text
stringlengths
0
512k
7-Zip là một trình lưu trữ tập tin chủ yếu dùng cho hệ điều hành Windows. Nó có thể hoạt động bằng dòng lệnh hoặc với giao diện đồ họa người dùng. Nó cũng có tính năng tích hợp cùng môi trường Windows. 7-Zip là phần mềm miễn phí, phát triển bởi Igor Pavlov và phân phối dưới giấy phép nguồn mở của GNU. Nó là đối thủ nặng ký cho các phần mềm thương mại như WinZip và WinRAR (cả hai đều là phần mềm nguồn đóng). 7-Zip có phiên bản 64-bit dành cho bản Windows XP Professional x64. Dưới cái tên p7zip, 7-Zip đã được mang sang sử dụng trên hệ thống họ Unix như Linux và FreeBSD. Dự án được bắt đầu năm 2000. 7-ZIP hỗ trợ giao diện đa ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt. Định dạng nén 7z 7-Zip hỗ trợ nhiều định dạng lưu trữ, mặc định là định dạng 7z. Mặc định, nhiều chương trình có thể tạo dạng lưu trữ 7z, với phần mở rộng .7z, dùng giải thuật LZMA để nén. Định dạng khá mới này cho phép lưu trữ tập tin với hệ số nén rất cao, có thể so sánh với định dạng nén mạnh phổ biến như RAR (dựa trên một giải thuật nén riêng). Tập tin 7z có kiểu MIME là application/x-7z-compressed. Các định dạng và giải thuật khác 7-Zip hỗ trợ nhiều định dạng lưu trữ nén (và cả không nén). Những định dạng hỗ trợ gồm ZIP, tập tin Microsoft cabinet (CAB), RAR, ARJ, gzip, bzip2, LZH, tar, CPIO, rpm và dạng lưu trữ Debian deb. Vì lý do pháp lý, định dạng ACE không còn được hỗ trợ. Đối với tập tin ZIP và gzip, 7-Zip dùng một bản sửa đổi của giải thuật DEFLATE để có tỷ lệ nén cao hơn trong cùng một thời gian. Bản sửa đổi này cũng được dùng trong công cụ AdvanceCOMP. Định dạng file 7z nguyên thủy là mở, kiến trúc dạng modul cho phép chứa tập tin được nén bằng các giải thuật khác nhau. Tên tập tin được lưu bằng Unicode. Chú ý: Về định dạng nén, chưa cho phép nén với đuôi LZH ở phiên bản 4.65 năm 2009. Tính năng 7-Zip hỗ trợ nhiều tính năng có thể không có trong các chương trình nén thương mại thông dụng. Đối với định dạng tập tin 7z, 7-Zip hỗ trợ mã hóa theo chuẩn mã hóa tiên tiến 256-bit (tiếng Anh: Advanced Encryption Standard) cả tập tin và cấu trúc thư mục, ngăn người dùng không có mật khẩu xem nội dung được lưu trữ. 7-Zip hỗ trợ chia khối (tiếng Anh: volume) kích thước tập tin động, tiện dụng để sao lưu dữ liệu vào các thiết bị lưu trữ ngoài như CD và DVD. Trong chế độ 2 cửa sổ, 7-Zip giống như trình quản lý tập tin chính thống. Phiên bản đặc biệt 64-bit hỗ trợ ánh xạ bộ nhớ lớn để nén nhanh hơn. Cho phép tạo lưu trữ đông đặc (solid archive) để có tỉ lệ nén cao hơn (khó sửa đổi tập tin nén hơn). Có thể giải nén để xem nhanh 1 tập tin trong solid archive thay vì giải nén toàn bộ như các chương trình khác. Nén Hiện tại 7-zip có thể nén tệp tin theo 3 định dạng là zip, 7z, và tar. Tốc độ nén của 7-zip kém hơn WinRAR và khi nén chương trình này sử dụng nhiều RAM máy tính hơn. Tuy nhiên tỉ lệ nén đạt cao hơn WinRAR. Giải nén Tốc độ giải nén của 7-zip ở mức cao và tiêu thụ ít RAM máy tính. 7-zip có thẻ giải nén nhiều định dạng như zip, 7z, rar, arj, bz2, bzip2, cab, cpio, deb, dmg, fat, gz, gzip, hfs, iso, lha, lzh, lzma, ntfs, rpm, swm, tar, taz, tbz, tbz2, tgz, tpz, vhd, wim, xar, xz (Các định dạng trên nằm trong 7-zip phiên bản 9.07 beta)
Romy Schneider (23 tháng 9 năm 1938 tại Viên – 28 tháng 5 năm 1982 tại Paris) là diễn viên người Áo nổi tiếng ở thế kỷ 20. Tên thật của bà là Rosemarie Magdalena Albach-Retty, còn Romy Schneider là nghệ danh do mẹ bà - Magda Schneider - đặt cho. Romy Schneider được sinh ra tại thủ đô Viên của nước Áo trong một gia đình có nhiều người làm diễn viên từ bà nội (Rosa Albach-Retty), bố (Wolf Albach-Retty) và mẹ. Trong đó, mẹ của bà trở nên khá nổi tiếng trong những năm 1933 – 1945. Bố mẹ của Romy Schneider li dị năm 1945. Năm 1949, Romy Schneider bắt đầu học ở trường dòng. Đến năm 15 tuổi (1953), bà chuyển sang học ở trường Nghệ thuật Köln và may mắn nhận được một vai diễn trong bộ phim Wenn der weiße Flieder wieder blüht (Khi đóa hoa trắng nở thêm lần nữa) sau lời để cử của mẹ bà (cũng tham gia bộ phim này). Sau đó, bà liên tục nhận được các vai diễn trong các phim của đạo diễn Ernst Marischka như Mädchenjahre einer Königin (1954 - kể về quá trình lên ngôi của nữ hoàng Anh Victoria); Die Deutschmeister (1955); loạt phim Sissi gồm: Sissi (1955), Sissi - Die junge Kaiserin (1956) và Sissi - Schicksalsjahre einer Kaiserin (1957). Điều đặc biệt là mẹ của Romy Schneider - bà Magda Schneider - đều tham gia trong cả bốn phim này, trong đó bà đóng vai mẹ của Sissi (vai do Romy Schneider đóng) ở cả ba bộ phim về Sissi. Đến bộ phim thứ 4 về Hoàng hậu Sissi, Romy Schneider đã từ chối và đã tuyên bố là bà đã chán vai trò đó. Romy Schneider còn có các nghệ danh khác như Romy Albach-Retty, Rosemarie Magdalena Schneider, Romy Schneider-Albach... Các phim tiêu biểu
Michael Graves (9 tháng 7 năm 1934 – 12 tháng 3 năm 2015) là một kiến trúc sư Hậu Hiện đại người Mỹ. Là một trong 5 thành viên của nhóm The New York Five, Graves còn nổi tiếng với các thiết kế đồ nội thất gia đình bán tại hệ thống cửa hàng Target ở Mỹ. Michael Graves được sinh ra tại Indianapolis, Indiana. Ông theo học kiến trúc tại Đại học Cincinnati và thạc sĩ tại Đại học Harvard. Năm 1964, Graves bắt đầu hành nghề tư nhân tại Princeton, New Jersey. Ông đứng đầu hãng thiết kế Micheal Graves và cộng sự có văn phòng tại Princeton và New York. Ông còn là giáo sư danh dự của Đại học Princeton. Các công trình của ông rất đa dạng, từ trung tâm thương mại đến các nhà ở và thiết kế nội thất. Năm 1999, Graves được nhận giải thưởng Nghệ thuật quốc gia và năm 2001 là Huy chương vàng AIA của Hiệp hội kiến trúc sư Mỹ. Từ năm 2003, Graves bị liệt hai chân vì một nguyên nhân không xác định. Hiện nay, ông vẫn hoạt động nghề nghiệp, chỉ đạo thiết kế một loạt các công trình, trong số đó có mở rộng Học viện Nghệ thuật Detroit. Các công trình nổi tiếng Tòa nhà Alexander, Princeton, New Jersey, 1971 – 1973 Nhà Crooks, Fort Wayne, Indiana, 1976 Nhà Hanselmann, Fort Wayne, Indiana, 1967 Tòa nhà dịch vụ công quyền Portland, Portland, Oregon, 1980 Thư viện Offentligt, San Juan Capistrano, California, 1981 – 1983 Tòa nhà Humana, Louisville, Kentucky, 1982 Ten Peachtree Place, Atlanta, Georgia, 1990 Khu nghỉ mát Swan và Dolphin, Walt Disney World, Orlando, Florida, 1990 Tòa nhà Team Disney, Burbank, California, 1991 Bảo tàng Michael C. Carlos Museum, Đại học Emory, Atlanta, Georgia, 1993 1500 Ocean Drive, South Beach, Florida, 1993 Trung tâm nghiên cứu Kỹ nghệ, Đại học Cincinnati, Cincinnati, 1994 – 1995 Giảng đường Bryan, Đại học Virginia, Charlottesville, Virginia, 1995 Thư viện công cộng Denver, Denver, 1996 Trung tâm Nghệ thuật Indianapolis, Indianapolis, Indiana, 1996 Trường trung học Martel, Đại học Rice, Houston, Texas, 2002 Bảo tàng lịch sử quốc gia , Đài Trung, Đài Loan, 2002 Phần mở rộng của Học viện Nghệ thuật Minneapolis, Minneapolis, Minnesota, 2006 Giảng đường Alter, Trường doanh nghiệp Fox, Đại học Temple, Philadelphia, Pennsylvania, 2006
Ricardo Legorreta (17 tháng 5 năm 1931 – 30 tháng 12 năm 2011) sinh ra ở México, ông tốt nghiệp kiến trúc sư tại Đại học Tự trị Quốc gia Mexico (tiếng Tây Ban Nha: Universidad Nacional Autonoma) năm 1953. Sau khi tốt nghiệp, ông cộng tác với Jose Villagran Garcia ở thủ đô Mexico. Năm 1960, Legorreta tách ra làm riêng và năm 1964 ông đứng đầu hãng thiết kế kiến trúc Legorreta (Legorreta Arquitectos), Thành phố Mexico và văn phòng tại Mỹ Kể từ năm 1969, Legorreta là một trong những giảng viên thỉnh giảng quan trọng nhất ở các trường đại học của Mexico. Hiện nay, Legorreta là giáo sư tại Đại học Tự trị Quốc gia Mexico, Đại học Iberoamericana, Đại học Harvard, Đại học California tại Los Angeles (UCLA) và nhiều đại học khác trên thế giới. Ông đã nhận được Huy chương vàng AIA năm 2000. Công trình nổi tiếng Khách sạn Camino Real Mexico, 1968, (Col. Azures, thành phố México, México) Casa Montalbán, 1985 (Hollywood, California, Mỹ) Bảo tàng nghệ thuật đương đại Monterrey, (Monterrey, Mexico) Chợ Tustin, 1988 (Tustin, California, Mỹ) Quảng trường Pershing, 1994 (Los Angeles, California, Mỹ) Nhà thờ, 1994 (Managua, Nicaragua) Bảo tàng sáng chế kỹ thuật, 1998 (San Jose, California, Mỹ) Khu chung cu Max Palevsky, 2001 (Chicago, Illinois, Mỹ) Thư viện San Antonio, Texas Sách tham khảo Mutlow, J, Legorreta, Rizzoli, New york, 1997 Legorreta, R, Legorreta + Legorreta, Rizzoli, 2004
RPG-7 là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân, còn được gọi tại Việt Nam là B41. Gọi là B41 vì loại súng này là đời sau của B40 (hay bazooka 40 mm), dù cho nó vẫn có đường kính là 40 mm. Trong tiếng Nga súng này có tên là ручной противотанковый гранатомёт, viết tắt là RPG-7 (РПГ-7), có nghĩa là "súng phóng lựu chống tăng xách tay" (nhưng một số người lại cho đó là viết tắt của реактивный противотанковый гранатомёт, tức "súng phóng lựu chống tăng phản lực"). Thuật ngữ quân sự trong tiếng Anh là anti tank rocket launcher (có nghĩa là "súng phóng tên lửa chống tăng"), tuy nhiên, B40 dùng kỹ thuật tên lửa rất ít, chỉ đến B41 thì kỹ thuật này mới đóng vai trò lớn trong đẩy đạn. Ra đời RPG-7 được thiết kế năm 1958, nó lần đầu được sử dụng trong thực chiến tại Chiến tranh Việt Nam từ năm 1967. Cuối thập niên 1960, phiên bản cải tiến được Liên Xô chế tạo, gọi là RPG-7V. So với phiên bản đầu tiên, RPG-7V có ống ngắm quang học được nâng cấp với tên gọi là PGO-7V. RPG-7V ban đầu trang bị cho tổ chiến đấu AT-3 của Liên Xô. Dễ chế tạo, uy lực mạnh và độ tin cậy cao, suốt thời thập niên 1960 tới nay, RPG-7 vẫn là khẩu súng chống tăng cá nhân thành công nhất trên thế giới. Các loại đạn mới liên tục được tạo ra dành cho RPG-7. Phiên bản đạn đầu tiên là PG-7V chế tạo năm 1961, nặng 2,2 kg sức xuyên 260mm thép RHA. Loại đạn cải tiến là PG-7VM được chế tạo năm 1969, nặng 2 kg xuyên được 300mm thép RHA. PG-7M có hình dạng thon hơn (đường kính 70mm so với 85mm của PG-7V), động cơ rôc-ket và liều phóng được cải tiến đã làm giảm 1,5 lần hiện tượng lệch gió, độ chính xác cũng được cải thiện 20-25% so với đạn PG-7V Đạn PG-7VL được phát triển vào những năm 1970 để đáp trả việc NATO gia cố lớp giáp bảo vệ xe tăng, loại đạn này nặng 2,6 kg xuyên được 500mm thép RHA, nhưng do trọng lượng đạn tăng nên tầm ngắm giảm từ 500 xuống còn 300 mét. Đối với xe tăng hiện đại có giáp phản ứng nổ, Liên Xô đã phát triển loại đạn 2 tầng PG-7VR vào những năm 1980. PG-7VR có hai “đầu đạn”: 64mm và 105mm, đầu đạn thứ nhất phát nổ để phá các khối giáp phản ứng nổ, đầu đạn thứ 2 sẽ xuyên vào giáp chính của xe tăng. PG-7VR xuyên được 750mm thép RHA (nếu không có giáp phản ứng nổ) hoặc 600mm RHA (nếu có giáp phản ứng nổ). Tuy nhiên, trọng lượng đạn tăng lên 4,5 kg, tầm ngắm của đạn chỉ còn được 200 mét. Súng có thể bắn nhiều lần. Trung bình mỗi khẩu RPG-7 đời đầu có thể bắn được 250 phát trước khi phải thay nòng (do nòng bị mòn khiến độ chính xác giảm đi). Các phiên bản mới hơn thì có tuổi thọ nòng được nâng cao hơn, các phiên bản mới nhất như RPG-7V2 có độ bền đạt tới 1.000 phát bắn (do tiến bộ về công nghệ luyện kim). Uy lực Đạn PG-7 của súng có thể bắn xuyên tấm thép dày 260mm (theo cách tính của Liên Xô) hoặc 300mm (theo cách tính của Mỹ). Cho đến cuối thập niên 1970 thì không một xe tăng nào của NATO có vỏ giáp chống lại được nó, kể cả các xe tăng hạng nặng. Ở thập niên 1960, loại xe tăng duy nhất có một vài điểm chống đỡ được RPG-7 là các xe tăng hạng nặng IS-3 đến IS-10 của Liên Xô, sau này hậu duệ của chúng là xe tăng chiến đấu chủ lực T-64. Cuộc chiến đầu tiên mà RPG-7 xuất hiện với quy mô lớn là chiến tranh Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1967, các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu sử dụng B-41 trong chiến đấu và chúng phát huy hiệu quả rất tốt. So với súng RPG-2 (Việt Nam gọi là B-40) thì B-41 có tầm bắn và sức xuyên phá đều cao hơn gần gấp đôi, xe tăng chủ lực M48 Patton của Mỹ có giáp trước chịu được đạn B-40, nhưng không thể chịu được đạn B-41. Tuy nhiên do số súng B-41 không đủ để thay thế hết B-40 nên cho tới hết chiến tranh thì quân đội Việt Nam vẫn dùng song song cả 2 loại súng. Đã có vài nghìn xe tăng - thiết giáp, hàng vạn xe cơ giới các loại của Mỹ bị phá huỷ trong cuộc chiến, một tỷ lệ lớn là do súng chống tăng B-40 và B-41. Các xe tăng phổ biến của Mỹ thập niên 2000 như M1 Abrams đỡ được đạn B41 thường (PG-7V) ở trên mặt trước (là nơi giáp dày nhất), nhưng chưa chắc chịu được đạn hạng nặng PG-7VR cỡ 105mm. Còn hai sườn và phía sau thì đạn B41 đời cũ cũng làm thủng. Trước đây, Đức thiết kế cho Mỹ xe MBT-70 khá tốt, với các thiết bị bố trí khéo léo thành giáp hộp chống đỡ B-41 khá hiệu quả. Nhưng giá thành đắt và Mỹ thiết kế lại thành M1, thay giáp đúc bằng giáp hàn và bỏ các giáp hộp phụ đi. Phần chống đỡ B41 khá tốt của M1 là xích với giáp diềm dày 70mm. Tuy nhiên khi bị B41 bắn trúng xích, mặc dù xe không bị cháy ngay nhưng xích sẽ đứt, xe sẽ phải đứng yên và rất dễ bị bắn tiếp. Leopard-2 các phiên bản A4 trở lên đều có các tấm giáp phức hợp phía trước rất tốt, xe tăng T-64, T-72, T-80, T-90 còn được trang bị giáp phản ứng nổ (ERA) để vô hiệu hóa đạn B-41. Tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm sơ hở mà B-41 có thể công phá, ví dụ hai sườn sau tháp pháo, sau xe... Giáp phức hợp được thiết kế cho xe tăng Liên Xô từ T-64, nó gồm nhiều lớp thép, ở giữa điền đầy khoảng trống bằng vật liệu composite đặc biệt, sợi thủy tinh và thép. Nhờ vậy, T-64 chỉ nặng 37 tấn nhưng khả năng bảo vệ lại gần gấp đôi xe tăng M48 Patton nặng 49 tấn. T-72 cũng có các góc nghiêng tốt, giáp dày... và sau này lắp thêm các phương tiện khác như ERA, APS nên chống đỡ đạn B-41 tốt. Kết quả được thể hiện rõ trong các chiến tranh Afghan và Chechnya, rất ít xe thế hệ T-72 hoặc T-80 cháy, kể cả khi quân Chechnya bắn cấp tập. Trong chiến tranh Chechnya lần thứ nhất, quân Nga thua rút lui, thiệt hại 62 xe tăng các loại, nhưng chỉ một chiếc T-80 có ERA bị bắn hỏng khi trúng liên tiếp nhiều quả đạn, làm bong hết ERA. Để chống lại xe tăng hiện đại có trang bị ERA, B-41 cũng có những phiên bản đạn hạng nặng 105mm tăng sức xuyên (đạn PG-7VR mang đầu nổ nối tiếp để phá giáp ERA, sức xuyên đạt tới 750mm thép), nhưng bù lại tầm bắn hiệu quả tụt xuống do đạn nặng hơn. Ở cự ly xa, đạn B-41 bị lệch gió khá lớn. Một nghiên cứu của Trung tâm Đào tạo và Học thuyết chỉ huy quân sự của Quân đội Mĩ (TRADOC) vào năm 1975 đã cho thấy, ở cự li 500m và có gió thổi ngang, khi bắn vào một bảng có kích thước 2,28 x 4,57 m bằng súng RPG-7 có xác suất trúng chỉ khoảng 4%, ở cự ly 200 mét thì xác suất trúng đích là 49%. Do đó, để đảm bảo xác suất trúng đích cao thì xạ thủ cần có kinh nghiệm ước lượng độ lệch gió hoặc tiếp cận càng gần mục tiêu càng tốt. Một số cách biên chế B41 Xe BMP-1 có các ổ bắn trên nóc như là công sự, sử dụng B41 và đạn tự hành chống máy bay vác vai. Một tiểu đội bộ binh cơ giới đi xe Liên Xô có một khẩu, đi xe bọc thép thì không cố định, có thể có đến 3 khẩu trên xe nhưng mỗi lính vẫn có một khẩu AK hay RPK. Thông thường B41 được lính Liên Xô dùng như súng trung đội. Mỗi tiểu đội bộ binh Liên Xô có 9 người, nếu cơ giới thì có thể có đến 11 người. Liên Xô và các nước Đông Âu trong huấn luyện còn có kiểu tổ chức tổ 3 người, mỗi người mang một AK, một người mang thêm đạn cho B41 và một người mang thêm một súng, tạo thành tổ săn tăng. Mỗi tiểu đội bộ binh Việt Nam thông thường mang ba súng mạnh, gồm trung liên và B41. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, tiểu đội Iran 11 người mang 2 B41. Trong Chiến tranh Afghanistan, tiểu đội Mujahideen 10-12 người mang 1 khẩu (năm 1983) và tăng lên 2-3 khẩu (năm 1987). Trong Chiến tranh Việt Nam có những trận đánh với tổ 3 người mang 2 khẩu B41 và AK-47, bám sát đội hình xe địch, có những trận đánh cả tiểu đoàn biên chế như vậy, tạo thành hỏa lực chống tăng đáng sợ. Mujahideen thành lập những trung đội B41 mang đến 15 khẩu (từ 50% đến 80% lính mang B41), tạo thành đội săn tăng. Việt Nam Trang bị thông thường nhất của B41 là tổ chiến đấu 2 người. Tổ chiến đấu B41 2 người này mang mỗi người một ba lô đạn B41 ba viên và ba liều phóng, xạ thủ chính mang B41, xạ thủ phụ mang AK. Tộng cộng tổ mang được 6 viên B41, xạ thủ phụ cảnh giới cho xạ thủ chính diệt tăng, luôn đi bên cạnh, khi chiến đấu ở bên trái ngang xạ thủ. Ở Việt Nam, tổ này nằm trong tiểu đội, cùng với tiểu đội trưởng tạo thành tổ 3 người hỏa lực mạnh. Trong các trận đánh tiến công lớn, có thể tổ chức như Liên Xô, dồn trung liên và B41 về thành một tổ do trung đội trưởng chỉ huy. Xạ thủ phụ còn có nhiệm vụ giúp xạ thủ nạp đạn, tăng tốc độ bắn đến 6 phát phút. Trung Quốc Quân đội Trung Quốc thập niên 1960-1970 tổ chức những tiểu đội đặc biệt có hỏa lực chống tăng mạnh. Tiểu đội kiểu này có tổ hỏa lực 3 người dùng 3 khẩu Type-69-1 (tiểu đội thông thường chỉ có 1 khẩu), mang 12 đạn. Biên chế tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 Malyutka Ngoài bộ binh, súng là một bộ phận của tổ chiến đấu dùng đạn tự hành chống tăng có điều khiển "Bé con" 9M14 Malyutka "Малютка" (tên phương Tây AT-3 Sagger, tên Việt Nam là B-72). Loại đạn tự hành này không thể chiến đấu ở tầm gần hơn 500 mét, nên B-41 sẽ bù vào đó. Tổ chiến đấu "Bé Con" tạo ra một cuộc cách mạng trong kỹ thuật quân sự, đưa tầm tiêu diệt thiết giáp hạng nặng của bộ binh đi bộ vượt qua xe tăng. Lần đầu tiên tổ chiến dấu "Bé Con" áp dụng ở Việt Nam năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đồn là quân Giải phóng có đạn biết ngửi (xem Trận Đắk Tô - Tân Cảnh, 1972). Tháng 10 năm 1973, B-41 và B-72 thực hiện một trận thắng trên bán đảo Sinai, diệt 800 xe Israel (gần như toàn bộ), bắt sống chỉ huy xe tăng Israel (xem Trận Sinai tháng 10-1973) Sản xuất và độ phổ biến B-41 là súng RPG phổ biến nhất thế giới, có ít nhất 50 nước sử dụng cho quân đội chính quy, chưa kể hàng trăm nhóm du kích, lực lượng vũ trang ở các nước khác. Nó có mặt trong hầu hết những cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1967 tới nay. B41 cùng với B40, ĐKZ 82 mm và ĐKZ 75 mm tạo thành nhóm súng diệt nhiều xe cơ giới nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bất chấp việc đã ra đời từ rất lâu, mẫu súng phóng lựu này vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong lĩnh vực vũ khí chống tăng. RPG-7 vẫn được sử dụng rộng rãi trong các cuộc xung đột khu vực nhờ giá thành rẻ, dễ sử dụng và uy lực cao. Có hơn 9 triệu khẩu RPG-7 đã được chế tạo. Cùng với thiết kế súng AK-47, RPG-7 là một trong những vũ khí cá nhân phổ biến nhất thế giới kể từ thập niên 1960 tới tận giữa thế kỷ 21. Trong suốt hơn 80 năm, nó là trang bị tiêu chuẩn của quân đội hàng chục quốc gia, chưa kể hàng nghìn nhóm vũ trang, phiến quân, du kích... cũng ưa chuộng loại súng này Súng này được rất nhiều nước sản xuất, kể cả có được phép bản quyền hay không. Kể cả những nước không thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa như Pakistan, Iran, Iraq. B41 cũng có nhiều phiên bản giống hệt nhưng khác tên, cải tiến khác chút ít. Type-69 của Trung Quốc không là B41 nhưng vẫn bị nhầm là B41. B41 do Việt Nam sản xuất có tên B41 GIẢI PHÓNG, vẫn còn trưng bầy ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tại Hà Nội. Cấu tạo súng B41 sử dụng nguyên lý phóng khí động cân bằng, hoàn toàn khác phương pháp phóng của B40. Đầu đạn của B41 cũng có những cải tiến khác xa B40. Phương pháp khí động là phương pháp dùng các tuye thay đổi tốc độ áp suất dòng khí. B41 có đường kính trong 40 mm, cỡ đạn to hơn cỡ nòng, đạn chỉ nhồi chuôi vào nòng súng. Giữa thân súng phình to ra thành một buồng rộng, đây là buồng đốt, chứa liều phóng, Việc tạo thành buồng đốt này sẽ đẩy súng về phía trước, nhưng lực này được cân bằng bởi lỗ thoát khí và tuye sau. Chỗ phình ra của nòng có ốp lót gỗ dán (về sau thay bằng nhựa tổng hợp) chống nóng vai xạ thủ. Súng có hai tay cầm, với người thuận bên phải thì tay phải đặt trước, trái sau. Súng có kim hỏa, cò bấm giống B40. Cũng có lò xo đẩy kim hỏa về không cản trở đạn di chuyển. Cấu tạo của B41 làm cho áp suất không tăng quá nhanh như B40. Khi áp suất cao, cấu tạo tuye xoáy trong nòng của đạn làm áp suất đồng đều và giảm chậm. Tuye sau súng làm giảm chiều dài súng. Nhờ áp suất tăng chậm nên dùng được liều phóng thuốc súng không khói, có năng lực mạnh hơn thuốc nổ đen của B40, nhồi cũng nhiều hơn. Nhờ cấu tạo này, sơ tốc đạn lớn nhưng tiếng nổ trầm do áp suất tăng giảm chậm. Tuy trầm, nhưng chấn động tiếng nổ đầu nòng rất mạnh và nguy hiểm. B41 dài 953 mm khi không đạn và 1,340 mét với đạn RPG-7. Súng ban đầu nặng 7,9 kg, đạn PG-7 nặng 2,25 kg. RPG-7D là phiên bản gọn nhẹ cho lính đổ bộ đường không, súng có nòng sau (phần có tuye sau) tháo ra được lắp vào bộ gá dưới buồng đốt, khi sử dụng cắm vào phần còn lại. Các khẩu RPG-7 hiện đại thì nhẹ hơn (dù thiết kế không thay đổi) do vật liệu chế tạo được cải tiến. Kính ngắm, thước ngắm Súng có kính ngắm PGO-7, kính ngắm PGO-7V1 có thêm vạch chia cho đạn hạng nặng, kính nhìn đêm, phóng to 2,7 lần. Kính ngắm thường (không nhìn đêm) có một đèn nhỏ chiếu sáng thước ngắm quang trong kính, thước ngắm này kẻ ô chia dộ tỷ mỉ cao và rộng, thuận lợi khi tính toán bắn mục tiêu di động, bù gió, bù cao độ, bù tầm..., các vạch chia này cũng thuận lợi cho bắn viên thứ 2, căn cứ vào độ lệch viên trước. Trên lưới chia độ còn một thước đo độ xa dùng rất thuận tiện. Thước này xác định độ xa của xe tăng thông qua chiều cao ảnh của xe. Thước này dùng kiểu xe tăng có chiều cao 2,7 mét làm chuẩn (mẫu xe tăng Đức, phổ biến ở phương Tây). Kiểu 69-1 của Trung Quốc bổ sung một thước ngắm dùng độ cao của xe do Nga sản xuất làm chuẩn. Tầm xa ghi trên thước là 500 mét, sau cải tiến lên 600 mét. Máy ngắm quang học của RPG-7 đặt trong một túi vải bạt, khi dùng lắp vào trên súng. Các thiết bị ngắm đêm đã sản xuất có NSP-3, NSP-2(tia hồng ngoại), NSPU, PGN-1(II), IPN58 (II). Từ kính RPG-7V trở đi, các thiết bị này kiêm thêm cả chức năng đo xa và tăng khả năng nhìn đêm. Kính nhìn đêm lớn PNG-1 trang bị cho quân Ả Rập cho phép nhìn xa tới hơn 400 mét. Súng cũng có một bộ thước ngắm-đầu ruồi kim loại gập xuống được như của B40, do tầm xa cần chính xác hơn nên thước này làm vững chắc, không mỏng manh như của B40. Đầu ngắm có 2 chế độ: bắn ở nhiệt độ trên và dưới 0 độ c. Thước ngắm di chuyển được dọc thang, chứ không làm cố định như B40. Đạn Một vài loại đạn Súng ban đầu bắn đạn PG-7, sau đó Liên Xô/Nga chế tạo các loại đạn khác như PG-7V, PG-7VM, PG-7VL, PG-7VR là các đạn xuyên phá vỏ thép chống tăng (HEAT). Đạn TBG-7V là đạn nhiệt áp chống lô cốt, công trình. Đạn OG-7, OG-7A là đạn nổ phá - văng mảnh để sát thương bộ binh (APER, nhưng phương Tây thường cho là đạn HE. APER là đạn nhồi một ít thuốc nổ mạnh, chủ yếu khối lượng là mảnh sát thương, còn HE là đạn nhiều thuốc nổ để phá công trình). Ngoài ra còn có nhiều loại đạn khác do các nước khác tự chế tạo. Đạn chuyển động trong nòng Đạn PG-7 bắn ra khỏi đầu nòng với sơ tốc 115 m/s, đạn gồm 2 phần, liều phóng và đầu đạn. Cũng như B40, liều phóng được lắp vào đầu đạn trước khi lắp đạn vào súng. Đạn có 4 cánh gập ngược lên phía trước chứ không cuộn quanh thân đạn như B40, khi bắn ra khỏi nòng các cánh này xòe ra. Liều phóng có một lõi cứng, đằng sau lõi này là một turbine xoắn, điều này làm đạn xoáy rất mạnh ngay từ trong nòng súng. Sơ tốc (cả xoáy và chuyển động thẳng) của đạn làm súng có độ chính xác cao, thuận tiện cho nhiệm vụ bắn mục tiêu di động. Thực ra, các súng không giật có thể có tầm rất xa (như các đạn M-13 của BM-13 Katyusha). Nhưng để chống tăng chỉ cần độ chính xác, điều này hạn chế tầm bắn hiệu quả, giảm rất nhiều so với tầm bắn tối đa. Đạn khi bay Sau khi ra khỏi nòng 11 mét, động cơ tên lửa hoạt động, đẩy đạn PG-7 lên đến vận tốc 295 m/s. Đến 900 mét, đạn tự hủy bằng ngòi cháy chậm, nếu ngòi này không làm việc, đạn bay đến 1100 mét. Động cơ tên lửa khởi động chậm tránh xạ thủ dính vào luồng phụt. Tên lửa của đạn có một vị trí đặc biệt, tạo hiệu quả lớn. Tên lửa nằm trên chuôi đạn, nhưng khí cháy lộn lên trước rồi lại lộn về qua 6 tuye ở cổ đạn, cách bố trí này làm áp suất thay đổi nhiều lần, tuye ngắn nhưng hiệu quả như tuye dài, diện tích miệng tuye lớn. Cánh đuôi và tuye đều đặt nghiêng thích hợp với đạn xoay. Chính tên lửa đẩy mạnh đã làm RPG-7 khác hẳn các đời trước. Liều phóng và tên lửa đẩy đều làm bằng hỗn hợp thành phần chính thuốc súng không khói. Khi bắn, súng có một chút ít khói xanh, hầu như không thể phát hiện ban ngày, không như B40 dùng thuốc nổ đen nhiều khói. Đạn PG-7V có sơ tốc đầu nòng 127 m/s, đạn PG-7VM có sơ tốc 140 m/s. Đạn PG-7 có tầm hiệu quả 250 mét, các đạn PG-7VM có tầm bắn hiệu quả với mục tiêu di động 350 mét, mục tiêu cố định 500 mét. Đạn hạng nặng PG-7VR tầm hiệu quả 200 mét. Khi tầm quá 200 mét, tốc độ gió trên 20 km/h, đạn bị ảnh hưởng khá nhiều bởi sức gió. Người bắn sử dụng thước ngắm chia vạch để xác định độ lệch phát bắn, điều đó đòi hỏi được huấn luyện kỹ càng. Đạn lệch về phía đầu nguồn gió. Hình bên thể hiện đồ thị thời gian bay của đầu đạn, tốc độ cao và nặng như viên đạn đại bác nhỏ, đảm bảo bắn chính xác ở xa. Đầu nổ lõm Đầu nổ của các đạn xuyên PG-7, PG-7V, PG-7VM, PG7VR dùng thuốc nổ mạnh, nhưng cơ chế nổ lõm gần giống B40, là góc mở rộng có lót tấm tích năng lượng. Liều nổ của B41 có góc mở hẹp hơn của B40. Liều này được điểm hỏa chính xác bằng ngòi nổ điện, đầu viên đạn có bộ phận sinh điện, bộ phận này kích ngòi nổ điện nằm ở cổ đạn, sức nổ dược trạm truyền nổ truyền đến thuốc nổ chính. Phía sau liều nổ lõm có tấm chắn sức nổ, tạo thuận lợi cho việc làm dài liều nổ, sức xuyên mạnh hơn, tập trung về phía trước, ít bị ảnh hưởng của góc chạm hơn. Đạn PG-7VR hai tầng, tầng đầu công phá ERA, tầng tiếp theo phá giáp chính. Đây là đạn hiện đại hóa chống giáp hiện đại. Đạn có mũ chụp rất vững, mũ này có những cạnh thép sắc, giúp đạn di qua những vật cản như lưới thép, bao cát, tường mềm trước khi va vào giáp cứng. Kiểu liều nổ lõm cũng được cải tiến lớn. Đạn có thêm phía trong mũ chụp một vách dẫn luồng có hình dạng đặc biệt (xem ảnh), dẫn luồng này làm luồng đạn hội tụ trong điểm rất nhỏ, tăng khả năng xuyên. Ống chụm này cùng chụp tạo thành mũ rất chắc. Sức xuyên của PG-7V khoảng 270mm thép cán theo cách tính Nga, nhưng các tài liệu phương Tây thường ghi 330mm hoặc 350mm theo phương pháp thử nghiệm của họ (phương Tây lấy góc chạm đứng, người Nga gọi đó là khả năng xuyên lớn nhất). Đạn PG-7VL xuyên 500mm, các đạn PG-7VR hai tầng xuyên 600mm vượt qua giáp phản ứng nổ ERA chỉ bằng một phát bắn. Ngòi và truyền nổ Khi mũ chụp bị phá hủy, điện phát sinh kích nổ đạn rất chính xác. Đây là phương án hết sức ưu việt nếu so với các vũ khí cùng chức năng khác truyền nổ bằng dây truyền nổ, trạm truyền nổ, thanh truyền lực kích nổ, đạn (một viên đạn bắn từ ngòi vào kích nổ chính)... xuất phát từ kim hỏa-hạt nổ. Thời điểm điểm nổ chính xác của ngòi dùng tinh thể áp điện đến một phần vạn giây, so với các ngòi dùng kim hỏa-hạt nổ chỉ một phần vài chục giây. Nhờ thế, khoảng cách phát nổ của B41 đạt chính xác tới cỡ vài cm. Chính ngòi nổ điện này cùng các đặc điểm khác làm đạn B41 có xác suất diệt mục tiêu cao, không phụ thuộc vào các điều kiện dễ gặp như lưới B40, bao cát, rất ít phụ thuộc vào góc chạm. Trạm truyền nổ của B41 thừa kế kỹ thuật của B40. Phản ứng nổ bắn đầu từ tâm một chữ U, truyền qua cạnh chữ U này vào giữa cạnh V của đầu lõm, nhờ đó toàn bộ đầu lõm phát nổ đồng đều. Hàng chục năm sau người Đức mới chế tạo các Panzerfaust có trạm truyền nổ tương tự, vào thập niên 199x, khi Liên Xô sụp đổ và kỹ thuật thất thoát. PUS-7 (ПУС-7) là đạn huấn luyện. Cách bắn Súng có thể đứng bắn, nằm bắn, quỳ bắn. Khi bắn, xạ thủ phải tránh hình chóp góc 30 độ sau súng. Không có tường cản trong vòng 2 mét sau súng. Có thể bắn trong phòng vài trăm mét khối. Trước khi bắn, xạ thủ phải xác định hướng gió và tốc độ gió, hướng di chuyển và tốc độ mục tiêu. Sau đó thực hiện đo xa, nếu mục tiêu đủ gần thì không cần bù gió. Bù gió và bù tốc độ mục tiêu. Bắn nhưng giữ nguyên súng, quan sát độ lệch đạn nếu trượt. Bắn tiếp có bù độ lệch. Súng không tạo khói như B40 nên rất khó phát hiện ban ngày. Nhưng ban đêm, súng có chớp sáng nhỏ. Súng có tiếng nổ đầu nòng rất nguy hiểm, mỗi xạ thủ chỉ được bắn liên tục 5-6 phát (thậm chí là chỉ tối đa 3 phát). Súng nạp đạn chậm, khi chỉ một mình xạ thủ, tốc độ bắn chỉ tối đa 4 phát phút. Để cải thiện tốc độ bắn, những người cùng tổ lắp sẵn liều cho xạ thủ. Nhờ đó tăng tốc độ bắn đến 6 phát mỗi phút dễ dàng. Chú ý B41 không có lỗ thoát khí bên phải như B40. Việc bắn B41 đòi hỏi huấn luyện rất kỹ càng, trong cuốn sách quân sự Mỹ năm 1976 , người Mỹ dựa vào kiến thức cóp nhặt, nên đặt cách bù gió đo xa rất sai, điều này dẫn đến họ bắn thử nghiệm chỉ đạt tầm hiệu quả 180 mét. Một cách để tăng kinh nghiệm xạ thủ là tổ chức 2-3 tổ từ các hướng rất khác nhau, bắn lần lượt, điều này làm tăng khả năng an toàn cho xạ thủ, bù trừ sai số ước lượng của các xạ thủ về tốc độ gió và mục tiêu, các xạ thủ đã bắn nhiều phát sẽ có kinh nghiệm ước lượng tầm xa và lệch gió tốt, làm tăng tỷ lệ bắn trúng đích. Chiến thuật Chống xe tăng Trong Chiến tranh Việt Nam, giáp xe tăng chưa có công nghệ cao, chưa có ERA, nên súng B41 rất lợi hại, xuyên được tất cả các xe thiết giáp lúc đó (kể cả xe tăng M48 Patton, M60). Bộ binh và du kích Việt Nam sử dụng hai chiến thuật săn xe: Một là sử dụng tổ bộ binh nhỏ, luồn sâu, phục kích. Điều nguy hiểm với xe tăng là khi B41 áp sát được tầm dưới 100 mét, đến lúc này, xạ thủ ngắm bắn chính xác vào những chỗ hiểm như ổ đỡ tháp pháo, phía sau xe, khoang chứa đạn sau tháp pháo... Những phát bắn này thường tiêu diệt tức khắc mục tiêu. Khi phòng ngự, khi xe tăng đến gần, các xạ thủ bám chiến hào, công sự, vật cản. Kết hợp với cối, mìn định hướng làm lui bộ binh đi cùng. Xe tăng khó có thể quan sát bao quát, khả năng bị diệt cao khi bị tấn công từ nhiều hướng. Hai là dùng nhiều tổ, phân tán, bắn liên tục từ nhiều hướng, di chuyển liên tục, bám sát. Trong địa hình rừng núi, đây là chiến thuật rất đáng sợ. Một số lượng lớn đầu đạn đến từ nhiều hướng bù những sai số ước lượng của xạ thủ, thông thường loạt đạn săn xe tăng này có kết quả tức khắc, mặc dù khoảng cách không nhỏ. B41 rất đáng sợ với các xe bọc thép chở quân hỗ trợ bộ binh IFV. Những phát bắn phục kích xe này gây thương vong lớn, trong phim Cuộc chiến 10 ngàn ngày còn cảnh B-41 hạ một xe thiết giáp M113 đang di chuyển rất nhanh. Các xe bọc thép có vỏ mỏng hơn xe tăng, kể cả xe bọc thép hiện đại, nên không thể chịu được phát bắn của B-41. Tháng 10-1973, trên bán đảo Sinai, quân Ai Cập bố trí kết hợp RPG và AT-3, bắn liên tục từ nhiều hướng, tạo chiến công lớn. Chống bộ binh, lô cốt B41 có đạn sát thương nổ phá OG-A được dùng như pháo tấn công tầm gần (bắn mục tiêu chính xác), hỗ trợ cực kỳ bám sát. Tuy nhiên, nếu coi B41 như pháo hỗ trợ (field gun, bắn cấp tập hàng trăm phát lên một diện tích rộng) là điều hết sức sai lầm, lấy đồ nhà nghèo tiêu như nhà giàu. B41 rất quan trọng trong tiểu đội bộ binh. Trong chiến thuật tiến công tiểu đội bộ binh của Việt Nam, thường chỉ 1 hoặc 2 trong 3 tổ là xung phong, 1-2 tổ còn lại ở phía sau bắn kiềm chế địch để hỗ trợ. Xạ thủ B41 trong tiểu đội bám sát chặt chẽ mũi tiến công, phát hiện và tiêu diệt ổ hỏa điểm (lô cốt, ụ súng máy của địch) trong tầm chiến đấu bộ binh (250 mét trở xuống). Ở tầm này, gọi chi viện pháo binh sẽ không kịp, nếu có xe đi cùng thì cũng rất nguy hiểm cho xe. B41 ngoài mặt trận thường chỉ có đạn xuyên HEAT, đạn này sát thương không rộng, nhưng phương pháp sử dụng khá đa dạng. Đạn HEAT khi bắn vào tường dày, vách đá sẽ phát nổ, văng ra mảnh đạn dày đặc và sóng xung kích dữ dội gấp mấy lần so với lựu đạn, tiêu diệt được bộ binh trong bán kính cả chục mét. Nếu đạn nổ sát đất sẽ thổi một luồng khí định hướng kéo theo đất đá sát thương, độ chụm và tầm sát thương xa còn hơn cả mìn claymore. B41 trong chiến đấu thường sử dụng cách thức này, xạ thủ bắn vào đám đất phía trước địch để tạo ra luồng sát thương, có thể diệt nhiều địch chỉ với một phát bắn. Việt Nam cũng chế ra mìn định hướng kiểu Việt Nam rất giống đạn B41, đặt sát mặt đất, thổi bay địch sát chiến hào tiền duyên như đại bác bắn đạn ria. Mục tiêu hiện đại Trong chiến tranh Afghanistan, 80% số đạn RPG bắn về phía T-72 bị hệ thống đánh chặn Drozd phá hủy, đến cuối chiến tranh, việc bắn hỏng một chiếc T-72 ở đây rất khó, mặc dù du kích sử dụng những trung đội B41 săn xe lớn. Đã có một bộ phim hài Mỹ nói về các xạ thủ Mujahideen loay hoay quanh chiếc T-72 đơn độc mà không làm gì được nó. Trong Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất (báo cáo năm 1997), có 62 xe tăng Nga bị các loại RPG bắn hạ, gồm T-62, T-72 và T-80, trong đó có nhiều xe bị trúng RPG đầu đạn hạng nặng. Nhưng chỉ 1 xe bị bắn hỏng xuyên qua ERA. Điều đó cho thấy ERA có tác dụng tốt khi chống lại RPG. Các xe khác bị bắn trong tình trạng chỉ có ERA phía trước (lúc đó Nga thiếu tiền trầm trọng), bị đạn bắn trúng sườn hoặc sau xe, một số xe bị bắn vào nóc xe. Du kích bố trí B41 trong nhiều tầng nhà, nhiều hướng, bắn trong phòng. Nóc xe tăng luôn là chỗ có giáp rất yếu. Đến Chiến tranh Chechnya lần thứ hai, ERA và APS đóng góp vai trò quan trọng, lúc này phiến quân Chechnya có nhiều RPG hiện đại hơn, nhưng số lượng xe hỏng do trúng đạn không đáng kể. Người Mỹ trước đây thường nghĩ rằng xe tăng hiện đại không sợ B41. Nhưng trận đánh đột kích vào sân bay Baghdad Iraq năm 2003 bị thất bại đã chứng tỏ, M1A1 có nhiều điểm bị B41 khoan thủng. Thực chất M1A1 không hề có ERA và APS, M1A2 có một chút nhưng khả năng bảo vệ thấp. Trong trận đánh đó, xe tăng Mỹ không có bộ binh đi kèm bị B41 bắn ngang sườn, đạn nổ, phá hủy hoàn toàn xe. Từ đó đến nay, các xe M1 nhiều lần bị bắn hỏng, phá hủy hoàn toàn vì các RPG, chủ yếu là B41. Những đầu đạn hiện đại tỏ tác dụng trong xung đột Israel 6-2006, tuy nhiên, đến nay khó xác định được súng nào đã bắn cháy 22 tăng Israel trong 1 tháng, có khả năng là B41 dùng các đầu đạn 105mm hạng nặng. Điều này cho thấy chất lượng APS Israel còn nhiều vẫn đề. Trận đánh Mogadishu, Somalia năm 1993 đã dược dựng thành phim nổi tiếng Blackhawk down. Tại đây, B41 bắn hạ trực thăng. Trong chiến tranh Việt Nam, cũng có trực thăng bị B41 bắn hạ, nhưng ít, người ta cũng đồn thổi về các chiến thuật bắn trực thăng B41 trong chiến tranh Afghanistan, nhưng rõ ràng đây là tán gẫu, như việc dùng B41 làm pháo binh bắn cường tập kiểu Mỹ. Thực ra, B-41 có thể bắn hạ trực thăng nhưng với điều kiện nó đang bay thấp và chậm. Năm 2015, quân đội Ả Rập Saudi cũng sử dụng nhiều chiếc M1 để tấn công lực lượng Houthi ở Yemen, nhưng chiến dịch đã thất bại. Nhiều chiếc M1 đã bị bắn hạ bởi súng chống tăng RPG-7 và tên lửa chống tăng của quân Houthi. B41 dùng đạn đời cũ không xuyên được giáp xe tăng hiện đại từ đằng trước, nhưng diệt được tất cả các xe thiết giáp khác. Để tăng sức xuyên, cần dùng đạn B-41 kiểu mới. B41 hiện đại hóa Với giáp tăng hiện đại, cần sử dụng đạn PG-7VR sức xuyên 750mm thép cán tiêu chuẩn. Nhưng đây là đạn nặng nặng hai tầng, tầm bắn hạ còn 200 mét. Đầu đạn kiểu cũ như PG-7V, PG-7VM không còn đủ khả năng bắn xuyên giáp trước xe tăng hiện đại, nhưng vẫn hạ được xe tăng hiện đại nếu bắn vào hông xe, hoặc vẫn có thể hạ được các loại xe bọc thép và công sự. Vẫn có các đạn cải tiến dùng cho súng RPG-7 như PG-7VL, RPG-7VR. Tuy nhiên, súng B-41 khi bắn đạn hạng nặng kiểu mới thì tầm hiệu quả chỉ còn 150-200 mét, ngày nay đời sau súng này là RPG-29 có tầm bắn hiệu quả tới 500 mét. Những sai lầm thường thấy khi nói về B41 Do thiếu những hiểu biết thực tế chiến trường nên tồn tại nhiều điểm nhầm lẫn, dưới đây là những điểm hay gặp. Người Mỹ coi B41 có thể dùng như pháo Câu chuyện coi B41 là một loại pháo. Trong tài liệu huấn luyện chính thức của Mỹ năm 1976, người ta thường cho rằng B41 có thể sử dụng như pháo binh, xuất phát từ việc quá kinh hoàng trước sức mạnh của súng trong Chiến tranh Việt Nam. Điều đó dẫn đến những sai lầm lan truyền sau. Về trung đội B41 của Mujahideen. Thường thấy nói rằng, trung đội này sử dụng B41 như pháo binh. Mujahideen cũng có chiến thuật dùng B41 bắn máy bay, trung đội pháo binh B41 để bắn trực thăng. (xem ảnh bên, phòng ngự tiểu đoàn). B41 tạo thành hỏa lực chống tăng dày đặc trong phòng ngự chính quy cấp tiểu đoàn. Với tốc độ bắn gấp nhiều chục lần xe, pháo (100 súng, đạt tốc độ bắn cao nhất 400-600 phát phút), tạo ra màn đạn hoàn toàn chặn đứng địch trong tầm bắn bộ binh (300 mét). (xem ảnh bên, phòng ngự tiểu đoàn). Điều này là sai lầm cơ bản, B41 là súng của đội quân nghèo, lấy yếu địch mạnh, thường dùng chiến thuật đeo bám, đánh gần, bám thắt lưng địch mà đánh. Việc lấy vũ khí của con nhà nghèo làm pháo, bắn như cách đánh của con nhà giàu là điều ngược đời. Thật ra, B41 không thể dùng như vậy. B41 thường được dùng trong trận địa phòng ngự chính quy từ cấp tổ 3 người của Việt Nam. Việc cung cấp nhiều loại đạn (đạn cháy, xuyên phá, đạn sát thương) với số lượng lớn cho B41 ngoài chiến trường của nhà nghèo là điều không thể. Trong chiến tranh Việt Nam và Apganistan hầu như chỉ dùng B41 với đạn xuyên (HEAT). Đạn này có sức sát thương đối với bộ binh thấp hơn đạn nổ mảnh, không thể coi như pháo. Pháo dễ dàng cùng cấp nhiều loại đạn do không ở tiền duyên, còn B41 thì không thể bắn ồ ạt mà cần ưu tiên cho những mục tiêu kiên cố như thiết giáp, lô cốt. Lệch gió ngược Lệch gió của đạn B41. Cũng từ tài liệu trên. Đạn B41 ít lệch gió trong 100 mét. Sau đó, đạn lệch gió ngược, tức hướng vào đầu gió. Trong tài liệu trên hướng dẫn lệch gió xuôi chiều như đạn thường và tỷ lệ thuận. Cách đo xa Cách đo xa B41. Cũng từ tài liệu trên, trình bày sai. Lưới chống Dùng lưới chặn đạn B41 . Cũng tài liệu trên. Đạn B41 xuyên qua dễ dàng tấm thép 5mm mà không phát nổ, bởi kết cấu chụp đầu đạn và máy sinh điện. Tài liệu trên ghi 50% đạn phát nổ khi gặp lưới B40. Thật ra, đạn chỉ phát nổ khi đâm vào những cọc lưới với tỷ lệ rất ít, ngoại trừ trường hợp người ta chặn mục tiêu toàn bằng cọc làm từ ray tàu hỏa. Hiện tượng các cựu chiến binh thường thấy là đạn B41 xuyên qua lưới, nếu công sự bao cát thì đạn xuyên vào nhưng không phát nổ ngay. Lúc ngòi nổ tự hủy đạn có tác dụng, đạn mới thổi công sự. Dùng B-41 bắn máy bay Tại Việt Nam, do nhiều vụ máy bay trực thăng đã bị B-41 bắn rơi nên trong tài liệu huấn luyện trên, người Mỹ đưa ra chiến thuật săn máy bay bằng B-41. Thực ra, B-41 chỉ có thể bắn rơi các máy bay trực thăng khi chúng đang bay treo cố định hoặc di chuyển chậm và thấp, chỉ cách mặt đất vài chục mét (thường là lúc đổ quân hay cất cánh), nên bộ binh có thể dùng B-41 ngắm bắn trực diện với xác suất trúng đích cao. Còn nếu máy máy bay đang di chuyển nhanh ở trên cao (vài trăm mét trở lên), B-41 gần như không thể bắn trúng mục tiêu nên người ta sẽ không bắn để tránh lãng phí đạn. Súng B41 cần khoảng trống lớn Đây là một nhầm lẫn, người ta cho rằng, tiếng nổ đầu nòng của súng mạnh nên súng không bắn được trong phòng. Thực chất, tiếng nổ mạnh nhưng tốc độ phụt khí giảm nhanh do cấu tạo tuyến sau. Không như B40 có luồng phụt tốc độ cao. Súng chỉ cần vài trăm mét khối là bắn được trong phòng. Điều này làm súng trở thành vũ khí quan trọng trong chiến tranh đô thị. Các súng như AT-4 Thụy Điển (tên Mỹ M136) cần không gian hẹp hơn, nhưng giảm rất nhiều tầm bắn, trong khi phần lớn các phòng đều có hàng trăm khối. Ngoài những sai lầm lan truyền từ tài liệu trên, dưới đây là các nhầm lẫn thường gặp. Nhầm lẫn giữa B41 và các phiên bản súng Trung Quốc Trên Internet có hiện tượng các trang các trang wiki và các trang web khác dịch, copy lẫn của nhau dẫn đến lan truyền sai lầm như là bệnh dịch. Một trong những sai lầm là B41 có giá hai chân, chỉ B41 Trung Quốc. Thực chất, đây là một nhóm súng do Trung Quốc sản xuất, không phải là B41, trong khi bản thân B41 không phải Trung Quốc đều có giá hai chân nhưng người ta không lắp. Trên các bức ảnh, người ta thường chú ý đến tuye sau đuôi súng nên nhầm, nhưng nhìn rõ thấy chúng hơi khác cả súng và đạn. Kiểu 69 có tuổi thọ rất ngắn, nó gần giống như B41, có tên kiểu 69-1 năm 1970, được đưa vào trang bị giữa những năm 1970, đến những năm 1980 thì dừng sản xuất, khi tỏ ra yếu kém trước B41 trong thực tế. Saghegh của Iran có cỡ nòng hơi nhỏ hơn. Súng giống B41 Pakistan thật ra là phiên bản Kiểu 69-1. Kiểu 69-1 đầu thế kỷ 21 rất ít dùng, công ty Norinco dang có ý định cải tiến lại một lần nữa, lai thuật phóng Bazooka, gọi là kiểu 2004 69. Ở chiến trường, vẫn có những phiên bản hay được internet gọi là B41 nhưng thực ra là các phiên bản RPG của Trung Quốc, cấu tạo hơi khác. Ví dụ như Kiểu 56 cải tiến (Kiểu 56 là B40, nhưng về sau cải tiến tăng tầm bắn, cũng sử dụng tuye sau và buồng đốt phình ra như B41, vẫn dùng phần đầu đạn B40, Kiểu 56 cải tiến này về sau trở thành Kiểu 69-1 (type-69-1) (cả hai đều có một tay cầm, đạn Kiểu 69 bé hơn B41). Như vậy, tồn tại 3 ROG Trung Quốc kiểu Nga ở Việt Nam: Kiểu 56 là súng B40, kiểu 56 cải tiến là súng có thân giống B41 đạn giống B40 (thân súng này ngắn hơn chút, chỉ có 1 tay cầm), kiểu 69 đạn chẳng giống B40 cũng chẳng giống B41, súng trông giống B41 có 1 tay cầm. Trong sô đó, chỉ B40 Kiểu 56 là ta trang bị, còn đều là chiến lợi phẩm (chỉ dùng để nghiên cứu và trung bầy). Trung quốc không sản xuất súng và đạn B41. Phiên bản Kiểu 69 có các biến thể Kiểu 69-1, Kiểu 69-2, Kiểu 69-3. Phiên bản này về súng giống như RPG-7 và RPG-7G, nhưng đạn rất khác. Kiểu 69-1 sau được cải tiến dùng cho chiến tranh biên giới Việt Nam (bao gồm hai cuộc chiến tranh do Trung Quốc phát động, Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc), kính ngắm Trung Quốc có thêm vạch đo xa bên trái, sử dụng đo xe Nga (thấp hơn). Pakistan sau này nhập khẩu của Trung Quốc súng này. CIA, Trung Quốc trong liên minh làm suy yếu Liên Xô đã đưa súng đến Apganistan, kiểu 69 sau bắt được ở đây. Mujahideen nhận ngay nhược điểm của Kiểu 69, nó nhẹ hơn, nhưng cơ chế điểm hỏa không hoàn thiện như B41, dùng bắn xuyên tường thì tốt nhưng chống thiết giáp yếu, dồng thời độ chính xác thấp. Người Việt Nam còn gọi những súng Trung Quốc này như B63, B69, chỉ một số người nhầm gọi là B41. Đạn kiểu 69 là đạn lai, vừa xuyên vừa sát thương, ngắn hơn đạn B41 (không có khoảng cách từ máy sinh điện về điểm hội tụ của loa lõm, khoảng cách này ở B41 làm máy sinh điện hoạt động đúng khoảng cách, khi điểm hội tụ đến giáp thì vừa nổ). Chính xác về năm ra đời Hoặc một sai lầm nữa của internet là RPG-7 ra đời năm 1961, thực chất, đó là năm ra đời đạn mới PG-7V về sau này dùng rất rộng rãi. Các quốc gia sử dụng : Biến thể RPG Kiểu 69 của Trung Quốc được Quân đội Bangladesh sử dụng. : Được sản xuất tại địa phương bởi Tập đoàn Arsenal với tên gọi ATGL-L : Bản sao kiểu 69 được thiết kế ngược. : Được sản xuất tại địa phương không có giấy phép dưới dạng PG-7 bởi Nhà máy Sakr dành cho các ngành công nghiệp phát triển. : Phiên bản sửa đổi "RPG-7D" do STC Delta sản xuất trong nước. : Được sản xuất tại địa phương với tên gọi Sageg : Được sản xuất tại địa phương với tên Al-Nassira từ những năm 1980 bởi Ba'athist Iraq. : Các cổ phiếu lớn được coi là ATW thứ cấp. Được sản xuất trong nước. : Được sử dụng bởi cả Quân đội Liberia và các phe phái du kích trong Nội chiến Liberia : Được sử dụng bởi cả hai bên trong Nội chiến Libya : Phiên bản ATGL-L của Bulgaria được mua và sử dụng từ đầu những năm 2000. : Không phải là người sử dụng nhà nước. : Được sản xuất theo giấy phép của Tập đoàn Công nghiệp Quốc phòng Nigeria : KPA sử dụng RPG-7 (Type 69) và đặc biệt họ còn nâng cấp đầu đạn lên dạng tandem tương tự RPG-7VR có sức công phá lớn hơn và chống được giáp phản ứng nổ. Đây là thiết kế cũ nhưng hiện tại vẫn rất hiệu quả, đặc biệt là ở những nước nhiều đồi núi như Triều Tiên. : Được sử dụng bởi Quân đội Pakistan và lực lượng bán quân sự. Phiên bản RPG-7V được sản xuất theo giấy phép của Nhà máy Máy công cụ Pakistan. : Lực lượng Vũ trang Philippines có ba biến thể khác nhau: 250 ATGL-L2 từ Bulgaria, 30 Type 69 từ Trung Quốc và 744 RPG-7V2 từ Nga. : Sản xuất các biến thể RPG-7 và RPG-7W. : Được sản xuất trong nước bởi SC Carfil SA từ Brașov với tên AG-7 (tiếng Romania: Aruncătorul de Grenade 7 , Grenade Launcher 7). : Nước sản xuất RPG-7 rất nhiều : Được sử dụng bởi Mặt trận Polisario. : Được sản xuất bởi PPT Namenska. :Đã phát triển nâng cấp thành RPG-7 Súng chống tăng PSRL-1 USA phiên bản Mỹ tự chế tạo : Lực lượng phòng vệ quốc gia Nam Phi. : Các Lực lượng; Phong trào Dân chủ Nam Sudan, Phong trào/Quân đội Giải phóng Sudan, Lực lượng Phòng vệ Nam Sudan, Quân đội Giải phóng Nhân dân Sudan đã sử dụng RPG-7, Type 69 và RPG do Iran sản xuất. : Được sản xuất bởi Tập đoàn Công nghiệp Quân sự với tên gọi Sinar. : Được sử dụng bởi Quân đội Suriname. : Sản xuất trong nước. Ukraine mua súng chống tăng PSRL-1 của Hoa Kỳ và xuất hiện từ năm 2017 với hợp đồng trị giá khoảng 500.000 USD. : Sản xuất trong nước và được ký hiệu là RPG7V-VN. Cũng được công nhận phổ biến dưới tên gọi B-41. ... và rất nhiều nước khác Chú thích
Ngôn ngữ máy (còn được gọi là máy ngữ hay mã máy; tiếng Anh là machine language hay machine code) là một tập các chỉ thị được CPU của máy tính trực tiếp thực thi. Mỗi chỉ thị thực hiện một chức năng xác định, ví dụ như tải dữ liệu, nhảy hay tính toán số nguyên trên một đơn vị dữ liệu của thanh ghi CPU hay bộ nhớ. Tất cả các chương trình được thực thi trực tiếp bởi CPU đều là các chuỗi các chỉ thị này. Mã máy nhị phân (khác với mã hợp ngữ) có thể được xem như là phương thức biểu diễn thấp nhất của một chương trình đã biên dịch hay hợp dịch, hay là ngôn ngữ lập trình nguyên thủy phụ thuộc vào phần cứng (ngôn ngữ lập trình thế hệ đầu tiên). Mặc dù chúng ta hoàn toàn có thể viết chương trình trực tiếp bằng mã nhị phân, việc này rất khó khăn và dễ gây ra những lỗi nghiêm trọng vì ta cần phải quản lý từng bit đơn lẻ và tính toán các địa chỉ và hằng số học một cách thủ công. Do đó, ngoại trừ những thao tác cần tối ưu và gỡ lỗi chuyên biệt, chúng ta rất hiếm khi làm điều này. Hiện nay, hầu như tất cả các chương trình máy tính trong thực tế đều được viết bằng các ngôn ngữ bậc cao hay (đôi khi) hợp ngữ, và sau đó được dịch thành mã máy thực thi bằng các công cụ phụ trợ như trình biên dịch, trình hợp dịch hay trình liên kết. Ngoài ra, các chương trình có thể được thông dịch thì được dịch sang mã máy nhờ trình thông dịch tương ứng (có thể xem như là trình thực thi hay trình xử lý). Các trình thông dịch này thường bao gồm các mã máy thực thi trực tiếp (sinh ra từ mã nguồn hợp ngữ hay các ngôn ngữ bậc cao). Các chỉ thị mã máy Mọi vi xử lý hay họ vi xử lý đều có những tập chỉ thị mã máy riêng biệt. Các chỉ thị này là các mẫu bit được thiết kế tương ứng với những lệnh khác nhau của máy tính. Do đó, những tập chỉ thị này là riêng biệt của một lớp vi xử lý thuộc cùng một kiến trúc máy tính. Những thiết kế vi xử lý kế thừa thường bao gồm các chỉ thị của vi xử lý tiền nhiệm cùng với các chỉ thị mới. Đôi khi, các thiết kế kế thừa lại loại bỏ hay thay đổi chức năng một số mã chỉ thị (vì chúng cần dùng cho mục đích mới), gây ảnh hưởng đến sự đồng bộ mã nguồn ở một mức độ nhất định. Thậm chí, các vi xử lý đồng bộ cận hoàn toàn cũng có những sự biến đổi hành vi đối với một số chỉ thị, nhưng điều này rất hiếm xảy ra. Các hệ thống còn có thể khác nhau ở một số thành phần khác như phương thức sắp xếp bộ nhớ, hệ điều hành hay thiết bị ngoại vi. Vì các chương trình hay phụ thuộc vào các yếu tố này, các hệ thống khác nhau khó có thể chạy cùng một mã máy, ngay cả khi chúng sử dụng cùng một loại vi xử lý. Một tập chỉ thị có thể có độ dài chỉ thị thống nhất hay biến động. Cách các bit được sắp xếp thay đổi rất lớn giữa các kiến trúc khác nhau hay các loại chỉ thị khác nhau. Hầu hết các chỉ thị có một hay nhiều vùng mã vận hành để phân biệt các chỉ thị cơ sở (như tính toán hay nhảy) và các chỉ thị thực (như cộng hay so sánh), và các vùng khác biểu diễn loại toán hạng, phương thức biểu diễn địa chỉ, các chỉ số địa chỉ hay các giá trị thực (các toán hạng hằng được chứa trong chỉ thị như vậy được gọi là giá trị tức thời). Không phải tất cả các máy tính hay chỉ thị đơn lẻ đều có toán hạng hiện (rõ ràng). Một máy tính thanh chứa có sự kết hợp giữa toán hạng trái và kết quả tính toán lưu trong một thanh chứa ẩn đối với hầu hết các chỉ thị đại số. Một số kiến trúc khác (như 8086 hay x86) có phiên bản sử dụng thanh chứa của các chỉ thị thông dụng, và thanh chứa được xem như là một trong những thanh ghi tổng quát nhất của chỉ thị dài. Trong khi đó, một máy tính ngăn xếp lại lưu hầu hết các toán hạng trong một ngăn xếp ẩn. Những chỉ thị chuyên biệt cũng thường thiếu toán tử hiện (ví dụ, vi xử lý ID trong kiến trúc x86 ghi giá trị vào bốn thanh ghi địa điểm ẩn). Sự khác biệt giữa toán tử hiện và ẩn cho phép sử dụng nhiều hơn hằng số có phạm vi rộng, 'uốn nắn' các thanh ghi liên tục (lưu giá trị hằng số khác đè lên giá trị đã có của thanh ghi) và rất nhiều ưu điểm vượt trội khác. Chương trình Chương trình máy tính thực chất chỉ là một chuỗi những chỉ thị viết bằng mã máy được thực thi bởi CPU. Trong khi một số vi xử lý đơn giản thực thi lần lượt các chỉ thị, vi xử lý đa luồng có khả năng thực thi đồng loạt nhiều chỉ thị. Mạch chạy của chương trình chịu ảnh hưởng của những chỉ thị "nhảy" đặc biệt có khả năng thay đổi tiến trình đến một chỉ thị khác với chỉ thị có thứ tự sau đó. Những bước nhảy điều kiện được thực thi hay không là tùy thuộc vào các trạng thái nhất định. Hợp ngữ Hợp ngữ, một phiên bản gần hơn với ngôn ngữ tự nhiên của ngôn ngữ máy, sử dụng những ký hiệu dễ nhớ để thể hiện các chỉ thị mã máy, thay vì sử dụng trực tiếp các chuỗi nhị phân. Ví dụ, trên vi xử lý Zilog Z80, mã nhị phân 00000101, dùng để giảm giá trị của thanh ghi B của vi xử lý, được viết bằng hợp ngữ như sau DEC B. Ví dụ Kiến trúc MIPS là một ví dụ điển hình cho ngôn ngữ máy có chỉ thị dài 32 bits. Những chỉ thị này được tạo bởi những vùng toán tử, dài nhất là 6 bits. Chỉ thị loại J (J-type) và loại I (I-type) được đặc trưng hoàn toàn bởi toán tử. Chỉ thị loại R (R-type) thì có thêm vùng hàm để quyết định toán tử chính xác. Những vùng được sử dụng trong các loại này gồm: 6 5 5 5 5 6 bits [ op | rs | rt | rd |shamt| funct] R-type [ op | rs | rt | address/immediate] I-type [ op | target address ] J-type rs, rt, and rd là những toán hạng thanh ghi; shamp chỉ lượng dịch chuyển; và vùng địa chỉ hay tức thì chứa trực tiếp toán hạng. Ví dụ, dưới đây là đoạn mã có chức năng cộng giá trị ở thanh ghi 1 và 2, sau đó lưu vào thanh ghi 6: [ op | rs | rt | rd |shamt| funct] 0 1 2 6 0 32 decimal 000000 00001 00010 00110 00000 100000 binary Ghi giá trị vào thanh ghi 8, giá trị này được lấy từ ô vùng nhớ có vị trí ở sau 68 ô so với vị trí được lưu trong thanh ghi 3: [ op | rs | rt | address/immediate] 35 3 8 68 decimal 100011 00011 01000 00000 00001 000100 binary Nhảy đến địa chỉ 1024: [ op | target address ] 2 1024 decimal 000010 00000 00000 00000 10000 000000 binary Mối quan hệ giữa ngôn ngữ máy và vi mã Trong một số Kiến trúc máy tính, ngôn ngữ máy được cài đặt bởi một lớp chương trình cơ sở hơn ở dưới nó, gọi là vi chương trình (microprogram). Vi chương trình tạo một giao diện ngôn ngữ máy thống nhất giữa các mô hình máy tính khác nhau, với những mạch xử lý dữ liệu khác nhau, trong cùng một dòng hay họ. Điều này đã giúp việc chuyển chương trình mã máy qua các mô hình máy tính khác nhau dễ dàng hơn rất nhiều. Họ máy tính và vi xử lý IBM System/360 là một ví dụ điển hình. Mặc dù dòng xử lý dữ liệu có độ lớn khác nhau, từ 8 bits đến lớn hơn 16 bits, nhưng tất cả máy tính thuộc cùng một dòng đều sử dụng một kiến trúc máy tính thống nhất ở mức độ ngôn ngữ máy. Ngoài ra, việc sử dụng vi mã (microcode) để cài đặt giả lập cho phép một máy tính sao chép kiến trúc của một máy tính hoàn toàn khác. Nhờ đó, dòng System/360 có thể chạy chương trình của những máy tính IBM đời cũ đến cả những họ máy tính đời mới, như giả lập IBM 1401/1440/1460 trên máy tính IBM S/360 mẫu 40. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ máy và mã đối tượng Ngôn ngữ máy hoàn toàn khác với mã đối tượng (bytecode), một loại mã được thực thi bởi Trình thông dịch, hay được biên dịch thành ngôn ngữ máy nhằm mục đích tối ưu tốc độ chương trình. Ngoài ra, ngôn ngữ máy và hợp ngữ thường được gọi là mã riêng (native code) khi nói về các thành phần phụ thuộc vào Hệ điều hành của một đặc điểm ngôn ngữ hay thư viện. Phương thức lưu trữ trong bộ nhớ Kiến trúc Harvard là kiến trúc máy tính có các bộ nhớ riêng lẻ và các đường tín hiệu cho mã (chỉ thị) và dữ liệu. Ngày nay, phần lớn vi xử lý được cài đặt như là những đường tín hiệu để cải thiện hiệu năng (thật ra là kiến trúc Modified Harvard), nhờ đó chúng có thể hỗ trợ các thao tác như tải chương trình từ ổ cứng giống như dữ liệu và thực thi nó. Kiến trúc Harvard trái ngược hoàn toàn so với kiến trúc Von Neumann: dữ liệu và mã được lưu vào cùng bộ nhớ, và vi xử lý đọc chúng giúp máy tính thực thi các lệnh. Nhìn dưới góc độ của một tiến trình, không gian chứa mã là một phần không gian địa chỉ của tiến trình lưu trữ các mã đang thực thi. Trong các hệ thống đa nhiệm, nơi này gồm có các đoạn mã của chương trình và (thường xuyên) các thư viện được chia sẻ. Trong môi trường đa luồng,các luồng khác nhau của một tiến trình chia sẻ không gian chứa mã cùng với không gian chứa dữ liệu, nhờ đó giảm được phí tổn của việc chuyển ngữ cảnh khá nhiều so với việc chuyển tiến trình. Khả năng đọc hiểu ngôn ngữ máy của con người Ngôn ngữ máy khó đọc đến mức tổ chức United States Copyright Office không thể khẳng định một phần mềm đã mã hóa có phải là sản phẩm gốc của một tác giả hay không. Tuy nhiên, tổ chức này lại cho phép đăng ký bản quyền các chương trình máy tính. Hofstadter từng so sánh mã máy với mã gen: "Nhìn vào một chương trình viết bằng mã máy không khác gì với việc nhìn vào các phân tử DNA của lần lượt từng nguyên tử."
Trung Bộ (hay còn gọi là Miền Trung, Trung Kỳ, Trung Phần) là một trong ba miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ). Hiện nay, Trung Bộ là miền có diện tích lớn nhất trong 3 miền tại Việt Nam với 151.234 km². Trung Bộ có nhiều đồi núi lan sát ra biển, chia cắt các đồng bằng nhỏ hẹp. Khí hậu và phần lớn đất đai thường khắc nghiệt hơn hai miền còn lại. Trung Bộ được chia thành 3 khu vực là vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và vùng Tây Nguyên; với trung tâm là thành phố TW Đà Nẵng. Tùy vào ngữ cảnh, một phần của Bắc Trung Bộ cùng với vùng Bắc Bộ được gọi chung là Miền Bắc Việt Nam; Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, phần còn lại của Bắc Trung Bộ cùng với vùng Nam Bộ được gọi chung là Miền Nam Việt Nam. Trung Bộ nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Nam Bộ. Ngoài hai xứ Thanh – Nghệ, Trung Bộ chứng kiến quá trình Nam tiến của người Việt diễn ra trên lãnh thổ từng thuộc nước Chăm Pa cổ. Các xung đột quân sự và ranh giới chia cắt Việt Nam trong một số thời kỳ lịch sử như thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và Chiến tranh Việt Nam cũng nằm trên Trung Bộ. Thời Pháp thuộc, Trung Bộ là một xứ bảo hộ lấy tên là Trung Kỳ, vốn có từ thời vua Minh Mạng của Nhà Nguyễn. Tên gọi Trung Bộ ra đời từ thời Đế quốc Việt Nam năm 1945. Trung Bộ còn được gọi là Trung Phần (1948–1975) dưới thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. Địa lý Vị trí, địa hình Miền Trung Việt Nam (Trung Bộ) có phía Bắc giáp khu vực Đồng bằng sông Hồng và Trung du và miền núi phía Bắc; phía Nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia. Dải đất miền Trung được bao bọc bởi những dãy núi chạy dọc bờ phía Tây và sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều ngang theo hướng Đông - Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50 km) và nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Địa hình miền Trung gồm 3 khu vực cơ bản là Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ. Bắc Trung Bộ bao gồm các dãy núi phía Tây. Nơi giáp Lào có độ cao trung bình và thấp. Riêng miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hoá có độ cao từ 1000 - 1500m. Khu vực miền núi Nghệ An - Hà Tĩnh là đầu nguồn của dãy Trường Sơn có địa hình rất hiểm trở, phần lớn các núi cao nằm rải rác ở đây. Các miền đồng bằng có tổng diện tích khoảng 6.200 km², trong đó đồng bằng Thanh Hoá do nguồn phù sa từ sông Mã và sông Chu bồi đắp, chiếm gần một nửa diện tích và là đồng bằng rộng nhất của Trung Bộ. Tây Nguyên có diện tích khoảng 54.473,7 km², nằm về phía tây dãy Trường Sơn. Tây Nguyên có phía Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia, phía Đông giáp khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và phía Nam giáp khu vực Đông Nam Bộ. Địa hình Tây Nguyên đa dạng, phức tạp, chủ yếu là cao nguyên với núi cao ở độ cao từ 250 - 2500m. Duyên hải Nam Trung Bộ thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng bằng ven biển và núi thấp, có chiều ngang theo hường Đông - Tây (trung bình 40 – 50 km), hạn hẹp hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo hướng nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng chủ yếu do sông và biển bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân núi. Xét chung, địa hình Trung Bộ có độ cao thấp dần từ khu vực miền núi xuống đồi gò trung du, xuôi xuống các đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển rồi ra đến các đảo ven bờ. Miền Trung nước ta có diện tích cồn cát lớn trải dài từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận. Các sông và hồ chính Các dòng sông lớn ở miền Trung chủ yếu được bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và đổ ra biển Đông. Sông Hương (tức Hương Giang): Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, dài 30 km đoạn từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, chảy qua Thành phố Huế ở tỉnh Thừa Thiên Huế sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng. Sông Hương là dòng sông nổi tiếng trong thi ca, nhạc họa của Việt Nam. Dòng sông là một mạch nguồn, một biểu tượng của văn hóa Huế. Sông Hàn: Là con sông nằm ở Thành phố Đà Nẵng. Sông Hàn bắt đầu từ ngã ba sông giữa quận Cẩm Lệ, quận Hải Châu và quận Ngũ Hành Sơn tới vịnh Đà Nẵng, tại chỗ giáp ranh giữa quận Hải Châu và quận Sơn Trà. Sông có dòng chảy từ Nam lên Bắc. Sông Hàn với chiều dài khoảng 7,2 km. Chiều rộng của sông khoảng 900 – 1.200m, độ sâu trung bình 4 - 5m. Sông Mã: chảy qua Thanh Hóa, với đồng bằng sông Mã rộng nhất Trung Bộ. Sông Lam: Bắt nguồn từ Nậm Căn (Lào), dài 513 km, chảy qua Nghệ An theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển Đông tại cửa Hội. Sông Ba (còn gọi là sông Đà Rằng): Bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Linh (Kon Tum), dài 300 km, diện tích lưu vực là 13.000 km², chảy qua Gia Lai và Phú Yên rồi đổ ra biển Đông qua cửa Đà Diễn. Sông Thạch Hãn: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 154 km, diện tích lưu vực gần 3000 km², hợp thành bởi hai con sông chính là sông Quảng Trị và sông Cam Lộ rồi đổ ra biển Đông qua cửa Việt. Sông Ngàn Sâu: Bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, dài 131 km, chảy qua địa bàn giáp ranh của 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, là chi lưu chính của sông La. Sông Trà Khúc: Bắt nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn, dài 120 km, là hợp nước của 4 dòng sông (sông Re, sông Xà Lò, sông Rinh, sông Tang), đổ ra biển Đông qua cửa Đại. Sông Bến Hải: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 100 km, chảy dọc theo vĩ tuyến 17° Bắc từ Tây sang Đông rồi đổ ra biển Đông qua cửa Tùng. Sông Thu Bồn: Bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (giáp giới hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum), dài 95 km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Nam. Sông Gianh: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 90 km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Gianh. Sông Nhật Lệ: Bắt nguồn từ núi U Bò (dãy núi Trường Sơn), dài 85 km, chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Nhật Lệ. Các hồ ở khu vực miền Trung chủ yếu là hồ nhân tạo được xây dựng để giữ nước cung cấp cho cho các vùng phát triển nông nghiệp. Hồ Xuân Hương: Nằm giữa trung tâm Thành phố Đà Lạt, xung quanh hồ có rừng thông và các bãi cỏ. Hồ Than Thở: Là hồ nước tự nhiên thuộc thành phố Đà Lạt, sau năm 1975 hồ Than Thở còn mang tên hồ Sương Mai. Hồ Lắk: Là hồ nước tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk, dài uốn bao quanh thị trấn Lạc Thiện (nay là thị trấn Liên Sơn), rộng trên 5 km² và thông với con sông Krông Ana. Hồ Ayun Hạ: Là hồ nước nhân tạo thuộc tỉnh Gia Lai, có diện tích 37 km², chiều dài 25 km, nơi rộng nhất 5 km. Khí hậu Khí hậu Trung Bộ được chia ra làm hai khu vực chính là Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ. Khu vực Bắc Trung Bộ (bao gồm toàn bộ phía bắc đèo Hải Vân). Vào mùa đông, tuy gió mùa đông có cường độ suy yếu hơn so với khu vực Bắc Bộ nhưng gió này tràn theo hướng đông bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh kèm theo mưa. Đây là điểm khác biệt với thời tiết khô hanh vào mùa đông vùng Bắc Bộ. Đến mùa hè không còn hơi nước từ biển vào nhưng có thêm gió mùa tây nam (còn gọi là gió Lào) thổi ngược lên gây nên thời tiết khô nóng, vào thời điểm này nhiệt độ ngày có thể lên tới trên 40 độ C, trong khi đó độ ẩm không khí lại rất thấp. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ thuộc phía Nam đèo Hải Vân). Gió mùa đông bắc khi thổi đến đây thường suy yếu đi do bị chặn lại bởi dãy núi Bạch Mã. Vì vậy khi về mùa hè khi xuất hiện gió mùa Tây Nam thổi mạnh từ vịnh Thái Lan và tràn qua dãy núi Trường Sơn sẽ gây ra thời tiết khô nóng cho toàn bộ khu vực. Đặc điểm nổi bật của khí hậu Trung Bộ là có mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ra vào một thời kỳ trong năm của hai vùng khí hậu Bắc Bộ và Nam Bộ. Mưa lũ Thừa Thiên Huế là một trong các tỉnh có lượng mưa nhiều nhất ở Việt Nam với lượng mưa trung bình năm vượt trên 2.600mm, có nơi lên đến 4.000mm. Có các trung tâm mưa lớn như khu vực tây A Lưới - Động Ngại (độ cao 1.774m) có lượng mưa trung bình năm từ 3.400 - 5.000mm, khu vực Nam Đông - Bạch Mã - Phú Lộc có lượng mưa trung bình năm từ 3.400 - 5.000mm. Đồng bằng duyên hải Thừa Thiên - Huế có lượng mưa ít nhất, nhưng trung bình năm cũng từ 2.700 - 2.900mm. Hàng năm có từ 200 - 220 ngày mưa ở các vùng núi, 150 - 170 ngày mưa ở khu vực đồng bằng duyên hải. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 - 24 ngày mưa. Những đợt mưa kéo dài nhiều ngày trên diện rộng thường gây ra lũ lụt lớn. Địa hình phía Tây từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế bao gồm các dãy núi cao. Các dòng sông ở đây có dòng chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đổ ra biển thường có lòng sông hẹp, độ dốc lớn, diện tích lưu vực nhỏ nên với lượng mưa tương đối lớn trút xuống sẽ sinh ra lũ lụt lên nhanh và gây lụt lội cho các khu vực đồng bằng thấp phía Đông. Ví dụ như sông Hương - sông Bồ, có độ cao đầu nguồn là 1.318m, dài trên 100 km và diện tích lưu vực 2.690 km², chảy gần theo hướng Bắc Nam đổ ra biển ở cửa Thuận An. Vì toàn bộ diện tích lưu vực sông Hương có trên 80% là đồi núi, khu vực đồng bằng còn lại đa phần ở mức thấp hơn so với mực nước biển, nên hầu hết sẽ bị ngập khi có lũ trên báo động cấp 3 (tương ứng 3,5m). Với lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm, sẽ phát sinh lũ lụt lớn và gây thiệt hại sản xuất, tài sản, tính mạng cư dân, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Ngược lại, trong mùa ít mưa thì nước lại không đủ cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của một số địa phương trong vùng. Mùa mưa lũ ở Bắc Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Những trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở Miền Trung vào các năm: 1952, 1964, 1980, 1983, 1990, 1996, 1998, 1999, 2001, 2003. 2020... Có lúc xảy ra lũ chồng lên lũ như các đợt lũ tháng 11, 12 năm 1999; tháng 10, 11 năm 2010 và mới đây miền trung vừa trải qua cơn lũ lịch sử (10/2020). Lịch sử Miền Trung Việt Nam trong lịch sử đã được gọi bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ (là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của Việt Nam kể từ năm 1834), An Nam (theo cách gọi của người Pháp) và Trung phần (thời Việt Nam Cộng hòa). Tây Nguyên thường được gộp vào Trung Bộ, đôi khi có tài liệu gọi vùng này bằng tên ghép Miền Trung - Tây Nguyên. Tên gọi Trung Bộ được dùng sau khi vua Bảo Đại thành lập cơ quan hành chính cấp vùng cao hơn tỉnh vào năm 1945, thay cho tên gọi Trung Kỳ gợi nhớ thời kỳ bị Pháp đô hộ, và còn được các tài liệu chính thức của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng. Tên gọi này cũng được nhiều người sử dụng cho đến ngày nay. Ngoài ra còn có một danh xưng khác là Trung phần, phát xuất từ việc vào năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại cho thành lập cơ quan hành chính cấp Phần, với chức năng tương đương cấp Bộ năm 1945. Về sau, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng thường dùng danh xưng này cho đến tận khi sụp đổ vào năm 1975. Sắc lệnh số 143-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Tây Nguyên được Việt Nam Cộng hòa gọi là Cao nguyên Trung phần (trước đó gọi là Cao nguyên Miền Nam). Theo Sắc lệnh số 147-A/NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 24/10/1956 thì Trung Phần gồm Cao nguyên Trung phần và Trung nguyên Trung phần. Các đơn vị hành chính Trung Bộ bao gồm 19 tỉnh được chia làm 3 tiểu vùng: Bắc Trung Bộ gồm có 6 tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ gồm có 7 tỉnh và 1 thành phố Tây Nguyên gồm có 5 tỉnh Hai vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ được gọi chung là Duyên hải miền Trung. Khối núi Bạch Mã, nơi có đèo Hải Vân được coi là ranh giới giữa Bắc và Nam Trung Bộ. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có khi được gọi tắt là Nam Trung Bộ, khiến cho nhiều người hiểu là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là hai vùng riêng biệt, dẫn đến một số tài liệu cũng có cách gọi như vậy. Hiện tại, vùng Trung Bộ có diện tích 151.234 km² (tỷ lệ 45,5% so với tổng diện tích cả nước) với số dân 26.460.660 người (tỷ lệ 27,4% so với tổng dân số cả nước), mật độ dân số bình quân 175 người/km². Danh sách các tỉnh thành thuộc Trung Bộ Văn hóa Trung Bộ, ngoại trừ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, đây từng là nơi định cư của các tiểu vương quốc Chăm. Vì vậy đặc điểm căn bản văn hóa vùng miền chủ yếu mang dấu tích của văn hóa Chăm Pa. Nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại từ thời đó đến nay như tháp Chăm ở Huế, tháp Đôi Liễu, Cốc Thượng, Núi Rùa ở Quảng Nam, Đà Nẵng được xem như những đại diện tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển nghệ thuật và kiến trúc đối với lịch sử của nền văn hoá Trung Bộ. So sánh với 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ thì Trung Bộ thể hiện rõ nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây phần nào đã chịu sự ảnh hưởng từ các yếu tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi, các đầm và đồng bằng, vào trong các thành tố văn hoá vùng. Thể hiện qua các loại hình văn hóa, tập tục xã hội nói chung và cuộc sống trong các làng, xã đồng bằng ven biển nói riêng. Các làng nghề nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công, có hoạt động đan xen, hỗ trợ nhau. Điển hình là các ngày lễ cúng đình của làng nghề nông nghiệp và đồng thời là lễ cúng cá ông của làng nghề đánh cá, phần do vùng Trung Bộ gồm có những tiểu đồng bằng nhỏ hẹp, bám sát vào các chân núi ven biển. Khí hậu quanh năm trong vùng không được thuận lợi và tính chất văn hoá vùng miền chịu sự chi phối mạnh của điều kiện tự nhiên vốn luôn khắc nghiệt này. Tuy văn hóa Trung Bộ có những đặc điểm riêng biệt với các vùng khác, nhưng xuất phát từ hệ thống địa lý liền một dải, lại có mối quan hệ tương hỗ giữa các vùng miền trong lịch sử phát triển nên vừa có tính đặc trưng lại vừa tương đồng với nền văn hoá chính thể. Kinh tế Đặc điểm chung Kinh tế Miền Trung với sự tập trung là 5 tỉnh kinh tế trọng điểm, có nhiều lợi thế về vị trí chiến lược bao gồm nguồn nhân lực, 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu công nghiệp, 2 khu chế xuất, 8 sân bay, 2 xa lộ xuyên Việt, hành lang kinh tế Đông Tây và những dự án hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay các tiềm năng sẵn có đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế vùng miền nói chung khi các tỉnh, thành đều có những ưu thế nhưng chưa được quy hoạch tổng thể, đang còn tồn tại sự phát triển lao động sản xuất manh mún, tự phát. Các cảng biển nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương (Hà Tĩnh), Chân Mây (Thừa Thiên Huế), Tiên Sa (Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng Nam) và Dung Quất (Quảng Ngãi) không được hoạt động hết công suất tối đa. Các khu công nghiệp - chế xuất đang trong tình trạng thiếu vắng các doanh nghiệp trong và ngoài nước trú trọng và quan tâm đầu tư. Vùng kinh tế trọng điểm Các khu vực kinh tế trọng điểm của Miền Trung gồm 5 tỉnh/thành: thành phố Đà Nẵng (hạt nhân), tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định với tổng diện tích khoảng 27.884 km², dân số năm 2006 vào khoảng 6,2 triệu người và dự báo đến 2025 là 8,15 triệu người . Các khu vực kinh tế này không chỉ có vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên mà còn có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cả nước về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Là mặt tiền của tiểu vùng sông Mekong, từ đây có thể giao thương với các nước như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và xa hơn là các nước Nam Á và vùng Tây Nam Trung Quốc qua các trục hành lang Đông - Tây, quốc lộ 9, đường 14, đường 24, đường 19. Năm 1994, Chính phủ phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp Dung Quất đã ra đời vùng kinh tế trọng điểm kéo dài từ Liên Chiểu (Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng Ngãi), hình thành trục phát triển công nghiệp và du lịch dọc theo vùng duyên hải từ Đà Nẵng đến Dung Quất cùng với chuỗi đô thị đang phát triển trải dài 558 km theo bờ biển, gồm Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và các khu kinh tế lớn như Chân Mây - Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội. Sau đó 2 năm (năm 1996) dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp thương mại - du lịch và dịch vụ Chân Mây ra đời dẫn đến sự phát triển vùng kinh tế trọng điểm ra đến Thừa Thiên Huế. Tiếp đến năm 2004, việc phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu kinh tế Nhơn Hội dẫn đến sự mở rộng vùng kinh tế trọng điểm về phía Nam đến Bình Định. Du lịch Từ năm 1993, khi cố đô Huế và tiếp đó là đô thị cổ Hội An, Mỹ Sơn, nhã nhạc cung đình Huế, vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng lần lượt được công nhận là di sản văn hóa thế giới đã tạo ra một dáng vẻ mới cho sự phát triển ngành du lịch miền Trung. Nơi đây còn có trên 80 di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, nhiều bãi biển đẹp nhất Việt Nam và một số hệ sinh thái điển hình như đầm phá, vùng cát, san hô. Gắn với hành lang kinh tế Đông - Tây bởi các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Việt Nam - Lào gồm có cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh), cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình), cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), cửa khẩu Đắc Ốc (Quảng Nam), cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum); Các bãi tắm, vịnh đẹp dọc biển miền Trung; Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản thiên nhiên phục vụ việc tham quan - nghiên cứu (từ Phòng Nha đến Huế, Hội An, Mỹ Sơn…); Những thương hiệu ẩm thực miền Trung tập trung vào các món ăn Huế và đặc biệt là các món ăn đặc sản biển; Những trung tâm mua sắm, sản xuất hàng lưu niệm đáp ứng nhu cầu mua bán của du khách; Các lễ hội được nghiên cứu và mở rộng trong nhiều địa phương. Chính là những điều kiện đã trở thành chuỗi sản phẩm du lịch thu hút sự phát triển kinh tế cho toàn vùng. Tổng nguồn vốn đầu tư cho kinh tế du lịch miền Trung và Tây Nguyên cho đến năm 2005 là 240,6 triệu USD và cho giai đoạn đầu tư phát triển tiếp theo từ năm 2006 đến năm 2010 là 1.131 triệu USD. Du lịch miền Trung, du khách sẽ có cơ hội tận hưởng những bãi biển tuyệt đẹp như bãi biển Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Nhật Lệ, Cửa Tùng, Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô, Mỹ Khê, Cà Ná, Cửa Đại, Quy Nhơn, Nha Trang, Mũi Né (Phan Thiết). Bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng) còn được tạp chí uy tín hàng đầu của Mỹ, Forbes chọn là một trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) và vịnh Lăng Cô (Thừa Thiên Huế) là 2 trong số 3 vịnh biển của Việt Nam được kết nạp vào CLB các vịnh biển đẹp nhất thế giới. Vịnh biển còn lại là vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) nằm ở miền bắc Việt Nam. Du lịch sông nước là một trong những nét quyến rũ của miền Trung, du khách có thể xuôi theo dòng sông Hương, ngắm cảnh sắc đẹp và tĩnh lặng như tranh thủy mặc. Phố cổ Hội An - một trong 10 điểm dừng chân tuyệt vời nhất châu Á do tạp chí Smart Travel Asia bình chọn. Một địa điểm lý tưởng du lịch miền Trung nữa là Đại nội kinh thành Huế, đặc biệt sinh động với cảnh sắc Đại nội trong ánh đèn đêm. Ngành du lịch miền Trung mang cả sự hiện đại và năng động, kết hợp trong đó là những nét văn hóa truyền thống dân gian, dân tộc. Danh lam thắng cảnh Khu vực duyên hải miền Trung Bãi biển Sầm Sơn: Thuộc thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bãi biển Sầm Sơn do người Pháp khai thác từ năm 1906 và đã nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát của Đông Dương. Bãi biển Cửa Lò: Thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Bãi biển Cửa Lò là một trong những bãi tắm đẹp ở Việt Nam, nằm giữa quần thể du lịch - văn hóa của xứ Nghệ. Ngã ba Đồng Lộc: Nằm ở giao điểm của tỉnh lộ số 5 và quốc lộ 15, thuộc lợi phận huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Trong những năm chiến tranh, ngã ba Đồng Lộc là cửa ngõ giao thông từ miền Bắc và đường mòn Hồ Chí Minh. Thiên Cầm: Nằm ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã cho xây dựng Thiên Cầm thành một khu nghỉ mát. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (di sản thiên nhiên thế giới): Thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đây là một phần của khu vực núi đá vôi cổ nhất ở châu Á được tạo lập từ hơn 400 triệu năm trước. Năm 2003, Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, là Di sản thế giới thứ năm của Việt Nam. Địa đạo Vịnh Mốc: Thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Địa đạo Vịnh Mốc được đào trong vòng 2 năm. Hệ thống đường hầm có tổng chiều dài gần 2 km, chia thành 3 tầng. Địa đạo được thiết kế như một làng dưới mặt đất với 94 căn hộ gia đình, có giếng nước ngọt, hội trường, nhà hộ sinh, phòng phẫu thuật, bếp Hoàng Cầm. Kinh thành Huế: Nằm ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tổng thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Bảo tàng điêu khắc Chămpa: Xây dựng từ năm 1915 dưới sự bảo trợ của Viện nghiên cứu Viễn Đông Pháp tại Việt Nam. Bảo tàng điêu khắc Chàm xây phỏng theo mô típ của các kiến trúc Chămpa. Ngũ Hành Sơn: Thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thủy Sơn và Mộc Sơn ở phía đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hoả Sơn ở phía tây. Di sản văn hóa Thánh địa Mỹ Sơn: Thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chămpa. Những đền thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva, là Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Phố cổ Hội An: Thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Là mẫu tiêu biểu về một cảng thị truyền thống Đông Nam Á trong giai đoạn thế kỷ XV - XVI. Ghềnh Ráng Tiên Sa: Nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 3 km về hướng đông nam. Thắng cảnh Ghềnh Ráng trải dài dọc bờ biển, uốn lượn hàng cây số, nước biển trong xanh. Nơi đây có bãi Đá Trứng (với vô số hòn đá tròn nhẵn như trứng chim khổng lồ) là quần thể sơn thạch còn gọi là Bãi tắm Hoàng Hậu (Nam Phương Hoàng Hậu từng đến tắm ở đây), dấu vết tận cùng phía đông của dãy núi Xuân Vân. Ngoài ra, nơi đây còn mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử nằm trên đồi Thi Nhân và Lầu Bảo Đại (một nhà nghỉ ba tầng, mặt hướng ra biển, đã bị phá hủy trong chiến tranh). Vịnh Văn Phong: Thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km về phía bắc. Vịnh Văn Phong được Hiệp hội Biển thế giới công nhận là một trong bốn vịnh có vị trí du lịch biển lý tưởng nhất hiện nay. Bãi biển Đại Lãnh: Thuộc địa phận huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách Nha Trang khoảng 80 km. Là một trong những bãi biển có vẻ đẹp thiên nhiên bậc nhất. Khu bảo tồn biển Hòn Mun: Nằm ở phía nam vịnh Nha Trang, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Tháp Pô Nagar: Nằm bên cửa sông Cái và Quốc lộ 1, thuộc phường Vĩnh Phước, phía bắc thành phố Nha Trang. Mũi Né: Là tên một làng chài, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 20 Km. Mũi Né có nhiều bãi biển nguyên thủy, chưa có sự khai thác của con người, cảnh quan hùng vĩ, môi trường thiên nhiên trong lành. Khu vực cao nguyên miền Trung Hồ Xuân Hương: Nằm tại trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953, là nữ sĩ thơ Nôm Hồ Xuân Hương người Việt Nam thế kỷ thứ XIX. Thung lũng Tình Yêu: Nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt chừng 5 km về phía bắc. Ga Đà Lạt: Tuyến đường sắt nối Đà Lạt với Tháp Chàm (Tourcham), khánh thành năm 1938 và được đánh giá là nhà ga đẹp nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt: Tọa lạc bên hồ Tuyền Lâm trên núi Phượng Hoàng, thuộc phường 3 thành phố Đà Lạt. Chùa do hòa thượng Thích Thanh Từ tạo dựng từ đầu thập niên 90. Biển hồ Tơ Nưng: Nằm ở xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Biển hồ Tơ Nưng nguyên là một miệng núi lửa ngừng hoạt động đã hàng trăm triệu năm. Nhà mồ Tây Nguyên: Tồn tại ở hầu hết các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Nhà mồ Tây Nguyên được xây cất theo phong tục tang lễ, có trang trí nhiều tượng gỗ. Hình ảnh Trung Bộ
Biến đổi Fourier hay chuyển hóa Fourier, được đặt tên theo nhà toán học người Pháp Joseph Fourier, là phép biến đổi một hàm số hoặc một tín hiệu theo miền thời gian sang miền tần số. Chẳng hạn như một bản nhạc có thể được phân tích dựa trên tần số của nó. Ứng dụng Biến đổi Fourier có rất nhiều ứng dụng khoa học, ví dụ như trong vật lý, số học, xử lý tín hiệu, xác suất, thống kê, mật mã, âm học, hải dương học, quang học, hình học và rất nhiều lĩnh vực khác. Trong xử lý tín hiệu và các ngành liên quan, biến đổi Fourier thường được nghĩ đến như sự chuyển đổi tín hiệu thành các thành phần biên độ và tần số. Sự ứng dụng rộng rãi của biến đổi Fourier bắt nguồn từ những tính chất hữu dụng của biến đổi này: Tính tuyến tính: Tồn tại biến đổi nghịch đảo, và thực tế là biến đổi Fourier nghịch đảo gần như có cùng dạng với biến đổi thuận. Những hàm số sin cơ sở là các hàm riêng của phép vi phân, có nghĩa là khai triển này biến những phương trình vi phân tuyến tính với các hệ số không đổi thành các phương trình đại số cơ bản. Ví dụ, trong một hệ vật lý tuyến tính không phụ thuộc thời gian, tần số là một đại lượng không đổi, do đó những thành phần tần số khác nhau có thể được tính toán một cách độc lập. Theo định lý tích tổng chập, biến đổi Fourier chuyển một tích tổng chập phức tạp thành một tích đại số đơn giản. Biến đổi Fourier rời rạc có thể được tính toán một cách nhanh chóng bằng máy tính nhờ thuật toán FFT (fast Fourier transform). Theo định lý Parseval-Plancherel, năng lượng của tín hiệu (tích phân của bình phương giá trị tuyệt đối của hàm) không đổi sau biến đổi Fourier. Các dạng của biến đổi Fourier Biến đổi Fourier liên tục Thông thường, tên gọi biến đổi Fourier được gắn cho biến đổi Fourier liên tục, biến đổi này biểu diễn một hàm bình phương khả tích f(t) bất kì theo tổng của các hàm e lũy thừa phức với tần số góc ω và biên độ phức F(ω): Đây là biến đổi nghịch đảo của biến đổi Fourier liên tục, trong khi biến đổi Fourier biểu diễn hàm F(ω) theo f(t). Xem biến đổi Fourier liên tục để biết thêm chi tiết. Chuỗi Fourier Biến đổi Fourier liên tục là dạng tổng quát của một khái niệm có từ trước, đó là chuỗi Fourier. Chuỗi Fourier khai triển các hàm tuần hoàn f(x) với chu kì 2π (hoặc các hàm có tập xác định bị chặn) theo chuỗi của các hàm sin: trong đó là biên độ phức. Cho các hàm thực, chuỗi Fourier có thể được viết dưới dạng: trong đó an và bn là các hằng số Fourier (giá trị thực). Biến đổi Fourier rời rạc Các dạng khác
Internet Protocol (tiếng Anh, viết tắt: IP, có nghĩa là Giao thức Internet) là một giao thức hướng dữ liệu được sử dụng bởi các máy chủ nguồn và đích để truyền dữ liệu trong một liên mạng chuyển mạch gói. Dữ liệu trong một liên mạng IP được gửi theo các khối được gọi là các gói (packet hoặc datagram). Cụ thể, IP không cần thiết lập các đường truyền trước khi một máy chủ gửi các gói tin cho một máy khác mà trước đó nó chưa từng liên lạc với. IP cung cấp một dịch vụ gửi dữ liệu không đảm bảo (còn gọi là cố gắng cao nhất), nghĩa là nó hầu như không đảm bảo gì về gói dữ liệu. Gói dữ liệu có thể đến nơi mà không còn nguyên vẹn, nó có thể đến không theo thứ tự (so với các gói khác được gửi giữa hai máy nguồn và đích đó), nó có thể bị trùng lặp hoặc bị mất hoàn toàn. Nếu một phần mềm ứng dụng cần được bảo đảm, nó có thể được cung cấp từ nơi khác, thường từ các giao thức giao vận nằm phía trên IP. Các thiết bị định tuyến liên mạng chuyển tiếp các gói tin IP qua các mạng tầng liên kết dữ liệu được kết nối với nhau. Việc không có đảm bảo về gửi dữ liệu có nghĩa rằng các chuyển mạch gói có thiết kế đơn giản hơn. (Lưu ý rằng nếu mạng bỏ gói tin, làm đổi thứ tự hoặc làm hỏng nhiều gói tin, người dùng sẽ thấy hoạt động mạng trở nên kém đi. Hầu hết các thành phần của mạng đều cố gắng tránh để xảy ra tình trạng đó. Đó là lý do giao thức này còn được gọi là cố gắng cao nhất. Tuy nhiên, khi lỗi xảy ra không thường xuyên sẽ không có hiệu quả đủ xấu đến mức người dùng nhận thấy được.) IP rất thông dụng trong mạng Internet công cộng ngày nay. Giao thức tầng mạng thông dụng nhất ngày nay là IPv4; đây là giao thức IP phiên bản 4. IPv6 được đề nghị sẽ kế tiếp IPv4: Internet đang hết dần địa chỉ IPv4, do IPv4 sử dụng 32 bit để đánh địa chỉ (tạo được khoảng 4 tỷ địa chỉ); IPv6 dùng địa chỉ 128 bit, cung cấp tối đa khoảng 3.4×1038 địa chỉ (xem bài về IPv6 để biết thêm chi tiết). Các phiên bản từ 0 đến 3 hoặc bị hạn chế, hoặc không được sử dụng. Phiên bản 5 được dùng làm giao thức dòng (stream) thử nghiệm. Còn có các phiên bản khác, nhưng chúng thường dành là các giao thức thử nghiệm và không được sử dụng rộng rãi. Địa chỉ IP được chia thành 4 số giới hạn từ 0 - 255. Mỗi số được lưu bởi 1 byte - > IP có kích thước là 4byte, được chia thành các lớp địa chỉ. Có 3 lớp là A, B, và C. Nếu ở lớp A, ta sẽ có thể có 16 triệu địa chỉ, ở lớp B có 65536 địa chỉ. Ví dụ: Ở lớp B với 132.25,chúng ta có tất cả các địa chỉ từ 132.25.0.0 đến 132.25.255.255. Phần lớn các địa chỉ ở lớp A llà sở hữu của các công ty hay của tổ chức. Một ISP thường sở hữu một vài địa chỉ lớp B hoặc C. Ví dụ: Nếu địa chỉ IP của bạn là 132.25.23.24 thì bạn có thể xác định ISP của bạn là ai. (có IP là 132.25.x.) Trên Internet thì địa chỉ IP của mỗi người là duy nhất và nó sẽ đại diện cho chính người đó, địa chỉ IP được sử dụng bởi các máy tính khác nhau để nhận biết các máy tính kết nối giữa chúng. Đây là lý do tại sao bạn lại bị IRC cấm, và là cách người ta tìm ra IP của bạn. Địa chỉ IP có thể dễ dàng phát hiện ra, người ta có thể lấy được qua các cách sau: Bạn lướt qua một trang web, IP của bạn bị ghi lại Trên IRC, bất kì ai cũng có thể có IP của bạn Trên ICQ, mọi người có thể biết IP của bạn, thậm chí bạn chọn ``do not show IP`` người ta vẫn lấy được nó Nếu bạn kết nối với một ai đó, họ có thế gõ ``netstat –n ``, và biết được ai đang kết nối đên họ Nếu ai đó gửi cho bạn một email với một đoạn mã java tóm IP, họ cũng có thể tóm được IP của bạn Có thể dùng những phần mềm như tcpdump hay wireshark để nhìn vào gói tin IP và tìm ra IP của bạn Định tuyến và địa chỉ IP Có lẽ các khía cạnh phức tạp nhất của IP là việc đánh địa chỉ và định tuyến. Đánh địa chỉ là công việc cấp địa chỉ IP cho các máy đầu cuối, cùng với việc phân chia và lập nhóm các mạng con của các địa chỉ IP. Việc định tuyến IP được thực hiện bởi tất cả các máy chủ, nhưng đóng vai trò quan trọng nhất là các thiết bị định tuyến liên mạng. Các thiết bị đó thường sử dụng các giao thức cổng trong (interior gateway protocol, viết tắt là IGP) hoặc các giao thức cổng ngoài (external gateway protocol, viết tắt là EGP) để hỗ trợ việc đưa ra các quyết định chuyển tiếp các gói tin IP (IP datagram) qua các mạng kết nối với nhau bằng giao thức IP.
Tầng liên kết dữ liệu là tầng hai của mô hình bảy tầng OSI. Nó đáp ứng các yêu cầu phục vụ của tầng mạng và phát sinh các yêu cầu phục vụ gửi tới tầng vật lý. Tầng liên kết dữ liệu là tầng mạng có nhiệm vụ truyền dữ liệu giữa các nút mạng kề nhau trong một mạng diện rộng hoặc giữa các nút trong cùng một segment mạng cục bộ. Tầng liên kết dữ liệu cung cấp các phương tiện chức năng và thủ tục để truyền dữ liệu giữa các thực thể mạng và có thể cung cấp phương tiện để phát hiện và có thể sửa các lỗi có thể nảy sinh tại tầng vật lý. Ví dụ về các giao thức liên kết dữ liệu là giao thức Ethernet cho các mạng cục bộ và các giao thức PPP, HDLC và ADCCP cho các kết nối điểm tới điểm (point-to-point). Nhiệm vụ của liên kết dữ liệu là gửi thông tin từ nơi này đến một số nơi khác. Tại tầng này, một nút mạng không cần phải có khả năng gửi tới mọi nút khác, mà chỉ cần gửi được tới một số nút khác. Trong các mối quan hệ xã hội cũng vậy, người ta cần quen biết ít nhất một người khác, nhưng không nhất thiết phải biết ông Tùng ở Waterloo, Canada. Tầng liên kết dữ liệu cung cấp dịch vụ chuyển dữ liệu qua các liên kết vật lý. Việc chuyển đó có thể đáng tin cậy hoặc không đáng tin cậy; nhiều giao thức liên kết dữ liệu không có acknowledgement (các thông điệp báo rằng đã nhận được một frame và đã chấp nhận frame đó), một số giao thức liên kết dữ liệu thậm chí còn không có bất cứ dạng checksum nào để kiểm tra lỗi truyền. Trong các trường hợp đó, các giao thức ở các tầng cao hơn phải cung cấp các chức năng điều khiển lưu lượng (flow control), kiểm lỗi, và xác nhận và truyền lại (acknowledgments and retransmission). Tầng này đôi khi được chia thành hai tầng con. Tầng con thứ nhất có tên Điều khiển Liên kết Lôgic (Logical Link Control, viết tắt là LLC). Tầng con này multiplex các giao thức hoạt động phía trên tầng liên kết dữ liệu, và theo tùy chọn có thể cung cấp chức năng điều khiển lưu lượng, acknowledgment, và khôi phục lỗi. Tầng con thứ hai có tên Điều khiển Truy nhập Môi trường (Media Access Control, viết tắt là MAC). Tầng con này quyết định tại mỗi thời điểm ai sẽ được phép truy nhập môi trường truyền dẫn. Có hai dạng điều khiển truy nhập môi trường: điều khiển phân tán và điều khiển tập trung. Cả hai đều có thể so sánh với việc liên lạc của con người: Trong một mạng gồm một số người đang nói, nghĩa là trong một cuộc trò chuyện, người ta nhìn những người xung quanh để biết ai có vẻ như sắp nói. Nếu hai người nói cùng lúc, họ sẽ ngừng lại và bắt đầu một trò chơi nhường nhịn rắc rối gồm các câu "Không, anh nói trước đi." Trong Nghị viện Anh, người chủ tọa quyết định khi nào ai được nói, và chủ tọa được quyền hô "trật tự" nếu có ai đó phạm luật. Tầng con Điều khiển Truy nhập Môi trường còn quyết định một frame dữ liệu kết thúc tại đâu và frame tiếp theo bắt đầu từ đâu. Trong mạng thư tín, mỗi lá thư là một frame dữ liệu, ta có thể biết nó bắt đầu và kết thúc ở đâu vì nó nằm trong một chiếc phong bì. Ta cũng có thể chỉ ra rằng một lá thư sẽ mở đầu bằng một ngữ như "Em thân yêu," và kết thúc bằng một câu kiểu như "Nhớ em nhiều." Trong các mạng cục bộ theo chuẩn IEEE 802, tầng liên kết dữ liệu được chia thành hai tầng con MAC và LLC; điều đó có nghĩa là có thể dùng giao thức LLC IEEE 802.2 cùng với mọi tầng MAC IEEE 802, chẳng hạn Ethernet, Token Ring, IEEE 802.11, v.v.., cũng như các tầng MAC không theo chuẩn IEEE 802 chẳng hạn FDDI. Các giao thức liên kết dữ liệu khác, chẳng hạn HDLC, được đặc tả để bao gồm cả hai tầng con, mặc dù một số giao thức khác, chẳng hạn Cisco HDLC, sử dụng HDLC's low-level framing như là một tầng MAC khi kết hợp với các tầng LLC khác nhau. Ví dụ ARCnet ATM - Asynchronous Transfer Mode Controller Area Network (CAN) Econet Ethernet FDDI - Fiber Distributed Data Interface Frame Relay IEEE 802.2 (cung cấp các chức năng LLC cho các tầng MAC theo chuẩn IEEE 802) LocalTalk MPLS - Multi Protocol Label Switching Shortest Path Bridging (SPB) PPP - Point-to-Point Protocol SLIP - Serial Line Internet Protocol (đã lỗi thời) StarLan Token ring Các giao diện Tầng liên kết dữ liệu thường được cài đặt trong phần mềm với vai trò một driver card mạng (network card driver). Hệ điều hành sẽ phải định nghĩa một giao diện phần mềm giữa liên kết dữ liệu và chồng giao vận mạng ở bên trên. Giao diện này không phải là một tầng mà chỉ là một định nghĩa về giao tiếp giữa các tầng. Các ví dụ: ODI - Open Data-Link Interface NDIS - Network Driver Interface Specification SANA II card mạng
Ieoh Ming Pei (tiếng Trung Quốc: 貝聿銘; bính âm: Bèi Yùmíng, Hán – Việt: Bối Duật Minh; sinh 26 tháng 4 năm 1917 – 15 tháng 5 năm 2019) là một kiến trúc sư nổi tiếng của Kiến trúc hiện đại. Công trình của ông có hình khối trừu tượng, sử dụng đá, bê tông, kính, thép. Pei là một trong những kiến trúc sư thành công nhất của thế kỉ 20. Ông đã được tặng giải thưởng Pritzker năm 1983. Tiểu sử Ieoh Ming Pei sinh ngày 26 tháng 4 tháng 1917 tại Quảng Châu, nhưng quê gốc ở Tô Châu, Giang Tô, Trung Quốc. Năm 18 tuổi gia đình ông di cư đến Hoa Kỳ. Ông lớn lên tại Thượng Hải, sau đó là trường trung học St. Paul tại Hồng Kông trước khi cùng gia đình di cư đến Mỹ. Ông bắt đầu theo học kiến trúc tại Đại học Pennsylvania, sau đó lấy bằng thạc sĩ kiến trúc tại Học viện kĩ thuật Massachusetts (MIT) năm 1940. Cùng năm đó, ông nhận được giải thưởng Alpha Rho Chi, Giải thưởng hữu nghị của MIT, và Huy chương vàng AIA. Hai năm sau, Pei theo học tại trường thiết kế, Đại học Harvard. Một thời gian ngắn sau đó, ông chuyển sang làm việc tại Ủy ban nghiên cứu phòng vệ quốc gia (National Defense Research Committee) ở Princeton, New Jersey Năm 1944, Pei quay lại Harvard lấy bằng thạc sĩ kiến trúc thứ 2 tại đây vào năm 1946. Kế đó ông làm trợ lý giáo sư tại Harvard. Ông nhận học bổng du lịch hữu nghị Wheelwright năm 1951 và nhập tịch vào công dân Mỹ năm 1954. Văn phòng Thiết kế I. M. Pei và cộng sự được Pei thành lập năm 1955, đến năm 1989 đổi tên thành Pei, Cobb, Freed và Cộng sự. Pei có hai con trai là Chien Chung (Didi) Pei, và Li Chung (Sandi) Pei. Cả hai đều theo học tại Đại học Harvard và cộng tác với Pei trong các đồ án nổi tiếng như bảo tàng Louvre và tháp Ngân hàng Trung Quốc tại Hồng Kông. Hiện nay 2 người con ông đứng đầu mở hãng thiết kế Pei và cộng sự, I. M. Pei tham dự với tư cách là cố vấn sau khi ông nghỉ hưu, rút ra khỏi I. M. Pei và cộng sự năm 1989. Công trình tiêu biểu 1954–1959 – Trung tâm Mile High, Denver, Colorado, Mỹ 1961–1967 – Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng Quốc gia, Boulder, Colorado, Mỹ 1961 – Quảng trường Kips Bay, New York, New York, Mỹ Quảng trường Kips Bay 1961 – Quy hoạch trung tâm chính phủ, Boston, Massachusetts, Mỹ 1962 – Trung tâm Ville-Marie, Montreal, Quebec, Canada 1962 – Nhà hát Kennedy, Đại học Hawaii, Mỹ Trang web chính thức 1962 – Ký túc xá sinh viên Hale Manoa, Trung tâm Đông Tây, Đại học Hawaii, Mỹ 1963 – Nhà tưởng niệm Luce, Đại học Đông Hải, Đài Trung, Đài Loan 1964 – Nhà Green, Học viện kĩ thuật Massachusetts 1964 – Nhà học mới của trường giao tiếp cộng đồng S.I, Đại học Syracuse - Syracuse, New York 1966–1968 – Gian điêu khắc của Trung tâm nghệ thuật Des Moines, Des Moines, Iowa Trang web chính thức của trung tâm Des Moines 1966 – Tháp Silver, Đại học New York 1967 – Giảng đường Hoffman tại Đại học Nam California 1968–1972 – 50 tháp kiểm soát không lưu cho Kiểm soát không lưu liên bang tại nhiều địa điểm trên đất Mỹ 1968–1974 – Trung tâm khoa học thiên chúa, Boston, Massachusetts 1968 – Bảo tàng nghệ thuật Everson, ở Syracuse, New York 1969 – Thư viện Cleo Rogers, ở Columbus, Indiana 1969 – Học viện trung tâm, Đại học Tiểu bang New York ở Fredonia, Fredonia, New York 1970 – Nhà ga hàng không quốc gia sân bay JFK, New York, New York 1971 – Tháp Harbor 1972 – Tòa thị chính Dallas, Texas 1972 – Trung tâm nghệ thuật Paul Mellon, tại Choate Rosemary Hall, Wallingford, Connecticut 1972 – Khu ở Pei, New College of Florida 1973 – Tòa án thương mại, Toronto, Ontario, Canada 1973 – Giảng đường Spelman, Đại học Princeton 1973 – Bảo tàng nghệ thuật Herbert F. Johnson, Đại học Cornell, Ithaca, New York 1974–1978 – Tòa nhà phía đông, Phòng trưng bày nghệ thuật quốc gia, Washington, DC Official East Trang web về đồ án 1975 – Trung tâm OCBC, Singapore. 1976 – Toà nhà John Hancock, ở Boston, Massachusetts - Pei nhường bản quyền thiết kế cho Henry Cobb tại 1976 – Đại học Rochester 1978–1982 – Viện bảo tàng nghệ thuật Indiana, Bloomington, Indiana 1979 – Thư viện John Fitzgerald Kennedy, Boston, Massachusetts 1979 – Trung tâm thương mại thế giới Baltimore, Baltimore, Maryland 1979–1986 – Trung tâm hội nghị Javits, ở New York, New York 1980–1985 – Tổ hợp Raffles City, Singapore. 1981 – Tháp thương mại Texas ở Houston, Texas, hiện giờ mang tên tháo J.P. Morgan Chase; (với sự cộng tác của 3D/International) 1982 – Số 16 đường Mall, Denver, Colorado. 1982–1990 – Ngân hàng Trung Quốc, Hồng Kông Trang web về đồ án Ngân hàng Trung Quốc tại Hồng Kông 1982 – Căn hộ cho Steve Jobs 1983 – Energy Plaza, Dallas, Texas 1985 – Tòa nhà Wiesner, Học viện Kỹ thuật Massachusetts, Cambridge, Massachusetts 1986 – Fountain Place, Dallas, Texas 1987 – Tháp ngân hàng Mỹ, Miami, Florida 1989 – Trung tâm giao hưởng Morton H. Meyerson, Dallas, Texas 1989 – Carl Icahn Trung tâm khoa học tại Choate Rosemary Hall, Wallingford, Connecticut 1989 – Trụ sở của hãng Creative Artists, Los Angeles, California 1989 – Mở rộng và cải tạo bảo tàng Louvre, Paris, Pháp Trang web về kim tự tháp bảo tàng Louvre. (Xem thêm Kim tự tháp kính Louvre.) 1991 – Bảo tàng Miho, Shiga, Nhật Trang web chính thức Trang thông tin chính thức về kiến trúc 1992 – Phòng mạch Kirklin của hệ thống chăm sóc sức khỏe Đại học Alabama ở Birmingham, Birmingham, Alabama 1995 – Bảo tàng Rock and Roll, Cleveland, Ohio 2001 – Trung tâm hữu nghị cho kỹ sư, Đại học Princeton. 2003 – Phần mở rộng của Bảo tàng lịch sử Đức (Deutsches Historisches Museum) Berlin, Đức. 2005 – Trung tâm trình diễn nghệ thuật Ferguson tại Đại học Christopher Newport, Newport News, Virginia. Chú thích Phỏng vấn I.M. Pei về bảo tàng Kenedy, Boston – với Robert Campbell, nhà phê bình của tờ Boston Globe (audio/video stream) Hướng dẫn du lịch bằng am thanh cho tòa nhà phía đông của Phòng trưng bài nghệ thuật quốc gia Tiểu sử của I.M.Pei Official projects list from Pei Cobb Freed & Partners website
Bù 2 (tiếng Anh: two's complement) là một số trong hệ nhị phân là bù đúng (true complement) của một số khác. Một số bù 2 có được do đảo tất cả các bit có trong số nhị phân (đổi 1 thành 0 và ngược lại) rồi thêm 1 vào kết quả vừa đạt được. Thực chất, số biểu diễn ở dạng bù 2 là số biểu diễn ở bù 1 rồi sau đó cộng thêm 1. Trong quá trình tính toán bằng tay cho nhanh người ta thường sử dụng cách sau: bắt đầu từ số nhị phân của số dương cần lấy âm, từ phải qua trái giữ 1 đầu tiên và các số còn lại bên trái số 1 lấy đảo lại (chỉ áp dụng cho số có bit cực phải là 1). Phương pháp bù 2 thường được sử dụng để biểu diễn số âm trong máy tính. Theo phương pháp này, bit cực trái (là bit nằm bên trái cùng của byte) được sử dụng làm bit dấu (sign bit - là bit tượng trưng cho dấu của số) với quy ước: nếu bit dấu là 0 thì số là số dương, còn nếu nó là 1 thì số là số âm. Ngoài bit dấu này ra, các bit còn lại được dùng để biểu diễn độ lớn của số. Ví dụ: số nguyên −5 ở hệ thập phân được biểu diễn trong máy tính theo phương pháp bù 2 như sau (với mẫu 8 bit): Bước 1: xác định số nguyên 5 ở hệ thập phân được biểu diễn trong máy tính là: 0000 0101. Bước 2: đảo tất cả các bit nhận được ở bước 1. Kết quả sau khi đảo là: 1111 1010. Bước 3: cộng thêm 1 vào kết quả thu được ở bước 2: kết quả sau khi cộng: 1111 1011 Lưu ý: Vì là biểu diễn số âm nên bit bên trái cùng luôn giữ là 1. Vậy với phương pháp bù 2, số −5 ở hệ thập phân được biểu diễn trong máy tính như sau: 1111 1011. Ngoài cách làm theo định nghĩa như trên ra, ta còn có thể áp dụng phương pháp bù 2 theo quy tắc sau: với biểu diễn nhị phân của một số dương cho trước, để biểu diễn số âm tương ứng, ta bắt đầu tìm từ phải sang trái cho đến khi gặp bit đầu tiên có giá trị 1. Khi gặp được bit này, ta đảo tất cả các bit từ ngay kề trước nó (tức trước bit có giá trị 1 vừa nói tới) cho đến bit cực trái, và luôn nhớ: bit cực trái là 1. Ví dụ: ta cũng biểu diễn lại số nguyên −5 ở hệ thập phân sang hệ nhị phân theo quy tắc mới này (giả sử với mẫu 8 bit): Bước 1: xác định số nguyên 5 ở hệ thập phân được biểu diễn trong máy tính là: 0000 0101. Bước 2: bắt đầu tìm (từ phải qua trái) bit đầu tiên có giá trị 1, ta thấy, đó là bit thứ nhất (tính từ phải qua). Bước 3: đảo tất cả các bit nằm trước bit thu được ở bước 2. Kết quả nhận được: 1111 1011 Bước 4: vì là biểu diễn số âm nên bit bên trái cùng luôn giữ là 1. Vậy số −5 ở hệ thập phân được biểu diễn trong máy tính theo phương pháp bù 2 là: 1111 1011 (hoàn toàn giống như kết quả trong ví dụ trên). Thực hiện phép cộng với số bù 2 Khi thực hiện phép tính cộng với số âm biểu diễn theo phương pháp bù 2, ta thực hiện như phép cộng nhị phân bình thường, tuy nhiên, trong trường hợp khi đã thực hiện phép cộng đến bit cực trái mà vẫn phát sinh bit nhớ thì ta bỏ bit nhớ này đi. Ví dụ: 1. Cộng hai số thập phân −5 với 2 (mẫu 8 bit): 1111 1011 (số bù 2 của −5) + 0000 0010 (số 2 ở hệ nhị phân) =========== 1111 1101 (số bù 2 của −3) 2. Cộng hai số thập phân −5 với −7 (mẫu 8 bit): 1111 1011 (số bù 2 của −5) + 1111 1001 (số bù 2 của −7) =========== 1111 0100 (số bù 2 của −12) Ta thấy: khi cộng hai bit cực trái của hai số 1111 1011 và 1111 1001, ta vẫn còn nhớ 1, tuy nhiên, trong kết quả và ta bỏ bit này đi. Tràn số Xét trường hợp ta đang có hai số âm −6 và −4 ở hệ thập phân. Biểu diễn nhị phân bằng phương pháp bù 2 với mẫu 4 bit của hai số trên lần lượt là 1010 và 1100. Giả sử, bây giờ, ta cần cộng hai số này. Ta thực hiện phép cộng: 1010 (số bù 2 của −6) + 1100 (số bù 2 của −4) ====== 0110 Ta thấy, kết quả nhận được là 0110. Nếu đổi ra hệ thập phân, đây là số nguyên dương 6 chứ không phải −10 như mong đợi. Vấn đề như trên được gọi là tràn số. Nó xảy ra khi ta lấy số lượng bit để biểu diễn quá ít (như trong ví dụ trên là mẫu 4 bit). Để có thêm thông tin về vấn đề này, xin xem bài tràn số.
Moodle (viết tắt của Modular Object-Oriented Dynamic Learning Environment) là một phần mềm nền cho một hệ quản trị đào tạo (LMS). Moodle được sáng lập năm 1999 bởi Martin Dougiamas, người tiếp tục điều hành và phát triển chính của dự án. Moodle hiện là phần mềm được sử dụng rộng rãi với 38.896 trang web đã đăng ký và 16.927.590 người dùng trong 1.713.438 khóa học (tính đến tháng 1 năm 2008) . Moodle được thiết kế với mục đích tạo ra những khóa học trực tuyến với sự tương tác cao. Tính mã mở cùng độ linh hoạt cao của nó giúp người phát triển có khả năng thêm vào các mô đun cần thiết một cách dễ dàng. Moodle được đăng ký theo bản quyền GNU GPL. Tính năng Moodle có các tính năng cần thiết cho một hệ thống đào tạo trực tuyến, ngoài ra còn có thêm một số tính năng độc đáo (ví dụ như có thêm bộ lọc,...) Moodle được xây dựng theo phân đoạn, và nó dễ dàng được mở rộng bằng cách thêm các thành phần phụ. Cấu trúc cơ bản của Moodle hỗ trợ các thành phần phụ sau: Các hoạt động Các nguồn tài nguyên Các kiểu câu hỏi Các trường dữ liệu (dùng cho các hoạt động liên quan đến cơ sở dữ liệu) Giao diện đồ họa Phương thức chứng thực Phương thức ghi danh Lưu ý: Moodle là hệ thống quản lý đào tạo trực tuyến, không có phần tạo bài giảng trực tiếp (Authoring tool). Điều này cũng tốt vì nó cho phép bạn khai thác nhiều authoring tool trên thế giới. Các Authoring tool tuân thủ SCORM, AICC là: Adobe Presenter (rất tiện, gọn nhẹ) và Adobe Captivate, Adobe Authoware Ariculate Presenter Microsoft LCDS và Producer. (Miễn phí) Active Presenter (đầy đủ các công cụ) Các hệ thống tương tự Ngoài Moodle, hiện có một số các phần mềm có tính năng đào tạo trực tuyến tương tự, cả miễn phí lẫn thương mại: ATutor Blackboard WebCT Desire2Learn Dokeos .LRN Sakai Claroline
Bù 1 (tiếng Anh: one's complement) là một số trong hệ nhị phân mà nó chính là bù cơ số trừ 1 (radix-minus-1 complement) của một số khác. Một số bù 1 có thể có được do đảo tất cả các bit có trong số nhị phân (đổi 1 thành 0 và ngược lại). Bên cạnh phương pháp bù 2, bù 1 cũng thường được sử dụng để biểu diễn số âm trong máy tính. Theo phương pháp này, bit cực trái (là bit nằm bên trái cùng của byte) được sử dụng làm bit dấu (sign bit - là bit tượng trưng cho dấu của số) với quy ước: nếu bit dấu là 0 thì số là số dương, còn nếu nó là 1 thì số là số âm. Ngoài bit dấu này ra, các bit còn lại được dùng để biểu diễn độ lớn của số. Ví dụ: số −5 được biểu diễn trong máy tính theo phương pháp bù 1 như sau (với mẫu 8 bit): đầu tiên, xác định số 5 được biểu diễn trong máy tính: 0000 0101. Tiếp theo, đảo tất cả các bit có trong số 5: kết quả sau khi đảo: 1111 1010. Vì là biểu diễn số âm nên bit bên trái cùng luôn giữ là 1. Vậy với phương pháp bù 1, số −5 được biểu diễn trong máy tính như sau: 1111 1010. Thực hiện phép cộng với số bù 1 Khi thực hiện phép tính cộng với số âm biểu diễn theo phương pháp bù 1, ta thực hiện như phép cộng nhị phân bình thường. Trong trường hợp khi đã thực hiện phép cộng đến bit cực trái mà vẫn phát sinh bit nhớ thì ta cộng tiếp bit nhớ này vào kết quả vừa nhận được. Ví dụ: 1. Cộng hai số thập phân −5 với 2 (mẫu 8 bit): 1111 1010 (số bù 1 của −5) + 0000 0010 (số 2 ở hệ nhị phân) =========== 1111 1100(số bù 1 của −3) 2. Cộng hai số thập phân −5 với −7 (mẫu 8 bit): 1111 1010 (số bù 1 của −5) + 1111 1000 (số bù 1 của −7) =========== 1111 0010 (còn nhớ 1) + 1 (cộng tiếp với bit nhớ) =========== 1111 0011 (số bù 1 của −12) Ta thấy: khi cộng hai bit cực trái của hai số 1111 1010 và 1111 1000, ta được kết quả là 1111 0010 và còn nhớ 1, do đó, ta tiếp tục cộng bit nhớ vào kết quả vừa nhận được để ra kết quả cuối cùng. Tràn số Xét trường hợp ta đang có hai số âm −5 và −6 ở hệ thập phân. Biểu diễn nhị phân bằng phương pháp bù 1 với mẫu 4 bit của hai số trên lần lượt là 1010 và 1001. Giả sử, bây giờ, ta cần cộng hai số này. Ta thực hiện phép cộng: 1010 (số bù 1 của −5) + 1001 (số bù 1 của −6) ====== 0011 (còn nhớ 1) + 1 ====== 0100 Ta thấy, kết quả nhận được là 0100. Nếu đổi ra hệ thập phân, đây là số nguyên dương 4 chứ không phải −11 như mong đợi. Vấn đề như trên được gọi là tràn số. Nó xảy ra khi ta lấy số lượng bit để biểu diễn quá ít (như trong ví dụ trên là mẫu 4 bit). Để có thêm thông tin về vấn đề này, xin xem bài tràn số.
Các sản phẩm nguồn mở (tiếng Anh: Open source) bao gồm sự cho phép sử dụng mã nguồn, tài liệu thiết kế hoặc nội dung của sản phẩm. Nó thường được dùng để chỉ mô hình nguồn mở, trong đó phần mềm nguồn mở hoặc các sản phẩm khác được phát hành theo giấy phép nguồn mở như một phần của Phong trào Nguồn mở. Việc sử dụng thuật ngữ bắt nguồn từ phần mềm, nhưng đã mở rộng ra ngoài lĩnh vực phần mềm để bao quát nội dung mở và các hình thức cộng tác mở. Nguồn gốc Cụm từ tiếng Anh đơn giản "nguồn mở" đã xuất hiện lẻ tẻ trong những cuốn sách có niên đại hàng trăm năm. Ví dụ, năm 1685, Thomas Willis đã viết trong The London Practice of Physick, Or The Whole Practical Part of Physick nói về chất lỏng từ một vết thương "chảy ra trong một luồng đầy đủ từ một nguồn mở, cho đến khi nó được rút ra từ toàn bộ Legg..." Tuy nhiên, ý nghĩa hiện đại của thuật ngữ "nguồn mở" lần đầu tiên được đề xuất bởi nhóm người trong phong trào phần mềm tự do, những người chỉ trích chương trình nghị sự chính trị và triết lý đạo đức ngụ ý trong thuật ngữ "free software" và tìm cách điều chỉnh lại ngôn từ để phản ánh một quan điểm mang tính thương mại hơn. INgoài ra, sự mơ hồ của thuật ngữ "free software" được coi là không khuyến khích áp dụng kinh doanh. Nhóm này bao gồm Christine Peterson, Todd Anderson, Larry Augustin, Jon Hall, Sam Ockman, Michael Tiemann và Eric S. Raymond. Peterson đề xuất "nguồn mở"(open source) tại một cuộc họp tổ chức tại Palo Alto, California, để phản ứng với thông báo của Netscape vào tháng 1 năm 1998 về việc phát hành mã nguồn cho Navigator. Linus Torvalds đã ủng hỗ vào ngày hôm sau và, Phil Hughes ủng hộ thuật ngữ này trong Linux Journal. Richard Stallman, người sáng lập phong trào phần mềm tự do, ban đầu dường như chấp nhận thuật ngữ này, nhưng sau đó đã thay đổi quyết định. Netscape đã phát hành mã nguồn theo Netscape Public License và sau đó theo Mozilla Public License. Raymond đặc biệt tích cực trong nỗ lực phổ biến thuật ngữ mới. Ông đã thực hiện cuộc gọi công khai đầu tiên tới cộng đồng phần mềm tự do để áp dụng nó vào tháng 2 năm 1998. Không lâu sau, ông thành lập The Open Source Initiative phối hợp với Bruce Perens. Thuật ngữ này đã đạt được tầm nhìn xa hơn thông qua một sự kiện được tổ chức vào tháng 4 năm 1998 bởi nhà xuất bản công nghệ Tim O'Reilly. Ban đầu có tên là "Freeware Summit" và sau đó được gọi là "Open Source Summit", sự kiện này có sự tham gia của các nhà lãnh đạo của nhiều dự án tự do nguồn mở quan trọng nhất, bao gồm Linus Torvalds, Larry Wall, Brian Behlendorf, Eric Allman, Guido van Rossum, Michael Tiemann, Paul Vixie, Jamie Zawinski, và Eric Raymond. Tại hội nghị đó, các lựa chọn thay thế cho thuật ngữ "free software" đã được thảo luận. Tiemann đề xuất cho "sourceware" là một thuật ngữ mới, trong khi Raymond đề xuất "open source". Các nhà phát triển đã bỏ phiếu, và người chiến thắng đã được công bố trong một cuộc họp báo vào buổi tối cùng ngày. Nhiều tổ chức chính thức lớn đã xuất hiện để hỗ trợ phát triển phong trào phần mềm nguồn mở, bao gồm, bao gồm Apache Software Foundation, hỗ trợ các dự án cộng đồng như framework nguồn mở Apache Hadoop và máy chủ HTTP nguồn mở Apache HTTP. Mô hình nguồn mở và cộng tác mở Mô hình nguồn mở là mô hình phát triển phần mềm phi tập trung khuyến khích cộng tác mở, có nghĩa là "bất kỳ hệ thống đổi mới hoặc sản xuất nào dựa trên những người tham gia được điều phối theo mục tiêu nhưng được phối hợp lỏng lẻo, những người tương tác để tạo ra một sản phẩm (hoặc dịch vụ) có giá trị kinh tế, mà họ cung cấp cho cả những người đóng góp và không phải là nhà cung cấp." Nguyên tắc chính của phát triển phần mềm nguồn mở là sản xuất ngang hàng, với các sản phẩm như mã nguồn, kế hoạch chi tiết và tài liệu có sẵn miễn phí cho công chúng. Sự chuyển động nguồn mở trong phần mềm bắt đầu như một phản ứng đối với những hạn chế của mã độc quyền. Mô hình được sử dụng cho các dự án như trong công nghệ thích hợp nguồn mở, và khám phá nguồn mở. Mô hình nguồn mở để phát triển phần mềm đã truyền cảm hứng cho việc sử dụng thuật ngữ này để chỉ các hình thức cộng tác mở khác, chẳng hạn như trong Internet forum, mailing list và cộng đồng mạng. Hợp tác mở cũng được cho là nguyên tắc hoạt động làm nền tảng cho một loạt các liên doanh đa dạng, bao gồm bitcoin, TEDx, và Wikipedia. Hợp tác mở là nguyên tắc cơ bản của sản xuất ngang hàng, cộng tác đại chúng và wikinomics. Nó đã được quan sát ban đầu trong phần mềm nguồn mở, nhưng cũng có thể được tìm thấy trong nhiều trường hợp khác, chẳng hạn như trong các Internet forums, mailing list, cộng đồng mạng, và nhiều trường hợp khác của nội dung mở, như creative commons. Nó cũng giải thích một số trường hợp của dịch vụ cộng đồng, tiêu dùng hợp tác và đổi mới mở. Riehle et al. định nghĩa sự hợp tác mở là sự hợp tác dựa trên ba nguyên tắc bình đẳng, công đức và tự tổ chức. Levine và Prietula định nghĩa sự hợp tác mở là "bất kỳ hệ thống đổi mới hoặc sản xuất nào dựa trên những người tham gia định hướng mục tiêu nhưng được phối hợp lỏng lẻo, những người tương tác để tạo ra một sản phẩm (hoặc dịch vụ) có giá trị kinh tế, mà họ cung cấp cho cả những người đóng góp và không phải là nhà cung cấp." Định nghĩa này nắm bắt nhiều trường hợp, tất cả được tham gia bởi các nguyên tắc tương tự. Ví dụ, tất cả các yếu tố - hàng hóa có giá trị kinh tế, truy cập mở để đóng góp và tiêu thụ, tương tác và trao đổi, công việc được phối hợp một cách lỏng lẻo - có mặt trong một dự án phần mềm nguồn mở, trong Wikipedia hoặc trong diễn đàn người dùng hoặc cộng đồng. Chúng cũng có thể có mặt trong một trang web thương mại dựa trên nội dung do người dùng tạo. Trong tất cả các trường hợp hợp tác mở này, bất kỳ ai cũng có thể đóng góp và bất kỳ ai cũng có thể tự do tham gia vào thành quả của việc chia sẻ, được tạo ra bởi những người tham gia tương tác được phối hợp một cách lỏng lẻo. Một hội nghị thường niên dành riêng cho nghiên cứu và thực hành hợp tác mở là International Symposium on Wikis and Open Collaboration (OpenSym, trước đây gọi là WikiSym). Theo trang web của mình, nhóm định nghĩa cộng tác mở là "cộng tác là bình đẳng (mọi người đều có thể tham gia, không có rào cản nguyên tắc hoặc nhân tạo nào đối với sự tham gia), công đức (quyết định và trạng thái là dựa trên công đức thay vì áp đặt) và tự tổ chức (quy trình thích nghi với mọi người hơn là mọi người thích nghi với các quy trình được xác định trước)." Giấy phép nguồn mở Nguồn mở thúc đẩy truy cập toàn cầu thông qua giấy phép nguồn mở hoặc giấy phép miễn phí đối với thiết kế hoặc bản thiết kế của sản phẩm và phân phối lại toàn bộ thiết kế hoặc bản thiết kế đó. Trước khi cụm từ nguồn mở được sử dụng rộng rãi, các nhà phát triển và nhà sản xuất đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác. Nguồn mở đã nắm giữ với sự phát triển của Internet.. Phong trào phần mềm nguồn mở phát sinh để làm rõ các vấn đề về bản quyền, cấp phép, tên miền và người tiêu dùng. Giấy phép nguồn mở là một loại giấy phép cho phần mềm máy tính và các sản phẩm khác cho phép mã nguồn, bản thiết kế hoặc thiết kế được sử dụng, sửa đổi và/hoặc chia sẻ theo các điều khoản và điều kiện được xác định. Điều này cho phép người dùng cuối và các công ty thương mại xem xét và sửa đổi mã nguồn, kế hoạch chi tiết hoặc thiết kế cho các nhu cầu tùy chỉnh, tò mò hoặc khắc phục sự cố của riêng họ. Phần mềm được cấp phép nguồn mở hầu hết có sẵn miễn phí, mặc dù điều này không nhất thiết phải như vậy. Các giấy phép chỉ cho phép phân phối lại phi thương mại hoặc sửa đổi mã nguồn cho sử dụng cá nhân thường không được coi là giấy phép nguồn mở. Tuy nhiên, giấy phép nguồn mở có thể có một số hạn chế, đặc biệt liên quan đến việc thể hiện nguồn gốc của phần mềm, chẳng hạn như yêu cầu giữ nguyên tên của tác giả và tuyên bố bản quyền trong mã hoặc yêu cầu phân phối lại phần mềm được cấp phép chỉ theo cùng một giấy phép (như trong giấy phép copyleft). Một bộ giấy phép phần mềm nguồn mở phổ biến là những bộ được cấp phép bởi Sáng kiến ​​nguồn mở (OSI) dựa trên Định nghĩa nguồn mở(OSD) của họ. Phần mềm mã nguồn mở Nói chung, nguồn mở đề cập đến một chương trình máy tính trong đó mã nguồn có sẵn cho công chúng sử dụng cho bất kỳ mục đích nào (bao gồm cả thương mại) hoặc sửa đổi từ thiết kế ban đầu của nó. Mã nguồn mở có nghĩa là một nỗ lực hợp tác, nơi các lập trình viên cải thiện mã nguồn và chia sẻ các thay đổi trong cộng đồng. Mã được phát hành theo các điều khoản của giấy phép phần mềm. Tùy thuộc vào các điều khoản cấp phép, những người khác sau đó có thể tải xuống, sửa đổi và xuất bản phiên bản (phân nhánh) của họ trở lại cộng đồng. "Nguồn mở" so với "tự do" và so với "tự do nguồn mở" Phần mềm tự do nguồn mở (Tiếng Anh là: Free and open-source software (FOSS) hay Free/libre and open-source software (FLOSS))là mã nguồn được chia sẻ công khai được cấp phép mà không có bất kỳ hạn chế nào đối với việc sử dụng, sửa đổi hoặc phân phối. Sự nhầm lẫn vẫn tồn tại về định nghĩa hoàn toàn không bị hạn chế này bởi vì "Free", còn được gọi là "Libre", đề cập đến sự tự do hoặc sản phẩm không phải là giá cả, chi phí, hoặc phí. Ví dụ: "được tự do nói" không giống như "bia miễn phí". Ngược lại, Richard Stallman lập luận ý nghĩa rõ ràng của thuật ngữ "nguồn mở" là mã nguồn là công khai/có thể truy cập để kiểm tra, mà không nhất thiết phải có bất kỳ quyền nào khác được cấp, mặc dù những người đề xuất thuật ngữ nói rằng các điều kiện trong Định nghĩa nguồn mở phải được đáp ứng. "Tự do nguồn mở" không nên bị nhầm lẫn với sở hữu công cộng (sở hữu nhà nước), tước quyền (quốc hữu hóa), chống tư nhân hóa (hoạt động chống công ty) hoặc hành vi minh bạch. GNU Tuyên ngôn GNU Richard Stallman Miễn phí với tự do (không mất phí và không giới hạn) Phần mềm Danh sách các phần mềm nguồn mở Giấy phép nguồn mở, giấy phép bản quyền làm cho mã nguồn có sẵn với một sản phẩm Định nghĩa nguồn mở, được sử dụng bởi Sáng kiến nguồn mở cho phần mềm nguồn mở Mô hình nguồn mở, mô hình phát triển phần mềm phi tập trung khuyến khích sự hợp tác mở Phần mềm nguồn mở, phần mềm cho phép sử dụng và sửa đổi mã nguồn của nó Lịch sử phần mềm tự do nguồn mở Vận động phần mềm nguồn mở Phát triển phần mềm nguồn mở Phong trào phần mềm nguồn mở Open-source video games List of open-source video games Business models for open-source software Comparison of open-source and closed-source software Diversity in open-source software MapGuide Open Source, a web-based map-making platform to develop and deploy web mapping applications and geospatial web services Not to be confused with OpenStreetMap (OSM), a collaborative project to create a free editable map of the world. Nông nghiệp, kinh tế, sản xuất và chế tạo Open-source appropriate technology (OSAT), is designed for environmental, ethical, cultural, social, political, economic, and community aspects Open-design movement, development of physical products, machines and systems via publicly shared design information, including free and open-source software và open-source hardware, among many others: Open Architecture Network, improving global living conditions through innovative sustainable design OpenCores, a community developing digital electronic open-source hardware Open Design Alliance, develops Teigha, a software development platform to create engineering applications including CAD software Open Hardware and Design Alliance (OHANDA), sharing open hardware and designs via free online services Open Source Ecology (OSE), a network of farmers, engineers, architects and supporters striving to manufacture the Global Village Construction Set (GVCS) OpenStructures (OSP), a modular construction model where everyone designs on the basis of one shared geometrical OS grid Open manufacturing or "Open Production" or "Design Global, Manufacture Local", a new socioeconomic production model to openly and collaboratively produce and distribute physical objects Open-source architecture (OSArc), emerging procedures in imagination and formation of virtual and real spaces within an inclusive universal infrastructure Open-source cola, cola soft drinks made to open-sourced recipes Open-source hardware, or open hardware, computer hardware, such as microprocessors, that is designed in the same fashion as open source software List of open-source hardware projects Open-source product development (OSPD), collaborative product and process openness of open-source hardware for any interested participants Open-source robotics, physical artifacts of the subject are offered by the open design movement Open Source Seed Initiative, open source varieties of crop seeds, as an alternative to patent-protected seeds sold by large agriculture companies. Khoa học và y học Khoa học mở Khoa học mở được cho là phản đề của niềm tin mù quáng vào Khoa học, và có tiềm năng trở thành một sự bảo vệ thực tế chống lại giả khoa học độc quyền (đóng). Người ta đã lập luận rằng khoa học được đánh giá ngang hàng, thậm chí là khoa học máy tính, đã được mở cho đến khi cuộc chiến Apple Computer, Inc. với. Franklin Computer Corp. buộc các lập trình viên phải cấp phép rõ ràng cho các sản phẩm là tự do hoặc nguồn mở. Rob Landley, "Vấn đề bản quyền đã thay đổi vào năm 1983, khi phán quyết của Apple v Franklin mở rộng sự bảo vệ bản quyền thành mã nhị phân... Trước đó, mã nguồn có bản quyền nhưng nhị phân thì không, vì vậy các công ty đã chuyển mã nguồn để tăng quyền sở hữu mã trong con mắt của pháp luật. Nếu bạn chỉ vận chuyển các nhị phân được biên dịch sẵn, bạn không có quyền mà pháp luật sẽ công nhận ". Khoa học mở sử dụng phương pháp khoa học như một quá trình khám phá mở về kiến thức có thể kiểm chứng được chia sẻ. Điều này trái ngược với khoa học độc quyền, nơi các quá trình và nghiên cứu không được chia sẻ công khai, điều đó có nghĩa là những người khác không thể chắc chắn rằng các nghiên cứu nghiêm ngặt đã được thực hiện và được tiến hành, thực hiện các biện pháp phòng ngừa thích hợp và đưa ra các cảnh báo đầy đủ; và "khoa học khép kín", trong đó các bài báo bị che khuất sau các khoản thanh toán hoặc được công bố trên các tạp chí tư nhân. Khoa học mở sử dụng phương pháp khoa học như một quy trình. của khám phá mở của kiến thức kiểm chứng được chia sẻ. Khoa học mở, phong trào làm cho nghiên cứu khoa học, dữ liệu và phổ biến có thể tiếp cận được với mọi cấp độ của một xã hội tìm hiểu, nghiệp dư hoặc chuyên nghiệp Open science data, a type of open data focused on publishing observations and results of scientific activities available for anyone to analyze and reuse Open Science Framework and the Center for Open Science Open Source Lab (disambiguation), several laboratories Open-Source Lab (book), a 2014 book by Joshua M. Pearce See also: The antithesis of open science is Scientism, a blind faith in profit driven proprietary (closed) science and marketing (ie. proprietary software, proprietary protocols, fields of private biomedical engineering, biological patents, chemical patents (drugs), minimal sufficiency of disclosure, etc.). Open-notebook science, the practice of making the entire primary record of a research project publicly available online as it is recorded Open Source Physics (OSP), a National Science Foundation và Davidson College project to spread the use of open source code libraries that take care of a lot of the heavy lifting for physics Open Source Geospatial Foundation NASA Open Source Agreement (NOSA), an OSI-approved software license List of open-source software for mathematics List of open-source bioinformatics software List of open-source health software List of open-source health hardware Đa phương tiện Film nguồn mở Danh sách phim nguồn mở Open Source Cinema, một trang web hợp tác để sản xuất một bộ phim tài liệu Báo chí nguồn mở, thường mô tả phổ trên các ấn phẩm trực tuyến, các hình thức xuất bản sáng tạo của báo chí trực tuyến và bỏ phiếu nội dung, thay vì tìm nguồn cung cấp các câu chuyện tin tức của các nhà báo "chuyên nghiệp" Điều tra nguồn mở Open Source (radio show), một chương trình phát thanh sử dụng các phương pháp thu thập thông tin nội dung mở được lưu trữ bởi Christopher Lydon Sách giáo khoa mở, sách giáo khoa được cấp phép bản quyền mở The Open-Source Everything Manifesto: Transparency, Truth, and Trust, một cuốn sách năm 2012 của cựu sĩ quan hải quân và cựu nhân viên bí mật của CIA Robert David Steele Các tổ chức Open Source Initiative (OSI), một tổ chức dành riêng để thúc đẩy nguồn mở Open Source Software Institute Journal of Open Source Software Open Source Day, một hội nghị quốc tế thường niên dành cho người hâm mộ các giải pháp mở từ Trung và Đông Âu Open Source Developers' Conference Open Source Development Labs (OSDL), một tập đoàn phi lợi nhuận cung cấp không gian cho dự án nguồn mở Open Source Drug Discovery, một nền tảng khám phá thuốc hợp tác cho các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên Open Source Technology Group (OSTG), tin tức, diễn đàn và các tài nguyên SourceForge khác cho CNTT Open Source University Meetup New Zealand Open Source Awards Bảo mật Bảo mật mở, ứng dụng các triết lý nguồn mở vào bảo mật máy tính Open Source Information System, tên cũ của một mạng không được phân loại của Mỹ phục vụ cộng đồng tình báo Hoa Kỳ thông tin nguồn mở, từ giữa năm 2006, nội dung của OSIS hiện được gọi là Intelink-U trong khi phần mạng được gọi là DNI-U Tình báo nguồn mở, một kỹ luật thu thập thông tin dựa trên thông tin được thu thập từ các nguồn mở Đừng nhầm lẫn với trí thông minh nhân tạo nguồn mở như Mycroft (software). Xã hội Giáo trình nguồn mở (OSC), một tài nguyên giảng dạy trực tuyến có thể được sử dụng, phân phối và sửa đổi một cách tự do trong khi mời phản hồi và tham gia từ các nhà phát triển, nhà giáo dục, quan chức chính phủ, học sinh và phụ huynh Quản trị nguồn mở, nguồn mở trong chính phủ Chính trị mở (đôi khi được gọi là chính trị nguồn mở), một quá trình chính trị sử dụng các công nghệ Internet để cung cấp một cơ chế phản hồi nhanh chóng giữa các tổ chức chính trị và những người ủng hộ họ Tôn giáo nguồn mở trong việc tạo ra các hệ thống niềm tin Công đoàn nguồn mở, một mô hình sáng tạo cho tổ chức công đoàn lao động
Giao thức truyền thông (tiếng Anh là communication protocol, hay gọi tắt là protocol) hay còn được dịch là giao thức giao tiếp, giao thức liên mạng, giao thức tương tác hay giao thức trao đổi thông tin, là một tập hợp các quy tắc chuẩn cho phép hai hoặc nhiều thực thể trong một hệ thống thông tin liên lạc để trao đổi thông tin, dữ liệu qua các kênh truyền thông. Giao thức sẽ định nghĩa các quy tắc (rule), cú pháp (syntax), ngữ nghĩa (semantics). sự đồng bộ (synchronization) trong quá trình truyền thông và có thể thêm phương pháp khắc phục lỗi trên đường truyền. Giao thức truyền thông có thể được thực thi trên phần cứng, phần mềm hoặc cả hai. Tổng quan Các giao thức truyền thông dành cho truyền thông tín hiệu số trong mạng máy tính có nhiều tính năng để đảm bảo việc trao đổi dữ liệu một cách đáng tin cậy qua một kênh truyền thông không hoàn hảo. Có nhiều giao thức được sử dụng để giao tiếp hoặc truyền đạt thông tin trên Internet, dưới đây là một số các giao thức tiêu biểu: TCP (Transmission Control Protocol): thiết lập kết nối giữa các máy tính để truyền dữ liệu. Nó chia nhỏ dữ liệu ra thành những gói (packet) và đảm bảo việc truyền dữ liệu thành công. IP (Internet Protocol): định tuyến (route) các gói dữ liệu khi chúng được truyền qua Internet, đảm bảo dữ liệu sẽ đến đúng nơi cần nhận. HTTP (HyperText Transfer Protocol): cho phép trao đổi thông tin (chủ yếu ở dạng siêu văn bản) qua Internet. FTP (File Transfer Protocol): cho phép trao đổi tập tin qua Internet. SMTP (Simple Mail Transfer Protocol): cho phép gởi các thông điệp thư điện tử (e-mail) qua Internet. POP3 (Post Office Protocol, phiên bản 3): cho phép nhận các thông điệp thư điện tử qua Internet. MIME (Multipurpose Internet Mail Extension): một mở rộng của giao thức SMTP, cho phép gởi kèm các tập tin nhị phân, phim, nhạc,... theo thư điện tử. WAP (Wireless Application Protocol): cho phép trao đổi thông tin giữa các thiết bị không dây, như điện thoại di động.
{{Thông tin quốc gia | Tên chính = Cộng hòa Bờ Biển Ngà(Cộng hòa Côte d'Ivoire) | Tên bản địa 1 = République de Côte d’Ivoire | Tên thường = Bờ Biển Ngà | Tên ngắn = Côte d'Ivoire | Lá cờ = Flag of Côte d'Ivoire.svg | Huy hiệu = Coat of arms of Ivory Coast (2).svg | Khẩu hiệu = Union - Discipline - Travail(Tiếng Pháp: "Đoàn kết - Kỷ luật - Lao động") | Bản đồ = Côte d'Ivoire (orthographic projection).svg | Quốc ca = L'Abidjanaise| Thủ đô = Yamoussoukro | Tọa độ thủ đô = 6°50'N 5°15'W | Vĩ độ = 6 | Vĩ độ phút = 50 | Hướng vĩ độ = N | Kinh độ = 5 | Kinh độ phút = 15 | Hướng kinh độ = W | Thành phố lớn nhất = Abidjan (thủ đô de facto) | Ngôn ngữ chính thức = Tiếng Pháp | Loại chính phủ = Cộng hòa tổng thống đơn nhất | Loại viên chức =  • Tổng thống • Thủ tướng | Tên viên chức = Alassane OuattaraRobert Beugré Mambé | Độ lớn diện tích = 1 E11 | Diện tích = 322.463 | Đứng hàng diện tích = 69 | Phần nước = 1,4 | Loại chủ quyền = Độc lập | Sự kiện thành lập = | Ngày thành lập = Từ Pháp7 tháng 8 năm 1960 | Năm ước lượng dân số = 2016 | Dân số ước lượng = 23.740.424 | Đứng hàng dân số ước lượng = 54 | Năm thống kê dân số = | Dân số = | Đứng hàng dân số = | Mật độ dân số = 63,9 | Đứng hàng mật độ dân số = 139 | Năm tính GDP PPP = 2017 | GDP PPP= 95,887 tỷ USD | Xếp hạng GDP PPP = | GDP PPP bình quân đầu người= 3.841 USD | Xếp hạng GDP PPP bình quân đầu người = | GDP danh nghĩa = 36,873 tỷ USD | Xếp hạng GDP danh nghĩa = | Năm tính GDP danh nghĩa = | GDP danh nghĩa bình quân đầu người= 1.477 USD | Xếp hạng GDP danh nghĩa bình quân đầu người = | Gini_year = 2008 | Gini = 41.5 | Năm tính HDI = 2015 | HDI = 0,474 | Đứng hàng HDI = 171 | Cấp HDI = thấp | Đơn vị tiền tệ = Franc CFA | Mã đơn vị tiền tệ = XOF | Múi giờ = GMT | UTC = +0 | Tên vùng Internet = .ci | Mã số điện thoại = 225 |}} Bờ Biển Ngà hay Côte d'Ivoire (, phiên âm: Cốt Đi-voa), tên chính thức là Cộng hòa Bờ Biển Ngà hay Cộng hòa Côte d'Ivoire () là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Bờ Biển Ngà có biên giới giáp với Liberia, Guinea, Mali, Burkina Faso, và Ghana về phía tây, bắc, đông, và nằm bên cạnh Vịnh Guinea về phía nam. Dân số của Bờ Biển Ngà năm 1998 là 15.366.672 người , năm 2009 là 20.617.068 người. Trước khi bị người châu Âu chiếm đóng, Bờ Biển Ngà bao gồm nhiều nước nhỏ như Gyaaman, Kong Empire, và Baoulé. Ngoài ra còn có hai vương quốc của Người Anyi, đó là Indénié và Sanwi, những quốc gia đã cố gắng duy trì sự độc lập của mình trong suốt thời kì Pháp thuộc và kể cả về sau này, khi Bờ Biển Ngà đã giành được độc lập. Hiệp định 1843-1844 đã buộc Bờ Biển Ngà chấp nhận sự bảo hộ của Pháp vào năm 1883, Bờ Biển Ngà trở thành một bộ phận của hệ thống thuộc địa của Thực dân Pháp. Bờ Biển Ngà tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1960. Từ năm 1960 đến 1993, Bờ Biển Ngà được lãnh đạo bởi . Trong giai đoạn này, Bờ Biển Ngà vẫn giữ mối liên kết mật thiết về kinh tế với các nước láng giềng Tây Phi cũng như các nước châu Âu, đặc biệt là Pháp. Tuy nhiên, sau giai đoạn lãnh đạo của Houphouët-Boigny, Bờ Biển Ngà đã trải qua hai cuộc đảo chính (1999 and 2001) và một cuộc nội chiến, bất chấp cuộc bầu cử và một hiệp định giữa chính phủ mới và nhóm nổi loạn được ký kết mang lại hòa bình cho Bờ Biển Ngà. Bờ Biển Ngà là nền cộng hòa hiện thân của sức mạnh hành pháp hoàn toàn nằm trong tay của tổng thống. Thủ đô về mặt pháp lý của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro và thành phố lớn nhất là thành phố cảng Abidjan. Bờ Biển Ngà có 19 vùng và 81 tỉnh. Bờ Biển Ngà là thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, Liên minh châu Phi, Cộng đồng Pháp ngữ, Liên minh Latin, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi và Khu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp nhưng Bờ Biển Ngà có rất nhiều thổ ngữ bao gồm tiếng Baoulé, tiếng Dioula, tiếng Dan, tiếng Anyin và tiếng Cebaara Senufo. Tôn giáo chính ở Bờ Biển Ngà là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những tôn giáo bản địa khác. Thông qua xuất khẩu cà phê và cacao, Bờ Biển Ngà là một nền kinh tế mạnh mẽ ở Tây Phi trong những năm 60 và 70 thế kỉ XX. Tuy nhiên, trong những năm 1980, Bờ Biển Ngà đã phải trải qua khủng hoảng kinh tế, khiến cho quốc gia này trở nên rối loạn về chính trị cũng như xã hội. Kinh tế Bờ Biển Ngà trong thế kỉ XXI vẫn chủ yếu giữa vào kinh tế tiểu chủ nông nghiệp. Từ nguyên học Trong tiếng Pháp, Côte nghĩa là "bờ biển", d nghĩa là "của" (tương tự 's - sở hữu cách trong tiếng Anh), Ivoire nghĩa là "ngà voi", vì thế nên trong tiếng Việt, quốc gia này được dịch thành Bờ Biển Ngà và trong nhiều ngôn ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự: Ivory Coast trong tiếng Anh Elfenbeinküste trong tiếng Đức, Costa de Marfil trong tiếng Tây Ban Nha, Costa do Marfim trong tiếng Bồ Đào Nha, Ivoorkust trong tiếng Hà Lan, v.v. Vào tháng 10 năm 1985, Chính phủ nước này yêu cầu được gọi là Côte d'Ivoire trong mọi ngôn ngữ. Cách gọi này tương tự như tên nước Costa Rica (tiếng Tây Ban Nha) luôn được dùng trong mọi ngôn ngữ. Mặc dù đã có quyết định của Chính phủ Côte d'Ivoire, "Bờ Biển Ngà" vẫn là tên phổ biến trong tiếng Việt và Elfenbeinküste phổ biến trong tiếng Đức . Tuy nhiên, các chính phủ sử dụng tên "Côte d'Ivoire" với lý do ngoại giao, còn cẩm nang về văn phong báo chí thường dùng tên "Bờ Biển Ngà". Lịch sử Thuở sơ khai Rất khó để xác định khi nào xuất hiện dấu vết đầu tiên của con người ở Bờ Biển Ngà bởi vì thời tiết ẩm ướt của Bờ Biển không cho phép lưu giữ tốt những vết tích như vậy. Tuy nhiên, sự hiện diện của các loại vũ khí thô sơ cũng như các công cụ rời rạc (đặc biệt là dấu vết của các lưỡi rìu được mài sắc trên đất sét và những gì còn sót lại của việc nấu nướng và đánh cá) chứng tỏ khả năng một số lượng lớn người đã sinh sống ở Bờ Biển Ngà là có thể trong giai đoạn Hậu đồ đá (từ năm 15.000 đến năm 10.000 trước CN), hoặc ít ra là trong giai đoạn Đồ đá mới. Tuy nhiên, những cư dân đầu tiên của Bờ Biển Ngà đã để lại dấu vết chứng minh cho sự tồn tại của mình rải rác khắp nơi trên vùng đất này. Những nhà sử học đều tin rằng những cư dân đầu tiên đó đã được thay thế hoặc bij đồng hóa bởi tổ tiên của cư dân Bờ Biển Ngà hiện nay bắt đầu từ thế kỉ XVI, bao gồm người Ehotilé (Aboisso), người Kotrowou (Fresco), người Zéhiri (Grand Lahou), người Ega và người Diès (Divo). Thời kỳ thuộc địa Côte d'Ivoire là vùng đất hấp dẫn đối với các thương gia Pháp và Bồ Đào Nha từ thế kỷ XV. Họ đến đây để tìm kiếm ngà voi và nô lệ. Năm 1842, thực dân Pháp chiếm các vùng ven biển, thiết lập chế độ thuộc địa năm 1893 và sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1896. Năm 1934, Abidjan trở thành thủ đô, đất nước phát triển nhờ khai khẩn các đồn điền ca cao và cà phê, việc khai thác rừng được dễ dàng nhờ việc xây dựng đường sắt Abidjan-Niger kéo dài đến biên giới vùng Thượng Volta. Độc lập Côte d'Ivoire giành độc lập năm 1960. Côte d'Ivoire cùng Dahomay (Bénin), Niger và Burkina Faso thành lập đồng minh thuế quan năm 1959. Côte d’Ivoire là một trong những nước có nền kinh tế phát triển trong vùng châu Phi cận Sahara, đứng đầu thế giới về xuất khẩu ca cao, là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Houphouët-Boigny quản lý Houphouët-Boigny trở thành Tổng thống sau khi đất nước độc lập (1960). Boigny tái đắc cử sáu lần và giữ chức này cho đến năm 1993. Lực lượng sinh viên, nông dân và thợ thuyền đã phản đối buộc Tổng thống phải hợp pháp hóa các đảng đối lập và tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 10 năm 1990. Houphouet Boigny giành thắng lợi với 81% số phiếu. Về chính trị, Houphouët-Boigny lãnh đạo Bờ Biển Ngà với chính sách "bàn tay sắt". Một số nhận xét mềm mỏng hơn cho rằng sự lãnh đạo của ông giống với hình thái "phụ quyền-gia trưởng". Không có tự do báo chí và chỉ có một chính đảng tồn tại. Điều này được một số người chấp nhận điều này như yêu cầu tất yếu nhằm mục đích tranh thủ lá phiếu của cử tri. Houphouët-Boigny cũng bị chỉ trích bởi những vấn đề liên quan các dự án quy mô lớn. Nhiều người cho rằng việc chi hàng triệu USD để cải tạo Yamoussoukro, quê hương của Houphouët Boigny, thành thủ đô mới là vô cùng lãng phí; một số người khác thì ủng hộ tầm nhìn của ông theo hướng phát triển thành phố này thành một trung tâm hòa bình, giáo dục và tôn giáo ngay giữa lòng Bờ Biển Ngà. Nhưng vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, suy thoái kinh té thế giới cộng với hạn hán đã tác động không nhỏ đến kinh tế Bờ Biển Ngà. Cùng với việc lạm dụng khai thác gỗ và đường bị rớt giá, nợ nước ngoài của Bờ Biển Ngà tăng lên gấp 3. Tội phạm gia tăng một cách đáng lo ngại ở Abidjan. Vào năm 1990, hàng trăm cán bộ nhà nước và sinh viên gây bạo loạn để phản đối tình trạng tham nhũng đang hoành hành. Cuộc bạo loạn buộc chính phủ phải chuyển sang nền dân chủ đa đảng. Sức khỏe của Houphouët-Boigny ngày càng yếu và chết vào năm 1993. Ông đề cử Henri Konan Bédié là người kế nhiệm. Bédié quản lý Tháng 10 năm 1995, giành chiến thắng áp đảo trước phe đối lập rời rạc và thiếu tổ chức trong lần tái tranh cử. Bédié thắt chặt sự kiểm soát về chính trị, tống giam hơn 700 người ủng hộ phe đối lập. Tuy nhiên, kinh tế của Bờ Biển Ngà lại có những dấu hiệu khả quan như lạm phát giảm và chính phủ cố gắng xóa bỏ nợ nước ngoài. Khác với Houphouët-Boigny, người chủ trương tránh những mâu thuẫn sắc tộc và để ngỏ một số vị trí trong bộ máy hành chính cho những người nhập cư từ các nước láng giếng, chú trọng vào quan điểm "Ivority" () để loại bỏ đối thủ của ông ta Alassane Ouattara, vốn có bố mẹ là người phía bắc Bờ Biển Ngà, khỏi cuộc đua vào chiếc ghế tổng thống. Tuy nhiên, chính sách loại bỏ người nước ngoài này đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa các sắc tộc khác nhau ở Bờ Biển Ngà, vốn từ trước đến nay có số lượng dân nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số dân của cả nước. Đảo chính năm 1999 Tương tự, Bédié đã loại bỏ nhiều đối thủ chính trị khỏi quân đội. Cuối năm 1999, một nhóm sĩ quan bất mãn với chính phủ đã tổ chức một cuộc đảo chính quân sự, đưa tướng Robert Guéï lên nắm quyền. Bédié bỏ trốn sang Pháp. Chính quyền mới đã giảm bớt tình hình tội phạm và tham nhũng, cùng với việc áp đặt giới nghiêm và vận động rộng khắp trên đường phố về một xã hội tiết kiệm hơn. Gbagbo quản lý Cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 2000 giữa hai ứng cử viên Laurent Gbagbo và Guéï diễn ra quyết liệt nhưng hòa bình. Sự kiện nổi bật tiếp theo cuộc bầu cử tổng thống được đánh dấu bằng cuộc bạo loạn của quân đội và dân chúng Bờ Biển Ngà. Cuộc bạo loạn đã khiến 180 người chết và Guéï phải nhường lại chiếc ghế cho Gbagbo. Tòa án tối cao Bờ Biển Ngà ra quyết định phế truất Alassane Ouattara vì gốc gác Burkinabé của ông ta. Hiến pháp Bờ Biển Ngà tại thời điểm đó cũng như dưới thời Guéï không cho phép người không đáp ứng đủ yêu cầu về quốc tịch đứng ra tranh cử tổng thống. Sự kiện này đã châm ngòi cho những xô xát bạo lực giữa người ủng hộ Alassane Ouattara, chủ yếu là cư dân đến từ phía bắc Bờ Biển Ngà, và cảnh sát chống bạo động ở thủ đô Yamoussoukro. Mỗi bên đều tuyên bố thắng lợi trong cuộc bầu cử được cho là gian lận. Sự phản đối của nhân dân biến thành bạo động và buộc Tướng Guei rời khỏi nhóm quân đội nổí loạn mưu toan đảo chính. Tướng Guei và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Doudou bị giết trong cuộc chiến giữa quân Chính phủ và phe nổi dậy. Tổng thống Laurent Gbagbo, đắc cử năm 2000, tố cáo Guei tiến hành đảo chính. Đảo chính năm 2002 Bờ Biển Ngà vẫn còn phải đối mặt với hậu quả của cuộc khủng hoảng chính trị trong đó đỉnh điểm là vụ đảo chính năm 1999, cuộc bầu cử Tổng thống đương nhiệm Laurent Gbagbo vào năm 2000 và cuộc xung đột vũ trang năm 2002 giữa phe nổi loạn và lực lượng chính phủ. Kể từ tháng 9 năm 2002, tình hình này đã dẫn tới sự di dân ồ ạt của gần 1,7 triệu người, phá huỷ cơ sở hạ tầng kinh tế và sự rối loạn hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ thống nhất 2003 Cuộc chiến vẫn tiếp tục, ngay cả sau khi một hiệp định hòa bình do Pháp làm trung gian được ký kết tháng 1 năm 2003. Hiệp định này kêu gọi Chính phủ chia sẻ quyền lực với phe nổi dậy. Tình hình vẫn còn căng thẳng mặc dầu Tổng thống cam kết sẽ khôi phục dân chủ. Hậu quả 2004 - 2007 Trong năm 2007, những thành tựu nổi bật cũng đã được ghi nhận trong việc tái lập các thẻ chế của nước Cộng hoà này. Đây là kết quả của việc thực hiện Thoả thuận chính trị Ouagadougou ký ngày 4 tháng 3 năm 2007 giữa các bên liên quan đến cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vẫn tỏ lo ngại về sự chậm trễ trong thực hiện tiến trình hoà bình tại Bờ Biển Ngà theo thoả thuân Ouagadougou. Đến nay, thời điểm dự định cuộc bầu cử Tổng thống vẫn chưa được ấn định. Các vùng và khu hành chính Côte d'Ivoire được chia làm 19 vùng gồm: Các vùng này lại được chia ra làm 58 khu hành chính. Dân số ở các thành phố lớn Thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà có dân số là Yamoussoukro (295.500 người), thành phố có dân số xếp thứ 4 trong cả nước. Abidjan, với dân số 3.310.500 người, là thành phố lớn nhất của Bờ Biển Ngà, là trung tâm thương mại và ngân hàng, thủ đô de facto của quốc giai này. Đây là thành phố có đông người nói tiếng Pháp nhất ở khu vực Tây Phi. Chính trị Từ năm 1983, thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro; tuy nhiên, Abidjan vẫn là trung tâm hành chính của cả nước. Hầu hết các quốc gia khác đều đặt Đại sứ quán tại Abidjan, ngoại trừ Đại sứ quán Vương quốc Anh đã chấm dứt nhiệm vụ vì những hành động bạo lực và những cuộc tấn công liên tiếp nhằm vào người châu Âu ở Bờ Biển Ngà. Người dân Bờ Biển Ngà lúc này vẫn phải chịu đựng bạo lực tiếp diễn do nội chiến. Các tổ chức quốc tế về nhân quyền đã ghi nhận Bờ Biển Ngà có những vấn đề về đối xử với dân thường bị bắt giữ của cả hai phe trong cuộc nội chiến này và sự tái trỗi dậy việc lạm dụng lao động nộ lệ trẻ em ở các đồn điền cacao. Mặc dầu chiến sự đã gần như chấm dứt vào năm 2004, nhưng Bờ Biển Ngà vẫn bị chia cắt thành hai phe, phía Bắc nằm dưới quyền kiểm soát của lực lượng "Chiến binh mới"(FN). Cuộc bầu cử tổng thống dự kiến diễn ra vào tháng 10 năm 2005 để đi đến một thỏa thuận giữa các phe phái đối địch đúng vào tháng 3 năm 2007, tuy nhiên cuộc bầu cử này vẫn bị trì hoàn nhiều lần ngay cả trong giai đoạn chuẩn bị. Thể chế Cộng hoà Tổng thống Các đảng phái chính trị lớn: Liên minh Dân chủ Công dân, Đảng Dân chủ Bờ Biển Ngà, Đảng Lao động Bờ Biển Ngà, Liên minh Dân chủ và Hoà bình, Mặt trận nhân dân Bờ Biển Ngà (Đảng của Tổng thống Gbagbo). Từ khi độc lập cho đến năm 1990, Đảng Dân chủ luôn nắm quyền tại Bờ Biển Ngà. Tháng 11 năm 1990, cuộc bầu cử Quốc hội đa đảng đầu tiên được tổ chức (có 19 đảng đối lập tham gia) nhưng đảng Dân chủ của ông F.H Boigny vẫn giành đa số tuyệt đối và tiếp tục nắm quyền (148/175 ghế trong Quốc hội). Tình hình chính trị – xã hội hiện nay Ngày 28 tháng 11 năm 2010 đã diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống vòng hai giữa hai ứng cử viên là ông Laurent Gbagbo, Tổng thống mãn nhiệm (lên nắm quyền từ năm 2000) và ông Alasane Ouattara, nguyên là Thủ tướng nước này. Ngày 2 tháng 12 năm 2010, Chủ tịch Ủy ban Bầu cử độc lập Bờ Biển Ngà chính thức thông báo kết quả bầu cử với việc ông Alasane Ouattara giành 54,10% số phiếu (được thế giới thừa nhận là Tổng thống) và ông Laurent Gbagbo giành 45,90% số phiếu. Tuy nhiên, Tổng thống mãn nhiệm Gbagbo đã tố cáo lực lượng phiến loạn miền Bắc nước này gian lận bầu cử và không công nhận kết quả trên. Vì vậy, bạo lực đã nổ ra giữa hai phe ủng hộ hai Tổng thống. Việc ông Gbagbo không chấp nhận thất bại đã đẩy nước này vào cuộc nội chiến với hàng nghìn người bị thiệt mạng và hàng triệu người dân phải chạy khỏi Bờ Biển Ngà. Sau 4 tháng không chịu nhượng bộ, dinh thự của ông Gbagbo đã bị quân đội của tổng thống đắc cử Alassane Ouattara tấn công hôm 11 tháng 4 và ông Gbagbo bị bắt giữ. Địa lý Bờ Biển Ngà là một quốc gia Tây Phi hạ Sahara, bên vịnh Guinea, Đông giáp Ghana, Tây giáp Liberia và Guinea, Bắc giáp Mali và Burkina Faso. Địa hình được cấu tạo bởi các vùng cao nguyên và núi ở miền Tây; vùng Tây Bắc thoải dần về phía Nam gồm các vùng đồng bằng trầm tích và vùng duyên hải, bờ biển thấp và nhiều cát. Phía Nam chịu ảnh hưởng khí hậu xích đạo tạo điều kiện thích hợp cho các vùng rừng rậm phát triển và chuyển dần sang các khu rừng thưa và các đồng cỏ nhiệt đới ở phía Bắc. Kinh tế Việc duy trì mối liên hệ chặt chẽ với Pháp sau khi giành độc lập từ năm 1960, tính đa dạng trong xuất khẩu nông nghiệp cũng như việc khuyến khích đầu tư của nước ngoài là những nhân tố chủ yếu của kinh tế Bờ Biển Ngà. Trong những năm trở lại đây, Bờ Biển Ngà phải đối mặt với sự rớt giá và cạnh tranh mạnh mẽ của cà phê và ca cao trên thị trường nông sản thế giới. Chính điều này cùng với tham nhũng trong nước cao khiến cho cuộc sống cũng như xuất khẩu của người nông dân ngày càng trở nên khó khăn hơn. Bờ Biển Ngà là một nước có tài nguyên phong phú, đặc biệt có nhiều kim cương, măng gan và sắt. Ngành công nghiệp, nông nghiệp của Côte d'Ivoire phát triển khá cân đối. Bờ Biển Ngà là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về ca cao và từ vài năm nay nước này còn có thêm nguồn thu xuất khẩu từ dầu lửa ngoài khơi. Tuy nhiên thu nhập của Côte d'Ivoire vẫn dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp (70% dân số sống bằng nghề nông). Bên cạnh đó nền công nghiệp của Bờ Biển Ngà cũng khá phát triển như: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng dệt, da, hoá chất, khai khoáng, sản phẩm gỗ, sửa chữa và đóng tàu. Về ngoại thương, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 10,25 tỷ USD với các sản phẩm ca cao, cà phê, gỗ, dầu lửa, bông, chuối, dứa, dầu cọ, cá. Các đối tác xuất khẩu chính gồm Hà Lan 13.92%, Pháp 10.75%, Mỹ 7.79%, Đức 7.2%, Nigeria 6.99%, Ghana 5.56%. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 7 tỷ USD với các mặt hàng chính là dầu thô, máy móc trang thiết bị, lương thực, thực phẩm. Do sản xuất lúa trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân nên mỗi năm, Bờ Biển Ngà phải mua khoảng 900.000 tấn gạo. Các đối tác nhập khẩu chính gồm Nigeria 20.75%, Pháp 14.19%, Trung Quốc 7.18%, Thái Lan 5.09%. Mặc dù trải qua gần 1 thập kỷ bất ổn chính trị nhưng Bờ Biển Ngà vẫn được xem là một trong những nền kinh tế hàng đầu khu vực Tây Phi. Với vị trí địa lý chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp phong phú, nước này tiếp tục duy trì vai trò là nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ chính cho các nước láng giềng như Guinea, Mali, Burkina Faso… Cảng biển Abidjan và tuyến đường sắt nối Abidjan với thủ đô Ouagadouro (Burkina Faso) vẫn là tuyến đường xuất nhập cảnh ưu tiên, nhất là đối với những nước nằm sâu trong lục địa, mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho ngân sách quốc gia. GDP: 23,18 tỷ USD (2009) Tỷ lệ tăng trưởng GDP: 3,8% (2009) GDP bình quân đầu người: 1.100 USD (2009) Dân số 77% dân số là người Bờ Biển Ngà, bao gồm nhiều dân tộc va nhóm ngôn ngữ khác nhau. Ở Bờ Biền Ngà có khoảng 65 ngôn ngữ. Phổ biến nhất là tiếng Dyula, được dùng trong giao dịch buôn bán và những người Hồi giáo. Tiếng Pháp, ngôn ngữ chính thức của Bờ Biển Ngà, được giảng dạy trong trường học và là ngôn ngữ được sử dụng giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Bờ Biển Ngà có 3 nhóm tôn giáo chính đó là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những người theo thuyết vật linh. Là một quốc gia có kinh tế ổn định ở khu vực Tây Phi nên Bờ Biển Ngà thu hút đến 3,4 triệu lao động đến từ các nước láng giềng như Liveria, Burkina Faso và Guinea, chiếm tới 20% dân số của Bờ Biển Ngà. Hơn 2/3 trong số những lao động này là người Hồi Giáo. 4% dân số Bờ Biển Ngà không phải là người gốc Phi. Họ là người Pháp, Liban, Việt Nam và Tây Ban Nha. Văn hóa Văn học, nghệ thuật truyền thống và tượng hình, các công trình kiến trúc Văn học Bờ Biển Nga rất đa dạng và phong phú từ phong cách cho đến những câu thành ngữ, tục ngữ có nguồn gốc tương đối vững chắc từ việc biên tập cho đến các tác giả có uy tín. Trong số những tác giả nổi tiếng, có thể kể đến Bernard Dadié, phóng viên, nhà văn, nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia và cũng là nhà thơ đã thống trị văn đàn Bờ Biển Ngà ngay từ những năm 30 hay là Aké Loba (với L'Étudiant noir, 1960) và Ahmadou Kourouma (với Les Soleils des indépendances, 1968) đã nhận được giải thưởng Prix du Livre Inter vào năm 1998 cho tác phẩm mà đã trở thành kinh điển đối với văn học châu Phi En attendant le vote des bêtes sauvages. Nét đặc trưng của nghệ thuật Bờ Biển Ngà xuất hiện trong nhiều vật dụng hàng ngày bằng các chất liệu đa dạng. Nghệ thuật này có mặt trên khắp đất nước, là minh chứng cho phong cách sống ở quốc gia này. Ví dụ như việc đan thúng, điêu khắc, chạm khắc gỗ, tạc tượng đã sử dụng rất nhiều chất liệu như gỗ, đồng, mây và tre... Mặt nạ Dan, Baoulés, Gouros, Guérés và Bétés rất nổi tiếng ở Bờ Biển Ngà. Ngoài ra, nghề dệt tiếng tăm của những người Baoulés và những người Sénoufos đã trở thành bộ môn nghệ thuật hội họa trên nền vải. Những bức tượng nhỏ bằng đồng vốn xưa kia dùng để cân vàng nay lại được dùng làm vật trang trí, nhất là trong văn hóa Akan. Tuy nhiên, tất cả người dân Bờ Biển Ngà đều chia sẻ với nhau những vũ điệu truyền thống trên âm thanh của những nhạc cụ phổ biến như (tam-tams, balafon). Một số vũ điệu còn nổi tiếng khắp cả đất nước như: Temate của Facobly, Gouessesso và Danané, Boloye của vùng sénoufo, Zaouli của vùng gouro. Cũng nên nhắc đến những đồ sành sứ thủ công được chế tác bởi phụ nữ Bờ Biển Ngà, trong số đó nổi tiếng nhất là đồ sành sứ Katiola. Di sản văn hóa này có sẵn và rất dồi dào. Rất nhiều tác phẩm truyền thống (đặc biệt là điêu khắc) được bày bán cho khách du lịch dừng chân ở các thành phố nghỉ mát nổi tiếng như Grand-Bassam hay Assinie. Một số khác còn được trưng bày trong các phòng triển lãm nghệ thuật hoặc tại viện bảo tàng văn hóa ở Abidjan. Một số họa sĩ như Gilbert G. Groud và Michel Kodjo thường xuyên có những tác phẩm giá trị trong khi đó, mảng truyện tranh thuộc về Zohoré Lassane, họa sĩ phác thảo và cũng là người sáng lập ra tờ nhật báo hài hước và châm biếm Gbich !. Có thể thấy ở Bờ Biển Ngà sự đa dạng trong những công trình lịch sử. Grand-Bassam, kinh đô đầu tiên của Bờ Biển Ngà chính là nơi tọa lạc của Dinh tổng trấn (Palais de Gouverneur), nơi đầu tiên chính quyền thuộc địa Pháp đặt trụ sở. Dinh thự này được sơ tác ở Pháp sau đó được xây dựng và hoàn thiện tại chính Bờ Biển Ngà vào năm 1983. Thành phố Grand-Bassam còn có khá nhiều công trình kiến trúc tuyệt đẹp theo lối kiến trúc thuộc địa kết hợp với chất liệu xây dựng bản địa như tòa nhà Varlet hay tòa nhà Ganamet thuộc về những thương gia giàu có. Ở Abidjan, đại giáo đường Saint-Paul là một công trình kiến trúc rất đặc biệt có 2 mặt được làm hoàn toàn bằng kính theo dấu ấn của những người truyền giáo ở châu Phi. Ở Yamoussoukro, Nhà thờ Đức Bà hòa bình được khánh thành bởi Giáo hoàng Jean-Paul II vào năm 1990. Nhà thờ này cũng là phiên bản của Nhà thờ lớn Saint-Pierre ở Roma và có thể đón tiếp 18000 đứng trong điện. Hơn nữa, đó được coi là một trong những kiến trúc tôn giáo lớn nhất trên thế giới về chiều cao và diện tích. Người ta đã tiêu tốn khoảng 300 triệu USD để xây dựng côn trình kiến trúc này . Bên cạnh đó, còn phải nhắc đến tòa nhà của Quỹ hòa bình Félix Houphouët-Boigny nổi tiếng. Ở phía Bắc đất nước, những kiến trúc Hồi giáo theo phong cách Sudan xuất hiện từ thời kì đế chế Mali ở thế kỷ XIV cũng rất đáng chú ý. Theo các chuyên gia, đáng kể nhất trong số đó là nhà thờ Kaouara (tỉnh Ouangolodougou), nhà thờ Tengréla, nhà thờ Kouto, nhà thờ Nambira, hai nhà thờ khác ở Kong đều mang giá trị văn hóa, kiến trúc, lịch sử nhất định.. Thể thao, truyền thông, giải trí Người dân Bờ Biển Ngà rất ưa thích thể thao. Từ các sân golf ở Abidjan, Yamoussoukro và San-Pédro, Bờ Biển Ngà có thể tổ chức những cuộc thi đấu golf 9 lỗ hoặc 18 lỗ. Hằng năm, giải đấu golf quốc tế mở rộng mang tên Félix Houphouët Boigny vẫn diễn ra đều đặn ở Bờ Biển Ngà với sự tham gia của nhiều vận động viên chuyên nghiệp. Những vùng phá và biển tạo cho Bờ Biển Ngà cơ hội phát triển nhiều môn thể thao dưới nước như lặn, lướt ván, đua thuyền buồm, canoe-kayak và bóng chuyền bãi biển. Đua ngựa và đua xe cũng rất phổ biến ở Bờ Biển Ngà. Bên cạnh đó còn có bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, bóng bầu dục, điền kinh và quần vợt. Tuy nhiên, bóng đá luôn là môn thể thao số một ở Bờ Biển Ngà. Bóng đá thu hút nhiều người dân tham gia tập luyện, kể cả những khu vực hẻo lánh nhất của đất nước. Mỗi thành phố, thậm chí là mỗi khu phố đều tổ chức một giải đấu bóng đá riêng. Liên đoàn bóng đá Bờ Biển Ngà đã tổ chức và đưa vào thi đấu giải bóng đá cấp quốc gia Bờ Biển Ngà. Trong giải đấu này, hai đội bóng là Africa Sports National và ASEC Mimosas luôn tỏ ra vượt trội so với các đội bóng còn lại. Rất nhiều cầu thủ Bờ Biển Ngà đang phát triển sự nghiệp ở nước ngoài trong những đội bóng danh giá nhất thế giới. Chính những cầu thủ thi đấu ở nước ngoài này là nguồn lực chính cho đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà ở các giải đấu quốc tế. Trong quá khứ, với sự dẫn dắt của những cầu thủ như Ben Badi, Gadji Celi et Alain Gouaméné, bóng đá Bờ Biển Ngà đã đạt được những thành công nhất định. Đến thế hệ của Didier Drogba, Bờ Biển Ngà lần đầu tiên đã góp mặt tại vòng chung kết World Cup 2006. Trong lĩnh vực truyền thông, Bờ Biển Ngà có đầy đủ các cơ quan phụ trách nghe nhìn, báo viết, kể cả các cơ quan quản lý chuyên nghiệp tuân theo sự điều hành của Ủy ban quốc gia về báo chí mà sau này là Hội đồng báo chí quốc gia (CNP), Hội đồng nghe nhìn quốc gia (CNCA) và một tổ chức tự quản giám sát đạo đức và tự do báo chí (OLPED). Từ năm 1991, truyền thông của Bờ Biển Ngà được điều chỉnh bởi đạo luật số 91-1034 về hoạt động báo chí chuyên nghiệp. Đài phát thanh truyền hình Bờ Biển Ngà (RTI) thuộc về nhà nước, được hỗ trợ tài chính nhờ tiền bản quyền, quảng cáo và các nguồn ủng hộ khác. Bao gồm 2 kênh truyền hình và 2 trạm phát thanh: La Première, TV2 - kênh giải trí phát sóng trong khu vực bán kính 200 km ở Abidjan, Radio Côte d'Ivoire, Fréquence 2 - kênh giải trí, Radio Jam, kênh radio tư nhân đầu tiên của Bờ Biển Ngà; Africahit Music TV. Nhiều đầu báo khác nhau phần lớn đều tập trung ở Abidjan. Ngoài Tập đoàn báo buổi sáng Bác Ái (Groupe Fraternité Matin) với khoảng 25000 ấn bản mỗi ngày, 15 đầu báo khác đều do các công ty tư nhân nắm giữ. Âm nhạc của Bờ Biển Ngà pha trộn nhiều trào lưu khác nhau, trong đó có thể kể đến những nhạc sĩ tiên phong như Ziglibithy, Gbégbé, Lékiné hay nhóm những nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai (Zouglou, Zoblazo, Mapouka,Youssoumba...) và nhóm nhạc sĩ thuộc trào lưu hiện đại (Coupé-décalé). Âm nhạc Bờ Biển Ngà là sự kết hợp của nhiều điệu nhạc khiêu vũ. Hài kịch rất được ưa chuộng ở Bờ Biển Ngà, đặc biệt là tác phẩm trào phúng của Digbeu Cravate, Zoumana, Adjé Daniel, Gbi de Fer, Jimmy Danger, Doh Kanon, Adrienne Koutouan, Marie Louise Asseu, Adama Dahico, Bamba Bakary, duo Zongo và Tao sản xuất, biểu diễn trên sân khấu và truyền hình. Năm 2004, với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật số, điện ảnh Bờ Biển Ngà đã cho ra đời hàng loạt bộ phim như Coupé-décalé (Fadiga de Milano đạo diễn) hay Le Bijou du sergent Digbeu của Alex Kouassi, Signature của Alain Guikou hay là Un homme pour deux sœurs của Marie-Louise Asseu. Tính cho đến thời điểm hiện tại, trung bình cứ 3 tháng lại có một bộ phim được xuất xưởng. Những bộ phim này còn nhiều yếu kém về kĩ thuật (do hình ảnh hoặc âm thanh) nhưng sự hữu ích của công nghệ kĩ thuật số thật sự đã tạo ra bước ngoặt cho điện ảnh Bờ Biển Ngà. Festival về nghệ thuật châu Phi Marché des arts du spectacle africain - MASA được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1993 bởi Tổ chức Pháp ngữ, đến tháng 3 năm 1998 đã nhanh chóng trở thành một chương trình có tính chất quốc tế nhằm phát triển những nghệ thuật hiện có tại châu Phi. Chương trình này là một dự án nghệ thuật liên quốc gia của châu Phi bao gồm một hội chợ về nghệ thuật trình diễn, một diễn đàn của những người làm nghệ thuật và một festival diễn ra hai năm một lần ở Abidjan.. Faya Flow là cuộc thi hip hop lớn nhất ở Bờ Biển Ngà. Được tổ chức bởi Hiệp hội Tuổi trẻ Hip hop Năng động (JACH, đọc là "jack") từ năm 2005, cuộc thi này nhằm mục đích thông qua hip hop tìm kiếm, phát hiện và giúp đỡ những tài năng ca hát và văn nghệ cho Bờ Biển Ngà.
Website, còn gọi là trang web hoặc trang mạng, và nội dung liên quan được xác định bằng một tên miền chung và được xuất bản trên ít nhất một máy chủ web. Các ví dụ đáng chú ý là các website wikipedia.org, google.com và amazon.com. Tất cả các trang web có thể truy cập công khai đều tạo thành World Wide Web. Cũng có những trang web riêng tư chỉ có thể được truy cập trên mạng riêng, chẳng hạn như trang web nội bộ của công ty dành cho nhân viên của công ty. Các trang web thường dành riêng cho một chủ đề hoặc mục đích cụ thể, chẳng hạn như tin tức, giáo dục, thương mại, giải trí hoặc mạng xã hội. Siêu liên kết giữa các trang web hướng dẫn điều hướng của trang web, thường bắt đầu với trang chủ. Người dùng có thể truy cập các trang web trên nhiều loại thiết bị, bao gồm máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng và điện thoại thông minh. Ứng dụng được sử dụng trên các thiết bị này được gọi là trình duyệt web. Lịch sử World Wide Web (WWW) được nhà vật lý CERN người Anh Tim Berners-Lee tạo ra vào năm 1990. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1993, CERN thông báo rằng World Wide Web sẽ được cung cấp miễn phí cho bất kỳ ai góp phần vào sự phát triển vượt bậc của Web. Trước khi ra đời giao thức truyền siêu văn bản (HTTP), các giao thức khác như giao thức truyền tệp và giao thức gopher đã được sử dụng để truy xuất các tệp riêng lẻ từ một máy chủ. Các giao thức này cung cấp cấu trúc thư mục đơn giản để người dùng điều hướng và nơi họ chọn tệp để tải xuống. Các tài liệu thường được trình bày dưới dạng tệp văn bản thuần túy không có định dạng hoặc được mã hóa ở các định dạng trình xử lý văn bản. Tổng quan Các trang web có thể được sử dụng theo nhiều kiểu khác nhau: trang web cá nhân, trang web công ty cho công ty, trang web chính phủ, trang web tổ chức,... Các trang web có thể là sản phẩm của một cá nhân, một doanh nghiệp hoặc tổ chức khác và thường dành riêng cho một chủ đề hoặc mục đích cụ thể. Bất kỳ trang web nào cũng có thể chứa một siêu liên kết đến bất kỳ trang web nào khác, do đó, sự phân biệt giữa các trang web riêng lẻ, theo nhận thức của người dùng, có thể không rõ ràng. Một số trang web yêu cầu người dùng đăng nhập hoặc đăng ký để truy cập nội dung. Ví dụ về các trang web đăng ký bao gồm nhiều trang web kinh doanh, trang web tin tức, trang web tạp chí học thuật, trang web trò chơi, trang web chia sẻ tập tin, bảng tin, email dựa trên web, trang web mạng xã hội, trang web cung cấp dữ liệu thị trường chứng khoán theo thời gian thực, cũng như các trang web cung cấp nhiều dịch vụ khác. Trong khi "web site" là cách viết gốc của tiếng Anh (đôi khi được viết hoa "Web site", vì "Web" là danh từ riêng khi đề cập đến World Wide Web), biến thể này đã trở nên hiếm khi được sử dụng và "website" đã trở thành cách viết chuẩn. Tất cả các hướng dẫn phong cách viết tiếng Anh chính, chẳng hạn như The Chicago Manual of Style và AP Stylebook đã phản ánh sự thay đổi này. Website tĩnh Trang web tĩnh là trang web có các trang web được lưu trữ trên máy chủ ở định dạng được gửi đến trình duyệt web của khách hàng. Nó chủ yếu được mã hóa bằng Hypertext Markup Language (HTML); Cascading Style Sheets (CSS) được sử dụng để kiểm soát giao diện ngoài HTML cơ bản. Hình ảnh thường được sử dụng để tạo ra sự xuất hiện mong muốn và là một phần của nội dung chính. Âm thanh hoặc video cũng có thể được coi là nội dung "tĩnh" nếu nó phát tự động hoặc nói chung là không tương tác. Loại trang web này thường hiển thị cùng một thông tin cho tất cả khách truy cập. Tương tự như việc phát một tập tài liệu in cho khách hàng hoặc khách hàng, một trang web tĩnh nói chung sẽ cung cấp thông tin chuẩn, nhất quán trong một khoảng thời gian dài. Mặc dù chủ sở hữu trang web có thể cập nhật định kỳ, nhưng đây là một quy trình thủ công để chỉnh sửa văn bản, ảnh và nội dung khác và có thể yêu cầu các kỹ năng và phần mềm thiết kế trang web cơ bản. Các biểu mẫu đơn giản hoặc ví dụ tiếp thị của trang web, chẳng hạn như trang web cổ điển, trang web năm trang hoặc trang web tài liệu quảng cáo thường là trang web tĩnh, vì chúng trình bày thông tin tĩnh, được xác định trước cho người dùng. Điều này có thể bao gồm thông tin về một công ty và các sản phẩm và dịch vụ của công ty thông qua văn bản, ảnh, ảnh động, âm thanh/video và menu điều hướng. Các trang web tĩnh vẫn có thể sử dụng Server Side Includes (SSI) như một tiện ích chỉnh sửa, chẳng hạn như chia sẻ một thanh menu chung trên nhiều trang. Vì hành vi của trang web đối với người đọc vẫn là tĩnh nên đây không được coi là trang web động. Website động Trang web động là trang web tự động thay đổi hoặc tùy chỉnh thường xuyên và tự động. Các trang động phía máy chủ được tạo "nhanh chóng" bởi mã máy tính tạo ra HTML (CSS chịu trách nhiệm về giao diện và do đó, là các tệp tĩnh). Có một loạt các hệ thống phần mềm, chẳng hạn như CGI, Java Servlet và Java Server Pages (JSP), Active Server Pages và ColdFusion (CFML) có sẵn để tạo hệ thống web động và trang web động. Các khung ứng dụng web và hệ thống mẫu web khác nhau có sẵn cho các ngôn ngữ lập trình thông dụng như Perl, PHP, Python và Ruby để giúp tạo các trang web động phức tạp nhanh hơn và dễ dàng hơn. Một trang web có thể hiển thị trạng thái hiện tại của cuộc đối thoại giữa những người dùng, theo dõi tình hình thay đổi hoặc cung cấp thông tin theo một cách nào đó được cá nhân hóa theo yêu cầu của từng người dùng. Ví dụ: khi trang đầu của một trang tin tức được yêu cầu, mã chạy trên máy chủ web có thể kết hợp các đoạn HTML được lưu trữ với các tin bài được truy xuất từ cơ sở dữ liệu hoặc một trang web khác qua RSS để tạo ra một trang bao gồm thông tin mới nhất. Các trang web động có thể tương tác bằng cách sử dụng các biểu mẫu HTML, lưu trữ và đọc lại cookie của trình duyệt hoặc bằng cách tạo một loạt các trang phản ánh lịch sử các lần nhấp trước đó. Một ví dụ khác về nội dung động là khi một trang web bán lẻ có cơ sở dữ liệu về các sản phẩm truyền thông cho phép người dùng nhập một yêu cầu tìm kiếm, ví dụ như đối với từ khóa Beatles. Đáp lại, nội dung của trang web sẽ thay đổi một cách tự nhiên như trước đây, và sau đó sẽ hiển thị danh sách các sản phẩm của Beatles như CD, DVD và sách. HTML động sử dụng mã JavaScript để hướng dẫn trình duyệt web cách sửa đổi nội dung trang một cách tương tác. Một cách khác để mô phỏng một loại trang web động nhất định trong khi tránh mất hiệu suất khi khởi chạy động cơ trên cơ sở mỗi người dùng hoặc mỗi kết nối là việc tự động tạo lại một loạt lớn các trang tĩnh theo định kỳ. Nội dung đa phương tiện và tương tác Các trang web ban đầu chỉ có văn bản và ngay sau đó là hình ảnh. Các plug-in của trình duyệt web sau đó được sử dụng để thêm âm thanh, video và tương tác (chẳng hạn như cho một ứng dụng web phong phú phản ánh sự phức tạp của một ứng dụng máy tính để bàn như trình xử lý văn bản). Ví dụ về các trình cắm như vậy là Microsoft Silverlight, Adobe Flash, Adobe Shockwave và Applet được viết bằng Java. HTML 5 bao gồm các mục dành cho âm thanh và video không có plugin. JavaScript cũng được tích hợp vào hầu hết các trình duyệt web hiện đại và cho phép người tạo trang web gửi mã đến trình duyệt web để hướng dẫn nó cách tương tác sửa đổi nội dung trang và giao tiếp với máy chủ web nếu cần. Biểu diễn nội dung của trình duyệt được gọi là Document Object Model (DOM). WebGL (Web Graphics Library) là một API JavaScript hiện đại để hiển thị đồ họa 3D tương tác mà không cần sử dụng plug-in. Nó cho phép các nội dung tương tác như hình ảnh động 3D, hình ảnh trực quan và phần giải thích video cho người dùng được trình bày theo cách trực quan nhất. Xu hướng từ năm 2010 trong các trang web được gọi là "thiết kế đáp ứng" đã mang lại trải nghiệm xem tốt nhất vì nó cung cấp bố cục dựa trên thiết bị cho người dùng. Các trang web này thay đổi bố cục của chúng theo thiết bị hoặc nền tảng di động, do đó mang lại trải nghiệm người dùng phong phú. Phân loại Trang web có thể được chia thành hai loại lớn: tĩnh và tương tác. Các trang web tương tác là một phần của cộng đồng các trang Web 2.0 và cho phép tương tác giữa chủ sở hữu trang web và khách truy cập hoặc người dùng trang web. Các trang web tĩnh phục vụ hoặc thu thập thông tin nhưng không cho phép tương tác trực tiếp với khán giả hoặc người dùng. Một số trang web là thông tin do những người đam mê tạo ra hoặc để sử dụng hoặc giải trí cá nhân. Nhiều trang web nhằm mục đích kiếm tiền, sử dụng một hoặc nhiều mô hình kinh doanh, bao gồm: Đăng nội dung thú vị và bán quảng cáo theo ngữ cảnh thông qua bán hàng trực tiếp hoặc thông qua mạng quảng cáo. Thương mại điện tử: sản phẩm hoặc dịch vụ được mua trực tiếp qua trang web. Quảng cáo các sản phẩm hoặc dịch vụ có sẵn tại một doanh nghiệp truyền thống. Freemium: nội dung cơ bản có sẵn miễn phí nhưng nội dung cao cấp yêu cầu thanh toán (ví dụ: trang web WordPress, nó là một nền tảng mã nguồn mở để xây dựng blog hoặc trang web.)
Trượt băng nghệ thuật tại Thế vận hội Mùa đông 2006 được tổ chức tại Palavela ở Torino. Bảng huy chương Chú thích Sự kiện Thế vận hội Mùa đông 2006 2006
Xe trượt lòng máng tại Thế vận hội Mùa đông 2006 (bobsleigh) được tổ chức tại Cesana Pariol của Cesana (gần Torino). Cuộc đua đôi nam diễn ra vào 18 và 19 tháng 2, cuộc đua đôi nữ xảy ra vào 20 và 21 tháng 2, còn các cuộc đua cho đồng đội nam bốn người diễn ra vào ngày 24 và 25 tháng 2 năm 2006. Bảng huy chương Xe đôi nam Xe 4 người nam Xe đôi nữ Chú thích Sự kiện Thế vận hội Mùa đông 2006 2006
Vật lý hạt nhân là một nhánh của vật lý đi sâu nghiên cứu về hạt nhân của nguyên tử (gọi tắt là hạt nhân). Các ứng dụng phổ biến nhất được biết đến của vật lý hạt nhân là sự tạo năng lượng hạt nhân và công nghệ vũ khí hạt nhân, nhưng các nghiên cứu đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm trong y học hạt nhân, hình ảnh cộng hưởng điện từ, cấy ion trong kỹ thuật vật liệu, bức xạ cacbon xác định tuổi trong địa chất học và khảo cổ học. Vật lý hạt nhân gồm 3 phần: mô tả các hạt cơ bản (prôtôn và nơtrôn) và các tương tác giữa chúng, phân loại và trình bày các tính chất của hạt nhân, và cung cấp các kỹ thuật tân tiến mà nó mang lại. Vật Lý Hạt phát triển ra nhóm vật lý hạt nhân. Trong đó, gồm Vật Lý Hạt Nhân Thiên Văn , một ứng dụng của vật lý hạt nhân vào vật lý thiên văn - giải thích cho các hoạt động của các vì sao trong ngân hà và căn nguyên của các nguyên tố hóa học. Lịch sử Lịch sử của vật lý hạt nhân như là một môn học khác với vật lý nguyên tử bắt đầu với việc phát hiện ra phóng xạ bởi Henri Becquerel năm 1896, trong khi điều tra hiện tượng lân quang trong muối uranium. Việc phát hiện ra các điện tử của Joseph John Thomson một năm sau đó là một sự chỉ ra cho thấy các nguyên tử có cấu trúc bên trong. Vào đầu thế kỷ 20, mô hình nguyên tử được chấp nhận là mô hình mứt mận (Plum pudding model) trong đó nguyên tử được hình dung như là một quả bóng điện tích dương lớn với các hạt electron điện tích âm được nhúng bên trong nó. Bước sang thế kỷ này các nhà vật lý cũng đã phát hiện ra ba loại bức xạ phát ra từ các nguyên tử, mà họ đặt tên là alpha, beta, và bức xạ gamma. Các thí nghiệm vào năm 1911 bởi Otto Hahn và James Chadwick vào năm 1914 phát hiện ra rằng quang phổ phân rã beta là liên tục chứ không phải là rời rạc. Có nghĩa là, các hạt điện từ bị đẩy khỏi nguyên tử với một loạt các nguồn năng lượng, chứ không phải là số rời rạc của các nguồn năng lượng đã được quan sát thấy trong phân rã gamma và alpha. Đây là một vấn đề đối với vật lý hạt nhân vào thời điểm đó, bởi vì nó chỉ ra rằng năng lượng không được bảo toàn trong các phân rã. Vào năm 1915, Albert Einstein xây dựng ý tưởng của sự tương đương năng lượng-khối lượng (E = mc2 ). Dựa trên hiện tượng phóng xạ được ghi chép lại bởi Becquerel và Marie Curie xây dựng trước đó, đây là một sự giải thích về nguồn năng lượng phóng xạ. Về sau đã có sự khám phá ra rằng bản thân hạt nhân là sự kết thành của các phần nhỏ hơn, các nucleon. Vật lý hạt nhân hiện đại Một hạt nhân nặng có thể có hơn hàng trăm nucleon. Với một vài phương thức tương đối vẫn có thể áp dụng hệ thống cơ bản. Tuy nhiên, với những hạt đặc biệt sẽ cần dùng đến hệ thống lượng tử. Ví dụ về hệ thống cơ bản: Trong kết quả mô hình giọt nước (SEMF - Semi-empirical mass formula), hạt nhân sở hữu năng lượng của một phần sức căng bề mặt và một phần lực đẩy điện tích ảnh hưởng đến hạt nhân của các hạt proton. Trong mô hình này có thể miêu tả được nhiều tính năng nuclei khác nhau, bao gồm cả tổng thể khuynh hướng của năng lượng liên kết với trọng điểm của số khối lượng. Đôi khi, có thể dùng để mô tả hiện tượng phân hạch hạt nhân.Nhưng với hiệu ứng lượng tử, khi dùng mô hình vỏ hạt nhân, được phát triển bởi Maria Goeppert Mayer và J. Hans D. Jensen. Các Nuclei với các số phép của các Neutron và Proton thường có tính ổn định. Bởi vì, phần mô hình vỏ hạt nhân luôn trong trạng thái đầy. Ngoài ra, còn có hệ thống mô hình hạt phản ứng boson, khi ghép các neutron và proton dưới dạng boson. Áp dụng thêm Ab initio để phân tích hạt nhân từ gốc, bắt đầu bằng những nucleon và phản ứng của chúng. Đa phần những nghiên cứu trong vật lý hạt nhân luôn áp dụng trong những điều kiện ưu hóa như cường độ xoáy và kích thích năng lượng. Các nuclei có thể có hình dạng đa thể hoặc kích thước như định dạng hạt to neutron chuyển thành hạt proton. Những người thí nghiệm có thể tạo ra các định dạng nuclei theo ý muốn. Bằng cách sử dụng các máy tổng hợp nhân tạo để có được năng lượng hợp hạch hoặc các phản ứng chuyển hóa nucleon, tăng tia các ion từ máy gia tốc hạt. Khi tăng các tia với nguồn năng lượng cao có thể tạo ra các hạt nuclei có sức tỏa nhiệt bức xạ khủng khiếp. Ở giai đoạn này, những thí nghiệm đó đã chuyển tiếp sang từ vật chất hạt nhân bình thường sang một thể nhiệt hạch hoàn toàn mới, gọi là quark–gluon plasma. Trong định dạng này, các hạt quark sẽ tương tác với nhau, thay vì tách biệt. Chia tách hạt nhân Với 80 nguyên tố khác biệt phải có ít nhất một đồng vị ổn định không bao giờ bị chia tách, trong tổng số khoảng 252 nuclide ổn định. Tuy nhiên, hàng nghìn đồng vị đều được đánh giá là không ổn định. Những ''đồng vị phóng xạ'' có ước tính thời gian phân rã từ vài khắc trên giây cho đến hơn ngàn tỷ năm. Chia xoắn trên bảng thống kê như một hệ thống hoạt động của số nguyên tử và số neutron. Năng lượng liên kết của các nuclide được hình thành gọi là thung lũng ổn định (valley of stability) - hay còn gọi là bảng tính Segrè. Những nuclide ổn định luôn nằm bên dưới trong bảng thống kê sóng năng lượng của thung lũng này. Còn các nuclide không ổn định thường nằm trên phần còn lại của bảng và có liên kết năng lượng mỏng hơn. Nuclei có độ ổn định sẽ sở hữu các mật độ khoảng cách nhất định hoặc sự cân bằng trong cấu trúc hợp thành của các neutron và proton: nếu có quá ít hoặc quá nhiều các hạt neutron (so với mật độ của proton) sẽ dẫn đến sự chia tách (phân rã hạt nhân). Ví dụ 1: trong phân rã beta, một nitơ-16 nguyên tử (7 proton, 9 neutron) được chuyển đổi thành oxy-16 nguyên tử (8 proton, 8 neutron) chỉ với vài giây để tạo thành. Trong trường hợp của thí nghiệm hóa học này, nó sẽ làm tách ra một neutron trong nucleus của nitrogen để chuyển đổi bằng một lực tương tác yếu vào trong một proton, lực này được sử dụng một electron và một phản neutrino (một định dạng phản vật chất của neutrino). Sau thí nghiệm, sẽ thu được một nguyên tố khác (Oxy) với số proton khác với nguyên tố ban đầu.Ví dụ 2: trong phân rã alpha, thường hay diễn ra trong các nucleic có tổng thể khối lượng nặng nhất (đặc nhất). Sự phân rã nguyên tố phóng xạ sẽ giải phóng một nucleus của helium (2 proton và 2 neutron), làm tăng thêm một nguyên tố, helium-4. Ở nhiều trường hợp, quá trình này sẽ diễn ra thành các chuỗi phản ứng có tính tương tự (chuỗi phân rã), bao gồm cả những phản ứng phân rã khác (thường là phân rã beta) cho đến khi nguyên tố ổn định được tạo thành.Ví dụ 3: trong phân rã gamma, một nuleic thường hay phân rã theo quá trình từ một hạt có tính tương tác năng lượng mạnh chuyển đổi thành hạt có mức năng lượng thấp hơn bằng cách chiếu tia gamma. Nguyên tố sẽ không thay đổi thành một nguyên tố khác trong quá trình này (cũng không diễn ra phản ứng chuyển đổi hạt nhân).Ngoài ra, còn có các dạng phân rã ngoại lai (exotic decay). Ví dụ như: trong phân rã chuyển đổi phóng xạ , năng lượng từ một nuclei xung lực có thể xuyên vào quỹ đạo bên trong của các electron từ chính hạt nguyên tử, trong một quá trình tạo ra thêm gia tốc cho các hạt electron nhưng không phải là phản ứng beta và cũng không thay đổi một nguyên tố này thành nguyên tố khác. Tổng hợp hạt nhân. Trong phản ứng tổng hợp hạt nhân nguyên tử, hai nuclei có tổng thể khối nhỏ sẽ được đưa lại gần để cho một lực mạnh hơn có thể kết nối chúng lại với nhau. Tương tác này cần một lực lớn hoặc lực hạt nhân để vượt qua được lực đẩy điện từ giữa các nuclei để tổng hợp chúng lại với nhau; Tuy nhiên, chỉ có thể thực hiện tổng hợp hạt nhân trong môi trường có áp suất cao hoặc nhiệt lượng cao. Khi các nuclei được tổng hợp, phản ứng sẽ phóng rất nhiều năng lượng ra bên ngoài để thu thập năng lượng. Ngoài ra, còn làm cho năng lượng bên trong các nucleus đã được tổng hợp sẽ vào thể năng lượng thấp. Sự liên kết năng lượng trên một nucleon sẽ làm tăng tổng số khối lượng lên bằng với khối lượng của nickel-62. Các thiên thể định dạng ngôi sao (ví dụ như Mặt Trời) luôn tỏa nhiệt năng trong sự tổng hợp của 4 proton vào bên trong 1 nucleus của helium, gồm: 2 positron và 2 neutrino. Sự tổng hợp không kiểm soát của hydrogen vào bên trong helium được gọi là phản ứng nhiệt hạch (hoặc phản ứng nhật năng). Hiện nay, các viện nghiên cứu luôn phát triển thêm các công nghệ kiểm soát trong tổng hợp hạt nhân để đáp ứng các nhu cầu sử dụng theo thị trường kinh tế. Tổng hợp hạt nhân là khởi nguồn của năng lượng (gồm các thể khác nhau của ánh sáng và phóng xạ điện từ) được tạo ra từ lõi của toàn thể các ngôi sao thiên thể, có cả Mặt Trời của Trái Đất. Phân hạch hạt nhân. Phân hạch hạt nhân là phản ứng ngược lại với tổng hợp hạt nhân. Khi một nuclei có tổng thể khối lượng nặng hơn Nickel-62, liên kết năng lượng trên một nucleon giảm theo số khối lượng. Vì vậy, đây là khả dĩ làm cho năng lượng được giải phóng ra bên ngoài nếu trường hợp một nucleus vỡ ra thành hai nucleus có tổng thể khối lượng nhẹ hơn. Quá trình phân rã alpha đặc biệt sẽ là tính chất luôn có trong phân hạch hạt nhân. Từ rất nhiều các nuclei có khối lượng nặng có thể tạo ra phản ứng sản sinh nhiều các neutron tự do. Đồng thời, các nuclei này cũng dễ dàng hấp thụ các neutron tự do được phóng ra từ trong phản ứng phân hạch đầu tiên. Trong chuỗi các phản ứng liên tục này, sẽ có khởi tạo ra neutron có khả năng tỏa nhiệt (bắt lửa mạnh). Phân hạch hạt nhân (hay còn gọi là chuỗi phản ứng hạt nhân) là công nghệ chỉ được dùng trong quân sự, quốc phòng, công nghệ du hành Vũ Trụ...
Bảy kì quan thế giới cổ đại là một danh sách được nhiều người biết đến liệt kê các công trình kiến trúc và điêu khắc trong thời kì cổ đại. Danh sách này do nhà văn Hy Lạp Antipater xứ Sidon lập ra trong thế kỷ thứ II TCN, dựa trên tầm nhìn của người Hy Lạp thời ấy, chỉ gồm các công trình quanh Địa Trung Hải mà họ cho là vĩ đại và thể hiện văn minh của nhân loại. Danh sách này được ông thu thập từ các công trình của Herodotus (484 TCN–425 TCN), Callimachus (310 TCN/305 TCN-240 TCN), Philo xứ Byzantium (280 TCN - 220 TCN). Về số phận và sự tồn tại ngày nay của bảy kỳ quan thế giới cổ đại thì chỉ còn một kỳ quan là tồn tại nguyên vẹn, hai kỳ quan chỉ còn tồn tại dưới dạng phế tích và bốn kỳ quan đã hoàn toàn không còn tồn tại. Khu lăng mộ Giza Khu lăng mộ Giza, được xây dựng vào khoảng thế kỷ XXVI trước Công Nguyên, là một tổng thể gồm 3 kim tự tháp với chiều cao đỉnh kim tự tháp cao nhất là 145,75 m. Kim tự tháp Kheops trong quần thể kim tự tháp Giza, do một Pharaoh Vương triều thứ Tư (tên là Khufu) xây dựng để làm mộ cho mình, đã huy động hơn 100.000 người lao động trong 30 năm, sử dụng hơn 230 vạn phiến đá nặng 6 tấn, nếu ngày nay dùng xe lửa chuyên chở thì cần đến 60 vạn toa xe. Độ nghiêng của các mặt bên Kim tự tháp vào khoảng 51,5 độ. Chiều cao của mặt nghiêng là 195 m. Bốn mặt của Kim tự tháp nhìn về 4 hướng: chính bắc, chính nam, chính đông và chính tây. Kim tự tháp của vua Chephren nằm phía sau kim tự tháp của Khufu và phía trước là kim tự tháp của Mycerinus. Ba kim tự tháp nhỏ hơn ở phía trước được xây cho ba người vợ của vua Mycerinus. Những kim tự tháp này quay mặt về bốn hướng chính. Tại đây còn có cả tượng nhân sư Sphinx nổi tiếng tạc hình mô phỏng Chephren. Kim tự tháp là kì quan thế giới duy nhất còn tồn tại hiện nay trong số bảy kì quan thế giới cổ đại. Vườn treo Babylon Vườn treo Babylon, cũng được gọi là vườn treo Semiramis, là một công trình do vua Nebuchadrezzar II xây dựng năm 603 trước Công nguyên, trong đó cây được treo trên mái hiên, nhằm khuây khỏa nỗi nhớ quê hương xứ Medes của vợ ông là Amyitis. Trong vườn treo có một hệ thống đài phun nước gồm hai bánh xe lớn liên kết với nhau bằng dây xích có gắn thùng gỗ. Khi bánh xe quay, dây xích và thùng nước cũng chuyển động đưa nước ở một cái bể phía dưới lên trên cao tưới nước cho cây. Để tưới nước cho hoa và cây của khu vườn, các nô lệ phải luân phiên nhau đưa nước từ dòng sông Euphrates lên khu vườn. Vườn treo được sử gia Berossus mô tả đến đầu tiên năm 270 TCN. Tượng thần Zeus ở Olympia Được xây dựng vào năm 470-460 trước Công Nguyên, cao 40 ft, rộng 22 ft, tạc hình thần Zeus ngồi trên ngai vàng, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo choàng làm bằng vàng. Tay phải cầm tượng thần Victory có cánh biểu tượng cho chiến thắng trong các kỳ Thế vận hội, tay trái cầm vương trượng trang trí hình chim đại bàng bằng kim loại, tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần. Ngai vàng làm bằng gỗ tuyết tùng và ngà. Chân thần đặt lên một ghế lớn. Nghệ sĩ: Pheidias. Đền Artemis Đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ Diana được xây dựng từ đá cẩm thạch bởi kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, dài 377 foot (115 m), rộng 180 foot (55 m), bao gồm 127 cột đá, ở thành phố Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Đền được bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá trình xây dựng lại và mở rộng qua nhiều thời kỳ, lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa thiêu hủy vào đêm Alexandros Đại đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi đền cũ. Năm 262, người Goth đã đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác của ngôi đền thứ hai còn tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn còn lưu một số di tích thuộc ngôi đền thứ hai. Lăng mộ của Mausolus Lăng mộ được nữ hoàng Artemisia II xây dựng cho chồng là vua Mausolus của Caria thuộc khu vực Tiểu Á, từ năm 353 TCN đến 351 TCN, nhằm tôn vinh giá trị các thế lực cai trị thời giáo hoàng Jangvonhai. Lăng mộ được xây dựng tại thành phố Halicarnassus, thủ đô xứ Caria, nhờ có 1200 lao động, làm việc miệt mài trong thời gian là 17 năm. Chính từ ngôi mộ vua Mausolus đã là nguồn gốc của từ mausoleum (lăng mộ). Đến năm 1494, những Hiệp sĩ Thánh Gioan, một nhóm hiệp sĩ trong cuộc Thập tự chinh đã sử dụng những khối đá cẩm thạch của phần nền ngôi mộ để xây một lâu đài vào năm 1522. Hầu hết các khối đá ở đây được cắt thành từng mảnh nhỏ để xây lâu đài. Ngày nay lâu đài này vẫn còn tồn tại với những mảnh đá cẩm thạch được tách riêng khỏi ngôi mộ của vua Mausolus Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes là tượng đồng khổng lồ thể hiện vị thần mặt trời Helios - vị thần bảo hộ của thành Rhodes - đã có công giúp thành phố thoát khỏi cuộc bao vây của vua xứ Macedonia là Demetrios I Poliorcetes vào năm 305 trước Công Nguyên. Theo nhiều giả thiết được đặt tại thành phố Rhodes, thủ phủ của đảo Rhodes, Hy Lạp, tượng được xây dựng năm 280 TCN và sụp đổ trong một trận động đất vào năm 224 TCN. Tượng cao khoảng 105 foot (33 mét). Hải đăng Alexandria Hải đăng xây dựng dưới thời vua Ptolemy I, khánh thành khoảng năm 201 TCN dưới thời vua Ptolemy II, bị sụp đổ hoàn toàn năm 1303 trong một trận động đất nghiêm trọng. Ngoại trừ Kim tự tháp ở Giza, hải đăng là công trình cao nhất trong thế giới cổ đại. Hải đăng đặt ngay lối vào cảng Alexandria, gồm 3 tầng, chiều cao khoảng 135 m. Bậc dưới cùng hình vuông, gồm nhiều phòng cho bộ phận canh gác hải đăng thường trực, gia súc và lương thực. Lối vào được tôn cao, đi vào bằng con đường dốc bắt đầu từ phần nền bao quanh tháp. Bên trong bậc hình vuông thấp hơn là một vách tường đỡ các phần trên của hải đăng, đến được phần trên này bằng con đường dốc xoáy trôn ốc bên trong. Bậc ở giữa có hình bát giác, phía trên bậc này là phần hình tròn có tượng thần Zeus.
Hạt nhân có thể có nghĩa là: Hạt, trong cây trồng Trong vật lý: Hạt nhân nguyên tử Nhân của một hàm số Kernel of an integral transform Stochastic kernel Convolution kernel, vào a linear filter Kernel (category theory) Heat kernel Trong khoa học máy tính: Hạt nhân (khoa học máy tính) ("bộ điều hành trung tâm" của hệ điều hành)
Luge tại Thế vận hội Mùa đông 2006 được tổ chức tại Cesana Pariol của thị trấn Cesana (gần Torino). Các cuộc đua đơn nam xảy ra trong hai ngày 11 và 12 tháng 2, đơn nữ xảy ra trong hai ngày 13 và 14 tháng 2, còn các cuộc đua đôi nam xảy ra ngày 15 tháng 2 năm 2006. Bảng huy chương Đôi nam
Skeleton tại Thế vận hội Mùa đông 2006 được tổ chức tại Cesana Pariol của thị trấn Cesana (gần Torino). Các nữ vận động viên thi đua trong ngày 16 tháng 2 trong khi các nam vận động viên thi đua trong ngày 17 tháng 2 năm 2006. Bảng huy chương
Hoa Kỳ tại Thế vận hội Mùa đông 2006 được đại diện bởi Ủy ban Olympic Hoa Kỳ (USOC). Đoàn Hoa Kỳ gồm 211 vận động viên (122 nam, 89 nữ). Người cầm cờ Hoa Kỳ trong đêm khai mạc là Chris Witty, huy chương vàng trượt băng tại Thế vận hội Mùa đông 2002.
Nga tham dự Thế vận hội Mùa đông 2006 tại Torino, Ý. Nước này gửi tất cả 190 vận động viên để tham dự cả 15 bộ môn trong Thế vận hội Mùa đông. Nga là phần quan trọng của Liên Xô lúc khi nó đoạt nhiều huy chương vàng nhất trong các Thế vận hội Mùa đông 1956, 1960, 1964, 1972, 1976, 1980, và 1988. Trong Thế vận hội Mùa đông 1994, Nga nói riêng lên đầu bảng huy chương. Dmitry Dorofeev, người trượt băng, cầm quốc kỳ trong lễ khai mạc.
Đức tham dự Thế vận hội Mùa đông 2006, và Ủy ban Quốc gia Thế vận hội Đức (Nationales Olympisches Komitee für Deutschland) có tất cả 162 vận động viên tham dự. Nước này có vận động viên tham dự cả 15 bộ môn trong Thế vận hội Mùa đông. Nằm ở trong Bức Màn Sắt, Đông Đức đoạt số huy chương vàng cao nhất tại Thế vận hội Mùa đông 1984. Sau khi tái thống nhất, Đức giành vị trí đứng đầu toàn đoàn tại các Thế vận hội Mùa đông 1998 và 2002 cùng với 12 huy chương vàng.
Ý tại Thế vận hội Mùa đông 2006 có sự tham gia của 184 vận động viên. Đây là lần thứ hai nước này đăng cai Thế vận hội Mùa đông. Thế vận hội Mùa đông 1956 được tổ chức tại Cortina d'Ampezzo. Cortina d'Ampezzo cũng được quyền đăng cai Thế vận hội Mùa đông 1944, nhưng lần đó bị hủy bỏ vì Chiến tranh thế giới thứ hai. Người cầm quốc kỳ Ý trong lễ bế mạc là nhà trượt băng nghệ thuật Carolina Kostner. Một người bà con của cô Kostner, Isolde Kostner, cũng được cầm lên quốc kỳ Ý tại Thế vận hội Mùa đông 2002. Nhà trượt tuyết Alpine Ý Giorgio Rocca đã đọc Tuyên thệ Thế vận hội ở lễ khai mạc của Thế vận hội.
Cờ Othello hay còn gọi là Reversi, hay Cờ Lật trong tiếng Việt, là một trò chơi của Đức ở trên bàn cờ và là môn thể thao trí tuệ dành cho hai người chơi. Bàn cờ được chia lưới ô vuông 8x8 còn những quân cờ có hình dạng giống đồng xu có hai mặt màu nhạt và sẫm (có thể là màu trắng hoặc đen). Lịch sử Nguồn gốc về trò chơi này được biết đến với hai giả thuyết khác nhau. Vào thế kỷ 19, có một người đã phát minh ra trò chơi này và một nhà xuất bản chuyên về các loại trò chơi nổi tiếng của Đức Ravensburger bắt đầu tạo ra vào năm 1898 như là một trong những tít đầu tiên. Những quy tắc chơi của trò chơi hiện tại được thế giới chấp nhận bây giờ có nguồn gốc từ Nhật Bản và trò chơi đã được gọi là Othello vào những năm của thập kỷ 70. Mattel đã tạo ra các thiết bị có tên là Othello. Công ty Anjar đã được cấp thương hiệu có đăng ký Othello từ Tsukuda Original. Goro Hasegawa, người đã viết cuốn sách "Làm thế nào để trở thành người thắng cuộc trong Othello" đã phổ biến trò chơi ở Nhật vào năm 1975. Trò chơi này được lấy tên từ vở kịch Othello, the Moor of Venice của William Shakespeare. Cách chơi Mỗi mặt của quân cờ đại diện cho một bên chơi. Ta có thể gọi cờ hai bên là đen và trắng, nhưng cũng có thể gọi là sấp và ngửa, bởi vì mỗi quân cờ có 2 mặt riêng biệt. Trước kia, cờ Othello không quy định vị trí đặt quân cờ đầu tiên. Sau đó, nó đã chấp nhận luật chơi mới với điều khoản là phải có 4 điểm đặt đầu tiên vào vị trí 4 hình vuông ở trung tâm bàn cờ, hai quân sẫm và hai quân nhạt. Quân màu sẫm được đi đầu tiên. Quân màu sẫm cần phải được đặt ở vị trí tồn tại ít nhất một hàng ngang hoặc dọc, hoặc chéo giữa quân mới và quân cũ và ở giữa hai quân này có một hay nhiều quân nhạt. Trong hình dưới, quân sẫm có thể được đặt ở những vị trí gợi ý. Sau khi đặt một quân, quân sẫm sẽ lật tất cả những quân nhạt nằm trên đường gióng giữa quân sẫm mới được đi và quân sẫm cũ. Những quân sáng màu đó bây giờ trở thành màu sẫm và quân sẫm có thể sử dụng chúng trong lượt đi tiếp theo, trừ khi quân nhạt lại lật chúng lại trong một nước đi nào đó. Nếu quân sẫm quyết định đi ở vị trí d6 (theo hình dưới), một quân nhạt sẽ bị lật mặt và bàn cờ bây giờ có dạng như hình dưới đây. Bây giờ đến lượt quân nhạt đi cũng nước tương tự như vậy để tìm cơ hội lật mặt quân sẫm. Các khả năng có thể như sau: Quân nhạt đi vào c4 và lật được một quân sẫm: Người chơi thay phiên nhau lần lượt đi quân. Nếu một bên không đi được tiếp thì sẽ tiếp tục đến lượt người kia cho đến khi cả hai bên đều không đi được nước nào nữa. Điều này xảy ra khi các ô trên bàn cờ đã kín hết quân hay khi một bên chơi không còn quân nào trên bàn cờ. Người chơi có nhiều quân trên bàn cờ hơn là người thắng cuộc. Một điều khác giữa Reversi và cờ Othello về việc sử dụng quân. Ở Reversi mỗi người chơi được chia đều 32 quân từ lúc bắt đầu và chỉ được đi 32 quân đó (bao gồm cả hai quân trên bàn cờ lúc bắt đầu chơi) cho đến khi không còn quân nào đi được nữa. Họ không được sử dụng quân cờ của đối thủ. Ở cờ Othello tất cả quân cờ đều thuộc sở hữu chung của hai người chơi; các quân cờ được để chung trong một hộp, hai bên đều có cơ hội dùng quân ngang nhau. Chiến thuật Các quân cờ thay đổi màu rất nhanh, dễ dàng và thường xuyên, do vậy, đó là một ưu điểm nhưng cũng có thể là nhược điểm nếu cố gắng có được nhiều quân từ lúc bắt đầu. Chiếm góc, cạnh, độ cơ động, tại biên, tàn cuộc và dự đoán trước mọi việc là chìa khóa của thành công trong cờ Othello. Chiếm góc Nếu có một quân đã được đặt tại góc thì quân đó sẽ không bị đổi cho đến hết trận cờ. Do đó, người chơi có thể sử dụng quân cờ tại góc để chốt giữ nhóm quân cùng với cạnh ngay sát nó làm thành một hệ thống chắc chắn. Do vậy việc chiếm giữ góc là một chiến lược có hiệu quả khi có cơ hội đến. Nói chung, một quân cờ được ổn định khi nó được nằm trong 4 hướng ranh giới, trong một hàng đã kín các quân, trong đó có các quân cùng màu nằm cạnh liên tiếp và bị chặn hai đầu bởi quân màu khác. Độ cơ động Một người chơi có chiến thuật sẽ không dễ dàng từ bỏ việc chiếm góc hay bất kỳ nước đi tốt nào. Do vậy, để đoạt được những nước đi tốt này bạn cần phải ép đối thủ đi những nước từ bỏ cách đi tốt đó. Cách tốt nhất để làm việc đó là làm giảm số lượng nước đi có thể cho đối thủ của bạn. Nếu bạn nhất định tìm cách hạn chế số nước đi hợp lý của đối thủ thì sớm hay muộn họ sẽ phải đi nước đi mà họ không mong muốn. Một ví trí cần thực hiện được đó là tất cả các quân của bạn đứng cạnh nhau, bao vây xung quanh là quân của đối thủ. Với vị trí như vậy, bạn có thể đọc ra được các nước đi của đối thủ Tại biên Các quân cờ được đặt ở phía biên bàn cờ dường như chắc chắn (bởi vì chúng không bị lật mặt dễ dàng) . Bốn ô vuông ở mỗi góc bàn cờ được gọi là X-vuông. Lúc bắt đầu hay giữa ván cờ, nếu các ô đó được chiếm giữ, sẽ đảm bảo chắc chắn cho việc sở hữu chúng. Đoán trước Như trong bất kỳ chiến thuật nào của cờ vua hay checkers, người chơi không nên chỉ xem xét về thế cờ hiện tại. Đối với mỗi nước đi, bạn cần phải cân nhắc các diễn biến có thể có từ phía đối thủ, sau đó là khả năng phản ứng lại của bạn với các nước đi đó và tiếp theo nữa là như thế nào. Tình thế hiện tại cũng có thể không liên quan đến các nước đi sau. Do vậy, khi phân tích các khả năng đi, chiếm góc hoặc bất cứ khả năng nào khác, bạn nên xem xét cách tốt nhất để thực hiện chiến lược trong một thời gian dài hơn là chỉ quan tâm đến nước đi hiện tại. Cờ Othello và máy tính Chương trình chơi cờ Othello tốt nhất có thể dễ dàng đánh bại người chơi cờ giỏi nhất. Vào đầu năm 1980, chương trình Moor đã thắng đương kim vô địch lúc đó và vào năm 1997, chương trình Logistello đã đánh bại nhà vô địch Takeshi Murakami với tỷ số 6:0. Sự nổi trội hơn này không có ở những trò chơi như cờ vua, nơi mà máy tính chơi giỏi nhất cũng ngang ngửa với người hay ở cờ vây, nơi thậm chí một người chơi trung bình cũng thắng được máy tính giỏi nhất. Nói chung, loài người không thể thắng được trí thông minh của máy tính trong cờ Othello bởi vì máy tính có thể tính toán được rất nhiều nước đi tiếp theo, việc này con người không thể bằng được. Các nhà phân tích đã ước tính số lượng vị trí hợp lệ ở cờ Othello nhiều nhất là 1028 và nó có độ phức tạp xấp xỉ 1058. Bên lề Từ lúc được phát minh, đến tận năm 1977, giải vô địch cờ Othello hàng năm mới được tổ chức. Mỗi quốc gia có thể cử đến nhiều nhất là 3 người. Cờ Othello có số người ủng hộ nhiều nhất ở Nhật. Các phiên bản Windows từ 1.0 đến 3.0 cài sẵn chương trình cờ Othello, bị thay thế bởi Minesweeper kể từ Windows 3.1. Windows ME và Windows XP còn có phiên bản online của cờ Othello. Giải cờ Othello quốc tế * Giải vô địch Monte Carlo thường không được coi là chính thức. Đọc thêm Othello: Tóm tắt và cơ bản, Các chiến lược trong cờ Othello, Ted Landau, 1987 Othello : Một phút để học - Một đời để trở thành chuyên gia, Brian Rose, 2005 Reversi WikiBook
Bài này nói về một tỉnh cũ ở Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hưng Hóa (định hướng) Hưng Hóa (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19. Tỉnh Hưng Hóa được thành lập năm 1831. Đây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ. Tên gọi Hưng Hóa Tiền thân của tỉnh Hưng Hóa là đạo thừa tuyên Hưng Hóa, rồi trấn Hưng Hóa. Hưng Hóa nguyên là đạo Đà Giang thời Trần gồm 2 phủ Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái, vùng đất trung lưu sông Hồng) và Gia Hưng (Sơn La (Mộc Châu, Yên Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Thuận Châu), Hòa Bình, vùng đất hạ lưu sông Đà và giữa sông Đà và Sông Mã). Đến năm 1431, Lê Lợi thu phụ Đèo Cát Hãn, có thêm châu Phục Lễ (Mường Lễ), vùng thượng lưu sông Đà do Đèo Cát Hãn cai quản, từng là châu Ninh Viễn của Vân Nam, nhập về. Châu Phục Lễ là đất căn bản của phủ An Tây xứ Hưng Hóa gồm 10 châu (Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Khiêm Châu, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tung Lăng, Lễ Tuyền). Tháng 6 âm lịch Năm Quang Thuận thứ bảy (1466), vua Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên là Thanh Hóa, Xứ Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, phủ Trung Đô và Hưng Hóa. Đây là lần đầu tiên từ "Hưng Hóa" được nhắc tới trong sử sách Việt Nam ở cấp một đơn vị hành chính (gần như cấp tỉnh ngày nay). Tuy nhiên, từ Hưng Hóa đã được nhắc tới từ những năm 1419 như là một xứ. Đạo thừa tuyên Hưng Hóa bao gồm đất đai thuộc các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình (vùng Tây Bắc Bộ) và Phú Thọ (vùng Đông Bắc Bộ) ngày nay, cùng một phần lãnh thổ Lào (thuộc các tỉnh Hủa Phăn, Xầm Nưa) và một phần tỉnh Vân Nam Trung Quốc hiện nay. Không biết chính xác ai là người đầu tiên thay mặt vua cai quản đạo thừa tuyên này. Tuy nhiên, sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Năm Quang Thuận thứ tám 1467...tháng ba... lấy Hưng Hóa thừa tuyên sứ tham nghị Nguyễn Đức Du làm ngự sử đài thiêm đô ngự sử; tri phủ Quy Hóa Nguyễn Thúc Thông làm Hưng Hóa thừa tuyên sứ tham nghị. Như vậy, có thể ông Nguyễn Đức Du là người đầu tiên cai quản vùng đất có tên gọi khi đó là thừa tuyên Hưng Hóa. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông chia đạo thừa tuyên Hưng Hóa thành 3 phủ gồm 4 huyện, 17 châu. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết rằng: Phủ Quy Hóa quản lĩnh 3 huyện: Trấn Yên, Yên Lập, Văn Chấn và 2 châu: Văn Bàn, Thủy Vĩ. Phủ Gia Hưng quản lĩnh 1 huyện: Thanh Xuyên và 5 châu: Phù Hoa, Mộc Châu, Việt Châu (Yên Châu), Mai Châu, Thuận Châu (Mường Mỗi). Giữa thời Hậu Lê, chia nhỏ Thuận Châu ra làm 4, một phần vẫn giữ làm Thuận Châu, tách thêm 3 châu Tuần Giáo, Mai Sơn và Sơn La. Đến năm 1775, phủ Gia Hưng được quy nạp thêm xứ Mường Thanh (châu Ninh Biên) vốn do Hoàng Công Chất chiếm cứ trước đó. Cũng khoảng lúc đó chia châu Mộc làm 3 châu: Mộc Châu, Đà Bắc, Mã Nam. Phủ Yên Tây quản lĩnh 10 châu: Luân Châu (Mường Báng), Quỳnh Nhai (Mường Chăn), Lai Châu (Mường Lễ), Chiêu Tấn (Mường Thu), Lễ Toàn (Lễ Tuyền), Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Tung Lăng (Quảng Lăng) và Kiêm Châu (Châu Khiêm). Phủ An Tây (Phục Lễ) nằm kẹp giữa 2 phủ Gia Hưng và Quy Hóa. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi là xứ Hưng Hóa. Đời Hồng Thuận (1509-1516) trở thành trấn Hưng Hóa. Đến năm 1831 là tỉnh Hưng Hóa. Theo Lê Quý Đôn: Châu Tuy Phụ (綏阜) thổ âm gọi là Mường Tè (芒齊) có 2 động là: Nậm Mạ và Nậm Lân. Châu Hoàng Nham (黃岩) thổ âm gọi là Mường Tông (Mường Toong), có 2 động là: Ngà và Mỏ Sạch. Động Ngà có mỏ Vàng còn Mỏ Sạch là đất mỏ sắt. Châu Tung Lăng (嵩陵) thổ âm gọi là Phù Phang, có 3 động là: Cống Võng, Nậm Cảm và Suối Vàng. Châu Khiêm (謙州) thổ âm gọi là Mường Tinh (Nay không rõ ở đâu, nhưng có thể là Mường Tía (M.Tía) nằm phía phải sông Đà (bờ Nam) khoảng giữa Mường Toong và Mường Lễ. Cũng có thể là M.Boum và M.Mo (bờ trái sông Đà nay khoảng xã Bum Nưa, Bum Tở huyện Mường Tè nằm giữa xã Mường Toong (Hoàng Nham xưa) và thị xã Mường Lay (Mường Lễ xưa), theo đoạn viết về sông Đà bên dưới). Châu Lễ Tuyền (醴泉) thổ âm gọi là Mường Bẩm (có thể là mường Boum (M.Boum), nhưng cũng có thể là địa danh M.Léo (gần Ki Ma Pa (骑马坝)) trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1902 mà nay là khoảng hương Bán Pha (半坡) huyện Lục Xuân châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc). Châu Hợp Phì (合淝) thổ âm gọi là Trình Mi (呈眉) (tức là Mường Mì hay Xiềng My, nay là hương Giả Mễ (者米乡, Zhe-mi-xiang) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam). Châu Quảng Lăng (廣陵), (khác với Tung Lăng), thổ âm gọi là Mường La (nay là hương Mường Lạp, Meng-la-xiāng (勐拉乡) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), có 3 phố người Hoa là: Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hóa, nằm bên dưới 6 châu kể trên và bên trên châu Chiêu Tấn. (Quan niệm trên dưới của Lê Quý Đôn có lẽ là theo hướng đường bộ đi từ Mường Thu (Chiêu Tấn) qua Quảng Lăng mới đến 6 châu kể trên.) Cả bảy châu này (6 châu tên Việt Nam, 1 châu tên Trung Quốc) đến thời Lê Quý Đôn đều mất về Trung Quốc. Riêng về châu Quảng Lăng, Lê Quý Đôn viết: "Châu Quảng Lăng thổ âm là Mường La, bên trái sông Kim Tử (Trung Quốc) và ở phía trên châu Chiêu Tấn, đi từ Mường Thu phải 2 ngày, từ Văn Bàn phải 6 ngày, từ Kinh ra đi phải 26 ngày. Trước châu này bị viên huyện Kiến Thủy (Trung Quốc) chiếm riêng, đến nay (năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) đã 93 năm,..." Như thế châu Quảng Lăng (tên châu Trung Quốc) đã mất về Trung Quốc khoảng những năm 1684 niên hiệu Chính Hòa nhà Lê, và Khang Hy nhà Thanh. Mặt khác, Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy,... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) ..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà (金水河)) châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp (勐拉, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai,..." Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Hưng Hóa viếtː "Xét Hưng Hóa phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính chép: Châu Tung Lăng có tên nữa là châu Quảng Lăng, thổ âm gọi Mường La, phía trên liền với đất nước Thanh, phía dưới giáp châu Lai và châu Chiêu Tấn. Đất có mỏ vàng. Từ lúc binh lửa [đánh dẹp Hoàng Công Chất], phụ đạo phụ thuộc nước Thanh, nộp thuế đã hơn 60 năm. Hằng năm phải nộp 6 dật 6 lạng bạc. Người Thanh đã mở 3 phố, có dân Hồ Quảng ở về phía tây không gánh chịu lao dịch bản trấn. Châu Hoàng Nham ở giáp biên giới, nhật trình đường đi cũng như châu Tung Lăng… Chiêu Tấn đến Tung Lăng 2 ngày, tức là đất Mường La, phụ đạo là Đèo Quốc An; đến Kim Lăng và Nậm Bàn 1 ngày; đến Trình Mỳ (tức châu Hợp Phì) 1 ngày, phụ đạo là Lý Văn Đệ; đến châu Lễ Tuyền 1 ngày, phụ đạo là Hoàng Ý Long. Lại một con đường từ Mường La đến Trình Thanh tức châu Tung Lăng 4 ngày, đến phủ Lâm An nước Thanh 4 ngày. Một đường đi Mường Tè: từ châu Lai đến Mường Tông 2 ngày, tức châu Hoàng Nham, phụ đạo là Quảng Tương; đến Mường Tè 3 ngày, tức châu Tuy Phụ, phụ đạo là Chưởng Bom; đến Bắc Mã 1 ngày; đến Mường U 1 ngày; đến Mường Nhuệ và Mường Đông 1 ngày; đến Ngưu Thao 1 ngày. Thế là từ châu Lai đi Mường Tè đến Ngưu Thao cộng 9 ngày..." Địa lý Theo Hưng Hóa kỷ lược của Phạm Thận Duật thì địa giới tỉnh Hưng Hóa có vị trí địa lý: Phía đông giáp phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây Phía tây giáp các huyện Kiến Thủy phủ Lâm An và Văn Sơn phủ Khai Hóa tỉnh Vân Nam Trung Quốc (thời nhà Thanh), các nước Nam Chưởng và Xa Lý (nay là các tỉnh Louangphabang, Phongsali của Lào) Phía nam giáp châu Quan Hóa (nay là huyện Quan Hóa Thanh Hóa), huyện Trình Cố tỉnh Thanh Hóa nhà Nguyễn (nay là các huyện Muang Et, Xiengkhor, Sop Bao tỉnh Hủa Phăn, Lào) và huyện Lạc Yên tỉnh Ninh Bình nhà Nguyễn (nay là các huyện Lạc Sơn, Tân Lạc, Yên Thủy tỉnh Hòa Bình) Phía bắc giáp với châu Thu tỉnh Tuyên Quang nhà Nguyễn (tức Thu Châu hay châu Thu Vật (trước 1823), nay là phần đất huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái). Cương vực tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn Tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn gồm các châu, huyện: Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Mai (châu), Đà Bắc, Phù Yên (Phù Hoa), Mộc (châu), Yên (châu), Mai Sơn, Sơn La, Thuận (châu), Quỳnh Nhai, Luân (châu), Tuần Giáo (Mường Quay), Lai (châu), Ninh Biên (nay là Điện Biên Phủ, huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên), Yên Lập, Văn Chấn, Trấn Yên, Văn Bàn, Chiêu Tấn, Thủy Vĩ. Châu Ninh Biên thuộc phủ Gia Hưng, bắt đầu thuộc lãnh thổ Việt Nam từ năm 1775 thời Lê trung hưng, đến năm Thiệu trị thứ nhất (1841) tách ra thuộc phủ Điện Biên. Ninh Biên tiếp giáp châu Tuần Giáo ở phía Đông, phía Tây giáp nước Nam Chưởng và huyện Trình Cố tỉnh Thanh Hóa thời nhà Nguyễn, phía Bắc giáp châu Lai. Ninh Biên gồm các động (đơn vị cấp làng xã): Mường Thanh, Mường Tôn, Mường Lạo, Mường Tiên, Mường Viên. Châu Lai tức Lai (châu) thuộc phủ An Tây đến năm 1841 tách ra thuộc phủ Điện Biên, (nay là phần đất thuộc huyện Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu, thị xã Lai Châu cũ, Mường Chà tỉnh Điện Biên) tiếp giáp châu Quỳnh Nhai và châu Luân ở phía Đông, phía Nam giáp châu Ninh Biên và nước Ai Lao, phía Tây giáp huyện Kiến Thủy phủ Lâm An (臨安府) tỉnh Vân Nam Trung Quốc thời nhà Thanh và sông Cửu Long (theo Hưng Hóa kỷ lược), phía Bắc giáp châu Quảng Lăng của Trung Quốc và sông Kim Tử thuộc châu Chiêu Tấn. (Sông Kim Tử là Kim Thủy Hà (金水河) nay thuộc Vân Nam Trung Quốc. Sông Cửu Long ở đây có lẽ là sông Nam Ou chi lưu của Mekong ở bắc Lào.) Đầu thế kỷ 19 Châu Lai gồm 2 động Thạch Bi và Hoài Lai. châu Chiêu Tấn thuộc phủ An Tây trong suốt thời nhà Nguyễn (nay là vùng đất các huyện thị Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ, Lai Châu tỉnh Lai Châu, huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai). Châu Chiêu Tấn tiếp giáp châu Văn Bàn ở phía Đông, châu Thủy Vĩ ở phía Bắc, phía Tây giáp châu Quảng Lăng nhà Thanh Trung Quốc, phía Nam giáp châu Lai, châu Sơn La. Chiêu Tấn gồm các đơn vị cấp làng xã: Thanh Quý, Minh Lang, Phong Thu (tức thị trấn Phong Thổ nay là thị xã Lai Châu mới), Bình Lư, Ngọ Phúc, Ly Bô, Hồng Lương, Dương Đạt, Than Nguyên. Theo Phạm Thận Duật: châu Chiêu Tấn nguyên gồm 12 động, năm Minh Mạng 19 (1838) đổi động thành xã cụ thể động Hồng Lương thành xã Lương thiện, đặt thêm 2 trại: Lang Nam, Thân Thuộc. Và chia vào 2 tổng: tổng Dương Đạt (gồm: Dương Đạt, Hương Ly, Ngọ Phú, Minh Lương), tổng Phong Thu (gồm: Phong Thu, Thanh Quý, Lương Thiện, Bình Lô, Lang Nam, Thân Thuộc) châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa (nay là đất thuộc thành phố Lào Cai, các huyện thị Bảo Thắng, Mường Khương, Si Ma Cai tỉnh Lào Cai). Châu Thủy Vĩ tiếp giáp châu Lục Yên (thuộc tỉnh Tuyên Quang thời nhà Nguyễn, nay thuộc các tỉnh Yên Bái, Hà Giang) ở phía Đông, châu Văn Bàn ở phía Nam và Tây, phía Bắc giáp huyện Văn Sơn phủ Khai Hóa Trung Quốc (các cửa khẩu Hà Khẩu, Nam Phố, Xuân Lý). Thủy Vĩ gồm các đơn vị cấp làng xã: Sơn Yên, Hoàng Lạn, Hương Sơn, Cáo Niên, Hoa Quán, Hạo Niên, Gia Phú, Cam Đường, Ngọc Uyển. Luân Châu, đầu thế kỷ 19, thuộc phủ An Tây (năm 1841 đổi thuộc phủ Điện Biên) gồm 3 động (đơn vị làng xã): Đôn Đức, Kim Bảng, Côn Lôn. Theo Phạm Thận Duật: châu Luân, nguyên gọi là châu Loan. Năm 1838 Minh Mạng đổi 3 động (Đôn Đức, Văn Bảng, Côn Lôn) thành xã gộp vào 1 tổng duy nhất là tổng Văn Bản. Luân Châu nay là khoảng địa bàn huyện Tủa Chùa tỉnh Điện Biên. Thay đổi hành chính và đổi tên thời Pháp thuộc Tháng 4 năm 1884, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Brière de l'Isle mở cuộc hành binh đánh lấy thành Hưng Hóa. Quân nhà Nguyễn cùng quân Cờ Đen thấy không giữ được nên nổi lửa đốt thành rồi bỏ ngỏ đồn lũy, rút lên mạn ngược (khu vực sau là các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái). Chiếm được Hưng Hóa, người Pháp cho phân định lại địa giới, cắt thêm những tỉnh mới cùng tiểu quân khu để dễ dàng cai trị: Tháng 5 năm 1886 thành lập tỉnh Chợ Bờ (tức tỉnh Mường, sau đổi thành tỉnh Hòa Bình) Ngày 7 tháng 1 năm 1899, thành lập đạo quân binh IV bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai, Tiểu quân khu Vạn Bú... Lào Cai là đạo lỵ (về sau đổi thành các tỉnh dân sự như: tỉnh Yên Bái, tỉnh Vạn Bú (sau đổi thành tỉnh Sơn La) đều năm 1895, tỉnh Lào Cai (tháng 7 năm 1907) và tỉnh Lai Châu (tháng 6 năm 1909)... Sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để thành lập đạo quan binh IV với các tiểu quân khu, khu quân sự... Tỉnh Hưng Hoá chỉ còn lại huyện Tam Nông và huỵện Thanh Thủy. Toàn quyền Đông Dương đã điều chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với 2 huyện còn lại để thành lập tỉnh Hưng Hoá mới. Năm 1887, Pháp ký kết với nhà Thanh công ước Pháp-Thanh hoạch định biên giới, quy định cắt toàn bộ khu vực lãnh thổ châu Chiêu Tấn phủ An Tây tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn (tức là khu vực các huyện Sìn Hồ, Phong Thổ, Tam Đường, Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu, huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai) về cho nhà Thanh. Khu vực này cùng với khu vực 6 châu phủ An Tây Đại Việt đã mất vào thời nhà Lê là Mường Tè (Tuy Phụ), Mường Nhé (Hoàng Nham), Mường Chà (Khiêm Châu), Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tung Lăng, Mường La (Quảng Lăng) vốn là đất thế tập tự trị của dòng họ Đèo người Thái trắng. Châu Chiêu Tấn, đương thời do Đèo Văn Trị cần vương kháng Pháp cai quản, bị Pháp chuyển cho nhà Thanh. Ngày 8 tháng 9 năm 1891, ba huyện Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Ngày 9 tháng 12 năm 1892, huyện Cẩm Khê thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái nhập về tỉnh Hưng Hoá. Ngày 5 tháng 6 năm 1893, huyện Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái được nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895, cùng với sự đầu hàng của Đèo Văn Trị và sự suy yếu của nhà Thanh, Pháp đã ký kết với nhà Thanh công ước hoạch định biên giới sửa đổi, quy định lấy lại phần đất tỉnh Hưng Hóa cũ đã mất cho nhà Thanh trong công ước năm 1887 và lấy thêm các phần đất nay là các huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu, Mường Nhé, Mường Chà tỉnh Điện Biên về cho xứ Bắc Kỳ thuộc Pháp. Phần đất các huyện Mường Tè, Mường Nhé, Mường Chà này là một phần (3/6 châu) của 6 châu (Tuy Phụ, Hoàng Nham, Khiêm Châu, Tung Lăng, Lê Tuyền, Hợp Phì) đã mất cho nhà Thanh Trung Quốc từ thời nhà Lê trung hưng, đến suốt thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn độc lập chưa lấy lại được. Các phần đất này sau nhập vào tỉnh Lai Châu thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, đổi lại Pháp cắt cho Trung Quốc phần còn lại sau công ước 1887 của vùng đất Tụ Long Hà Giang, nơi có nhiều mỏ khoáng sản quý. Ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn Vàng chuyển về tỉnh Hưng Hoá. Ngày 24 tháng 8 năm 1895, hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang; đạo quan binh 3 Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Năm 1900, thành lập thêm huyện Hạc Trì. Như vậy tỉnh Hưng Hóa mới gồm 2 phủ, 10 huyện và 2 châu. Trong đó 2 huyện Tam Nông, Thanh Thủy và 2 châu Thanh Sơn, Yên Lập vốn là đất cũ của tỉnh Hưng Hoá; phủ Đoan Hùng với 2 huyện Hùng Quan và Ngọc Quan, phủ Lâm Thao và 6 huyện: Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì là những phủ, huyện mới từ tỉnh Sơn Tây chuyển sang. Tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hoá đặt tại thị xã Hưng Hóa (thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1895, vốn là thành Hưng Hóa), đóng tại xã Trúc Khê, huyện Tam Nông (nay là thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ). Ngày 5 tháng 5 năm 1903, tỉnh Hưng Hóa mới (phần còn lại) được đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế với các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Hiện tại đây là một trong những khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. Hoàn cảnh ra đời Vào đầu những năm 90, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN trước những thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực của toàn hiệp hội, những thách thức đó là: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế. Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do châu Âu của EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này. Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA). Mục đích Mục đích của AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cắt giảm thuế quan Theo Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung (CEPT), sáu quốc gia gia nhập ASEAN trước sẽ xóa bỏ khoảng 98% tổng số dòng thuế của mình đối với các quốc gia thành viên khác vào năm 2006. Thời hạn dành cho bốn quốc gia gia nhập sau là năm 2013. Các sản phẩm được xem xét giảm thuế quan được nêu trong bốn danh mục, đó là: Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay, Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế, Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn. Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan AFTA đã thực hiện xóa bỏ hàng rào phi thuế quan Các quốc gia thành viên Các nước đồng ý loại bỏ hàng rào thuế quan với nhau: Quan sát viên: Cuộc họp gần nhất của ASEAN còn có sự tham gia của:
Tỉnh Hà Nội là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19. Năm 1831, vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội. Đây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ. Địa lý Tỉnh Hà Nội có vị trí địa lý: Phía đông giáp giang phận Nhị Hà qua hai huyện Đông Yên và Kim Động, tỉnh Hưng Yên Phía tây giáp địa phận ba huyện Đan Phượng, Yên Sơn, Mỹ Lương thuộc tỉnh Sơn Tây Phía nam giáp địa phận bốn huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Thượng Nguyên thuộc tỉnh Nam Định và phủ Nho Quan thuộc tỉnh Ninh Bình Phía bắc giáp huyện Yên Lãng thuộc tỉnh Sơn Tây và giang phận Nhị Hà qua ba huyện Đông Ngàn, Gia Lâm và Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh. Tổng diện tích đất ruộng là 393.914 km2. Đông-Tây cách nhau hơn 90 dặm, Nam-Bắc cách nhau 113 dặm 120 trượng. Lịch sử Thời thuộc Hán Tùy là quận Giao Chỉ; thuộc nhà Đường là phủ An Nam đô hộ, phủ trị đóng ở thành Tống Bình, thường gọi là thành Đại La (trước khi Trương Bá Nghi đắp sửa La Thành năm 767). Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi chỉ đóng đô ở Hoa Lư mấy tháng, đến đầu năm Thuận Thiên 1 (1010) xuống chiếu chọn thành Đại La đặt Kinh đô mới, đổi tên là thành Thăng Long; đặt phủ Ứng Thiên thống nhiếp các vùng phụ trách Hoàng thành. Năm 1010 đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh. Đời nhà Trần đổi làm phủ Đông Đô, thuộc lộ Đông Đô (gồm phủ Đông Đô và huyện Từ Liêm). Thời thuộc nhà Minh hay Bắc thuộc lần 4 (1407-1427) là đất huyện Đông Quan (và các vùng lân cận). Đời Lê Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) đổi Đông Quan làm Đông Kinh, còn gọi là Trung Đô. Đời Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 10 (1469) chia vùng phụ trách hoàng thành gồm 36 phường làm 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức thuộc phủ Phụng Thiên. Thời Tây Sơn, Quang Trung dự tính xây Kinh đô mới ở Nghệ An, gọi Thăng Long là Bắc Thành. Triều Nguyễn, năm Gia Long thứ 1 (1802) đặt chức Bắc Thành tổng trấn, cai quản cả 11 trấn ở miền Bắc. Năm thứ 4 (1805) đổi huyện Quảng Đức làm Vĩnh Thuận, đổi phủ Phụng Thiên làm phủ Hoài Đức (gồm 2 huyện) thuộc Bắc Thành. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) tách huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai nhập vào phủ Hoài Đức; lại tách các phủ Ứng Hòa (tức phủ Ứng Thiên, đổi tên năm 1814), Lý Nhân và Thường Tín thuộc trấn Sơn Nam, gộp vào phủ Hoài Đức thành một tỉnh gọi là tỉnh Hà Nội (gồm 4 phủ, 15 huyện) như khi mới thành lập. Tỉnh Hà Nội thời Đồng Khánh gồm phần lớn các quận huyện nằm bên hữu ngạn sông Hồng của thành phố Hà Nội ngày nay (trừ thị xã Sơn Tây và các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Quốc Oai và Thạch Thất khi đó thuộc tỉnh Sơn Tây) và toàn bộ tỉnh Hà Nam ngày nay. Tỉnh Hà Nội lúc đó có tỉnh lỵ là thành Thăng Long cũ, gồm có 4 phủ: Phủ Hoài Đức: kinh thành Thăng Long cũ và huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai của tỉnh Sơn Tây), Phủ Ứng Hòa: có 4 huyện Chương Đức (sau đổi là Chương Mỹ), Hoài An, Sơn Minh và Thanh Oai Phủ Lý Nhân có 5 huyện Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Nam Xương và Thanh Liêm Phủ Thường Tín có 3 huyện Phú Xuyên, Thanh Trì và Thượng Phúc. Tổng cộng tỉnh Hà Nội có 15 huyện thuộc 4 phủ trên. Vào thời kỳ 1838-1840, phủ Hoài Đức gồm 2 huyện: Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Huyện Thọ Xương có 8 tổng, 116 phường thôn. Huyện Vĩnh Thuận có 5 tổng, 27 phường thôn. Số dân là 52.335 người. Sau hiệp ước Patenôtre, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp thành Hà Nội, huyện Đan Phượng thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, được nhập vào phủ Hoài Đức. Năm 1890, phủ Lý Nhân của tỉnh Hà Nội được tách ra để lập tỉnh Hà Nam. Ngày 26 tháng 12 năm 1896 tỉnh Hà Nội (phần còn lại) chuyển tỉnh lỵ về Cầu Đơ (nay là quận Hà Đông) và đến ngày 3 tháng 5 năm 1902 thì đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ, đổi huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận làm huyện Hoàn Long. Năm 1904 tỉnh Cầu Đơ đổi tên thành tỉnh Hà Đông. Dân cư Theo Đồng Khánh địa dư chí, tỉnh Hà Nội có 56.748 dân đinh, trong đó binh đinh là 5.822 người. Cũng theo Đồng Khánh địa dư chí thì: Chú thích
Văn minh là một loại xã hội phức tạp được đặc trưng bởi sự phát triển đô thị, sự phân tầng xã hội, một hình thức của chính phủ và các hệ thống giao tiếp mang tính biểu tượng như chữ viết. Các nền văn minh có mối liên hệ mật thiết với và thường được xác định rõ hơn bởi các đặc điểm kinh tế chính trị - xã hội khác, bao gồm tập trung hóa, thuần hóa cả con người và các sinh vật khác, chuyên môn hóa lao động, các hệ tư tưởng về tiến bộ và siêu quyền lực được nhúng sâu vào văn hóa, các kiến trúc di tích, đánh thuế, sự phụ thuộc của xã hội vào canh tác và bành trướng lãnh thổ. Trong lịch sử, nền văn minh thường được hiểu là một nền văn hóa lớn hơn và "tiên tiến hơn", trái ngược với các nền văn hoá nhỏ hơn, được cho là nguyên thủy. Theo nghĩa rộng này, một nền văn minh tương phản với các xã hội bộ lạc không tập trung, bao gồm các nền văn hóa của những người theo chủ nghĩa du mục, xã hội đồ đá mới hoặc những người săn bắn hái lượm, nhưng đôi khi nó cũng tương phản với các nền văn hóa được tìm thấy trong chính các nền văn minh. Các nền văn minh được tổ chức tại các khu định cư đông dân được chia thành các tầng lớp xã hội phân cấp với tầng lớp dân cư đô thị và nông thôn trực thuộc, tham gia vào nông nghiệp thâm canh, khai thác, sản xuất và buôn bán quy mô nhỏ. Nền văn minh tập trung quyền lực, mở rộng sự kiểm soát của con người đối với phần còn lại của tự nhiên, bao gồm cả những con người khác. Văn minh, là một khái niệm ban đầu được liên kết với các thị trấn và thành phố. Sự xuất hiện sớm nhất của các nền văn minh nói chung gắn liền với giai đoạn cuối của Cách mạng thời đại đồ đá mới, đỉnh cao là quá trình cách mạng đô thị và hình thành nhà nước tương đối nhanh chóng, một sự phát triển chính trị gắn liền với sự xuất hiện của giới cầm quyền. Lịch sử khái niệm Các chuyên luận cơ bản là Quá trình văn minh của Norbert Elias (1939), mà truy vết tập tục xã hội từ thời trung cổ đến giai đoạn cận đại. Trong Triết lý của nền văn minh (1923), Albert Schweitzer nêu ra hai ý kiến: một ý kiến duy vật thuần túy và một ý kiến duy vật và đạo đức học. Ông nói rằng cuộc khủng hoảng thế giới là do loài người đánh mất ý tưởng đạo đức của nền văn minh, "tổng cộng tất cả những tiến bộ của con người trong mọi lĩnh vực hành động và từ mọi quan điểm cho đến khi tiến bộ giúp hoàn thiện tinh thần của mỗi cá nhân là tiến độ của mọi tiến bộ ". Tính từ như "văn minh" (civility) được phát triển vào giữa thế kỷ 16. Danh từ trừu tượng "văn minh" (civilization), có nghĩa là "điều kiện văn minh", xuất hiện vào những năm 1760, một lần nữa từ tiếng Pháp. Việc sử dụng đầu tiên được biết đến trong tiếng Pháp là vào năm 1757, bởi Victor de Riqueti, hầu tước de Mirabeau, và việc sử dụng đầu tiên bằng tiếng Anh được quy cho Adam Ferguson, người trong Tiểu luận về Lịch sử Xã hội Dân sự năm 1767 đã viết, "Không chỉ những tiến bộ cá nhân từ thời thơ ấu đến vị thành niên, nhưng bản thân loài này từ thô lỗ đến văn minh ". Do đó, từ này trái ngược với sự man rợ hoặc thô lỗ, trong việc theo đuổi tích cực đặc tính tiến bộ của Thời đại Khai sáng. Vào cuối những năm 1700 và đầu những năm 1800, trong Cách mạng Pháp, từ "nền văn minh" đã được sử dụng ở số ít, không bao giờ ở số nhiều và có nghĩa là sự tiến bộ của toàn nhân loại. Đây vẫn là trường hợp trong tiếng Pháp. Việc sử dụng "các nền văn minh" như một danh từ đếm được thỉnh thoảng được sử dụng trong thế kỷ 19, nhưng đã trở nên phổ biến hơn nhiều trong thế kỷ 20, đôi khi chỉ có nghĩa là văn hóa (bản thân nó là một danh từ không đếm được, được đếm trong bối cảnh dân tộc học). Chỉ trong ý nghĩa khái quát này, nó mới có thể nói về một "nền văn minh thời trung cổ". Ngay trong thế kỷ 18, nền văn minh không phải lúc nào cũng được coi là một sự cải tiến. Một điểm khác biệt quan trọng trong lịch sử giữa văn hóa và văn minh là từ các tác phẩm của Rousseau, đặc biệt là tác phẩm của ông về giáo dục, Emile. Ở đây, nền văn minh, được điều khiển hợp lý và xã hội hơn, không hoàn toàn phù hợp với bản chất con người, và "sự toàn vẹn của con người chỉ có thể đạt được thông qua sự phục hồi hoặc gần đúng với một sự thống nhất tự nhiên tiền định hoặc nguyên thủy" (xem sự man rợ cao quý). Từ đó, một cách tiếp cận mới đã được phát triển, đặc biệt là ở Đức, đầu tiên là Johann Gottfried Herder, và sau đó bởi các nhà triết học như Kierkegaard và Nietzsche. Điều này coi các nền văn hóa là các sinh vật tự nhiên, không được định nghĩa bởi "các hành vi có ý thức, hợp lý, có chủ ý", mà là một loại "tinh thần dân gian" hợp lý trước. Ngược lại, nền văn minh, mặc dù hợp lý hơn và thành công hơn trong tiến trình vật chất, lại không tự nhiên và dẫn đến "tệ nạn của đời sống xã hội" như guile, đạo đức giả, đố kị và lừa đảo. Trong Thế chiến II, Leo Strauss, đã trốn khỏi Đức, đã lập luận ở New York rằng ý kiến về nền văn minh này đứng sau chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa hư vô của Đức. Đặc trưng Các nhà khoa học xã hội như V. Gordon Childe đã đặt tên cho một số đặc điểm phân biệt một nền văn minh với các loại xã hội khác. Các nền văn minh đã được phân biệt bởi các phương tiện sinh hoạt, các loại sinh kế, mô hình định cư, các hình thức của chính phủ, phân tầng xã hội, hệ thống kinh tế, xóa mù chữ và các đặc điểm văn hóa khác. Andrew Nikiforuk lập luận rằng "các nền văn minh dựa vào cơ bắp của con người bị xiềng xích. Nó lấy năng lượng của nô lệ để trồng trọt, làm quần áo cho hoàng đế mặc và xây dựng thành phố "và coi chế độ nô lệ là một đặc điểm chung của các nền văn minh tiền hiện đại. Tất cả các nền văn minh đã phụ thuộc vào nông nghiệp để sinh hoạt, ngoại trừ một số nền văn minh sơ khai ở Peru có thể phụ thuộc vào tài nguyên biển. Các trang trại ngũ cốc có thể dẫn đến việc tích lũy lương thực, đặc biệt khi mọi người sử dụng các kỹ thuật nông nghiệp thâm canh như thụ tinh nhân tạo, tưới tiêu và luân canh cây trồng. Làm vườn cũng có thể tích lũy nhưng khó khăn hơn, và vì vậy các nền văn minh dựa trên làm vườn là rất hiếm. Thặng dư ngũ cốc đặc biệt quan trọng vì ngũ cốc có thể được lưu trữ trong một thời gian dài. Sự dư thừa thực phẩm cho phép một số người làm những việc ngoài sản xuất thức ăn để kiếm sống: những nền văn minh ban đầu bao gồm binh lính, nghệ nhân, tư tế và nữ tu, và những người khác có nghề nghiệp chuyên môn. Sự dư thừa thực phẩm dẫn đến sự phân công lao động và một phạm vi hoạt động đa dạng hơn của con người, một đặc điểm xác định của các nền văn minh. Tuy nhiên, ở một số nơi, những người săn bắn hái lượm đã tiếp cận được với thặng dư lương thực, chẳng hạn như một số người dân bản địa ở Tây Bắc Thái Bình Dương và có lẽ trong nền văn hóa Natufian trong thời đại đồ đá giữa. Có thể là thặng dư lương thực và tổ chức xã hội quy mô tương đối lớn và phân công lao động diễn ra trước khi có sự thuần hóa thực vật và động vật. Các nền văn minh có mô hình định cư khác biệt với các xã hội khác. Từ "văn minh" đôi khi được định nghĩa đơn giản là "' sống trong thành phố ". Những người không phải là nông dân có xu hướng tập trung tại các thành phố để làm việc và buôn bán. So với các xã hội khác, các nền văn minh có cấu trúc chính trị phức tạp hơn, cụ thể là nhà nước. Các xã hội nhà nước được phân tầng nhiều hơn so với các xã hội khác; có một sự khác biệt lớn hơn giữa các tầng lớp xã hội. Giai cấp thống trị, thường tập trung ở các thành phố, có quyền kiểm soát phần lớn thặng dư và thực hiện ý chí của mình thông qua các hành động của một chính phủ hoặc bộ máy quan liêu. Morton Fried, một nhà lý luận xung đột và Elman Service, một nhà lý luận hội nhập, đã phân loại văn hóa của con người dựa trên các hệ thống chính trị và bất bình đẳng xã hội. Hệ thống phân loại này chứa bốn thể loại Các nhóm săn bắn hái lượm, thường là bình đẳng. Xã hội làm vườn / mục súc trong đó nói chung có hai giai cấp xã hội được thừa hưởng; trưởng và thường dân. Các cấu trúc phân tầng cao, hoặc các thủ lĩnh, với một số tầng lớp xã hội được thừa hưởng: vua, quý tộc, tự do, nông nô và nô lệ. Các nền văn minh, với hệ thống phân cấp xã hội phức tạp và các chính phủ có tổ chức, có ban bệ. Về mặt kinh tế, các nền văn minh hiển thị các mô hình sở hữu và trao đổi phức tạp hơn so với các xã hội ít tổ chức hơn. Sống ở một nơi cho phép mọi người tích lũy nhiều tài sản cá nhân hơn những người du mục. Một số người cũng có được tài sản đất đai, hoặc quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai. Bởi vì một tỷ lệ người dân trong các nền văn minh không tự trồng thực phẩm, họ phải trao đổi hàng hóa và dịch vụ của họ để lấy thực phẩm trong hệ thống thị trường, hoặc nhận thực phẩm thông qua thuế cống nạp, thuế phân phối lại, thuế quan hoặc tiền thập phân từ phân khúc sản xuất thực phẩm của dân số. Các nền văn hóa đầu tiên của con người hoạt động thông qua một nền kinh tế quà tặng được bổ sung bởi các hệ thống trao đổi hạn chế. Vào thời kỳ đồ sắt sớm, các nền văn minh đương đại đã phát triển tiền như một phương tiện trao đổi cho các giao dịch ngày càng phức tạp. Trong một ngôi làng, thợ gốm làm một cái nồi cho người nấu rượu và người nấu bia bù cho người thợ gốm bằng cách cho anh ta một lượng bia nhất định. Trong một thành phố, thợ gốm có thể cần một mái nhà mới, thợ lợp có thể cần giày mới, thợ làm móng có thể cần móng ngựa mới, thợ rèn có thể cần một chiếc áo khoác mới và thợ thuộc da có thể cần một chiếc nồi mới. Những người này có thể không được làm quen với nhau và nhu cầu của họ có thể không xảy ra cùng một lúc. Một hệ thống tiền tệ là một cách tổ chức các nghĩa vụ này để đảm bảo rằng chúng được thực hiện. Từ thời của những nền văn minh kiếm tiền sớm nhất, sự kiểm soát độc quyền của các hệ thống tiền tệ đã mang lại lợi ích cho giới tinh hoa và chính trị. Chữ viết, được phát triển đầu tiên bởi những người ở Sumer, được coi là một dấu ấn của nền văn minh và "dường như đi cùng với sự gia tăng của các cơ quan hành chính phức tạp hoặc nhà nước chinh phục". Thương nhân và quan chức đã dựa vào văn bản để giữ hồ sơ chính xác. Giống như tiền, viết lách là cần thiết bởi quy mô dân số của một thành phố và sự phức tạp trong thương mại của nó giữa những người không phải là cá nhân quen biết với nhau. Tuy nhiên, viết không phải lúc nào cũng cần thiết cho nền văn minh, như thể hiện bởi các Inca nền văn minh Andes, mà không sử dụng văn bản ở tất cả ngoại trừ từ một hệ thống ghi hình phức tạp bao gồm dây và các nút: các "Quipus", và vẫn còn hoạt động như một xã hội văn minh. Được hỗ trợ bởi sự phân công lao động và kế hoạch của chính phủ trung ương, các nền văn minh đã phát triển nhiều đặc điểm văn hóa đa dạng khác. Chúng bao gồm tôn giáo có tổ chức, phát triển trong nghệ thuật và vô số tiến bộ mới trong khoa học và công nghệ. Thông qua lịch sử, các nền văn minh thành công đã lan rộng, chiếm lĩnh ngày càng nhiều lãnh thổ và đồng hóa ngày càng nhiều người trước đây không văn minh. Tuy nhiên, một số bộ lạc hoặc người dân vẫn còn thiếu văn minh cho đến ngày nay. Những nền văn hóa này được gọi bởi một số " nguyên thủy ", một thuật ngữ được những người khác coi là miệt thị. "Nguyên thủy" ngụ ý theo một cách nào đó rằng một nền văn hóa là "đầu tiên" (tiếng Latin = primus), rằng nó đã không thay đổi kể từ buổi bình minh của loài người, mặc dù điều này đã được chứng minh là không đúng sự thật. Cụ thể, vì tất cả các nền văn hóa ngày nay là những người đương thời, ngày nay, cái gọi là văn hóa nguyên thủy không có gì là tiền lệ đối với những người mà chúng ta coi là văn minh. Các nhà nhân chủng học ngày nay sử dụng thuật ngữ " không biết chữ " để mô tả những dân tộc này. Nền văn minh đã được lan truyền bằng việc thực dân hóa, xâm lược, chuyển đổi tôn giáo, mở rộng kiểm soát và buôn bán quan liêu, và bằng cách giới thiệu nông nghiệp và viết cho các dân tộc không biết chữ. Một số người không văn minh có thể sẵn sàng thích nghi với hành vi văn minh. Nhưng nền văn minh cũng được lan truyền bởi sự thống trị về kỹ thuật, vật chất và xã hội mà nền văn minh gây ra. Những đánh giá về mức độ văn minh mà một chính thể đạt được dựa trên những so sánh về tầm quan trọng tương đối của nông nghiệp so với năng lực thương mại hoặc sản xuất, sự mở rộng lãnh thổ của quyền lực, sự phức tạp của phân công lao động và khả năng mang theo của đô thị trung tâm. Yếu tố thứ yếu bao gồm một hệ thống phát triển giao thông, văn bản, đo lường tiêu chuẩn hóa, tiền tệ, hợp đồng và sai lầm cá nhân dựa trên hệ thống pháp luật, nghệ thuật, kiến trúc, toán học, hiểu biết khoa học, luyện kim, vật kiến trúc chính trị và tôn giáo có tổ chức. Theo truyền thống, các tổ chức chính trị quản lý để đạt được sức mạnh quân sự, ý thức hệ và kinh tế đáng chú ý tự xác định là "văn minh" trái ngược với các xã hội hoặc các nhóm người khác bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của họ - và gọi những người đó là man di, man rợ và nguyên thủy. Bản sắc văn hóa "Văn minh" cũng có thể đề cập đến văn hóa của một xã hội phức tạp, không chỉ riêng xã hội. Mỗi xã hội, văn minh hay không, đều có một tập hợp ý tưởng và phong tục cụ thể, và một bộ sản xuất và nghệ thuật nhất định làm cho nó trở nên độc đáo. Các nền văn minh có xu hướng phát triển các nền văn hóa phức tạp, bao gồm bộ máy ra quyết định dựa trên nhà nước, văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp, kiến trúc, tôn giáo có tổ chức và phong tục giáo dục phức tạp, ép buộc và kiểm soát liên quan đến việc duy trì tinh hoa. Văn hóa phức tạp gắn liền với nền văn minh có xu hướng lan rộng và ảnh hưởng đến các nền văn hóa khác, đôi khi đồng hóa chúng vào nền văn minh (một ví dụ kinh điển là nền văn minh Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đối với các nền văn minh gần đó như Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam). Nhiều nền văn minh thực sự là những lĩnh vực văn hóa lớn chứa nhiều quốc gia và khu vực. Nền văn minh mà một người nào đó sống trong đó là bản sắc văn hóa rộng lớn nhất của người đó. Nhiều nhà sử học đã tập trung vào các lĩnh vực văn hóa rộng lớn này và đã coi các nền văn minh là những đơn vị riêng biệt. Nhà triết học đầu thế kỷ XX Oswald Spengler, sử dụng từ tiếng Đức Kultur, "văn hóa", cho những gì nhiều người gọi là "nền văn minh". Spengler tin rằng sự gắn kết của một nền văn minh dựa trên một biểu tượng văn hóa chính duy nhất. Các nền văn hóa trải qua các chu kỳ sinh, sống, suy tàn và chết, thường được thay thế bởi một nền văn hóa mới đầy tiềm năng, được hình thành xung quanh một biểu tượng văn hóa mới hấp dẫn. Spengler tuyên bố nền văn minh là sự khởi đầu của sự suy tàn của một nền văn hóa là "những trạng thái nhân tạo và bên ngoài nhất mà một loài người phát triển có khả năng tạo ra". Khái niệm văn hóa "thống nhất" này của nền văn minh cũng ảnh hưởng đến các lý thuyết của nhà sử học Arnold J. Toynbee vào giữa thế kỷ XX. Toynbee đã khám phá các quá trình văn minh trong Một nghiên cứu Lịch sử gồm nhiều tập, theo dõi sự gia tăng và, trong hầu hết các trường hợp, sự suy tàn của 21 nền văn minh và năm "nền văn minh bị bắt giữ". Các nền văn minh nói chung đã suy giảm và sụp đổ, theo Toynbee, vì sự thất bại của một "thiểu số sáng tạo", thông qua sự suy giảm đạo đức hoặc tôn giáo, để đáp ứng một số thách thức quan trọng, thay vì các nguyên nhân kinh tế hoặc môi trường. Samuel P. Huntington định nghĩa nền văn minh là "nhóm văn hóa cao nhất của con người và mức độ bản sắc văn hóa rộng nhất mà con người thiếu là thứ phân biệt con người với các loài khác". Các lý thuyết của Huntington về các nền văn minh được thảo luận dưới đây. Các hệ thống phức tạp Một nhóm các nhà lý thuyết khác, sử dụng lý thuyết hệ thống, xem nền văn minh là một hệ thống phức tạp, tức là một khung mà theo đó một nhóm đối tượng có thể được phân tích hoạt động đồng bộ để tạo ra kết quả. Các nền văn minh có thể được coi là mạng lưới các thành phố xuất hiện từ các nền văn hóa tiền đô thị và được xác định bởi các tương tác kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, xã hội và văn hóa giữa chúng. Bất kỳ tổ chức nào cũng là một hệ thống xã hội phức tạp và một nền văn minh là một tổ chức lớn. Lý thuyết hệ thống giúp bảo vệ chống lại sự tương tự hời hợt và sai lệch trong nghiên cứu và mô tả các nền văn minh. Các nhà lý thuyết hệ thống xem xét nhiều loại quan hệ giữa các thành phố, bao gồm quan hệ kinh tế, trao đổi văn hóa và quan hệ chính trị / ngoại giao / quân sự. Những quả cầu này thường xảy ra trên các quy mô khác nhau. Ví dụ, các mạng lưới thương mại, cho đến thế kỷ XIX, lớn hơn nhiều so với các lĩnh vực văn hóa hoặc lĩnh vực chính trị. Các tuyến thương mại mở rộng, bao gồm Con đường tơ lụa qua Trung Á và các tuyến đường biển Ấn Độ Dương nối liền Đế chế La Mã, Đế chế Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc, đã được thiết lập từ 2000 năm trước, khi các nền văn minh này hiếm khi chia sẻ bất kỳ mối quan hệ chính trị, ngoại giao, quân sự hoặc văn hóa nào. Bằng chứng đầu tiên về thương mại đường dài như vậy là trong thế giới cổ đại. Trong thời kỳ Uruk, Guillermo Algaze đã lập luận rằng quan hệ thương mại kết nối Ai Cập, Mesopotamia, Iran và Afghanistan. Nhựa tìm thấy sau đó trong Nghĩa trang Hoàng gia tại Ur được đề xuất đã được giao dịch lên phía bắc từ Mozambique. Nhiều nhà lý thuyết cho rằng toàn bộ thế giới đã được tích hợp vào một " hệ thống thế giới " duy nhất, một quá trình được gọi là toàn cầu hóa. Các nền văn minh và xã hội khác nhau trên toàn cầu là về kinh tế, chính trị và thậm chí phụ thuộc lẫn nhau về văn hóa theo nhiều cách. Có tranh luận về việc khi hội nhập này bắt đầu, và loại hội nhập nào - văn hóa, công nghệ, kinh tế, chính trị hay ngoại giao - là chỉ số chính trong việc xác định phạm vi của một nền văn minh. David Wilkinson đã đề xuất rằng sự hợp nhất kinh tế và quân sự - ngoại giao của các nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập dẫn đến việc tạo ra cái mà ông gọi là "Văn minh trung tâm" vào khoảng năm 1500 TCN. Nền văn minh trung tâm sau đó được mở rộng để bao gồm toàn bộ Trung Đông và châu Âu, sau đó mở rộng ra quy mô toàn cầu với thực dân châu Âu, tích hợp châu Mỹ, Úc, Trung Quốc và Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Theo Wilkinson, các nền văn minh có thể không đồng nhất về văn hóa, như Văn minh Trung ương, hoặc đồng nhất, giống như nền văn minh Nhật Bản. Cái mà Huntington gọi là "cuộc đụng độ của các nền văn minh" có thể được Wilkinson mô tả như một cuộc đụng độ của các lĩnh vực văn hóa trong một nền văn minh toàn cầu duy nhất. Những người khác chỉ ra Thập tự chinh là bước đầu tiên trong toàn cầu hóa. Quan điểm thông thường hơn là các mạng lưới xã hội đã mở rộng và thu hẹp từ thời cổ đại, và nền kinh tế và văn hóa toàn cầu hóa hiện nay là một sản phẩm của chủ nghĩa thực dân châu Âu gần đây. Lịch sử Khái niệm lịch sử thế giới là sự kế thừa của "các nền văn minh" là một hoàn toàn hiện đại. Trong kỷ nguyên khám phá châu Âu, tính hiện đại mới nổi đã được đặt hoàn toàn trái ngược với giai đoạn thời đại đồ đá mới và thời đại đồ đá của các nền văn hóa của thế giới mới, cho thấy rằng các quốc gia phức tạp đã xuất hiện vào thời tiền sử. Thuật ngữ "văn minh" như ngày nay được hiểu phổ biến nhất, một trạng thái phức tạp với tập trung hóa, phân tầng xã hội và chuyên môn hóa lao động, tương ứng với các đế chế đầu tiên phát sinh trong Lưỡi liềm màu mỡ trong thời đại đồ đồng sớm, khoảng 3000 năm trước Công nguyên. Gordon Childe định nghĩa sự xuất hiện của nền văn minh là kết quả của hai cuộc cách mạng liên tiếp: Cách mạng thời đại đồ đá mới, kích hoạt sự phát triển của các cộng đồng định cư và Cách mạng đô thị. Cách mạng đô thị Lúc đầu, thời kỳ đồ đá mới có liên quan đến việc canh tác sinh sống thay đổi, trong đó việc canh tác liên tục dẫn đến cạn kiệt độ phì nhiêu của đất dẫn đến yêu cầu canh tác trên các cánh đồng xa hơn và tiếp tục bị loại bỏ khỏi khu định cư, cuối cùng buộc chính khu định cư phải di chuyển. Trong các thung lũng sông bán khô cằn chính, lũ lụt hàng năm làm mới độ phì nhiêu của đất hàng năm, với kết quả là mật độ dân số có thể tăng đáng kể. Điều này khuyến khích một cuộc cách mạng sản phẩm thứ cấp, trong đó người ta sử dụng động vật được thuần hóa không chỉ để lấy thịt, mà còn cho sữa, len, phân và kéo cày và xe đẩy   - một sự phát triển lan rộng qua Eurasian Oecumene. Công nghệ và lối sống thời đại đồ đá mới trước đó đã được thiết lập đầu tiên ở Tây Á (ví dụ tại Göbekli Tepe, từ khoảng 9.130 BCE), và sau đó là các lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử ở Trung Quốc (ví dụ văn hóa Bành Đầu Sơn từ 7.500 TCN), và sau đó lan rộng. Lưỡng Hà là nơi phát triển sớm nhất của Cách mạng đồ đá mới từ khoảng 10.000 TCN, với các nền văn minh phát triển từ 6.500 năm trước. Khu vực này được xác định là đã "truyền cảm hứng cho một số phát triển quan trọng nhất trong lịch sử loài người bao gồm phát minh ra bánh xe, trồng các loại ngũ cốc đầu tiên và phát triển chữ viết hình nêm". Các "cuộc cách mạng thời đại đồ đá" tương tự cũng bắt đầu độc lập từ 7.000 TCN ở tây bắc Nam Mỹ (nền văn minh Norte Chico) và Trung Bộ châu Mỹ. Sự kiện khô hạn 8.2 Kiloyear và 5,9 Kiloyear đã chứng kiến sự khô cạn của các khu vực bán hoang mạc và một sự lan rộng lớn của các sa mạc. Sự thay đổi khí hậu này đã làm thay đổi tỷ lệ chi phí - lợi ích của bạo lực đặc hữu giữa các cộng đồng, chứng kiến sự từ bỏ của các cộng đồng làng không có tường bao và sự xuất hiện của các thành phố có tường bao, gắn liền với các nền văn minh đầu tiên. "Cuộc cách mạng đô thị " này đánh dấu sự khởi đầu của sự tích lũy các khoản thặng dư có thể chuyển nhượng, giúp các nền kinh tế và thành phố phát triển. Nó gắn liền với sự độc quyền của nhà nước về bạo lực, sự xuất hiện của một lớp người lính và chiến tranh đặc hữu, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống cấp bậc và sự xuất hiện của sự hiến tế con người. Cuộc cách mạng đô thị văn minh lần lượt phụ thuộc vào sự phát triển của chủ nghĩa định canh, thuần hóa ngũ cốc và động vật và phát triển lối sống tạo điều kiện cho các nền kinh tế có quy mô và tích lũy sản xuất dư thừa của một số lĩnh vực xã hội. Sự chuyển đổi từ các nền văn hóa phức tạp sang các nền văn minh, trong khi vẫn còn tranh cãi, dường như có liên quan đến sự phát triển của các cấu trúc nhà nước, trong đó quyền lực tiếp tục được độc quyền bởi một tầng lớp thống trị ưu tú , người thực hành sự hiến tế con người. Đến cuối thời kỳ đồ đá mới, các nền văn minh Chalcolithic khác nhau bắt đầu trỗi dậy trong nhiều "cái nôi" khác nhau từ khoảng năm 3300 trước Công nguyên, mở rộng thành các đế chế quy mô lớn trong thời đại đồ đồng (Vương quốc Ai Cập cũ, Đế chế Akkadian, Đế chế Assyrian, Đế quốc Assyria cũ, Đế chế Hittite). Một sự phát triển song song diễn ra độc lập ở Châu Mỹ thời tiền Columbus, nơi người Maya bắt đầu được đô thị hóa vào khoảng năm 500 TCN, và người Aztec và Inca xuất hiện vào thế kỷ 15, một thời gian ngắn trước khi họ tiếp xúc với người châu Âu. Thời đại Axial Sự sụp đổ của Thời đại đồ đồng được theo sau bởi Thời đại đồ sắt khoảng năm 1200 trước Công nguyên, trong đó một số nền văn minh mới xuất hiện, đỉnh cao là giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên mà Karl Jaspers gọi là Thời đại Axial, được trình bày như một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng đến văn minh cổ điển. William Hardy McNeill đề xuất rằng giai đoạn lịch sử này là một trong đó sự tiếp xúc văn hóa giữa các nền văn minh riêng biệt trước đây đã chứng kiến sự "đóng cửa của oecumene " và dẫn đến sự thay đổi xã hội từ Trung Quốc sang Địa Trung Hải, liên quan đến sự lan rộng của tiền đúc, đế chế lớn hơn và mới các tôn giáo. Quan điểm này gần đây đã được Christopher Chase-Dunn và các nhà lý thuyết hệ thống thế giới khác ủng hộ. Thời hiện đại Một quá trình chuyển đổi công nghệ và văn hóa lớn sang hiện đại đã bắt đầu khoảng năm 1500 ở Tây Âu, và từ đầu phương pháp tiếp cận mới này đối với khoa học và pháp luật lan truyền nhanh chóng trên khắp thế giới, kết hợp các nền văn hóa trước đây vào nền văn minh công nghiệp và công nghệ hiện nay. Sụp đổ của các nền văn minh Các nền văn minh được hiểu theo truyền thống là kết thúc theo một trong hai cách; hoặc thông qua việc kết hợp vào một nền văn minh mở rộng khác (ví dụ Khi Ai Cập cổ đại được sáp nhập vào Hy Lạp, và sau đó là các nền văn minh La Mã), hoặc bằng cách sụp đổ và trở lại một hình thức sống đơn giản hơn, như xảy ra trong cái gọi là Thời đại đen tối. Đã có nhiều lời giải thích được đưa ra cho sự sụp đổ của nền văn minh. Một số tập trung vào các ví dụ lịch sử, và một số khác về lý thuyết chung. Tác phẩm Muqaddimah của Ibn Khaldūn ảnh hưởng đến các lý thuyết về phân tích, tăng trưởng và suy tàn của nền văn minh Hồi giáo. Ông đề nghị các cuộc xâm lược lặp đi lặp lại từ các dân tộc du mục hạn chế phát triển và dẫn đến sụp đổ xã hội. The Decline and Fall of the Roman Empire của Edward Gibbonlà một phân tích nổi tiếng và chi tiết về sự sụp đổ của nền văn minh La Mã. Gibbon cho rằng hành động cuối cùng của sự sụp đổ của Rome là sự sụp đổ của Constantinople đến Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman năm 1453 sau Công nguyên. Đối với Gibbon, "Sự suy tàn của Rome là tác động tự nhiên và không thể tránh khỏi của sự vĩ đại non nớt. Sự thịnh vượng đã xé toạc nguyên tắc suy tàn; nguyên nhân của sự hủy diệt được nhân lên theo mức độ chinh phục; Câu chuyện về sự hủy hoại rất đơn giản và rõ ràng, và thay vì tìm hiểu tại sao Đế chế La Mã bị phá hủy, chúng ta nên ngạc nhiên rằng nó đã tồn tại quá lâu". Theodor Mommsen trong tác phẩm History of Rome đề nghị Rome sụp đổ với sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476 và ông cũng có xu hướng tương tự sinh học về "thành lập", "tăng trưởng", "lão hóa", "sụp đổ" và "phân rã". Oswald Spengler, trong tác phẩm Decline of the West đã phản đối cách phân chia thời gian của Petrarch, và cho rằng chỉ có tám "nền văn minh trưởng thành". Ông cho rằng các nền văn hóa đang phát triển, có xu hướng phát triển thành các nền văn minh đế quốc, mở rộng và cuối cùng sụp đổ, với các hình thức chính phủ dân chủ như chế độ tài phiệt và cuối cùng là chủ nghĩa đế quốc. Arnold J. Toynbee trong tác phẩm A Study of History cho rằng đã có một số lượng lớn hơn các nền văn minh, bao gồm một số lượng nhỏ các nền văn minh bị bắt giữ, và tất cả các nền văn minh có xu hướng đi qua chu kỳ được xác định bởi Mommsen. Nguyên nhân của sự sụp đổ của một nền văn minh xảy ra khi giới tinh hoa văn hóa trở thành ăn bám, dẫn đến sự nổi dậy của giai cấp vô sản bên trong và bên ngoài. Joseph Tainter trong tác phẩm The Collapse of Complex Societies cho rằng có hiệu suất giảm dần đối với độ phức tạp, do đó, khi các quốc gia đạt được độ phức tạp tối đa cho phép, chúng sẽ thoái hóa khi tăng thêm độ phức tạp thực sự tạo ra lợi nhuận âm. Tainter cho rằng Rome đã đạt được độ phức tạp này vào thế kỷ thứ 2. Jared Diamond trong cuốn sách Collapse: How Societies Choose to Fail or Succeed năm 2005 đã cho rằng có năm lý do chính cho sự sụp đổ của 41 nền văn hóa được nghiên cứu: thiệt hại về môi trường, như phá rừng và xói mòn đất; biến đổi khí hậu; sự phụ thuộc vào thương mại quốc tế cho các nguồn lực cần thiết; tăng mức độ bạo lực bên trong và bên ngoài, như chiến tranh hoặc xâm lược; và phản ứng xã hội đối với các vấn đề nội bộ và môi trường. Peter Turchin trong tác phẩm Historical Dynamics và Andrey Korotayev et al. trong tác phẩm Introduction to Social Macrodynamics, Secular Cycles, and Millennial Trends đề xuất một số mô hình toán học mô tả sự sụp đổ của các nền văn minh nông nghiệp. Ví dụ, logic cơ bản của mô hình "nhân khẩu học tài chính" của Turchin có thể được phác thảo như sau: trong giai đoạn ban đầu của chu kỳ xã hội học, chúng ta quan sát mức độ sản xuất và tiêu thụ bình quân đầu người tương đối cao, điều này không chỉ dẫn đến tỷ lệ tăng dân số quá cao, mà còn với tỷ lệ sản xuất thặng dư tương đối cao. Kết quả là, trong giai đoạn này, dân số có thể đủ khả năng nộp thuế mà không gặp vấn đề lớn, thuế khá dễ thu và sự tăng trưởng dân số đi kèm với sự tăng trưởng của thu ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn trung gian, quá tải dân số ngày càng tăng dẫn đến việc giảm mức sản xuất và tiêu dùng bình quân đầu người, việc thu thuế ngày càng khó khăn hơn và thu ngân sách nhà nước ngừng tăng, trong khi chi tiêu nhà nước tăng lên do sự tăng trưởng của dân số do nhà nước kiểm soát. Kết quả là, trong giai đoạn này, nhà nước bắt đầu gặp vấn đề tài chính đáng kể. Trong giai đoạn tiền sụp đổ cuối cùng, dân số quá mức dẫn đến sản lượng bình quân đầu người giảm hơn nữa, sản xuất thặng dư giảm hơn nữa, thu ngân sách nhà nước giảm, nhưng nhà nước cần ngày càng nhiều nguồn lực để kiểm soát dân số ngày càng tăng (mặc dù với tỷ lệ thấp hơn và thuế thấp hơn). Cuối cùng, điều này dẫn đến nạn đói, dịch bệnh, sự sụp đổ của nhà nước và sự sụp đổ về dân số và văn minh (Peter Turchin. Historical Dynamics. Princeton University Press, 2003:121–127; Andrey Korotayev et al. Secular Cycles and Millennial Trends. Moscow: Russian Academy of Sciences, 2006). Peter Heather trong cuốn sách The Fall of the Roman Empire: a New History of Rome and the Barbarians rằng nền văn minh này không kết thúc vì lý do đạo đức hay kinh tế, nhưng vì hàng thế kỷ tiếp xúc với những kẻ man rợ ở biên giới đã tạo ra kẻ thù riêng bằng cách biến chúng thành một kẻ thù tinh vi và nguy hiểm hơn. Việc Rome cần tạo ra doanh thu lớn hơn bao giờ hết để trang bị và trang bị lại cho quân đội lần đầu tiên liên tục bị đánh bại trên chiến trường, dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế. Mặc dù lập luận này là cụ thể đối với Rome, nhưng nó cũng có thể được áp dụng cho Đế chế Á châu của người Ai Cập, nhà Hán và nhà Đường ở Trung Quốc, nhà Abbasid của người Hồi giáo và các đế chế khác. Bryan Ward-Perkins, trong tác phẩm The Fall of Rome and the End of Civilization, cho thấy sự khủng khiếp thực sự liên quan đến sự sụp đổ của một nền văn minh cho những người chịu tác động của nó, không giống như nhiều nhà sử học xét lại, những người coi thường điều này. Sự sụp đổ của xã hội phức tạp có nghĩa là ngay cả hệ thống ống nước cơ bản cũng biến mất khỏi lục địa trong 1.000 năm. Sự sụp đổ của Thời đại đen tối tương tự được nhìn thấy với sự sụp đổ của Thời đại đồ đồng muộn ở Đông Địa Trung Hải, sự sụp đổ của văn minh Maya, trên đảo Phục sinh và các nơi khác. Arthur Demarest trong tác phẩm Ancient Maya: The Rise and Fall of a Rainforest Civilization, sử dụng một viễn cảnh toàn diện cho các bằng chứng gần đây nhất từ khảo cổ học, cổ sinh vật học và sử học, rằng không có lời giải thích nào là đủ nhưng một loạt các sự kiện phức tạp, thất thường, bao gồm mất độ phì nhiêu của đất đai, hạn hán và gia tăng bạo lực bên trong và bên ngoài đã dẫn đến sự tan rã của các tòa án của các vương quốc Maya, bắt đầu một vòng xoáy của sự suy tàn và suy tàn. Ông cho rằng sự sụp đổ của Maya có những bài học cho nền văn minh ngày nay. Jeffrey A. McNeely gần đây đã gợi ý rằng "đánh giá bằng chứng lịch sử cho thấy các nền văn minh trong quá khứ đã có xu hướng khai thác quá mức rừng của họ, và việc lạm dụng các tài nguyên quan trọng như vậy là một yếu tố quan trọng trong sự suy giảm của xã hội khai thác quá mức". Thomas Homer-Dixon trong tác phẩm The Upside of Down: Catastrophe, Creativity, and the Renewal of Civilization, nơi ông cho rằng sự sụt giảm trong lợi tức đầu tư năng lượng. Năng lượng sử dụng cho tỷ lệ sản lượng năng lượng là trung tâm để hạn chế sự tồn tại của các nền văn minh. Mức độ phức tạp xã hội có liên quan mạnh mẽ, ông cho biết, với số lượng hệ thống năng lượng, kinh tế và công nghệ năng lượng dùng một lần cho phép. Khi số tiền này giảm các nền văn minh hoặc phải truy cập các nguồn năng lượng mới hoặc chúng sẽ sụp đổ. Feliks Koneczny trong tác phẩm "Về đa số các nền văn minh" kêu gọi nghiên cứu của ông về khoa học về các nền văn minh. Các nền văn minh sụp đổ không phải vì chúng phải hoặc tồn tại một số vòng đời theo chu kỳ hoặc "sinh học". Vẫn còn tồn tại hai nền văn minh cổ đại - Brahmin-Hindu và Trung Quốc - chưa sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc nào. Koneczny tuyên bố rằng các nền văn minh không thể trộn lẫn vào các giống lai, một nền văn minh kém hơn khi được trao quyền bình đẳng trong một nền văn minh phát triển cao sẽ vượt qua nó. Một trong những tuyên bố của Koneczny trong nghiên cứu về các nền văn minh của mình là "một người không thể văn minh theo hai cách trở lên" mà không rơi vào cái mà anh ta gọi là "trạng thái thoái hóa" (như bất thường). Ông cũng tuyên bố rằng khi hai hoặc nhiều nền văn minh tồn tại cạnh nhau và miễn là chúng còn quan trọng, chúng sẽ ở trong một cuộc chiến sinh tồn áp đặt "phương pháp tổ chức đời sống xã hội" của riêng mình lên nhau. Hấp thụ "phương pháp tổ chức đời sống xã hội" của người bên ngoài, đó là văn minh và trao cho nó quyền bình đẳng mang lại một quá trình thoái hóa và phân rã. Tương lai Nhà khoa học chính trị Samuel Huntington đã lập luận rằng đặc điểm xác định của thế kỷ 21 sẽ là sự xung đột của các nền văn minh. Theo Huntington, xung đột giữa các nền văn minh sẽ thay thế các cuộc xung đột giữa các quốc gia và hệ tư tưởng đặc trưng cho thế kỷ 19 và 20. Những quan điểm này đã bị những người khác như Edward Said, Muhammed Asadi và Amartya Sen thách thức mạnh mẽ. Ronald Inglehart và Pippa Norris đã lập luận rằng "cuộc đụng độ thực sự của các nền văn minh" giữa thế giới Hồi giáo và phương Tây là do sự từ chối của người Hồi giáo đối với các giá trị tình dục tự do hơn của phương Tây, thay vì sự khác biệt về tư tưởng chính trị, mặc dù họ lưu ý rằng điều này thiếu lòng khoan dung có khả năng dẫn đến sự từ chối cuối cùng của nền dân chủ (thật). Trong Danh tính và Bạo lực, Sen đặt câu hỏi rằng nếu mọi người nên được chia theo cấp bậc của một "nền văn minh" giả định, chỉ được xác định bởi tôn giáo và văn hóa. Ông lập luận rằng điều này bỏ qua nhiều danh tính khác tạo nên con người và dẫn đến việc tập trung vào sự khác biệt. Nhà sử học văn hóa Morris Berman gợi ý trong Dark Ages America: the End of Empire rằng: ở quốc gia tiêu dùng doanh nghiệp như Hoa Kỳ, chính những yếu tố đã từng đẩy nó đến sự vĩ đại - chủ nghĩa cá nhân cực đoan, mở rộng lãnh thổ và kinh tế, và theo đuổi sự giàu có vật chất đã thúc đẩy Hoa Kỳ vượt qua một ngưỡng quan trọng, tại đó việc sụp đổ là không thể tránh khỏi. Về mặt chính trị liên quan đến việc mở rộng quá mức, và do hậu quả của sự cạn kiệt môi trường và sự phân cực của cải giữa người giàu và người nghèo, ông kết luận rằng hệ thống hiện tại đang nhanh chóng đi đến một tình huống mà việc duy trì hệ thống hiện tại là không thể khi nó phải gánh chịu những thiếu hụt lớn và kinh tế bị bỏ trống là thể chất, xã hội, kinh tế và chính trị. Mặc dù được phát triển theo chiều sâu hơn nhiều, luận án của Berman cũng tương tự như của Urban Planner, Jane Jacobs, người lập luận rằng năm trụ cột của văn hóa Hoa Kỳ đang suy tàn nghiêm trọng: cộng đồng và gia đình; giáo dục đại học; thực hành khoa học hiệu quả; thuế và chính phủ; và sự tự điều chỉnh của các ngành nghề đã học. Sự ăn mòn của những trụ cột này, Jacobs lập luận, có liên quan đến các bệnh xã hội như khủng hoảng môi trường, phân biệt chủng tộc và khoảng cách ngày càng tăng giữa giàu và nghèo. Nhà phê bình văn hóa và tác giả Derrick Jensen cho rằng nền văn minh hiện đại hướng đến sự thống trị của môi trường và chính con người theo một cách tự nhiên có hại, không bền vững và tự hủy hoại. Bảo vệ định nghĩa của mình cả về mặt ngôn ngữ và lịch sử, ông định nghĩa nền văn minh là "một nền văn hóa... vừa dẫn đến sự phát triển của các thành phố", với "các thành phố" được định nghĩa là "những người sống ít nhiều ở một nơi có mật độ cao đủ để yêu cầu nhập khẩu thực phẩm thường xuyên và các nhu yếu phẩm khác của cuộc sống ". Nhu cầu này cho các nền văn minh để nhập khẩu nhiều tài nguyên hơn, ông lập luận, bắt nguồn từ việc khai thác quá mức và giảm bớt tài nguyên địa phương của chính họ. Do đó, các nền văn minh vốn đã áp dụng các chính sách của chủ nghĩa đế quốc và bành trướng và, để duy trì các nền văn hóa và lối sống dựa trên cơ chế phân cấp cao, có cấu trúc phân cấp và cưỡng chế. Thang đo Kardashev phân loại các nền văn minh dựa trên mức độ tiến bộ công nghệ của họ, được đo cụ thể bằng lượng năng lượng mà một nền văn minh có thể khai thác. Thang đo chỉ là giả thuyết, nhưng nó đặt mức tiêu thụ năng lượng trong một viễn cảnh vũ trụ. Thang đo Kardashev làm cho các giới hạn cho các nền văn minh tiến bộ hơn về công nghệ so với bất kỳ giới hạn hiện tại nào được biết.
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nền văn minh Ai Cập được hình thành rõ nét là vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaon đầu tiên (Narmer, thường được gọi là Menes). Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ Vương quốc thời kỳ Sơ kỳ Đồ đồng, Trung Vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân Vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng. Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực vào giai đoạn Tân Vương quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia, Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba và cuối thời kỳ Ai Cập cổ đại. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemaios I Soter, đã tuyên bố ông là một vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemaios gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã. Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũng sông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaon, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi. Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến ​​trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó. Lịch sử qua các thời kì Sông Nile luôn là huyết mạch của khu vực này trong phần lớn chiều dài lịch sử. Các đồng bằng màu mỡ của sông Nile đã cho con người cơ hội để phát triển một nền kinh tế nông nghiệp định canh và tạo nên một xã hội tập trung, tinh vi hơn trở thành nền tảng trong lịch sử văn minh của con người. Những người du mục săn bắn hái lượm hiện đại bắt đầu sinh sống trong khu vực thung lũng sông Nile vào cuối giai đoạn Trung kỳ Pleistocen khoảng 120.000 năm trước. Vào cuối thời kỳ đồ đá cũ, khí hậu khô hạn của Bắc Phi ngày càng trở nên nóng và khô hơn, buộc cư dân của khu vực này tập trung về dọc theo lưu vực sông. Thời kỳ Tiền triều đại Trong thời kỳ Tiền triều đại và Sơ kỳ, khí hậu Ai Cập ít khô cằn hơn ngày nay. Một vùng rộng lớn của Ai Cập đã được bao phủ bởi những đồng cỏ xavan và những đàn động vật ăn cỏ. Hệ động thực vật từng phong phú hơn nhiều ở mọi hệ sinh thái và lưu vực sông Nile cung cấp những quần thể chim lớn. Săn bắn từng phổ biến ở Ai Cập, và đây cũng là thời kỳ nhiều loài động vật lần đầu tiên được thuần hóa. Đến khoảng 5500 TCN, các bộ lạc nhỏ sống trong thung lũng sông Nile đã phát triển thành một loạt các nền văn hóa có khả năng làm chủ được trồng trọt và chăn nuôi, và có thể nhận biết được thông qua đồ gốm và các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như lược, vòng đeo tay, và chuỗi hạt. Lớn nhất trong số những nền văn hóa sớm ở miền thượng (phía Nam) Ai Cập là Badari, mà có lẽ có nguồn gốc từ sa mạc phía Tây; nó từng nổi tiếng với đồ gốm chất lượng cao, công cụ bằng đá, và việc sử dụng đồng. Tiếp theo sau nền văn hóa Badari là các nền văn hóa Amra (Naqada I) và Gerzeh (Naqada II), với một số cải tiến về công nghệ. Ngay từ thời kỳ Naqada I, người Ai Cập tiền triều đại đã nhập khẩu đá vỏ chai từ Ethiopia, được sử dụng để tạo nên các lưỡi dao và các vật dụng khác từ các mảnh đá. Trong thời kỳ Naqada II, đã xuất hiện các bằng chứng về sự tiếp xúc ban đầu với vùng Cận Đông, đặc biệt là Canaan và bờ biển Byblos. Trong một khoảng thời gian khoảng 1.000 năm, các nền văn hóa Naqada đã phát triển từ một vài cộng đồng nông nghiệp nhỏ thành một nền văn minh hùng mạnh trong đó các nhà lãnh đạo đã kiểm soát hoàn toàn người dân và các nguồn tài nguyên ở thung lũng sông Nile. Thiết lập nên trung tâm quyền lực tại Hierakonpolis, và sau đó tại Abydos, những nhà lãnh đạo Naqada III đã mở rộng quyền kiểm soát của họ về phía bắc Ai Cập dọc theo sông Nile. Họ cũng đã giao thương với Nubia ở phía nam, các ốc đảo sa mạc phía tây, và với các nền văn hóa miền đông Địa Trung Hải và Cận Đông. Những đồ tạo tác tại nghĩa địa hoàng gia Nubia thuộc Qustul mang những biểu tượng cổ xưa nhất được biết đến của các triều đại của Ai Cập, như vương miện màu trắng của Ai Cập và chim ưng. Nền văn hóa Naqada đã tạo ra nhiều dạng của cải vật chất khác nhau, phản ánh sức mạnh ngày càng tăng và sự giàu có của tầng lớp thượng lưu, cũng như các đồ dùng cá nhân, trong đó bao gồm lược, những bức tượng nhỏ, gốm màu, bình đá có họa tiết chất lượng cao, phiến đá để chế tạo mỹ phẩm, và đồ trang sức làm bằng vàng, lapis, ngà voi. Họ cũng phát triển một dạng gốm tráng men được gọi là đồ sứ, được sử dụng tới tận thời kỳ La Mã để trang trí ly, bùa hộ mệnh, và các bức tượng nhỏ. Trong giai đoạn cuối cùng của thời kỳ tiền triều đại, văn hóa Naqada bắt đầu sử dụng các ký hiệu viết mà về sau phát triển thành một hệ thống chữ tượng hình hoàn chỉnh để ghi lại ngôn ngữ Ai Cập cổ đại. Giai đoạn Tảo vương quốc (khoảng 3150 TCN - 2686 TCN) Giai đoạn Tảo vương quốc xấp xỉ tương đương với giai đoạn đầu của nền văn minh Sumer-Akkad ở Mesopotamia và văn minh Elam cổ. Một tư tế người Ai Cập vào thế kỷ thứ III TCN có tên là Manetho đã tập hợp phả hệ các pharaon từ Menes đến thời đại của ông và chia thành 30 triều đại, tạo thành một hệ thống vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. Ông đã bắt đầu lịch sử chính thức của mình với vị vua tên là "Meni" (hoặc Menes trong tiếng Hy Lạp), người được cho là đã thống nhất cả hai vương quốc của Thượng và Hạ Ai Cập (khoảng năm 3100 trước Công nguyên). Sự chuyển biến sang một nhà nước thống nhất xảy ra từ từ hơn cách các học giả Ai Cập trình bày, và ngày nay không còn lưu lại bất cứ ghi chép đương thời nào về Menes. Một số học giả hiện nay tin rằng vị vua Menes thần thoại này có thể là Pharaon Narmer, người được mô tả trong sắc phục hoàng gia trên bảng đá kỉ niệm của ông ta, Bảng đá Narmer, với một hành động biểu tượng cho sự thống nhất. Trong giai đoạn sơ kỳ triều đại khoảng năm 3150 trước Công nguyên, vị vua đầu tiên đã củng cố quyền kiểm soát đối với Hạ Ai Cập bằng cách thiết lập kinh đô tại Memphis, từ đó ông ta có thể kiểm soát nguồn lao động và nông nghiệp của vùng đồng bằng màu mỡ, cũng như các tuyến đường thương mại béo bở trọng yếu tới khu vực Levant. Sự gia tăng quyền lực và sự giàu có của các vị vua trong giai đoạn sơ kỳ triều đại đã được phản ánh thông qua các ngôi mộ được xây dựng công phu của họ và các kiến trúc thờ cúng mai táng tại Abydos, được sử dụng để ca tụng vị pharaon được phong thần sau khi ông ta qua đời. Các pharaon đã thiết lập nên một vương quyền hùng mạnh nhằm phục vụ cho việc hợp pháp hóa quyền kiểm soát nhà nước đối với đất đai, lao động và các nguồn tài nguyên thiết yếu cho sự sống còn và phát triển của nền văn minh Ai Cập cổ đại. Thời kỳ Cổ Vương quốc (2686 TCN – 2181 TCN) Những tiến bộ lớn trong kiến trúc, nghệ thuật, và công nghệ đã xuất hiện vào thời kì Cổ Vương quốc, nó được thúc đẩy bởi năng suất nông nghiệp gia tăng có thể nhờ một chính quyền trung ương phát triển tốt. Một số thành tựu đỉnh cao của Ai Cập cổ đại, kim tự tháp Giza và Tượng nhân sư vĩ đại, đã được xây dựng trong thời Cổ Vương quốc. Dưới sự chỉ đạo của tể tướng, các quan chức nhà nước thu thuế, phối hợp các dự án thủy lợi để nâng cao năng suất cây trồng, huy động nông dân làm việc trong các dự án xây dựng, và thiết lập một hệ thống tư pháp để duy trì hòa bình và trật tự. Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng của một chính quyền trung ương, đã phát sinh một tầng lớp mới bao gồm những quan ký lục có học thức và các quan chức được ban phát đất đai bởi các pharaon để đổi lại cho sự phục vụ của họ. Các pharaon cũng thực hiện ban cấp đất đai cho các giáo phái và các đền thờ địa phương để đảm bảo rằng họ có nguồn lực để thờ cúng các vị vua sau khi ông ta qua đời. Các học giả tin rằng những điều này đã làm hao mòn một cách từ từ sức mạnh kinh tế của các pharaon trong suốt 5 thế kỷ, và cuối cùng đã khiến cho nền kinh tế không còn có đủ khả năng để hỗ trợ cho một bộ máy trung ương tập quyền hùng mạnh nữa. Khi sức mạnh của các pharaon suy giảm, các thống đốc khu vực được gọi là nomarch bắt đầu thách thức uy quyền của các pharaon. Điều này cùng với nạn hạn hán nghiêm trọng từ giữa năm 2200 tới năm 2150 TCN, được coi là nguyên nhân khiến cho đất nước Ai Cập rơi vào giai đoạn kéo dài 140 năm của nạn đói và xung đột được gọi là Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất. Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181–1991 TCN) Sau khi chính quyền trung ương của Ai Cập sụp đổ vào cuối thời Cổ Vương quốc, chính quyền không còn có thể hỗ trợ hay giữ được sự ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Thống đốc các vùng không còn có thể dựa vào nhà vua để được giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng này, và tình trạng thiếu lương thực cùng tranh chấp chính trị leo thang gây ra nạn đói và các cuộc nội chiến quy ​​mô nhỏ. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề khó khăn, các quan chức địa phương, do không cống nạp cho các pharaon, sử dụng sự độc lập mới có được để thiết lập một nền văn hóa phát triển mạnh ở các tỉnh. Một khi kiểm soát các nguồn tài nguyên của riêng mình, các tỉnh đã trở nên giàu có hơn về kinh tế, một thực tế chứng minh bằng sự chôn cất lớn hơn và tốt hơn trong tất cả các tầng lớp xã hội Không bị ràng buộc bởi lòng trung thành của họ với pharaon, các nhà cầm quyền địa phương đã bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị. Khoảng năm 2160 trước Công nguyên, các vị vua ở Herakleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, trong khi một gia tộc đối thủ có căn cứ tại Thebes, gia tộc Intef, nắm quyền kiểm soát vùng Thượng Ai Cập. Vì nhà Intef mạnh hơn và bắt đầu mở rộng sự kiểm soát của họ về phía bắc, một cuộc đụng độ giữa hai triều đại đối thủ đã không thể tránh khỏi. Khoảng năm 2055 trước Công nguyên, phe Thebes dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Herakleopolis, thống nhất hai vùng đất và mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung Vương quốc. Thời kỳ Trung Vương quốc (2134 TCN – 1690 TCN) Các pharaon thời Trung Vương quốc đã phục hồi sự thịnh vượng của đất nước và sự ổn định, qua đó tạo động lực cho sự hồi sinh của nghệ thuật, văn học, và các dự án xây dựng hoành tráng Mentuhotep II và các vị vua kế tục của vương triều thứ 11 cai trị từ Thebes, nhưng khi viên tể tướng Amenemhat I lên ngôi mở đầu cho triều đại thứ 12 khoảng năm 1985 trước Công nguyên, ông ta đã chuyển kinh đô của quốc gia tới thành phố Itjtawy nằm trong ốc đảo Faiyum. Từ Itjtawy, các pharaon triều đại thứ 12 đã tiến hành một chương trình cải tạo đất đai và thủy lợi nhằm tăng sản lượng nông nghiệp trong khu vực. Hơn nữa, quân đội còn tiến hành các chiến dịch quân sự tái chiếm lại vùng lãnh thổ Nubia vốn giàu các mỏ đá và mỏ vàng, trong khi người dân xây dựng một công trình phòng thủ ở phía đông vùng đồng bằng châu thổ, được gọi là "Trường thành của nhà vua", để bảo vệ vùng đất này khỏi các cuộc tấn công đến từ bên ngoài. Với việc các vị vua sau khi củng cố được bộ máy quân sự và chính quyền cùng với sự giàu có đến từ nông nghiệp và khoáng sản, dân số của đất nước, nghệ thuật và tôn giáo đã phát triển mạnh mẽ. Trái ngược với quan điểm ưu đẳng đối với các vị thần thời Cổ Vương quốc, thời kỳ Trung Vương quốc đã diễn ra một quá trình gia tăng những biểu hiện của đạo đức cá nhân và những gì có thể được gọi là dân chủ hóa của thế giới bên kia, trong đó tất cả mọi người sở hữu một linh hồn và có thể được chào đón ở thế giới các vị thần sau khi qua đời. Văn học thời Trung Vương quốc mang đặc trưng là các chủ đề phức tạp với các nhân vật được thể hiện với sự tự tin, và phong cách hùng hồn. Phù điêu và các bức tác phẩm điêu khắc chân dung của thời kỳ này mang sự tinh tế, các chi tiết mang tính cá nhân đạt đến tầm cao mới với kỹ thuật hoàn hảo. Vị vua vĩ đại cuối cùng của thời kỳ Trung Vương quốc, Amenemhat III, đã cho phép những người châu Á định cư trong khu vực đồng bằng để cung cấp một lực lượng lao động đủ để cho việc khai thác mỏ và đặc biệt là các công trình xây dựng của ông. Tuy nhiên các hoạt động xây dựng và khai thác mỏ đầy tham vọng, kết hợp với lũ lụt nghiêm trọng của sông Nile dưới triều đại của ông sau này đã gây nên căng thẳng kinh tế và dẫn đến sự suy yếu dần dần trong thời kỳ chuyển tiếp thứ hai dưới triều đại thứ mười ba và mười bốn sau này. Trong giai đoạn suy yếu này, những người định cư Canaan bắt đầu nắm quyền kiểm soát khu vực đồng bằng châu thổ, cuối cùng thì họ chiếm lấy quyền lực ở Ai Cập và được biết đến với tên gọi là người Hyksos. Thời kỳ chuyển tiếp thứ hai (1674 TCN – 1549 TCN) và người Hyksos Khoảng năm 1785 trước Công nguyên, khi mà sức mạnh của các vị vua thời Trung Vương quốc suy yếu, những cư dân châu Á sinh sống tại thành Avaris ở miền đông đồng bằng châu thổ đã nắm quyền kiểm soát khu vực và buộc chính quyền trung ương phải rút lui về Thebes, nơi các vị vua bị coi là một chư hầu và đặc biệt là phải cống nạp. Người Hyksos ("Các vị vua ngoại quốc") bắt chước mô hình của chính quyền Ai Cập và tự miêu tả mình là pharaon, do đó tích hợp các yếu tố Ai Cập vào nền văn hóa thời đại đồ đồng của họ. Họ và những dân tộc Semite xâm lược khác đã giới thiệu những công cụ chiến tranh mới tới Ai Cập, đáng kể nhất là loại cung hỗn hợp và chiến xa. Sau khi rút lui về phía nam, các vị vua Thebes nhận thấy rằng bản thân họ bị mắc kẹt giữa người Hyksos ở phía bắc và đồng minh Nubia của người Hyksos, người Kush. Sau nhiều năm không động tĩnh, Thebes đã tập hợp đủ sức mạnh để có thể thách thức người Hyksos trong một cuộc chiến sau đó kéo dài hơn 30 năm, cho đến năm 1555 trước Công nguyên Các vị Pharaon Seqenenre Tao II và Kamose cuối cùng đã có thể đánh bại người Nubia, nhưng phải tới khi người kế vị của Kamose là Ahmose I lên ngôi, họ mới thành công trong việc tiến hành một loạt các chiến dịch vĩnh viễn loại trừ sự hiện diện của dân Hyksos ở Ai Cập. Vào thời kỳ Tân Vương quốc sau đó, quân đội đã trở thành một ưu tiên trung tâm cho các pharaon trong việc tìm cách mở rộng biên giới của Ai Cập và bảo đảm sự thống trị của họ ở vùng Cận Đông Thời kỳ Tân Vương quốc (1549 TCN – 1069 TCN) Các vị pharaon thời Tân Vương quốc đã thiết lập nên một thời kỳ thịnh vượng chưa từng có bằng cách củng cố chắc chắn biên giới của họ và tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, bao gồm cả đế quốc Mitanni, Assyria, và Canaan. Các chiến dịch quân sự được tiến hành dưới triều đại Tuthmosis I và cháu trai của ông Tuthmosis III đã tạo nên một đế quốc Ai Cập lớn chưa từng thấy. Vào giai đoạn giữa triều đại của họ, Hatshepsut đã thúc đẩy hòa bình và khôi phục lại các tuyến đường thương mại bị gián đoạn trong thời kỳ người Hyksos cai trị, cũng như mở rộng tới các vùng đất mới. Khi Tuthmosis III qua đời năm 1425 TCN, Ai Cập đã có một đế chế trải dài từ Niya ở tây bắc Syria tới tận thác thứ tư của sông Nile ở Nubia. Các vị pharaon thời kỳ này đã bắt đầu một chiến dịch xây dựng quy mô lớn để tôn vinh thần Amun, vị thần được thờ cúng tại Karnak. Họ cũng xây dựng những tượng đài để vinh danh những thành tựu của mình, cả trong thực tế và tưởng tượng. Ngôi đền Karnak là ngôi đền Ai Cập lớn nhất từng được xây dựng. Hatshepsut cũng đã sử dụng cường điệu tương tự và tạo nên sự huy hoàng trong suốt triều đại của gần hai mươi năm của bà. Triều đại của bà đã rất thành công, nó được đánh dấu bởi một thời gian dài hòa bình và các công trình xây dựng giàu có, các cuộc thám hiểm thương mai tới Punt, khôi phục lại mạng lưới thương mại nước ngoài và các dự án xây dựng lớn, trong đó có một ngôi đền mai táng thanh lịch sánh ngang với các kiến ​​trúc Hy Lạp của một ngàn năm sau đó, một cặp cột tháp tưởng niệm khổng lồ, và một nhà nguyện tại Karnak. Bất chấp những thành tựu này của bà, Amenhotep II, vị vua kế vị của Tuthmosis III, đã tìm cách xóa bỏ di sản của bà vào giai đoạn gần cuối triều đại của cha ông và trong suốt triều đại của ông. Ông cũng đã cố gắng để thay đổi nhiều truyền thống đã được thiết lập và phát triển qua nhiều thế kỷ, mà một số được cho là một nỗ lực vô ích nhằm ngăn chặn những người phụ nữ khác trở thành pharaon và hạn chế ảnh hưởng của họ trong vương quốc. Khoảng năm 1350 TCN, sự ổn định của Tân Vương quốc dường như đã bị đe dọa một lần nữa khi Amenhotep IV lên ngôi và tiến hành một loạt các cải cách triệt để và hỗn loạn. Ông đã đổi tên thành Akhenaten, và đưa vị thần mặt trời trước đó ít người biết đến là Aten trở thành vị thần tối cao, ngăn cấm hầu hết các vị thần khác, và tấn công vào quyền lực của các giáo sĩ Amun ở Thebes, những người mà ông xem là tham nhũng. Di chuyển kinh đô tới thành phố mới Akhetaten (ngày nay là Amarna), Akhenaten đã bỏ ngoài tai các sự kiện đang diễn ra ở vùng Cận Đông (nơi người Hittite, Mitanni và Assyria đang tranh giành quyền kiểm soát). Ông đã dành toàn lực cho tôn giáo mới của mình và phong cách nghệ thuật. Sau khi ông qua đời, sự thờ cúng thần Aten đã nhanh chóng bị từ bỏ và các giáo sĩ của Amun sớm giành lại được quyền lực và trở lại kinh đô Thebes. Dưới ảnh hưởng của họ, các pharaon như Tutankhamun, Ay và Horemheb sau đó đã tiến hành xóa bỏ tất cả những gì đề cập đến vị vua Akhenaten, mà ngày nay được gọi là thời kỳ Amarna. Khoảng năm 1279 TCN, Ramesses II, còn được gọi là Ramesses Đại đế, lên ngôi vua và ông tiếp tục cho xây dựng nhiều ngôi đền cùng với nhiều bức tượng và tháp bia tưởng niệm khác, ông cũng là vị pharaon có nhiều con trai nhất trong lịch sử. Ông còn là một nhà lãnh đạo quân sự táo bạo, Ramesses II đã lãnh đạo quân đội của ông chống lại người Hittite trong trận Kadesh (tại Syria ngày nay) và sau một cuộc chiến tranh bất phân thắng bại, cuối cùng hai bên đã đồng ý ký kết hiệp ước hòa bình đầu tiên được ghi nhận, khoảng năm 1258 TCN. Với việc cả người Ai Cập và Hittite đều không thể chiếm được ưu thế hơn đối thủ và cả hai cường quốc cũng đều sợ hãi sự bành trướng của đế quốc Trung Assyria, Ai Cập sau đó đã rút khỏi nhiều vùng ở Cận Đông. Do đó người Hittite đã phải đơn độc chống đỡ với người Assyria hùng mạnh và người Phrygia mới đến. Tuy nhiên sự giàu có của Ai Cập đã khiến cho nó trở thành một mục tiêu hấp dẫn cho các cuộc xâm lược, đặc biệt bởi người Berber Libya từ phía tây, và các dân tộc vùng biển, được cho là một liên minh của những người đi biển đến từ Aegea. Ban đầu, quân đội đã có thể đẩy lùi các cuộc xâm lược, nhưng cuối cùng Ai Cập đã đánh mất quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ còn lại của mình ở miền nam Caanan, phần lớn rơi vào tay của người Assyria. Những ảnh hưởng từ các mối đe dọa bên ngoài còn trở nên trầm trọng hơn bởi các vấn đề nội bộ như tham nhũng, nạn cướp mộ, và tình trạng xã hội bất ổn. Sau khi giành lại quyền lực của mình, các đại tư tế Amun ở Thebes đã nắm trong tay những vùng đất rộng lớn và giàu có, và mở rộng quyền lực của họ ra khắp đất nước trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba. Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1069 TCN – 653 TCN) Sau khi Ramesses XI qua đời trong năm 1078 TCN, Smendes đã trở thành pharaon cai trị phần phía bắc của Ai Cập, đóng đô ở thành phố Tanis. Miền nam thì lại nằm dưới sự kiểm soát một cách hiệu quả của các đại tư tế Amun ở Thebes, họ chỉ công nhận Smendes trên danh nghĩa. Trong thời gian này, các bộ lạc Berber đến từ Libya đã bắt đầu định cư ở vùng đồng bằng châu thổ phía tây, và tù trưởng của những người định cư đã bắt đầu gia tăng quyền tự chủ của họ. Các hoàng tử Libya này bắt đầu nắm quyền kiểm soát vùng đồng bằng châu thổ dưới thời Shoshenq I vào năm 945 TCN, thiết lập nên triều đại Libya của người Berber, hoặc triều đại Bubastite, cai trị trong khoảng 200 năm. Shoshenq cũng giành quyền kiểm soát miền nam Ai Cập bằng cách đưa các thành viên thuộc hoàng gia nắm giữ các vị trí tư tế quan trọng. Vào giữa thế kỷ IX TCN, Ai Cập đã tiến hành một nỗ lực bất thành nhằm giành lại địa vị xưa kia ở Tây Á một lần nữa. Pharaon Osorkon II của Ai Cập, cùng với một liên minh lớn bao gồm nhiều quốc gia và dân tộc khác trong đó có người Ba Tư, Israel, Hamath, Phoenicia / Caana, người Ả Rập, người Aramea, và Tân Hittite, tham gia vào trận Karkar chống lại vị vua Assyria hùng mạnh Shalmaneser III diễn ra trong năm 853 TCN. Tuy nhiên, liên minh này đã thất bại và đế quốc Tân Assyria tiếp tục thống trị Tây Á. Sự cai trị của người Berber Libya bắt đầu suy yếu bắt đầu khi xuất hiện một triều đại đối thủ ở Leontopolis thuộc khu vực đồng bằng châu thổ. Ngoài ra, người Nubia của Kush cũng đe dọa Ai Cập từ các vùng đất phía Nam. Trải qua hàng thiên niên kỷ tương tác (thương mại, tiếp xúc văn hóa, chiếm đóng, đồng hóa, và chiến tranh ) với Ai Cập, vị vua Piye của người Kush xuất phát từ kinh đô Napata ở Nubia của ông và tiến đánh Ai Cập khoảng năm 727 TCN. Piye dễ dàng chiếm được Thebes và cuối cùng là khu vực đồng bằng sông Nile. Ông đã cho ghi lại quá trình này trên tấm bia chiến thắng của mình. Piye sau đó thiết lập nên triều đại thứ 25, để thống nhất lại "Hai vùng đất" của miền Bắc và miền Nam Ai Cập. Đế chế thung lũng sông Nile một lần nữa lại trở nên rộng lớn như thơi Tân Vương quốc. Triều đại thứ 25 đã mở ra một thời kỳ phục hưng cho Ai Cập cổ đại. Tôn giáo, nghệ thuật, kiến ​​trúc đã được khôi phục lại vẻ huy hoàng như thời Cổ, Trung, và Tân Vương quốc. Các pharaon chẳng hạn như Taharqa, đã cho xây dựng hoặc phục hồi lại các đền thờ và tượng đài khắp toàn bộ khu vực thung lũng sông Nile, bao gồm cả ở Memphis, Karnak, Kawa, Jebel Barkal, vv Triều đại thứ 25 cũng là triều đại đầu tiên cho xây dựng nhiều kim tự tháp (phần lớn nằm tại Sudan ngày nay) ở thung lũng Nile kể từ thời Trung Vương quốc. Piye đã tiến hành nhiều nỗ lực để mở rộng ảnh hưởng của Ai Cập ở vùng Cận Đông, vốn đang nằm dưới sự kiểm soát của Assyria, nhưng đều không thành công. Năm 720 TCN, ông phái một đội quân đến hỗ trợ của một cuộc khởi nghĩa chống lại Assyria, đang xảy ra tại Philistia và Gaza. Tuy nhiên, Piye đã bị Sargon II đánh bại và cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Năm 711 TCN, Piye lại ủng hộ một cuộc khởi nghĩa khác của người Do Thái ở Ashdod chống lại người Assyria và lại một lần nữa bị đánh bại bởi vua Assyria Sargon II. Sau đó, Piye đã buộc phải từ bỏ vùng Cận Đông. Từ thế kỷ X TCN trở đi, Assyria đã tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm kiểm soát miền Nam Levant. Các thành phố và các vương quốc miền nam Cận Đông thường xuyên kêu gọi Ai Cập trợ giúp họ trong cuộc chiến chống lại quân đội Assyria hùng mạnh. Taharqa đã đạt được một số thành công bước đầu trong nỗ lực nhằm giành lại một chỗ đứng ở Cận Đông. Taharqa đã trợ giúp cho vua Judea Hezekiah khi Hezekiah và Jerusalem bị vua Assyria, Sennacherib, vây hãm. Các học giả đã không đi đến thống nhất với nhau về lý do chính khiến cho người Assyria từ bỏ cuộc vây hãm Jerusalem của họ. Có thể nguyên nhân khiến cho người Assyria tránh một cuộc chiến với đội quân can thiệp Ai Cập / Kush có thể là do dịch bệnh hoành hành. Henry Aubin lại lập luận rằng quân đội Kush / Ai Cập đã cứu thoát Jerusalem khỏi tay người Assyria và ngăn cản người Assyria quay trở lại đánh chiếm Jerusalem suốt phần đời còn lại của Sennacherib (20 năm). Tuy nhiên biên niên sử của Senacherib khẳng định rằng Judea đã được buộc vào cống nạp. Sennacherib sau đó đã bị những người con trai của mình sát hại bởi vì ông ta đã phá hủy thành phố Babylon nổi loạn, một thành phố thiêng liêng đối với toàn bộ người dân Mesopotamia, bao gồm cả Assyria. Năm 674 TCN, Esarhaddon tiến hành một cuộc xâm lược mở đầu vào Ai Cập, tuy nhiên nỗ lực này đã bị Taharqa đẩy lùi. Tuy nhiên, vào năm 671 TCN, Esarhaddon đã phát động một cuộc xâm lược toàn diện. Một phần quân đội của ông ta đã lưu lại để đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở Phoenicia, và Israel. Phần còn lại tiến về phía nam tới Rapihu, rồi băng qua Sinai, và tiến vào Ai Cập. Esarhaddon giành một chiến thắng quyết định trước Taharqa, rồi chiếm lấy Memphis, Thebes và tất cả các thành phố lớn của Ai Cập, còn Taharqa bị đánh đuổi trở lại quê hương Nubia của ông. Esarhaddon lúc bây giờ tự gọi bản thân ông ta là "vua của Ai Cập, Patros, và Kush", và trở về với một lượng lớn chiến lợi phẩm từ các thành phố ở vùng đồng bằng; ông ta đã cho dựng lên một tấm bia chiến thắng vào thời điểm này và tiến hành một cuộc diễu hành với vị hoàng tử tù binh Ushankhuru, con trai của Taharqa ở Nineveh. Esarhaddon cho đóng một đội quân nhỏ ở miền bắc Ai Cập và mô tả cách "Tất cả người Ethiopia (cách gọi người Nubia / Kushi) đã bị ta trục xuất khỏi Ai Cập, để không còn kẻ nào không thần phục ta". Ông ta còn thiết lập các chư hầu Ai Cập bản xứ để cai trị thay mặt mình. Cuộc chinh phục của Esarhaddon đã đánh dấu sự kết thúc hoàn toàn của đế chế Kush ngắn ngủi. Tuy nhiên, các chư hầu Ai Cập được Esarhaddon dựng lên đã không thể giữ được quyền kiểm soát toàn bộ đất nước một cách lâu dài. Hai năm sau, Taharqa quay trở lại từ Nubia và nắm quyền kiểm soát miền nam Ai Cập xa về phía bắc tới Memphis. Esarhaddon đã chuẩn bị để quay lại Ai Cập và một lần nữa để đánh đuổi Taharqa, tuy nhiên ông ta đã lâm bệnh và qua đời tại Nineveh, trước khi có thể rời Assyria. Vị vua kế vị, Ashurbanipal, đã phái một vị tướng Assyria có tên là Sha-Nabu-shu cùng với một đạo quân nhỏ, nhưng được huấn luyện tốt và đã đánh bại Taharqa tại Memphis, một lần nữa lại đánh đuổi ông ta ra khỏi Ai Cập. Taharqa qua đời ở Nubia hai năm sau đó. Vị vua kế vị ông, Tanutamun, cũng đã tiến hành một nỗ lực nhằm giành lại Ai Cập cho Nubia nhưng không thành công. Bước đầu ông đã đánh bại thành công Necho, vị vua chư hầu Ai Cập được Ashurbanipal dựng lên, chiếm lấy Thebes trong quá trình này. Assyria sau đó đã phái một đội quân lớn tiến về phía nam. Tantamani (Tanutamun) bị đánh tan tác và phải chạy trốn trở lại Nubia. Quân đội Assyria sau đó cướp phá Thebes đến mức nó không bao giờ thực sự hồi phục lại được nữa. Một vị vua bản xứ, Psammetichus I đã được đưa lên ngôi, như là một chư hầu của Ashurbanipal, và Nubia không bao giờ trở thành một mối de dọa cho cả Assyria và Ai Cập nữa. Thời hậu nguyên (672 TCN – 332 TCN) Do không có kế hoạch lâu dài cho cuộc chinh phục, người Assyria tổ chức việc cai trị Ai Cập thông qua một loạt các chư hầu được biết đến như là các vị vua Saite của triều đại thứ 26. Năm 653 TCN, vua Saite Psamtik I (lợi dụng thời điểm Assyria đang tham gia vào một cuộc chiến tranh khốc liệt nhằm chinh phục Elam và chỉ có một đội quân Assyria nhỏ đóng ở Ai Cập) đã có thể giành lại độc lập cho Ai Cập thoát khỏi ách thống trị của người Assyria với sự giúp đỡ của người Lydia và lính đánh thuê Hy Lạp, những người sau đó đã được tuyển mộ để tạo thành lực lượng hải quân đầu tiên của Ai Cập. Tuy nhiên, Psamtik và những vị vua kế vị ông đã cẩn trọng trong việc duy trì quan hệ hòa bình với Assyria. Ảnh hưởng của người Hy Lạp đã mở rộng một cách đáng kể và thành phố Naukratis đã trở thành khu định cư của người Hy Lạp ở vùng đồng bằng. Năm 609 TCN, Necho II đã tiến hành chiến tranh với Babylon, người Chaldea, người Medes và Scythia trong một nỗ lực nhằm cứu lấy Assyria, vốn vừa trải qua một cuộc nội chiến tàn khốc lại đã bị liên minh các cường quốc này giày xéo. Tuy nhiên, những nỗ lực của Ai Cập đã thất bại. Nhưng người Ai Cập lại đã trì hoãn sự can thiệp quá lâu và khi Necho II phái quân đội của ông tiến về phía bắc thì lúc đó thành Nineveh đã thất thủ và vua Sinsharishkun cũng đã tử trận. Tuy nhiên, Necho đã dễ dàng đánh bại một đội quân Israel của vua Josiah nhưng ông và người Assyria sau đó lại bại trận tại Harran trước người Babylon, Medes và người Scythia. Necho II và Ashur-uballit II của Assyria cuối cùng đã bị đánh bại tại Carchemish ở Aramea (Syria ngày nay) vào năm 605 TCN. Người Ai Cập sau dó vẫn còn tiếp tục tranh giành khu vực này trong một vài thập kỷ nữa với các vị vua Babylon như Nabopolassar và Nebuchadnezzar II để kiểm soát những vùng đất còn lại của cựu đế quốc Assyria ở Levant. Tuy nhiên, họ đã dần dần bị đẩy lùi về Ai Cập, và Nebuchadnezzar II thậm chí đã xâm lược Ai Cập vào năm 567 TCN. Triều đại của các vị vua Saite với căn cứ tại kinh đô mới ở Sais đã chứng kiến ​​một sự hồi sinh ngắn ngủi trong nền kinh tế và văn hóa, nhưng trong năm 525 TCN, người Ba Tư hùng mạnh dưới sự chỉ huy của Cambyses II, đã bắt đầu cuộc chinh phục Ai Cập, và đã bắt sống được Pharaon Psamtik III ngay tại trận Pelusium. Cambyses II sau đó lấy tước hiệu của pharaon, nhưng lại cai trị Ai Cập từ quê nhà tại Susa ở Ba Tư (Iran ngày nay), và trao quyền cai trị Ai Cập vào tay một phó vương. Một vài cuộc khởi nghĩa nổ ra chống lại người Ba Tư vào thế kỷ thứ năm đã giành được thành công ngắn ngủi, tuy vậy Ai Cập đã không bao giờ có thể lật đổ vĩnh viễn ách thống trị của người Ba Tư. Sau khi bị sáp nhập vào đế quốc Ba Tư, Ai Cập cùng với Síp và Phoenicia (Lebanon ngày nay) tạo thành satrap thứ sáu của Đế quốc Achaemenid. Giai đoạn đầu tiên mà người Ba Tư thống trị Ai Cập, còn được biết đến như là triều đại thứ 27, kết thúc vào năm 402 TCN, và từ năm 380-343 TCN đánh dấu triều đại Ai Cập bản địa cuối cùng, được biết đến là triều đại thứ 30, kết thúc với sự trì vì của vua Nectanebo II. Sự thống trị của người Ba Tư được phục hồi sau đó, đôi khi được gọi là triều đại thứ 31, bắt đầu từ năm 343 TCN, nhưng không lâu sau, năm 332 TCN, viên phó vương Ba Tư Mazaces đã đầu hàng và đem dâng Ai Cập cho vua Alexander Đại đế của Macedonia. Thời kỳ thuộc Hy Lạp Năm 332 trước Công nguyên, Alexander Đại đế chinh phục Ai Cập mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào từ đế chế Ba Tư và được người Ai Cập chào đón như là người giải phóng. Chính quyền được những người kế tục Alexander thành lập, triều đại Ptolemaios của Macedonia, dựa trên một mô hình của Ai Cập và trung tâm đặt tại kinh đô mới Alexandria. Thành phố đã trở thành một trung tâm về học thuật và văn hóa, với thư viện Alexandria nổi tiếng. Ngọn hải đăng Alexandria đã thắp sáng chỉ đường cho những con thuyền mà mang đến sự phồn vinh về thương mại cho thành phố. Văn hóa Hy Lạp đã không thay thế văn hóa Ai Cập bản địa, bởi vì nhà Ptolemaios đã ủng hộ những truyền thống lâu đời nhằm đảm bảo sự trung thành của dân chúng. Họ đã xây dựng những ngôi đền mới theo phong cách Ai Cập, ủng hộ tôn giáo truyền thống, và miêu tả bản thân là pharaon. Một số truyền thống đã hợp nhất với nhau, ví dụ như các vị thần Hy Lạp và Ai Cập đã hợp nhất với nhau thành các vị thần được thờ phụng chung, như Serapis, và các hình mẫu cổ điển của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã chịu ảnh hưởng từ các họa tiết truyền thống của Ai Cập. Bất chấp những nỗ lực của họ để xoa dịu người dân Ai Cập, nhà Ptolemaios đã bị thách thức bởi cuộc khởi nghĩa của cư dân bản địa, tranh chấp nội bộ, và bởi cả đông đảo cư dân Alexandria sau khi Ptolemaios IV qua đời. Ngoài ra, bởi vì La Mã ngày càng dựa nhiều hơn vào ngũ cốc nhập khẩu từ Ai Cập, người La Mã đã dành sự quan tâm rất lớn đối với tình hình chính trị ở Ai Cập. Những cuộc khởi nghĩa của người Ai Cập tiếp tục nổ ra, các chính trị gia đầy tham vọng, và các đối thủ hùng mạnh tới từ vùng Cận Đông càng làm cho tình hình trở nên mất ổn định, dẫn đến việc Rome phái quân đến bảo vệ Ai Cập như là một tỉnh thuộc đế chế. Thời kì thuộc La Mã Ai Cập trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã vào năm 30 trước Công nguyên, sau thất bại của Marcus Antonius và nữ hoàng Cleopatra VII trước Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) trong trận Actium. Người La Mã phụ thuộc chủ yếu vào các chuyến hàng ngũ cốc từ Ai Cập, và quân đội La Mã, thuộc thẩm quyền của thái thú được bổ nhiệm bởi Hoàng đế, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa, thi hành nghiêm túc việc thu thuế nặng, và ngăn chặn cuộc tấn công của bọn cướp, mà đã trở thành một vấn đề nổi tiếng trong giai đoạn này Alexandria đã trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng trên tuyến đường thương mại với phương đông, vì những của cải xa hoa kỳ lạ có nhu cầu cao tại Rome. Mặc dù người La Mã đã có một thái độ thù địch hơn so với người Hy Lạp đối với người Ai Cập, một số truyền thống như ướp xác và thờ cúng các vị thần truyền thống vẫn tiếp tục. Nghệ thuật vẽ chân dung xác ướp phát triển rực rỡ, và một số của các hoàng đế La Mã đã tự mô tả mình như pharaon, mặc dù không đến mức độ như nhà Ptolemaios trước đây. Từ giữa thế kỷ thứ nhất, Kitô giáo đã bắt đầu bén rễ ở Ai Cập và ban đầu được xem như một tôn giáo có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, đây là một tôn giáo không thỏa hiệp và luôn cố gắng cải đạo những người theo tôn giáo truyền thống của Ai Cập và tôn giáo Hy Lạp-La Mã cổ đại, và đe dọa các truyền thống tôn giáo lâu đời. Điều này dẫn đến những cuộc đàn áp những người cải đạo sang Kitô giáo, mà đỉnh cao là cuộc đại thanh trừng của Diocletianus bắt đầu vào năm 303, nhưng cuối cùng Kitô giáo đã thắng thế. Năm 391, hoàng đế Theodosius ban pháp lệnh nghiêm cấm các nghi thức thờ cúng đa thần giáo và đóng cửa các ngôi đền. Còn tại thành Alexandria thì đã diễn ra cuộc bạo loạn lớn chống lại đa thần giáo với việc phá hủy những hình tượng tôn giáo công cộng và tư nhân. Như là một hệ quả của điều này, văn hóa tôn giáo bản địa của Ai Cập đã dần biến mất. Trong khi những cư dân bản địa tiếp tục nói ngôn ngữ của họ, thì khả năng đọc những ghi chép bằng chữ tượng hình dần dần biến mất bởi vì vai trò của các giáo sĩ và nữ tư tế trong các ngôi đền Ai Cập ngày càng suy giảm. Các ngôi đền cổ bị chuyển đổi thành những nhà thờ Kitô giáo hoặc bị bỏ hoang trong sa mạc. Chính quyền và kinh tế Tổ chức chính quyền và thương nghiệp Pharaon là người nắm giữ toàn bộ quyền lực tối cao của vương quốc, và ít nhất là trên lý thuyết sở hữu toàn bộ đất đai cùng tất cả các nguồn tài nguyên của nó. Nhà vua là tổng tư lệnh tối cao của quân đội và là người đứng đầu nhà nước, dựa vào một bộ máy quan lại giúp ông quản lý công việc của mình. Đứng đầu chính quyền của nhà nước chỉ sau nhà vua là tể tướng, người đóng vai trò là đại diện và quản lý toàn bộ đất đai, quốc khố, các công trình xây dựng, hệ thống pháp luật, và các tài liệu lưu trữ. Ở cấp độ khu vực, đất nước được chia thành 42 khu vực hành chính gọi là các nome nằm dưới sự cai trị bởi một nomarch, những người nằm dưới sự giám sát của tể tướng. Các ngôi đền hình thành nên xương sống của cả nền kinh tế. Không chỉ là nơi thờ cúng, chúng còn giữ nhiệm vụ thu gom và tích trữ của cải của vương quốc trong một hệ thống các kho thóc và Kho bạc được quản lý bởi những đốc công, họ giữ trọng trách phân phối thóc lúa và hàng hóa. Phần lớn nền kinh tế được tổ chức một cách tập trung và nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Mặc dù những người Ai Cập cổ đại không sử dụng tiền đúc cho đến thời kỳ hậu nguyên, họ đã sử dụng một loại hệ thống trao đổi hàng hóa, sử dụng các bao tải thóc để làm tiêu chuẩn và deben, trọng lượng khoảng 91 gram (3 oz) bằng đồng hoặc bạc để tạo nên một đơn vị đo lường chung. Người lao động được trả bằng thóc và một người lao động bình thường có thể kiếm được 5 ½ bao tải (200 kg hoặc 400 lb) thóc mỗi tháng, trong khi một quản đốc có thể kiếm được 7½ bao tải (250 kg hoặc 550 lb). Giá cả được cố định trên toàn quốc và được ghi vào sổ sách để tạo điều kiện cho việc kinh doanh; ví dụ như một chiếc áo có giá năm deben đồng, trong khi một con bò có giá 140 deben. Thóc lúa có thể được trao đổi với các mặt hàng khác, theo một bảng giá cố định. Vào thế kỷ thứ V TCN, tiền đúc đã được du nhập vào Ai Cập từ nước ngoài. Ban đầu các đồng xu được sử dụng như những miếng đúc tiêu chuẩn từ kim loại quý hơn là một loại tiền tệ thật sự, nhưng trong các thế kỷ kế tiếp, những thương nhân quốc tế đã tín nhiệm loại tiền này. Địa vị xã hội Xã hội Ai Cập đã có sự phân chia giai cấp ở mức độ cao, và địa vị xã hội đã được phân biệt rõ ràng. Nông dân chiếm phần đông trong xã hội, nhưng nông sản lại thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước, đền thờ, hay các gia đình quý tộc mà sở hữu đất đai. Nông dân cũng phải chịu thuế lao động và bị buộc phải tham gia lao động trong các dự án thủy lợi, các công trình xây dựng theo một hệ thống sưu dịch. Nghệ sĩ và thợ thủ công lại có địa vị cao hơn nông dân, nhưng họ cũng nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, làm việc tại các phân xưởng gắn với những ngôi đền và được trả lương trực tiếp từ quốc khố. Các viên ký lục và quan lại hình thành nên tầng lớp thượng lưu ở Ai Cập cổ đại, được gọi là "tầng lớp váy trắng", một sự ám chỉ đến việc sử dụng quần áo bằng vải lanh màu trắng như là một dấu hiệu cho địa vị của họ. Tầng lớp thượng lưu này còn làm nổi bật địa vị xã hội của họ thông qua nghệ thuật và văn học. Bên dưới giới quý tộc là các giáo sĩ, thầy thuốc, và các kỹ sư được đào tạo một cách chuyên môn trong lĩnh vực của họ. Nô lệ cũng đã được biết đến ở Ai Cập cổ đại, nhưng mức độ và tỷ lệ của nó lại không rõ ràng. Người Ai Cập cổ đại coi đàn ông và phụ nữ, kể cả tất cả mọi người đến từ tất cả các tầng lớp xã hội, ngoại trừ nô lệ, về cơ bản là bình đẳng với nhau theo quy định của pháp luật, và ngay cả những người nông dân dưới đáy cũng được quyền kiến ​​nghị tới tể tướng và triều đình. Mặc dù, nô lệ được sử dụng chủ yếu như là những người hầu chịu sự ràng buộc. Họ có thể bị mua và bán, hoặc có thể làm việc tự do và thường được điều trị bởi các thầy thuốc tại nơi làm việc. Cả đàn ông và phụ nữ đều có quyền sở hữu và mua bán tài sản, ký kết hợp đồng, kết hôn và ly hôn, nhận thừa kế, và theo đuổi các tranh chấp pháp lý tại tòa án. Các cặp vợ chồng có thể sở hữu tài sản chung và bảo vệ bản thân khi ly dị bằng cách đồng ý hợp đồng hôn nhân, trong đó quy định các nghĩa vụ tài chính của người chồng đối với vợ và con cái khi kết thúc cuộc hôn nhân của họ. So với phụ nữ ở Hy Lạp cổ đại, La Mã, và thậm chí là nhiều nơi trên thế giới vào ngày nay, phụ nữ Ai Cập cổ đại đã có nhiều quyền lợi hơn. Những người phụ nữ như Hatshepsut và Cleopatra VII thậm chí đã trở thành các pharaon, trong khi nhiều người khác nắm giữ địa vị Người vợ thần thánh của Amun. Mặc dù có được nhiều quyền tự do, phụ nữ Ai Cập cổ đại lại không thường xuyên nắm giữ các vị trí chính thức trong chính quyền, họ chỉ giữ vai trò thứ yếu trong các ngôi đền, và không được nhận nền giáo dục như nam giới. Hệ thống pháp luật Người đứng đầu của hệ thống pháp luật chính thức là pharaon, ông là người chịu trách nhiệm thi hành pháp luật, thực thi công lý, duy trì pháp luật và trật tự, một khái niệm được người Ai Cập cổ đại gọi là Ma'at Mặc dù không có bộ luật nào từ thời Ai Cập cổ đại còn tồn tại, các thư liệu của tòa án cho thấy luật pháp Ai Cập dựa trên một cái nhìn chung về ý thức đúng và sai mà nhấn mạnh tới việc đạt được thỏa thuận và giải quyết xung đột thay vì tôn trọng đúng một tập hợp quy chế phức tạp Hội đồng địa phương gồm những người cao tuổi, được biết đến như Kenbet vào thời Tân Vương quốc, chịu trách nhiệm về phán quyết trong các phiên tòa liên quan đến các vụ kiện nhỏ và tranh chấp nhỏ. Trường hợp nghiêm trọng hơn liên quan đến giết người, giao dịch đất lớn, và cướp mộ được đưa đến Đại Kenbet, mà tể tướng hoặc pharaon chủ trì. Nguyên đơn và bị đơn dự kiến ​​sẽ đại diện cho bản thân và phải thề một lời tuyên thệ rằng họ đã nói sự thật. Trong một số trường hợp, chính quyền đóng cả hai vai trò là công tố viên và thẩm phán, và họ có thể tra tấn đánh đập bị cáo để có được một lời thú nhận và tên của bất kỳ đồng phạm nào. Bất kể lời buộc tội có thể là bình thường hoặc nghiêm trọng, viên ký lục của tòa án sẽ ghi nhận khiếu nại, lời khai, và phán quyết của vụ án để có thể xem xét đến trong tương lai. Hình phạt cho những tội lỗi nhỏ có thể là phạt tiền, đánh đập, cắt xẻo khuôn mặt, hay lưu đày, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Những tội nghiêm trọng như giết người và cướp mộ thì bị trừng phạt bằng cách xử tử, có thể bằng cách chém đầu, dìm chết đuối, hoặc đóng cọc đối với người phạm tội. Hình phạt cũng có thể được mở rộng ra đối với gia đình của người phạm tội. Bắt đầu từ thời Tân Vương quốc, các nhà tiên tri đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật, xét xử cả trong trường hợp dân sự và hình sự. Trình tự cho quá trình này đó là hỏi thần linh một câu hỏi "có" hoặc "không" có liên quan đến việc đúng hay sai của một vấn đề. Thần linh thông qua một số vị thầy tế, sẽ phán quyết bằng cách chọn một hoặc theo cách khác là di chuyển về phía trước hoặc phía sau, hoặc chỉ vào một trong những câu trả lời được viết trên một mảnh giấy cói hoặc một ostracon. Nông nghiệp Sự kết hợp các điều kiện địa lý thuận lợi góp phần vào sự thành công của văn hóa Ai Cập cổ đại, quan trọng nhất trong đó là đất đai có độ màu mỡ cao, kết quả từ sự ngập lụt hàng năm của sông Nile. Như vậy, người Ai Cập cổ đại có thể tạo ra một nguồn lương thực dồi dào, cho phép dân cư dành nhiều thời gian và nguồn lực cho các mục đích văn hóa, kĩ thuật, và nghệ thuật. Quản lý đất đai có vai trò rất quan trọng trong thời Ai Cập cổ đại bởi vì số thuế được dựa trên số lượng đất mà một người sở hữu. Công việc đồng áng ở Ai Cập phụ thuộc vào chu kỳ của sông Nile. Người Ai Cập ghi nhận ba mùa: Akhet (lũ lụt), Peret (trồng trọt), và Shemu (thu hoạch). Mùa lũ lụt kéo dài từ tháng sáu tới tháng chín, bồi đắp hai bên bờ sông một lớp phù sa lý tưởng, giàu khoáng chất cho việc trồng trọt. Sau khi nước lũ rút, mùa gieo trồng kéo dài từ Tháng Mười tới tháng hai. Nông dân cày và trồng hạt giống trên các cánh đồng, được tưới bằng mương, kênh rạch. Ai Cập vốn có lượng mưa hàng năm ít, do đó, nông dân đã dựa vào sông Nile để tưới nước cho cây trồng của họ Từ tháng ba tới tháng năm, nông dân sử dụng liềm để thu hoạch cây trồng của họ, mà sau đó đã đập với một cái đập lúa một để tách riêng rơm khỏi hạt thóc lúa. Sàng lọc loại bỏ trấu khỏi thóc, các hạt thóc lúa sau đó được nghiền thành bột, ủ làm bia, hoặc được lưu trữ để sử dụng sau này.Người Ai Cập cổ đại trồng lúa mì và lúa mạch, và một số loại ngũ cốc khác, tất cả đều được sử dụng để làm cho hai loại thực phẩm chính là bánh mì và bia Các cây lanh bị nhổ bật gốc trước khi chúng bắt đầu ra hoa, vốn được trồng để lấy sợi. Những sợi này được tách dọc theo chiều dài của nó và xe thành sợi, được sử dụng để dệt vải lanh và may quần áo. Cây cói mọc trên các bờ của sông Nile đã được sử dụng để làm giấy. Rau và hoa quả được trồng ở những mảnh đất vườn, gần các ngôi nhà và trên khu đất cao hơn, và phải được tưới nước bằng tay. Rau bao gồm tỏi tây, tỏi, dưa hấu, bí, đậu, rau diếp, và các cây trồng khác, ngoài ra còn có nho đã được chế biến thành rượu. Động vật Người Ai Cập tin rằng một mối quan hệ cân bằng giữa con người và động vật là một yếu tố thiết yếu của trật tự vũ trụ, do đó con người, động vật và thực vật được cho là thành viên của một tổng thể chung duy nhất . Gia súc là những vật nuôi quan trọng nhất, việc quản lý thuế đánh vào vật nuôi trong những cuộc tổng điều tra thường xuyên, và kích thước của một đàn phản ánh uy tín và tầm quan trọng của điền trang hoặc ngôi đền mà sở hữu chúng. Ngoài ra cho gia súc, người Ai Cập cổ còn nuôi cừu, dê và lợn. Gia cầm như vịt, ngan, ngỗng, chim bồ câu đã bị bắt do mắc bẫy và được nuôi ở các trang trại, nơi chúng đã bị ép ăn với bột để vỗ béo. Ngoài ra sông Nile còn là một nguồn cung cấp cá phong phú. Ong cũng được thuần hóa ít nhất là từ thời Cổ Vương quốc, và chúng đã cung cấp cả mật ong và sáp. Người Ai Cập cổ đại sử dụng lừa và bò để chuyên chở, và chúng còn được sử dụng trong việc cày ruộng và gieo hạt giống. Việc giết mổ một con bò được vỗ béo cũng là một phần trọng tâm trong các nghi lễ thờ cúng.Ngựa đã được người Hyksos du nhập vào Ai Cập trong thời kỳ chuyển tiếp thứ hai, và lạc đà, mặc dù được biết đến từ thời Tân Vương quốc, chỉ được sử dụng để chuyên chở vào thời Hậu nguyên. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy những con voi đã được sử dụng trong một thời gian ngắn vào giai đoạn Hậu nguyên, nhưng phần lớn chúng đã bị bỏ rơi do thiếu đất chăn thả.Chó, mèo và khỉ là những loài thường được nuôi trong gia đình, trong khi các loài vật ngoại quốc khác được đưa về từ khu vực trung tâm của châu Phi, như sư tử, lại được dành riêng cho hoàng gia. Herodotus quan sát thấy rằng người Ai Cập là những người duy nhất giữ những loài vật nuôi ở cùng trong nhà với họ. Trong giai đoạn Tiền triều đại và Hậu nguyên, việc thờ cúng các vị thần trong hình dạng động vật của họ trở nên vô cùng phổ biến, chẳng hạn như nữ thần mèo Bastet và thần cò Thoth, nhiều loài còn được nhân giống với số lượng lớn tại các trang trại nhằm dành cho mục đích hiến tế trong các nghi lễ. Tài nguyên Ai Cập có nguồn tài nguyên đá phong phú dành cho các công trình xây dựng, cùng với đồng và chì, vàng, và đá bán quý. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên này cho phép người Ai Cập cổ đại xây dựng các công trình kiến trúc, tạc tượng, chế tạo các công cụ và đồ trang sức. Quá trình ướp xác sử dụng muối từ Natrun Wadi để làm khô các xác ướp, ngoài ra còn cung cấp nguồn thạch cao cần thiết để làm vữa. Còn có những mỏ vàng lớn Nubia, và một trong những bản đồ đầu tiên được biết đến là bản đồ về một mỏ vàng ở khu vực này. Wadi Hammamat là nơi cung cấp nguồn đá granit nổi tiếng, greywacke, và vàng. Đá lửa là loại khoáng chất đầu tiên được thu thập và sử dụng để làm công cụ, và những chiếc rìu đá là bằng chứng sớm nhất về quá trình định cư ở khu vực thung lũng sông Nile. Những viên đá nhỏ đã được mài một cách cẩn thận để làm lưỡi dao và đầu mũi tên nhờ vào độ cứng vừa phải của chúng và độ bền thậm chí chỉ kém đồng mà được sử dụng để thay thế sau này. Người Ai Cập cổ đại là những người đầu tiên sử dụng các khoáng chất như lưu huỳnh làm mỹ phẩm. Người Ai Cập còn biết tách galen ra khỏi quặng chì tại Gebel Rosas để chế tạo lưới chì, các quả dọi bằng chì, và những bức tượng nhỏ. Đồng là kim loại quan trọng nhất được sử dụng để chế tạo công cụ ở Ai Cập cổ đại và loại quặng malachite dùng để nấu đồng lại được khai thác ở Sinai. Công nhân khai thác vàng bằng cách đãi quặng vàng ra khỏi các lớp đá trầm tích, hoặc thông qua quá trình nghiền và đãi loại quặng vàng lẫn với quartzi vốn tốn nhiều công sức. Quặng sắt được tìm thấy ở thượng Ai Cập đã được sử dụng vào thời Hậu nguyên. Những loại đá xây dựng với chất lượng cao rất dồi dào ở Ai Cập, người Ai Cập cổ đại đã khai thác đá vôi dọc theo thung lũng sông Nile, đá granite từ Aswan, và đá bazan cùng đá sa thạch từ các con sông cạn ở sa mạc phía đông. Những loại đá dùng để chạm khắc như Pocfia, greywacke, thạch cao tuyết hoa, và carnelian nằm rải rác ở sa mạc phía đông và được khai thác từ trước khi triều đại đầu tiên được lập nên. Vào thời kỳ nhà Ptolemaios và La Mã cai trị, người Ai Cập đã tiến hành khai thác đá ngọc lục bảo ở Wadi Sikait và thạch anh tím ở Wadi el-Hudi. Thương mại Người Ai Cập cổ đại đã tiến hành giao thương với các nước láng giềng ngoại quốc của họ để có được hàng hóa quý hiếm và kỳ lạ vốn không được tìm thấy ở Ai Cập. Trong giai đoạn Tiền triều đại, họ đã thiết lập thương mại với Nubia để có được vàng và hương liệu. Họ cũng thiết lập thương mại với Palestine với bằng chứng là những chiếc bình quai chứa dầu theo phong cách Palestine đã được tìm thấy trong các ngôi mộ của các pharaon thuộc triều đại thứ nhất. Một khu thực dân của người Ai Cập đã được thiết lập ở miền nam Canaan có niên đại vào giai đoạn trước khi triều đại thứ nhất bắt đầu. Vua Narmer còn có các đồ gốm Ai Cập được sản xuất tại Canaan và sau đó xuất khẩu trở lại Ai Cập. Tới triều đại thứ hai, thương mại giữa Ai Cập cổ đại với Byblos đã giúp cho Ai Cập có được một nguồn cung cấp gỗ chất lượng vốn không có ở Ai Cập. Đến triều đại thứ năm, thương mại với Punt đã đem về vàng, nhựa thơm, gỗ mun, ngà voi và các loài động vật hoang dã như khỉ và khỉ đầu chó. Thương mại giữa Ai Cập với khu vực Anatolia đã mang về một lượng lớn thiếc cần thiết cũng như nguồn cung cấp đồng bổ sung, cả ở dạng kim loại và quặng đồng dùng cho việc chế tạo đồ đồng. Người Ai Cập cổ đại cũng rất coi trọng loại đá lapis lazuli màu xanh, mà phải nhập khẩu từ vùng đất Afghanistan xa xôi. Các đối tác thương mại ở Địa Trung Hải của Ai Cập còn bao gồm cả người Hy Lạp và Crete, họ đã cung cấp cho người Ai Cập nhiều loại hàng hóa khác nhau trong đó có dầu olive. Về phần mình, Ai Cập chủ yếu xuất khẩu ngũ cốc, vàng, vải lanh, và giấy cói, ngoài ra còn bao gồm cả thủy tinh và những đồ vật bằng đá. Ngôn ngữ Lịch sử phát triển Tiếng Ai Cập là một ngôn ngữ Phi-Á phía bắc có mối quan hệ gần gũi với tiếng Berber và ngôn ngữ Semite. Nó là một trong những ngôn ngữ có lịch sử lâu đời nhất (chỉ sau tiếng Sumer), và được viết từ khoảng năm 3200 TCN cho đến thời Trung Cổ và tồn tại là một ngôn ngữ nói còn lâu hơn nữa. Các giai đoạn của tiếng Ai Cập cổ đại là Cổ Ai Cập, Trung Ai Cập (tiếng Ai Cập cổ điển), Hậu kỳ Ai Cập, ngôn ngữ bình dân và tiếng Copt. Những ghi chép của người Ai Cập không cho thấy sự khác biệt về phương ngữ trước giai đoạn Copt, nhưng có thể co sự khác biệt trong cách nói tiếng địa phương ở khu vực xung quanh Memphis và Thebes sau này. Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại là một ngôn ngữ đa tổng hợp, nhưng nó đã dần trở thành một loại ngôn ngữ đơn lập sau này. Đến giai đoạn Hậu kỳ Ai Cập, nó đã phát triển các tiền tố hạn định và các mạo từ bất định, mà thay thế cho các hậu biến tố cũ. Đã có một sự thay đổi từ thứ tự động từ-chủ ngữ-bổ ngữ cũ thành dạng chủ ngữ-động từ-bổ ngữ. Các ghi chép bằng chữ tượng hình, chữ thầy tu, và ngôn ngữ bình dân Ai Cập đã dần dần bị thay thế bằng bảng chữ cái ngữ âm của tiếng Copt. Tiếng Copt vẫn được sử dụng trong các nghi thức tế lễ của Giáo hội Chính Thống Ai Cập, và dấu vết của nó còn được tìm thấy ở trong ngôn ngữ Ai Cập Ả Rập ngày nay. Phát âm và ngữ pháp Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại có 25 phụ âm tương tự với những ngôn ngữ Phi-Á khác. Chúng bao gồm phụ âm đầu và trọng âm, âm tắc, âm xát và âm rung, âm vang và âm ồn. Nó có ba nguyên âm dài và ba nguyên âm ngắn, sau này vào thời Hậu kỳ Ai Cập thì nó được mở rộng lên thành chín. Các từ cơ bản của tiếng Ai Cập tương tự như tiếng Semite và Berber, bao gồm ba hoặc hai gốc phụ âm và bán phụ âm. Hậu tố được thêm vào để tạo thành từ. Việc chia động từ tương ứng với ngôi. Ví dụ, bộ khung ba phụ âm là phần cốt lõi ngữ nghĩa của từ 'nghe'; chia động từ cơ bản của nó là , 'ông ta nghe'. Nếu chủ ngữ là một danh từ, hậu tố không được thêm vào động từ: , 'người phụ nữ nghe'. Tính từ được tạo thành từ danh từ thông qua một quá trình mà các nhà Ai Cập học gọi là nisbation vì sự tương đồng so với tiếng Ả Rập. Thứ tự của từ là trong động từ và tính từ, và trong danh từ và phó từ. Chủ ngữ có thể được di chuyển đến đầu câu nếu nó dài và được theo sau bởi một đại từ bổ ngữ. Các động từ và danh từ dạng phủ định thì thêm tiếp đầu ngữ n, còn nn được sử dụng cho các trạng từ và tính từ. Trọng âm rơi vào âm tiết cuối cùng hoặc áp chót, có thể là mở âm (CV) hoặc đóng âm (CVC). Chữ viết Những ghi chép bằng chữ tượng hình có niên đại từ khoảng năm 3000 TCN, và bao gồm hàng trăm biểu tượng. Một chữ tượng hình có thể đại diện cho một từ, một âm thanh, hoặc một âm câm nhất định; và cùng một biểu tượng tương tự có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong những bối cảnh khác nhau. Chữ tượng hình là một dạng chữ viết chính thức, được sử dụng trên các công trình bằng đá và trong các ngôi mộ, và nó có thể mang tính chi tiết như các tác phẩm nghệ thuật cá nhân. Trong các ghi chép hàng ngày, các viên ký lục đã sử dụng một dạng chữ viết soạn thảo, còn được gọi là chữ thầy tu, giúp họ viết nhanh hơn và dễ dàng hơn. Trong khi chữ tượng hình chính thức có thể được đọc theo hàng hoặc cột hoặc cả hai hướng (mặc dù thường được viết từ phải sang trái), chữ thầy tu thì lại luôn luôn được viết từ phải sang trái, thường là theo các hàng ngang. Một dạng chữ viết mới, chữ viết bình dân (Demotic), sau này đã trở thành cách viết phổ biến, và dạng chữ viết này cùng với dạng chữ tượng hình chính thức đã được sử dụng trên phiến đá Rosetta kèm theo văn bản tiếng Hy Lạp. Khoảng thế kỷ thứ nhất, bảng chữ cái Copt đã bắt đầu được sử dụng cùng với chữ viết bình dân. Chữ Copt là một dạng biến thể của bảng chữ cái Hy Lạp với việc bổ sung thêm một số dấu hiệu của chữ viết bình dân. Mặc dù chữ tượng hình chính thức được sử dụng trong các nghi lễ cho đến thế kỷ thứ tư, tới giai đoạn cuối chỉ có một số ít các thầy tu vẫn còn có thể đọc được chúng. Khi mà các tôn giáo truyền thống bị cấm đoán, hiểu biết về chữ viết tượng hình được coi là đã thất truyền. Những nỗ lực nhằm giải mã chúng đã bắt đầu từ thời Byzantine và trong thời kỳ Hồi giáo ở Ai Cập, nhưng mãi đến năm 1822, sau khi phiến đá Rosetta được phát hiện và qua nhiều năm nghiên cứu của Thomas Young cùng Jean-François Champollion, chữ tượng hình mới gần như được giải mã hoàn toàn. Văn học Những ghi chép đầu tiên xuất hiện gắn liền với vương quyền của nhà vua là trên các nhãn và thẻ của vật dụng được tìm thấy trong những ngôi mộ hoàng gia. Đó là công việc chính của những viên ký lục, họ làm việc trong tổ chức Per Ankh hoặc Ngôi nhà sinh mệnh. Thể chế này bao gồm các nghi lễ, thư viện (gọi là Ngôi nhà sách), phòng thí nghiệm và các đài quan sát. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Ai Cập cổ đại đó là các văn bản trong các kim tự tháp và trên những chiếc quan tài, được viết bằng ngôn ngữ Ai Cập cổ điển, mà vẫn tiếp tục được sử dụng để ghi chép cho đến khoảng năm 1300 TCN. Sau đó từ thời Tân Vương quốc trở đi, người Ai Cập sử dụng văn nói trong các văn bản hành chính thời kỳ Ramesse, trong các tập thơ tình và những câu chuyện, cũng như trong các ghi chép bằng ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ Copt. Trong thời gian này, những ghi chép truyền thống đã phát triển thành những tác phẩm tự truyện trong các ngôi mộ, chẳng hạn như của Harkhuf và Weni. Một thể loại khác được gọi là Sebayt ("lời chỉ dạy") đã được phát triển để truyền đạt những lời giảng dạy và hướng dẫn từ các quý tộc nổi tiếng; Cuộn giấy Ipuwer- một bài thơ ai ca mô tả thiên tai và biến động xã hội- là một ví dụ nổi tiếng. Tác phẩm Câu chuyện của Sinuhe, viết bằng ngôn ngữ Trung Ai Cập, được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học Ai Cập. Cũng được viết vào thời điểm này là Cuộn giấy Westcar, một tập hợp các câu chuyện trong đó những người con trai Khufu kể về những kỳ công của ông, và do các thầy tu viết nên. Lời chỉ dạy của Amenemope còn được coi là một kiệt tác của văn học cận đông. Vào cuối thời Tân Vương quốc, ngôn ngữ bản địa đã thường xuyên được sử dụng để viết những tác phẩm phổ biến như câu chuyện của Wenamun và lời chỉ dạy của Any. Từ khoảng năm 700 TCN, những câu chuyện thuật lại và lời chỉ dạy, chẳng hạn như lời chỉ dạy của Onchsheshonqy, cũng như các thư tịch của cá nhân và dùng trong buôn bán đều được viết bằng ngôn ngữ bình dân và theo các giai đoạn của người Ai Cập. Nhiều câu chuyện được viết bằng ngôn ngữ bình dân trong thời kỳ Hy Lạp-La Mã lại lấy bối cảnh vào các thời kỳ lịch sử trước đây, khi Ai Cập là một quốc gia độc lập được cai trị bởi những vị vua vĩ đại như Ramesses II. Văn hóa Cuộc sống thường nhật Hầu hết người dân Ai Cập cổ đại là các nông dân gắn liền với đất đai. Ngôi nhà của họ chỉ giới hạn cho các thành viên trong một gia đình, và thường được xây bằng gạch bùn nhằm để giữ mát trong những ngày nắng nóng. Mỗi ngôi nhà có một nhà bếp với một mái trần, với một bánh mài để xát hạt và một lò nướng nhỏ để nướng bánh. Tường được sơn màu trắng và có thể được bao phủ bằng những tấm vải lanh được nhuộm màu. Sàn nhà được bao phủ bằng thảm sậy, trong khi các đồ nội thất bao gồm các chiếc ghế gỗ, giường được đắp cao lên từ sàn nhà và một chiếc bàn ăn. Người Ai Cập cổ đại rất coi trọng sự vệ sinh và dáng vẻ bề ngoài. Họ hầu hết tắm trên dòng sông Nile và sử dụng xà phòng nhão làm từ mỡ động vật cùng với phấn. Đàn ông cạo sạch sẽ toàn bộ cơ thể của họ; nước hoa và các loại mỡ thơm được dùng để che đậy mùi hôi và làm dịu làn da. Quần áo được làm từ các tấm vải lanh đơn giản và được tẩy trắng, trong khi đàn ông và phụ nữ ở tầng lớp thượng lưu đội những bộ tóc giả, sử dụng đồ trang sức cùng mỹ phẩm. Trẻ em thường không mặc quần áo cho đến tuổi trưởng thành, khoảng 12 tuổi, ở tuổi này người con trai phải cắt bao quy đầu và cạo trọc. Người mẹ chịu trách nhiệm chăm sóc con cái, trong khi người cha mang về nguồn thu nhập cho gia đình. Âm nhạc và nghệ thuật múa là những hình thức giải trí phổ biến đối với những người có thể biểu diễn chúng. Các dụng cụ âm nhạc thủa đầu bao gồm sáo và đàn hạc, trong khi các nhạc cụ tương tự như kèn trumpet, oboe, và ống tiêu chỉ xuất hiện sau này và dần trở nên phổ biến. Vào thời Tân Vương quốc, người Ai Cập đã chơi các nhạc cụ như chuông, chũm chọe, trống cơm, trống, cùng đàn luýt và đàn lia du nhập từ châu Á. Người Ai Cập cổ đại đã có được nhiều loại hình giải trí khác nhau, bao gồm cả các trò chơi và âm nhạc. Senet, một dạng bảng chơi, trong đó các quân cờ di chuyển một cách ngẫu nhiên, vốn đặc biệt phổ biến từ thời xa xưa; một trò chơi khác tương tự là Mehen, với một bảng chơi hình tròn. Tung hứng và trò chơi liên quan đến bóng lại rất phổ biến với trẻ em, và đấu vật cũng được chứng thực trong một ngôi mộ tại Beni Hasan. Những thành viên giàu có của xã hội Ai Cập cổ đại rất thích săn bắn và chèo thuyền. Những khai quật về ngôi làng của công nhân ở Deir el-Madinah đã kết lại những bản khảo nghiệm hoàn hảo nhất về cuộc sống cộng đồng trong thế giới văn minh cổ đại xuyên suốt 400 năm lịch sử. Không còn một nơi nào mà những cơ quan chính quyền, tương tác xã hội, công việc và điều kiện cuộc sống của một cộng đồng được nghiên cứu đầy đủ chi tiết như vậy. Ẩm thực Ẩm thực của người Ai Cập vẫn trường tồn mãi theo thời gian; quả thực, các món ăn của người Ai Cập hiện nay vẫn giữ được một số điểm tương đồng nổi bật với các món ăn của người xưa. Chế độ ăn uống chủ yếu bao gồm bánh mì và bia, bổ sung thêm các loại rau như hành tây và tỏi, các loại trái cây như quả chà là và sung. Rượu vang và thịt chỉ được dùng vào các ngày lễ hội trong khi tầng lớp thượng lưu lại thưởng thức chúng một cách thường xuyên hơn. Cá, thịt, gia cầm và có thể được ướp muối hoặc phơi khô, chúng có thể được nấu trong các món hầm hoặc nướng trên vỉ nướng. Kiến trúc Nghệ thuật kiến ​​trúc của Ai Cập cổ đại với một số những công trình được coi là nổi tiếng nhất trên thế giới: Kim tự tháp Giza và các đền thờ tại Thebes. Các dự án xây dựng đã được nhà nước tổ chức và hỗ trợ tài chính cho mục đích tôn giáo và kỷ niệm,và còn để củng cố sức mạnh của các pharaon. Người Ai Cập cổ đại là những công nhân xây dựng có tay nghề cao; sử dụng các công cụ và phương tiện đơn giản nhưng lại vô cùng hiệu quả, các kiến ​​trúc sư của họ có thể xây dựng các công trình đồ sộ bằng đá với độ chính xác cao. Ngôi nhà của tầng lớp thượng lưu cũng như của những người dân thường Ai Cập đều được xây dựng từ các vật liệu dễ hỏng như gạch bùn và gỗ. Người nông dân sống trong những ngôi nhà đơn giản, trong khi nơi ở của tầng lớp thượng lưu lại là những cấu trúc phức tạp hơn. Một vài tòa nhà từ thời Tân Vương quốc còn sót lại như ở Malkata và Amarna, cho thấy các bức tường và sàn nhà được trang trí bằng những bức vẽ về người, chim, bể nước, các vị thần và những phác họa hình học. Những kiến trúc quan trọng như đền thờ và lăng mộ đã được dự định sẽ trường tồn thế nên chúng được xây bằng đá thay vì gạch. Những ngôi đền Ai Cập cổ đại lâu đời nhất còn được bảo tồn tới ngày nay là ở Giza, chúng chỉ bao gồm duy nhất một đại sảnh bao quanh cùng phần mái được đỡ bởi các cây cột. Vào thời Tân Vương quốc, các kiến trúc sư đã xây dựng thêm tháp môn, khoảng sân ngoài, và một khu vực hành lang bao quanh với nhiều cây cột phía trước khu vực thánh đường của ngôi đền, một phong cách tiêu chuẩn điển hình cho đến giai đoạn Hy Lạp-La Mã. Những kiến trúc mai táng sớm nhất và phổ biến nhất vào thời Cổ Vương quốc là mastaba, đó là một cấu trúc mái bằng hình chữ nhật xây bằng gạch bùn hoặc đá phía trên một căn phòng chôn cất dưới lòng đất. Kim tự tháp bậc thang của Djoser là cấu trúc bao gồm một loạt các mastaba đá xếp chồng lên nhau. Các kim tự tháp được xây dựng vào thời Cổ và Trung Vương quốc, nhưng sau đó chúng dần bị các vị vua từ bỏ và họ tập trung vào xây dựng những ngôi mộ được đào sâu vào núi vốn ít bị chú ý hơn. Chỉ có triều đại thứ 25 là một ngoại lệ, bởi vì các vị pharaon của triều đại này lại xây dựng các kim tự tháp. Nghệ thuật Người Ai Cập cổ đại sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật nhằm phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Trong hơn 3500 năm, các họa sĩ luôn trung thành với những hình mẫu nghệ thuật và hình tượng đã được phát triển vào thời Cựu Vương quốc, và tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt mà chống lại những ảnh hưởng ngoại lại và những thay đổi nội tại. Những tiêu chuẩn mỹ thuật này với những đường nét đơn giản, khuôn mẫu, với các khu vực cùng màu kết hợp với những hình vẽ mang tính đặc trưng mà không có dấu hiệu của chiều sâu không gian- tạo ra một cảm giác trật tự và cân bằng trong một tổng thể chung. Hình vẽ và các bản văn thì lại hòa quyện với nhau trên các bức tường trong những ngôi mộ và đền thờ, trên các quan tài, bia đá, và thậm chí cả trên những bức tượng. Bia đá Namer là một ví dụ cho thấy những hình vẽ đó cũng có thể được đọc như là chữ tượng hình. Vì những quy tắc cứng nhắc này đã chi phối tính cách điệu và phong thái tượng trưng cao độ của nó, nghệ thuật Ai Cập cổ đại chủ yếu phục vụ mục đích chính trị và tôn giáo với độ chính xác và sự rõ ràng. Nghệ nhân Ai Cập cổ đại sử dụng đá để tạc tượng và phù điêu, nhưng họ cũng sử dụng gỗ như là một sự thay thế rẻ hơn và dễ dàng khắc hơn. Màu vẽ được lấy từ các khoáng chất như quặng sắt (màu đỏ và màu vàng son), quặng đồng (màu xanh và màu xanh lá cây), bồ hóng hoặc than (màu đen), và đá vôi (màu trắng). Màu vẽ được trộn với nhựa gôm Ả rập như một chất kết dính và được ép thành bánh để có thể hòa vào nước khi cần thiết. Các pharaon sử dụng các bức phù điêu để ghi lại chiến thắng của họ trong những trận chiến, chiếu chỉ của hoàng gia, và những cảnh tôn giáo. Những gười dân thường cũng có quyền tiếp cận với những tác phẩm nghệ thuật tang lễ, như các bức tượng shabti và sách của người chết, mà họ tin rằng sẽ bảo vệ họ ở thế giới bên kia. Trong suốt thời kỳ Trung Vương quốc, những khuôn mẫu bằng gỗ hoặc đất sét miêu tả quang cảnh cuộc sống hàng ngày đã trở thành một sự bổ sung phổ biến cho các ngôi mộ. Trong một nỗ lực nhằm để tái dựng lại các hoạt động của người sống sau khi bước sang thế giới bên kia, họ đã tạo nên các mô hình người lao động, nhà ở, tàu thuyền, và thậm chí cả mô hình quân sự để thể hiện những quan niệm của người Ai Cập cổ đại về thế giới bên kia. Mặc dù nghệ thuật Ai Cập cổ đại có sự đồng nhất, những phong cách đặc thù vào những khoảng thời gian và địa điểm cụ thể đôi khi phản ánh sự thay đổi thái độ văn hóa hay chính trị. Sau cuộc xâm lược người Hyksos trong thời kỳ chuyển tiếp thứ hai, những bức bích họa mang phong cách Minoan đã được tìm thấy tại Avaris. Ví dụ nổi bật nhất về một sự thay đổi định hướng chính trị trong các hình thức nghệ thuật đến từ thời kỳ Amarna, với những hình mẫu được thay đổi hoàn toàn để phù hợp với những ý tưởng tôn giáo mang tính cách mạng của Akhenaten. Phong cách này được gọi là nghệ thuật Amarna, và nó đã nhanh chóng bị xoá bỏ một cách hoàn toàn sau khi Akhenaten qua đời và được thay thế bằng phong cách truyền thống. Niềm tin tôn giáo Niềm tin vào các vị thần và thế giới bên kia đã ăn sâu vào trong nền văn minh Ai Cập cổ đại ngay từ thủa sơ khai; Luật lệ của Pharaon được dựa trên quyền lực thần thánh của các vị vua. Các ngôi đền Ai Cập là nơi trú ngụ của các vị thần, những người có quyền lực siêu nhiên và luôn được dân chúng cầu xin sự giúp đỡ và bảo vệ. Tuy nhiên, các vị thần không phải lúc nào cũng được coi là nhân từ, và người Ai Cập tin rằng họ có thể được xoa dịu bằng việc hiến tế và cầu nguyện. Hệ thống các vị thần này thay đổi liên tục bởi vì các vị thần mới luôn được phong cấp trong hệ thống cấp bậc, trong khi các vị tư tế lại không có bất cứ nỗ lực để thiết lập các thay đổi này cùng với những câu chuyện thành một thể thống nhất và đôi khi lại khiến cho những câu chuyện thần thoại này mâu thuẫn với nhau. Những quan niệm khác nhau về thần thánh không được coi là mâu thuẫn mà giống như là phân thành nhiều lớp theo nhiều khía cạnh của thực tại.Các vị thần được thờ cúng trong những ngôi đền chiu sự quản lý của các vị tư tế đại diện cho nhà vua. Tại trung tâm của các ngôi đền đều có một bức tượng dược thờ cúng trong một điện thờ. Các ngôi đền không phải là nơi dành cho việc thờ cúng chung, và chỉ vào một số ngày lễ và lễ kỷ niệm thì là bức tượng của vị thần mới được đem ra để thờ phụng công khai trong một điện thờ. Thông thường, lãnh địa của các vị thần luôn cách biệt với thế giới bên ngoài và chỉ có các quan chức của ngôi đền mới được phép đặt chân vào. Người dân có thể thờ cúng các bức tượng riêng trong nhà của họ, và đeo những lá bùa hộ mệnh nhằm chống lại các thế lực gây ra sự hỗn loạn. Sau thời kì Tân Vương quốc, vai trò của pharaon như một trung gian tâm linh bị giảm nhẹ, hay nói cách khác những phong tục tín ngưỡng đã chuyển dịch tinh thần đến việc thờ phượng trực tiếp các vị thần thay vì phải qua pharaon. Kết quả là, các linh mục đã phát triển một hệ thống những nhà tiên tri nhằm giao thức với ý nghĩ của thần linh và truyền lại trực tiếp đến người dân. Người Ai Cập tin rằng mỗi con người được cấu tạo từ các bộ phận cơ thể và phần linh hồn. Ngoài cơ thể, mỗi người còn có một swt (bóng), một ba (tính cách hay linh hồn), một ka (sức sống), và một cái tên. Trái tim chứ không phải là não được coi là nơi chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc. Sau khi chết, phần hồn sẽ được giải phóng khỏi cơ thể và có thể lang thang một cách tự do, nhưng nó cần một cơ thể khác (hoặc thay thế, chẳng hạn như một bức tượng) để làm một ngôi nhà vĩnh viễn. Mục tiêu cuối cùng của người đã khuất đó là đoàn tụ lại được với ka và ba của mình, để có thể trở thành một akh. Để điều này xảy ra, người đã khuất phải trải qua một phiên tòa, trong đó trái tim của họ được đem cân với một "sợi lông chân lý". Nếu được coi là xứng đáng, người đã khuất có thể tiếp tục tồn tại trên Trái Đất dưới dạng phần hồn. Mai táng Người Ai Cập cổ đại đã duy trì một tập hợp phức tạp các táng tục mà họ tin là cần thiết để đảm bảo sự bất tử sau khi qua đời. Những phong tục này liên quan đến việc bảo vệ cơ thể bằng cách ướp xác, thực hiện các nghi lễ chôn cất cùng với những đồ tùy táng mà người chết sẽ sử dụng trong thế giới bên kia. Trước thời Cổ Vương quốc, thi hài người chết được chôn cất dưới các hố được đào trong sa mạc và nó được bảo quản khô một cách tự nhiên. Sự khô cằn của sa mạc là một điều kiện thuận lợi giúp cho việc chôn cất của những người dân nghèo trong suốt lịch sử của Ai Cập cổ đại, vì họ không có khả năng chi trả cho quá trình chôn cất công phu vốn dành cho tầng lớp thượng lưu. Những người Ai Cập giàu có đã bắt đầu chôn cất người chết trong những ngôi mộ bằng đá và sử dụng quá trình ướp xác nhân tạo, mà trong đó họ loại bỏ các cơ quan nội tạng, quấn toàn bộ cơ thể người chết bằng vải lanh, rồi chôn cất trong một quan tài bằng đá hình chữ nhật hoặc quan tài bằng gỗ. Bắt đầu từ triều đại thứ tư, một số bộ phận đã được bảo quản một cách riêng biệt trong các lọ đựng nội tạng. Vào thời kỳ Tân Vương quốc, người Ai Cập cổ đại đã hoàn thiện nghệ thuật ướp xác của họ; kỹ thuật tốt nhất mất tới 70 ngày để loại bỏ các cơ quan nội tạng, loại bỏ não thông qua mũi, và làm khô thi hài bằng một hỗn hợp muối gọi là natron. Thi hài sau đó được bọc trong vải lanh cùng với những tấm bùa hộ mệnh bảo vệ chèn vào giữa các lớp vải và được đặt trong một quan tài hình người được trang trí cầu kỳ. Nghệ thuật ướp xác dần trở nên suy tàn dưới thời Ptolemaios và La Mã, trong khi lại nhấn mạnh hơn đến hình dáng bên ngoài được trang trí của xác ướp. Trong khi người Ai Cập giàu có được chôn cất với một số lượng lớn các vật dụng xa xỉ, thì trong tất cả các ngôi mộ bất kể địa vị xã hội, luôn có những đồ đạc dành cho người chết. Bắt đầu từ thời Tân Vương quốc, sách của người chết luôn có đi kèm trong các ngôi mộ, cùng với những bức tượng shabti mà được tin là để lao động thay cho chủ nhân của chúng ở thế giới bên kia. Sau khi an táng, những người thân còn sống cũng thỉnh thoảng mang thức ăn đến các ngôi mộ và nguyện cầu thay mặt cho người đã khuất. Quân sự Quân đội Ai Cập cổ đại có nhiệm vụ bảo vệ Ai Cập chống lại các cuộc xâm lăng từ bên ngoài và duy trì sự thống trị của Ai Cập ở vùng Cận Đông cổ đại. Quân đội còn bảo vệ các mỏ khai thác ở Sinai trong thời kỳ Cổ Vương quốc và tham gia vào các cuộc nội chiến trong thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất và thứ hai. Họ còn chịu trách nhiệm bảo vệ các pháo đài dọc theo các tuyến đường thương mại quan trọng, chẳng hạn như tại thành phố Buhen trên đường tới Nubia. Các pháo đài cũng đã được xây dựng để làm các căn cứ quân sự, chẳng hạn như pháo đài ở Sile, mà đóng vai trò là một căn cứ chỉ huy trong các quộc viễn chinh tới Levant. Vào thời kỳ Tân Vương quốc, một loạt các vị vua đã sử dụng quân đội thường trực của Ai Cập để tấn công và chinh phục Kush cùng các khu vực của Levant. Trang bị quân sự điển hình bao gồm cung tên, giáo, và loại khiên đầu tròn được chế tạo bằng cách bọc da động vật vào một khung gỗ. Vào thời kỳ Tân Vương quốc, quân đội đã bắt đầu sử dụng các cỗ chiến xa vốn được những kẻ xâm lược người Hyksos du nhập vào thời kỳ trước đó. Vũ khí và áo giáp tiếp tục được cải tiến với việc sử dụng đồng: khiên chắn bây giờ đã được làm từ một khối gỗ đặc với một thanh oằn bằng đồng, các ngọn giáo được gắn đầu chóp nhọn bằng đồng, và Khopesh đã được du nhập từ những người lính châu Á. Các vị pharaon thường được mô tả trong nghệ thuật và văn học là đang cưỡi trên các cỗ chiến xa ở phía trước đạo quân; có giả thuyết cho rằng đã có ít nhất một vài vị pharaon, như Seqenenre Tao II và những người con trai của ông, đã làm như vậy. Tuy nhiên, cũng có những lập luận cho rằng "những vị vua của thời kỳ này đã không đích thân chỉ huy quân đội trên chiến trường, chiến đấu cùng với quân đội của họ. " Binh lính được tuyển chọn từ những người dân thường, nhưng trong giai đoạn Tân Vương quốc và đặc biệt là thời kỳ sau đó, lính đánh thuê từ Nubia, Kush, và Libya đã được tuyển mộ để chiến đấu cho Ai Cập. Kỹ thuật, y học, toán học Kỹ thuật Trong lĩnh vục kỹ thuật, y học và toán học, người Ai Cập cổ đại đã đạt được một tiêu chuẩn tương đối cao về năng suất và sự tinh tế. Các cuộn giấy Edwin Smith và Ebers (khoảng năm 1600 TCN) đã ghi chép lại những kinh nghiệm truyền thống đầu tiên được biết đến của người Ai Cập. Người Ai Cập còn tạo ra bảng chữ cái riêng của họ và hệ thập phân. Đồ sứ và thủy tinh Ngay từ trước thời kỳ Cổ Vương quốc, người Ai Cập cổ đại đã tạo ra một loại vật liệu thủy tinh được gọi là sứ, và họ coi đó là một loại đá bán quý nhân tạo. Sứ là một loại đồ gốm được làm từ silica, một lượng nhỏ vôi và natri oxit, cùng với một chất tạo màu, thường là đồng. Nó được sử dụng để làm các chuỗi hạt, đá lát, các bức tượng nhỏ, và đồ gốm nhỏ. Người Ai Cập cổ đại còn tạo ra được một chất màu gọi là màu xanh Ai Cập, hay còn được gọi màu xanh thủy tinh, nó được tạo ra bằng cách nung chảy silica, đồng, vôi, và một loại chất kiềm như natron. Sản phẩm tạo ra có thể được nghiền nhỏ và được sử dụng làm một chất màu. Người Ai Cập cổ đại đã có thể chế tạo một loạt các đồ vật bằng thủy tinh với kỹ năng tuyệt vời, nhưng hiện vẫn chưa rõ là liệu rằng họ đã phát triển quá trình này một cách độc lập hay không. Ngoài ra cũng không rõ ràng rằng họ đã chế tạo ra loại thủy tinh thô của mình hay chỉ đơn thuần là nhập khẩu các thỏi đã được chế tạo sẵn, sau đó họ nấu chảy và hoàn thiện. Tuy nhiên, họ lại có kĩ năng thuần thục trong việc tạo hình các đồ vật, cũng như việc thêm vào các yếu tố vi lượng để kiểm soát màu sắc của thủy tinh thành phẩm. Họ có thể tạo ra nhiều loại màu sắc bao gồm màu vàng, đỏ, xanh lá cây, xanh dương, tím, trắng, và có thể chế tạo ra loại thủy tinh trong suốt hoặc mờ đục. Y học Những vấn đề y tế của người Ai Cập cổ đại bắt nguồn trực tiếp từ môi trường sống của họ. Do cuộc sống và lao động diễn ra gần con sông Nile khiến cho họ dễ gặp phải những mối nguy hiểm đến từ bệnh sốt rét và trùng sán máng ký sinh, khiến tổn thương gan và đường ruột. Những loài động vật hoang dã nguy hiểm như cá sấu và hà mã cũng là một mối đe dọa phổ biến. Công việc đồng áng và lao động trong các công trình xây dựng đã gây nên áp lực đối với cột sống và các khớp xương, tổn thương trong quá trình xây dựng các công trình và chiến tranh cũng khiến cho họ mất đi một số bộ phận quan trọng trên cơ thể. Những hạt sạn và cát trong bột mỳ làm mòn răng của họ, khiến cho họ dễ bị áp xe (mặc dù vậy sâu răng lại rất hiếm). Chế độ ăn của những người giàu thường có chứa nhiều đường, vì thế khiến cho họ dễ mắc phải bệnh răng lợi. Mặc dù luôn được miêu tả với vóc dáng thon gọn trên các bức tường trong những ngôi mộ, nhiều xác ướp của tầng lớp thượng lưu cho thấy tình trạng thừa cân vốn do ảnh hưởng từ một cuộc sống quá sung túc. Tuổi đời của một người trưởng thành là khoảng 35 đối với nam và 30 đối với phụ nữ, nhưng để sống được đến độ tuổi trưởng thành thì lại là một điều khó bởi vì khoảng một phần ba dân số đã qua đời khi còn đang trong độ tuổi thanh niên. Các thầy thuốc Ai Cập từ xa xưa đã nổi tiếng ở vùng Cận Đông cổ đại nhờ vào tài năng chữa bệnh của họ, và một số chẳng hạn như Imhotep, thậm chí còn nổi tiếng rất lâu sau khi họ qua đời. Herodotos đã nhận xét rằng các thầy thuốc Ai Cập là những người có sự chuyên môn hóa cao, với việc có những người chỉ chuyên chữa những bệnh về đầu hoặc dạ dày, trong khi những người khác là các thầy thuốc chữa bệnh về mắt và là nha sĩ. Quá trình đào tạo các thầy thuốc diễn ra tại các phân viện Ankh hoặc "Ngôi nhà của sự sống", đặc biệt nổi tiếng là những nơi như ở Per-Bastet vào thời Tân Vương quốc và tại Abydos và Sais vào giai đoạn Hậu nguyên sau này. Các cuộn Giấy cói y học ghi lại những kiến ​​thức thực nghiệm về giải phẫu, chấn thương, và những phương pháp điều trị thực tế. Các vết thương lại được chữa trị bằng cách băng bó với thịt sống, vải lanh trắng, chỉ khâu, vải màn, tấm lót, băng gạc nhúng với mật ong để ngăn ngừa nhiễm trùng, trong khi thuốc phiện, cỏ dạ hương và belladona đã được sử dụng để giảm đau. Những ghi chép sớm nhất về cách điều trị bỏng đã mô tả cách băng bó vết bỏng mà sử dụng sữa từ người mẹ sinh con trai. Bánh mì mốc, mật ong và muối đồng cũng đã được sử dụng để ngăn ngừa nhiễm khuẩn vết bỏng. Tỏi và hành tây đã được sử dụng thường xuyên để tăng cường sức khỏe và được cho là có tác dụng tốt trong việc giảm các triệu chứng hen suyễn. Những thầy thuốc phẫu thuật Ai Cập cổ đại có thể khâu vết thương, cố định lại xương bị gãy, và cắt cụt chân tay bị hoại tử, nhưng họ cũng nhận ra rằng một số vết thương quá nghiêm trọng và họ chỉ có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái cho đến khi cái chết xảy đến. Đóng tàu Những người Ai Cập từ xa xưa đã biết cách lắp ráp các tấm ván gỗ vào một thân tàu và đã làm chủ được các kỹ thuật tiên tiến của ngành đóng tàu từ rất sớm vào khoảng năm 3000 TCN. Viện khảo cổ học Mỹ ghi nhận rằng một số chiếc thuyền cổ xưa nhất vẫn đang được khai quật và chúng được gọi chung là những chiếc thuyền Abydos. Đây là một nhóm gồm 14 con thuyền được phát hiện ở Abydos và chúng được tạo nên bằng cách "khâu" các tấm ván gỗ lại với nhau. Các con thuyền này được nhà Ai Cập học David O'Connor của đại học New York phát hiện ngoài ra còn có cả những chiếc dây đai được sử dụng để buộc các tấm ván lại với nhau, và họ dùng lau sậy hoặc cây cỏ để lèn vào giữa các tấm ván nhằm bịt các kẽ hở.. Vì những chiếc thuyền này đều được chôn cùng nhau và nằm gần khu nhà nguyện an táng của Pharaon Khasekhemwy, nên ban đầu tất cả chúng đều được cho là thuộc về ông, nhưng chỉ có một trong số 14 chiếc thuyền này có niên đại vào khoảng năm 3000 TCN, và những chiếc bình gốm được chôn cùng với các con thuyền này cũng được cho là có niên đại sớm hơn. Chiếc thuyền có niên đại khoảng năm 3000 TCN có chiều dài 75 feet (23 m) và ngày nay được coi là thuộc về một vị pharaon trước đó. Theo giáo sư O'Connor, chiếc thuyền có niên đại 5.000 năm tuổi có thể có thuộc về Pharaon Aha. Người Ai Cập cổ đại cũng biết dùng các đinh gỗ để đóng những tấm ván gỗ chặt hơn lại với nhau, họ còn sử dụng hắc ín để bít các vết nối. Chiếc "thuyền Khufu" dài 43,6 mét (143 ft) được chôn trong một chiếc hố thuộc khu vực phức hợp kim tự tháp Giza và nằm ngay dưới chân của Đại kim tự tháp Giza có niên đại thuộc về triều đại thứ tư khoảng năm 2500 TCN, có thể chủ yếu mang tính biểu tượng là một chiếc thuyền mặt trời. Người Ai Cập cũng biết cách đóng chặt các tấm ván của con tàu này bằng các lỗ và khớp mộng. Người Ai Cập còn sử dụng những chiếc tàu biển lớn trong hoạt động thương mại với các thành bang ở phía đông Địa Trung Hải, đặc biệt là Byblos (trên bờ biển Liban ngày nay), và trong một số cuộc thám hiểm dọc theo bờ Biển Đỏ đến xứ Punt. Trên thực tế, một trong những từ ngữ được người Ai Cập sử dụng sớm nhất để chỉ tàu biển đó là "tàu Byblos", mà ban đầu được xác định là một lớp tàu biển mà người Ai Cập dùng để đi tới Byblos. Tuy nhiên, vào cuối thời Cổ Vương quốc, thuật ngữ này đã được dùng để chỉ những con tàu ​​biển lớn, bất kể điểm đến của chúng. Vào năm 2011, các nhà khảo cổ đến từ Ý, Hoa Kỳ, và Ai Cập đã khai quật một khu phá khô cạn được gọi là Mersa Gawasis, tại đó họ đã khai quật được dấu vết của một bến cảng cổ từng là nơi khởi đầu cho các chuyến hải trình giống như chuyến thám hiểm xứ Punt của Hatshepsut. Một số di chỉ được phát hiện đã minh chứng cho sức mạnh đi biển người Ai Cập cổ đại với những con tàu lớn bằng gỗ cùng hàng trăm feet dây thừng được làm từ giấy cói và được cuộn thành những bó lớn. Và vào năm 2013, một nhóm các nhà khảo cổ học của Pháp và Ai Cập đã phát hiện cảng biển được cho là có tuổi đời lâu nhất thế giới, có niên đại khoảng 4500 năm từ thời vua Cheops, nó nằm trên bờ biển Đỏ gần Wadi el-Jarf (cách kênh đào Suez khoảng 110 dặm về phía nam). Năm 1977, một kênh đào nối liền bắc-nam cổ xưa có niên đại từ thời Trung Vương quốc Ai Cập được phát hiện nối dài từ hồ Timsah đến những hồ Ballah.<ref name="WShea">Shea, William H. "A Date for the Recently Discovered Eastern Canal of Egypt", in Bulletin of the American Schools of Oriental Research',' No. 226 (April 1977), pp. 31–38.</ref> Việc cho rằng niên đại của con kênh là ở thời kỳ Trung Vương quốc đến từ việc ngoại suy niên đại của những di tích lịch sử được xây dựng cùng thời kỳ.Xem Kênh Suez. Toán học Những ví dụ sớm nhất về việc thực hiện các phép tính toán học là có niên đại vào thời kỳ Naqada thuộc giai đoạn Tiền triều đại, và nó cho thấy một hệ thống các chữ số đã phát triển đầy đủ. Tầm quan trọng của toán học trong quá trình giáo dục một người Ai Cập được thừa nhận thông một tác phẩm văn chương hư cấu vào thời Tân Vương quốc, trong đó tác giả sáng tạo ra một cuộc thi sự uyên bác giữa ông ta với một viên ký lục liên quan đến các công việc tính toán hàng ngày như tính toán đất đai, lao động, và thóc lúa. Những ghi chép như trên cuộn giấy toán học Rhind và cuộn giấy toán học Moscow cho thấy người Ai Cập cổ đại đã có thể thực hiện bốn phép tính toán học cơ bản -cộng, trừ, nhân, chia- sử dụng phân số, tính toán khối lượng của các bao và kim tự tháp, và ước tính diện tích bề mặt của hình chữ nhật, hình tam giác, và hình tròn. Họ còn hiểu được các khái niệm cơ bản của đại số và hình học, và có thể giải được hệ phương trình đơn giản. Ký hiệu toán học thập phân thì lại dựa trên cơ sở các ký hiệu bằng chữ tượng hình cho mỗi luỹ thừa mười cho đến một triệu. Mỗi một ký hiệu trong số này có thể được viết đi viết lại nhiều lần nếu cần thiết để có thể đạt đến con số mong muốn; do đó, để viết các số tám mươi hay tám trăm, ký hiệu mười hay một trăm sẽ được viết tám lần tương ứng. Bởi vì phương pháp tính toán của họ không thể xử lý hầu hết các phân số với tử số lớn hơn một, họ đã phải viết phân số như là tổng của nhiều phân số. Ví dụ, họ có thể phân tích phân số hai phần năm thành tổng của một phần ba + một phần mười lăm. Bảng các giá trị tiêu chuẩn sẽ giúp thuận tiện cho điều này. Tuy nhiên, một số phân số thông dụng có thể được viết bằng một ký tự đặc biệt. Những nhà toán học Ai Cập cổ đại đã nắm được các nguyên tắc cơ bản của định lý Pythagore, ví dụ như họ biết rằng một tam giác có một góc vuông đối diện với cạnh huyền khi các cạnh của nó có tỷ lệ 3-4-5. Họ đã có thể ước tính được diện tích của một hình tròn bằng cách trừ đi một phần chín đường kính của nó và bình phương kết quả: Diện tích ≈ [()D]2 = ()r 2 ≈ 3.16r 2, gần xấp xỉ công thức πr 2. Tỷ lệ vàng dường như cũng được hiện diện trong nhiều công trình xây dựng của Ai Cập, trong đó có các kim tự tháp, nhưng việc sử dụng nó có thể là một kết quả ngoài ý muốn trong quá trình kết hợp việc sử dụng những dây thừng thắt nút với một cảm giác trực quan về tỷ lệ và sự hài hòa. Dân số Di sản Văn hóa và các công trình kiến trúc của Ai Cập cổ đại đã để lại một di sản lâu dài cho thế giới. Ví dụ như sự thờ cúng nữ thần Isis đã trở nên phổ biến vào thời đế quốc La Mã, các cột tháp tưởng niệm và các di tích khác đã được vận chuyển đến Rome. Người La Mã cũng nhập khẩu vật liệu xây dựng từ Ai Cập để xây dựng nên các kiến trúc mang phong cách Ai Cập. Những nhà sử học đầu tiên như Herodotus, Strabo và Diodorus Siculus đều nghiên cứu và viết các tác phẩm về vùng đất, mà người La Mã coi là một vùng đất huyền bí.Trong suốt thời Trung Cổ và Phục Hưng, nền văn hóa đa thần của người Ai Cập vốn đã suy tàn sau khi Kitô giáo nổi lên và sau này là Hồi giáo, lại luôn nhận được sự quan tâm trong các tác phẩm của các học giả thời Trung Cổ như Dhul-Nun al-Misri và al-Maqrizi. Trong các thế kỷ XVII và XVIII, khách bộ hành và khách du lịch châu Âu đã mang về các cổ vật và viết nên những câu truyện ngắn về các cuộc hành trình của họ, điều này đã tạo nên một làn sóng Egyptomania trên khắp châu Âu. Làn sóng mới này khiến cho các nhà sưu tập đổ xô đến Ai Cập, họ đã mua, chiếm đoạt và được tặng nhiều cổ vật quan trọng. Mặc dù sự chiếm đóng của thực dân phương Tây đến Ai Cập đã phá hủy một phần quan trọng các di sản lịch sử quốc gia, nhưng vẫn có một số người ngoại quốc đã để lại những dấu ấn tích cực hơn. Lấy ví dụ như Napoleon, ông đã chỉnh lý lại những nghiên cứu hàng đầu về Ai Cập học khi ông mua chúng từ khoảng 150 nhà khoa học và họa sĩ để học hỏi cùng với tài liệu lịch sử tự nhiên về Ai Cập, được phát hành trong chuỗi ấn phẩm Description de l'Égypte (Diện mạo Ai Cập). Vào thế kỷ XX, Chính phủ Ai Cập và các nhà khảo cổ đều đã công nhận tầm quan trọng của sự tôn trọng văn hóa và sự toàn vẹn trong các cuộc khai quật. Hội đồng Tối cao Khảo cổ học hiện nay giữ vai trò phê duyệt và giám sát tất cả các cuộc khai quật, với mục đích là nhằm tìm kiếm thông tin chứ không phải là kho báu. Hội đồng cũng giám sát các bảo tàng và những chương trình đồ án tái thiết các di tích để bảo tồn các di sản lịch sử của Ai Cập. Xem thêm Tàu thuyền Ai Cập cổ Hội họa Ai Cập cổ Xác ướp Ai Cập cổ Danh sách pharaon Lịch sử Ai Cập Chú thích
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) là hãng thông tấn Quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam và là cơ quan thông tin chính thức của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. TTXVN liên tục cung cấp những thông tin đề cập đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học và công nghệ của Việt Nam và thế giới. TTXVN phản ánh quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam về những vấn đề thời sự lớn trong nước, khu vực và trên thế giới. Giới thiệu TTXVN có trụ sở chính ở số 5 Lý Thường Kiệt, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngoài ra, TTXVN còn có Cơ quan đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, cùng mạng lưới các cơ quan thường trú ở 63/63 tỉnh thành trong nước và 30 phân xã ở nước ngoài được bố trí khắp 5 châu lục. Tin của TTXVN bao gồm nhiều thể loại, và có một số bài được dùng đồng loạt trên các báo in của Việt Nam vì được coi là thông tin chính thức. Ngày 6 tháng 9 năm 1945 được coi là Ngày truyền thống của TTXVN (lúc đó mang tên Việt Nam Thông tấn xã). Đây là ngày VNTTX chính thức phát đi bản Tuyên ngôn độc lập và danh sách thành viên Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Pháp. Bản tin này được phát từ Đài phát sóng vô tuyến Bạch Mai (Hà Nội) ra toàn quốc và toàn thế giới. TTXVN đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh (2 lần), Huân chương Độc lập Hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và nước ngoài. TTXVN là cơ quan báo chí duy nhất ở Việt Nam được phong tặng hai danh hiệu Anh hùng: Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới và Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến cứu quốc. TTXVN là thành viên Tổ chức Thông tấn xã các nước Không liên kết (NANAP), thành viên Tổ chức các thông tấn xã châu Á, Thái Bình Dương (OANA) và là Ủy viên Ban Chấp hành OANA, thành viên Tổ chức các hãng thông tấn thế giới. TTXVN hiện có quan hệ hợp tác song phương và đa phương với gần 40 hãng thông tấn và tổ chức báo chí lớn trên thế giới như AFP, Reuters, AP, ITAR-TASS, RIA Novosti, Tân Hoa xã, Yonhap, Kyodo News, Prensa Latina, Antara, Notimex, TNA, Bernama, KPL, APS, MAP, AKP, OANA, AsiaNet... Trải qua hơn sáu thập kỷ hành trình cùng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày nay TTXVN đã trở thành một trung tâm thông tin quốc gia tin cậy của Đảng và Nhà nước, một hãng thông tấn có uy tín trong khu vực, hướng tới xây dựng thành tập đoàn truyền thông. TTXVN không ngừng phát triển các hình thức truyền tin đa dạng: trang thông tin, tin truyền thanh, tin truyền hình, báo giấy, báo mạng… Lịch sử hình thành và phát triển Tiền thân của Thông tấn xã Việt Nam là Nha Thông tin (Bộ Thông tin, Tuyên truyền). 23 tháng 8 năm 1945, ngày làm việc đầu tiên. 15 tháng 9 năm 1945, phát sóng bản Tuyên ngôn Độc lập và danh sách thành viên Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 1946, đặt văn phòng đại diện tại Bangkok (Thái Lan). 6 tháng 1 năm 1946, ra bản tin tiếng Pháp. Tháng 8 năm 1946, ra bản tin tiếng Anh. 20 giờ, 19 tháng 12 năm 1946, phát "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lên chiến khu Việt Bắc, thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Tháng 3 năm 1947, ra bản tin tiếng Hoa "Việt Nam Tân Văn" tại Cao Bằng. Bản tin này chấm dứt sau khoảng 1 năm hoạt động. 1948, đặt văn phòng đại diện tại Rangoon (Miến Điện). 1949, nhận tin của các hãng thông tấn như TASS (Liên Xô) và Tân Hoa xã (Trung Quốc). 1952, đặt các phân xã nước ngoài lần lượt ở Bắc Kinh (Trung Quốc), Moskva (Liên Xô) và Paris (Pháp). Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, VNTTX đặt trụ sở tại số 5 phố Lý Thường Kiệt. 1955, trở thành cơ quan trực thuộc Chính phủ. 12 tháng 10 năm 1960, Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP) được thành lập tại chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông Nam Bộ. Tháng 3 năm 1973, đổi tên thành Thông tấn xã Việt Nam. 1975, kết thúc 2 cuộc chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, với gần 260 phóng viên và nhân viên của VNTTX và TTXGP đã tử nạn trong lúc làm nhiệm vụ. 1976 và 1977, hợp nhất VNTTX và TTXGP. Ngày 7 tháng 6 năm 2010: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ấn nút kích hoạt và đánh dấu sự ra đời chính thức của Truyền hình Thông tấn - kênh truyền hình thông tin thời sự chính luận đầu tiên tại Việt Nam. Từ ngày 9 tháng 9 năm 2019, di chuyển trụ sở Truyền hình Thông tấn sang 33 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đồng thời, kênh truyền hình TTXVN đổi tên kênh truyền hình thành VNews nhưng logo TTXVN vẫn được sử dụng cho logo chính. Ban lãnh đạo đương nhiệm Tổng Giám đốc: Vũ Việt Trang Phó Tổng Giám đốc: Nguyễn Tuấn Hùng Đoàn Thị Tuyết Nhung Nguyễn Thị Sự Các ấn phẩm Thông tấn xã Việt Nam thường được viết tắt trên các bản tin, ấn phẩm là TTXVN (; ; tiếng Tây Ban Nha: AVN; ; ). Các bản tin thời sự phát trực tuyến trên trang web news.vnanet.vn và hàng chục ấn phẩm khác như: Các bản tin hàng ngày Tin thời sự trong nước Tin thế giới Tin nhanh Tài liệu Tham khảo Đặc biệt Tin Tham khảo Thế giới Tin Kinh tế Tham khảo Tin Kinh tế Việt Nam và Thế giới Tin tiếng Anh Tin tiếng Pháp Tin tiếng Tây Ban Nha Tin tiếng Trung Các bản tin chuyên đề tuần, tháng và quý Tin Kinh tế Việt Nam và Thế giới chủ nhật Thông tin tư liệu (3 số/tuần) Tin Kinh tế quốc tế Tin Tham khảo Thế giới Chủ Nhật Dư luận thế giới Tài liệu tham khảo chuyên đề (tháng) Các vấn đề quốc tế Các báo và tạp chí Báo ảnh Dân tộc và Miền núi Báo Tin tức Thể thao & Văn hóa Việt Nam News (en) Le Courrier du Vietnam (Quotidien) Báo Ảnh Việt Nam (với 7 ngôn ngữ: Việt, Trung, Nga, Anh, Pháp, Nhật, Tây Ban Nha) Báo điện tử Vietnamplus (Vietnam+) Ảnh thông tấn Hàng trăm bức ảnh thời sự trong nước và quốc tế - thông tin bằng hình ảnh của TTXVN được phát hàng ngày trên website của TTXVN. Kênh Truyền hình Thông tấn (VNews) Phát sóng 24/24h, Kênh truyền hình Thông tấn (VNews) là kênh truyền hình chuyên biệt về tin tức, thời sự của TTXVN. VNews là Kênh truyền hình thiết yếu của quốc gia (Nghị định 06/2016/NĐ-CP), với hệ thống các bản tin thời sự đầu giờ và nhiều chuyên mục về các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, đối ngoại, kinh tế, xã hội, văn hóa, thể thao và phổ biến kiến thức trong nước và quốc tế. Kênh Truyền hình Thông tấn phát trên hệ thống truyền hình số mặt đất DVB-T2, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, truyền hình trực tuyến (IPTV) và truyền hình Internet (AVG). Website Truyền hình Thông tấn đăng tải Tin tức nhanh - mới - nóng nhất đang diễn ra về: kinh tế, chính trị, xã hội, thế giới, giáo dục, thể thao, văn hóa, giải trí, công nghệ.tại địa chỉ: https://vnews.gov.vn/ Sản phẩm của Nhà Xuất bản Thông tấn Sách chuyên khảo liên quan đến thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ cấu tổ chức Đơn vị tham mưu, chức năng Ban Thư ký Biên tập và Quan hệ đối ngoại Ban Tổ chức - Cán bộ Ban Kế hoạch - Tài chính Văn phòng Đơn vị phục vụ thông tin Trung tâm Kỹ thuật Thông tấn Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn Trung tâm Phát triển truyền thông Thông tấn Trung tâm Hợp tác quốc tế Thông tấn Đơn vị biên tập Ban biên tập tin trong nước Ban biên tập tin thế giới Ban biên tập tin đối ngoại Ban biên tập tin kinh tế Ban biên tập ảnh Trung tâm Truyền hình Thông tấn (VNews) Trung tâm Thông tin Tư liệu và Đồ họa Đơn vị khu vực Cơ quan TTXVN khu vực miền Trung - Tây Nguyên Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam Báo chí, xuất bản Báo Tin tức Báo Điện tử VietnamPlus Báo Thể thao & Văn hóa Báo ảnh Dân tộc & Miền núi Báo Ảnh Việt Nam Báo Việt Nam News Báo Le Courrier du Vietnam Tạp chí Vietnam Law & Legal Forum Nhà Xuất bản Thông tấn Tổng Giám đốc các thời kỳ Trần Kim Xuyến: TGĐ TTXVN 1945 - 1947 Hoàng Tuấn: TGĐ TTXVN 1962 - 1965 Đào Tùng: TGĐ TTXVN 1977 - 1990 Đỗ Phượng: TGĐ TTXVN 1990 - 1996 Hồ Tiến Nghị: TGĐ TTXVN 1996 - 2001 Lê Quốc Trung: TGĐ TTXVN 2001 - 2006 Nguyễn Quốc Uy: TGĐ TTXVN 2006 - 2008 Trần Mai Hưởng: TGĐ TTXVN 2009 - 2011 Nguyễn Đức Lợi: TGĐ TTXVN 2011 - 2021 Vũ Việt Trang: TGĐ TTXVN 2021 - nay Chú thích
Cầu Đơ là một địa danh cũ thuộc địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ngày nay. Lịch sử Cầu Đơ xưa là tên một làng (còn được gọi là làng Đơ) thuộc tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội. Làng nằm ở hữu ngạn sông Nhuệ, nơi có cây cầu Đơ lợp ngói bắc qua sông. Tên cầu từ đó trở thành tên đất, tên làng. Ngày 26 tháng 12 năm 1896, chính quyền thực dân Pháp ra Nghị định chuyển lỵ sở tỉnh Hà Nội về đặt tại làng Cầu Đơ. Vào tháng 5 năm 1902, tên làng cũng được đặt làm tên tỉnh. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1904, tỉnh Cầu Đơ lại được đổi tên thành tỉnh Hà Đông. Sau năm 1945, làng Cầu Đơ được sáp nhập vào thị xã Hà Đông và trở thành một thôn ngoại thị của thị xã. Tháng 7 năm 1949, thôn Cầu Đơ hợp nhất với các thôn La Khê, Văn Phú và Văn La thành xã Văn Khê. Đến tháng 4 năm 1955, thôn Cầu Đơ lại được tách ra khỏi xã Văn Khê để hợp với thôn Hà Trì thuộc xã Kiến Hưng thành xã Hà Cầu thuộc thị xã Hà Đông. Từ ngày 23 tháng 9 năm 2003, Hà Cầu trở thành một phường thuộc thị xã Hà Đông, địa danh Cầu Đơ thuộc phường Hà Cầu như hiện nay. Văn hóa Đình làng Đơ thờ tướng Đỗ Bí (thời vua Lê Thái Tổ). Ngài là người gốc ở Nông Cống (Thanh Hóa) đã phò 3 đời vua Lê: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và có nhiều công lao trong dẹp giặc xâm lược, phò vua giúp nước, được vua Lê ban thưởng nhiều lần. Ngài đã được nhân dân nhiều địa phương tôn Đức Thánh và lập đền thờ. Để tỏ lòng tôn kính, hàng năm cứ đến ngày 14 và rằm tháng Giêng, nhân dân làng Đơ lại tổ chức mở cửa đình để cúng tế Đức Thánh. Ngoài ra, cứ 5 năm một lần, làng còn tổ chức lễ hội rước Đức Thánh từ đình ra miếu và từ miếu về đình. Chú thích
Kosmas của Praha (cũng thường được gọi là Kosmas hay Cosmas; 1045 – 21 tháng 10, 1125) là một người ghi chép sử biên niên và thầy tu người Bôhemia và được coi là nhà viết sử đầu tiên của Bohemia. Giữa thời gian năm 1075 và 1081, ông học ở Liège. Sau khi trở về Bohemia, ông làm thỳa tu và cưới Božetěcha, và họ đã có với nhau một đứa con trai. Năm 1086, Cosmas đã được làm giáo sĩ của Praha, một chức khác danh tiếng. Ông đã đi công tác khắp chấu Âu dưới cương vị này. Tác phẩm magnum opus của ông được viết bằng tiếng Latin, được gọi là Chronica Boëmorum ("Biên niên sử Bohemians"). Tác phẩm biên niên sử này được chia làm 3 quyển.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (tiếng Anh: National Economics University – NEU) là một trường đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các trường đào tạo về Kinh tế, Quản lý và Quản trị kinh doanh ở Việt Nam, nằm trong nhóm Đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nổi danh là nơi đào tạo ra nhiều lãnh đạo cao cấp nhất cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhiều doanh nhân nổi tiếng. Đồng thời, trường còn là trung tâm nghiên cứu kinh tế chuyên sâu, tư vấn các chính sách vĩ mô cho Chính phủ Việt Nam. Lịch sử Trường Đại học Kinh tế Quốc dân được thành lập theo Nghị định số 678-TTg ngày 25 tháng 1 năm 1956 với tên gọi ban đầu là Trường Kinh tế Tài chính. Lúc đó, Trường được đặt trong hệ thống Đại học nhân dân Việt Nam trực thuộc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Ngày 22 tháng 5 năm 1958: Nghị định số 252-TTg của Thủ tướng Chính phủ đổi tên trường thành Trường Đại học Kinh tế Tài chính trực thuộc Bộ Giáo dục. Tháng 1 năm 1965: đổi tên thành Trường Đại học Kinh tế Kế hoạch. Ngày 22 tháng 10 năm 1985: Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Nguyễn Đình Tứ ra Quyết định số 1443/QĐ-KH đổi tên trường thành Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Năm 1989: trường Đại học Kinh tế Quốc dân được Chính phủ giao thực hiện 3 nhiệm vụ chính là: 1/ Tư vấn về chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô. 2/ Đào tạo về kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh ở bậc đại học và sau đại học 3/ Đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Trải qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân luôn luôn giữ vững vị trí là: -Một trong những trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý Kinh tế và Quản trị kinh doanh lớn nhất ở Việt Nam. Bên cạnh các chương trình đào tạo cấp bằng cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ, Trường cũng thường xuyên tổ chức các khoá bồi dưỡng chuyên môn ngắn hạn về Quản lý Kinh tế và Quản trị kinh doanh cho các nhà quản lý các Doanh nghiệp và các Cán bộ Kinh tếtrên phạm vi toàn quốc. Cho đến nay, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đào tạo được nhiều thế hệ Cán bộ Quản lý chính quy, năng động, dễ thích nghi với Nền kinh tế thị trường và có khả năng tiếp thu các Công nghệ mới. Trong số những sinh viên tốt nghiệp của Trường, nhiều người hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong các Cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội Việt Nam, Chính phủ Việt Nam và các Doanh nghiệp. -- Trung tâm nghiên cứu Khoa học Kinh tế phục vụ đào tạo, hoạch định chính sách Kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, các ngành, các địa phương và chiến lược kinh doanh của các Doanh nghiệp. Trường đã triển khai nhiều công trình nghiên cứu lớn về Kinh tế và Kinh doanh ở Việt Nam, được Chính phủ trực tiếp giao nhiều đề tài nghiên cứu lớn và quan trọng. Ngoài ra, Trường cũng hợp tác về nghiên cứu với nhiều Trường đại học, Viện nghiên cứu và Các tổ chức quốc tế. - Trung tâm Tư vấn và chuyển giao Công nghệ quản lý Kinh tế và Quản trị kinh doanh. Trường đã có nhiều đúng góp to lớn trong việc tư vấn cho các Tổ chức ở Trung ương, địa phương và các Doanh nghiệp. Ảnh hưởng sâu rộng của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đến toàn bộ công cuộc đổi mới được tăng cường bởi các mối liên kết chặt chẽ của Trường với các cơ quan thực tiễn. Hợp tác quốc tế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có quan hệ trao đổi, hợp tác đào tạo – nghiên cứu với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu nổi tiếng và nhiều tổ chức quốc tế của các nước Nga, Trung Quốc, Bulgaria, Ba Lan, Cộng hòa Séc và Slovakia, Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Nhật, Thuỵ Điển, Hà Lan, Đức, Canada, Hàn Quốc, Thái Lan,... Đặc biệt, trường cũng nhận được tài trợ của các nước và các tổ chức quốc tế như tổ chức Sida (Thụy Điển), UNFPA, CIDA (Canada), JICA (Nhật Bản), Chính phủ Hà Lan, ODA (Vương quốc Anh), UNDP, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Ford (Mỹ), Quỹ Hanns Seidel (Đức)... để tổ chức nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo và mở các khoá đào tạo thạc sĩ tại Trường về kinh tế, quản lý, quản trị kinh doanh và các lớp bồi dưỡng về kinh tế thị trường... Đồng thời, Trường cũng có quan hệ với nhiều công ty nước ngoài trong việc đào tạo, nghiên cứu và cấp học bổng cho sinh viên. Mục tiêu đến năm 2020 Mục tiêu chung Giữ vững, phát huy và khẳng định vị thế trường trọng điểm quốc gia, trường đầu ngành trong hệ thống giáo dục đại học của cả nước, phát triển trường Đại học Kinh tế Quốc dân thành trường đại học đa ngành về kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh, đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, phục vụ có hiệu quả nhu cầu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế – xã hội Việt Nam. Mục tiêu cụ thể Đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, chuẩn hóa đội ngũ giảng dạy và phục vụ; tạo ra sự đột phá về chất lượng đào tạo ở một số ngành, chuyên ngành mũi nhọn, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế đảm bảo sự lan toả và làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng toàn diện các hệ đào tạo. Mở rộng, phát triển và khẳng định vị thế là một trung tâm nghiên cứu khoa học và tư vấn kinh tế, quản trị kinh doanh lớn và có uy tín hàng đầu của Việt Nam. Phát triển quan hệ hợp tác, liên kết chặt chẽ và nâng cao vai trò đào tạo, nghiên cứu và tư vấn trong mạng lưới các trường đại học có đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh, trong hệ thống giáo dục đại học, viện nghiên cứu, các doanh nghiệp ở Việt Nam; mở rộng quan hệ hợp tác trao đổi có hiệu quả với các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng ảnh hưởng và không ngừng nâng cao hình ảnh uy tín của trường trong và ngoài nước. Phấn đấu trở thành trường đại học hiện đại với đầy đủ cơ sở vật chất và các trang thiết bị tiên tiến, môi trường phục vụ đào tạo và nghiên cứu cơ bản đạt tiêu chuẩn khu vực với hệ thống giảng đường đủ tiêu chuẩn, hệ thống thư viện hiện đại cùng một hệ thống các dịch vụ cung cấp có chất lượng cao. Quy mô Tổng số giảng viên và nhân viên: 1228, trong đó có 18 Giáo sư, 95 Phó Giáo sư, 255 Tiến sĩ, 391 Thạc sĩ; 20 Giảng viên cao cấp, 230 giảng viên chính, 329 giảng viên. 2 Nhà giáo Nhân dân, 41 Nhà giáo Ưu tú, 382 Đảng viên. Hiện trường đang đào tạo khoảng 22000 sinh viên với 19 khoa, 45 chuyên ngành, 11 viện và 8 trung tâm, 13 bộ môn, 9 phòng ban chức năng và 4 đơn vị phục vụ khác. Các hiệu trưởng Phạm Văn Đồng (Thủ tướng, Hiệu trưởng danh dự khi thành lập) Nguyễn Văn Tạo: 1956–1960 GS Đoàn Trọng Truyến: 1960–1963 Hồ Ngọc Nhường: 1963–1968 Đỗ Khiêm: Phó Hiệu trưởng, phụ trách trường (1968–1970) GS. NGND Mai Hữu Khuê: 1970–1982 Phạm Hữu Niên: 1982–1984 (Phụ trách trường) PGS. TSKH. Lê Văn Toàn: 1984–1985 PGS. Nguyễn Pháp:1985–1987 GS. TS. Anh hùng lao động. NGND Vũ Đình Bách: 1987–1994 GS. TSKH. NGND Lương Xuân Quỳ: 1994–1999 GS. TS. NGND Nguyễn Đình Hương: 1999–2002 GS. TSKH. NGND Lê Du Phong: 2002–2003 (Q.Hiệu trưởng) GS. TS. NGUT Nguyễn Văn Thường: 2003–2008 GS. TS. NGUT Nguyễn Văn Nam: nhiệm kỳ 2008–05/2013 PGS. TS Phạm Mạnh Hùng: 05/2013–09/2014 (Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) GS. TS. NGND Trần Thọ Đạt: 09/2014 – 04/2019 GS. TS. NGUT Phạm Hồng Chương (từ 04/2019) Những cán bộ, giảng viên nổi tiếng Trần Văn Cung, bí thư Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng. Đoàn Trọng Truyến: sinh ngày 15 tháng 1 năm 1922 tại Thừa Thiên Huế, mất ngày 8 tháng 7 năm 2009, là nhà giáo Nhân dân, Giáo sư, nguyên Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng từ tháng 5/1984 đến tháng 2/ 1987. Ngoài ra, ông còn giữ nhiều cương vị lãnh đạo khác trong các Bộ, ngành, là Hiệu trưởng Trường Kinh tế tài chính (nay là Đại học Kinh tế quốc dân) từ 1960- 1963; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII. Vũ Đình Bách: Nhà giáo nhân dân, GS.TS; Hiệu trưởng trường đại học Kinh tế quốc dân (1987- 1994). Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển trường đại học KTQD. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bí thư Thành uỷ Hà Nội Lê Xuân Tùng Nguyên bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư, chủ tịch HĐQT ACB Trần Xuân Giá Chủ tịch HĐQT Sabeco Phan Đăng Tuất Khen thưởng Huân chương Lao động hạng ba (năm 1972); Huân chương Lao động hạng nhì (năm 1978); Huân chương Lao động hạng nhất (năm 1983, 2016); Huân chương Độc Lập hạng nhất: năm 1986, 1991 và 1996 Danh hiệu Anh hùng Lao động (năm 2000); Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2001); Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2011); Huy chương Hữu nghị Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (1987, 2008). Sinh viên ưu tú Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là nơi đào tạo ra nhiều lãnh đạo cấp cao nhất cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhiều doanh nhân nổi tiếng, những người đẹp đoạt các danh hiệu tại các cuộc thi sắc đẹp cũng là sinh viên và nghiên cứu sinh của trường. Nguyễn Xuân Phúc: Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ngô Văn Dụ: Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương GS. kinh tế: Đặng Phong TS. Lê Đức Thúy: Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tráng A Pao: Nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Trần Đình Long: Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Hòa Phát Nguyễn Xuân Phú: Chủ tịch HĐQT CTCP Tập đoàn Sunhouse Bùi Nhật Quang: Nguyên Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Vũ Văn Tiền - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng An Bình và Geleximco Phạm Quang Dũng: Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank Nguyễn Thanh Phượng: Chủ tịch HĐQT Chứng khoán Bản Việt và Quản lý quỹ Bản Việt, thành viên HĐQT Ngân hàng Bản Việt Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng: Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thị Hồng: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Hồng Lan: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế Trần Duy Đông, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Anh hùng lao động Lê Văn Tam: Chủ tịch Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn Lê Đức Thọ: Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Trương Đình Anh: Nguyên tổng giám đốc FPT Nguyễn Văn Sự: Ủy viên HĐQT, nguyên tổng giám đốc HAGL Dương Công Minh: Chủ tịch HĐQT Sacombank và CTCP Him Lam Phạm Duy Hiếu: Nguyên tổng giám đốc ABBank Thái Hương: Chủ tịch HĐQT CTCP Thực phẩm sữa TH, Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Bắc Á, CTCP Xây dựng và dịch vụ thương mại Vạn Niên Nguyễn Văn Cẩn: Tổng cục trưởng Tổng cục Hải Quan Nguyễn Đình Thắng: Chủ tịch LienVietPostBank Trần Văn Tráng: Phó chủ tịch Vinh Dự Viện Kinh Tế xã hội Nguyễn Thị Hương: Tổng cục trưởng tổng cục thống kê. Lê Văn Thành : nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Anh Tuấn: Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Đại đức Thích Trúc Thái Minh: trụ trì chùa Ba Vàng Bùi Phương Nga: Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2018, Top 10 Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018. Nhà báo Nguyễn Tùng Chi: Phó Trưởng ban sản xuất các chuơng trình Giải trí của Đài Truyền hình Việt Nam Cao Diệp Anh: Diễn viên của VFC, Top 60 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019 nhưng bỏ cuộc trước đêm bán kết vì lý do cá nhân. Đỗ Thị Hà: Hoa hậu Việt Nam 2020, Top 13 Hoa hậu Thế giới 2021. Nguyễn Thị Vân Anh: Top 45 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019, đại diện Việt Nam dự thi Hoa hậu Trái Đất 2021. Nông Thúy Hằng: Top 40 Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2019, Top 40 Hoa hậu Việt Nam 2020, Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam 2022, đại diện Việt Nam tham gia Hoa hậu Trái Đất 2022. Trịnh Thùy Linh: Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2022. Việt Anh: diễn viên người Việt Nam. Bê bối Ngày 2/4/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra hình thức xử lý kỷ luật đối với Hiệu trưởng Nguyễn Văn Nam về việc ông Nguyễn Văn Nam đã ban hành một số văn bản quản lý nhà trường không đúng quy định của pháp luật: Chuyển đổi khoa Ngân hàng – Tài chính thành Viện Ngân hàng – Tài chính không thảo luận lấy ý kiến tại cơ sở Tách bộ môn Tài chính tiền tệ không lấy ý kiến của Ban chủ nhiệm khoa, Hội đồng khoa học Bổ nhiệm 49 cán bộ nguồn tại chỗ thiếu bước nhận xét, đánh giá cán bộ và lấy phiếu tín nhiệm tại cơ sở Điều chuyển ông Phạm Ngọc Linh nóng vội sai quy định, xử lý kỷ luật ông Hà Huy Bình không đúng với quy định của pháp luật nhận hình thức xử lý là khiển trách. Ký quyết định chuyển sinh viên Đào Văn Hướng từ khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Tây Bắc sang lớp Ngân hàng tài chính (K50) trong khi SV này không đủ điều kiện nên theo Bộ "phải áp dụng hình thức kỉ luật cảnh cáo". Tổng hợp các hình thức kỉ luật, ông Nguyễn Văn Nam phải chịu hình thức kỉ luật nặng hơn mức cảnh cáo là Hạ bậc lương.
Kosmas, hay Cosmas, là một tên Hy Lạp của các người sau đây trong lịch sử: Thánh Kosmas và Damian, sống trong thế kỷ thứ 3 Kosmas Indicopleustes, một nhà thám hiểm người Hy Lạp sống trong thế kỷ thứ 6 Thánh Kosmas, sống trong thế kỷ thứ 8 Kosmas của Praha, nhà sử gia người Séc của thế kỷ 12 Ngoài ra còn có 3 giáo hoàng của Giáo hội Coptic mang tên Cosmas: Cosmas của Alexandria Cosmas II của Alexandria Cosmas III của Alexandria
Air Vietnam, hay Hãng Hàng không Việt Nam, mã IATA là VN, mã ICAO là AVN, là hãng hàng không thương mại duy nhất của Quốc gia Việt Nam và sau đó là hãng hàng không quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa từ 1951 đến 1975. Hãng hàng không này từng đạt con số chuyên chở hơn một triệu hành khách hàng năm khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Sau năm 1975, một thời gian Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam có sử dụng tên giao dịch "Air Vietnam" trên một số tuyến bay đến các nước phương Tây. Tuy nhiên, kể từ năm 1993, khi Hãng hàng không quốc gia Việt Nam được thành lập trên cơ sở doanh nghiệp nhà nước của Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam, tên giao dịch chính thức của hãng trở thành Vietnam Airlines. Lịch sử Thời Quốc gia Việt Nam Được thành lập ngày 8 tháng 6 năm 1951 bởi Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại, Air Viet Nam là hãng hàng không dân dụng của Quốc gia Việt Nam với số vốn 18 triệu piastre (tức tương đương với 306 triệu franc Pháp lúc bấy giờ). Chính phủ Quốc gia Việt Nam góp 50%; phần còn lại do các hãng Air France (33,5%), Vận tải hàng không Đông Dương (SITA) (11%), Vận tải biển (Messageries maritimes) (4,5%), Hiệp hội hàng không vận tải (Union aéronautique des transports) (0,5%), và Aigle Azur Indochine (0,5%) góp chung vốn. Ngày 15 tháng 10 là ngày khánh thành Air Viet Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa Sang thời Việt Nam Cộng hòa vào năm những năm 1960, Air Viet Nam bắt đầu sử dụng những chiếc máy bay Douglas DC-3 trong những chuyến bay trong nước và quốc tế. Năm 1964 tăng cường thêm máy bay phản lực Caravelle của Pháp. Vì chiến cuộc các chuyến bay hành khách dân sự quốc nội không thể bay về đêm mà phải bay vào ban ngày vì an ninh. Air Viet Nam có những chuyến bay đi Phnom Penh, Bangkok, Singapore, Hương Cảng và Vạn Tượng. Năm 1965 mở thêm tuyến bay đi Kuala Lumpur; năm 1966, Đài Bắc; 1968, Manila, Osaka và Tokyo. Vào thời điểm năm 1968 thì chính phủ Việt Nam Cộng hòa góp 75% vốn cho hãng Air Viet Nam trong khi Air France giảm còn 25%. Sau 1975 Năm 1976, sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, bên cạnh những cơ sở vật chất đã tiếp quản trước đó, chính phủ Việt Nam tịch thu các tài sản còn lại của Air Vietnam và chuyển cho Tổng cục Hàng không Dân dụng quản lý và sử dụng gồm 282 phi trường của Việt Nam Cộng hòa và 14 chiếc kiểu DC và nhiều vận tải cơ các loại khác. Trong đó có bảy chiếc Douglas DC-3, năm chiếc Douglas DC-4, hai chiếc Douglas DC-6 và một chiếc Boeing 707. Ngoài ra, có một chiếc Boeing 727 bị kẹt ở Hong Kong. Đồng thời, 2.166 nhân viên của Nha Hàng không dân sự, Nha Căn cứ hàng không Tân Sơn Nhứt và Hãng Air Việt Nam (AVN) được gọi trở lại làm việc. Bấy giờ, tên giao dịch của Hàng không Dân dụng Việt Nam là Vietnam Civil Aviation; đối với một số tuyến bay đến các nước phương Tây, tên giao dịch Air Vietnam vẫn được sử dụng. Đến năm 1993, mới thành lập Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (tên giao dịch tiếng Anh là Vietnam Airlines) và là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam. Lưu lượng Số lượt khách quốc nội tăng nhanh từ 52.000 vào năm 1959 lên đến 534.000 vào năm 1964, rồi vượt hơn một triệu vào cuối thập niên 1960 với những chí điểm như Huế, Đà Nẵng, Kontum, Pleiku, Nha Trang, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Phan Thiết, Sài Gòn, Cần Thơ, Rạch Giá, Phú Quốc, và Cà Mau. Số khách trên các tuyến bay quốc ngoại đạt 70.000 vào năm 1964 trong bốn tuyến bay quốc tế vào thời điểm đó: Nam Vang, Vọng Các, Hương Cảng, và Vạn Tượng. Sang năm 1969 thì số khách tuyến bay quốc ngoại là 113.910. Đội bay Đội máy bay của Air Vietnam lúc đầu gồm có 5 chiếc Cessna 170, dùng bay chủ yếu tới những thị trấn lớn nhỏ khắp Việt Nam, trong đó có Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Hới, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang và Ban Mê Thuột. Khi lượng khách đi lại tăng cao trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, Air Viet Nam thêm vào một số máy bay, ban đầu là Viscount, Douglas DC-3 và Douglas DC-4. Từ đầu năm 1962, Air Viet Nam đã khai thác hai chiếc Cessna 185 Skywagon và 2 chiếc Cessna 310. Năm 1967, Air Viet Nam chọn mua hai chiếc Boeing 727 của Pan American World Airways chuyên chở hành khách bay quốc tế với giá 1,440 tỉ đồng (tương đương 13,053 triệu USD) để thanh toán cho Pan American World Airways hai đợt vào đầu và giữa tháng 1 năm 1968. Thời gian Air Viet Nam cam kết trả nợ lại cho chính phủ trong thời hạn 10 năm với lãi suất 3% mỗi năm. Đây là thương vụ được sự chú ý đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa vì cùng lúc mua cả hai chiếc phản lực thương mại hiện đại do Hoa Kỳ sản xuất trong bối cảnh kinh tế thời chiến miền Nam lúc ấy rất khó khăn. Air Viet Nam vào thời điểm năm 1974 có 16 máy bay chở hàng hóa như vận chuyển rau tươi từ Đà Lạt về Sài Gòn khi đoạn đường sắt nối liền Đà Lạt và Tháp Chàm ngưng hoạt động kể từ năm 1972. {| class="wikitable" |+Đội máy bay !Loại !Số lượng !Năm hoạt động !Ngừng hoạt động !Tình trạng |- |Sud Aviation Caravelle 3 |1 |1964 |1968 |Thuê của China Airlines |- |Sud Aviation Caravelle VI-B |1 |1974 |1975 |Thuê của Far Eastern Air |- |Boeing 307 |2 | |trước 1960 | |- |Boeing 707-120 |1 |1973 |1973 |Thuê của Pan Am |- |Boeing 707-320 |1 |1973 |1975 |Thuê của Pan Am |- |Boeing 727-100C |2 |1968 |1975 |XV-NJC rơi 15/9/1974 |- |Bristol 170 |2 |1952 |1957 |F-VNAI rơi 16/8/1974 |- |Curtiss C-46 |3 |1965 |1970 |Thuê của China Airlines B-1543 rơi 01/11/1970 |- |Douglas DC-3 |17 |1951 |1975 | |- |Douglas DC-4 |16 |1952 |1975 | |- |Douglas DC-6 |4 |1962 |1975 | |- | rowspan="2" |Vickers Viscount |2 |1961 |1963 |Thuê của China Airlines |- |2 |1974 |1975 | |} Trụ sở Ban đầu, hội sở chính của hãng đặt tại số 5 Quai Le Myre de Vilers (Bến Bạch Đằng), sau dời về tòa nhà số 116 đường Nguyễn Huệ và chi nhánh ở 13-bis Đinh Tiên Hoàng, Sài Gòn. Sang thập niên 1970 văn phòng trên Đại lộ Nguyễn Huệ chỉ dùng làm nơi giao dịch bán vé còn trụ sở chính chuyển về đường Phan Đình Phùng và Đinh Tiên Hoàng khu Đakao, Sài Gòn. Tổng giám đốc vào năm 1968 là Lương Thế Siêu. Kế nhiệm ông là Nguyễn Tấn Trung, thông gia của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Trung giữ chức vụ này cho đến tận năm 1975. Tem kỷ niệm Ngày 18 tháng 4 năm 1971 Bưu chính Việt Nam Cộng hòa phát hành bốn con tem vẽ phong cảnh Đà Lạt, Hà Tiên, Huế, và Sài Gòn trị giá 10 đồng và 25 đồng để kỷ niệm "20 năm phát triển Hàng không Việt Nam." Điểm đến Ngoài các chuyến bay kết nối với tất cả tỉnh, thành từ vĩ tuyến 17 trở vào, Air Viet Nam với đội bay phản lực hiện đại đã mở rộng được nhiều đường bay quốc tế như Bangkok, Viêng Chăn, Phnôm Pênh, Hong Kong, Singapore, Manila, Nhật Bản. Chí điểm quốc nội Tổng kết chí điểm quốc tế Đông Á : Đài Bắc : Osaka, Tokyo Đông Nam Á : Phnom Penh : Vientiane : Bangkok : Manila : Singapore : Kuala Lumpur Tai nạn và sự vụ an ninh Đa số những vụ tai nạn là do hoạt động khủng bố và chiến cuộc. Nhân vật liên quan Kỹ sư Lương Thế Siêu: Tổng giám đốc Nguyễn Tấn Trung: Tổng Giám đốc Kỹ sư Lâm Ngọc Diệp: Phó Tổng Giám đốc Danh ca Giao Linh: nhân viên soát vé, đại diện tham gia cuộc thi Văn nghệ "Kim Hoàng - Như Mai" năm 1966. Đạt được thành tích cao nhất - Huy chương vàng Kim Hoàng - Như Mai. Hình ảnh Chú thích
Mali có tên chính thức là Cộng hòa Mali, (; tiếng Bambara: ߡߊߟߌ ߞߊ ߝߊߛߏߖߊߡߊߣ, Latinh hóa: Mali ka Fasojamana, , ) là một quốc gia nằm trong lục địa của miền tây châu Phi. Mali là đất nước có diện tích lớn thứ tám châu Phi, và có chung đường biên giới Algérie về phía bắc, Niger về phía đông, Burkina Faso và Côte d'Ivoire về phía nam, Guinée về phía tây nam, Sénégal và Mauritanie về phía tây. Diện tích của Mali vào khoảng 1.240.000 km² và dân số khoảng hơn 14 triệu người. Thủ đô của Mali là Bamako. Mali được chia làm tám vùng và phần lớn diện tích nước này nằm trong khu vực sa mạc Sahara, trong khi vùng đất phía nam của Mali, nơi có đa số dân cư sinh sống, nằm trong lưu vực của hai con sông Niger và Sénégal. Cơ cấu kinh tế của Mali tập trung chủ yếu vào nông nghiệp và đánh bắt cá. Một số tài nguyên thiên nhiên của Mali bao gồm vàng, uranium, và muối. Mali được xem là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Đất nước Mali hiện tại từng là một phần của ba đế quốc Tây Phi tồn tại trong lịch sử và kiểm soát đường thương mại xuyên Sahara Đế quốc Ghana, Đế quốc Mali (Mali được đặt tên theo đế quốc này), và đế quốc Songhai. Cuối thập niên 1800, Mali nằm dưới sự cai trị của người Pháp, và trở thành một phần của Soudan thuộc Pháp. Mali giành được độc lập vào năm 1959 cùng với Sénégal, và thành lập Liên bang Mali. Một năm sau Liên bang Mali tan rã và Mali trở thành một quốc gia độc lập. Sau một thời gian dài nằm dưới chế độ độc đảng cai trị, cuộc đảo chính 1991 dẫn tới sự thành lập một bản hiến pháp mới quy định thành lập nước Mali dân chủ và có một nhà nước đa đảng. Khoảng phân nửa dân số Mali sống dưới ngưỡng nghèo của quốc tế là 1,25$/ngày. Lịch sử Trước kia Mali là một phần của ba đế quốc Tây Phi nổi tiếng, vốn kiểm soát đường thương mại xuyên Sahara vận chuyển vàng, muối, nô lệ, và các vật dụng quý giá khác. Ban đầu vùng đất ngày nay là Mali là bao gồm những vương quốc Sahel không có ranh giới địa chính trị cũng như một bản sắc dân tộc đặc thù. Đế quốc xuất hiện sớm nhất là đế quốc Ghana và được cai trị bởi người Soninke, vốn là một tộc người nói ngôn ngữ Mande. Quốc gia này mở rộng về Tây Phi từ thế kỷ thứ VIII đến năm 1078, khi nó bị chinh phục bởi triều Almoravids. Sau đó, đế quốc Mali được thành lập ở phía bắc con sông Niger, và đạt tới đỉnh cao quyền lực của nó vào thế kỷ XIV. Trong thời kỳ đế quốc Mali tồn tại, các thành phố cổ đại của Djenné và Timbuktu trở thành trung tâm thương mại và học thuật hồi giáo. Đế quốc này sau đó bị sụp đổ do những âm mưu chia rẽ trong nội bộ, và được thay thế bởi đế quốc Songhai. Tộc người Songhai bắt nguồn từ nơi mà hiện nay là miền tây bắc Nigeria. Người Songhai vốn đã tồn tại từ lâu ở Tây Phi và hiện diện như là một thế lực chính chống lại sự cai trị của đế quốc Mali. Vào cuối thế kỷ XIV, người Songhai dần dần giành được độc lập từ đế quốc Mali và sau đó mở rộng ảnh hưởng rồi cuối cùng làm chủ toàn bộ phần phía đông của đế quốc Mali. Tiếp đó đế quốc của người Songhai sụp đổ sau cuộc xâm lược của người Maroc do Judar Pasha chỉ huy vào năm 1591. Sự sụp đổ của đế quốc Songhai đánh dấu sự kết thúc vai trò của khu vực này như là một phần của tuyến đường thương mại. Tuy nhiên sau khi các tuyến đường biển được thiết lập bởi các cường quốc Phương Tây, tuyến đường thương mại xuyên Sahara mất đi tầm quan trọng của nó. Nạn đói tồi tệ nhất được ghi nhận trong khoảng thời gian từ năm 1738 đến năm 1756, đã giết chết khoảng một nửa dân số ở Timbuktu. Trong thời kỳ thuộc địa, Mali nắm dưới sự cai trị của Pháp bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX. Đến năm 1905, phần lớn các khu vực của Mali đều do các công ty Pháp quản lý và là một phần của Sudan thuộc Pháp. Vào đầu năm 1959, Mali (sau đó là Cộng hòa Sudan) và Sénégal hợp nhất để trở thành Liên bang Mali. Liên bang Mali giành được độc lập từ Pháp vào ngày 20 tháng 6 năm 1960. Sau đó Sénégal rút khỏi liên bang vào tháng 8 năm 1960, điều này tạo điều kiện cho việc thành lập nhà nước độc lập của Mali vào ngày 22 tháng 9 năm 1960. Modibo Keïta được bầu làm tổng thống đầu tiên. Ngay lập tức Keïta thiết lập một nhà nước đơn đảng, trên vị thế độc lập theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các mối quan hệ chặt chẽ với phương Đông, và thực hiện quốc hữu hóa để kiểm soát các nguồn tài nguyên của đất nước. Vào tháng 11 năm 1968, do nền kinh tế của Mali tiếp tục suy giảm và trì trệ, chính phủ của Keïta bị lật đổ trong một cuộc đảo chính không đổ máu được tiến hành bởi Moussa Traoré. Sau sự kiện này, Mali được điều hành bởi một chính phủ quân sự với Traoré là tổng thống, ông này đã nỗ lực cải cách nền kinh tế. Tuy nhiên mọi cố gắng của ông đều trở nên vô nghĩa bởi bất ổn chính trị và nạn hạn hán tàn phá trong khoảng thời gian giữa năm 1968 và 1974, vốn đã giết chết hàng ngàn người. Chính phủ Traoré còn phải đối mặt với cuộc bạo động của sinh viên bắt đầu nổ ra vào cuối thập kỷ 1970 và ba nỗ lực đảo chính. Tuy nhiên, Traoré đã dập tắt được mọi sự chống đối cho đến cuối thập kỷ 1980. Trong thời gian này, chính phủ tiếp tục tiến hành cải cách kinh tế, tuy nhiên sự bất bình trong dân chúng ngày càng gia tăng. Đáp lại những yêu cầu ngày càng tăng phải có một nền dân chủ đa đảng, chính phủ Traoré cho phép một số quyền tự do hạn chế về chính trị, nhưng lại từ chối thiết lập hệ thống dân chủ một cách đầy đủ. Năm 1990, các phong trào chống đối liên tiếp nổi lên, và tình hình càng phức tạp hơn bởi bạo độc sắc tộc ở miền bắc theo sau sự trở về của nhiều người Tuareg về Mali. Phong trào chống đối chính phủ cuối cùng đã dẫn đến cuộc đảo chính vào năm 1991 đi đến thiết lập một chính phủ chuyển tiếp, và một bản hiến pháp mới. Năm 1992, Alpha Oumar Konaré trở thành tổng thống Mali đầu tiên chiến thắng trong một cuộc bầu cử dân chủ, đa đảng. Và trong lần tái bầu cử vào năm 1997, Tổng thống Konaré đã thông qua một loạt các chính sách cải cách kinh tế và chính trị, chiến đấu chống tham nhũng. Năm 2002, ông từ chức và qua một cuộc bầu cử dân chủ, chính phủ Mali được điều hành bởi Amadou Toumani Touré, một tướng về hưu, vốn là người lãnh đạo về mặt quân sự của cuộc đảo chính vào năm 1991. Ngày nay, Mali là một trong những nước có được sự ổn định chính trị và xã hội nhất châu Phi. Địa lý Mali là một đất nước nằm hoàn toàn trong lục địa ở Tây Phi, ở phía tây nam của Algérie. Với diện tích là 1.240.000 km², Mali là quốc gia có diện tích đứng hàng thứ 24 trên thế giới và tương đương với diện tích của Cộng hòa Nam Phia hay Angola. Phần lớn lãnh thổ của Mali nằm ở phần phía nam sa mạc Sahara, vốn chủ yếu được bao phủ bởi một vùng cây savanna Sudan. Địa hình của Mali phần lớn là bằng phẳng, và càng đi lên phía bắc thì được bao phủ chủ yếu bởi cát. Vùng Adrar des Ifoghas nằm ở phía đông bắc. Mali có nhiều vùng khí hậu như khí hậu nhiệt đới ở miền nam tới khí hậu khô nóng ở miền bắc. Phần lớn diện tích của Mali nhận được lượng mưa không đáng kể; và nạn hạn hán xảy ra thường xuyên. Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 12 là mùa mưa. Trong thời gian này, con sông Niger thường gây ra lũ lụt, đồng thời tạo nên Đồng bằng nội Niger. Maii có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể, với vàng, uranium, phosphate, kaolinit, muối và đá vôi là các tài nguyên đang được khác thác rộng rãi nhất. Mali phải đối mặt với nhiều thử thách về môi trường, bao gồm sự sa mạc hóa, phá rừng, xói mòn đất, và thiếu nguồn cung cấp nước sạch. Mỗi vùng đều có một thống đốc. Vì lý do các vùng của Mali có diện tích rất lớn, toàn bộ nước này được chia thành 49 cercle, bao gồm 288 huyện. Các thị trưởng và thành viên hội đồng thành phố được bầu để điều hành các huyện. Các vùng và quận của Mali bao gồm: Gao Kayes Kidal Koulikoro Mopti Ségou Sikasso Tombouctou (Timbuktu) Quận thủ đô Bamako Chính trị và chính phủ Mali là một quốc gia dân chủ lập hiến được quy định trong hiến pháp ngày 12 tháng 1 năm 1992, vốn được bổ sung vào năm 1999. Hiến pháp cũng quy định sự phân chia quyền lực giữa ba ngành lập pháp, hành pháp, và tư pháp của chính phủ. Hệ thống chính phủ Mali được miêu tả như là chế độ "bán tổng thống". Quyền hành pháp được trao cho tổng thống, vốn được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm bằng phổ thông đầu phiếu và bị giới hạn trong hai nhiệm kỳ. Tổng thống đóng vai trò là Nguyên thủ quốc gia và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Một Thủ tướng được chỉ định bởi tổng thống như là người đứng đầu chính phủ, và đến lượt người này có trách nhiệm bổ nhiệm Hội đồng Bộ trưởng. Hội đồng Quốc gia theo cơ chế đơn viện là cơ quan lập pháp duy nhất của Mali, gồm các đại biểu được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm. Trong cuộc bầu cử năm 2007, Liên minh vì Dân chủ và Tiến bộ đạt được 113 ghế trong tổng số 160 ghế trong hội đồng. Hội đồng tổ chức hai cuộc họp thường kỳ mỗi năm, trong đó những vấn đề được đưa ra tranh luận và bỏ phiếu thông qua các dự luật được đề cử bởi những thành viên của chính phủ. Nền dân chủ ở Mali tiến triển khả quan sau các cuộc bầu cử địa phương vào cuối tháng 4 năm 2009, mặc dù các khiếm khuyết quan trọng và các vụ lôi kéo bầu cử vẫn còn tồn tại. Hiến pháp Mali cung cấp một nền tảng cho một nền tư pháp độc lập, nhưng ngành hành pháp vẫn còn có tác động đến ngành tư pháp thông qua việc bổ nhiệm các thẩm phán và giám sát cả hai chức năng tư pháp và thực thi pháp luật. Các tòa án bậc cao của Mali bao gồm Tòa án Tối cao, vốn nắm cả quyền tư pháp và quản lý hành chính, và Tòa án Hiến pháp riêng biệt có trách nhiệm kiểm tra mặt tư pháp của các đạo luật và phục vụ như là cơ quan phân xử trong các tranh chấp bầu cử. Các tòa án cấp thấp của Mali vẫn tồn tại, mặc dù các trưởng thôn và trưởng lão trong làng là những người giải quyết phần lớn các tranh chấp ở vùng nông thôn. Quan hệ đối ngoại và quân sự Chính sách đối ngoại của Mali dần dần trở nên thực dụng và thân phương Tây theo thời gian. Kể từ khi việc thành lập thể chế dân chủ chính phủ vào năm 2002, các mối quan hệ của Mali với phương Tây nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng đã được cải thiện đáng kể. Mali có mối quan hệ không bền vững và lâu dài với Pháp, nước đã từng thống trị Mali trước đây. Mali là một thành viên tích cực của các tổ chức trong khu vực như Liên minh châu Phi, tham gia kiểm soát và giải quyết các xung đột trong vùng, như tại Côte d’Ivoire, Liberia, và Sierra Leone, là một trong những thành tựu chính của chính sách đối ngoại của Mali. Tuy nhiên Mali lại bị cảm thấy đe dọa bởi những xung đột thường xuyên ở các nước láng giềng, và các mối quan hệ với nước này luôn trong tình trạng bấp bênh. Sự mất an ninh chung dọc biên giới ở phía bắc, bao gồm các vụ cướp bóc và khủng bố, vẫn còn là các vấn đề đáng lo ngại trong khu vực. Quân đội Mali bao gồm lực lượng bộ binh và không quân, cũng như lực lượng bán quân sự là Hiến binh và Vệ binh Cộng hòa, tất cả đều nằm dưới quyền cua Bộ trưởng Quốc phòng và Cựu chiến binh Mali, đứng đầu là một viên chức dân sự. Lực lượng quân đội của nước này chỉ được trả lương thấp, trang bị kém, và cần cơ cấu hợp lý. Tổ chức của quân đội đã bị xáo trộn khi lực lượng không chính quy của người Tuareg được sáp nhập với lực lượng chính quy của quân đội sau một thỏa thuận giữa chính phủ và quân nổi dậy Tuareg vào năm 1992. Nói chung quân đội giữ một vai trò thấp kể từ khi sự chuyển giao nền dân chủ diễn ra vào năm 1992. Tổng thống đương nhiệm, Amadou Toumani Touré, là một cựu tướng lĩnh và đã giành được sự ủng hộ rộng rãi từ quân đội. Trong báo cáo nhân quyền hằng năm trong năm 2003, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh giá cao sự kiểm soát dân sự của lực lượng an ninh là tương đối hiệu quả như lưu ý rằng một vài "biện pháp mà lực lượng an ninh thực thi lại độc lập với chính sách của chính quyền." Kinh tế Mali là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Lương trung bình hằng năm của công nhân xấp xỉ khoảng 1.500 đô la. Trong khoảng thời gian giữa năm 1992 và 1995, Mali triển khai một chương trình điều chỉnh nền kinh tế mà kết quả của nó là giúp tăng trưởng kinh tế và giảm mất cân bằng ngân sách. Chương trình cũng đã nâng cao điều kiện xã hội và kinh tế, đồng thời giúp Mali gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ngày 31 tháng 5 năm 1995. Nhờ đó, tổng sản phẩm quốc gia (GDP) bắt đầu tăng. Năm 2002, tổng lượng GDP là 3,4 tỷ đô la, và tăng đến 5,8 tỷ đô la vào năm 2005,, trong khoảng thời gian này mức tăng trưởng GDP đạt 17,6%. Ngành kinh tế chủ chốt của Mali là trồng cây công nghiệp. Bông là cây trồng xuất khẩu lớn nhất của nước này và được xuất về hướng tây thông qua Sénégal và Bờ Biển Ngà. Trong năm 2002, sản lượng bông ở Mali đạt 620.000 tấn nhưng giá bông lại bị sụp giảm đáng kể trong năm 2003. Ngoài bông, Mali còn sản xuất gạo, kê, bắp, rau quả, thuốc lá, và các loại cây trồng khác. Vàng, chăn nuôi và nông nghiệp chiếm khoảng 80% hàng hóa xuất khẩu của Mali. 80% công nhân Mali làm trong ngành nông nghiệp và 15% làm việc trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, sự biến đổi thời tiết theo mùa dẫn đến sự thất nghiệp tạm thời một cách thường xuyên của các công nhân nông nghiệp. Các động vật được chăn nuôi ở Mali bao gồm hàng triệu gia súc, cừu và dê. Khoảng 40% đàn gia súc của Mali bị mất trong nạn hạn hán Sahel vào năm 1972-74. Năm 1991, với sự giúp đỡ của Hiệp hội Phát triển Quốc tế, Mali có thể thực thi các luật khác thác mới giúp tăng cường các nguồn đầu tư và đổi mới ngành công nghiệp khai khoáng. Vàng được khai thác ở miền nam Mali, nơi có trữ lượng lớn thứ ba châu Phi (sau Nam Phi và Ghana). Sự xuất hiện của vàng như là hàng hóa xuất khẩu chính của Mali từ năm 1999 đã giúp làm giảm nhẹ tác động tiêu cực của khủng hoảng bông ở Bờ Biển Ngà. Các nguồn tài nguyên khác của Mali bao gồm kaolinit, muối, phosphate, và đá vôi. Các công ty điện và nước của Mali là Energie du Mali, hay EDM, các công ty dệt là Textile du Mali, hay ITEMA. Mali có tỉ lệ sử dụng thủy điện tương đối hiệu quả, vốn chiếm hơn một nửa sản lượng điện của nước này. Năm 2002, 700 GWh thủy điện được tạo ra ở Mali. Chính phủ Mali cũng thi hành nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư nước ngoài, bao gồm thương mại và tư nhân hóa. Mali bắt đầu trải qua sự cải cách kinh tế vào năm 1988 với các thỏa thuận với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến 1996, chính phủ Mali chủ yếu thực hiện cải cách các doanh nghiệp công. Trong cuộc cải cách, 16 doanh nghiệp đã được tư nhân hóa. 12 doanh nghiệp được tư nhân hóa một phần và 12 doanh nghiệp bị giải thể. Năm 2005, chính phủ Mali nhượng lại công ty đường sắt cho Tập đoàn Savage. Hai công ty lớn khác của nước này, Societé de Telecommunications du Mali (SOTELMA) và Cotton Ginning Company (CMDT), dự kiến sẽ được tư nhân hóa vào năm 2008. Mali là thành viên của Tổ chức vì Sự hài hòa Luật thương mại châu Phi (OHADA). Nhân khẩu Vào tháng 7,2009, dân số của Mali được ước tính là khoảng 13 triệu người, với tỉ lệ tăng hằng năm là 2.7%. Phần lớn dân cư tập trung ở nông thôn (68% năm 2002), và đến 10% người dân Mali sống du mục. Hơn 90% dân số sống ở miền nam của đất nước, đặc biệt là ở Bamako, nơi cư trú của hơn 1 triệu người. Năm 2007, khoảng 48% dân số Mali dưới 15 tuổi, 49% dân số nằm trong khoảng 15–64 tuổi, và 3% còn lại nằm trong độ tuổi 65 hay già hơn. Tuổi trung bình của Mali là 15,9 năm. Tỉ lệ sinh vào năm 2007 là 49,6 trẻ mỗi 1.000d dân, và the tỉ lệ thụ thai cộng dồn là 7,4 mỗi phụ nữ. Tỉ lệ tử vong năm 2007 là 16,5 mỗi 1.000 người. Kỳ vọng sống khi sanh của một đứa trẻ là 49,5 năm (47,6 đối với nam và 51,5 đối với nữ). Mali là một trong những nước có tỉ lệ tử vong sơ sinh cao nhất thế giới, với 106 trẻ mất mỗi 1.000 ca sinh trong năm 2007. Dân số Mali bao gồm một số nhóm sắc tộc ở khu vực cận Sahara, phần lớn các nhóm này có đặc điểm tương đồng về ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử. Người Bambara là nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân chiếm 36.5% dân số. Gộp chung lại, các nhóm người Bambara, Soninké, Khassonké, và Malinké, là các dân tộc khác nhau của người Mandé, chiếm 50% dân số Mali. Các nhóm người quan trọng khác là Peul (17%), Voltaic (12%), Songhai (6%), người Tuareg và Moor (10%). Trong quá trình lịch sử, các nhóm sắc tộc ở Mali có mối quan hệ hòa hợp; tuy nhiêm vẫn còn các quan hệ nô dịch vẫn còn được truyền lại giữa các dân tộc, như mối quan hệ căng thẳng giữa người Songhai và Tuareg. Trong 40 năm qua, nạn hạn hán đã buộc nhiều người Tuareg phải từ bỏ lối sống du mục của mình. Ngôn ngữ được sử dụng chính thức ở Mali là tiếng Pháp, nhưng hơn 40 ngôn ngữ châu Phi cũng được các nhóm sắc tộc khác nhau sử dụng. Khoảng 80% dân số Mali có thể giao tiếp bằng tiếng Bambara, vốn là ngôn ngữ chung của nhiều nhóm sắc tộc và được dùng chủ yếu trong giao tiếp. Tôn giáo Ước tính có khoảng 90% dân số Mali theo đạo Hồi (phần lớn là hệ phái Sunni), khoảng 5% là theo Kitô giáo (khoảng hai phần ba theo Giáo hội Công giáo Rôma và một phần ba là theo Tin Lành) và 5% còn lại theo các tín ngưỡng vật linh truyền thống bản địa. Một số ít người Mali theo thuyết vô thần và thuyết bất khả tri, phần lớn họ thực hiện những nghi lễ tôn giáo cơ bản hằng ngày. Các phong tục Hồi giáo ở Mali có mức độ vừa phải, khoan dung, và đã thay đổi theo các điều kiện của địa phương; các mối quan hệ giữa người Hồi giáo và các cộng đồng tôn giáo nhỏ khác nói chung là thân thiện. Hiến pháp của Mali đã quy định một thể chế nhà nước thế tục và ủng hộ quyền tự do tôn giáo, và chính phủ Mali phải đảm bảo quyền này. Y tế và giáo dục Mali phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe liên quan tới nghèo, suy dinh dưỡng, và vệ sinh. Các chỉ số sức khỏe và phát triển của Mali thuộc vào hàng thấp nhất trên thế giới. Trong năm 2000, ước tính chỉ có 62–65 phần trăm dân số có thể tiếp cận được với nguồn nước an toàn và chỉ 69 phần trăm dân số được tiếp cận một số loại hình dịch vụ vệ sinh. Năm 2001, chi tiêu của chính phủ về y tế nói chung vào khoảng 4 đô la trung bình mỗi người dân. Các cơ sở y tế ở Mali rất hạn chế, và luôn ở trong tình trạng thiếu thuốc sử dụng. Sốt rét và các bệnh do động vật chân khớp đang lan tràn nhiều vùng ở Mali, cùng với các bệnh nhiễm khuẩn như tả và lao. Dân số Mali cũng có một tỉ lệ cao trẻ suy dinh dưỡng và tỉ lệ tiên chủng thấp. Ước tính khoảng 1,9 phần trăm dân số Mali bị ảnh hưởng bởi đại dịch HIV/AIDS và nằm trong số những nước có tỉ lệ bệnh này thấp nhất ở khu vực Châu Phi cận Sahra. Giáo dục công của Mali theo nguyên tắc miễn phí và bắt buộc đối với trẻ em từ 7 tuổi đến 16 tuổi. Hệ thống giáo dục bao gồm sáu năm tiểu học bắt đầu lúc trẻ em bảy tuổi, sau đó là sáu năm trung học. Tuy nhiên, tỉ lệ đến trường của trẻ em Mali lại thật sự thấp, phần lớn là vì lý do ngân sách của các gia đình không thể trang trải chi phí đồng phục, sách, dụng cụ, và các lệ phí khác để được đến trường. Trong năm học 2000–01, tỉ lệ đến trường của trẻ em học tiểu học là 61% (71% trẻ em trai và 51% đối với trẻ em gái); trong cuối thập niên 1990, tỉ lệ nhập học ở bậc trung học là 15% (20% trẻ em trai và 10% đối với trẻ em gái). Hệ thống giáo dục còn thiếu hoàn chỉnh ở nông thôn do thiếu trường học, đi cùng với việc thiếu giáo viên và sách vở, dụng cụ. Ước tính tỉ lệ biết chữ ở Mali dao động trong khoảng 27–30% đến 46.4% dân số, với tỉ lệ phụ nữ biết chữ đặc biệt thấp hơn đàn ông. Văn hóa Âm nhạc truyền thống của Mali bắt nguồn từ các griot, được biết đến như là những "Người lưu giữ kỷ niệm". Âm nhạc Mali phong phú và có nhiều thể loại khác nhau. Một số nghệ sĩ nổi tiếng của Mali là bậc thầy kora Toumani Diabaté, tay guitar Ali Farka Touré, băng nhạc Tinariwen người Tuareg, vài nghệ sĩ nhạc pop châu Phi như Salif Keita, cặp đôi Amadou et Mariam, Oumou Sangare, và Habib Koité. Mặc dù văn học của Mali kém nổi tiếng hơn nền âm nhạc của chính quốc gia này, Mali vẫn luôn là một trong những trung tâm văn hóa tri thức sống động nhất châu Phi. Nền văn học truyền thống của Mali được tiếp thủ chủ yếu bằng truyền miệng, với những bài hát hay câu chuyện có tên là jalis được học thuộc lòng qua nhiều thế hệ. Amadou Hampâté Bâ, nhà sử học nổi tiếng của Mali, đã dành phần lớn thời gian cuộc đời của ông để ghi chép lại những nét văn hóa truyển miệng này nhằm ghi nhận bản sắc văn hóa của Mali vào văn hóa chung của thế giới. Nhà văn viết tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Mali là Yambo Ouologuem với tác phẩm Le devoir de violence đã giành được giải thưởng Prix Renaudot năm 1968 nhưng di sản của ông lại bị tổn hại bởi những cáo buộc đạo văn. Các nhà văn nổi tiếng khác của Mali bao gồm Baba Traoré, Modibo Sounkalo Keita, Massa Makan Diabaté, Moussa Konaté, và Fily Dabo Sissoko. Các sinh hoạt văn hóa hằng ngày khác biệt của người Mali phản ánh tính đa dạng về sắc tộc và địa lý của đất nước. Phần lớn người Mali mặc một loại áo dài có tên là boubous, một trang phục truyền thống của vùng Tây Phi. Người Mali thường xuyên tham gia các lễ hội truyền thống, khiêu vũ và nghi lễ. Gạo và kê là nguyên liệu chủ yếu của ẩm thực Mali, vốn chủ yếu được làm từ các sản phẩm ngũ cốc. Ngũ cốc được ăn cùng với nước sốt làm từ lá của cây bina hay bao báp có thêm cà chua, hay nước sốt đậu phộng, và có thể đi kèm với thịt nướng (điển hình là gà, cừu, bò, hay dê). Ẩm thực của Mali thay đổi theo từng vùng. Thể thao Môn thể thao phổ biến nhất ở Mali là bóng đá, vốn được chú ý hơn khi Mali là chủ nhà của Cúp bóng đá châu Phi 2002. Hầu hết các thành phố đều có các đội bóng địa phương; các đội bóng nổi tiếng ở tầm quốc gia là Djoliba AC, Stade Malien, và Real Bamako, tất cả đều ở thủ đô. Trẻ em thường dùng các mảnh vải rách được bó thành quả bóng để chơi. Quốc gia này cũng là nơi sản sinh nhiều cầu thủ xuất sắc có mặt trong đội hình tuyển Pháp như Salif Keita và Jean Tigana. Frédéric "Fredi" Kanouté, đạt danh hiệu Cầu thủ bóng đá châu Phi của năm 2007, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Sevilla FC tại giải La Liga của Tây Ban Nha. Những cầu thủ khác cũng thi đấu tại Tây Ban Nha là Mahamadou Diarra, hiện đang là đội trưởng bóng đá Mali, đang chơi cho Real Madrid và Seydou Keita chơi cho FC Barcelona. Các cầu thủ khác hiện tại cũng đang thi đấu tại các giải bóng đá châu Âu như Mamady Sidibe (Stoke City), Mohammed Sissoko (Juventus), Sammy Traore (Paris Saint-Germain), Adama Coulibaly (AJ Auxerre), Kalifa Cisse và Jimmy Kebe (Reading F.C.), và Dramane Traoré (Lokomotiv Moskva). Bóng rổ cũng là một môn thể thao chính ở Mali; Đội tuyển bóng rổ quốc gia nữ Mali, do Hamchetou Maiga làm thủ lĩnh, đã tranh tài tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Vật truyền thống (la lutte) là môn thể thao tương đối phổ biến, mặc dù đã suy giảm trong những năm gần đây. Trò chơi oware, một biến thể của môn mancala được chơi trong những lúc nhàn rỗi.
Tiếng Bambara (Bamanankan) là lingua franca và là một ngôn ngữ quốc gia của Mali, được nói bởi khoảng 14 triệu người, trong đó có 4 triệu người Bambara và 10 triệu người nói như ngôn ngữ thứ hai. Ước tính rằng 80% dân số Mali nói tiếng Bambara ở một mức độ nào đó. Ngôn ngữ này có cấu trúc chủ-tân-động, với phần ngữ âm gồm hai thanh. Phân loại Tiếng Bambara thuộc về một nhóm các ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ gọi là Manding-từng là những ngôn ngữ chính tại đế quốc Mali thời Trung cổ. Các ngôn ngữ Manding được người bản ngữ xem là có thể thông hiểu lẫn nhau ở mức nào đó; và được nói bởi từ 30 tới 40 triệu người tại các quốc gia gồm Burkina Faso, Senegal, Guinea Bissau, Guinea, Liberia, Bờ Biển Ngà và Gambia. Manding là một phần của nhóm Mandé lớn hơn. Ngữ âm Phụ âm Nguyên âm
Biển Baltic (phiên âm: "Ban-tích") là biển rìa lục địa được bao bọc bởi bán đảo Scandinavia, khu vực Trung Âu và Đông Âu và quần đảo Đan Mạch. Biển Baltic nối với biển Trắng bởi kênh đào Biển Trắng và với Biển Bắc bởi kênh đào Kiel. Adam xứ Bremen (một sử gia người Đức) là người đầu tiên dùng cái tên "Baltic" gọi vùng biển này. Có vẻ như ông lấy cái tên này từ tên một hòn đảo lớn, đảo Baltia, cũng nằm trong khu vực Bắc Âu. Địa lý Biển Baltic là một biển nội địa lớn. Kích thước: Dài 1610 cây số Rộng trung bình 193 cây số Sâu trung bình 55 m Độ sâu nhất ở vùng trung tâm phía Thụy Điển (459 m) Diện tích mặt nước: 277000 cây số vuông. Thể tích: 21000 km khối Đường bờ biển dài 8000 cây số. Các nước tiếp giáp với biển Baltic: Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Đức, Latvia, Litva, Ba Lan, Nga, Thụy Điển. Các đảo và quần đảo thuộc khu vực biển Baltic: Aland (khu tự trị thuộc Phần Lan), đảo Bornholm (Đan Mạch), đảo Gotland (Thụy Điển), đảo Hailuato (Phần Lan), đảo Hiiumaa (Estonia), đảo Kotlin (Nga), đảo Muhu (Estonia), đảo Oland (Thụy Điển), đảo Rugen (Đức), đảo Saaremaa (Estonia), quần đảo Stockholm (Thụy Điển), đảo Usedom hay còn gọi là Uznam (phân chia giữa Ba Lan và Đức), đảo Valassaaret (Phần Lan), đảo Wolin (Ba Lan). Đóng băng Tính trung bình nhiều năm, bề mặt biển Baltic bị đóng băng lớn nhất hàng năm là 45%. Khu vực bị đóng băng kiểu này trong suốt mùa đông gồm vịnh Bothnia, vịnh Phần Lan, vịnh Riga, Väinameri thuộc quần đảo Estonia, quần đảo Stockholm và biển Archipelago. Những khu vực còn lại không đóng băng trong suốt mùa đông bình thường, ngoại trừ các vịnh được che chắn và các đầm phá nông như phá Curonia. Bề mặt băng lớn nhất vào tháng 2 hoặc tháng 3; băng đặc biệt dày ở những khu vực tận cùng phía bắc như vịnh Bothnia, bồn trũng phía bắc của vịnh Bothnia, khoảng . Bề dày này giảm dần về phía nam. Đóng băng bắt đầu diễn ra ở các điểm cực bắc thuộc vịnh Bothnia đặc biệt vào giữa tháng 11, phát triển đến các vùng nước mở thuộc vịnh Bothnia vào đầu tháng 1. Biển Bothnia, nằm phía nam Kvarken, trung bình đóng băng vào cuối tháng 2. Vịnh Phần Lan và vịnh Riga đóng băng vào cuối tháng 1. Năm 2011, vịnh Phần Lan hoàn toàn bị đóng băng vào ngày 15 tháng 2. Kể từ năm 1720 đến nay, biển Baltic đã từng đóng băng hoàn toàn 20 lần. Lần gần đây nhất vào đầu năm 1987, là mùa đông khắc nghiệt nhất ở bán đảo Scandinavia từ ngày đó. Băng bao phủ diện tích 400.000 km². Năm 2007, hầu như không có sự đóng băng trừ một thời gian rất ngắn trong tháng 3. Trong mùa xuân, vịnh Phần Lan và vịnh Bothnia, băng thường rút vào cuối tháng 4, còn một vài núi băng kéo dài tới tháng 5 ở các điểm cực phía đông của vịnh Phần Lan. Ở cực phía bắc, băng tồn tại đến cuối tháng 5; cho đến đầu tháng 6 nó biến mất. Lớp phủ băng là môi trường sinh sống chính của 2 loài thú lớn gồm hải cẩu xám (Halichoerus grypus) và Baltic ringed seal (Pusa hispida botnica). Cả hai loài này kiếm ăn dưới lớp băng và sinh sản trên băng. Trong 2 loài này, chỉ có loài hải cẩu P. hispida botnica chịu đựng được điều kiện băng không đủ, nó chỉ chăm con non chỉ trên băng. Hải cẩu xám thích nghi với việc sinh sản không có băng trên biển. Lớp băng biển này cũng chứa một số loài tảo sống bên dưới và bên trong các túi nước muối trong băng. Thủy văn Nước biển Baltic chảy ra qua eo biển Đan Mạch; tuy nhiên dòng chảy này phức tạp. Lớp nước lợ trên mặt chảy vào biển Bắc 940 km³ mỗi năm. Do khác nhau về độ mặn, nguyên tắc thẩm thấu độ mặn, lớp nước dưới lớp bề mặt mặn hơn lại chảy vào với dung tích 475 km³ mỗi năm. Nó hòa trộn một cách chậm chạp với nước bên trên tạo ra gradient độ mặn từ trên xuống dưới, với hầu hết nước mặn tồn tại ở độ sâu từ 40 đến 70 m. Về tổng thể, dòng hải lưu có chiều kim đồng hồ: chảy về phía bắc theo ranh giới phía đông, và về phía nam theo ranh giới phía tây. Sự khác biệt về dòng chảy ra và vào hoàn toàn do các nguồn cung cấp nước ngọt. Có hơn 25 sông suối chảy vào vùng biển này với tổng diện tích lưu vực khoảng 1,6 triệu km², cung cấp khoảng 660 km³ nước mỗi năm cho biển Baltic. Các sông ở Bắc âu gồm Oder, Vistula, Neman, Daugava và Neva. Ngoài ra còn các nguồn nước ngọt có nguồn gốc khí quyển khác nhau ít bị bốc hơi. Nguồn cung cấp nước mặn quan trọng là dòng nước chảy vào từ Biển Bắc. Các dòng chảy này có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái biển Baltic do chúng vận chuyển oxy đến các vùng biển sâu của Baltic, thường diễn ra trung bình cứ mỗi 4-5 năm kể từ thập niên 1980. Trong những thập niên gần đây, quá trình này diễn ra ít thường xuyên hơn. Ba lần gần đây nhất diễn ra vào các năm 1983, 1993 và 2003 và dự đoán một chu kỳ mới sẽ diễn ra cách nhau khoảng 10 năm. Mực nước biển nhìn chung phụ thuộc nhiều vào điều kiện gió trong khu vực hơn là ảnh hưởng của thủy triều. Tuy nhiên, các dòng thủy triều xuất hiện tại các đoạn hẹp ở những phần phía tây của biển Baltic. Chiều cao sóng thường thấp hơn nhiều so với sóng trong biển Bắc. Các cơn bão dữ dội và đột ngột, thường xuyên quét qua bề mặt, do sự khác biệt nhiệt độ lớn và thời gian gió tiếp cận lâu dài. Gió mùa cụng cây trên những thay đổi nhỏ về mực nước biển khoảng 0,5 m. Sinh học Khoảng diện tích đáy biển Baltic (chiếm 1/4 diện tích đáy biển) là vùng biển chết. Có nhiều nước mặn tồn tại dưới đáy, tách biệt với các nguồn nước mặt và nước khí quyển. Việc ngăn cách này là suy giảm hàm lượng oxy trong đới biển chết. Trong đới này chủ yếu có vi khuẩn sinh sống, chúng tiêu hóa chất hữu cơ và thảy ra hydro sulfide. Do đới kỵ khí này lớn nên hệ sinh thái đáy biển khác biệt với hệ sinh thái của vùng biển Đại Tây Dương lân cận. Các kế hoạch tạo ra những khu vực có oxy nhân tạo bằng hiện tượng phú dưỡng đã được đại học Gothenburg và Inocean AB đề xuất. Đề xuất này dự kiến sẽ dùng bơm điều hướng để thổi không khí vào các vùng nước ở độ sâu khoảng 130m Vì biển Baltic còn trẻ nên chỉ có vài loài đặc hữu như Parvicardium hauniense và tảo sinh sản vô tính Fucus radicans. Có nhiều loài sinh vật biển thích nghi với độ mặn thấp như herring biển Baltic (nhỏ hơn so với loài trong Đại Tây Dương). Hệ động vật đáy bao gồm chủ yếu là Monoporeia affinis, nguyên thủy chúng là loài nước ngọt. Do thiếu vắng hoạt động thủy triều làm ảnh hưởng đến các loài sinh vật biển so với Đại Tây Dương. Hệ động vật cá của Baltic gồm các loài nước mặn như cá tuyết, cá trích, cá meluc, cá bơn sao, cá bơn, cá bống biển sừng ngắn và cá bơn turbot, và các loài nước ngọt như cá rô, cá chó, cá ngần và cá rutilus. Có sự suy giảm số loài động vật từ Belts đến vịnh Bothnia. Độ mặn giảm dọc theo con đường này làm ảnh hưởng đến chức năng sinh lý và môi trường sống. Các ảnh vệ tinh chụp trong tháng 6 năm 2010 thể hiện hiện tượng nước nở hoa mạnh bao phủ diện tích 377.000 km² trên biển Baltic. Khu vực tảo phát triển khéo dài từ Đức và Ba Lan đến Phần Lan. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng này cho biết nước nở hoa đã từng diễn ra trong mỗi mùa hè trong vòng vài thập niên. Phân bón thải ra từ các vùng đất nông nghiệp xung quanh đã làm trầm trọng thêm vấn đề và dẫn đến sự gia tăng phú dưỡng. Các thành phố Các thành phố lớn ven biển xếp theo dân số: Saint Petersburg (Nga) 4.700.000 (vùng đô thị 6.000.000) Stockholm (Thụy Điển) 843.39 (vùng đô thị 2.046.103) Riga (Latvia) 709.000 (vùng đô thị 842.000) Helsinki (Phần Lan) 579.016 (vùng đô thị 1.303.126) Copenhagen (Đan Mạch) 502.204 (vùng đô thị 1.823.109) Gdańsk (Ba Lan) 462.700 (vùng đô thị 1.041.000) Kaliningrad (Nga) 431.500 Szczecin (Ba Lan) 413.600 (vùng đô thị 778.000) Tallinn (Estonia) 401.774 Malmö (Thụy Điển) 290.078 (facing the Sound) Gdynia (Ba Lan) 255.600 (vùng đô thị 1.041.000) Kiel (Đức) 250.000 Espoo (Phần Lan) 234.400 (một phần của vùng đô thị Helsinki) Lübeck (Đức) 216.100 Rostock (Đức) 212.700 Klaipėda (Lithuania) 194.400 Turku (Phần Lan) 175.000 Oulu (Phần Lan) 130.000 Các cảng quan trọng: Liepāja (Latvia) 85.000 Norrköping (Thụy Điển) 84.000 Pori (Phần Lan) 83.000 Gävle (Thụy Điển) 69.000 Kotka (Phần Lan) 55.000 Świnoujście (Ba Lan) 50.000 Kołobrzeg (Ba Lan) 46.000 Pärnu (Estonia) 44568 Ventspils (Latvia) 44.000 Port of Police (Cảng biển trên sông Oder) ở Police, Ba Lan (34,319) Baltiysk (Nga) 34.000 Trelleborg (Thụy Điển) 26.000 Karlshamn (Thụy Điển) 19.000 Maardu (Estonia) 16.570 Sillamäe (Estonia) 16.567 Władysławowo (Ba Lan) 15.000 Darłowo (Ba Lan) 14.000 Oxelösund (Thụy Điển) 11.000 Mariehamn (Phần Lan) 11.000 Hanko (Phần Lan) 10.000 Sassnitz (Đức) 11.000
VnlinuxEDU là sản phẩm nằm trong bộ sản phẩm Hệ điều hành Linux Tiếng Việt Vnlinux LiveCD của tác giả Larry Nguyen. VnlinuxEDU là phiên bản Linux đặc biệt dành cho ngành giáo dục. Khác với phiên bản VnlinuxUSB, người dùng có thể cài VnlinuxEDU xuống đĩa cứng IDE hoặc SCSI, SATA. Khác với phiên bản VnlinuxLight, VnlinuxEDU có thêm các phần mềm quản lý sinh viên như SchoolTool và phần mềm tận dụng máy VnlinuxEDU làm terminal server. VnlinuxEDU sẽ chạy trên máy laptop Centrino trong khi VnlinuxLight thì không. Là một phiên bản LiveCD (dùng trực tiếp trên CD mà không cần cài đặt lên đĩa cứng). Người sử dụng không cần phải cài đặt và mật không gian trống trên đĩa cứng để lưu trữ. Tuy nhiên vẫn có thể cài đặt lên đĩa cứng nếu cần và quá trình cài đặt cũng tương đối đơn giản. VnlinuxEDU là công cụ dùng cho học tập tại các trường cấp I, II. Có thể dùng VnlinuxEDU để quản lý sinh viên, lịch học. Các trường đại học có thể dùng SchoolTool quản lý thiết bị phòng lab, giảng đường. Với terminal server, người quản trị có thể tạo phòng máy với một máy chủ và nhiều máy trạm khác. Các máy trạm không cần ổ cứng hay ổ CD-ROM và cấu hình máy trạm không cần cao. Phần mềm đang sử dụng trên VnlinuxEDU Phần mềm giao diện chính Gnome - Giao diện thân thiện cho Linux. Phần mềm cho học tập kdeedu - chứa các phần mềm làm toán (phần trăm, phân số, thừa số), bản nguyên tố, học vocabulary, cách phát âm, đoán từ, đánh máy..v..v.. gcompris - trò chơi mang tính giáo dục cho các em học sinh cấp 1 và 2. Yacas Virtual Chemistry Lab StarDict - từ điển hỗ trợ chức năng Nhấp Và Xem (ClikNSee) với nhiều gói từ điển được tích hợp sẵn (Anh, Pháp, Việt...) SchoolTool Phần mềm đồ họa GIMP gthumb Ksnapshot Gtkam - cho máy ảnh điện tử eog Phần mềm đa phương tiện xine totem TVTime rhythmbox Soundjuicer Phần mềm văn phòng AbiWord - trình soạn thảo văn bản gọn nhẹ. Dia - trình tạo biểu đồ. Gnumeric - trình bảng tính. Scribus - trình xuất bản. Evince - trình xem pdf. Planner - trình lên kế hoạt Phần mềm Internet epiphany - trình duyệt web nhỏ gọn dựa trên nền GTK. Mozilla-Firefox - trình duyệt web phổ biến và mạnh mẽ. gftp - công cụ tải tệp lên máy chủ hỗ trợ FTP. smb4k gaim - trình tán gẫu hỗ trợ đa hệ thống. skype balsa Phần mềm soạn web nvu scream Phần mềm mạng terminal server - máy chủ tightvnc gnomePPP terminal server client rfbdrake Thông tin thêm VnlinuxEDU từng được Bộ Giáo dục và Đào Tạo xem xét để đưa vào phổ biến ở các trường học cho học sinh. Tuy nhiên hiện nay nó đã ngừng phát triển
Sét hòn là một hiện tượng điện trong khí quyển chưa được giải thích. Thuật ngữ này đề cập tới những vật thể sáng chói, thường có hình cầu có kích thước từ cỡ hạt đậu đến vài mét đường kính. Nó thường gắn với những cơn giông, nhưng kéo dài lâu hơn đáng kể so với ánh sáng chớp nhoáng của tia sét. Nhiều báo cáo trong quá khứ nói rằng sét hòn sẽ nổ trước khi biến mất, đôi khi gây ra tử vong, để lại trong không khí mùi của khí sulfur. Các thí nghiệm đã tạo ra được những hiệu ứng tương tự với những báo cáo về sét hòn, nhưng hiện tại người ta vẫn không biết liệu những hiện tượng này có thật sự liên hệ với bất kì hiện tượng tự nhiên nào xảy ra hay không. Các dữ liệu khoa học về sét hòn rất ít ỏi vì tính thất thường và không dự báo trước được của nó. Những chứng cứ về nó hiện nay chỉ là những chứng kiến của dân thường và do đó đã tạo ra những quan điểm không thống nhất. Do những mâu thuẫn và thiếu dữ liệu tin cậy, bản chất của sét hòn cho tới nay vẫn chưa được khám phá.
Lịch sử Chăm Pa là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), thành lập từ năm 192 và kết thúc vào năm 1832. Trước thế kỷ thứ II, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn. Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính: Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá; Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm, tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các công trình bằng đá; Các sách sử của Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan,... các văn bản ngoại giao và các văn bản khác liên quan còn lại. Tên gọi Chăm Pa Danh xưng Champa xuất hiện đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ Campapuryyam (thành bang Champa), Campapura-pamesvara (chúa tể của thành bang Champa) và Campanagara (Vương quốc Champa). Bia C73 tại Mỹ Sơn nhắc đến danh từ Campadesa (người mang lại thịnh vượng cho Champa). Danh xưng Champa còn xuất hiện qua văn bia vua Kandarpadharma tại Huế. Tại Angkor, một bia ký của Đế chế Khmer ghi nhận vào năm 657, người trị vì Champa (Campesvara) đã sai sứ bộ đến Campuchia. Thời tiền sử Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ I và thứ II trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian). Văn hóa Sa Huỳnh Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng. Nhà nước Lâm Ấp Theo tài liệu lịch sử Trung Quốc, nhà nước Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ IV Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm. Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó. Vào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura ("thành phố Sư tử"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có "mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn". Cũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam. Năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là "Hoàn Vương". Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng "Chăm Pa" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657. Hoàn Vương Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X, người Chăm kiểm soát việc buôn bán hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu ngà voi và trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các nước láng giềng ven biển. Thánh địa Mỹ Sơn Vào nửa cuối thế kỷ thứ VII, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ. Trong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra. Thời hưng thịnh của Kauthara Vào thế kỷ thứ VIII, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà - Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga. Chiêm Thành Triều đại Phật giáo ở Indrapura Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên. Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ thần Si-va. Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ IX và thứ X. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ X, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn. Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam. Lịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ X đến thế kỷ XII, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ XV. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sáp nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471. Khmer xâm lăng Kauthara Năm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Chăm là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đô ở Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi. Chiến tranh với Đại Cồ Việt Vào nửa cuối thế kỷ thứ X, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với Đại Cồ Việt. Trước đó, An Nam (Việt Nam) đã tách ra độc lập, chấm dứt danh nghĩa là một phiên thuộc Trung Quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh Ninh Bình ngày nay. Năm 979, vua Chăm là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là Phật Thệ. Năm 983, một quản giáp người Kinh tên Lưu Kỳ Tông nổi lên giết chết quan cai trị trực tiếp nhà Lê, xây sửa thành Phật Thệ, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua Indravarman IV của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Vua Lê Kỳ Tông làm vua xứ Champa từ năm 986 cho đến khi bị lật đổ bởi vua Harivarman II vào năm 989. Chiến tranh với nhà Lý Mâu thuẫn giữa Champa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh đô Indrapura. Champa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Champa đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả hoàng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về Thăng Long. Từ đó, Champa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman III (tức Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa vương quốc Champa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Champa và chiếm Vijaya. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính lấy tự do. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Champa mới có thể tái thống nhất đất nước. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Champa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Khmer xâm chiếm Bắc Champa Năm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Champa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Champa dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp. Khoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Champa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga. Người Chăm tấn công Angkor Năm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm. Người Khmer chinh phục Vijaya và nội chiến Người Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor. Sau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái Vijaya và Panduranga. Cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Champa. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar. Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông Năm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Chăm Pa và Đại Việt. Năm 1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về. Jaya Simhavarman III Năm 1307, vua Chăm là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ Po Klaung Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Chăm. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ XIV, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc. Chế Bồng Nga Vị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là Chế Bồng Nga. Không có văn bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng không ghi chép về ông. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1491), ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390. Ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần. Quân đội Chăm Pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372 và 1378. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là vào năm 1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại, nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Quân đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Tại đây, sau trận thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm 1390. Đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho nhà Trần. Xung đột với nhà Hồ Năm 1391, Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hoàng Phụng Thế đem quân tấn công Chăm Pa nhưng quân Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thoát được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng rút quân về. Đến năm 1402, Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung) giao tranh quyết liệt với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba Đích Lại) (là con của La Ngai) phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam) và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ. Năm 1403, Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế không đủ lại có hải quân Minh giúp quân Chăm nên phải rút quân về. Năm 1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy). Tướng Minh là Trương Phụ tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng Hoàng Hối Khanh và thu hàng tướng Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hoá châu, không tiến xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại. Đại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya Năm 1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê gọi là thành Chà Bàn (hay Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần. Tuy nhiên năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi. Năm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức. Thủy quân Đại Việt do các tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà Toàn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tông. Các tướng Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân Chăm. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm ở cửa Áp (tức cửa Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (tức cửa Cựu Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm). Đồng thời bộ binh Đại Việt do Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về thành Vijaya. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long. Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây . Tướng Chăm là Bồ Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua Lê Thánh Tông phong Bồ Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay). Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Thất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia. Cộng đồng người Chăm và người Islam gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực. Biên niên sử Sejarah Melayu của người Mã Lai cũng ghi nhận sự di cư của người Chăm tới các vương quốc sultan ở Malacca. Thậm chí, một số quý tộc gốc Chăm còn được các sultan ban cho chức quan. Tiểu quốc Hoa Anh và các chúa Nguyễn Sau khi xâm chiếm Champa và tàn phá kinh đô Vijaya, vua Lê Thánh Tông quyết định cắt phần đất Kauthara cũ từ đèo Cù Mông tới đèo Cả lập ra tiểu quốc Hoa Anh, phong vương cho chúa xứ này. Cả Hoa Anh, Panduranga, Jarai trở thành phiên thuộc của nhà Lê sơ. Năm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII,do cục diện Chiến tranh Lê–Mạc phân liệt, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ. Panduranga Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm. Mối quan hệ với bán đảo Mã Lai và đạo Islam Từ năm 1414, chính quyền các tiểu quốc ở khu vực bán đảo Mã Lai như Kelantan (được mệnh danh là serambi Mekah, cổng tới Mecca), Malacca đã bắt đầu lấy đạo Islam làm quốc giáo. Người Chăm trên lãnh thổ Chăm Pa do đó cũng có nhiều nhóm chuyển sang đạo Islam, gọi là Chăm Baruw (Chăm mới), trái với nhóm chưa cải đạo là Chăm Jahed (Chăm cũ). Mối quan hệ về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo giữa người Chăm và người Mã Lai ở bán đảo Mã Lai đã tạo nên một cầu nối, liên kết hai khu vực. Nhiều thành phố ở Kelantan mang những cái tên liên quan tới Chăm Pa (Chepa) như Pengkalan Chepa, Kampung Chepa. Văn hóa và ẩm thực Kelentan cũng lưu giữ nhiều dấu ấn Chăm Pa. Biên niên sử Hikayat Kelantan cũng cho rằng, vị vua Long Yunus (Raja of Kelantan), người sáng lập vương quốc Hồi giáo Kelantan, có tổ tiên đến từ Kebayat Negara hoặc Kembayat Negara, nơi được cho là Chăm Pa. Nữ vương Che Siti Wan Kembang trong huyền thoại Kelantan được cho là mang ba dòng máu Champa-Kelantan-Pattani. Nhiều vị Raja Kelantan cũng có họ hàng với vương tộc Chăm Pa. Biên niên sử Babad Kelantan còn cho biết, giữa thế kỉ 17, một vị hoàng tử Chăm Pa tên Nik Mustafa đã đến Kelantan học tập nhiều năm, khi trở về nước đã xưng vương là Sultan Abdul Hamid. Truyện cổ Chăm Pa Nai Mai Mang Makah kể việc một công chúa từ Makah (Kelantan) cố gắng cải đạo chúa Chăm sang Islam. Năm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong () đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Kỷ tỵ, năm thứ 16 (1629), Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản. Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (Nguyễn Hữu Vinh, ) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên. Từ năm 1622-1627, Chăm Pa được cai trị bởi một vị vua tên Po Klaong Mah Nai. Trước đó, vị vua theo đạo Hindu là Po Ehklang bị quan Maha Taha (महा तह, tức Po Klaong Mah Nai) giết và cướp ngôi. Po Klaong Mah Nai là người theo đạo Islam. Lúc này tại Chăm Pa, xảy ra chia rẽ và xung đột giữa các nhóm người Chăm theo đạo Hindu và Islam. Trong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome (con rể Po Klaong Mah Nai) xưng vương và lấy con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa, Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉誇). Po Rome là người gốc Chu Ru, từng sống nhiều năm ở Kelantan và theo đạo Islam. Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp. Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Tấm (Po Nraup, còn gọi là Bà Thấm, , Bà Bật, Bà Thâm, là anh em trai của Po Rome) xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm giới hạn. Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn. Lúc bấy giời tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang đạo Islam và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm. Tại Chăm Pa, chúa Chăm Bà Tranh (Po Saut, Wan Dam, , cai trị khoảng 1660-1692, con trai của Po Rome) cũng theo đạo Islam và xưng là Paduka Seri Sultan (Điện hạ Sultan). Đây là giai đoạn mà đạo Islam quảng bá mạnh tại khu vực nhờ vào các lực lượng người gốc Mã Lai. Năm 1682, các giáo sĩ người Pháp ở Ayudhya báo cáo về việc chúa Chăm Pa triều cống cho vua Xiêm. Có khả năng Bà Tranh muốn nhờ Xiêm giúp đỡ để giảm sức ép từ chúa Nguyễn. Trong khi ghé tại hòn đảo Pulo Ubi (tức hòn Khoai) trong vịnh Thái Lan, ngày 13 tháng 5 năm 1687, nhà du hành người Anh William Dampier đã bắt gặp một tàu buôn từ Chăm Pa đang trên đường đi Malacca. William cho biết tàu buôn này có khoảng 40 người, trang bị vũ khí và mang theo hàng hóa là gạo, đồ sơn mài. Chăm Pa tham gia buôn bán với người Hà Lan ở Malacca. Chúa Nguyễn và chúa Chăm Kế Bà Tử Năm 1692, Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào tháng 3 năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó tháng 8 năm 1693, đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ. Bà Tranh bị giải về Thuận Hóa, người anh em là Tả trà viên Kế Bà Tử (繼婆子, Po Saktiraydaputih) làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người Kinh và sai về để vỗ yên lòng dân. Cuộc chiến tranh năm 1692-1693 đã khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Cộng đồng Chăm trong đợt di cư này có lẽ là tổ tiên của nhóm Chăm Jahed (Chăm cũ) hoặc Imam San ở Campuchia ngày nay. Tháng 12 năm 1693, người Thanh là A Ban (阿班) cùng với Hữu trà viên là Ốc nha Đạt (Ốc nha Thát, 屋牙撻) ở Thuận Thành nổi loạn, đánh chiếm các đất Đại Đồng, Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính ở Chân Lạp, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn. Đầu năm 1694, Bà Tranh chết, quân A Ban lại vây Phan Rang. Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Sau đó Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) mới dẹp yên. Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Tháng 8, chúa cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm Kế Bà Tử được gọi là Thuận Thành trấn vương (順城鎮王), đóng đô ở Băl Canar, giữ chức Tả đô đốc, phiên vương trấn Thuận Thành của chúa Nguyễn. Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp. Thuận Thành trấn Năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây) chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương. Từ những năm 1700 đến 1728, các chúa Nguyễn chủ yếu tập trung binh lực mở rộng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp. Mặc dù có nhiều giai đoạn, chính quyền Đàng Trong dồn hết binh lính ở Chân Lạp hoặc suy yếu, chính quyền Chăm Pa vẫn không hề thừa cơ nổi dậy. Rất có thể, mối quan hệ giữa giữa hai chính quyền Po Saktiraydaputih và Nguyễn Phúc Chu rất tốt đẹp và nó còn để lại di sản sau này. Đến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần dân người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các chúa Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục (cả hai là người Việt) phán quyết. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Khởi nghĩa Tây Sơn Các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận cho đến tận cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Từ năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra tại Đàng Trong, lãnh thổ Thuận Thành Trấn trở thành một trong những bãi chiến trường. Nội bộ chính quyền Chăm chia làm nhiều phe phái, ủng hộ Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn. Đầu những năm 1770, khi phong trào Tây Sơn nhen nhóm, anh em Nguyễn Nhạc đã tìm đến bắt liên lạc, kết thân với Bà chúa Hỏa. Bà chúa Hỏa hay còn gọi là Bà Hỏa, nữ chúa Thị Hỏa là thủ lĩnh của người Chăm quản lĩnh một vùng đất rộng lớn mà sử sách xưa thường gọi là "nước Hỏa Xá". Địa bàn của bà chúa Hỏa trải rộng khắp khu vực miền núi ngày nay thuộc phía tây nam Phú Yên kéo dài đến Cheo- reo (Gia Lai, Kon Tum). Nguyễn Lữ, người thứ ba trong "Tây Sơn tam kiệt", là người tu theo Minh giáo (còn gọi là đạo Ma-ní), là đệ tử của bà chúa Hỏa, thờ thần lửa và dùng bùa phép để chữa bệnh, trừ tà, nên còn được gọi ông là thầy tư Lữ. Một bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá (Po Tisuntiraidapuran, Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) đứng đầu ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm thì ở một địa bàn khác là động Thạch Thành (nay thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên). Bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân khi anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Năm Qúy Tị (1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên, Nguyễn Nhạc phục hồi danh vị Phiên Vương cho bà chúa Hỏa và giao cho bà nhiệm vụ trấn giữ động Thạch Thành. Mùa hè Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai danh tướng Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (nay thuộc Nha Trang) đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Quân Tây Sơn yếu thế phải lui về giữ Phú Yên. Tống Phúc Hiệp trực tiếp chỉ huy quân vượt đèo Tam Độc đánh thẳng vào đội quân của bà chúa Hỏa, bà chúa Hỏa đã tử trận. Tháng 7 năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Huệ bất ngờ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh úp tiêu diệt cả quân thủy và quân bộ của Tống Phúc Hiệp. Năm 1778, thành Quy Nhơn sửa xong, Nguyễn Nhạc xưng là Minh Đức Hoàng Đế, niên hiệu Thái Đức. Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với Tây Sơn. Năm 1780, Po Tisuntiraidapuran được hoàng đế Thái Đức nhà Tây Sơn giúp đăng cơ. Tuy nhiên, Po Tisuntiraidapuran liên tục phải chống đỡ các phong trào nổi dậy của người Chăm và hàng loạt cuộc công kích của chúa Nguyễn Ánh từ đất Gia Định. Năm 1782, một người anh em cùng huyết thống của Po Tisuntiraidapuran là Cei Krei Brei gây binh biến rồi phế truất ông, khiến thời điểm này Panduranga tạm thời không có người cai trị. Vào năm 1783, Cei Krei Brei tự tuyên bố là tân vương, nhưng liền sau đó quân Tây Sơn xuống vây đánh khiến ông này thất thế và bị tống giam. Ngôi vị của Po Tisuntiraidapuran được khai phục. Cùng năm này, một quân phiệt Chăm Bà-la-môn là Po Tolripho từ Ấn Độ (?) về Panduranga lập chiến khu nhằm chống quân đồn trú Tây Sơn, nhưng chóng bị Bắc Bình vương dẹp. Po Tolripho may mắn tẩu thoát được, bèn trèo đèo vượt suối mấy ngày đường lên Cheo Reo ẩn lánh ở các buôn người Thượng. Đến năm 1790, chúa Nguyễn Ánh được đà Thái Đức lâm thế yếu khó vươn được xuống phương Nam, bèn tiến chiếm Panduranga, phong Cei Krei Brei (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chiêu, nguyên tên là Môn Lai Phù Tử, Po Ci Bri, con của phiên vương trước là Thắng) làm Thuận Thành trấn Khâm sai chưởng cơ. Các quan Chăm là Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Hào làm Khâm sai thống binh cai cơ. Nhưng ít lâu sau thì Nguyễn Văn Chiêu bị bãi chức vì chúa Nguyễn nghi ông theo Quang Trung. Năm 1793, chúa Nguyễn Ánh phái binh tiến đánh quân Tây Sơn đồn trú trên đất Panduranga. Phiên vương Thuận Thành là Po Tisuntiraidapuran (Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh sau đó (1794) cho các tướng người Chăm theo mình là Po Ladhuanpuguh (Nam sử gọi là Thôn-bá-hú hoặc Nguyễn Văn Hào / 阮文豪) làm Chánh trấn Thuận Thành, đồng thời phong Po Saong Nyung Ceng (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chấn / 阮文震) làm phó trấn, đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương. Cả Po Ladhuanpuguh và Po Saong Nyung Ceng vốn là những phú nông người Chăm, không có xuất thân vương tộc. Bị chúa Nguyễn tước mất vương vị, Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đành đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Đoàn tị nạn gốc vương tộc này đến an trí tại Roka Po Pram, nơi vốn tập trung rất nhiều lưu dân Chăm và Mã Lai Hồi giáo. Ban sơ Po Krei Brei cũng muốn dựa vào thế lực của triều đình Kampuchea để đòi lại vương vị, nhưng tình hình xứ sở này cũng rất hỗn loạn vì những cuộc giao tranh của Xiêm và Tây Sơn rồi Nguyễn, nên rốt cuộc ông phải chôn mọi tham vọng bá quyền. Hiện chưa rõ Po Krei Brei sinh thác năm nào, ông được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình. Cuộc nổi loạn ở trấn Thuận Thành Vào năm 1796, Po Chongchan - lãnh tụ Chăm được triều Tây Sơn ủng hộ - theo quân Tây Sơn tiến công Băl Canar nhưng bị Po Saong Nyung Ceng tạm thời đẩy lui; tháng 10 cùng năm có một thủ lĩnh người Chăm Mã Lai tự xưng từng sống ở Mecca (thực ra là Kelantan) nhiều năm tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác [Tăng Mã] thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan. Đại Nam liệt truyện chép:"Năm Bính Thìn [1796], man trưởng ở Dã Giang (thuộc tỉnh Bình Thuận) là Tăng Mã làm phản, quan quân đón đánh ở Phố Trâm phá tan được, Tăng Mã trốn chạy... Tù trưởng người Man là Đồng Phù [Tuan Phaow] quân bị tan vỡ bỏ chạy. Từ đó các man ở Thuận Thành không dám lại làm phản nữa."Đại Nam thực lục ghi chi tiết:Bính thìn, năm thứ 17 [1796], Tù trưởng Ba Phủ thuộc Thuận Thành là Toàn Phù (Tuan Phaow) tụ họp hơn 1.000 người, từ núi Đàn Linh ngầm xuống Cà Trập cướp bóc dân địa phương. Đinh tỵ, năm thứ 18 [1797], tháng 2, Nguyễn Công Thái tiến đến Phố Châm, đánh úp phá tan giặc man Ba Phủ. Tù trưởng man là Toàn Phù vượt núi trốn chạy. Quân ta đốt trại kho vựa, bắt sống hơn 100 người man về trú ở bảo Đăng Trại... Tháng 5, người man Ba Phủ là Toàn Phù lại họp đảng hơn nghìn người đến đánh bảo Ma Đế. Thủ binh Thuận Thành chống không được, phải bỏ bảo chạy. Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng nghe tin báo đem quân thẳng tới, gặp giặc ở Cà Tán (tên đất), bắn chết mười mấy người. Giặc lui... Tháng 9, giặc Man Ba Phủ là Toàn Phù đem quân vây bảo Tà Lạp, lại ủy cho người đảng giữ núi La A để ngăn quân viện của ta. Phó tướng Phan Tiến Hoàng thống quản quân sở bộ và quan binh Thuận Thành, chia đường tiến đến La A. Hoàng cùng Quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn đánh mặt trước, Cai cơ Lê Văn Niệm đánh mặt sau. Giặc thua vỡ to. Quân ta thừa thắng tiến thẳng đến Thuận Thành. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Vĩnh ở Tà Lạp nghe tin quân viện đến, mở bảo ra đánh, Toàn Phù bèn giải vây, vượt núi chạy. Hoàng thấy xứ ấy đường núi hiểm xa, chuyển vận rất khó, lại thêm mưa lụt lam chướng, quân nhiều người ốm, bèn rút quân về, để quân Thuận Thành đóng giữ các bảo Đăng Trại, Cà Tán, dâng sớ xin đợi đến mùa đông tạnh ráo sẽ cất quân đánh dẹp. Tháng 11, vua nước Chân Lạp là Nặc Ấn chết. Con là Nặc Chăn nối ngôi... Tháng 12, sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng đem tướng sĩ Tiền chi và Trung chi Tiền quân cùng Xiêm binh và hương binh hơn 1.600 người, tiến đánh giặc Man Ba Phủ. Khi quân đến Phố Châm thì Toàn Phù trốn xa, dư chúng ra hàng nhiều. Bèn dẫn quân về.Về nhân vật Tuan Phaow (Đồng Phù), có ý kiến cho rằng ông ta trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp. Đến tháng 7 năm 1799, Po Ladhuanpuguh băng hà, nhờ vào uy tín sẵn có mà Po Saong Nyung Ceng được cử làm tân vương. Loạn Lê Văn Khôi Ngay sau khi Minh Mạng lên ngôi (1820), ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia. Tháng 10 năm 1832, chúa Chăm cuối cùng là Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa (阮文承)) trả lại toàn bộ dân và đất cho vua Minh Mạng và trở thành một viên quan địa phương triều Nguyễn. Vua Minh Mạng đã xóa trấn Thuận Thành và đặt phủ Ninh Thuận vào cùng năm đó, cho Nguyễn Văn Thừa làm Quản cơ, thuộc hạ là các Chánh đội trưởng Nguyễn Văn Giảng, Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Văn Thanh đều cho làm Cai đội. Năm 1833, Minh Mạng định phong cho tước cho Nguyễn Văn Thừa là Diên An bá, chức Vệ úy, hàm Tòng tam phẩm. Nhưng sau đó có án nghi Thừa câu kết với Lê Văn Khôi nên thôi. Theo sách Tiễu Bình Thuận Man Phỉ Phương Luộc (1835) và bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Nhị Kỷ (1860), sau khi chúa Po Phaok The thoái vị và trở thành viên quan triều Nguyễn, nhóm Lê Văn Khôi ở miền Nam bắt tay với Po Phaok The và một số quý tộc cũng như lãnh đạo tôn giáo Islam Chăm như Lá Buôn Vương, Thầy Điên. Lúc đó triều Nguyễn đang đánh Lê Văn Khôi ở miền Nam, và quân Nguyễn ở lại Ninh Thuận, Bình Thuận bị phiến quân Chăm và các bộ lạc miền núi tấn công mà chưa kịp đối phó. Có một số quý tộc thì lại theo vua Minh Mạng và không tham gia phiến quân, cộng đồng Chăm và các bộ lạc miền núi bị chia rẽ giữa hai phe: phe Lê Văn Khôi (phe chúa Chăm cũ) và phe vua Minh Mạng. Phong trào Hồi giáo Katip Sumat Katip Sumat hay Katip Tamat là một tu sĩ Hồi giáo (imam) sinh ở Campuchia, đã từng sang Makah (tiểu vương quốc Kelantan) du học về triết lý Hồi giáo. Katip Sumat chỉ huy một đoàn quân đa số là người Chăm và Mã Lai sinh sống ở Campuchia sang Champa để hình thành một phong trào đấu tranh chống triều đình Huế vào năm 1833. Đây có thể coi như phong trào jihad (Thánh chiến) duy nhất đến nay trong lịch sử Việt Nam. Cuộc nổi dậy của Katip Sumat gây mối đe dọa thật sự cho triều đình Huế, buộc vua Minh Mạng phải gởi một đội binh hùng mạnh hơn 1000 người và ra lệnh vũ trang những cư dân Việt thuộc phủ Bình Thuận để họ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống quân nổi loạn. Phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat đã bị dập tắt vào tháng 7 năm Tỵ lịch Chăm, tức là cuối năm 1833 hay đầu năm 1834. Phong trào của Katip Sumat có lẽ được sự hậu thuẫn của vị Sultan Muhamad I ở Kelantan (1800-1837). Khởi nghĩa Ja Thak Wa Ja Thak Wa của Katip Thak Wa, một người Chăm Bani làng Văn Lâm, Phan Rang từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Panduranga-Champa thời trước. Với tổ chức quy mô hơn, Ja Thak Wa xây dựng một chiến khu tại vùng cao nguyên Đồng Nai Thượng và Kauthara (Nha Trang-Phú Yên) vào năm 1834. Ja Thak Wa sau đó triệu tập một hội đồng để chỉ định Po War Palei (tiếng Việt gọi là La Bôn Vương), dân tộc Raglai, thuộc làng Cadang, lên làm quốc vương (Po Patrai) của Panduranga. Po War Palei là anh rể của Po Dhar Kaok (tên Việt là Nguyễn Văn Nguyên), tức là cựu phó vương Panduranga dưới thời vua Po Phaok The (1828-1832). Sau đó, Ja Thak Wa đề nghị tấn phong một người gốc Churu mang chức là Cei Aia Harei (hoàng tử mặt trời) làm hoàng tử kế vị và Ja Yok Ai gốc người Chăm làm Panraong Sa-ai (đại quan quân sự). Quân của Ja Thak Wa làm chủ tình hình vào đầu năm Ất Vị (1835), kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Panduranga cũ gồm huyện An Phước, Hòa Đa, Tuy Tịnh và phủ Bình Thuận. Trước sự đàn áp của nhà Nguyễn, nổi dậy Ja Thak Wa tại Panduranga kéo dài cho đến tháng thứ 4 năm 1835 thì kết thúc sau khi cả Po War Palei và Ja Thak Wa đều tử trận gần thôn Hữu Đức, Văn Lâm, Phan Rang. Thời kỳ cuối của trấn Thuận Thành Khi vua Minh Mạng đưa quân tiêu diệt phiến quân Chăm và các bộc lạc miền núi, Thị Khăn Oa (Nai Khan Wa), công nữ Chăm hợp tác với vua Minh Mạng kêu gọi tất cả phiến quân còn lại đầu hàng, trở về phía triều đình. Công nữ đã thuyết phục thành công. Vua Minh Mạng đồng ý duy trì hoàng gia Chăm (gia đình chúa Chăm). Các hoàng tử Chăm đời đời nhận chức Tri huyện Huyện Hòa Đa Thổ (tức Quận Phan Lý Chàm thời chính quyền Sài Gòn) dưới triều Nguyễn. Theo các bộ sắc phong mà các hoàng tử Chăm được vua Nguyễn các đời gửi (bản chữ Hán), mối quan hệ giữa các ông tri huyện huyện Hòa Đa Thổ và chính quyền Huế diễn ra tốt đẹp đến tận năm 1945. Năm 1945, hoàng tử Dụng Gạch (em trai công nữ Nguyễn Thị Thềm) đang là chức hương bộ và được gọi là Bộ Gạch, làm việc tại palei Kalon tức ấp Trinh Hòa (nay là xã Phan Sơn, Phan Lâm, huyện Bắc Bình và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kalon Sông Mao) nơi mà Bà Nai Khan Wa cùng các bộ lạc miền núi khai hoang. Hoàng tử Dụng Gạch đã hưởng ứng lời kêu gọi cách mạng tháng Tám, bảo cho bà con Chăm và các dân tộc miền núi theo cách mạng. Sau cách mạng thành công, Hoàng tử Dụng Gạch giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Lâm thời Huyện Hòa Đa phụ trách miền núi. Lịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Còn một số Bon, Palei phía Nam Lâm Đồng thì triều Nguyễn đặt Phủ Di Dinh Thổ (tức Phủ Di Linh Thượng), đưa viên quan Chăm cai trị cho đến năm 1945 nên mối quan hệ giữa hoàng gia Chăm và các bộ lạc miền núi rất mật thiết như việc hoàng tử Dụng Gạch được các bộ lạc miền núi tin tưởng.
Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc đã phát triển ngoạn mục trong vài thập kỷ qua. Theo thống kê năm 2007 của chính phủ Hoa Kỳ, gần một phần ba (26,3%) dân số Hàn Quốc xưng nhận đức tin Cơ Đốc. Các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách (Protestant) như Trưởng Lão, Phong trào Ngũ Tuần, và Giám Lý chiếm khoảng 19,7% dân số, trong khi số giáo dân Công giáo là khoảng 11.1 %, mặc dù những nguồn dữ liệu khác ấn định con số tín hữu Cơ Đốc ở tỷ lệ cao hơn, đến 49%. Cơ Đốc giáo tăng trưởng mạnh tại khu vực phía Tây của đất nước như Seoul, Gyeonggi và Honam. Tại Seoul có đến mười một giáo đoàn (congregation) Cơ Đốc giáo lớn nhất thế giới. Cơ Đốc giáo tạo được ảnh hưởng đáng kể trên văn hoá Hàn Quốc và là một trong những nhân tố dẫn đến tình trạng sút giảm liên tục trong thành phần dân số theo các tôn giáo vốn có truyền thống lâu đời trong văn hoá Hàn như Phật giáo, Khổng giáo và Shaman giáo. Số lượng nhà truyền giáo Hàn Quốc đến các quốc gia khác đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ: đến năm 2000, đã có 10.646 nhà truyền giáo thuộc cộng đồng Kháng Cách được gởi đến 156 quốc gia, cùng với nhiều giáo sĩ Công giáo (con số không được tiết lộ). Nhiều tín hữu Cơ Đốc Hàn Quốc, trong đó có Tiến sĩ David Yonggi Cho, Quản nhiệm Nhà thờ Yoido Full Gospel – được xem là giáo đoàn lớn nhất trong thế giới Cơ Đốc giáo – được biết đến tại nhiều quốc gia. Chuyến viếng thăm Hàn Quốc năm 1984 của Giáo hoàng Gioan Phaolô II được ghi dấu bởi lễ tuyên thánh đầu tiên được cử hành bên ngoài La Mã với con số lớn nhất các vị được phong thánh trong cùng một lúc. Buổi lễ này đã đem Hàn Quốc vào hạng thứ tư trong số các quốc gia có nhiều người được tuyên thánh nhất trên thế giới. Ít có quốc gia nào trên thế giới chứng kiến sự phát triển vượt bậc của Cơ Đốc giáo như tại Hàn Quốc trong vài thập niên của thế kỷ 20. Trong ba mươi năm từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, bùng nổ số người chấp nhận đức tin Cơ Đốc. Trong thập niên 1960, số tín hữu Kháng Cách chưa đến một triệu, nhưng chỉ trong vài thập niên cộng đồng Kháng Cách chiếm đến 19,7% trong tổng dân số 48 860 500 người của Hàn Quốc (tháng 7 năm 2012). Thất bại ban đầu: 1593 – 1784 Không phải lúc nào Hàn Quốc cũng là vùng đất tốt cho mầm ươm Phúc Âm. Mặc dù Cơ Đốc giáo được thành lập trên đất nước Hàn Quốc năm 1784, mãi đến thế kỷ 20, sau gần hai trăm năm với những nỗ lực đầy cam go, con số tín hữu Cơ Đốc mới trở nên đáng kể trong thành phần dân số. Như thế, tại sao, sau khởi đầu không mấy thuận lợi, Cơ Đốc giáo trở nên một đức tin được chấp nhận rộng rãi tại Hàn Quốc, trong khi điều này lại không thể xảy ra tại những quốc gia lân cận như Nhật Bản hoặc Trung Quốc? Để tìm câu giải đáp cần phải xem xét đến những yếu tố phát triển trong văn hoá, chính trị và lịch sử đã khiến dân tộc Hàn trở nên khác biệt với các lân bang. Điều này lại dẫn đến tra vấn thứ hai: Trong hai trăm năm qua Cơ Đốc giáo đã ảnh hưởng như thế nào trên xã hội Hàn Quốc? Nhà truyền giáo đầu tiên có mặt tại Hàn Quốc là Cha Gregorious de Cespedes, một linh mục dòng Tên, đến Hàn Quốc năm 1593 để hoạt động mục vụ trong vòng kiều dân Nhật Bản, nhưng không được phép truyền giáo cho người Hàn. Tuy vậy, một thập niên sau, Yi Kwangjong (Lý Quang Chung), một nhà ngoại giao người Hàn trở về từ Bắc Kinh, mang theo mình một tấm bản đồ thế giới và một vài cuốn sách thần học của Matteo Ricci, một giáo sĩ dòng Tên đã từng đến Trung Hoa. Những quyển sách của Ricci ngay tức khắc gây ra những tranh luận học thuật. Vào đầu thế kỷ 17, Yi Sugwang, một học giả cung đình, và Yu Mongin, một quan thượng thư, viết những bài phê bình gay gắt chỉ trích các tác phẩm của Ricci. Suốt trong hai thế kỷ kế tiếp, làn sóng phê bình học thuật nhắm vào đức tin Cơ Đốc không hề suy giảm. Nền tảng cho sự phát triển Cần biết rằng trong giai đoạn bế quan tỏa cảng của Hàn Quốc có nhiều người tử đạo vì đã giúp đỡ những giáo sĩ Công giáo. Một trong những thánh tử đạo nổi tiếng nhất là Andrew Kim, bị xử chém đầu ở tuổi 25. Thiện cảm trong giới khoa bảng - Silhak Dù vậy, vẫn có một số học giả có thiện cảm với Cơ Đốc giáo. Các thành viên của trường phái Silhak (thực học hay học đi đôi với hành) rất tâm đắc với điều họ nhìn nhận là những giá trị của quyền bình đẳng trong Cơ Đốc giáo. Ủng hộ một cấu trúc xã hội dựa trên tài năng chứ không phải trên nguồn gốc gia đình, các học giả trường phái Silhak (thường bị chống đối gay gắt bởi giới cầm quyền) nhận ra Cơ Đốc giáo cung ứng một nền tảng ý thức hệ cho niềm tin của họ. Như vậy, khi Công giáo được thành lập năm 1784, đã có sẵn một thành phần trí thức ủng hộ tôn giáo này – sự ủng hộ này là nhân tố căn cốt cho sự phát triển đức tin Công giáo trong thập niên 1790. Một nghiên cứu tiến hành năm 1801 chỉ ra rằng có đến 55% tín hữu Công giáo có mối quan hệ gia đình với phong trào Silhak. Rõ ràng là nhân tố quan trọng đầu tiên kích hoạt sự tăng trưởng của Cơ Đốc giáo là thiện cảm của một thiểu số thuộc thành phần tinh hoa có học thức của xã hội Hàn Quốc. Quyền Lãnh đạo của Tín hữu Nhân tố quan trọng thứ hai là Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc khởi đầu như là một phong trào tín hữu (lay) tự phát tại địa phương mà không hề bị áp đặt bởi một hệ thống giáo phẩm từ nước ngoài. Nhà nguyện Công giáo đầu tiên được thành lập năm 1784 tại Bình Nhưỡng bởi Yi Sung-hun, một nhà ngoại giao đã chịu lễ rửa tội tại Bắc Kinh. Năm 1786, Yi tiến hành thành lập một hệ thống các linh mục tình nguyện (lay-priest). Mặc dù hệ thống này bị đình chỉ bởi Vatican (năm 1789) với lý do sự bổ nhiệm linh mục tình nguyện là vi phạm luật giáo hội (Canon Law), sự kiện cần ghi nhớ là Cơ Đốc giáo được truyền bá vào Hàn Quốc bởi những tín hữu bản địa, không phải bởi các chức sắc ngoại quốc. Những tương đồng với truyền thống Hàn Quốc Nhân tố thứ ba là các giáo hội Hàn Quốc biết cách sử dụng truyền thống Hàn Quốc. Không giống Trung Quốc hay Nhật Bản, người Hàn theo Shaman giáo đã có sẵn một khái niệm độc thần về Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá mà họ gọi là Hwan-in (Hoàn Nhân 桓因) hoặc Haneu-nim (sau này cũng gọi là Hana-nim). Theo truyền thuyết xa xưa, Hwan-in có một con trai tên Hwan-ung (Hoàn Hùng 桓雄), người này sinh một con trai đặt tên là Tangun (Đàn Quân 檀君). Tangun là người thành lập nước Hàn, cũng theo chuyện kể, Tangun dã dạy người dân biết những điều căn bản về văn minh trong suốt thời trị vì của ông kéo dài một ngàn năm. Cũng xuất hiện vài dị bản từ truyền thuyết này, một trong số đó kể rằng Tangun được sinh ra bởi một nữ đồng trinh – dù chuyện kể có thể là một sự thêm thắt sau này. Hiện nay vẫn có một số nhà thần học cố gắng giải thích khái niệm Cơ Đốc về giáo lý Ba Ngôi theo ngôn từ của ba đặc tính thần linh của truyền thuyết Tangun. Dù chỉ là truyền thuyết, điều này lại là một chuẩn bị tốt về mặt tâm lý giúp người dân Hàn chấp nhận giáo lý về Chúa Giê-xu hoá thân thành người (incarnation). Sử dụng chữ Hàn Thứ tư, tín hữu Cơ Đốc sử dụng tiếng Hàn và loại chữ viết Hangul dễ học để có thể truyền bá đức tin của mình ra bên ngoài giới khoa bảng (chỉ sử dụng ngôn ngữ bác học là chữ Hán). Dù còn nhiều điều cần phải bàn về chữ Hangul, Giáo hội Công giáo là cộng đồng đầu tiên chính thức công nhận giá trị của nó. Đầu thập niên 1780, những phần của sách Phúc Âm bằng chữ Hangul bắt đầu xuất hiện; các sách giáo lý như cuốn Chuyo Yogi được ấn hành trong thập niên 1790 và khoảng thập niên 1800 một thánh ca Công giáo cũng được xuất bản. Năm 1887, John Ross, nhà truyền giáo Trưởng Lão đến từ Scotland hoàn tất công cuộc dịch thuật Kinh Thánh sang tiếng Hàn, ngay lập tức các nhà lãnh đạo Kháng Cách tập trung vào nỗ lực phổ biến Kinh Thánh rộng rãi cho người dân Hàn. Cộng đồng Kháng Cách thành lập trường học Đức tin Kháng Cách được truyền bá vào Hàn Quốc năm 1884 bởi hai nhà truyền giáo người Mỹ: Henry Apenzeller thuộc Giáo hội Giám Lý và Horace Underwood thuộc Giáo hội Trưởng Lão. Đặc biệt quan tâm đến công tác phổ biến Kinh Thánh (đã được dịch sang tiếng Hangul từ năm 1881 đến năm 1887 bởi Mục sư John Ross, một nhà truyền giáo người Scotland tại Mãn Châu) những nhà tiên phong Kháng Cách thiết lập các cơ sở giáo dục tại Hàn Quốc. Trường Paejae (배재고등학교) dành cho nam sinh thuộc Giáo hội Trưởng Lão thành lập năm 1885, còn Giáo hội Giám Lý mở trường Ewha (이화여자고등학교) - nay là Viện Đại học Nữ giới Ewha - dành cho nữ sinh vào năm kế tiếp. Cùng với nhiều ngôi trường khác được thành lập sau đó, hai cơ sở giáo dục này đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng mau chóng của đức tin Kháng Cách trong vòng đại chúng, đến đúng thời điểm đã giúp đức tin Kháng Cách vượt qua Công giáo để trở nên tiếng nói lãnh đạo trong cộng đồng Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc. Cũng trong giai đoạn này số lượng phụ nữ biết chữ tăng cao, trước đó họ không được hưởng được gì từ hệ thống giáo dục của đất nước. Gắn bó với tinh thần dân tộc Hàn Có lẽ nhân tố quan trọng nhất giúp Cơ Đốc giáo được chấp nhận rộng rãi tại Hàn Quốc là nhiều tín hữu Cơ Đốc đã gắn bó với chính nghĩa đấu tranh cho dân tộc Hàn trong thời kỳ đất nước này bị Nhật Bản chiếm đóng (1905–1945). Khi ấy, người dân phải chịu đựng nhiều thống khổ; có đến bảy triệu người bị lưu đày hoặc bị trục xuất khỏi quê hương cùng lúc với một chiến dịch có hệ thống nhằm xóa bỏ mọi dấu vết của bản sắc dân tộc và văn hóa Hàn. Đến năm 1938, ngay cả tiếng Hàn cũng bị đặt ngoài vòng pháp luật. Ngày 1 tháng 3 năm 1919, một hội nghị gồm 33 nhà lãnh đạo tôn giáo và giới chuyên môn đã thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập. Dù hội nghị được tổ chức bởi những nhà lãnh đạo của tôn phái Cheondogyo (Thiên đạo giáo), 15 trong số 33 chữ ký là của những người thuộc cộng đồng Kháng Cách – nhiều người bị bắt giữ sau đó. Năm 1919 chứng kiến sự ra đời của Ulmindan ("Đạo quân Người Công chính") với thành phần chính là Công giáo, và sự thành lập chính phủ lưu vong đặt cơ sở tại Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Rhee Syngman (Lý Thừa Vãn), một tín hữu Giám Lý. Song tác nhân chính giúp nối kết Cơ Đốc giáo với tinh thần yêu nước trong mắt người dân Hàn là sự kiện nhiều tín hữu Cơ Đốc dám từ khước thờ lạy Thiên hoàng Nhật Bản, một điều bắt buộc trong thập niên 1930. Mặc dù tín hữu Cơ Đốc khước từ thờ lạy Thiên hoàng dù phải chịu tù đày vì cớ xác tín tôn giáo hơn là chính trị, nhiều người dân Hàn nhìn xem điều này như là sự biểu thị mạnh mẽ lòng yêu nước và sự đề kháng chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản. Ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo trên xã hội Hàn Quốc Cơ Đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi Hàn Quốc từ xã hội phong kiến sang xã hội hiện đại. Song không phải lúc nào cũng có thể phân biệt rạch ròi giữa nguyên nhân và kết quả, cũng giống như câu hỏi về con gà và quả trứng, ai có trước? Bất cứ điều gì Cơ Đốc giáo làm cho xã hội Hàn Quốc cũng sẽ khiến có nhiều người hơn hoặc chấp nhận hoặc khước từ đức tin này trong tương lại. Vì vậy, dù phân biệt giữa nguyên nhân và hệ quả có giúp làm sáng tỏ vấn đề, cần nhớ rằng một sự phân tích như thế có thể còn nhiều thiếu sót. Giáo dục Ảnh hưởng ban đầu của sự kiện Cơ Đốc giáo đem đến cho Hàn Quốc một nền giáo dục hiện đại đã được đề cập ở trên. Tiến trình phát triển chữ viết Hangul qua công tác truyền bá văn chương Cơ Đốc và qua mạng lưới trường học được thành lập bởi các hội truyền giáo đã giúp nâng cao mặt bằng văn chương của đất nước. Chữ Hangul, dù được phát kiến từ năm 1443 bởi những học giả trong triều Vua Sejong (Thế Tông), trong suốt vài thế kỷ vẫn không được quan tâm vì cớ ưu thế văn hoá vượt trội của chữ Hán. Giáo hội Công giáo là tổ chức đầu tiên chính thức công nhận giá trị chữ Hangul. Giám mục Berneux (tử đạo năm 1866) yêu cầu tất cả trẻ em Công giáo cần được học để biết đọc loại chữ này. Các giáo hội Kháng Cách cũng đòi hỏi tín hữu phải biết đọc chữ Hangul như là điều kiện tiên quyết để được dự thánh lễ Tiệc Thánh. Số phụ nữ biết đọc chữ Hangul gia tăng mau chóng, trong một xứ sở mà phụ nữ từ lâu vẫn bị loại khỏi hệ thống giáo dục. Kinh tế Kinh tế là một lĩnh vực khác mà tinh thần Cơ Đốc được xem là một trong những nhân tố giúp tạo ra những chuyển biến có tính đột phá. Các tín hữu Cơ Đốc, với xác tín mạnh mẽ vào các giá trị Cơ Đốc, đã đóng góp tích cực vào phép mầu phát triển kinh tế của đất nước này. Họ xem đức tin là nhân tố quan trọng tạo ra sự tăng trưởng và tiến bộ của xã hội Hàn Quốc trong các lĩnh vực khác nhau trong ba thập niên qua, họ cũng tin rằng sự thành công và thịnh vượng và chỉ dấu của phước hạnh đến từ Thiên Chúa. Quan hệ xã hội Có lẽ không nơi nào mà các giá trị Cơ Đốc lại có ảnh hưởng mang tính cách mạng như trong lãnh vực quan hệ xã hội. Theo truyền thống, xã hội Hàn Quốc rất mực tuân giữ tôn ti trật tự đặt nền tảng trên những nguyên tắc Khổng học dưới quyền cai trị của một hoàng đế được xem là thiên tử. Không có một quyền xã hội nào được dành cho phụ nữ; trẻ con phải tuyệt đối tuân phục cha mẹ, và cá nhân không có quyền gì ngoài những quyền được xã hội ban cho. Cấu trúc này bị thách thức triệt để bởi sự dạy dỗ của Cơ Đốc giáo cho rằng mọi người được tạo dựng theo "Hình ảnh của Thiên Chúa", và mỗi cá nhân đều có giá trị tự thân. Liên kết chặt chẽ với khái niệm này là sự tập chú vào quyền tư hữu. Tín hữu Cơ Đốc xem nhà vua chỉ đơn thuần là một con người và phải thần phục Thiên Chúa như mọi thần dân của nhà vua. Họ cũng học biết rằng thẩm quyền của Thiên Chúa là lớn hơn của nhà vua. Sự truyền bá các giá trị Cơ Đốc đã góp phần vào công cuộc giải phóng phụ nữ và bảo vệ quyền trẻ em. Kể từ năm 1784, Công giáo nói riêng và Cơ Đốc giáo nói chung, cho phép các góa phụ tái hôn (điều này vẫn bị cấm đoán trong các xã hội Đông Á), nghiêm cấm đa thê và quan hệ ngoài hôn nhân, cấm đoán hành vi bạo hành cũng như ruồng bỏ vợ. Cha mẹ có niềm tin Cơ Đốc học biết xem con cái là sự ban cho của Thiên Chúa và họ có bổn phận phải dạy dỗ con cái của mình. Tục tảo hôn và tệ hắt hủi con gái cũng bị cấm. Thần học Minjung Khái niệm Cơ Đốc về giá trị cá nhân tìm thấy sự thể hiện trong một cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân quyền và dân chủ. Trong những năm gần đây, khái niệm này được biết đến trong hình thức của nền thần học Minjung ("Dân chúng"). Đặt nền tảng trên khái niệm "Hình ảnh của Thiên Chúa", liên kết với một học thuyết truyền thống của Hàn Quốc Han (không thể dịch sang ngôn ngữ khác, nhưng ngụ ý một cảm giác về sự đau đớn không thể xoa dịu và nỗi vô vọng cùng cực), Thần học Minjung miêu tả người dân Hàn như là những chủ nhân xứng đáng cho số phận của mình. Nhấn mạnh vào tinh thần dân tộc và nhân quyền, thần học Minjung ngày càng thu hút cả cánh tả lẫn cánh hữu của xã hội Hàn Quốc. Hai trong số những nhà lãnh đạo chính trị nổi tiếng nhất Hàn Quốc, Kim Young-sam (Kim Vịnh Tam) và Kim Dae-jung (Kim Đại Trung) đều ủng hộ thần học Minjung. Cả hai đều trải qua nhiều năm trong vai trò đối lập với chính phủ quân sự tại Hàn Quốc, đều nhiều lần bị giam giữ. Kim Young-sam, một tín hữu Trưởng Lão, và Kim Dae-jung, một tín hữu Công giáo, đều lần lượt đảm nhiệm chức vụ tổng thống của quốc gia này sau khi nền dân chủ được phục hồi năm 1988. Một thể hiện khác của thần học Minjung trong những năm cuối cùng của chế độ Park Chung-hee (Phác Chánh Hy; 1961–1979) là sự trỗi dậy của một vài tổ chức Cơ Đốc như Phong trào nông dân Công giáo và Sứ mạng công nghiệp đô thị (Kháng Cách), vận động cho mức lương cao hơn cũng như điều kiện làm việc tốt hơn cho công nhân nông nghiệp và công nghiệp. Xem những phong trào như thế như là mối đe doạ cho sự ổn định xã hội, chính phủ đã cho bắt giữ và cầm tù nhiều người trong số các thủ lĩnh phong trào. Cuộc đấu tranh xảy ra cùng lúc với tình trạng bất ổn mà cao điểm là vụ ám sát Tổng thống Park vào ngày 26 tháng 10 năm 1979. Các vấn đề chính trị và xã hội Đã có rất nhiều vấn đề chính trị và xã hội gây ra bởi Cơ Đốc giáo Hàn Quốc kể từ khi tổng thống Lee Myung-bak lên nắm quyền. Chính quyền Hàn Quốc đề xuất hạn chế người dân Hàn Quốc đến vùng Trung Đông truyền đạo. Giáo sư Son Bong-ho từ Đại học Goshin lên án việc tổng thống tham dự buổi tập trung cầu nguyện của các tín đồ Cơ Đốc ở cấp nhà nước vào tháng 3 năm 2011 cho thấy mối nguy hại tiềm tàng của sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Kháng cách đối với nền chính trị Hàn Quốc vốn có tính chất thế tục. Các hành vi gây hấn và phá hoại đến từ cộng đồng Kháng cách đối với Phật giáo, tôn giáo lớn nhất ở Hàn Quốc và có ảnh hưởng lớn tới văn hóa truyền thống Hàn Quốc, đã gây nên sự chỉ trích nặng nề lên các nhà thờ Kháng cách từ phía công chúng Hàn Quốc và đã góp phần cho sự suy giảm tốc độ phát triển các tín đồ Kháng cách ở Hàn Quốc. Xung đột tôn giáo Trào lưu Kháng cách chính thống đối lập với Phật giáo đã là một vấn đề lớn trong sự hợp tác đa tôn giáo ở Hàn Quốc, đặc biệt trong giai đoạn từ thập niên 1990 đến cuối thập niên 2000. Các hành động phá hoại nhắm đến Phật giáo và "Các cuộc cầu nguyện cho sự phá hủy các chùa Phật giáo" đã gây nên sự chỉ trích nặng nề từ phía công chúng. Các tượng Phật đã bị coi là ngẫu tượng, bị tấn công và chặt đầu. Việc bắt giữ rất khó có hiệu lực, do những thủ phạm thường hành sự lén lút vào buổi đêm." Những hành động như vậy được hỗ trợ bởi một số thủ lĩnh Kháng cách, đã dẫn đến việc người dân Hàn Quốc có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Kháng cách và chỉ trích nặng nề lên các nhóm nhà thờ tham gia vào, do dó rất nhiều tín đồ Kháng cách từ bỏ các nhà thờ của họ trong những năm gần đây. Ngược lại, quan hệ giữa các tín đồ Công giáo Hàn Quốc và các Phật tử cũng như các tín đồ tôn giáo khác hầu như đều mang tính hợp tác cao, một phần do sự kết hợp của các phong tục và triết học Phật giáo và Nho giáo vào Công giáo Hàn Quốc, đáng chú ý nhất là việc thực hành jesa (tế tự).
Đại số quan hệ (tiếng Anh: relational algebra) dùng phổ biến trong lý thuyết cơ sở dữ liệu quan hệ là một bộ các toán tử và các quy tắc tương ứng có thể được sử dụng để thao tác trên các toán học (relation) và tạo ra kết quả là một quan hệ khác. Trước đây, đại số quan hệ ít được quan tâm cho đến khi Edgar F. Codd đưa ra mô hình dữ liệu quan hệ (relational model) vào năm 1970. Từ đó đến nay, đại số quan hệ được xem là nền tảng cho các ngôn ngữ truy vấn cơ sở dữ liệu. Quan hệ khả hợp Cho hai lược đồ quan hệ R(A1, A2,..., An) và S(B1, B2,..., Bm) được gọi là khả hợp nếu: - Chúng có cùng bậc: m = n. - Miền giá trị (DOM) của các thuộc tính tương ứng bằng nhau: DOM(Ai) = DOM(Bi) với 1 ≤ i ≤ n. Các phép toán Phép hợp Cho hai quan hệ R(U) và S(U) (U là tập hữu hạn các thuộc tính). Điều kiện: R,S khả hợp.Ký hiệu: R∪SKết quả: A = R∪S là một quan hệ (trên tập thuộc tính U) gồm các bộ r thỏa mãn r ∈ R hoặc r ∈ S. Phép giao Giao của 2 tập hợp R và S khả hợp là tập hợp các bộ t sao cho . Kí hiệu: . Trong đó: R và S là 2 quan hệ khả hợp. : kí hiệu phép giao tập hợp. Phép trừ Cho 2 quan hệ R & S là 2 quan hệ trên tập thuộc tính U. Hiệu 2 quan hệ R & S ký hiệu là R\S. là một quan hệ trên tập thuộc tính U và được xác định như sau: R\S={t sao cho t thuộc R và t không thuộc S} Tích Descartes Phép chọn Định nghĩa Phép chọn trên một quan hệ R là thao tác chọn ra tập con của các bộ (hàng) trong quan hệ R sao cho thỏa mãn điều kiện chọn. Nói đơn giản, thì phép chọn như là một bộ lọc, dùng để lọc các bộ dữ liệu, chỉ giữ lại các bộ thỏa mãn điều kiện chọn và loại bỏ đi các bộ không thỏa. Kết quả trả về là một quan hệ mới. Kí hiệu: . Trong đó: σ: kí hiệu phép chọn. c: điều kiện chọn, là một biểu thức mệnh đề, có thể chứa các toán tử logic như (OR - hoặc), (AND - và), ¬ (Negation - phủ định). R: quan hệ R. Tính chất Giao hoán: Kết hợp: Phép chiếu Phép chiếu dùng để chọn ra danh sách các thuộc tính trong một quan hệ, và loại bỏ những thuộc tính không cần thiết. Kết quả trả về là một quan hệ mới. Kí hiệu: . Trong đó: : kí hiệu phép chiếu. : danh sách các thuộc tính cần chiếu có trong bảng quan hệ R. R: quan hệ R. Phép đổi tên Kí hiệu: hoặc hoặc . Trong đó: : kí hiệu của phép đổi tên. hay hay : là tên mới của quan hệ được đổi tên, với các thuộc tính của nó. R: quan hệ R. Ví dụ: , hay dùng để đổi tên quan hệ NHANVIEN thành quan hệ mới, NV. Phép kết nối Phép nối tự nhiên Phép nối \theta Kí hiệu: . Trong đó: R và S: là các quan hệ. : kí hiệu của phép nối , với là một biểu thức logic. Nhận xét: Phép nối ngoài cc Phép nối ngoài - bên trái Phép nối ngoài - bên phải Phép nối ngoài đầy đủ Phép chia
Nhuộm răng là một trong những phong tục xưa của nền văn hóa Đông Nam Á và châu Đại dương, đặc biệt là ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo, ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Kra-Dai. Tập tục này cũng xuất hiện ở Nhật Bản trước thời Minh Trị, cũng như ở Ấn Độ. Ngoài ra, tục nhuộm răng còn có tại một số nhóm dân tộc thiểu số ở châu Mỹ, đáng chú ý nhất là những người Shuar ở phía bắc Peru và Ecuador. Đối với Việt Nam, ngoài người Kinh, các dân tộc khác như Nùng, Si La, Tày, Dao đều có tục này; nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm. Tục lệ này vẫn tồn tại ở một số nhóm dân tộc biệt lập ở Đông Nam Á và Châu Đại Dương nhưng hầu như đã biến mất sau khi các tiêu chuẩn vẻ đẹp phương Tây du nhập vào thời kỳ thuộc địa và tiếp tục trong nhiều nhóm dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, các đảo Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Nó chủ yếu phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi, mặc dù tập tục này vẫn được thực hiện bởi một số phụ nữ trẻ. Đôi khi răng giả được sử dụng để làm răng đen. Lịch sử Việt Nam Theo các truyện cổ tích Việt Nam thì từ hàng nghìn năm trước người Việt đã có tục nhuộm răng. Theo truyền thuyết Việt Nam tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Khoảng vào năm 1862, khi nền văn minh Tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, và nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, phong tục này mới bị mai một đi mất Nhật Bản Tại Nhật Bản, tục nhuộm răng đen gọi là Ohaguro (お歯黒?, âm Hán Việt: xỉ hắc). Lối trang sức này thường dành cho phụ nữ đã có chồng nhưng nam giới cũng theo, coi như một cách ngừa sâu răng tương tự như chất trám răng của nha khoa hiện đại. Tục này cũng được nhắc đến trong Truyện kể Genji. Vào cuối thời Heian, tục nhuộm răng khá phổ biến trong giới quý tộc. Nam giới và con gái đến tuổi dậy thì đều theo. Ngoài ra Gia tộc Taira và các võ sĩ samurai thì đến các đền chùa xin nhuộm răng và vẽ lông mày. Hoàng tộc Nhật Bản giữ lệ nhuộm răng đen cuối thời đại Edo mới bỏ. Sau thời kỳ Edo, lệ này chỉ có một số người theo như nam giới quý tộc, phụ nữ có chồng. Gái mại dâm và geisha cũng giữ tục nhuộm răng. Đối với dân quê tục nhuộm răng được gắn liền với việc hiếu hỷ (lễ cưới, đám tang). Ngày 5 Tháng Hai năm 1870, triều đình Nhật Bản ra lệnh cấm tục nhuộm răng nên lệ này mai một dần đến hết thời Minh Trị. Sang triều Taisho thì gần như mất hẳn. Nhật Bản ngày nay không còn tục nhuộm răng nhưng trong các phim kịch và sách truyện lịch sử vẫn còn nhắc đến. Ngoài ra giới geisha đôi khi còn thực hiện nên khách ghé hanamachi (xóm làng chơi) thỉnh thoảng vẫn còn thấy người răng đen. Thái Lan Trước đây, một người phụ nữ Thái (Xiêm) được xem là đẹp khi có sự hài hòa về trang phục và trang sức. Họ quấn khăn, mặc váy và đặc biệt hàm răng phải được nhuộm đen óng ánh. Nhuộm răng là bảo vệ hàm răng của mình. Từ thói quen ăn trầu, tục nhuộm răng là cách để giữ cho răng bền, hạn chế các bệnh về răng miệng. Ngày xưa người Xiêm biết nhuộm răng đen từ rất sớm, tập tục xuất hiện trong các thời kỳ lập nên vương quốc Sukhothai, Lanna và Ayutthaya thông qua tục ăn trầu. Tục nhuộm răng cũng đánh dấu ngưỡng cửa bước vào cuộc đời trưởng thành của người Xiêm nên chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm răng là để cho răng đẹp, chắc, bền và tránh sâu răng. Cả nam lẫn nữ Xiêm La đều biết nhuộm răng. Cách nhuộm răng của họ cũng rất độc đáo. Đầu tiên, họ làm sạch răng bằng cách dùng miếng cau chà sát nhiều lần. Sau đó, họ nướng lưỡi dao cùn trong than hồng cho nóng, rắc bột cánh kiến lên sao cho cánh kiến nóng chảy ra. Tiếp tục chờ cho bột cánh kiến nguội bớt mới lấy phần nhựa đó quệt vào răng nhiều lần sao cho bao bọc toàn bộ hàm răng. Trong vòng 7 đến 10 ngày sau khi nhuộm răng, họ sẽ kiêng không ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng. Khi màu răng chuyển sang màu ngà vàng, trai gái sẽ tiếp tục nhuộm đen bằng nhựa cây bồ hòn. Hình ảnh người Thái có hàm răng đen cũng xuất hiện trong phim Tình người duyên ma. Ngày nay, hầu như người Thái vùng nông thôn và nhất là người già hay các dân tộc thiểu số còn giữ tập tục nhuộm răng đen như người Akha, người Lật Túc,... Kỹ thuật nhuộm răng ở Việt Nam Thời gian nhuộm Trong những tập tục của người Việt, khi trẻ con thay răng sữa, nếu là răng hàm dưới thì vứt răng xuống gầm giường, còn trên thì vứt lên mái nhà và hô 3 tiếng cho "ông thiêng" cho nó tha đi để mà mau mọc răng. Người ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm vì lúc ấy răng còn non, độ thấm của thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người bình dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng người giàu có hay quan lại lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp gia truyền khác nhau. Với bà thầy Thại, một người nhuộm răng nổi tiếng ở Huế, mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà trong thời gian nửa tháng. Buổi chiều "bà thầy" cho người đang nhuộm leo lên một đồi nhỏ trong làng, há miệng to để gió thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, đại lý thuốc của bà có ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi... Thành phần thuốc nhuộm Thuốc nhuộm răng gồm các thành phần căn bản như sau: Bột nhựa cánh kiến Nước cốt chanh Phèn đen Nhựa của gáo dừa. Cách nhuộm Người Si La có tục nhuộm răng phổ biến nhưng nam giới nhuộm răng đỏ còn nữ nhuộm đen. Phần viết về người Dao có đoạn: "Người Dao nhuộm răng đơn giản bằng nước vắt của lá cây mơ tam thể hoặc lá cây mơ lông. Cách này có độ bền kém cho nên thường phải nhuộm lại luôn." Đối với người Kinh, cách nhuộm răng được miêu tả như sau: Khởi đầu, miệng và răng phải được làm vệ sinh thật sạch cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh để lớp men răng "mềm" đi, axit của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm vì răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, răng lung lay như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7–10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng sẽ gỡ ra lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau đó phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua, để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng phải ngậm miệng suốt đêm, tránh để miếng thuốc nhuộm bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt chửng thức ăn chứ không được nhai. Khi thấy răng có màu đỏ già (màu của cánh kiến) thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng gọi là "giết răng". Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu. Được bảo vệ cẩn thận răng nhuộm có thể giữ màu đen bóng 20, 30 năm. Muốn cho hàm răng lúc nào cũng đen nhánh thì độ một năm lại nhuộm bồi thêm một lớp. Răng không được chăm sóc sẽ bị phai màu, loang lổ gọi là "răng cải mả", trông không đẹp. Dân tộc Kinh Tục ngữ Việt có câu "cái răng cái tóc là góc con người" nên hàm răng đen ngày trước là tối quan trọng, không kém gì mái tóc. Tục nhuộm răng cũng đánh dấu ngưỡng cửa bước vào cuộc đời trưởng thành của mỗi người. Người nào không nhuộm răng thì dư luận cho là người không đứng đắn. Trong một xã hội cổ truyền vốn coi trọng sự suy xét của cộng đồng nói chung thì câu "răng trắng như răng chó" là có ý chê trách. Răng đen cũng là một đặc điểm khác biệt giữa người Việt và người Tàu nên còn có câu: "răng trắng như răng Ngô". Tục nhuộm răng đối với người Việt thường gắn liền với tục ăn trầu tuy hai tập tục này là hai khía cạnh khác nhau về xã giao và đoàn kết. Truyền thuyết Theo các truyện cổ tích Việt Nam thì từ hàng nghìn năm trước người Việt đã có tục nhuộm răng. Theo truyền thuyết Việt Nam tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang đã trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu rằng: "Người Việt có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...". Nhưng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình, còn tục nhuộm răng không thấy. Theo Lịch sử Việt Nam (tập 1, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, 1971, trang 48) có đoạn: "Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tóc hoặc cắt tóc ngắn. Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu". Trong bài hịch của vua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc nhà Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt. Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn... Thợ nhuộm răng Tục nhuộm răng có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi lên mười ba, mười bốn tuổi, mọi người đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài từ một đến hai tuần và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết được công thức pha chế. Ở nông thôn có người nhuộm răng gọi là "thầy", ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề. Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa chợ, các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu cũng có một đến hai "bà thầy" nhuộm răng. Ở kinh đô Huế có bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa... Muốn nhuộm răng phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng mới được nhuộm. Văn chương Trong văn chương thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen ai nhuộm cho mình Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say? (Ca dao) Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái. Trong bài "Mười thương" của ca dao Việt Nam có đoạn: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua Và để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công trang điểm má hồng răng đen. (Ca dao) Và: Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, miệng người răng đen.(Ca dao) Còn trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm thì: ...Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu toả nắng... Trong thành ngữ Việt Nam cũng có nhắc đến phong tục này Con gà tốt mã về lông,Răng đen về thuốc, rượu nồng về men'' Sự suy tàn của tục nhuộm răng Việt Nam Tục nhuộm răng là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng. Khoảng vào năm 1862, khi nền văn minh Tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, và nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đã để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuở mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, phong trào nữ quyền, giải phóng,...; những phong trào này phát triển rầm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo Tây, làm me Tây...; còn nhóm kia thì cho rằng tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Thời đó, người ta chỉ đánh giá bề ngoài mà không chú trọng nhân cách, tư tưởng ở bên trong. Đấy là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm răng ở Việt Nam. Răng đã nhuộm đen sau đem cạo trắng thường không trắng hẳn mà có màu xám/đen lờ lợ không đều. Tiếng Việt cũng dùng từ ngữ "răng cải mả" giống như loại răng đen mà để phai để gọi hàm răng không mấy đẹp này.
Nam Trực là một huyện thuộc tỉnh Nam Định, Việt Nam. Huyện Nam Trực nằm ở phía đông của tỉnh Nam Định, có sông Hồng và sông Đào chảy qua. Thị trấn Nam Giang là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của huyện, cách thành phố Nam Định 10 km, cách Hà Nội 110 km. Diện tích: 163,89 km²  Dân số: 185.840 người (2021), 40% dân số theo đạo Thiên Chúa. Hành chính Huyện Nam Trực có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Giang (huyện lỵ) và 19 xã: Bình Minh, Điền Xá, Đồng Sơn, Hồng Quang, Nam Cường, Nam Dương, Nam Hải, Nam Hoa, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lợi, Nam Mỹ, Nam Thái, Nam Thắng, Nam Thanh, Nam Tiến, Nam Toàn, Nghĩa An, Tân Thịnh. Địa lý Vị trí địa lý Huyện Nam Trực nằm ở phía đông của tỉnh Nam Định, cách thành phố Nam Định khoảng 10 km về phía đông, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 110 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình Phía tây giáp huyện Nghĩa Hưng và huyện Vụ Bản Phía nam giáp huyện Trực Ninh Phía bắc giáp thành phố Nam Định. Điều kiện tự nhiên Diện tích đất tự nhiên của huyện là 16.171 ha, chiếm 9,79% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, gồm: Đất nông nghiệp 11.579 ha, chiếm 71,61%; đất phi nông nghiệp 4.522 ha, chiếm 27,96% và đất chưa sử dụng 70 ha, chiếm 0,43%. Địa hình Nam Trực rất thuận lợi cho sự phát triển của ngành nông nghiệp. Phía bắc và phía nam là vùng trũng, thuận lợi cho việc trồng lúa nước, vùng giữa huyện từ tây sang đông, dọc theo con đường Vàng thuận lợi cho việc phát triển các loại hoa màu và cây công nghiệp. Vùng đồng bãi chạy dọc theo đê sông Đào dài 15 km phía tây huyện và theo đê sông Hồng 14 km phía đông huyện thuận lợi cho việc phát triển rau màu và nghề trồng dâu nuôi tằm. Chạy dọc từ bắc xuống nam là sông Châu Thành cùng với các nhánh sông khác, thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và phát triển giao thông đường thủy; sông Hồng, sông Đào là nguồn cung cấp nước chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa bàn huyện. Từ Bắc xuống Nam huyện có có quốc lộ 21 dài 13 km ở phía Đông và tỉnh lộ 490C (đường 55 cũ) dài 15,8 km ở phía tây; từ đông sang tây có 3 tuyến đường giao thông chạy song song từ đường 21 sang đường 490C gồm các tuyến đường: Đường Vàng, đường Trắng, đường Đen, tạo nên hệ thống giao thông thủy bộ liên hoàn rất thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế. Thủy văn Nam Trực được bao quanh bởi các con sông: - Phía Đông là sông Hồng, kéo dài từ xã Nam Mỹ đến Nam Thanh, phía bên kia là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. - Phía Tây là sông Nam Định, kéo dài từ xã Nghĩa An đến xã Đồng Sơn, phía bên kia là huyện Vụ Bản. - Phía Đông Nam là sông Lữ, kéo dài từ xã Nam Thanh, đến xã Nam Hải. - Phía Nam là sông Rõng, kéo dài từ cống Ghềnh, xã Nam Hải, đến thôn Trung Thái, xã Nam Thái. - Chạy dọc giữa huyện là sông Châu Thành dài khoảng 16,5km từ cống Ngô Xá, Nam Mỹ đến cống Ghềnh, Nam Hải. Khí hậu Khí hậu huyện Nam Trực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều. Lịch sử Thời Bắc thuộc, Nam Trực thuộc huyện Tây Chân, là yết hầu của phủ Thiên Trường. Thời Trần, Nam Trực là vọng gác phía nam của Nam Định. Thời thuộc Minh, là phủ Phụng Hoá. Thời Lê Trung Hưng, do kiêng huý chúa Tây Vương Trịnh Tạc, Tây Chân được đổi thành Nam Chân. Thời Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 14 (năm 1833), Nam Chân được chia thành hai huyện Nam Chân và Chân Ninh, sau đổi thành Nam Trực và Trực Ninh. Sau năm 1954, huyện Nam Trực có 32 xã: Bắc Sơn, Nam An, Nam Bình, Nam Chấn, Nam Cường, Nam Điền, Nam Đồng, Nam Dương, Nam Giang, Nam Hải, Nam Hoa, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lợi, Nam Long, Nam Minh, Nam Mỹ, Nam Nghĩa, Nam Ninh, Nam Phong, Nam Phúc, Nam Quan, Nam Quang, Nam Tân, Nam Thắng, Nam Thịnh, Nam Tiến, Nam Toàn, Nam Trung, Nam Vân, Nam Xá, Thái Sơn. Ngày 26 tháng 3 năm 1968, hai huyện Nam Trực và Trực Ninh sáp nhập thành huyện Nam Ninh. Ngày 21 tháng 8 năm 1971, hợp nhất xã Nam Đồng và xã Bắc Sơn thành một xã lấy tên là xã Đồng Sơn. Ngày 23 tháng 2 năm 1974, sáp nhập thôn Ngưu Trì của xã Nam Hùng vào xã Nam Cường, sáp nhập hai thôn Thọ Trung và Điện An của xã Nam Minh vào xã Nam Hùng, sáp nhập ba thôn Đầm, Vượt, Vọc của xã Nam Bình vào xã Nam Dương, sáp nhập hai thôn Hiệp Luật, Cổ Lung của xã Nam Dương vào xã Nam Bình. Ngày 23 tháng 2 năm 1977, hợp nhất xã Nam Bình và xã Nam Minh thành một xã lấy tên là xã Bình Minh; cắt thôn Nam Sơn của xã Thái Sơn vào xã Nam Phúc lấy tên xã mới là xã Nam Thái; hợp nhất xã Nam Lợi và xã Nam Quan thành một xã lấy tên là xã Nam Lợi. Ngày 1 tháng 2 năm 1978, hợp nhất xã Nam Hồng và xã Nam Trung thành một xã lấy tên là xã Nam Hồng; hợp nhất xã Nam Long và xã Nam Ninh thành một xã lấy tên là xã Nam Thanh. Ngày 27 tháng 3 năm 1978, hợp nhất xã Nam Điền và xã Nam Xá thành một xã lấy tên là xã Điền Xá; hợp nhất xã Nam Chấn và xã Nam Quang thành một xã lấy tên là xã Hồng Quang; hợp nhất xã Nam Tân và xã Nam Thịnh thành một xã lấy tên là xã Tân Thịnh; hợp nhất xã Nam An và xã Nam Nghĩa thành một xã lấy tên là xã Nghĩa An. Ngày 2 tháng 1 năm 1997, 2 xã Nam Phong và Nam Vân được sáp nhập về thành phố Nam Định. Ngày 26 tháng 2 năm 1997, thực hiện Nghị định 19/NĐ-CP của Chính phủ, huyện Nam Ninh lại chia thành 2 huyện Nam Trực và Trực Ninh sau 29 năm hợp nhất. Huyện Nam Trực gồm 20 xã: Bình Minh, Điền Xá, Đồng Sơn, Hồng Quang, Nam Cường, Nam Dương, Nam Giang, Nam Hải, Nam Hoa, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lợi, Nam Mỹ, Nam Thái, Nam Thắng, Nam Thanh, Nam Tiến, Nam Toàn, Nghĩa An, Tân Thịnh. Ngày 14 tháng 11 năm 2003, chuyển xã Nam Giang thành thị trấn Nam Giang, thị trấn huyện lỵ huyện Nam Trực. Huyện Nam Trực có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay. Kinh tế Nông nghiệp nay vẫn là ngành nghề chính của nhân dân nơi đây. Công nghiệp chưa phát triển, chỉ giới hạn trong một số ngành thủ công nghiệp truyền thống tuy nhiên rất manh mún. Trước thời "đổi mới", xã Nam Giang tổ chức sản xuất tổng hợp các mặt hàng phụ tùng xe đạp, vật dụng trong nhà bếp, dụng cụ cho nông nghiệp, các sản phẩm từ lò rèn trong một "Hợp tác xã" của 4 hợp tác xã thành viên là "Hợp tác xã Tiền Tiến". Làng Vân Chàng thuộc xã Nam Giang là một làng nghề truyền thống thợ rèn và có nguồn gốc ông tổ nghề Rèn ở Núi Tiên (rú Tiên). Từ 2005, xã Nam Giang đã nâng cấp lên thành thị trấn Nam Giang. Tiểu công nghiệp các ngành kim loại phát triển trở thành một địa phương có cơ sở hạn tầng hoàn bị để sản xuất mọi mặt hàng, như kéo, dao, đồ dùng gia dụng, linh kiện xe đạp, xe máy, xe ô tô, các thành phẩm, bán thành phẩm từ lò đúc gang, thép, kim loại màu, và các nhà máy cán thép, kim loại. Thương hiệu từ xưa đã đi vào lòng dân tộc của xã Vân Chàng: tràng đục chữ "C", kéo "Sinh Tài",... Sau này có vành xe đạp "Tiền Tiến",... Thời kỳ 2010-2013 nền kinh tế của huyện Nam Trực có bước tăng trưởng khá và luôn giữ ở mức ổn định, cơ cấu kinh tế đang được tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 11-12%/năm. Cơ cấu kinh tế như sau: Nông nghiệp - thủy sản chiếm 21,5 %; Công nghiệp - xây dựng chiếm 56,4% và Ngành dịch vụ chiếm 22,1%. Làng nghề: Làng Báo Đáp - Hồng Quang - Nam Trực nổi tiếng cả nước với nghề làm đèn ông sao và hoa giấy. Nghề làm Nón lá ở xóm Rục Kiều thôn Cổ Gia - Nam Hùng - Nam Trực. Làng Dệt vải ở thôn Liên Tỉnh - Nam Hồng - Nam Trực,... Đầu tư và xây dựng Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn huyện năm 2017 là 2192,2 tỷ đồng, tăng 15,4% so với năm 2016, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 385,1 tỷ đồng, khu vực ngoài Nhà nước 1404,7 tỷ đồng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 402,3 tỷ đồng. Các nguồn lực được huy động để phục vụ cho xây dựng nông thôn mới, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của huyện, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Toàn huyện có 384 cơ sở (33 doanh nghiệp, 351 cơ sở cá thể) với 3036 lao động hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2017 là 1323,1 tỷ đồng, tăng 16,3% so với năm 2016. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm các loại 2017 đạt 20018 ha, giảm 1,4% so với năm 2016. Trong đó, diện tích cây lương thực có hạt 17384 ha, riêng diện tích trồng lúa là 17013ha. Năng suất lúa cả năm 105,84 tạ/ha, sản lượng lương thực có hạt 90153 tấn. Đến 1/10/2017, có 571 con trâu (giảm 2,1% - 12 con), 3509 con bò (giảm 7,4% - 280 con), đàn gia cầm là 706,6 nghìn con, giảm 0,3%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 15100 tấn Sản lượng gỗ 2017 đạt 55 m³ gỗ và 440 ste củi. Năm 2017, có 605 ha diện tích nuôi trồng thủy sản, sản lượng 2520 tấn. Sản xuất công nghiệp Năm 2017, có 3270 cơ sở sản xuất công nghiệp: 84 DN tư nhân, 6 HTX, 3177 cơ sở SX cá thể, 3 DN có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số lao động 16087 người, tăng 1,5%. Giá trị sản xuất CN năm 2017 6434,4 tỷ đồng. Thương mại, dịch vụ Năm 2017, toàn huyện có 21 chợ, 133 doanh nghiệp, 3 HTX và 6059 cơ sở cá thể với 11103 lao động hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa năm 2017 theo giá hiện hành là 1692,2 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm trước. Xã hội Giáo dục Truyền thống giáo dục Nhân dân Nam Trực đã có truyền thống hiếu học. Trong các khóa thi do các triều đại phong kiến tổ chức, Nam Trực có 18 người đạt học vị tiến sĩ (trong khi cả tỉnh có 62 người đỗ tiến sĩ và phó bảng), 3 trong tổng số 5 trạng nguyên của tỉnh Nam Định là người Nam Trực. Riêng làng Cổ Chử có Trần Văn Bảo đỗ trạng nguyên, con là Trần Đình Huyên đỗ tiến sĩ. Đặc biệt, ở đời nhà Trần, Nguyễn Hiền quê ở làng Dương A (xã Nam Thắng) đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi - trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Một số cá nhân khoa bảng khác của Nam Trực: Bảng nhãn Lê Hiến Giản (1341-1390?), tiến sĩ Lê Hiến Từ (1341-1390?), tiến sĩ Phạm Khắc Thận (1441-1509), tiến sĩ Nguyễn Ý (1485-?),... Giai đoạn hiện nay Giáo dục mầm non Giáo dục mầm non ở huyện Nam Trực gồm chỉ gồm các cơ sở giáo dục công lập với số lượng ổn định là 33 cơ sở từ năm 2010 đến 2017. Năm 2018 giảm xuống sau khi thực hiện đề án sáp nhập các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học trong huyện. Số lớp học tăng từ 320 lớp năm 2010 lên 380 lớp năm 2017 Số lượng giáo viên cũng tăng liên tục từ 323 giáo viên (2010) lên 755 giáo viên (2017). Cùng với đó, số lượng học sinh cũng tăng từ 6824 em (2010) lên 11334 em (20170, kéo theo đó là số học sinh bình quan trên một lớp học tăng từ 21 học sinh/lớp (2010) lên 30 học sinh/lớp (2017). Giáo dục phổ thông Y tế Số cơ sở y tế, giường bệnh do cấp huyện quản lý Số nhân lực y tế do cấp huyện quản lý Văn hóa Di tích lịch sử văn hóa Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Đền chùa Thọ Tung Đền Am Di tích đền Thượng Lao, đền Xối Thượng và hai vị Đại khoa đời Trần Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền Đền Gin Đền Giao Cù Chùa Đại Bi Đình Xám Đền An Lá, Xã Nghĩa An Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Đền Cả, làng Đỗ Xá, xã Điền Xá Đền Quán Các, xã Tân Thịnh Đình, chùa, miếu thôn Rạch, xã Hồng Quang Chùa Na, đền Thượng, thôn Bách Tính, xã Nam Hồng Đền Thái Hòa, thôn Bách Tính, xã Nam Hồng Đền Thạch Cầu, xã Nam Tiến Đình Tây Lạc, xã Đồng Sơn Đình Tứ Giáp, xã Nam Cường Đền Tiền Vinh, xã Nam Thái Đình, chùa Đồng Côi Đình làng Vân Chàng Chùa Hưng Đễ, xã Nam Hoa Chùa Đồng Quỹ, xã Nam Tiến Từ đường họ Phạm, thôn Hải Hạ, xã Nam Thái Quần thể di tích đền, chùa, động, phủ Thanh Am làng Thanh Khê, xã Nam Cường Đình Vị Khê Đền Đồng Phù Chùa Vân Đồn, xã Nghĩa An Đình Xuân Lôi Cầu Ngói, chợ Thượng, xã Bình Minh Lễ hội truyền thống Nam Trực là vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử - văn hóa với 397 di tích, trong đó 13 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia, 48 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh. Gắn với hệ thống di tích là các sinh hoạt văn hóa dân gian, hàng trăm lễ hội truyền thống của nhân dân làng xã từ bao đời nay, trong đó thường tập trung vào 3 tháng mùa xuân. - Lế hội chợ Viềng, mùng 8 tháng Giêng. Từ xa xưa, người dân nơi đây đã truyền nhau câu ca: “Bỏ con, bỏ cháu, không bỏ hai mươi sáu chợ Yên/ Bỏ tổ bỏ tiên không bỏ chợ Viềng mồng tám” để khẳng định ý nghĩa đặc biệt về mặt tâm linh của phiên chợ này. - Lễ hội hoa, cây cảnh Vị Khê được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 16 tháng Giêng. - Hội chùa Bi diễn ra vào ngày 20-22 tháng Giêng, nổi tiếng với câu ca truyền tụng “Hai mươi phát tấu chùa Bi/Trai đi được vợ, gái đi được chồng”. Trong “Tân Biên Nam Định địa dư chí lược” của Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1880) Khiếu Năng Tĩnh có ghi: “Giàu nghèo cũng cứ chơi xuân,/ Thắp hương cầu phúc, bước chân vui vầy,/ Thứ nhất thì hội Phủ Dầy/ Vui thì vui vậy, không tày chùa Bi” - Lễ hội truyền thống Đền Am, thị trấn Nam Giang. - Lễ hội Đồng Phù, xã Nam Mỹ. Đây là lễ hội chung của hai làng Đồng Phù và làng Vô Hoạn, hàng năm tổ chức vào ngày mồng 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch. Thể thao Cùng với thông lệ 4 năm một lần đại hội Thể dục thể thao (TDTT), huyện Nam Trực tổ chức Đại hội TDTT trong nhân dân với không khí thi đua sôi nổi. Các môn thi đấu bao gồm 7 môn: cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, dân vũ, cờ vua, cờ tướng, đi xe đạp chậm. Đại hội và các công tác chuẩn bị kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, bốn năm một lần. Đại hội gần nhất là Đại hội lần thứ IX diễn ra từ trong các ngày 27-28/8/2022. Ẩm thực Dân làng Giao Cù, xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định từ xưa đến nay, phần lớn đều sinh sống bằng nghề làm phở bò. Vượng nhất là dòng họ Cồ, nổi danh từ Nam chí Bắc. Họ khai nghề từ năm 1925, với hình ảnh ông Cồ Hữu Vạng, người đầu tiên gánh phở lên Hà Nội bán hàng. Sau đó dòng phở Cồ tràn về Hà Nội có lúc “đánh át” cả mấy cái anh phở Thìn, phở Tư Lùn nức tiếng phố cổ ngày nào. Nem nắm Nam Trực. Đây là món ăn thương hiệu, đã có mặt trên bản đồ ẩm thực. Món ăn được tạo nên từ bì, mỡ, thịt lợn, kết hợp cùng thính được làm từ gạo tám rang thơm và các loại gia vị, rau thơm. Quả nem được nắm lại thành các nắm nhỏ, vừa ăn cho mâm cỗ 4-6 người, gói trong lá sung hoặc lá chuối; có thể ăn ngay sau khi đóng gói. Bên cạnh đó, Nam Trực còn một số món ăn khác như bánh gai, bún, ... Văn hóa ứng xử Người dân nơi đây thân thiện, mến khách, lịch sự; giao tiếp ứng xử theo chuẩn mực chung. Toàn huyện thi đua Phong trào Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Năm 2022, toàn huyện có 223/223 thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu thôn, tổ dân phố văn hóa, đạt tỷ lệ 100%; 58.591/65.561 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 89,36%. Âm nhạc Âm nhạc dân gian Xứ Thành Nam vốn có truyền thống về các loại hình âm nhạc dân gian như: Hát trầu văn, hát xẩm, hát bội, hát ả đào. Mở đầu cho việc đưa hát văn lên sân khấu cũng như biểu diễn như những tác phẩm nghệ thuật độc lập ở tỉnh Nam Định phải kể đến nghệ sỹ ưu tú Kim Liên (huyện Nam Trực, Nam Định), Bà chính là người trực tiếp mang tiếng Hát văn phục vụ Hội Nghị Paris năm 1969. Văn học Điện ảnh và truyền hình Hội họa Danh nhân nổi tiếng Trạng nguyên Huyện Nam Trực có 3 vị trạng nguyên trong tổng số 5 trạng nguyên của tỉnh Nam Định, trong 49 vị trạng nguyên nước Việt. Đó là các vị: Nguyễn Hiền, Vũ Tuấn Chiêu, Trần Văn Bảo. Phó thủ tướng - Ông Đặng Việt Châu (1914-1987): Quê xã Nam Hồng, Phó Thủ tướng Chính phủ từ năm 1974-1975. - Ông Ngô Xuân Lộc (sinh 1940): Quê xã Nam Hồng, Phó Thủ tướng Chính phủ từ năm 1997-1999. - Ông Vũ Văn Ninh (sinh 1955): Quê xã Nam Dương, Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016. Bộ trưởng - Ông Mai Chí Thọ (1922-2007): Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhiệm kỳ 1986-1991, Đại tướng Công an Nhân dân Việt Nam đầu tiên. - Ông Đinh Đức Thiện (1914-1986): Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải từ năm 1980-1982, Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. - Ông Phan Văn Giang (sinh 1960): Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đương nhiệm. Quân hàm Đại tướng. Chính khách - Ông Lê Đức Thọ (1911-1990): Trưởng ban Tổ chức Trung Ương, phụ trách nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài 1956-1982, trực tiếp phụ trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp định Paris. - Ông Nguyễn Văn Vịnh: (1918-1978): Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương. - Ông Trần Xuân Bách (1924-2006): Ủy viên Bộ Chính trị khóa VI, Bí thư Trung ương Đảng. - Ông Viễn Chi (1919-1999):Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công an (1967-1988). - Ông Nguyễn Văn Tính (1944-2006) Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công an Du lịch Tại thị trấn Nam Giang, thôn Cẩm Nang (Giáp Ba) và Thượng thôn Kinh Lũng (Giáp Tư) có lễ hội chợ Viềng họp hàng năm vào ngày 8 tháng giêng âm lịch. Đáng kể là hội chùa Bi để ghi ơn Đức Thánh Tăng Từ Đạo Hạnh mỗi năm vào ngày 21 tháng Giêng âm lịch kéo dài 4 ngày và hội này có giá trị văn hóa lớn đã có bề dày lịch sử từ gần 1000 năm. Bên cạnh phía Đông Chùa Đại Bi còn có khu danh lam thắng cảnh Đền Giáp Ba, khu di tích này còn lưu giữ nhiều hoành phi câu đối, đồ thờ khí tự cổ từ thời Hậu Lê vẫn còn nguyên giá trị. Khu di tích này được công nhận di tích lịch cấp quốc gia vào ngày 28 tháng 1 năm 1994. Đền thờ Triệu Việt Vương Hoàng đế ngày mở hội từ 12/8 âm lịch đến ngày 14/8 (đây cũng là ngày chính kỵ). Đền thờ Vua có lối kiến trúc kiểu cung đình hài hòa cân đối, điều đặc sắc ở đây hàng năm tổ chức lễ hội dân làng làm cỗ mỗi nhà một mâm xôi gà lên dâng thánh, tế song, còn có lễ khao quân đây là một nét đẹp trong vùng không nơi nào có được. Chùa Bi còn gọi là Đại Cổ Bi là một chứng tích lịch sử bằng gỗ lim từ triều Lý được gìn giữ gần như toàn vẹn, không bị các trùng tu thay đổi. Tương truyền những nơi này là nơi quân Tây Sơn đi qua làm lễ khao quân. Kết hợp văn hóa Phật giáo và làng nghề truyền thống là môi sinh cho đời sống đạo đức, văn hóa, có bản năng hiếu khách và dân làng đã có công đem nghề rèn ra khắp ba miền Trung, Nam, Bắc. Tương truyền cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng đã có giao lưu với các nhà Nho thợ rèn và đã gói về nhà vế đối: "sắc không, không sắc". Với nghề rèn và văn hóa chữ "Nôm" do Thánh Tăng Từ Đạo Hạnh truyền cho, dân làng đã đóng góp cho đất nước bằng kỹ năng và trí tuệ của mình. Từ xưa huyện Nam Trực đã là đất hiếu học với bốn vị trạng nguyên trong đó có Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi mới mười hai tuổi. Làng Vân Chàng còn có một trạng nguyên là "Thợ Rèn".. Làng nghề Nói đến những vùng đất trăm nghề, địa phương nhiều nghề người ta thường nghĩ tới các huyện gần thủ đô. Nhưng ở một huyện giáp thành Nam như Nam Trực cũng có rất nhiều làng nghề, nghề phụ. Các làng nghề xưa, nghề phụ góp phần thúc đẩy kinh tế hộ gia đình tại các địa phương trong huyện: Làng hoa, cây cảnh Vị Khê (Điền Xá) Nghề rèn Vân Chàng (thị trấn Nam Giang) Nghề dệt vải, khăn Liên Tỉnh (Nam Hồng) Mây tre đan Thạch Cầu (Nam Tiến) Làng nghề làm phở Vân Cù (Đồng Sơn) Nghề cơ khí, rèn thôn Tư (Nam Giang) Nghề thêu ren Phú Thọ (Nam Thái) Làm mành ở Đỗ Xá (Điền Xá) Làng nghề vật liệu xây dựng An Lá (Nghĩa An) Trồng hoa, đào, quất cảnh Nam Mỹ, Nam Toàn Làng nghề cơ khí Đồng Côi (Nam Giang) Nghề xây dựng Vũ Lao (Tân Thịnh) Làng nghề làm phở Giao Cù (Đồng Sơn) Nghề thổi thủy tinh Xối Trì (Nam Thanh) Nghề làm nón thôn Cổ Gia (Nam Hùng) Chế biến lương thực thôn Ba (Nam Giang) Làm đèn ông sao, nhựa Báo Đáp (Hồng Quang) Có nghề đúc đồng thôn Quỹ Nhất (Nam Tiến) Làng nghề dệt Trung Thắng (Nam Thanh) Làng nghề miến, bánh thôn Phượng (Nam Dương) Nghề tơ tằm Đại An (Nam Thắng) Có nghề làm kẹo lạc Thượng Nông (Bình Minh) Làng nghề phế liệu và tái chế Vô Hoạn (Nam Mỹ) Làm khăn xếp Giáp Nhất (Nam Giang) Làng nghề làm phở Tây Lạc (Đồng Sơn) Nghề nhôm đúc Bình Yên (Nam Thanh).
Hồ Trúc Bạch là một hồ thuộc quận Ba Đình, thủ đô Hà Nội, Việt Nam, nguyên là một phần hồ Tây. Sự hình thành Trước kia đây là hồ Tây, ở vào góc Đông Nam. Thời trước khu vực này vì sóng lặng hơn nên cá hồ Tây thường tụ về đây. Dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang (nay là phố Quán Thánh) đắp một con đê nhỏ để ngăn góc này lại, đánh cá cho dễ hơn, và sau là nuôi cá. Sau đó chúa Trịnh cho đắp con đê rộng ra, và gọi là đê Cố Ngự (nghĩa là giữ vững). Sau này đường Cố Ngự bị đọc chệch thành Cổ Ngư, và là đường Thanh Niên ngày nay. Phía Đông hồ có bán đảo, dân năm làng đúc đồng ở Bắc Ninh tụ ở đây, hình thành làng đúc đồng Ngũ Xã. Tên hồ Khi mới bị ngăn ra, hồ chưa có tên riêng, vẫn chỉ là một góc của hồ Tây. Gần hồ có làng Trúc Yên, trồng nhiều trúc, cũng có tên là Trúc Lâm. Vào thế kỉ 18, chúa Trịnh Giang cho xây một cung điện để nghỉ mát cạnh hồ và cũng gọi là Trúc Lâm. Sau đó Trúc Lâm trở thành nơi giam giữ các cung nữ phạm tội, họ buộc phải tự dệt lụa để nuôi sống bản thân. Lụa của họ rất đẹp và trở nên nổi tiếng khắp vùng. Lụa đẹp, bóng bẩy gọi là lụa trúc (chữ Hán là Trúc Bạch). Từ đó xuất hiện một làng chuyên dệt lụa với tên là làng Trúc, và hồ cũng được gọi là hồ Trúc Bạch. Di tích Xung quanh hồ có nhiều nơi di tích cổ như: đền Quán Thánh, chùa Châu Long, đền Cẩu Nhi. Năm 1925, xưởng phát điện Yên Phụ được người Pháp cho xây dựng bên bờ phía Bắc của hồ Trúc Bạch và nó trở thành nguồn cung cấp điện quan trọng nhất cho Hà Nội đến tận cuối thập niên 1980. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, không lực Hoa Kỳ đã tập trung oanh tạc nhà máy này. Để bảo vệ nhà máy điện và khu vực Ba Đình gần đó, hệ thống phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam được bố trí dày đặc ở đây. Ngày 26/10/1967, máy bay của John McCain trong khi thực hiện nhiệm vụ oanh tạc nhà máy điện Yên Phụ đã bị tên lửa bắn rơi. Ông nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch và bị dân quân ở khu vực này bắt. Cùng với quá trình đô thị hóa, các làng cổ xung quanh hồ Trúc Bạch không còn nữa, thay vào đó là các nhà và công trình theo kiến trúc hiện đại. Bờ hồ được kè đá và làm đường lưu thông xung quanh. Các con đường quanh hồ Đường Thanh Niên, nối từ đường Yên Phụ tới phố Quán Thánh, có tên cũ là đường Cổ Ngư. Dọc theo đường này về phía hồ Trúc Bạch có đền Quán Thánh và đền Cẩu Nhi dời từ núi Nùng về, có từ đời Lý Công Uẩn, có tên là "Thủy Trung Tiên từ" tức đền thờ bà tiên trong nước. Đường Thanh Niên có tên thời Pháp là đường thống chế Ly-ô-tây rue Maréchal Lyautey. Năm 1958-1959, nhiều thanh niên, học sinh Hà Nội đã tới đây lao động, mở rộng và đắp đường này cao lên, và Ủy ban hành chính thành phố lúc đó đã đổi tên theo gợi ý của Hồ Chủ tịch Phố Trúc Bạch dài 165m, chạy từ đầu đường Thanh Niên, vòng bờ phía đông tới phố Châu Long Phố Trấn Vũ
Hưng Hóa có thể là một trong số các địa danh sau: Việt Nam Thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ Tỉnh cũ Hưng Hóa ở miền Bắc dưới thời nhà Nguyễn, trước đó là thừa tuyên Hưng Hóa, rồi trấn Hưng Hóa dưới thời nhà Lê Thành Hưng Hóa: lỵ sở của tỉnh Hưng Hóa, nơi diễn ra trận Hưng Hóa (1884) Trung Quốc Thành phố Hưng Hóa thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô
Trong chuyển động sóng, hay trong các chuyển động nói chung có biên độ biển đổi theo thời gian một cách tuần hoàn, có thể áp dụng biến đổi Fourier, để phân tích chuyển động này thành tổng các biến đổi theo hàm điều hòa (hàm sin hay cos). Các hàm này thể hiện các sóng đơn sắc (hay tuần hoàn đơn tần), và có thể coi là hình chiếu của chuyển động tròn đều trên một phương bất kỳ. Pha của sóng (pha sóng) hay của chuyển động tuần hoàn nói chung, chính là góc trong chuyển động tròn đều này. Ví dụ, xét hàm số sin thể hiện một sóng đơn sắc, tại một vị trí cố định, sau đây: Ở đây t là thời gian, F là tần số, đại lượng chính là pha của hàm sóng này, φ là pha ban đầu (tại t = 0). Một hàm sóng này được gọi là trễ pha/chậm pha hay sớm pha/nhanh pha (tổng quát là lệch pha) với hàm sóng kia nếu pha ban đầu của hàm sóng này nhỏ hơn hay lớn hơn (hay tổng quát là khác) hàm sóng kia. Ví dụ, hàm sóng sau trễ pha , cũng được gọi là trễ pha chu kì, so với hàm bên trên, tại cùng vị trí: Do chu kì của một sóng được cho bởi . Như vậy, trong biểu diến hàm sóng, khi thay đổi cách tính thời gian từ t đến t*, cụ thể là sự dịch chuyển gốc thời gian (chọn mốc mà t* = 0), để đảm bảo biểu diễn cùng một hàm sóng, cần thay đổi pha ban đầu một cách tương ứng. Ngược lại, có thể thay đổi pha tại mốc t*=0 bằng cách dịch chuyển mốc tính thời gian. Sự lệch pha của các sóng là quan trọng khi xét đến sự giao thoa giữa các sóng. Hai sóng cùng pha, có chênh lệch pha ban đầu bằng 0, sẽ cộng hưởng; hai sóng ngược pha, có chênh lệch pha ban đầu là π, sẽ triệt tiêu nhau.
Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (có tài liệu gọi là Chính phủ Liên hiệp Quốc gia) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của kỳ họp thứ I Quốc hội khóa I tại Hà Nội, chính phủ được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết vững mạnh trên cả nước để chuẩn bị cho công cuộc "kháng chiến kiến quốc" về sau. Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến là sự mở rộng thành phần Nội các của Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam ngày 1 tháng 1 năm 1946. Chính phủ bao gồm 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch, 1 Cố vấn, 1 Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội, 1 Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội và 10 Bộ trưởng. Trên cơ bản, đây là sự rút gọn về số lượng thành viên Chính phủ nhưng là sự mở rộng thành phần Nội các so với Chính phủ Liên hiệp Lâm thời sao cho gọn nhẹ hợp thời chiến nhưng đảm bảo tính đoàn kết, hòa hợp dân tộc giữa các Đảng phái trong nước. Thành lập Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khóa I được bầu thông qua tổng tuyển cử tự do ngày 6 tháng 1 năm 1946 họp phiên đầu tiên tại Hà Nội đã thông qua danh sách 70 đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh hội tham gia Quốc hội. Quốc hội còn chỉ định ông Hồ Chí Minh đứng ra thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến với 15 thành viên đến từ các đảng phái khác nhau như Mặt trận Việt Minh, Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, hay không đảng phái. Ngày 4 tháng 3 năm 1946, chính phủ họp phiên đầu tiên và thông qua một số chủ trương về đối nội - đối ngoại như: Về đối nội: 1- Các đảng phái phải đoàn kết chặt chẽ, ngôn luận, hành động phải nhất trí để phụng sự quốc gia. 2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm. 3- Hành chính và quân đội phải thống nhất, tài chính kinh tế tập trung. 4- Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công phải tuân theo kỷ luật. Về ngoại giao: 1- Đối với các nước Đồng minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa. 2- Đối với các nước nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình. 3- Đối với nhân dân Pháp, dân tộc Việt Nam không thù hằn, song cực lực phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc "Dân tộc tự quyết" của Hiến chương Đại Tây Dương. Hoạt động Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... Ngày 3/4/1946 Hồ Chí Minh thành lập Ban Trung ương Vận động Đời sống mới: bà Đoàn Tâm Đan, các ông Nguyễn Quang Oanh, Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Nguyễn Huy Tưởng, Đỗ Đức Dục, Phạm Biểu Tâm. Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản" Về đối ngoại chính phủ đã cử phái đoàn Việt Nam gồm 5 thành viên là chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh, Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội Võ Nguyên Giáp và Phó chủ tịch kháng chiến Ủy viên hội Vũ Hồng Khanh đàm phán với Chính phủ Pháp, ký với đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp J. Sainteny bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 năm 1946 cho phép 15.000 quân Pháp ra Bắc thay thế cho 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Sau khi bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946, các đảng phái không cộng sản và thân nước ngoài như Việt Quốc và Việt Cách đã lên tiếng phản đối Chính phủ ký hiệp định này với Pháp. Tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 11-3-1946, với sự tham dự của Vĩnh Thụy, Hội đồng đã quyết định cử một phái bộ sang giao hảo với Trung Hoa, trong đó có Vĩnh Thụy, Nghiêm Kế Tổ... Nhận lời mời của Quốc hội Pháp, ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm 10 đại biểu do Phạm Văn Đồng, Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội làm Trưởng đoàn lên đường sang thăm nước Pháp. Đoàn đến Pari ngày 26-4-1946. Ngày 16-5-1946, phái đoàn Quốc hội kết thúc chuyến thăm nước Pháp. Từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, chính phủ tổ chức một hội nghị trù bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Fontainebleau chính thức vào tháng 7 năm 1946 tại Pháp. Song do phía Pháp cố giữ lập trường thực dân nên hội nghị không đạt được thỏa thuận nào. Ngày 31-5-1946, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp. Trước khi đi, Hồ Chí Minh bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Trước khi lên đường sang Pháp, Hồ Chí Minh dự đoán thời gian ở Pháp "...có khi một tháng, có khi hơn" nhưng cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp 4 tháng trong lúc phái đoàn do Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị Fontainebleau (diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946). Hội nghị Fontainebleau không đem lại kết quả cụ thể nào. Sau khi phái đoàn của Việt Nam về nước, tại Pháp, ngày 14 tháng 9 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp. Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân quốc rời khỏi Việt Nam. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội Tưởng Giới Thạch và do bất đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt mùng 6 tháng 3 đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp. Lãnh tụ đảng Việt Cách là Nguyễn Hải Thần và các thành viên Việt Quốc - Việt Cách khác trong chính phủ như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ.. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt, nhưng do bất đồng đã không tham gia hầu hết các phiên họp, sau đó cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, cuối cùng rời bỏ chính phủ (tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ rồi đào nhiệm sang nước ngoài). Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái không cộng sản tại miền Bắc, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến là biểu tượng. Trong lúc đó, Võ Nguyên Giáp vội vã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái đối lập như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo... Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sĩ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này. Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu. Sau khi từ Trung Quốc về Việt Nam, Việt Nam Quốc dân Đảng ngoài việc tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng nhờ có vũ khí do Trung Hoa Dân Quốc chuyển giao còn tổ chức các đội vũ trang mang tên "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ. Không những thế đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu Ngày 12/7/1946, Việt Nam Công an vụ theo ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật. Chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), đã thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương). Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó... Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt có một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp. Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do nghi ngờ Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.<ref Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an đột kích bất ngờ vào sáng sớm khiến cho lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động trở tay. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn. Ngày 16 tháng 7, quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã có tuyên bố trấn an dư luận: "Những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng chân chính, được bảo đảm sự tự do hoạt động trong vòng pháp luật...Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đem ra pháp luật nghiêm trị. Đây không phải là vấn đề đảng phái. Việc khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trị an...". Theo quy định của luật pháp thì Phó Chủ tịch nước và bộ trưởng do Quốc hội bầu, và chỉ phế truất bởi Quốc hội theo thủ tục quy định của pháp luật. Trong phiên điều trần trước Quốc hội kỳ họp thứ hai liên quan Tạm ước và một số thành viên rời Chính phủ, Hồ Chí Minh có nói: Tạm ước này có ảnh hưởng tới các hiệp ước ký sau không? Trong xã hội loài người, có cái gì mà không ảnh hướng tới cái khác. Tuy vậy, những sự điều đình sau đây không thể vì bản tạm ước này mà bị ràng bó. Bản Tạm ước này tùy theo sự thi hành thế nào, sẽ tạo điều kiện đẩy cho những cuộc điều đình sau mau chóng đạt kết quả.Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, ông Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh, các ông ấy không có mặt ở đây. Lúc Nhà nước đương gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào trao người ấy làm công việc lớn mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải hỏi lương tâm thế nào? Những người đã bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ năng lực gánh vác, nay chúng ta không có họ ở đây chúng ta cũng cứ gánh vác được như thường. Dù vậy một số thành viên của Việt Quốc, Việt Cách như Chu Bá Phượng, Bồ Xuân Luật vẫn tiếp tục tham gia Chính phủ, kể cả khi lên Việt Bắc. Trương Đình Tri vẫn tiếp tục tham gia chính phủ sau vụ án Ôn Như Hầu. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội, vẫn có 37 đại biểu Việt Quốc, Việt Cách tham gia. Tan rã Do mâu thuẫn của hai phe Việt Minh và Việt Nam Quốc dân Đảng sau bản Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chính phủ không còn giữ được sự đoàn kết ban đầu, một số thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa là quân đội Tưởng Giới Thạch và do một số bất đồng khác đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp. Tháng 7-1946, xảy ra vụ án Ôn Như Hầu, thành viên Việt Quốc - Việt Cách dự định ném tạc đạn vào đoàn diễu binh Pháp ở Hà Nội nhân ngày 14 tháng 7 năm 1946, đây là một hành động thông đồng với Pháp nhằm mục đích đổ cho Việt Minh gây sự phá hoại hòa bình để có cớ đánh Việt Minh. Lực lượng công an xung phong theo ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật. Chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) đã khám xét các cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội, bắt giữ thành viên hai đảng này, đồng thời tìm thấy nhiều vũ khí, tài liệu tuyên truyền hiệu triệu chống chính quyền, kêu gọi nhân dân lật đổ Chính phủ. Đặc biệt còn phát hiện các tử thi, phòng tra tấn tại trụ sở các đảng này. Tuy nhiên, Việt Nam Quốc dân Đảng cho rằng Việt Minh dàn cảnh vụ án phố Ôn Như Hầu để bắt giữ các thành viên và "áp đảo dư luận quần chúng và đàn áp luôn Việt Nam Quốc dân Đảng". Sau vụ án này, lãnh đạo Việt Cách là Nguyễn Hải Thần và các thành viên Việt Quốc - Việt Cách thân Tưởng khác trong chính phủ như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đã lưu vong sang Trung Quốc. Sự kiện này đánh dấu chấm hết cho sự hợp tác giữa Việt Minh do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và Việt Quốc, Việt Cách do Trung Hoa Dân Quốc hậu thuẫn, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà chính phủ liên hiệp kháng chiến là biểu tượng. Chính phủ còn hoạt động đến tháng 11 năm 1946 với các thành viên của Việt Minh và một số nhóm khác trước khi chính phủ Liên hiệp Quốc dân được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946. Thành viên Đảng phái: Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh) Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) Đảng Xã hội Việt Nam (Xã hội) Đảng Dân chủ Việt Nam (Dân chủ) Không đảng phái (Độc lập) Ghi chú: Cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (Bảo Đại) đảm nhiệm. Kháng chiến Ủy viên hội (sau gọi là Ủy ban Kháng chiến) do Võ Nguyên Giáp (Việt Minh) làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) làm Phó Chủ tịch. Các thành viên khác: Trần Huy Liệu, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Tích Trí, Nguyễn Phúc An, Đoàn Xuân Tín. Bộ trưởng Thứ trưởng
Pha thường là từ để miêu tả trạng thái của một hệ biến đổi một cách tuần hoàn tại một thời điểm hoặc tại một vị trí nào đó. Cụ thể, nó có thể có các nghĩa: Trong vật lý học: Pha chuyển động tròn thể hiện góc trong chuyển động tròn. Ví dụ, pha của sự tự quay quanh trục của Trái Đất được miêu tả bởi giờ (UTC) hay có thể là kinh độ. Pha sóng thể hiện đại lượng góc trong chuyển động tuần hoàn. Điện ba pha, dòng điện xoay chiều được truyền tải qua ba dây nóng có ba pha ban đầu lệch nhau 120°. Pha vật chất thể hiện tập hợp các điều kiện vật lý và hóa học nhất định mà vật chất có tính chất đồng nhất. Chuyển pha, sự thay đổi pha ở vật chất, ví dụ như sự đóng băng, thăng hoa,... Trong thiên văn học: Pha quỹ đạo của vệ tinh quanh vật thể khác, thể hiện vị trí trên quỹ đạo. Pha Mặt Trăng thể hiện mức độ tròn khuyết của Mặt Trăng. Trong đời sống: Các giai đoạn tiến hành một công việc tuần tự. Hành động trộn lẫn các vật chất. Tàu biển pha sông, loại tàu có thể vận hành cả trên sông và biển. Đèn pha hay chế độ đèn pha trên ô tô hay xe máy là đèn chiếu sáng ở cự ly xa. Khái niệm vật lý
Zeppelin đã từng là những khí cầu khung cứng thành công nhất. Zeppelin được đặt tên theo nhà chế tạo chúng là Ferdinand Graf von Zeppelin và được sử dụng từ 1900 đến 1940 vào việc chuyên chở hành khách cũng như trong quân sự. So sánh với những loại khí cầu khác khí cầu khung cứng của Zeppelin thành công lớn đến nỗi ngày nay khái niệm Zeppelin thường được dùng đồng nghĩa cho khí cầu khung cứng hay cho tất cả các loại khí cầu nói chung. Chiếc khí cầu khung cứng đầu tiên được cho là được làm bởi ông David Schwarz (1850 - 1897), một người Hungary ưa chuộng khí cầu. Những khởi đầu khó khăn Năm 1890, ở tuổi 52, Ferdinand Graf von Zeppelin rời bỏ quân đội trước thời hạn để tập trung thật sự vào dự án này. Những nỗ lực của ông đã thành công và ông được nhận bằng sáng chế vào ngày 13 tháng 8 năm 1898 cho một "Xe lửa bay có thể lái với nhiều khoang chở lắp sau nhau" (Văn phòng Bằng sáng chế Hoàng gia Đức, Biên bản sáng chế số 98580). Chiếc "Zeppelin" đầu tiên Năm 1894, một ủy ban chuyên gia không quan tâm nhiều đến phác thảo do Zeppelin trình bày nên hầu như chỉ mỗi ông hiện thực hóa ý tưởng của mình. Năm 1898 ông đã thành lập "Hiệp đoàn đỡ đầu ngành Hàng không " (Gesellschaft zur Förderung der Luftschifffahrt), trong đó ông đã tự đóng góp hơn nửa vốn cổ phần của hiệp đoàn là 800.000 Mark. Việc thực hiện về mặt kĩ thuật, đầu tiên ông giao cho kĩ sư Theodor Kober rồi sau đó cho Ludwig Dürr. Năm 1898 việc sản xuất nhiều bộ phận cho chiếc Zeppelin đầu tiên được bắt đầu trong nhà máy Commerzienrath của Carl Berg ở Lüdenscheid, là nhà máy cũng đã tham gia vào việc chế tạo chiếc tàu bay của David Schwarz. Việc lắp ráp chiếc Zeppelin đầu tiên được bắt đầu trong năm 1899 trong một nhà lắp ráp nổi tại vịnh Manzell gần thành phố Friedrichshafen ở Bodensee. Căn nhà lắp ráp này có thể quay theo chiều gió nhằm hỗ trợ cho việc khởi động khó khăn. Phiên bản thử nghiệm LZ 1 (LZ "Luftschiff Zeppelin": tàu bay Zeppelin) dài 128 m, có đường kính 11,65 m và được khởi động bằng 2 động cơ Daimler, mỗi động cơ có công suất 10,4 kW (14,2 PS). Để cân bằng chiếc Zeppelin nặng gần 13 tấn người ta đã dùng một khối lượng nặng 130 kg, có thể được đẩy di chuyển giữa giỏ khí cầu phía trước và sau. 11.300 mét khối khí hiđrô được dùng làm khí đẩy, thế nhưng trọng tải có thể mang theo chỉ vào khoảng 300 kg. Vào lúc 20:03 ngày 2 tháng 7 năm 1900 chiếc tàu bay cất cánh lần đầu tiên dưới mắt của khoảng 12.000 khán giả bên bờ hồ và trên thuyền. Chuyến bay kéo dài chỉ 18 phút, sau đó ống cuộn dây thép của khối tạo cân bằng bị hư hỏng và LZ 1 phải đáp khẩn cấp trên mặt nước. Sau khi sửa chữa, kĩ thuật chiếc Zeppelin tuy có tiềm năng nhất định qua hai lần cất cánh kế tiếp trong các tuần sau đó và đặc biệt là đã vượt qua tốc độ kỉ lục 6 m/s của chiếc tàu bay Pháp "La France" đến 3 m/s, nhưng vẫn chưa thuyết phục được các nhà đầu tư. Vì cạn kiệt về tài chính, Graf đã lại phải tháo gỡ các phiên bản thử nghiệm của Zeppelin, bán các phần còn lại và tất cả dụng cụ, sau đó ông giải tán công ty. Một vụ không may như là "giúp đỡ khởi đầu" Cơ hội thứ hai (và thứ ba) của ý tưởng Zeppelin đã hàm ơn những người dân yêu chuộng tàu bay. Chính họ đã tạo khả năng cho Graf tiếp tục phát triển kĩ thuật đến mức đã trở thành hấp dẫn cho các mục đích sử dụng trong dân sự cũng như quân sự. Tiền quyên tặng, nguồn thu từ xổ số đặc biệt cũng như 100.000 Mark từ tài sản cá nhân của Graf đã tạo nên cơ sở tài chính cho chiếc LZ 2 và LZ 3. Và cuối cùng thì Thủ tướng Đế chế von Bülow cũng đã đầu tư thêm 50.000 Mark vào quỹ này. LZ 2 to khoảng như LZ 1, nhưng được cải tiến rõ rệt và cất cánh lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất vào ngày 17 tháng 1 năm 1906. Chiếc tàu bay đã bị một cơn gió mạnh đẩy vào đất liền, sau đó các động cơ và bộ phận điều khiển gặp sự cố. Vì thế Zeppelin phải đáp khẩn cấp xuống Allgäu, nơi chiếc tàu bay đã bị một cơn bão vào ban đêm gây hư hại không thể hồi phục được. Chiếc LZ 3 kế tiếp, trong đó tất cả những phần còn có thể dùng của LZ 2 đã được tái sử dụng, là chiếc Zeppelin thành công đầu tiên và cho đến năm 1908 đã bay được tổng cộng 4.398 km trong 45 chuyến bay. Đến thời điểm này kĩ thuật đã trở nên hấp dẫn cho giới quân sự Đức. Lục quân Đức đã mua chiếc LZ 3 và đổi tên thành Z I. Là tàu bay huấn luyện cho đến năm 1913, chiếc Z I đã trở thành lạc hậu này được giải trừ quân bị. Quân đội cũng muốn tiếp nhận chiếc LZ 4, nhưng trước tiên đã yêu cầu là phải chứng minh chiếc Zeppelin có khả năng bay một chuyến bay kéo dài 24 giờ. Chiếc tàu bay đã khởi hành vào lúc 6:22 ngày 4 tháng 8 năm 1908 ở Friedrichshafen, để đến Mainz. Trong chuyến bay này chiếc tàu bay đã phải đáp khẩn cấp vào lúc 17:24 cùng ngày ở gần Kornsand vì hư hỏng nhẹ động cơ. Một bia đá tưởng niệm to, bia đá Zeppelin ở Rheinufer, nhắc đến sự tận tình giúp đỡ của nông dân địa phương, những người đã bỏ lại công việc của họ trên đồng để giúp đỡ đội bay lúc đáp khẩn. Sau khi có thể sửa chữa được động cơ, chiếc tàu bay lại cất cánh vào khoảng 22:00 giờ. Trên chuyến bay về, chiếc LZ 4 đã phải đáp xuống dọc đường ở Echterdingen gần Stuttgart hơn hai tiếng sau khi cất cánh vì lại có sự cố động cơ. Ở đây, một cơn bão đổ ập đến đã giật tàu khỏi neo vào ngày 5 tháng 8 năm 1908. Chiếc tàu va chạm vào một cây ăn trái, bốc cháy, và ngay sau đó toàn bộ kết cấu đáng tự hào này chỉ còn là những đống đổ nát bốc khói. Hai nhân viên kỹ thuật đang sửa chữa máy đã chỉ có thể tự cứu mình bằng một cú nhảy liều mạng. Mặc dù không ai bị thương nghiêm trọng nhưng lẽ ra tai nạn đã kết thúc các chiếc Zeppelin về mặt kinh tế nếu như không có một trong số rất nhiều người đang đứng xem tự phát khởi động một cuộc quyên tặng. Cuộc quyên góp của quần chúng này đã mang lại khoản tiền 6.096.555 Mark đầy ấn tượng, tạo điều kiện cho Graf thành lập Công ty TNHH Luftschiffbau Zeppelin (Luftschiffbau Zeppelin GmbH) và Quỹ trợ cấp Zeppelin (Zeppelin-Stiftung). Vì thế chương trình Zeppelin không những đã sống lại như phượng hoàng từ đống tro tàn, mà còn cuối cùng cũng đứng trên một nền tài chính vững chắc. Zeppelin trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất Trong những năm kế tiếp cho đến khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ vào mùa hè 1914, 21 chiếc Zeppelin (LZ 5 đến LZ 25) đã được hoàn thành. Chiếc LZ 6 là chiếc tàu bay đầu tiên được sử dụng để chuyên chở hành khách mang tính thương mại vào năm 1909, được tiếp nhận bởi công ty cổ phần mới được thành lập trong thởi gian đó là Công ty cổ phần tàu hàng không Đức (Deutschen Luftschiffahrts-AG DELAG), là công ty hàng không đầu tiên trên thế giới. Đến 1914 thêm 6 chiếc tàu bay giao thông được bán cho DELAG và ngoài số sản xuất các chiếc Zeppelin này đã có tên riêng, thí dụ như LZ 11 "Viktoria Luise" (1912) và LZ 17 "Sachsen" (1913). Bốn trong số những chiếc tàu bay này bị phá hủy bởi tai nạn, chủ yếu là trong lúc ngừng lại, không có thiệt hại về nhân mạng. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1910, LZ 7 "Deutschland" gặp tai nạn trong một trận bão tuyết ở rừng Teutoburger. Chiếc tàu khởi hành từ Düsseldorf, và vì có sự cố về kĩ thuật nên đã bị trôi giạt đi và đã rơi ở rừng Teutoburger, nói chính xác hơn là ở Freden cạnh hồ Bad Iburg. Không có thiệt hại về nhân mạng. Ngày nay bia đá tưởng niệm vẫn còn tại nơi rơi chiếc tàu bay, gần đường đi bộ "Hermannsweg" và "Ahornweg". Mười bốn chiếc Zeppelin còn lại trước chiến tranh đã được Bộ binh và Hải quân Đức mua. Khi chiến tranh bùng nổ, quân sự cũng đã tiếp nhận nốt những chiếc tàu bay còn lại của DELAG. Vào thời điểm này ba chiếc khác (kể cả LZ 3/"Z I") đã ngưng hoạt động và thêm năm chiếc khác đã mất trong các tai nạn. Hai trong số đó có thiệt hại nhân mạng: Chiếc Zeppelin LZ 14/"L 1" của Hải quân bị bão đẩy ra biển Bắc, 14 quân nhân đã chết đuối. LZ 18/"L 2" chìm vào trong lửa sau một cú nổ của động cơ, tất cả thành viên trong đội bay đã chết. Mức độ kĩ thuật của Zeppelin vào năm 1914 là với chiều dài 150–160 m và thể tích 22.000 – 25.000 m³, Zeppelin có thể mang trọng tải đến 9 tấn. Thông thường các chiếc Zeppelin được khởi động bởi ba động cơ Maybach với công suất 147 kW (200 PS) cho mỗi động cơ và đạt vận tốc đến khoảng 80 km/h. Zeppelin trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất Trong chiến tranh sự phát triển của Zeppelin được thúc đẩy mạnh. Bên cạnh đó cũng nhiều tàu bay có kết cấu cứng cùng loại Schütte-Lanz đi vào bố trí. Tuy chúng đã rất cách tân, cũng từ đó Zeppelin hưởng lợi, nhưng hiệu quả thì bị hạn chế trên nguyên nhân của thân gỗ của nó. Chỉ gần cuối chiến tranh nó cũng được dựng như Zeppeline một bộ thân từ nhôm Duraluminium. Bước nhảy vọt kĩ thuật Bộ chỉ huy quân sự của Đế quốc Đức lúc đầu đã đặt những hy vọng to lớn vào những chiếc tàu bay. Nó đã xuất hiện như một dạng vũ khí kinh ngạc: So sánh với những Máy bay cùng thời, những cái thì còn đứng ở giai đoạn đầu của sự phát triển, nó đã đạt được những độ cao lớn hơn, nhanh gần như thế, có thể vũ khí hóa mạnh hơn với trọng tải lớn của nó và được nhét với nhiều bom hơn, có thể ở trong không trung lâu hơn nhiều và đạt một quãng bay xa hơn rất nhiều. Thực tế tính chiến đấu của nó không gây khó khăn cho đối thủ, trước tiên hơi Hydro thì rất dễ bốc cháy khi bị bắn; LZ 91/"L 42" thậm chí đã vượt qua 1917 hai cú sét đánh của không trung. Cũng như lúc đầu máy bay kẻ thù chưa sở hữu vũ khí phù hợp. Nhà phi công Anh Reginald A. J. Warneford đạt "Cú bắn trúng" đầu tiên vào ngày 6 tháng 6 1915, người đã bắn cháy chiếc tàu bay bộ binh LZ 37 tại Gent. Ông đã được nhận huân chương cao quý nhất của Anh quốc, huân chương Victoria Cross cho điều đó. Quân đồng minh đã đạt mục tiêu những thành công đều đặn chỉ sau khi đưa vào sử dụng Thân bắn lửa trong đầu năm 1916. Chiếc Zeppelin đầu tiên bị bắn cháy bằng phương thức này, là LZ 47/"LZ77" vào ngày 21 tháng 2 năm 1916, ngày đầu tiên của trận đánh ở Verdun. "LZ 77" được khởi động dưới tổng tư lệnh Major Horn từ sân bay Namur và bị bắn cháy tại Epinal trong một trận đánh ở Paris. Vào ngày 29–30 tháng 1 dưới sự dẫn dắt của tổng tư lệnh Major Geissert của sân bay Namur chiếc Zeppelin "LZ 79" khởi hành tới Paris, đã ném bom tại đó và đã bị bắn trúng trên chuyến bay về ở Heck. Kết quả là mắc cạn vào những nóc nhà của một làng ở Nam của Bỉ (thuở trước là phần đất của Đê quốc Đức). Tất cả 12 thành viên trong đoàn thoát nạn trong sự giật mình. Tàu bay cho việc bố trí chiến tranh Một mặt những chiếc tàu bay được dùng do thám quân sự, mặt khác được bố trí vào không chiến bằng bom. Mặc cho những bước tiến nhảy vọt kĩ thuật so với những chiếc máy bay thì nhiều chiếc tàu bay Đức đã bị mất đi ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến. Đây đã không là lần cuối cùng, rằng nó bị giao phó cho những chiến lược quân sự không kinh nghiệm với kĩ thuật, cho những cái mà nó không phù hợp. Như những tàu bay đã tấn công các mục tiêu dược phòng thủ mạnh mẽ ở đường chiến biên vào ban ngày trời quang và bị kéo không ít lần xuống mặt đất bởi lửa của bộ binh, phần lớn là vì bị mất quá nhiều khí bay bởi các cú bắn màn nhện bọc đạn. Ví dụ như hai ngày sau bắt đầu chiến tranh, chiếc Zeppelin LZ 21/"Z VI" đã phải đáp khẩn ở Bonn vì tổn thất mạnh hơi bay sau cuộc thả bom ở Lüttich. Hay trong cùng tháng hai chiếc Zeppelin tiếp theo cũng bị bắn cháy, và LZ 23/"Z VIII" đã rơi tạm thời vào tay Pháp. Những tàu bay của bộ binh tìm được địa bàn làm việc của chúng ở Đông biên chiến cũng như Đông Nam cạnh biển Đen và cạnh Adria. Ở đó nó có thể mang lại đầy đủ giá trị cho những thế mạnh, những bố trí bom chiến lược và do thám. Ngược lại, bên biên chiến phía Tây những chiếc tàu bay chưa bao giờ là công cụ đúng đắn vì biên chiến tĩnh và những sự việc đặc biệt nổi lên tại đó. Tại đây nó làm việc gần như hoàn toàn phía sau những đường chiến thật sự và quăng bom các đường cung cấp và các lực lượng yểm trợ sau, để bố trí ném bom chiến lược thì nó đã hoàn toàn không xảy ra vì tình hình thời tiết không thuận lợi. Đến đầu năm 1917 bộ binh và thủy binh cùng nhau ném bom trong một khu vực rộng lớn của Luân Đôn. Những đe dọa cho tàu bay tăng nhiều vào đầu năm 1916 vì máy bay săn hay các pháo binh phòng thủ không trận với thân bắn lửa. Nhà lãnh đạo của các tàu bay, Peter Strasser, một nhà lý thuyết thiên tài, hợp hóa thực tế đã nhận biết cái "Tốt trong Xấu": Những cản trở của các hoạt động tàu bay là một khả năng, quay đều công việc của vũ khí tàu bay, để thích nghi chính nó với địa bàn tiếp tế hạn chế. Thực tế thủy binh cũng đã giảm số lượng các cuộc tấn công gần phân nửa. Con số của các điệp vụ do thám gần như không đổi, vì Zeppelin đã không được thay thế ở đây bởi máy bay. Thủy binh đã cất dùng những tàu chiến của họ đến lúc cuối trong bố trận. Trên biển Bắc và biển Đông Đức đã phơi bày đầy đủ lợi thế của nó trong rất nhiều điệp vụ do thám dài ngày và rất thành công một phần. Nó đã phục vụ đặc biệt tốt tại việc tìm kiếm thủy mìn và đánh dấu các vùng chứa mìn của kẻ thù bằng các phao Buoy được quẳng ra. Trong mùa Đông 1916 các tàu bay thủy quân cũng được bố trí, để trợ tiếp thực phẩm cho các đảo thuộc Đức bị cắt rời khỏi thế giới bên ngoài bởi băng. Một vai trò quyết định được nhắc lại cho các Zeppelin thủy binh tại trận Skagerrak. Trong trận này 10 chiếc Zeppelin đã tham gia, nhờ các thông tin do thám của nó các hạm đội tàu biển Đức đã được bảo vệ trước sự tàn phá. Các chuyến bay tấn công, trên tất cả là chống Anh quốc, đã chỉ được thực hiện trong sự bảo vệ của màn đêm từ cuối năm 1914. Với điều đó nó đã ép đối phương phát triển sự phòng thủ không trung và bố trí các đèn phóng quang. Các cuộc tấn công không trung thì đã có từ trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (thí dụ Tripoli 1905). Những xung đột mạnh mẽ đã có trên các cuộc bố trí thả bom từ không trung. Như thế chỉ các mục tiêu quân sự được thu vào tầm ngắm (tốt và chuẩn xác như có thể), nhưng cuối cùng sự chính xác trong đêm tối chỉ đã được mong muốn. Tuy nhiên các bom được điều khiển thông minh bởi hệ thống định vị toàn cầu và điện tử công nghệ cao trong thời đại ngày nay phần lớn không tốt hơn, là các tàu bay của thuở trước, những cái đã chỉ làm việc với định vị la bàn và sextant để xác định vị trí. Bắt đầu 1916 các Zeppelin mới đã có thể hành động trên những độ cao lớn hơn, những cái mà cao tới 7000 mét. Để định hướng việc thả bom từ trên các tầng mây, người ta đã thả nhà quan sát trong các giỏ treo nhẹ ra. Tuy nhiên sau đó người ta đã bỏ chiếc giỏ bay nhẹ đi, vì một lượng bom phù hợp hay các giỏ nước cân bằng hoặc là chất đốt thì các viên tổng chỉ huy thích mang theo cho mình hơn. Vào ngày 5 tháng 8 năm 1918 chiếc LZ 112/"L 70" đã bị bắn cháy sau một cuộc tấn công. Trên khoang cũng có mặt (hoàn toàn trùng hợp) tổng chỉ huy của ban tàu bay thủy binh, thiếu tướng Peter Strasser. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ thả bom chiếc L 70 đã bị theo đuổi và bắn cháy bởi một chiếc máy bay săn phía Anh quốc vì việc đàm thoại quá sâu với dụng cụ nhắn tin. Sau sự kiện này các tàu bay thủy binh chỉ được bố trí vào các cuộc do thám xa cho các hạm đội tàu biển. Bảng tổng kết quân sự Tổng cộng 88 chiếc Zeppelin đã được sản xuất trong chiến tranh. Các tàu bay này đã ném 197 t quả bom trong 51 lần đi tấn công, giết tại đó 557 người và làm bị thương 1358. Bên cạnh đó gần 1200 cuộc thám thính đã được thực hiện. Khoảng đời của tàu chiến phần lớn rất ngắn. Khoảng hai phần ba tất cả tàu bay chiến bị phá hủy mất, gần hơn phân nửa do quân thù gây ra, phần còn lại do tai nạn. Những thiệt hại nhân mạng so với những hoạt động khác của đồng đội gần như nhỏ nhoi; tại bộ binh con số đó là mười một phần trăm (79 người) và tại thủy binh là 26,3 phần trăm (389 người). Hiệu quả của việc bố trí tàu bay chiến đã được đánh giá tổng quát khả quan. Tuy các cuộc tấn công chỉ tạo ra theo so sánh ít thiệt hại, nhưng tạo ra rộng khắp sự sợ hãi và khủng khiếp to lớn cho đối thủ trong quân sự và quần chúng và đã nối kết những lượng lớn cho các nguồn dự trữ chiến tranh quan trọng. Phía Entente đã phải bố trí gần 15 000 quân và khoảng 25 tàu chiến, vũ khí, tài nguyên và con người để chống lại các cuộc tấn công quân sự của tàu bay Đức trong tỉ lệ gần 33 chọi 1. Mặc dù các lực lượng quân sự khác, như thủy lực, đã tận dụng những chiến lược nối kết đó, nhưng tính kinh tế của các tàu bay đã không đạt đủ, ngay cả các tàu ngầm Đức. Bảng tổng kết công nghệ Sản lượng sản xuất lớn và những đòi hỏi tăng lên của việc bố trí cuộc chiến đã dẫn đến một sự phát triển tiếp tục rõ ràng của các chiếc Zeppelin. Chống lại kết thúc chiến tranh liên đoàn Zeppelin ở Friedrichshafen và tại nhiều địa điểm khác nhau tiếp đã sản xuất các tàu bay với chiều dài gần 200 m và nhiều hơn. Với thể tích khoảng 56 000 – 69 000 mét khối nó đã có thể bốc lên 40–50 tấn tải hàng và nhờ năm hay sáu động cơ Maybach mỗi cái gần 191 kW (260 PS), đạt tốc độ lên tới 100-130 km/h. Vào ngày 20 tháng 10 năm 1917 LZ 101/"L 55" đã đặt lên một kỉ lục độ cao của 7600 m, để chống lại lửa của kẻ thù trên biên chiến phía Tây. LZ 104/"L 59" lại lần nữa, cái được đặt tên "Tàu bay châu Phi", đã đặt lên một chiều dài kỉ lục. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1917 chiếc tàu bay Đức L 59 đã khởi động từ Jamboli (Bungari) theo hướng Đông Phi. Tổng chỉ huy của chiếc tàu bay, thuyền trưởng Bockholdt, đã tải thuốc súng, vũ khí và vật dụng y tế. Chiếc tàu bay nên bị gỡ rời ra sau khi đạt được mục tiêu và được ứng dụng cho những chiếc lều và việc lắp ráp. Sau cuộc nói chuyện điện đài viên tổng chỉ huy đã quay về một nửa quãng đường (xem Đức – Đông Phi). Nó đã đặt lại một quãng đường 6757 km trong 95 giờ. Chiếc LZ 90/"LZ 120" dưới nhà chỉ huy Ernst A. Lehmann đã đặt lại chuyến bay kéo dài lâu nhất từ ngày 26. đến 31. tháng 6 năm 1917. Chuyến bay đã kéo dài 101 tiếng và sau khi đáp chiếc LZ 90 đã còn xăng cho 33 tiếng bay tiếp theo. Chuyến bay dài này vượt qua biển Đông Đức được xem như là chuyến bay thử nghiệm một phần cho chuyến bay châu Phi của chiếc L 59. Sự kết thúc của cuộc chiến tàu bay Sự thất bại của Đức đồng nghĩa với kết thúc các chuyến bay của tàu bay chiến đấu Đức, bởi vì phía đồng minh giàu thắng lợi đã yêu cầu một cuộc tháo bỏ vũ khí hoàn toàn của không lực Đức. Bản hiệp định Versailles đã nêu ra rõ ràng các tàu bay và đòi hỏi trong trang 202 phía Đức giao nộp toàn bộ tàu bay còn sót lại, các xưởng tàu bay và các nhà máy, nơi phần khí đẩy đã được sản xuất, trong khuôn khổ của hiệp ước đền bù chiến tranh. Một tuần trước khi ký kết hiệp định, vào ngày 23 tháng 6 năm 1919, rất nhiều nhân viên phi công tàu bay chiến đấu đã phá hủy các Zeppeline của họ trong các nhà xưởng, để không phải giao nộp chúng cho các cựu thù địch. Với điều đó, họ đã đi theo các thí dụ của hạm đội trên biển Đức, những người hai ngày trước đó ở Scapa Flow tự đắm mình vào biển. Các tàu bay Zeppelin sót lại đã được dắt đi vào năm 1920 tới Pháp, Ý, Anh và Bỉ. Tàu bay Zeppelin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất Bước đầu Ông Graf von Zeppelin đã mất vào năm 1917, trước khi kết thúc cuộc chiến. Với Dr. Hugo Eckener việc dẫn dắt đầu tàu công ty đã được tiếp nhận, người khác với Graf từ rất lâu đã có trong mắt những việc sử dụng dân sự cho các tàu bay thay cho các mục đích quân sự. Trong khi hiệp ước Versailles các tàu bay đã bị loại bỏ, các liên đoàn Zeppelin và công ty DELAG hi vọng, có thể nhanh chóng nối lại việc thực hiện các chuyến bay hành khách. Trong thực tế điều đó đã đạ được hai chiếc Zeppelin nhỏ hơn, cũng dưới các khó khăn. LZ 120 „Bodensee" đã cất cánh vào tháng tám 1919 lần đầu tiên và mang đi trong cùng năm thực tế khoảng 2400 hành khách, những người phần lớn trong số đó phục vụ trong dịch vụ đường bay. LZ 121 „Nordstern", đã nên được bố trí vào một chuyến bay được kế hoạch đến Stockholm. 1921 các nước thắng trận nhưng đã yêu cầu, rằng cũng hai chiếc tàu bay này phải được giao nộp, và cụ thể là cho tất cả các chiếc Zeppelin, những chiếc đã bị phá hủy 1919 bởi các đội bay của chúng. Các chương trình tiếp theo trước tiên cũng đã không thể hiện thực hóa, một phần bởi lệnh cấm của quân đồng minh. Vì thế các chuyến bay của Zeppelin phần lớn đã đi vào đóng băng. Nhưng Eckener và các người làm việc cùng của ông ấy đã không từ bỏ và tiếp tục tìm đến các nhà đầu tư cũng như một giải pháp, thuyết phục sự dồng ý của quân đồng minh. Cuối cùng cơ hội của họ đã bắt đầu vào năm 1924.
Chi Sa nhân (danh pháp khoa học: Amomum) là một chi thực vật một lá mầm, với các loài đậu khấu, sa nhân. Chi này thuộc về họ Gừng (Zingiberaceae). Các loài của chi này là bản địa Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á, New Guinea và Queensland, đáng chú ý vì vị hăng và mùi thơm của chúng. Các loài Việc xếp một số loài vào chi này cũng như việc một loài trong chi này trên thực tế là một hay nhiều loài riêng biệt hiện còn chưa có sự thống nhất giữa các học giả. Nghiên cứu phát sinh chủng loại năm 2018 phục hồi các chi Conamomum, Meistera, Wurfbainia đồng thời mô tả 3 chi mới là Epiamomum, Lanxangia và Sundamomum. The Plant List (2013) liệt kê 179 loài được công nhận, tuy nhiên sau chia tách 6 chi như đề cập trên đây thì chi Amomum tại thời điểm ngày 19 tháng 1 năm 2021 được công nhận bao gồm 111 loài (108 loài được POWO ghi nhận và 3 loài mô tả năm 2020). Amomum alborubellum K.Schum. & Lauterb., 1900 Amomum ampliflorum Y.H.Tan & H.B.Ding, 2019 Amomum andamanicum V.P.Thomas, Dan & M.Sabu, 2010 Amomum apiculatum K.Schum., 1899 Amomum aquaticum Raeusch., 1797 Amomum argyrophyllum Ridl., 1920 Amomum bicornutum Ridl., 1916 Amomum bilabiatum S.Sakai & Nagam., 1998 Amomum billburttii Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum biphyllum (Saensouk & P.Saensouk) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum calcicola Lamxay & M.F.Newman, 2012 Amomum carnosum V.P.Thomas & M.Sabu, 2012 Amomum centrocephalum A.D.Poulsen, 2003 Amomum cephalotes Ridl., 1924 Amomum chaunocephalum K.Schum., 1904 Amomum chayanianum (Yupparach) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum chevalieri Gagnep. ex Lamxay, 2012 Amomum chong-eui (C.K.Lim) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum chryseum Lamxay & M.F.Newman, 2012 Amomum cinnamomeum Škorničk., Luu & H.Ð.Trần, 2019 Amomum corrugatum Škorničk., H.Ð.Trần & Luu, 2019 Amomum curtisii (Baker) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum dampuianum V.P.Thomas, M.Sabu & Lalramngh., 2013 Amomum dealbatum Roxb., 1820 Amomum deuteramomum K.Schum., 1899 Amomum diphyllum (K.Schum.) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum dolichanthum D.Fang, 1978 Amomum echinatum Willd., 1797 Amomum elan (C.K.Lim) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum erythranthum Y.H.Tan & H.B.Ding, 2019 Amomum exertum (Scort.) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum flavorubellum K.Schum. & Lauterb., 1900 Amomum foetidum Boonma & Saensouk, 2020 Amomum fragile S.Q.Tong, 1989 Amomum fragrans Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum garoense S.Tripathi & V.Prakash, 1999 Amomum glabrum S.Q.Tong, 1989 Amomum globba J.F.Gmel., 1791 Amomum gymnopodum K.Schum., 1899 Amomum hainanense Y.S.Ye, J.P.Liao & P.Zou, 2018 Amomum hochreutineri Valeton, 1906 Amomum hypoleucum Thwaites, 1861 Amomum johorense (C.K.Lim) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum kerbyi (R.M.Sm.) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum kingii Baker, 1892 Amomum kwangsiense D.Fang & X.X.Chen, 1978 Amomum lacteum Ridl., 1921 Amomum lagarophyllum Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum laoticum Gagnep., 1907 Amomum latiflorum (Ridl.) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum limianum (Picheans. & Yupparach) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum longipes Valeton, 1904 Amomum longipetiolatum Merr., 1932 Amomum lutescens Luu & Škorničk., 2019 Amomum luzonense Elmer, 1919 Amomum macrodons Scort., 1886 Amomum maximum Roxb., 1810 Amomum meghalayense V.P.Thomas, M.Sabu & Sanoj, 2016 Amomum menglaense S.Q.Tong, 1991 Amomum mengtzense H.T.Tsai & P.S.Chen, 1979 Amomum miriflorum Škorničk. & Q.B.Nguyen, 2019 Amomum mizanianum (C.K.Lim) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum monophyllum Gagnep., 1907 Amomum nagamiense V.P.Thomas & M.Sabu, 2019 Amomum nemorale (Thwaites) Trimen, 1885 Amomum nimkeyense M.Sabu, Hareesh, Tatum & A.K.Das, 2018 Amomum odontocarpum D.Fang, 1980 Amomum pauciflorum Baker, 1892 Amomum pellitum Ridl., 1916 Amomum petaloideum (S.Q.Tong) T.L.Wu, 1998 Amomum plicatum Lamxay & M.F.Newman, 2012 Amomum poonsakianum (Picheans. & Yupparach) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum pratisthana J.Sarma, S.Dey, C.K.Salunkhe & Barbhuiya, 2019 Amomum prionocarpum Lamxay & M.F.Newman, 2012 Amomum procurrens Gagnep., 1903 Amomum pterocarpum Thwaites, 1861 Amomum puberulum (Ridl.) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum purpureorubrum S.Q.Tong & Y.M.Xia, 1988 Amomum putrescens D.Fang, 1978 Amomum queenslandicum R.M.Sm., 1980 Amomum ranongense (Picheans. & Yupparach) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum raoi V.P.Thomas & M.Sabu, 2020 Amomum repoeense Pierre ex Gagnep., 1906 Amomum riwatchii M.Sabu & Hareesh, 2018 Amomum robertsonii Craib, 1913 Amomum rugosum (Y.K.Kam) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum sabuanum V.P.Thomas, Nissar & U.Gupta, 2014 Amomum schistocalyx Y.H.Tan & H.B.Ding, 2020 Amomum schlechteri K.Schum., 1904 Amomum sericeum Roxb., 1820 Amomum siamense Craib, 1912 Amomum slahmong (C.K.Lim) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum smithiae (Y.K.Kam) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum stenocarpum Valeton, 1920 Amomum stenosiphon K.Schum., 1899 Amomum subcapitatum Y.M.Xia, 1997 Amomum subulatum Roxb., 1820 Amomum sumatranum (Valeton) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum tephrodelphys K.Schum., 1904 Amomum terminale Ridl., 1900 Amomum tibeticum (T.L.Wu & S.J.Chen) X.E.Ye, L.Bai & N.H.Xia, 2018 Amomum trianthemum K.Schum., 1899 Amomum trichanthera Warb., 1891 Amomum trilobum Gagnep., 1905 Amomum unifolium Gagnep., 1907 Amomum velutinum X.E.Ye, Škorničk. & N.H.Xia, 2017 Amomum wandokthong (Picheans. & Yupparach) Škorničk. & Hlavatá, 2018 Amomum warburgianum K.Schum. & Lauterb., 1900 Amomum warburgii (K.Schum.) K.Schum., 1904 Amomum yingjiangense S.Q.Tong & Y.M.Xia, 1988 Chuyển đi Amomum bungoensis Aimi Syaz. & Meekiong, 2018 = Sundamomum bungoense Chưa đúng vị trí Amomum padangense K.Schum., 1899 Amomum vestitum K.Schum., 1899 Hình ảnh Chú thích
Trong toán học, các số âm (bất kể thuộc hệ cơ số nào) đều được biểu diễn bằng cách thông thường là đặt trước số dương tương ứng một dấu "−" (trừ). Ví dụ: với hệ thập phân, số nguyên âm năm được biểu diễn là −5. Tuy nhiên, trong máy tính, khi mọi ký hiệu, con số,... đều được biểu diễn dưới hệ nhị phân thông qua hai chữ số 0 và 1 thì mọi chuyện lại trở nên phức tạp hơn. Có nhiều cách được sử dụng để biểu diễn số âm trong máy tính. Bài này chỉ giới thiệu bốn phương pháp chủ yếu nhất, đó là: phương pháp dấu lượng (sign-and-magnitude), bù 1, bù 2 và số quá N (excess-N). Các máy tính hiện nay hầu hết đều sử dụng phương pháp biểu diễn số bù 2. Tuy nhiên, trong vài tình huống, các phương pháp khác vẫn có thể được sử dụng. Dấu lượng Phương pháp dấu lượng dùng bit cực trái làm bit dấu (sign bit) – tức đại diện cho dấu của số – theo quy ước: nếu bit dấu là 1 thì số là số âm (1 tương đương với dấu "-"), ngược lại, nếu nó là 0 thì số là số dương (0 tương đương với dấu "+"). Các bit còn lại được dùng để biểu diễn độ lớn của số (hay giá trị tuyệt đối – absolute value – của số). Để biểu diễn một số âm về dạng nhị phân có dấu với mẩu K bit là lấy số cần biểu diễn cộng thêm 2K-1 sau đó biểu diễn chúng ở hệ nhị phân Theo phương pháp này, một byte 8 bit sẽ có 7 bit (trừ đi bit dấu) được dùng để biểu diễn cho các số có giá trị từ 0000000 (010) đến 1111111 (12710). Khi sử dụng bit dấu, ý nghĩa của 7 bit trên sẽ thay đổi, và ta có thể biểu diễn các số từ −12710 đến +12710. Trong phương pháp dấu lượng, số 0 có thể được biểu diễn ở hai dạng, đó là 00000000 (+0) và 10000000 (−0). Ví dụ: giả sử mẫu 8 bit, khi sử dụng phương pháp dấu lượng, số 510 được biểu diễn sang hệ nhị phân là: 0000 0101, còn số −5 là 1000 0101. So sánh với cách biểu diễn số âm mà ta thường sử dụng, ta thấy phương pháp dấu lượng có nhiều điểm tương đồng. Trong hệ thập phân, khi muốn biểu diễn số có dấu, ta đặt dấu cần biểu diễn ngay trước giá trị tuyệt đối của số. Phương pháp dấu lượng cũng đặt dấu ngay trước giá trị tuyệt đối của số, chỉ có khác ở chỗ thay dấu "+" bằng "0" và "−" bằng "1". Có lẽ vì sự tương đồng này, một vài máy tính thế hệ đầu tiên (như IBM 7090) đã sử dụng phương pháp dấu lượng khi biểu diễn số âm. Bù 1 Phương pháp bù 1 biểu diễn số âm theo cách sau: Thứ nhất, bit dấu 0 nếu số là số dương, và 1 nếu số là số âm. Thứ hai, sử dụng toán tử thao tác bit (bitwise) NOT để đảo tất cả các bit của số nhị phân dương (tính bit dấu) để biểu diễn số âm tương ứng. Như vậy, phương pháp bù 1 hoàn toàn giống như phương pháp dấu lượng, duy chỉ khác ở cách biểu diễn độ lớn của số. Ví dụ: dạng bù 1 của 00101011 (43) là 11010100(−43) (xem bài chính về bù 1 để biết cách biểu diễn số thập phân sang nhị phân bằng phương pháp bù 1). Giống phương pháp dấu lượng, một byte 8 bit áp dụng phương pháp bù 1 cũng có thể biểu diễn các số từ −12710 đến +12710 (chú ý: đã mất đi một bit dùng làm bit dấu). Bù 1 cũng có hai dạng biểu diễn cho số 0, bao gồm: 00000000 (+0) và 11111111 (−0) (mẫu 8 bit). Khi thực hiện phép cộng giữa hai số biểu diễn theo phương pháp bù 1, ta cũng thực hiện theo quy tắc cộng nhị phân thông thường, tuy nhiên, sau khi đã thực hiện xong, nếu còn phát sinh bit nhớ thì phải tiếp tục cộng bit nhớ này vào kết quả vừa thu được. Về vấn đề này, xin xem thêm ở bài chính về bù 1. Phương pháp biểu diễn số bù 1 được sử dụng rộng rãi trong các thế hệ máy tính cũ, điển hình là các dòng máy PDP-1 và UNIVAC 1100/2200. Bù 2 Trong phương pháp bù 2, các số âm được biểu diễn giống như phương pháp bù 1, tuy nhiên, phải cộng thêm 1 vào kết quả (ở hệ nhị phân). Ví dụ: số −510 được biểu diễn sang hệ nhị phân (xét mẫu 8 bit) sử dụng phương pháp bù 1 là 11111010. Để biểu diễn theo phương pháp bù 2, ta cộng thêm 1 vào số nhị phân ở bù 1, tức cộng 1 cho 11111010: 11111010 + 1 = 11111011. Vậy 11111011 là biểu diễn bằng bù 2 của −510 trong máy tính. Phương pháp biểu diễn số bù 2 ra đời khi người ta gặp vấn đề với hai phương pháp dấu lượng và bù 1, đó là: Có hai cách biểu diễn cho số 0. Bit nhớ phát sinh sau khi đã thực hiện phép tính phải được cộng tiếp vào kết quả. Với phương pháp bù 2, số 0 chỉ có một cách biểu diễn duy nhất là 00000000 (mẫu 8 bit). Việc đổi dấu một số – kể cả từ âm sang dương hay từ dương sang âm – đều được thực hiện theo cùng một cách, đó là: đảo tất cả các bit rồi cộng thêm một vào kết quả. Việc thực hiện phép cộng với số biểu diễn theo phương pháp bù 2 được thực hiện hoàn toàn giống như cộng hai số nhị phân bình thường, tuy nhiên, khi phát sinh bit nhớ ở bit dấu, ta có thể bỏ nó đi. Về vấn đề này, xin xem thêm ở bài chính về bù 2. Với mẫu 8 bit, phương pháp bù 2 có thể biểu diễn tốt các số nguyên có giá trị từ −12810 đến +12710 (so với từ −12710 đến +12710 theo phương pháp dấu lượng và bù 1) do được lợi từ việc tiết kiệm được một cách biểu diễn số 0 (không phân biệt giữa −0 và +0). Số quá N Phương pháp biểu diễn số quá N – còn được gọi là biểu diễn số dịch (biased representation) – sử dụng một số nguyên N cho trước làm giá trị dịch ("dịch" hiểu nôm na theo nghĩa "sự dịch chuyển" hay "sự thiên lệch"). Theo phương pháp này, một giá trị thập phân (tức giá trị cần biểu diễn) sẽ được biểu diễn bằng dạng nhị phân của một số dương nào đó sao cho, giá trị của số dương này lớn hơn giá trị cần biểu diễn N đơn vị. Ví dụ: giả sử cần biểu diễn giá trị 210 theo số quá 5 (mẫu 8 bit): Bước 1: ta có: Giá trị cần biểu diễn: 2. N = 5. Bước 2: xác định số dương lớn hơn 210 năm đơn vị, đó là số 7. Vậy 210 sẽ được biểu diễn bằng dạng nhị phân của 7: 00000111. Theo ví dụ trên, ta sẽ có bảng sau: Ta thấy, 0 được biểu diễn bằng nhị phân của 5, và −5 được biểu diễn bằng nhị phân của 0. Tổng quát, 0 được biểu diễn bằng nhị phân của N, còn −N được biểu diễn bằng mẫu có tất cả các bit đều là 0. Phương pháp này ngày nay còn được sử dụng rộng rãi để biểu diễn các số chấm động (floating point number), tiêu biểu là chuẩn số chấm động IEEE. Theo chuẩn này, các số chấm động có độ chính xác đơn (single-precision) 32 bit (như kiểu float của Java) có phần mũ (chính là số lượng ký số của phần nằm sau dấu chấm thập phân) được biểu diễn bằng số quá 127 với mẫu 8 bit, và các số chấm động có độ chính xác đôi (double-precision) 64 bit (như kiểu double của Java) có phần mũ biểu diễn bằng số quá 1023 với mẫu 11 bit.
Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có chức năng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, tin học và ngoại ngữ cho các doanh nghiệp. Trường đã hợp tác với nhiều trường đại học và học viện trên thế giới để tổ chức các khóa học chuyên môn, các buổi hội thảo chuyên đề. Các lớp học này nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận kiến thức về quản trị kinh doanh bằng nhiều phương pháp quản lý, hội nhập và trao đổi thương mại quốc tế, luật kinh doanh quốc tế, thương mại điện tử... Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp cũng là nơi trao đổi và giới thiệu thông tin của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Bún ốc là một đặc sản ẩm thực của người Hà Nội. Bún ốc có thể ăn nóng, chấm hoặc chan. Bún ốc nguội ăn chấm phù hợp vào mùa hè. Giới thiệu Không ai biết bún ốc có từ bao giờ, nhưng có điều chính xác rằng đó là một món thuần Việt nhất trong các món ăn thuần Việt. Bún ốc xuất xứ từ một vùng quê nào đó, rồi theo bước chân của những người dân tản cư lên kinh thành Thăng Long mà thành đặc sản. Người Hà Nội thường chọn những con ốc nhỏ hơn và dai hơn so với những loại ốc nước ngọt khác (thường là ốc mít). Để làm một bát bún ngon, không thể thiếu những con ốc béo và tươi, không ngâm trong nước vo gạo quá lâu. Họ chọn loại bún tốt ngon có sợi mì mỏng và trong. Bún ốc không chỉ có nước dùng, ốc và đậu phụ là những thành phần cơ bản mà còn gồm nhiều loại rau sống kèm. Mắm tôm và ớt là tùy chọn, mặc dù những người theo chủ nghĩa thuần túy như nhà văn Vũ Bằng vẫn khăng khăng thêm những thứ đó để có hương vị đậm đà hơn. Trong tác phẩm Món ngon Hà Nội ông có nhận định "Đó là một thứ quà, có thể bảo là đã đạt được tới cái đích nghệ thuật ăn ngon của người Hà Nội. Ờ, ta cứ thử ngồi mà nghĩ thì có thứ quà gì lại lạ lùng đến như thế bao giờ? Chỉ mới trông thấy người đàn bà gánh hàng đi qua trước mắt, ấy thế mà ta đã bắt thèm rồi, bao nhiêu thóa tuyến đều như muốn làm loạn, không ngớt tăng cường nước miếng của ta…" Bún ốc Tây Hồ được biết đến từ lâu đã thành thương hiệu. Theo các bậc cao niên trong xóm Quảng Khánh (Quảng An, Tây Hồ) là nhờ vào những con ốc chất lượng được vớt từ Hồ Tây. Ốc phải thật béo và không được ngâm quá lâu. Bún được chọn từ làng Phú Đô ở huyện Từ Liêm, bởi lẽ sợi bún rất nhỏ, săn, không nhão và khi chan nước vẫn dai và dẻo mà lại không nát. Ngoài ra bún ốc ở làng Khương Thượng cũng khá nổi tiếng. Chế biến Nguyên tắc đầu tiên khi chọn các loại ốc nói chung là phải chọn ốc sống. Ốc mua về thường chưa thể ăn ngay, nên ngâm ốc qua đêm để nhả hết nhớt và chất bẩn ra nước ngâm dưới dạng vụn nhầy. Ốc được luộc lên sau đó khều lấy thịt, bỏ vào xào săn cùng mỡ và gia vị, mắm, mì chính. Nước ốc làm nước dùng chan bún sau khi đã được ninh sôi, bỏ cà chua và các gia vị đặc trưng của món nước dùng bún ốc. Trong nước dùng chan bún ốc có bỏ xương ống lợn ninh cùng để nước thêm ngọt. Chú thích Ốc Món ốc Ẩm thực Hà Nội Ẩm thực Việt Nam
Kem đánh răng là một chất tẩy sạch răng dạng hỗn hợp nhão hay gel được sử dụng với bàn chải đánh răng như một phụ kiện để tẩy sạch, duy trì thẩm mỹ và sức khoẻ của răng. Kem đánh răng dùng để thúc đẩy vệ sinh răng miệng: được dùng làm chất mài mòn để loại bỏ mảng bám răng và thức ăn khỏi răng, giúp ngăn ngừa chứng hôi miệng và cung cấp thành phần hoạt động (thường là fluoride) giúp ngăn ngừa sâu răng và viêm nướu. Muối và natri bicacbonat (soda nung) là những chất liệu có thể thay thế cho kem đánh răng thương mại. Kem đánh răng không nuốt được do hàm lượng chất fluoride, nhưng nói chung không gây hại gì nếu nuốt vào số lượng nhỏ. Tuy nhiên, người dùng nên tìm đến chăm sóc y tế sau khi nuốt một lượng lớn bất thường. Lịch sử Kem đánh răng sơ khai Người Hy Lạp cổ đại và tiếp sau đó La Mã cổ đại, đã cải tiến công thức chế biến kem đánh răng bằng cách thêm chất mài mòn như xương nghiền và vỏ sò. Vào thế kỷ thứ 9, nhạc sĩ Iraq và nhà thiết kế thời trang Ziryab đã phát minh ra một loại kem đánh răng, mà ông đã phổ biến rộng khắp khắp vùng Hồi giáo Tây Ban Nha, thành phần chính xác của kem đánh răng này không rõ ràng, nhưng được báo cáo rằng cả hai "chức năng và hương vị dễ chịu". Không biết liệu kem đánh răng sơ khai này sử dụng đơn nhất hay không, hay được cọ xát vào răng bằng những miếng giẻ rách, hoặc được sử dụng với bàn chải đánh răng sớm như cành cây sầu đâu và miswak. Kem hay bột đánh răng được sử dụng rộng rãi vào thế kỷ 19. Bột đánh răng Bột đánh răng dùng cho bàn chải đánh răng được sử dụng chung vào thế kỷ 19 ở Anh. Hầu hết là tự túc, với phấn, gạch nghiền, hoặc muối làm nguyên liệu. Một quyển bách khoa toàn thư 1866 đã khuyến cáo sử dụng than nghiền và cảnh báo rằng nhiều bột đánh răng đã được cấp bằng sáng chế được bán trên thị trường đã gây hại nhiều hơn tốt. Arm & Hammer đã bán một loại bột đánh răng dựa trên soda nung ở Hoa Kỳ cho đến năm 2000, và Colgate hiện đang kinh doanh bột đánh răng ở Ấn Độ và các sản phẩm quốc gia khác. Kem đánh răng Một công thức kem đánh răng của Mỹ và Anh vào thế kỷ 18 gọi là bánh mì đốt. Một công thức khác khoảng thời gian này gọi là huyết rồng (một loại nhựa thông), quế và phèn nhôm. Vào năm 1900, một loại bột làm bằng Hydro peroxid và Natri bicacbonat được khuyến cáo sử dụng với bàn chải đánh răng. Các loại kem đánh răng hỗn hợp được sản xuất lần đầu tiên vào thế kỷ 19, nhưng không vượt qua sự phổ biến của bột đánh răng cho đến Thế chiến I. Năm 1880, bác sĩ Washington Sheffield ở New London, CT sản xuất kem đánh răng chứa bên trong ống tuýp gấp khúc, Dr. Sheffield's Creme Dentifrice. Ông đã có ý tưởng sau khi con trai ông du lịch đến Paris và bắt gặp họa sĩ sử dụng nước sơn từ trong ống tuýp. Tại New York vào năm 1896, kem nha khoa Colgate-Palmolive được đóng gói trong ống tuýp có thể đóng lại bắt chước Sheffield. Ống tuýp kem đánh răng gấp khúc ban đầu được làm bằng chì. Cùng với Willoughby D. Miller, Newell Sill Jenkins đã phát triển kem đánh răng và đặt tên nó là Kolynos, loại kem đánh răng đầu tiên có chứa chất khử trùng. Nguồn gốc của tên này từ tiếng Hy Lạp Kolyo nosos (κωλύω νόσος), có nghĩa "phòng bệnh". Nhiều nỗ lực sản xuất kem đánh răng của các dược sĩ ở châu Âu đã không đạt kinh tế. Sau khi trở về Mỹ, ông tiếp tục thử nghiệm với Harry Ward Foote (1875-1942), giáo sư hóa học tại phòng thí nghiệm hóa chất Sheffield của đại học Yale. Sau 17 năm phát triển Kolynos và thử nghiệm lâm sàng, Jenkins đã nghỉ hưu, chuyển giao sản xuất và phân phối cho con trai Leonard A. Jenkins, người đã đem đến những ống tuýp đánh răng đầu tiên trên thị trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1908. Trong một vài năm công ty mở rộng ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, Châu Âu và Viễn Đông. Một chi nhánh hoạt động được mở tại London vào năm 1909. Năm 1937, Kolynos được sản xuất tại 22 quốc gia và bán ở 88 quốc gia. Cho đến thời hiện đại, Kolynos phổ biến chủ yếu ở Nam Mỹ và Hungary. Colgate-Palmolive đảm nhận sản xuất công ty Wyeth vào năm 1995 với chi phí 1 tỉ USD. Fluoride được thêm vào kem đánh răng vào những năm 1890. "Tanagra", chứa calci fluoride là thành phần hoạt chất, đã được Công ty Karl F. Toellner của Bremen, Đức, bán dựa trên công trình nghiên cứu ban đầu của nhà hóa học Albert Deninger. Một sáng kiến tương tự do Roy Cross, thành phố Kansas, Missouri, ban đầu đã chỉ trích bởi Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ (ADA) vào năm 1937. Kem đánh răng fluoride phát triển vào thập niên 1950 đã nhận được sự chấp thuận của ADA. Để phát triển kem đánh răng có fluoride được ADA chấp thuận đầu tiên, Procter & Gamble bắt đầu chương trình nghiên cứu vào đầu những năm 1940. Năm 1950, Procter & Gamble đã phát triển một nhóm nghiên cứu chung do Tiến sĩ Joseph Muhler thuộc Đại học Indiana thực hiện để nghiên cứu kem đánh răng mới với fluoride. Năm 1955, sản phẩm Crest của Procter & Gamble ra mắt loại kem đánh răng có chứa fluoride được thử nghiệm lâm sàng lần đầu tiên. Vào ngày 1 tháng 8 năm 1960, ADA đã báo cáo rằng "Crest đã được chứng minh là loại kem đánh răng có khả năng chống ăn mòn hiệu quả có thể có giá trị đáng kể khi được sử dụng trong chương trình vệ sinh răng miệng và chăm sóc chuyên nghiệp thường xuyên." Năm 2006, BioRepair xuất hiện ở Châu Âu với loại kem đánh răng đầu tiên có chứa hydroxylapatite tổng hợp thay thế cho fluoride để tái tạo và phục chế men răng. Các "biomimetic hydroxylapatite" được dùng để bảo vệ răng bằng cách tạo ra một lớp men tổng hợp xung quanh răng thay vì đông cứng lớp hiện tại bằng fluoride mà thay đổi về mặt hóa học thành fluorapatite. Tháng 6 năm 2007, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và các cơ quan tương tự ở Panama, Puerto Rico và Úc khuyên người tiêu dùng nên tránh một số loại kem đánh răng được sản xuất tại Trung Quốc sau khi một số phát hiện chứa diethylene glycol độc hại, còn được gọi là diglycol hoặc dán nhãn "DEG" trên ống. Thành phần Ngoài nước chiếm 20-42%, kem đánh răng có nguồn gốc từ nhiều thành phần khác nhau, ba loại chính là chất mài mòn, chất fluoride và chất tẩy rửa. Chất mài mòn Chất mài mòn chiếm ít nhất 50% loại kem đánh răng thông thường. Những hạt không hòa tan này giúp loại bỏ mảng bám khỏi răng. Loại bỏ mảng bám và vôi răng giúp giảm tối thiểu sâu răng và bệnh nha chu. Chất mài mòn đại diện bao gồm các hạt nhôm hydroxide (Al(OH)3), calci cacbonat (CaCO3), các calci hydro phosphat (CaHPO4) khác nhau, các silic và zeolit khác nhau và hydroxyapatit (Ca5(PO4)3OH). Chất mài mòn, giống như chất đánh bóng nha khoa được sử dụng trong phòng mạch nha khoa, cũng gây ra số lượng nhỏ xói mòn men được gọi là hành động "đánh bóng". Một số nhãn hiệu có chứa mica trắng dạng bột, hoạt động như chất mài mòn nhẹ và cũng bổ sung tính trang điểm đem đến độ lung linh lấp lánh cho kem. Đánh bóng răng sẽ loại bỏ vết bẩn khỏi bề mặt răng, nhưng không thể chứng minh cải thiện được sức khoẻ răng miệng trong và ngoài hiệu quả khi loại bỏ mảng bám và vôi răng. Tác dụng mài mòn của kem đánh răng được biểu thị theo giá trị RDA. Giá trị RDA quá cao cần được xem điểm giới hạn và một số nha sĩ đề nghị kem đánh răng có giá trị RDA không cao hơn 50 cho sử dụng hàng ngày. Fluoride Fluoride dưới nhiều hình thức là thành phần hoạt chất phổ biến nhất trong kem đánh răng để ngăn ngừa sâu răng. Fluoride có số lượng nhỏ trong thực vật, động vật và một số nguồn nước tự nhiên. Chất fluoride bổ sung trong kem đánh răng có tác dụng tốt đối với quá trình hình thành men răng và xương. Natri fluoride (NaF) là nguồn fluoride phổ biến nhất, nhưng fluoride stannal (SnF2), olaflur (muối hữu cơ fluoride) và natri monofluorophosphate (Na2PO3F) cũng được sử dụng. Fluoride Stannide đã được chứng minh có hiệu quả hơn natri fluoride để giảm tỷ lệ mắc bệnh sâu răng và kiểm soát bệnh viêm nướu, nhưng gây ra nhiều vết bẩn bề mặt hơn. Phần lớn kem đánh răng được bán ở Hoa Kỳ có từ 1.000 đến 1.100 phần mỗi triệu fluoride. Ở các nước châu Âu, như Anh hoặc Hy Lạp, hàm lượng fluoride thường cao hơn; hàm lượng NaF 0,312% w/w (1.450 ppm fluoride) là phổ biến. Chất hoạt động bề mặt Rất nhiều, mặc dù không phải tất cả, kem đánh răng có chứa natri lauryl sunfat (SLS) hoặc chất hoạt động bề mặt có liên quan (chất tẩy rửa). SLS cũng được tìm thấy trong nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân khác, chẳng hạn như dầu gội và chủ yếu là chất tạo bọt, cho phép phân phối đồng đều kem đánh răng, cải thiện khả năng tẩy sạch. Mặc dù các thành phần khác nhau trong kem đánh răng, nghiên cứu gần đây (phân tích meta) cho biết chải răng có hoặc không có kem đánh răng không ảnh hưởng đến mức độ loại bỏ mảng bám. Các thành phần khác Chất kháng khuẩn Triclosan, một chất kháng khuẩn, là một thành phần kem đánh răng phổ biến ở Anh. Triclosan hoặc kẽm chloride ngăn ngừa viêm nướu, theo Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ, giúp làm giảm cao răng và hơi thở hôi. Một nghiên cứu lâm sàng năm 2006 đã kết luận có bằng chứng cho biết hiệu quả của 0,30% triclosan giảm bớt mảng bám và viêm nướu. Hương vị Kem đánh răng có nhiều màu sắc và hương liệu nhằm khuyến khích người dùng sản phẩm. Ba loại hương vị phổ biến nhất là bạc hà cay, bạc hà lục và lộc đề. Kem đánh răng có hương vị dầu bạc hà-hồi cần cũng phổ biến ở khu vực Địa Trung Hải. Những hương vị này được cung cấp bởi các loại dầu tương ứng, ví dụ: tinh dầu bạc hà. Nhiều hương vị lạ hơn bao gồm hồi cần Anethole, quả mơ, kẹo cao su thổi, quế, hồi hương, oải hương, sầu đâu, gừng, vani, chanh, cam và thông. Ngoài ra, kem đánh răng không hương vị cũng tồn tại. Chất khử khoáng Tinh thể nano Hydroxyapatite và những loại calci phosphat được đưa vào trong công thức chống khoáng hóa, tức là cải tạo men răng. Hợp chất pha tạp Các tác nhân được thêm vào để làm giảm xu hướng kem đánh răng khô hóa thành bột. Bao gồm cồn đường khác nhau, như glyxerol, sorbitol hoặc xylitol, hoặc các dẫn xuất có liên quan, như 1,2-propylen glycol và polyethyleneglycol. Chloride strontium hoặc kali nitrat được bao gồm trong một số loại kem đánh răng để giảm độ nhạy. Natri poly-phosphat được thêm vào để giảm thiểu sự hình thành cao răng. Sử dụng Bôi kem đánh răng lên mặt lông của bàn chải một lượng vừa đủ và chải nhẹ nhàng lên răng. Đánh răng xong súc miệng lại bằng nước sạch. Nên đánh răng sau khi ăn xong, tối trước khi đi ngủ và sáng sau khi thức dậy, ít nhất hai lần mỗi ngày. Để tránh làm tổn thương men răng, hãy chọn bàn chải tốt, ba tháng thay một lần để đảm bảo vệ sinh lông bàn chải, tránh nhiễm khuẩn. Chú thích Nha khoa Răng Dạng bào chế
Cơ vân (còn gọi là cơ xương) là một trong ba loại cơ có trong cơ thể con người và nhiều động vật (hai loại kia là cơ trơn và cơ tim). Hầu hết các cơ vân được gắn với cấu trúc xương và khi nó co giãn thì nó sẽ tạo ra các đáp ứng tương ứng cho việc chuyển động của xương. Quá trình co giãn của cơ xương được kích hoạt bởi các xung trong các nơron vận động gửi tới cơ, dưới quá trình tự điều khiển. Cấu trúc Cơ xương gồm nhiều bó sợi cơ xếp song song dọc theo chiều dài của cơ. Mỗi sợi cơ có một tế bào rất dài (từ 10 đến 40 mm), đường kính từ 10 đến 80 micromet, có nhiều nhân, được bao bọc bởi màng sợi cơ (sarcolemma). Cơ tương chứa nhiều tơ cơ (myofibril) và các bào quan khác. Mỗi sợi cơ được điều khiển bởi một đầu cuối dây thần kinh duy nhất nằm ở giữa sợi cơ.
Trong cơ tương (sarcoplasm) có rất nhiều tơ cơ (myofibril). Mỗi sợi cơ chứa khoảng vài trăm đến vài ngàn tơ cơ. Mỗi tơ cơ lại gồm khoảng 1500 sợi myosin và 3000 sợi actin. Đó là những protein trùng hợp có tác dụng gây co cơ. Sợi myosin là sợi dày còn sợi actin là sợi mỏng. Sợi myosin và sợi actin cài vào nhau một phần làm cho tơ cơ có những dải tối và sáng xen kẽ. Dải sáng chỉ gồm sợi actin gọi là băng I, đẳng hướng với ánh sáng phân cực. Dải tối chứa sợi myosin và các đầu cuối sợi actin cài vào giữa sợi myosin. Dải tối gọi là băng A, ở phần giữa băng A có một vùng sáng gọi là vùng H. Từ hai bên của sợi myosin (trừ ở chính giữa sợi) có những phần nhô ra được gọi là cầu nối (cross bridge). Chính sự tác động qua lại giữa các cầu nối này với các sợi actin đã gây ra co cơ. Những đầu cuối của các sợi actin gắn vào vạch Z. Từ vạch này, các sợi actin đi về hai phía và cài vào giữa các sợi myosin. Vạch Z có nhiệm vụ gắn các tơ cơ của sợi cơ lại với nhau làm cho sợi cơ cũng có những dải sáng và tối. Vì vậy cơ xương và cơ tim đều có vân. Phần của tơ cơ (hoặc của toàn bộ sợi cơ) nằm giữa hai vạch Z liên tiếp được gọi là các đơn vị tơ cơ (sarcomere). Khi sợi cơ ở trạng thái bình thường, chiều dài của đơn vị tơ cơ vào khoảng 2 micromet. Hình ảnh
Cơ tương gồm những thành phần nội bào thông thường. Dịch cơ tương chứa nhiều ion K+, ion Mg++, phosphat, protein enzym. Một số lớn ti lạp thể (mitochondria) nằm ở giữa và song song với các tơ cơ, chứng tỏ rằng sự co cơ của các tơ cơ cần một lượng ATP rất lớn được tạo ra trong các ti lạp thể.
Trong sinh học, sợi myosin (còn gọi là sợi dày, tiếng Anh: thick filament, đối lập với sợi mỏng) là các sợi trong cấu trúc cơ của động vật. Chúng kiểm soát chức năng co cơ. Mỗi sợi myosin gồm khoảng 200 phân tử myosin, trong đó đuôi của các phân tử bó lại với nhau tạo thành thân của sợi myosin, còn các đầu myosin thì nhô ra phía ngoài của thân. Một phần của dây xoắn kép nhô ra ngoài cùng với đầu myosin gọi là tay. Đầu myosin và tay tạo thành cầu nối (cross bridge). Cầu nối có thể uốn được ở 2 điểm được gọi là bản lề, một chỗ tay nối với thân và một ở chỗ nối đầu nối với tay. Bản lề ở tay làm cho đầu myosin có thể vươn ra xa hoặc đưa lại gần myosin. Bản lề ở đầu tham gia vào quá trình co cơ. Chiều dài của mỗi sợi myosin vào khoảng 1,5 micromet. Ở phần chính giữa của sợi myosin (phần này dài khoảng 0,2 mircomet) các cầu nối không có đầu vì ở đây các tay xuất phát từ trung tâm và hướng về hai đầu của sợi myosin. Bản thân sợi myosin cũng bị vặn xoắn sao cho mỗi cầu nối bị lệch khỏi trục 120° so với cầu nối ở trước nó. Như vậy các cầu nối trải ra theo mọi hướng quanh sợi myosin.
Trong sinh học, sợi actin (còn gọi là sợi mỏng, đối lập với sợi dày) là một loại sợi trong cấu trúc cơ của động vật. Nó gồm 3 thành phần protein khác nhau: actin tropomyosin troponin Khung của sợi actin là phân tử actin F xoắn kép. Chiều dài của mỗi vòng xoắn vào khoảng 70 nm. Mỗi chuỗi của dây xoắn kép actin F gồm nhiều phân tử actin G trùng hợp (có khoảng 13 phân tử actin G trong mỗi vòng xoắn). Gắn với mỗi phân tử actin G có một phân tử ADP. Chính các phân tử ADP này là những vị trí hoạt động của các sợi actin, nơi các cầu nối của sợi myosin sẽ tác động vào để gây co cơ. Các vị trí hoạt động xếp theo hình chữ chi trên toàn bộ sợi actin, cách nhau khoảng 2,7 nm. Mỗi sợi actin dài khoảng 1 micromet. Mỗi đầu của sợi luồn sâu vào vạch Z, đầu kia cài vào khoảng giữa các sợi myosin của các đơn vị tơ cơ (sarcomere) ở kề bên.
Troponin là một protein. Cấu trúc Nó gồm 3 tiểu đơn vị: Troponin I, Troponin T và Troponin C. Trong cơ của động vật: Troponin I có ái lực mạnh với các actin Troponin T có ái lực với tropomyosin Troponin C có ái lực với ion Ca++. Chức năng trong cơ Phức hợp Troponin có chức năng gắn tropomyosin vào actin. Ái lực của troponin với ion Ca++ sẽ khởi động lại quá trình co cơ. Ứng dụng y học Khi tế bào cơ bị hủy, chất troponin sẽ tiết vào máu. Mức tăng nồng độ troponin dùng để xét nghiệm và chẩn đoán một số bệnh. Điển hình nhất là bệnh nhồi máu cơ tim.
Tropomyosin là protein có trọng lượng phân tử vào khoảng 70000, dài khoảng 40 nm. Chức năng trong cơ Tropomyosin có mặt trong cơ của động vật. Các phân tử này nối lỏng lẻo với dây xoắn kép actin F và quấn quanh nó. Ở trạng thái nghỉ, các phân tử tropomyosin nằm ở đỉnh của các vị trí hoạt động của dãy xoắn actin để ngăn không cho sự tác động qua lại giữa sợi actin và sợi myosin có thể xảy ra. Mỗi phân tử tropomyosin phủ lên 7 vị trí hoạt động.
Trong nhiều loài động vật có tim, cơ tim, như tên gọi của nó, là cơ của tim. Quá trình co giãn của cơ tim thực hiện đẩy máu đi qua hệ tuần hoàn trong cơ thể, cơ tim hoạt động không ngừng nghỉ cho đến khi chết. Tương tự như cơ trơn, cơ tim được điều khiển bởi hệ thống thần kinh tự động (autonomic nervous system) và các hócmôn (hormone) và một phần của nó có thể co giãn tự nhiên. Cơ tim là một trong ba loại cơ động vật có xương sống, với hai loại khác là cơ xương và cơ trơn. Nó là một cơ vân không tự chủ tạo thành mô chính của thành tim. Cơ tim tạo thành một lớp trung dày giữa lớp ngoài của thành tim (màng ngoài tim) và lớp bên trong (màng trong tim), với máu được cung cấp qua lưu thông mạch vành. Nó bao gồm các tế bào cơ tim cá nhân (cardiomyocytes) kết hợp với nhau bằng đĩa xen kẽ, được bọc bởi các sợi collagen và các chất khác tạo thành ma trận ngoại bào. Các co duỗi cơ tim theo cách tương tự với cơ xương, mặc dù có một số khác biệt quan trọng. Một sự kích thích điện dưới hình thức một điện áp hoạt động tim được phân phối theo một mô hình nhịp nhàng sẽ kích thích sự giải phóng calci từ khu chứa calci bên trong của tế bào, mạng lưới sarcoplasmic. Sự gia tăng calci làm cho myofilaments của tế bào trượt qua nhau trong một quá trình gọi là khớp nối co giãn kích thích. Các bệnh về cơ tim có tầm quan trọng lớn. Chúng bao gồm các điều kiện do nguồn cung cấp máu bị hạn chế cho cơ bao gồm đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim, và các bệnh cơ tim khác được gọi là bệnh cơ tim.
Màng sợi cơ gồm một màng tế bào thực sự gọi là màng sinh chất (tiếng Anh: plasma membrane) và một lớp vỏ mỏng bao bọc bên ngoài, lớp vỏ này chứa nhiều sợi collagen. Ở mỗi tận cùng của sợi cơ, lớp vỏ mỏng hòa màng với sợi gân. Sau đó các sợi gân tập trung thành từng bó để tạo ra gân của cơ và bám vào gân (tendon).
Co cơ là hiện tượng các cơ trong cơ thể co hoặc giãn dưới các tác động khác nhau của các dạng năng lượng sinh hóa, cơ học,... trong cơ thể con người hoặc động vật. Quá trình co cơ này liên quan mật thiết tới việc tìm hiểu nguyên lý vận động của hệ thống cơ của các đối tượng động vật hoặc con người. Nghiên cứu về hiện tượng co cơ có thể giải thích được một lượng lớn các yếu tố liên quan tới năng lượng vận động, các chuyển hóa hoá học nhằm giải thích các hiện tượng sinh lý học trong cơ thể con người. Nghiên cứu về co cơ có liên quan mật thiết tới sinh lý cơ trong cơ thể. Hiện nay, rất nhiều các nhà khoa học trên thế giới tìm ra các phương pháp khác nhau để tìm hiểu các cơ cấu phân tử của quá trình co cơ bởi đây là nền tảng cơ sở để giải thích các hiện tượng khác. Các nghiên cứu này có thể được thực hiện bằng một số cách sau: Nghiên cứu trực tiếp trên cơ thể toàn vẹn (in vivo). Nghiên cứu một cơ quan bằng cách tách rời cơ quan hoặc bộ phận ra khỏi mối liên hệ thần kinh với cơ thể toàn vẹn nhưng vẫn giữ nguyên sự nuôi dưỡng thông qua các mạch máu (in situ). Có thể nghiên cứu bằng cách tách rời một cơ quan, cơ thể hoặc tế bào ra khỏi cơ thể và nuôi dưỡng trong điều kiện dinh dưỡng và nhiệt độ giống như trong môi trường cơ thể động vật hoặc cơ thể người (in vitro). Với 3 phương pháp thực nghiệm trên kết hợp với việc sử dụng các dụng cụ đo lường điện tử và quan sát khác nhau và việc thay đổi các tác nhân tác động về cơ học, lý học, hóa học, các điều kiện về môi trường,... các nhà nghiên cứu có thể quan sát được các hoạt động chức năng, những thay đổi chức năng của các cấu trúc cơ trong cơ thể nhằm từ đó tìm hiểu được các cơ chế hoạt động, các ưu điểm, nhược điểm của các tác động và đưa ra các kiến giải hợp lý cho các quá trình thay đổi đó. Cơ cấu phân tử Khi một sợi cơ xương được kích hoạt bởi một xung thần kinh, các cầu nối (cross bridge) gắn với các sợi mỏng (thin filament) và tạo ra lực tác động lên chúng. Nhằm tạo ra được hiện tượng co cơ, lực tạo ra tác động lên sợi mỏng cần phải lớn hơn lực chống lại sự co giãn. Thuật ngữ co cơ, cũng được dùng trong giải phẫu cơ, không có nghĩa cần phải hiểu là co ngắn lại mà nó chỉ dùng để chỉ ra quá trình tạo lực - nhờ các cầu nối - trong sợi cơ mà thôi. Tiếp ngay sau quá trình co cơ, thì cơ cấu co cơ cũng chỉ ra một quá trình tắt lực có nghĩa đó là khoảng thời gian sức căng cơ dần dần suy giảm, tạo ra trạng thái thư giãn cho cơ. Lấy một màng sợi cơ (sarcomere) ở trạng thái giãn và ở trạng thái co để minh họa cho cơ chế co cơ. Trong trạng thái giãn, các tận cùng của sợi actin xuất phát từ hai vạch Z liên tiếp nhau mới chỉ ở trạng thái bắt đầu gối vào nhau, trong khi chúng đã cài hoàn toàn vào các sợi myosin. Trong trạng thái co, các sợi actin bị kéo vào trong giữa các sợi myosin, đến mức chúng gối lên nhau trong một phần lớn và các vạch Z bị các sợi actin kéo đến chạm vào tận cùng của sợi myosin. Như vậy có thể nói co cơ xảy ra theo cơ chế trượt. Sự co cơ có liên quan chặt chẽ với vai trò của hệ thần kinh,năng lượng và các chất điện giải,đặc biệt là vai trò của Ca++. Khi có tín hiệu từ luồng xung động thần kinh truyền đến tế bào cơ sẽ gây ra hiện tượng khử cực ở màng bào tương và hiện tượng kích thích điện học này sẽ lan đi nhanh chóng đến hệ thống ống T và sau đó là lưới nội bào trơn bao bọc xung quanh các siêu sợi cơ.Tại màng lưới nội bào trơn,hiện tượng khử cực làm thay đổi điện thế màng do đó khời động các kênh phóng thích Ca++ nhằm mở kênh này ra,từ đó sẽ gây ra sự vận chuyển một lượng lớn Ca++ từ lòng lưới nội cơ trơn ra dịch cơ tương theo gradient nồng độ.
Sinh lý cơ (myophysiology) là sự vận động của cơ thể dựa trên các cơ. Cơ gồm ba loại: cơ xương (hay còn gọi là cơ vân), cơ trơn (cơ tạng) và cơ tim. Mỗi cơ vân có thể được coi như một cơ quan vì ngoài các mô cơ, nó còn chứa các mô liên kết, các sợi thần kinh, các bộ thu nhận cảm giác, các mạch máu. Các cơ này gắn vào xương và khi cơ co, giãn sẽ tạo ra các cử động. Cơ trơn là một trong những thành phần mô của các cơ quan. Khi co giãn chúng gây ra sự vận động của các cơ quan bên trong. Ví dụ: đẩy thức ăn dọc theo ống tiêu hoá, duy trì huyết áp, kiểm soát mức độ co, giãn của đường hô hấp, v.v. Cơ tim là một loại cơ đặc biệt có liên quan mật thiết tới hệ thống tuần hoàn trong cơ thể người và động vật. Cơ chiếm khoảng 50% khối lượng cơ thể, trong đó cơ xương chiếm khoảng 40%, số còn lại là cơ trơn và cơ tim.
Cơ vân trong tiếng Việt có thể là: Cơ vân, một trong ba loại cơ có trong cơ thể con người và nhiều động vật. Cơ Vân, tên húy của Tào Hiếu bá, vị vua thứ 5 nước Tào thời Tây Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ trơn (còn gọi là cơ tạng) là một trong ba loại cơ trong cơ thể con người và một số động vật (hai loại kia là cơ xương và cơ tim). Tập hợp các cơ trơn thường bao xung quanh các cơ quan rỗng hay các ống dẫn trong cơ thể bao gồm dạ dày, ruột, bàng quang, dạ con hay tử cung, mạch máu và các đường dẫn khí trong phổi. Các tế bào cơ trơn đơn lẻ cũng được phát hiện phân bố trên khắp các cơ quan và trong các bó nhỏ của các tế bào có liên quan tới lông/tóc trên da và con ngươi của mắt. Quá trình co giãn của các cơ trơn bao quanh các cơ quan rỗng có thể điều chỉnh các luồng chảy bên trong các cơ quan rỗng bằng cách thay đổi đường kính của các cơ quan rỗng đó. Quá trình co giãn của các cơ trơn được điều khiển bằng hệ thống thần kinh tự chủ (autonomic nervous system), các hócmôn (hormone), các paracrine và các tín hiệu hóa học lân cận khác. Tuy nhiên, một vài cơ trơn co giãn ngay cả khi vẫn không có một tín hiệu nào xuất hiện tại những vùng lân cận xung quanh nó. So với cơ xương, sợi cơ trơn có kích thước nhỏ hơn nhiều. Chúng có đường kính khoảng 2 đến 5 micromet và chiều dài từ 20 đến 50 micromet. Tuy nhiên nhiều nguyên lý trong cơ trơn cũng giống như ở cơ vân, trong đó quan trọng nhất là lực hấp dẫn giữa sợi actin và sợi myosin để gây co cơ là như nhau ở cả hai loại cơ. Cơ trơn của các cơ quan khác nhau thường rất khác nhau. Nhưng để đơn giản hóa có thể chia cơ trơn làm hai loại chính: Cơ trơn nhiều đơn vị: gồm nhiều sợi cơ trơn riêng rẽ, mỗi sợi hoạt động hoàn toàn độc lập, được điều khiển bởi một kết cuối của thần kinh đơn độc. Mặt ngoài của sợi cơ được bao phủ bởi một lớp mỏng giống màng đáy, là hỗn hợp của sợi collagen và glycoprotein, có tác dụng tách rời các sợi cơ. Hoạt động của cơ trơn nhiều đơn vị được kiểm soát bởi những tín hiệu thần kinh. Những cơ trơn nhiều đơn vị của cơ thể như: sợi cơ trơn của cơ mi, của giống mắt, các cơ dựng lông, v.v. Cơ trơn một đơn vị: có nghĩa là toàn bộ khối lượng hàng trăm đến hàng triệu sợi cơ cùng co đồng thời như một đơn vị duy nhất. Các sợi cơ thường tập trung lại thành từng lớp hoặc từng bó, màng của chúng dính vào nhau ở nhiều điểm, do đó lực sinh ra trong một sợi cơ có thể truyền sang sợi bên cạnh. Các màng sợi cơ còn nối với nhau bởi nhiều khe nối qua đó các ion cũng được truyền suốt sợi cơ sang sợi lân cận làm cho các sợi cơ cùng co đồng thời. Loại cơ trơn này được gọi là cơ trơn hợp bào, thường gặp ở các tạng rỗng như ruột, ống mật, niệu quản, tử cung, mạch máu, do đó cũng được gọi là cơ trơn tạng.
Đây là quá trình phản ứng gây ra bởi năng lượng hóa học mà chúng được chứa đựng và vận chuyển trong các liên kết phân tử hữu cơ có chứa phosphor năng lượng cao trong cấu trúc ATP sau khi giải phóng năng lượng, ví dụ trong các cơ, nhằm tạo ra các vận động cho cơ thể. Sản phẩm của quá trình thủy phân ATP sẽ giải phóng ra ADP (Adenosine diphosphate), nguyên tử phosphat vô cơ và (ortophosphate) (Pi). ADP sau đó có thể tiếp tục được thủy phân và tạo ra năng lượng, Adenosine monophosphate (AMP) và các orthophosphate khác (Pi). Quá trình thủy phân của nhóm phosphat trong ATP (Adenosine Triphosphate) sẽ tạo ra một lượng năng lượng cỡ khoảng 7kcal/mol. Năng lượng chứa trong ATP có thể dùng thực hiện công ở tế bào, như co cơ, vận chuyển chất qua màng tế bào, tổng hợp các phân tử hữu cơ... Năng lượng được thực hiện quay vòng trong tế bào, qua ATP. Một phân tử ATP chỉ tồn tại vài giây thì năng lượng của nó đã được chuyển luôn sang phân tử khác, và ATP trở thành ADP, phân tử ADP mới được tạo ra này lại nhanh chóng được chuyển trở thành ATP do được ghép sóng hành với các phản ứng giải phóng năng lượng (tức các phản ứng phân giải glucid, lipid và protein). Tuy phân tử ATP chứa năng lượng trong cấu trúc của mình, nhưng chức năng của nó là vận chuyển năng lượng hơn là kho chứa năng lượng. Tổng năng lượng chứa trong toàn bộ các phân tử ATP một tế bào cũng chỉ đủ dùng cho tế bào đó trong vài giây.
Trong khoa học máy tính, thiết bị khởi động đôi khi còn có tên gọi không đầy đủ là ổ khởi động là một thiết bị có thể nhận lệnh (thông thường là từ hệ thống BIOS) của máy tính kích hoạt để tự thiết bị này thực hiện được một số bước đơn giản ban đầu và giao lại toàn quyền cho một hệ điều hành. Tên tiếng Anh của thiết bị khởi động là boot device, có nguồn gốc từ chữ bootstrap (mồi việc khởi động); có nghĩa là sử dụng một chương trình đơn giản nào đó để phát triển một chương trình khác có các khả năng phức tạp hơn tạo thành một lớp nằm trên của lớp đơn giản ban đầu, một cách trọng yếu nó có nghĩa là "tự kéo nó lên bằng khởi động mồi của chính nó". Các thiết bị có khả năng khởi động một máy tính thường là các đĩa khởi động (như đĩa mềm, đĩa CDROM) và các ổ khởi động (như ổ cứng, ổ mềm, ổ CDROM hay các ổ USB). Một số máy tính nối mạng có thể được trang bị các con chip khởi động (trên các NIC) nhằm có thể khởi động được máy thông qua các lệnh truyền trên mạng. Một số tiêu chuẩn về thẻ khởi động (boot card) cho phép người tiêu dùng khởi động các máy tính ở các trạm (kiosk) máy bảo đảm tính riêng tư và người dùng có thể tự truy cập các ứng dụng. Trong tiếng Anh, nhiều người nói gọn thiết bị khởi động là boot và nói gọn thiết bị không khởi động được là thiết bị dữ liệu (data device), máy tính không cần phân biệt giữa hai loại thiết bị trên nhưng hệ điều hành thì cần biết về sự khác nhau giữa chúng. Một cách dùng khác của thuật ngữ thiết bị khởi động là các thiết bị nào phải được nhận biết bởi BIOS và được cho vận hành trước khi một hệ điều hành được tải. Thí dụ của trường hợp này, đối với các hệ máy cũ là các thiết bị đầu vào (chuột và bàn phím) hay thiết bị đầu ra như màn hình cũng như các thiết bị khác như là các bộ điều khiển của các kho dữ liệu.
Trượt tuyết nhảy xa tại Thế vận hội Mùa đông 2006 được tổ chức từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 20 tháng 2 năm 2006. Đây là một trong một số nhỏ các bộ môn chỉ được thi đấu giữa phái nam tại Thế vận hội. Bảng huy chương K120 đồng đội
Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của tỳ kheo Giới Đức, là một trong những người sáng lập ra chùa Huyền Không (Huế) từ mái chùa lá ở đèo Hải Vân trước năm 1978. Ông là một nhà sư thông thạo thơ văn, hội họa và trang trí mỹ thuật và là một cao thủ cờ tướng từng đánh bại một số kì thủ quốc gia . Đồng thời ông cũng là một trong những người nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. Cơ duyên và hành trạng Hòa thượng thế danh Nguyễn Duy Kha sinh ngày 19 tháng 7 năm 1944 tại Dạ Lê thượng, huyện Hương Thuỷ, Thừa Thiên Huế. Cha là cụ ông Nguyễn Duy Hoan và mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Sừng. Hoà thượng có pháp danh là Giới Đức [bút hiệu Minh Đức Triều Tâm Ảnh] đã tu tập sự tại chùa Từ Quang [Bắc Tông]- Huế từ năm 1970-1971. Năm 1972 ông vào chùa Tam Bảo-Đà Nẵng hỏi đạo hòa thượng Giới Nghiêm, thuộc [Nam Tông]. Năm 1973 ông vào Tam Bảo thiền viện tại Núi Lớn, Vũng Tàu làm giới tử rồi xuất gia sa-di ở đây - ngài hòa thượng Giới Nghiêm cho pháp danh là Giới Đức [Sīlaguna]. Sau mùa an cư năm 1973 ông theo thầy vào ở chùa Phật Bảo, Phú Thọ Hòa, Gia Định. Cuối năm 1974, ông về ở chùa Huyền Không tại chân đèo Hải Vân Lăng Cô, Lộc Hải, Phú Lộc, ngôi chùa do ngài Viên Minh sáng lập cùng với chư huynh đệ là sư Tịnh Pháp, sư Trí Thâm, sư Tấn Căn. Năm 1976, ngài Viên Minh vào làm Tổng thư ký hệ phái Nguyên Thủy tại chùa Kỳ Viên, Bàn Cờ, Sài Gòn - nên đề cử ông giữ chức vụ trụ trì chùa Huyền Không. Năm 1977,ngày 17 tháng 2, lúc 9 giờ 58 phút, ông được thọ đại giới tỳ-khưu tại chùa Tam Bảo - Đà Nẵng, thầy bổn sư tế độ là hòa thượng Giới Nghiêm, thầy Yết-ma là đại đức Giới Hỷ. Tháng 11 năm 1978, chùa Huyền Không được di dời từ Hải Vân, Lăng Cô về thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa thiên Huế. Thượng tọa trụ trì ở đây được 10 năm, đã thiết kế được một không gian vườn cảnh đậm tính chất thiền, với tranh tre nứa lá giản dị, với thiên nhiên hoa cỏ thơ mộng rất phù hợp với tâm hồn tao nhân, mặc khách. Năm 1988-1999, hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Thượng tọa xin tỉnh và sở Lâm nghiệp giao cho 54 ha 4 đất trống đồi trọc để trồng rừng. Đầu năm 1992, Thượng tọa mới chính thức vào ở hẳn trong núi Hòn Vượn, bàn giao chùa Huyền Không cho đại đức Pháp Tông làm trụ trì. Hình ảnh ngôi chùa bề thế hiện nay ở Huyền Không là công sức và tài năng kiến tạo của đại đức Pháp Tông. Năm1989,Thượng tọa vận động hiệp hội Schmitz thông qua Tiến sĩ Thái Kim Lan tại Đức xây cầu Bạch Yến thuộc thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế giúp địa phương quanh vùng thuận lợi trong việc giao thông đi lại. Đây là một công tác xã hội có ý nghĩa lớn tại Huế vào thời bấy giờ. Từ năm 1989 đến nay, Thượng tọa là Sư trưởng Huyền Không Sơn Thượng. Tại cơ sở mới này, năm 2007, Thượng tọa lại trao đổi trực tiếp với ông Giám đốc điều hành Hiệp hội Schmitz để xây cầu Sơn Thượng - rồi vận động xã, huyện và tỉnh làm thêm con đường bê-tông 1 km đi vào tổ 7 thôn Chầm, khá tiện ích cho nhân dân khai thác những khu rừng trồng từ lâu không có lối đi. Là tu sĩ, lại là người yêu Cái Đẹp, Thượng tọa tiếp tục thiết kế vườn cảnh, xây dựng cốc liêu, sáng tác thơ văn và góp phần đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam. Huyền Không Sơn Thượng Bài chi tiết Huyền Không Sơn Thượng Huyền Không Sơn Thượng được Thượng tọa Giới Đức khai sơn năm 1989, toạ lạc dưới chân núi Hòn Vượn ở vùng Chầm thuộc sơn phận xã Hương Hồ, giáp với xã Hương An, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Tác phẩm Văn học Phật giáo Thượng tọa Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) là nhà thơ có tên tuổi ở đất thần kinh và đã xuất bản nhiều tập thơ. Ông cũng là nhà văn rất nổi tiếng trong giới Phật giáo; những tác phẩm của ông chẳng những có giá trị trong giới Phật học trong và ngoài nước mà còn đóng góp không nhỏ cho nền văn chương, văn học của Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu: Chèo vỡ sông trăng (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Kinh lời vàng (Phổ thơ kinh Pháp cú - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Ngàn xưa hương Bối (Hai tập truyện cổ Phật giáo - Nhà xuất bản Tôn Giáo) Một cuộc đời - một ngôi sao (Cuộc đời ngài Sàriputta - Nhà xuất bản Tôn Giáo) Hành hương tâm linh (Truyện dài tư tưởng - Nhà xuất bản Phương Đông) Phật học tinh yếu (Tập I - Nhà xuất bản Phương Đông) Đá trắng chiêm bao (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Tình Mẹ - mùa báo hiếu (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Đóa hồng vàng cửa Phật (Tập thơ - Nhà xuất bản Phương Đông) Lửa lạnh non thiêng (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Chữ cháy bờ lau (Tập thơ - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Giun dế, hư vô và hạt lửa xanh (Tập thơ - Nhà xuất bản Văn Học) Sử Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc (Tập I - Nhà xuất bản Thuận Hóa) Bức tranh thay đổi thế giới (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Phương Đông) Một cuộc đời - Một Vầng Nhật Nguyệt (Bộ Đại sử Đức Phật Sàkya Muni - Tập I,II,III - 1500 trang - Nhà xuất bản Văn Học) Người trồng hoa và chàng tu sĩ (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Phương Đông) Chuyện cửa Thiền (Tập truyện - Nhà xuất bản Cảo Thơm) Mi Tiên vấn đáp (Hiệu chính - Nhà xuất bản Văn Học) Thắp lửa tâm linh (Truyện danh tăng - Tập I,II - Nhà xuất bản Thời Đại) Tiếng hú trên đỉnh cô phong (Tiểu luận, tạp luận văn học - Nhà xuất bản Văn Học) 38 pháp hạnh phúc (Hiệu đính - Nhà xuất bản Tôn Giáo) Bụi,trăng và lửa (Tập thơ 1100 trang - Nhà xuất bản Văn Học) Phật học tinh yếu (Tập 2 - Nhà xuất bản Phương Đông) Chú thích
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống và công bằng xã hội Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định). Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế... thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Trình độ tư duy, quan điểm sẽ thay đổi. Để có thể thay đổi trình độ tư duy, quan điểm đòi hỏi phải mở cửa nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Một số lý thuyết về phát triển kinh tế Trường phái cơ cấu Thập niên 1940, giới nghiên cứu kinh tế học ở Mỹ Latinh cho rằng thuyết thương mại tự do để phát huy lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế theo lý luận của David Ricardo không phù hợp nữa. Ricardo cho rằng các nước giàu tài nguyên có thể phát triển kinh tế bằng cách xuất khẩu nguyên liệu thô. Theo các nhà kinh tế học Mỹ Ltinh, Ricardo đưa ra thuyết đó vì nước Anh không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp, song có lợi thế về khu vực chế tạo; và vì vậy nước Anh cần theo đuổi thương mại tự do để có thể nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng chế tạo. Tuy nhiên, đầu thế kỷ XX, Mỹ vươn lên thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nước này có gần như đủ loại tài nguyên thiên nhiên, có nền nông nghiệp và khu vực chế tạo phát triển. Mỹ đã không đi theo đường lối thương mại tự do; và chính sự bảo hộ nông nghiệp của Mỹ đã làm cho xuất khẩu nông sản- đầu tàu phát triển kinh tế- của Mỹ Latinh bị đình trệ trong thập niên 1920 và thập niên 1930. Từ lập luận như thế, các nhà kinh tế học Mỹ Latinh chủ trương rằng: muốn phát triển kinh tế thì phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng của khu vực sơ khai (nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác khoáng sản) và tăng dần tỷ trọng của khu vực chế tạo và khu vực dịch vụ. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đó, công nghệ là thiết yếu. Quan sát mô hình phát triển kinh tế của Phổ, theo đó trong khi nông nghiệp còn đang là khu vực chủ đạo của nền kinh tế, thì công nghiệp nặng đã được Nhà nước ưu tiên phát triển làm động lực cho công nghiệp hóa, các nhà kinh tế học theo trường phái cơ cấu chủ trương rằng nhà phát triển kinh tế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Trường phái cơ cấu còn cho rằng quan hệ kinh tế quốc tế (thập niên 1940 đến 1960) là quan hệ các nước đang phát triển cung cấp nguyên liệu thô, còn các nước phát triển cung cấp hàng hóa chế tạo. Vì vậy, các nước đang phát triển muốn phát triển nền công nghiệp trong nước phải dựa vào nhu cầu trong nước. Kết quả của lý thuyết nói trên về phát triển kinh tế đã làm ra đời chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển từ thập niên 1950. Mô hình tăng trưởng tuyến tính nhiều giai đoạn Từ thành công của Kế hoạch Marshall sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà kinh tế học phát triển ở các nước phát triển cho rằng các nước đang phát triển có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế nếu họ nhận được nhiều vốn và nếu Nhà nước can thiệp hợp lý. Nhân vật tiêu biểu cho các nhà kinh tế này là Walt W. Rostow. Rostow cho rằng để trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, cần phải trải qua bốn giai đoạn: (1) xã hội truyền thống; (2) chuẩn bị các tiền đề để cất cánh; (3) cất cánh; (4) trưởng thành; và (5) chuyển sang xã hội tiêu dùng quy mô lớn. Các nước đang phát triển ở vào các giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Muốn cất cánh, các nước đang phát triển cần phải thỏa mãn ba điều kiện, đó là: tăng tỷ lệ đầu tư lên không dưới 10% thu nhập quốc dân thông qua tăng tỷ lệ tiết kiệm hoặc nhận viện trợ của nước ngoài, có một hoặc một số ngành chế tạo tăng trưởng nhanh chóng, và có một khung chính trị, xã hội, thể chế cho phép ngành kinh tế hiện đại phát triển. Rostow nhấn mạnh tốc độ phát triển mà không đề cập đến thay đổi cơ cấu ngành. Do đó, lý luận của Rostow hàm ý phát triển kinh tế chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết phát triển phụ thuộc Trong thập niên 1960 và thập niên 1970, các nhà kinh tế học Marxist mới (American Marxist) đưa ra lý thuyết phát triển phụ thuộc (dependent development). Thế giới chia làm hai nhóm: nhóm nước giàu và nhóm nước nghèo. Sự phát triển của nhóm nước nghèo là "sự phát triển phụ thuộc", theo đó sự phát triển này phụ thuộc vào vốn, thương mại và công nghệ mang đến từ các nước giàu. Các nước kém phát triển thường phụ thuộc vào các nước phát triển và bị bóc lột. Ngay trong một nước nghèo có thể có tầng lớp thống trị (bao gồm chính trị gia, quân nhân,...) có quan hệ khăng khít với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế bóc lột tầng lớp lao động trong nước. Vì vậy, các nước nghèo không nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa để phát triển kinh tế và không nên quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa. Chủ trương này hàm ý phát triển kinh tế với nền kinh tế đóng cửa và tự cấp tự túc. Lý thuyết phát triển phụ thuộc sau đó phát triển hơn, đặc biệt là bởi các học giả từ châu Mỹ La Tinh. Phát triển phụ thuộc nhiều khi là cần thiết, không tránh khỏi. Hầu hết các nước phát triển từ nghèo thành giàu như Australia, Canada, các nước Đông Á, một số nước Mỹ La tinh như Brazil, Argentina... đều phải dựa vào phát triển phụ thuộc. Tuy nhiên, kết cục các nước này cũng khác nhau, tùy theo các yếu tố khác, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của nhà nước. Các nước như Hàn Quốc, Đài Loan... bên cạnh dựa vào thương mại, công nghệ của nước ngoài (như Mỹ), còn có một nhà nước minh bạch, có năng lực quản lý. Các lý luận kinh tế học tân cổ điển Vào thập niên 1980, kinh tế học tân cổ điển chủ trương rằng muốn phát triển kinh tế, các nước đang phát triển phải dựa vào thị trường chứ không phải vào sự can thiệp của nhà nước. Nói cách khác, họ đề cao phát triển kinh tế thân thiện với thị trường. Các biện pháp cần thực hiện là xóa bỏ những hạn chế thị trường, tư nhân hóa, tự do hóa thương mại, giảm đầu tư công như một cách để giảm sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài khoản vốn, v.v... Một chương trình tổng hợp những biện pháp như vậy được gọi là Đồng thuận Washington. Lý luận tân cổ điển về phát triển kinh tế này được các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Nhóm Ngân hàng Thế giới tán thành. Lý thuyết phát triển kinh tế lấy xã hội làm trung tâm Lý thuyết phát triển kinh tế lấy con người làm trung tâm Phát triển bền vững
Quản trị tiếp thị là kỷ luật tổ chức mà tập trung vào ứng dụng thực tế của định hướng marketing, kĩ thuật, phương pháp bên trong các doanh nghiệp, tổ chức và chú trọng vào quản lý nguồn lực và hoạt động marketing của công ty. Toàn cầu hóa dẫn tới việc các công ty mở rộng thị trường ra ngoài, vượt qua biên giới nước chủ nhà, và làm cho marketing quốc tế trở thành một phần quan trọng, cần thiết trong chiến lược marketing của công ty. Những nhà quản trị marketing thường chịu trách nhiệm trong việc tác động đến mức độ, thời gian và các yếu tố tạo nên nhu cầu của khách hàng. Một phần, đó là bởi vì ý nghĩa vai trò của người quản trị marketing dựa trên quy mô doanh nghiệp, văn hóa công ty và bối cảnh ngành công nghiệp. Ví dụ, trong một công ty sản xuất hàng tiêu dùng lớn, nhà quản trị marketing có thể được xem như là nhà quản trị chung cho sản phẩm được giao. Để tạo ra hiệu quả trong chiến lược quản trị chi phí – lợi ích marketing, công ty phải có một sự hiểu biết chi tiết mục tiêu kinh doanh và thị trường mà công ty hoạt động. Khi phân tích những vấn đề này, kỷ luật trong quản trị marketing thường trùng lặp với kỷ luật của lên kế hoạch chiến lược Cấu trúc Quản trị marketing sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong kinh tế và chiến lược cạnh tranh để phân tích bối cảnh công nghiệp mà công ty hoạt động. Nó bao gồm năm tác động của Porter, phân tích các nhóm chiến lược của đối thủ cạnh tranh, phân tích chuỗi giá trị và nhiều thứ khác. Dựa vào ngành công nghiệp, bối cảnh pháp lý cũng có thể được xem là quan trọng để xem xét cụ thể. Khi phân tích đối thủ, người làm marketing sẽ xây dựng hồ sơ của các đối thủ khác trong thị trường bằng phân tích SWOT, chú ý đặc biệt vào điểm mạnh và điểm yếu tương quan của họ. Nhà quản trị marketing sẽ kiểm tra cấu trúc chi phí, nguồn lợi nhuận, nguồn lực và năng lực, vị thế cạnh tranh và sản phẩm khác biệt, mức độ của liên kết dọc, lịch sử phản ứng với sự phát triển của nền công nghiệp, và các yếu tố khác. Quản trị marketing thường nhận ra được sự cần thiết của việc đầu tư nghiên cứu để thu nhập dữ liệu nhằm thể hiện chính xác các phân tích marketing. Vì vậy, họ thường quản lý nghiên cứu thị trường và nghiên cứu marketing để thu thập được thông tin. Người làm marketing sử dụng nhiều kỹ thuật để thực hiện nghiên cứu marketing nhưng có một số thủ thuật phổ biến hơn cả: Nghiên cứu định tính trong marketing như phỏng vấn nhóm và các loại phỏng vấn khác Nghiên cứu định lượng trong marketing như là điều tra thống kê Kỹ thuật thực nghiệm như kiểm tra các thị trường Kỹ thuật quan sát như sự quan sát dân tộc học Nhà quản trị marketing cũng có thể thiết kế và giám sát quá trình phân tích môi trường doanh nghiệp và thông tin cạnh tranh nhằm giúp xác định các xu hướng và thông báo các phân tích marketing của công ty. Kiểm toán thương hiệu là một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng vị thế hiện tại của thương hiệu trong ngành công nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh và kiểm tra sức ảnh hưởng của nó. Khi kiểm toán thương hiệu, có năm câu hỏi cần được kiểm tra và đánh giá cẩn thận. Những câu hỏi bao gồm chiến lược thương hiệu hiện tại hoạt động tốt như thế nào, cái gì tạo nên nguồn lực mạnh và điểm yếu của công ty, các cơ hội bên ngoài và nguy cơ, cạnh tranh giá và chi phí của công ty như thế nào, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ và vấn đề chiến lược mà doanh nghiệp phải đối mặt. Nhìn chung, khi một doanh nghiệp tiến hành kiểm soát thương hiệu, mục đich chính là phát hiện ra các điểm mạnh, thiếu sót, các cơ hội tốt nhất trong thị trường, nguy cơ bên ngoài, lợi nhuận trong tương lai, và chỗ đứng cạnh tranh của công ty so với các đối thủ hiện tại. Cuộc kiểm toán thương hiệu thiết lập nên các yếu tố chiến lược cần thiết để nâng cao vị thế thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong ngành. khi 1 thương hiệu được kiểm toán, bất cứ dn nào có kết quả tài chính tốt và có vị trí trên thị trường thì đều hướng đến việc thực hiện 1 brand strategy hiệu quả và được đón nhận tốt Kiểm toán thương hiệu thường tập trung vào các điểm mạnh của thương hiệu và nguồn lực bởi vì các yếu tố này nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp có thể xuất hiện theo các nhiều hình thức. Các hình thức đó bao gồm kỹ năng hoặc chuyên môn, tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tổ chức có giá trị, tài sản vô hình có giá trị, khả năng cạnh tranh, thành tựu và các đặc tính giúp nâng cao vị thế của doanh nghiệp trong lợi thế cạnh tranh, hợp tác kinh doanh và liên minh. Khái niệm cơ bản của kiểm toán thương hiệu là xác định liệu nguồn lực mạnh của doanh nghiệp là tài sản cạnh tranh hay là nợ cạnh tranh. Loại kiểm toán này nhằm đảm bảo rằng một doanh nghiệp có thể duy trì một năng lực đặc biệt để xây dựng và củng cố lợi thế cạnh tranh. Hơn thế nữa, một kiểm toán thương hiệu thành công có mục đích thiết lập những gì mà doanh nghiệp tận dụng tốt nhất, mức độ chuyên môn, nguồn tài nguyên mạnh, khả năng cạnh tranh lớn nhất, trong khi đó mục tiêu là để xác định vị thế của doanh nghiệp và hiệu suất trong tương lai. Chiến lược marketing Hai phân khúc khách hàng thường được lựa chọn làm mục tiêu bởi vì nó được đánh giá cao trên 2 khía cạnh. 1) Phân khúc hấp dẫn cần được quan tâm vì nó lớn, phát triển, tiêu dùng thường xuyên, có giá không nhạy cảm (sẵn sàng trả giá cao) và các yếu tố khác. 2) Công ty có nguồn lực và khả năng để cạnh tranh với các phân khúc của đối thủ, có thể đạt được những nhứ cần thiết hơn đối thủ và làm ra nhiều lợi nhuận hơn. Trên thực tế, một định nghĩa chung của tiếp thị đơn giản là " gặp điều cần thiết để tạo lợi nhuận" Ý nghĩa của việc chọn phân khúc mục tiêu là doanh nghiệp sẽ phân bổ thêm các nguồn lực để có được khách hàng và giữ chân họ trong phân khúc mục tiêu hơn là những khách hàng không phải mục tiêu. Trong một vài trường hợp, các công ty có thể rời xa các khách hàng mà không ở trong phân khúc mục tiêu. Ví dụ như người bảo vệ tại một hộp đêm lớn có thể từ chối khách hàng ăn mặc không hợp thời trang bởi vì doanh nghiệp đã đưa ra một quyết định chiến lược nhắm vào phân khúc khách hàng thời thượng quen thuộc của hộp đêm. Cùng với các quyết định mục tiêu, nhà quản trị marketing sẽ xác định vị thế mong muốn của công ty, sản phẩm hoặc thương hiệu trong tâm trí của khách hàng mục tiêu. Vị thế này thường được thể hiện ngắn gọn qua lợi ích chính của sản phẩm hoặc dịch vụ cung cấp mà có sự khác biệt và vượt trội so với các lợi ích được cung cấp từ sản phẩm của đối thủ. Ví dụ, Volvo có vị trí lâu đời trong thị trường điện thoại di động tại Bắc Mỹ và được nhìn nhận là thương hiệu dẫn đầu về sự an toàn, trong khi đó, BMW thương hiệu của nó có vị trí lâu đời và được xem đi đầu về sự mạnh mẽ. Một vị thế của công ty có thể duy trì trong một thời gian dài vì công ty có thể sở hữu và phát triển thêm  nhiều lợi thế cạnh tranh bền vững. Vị thế cũng có nhiều liên quan đến các phân khúc mục tiêu như là nó sẽ thúc đẩy hành vi mua hàng của khách hàng mục tiêu. Tổng kết lại, nhánh marketing của một công ty phải đối phó với việc bán và phân phối sản phẩm đến nhiều người và khách hàng, bởi vì mục địch trung tâm và cuối cùng của công ty là làm khách hàng hài lòng và đạt được doanh thu. Kế hoạch thực hiện (Marketing Plan) Nếu một công ty có được một sự hiểu biết thấu đáo về nền tảng khách hàng và vị thế cạnh tranh của nó trong ngành, các nhà quản trị marketing sẵn sàng để ra quyết định cho các chiến lược quan trọng và phát triển một chiến dịch marketing được thiết kế để tối đa doanh thu và lợi nhuận của công ty. Chiến dịch được lựa chọn có thể nhắm vào bất kỳ mục tiêu cụ thể nào, bao gồm tối ưu hóa lợi nhuân biên ngắn hạn, tăng doanh thu, thị phần trên thị trường, lợi nhuận dài hạn hoặc các mục tiêu khác. Sau khi mục tiêu chiến lược của công ty đã được xác định, thị trường mục tiêu sẽ được lựa chọn và vị thế mong muốn của công ty, sản phẩm hoặc thương hiệu sẽ được đặt ra, nhà quản trị marketing tập trung vào làm thế nà để thực hiện tốt nhất các chiến dịch đã được lựa chọn. Theo truyền thống, việc thực hiện kế hoạch dựa trên "4Ps": chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối (vị trí hoặc vùng nơi sản phẩm được bán, có thể là địa phương, vùng miền, quốc gia hoặc quốc tế) (ví dụ các kênh bán và phân phối sản phẩm), và chiến lược khuyến mãi. Lựa chọn thực hiện 4P của công ty được miêu tả như là chiến lượng marketing hỗn hợp (Marketing Mix), nghĩa là sự kết hợp giữa các yếu tố kinh doanh sẽ thực hiện trong chiến dịch marketing và đáp ứng thị trường (go to market). Mục tiêu tổng thể của marketing hỗn hợp là đưa ra một tuyên bố giá trị (Value Proposition)  mà có thể củng cố vị thế đặt ra của công ty, xây dựng khách hàng trung thành (customer loyalty) và tài sản thương hiệu ở khách hàng mục tiêu và đạt được mục tiêu marketing và tài chính. Trong nhiều trường hợp, quản trị marketing sẽ phát triển kế hoạch marketing nhằm xác định làm thế nào công ty có thể hoàn thành chiến dịch đặt ra và đặt được các mục tiêu kinh doanh. Nội dung của các chiến dịch có thể khác biệt giữa các công ty nhưng có một số điểm chung dưới đây: Bản tóm tắt Phân tích tình hình để tóm tắt những sự kiện và những thông tin hiểu biết đạt được từ nghiên cứu thị trường và các phân tích marketing Tuyên bố sứ mệnh của công ty hoặc tầm nhìn chiến lước dại hạn Tuyên bố các mục tiêu chính của công ty, thường chia thành các mục tiêu marketing và các mục tiêu tài chính Chiến dịch marketing mà doanh nghiệm đã chọn phải xác định rõ ràng các phân khúc mục tiêu sẽ theo đuổi và vị thế cạnh tranh có thể đạt được. Các lựa chọn thực hiện mỗi yếu tố trong marketing hỗn hợp 4Ps (marketing mix) Dự án, quá trình, và quản lý nhà cung cấp Mở rộng hơn, các nhà quản trị marketing làm việc để  thiết kế và cải thiện tính hiệu quả của các quá trình marketing chính như: phát triển sản phẩm mới, quản lý thương hiệu, truyền thông marketing, và giá. Những người làm marketing có thể sử dụng các công cụ của tái cơ cấu quy trình nghiệp vụ (business process reengineering) để đảm báo các quá trình được thiết kế đúng chuẩn và sử dụng nhiều kỹ thuật quản lý để giữ nó hoạt động trơn tru Sự thực hiện hiệu quả có thể yêu cầu sự quản lý của các nguồn lực bên trong và một loạt các nhà cung cấp bên ngoài cùng với các bên cung cấp dịch vụ như là công ty quảng cáo (agency) của công ty. Các nhà làm marketing có thể liên kết hợp tác với bộ phận mua hàng của công ty về việc sử dụng các dịch vụ này. Theo lĩnh vực marketing, quản trị công ty quảng cáo  (ví dụ: làm việc với công ty marketing bên ngoài và các nhà cung cấp) là những kỹ thuật như đánh giá hiệu suất của công ty quảng cáo, quy mô công việc, chế độ thưởng, RFx’s và lưu trữ thông tin của công ty quảng cáo trong cơ sở dữ liệu nhà cung cấp. Cơ sở dữ liệu là thứ quan trọng để quản lý, nhưng dễ dàng phân bổ. Trong khi sự phân bổ nhà cung cấp có nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng dễ dàng để xử lý Báo cáo, đánh giá, phản hồi, kiểm soát các hệ thống Quản trị marketing sử dụng nhiều số liệu để đánh giá tiến độ so với các mục tiêu. Đó là trách nhiệm của các nhà quản trị marketing – trong bộ phận marketing hoặc nơi khác – để đảm bảo rằng việc thực hiện các chương trình marketing đạt được những mục tiêu kì vọng cũng như cách thức tiết kiệm chi phí hiệu quả Quản trị marketing do đó thường sử dụng các loại hệ thống quản lý tổ chức như là dự báo bán hàng, các chương trình khuyến khích đại lý và lực lượng bán hàng, các hệ thống quản lý lực lượng bán hàng, và các công cụ quản lý quan hệ khách hàng (CRM). Gần đây, một số nhà cung cấp phần mềm đã bắt đầu sử dụng thuật ngữ "quản trị hoạt động marketing" hoặc "quản trị nguồn lực marketing" để miêu tả các hệ thống mà tại điều kiện cho tiếp cận tích hợp kiểm soát các nguồn lực marketing. Trong một vài trường hợp, các nỗ lực có thể liên kết với hệ thống quản lý chuỗi cung cấp như là hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (ERP), kế hoạch cung ứng nguyên liệu (MRP), phản ứng hiệu quả tiêu dùng (ECR) và các hệ thống quản lý hàng tồn kho.
Trượt ván trên tuyết tại Thế vận hội Mùa đông 2006 bao gồm 3 bộ môn: halfpipe, parallel giant slalom và snowboard cross cho cả nam và nữ. Thế vận hội Mùa đông tại Torino là lần đầu tiên Snowboard cross trở thành một trong các bộ môn thi đấu. Bảng huy chương Nam Nữ Các đoàn tham dự Chú thích Sự kiện Thế vận hội Mùa đông 2006 Thế vận hội 2006 Thế vận hội
Hai môn phối hợp Bắc Âu tại Thế vận hội Mùa đông 2006 (Nordic combined) là một trong một số nhỏ bộ môn chỉ được thi đua giữa phái nam tại Thế vận hội. Đây là bộ môn hỗn hợp trượt tuyết băng đồng với nhảy ski (ski jumping). Bảng huy chương 4 × 5 km đội
Tam Hoàng Ngũ Đế (chữ Hán: 三皇五帝) là thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, gồm các vị quân chủ huyền thoại của Trung Quốc trong thời kỳ từ năm 2852 TCN tới 2205 TCN, thời kỳ ngay trước thời nhà Hạ. Do không có di tích đủ lớn để khảo cứu nên mô tả về thời kỳ này mang tính truyền thuyết, huyền thoại nhiều hơn là thực tế lịch sử. Cái gọi là Tam Hoàng (三皇), dùng để chỉ đến ba vị quân chủ đầu tiên mang tính chất huyền huyễn và thần thánh. Theo truyền thuyết, ba vị này được cho là thần tiên hoặc bán thần, những người đã sử dụng các phép màu để giúp dân. Do phẩm chất cao quý nên họ sống lâu và thời kỳ cai trị của họ hòa bình thịnh vượng. Còn Ngũ Đế (五帝), là năm vị quân chủ nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung Hoa, đưa dân tộc này thoát khỏi tình trạng sơ khai. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Đó là thời kỳ sơ khai của Trung Quốc. Văn minh Trung Hoa mới bắt đầu khởi phát nên còn rất thô sơ và dân chúng rất thưa thớt, họ sống theo lối du mục hoặc các làng mạc định cư nhỏ, không có chữ viết và cũng không có dấu tích công trình gì còn sót lại. Điều này khiến việc nghiên cứu để biết rõ về thời kỳ tối cổ này khá khó khăn. Tam Hoàng Các học giả Trung Hoa không nhất trí với nhau về Tam Hoàng cụ thể là ai, phần lớn chịu ảnh hưởng nhiều bởi các truyền thuyết dân gian. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Tam Hoàng là: Thiên Hoàng - trị vì 18.000 năm. Địa Hoàng - trị vì 11.000 năm. Nhân Hoàng - trị vì 45.600 năm. Theo Vận Đẩu Xu (運斗樞) và Nguyên Mệnh Bao (元命苞), Tam Hoàng là: Phục Hy Nữ Oa Thần Nông Đây là thuyết thường thấy nhất của Tam Hoàng, được ngầm công nhận là một danh sách chuẩn. Trong đó, Phục Hi và Nữ Oa là hai anh em, và cũng là thần chồng và thần vợ, hai người được coi là tổ tiên của loài người sau một trận đại hồng thủy. Cũng như Thần Nông là người đã phát minh ra nghề nông và là người đầu tiên dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Các sách Thượng thư đại truyện (尚書大傳) và Bạch hổ thông nghĩa (白虎通義) thay thế Nữ Oa bằng Toại Nhân, người mà theo truyền thuyết đã phát minh ra lửa. Sách Đế vương thế kỉ (帝王世紀) thay thế Nữ Oa bằng Hoàng Đế, người được coi là tổ tiên của người Hán. Sách Thông Giám Ngoại Kỷ lại thay thế Nữ Oa bằng Cộng Công, tức là vị thần của nước. Sách Bạch Hổ Thông Nghĩa còn có 1 thuyết khác thay thế Nữ Oa bằng Chúc Dung, tức là Hỏa thần. Việc thay thế Nữ Oa - một nữ thần - bằng một vị nam thần được cho là kết quả của việc chuyển từ chế độ mẫu hệ thời cổ xưa sang chế độ phụ hệ. Ngũ Đế Tương tự như Tam Hoàng, các vị trong Ngũ Đế cũng có nhiều giả thuyết. Thuyết của Sử ký Tư Mã Thiên được xem là chính thống nhất, theo sách này thì Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế (黃帝). Chuyên Húc (顓頊). Đế Khốc (帝嚳). Đế Nghiêu (帝堯). Đế Thuấn (帝舜). Theo "Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê, các vị quân chủ đó đều do người Trung Quốc tưởng tượng ra, chỉ có Nghiêu, Thuấn có thể coi là bán thực bán huyền (semi-historique). Trong đó, Nghiêu và Thuấn còn được gọi là Nhị Đế, cùng với Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn vương, những người sáng lập ra nhà Hạ, Thương, Chu, được Nho giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức, gọi chung thành Nhị đế Tam vương (二帝三王). Thượng thư tự (尚書序) và Đế vương thế kỷ lại liệt kê Thiếu Hạo thay cho Hoàng Đế. Sách Sở Từ (楚辭) nói đến Ngũ Đế như là các vị thần ở các phương: Thiếu Hạo (đông) Chuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lễ ký (禮記) đồng nhất Ngũ Đế với Ngũ Thị (五氏), bao gồm: Hữu Sào thị (有巢氏) Toại Nhân thị (燧人氏) Phục Hi thị (伏羲氏) Nữ Oa thị (女媧氏) Thần Nông thị (神農氏) Vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên trong lịch sử là Tần Thủy Hoàng, người đã tạo danh hiệu mới cho các vị quân chủ, vì ông cho rằng từ Vương đã có từ thời nhà Chu và bị các chư hầu lạm xưng, không còn đủ tôn quý. Danh từ Hoàng đế có Hán văn là [皇帝], được tạo ra bằng cách kết hợp các danh hiệu Hoàng (皇) của Tam Hoàng với Đế (帝) của Ngũ Đế.
Stanford là một khu vực thống kê (CDP) thuộc Quận Santa Clara, California. Theo Thống kê Dân số năm 2000, khu vực thống kê Stanford có dân số là 13.315 người. Stanford là một phần chưa thành lập của Quận Santa Clara và nằm bên cạnh thành phố Palo Alto. Stanford, California là một địa danh bưu điện hợp lệ, nó có một nhà bưu điện và hai số ZIP riêng: mã số 94305 cho các kiến trúc trong khu trường sở, và mã số 94309 cho các hộp thư trong bưu điện. Khu vực thống kê Stanford phần nhiều là đất của Đại học Stanford. Học viện Hoover, học viện nghiên cứu về chính sách công nổi tiếng trên thế giới, cũng thuộc khu vực thống kê này. Super Bowl XIX được đăng cai ở Sân Stanford năm 1985. Địa lý Stanford nằm ở vĩ độ 37°25′21″ Bắc, kinh độ 122°9′55″ Tây (37,422590, −122,165413). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, khu vực thống kê này có tổng diện tích là 7,2 km² (2,8 mi²). Trong đó, 7,1 km² (4,7 mi²) là đất và 0,1 km² (0,04 mi²) là mặt nước. Diện tích mặt nước chiếm 1,44% tổng diện tích. Dân tộc Theo thống kê dân số năm 2000, khu vực thống kê Stanford có 13.315 người, 3.207 hộ, và 1.330 gia đình. Mật độ dân số là 1.869,4 người/km² (4.849,8 người/mi²). Có 3.315 nhà ở, mật độ trung bình là 465,4 nhà/km² (1.207,4 nhà/mi²). Trong khu vực thống kê này, có 60,40% là người da trắng, 4,90% là người da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,72% là người Mỹ da đỏ, 25,57% là người Á Châu, 0,16% là người dân đảo Thái Bình Dương, 3,65% là người thuộc một chủng tộc khác, và 4,60% là người lai. 8,96% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào đó. Có 3.207 hộ, trong đó 17,9% có trẻ em nhỏ hơn 18 tuổi ở trong nhà, 38,7% là đôi vợ chồng ở với nhau, 1,8% có đàn bà đơn thân làm chủ hộ, và 58,5% hộ không phải là hộ gia đình. Có 23,0% hộ chỉ có một người, còn 2,5% hộ chỉ có một người 65 tuổi trở lên ở một mình. Cỡ hộ trung bình là 2,22 người, còn cỡ gia đình trung bình là 2,73 người. Trong khu vực thống kê Stanford, 7,2% dân số chưa đến 18 tuổi, 58,5% dân số từ 18 đến 24 tuổi, 23,7% dân số từ 25 đến 44 tuổi, 6,1% dân số từ 45 đến 64 tuổi, và 4,4% dân số đã 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình của dân số khu vực thống kê này là 22. Phân phối tuổi và tuổi trung bình bình thường cho những địa phương đại học. Cho mỗi 100 nữ có 118,0 nam, cho mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên có 119,4 nam. Thu nhập trung bình hàng năm của hộ ở khu vực thống kê này là 41.106 đô la, và thu nhập trung bình hàng năm của gia đình là 88.596 đô la. Thu nhập trung bình hàng năm của nam giới là 67.250 đô la, của nữ giới là 56.991 đô la. Thu nhập trên đầu người hàng năm của khu vực thống kê là 22.443 đô la. Có 21,4% người và 11,1% gia đình có thu nhập dưới mức sống tối thiểu. Trong tất cả dân cư, 11,6% của những người chưa đến 18 tuổi và 1,8% của những người đã 65 tuổi trở lên đang dưới mức sống tối thiểu.
Malaysia (phiên âm: Ma-lai-xi-a, còn được gọi là Mã Lai) là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang nằm tại phía nam của khu vực Đông Nam Á. Quốc gia này bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích đất liền là 330,803 km². Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông: Malaysia bán đảo và Borneo thuộc Malaysia. Tây Malaysia có biên giới trên bộ và trên biển với Thái Lan, có biên giới trên biển với Indonesia, Việt Nam và Singapore trong khi Đông Malaysia có biên giới trên bộ và trên biển với Brunei và Indonesia, có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines, giáp biên giới với Campuchia qua Vịnh Thái Lan. Thành phố thủ đô là Kuala Lumpur, song nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang là Putrajaya. Năm 2010, dân số Malaysia được ước tính là 28,33 triệu người, trong đó 22,6 triệu sinh sống tại phần Bán đảo. Malaysia có điểm cực nam của đại lục Á-Âu là Tanjung Piai. Malaysia là một quốc gia nhiệt đới và là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh học nhất trên thế giới, với nhiều loài đặc hữu. Malaysia có nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai hiện diện trong khu vực và từ thế kỷ XVIII, các vương quốc này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh. Các lãnh thổ đầu tiên của Anh Quốc được gọi là Các khu định cư Eo biển. Các lãnh thổ tại Malaysia bán đảo được hợp nhất thành Liên hiệp Malaya vào năm 1946. Malaya được tái cấu trúc thành Liên bang Malaya vào năm 1948 và giành được độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Malaya hợp nhất với Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, với từ si được thêm vào quốc hiệu mới là Malaysia. Đến năm 1965, Singapore bị trục xuất khỏi liên bang. Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và văn hóa, đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong hệ thống chính trị quốc gia. Hiến pháp tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo trong khi vẫn bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hệ thống chính quyền của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa trên thông luật của Anh Quốc. Nguyên thủ quốc gia cao nhất là Quốc vương, còn được gọi là Yang di-Pertuan Agong. Người này là một quân chủ tuyển cử, được chọn từ các quân chủ kế tập của chín bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi sau mỗi 5 năm. Người đứng đầu chính phủ liên bang là thủ tướng. Kể từ sau khi giành được độc lập, Malaysia đã trở thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng liên tục, trung bình ở mức 6,5% trong gần 50 năm liên tiếp, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức rất cao. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy cho kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song, quốc gia này hiện cũng đang rất phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp nặng, khoa học ứng dụng, du lịch, thương mại và y tế. Ngày nay, Malaysia sở hữu một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới tiệm cận mức phát triển, duy trì, giữ vững quy mô GDP danh nghĩa lớn thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Thái Lan và Indonesia qua nhiều năm. Malaysia là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hội nghị cấp cao ASEAN - Đông Á, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Liên Hợp Quốc, WTO, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Khối Thịnh vượng chung các quốc gia và Phong trào không liên kết. Từ nguyên Tên "Malaysia" bắt nguồn từ "Malay", chữ s là chữ cái đầu của 2 bang Sabah và Sarawak và hậu tố tiếng Hy Lạp "-ia" "Malay" là một từ ngữ quốc gia chỉ người Mã Lai, một nhóm sắc tộc Nam Đảo và một quốc gia có nguồn gốc từ Đông Nam Á hải đảo. Nguồn gốc của từ "Malay" là không chắc chắn và tuân theo các lý thuyết khác nhau. Văn học sử thi bản địa, Biên niên sử Mã Lai, liên kết nguồn gốc từ nguyên của "Malay" với Sungai Melayu trong Sumatra. Thuật ngữ này được cho là bắt nguồn từ từ tiếng Mã Lai melaju, sự kết hợp của lời nói tiền tố "tôi" và từ gốc laju, có nghĩa là "tăng tốc", được sử dụng để mô tả dòng chảy mạnh của dòng sông. Một lý thuyết khác khẳng định nguồn gốc của nó từ tiếng Tamil các từ "malai" và "ur" có nghĩa là "núi" và "thành phố, vùng đất". được tìm thấy trong bản khắc của thế kỷ 11 của Đền Brihadeeswarar. Tuy nhiên, các biến thể âm thanh tương tự cũng đã xuất hiện trong các tài khoản cũ hơn thế kỷ 11, thường được sử dụng như là từ đồng nghĩa cũ với các phần của Eo biển Malacca. Văn bản tiếng Phạn Vayu Purana được cho là tồn tại từ thiên niên kỷ thứ nhất TCN, đã đề cập đến một vùng đất gọi là "Malayadvipa" được một số học giả xác định là bán đảo Mã Lai. Các loại cắt nghĩa đáng chú ý khác là vào thế kỷ thứ 2 Geographia của Ptolemy đã ghi lại tên Maleu-Kolon cho bờ biển phía tây của Golden Chersonese, và thế kỷ thứ 7 Yijing cắt nghĩa của Mo-Lo-Yu. Thuật ngữ "Malay" được cho là đã phát triển thành dân tộc với sự ra đời của Vương quốc Malacca, có trụ sở tại bán đảo Mã Lai, như một cường quốc khu vực trong thế kỷ 15. Hồi giáo đã thiết lập một bản sắc dân tộc ở Malacca với thuật ngữ "Malay" sau đó, bắt đầu xuất hiện như có thể hoán đổi với người Malacca, đặc biệt là trong việc mô tả sở thích văn hóa của người Malacca đối với người nước ngoài. Trước khi thực dân châu Âu đặt chân đến, bán đảo Mã Lai được biết đến như là "Tanah Melayu" ("Vùng đất Mã Lai"). Theo phân loại chủng tộc được tạo ra bởi một học giả người Đức Johann Friedrich Blumenbach, người bản địa của Đông Nam Á hải đảo đã được nhóm thành một loại duy nhất, chủng tộc Mã Lai. Sau cuộc thám hiểm của hoa tiêu Pháp Jules Dumont d'Urville đến Châu Đại Dương vào năm 1826, sau đó ông đã đề xuất sự giao thiệp của "Malaysia", "Micronesia" và "Melanesia" cho Société de Géographie vào năm 1831, phân biệt các nền văn hóa Thái Bình Dương và các nhóm đảo với thuật ngữ hiện có "Polynesia". Dumont d'Urville mô tả Malaysia là "một khu vực thường được gọi là Đông Ấn". Theo thuật ngữ hiện đại, "Malay" vẫn là tên của một sắc tộc tôn giáo của người Nam Đảo chủ yếu sinh sống trên Bán đảo Mã Lai và một phần của các đảo lân cận Đông Nam Á, bao gồm cả bờ biển phía đông Sumatra, bờ biển của Borneo và những hòn đảo nhỏ hơn nằm giữa những khu vực này. Malaysia giành được độc lập từ Vương quốc Anh vào năm 1957 đã lấy tên là "Liên bang Mã Lai", được chọn để ưu tiên cho các tên tiềm năng khác như "Langkasuka", theo tên của vương quốc lịch sử nằm ở phía trên phần bán đảo Mã Lai trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Tên "Malaysia" được thông qua vào năm 1963 khi các bang hiện có của Liên bang Mã Lai, cộng với Singapore, Bắc Borneo và Sarawak thành lập một liên bang mới. Một giả thuyết đặt ra cái tên đã được chọn sao cho "si" đại diện cho sự bao gồm Singapore, Bắc Borneo và Sarawak đến Mã Lai vào năm 1963 Các chính trị gia ở Philippines dự tính đổi tên nhà nước thành "Malaysia" trước khi đất nước hiện đại lấy tên. Lịch sử Có bằng chứng về việc người hiện đại cư trú tại Malaysia cách nay 40.000 năm. Tại bán đảo Mã Lai, các cư dân đầu tiên được cho là người Negrito. Các thương nhân và người định cư từ Ấn Độ và Trung Quốc đến từ thế kỷ I CN, lập nên các thương cảng và đô thị duyên hải vào thế kỷ II và III. Sự xuất hiện của họ khiến ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc có tác động mạnh đối các văn hóa bản địa, và người dân trên bán đảo Mã Lai tiếp nhận Ấn Độ giáo và Phật giáo. Các bản khắc bằng tiếng Phạn xuất hiện từ thế kỷ IV hoặc V. Vương quốc Langkasuka nổi lên vào khoảng thế kỷ II ở khu vực bắc bộ của bán đảo Mã Lai, tồn tại cho đến khoảng thế kỷ XV. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, phần lớn nam bộ bán đảo Mã Lai là một phần của đế quốc hàng hải Srivijaya. Sau khi Srivijaya sụp đổ, đế quốc Majapahit có ảnh hưởng đối với hầu hết Malaysia bán đảo và quần đảo Mã Lai. Hồi giáo bắt đầu truyền bá trong cộng đồng người Mã Lai vào thế kỷ XIV. Vào đầu thế kỷ XV, một hậu duệ của hoàng thất Srivijaya là Parameswara thành lập Vương quốc Malacca, đây thường được xem là quốc gia độc lập đầu tiên tại bán đảo Mã Lai. Đương thời, Malacca là một trung tâm thương mại quan trọng. Năm 1511, Bồ Đào Nha chinh phục Malacca, đến năm 1641 thì lãnh thổ này bị người Hà Lan chiếm đoạt. Năm 1786, Đế quốc Anh thiết lập một sự hiện diện tại Malaya, khi đó Sultan của Kedah cho Công ty Đông Ấn Anh thuê Penang. Người Anh giành được Singapore vào năm 1819, và đến năm 1824 thì đoạt quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp định Anh-Hà Lan. Năm 1826, người Anh bắt đầu quản lý trực tiếp Penang, Malacca, Singapore, và đảo Labuan. Đến thế kỷ XX, tại các quốc gia Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Các quốc gia Mã Lai liên minh, có các thống sứ người Anh được bổ nhiệm để cố vấn cho các quân chủ Mã Lai theo điều khoản trong các hiệp định mà họ từng ký. Năm quốc gia còn lại trên bán đảo được gọi là Các quốc gia Mã Lai phi liên minh, các quốc gia này không chịu sự quản lý trực tiếp của người Anh, song cũng chấp thuận các cố vấn người Anh. Tiến triển tại Bán đảo và Borneo nhìn chung là tách biệt cho đến thế kỷ XIX. Trong thời gian người Anh cai trị, họ khuyến khích người Hoa và người Ấn nhập cư để trở thành lao công. Khu vực mà nay là Sabah nằm dưới sự cai trị của người Anh với tên gọi Bắc Borneo khi cả Sultan của Brunei và Sultan của Sulu chuyển giao quyền sở hữu các lãnh thổ của riêng họ từ năm 1877 đến năm 1878. Năm 1842, Sultan của Brunei nhượng Sarawak cho James Brooke, các Rajah da trắng kế tập cai trị Vương quốc Sarawak độc lập cho đến khi lãnh thổ này trở thành một thuộc địa vương thất Anh vào năm 1946. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản tấn công, đánh bại quân Anh và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore trong ba năm. Trong thời kỳ này, căng thẳng sắc tộc gia tăng và chủ nghĩa dân tộc phát triển. Sự ủng hộ của dân chúng đối với độc lập tăng lên sau khi lực lượng Đồng Minh tái chiếm Malaya. Hậu chiến, người Anh tiến hành các nỗ lực nhằm hợp nhất việc cai quản Malaya trong một thuộc địa vương thất duy nhất gọi là Liên hiệp Malaya (Malayan Union), tuy nhiên điều này bị người Mã Lai phản đối mạnh, người Mã Lai phản đối việc địa vị của các quân chủ Mã Lai suy yếu và việc trao quyền công dân cho người gốc Hoa. Liên hiệp Malaya được thành lập vào năm 1946 và bao gồm toàn bộ các thuộc địa của Anh Quốc tại khu vực bán đảo Mã Lai, ngoại trừ Singapore, song chính thể này nhanh chóng bị giải thể và thay thế bởi Liên bang Malaya (Federation of Malaya), chính thể này khôi phục quyền tự trị cho các quân chủ của các quốc gia Mã Lai dưới sự bảo hộ của người Anh. Trong thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Malaya, quân nổi dậy mà hầu hết là người gốc Hoa tiến hành các hoạt động du kích với mục đích đánh đuổi người Anh ra khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo dài từ năm 1948 đến năm 1960, và liên quan đến một chiến dịch chống nổi loạn kéo dài của quân Thịnh vương chung tại Malaya. Sau đó, người ta đưa ra một kế hoạch nhằm Liên hiệp Malaya với các thuộc địa vương thất Bắc Borneo (gia nhập với tên Sabah), Sarawak, và Singapore. Ngày đề xuất hợp thành liên bang là 31 tháng 8 năm 1963, tuy nhiên, thời điểm bị trì hoãn cho đến ngày 16 tháng 9 năm 1963 do phản đối của Indonesia dưới quyền Tổng thống Sukarno và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak. Sự thành lập liên bang khiến các căng thẳng tăng cao, bao gồm một cuộc xung đột với Indonesia, Singapore bị trục xuất vào năm 1965, và xung đột sắc tộc. Xung đột sắc tộc lên đến đỉnh điểm trong các cuộc bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Năm 1971, Quốc hội được tái triệu tập, và một liên minh chính phủ mới mang tên Mặt trận Quốc gia (Barisan Nasional) nhậm chức. Liên minh này gồm UMNO, MCA, MIC, Gerakan bị suy yếu nhiều, cùng các đảng khu vực tại Sabah và Sarawak. Đảng Hành động Dân chủ bị loại ra ngoài, chỉ là một đảng đối lập đáng kể. Đảng Hồi giáo Malaysia cũng gia nhập Mặt trận song bị trục xuất vào năm 1977. Abdul Razak nắm quyền cho đến khi mất vào năm 1976 và người kế nhiệm là Hussein Onn, Mahathir Mohamad nhậm chức thủ tướng vào năm 1981 và nắm quyền trong 22 năm. Dưới thời Mahathir Mohamad, Malaysia trải qua tăng trưởng kinh tế từ thập niên 1980. Thời kỳ này cũng diễn ra một sự biến đổi từ kinh tế dựa trên nông nghiệp sang kinh tế dựa trên chế tạo và công nghiệp trong các lĩnh vực như máy tính và điện tử tiêu dùng. Cũng trong giai đoạn này, bộ mặt của Malaysia biến hóa với sự xuất hiện của nhiều siêu dự án, đáng chú ý trong đó là việc xây dựng Tháp đôi Petronas, Sân bay quốc tế Kuala Lumpur, Xa lộ Nam-Bắc, đường đua quốc tế Sepang, và thủ đô hành chính liên bang mới Putrajaya. Cuối thập niên 1990, Malaysia trải qua náo động do khủng hoảng tài chính châu Á, khủng hoảng tàn phá kinh tế dựa trên lắp ráp của Malaysia. Nhằm ứng phó, Mahathir Mohamad ban đầu tiến hành các chính sách được IMF tán thành, tuy nhiên sự mất giá của Ringgit và suy thoái sâu thêm khiến ông thiết lập chương trình riêng của mình dựa trên việc bảo hộ Malaysia trước các nhà đầu tư ngoại quốc và chấn hưng kinh tế thông qua các dự án xây dựng và hạ lãi suất, các chính sách khiến kinh tế Malaysia khôi phục vào năm 2002. Năm 2003, Mahathir tự nguyện nghỉ hưu để ủng hộ Phó Thủ tướng Abdullah Ahmad Badawi. Ngày 9 tháng 5 năm 2018, Najib Razak đã thất bại trước cựu Thủ tướng, tiến sĩ Mahathir Mohamad trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc tại Malaysia, chấm dứt 60 năm cầm quyền của Liên minh Mặt trận Dân tộc (BN). Ngày 12 tháng 5 năm 2018, Najib bị cấm không được ra khỏi nước vì các cáo buộc tội tham nhũng. Ngày 28 tháng 7 năm 2020, Najib bị tuyên án 12 năm tù và phải nộp phạt 210 triệu ringgit (tương đương 49,3 triệu USD) với tội danh liên quan đến vụ bê bối tham nhũng quỹ đầu tư nhà nước 1Malaysia Development Berhad (1MDB). Đây là lần đầu tiên tòa án của quốc gia này buộc tội một cựu Thủ tướng. Phân cấp hành chính Malaysia là một liên bang gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang. Chúng được phân thành hai khu vực, 11 bang và hai lãnh thổ liên bang nằm tại Malaysia bán đảo; hai bang và một lãnh thổ liên bang nằm ở Đông Malaysia. Quyền cai quản các bang được phân chia giữa chính phủ liên bang và bang, trong khi chính phủ liên bang quản lý trực tiếp đối với các lãnh thổ liên bang. 13 bang của Malaysia dựa trên nền tảng các vương quốc Mã Lai lịch sử, 9 trong số 11 bang Bán đảo vẫn duy trì các gia tộc vương thất của mình, và được gọi là các bang Mã Lai. Quốc vương được tuyển cử từ chín quân chủ với nhiệm kỳ 5 năm. Mỗi bang có một cơ quan lập pháp đơn viện được gọi là Hội đồng lập pháp bang. Mỗi bang được chia tiếp thành các huyện, rồi lại được chia thành mukim. Tại Sabah và Sarawak các huyện được nhóm thành tỉnh. Sabah và Sarawak có quyền tự chủ nhiều hơn đáng kể so với các bang khác, đáng chú ý nhất là chính sách và kiểm soát nhập cư riêng. Thành phố Malaysia có 18 thành phố. Duy nhất Perlis có thị trấn. Chính phủ và chính trị Malaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang. Hệ thống chính phủ theo mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster, một di sản của chế độ thuộc địa Anh. Nguyên thủ quốc gia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Quốc vương. Quốc vương được bầu theo mỗi nhiệm kỳ 5 năm từ chín quân chủ kế tập của các bang Mã Lai; bốn bang còn lại có nguyên thủ trên danh nghĩa song không tham gia vào việc tuyển lựa. Theo thỏa thuận không chính thức, vị trí Quốc vương sẽ do quân chủ chín bang luân phiên nắm giữ, Vai trò của Quốc vương phần lớn mang tính lễ nghi kể từ sau các thay đổi trong hiến pháp vào năm 1994. Quyền lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang. Nghị viện liên bang của Malaysia bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm có 222 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các khu vực bầu cử một ghế. Toàn bộ 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được 13 quốc hội bang tuyển chọn, 44 người được Quốc vương bổ nhiệm theo tiến cử của Thủ tướng. Nghị viện Malaysia theo một hệ thống đa đảng và chính phủ được bầu thông qua một hệ thống đa số chế. Kể từ khi độc lập, cầm quyền tại Malaysia là một liên minh đa đảng được gọi là Barisan Nasional. Mỗi bang có một quốc hội đơn viện, các nghị viên được bầu từ các đơn vị bầu cử một ghế. Người đứng đầu các chính phủ bang là các thủ hiến (Chief Minister), họ là những thành viên quốc hội và đến từ đảng chiếm đa số trong quốc hội. Tại các bang có quân chủ kế tập, thủ hiến theo thường lệ cần phải là người Mã Lai, do quân chủ bổ nhiệm theo tiến cử của thủ tướng. Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức 5 năm một lần. Các cử tri đăng ký 21 tuổi hoặc lớn hơn có thể bỏ phiếu để bầu các thành viên của Hạ viện, và bầu các thành viên quốc hội bang ở hầu hết các bang. Bầu cử không bắt buộc. Ngoại trừ Sarawak, cuộc bầu cử cấp bang tại các khu vực còn lại diễn ra đồng thời với bầu cử liên bang. Quyền hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo. Thủ tướng phải là thành viên của hạ viện, được Quốc vương chuẩn thuận, nhận được đa số ủng hộ tại nghị viện. Nội các được lựa chọn từ lưỡng viện quốc hội liên bang. Thủ tướng là người đứng đầu nội các và cũng là người đứng đầu chính phủ. Hệ thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh. Mặc dù cơ quan tư pháp độc lập về lý thuyết, song sự độc lập của chúng bị đặt dấu hỏi và việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. Tòa án tối cao trong hệ thống tư pháp là Tòa án Liên bang, sau đó là Tòa thượng tố và hai Tòa cao đẳng, một cho Malaysia bán đảo và một cho Đông Malaysia. Malaysia cũng có một tòa án đặc biệt để xét xử các vụ án do Quốc vương đưa ra hoặc chống lại Quốc vương. Các tòa án Syariah tách biệt với các tòa án dân sự, các tòa này áp dụng luật Sharia trong các vụ án liên quan đến người Hồi giáo Malaysia và vận hành song song với hệ thống tòa án thế tục. Đạo luật An ninh Nội địa cho phép giam giữ không cần xét xử, và án tử hình được áp dụng cho các tội như buôn bán ma túy. Sắc tộc có ảnh hưởng lớn trong chính trị Malaysia, nhiều chính đảng dựa trên nền tảng dân tộc. Các hành động quả quyết như Chính sách Kinh tế mới và thay thế nó là Chính sách Phát triển Quốc gia, được thực hiện nhằm thúc đẩy địa vị của bumiputera, bao gồm người Mã Lai và các bộ lạc bản địa, trước những người phi bumiputera như người Malaysia gốc Hoa và người Malaysia gốc Ấn. Các chính sách này quy định ưu đãi cho bumiputera trong việc làm, giáo dục, học bổng, kinh doanh, tiếp cận nhà giá rẻ hơn và hỗ trợ tiết kiệm. Quan hệ đối ngoại và quân sự Malaysia là một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC), và cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, và Phong trào không liên kết (NAM). Malaysia từng giữ chức chủ tịch ASEAN, OIC, và NAM. Do là một cựu thuộc địa của Anh Quốc, Malaysia cũng là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia. Kuala Lumpur là địa điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Đông Á vào năm 2005. Chính sách ngoại giao của Malaysia về chính thức là dựa trên nguyên tắc trung lập và duy trì các quan hệ hòa bình với tất cả các quốc gia, bất kể hệ thống chính trị của quốc gia đó. Chính phủ đặt ưu tiên cao đối với an ninh và ổn định của Đông Nam Á, và cố gắng phát triển hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia khác trong khu vực. Về phương diện lịch sử, chính phủ cố gắng khắc họa Malaysia là một quốc gia Hồi giáo tiến bộ trong khi tăng cường quan hệ với các quốc gia Hồi giáo khác. Trong chính sách của Malaysia, có một nguyên lý kiên định là chủ quyền quốc gia và quyền của một quốc gia trong việc kiểm soát các công việc nội bộ. Chính phủ Malaysia theo chủ nghĩa thực dụng trong chính sách đối với các tranh chấp lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp theo một số phương pháp, chẳng hạn như đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế. Nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Brunei và Malaysia vào năm 2008 tuyên bố kết thúc tuyên bố chủ quyền đối với các vùng đất của nhau, và giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới trên biển. Philippines có tuyên bố chủ quyền không thi hành đối với Sabah. Hoạt động cải tạo đất của Singapore gây ra căng thẳng giữa hai bên, và Malaysia cũng có tranh chấp biên giới trên biển với Indonesia. Malaysia chưa từng công nhận Israel và không có quan hệ ngoại giao với quốc gia này. Malaysia ủng hộ mạnh mẽ Nhà nước Palestine. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Malaysia hiện diện tại Liban và Malaysia đóng góp vào nhiều sứ mệnh gìn giữ hòa bình khác của Liên Hợp Quốc. Lực lượng Vũ trang Malaysia gồm ba nhánh là Hải quân Hoàng gia Malaysia, Lục quân Malaysia, và Không quân Hoàng gia Malaysia. Malaysia không thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự, độ tuổi cần thiết để thực hiện quân sự tự nguyện là 18. Quân đội sử dụng 1,9% GDP của quốc gia, và sử dụng 1,23% nhân lực của Malaysia. Thỏa thuận phòng thủ năm nước là một sáng kiến an ninh khu vực tồn tại trong gần 40 năm, liên quan đến các cuộc luyện tập quân sự chung được tổ chức giữa Malaysia, Singapore, Australia, New Zealand, và Anh Quốc. Các cuộc tuyện tập quân sự và tập trận chung được tổ chức với Indonesia trong nhiều năm. Malaysia và Philippines chấp thuận tổ chức luyện tập an ninh chung nhằm đảm bảo biên giới hàng hải và giải quyết các vấn đề như nhập cư bất hợp pháp. Địa lý Malaysia là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền, với . Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với Indonesia và Brunei. Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines. Biên giới trên bộ được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông Golok và kênh Pagalayan, trong khi một số biên giới trên biển đang là chủ đề tranh chấp. Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh, bang Sarawak của Malaysia chia Brunei thành hai phần. Malaysia là quốc gia duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai. Điểm cực nam của lục địa châu Á là Tanjung Piai, thuộc bang nam bộ Johor. Eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra và Malaysia bán đảo, đây là một trong các tuyến đường quan trọng nhất trong thương mại toàn cầu. Hai phần của Malaysia tách nhau qua biển Đông, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi. Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài từ bắc xuống nam, và có chiều rộng tối đa là . Dãy Titiwangsa phân chia bờ biển đông và tây tại Malaysia bán đảo, dãy núi này là một phần của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo. Các dãy núi này vẫn có rừng bao phủ dày đặc, và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan karst. Dãy núi là đầu nguồn của một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo. Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo, có chiều rộng tối đa là , và bờ biển của phần bán đảo dài , song các bến cảng chỉ có ở bờ phía tây. Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài . Khu vực này bao gồm các miền ven biển, đồi và thung lũng, và nội lục đồi núi. Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ Sarawak, phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ , là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn quốc gia Kinabalu- một di sản thế giới của UNESCO. Các dãy núi cao nhất tạo thành biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các hệ thống hang lớn nhất trên thế giới. Xung quanh hai phần của Malaysia là một số hòn đảo, lớn nhất trong số đó là đảo Banggi. Malaysia có khí hậu xích đạo, điểm đặc trưng là gió mùa tây nam (tháng 4 đến tháng 10) và gió mùa đông bắc (tháng 10 đến tháng 2). Các vùng biển xung quanh giúp điều hòa nhiệt độ cho Malaysia. Ẩm độ thường cao, và lượng mưa trung bình hàng năm là . Khí hậu tại Bán đảo và Đông bộ khác biệt, thời tiết Bán đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió thổi từ lục địa, trong khi Đông bộ có khí hậu mang tính hải dương hơn. Các khí hậu địa phương có thể phân thành: vùng cao, vùng thấp và vùng duyên hải. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến mực nước biển và lượng mưa, tăng nguy cơ lũ lụt và dẫn đến hạn hán. Đa dạng sinh học Malaysia ký kết Công ước đa dạng sinh vật học Rio vào ngày 12 tháng 6 năm 1993, và trở thành một bên của công ước vào ngày 24 tháng 6 năm 1994. Sau đó, Malaysia đưa ra một kế hoạch chiến lược và hành động đa dạng sinh vật quốc gia, được công ước công nhận vào ngày 16 tháng 4 năm 1998. Malaysia là một quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp với một lượng lớn các loài và có mức độ loài đặc hữu cao. Theo ước tính, Malaysia có 20% số loài động vật trên thế giới. Mức độ loài đặc hữu cao được phát hiện tại các khu rừng đa dạng ở vùng núi Borneo, các loài tại đây bị cô lập với các loài khác ở các khu rừng đất thấp. Kinh tế Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp hóa mới. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong hướng dẫn hoạt động kinh tế thông qua các dự án kinh tế vĩ mô, song vai trò này đang giảm xuống. Malaysia sở hữu một trong những hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% mỗi năm trong giai đoạn từ 1957 đến 2005. Năm 2019, GDP của Malaysia là khoảng 365 tỷ đô la Mỹ, là nền kinh tế lớn thứ ba trong ASEAN, lớn thứ 11 châu Á và lớn thứ 33 trên thế giới. Năm 1991, Thủ tướng Malaysia đương thời là Mahathir Mohamad phác thảo ý tưởng của ông trong "Tầm nhìn 2020", theo đó Malaysia sẽ trở thành một quốc gia công nghiệp hóa tự túc vào năm 2020. Trong thập niên 1970, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khai mỏ và nông nghiệp của Malaysia bắt đầu chuyển đổi hướng đến một nền kinh tế đa lĩnh vực hơn. Từ thập niên 1980, lĩnh vực công nghiệp, với đầu tư ở mức cao, dẫn dắt tăng trưởng của quốc gia. Sau Khủng hoảng tài chính châu Á 1997, kinh tế Malaysia phục hồi sớm hơn các quốc gia láng giềng, và kể từ đó phục hồi mức của thời kỳ tiền khủng hoảng với GDP bình quân đầu người là 14.800 đô la. Bất bình đẳng kinh tế tồn tại giữa các dân tộc khác nhau, người Hoa chiếm khoảng một phần ba dân số song lại chiếm 70% giá trị vốn hóa thị trường của quốc gia. Thương mại quốc tế của Malaysia có thuận lợi do nằm sát tuyến đường tàu thủy qua eo biển Malacca, và chế tạo là lĩnh vực then chốt. Malaysia là một nước xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản, dầu mỏ là mặt hàng xuất khẩu chính. Malaysia từng là nhà sản xuất lớn nhất các mặt hàng thiếc, cao su và dầu cọ trên thế giới. Lĩnh vực chế tạo có ảnh hưởng lớn trong kinh tế quốc gia, song cấu trúc kinh tế của Malaysia đang chuyển ra khỏi tình trạng này. Malaysia vẫn là một trong các nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới. Chính phủ thúc đẩy sự gia tăng du lịch đến Malaysia trong một nỗ lực nhằm đa dạng hóa kinh tế và giảm sự phụ thuộc vào hàng xuất khẩu. Kết quả là du lịch trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn thứ ba của Malaysia, song nó đang bị đe dọa do những tác động tiêu cực từ ngành công nghiệp đang phát triển, với một lượng lớn khí thải và nước thải cùng với nạn phá rừng. Từ năm 2013-2014, Malaysia được xếp là một trong những nơi tốt nhất để nghỉ hưu trên thế giới, đứng vị trí thứ 3 theo Chỉ số hưu trí toàn cầu. Đây là một trong những kết quả của chương trình "Malaysia My Second Home", theo đó người ngoại quốc được phép sống tại Malaysia theo một thị thực trường trú lâu đến 10 năm. Malaysia phát triển thành một trung tâm của ngân hàng Hồi giáo, và là quốc gia có số nữ lao động cao nhất trong ngành này. Các ngành dịch vụ dựa trên tri thức cũng phát triển. Để tạo ra khả năng phòng thủ tự lực và hỗ trợ phát triển quốc gia, Malaysia tiến hành tư hữu hóa một số cơ sở quân sự của mình trong thập niên 1970. Hành động tư hữu hóa tạo ra ngành công nghiệp quốc phòng, đến năm 1999 thì nằm dưới sự quản lý của Hội đồng công nghiệp quốc phòng Malaysia. Chính phủ tiếp tục thúc đẩy lĩnh vực này và tính cạnh tranh của nó, tích cực tiếp thị công nghiệp quốc phòng. Bộ Khoa học, Công nghệ và Cách tân quy định các chính sách khoa học tại Malaysia. Malaysia nằm trong số các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về thiết bị bán dẫn, thiết bị điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông. Malaysia bắt đầu phát triển chương trình không gian một cách riêng rẽ vào năm 2002, và đến năm 2006, Nga đồng ý vận chuyển một người Malaysia lên Trạm vũ trụ Quốc tế như là một phần trong thương vụ 18 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MKM trị giá nhiều tỷ đô la giữa hai bên. Chính phủ Malaysia đầu tư kiến thiết các vệ tinh thông qua chương trình RazakSAT. Người Malaysia gốc Hoa là thế lực nắm huyết mạch kinh tế của Malaysia, vì vậy địa vị và quyền lợi của người Malaysia gốc Hoa rất lớn trên chính trường cũng như trong kinh doanh, giáo dục. Thống kê năm 2000 cho thấy người Malaysia gốc Hoa sở hữu hơn 62% cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Malaysia, mặc dù người Malaysia gốc Hoa chiếm chưa đầy 1/4 dân số. Năm 2010, người Malaysia gốc Hoa chi phối trong các lĩnh vực thương nghiệp và mậu dịch, kiếm soát xấp xỉ 70% kinh tế Malaysia. Cơ sở hạ tầng Malaysia có cơ sở hạ tầng thuộc hàng phát triển nhất tại châu Á. Hệ thống viễn thông chỉ đứng sau Singapore tại Đông Nam Á, với 4,7 triệu thuê bao điện thoại cố định và trên 30 triệu thuê bao điện thoại di động. Malaysia có bảy cảng quốc tế, cảng chính là cảng Klang. Malaysia có 200 khu công nghiệp cùng với các chuyên khu như Khu Công nghệ Malaysia hay Khu Công nghệ cao Kulim. Trong thời kỳ thuộc địa, sự phát triển chủ yếu tập trung các thành thị hùng mạnh về mặt kinh tế và tại các khu vực hình thành mối quan tâm về an ninh. Mặc dù các khu vực nông thôn được chú trọng, song vẫn tụt hậu so với các khu vực như bờ Tây của Malaysia bán đảo. Hệ thống đường bộ của Malaysia trải dài và có đường cao tốc. Xa lộ dài nhất Malaysia là xa lộ Nam-Bắc với chiều dài trên từ biên giới với Thái Lan đến biên giới với Singapore. Hệ thống đường bộ tại Đông Malaysia kém phát triển hơn và có chất lượng thấp hơn so với Malaysia bán đảo. Malaysia có 118 sân bay, trong đó 38 có đường băng được lát. Hãng hàng không quốc gia chính thức là Malaysia Airlines, cung cấp dịch vụ hàng không quốc tế và quốc nội. Hệ thống đường sắt do nhà nước vận hành, có tổng chiều dài . Các hệ thống đường sắt nhẹ trên cao có giá tương đối rẻ và được sử dụng tại một số thành phố như Kuala Lumpur. Theo truyền thống, sản xuất năng lượng tại Malaysia dựa vào dầu và khí đốt thiên nhiên. Quốc gia có công suất phát điện 13 GW. Tuy nhiên, Malaysia chỉ có dự trữ khí đốt thiên nhiên 33 năm, và dự trữ dầu 19 năm, trong khi nhu cầu năng lượng đang gia tăng. Nhằm ứng phó, chính phủ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. 16% nguồn cung điện năng đến từ thủy điện, 84% còn lại đến từ nhiệt điện. Công ty quốc hữu Petronas chi phối ngành dầu khí Malaysia. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2010, dân số Malaysia là 28.334.135, là quốc gia đông dân thứ 42 trên thế giới. Dân số Malaysia bao gồm nhiều dân tộc. Năm 2010, các công dân Malaysia chiếm 91,8% dân số,trong đó bumiputera là 67,4%,. Theo định nghĩa trong hiến pháp, người Mã Lai là những tín đồ Hồi giáo thực hiện các phong tục và văn hóa Mã Lai. Họ đóng vai trò chi phối về mặt chính trị. Thân thế Bumiputera cũng được trao cho các dân tộc bản địa, trong đó có người Thái, người Khmer, người Chăm và dân tộc bản địa tại Sabah và Sarawak. Những người Bumiputera phi Mã Lai chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak và hơn hai phần ba dân số bang Sabah. Các nhóm thổ dân cũng hiện diện trên phần Malaysia bán đảo song với số lượng ít hơn nhiều, họ được gọi chung là Orang Asli. Luật về cấp thân thế bumiputera khác biệt giữa các bang. Các nhóm thiểu số khác không có thân thế bumiputera chiếm một lượng khá lớn trong dân số. 24,6% dân số Malaysia có nguồn gốc Trung Quốc, trong khi những người có nguồn gốc Ấn Độ chiếm 7,3% dân số. Người Hoa có lịch sử chi phối trong cộng đồng kinh doanh và thương mại, và chiếm đa số trong dân số đảo Penang, các thành phố George Town, Yong Peng, Kota Kinabalu, Cameron Highlands, Butterworth; cũng như chiếm khá lớn dân số Kuala Lumpur, Johor Bahru, ... Người Ấn Độ nhập cư đến Malaysia vào cuối thế kỷ XIX. Phần lớn cộng đồng người gốc Ấn Độ là người Tamil. Quyền công dân Malaysia không tự động cấp cho những người sinh ra tại Malaysia, song một trẻ em sinh tại ngoại quốc có cha mẹ là người Malaysia thì sẽ có quyền công dân Malaysia. Sở hữu quốc tịch kép không được phép tại Malaysia. Công dân tại các bang Sabah và Sarawak trên phần đảo Borneo của Malaysia bị phân biệt với công dân của Malaysia bán đảo vì mục đích nhập cư. Mỗi công dân được cấp một thẻ nhận dạng chíp nhân trắc học thông minh được gọi là MyKad ở tuổi 12, và phải luôn mang theo thẻ. Trong hệ thống giáo dục tại Malaysia, mẫu giáo là không bắt buộc, giáo dục tiểu học 6 năm là bắt buộc, và giáo dục trung học 5 năm là tùy chọn. Các trường học trong hệ thống tiểu học được phân thành hai loại: các trường tiểu học quốc gia dạy bằng tiếng Mã Lai, các trường thổ ngữ dạy bằng tiếng Hán hoặc tiếng Tamil. Vào năm cuối trung học, các học sinh tham gia khảo thí Văn bằng giáo dục Malaysia. Từ khi đưa vào chương trình dự khoa vào năm 1999, các học sinh hoàn thành chương trình 12 tháng tại các trường cao đẳng dự khoa có thể nhập học tại các đại học địa phương. Tuy nhiên, trong hệ thống dự khoa, chỉ 10% số chỗ dành cho các sinh viên phi bumiputera. Tỷ suất tử vong của trẻ sơ sinh năm 2009 là 6‰, và tuổi thọ bình quân vào năm 2009 là 75 năm. Với mục tiêu phát triển Malaysia thành một điểm đến du lịch y tế, 5% ngân sách phát triển lĩnh vực xã hội của chính phủ được dành cho chăm sóc sức khỏe. Dân số tập trung tại Malaysia bán đảo với 20 triệu người trong xấp xỉ 28 triệu cư dân Malaysia. 70% cư dân sống tại đô thị. Kuala Lumpur là thủ đô và thành phố lớn nhất tại Malaysia, cũng như là trung tâm thương mại và tài chính lớn. Putrajaya là một thành phố được hình thành có mục đích từ năm 1999, và là nơi đặt trụ sở của chính phủ, do nhiều nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ liên bang chuyển tới thành phố này nhằm giảm bớt sự đông đúc ngày càng tăng tại Kuala Lumpur. Do sự nổi lên của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, ước tính có trên 3 triệu công nhân nhập cư tại Malaysia; tức khoảng 10% dân số. Tôn giáo Hiến pháp Malaysia đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong khi xác định Hồi giáo là quốc giáo. Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở năm 2010, có sự tương liên cao giữa dân tộc và tôn giáo. Xấp xỉ 61,3% dân số thực hành Hồi giáo, 19,8% thực hành Phật giáo, 9,2% thực hành Ki-tô giáo, 6,3% thực hành Ấn Độ giáo và 1,3% thực hành Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo truyền thống Trung Hoa. 0,7% tuyên bố là người không tôn giáo và 1,4% còn lại thực hành các tôn giáo khác hoặc không cung cấp thông tin nào. Trong số tín đồ Hồi giáo, tín đồ phái Sunni chiếm đa số trong khi tín đồ Hồi giáo phi giáo phái là nhóm đông thứ hai với 18%. Theo Hiến pháp, toàn bộ người Mã Lai được xem là người Hồi giáo. Số liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy rằng 83,6% người Trung Quốc xác định bản thân là Phật tử, và một lượng lớn các tín đồ theo Đạo giáo (3,4%) và Ki-tô giáo (11,1%), cùng với một nhóm nhỏ người Hồi sinh sống tại các khu vực như Penang. Phần lớn người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo (86,2%), với một thiểu số quan trọng xác định bản thân là tín đồ Ki-tô giáo (6,0%) hay Hồi giáo (4,1%). Ki-tô giáo là tôn giáo chiếm ưu thế trong cộng đồng bumiputera phi Mã Lai (46,5%), và thêm 40,4% xác định bản thân là người Hồi giáo. Người Hồi giáo có nghĩa vụ phải tuân theo phán quyết của các tòa án Syariah trong các vấn đề liên quan đến tôn giáo của họ. Các thẩm phán Hồi giáo được cho là theo trường phái pháp luật Shafi`i của Hồi giáo, madh'hab chính của Malaysia. Quyền hạn của các tòa án Shariah bị giới hạn trong cộng đồng người Hồi giáo trong các vấn đề như kết hôn, thừa kế, ly dị, bội giáo, cải đạo. Các tội và vi phạm dân sự khác thuộc thẩm quyền của các tòa án công dân, các tòa án công dân không thụ lý các vấn đề liên quan đến thực hành Hồi giáo. Ngôn ngữ Ngôn ngữ chính thức tại Malaysia là tiếng Malaysia, đây là một hình thái tiêu chuẩn hóa của tiếng Mã Lai. Về mặt lịch sử, tiếng Anh là ngôn ngữ hành chính trên thực tế, tiếng Mã Lai chiếm ưu thế sau các cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969. Theo Đạo luật ngôn ngữ quốc gia năm 1967, "chữ quốc ngữ sẽ là chữ cái Rumi [Latin]: quy định này sẽ không ngăn cấm việc sử dụng chữ Mã Lai, còn được gọi phổ biến hơn là chữ Jawi, đối với quốc ngữ." Tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ thứ hai đang dùng, Đạo luật ngôn ngữ năm 1967 cho phép sử dụng tiếng Anh trong một số mục đích chính thức, và tiếng Anh đóng vai trò là ngôn ngữ giảng dạy toán và khoa học trong toàn bộ các trường công. Tiếng Anh Malaysia là một hình thái của tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng Anh Anh. Tiếng Anh Malaysia được sử dụng rộng rãi trong giao dịch cùng với tiếng bồi bắt nguồn từ tiếng Anh là Manglish. Chính phủ ngăn cản việc sử dụng tiếng Mã Lai phi tiêu chuẩn. Nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng tại Malaysia, tại quốc gia này có người nói 137 thứ ngôn ngữ đang tồn tại. Malaysia bán đảo có người nói 41 ngôn ngữ trong số đó. Các bộ lạc bản địa tại Đông Malaysia có ngôn ngữ riêng của họ, chúng có liên hệ song dễ dàng phân biệt với tiếng Mã Lai. Tiếng Iban là ngôn ngữ bộ lạc chính tại Sarawak trong khi những người bản địa tại Sabah nói các ngôn ngữ Dusun. Người Malaysia gốc Trung Quốc chủ yếu nói các phương ngôn có nguồn gốc từ các tỉnh Hoa Nam. Phương ngôn tiếng Hán phổ biến nhất tại Malaysia là tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu, tiếng Quan thoại, tiếng Phúc Kiến, tiếng Khách Gia, tiếng Hải Nam và tiếng Phúc Châu. Phần lớn người nói tiếng Tamil là người Tamil, họ là nhóm chiếm đa số trong cộng đồng người Malaysia gốc Ấn. Các ngôn ngữ Nam Á khác cũng được nói phổ biến tại Malaysia, cùng với tiếng Thái Lan. Một số lượng nhỏ người Malaysia có nguồn gốc da trắng và nói các ngôn ngữ bồi, như tiếng bồi Malacca dựa trên tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Chavacano dựa trên tiếng Tây Ban Nha. Văn hóa Malaysia là một xã hội đa dân tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ. Văn hóa ban đầu của khu vực bắt nguồn từ các bộ lạc bản địa, cùng với những người Mã Lai nhập cư sau đó. Văn hóa Malaysia tồn tại các ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ, bắt nguồn từ khi xuất hiện ngoại thương. Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ văn hóa Ba Tư, Ả Rập và Anh Quốc. Do cấu trúc của chính phủ, cộng thêm thuyết khế ước xã hội, có sự đồng hóa văn hóa tối thiểu đối với các dân tộc thiểu số. Năm 1971, chính phủ ban hành một "Chính sách văn hóa quốc gia", xác định văn hóa Malaysia. Theo đó, văn hóa Malaysia phải dựa trên các dân tộc bản địa của Malaysia, có thể dung nạp các yếu tố phù hợp từ các văn hóa khác, và rằng Hồi giáo phải đóng một vai trò trong đó. Nó cũng thúc đẩy tiếng Mã Lai ở cao hơn các ngôn ngữ khác. Sự can thiệp này của chính phủ vào văn hóa khiến các dân tộc phi Mã Lai bất bình và cảm thấy quyền tự do văn hóa của họ bị giảm đi. Các hiệp hội của người Hoa và người Ấn đều đệ trình các bị vong lục lên chính phủ, buộc tội chính phủ chế định một chính sách văn hóa phi dân chủ. Tồn tại một số tranh chấp văn hóa giữa Malaysia và các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Indonesia. Hai quốc gia có một di sản văn hóa tương đồng, có chung nhiều truyền thống và hạng mục. Tuy nhiên, diễn ra tranh chấp về nhiều điều, từ các món ăn cho đến quốc ca của Malaysia. Tại Indonesia có cảm tình mạnh mẽ về việc bảo vệ di sản văn hóa quốc gia. Chính phủ Malaysia và chính phủ Indonesia có sự tiếp xúc nhằm xoa dịu một số căng thẳng bắt nguồn từ trùng lặp văn hóa. Tình cảm này không phải là mạnh tại Malaysia, tại đây hầu hết đều công nhận nhiều giá trị văn hóa là của chung. Nghệ thuật truyền thống Malaysia chủ yếu tập trung quanh các lĩnh vực chạm khắc, dệt và bạc. Nghệ thuật truyền thống có phạm vi từ những giỏ đan thủ công tại vùng nông thôn cho đến ngân sức của các triều đình Mã Lai. Các đồ nghệ thuật phổ biến vao gồm dao găm (kris) trang sức, bộ giã hạt cau, vải dệt batik và songket. Người bản địa tại Đông Malaysia nổi tiếng với các mặt nạ bằng gỗ. Mỗi dân tộc có nghệ thuật trình diễn riêng biệt, có ít sự trùng lặp giữa họ. Tuy nhiên, nghệ thuật Mã Lai thể hiện một số ảnh hưởng của Bắc Ấn Độ do ảnh hưởng lịch sử của Ấn Độ. Nghệ thuật âm nhạc và trình diễn Mã Lai có vẻ như bắt nguồn từ khu vực Kelantan-Pattani với các ảnh hưởng từ Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia. Âm nhạc dựa trên các nhạc cụ gõ, quan trọng nhất trong đó là gendang (trống). Có ít nhất 14 loại trống truyền thống. Trống và các nhạc cụ gõ truyền thống khác thường được làm từ các vật liệu tự nhiên. Âm nhạc về mặt truyền thống được sử dụng để phục vụ cho kể chuyện, các sự kiện kỷ niệm vòng đời, và các dịp như vụ gặt. Nó từng được sử dụng làm một hình thức truyền thông đường dài. Tại Đông Malaysia, các bộ nhạc cụ bắt nguồn từ cồng như agung và kulintang được sử dụng phổ biến trong các dịp lễ như tang lễ và hôn lễ. Các bộ nhạc cụ này cũng phổ biến tại các khu vực lân cận như tại Mindanao tại Philippines, Kalimantan tại Indonesia, và Brunei. Malaysia mạnh về truyền thống truyền miệng, loại hình này tồn tại từ trước khi văn bản xuất hiện tại khu vực, và tiếp tục tồn tại cho đến nay. Mỗi vương quốc hồi giáo Mã Lai hình thành các truyền thống văn học riêng, có ảnh hưởng từ các câu chuyện truyền miệng có từ trước và các câu chuyện đến cùng với Hồi giáo. Tác phẩm văn học Mã Lai đầu tiên được viết bằng chữ Ả Rập. Bản văn Mã Lai đầu tiên được biết đến được khắc trên đá Terengganu, thực hiện vào năm 1303. Văn học Trung Quốc và Ấn Độ trở nên phổ biến khi số người nói các ngôn ngữ này tăng lên tại Malaysia, và các tác phẩm xuất bản bản địa dựa trên ngôn ngữ từ các khu vực này bắt đầu được xuất bản vào thế kỷ XIX. Tiếng Anh cũng trở thành một ngôn ngữ văn học phổ biến. Năm 1971, chính phủ tiến hành bước đi nhằm hạn chế văn học bằng các ngôn ngữ khác. Văn học viết bằng tiếng Mã Lai được gọi là "văn học quốc gia của Malaysia", văn học bằng các ngôn ngữ bumiputera khác được gọi là "văn học khu vực", trong khi văn học viết bằng các ngôn ngữ khác được gọi là "văn học tầng lớp". Thơ Mã Lai có sự phát triển ở mức độ cao, sử dụng nhiều thể thơ, trong đó phổ biến là Hikayat, và pantun được truyền bá từ tiếng Mã Lai sang các ngôn ngữ khác. Ẩm thực của Malaysia phản ánh đặc điểm đa dân tộc của quốc gia. Nhiều nền văn hóa đến từ bên trong quốc gia và các khu vực xung quanh có ảnh hưởng lớn đến với ẩm thực Malaysia. Phần lớn ảnh hưởng đến từ văn hóa Mã Lai, Trung Hoa, Ấn Độ, Thái Lan, Java, và Sumatra, phần lớn là do quốc gia là một phần của con đường hương liệu cổ đại. Ẩm thực Malaysia rất tương đồng với ẩm thực Singapore và Brunei, và cũng mang các đặc điểm tương tự với ẩm thực Philippines. Các bang khác nhau có sự biến đổi về món ăn. Truyền thông Các báo chính của Malaysia thuộc sở hữu của chính phủ và các chính đảng trong liên minh cầm quyền, song một số đảng đối lập lớn cũng có báo riêng, chúng được bán công khai cùng với các báo chí chính quy. Sự phân chia tồn tại giữa truyền thông tại hai phần của quốc gia. Truyền thông đặt tại Bán đảo kém ưu tiến đối với các tin tức đến từ phía Đông, và thường xem các bang phía Đông như là những thuộc địa của Bán đảo. Người ta đổ lỗi cho truyền thông trong việc gia tăng căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia, mang đến cho người dân Malaysia một hình ảnh xấu về người Indonesia. Malaysia có các nhật báo bằng tiếng Mã Lai, tiếng Anh, tiếng Trung, và tiếng Tamil. Nghi lễ Malaysia cử hành một số ngày lễ và lễ hội trong năm, một số là ngày lễ toàn liên bang, và một số là ngày lễ của riêng từng bang. Các lễ hội khác do các nhóm dân tộc đặc thù cử hành, và ngày lễ chính của mỗi nhóm dân tộc chính được tuyên bố là ngày nghỉ công. Ngày nghỉ quốc gia được cử hành trang trọng nhất là Hari Merdeka (ngày Độc lập) vào 31 tháng 8, kỷ niệm sự kiện Liên hiệp bang Malaya độc lập vào năm 1957. Ngày Malaysia được cử hành vào ngày 16 tháng 9 để kỷ niệm sự kiện thành lập liên bang vào năm 1963. Ngày nghỉ quốc gia đáng chú ý khác là ngày Lao động (1 tháng 5) và sinh nhật Quốc vương. Các ngày nghỉ Hồi giáo nổi bật do Hồi giáo là quốc giáo; Hari Raya Puasa (cũng gọi là Hari Raya Aidilfitri, tên tiếng Mã Lai của Eid al-Fitr), Hari Raya Haji (cũng gọi là Hari Raya Aidiladha, tức Eid ul-Adha), Maulidur Rasul (sinh nhật của Tiên tri), và các ngày lễ khác được cử hành. Người Malaysia gốc Hoa tổ chức các lễ hội như tết Trung Quốc và các lễ hội khác liên quan đến tín ngưỡng Trung Quốc truyền thống. Tín đồ Ấn Độ giáo tại Malaysia tổ chức Deepavali, lễ hội ánh sáng, trong khi Thaipusam là một nghi thức tôn giáo và khi đó xuất hiện việc người hành hương từ khắp nước hội tụ về động Batu. Cộng đồng Ki-tô giáo Malaysia tổ chức hầu hết các ngày lễ mà các Ki-tô hữu ở những nơi khác cử hành, đáng chú ý nhất là lễ Giáng sinh và Phục sinh. Người dân tại Đông Malaysia cũng tổ chức một lễ hội gặt hái mang tên Gawai. Thể thao Các môn thể thao phổ biến tại Malaysia gồm bóng đá, cầu lông, khúc côn cầu, bóng gỗ, quần vợt, bóng quần, võ thuật, cưỡi ngựa, thuyền buồm, và trượt ván. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Malaysia và quốc gia đang nghiên cứu về khả năng ứng cử làm đồng chủ nhà của Cúp bóng đá thế giới năm 2034. Các trận đấu cầu lông thu hút hàng nghìn khán giả, và kể từ năm 1948 thì Malaysia là một trong ba quốc gia từng giành chức vô địch Thomas Cup. Liên đoàn bóng gỗ Malaysia được đăng ký vào năm 1997. Các thành viên của quân đội Anh Quốc đưa môn bóng quần đến Malaysia, cuộc thi đấu đầu tiên được tổ chức vào năm 1939. Hiệp hội bóng quần Malaysia được hình thành vào ngày 25 tháng 6 năm 1972. Đội tuyển khúc côn cầu nam quốc gia của Malaysia xếp hạng thứ 13 thế giới vào tháng 11 năm 2013. Cúp Khúc côn cầu thế giới lần thứ ba và lần thứ 10 được tổ chức tại Kuala Lumpur. Malaysia cũng có đường đua công thức 1 riêng là Đường đua quốc tế Sepang. Đường đua tổ chức giải Grand Prix đầu tiên vào năm 1999. Hội đồng Olympic Malaya được hình thành vào năm 1953, và được IOC công nhận vào năm 1954. Malaysia lần đầu tiên tham gia Thế vận hội vào năm 1956 tại Melbourne. Hội đồng được đổi tên hành Hội đồng Olympic Malaysia vào năm 1964, và tham gia hầu hết các kỳ Thế vận hội kể từ khi ra đời (trừ Thế vận hội năm 1980 tại Moskva). Số vận động viên lớn nhất mà Malaysia cử tham gia Thế vận hội là 57 trong Thế vận hội Mùa hè 1972. Các vận động viên Malaysia giành được tổng cộng sáu huy chương Thế vận hội, trong đó có năm huy chương tại môn cầu lông. Quốc gia tranh tài trong Đại hội thể thao Thịnh vượng chung kể từ năm 1950 với tên Malaya, và năm 1966 với tên Malaysia, đại hội từng được tổ chức tại Kuala Lumpur vào năm 1998.
Mã Lai (phồn thể: 馬來, giản thể: 马来) được dùng để chỉ: Malaysia khi chưa sáp nhập thêm các bang ở miền bắc đảo Borneo, tức là phần Malaysia bán đảo (tiếng Anh: Peninsular Malaysia). Như vậy Mã Lai hoặc Mã Lai Á (phồn thể: 馬來亞, giản thể: 马来亚) là tên gọi trước đây của Malaysia. Tuy nhiên một số người Việt, nhất là ở hải ngoại, thường quen dùng từ này để chỉ Malaysia (phồn thể: 馬來西亞, giản thể: 马来西亚, âm Hán-Việt: Mã Lai Tây Á) hiện nay. Các nước Mã Lai hợp bang (Federated Malay States) tồn tại trước kia. Liên bang Mã Lai trong hai giai đoạn: Liên hiệp Malaya (1946–1948) và Liên bang Malaya (1948–1963). Trung Quốc gọi là Mã Lai Á Liên bang. Bán đảo Mã Lai Tiếng Mã Lai Người Mã Lai Quần đảo Mã Lai
Tháp Ostankino (tiếng Nga: Останкинская телебашня) là một tháp radio và vô tuyến truyền hình được mệnh danh là vẻ đẹp của thành phố Moskva của Liên bang Nga (tọa độ: 55°49′N 37°37′E). Đây là kết cấu tháp độc lập có chiều cao 540 m (khoảng 1772 ft) được Nikolai Nikitin (cũng là người thiết kế tượng Mẹ Tổ quốc kêu gọi) thiết kế và được xây dựng từ 1963 đến 1967. Tháp được đặt tên theo quận Ostankino (tiếng Nga: Останкинский), ngoại ô của Moskva. Tháp thuộc sở hữu của chi nhánh Moskva của doanh nghiệp nhà nước Mạng phát sóng radio và truyền hình Nga (оссийская телевизионная и радиовещательная сеть, PTPC) Công trình này là một trong những công trình cao nhất thế giới, nó đã từng giữ vị trí quán quân về độ cao gần một thập kỷ cho đến khi Tháp CN ở Canada được xây dựng. Ở thời điểm năm 2022, tháp là cấu trúc độc lập cao nhất ở châu Âu và đứng thứ 12 trong Danh sách các cấu trúc đứng tự do cao nhất thế giới. Trong suốt lịch sử thế kỷ 21, đã có vài vụ tai nạn xảy ra tại tòa tháp, bao gồm hỏa hoạn vào năm 2000, một vụ va chạm vào tòa tháp vào năm 2004 và một vụ hỏa hoạn nhỏ vào năm 2007. Vụ hỏa hoạn vào ngày 27 tháng 8 năm 2000 đã làm 4 người chết, 3 lính cứu hỏa và một người vận hành thang máy khi thang máy rơi hơn 200 m. Ngọn lửa bùng phát ở độ cao khoảng 458 m (1.502,6 ft), hoặc khoảng 98 mét (322 ft) trên đài quan sát. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2004, vận động viên nhảy cầu người Áo Christina Grubelnik đã va vào tòa tháp khi đang nhảy xuống, khiến cô bị chấn động và bất tỉnh. Chiếc dù của cô ấy mắc vào giàn dịch vụ cấp thấp hơn và cô ấy đã được các dịch vụ khẩn cấp của Nga giải cứu. Thông số liên quan
Chúa Kitô Cứu Thế (, , phương ngôn địa phương: ) là một bức tượng Chúa Giêsu tại Rio de Janeiro, Brasil. Tượng tạc theo trường phái Art Deco, cao , đặt trên bệ cao , sải tay của tượng là , nặng 635 tấn, nằm trên đỉnh của núi Corcovado cao , thuộc công viên quốc gia rừng Tijuca hướng về phía thành phố. Tượng là một biểu tượng của Kitô giáo ở Brasil, trở thành một hình tượng văn hóa của cả thành phố Rio de Janeiro và quốc gia Brasil. Tượng được làm từ bê tông cốt thép và đá biến chất steatit, và được xây dựng từ năm 1922 đến năm 1931. Lịch sử Ý tưởng xây dựng một tượng lớn trên đỉnh Corcovado lần đầu được đề xuất vào giữa thập niên 1850, khi linh mục Pedro Maria Boss đề xuất đặt một công trình Kitô giáo trên núi Corcovado nhằm vinh danh Công chúa Isabel, công chúa nhiếp chính của Brasil và là con của Hoàng đế Pedro II; Công chúa Isabel không làm theo thỉnh cầu. Năm 1889, quốc gia trở thành một nước cộng hòa, ý tưởng bị bãi bỏ cùng với việc chính thức phân tách nhà nước và nhà thờ. Lần đề xuất thứ nhì về một tượng mang tính cảnh quan trên núi được nhóm tín hữu Kitô giáo Rio đưa ra vào năm 1920. Nhóm này tổ chức một sự kiện gọi là Semana do Monumento ("tuần kỷ niệm") nhằm thu hút quyên góp và thu thập chữ ký ủng hộ xây dựng tượng. Quyên góp chủ yếu đến từ các tín hữu. Thiết kế được cân nhắc cho "Tượng Chúa" gồm một tương trưng của Thánh giá, một tượng Giê-su với một địa cầu trên tay ngài, và một bệ tượng trưng cho thế giới. Tượng Chúa Cứu thế với vòng tay giang rộng là một dấu hiệu của hòa bình và được lựa chọn. Kỹ sư địa phương Heitor da Silva Costa thiết kế tượng; người điêu khắc là Paul Landowski. Mặt tượng là công việc của nhà điêu khắc người Romania Gheorghe Leonida, và ông trở nên nổi tiếng nhờ việc này. Một nhóm kỹ sư và kỹ thuật viên nghiên cứu những đệ trình của Landowski và quyết định xây cấu trúc bằng bê tông cốt thép thay vì bằng thép, phù hợp hơn với một tượng hình thánh giá. Lớp bên ngoài là steatit, được lựa chọn do phẩm chất vĩnh cửu và dễ sử dụng. Việc xây dựng kéo dài trong chín năm, từ 1922 đến 1931 và chi phí tương đương . Công trình kỉ niệm khánh thành vào ngày 12 tháng 10 năm 1931. Trong lễ khánh thành, tượng được chiếu sát bằng một bộ đèn pha được bật từ xa bằng vô tuyến sóng ngắn bởi nhà phát minh Guglielmo Marconi, đặt tại Roma cách đó 9.200 km. Vào tháng 10 năm 2006, nhân kỷ niệm lần thứ 75 tượng được hoàn thành, Tổng giám mục Rio là Eusebio Oscar Scheid cung hiến một nhà thờ nhỏ ở bên dưới tượng, đặt theo tên thánh bảo trợ của Brasil là Đức Mẹ hiển linh. Việc này cho phép các tín hữu cử hành lễ rửa tội và lễ cưới tại đây. Phục hồi Tượng bị sét đánh trong một cơn dông mạnh vào ngày 10 tháng 2 năm 2008, và chịu một số tổn hại tại các ngón tay, đầu, và chân mày. Một nỗ lực tu bổ được chính phủ bang Rio de Janeiro tiến hành nhằm thay thế một số trong lớp steatit bên ngoài và tu sửa những cột thu lôi đặt trên tượng. Tượng lại chịu tổn hại do sét đánh vào ngày 17 tháng 1 năm 2014, khiến một ngón trên bàn tay phải bị bật ra. Năm 2010, một cuộc phục hồi tượng với quy mô lớn được tiến hành. Tượng được làm sạch, vữa và steatite bao phủ tượng được thay thế, kết cấu bên trong bằng sắt được khôi phục, và công trình được làm cho chống thấm. Một sự cố xảy ra trong quá trình phục hồi, khi mà sơn được phun dọc theo cánh tay của tượng, thủ phạm sau đó xin lỗi và ra trình diện cảnh sát. Việc phục hồi sử dụng trên 60.000 phiến đá lấy từ cùng mỏ đá với tượng gốc.
Claude Joseph Rouget de Lisle (1760–1836) là một sĩ quan trong lực lượng công binh Pháp. Tên tuổi của ông gắn liền với bài hát "La Marseillaise", quốc ca Pháp, sáng tác vào tháng 4 năm 1792 tại Strassburg. Ông sinh ngày 10 tháng 5 năm 1760 tại Lons-le-Saunier, Jura, Pháp và mất ngày 26 tháng 6 năm 1836 tại Choisy-le-Roi, Seine-et-Oise, Pháp. Chú thích
Phân tử myosin là... Cấu trúc Mỗi phân tử gồm 6 chuỗi polypeptid, hai chuỗi nặng và bốn chuỗi nhẹ. Hai chuỗi nặng xoắn với nhau tạo ra dây xoắn kép. Ở mỗi đầu dây, mỗi chuỗi nặng gấp lại thành một khối hình cầu được gọi là đầu myosin. Như vậy, mỗi dãy xoắn kép của phân tử myosin có hai đầu nằm cạnh nhau. Phần kéo dài của dây xoắn kép gọi là đuôi myosin. Bốn chuỗi nhẹ nằm ở phần đầu myosin, mỗi đầu có hai chuỗi. Chức năng Đầu myosin hoạt động như một enzym ATPase. Nó có tác dụng phân giải ATP để cung cấp năng lượng cho quá trình co cơ. Những chuỗi nhẹ của phân tử myosin giúp kiểm soát chức năng của đầu myosin trong quá trình co cơ. Các phân tử myosin gắn kết với nhau tạo nên các sợi myosin trong cơ của động vật.
Trong toán học, biến đổi Fourier liên tục là một toán tử tuyến tính chuyển một hàm khả tích (theo tích phân Lebesgue) sang một hàm khả tích khác. Theo ngôn ngữ của chuyên ngành xử lý tín hiệu hay trong vật lý, biến đổi Fourier khai triển một hàm số theo các thành phần trong phổ của nó, và ngược lại biến đổi Fourier nghịch đảo xây dựng lại một hàm số thông qua các thành phân tần số của nó. Đây cũng là ý tưởng chính của các dạng khác của biến đổi Fourier, bao gồm cả biến đổi Fourier rời rạc. Xét một hàm số phức khả tích Lebesgue x(t). Một biến đổi Fourier của nó sang miền tần số góc ω được cho bởi hàm: cho tất cả các số thực . đơn vị số ảo, và là một hàm nhận giá trị phức. Biến đổi nghịch đảo của nó cũng có dạng tương tự. Nếu hàm được định nghĩa như trên, và hàm liên tục bậc vô hạn, khi đó : cho tất cả các số thực . Hệ số chuẩn hóa Dạng tổng quát Các tính chất Biến đổi của các hàm thông dụng Bản sau đây ghi lại một số biến đổi Fourier quan trọng. G và H ký hiệu biến đổi Fourier của hàm số g(t) và h(t), theo thứ tự đó. g và h có thể là hàm khả tích hoặc là phân bố. Các mối liên quan Các hàm bình phương khả tích Distributions
Công nghệ môi trường, công nghệ xanh, hoặc công nghệ sạch là sự ứng dụng khoa học môi trường, hóa học xanh, quan trắc môi trường, sử dụng các thiết bị điện tử để theo dõi, mô hình hóa và giữ cho môi trường tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ít bị ảnh hưởng do những tác động tiêu cực của con người. Thuật ngữ này cũng được dùng để mô tả công nghệ sản xuất năng lượng bền vững như điện mặt trời, Turbine gió, Bioreactor.v.v. Phát triển bền vững là cốt lõi của Công nghệ môi trường. Công nghệ môi trường còn được dùng để mô tả các thiết bị điện tử chuyên hỗ trợ quản lý bền vững các nguồn tài nguyên. Luật bảo vệ Môi trường Việt Nam, 1994, Điều 2, khoản 8 quy định "Công nghệ sạch là quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ thuật không gây ô nhiễm môi trường, thải hoặc phát ra ở mức thấp nhất chất gây ô nhiễm môi trường". Ví dụ Năng lượng tái tạo Năng lượng Mặt Trời Pin Mặt Trời Điện mặt trời Sưởi ấm Mặt Trời Năng lượng gió Turbine gió Năng lượng nước Thủy điện Tuốc bin nước Khoa học môi trường Khử muối Bảo tồn năng lượng Tế bào nhiên liệu Ô tô hybrid Tái chế Là quá trình biến đổi các chất thải thành các sản phẩm mới để tránh sự lãng phí tài nguyên, giảm tiêu hao nguyên liệu thô mới, giảm tiêu hao năng lượng, giảm ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước nhờ giảm lượng rác thải ra, và giảm lượng khí nhà kính tạo ra. Năng lượng tái tạo Năng lượng tái tạo là năng lượng từ những nguồn liên tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn (như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng nước.v.v.) Năng lượng thay thế Nguyên tắc: Chủ nghĩa công đoàn xanh Bền vững Thiết kế bền vững Kỹ thuật bền vững Các nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm năng lượng sạch thay thế cho phương pháp sản xuất điện hiện nay. Một số công nghệ như tiêu hóa kỵ khí có thể tạo mới năng lượng từ rác thải bỏ đi. Việc giảm lượng khí nhà kính trên toàn cầu phụ thuộc vào công nghệ bảo tồn năng lượng ở cấp độ công nghiệp cũng như thế hệ năng lượng sạch hiện nay. Nó bao gồm cả xăng không chì, năng lượng mặt trời, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng thay thế như xe lai sạc điện. Vì lĩnh vực công nghiệp sử dụng đến 51% tổng năng lượng tiêu hao trên toàn thế giới nên nâng cao hiệu quả năng lượng trong lĩnh vực này là ưu tiên hàng đầu đối với tất cả các công ty công nghệ môi trường trên toàn thế giới. Ví dụ như nâng cao hiệu suất của động cơ điện và máy phát điện, thiết kế các thiết bị tiết kiệm năng lượng và giảm lượng khí thải ra. Greasestock là một sự kiện được tổ chức hàng năm tại Yorktown Heights, New York, là một trong những cuộc triển lãm công nghệ môi trường lớn nhất nước Mỹ. Giáo dục Hiện tại các chương trình đào tạo sinh viên tốt nghiệp đại học (cử nhân) với các kỹ năng chuyên môn về quản lý môi trường và công nghệ môi trường đang ngày càng phổ biến và chủ yếu rơi vào ba dạng sau: Kỹ sư môi trường chuyên đào tạo kỹ năng hướng tới thiết kế xây dựng các công trình dân dụng trong đó cấu trúc và cảnh quan được xây dựng hòa hợp với môi trường hoặc có tác dụng bảo vệ môi trường. Hóa học môi trường hay Hóa học bền vững hướng tới đào tạo cho sinh viên hiểu các tác động (tốt hay xấu) của các loại hóa chất lên môi trường, từ đó đưa ra các biện pháp hóa học để phục hồi và bảo vệ môi trường. Kỹ thuật môi trường chuyên đào tạo về mảng điện - điện tử hoặc kỹ thuật điện để có khả năng thiết kế chế tạo các thiết bị theo dõi đo lường mô hình hóa và kiểm soát tác động môi trường, bao gồm cả quản lý giám sát sản xuất năng lượng tái tạo và phát triển công nghệ sản xuất năng lượng mới.
Bộ Gừng (danh pháp khoa học: Zingiberales) là một bộ thực vật có hoa bao gồm nhiều loài thực vật tương tự nhau như gừng, đậu khấu, nghệ, cũng như chuối và hoàng tinh. Phân loại APG II Trong hệ thống APG III năm 2009 (không thay đổi so với hệ thống APG II năm 2003) người ta đặt bộ này trong nhóm thài lài (commelinids), mà nó lại được đưa vào trong lớp thực vật một lá mầm, cũng như coi nó có chứa 8 họ với 92 chi và khoảng 2.111 loài như sau: Zingiberaceae - Họ Gừng Cannaceae - Họ Chuối hoa hay họ Dong riềng Costaceae - Họ Mía dò Heliconiaceae - Họ Chuối pháo Lowiaceae- Họ Chuối hoa lan Marantaceae - Họ Dong Musaceae - Họ Chuối Strelitziaceae - Họ Hoa chim thiên đường hay chuối rẻ quạt Hệ thống Cronquist Trong hệ thống Cronquist năm 1981 thì bộ này chứa cùng tám họ như trên đây, nhưng bộ này được coi như là thuộc về phân lớp Gừng (Zingiberidae), mà phân lớp này lại thuộc về lớp thực vật một lá mầm (Liliopsida). Phân lớp Gừng này còn chứa cả bộ Dứa (Bromeliales), bao gồm (tại đó) một họ duy nhất là họ Dứa (Bromeliaceae), một họ mà APG II đưa vào trong bộ Hòa thảo (Poales). Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài của bộ Gừng so với các bộ thực vật một lá mầm khác trong nhánh Thài lài lấy theo APG III. Nhóm thân cây trong phát sinh loài của bộ Gừng có niên đại vào khoảng 114 triệu năm trước, sự phân kì trong nhóm vào khoảng 88 Ma (Janssen & Bremer 2004); các số liệu trong Bremer 2000 là 84 và 62 Ma và trong Wikström và ctv. (2001) là 81-73/62-38 Ma. Tuy nhiên, Kress và Specht (2005) lại cho rằng nhóm chỏm cây có lẽ có niên đại sớm hơn, tới 158 Ma (127-121 Ma trong Kress & Specht 2006), nhóm chỏm cây rẽ ra vào khoảng 95 Ma (144-106 Ma trong Kress & Specht 2005, 2006); các họ ngoài nhóm Cannaceae và Marantaceae đã rẽ ra vào khoảng 60 Ma [trong Kress & Specht 2006 là 86-74 Ma]. Chi đã tuyệt chủng và không đặt vào họ nào (Spirematospermum) có các hóa thạch đã biết từ cuối kỷ Phấn Trắng. Phát sinh loài trong bộ đã được nghiên cứu nhiều, nhưng nhiều mối quan hệ ở một mức độ nhất định vẫn còn chưa rõ ràng. Cây phát sinh loài ở đây dựa trên 2 gen + hình thái học cây các xấp xỉ kế tiếp của Kress (1990, 1995), Kress và ctv. (2001)) cũng như của Wikström và ctv. (2001: 3 gen, Musaceae [Heliconiacaeae Lowiaceae + Strelitziaceae [phần còn lại]]]), Andersson và Chase (2001: Costaceae và Zingiberaceae dường như không là các đơn vị phân loại chị-em) cùng Janssen và Bremer (2004). Musaceae được hỗ trợ yếu (chỉ trên 50% một chút) như là nhóm chị-em với phần còn lại trong bộ trong cây phát sinh loài của Kress và ctv. (2001), và tốt hơn một chút, nhưng chưa đủ tốt (78%) hỗ trợ như là thành viên của nhánh [[Lowiaceae + Strelitziaceae], Heliconiaceae, Musaceae] trong Givnish và ctv. (2006: 1 gen). Thậm chí mối quan hệ Costaceae + Zingiberaceae Marantaceae + Cannaceae cũng không được tìm thấy trong một số phân tích (như Davis và ctv. 2004, nhưng các giá trị hỗ trợ nói chung là rất thấp; Soltis và ctv. 2007). Johansen (2005), xem xét 6 khu vực DNA (thể hạt, nhân), gần đây gợi ý rằng Lowiaceae và Strelitziaceae là các nhóm chị em kế tiếp với phần còn lại của bộ Zingiberales, điều này có thể làm cho việc tái tạo lại các đặc trưng tiến hóa của hoa là mơ hồ. Cây phát sinh chủng loài trong nội bộ bộ Gừng lấy theo APG III. Phát sinh chủng loài của Zingiberales theo Sass et al (2016)
Họ Chuối hoa lan (danh pháp khoa học: Lowiaceae) là một họ thực vật một lá mầm có hoa, một phần của bộ Gừng (Zingiberales). Họ này chỉ có một chi duy nhất là Orchidantha; các chi trước đây công nhận như Lowia, Protamomum và Wolfia hiện nay nói chung được đưa vào trong chi Orchidantha. Orchidantha là một chi ít được nghiên cứu, với 5-10 loài sinh trưởng tại khu vực sinh thái Indomalaya, bao gồm Đông Dương, miền nam Trung Quốc và Borneo. Orchidantha có nghĩa là "hoa phong lan", do một trong số các cánh hoa trên hoa bị biến đổi thành môi dưới, giống như trong các loại hoa trong họ Phong lan (Orchidaceae). Một loài, Orchidantha inouei ở Borneo, còn có mùi giả như mùi phân thối nhằm hấp dẫn một loài bọ hung nhỏ (Onthophagus) để thụ phấn cho nó. Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III. Chú thích
IAA có thể là: Internationale Automobil-Ausstellung: Triển lãm Ô tô Quốc tế tại Frankfurt am Main.
Crete (, hiện đại: Kríti, cổ đại: Krḗtē; ) là đảo lớn nhất và đông dân nhất của Hy Lạp, và là đảo lớn thứ năm tại Địa Trung Hải, đồng thời cũng là một trong 13 vùng của Hy Lạp. Hòn đảo có ý nghĩa lớn trong kinh tế và di sản văn hóa của Hy Lạp song vẫn duy trì các đặc điểm văn hóa địa phương (như phương ngữ Crete, thi ca và âm nhạc). Crete là trung tâm của văn minh Minoan (), nền văn minh có trình độ phát triển cao đầu tiên tại châu Âu, và là nền văn minh đã tạo nên các cung điện đầu tiên của châu Âu. Tên gọi Hòn đảo lần đầu tiên được đề cập đến với tên gọi Kaptara trong các văn bản từ thành phố Mari của Syria có niên đại từ thế kỷ 18 TCN, được lặp lại sau đó trong các ghi chép của Tân Assyria và Kinh thánh (Caphtor). Đảo được biết đến tại Ai Cập cổ đại là Keftiu, cả hai đều tương tự như tên Minoan của đảo. Tên tiếng Hy Lạp Mycenaea của Crete không được biết; nó không được nêu trong các văn bản văn tự tuyến hình B còn lại cho đến nay. Tên gọi Crete (Κρήτη) làn đầu tiên được đề cập tới là trong sử thi Odyssey của Homer. Từ nguyên của nó không rõ. Một suy đoán cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Luwian *kursatta (kursawar "đảo", kursattar "cắt, miếng"). Trong tiếng Latinh, tên của đảo trở thành Creta. Tên gốc tiếng Ả Rập của Crete là Iqrīṭiš ( < (της) Κρήτης), nhưng sau khi Tiểu vương quốc Crete được thành lập với kinh đô mới đặt tại ربض الخندق Rabḍ al-ḫandaq (nay là Iraklion), cả thành phố và đảo đều được gọi là Χάνδαξ (Khandhax) hay Χάνδακας (Khandhakas). Dưới thời đế chế Ottoman, trong tiếng Thổ Ottoman, Crete được gọi là Girit (كريت). Địa lý Crete là đảo lớn nhất tại Hy Lạp và là đảo lớn thứ hai ở phía đông của Địa Trung Hải (sau Síp). Đảo nằm ở phía nam của biển Aegea tách biển Aegea với biển Libya. Hòn đảo có hình thon dài: kéo dài từ đông sang tây, điểm rộng nhất là , và điểm hẹp nhất là (gần Ierapetra). Crete có diện tích , với đường bờ biển dài ; ở phía bắc, nó giáp với biển Crete (tiếng Hy Lạp: Κρητικό Πέλαγος); và ở phía nam là biển Libya (tiếng Hy Lạp: Λιβυκό Πέλαγος); ở phía tây là biển Myrtoan, và ở phía đông là biển Karpathion. Đảo nằm cách xấp xỉ về phía nam của Hy Lạp đại lục. Crete có địa hình đồi núi, và có một dãy núi chạy từ đông sang tây, gồm ba nhóm núi khác nhau: Dãy Trắng hay Lefka Ori Dãy Idi (Psiloritis Dãy Dikti Khí hậu Crete trải dài trên hai vùng khí hậu, chủ yếu là Địa Trung Hải và một phần là Bắc Phi. Do vậy, khí hậu Crete chủ yếu là ôn đới. Bầu không khí khá ẩm ướt, tùy thuộc vào vị trí gần hay xa biển, trong khi mùa đông khá êm dịu. Tuyết thường rơi trên các ngọn núi từ giữa tháng 11 và tháng 5, song hiếm khi thấy ở các vùng thấp. Trong khi các đỉnh núi cao bị tuyết bao phủ cả năm thì vùng gần biển tuyết chỉ có thể ở lại trên mặt đất một vài phút hoặc vài giờ. Tuy nhiên, một đợt lạnh vào tháng 2 năm 2004 đã khiến toàn bộ hòn đảo bị tuyết bao phủ. Vào mùa hè tại Crete, nhiệt độ dao động từ 20 °C đến dưới 30 °C, và tối đa có thể lên tới trên 30 °C hay thậm chí 40 °C. Bờ biển phía nam, bao gồm đồng bằng Mesara và dãy núi Asterousia, nằm trong vùng khí hậu Bắc Phi, và do đó chịu ảnh hưởng đáng kể với các ngày nắng và nhiệt độ cao trong suốt năm. Tại đây, cọ chà là đâm hoa kết quả, và nhạn sinh sống quanh năm chứ không di cư sang châu Phi. Khu vực màu mỡ quanh Ierapetra, ở góc đông nam của đảo, có thể sản xuất nông nghiệp quanh năm, với tất cả các loại rau mùa hè và hoa quả được trồng trong nhà kính suốt mùa đông. Hành chính Crete là đảo đông dân nhất của Hy Lạp với trên 600.000 người. Xấp xỉ 42% cư dân sống tại các thành phố và thị trấn chính của đảo trong khi 45% sống tại các khu vực nông thôn. Crete cùng với các đảo nhỏ lân cận tạo nên vùng Crete (), một trong 13 vùng của Hy Lạp được thành lập theo đợt cải cách đơn vị hành chính vào năm 1987. Theo kế hoạch Kallikratis năm 2010, quyền hạn của vùng được xác định lại và mở rộng. Thủ phủ của vùng đặt tại Heraklion và vùng được chia thành bốn đơn vị thuộc vùng (trước kế hoạch-Kallikratis là các quận). Từ tây sang đông là: Chania, Rethymno, Heraklion và Lasithi. Chúng được chia tiếp thành 24 khu tự quản. Thành phố Heraklion (Iraklion hay Candia) (130.914 cư dân) Chania (Haniá) (53.373 cư dân) Rethymno (27.868 cư dân) Ierapetra (23.707 cư dân) Agios Nikolaos (19.462 cư dân) Sitia (14.338 cư dân) Văn hóa Người dân trên đảo nói phương ngữ Crete của tiếng Hy Lạp với nhiều từ vựng đặc trưng của đảo. Crete có thể loại thi ca Mantinada riêng biệt. Đảo được biết đến với nền âm nhạc dựa trên các tác phẩm thi ca Mantinada và nhiều điệu nhảy múa bản địa, đáng chú ý nhất trong đó là Pentozali. Các tác gia người Crete đã có đóng góp quan trọng cho văn học Hy Lạp trong suốt thời kỳ hiện đại; các tên tuổi chính gồm Vikentios Kornaros, tác giả của sử thi lãng mạn Erotokritos (tiếng Hy Lạp: Ερωτόκριτος) vào thế kỷ 17, và đến thế kỷ 20 có tác gia Nikos Kazantzakis. Vào thời Phục hưng, Crete có các trường Crete về hội họa tượng thánh, ảnh hưởng đến El Greco và thông qua ông là với nền hội họa châu Âu. Xã hội Crete có các gia đình khét tiếng và các mối thù truyền kiếp giữa các gia tộc vẫn còn lại trên đảo cho đến nay. Người Crete cũng có truyền thống giữ súng ở nhà, một truyền thống có từ thời kỳ kháng chiến chống lại đế chế Ottoman. Gần như mọi hộ gia đình tại vùng nông thôn của Crete đều sở hữu một khẩu súng không đăng ký. Việc sở hữu súng được chính phủ Hy Lạp quy định nghiêm ngặt, song các cơ quản có thẩm quyền nhắm mắt làm ngơ, chấp nhận cho họ sở hữu súng theo truyền thống. Kinh tế Nền kinh tế của Crete chủ yếu dựa vào nông nghiệp và là một trong số ít các hòn đảo của Hy Lạp có nền kinh tế độc lập mà không cần phải dựa vào du lịch. Nền kinh tế đã bắt đầu thay đổi rõ rệt vào thập niên 1970 khi du lịch đạt được tầm quan trọng nhất định. Trong khi trồng trọt và chăn nuôi vẫn có tầm quan trọng, song do khí hậu và thổ nhưỡng trên đảo, đã có sự sụt giảm trong sản xuất và cùng với đó là sự mở rộng đáng kể của các ngành dịch vụ. Tất cả ba lĩnh vực trong nền kinh tế Crete (nông nghiệp, chế biến-đóng gói, dịch vụ), đều kết nối trực tiếp và phụ thuộc lẫn nhau. Thu nhập bình quân của đảo cao hơn nhiều so với mức trung bình của Hy Lạp, trong khi tỉ lệ thất nghiệp cũng thấp hơn. Cũng như nhiều khu vực của Hy Lạp, nghề trồng nho và ô liu khá quan trọng; cam và thanh yên cũng được trồng. Cho đến gần đây, có những hạn chế về việc nhập khẩu chuối đến Hy Lạp, do đó chuối cũng được trồng trên đảo, chủ yếu là trong nhà kính. Các sản phẩm từ sữa có vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương và có một số loại pho mát đặc sản như mizithra, anthotyros, và kefalotyri. Hòn đảo có ba sân bay chính, Nikos Kazantzakis tại Heraklion, Daskalogiannis tại Chania và một sân bay nhỏ hơn tại Sitia. Hai sân bay đầu có các đường bay quốc tế, và là cửa ngõ khi các du khách đến với hòn đảo. Hòn đảo có các tuyến phà chủ yếu là kết nối với Athens do một số công ty điều hành như Minoan Lines và ANEK Lines. Lịch sử Họ Người đã sống tại Crete ít nhất là từ 130.000 năm trước. Vào hậu kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đồng, dưới nền văn minh Minoan, Crete đã có một trình độ phát triển cao, một nền văn minh có học thức. Đảo được cai trị bởi các thực thể Hy Lạp cổ đại, đế quốc Đông La Mã, đế quốc Đông La Mã, Tiểu vương quốc Crete, Cộng hòa Venezia và đế chế Ottoman. Sau một thời gian ngắn tự chủ (1897–1913) dưới sự quản lý của chính phủ lâm thời Crete, đảo gia nhập vương quốc Hy Lạp. Đảo bị Đức Quốc xã xâm lược trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Thời tiền sử Cá thể người đầu tiên đến định cư tại Crete là từ 130.000 năm trước, vào thời đại đồ đá cũ. Các điểm định cư vào giai đoạn tiền đồ gốm của thời kỳ đồ đá mới vào thiên niên kỷ thứ 7 TCN, sử dụng gia súc, cừu, dê, lợn và chó cũng như các loại ngũ cốc và cây đậu đã được thuần hóa; Knossos cổ là một trong những địa điểm chính vào thời kỳ đồ đá mới (và sau này là Minoan). Các điểm định cư vào thời đồ đá mới khác bao gồm Kephala, Magasa, và Trapeza. Văn minh Minoan Crete là trung tâm của nền văn minh tiến bộ đầu tiên của châu Âu, Minoan (). Nền văn minh này được viết trong các văn bản mà đến nay vẫn không giải mã được, chúng được gọi là văn tự tuyến hình A. Lịch sử Crete đầy rẫy những huyền thoại như Vua Minos, Theseus, và Minotaur, được truyền khẩu qua những thi sĩ như Homer. Sự kiện phun trào núi lửa Minoa trên đảo Thera đã tàn phá nền văn minh Minoa. Văn minh Mycenea Bắt đầu từ năm 1420 TCN, nền văn minh Minoan bị nền văn minh Mycenae từ Hy Lạp đại lục tàn phá. Các mẫu văn bản cổ nhất được viết bằng tiếng Hy Lạp, được Michael Ventris nhận dạng, là các tài liệu bằng văn tự tuyến hình B từ Knossos, có niên đại xấp xỉ 1425–1375 TCN. La Mã cai trị Crete đã tham gia vào các cuộc chiến tranh Mithridatic, ban đầu đã đẩy lùi được cuộc tấn công của tướng La Mã Marcus Antonius Creticus vào năm 71 TCN. Tuy thế, một chiến dịch ác liệt trong ba năm đã sớm xảy ra sau đó dưới sự chỉ huy của Quintus Caecilius Metellus Creticus, trang bị với ba quân đoàn và Crete cuối cùng bị La Mã chinh phục vào năm 69 TCN, Metellus được ban tước hiệu "Creticus". Gortyn trở thành thủ phủ của hòn đảo, và Crete trở thành một tỉnh của La Mã, cùng với Cyrenaica được gọi là Creta et Cyrenaica. Đông La Mã – thời kỳ thứ nhất Crete được tách khỏi Cyrenaica khoảng năm 297. Đảo vẫn là một phần của đế quốc La Mã, và đế quốc Đông La Mã sau năm 600 SCN. Crete đã phải hứng chịu một cuộc tấn công từ người Vandal vào năm 467, các trận động đất lớn vào các năm 365 và 415, một cuộc tấn công của người Slav năm 623, các cuộc tấn công của người Ả Rập vào năm 654 và thập niên 670, và tiếp diễn vào thế kỷ thứ 8. Khoảng năm 732, Hoàng đế Leo III đã chuyển hòn đảo từ phạm vi quyền lực của Giáo hoàng sang Tổng chủ giáo thính Constantinopolis. Tiểu vương quốc Crete Vào thập niên 820, khi Crete là một phần của Đế quốc Đông La Mã, đảo đã bị người Ả Rập do Abu Hafs cầm đầu xâm chiếm và họ đã lập nên Tiểu vương quốc Crete. Đông La Mã đã phát động một chiến dịch để tái chiếm hòn đảo vào các năm 842 và 843 dưới quyền Theoktistos và đạt được một số thành công. Các chiến dịch của Đông La Mã tiếp tục vào các năm 911 và 949 song đã thất bại. Năm 960/1, chiến dịch của Nikephoros Phokas đã thu hồi thành công Crete về tay Đông La Mã. Đông La Mã - thời kỳ thứ hai Năm 961, Nikephoros Phokas đã đưa hòn đảo trở về với quyền cai quản của Đông La Mã sau khi trục xuất những người Ả Rập. Năm 1204, cuộc Thập tự chinh lần thứ 4 đã khiến kinh đô Constantinopolis bị chiếm và cướp phá. Crete bước đầu nằm dưới quyền lãnh đạo của Boniface của Montferrat trong việc phân vùng các chiến lợi phẩm sau đó. Tuy nhiên, Boniface đã bán chủ quyền của mình cho Cộng hòa Venezia, thế lực chiếm đa số trong cuộc Thập tự chinh. Đối thủ của Venezia, Cộng hòa Genova đã ngay lập tức chiếm giữa hòn đảo và cho đến tận năm 1212, đảo mới trở thành một thuộc địa của Venezia. Venezia cai trị Từ năm 1212, trong suốt bốn thế kỷ dưới sự cai trị của Venezia, thời kỳ Phục hưng đã quét qua hòn đảo, minh chứng rõ ràng nhất là các tác phẩm nghệ thuật có niên đại trong khoảng thời gian này. Được biết đến với cái tên trường phái Crete hay Nghệ thuật hậu Byzantine, nó là một trong những sự thăng hoa cuối cùng cùng của nghệ thuật truyền thống. Các đại diện đáng chú ý nhất của thời kỳ Phục hưng Crete là họa sĩ El Greco và nhà văn Nicholas Kalliakis (1645–1707), Georgios Kalafatis (1652–1720), Andreas Musalus (1665–1721) và Vitsentzos Kornaros. Dưới sự cai trị của Venezia, một thế lực Công giáo, Candia được coi là thành phố vững chắc nhất tại phía đông của Địa Trung Hải. Ba pháo đài chính được đặt tại Gramvousa, Spinalonga, và Fortezza. Các công sự khác bao gồm pháo đài Kazarma. Năm 1492, những người Do Thái bị trục xuất từ Tây Ban Nha đã đến định cư trên đảo. Năm 1574–77, Crete nằm dưới quyền quản lý của Giacomo Foscarini. Theo Starr (1942), thời kỳ quản lý của Giacomo Foscarini là những năm đen tối đối với người Do Thái và Hy Lạp. Khi đó, những người không theo Công giáo phải nộp thuế cao và không có chiết khấu. Năm 1627, có 800 người Do Thái tại Candia, tức 7% dân số của thành phố. Ottoman cai trị Người Ottomans đã chinh phục Crete vào năm 1669, sau cuộc bao vây Candia. Nhiều người Hy Lạp tại Crete đã đào thoát đến các khu vực khác của Cộng hòa Venezia sau các cộc chiến tranh Ottoman–Venezia, một số thậm chí còn trở nên thịnh vượng như gia đình Simone Stratigo (1733 – 1824), họ đã nhập cư đến Dalamatia từ Crete vào năm 1669.. Hầu hết người Hồi giáo Crete là những người Hy Lạp bản địa cải đạo, họ nói tiếng Hy Lạp Crete, song trong bối cảnh chính trị vào thế kỷ 19 tại đảo, họ được người Thổ nhìn nhận là người Thiên Chúa giáo. Các ước tính đương thời có sự khác biệt, song vào đêm trước của Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp, có thể 45% dân cư của đảo là người Hồi giáo. Số người theo phái Sufi phân bổ rộng khắp hòn đảo, Bektashi là phổ biến nhất, có ít nhất năm tekkes. Nhiều người trong số họ nguyên là Ki-tô hữu và đã cải đạo trở lại trong những năm tiếp sau, trong khi nhiều người khác rời khỏi Crete vì tình trạng bất ổn, định cư tại Thổ Nhĩ Kỳ, Rhodes, Syria và các nơi khác. Đến năm 1900, 11% dân cư của đảo là người Hồi giáo. Số còn lại này được tái định cư theo thỏa thuận Trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ nhĩ Kỳ vào năm 1924. Nhà nước Crete Crete được một lực lượng quốc tế đồn trú, với một Cao ủy (Armostis) do chính phủ Hy Lạp lựa chọn là Alexandros Zaimis. Hòn đảo bị phân chia thành bốn phần cho bốn thế lực chính vào thời gian đó là Ý, Nga, Anh và Pháp, các khu vực chiếm đóng tương ứng là Chania, Rethymnon, Heraklion và Lasithi. Crete thống nhất với Hy Lạp vào ngày 1 tháng 12 năm 1913. Thế chiến II Trong Thế chiến II, đảo là nơi đã diễn ra trận Crete nổi tiếng vào tháng 5 năm 1941. Các lính nhảy dù người Đức đã có 7.000 thương vong, gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ Khối Thịnh vượng chung Anh và người dân địa phương, do tướng Bernard Freyberg chỉ huy. Kết quả là, Adolf Hitler đã ngăn cấm các hoạt động bằng đường không có quy mô lớn hơn. Trong thời gian chiếm đóng, quân Đức thường hành quyết các thường dân là nam giới khi họ ngẫu nhiên tụ tập tại các ngôi làng nhằm trả thù cho các binh lính Đức, như tại Kondomari.
Địa Trung Hải là một phần của Đại Tây Dương được vây quanh bởi đất liền – phía bắc bởi châu Âu, phía nam bởi châu Phi và phía đông bởi châu Á. Địa Trung Hải có diện tích 2.509.000 km² (969.000 dặm vuông Anh) tới 2.510.000 km² (970.000 dặm vuông Anh). Chiều dài đông-tây là 4.000 km và chiều rộng trung bình là 800 km, nhưng tại chỗ thông với Đại Tây Dương (eo biển Gibraltar) chỉ rộng 13 km (8 dặm Anh) và bề rộng tối đa đạt 1.600 km. Nhìn chung biển này nông, với độ sâu trung bình khoảng 1.500 m, độ sâu tối đa khoảng 4.900 m tới 5.150 m, tại khu vực phía nam bờ biển Hy Lạp. Địa Trung Hải là phần sót lại của một đại dương lớn thời cổ đại, gọi là đại dương Tethys, đã bị ép gần như đóng chặt trong thế Oligocen, khoảng 30 triệu năm trước, khi các mảng kiến tạo lục địa làm cho châu Phi và đại lục Á-Âu va chạm vào nhau. Các mảng này vẫn đang tiếp tục đè nén nhau, gây ra các đợt phun trào của các núi lửa, như đỉnh Etna, đỉnh Vesuvius và Stromboli, tất cả đều tại Ý, cũng như kích thích các trận động đất thường xuyên, tàn phá các phần của Ý, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Một sóng ngầm đại dương từ Tunisia tới Sicilia chia Địa Trung Hải ra thành hai bồn địa đông và tây. Một sóng ngầm đáy biển khác, từ Tây Ban Nha tới Maroc, nằm tại lối thoát ra của Đại Tây Dương. Chỉ sâu 300 m (1.000 ft), nó hạn chế sự luân chuyển nước thông qua vịnh Gibraltar khá hẹp, vì thế nó làm giảm đáng kể khoảng lên-xuống của thủy triều tại biển này và cùng với tốc độ bốc hơi cao, làm cho Địa Trung Hải có độ mặn cao hơn của Đại Tây Dương. Địa Trung Hải cũng là vùng nước được bao bọc bởi đất liền xung quanh lớn nhất thế giới (có diện tích ~ 2.5 triệu km²).Một phần do khí hậu Nam Âu ấm áp nên lượng nước bốc hơi từ biển Địa Trung Hải luôn nhiều hơn lượng nước được bù lại bởi các con sông đổ vào nó. Điều này dẫn tới việc luôn có nước từ Đại Tây Dương đổ vào Địa Trung Hải qua eo biển Gibraltar và nồng độ muối ở Địa Trung Hải cao hơn nồng độ muối ở Đại Tây Dương. Điểm sâu nhất của Địa Trung Hải nằm ở bên phía Đông với độ sâu khoảng 5200m. Nói Địa Trung Hải không có thủy triều thì không chính xác nhưng thủy triều ở Địa Trung Hải rất thấp, nhiều nơi chỉ chênh lệch vài cm. Các hải cảng quan trọng nằm bên Địa Trung Hải gồm: Barcelona, Marseille, Genova, Trieste, Haifa. Các sông chính đổ vào Địa Trung Hải có Ebro, Rhone, Po và Nin. Địa Trung Hải có rất nhiều đảo với dân số đông đảo, đảo lớn nhất là Sicily. Các đảo lớn khác có thể kể đến như Cộng hòa Síp, Crete, Sardegna, Corse, Mallorca, Malta. Các quốc gia ven biển Có 21 quốc gia/vùng lãnh thổ nằm trên bờ Địa Trung Hải: Châu Âu: , , , , , , , , , , và . Châu Á:, , ,, (bán đảo Sinai). Châu Phi: , , , và Các vùng lãnh thổ khác cũng có ranh giới với Địa Trung Hải (tây sang đông): Lãnh thổ hải ngoại của Anh: Gibraltar Các vùng đất của Tây Ban Nha: Ceuta và Melilla và các đảo lân cận Akrotiri và Dhekelia Bắc Síp (tranh chấp) Dải Gaza: Palestine Các thành phố thủ đô của các quốc gia có chủ quyền và các thành phố chính có hơn 200.000 dân có ranh giới với Địa Trung Hải gồm (các thủ đô ít hơn 200.000 dân được đánh dấu hoa thị): Xuất xứ tên gọi Tên tiếng Anh của biển là Mediterranean được xuất phát từ hai từ trong tiếng Latin: Medius ~ Middle trong tiếng Anh có nghĩa là ở giữa (Trung) và Terra ~ Earth trong tiếng Anh có nghĩa là Trái Đất (Địa). Nếu nhìn trên bản đồ thì bạn cũng có thể dễ dàng thấy rằng Địa Trung Hải nằm ở chính giữa các quốc gia bao bọc nó. Chỉ có eo biển Gibraltar ở Morocco (rộng 14.3 km) và eo biển Dardanelles ở Thổ Nhĩ Kỳ (hẹp hơn Gibraltar) là nơi mà Địa Trung Hải mở lòng ra để kết nối với các biển và đại dương khác. Cổ khí hậu Do vĩ độ của nó và vị trí nằm giữa các vùng đất liền, Địa Trung Hải cực kỳ nhạy cảm với những dao động khí hậu gây ra từ yếu tố thiên văn, cũng được ghi nhận rõ ràng trong trầm tích. Vì Địa Trung Hải liên quan đến các tích tụ trầm tích gió từ sa mạc Sahara trong các giai đoạn khí hậu khô, ngược lại các trầm tích sông thì đổ vào trong các mùa ẩm ướt, các tập trầm tích chứa sapropel (các trầm tích sẫn màu giàu chất hữu cơ) nguồn gốc biển của Địa Trung Hải cung cấp các thông tin về khí hậu với độ phân giải cao. Dữ liệu này đã được sử dụng để tái lập lại thời gian biểu được hiệu chỉnh theo thiên văn cho 9 triệu năm gần đây nhất trong lịch sử Trái Đất, giúp làm rõ thời gian đảo cực địa từ gần đây nhất. Hơn thế nữa, độ chính xác đặc biệt của các dữ liệu cổ khí hậu này cũng giúp nâng cao kiến thức của con người về những dao động quỹ đạo của Trái Đất trong quá khứ. Các đe dọa về môi trường Mực nước biển dâng Mực nước biển của Địa Trung Hải có thể dâng từ 3–61 cm do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Điều này có thể ảnh hưởng đến dân cư sống trong vùng Địa Trung Hải. Mực nước biển dâng sẽ nhấn chìm các khu vực của Malta, và làm tăng mực nước mặn trong khu vực cấp nước ngầm ở Malta và làm giảm khả năng cung cấp nước uống. Mực nước biển dâng 30 cm có thể gây ngập trên diện tích 200 km2 của châu thổ sông Nile, ảnh hưởng đến hơn 500.000 người Ai Cập. Các hệ sinh thái ven biển cũng đứng trước nguy cơ bị đe dọa do nước biển dâng đặc biệt là các biển kín như biển Baltic, Địa Trung Hải và biển Đen. Mực nước biển dâng trong giai thế kỷ XXI có thể từ đến và nhiệt độ thay đổi 0.05-0.1 °C ở biển sâu là đủ để tạo ra các thay đổi đáng kể sự phong phú của các loài và chức năng đa dạng. Ô nhiễm Ô nhiễm khu vực này tăng rất cao trong các năm gần đây. Chương trình môi trường Liên hiệp quốc ước tính rằng chất thải từ cống, dầu khoáng, thủy ngân, chì và phosphat thải vào Địa Trung Hải mỗi năm. Công ước Barcelona được đưa ra nhằm giảm thiểu ô nhiễm trên Địa Trung Hải và bảo vệ và cải thiện môi trường biển trong khu vực này, ngoài ra còn góp phần vào sự phát triển bền vững của khu vực.' Một số loài sinh vật biển hầu như biến mất do ô nhiễm biển. Một trong số chúng là Hải cẩu Địa Trung Hải, là loài thú biển bị đe dọa nghiêm trọng trên thế giới. Địa Trung Hải cũng tồn tại rác biển. Theo một nghiên cứu về đáy biển năm 1994 sử dụng lưới đánh cá xung quanh các bờ biển của Tây Ban Nha, Pháp và Ý cho thấy rằng rác tập trung với mật độ trung bình 1.935 loại/km². Rác nhựa chiếm 76%, trong đó túi nhựa chiếm 94%. Trong tương lai, khi lục địa Phi chạm với lục địa Âu, Địa Trung Hải sẽ bị cô lập Ghi chú Bài cơ bản dài trung bình Biển châu Âu Vùng sinh thái biển Biển rìa lục địa Biển Đại Tây Dương Lịch sử tự nhiên châu Âu Địa lý Bắc Phi Biển châu Á Biển châu Phi
Deutsche Presse-Agentur GmbH (tiếng Đức của Thông tấn xã Đức, viết tắt DPA) là hãng thông tấn ở Đức. Có trụ sở ở Hamburg, được phát triển để trở thành một phương tiện đại chúng có ảnh hưởng toàn cầu với các dịch vụ: báo chí, radio, tivi, điện thoại... Báo của hãng DPA có phiên bản tiếng Đức, Anh, Tây Ban Nha và Ả Rập. DPA là hãng thông tấn lớn nhất của Đức, ngoài trụ sở chính ở Hamburg, còn có trụ sở trung tâm báo chí ở Berlin. Văn phòng của DPA có ở hơn 100 quốc gia. Lịch sử DPA được thành lập năm 1949, do 3 hãng: Deutsche Nachrichtenagentur (Dena) Deutscher Pressedienst và Süddeutsche News Agency (Südena) nhập lại. Ban đầu được thành lập như một hợp tác xã tại Goslar vào 18 tháng 8 năm 1949, nhưng sau đó trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn vào năm 1951. Fritz Singer là tổng biên tập và giám đốc điều hành đầu tiên. Ông đã làm việc ở vị trí giám đốc điều hành cho tới năm 1955 và là tổng biên tập tới năm 1959. Lần đầu tiên phát sóng trên radio là vào 6 giờ sáng, ngày 1 tháng 9 năm 1949. 1986 dpa sáng lập Global Media Services GmbH (gms). Hãng này 1988 mua lại công ty cạnh tranh „Globus Kartendienst GmbH". Từ mùa hè 2010 cơ sở chính của ban biên tập dpa được dọn về đường Markgrafenstraße khu vực báo chí lịch sử của Berlin, nhập lại cơ sở biên tập chính ở Hamburg (chữ, Internet, họa đồ), Frankfurt am Main (hình ảnh) và Berlin (chữ, hình, âm thanh & phim). Ở Hamburg, từ tháng 9 năm 1949 cho tới tháng 7 năm 2010 một biệt thự cổ ở đường Mittelweg khu Rotherbaum, trước đây là trung tâm ban biên tập, bây giờ chỉ còn cơ sở chính của công ty, nơi làm việc của ban giám đốc, cơ sở buôn bán, văn phòng thương mại, công ty con dpa-mediatechnology GmbH và news aktuell, cũng như ban biên tập địa phương.
Trong lý thuyết đồ thị, tồn tại một phép đồng phôi (tiếng Anh: homeomorphism, còn gọi là phép biến đổi tôpô) giữa hai đồ thị G và G′nếu tồn tại một đồ thị H sao cho cả G và G′ đều là kết quả thu được sau khi thực hiện một số phép chia cạnh đối với đồ thị H. Nếu các cạnh của một đồ thị được coi là các đường nối từ một đỉnh tới một đỉnh khác (như chúng thường được vẽ trong các minh họa về đồ thị), thì trong ngữ cảnh lý thuyết đồ thị hai đồ thị được gọi là đồng phôi với nhau nếu chúng được coi là đồng phôi với nhau theo nghĩa của thuật ngữ này trong ngành tôpô học. Phép chia cạnh trên đồ thị G đối với cạnh e {u,w} cho một đồ thị chứa một đỉnh mới v, và cạnh e được thay bởi hai cạnh mới {u,v} và {v,w}.