linh thì thị trấn Phúc Yên trở thành huyện lỵ của huyện Mê Linh.
Từ năm 1978 đến năm 1991 thị trấn Phúc Yên cùng với huyện Mê Linh chuyển về Hà Nội. Sau đó thị trấn Phúc Yên lại trở về tỉnh Vĩnh Phú, rồi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (từ năm 1996).
Thị xã Phúc Yên được tái lập theo Nghị định số 153/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ trên cơ sở tách 2 thị trấn Phúc Yên, Xuân Hòa và 5 xã: Ngọc Thanh, Cao Minh, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu thuộc huyện Mê Linh.
Khi mới thành lập, thị xã Phúc Yên gồm 5 phường: Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu.
Ngày 4 tháng 4 năm 2008, chia phường Xuân Hòa thành 2 phường: Xuân Hòa và Đồng Xuân.
Ngày 21 tháng 1 năm 2013, Bộ Xây dựng ra Quyết định số 93/QĐ-BXD công nhận thị xã Phúc Yên là đô thị loại III thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Cuối năm 2017, thị xã Phúc Yên bao gồm 6 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu.
Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập 2 phường Nam Viêm và Tiền Châu thuộc thị xã Phúc Yên và thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên.
Thành phố Phúc Yên có 8 phường và 2 xã như hiện nay.
Điều kiện xã hội
Thành phố Phúc Yên có nguồn lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi chiếm trên 60% tổng dân số; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm trong tổng cơ cấu không cao.
Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh. Trên địa bàn thành phố có trên 500 cơ quan, doanh nghiệp, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề của trung ương, của tỉnh, của Hà Nội, là điều kiện thuận lợi để Phúc Yên khai thác các thế mạnh, phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế
Cơ cấu kinh tế của thành phố Phúc Yên được xác định là: công nghiệp - dịch vụ, du lịch, nông - lâm nghiệp.
Thành phố Phúc Yên có nhiều tiềm năng, lợi thế để thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội.Kinh tế trên địa bàn luôn đạt mức tăng trưởng cao, 5 năm gần đây bình quân tăng 23,05%/năm, trong đó, công nghiệp tăng 21,78%; dịch vụ tăng 25,57%; nông nghiệp tăng 5,37%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn cao hơn mức bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu kinh tế của thành phố trong những năm vừa qua chuyển biến theo hướng tích cực, có sự chuyển dịch phù hợp với xu thế chung
của toàn tỉnh, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2013, Thương mại- Dịch vụ: 7,44%; Công
nghiệp - xây dựng: 92,23%; Nông, lâm nghiệp: 0,51%; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế là 99,51%. Tổng thu ngân sách các thành phần kinh tế trên địa bàn chiếm trên 2/3 tổng thu Ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc. Thành phố Phúc Yên luôn xứng đáng là vùng trọng điểm kinh tế, là đầu tàu kinh tế của Vĩnh Phúc.
Văn hóa
Trên toàn địa bàn thành phố Phúc Yên, đến nay đã có 18 di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng. Trong đó có 6 di tích cấp quốc gia gồm: Đền Ngô Miễn (phường Phúc Thắng), Chùa Bảo Sơn (phường Nam Viêm), Đình Khả Do (phường Nam Viêm), Đình Cao Quang (xã Cao Minh), Chiến khu cách mạng Ngọc Thanh (xã Ngọc Thanh), Đình Đạm Xuyên (phường Tiền Châu). 12 di tích cấp tỉnh gồm: Chùa Cấm (chùa Báo Ân) thuộc phường Trưng Nhị, Đình chùa Nam Viêm (phường Nam Viêm), Đình Thanh Lộc (xã Ngọc Thanh), Đền Đồng Chằm (xã Ngọc Thanh), Đền Ngọc Mỗ (xã Ngọc Thanh), Đình Xuân Hoà (xã Cao Minh), Khu lăng mộ Đỗ Nhân Tăng - Trần Công Tước (phường Phúc Thắng), Đền Thiện (phường Phúc Thắng), Đình - chùa Hiển Lễ (xã Cao Minh), Đình Đức Cung (xã Cao Minh), Đình Yên Điềm (xã Cao Minh), Đền Đạm Nội (phường Tiền Châu).
Thành phố Phúc Yên từ lâu đã có nhiều người đỗ đạt khoa bảng, tiêu biểu là tướng công Ngô Miễn (1371-1407). Ông là tiến sĩ xuất thân khoa bảng cuối đời Trần, là người tham gia tích cực trong cuộc sống cách tân dưới triều Hồ Quý Ly, được thăng tới chức Đặc tiến quân sử, vinh tộc đại phu, kiêm xương phủ tổng quản Chi Lăng, thượng thư lệnh, Đồng Bình Chuông quốc trọng sự, ông đã có công to lớn giúp nhân dân địa phương ổn định kinh tế, phát triển sản xuất, tổ chức cho dân di cư, lập ấp, khai khẩn đất hoang vùng bờ biển Sơn Nam (Phủ Thiên Trường) lập nên các xã Xuân Hùng, Xuân Thủy, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay. Khi nhà Minh xâm lược nước ta, Ngô Miễn cùng Vua tôi nhà Hồ, trực tiếp kháng chiến chống giặc Minh. Cuộc kháng chiến thất bại, ông không chịu khuất phục quy hàng đã cùng vợ tuẫn tiễn tại cửa biển Kỳ La (Nghệ An) năm ông 36 tuổi.
Cùng thời với tướng công Ngô Miễn còn có tiến sĩ Nguyễn Tôn Miệt người Phúc Thắng thành phố Phúc Yên. Ông đỗ tiến sĩ năm 1481 và là thành viên của hội tao đàn, tác phẩm của ông để lại đời sau còn có 8 bài thơ chữ Hán trong cuốn sách: "Toàn việt thi lục". Đất Phúc Thắng còn lưu giữ lại nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, điển hình là tấm bia thời Lý Cao Tông niên hiệu Trị Bình Long ứng thứ 5 (1209).
Giáo dục
Thành phố Phúc Yên là một trong những trung tâm giáo dục lớn của Vĩnh Phúc với một số trường đại học, cao đẳng,....
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Cao đẳng Vĩnh Phúc
Cao đẳng Công nghiệp Phúc Yên
Cao đẳng Nghề Việt - Xô
Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Hà Nội (cơ sở 2)
Trung cấp Nghề kỹ thuật xây dựng và nghiệp vụ
Đại học Kiến trúc Hà Nội (cơ sở 2 tại Xuân Hòa)
Trung cấp Kỹ thuật cơ điện
Trung tâm Dạy nghề
Trên địa bàn thành phố có 4 trường Trung học phổ thông. Trong đó Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng luôn lọt Top 100 trường Trung học phổ thông có kết quả thi đại học tốt nhất cả nước trong suốt nhiều năm, là cơ sở giáo dục có chất lượng đi đầu thành phố.
Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng
Trường Trung học phổ thông Bến Tre
Trường Trung học phổ thông Xuân Hòa
Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú Phúc Yên
Y tế
Các cơ sở y tế trên địa bàn có bệnh viện 74 TƯ (1.000 giường), BV đa khoa khu vực Phúc Yên (400 giường), Bệnh viện Giao thông vận tải, BV đa khoa TP (70 giường), Trung tâm Y tế thành phố, phòng khám Phúc Thắng, phòng khám đa khoa Hà Thành... các trạm y tế. Bình quân 11,4 giường/1.000 người.
Trung tâm thương mại
Trên địa bàn thành phố Phúc Yên có nhiều chợ, trung tâm thương mại lớn, các showroom ô tô xe máy phục vụ nhu cầu của người dân thành phố và các địa bàn lân cận như: Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn, Bình Xuyên, Yên Lạc, Phổ Yên.
Siêu thị Lan Chi Mart, Phúc Yên Mart, Phúc Yên Plaza, Thành Nghĩa, chợ Phúc Yên, chợ Đồng Xuân, TTTM Đồng Sơn, TT nội thất Tùng Chi, Siêu thị điện máy Pico, Thế giới di động, Viettel Store, FPT Shop, Điện máy xanh, Siêu thị điện máy Mediamart, Sakuko Family.....
Chú thích |
Vĩnh Phú là một tỉnh cũ của Việt Nam, tồn tại từ năm 1968 đến năm 1996. Tỉnh này bao gồm hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hiện nay.
Địa lý
Tỉnh Vĩnh Phú có vị trí địa lý (năm 1991-1996):
Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Thái
Phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình
Phía Đông giáp thành phố Hà Nội
Phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Tây
Phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Diện tích và dân số của tỉnh qua các thời kỳ
Năm 1976, tỉnh Vĩnh Phú có diện tích 5.187 km², 1.591.000 người
Năm 1979: 4.630 km², dân số 1.429.900 người
Năm 1991 4.823 km², 2.081.043 người.
Lịch sử
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Tỉnh lỵ của tỉnh đặt tại thành phố Việt Trì.
Khi hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phú ban đầu có tỉnh lỵ là thành phố Việt Trì, 3 thị xã: thị xã Phú Thọ, Phúc Yên, Vĩnh Yên và 18 huyện: Bình Xuyên, Cẩm Khê, Đa Phúc, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Kim Anh, Lâm Thao, Lập Thạch, Phù Ninh, Tam Dương, Tam Nông, Thanh Ba, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lãng, Yên Lập.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, thị xã Phúc Yên chuyển thành thị trấn thuộc huyện Yên Lãng.
Theo Quyết định số 178-CP ngày 5-7-1977 của Hội đồng Chính phủ, hợp nhất các huyện sau đây:
Huyện Tam Nông với huyện Thanh Thủy thành huyện Tam Thanh
Huyện Vĩnh Tường với huyện Yên Lạc thành huyện Vĩnh Lạc
Huyện Lập Thạch với huyện Tam Dương thành huyện Tam Đảo
Huyện Yên Lập với huyện Cẩm Khê thành huyện Sông Thao (cộng thêm 10 xã: Hiền Lương, Quân Khê, Lâm Lợi, Xuân Áng, Chuế Lưu, Vô Tranh, Bằng Giã, Động Lâm, Văn Lang, Minh Côi của huyện Hạ Hòa)
Huyện Lâm Thao với huyện Phù Ninh (trừ 7 xã: Liên Hoa, Phú Mỹ, Trạm Thản, Tiên Phú, Minh Phú, Chân Mộng, Vụ Quang nhập vào huyện Sông Lô) thành huyện Phong Châu
Huyện Bình Xuyên với huyện Yên Lãng thành huyện Mê Linh (cộng thêm 4 xã: Văn Tiến, Nguyệt Đức, Minh Tân, Bình Định của huyện Yên Lạc, 2 xã Kim Hoa và Quang Minh của huyện Kim Anh)
Hai huyện Đa Phúc và Kim Anh (trừ 2 xã Kim Hoa và Quang Minh nhập vào huyện Mê Linh), thị trấn Xuân Hòa (trực thuộc tỉnh) thành huyện Sóc Sơn
Ba huyện Đoan Hùng, Thanh Ba, Hạ Hòa thành huyện Sông Lô (cộng thêm 7 xã: Liên Hoa, Phú Mỹ, Trạm Thản, Tiên Phú, Minh Phú, Chân Mộng, Vụ Quang của huyện Phù Ninh).
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, huyện Mê Linh (trừ 14 xã, 1 thị trấn thuộc huyện Bình Xuyên cũ và 4 xã thuộc huyện Yên Lạc cũ) và huyện Sóc Sơn được sáp nhập vào Hà Nội (cũng trong năm này, hai thị xã Hà Đông, Sơn Tây và 5 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất cùng một số xã thuộc huyện Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín của tỉnh Hà Sơn Bình cũng được nhập vào Hà Nội (mặc dù trên thực tế thị xã Hà Đông lúc này vẫn thuộc tỉnh Hà Sơn Bình và là tỉnh lỵ của tỉnh này).
Ngày 26 tháng 2 năm 1979, tái lập huyện Lập Thạch, tách ra từ huyện Tam Đảo . Đồng thời, sáp nhập 14 xã, 1 thị trấn thuộc huyện Bình Xuyên cũ của huyện Mê Linh vào huyện Tam Đảo; sáp nhập 4 xã thuộc huyện Yên Lạc cũ của huyện Mê Linh vào huyện Vĩnh Lạc.
Năm 1980, tỉnh Vĩnh Phú có 1 thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), 2 thị xã Phú Thọ, Vĩnh Yên và 8 huyện Tam Đảo, Tam Thanh, Lập Thạch, Vĩnh Lạc, Sông Thao, Sông Lô, Phong Châu và Thanh Sơn.
Ngày 22 tháng 12 năm 1980, tái lập huyện Yên Lập, tách ra từ huyện Sông Thao, tách huyện Sông Lô thành 2 huyện Đoan Hùng và Thanh Hòa.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, chuyển huyện Mê Linh thuộc thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú quản lý (cũng trong năm này, thị xã Sơn Tây và 5 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất của Hà Nội chuyển trở về tỉnh Hà Tây vừa tái lập). Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 2008, huyện Mê Linh cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội.
Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia lại huyện Thanh Hòa thành 2 huyện Thanh Ba và Hạ Hòa; chia lại huyện Vĩnh Lạc thành 2 huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc.
Đến cuối năm 1995, tỉnh Vĩnh Phú có 16 đơn vị hành chính gồm: thành phố Việt Trì (tỉnh lị), 2 thị xã Phú Thọ, Vĩnh Yên và 13 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lập Thạch, Mê Linh, Phong Châu, Sông Thao, Tam Đảo, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lập.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Vĩnh Phú để tái lập tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỉnh Phú Thọ gồm thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), thị xã Phú Thọ và 8 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Phong Châu, Sông Thao, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập.
Tỉnh Vĩnh Phúc gồm thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện: Lập Thạch, Mê Linh (nay thuộc Hà Nội), Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Chú thích |
Bài này nói về mô hình vật chất trong vật lý cổ điển, ví dụ từ thủy động lực học. Xem bài siêu dẫn để biết về vật chất thực tế có một tính chất tương tự
Dẫn điện hoàn hảo khái niệm là mô hình lý tưởng trong vật lý cổ điển, ví dụ như từ thủy động lực học, chỉ các vật có điện trở bằng không.
Dòng điện chạy trong dây dẫn điện hoàn hảo sẽ không tỏa ra nhiệt lượng, nghĩa là năng lượng của dòng điện không bị tiêu hao trong quá trình chuyển tải điện từ nơi này đến nơi khác.
Vật chất thực tế có tính chất dẫn điện hoàn hảo là chất siêu dẫn. Chất này còn có các tính chất khác mà vật dẫn điện hoàn hảo trong mô hình cổ điển (như từ thủy động lực học) không xét tới. Ví dụ, trong vật siêu dẫn, còn có thể xảy ra hiện tượng lượng tử hóa của từ trường. |
Từ thủy động lực học, còn được gọi là động từ học chất lỏng và viết tắt là MHD (MagnetoHydroDynamics), là môn học nghiên cứu các chất lưu (chất lỏng, plasma,...) dẫn điện chuyển động dưới tác động của điện trường hoặc từ trường.
Các ví dụ về chất lưu dẫn điện là plasma, nước muối, kim loại dưới dạng lỏng. Lĩnh vực này được nghiên cứu đầu tiên bởi Hannes Alfvén. Các công trình của ông về lĩnh vực này đã được giải thưởng Nobel vào năm 1970.
Ý tưởng cơ bản của từ thủy động lực học là từ trường có thể tác động lực Lorentz lên các điện tích chuyển động trong plasma, gây ra áp suất và dòng điện cảm ứng, và dòng cảm ứng lại sinh ra từ trường cảm ứng thay đổi từ trường tổng cộng. Các phương trình mô tả các hiện tượng từ thủy động học là sự kết hợp giữa các phương trình Navier-Stokes (mô tả thủy động lực học) và các phương trình Maxwell (mô tả trường điện từ). |
Ma còn được gọi là hồn ma, là một khái niệm theo quan niệm dân gian để chỉ hồn của người chết (hoặc các sinh vật đã chết khác như động vật) xuất hiện ở thế giới của người đang sống.
Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy hồn ma tồn tại. Sự tồn tại của hồn ma được coi là không thể phủ chứng được, không thể kiểm chứng bằng các phương pháp khoa học. Do đó các nghiên cứu về hồn ma, hay săn ma bị liệt vào phạm trù ngụy khoa học.
Những phác hoạ về hình thái tồn tại của ma rất đa dạng và có thể khác nhau tùy theo từng khu vực, từng nền văn hóa; từ những trường hợp mô tả ma vô hình, bóng mờ cho đến những mô tả ma có thể xác như một người sống. Theo một nghiên cứu năm 2009 bởi Pew Research Center, 18% người Mỹ nói rằng họ đã nhìn thấy một hồn ma.
Những quan niệm lâu đời về sự sống sau cái chết là một trong những điều khiến nhiều người tin rằng ma có thật. Một số chất độc và các loại thực vật có chứa hoạt chất hướng thần (thí dụ như cà độc dược hay thiên tiên tử) được cho là gắn với âm ty, địa ngục, có chứa chất kháng cholinergic, một hợp chất có liên quan đến chứng sa sút trí tuệ cũng như thoái hóa thần kinh. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hiện tượng nhìn thấy ma có thể có liên hệ đến các bệnh thoái hóa não như Alzheimer. Một số thuốc kê đơn đặc trị thông dụng hoặc thuốc không kê đơn (như các dược phẩm hỗ trợ giấy ngủ) có thể có tác dụng phụ gây ra ảo giác về ma (thí dụ như zolpidem and diphenhydramine). Một số nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra mối liên hệ giữa nhiễm độc carbon monoxide và ảo giác về ma.
Tên gọi
Trong tiếng Việt
Hồn ma là một từ để chỉ sự hiện hình của người chết và cũng cần phải phân biệt giữa hồn ma, quỷ và ác quỷ. Quỷ là oan hồn vất vưởng lâu năm, chất chứa nhiều cảm xúc tiêu cực (oán hận) trong văn hóa Việt Nam, thường lưu truyền những câu chuyện rất hãi hùng dễ sợ về quỷ từng giết và ăn thịt, uống máu người (hoàn toàn không có thật). Còn Ác quỷ là những ác linh thuộc về cõi siêu hình trong các nền văn hóa khác (như phương Tây), sở hữu những khả năng siêu phàm, khỏe mạnh, không hẳn là đều độc ác và xấu xa, thường là phe đối lập với các vị thần linh.
Phật giáo gọi linh hồn người mới mất là vong linh, hương linh.
Trong ngôn ngữ Đông Á
Trong tiếng Trung, hồn ma được gọi là quỷ (鬼-guǐ), như quỷ sứ (鬼使 Guǐshǐ) là hồn ma ở cõi âm ti, hay ngạ quỷ (餓鬼 Èguǐ) nghĩa là "ma đói", điều này thường tạo sự nhầm lẫn trong những bản dịch bằng văn phong Hán Việt. Còn Ma (魔-mó) trong tiếng Trung lại là một khái niệm khác, đây là cách rút gọn của từ Māra (魔羅) trong tiếng Phạn. Từ điển Phật học Hán Việt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Kim Cương Tử chủ biên giảng là: "Ma là cách phiên âm của từ tiếng Phạn māra, chỉ lũ tà ác làm hại nhân mạng, có khả năng cướp đoạt nhân mạng, gây chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại các thiện sự của loài người. Vì vậy, tiếng Trung gọi những ác linh thuộc về cõi siêu hình trong các nền văn hoá khác là Ma quỷ (魔鬼 móguǐ), hoặc Ác ma (惡魔 Èmó) khi chỉ đến những sinh vật như vậy trong văn hoá phương Tây.
Tiếng Hàn cũng gọi hồn ma là , hoặc . Trong khi là từ để chỉ những thực thể trong các tôn giáo và nền văn hoá khác.
Khác với tiếng Trung và tiếng Hàn, trong văn hoá Nhật Bản thì hồn ma được goị là , trong khi đó là một loại yêu quái trong văn hóa dân gian. Còn trong tiếng Nhật thì lại giống với tiếng Trung là đều có nguồn gốc từ Māra, thường để chỉ đến ma tộc, một chủng tộc giả tưởng. Những thực thể tà ác trong các nền văn hóa, tôn giáo khác (đặc biệt là từ phương Tây) thì tiếng Nhật cũng gọi là như tiếng Trung và tiếng Hàn.
Ma trong các nền văn hóa
Việt Nam
Nền văn hóa Việt Nam hơn 4000 năm gắn liền với truyền thống thờ cúng ông bà và niềm tin về cuộc sống sau cái chết cộng với những ảnh hưởng của các tôn giáo đã hình thành những niềm tin nhất định vào sự tồn tại của ma quỷ cũng như vong hồn của người đã khuất. Cũng như nhiều nền văn hóa khác, phần lớn người Việt Nam đều có quan niệm về sự tồn tại của linh hồn trong thể xác, Linh hồn cũng là một khái niệm được thần thánh hóa từ những khái niệm về tinh thần. Linh hồn theo người Việt Nam và các nước Đông Nam Á tách ra làm hai phần: hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có ba hồn, nhưng vía thì nam có bảy, còn nữ có chín. Như vậy khái niệm ma, đơn giản chính là hồn và vía của con người.
Trong văn hóa Việt Nam xuất hiện một số loại ma quỷ như:
Ma xó: Là những hồn ma trú ngụ ở góc nhà, góc khuất, góc tối trong nhà, theo tục người Mường, khi có người chết, đem dựng đứng ở xó nhà, sau thành ma.
Ma trành: Là những oan hồn của nạn nhân bị cọp ăn thịt, đây là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai.
Ma da: Oan hồn người chết đuối, ma người chết đuối, thường ở các sông lớn, vùng nước sâu, kéo chân hoặc lật thuyền người khác để được đầu thai.
Ma men: người say chết thành ma thường hay lôi cuốn người khác say sưa tới chết. Ngày nay, thuật ngữ này dùng để phê phán những người xay xỉn tối ngày, nghiện rượu bia.
Ma gà: loại ma hay theo những cô gái đẹp (theo quan niệm của dân tộc Tày–Nùng).
Ma lai: thứ người ban đêm hóa ma đi ăn phân người khác, có nhiều truyền thuyết về ma lai rút ruột, đầu, v.v.
Ma thần vòng: ma những người thắt cổ chết (sau giục người khác tự tử chết như họ).
Ma đói: chỉ về những con ma hay những linh hồn phiêu dạt không nơi nương tựa, không người thờ cúng hoặc chết vì đói khát bệnh tật mà theo quan niệm tại một số quốc gia thì các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, những vong hồn vật vờ, không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Các con ma đói này phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống để kiếm miếng ăn. Theo quan niệm tâm linh ở Đông Á, ma đói còn được gọi là cô hồn hay ngạ quỷ, là linh hồn phiêu dạt không nơi nương tựa, không có người thờ của những người đã chết vì đói khát bệnh tật. Hình dáng của chúng được mô tả là đáng kinh khiếp với cái bụng rất to.
Còn lại gồm: ma le, ma hời (oan hồn của người Chăm), ma lon, v.v.
Trung Quốc
Có các cương thi, oan hồn, hồ ly, yêu tinh.
Thái Lan
Một số hồn ma như: Nang Tani (Ma cây chuối), ma búp bê Kumanthong, v.v.
Nhật Bản
Có Yūrei, yōkai, ma gấu, ma một mắt, ma cổ dài, ma dù, ma búp bê, ....
Châu Âu
Niềm tin về ma qủy trong các nền văn hóa ở Châu Âu cũng dựa trên quan niệm về sự trở về hoặc là sự hồi sinh của người chết. Các hình tượng về ma quỷ tiêu biểu trong văn hóa Tây Phương có thể thấy như gjenganger (một từ để chỉ ma trong tiếng Na Uy) trong nền văn hóa các nước vùng Scandinavi, Strigoi trong thần thoại Romania, vrykolakas trong thần thoại Hy Lạp, ma cà rồng, ma sói, v.v. Một hình tương ma quỷ nổi tiếng khác cũng xuất phát từ văn hóa Tây Phương chính là Satan, tuy nhiên hình tượng quỷ Sa-tăng lại mang màu sắc tôn giáo nhiều hơn là những loại ma quỷ thông thường. Các câu chuyện dân gian Châu Âu cũng thường đề cập đến những lâu đài ma.
Các tôn giáo
Phật giáo
Theo Phật giáo, có một số cõi mà một người khi chết có thể tái sinh vào, một trong số đó là cõi ngạ quỷ.
Ki-tô giáo
Sách Torah và Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái có vài chỗ nói về ma, thuật chiêu hồn bằng những hoạt động huyền bí bị cấm. Trường hợp đáng lưu ý nhất là trong Sách I Sa-mu-ên, kể về chuyện Vua Saul đã cải trang đi gặp bà đồng Endor để triệu hồi linh hồn hay hồn ma của Samuel. Trong Kinh Tân Ước, Jesus đã phải thuyết phục các tông đồ rằng ông không phải là một hồn ma sau khi phục sinh. Cũng thế, các đệ tử của Jesus ban đầu đã tin rằng ông là một hồn ma khi thấy ông bước đi trên mặt nước.
Các sự kiện
Lễ hội ma
Được tổ chức ở các nước như Thái Lan, Hồng Kông, Nhật Bản. Ở một số nước như Anh, Mỹ, Úc, Canada, Halloween là một ngày lễ của trẻ em, được tổ chức vào ngày 31 tháng 10, còn gọi là lễ hội Ma lộ hình. Vào dịp này, người ta thường hoá trang mình thành những hình thù kì dị, ma quỷ hay mặt nạ dúm dó, v.v. để doạ mọi người. Trong dịp lễ này, trẻ con thường mặc trang phục ma đi gõ cửa nhà hàng xóm, đồng thanh hô to "Trick or treat" (tạm dịch: Cho kẹo hay bị ghẹo) để xin kẹo. Tuy là một lễ hội ma, nhưng nó lại được nhiều trẻ em và các bậc phụ huynh yêu thích.
Du lịch
Ngành công nghiệp du lịch Anh dùng ma để thu hút du khách, mở các tour tham quan những lâu đài bị đồn là có ma.
Trong nghệ thuật
Những vấn đề về ma quỷ nói riêng và những vấn đề về tâm linh nói chung xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật ở mọi nền văn hóa. Các đề tài này xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học dân gian như cổ tích, truyền thuyết; trong tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc, và cả trong những tác phẩm văn học mang đậm màu sắc tôn giáo. Ngày nay, với sự phát triển của nền công nghiệp điện ảnh, các hình ảnh ma quỷ còn được tái hiện trên các phim ảnh truyền hình và cả trong phim hoạt hình. Một số phim hoạt hình có sự xuất hiện của ma quỷ lại không có màu sắc rùng rợn nên phù hợp với trẻ em trong khi một số phim hoạt hình thuộc thể loại này lại mang nhiều yếu tố máu me, kinh dị và do đó luôn được khuyến cáo là không dành cho trẻ em. Cũng giống như hoạt hình, chủ đề ma quỷ cũng xuất hiện trong truyện tranh với Nhật Bản là quốc gia có số lượng áp đảo về các truyện tranh kinh dị và hầu hết đều được khuyến cáo là không dành cho những độc giả nhỏ tuổi.
Văn học
Việt Nam
Đề tài về ma quỷ đã xuất hiện trong văn học dân gian Việt Nam từ lâu, các truyền thuyết, cổ tích: Con Rồng Cháu Tiên, An Dương vương xây thành, v.v. cũng có những yếu tố kì quái cũng như sự xuất hiện ma quỷ, yêu quái. Văn học Việt Nam trung đại có những tác phẩm về ma qủy tiêu biểu như: Chuyện Chức Phán sự đền Tản Viên, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Chuyện tướng Dạ Xoa (Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ), Khách chôn của (Nam thiên trân dị tập – Khuyết danh), Biết chuyện kiếp trước (Thoái thực ký văn – Trương Quốc Dụng), Kim quy hiến kế giết yêu tinh (Tân đính Lĩnh Nam chích quái). Thời trung đại, thể loại này để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng: Thánh Tông di cảo, Công Dư tiệp ký, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích, thế kỷ XIX), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Lĩnh Nam chích quái.
Sang thế kỷ 20, khi Việt Nam chính thức hoàn thiện và sử dụng chữ Quốc ngữ, các tác phẩm văn học về ma quỷ và các đề tài siêu nhiên xuất hiện ngày một nhiều hơn như: Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi (Thế Lữ), Ai hát giữa rừng khuya (Tchya), v.v. Ngày nay, với tốc độ phát triển của công nghê in ấn và sự bùng nổ Internet ở Việt Nam, các truyện ma, kinh dị được các tác giả Việt Nam trong và ngoài nước sáng tác ngày một nhiều hơn, được đăng tải và bày bán ở nhiều nơi. Có một số tác giả khá thành công với những truyện, tiểu thuyết thể loại này như Người Khăn Trắng (Huỳnh Thượng Đẳng), Nguyễn Ngọc Ngạn, v.v.
Trung Quốc
Tây du ký của Ngô Thừa Ân: xuất hiện nhiều yêu tinh, ma quái.
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh: bao gồm cả ma thiện lẫn ma ác và ma có hình dạng giống hệt như người trần.
Anh
Trong series truyện Harry Potter, ma xuất hiện nhiều, nhưng đặc biệt ở chỗ ma cũng là một nhân vật bình thường như bao người khác và không giống như tính chất của ma làm người ta sợ. Thực chất ma sống trong lâu đài chung với các học sinh và giáo viên.
Điện ảnh
Điện ảnh các nước khai thác yếu tố tâm lý "sợ ma" cũng như tò mò về những hiện tượng siêu nhiên của con người để sản xuất nhiều bộ phim. Nhiều phim trong số đó đạt được nhiều giải thưởng. Đa số các phim kinh dị đều dùng các yếu tố ma quái. Càng ngày, những bộ phim kinh dị càng được sản xuất nhiều để đáp ứng sự thích thú được cảm giác run sợ vì ma. Những bộ phim này có thể có cốt truyện ma ăn thịt người, ma hào hiệp, ma "có tình người" chuyên giúp đỡ người khác, ma hại người. Cũng có những bộ phim nói về ma nhưng theo thể loại hài.
Việt Nam
Tại Việt Nam, thể loại ma trước đây ít được khai thác do chưa phải là đề tài được khuyến khích thì nay các bộ phim với nội dung đề tài ma được khai thác nhiều. Điển hình như:
Bộ phim: Đoạt hồn
Bộ phim Mười.
Bộ phim Ngôi nhà bí ẩn - Suối Oan Hồn.
Bộ phim Oan hồn (phim 2004).
Bộ phim Bệnh viện ma - Biệt thự trắng.,...
Mỹ
Tại Mĩ, bộ phim The Ring (Vòng tròn định mệnh), sản xuất năm 2002, được xếp thứ 20 trong top 100 khoảnh khắc kinh dị nhất mọi thời đại của kênh truyền hình cáp Bravo. Sau khi công chiếu vào ngày 18, tháng 10 năm 2002, bộ phim xếp thứ nhất tại Mĩ với doanh thu 15 triệu đô la. Tổng doanh thu bộ phim đạt $249.348.933, là một trong những phim kinh dị thành công nhất mọi thời đại.
Thây ma
Khác với khái niệm về ma thì trong bộ phim kinh dị của Mỹ, zombie là một loại xác sống chuyên đi ăn thịt người sau khi bị ăn thịt thì chính họ lại trở thành một thây ma khác và được gọi chung là zombie. Lý do xuất hiện zombie đó là họ bị một loại virus gây nên ăn thẳng vào cơ thể nhưng không chết hoàn toàn mà vẫn tồn tại theo hướng khác bản năng và không còn tính người.
Tại các nước
Tại Campuchia, hầu như các phim kinh dị về ma luôn luôn đông khách và nền điện ảnh nước này năm nào cũng cho ra đời những bộ phim ma mà đề tài về ma cũng rất đa dạng. Hầu như rạp chiếu phim nào tại đất nước này cũng trình chiếu phim ma.
Tại Trung Quốc, bộ phim Thiến nữ u hồn là bộ phim nổi tiếng trong dòng phim ma tại nước này. Phim ma Trung Quốc thường đi theo lối mòn là mang yếu tố thần thoại, cốt truyện mang nội dung gần giống với Liêu trai chí dị. Bộ phim Thiến nữ u hồn đã mang lại nhiều giải thưởng cao cho điện ảnh Trung Quốc.
Tại Thái Lan, các phim ma kinh dị và các phim ma hài hước được khai thác tối đa. Truyền hình có cả kênh chuyên đề ma là chuyện kể các nhân chứng gặp được ma.
Tại Hàn Quốc, thể loại phim ma kết hợp giữa hư và thực hay sử dụng kỹ xảo điện ảnh cho ra đời các phim truyện ma có nội dung rõ ràng và giáo dục con người nhiều hơn là kinh dị câu khách.
Truyện tranh
Ở Hồng Kông: Âm dương lộ
Hội họa Nhật Bản
Đây là những bức tranh vẽ ma do họa sĩ Nhật sáng tác:
Một số bức ảnh ma
Có một số bức ảnh mà người chụp ảnh sau khi rửa ảnh cho rằng đã chụp được ma nên đã công bố trên các kênh truyền thông. Tuy nhiên, một số hình ảnh này nhiều khi do hiệu ứng ánh sáng, tốc độ chụp nhanh và bị lệch, hình ảnh cho ra sẽ khác. |
Bộ Cá sấu (Crocodilia) là một bộ thuộc lớp Mặt thằn lằn (Sauropsida) hay theo các phân loại truyền thống thì thuộc lớp Bò sát (Reptilia), xuất hiện từ khoảng 84 triệu năm trước, vào cuối kỷ Phấn trắng (Cretaceous, tầng Champagne). Bộ này là họ hàng gần gũi nhất còn sinh tồn của các loài chim, do hai nhóm là các thành viên duy nhất còn sống sót đã biết của nhóm Archosauria. Các thành viên của nhóm thân cây dạng cá sấu, nhánh gọi là Crurotarsi, đã xuất hiện khoảng 220 triệu năm trước trong kỷ Trias và có sự đa dạng lớn về các dạng trong thời kỳ đại Trung sinh.
Tên khoa học của bộ này thường cũng hay được viết thành 'Crocodylia' để phù hợp với chi điển hình Crocodylus (Laurenti, 1768). Tuy nhiên, Richard Owen đã sử dụng -i- khi ông công bố tên gọi này năm 1842, vì thế trong các văn bản khoa học nói chung nó được viết thành Crocodilia. Cách viết dùng -i- cũng là sự La tinh hóa chính xác hơn của từ κροκόδειλος (crocodeilos, nghĩa đen là "giun sỏi cuội", nói tới cấu tạo và hình dáng của nhóm động vật này) trong tiếng Hy Lạp.
Thuật ngữ cá sấu trong tiếng Việt bao gồm các dạng cá sấu đích thực, cá sấu mõm ngắn và cá sấu mõm dài. Tuy nhiên, nó cũng được áp dụng để chỉ các họ hàng xa thời tiền sử của chúng, chẳng hạn như "cá sấu biển" (Thalattosuchia).
Đặc điểm chung
Cá sấu là động vật cao cấp nhất trong tất cả các loài bò sát. Cá sấu có tim 4 ngăn, cơ hoành và vỏ não. Đặc điểm này làm nó được đánh giá là tiến hóa hơn những loài bò sát khác.
Kích thước và hình dạng
Bài chi tiết: Kích thước các loài cá sấu
Kích thước của cá sấu thay đổi đáng kể, giữa loài cá sấu lùn chỉ dài khoảng trên 1m và cân nặng trên dưới 10 kg cho đến loài cá sấu nước mặn khổng lồ dài tới 6-7m và có khối lượng 1-2 tấn. Một số loài cá sấu lớn có thể dài từ 5 đến 6 mét và nặng khoảng 1.200 kg. Tuy nhiên, lúc mới sinh ra cá sấu chỉ khoảng 20 cm. Loài cá sấu lớn nhất là cá sấu nước mặn sống ở Bắc Úc và Đông Nam Á. Theo một số nhà khoa học, không một con cá sấu nào có thể vượt qua kích thước 8,64 m.
Có tất cả 24 loài trong Bộ cá sấu hiện còn tồn tại. Chúng đều có hình dáng kiểu thằn lằn, với một cái đuôi dài rất khỏe giúp chúng bơi trong nước, và một cặp hàm dài, mạnh mẽ với những chiếc răng sắc nhọn vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên các loài cá sấu có chiếc mõm rất khác nhau. Họ cá sấu đích thực (Crocodylidae) gồm 14 loài có đầu hẹp và tương đối dài với chiếc mõm nhọn hình chữ V. Họ cá sấu mõm ngắn (Alligatoridae) bao gồm 8 loài có chiếc mõm rộng hình chữ U. Hai loài cá sấu mõm dài (họ Gavialidae) có chiếc mõm cực kỳ dài, mảnh dẻ với bộ hàm yếu, chủ yếu săn bắt cá và các loài thủy sinh nhỏ.
Môi trường sống
Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của khu vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Đại Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước chảy chậm. Thân thể chúng thuôn dài giúp bơi nhanh hơn. Khi bơi chúng ép sát chân vào người để giảm sức cản của nước. Chân cá sấu có màng, không phải dùng quạt nước mà để sử dụng cho những cử động nhanh đột ngột hoặc lúc bắt đầu bơi. Chân có màng giúp cá sấu có lợi thế ở những chỗ nước nông, nơi mà các con vật trên cạn thường qua lại. Một số loài, chủ yếu là cá sấu cửa sông ở Úc và các đảo trên Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa ngoài biển.
Các loài cá sấu đích thực phân bố hầu khắp các vùng nhiệt đới của các châu lục, trong khi các loài cá sấu mõm ngắn phân bố chủ yếu ở châu Mỹ (trừ cá sấu Dương Tử sinh sống ở Trung Quốc) và các loài cá sấu mõm dài chỉ có mặt ở phía nam châu Á.
Kỹ năng tấn công
Cá sấu ăn thịt và là tay đi săn cừ khôi. Thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là cá và động vật có vú, kể cả còn sống hay đã chết. Cá sấu rất nhanh nhẹn trong khoảng cách ngắn, thậm chí cả khi ở ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép chặt, do cơ khép hàm khỏe hơn nhiều so với cơ mở hàm, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông Nin mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Áp lực của quai hàm cá sấu đạt tới 3000 pao trên một inch vuông (3000 psi, xấp xỉ 144 kPa), so sánh với chỉ 100 psi đối với một con chó to. Tất cả những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe.
Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng. Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu kéo nạn nhận xuống con sông để nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người nhiều vòng để dứt thịt ra. Thoạt nhiên, bạn có thể cho rằng điều này thật khó khăn vì không kiếm được điểm tựa, nhưng những con cá sấu thì không phải lo điều đó: ngay khi đánh hơi được mùi máu, năm sáu chú cá sấu cùng bơi đến tỏ ý muốn chia sẻ bữa ăn, và thường thì con mồi bị xé ra thành hàng trăm mảnh nhỏ bởi những bộ hàm to khỏe và cú xoay người mãnh liệt.
Là động vật ăn thịt máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn và thậm chí cả cá mập. Tại Vườn quốc gia Sundarbans ở Ấn Độ một con cá sấu dài 4,5m ở khu đầm lầy ngập mặn hoang dã tây Bangal đã có một cuộc tấn công lịch sử trở thành con cá sấu đầu tiên tiêu diệt một con hổ hoang dã tại đây, con hổ đã bị tấn công khi nó đang cố bơi qua sông và bị giết trong một trận chiến khốc liệt sau đó, con cá sấu đã có được lợi thế khi chiến đấu ở dưới nước. Ngoại lệ nổi tiếng là chim choi choi Ai Cậplà loài có quan hệ cộng sinh, trong đó chim choi choi có thức ăn là các loài ký sinh trùng sinh sống trong miệng cá sấu và cá sấu để cho chim tự do làm việc này.
Sách Kỷ lục Guinness đã ghi nhận sự kiện một Trung đoàn biệt kích Nhật Bản bị cá sấu xóa sổ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai là một thảm kịch có số lượng lớn nhất các ca tử vong của con người do động vật gây ra. Trung đoàn biệt kích thiện chiến với 1.215 binh sĩ đã bị đàn cá sấu nuốt sống, hơn 20 binh sĩ và sĩ quan sống sót, những người thoát khỏi những cái hàm cá sấu và bị người Anh bắt làm tù binh.
Mùa sinh sản
Tất cả cá sấu là loài đẻ trứng. Cá sấu đực là những kẻ khá ầm ỹ. Vào mùa sinh sản, chúng phát ra những âm thanh có thể so sánh với động cơ của những chiếc máy bay cỡ nhỏ, âm thanh này có thể lan truyền nhiều km trong làn nước. Chúng thu hút những con cái và tất nhiên, những con đực khác đang đố kị. Rất nhanh chóng, hàng chục con đực khác kéo đến và thi nhau cất lên những lời ca trầm hùng, đôi khi còn làm rung động mặt nước phía trên tấm lưng chúng, khiến nước bắn lên cao một cách đáng kinh nhạc.
Tất nhiên, chú sấu nào khỏe hơn sẽ có tiếng ca lớn hơn. Ở môi mỗi con cá sấu đều có một bộ phận cảm nhận những rung động của mặt nước, đối với con cái là để tìm được người chồng ưng ý, còn đối với những chàng ca sĩ khác là để đánh giá đối thủ. Nếu cảm thấy kẻ to mồm kia mạnh hơn mình, những con cá sấu sẽ tự rời bỏ cuộc tranh đua, còn nếu không thì trận chiến thực sự giữa những hàm răng sắc nhọn sẽ nổ ra.
Tuổi thọ
Không có 1 phương pháp chính xác nào đo đạc được tuổi thọ của cá sấu, mặc dù có một vài kỹ thuật đưa ra được những phỏng đoán khá chính xác. Phương pháp chung là đo những vòng tuổi trong xương và răng chúng, mỗi vòng biểu hiện cho 1 sự tăng trưởng mới thường xuất hiện mỗi năm một lần vào mùa mưa, khí hậu ẩm. Loài cá sấu nước mặn trung bình sống khoảng 71 năm, nhưng có những cá nhân vượt qua con số 100. Một trong những con cá sấu sống thọ nhất được ghi lại là con cá sấu sống ở vườn thú Nga, 115 tuổi. Tuy nhiên tài liệu ghi chép không nói rõ nó thuộc giống cá sấu nào. Một con cá sấu nước ngọt giống đực sống ở vườn thú Australia đã 130 tuổi. Nó được Bob và Steve Irwin cứu sống sau khi đã bị bắn 2 lần.
Tiến hóa và phân loại
Cá sấu có lẽ có quan hệ họ hàng gần với chim và khủng long hơn là với tất cả các động vật khác đã được phân loại như là lưỡng cư (mặc dù tất cả các động vậtlưỡng cư này được cho là có quan hệ họ hàng gần với nhau hơn) và có các đặc điểm bất thường đối với các loài lưỡng cư, chẳng hạn như tim có 4 ngăn.
Eusuchia (cá sấu thật sự), một nhánh hiện đại, bao gồm nhóm chỏm cây Crocodilia, lần đầu tiên đã xuất hiện vào thời kỳ Hậu Phấn trắng tại châu Âu. Isisfordia duncani sinh sống khoảng 95-98 triệu năm trước, trong thời kỳ thuộc tầng Cenomanum của Tiền Phấn trắng. Isisfordia là nhóm cá sấu thật sự cổ thứ hai đã biết, còn dạng Crocodylomorpha sớm nhất đã được tìm thấy ở Australia. Nhóm cá sấu thật sự (Eusuchia) trải qua sự phân tỏa lớn vào Hậu Phấn trắng và trong kỷ Paleogen, trong đó chúng tiến hóa thành một loạt các dạng, chẳng hạn các loài sống bán thủy sinh và ăn thịt khủng long (Deinosuchus); các loài sống trên đất liền, có chân giống móng guốc và ăn thịt (Pristichampsus) và dạng hộp sọ hình 'rìu' (Baru).
Phân loại
Liên bộ Crocodylomorpha
Bộ Crocodilia gồm 24 loài còn tồn tại, 9 chi thuộc 3 họ sinh học.
Liên họ Gavialoidea
Họ Gavialidae: gồm 2 loài trong 2 chi là cá sấu sông Hằng và giả cá sấu sông Hằng
Liên họ Alligatoroidea
Họ Alligatoridae gồm 8 loài trong 4 chi.
Phân họ Diplocynodontinae (tuyệt chủng)
Phân họ Alligatorinae: gồm 2 loài trong 1 chi là cá sấu mõm ngắn Mỹ và cá sấu Dương Tử
Phân họ Caimaninae: gồm 6 loài trong 3 chi là Chi cá sấu caiman lùn, Chi cá sấu caiman và Cá sấu caiman đen
Liên họ Crocodyloidea
Họ Crocodylidae gồm 14 loài trong 3 chi.
Phân họ Mekosuchinae (tuyệt chủng)
Phân họ Crocodylinae: gồm 14 loài trong 3 chi là Chi cá sấu, Cá sấu tí hon và Cá sấu mũi hẹp
Phát sinh loài
Biểu đồ này vẽ theo Brochu (1997).
Eusuchia
├──Hylaeochampsa
└──┬──Allodaposuchus
└──Crocodilia
├──Gavialoidea
│ ├──Eothoracosaurus
│ └──┬──Thoracosaurus
│ └──┬──Argochampsa
│ ├──Eosuchus
│ └──Gavialidae
└──┬──Borealosuchus
└──┬──Pristichampsus
└──Brevirostres
├──Alligatoroidea
│ ├──Leidyosuchus
│ ├─?Deinosuchus
│ └──Globidonta
│ ├──Stangerochampsa
│ ├──Brachychampsa
│ └──Alligatoridae
└──Crocodyloidea
├──Prodiplocynodon
└──┬──Asiatosuchus
└──┬──Brachyuranochampsa
└──┬──Harpacochampsa
└──Crocodylidae
Quan hệ với con người
Những loài cá sấu lớn có thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá sấu cửa sông và cá sấu sông Nin là những loài nguy hiểm nhất, chúng đã giết chết hàng trăm người mỗi năm ở các khu vực Đông Nam Á và châu Phi. Cá sấu mõm ngắn Mỹ và có thể cả cá sấu caiman đen (là loài đang nguy cấp trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài gây nguy hiểm cho con người.
Các loài cá sấu lớn nhất, cũng là các loài lưỡng cư lớn nhất trên Trái Đất là cá sấu nước mặn, sinh sống ở khu vực miền bắc Úc và trong suốt khu vực Đông Nam Á. Một điều gây nhầm lẫn là ở miền bắc Úc đôi khi người ta gọi cá sấu nước mặn là alligator (cá sấu alligator) trong khi nó không phải là như thế và loài cá sấu nước ngọt nhỏ hơn thì gọi là crocodile (cá sấu). Điều này có lẽ là do cá sấu nước ngọt có mõm dài nhìn rất giống cá sấu sông Nin thu nhỏ, trong khi cá sấu nước mặn có thể rất giống với cá sấu alligator Mỹ ít nguy hiểm hơn nhiều. Vì thế khi người Úc nói Alligator Rivers để chỉ cá sấu ở vùng lãnh thổ phía bắc thì trên thực tế nó là cá sấu nước mặn. Đây là giải thích cho việc những người Mỹ đôi khi cho rằng cá sấu alligator là những động vật nguy hiểm chứ không phải cá sấu crocodile.
Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Việc chăn nuôi đã làm tăng số lượng cá sấu nước mặn ở Úc, do trứng thông thường được thu hoạch từ tự nhiên, vì thế những chủ sở hữu đất đai có động cơ thúc đẩy để bảo tồn môi trường sống của cá sấu.
Hình ảnh |
Bao cao su, cũng được gọi bao dương vật, túi cao su, ca pốt (từ capote trong tiếng Pháp) hay condom theo tiếng Anh, hay áo mưa theo tiếng lóng, là một dụng cụ được dùng để giảm khả năng có thai và nguy cơ lây bệnh đường tình dục (như lậu mủ, giang mai và HIV) khi quan hệ tình dục và thực hiện các hành vi tình dục khác.
Nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng: bao cao su sẽ cung cấp "sự bảo vệ an toàn tuyệt đối" khi quan hệ tình dục, khi đã sử dụng đúng cách thì không cần lo lắng về việc mang thai ngoài ý muốn hoặc lây bệnh hoa liễu. Nhưng thực ra, bao cao su chỉ giảm bớt chứ không ngăn chặn được rủi ro một cách tuyệt đối, tức là dù có sử dụng bao cao su đúng cách thì rủi ro vẫn có thể xảy ra. Kể cả khi sử dụng đúng cách và dùng trong mọi lần quan hệ tình dục, tỉ lệ xảy ra mang thai ngoài ý muốn vẫn vào khoảng 2% một năm. Đối với HIV/AIDS, khả năng ngăn chặn lây nhiễm của bao cao su vào khoảng 67-85% (tức xác suất lây nhiễm vẫn còn khoảng 15-33%) trong mỗi lần dùng. Đối với một số bệnh hoa liễu lây qua đường tiếp xúc hoặc nước bọt, bao cao su không có tác dụng ngăn chặn.
Bao cao su được trùm lên dương vật đã cương cứng và chặn tinh dịch không cho thâm nhập vào cơ thể bạn tình. Được sử dụng trong kế hoạch hóa gia đình, bao cao su nam giới có lợi thế là giá rẻ, dễ sử dụng, ít tác dụng phụ. Vì bao cao su là chất dẻo không thấm nước và bền, chúng cũng được dùng vào một số mục đích khác như đựng tinh dịch khi chữa trị vô sinh cũng như một số mục đích không liên quan tới tình dục như tạo micro không thấm nước, bọc nòng súng trường để khỏi bị kẹt.
Bao cao su đã được sử dụng cách đây ít nhất 400 năm, khi đó nó làm bằng ruột hoặc da động vật (một số khám phá khảo cổ còn cho thấy nó có từ thời Ai Cập cổ đại). Từ thế kỷ 19, sử dụng bao cao su là một trong các phương pháp ngừa thai phổ biến nhất. Bao cao su hiện đại hầu hết được làm bằng nhựa, nhưng đôi khi cũng được làm bằng nhựa tổng hợp, polyisoprene hoặc ruột cừu. Bao cao su nữ giới thường được làm bằng nhựa tổng hợp. Hầu hết bao cao su đều có một phần dư ra trên đầu để chứa tinh dịch. Bao cao su có nhiều kích cỡ và bề mặt khác nhau để kích thích người dùng. Bao cao su thường được tẩm chất bôi trơn để giúp dương vật thâm nhập dễ dàng còn bao cao su có mùi vị thì dùng cho làm tình bằng miệng.
Độ phổ biến của bao cao su tùy thuộc nhiều vào từng quốc gia. Hầu hết các thống kê về mục đích tránh thai được thực hiện với phụ nữ có chồng hoặc phụ nữ trong các tổ chức. Nhật Bản có tỉ lệ dùng bao cao su cao nhất thế giới: chiếm 80% trong ngừa thai của phụ nữ có chồng. Trung bình ở các nước phát triển, bao cao su là phương pháp ngừa thai phổ biến nhất: 28%. Trung bình ở các nước kém phát triển, bao cao su là phương pháp ngừa thai ít phổ biến nhất: 6-8%. Được chấp nhận rộng rãi trong lịch sử hiện đại, bao cao su gây ra nhiều tranh cãi chủ yếu về cách dùng chúng trong giáo dục giới tính.
Sử dụng bao cao su để ngăn ngừa lây bệnh cũng khác nhau. Đối với người đồng tính nam ở Hoa Kỳ, một thống kê cho thấy 35% từng sử dụng hai bao cao su cùng lúc. Mặc dù có mục đích là tăng khả năng bảo vệ, dùng hai bao cao su cùng lúc thực ra lại làm tăng khả năng hỏng bao cao su.
Rủi ro khi sử dụng
Bao cao su có thể bị tuột ra khỏi dương vật sau khi xuất tinh, bị rách do không sử dụng đúng cách hoặc bị xé khi mở gói, bị rách hoặc tuột vì chất liệu nhựa bị hỏng (thường do quá hạn sử dụng, cất giữ không đúng cách hoặc bị dính dầu). Tỉ lệ rách bao cao su là từ 0,4% đến 2,3%, tỉ lệ tuột là 0,6% và 1,3%. Một tổng kết từ 10 nghiên cứu với nhiều loại bao cao su khác nhau đã cho tỉ lệ thất bại trung bình (cả rách hoặc tuột) là 8,04%.
Tùy theo loại thất bại khi dùng bao cao su mà có các mức độ thâm nhập tinh dịch khác nhau. Một nghiên cứu cho thấy khi bị rách bao, tinh dịch sẽ bị thâm nhập một nửa so với không dùng bao. Còn khi bị tuột thì chỉ 1/5 tinh dịch bị thâm nhập. Mặc dù nếu bao cao su không bị rách hoặc tuột, 1–2% phụ nữ được kiểm tra là vẫn có tinh dịch sau khi quan hệ tình dục dùng bao cao su, do bị thẩm thấu qua lớp màng cao su. Sử dụng hai bao cao su cùng lúc cũng tăng khả năng hỏng bao cao su.
Đặc biệt, ngay cả khi mang bao cao su đúng cách, nguy cơ lây nhiễm AIDS vẫn còn khoảng 20-25% vì kích thước virus rất nhỏ (chỉ 0,1 micrômét), nhiều khi có thể lọt được qua lớp màng bao cao su và truyền sang bạn tình. Một nghiên cứu khác còn cho tỷ lệ lây nhiễm trong mỗi lần dùng lên đến 33%. Nếu biết về tỉ lệ này, tất nhiên không ai dám bỏ qua khi AIDS là một căn bệnh chết người chưa có thuốc chữa. Điều này càng trở nên nguy hiểm khi nhiều người tưởng rằng chỉ cần sử dụng bao cao su thì sẽ ngăn ngừa được tuyệt đối nguy cơ lây nhiễm HIV.
Bao cao su tiêu chuẩn vừa cho hầu hết kích cỡ dương vật mặc dù nhiều nhà sản xuất bán loại khít hoặc loại lớn. Vài nhà sản xuất cũng bán các loại bao cao su vừa kích cỡ dương vật khách hàng và đảm bảo rằng chúng tin cậy và tăng khoái cảm hơn. Vài nghiên cứu cho thấy sự tương quan giữa dương vật lớn và bao cao su nhỏ với tỉ lệ rách cao và tỉ lệ tuột thấp (và ngược lại), nhưng những nghiên cứu khác thì không thấy điều này.
Độ dày không liên quan đến việc rách, bao cao su loại mỏng thì hiệu quả hơn loại dày. Tuy vậy, các nhà sản xuất được khuyến cáo tránh sản xuất loại quá dày hoặc quá mỏng vì chúng kém hiệu quả hơn. Nhiều tác giả còn khuyến khích dùng loại mỏng vì "độ bền, khoái cảm và thoải mái", nhưng những tác giả khác cảnh báo rằng "bao cao su càng mỏng thì cần một lực nhỏ hơn để làm rách chúng".
Người dùng bao cao su có kinh nghiệm thì khả năng bị rách hay tuột thấp hơn nhiều so với người dùng lần đầu, mặc dù những ai từng bị tuột hoặc rách một lần thì khả năng bị rách hoặc tuột lần hai là cao hơn. Một bài báo trên Báo cáo Dân số (Population Reports) cho thấy chỉ dạy về cách sử dụng bao cao su sẽ giảm những thao tác làm tăng khả năng rách và tuột bao cao su.
Trong số những người sử dụng phương pháp tránh thai bằng bao cao su, một người có thể hết bao cao su, hoặc đang đi du lịch và không có mang bao cao su hoặc chỉ đơn giản muốn thử cảm giác lạ và quyết định không sử dụng một lần. Hành vi kiểu này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thất bại khi dùng bao cao su.
Một nguyên nhân thất bại khác là do phá hoại ngầm của bạn tình. Một trong những động cơ là muốn có con trái với mong muốn hoặc sự đồng ý của bạn tình. Vài người bán dâm Nigeria báo cáo rằng khách hàng ngầm phá hoại bao cao su để trả thù cho việc bị ép buộc dùng bao cao su. Dùng một chiếc kim nhỏ đâm nhiều lỗ ở đầu bao cao su được cho là giảm đáng kể hiệu quả của bao cao su.
Sử dụng đúng
Kiểm tra bao cao su
Chú ý: Bước này rất hay bị nhiều người bỏ qua.
Bao cao su phải còn hạn sử dụng, còn nguyên gói, không quăn gói, vẫn còn mềm, màu không loang lổ, không bị rách.
Đeo
Bao phải được sử dụng ngay sau khi bóc gói. Sử dụng ngay từ khi dương vật bắt đầu cương cứng. Chú ý nên dùng động tác từ từ, nhẹ nhàng (nhất là khi làm cho người khác), tránh làm rách bao. Xem kỹ hướng vòng tròn để tròng vòng bao cao su cho đúng hướng, đảm bảo bao sẽ che được dương vật. Bóp túi phình nhỏ ở đầu bao cho không khí ra hết (lấy chỗ chứa tinh dịch, đề phòng thủng, bể bao khi phóng tinh), một tay còn lại cuộn vòng tròn bao lên để bao phủ đầu dương vật và vuốt cho bao phủ đến tận gốc.
Tháo
Lưu ý sau khi giao hợp: Nên rút bao ra ngay lúc dương vật còn cương cứng. Một tay nên giữ chặt bao cao su, để tránh trường hợp bao hoặc tinh dịch có thể rớt vào âm đạo lúc đã hết cương. Để phòng tránh có thai và vệ sinh triệt để, chú ý rửa tay và bộ phận sinh dục nhiều lần với nước ấm và xà phòng, sau đó lau khô bằng khăn riêng. Lưu ý không để dương vật lại gần bộ phận sinh dục nữ giới nữa, vì tinh dịch vẫn tiết ra trong vòng hai giờ đồng hồ sau khi xuất tinh.
Bao cao su cho nữ giới
Loại bao cao su âm đạo Reality (Reality vaginal condom): là một ống dài 17 cm, được chế tạo bằng chất dẻo polyurethan, có hai vòng mềm ở hai đầu. Dụng cụ được đặt vào âm đạo giống như cách đặt một màng ngăn, vòng ở đầu trong khớp với cổ tử cung, vòng ở đầu ngoài phủ lên các môi của âm hộ, do đó có thể hứng toàn bộ tinh dịch của nam giới phóng ra khi giao hợp, không cho lọt vào đường sinh dục nữ.
Loại bao cao su âm đạo thứ hai (Women's choice female condom): có cấu tạo giống như bao cao su nam kèm theo một que nhựa để đẩy vào, đầu trong dày hơn khớp với đầu trên âm đạo, đầu ngoài là một vòng che phủ lên các môi của âm hộ. Dụng cụ được chế tạo bằng latex và dày hơn bao cao su của nam để tăng độ bền. Qua thử nghiệm người dùng thấy thoải mái, dễ lắp và dễ tháo.
Còn một loại bao cao su dùng cho nữ nữa, có cấu tạo gần giống như chiếc quần lót bằng latex với một túi nhỏ ở đúng vị trí lỗ âm đạo. Trước khi giao hợp, người phụ nữ đẩy cái túi nhỏ này vào trong âm đạo. Dụng cụ này che phủ được toàn bộ tầng sinh môn và bộ phận sinh dục ngoài của người phụ nữ, do đó có khả năng bảo vệ tránh các bệnh lây theo đường tình dục cao.
Đặt bao
Xé vỏ, lấy bao ra nhẹ nhàng. Vân vê nhẹ cho dịch trơn đẫm hết bao. Bóp hẹp hình vòng nhỏ, cầm bao chắc chắn.
Tay cầm bao đưa vào âm đạo, tay kia vạch môi sinh dục dẫn đường. Đưa bao vào sâu hết mức có thể đưa được.
Đưa ngón tay vào trong bao, tìm chạm vòng nhỏ, đẩy bao sâu lên đến hết âm đạo. Tránh đừng để bao bị xoắn.
Tháo bao
Xoắn miệng bao để giữ tinh dịch ở trong, kéo nhẹ bao ra.
Phổ biến tại Việt Nam
Để phòng lây nhiễm HIV qua đường tình dục, UBND Thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 05.03.2013, nhất trí mở rộng "chương trình 100% bao cao su" và triển khai việc đặt bao cao su trong tất cả phòng khách sạn trên địa bàn.
Chú thích |
Cá sấu nước ngọt có thể là:
Cá sấu mũi dài
Cá sấu Xiêm |
Huyền Trang (chữ Hán: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng 602–664), hay Huyền Tráng, tục danh Trần Huy (陳禕), cũng thường được gọi là Đường Tam Tạng (唐三藏) hay Đường Tăng (唐僧), là một cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Phạn ngữ ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Danh hiệu Tam Tạng được giới tăng sĩ tôn xưng để tôn vinh ông là người tinh thông cả Tam tạng Kinh điển Phật giáo.
Cơ duyên và thành tích
Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Hy, Trần Vĩ, Trần Qui hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 602, có thuyết nói là năm 600 (niên hiệu Khai Hoàng thứ 20, đời Tùy), tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Hà Nam, trong một gia đình có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Trần Huệ thì dốc tâm vào Nho học, khước từ làm quan. Theo các truyện ký thì từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được thân phụ chỉ dạy những nghi thức Nho giáo.
Năm lên 13 tuổi Sư đã xuất gia và thọ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học kinh sách Đại thừa dưới nhiều giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn. Đây là lý do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Thiên Trúc để tự mình tìm hiểu.
Mặc dù bị Đường Thái Tông ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm 629 Sư liều mình ra đi để hành hương chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ tìm kiếm và nghiên cứu kinh điển mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập ký sự du hành của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đã khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Đại Đường Tây Vực ký, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về địa lý, xã hội và tập quán của miền Trung Á và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đã đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều nhà du khảo phương Tây như Ariel Stein đã tham khảo tập ký sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm tìm lại và xác định những vị trí đã được tìm ra và rồi bị lãng quên trong nhiều thế kỉ.
Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ trình độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đã gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất chùa chiền cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đã trở thành tu sĩ tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Triều Tiên và Nhật Bản, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ lòng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền nghệ thuật và kiến trúc Trung Quốc bằng những vật dụng và thiết kế do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Trường An (ngày nay là Tây An) để chứa đựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn còn và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.
Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Quy mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà còn bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-tì-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhã ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Đại tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.
Trong thời Huyền Trang, Phật giáo Trung Quốc có nhiều trường phái và học thuyết được hình thành. Họ tranh cãi nhau về các vấn đề cơ bản. Trong số đó, nhiều trường phái dựa trên các kinh sách không rõ xuất xứ nhưng được xem là phiên dịch từ nguồn gốc Ấn Độ. Một số khác dựa trên kinh sách thật nhưng các bản dịch thiếu chính xác đã gây ra nhiều nhầm lẫn. Điều này ngày một phổ biến tại Trung Quốc và Triều Tiên. Sau 16 năm tại Trung Á và Ấn Độ, trở về Trung Quốc, Huyền Trang cống hiến đời mình bằng cách đưa Phật giáo Trung Quốc thời đó trở lại phù hợp với những gì Sư học hỏi được tại Ấn Độ. Sư thực hiện điều đó bằng cách phiên dịch lại các kinh sách quan trọng, trình bày lại một cách chính xác hơn cũng như giới thiệu những kinh sách mới và nhiều tài liệu chưa hề có tại Trung Quốc. Song song với công trình dịch thuật khổng lồ – 74 bộ kinh luận trong 19 năm – trong đó có một số kinh với quy mô to lớn, như bộ Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa đã nhắc đến dài hàng ngàn trang – Sư còn đào tạo tăng sĩ học tập hệ thống Duy thức và Nhân minh Ấn Độ, đồng thời Sư là tăng sĩ biện giải số một của triều đình cho đến ngày nhập diệt. Công trình dịch thuật của Sư ghi dấu ấn sâu sắc sự thâm nhập của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ vào miền Đông Á.
Du hành Ấn Độ
Nguyên nhân đi Ấn Độ
Khoảng đầu thế kỉ 7, kinh sách Phật giáo của Trung Quốc gồm có vô số những bản dịch, văn bản chữ Hán; đại diện và làm nền tảng cho nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tất cả đều tự nhận mình là "Phật giáo". Trên một chừng mức nhất định, Phật giáo Trung Quốc của thế kỉ thứ sáu có thể được xem là một trường tranh cãi giữa các trường phái của Duy thức tông, tức là giáo phái được ghi lại trong các tác phẩm của Vô Trước và Thế Thân. Thế nhưng, các điểm chi tiết của hệ thống này, cả về mặt cơ bản lẫn luận giải, là đối tượng của những cuộc tranh cãi triền miên.
Trong không khí đó thì cậu tiểu tăng Trần Huy học tập và trưởng thành với kinh sách Phật giáo nói trên. Sư được tham cứu kinh sách cùng với tăng già với số tuổi mười ba. Nhà Tùy (589-618) điêu tàn, chiến tranh, nội loạn gây ra chết chóc và bất ổn trong nhiều vùng Trung Quốc. Vì thế nhiều tăng sĩ, học trò kéo nhau về Trường An, kinh đô của nhà Đường, nơi mà các vị đó được ủng hộ trong việc tu hành và giáo hóa một cách tương đối an toàn. Huyền Trang cũng về Tràng An và sau khi theo học với nhiều vị sư tiếng tăm, Sư đã được biết là một người học rộng và có tư chất. Thế nhưng Sư sớm kết luận rằng: mọi tranh cãi, diễn dịch khác nhau trong Phật giáo Trung Quốc là hậu quả của sự thiếu thốn kinh sách chủ chốt viết bằng tiếng Hán. Đặc biệt, Sư cho rằng một bản dịch đầy đủ của bộ Du-già sư địa luận, một bộ luận bách khoa của phái Duy thức tông miêu tả con đường dẫn tới Phật quả của Vô Trước, sẽ có khả năng giải quyết mọi tranh chấp. Trong thế kỉ 6, đã có một vị tăng Ấn Độ là Chân Đế (một Đại dịch giả khác) đã dịch một phần tác phẩm đó. Huyền Trang thấy mình phải dịch trọn bộ luận Ấn Độ này và giới thiệu cho Trung Quốc.
Hoạt động tại Ấn Độ
Mặc dù nhà vua cấm Huyền Trang ra đi, Sư vẫn lên đường, trải qua nhiều gian khổ trên đường băng qua núi non và sa mạc, đối diện với đói khát và giặc cướp, và cuối cùng sau một năm, Sư tới Ấn Độ. Khi tới nơi, Sư nhận ra rằng sự khác biệt giữa Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc không phải chỉ ở vài chương thiếu sót của một bộ luận. Từ trên một thế kỉ nay, Phật giáo Ấn Độ nằm trong vòng cương toả của lý luận duy lý của Trần-na và dù một số bài luận về Nhân minh học của Trần-na đã được phiên dịch thì lý luận Phật giáo – nay đã trở thành một phần không tách rời khỏi triết học Phật giáo Ấn Độ – vẫn hoàn toàn chưa ai biết tới tại Trung Quốc. Huyền Trang cũng khám phá được rằng, tư tưởng Phật giáo mà người Phật tử hay tranh luận và diễn dịch mênh mông hơn, lớn rộng hơn nhiều so với những tài liệu lưu hành tại Trung Quốc: nhiều quan điểm Phật giáo được tôi luyện trong các cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các Phật tử và người ngoài, các quan điểm đó không hề được biết tới tại Trung Quốc và những từ ngữ, khái niệm trong các cuộc tranh luận giàu nội dung đó có ý nghĩa rất rõ rệt. Trong khi tại Trung Quốc thì tư tưởng Duy thức và tư tưởng Như lai tạng không thể phân chia được, thì trong quan điểm kinh viện của Duy thức Ấn Độ, tư tưởng Như lai tạng không được nhắc tới, thậm chí bị từ chối. Nhiều nội dung chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc (thí dụ Phật tính) và các kinh sách quan trọng (thí dụ Đại thừa khởi tín luận) thì hoàn toàn không được Ấn Độ biết tới.
Huyền Trang ở lại Ấn Độ nhiều năm để học tập với những vị thầy danh tiếng nhất, chiêm bái các thánh tích và tham gia vào các cuộc tranh luận với những Phật tử và ngoại đạo, đả bại tất cả những đối thủ và trở nên nổi tiếng là một nhà tranh luận cứng rắn. Sau một loạt tranh luận với hai đại diện của Trung quán tông (môn đệ kế thừa quan điểm Long Thụ), Sư viết một bài luận giải bằng tiếng Phạn với ba ngàn câu kệ nói về "Điểm không khác biệt giữa Trung quán và Duy thức" mà ngày nay không còn. Sau khi hứa với Giới Hiền, thầy dạy của Sư tại đại học Na-lan-đà (trung tâm tu học Phật pháp thời bấy giờ) là sẽ trình bày lý luận của Trần-na tại Trung Quốc, Sư trở về quê hương với hơn 600 bộ kinh luận viết bằng tiếng Phạn.
Công trình biên dịch
Với hi vọng sẽ thu lượm được các thông tin quan trọng cho chiến lược quân sự của mình, nhà vua đưa Huyền Trang vào ở một tu viện đặc biệt gần kinh đô và chỉ định nhiều học giả thông thái thời bấy giờ hỗ trợ cho Sư trong công trình biên dịch. Mặc dù từ chối cung cấp cho vua các thông tin có thể dùng trong chiến trận, Sư viết một tập du ký miêu tả những nơi đã từng đi qua, đặc biệt là những thánh tích Phật giáo Sư đã đến chiêm bái. Tác phẩm này, Tây vực ký, cung cấp cho chúng ta một cái nhìn bao quát về xã hội, phong tục, tập quán, địa dư và điều kiện phát triển của đạo Phật trong thế kỉ thứ bảy tại Trung và Nam châu Á.
Quy mô những gì Sư biên dịch bao trùm tất cả mọi giáo pháp của Đức Phật: Duy thức tông với các luận giải; Trung quán tông với luận giải của phía Duy Thức; kinh cầu siêu (Huyền Trang là người đầu tiên đưa khái niệm "Tịnh độ" – cõi của một vị Phật mà người ta có thể tái sinh – với Tây phương cực lạc, cõi Phật A-di-đà; về sau cõi này trở thành phổ thông nhất đối với người dân Đông Á); Mật tông và mật chú đà-la-ni; Nhân minh luận; Tạng kinh (do Phật thuyết giảng); A-tì-đạt-ma (đặc biệt là Đại-tì-bà-sa luận) cũng như luận giải về A-tì-đạt-ma câu-xá của Thế Thân; và một bộ luận thuộc Thắng luận gia của Ấn Độ giáo. Dù đề tài rộng khắp, nhưng sự lựa chọn của Sư không tùy tiện. Thay vì chọn những đề tài tranh biện thắng lợi của một giáo phái chống lại một giáo phái khác, Sư đưa ra những bản dịch chính xác để cho mọi người cùng nhau ghi nhận. Dường như Sư thấy luận giải của Chân Đế, một dịch giả Duy thức của thế kỉ thứ sáu là không ổn; môn đệ của Chân Đế xem bộ Nhiếp đại thừa luận của Vô Trước là tác phẩm trung tâm. Không những dịch lại bộ Nhiếp đại thừa luận, Huyền Trang còn dịch toàn bộ luận giải về bộ luận này, kể cả luận giải của Thế Thân, với hi vọng chỉ cho độc giả Trung Quốc những gì bản gốc đã nói và đã không nói, cũng như những gì được hiểu và trình bày tại Ấn Độ. Mặc dù bản Phạn ngữ ngày nay không còn, sự so sánh giữa bản dịch của Huyền Trang và bản Tạng ngữ cho thấy bản dịch sau của Sư sát với bản gốc hơn bản của Chân Đế (bản dịch của Huyền Trang đồng nhất với bản Tạng ngữ trong phần lớn, trong lúc bản của Chân Đế đầy những chú thích và nhiều phân tán).
Về Huyền Trang người ta sớm truyền tụng trong vùng Đông Á: rằng Sư đến tận Ấn Độ để học tập từ gốc ngọn; rằng Sư là người duy nhất được nhà vua đỡ đầu; rằng Sư là người đưa những bản dịch mới, chính gốc giáo pháp mà từ trước đến nay chưa ai biết. Học trò người Nhật của Sư đem giáo pháp về lại Nhật, thiết lập trường phái Pháp Tướng tại đây (gọi theo tiếng Nhật là Hossō), đó là trường phái danh tiếng nhất cho đến khi phái Thiên Thai du nhập vài thế kỉ sau đó.
Giáo pháp của Sư cũng được chú ý tại Triều Tiên, nơi đó nó tổng hợp với phái Hoa nghiêm và Thiền và gây ảnh hưởng quyết định lên nền Phật giáo Triều Tiên từ cả ngàn năm nay.
Tư tưởng
Tư tưởng Phật giáo cần lý luận chính xác, nhưng điều này chỉ có ích cho hành giả hướng tới việc rời bỏ lý luận để đạt tới thực tại Vô Ngã Vô Pháp ở giai đoạn tu hành sau cùng;
Các nội dung siêu hình như Phật tính hay Như Lai tạng chỉ làm méo mó giáo pháp Đức Phật, nhưng điều này không có nghĩa là Phật tính hay Như Lai tạng là không có thật mà chỉ có ý nói rằng các nội dung siêu hình (Phật tính hay Như Lai tạng) đó là Bất Khả Tư Nghị (khó thể hiểu rõ);
Cái được gọi là thực tại cuối cùng như Chân Như hay Vô vi pháp là không thật, chúng chỉ là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự, nhưng điều đó không có nghĩa là thực tại cuối cùng là không tồn tại (hay nói cách khác nếu đã gọi là thực tại cuối cùng thì nó không những không phải là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự mà còn khó thể hiểu rõ - Bất Khả Tư Nghị);
Chỉ những gì đang xảy ra và có hiệu ứng lên cảm thụ, cái đó là thật: cái "thật" là ngược lại với cái sai lầm và "danh sắc", nhưng bản chất của các cảm thụ hay cái "thật" đó vẫn không nằm ngoài tính Không (Sắc tức thị Không) và bản chất của tính Không vẫn không nằm ngoài các cảm thụ hay cái "thật" đó (Không tức thị Sắc);
Khả năng phát triển tâm linh của mỗi người được thành hình bởi sự phối hợp của những chủng tử có sẵn và những chủng tử sinh ra do kinh nghiệm;
Không có sự mâu thuẫn giữa giáo pháp Trung quán và Duy thức.
Công trình phiên dịch theo niên biểu
Những tác phẩm liệt kê sau đây là một trích đoạn thu gọn từ một phụ lục của cuốn sách Buddhist Phenomenology (London: Curzon, 2000). Xin tham khảo cuốn này để có toàn bộ ghi chú về các tác phẩm nói trên, trong đó có một danh sách những bản dịch và luận giải được viết bằng các ngôn ngữ phương Tây.
Chỉ cần nhìn tổng quát về các bản dịch đầy thành quả của Huyền Trang, ta đã thấy Sư không hề là một nhà luận giải tôn giáo hẹp hòi. Công trình dịch thuật của Sư bao gồm toàn bộ kinh điển đạo Phật, gồm có: Kinh và Luận liên quan đến Duy thức tông, Trung quán tông, Tịnh độ tông, các tác phẩm thuộc về Thắng luận của Nhất thiết hữu bộ, các bộ kinh thuộc Mật tông, một bộ của Thắng luận gia Ấn Độ; các tác phẩm thuộc về Luận lý và Nhân minh học; A-tì-đạt-ma; Đà-la-ni; Thí dụ kinh; Đại thừa kinh; Phương đẳng kinh; các kinh thuộc Thập nhị nhân duyên, lời dạy của Phật trước khi Ngài nhập niết-bàn, các quy định về luật; Ba-la-đề mộc-xoa (nói về giới luật); kinh Bát-nhã-ba-la-mật; các tập ký sự; các bài luận giải về Quán Thế Âm, Di-lặc, Dược Sư, Địa Tạng, A-di-đà... Công trình của Sư được lưu lại trong Đại tạng của Phật giáo Trung Quốc, được xếp đặt theo cách phân chia kinh điển của các giáo phái. Nó cho thấy Sư đã đóng góp trong tất cả mọi phân ngành. Một số dịch phẩm của Sư, như Tâm Kinh hay kinh Kim Cương bát-nhã, đã trở thành trung tâm của mọi nghiên cứu và tu học của Phật giáo châu Á. Một số khác, như bản dịch Kinh Duy-ma-cật sở thuyết của Sư thì lại không bằng các bản dịch của các dịch giả khác. Một số dịch phẩm của Sư thì rất ngắn, một số khác lại dài không ai bằng (bản dịch của Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật phải chứa trong ba bộ của Đại Chính tạng. Không có bản kinh Trung Quốc nào có thể sánh gần bằng).
Danh sách sau đây được xếp theo thứ tự thời gian. Về một số kinh sách thì có tư liệu lịch sử rất chính xác, nhưng một số khác thì rất ít hoặc không có. Có một số nghi vấn liên quan đến nơi chốn hay ngày tháng của một số kinh sách nhất định. Trong số các nghi vấn đó thì một phần được ghi chú, một phần khác được bỏ qua.
Các ghi chú ngắn trong nhiều mục trong danh sách dưới đây không nhằm cung cấp thêm thông tin, chúng chỉ gợi thêm quan tâm của người đọc về công trình của Huyền Trang.
Năm 645
1. Đại Bồ Tát Tạng kinh (zh. 大菩薩藏經; sa. bodhisattva-piṭaka-sūtra), 20 quyển, dịch tại Hoằng Phúc tự (zh. 弘褔寺); là một phần của Bảo tích kinh (sa. ratnakūta-sūtra). Phần lớn kinh Bảo tích được dịch bởi Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhiruci, 706) và Trúc Pháp Hộ (sa. dharmarakṣa, 313) mặc dù một số dịch giả khác cũng đã góp phần trích dịch. Theo truyện ký của Huyền Trang thì bộ kinh trọn vẹn cuối cùng Sư được thỉnh dịch chính là kinh Bảo tích này. Sư bắt đầu công trình dịch, nhưng tuổi già và bệnh tật là nguyên nhân cản trở Sư không tiến xa. Vì Đại Bồ Tát tạng kinh là bộ kinh đầu tiên được Huyền Trang dịch sau khi từ Ấn Độ về Trung Hoa nên người ta có thể xem nó mở, và đóng vòng công trình dịch thuật của Sư.
2. Hiển dương thánh giáo luận tụng (顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā), 1 quyển, tháng 7, tại Hoằng Phúc tự. Tác giả được xem là Vô Trước (zh. 無著; sa. asaṅga). Bản này của Vô Trước lập cơ sở trên bộ Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi). Tương truyền Trần-na có viết một luận giải về chương thứ 9 của tác phẩm này với tên Nhập du-già luận (sa. yogāvatāra), hiện không còn tồn tại.
3. Phật địa kinh (zh. 佛地經; sa. buddhabhūmisūtra), 1 quyển, dịch xong ngày 12.08. tại Hoằng Phúc tự.
4. Lục môn đà-la-ni kinh (zh. 六門陀羅尼經; sa. saṇmukhi-dhāranī), 1 quyển, dịch xong ngày 11. 10. tại Hoằng Phúc tự.
5. Hiển dương thánh giáo luận (zh. 顯揚聖教論), 20 quyển, Vô Trước tạo. Dịch từ tháng 10 năm 645 đến tháng 2 năm 646 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải Hiển dương thánh giáo luận tụng (zh. 顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā) của Vô Trước.
Năm 646
6. Đại thừa A-tì-đạt-ma tạp tập luận (zh. 大乘阿毗達摩雜集論, sa. abhidharmasamuccaya-vyākhyā), 16 quyển. Gọi tắt là Tạp tập luận (雜集論). Tác giả là An Huệ (zh. 安慧, sa. sthiramati), dịch từ ngày 7 tháng 3 đến 19 tháng 4 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải A-tì-đạt-ma tập luận (gọi ngắn là Tập luận 集論) của Vô Trước. Đây là tác phẩm duy nhất của An Huệ được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Khuy Cơ có viết luận giải về tác phẩm này. Truyền thống Tây Tạng xem Tối Thắng Tử (zh. 最勝子; sa. jinaputra) là tác giả.
7. Đại Đường Tây Vực ký (zh. 大唐西域記), 12 quyển, hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là chính Huyền Trang. Dưới lệnh viết của Hoàng Đế, đây là tác phẩm du ký tả lại hành trình xuyên Trung á và Ấn Độ, đến bây giờ vẫn là một trong những tài liệu quan trọng nhất nói về những vùng đất này trong thế kỉ thứ bảy. Tác phẩm này chứa đựng nhiều tài liệu về truyền thống, sự tích Phật giáo, dân số v.v... "Đại Đường" chỉ nhà Đường, và trong một ý nghĩa rộng hơn thì đây cũng là danh hiệu của nước Trung Hoa thời bấy giờ.
Năm 647
8. Đại thừa ngũ uẩn luận (zh. 大乘五蘊論; sa. pañcaskandhaka-prakaraṇa), 1 quyển. Hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Thế Thân (zh. 世親; sa. vasubandhu). Một tác phẩm "Tiền-Duy thức" của Thế Thân.
9. Nhiếp Đại thừa luận Vô Tính thích (zh. 攝大乘論無性釋; sa. mahāyānasaṅgrahopanibandhana), 10 quyển, từ 10.04.647 đến 31.07.649, tại Đại Từ Ân tự (大慈恩寺), tác giả là Cao tăng Vô Tính (zh. 無性, sa. asvabhāva). Đây là bài chú thích Nhiếp đại thừa luận, một trong nhiều phiên bản của bài luận cùng tên của Vô Trước, được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Sư dịch Nhiếp Đại thừa luận để chỉnh lại những kiến giải sai lầm của Phật tử Trung Hoa sau khi nghiên cứu những bản dịch của Chân Đế. Nhiếp Đại thừa luận hoặc gọi ngắn là Nhiếp luận (zh. 攝論) là một bài luận căn bản của những đệ tử theo Chân Đế (được gọi là Nhiếp luận tông).
10. Du-già sư địa luận (zh. 瑜伽師地論; sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển. Từ 03.07.646 đến 11.06.648 tại Hoằng Phúc và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌 勒, sa. maitreya). Tác giả của bộ luận vĩ đại này được xem là Bồ Tát Di-lặc theo truyền thống Trung Hoa, và Vô Trước theo truyền thống Tây Tạng. Huyền Trang xem nó như là bộ bách khoa toàn thư của Du-già hành tông, và Sư sang Ấn Độ cũng vì gắng tìm toàn văn của bộ luận này. Chân Đế cũng dịch một phần của bộ luận du-già này.
11. Giải thâm mật kinh (zh. 解深密經, sa. sandhinirmocana-sūtra), 5 quyển. 8.8. tại Hoằng Phúc tự. Kinh Giải thâm mật thường được xem là bộ kinh đầu tiên diễn giảng giáo lý Du-già một cách phân biệt rõ ràng, ví như "Duy thức", "Tam tự tính", v.v... Kinh này được dịch sang Hán văn nhiều lần, và các dịch giả gồm Bồ-đề-lưu-chi (514), Chân Đế (557) và Cầu-na-bạt-đà-la (679).
12. Nhân minh nhập chính lý luận (zh. 因明入正理論, sa. nyāyapraveśa), 1 quyển. Dịch xong ngày 10. 09. tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Thương-yết-la-chủ (zh. 商 羯羅主; sa. śaṅkarasvāmin). Bài luận về Luận lý học Ấn Độ đầu tiên được dịch sang Hán văn, trình bày quan điểm luận lý của Trần-na (sa. dignāga)
Năm 648
13. Thiên thỉnh vấn kinh (zh. 天請問經; sa. devatā-sūtra), 1 quyển. 17.04.648 tại Hoằng Phúc tự.
14. Thập cú nghĩa luận (zh. 十句義論; sa. vaiśeṣika-daśapadārtha-śāstra), 1 quyển. 11.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Huệ Nguyệt (zh. 慧月; sa. maticandra). Đây là một bài luận của Thắng luận gia (sa. vaiśeṣika). Cú (句, sa. padārtha) ở đây là những thành phần căn bản của hiện thật (en. reality). Thắng luận gia thường đề ra 9 cú hơn là 10 cú.
15. Duy thức tam thập luận (zh. 唯識三十論; sa. triṃśikā), 1 quyển. 25.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Thế Thân (zh. 世親; sa. vasubandhu). Đây là bài luận gốc mà luận Thành duy thức dùng làm cơ sở. Tên Trung Hoa của luận này có thể dịch ngược sang Phạn ngữ là Triṃśikā-vijñapti-mātra-śāstra.
16. Kim cương bát-nhã kinh (zh. 金剛般若經, sa. vajracchedikā-sūtra), 1 quyển. Dịch tại Đại Từ Ân tự. Có nhiều bản dịch của kinh này: Cưu-ma-la-thập (401), Bồ-đề-lưu-chi (509), Chân Đế (558), Nghĩa Tịnh (703), nhưng bản dịch của Huyền Trang đã trở thành bản dịch tiêu chuẩn của Phật giáo Đông á.
17. Bách pháp minh môn luận (zh. 百法明門論; sa. mahāyāna-śatadharmā-prakāśamukha-śāstra), 1 quyển. 07.12. tại Hoằng Pháp viện (弘 法 院), tác giả là Thế Thân. Trong luận này, Thế Thân liệt kê 100 pháp theo quan điểm Du-già hành tông cũng như phân loại chúng.
18. Nhiếp Đại thừa luận Thế Thân thích (zh. 攝大乘論世親釋; sa. mahāyānasaṅgraha-bhāṣya), 10 quyển. Dịch tại điện Bắc Quyết (北闕) và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.
Năm 649
19. Nhiếp Đại thừa luận bản (zh. 攝大乘論本; sa. mahāyānasaṅgraha), 3 quyển. Từ 14.01. đến 31.07.649 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Vô Trước. Bản dịch của Chân Đế rất được phổ biến trong thế kỉ thứ sáu, ngay cả thời Huyền Trang. Và việc Sư chọn dịch tất cả những luận giải của Nhiếp luận (số 9 và 18 bên trên) – trong đó có một bản của Thế Thân – trước khi dịch nguyên bản chứng tỏ rằng, Sư muốn chỉnh lý những khái niệm sai lầm được dẫn khởi bởi những điểm, những tư tưởng sai lầm trong bản dịch của Chân Đế. Trước khi đưa ra một bản dịch mới, Sư trình bày những luận giải tiêu chuẩn để giảm đi phần nào lập trường của Chân Đế.
20. Duyên khởi thánh đạo kinh (zh. 緣起聖道經; sa. nidāna-sūtra), 1 quyển. Ngày 17 tháng 3 tại Hoằng Pháp viện. Kinh này nói về Duyên khởi.
21. Thức thân túc luận (zh. 識身足論; sa. abhidharma-vijñāna-kāya-pāda-śāstra), 16 quyển. Từ 03.03. đến 19.09.649 tại Hoằng Pháp viện và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Đề-bà-thiết-ma (zh. 提婆設摩; sa. devakṣema). Bài luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma tạng của Thuyết Nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivāda).
22. Như Lai thị giáo Thắng Quân vương kinh (zh. 如來示教勝軍王經; sa. rājavavādaka-sūtra), 1 quyển. 24.03. tại Đại Từ Ân tự. Phật dạy vua Ba-tư-nặc (sa. prasenajit; dịch ý là Thắng Quân 勝軍) tu hành như thế nào để là một ông vua tốt. Kinh này ít nhất mang hai ý nghĩa đối với Huyền Trang. Thứ nhất là một người bạn và cũng là thầy quan trọng tại Ấn Độ của Sư cũng mang tên Thắng Quân (勝軍). Vua Ba-tư-nặc là người cùng thời với đức Phật và có cùng tuổi: sinh cùng ngày với đức Phật, ông thừa kế vua cha lên ngôi, khác với trường hợp đức Phật là từ khước ngôi vị, trở thành một tu sĩ khất thực; Vua Ba-tư-nặc cũng trở thành một đệ tử Phật. Thứ hai, nó là một câu trả lời của Huyền Trang dành cho Hoàng Đế bấy giờ, người thường bắt buộc Sư trình bày những tin tức thâu thập được trong chuyến du hành vừa qua về những miền đất phía Tây Trung Hoa – phần lớn vì ôm ấp mộng xâm lược. Đại Đường Tây vực ký là câu trả lời của Sư, đưa ra tin tức rõ ràng về chùa chiền, địa lý và phong tục, nhưng ít tài liệu có thể sử dụng trong quân sự.
23. Thậm hi hữu kinh (zh. 甚希有經; sa. adbhūta-dharma-paryāya sūtra), 1 quyển. 02.07. tại Thuý Vi cung (翠微宮), Chung Nam sơn (終南山).
24. Bát-nhã tâm kinh (zh. 般若心經; sa. prajñā-pāramitā-hṛdaya-sūtra), 1 quyển. 08.07. tại cung Thuý Vi. Tên đầy đủ của kinh này là Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (般若波羅密多心經), được dịch nhiều lần sang Hán ngữ. Bản dịch của Huyền Trang trở thành bản dịch tiêu chuẩn, rất được ưa chuộng tại Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên (cũng như Việt Nam). Bản này được tụng niệm mỗi ngày bởi Tăng ni, giới cư sĩ khắp Đông á hơn suốt một ngàn năm nay. Có nhiều bản dịch Anh ngữ.
25. Bồ Tát giới yết-ma văn (菩薩戒羯磨文), 1 quyển. 28.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bản này được trích từ bộ luận Du-già sư địa.
26. Vương pháp chính lý kinh (王法正理經), 1 quyển. 31.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌勒)
27. Tối vô tỉ kinh (最無比經), 1 quyển. 01.09. tại Đại Từ Ân tự.
28. Bồ Tát giới bản (菩薩戒本; sa. bodhisattva-śīla-sūtra), 1 quyển. 03. 09. tại Đại Từ Ân tự (hoặc cung Thuý Vi năm 647). Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bồ Tát giới bản này được truyền thống Trung Hoa xem là của Di-lặc, Tây Tạng xem là của Vô Trước. Bản này được xem là giới luật của Du-già hành phái, được sử dụng thực hành nghi lễ cho tăng và ni. Bản Yết-ma (bản dịch 25 bên trên) được phát huy trên cơ sở của quyển này.
29. Đại thừa chưởng trân luận (zh. 大乘掌珍論; sa. karatala-ratna), 2 quyển. 19-24.10. tại Đại từ Ân tự. Tác giả: Thanh Biện (清辯; sa. bhāvaviveka). Văn bản Trung quán đầu tiên được dịch bởi Huyền Trang. Sự tranh chấp giữa Trung quán và Du-già đang ở mức căng thẳng khi Huyền Trang đến Na-lan-đà, tập trung vào học thuyết của Thanh Biện (Trung quán phái) một bên, và An Huệ và Hộ pháp (Du-già phái) một bên.
30. Phật địa kinh luận (佛地經論; sa. buddhabhūmi-sūtra-śāstra), 7 quyển. 12.11.649 đến 02.01.650. Tác giả: Thân Quang (親光; sa. bandhuprabha) và nhiều người khác. Chứa nhiều lời bình giảng về Phật địa kinh. Vì một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong luận Thành duy thức, một vài người phỏng đoán rằng, tác giả của chúng là Hộ pháp (mặc dù bản văn này cũng như Thành duy thức luận không nói một cách rõ rệt như thế). Một bản dịch của một lời bình giảng Tây Tạng cũng có những đoạn văn trùng hợp văn bản này; Tây Tạng cho rằng, tác giả của bản bình giảng ấy là Giới Hiền (sa. śīlabhadra), viện trưởng của Na-lan-đà trong lúc Huyền Trang du học tại Ấn Độ.
Năm 650
(Năm đầu tiên lên ngôi Hoàng Đế của Đường Cao Tông 高宗. Thân phụ của ông là Đường Thái Tông 太宗 ủng hộ Huyền Trang cực lực. Cao Tông, rất tin vào Đạo giáo và ý niệm mình là con cháu Lão Tử giáng trần, tiếp tục ủng hộ nhưng không nhiệt tình như trước.)
31. Nhân minh chính lý môn luận bản (因明正理門論本; sa. nyāyamukha), 1 quyển. 01. 02. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một trong những tác phẩm căn bản của Trần-na về Nhân minh học (Luận lý học).
32. Xưng tán Tịnh độ Phật nhiếp thụ kinh (稱讚淨土佛攝受經; sa. sukhāvatīvyūha), 1 quyển. Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trọng trong Tịnh Độ tông.
33. Du-già sư địa luận thích (瑜伽師地論釋; sa. yogācārabhūmi-śāstra-kārikā), 1 quyển. Tác giả Tối Thắng Tử (最勝子; sa. jinaputra). Bản bình giải của Tối Thắng Tử về Du-già sư địa luận. Còn một bản Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ bởi Sylvain Lévy, 2 quyển, Paris, 1911.
34. Phân biệt duyên khởi sơ thắng pháp môn kinh (分別緣起初勝法門經; sa. vikalpa-pratītya-samutpāda-dharmottara-praveśa-sūtra), 2 quyển. 10.03. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh khác với chủ đề Duyên khởi (pratītya-samutpāda).
35. Thuyết Vô Cấu Xứng kinh (說無垢稱經; sa. vimalakīrti-nirdeśa-sūtra), 6 quyển. Đại Từ Ân tự. Kinh này rất được ưa chuộng tại Trung Hoa – bởi vì nhân vật chính trong đó là một vị cư sĩ giác ngộ, trí huệ vượt hẳn tất cả những vị đệ tử, Bồ Tát cao đẳng nhất của đức Phật, chứng minh là giới cư sĩ có thể đạt một cấp bậc giác ngộ cao hơn tăng chúng –, được dịch sang Hán ngữ 5 lần trước bản dịch của Huyền Trang: Cưu-ma-la-thập (406), Chi Khiêm (223-228), Trúc Pháp Hộ (308), Upaśūnya (545), Xà-na Quật-đa (591). Bản dịch của Cưu-ma-la-thập trở thành bản dịch tiêu chuẩn phần lớn vì trình độ văn chương.
36. Dược Sư (Lưu Li Quang Như Lai) bản nguyện công đức kinh (藥師(流璃光如來)本願功德經; sa. bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhāsa-pūrvapraṇidhāna-viśeṣa-vistara), 1 quyển. 09.06. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trong về Phật Dược Sư. Tại Nhật, Pháp Tướng tông (ja. hossō) được xem là có mối liên hệ với Phật Dược Sư (ja. yakushi) và cho đến ngày nay, nhiều chùa chiền còn lại từ thời Nại Lương vẫn còn những chính điện thờ Phật Dược Sư, và những ngôi chùa chính của tông Pháp Tướng với tên Dược Sư tự.
37. Đại thừa quảng bách luận bản (大乘廣百論本; sa. catuḥśataka), 1 quyển. 13.07.650-30. 01. 651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖 天; sa. āryadeva). Một bài luận quan trọng của Thánh Thiên, đệ tử quan trọng nhất của Long Thụ.
38. Đại thừa quảng bách luận thích luận (大乘廣百論釋論), 10 quyển. 30.07.650-30.01.651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖天; sa. āryadeva), Hộ pháp (護法; sa. dharmapāla). Hộ pháp chú thích một bài văn của Thánh Thiên, như vậy là diễn giải một bài luận căn bản của Trung quán theo quan điểm Duy thức. Một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong Thành duy thức luận.
39. Bản sự kinh (本事經; sa. itivṛttaka-sūtra), 7 quyển. 10. 10. đến 06.12. tại Đại Từ Ân tự.
40. Chư Phật tâm đà-la-ni kinh (諸佛心陀羅尼經; sa. buddha-hṛdaya-dhāranī), 1 quyển. 26. 10 tại Đại Từ Ân tự.
Năm 651
41. Thụ trì thất Phật danh hiệu (sở sinh) công đức kinh (受持七佛名號[所生]功德經), 1 quyển. 04.02. tại Đại Từ Ân tự.
42. Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân kinh (大乘大集地藏十輪經; sa. daśa-cakra-kṣitigarbha-sūtra), 10 quyển. 18.02.651-09.08.652. Theo Nakamura thì kinh này được biên tập bởi những vị tăng nói tiếng Iran.
43. A-tì-đạt-ma tạng hiển tông luận (阿毘達磨藏顯宗論; sa. abhidharma-samayapradīpika hoặc abhidharmakośa-śāstra-kārikā-vibhāṣya), 40 quyển. 30.04.651 đến 26.11.652. Tác giả là Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Bộ luận này và A-tì-đạt-ma thuận chính lý luận (sa. nyāyānusāra, số 49 bên dưới) là hai luận giải thuộc A-tì-đạt-ma tạng của Chúng Hiền (một người đồng thời trẻ tuổi hơn của Thế Thân, đại diện cho Thuyết Nhất thiết hữu bộ) được Huyền Trang dịch sang Hán ngữ. Bộ luận này chỉ trích luận A-tì-đạt-ma-câu-xá (số 44 bên dưới) của Thế Thân trên luận điểm bảo thủ của Thuyết Nhất thiết hữu bộ.
44. A-tì-đạt-ma câu-xá luận (阿毘達磨俱舍論; sa. abhidharmakośa-bhāṣya), 30 quyển. Từ 03.06.651 đến 13.09.654 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả là Thế Thân (世親). Tác phẩm "Tiền du-già" quan trọng nhất của Thế Thân, cũng được gọi ngắn là Câu-xá luận (俱舍論). Bao gồm kệ tụng (cũng được dịch riêng dưới số 45 bên dưới) với diễn giảng, luận Câu-xá tổ chức và giản lược các học thuyết trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, nhưng không thiếu tinh thần dè dặt phê phán và vì vậy, hấp thụ những kiến giải, lập trường được xem là của những trường phái Phật giáo khác, ví như Kinh lượng bộ. Có thể là nỗi bận tâm này khiến Sư sau này trở thành một đại biểu của Du-già hành tông.
45. A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng (阿毘達磨俱舍論本頌; sa. abhidharmakośa), 1 quyển. Được dịch tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.
46. Đại thừa thành nghiệp luận (大乘成業論; sa. karma-siddhi-prakaraṇa), 1 quyển. 24.09. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân. Đây là một tác phẩm trung gian, cho thấy sự phát triển tư tưởng của Thế Thân từ luận Câu-xá đến bây giờ, nhưng chưa phải là tư tưởng Du-già (Duy thức).
Năm 652
47. Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (大乘阿毘達磨集論; sa. abhidharmasamuccaya), 7 quyển. Tác giả: Vô Trước (無著; sa. asaṅga). Một tác phẩm Du-già quan trọng của Vô Trước, được gọi ngắn là Tập luận (集論).
48. Phật lâm niết-bàn ký pháp trú kinh (佛臨涅槃記法住經), 1 quyển. 17.05. tại Đại Từ Ân tự. Kinh này trình bày một phiên bản khác của thuyết "mạt pháp" mà trong đó, Phật pháp sẽ suy tàn trong mười cấp bậc, mỗi bậc kéo dài một thế kỉ. Vì trong thời gian cuối cùng tại Ấn Độ, Huyền Trang có một giấc mộng chấn động mạnh, báo rằng Phật pháp sẽ đến thời kì kết thúc tại Ấn Độ nên bộ kinh nêu trên có thể có mối tương quan đặc biệt với những ấn tượng tại Ấn Độ của sư.
Năm 653
49. A-tì-đạt-ma thuận chính lý luận (阿毘達磨順正理論; sa. abhidharmanyāyānusāraśāstra), 80 quyển. 03.02.653-27.08.654. Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Một bộ luận bảo thủ thuộc Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Chúng Hiền biên soạn, người cũng đã viết một bài luận chỉ trích luận Câu-xá (số 43). Dài và dễ hiểu hơn luận Câu-xá.
Năm 654
50. Đại A-la-hán Nan-đề Mật-đa-la sở thuyết pháp trú ký (大阿羅漢難提蜜羅所說法住記; sa. nandimitrāvadāna), 1 quyển. 08.06.654. Một phần trích từ kinh Đại Bát-niết-bàn (sa. mahāparinirvāṇasūtra) – cũng được gọi ngắn là Pháp trú lập – mà trong đó, Na-đề Mật-đa-la thuật lại việc Phật phó chúc Pháp trú đến 16 vị A-la-hán và đệ tử của họ, khuyên họ bảo vệ Pháp trú như thế nào ngay trước khi ngài nhập niết-bàn.
51. Xưng tán Đại thừa công đức kinh (稱讚大乘功德經), 1 quyển. 24.07. tại Đại Từ Ân tự.
52. Bạt tế khổ nạn đà-la-ni kinh (拔濟苦難陀羅尼經), 1 quyển. 15.10. tại Đại Từ Ân tự.
53. Bát danh phổ mật đà-la-ni kinh (八名普密陀羅尼經), 1 quyển. 11.11. tại Đại Từ Ân tự. Những người tụng niệm tám danh hiệu này sẽ không bao giờ đoạ địa ngục, nhưng khi lâm chung, chư Phật sẽ xuất hiện và thuyết pháp giảng dạy họ. Sau khi chết, họ sẽ tái sinh tại cung trới Đâu-suất của Bồ Tát Di-lặc. Trong Đát-đặc-la Đông á, một số cách tụng niệm "Bát danh" có tương quan đến đức Di-lặc.
54. Hiển vô biên Phật độ công đức kinh (顯無邊佛土功德經; sa. tathāgatāṇaṃ-buddhakṣetra-guṇokta-dharma-paryāya[-sūtra]), 1 quyển. 12.11.654 tại Đại Từ Ân tự.
55. Thắng tràng tí ấn đà-la-ni kinh (勝幢臂印陀羅尼經), 1 quyển. 13.11.654 tại Đại Từ Ân tự.
56. Trì thế đà-la-ni kinh (持世陀羅尼經; sa. vasudhāra-dhāranī), 1 quyển. 24.11. tại Đại Từ Ân tự.
Năm 655
...
Năm 656
57. Thập nhất diện thần chú tâm kinh (十一面神咒心經; sa. avalokiteśvaraikādaśamukha-dhāranī), 1 quyển. 17.04. tại Đại Từ Ân tự. Quán Âm với mười một gương mặt có liên hệ đến phái Du-già tại Đông á, đặc biệt tại Nhật Bản trong thời kì Nại Lương (vào lúc Pháp Tướng tông tại đây đang thịnh hành). Nhiều bức tượng đá vẫn còn tồn tại tại Nhật Bản ngày nay là biểu trưng của thời Nại Lương: trình bày Quán Thế Âm với mười hai gương mặt bao quanh gương mặt chính.
58. A-tì-đạt-ma đại tì-bà-sa luận (阿毘達磨大毘婆沙論; sa. [abhidharma-]mahāvibhāṣa), 200 quyển. 18.08.656-27.07.659. Tác giả: 500 vị A-la-hán. Tác phẩm vĩ đại này rất quan trọng đối với Luận tạng của hệ phái Thuyết Nhất thiết hữu, chiếm giữ trọn một bộ phần của Đại chính tân tu Đại tạng kinh (100 bộ). Luận này bao gồm 8 phần với 43 chương, nguyên là một bài luận giải A-tì-đạt-ma phát trí luận, có lẽ được soạn tại Kashmir. 500 vị A-la-hán – thường được bàn luận trong những bộ kinh như Pháp Hoa, Niết-bàn, và đặc biệt được tôn thờ trong Thiền tông – được xem là những người biên tập bộ luận Đại Tì-bà-sa này 400 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, trong một cuộc hội họp kết tập được vua Ca-nị-sắc-ca tổ chức. Có hai bản dịch Hán ngữ khác: Một bản được dịch trong những năm 425-27 bởi Buddhavarmin và những vị khác, bao gồm 110 quyển nhưng 50 quyển đã bị thất lạc trong thời nhà Lương và một bản dịch khác của Tăng-già Bạt-trừng (僧伽跋澄; sa. saṅghabhadra hoặc saṅghadeva), bao gồm 20 quyển.
Năm 657
59. A-tì-đạt-ma phát trí luận (阿毘達磨發智論; sa. [abhidharma-] jñānaprasthāna-śāstra), 20 quyển. 14.02.657-20.06.660 tại cung Ngọc Hoa (玉華). Tác giả: Già-đa-diễn-khả-tử (迦多衍可子; sa. katyāyanīputra). Bộ luận thứ bảy trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Nhìn một cách rộng mở thì – cùng với Đại Tì-bà-sa luận, bài luận giải về chính nó – đây là bộ luận trung tâm của Thuyết nhất thiết hữu bộ.
60. Quán sở duyên duyên luận (觀所緣緣論; sa. ālambana-parikṣā), 1 quyển. Dịch tại Đại Nội Li Nhật điện (大內麗日殿). Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một tác phẩm về Nhận thức học (Lượng học) của Trần-na, đã được dịch sang Hán ngữ trước đó bởi Chân Đế.
Năm 658
61. Nhập a-tì-đạt-ma luận (zh. 入阿毘達磨論; sa. abhidharmāvatāra-prakaraṇa), 2 quyển. 13.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tắc-kiền-đà-la (塞建陀羅; sa. skandhila). Theo Nakamura, một vài phần còn lại của nguyên bản tại Tocharia cũng như bản Tây Tạng thì Huyền Trang dịch bài luận này một cách "tuỳ tiện".
Năm 659
62. Bất không quyên sách thần chú tâm kinh (zh. 不空罥索神咒心經; sa. amoghapāśahṛdaya-śāstra), 1 quyển. 15.05. tại Đại Từ Ân tự.
63. A-tì-đạt-ma pháp uẩn túc luận (阿毘達磨法薀足論; sa. abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra), 12 quyển. 20.08. đến 05.10. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (尊者大目乾連; sa. mahāmāudgalyāyana). Bộ luận thứ năm trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, thường được truyền thống Phật giáo xem là của một trong hai Đại đệ tử của đức Phật, một là Đại Mục-kiền-liên hay là Xá-lợi-phất, nhưng có lẽ được biên tập hai hoặc ba thế kỉ sau khi Phật nhập niết-bàn.
64. Thành duy thức luận (成唯識論; sa. vijñaptimātrasiddhiśāstra), 10 quyển. Tháng 10 hoặc 11 tại cung Ngọc Hoa. Tác giả: Huyền Trang, được truyền thống xem là của Hộ pháp và những tác giả khác. Việc gán bài luận này vào Hộ pháp của Khuy Cơ có những điểm không ổn (xem chương 15 trong Buddhist Phenomenology). Đây là bản dịch duy nhất của Huyền Trang không dựa vào một bản gốc mà thay vào đó, một cách tuyển chọn, biên dịch từ nhiều bản khác nhau (theo truyền thống là 10 bộ luận). Bởi vì Khuy Cơ theo giáo lý của bộ luận này trong khi xem tự mình là đệ tử kế thừa Huyền Trang, truyền thống Phật giáo Đông á xem Thành duy thức luận là biểu trưng trung tâm của học thuyết Huyền Trang.
Năm 660
65. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (大般若波羅蜜多經; sa. mahā-prajñā-pāramitā-sūtra), 600 quyển. 16.02.660 đến 25.11.663, tại Ngọc Hoa cung (玉華宮). Tác phẩm vĩ đại này với tổng cộng 600 quyển chiếm giữ trọn vẹn ba bộ của Đại chính tân tu, bao gồm những bài kinh nổi danh như Kim Cương, và là một trong những bộ kinh hệ Bát-nhã đầy đủ nhất. Huyền Trang có ý định giản lược để tránh trường hợp trùng lặp trong khi dịch nhưng bị một giấc mộng ngăn cản, vì vậy nên Sư dịch bộ kinh Bát-nhã này trọn vẹn.
66. A-tì-đạt-ma phẩm loại túc luận (阿毘達磨品類足論; sa. abhidharma-prakaraṇa-pāda), 18 quyển. 10.10. đến 30.11. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友; sa. vasumitra). Bộ luận thứ hai trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Bao gồm: Thuật ngữ, phân loại và lập trường.
67. A-tì-đạt-ma tập dị môn túc luận (阿毘達磨集異門足論; sa. abhidharma-saṅgītī-paryāya-pāda-śāstra), 20 quyển. 02.01.660 đến 01.02.664, tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Xá-lợi tử (尊者舍利子; sa. śāriputra). Bộ luận thứ nhất trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, được truyền thống Tây Tạng xem là của Mahākauṣṭhila, được Yaśomitra xem (trong bài luận giải của chính mình) là của Phú-lâu-na (sa. pūrṇa). Giáo lý được sắp xếp theo nhóm pháp số.
Năm 661
68. Biện trung biên luận tụng (辯中邊論頌; sa. madhiānta-vibhāga-kārikā), 1 quyển. 03.06. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Kệ tụng căn bản của một bài luận Du-già; tác giả được xem là Di-lặc hoặc Vô Trước.
69. Biện trung biên luận (辯中邊論; sa. madhyānta-vibhāga-bhāṣya), 1 quyển. 12.06. đến 02.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân (世親). Bài giảng giải những kệ tụng trong Biện trung biên luận tụng (辯中邊論頌), được xem là của Thế Thân.
70. Duy thức nhị thập luận (唯 識 二 十 論; sa. viṃśatikā-vṛtti), 1 quyển. 03.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân. Một trong những tác phẩm triết học Duy thức quan trọng nhất của Thế Thân.
71. Duyên khởi kinh (緣起經; sa. pratītya-samutpāda divibhaṅga-nirdeśa-sūtra), 1 quyển. 09.08.661. Một bài kinh nói về Nhân duyên sinh, có những điểm giống với kinh thứ 33 trong Trung bộ kinh (pi. majjhima-nikāya): Mahāgopalaka-sutta.
Năm 662
72. Dị bộ tông luân luận (異部宗輪論; sa. samaya-bhedoparacana-cakra), 1 quyển. 02.09. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Hữu (theo truyền thống Tây Tạng). Một cách nhìn tổng quát về 20 bộ phái theo quan điểm Thuyết nhất thiết hữu bộ.
Năm 663
73. A-tì-đạt-ma giới thân túc luận (阿毘達磨界身足論; sa. abhidharma-dhātu-kāya-pāda-śāstra), 3 quyển. 14.04. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友). Bộ luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phân loại, liệt kê tâm pháp.
74. Ngũ sự tì-bà-sa luận (五事毘婆沙論; sa. pañca-vastuka-vibhāṣa), 2 quyển. 18.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu (尊者法救; sa. dharmatrāta). Một bài luận theo lối A-tì-đạt-ma về sắc, tâm và tâm sở hữu.
75. Tịch chiếu thần biến tam-ma-địa kinh (寂照神變三摩地經; sa. praśānta-viniścaya-prātihārya-samādhi-sūtra), 1 quyển. 01. 02. 664 (hoặc 12.02.665) tại cung Ngọc Hoa.
Năm 664
76. Chú ngũ thủ kinh (咒五首經), 1 quyển. 02. 02. tại Ngọc Hoa cung.
77. Bát thức quy củ tụng (八識規矩頌). Tác giả: Huyền Trang. Bài được Huyền Trang biên soạn (thay vì thường gặp là ‘dịch’) này không được tìm thấy trong Đại chính tân tu, mặc dù một bài luận của Phổ Thái (普泰) nhắc đi nhắc lại là chính văn nằm trong Đại chính tân tu (Taishō 45, 467-476) với tên Bát thức quy củ bổ chú (八識規矩補註). Luận này bao gồm những luận đề tương tự Thành duy thức luận, nhưng được tổ chức, biên soạn khác một chút.
Qua đời
Trưa ngày 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bệnh tật và già yếu. Thọ 62 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. . Từ xưa đến nay chưa có vị sư nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này. |
Viagra là tên hiệu của thuốc Sildenafil dùng để giúp chứng liệt dương ở nam giới, do công ty Pfizer Inc. sản xuất.
Viagra là một loại thuốc được sử dụng để điều trị rối loạn chức năng cương dương và tăng huyết áp động mạch phổi. Hiệu quả điều trị rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ chưa được chứng minh.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm đau đầu và ợ nóng, cũng như da đỏ bừng. Cần thận trọng ở những người mắc bệnh tim mạch. Tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng bao gồm cương cứng kéo dài, có thể dẫn đến tổn thương dương vật và mất thính lực đột ngột. Không nên dùng Sildenafil cho những người dùng nitrat như nitroglycerin (glycerin trinitrate), vì điều này có thể dẫn đến giảm huyết áp nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong.
Sildenafil hoạt động bằng cách ức chế phosphodiesterase loại 5 cụ thể (phosphodiesterase 5, PDE5), một enzyme thúc đẩy sự thoái hóa cGMP, điều hòa lưu lượng máu trong dương vật.
Các nhà khoa học Pfizer Andrew Bell, David Brown, và Nicholas Terrett ban đầu đã phát hiện ra sildenafil như một phương pháp điều trị các chứng rối loạn tim mạch khác nhau. Kể từ khi trở thành có sẵn vào năm 1998, sildenafil đã được điều trị phổ biến cho rối loạn cương dương; đối thủ cạnh tranh chính của nó là tadalafil (tên thương mại Cialis) và vardenafil (Levitra).
Lịch sử
Năm 1992, tại thành phố Mertir Tidefeel của xứ Wales, Viagra được nghiên cứu như thuốc điều trị cao huyết áp. Trong quá trình thử nghiệm người ta đã phát hiện ra một hiệu ứng phụ của thuốc này là làm tăng độ cương cứng của dương vật người dùng.
Thành phần hoá học
Sildenafil citrate có khả năng ngăn chặn hóa chất cGMP - specific PDE5 (phosphodiesterase type 5), là PDE isoenzyme chính yếu trong thể hang của dương vật.
Công thức hóa học là C22H30N6O4S•C6H807
1-[4-ethoxy-3-(6, 7-dihydro-1-methyl-7-oxo-3-propyl-1H-pyrazolo[4, 3-d]pyrimidin-5-yl)phenylsulphonyl]-4-methylpiperazine citrate.
CAS number 171, 599-83-0.
Chất màu trắng ngà, bột tinh thể, trọng lượng phân tử 666,7. Khả năng hòa tan 2.6 mg mỗi mililit (ở 25 độ C).
Mỗi viên Viagra còn có các chất (không tác dụng dược học).
Tác dụng dược học
Viagra là thuốc uống giúp chữa chứng liệt dương bằng cách tăng lượng máu tràn vào dương vật khi có xúc cảm tình dục.
Phân loại
Chỉ định
Viagra có tác dụng tốt với:
Người yếu sinh lý nói chung
Tổn thương cột sống, tuỷ sống, yếu sinh lý do vấn đề tâm lý
Viagra có tác dụng cả với phụ nữ trong việc tăng cường lưu lượng máu tới cho cơ quan sinh dục nữ
Cơ chế
Viagra làm tăng sự cương cứng bằng cách điều hòa vận hành mạch ở dương vật, ức chế men phosphodiesteraza 5 (PDE 5), nhờ đó làm chất GMP (tiết ra trong lúc hứng khởi tình dục) tồn tại lâu, giúp máu tới dương vật nhiều hơn. Hiệu quả của Viagra đạt tới 80%.
Liều lượng
Một viên Viagra trung bình là 100 mg. Nên bắt đầu thử với 50 mg. Nếu có tác dụng thì thử dùng liều lượng thấp hơn - 25 mg. Nếu không thấy có tác dụng thì hãy thử với 100 mg. Viagra có tác dụng trong 1 ngày (24h), do đó, không nên dùng 2 viên trong 1 ngày. Viagra không có tác dụng trong ngày hôm sau.
Chống chỉ định
Những người bị bệnh tim hoặc các bệnh đang điều trị bằng thuốc có nitrat không nên dùng Viagra, vì có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp nhiều.
Người bị huyết áp cao hay thấp, bị viêm võng mạc sắc thì cần hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng Viarga. Tác dụng của Viagra trên những bệnh này chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Theo nghiên cứu của công ty Pfizer thuốc có thể sử dụng cho người bị bệnh tim, cao huyết áp, tiểu đường... với ý kiến bác sĩ.
Tác dụng phụ
Nhức đầu
Nóng bừng mặt, mờ mắt
Khó tiêu
Lồng ngực đau nhói, khó thở (có thể dẫn đến ngất xỉu)
Cơ sở pháp lý
Khía cạnh đạo đức
Lạm dụng
Hệ thống phân phối
Hiện nay thuốc đã được phân phối rộng rãi trên hệ thống bệnh viện và nhà thuốc trên toàn quốc với giá tham khảo 500,000vnd vỉ 4 viên liều 50 mg, 800,000VND cho vỉ 4 viên liều 100 mg. Lưu ý nếu thuốc được phân phối với giá một nửa giá tham khảo ở trên rất có thể là thuốc giả không đạt chất lượng.
Hình ảnh |
Napoléon Bonaparte (tên khai sinh là Napoleone Buonaparte; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu Napoléon I, là một chỉ huy quân sự và nhà lãnh đạo chính trị người Pháp, đã trở nên nổi tiếng trong thời kỳ Cách mạng Pháp và lãnh đạo các chiến dịch thành công trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp. Ông là người lãnh đạo de facto của Cộng hòa Pháp với tư cách Tổng tài thứ nhất từ năm 1799 đến năm 1804, sau đó là Hoàng đế Pháp từ năm 1804 đến năm 1814 và trở lại ngai vàng vào năm 1815. Di sản chính trị và văn hóa của Napoléon vẫn tồn tại cho đến ngày nay, với tư cách là một nhà lãnh đạo nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ông khởi xướng nhiều cải cách tự do đã tồn tại lâu dài trong xã hội và được coi là một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Các chiến dịch của ông vẫn được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên thế giới. Trong thời gian diễn ra chiến tranh Napoléon, có khoảng từ ba đến sáu triệu dân thường và binh lính đã thiệt mạng.
Napoléon sinh ra trên đảo Corse, không lâu sau khi bị Pháp sáp nhập, trong một gia đình bản địa xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhỏ ở Ý. Ông ủng hộ Cách mạng Pháp năm 1789 trong khi đang phục vụ trong quân đội Pháp và cố gắng truyền bá lý tưởng của nó đến quê hương Corse của mình. Ông nhanh chóng thăng tiến trong quân đội sau khi cứu được Hội đồng Đốc chính Pháp bằng việc nổ súng trấn áp quân nổi dậy bảo hoàng. Năm 1796, ông bắt đầu chiến dịch quân sự chống lại người Áo và đồng minh Ý của họ, ghi điểm bằng những chiến thắng quyết định và trở thành một anh hùng dân tộc. Hai năm sau, ông dẫn đầu một cuộc viễn chinh quân sự tới Ai Cập, đóng vai trò như bàn đạp cho quyền lực chính trị. Ông đã dàn dựng một cuộc đảo chính vào tháng 11 năm 1799 và trở thành Tổng tài thứ nhất của nền Cộng hòa.
Sự khác biệt với Vương quốc Anh đã khiến Pháp phải đối mặt với Chiến tranh Liên minh thứ Ba vào năm 1805. Napoléon đã phá tan liên minh này bằng các chiến thắng trong chiến dịch Ulm và trận Austerlitz, dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh. Năm 1806, Liên minh thứ Tư đã cầm vũ khí chống lại ông. Napoléon hạ gục Phổ trong các trận Jena và Auerstedt, dẫn dắt đoàn quân Grande Armée vào Đông Âu và đánh bại Nga vào tháng 6 năm 1807 tại Friedland. Thắng lợi này đã buộc các quốc gia bại trận của Liên minh thứ Tư phải chấp nhận Hiệp ước Tilsit. Hai năm sau đó, người Áo lại thách thức Pháp một lần nữa trong Chiến tranh Liên minh thứ Năm, nhưng Napoleon đã củng cố sự kiểm soát của mình đối với châu Âu sau chiến thắng trong trận Wagram.
Với hy vọng mở rộng Hệ thống Lục địa, lệnh cấm vận của ông nhằm vào nước Anh, Napoléon xâm chiếm bán đảo Iberia và tuyên bố anh trai mình là Joseph làm Vua Tây Ban Nha vào năm 1808. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nổi dậy trong Chiến tranh Bán đảo với sự hỗ trợ của quân đội Anh, dẫn đến thất bại của các tướng lĩnh dưới trướng Napoléon. Napoléon phát động cuộc xâm lược nước Nga vào mùa hè năm 1812. Kết quả của chiến dịch này chứng kiến cuộc rút lui thảm khốc của Grande Armée. Năm 1813, Phổ và Áo cùng với lực lượng Nga gia nhập Liên minh thứ Sáu chống lại Pháp, dẫn đến một đội quân liên minh lớn đánh bại Napoléon tại trận Leipzig. Liên quân xâm lược Pháp và chiếm được Paris, buộc Napoléon phải thoái vị vào tháng 4 năm 1814. Ông bị lưu đày đến đảo Elba, nằm giữa Corse và Ý. Ở Pháp, dòng họ Bourbon đã được khôi phục quyền lực.
Napoléon trốn thoát vào tháng 2 năm 1815 và nắm quyền kiểm soát nước Pháp. Đồng minh phản ứng bằng việc hình thành Liên minh thứ Bảy, đánh bại Napoléon trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Người Anh đã lưu đày ông đến đảo Saint Helena xa xôi ở Đại Tây Dương, nơi ông qua đời vào năm 1821, thọ 51 tuổi.
Napoléon đã có ảnh hưởng sâu rộng đến thế giới hiện đại, mang đến các cải cách tự do cho các vùng đất ông chinh phục, đặc biệt là những vùng đất ở Các quốc gia vùng đất thấp, một phần nước Ý và Đức hiện đại. Ông thi hành nhiều chính sách khai phóng ở Pháp và Tây Âu.
Đầu đời
Napoléon Bonaparte là con thứ hai trong một gia đình có tám người con, chào đời tại dinh thự "Casa Buonaparte" ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 tháng 8 năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genova chuyển giao cho Pháp. Ông được đặt tên thánh là Napoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên là Napoleone nhưng đã mất sớm). Ở tuổi 20, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn.
Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia, những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ XVI. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse trước triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng lớn đến Napoléon trong suốt thời thơ ấu là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỷ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch.
Ông có một anh trai là Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, Caroline và Jérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu. Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng 7 năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio.
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng với các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó. Tháng 1 năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng 5, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château. Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách, điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc học. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon "luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ là một thủy thủ xuất sắc". Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc xin vào Hải quân Hoàng gia Anh. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh. Cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc Napoléon phải hoàn thành khóa học hai năm trong vòng một năm. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp École Militaire. Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này được Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện.
Khởi đầu sự nghiệp
Khi tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1785, Bonaparte được phong hàm trung úy ở trung đoàn pháo binh La Fère. Ông từng đóng ở Valence, Drôme và Auxonne cho đến trước khi bùng nổ Cách mạng năm 1789, và nghỉ phép gần hai năm ở Corse và Paris trong giai đoạn này. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, ông viết cho lãnh đạo Corse Pasquale Paoli vào tháng 5 năm 1789:
"Tôi đã được sinh ra khi dân tộc suy vong. Ba mươi nghìn người Pháp được tung tới bờ biển của chúng ta, nó nhấn chìm ngôi báu của tự do vào những làn sóng máu. Chính cảnh tượng đó là thứ ghê tởm đầu tiên đập vào mắt tôi".
Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng 7 năm 1792.
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mâu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng 6 năm 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli.
Cuộc vây hãm Toulon
Tháng 6 năm 1793, Napoléon đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có khuynh hướng thân cộng hòa, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), thứ đem lại cho ông sự khâm phục và ủng hộ của Augustin Robespierre, em trai nhà lãnh đạo cách mạng Maximilien Robespierre. Với sự giúp đỡ của một đồng đội người Corse là Antoine Christophe Saliceti, Bonaparte được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của quân đội cộng hòa trong cuộc vây hãm Toulon. Thành phố này nổi dậy chống chính phủ cộng hòa và được quân Anh đóng giữ.
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Thiếu tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh tại Tập đoàn quân Ý của Pháp.
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức.
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng 4 năm 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genova để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp.
13 Vendémiaire
Theo sau sự sụp đổ của chính quyền Jacobin vào tháng 7 năm 1794 Chính biến Thermidor, một báo cáo vạch tội khiến Bonaparte bị quản chế tại gia ở Nice vì mối liên hệ với anh em Robespierre. Thư ký của Napoléon, Bourrienne, phản kháng cáo buộc này trong hồi ký của ông. Theo Bourrienne, sự đố kị giữa Tập đoàn quân Alps và Tập đoàn quân Ý (mà Napoléon đứng vị trí thứ hai lúc đó) chịu trách nhiệm về cáo buộc này. Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới các đặc phái viên Saliceti và Albitte, ông được tha bổng mọi tội.
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia.
Tháng 4 năm 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh — mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức.
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng nhất về mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée. Ngày 15 tháng 9, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình.
Ngày 3 tháng 10, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự.
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào ngày 5 tháng 10 năm 1795 hay 13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui.
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm Trung tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Tập đoàn quân Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông.
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào ngày 9 tháng 3 năm 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary.
Chiến dịch Ý thứ nhất
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia. Ông thất bại trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng.
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Roma và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng 3 năm 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venezia và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Thánh Mác-cô.
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối".
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp với mưu trá từ đó nắm thế chủ động bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt ở mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte.
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào ngày 4 tháng 9, sự kiện này sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, Bonaparte trở lại Paris tháng 12 như một anh hùng. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp — người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh.
Viễn chinh tới Ai Cập
Sau hai tháng lên kế hoạch, Bonaparte quyết định rằng lực lượng hải quân Pháp chưa đủ mạnh để đối diện với Hải quân Hoàng gia ở Eo biển Anh và đề xuất một cuộc viễn chinh để chiếm Ai Cập và do đó phá sự tiếp cận của người Anh với những nguồn lợi thương mại ở Ấn Độ. Bonaparte mong mỏi thiết lập một sự hiển hiện của Pháp ở Trung Đông, với giấc mộng tối hậu về việc liên kết với một kẻ thù Hồi giáo của Anh ở Ấn Độ, Tippu Sultan.
Napoléon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng ngay sau khi mình chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ. Theo một bản tường trình tháng 2 năm 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh". Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ.
Tháng 5 năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809.
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng 6 năm 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ.
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng 7 ở Alexandria. Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng 7, cách kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000 người, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã cho lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết, so với gần 2000 quân Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp.
Ngày 1 tháng 8, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt giữ và tiêu diệt gần như tất cả quân Pháp chỉ trừ hai chiếc tàu trong trận sông Nile, mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ. Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp. Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa. Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh xử tử quân phòng thủ cùng 1.400 người khác bằng lưỡi lê và dìm chết đuối để tiết kiệm đạn. Đàn ông, đàn bà kể cả trẻ con đã bị cướp giật và giết hại trong ba ngày.
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Akko và trở lại Ai Cập vào tháng 5. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc. Tuy nhiên, những người Anh chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc. Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng 7, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir.
Nhà cai trị nước Pháp
Khi ở Ai Cập, Bonaparte vẫn nhận được thông báo về sự vụ châu Âu thông qua các báo chí và thông điệp được chuyển tới không đều đặn. Ông biết rằng Pháp đã phải chịu một chuỗi những thất bại trong Chiến tranh Liên minh thứ hai. Ngày 24 tháng 8 năm 1799, ông lợi dụng sự rút lui tạm thời các tàu Anh khỏi các cảng Pháp để giong buồm về nước, bất chấp sự kiện là ông không nhận được mệnh lệnh rõ ràng nào từ Paris. Quân đội ở lại được giao phó cho tướng Jean Baptiste Kléber.
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông. Vào lúc ông tới được Paris vào tháng 10, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông.
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng 11 hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp — Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lý chính quyền.
Chế độ Tổng tài Pháp
Mặc dù Sieyès hi vọng sẽ cầm đầu trong chính quyền mới, ông sớm bị vượt mặt bởi Bonaparte, người thảo ra Hiến pháp Năm VIII và bảo đảm việc bầu chọn bản thân làm Tổng tài thứ nhất, và ông dọn đến ở điện Tuileries. Điều này khiến cho Bonaparte trở thành con người quyền lực nhất ở Pháp.
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genova nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định.
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được ký vào tháng 2 năm 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường.
Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu
Cả Pháp lẫn Anh đã trở nên mệt mỏi với chiến tranh và ký với nhau Hiệp ước Amiens vào tháng 10 năm 1801 và tháng 3 năm 1802. Điều này đòi hỏi sự triệt thoái quân đội Anh khỏi hầu hết các thuộc địa họ chiếm gần đó. Sự hưu chiến này không dễ dàng và ngắn ngủi. Người Anh không chịu rút khỏi Malta như đã hứa và chống lại việc Bonaparte thôn tính Piedmont và Đạo luật Hòa giải của ông đã thiết lập nên một Liên bang Thụy Sĩ mới phụ thuộc vào Pháp, mặc dù không lãnh thổ nào kể trên nằm trong phạm vi của hiệp ước. Sự tranh cãi đạt đến đỉnh điểm và kết thúc bằng một tuyên bố chiến tranh của người Anh vào tháng 5 năm 1803, và Napoléon tái lập căn cứ xâm lược ở Boulougne.
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng 5 năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diệt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy không thể bảo vệ được những thuộc địa của Pháp ở lục địa Bắc Mĩ và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ — Vụ mua bán Louisiana — với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta).
Đế quốc Pháp
Napoléon phải đương đầu với những âm mưu của phe bảo hoàng và Jacobin, bao gồm các Âm mưu dao găm vào tháng 10 năm 1800 và Âm mưu Phố Saint-Nicaise hai tháng sau, đều nhắm vào ám sát cá nhân ông. Tháng 1 năm 1804, cảnh sát khám phá một kế hoạch ám sát ông có can dự tới Moreau và dường như được nhà Bourbon thúc đẩy. Theo lời khuyên của Talleyrand, Napoléon ra lệnh bắt cóc Louis Antoine, Công tước Enghien trong một cuộc đột nhập vào lãnh thổ Baden láng giềng. Sau một phiên xử bí mật Công tước bị hành hình, mặc dù ông không tham gia vào âm mưu.
Napoléon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp. Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện Pháp yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để "bảo vệ nền Cộng hòa". Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milano vào ngày 26 tháng 5 năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardia. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế quốc từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Chiến tranh liên minh thứ ba
Nước Anh phá vỡ Hòa ước Amiens và tuyên chiến với Pháp vào tháng 5 năm 1803. Napoléon thiết lập doanh trại ở Boulogne-sur-Mer để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh. Đến năm 1805, Anh đã thuyết phục được Áo và Nga tham gia vào một Liên minh thứ ba chống Pháp. Napoléon biết rằng hạm đội Pháp không thể đánh bại Hải quân Hoàng gia trong một trận chiến mặt đối mặt và lập kế hoạch nhử họ ra khỏi Eo biển Anh.
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh. Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Mũi Finisterre vào tháng 7 năm 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cádiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa.
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bayern, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng 10 năm 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển.
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27000 người, gấp 3 lần quân Pháp. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" . Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ Công.
Napoléon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện". Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoléon". Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp".
Các đồng minh Trung Đông
Ngay cả sau chiến dịch ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông. Một mối đồng minh với các cường quốc Trung Đông sẽ là lợi thế chiến lược gây sức ép cho Nga ở biên giới phía Nam của nước này. Từ 1803, Napoléon tiến những bước đáng kể trong cố gắng thuyết phục Đế quốc Ottoman chiến đấu chống lại Nga ở bán đảo Balkan và gia nhập liên minh chống Nga của ông.
Napoléon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất. Tháng 2 năm năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoléon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh.
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ năm 1807 đến năm 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu.
Chiến tranh với Liên minh thứ tư
Liên minh thứ tư được thành lập năm 1806, và Napoléon đánh bại quân Phổ trong trận Jena-Auerstedt vào tháng 10. Ông hành quân vượt Ba Lan để đương đầu với quân Nga đang tiến sang và hai bên đụng độ đẫm máu tại trận Eylau ngày 6 tháng 2 năm 1807 nhưng bất phân thắng bại.
Ngày 14 tháng 6 năm 1807, Napoléon lại đụng trận với quân đội Nga ở Friedland. Quân Pháp thắng lớn, chỉ thương vong khoảng 10.000 người mà loại ít nhất 30.000 quân Nga khỏi vòng chiến. Sau đó ông ký kết Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westfalen mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen.
Với các chiếu chỉ Milano và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại.
Chiến tranh Bán đảo
Vì Bồ Đào Nha không tuân theo lệnh phong tỏa lục địa nên Napoléon phải cất quân chinh phạt vào năm 1807 với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha. Dưới chiêu bài tăng cường cho quân đội Pháp - Tây Ban Nha chiếm đóng Bồ Đào Nha, Napoléon xâm lược luôn cả Tây Ban Nha, phế Carlos IV rồi đưa anh trai của mình là Joseph Bonaparte lên ngôi, đồng thời đặt em vợ là Joachim Murat lên cầm quyền thay Joseph ở Napoli. Điều này đã dẫn đến sự kháng cự mạnh mẽ của quân đội và thường dân Tây Ban Nha gây nên cuộc khởi nghĩa Dos de Mayo.
Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích, trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển . Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn, nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp..
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu.
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó".
Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn
Tháng 4 năm 1809, Áo bất ngờ phá vỡ liên minh với Pháp, tham gia vào Liên minh thứ năm chống Pháp. Napoléon buộc phải nắm quyền chỉ huy các lực lượng ở mặt trận Danube và Đức. Sau những thắng lợi ban đầu, quân Pháp vấp phải khó khăn trong việc vượt qua sông Donau và thất bại vào tháng Năm trong trận Aspern-Essling gần Viên. Người Áo đã bỏ lỡ lợi dụng tình thế, để cho Napoléon có thể tập hợp lại lực lượng. Ông đánh bại quân Áo trong trận Wagram, và Hiệp ước Schönbrunn được ký giữa Pháp và Áo. Tuy thắng lợi nhưng thiệt hại nặng nề trong trận Wagram đã chứng tỏ những suy sút của quân đội Pháp.
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện.
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon đã bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết được sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, tuy nhiên Piô đều từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với Nữ Đại vương công Maria Ludovica của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Roma cho đến tháng 5 năm 1814.
Napoléon chấp nhận việc Bernadotte, một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào tháng 11 năm 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp những sơ suất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông
Xâm lược nước Nga
Hội nghị Erfurt được tổ chức nhằm bảo vệ mối đồng minh Nga-Pháp, và các hoàng đế Pháp và Nga đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiện sau cuộc họp đầu tiên ở Tilsit năm 1807. Tuy nhiên tới năm 1811, căng thẳng gia tăng và Alexander chịu sức ép từ giới quý tộc Nga đòi phá vỡ đồng minh. Dấu hiệu ban đầu rằng mối quan hệ đã biến đổi là sự chối bỏ trên thực tế Hệ thống Lục địa, điều khiến Napoléon đe dọa Aleksandr nhiều hậu quả thảm khốc nếu ông lập quan hệ đồng minh với người Anh.
Đến năm 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng 6 năm 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu.
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai. Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử thậm tệ đối với lính Pháp khi họ rút chạy.
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa.
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva. Ngày 7 tháng 9: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại".
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, trông đợi việc Moskva thất thủ sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin ra lệnh đốt cháy Moskva chứ không đầu hàng. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui.
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng 11 năm 1812. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng.
Chiến tranh Liên minh thứ sáu
Có một thời gian tạm lắng chiến sự trong mùa đông 1812–1813 khi cả người Nga lẫn người Pháp đang tái xây dựng lực lượng; Napoléon sau đó có thể tung ra chiến trường 350.000 quân. Được cổ vũ bởi thất bại của Pháp tại Nga, Phổ liên hợp với Áo, Thụy Điển, Nga, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong một liên minh mới. Napoléon nắm quyền chỉ huy ở mặt trận Đức và giáng cho Liên minh một chuỗi trận thua bao gồm thảm bại ở trận Dresden vào tháng 8 năm 1813.
Bất chấp những thắng lợi này, tình thế tiếp tục ngày càng chống lại Napoléon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó khiến cho 90.000 người thương vong.
Napoléon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70.000 lính và 40.000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày, tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng 3 năm 1814.
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến. Ngày 4 tháng 4, Thống chế Ney lãnh đạo lật đổ Napoléon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài việc thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con nhưng Liên minh từ chối điều này, Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng 4.
Lưu đày tại Elba
Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo. Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại.
Triều đại Một trăm ngày
Dù bị chia cắt khỏi vợ và con trai, những người đã chịu sự kiểm soát của nước Áo, bị cắt khoản trợ cấp được đảm bảo cho ông bởi Hiệp ước Fontainebleau, và dấy lên những tin đồn ông dường như bị trục xuất tới một hòn đảo xa xôi ở Đại Tây Dương, Napoléon trốn khỏi Elba ngày 26 tháng 2 năm 1815. Ông cập bến ở Golfe-Juan trên đất liền Pháp, hai ngày sau đó.
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng 3 năm 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn".
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Hội nghị Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 150.000 quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông.
Napoléon đến Paris ngày 20 tháng 3 và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng 6 lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200.000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, nay là Bỉ.
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoléon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu với quân số một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông bị ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chủng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm ngày 15 tháng 7 năm 1815.
Lưu đày ở Saint Helena
Napoléon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi . Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth, người về sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoléon. Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris và đuổi ông này khỏi đảo.
Napoléon chuyển tới Longwood House vào tháng 12 năm 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư hỏng, ẩm ướt và gió lùa, gây hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe.
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi ký và lên án những người giam giữ ông — đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn. Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoléon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải ký đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù vô thời hạn.
Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình Luân Đôn. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh: Nam tước Holland có một bài diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn nào. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ từ Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821.
Có những âm mưu khác để giải thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grande Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dấy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh.
Qua đời và an táng
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoléon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư hỏng và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư ký ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì. Đã vậy, O'Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.
Tháng 2 năm 1821, sức khỏe Napoléon nhanh chóng trở nên suy sụp, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng 5, hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều thuốc giảm đau. Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine). Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn cất ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, Montholon và Bertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên.
Năm 1840, Louis Philippe I nhận được sự cho phép của Anh để đem di hài Napoléon về Pháp. Di hài được vận chuyển bằng chiến hạm Belle-Poule, được sơn đen trong dịp này, và ngày 29 tháng 11 nó cập bến Chebourg. Di hài tiếp đó được mang bởi tàu hơi nước Normandie tới Le Havre, ngược sông Seine tới Rouen và dừng ở Paris.
Ngày 15 tháng 12, lễ quốc tang được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ được thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được an táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides.
Nguyên nhân cái chết
Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ ra rằng nguyên nhân cái chết là ung thư dạ dày. Tuy nhiên, François Carlo Antommarchi, bác sĩ riêng của Napoléon và là người chỉ đạo cuộc khám nghiệm, đã không ký vào báo cáo chính thức. Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi. Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp.
Năm 1955, nhật ký của người hầu phòng của Napoléon, Louis Marchand, xuất hiện trên báo chí. Bản mô tả về Napoléon những tháng trước khi mất khiến cho Sten Forshufvud đề xuất những nguyên nhân khác cho cái chết, bao gồm sự đầu độc arsen từ từ, trong một bài báo trên tờ Nature năm 1961. Arsen được dùng làm thuốc độc vào thời kì đó bởi khi ấy nó không thể bị phát hiện khi áp dụng trong một thời gian dài. Forshufvud, trong một cuốn sách năm 1978 với Ben Weider, lưu ý rằng cơ thể vị hoàng đế được thấy là được bảo quản tốt một cách đáng ngạc nhiên khi di chuyển vào năm 1840. Arsen là một chất có tính bảo quản mạnh, và do đó điều này củng cố giả thuyết đầu độc. Forshufvud và Weider nhận xét rằng Napoléon từng cố hạ bớt cơn khát bất thường bằng uống nhiều si-rô nước mạch ướp hoa cam (orgeat syrup) chứa các hợp chất cyanide trong quả hạnh dùng để tạo mùi.
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoléon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp. Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát.
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hydride, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác.
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu. Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ.
Những cải cách lớn
Napoléon đã tiến hành những cải cách lâu dài, liên quan đến giáo dục bậc cao, một đạo luật thuế, hệ thống đường sá và cống thoát nước, và thiết lập nên Ngân hàng Pháp (Banque de France — ngân hàng trung ương của Pháp). Ông thương lượng Giáo ước 1801 với Giáo hội Công giáo, tìm cách hòa giải với dân chúng hầu hết theo Công giáo với nền cai trị của ông. Nó được ban hành song song với Bộ Điều khoản Cơ bản (Les Articles Organiques), bộ luật chỉnh đốn tín ngưỡng dân chúng ở Pháp. Cùng năm đó, Bonaparte trở thành Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và bổ nhiệm Jean Baptiste Joseph Delambre làm Thư ký Thường trực.
Tháng 5 năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoléon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte.
Bộ luật dân sự của Napoléon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoléon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự được thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng.
Trong số các cải cách của Napoléon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoléon, xem phần Di sản.
Bộ luật Napoléon
Bộ luật Napoléon được tiếp nhận trên phần lớn châu Âu, dù chỉ trong những vùng đất ông chinh phục được, và được duy trì ngay cả sau thất bại của ông. Napoléon từng nói: "Vinh quang thực sự của tôi không phải là thắng 40 trận chiến...Waterloo sẽ xóa sạch ký ức về rất nhiều chiến thắng như vậy.... Nhưng...thứ sẽ tồn tại mãi mãi, đó là Bộ luật Dân sự của tôi". Bộ luật vẫn có tầm quan trọng ngày nay trên một phần tư hệ thống luật thế giới bao gồm ở châu Âu, châu Mỹ và châu Phi.
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871.
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoléon. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc.
Hệ thống đo lường
Việc ban hành chính thức hệ thống đo lường vào tháng 9 năm 1799 không được biết đến nhiều trong nhiều tầng lớp xã hội Pháp, và nền cai trị của Napoléon đã khuyến khích mạnh mẽ sự tiếp nhận những tiêu chuẩn mới không chỉ trên nước Pháp mà cả những lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp. Napoléon rốt cục lại có một bước đi thụt lùi vào 1812 khi ông thông qua đạo luật giới thiệu mesures usuelles (những đơn vị đo lường truyền thống) cho các giao dịch bán lẻ — một hệ thống đo lường tương tự những đơn vị trước Cách mạng nhưng dựa trên kilôgam và mét; chẳng hạn như "bảng hệ mét" (livre metrique) bằng 500 g thay vì 489.5 g—giá trị livre du roi (bảng nhà vua). Các đơn vị khác quay trở lại theo cách tương tự. Dù vậy điều này ít nhất đã thiết lập cơ sở để đưa ra dứt khoát hệ mét trên khắp châu Âu vào giữa thế kỷ XIX.
Napoléon và tôn giáo
Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng 7 năm 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và tiếp nhận một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Công giáo". Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi nhưng ông thừa nhận một cách thực dụng rằng những tôn giáo có tổ chức là yếu tố then chốt của trật tự xã hội và đặc biệt là Giáo hội Công giáo Rôma, mà theo ông, có "những nghi lễ tráng lệ và luân lý cao cả hơn là các đạo luật có ảnh hưởng lên trí tưởng tượng của dân chúng tốt hơn những tôn giáo khác".
Napoléon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng 3 năm 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lý do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố". Trong hồi ký của mình, thư ký của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự.
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. Nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon".
Napoléon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng 4 năm 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với công chúa nước Áo Marie Louise. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đày ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người{{#tag:ref|"Tôi nghĩ rằng vật chất làm nên con người là một chất nhớt, được hun nóng bởi mặt trời và thổi hồn bởi các dòng điện. Cái làm nên động vật —một con bò, chẳng hạn— mà không phải vật chất có tổ chức? Chao, khi chúng ta thấy rằng khuôn khổ thể chất của chúng ta tương tự chúng, có lẽ chúng ta không tin rằng chúng ta chỉ là những vật chất được tổ chức chất hơn... ý tưởng đơn giản nhất hàm chứa trong sự thờ cúng mặt trời, thứ đem lại sự sống cho vạn vật. Tôi nhắc lại, tôi nghĩ con người được tạo ra trong không khí được sưởi ấm bởi mặt trời, và sau một thời gian nào đó điều đó năng lực sinh sôi này chấm dứt"<ref>[http://www.archive.org/stream/talkofnapoleonat007678mbp#page/n311/mode/2up Talk Of Napoleon At St. Helena']' (1903), pp. 270–271</ref>.|group=chú thích}} và nghi ngờ tính thần thánh của Giê-su, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Sokrates, Platon, Muhammad và Anh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Giáo hội Công giáo Rôma{{#tag:ref|"Tôi không tin rằng Giê-su Kitô từng tồn tại. Tôi sẽ tin vào tôn giáo Cơ đốc nếu nó bắt đầu từ khởi thủy thế giới. Cho rằng Socrates, Plato, người Hồi giáo, và tất cả người Anh cần bị nguyền rủa là quá ngu xuẩn. Giê-su hẳn là đã chết, giống như nhiều kẻ cuồng tín tự tuyên bố họ là những nhà tiên tri hoặc đấng Cứu thế được mong chờ. Hàng năm có nhiều kẻ như vậy"<ref>Talk Of Napoleon At St. Helena']' (1903), pp. 276–277</ref>.|group=chú thích}}. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần.
Giáo ước
Tìm kiếm một sự hòa giải dân tộc giữa những người Cách mạng và những người Công giáo, Giáo ước 1801 được ký vào ngày 15 tháng 7 năm 1801 giữa Napoléon và Giáo hoàng Piô VII. Nó củng cố vai trò của Giáo hội Công giáo Rôma như giáo hội đa số của Pháp và mang trở lại hầu hết vị thế thế tục của nó.
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregorius truyền thống và các ngày lễ Công giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoléon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Roma về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng 4 năm 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.
Giải phóng tôn giáo
Napoléon đã giải phóng những người Do Thái, cũng như những người Tin Lành ở các quốc gia Công giáo và những người Công giáo trong các quốc gia Tin Lành, khỏi các đạo luật hạn chế họ trong các khu biệt lập, và ông đã mở rộng quyền của họ đối với tài sản, tín ngưỡng và nghề nghiệp. Bất chấp phản ứng bài Do Thái đối với các chính sách của Napoléon từ các chính phủ nước ngoài và một bộ phận dư luận bên trong nước Pháp, ông tin rằng sự giải phóng đó sẽ làm lợi cho Pháp nhờ việc thu hút người Do Thái tới đất nước mình nơi không có những hạn chế như những nơi khác.
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước". Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Giê-su và kẻ thù của Chúa Trời".
Hình ảnh trong văn hóa
Napoléon đã trở thành một biểu tượng văn hóa thế giới, hiện thân của thiên tài quân sự và quyền lực chính trị. Sử gia Martin van Creveld mô tả ông như "con người tài ba nhất từng sống". Kể từ khi ông qua đời, rất nhiều thành thị, con đường, tàu và cả các nhân vật hoạt hình được đặt theo tên ông. Ông được minh họa trong hàng trăm bộ phim và được thảo luận trong hàng nghìn cuốn sách và bài báo.
Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị". Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1,7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ. Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông.
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoléon. Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David.
Di sản
Quân sự
Trong lĩnh vực tổ chức quân đội, Napoléon đã vay mượn nhiều từ các nhà lý thuyết trước đó như Jacques Hippolyte, và từ các cuộc cải cách của những chính phủ Pháp tiền nhiệm, đồng thời phát triển nhiều thứ đã có sẵn. Ông tiếp tục chính sách, ra đời từ thời Cách mạng, về thăng chức dựa trên công trạng.
Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoléon. Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó.
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo nên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoléon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh.
Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoléon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỷ XVIII đã chứng kiến những thay đổi đáng kể.
Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ. Napoléon được nhà lý thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất. Wellington, khi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoléon".
Dưới thời Napoléon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthago (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực.
Chủ nghĩa Bonaparte
Trong lịch sử chính trị Pháp, chủ nghĩa Bonaparte (Bonapartisme) có hai ý nghĩa. Thuật ngữ này có thể chỉ những người muốn khôi phục Đế chế Pháp dưới sự cai trị của Nhà Bonaparte bao gồm gia tộc của Napoléon ở Corse và cháu ông Louis. Tâm lý luyến tiếc thời đại Napoléon trong dân chúng đã giúp Louis trở thành Tổng thống Pháp đầu tiên rồi thành Napoléon III, Hoàng đế của Đệ Nhị Đế chế Pháp. Theo một nghĩa rộng hơn, chủ nghĩa Bonaparte liên hệ với một phong trào chính trị trung hữu hoặc ôn hòa rộng rãi có chủ trương chính là ủng hộ một nhà nước mạnh, tập quyền dựa trên chủ nghĩa dân túy.
Chỉ trích
Napoléon đã chấm dứt thời kì vô luật pháp và hỗn loạn hậu Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, ông bị các đối thủ xem là một tên bạo chúa, một kẻ cướp ngôi.
Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông.
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn. Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947. Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: "Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn" .
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất". McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông. Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lý tưởng của Đại Cách mạng Pháp. Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình".
Tuyên truyền và tưởng niệm
Khả năng vận dụng tuyên truyền bậc thầy của Napoléon đóng góp nhiều vào sự nổi lên nắm quyền của ông, hợp thức hóa nền cai trị của ông, và thiết lập hình ảnh ông cho hậu thế. Chính sách kiểm duyệt nghiêm ngặt, kiểm soát sự thể hiện của sách, báo, sân khấu, mỹ thuật, chỉ là một phần trong kế hoạch tuyên truyền của ông, nhằm vào việc mô tả ông như liều mình mang lại một nền hòa bình và ổn định mà nhân dân Pháp mong mỏi. Thuật hùng biện thay đổi theo những sự kiện chính trị và theo không khí uy quyền của Napoléon, tập trung trước hết vào vai trò của ông như một vị tướng lĩnh quân đội và sự đặc tả như một người lính, rồi chuyển sang vai trò của ông như một hoàng đế và lãnh tụ dân sự. Vì đặc biệt nhắm vào công chúng bình dân, Napoléon đã nuôi dưỡng một mối quan hệ quan trọng, nhưng không dễ dàng, với giới nghệ thuật đương thời, nắm vai trò tích cực trong việc đặt hàng và kiểm soát các sản phẩm nghệ thuật nhiều hình thức khác nhau để đảm bảo mục đích tuyên truyền của mình.
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoléon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789.
Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và Triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon.
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng.
Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ Tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng.
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau.
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.
Di sản ngoài nước Pháp
Napoléon chịu trách nhiệm cho việc lật đổ nhiều Chế độ cũ (Ancien Régime) — những nền quân chủ điển hình ở châu Âu và lan truyền các giá trị chính thống của Cách mạng Pháp tới các quốc gia khác. Đặc biệt, chủ nghĩa dân tộc Pháp của Napoléon đã có ảnh hưởng lên sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những miền khác — thường là một cách không chủ ý. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tộc Đức của Fichte đã thách thức sự chinh phục nước Đức của Napoléon. Napoléon cũng là tác giả tạo ra cơ sở cờ tam sắc xanh-trắng-đỏ của nước Ý trong thời kì ông cai trị đất nước này.
Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đình và luật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoléon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Louisiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada.
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại.
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoléon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỷ XX, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra.
Hôn nhân và con cái
Napoléon kết hôn với Joséphine (nhũ danh Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie) năm 1796, khi ông 26 tuổi; còn bà là một góa phụ 32 tuổi mà người chồng trước bị xử tử trong Cách mạng. Khi bà gặp Bonaparte, bà được biết đến với tên "Rose", một cái tên mà ông không ưa. Ông gọi bà là "Joséphine", và từ đó bà mang tên này. Bonaparte thường gửi các bức thư tình trong các chiến dịch của mình. Ông chính thức thừa nhận con trai riêng của bà Eugène và em họ Stéphanie và sắp xếp các hôn lễ hoàng gia cho họ. Joséphine có một con gái riêng là Hortense, cưới em trai Bonaparte là Louis.
Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoléon. Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở Luân Đôn và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình.
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20. Napoléon sau cùng chọn ly dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng 3 năm 1810, ông cưới Maria Ludovica 19 tuổi, nữ Đại Công tước Áo, và cháu gái của Maria Antonia của Áo thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức.
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông qua đời, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoléon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và mất do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái.
Napoléon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne và Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Maria Walewska. Ông còn có bốn đứa con ngoài giá thú khác không được thừa nhận, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà thông tin về mẹ hiện còn chưa rõ.
Tước hiệu và huy hiệu
Phả hệ tổ tiên
Chú thích
Trích dẫn |
RSS là một định dạng tập tin thuộc họ XML dùng trong việc chia sẻ tin tức Web (Web syndication) được dùng bởi nhiều website tin tức và weblog.
Công nghệ của RSS cho phép người dùng Internet có thể đặt mua thông tin từ các websites có cung cấp khả năng RSS (RSS feeds); chúng thường là các site có nội dung thay đổi và được thêm vào thường xuyên. Để có thể dùng công nghệ này, người quản trị site đó tạo ra hay quản lý một phần mềm chuyên dụng (như là một hệ thống quản lý nội dung - content management system-CMS), mà với định dạng XML máy có thể đọc được, có thể biểu diễn các bài tin mới thành một danh sách, với một hoặc hai dòng cho mỗi bài tin và một liên kết đến bài tin đầy đủ đó. Khác với việc mua nhiều ấn bản của các tờ báo hay tạp chí in giấy, hầu hết việc mua RSS là miễn phí.
Định dạng RSS cung cấp nội dung web và tóm lược nội dung web cùng với các liên kết đến phiên bản đầy đủ của nội dung tin đó, và các siêu-dữ-liệu (meta-data) khác. Thông tin này được cung cấp dưới dạng một tập tin XML được gọi là một RSS feed, webfeed, RSS stream, hay RSS channel. Cùng với việc hỗ trợ cung cấp chia sẻ thông tin, RSS cho phép những độc giả thường xuyên của một website có thể theo dõi các cập nhật của site đó dùng aggregator.
Cách sử dụng
RSS được dùng phổ biến bởi cộng đồng weblog để chia sẻ những tiêu đề tin tức mới nhất hay toàn bộ nội dung của nó, và ngay cả các tập tin đa phương tiện đính kèm. (Xem podcasting, vodcasting, broadcasting, screencasting, Vloging, và MP3 blogs.) Vào giữa năm 2000, việc sử dụng RSS trở nên phổ biến đối với hãng tin tức lớn, bao gồm Reuters, CNN, và BBC. Những nhà cung cấp tin này cho phép các website khác tổng hợp những tiêu đề tin tức "được chia sẻ" hay cung cấp các tóm tắt ngắn gọn của các bản tin chính dưới nhiều hình thức thỏa hiệp khác nhau. RSS ngày nay được dùng cho nhiều mục đích, bao gồm tiếp thị, báo cáo lỗi (bug-reports), hay các hoạt động khác bao gồm cập nhật hay xuất bản định kì.
Một chương trình gọi là một feed reader hay aggregator có thể kiểm tra xem một website có hỗ trợ RSS cho người dùng không và, nếu có, hiển thị những bài viết cập nhật nhất mà nó tìm thấy từ website đó. Ngày nay có thể tìm thấy RSS feeds trên rất nhiều Web sites lớn, cũng như nhiều những site nhỏ.
Các công cụ đọc tin phía trình khách và công cụ aggregators thường được xây dựng thành một chương trình độc lập hoặc là một phần mở rộng của các chương trình có sẵn như trình duyệt web. Những chương trình như vậy có mặt trên nhiều hệ điều hành khác nhau. Xem danh sách các aggregators chuyên về tin tức.
Các phần mềm thu thập tin tức như trên không đòi hỏi phải cài đặt và có thể sử dụng trên các máy tính có kết nối Internet. Một số aggregators kết hợp khả năng chia sẻ tin tức, ví dụ: lấy mọi thông tin bóng đá từ nhiều nguồn tin và cung cấp thành một nguồn tin mới. Đây cũng chính là các động cơ tìm kiếm nội dung được đăng tải thông qua RSS feeds như Feedster hay Blogdigger.
Trên các trang web, RSS feeds thường được liên kết bằng một hình chữ nhật màu cam , có thể kèm theo các ký tự XML hay RSS .
Lịch sử
Trước RSS, có nhiều định dạng khác cũng từng được dùng cho vấn đề chia sẻ thông tin, nhưng không có định dạng nào được dùng rộng rãi cho đến ngày nay, vì hầu hết chủ yếu dùng cho từng dịch vụ đơn. Ví dụ, năm 1997 Microsoft tạo ra Channel Definition Format cho chức năng Active Channel của Internet Explorer 4.0. Dave Winer cũng đã thiết kế định dạng XML cho việc chia sẻ thông tin riêng cho Scripting News weblog, ra đời năm 1997.
RDF (Resource Description Framework) Site Summary, phiên bản đầu tiên của RSS, được tạo ra bởi Dan Libby của Netscape vào tháng 3 năm 1999 dùng cho cổng điện tử My Netscape. Phiên bản này trở thành RSS 0.9. Vào tháng 7 năm 1999, đáp trả lại các đề nghị và góp ý, Libby đưa ra bản phác thảo ban đầu đặt tên là RSS 0.91 (RSS viết tắt của Rich Site Summary), nhằm đơn giản hóa định dạng và tích hợp một số phần trong định dạng scriptingNews của Winer. Từ đó, Libby đề xuất ra định dạng tương tự-RSS 1.0 thông qua cái gọi là Futures Document.
Chẳng bao lâu sau, Netscape không còn tập trung vào RSS/XML, bỏ rơi định dạng đó. Một nhóm làm việc và danh sách địa chỉ mail, RSS-DEV, được thành lập bởi nhiều người dùng và cộng đồng XML để tiếp tục phát triển nó. Cùng thời điểm, Winer đưa ra phiên bản sửa đổi của RSS 0.91 cho website Userland, vì nó đang được dùng trong sản phẩm của họ. Ông ta cho rằng đặc tả kĩ thuật của RSS 0.91 là tài sản riêng của công ty ông, UserLand Software. Vì chẳng có bên nào có tuyên bố chính thức về tên của định dạng, cho nên bây giờ có nhiều tên gọi.
Nhóm RSS-DEV tiếp tục đưa ra RSS 1.0 vào tháng 12 năm 2000 dựa trên bản phác thảo góp ý sửa đổi cho bản đặc tả kĩ thuật đưa ra bởi Tristan Louis. Giống với RSS 0.9 (không phải 0.91) bản này dựa vào đặc tả kĩ thuật của RDF, nhưng có tính khả mở hơn, với nhiều mục bắt nguồn từ các từ vựng metadata chuẩn như Dublin Core.
Mười chín ngày sau, Winer cho ra phiên bản RSS 0.92, a một vài chỉnh sửa có tính tương thích với các thay đổi của RSS 0.91 dựa trên cùng bản góp ý. Vào tháng 4 năm 2001, ông đưa ra bản phác thảo của RSS 0.93 mà hầu hết là giống với bản 0.92. Bản thảo RSS 0.94 ra đời vào tháng Tám, phục hồi lại những thay đổi trong bản 0.93, và thêm vào thuộc tính (attribute) type cho thành phần (element) description.
Vào tháng 9 năm 2002, Winer cho ra bản cuối cùng của RSS 0.92, bây giờ gọi là RSS 2.0 và nhấn mạnh "Really Simple Syndication" là nghĩa của ba ký tự viết tắt RSS. Đặc tả kĩ thuật của RSS 2.0 loại bỏ thuộc tính type từng được thêm vào trong RSS 0.94 và cho phép người dùng có thể thêm thành phần mở rộng nhờ dùng XML namespaces. Nhiều phiên bản của RSS 2.0 đã được ra đời, nhưng chỉ số của phiên bản thì vẫn không thay đổi.
Vào tháng Mười Một, 2002, Thời báo New York đã bắt đầu cung cấp cho người đọc khả năng mục các tin có hỗ trợ RSS feeds liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau. Vào tháng Giêng, 2003, David Winer đã gọi việc dùng RSS của Thời báo New York Time là một "điểm nhấn" (tipping point) trong việc đưa định dạng RSS trở thành một chuẩn.
Vào tháng Bảy, 2003, Winer và Userland Software được cấp quyền sở hữu của đặc tả kĩ thuật RSS 2.0, Trung tâm Berkman về Xã hội và Internet của Harvard .
Winer đã bị phê bình vì đã đơn phương tạo ra định dạng mới và tự đưa ra số của phiên bản. Để đáp lại, đồng tác giả của RSS 1.0 Aaron Swartz đã đưa ra RSS 3.0, một định dạng văn bản không dựa trên XML. Định dạng đó chỉ là một sự bắt chước và chỉ được dùng rất ít.
Vào tháng Giêng 2005, Sean B. Palmer và Christopher Schmidt đã cho ra bản sơ thảo đầu tiên của RSS 1.1. Nó là bản sửa lỗi cho 1.0, loại bỏ những đặc tính ít dùng, đơn giản hóa cú pháp và nâng cao đặc tả kĩ thuật dựa vào các đặc tả RDF. Vào tháng 7 năm 2005, RSS 1.1 chỉ hơn một bài tập mang tính học thuật một ít.
Ví dụ
Đây là ví dụ về tập tin RSS 1.0.
<?xml version="1.0"?>
<rdf:RDF
xmlns:rdf="http://www.w3.org/1999/02/22-rdf-syntax-ns#"
xmlns="http://purl.org/rss/1.0/">
<channel rdf:about="http://www.xml.com/xml/news.rss">
<title>XML.com</title>
<link>http://xml.com/pub</link>
<description>
XML.com features a rich mix of information and services
for the XML community.
</description>
<image rdf:resource="http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif" />
<items>
<rdf:Seq>
<rdf:li resource="http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html" />
<rdf:li resource="http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html" />
</rdf:Seq>
</items>
<textinput rdf:resource="http://search.xml.com" />
</channel>
<image rdf:about="http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif">
<title>XML.com</title>
<link>http://www.xml.com</link>
<url>http://xml.com/universal/images/xml_tiny.gif</url>
</image>
<item rdf:about="http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html">
<title>Processing Inclusions with XSLT</title>
<link>http://xml.com/pub/2000/08/09/xslt/xslt.html</link>
<description>
Processing document inclusions with general XML tools can be
problematic. This article proposes a way of preserving inclusion
information through SAX-based processing.
</description>
</item>
<item rdf:about="http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html">
<title>Putting RDF to Work</title>
<link>http://xml.com/pub/2000/08/09/rdfdb/index.html</link>
<description>
Tool and API support for the Resource Description Framework
is slowly coming of age. Edd Dumbill takes a look at RDFDB,
one of the most exciting new RDF toolkits.
</description>
</item>
<textinput rdf:about="http://search.xml.com">
<title>Search XML.com</title>
<description>Search XML.com's XML collection</description>
<name>s</name>
<link>http://search.xml.com</link>
</textinput>
</rdf:RDF>
Đây là ví dụ về tập tin RSS 2.0.
<?xml version="1.0"?>
<rss version="2.0">
<channel>
<title>Birthday Bash Interviews</title>
<link>http://kccnfm100.com/</link>
<description>Natural Vibrations.</description>
<language>en-us</language>
<pubDate>Tue, 10 Jun 2003 04:00:00 GMT</pubDate>
<lastBuildDate>Tue, 10 Jun 2003 09:41:01 GMT</lastBuildDate>
<docs>http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss</docs>
<generator>Weblog Editor 2.0</generator>
<managingEditor>[email protected]</managingEditor>
<webMaster>[email protected]</webMaster>
<item>
<title>Star City</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-starcity.asp</link>
<description>How do Americans get ready to work with Russians aboard the
International Space Station? They take a crash course in culture, language
and protocol at Russia's Star City.</description>
<pubDate>Tue, 03 Jun 2003 09:39:21 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/06/03.html#item573</guid>
</item>
<item>
<description>Sky watchers in Europe, Asia, and parts of Alaska and Canada
will experience a partial eclipse of the Sun on Saturday, May 31st.</description>
<pubDate>Fri, ngày 30 tháng 5 năm 2003 11:06:42 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/30.html#item572</guid>
</item>
<item>
<title>The Engine That Does More</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-VASIMR.asp</link>
<description>Before man travels to Mars, NASA hopes to design new engines
that will let us fly through the Solar System more quickly. The proposed
VASIMR engine would do that.</description>
<pubDate>Tue, ngày 27 tháng 5 năm 2003 08:37:32 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/27.html#item571</guid>
</item>
<item>
<title>Astronauts' Dirty Laundry</title>
<link>http://liftoff.msfc.nasa.gov/news/2003/news-laundry.asp</link>
<description>Compared to earlier spacecraft, the International Space
Station has many luxuries, but laundry facilities are not one of them.
Instead, astronauts have other options.</description>
<pubDate>Tue, ngày 20 tháng 5 năm 2003 08:56:02 GMT</pubDate>
<guid>http://liftoff.msfc.nasa.gov/2003/05/20.html#item570</guid>
</item>
</channel>
</rss> |
Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos" (), cũng được gọi là Roskosmos (), tiền thân là Cơ quan Vũ trụ Nga, rồi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga, là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về chương trình khoa học vũ trụ và nghiên cứu không gian của Nga. Roskosmos toạ lạc tại một thành phố nhỏ, được gọi là 'thành phố Vũ trụ', gần Moskva.
Cơ quan Vũ trụ Nga (, hay RKA) được thành lập vào ngày 25 tháng 2 năm 1992, sau sự tan rã của Liên Xô cùng với chương trình vũ trụ Xô viết, với người đứng đầu là Yuri Koptev. Mục đích của RKA là thực hiện vai trò như cơ quan NASA của Hoa Kỳ.
Tháng 6 năm 1999, RKA được tổ chức lại, đặt lại tên là Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Nga (, gọi tắt là Rosaviakosmos ) và có thêm chức năng mới về hàng không. Yuri Koptev vẫn là người đứng đầu.
Ngày 9 tháng 3 năm 2004, trong nỗ lực sắp xếp lại một số tổ chức khi Vladimir Putin tái tranh cử chức tổng thống, Rosaviakosmos lại được tái tổ chức, với tên mới là Cơ quan Vũ trụ Liên bang (FKA). Yuri Koptev bị thay bằng Anatoly Perminov, một cựu chỉ huy của Lực lượng Vũ trụ Quân đội.
Từ những năm 2010, hàng loạt lỗi kỹ thuật đã dẫn đến sự cần thiết phải hiện đại hoá và tái cơ cấu ngành công nghiệp và không gian. Nỗ lực tái cơ cấu sau đó đã thành công trong một loạt các cải cách dự kiến cả về hình thức và nội dung. Đầu tiên là tạo ra Cơ quan Thống nhất về Tên lửa và Không gian (Объединенная ракетно-космическая корпорация, viết tắt ORKK)
Cuối cùng, ngày 28 tháng 12 năm 2015, theo sáng kiến của phó thủ tướng Dmitry Olegovich Rogozin, Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga được đổi thành Cơ quan nhà nước cho các hoạt động không gian "Roscosmos".
Ngân sách
Ngân sách dành cho Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga Roscosmos từ 5 tỷ USD năm 2014 xuống còn 1.7 tỷ USD năm 2020 trong khi ngân sách của NASA năm 2020 lên tới 22.6 tỷ USD.
Các dự án trong tương lai
Dmitry Rogozin, người đứng đầu tập đoàn vũ trụ Nga Roscosmos, gần đây tiết lộ rằng nước này có kế hoạch thực hiện một sứ mệnh mới của riêng họ trên sao Kim và nhiều dự án về sứ mệnh sao Kim đang nằm trong chương trình thăm dò không gian của chính phủ Nga giai đoạn 2021-2030". Tuy nhiên nhiều nhà quan sát tỏ ra nghi ngờ khi một cựu quan chức Roscosmos cho biết Nga không có bất kỳ tàu vũ trụ mới nào" còn chuyên gia không gian độc lập Vitaly Yegorov nói sứ mệnh tới sao Kim, "do sự phức tạp của nhiệm vụ, các nhà khoa học Nga thậm chí không nghĩ đến nó",
Vedomosti dẫn lời quan chức Roscosmos cho biết Nga hiện chế tạo khoảng 15 vệ tinh mỗi năm và đặt mục tiêu tới cuối năm 2025 tăng con số này lên mức từ 200-250 vệ tinh.
Tham nhũng
Lĩnh vực vũ trụ của Nga đã bị tình trạng tham nhũng trong những năm gần đây, các công tố viên đã phát hiện một phần nhỏ trong số 1 tỷ USD gian lận liên quan đến Roscosmos và các tập đoàn quốc phòng và vũ trụ do nhà nước điều hành khác bị phát hiện chỉ trong năm 2018. Các công tố viên Nga cũng phát hiện hơn 150 triệu USD đã bị biển thủ trong quá trình xây dựng sân bay vũ trụ mới Vostochny Cosmodrome trị giá 5 tỷ USD tại vùng Viễn Đông của Nga.
Rò rỉ công nghệ
Tháng 7 năm 2018 nhà khoa học Viktor Kudryavtsev của Roscosmos bị bắt giữ vì cáo buộc làm rò rỉ thông tin phát triển công nghệ tên lửa siêu thanh cho một thành viên của NATO năm 2013.
Kudryavtsev bị buộc tội rò rỉ bí mật tên lửa siêu thanh cho Bỉ. Ông sau đó đã được thả sau hơn một năm bị giam giữ sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Kudryavtsev đã giành được giải thưởng cấp nhà nước cho nghiên cứu của mình về động lực học chất khí và chất lỏng. Nhóm nhân quyền Memorial của Nga đã tuyên bố Kudryavtsev là một tù nhân chính trị. Kudryavtsev đã chết vì ung thư ở tuổi 77 năm 2021.
Một người khác là Alexei Temirev, 64 tuổi (năm 2018), bị bắt vào ngày 18 tháng 7 năm 2018 và bị quản thúc vì cáo buộc làm rò rỉ tài liệu bí mật cho Việt Nam. Tòa án ở Rostov đã kết án Tiến sĩ Khoa học Kỹ thuật Alexei Temirev ở Novocherkassk 7,5 năm tù giam vì tội phản quốc cao độ theo điều 275 của Bộ luật Hình sự. Cơ quan An ninh Liên bang FSB buộc Temirev chia sẻ thông tin về thiết bị mà anh ta đã làm việc tại phòng thiết kế cùng với nghiên cứu sinh từ Việt Nam và chuyển bí mật nhà nước cho quốc gia đó. |
Kiều Chinh (tên khai sinh là Nguyễn Thị Chinh, sinh 3 tháng 9 năm 1937 tại Hà Nội ) là nữ diễn viên nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và từng tham gia trong một số phim của Hollywood.
Cuộc đời và sự nghiệp
Kiều Chinh là nữ diễn viên chính trong cuốn phim Hồi chuông Thiên Mụ (1957). Sau đó, Kiều Chinh mau chóng trở thành một trong những người nổi tiếng ở Việt Nam. Trong thập niên 1960, bà cũng xuất hiện trong các cuốn phim của Hoa Kỳ như A Yank in Vietnam (1964) và Operation C.I.A. (1965) (diễn chung với Burt Reynolds). Kiều Chinh là diễn viên chính và cũng là người sản xuất bộ phim về chiến tranh Người tình không chân dung (1971), cuốn phim sau này đã được tái bản và trình chiếu trong Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival) tại Hoa Kỳ năm 2003.
Năm 1975, khi Kiều Chinh đang thực hiện cuốn phim Full House ở Singapore thì Sài Gòn thất thủ. Kiều Chinh cùng chồng di cư Hoa Kỳ, nơi cô tiếp tục sự nghiệp diễn xuất của mình trong bộ phim M*A*S*H (1977), bộ phim gần như dựa trên câu chuyện về cuộc đời cô.
Kiều Chinh cũng xuất hiện trên các bộ phim truyền hình như The Children of An Lac (1980), The Letter (1982), The Girl Who Spelled Freedom (1986), cũng như trong các phim truyện khác như Hamburger Hill (1987), Gleaming the Cube (1988), Catfish in Black Bean Sauce (1999), What's Cooking (2000), Face (2002), Returning Lyly (2002).
Năm 1993, Kiều Chinh vào vai Suyuan, một phụ nữ trong cuốn phim The Joy Luck Club của Wayne Wang. Năm 2005, Kiều Chinh vào vai một người bà với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu trong cuốn phim Vượt sóng, có tên tiếng Anh là Journey from the Fall của đạo diễn Trần Hàm. Vượt Sóng là cuốn phim đầu tiên và có ngân sách lớn nhất nói về người tỵ nạn Việt Nam, cuốn phim theo dấu các gia đình Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc, về các trại cải tạo, về kinh nghiệm của các thuyền nhân và những khó khăn ban đầu khi họ được định cư tại Hoa Kỳ.
Năm 1996, Viện Khoa học và Nghệ thuật Truyền hình Mỹ (Academy of Television Arts and Sciences) đã trao giải Emmy cho phim tài liệu Kieu Chinh: A Journey Home của đạo diễn Patrick Perez / KTTV. Năm 2003, tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival), Kiều Chinh được trao giải thưởng Thành tựu Suốt đời (Lifetime Achievement Award). Cũng trong năm 2003, tại Liên hoan phim Phụ nữ (Women's Film Festival) ở Torino, Ý, Kiều Chinh được trao giải Diễn xuất Đặc biệt (Special Acting Award).
Ngày 15 tháng 3 năm 2021, tại thành phố Los Angeles, bang Califonia, Hoa Kỳ, Kiều Chinh đã vinh dự nhận giải thưởng Thành tựu trọn đời do Ban tổ chức Liên hoan phim Thế giới Châu Á (AWFF) trao tặng.
Những phim tham gia
Hồi chuông Thiên Mụ (1957)
Mưa rừng (1962)
Chuyện năm Dần (Year Of The Tiger / A Yank in Viet-Nam), 1964
Destination Việt Nam ??
Điệp vụ CIA (Operation C.I.A.), 1965
The Evil Within (1970)
Người tình không chân dung (1971)
Bão tình, 1972
Chiếc bóng bên đường, 1973
Chờ sáng
Inside Out
Hè muộn
Hồng yến
MASH
Ngàn năm mây bay
Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ
Hamburger Hill (1987)
Vietnam, Texas (1990)
The Joy Luck Club (1993)
What's Cooking? (2000)
Rồng xanh (2001)
Vượt sóng (2006)
Đoạt hồn (2014) |
Kinh (zh. 經, sa. sūtra, pi. sutta), nguyên văn là Khế kinh (chữ Hán: 契經), còn được phiên âm là Tu-đa-la (修多羅) hay Tố-đát-lãm (素怛纜), là tên gọi của các bài giảng trong Phật giáo, được cho là do chính đức Phật truyền dạy. Các bài giảng này được xếp vào phần Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka) trong bộ Tam tạng (sa. tripiṭaka).
Khái lược
Theo truyền thống Phật giáo, Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Trong cuộc đời hơn 40 năm giảng pháp, số lượng bài giảng của đức Phật là cực kỳ lớn. Ngoài ra, tùy theo căn nguyên và lĩnh hội của các đệ tử mà tồn tại những bài giảng khác nhau. Trong quá trình truyền pháp, sự khác biệt văn hóa địa phương cũng ảnh hưởng ít nhiều về các diễn giảng ý nghĩa dẫn đến những bất đồng trong cách hiểu bài giảng của Phật. Vì vậy, sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của ông đã tập hợp tại Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất, nhằm kiểm điểm lại các bài giảng của vị Bổn sư. A-nan-đà, một đệ tử của Phật, vốn sở hữu trí nhớ phi thường, được Tăng đoàn yêu cầu thuật lại những bài giảng của Phật mà ông đã được nghe. Tất cả các A-la-hán có mặt trong đại hội kết tập này sau đó đã tụng thuộc lòng để bảo tồn nội dung thống nhất các bài giảng này.
Hình thái bảo tồn bằng trí nhớ này phù hợp với điều kiện chữ viết còn sơ khai và phương tiện ghi chép còn chưa hiệu quả. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là khả năng lưu giữ không được đồng nhất, nhất là với số lượng bài giảng rất lớn, dẫn đến sự khác biệt hình thành theo thời gian về nội dung bài giảng giữa các tăng sĩ. Vì vậy, vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập diệt, các bài kinh bắt đầu được ghi lại bằng chữ viết, bằng tiếng Pali (đối với Phật giáo Nam truyền) hay tiếng Phạn (đối với Phật giáo Bắc truyền). Nếu như Phật giáo Nam truyền vẫn trung thành với kinh điển tiếng Pali qua nhiều thế hệ, thì Phật giáo Bắc truyền khi được truyền bá đến Trung Hoa và Tây Tạng đã dịch các bản kinh tiếng Phạn sang ra chữ Hán và chữ Tạng, nhờ đó thâm nhập sau rộng vào văn hóa bản địa hoặc ở những vùng văn hóa quyển có ảnh hưởng.
Vào thời hiện đại, với phong trào chấn hưng Phật giáo, xu hướng dịch kinh điển Phật giáo bằng ngôn ngữ bản địa nhằm thâm nhập sâu vào giới bình dân càng được đẩy mạnh (như Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam). Thậm chí, nhiều học giả còn dịch các kinh điển này ra những ngôn ngữ Tây phương để giới thiệu với phương Tây một bộ môn triết học và văn hóa đặc biệt của phương Đông, qua đó truyền bá các tư tưởng Phật giáo lan rộng trên toàn thế giới.
Các nội dung chính
Khởi đầu các bộ kinh thường được bắt đầu bằng câu "Tôi nghe như vầy…" (sa. evaṃ śrute mayā, zh. 如是我聞, Hán Việt: Như thị ngã văn), là lời thuật của A-nan-đà. Sau câu này, thường thường nội dung kinh kể lại buổi nói chuyện đó gồm có người tham dự, nơi chốn, thời gian. Sau đó là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động.
Do đặc tính ban đầu là ghi nhớ kinh bằng hình thức tụng thuộc lòng, nên lối hành văn của kinh súc tích nhưng giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. Kinh thường sử dụng các thí dụ và so sánh, ẩn dụ. Có khi kinh nhắc lại quá đầy đủ các yếu tố trong bài giảng tạo ra sự trùng điệp nhiều lần để cho người tụng dễ thuộc hơn. Mỗi một kinh là một bài riêng biệt, xử lý một vấn đề riêng biệt.
Các kinh Nam-tông được viết bằng văn hệ Pāli, trong Bộ kinh (pi. nikāya). Các bộ này trong văn hệ chữ Phạn có tên là A-hàm (sa. āgama). Kinh Bắc-tông được viết bằng tiếng Phạn, nhưng ngày nay phần lớn cũng đã thất lạc, chỉ còn bản dịch bằng chữ Hán hoặc Tây Tạng. Các kinh Bắc-tông có thể được xem là phát khởi giữa thế kỉ thứ nhất trước CN và thứ sáu CN. Các kinh này cũng bắt đầu bằng câu "Tôi nghe như vầy…" và ghi rõ danh xưng, nơi chốn thời gian.
Trong "rừng" kinh sách Phật giáo người ta có thể phân biệt hai hướng sau đây:
7.Kinh dựa trên Tín tâm (sa. śraddhā), nói về thế giới quan Phật giáo, quan niệm Bồ Tát cũng như nhấn mạnh lên lòng thành tâm của người nghe. Hướng này có lẽ xuất xứ từ Bắc Ấn. Trong những bộ kinh này, ta thấy rất nhiều điều huyền bí, cách miêu tả trùng trùng điệp điệp.
8.Kinh nhắc lại các vị Phật và Bồ Tát thi triển nhiều thần thông, qua vô lượng thế giới, không gian và thời gian. Các vị Phật và Bồ Tát được biến thành các Báo thân (Ba thân) đầy quyền năng. Khuynh hướng này xuất phát từ Bắc-tông, vừa muốn đáp ứng tinh thần tín ngưỡng của Phật tử, vừa phù hợp với giáo pháp căn bản của mình là tính Không (sa. śūnyatā), cho rằng mọi biến hiện trong thế gian chẳng qua chỉ là huyễn giác. Qua đó thì các thần thông cũng như toàn bộ thế giới hiện tượng chỉ là Ảo ảnh.
9.Kinh có tính triết học, lý luận dựa trên quan điểm chính của Bắc-tông là tính Không. Xuất xứ các kinh này có lẽ từ miền Đông của Trung Ấn. Các loại kinh này được nhiều luận sư giảng giải khác nhau và vì vậy mà xuất phát nhiều trường phái khác nhau.
Các kinh độc lập quan trọng của Bắc-tông là: Diệu pháp liên hoa kinh (sa. saddharmapuṇḍarīka), Nhập Lăng-già kinh (sa. laṅkāvatāra), Phổ diệu kinh (hay Thần thông du hí, sa. lalitavistara), Chính định vương kinh (sa. samādhirāja), Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm (sa. sukhāvatī-vyūha), Hiền kiếp kinh (sa. bhadrakalpika), Phạm võng kinh (sa. brahmajāla), Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (sa. buddhāvataṃsaka), Thắng Man kinh (sa. śrīmālādevī), A-di-đà kinh (sa. amitābha), Quán vô lượng thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna), Duy-ma-cật sở thuyết (sa. vimalakīrti-nirdeśa), Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (sa. śūraṅgama).
Kinh tạng Pali (Nguyên Thủy)
Kinh tạng Pali gồm năm bộ kinh: Dìgha Nikàya (Kinh Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Kinh Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Kinh Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Kinh Tăng Chi Bộ), và Khuddaka Nikàya (Kinh Tiểu Bộ).
Kinh Trường Bộ
Kinh Trung Bộ
Kinh Tương Ưng Bộ
Kinh Tăng Chi Bộ
Kinh Tiểu Bộ |
Joachim Peiper (30 tháng 1 năm 1915 tại Berlin - 13 tháng 7 năm 1976 tại Traves, Pháp), còn được biết dưới tên Joachim "Jochen" Peiper vì Jochen là tên gọi thân mật cho Joachim, là một sĩ quan và lãnh đạo cao cấp của Waffen-SS (lực lượng vũ trang SS), Đức Quốc xã. Vào cuối đời binh nghiệp của mình, Peiper là sĩ quan mang quân hàm tương đương với đại tá trung đoàn của quân đội: quân hàm Standartenführer của Waffen-SS, sư đoàn xe tăng SS số 1, Leibstandarte-SS Adolf Hitler.
Năm 1946, trong phiên tòa về cuộc Thảm sát tại Malmédy, Peiper đã bị kết án là tội phạm chiến tranh.
Tiểu sử
Cha của Peiper là một cựu binh của Chiến tranh thế giới thứ nhất; ông cũng có hai người anh em: Hans-Hasso và Horst.
Mùa xuân năm 1933 ông gia nhập Hitlerjugend (Thiếu niên Hitler) và ngay từ tháng 10 cùng năm gia nhập lực lượng SS do Heinrich Himmler lãnh đạo. Năm 1934 Peiper làm đơn xin được trở thành học viên sĩ quan SS (tiếng Đức: SS-Offizieranwärter). Ông được nhận vào cái gọi là Trường Junkers của lực lượng SS (SS-Junkerschule) tại Braunschweig. Sepp Dietrich đã xem qua hồ sơ của Peiper và cho phép Peiper gia nhập vào trung đoàn cận vệ danh dự SS số 1 "Leibstandarte Adolf Hitler", trung đoàn này sau đó được đổi thành một đơn vị chiến đấu Waffen-SS. Lúc đầu, Peiper làm công việc như một sĩ quan phụ tá của Heinrich Himmler trước khi được thuyên chuyển sang các đơn vị xe tăng khác nhau trong "Leibstandarte Adolf Hitler". Trong lúc còn là phụ tá cho Himmler, Peiper đã gặp và cưới người vợ của mình, Sigurd, và họ đã có ba người con: Hinrich, Elke và Silke. Himmler đặc biệt ưa thích Peiper và đã chú ý đến việc Peiper được thăng tiến lên cấp chỉ huy. Ở tuổi 29, Peiper đã là một đại tá thực thụ trong lực lượng Waffen-SS rất được tôn trọng và là một trong số ít người có được huân chương cao quý nhất trong quân đội phát xít Đức, huân chương Knight's Cross with Swords được ban tặng bởi chính Adolf Hitler.
Peiper là một người chỉ huy có tài và đã tham gia rất nhiều trận chiến có xe tăng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Peiper được cấp dưới trung thành tuyệt đối và được xem là một thủ lĩnh có sức thu hút. Peiper đã tham gia vào một số trận đánh nổi tiếng trong cuộc chiến, bao gồm cả các trận chiến tại Kursk và Kharkov vào năm 1943 tại mặt trận phía Đông nước Nga. Nổi tiếng nhất trong số đó là Peiper đã chỉ huy đội quân "Kampfgruppe Peiper" (Đội chiến đấu Peiper) của "Leibstandarte Adolf Hitler" (thuộc sư đoàn Panzer số 6 dưới quyền chỉ huy của Sepp Dietrich) trong chiến dịch "Wacht am Rhein". Đội quân này tiến thẳng về ngôi làng La Gleize, nước Bỉ, trước khi bị đẩy lùi lại bởi các lực lượng Mỹ. Peiper bị buộc phải bỏ lại hàng trăm phương tiện vận chuyển tại ngôi làng này, gồm cả sáu xe tăng Tiger II, và quay lại phòng tuyến của Đức với 800 lính bộ binh.
Sau này, Peiper đã bị buộc tội dính líu đến cuộc Thảm sát tại Boves, nhưng ông chưa bao giờ bị xét xử trước tòa về vụ này.
Một lần ở Ý, Peiper đã khám phá ra chính phủ nước Ý đã bắt giữ một nhóm người Do Thái. Peiper đã giải thoát và trao trả tự do cho họ. Một trong số những người Do Thái này là một giáo sĩ (rabbi), người này sau đó đã làm chứng cho lòng nhân từ của Peiper trong suốt thời gian xét xử các tội ác chiến tranh của ông.
Sau chiến tranh, Peiper cùng với những người dưới quyền của mình bị tố cáo vì tội ác chiến tranh trong cuộc xét xử về vụ án Thảm sát tại Malmédy. Peiper đã xin tòa án chịu hết trách nhiệm nếu như để cho các thuộc hạ của mình được trả tự do, nhưng phiên tòa đã bác bỏ lời đề nghị này. Thiếu tá Harold D. McCown, tiểu đoàn trưởng thuộc trung đoàn số 119, sư đoàn bộ binh số 30 của quân đội Hoa Kỳ đã đứng ra làm chứng trong suốt phiên tòa rằng ông ta đã có một buổi chuyện trò với Peiper. McCown đã nghe các lời đồn về chuyện lính của Peiper bắn tù binh Mỹ và hỏi Peiper về tình trạn an toàn của các binh lính Mỹ. Peiper nói rằng binh lính của McCown không bị bắn; McCown cũng nói rằng ông không có bằng chứng về chuyện tù binh Mỹ bị bắn. Mặc dầu vậy, cũng như nhiều thuộc hạ của mình, Peiper bị buộc là có tội và kết án treo cổ cho đến chết. Sau đó, Peiper yêu cầu thuộc hạ của mình được xử bắn thay vì treo cổ nhưng cũng bị từ chối. Sự thật là, vì nhiều lý do khác nhau đối với bị cáo, người ta mới biết được rằng các lời thú tội của nhiều bị cáo đã bị ép buộc bằng cách chế nhạo hay đánh đập một cách dã man. Nhiều bị cáo trong cuộc thảm sát Melmédy sau đó được trả tự do sau một thời gian ở trong tù, và Peiper trở về với cuộc sống bình thường vào tháng 12 năm 1956, sau 11 năm rưỡi ngồi tù với phần lớn thời gian bị giam một mình.
Sau khi được trao trả tự do, Peiper chưyển đến sống tại Traves, Haute-Saône, nước Pháp, và làm nghề phiên dịch. Sau một loạt những lời đe dọa đến tính mạng của mình, Peiper đã bị giết chết trong một cuộc tấn công bằng súng tại nhà của mình vào ngày 13 tháng 7 năm 1976. Những kẻ tấn công không bao giờ bị đem ra tòa, nhưng người ta cho rằng họ có thể là những người Cộng sản Pháp.
Những câu nói nổi tiếng của Joachim Peiper
"Sau các trận chiến tại Normandy, tôi nhận thấy rằng những người lính trong đơn vị của tôi phần lớn là những người trẻ tuổi và hiếu chiến. Họ đã mất cha mẹ, anh chị em trong các cuộc oanh tạc. Tại Koln, bản thân họ đã phải chứng kiến hàng ngàn người chết sau một trận tấn công dữ dội. Chính lòng căm thù của họ đối với quân địch đã dẫn đến những điều này, và tôi dám thề là tôi sẽ không bao giờ có thể kiểm soát được những tình huống như vậy."
"Hãy thử tượng tượng, bạn được tung hô là người hùng của quốc gia, được hàng triệu con người trong cơn tuyệt vọng tôn thờ bạn, thế rồi chỉ trong vòng sáu tháng sau, bạn bị tuyên án treo cổ cho đến chết."
"Những người lính của tôi là sản phẩm của toàn bộ cuộc chiến này, họ lớn lên trên đường phố của những ngôi làng vung vãi khắp nơi (scattered towns), họ không có được sự giáo dục. Điều duy nhất mà họ biết đó là cầm lấy vũ khí chiến đấu cho Reich. Họ là những người trẻ tuổi với một trái tim cháy bỏng, với nỗi thèm muốn được chiến thắng hay cái chết: đúng hay là sai đó là đất nước của tôi. Ngày hôm nay, khi nhìn thấy những bị cáo đứng sau vành móng ngựa kia, không thể tin được họ là những người từng trong lực lượng Kampfgruppe Peiper. Tất cả những người bạn và chiến hữu ngày nào của tôi đã ra đi. Valhala đang chờ đón tôi (The real outfit is waiting for me in Valhala)."
"Lịch sử luôn được viết bởi người chiến thắng, còn lịch sử của những người thuộc phe thất bại thì thuộc những người ngày càng ít đi. (History is always written by the victor, and the histories of the losing parties belong to the shrinking circle of those who were there)."
Chú thích |
Da là lớp mô bên ngoài, thường mềm và đàn hồi bao phủ cơ thể của động vật có xương sống. Da có ba chức năng chính: bảo vệ, điều tiết và cảm giác.
Các lớp phủ động vật khác, chẳng hạn như bộ xương ngoài của động vật chân đốt, có nguồn gốc phát triển, cấu trúc và thành phần hóa học khác nhau. Ở động vật có vú, da là một cơ quan của hệ bì được tạo thành từ nhiều lớp mô ngoại bì và bảo vệ các cơ, xương, dây chằng và các cơ quan nội tạng bên dưới. Da của động vật lưỡng cư, bò sát và chim có bản chất khác nhau. Da (bao gồm cả mô da và mô dưới da) đóng những vai trò quan trọng trong việc hình thành, cấu trúc và chức năng của bộ phận xương ngoài như sừng của các loài bò (ví dụ: gia súc) và tê giác, gạc hươu, sừng hươu cao cổ và vảy của Tatu chín đai.
Tất cả các loài động vật có vú đều có một ít lông trên da, ngay cả những loài động vật có vú ở biển như cá voi và cá heo. Da tiếp xúc với môi trường và là hàng phòng thủ đầu tiên khỏi các yếu tố bên ngoài. Ví dụ, da đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh và sự mất nước. Các chức năng khác của nó là cách nhiệt, điều hoà nhiệt độ, nhận diện cảm giác và liên quan mật thiết đến sản xuất vitamin D. Da bị tổn thương nghiêm trọng có thể lành lại bằng cách hình thành mô sẹo. Các mô này đôi khi bị biến màu và mất sắc tố. Độ dày của da cũng thay đổi theo từng vị trí trên cơ thể. Ví dụ ở người, vùng da nằm dưới mắt và xung quanh mí mắt là vùng da mỏng nhất trên cơ thể với độ dày 0,5 mm và là một trong những vùng da đầu tiên xuất hiện các dấu hiệu lão hóa như vết chân chim và nếp nhăn. Da lòng bàn tay và lòng bàn chân là vùng da dày nhất trên cơ thể, dày 4 mm. Tốc độ và chất lượng chữa lành vết thương trên da được thúc đẩy bởi sự tiếp nhận estrogen.
Cấu trúc da ở người và các loài động vật có vú
Da của động vật có vú bao gồm hai lớp chính:
lớp biểu bì, cung cấp khả năng chống thấm và đóng vai trò như một rào cản chống nhiễm trùng
lớp hạ bì, đóng vai trò là vị trí cho các phần phụ của da
Lớp biểu bì
Tầng sừng
Tầng sừng gồm có các tế bào đã chết, xếp sít nhau, rất dễ bong ra.
Tầng tế bào sống
Tầng tế bào sống gồm các tế bào có khả năng phân chia tạo thành tế bào mới, chứa các hạt sắc tố tạo nên màu da, một số tế bào sống phân hóa thành tế bào sinh lông và tế bào sinh móng
Lớp bì
Lớp bì được cấu tạo từ các sợi mô liên kết bền chặt, gồm các thụ quan,tuyến nhờn, tuyến mồ hôi, lông và bao lông, cơ co chân lông, mạch máu, dây thần kinh.
Tuyến nhờn
Nhiệm vụ của tuyến nhờn là tiết chất nhờn, tạo thành một lớp chất nhờn bao phủ bề mặt da, giúp da mềm mịn, không bị thấm nước và hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn từ môi trường bên ngoài
Tuyến mồ hôi
Dạng chùm dưới da (nhiều nhất ở bàn tay, bàn chân, nách, bẹn, trán) có từ 2 đến 3 triệu tuyến. Nhiệm vụ là tiết mồ hôi (là các chất thải bã được lọc từ máu ra), giúp điều hòa thân nhiệt cơ thể, làm nhiệt độ cơ thể giảm xuống nhiệt độ bình thường khi quá nóng.
Muối lysozym có tính kháng khuẩn cao.
Có hai loại tuyến mồ hôi là tuyến mồ hôi toàn vẹn và tuyến mồ hôi bán hủy. Các yếu tố kích thích sự bài tiết mồ hôi như nhiệt độ, tâm lý, vị giác.
Lông và các phụ quan liên quan
Lông gồm có:chân lông, bao lông, cơ co chân lông. Cơ co chân lông có nhiệm vụ co lại mỗi khi trời lạnh, làm cho lông dựng đứng lên, che khít lỗ chân lông, không cho hơi ấm trong cơ thể bay ra không khí, như thế sẽ giữ ấm được cơ thể
Dây thần kinh
Giúp da nhận biết những kích thích từ môi trường từ đó thích ứng được với ngoại cảnh và tránh được nhiều yếu tố có hại.
Mạch máu
Giúp da trao đổi chất với cơ thể
Lớp mỡ dưới da
Mô mỡ
Bảo vệ da khỏi những tác động cơ học, giữ nhiệt, dự trữ năng lượng
Cấu trúc da ở cá, lưỡng cư, chim và bò sát
Chức năng |
Gigabyte (từ tiền tố giga- của SI) là đơn vị thông tin hoặc khả năng lưu giữ thông tin của bộ nhớ máy tính, bằng một tỷ byte hoặc 230 byte (1024 mebibyte). Gigabyte thường được viết tắt là GB (không nhầm lẫn với Gb, có nghĩa là gigabit).
Việc sử dụng từ "gigabyte" khá nhập nhằng, phụ thuộc vào ngữ cảnh. Khi đề cập đến kích thước RAM và tập tin, nó nguyên thủy là định nghĩa nhị phân, bằng 10243 byte (có thể đồng nhất hoặc xấp xỉ 10003, để thuận tiện). Với cách dùng khác, nó bằng chính xác 10003. Để thể hiện sự nhập nhằng này, hiện nay hầu hết các cơ quan tiêu chuẩn đề nghị sử dụng thuật ngữ "gibibyte" (viết tắt là GiB) để chỉ khái niệm nhị phân.
Định nghĩa
Có hai cách định nghĩa gigabyte hơi khác nhau tồn tại:
1.000.000.000 byte hay 109 byte là định nghĩa theo hệ thập phân dùng trong truyền thông (như tốc độ mạng) và phần lớn nhà sản xuất thiết bị lưu trữ (ổ cứng và ổ USB). Cách dùng này tuân thủ quy tắc của SI.
1.073.741.824 byte, bằng 10243, hoặc 230 byte. Định nghĩa này thường được dùng cho bộ nhớ máy tính, khoa học máy tính, hệ điều hành. Từ 1999, IEC đề nghị gọi đơn vị này là gibibyte (viết tắt là GiB) để phân biệt với tên gọi trong hệ SI. Microsoft sử dụng định nghĩa này để hiển thị kích thước ổ cứng, những hệ điều hành khác cũng vậy. Tất cả các hệ điều hành sử dụng định nghĩa này khi đề cập đến kích thước tập tin.
Gigabytes và gigabits
Trong cách quy ước hiện đại, một byte bằng 8 bit. Một gigabyte tương đương với 8 gigabit.
Sự rắc rối cho người dùng
Vào năm 2007, phần lớn ổ cứng được bán ra định nghĩa dung lượng theo gigabyte của họ. Dung lượng thật thường lớn hơn hay nhỏ cách dùng thông thường. Mặc dù phần lớn nhà sản xuất ổ cứng và ổ Flash định nghĩa 1 gigabyte là 1.000.000.000 byte, hệ điều hành máy tính mà phần lớn mọi người sử dụng thường tính một gigabyte bằng cách chia byte (bất kể nó là dung lượng ổ cứng, kích thước tập tin, hay RAM hệ thống) cho 1.073.741.824. Sự khác biệt này là lý do gây ra hoang mang, đặc biệt đối với những người không biết kỹ thuật, vì một ổ cứng mà nhà sản xuất quy định là có dung lượng 40 gigabyte có thể hệ điều hành báo chỉ có 37,2 GB, tùy vào loại báo cáo.
Sự khác nhau giữa tiền tố SI và nhị phân là lôgarít — hay nói cách khác, một kilobyte SI bằng gần 98% một kibibyte, nhưng một megabyte thì bằng dưới 96% một mebibyte, và một gigabyte chỉ hơn 93% gibibyte. Điều đó có nghĩa là ổ cứng 500 GB sẽ chỉ hiển thị "465 GB". Khi kích thước lưu trữ ngày càng lớn và sử dụng đơn vị ngày càng cao, sự chênh lệch này sẽ càng ngày càng lớn.
Chú ý rằng bộ nhớ máy tính được diễn tả bằng cơ số 2, theo như thiết kế, cho nên kích thước bộ nhớ luôn là lũy thừa của 2 (hoặc số liên quan gần, ví dụ như 384 MiB = 3×227 byte). Do đó thuận tiện khi làm việc với RAM bằng đơn vị nhị phân. Sự đo lường máy tính khác, như kích thước lưu trữ phần cứng, mức truyền dữ liệu, tốc độ xung đồng hồ, FLOP, vân vân..., không sử dụng cơ số đó, và thường được giới thiệu bằng đơn vị thập phân.
Một ví dụ, có một ổ cứng có thể chứa chính xác 140 hay 140 tỷ byte sau khi định dạng. Nói chung, hệ điều hành tính kích thước đĩa và tập tin dùng số nhị phân, do đó ổ cứng 140 GB này sẽ được báo là "130,38 GB". Kết quả là có một sự không nhất quán rõ ràng giữa thứ mà người mua mua và thứ hệ điều hành nói họ đang có.
Vài người dùng cảm thấy bị hớ khi thấy sự khác nhau, và cho rằng nhà sản xuất ổ cứng và thiết bị truyền dữ liệu đang sử dụng thước đo thập phân là một cách cố tình để giảm con số xuống, mặc dù sự đo lường là bình thường trong các lĩnh vực khác ngoài bộ nhớ máy tính. Vài tranh chấp pháp lý xuất phát từ sự nhập nhằng này.
Cơ sở của rắc rối dĩ nhiên là định nghĩa chính thức của đơn vị SI không được biết đến rộng rãi, và vài sự hòa giải pháp lý bao gồm những cách để nhà sản xuất sử dụng thông tin rõ ràng hơn, như mô tả dung lượng ổ cứng bằng cả GB và GiB.
Việc sử dụng GB
Nhiễm sắc thể người chứa 0,791175 GB dữ liệu (3.1647 cặp biểu diễn như 2-bit).
Một đĩa định dạng DVD-5 có thể lưu trữ 4,7 gigabyte, hoặc xấp xỉ 4,38 gibibyte. Một DVD-9 có thể lưu trữ 8,5 gigabyte, hoặc xấp xỉ 7,92 gibibyte.
Một gigabyte xấp xỉ bằng 18 giờ nhạc MP3 (ở 128 kbit/s).
Một gigabyte tương đương xấp xỉ với 11 giờ, 40 phút phim Flash (ở phân giải 450x370).
Phần lớn máy chơi game thế hệ 6 và tất cả máy thế hệ 7 có đĩa game khoảng 1 GB hay nhiều hơn: Dreamcast (1,1 GB), Nintendo GameCube (1,5 GB), PlayStation 2, Xbox, Xbox 360, and Wii (8,5 GB), and PlayStation 3 (25/50 GB).
Đĩa hai lớp Blu-ray và HD DVD có thể chứa lần lượt khoảng 50 gigabyte và 30 gigabyte dữ liệu. |
Trong giải tích véctơ, ma trận Jacobi là ma trận chứa các đạo hàm riêng bậc nhất của hàm giữa hai không gian véctơ. Ma trận này được đặt tên theo nhà toán học Carl Gustav Jacobi. Ma trận này được ứng dụng trong giải tích vì nó là xấp xỉ tuyến tính tốt nhất cho một hàm khả vi tại một điểm trong không gian véctơ biến của hàm này.
Chi tiết
Cụ thể nếu hàm F: Rn → Rm là một hàm từ không gian Ơclít n chiều đến một không gian Ơclít m chiều, nó sẽ có m thành phần:
y1(x1,...,xn)
...
ym(x1,...,xn).
Đạo hàm riêng bậc nhất của các hàm này (nếu tồn tại) sẽ có thể được xếp thành một ma trận có kích thước m nhân n, chính là ma trận Jacobi của F:
Có thể ký hiệu ma trận này là:
hay:
Như vậy, hàng thứ i của ma trận là gradient của thành phần yi với i=1,...,m.
Nếu p là một điểm trong không gian Rn và F là khả vi tại p, và các đạo hàm riêng của F tại p chính là JF(p). Lúc này, JF(p) là một hàm tuyến tính và là xấp xỉ tuyến tính tốt nhất của F xung quanh p, theo nghĩa là:
cho x nằm gần p.
Định thức Jacobi
Nếu m = n, thì ma trận Jacobi là ma trận vuông, và định thức của nó là định thức Jacobi.
Định thức Jacobi cho biết tính chất của hàm tại điểm đang xét. Ví dụ, hàm khả vi liên tục F là khả nghịch gần p nếu định thức Jacobi tại điểm đó khác không. Đây là định lý hàm nghịch đảo. Hơn nữa, nếu định thức Jacobi tại p là dương, thì F bảo toàn chiều quay tại gần p; và ngược lại, nếu nó âm, F đảo chiều quay. Giá trị tuyệt đối của định thức Jacobi tại p cho biết mức độ F nở rộng hay thu nhỏ thể tích gần p. Ý nghĩa này khiến định thức Jacobi xuất hiện trong phép đổi biến.
Trong trường hợp m = n = 3, định thức Jacobi có thể tính bằng:
Với
Còn "." là nhân vô hướng, "×" là phép nhân véc tơ.
Ví dụ
Xét hàm F: R3 → R3 với các thành phần:
y1 = 5x2
y2 = 4(x1)2 - 2sin(x2x3)
y3 = x2x3
Ma trận Jacobi của F sẽ là:
Định thức Jacobi của F sẽ là:
Như vậy F sẽ bảo toàn chiều quay tại các điểm có x1 cùng dấu với x2; hàm sẽ khả nghịch tại gần các điểm có x1 và x2 khác 0. Với một thể tích nhỏ xíu gần điểm (1,1,1), sau khi tác dụng F lên thể tích này, sẽ nhận được một vật thể có thể tích lớn gấp 40 lần thể tích ban đầu. |
Phép thử Bernoulli là phép thử ngẫu nhiên mà nó có thể nhận một trong hai kết quả thành công hay thất bại, trong đó xác suất thành công giống nhau mỗi khi phép thử này được tiến hành. Phép thử này đặt tên theo Jacob Bernoulli, một nhà toán học Thụy Sĩ ở thế kỉ 17.
Mô tả toán học
Về mặt toán học, một phép thử Bernoulli được mô tả bằng một ánh xạ (biến ngẫu nhiên) . Trong đó là không gian mẫu gồm hai giá trị, là "thành công" và là "thất bại", tức là . Biến ngẫu nhiên này được xác định như sau
Nếu xác suất thành công bằng thì ta nói biến ngẫu nhiên có phân phối Bernoulli . Trong trường hợp này . |
Trong hình học đại số, định lý Bézout, hay định lý Bezout, là định lý toán học, được phát hiện năm 1770 từ nhà toán học Pháp Étienne Bézout (1730-1783), về số giao điểm của các đường cong trên cùng mặt phẳng. Đây là một trong những định lý lâu đời nhất trong hình học đại số.
Phát biểu
"Cho hai đường cong phẳng đại số có bậc m và n đồng thời không có thành phần chung nào, thì có đúng m nhân n điểm giao nhau. Trong đó, kể cả các giao điểm trùng nhau và các giao nhau số 8 nằm ngang
Ví dụ
Trong hình học phẳng thì định lý này có thể minh hoạ thu hẹp thành:
Đường cong bậc hai tổng quát sẽ cắt đường thẳng (bậc 1) tối đa ở hai giao điểm. Đặc biệt, trường hợp đường cong bậc hai là parabol thì có thể có giao điểm ở vô cực. Trường hợp đường thẳng là tiếp tuyến thì hai giao điểm này trùng nhau đó là tiếp điểm chung duy nhất..
Tương tự, hai đường cong bậc hai trong cùng mặt phẳng sẽ có tối đa với nhau 2 x 2 = 4 giao điểm và các giao điểm này có thể ở vô cực hay chúng trùng nhau tạo thành các tiếp điểm. |
Trong giải tích phức, định lý de Branges là một định lý toán học mô tả các điều kiện cần để một hàm là một ánh xạ đơn ánh từ đĩa đơn vị lên mặt phẳng phức.
Định lý này được đặt tên theo Louis de Branges, người đã chứng minh nó vào năm 1985. Trước khi được chứng minh, định lý mới được phát biểu ở dạng giả định, gọi là giả định Bieberbach, theo tên của Ludwig Bieberbach, người phát biểu nó vào năm 1916 trong một buổi lễ. Sau năm 1985, nhiều người khác cũng đã đơn giản hóa cách chứng minh định lý này. Trong suốt thời gian chưa được chứng minh, đây đã từng là một bài toán khó trong ngành giải tích phức.
Phát biểu
Nếu hàm f trên một đĩa đơn vị của mặt phẳng phức thỏa mãn các điều kiện sau:
Hàm f là chỉnh hình
Hàm f là hàm 1-1
Tồn tại chuỗi lũy thừa bên trong của dĩa thì các hệ số an sẽ thỏa mãn điều kiện với mọi n.
Ở đây:
Một hàm phức f gọi là chỉnh hình nếu nó khả vi.
Một hàm f gọi là 1-1 hay đơn ánh nếu |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.