text
stringlengths
82
354k
Anison (アニソン, Anison), viết tắt của anime song (アニメソング, anime songu, nghĩa đen: "bài hát anime") là một thể loại nhạc bắt nguồn nhạc pop Nhật Bản. Anison gồm các bài nhạc hiệu, nhạc chèn vào phim và ca khúc nhân vật của các bộ anime, manga, trò chơi video và audio drama CD, cũng như bất kì ca khúc nào được phát hành chủ yếu ở thị trường anime, kể cả nhạc từ các diễn viên lồng tiếng người Nhật. Thể loại anison lần đầu được định nghĩa là một thể loại âm nhạc vào thập niên 1970. Sau đó, dòng nhạc đã trở nên phổ biến với khán giả khi các nghệ sĩ đại chúng bắt đầu phát hành những bài hát dưới dạng sản phẩm đi kèm các bộ anime. Đến thập niên 1990, anison được tái định nghĩa thành một thể loại nhạc riêng biệt khi các công ty bắt đầu khai trương những hãng thu âm chuyên sản xuất anison cho loạt tác phẩm và nghệ sĩ của họ. Sự gia tăng số lượng diễn viên lồng tiếng bắt đầu từ giữa thập niên 2000 đã dấy lên nhu cầu quan tâm ngày một lớn của thị trường đối với thể loại này. Lịch sử ra đời. 1930–1970: Những ảnh hưởng sơ khai. "Namakura Gatana" (1917) của Kōuchi Jun'ichi được xem là bộ phim hoạt hình ra đời sớm nhất còn sót lại ở Nhật Bản. "Kuroi Nyago" (1929) của Ōfuji Noburō là tác phẩm hoạt hình Nhật Bản đầu tiên có chèn nhạc. Bộ phim có các nhân vật nhảy theo một ca khúc được thu trước, được xem là nguyên mẫu của anison. Sau Thế chiến thứ hai, thập niên 1950 và 1960 chứng kiến sự phục hồi trong lĩnh vực giải trí và phát triển văn hóa ở Nhật Bản. Năm 1963, "Astro Boy" được công chiếu và sau đó, bài nhạc hiệu "Theme of Astro Boy" đã trở nên nổi tiếng với khán giả Nhật Bản do nó được sử dụng làm ca khúc khởi hành tại ga Takadanobaba. Bài hát cũng gây chú ý bởi phần ca từ do nhà thơ Tanikawa Shuntarō viết. 1970–1980: Anison ngày càng phổ biến. Nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng ở thập niên 1970 đã làm cho văn hóa phát triển nhiều hơn và những người chuyên hát các bài nhạc hiệu cho anime được gọi là "ca sĩ anison". Mặc dù các ca sĩ không xuất hiện trước khán giả, nhưng các bài hát chủ đề trong loạt "Mazinger Z", "Uchū Senkan Yamato" và "Candy Candy" đã ghi dấu trong khán giả Nhật Bản, bất chấp cả những người không hâm mộ chương trình cũng biết tới. Đồng thời, hai diễn viên lồng tiếng của "Kidō Senshi Gundam" là Furukawa Toshio và Furuya Tōru đã thu hút được một lượng lớn người hâm mộ nữ thông qua Slapstick, một đơn vị thanh nhạc tập hợp các diễn viên lồng tiếng từ chương trình để thể hiện các bài nhạc hiệu của chương trình. Mặc dù các bài hát nhạc hiệu anime lúc đầu sử dụng tên và xây dựng từ loạt phim mà chúng dựa trên, song việc này làm cho phần ca từ của các bài hát anison chú trọng vào suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật để thu hút nhiều người hơn và cho phép bối cảnh bên ngoài tác phẩm hoạt hình nguyên bản. 1980–1990: Sự công nhận của khán giả đại chúng. Ở thời điểm cao trào của nền kinh tế bong bóng Nhật Bản, vào thập niên 1980, các nhạc sĩ ngoài ngành công nghiệp anime bắt đầu trình bày các bài nhạc hiệu cho anime. Năm 1984, đĩa đơn "Ai Oboete Imasu ka" (được phát hành cho phim "Macross" dưới tên của nhân vật Lynn Minmay) xếp ở vị trí thứ 7 trên Oricon Weekly Singles Chart. Ngoài ra, "Cat's Eye" (1983) được truyền thông săn đón đông đảo vì có mặt Anri (một ca sĩ có hoạt động không liên quan đến ngành công nghiệp anime) trình bày các bài nhạc hiệu của bộ phim. Tương tự, TM Network (một ban nhạc hoạt động bên ngoài ngành công nghiệp anime) đã làm truyền thông chú ý khi bài hát "Get Wild" năm 1987 của họ được phát hành làm bài nhạc hiệu bộ anime "City Hunter". Do sự nổi tiếng của bài hát, TM Network đã được mời đến sự kiện truyền hình đặc biệt "Kohaku Uta Gassen" lần thứ 72 để trình bày ca khúc. Kể từ đó, các nghệ sĩ nhạc đại chúng phát hành những bài hát đi kèm với anime trở nên phổ biến. 1990–2000: Sản xuất nội bộ và hiện đại hóa. Sau khi nền kinh tế bong bóng ở Nhật Bản sụp độ, những hãng đĩa chuyên sản xuất độc quyền nhạc anison đã được thành lập, đáng chú ý nhất là hãng đĩa Starchild của King Records. Điều này một phần là do "Bīingubūmu" (hiện tượng được đặt theo tên Being Inc.) đã thu hút được một lượng người hâm mộ sau khi các nghệ sĩ của họ là Zard và Ohguro Maki phát hành các bài hát được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Takahashi Yoko (trực thuộc hãng đĩa Starchild) đã phát hành "Zankoku na Tenshi no Tēze" làm bài nhạc hiệu của bộ anime "Neon Genesis Evangelion" (1995), bài hát nổi tiếng đến nỗi làm khán giả không phải người hâm mộ bộ anime vẫn nhận ra nó. Ngoài ra, khi nhạc quần chúng của Nhật Bản chuyển từ sang J-pop, những ca sĩ anison (chẳng hạn như Okui Masami bắt đầu kết hợp âm thanh J-pop vào âm nhạc của mình. Cùng một số nhân vật khác, các diễn viên lồng tiếng như Shiina Hekiru, Kōda Mariko và Hayashibara Megumi cũng tích cực ca hát bên cạnh việc lồng tiếng. Một số diễn viên lồng tiếng cũng thành lập nhóm của riêng họ và thể hiện những bài nhạc hiệu cả các bộ anime khác, chẳng hạn như Takayama Minami với Two-Mix. 2000–nay: Bùng nổ diễn viên lồng tiếng. Khi nhiều bộ anime đêm muộn được sản xuất ở thập niên 2000, Horie Yui, Tamura Yukari và Mizuki Nana (những người đã ký hợp đồng với King Records) được hãng thu âm nhận sản xuất và tiếp thị làm ca sĩ thần tượng và diễn viên lồng tiếng. Giữa thập niên 2000, có một sự "bùng nổ diễn viên lồng tiếng", bên cạnh một giai đoạn được gọi là "Thời kỳ chiến tranh thần tượng" (hiện tượng được đặt tên theo sự phát triển thần tốc của ngành công nghiệp thần tượng). "Eternal Blaze" của Mizuki đã giành vị trí thứ 2 trên Oricon Weekly Single Charts vào năm 2005, và ngay sau đó, việc phát hành "Hare Hare Yukai" vào năm 2006 đã dẫn đến "bùng nổ "Haruhi" " chủ yếu là do phân cảnh vũ đạo hoạt hình ở phần kết của bộ phim. Trong những năm tiếp theo, số lượng diễn viên lồng tiếng trong anime đã tăng lên đáng kể và anison nói chung đã được nhiều khán giả biết đến hơn. Ngành công nghiệp anison chuyển sang tuyển dụng những cô gái trẻ có khả năng trở thành "thần tượng", chẳng hạn như Naka Riisa, Kusumi Koharu và Hirano Aya. Năm 2010, Ho-kago Tea Time (một ban nhạc hư cấu trong bộ phim "K-On!") trở thành những nhân vật anime đầu tiên cùng lúc đạt hạng #1 và #2 trên Oricon Weekly Singles Chart với việc nhóm này cho phát hành cả hai đĩa đơn. Trong những năm tiếp theo, các dự án đa phương tiện đề tài thần tượng, chẳng hạn như "Love Live!", "The Idolmaster" và "Uta no Prince-sama" đã trở nên nổi tiếng. Billboard Japan đã cho ra đời bảng xếp hạng Billboard Japan Hot Animation Chart vào ngày 1 tháng 12 năm 2010 dành riêng cho các sản phẩm nhạc anime và trò chơi video. Thể loại anison đã trở thành ảnh hưởng trực tiếp lên những tiểu thể loại như bài hát "denpa" và bài hát . Những hãng thu âm sau đây độc quyền phát hành nhạc anison: Nghệ sĩ biểu diễn. Đây là danh sách các ca sĩ và ban nhạc chủ yếu biểu diễn nhạc anison, tính cả những nhóm được lập ra từ các dự án anime kết hợp truyền thông. Danh sách này không tính các ca sĩ hoặc ban nhạc phát hành những ca khúc ngẫu nhiên ở thể loại này, cũng không tính các tên nhóm mà các diễn viên lồng tiếng được đề tên chỉ để trình bày các bài hát nhạc hiệu anime mà họ tham gia. Đây là danh sách các tác giả ca khúc chủ yếu sáng tác và sản xuất nhạc anison. Danh sách này không tính các nhà soạn nhạc sản xuất các sản phẩm ngẫu nhiên cho thể loại này.
Trachelomonas cervicula là một loài tảo thuộc chi "Trachelomonas". Nó được Alfred C. Stokes mô tả lần đầu tiên vào năm 1890. "Trachelomonas cervicula" là một loài tảo có thể được tìm thấy rất nhiều trong các ao nước ngọt. Lớp vỏ bảo vệ bên ngoài của nó có màu vàng cam và gần như hình cầu. Nó có một lỗ trước với một đường viền bên ngoài dày hơn, hơi nhô ra. Bên trong lỗ là một đường viền thẳng ra bên ngoài và được tạo ra bên trong dưới dạng một ống thẳng và hình trụ chitinous, dài khoảng một phần ba đường kính của thùy. Đường kính của lớp vỏ này là 22–23 μm, dài 18–23 μm, và rộng 16–21 μm. Loài này khác với các loài trùng cỏ khác bởi sự kéo dài của ống bên trong. Loại mẫu định danh của nó được thu thập rất nhiều từ một cái ao có mái che vào đầu tháng 2 năm 1890. Do đó, nó có thể là một loài động vật sống. Môi trường sống và phạm vi. Ban đầu môi trường sống của "T. cervicula" được mô tả là nước ao được bảo vệ, các mẫu vật cũng đã được quan sát thấy ở các sông như sông Lematang và sông Paraná. Do sự khan hiếm của các nghiên cứu về chi Trachelomonas và số lượng lớn các loài trong chi, nên rất khó để biết được đầy đủ các loài. Tuy nhiên, các quan sát đã được ghi nhận ở Nam Mỹ, Châu Âu và Đông Nam Á. "Trachelomonas cervicula" đã được quan sát thấy trong một môi trường bị ô nhiễm nặng bởi tali và các hợp chất kim loại nặng khác như cadmi, chì và kẽm. Đây là những chất cực kỳ độc hại đối với sinh vật sống. Tuy nhiên, "T. cervicula" có thể tồn tại ở nồng độ tali cao. Nhưng việc khai thác cát và đá của con người đã làm xáo trộn và phá hủy môi trường sống thích hợp của loài tảo này, vì thực vật phù du có vai trò dinh dưỡng quan trọng đối với chúng.
Sean Moore (cầu thủ bóng đá) Sean Moore (sinh ngày 13 tháng 8 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Ireland hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh trái cho câu lạc bộ Cliftonville tại Giải vô địch quốc gia Bắc Ireland và Đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Cộng hòa Ireland. Sự nghiệp thi đấu. Moore bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại câu lạc bộ Cliftonville, và được cho là sẽ rời câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2023. Ngày 25 tháng 2 năm 2023, Moore ghi 1 cú đúp trong chiến thắng 2-1 trước Glentoran. Moore đã từng đại diện cho Bắc Ireland ở cấp độ U-18. Năm 2023, anh chuyển sang đại diện cho đội U-19 Cộng hòa Ireland, khi ra mắt đội bóng này trong trận gặp U-19 Hy Lạp.
Vụ nổ súng tại trường bắn Hino Kihon Vụ nổ súng tại trường bắn Hino Kihon (日野基本射撃場発砲事件, Vụ nổ súng tại trường bắn Hino Kihon) xảy ra vào lúc 9:08 (giờ địa phương), ngày 14 tháng 6 năm 2023. Nghi phạm nổ súng trong quá trình huấn luyện tại một trường bắn thuộc Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản ở thành phố Gifu. Vụ việc khiến hai người thiệt mạng và một người khác bị thương. Nghi phạm sau đó đã bị bắt giữ.
Thượng tướng Trung Hoa Dân Quốc Thượng tướng Trung Hoa Dân quốc (chữ Hán: 中華民國上將) là cấp bậc quân sự cao cấp của Trung Hoa Dân quốc kể từ khi được thành lập vào năm 1929. Trong lịch sử, cấp bậc này từng được tách thành 3 cấp bậc riêng rẽ là Đặc cấp Thượng tướng, Nhất cấp Thượng tướng và Nhị cấp Thượng tướng. Kể từ năm 2000, cấp bậc Đặc cấp Thượng tướng bị bãi bỏ, cấp bậc Nhất cấp Thượng tướng trở thành cấp bậc cao nhất và là cấp bậc quân sự chung thân của Trung Hoa Dân quốc, không xét niên hạn xuất ngũ, trừ trường hợp từ chức. Cấp bậc Nhị cấp Thượng tướng, thường được gọi tắt là Thượng tướng, trở thành cấp bậc quân sự cao cấp thứ hai của Trung Hoa Dân quốc, trên cấp Trung tướng. Tuy nhiên, không giống Nhất cấp Thượng tướng là cấp bậc chung thân, cấp Thượng tướng bị giới hạn độ tuổi tại ngũ là 64 tuổi và tuổi nghỉ hưu là 70 tuổi. Sau khi chiến dịch Bắc phạt thành công, Chính phủ Quốc dân tổ chức lại Quốc dân Cách mệnh Quân, đặt ra hệ thống cấp bậc quân sự. Theo đó, cấp bậc quân sự cao nhất được gọi là Thượng tướng (上將, Shangjiang).
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ), một thân vương quốc của người Ruthenia còn được gọi là Thân vương quốc Volhynia, do Vương triều Ryurik thành lập vào năm 987 tại phần phía tây của Kiev Rus'. Thân vương quốc này tập trung tại khu vực Volhynia, trải trên biên giới của Ba Lan, Ukraina và Belarus ngày nay. Thân vương quốc Volodymyr nổi lên trong tiến trình của thế kỷ 12 cùng với Thân vương quốc Halych. "Vladimir" là dạng tiếng Nga của tên gọi thành phố mà nay gọi là Volodymyr, là thủ đô của thân vương quốc. Sau phân chia Ba Lan lần thứ nhất vào năm 1772, cái tên "Vương quốc Galicia và Lodomeria" (có lẽ liên quan đến Vương quốc Galicia–Volhynia) đã được chế độ quân chủ Habsburg đặt cho các lãnh thổ Ba Lan mà họ giành được, trong khi hầu hết khu vực Volhynia (bao gồm cả thành phố Vladimir) vẫn là một phần của Ba Lan cho đến khi bị Đế quốc Nga sáp nhập vào năm 1795 trong phân chia Ba Lan lần thứ ba - dù Habsburg nhận được thành phố nhỏ Belz. Lodomeria cùng với Galicia tạo thành một trong nhiều tước hiệu của Hoàng đế Áo, là "người thống trị Vương quốc Galicia và Lodomeria". Tuy nhiên, Lodomeria chỉ tồn tại trên giấy, không có lãnh thổ và không thể tìm thấy trên bất kỳ bản đồ nào. Một mục trong "American Notes and Queries" xuất bản năm 1889 xác định Lodomeria là một khu cổ xưa của Ba Lan nằm ở phía đông của đất nước. Khoảng năm 988, Đại vương công Ruthenia là Vladimir Sviatoslavich (tiếng Ukraina: Volodymyr) thành lập thị trấn Volodymyr, theo tên ông. Năm 1198, một trong những hậu duệ của ông là Roman Mstislavich gọi lãnh địa của mình là "Vương quốc Galicia và Lodomeria". Năm 1340, Quốc vương Kazimierz của Ba Lan sáp nhập Lodomeria vào Ba Lan. Nguồn gốc tước hiệu. Tên gọi "Volhynia" lần đầu tiên được nhắc đến trong biên niên sử Ruthenia là một khu vực sinh sống của một bộ tộc tên là Volhynia, họ bị Đại vương công Kiev là Vladimir Vĩ đại chinh phục. Volhynia phải đổi chủ nhiều lần trong suốt những thế kỷ tiếp theo. Khoảng năm 1199, khu vực được sáp nhập với Thân vương quốc Halych để tạo thành Thân vương quốc (sau này Vương quốc) Galicia và Volhynia dưới thời Thân vương Roman Mstislavich. Sau cái chết của Roman Mstislavich vào năm 1205, András II của Hungary lấy hiệu "Quốc vương của Lodomeria" (cũng như của Galicia), liên quan đến Volhynia. Mặc dù người Hungary bị đánh đuổi khỏi Halych-Volhynia vào năm 1221, nhưng các quốc vương Hungary vẫn tiếp tục thêm "Galicia et Lodomeria" vào tước hiệu chính thức của họ. Năm 1527, Nhà Habsburg kế thừa những tước hiệu đó cùng với vương miện Hungary. Năm 1772, Nữ hoàng Maria Theresia, Nữ Đại công tước Áo và Nữ vương Hungary, quyết định sử dụng những tuyên bố lịch sử này để biện minh cho việc bà tham gia vào phân chia Ba Lan lần đầu tiên. Trên thực tế, các lãnh thổ mà Áo giành được không hoàn toàn tương ứng với các lãnh thổ của Halych-Volhynia trước đây. Volhynia, bao gồm cả thành phố Volodymyr, bị Đế quốc Nga chiếm vào năm 1795 chứ không phải Áo. Mặt khác, phần lớn Tiểu Ba Lan trở thành một phần của Galicia thuộc Áo. Hơn nữa, mặc dù thực tế là yêu sách bắt nguồn từ quân chủ Hungary trong lịch sử, Galicia và Lodomeria không được giao chính thức cho Hungary, và sau Ausgleich năm 1867, khu vực nằm ở Cisleithania, hay phần do Áo quản lý của Áo-Hung. Tên chính thức đầy đủ của tỉnh mới của Áo là "Vương quốc Galicia và Lodomeria cùng các Công quốc Auschwitz và Zator". Sau khi sáp nhập Thành phố Tự do Kraków vào năm 1846, nó được mở rộng thành "Vương quốc Galicia và Lodomeria, và Đại công quốc Kraków cùng với các Công quốc Auschwitz và Zator" (tiếng Đức: "Königreich Galizien und Lodomerien mit dem Großherzogtum Krakau und den Herzogtümern Auschwitz và Zator"). Do đó, từ năm 1772 đến năm 1918, "Lodomeria" được các quân chủ Áo tuyên bố chủ quyền, mặc dù khu vực mà tên gọi ban đầu chỉ đến là Volhynia đang là một phần của Đế quốc Nga.
Nguyễn Đức Thìn (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1940) là một nhà giáo Việt Nam, người khởi xướng phong trào "Nghìn việc tốt" từ năm 1963. Phải chống chọi với bệnh phong cùi, ông không chỉ trở thành hiệu trưởng ngôi trường đầu tiên tại trại phong mà còn tiếp tục sự nghiệp giáo dục cho đến ngoài 80 tuổi. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Anh hùng Lao động vào những năm 1980. Sau khi về hưu, ông tiếp tục công việc sáng tác thơ, viết sách về lịch sử địa phương và là trưởng ban hướng dẫn viên tại khu di tích lịch sử Đền Đô. Ông cũng là tác giả của nhiều bức ảnh nổi tiếng về khu di tích này. Nguyễn Đức Thìn sinh năm 1940 tại làng Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông tham gia lực lượng du kích ở Đình Bảng từ năm 11 tuổi và đã trở thành đội viên Đội du kích thiếu niên Đình Bảng. Đây là lực lượng du kích được thành lập từ tháng 11 năm 1949 tại Đình Bảng, nơi được xem là một "địa chỉ đỏ" của cách mạng Việt Nam vào thời điểm thực dân Pháp xâm lược. Cậu thiếu niên Nguyễn Đức Thìn lúc bấy giờ chịu trách nhiệm theo dõi việc di chuyển của quân Pháp, số lượng xe và lính đi về hằng ngày, và chụp ảnh những khu vực cần thiết. Khoảng những năm 1960, nhà văn Xuân Sách đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết cùng tên về Đội du kích thiếu niên Đình Bảng. Đội du kích thiếu niên này đã được nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc tặng cờ "Thiếu niên dũng cảm" và Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới tặng cờ "Tuổi trẻ vì hòa bình". Đến năm 2009, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã ký quyết định trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm ông 15 tuổi, cha ông qua đời sau một thời gian dài đau buồn vì em trai bị xử bắn. Mẹ ông cũng bỏ làng đi biệt xứ, sau qua đời ở Cai Lậy, Tiền Giang. Mặc dù chỉ học hết lớp 7, nhưng ông đã tiếp tục tự học và trở thành giáo viên trường làng vào năm 18 tuổi. Trong thời gian đi dạy, ông tranh thủ thời gian rảnh để học Trung cấp Sư phạm, sau khi hoàn thành việc học thì ông được phân công giảng dạy môn Văn và Lịch sử tại trường cấp 2 Liên Sơn (nay là Trường Trung học cơ sở Tam Sơn thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) từ táng 6 năm 1961. Nhà giáo và căn bệnh phong. Ngày 24 tháng 3 năm 1963, phong trào ""Thi đua làm nghìn việc tốt, thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, giành danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ", gọi tắt là phong trào "Nghìn việc tốt"" được phát động tại Trường Liên Sơn, bắt nguồn từ sáng kiến của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn lúc bấy giờ là Tổng phụ trách đội của trường. Chỉ trong thời gian ngắn, phong trào đã lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam và được nhiều học sinh nhiệt tình hưởng ứng. Không chỉ là tác giả mà ông còn đã đi nhiều tỉnh từ Bắc vào Nam để tuyên truyền về phong trào này, tham gia huấn luyện cán bộ Đoàn, phụ trách các đoàn thiếu nhi Việt Nam tham gia các trại hè quốc tế. Đến những năm 1970, phong trào này đã được nhân rộng ra khắp Việt Nam cũng như được nhiều quốc gia khác học hỏi kinh nghiệm. Việc phát động phong trào Nghìn việc tốt của thầy Nguyễn Văn Thìn đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận xác lập kỷ lục vào tháng 10 năm 2012. Đang trong giai đoạn dốc lòng cho sự nghiệp giáo dục, ông mắc bệnh phong khi chỉ mới 30 tuổi, phải vào Trại phong Quỳnh Lập (hay Bệnh viện da liễu Quỳnh Lập) để điều trị. Lúc bấy giờ, ông đang là giáo viên kiêm Ủy viên thường vụ Trung ương Đoàn của trường và Ủy viên thường vụ Huyện đoàn Tiên Sơn. Trong 4 năm ở trại phong, ông được bầu làm Bí thư Chi bộ. Vốn là một nhà giáo, khi phát hiện vấn đề hơn 100 trẻ em là con em bệnh nhân ở khu điều trị bị tách biệt khỏi cộng đồng, ông đã nảy ra ý tưởng mở trường bên bờ biển. Chẳng để các em vương bụi đời Thiếu nhi cháu Bác phải vui tươi Tôi dắt các em vào trường học Nơi tình thương đẹp nhất đời người Nguyễn Đức Thìn, sáng tác khi trường Lê Văn Tám ra đời Trong cuốn hồi ký của mình, ông đã viết rằng: "Ở Quỳnh Lập, ngoài việc chữa bệnh, điều băn khoăn lớn nhất của tôi là làm thế nào để tổ chức cho các em được học chữ"". Tháng 9 năm 1979, trẻ em tại khu trại phong bắt đầu năm học mới tại ngôi trường mới mang tên Lê Văn Tám do thầy giáo Nguyễn Đức Thìn làm hiệu trưởng. Lớp học được tận dụng từ dãy nhà ở của bệnh nhân, còn người đứng lớp chính là những giáo viên đang điều trị phong tại đây. Đây được xem là công lao lớn nhất của ông đối với người dân Làng Phong. Trường Lê Văn Tám bắt đầu với chỉ 2 lớp và 2 giáo viên, về sau dần tăng lên 7 lớp với 200 học sinh và trở thành phân hiệu 2 của Trường Trung học cơ sở Quỳnh Lập. Trong thời gian điều trị tại Quỳnh Lập, ông từng đại diện người bệnh tham gia Hội nghị Khoa học và nhân đạo về bệnh phong do Bộ Y tế tổ chức. Sau 4 năm điều trị, ông quay lại trường cũ để tiếp tục công tác. Trong thời gian giảng dạy, ông đã có hơn 30 sáng kiến, đề tài khoa học các cấp, trong đó có 4 đề tài được tặng Bằng khen và Huy hiệu Lao động sáng tạo của Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), trong đó 3 đề tài được cấp bằng Lao động sáng tạo là ""Nghìn việc tốt", "Thắp sáng ngòn đèn Ngô Gia Tự" và "Tổ chức học sinh hoạt động sử học"". Năm 1985, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vì đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong giáo dục, trong đó bao gồm trở thành một nhà khoa học giáo dục dù không được đào tạo bài bản, vẫn tổ chức các lớp học bên bờ biển dù đang phải điều trị trong trại phong, và là tác giả cuộc phong trào "Nghìn việc tốt". Đến năm 1988, ông tiếp tục được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Trong suốt nhiều năm, ông đã được mời tham dự nhiều hội nghị giáo dục ở nhiều quốc gia như Lào, Đức, Mông Cổ. Và đến khi về hưu nhiều năm, ông vẫn tiếp tục được mời đến nói chuyện tại các trường đại học. Ông từ Đền Đô. Năm 1991, ông về hưu, nhưng lại được địa phương bổ nhiệm làm Trưởng ban Tuyên truyền, vận động xây dựng lại khu di tích Đền Đô – nơi thờ tự 8 vị vua đầu tiên của nhà Lý. Ông là Ủy viên Ban quản lý Di tích Đền Đô và tiếp tục làm hướng dẫn viên tại đền cho đến năm 2015. Là chịu trách nhiệm trông coi ngôi đền, ông được người dân địa phương gọi với những cái tên như "Ông từ Đền Đô" hay "Hiệp sĩ Đền Đô". Ông cũng là tác giả của nhiều bức ảnh nổi tiếng về khu di tích này. Ngày 26 tháng 8 năm 1998 (tức ngày 5 tháng 7 âm lịch) là ngày dỗ của Lý Anh Tông. Từ sáng sớm người dân nhiều nơi đã đổ về Đền Đô để hành lễ. Ông Thìn là người chịu trách nhiệm chụp ảnh tư liệu cho buổi lễ này. Khi buổi lễ đang diễn ra, có 8 áng mây xuất hiện song hành trên đỉnh Thọ lăng Thiên Đức, tương ứng với 8 vị vua nhà Lý đang được thờ phụng tại Đền Đô. Ông Thìn đã nhanh tay chụp lại khoảnh khắc này bằng chiếc máy ảnh Canon cũ. Bức ảnh này được ông đặt tên là "Cổ Pháp tường vân" mang ý nghĩa dải mây mang ý nghĩa tốt lành trên bầu trời Cổ Pháp, về sau thường được biết đến với cái tên ""Bát đế vân du" hay "Lý bát đế hiển linh"". Đến nay, bức ảnh này được đóng khung và treo trong chính điện của đề="Template:Quote_box/" / Một thoáng Đền Đô rồng vàng hiện Ân tình trời đất tụ khí thiên Người về Đình Bảng tâm đức thiện Rồng hổ tương phùng thoả tâm linh Chỉ chưa đầy một tuần sau, sáng ngày 1 tháng 9 năm 1998, người dân địa phương Đình Bảng chuẩn bị lễ rước kiệu từ Đền Đô về Hà Nội phục vụ cho chương trình chào mừng Sài Gòn tròn 300 tuổi. Trong lúc lễ dâng hương lên các vị vua đang diễn ra, bầu trời bất ngờ xuất hiện dải sáng màu vàng và đám mây có hình tương tự rồng đang bay về hướng Hà Nội. Người "nhiếp ảnh làng" Nguyễn Văn Thìn đã nhanh tay chụp lại khoảnh khắc này và bức ảnh "Hoàng long vân giáng thế" ra đời. Bức ảnh này cũng đang được trưng bày tại Đền Đô. Nhà văn và sự nghiệp nghiên cứu lịch sử. Chịu ảnh hưởng bởi bệnh phong, bàn tay của ông đã gần như không còn cảm giác, không xòe ra được nữa. Nhưng ông vẫn sử dụng máy tính để tiếp tục công việc sáng tác, viết thơ văn và sách báo. Ông đã viết và in hơn 3000 trang sách và hàng trăm bài báo, trong đó có cuốn tự truyện "Chuyện cuộc đời", tập thơ "Bình minh đến sớm", và tuyển tập "Nghìn việc tốt – chuyện kể ở Tam Sơn". Tác phẩm "Chuyện cuộc đời" dày hơn 400 trang của ông đã được nhà xuất bản Thanh niên tái bản 9 lần, và được nhiều độc giả quan tâm. Cuốn tự truyện này cũng trở thành tư liệu, kịch bản cho các nhà làm phim xây dựng hơn 10 bộ phim tài liệu. Năm 2012, ông xuất bản tập thơ "Bình minh đến sớm", tổng hợp nhiều bài thơ ông đã sáng tác từ khi còn điều trị trong trại phong. Để chống chọi với nổi đau do bệnh tật mang đến, ông tìm được niềm vui của mình là làm thơ. Nhiều người ví ông như một Hàn Mặc Tử thứ hai. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ, trong đó có một bài đã được nhạc sĩ Mai Kiên phổ nhạc. Không chỉ là Hội viên Hội Văn hóa nghệ thuật Bắc Ninh, phân hội trưởng của phân hội Văn hóa nghệ thuật Từ Sơn, ông còn là Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ Đền Đô. Trong suốt những năm làm việc tại Đền Đô, ông đã sưu tầm nhiều hiện vật, tư liệu phục vụ cho việc quản lý, bảo tồn khu di tích cũng như các tư liệu lịch sử về các vị vua nhà Lý. Ông là tác giả của cuốn sách "Di tích lịch sử văn hóa đền Đô" dày hơn 300 trang và các tác phẩm khác về lịch sử Đình Bảng, cũng như nhiều bức ảnh nổi tiếng tại khu di tích Đền Đô. Ngoài ra, ông còn cho ra mắt 13 tác phẩm viết về lịch sử văn hóa Đền Đô, Đình Bảng và nhà Lý. Ngày 19 tháng 8 năm 2019, thầy giáo Nguyễn Đức Thìn là một trong những cá nhân được vinh danh trong Chương trình Giao lưu toàn quốc các điển hình tiêu biểu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 với tên gọi "Hồ Chí Minh – Hành trình khát vọng". Tháng 6 năm 2023, nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11 tháng 6 năm 1948 – 11 tháng 6 năm 2023), Hội nghị biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến toàn quốc đã được Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội. Tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã thay mặt tôn vinh 700 cá nhân điển hình tiên tiến toàn quốc, trong đó có Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Thìn, người đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của Việt Nam. Trong văn hóa đại chúng. Bên cạnh cuốn tự truyện, cuộc đời thăng trầm của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn còn được tái hiện trong bộ phim tài liệu nhựa dài 20 phút do Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Như Vũ đạo diễn mang tên "Người thắp lửa". Kịch bản bộ phim từng giành được giải Nhì tại cuộc thi viết kịch bản điện ảnh chào mừng chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2008. Năm 2009, bộ phim chính thức ra mắt và đã giành được giải Cánh diều vàng, đạo diễn xuất sắc nhất cho phim tài liệu nhựa tại Giải Cánh diều 2009, cũng như giải Ba tại Liên hoan phim ASEAN. Cuối năm 2010, "Người thắp lửa" là 1 trong 4 bộ phim Việt Nam tham gia tranh giải tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương. Đến tháng 6 năm 2013, bộ phim tiếp tục được trình chiếu tại Liên hoan phim tài liệu châu Âu – Việt Nam lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ông đã từng xuất hiện trong bộ phim phóng sự "Sứ giả nghìn việc tốt" của Đài truyền hình Bắc Ninh – tác phẩm giành được Huy chương bạc cho hạng mục phim video tại Liên hoan phim truyền hình toàn quốc năm 2009.
Caloris Planitia () là một đồng bằng nằm trong một hố va chạm lớn trên Sao Thủy, có tên không chính thức là Caloris. "Calor" trong tiếng Latinh có nghĩa là "nhiệt". Sở dĩ đặt tên này là bởi vì, cứ mỗi hai lần Sao Thủy đi qua điểm cận nhật, thì Mặt Trời ở vị trí gần nhất ngay bên trên. Với đường kính khoảng , đây là vùng trũng va chạm lớn nhất trên Sao Thủy, và là một trong những vùng trũng va chạm lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Hố va chạm này được phát hiện vào năm 1974. Bao quanh nó là dãy núi Caloris Montes, cao khoảng . Caloris được phát hiện thông qua các hình ảnh do tàu thăm dò "Mariner 10" chụp vào năm 1974. Tên của nó do Brian O'Leary đặt, ông là phi hành gia và là thành viên của nhóm hình ảnh "Mariner 10". Nó nằm trên đường rạng đông — đường phân chia bán cầu ban ngày và ban đêm — vào thời điểm tàu thăm dò đi qua, do đó không thể chụp ảnh được một nửa hố va chạm. Sau đó, vào ngày 15 tháng 1 năm 2008, một trong những bức ảnh đầu tiên về hành tinh do tàu thăm dò "MESSENGER" chụp mới cho thấy toàn bộ miệng hố va chạm. Ban đầu, khu vực được ước tính có đường kính khoảng , con số này về sau được xác định là dựa trên các hình ảnh do "MESSENGER" chụp sau đó. Nó được bao quanh bởi những ngọn núi cao tới 2 km. Bên trong các bức tường địa hình của miệng hố va chạm, phần sàn của miệng hố va chạm được lấp đầy bởi các đồng bằng dung nham, tương tự như biển của Mặt Trăng. Những đồng bằng này được xếp chồng lên bởi các hố thông hơi nổ chứa đầy vật chất mạt vụn núi lửa. Bên ngoài các bức tường địa hình, vật chất bị đẩy ra trong vụ va chạm đã tạo ra lòng chảo kéo dài với các vòng đồng tâm bao quanh miệng hố va chạm. Ở trung tâm của khu vực là một vùng chứa nhiều rãnh xuyên tâm (có vẻ là các đứt gãy mở rộng), với miệng núi lửa Apollodorus dài 40 km (25 dặm) nằm gần trung tâm của mô hình địa chất này. Hiện nay vẫn chưa rõ nguyên nhân chính xác của mô hình máng này. Nó được đặt tên là Pantheon Fossae. Thiên thể va chạm ước tính có đường kính ít nhất . Trong suốt khoảng một tỷ năm đầu tiên của Hệ Mặt Trời, các thiên thể thuộc vòng trong Hệ Mặt Trời đã phải hứng chịu nhiều cuộc va chạm dữ dội từ các thiên thạch kích thước lớn. Vụ va chạm tạo ra Caloris có khả năng đã xảy ra sau thời gian mà hầu hết các đợt công phá nặng nề ("heavy bombardment") đã kết thúc, bởi vì có ít hố va chạm được nhìn thấy trên bề mặt của nó hơn so với các khu vực có kích thước tương đương bên ngoài miệng hố. Các vùng trũng va chạm tương tự trên Mặt Trăng như Mare Imbrium và Mare Orientale, có lẽ hình thành cùng thời gian, cho thấy có một 'sự gia tăng đột biến' các va chạm lớn vào cuối giai đoạn công phá hành tinh dữ dội của Hệ Mặt Trời thuở sơ khai. Dựa trên ảnh chụp của "MESSENGER", tuổi của Caloris đã được xác định là từ 3,8 đến 3,9 tỷ năm. Một khu vực có tương tác hấp dẫn cao, còn được gọi là vùng dị thường trọng lực (mascon), nằm ở tâm Caloris Planitia. Hầu hết các vùng trũng va chạm lớn trên Mặt Trăng, chẳng hạn như Mare Imbrium và Mare Crisium, cũng là các địa điểm mascon. Địa hình hỗn độn đối cực và hiệu ứng toàn cầu. Vụ va chạm mạnh mà được cho là đã tạo nên Caloris có lẽ đã để lại hậu quả toàn cầu đối với hành tinh này. Tại chính cực đối của vùng trũng va chạm là một khu vực rộng lớn có địa hình đồi núi với các rãnh địa chất, với một ít hố va chạm nhỏ được gọi là địa hình hỗn độn (còn gọi là "địa hình kỳ dị"). Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó được tạo ra khi sóng địa chấn từ vụ va chạm hội tụ ở phía đối diện của hành tinh. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng địa hình này được kiến tạo bởi sự hội tụ của vật chất được giải phóng tại cực đối của vùng trũng va chạm. Va chạm giả thuyết này cũng được cho là tác nhân kích thích hoạt động núi lửa trên Sao Thủy, dẫn đến sự hình thành các đồng bằng phẳng. Bao quanh Caloris là một loạt các kiến tạo địa chất được cho là bắt nguồn từ vật chất được giải phóng sau vụ va chạm, được gọi chung là Nhóm Caloris. Sao Thủy có bầu khí quyển rất mong manh và ngắn ngủi, chứa một lượng nhỏ hydro và heli thu được từ gió Mặt Trời, cũng như các nguyên tố nặng hơn như natri và kali. Những chất này được cho là bắt nguồn bên trong hành tinh, "thoát ra cùng khí" từ bên dưới lớp vỏ của Sao Thủy. Vùng trũng Caloris được phát hiện là chứa một lượng natri và kali đáng kể; điều này chứng tỏ rằng các vết nứt từ va chạm đã tạo điều kiện cho khí trong hành tinh được giải phóng ra bên ngoài. Bên cạnh đó, địa hình dị thường cũng là nguồn cung cấp các loại khí này.
Etelis coruscans là một loài cá biển thuộc chi "Etelis" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1862. Tính từ định danh "coruscans" trong tiếng Latinh có nghĩa là “rực rỡ; nóng bỏng”, hàm ý đề cập đến "le Vivaneau flame", tên thông thường của loài cá này ở Réunion, nơi mà mẫu định danh được thu thập, do chúng có màu đỏ rực như lửa. Phân bố và môi trường sống. "E. coruscans" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi dọc xuống Nam Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, quần đảo Samoa và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc (gồm cả đảo Lord Howe) và quần đảo Kermadec. Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "E. coruscans" sống gần các rạn san hô và mỏm đá trên vùng thềm lục địa và rìa lục địa, độ sâu trong khoảng 45–500 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "E. coruscans" lên đến 120 cm, thường bắt gặp với kích thước khoảng 50 cm. Loài này có màu hồng sẫm đến đỏ ở lưng và thân trên, thân dưới và bụng màu hồng nhạt dần hoặc trắng, còn các vây màu hồng đỏ. Thùy đuôi trên trở nên dài ra khi chúng lớn lên. Có hai hình thái ở "E. coruscans": đuôi dài và đuôi ngắn. Cả hai dạng này đều xuất hiện ở vùng biển Fiji, nhiều khả năng chiều dài vây đuôi biểu hiện cho sự dị hình giới tính. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 47–50. Thức ăn của "E. coruscans" là cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống lớn như mực, tôm và cua, cũng bao gồm cả những loài sống đuôi và sinh vật phù du. Hai loài sán lá đơn chủ của chi "Lagenivaginopseudobenedenia" ("La. etelis" và "La. tinrowi") đều ký sinh trên vật chủ là các loài "Etelis", cụ thể là "Etelis carbunculus", nhưng "La. etelis" cũng đã được tìm thấy trên "E. coruscans". Mùa sinh sản của "E. coruscans" diễn ra quanh năm, mà đỉnh điểm là vào mùa hè như đã được ghi nhận ở Hawaii và Vanuatu. Còn ở Nhật, mùa sinh sản của "E. coruscans" ước tính diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11. "E. coruscans" là loài có tuổi thọ cao, có thể sống đến khoảng 50–55 tuổi. "E. coruscans" là một loại cá thực phẩm quan trọng ở nhiều nơi, chẳng hạn như Nhật. Có ghi nhận là "E. coruscans" và "Etelis carbunculus" bị đánh bắt quá mức ở khu vực đảo chính của quần đảo Hawaii vào năm 1998.
Severia hoặc Siveria (, , hay , "Siveria" hay "Sivershchyna") là một khu vực lịch sử tại phía tây nam Nga, phía bắc Ukraina, và phía đông Belarus hiện nay. Bộ phận lớn nhất nằm tại Nga hiện nay, trong khi phần trung tâm của khu vự là thành phố Chernihiv thuộc Ukraina. Khu vực này được đặt tên theo người Severia, một bộ lạc Đông Slav sinh sống trên lãnh thổ vào cuối thiên niên kỷ thứ 1 CN; tên của họ trong tiếng Slav có nghĩa là "người phương Bắc". Các khu định cư chính của họ bao gồm bảy thành phố của nước Nga hiện tại (Kursk, Rylsk, Starodub, Trubchevsk, Sevsk, Bryansk, Belgorod) và năm thành phố của Ukraina (Liubech, Novhorod-Siverskyi, Chernihiv, Putyvl, Hlukhiv). Theo "Biên niên sử chính yếu", người Severia đã cống nạp cho người Khazar, cùng với người Polan lân cận . Thân vương Oleg của Novgorod (trị vì 879–912) đã chinh phục họ và sáp nhập vùng đất của họ vào thân vương quốc mới Kiev Rus'. Vào thời của Yaroslav Thông thái (1019–1054), người Severia đã mất đi phần lớn tính riêng biệt của họ, và các khu vực của Severia dọc theo thượng nguồn sông Desna bị kiểm soát bởi Thân vương quốc Chernigov. Năm 1096, Oleg I của Chernigov đã tạo ra một Thân vương quốc Severia rộng lớn, trải dài đến tận thượng nguồn của sông Oka. Cho đến cuối thế kỷ đó, thân vương quốc này đóng vai trò là quốc gia vùng đệm chống lại các cuộc tấn công của người Cuman. Người cai trị nổi tiếng nhất của Severia là Thân vương Igor (1150–1202), người có những kỳ công được kể lại trong sử thi thế kỷ 12 "Truyện kể cuộc viễn chinh Igor". Sau khi Mông Cổ xâm lược Rus', thân vương quốc phần lớn đã bị hủy hoại, tuy nhiên nó vẫn không bị tổn hại trong suốt các cuộc xâm lược lặp đi lặp lại của người Tatar. Thật không may, không có nhiều thông tin về thời kỳ này vì Severia hiếm khi được nhắc đến trong các tài liệu viết về thế kỷ 13. Vào giữa thế kỷ 14, khu vực đã là một phần của Đại công quốc Litva với tư cách là công quốc thái ấp, các thân vương dòng Gediminas (nói tiếng Ruthenia và theo Chính thống giáo) đã thành lập thủ phủ của họ tại các thành phố Novhorod-Siverskyi, [Starodub]] và Trubchevsk. Trong các cuộc chiến tranh Litva-Moskva 1501-1503, một đồng minh của Đại công quốc Litva là hãn Đại Trướng Sheikh Ahmed đã phá hủy thủ phủ Novgorod-Siverskyi của công quốc, vào thời điểm đó do người Moskva kiểm soát. Sau thất bại của Litva trong Trận Vedrosha, Công quốc Severia bị Đại công quốc Moskva giành lấy. Sau chiến tranh, công quốc được kiểm soát bởi Thân vương Vasiliy Shemiachich phụ thuộc Moskva (sau khi ông bị cầm tù ở Moscow năm 1523, công quốc được cai quản bởi các thống đốc của Moskva (capetanus)) Trong thế kỷ 18, các hetman của người Cossack Ukraina đã thành lập dinh thự tại các thị trấn Baturyn, Hlukhiv và Pochep. Đặc biệt, Hlukhiv đã phát triển thành một thủ đô thực sự của Ukraina vào thế kỷ 18. Sau Cách mạng Bolshevik, các vùng đất Severia, nơi có sự pha trộn giữa người Ukraina và người Nga, được phân chia giữa các nước cộng hòa Xô viết Ukraina và Nga, là sự phân chia cuối cùng vùng đất của người Severia trước đây. Kể từ thế kỷ 16 và 17, phong cách vẽ biểu tượng Severia chi tiết đã được hình thành. Nó bị ảnh hưởng nhiều bởi các mẫu vật Byzantine bảo thủ thống trị ở Đại công quốc Moskva. Các biểu tượng Severia được đặc trưng bởi sự kiềm chế, sự nghiêm khắc và [khổ tu]] bên trong. Những đặc điểm này vẫn tồn tại trong thời kỳ Baroque: khối lượng và cảm xúc hầu như không có. Bộ sưu tập các biểu tượng Severia được lưu giữ trong Bảo tàng các biểu tượng quê hương Ukraina trong Lâu đài Radomysl.
Pryazovia (, đôi khi viết Приозів‘я, Pryozivia; , Priazovye) theo nghĩa đen "vùng bên này biển Azov" thường được dùng để chỉ khu vực địa lý vùng bờ biển phía bắc biển Azov. Nó nằm ở phần phía bắc của Vùng đất thấp Azov-Kuban bao quanh biển Azov, trong phần lớn chiều dài đường bờ biển. Theo nghĩa tổng quát hơn, nó có thể có nghĩa là vùng duyên hải biển Azov. Khu vực bao gồm phần phía nam của tỉnh Donetsk và tỉnh Zaporizhzhia và phần phía đông của tỉnh Kherson của Ukraina. Phần phía tây của tỉnh Rostov của Nga cũng có thể được coi là một phần của Bắc Pryazovia rộng lớn hơn. Sau khi sáp nhập và giải thể Hãn quốc Krym, từ năm 1783 đến 1802, vùng đất này là một phần của tỉnh Novorossiya ("Nước Nga mới") của Đế quốc Nga. Dân số thiểu số Hy Lạp của Ukraina là 91.000 người (vào năm 2021), họ sống chủ yếu ở vùng Pryazovia, đây là kết quả của cuộc di cư của những người theo đạo Cơ đốc từ Krym vào năm 1778. Khi Nga xâm lược Ukraina 2022 năm 2022, Pryazovia bị quân đội Nga chiếm đóng và sáp nhập. Vùng bờ biển phía bắc Biển Azov bao gồm các sông Molochna, Obitochna, Berda, Kalmius và Mius. Trong số đó, chỉ có Molochna đổ nước vào vũng cửa sông Molochna, các sông còn lại đổ thẳng vào Biển Azov. Tất cả chúng đều chảy về phía nam từ vùng đất cao Azov và dãy Donetsk, có những dòng chảy quanh co, đó là lý do tại sao tốc độ chảy của chúng có phần chậm lại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bỏ trốn là bộ phim điện ảnh Việt Nam năm 1996 và cũng là bộ phim điện ảnh đầu tay của Phạm Nhuệ Giang với vai trò đạo diễn. Kịch bản của bộ phim được bà chuyển thể dựa theo truyện ngắn cùng tên của Phan Thị Thanh Nhàn, nội dung phim không thay đổi quá nhiều so với nguyên tác nên danh đề phim vẫn để biên kịch bởi Phan Thị Thanh Nhàn. Sau khi mẹ mất, bố không có khả năng nuôi dưỡng nên bé Thi ở với nhà bác ruột cùng bà ngoại. Cô bé bị bác dâu là bà Mai ghẻ lạnh, khi bà ngoại mất có để lại cho Thi một chiếc nhẫn. Trong lúc sắp xếp đồ đạc, bà Mai phát hiện ra và đay nghiến cô bé khiến thi bỏ nhà đi. Thi lang thang trên rồi tìm đến mộ của bà, tại đây cô bé được một gia đình nghèo nhận nuôi. Từ khi bé Thi bỏ đi, bà Mai ân hận và tìm mọi các tìm kiếm, khi biết nơi Thi ở, bà Mai đã đến đón cô bé về.
Oscarine Masuluke (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nam Phi hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Stellenbosch tại Giải bóng đá Ngoại hạng Nam Phi. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 30 tháng 11 năm 2016, Masuluke đã trở nên nổi tiếng nhờ pha ngả bàn đèn ở phút 90+5 để giúp cho Baroka có được trận hòa 1–1 trước Orlando Pirates. Bàn thắng này được đề cử cho Giải thưởng FIFA Puskás năm 2017. Masuluke đứng thứ 2 trong cuộc bỏ phiếu, còn Olivier Giroud giành giải thưởng và Deyna Castellanos đứng thứ 3. Ngày 27 tháng 2 năm 2018, anh bị Baroka thanh lý hợp đồng sau những cáo buộc rằng anh và các đồng đội khác đã uống rượu trên xe buýt của đội. Mùa hè năm 2018, anh gia nhập câu lạc bộ TS Sporting tại Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia Nam Phi. Anh ra sân 33 trận tại giải quốc nội cho đội bóng, trước khi rời câu lạc bộ vào năm 2020. Quay trở lại Baroka. Tháng 9 năm 2020, anh quay trở lại đội bóng cũ Baroka bằng thỏa thuận kéo dài 3 năm. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2023, Stellenbosch thông báo việc ký hợp đồng với Masuluke từ Baroka FC.
Danh sách loài gấu Họ Gấu (Ursidae) là một họ thú thuộc Bộ Ăn thịt (Carnivora), bao gồm gấu trúc lớn, gấu nâu, gấu trắng Bắc Cực và nhiều loài còn tồn tại hoặc tuyệt chủng khác. Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "ursid" hay đơn giản là "bear" - "gấu". Chúng phổ biến khắp châu Mỹ và lục địa Á Âu. Môi trường sống của gấu nói chung là rừng, mặc dù một số loài có thể được tìm thấy ở vùng đồng cỏ và xavan. Ngoài ra, gấu trắng Bắc Cực sống ở Bắc cực và có môi trường sống dưới nước. Hầu hết các loài gấu dài , cộng đuôi , mặc dù gấu trắng Bắc Cực dài và một số phân loài của gấu nâu có thể dài tới . Trọng lượng rất đa dạng từ gấu chó, nặng , đến gấu trắng Bắc Cực, nặng đến . Quy mô quần thể khác nhau, với 6 loài được phân loại là loài sắp nguy cấp với quần thể thấp tới 500 cá thể, trong khi gấu nâu có quần thể trên 100.000 cá thể và gấu đen Bắc Mỹ khoảng 800.000. Nhiều loài gấu chủ yếu ăn những loại thức ăn đặc trưng riêng, chẳng hạn như gấu trắng Bắc Cực thường ăn thịt hải cẩu, gấu lợn ăn mối và trái cây. Ngoài ra, khi cần thiết gấu cũng ăn tạp, ngoại trừ gấu trúc lớn chỉ ăn tre. Không có loài gấu nào được thuần hóa, mặc dù một số cá thể gấu đã được huấn luyện cho mục đích giải trí. Họ Gấu bao gồm 8 loài còn tồn tại, chia thành 5 chi trong 3 phân họ: Ailuropodinae (gấu trúc), Tremarctinae (gấu mặt ngắn) và Ursinae (các loài gấu còn tồn tại khác). Các loài tuyệt chủng được xếp vào cả 3 phân họ còn tồn tại, cũng như 3 phân họ tuyệt chủng: Agriotheriinae, Hemicyoninae và Ursavinae. Hơn 100 loài họ Gấu tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chính xác chắc chắn. Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác. Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "". Số liệu quần thể được làm tròn đến hàng trăm. Họ Gấu bao gồm 8 loài còn tồn tại thuộc 5 chi trong 3 phân họ và được chia tiếp thành 37 phân loài. Phân loại này không bao gồm các loài lai hoặc các loài tuyệt chủng thời tiền sử. Danh sách loài họ Gấu. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử. Danh sách này bao gồm cách chi gấu trúc lớn thành hai phân loài. Có một số đề xuất bổ sung đang bị tranh cãi, chẳng hạn như phân loại lại các phân loài của gấu nâu thành các nhánh nhỏ hơn, thì không được đưa vào đây.
Sông Zuari (phát âm là #đổi ) là con sông lớn nhất ở bang Goa, Ấn Độ. Zuari là một con sông thủy triều bắt nguồn từ Hemad-Barshem ở dãy núi Ghat Tây. Sông Zuari chảy theo hướng tây nam qua các tehsil Tiswadi, Ponda, Mormugao, Salcete, Sanguem và Quepem. Sông Zuari dài 92 km, nhưng được nối liền với các con sông và kênh rạch khác như sông Mandovi (dài 62 km) và kênh đào Cumbarjua (15 km). Các con sông khác ở Goa có chiều dài ngắn hơn như Terekhol (22 km), Chapora (29 km), Baga (5 km), Sal (16 km), Talpona (11 km) và Galgibag (4 km). Chiều dài và chiều rộng của các con sông thay đổi theo thủy triều và lũ theo mùa. Các chi lưu của Zuari bao gồm sông Kushawati, sông Sanguem và sông Uguem. Sông Zuari và Mandovi hình thành nên một hệ thống cửa sông. Hai con sông được xem là xương sống của ngành nông nghiệp ở Goa. Kênh đào Cumbarjua, nối liền hai con sông đã cho phép tàu thuyền di chuyển từ các khu vực nội địa đến các mỏ quặng sắt. Nước của Mandovi và Zuari đều chảy ra biển Ả Rập tại Cabo Aguada, một điểm chung tạo thành cảng Mormugao. Thành phố cảng Vasco da Gama, Goa nằm ở cửa sông Zuari.
Ian Fray (sinh ngày 31 tháng 8 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Mỹ hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Inter Miami tại Major League Soccer. Sự nghiệp thi đấu. Fray ra mắt cho đội bóng vào ngày 18 tháng 7 năm 2020, khi vào sân ở phút thứ 63 cho Modesto Méndez trong trận thua 2–0 trước Greenville Triumph. Ngày 26 tháng 1 năm 2021, Fray ký hợp đồng với câu lạc bộ Inter Miami tại Major League Soccer. Fray bị rách dây chằng chéo trước một tháng trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của anh. Fray đủ điều kiện để đại diện cho 2 đội tuyển: Hoa Kỳ và Jamaica. Chị gái của anh, Marlee Fray, đại diện cho Jamaica trên đấu trường quốc tế. Tháng 6 năm 2023, Fray có tên trong danh sách đội hình sơ bộ 50 cầu thủ của Jamaica để chuẩn bị cho giải Cúp Vàng CONCACAF 2023. "Tính đến 22 tháng 7 năm 2023"
Gianluigi Sueva (sinh ngày 1 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Olbia tại Serie C bảng B, cho mượn từ Cosenza. Sinh ra tại Ý, anh ta đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dominica. Sự nghiệp thi đấu. Sueva là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Cosenza và được đôn lên đội 1 vào năm 2017. Anh ra mắt cho Cosenza vào ngày 3 tháng 10 năm 2020 trong trận gặp SPAL tại Serie B, khi vào sân thay cho Angelo Corsi ở phút thứ 71. Cho mượn tại Potenza. Ngày 27 tháng 1 năm 2022, anh chuyển tới Potenza tại Serie C theo dạng cho mượn. Cho mượn tại Olbia. Ngày 1 tháng 8 năm 2022, Sueva chuyển tới Olbia theo dạng cho mượn. Ngày 23 tháng 2 năm 2021, Sueva có tên trong danh sách sơ bộ của đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Cộng hòa Dominica chuẩn bị cho Giải vô địch vòng loại Olympic khu vực CONCACAF 2020. Tuy nhiên, anh không có tên trong danh sách chính thức, vì anh cũng được gọi triệu tập lên đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dominica chuẩn bị cho 2 trận Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Dominica và Anguilla, vào ngày 24 và 27 tháng 3 năm 2021. Sueva được sinh ra tại Ý, có bố là người Ý và mẹ là người Dominica.
Lạc lối (tựa tiếng Anh: Aimless) là bộ phim điện ảnh độc lập của Việt Nam phát hành năm 2013, do Phạm Nhuệ Giang đạo diễn, kịch bản được Nguyễn Quang và Phạm Nhuệ Giang phát triển từ kịch bản gốc "Không có Eva" của Nguyễn Quang Lập. Bộ phim được các quỹ Fond Francophonie (Pháp) và Vision Sud Est (Thụy Sĩ) tài trợ sản xuất. Vợ chồng Quỳ và Thắm bỏ quên lên thành phố kiếm sống. Thắm làm công việc gom nhặt đồng nát, một lần cô được một vũ công trẻ dẫn đến nhà anh ta mua báo cũ; cô được trải nghiệm cuộc sống của người có tiền với lần đầu ngồi ô tô. Cô bắt đầu came nhận sự quê mùa và vụng về của người chồng, khi cô còn mơ hồ giữa chàng vũ công hào nhoáng và người chồng nhà quê. Trong lúc nóng giận, Quỳ đã tát vợ để cảnh tỉnh cô vì thành thị là nơi nhiều cạm bẫy. Thắm bỏ đi theo chàng vũ công để rồi nhận ra anh ta chỉ là trai bao của những người phụ nữ lớn tuổi giàu có. Cô trở về với Quỳ, cùng với cai bụng bầu, mặc dù vậy Quỳ vẫn chấp nhận cô. "Lạc lối" dựa theo ý tưởng kịch bản "Không có Eva" của Nguyễn Quang Lập từ đầu thập niên 2000. Phim do các quỹ Fond Francophonie (Pháp) và Vision Sud Est (Thụy Sĩ) tài trợ sản xuất với mức vốn 2 tỉ VNĐ, Hãng phim truyện Việt Nam hỗ trợ thiết bị. Ngoài ra vợ chồng đạo diễn Nguyễn Thanh Vân và Phạm Nhuệ Giang tự bỏ thêm vốn 1 tỉ VNĐ. Trong thời gian sản xuất bộ phim "Tâm hồn mẹ" thì thời gian tài trợ cho dự án "Lạc lối" cũng gần hết hạn. Nên đạo diễn Phạm Nhuệ Giang phải gấp rút hoàn thành phim "Lạc lối", bộ phim được làm hậu kỳ tại Pháp. Việc bộ phim giành giải Cánh diều Bạc khiến phát sinh tranh cãi vì ngoài buổi chiếu cho ban giám khảo tại sự kiện, thì bộ phim vẫn chưa được phát hành chính thức tới khán giả. Để xoa dịu tình hình, Phạm Nhuệ Giang đã tổ chức một buổi chiếu nhỏ vào ngày 13 tháng 3 năm 2013. Ngay sau khi phim giành giải, cụm rạp Galaxy đã nhận phát hành bộ phim vào tháng 9 năm 2013, nhưng đến tháng 8 cùng năm, đạo diễn Phạm Nhuệ Giang cho biết vẫn chưa tìm được nguồn tài để phát hành. Lạc lối ban đầu được mời tham dự Liên hoan phim (LHP) Dubai 2013, nhưng sau đó LHP có điều chỉnh về hạng mục phim châu Á nên bộ phim bị rút lại.
Bánh hoa mai nhân khóm Tắc Cậu Bánh hoa mai nhân khóm Tắc Cậu là loại bánh có hình một bông hoa mai với phần nhân là mứt khóm Tắc Cậu. Đây là đặc sản của tỉnh Kiên Giang. Bánh xuất phát từ xã Vĩnh Hòa Phú, huyện Châu Thành, từ khoảng năm 1940. Bắt đầu từ nghề làm bánh quai vạc nhân dừa, đậu xanh. Làng nghề làm bánh hoa mai hiện phân bố ở Vĩnh Hòa Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang với 19 hộ dân. Bánh gồm hai phần: vỏ bánh và nhân bánh. Vỏ bánh làm từ bột mì, nước, dầu thực vật. Nhân bánh làm từ mứt khóm, chủ yếu là khóm Tắc Cậu trong vùng, khóm được sơ chế gọt thành sợi, đem ngào với đường theo tỉ lệ nhất định trong thời gian khoảng 1 giờ. Sau đó phơi nắng khoảng 2 ngày để tạo thành mứt khóm khô. Bánh sau khi kết hợp 2 phần sẽ được nướng chín ở nhiệt độ 190 độ C. Hình dạng bánh lấy ý tưởng từ hoa mai. Bánh chín giòn xốp, hương vị bánh chua xen lẫn ngọt.
Cánh đồng hoang (Ukraina) Cánh đồng hoang (, , , , hoặc , còn dịch là "miền hoang vu") là một thuật ngữ lịch sử được sử dụng trong các tài liệu Ba Lan-Litva từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 để chỉ phần thảo nguyên Pontic trên lãnh thổ nay là Đông và Nam Ukraina và một phần Tây Nga, nằm ở phía bắc của biển Đen và biển Azov. Theo sử gia Ukraina Vitaliy Shcherbak thuật ngữ này xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15, chỉ lãnh thổ giữa sông Dniester và trung du sông Volga khi người Cossack Zaporozhia bắt đầu thuộc địa hóa khu vực. Shcherbak lưu ý rằng những người cùng thời với thuật ngữ này, chẳng hạn như Michalo Lituanus, Blaise de Vigenère và Józef Wereszczyński, đã viết về sự giàu có tự nhiên của thảo nguyên và lưu vực sông Dnepr. Trong nhiều thế kỷ, khu vực này chỉ có dân cư thưa thớt, thuộc nhiều nhóm du mục khác nhau như Scythia, Alan, Hung, Bulgar, Pecheneg, Kipchak, Đột Quyết-Mông Cổ, Tatar và Nogai. Sau khi Mông Cổ xâm lược Rus, lãnh thổ do Hãn quốc Kim Trướng cai trị cho đến trận Nước Xanh (1362). Trận chiến cho phép Algirdas yêu sách chủ quyền khu vực thuộc Đại công quốc Litva. Là một kết quả sau trận sông Vorskla năm 1399, người kế vị ông là Vytautas để mất lãnh thổ cho Hãn Temür Qutlugh của Kim Trướng. Năm 1441, phần phía tây của Cánh đồng hoang, Yedisan, nằm dưới quyền chi phối của Hãn quốc Krym, thực thể chính trị này do Đế quốc Ottoman kiểm soát từ thế kỷ 16 trở đi. Cánh đồng hoang cũng là nơi cư trú cục bộ của người Cossack Zaporizhia, theo như phản ánh trong các tác phẩm của nhà thần học người Ba Lan và là giám mục Công giáo Kiev Józef Wereszczyński, họ định cư trong khu vực theo điều kiện là phải chiến đấu chống lại sự bành trướng của người Nogai. Cánh đồng hoang có Đường Muravsky và Đường Izyumsky đi qua, đó là những tuyến đường chiến tranh quan trọng được người Tatar Krym sử dụng để xâm chiếm và cướp phá Đại công quốc Moskva. Các vụ tập kích của Krym-Nogai diễn ra trong thời gian dài, người Tatar Krym và Nogai chung một phe còn Đại công quốc Litva và Đại công quốc Moskva ở phe khác, gây ra sự tàn phá và suy giảm dân số đáng kể trong khu vực. Tình trạng này chấm dứt khi người Cossack Zaporozhia trỗi dậy, họ định kỳ xuôi về hạ du sông Dnepr bằng thuyền độc mộc từ căn cứ tại Khortytsia và tập kích vùng bờ biển của biển Đen. Người Ottoman xây dựng một vài thị trấn pháo đài nhằm phòng thủ vùng ven biển, bao gồm Kara Kerman và Khadjibey. Đến thế kỷ 17, phần phía đông của Cánh đồng hoang đã được những người nông dân và nông nô chạy trốn đến định cư, họ tạo nên cốt lõi của lãnh địa Cossack. Trong Khởi nghĩa Bohdan Khmelnytsky, người Cossack từ lưu vực sông Dnepr đến định cư tại phần phía bắc của khu vực này, và bộ phận này được gọi là Sloboda Ukraina. Sau một loạt cuộc chiến giữa Nga và Ottoman do Yekaterina Đại đế tiến hành, khu vực từng nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman và người Tatar Krym lúc này được hợp nhất vào Đế quốc Nga trong thập niên 1780. Đế quốc Nga xây dựng nhiều thành phố tại Cánh đồng hoang, gồm Odessa, Sevastopol, Yekaterinoslav và Nikolaev. Hầu hết Kiev cũng được xây dựng trong thời gian này. Khu vực tiếp nhận nhiều người Ukraina và người Nga đến định cư và tên gọi "Cánh đồng hoang" trở nên lỗi thời; khu vực thay vào đó được gọi là Tân Nga (Novorossiya). Theo "Từ điển lịch sử Ukraina", "Dân số bao gồm những người thực dân quân sự từ các trung đoàn kỵ binh hussar và kỵ binh đánh thương, nông dân Ukraina và Nga, người Cossack, người Serb, người Montenegro, người Hungary và những người nước ngoài khác đã nhận được trợ cấp đất đai để định cư trong khu vực." Vào thế kỷ 20, sau khi Liên Xô sụp đổ, khu vực này bị chia cắt giữa Ukraina, Moldova và Nga.
Mega Man X (trò chơi điện tử) Mega Man X, được phát hành với tên Rockman X (tiếng Nhật: ロックマンX; Hepburn: "Rokkuman Ekkusu") ở Nhật Bản, là một trò chơi điện tử thể loại hành động nhập vai được sản xuất và phát hành vào năm 1993 bởi Capcom cho hệ máy Super Nintendo Entertainment System (SNES). Đây là trò chơi Mega Man đầu tiên dành cho bảng điều khiển 16-bit và là phần đầu tiên trong loạt game Mega Man X, một phần phụ của sê-ri Mega Man gốc. Trò chơi được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 12 năm 1993 và ở các quốc gia Bắc Mỹ và Châu Âu vào năm sau. Câu chuyện của trò chơi diễn ra một thế kỷ sau loạt game Mega Man gốc, Mega Man X lấy bối cảnh trong một thế giới tương lai gần, nơi loài người tồn tại cùng với "Reploids", những người máy Androids có khả năng suy nghĩ, cảm nhận và phát triển giống như những người tạo ra chúng. Do ảnh hưởng từ một loại virus, nhiều Reploid có xu hướng phá hoại và nổi loạn, họ được gọi là các "Mavericks". Người chơi sẽ điều khiển nhân vật chính Mega Man X (hay gọi tắt là X), một thành viên của đội đặc nhiệm quân sự Reploids có tên là "Maverick Hunters". Với sự giúp đỡ của một cộng sự là Zero, X phải ngăn chặn kế hoạch của Sigma, thủ lĩnh tối cao của các Maverick, kẻ muốn mang lại sự tuyệt diệt cho nhân loại. Với việc chuyển đổi sang hệ phần cứng chơi game tiên tiến hơn, tác giả của loạt game Inafune Keiji giải thích rằng quá trình phát triển Mega Man X liên quan đến việc phát minh lại Mega Man thông qua việc mở rộng lối chơi và cốt truyện trưởng thành hơn trong khi vẫn duy trì các khái niệm cơ bản mà nhượng quyền thương mại đã được xây dựng dựa trên đó. Giống như các trò chơi Mega Man ra mắt trước đó, Mega Man X là một trò chơi hành động nhập vai trong đó người chơi sẽ điều khiển nhân vật tiêu đề và phải hoàn thành tám màn chơi bắt buộc của trò chơi theo bất kỳ thứ tự nào. Việc đánh bại nhân vật trùm ở cuối mỗi màn sẽ cấp cho nhân vật của người chơi một vũ khí mới, sau đó có thể được bật và sử dụng theo ý muốn trong phần còn lại của trò chơi. Tuy nhiên, Mega Man X bổ sung một số tính năng mới và thực hiện những thay đổi căn bản đối với cơ chế chơi ban đầu của các phiên bản trước trong sê-ri. Điều đó bao gồm việc cho phép người chơi phi thân/lướt nhanh trên mặt đất và thu thập các linh kiện tạo thành một bộ áo giáp mang lại khả năng đặc biệt. Mega Man X đã nhận được những đánh giá tích cực về lối chơi, âm thanh và đồ họa, cũng như những nỗ lực tăng cường cải tiến cho thương hiệu Mega Man đã cũ. Mega Man X được coi là một trong những trò chơi điện tử hay nhất từng được làm ra. Sau thời gian dài thành công về thương mại trên SNES, Mega Man X đã được chuyển sang máy tính cá nhân (PC), được bao gồm trong Bộ sưu tập Mega Man X ở Bắc Mỹ cho Nintendo GameCube và PlayStation 2 (PS2) và được phát hành trên Dịch vụ tải xuống Virtual Console dành cho Wii, Wii U và Nintendo 3DS mới. Trò chơi cũng được tái phát triển trên PlayStation Portable (PSP) với tựa đề Mega Man Maverick Hunter X. Nintendo đã phát hành lại Mega Man X vào tháng 9 năm 2017 như một phần của Phiên bản Super NES Classic, bản giới hạn để kỷ niệm 30 năm Mega Man sẽ được phát hành vào tháng 9 năm 2018 và được xuất bản bởi Iam8bit. Trò chơi đã được đưa vào trong bộ sưu tập Mega Man X Legacy Collection phát hành cho hệ máy PlayStation 4, Xbox One, Nintendo Switch và PC. Mega Man X diễn ra trong một thời điểm không xác định vào thế kỷ 22 (những năm 21XX) và khoảng 100 năm sau loạt Mega Man gốc. Tiến sĩ Cain, một nhà khảo cổ học loài người, đã phát hiện ra tàn tích của một cơ sở nghiên cứu người máy từng được vận hành bởi nhà thiết kế người máy huyền thoại, tiến sĩ Thomas Light. Giữa đống đổ nát, tiến sĩ Cain tìm thấy một buồng ngủ đông lớn chứa một người máy cực kỳ tiên tiến với trí thông minh và cảm xúc ở cấp độ con người, thậm chí có cả ý thức tự do, những thứ mà thế giới chưa từng thấy trước đây. Tiến sĩ Light đã truyền lại cho thành phẩm cuối cùng của mình một sự tỉnh táo, bản chất chính nghĩa và sự hiểu biết về các khía cạnh đạo đức con người. Vật phẩm Robot này đã bị chôn vùi khi đang chạy chương trình kiểm tra để đảm bảo các tính năng của nó. Tiến sĩ Cain đã dành vài tháng tiếp theo để nghiên cứu người máy này, với tên gọi hiện tại là "X". Tiến sĩ Cain quyết định sẽ nhân bản X và tạo ra các bản sao Androids có trí thông minh tương tự anh ta. Vài tháng sau, tiến sĩ Cain đã hoàn thành bản sao thứ nhất, tức mẫu "Reploid" đầu tiên, một người máy có thể suy nghĩ, cảm nhận, học hỏi và phát triển giống hệt con người. Trong nhiều năm tiếp theo, mẫu thiết kế của tiến sĩ Cain được tiêu chuẩn hóa và các Reploids được sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, với ý thức tự do có sẵn, nhiều Reploid có xu hướng hoạt động ngoài vòng pháp luật như những tội phạm. Những Reploid tiêu cực như vậy được gọi là "Mavericks". Khi sự phản đối của công chúng với những sự cố do các Maverick gây ra ngày càng lớn, chính phủ loài người đã vào cuộc và dưới sự cố vấn của tiến sĩ Cain, họ đã thành lập một tổ chức cảnh sát quân sự gồm các Reploids ưu tú có tên là "Maverick Hunters". Các thợ săn của tổ chức phải bắt hoặc vô hiệu hóa bất kỳ Reploid nào gây ra mối đe dọa cho con người, kiểm soát thiệt hại trong các đợt tấn công của Maverick, giúp khắc phục sự cố và thực hiện các nhiệm vụ khác khi cần thiết. Để lãnh đạo nhóm thợ săn này, tiến sĩ Cain thiết kế một Reploid rất tiên tiến, được cho là miễn nhiễm với bất kỳ khiếm khuyết nào gây ra bởi Mavericks. Người máy này, tên là Sigma, ban đầu làm chỉ huy của các thợ săn, sau đó hắn đã phản bội lại tổ chức và trở thành một Maverick thủ lĩnh. Cùng với đó, phần lớn các thợ săn khác đều trở thành Maverick dưới lời kêu gọi của Sigma và tuyên thệ lòng trung thành với hắn ta. Sigma giành quyền kiểm soát một hòn đảo nhỏ, đuổi tất cả các cư dân loài người ra ngoài. Sigma tuyên bố rằng con người thấp kém hơn và họ đang hạn chế sự phát triển cũng như tiềm năng của các Reploids, hắn kêu gọi những người theo phe mình bắt đầu một cuộc đảo chính quy mô lớn. X, với cảm xúc tội lỗi vì đã giúp thiết kế một dòng robot nguy hiểm như vậy, anh đã gia nhập lực lượng với thợ săn duy nhất còn lại, Zero, để ngăn chặn Sigma bằng bất cứ giá nào. Khi đang thực hiện một nhiệm vụ liên quan đến cuộc tấn công của Maverick trên đường cao tốc, X chạm trán với Vile, một lính đánh thuê Maverick làm việc cho Sigma, người lái bộ giáp cơ giới có tên "Ride Armor". Không thể đánh bại Vile và bị áp đảo, X được Zero cứu vào phút chót, buộc Vile phải rút lui. Zero sau đó đưa ra lời động viên cho X sau trận chiến. X tiếp tục truy lùng và tiêu diệt tám tướng lĩnh của đội quân Mavericks, các thuộc cấp mạnh nhất của Sigma, sau đó anh gặp Zero bên ngoài thành trì cuối cùng, nơi Sigma ẩn nấp. Bên trong căn cứ, X phát hiện ra Zero đã bị Vile bắt giữ. Một trận chiến khác xảy ra, kết thúc tương tự như trận đầu tiên với sự thắng thế của Vile. Zero đột nhiên thoát khỏi sự trói buộc của anh ta, bám vào Vile và tự kích nổ, phá hủy cơ thể của chính anh và bộ giáp Ride Armor. Bị sốc trước sự hy sinh của Zero, X dồn sức mạnh và kết liễu Vile. Zero động viên đồng đội của mình một lần nữa và không chịu nổi sát thương của anh ta. Bây giờ, với sự quyết tâm vượt trội hơn bao giờ hết, X tiến đến trung tâm lâu đài, chiến đấu với Sigma, tiêu diệt tên thủ lĩnh của các Maverick và thoát khỏi pháo đài trên đảo, trước khi nó phát nổ và chìm xuống đáy biển. Khi trở về căn cứ, X suy nghĩ về những sự kiện đã diễn ra, đặt câu hỏi về sự hy sinh của Zero, quyết định chiến đấu của chính anh ta và cuộc chiến đang diễn ra với Mavericks. Sau phần credit, một thông báo từ Sigma tiết lộ rằng X mới chỉ phá hủy một cơ thể tạm thời, và linh hồn của Sigma (tức dữ liệu của hắn) vẫn tồn tại. Sigma sau đó nói rằng hắn sẽ thu thập những bộ phận cơ thể mới, mạnh mẽ hơn để thực hiện cuộc cách mạng của mình và hắn ta sẽ sớm gặp lại X. Sê-ri Mega Man bản gốc ban đầu trên NES bao gồm các trò chơi nền tảng 2D tập trung vào lối chơi chạy và bắn. Mega Man X sử dụng các nguyên tắc cơ bản giống như tiền thân của nó nhưng có thêm nhiều tùy chọn. The player takes control of the protagonist X, and, after completing an introductory stage, is presented with a stage selection screen that depicts eight boss characters. Người chơi điều khiển nhân vật chính X, và sau khi hoàn thành màn khởi đầu, họ sẽ đi đến màn hình lựa chọn gồm tám màn chơi tương ứng với tám nhân vật trùm. Mỗi màn sẽ có rất nhiều kẻ địch, mối nguy hiểm và các thử thách khác nhau, và đều kết thúc bằng trận đấu chống lại tên trùm Maverick của màn đó. Đánh bại một tên trùm Maverick cho phép X sử dụng vũ khí mô phỏng lại các tuyệt chiêu của Maverick đó. Người chơi có thể chơi tám màn này theo bất kỳ thứ tự nào, sử dụng vũ khí thu được ở một màn để vượt qua các thử thách và đánh bại các trùm ở màn khác. Người chơi có thể quay lại trò chơi sau đó bằng hệ thống mật khẩu; mật khẩu sẽ giữ lại các dữ liệu trong tám màn chơi trước đã hoàn thành và các vật phẩm thu thập được. Khả năng của X tương tự như trong các trò chơi Mega Man trước đây, như chạy, nhảy và một khẩu súng thần công có thể nạp năng lượng được có tên là "X-Buster". Tuy nhiên, Mega Man X giới thiệu một số yếu tố không có trong các tựa Mega Man gốc. Một tính năng nổi bật là khả năng phi thân, bám trượt và nhảy trên tường. Một số địa điểm nhất định trong số tám màn chơi có chứa các cỗ máy mang theo các bộ phận của một bộ giáp mà X có thể thu thập được. Cỗ máy sẽ hiển thị hình ba chiều của tiến sĩ Light khi X đến gần. Người chơi cũng có thể thu thập các item ẩn là "Heart Tank", giúp gia tăng lượng máu tối đa của X, và "Sub Tank" có thể tích trữ thêm máu và năng lượng để sử dụng sau này. Mega Man X được phát triển bởi một nhóm các thành viên tại Capcom, nhóm đã từng làm việc trong loạt Mega Man dài hạn cho NES. Tác giả chính Inafune Keiji (được coi là người lập kế hoạch với cái tên Inemuryar) kể lại rằng quá trình phát triển Mega Man X cần rất nhiều sự động não cho cốt truyện và nội dung của nó, trong đó mục tiêu của nhóm là phân nhánh từ các trò chơi Mega Man gốc trong khi vẫn duy trì các nguyên tắc cơ bản của chúng. Trong sê-ri Mega Man gốc, Inafune thường thiết kế nhân vật chính trong khi người bảo trợ của ông, Kaji Hayato xử lý các nhân vật phụ. Tuy nhiên, vai trò của họ đã bị đảo ngược đối với Mega Man X. Kaji (được ghi là Rippa H.K) đã minh họa nhân vật chính X, nhưng gặp khó khăn với thiết kế ban đầu. Kaji được tự do hơn nhiều so với việc đã quen với bảng màu lớn hơn của SNES. Inafune và Kaji đã làm việc cùng nhau trên các thiết kế cho X với các bộ phận áo giáp khác nhau được gắn vào. Ý tưởng về các bộ áo giáp xuất hiện vì trò chơi được lên kế hoạch trong thời điểm các trò chơi điện tử nhập vai trở nên cực kỳ phổ biến. Inafune cảm thấy rằng Mega Man luôn đại diện cho một công thức trò chơi hành động cổ điển, trong đó người anh hùng kiếm được khả năng của kẻ thù bị đánh bại; các bộ phận áo giáp đã được thêm vào để bổ sung cho khái niệm này. Inafune đã tạo ra nhân vật Zero, người mà anh ấy dự định ban đầu là nhân vật chính có thể chơi được của trò chơi. Lo sợ phản ứng tiêu cực từ người hâm mộ, Zero cuối cùng đã bị đưa xuống vai trò thứ yếu sau X. Nhóm phát triển cũng muốn thế giới của Mega Man X phức tạp hơn nhiều so với trong loạt phim Mega Man đầu tiên. Họ muốn xây dựng điều này với tính cách "khó hiểu" của Zero và nhân vật phản diện Sigma. Câu chuyện của trò chơi đã trải qua một số thay đổi trong quá trình phát triển. Hai đồng minh của X, tên là RX và RY, đã xuất hiện trong bản xem trước của trò chơi, nhưng sau đó đã bị loại bỏ. Mega Man X đã thay đổi truyền thống từ bản gốc về các nhân vật trùm vốn theo mô típ con người bằng cách thay thế họ bằng các mô típ giống động vật hoặc thực vật được nhân hóa. Nhóm đã cẩn thận trong việc làm cho các con trùm khác biệt với nhau về cả tầm vóc và màu sắc. Yoshikawa Tatsuya (được gọi là Tatsunoko), họa sĩ thứ tư mới được Capcom thuê gần đây, được giao nhiệm vụ hỗ trợ các thành viên khác trong nhóm thiết kế, minh họa và tạo ra các các kẻ địch cỡ nhỏ của trò chơi. Phần âm nhạc cho Mega Man X được sáng tác bởi nhóm Alph Lyla của Capcom. Yamamoto Setsuo ban đầu là nhà soạn nhạc duy nhất được chỉ định cho trò chơi và đóng góp phần lớn nhạc nền, nhưng bốn nhà soạn nhạc khác, Iwai Yuki (được ghi là Sato), Horiyama Toshihiko (được ghi là Kirry), Takehara Yuko và Tomozawa Makoto (được ghi là Tomozou), được đưa vào quá trình sản xuất muộn để giúp hoàn thành phần nhạc game. Ba người đầu tiên chịu trách nhiệm cho mỗi bài nhạc. Các bản nhạc này lần lượt là nhạc BGM của các màn chơi Chill Penguin, Password Screen và Boomer Kuwanger. Tomozawa đã thiết kế nhạc hai cho hai màn là Storm Eagle và Spark Mandrill. Chi nhánh tại Nhật Bản của Sony Records đã xuất bản một album sắp xếp gồm mười bản nhạc vào ngày 9 tháng 3 năm 1994. Âm nhạc sử dụng nhạc cụ SNES được đưa vào như một phần của nhạc game Capcom Music Generation: Rockman X1 ~ X6 do Suleputer phát hành năm 2003. Tiếp nhận và di sản. Mega Man X đã được các nhà phê bình đánh giá cao kể từ khi phát hành. Các tạp chí trò chơi ở Hoa Kỳ và Châu Âu bao gồm Electronic Gaming Monthly (EGM), GamePro, Game Players, Nintendo Power, Super Play và phiên bản tiếng Đức của Total! liên tục ca ngợi hình ảnh, âm thanh, khả năng điều khiển và lối chơi tổng thể của trò chơi. Người chơi trò chơi đã tóm tắt Mega Man X là ""một trò chơi hoàn hảo với lối chơi cổ điển, đồ họa và âm thanh xuất sắc cùng vô số vật phẩm ẩn và sức mạnh". Nintendo Power tuyên bố rằng trò chơi có "điều khiển tuyệt vời và thú vị" cùng với "lối chơi đầy thử thách". Các trang web như IGN, GameSpot, GamesRadar và 1UP.com đã tổ chức hồi tố Mega Man X như một cột mốc thành công trong việc chuyển sê-ri Mega Man từ sự tồn tại ngày càng cũ kỹ trên NES sang SNES. Brett Elston của GamesRadar đã tuyên bố, "X là một bản phát minh lại hoàn toàn của sê-ri, một bản cập nhật được thực hiện hoàn hảo khiến người hâm mộ mong đợi việc phát hành nó với sự cuồng nhiệt mà nhượng quyền thương mại chưa từng thấy kể từ Mega Man 2 và 3 ngày."" Mega Man X cũng nhận được nhiều lời chỉ trích từ một số ấn phẩm. Ed Semrad, Danyon Carpenter và Al Manuel của hội đồng đánh giá EGM đều lưu ý rằng trò chơi có thể có độ khó quá thấp; Semrad không thích giai đoạn giới thiệu và cảm thấy rằng trò chơi quá ngắn. Zy Nicholson của Super Play đã hạ điểm đánh giá của anh ấy về trò chơi vì anh nhận thấy các màn chơi không dài cũng như không có nhiều thử thách. Nicholson giải thích: “"Một số thủ thuật cơ bản như lặp lại các phần dễ dàng để hồi phục năng lượng và sức mạnh vũ khí sẽ giúp bạn vượt qua các phần khó hơn. Trong cấp độ, bạn cũng sẽ tìm thấy các điểm khởi động lại, mạng sống thêm và không có giới hạn thời gian khắc nghiệt nào để gây áp lực lên hiệu suất của bạn. Kết hợp điều này với hệ thống mật khẩu ghi lại việc hoàn thành cấp độ, trạng thái và tích lũy vũ khí của bạn và bạn sẽ thấy chúng tôi' không tìm kiếm một thử thách lâu dài cho người chơi có kinh nghiệm." Mega Man X được xếp hạng 58 trong "100 trò chơi Nintendo hay nhất mọi thời đại" của Nintendo Power trong số thứ 100 vào tháng 9 năm 1997, số 103 trong danh sách "200 trò chơi hàng đầu"" của ấn phẩm cho số thứ 200 vào tháng 2 năm 2006 và thứ 11 Trò chơi SNES hay nhất mọi thời đại trong số ra tháng 8 năm 2008. Cả GamesRadar và ScrewAttack đều liệt kê Mega Man X là trò chơi hay thứ tám trong thư viện SNES. GamePro cũng liệt kê nó là trò chơi điện tử 16-bit hay thứ tám. Game Informer coi đây là ""trò chơi hay thứ 120 mọi thời đại" vào tháng 12 năm 2009. IGN đã xếp nó là "trò chơi hay thứ mười hai" trong danh sách 100 trò chơi SNES hàng đầu của riêng mình vào năm 2011. Vào năm 2018, Complex đã liệt kê trò chơi này ở vị trí thứ 15 trong "Trò chơi Super Nintendo hay nhất mọi thời đại"". Họ cảm thấy trò chơi này là một trong những trò chơi Mega Man X hay nhất trong sê-ri. Năm 1995, trò chơi đứng thứ 28 trong 100 trò chơi hàng đầu trên SNES. Mega Man X là một thành công lớn về thương mại. Phiên bản SNES đã bán được 1,165 triệu bản trên toàn thế giới tính đến năm 2001, trở thành trò chơi Capcom bán chạy thứ 41 mọi thời đại. Jeremy Dunham của IGN đã suy đoán rằng cốt truyện trưởng thành hơn của trò chơi và việc nó bao gồm nhiều phần mở rộng về lối chơi so với loạt phim Mega Man gốc đã giúp tạo ra một "đội ngũ người hâm mộ độc nhất vô nhị".
Stefano Girelli (sinh ngày 9 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Lecco tại Serie C bảng A, cho mượn từ Cremonese. Sự nghiệp thi đấu. Girelli từng chơi cho đội trẻ của Cremonese. Anh ra mắt đội 1 vào ngày 31 tháng 7 năm 2020 trong trận gặp Pordenone tại Serie B. Ngày 28 tháng 1 năm 2021, anh được đem cho mượn tại Pergolettese cho giai đoạn còn lại của mùa giải. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2021, hợp đồng cho mượn được kéo dài thêm 1 năm. Ngày 15 tháng 7 năm 2022, Girelli được đem cho mượn tại câu lạc bộ Lecco.
Danil Aleksandrovich Glebov (; sinh ngày 3 tháng 11 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Nga. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ FC Rostov tại Giải bóng đá Ngoại hạng Nga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga. Sự nghiệp câu lạc bộ. Anh ra mắt cho FC Anzhi-2 Makhachkala vào ngày 19 tháng 11 năm 2017 trong trận đấu gặp FC Armavir tại Giải bóng đá Chuyên nghiệp Nga. Glebov ra mắt cho FC Anzhi Makhachkala tại Giải bóng đá Ngoại hạng Nga vào ngày 1 tháng 9 năm 2018, trong trận đấu gặp FC Krylia Sovetov Samara. Ngày 13 tháng 1 năm 2019, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ FC Rostov. Sự nghiệp quốc tế. Anh được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga để chuẩn bị cho 2 trận Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Slovakia và Slovenia trong tháng 10 năm 2021. Glebov ra mắt vào ngày 11 tháng 11 năm 2021, trong trận đấu gặp Síp. "Tính đến 29 tháng 4 năm 2023" "Tính đến 20 tháng 11 năm 2023"
Etelis oculatus là một loài cá biển thuộc chi "Etelis" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828. Tính từ định danh "oculatus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “ở mắt”, hàm ý đề cập đến "gros-yeux" (mắt to), tên thông thường của loài cá này ở Martinique, nơi mà mẫu định danh được thu thập, được tác giả Valenciennes cho là một loài cá mú "Serranus" với đôi mắt to đặc biệt. Phân bố và môi trường sống. "E. oculatus" có phân bố rộng rãi ở vùng Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang North Carolina (Hoa Kỳ) trải dài xuống phía nam, băng qua khắp vịnh México và biển Caribe, dọc theo bờ biển Nam Mỹ đến bang São Paulo (Brasil, bao gồm cả quần đảo Fernando de Noronha và đảo san hô Rocas). Có một mẫu vật được thu thập ở Madeira (Đông Bắc Đại Tây Dương), hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn với danh pháp "Serranus oculatus" (= "E. oculatus"). "E. oculatus" thường tập trung ở vùng biển có nền đáy nhiều đá, độ sâu khoảng 100–450 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "E. oculatus" lên đến 100 cm, thường bắt gặp với kích thước khoảng 50 cm. Lưng và thân trên có màu hồng sẫm đến đỏ, thân dưới và bụng hồng nhạt hơn, còn các vây màu hồng hoặc trắng, ngoại trừ phần gai vây lưng và toàn bộ vây đuôi màu đỏ rực. Mống mắt đỏ. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 47–50. Thức ăn của "E. oculatus" bao gồm cá nhỏ, mực và nhiều loài giáp xác khác. Ở Caribe, đối với cá cái, tất cả những cá thể 54 cm đều đang trong chu kỳ sinh sản, còn quần thể cá đực sinh sản có chiều dài trong khoảng 30–45 cm. Thời điểm sinh sản diễn ra kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 hoặc tháng 5. Tuổi lớn nhất mà "E. oculatus" đạt được là 30, đã được biết đến ở vịnh México. "E. oculatus" là một loại cá thực phẩm được đánh giá cao, nhưng những cá thể nhỏ được coi là phụ phẩm trong nghề chài lưới. "E. oculatus" cũng được khai thác thương mại, ban đầu là từ Tây Ấn thuộc Pháp, và dẵ phát triển hơn nhiều ở Barbados và Puerto Rico.
Trong toán học, hiệu đối xứng của hai tập hợp, hay còn gọi là phép hợp tuyển, là tập các phần tử thuộc một trong hai tập hợp nhưng không cả hai. Ví dụ, hiệu đối xứng của hai tập formula_1 và formula_2 là formula_3. Hiệu đối xứng của "A" và "B" thường được ký hiệu bằng formula_4 hoặc formula_5 Tập lũy thừa của bất kỳ tập hợp trở thành nhóm abel khi đi kèm hiệu đối xứng, trong đó tập rỗng làm phần tử trung hoà của nhóm và mọi phần tử trong nhóm này là nghịch đảo. Tập lũy thừa của bất kỳ tập hợp trở thành vành Boole, trong đó hiệu đối xứng là phép cộng của vành còn phép giao là phép nhân. Hiệu đối xứng tương đương với hợp của cả hai phần bù tương đối, nghĩa là: Hiệu đối xứng cũng có thể biểu diễn bằng phép XOR ⊕ trên các vị từ mô tả hai tập hợp trong ký pháp xây dựng tập hợp: Nội dung này cũng có thể phát biểu bằng hàm chỉ thị (được ký hiệu ở đây bằng formula_8) của hiệu đối xứng, trong đó ta dùng phép XOR (hoặc phép cộng mod 2) trong hàm chỉ thị hai tham số: formula_9 hoặc trong ký hiệu ngoặc vuông Iverson: formula_10 Hiệu đối xứng cũng có thể phát biểu là hợp của hai tập hợp, trừ đi phần giao của chúng: Cụ thể hơn, formula_12; dấu bằng trong phép bao hàm không nghiêm ngặt này chỉ xảy ra khi và chỉ khi formula_13 và formula_14 không giao nhau. Hơn nữa, ký hiệu formula_15 và formula_16, khi đó formula_17 và formula_18 luôn không giao nhau, nên formula_17 và formula_18 luôn phân hoạch formula_21. Hệ quả thu được, khi coi phép hiệu đối xứng và phép giao là hai phép nguyên thuỷ, thì hợp của hai tập hợp có thể "định nghĩa" bằng hai phép toán đó như sau: Hiệu đối xứng có tính kết hợp và giao hoán: Tập rỗng là phần tử trung hoà và mỗi tập hợp là nghịch đảo của chính nó: Do đó, tập lũy thừa của bất kỳ tập "X" trở thành nhóm giao hoán dưới phép hiệu đối xứng. (Tổng quát hơn, bất kỳ trường tập hợp lập thành một nhóm với hiệu đối xứng là phép toán đi kèm.) Nhóm mà mọi phần tử là nghịch đảo của chính nó (hay nói tương đương, mỗi phần tử đều có cấp 2 đôi khi được gọi là nhóm Boole; Hiệu đối xứng cho phép định nghĩa một ví dụ mẫu về các nhóm có tính chất như thế và đôi khi nhóm Boole được định nghĩa sử dụng hiệu đối xứng. Trong trường hợp tập "X" chỉ có hai phần tử, nhóm thu được là nhóm bốn Klein. Nói tương đương, nhóm Boole là nhóm giao hoán sơ cấp 2 phần tử. Hệ quả là, nhóm cảm sinh từ hiệu đối xứng là không gian vectơ trên trường hai phần tử Z2. Nếu "X" hữu hạn, thì các tập đơn điểm trở thành cơ sở của không gian vectơ này, và số chiều của nó bằng với số phần tử của "X". Phương pháp xây dựng này được dùng trong lý thuyết đồ thị,và được dùng để định nghĩa không gian chu trình của một đồ thị.. Từ tính chất nghịch đảo của nhóm Boole, suy ra rằng hiệu đối xứng của hai hiệu đối xứng có lặp lại một tập hợp tương đương với hiệu đối xứng có lặp của nối của hai đa tập, trong đó tập bị lặp có thể bị bỏ đi. Tức là: Từ đây suy ra bất đẳng thức tam giác: Hiệu đối xứng của "A" và "C" nằm trong hợp của hiệu đối xứng của "A" và "B" và hiệu đối xứng của "B" và "C". Phép giao phân phối trên hiệu đối xứng: và điều cho thấy bất kỳ tập luỹ thừa của bất kỳ tập "X" đều có trở thành một vành, với hiệu đối xứng làm phép cộng và phần giao làm phép nhân. Đây là ví dụ mẫu cho vành Boole. Các tính chất khác của hiệu đối xứng bao gồm: Hiệu đối xứng có thể định nghĩa trong bất kỳ đại số Boole, bằng cách viết Phép toán này có cùng các tính chất với phép toán trên tập hợp Hiệu đối xứng trên không gian độ đo. Miễn là còn khái niệm tập hợp "lớn cỡ nào",thì hiệu đối xứng giữa hai tập hợp có thể coi là độ đo "khoảng cách" giữa chúng Đầu tiên xét tập hữu hạn "S" và độ đo đếm trên các tập con của nó. Sau đó, xét hai tập con của "S" và đặt khoảng cách giữa chúng là kích thước của hiệu đối xứng. Khoảng cách này quả thật là một mêtric, và do đó khiến tập luỹ thừa trên "S" là không gian mêtric. Nếu "S" có "n" phần tử thì khoảng cách từ tập rỗng đến "S" là "n", và đây là khoảng cách lớn nhất cho bất kỳ cặp tập con. Sử dụng các ý tưởng trong lý thuyết độ đo, sự phân rã của các tập đo được có thể định nghĩa bằng độ đo của hiệu đối xứng của chúng. Nếu μ là một độ đo σ-hữu hạn được định nghĩa trên σ-đại số Σ, thì hàm số là giả mêtric trên Σ. "dμ" trở thành mêtric nếu Σ được xét mô đun quan hệ tương đương "X" ~ "Y" khi và chỉ khi formula_42. Đôi khi nó được gọi là mêtric Fréchet-Nikodym. Không gian mêtric thu được khả ly khi và chỉ khi L2(μ) cũng khả ly. Nếu formula_43, ta có: formula_44. Thật vậy, Nếu formula_46 là không gian độ đo và formula_47 là các tập đo được, thì hiệu đối xứng của nó cũng đo được: formula_48. Ta có thể định nghĩa quan hệ tương đương trên các tập đo được bằng cách gọi formula_49 và formula_50 có quan hệ với nhau nếu formula_51. Quan hệ này được ký hiệu formula_52. Cho formula_53, viết formula_54 nếu với mỗi formula_55 tồn tại một số formula_56 sao cho formula_57. Quan hệ "formula_58" là thứ tự riêng phần trên họ các tập con của formula_59. Ta viết formula_60 nếu formula_54 và formula_62. Quan hệ "formula_63" là quan hệ tương đương giữa các tập con của formula_59. "Bao đóng đối xứng" của formula_65 là họ tất cả các tập formula_59-đo được mà formula_63 với một số formula_68. Bao đóng phản xạ của formula_65 chứa formula_65. Nếu formula_65 là formula_72-đại số con của formula_59, thì bao đóng đối xứng của formula_65 cũng vậy. formula_52 khi và chỉ khi formula_76 formula_77 gần như mọi nơi. Khoảng cách Hausdorff và (tích của) hiệu đối xứng đều là giả mêtric trên tập các hình học đo được. Song, chúng hoạt động hoàn toàn khác nhau. Hình trong vế phải cho thấy hai dãy hình học, "Đỏ" và "Đỏ ∪ Xanh". Khi khoảng cách Hausdorff giữa chúng càng nhỏ hơn thì diện tích phần hiệu đối xứng càng lớn hơn, và ngược lại. Bằng việc tiếp tục dãy này theo cả hai hướng, ta có thể tìm ra hai dãy trong đó khoảng cách Hausdorff giữa chúng hội tụ về 0 và hiệu đối xứng giữa chúng phân kỳ, và ngược lại.
Phạm Thế Lịch (chữ Hán: 范世歷; 1791 - 1874), hiệu là Chỉ Trai, Trác Phong, Quý Hòa, là một nhà khoa bảng và danh thần nhà Nguyễn. Ông Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Kỷ Sửu 1829, là Tiến sĩ nho học đầu tiên thời Nguyễn của tỉnh Nam Định, làm quan đến Tổng đốc Bắc Ninh. Phạm Thế Lịch quê làng Quần Mông, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường (nay là thôn Lạc Quần, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Cha ông là Phạm Đình Kham, làm nghề thuốc chữa bệnh. Mẹ ông là Mai Thị Duyên, con hương trưởng Mai Công Kỳ cùng làng, làm ruộng. Ông sớm có tư chất thông minh, 7 tuổi đi học, học đâu nhớ đấy, được người làng khen là thần đồng. Năm 14 tuổi, ông dự kỳ thi khảo thí ở xã Hà Nạn, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đề ra bài phú “Nhật trung vi thị” (Giữa ngày họp chợ), được các quan giám khảo vô cùng khen ngợi. Khoa thi Cử nhân năm Mậu Tý 1828, ông đỗ Á nguyên. Đến khoa thi Hội năm Kỷ Sửu 1829, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được triệu vào kinh bổ làm Hành tẩu, rồi thăng Hàn lâm viện Biên tu, lĩnh Tri phủ Tư Nghĩa (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), trải bổ Viên ngoại lang Bộ Lễ, chuyển Lang trung Bộ Lại, thăng Án sát, rồi Bố chính Bình Định, Chánh sứ Quảng Nam, Tả Thị lang Bộ Hình, Phủ doãn Thừa Thiên. Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), Phạm Thế Lịch làm Chánh sứ, Bạch Đông Ôn làm Phó sứ đi sứ nhà Thanh. Sau khi đi sứ về, ông được thăng làm Hộ bộ Hữu thị lang, lại được cử làm Chánh chủ khảo trường thi Nghệ An. Năm Tự Đức 3 (1850), ông được bổ chức Tổng đốc 2 tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên. Ông là vị quan thanh liêm, có nhiều công trạng lớn được các sử gia phong kiến ghi nhận. Ông có nhiều sáng tác nhưng hiện nay chỉ còn tập Sứ hoa quyển và một số câu đối do ông viết ở các đình, nhà thờ họ Phạm, huyện Xuân Trường. (cùng với Phạm Thế Hiển và Ngô Thế Vinh). Vua tặng ông vế đối : “Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh tam Thế đồng khoa Vinh Hiển Lịch.” Các chức vụ đã bổ nhiệm: Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được triệu vào kinh bổ làm Hành tẩu, rồi thăng Hàn lâm viện Biên tu, lĩnh Tri phủ Tư Nghĩa (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), trải bổ Viên ngoại lang bộ Lễ, chuyển Lang trung bộ Lại, thăng án sát, rồi Bố chính tỉnh Bình Định. Năm Minh Mệnh 17 (1836) ông làm Tả thị lang bộ Lễ, sung Chánh sứ đi sứ nhà Thanh lần 1. Ông đổi tên thành Phạm Thế Trung do kỵ húy vua Thanh lúc bấy giờ. Sau khi đi sứ về ông được đổi làm Tả thị lang bộ Hình, chuyển làm Phủ doãn Thừa Thiên. Hoàng Thái hậu lập đàn kỳ phúc, mở khảo thi Hoà thượng, sai ông làm Chánh chủ khảo. Tên ông được đặt cho một con phố dài 109m, rộng 9m, có địa giới từ mương T3-11 đến phố Nguyễn Thi, phường Thống Nhất, thành phố Nam Định - Tác phẩm có: "Sứ Hoa quyển, Sứ Thanh văn lục" - Thơ tặng Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị lúc kháng chiến chống Pháp: "Bắc Nam vạn lí nhất thanh hòa. Hà sự cuồng sưu ngạnh hải ba? Thiên khải nho trung giao cảm chiến, Đế liên lão bệnh hứa hưu qua. Thư từ nghĩa dũng hoàn hương lạc, Khảng khái anh hùng thoái lỗ ca. Tuế văn, nhân nhàn duy nhất chước. Đào nhiên, lãnh tiếu chỉ quan hà." "Muôn dặm Bắc, Nam vẫn một dải thanh bình vô sự," "Tàu giặc điên cuồng cớ chi gây rối sóng biển?" "Trời mở đạo "nho trung" khiến cho ông dám đánh," "Vua thương già yếu cho thôi việc binh đao." "Cái vui về quê của đoàn nghĩa dũng có vẻ thong dong." "Bài ca lui giặc của người anh hùng thật là khảng khái." "Cảnh già rỗi rãi, chỉ việc ngồi uống rượu," "Ngà say, cười lạt mà chỉ ra nơi xa xôi."
Ethan Terence Jolley (sinh ngày 29 tháng 3 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Gibraltar hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ St Joseph's và Đội tuyển bóng đá quốc gia Gibraltar. Anh là anh họ của cầu thủ đội tuyển quốc gia Tjay De Barr. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Jolley ra mắt quốc tế cho Gibraltar vào ngày 26 tháng 3 năm 2019, khi vào sân thay cho Tjay De Barr trong những phút bù giờ của hiệp 2, trận giao hữu gặp Estonia, kết thúc với tỷ số 1-0 nghiêng về Estonia. "Tính đến 27 tháng 3 năm 2023"
Auguste của Phổ (Christine Friederike Auguste; 1 tháng 5 năm 1780 – 19 tháng 2 năm 1841) là chủ của một salon, họa sĩ và thông qua hôn nhân với Welhelm II, Tuyển hầu xứ Hessen là Tuyển hầu phu nhân xứ Hessen. Auguste chào đời tại Postdam, Phổ, là con gái chung thứ hai của Friederich Wilhelm II của Phổ và Friederike Luise xứ Hessen-Darmstadt. Ngày 13 tháng 2 năm 1797 tại Berlin, Auguste kết hôn với Wilhelm của Hessen-Kassel, con trai lớn của Wihelm IX, Phong địa Bá tước xứ Hessen-Kassel. Năm 1803, ngài Phong địa Bá tước được thăng tước thành Tuyển hầu xứ Hessen và Công tử Wilhelm đã kế vị cha mình sau cái chết của ông vào năm 1821. Cuộc hôn nhân của Auguste vốn được sắp đặt về mặt chính trị và không hạnh phúc. Auguste và Wilhelm thường xuyên xung đột dẫn đến những cuộc đối đầu gay gắt. Năm 1806, Hessen bị xâm chiếm bởi Pháp. Auguste lúc này đang ở Berlin cùng các con, thủ đô nước Phổ do đang mang thai khi quân đội của Napoléon chiếm đóng. Napoléon cho lính canh gác quanh nhà Auguste và ra lệnh không được quấy rầy bà Tuyển hầu. Với việc Hessen và Phổ bị chiếm đóng và gia đình Auguste phải sống lưu vong, Auguste lâm vào tình cảnh thiếu tiền và sau khi sinh con, Auguste đã yêu cầu một cuộc gặp với Napoléon. Bà Tuyển hầu xuất hiện trước mặt Napoléon với đứa con mới sinh trên tay và nắm tay một đứa con của cô ấy khác và Napoléon trợ cấp cho mình và Napoléon đã chấp thuận. Sau khi sinh đứa con cuối cùng vào năm 1806, mối quan hệ giữa Auguste và William chấm dứt một cách không chính thức. Năm 1815, hai bên đồng ý mỗi người sẽ duy trì một hộ gia ("household") riêng biệt. Auguste sống trong Cung điện Schönfeld, nơi Bà Tuyển hầu trở thành chủ một salon trở thành một nổi tiếng và là trung tâm của "vòng tròn Schoenfelder" lãng mạn, bao gồm Ludwig Hassenpflug, Joseph von Radowitz và anh em nhà Grimm, trong khi Wilhelm II sống ở một dinh thự khác với tình nhân của mình, Emilie Ortlöpp. Auguste đóng cửa salon vào năm 1823, và từ năm 1826 đến năm 1831, bà Tuyển hầu sống ở Den Haag, Koblenz, Bonn và Fulda và trở lại Kassel vào năm 1831. Auguste được coi là một họa sĩ tài ba và có các tác phẩm bao gồm các bức chân dung tự họa. Vài tháng sau cái chết của Auguste, Tuyển hầu Wilhelm II đã tái hôn bất đăng đối với người tình lâu năm Emilie Ortlöpp, Emilie được phong là Nữ bá tước xứ Reichenbach-Lessonitz và có với Wilhelm II tám người con.
Marie Élisabeth của Pháp Marie Elisabeth của Pháp (tiếng Pháp: "Marie Élisabeth de France"; tiếng Đức: "Marie Elisabeth von Frankreich"; 27 tháng 10 năm 1572 – 2 tháng 4 năm 1578) là một Vương nữ Pháp và là thành viên của Vương tộc Valois. Marie Élisabeth là đứa con duy nhất của Vua Charles IX của Pháp và Elisabeth của Áo. Ông bà ngoại của Marie Elisabeth là Maximilian II của Thánh chế La Mã và María của Tây Ban Nha, trong khi đó ông bà nội của Marie là Henri II của Pháp và Caterina de' Medici. Marie Élisabeth sinh ra tại Cung điện Louvre ở Paris, Pháp, là con gái duy nhất của Charles IX của Pháp và Elisabeth của Áo. Mặc dù không khỏi thất vọng vì Marie Élisabeth không phải là nam duệ được kì vọng kế vị ngai vàng Pháp mà hai vợ chồng mong đợi, vương nữ vẫn được cha mẹ yêu thương. Marie Élisabeth được rửa tội gần bốn tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 2 năm 1573 tại Nhà thờ Saint-Germain l'Auxerrois. Bất chấp những tranh cãi về tôn giáo và chính trị bắt nguồn từ Cuộc thảm sát Ngày Thánh Barthélemyy (xảy ra chỉ hai tháng trước khi vương nữ chào đời), một trong những người mẹ đỡ đầu của Marie Élisabeth là nữ vương theo Kháng Cách Elizabeth I của Anh, đã gửi William Somerset, Bá tước thứ 3 xứ Worcester đại diện của nữ vương vào buổi lễ. Người mẹ đỡ đầu khác cùng tên với Marie là bà ngoại María của Tây Ban Nha, Hoàng hậu La Mã Thần thánh, và cha đỡ đầu của Marie Élisabeth là Emanuel Filiberto, Công tước của Savoia. Vương nữ lớn lên dưới sự giám sát của gia sư Isabelle de Crissé . Khi Marie Elisabeth chưa đầy hai tuổi, cha của vương nữ, Charles IX đã qua đời và chú của Marie trở thành Henri III của Pháp . Chỉ một năm sau, mẹ của Marie Élisabeth trở lại Viên sau khi Maximilian II hoàn trả của hồi môn, trong khi Marie Elisabeth, với tư cách là Vương nữ Pháp, phải ở lại. Lúc đó Marie Élisabeth chưa đầy ba tuổi. Hai mẹ con nói lời từ biệt nhau tại Lâu đài Amboise vào ngày 28 tháng 8 năm 1575 và không bao giờ gặp lại nhau. Pierre de Bourdeille, Lãnh chúa xứ Brantôme, người có dì, Phu nhân Crissé, là gia sư của Marie Elisabeth, đã mô tả vương nữ trong tác phẩm của mình. The Pierre, Marie Elisabeth là một vương nữ xinh đẹp nhưng cũng thông minh khác thường và ham học hỏi, đôi khi có vẻ giống một người lớn hơn là một đứa trẻ. Vương nữ nhớ tên của tổ tiên mình, thuộc cả Vương tộc Valois và Habsburg, và tự hào nói với mọi người rằng mình thuộc về cả hai vương thất vĩ đại đó. Marie Elisabeth là một nhân vật rất quan trọng vì vương nữ là người cháu họ Valois duy nhất của Henri II của Pháp và Caterina de' Medici dù rằng họ đã nuôi dạy bốn người con trai đến tuổi trưởng thành. Nếu Marie Elisabeth là nam giới và sống đủ lâu thì sẽ là người thừa kế ngai vàng của Pháp tiếp tục kéo dài huyết mạch Vương tộc Valois và ngăn chặn nhiều cuộc chiến tranh giành quyền kế vị và tôn giáo sau đó. Ngay cả khi là một phụ nữ (tức là bị luật Salic cấm thừa kế ngai vàng), với tư cách vừa là hậu duệ của cả Vương tộc Valois và Habsburg, Marie Élisabeth có thể giảm bớt sự tranh chấp kế vị thông qua hôn nhân, thậm chí có thể trở thành Vương hậu nước Pháp. Vì vậy, cái chết của Marie Élisabeth là nguyên nhân gián tiếp góp phần gây ra ít nhất một vài xung đột trong triều đại của chú vương nữ là Henri III và sau khi Henri III qua đời. Marie Elisabeth ban đầu cư trú tại Amboise và Blois, nhưng sau đó đã chuyển đến Paris. Vì tình trạng sức khỏe yếu, vương nữ đã qua đời vào ngày 2 tháng 4 năm 1578 tại Hôtel d'Anjou, khi mới 5 tuổi rưỡi. Marie Élisabeth được triều đình vô cùng thương tiếc dù còn bé vì sự tốt bụng, duyên dáng và dịu dàng của vương nữ. Tám ngày sau, ngày 10 tháng 4, Marie Élisabeth được chôn cất trong hầm Vương cung thánh đường Thánh Denis, bên cạnh cha của mình. Vào ngày 17 tháng 10 năm 1793, ngôi mộ của Marie Élisabeth đã bị mạo phạm những người tham gia cách mạng Cách mạng Pháp, và hài cốt của vương nữ bị được ném vào một ngôi mộ chung. Năm 1817, Marie Élisabeth được an táng lại trong Vương cung thánh đường.
Luca Strizzolo (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Anh ra mắt tại giải Lega Pro cho Pisa vào ngày 25 tháng 9 năm 2011 trong trận gặp Pro Vercelli. Cho mượn tại Treviso. Vào ngày 18 tháng 1 năm 2013, anh được đem cho mượn tại câu lạc bộ Treviso. Cho mượn tại Pordenone. Ngày 12 tháng 7 năm 2019, anh quay trở lại Pordenone theo dạng cho mượn trong mùa giải 2019-20. Cho mượn tại Perugia. Ngày 18 tháng 8 năm 2022, Strizzolo được đem cho mượn tại Perugia. Cho mượn tại Modena. Ngày 10 tháng 1 năm 2023, anh chuyển tới Modena theo dạng cho mượn.
Tiếng Ả Rập Taʽizz-Aden Các ngôn ngữ tồn tại trong khu vực này trước khi tiếng Ả Rập xuất hiện đã có những tác động lâu dài đối với phương ngữ Ta'izz-Aden. Do lịch sử và sự cô lập tương đối về địa lý, nó đã phát triển một số biến thể ngữ âm và từ vựng nhất định. Tiếng Ả Rập Ta'izz-Aden được phân loại là một phương ngữ của tiếng Ả Rập Yemen, bản thân nó là một biến thể của tiếng Ả Rập bán đảo rộng hơn, và có nguồn gốc từ các khu vực phía tây nam Yemen và quốc gia Djibouti gần đó, với một số ít người nói ở Eritrea. Năm 2016, ước tính có khoảng 10,48 triệu người trên toàn thế giới sử dụng phương ngữ Ta'izz-Aden. Ở những khu vực nói tiếng Ta'izz-Aden, để viết và chuẩn bị trước cho các bài phát biểu, tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại thường được chọn thay thế tiếng Ta'izz-Aden, tương tự như hầu hết các phương ngữ trên khắp thế giới Ả Rập. Vì lý do này, tiếng Ả Rập và các phương ngữ khác nhau được phân loại là một ngôn ngữ gốc; một ngôn ngữ trong đó hình thức nói và hình thức viết là khác nhau. Có hai biến thể của phương ngữ Ta'izz-Aden là Ta'izz và Aden. Phương ngữ Ta'izz được nói chủ yếu ở tỉnh Ta'izz của Yemen và tỉnh Ibb lân cận, trong khi Aden được nói xa hơn về phía nam, trong chính Aden và các vùng nông thôn hẻo lánh gần đó. So sánh hai phân khu này, có một số khác biệt nhất định, phần lớn là do địa lý và lịch sử của các khu vực tương ứng. Trong lịch sử, Aden từng là một cảng thương mại trên Ấn Độ Dương, đồng thời là điểm dừng chân trên Con đường Tơ lụa. Thậm chí ngày nay Aden vẫn tiếp tục là xưởng đóng tàu lớn nhất phục vụ đất nước Yemen, với ba cảng lớn nhất đều nằm trong thành phố rộng lớn hơn. Do vị trí của cảng ở rìa Ấn Độ Dương và tương đối gần Biển Đỏ, Aden cùng với khu vực xung quanh đã bị Vương quốc Anh thôn tính vào năm 1831 để sử dụng làm thương cảng trên tuyến đường giữa Ấn Độ, một thuộc địa khác, và bản thân nước Anh. Do đó, cảng chứng kiến ​​​​sự nhập cư tạm thời từ cả Vương quốc Anh lẫn Ấn Độ thuộc Anh. Điều này dẫn đến sự tiếp xúc lớn hơn với các ngôn ngữ và nền văn hóa khác nhau so với Ta'izz xa xôi và biệt lập hơn. Do đó, phương ngữ tiếng Ả Rập Aden có tỷ lệ từ mượn cao hơn, đặc biệt là từ gốc Anh và Ấn Độ, so với hầu hết các phương ngữ tiếng Ả Rập khác. Ngôn ngữ Ả Rập đương đại có nguồn gốc xa hơn về phía bắc so với Yemen, trong và xung quanh khu vực Hejaz ở Ả Rập Xê Út, và đến khu vực tây nam Yemen ngày nay sau các cuộc chinh phục ban đầu của người Hồi giáo trên bán đảo Ả Rập. Trước khi tiếng Ả Rập ra đời, một nhóm ngôn ngữ được gọi chung là "tiếng Nam Ả Rập cổ" đã được nói ở khu vực ngày nay bao gồm phương ngữ Ta'izz-Aden. Các ngôn ngữ này có quan hệ gần gũi với nhau và được xếp vào ngữ tộc Semit, tương tự tiếng Ả Rập hiện đại. Từ những mẩu thông tin và bản ghi hạn chế hiện có của các ngôn ngữ đã tuyệt chủng này, cũng như bằng cách phân tích những hậu duệ hiện đại còn sót lại, các học giả đã cố gắng tái tạo và phân loại các đặc điểm của chúng. Từ những gì được tái tạo, có vẻ như các ngôn ngữ đã để lại ảnh hưởng đáng kể đối với phương ngữ Ta’izz-Aden, đồng thời là nguồn gốc của nhiều đặc điểm âm vị học và từ vựng độc đáo của phương ngữ. Trong hai cách phân loại chính của các phương ngữ Ả Rập, cụ thể là sự ít di trú và du mục (đôi khi được gọi nhầm là Bedouin), phương ngữ Ta'izz-Aden thuộc về loại thứ nhất. Điều này đã được rút ra do sự khác biệt đáng kể về cả âm vị học lẫn từ vựng đã được quan sát thấy giữa các phương ngữ được sử dụng bởi các thị trấn của bán đảo Ả Rập và các phương ngữ được sử dụng bởi các dân tộc du mục trước đây của nó. Vì vùng nói tiếng Ta'izz-Aden, Tây Nam Yemen, là một trong số ít khu vực của bán đảo Ả Rập có đủ năng suất nông nghiệp để cho phép lối sống ít di trú, nên cư dân của khu vực này hầu như không di chuyển thường xuyên. Vì vậy, những lối sống này được phản ánh trong âm thanh và từ vựng của phương ngữ. Ngoài ra, có một cộng đồng khá lớn gồm những người nói tiếng Ả Rập Ta'izz-Aden chủ yếu theo đạo Do Thái, sống ở quốc gia Đông Phi Eritrea. Trong lịch sử, người Do Thái đã hiện diện lâu dài tại vùng Aden từ khoảng 2000 năm trước, vào thời Vương quốc Himyar do người Do Thái ở Nam Ả Rập làm chủ. Những người Do Thái Aden này nói ngôn ngữ địa phương, tiếng Ả Rập Ta'izz-Aden, và không được coi là khác biệt về mặt dân tộc hoặc văn hóa với người Hồi giáo. Sau cuộc chinh phục Aden của Anh và việc thành lập Chính phủ bảo hộ Aden vào năm 1839, những người Do Thái Aden này, còn được gọi là người Aden, bắt đầu được xác định là một dân tộc riêng biệt với những cư dân khác trong khu vực, bất chấp lịch sử và ngôn ngữ chung của họ. Cuộc chinh phạt của Anh cũng dẫn đến sự gia tăng nhập cư của người Do Thái từ các khu vực khác của bán đảo Ả Rập đến Vùng bảo hộ Aden mới thành lập. Dưới sự cai trị của Anh, nhiều người Do Thái Aden nói tiếng Ả Rập Ta'izz-Aden đã thành lập các doanh nghiệp và cộng đồng thương mại ở lãnh thổ Eritrea gần đó của Ý. Năm 1947, sau thông báo về kế hoạch phân chia khu vực Palestine của Liên Hợp Quốc, các cuộc bạo động và biểu tình quy mô lớn đã xảy ra khắp Vùng bảo hộ Aden của Anh, dẫn đến cái chết của 82 người Do Thái Aden, khiến nhiều giáo đường Do Thái và các cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của người Do Thái bị phá hủy. Sau đó, đã có một cuộc di cư quy mô lớn của người Do Thái Aden, vì những người còn lại đã chạy trốn khỏi Aden hàng loạt, chủ yếu định cư tại các cộng đồng đã được thành lập trước đó ở Eritrea; vào thời điểm đó, đang thuộc của Ethiopia. Vì lý do này, vẫn tồn tại một cộng đồng nói tiếng Ả Rập Ta'izz-Aden tương đối lớn ở nhà nước Eritrea hiện đại. Giống như nhiều phương ngữ, từ vựng tiếng Ta’izz-Aden có những yếu tố giúp phân biệt nó với các phương ngữ khác. Những khác biệt này phát sinh phần lớn là do thực tế lịch sử và địa lý đã nói ở trên của Tây Nam Yemen. Một số ví dụ về sự khác biệt giữa tiếng Ta'izz-Aden và tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại được phiên âm dưới đây, với bản dịch tiếng Việt kèm theo:
gradonachalstvo () là một thực thể lãnh thổ hành chính đặc biệt của Đế quốc Nga gồm có một thành phố và lãnh thổ lân cận nó, nằm dưới quyền quản lý của một chức quan "gradonachalnik", trực thuộc Tổng tỉnh và Bộ Nội vụ, thay vì thống đốc dân sự. "Gradonachalstvo" là tiền thân của các thành phố quan trọng khu vực. Việc thành lập các chính quyền tự quản đô thị như vậy bắt đầu vào thế kỷ 19. Các "gradonachalstvo" Saint Petersburg và Odessa hình thành các huyện lãnh thổ đặc biệt vì cả hai duma thành phố đều sử dụng quyền của hội đồng huyện (zemstvo) và bầu các đại biểu cho hội đồng lãnh thổ tỉnh. Thành phố Dalniy được Trung Quốc cho thuê theo Công ước Nga-Trung năm 1898 trong 25 năm. Nó bị mất vào tay Nhật Bản trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1905. Tỉnh Moskva được thành lập vào năm 1709. Năm 1727, có thêm một chức vụ chỉ huy trưởng tồn tại cho đến năm 1797 và giám sát thống đốc Moskva. Năm 1797, chức vụ chỉ huy trưởng được chuyển thành thống đốc quân sự (từ năm 1816 - tổng đốc quân sự) và năm 1865 thành tổng đốc giống như tồn tại trên toàn đế chế. Năm 1905, một vị trí bổ sung khác đã được lập ra để quản lý độc quyền thành phố Moskva là "gradonachalnik" trực thuộc Tổng đốc Moskva.
Trường Sơn (nghệ sĩ) Trường Sơn (sinh năm 1950) là nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ ưu tú Việt Nam. Ông được coi là cây đại thụ của Cải lương Hồ Quảng Việt Nam Tiểu sử và sự nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh mảnh đất ấy ông đã ở từ khi mới chào đời vào năm 1950, tuổi Canh Dần. Cha ông là nghệ sĩ Bảy Đực, tay trống rất giỏi của đoàn hát bội Vĩnh Xuân – Khánh Hồng, rồi tiếp luôn là đoàn hồ quảng Minh Tơ – Khánh Hồng. Mỗi ngày ông nghe lời ca tiếng hát rót bên tai, rồi tham gia đoàn Đồng Ấu Minh Tơ, được thầy Minh Tơ dạy từng điệu bộ, cách ca. Bạn nhí của ông là những Bửu Truyện, Thanh Tòng, Thanh Loan, Xuân Yến… con nhà nòi của dòng họ Minh Tơ. Một lớp trẻ bắt đầu tỏa sáng, đặc biệt Trường Sơn, Thanh Tòng thành công rực rỡ trong các vai kép võ như Lữ Bố, Triệu Tử Long, Quan Công, Chu Du, Tống Nhân Tông… Năm 1972, tuồng hồ quảng được ái mộ trên đài truyền hình và bán vé ào ào tại sân khấu, thì Trường Sơn là một trong những cái tên ăn khách. Sau giải phóng, ông phải chạy xe ôm một thời gian, nhưng khi đoàn Minh Tơ có giấy phép biểu diễn trở lại thì ông tiếp tục tỏa sáng với hàng loạt vai như Bao Công (Bao Công vô lò gạch), Lý Đạo Thành (Câu thơ yên ngựa), Tô Hiến Thành (Tô Hiến Thành xử án), Phạm Cự Chích (Bão táp Nguyên Phong)… Ông là chồng của cô đào Thanh Loan, nghĩa là rể của nghệ sĩ Minh Tơ. Hai người sinh ra ba cô con gái Ngọc Trinh, Tú Sương, Thanh Thảo đều theo cải lương. Chưa kể hai con với người vợ trước (cô đào Thanh Ngọc) là Tuấn Sang, Thanh Uyên cũng nối nghiệp mẹ cha. Như vậy, gia đình ông đóng góp vào gia phả của nghệ sĩ Thành Tôn, Minh Tơ, Khánh Hồng đến đời thứ 5. Mới đây, khi phát hiện cô bé Hồng Quyên, con của Tú Sương, cũng ca hát rất say mê, thì ông tràn trề hy vọng cải lương sẽ truyền đến đời thứ 6. Các vỡ cải lương từng tham gia. "Bao công của cải lương Việt Nam" trong các vỡ Ngoài ra còn các vỡ
Tỉnh Tiểu Nga thứ nhất (, tiếng Ukraina: Малоросійська губернія) hay Chính phủ Malorossiya được chính phủ Nga thành lập vào năm 1764–65 sau khi bãi bỏ Quốc gia hetman Cossack tại các vùng đất Ukraina để hợp nhất vào Đế quốc Nga. Tỉnh Tiểu Nga thứ nhất nằm dưới quyền cai quản của Pyotr Rumyantsev. Với một cuộc cải cách hành chính khác vào năm 1781, tỉnh và các phân khu (trung đoàn) của nó đã bị giải thể và thay thế bằng các phó vương quốc được chia thành các huyện (uyezd). Tỉnh được chia thành 10 trung đoàn (polk) tương đương với các huyện (uyezd). Cho đến năm 1767, huy hiệu của tỉnh là người Cossack với súng hỏa mai, sau đó nó được thay thế bằng đại bàng hai đầu của Nga.
Hashim Ali Abdullatif (; sinh ngày 17 tháng 8 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Qatar hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Al Sadd tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Qatar. Sự nghiệp thi đấu. Ali bắt đầu sự nghiệp thi đấu tại câu lạc bộ Al Sadd SC vào năm 2019. Cho mượn tại Al-Arabi và Al-Rayyan. Tháng 1 năm 2019, anh được đem cho mượn tại Al-Arabi SC và tháng 9 năm 2021, anh tiếp tục được đem cho mượn tại Al-Rayyan SC. Quay trở lại Al Sadd. Tháng 6 năm 2022, anh quay trở lại đội bóng cũ Al Sadd SC.
Tỉnh Tiểu Nga () hay Chính phủ Malorossiya là một đơn vị hành chính-lãnh thổ (guberniya) của Đế quốc Nga, bao gồm hầu hết phần đông bắc Ukraina hiện nay (một trong những định nghĩa lịch sử về Tiểu Nga), và các vùng lân cận ở Nga. Tỉnh được thành lập vào năm 1796 trong cải cách hành chính của Pavel I, bãi bỏ hệ thống Namestnichestvo (phó vương quốc), hệ thống này thay thế chính quyền cấp trung đoàn của Quốc gia Hetman Ukraina vào năm 1781. Điều này đặt Phó vương quốc Kiev (ngoại trừ thành phố Kiev), Phó vương quốc Novgorod-Seversky và Phó vương quốc Chernigov thuộc về đơn vị mới. Trung tâm hành chính là thành phố Chernigov (hiện nay là Chernihiv). Tuy nhiên, diện tích rộng lớn mà đơn vị mới bao phủ quá lớn để có thể quản lý hiệu quả, và vào tháng 2 năm 1802, tỉnh này được chia thành tỉnh Chernigov và tỉnh Poltava.
Danh sách tuyến xe buýt Bắc Ninh Dưới đây liệt kê danh sách các tuyến xe buýt nội tỉnh Bắc Ninh và từ Bắc Ninh đi các tỉnh lân cận được cập nhật liên tục. Các tuyến xe buýt đang hoạt động. Thông tin chi tiết các tuyến. BN01: Bắc Ninh - Lương Tài. Khoảng cách: 36,4 km BN02: Bắc Ninh - Phả Lại. Khoảng cách: 28,2 km BN03: Bắc Ninh - Yên Phong. Khoảng cách: 17,8 km Lộ trình: Bến xe Bắc Ninh – Nguyễn Du – Ngô Gia Tự – Thiên Đức – ĐT.286 – Vạn An – Đông Phong – Long Châu – Trung Nghĩa – Thị trấn Chờ – Yên Phụ – Hòa Tiến – Bãi đỗ xe cầu Đò Lo (Yên Phong) BN08: Bắc Ninh - Kênh Vàng. Khoảng cách: 48,1 km Đơn vị vận hành: Công ty cổ phần xe khách Bắc Ninhbr BN27: Kênh Vàng - Xuân Lâm. Khoảng cách: 36,4 km Hoạt động từ ngày: 04/09/2020br Lộ trình: Ngã ba Kênh Vàng - ĐT.281 - TT.Thứa - đường Lý Thái Tổ (Thứa) - vòng xuyến Kim Đào - đường Nguyễn Văn Cừ (Thứa) - ĐT.284 - Đại Bái - QL.17 - Ngã tư Đông Côi - QL.38 - phố Vương Văn Trà (Hồ) - Âu Cơ (Hồ) - QL.17 - KCN Khai Sơn - Chùa Dâu - Cổng KĐT Khai Sơn BN68: KCN VSIP - Chi Lăng. Khoảng cách: 37,6 km Hoạt động từ ngày: 29/04/2019br Lộ trình: Thôn Rích Gạo (Phù Chẩn) – ĐT.277 – Cầu Đại Đình – Đền Đô – ĐT.277 - Cột đồng hồ Từ Sơn – ĐT.295B – đường Lê Thái Tổ – Ngã tư cột đồng hồ – đường Nguyễn Trãi – đường Bình Than – đường Nguyễn Đăng Đạo – đường Lý Thái Tổ – đường Kinh Dương Vương – ĐT 295B – đường Trần Lựu – đường Hoàng Quốc Việt – đê Sông Cầu (ĐT 279) – Chợ Nội Doi (ĐT 279) – Ngã tư Phố Mới – Chợ Chì (ĐT 279) – thôn Quế Ổ (Chi Lăng) BN86A: Bắc Ninh - Minh Tân. Văn bản: Quyết định số 854/QĐ-UBND, Công văn số 2726/UBND-XDCBbr Thời gian hoạt động:br Khoảng cách: 42,1 kmbr Hoạt động từ năm: 2016br BN86B: Bắc Ninh - Đại Lai. Văn bản: Quyết định số 2128/QĐ-UBND, Quyết định số 1153/QĐ-SGTVTbr Thời gian hoạt động:br Khoảng cách: 35 kmbr Hoạt động từ ngày: 01/01/2020br 10A: Long Biên - Từ Sơn. Thời gian hoạt động: 5h05 – 21h00br Tần suất xe chạy: 15 – 20 phút/lượtbr Khoảng cách: 17.9 kmbr Thời gian chuyến: 45 – 50 phútbr Giá vé: 7.000 VNĐbr Lộ trình: Long Biên (đối diện Đội CSGT số 1 Hà Nội – số 3 Trần Nhật Duật) – Trần Nhật Duật – Yên Phụ – Quay đầu tại đối diện 92 Yên Phụ – Điểm trung chuyển Long Biên – Trần Nhật Duật – Cầu Chương Dương – Nguyễn Văn Cừ – Ngô Gia Tự – Cầu Đuống – Hà Huy Tập – Quốc lộ 1A – Dốc Lã – Đình Bảng – Trần Phú (Từ Sơn) – Minh Khai (Từ Sơn) – Từ Sơn (Cổng bệnh viện đa khoa Từ Sơn) 54: Long Biên - Thành Phố Bắc Ninh. Thời gian hoạt động: 5h00 – 21h15br Tần suất xe chạy: 15 phút/lượtbr Khoảng cách: 30,6 kmbr Thời gian chuyến: 60 – 90 phútbr Giá vé: 9.000 VNĐbr Lộ trình: Long Biên - Yên Phụ - Điểm trung chuyển Long Biên - Trần Nhật Duật - Cầu Chương Dương - Nguyễn Văn Cừ - Ngô Gia Tự - Cầu Đuống - Hà Huy Tập – Đặng Phúc Thông – Trần Phú (Từ Sơn) – Minh Khai(Từ Sơn) –Hai Bà Trưng(Tiên Du) - Nguyễn Văn Cừ (Bắc Ninh) - Ngô Gia Tự (Bắc Ninh) - Đường Kinh Dương Vương - Thành phố Bắc Ninh 203: Giáp Bát - Bắc Giang. Khoảng cách: 61,2 km Lộ trình: BX Giáp Bát – Giải Phóng – Kim Đồng – Giải Phóng – Pháp Vân – Nguyễn Khoái – Trần Khánh Dư – Trần Quang Khải – Trần Nhật Duật – Nguyễn Văn Cừ – Cầu Chui – Ngô Gia Tự – Cầu Đuống – Hà Huy Tập – Yên Viên – Dốc Lã – Từ Sơn – Lim – Thị xã Bắc Ninh – Thị Cầu – Tam Tầng – Chợ Nếnh – Hồng Thái – Thành phố Bắc Giang – Xương Trạch – BX Bắc Giang. 204: Long Biên - Thuận Thành. Khoảng cách: 32,2 km Lộ trình: Long Biên – Cầu Chương Dương – Nguyễn Văn Cừ – Nguyễn Văn Linh – Quốc Lộ 5 – Ngã 4 Phú Thị – Đường 181 – Phố Sủi – Keo – Kim Sơn – Chùa Keo – Phố Toàn Thắng(KCN Hapro) – Đức Hiệp – Xuân Lâm – Hà Mãn – Chùa Dâu – Thanh Hoài (Thanh Khương) – Tám Á(Gia Đông) – Phố Khám(Gia Đông) – Thị trấn Hồ(Thuận Thành). 210: Hiệp Hòa - Gia Lâm. Khoảng cách: 43,8 km 212: Mỹ Đình - Quế Võ. Khoảng cách: 66,7 km 217: Hải Dương - Bắc Ninh. Khoảng cách: 53,7 km
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran là một sự kiện chính trị, ngoại giao và khủng bố bắt đầu từ ngày 30 tháng 4 và kết thúc vào ngày 5 tháng 5 năm 1980, sau khi một nhóm gồm sáu người đàn ông có vũ trang xông vào Đại sứ quán Iran tại số 16 đường Princes Gate, quận Nam Kensington, Luân Đôn. Các tay súng người Ả Rập Iran đã bắt giữ 26 người làm con tin, bao gồm các nhân viên đại sứ quán, một số du khách và một sĩ quan cảnh sát làm nhiệm vụ an ninh ở đại sứ quán. Họ yêu sách chính phủ Iran phải trả tự do cho các tù nhân DRFLA ở Khuzestan và yêu cầu chính phủ Anh phải đưa họ rời khỏi Anh một cách an toàn. Chính phủ Anh và Iran kiên quyết không thỏa hiệp với khủng bố, và đã huy động lực lượng an ninh bao vây đại sứ quán. Năm con tin đã được thả tự do nhờ sự thương lượng của cảnh sát Anh, đổi lại họ phải đáp ứng một vài yêu cầu nhỏ của các kẻ tấn công, ví dụ như việc phát sóng trực tiếp những yêu sách của những kẻ tấn công trên truyền hình nước Anh. Đến ngày thứ sáu của cuộc bao vây, các tay súng ngày càng mất kiên nhẫn vì các yêu sách của họ không được chính phủ Anh đáp ứng trong thời hạn. Tối hôm đó, họ đã sát hại một con tin và ném xác anh ta ra cửa đại sứ quán. Lực lượng Tác chiến Đường không Đặc biệt (SAS), một đơn vị đặc nhiệm của Lục quân Anh đã được điều động để tiến hành Chiến dịch Nimrod, chiến dịch giải cứu con tin và tái chiếm đại sứ quán. Cuộc đột kích táo bạo kéo dài 17 phút, các đặc nhiệm SAS đã giải cứu thành công các con tin trong đại sứ quán và bắn chết năm trong số sáu tay súng DRFLA. Thành viên duy nhất của DRFLA bị bắt trong cuộc đột kích đã phải chịu án tù 27 năm ở Anh. Chiến dịch Nimrod được coi là lần ra mắt công chúng đầu tiên của lực lượng đặc nhiệm SAS và đã giúp củng cố danh tiếng của Thủ tướng Margaret Thatcher và chính phủ Anh. Sau cuộc đột kích, số lượng đơn đăng ký vào SAS đã gia tăng đột biến, đồng thời họ cũng nhận được nhiều lời mời hợp tác trao đổi kinh nghiệm chiến đấu của các chính phủ nước ngoài. Tòa đại sứ quán Iran bị hư hỏng nặng trong cuộc tấn công và chỉ được mở cửa trở lại vào năm 1993. Truyền thông Anh đã tường thuật trực tiếp cuộc đột kích của lực lượng SAS trên sóng phát thanh và sóng truyền hình, giúp ghi lại một trong những thời khắc hào hùng nhất trong lịch sử của nước Anh, và đã tạo đà thăng tiến sự nghiệp cho nhiều nhà báo liên quan. Sự kiện này đã trở thành chủ đề của nhiều bộ phim tài liệu và các tác phẩm hư cấu, bao gồm nhiều bộ phim ngắn và phim truyền hình. Những kẻ bắt cóc con tin là thành viên của Mặt trận Cách mạng Dân chủ Giải phóng Arabistan (DRFLA), những người Ả Rập Iran ủng hộ việc thành lập một nhà nước Ả Rập tự trị ở khu vực phía nam của tỉnh Khūzestān của Iran, nơi sinh sống của một số bộ phận người Ả Rập thiểu số. Khūzestān cũng là nơi có nguồn dự trữ dầu mỏ trù phú, nên nó được coi là nguồn tài sản lớn của Iran và được khai thác, phát triển bởi các công ty đa quốc gia dưới thời trị vì của quân chủ Shah. Theo Oan Ali Mohammed, việc đàn áp phong trào chủ quyền của người Ả Rập là nguyên nhân dẫn đến việc anh ta muốn tấn công Đại sứ quán Iran ở Luân Đôn. Kế hoạch này được lấy cảm hứng từ Cuộc khủng hoảng con tin năm 1979 ở Iran, sự kiện các nhân viên của đại sứ quán Mỹ ở Tehran bị những người biểu tình thân Cách mạng Hồi giáo bắt làm con tin. Oan Ali Mohammed, lãnh đạo nhóm vũ trang, đã cùng ba thành viên khác của DRFLA đã sử dụng hộ chiếu Iraq để đến Anh. Họ đến Luân Đôn vào ngày 31 tháng 3 năm 1980 và thuê một căn hộ ở quận Earl's Court, Tây Luân Đôn. Theo lời khai của người sống sót, các thành viên DRFLA đã "tình cờ gặp nhau trên chuyến bay." Trong những ngày tiếp theo, nhóm DRFLA ngày càng đông thêm, có lúc lên đến hàng chục người. Oan Ali Mohammed là một người Ả Rập 27 tuổi đến từ Khūzestān. Anh từng theo học tại Đại học Tehran, nơi anh bắt đầu quá trình hoạt động chính trị. Oan bị SAVAK, lực lượng cảnh sát mật của Shah, bắt giam và theo Oan, quá trình tra tấn của SAVAK trong thời gian bị giam giữ đã gây nên nhiều vết sẹo thể chất và tinh thần trong anh. Các thành viên khác trong nhóm của Oan bao gồm Shakir Abdullah "Faisal" Radhil - phụ tá của Oan, Shakir Sultan "Hassan" Said, Themir Moammed "Abbas" Hussein, Fowzi Badavi "Ali" Nejad, và Makki Hanoun "Makki" Ali, thành viên trẻ tuổi nhất nhóm. Vào ngày 30 tháng 4, nhóm của Oan báo với chủ nhà rằng họ sẽ đến thăm quan Bristol trong một tuần trước khi quay về nước, sau đó họ trả lại căn hộ cho chủ nhà và sắp xếp đồ đạc gửi về Iraq. Họ rời tòa nhà lúc 09:30 (BST) ngày 30 tháng 4. Thay vì đến Bristol như đã nói, nhóm người này đã đến trụ sở của Đại sứ quán Iran. Trên đường đi, họ mang theo các khẩu súng tiểu liên và súng lục, cùng nhiều đạn dược và lựu đạn. Số vũ khí này chủ yếu có xuất xứ từ Liên Xô, được cho là đã được nhập lậu vào Anh trong một túi đồ ngoại giao của Iraq. Khoảng 11:30, gần hai giờ sau khi rời căn hộ cho thuê, sáu người đã có mặt tại Đại sứ quán Iran. Theo một nghiên cứu năm 2014 về Chiến tranh Iran-Iraq, những kẻ tấn công đã được chính phủ Iraq "tuyển dụng và huấn luyện" như một phần của chiến dịch lật đổ chống lại Iran, bao gồm cả việc tài trợ vũ khí cho một số phong trào ly khai tại Iran. Ngày một: 30 tháng 4. Khoảng 11:30 ngày 30 tháng 4, sáu thành viên DRFLA có vũ trang đã xông vào tòa Đại sứ quán Iran ở đường Princes Gate, quận Nam Kensington. Các tay súng nhanh chóng khống chế Trevor Lock, một cảnh sát an ninh thuộc Lực lượng An ninh Ngoại giao (DPG) của Sở Cảnh sát Thủ đô. Lock lúc đó đang mang theo một khẩu súng lục ổ xoay Smith Wesson cỡ nòng .38 calibre, nhưng đã được ông giấu kín trong người và quyết định không rút ra để bắn trả do bị áp đảo về hỏa lực. Dù bị khám xét kỹ lưỡng, nhưng các tay súng không tìm ra khẩu súng của ông. Lock cũng từ chối đề nghị cởi áo khoác của các tay súng với lý do muốn "giữ gìn hình ảnh" của một viên cảnh sát. Ngoài ra, Lock còn từ chối đề nghị cung cấp đồ ăn trong suốt thời gian diễn ra cuộc bao vây, lo sợ rằng các tay súng sẽ phát hiện ra khẩu súng của ông nếu ông phải sử dụng nhà vệ sinh. Dù phần lớn những người có mặt trong đại sứ quán đều bị bắt, nhưng ba người đã kịp trốn thoát; hai người đã trèo ra khỏi cửa sổ tầng trệt và người thứ ba đã trèo qua lan can tầng 1 để chạy sang tòa Đại sứ quán Ethiopia ở bên cạnh. Người thứ tư, ông Gholam-Ali Afrouz - tham tán đại sứ quán và là quan chức ngoại cấp cao nhất của Iran có mặt lúc đó - đã cố gắng trèo qua cửa sổ tầng 1 để trốn thoát, nhưng bị thương trong quá trình này và ông nhanh chóng bị bắt. Afrouz và 25 con tin khác sau đó được đưa đến một căn phòng trên tầng hai. Phần lớn con tin là nhân viên đại sứ quán, chủ yếu là công dân Iran, và một số nhân viên người Anh. Những con tin còn lại, trừ Lock, là khách thăm quan. Ông Afrouz mới nắm giữ chức vụ tham tán chưa đầy một năm, sau khi người tiền nhiệm của ông bị cách chức sau cuộc Cách mạng Hồi giáo. Abbas Fallahi, một người quản gia trước cách mạng, được Afrouz bổ nhiệm làm người gác cửa. Một trong những nhân viên người Anh bị bắt là Ron Morris, đến từ Battersea, và ông đã làm việc cho đại sứ quán ở nhiều vị trí khác nhau từ năm 1947. Trong quá trình diễn ra vụ việc, cảnh sát và truyền thông Anh đã xác định được danh tính của vài con tin khác. Mustapha Karkouti là một nhà báo đưa tin về cuộc khủng hoảng tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tehran và đã có mặt tại đại sứ quán để phỏng vấn Abdul Fazi Ezzati, tùy viên văn hóa. Muhammad Hashir Faruqi, một nhà báo khác, cũng đến đại sứ quán để phỏng vấn Afrouz cho một bài báo về Cách mạng Iran. Simeon "Sim" Harris và Chris Cramer, hai nhân viên của BBC, đang ở đại sứ quán để cố gắng xin thị thực đến Iran để đưa tin về hậu quả của cuộc cách mạng năm 1979, sau nhiều nỗ lực không thành công. Cảnh sát Anh nhanh chóng có mặt tại hiện trường ngay sau khi nhận được những báo cáo đầu tiên về vụ nổ súng, và trong vòng 10 phút, bảy sĩ quan DPG đã tập trung ở ngoài đại sứ quán. Họ sau đó lập đội hình bao vây đại sứ quán, nhưng phải rút lui sau khi bị một tay súng xuất hiện ở cửa sổ đe dọa nổ súng. Phó Cảnh sát trưởng John Dellow đến nơi gần 30 phút sau đó và tiếp nhận quyền chỉ huy chiến dịch. Dellow cho lập sở chỉ huy tạm thời trên chiếc xe của ông, trước khi chuyển đến Trường May vá Hoàng gia ở cuối đường Princes Gate và sau đó chuyển về một trường mẫu giáo ở số 24 Princes Gate. Dellow đã cho triển khai đơn vị chiến thuật D11, các xạ thủ bắn tỉa của Sở Cảnh sát Hoàng gia và các sĩ quan trinh sát. Một tổ đàm phán cảnh sát do Thanh tra trưởng Max Vernon lãnh đạo, đã liên lạc được với Oan thông qua một hệ thống điện thoại dã chiến được đưa qua cửa sổ đại sứ quán, và được hỗ trợ bởi một nhà đàm phán ngoại giao và một bác sĩ tâm lý. Vào lúc 15:15, Oan đưa ra yêu cầu đầu tiên của DRFLA, trả tự do cho 91 người Ả Rập bị giam giữ trong các nhà tù ở Khūzestān, đồng thời đe dọa sẽ cho nổ tung đại sứ quán cùng các con tin ở trong nếu điều này không được thực hiện trước trưa ngày 1 tháng 5. Một số lượng lớn nhà báo đã có mặt tại hiện trường và nhanh chóng được tập trung tại một khu vực nằm ở mặt tiền phía tây của đại sứ quán. Những người dân Iran cũng tập trung xung quanh đại sứ quán để biểu tình phản đối hành động của DRFLA đến khi cuộc bao vây kết thúc. Một sở chỉ huy cảnh sát độc lập đã được thành lập để ngăn chặn những cuộc biểu tình lớn, và một vài cuộc đụng độ bạo lực đã diễn ra giữa các đơn vị cảnh sát và người biểu tình. Ngay sau khi có thông tin về sự việc, Chính phủ Anh đã thành lập ủy ban khẩn cấp COBRA (Cabinet Office Briefing Rooms). COBRA bao gồm các bộ trưởng, công chức và các cố vấn cấp cao, trong đó có các đại diện của cảnh sát và lực lượng vũ trang Anh. Ủy ban được chủ trì bởi Bộ trưởng Bộ Nội vụ William Whitelaw vì Thủ tướng Anh Margaret Thatcher vắng mặt. Chính phủ Iran sau đó cáo buộc chính phủ Anh và Mỹ đã tài trợ cho các tay súng trong cuộc tấn công để trả thù cho sự kiện tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tehran. Vì không nhận được sự hợp tác từ Iran và sau khi nhận được báo cáo tình hình từ Bộ trưởng Whitelaw, Thatcher đã quyết định áp dụng luật pháp của Anh lên khu vực đại sứ quán của Iran. Lúc 16:30, các tay súng thả con tin đầu tiên, Frieda Mozaffarian. Mozaffarian có sức khỏe không được tốt khi cuộc bao vây diễn ra, nên Oan đã yêu cầu cử bác sĩ vào tòa đại sứ để điều trị cho cô, nhưng bị cảnh sát Anh từ chối. Các con tin khác đã cùng nhau đánh lừa Oan rằng Mozaffarian đang mang thai, nên Oan đã miễn cưỡng thả tự do cho Mozaffarian sau khi tình trạng của cô ấy ngày một xấu đi. Ngày hai: 1 tháng 5. Cuộc họp của ủy ban COBRA tiếp tục diễn ra suốt đêm và đến sáng thứ năm ngày 1 tháng 5. Trong khi đó, Sở chỉ huy Lực lượng Tác chiến Đường không Đặc biệt (SAS) đã huy động hai đơn vị SAS từ Herefird đến điểm chờ ở Doanh trại Regent's Park. Các thành viên SAS được triển khai thuộc Đại đội B của Trung đoàn SAS 22, và cùng với các chuyên gia kỹ thuật từ đại đội khác, họ mang theo lựu đạn khí ga CS, lựu đạn choáng, thuốc nổ và trang bị tiêu chuẩn là súng tiểu liên Heckler Koch MP5 và súng lục Browning Hi-Power. Trung tá Michael Rose, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 22, đã đến trước đội của ông và phối hợp với Phó Cảnh sát trưởng Dellow. Vào khoảng 03:30 ngày 1 tháng 5, một đội SAS di chuyển vào tòa nhà số 14 Princes Gate ở bên cạnh đại sứ quán, nơi họ được thông báo về kế hoạch "hành động ngay lập tức" của Rose sẽ sớm được thực hiện. Các nhóm SAS được lệnh chờ bên ngoài, và đến khi ban chỉ huy thống nhấn kế hoạch tấn công cuối cùng, họ sẽ xông vào tòa nhà tiêu diệt các tay súng và giải cứu con tin. Sáng sớm ngày 1 tháng 5, các tay súng yêu cầu một con tin gọi điện thoại bàn từ đại sứ quán tới trụ sở của hãng thông tấn BBC. Trong cuộc gọi này, Oan đã trực tiếp nói chuyện với một nhà báo BBC, xác định rõ thông tin tổ chức của họ và hứa sẽ đảm bảo an toàn cho các con tin không phải gốc Iran, nhưng ông từ chối không cho BBC nói chuyện với bất kỳ con tin nào khác. Cảnh sát sau đó đã cắt toàn bộ đường dây điện thoại từ đại sứ quán, buộc các tay súng chỉ có thể liên lạc với bên ngoài thông qua chiếc điện thoại dã chiến của cảnh sát. Sau khi ngủ dậy, Chris Cramer, một con tin và là chuyên viên âm thanh của BBC, bắt đầu có dấu hiệu ốm nặng. Anh và ba con tin khác đã thảo luận rằng một trong số họ phải ra được bên ngoài, và để làm được điều này, Cramer đã phóng đại một cách thuyết phục các triệu chứng của căn bệnh này tới các tay súng. Đồng nghiệp của Cramer, Sim Harris, bị bắt gọi liên lạc tới cảnh sát Anh và thương lượng đưa một bác sĩ vào trong đại sứ quán. Cảnh sát Anh từ chối, thay vào đó, họ yêu cầu Harris thuyết phục Oan thả tự do cho Cramer. Cuộc đàm phán giữa Harris, Oan và cảnh sát kéo dài gần hết buổi sáng, và Cramer được trả tự do vào lúc 11:15. Anh nhanh chóng được đưa đến bệnh viện bằng xe cấp cứu, và một vài sĩ quan cảnh sát cũng được cử đi theo để thu thập lời khai của Cramer. Khi thời hạn thực hiện yêu cầu của Oan vào trưa ngày 1 tháng 5 đến gần, cảnh sát Anh tin rằng các tay súng không có đủ khả năng để tiến hành mối đe dọa cho nổ tung đại sứ quán, nên đã thuyết phục Oan đồng ý với thời hạn mới là 14:00 cùng ngày. Trong buổi chiều, Oan thay đổi yêu cầu của mình, yêu cầu truyền thông Anh phải phát tuyên bố về sự bất bình của nhóm, đồng thời yêu cầu các đại sứ của ba quốc gia Ả Rập đàm phán với nhóm để giúp họ rời khỏi Vương quốc Anh an toàn ngay sau khi tuyên bố trên được phát đi. Khoảng 20:00, Oan bị kích động bởi những tiếng ồn phát ra từ Đại sứ quán Ethiopia ở bên cạnh. Tiếng ồn đó xuất phát từ những chiếc máy khoan, đang được các kỹ thuật viên khoan vào tường để cài thiết bị nghe lén vào. Khi viên cảnh sát Trevor Lock bị các tay súng chất vấn về tiếng ồn trên, ông đã nói dối rằng đó là do chuột tạo ra. Ủy ban COBRA đã ra chỉ thị tạo ra càng nhiều nhiều tiếng ồn xung quanh đại sứ quán Iran càng tốt để che đi âm thanh của tiếng máy khoan, và yêu cầu công ty British Gas khoan một đường ống giả ở con đường liền kề, với lí do là sửa chữa đường ống dẫn khí đốt. Yêu cầu này sau đó bị hủy bỏ sau khi nó kích động tâm lý bất ổn của các tay súng trong đại sứ quán. COBRA sau đó liên lạc tới Cơ quan Hàng không Anh và Sân bay Heathrow ở Luân Đôn, yêu cầu hướng dẫn các máy bay bay đến sân bay phải bay qua đại sứ quán ở độ cao thấp. Ngày ba: 2 tháng 5. Lúc 09:30 ngày 2 tháng 5, Oan xuất hiện tại cửa sổ tầng một của đại sứ quán, yêu cầu cung cấp quyền truy cập vào hệ thống viễn tín, vốn đã bị cảnh sát cắt cùng với đường dây điện thoại vào ngày 1 tháng 5, và đe dọa sẽ giết ông Abdul Fazi Ezzati, tùy viên văn hóa. Cảnh sát từ chối và Oan đã chĩa súng vào Ezzati, rồi đẩy ông qua phòng, và yêu cầu được nói chuyện với ai đó ở BBC có quen biết với Sim Harris. Cảnh sát đã mời Tony Crabb, gám đốc điều hành của BBC Television News và là sếp của Harris. Oan tiếp tục đưa ra những đòi hỏi của mình với Crabb; được rời khỏi Anh an toàn, được đàm phán với ba đại sứ nước Ả Rập, và yêu cầu BBC phát đi tuyên bố về sứ mệnh của những kẻ bắt giữ con tin. Văn phòng Đối ngoại và Thịnh vượng chung đã liên lạc tới đại sứ quán của Algeria, Jordan, Kuwait, Lebanon, Syria và Qatar thông qua kênh liên lạc không chính thức, để hỏi xem liệu đại sứ của họ có sẵn sàng nói chuyện với những kẻ bắt giữ con tin hay không. Đại sứ Jordan ngay lập tức từ chối và năm người còn lại cho biết họ sẽ hỏi ý kiến chính phủ của họ. BBC đã phát đi bản tuyên bố của Oan vào buổi tối cùng ngày, nhưng Oan không hài lòng và cho rằng bản tuyên bố đó đã bị BBC cắt xén đi. Trong khi đó, cảnh sát đã xác định được danh tính của người quản gia đại sứ quán và tức tốc đưa ông đến sở chỉ huy tiền phương để họp bàn với các sĩ quan cấp cao của quân đội và cảnh sát. Người quản gia nói rằng cửa trước của đại sứ quán được gia cố bằng thép an ninh, các cửa sổ ở tầng trệt và tầng một được lắp kính chống đạn theo đề xuất của các đơn vị đặc nhiệm SAS khi họ được mời kiểm tra an ninh đại sứ quán vài năm trước đó. Kế hoạch đột nhập vào đại sứ quán bằng cách phá cửa trước và cửa sổ tầng trệt buộc phải loại bỏ và quân đội Anh bắt đầu suy nghĩ đến các khả năng khác. Ngày bốn: 3 tháng 5. Tức giận vì BBC đưa tin sai sự thật về yêu cầu của mình vào tối hôm trước, Oan đã liên lạc tới tổ đàm phán của cảnh sát vào khoảng 06:00 và cáo buộc chính phủ Anh đã lừa dối anh. Oan yêu cầu được nói chuyện với một đại sứ người Ả Rập, nhưng được các nhà đàm phán cảnh sát nói rằng Văn phòng Đối ngoại vẫn đang thu xếp việc đó. Nhận ra thủ đoạn trì hoãn của cảnh sát Anh, Oan đe dọa các con tin người Anh sẽ là những người cuối cùng được thả vì sự lừa dối của chính phủ Anh, và Oan sẽ bắn chết một con tin nếu Tony Crabb không được đưa đến đại sứ quán. Khoảng 15:30, Crabb mới đến được khu vực đại sứ quán, gần mười giờ sau khi yêu cầu của Oan được đưa ra, và điều đó khiến cả Oan và Sim Harris khá bực bội. Oan tiếp tục đưa ra một tuyên bố tiếp theo tới Crabb thông qua Mustapha Karkouti, một nhà báo cũng đang bị bắt làm con tin trong đại sứ quán. Đại diện cảnh sát Anh hứa tuyên bố này sẽ được phát trên bản tin tiếp theo của BBC, đổi lại Oan phải thả tự do cho hai con tin nữa. Các con tin tự quyết định rằng hai người được thả sẽ là Hiyech Kanji và Ali-Guil Ghanzafar; Kanji lúc đó đang mang thai và người thứ hai Ghanzafar được thả vì tiếng ngáy ngủ to của ông, khiến những con tin khác không ngủ được vào ban đêm và khiến những tay súng rất khó chịu. Khoảng 23:00, một nhóm SAS đã đi trinh sát mái nhà của đại sứ quán. Họ phát hiện ra một cái giếng trời và mở khóa nó thành công. Cái giếng này có thể được sử dụng nhưng một lối vào của mũi xung kích, nếu họ được lệnh xông vào tòa nhà. Vài đoạn dây thừng sau đó được buộc sẵn vào các cột ống khói để lính SAS có thể sử dụng để leo vào tòa nhà trong cuộc đột kích sắp tới. Ngày năm: 4 tháng 5. Trong ngày 4 tháng 5, Văn phòng Đối ngoại Anh tiếp tục tổ chức một cuộc họp với các nhà ngoại giao Ả Rập, với hy vọng thuyết phục được họ đến đại sứ quán của Iran và đàm phán với các tay súng DRFLA. Cuộc họp do Doughlas Hurd, Quốc vụ khanh về Châu Âu, chủ trì và kết thúc trong bế tắc. Các nhà ngoại giao Ả Rập khẳng định rằng chỉ khi người Anh đảm bảo được một lối thoái an toàn khỏi Anh cho các tay súng, thì mới có được một kết quả tốt đẹp, nhưng chính phủ Anh kiên quyết không xem xét và cung cấp bất kỳ đường thoát nào trong bất kỳ trường hợp nào. Karkouti, một con tin được Oan sử dụng làm trung gian để chuyển những yêu cầu của hắn tới cảnh sát vào ngày 3 tháng 5, ngày một ốm yếu và lên cơn sốt vào buổi tối, dẫn đến những ý kiến cho rằng cảnh sát đã tẩm thuốc vào đồ ăn được gửi vào đại sứ quán. Bản thân John Dellow đã cân nhắc ý tưởng này và đã xin ý kiến từ các bác sĩ về khả năng thành công của nó, nhưng cuối cùng cũng bác bỏ ý tưởng vì "không thể thực hiện được." Các sĩ quan SAS tham gia vào chiến dịch, bao gồm Chuẩn tướng Peter de la Billière, Giám đốc SAS, Trung tá Rose, Trung đoàn trưởng Trung đoàn SAS 22, và Thiếu tá Hector Gullan, chỉ huy của đội đột kích, đã dành cả ngày để điều chỉnh kế hoạch tấn công của họ. Ngày sáu: 5 tháng 5. Oan đánh thức Lock vào lúc bình minh, cho rằng có kẻ đột nhập vào đại sứ quán và bắt Lock đi kiểm tra xung quanh, nhưng không tìm thấy bất kỳ kẻ xâm nhập nào. Khi trời sáng, Oan gọi Lock đến kiểm tra chỗ phình ra ở trên bức tường ngăn cách đại sứ quán Iran và đại sứ quán Ethiopia bên cạnh. Trên thực tế, các chuyên viên cảnh sát đã gỡ bỏ vài viên gạch ở bên tường đại sứ quán Ethiopia để gắn thiết bị nghe lén và phục vụ việc phá tường xông vào cho cuộc đột kích sắp tới, dẫn đến việc cấu trúc bức tường bị suy yếu và phình ra. Mặc dù Lock trấn an Oan rằng Lock không tin cảnh sát sẽ ập vào tòa nhà, nhưng Oan vẫn cho rằng người Anh "đang âm mưu gì đó" và cho chuyển các con tin nam xuống một căn phòng ở dưới sảnh. Căng thẳng tiếp tục gia tăng trong suốt buổi sáng và đến 13:00, Oan nói với cảnh sát rằng hắn sẽ giết một con tin trừ khi Oan có thể nói chuyện với một đại sứ Ả Rập trong vòng 45 phút. Lúc 13:40, Lock liên lạc tới cảnh sát Anh rằng các tay súng đã đưa Abbas Lavasani, trưởng phòng báo chí của đại sứ quán, xuống tầng dưới và đang chuẩn bị hành quyết anh ta. Lavasani, một người ủng hộ mạnh mẽ Cách mạng Iran năm 1979, đã nhiều lần khiêu khích các tay súng DRFLA trong suốt cuộc bao vây. Theo Lock, Lavasani nói rằng "nếu họ định giết một con tin, [Lavasani] muốn đó là anh ta." Đúng 13:45, 45 phút sau yêu cầu nói chuyện với đại sứ người Ả Rập của Oan, ba tiếng súng vang lên từ bên trong tòa đại sứ quán. Whitelaw vội vã quay trở lại Whitehall từ một buổi họp ở Slough cách đó khoảng 30 km, 19 phút sau khi có báo cáo về các phát súng trong đại sứ quán. Ông nhận được bản tóm tắt về kế hoạch tấn công của SAS từ tướng de la Billière, với mức thương vong về con tin có thể lên đến 40%. Sau khi cân nhắc kĩ càng, Whitelaw ra lệnh cho các đơn vị SAS chuẩn bị tấn công tòa nhà trong thời gian ngắn. Trung tá Rose nhận được mệnh lệnh trên lúc 15:50, và đến 17:00, các nhóm SAS đã vào vị trí đợi lệnh tấn công. Cảnh sát Anh đã mời một imam từ Nhà thờ Hồi giáo Regent's Park lúc 18:20, với lo sợ rằng cuộc đàm phán sắp đi đến "điểm khủng hoảng" và yêu cầu vị imam thuyết phục các tay súng. Thêm ba phát súng nữa được bắn ra trong quá trình đàm phán của vị imam với Oan. Oan sau đó thông báo rằng một con tin đã bị giết, và những người còn lại sẽ bị giết trong 30 phút nữa trừ khi những yêu cầu của hắn được đáp ứng. Vài phút sau, thi thể của Lavasani được quẳng ra trước cửa đại sứ quán. Dựa vào kết quả khám nghiệm pháp y sơ bộ tại hiện trường, một chuyên viên y tế ước tính rằng Lavasani đã chết ít nhất một giờ trước đó, nên Lavasani không thể là nạn nhân của ba phát súng gần đây nhất. Điều này khiến cảnh sát tin rằng có hai con tin đã bị sát hại, nhưng trên thực tế, chỉ có Lavasani bị bắn chết. Sau khi thu hồi được thi thể của Lavasani, David McNee, Cảnh sát trưởng Sở Cảnh sát Thủ đô, đã liên lạc tới Bộ Nội vụ để yêu cầu cấp toàn bộ quyền quản lý chiến dịch cho Quân đội Anh dựa theo các điều khoản của Luật Viện trợ Quân sự cho Chính quyền Dân sự (MACA). Whitelaw chuyển yêu cầu tới Thủ tướng Thatcher, và được thủ tướng đồng ý ngay lập tức. Do đó, John Dellow, sĩ quan cảnh sát cấp cao tại có mặt tại khu vực đại sứ quán, đã ký giao quyền kiểm soát chiến dịch cho Trung tá Rose lúc 19:07, ủy quyền cho Rose ra lệnh tấn công theo quyết định của ông. Trong khi đó, các nhà đàm phán tiếp tục thương lượng với Oan. Họ đưa ra những yêu cầu nhượng bộ để đánh lừa Oan và ngăn không cho hắn giết thêm con tin, và câu thêm thời gian để các đơn vị SAS hoàn thành bước chuẩn bị cuối cùng cho cuộc đột kích. Hai đội đặc nhiệm SAS, Đội Đỏ và Đội Xanh, được lệnh tiến hành một cuộc tấn công vào đại sứ quán lúc 19:20, dưới mật danh Chiến dịch Nimrod. Theo kế hoạch, các toán SAS của hai đội sẽ xông vào tòa nhà từ mọi phía một cách đồng thời: Khoảng 19:20, Chiến dịch Nimrod được triển khai. Dù vậy, diễn biến cuộc tấn công ban đầu nhanh chóng gặp vấn đề khi Trung sĩ Tom Morrell - chỉ huy Đội 2, bị mắc kẹt vào sợi dây leo ở khu vực cửa sổ tầng hai. Trong khi cố gắng tháo dây cho Morrell, một người lính SAS đã vô tình đạp vỡ kính cửa sổ. Tiếng cửa sổ vỡ đã khiến Oan giật mình, lúc này đang ở tầng một nói chuyện với các nhà đàm phán cảnh sát, và buộc Oan phải ngắt máy đi điều tra. Nhận ra chiến dịch đã có thể bị bại lộ, Thiếu tá Gullan truyền đi mệnh lệnh "Go! Go! Go!" lúc 19:23, ra lệnh toàn bộ các đội SAS tổng tấn công vào tòa nhà. Đội 1 bắt đầu kích nổ khối thuốc nổ được thả xuống từ giếng trời, làm rung chuyển toàn bộ tòa nhà và tạo nhiều cột khói dày đặc. Lo sợ sẽ làm ảnh hưởng tới tính mạng của Morrell, nên Đội 3 ở tầng trệt phía sau đại sứ quán đã không sử dụng thuốc nổ để phá cửa sổ, thay vào đó, họ đã dùng búa phá cửa và xông vào đại sứ quán. Trong khi đó, lính bắn tỉa của cảnh sát ở bên ngoài liên tục bắn khí ga CS vào bên trong tòa nhà. Trong khi Morrell đang treo lủng lẳng trên dây, Đội 3 của Trung sĩ John McAleese bắt đầu phá cửa sổ bọc thép ở ban công mặt tiền tòa nhà để mở đường tấn công. Khói và lửa bốc ra dữ dội qua cửa sổ, và lính SAS tiếp tục phá nổ nhiều cửa sổ khác của tầng một và ném lựu đạn choáng vào trong nhà. Vụ nổ đã làm Sim Harris, lúc đó đang nấp ở bên trong thư viện, hoảng sợ vào lao ra ngoài ban công phía trước tòa nhà. Màn trốn thoát của Harris qua lan can đầy khói đã được các nhà báo và phóng viên tập trung ở phía trước đại sứ quán truyền hình trực tiếp. Harris trèo qua ban công của Đại sứ quán Ethiopia và được các nhân viên cảnh sát ở đó cứu sống. Vụ nổ gây ra bởi những quả lựu đạn choáng làm cháy các rèm cửa, và lửa bốc ra dữ dội qua các ô cửa sổ bên dưới người lính SAS bị kẹt trên dây, làm Morrell bị bỏng đáng kể. Với sự giúp đỡ của đồng đội, Morrell đã cắt được dây, khiến anh ngã xuống ban công bên dưới, nhưng vẫn đứng dậy và dẫn Đội 2 xông vào tòa nhà. Khi Đội 2 tràn vào hành lang tầng một, Trung sĩ Tommy Palmer đã đuổi theo và bắn chết một tay súng đang cố gắng bỏ trốn vào phòng bên cạnh. Khi Oan tiến về phía cửa sổ, Lock đã rút khẩu súng lục ra nhằm bắn chết Oan, nhưng bị Oan phát hiện. Khi hai người đang vật lộn với nhau trên sàn nhà, hai lính SAS xông vào phòng. Họ hét lớn cho Lock tránh ra xa và ngay sau khi Lock quăng mình ra khỏi Oan, hai người lính đã bắn một loạt đạn dài, giết chết Oan. Ba tay súng khác khi biết về vụ tấn công đã xả súng bừa bãi vào các con tin đang tập trung tại phòng viễn tín trên tầng hai, khiến nhân viên sứ quán Ali Akbar Samadzadeh thiệt mạng và hai người khác bị thương. Trước khi lính SAS xông vào căn phòng, họ đã vứt vũ khí ra ngoài cửa sổ và đầu hàng lính Anh. Theo các nhân chứng sống sót, lính SAS đã bắn chết hai tay súng sau khi bắt những người này đứng dậy đầu hàng và quay mặt vào tường. Tay súng còn lại trong phòng, Shakir Abdullah Radhil và tay súng thứ sáu, Fowzi Badavi Nejad, tiếp tục trà trộn trong nhóm con tin để tìm cách trốn thoát ra bên ngoài. Trong khi đó, Đội 4 và Đội 5 tiến hành phá cửa để kiểm soát tầng trệt và tầng hầm của đại sứ quán. Đến 19:29, sau khi xác nhận toàn bộ con tin đã được giải cứu, đặc nhiệm SAS bắt đầu lập một vành đai bảo vệ từ tầng hai đến tầng trệt của tòa nhà, và các con tin được dẫn ra khu vườn phía sau để kiểm tra. Khi đang di tản con tin, lính SAS phát hiện ra Shakir Abdullah Radhil đang trà trộn trong nhóm con tin, tay nắm chặt một quả lựu đạn. Radhil bị Trung sĩ Pete Winner, chỉ huy Đội 5, đánh ngã xuống cầu thang, trước khi bị hai binh sĩ SAS khác bắn chết tại chỗ. Cuộc đột kích kéo dài 17 phút và có sự tham gia của 30-35 lính đặc nhiệm SAS. Một con tin thiệt mạng và hai con tin khác bị thương trong cuộc đột kích. Lính SAS đã tiêu diệt năm tay súng và tay súng thứ sáu, Nejad, bị phát hiện khi các con tin được kiểm tra ở ngoài khu vườn. Sau khi được Sim Harris xác nhận danh tính, Nejad nhanh chóng bị khống chế và bắt giữ. Sau khi tòa đại sứ quán của Iran được giải phóng, Trevor Lock được ca ngợi như một người anh hùng. Vì sự dũng cảm trong sáu ngày giam giữ và công lao trong việc hỗ trợ tiêu diệt thủ lĩnh Oan Ali Mohammed của nhóm khủng bố, Lock được trao thưởng Huân chương George - huân chương dân sự cao quý thứ hai của nước Anh. Ngoài ra, Lock được tặng thưởng danh hiệu Freedom of the City of Luân Đôn và được vinh danh trong Viện Thứ dân. Nhà sử học cảnh sát Michael J. Waldren đã ví sự kiên nhẫn trong việc sử dụng khẩu súng lục của Trevor Lock với nhân vật George Dixon trong loạt phim truyền hình nhiều tập "Dixon of Dock Green", cho rằng "đó là một ví dụ điển hình về sức mạnh của Dixon." Học giả Maurice Punch cũng đề cao sự nhẫn nại trong hành động của Lock, hoàn toàn tương phản với chiến thuật cực kỳ chủ động và mãnh liệt của đặc nhiệm SAS trong suốt sáu ngày đó. Một học giả khác, Steven Moysey, nhấn mạnh về sự khác biệt giữa cuộc bao vây Đại sứ quán Iran và sự kiện ở Phố Balcombe vào năm 1975, trong đó cảnh sát đã thương lượng để bốn thành viên của Tổ chức Quân đội Lâm thời Cộng hòa Ireland đầu hàng mà không cần đến sự can thiệp của quân đội. Tuy nhiên, sự kiện này dã dẫn đến những cải tổ và nâng cấp đáng kể về trang thiết bị của cảnh sát, để họ có đủ khả năng ngăn chặn và đối phó với các vụ việc tương tự trong tương lai. Trung sĩ Tommy Palmer được trao thưởng Huân chương Dũng cảm của Nữ hoàng (QGM) vì đóng góp của ông trong cuộc đột kích. Khi đang truy đuổi tay súng ở hành lang tầng một, khẩu MP5 của Palmer đã bị kẹt đạn, nhưng ông đã kịp rút khẩu súng lục ra và bắn chết tay súng đang chuẩn bị rút lựu đạn ném vào trong căn phòng đầy con tin Iran-Anh. Sau khi Chiến dịch Nimrod kết thúc, Trung sĩ Tom Morrell được đưa vào Bệnh viện St Stephen's ở Fullham để chữa trị những vết bỏng ở chân, gây ra bởi bởi lửa khi Morrell bị mắc kẹt ở cửa sổ tầng hai. Morrell phục hồi nhanh chóng và xuất viện không lâu sau đó. Chính phủ Iran đã gửi lời chúc mừng và cảm ơn tới chính phủ Anh vì "những sự kiên trì của lực lượng cảnh sát Anh trong vụ bắt giữ con tin phi lý tại Đại sứ quán." Iran cũng cho tưởng niệm hai con tin thiệt mạng trong sự kiện trên và tuyên bố họ là những người tử vì đạo cho Cách mạng Iran. Sau khi Chiến dịch Nimrod kết thúc, cảnh sát bắt đầu cuộc điều tra về vụ bắt giữ, cái chết của hai con tin và năm tay súng, và cách tiến hành cuộc đột kích của đặc nhiệm SAS. Trang thiết bị cùng vũ khí của lính SAS đã được thu lại để mang đi kiểm tra và trong ngày hôm sau, những người lính tham gia vào chiến dịch đã được cảnh sát phỏng vấn rât lâu tại Hereford. Theo cảnh sát Anh, lúc đó họ nhận được báo cáo đầy tranh cãi về cái chết của hai tay súng DRFLA tại phòng viễn tín, nơi các con tin nam bị giam giữ. Những người sống sót đã khai rằng họ đã thuyết phục những tay súng này đầu hàng, và trong các đoạn phim truyền hình được phóng viên Anh ghi lại, các tay súng đã ném vũ khí ra ngoài cửa sổ và cầm một lá cờ trắng đầu hàng. Hai lính SAS liên quan tới việc bắn chết hai tay súng đã đầu hàng trong phòng viễn tín đều quả quyết rằng trước khi nổ súng, họ thấy tay của những người này đều cố với lấy vũ khí ở trong phòng. Bồi thẩm đoàn sau khi xem xét bằng chứng đã đi đến phán quyết cuối cùng rằng hành động của những người lính SAS này là chính đáng ("giết người một cách hợp pháp"). Fowzi Nejad là tay súng DRFLA duy nhất sống sót trong cuộc đột kích. Sau khi bị nhận diện, Nejad bị một lính SAS lôi đi. Người lính này có ý định đưa Nejad trở lại tòa nhà để bắn chết anh ta, và được cho là đã thay đổi suy nghĩ sau khi được một người đồng đội (Robin Horsfall) nhắc rằng họ đang được truyền hình trực tiếp. Nejad sau bị cảnh sát Anh bắt giữ và bị kết án tù chung thân. Nejad được ân xá vào năm 2005. Do là một công dân nước ngoài nên theo luật pháp thông thường, Nejad phải được trục xuất về nước ngay lập tức. Tuy vậy, Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã cho rằng Điều 3 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền đã ngăn cấm việc trục xuất trong trường hợp người công dân đó có khả năng bị tra tấn hoặc xử tử hình tại quê hương của họ. Nejad được thả tự do vào năm 2008 và được phép ở lại Vương quốc Anh, nhưng không được tị nạn chính trị. Bộ Nội vụ Anh đã đưa ra một tuyên bố rằng "Chúng tôi không cấp quy chế tị nạn cho những kẻ khủng bố bị kết án. Mục đích của chúng tôi là trục xuất mọi người càng nhanh càng tốt nhưng luật yêu cầu chúng tôi rằng trước tiên phải có được sự đảm bảo rằng người bị trao trả sẽ không phải đối mặt với cái chết." Dù đã ngồi tù 27 năm và không còn được coi là mối đe dọa của xã hội, nhưng Trevor Lock vẫn phản đối việc thả tự do cho Nejad và đã viết tâm thư gửi cho Bộ Nội vụ. Chính phủ Anh tin rằng Nejad chắc chắn sẽ bị xử tử nếu họ trục xuất Nejad về Iran, do đó họ đã cho Nejad ở lại Anh. Nejad hiện đang sinh sống ở phía nam Luân Đôn với một danh tính mới. Trước năm 1980, Luân Đôn từng là nơi xảy ra nhiều vụ khủng bố liên quan đến chính trị Trung Đông, trong đó có vụ ám sát ông Qadhi Abdullah al-Hajjri - cựu Thủ tướng Cộng hòa Yemen và vụ tấn công vào một chiếc xe khách chở các nhân viên của hãng hàng không El Al của Israel. Mặc dù còn có vài vụ tấn công riêng lẻ khác liên quan đến vấn đề Trung Đông và Bắc Phi trong vài năm tiếp theo sau vụ đại sứ quán Iran, nổi bật nhất là vụ sát hại nữ cảnh sát Yvonne Fletcher trong đại sứ quán Libya năm 1984, nhà sử học Jerry White tin rằng sự kiện ở đại sứ quán Iran "đã đánh dấu sự kết thúc của một sân khấu giải quyết các rắc rối ở Trung Đông kéo dài ba năm ở Luân Đôn." Cuộc đột kích của lực lượng đặc nhiệm SAS, đã được truyền hình trực tiếp vào giờ cao điểm của tối thứ Hai của ngày lễ ngân hàng và được hàng triệu người, chủ yếu ở Vương quốc Anh, xem, khiến nó trở thành một trong những thời khắc lịch sử quan trọng nhất trong lịch sử nước Anh. Hai hãng thông tấn BBC và ITV đều phải hủy phát các chương trình theo lịch của họ, và BBC phải ngừng phát trực tiếp trận chung kết của Giải vô địch Bida thế giới để chiếu kết cục của cuộc đột kích. Sự kiện này cũng là đòn bẩy thăng tiến lớn cho sự nghiệp của nhiều nhà báo Anh. Kate Adie, phóng viên trực ban của BBC tại đại sứ quán khi cuộc tấn công của SAS bắt đầu, tiếp tục đưa tin về phiên tòa xét xử Nejad và sau đó đưa tin về các vùng chiến sự trên khắp thế giới và cuối cùng trở thành Trưởng Văn phòng Thông tín của BBC News. David Goldsmith và nhóm phóng viên của ông, những người chịu trách nhiệm về việc ghi lại sự kiện phía sau đại sứ quán, được trao tặng giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh Quốc cho hạng mục Tin tức xuất sắc nhất. Chiến dịch Nimrod được coi là "một thành công gần trong mọi mặt." Margaret Thatcher sau này kể lại rằng bà đã được những lời chúc mừng ở bất cứ nơi nào bà đến trong những ngày tiếp theo, và nhận được tin nhắn ủng hộ và chúc mừng từ các nhà lãnh đạo thế giới khác. Tuy nhiên, vụ việc đã làm căng thẳng hơn mối quan hệ vốn đã căng thẳng giữa Anh và Iran sau Cách mạng Hồi giáo ở Iran. Vài quan chức của chính phủ Iran tuyên bố rằng cuộc sự kiện đại sứ quán Iran ở Luân Đôn được giật dây bởi chính phủ Hoa Kỳ để gây áp lực với họ sau vụ Khủng hoảng con tin ở Tehran, và vinh danh những con tin bị giết là những người tử vì đạo. Chiến dịch Nimrod đã đưa lực lượng đặc nhiệm SAS nổi tiếng thời Chiến tranh Thế giới thứ hai ra ngoài ánh sáng. Bộ tư lệnh của các trung đoàn SAS dù không hài lòng về việc "ra mắt công chúng," nhưng sự kiện này đã giúp SAS thoái khỏi kết cục bị giải tán và tránh được những tố cáo về việc sử dụng nguồn lực một cách lãng phí. Sau cuộc đột kích, số lượng đơn đăng ký vào SAS gia tăng một cách chóng mặt. Dù Trung đoàn SAS 22 chỉ nhận đăng ký từ những cá nhân đang phục vụ trong Lực lượng Vũ trang Anh, nhưng SAS vẫn còn hai trung đoàn khác là Trung đoàn SAS 21 và 23 của Lực lượng Nội địa Anh. Hai trung đoàn này đã nhận được hàng trăm đơn đăng ký, vượt xa các kết quả tuyển quân từ những năm trước đó. Theo Tướng de la Billière, những người nộp đơn này "tin chắc rằng họ sẽ được cấp một chiếc mũ Balaclava và một khẩu súng tiểu liên ở ngay bàn đăng ký để họ có thể tự thực hiện một cuộc đột kích vào đại sứ quán theo kiểu của riêng họ." Ngoài ra, SAS cũng nhận được nhiều lời mời hợp tác huấn luyện với các quốc gia đồng minh và những quốc gia phù hợp với lợi ích của người Anh. Chính phủ Anh sau đó đã cho phép các quốc gia nước ngoài "mượn" lực lượng SAS để hỗ trợ các vụ bao vây hoặc các vụ khủng bố, đồng thời, các quan chức chính phủ Anh cũng tin rằng mối quan hệ tốt với SAS là "mốt" trong thời gian đó. Mặc dù trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng SAS vẫn không được quảng bá rộng rãi trong Chiến tranh Falklands năm 1982 vì họ không tiến hành nhiều chiến dịch đáng kể, và theo đó là trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1990-1991. Phản ứng của chính phủ Anh với vụ việc trên, cùng với quyết định sử dụng vũ lực để chấm dứt bạo lực đã củng cố uy tín của Chính phủ Bảo thủ nói chung và Thủ tướng Margaret Thatcher nói riêng. Nhiều người tin rằng kết quả của cuộc bao vây là minh chứng cho chính sách không nhượng bộ với khủng bố của chính phủ Anh và "không có nơi nào mà hiệu quả của cách phản ứng với khủng bố này được thể hiện hiệu quả hơn." Tòa đại sứ quán Iran bị hư hại đáng kể trong cuộc đột kích ngày 5 tháng 5, phần lớn là do đám cháy gây ra. Hơn một thập kỷ sau, chính phủ Anh và Iran đi đến thỏa thuận chung, theo đó Vương quốc Anh sẽ sửa chữa lại đại sứ quán của Iran ở Luân Đôn, và Iran sẽ chịu trách nhiệm sửa chữa lại đại sứ quán của Anh ở Tehran, vốn bị phá hỏng nặng nề trong Cách mạng Hồi giáo năm 1979. Đại sứ quán Iran được mở cửa trở lại vào tháng 12 năm 1993. Trong văn hóa đại chúng. Sự kiện ở Đại sứ quán Iran, lực lượng SAS và Chiến dịch Nimrod đã trở thành chủ đề của nhiều bộ phim tài liệu, phim truyền hình thực tế và các tác phẩm văn học khác nhau, như bộ phim "Who Dares Wins" vào năm 1982 và "6 Days" vào năm 2017. Cuộc vây hãm được minh họa trong trò chơi điện tử "The Regiment" vào năm 2006, và "Tom Clancy's Rainbow Six Siege –" một trò chơi bắn súng chiến thuật tập trung vào bối cảnh chiến tranh chống khủng bố. Lực lượng SAS cũng được nhắc đến trong bộ tiểu thuyết "Rainbow Six", sau được chuyển thể thành một serie trò chơi nổi tiếng. Đại sứ quán Iran cũng thường xuyên được đề cập tới trong bộ phim truyền hình nhiều tập "Ultimate Force" (2002–2008). Ngoài ra, hãng sản xuất đồ chơi Palitoy đã cho ra mắt mô hình nhân vật (figure) mới của bộ Action Man, mặc đồ đen và đeo mặt nạ phòng độc, y hệt như những người lính SAS đã xông vào đại sứ quán của Iran vào năm 1980.
Etelis radiosus là một loài cá biển thuộc chi "Etelis" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981. Tính từ định danh "radiosus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “phát ra nhiều tia”, hàm ý đề cập đến số lượng lớn lược mang trên cung mang thứ nhất (33–36) của loài cá này so với 17–28 ở các loài đồng loại. Phân bố và môi trường sống. "E. radiosus" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Réunion và Sri Lanka trải dài về phía đông đến quần đảo Caroline, quần đảo Samoa và quần đảo Société, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và quần đảo Cook. "E. radiosus" thường tập trung ở khu vực nhiều đá, gần các mỏm đá ở độ sâu trong khoảng 90–360 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "E. radiosus" lên đến 80 cm, thường bắt gặp với kích thước khoảng 50 cm. Loài này có màu đỏ toàn cơ thể, thân dưới và bụng màu đỏ nhạt hơn. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số vảy đường bên: 50–51. Thức ăn của "E. radiosus" chủ yếu là cá nhỏ. "E. radiosus" là một thành phần của nghề đánh bắt truyền thống.
Lucas Buadés (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Rodez tại Ligue 2. Sự nghiệp thi đấu. Buadés ra mắt chuyên nghiệp cho Nîmes Olympique, trong trận thua 1–0 tại Ligue 2 trước LB Châteauroux vào ngày 21 tháng 8 năm 2017. Ngày 3 tháng 7 năm 2019, anh ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Nîmes. Ngày 30 tháng 6 năm 2020, anh đã gia hạn hợp đồng, kéo dài thời hạn đến năm 2022.
Axel Thurel Sahuye Guessand (sinh ngày 6 tháng 11 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Udinese tại Serie A. Sự nghiệp câu lạc bộ. Guessand xuất thân từ là cầu thủ của lò đào tạo trẻ Nancy. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 28 tháng 8 năm 2021, trong trận thua 4–1 tại Ligue 2 trước Auxerre. Ở 16 tuổi, 9 tháng và 22 ngày, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân trong một trận đấu chuyên nghiệp cho Nancy. Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Guessand gia nhập câu lạc bộ Udinese tại Serie A theo một thỏa thuận kéo dài 3 năm. Ngày 5 tháng 6 năm 2023, anh ra mắt đội 1, khi đá chính trong trận thua 0–1 tại Serie A trước Juventus. Sự nghiệp quốc tế. Guessand là cầu thủ từng đại diện cho Pháp trên đấu trường quốc tế. "Tính đến 4 tháng 6 năm 2023"
Gabriel Barès (sinh ngày 29 tháng 8 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Concarneau tại Ligue 2, theo dạng cho mượn từ Montpellier. Sự nghiệp thi đấu. Barès ra mắt chuyên nghiệp cho Lausanne-Sport vào ngày 20 tháng 9 năm 2020, trong chiến thắng 2–1 tại Giải hạng Hai Thụy Sĩ trước Servette. Ngày 25 tháng 1 năm 2022, Barès gia nhập câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1. Cho mượn tại FC Thun. Ngày 27 tháng 7 năm 2022, anh quay trở lại quê nhà Thụy Sĩ và gia nhập câu lạc bộ Thun theo dạng cho mượn.
Thông báo 16 tháng 5 Thông báo 16 tháng 5 () hoặc Thông tư 16 tháng 5, tên gọi chính thức là Thông tri (), là tuyên ngôn chính trị lớn đầu tiên của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Nó được ban hành tại phiên họp mở rộng tháng 5 năm 1966 của Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vì được thông qua vào ngày 16 tháng 5 nên mọi người gọi là Thông báo 16 tháng 5. Thông báo này đã giúp chấm dứt cuộc tranh chấp chính trị trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt nguồn từ vở kinh kịch "Hải Thụy bãi quan" bằng cách giải tán cấp cao nhất của bộ máy văn hóa của đảng và khuyến khích phong trào chính trị quần chúng chống lại phái hữu trong đảng. Kết quả đây được coi là một chiến thắng chính trị về tay Mao Trạch Đông. Giới sử học Trung Quốc đã coi ngày thông qua thông báo ngày 16 tháng 5 năm 1966 là ngày mở đầu Cách mạng Văn hóa. Bắt đầu từ năm 1965 và đến mùa xuân năm 1966, một cuộc tranh chấp chính trị nảy sinh bên trong Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên quan đến vở kinh kịch "Hải Thụy bãi quan". Vở kịch mô tả một vị quan thanh liêm dưới thời Minh tên là Hải Thụy đã đảo ngược các bản án đất đai bất công thay cho những người nông dân được miêu tả một cách thụ động và tôn vinh ông ấy là vị cứu tinh của họ. Giới phê bình bắt đầu giải thích vở kịch này ám chỉ sự chỉ trích của Nguyên soái Bành Đức Hoài đối với Mao Trạch Đông cũng như chính sách nông dân trong Đại nhảy vọt tại Hội nghị Lư Sơn, khiến Bành Đức Hoài bị thanh trừng về mặt chính trị. Người Trung Quốc am hiểu về chính trị đã biết là Hải Thụy ám chỉ Bành Đức Hoài, Hoàng đế nhà Minh đại diện Mao Chủ tịch, và các bản án đất đai bất công đại diện cho các chính sách Đại nhảy vọt. Nhà phê bình văn học Diêu Văn Nguyên đã bắt đầu một cuộc tranh luận học thuật và chính trị về vở kịch "Hải Thụy bãi quan" khi ông viết một bài báo chỉ trích nó theo lời đề nghị từ các đồng minh thân cận của Mao là Giang Thanh và Trương Xuân Kiều. Đặc biệt, bài báo của Diêu lập luận rằng tác giả của vở kịch là Ngô Hàm đã bóp méo ghi chép lịch sử và khía cạnh đảo ngược các bản án đất đai bất công hòng tạo ra tâm điểm cho "phe đối lập tư bản" muốn "phá bỏ công xã nhân dân và khôi phục thể chế tội phạm của bọn địa chủ và phú nông". Thị trưởng Bắc Kinh và Ủy viên Bộ Chính trị Bành Chân đã cố gắng bảo vệ tác giả của vở kịch, cũng là cấp dưới của mình là Phó Thị trưởng Bắc Kinh Ngô Hàm, bằng cách ngăn cản việc tái bản bài phê bình của Diêu Văn Nguyên. Khi sự can thiệp của Thủ tướng Chu Ân Lai có nghĩa là việc ngăn chặn việc xuất bản vở kịch không còn khả thi về mặt chính trị, Bành Chân đã sử dụng vai trò lãnh đạo của mình trong bộ máy văn hóa của đảng thông qua Tổ 5 người nhằm hạn chế chi tiết cuộc tranh luận về vở kịch rồi kiểm duyệt bất kỳ lập luận nào mang ý nghĩa chính trị đương đại. Theo chỉ đạo của ông, Tổ 5 người đã soạn thảo quy định kỷ luật chính thức ("Đề cương Báo cáo về cuộc Thảo luận Học tập Hiện nay" còn gọi là "Đề cương Tháng Hai") nhằm hạn chế những chi tiết trong cuộc tranh luận và do đó ngăn chặn các bài báo tiếp theo hòng so sánh vở kịch này với các vấn đề chính trị đương thời. Đề cương tháng Hai đã công khai đe dọa kỷ luật "phái tả cố chấp", thúc giục họ ghi nhớ "hành vi lâu dài" của mình". Mao phản đối Đề cương tháng Hai, mô tả "[những] kẻ ngăn cản việc xuất bản các bài tiểu luận phái tả" là "học phiệt". Hàng loạt cuộc họp cấp cao nhất của đảng từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 5 năm 1966 hòng giải quyết tranh cãi sau Đề cương tháng Hai và phản ứng của Mao Trạch Đông đối với đề cương này. Vào cuối tháng 4 năm 1966, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thu hồi Đề cương tháng Hai, giải tán Tổ 5 người, bãi bỏ Thành ủy Bắc Kinh do Bành Chân lãnh đạo, và không chấp nhận việc ông xử lý cuộc luận chiến về vở kịch "Hải Thụy bãi quan". Thông báo 16 tháng 5. Thông báo 16 tháng 5 đã chính thức hóa các quyết định đạt được vào cuối tháng 4. Đây là tuyên bố chính trị lớn đầu tiên của Cách mạng Văn hóa và tóm lược những lời biện minh của Mao dành cho Cách mạng Văn hóa. Khi hủy bỏ Đề cương tháng Hai và giải tán Tổ 5 người, Thông báo 16 tháng 5 đã loại bỏ cấp cao nhất của bộ máy văn hóa của đảng và đảo ngược âm mưu chính trị cuối cùng của nó. Thông báo này thảo luận chi tiết về những sai lầm chính trị của Bành Chân, nói rằng ông đã bảo vệ Ngô Hàm và ngăn chặn những lời chỉ trích chính trị về "Hải Thụy bãi quan" và do đó che khuất cuộc đấu tranh giai cấp. Thông báo 16 tháng 5 viết rằng thay vì vận động toàn đảng và quần chúng nhân dân, Đề cương tháng Hai "làm hết sức mình để lãnh đạo phong trào theo hướng hữu khuynh" Bản Đề cương tháng Hai đã sử dụng "một ngôn ngữ lộn xộn, mâu thuẫn và đạo đức giả... gây hoang ". Thông báo cũng chỉ trích việc Bành Chân đề cao tiêu chuẩn giai cấp tư sản là sáng tạo nghệ thuật vì nghệ thuật hơn là nghệ thuật phục vụ chính trị. "Mục tiêu của cuộc đấu tranh vĩ đại này là phê phán và bác bỏ Ngô Hàm và nhiều đại biểu khác của giai cấp tư sản chống Đảng và chống chủ nghĩa Xã hội[.]" Thông báo 16 tháng 5 cũng chỉ trích mơ hồ phái hữu không xác định trong đảng "đang ngủ bên cạnh chúng ta", so sánh họ với Nikita Khruschev. Ngoài việc lên án Bành Chân, đoạn này của Thông báo có nội dung như sau: Điều này ngụ ý rằng có những kẻ thù của chính chủ nghĩa Cộng sản trong Đảng: những kẻ thù giai cấp "vẫy cờ đỏ để chống lại cờ đỏ". Mặc dù tương đối ít chi tiết về cuộc họp nơi Thông báo 16 tháng 5 được đưa ra, nhưng đoạn văn này đã gây ấn tượng đặc biệt lớn đối với các đồng minh thân cận nhất của Mao. Lâm Bưu nhận thấy tuyên bố này "cực kỳ đáng lo ngại". Trương Xuân Kiều nói rằng vào thời điểm đó ông không biết điều này ám chỉ ai. Lưu Thiếu Kỳ lúc đó là người chủ trì Hội nghị, đã không hề biết rằng "những nhân vật Khruschev đang ngủ bên cạnh chúng ta" mà trong Thông báo 16 tháng 5 nói tới ấy chính là ám chỉ đến ông. Quá trình soạn thảo. Thông báo 16 tháng 5 ban đầu do Trần Bá Đạt soạn thảo và mang sang cho Mao chỉnh sửa toàn bộ, bao gồm cả việc bổ sung đoạn liên quan đến phái hữu "ngủ bên cạnh chúng ta" như Khruschev. Mao cũng đã viết câu nói rõ: "Mục tiêu của cuộc đấu tranh vĩ đại này là phê phán và bác bỏ Ngô Hàm và nhiều đại diện khác của giai cấp tư sản chống Đảng và chống chủ nghĩa Xã hội[.]" Mao đã cố tình chọn một cái tên nói giảm nói tránh cho văn kiện này. Do Thông báo 16 tháng 5 gọi là "Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản" nên từ đó cụm từ "Đại Cách mạng Văn hóa Xã hội chủ nghĩa" cũng biến mất trên tất cả các báo chí. Giải thích và hậu quả. Ngay sau Thông báo 16 tháng 5, Lâm Bưu đã có một bài phát biểu trong đó bày tỏ quan điểm của mình rằng Thông báo 16 tháng 5 nhằm "ngăn chặn âm mưu phản cách mạng" và thiết lập uy quyền tuyệt đối của "tư tưởng Mao Trạch Đông". Viện sĩ Alessandro Russo đã giải thích bài phát biểu của Lâm Bưu được thúc đẩy từ sự bất ổn về mặt thể chế do Mao cảnh báo về phe cánh hữu bí mật trong đảng, những người "như Khruschev" và rằng Lâm Bưu đang dựa vào quyền lực cá nhân của Mao để bù đắp cho sự bất ổn về mặt thể chế. Trong một bức thư tháng 7 năm 1966 gửi cho Giang Thanh chỉ được lưu hành công khai sau khi Lâm Bưu qua đời, Mao mô tả bài phát biểu của Lâm chứa đựng những ý tưởng "vô cùng đáng lo ngại". Việc Mao nhấn mạnh vào "cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại" không ám chỉ nguy cơ đảo chính, mà là "sự phục hồi hòa bình" của chủ nghĩa tư bản. Mao viết: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng những cuốn sách nhỏ mà tôi đã viết lại có sức mạnh kỳ diệu như vậy. Bây giờ ông ấy đã thổi phồng chúng lên, cả nước sẽ làm theo. Nó có vẻ giống hệt cảnh bà vợ Vương thị bán bí ngô khoe khoang về chất lượng hàng hóa của mình vậy". "Họ tâng bốc tôi bằng cách tung hô tôi như những vì sao, [nhưng] mọi thứ lại đi ngược lại với họ: càng lên cao, anh ta càng ngã nặng nề. Tôi sẵn sàng ngã xuống tan xương nát thịt. Điều đó không quan trọng; cốt yếu không để bị tiêu diệt mà chỉ tan thành từng mảnh thôi". Mao đồng ý cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng lưu hành bài phát biểu của Lâm Bưu như một tài liệu chính thức và nhận xét trong bức thư tháng 7 năm 1966 của ông, "Đây là lần đầu tiên trong đời tôi, về một điểm quan trọng, tôi đã nhường bước cho người khác chống lại phán đoán tốt hơn của tôi; chúng ta hãy nói độc lập với ý chí của tôi". Việc Mao đồng ý cho lưu hành bài phát biểu của Lâm cuối cùng sẽ giúp dẫn đến cuộc chiến chính trị năm 1970-1971 chống lại Lâm Bưu của ông. Sau khi Bành Chân và các đồng minh của ông bị lật đổ, Trần Bá Đạt và Giang Thanh liền trở thành thành viên cốt cán của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương mới lập nên. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hải Thụy bãi quan Hải Thụy bãi quan () là vở kinh kịch nổi tiếng trong nền chính trị Trung Quốc đương đại vì đã mở đầu cuộc Cách mạng Văn hóa. Bản thân vở kịch tập trung vào vị đại thần thời Minh tên là Hải Thụy được miêu tả đã có công cứu giúp những người nông dân thụ động thắng kiện các vụ tịch thu đất đai bất công. Vở kịch này về sau trở thành tâm điểm tranh cãi về học thuật và chính trị vì nó có liên quan đến các cuộc tranh luận trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, bao gồm cả tại Hội nghị Lư Sơn, về vai trò chính trị của nông dân trong tương lai trước những thất bại của Đại nhảy vọt. Người soạn nên vở kịch này tên gọi Ngô Hàm vốn là một nhà sử học và chính trị gia chuyên viết về thời nhà Minh. Ông còn đồng thời giữ chức Phó Thị trưởng Bắc Kinh. Năm 1959, ông bắt đầu quan tâm đến cuộc đời của Hải Thụy, vị quan tham liêm thời Minh từng bị bỏ tù vì dám lên tiếng chỉ trích Hoàng đế Gia Tĩnh. Ngô Hàm đã viết một số bài báo về cuộc đời của vị quan này mà theo Mao Trạch Đông thì lời phê bình Hoàng đế của Hải Thụy tỏ ra "rất gay gắt và không có bất kỳ lời khen ngợi nào cả". Sau đó, ông có viết một vở kinh kịch mang tên "Hải Thụy bãi quan", mà ông đã sửa lại nhiều lần trước khi hoàn thành kịch bản cuối cùng vào năm 1961. Vở kịch được dàn dựng lần đầu tiên vào đầu năm 1962. Ngô Hàm không phải là người sành sỏi về kinh kịch và hiếm khi đi xem kịch, sự thật mà ông từng lưu ý trong lời tựa cho vở kịch của mình. Học giả Alessandro Russo viết rằng sự tham gia soạn kịch hiếm hoi của Ngô Hàm có thể là do trong thập niên 1950 và đầu những năm 1960, người dân Trung Quốc có văn hóa không coi đó là một "cảnh tượng đáng khen ngợi" mà lại khá phù hợp cho việc thưởng thức kiểu bình dân. "Có lẽ cũng vì lý do này mà bộ máy văn hóa trung ương của nhà nước đã sử dụng kinh kịch để phổ biến kiến thức lịch sử." Vở kịch này là một bi kịch kể về viên quan trung thực mang những lời phàn nàn của người dân đến hoàng đế với cái giá phải trả là sự nghiệp thăng quan tiến chức của mình. Tác phẩm miêu tả Hải Thụy là viên phán quan oai phong lẫm liệt đòi được diện kiến ​​hoàng đế. Sau đó, ông trực tiếp chỉ trích Hoàng đế vì đã dung túng cho nạn tham nhũng và thói quen lạm dụng của những quan chức khác trong triều đình. Hoàng đế cảm thấy bị lời chỉ trích của Hải Thụy xúc phạm nên đã cách chức ông. Ông chỉ được phục chức sau khi hoàng đế băng hà. Những người nông dân được miêu tả là nạn nhân thụ động và vô tội đang chờ đợi một vị cứu tinh, thế rồi họ đã chào mừng Hải Thụy. Ngô Hàm liền đem xuất bản vở kịch này dưới bút danh Lưu Mẫn Chi, tên của một học giả thời Tống và là người hết lòng ủng hộ danh tướng Nhạc Phi. Vở kịch đã đạt được thành công rực rỡ. Do bầu không khí chính trị thay đổi nên về sau vở kịch này đã bị chỉ trích nặng nề. Ngô Hàm trở thành một trong những nạn nhân đầu tiên của Cách mạng Văn hóa và chết trong tù năm 1969. Sau khi ông bị đánh đổ, những kẻ sùng bái tư tưởng Mao Trạch Đông cực đoan đã nhanh chóng thanh trừng "phái hữu" khác khỏi các cơ quan văn hóa của Trung Quốc, và sân khấu kịch trở thành công cụ để Bè lũ Bốn tên công kích kẻ thù chính trị của họ. Ngô Hàm chỉ được phục hồi sau khi chết vào năm 1979, ngay sau khi Mao Chủ tịch qua đời. Vào thời điểm đó, trên cương vị là thành viên cấp cao thứ năm của Bộ Chính trị, Bành Chân là mục tiêu nổi bật đầu tiên của Cách mạng Văn hóa. Việc loại bỏ Bành Chân và những người khác như Lục Định Nhất và Chu Dương khỏi vị trí của họ đã giúp củng cố liên minh của Mao Trạch Đông và khuyến khích ông ta tấn công chủ nghĩa xét lại trong đảng. Bành Chân và phe ủng hộ ông trong Thành ủy Bắc Kinh và chính quyền thủ đô Bắc Kinh đã bị Lý Tuyết Phong và những cán bộ theo chủ nghĩa Mao khác thay thế. Học giả Frederick Teiwes lập luận rằng khi cuộc tranh cãi liên quan đến "Hải Thụy bãi quan" diễn ra, Mao đã âm mưu chống lại đối thủ của mình là Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ trong nhiều tháng liền. Teiwes viết rằng vì Bành Chân là người ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ lâu năm, Mao có thể làm suy yếu Lưu bằng cách tấn công Bành Chân thông qua cấp dưới của ông ta là Ngô Hàm. Dù cho những câu chuyện kể của người Trung Quốc thời hiện đại thường tập trung vào quyền lãnh đạo cá nhân của Mao Trạch Đông trong suốt quá trình tranh chấp, nhưng trong giai đoạn đầu của cuộc tranh cãi và không đủ sức ngăn chặn việc ban hành "Đề cương tháng Hai" chứng tỏ rằng Mao Chủ tịch phải đối mặt với sự phản kháng chính trị công khai và hiệu quả ngay trong nội bộ đảng. Đề tài này cũng là đối tượng của một vở kịch do Chu Tín Phương cùng Hứa Tư Ngôn () biên soạn mang tên "Hải Thụy thượng sớ" (海瑞上疏), và vở kịch được Đoàn Kinh kịch Thượng Hải biểu diễn năm 1959. Chu Tín Phương cũng bị bắt và bị bức hại trong Cách mạng Văn hóa rồi về sau qua đời vào năm 1975. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đại hội phê đấu Đại hội phê đấu (; Hán-Việt: "Phê đấu đại hội") là những màn phê phán và đấu tố theo kiểu bạo lực ở Trung Quốc thời đại Mao Trạch Đông nhằm đưa những đối tượng bị gắn cái mác "kẻ thù giai cấp" để người thân của mình làm nhục, tố cáo, đánh đập và tra tấn công khai. Thường được tiến hành tại nơi làm việc, lớp học và khán phòng, "học sinh đọ sức với giáo viên, bạn bè và vợ/chồng bị áp lực phải phản bội lẫn nhau, [và] trẻ em bị lôi kéo để vạch mặt cha mẹ chúng". Dàn cảnh, đóng kịch và những kẻ kích động do chính đám hồng vệ binh sắp đặt trước hòng khuyến khích sự ủng hộ của đám đông. Mục đích là truyền bá tinh thần vận động kịch liệt trong đám đông dân chúng nhằm thúc đẩy cải cách tư tưởng Mao Trạch Đông. Những cuộc mít tinh này diễn ra phổ biến nhất trong các phong trào quần chúng nhân dân ngay trước và sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Việc tố cáo những kẻ thù giai cấp nổi bật thường được tiến hành tại các quảng trường công cộng và được đánh dấu bằng đám đông người vây quanh nạn nhân đang quỳ gối, giơ nắm đấm và hét lên tố cáo những hành vi sai trái. Đại hội phê đấu phát triển từ những tư tưởng phê bình và tự phê bình tương tự ở Liên Xô từ thập niên 1920. Lúc đầu, đảng viên cộng sản Trung Quốc đã phản đối điều này, vì những buổi phê đấu mâu thuẫn với khái niệm 'giữ thể diện' của người Trung Quốc. Tuy vậy hình thức đấu tranh này đã trở nên phổ biến tại các cuộc họp của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1930 do sự hưởng ứng trong công chúng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Nghiên cứu về giới Nghiên cứu về giới (tiếng Anh: "Gender studies") là một lĩnh vực học thuật liên ngành liên quan đến việc phân tích bản dạng giới và đại diện giới tính. Nghiên cứu về giới bắt nguồn từ lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ, liên quan đến phụ nữ, chủ nghĩa nữ quyền, giới tính xã hội và chính trị. Lĩnh vực này hiện đang trùng lặp với nghiên cứu queer và nghiên cứu nam giới. Sự phát triển của nó, đặc biệt là ở các trường đại học phương Tây sau năm 1990, trùng với sự phát triển của giải cấu trúc. Các ngành thường đóng góp cho nghiên cứu về giới bao gồm: văn học, ngôn ngữ học, địa lý nhân văn, lịch sử, chính trị học, khảo cổ học, kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, nhân loại học, lý thuyết điện ảnh, âm nhạc học, truyền thông học, phát triển con người, pháp luật, y tế công cộng và y học. Nghiên cứu về giới cũng phân tích sự liên quan giữa chủng tộc, sắc tộc, địa điểm, giai cấp, quốc tịch và khuyết tật với các phạm trù giới tính và tình dục. Trong nghiên cứu về giới, thuật ngữ 'giới tính' thường được sử dụng để chỉ cấu trúc xã hội và văn hóa của nam tính và nữ tính, hơn là các khía cạnh sinh học của giới tính nam hoặc nữ. Tuy nhiên, quan điểm này không được ủng hộ bởi tất cả các học giả về giới. Giới tính phù hợp với nhiều ngành, chẳng hạn như lý luận văn học, nghiên cứu kịch, lý thuyết điện ảnh, lý thuyết biểu diễn, lịch sử nghệ thuật đương đại, nhân loại học, xã hội học, ngôn ngữ học xã hội và tâm lý học. Tuy nhiên, những ngành này đôi khi có cách tiếp cận khác nhau về cách thức và lý do giới tính được nghiên cứu. Trong chính trị, giới tính có thể được xem như một diễn ngôn nền tảng mà các chủ thể chính trị sử dụng để định vị bản thân trong nhiều vấn đề khác nhau. Bản thân nghiên cứu về giới cũng là một môn học, kết hợp các phương pháp và cách tiếp cận từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Lý thuyết nữ quyền về phân tâm học được giới thiệu chủ yếu bởi Julia Kristeva và Bracha L. Ettinger, và được cả Sigmund Freud, Jacques Lacan và lý thuyết quan hệ đối tượng truyền đạt. Nó có ảnh hưởng rất lớn trong nghiên cứu về giới.
Aldair Issac Ruiz Ruiz (sinh ngày 13 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cuba hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Europa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Aldair được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2023, có tên trong danh sách sơ bộ để chuẩn bị cho Cúp Vàng CONCACAF 2023. 10 ngày sau, anh ra mắt quốc tế cho đội bóng, khi xuất phát ngay từ đầu và đá 63 phút trong trận thua 3–0 trước Chile. "Tính đến 20 tháng 6 năm 2023"
Nguyễn Hữu Mười (sinh năm 1957) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên điện ảnh người Việt Nam, ông được biết đến với các vai ông giáo Thứ trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" và thầy giáo Khang trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười". Nguyễn Hữu Mười sinh ngày 9 tháng 9 năm 1957 tại huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình có 11 anh chị em, không có ai theo nghệ thuật. Năm 1974, trong lần cùng bạn đi mua vé xem kịch khi Đoàn kịch Trung ương về biểu diễn, Hữu Mười thấy bảng thông báo tuyển diễn viên, điều khiến ông quyết định viết đơn ứng tuyên là thí sinh sẽ được chụp ba kiểu ảnh, bởi việc được chụp hình là điều không dễ dàng lúc bấy giờ. Lá đơn của ông khi đó chỉ vỏn vẹn 6 dòng và suýt bị đuổi về vì cẩu thả và phải viết lại. Diên viên Phi Nga là người nhận ra tố chất diễn viên bên trong Hữu Mười, vượt qua vòng sơ tuyển, ông ra Hà Nội dự thi chung tuyển. Khi tốt nghiệp ông là một trong 16 sinh viên trong lớp diễn viên khóa hai trường Điện ảnh Việt Nam cùng với các nghệ sĩ Bùi Cường, Minh Châu, Phương Thanh, Bùi Bài Bình, Quốc Trọng, Thanh Quý, Đào Bá Sơ Tốt nghiệp lớp diễn viên 1977, nghệ sĩ Hữu Mười về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Thời gian đầu ông thường hóa thân vào những vai thứ chính. Các bộ phim ông tham gia trong những năm đầu sự nghiệp như "Khôn dại, Ngày ấy ở sông Lam, Phương án ba bông hồng". Năm 1982, Hữu Mười có được vai diễn để đời đầu tiên vào vai thầy giáo Thứ, nhân vật phỉnh theo nhà văn Nam Cao, trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy". Năm 1984, Đạo diễn Đặng Nhật Minh đưa đến cho ông kịch bane phim ông "Bao giờ cho đến tháng Mười", vị đạo diễn quán triệt trước rằng không cho ông đóng vai thầy giáo giáo Khang vì lĩnh vực điện ảnh kị việc lặp lại trong diễn xuất. Sau đó vì không tìm được diễn viên phù hợp, Đặng Nhật Minh lại chọn Hữu Mười cho vai thầy giáo Khang, vai diễn giúp ông có được giải Nam diễn viên chính xuất sắc tại Liên hoan Phim Việt Nam lần thứ 7. Năm 1987, Hữu Mười được Bộ Văn hóa cử đi học sang Liên Xô theo học ngành đạo diễn tại Trường Đại học Điện ảnh quốc gia Matxcova (VGIK) theo Hiệp định hợp tác Văn hoá - Giáo dục giữa hai nước. Năm 1993, Hữu Mười tốt nghiệp và trở lại Hãng phim Truyện Việt Nam công tác. Năm 1996, ông được đạo diễn Đặng Nhật Minh mời làm phó đạo diễn cho bôn phim "Hà Nội mùa đông năm 46." Năm 1999, Nguyễn Hữu Mười mới có bộ phim điện ảnh đầu tiên do ông đạo diễn là "Chiếc hộp gia bảo", tiếp theo đó là các phim điện ảnh truyền hình cho các chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam. Bộ phim "7 ngày làm vợ" do ông đạo diễn từng được đề cử hạng mục Phim truyền hình ngắn tập của Giải Cánh diều 2004. Hữu Mười bắt đầu tham gia công tác giảng dạy từ năm 2003, ông từng nhậm chức trưởng Khoa truyền hình, trường Đại học sân khấu Điện ảnh Hà Nội. Năm 2011, Nguyễn Hữu Mười mạnh dạn nhận đạo diễn bộ phim chiến tranh "Mùi cỏ cháy", sau khi kịch bản phim bị nhiều đạo diễn khác từ chối vì kinh phí cho phim quá eo hẹp. Bộ phim sau đó chiến thắng 4 giải trong hạng mục phim truyện điện ảnh tại giải Cánh diều 2011 trong đó có giải quan trọng nhất, Cánh Diều Vàng cho phim truyện điện ảnh. Mùi cỏ cháy cũng chiến thằng hạng mục phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 với giải Bông sen Bạc và Biên kịch xuất sắc. Nguyễn Hữu Mười và vợ kết hôn khi họ đang du học bên Liên Xô, họ có hai người con.
Quân khu Kiev (; , viết tắt ) là một quân khu của Lục quân Đế quốc Nga và sau đó là của Hồng quân và Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Quân khu được thành lập lần đầu vào năm 1862, và có trụ sở tại Kiev (Kyiv) trong hầu hết thời gian tồn tại. Quân khu Kiev là một quân khu của Đế quốc Nga, một kiểu phân chia lãnh thổ được sử dụng để quản lý hiệu quả hơn các đơn vị lục quân, huấn luyện và các hoạt động tác chiến khác của họ liên quan đến tính sẵn sàng chiến đấu. Quân khu ban đầu bao gồm các tỉnh Kiev, tỉnh Podolia (trừ huyện Balta) và tỉnh Volyn . Bố trí quân sự được phân định cho quân khu bao gồm Tập đoàn quân 10. Năm 1888, Quân khu Kharkov được sáp nhập vào Quân khu Kiev. Khi Thế chiến I bắt đầu, quân khu được chuyển thành Tập đoàn quân 3. Vào tháng 4 năm 1917, các tỉnh Poltava và Kursk được chuyển sang cho Quân khu Moskva. Sau Cách mạng Tháng Mười ở Petrograd, khu vực này nằm dưới quyền tài phán của Cộng hòa Nhân dân Ukraina và tồn tại cho đến đầu tháng 2 năm 1918 do cuộc tiến công của Lực lượng Hồng vệ binh Nga Petrograd-Moskva thuộc Lực lượng Đặc nhiệm Antonov do Vladimir Lenin giao nhiệm vụ "chống phản cách mạng ở miền Nam nước Nga", nhưng trên thực tế là xâm chiếm Ukraina trong cái gọi là Chiến tranh Ukraina-Xô viết. Quân khu đã không được phục hồi trong thời kỳ Bolshevik ngắn ngủi vào năm 1918 cũng như sau khi thành lập Quốc gia Ukraina độc lập. Hồng quân thứ nhất. Quân khu Kiev được phục hồi vào ngày 12 tháng 3 năm 1919, và sau đó lại bị giải tán vào ngày 23 tháng 8 năm 1919, trước sự tiến công của lực lượng Anton Denikin. Vùng quân sự Kiev. Vùng quân sự Kiev (oblast) được thành lập bởi lực lượng của Anton Denikin vào ngày 31 tháng 8 năm 1919, nhưng đến ngày 14 tháng 12 năm 1919, lực lượng của vùng này đã được thu hồi và hợp nhất với lực lượng của Vùng Novorossiysk. Tư lệnh vùng quân sự là Abram Dragomirov. Lực lượng Xô viết tại Ukraina và Krym. Quân khu lại được thành lập vào tháng 1 năm 1920 với tư cách là bộ phận của Lực lượng vũ trang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga đồn trú tại Ukraina. Vào đầu thập niên 1920, Quân khu gồm có các đơn vị sau: Vào tháng 4 năm 1922, Quân khu Kiev được sáp nhập với Quân khu Kharkov thành Quân khu Tây Nam. Vào tháng 6 năm 1922, nó được đổi tên thành Quân khu Ukraina. Quân đoàn súng trường số 6 được thành lập theo lệnh của Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Ukraina và Krym số 627/162 từ ngày 23 tháng 5 năm 1922, tại Kiev, một phần của Quân khu Kiev và Kharkov. Hồng quân lần hai. Ngày 17 tháng 5 năm 1935, Quân khu Ukraina được chia thành Quân khu Kharkov và Quân khu Kiev. Quân đoàn súng trường 13 được cải tổ trong quân khu theo lệnh cấp quân khu vào tháng 12 năm 1936, và trụ sở chính của nó được thành lập tại Bila Tserkva. Vào ngày 26 tháng 7 năm 1939, quân khu được đổi tên thành Quân khu đặc biệt Kiev. Ngày 20 tháng 2 năm 1941, quân khu thành lập Quân đoàn cơ giới 22 (có 527 xe tăng) thuộc Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) , Quân đoàn cơ giới 16 (có 372 xe tăng) thuộc Tập đoàn quân 12 và Quân đoàn cơ giới 9 (có 94 xe tăng), Quân đoàn cơ giới 24 (có 56 xe tăng), Quân đoàn cơ giới 15 (có 707 xe tăng) và Quân đoàn cơ giới 19 (có 274 xe tăng) trong lực lượng dự bị của quân khu. Lực lượng phòng không trong quân khu bao gồm Sư đoàn Hàng không Tiêm kích 36 của PVO đặt tại Vasylkiv. Khi Chiến dịch Barbarossa của Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, trên cơ sở Quân khu đặc biệt Kiev, thành lập Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô hợp nhất hoàn toàn quân khu này vào ngày 10 tháng 9 năm 1941. Lục quân Liên Xô. Các đơn vị đóng quân trên địa bàn quân khu là Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6. Tập đoàn quân không quân 69 đã hoạt động từ đầu những năm 1950 đến ít nhất là năm 1964 trong quân khu. Năm 1959, Tập đoàn quân Không quân 17 được chuyển đến quân khu từ [[Mông Cổ]] để cung cấp hỗ trợ trên không. Quân đoàn 60 Tập đoàn quân Phòng không 8 yểm trợ phòng không cho quân khu. Tập đoàn quân tên lửa số 43 của [[Lực lượng Tên lửa Chiến lược Nga|Lực lượng tên lửa chiến lược]] được thành lập tại [[Vinnytsia]] trong ranh giới của quân khu vào năm 1960. Nó bao gồm Sư đoàn tên lửa số 19 ([Khmelnytskyi), Sư đoàn tên lửa cận vệ số 37 (Lutsk), Sư đoàn tên lửa số 43 (Kremenchuk), Sư đoàn tên lửa số 44 (Kolomyia), tỉnh Ivano-Frankivsk, giải thể ngày 31 tháng 3 năm 1990. Lữ đoàn công binh 73 RVGK đóng tại Kamyshin.), và Sư đoàn tên lửa 46 (Pervomaisk, tỉnh Mykolaiv). Tư lệnh cuối cùng của Tập đoàn quân tên lửa 43 là Thượng tướng Vladimir Alekseevich Mikhtyuk, phục vụ từ ngày 10 tháng 1 năm 1991 đến ngày 8 tháng 5 năm 1996 khi nó chính thức bị giải thể. Cũng trong quân khu vào năm 1988 còn có Lữ đoàn cơ giới 72 tại Krasnograd. Năm 1991, quân khu bao gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 (tại Dnipropetrovsk), Tập đoàn quân cận vệ 1 (Chernihiv), Sư đoàn súng trường cơ giới 36 (Artemivsk/Bakhmut), Sư đoàn súng trường cơ giới 48 (Chuhuiv), Sư đoàn huấn luyện xe tăng cận vệ 48 (Desna), Lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt độc lập 9 GRU (kích hoạt ngày 15 tháng 10 năm 1962 tại Kirovohrad [Kropyvnytsnkyi], thành lập ngày 31 tháng 12 năm 1962, ở lại Ukraina năm 1992), Tập đoàn quân Không quân 17 và Quân đoàn Phòng không 60 của Tập đoàn quân Phòng không 8 (Phòng không Liên Xô)). Trong số các đơn vị không quân của quân khu có Trường phi công quân sự cấp cao Chernihiv tại Chernihiv. Cũng nằm trong ranh giới của quân khu nhưng chịu trách nhiệm trước Bộ Chỉ huy Phương diện chiến lược Tây Nam là Lữ đoàn Đổ bộ-Xung kích độc lập số 23 (thực tế là một lữ đoàn cơ động đường không), tại Kremenchuk, tỉnh Poltava. Năm 1991, Thượng tướng Viktor S. Chechevatov bị cách chức Tư lệnh quân khu vì từ chối tuyên thệ trung thành với Ukraina. Quân khu bị giải tán sau khi Liên Xô tan rã, vào ngày 1 tháng 11 năm 1992, và cấu trúc của nó được sử dụng làm cơ sở cho Bộ Tổng tham mưu và Bộ Quốc phòng Ukraina mới.
Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu (tiếng Bồ Đào Nha: "Maria de Portugal"; tiếng Tây Ban Nha: "María de Portugal"; 18 tháng 6 năm 1521 – 10 tháng 10 năm 1577; ] ) là một Vương nữ Bồ Đào Nha, con gái duy nhất của Manuel I của Bồ Đào Nha và Leonor của Castilla. Là một người bảo trợ nổi tiếng cho nghệ thuật và các kiến trúc, tài sản cá nhân của Maria sánh ngang với người anh cùng cha khác mẹ là João III của Bồ Đào Nha, Maria trở thành người phụ nữ giàu nhất Bồ Đào Nha và là một trong những vương nữ giàu có nhất châu Âu. Maria của Bồ Đào Nha sinh ngày 18 tháng 6 năm 1521, tại Lisboa, Bồ Đào Nha, là con gái duy nhất của Manuel I của Bồ Đào Nha và Leonor của Castilla. Sáu tháng sau khi chào đời, cha của Maria qua đời vì bệnh dịch và được kế vị bởi người anh cùng cha khác mẹ là João III của Bồ Đào Nha. Ngay sau đó, mẹ của Maria trở lại Viên cùng với Maria cho đến năm 1530, khi Leonor tái hôn với François I của Pháp và chuyển đến Pháp. Maria đã không gặp mẹ mình trong gần 28 năm và được gửi đến sống ở Bồ Đào Nha tại triều đình của người anh trai João III. Năm 1525, dì của Maria, Catalina của Castilla, kết hôn với João III của Bồ Đào Nha, do đó Catalina cũng trở thành chị dâu của cháu gái mình. Vương hậu Catalina đảm nhiệm việc nuôi dạy và giáo dục Maria và yêu thương Maria như thể là con gái của mình. Maria nhận được nền giáo dục đáng kinh ngạc so với phụ nữ cùng thời vì các gia sư của vương nữ gồm có các nữ học giả như các nhà nhân văn học Joana Vaz và Públia Hortênsia de Castro. Maria chủ yếu học về tài chính, kiến trúc, văn học và một vài ngôn ngữ. Là một trong những Infanta Bồ Đào Nha có học thức nhất, Maria đã trở thành một nhà nhân văn học nổi tiếng và là người bảo trợ nghệ thuật. Hộ gia ("household") của Maria như thể trở thành trường đại học dành cho phụ nữ, nơi hội tụ những bộ óc vĩ đại nhất. Có tin đồn rằng Maria đã yêu Luís Vanz de Camões, nhà thơ vĩ đại nhất Bồ Đào Nha. Mặc dù không thiếu người theo đuổi và có nhiều lời hỏi cưới nhưng Maria chưa bao giờ kết hôn. Đã có thương lượng về việc đính hôn giữa Maria và Trữ quân Pháp François, được sự ủng hộ của mẹ Maria là Leonor, nhưng vị trữ quân đã qua đời vào năm 1536. Năm 1537, Maria và người em họ Christine của Đan Mạch, Thái Công tước phu nhân xứ Milano được coi là những cô dâu tiềm năng để gả cho Henry VIII của Anh trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nước Anh sớm từ bỏ những mối hôn sự này. Maria được cân nhắc là vợ thứ hai của người em họ cũng như cháu trai là Felipe của Tây Ban Nha (sau này là Quốc vương Felipe II), con trai của cậu là Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã và chị gái cùng cha khác mẹ là Isabel của Bồ Đào Nha. Mối hôn sự được cân nhắc nghiêm túc từ năm 1549, khi Leonor định cư ở Bruxelles nhưng đã bị dừng lại khi Mary Tudor kế vị ngai vàng Anh vào năm 1553 và Karl V quyết định gả con trai Felipe cho tân vương nước Anh. Các ứng cử viên khác để kết hôn của Maria là Đại vương công Maximilian của Áo, con trai của một người cậu khác làFerdinand I của Thánh chế La Mã; James V của Scotland; và Emanuele Filiberto I của Savoia. Nữ Công tước xứ Viseu. Sau cùng, João III đã trao cho Maria hộ gia của riêng vương nữ và Công quốc Viseu mà cha họ sở hữu trước khi trở thành vua. Dưới sự lãnh đạo của Maria, thành phố tiếp tục phát triển thịnh vượng với các ngành công nghiệp gốm sứ, thêu và đồng. Tài sản cá nhân của Maria thậm chí sánh ngang với tài sản của nhà vua, khiến Maria trở thành người phụ nữ giàu nhất Bồ Đào Nha và là một trong những vương nữ giàu có nhất châu Âu. Nhận được những khoản thu nhập như vậy, Maria đã tài trợ cho nhiều dự án xây dựng, đặc biệt là ở Carnide và vùng nông thôn Lisboa. Vương nữ đã tài trợ và giám sát việc xây dựng Nhà thờ Nossa Senhora da Luz và Bệnh viện Nossa Senhora dos Prazeres, nơi hiện đang là trụ sở của Colégio Militar, và cả hai nơi đều vẫn còn những bức phù điêu lớn hình Vương huy cá nhân của Maria. Tại Lisboa, Maria đã tài trợ cho việc xây dựng Nhà thờ Santa Engrácia, ở São Vicente. Cấu trúc ban đầu mà Maria ra lệnh xây dựng đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1681 và được xây dựng lại sau này và hiện được coi là Đền thờ Quốc gia của Bồ Đào Nha. Cuộc sống sau này. Sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ João III vào năm 1558, Maria đã đến Tây Ban Nha để gặp mẹ của mình lần đầu tiên sau 28 năm. Leonor đã đề nghị con gái đến sống với mình và dì María, nhưng Maria từ chối và chỉ ở lại ba tuần trước khi trở về Lisboa. Leonor qua đời ngay sau đó trong khi trở về Jarandilla de la Vera từ Badajoz. Trong thời kỳ Quốc vương Sebastian được nhiếp chính bởi bà nội là Thái hậu Catalina vì còn nhỏ tuổi, một nhóm các quý tộc Bồ Đào Nha muốn Nữ Công tước xứ Viseu thay thế Thái hậu Catalina đảm nhiệm vai trò nhiếp chính nhưng thất bại. Maria qua đời ở Lisboa vào ngày 10 tháng 10 năm 1577, hưởng thọ 56 tuổi và được chôn cất tại Nhà thờ Nossa Senhora da Luz. Leonor của Áo và Castilla Manuel I của Bồ Đào Nha Catalina của Áo và Castilla María của Aragón và Castilla João III của Bồ Đào Nha
Đảng Cộng sản Malaysia Đảng Cộng sản Malaysia (MCP), tên chính thức là Đảng Cộng sản Malaya (CPM), là một đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin và chống chủ nghĩa đế quốc, hoạt động ở Malaya thuộc Anh và sau đó là các quốc gia hiện đại của Malaysia và Singapore từ năm 1930 đến năm 1989. Nó chịu trách nhiệm thành lập cả Quân đội Nhân dân Malaysia chống Nhật Bản và Quân đội Giải phóng Quốc gia Malaysia. Đảng đã lãnh đạo các nỗ lực kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản đối với Malaya và Singapore trong Thế chiến thứ hai, và sau đó tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại Đế quốc Anh trong Tình trạng khẩn cấp ở Malaya. Sau khi lực lượng thực dân Anh rời khỏi Liên bang Malaya, đảng này đã chiến đấu trong chiến dịch du kích thứ ba chống lại cả chính phủ Malaysia và Singapore nhằm tạo ra một nhà nước cộng sản trong khu vực, trước khi giải tán vào năm 1989.Ngày nay, do những ý nghĩa lịch sử xung quanh MCP, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một hệ tư tưởng vẫn là một chủ đề chính trị cấm kỵ ở cả hai quốc gia.
Chung kết UEFA Nations League 2023 Trận chung kết UEFA Nations League 2023 là trận đấu cuối cùng để xác định đội thắng cuộc tại vòng chung kết của UEFA Nations League 2022–23, mùa giải thứ ba của giải đấu quốc tế do UEFA tổ chức. Trận đấu được diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 2023 trên sân vận động De Kuip tại Rotterdam, Hà Lan, và chứng kiến màn tranh tài giữa đội tuyển Croatia và đội tuyển Tây Ban Nha. Sân vận động De Kuip được Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Hà Lan lựa chọn là một trong hai sân vận động cùng với De Grolsch Veste tổ chức vòng chung kết UEFA Nations League 2023. Do Johan Cruyff Arena – sân vận động lớn nhất Hà Lan đặt tại Amsterdam – không thể tổ chức do đã được lên lịch để tổ chức buổi hòa nhạc, nên De Kuip được lựa chọn để tổ chức trận bán kết đầu tiên – trận có Hà Lan tham dự, và trận chung kết của giải. Sân vận động De Kuip, được biết đến với tên gọi chính thức là sân vận động Feijenoord, tọa lạc tại quận Feijenoord ở thành phố Rotterdam. Sân có sức chứa lên đến 51,117 chỗ ngồi và là sân nhà của câu lạc bộ Feyenoord. Việc xây dựng cho sân bắt đầu vào năm 1935, và sân được khánh thành vào tháng 3 năm 1937. Sân De Kuip cũng đã thực hiện một cuộc cải tạo lớn vào năm 1994 để trở thành sân vận động có đầy đủ chỗ ngồi cho khán giả, với mái che được thiết kế mở rộng để che phủ tất cả các ghế ngồi. Đây là nơi tổ chức một số trận đấu được lựa chọn theo yêu cầu của đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan và cũng là nơi được lựa chọn để tổ chức các trận chung kết của cúp KNVB kể từ năm 1989. Ngoài ra, sân còn tổ chức hai trận chung kết UEFA Champions League (vào các năm 1972 và 1982), hai trận chung kết UEFA Nations League (vào các năm 1974 và 2002) và sáu trận chung kết UEFA Cup Winners' Cup (vào các năm 1963, 1968, 1974, 1985, 1991 và 1997), đồng thời còn là nơi tổ chức năm trận đấu của UEFA Euro 2000, trong đó có trận chung kết giữa đội tuyển Pháp và đội tuyển Ý. Ngoài việc tổ chức các trận đấu, sân De Kuip còn được sử dụng để tổ chức các buổi hòa nhạc kể từ năm 1978. Đường đến chung kết. "Ghi chú: Trong tất cả các kết quả dưới đây, tỷ số của các đội vào chung kết được đưa ra trước (H: sân nhà; A: sân khách)." section begin=Final /#đổi section end=Final /
Trước năm 1941, Banjarmasin là trung tâm hành chính của Đông và Đông Nam Borneo, và là trụ sở của Thống đốc Borneo thuộc Hà Lan. Sân bay Oelin (Ulin) nằm cách thị trấn 25 km chỉ cách Surabaya 420 km, khiến nó trở thành mục tiêu quan trọng trong kế hoạch tiêu diệt Không quân Đồng minh ở Java trước cuộc tấn công của họ. Người Hà Lan đã thành lập một sân bay khác tại Kotawaringin, cách đó 350 km về phía tây. Kế hoạch của Hà Lan. Quân đội Hà Lan ở Banjarmasin chủ yếu được giao nhiệm vụ bảo vệ cả 2 sân bay Oelin và Kotawaringin. Mặc dù bản chất của nhiệm vụ, quân đội đến từ nhiều nhóm khác nhau được trang bị kém; một số đơn vị không được cung cấp quân phục cho đến tháng 1 năm 1942. Nhiều lữ đoàn "Stadswacht" và "Landwacht" chỉ được thành lập vào năm 1941 và được đào tạo về xử lý vũ khí hoặc cơ động trong trận đánh. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chính, tất cả binh lính bên ngoài Java phải tiến hành chiến tranh du kích. Các nhân viên chỉ huy và thống đốc sẽ chuyển đến Moearatewe, ở Bắc Barito, trong khi các nhân viên hành chính sẽ ở lại, hy vọng sẽ tiếp tục làm việc bình thường sau khi chiếm đóng. 3 cơ sở lưu trữ đã được thiết lập dọc theo tuyến đường đến Moearatewe như là một phần của việc này. Kế hoạch của Nhật Bản. Xét rằng người Nhật không có bất kỳ thông tin tình báo cập nhật nào về tình trạng của các sân bay ở Banjarmasin, ngoài thời gian dài để thiết lập sân bay cho hoạt động sau khi chiếm được, Hải quân đã huỷ bỏ sự tham gia của mình vào chiến dịch. Thay vào đó, Quân đội đã lên kế hoạch tiến hành một cuộc tấn công theo hai hướng vào thành phố từ biển và đất liền, với cuộc công kích chính là cuộc tấn công chính. Đơn vị trên bộ của Đại tá Yamamoto lên kế hoạch tấn công bằng đường bộ sẽ rời Balikpapan vào đêm 30 tháng 1 và đổ bộ lên Tanahgrogot vào rạng sáng ngày 31. Đơn vị sau đó sẽ băng qua rừng rậm và núi về phía nam, với một yếu tố lực lượng tiến lên như đội tiên phong để ngăn chặn bất kỳ nỗ lực phục kích nào của Hà Lan. Sau khi di chuyển ra khỏi rừng rậm, nó sẽ nhanh chóng tiến đến thành phố để vượt qua bất kỳ nỗ lực nào của Hà Lan nhằm phá huỷ các cây cầu trong khi rút lui. Vì các nhu yếu phẩm chủ yếu được mua tại chỗ, quân đội chỉ mang theo khẩu phần trị giá 9 ngày. Trong khi đó, Đơn vị trên biển của Đại uý Okamoto, sẽ rời đi vài ngày trước Đơn vị của Yamamoto. Sử dụng tàu đổ bộ, đơn vị sẽ chỉ di chuyển vào ban đêm. Vào ban ngày, họ dự định đi ngược dòng gần cửa sông và trốn dưới rừng để tránh sự trinh sát trên không của Đồng minh. Để đảm bảo lối đi qua eo biển phía tây đảo Laoet (Laut), Okamoto lên kế hoạch tiến hành một cuộc đột kích ban đêm vào Kotabaroe (Kotabaru) để thu thập nguồn tiếp tế và thông tin tình báo. Khi đổ bộ xuống Banjarmasin, Đơn vị sẽ tiến lên và chiếm sân bay Oelin. Đối diện với Đơn vị trên bộ, quân của Okamoto cần phải mua sắm lương thực thực phẩm dọc theo cuộc tiến quân. Những cuộc không kích ban đầu. Sau khi Tarakan thất thủ, các cuộc không kích hàng ngày của Nhật Bản bắt đầu được nhìn thấy trên Banjarmasin. Những chiếc máy bay tiêm kích đầu tiên của Nhật Bản tiến hành bắn phá sân bay Oelin vào ngày 20 tháng 1, nhưng gây ra ít thiệt hại. Trong cuộc không kích vào ngày 21 tháng 1, 4 chiếc Mitsubishi Zeros và một máy bay trinh sát Babs của Không đoàn Đài Nam đã phá huỷ một chiếc PBY Catalina thuộc Liên đội Bay 16 (GVT.16) của MLD đã hạ cánh xuống đồng bằng Barito. Một tổn thất lớn xảy ra vào ngày 27 tháng 1, khi 8 máy bay ném bom Glenn Martin dừng lại tại Oelin trên đường đến sân bay Samarinda II. Khi cuộc không kích diễn ra, những khẩu súng máy Lewis được bố trí như phòng không không hiệu quả đối với máy bay Nhật. Người Nhật đã phá huỷ 6 trong số các máy bay ném bom và làm hư hại 2 chiếc còn lại, giáng một đòn nặng nề vào tinh thần của người Hà Lan. Đơn vị trên bộ di chuyển. Đội tiền phương của Đơn vị Yamamoto rời Balikpapan vào sáng ngày 31 tháng 1 và đổ bộ lên vịnh Adang lúc 20:00 cùng ngày. Khi được thông báo về cuộc đổ bộ, Trung uý Michielsen, người chỉ huy phòng thủ ở Tanahgrogot, đã rút lui cùng với 60 quân của mình sau khi phá huỷ thị trấn. Gia đình của những binh sĩ bản địa bị cấm sơ tán, trong khi gia đình của những người lính Tây phương có thể sơ tán theo cách riêng của họ. Michielsen đã thiết lập một trại với nguồn cung cấp thực phẩm cách Tanahgrogot 20 km về phía đông để chứa những người sơ tán, những người hiện đã gia nhập hàng ngũ binh sĩ rút lui. Tuy nhiên, nhiều binh sĩ đã đào ngũ trên đường đi hoặc trở về với gia đình của họ, để lại Michielsen với 5 người lính-2 trong số họ bị bệnh-khi anh đến Tandjoeng. Đến 10:30 ngày 1 tháng 2, lực lượng tiên phong Nhật Bản chiếm được Tanahgrogot. Vào ngày 2 tháng 2, phần còn lại của Đơn vị Yamamoto rời Balikpapan và đổ bộ lên Tanahgrogot vào ngày 3 tháng 2. Khi họ tiến về phía nam đến Banjarmasin, Đơn vị trên bộ đã phải đối mặt với việc thiếu đường bộ thích hợp, khiến xe cơ giới và 600 xe đạp của họ trở nên vô dụng. Họ trèo lên những ngọn núi dốc và băng qua những cây cầu gỗ tạm thời bắc qua những hẻm núi sâu, trong khi chống lại các cuộc tấn công từ muỗi, đỉa và côn trùng khác. Yamamoto đi đến Moeara Oeja (Muara Uya) vào ngày 4 tháng 2. Theo lệnh của Halkema, các lữ đoàn Landwacht ở Tandjoeng (Tanjung), Amoentai và Barabai đã thiêu rụi thành phố và rút lui mà không chiến đấu. Lệnh này đã khiến Halkema đụn độ với Thống đốc Borneo thuộc Hà Lan, Bauke Jan Haga. Thống đốc Haga nhận thấy sự tàn phá là quá sớm, vì nó sẽ phá vỡ đời sống kinh tế ở các thành phố dọc theo Hoeloe Soengei (Hulu Sungei/Sungai), đề cập đến dòng thị trấn và làng mạc nằm ở phía đông sông Barito. Để phản đối, Thống đốc Haga đã gửi khiếu nại chính thức đến Tổng Tư lệnh quân đội Hà Lan ở Đông Ấn Hà Lan, Tướng Heinrich ter Poorten, yêu cầu thay thế Halkema. Theo thoả thuận, ter Poorten đã cử Thiếu tá A. Doup để thay thế anh ta. Tại Dajoe, quân của Trung uý van der Poel đã phá huỷ sân bay nhỏ trong thị trấn trước khi rút lui về phía bắc đến Boentok (Buntok) và mất liên lạc với ban chỉ huy. Khi người dân địa phương báo cáo nhầm rằng các lực lượng Nhật Bản đang tiến vào thị trấn, nhiều binh sĩ bản địa và cảnh sát dã chiến của van der Poel đã đào ngũ, để lại cho ông 5 người. Vào ngày 7 tháng 2, Halkema tăng cường quân sự tại Kandangan với 2 lữ đoàn từ Oelin (được trang bị súng máy Madsen) dưới quyền chỉ huy của Trung uý 1 W.K. Remmert. Remmert đã phải trì hoãn bước tiến của Yamamoto dọc theo đường Kandangan-Martapoera, trước khi tập hợp lại với 1 lữ đoàn nghĩa vụ tại sân bay Oelin. Đến 11:30, quân của Remmert đến Kandangan và bắt đầu chiếm vị trí ở phía bắc thị trấn, trước khi hỗ trợ Scholte trong nỗ lực phá huỷ. Cả hai nhóm sau đó rút vào một vị trí phòng thủ ở Martapoera để bảo vệ sân bay Oelin. Vào đêm ngày 8 tháng 2, báo cáo của Hà Lan từ Rantau cho biết một trong những con tàu của họ đã di chuyển dọc theo con sông về phía Banjarmasin khi tắt đèn. Không loạt trừ khả năng có quân Nhật trên tàu, Halkema ra lệnh cho Đại uý van Epen gửi 3 lữ đoàn (1 lính nghĩa vụ và 2 Stadswacht, được tăng cường bằng súng máy và súng Madsen) trên các xà lan hơi nước từ Oelin đến Negara để ngăn chặn quân Nhật tấn công Banjarmasin qua sông Barito, trước khi rút lui về Oelin. Đến 22:00, Halkema ra lệnh phá huỷ Banjarmasin và Pelaihari. Khi sự huỷ diệt, và cùng với nó, sự phá hoạt bắt đầu diễn ra, Thống đốc Haga được khuyên nên rời khỏi thành phố, nhưng ông khẳng định rằng ông sẽ không làm như vậy cho đến 23:30. Sau đó, Thống đốc Haga rời Moearatewe, trước khi di chuyển xa hơn về phía bắc đến Poeroektjaoe (Puruk Cahu). Hai ngày trước đó, ter Poorten đã uỷ nhiệm Doup làm trung tá và bổ nhiệm ông làm người kế nhiệm Halkema, với lý do tình trạng sức khoẻ (thấp khớp) và mất cân bằng tinh thần của Halkema. Doup rời Surabaya vào ngày 8 tháng 2, nhưng khi máy bay của ông đến bờ biển Borneo lúc 01:00, ông nhìn thấy những đám cháy lớn ở cửa sông Barito, nơi Banjarmasin sẽ ở. Vì người điều khiển vô tuyến không liên lạc được với mặt đất, phi công, Trung uý J.A.J. Oonincx từ chối hạ cánh; việc không liên lạc được là do đài phát thanh tại sân bay Oelin bị phá huỷ. Doup cuối cùng phải quay về Surabaya. Sau khi gửi lệnh phá huỷ, Halkema và một vài sĩ quan tham mưu lái xe đến sân bay Oelin để bàn giao quyền chỉ huy cho người kế nhiệm. Tại sân bay, ông nhìn thấy một chiếc máy bay bay vòng quanh sân bay nhiều lần trước khi rời đi mà không hạ cánh. Khi Halkema lái xe đến Oelin, một phần nhân viên của ông đã bắt đầu lên tàu "Irene" và "Otto". Cả hai con tàu đều hướng đến Schans van Tuyl (ngã ba sông Martapoera (Martapura) và Barito), nơi chúng sẽ chờ hướng dẫn thêm ở đó. Trong khi đó, chủ bến cảng của Banjarmasin đã ra lệnh cho một chiếc tàu hơi nước đi đến Takisoeng (Takisung), một thị trấn ven biển phía nam Banjarmasin, nơi nó sẽ được cung cấp cho Halkema xử lý. Từ Schans van Tuyl, "Irene" và "Otto" cuối cùng tiến về Java, mang theo những người tị nạn Hà Lan từ Banjarmasin và một phần nhân viên của Halkema. Sau khi nhìn thấy máy bay của Doup rời đi, Halkema lái xe theo hướng Takisoeng, nơi anh đến cửa sông Barito vào ngày 9 tháng 2. Vào buổi tối, một Borsumij ("Borneo Sumatera Maatschappij"; Công ty Borneo Sumatera) tàu xuất hiện cùng với các nhân viên còn lại không lên tàu "Irene" và "Otto". Sau khi Halkema lên tàu, con tàu sau đó nhận được một bức điện tín từ Bandung, ra lệnh cho họ đi về phía tây đến Kotawaringin và chờ hướng dẫn thêm ở đó. Con tàu Borsumij lên đường lúc 19:00; Các lực lượng Hà Lan trên tàu đã tìm cách sơ tán đến Kotawaringin vào thời điểm đó chỉ có 75 quân. Sau khi cập cảng Kotawaringin vào ngày 11 tháng 2, Halkema và các nhân viên không thiết yếu khác rời đi Java bằng máy bay vào ngày 12 tháng 2, trong khi các lính bộ binh dưới quyền Đại uý W.C.A. van Beek tăng cường lực lượng tại sân bay. Trở lại sân bay Oelin, Đại uý Bolderhey đợi đến ngày 9 tháng 2 để chuyến bay của Doup đến, mà không biết rằng nó đã xảy ra vào ngày hôm trước. Khi màn đêm buông xuống ngày 9, anh quyết định rời sân bay và đi lên phía bắc đến Koeala Kapoeas (Kuala Kapuas). Thái độ thù địch của người dân địa phương, cùng với việc đào ngũ khiến du kích chiến đấu không còn lựa chọn. Với ít sự lựa chọn hơn trong tay, Bolderhey quyết định cố gắng tiếp cận Java. Vào ngày 11 tháng 2, ông và quân của mình rời đi trên một chiếc thuyền nhỏ dài 17 m, cùng với 180 thường dân Hà Lan khác (trong đó có 20 phụ nữ). Sau khi đi thuyền trong biển động trong 6 ngày, Bolderhey đổ bộ lên Madura. Đơn vị của Yamamoto, một khi ra khỏi rừng rậm, đã cố gắng truy đuổi lực lượng Hà Lan đang rút lui, nhưng cuộc tiến công đã làm phân tán lực lượng. Tuy nhiên, một đại đội tiên phong do Đại uý Kataoka dẫn đầu đã cạnh tranh với đại đội công binh để trở thành người đầu tiên đánh đuổi quân Hà Lan. Khi Đơn vị trên bộ tiến lên, họ đã nhận được xe đạp, xe cộ và đồ dự trữ từ nhiều người dân địa phương hỗ trợ. Lúc 09:00 ngày 10 tháng 2, Kataoka, cùng với đại đội công binh, chiếm sân bay Oelin mà không gặp kháng cự nào. Khi màn đêm buông xuống, Đơn vị đã chiếm được Banjarmasin. Đơn vị trên biển di chuyển. Đơn vị trên biển của Okamoto rời Balikpapan vào tối ngày 30 tháng 1 trên 4 tàu đổ bộ lớn và 2 tàu đổ bộ nhỏ và bắt đầu đi dọc theo bờ biển về phía nam. Theo kế hoạch, Đơn vị tập trung tiến công tại cửa sông vào ban đêm theo kế hoạch, với một sĩ quan hải quân trực thuộc để điều khiển quân đội. Vào ban ngày, các tàu đổ bộ được nguỵ trang dưới rừng ngập mặn để tránh bị phát hiện. Đi qua vịnh Apar Besar, vịnh Pamukan và vịnh Klumpang, Okamoto thực hiện một cuộc không kích ban đêm xuống Kotabaroe, không gặp phải sự kháng cự nào và chiếm được nhiều tiếp liệu và tiếp tế. Vào ngày 8 tháng 2, Đơn vị trên biển đổ bộ cách Banjarmasin 80 km và tiến lên mà không gặp phải sự kháng cự nào đối với sân bay Oelin. Vì Đơn vị trên bộ đã phân tán quân của Halkema, quân của Okamoto đã đến sân bay Oelin mà không gặp phải sự kháng cự nào vào ngày 10 tháng 2. Đến cuối trận đánh, Đơn vị trên bộ đã tiến 400 km về phía nam từ điểm đổ bộ của họ ở vịnh Adang đến Banjarmasin, 100 km trong số đó được thực hiện xuyên qua rừng rậm. Vật liệu cơ bản cho Không Hạm đội 11 đi đến Oelin bằng thuyền đánh cá vào ngày 20 tháng 2, và đến ngày 25 tháng 2, một đơn vị của Phi đội 23 đổ bộ lên sân bay, nơi sớm được sử dụng làm căn cứ cho cuộc tiến quân đến Bali. Trận đánh đã khiến 9 lính Nhật thiệt mạng trong chiến đấu hoặc chết vì bệnh tật. Khoảng 80% (khoảng 800) binh sĩ của Đơn vị trên bộ bị mắc bệnh sốt rét. Thương vong của Hà Lan không rõ. Tuy nhiên, trận chiến đã được đặc trưng với tỷ lệ đào ngũ cao trong quân địa phương. Sau khi quân Hà Lan tại Java đầu hàng vào ngày 8 tháng 3, quân đội đang cầm cự ở Borneo cũng bắt đầu ra hàng. Nhóm của Michielsen đã tự giao nộp mình cho người Nhật ở Tandjoeng sau thông báo đầu hàng. Sau khi cầm cự ở Poeroektjaoe một thời gian, nhóm của van der Poel đầu hàng quân Nhật tại Banjarmasin vào ngày 14 tháng 3. Người Nhật sau đó chỉ thị cho ông, cùng với Đại uý van der Epen, người đã đến Banjarmasin cùng một lúc, để hướng dẫn quân đội sẽ đón Thống đốc Haga ở Poeroektjaoe. Thống đốc Haga bị bắt vào ngày 17 tháng 3. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1943, ông qua đời trong tù sau khi bị tra tấn vì âm mưu khôi phục sự cai trị của Hà Lan ở Banjarmasin thông qua một cuộc nổi dậy vũ trang, trong cái được gọi là "Âm mưu Haga". Các đơn vị ở lại sân bay Kotawaringin được tăng cường với tiểu đoàn 2/15 Punjab dưới sự chỉ huy của Trung tá M.C. Lane đã kiệt sức từ Miri Kuching. Vào ngày 24 tháng 2, một con tàu chở hàng tiếp tế đã đến để cung cấp thêm lương thực dự trữ cho lực lượng phòng thủ. Mãi cho đến cuối tháng 3-đầu tháng 4, người Nhật cuối cùng đã đến Kotawaringin và đánh bại quân phòng thủ. Banjarmasin vẫn nằm dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản cho đến tháng 9 năm 1945, khi thành phố này được giải phóng bởi Tiểu đoàn 2/31 thuộc Sư đoàn Bộ binh 7 Úc.
Danh sách bộ thuộc nhánh động vật đối xứng hai bên Danh sách các bộ Động vật đối xứng hai bên bao gồm nhánh Bilateria thuộc phân giới Eumetazoa, chia làm 4 siêu ngành, Deuterostomia, ba siêu ngành trong đơn vị phân loại Protostomia: Ecdysozoa và 2 siêu ngành trong đơn vị phân loại Spiralia, Platyzoa và Lophotrochozoa. Không bộ, có một chi và một loài "Planctosphaera pelagica" Phân thứ giới Protostomia. Cycloneuralia (Không phân hạng). Scalidophora (Không phân hạng). Không có lớp, chỉ có 2 bộ, được gọi là rồng bùn, được tìm thấy phổ biến ở bùn và cát. Không có lớp, chỉ có một bộ Nanaloricida Some dispute here with Micrognathozoa as the class and Limnognathia as the order Platytrochozoa (Không phân hạng). Mesozoa (Không phân hạng). Không có lớp, bộ, chỉ có 3 họ Conocyemidae, Dicyemidae và Kantharellidae. Không có lớp, bộ, chỉ có một Salinellidae. Không có lớp, bộ, chỉ có hai họ Pelmatosphaeridae và Rhopaluridae. Rouphozoa (Không phân hạng). Kryptotrochozoa (Không phân hạng). Không lớp, bộ, chỉ có một họ Phoronidae. Không có lớp, bộ, chỉ phân làm 4 họ Barentsiidae, Loxokalypodidae, Loxosomatidae và Pedicellinidae.
Trần Vĩnh Quý (; ngày 14 tháng 2 năm 1915 – ngày 26 tháng 3 năm 1986) là nông dân và chính khách Trung Quốc. Dù là một nông dân mù chữ nhưng ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1975–1980 nhờ sự công nhận của Mao Trạch Đông đối với thành tựu của ông trong Cách mạng Văn hóa, khi biến Đại Trại thành một hình mẫu cho nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa. Theo hồ sơ chính thức của huyện Tích Dương tỉnh Sơn Tây, từ năm 1967–1979, dưới sự lãnh đạo của Trần Vĩnh Quý, toàn huyện đã hoàn thành 9.330 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và thủy lợi, mở rộng tổng diện tích đất canh tác thêm 98.000 mẫu Anh (khoảng 16.144 mẫu Anh), nhưng ở mức tổn thất 1.040 thương vong trong đó có 310 người chết. Sau khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng công cuộc Cải cách và Mở cửa vào cuối thập niên 1970, Trần Vĩnh Quý dần đánh mất quyền lực và quyết định từ chức vào tháng 9 năm 1980. Ông qua đời vì ung thư phổi ở Bắc Kinh năm 1986. Thân thế lúc đầu. Trần Vĩnh Quý quê ở huyện Tích Dương tỉnh Sơn Tây chào đời trong một gia đình nông dân nghèo khổ vào khoảng năm 1915 (tự báo cáo là ngày 14 tháng 2 năm 1915, Tết Nguyên Đán năm 1915), khi ông mới 6 tuổi thì cả nhà chuyển đến thôn Đại Trại rồi ít lâu sau cha ông treo cổ tự vẫn. Hoàn cảnh gia đình túng quẫn buộc Trần Vĩnh Quý phải lao đầu vào làm thuê làm mướn từ khi còn rất trẻ để kiếm sống, vì vậy ông chưa bao giờ được học hành chính quy. Năm 1942, khi cuộc chiến chống du kích cộng sản gia tăng ở tỉnh Sơn Tây, nơi có huyện Tích Dương bao gồm Đại Trại, quân Nhật siết chặt các làng địa phương và Trần Vĩnh Quý được bầu làm đại diện Đại Trại trong Hiệp hội Chấn hưng châu Á bù nhìn, nhưng đã từ chức và rời làng để rồi bị giam giữ trong trại tập trung vào năm 1943–1944. Chính vì vậy mà ông đã bị giam giữ trong một thời gian ngắn trong vai trò là cộng tác viên bị nghi ngờ nhưng ít lâu sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 thì mới được trả tự do. Sự nghiệp chính trị. Trần Vĩnh Quý hăng hái tham gia "phong trào cải cách ruộng đất" chống địa chủ và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1948, từ đó trở đi một thời gian rất dài từng công tác ở quê nhà Đại Trại. Thời kỳ mới giải phóng cả nước năm 1949, ông đảm nhiệm các chức vụ Ủy viên sản xuất thôn, Bí thư Chi bộ thôn và Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp thôn , ông được cử làm Bí thư Chi bộ Đảng đại đội kế nhiệm Giả Tiến Tài, sau đó được bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy Công xã Đại Trại. Thời kỳ Đại Trại. Trần Vĩnh Quý đã lãnh đạo một phong trào nông dân để biến môi trường khắc nghiệt xung quanh Đại Trại thành một môi trường thuận lợi cho nông nghiệp. Kế hoạch tỏ ra thành công và sản lượng ngũ cốc sau đó tăng đều đặn, tăng từ 237 kg/mẫu năm 1952 lên 774 kg/mẫu năm 1962. Quá trình này bị dừng lại một cách tàn nhẫn bởi hàng loạt thiên tai vào năm 1963, đã phá hủy 180 mẫu đất canh tác cũng như một số tòa nhà của đại đội sản xuất. Bất chấp sự thất bại này, đại đội vẫn từ chối bất kỳ sự giúp đỡ nào từ nhà nước và quyết tâm hoàn thành các nỗ lực tái thiết trong vòng một năm. Vụ việc mau chóng thu hút sự chú ý của Mao Trạch Đông đến mức ông đã có lời tuyên bố rằng Đại Trại là một tấm gương đáng để noi theo trong lĩnh vực tự lực cánh sinh, đồng thời kêu gọi nhân dân cả nước hưởng ứng phong trào "nông nghiệp học Đại Trại". Công xã Đại Trại dưới sự lãnh đạo của Trần Vĩnh Quý và một số cán bộ khác đã giành được những thành tựu nhất định về mặt cải tạo tự nhiên và phát triển sản xuất, trở thành một điển hình tiên tiến trên mặt trận nông nghiệp của Trung Quốc, nhiều lần được các cấp huyện địa khu và tỉnh Sơn Tây khen thưởng, nhờ vậy mà Trần Vĩnh Quý được bầu làm chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc. Trần Vĩnh Quý cũng nhờ đó đã trở thành nhân vật nổi tiếng khắp toàn quốc, liên tục giữ các chức vụ quan trọng ở huyện Tích Dương, địa khu Tấn Trung, tỉnh Sơn Tây và Trung ương Đảng Quốc vụ viện. Cách mạng Văn hóa. Khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu vào giữa năm 1966, mô hình Đại Trại thậm chí còn được nhấn mạnh nhiều hơn nữa. Trong cuộc gặp với Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai, Trần Vĩnh Quý được thủ tướng khuyến khích thành lập tổ chức hồng vệ binh của riêng Đại Trại, sau này được thành lập với tên gọi "Dã chiến quân Tấn Trung". Năm 1967, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Sơn Tây; cùng năm đó, Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương đã thông qua "năm khuyến nghị" của ông để tiến hành Cách mạng Văn hóa ở nông thôn theo như công bố trong Văn kiện Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc số 339. Tại Đại hội Đảng thứ IX tháng 4 năm 1969, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1971, ông được cử làm Bí thư Huyện ủy Tích Dương (từ sau năm 1961 liên tục là Ủy viên Dự khuyết Huyện ủy Tích Dương). Cùng năm đó được cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Sơn Tây, về sau còn kiêm nhiệm chức Bí thư Địa khu ủy Tấn Trung. Một lần nữa ông được Mao Trạch Đông chấp thuận vào năm 1972 khi kiên quyết phản đối yêu cầu của Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Sơn Tây Tạ Chấn Hoa hạ cấp đại đội sản xuất Đại Trại xuống đội sản xuất. Tháng 8 năm 1973, Trần Vĩnh Quý được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và chuyển đến Bắc Kinh. Sau Cách mạng Văn hóa. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI tháng 8 năm 1977 tiếp tục giữ các chức vụ nói trên. Bên cạnh đó, ông còn là đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc các khóa III, IV, V. Trong hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa IV tháng 4 năm 1975 và Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa V tháng 3 năm 1978 (cùng năm ông sang thăm Campuchia Dân chủ) liên tục được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện. Sau khi ông được cử giữ chức Phó Thủ tướng, biết rằng bản thân mình phê duyệt các văn kiện rất khó khăn mà ưu thế của bản thân lại chỉ có quen thuộc ở cơ sở, do đó tháng 5 năm 1975 ông viết cho Mao Trạch Đông một bức thư đề nghị một phần ba thời gian là ở Tích Dương nắm điểm, một phần ba thời gian đi khắp đất nước, còn một phần ba thời gian ở Bắc Kinh. Ông hiểu rõ mình là nhờ có Đại Trại và cái nền Tích Dương mà được lên, tác dụng của ông là lối thông trên và dưới lên trên, bởi vậy ông nghĩ ra cách lấy cần cù bù thông minh, yêu cầu của ông được Mao Trạch Đông chuẩn y, do đó trong thời kỳ làm Phó Thủ tướng ông có rất ít thời gian ở Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1975, ông dẫn đầu một phái đoàn chính phủ đến México; rồi ít lâu vào tháng 9 cùng năm, ông có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị nông nghiệp học Đại Trại lần thứ nhất, dưới sự chủ trì của nhà lãnh đạo tối cao tiếp theo Hoa Quốc Phong. Chịu trách nhiệm về chính sách nông nghiệp, ông đề nghị tỉnh Cam Túc áp dụng phương pháp tương tự như Đại Trại đã sử dụng, nhưng điều này không mang lại kết quả như mong đợi. Mất chức Phó Thủ tướng. Dù đang là Ủy viên Bộ Chính trị thế nhưng quan điểm của ông ngày càng mâu thuẫn với quyền lực đang lên của Đặng Tiểu Bình: khi Đặng chuyển sang củng cố vị thế của mình, Trần Vĩnh Quý đề xuất bãi bỏ các mảnh đất tư nhân, gọi chúng là "cái đuôi của chủ nghĩa tư bản". Việc ông từ chối ủng hộ phe cánh của Đặng tiến hành chiến dịch "thật sự cầu thị" nhằm bác bỏ Cách mạng Văn hóa ở Đại Trại đã khiến ông mất đi chức vụ lãnh đạo đảng ủy Tấn Trung và Tích Dương vào năm 1979; ông bị miễn nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện vào tháng 9 năm 1980 trong một cuộc cải tổ chính phủ (khi Hoa Quốc Phong mất chức thủ tướng), và không được bầu lại vào Trung ương Đảng năm 1982. Năm 1983, chính phủ thể theo ý nguyện của Trần Vĩnh Quý đã cử ông tới một nông trường ngoại ô Bắc Kinh làm cố vấn nông nghiệp. Ngày 26 tháng 3 năm 1986, Trần Vĩnh Quý mắc bệnh ung thư phổi qua đời ở Bắc Kinh. Sau khi ông mất, gia đình làm theo ý nguyện của ông đưa tro về rải lên trên khắp đất Đại Trại. Trần Vĩnh Quý kết hôn với người vợ đầu tiên Lý Hổ Ni (李虎妮; 1926–1965) vào năm 1941, sau bà chết vì bệnh năm 1965. Lý Hổ Ni sinh một con trai là Trần Minh Châu và Trần Minh Hoa là con gái nuôi của bà. Một năm sau khi Lý Hổ Ni qua đời vì bạo bệnh, ông kết hôn với Tống Ngọc Lâm (宋玉林; 1927–2018) và có với nhau một người con trai tên Trần Minh Lượng, Tống còn có một cậu con trai tên Trần Minh Thiện với người chồng cũ Vương Kim Khôi (王金魁).
Trần Tích Liên (; ngày 4 tháng 1 năm 1915 – ngày 10 tháng 6 năm 1999) là sĩ quan quân đội và chính khách, thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Là nhân vật theo tư tưởng Mao Trạch Đông nổi bật từng nắm giữ những chức vụ rất quan trọng cả trong lĩnh vực quân sự và chính trị. Trần Tích Liên đã tham dự nhiều trận đánh trong chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ hai, ông giữ chức Thị trưởng kiêm Bí thư thứ nhất Thành ủy Trùng Khánh từ năm 1949 đến năm 1950 và Tư lệnh Pháo binh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1959. Sau đó, ông nắm quyền chỉ huy Quân khu Thẩm Dương (1959–1973) và đặc biệt là Quân khu Bắc Kinh (1973–1980). Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Bộ Chính trị (1969–1980) và Phó Thủ tướng Quốc vụ viện (1975–1980). Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, ông là một trong những người ủng hộ quan trọng nhất của Hoa Quốc Phong, cùng với Uông Đông Hưng và Lý Tiên Niệm. Kể từ lúc Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền thì do ông thuộc phe cánh Hoa Quốc Phong nên bị mất chức nhưng vẫn được phép nghỉ hưu sống bình yên cho đến cuối đời. Hoạt động cách mạng lúc đầu. Trần Tích Liên quê quán huyện Hồng An tỉnh Hồ Bắc, Năm lên 3 tuổi thì mồ côi cha, mẹ đành dẫn ông cùng hai chị gái đi ăn xin nhằm mong qua ngày đoạn tháng, song vẫn khó duy trì được sinh kế. Đến khi ông mười hai, mười ba tuổi phải đi ở chăn bò cho nhà địa chủ, sau do xung đột với địa chủ nên ông lập tức bỏ việc chăn bò lại bám theo mẹ ăn xin tiếp. Tháng 4 năm 1929, Trần Tích Liên mới 14 tuổi từ biệt mẹ mình tham gia đội du kích ở quê nhà, rồi sau xin gia nhập Hồng quân Công Nông Trung Quốc. Năm 1930, ông tình nguyện gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc, cùng năm đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong giai đoạn cải cách ruộng đất, Trần Tích Liên từng trải qua các chức vụ cán bộ chính trị chỉ huy Trung đoàn 30 Sư đoàn 10 Quân đoàn 4 Hồng quân, Chính trị viên, Chính ủy Tiểu đoàn Trung đoàn 263 Sư đoàn 88, Phó Sư đoàn trưởng, Chính ủy Sư đoàn 11 Quân đoàn 4 Hồng quân, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 và có lần từng tham gia cuộc đấu tranh chống bao vây tiêu diệt ở căn cứ địa cách mạng Ngạc Dự Vãn và Xuyên Thẩm, rồi còn tham gia vào cuộc Vạn lý Trường chinh. Kháng chiến chống Nhật và nội chiến. Thời kỳ kháng chiến chống Nhật, Trần Tích Liên đảm nhận các chức vụ Trung đoàn trưởng, Lữ đoàn phó, Lữ đoàn trưởng thuộc Lữ đoàn 38 Sư đoàn 129 Bát Lộ quân, tư lệnh quân khu Quân đoàn 3 Quân khu Thái Hà, tư lệnh Trung đội Thái Hà. Tháng 10 năm 1937, chỉ huy Trung đoàn 769 tập kích ban đêm vào sân bay quân sự của quân đội Nhật ở huyện Đại tỉnh Sơn Tây. Sau đó, ông còn tham gia vào các trận chiến đấu núi Thần Đầu Lĩnh, Hưởng Đường hiệu ở đông nam đất Tấn. Năm 1940, ông tham gia trận Đại chiến Bách Đoàn vang dội trong và ngoài nước. Năm 1943, ông được về Diên An vào học Trường Đảng Trung ương. Thời kỳ chiến tranh giải phóng, ông giữ các chức vụ Tư lệnh Trung đội 3 Dã chiến quân Tấn Ký Lỗ và Tư lệnh Quân khu Tấn Ký Lỗ Dự, Tư lệnh Binh đoàn 3 Quân đoàn Dã chiến số 2, từng tham gia các chiến dịch Thượng Đảng, Hàm Đan, Tây Nam Lỗ. Trong thời gian quân đoàn dã chiến kéo đến núi Đại Biệt Sơn, bộ đội mở ra khu giải phóng mới Vãn Tây, sau đó dẫn Binh đoàn 3 tham gia chiến dịch Hoài Hải vượt sông và chiến dịch giải phóng vùng Tây Nam rộng lớn. Năm 1955, khi được phong quân hàm thượng tướng từng được trao tặng 8 huân chương một Huân chương Độc lập Tự do hạng nhất và một Huân chương Giải phóng hạng nhất. Sự nghiệp chính trị kể từ sau năm 1949. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào năm 1949. Trần Tích Liên từng giữ các chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quân quản thành phố Trùng Khánh kiêm Tư lệnh Quân khu Xuyên Đông, Ủy viên Ủy ban Quân chính Tây Nam kiêm Thị trưởng thành phố Trùng Khánh, Ủy viên Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1950, được điều giữ chức Tư lệnh Pháo binh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sau đó kiêm chức Viện trưởng Viện Pháo binh. Năm 1956, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa VIII năm 1968 trong Hội nghị Trung ương XII khóa 8 được bầu bổ sung thành Ủy viên Trung ương. Năm 1959, được cử giữ chức Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương. Năm 1961, được cử là Bí thư Ban Bí thư Cục Đông Bắc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dưới thời Đại Cách mạng Văn hóa từng giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Liêu Ninh kiêm Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương, Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ tháng 1 năm 1975, liên tục trong hai nhiệm kỳ là Phó Thủ tướng Quốc vụ viện. Đại hội thứ IX Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 4 năm 1969, Đại hội thứ X Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8 năm 1973, tại Đại hội Đảng thứ XI tháng 8 năm 1977, liên tục được bầu vào Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1989, Trần Tích Liên được miễn chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh. Từ năm 1982 đến năm 1987 qua Đại hội lần thứ XII và XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc được bầu làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trần Tích Liên qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 10 tháng 6 năm 1999, hưởng thọ 84 tuổi. Người vợ đầu tiên của Trần Tích Liên tên gọi Lật Cách (栗格), quê Mễ Chi tỉnh Thiểm Tây, tên thật là Lê Chi Tuệ (黎芝慧), tốt nghiệp Đại học Quân chính Kháng Nhật và kết hôn vào ngày 16 tháng 12 năm 1942. Mùa thu năm 1948, bà qua đời vì bạo bệnh. Người vợ thứ hai là Vương Tuyền Mai (王璇梅) được Trần Canh giới thiệu và hai người kết hôn vào tháng 8 năm 1949. Bà là em vợ Trần Canh tên Vương Căn Anh (王根英). Từng tham gia vào công tác phiên dịch tiếng Nga trong suốt một thời gian dài.
Ngô Quế Hiền (; sinh năm 1938) là nữ Phó Thủ tướng đầu tiên của Trung Quốc từ tháng 1 năm 1975 đến tháng 9 năm 1977. Ban đầu là công nhân tại một nhà máy bông thuộc sở hữu nhà nước ở Hàm Dương, bà được Chủ tịch Mao Trạch Đông bổ nhiệm sau khi trở thành phó giám đốc nhà máy và là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thân thế và nghề nghiệp lúc đầu. Ngô Quế Hiền chào đời tại huyện Củng tỉnh Hà Nam trong một gia đình nông dân đông con gồm chín anh chị em. Năm 1943, khi đó bà vừa tròn 5 tuổi đã phải theo cha chạy trốn nạn đói từ Hà Nam đến thị trấn Khướu tỉnh Thiểm Tây. Do một mình cha bà làm không đủ nuôi sống cả nhà nên bà từ nhỏ đã phải nhặt than, kiếm rau dại phụ giúp gia đình kiếm ăn qua ngày. Năm 1951, Nhà máy Bông sợi số 1 của Trung Quốc ở vùng Tây Bắc thuộc thành phố Hàm Dương tỉnh Thiểm Tây tuyển công nhân. Ngô Quế Hiền lúc đó mới 13 tuổi đã được tuyển vào làm công nhân kéo sợi. Luật lao động trẻ em vào thời điểm đó quy định những người được tuyển dụng phải ít nhất 16 tuổi, vì vậy bà đã nói dối về tuổi của mình và bắt đầu làm việc tại nhà máy này. Bà chăm chỉ làm việc liên tục nhiều năm đều được bầu là công nhân năm tốt, lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua. Năm 1955, bà gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc. Năm 1958, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc khi vừa tròn 20 tuổi. Năm 1963, chiến sĩ thi đua toàn quốc Đại biểu Đại hội 8 Đảng Cộng sản Trung Quốc là Triệu Mộng Đào qua đời, Ngô Quế Hiền tiếp tục được cử làm tổ trưởng tiểu tổ Triệu Mộng Đào nổi tiếng khắp cả nước. Sự nghiệp chính trị thời Cách mạng Văn hóa. Sau năm 1968, Ngô Quế Hiền được cử làm Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Nhà máy Bông sợi số 1, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng thành phố Hàm Dương. Tháng 4 năm 1969, Ngô Quế Hiền được bầu làm Đại biểu Đại hội Đảng lần thứ IX và còn được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.(tr160) Tháng 1 năm 1971, Ngô Quế Hiền được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thiểm Tây. Năm 1972, bà được cử giữ chức Ủy viên Thường vụ kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Thiểm Tây. Tháng 8 năm 1973, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập ở Bắc Kinh, bà được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị cùng năm đó giữ các chức Phó Bí thư Đảng ủy Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thiểm Tây. Tháng 1 năm 1975 tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa IV, Ngô Quế Hiền được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện phụ trách Bộ Y tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Tổng Công đoàn. Sau khi từ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện. Tháng 8 năm 1977, Ngô Quế Hiền tiếp tục được bầu vào Trung ương khóa XI. Tháng 9 cùng năm, bà đề nghị Trung ương Đảng cho mình thôi chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện để trở lại Thiểm Tây làm việc ở cơ sở và được phê chuẩn. Trước ngày Quốc khánh năm 1977, Ngô Quế Hiền về tới Nhà máy Bông sợi số 1 Đông Bắc. Bà chủ động yêu cầu trở lại làm việc ở tiểu tổ Triệu Mộng Đào, sau đó làm Bí thư Chi bộ Đảng phân xưởng Nhà máy Bông sợi số 1 Đông Bắc. Tháng 6 năm 1981, bà lại được bầu vào làm Phó Bí thư Đảng ủy Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc. Năm 1988, Ngô Quế Hiền lại được bầu làm đại biểu của ngành dệt tham dự Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ 7 tại Thiểm Tây. Sau năm 1988, Ngô Quế Hiền rời khỏi Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc thành phố Hàm Dương đến công tác tại Thâm Quyến, từng lần lượt giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Sản phẩm Dệt Hồng Hoa, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Mậu dịch Xương Phạm và từng công tác với Tập đoàn Mậu dịch Thành phố Thâm Quyến. Năm 1995, trước khi nghỉ hưu và rút khỏi mọi chức vụ xã hội, chỉ giữ lại có chức danh Hội trưởng Hội Xúc tiến Thâm Quyến Chấn hưng Thiểm Tây nhằm mục đích tăng cường sự hợp tác và giao lưu kinh tế Thâm Quyến và Thiểm Tây, cống hiến cho sự thúc đẩy phát triển kinh tế của Thiểm Tây vốn là tâm nguyện lớn nhất của những năm còn lại của đời bà.
Mega Man X2, được phát hành tại Nhật Bản với tên Rockman X2 (tiếng Nhật: ロックマンX2; Hepburn: "Rokkuman Ekkusu Tsū"), là một trò chơi điện tử nhập vai được phát triển bởi Capcom cho hệ máy chơi game Super Nintendo Entertainment System (SNES). Trò chơi được ra mắt thị trường tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 1994 và ở Bắc Mỹ và các khu vực PAL vào năm 1995. Đây là phần hậu truyện trực tiếp của Mega Man X, được phát hành một năm trước đó. Mega Man X2 diễn ra trong tương lai gần, khi con người cố gắng chung sống hòa bình với những người máy thông minh được gọi là "Reploids", tuy nhiên một số Reploids có xu hướng trở thành các "Maverick" bạo lực và đe dọa an ninh toàn cầu. Cốt truyện kể về nhân vật chính X, một "Maverick Hunter" ưu việt, người đã cứu cả nhân loại bằng việc đánh bại tên Sigma xấu xa vào sáu tháng trước đó (các sự kiện trong phần một). Một nhóm bộ ba Mavericks xuất hiện, chúng tự xưng là "X-Hunters" và có ý định tiêu diệt X bằng cách dụ anh ta với các bộ phận cơ thể của Zero, một đồng đội cũ, người đã hy sinh trong cuộc chiến với một thuộc hạ của Sigma là Vile. Mega Man X2 có nhiều yếu tố nền tảng hành động giống như phần đầu tiên, theo lối chơi truyền thống của loạt Mega Man gốc. Người chơi có nhiệm vụ hoàn thành một loạt gồm tám màn chơi bằng cách tiêu diệt kẻ thù, tăng sức mạnh và giành được các vũ khí đặc biệt của trùm của mỗi màn. Giống như Mega Man X đầu tiên, trò chơi này cho phép người chơi nhảy bám vào các bức tường và có thể thu thập các mảnh áo giáp có khả năng đặc biệt. Mega Man X2 cũng có đồ họa tương tự như bản tiền nhiệm, nhưng Capcom đã thêm vào chip cải tiến Cx4 trong hộp mực để cho phép một số hiệu ứng khung dây 3D. Nhóm phát triển đã được hướng dẫn sử dụng công nghệ này nhiều nhất có thể khi thiết kế trò chơi. Cách trình bày và lối chơi của Mega Man X2 đã giúp trò chơi nhận được sự đón nhận tích cực từ giới phê bình. Tuy nhiên, những người đánh giá đã thất vọng vì thiếu những thay đổi so với bản gốc Mega Man X. Trò chơi kể từ đó đã được phát hành trên nhiều nền tảng khác nhau. Mega Man X2 lấy bối cảnh vào một năm không rõ ràng thuộc thế kỷ 22 ("21XX"), trong đó thế giới có cả loài người và các sinh vật máy móc được gọi là "Reploids" sinh sống và làm việc cùng nhau. Các Reploid được sản xuất hàng loạt dựa trên một người máy hình có cơ cấu phức tạp với ý thức con người tên là X, được nhà khảo cổ học là tiến sĩ Cain phát hiện trong đống đổ nát của một phòng thí nghiệm vào nhiều tháng trước đó. Được tạo ra với trí thông minh ở cấp độ con người và ý chí tự do, một số Reploid có xu hướng phá hoại và hoạt động tội phạm, chúng được chính phủ đặt tên là các "Mavericks". Một lực lượng quân sự được gọi là "Maverick Hunters" được thành lập để ngăn chặn hoạt động của các Maverick. Các sự kiện của trò chơi Mega Man X đầu tiên kéo theo cuộc chiến của thợ săn X để ngăn chặn Sigma, một thủ lĩnh Maverick muốn hủy diệt loài người. X chiến thắng và hoàn thành nhiệm vụ của mình, nhưng phải trả giá bằng mạng sống của cộng sự Zero. Sáu tháng sau vụ việc, X trở thành người đứng đầu Maverick Hunters. X theo dõi một "Maverick được sản xuất" mang biểu tượng của Sigma đến một nhà máy Reploid, nơi anh ta phát động một cuộc tấn công tổng lực. Tuy nhiên, bất chấp cái chết của Sigma và những nỗ lực vượt trội của X, cuộc nổi dậy của Maverick vẫn tiếp tục. Ba Mavericks mạnh mẽ—Serges, Agile và Violen—thành lập một nhóm gọi là "X-Hunters" và giành quyền kiểm soát khu vực Bắc Cực. Trong khoảng thời gian sau sự sụp đổ của lâu đài Sigma và trước cuộc nổi dậy bất ngờ của bộ ba X-Hunters, Serges đã thu thập các bộ phận cơ thể của Zero. Sau cuộc đột kích nhà máy, X được giao nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt tám thủ lĩnh Maverick (các thuộc hạ của X-Hunters) trên một lục địa rộng lớn ngay phía nam Bắc Cực. Ngay sau đó, X-Hunters liên lạc với Maverick Hunters và chế nhạo họ bằng cơ thể của Zero. Các thành viên X-Hunters xuất hiện tại các màn ẩn trong số tám địa điểm của các Maverick và cố gắng dụ X ra ngoài, mỗi người sẽ đưa cho nhân vật chính một mảnh của Zero nếu X có thể đánh bại họ. Câu chuyện hơi khác một chút tùy thuộc vào việc người chơi có thu thập cả ba phần của Zero hay không trước khi đến pháo đài X-Hunter ở Bắc Cực. Nếu người chơi thu thập tất cả các bộ phận, tiến sĩ Cain tuyên bố rằng ông ta sẽ cố gắng lắp ráp lại và kích hoạt Zero bằng chip điều khiển ban đầu của mình. Nếu người chơi không thành công, X được tiến sĩ Cain thông báo rằng X-Hunters đã tấn công trụ sở của Maverick Hunter và đánh cắp con chip điều khiển. Ngay sau khi X tiêu diệt hết các thành viên X-Hunters, Sigma lộ diện và tiết lộ mình đứng sau âm mưu này. X rời khỏi tòa nhà đang phát nổ và đi theo Sigma đến khu vực Central Computer, một trong tám địa điểm mà anh ta đã đến trước đó. Nếu người chơi không thu thập được tất cả các bộ phận của Zero, X sẽ tìm thấy cả Sigma và Zero mới được xây dựng lại đang đợi anh ta ở giữa sàn đấu. X sau đó phải đánh bại Zero trong trận chiến. Nếu người chơi thu thập tất cả các bộ phận, thay vào đó, một bản sao màu xám của Zero sẽ đi cùng với Sigma; Zero thực sự sau đó xuất hiện ở bên phe X và tiêu diệt bản sao đó. Kết quả của cả hai sự kiện đều là Sigma rút lui và Zero tạo ra một lối đi cho phép X truy đuổi hắn. Sau khi X đánh bại Sigma, hắn ta tiết lộ với X rằng hình dạng thật của hắn tồn tại dưới dạng virus máy tính và chế nhạo X rằng hắn sẽ trở lại. Tuy nhiên, Sigma đặt câu hỏi về sự trung thành của Zero với loài người, nói rằng Zero là "Tác phẩm cuối cùng của Ngài tiến sĩ". X đào thoát khỏi pháo đài để gặp Zero bên ngoài, và cả hai chứng kiến pháo đài X-Hunters sụp đổ. Mega Man X2 là trò chơi nền tảng hành động giống như phần Mega Man X đầu tiên và sê-ri Mega Man gốc. Người chơi đảm nhận vai trò nhân vật chính X, người sẽ phải hoàn thành tám màn chơi bắt buộc theo một thứ tự bất kỳ do người chơi chọn. Các khả năng ban đầu của nhân vật chính bao gồm chạy, nhảy, bám tường, lao về phía trước để thực hiện những bước nhảy xa hơn và bắn khẩu súng "X-Buster" có thể nạp được năng lượng. Không giống như Mega Man X, nhân vật sẽ có khả năng phi thân ngay khi bắt đầu trò chơi, thay vì được nâng cấp nhờ phần áo giáp được tìm thấy trong buồng máy. Người chơi phải chiến đấu với vô số kẻ thù robot và một số mối nguy hiểm như hố không đáy, bẫy gai và dung nham. Trên đường đi, người chơi có thể thu thập thêm sinh mạng và các vật phẩm giúp phục hồi sức khỏe và nạp năng lượng các vũ khí. Mỗi màn chơi có một con trùm chính ở điểm cuối; đánh bại trùm mỗi màn sẽ giúp người chơi nhận được một vũ khí đặc biệt có thể chuyển đổi và sử dụng trong bất kỳ các màn còn lại. Mọi tên trùm đều bị khắc chế trước vũ khí của tên khác, vì vậy người chơi có thể lập chiến lược theo thứ tự để hoàn thành các màn chơi. Mega Man X2 có một số yếu tố bổ sung. Vào những thời điểm nhất định, người chơi có thể điều khiển các phương tiện bao gồm áo giáp cơ giới trong màn Wheel Gator và xe máy trong màn Overdrive Ostrich. Mỗi màn trong số tám màn có một lối ẩn để vào chiến đấu với các thành viên X-Hunters, nếu người chơi chọn màn đó khi một trong số chúng có mặt. Đánh bại một X-Hunter sẽ đem về cho người chơi một bộ phận của Zero, điều này có thể ảnh hưởng đến cốt truyện cuối trò chơi. Giống như Mega Man X đầu tiên, người chơi có thể tìm vị trí và nhận được các item ẩn. "Heart Tank" giúp kéo dài thanh sinh mệnh tối đa, "Sub Tank" giúp lưu trữ máu để sử dụng sau này và các buồng máy nâng cấp chứa các bộ phận áo giáp, cung cấp một loạt khả năng mới. Ví dụ, phần chân sẽ cho phép người chơi thực hiện một cú phi người trên không, trong khi phần găng tay X-Buster sẽ cho phép thực hiện hai loạt đạn nạp liên tiếp. Khi các điều kiện cụ thể được đáp ứng, một buồng máy đặc biệt sẽ được mở khóa ở một màn cuối của trò chơi, cho phép X thực hiện một cuộc tấn công gây sát thương tuyệt đối ("Shoryuken"), khiến địch thủ gần như bị tiêu diệt ngay lập tức. Chiêu đó được sử dụng bởi các nhân vật trong sê-ri Street Fighter của Capcom. Mega Man X2 được phát triển bởi một nhóm tại Capcom, bao gồm các nhà chế tác Kaji Hayato và Inafune Keiji, cũng như các nhà thiết kế Tsuge Sho và Tsuda Yoshihisa. Phần lớn những người thiết kế Mega Man X2 hoặc đã tham gia vào quá trình phát triển Mega Man X đầu tiên hoặc hoàn toàn mới đối với loạt game này. Inafune đã "bó tay" với phần thiết kế mỹ thuật trong Mega Man X2. Thay vào đó, anh bắt đầu tập trung nhiều hơn vào việc lập kế hoạch, sản xuất và viết truyện cho phần mới hơn bắt đầu với tựa đề này. Theo Tsuda, quyết định của Inafune là cho Zero sống lại trong Mega Man X2, đơn giản vì anh ta nghĩ rằng sẽ thật "xấu hổ" nếu để Zero chết. Inafune cảm thấy đặc biệt gắn bó với Zero, một nhân vật mà anh ấy đã thiết kế và dự định ban đầu là nhân vật chính của loạt game cùng X. Mặc dù Inafune gần như đã từ bỏ nhiệm vụ thiết kế nhân vật của mình trong Mega Man X2, nhưng anh ấy đã từ chối việc cho phép bất kỳ thay đổi lớn nào đối với hình minh họa của Zero. Các nhân vật phản diện của trò chơi, X-Hunters, đã xuất hiện dưới dạng một số hình minh họa trong sổ phác thảo của Inafune trước khi hoàn thành Mega Man X đầu tiên. Các tính năng thẩm mỹ của chúng được kết hợp để tạo cơ sở cho thiết kế của Sigma trong Mega Man X; ba thiết kế sau đó được bổ sung thành ba nhân vật riêng biệt cho phần tiếp theo. Nhóm đã lên kế hoạch bao gồm một X-Hunter thứ tư là nữ và sẽ gọi họ là "Four Guardians". Tuy nhiên, cả nhân vật này và dạng thứ hai của Violen đều bị cắt khỏi phiên bản cuối cùng của trò chơi do thiếu tài nguyên. Khi tạo ra tám con trùm Maverick cơ bản, nhóm phát triển đã cân nhắc việc tổ chức thu thập các bài gửi của người hâm mộ, công khai như họ đã làm với một số trò chơi trong sê-ri Mega Man gốc. Cuối cùng, họ quyết định chống lại ý tưởng này vì họ muốn thiết lập thêm sự tương phản giữa hai bộ truyện. Tsuge giải thích thêm, ""Với Mega Man, chúng tôi muốn người chơi cảm thấy quen thuộc nhất định với các nhân vật, nhưng ý định của chúng tôi là sê-ri X sẽ có một thế giới với cảm giác khắc nghiệt hơn. Chúng tôi không muốn những tên trùm xuất hiện trong đó." "Thế giới này là những sản phẩm dễ thương trong trí tưởng tượng của trẻ em, chúng tôi cần chúng trở thành những nhân vật vững chắc được tinh chỉnh bởi các chuyên gia."" Mega Man X2 có một cải tiến trong hệ thống của Capcom được gọi là chip Cx4, bộ xử lý tín hiệu kỹ thuật số cho phép tạo ra các hiệu ứng đồ họa 3D hạn chế như xoay, phóng to và thu nhỏ các đối tượng khung dây. Công ty đã tổ chức các cuộc họp hàng tuần để tận dụng tối đa tiềm năng của con chip trong Mega Man X2. Tsuge nhận xét rằng Cx4 là "Đối thủ lớn nhất cho đến nay" của họ vì họ được hướng dẫn sử dụng nó theo nhiều cách nhất có thể. Phần nhạc cho Mega Man X2 do Iwai Yuki sáng tác chính. Những người khác, như Yamada Ippo, đã tham gia một số quá trình sản xuất âm thanh của trò chơi. Tsuge muốn chủ đề sân khấu Flame Stag bị cắt khỏi trò chơi, nhưng bài hát vẫn được giữ lại do nó được các nhân viên phát triển yêu thích. Ngoài ra, chủ đề kết thúc của trò chơi ban đầu là bản nhạc trùm cuối của nó. Vì nhóm cảm thấy nó phù hợp hơn với phần nhạc kết thúc nên nó đã được thay đổi một chút và được tạo ra như vậy. Nhạc phim Mega Man X2, bao gồm các nhạc cụ gốc của SNES, được đưa vào như một phần của bộ sưu tập Capcom Music Generation: Rockman X1 ~ X6 do Suleputer phát hành vào năm 2003. Trò chơi được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 1994 và ở Bắc Mỹ và các khu vực PAL vào năm 1995. Mega Man X2 được đưa vào Bộ sưu tập Mega Man X cho Nintendo GameCube và PlayStation 2 (PS2) ở Bắc Mỹ vào năm 2006. trò chơi cũng được phát hành trên điện thoại di động Nhật Bản vào năm 2008 và 2009 và trên toàn thế giới trên Virtual Console vào năm 2011 và 2012 cho Wii và vào năm 2013–2014 cho Wii U. Năm 2006, Mega Man X2 được đưa vào như một phần của Bộ sưu tập Mega Man X Bắc Mỹ dành cho GameCube và PS2. Phiên bản dành cho điện thoại di động tương thích với i-mode và EZweb đã được cung cấp tại Nhật Bản từ năm 2008 đến 2009. Mega Man X2 được phát hành trên dịch vụ Wii Virtual Console ở Nhật Bản vào ngày 27 tháng 12 năm 2011, ở các vùng PAL vào ngày 31 tháng 5 năm 2012 và ở Bắc Mỹ vào ngày 14 tháng 6 năm 2012. Nó đã được chuyển cho PC, PlayStation 4, Xbox One và Nintendo Switch như một phần của Mega Man X Legacy Collection (Bộ sưu tập kỷ niệm Rockman X tại Nhật Bản) được phát hành vào ngày 24 tháng 7 năm 2018 trên toàn thế giới và ngày 26 tháng 7 năm 2018 tại Nhật Bản. Sự đón nhận dành cho Mega Man X2 đa phần là tích cực nhờ đồ họa, âm thanh và mô hình lối chơi thú vị mà các nhà phê bình và người hâm mộ loạt game Mega Man đã mong đợi. So sánh trò chơi với Mega Man X đầu tiên, Chris Nicolella của GamePro đã gọi Mega Man X2 là ""được cải thiện về mọi mặt"." Nicolella đã tóm tắt, "Chip C4 mới cung cấp năng lượng cho đồ họa vốn đã tuyệt vời, điều khiển cực nhạy hoàn hảo và các cấp độ chứa nhiều kẻ thù và vị trí ẩn hơn bất kỳ hộp MM nào." Dave Halverson của GameFan cũng thích các thiết kế cấp độ và đánh giá khả năng của áo giáp mới cũng như âm nhạc hay hơn Mega Man X ban đầu. Các biên tập viên của GameSpot là Christian Nutt và Justin Speer đã đánh giá cao nỗ lực của Capcom trong việc mở rộng Mega Man X2 so với phần tiền nhiệm của nó về mọi mặt, đặc biệt là câu chuyện mà họ gọi là "liên quan đến ... với các nhân vật hấp dẫn". Next Generation đã đánh giá phiên bản SNES của trò chơi, xếp hạng nó 4 sao trên 5 sao và tuyên bố rằng "Đây là một sê-ri cần được chỉnh sửa nghiêm túc. Và bất chấp tất cả, anh chàng người máy màu xanh nhỏ bé vẫn vui vẻ giống như anh ta mọi khi." Trò chơi đã lọt vào một số danh sách trò chơi hay nhất dành cho Super NES. IGN đã xếp Mega Man X2 là trò chơi hay thứ 31 trong danh sách 100 trò chơi SNES hàng đầu mọi thời đại. ""Tiếp theo màn ra mắt bùng nổ của sê-ri Mega Man X là một nhiệm vụ không hề nhỏ," trang web tóm tắt, "nhưng Mega Man X2 đã hoàn thành công việc một cách đáng ngưỡng mộ."" Vào năm 2018, Complex đã liệt kê trò chơi ở vị trí thứ 57 trong danh sách "Trò chơi Super Nintendo hay nhất mọi thời đại." Họ nhận xét rằng Mega Man X2 là một phần tiếp theo tuyệt vời của bản gốc, mặc dù không có nhiều thay đổi so với phần tiền nhiệm nhưng lối chơi thì tuyệt vời.
Charlotte Thérèse của Monaco Charlotte Thérèse của Monaco ("Charlotte Thérèse Nathalie Grimaldi"; 19 tháng 3 năm 1719 – 1790) là Thân vương nữ của Monaco và là một nữ tu Công giáo. Thân vương nữ Charlotte Thérèse sinh ngày 19 tháng 3 năm 1719 tại Dinh thự Matignon ở Paris. Charlotte là con gái đầu lòng của Louise Hippolyte I của Monaco với Jacques I của Monaco. Năm 1724, Charlotte đính hôn với Frédéric Jules de La Tour d'Auvergne, tuy nhiên hôn ước bị hủy bỏ và Charlotte không bao giờ kết hôn. Ngày 21 tháng 1 năm 1738, Charlotte tuyên hứa đời sống tu trì và trở thành một nữ tu tại Tu viện Thăm viếng. Đã có ghi nhận Charlotte đã rời khỏi tu viện vài lần để thăm gia đình. Thân vương nữ Charlotte Thérèse qua đời năm 1790.
Quân khu Kharkov () là một quân khu của Đế quốc Nga, nước Nga Xô viết và Liên Xô. Trong suốt lịch sử, trụ sở quân khu nằm tại thành phố Kharkov tại phần đông bắc của Ukraina. Quân khu được thành lập lần đầu tiên vào năm 1864 thời Đế quốc Nga. Quân khu bị giải thể và lãnh thổ của nó được chuyển giao cho Quân khu Kiev và Quân khu Moskva vào năm 1888. Quân khu được Hồng quân tái lập dưới thời Nội chiến Nga vào tháng 1 năm 1919, nhưng tan rã vào tháng 9 sau khi địa bàn bị Bạch vệ chiếm đóng. Quân khu được tái lập vào tháng 1 năm 1920, nhưng bị giải thể vào năm 1922 và binh sĩ của nó trực thuộc Quân khu Tây Nam. Năm 1935, quân khu được tái lập khi Quân khu Ukraina được chia thành Quân khu Kiev và Kharkov. Sau khi Chiến dịch Barbarossa bắt đầu vào năm 1941, Liên Xô phải rút lui khỏi địa bàn, và quân khu bị giải thể vào cuối tháng 11. Sau khi quân đội Liên Xô chiếm lại khu vực, Quân khu Kharkov được tái lập vào cuối tháng 9 năm 1943. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị hạ cấp và bị giải thể vào năm 1946, địa bàn của nó được chuyển cho Quân khu Kiev. Quân khu Kharkov được thành lập lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 8 [10 tháng 8 lịch cũ] năm 1864 trong cải cách hệ thống hành chính quân sự của Dmitry Milyutin. Trụ sở chính của quân khu nằm tại Kharkov, và kiểm soát quân đội trên lãnh thổ của các tỉnh Voronezh, Kursk, Oryol, Poltava, Kharkov và Chernigov. Quân khu bị bãi bỏ vào ngày 31 tháng 10 năm 1888, với phần lớn lãnh thổ được chuyển giao cho Quân khu Kiev, ngoại trừ các tỉnh Voronezh và Oryol trở thành một phần của Quân khu Moskva. Các sĩ quan Quân đội Đế quốc Nga sau đây chỉ huy quân khu trong thời kỳ Đế quốc Nga từ năm 1864 đến 1888: Quân khu Kharkov được thành lập lần thứ hai theo Lệnh số 39 của Bộ quân sự của Chính phủ Công-Nông lâm thời Ukraina, ngày 27 tháng 1 năm 1919. Quân khu này kiểm soát quân đội trên địa bàn các tỉnh Yekaterinoslav, Poltava, Kharkov và Chernigov. Trụ sở của Bộ Tổng tham mưu toàn Ukraina được sử dụng để thành lập ủy ban quân sự quân khu (trụ sở chính), và trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận phía Nam vào ngày 8 tháng 6. Quân khu được giao nhiệm vụ huấn luyện các đơn vị dự bị cho mặt trận. Vào ngày 10 tháng 5, để đàn áp cuộc nổi dậy của binh sĩ Hồng quân dưới quyền Nykyfor Hryhoriv, Kliment Voroshilov nắm quyền chỉ huy tạm thời quân đội của quân khu cho đến ngày 25 tháng 5, khi cuộc nổi dậy bị đánh bại. Vào tháng 6, địa bàn quân khu bị Lực lượng Vũ trang Nam Nga thuộc phe Bạch vệ tiếp quản, và cuộc tiến công của Quân tình nguyện vào Kharkov buộc trụ sở chính phải di tản khỏi thành phố trước khi nó bị chiếm. Sau khi rút đi, quân ủy quân khu lần lượt được đặt tại Sumy, Romny và Bryansk. Vào ngày 1 tháng 9, họ chuyển đến Moskva và bị giải thể vào ngày 16 tháng 9. Sau khi quân Bạch vệ rút lui khỏi địa bàn, quân khu được tái lập theo Lệnh số 118/23 của Hội đồng quân sự cách mạng ngày 23 tháng 1 năm 1920, kiểm soát quân đội trên địa bàn của các tỉnh Yekaterinoslav, Donets, Poltava, Taurida và Kharkov. Ủy ban quân sự của Quân khu Yaroslavl đã bị giải thể được sử dụng để quản lý ủy ban quân sự quân khu mới, và nó trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận Tây Nam. Ngày 23 tháng 2, ban tham mưu Quân đội Dự bị Ukraina được sáp nhập với trụ sở quân khu. Quân khu được chuyển sang quyền kiểm soát của Tư lệnh Lực lượng vũ trang Ukraina và Krym Mikhail Frunze vào ngày 3 tháng 12, sau thất bại của những quân Bạch vệ cuối cùng ở Krym. Tỉnh Nikolayev và tỉnh Odessa trở thành một phần của quân khu vào tháng 5 năm 1921. Quân đội của quân khu đã chiến đấu với quân du kích Ukraina chống Liên Xô trong thời kỳ này, và vào ngày 21 tháng 4 năm 1922, quân khu này được sáp nhập với Quân khu Kiev để thành lập Quân khu Tây Nam, và nhanh chóng trở thành Quân khu Ukraina. Các tư lệnh sau đây đã lãnh đạo ủy ban quân sự quân khu từ năm 1919 đến năm 1920: Các tư lệnh dưới đây lãnh đạo quân khu giữa năm 1920 và 1922: Cơ cấu thứ hai (1935–1941). Quân khu được tái lập theo Lệnh số 079 của Ủy ban Quốc phòng Nhân dân (NKO), ngày 17 tháng 5 năm 1935, chia Quân khu Ukraina thành Quân khu Kiev và Kharkov. Ban đầu quân khu bao gồm các tỉnh Dnipropetrovsk, Donetsk và Kharkov, cũng như Krym. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1937, tư lệnh quân khu là Komandarm bậc 2 Ivan Dubovoy bị bắt trong cuộc Đại thanh trừng. Tháng 10 năm 1939, khi Quân khu Odessa được thành lập, Krym và tỉnh Dnipropetrovsk được chuyển đến quân khu mới, và ranh giới quân khu thay đổi để chỉ bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Poltava, Stalino (trước là Donetsk), Sumy, Kharkov, và Chernigov. Năm đó, quân khu bắt đầu tái vũ trang và tái tổ chức các đơn vị của mình, nhưng quá trình này chưa hoàn tất khi Chiến dịch Barbarossa của Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941. Trung tướng Andrey Smirnov nắm quyền chỉ huy quân khu vào ngày 18 tháng 12 năm 1940. Sau cuộc xâm lược, Quân khu Kharkov huy động lính nghĩa vụ và thành lập các đơn vị mới, bao gồm Tập đoàn quân 18 được hình thành từ các bộ phận của trụ sở quân khu dưới quyền chỉ huy của Smirnov. Tập đoàn quân 18 được gửi đến Mặt trận phía Nam vào ngày 25 tháng 6. Vào tháng 10, khi quân Đức tiếp cận Kharkov sau một loạt chiến thắng, trụ sở quân khu chuyển đến Voroshilovgrad và sau đó là Stalingrad. Quân khu bị giải thể vào ngày 26 tháng 11 năm 1941, với trụ sở chính được sử dụng để thành lập Quân khu Stalingrad. Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1935 đến 1941: Cơ cấu thứ ba (1943–1946). Quân khu được cải tổ theo lệnh của NKO ngày 25 tháng 9 năm 1943, sau khi giành lại địa bàn trong trận sông Dnepr và cuộc tấn công chiến lược Donbass. Quân khu bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Dnipropetrovsk, Zaporizhia , Poltava, Stalino, Sumy, Kharkov, và Chernigov, cũng như Krym. Tỉnh Chernigov chỉ là một phần của quân khu trong thời gian ngắn, và được chuyển giao cho Quân khu Kiev được tái lập vào ngày 15 tháng 10. Quân khu được giao nhiệm vụ thành lập các đơn vị mới và chuẩn bị các đơn vị hành quân tăng viện cho mặt trận. Các đơn vị công binh của quân khu đã tham gia rà phá bom mìn và dọn dẹp thiết bị chưa nổ. Vào ngày 18 tháng 12 năm 1944, Krym được chuyển giao cho Quân khu Odessa được tái lập. Theo lệnh NKO ngày 9 tháng 7 năm 1945, sau khi chiến tranh kết thúc, quân khu được chuyển sang sức mạnh thời bình. Trụ sở quân khu cũ và trụ sở Tập đoàn quân 21 được sáp nhập để tạo thành trụ sở mới cho quân khu. Theo lệnh tương tự, các tỉnh Sumy và Poltava được chuyển đến Quân khu Kiev và tỉnh Zaporizhia được chuyển cho Quân khu Taurida. Trong vài tháng tiếp theo, quân khu cho xuất ngũ binh sĩ trên lãnh thổ của mình. Vào tháng 8, Quân đoàn súng trường cận vệ 14 đến Dnipropetrovsk từ Vyborg cùng với các sư đoàn súng trường 11 và 288. Sư đoàn súng trường 44 tại Pavlograd gia nhập quân đoàn vào tháng 11. Ba sư đoàn của quân đoàn giải thể vào tháng 2 năm 1946, và được thay thế bằng các Sư đoàn súng trường 86, 321 và 326 từ Quân đoàn súng trường 116. Quân đoàn súng trường 69 cũng được rút về khu vực Lugansk, và bị giải thể vào ngày 6 tháng 5 cùng với các sư đoàn súng trường 110, 163 và 324. Vào ngày 5 tháng 2, quân khu được tổ chức lại thành một quân khu lãnh thổ và trực thuộc Quân khu Kiev, trước khi bị giải thể vào ngày 6 tháng 5. Các binh sĩ của Quân khu Kharkov gia nhập Quân khu Kiev. Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1943 đến 1946:
Vụ chìm tàu di cư Messenia 2023 Vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, một chiếc thuyền đánh cá buôn lậu người di cư bị chìm trên Biển Ionia, xa bờ Pylos, Messenia. Theo ước tính, trên tàu có thể có tới 750 người tị nạn. Chính quyền Hy Lạp đã tiến hành các nỗ lực tìm kiếm và cứu hộ và thành công trong việc cứu sống 104 người, bao gồm người Ai Cập, Syria, Pakistan, Afghanistan và Palestine. Ngoài ra, cũng đã tìm thấy 82 thi thể và còn nhiều người khác đã mất tích trong sự việc này.
Phân mảnh sinh cảnh Phân mảnh sinh cảnh miêu tả sự xuất hiện của gián đoạn (phân mảnh) ở môi trường ưa thích (sinh cảnh) của sinh vật, gây ra phân mảnh dân số và suy thoái hệ sinh thái. Nguyên nhân của phân mảnh sinh cảnh gồm có các quá trình địa chất dần làm thay đổi cách bố trí của môi trường tự nhiên (được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn dẫn đến hình thành loài) và hoạt động của con người như chuyển đổi đất đai có thể làm thay đổi môi trường nhanh hơn nhiều và khiến nhiều loài tuyệt chủng. Cụ thể hơn, phân mảnh sinh cảnh là một quá trình trong đó những sinh cảnh rộng lớn và liền kề bị chia cắt thành thành những mảng sinh cảnh nhỏ hơn và biệt lập. Thuật ngữ phân mảnh sinh cảnh có 5 hiện tượng rời rạc: Phân mảnh không chỉ làm mất số lượng sinh cảnh mà bằng cách tạo ra các mảng nhỏ, biệt lập, nó còn làm thay đổi các đặc tính của sinh cảnh còn lại. Phân mảnh sinh cảnh là cấp độ cảnh quan của hiện tượng và quá trình cấp độ mảng. Như vậy tức là nó bao hàm: các khu vực mảng, hiệu ứng rìa và độ phức tạp của hình dạng mảng. Trong các tài liệu khoa học, có một số tranh luận liệu thuật ngữ "phân mảnh sinh cảnh" có áp dụng trong trường hợp mất sinh cảnh hay liệu thuật ngữ này chủ yếu áp dụng cho hiện tượng sinh cảnh bị chia cắt thành những mảng nhỏ hơn mà không làm giảm đáng kể diện tích sinh cảnh. Các nhà khoa học sử dụng định nghĩa chặt chẽ hơn về "phân mảnh sinh cảnh" sẽ gọi việc mất diện tích sinh cảnh là "mất sinh cảnh" và đề cập rõ ràng cả hai thuật ngữ nếu mô tả tình huống nơi sinh cảnh trở nên ít kết nối hơn và có ít sinh cảnh tổng thể hơn. Ngoài ra, phân mảnh sinh cảnh bị xem là một mối đe dọa xâm lấn đối với đa dạng sinh học, do quan hệ của nó là tác động đến số lượng lớn các loài hơn là xâm lấn sinh học, khai thác quá mức hoặc ô nhiễm. Nguyên nhân tự nhiên. Bằng chứng về phá hủy sinh cảnh thông qua các quá trình tự nhiên như thuyết núi lửa, hỏa hoạn và biến đổi khí hậu được phát hiện trong hồ sơ hóa thạch. Ví dụ, phân mảnh sinh cảnh của các khu rừng mưa nhiệt đới ở Âu Mỹ 300 triệu năm trước đã gây mất mát lớn về tính đa dạng của động vật lưỡng cư, nhưng đồng thời, khí hậu khô hạn hơn đã thúc đẩy sự bùng nổ về tính đa dạng của các loài bò sát. Nguyên nhân do con người. Phân mảnh sinh cảnh thường do con người gây ra khi các thực vật bản địa bị chặt phá để phục vụ cho các hoạt động của con người như nông nghiệp, phát triển nông thôn, đô thị hóa và tạo các hồ chứa thủy điện. Sinh cảnh đã liên tục bị chia thành các mảnh riêng biệt. Do hoạt động của con người, nhiều sinh cảnh nhiệt đới và ôn đới đã bị phân mảnh nghiêm trọng và trong tương lai gần, mức độ phân mảnh sẽ tăng lên đáng kể. Sau khi phát quang cường độ lớn, những mảnh riêng biệt có xu hướng trở thành những hòn đảo rất nhỏ bị cô lập với nhau bởi đất trồng trọt, đồng cỏ, vỉa hè hoặc thậm chí là đất cằn cỗi. Loại thứ hai thường là kết quả của đốt rừng làm nương rẫy trong khu rừng nhiệt đới. Trong vành đai lúa mì ở miền trung tây New South Wales, Úc, 90% thảm thực vật bản địa đã bị chặt phá và hơn 99% đồng cỏ cao ở Bắc Mỹ đã bị chặt phá, dẫn đến phân mảnh sinh cảnh nghiêm trọng. Nội sinh so với ngoại sinh. Có hai loại quá trình có thể dẫn đến phân mảnh sinh cảnh: quá trình ngoại sinh và quá trình nội sinh. Nội sinh là một quá trình phát triển như một phần của sinh học loài, vì thế chúng thường gồm có những thay đổi về sinh học, tập tính và tương tác trong hoặc giữa các loài. Những mối đe dọa nội sinh có thể dẫn đến thay đổi đối với mô hình sinh sản hoặc mô hình di cư và thường được kích hoạt bởi các quá trình ngoại sinh. Quá trình ngoại sinh không phụ thuộc vào sinh học loài và có thể gồm có suy thoái sinh cảnh, phân chia sinh cảnh hoặc cô lập sinh cảnh. Những quá trình này có thể có tác động đáng kể đến quá trình nội sinh bằng cách thay đổi tập tính cơ bản của loài. Phân chia hoặc cô lập môi trường sống có thể dẫn đến những thay đổi trong phân tán hoặc di chuyển của các loài, kể cả thay đổi đối với di cư theo mùa. Những thay đổi này có thể dẫn đến giảm mật độ loài, tăng cạnh tranh hoặc thậm chí tăng loài ăn thịt.
Radiotelevisione della Repubblica di San Marino, thường được biết là San Marino RTV (viết tắt là SMRTV), là dịch vụ phát sóng công cộng của San Marino. Ngày 13 tháng 6 năm 2011, San Marino RTV đổi tên thành SMtv San Marino. Tháng 11 năm 2013, tên đã được đổi lại thành San Marino RTV. Đài hiện đang điều hành hai kênh truyền hình (San Marino RTV và San Marino RTV Sport), cùng với 2 kênh phát thanh (Radio San Marino và Radio San Marino Classic). San Marino RTV được thành lập vào tháng 8 năm 1991 nhờ vốn cổ phần của Ente per la Radiodiffusione Sammarinese (ERAS, Công ty Phát thanh Truyền hình San Marino) và đài truyền hình dịch vụ công của Ý, RAI. Cả hai đã tham gia với 50% vốn. Thỏa thuận giữa hai bên có thể được xem xét định kỳ để đảm bảo và cập nhật các mục tiêu phát sóng dịch vụ công cộng. San Marino RTV phát sóng bằng tiếng Ý, ngôn ngữ chính thức của đất nước ngày. Các chương trình phát thanh được thử nghiệm vào ngày 27 tháng 12 năm 1992. Ngày 28 tháng 2 năm 1993, Radio San Marino bắt đầu phát sóng 24/24. Các chương trình phát sóng truyền hình thử nghiệm bắt đầu vào ngày 24 tháng 4 năm 1993. Ngày 28 tháng 2 năm 1994, một dịch vụ truyền hình thông thường đã được ra mắt, phát sóng từ 10:00 sáng đến 2 giờ rạng sáng ngày hôm sau. Tháng 7 năm 1995, San Marino RTV đã trở thành thành viên của Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU). Cơ sở này cũng là thành viên sáng lập của (C.R.I., cộng đồng phát thanh và truyền hình Ý). Năm 2007, San Marino RTV bắt đầu bày tỏ sự quan tâm đến việc tham gia Eurovision Song Contest. Ngày 27 tháng 11 năm 2007, đã có thông báo rằng San Marino sẽ ra mắt tại Eurovision Song Contest 2008, tổ chức tại Belgrade, Serbia. Sau khi vắng mặt trong các cuộc thi năm 2009 và 2010 vì vấn đề tài chính, San Marino đã tiến tới chung kết ở cuộc thi năm 2014. Năm 2011, San Marino RTV đã cố gắng tham gia vào Junior Eurovision Song Contest, nhưng quyết định rút lui vào tháng 10 năm đó. Ngày 25 tháng 10 năm 2013, đã có thông báo rằng San Marino sẽ ra mắt tại Junior Eurovision Song Contest 2013, tổ chức tại Kyiv, Ukraina. Ngày 11 tháng 10 năm 2014, kênh đã mở một chi nhánh tại Roma với phóng viên Francesca Billotti. Ngày 22 tháng 12 năm 2016, San Marino RTV bắt đầu phát sóng HD trên truyền hình kỹ thuật số, và từ ngày 22 tháng 1 năm 2018, kênh cũng đã được phát sóng HD trên truyền hình kỹ thuật số vệ tinh. Từ ngày 20 tháng 10 năm 2021, kênh bắt đầu phát sóng khắp nước Ý ở vị trí kênh 831, trên MPEG-4 SD tại . Tháng 12 cùng năm đó, được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc của đài, vị trí mà ông nắm giữ cho đến ngày 29 tháng 1 năm 2023. Dịch vụ phát sóng. Trên website chính thức của đài, bạn có thể nghe và tải các chương trình thông qua dịch vụ podcast. commentĐổi hướng đến /comment
Nghiên cứu hòa bình và xung đột Nghiên cứu hòa bình và xung đột (tiếng Anh: peace and conflict studies) là một lĩnh vực khoa học xã hội có vai trò xác định và phân tích các hành vi bạo lực và bất bạo động cũng như các cơ chế cấu trúc gây ra xung đột (bao gồm cả xung đột xã hội), với mục đích tìm hiểu các quá trình dẫn đến tình trạng con người tốt hơn. Một biến thể của ngành này là nghiên cứu hòa bình (irenology), là một nỗ lực liên ngành nhằm ngăn chặn, giảm leo thang và giải quyết xung đột bằng các biện pháp hòa bình, từ đó tìm kiếm lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên tham gia xung đột. Ngành khoa học xã hội này trái ngược với khoa học quân sự, với mục đích đạt được chiến thắng có hiệu quả trong các cuộc xung đột, chủ yếu bằng các biện pháp bạo lực nhằm thỏa mãn một hoặc nhiều, nhưng không phải tất cả các bên liên quan. Các ngành liên quan có thể bao gồm triết học, chính trị học, địa lý, kinh tế học, tâm lý học, truyền thông học, xã hội học, quan hệ quốc tế, lịch sử, nhân loại học, nghiên cứu tôn giáo, nghiên cứu về giới, luật pháp, nghiên cứu phát triển và nhiều loại khác. Các phân ngành liên quan của các lĩnh vực này, chẳng hạn như kinh tế học hòa bình, cũng có thể được coi là thuộc về nghiên cứu hòa bình và xung đột. Nghiên cứu hòa bình có thể được phân loại là: Đã có một cuộc tranh luận lâu dài và sôi nổi về các vấn đề giải trừ vũ khí, cũng như các nỗ lực điều tra, lập danh mục và phân tích các vấn đề liên quan đến sản xuất, buôn bán vũ khí và tác động chính trị của chúng. Một số nhà nghiên cứu đã nỗ lực lập lược đồ chi phí kinh tế của chiến tranh hoặc tái phát bạo lực, trái ngược với hòa bình. Nghiên cứu hòa bình và xung đột hiện đã được thiết lập vị thế vững chắc trong khoa học xã hội: nó bao gồm nhiều tạp chí học thuật, các khoa của trường cao đẳng và đại học, viện nghiên cứu hòa bình, hội nghị, cũng như sự công nhận từ bên ngoài về tiện ích của nghiên cứu hòa bình và xung đột như một phương pháp. Nghiên cứu hòa bình cho phép một người xem xét nguyên nhân và cách ngăn chặn chiến tranh, cũng như bản chất của bạo lực, bao gồm áp bức xã hội, phân biệt đối xử và gạt ra ngoài lề xã hội. Thông qua nghiên cứu hòa bình, người ta cũng có thể học các chiến lược kiến ​​tạo hòa bình để vượt qua đàn áp và chuyển đổi xã hội để đạt được mục tiêu một cộng đồng quốc tế công bằng và bình đẳng hơn. Các học giả nữ quyền đã phát triển một chuyên ngành trong nghiên cứu xung đột, đặc biệt là xem xét vai trò của giới tính và các hệ thống bất bình đẳng lồng vào nhau trong các cuộc xung đột. Tầm quan trọng của việc xem xét vai trò của giới tính trong công việc sau xung đột đã được ghi nhận bởi Nghị quyết 1325 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ví dụ về học bổng nữ quyền bao gồm nghiên cứu của Carol Cohn và Claire Duncanson. Mục tiêu quy phạm của nghiên cứu hòa bình là chuyển đổi xung đột và giải quyết xung đột thông qua các cơ chế như gìn giữ hòa bình, xây dựng hòa bình (ví dụ: giải quyết sự chênh lệch về quyền, thể chế và phân phối của cải trên toàn thế giới) và kiến ​​tạo hòa bình (ví dụ: hòa giải và giải quyết xung đột). Gìn giữ hòa bình nằm dưới sự bảo trợ của hòa bình tiêu cực, trong khi các yếu tố xây dựng hòa bình và kiến ​​tạo hòa bình liên quan tới hòa bình tích cực. Giảng dạy nghiên cứu hòa bình và xung đột trong quân đội. Một trong những phát triển thú vị trong nghiên cứu hòa bình và xung đột là số lượng nhân viên quân sự thực hiện các nghiên cứu như vậy. Điều này đặt ra một số thách thức, vì quân đội là một tổ chức công khai cam kết chiến đấu. Trong bài báo "Teaching Peace to the Military", đăng trên tạp chí "Peace Review", James Page lập luận về năm nguyên tắc để củng cố cam kết này, đó là tôn trọng nhưng không ưu tiên kinh nghiệm quân sự, dạy lý thuyết chiến tranh chính nghĩa, khuyến khích học sinh nhận thức về truyền thống và kỹ thuật bất bạo động, khuyến khích học sinh giải cấu trúc và giải thần thoại, đồng thời nhận ra tầm quan trọng của đức tính quân sự. Nguồn và đọc thêm.
Teruhide Takahashi (高橋 照英, Takahashi Teruhide, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1974), được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Shōei (照英, Shoei), là một nam diễn viên người Nhật Bản. Anh đã từng xuất hiện trong loạt phim truyền hình vào khung giờ vàng hàng tuần "Mito Kōmon". Tuy nhiên, vai diễn mà anh được biết đến nhiều nhất là Gouki/GingaBlue trong "Seijuu Sentai Gingaman", và anh đã đóng lại vai diễn trong hai bộ phim Super Sentai Series V-Cinema: "Gogo V Vs Gingaman" và "Gaoranger Vs Super Sentai". Shōei cũng từng tham gia chương trình truyền hình "Sasuke" vào đầu những năm 2000.
Danh sách những thiên thể xa nhất Danh sách những thiên thể xa nhất đã được khoa học phát hiện và xác minh. Việc đo khoảng cách được xác định dựa trên công nhận tuổi của vũ trụ tính từ Vụ Nổ Lớn khoảng 13,787±0,020 tỉ năm ánh sáng. Việc đo khoảng cách tới các thiên thể ở xa hầu hết thực hiện thông qua việc đo độ dịch chuyển đỏ theo định luật Hubble "Đây là một danh sách chưa hoàn tất, và có thể sẽ không bao giờ thỏa mãn yêu cầu hoàn tất. Bạn có thể đóng góp bằng cách [ mở rộng nó] bằng các ."
Stephen John Nash (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1974) là cựu vận động viên bóng rổ người Canada và gần đây nhất là Huấn luyện viên cho đội Brocklyn Nets thi đấu tại Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA). Trong 18 mùa giải thi đấu tại NBA, Nash có 8 lần tham gia All-Star và 7 lần được lựa chọn vào đội hình All-NBA. Anh có 2 năm liên tiếp được trao danh hiệu Cầu thủ bóng rổ xuất sắc nhất NBA (2005 và 2006). Sau khi nổi lên trong cộng đồng bóng rổ học sinh tại tỉnh British Columbia, Nash nhận học bổng tại Đại học Santa Clara, bang California. Trong 4 mùa giải tại đây, đội bóng Santa Clara có 3 lần tham dự NCAA và Nash 2 lần được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất khu vực bờ Tây. Nash tốt nghiệp Đại học Santa Clara với thành tích là cầu thủ nhiều kiến tạo nhất lịch sử đội bóng rổ của trường đại học này. Anh được Phoenix Suns lựa chọn ở lượt thứ 15 tại mùa giải năm 1996. Không có nhiều đóng góp cho Suns, anh chuyển sang Dallas Mavericks vào năm 1998. Ở mùa giải thứ tư tại đây, anh có được trận đấu All-Star đầu tiên cũng như lần đầu có tên trong đội hình All-NBA. Một năm sau, anh cùng Dirk Nowitzki và Michael Finley đưa Mawericks vào tới trận chung kết miền Tây. Anh trở thành cầu thủ tự do và trở về Suns vào mùa giải 2003–04. Mùa giải 2004–05, Nash đưa Phoenix Suns vào tới trận chung kết miền Tây và được bầu chọn là Cầu thủ bóng rổ xuất sắc nhất NBA. Anh tiếp tục nhận danh hiệu này ở mùa giải tiếp theo, và về nhì sau Nowitzki tại mùa giải 2006–07. Nash hiện vẫn giữ kỷ lục kiến tạo và ném phạt của giải đấu, và thường được coi là một trong những hậu vệ dẫn bóng xuất sắc nhất lịch sử. Nash thi đấu cho Đội tuyển bóng rổ quốc gia Canada từ năm 1991 đến 2003, tham gia một kỳ Thế vận hội Mùa hè và 2 lần nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất FIBA AmeriCup. Anh từng có tên trong Đội hình kỷ niệm thành lập NBA (75 năm). Năm 2006, tạp chí "Time" đưa anh vào danh sách . Anh được nhận Huân chương Canada vào năm 2007 và được một lần nữa vào năm 2016. Từ năm 2012 tới năm 2019, anh là Huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng rổ quốc gia Canada. Năm 2008, anh được trao Tiến sĩ danh dự tại Đại học Victoria. Anh còn là đồng sở hữu câu lạc bộ Vancouver Whitecaps FC thi đấu tại Major League Soccer (MLS) kể từ năm 2011. Nash còn được biết đến với nhiều hoạt động từ thiện.
Mangan(III) perchlorat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Mn(ClO4)3. Hợp chất này chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch màu nâu. Đầu tiên, dung dịch mangan(II) perchlorat được điều chế bằng phản ứng của MnSO4 và Ba(OH)2 trong HClO4 dư. Sau đó, thêm dung dịch KMnO4 (đã được acid hóa) vào dung dịch trên để tạo ra lượng Mn(II) dư gấp 20–30 lần. Khi đó, dung dịch màu nâu của Mn(ClO4)3 được tạo ra. Phương trình ion rút gọn cho cả quá trình trên được viết gọn như sau: 4Mn2+ + MnO4− + 8H+ → 5Mn3+ + 4H2O Dung dịch Mn(ClO4)3 cũng có thể điều chế bằng phương pháp điện phân trong môi trường nitơ. Một nghiên cứu quang phổ chỉ ra cả ion hexaaquo Mn(H2O)63+ và hydroxypentaaquo Mn(H2O)5OH3+ đều tồn tại trong dung dịch. Mangan(III) perchlorat chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch màu nâu. Theo phương pháp điều chế đầu tiên, dung dịch Mn(ClO4)3 loãng (nồng độ khoảng 10⁻³ M) trong môi trường acid 4 M ổn định trong một ngày, ngay cả khi pha loãng nồng độ ion H⁺ xuống 1,5 M. Tuy nhiên, khi đun nóng nhẹ dung dịch đến 50 ℃ trong 90 phút, kết tủa mangan(IV) oxide sẽ được tạo ra. Ở nhiệt độ thường, dung dịch này được coi là ổn định. Mn(ClO4)3 chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch; do đó, các phức hợp thường được nghiên cứu chi tiết hơn. Một vài phức hợp của mangan(III) perchlorat với các phối tử hữu cơ dưới dạng MnL6(ClO4)3, trong đó L = dimethylsulfoxide, dimethylformamide, pyridin-N-oxide, antipyridin và ure đã được biết đến. Phức hợp ure có màu tím đậm, D = 1,788 g/cm³ (đo) và 1,8 g/cm³ (tính toán). Mangan(III) perchlorat chỉ được sử dụng dưới dạng chất trung gian để điều chế các hợp chất hữu cơ khác, chẳng hạn Mn(C12H4N4)2·3CH3CN. Dưới đây là nguyên văn gốc cho các nguồn tham khảo tương ứng và một số thông tin bổ sung, trong đó […] là phần nội dung không cần thiết. Nếu cách ký hiệu này đứng ở vị trí đầu tiên hoặc cuối cùng, tức là trước (hoặc sau) đó vẫn còn nội dung.
Diễn viên, ca sĩ và người mẫu Đài Loan Trịnh Nguyên Sướng (), nghệ danh tiếng Anh: Joe Cheng hoặc Joseph Cheng, (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1982) là một nam người mẫu, diễn viên và ca sĩ Đài Loan. Mặc dù khởi đầu sự nghiệp trong nghề mẫu nhưng anh nổi tiếng hơn cả với vai diễn Giang Trực Thụ trong bộ phim truyền hình Đài Loan có tựa tiếng Việt là "Thơ Ngây" được chuyển thể từ manga của Nhật là "Itazura na Kiss". Anh đã gặt hái được nhiều thành tựu trong vai trò diễn viên tại rất nhiều nước châu Á, đặc biệt là Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Philippines và Nhật Bản. Anh từng phát hành EP đầu tay có tên "Sing a Song" vào tháng 10 năm 2009. Tựa đề EP cũng như ca khúc tiêu đề là một cách chơi chữ từ tên riêng của anh là Sướng (暢), vốn là từ đồng âm với "Sing" (唱) trong tiếng Trung. Ban đầu, Trịnh Nguyên Sướng (trước năm 2005) có tên là Bryan Cheng, lớn lên tại quận Bắc Đồn, Đài Trung, Đài Loan. Kể từ lúc ba mẹ anh ly dị khi anh còn học tiểu học, anh đã đến sống cùng bố. Anh cũng có một người chị gái, chị ấy sống cùng mẹ. Trịnh Nguyên Sướng hiện đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự in the second regiment of the Lực lượng Bảo vệ bờ biển Đài Loan, tức Cảnh sát biển xứ Đài.
Zinnia guanajuatensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Graciela Calderón và Jerzy Rzedowski mô tả khoa học đầu tiên năm 1996 như là một thứ với danh pháp "Zinnia acerosa" var. "guanajuatensis" của loài "Zinnia acerosa". Năm 2012 Billier Lee Turner nâng cấp nó thành loài độc lập. Tính từ định danh "guanajuatensis" lấy theo tên bang Guanajuato ở miền trung Mexico. Loài này là bản địa đông bắc Mexico.
Quân khu Taurida là một quân khu của Liên Xô. Quân khu được hình thành từ trụ sở của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt và Tập đoàn quân 22 vào mùa hè năm 1945. Quân khu kiểm soát binh sĩ trên địa bàn của các khu vực Krym, Kherson và Zaporizhia. Nó bị giải thể vào năm 1956, được thay thế bằng Quân khu Odessa. Quân khu Taurida được thành lập vào ngày 9 tháng 7 năm 1945 từ trụ sở của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt và Tập đoàn quân 22 tại Simferopol. Nó kiểm soát binh sĩ trên lãnh thổ của các tỉnh Krym, Kherson và Zaporizhia, được chuyển giao từ Quân khu Odessa và Quân khu Kharkov. Tư lệnh Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt là Trung tướng Kondrat Melnik nắm quyền chỉ huy quân khu. Trong những năm đầu thành lập, quân khu có nhiệm vụ giải ngũ binh sĩ chiến đấu, tinh giản các đơn vị về sức mạnh thời bình, tái thiết các căn cứ quân sự, rà phá bom mìn và giúp xây dựng lại nền kinh tế địa phương. Quân đoàn súng trường 112 được chuyển đến từ Estonia ban đầu là một phần của quân khu, với trụ sở chính tại Kherson. Sau khi Sư đoàn súng trường 44 tại Melitopol được chuyển đến Pavlohrad trong Quân khu Kiev, quân đoàn chỉ còn lại Sư đoàn súng trường 123 tại Kherson. Bộ chỉ huy quân đoàn và Sư đoàn súng trường 123 bị giải thể vào tháng 4 năm 1946. Các sư đoàn súng trường 315 và 414 của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt tại Kerch và Dzhankoy cũng là một phần của quân khu. Sư đoàn 414 ngay sau đó được chuyển đến Tbilisi. Trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 1946, Quân đoàn súng trường 53 từ Ba Lan đến và thành lập trụ sở tại Simferopol. Nó bao gồm các Sư đoàn súng trường 126, 235 và 263, lần lượt đóng tại Simferopol, Yevpatoriya và Feodosia. Trụ sở quân đoàn và Sư đoàn bộ binh 235 giải thể vào tháng 7 năm 1946. Đồng thời, Quân đoàn súng trường cận vệ 25, trước đây thuộc Tập đoàn quân cận vệ 7, từ Tiệp Khắc đến trụ sở tại Zaporizhia. Sư đoàn súng trường cận vệ 4 của nó đóng tại Melitopol và giải thể vào mùa hè năm 1946. Sư đoàn súng trường cận vệ 25 đóng tại Zaporizhia và nhanh chóng chuyển đến [Lubny]], được thay thế bởi Sư đoàn súng trường 188 từ Cụm lực lượng phía Nam. Sư đoàn súng trường cận vệ 113 đóng tại Yevpatoriya. Vào mùa thu năm 1946, trụ sở quân đoàn giải thể. Năm 1946, quân khu được tổ chức lại. Sư đoàn súng trường 126 trở thành Sư đoàn cơ giới 28 và bốn sư đoàn trở thành lữ đoàn, phần còn lại bị giải thể hoặc chuyển giao. Đến mùa xuân năm 1947, quân khu bao gồm Sư đoàn cơ giới 28, Lữ đoàn súng trường biệt lập số 7 (Sư đoàn súng trường 315 cũ), Lữ đoàn súng trường biệt lập 19 (Sư đoàn súng trường 263 cũ), Lữ đoàn súng trường cận vệ 43 (Sư đoàn súng trường cận vệ 113 cũ) và Lữ đoàn súng trường biệt lập 52 (Sư đoàn súng trường 188 trước đây). Lữ đoàn súng trường biệt lập 19 bị giải thể ngay sau đó. Sau khi kết thúc việc xuất ngũ các đơn vị quân đội, quân khu bắt đầu huấn luyện chiến đấu thường xuyên để phòng thủ chống lại một cuộc xâm lược đổ bộ và hiệp đồng với Hạm đội Biển Đen. Từ năm 1950 đến năm 1953, các sư đoàn lại trở thành lữ đoàn. Năm 1955, số 188 được đổi tên thành số 20 và số 315 thành số 52. Theo chỉ thị ngày 19 tháng 4 năm 1956, địa bàn của Quân khu Taurida được giao cho Quân khu Odessa và quân khu này bị giải thể trong một quá trình được hoàn thành trước ngày 1 tháng 7. Trụ sở chính của nó được cải tổ thành Quân đoàn súng trường 45 vào ngày 4 tháng 4. Quân khu được chỉ huy bởi các sĩ quan sau:
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, là một hình thức của chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất (đồng hóa) văn hóa và tôn vinh bản sắc dân tộc của người Việt tại Việt Nam. Trong thời kỳ Âu Lạc và Nam Việt,chủ nghĩa dân tộc không được thể hiện rõ do hệ thống cơ cấu quyền lực nhà nước không đủ mạnh. Tuy nhiên sau đó đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra trong suốt nghìn năm Bắc thuộc của các triều đại Trung Hoa, và cuối cùng giành lại được độc lập sau trận Bạch Đằng năm 938. Một số sử gia hiện đại cho rằng đây là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Hai tác phẩm "Nam quốc sơn hà" và "Bình Ngô đại cáo" đều là những tác phẩm được truyền lại cho nhiều thế hệ người Việt, phản ánh chủ nghĩa ái quốc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng được xem là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc, đồng thời cũng là những tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam tiên phong việc khẳng định chủ quyền quốc gia. Vào thế kỷ 17 tại miền Bắc dưới thời trị vì chúa Trịnh, người Trung Quốc muốn nhập cư phải tuân thủ các phong tục của Việt Nam và hạn chế tiếp xúc với người Việt trong các phủ. Tuy nhiên ở phía Nam, chúa Nguyễn lại cho phép nhiều người Trung Quốc định cư trên những vùng đất mới khai hoang. Các học giả Trung Quốc nhập cư thậm chí đã trở thành quan lại. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế thành lập nhà Nguyễn và hoàn thành cuộc Nam tiến kéo dài suốt 700 năm. Kể từ thời nhà Lý, nhà Nguyễn đã tiến hành nhiều cuộc xâm lược và thực dân hóa toàn bộ Chăm Pa và một số khu vực của đế quốc Khmer. Dưới thời trị vì của nhà Nguyễn (triều đại chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi văn hóa Trung Hoa và tư tưởng Khổng Tử), họ cố gắng đồng hóa tất cả các dân tộc thiểu số tại thuộc địa đang chiếm đóng bằng cách buộc người dân phải tuân thủ các phong tục Việt Nam (đã được Hán hóa). Nhà Nguyễn sao chép các quan điểm của Trung Hoa về Trung Nguyên, tự cho bản thân là một nền văn hóa thượng đẳng, khác biệt so với các quốc gia được Ấn hóa như Chăm Pa và đế quốc Khmer. Nhà Nguyễn tin rằng họ đang thực hiện sứ mệnh khai sáng văn minh đối với nhóm người dân tộc thiểu số, nhóm người bị coi là "man di". Sau khi nhà Nguyễn lên nắm quyền, vương triều này đã thực hiện các chính sách Việt hóa đối với những người không phải là người Việt. Trong giai đoạn mở rộng lãnh thổ về phía Nam, Hoàng đế Gia Long đã tuyên bố: "Hán Di hữu hạn" (漢夷有限) - khẳng định phân biệt rõ ràng giữa người Việt và những dân tộc khác. Hoàng đế Minh Mạng (con trai vua Gia Long) đã lên tiếng về việc người Việt cưỡng chế các dân tộc thiểu số tuân theo phong tục Trung-Việt, ông nói: "Cần hy vọng rằng những phong tục thô tục của họ sẽ dần bị lãng quên, họ sẽ ngày càng bị ảnh hưởng bởi nền văn minh của người Hán". Dưới ảnh hưởng của quan điểm đó, Nhà Nguyễn đã từng tự gọi họ là 'Hán nhân". Người Việt thời hiện đại ngày càng có xu hướng ưu tiên hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam. Đây là phong trào "Người Việt dùng hàng Việt", nhằm đối trọng với hàng hóa "Made in China". Mặc dù nằm trong phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Á Đông, nhưng Việt Nam vẫn khẳng định bản thân quốc gia này là một phần của văn hóa Đông Nam Á. Dù thuộc vùng văn hóa bị Trung Quốc ảnh hưởng và chia sẻ nhiều yếu tố văn hóa như Nho giáo, cũng như đã từng sử dụng chữ Nôm và chữ Hán làm hệ thống chữ viết, một số nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam vẫn từ chối thừa nhận sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Họ tin rằng trước khi bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc, người Việt đã có một nền văn hóa đặc trưng, điển hình như văn hóa Đông Sơn và nghề trồng lúa nước được dẫn dắt bởi người Nam Á. Trong quá trình tiếp xúc và đô hộ nước Chăm Pa (được Ấn Độ hóa), những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam tin rằng đất nước họ là điểm giao thoa giữa hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Sách giáo trình Việt Nam đề cập đến ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc tuy nhiên miền Bắc Việt Nam hiện nay được coi là một phần của lãnh thổ của các bộ lạc Bách Việt, vì vậy họ tin rằng những những điểm tương đồng xuất phát từ việc văn hóa Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi văn hóa Bách Việt khi lãnh thổ của họ bị người Hán (Trung Quốc) xâm lược. Lòng tự tôn dân tộc được thể hiện rất nhiều trong sách giáo trình tại Việt Nam, đặc biệt là về quá trình phát triển và những chiến công của các anh hùng dân tộc trong lịch sử. Những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử của Việt Nam vẫn được nhắc đến nhiều trong hệ thống giáo dục cho giới trẻ và cũng được thế hệ lớn tuổi truyền lại, điều này được xem là yếu tố chính giúp chủ nghĩa dân tộc Việt Nam vẫn còn tồn tại.
Zinnia zamudiana là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Graciela Calderón và Jerzy Rzedowski mô tả khoa học đầu tiên năm 1996. Tính từ định danh "zamudiana" là để vinh danh nhà thực vật học Mexico Sergio Zamudio Ruiz, người đầu tiên tìm thấy loài này. Mẫu định danh số "J.Rzedowski 53130", được tìm thấy ngày 18 tháng 8 năm 1996 ở điểm 4 km về phía đông đông bắc San Javier de las Tuzas, đô thị ở Cadereyta de Montes, trên đường đến Sombrerete, chân đồi đá vôi với thảm thực vật đồng cỏ, cao độ 2.250 m, bang Querétaro (Mexico). Mẫu holotype lưu tại Viện Sinh thái học Mexico (IEB) ở Pátzcuaro, bang Michoacán. Loài này là bản địa đông bắc Mexico (các bang Querétaro, Hidalgo).
Trường phái tư tưởng Trường phái tư tưởng (tiếng Anh: School of thought hay Intellectual tradition) là quan điểm của một nhóm người có chung đặc điểm quan điểm hoặc cách nhìn về một lĩnh vực nào đó như triết học, lĩnh vực học thuật, tín ngưỡng, phong trào xã hội, kinh tế, phong trào văn hóa hoặc trào lưu nghệ thuật. Cụm từ này đã trở thành một thuật ngữ thông tục phổ biến được sử dụng để mô tả những người có suy nghĩ giống nhau hoặc những người tập trung vào một ý tưởng chung. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến. Các trường phái thường được đặc trưng bởi tư tưởng của họ, và do đó được phân loại thành trường phái "mới" và "cũ". Có một quy ước là trong các lĩnh vực tư tưởng chính trị và triết học, có các trường phái tư tưởng "hiện đại" và "cổ điển". Một ví dụ là những người tự do hiện đại và cổ điển. Sự phân đôi này thường là một thành phần của sự thay đổi mô hình. Tuy nhiên, hiếm khi có trường hợp chỉ có hai trường phái trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Boeing F-15EX Eagle II Boeing F-15EX Eagle II là một loại máy bay tiêm kích tấn công đa năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, được thiết kế chế tạo bởi Boeing Defense, Space Security của Hoa Kỳ, và nó có nguồn gốc từ McDonnell Douglas F-15E Strike Eagle. Thiết kế và phát triển. Năm 2018, Không quân Hoa Kỳ (USAF) và Boeing đã thảo luận về "F-15X" hoặc "Advanced F-15", một biến thể một chỗ ngồi được đề xuất dựa trên F-15QA để thay thế những chiếc F-15C/D đang hoạt động trong USAF. Các cải tiến của biến thể mới bao gồm hệ thống AMBER (Giá phóng Tên lửa và Bom Tiên tiến - Advanced Missile and Bomb Ejector Rack) có thể mang tới 22 tên lửa không đối không, tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại, hệ thống điện tử hàng không tiên tiến, thiết bị tác chiến điện tử, radar mảng quét điện tử chủ động (AESA) và cấu trúc sửa đổi với tuổi thọ 20.000 giờ. Các biến thể một chỗ ngồi và hai chỗ ngồi được đề xuất, lần lượt là F-15CX và F-15EX, cả hai biến thể có các tính năng giống hệt nhau. Không quân Mỹ đã chọn biến thể hai chỗ ngồi, nó có thể được điều khiển bởi một phi công duy nhất, hoặc một phi công và một sĩ quan phụ trách hệ thống vũ khí cho các nhiệm vụ phức tạp. Lý do đưa ra quyết định này của USAF là do chỉ có các mẫu F-15 hai chỗ ngồi vẫn được tiếp tục sản xuất. Không quân Mỹ mua F-15EX để duy trì quy mô lực lượng phi đội khi quá trình sản xuất F-22 kết thúc, còn F-35 bị trì hoãn và những chiếc F-15 của họ đã già sau thời gian dài hoạt động. Mặc dù F-15EX được dự đoán sẽ khó sống sót trước các hệ thống phòng không hiện đại vào năm 2028, nhưng nó có thể thực hiện nhiệm vụ phòng thủ nội địa và phòng thủ căn cứ không quân, thực thi vùng cấm bay trước các hệ thống phòng không yếu của đối phương, và triển khai vũ khí tầm xa tấn công từ ngoài tầm phòng không của đối phương. Tháng 7 năm 2020, Bộ Quốc phòng Mỹ đặt hàng mua 8 chiếc F-15EX trong vòng 3 năm với tổng giá trị hợp đồng 1,2 tỷ USD. Tháng 8 năm 2020, USAF công bố kế hoạch thay thế những chiếc F-15C của các đơn vị Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân ở Florida và Oregon bằng F-15EX. F-15EX thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 2 tháng 2 năm 2021. Chiếc đầu tiên được bàn giao cho Không quân Mỹ vào tháng 3 năm 2021 và được đưa đến Căn cứ Không quân Eglin ở Florida để thử nghiệm thêm. Ngày 7 tháng 4 năm 2021, tên chính thức được công bố của F-15EX là "Eagle II". Dự luật phân bổ quốc phòng năm 2021 tài trợ cho việc mua sắm dòng chiến đấu cơ này ở mức 1,23 tỷ USD với 12 chiếc, nâng tổng số đơn đặt hàng lên 20 chiếc. Đến tháng 5 năm 2022, USAF đặt hàng 144 chiếc, nhưng cũng đã có đề xuất giảm đơn hàng xuống 80 chiếc. Những chiếc F-15EX đầu tiên đưa vào hoạt động không nhận được thùng nhiên liệu phù hợp. Ngân sách đề xuất của Lực lượng Không quân cho năm tài chính 2024 có trích tiền ra để mua thêm 24 chiếc F-15EX, nâng tổng số đặt hàng dự kiến lên tới 104 chiếc. Ngày 18 tháng 4 năm 2023, USAF thông báo rằng Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân California và Louisiana sẽ thay thế phi đội F-15C/D của họ bằng F-15EX. Ngày 25 tháng 5 năm 2023, có thông tin cho rằng Phi đội Máy bay Chiến đấu số 173 tại Căn cứ Vệ binh Quốc gia Không quân Kingsley Field ở Oregon, sẽ trở thành Đơn vị Huấn luyện Chính quy (FTU) cho F-35A thay vì F-15EX. Do đó, khóa huấn luyện F-15 cơ bản dành cho cả F-15E và F-15EX sẽ diễn ra tại Căn cứ Không quân Seymour Johnson ở North Carolina kể từ năm 2026. Lịch sử hoạt động. Khách hàng tiềm năng. Không quân Israel đã đặt hàng 25 chiếc F-15IA và có kế hoạch nâng cấp 25 chiếc F-15I lên tiêu chuẩn F-15IA. Tháng 2 năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phê duyệt thỏa thuận bán 36 chiếc F-15ID và các thiết bị liên quan cho Indonesia. Kể từ ngày 21 tháng 11 năm 2022, kế hoạch mua F-15 của Indonesia đang ở giai đoạn tiến triển và đang chờ phê duyệt cuối cùng từ chính phủ, theo tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia. Phát biểu sau cuộc gặp với người đồng cấp Mỹ Lloyd Austin tại Jakarta, Prabowo Subianto cho biết Boeing đã đồng ý với lời đề nghị tài chính được đề xuất và ông tin rằng gói này có giá cả phải chăng. Tháng 6 năm 2023, trong một cuộc họp báo của Bộ Quốc phòng, người ta nói rằng hợp đồng mua máy bay F-15 vẫn đang trong giai đoạn thảo luận về Thư Đề nghị và Chấp nhận của Chính phủ Hoa Kỳ. Không quân Hoàng gia Thái Lan (RTAF) đang tìm kiếm một loại máy bay chiến đấu đa năng để thay thế F-16A/B Block 15 ADF đang phục vụ trong biên chế. Ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng tư lệnh RTAF thông báo rằng Lực lượng Không quân đề xuất mua 8 đến 12 chiếc F-35 Lightning II vào năm 2023. Ngày 12 tháng 1 năm 2022, hội đồng bộ trưởng đã phê duyệt lô hàng đầu tiên mua bốn chiếc F-35A. Ngày 22 tháng 5 năm 2023, một nguồn tin của RTAF tuyên bố Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngụ ý rằng họ sẽ từ chối lời đề nghị mua F-35A của Thái Lan, thay vào đó họ sẽ cung cấp các máy bay chiến đấu F-16 Block 70 và F-15EX Eagle II. Phiên bản hai chỗ ngồi. F-15IA ("IA" là viết tắt của Israel Advanced) là một biến thể dành cho Không quân Israel dựa trên F-15EX. Lực lượng Phòng vệ Israel đã thông qua kế hoạch mua 25 chiếc F-15IA mới và nâng cấp 25 chiếc F-15I lên tiêu chuẩn F-15IA vào tháng 2 năm 2020. F-15ID là phiên bản xuất khẩu được đề xuất của F-15EX dành cho Không quân Indonesia. Tháng 2 năm 2022, Bộ Ngoại giao Mỹ phê duyệt việc bán 36 chiếc F-15ID và các thiết bị liên quan cho Indonesia với trị giá khoảng 13,9 tỷ USD. Phiên bản này còn được gọi là F-15IDN. Thông số kỹ thuật (F-15EX). "Dữ liệu lấy từ" Air and Space Forces Magazine Máy bay có sự phát triển liên quan Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương Danh sách liên quan
Bard là một chatbot trí tuệ nhân tạo tổng hợp đàm thoại được phát triển bởi Google. Ban đầu, nó được dựa trên mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) LaMDA và sau đó là PaLM LLM. Bard ra đời nhằm đáp ứng trực tiếp sự phát triển của ChatGPT của OpenAI và được phát hành vào tháng 3 năm 2023 với số lượng hạn chế. Ban đầu, Bard nhận được những phản hồi khác nhau trước khi mở rộng sử dụng sang các quốc gia khác vào tháng 5. Vào tháng 7, 2023, Bard hỗ trợ khoảng 40 ngôn ngữ, có tiếng Việt (theo Bản cập nhật mới nhất của Bard vào ngày 13 tháng 7, 2023). Vào tháng 11 năm 2022, OpenAI đã giới thiệu ChatGPT, một chatbot dựa trên mô hình ngôn ngữ lớn GPT-3. ChatGPT nhanh chóng thu hút sự chú ý toàn cầu sau khi ra mắt và trở thành một hiện tượng trên Internet. Lo ngại về tiềm năng đe dọa của ChatGPT đối với Google Tìm kiếm đã khiến các giám đốc điều hành của Google phải đưa ra cảnh báo "mã đỏ" và chỉ định lại một số nhóm để hỗ trợ nỗ lực trí tuệ nhân tạo (AI) của công ty. Sundar Pichai, Giám đốc điều hành của Google và công ty mẹ Alphabet, được cho là đã đưa ra cảnh báo này, tuy nhiên, Pichai sau đó đã phủ nhận điều này trong cuộc trò chuyện với The New York Times. Larry Page và Sergey Brin, những người sáng lập Google và từng giữ vai trò đồng Giám đốc điều hành của Alphabet cho đến năm 2019, đã tham gia cuộc họp khẩn cấp với các giám đốc điều hành của công ty để thảo luận về phản ứng của Google đối với ChatGPT, một động thái hiếm thấy và chưa từng có. Đầu năm đó, Google đã tiết lộ một mô hình ngôn ngữ lớn nguyên mẫu mang tên LaMDA, nhưng không công bố chính thức. Khi được các nhân viên hỏi về việc liệu LaMDA có thể cạnh tranh với ChatGPT hay không, Pichai và giám đốc AI của Google, Jeff Dean, tuyên bố rằng mặc dù công ty có khả năng tương tự như ChatGPT, việc tiến xa quá nhanh trong lĩnh vực này sẽ mang đến rủi ro lớn đối với danh tiếng của Google so với OpenAI. Vào tháng 1 năm 2023, Giám đốc điều hành của DeepMind, Demis Hassabis, đã tiết lộ kế hoạch phát triển một đối thủ cho ChatGPT, và các nhân viên của Google đã được hướng dẫn để đẩy nhanh tiến độ phát triển một chatbot đối thủ, được gọi là "Apprentice Bard" và các chatbot khác. Pichai đã cam đoan với các nhà đầu tư trong cuộc họp thu nhập hàng quý của Google vào tháng 2 rằng công ty đã có kế hoạch mở rộng tính khả dụng và ứng dụng của LaMDA.
Quân khu Odessa (; , viết tắt ) từng là một đơn vị hành chính quân sự của Liên Xô và Ukraina. Quân khu bao gồm Moldavia và năm tỉnh của Ukraina là Odessa, Nikolaev, Kherson, Krym và Zaporozhye. Năm 1998, hầu hết địa bàn của quân khu được chuyển sang Bộ chỉ huy tác chiến Phương Nam Ukraina. Một quân khu có cùng tên được Đế quốc Nga thành lập vào năm 1864. Cơ cấu quân khu từ thời Liên Xô được Ukraina kế thừa. Khi Liên Xô giải thể, Tập đoàn quân cận vệ 14 của quân khu được phân chia giữa Nga, Ukraina và Moldova. Quân khu Odessa được thành lập trong quá trình cải cách của Bộ trưởng Quân đội Nga Dmitry Milyutin. Đây là quân khu thứ hai trong số hai quân khu trên lãnh thổ của Ukraina trong tương lai, quân khu còn lại là Quân khu Kiev. Quân khu Odessa tồn tại từ năm 1862–1918, là một phần của Lực lượng Vũ trang Đế quốc Nga. Địa bàn quân khu bao gồm các tỉnh Kherson, Yekaterinoslav, Taurida và Bessarabia. Quân khu này giáp với Vương quốc Romania, Quân khu Kiev, tỉnh Quân đoàn Don và Biển Đen. Trong những năm 1870 và 1880 (đến ngày 12 tháng 8 năm 1889), tư lệnh của quân khu kiêm nhiệm giữ chức vụ Toàn quyền lâm thời của thành phố Odessa. Vào tháng 1 năm 1918, trụ sở của Quân khu Odessa được chuyển thành trụ sở của Phương diện quân Romania Xô viết dưới quyền tài phán của Rumcherod. Với việc thành lập chính phủ Ukraina trên lãnh thổ này, cơ cấu bị chấm dứt. Quân khu Odessa được phục hồi khi lực lượng Ukraina bị đẩy ra khỏi khu vực từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1919. Quân khu được cải tổ theo quyết định ngày 11 tháng 10 năm 1939 về việc chiếm đóng Bessarabia sau khi Liên Xô ký Hiệp ước Molotov–Ribbentrop. Vào thời điểm đó, lãnh thổ của quân khu bao gồm CHXHCNXV Moldavia, sáu tỉnh của CHXHCNXV Ukraina (Izmail, Odessa, Dnepropetrovsk, Zaporozhye, Nikolaev, Kirovohrad) và cũng bao gồm CHXHCNXV tự trị Krym thuộc CHXHCNXV LB Nga. Quân khu Odessa được tăng cường bởi một số đơn vị từ Phương diện quân Ukraina đã tham gia vào cuộc xâm chiếm Ba Lan và Romania của Liên Xô, trước đó được thành lập trên cơ sở của Tập đoàn quân Odessa của Quân khu đặc biệt Kiev (Quân khu Kiev cải cách). Theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng Liên Xô, các đơn vị của Quân khu Odesa, dưới quyền Tướng IV Boldin, được lệnh vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu vào mùa xuân năm 1940. Liên Xô tập trung quân dọc biên giới Romania diễn ra từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6 năm 1940. Nhằm phối hợp với các nỗ lực của Quân khu Kiev và Odessa trong chuẩn bị hành động chống lại Romania, Quân đội Liên Xô đã thành lập Phương diện quân Nam dưới quyền chỉ huy của Tướng Georgy Zhukov, bao gồm các Tập đoàn quân 5, 9 và 12. Phương diện quân Nam có 32 sư đoàn bộ binh (súng trường), 2 sư đoàn bộ binh cơ giới, 6 sư đoàn kỵ binh, 11 lữ đoàn xe tăng, 3 lữ đoàn dù, 30 trung đoàn pháo binh và các đơn vị phụ trợ nhỏ hơn. Hai kế hoạch hành động được đề ra. Kế hoạch đầu tiên được chuẩn bị cho trường hợp Romania không chấp nhận rút khỏi Bessarabia và Bukovina. Trong tình huống như vậy, Tập đoàn quân 12 của Liên Xô được cho là sẽ tấn công về phía Nam dọc theo sông Prut về phía Iaşi, trong khi Tập đoàn quân 9 của Liên Xô được cho là sẽ tấn công từ đông sang tây ở phía nam Kishinev về phía Huşi. Mục tiêu của kế hoạch này là bao vây quân Romania ở khu vực Bălţi-Iaşi. Kế hoạch thứ hai tính đến trường hợp Romania sẽ khuất phục trước yêu cầu của Liên Xô và sẽ rút quân đội của mình. Trong tình hình đó, quân đội Liên Xô được giao nhiệm vụ nhanh chóng tiếp cận sông Prut, phụ trách quá trình sơ tán quân Romania. Kế hoạch đầu tiên được lấy làm cơ sở của hành động. Dọc theo các khu vực mà cuộc tấn công dự kiến ​​sẽ diễn ra, Liên Xô đã chuẩn bị sẵn sàng để có ưu thế ít nhất gấp ba lần về quân số và phương tiện. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, đội hình chiến đấu chính bao gồm: Vào tháng 8 năm 1941, Tập đoàn quân độc lập 51 được thành lập tại Krym. Vào ngày 10 tháng 9 năm 1941, quân khu này bị giải thể do địa bàn bị lực lượng vũ trang của Đức Quốc xã và đồng minh chiếm đóng. Sau Thế chiến II. Quân khu được cải tổ vào ngày 23 tháng 4 năm 1944 với trụ sở chính tại Kirovohrad, vào tháng 10 năm 1944 thì chuyển đến Odessa. Năm 1948, Tập đoàn quân cận vệ 4, với Quân đoàn bộ binh cận vệ Budapest 10 (Cơ giới 33, 59, 86) và Quân đoàn súng trường cận vệ 24 (Cơ giới cận vệ 35, Sư đoàn súng trường 180, Lữ đoàn súng trường 51), cộng với Quân đoàn súng trường 82 (cơ giới cận vệ 34, súng trường cận vệ 28, Lữ đoàn súng trường 52) nằm trong quân khu. Nguyên soái Liên Xô Georgy Zhukov được giao quyền chỉ huy Quân khu Odessa sau chiến tranh, cách xa Moskva và thiếu ý nghĩa chiến lược cũng như binh sĩ. Ông đến đó vào ngày 13 tháng 6 năm 1945. Zhukov bị đau tim vào tháng 1 năm 1948, phải nằm viện một tháng. Vào tháng 2 năm 1948, Zhukov được chuyển đến một chức vụ khác, lần này là tư lệnh của Quân khu Ural. Thượng tướng Nikolay Pukhov nắm quyền tư lệnh. Quân đoàn súng trường 82 tồn tại cho đến ngày 13 tháng 6 năm 1955, khi nó được đổi tên thành Quân đoàn súng trường 25 và ngày 25 tháng 6 năm 1957, nó được đổi tên thành Quân đoàn lục quân 25. Bộ chỉ huy ở Nikolayev với Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 28, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 34 và Sư đoàn súng trường cơ giới 95 vào cuối những năm 1950. Tan rã vào tháng 6 năm 1960. Vào tháng 5 năm 1955, các lực lượng của quân khu bao gồm Quân đoàn súng trường cận vệ Budapest số 10 (sư đoàn 35, cận vệ 59, cận vệ 86), Quân đoàn súng trường 25 (bao gồm Sư đoàn súng trường 20 (Zaporozhye), cận vệ 28) và Quân đoàn súng trường 32, và Sư đoàn súng trường cận vệ 48 và 66. Tháng 5 năm 1957, Sư đoàn súng trường 20 trở thành Sư đoàn súng trường cơ giới 93, nhưng sư đoàn này bị giải thể vào tháng 3 năm 1959. Năm 1960, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 113 và Sư đoàn súng trường cơ giới 95 bị giải thể. Vào tháng 4 năm 1960, Quân khu Odessa bao gồm ba tỉnh (Nikolaev, Izmail và Odessa) cũng như Moldavia Xô viết và ba khu vực mới từ Quân khu Taurida đã giải thể: Zaporozhye, Krym và Kherson. Từ tháng 9 năm 1984, Quân khu nằm dưới quyền chỉ huy của Phương diện chiến lược Tây Nam, với trụ sở chính tại Kishinev. Phát triển về sau. Trên địa bàn của Quân khu Odessa được triển khai thêm Tập đoàn quân cận vệ 14 (được thành lập trên cơ sở Quân đoàn súng trường cận vệ Budapest 10), Quân đoàn lục quân 32 (có thể được cải tổ trên cơ sở các đơn vị trụ sở của Quân khu Taurida cũ) vào năm 1956, được bổ sung bởi Sư đoàn dù cận vệ 98 cũng như thêm bảy sư đoàn súng trường cơ giới. Tập đoàn quân hàng không số 5 của Lực lượng Không quân Liên Xô hỗ trợ đường không chiến thuật cho các đơn vị của quân khu và Quân đoàn phòng không 49, Tập đoàn quân phòng không số 8 được giao nhiệm vụ phòng không quốc gia cho lãnh thổ. Quân khu Odessa được chuyển sang quyền tài phán của Ukraina sau khi Liên Xô tan rã vào ngày 3 tháng 1 năm 1992. William E. Odom nói rằng 'theo thỏa thuận Minsk [từ hội nghị thượng đỉnh SNG ở Minsk ngày 30–31 tháng 12 năm 1991], Shaposhnikov đã gửi lệnh vào ngày 3 tháng 1 năm 1992, chính thức chuyển các lực lượng thông thường sang cho Ukraina. Tổng thống Ukraina Kravchuk sau đó phê chuẩn việc sa thải ba tư lệnh quân khu (..). Vào ngày 7–8 tháng 1, mỗi người đều bị loại bỏ, không ai kháng cự vì trong trụ sở của họ, người của Kravchuk đã âm thầm tạo ra một mạng lưới các sĩ quan trung thành với chính phủ của ông.' Các đơn vị của Quân khu Odessa được phân chia giữa Lực lượng vũ trang Ukraina và một số đơn vị, chủ yếu là Tập đoàn quân cận vệ 14 với Moldavia Xô viết cũ nhưng rồi trở thành một phần của Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga. Các lực lượng thập niên 1980. Khoảng 1988, quân khu gồm các lực lượng sau đây: Sau khi Liên Xô tan rã, Tập đoàn quân cận vệ 14 vướng vào Chiến tranh Transnistria. Sư đoàn hàng không cận vệ 98 được phân chia giữa Nga và Ukraina; phần của Ukraina trở thành Sư đoàn không vận 1 và phần của Nga được rút về Ivanovo thuộc Quân khu Moskva và trở thành một phần của Lực lượng Đổ bộ đường không Nga. Căn cứ lưu trữ thiết bị 5381 với trụ sở chính tại Florești, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 86 cũ, bị Moldova tiếp quản. Tập đoàn quân hàng không 5 sau đó được đổi tên thành Quân đoàn Hàng không 5 của Lực lượng Không quân Ukraina vào năm 1994. Thượng tướng Volodymyr Shkidchenko chỉ huy Quân khu Odessa từ tháng 12 năm 1993 cho đến tháng 2 năm 1998. Kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1998, Quân khu Odessa được chuyển thành Bộ tư lệnh tác chiến Phương Nam của Lục quân Ukraina theo Nghị định của Bộ Quốc phòng Ukraina. Bộ chỉ huy bao gồm chín tỉnh: Odesa, Mykolaiv, Kherson, Dnipropetrovsk, Zaporizhzhia, Donetsk, Luhansk, Kirovohrad, Kharkiv và Cộng hòa tự trị Krym.
Eduard Serhiyovych Kozik (; sinh ngày 19 tháng 4 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Shakhtar Donetsk tại Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Hrudky, Volyn Oblast, Kozik bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại học viện của câu lạc bộ VIK-Volyn Volodymyr-Volynskyi, trước khi chuyển tới học viện của Shakhtar Donetsk vào năm 2019. Anh thi đấu tại Ukrainian Premier League Reserves trong nhiều mùa giải và ra mắt cho đội 1 Shakhtar Donetsk trong trận đấu thuộc khuôn khổ Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina, khi vào sân thay cho Valeriy Bondar ở phút thứ 82 của trận thắng 3-0 trước Inhulets Petrove vào ngày 5 tháng 11 năm 2022.
Frederikke Amalie của Đan Mạch Frederikke Amalie của Đan Mạch và Na Uy (11 tháng 4 năm 1649 – 30 tháng 10 năm 1704) là con gái của Frederik III của Đan Mạch và Sophie Amalie xứ Braunschweig-Calenberg, và là Công tước phu nhân xứ Holstein-Gottorp từ năm 1667 đến 1695 với tư cách là phối ngẫu của Christian Albrecht xứ Schleswig-Holstein-Gottorf. Frederikke Amalie là con gái thứ hai của Frederik III của Đan Mạch và Sophie Amalie xứ Braunschweig-Calenberg. Cha của Frederikke lên ngôi vương vào ngày 23 tháng 11 năm 1648, khoảng năm tháng trước khi vương nữ được sinh ra. Frederikke Amalie kết hôn tại Lâu đài Glücksburg vào ngày 24 tháng 10 năm 1667 với Christian Albrecht xứ Schleswig-Holstein-Gottorf như một phần của hiệp ước hòa bình giữa Đan Mạch và Holstein-Gottorp, tuy nhiên các bên thù địch vẫn tiếp tục chiến tranh. Cuộc hôn nhân giữa Frederikke Amalie và Christian Albrecht không hạnh phúc và Frederikke Amalie thường bị dày vò bởi những xung đột thường xuyên giữa anh trai Christian V của Đan Mạch và chồng. Có thông tin rằng Frederikke Amalie bị Christian Albert bạo hành, trong khi Vương nữ Đan Mạch dành cho vương nữ đủ loại đặc quyền cá nhân và biểu hiện tình cảm. Cặp đôi đã đến thăm em gái của Frederikke Amalie là Ulrikke Eleonore, Vương hậu Thụy Điển. Những chuyến thăm đến Thụy Điển của Frederikke Amalie đã truyền cảm hứng cho những bữa tiệc và lễ hội lớn tại triều đình Thụy Điển nghiêm ngặt và được đánh giá cao. Frederikke Amalie trở thành góa phụ vào năm 1695. Vì các con trai của Frederikke cũng thù ghét Đan Mạch, xung đột giữa Đan Mạch và Holstein-Gottorp tiếp tục đặt Frederikke Amalie vào tình thế khó khăn với tư cách là một góa phụ. Khi Frederikke Amalie qua đời tại dinh thự của mình ở Kiel vào năm 1704, xung đột giữa Holstein-Gottorp và Đan Mạch về cách rung chuông phù hợp trong đám tang của Frederikke Amalie suýt nữa đã gây ra chiến tranh giữa hai bang.
Trong thiên văn học, sao quanh cực là một ngôi sao mà khi được quan sát từ một vĩ độ địa lý cho trước không bao giờ lặn xuống dưới đường chân trời do có vị trí biểu kiến gần thiên cực phía bán cầu nơi đó. Các sao quanh cực do đó có thể trông thấy được từ vĩ độ nơi đó tới địa cực gần nhất trong suốt đêm và mỗi đêm quanh năm (và vẫn có thể được tiếp tục trông thấy vào ban ngày nếu chúng không bị ánh sáng tán xạ từ Mặt Trời lấn át). Các sao không là sao quanh cực được gọi là "sao" "theo mùa" ("seasonal star").Tất cả các sao quanh cực đều nằm trong đường tròn quanh cực với kích cỡ được xác định bởi vĩ độ của người quan sát. Cụ thể, bán kính góc của vòng tròn này bằng vĩ độ của người quan sát. Nơi quan sát càng gần tới Bắc Cực hoặc Nam Cực, vòng tròn quanh cực càng rộng. Tại hai cực, vòng tròn quanh cực rộng bằng đường chân trời và một nửa bầu trời sao phía bán cầu đó đều là quanh cực. Tại xích đạo, không có ngôi sao nào là quanh cực và toàn bộ bầu trời sao đều có mọc và lặn. Chòm sao quanh cực là một chòm sao với hầu hết các sao đủ sáng đều không lặn xuống dưới chân trời, khi quan sát từ một địa điểm cho trước. Một ngôi sao có quanh cực hay không phụ thuộc vào vĩ độ của người quan sát. Bởi độ cao của thiên cực trông thấy được bằng trị tuyệt đối của vĩ độ quan sát (vĩ độ đại số mang dấu dương ở Bắc Bán cầu), một ngôi sao với khoảng cách góc tới thiên cực trông thấy được nhỏ hơn vĩ độ tuyệt đối sẽ là quanh cực. Chẳng hạn nếu vĩ độ của quan sát viên là 50° B hay +50°, mỗi sao thiên cực đều nằm trong khoảng dưới 50° tính từ thiên cực bắc. Nếu vĩ độ của quan sát viên là 35° N hay –35° thì các sao quanh cực sẽ thuộc khoảng dưới 35° tính từ thiên cực nam. Các sao nằm trên xích đạo thiên cầu không là quanh cực khi được thấy từ bất kỳ bán cầu nào trên Trái Đất.
Nhật Bản xâm chiếm Sumatra (1942) Cuộc hành quân xâm chiếm Sumatra là cuộc tấn công của quân đội Nhật Bản vào Đông Ấn Hà Lan diễn ra từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 3 năm 1942. Cuộc xâm chiếm là một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương ở Đông Nam Á trong Thế chiến 2 và dẫn đến việc chiếm giữ hòn đảo. Cuộc xâm chiếm Sumatra đã được lên kế hoạch xảy ra trước cuộc xâm lược Java để phá huỷ sườn phía tây của Đồng minh và cho phép tiếp cận Java. Sau khi Nhật Bản chinh phục thành công bán đảo Mã Lai, quân Đồng minh bắt đầu chuyển nhân sự vào tháng 12 năm 1941 đến Sumatra. Các máy bay ném bom đầu tiên của Anh và Úc được di chuyển tiếp về phía nam của hòn đảo để hồi phục sau những tổn thất trên bán đảo Mã Lai. Ngoài ra, một đoàn xe vận tải đã đưa khoảng 3,400 quân Úc đến Sumatra. Trong một hội nghị chung vào ngày 16 tháng 12, Hà Lan đã yêu cầu viện trợ để tăng cường phòng thủ Sumatra và Java. Hơn nữa, các kế hoạch đã được thực hiện ở Sabang để thành lập các trại tiếp tế Medan và Pekanbaru. Tuy nhiên, các kế hoạch này đã được sửa đổi vào ngày 27 tháng 12, với các sân bay P1 (Pangkalanbenteng) và P2 (Praboemoelih) gần Palembang được chọn làm địa điểm của trụ sở mới để bố trí các máy bay ném bom hoạt động. P2 đã không được phát hiện bởi các chuyến bay trinh sát Nhật Bản cho đến lúc đó. Do tình trạng tồi tệ của các sân bay, việc di dời bắt đầu vào ngày 31 tháng 12; Nhân viên mặt đất có sẵn đã đến vào đầu tháng 1. Một sân bay khác nằm ở Oosthaven, mà ngày nay là Bandar Lampung. Công việc trên các con đường cũng được bắt đầu ở Medan và Pekanbaru. Việc thiếu súng phòng không được khắc phục bằng việc chuyển giao 6 pháo phòng không hạng nặng và 6 khẩu Bofors hạng nhẹ cho mỗi sân bay Palembang. 8 khẩu pháo phòng không khác được đặt tại các nhà máy lọc dầu. Tuy nhiên, đã có sự thiếu hụt đạn dược, bởi vì các tàu vận chuyển đạn dược đã bị đánh chìm bởi người Nhật trong quá trình vượt biển. Cuộc không kích đầu tiên của Nhật Bản diễn ra vào ngày 6 tháng 2 và đánh trúng sân bay P1 tại Palembang. Đồng minh mất 2 máy bay ném bom Blenheim và 4 chiếc Hurricanes. 2 chiếc Hurricanes khác bị hư hại. Trên mặt đất, quân Nhật đã tiêu diệt 2 chiếc Buffalos. Trong cuộc tấn công, Đồng minh chỉ bắn rơi một chiếc Nakajima Ki-43 duy nhất của Nhật Bản. Như một động thái đối phó, quân Đồng minh bắt đầu các cuộc không kích ban đêm chống lại các phòng tuyến của Nhật Bản trên bán đảo Mã Lai và bảo vệ trên không cho các đoàn xe tị nạn từ Singapore. Đối với Chiến dịch "L", quân Nhật đã vận chuyển Trung đoàn Bộ binh 229 thuộc Sư đoàn Bộ binh 38 từ Hồng Kông đến vịnh Cam Ranh ở Đông Dương. Từ đây, 8 tàu vận tải khởi hành vào ngày 9 tháng 2 năm 1942, được bảo vệ bởi một tuần dương hạm, 4 khu trục hạm, 5 tàu quét mìn và 2 tàu săn ngầm dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Shintarō Hashimoto để xâm chiếm Bangka và Palembang. Ngày hôm sau, Chuẩn Đô đốc Jisaburō Ozawa tiếp nối cùng Hạm đội Bảo vệ phía Tây, bao gồm soái hạm tuần dương hạm "Chōkai" cùng 5 tuần dương hạm khác và 3 khu trục hạm cùng một Liên đội Không quân dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Kakaji Kakuta bao gồm tàu sân bay "Ryūjō" và một khu trục hạm. Phần lớn lực lượng đổ bộ tiếp nối vào ngày 11 tháng 2 trong 13 tàu vận tải được hộ tống bởi 1 tuần dương hạm hạng nặng, 1 khu trục hạm nhỏ, 4 khu trục hạm và 1 tàu săn ngầm. Tàu chở dầu "Manvantara" của Hà Lan bị máy bay Nhật Bản đánh chìm vào ngày 13 tháng 2 năm 1942 tại biển Java. 4 tàu ngầm Hà Lan đang chờ đợi tại quần đảo Anambas; tuy nhiên, chúng không thể tiếp cận hạm đội Nhật. Các tàu vận tải đến Singapore, và sau đó các tàu chở hàng tị nạn Đồng minh đang di chuyển theo hướng Java và Sumatra đã bị máy bay Nhật Bản từ "Ryūjō" tấn công. Ngoài ra, chúng còn gây hư hại cho tuần dương hạm hạng nhẹ "Durban" của Anh, vốn phải quay đầu đi Colombo. Người Nhật tấn công liên tục bằng máy bay từ "Ryūjō" và bằng máy bay ném bom đặt căn cứ trên đất liền từ đơn vị không quân Genzan. 2 tàu chở dầu của Đồng minh, một tàu hơi nước và nhiều tàu nhỏ hơn đã bị đánh chìm, và một tàu chở dầu khác và 2 tàu vận tải bị hư hại nghiêm trọng. Vào lúc 8 giờ sáng ngày 14 tháng 2, người cảnh giác không kích cảnh báo Palembang về một đợt tấn công lớn của Nhật Bản đang trên đường bay đến thị trấn. Tất cả các lực lượng không quân Đồng minh có sẵn vào thời điểm đó đang thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải biển và không nằm trong tầm với vô tuyến. Đầu tiên, một đợt máy bay ném bom Nhật Bản đã thả tải xuống sân bay P1, tiếp theo là bắn phá từ các máy bay tiêm kích đi kèm. Ngay sau đó, 260 lính dù Nhật Bản thuộc Sư đoàn Nhảy dù 1 Nhật Bản đã đổ bộ lên P1. Họ đến từ sân bay Kahang bị chiếm giữ ở Mã Lai. Đợt thứ hai bao gồm 100 lính dù từ Kluang đổ bộ ngay sau đó vài km về phía tây của P1 gần nhà máy lọc dầu. Trong lực lượng phòng thủ chỉ có 150 lính phòng không Anh, 110 lính Hà Lan và 75 lính phòng không Anh tại P1. Trong khi quân Nhật chất đống xe cộ để chặn đường, các cuộc đọ súng nhỏ đã nổ ra với quân phòng thủ và một số máy bay hạ cánh đã thành công trong việc tiếp tế nhiên liệu. Các máy bay ngay lập tức bay đến sân bay chưa được phát hiện, P2. Trụ sở chính cũng chuyển đến P2 sau khi tin tức từ nhà máy lọc dầu và từ Palembang đến. Vào buổi chiều, nó đi vào bế tắc. Người Anh vẫn giữ sân bay, nhưng, đạn dược của họ bị thiếu và họ bị cản trở bởi sự phong toả đường phố. Sau khi một báo cáo sai lệch về các cuộc đổ bộ nhảy dù khác của Nhật Bản ở khoảng cách khoảng 25 km lan rộng, viên chỉ huy người Anh, H. G. Maguire, đã quyết định sơ tán khỏi sân bay và thị trấn. Ngày hôm sau, 100 quân Nhật khác đổ bộ vào nhà máy lọc dầu. Sau một cuộc giao tranh dữ dội kéo dài cả ngày, quân phòng thủ đã đẩy lùi quân Nhật, nhưng nhà máy lọc dầu đã bị hư hại nặng nề bởi hoả lực súng máy và bốc cháy. Các cơ sở nhỏ hơn xung quanh đã bị hư hại. Trong khi đó, hạm đội hộ tống đã khởi hành dưới quyền Phó Đô đốc Ozawa về phía bắc Bangka để tạo thành một màn hộ tống cho cuộc đổ bộ của quân Nhật diễn ra không lâu sau đó. Một đội tiên phong đã lên bờ trên Bangka, trong khi các đơn vị chính đã đổ bộ gần Palembang ở cửa sông Musi và tiến dọc theo sông đến thị trấn. Một hệ thống phòng thủ ở cửa sông đã không được người Hà Lan dựng lên vì nó bị họ đánh giá là vô dụng trước hoả lực pháo binh được mong đợi từ các con tàu. Vào lúc này, máy bay trinh sát Nhật Bản đã phát hiện hạm đội ABDA, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Karel Doorman, tại Gasperstrasse, hay còn gọi là eo biển Gaspar, trên một hướng bắc. Theo lệnh của Wavell, Doorman đã tập hợp hạm đội, bao gồm các tuần dương hạm Hà Lan "De Ruyter", "Java" và "Tromp", cũng như tuần dương hạm Anh "Exeter" và tuần dương hạm hạng nhẹ của Úc "Hobart" cùng với 9 khu trục hạm và điểm hẹn tại vịnh Lampung, Nam Sumatra. Chúng khởi hành từ đây vào ngày 14 tháng 2 với hy vọng đánh chặn hạm đội đổ bộ Nhật Bản về phía bắc đảo Bangka sau khi lần đầu tiên đi qua eo biển Gaspar. Máy bay Nhật Bản ngoài khơi "Ryūjō", và sau đó là máy bay ném bom đặt căn cứ trên đất liền từ Mã Lai, bắt đầu tấn công hạm đội ABDA vào khoảng giữa trưa ngày hôm sau, và tiếp tục tấn công suốt buổi chiều, điều náy sau đó buộc Doorman phải rút tất cả các tàu của mình về phía nam trước khi nhìn thấy hạm đội đổ bộ Nhật Bản. Hạm đội đổ bộ ở eo biển Bangka cũng đã bị máy bay trinh sát Anh từ P2 phát hiện. Vào sáng sớm, 22 chiếc Hurricanes, 35 chiếc Blenheims và 3 chiếc Hudson, đã cố gắng tấn công các con tàu. Tuy nhiên, chúng đã bị các máy bay Nhật Bản giao chiến trong các trận không chiến dữ dội. Tại P2, tin tức về việc lính dù Nhật Bản đổ bộ tại P1 đã được biết đến. Chỉ huy đã khởi xướng việc chuẩn bị sơ tán khỏi sân bay. Tuy nhiên, sau đó, tin tức đến muộn hơn rằng P1 vẫn chưa được từ bỏ đã dẫn đến việc các máy bay quay trở lại được chuẩn bị vào ban đêm cho một cuộc tấn công mới. Trong sương mù buổi sáng, máy bay chiến đấu Đồng minh đã thực hiện các cuộc tấn công dữ dội chống lại người Nhật vừa bắt đầu hạ cánh tại cửa sông Musi. Máy bay Nhật rút lui ngay sau khi trận chiến bắt đầu, do đó quân Đồng minh đã thành công trong việc bắn trúng trực tiếp vào các tàu vận tải. 20 tàu đổ bộ đã bị đánh chìm, và bên cạnh đó, hàng trăm người Nhật đã thiệt mạng. Kết quả cuối cùng của Đồng minh đạt được là do Hurricanes tấn công tàu đổ bộ không được bảo vệ trên bãi biển phía tây nam Bangka. Trong khi đó, bộ chỉ huy Hà Lan đã gửi lệnh phá huỷ các bãi chứa dầu và bãi cao su. Các phà trên Musi sẽ bị phá huỷ trong một giờ tới để người Nhật không thể sử dụng chúng. Ngoài ra, những người bảo vệ P1 đã bắt đầu rút lui nhanh chóng. Vào đêm ngày 15 tháng 2, các đơn vị Nhật Bản, vốn sống sót sau cuộc không kích tại cửa sông Musi, đã đến Palembang và giải vây cho lính dù đổ bộ lên P1 và nhà máy lọc dầu. Thống chế Archibald Percival Wavell là Tư lệnh tối cao của ABDA. Vào sáng ngày 15 tháng 2, Wavell sắp xếp một cuộc rút lui thường xuyên để đổ bộ binh lính của mình tại Oosthaven, nơi một số tàu nhỏ nằm trong cảng. Có 2,500 thành viên RAF, 1,890 lính bộ binh Anh, 700 quân Hà Lan và khoảng 1,000 thường dân đã được sơ tán bằng 12 tàu vào ngày 17 tháng 2. Tàu hộ tống "Burnie" Úc đã hỗ trợ cho cuộc rút lui và phá huỷ các cơ sở cảng và bể chứa dầu. Một chiếc tàu hơi nước nhỏ hơn nằm neo lâu hơn một chút trong bến cảng để có thể tiếp nhận những người tị nạn đến sau này. Trong thời gian tạm thời, người Nhật đã hoàn toàn chiếm Palembang và đã phá huỷ các nhà máy lọc dầu tại 2 trạm nhỏ hơn. Các tàu vận chuyển nhỏ chạy ngược dòng sông đến Menggala. Tất cả các máy bay tiêm kích Đồng minh còn lại đã cất cánh vào ngày 16 tháng 2. Các nhân viên của các sân bay tiến hành bằng đường biển đến Ấn Độ. Vì Nhật Bản không tiến lên trong thời gian này đến Oosthaven, một lực lượng đặc nhiệm lại lên bờ tại đây vào ngày 20 tháng 2 để cứu phụ tùng máy bay cũng như phá huỷ các cơ sở khác có thể sử dụng được. Ngày 24 tháng 2, quân Nhật đi đến Gelumbang. Các đơn vị Đồng minh còn lại trên đảo Sumatra, chủ yếu từ Quân đội Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL), rút vào các tỉnh giữa và phía bắc của hòn đảo. Người Hà Lan đã lên kế hoạch tái chinh phục Palembang từ đó và trục xuất người Nhật khỏi đảo. Điều này đã bị thất bại bởi một cuộc truy đuổi hung hăng của Nhật Bản từ Palembang với một trung đoàn trinh sát cơ giới khoảng 750 người. Các lực lượng đông hơn và rút lui dưới sự chỉ huy của Thiếu tá C.F. Hazenberg chỉ có khoảng 350 lính chính quy KNIL trong 2 đại đội. Họ cũng bị phân tán kém và chỉ có thể chống lại các hành động trì hoãn, cho phép người Nhật được huấn luyện và trang bị tốt hơn nhanh chóng tiến lên. Sau 3 tuần, quân Nhật cuối cùng đã bị khống chế tại Moearatebo vào ngày 2 tháng 3. Quân tiếp viện Hà Lan từ Padangpandjang đã có thể di chuyển lên khi mưa lớn khiến các con sông không thể đi qua bằng cách chạy 27 ft trên đồng hồ đo lũ của họ. Sự chậm trễ này đã cho các chỉ huy KNIL địa phương thời gian để triển khai thêm các đơn vị từ các tỉnh giữa, do đó ngăn chặn sườn của các đơn vị rút lui bị xoay chuyển. Ngày 3-7 tháng 3 chứng kiến những cuộc giao tranh ác liệt khi các đơn vị Nhật Bản cố gắng vượt sông. Khi cuộc tấn công dừng lại, các điệp viên Hà Lan quay trở lại với báo cáo về nhiều người chết và bị thương. Họ cũng báo cáo rằng trung đoàn bây giờ chỉ có khoảng 200 người. Phấn khởi trước các báo cáo, Thiếu tá Hazenberg quyết định phản công vào đêm 8-9 tháng 3. Vào ngày 7-8, một số thuyền bản địa đã được tập hợp khuất tầm nhìn và chất đầy vật tư và đạn dược trong khi các nhóm tấn công hình thành. Tuy nhiên, vào ngày 8 tháng 3, tin tức về sự đầu hàng của Java đã đến, tất cả các nỗ lực tấn công đã phải bị phá vỡ vì Sumatra phụ thuộc vào việc cung cấp nguồn cung cấp từ Java và nó đã được quyết định thực hiện việc phòng thủ. Tây Sumatra phải được để lại cho Nhật Bản và chỉ một phần nhỏ của phía bắc sẽ được trấn giữ với các lực lượng sẵn có càng lâu càng tốt, cho đến khi một cuộc di tản trên biển có thể được tổ chức. Trong cuộc rút lui, các đơn vị KNIL đã phá huỷ tất cả các sân bay và cơ sở cảng. Họ rút vào các vị trí phòng thủ ở lối vào phía nam của thung lũng Alice (Alas), nơi họ dự định giam giữ quân Nhật càng lâu càng tốt. Nếu các vị trí thất thủ, một cuộc chiến tranh du kích từ các vùng lân cận đã được lên kế hoạch. Thật vậy, nó sẽ trở nên khó khăn vì dân Sumatra không hợp tác với người Hà Lan, với tư cách là một cường quốc thực dân lâu đời, mà ngược lại sẽ phải bội Nhật Bản các vị trí của Hà Lan. Điều này đặc biệt rõ ràng khi người Hà Lan muốn di chuyển khoảng 3,000 người Âu châu và thường dân Kitô giáo trong các trại tị nạn từ bờ biển tỉnh Aceh. Một cuộc nổi dậy của người Hồi giáo nổ ra ngay sau khi bắt đầu cuộc đổ bộ của Nhật Bản đã ngăn chặn hành động này. "Chiến dịch T" bắt đầu vào ngày 28 tháng 2 khi 27 tàu vận tải với 22,000 quân của Vệ binh Hoàng gia khởi hành từ Singapore. Chúng được chia thành 4 đoàn tàu vận tải và được hộ tống bởi 3 tuần dương hạm, 10 khu trục hạm, tàu tuần tra và các đơn vị phòng thủ tàu ngầm. Bởi vì phòng không và phòng thủ bờ biển của đồng minh không tồn tại vào thời điểm đó, họ đã đến phía bắc Sumatra hoàn toàn không bị kiểm soát. Vào ngày 12 tháng 3, Biệt đội Kobayashi chiếm đảo Sabang và sân bay tại Koetaradja mà không gặp phải sự kháng cự. Biệt đội Yoshida đã đổ bộ xuống phía nam Idi với một tiểu đoàn bộ binh duy nhất với lệnh chiếm các mỏ dầu Lantja và Pangkalan Brandan. Sau đó, nó sẽ tiến về phía nam về phía Medan và gây áp lực lên các vị trí của Hà Lan ở đó. Lực lượng chính đổ bộ khoảng 4 dặm về phía tây bắc của Tandjoengtiram. Đó là lái xe dọc theo đường cao tốc Pematang Siantar-Balige-Taroetoeng và cắt đứt bất kỳ lực lượng KNIL nào cố gắng rút khỏi Medan và cũng lái xe về phía bắc đến Medan và chiếm sân bay ở đó. Sumatra thất thủ vào ngày 28 tháng 3 khi Thiếu tướng Hà Lan R. T. Overakker với 2,000 quân đầu hàng gần thị trấn Kutatjane ở Bắc Sumatra. Nhiều tù binh Đồng minh đã bị Nhật Bản buộc phải xây dựng một tuyến đường sắt giữa Pekanbaru và Moera. (Overakker cùng với các sĩ quan khác của KNIL bị giam giữ đã bị bắn vào năm 1945 trước sự thất bại sắp xảy ra của người Nhật.)
Margaret Stuart hay Margaret của Scotland (24 tháng 12 năm 1598 – tháng 3 năm 1600) là con gái của James VI của Scotland và Anna của Đan Mạch. Vào khoảng tháng 3 năm 1600, Margaret qua đời vì một căn bệnh không rõ nguyên nhân và được chôn cất tại Tu viện Holyrood. Ba năm sau, cha của Margaret lên ngôi Quốc vương nước Anh. Margaret được sinh ra lúc 3 giờ sáng ngày Vọng Giáng sinh năm 1598, là con gái thứ hai của James VI của Scotland (sau này cũng là James I của Anh) và Anne của Đan Mạch. Margaret ra đời tại Lâu đài Dalkeith, nơi William Schaw, đã thuê thợ mộc chuẩn cho một nhà trẻ, với một chiếc nôi, một chiếc giường, một chiếc ghế cho nhũ mẫu và bốn chiếc ghế đẩu cho những phu nhân đảm nhiệm việc ru trẻ trên nôi. Việc cách ly Vương hậu Anna tại Dalkeith để chuẩn bị cho việc sanh nở được tiến hành vào ngày 21 tháng 9 năm 1598. Bá tước phu nhân xứ Huntly đã có mặt trong ngày Vương hậu Anna chuyển dạ. Margaret Stewart, Phu nhân xứ Ochiltree, một thị tùng cấp cao chịu trách nhiệm chăm sóc Vương nữ Margaret. Lễ rửa tội tại Cung điện Holyrood. Lễ rửa tội của Margaret bị hoãn lại cho đến ngày 15 tháng 4 năm 1599 vì mùa đông diễn ra trong thời kỳ " Kỷ băng hà nhỏ" đặc biệt lạnh và có những lo lắng rằng vương nữ sẽ bị cảm lạnh và qua đời. James VI đã viết thư mời các quý tộc và lãnh chúa đến dự lễ rửa tội và mong muốn họ đóng góp. Bức thư này đã được gửi tới Robert Bethune xứ Balfour ở Fife:"We greet you well: having appointed the baptism of our dearest daughter to be here at Holyrood House, upon Sunday, the 18th of April next, in such honorable manner as that action craved: we have therefore though good right effectually to request and desire you to send us such offerings and presents against that day, as is best then in season and convenient for that action, as you regard our honor and will merit our special thanks. So, not doubting to find your greater willingness to pleasure us herein, since you are to be invited to take part of you own good cheer, we commit you to God." Mặc dù những bức thư như vậy không phải là bất thường trong những sự kiện này, nhưng ở đây, vì một nhóm các cận thần trong hầu phòng đã thay thế Thủ quỹ Vương thất, Walter Stewart xứ Blantyre, và thay vào đó là George Home, George Elphinstone, Robert Melville Trẻ, và David Murray đã góp tiền cho các buổi lễ kỷ niệm. James đã trả 400 bảng Scots cho trang phục do thợ may Peter Sanderson may cho Margaret và chị gái Elizabeth mặc trong lễ rửa tội. Lễ ăn mừng tại Cung điện Holyrood gồm có ăn uống, khiêu vũ và các trò chơi giải đấu. Các vị khách bao gồm Công tước xứ Lennox, Bá tước xứ Huntly, Bá tước xứ Mar và Đại Chưởng ấn. Sau lễ rửa tội, Margaret và chị gái được giao cho Lãnh chúa và Phu nhân Livingston chăm sóc tại Cung điện Linlithgow. Nhũ mẫu của Margaret là Helena Crichton. Christian Scrimgeour và Marion Hepburn đảm nhận việc rung nôi. Marion Bog giặt đồ vải lanh và Thomas Burnett cung cấp kẹo bơ và đường. Qua đời và chôn cất. Vào tháng 3 năm 1600, Margaret bị ốm nhưng không xác định được là bệnh gì. Alexander Barclay một dược sĩ, và bác sĩ người Đức Martin Schöner được triệu đến để "cung cấp một số loại thuốc, dược phẩm và các vật dụng khác, để Vương nữ Margaret sử dụng trong thời gian bị bệnh" và hỗ trợ vương nữ nhưng vô ích. Cùng tháng đó, Vương nữMargaret qua đời, nhưng ngày chính xác không được ghi lại. Cuối tháng 3, Margaret được ướp xác, cơ thể vương nữ được trang trí bằng vải nỉ, lụa đỏ thẫm và dải băng Firenze để chuẩn bị cho tang lễ. Vương nữ được chuyển từ Linlithgow đến Edinburgh và được an táng riêng tại Tu viện Holyrood.
Chú thuật hồi chiến (mùa 2) Chú thuật hồi chiến là một bộ anime Nhật Bản dựa trên bộ truyện tranh cùng tên, được viết và minh họa bởi Akutami Gege. Bộ anime đầu tiên được công bố trên tạp chí "Weekly Shōnen Jump" số 52 xuất bản vào ngày 25 tháng 11 năm 2019. Câu chuyện trong mùa hai theo chân Gojo Satoru trong quá khứ khi còn là nam sinh cấp hai làm việc cùng với người bạn Geto Suguru ở Tổ chức Chú thuật sư để tiêu diệt các Chú linh. Nhiều năm sau, Gojo cùng với những học trò của cậu phải đối phó với một lượng lớn nguyền hồn đã tấn công khu Shibuya. Mùa 2 được chuyển thể từ chương 65 đến chương 136 trong hai phần mạch truyện trong manga là "Quá khứ của Gojo" và "Biến cố Shibuya". Bộ anime được khởi chiếu vào ngày 6 tháng 7 năm 2023 với 24 tập liên tiếp. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2023, bộ đã được Crunchyroll chính thức cấp phép để phát trực tuyến bên ngoài các quốc gia châu Á và bắt đầu phát trực tuyến dưới dạng lồng tiếng Anh vào ngày 20 tháng 7 năm 2023. Vào ngày 12 tháng 2 năm 2022, mùa hai của bộ anime đã chính thức được công bố. Đội ngũ thiết kế và sản xuất bao gồm có Goshozono Shōta làm vị trí đạo diễn thay cho Sunghoo Park, Koiso Sayaka cùng Hiramatsu Tadashi thiết kế nhân vật và Terui Yoshimasa soạn nhạc cho mùa 2. Ca khúc dạo đầu của bộ anime mang tên là (, ) được biểu diễn bởi Kitani Tatsuya còn Sakiyama Soushi thì biểu diễn ca khúc kết thúc của bộ là (, ).
Mega Man X3, phát hành tại Nhật Bản với tên Rockman X3 (tiếng Nhật: ロックマンX3; Hepburn: "Rokkuman Ekkusu Surī"), là một trò chơi điện tử do Capcom phát hành cho hệ máy Super Nintendo Entertainment System (SNES). Trò chơi được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 12 năm 1995, sau đó là các khu vực Bắc Mỹ và PAL vào năm 1996. Đây là phần game thứ ba trong sê-ri Mega Man X và là phiên bản cuối cùng xuất hiện trên SNES. Mega Man X3 diễn ra trong một tương lai hư cấu, trong đó con người tồn tại những người máy thông minh được gọi là "Reploids". Mang ý thức tự do giống như những người tạo ra chúng, một số Reploids có xu hướng nổi loạn và hoạt động bạo lực, chúng bị gọi là các "Mavericks". Sau hai lần đánh bại tên thủ lĩnh Maverick là Sigma, hai người hùng X và Zero phải chiến đấu với nhân vật phản diện mới, một nhà khoa học Reploid là tiến sĩ Doppler và những chiến binh Maverick dưới trướng ông ta. Mega Man X3 tuân theo truyền thống của cả sê-ri Mega Man gốc và sê-ri Mega Man X như một trò chơi nền tảng hành động tiêu chuẩn. Người chơi vượt qua tám màn chơi cơ bản theo bất kỳ thứ tự nào, trong khi nhận được các sức mạnh khác nhau và lấy vũ khí đặc biệt của trùm cuối mỗi màn. Mega Man X3 là trò chơi đầu tiên trong sê-ri mà Zero trở thành nhân vật có thể chơi được (mặc dù vẫn ở dạng hạn chế) ngoài X. Giống như phần trước là Mega Man X2, X3 có chip "Cx4" để cho phép một số vectơ 3D hoạt động hạn chế trong đồ họa và hiệu ứng thêm rõ nét. Phiên bản 32-bit của Mega Man X3 đã được phát hành trên PlayStation, Sega Saturn và Windows ở nhiều quốc gia khác nhau. Phiên bản này được đưa vào Bộ sưu tập Mega Man X tại Bắc Mỹ vào năm 2006. Một phiên bản Multiplayer tương tác 3DO đã được lên kế hoạch, nhưng bị hủy bỏ do lỗi của bảng điều khiển. Trò chơi cũng được chuyển sang Mobile Phone tại Nhật Bản vào năm 2010. Sự đón nhận của giới phê bình dành cho Mega Man X3 là rất tích cực vì nó bao gồm các bản nâng cấp mới cho các khả năng của X cũng như sự ra mắt của Zero với tư cách là một nhân vật có thể chơi được. Tuy nhiên, trò chơi, đặc biệt là phiên bản 32 bit, đã nhận nhiều lời chỉ trích khác nhau từ những người đánh giá vì thiếu cải tiến cho loạt game. Phiên bản SNES của Mega Man X3 đã được phát hành trên Wii U Virtual Console trong năm 2014. Phiên bản này được phát hành lại cho Microsoft Windows, PlayStation 4, Xbox One và Nintendo Switch như một phần của Mega Man X Legacy Collection được phát hành trên toàn thế giới vào năm 2018. Câu chuyện của Mega Man X3 lấy bối cảnh vào thế kỷ 22 (những năm "21XX"), sau sự kiện trong Mega Man X2, con người cùng tồn tại với những người máy thông minh được gọi là "Reploids". Do ý chí tự do của họ, một số Reploid có xu hướng hoạt động tội phạm và được gọi là "Maverick". Tiến sĩ Cain, người phát minh ra Reploids, thành lập một đội đặc nhiệm quân sự được gọi là "Maverick Hunter" để ngăn chặn hoạt động của các Maverick. Ngay cả sau hai lần thành công của các thợ săn X và Zero để ngăn chặn một thủ lĩnh Maverick tên là Sigma, kẻ đang cố gắng tiêu diệt loài người, hoạt động của Maverick dường như vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, mối đe dọa đến từ Mavericks sau đó đã bị vô hiệu hóa nhờ công nghệ của một nhà khoa học Reploid là tiến sĩ Doppler, điều này ngăn cản các Mavericks nổi loạn. Các Reploid được điều trị bởi công nghệ mới đã xây dựng một khu tái định cư mang tên nhà khoa học là "Thị trấn Dopple". Tưởng chừng như mọi thứ đều đã ổn định cho đến khi các Reploid trong thị trấn đột nhiên tái phát bệnh "Maverick" và một lần nữa tiến hành nổi loạn, thậm chí còn đi xa đến mức tấn công trụ sở của Maverick Hunter. Không ai khác ngoài chính tiến sĩ Doppler phải chịu trách nhiệm cho việc này. X và Zero được cử đi để ngăn chặn mối đe dọa mới. Sau khi Hunter Base được bảo đảm an toàn, X và Zero tiến đến Thị trấn Dopple để thực hiện nhiệm vụ. Tại đây, họ phải chiến đấu với tám thủ lĩnh Mavericks, các chiến binh trung thành của Doppler. Cùng lúc, tiến sĩ Doppler gửi đội Nightmare Police đến để tiêu diệt X. Một kẻ thù cũ là Vile cũng xuất hiện nhằm trả thù các thợ săn. Sau khi triệt hạ cả tám tên trùm, X đã đánh bại Nightmare Police, đồng thời thoát khỏi cuộc phục kích do Vile lên kế hoạch. Sau khi phân tích chip bộ nhớ của tám Maverick bị đánh bại, tiến sĩ Cain phát hiện Doppler đang thu thập thông số từ các mẫu Reploid mới nhất để tạo ra một cơ thể chiến đấu mới cho ai đó. Tiến sĩ Cain cũng xác định chính xác vị trí Trụ sở thí nghiệm của tiến sĩ Doppler, được đặt dưới lòng đất tại địa điểm D-Point. X và Zero đã thâm nhập vào phòng thí nghiệm đó để chấm dứt cuộc nổi loạn. Tại trụ sở, X giáp mặt và đánh bại hoàn toàn tiến sĩ Doppler, ông ta sau đó giải thích rằng Sigma còn sống dưới dạng virus máy tính và Doppler đã tạo ra một cơ thể mới cho Sigma. X tìm đến tận nơi Sigma đang cư ngụ và đánh bại hắn, sau đó virus Sigma ở dạng nguyên bản đuổi theo X nhằm lây nhiễm và chiếm hữu anh ta. Khi X thấy mình đi vào đường cùng, một trong hai điều có thể xảy ra. Ở một trong hai phần kết của trò chơi, Zero lấy phần mềm chống virus thực sự của Doppler và tải nó lên màn hình, anh ta lao vào cứu X đúng lúc và khiến Sigma phát nổ, phá hủy phòng thí nghiệm trong khi họ rời đi. Ở một kết thúc khác, nếu Zero bị thương trong trò chơi, Doppler sẽ sử dụng cơ thể của chính mình để tiêu diệt virus Sigma và hy sinh bản thân để cứu sống các thợ săn. Phát triển và ra mắt. Vào thời điểm bắt đầu sản xuất, Inafune Keiji, người đóng góp chính cho loạt game Mega Man, đã chuyển từ vai trò thiết kế sang đạo diễn, nhà sản xuất và biên kịch. Bắt đầu với Mega Man X2, Inafune muốn sử dụng vi-rút máy tính làm cơ sở cốt truyện, điều mà anh ta coi là một ý tưởng thú vị hơn một nhân vật phản diện hữu hình. Các nhiệm vụ khác của Inafune bao gồm kinh doanh trò chơi thành đồ chơi và thẻ giao dịch. Mặc dù kịch bản, thiết kế nhân vật và tác phẩm nghệ thuật của trò chơi được thực hiện tại Capcom, nhưng phần lớn thiết kế trò chơi thực tế đã được ký hợp đồng phụ với Minakuchi Engineering, người trước đây đã phát triển hầu hết các trò chơi Mega Man trên Game Boy cùng với trò chơi tổng hợp "Mega Man: The Wily War" cho Sega Mega Drive. Inafune nhớ lại đã trải qua "sự rối loạn tâm lý" khi cho phép "người ngoài" xử lý quá trình phát triển trò chơi. Các thiết kế minh họa duy nhất của Inafune cho trò chơi là các nhân vật X, Zero và Vile. Inafune thừa nhận là rất "nắm bản quyền" Zero, nhân vật mà anh đã quan tâm từ khi tạo ra trong Mega Man X đầu tiên. Tất cả các thiết kế của các nhân vật phụ khác, tám tên trùm và những kẻ địch nhỏ của trò chơi đều được phân công cho các nhà thiết kế Kaji Hayato, Yoshikawa Tatsuya, Komaki Shinsuke và Itou Kazushi. Mega Man X3 có đồ họa tương tự như hai phần tiền nhiệm và thậm chí còn sử dụng SNES Cx4 từ Mega Man X2. Chip hộp xử lý tín hiệu kỹ thuật số này cho phép tạo ra các hiệu ứng đồ họa 3D cơ bản như xoay, phóng to và thu nhỏ các đối tượng khung dây. Tại Nhật Bản, trò chơi được phát hành vào ngày 1 tháng 12 năm 1995. Ở châu Âu, nó được phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 1996, và ngày 4 tháng 1 năm 1996 tại khu vực Bắc Mỹ. Một cổng chơi của Mega Man X3 được phát hành trên Sega Saturn và PlayStation ở Nhật Bản vào ngày 26 tháng 4 năm 1996 và ở Châu Âu vào ngày 12 tháng 3 năm 1997. Capcom tuyên bố rằng họ đã cấp phép các phiên bản này cho một công ty Hoa Kỳ để phát hành ở Bắc Mỹ, nhưng cuối cùng chúng không bao giờ được phát hành trong khu vực. Một cổng Windows của phiên bản 32-bit này đã được phát hành tại Nhật Bản vào năm 1997 và ở Bắc Mỹ và Châu Âu vào năm 1998. Các phiên bản cổng có thêm các đoạn cắt cảnh video chuyển động đầy đủ hoạt hình, các bản nhạc phối được sắp xếp lại và các hiệu ứng âm thanh hoàn toàn khác so với phiên bản gốc trên SNES. Một cổng Multiplayer tương tác 3DO đã được công bố tại Nhật Bản vào năm 1996, nhưng không được phát hành. Phiên bản PlayStation Nhật Bản của Mega Man X3 cuối cùng đã được phát hành lại như một phần của dòng tựa game giá rẻ "The Best for Family" của Sony. Phiên bản PlayStation của Mega Man X3 được bao gồm trong Bộ sưu tập Mega Man X, được phát hành cho PlayStation 2 và Nintendo GameCube ở Bắc Mỹ vào đầu năm 2006. Mega Man X3 được phát hành trên điện thoại di động tương thích với EZweb tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 7 năm 2010. Phiên bản SNES của Mega Man X3 được phát hành trên Wii U Virtual Console ở Bắc Mỹ vào ngày 28 tháng 8 năm 2014, tại Nhật Bản vào ngày 8 tháng 10 năm 2014 và các khu vực PAL vào ngày 6 tháng 11 năm 2014. Nó được phát hành lại cho Microsoft Windows, PlayStation 4, Xbox One và Nintendo Switch như một phần của Mega Man X Legacy Collection được phát hành vào ngày 24 tháng 7 năm 2018 trên toàn thế giới và ngày 26 tháng 7 năm 2018 tại Nhật Bản. Nhạc nền của trò chơi được sáng tác bởi độc giả Yamashita Kinuyo. Mặc dù Minakuchi Engineering được ghi nhận trong album nhạc phim của trò chơi, Yamashita đã làm việc cho họ với tư cách tự do chứ không phải là nhân viên thực sự của công ty. Các phiên bản 32-bit của Nhật Bản có hai bài hát J-pop vocal của Shibuya Kotono: ca khúc mở đầu "One More Time" và ca khúc kết thúc "I'm Believer". Cả hai phiên bản SNES và 32-bit của bản nhạc đều có trong đĩa thứ hai của Capcom Music Generation: Rockman X1 ~ X6 soundtrack do Suleputer phát hành vào năm 2003. Báo chí đón nhận Mega Man X3 hầu như là tích cực. Các nhà phê bình ca ngợi lối chơi, đồ họa, khả năng điều khiển và tùy chọn chơi với nhân vật Zero. Mike Weigand của GamePro nói chung hài lòng với trò chơi và mặc dù anh ấy thừa nhận rằng nó mang lại một chút mới mẻ cho nhượng quyền thương mại, nhưng anh ấy thích độ khó tăng lên, điều khiển chặt chẽ và các hiệu ứng đặc biệt mới. Weigand tóm tắt, "Đó có thể là thói quen đối với trải nghiệm của những người chơi, nhưng bất kỳ ai chưa chơi trò chơi 16-bit trong sê-ri sẽ khám phá ra phép màu trong Mega Man." Nhà phê bình Dave Halverson của GameFan cũng ấn tượng không kém về "tốc độ, sự đa dạng, FX đặc biệt và khả năng tăng sức mạnh", gọi đây là "phần cuối 16-bit phù hợp cho một loạt phim tuyệt vời".IGN cũng khẳng định tương tự Mega Man X3 là "sự khởi đầu vững chắc cho kỷ nguyên 16 bit", đặt tên nó là SNES tốt thứ 67 mọi thời đại trong danh sách năm 2011. Hai trong số những người đánh giá của Electronic Gaming Monthly coi trò chơi là một cải tiến so với X2 với các cấp độ lớn hơn và số lượng bí mật khổng lồ, trong khi hai người còn lại tập trung vào sự tương đồng rõ ràng của nó với các trò chơi trước đó trong sê-ri. Một số cảm thấy Mega Man X3 quá giống với các trò chơi Mega Man trước đây. Jonathan Davies của Super Play nhận thấy trò chơi quá giống với Mega Man X2, đặt câu hỏi liệu "Capcom có đang kiếm tiền từ những người hâm mộ trung thành của họ hay không?". Tất cả trừ một trong bốn người đánh giá cho Electronic Gaming Monthly phàn nàn rằng trò chơi này quá giống với các trò chơi Mega Man khác, với một người viết: "Tôi phát ngán với Mega Man, đến nỗi tôi có những giấc mơ vào ban đêm về người anh hùng mặc áo xanh xuất hiện đến nhà tôi và ép tôi chơi thêm những tựa game dư thừa của anh ấy. Bản phát hành mới nhất này cũng giống như tất cả các bản còn lại." Tương tự như vậy, nhà văn Jeremy Parish của 1UP.com nghĩ rằng trò chơi có chút khác biệt so với các bản phát hành trước đây, phàn nàn rằng nó "giống nhau hơn, nhưng với triết lý thiết kế bồn rửa nhà bếp khiến mọi cấp độ đều giống như một mớ hỗn độn được thiết kế tồi tệ." Các biên tập viên của GameSpot Christian Nutt và Justin Speer đặc biệt cảm thấy số lần tăng sức mạnh và tiền thưởng đã làm lu mờ lối chơi, hầu như không được hưởng lợi từ việc bổ sung Zero như một nhân vật có thể chơi hạn chế. Các phiên bản cổng của trò chơi phải chịu nhiều chỉ trích tiêu cực hơn so với phiên bản SNES của chúng. Các thiết kế cấp độ và lối chơi tổng thể đã bị chỉ trích nặng nề bởi Nathan Smith, cộng tác viên của Tạp chí Trò chơi Máy tính, người đã đánh giá bản phát hành Windows muộn của trò chơi. "Đóng gói nhiều quy ước về bảng điều khiển sáo rỗng hơn mức bạn có thể lắc một gamepad," Smith cho biết, "B"ạn sẽ cần sự kiên nhẫn của Job, sự khéo léo của một đứa trẻ chín tuổi và trí thông minh của Forrest Gump để thực sự thích trò chơi này."" "S"aturn Power khiến Mega Man X3 trở thành tựa game Saturn tệ nhất trong thư viện trò chơi có sẵn của bảng điều khiển. Matt Yeo của Tạp chí Sega Saturn đã có những nhận xét công bằng về Mega Man X3 với tư cách là một trò chơi SNES, nhưng lại gắn nhãn phiên bản Saturn của Vương quốc Anh là "hơi lố bịch" do thiếu sự đổi mới và chất lượng "đáng ngờ" của các đoạn cắt cảnh anime. Halverson thích sử dụng âm thanh sách đỏ trong quá trình chuyển đổi 32 bit mặc dù âm nhạc không đặc biệt đáng nhớ. Cả Yeo và Halverson đều thất vọng khi sử dụng đường viền hộp thư trong phiên bản Saturn, giúp giảm kích thước màn hình theo chiều ngang. Vào năm 2018, Complex đã liệt kê trò chơi ở vị trí thứ 73 trong danh sách "Trò chơi Super Nintendo hay nhất mọi thời đại". Phiên bản Mega Man X3 ở Bắc Mỹ và Châu Âu của Mega Man X3 rất hiếm do số lượng hạn chế và thực tế là chúng đã được phát hành trong thời kỳ hỗ trợ bảng điều khiển đang giảm dần. Bất chấp các đơn đặt hàng bán lẻ cao hơn dự kiến cho các sản phẩm SNES của họ, Capcom đã giảm việc vận chuyển các tựa game 16-bit trong quý phát hành mùa thu năm 1995 do cung và cầu. Để trò chơi có cơ hội kiếm được lợi nhuận bất chấp thời gian sản xuất hạn chế, Capcom đã phải định giá nó cao hơn bất kỳ tựa game Mega Man nào trước đó. Trong thời gian gần đây, các hộp chứa Mega Man X3 đã thu về một khoản tiền rất lớn trên các trang web đấu giá và sưu tập như eBay. Bất chấp sự đổi mới của trò chơi về việc đưa Zero vào vai một nhân vật chơi được, nhóm sản xuất lưu ý rằng có một chút khác biệt giữa anh ta và X, dẫn đến việc thiết kế lại trong phần tiếp theo, Mega Man X4, với Zero là một kiếm sĩ chứ không phải là một xạ thủ như X, một nhân vật chính khác.
Thân vương quốc Kiev Nội Thân vương quốc Kiev (, , ) là một nhà nước Đông Slav thời Trung cổ, nằm tại khu vực miền trung của Ukraina ngày nay, xung quanh thành phố Kiev (Kyiv). Thân vương quốc được hình thành trong quá trình phân chia chính trị Kiev Rus' vào đầu thế kỷ 12. Theo kết quả của quá trình này, quyền cai trị hữu hiệu của các Đại công tước Kiev dần dần bị suy giảm còn các vùng trung tâm của Kiev Rus' (xung quanh thủ đô Kiev), do đó hình thành một lãnh địa thân vương bị thu hẹp, được gọi là nội Thân vương quốc Kiev. Nó tồn tại trong vai trò một chính thể cho đến giữa thế kỷ 14. Nội Thân vương quốc Kiev chiếm giữ các vùng đất trên cả hai bờ sông Dnepr (Dnipro), giáp với Thân vương quốc Polotsk ở phía tây bắc, Thân vương quốc Chernigov ở phía đông bắc, Ba Lan ở phía tây, Thân vương quốc Halych ở phía tây-nam và bang liên bộ lạc Cumania ở phía đông nam. Về sau, Kiev sẽ giáp với Thân vương quốc Turov-Pinsk ly khai ở phía bắc và Vương quốc Galicia–Volyn hợp nhất ở phía tây. Khu vực Kiev Rus' bị tan rã vào đầu thế kỷ 12 và một số nhà nước kế thừa bán tự trị đã nổi lên. Kiev vẫn là trung tâm của quốc gia và là trung tâm của đời sống tinh thần với tòa đô thành của Giáo hội Chính thống giáo Rus' nằm ở Kiev. Sau cái chết của Mstislav I của Kiev vào năm 1132, các nhà nước bán tự trị trên thực tế đã độc lập và do đó dẫn đến sự xuất hiện của Thân vương quốc Kiev với tư cách là một nhà nước riêng biệt. Tầm quan trọng của Thân vương quốc Kiev bắt đầu suy giảm. Trong những năm 1150–1180, nhiều thành phố của nó như Vyshhorod, Kaniv và Belgorod đã mưu cầu độc lập với tư cách là các thân vương quốc riêng lẻ. Sự xuất hiện của các thân vương quốc Vladimir-Suzdal và Galicia-Volyn dẫn đến việc chuyển đổi trung tâm chính trị và văn hóa của Rus', cũng như dòng di cư của công dân đến các thành phố như Vladimir và Halych. Sự kiện Mông Cổ xâm lược Rus đã khiến Thân vương quốc Kiev rơi vào tình trạng đổ nát nghiêm trọng. Sau cuộc xâm lược, nhà nước nằm dưới quyền thống trị chính thức của Đại vương công Vladimir-Suzdal là Alexander Nevsky, là một chư hầu của người Mông Cổ. Sau trận sông Irpen năm 1321, Kiev là đối tượng khao khát của Đại công tước Litva Gediminas, và khu vực được hợp nhất vào Đại công quốc Litva năm 1362. Thân vương quốc chính thức tồn tại như một thực thể riêng biệt cho đến năm 1471, khi được chuyển đổi thành tỉnh Kiev Sau khi Mông Cổ xâm chiếm Rus'. Thân vương quốc không có người thống trị của riêng mình và do các phó vương (voivoda) quản lý. Olgovichi, Thân vương Putivl. Thân vương quốc được cai trị bởi các thân vương dòng dõi Olshanski và Olgovichi. Đại công quốc Litva. Thân vương quốc được cai trị bởi các thân vương dòng dõi Olshanski và Olelkovichi.
Trưng cầu dân ý Okinawa 1996 Một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức tại tỉnh Okinawa vào ngày 8 tháng 9 năm 1996 về sự hiện diện của Quân đội Hoa Kỳ tại Nhật Bản tại tỉnh này. Cuộc bỏ phiếu kết thúc với kết quả tán thành cắt giảm tình trạng hiện diện quân sự của Hoa Kỳ. Tuy vậy, kết quả không có ảnh hưởng đối với chính quyền trung ương và tình trạng quân sự vẫn được duy trì. Bối cảnh và kết quả trưng cầu dân ý. Cuộc trưng cầu dân ý đặt ra câu hỏi: "日米地位協定の見直し及び基地の整理縮小に関する県民投票条例(基地対策室)" (tạm dịch: "Rà soát Thỏa thuận Tình trạng lực lượng Hoa Kỳ-Nhật Bản và Sắc lệnh trưng cầu dân ý cấp tỉnh về hợp nhất và thu hẹp căn cứ (Văn phòng biện pháp đối phó căn cứ)"), cùng với hai lựa chọn: "賛成" (sansei, "tán thành") và 反対 (hantai, "phản đối"). Cuộc trưng cầu dân ý diễn ra khi thỏa thuận đóng quân đã hết hạn nhưng quân đội Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đóng quân trong tỉnh. Tội ác của Quân đội Hoa Kỳ trong thời gian chiếm đóng trên đảo, bao gồm cả vụ hãm hiếp và đánh đập một bé gái 12 tuổi bởi ba binh sĩ vào năm trước, được coi là góp phần vào sự phản đối mạnh mẽ đối với việc hiện diện quân sự. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 59,52%, với 89% cử tri trong số đấy (đại diện cho 53% cử tri đi bỏ phiếu) đồng ý với việc xem xét Thỏa thuận Tình trạng lực lượng giữa Nhật Bản-Hoa Kỳ và giảm các căn cứ của Mỹ trong tỉnh. Tuy vậy, nhiều người không đi bỏ phiếu. Họ cho rằng việc cắt giảm quân sự sẽ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, bởi dù các thành phố phải chịu tiếng ồn và nguy hiểm từ chúng nhiều nhất, nhưng cũng phụ thuộc kinh tế nhiều nhất vào chúng. Một số người khác thì cho biết họ không bỏ phiếu vì câu hỏi trên lá phiếu mơ hồ và diễn đạt kém. Sau cuộc trưng cầu dân ý, Thống đốc Okinawa Ota Masahide nói rằng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý nên được thể hiện rõ ràng đối với "những người trong Quốc hội Hoa Kỳ, những người vẫn đang cảm thấy như họ sở hữu Okinawa". Tuy nhiên, kết quả của cuộc bỏ phiếu khó ảnh hưởng đến tình hình hiện tại, bởi việc hiện diện là do chính phủ Hoa Kỳ và Nhật Bản quyết định, không phải do chính quyền địa phương. Vì vậy, bất chấp chiến thắng của các cử tri phản đối chiếm đóng quân sự trong cuộc trưng cầu dân ý, Thống đốc Ota vẫn cho phép tiếp tục mở rộng căn cứ do áp lực từ chính quyền trung ương Nhật Bản. Dù không thành công, cuộc trưng cầu dân ý đã nâng cao nhận thức cả trong nước và quốc tế về thực trạng vấn đề hiện diện quân sự ở Okinawa, nơi tập trung 75% căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản vào thời điểm đó. Đây cũng là cuộc trưng cầu dân ý cấp tỉnh đầu tiên tại Nhật Bản.
Giấy chào mời (đại học) Giấy chào mời () của trường đại học hoặc trường học là một tài liệu được gửi đến các sinh viên tiềm năng (tương lai) để thu hút họ nộp đơn xin nhập học. Giấy chào mời thường chứa thông tin về cơ sở giáo dục và các khóa học có sẵn, cũng như hướng dẫn về cách đăng ký và lợi ích của việc nhập học tại đó. Nhiều trường đại học có giấy chào mời riêng cho từng khóa học hoặc nhóm khóa học mà họ cung cấp. Hầu hết các trường đại học đều có cả phiên bản giấy chào mời trực tuyến và trên giấy, và chúng được chia thành Giấy chào mời đại học và Giấy chào mời sau đại học. Giấy chào mời cũng có thể được gửi nếu được yêu cầu. Bản cáo bạch thường chứa thông tin về các khóa học cá nhân, nhân viên (giáo sư), cựu sinh viên đáng chú ý, khuôn viên trường, các cơ sở đặc biệt (như phòng biểu diễn cho các trường âm nhạc hoặc sân khấu diễn xuất cho các trường kịch nghệ), làm thế nào để liên lạc với trường đại học và làm thế nào để đến trường. Mặc dù ban đầu là một từ trong tiếng Latinh, nhưng trong tiếng Anh, dạng số nhiều của nó là "prospectuses". Số nhiều trong tiếng Latinh của nó là "prospectūs".
Ông là em trai của kiến trúc sư Secundino Zuazo. Ông sinh ra ở Bilbao, và bắt đầu chơi bóng đá vào năm 1908 tại câu lạc bộ quê hương Athletic Club. Zuazo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp câu lạc bộ giành chức vô địch Giải vô địch Khu vực phía Bắc vào năm 1914 và ba Cúp Nhà vua Tây Ban Nha vào năm 1910, 1911 và 1914. Ông là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất từng chơi tại Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, là cầu thủ ghi bàn hàng đầu với tổng cộng 5 bàn thắng, bao gồm cả hai trong chiến thắng 2-1 trước España FC trong trận chung kết. Ông cũng được ra sân ngay từ đầu trong trận đấu đầu tiên được chơi tại sân vận động San Mamés vào ngày 21 tháng 8 năm 1913, trong trận giao hữu với Racing de Irun, khai bóng và sau đó hỗ trợ Pichichi ghi bàn thắng đầu tiên được ghi trên sân vận động. Vào ngày 18 tháng 1 năm 1914, Zuazo trở thành cầu thủ thứ hai trong lịch sử lập hat-trick ở San Mamés trong trận đấu Giải vô địch khu vực đánh bại Sporting de Irún, đạt được kỳ tích chỉ vài phút sau khi cầu thủ vừa ra mắt Félix Zubizarreta ghi năm bàn trong trận đấu đó. Giải vô địch Khu vực phía Bắc: Cúp Nhà vua Tây Ban Nha:
Truyền thông học (tiếng Anh: Media studies) là một lĩnh vực học thuật và nghiên cứu liên quan đến nội dung, lịch sử và tác dụng của các phương tiện truyền thông khác nhau, đặc biệt là truyền thông đại chúng. Truyền thông học có thể dựa trên các lĩnh vực của cả khoa học xã hội và nhân văn, nhưng chủ yếu là từ các ngành cốt lõi của nó về truyền thông đại chúng, truyền thông, khoa học truyền thông và nghiên cứu truyền thông. Các nhà nghiên cứu cũng có thể phát triển và sử dụng các lý thuyết và phương pháp từ các ngành bao gồm văn hóa học, tu từ học (bao gồm hùng biện kỹ thuật số), triết học, lý luận văn học, tâm lý học, chính trị học, kinh tế chính trị, kinh tế học, xã hội học, nhân loại học, lý thuyết xã hội, lịch sử và phê bình nghệ thuật, lý thuyết điện ảnh và lý thuyết thông tin. Cựu linh mục và nhà giáo dục người Mỹ, John Culkin, là một trong những người ủng hộ sớm nhất việc thực hiện chương trình giảng dạy truyền thông học trong trường học. Ông tin rằng học sinh phải có khả năng xem xét kỹ lưỡng các phương tiện thông tin đại chúng và đánh giá cao việc áp dụng các kỹ thuật truyền thông hiện đại trong hệ thống giáo dục. Năm 1975, Culkin công bố chương trình truyền thông học đầu tiên ở Mỹ, và kể từ đó đã có hơn 2.000 sinh viên tốt nghiệp. Culkin cũng chịu trách nhiệm đưa đồng nghiệp của mình và cũng là học giả truyền thông, Marshall McLuhan đến Đại học Fordham. Sau đó họ thành lập Trung tâm Hiểu biết Truyền thông, về sau trở thành chương trình New School. Cả hai nhà giáo dục đều được công nhận là những người tiên phong trong lĩnh vực này, được ghi nhận là người mở đường cho việc giảng dạy truyền thông học trong giáo dục.
Hye-soo bắt đầu sự nghiệp của mình trong một quảng cáo cho Nestlé Milo vào năm 1985. Cô ra mắt lần đầu với tư cách là nữ diễn viên chính trong bộ phim "Kambo" (1986), bộ phim mà cô đã nhận được giải thưởng đầu tiên là Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" năm 1987. Cô là người trẻ nhất đoạt "Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh" cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong "Mối tình đầu" (1993). Vai diễn thành công nhất về mặt thương mại của cô là "Madam Jeong" trong bộ phim tội phạm "Canh bạc nghiệt ngã" (2006), bộ phim cũng đã giúp cô giành được "Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh" lần thứ ba cho hạng mục nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Bên cạnh vai diễn trong các bộ phim điện ảnh, Hye-soo đã xuất hiện trong nhiều bộ phim truyền hình thành công, bao gồm "Đối tác" (1994-1998), "Thành thật với tình yêu" (1999), "Jang Hee Bin" (2002), "Nữ hoàng công sở" (2013), "Signal" (2016), "Hyena" (2020), "Toà án vị thành niên" (2022) và "Dưới bóng trung điện" (2022). Tiểu sử và giáo dục. Kim Hye-soo sinh ngày 5 tháng 9 năm 1970 tại Busan, quận Dongnae, là con thứ hai trong gia đình có 5 người con. Cô chuyển đến trường tiểu học Seoul Midong khi đang học lớp ba tại trường tiểu học quốc gia Busan do công việc của cha cô. Khi còn học tiểu học, cô là thành viên của đội biểu diễn Taekwondo trẻ em quốc gia, vào tháng 4 năm 1982, cô là người tặng hoa cho Juan Antonio Samaranch, Chủ tịch thứ bảy của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC). 1985–1991: Khởi nghiệp và màn chào sân điện ảnh. Năm 1985, Hye-soo xuất hiện trong quảng cáo cho Nestlé Milo và video âm nhạc K-pop, bài hát chủ đề "Empty In The Air" của Cho Yong-pil. Năm 1986, Hye-soo ra mắt bộ phim "Kambo" khi cô còn là học sinh trung học năm nhất. Cô cũng giành giải nữ diễn viên mới xuất sắc nhất cho "Kambo" tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 23. Hye-soo tiếp tục đóng các vai chính trong phim truyền hình "Samogok" (1987), "Sun Shim-yi" (1988) và "Senoya" (1989). Cô đóng chung với Roh Joo-hyun trong "When The Flowers Bloom And The Birds Cry" (1990). Năm 1991, cô đảm nhận vai chính trong "Lost Love". 1992–1998: Cột mốc mới ở lĩnh vực điện ảnh và truyền hình. Hye-soo được mệnh danh là "Ngôi sao bảng bút chì" của những năm 1980 do sự phổ biến của những chiếc bảng bút chì có in hình cô. Cô cũng được mệnh danh là một phần của "Troika của những năm 1990" tại Hàn Quốc cùng với những người cùng thời với cô là Kim Hee-sun và Shim Eun-ha vì sự nổi tiếng trên toàn quốc của họ. Năm 1993, Hye-soo đảm nhận vai chính trong phim "First Love" và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình nhờ vai diễn cô gái ngây thơ trong sáng, đồng thời cô cũng giành được "Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh" cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và mang về cho cô danh hiệu "Tình đầu quốc dân" mặc dù bộ phim không khả quan về doanh thu phòng vé.. 1999–2004: Hoạt động nghệ thuật bền bỉ. Trong hai thập kỷ, cô đã tích lũy được một bộ phim đáng kể với các vai chính và phụ, đáng chú ý là trong bộ phim truyền hình "Thành thật với tình yêu" cùng Bae Yong-joon và "Revenge and Passion" cùng Ahn Jae-wook, cũng như bộ phim "Tie a Yellow Ribbon" (1998). Trong những năm 2000, Hye-soo tập trung nhiều hơn vào sự nghiệp điện ảnh so với truyền hình, góp mặt trong nhiều bộ phim như "Kick the Moon", "YMCA Baseball Team" và "Three". Vào thời điểm này, cô xây dựng lại hình ảnh của mình với vai diễn một người phụ nữ quyến rũ và tự tin trong "Hypnotized" (2004). 2005–2011: Sự thăng hoa trong sự nghiệp. Các vai diễn của Hye-soo trong "The Red Shoes" (2005) và "Canh bạc nghiệt ngã" (2006) giúp cô nhận được nhiều sự công nhận và đưa cô vào danh sách sao hạng A của ngành điện ảnh Hàn Quốc. Sau đó, cô tham gia nhiều vai diễn điện ảnh khác nhau, chẳng hạn như một bà nội trợ bí mật hẹn hò với một sinh viên đại học trong "A Good Day to Have an Affair"; một cô gái điếm trong "Eleventh Mom" và một ca sĩ quán bar trong "Modern Boy" (2008). Năm 2010, cô ấy hợp tác với Han Suk-kyu trong phim "Villain and Widow", đây được xem là một trong những cột mốc nổi bật trong sự nghiệp diễn xuất của cô. Năm 2009, Hye-soo trở lại địa hạt truyền hình với "Style", lấy bối cảnh ngành công nghiệp thời trang. Cô tiếp tục tham gia bộ phim tình cảm bí ẩn "Home Sweet Home" vào năm 2010. Là người thường xuyên chủ trì tại các lễ trao giải điện ảnh và chương trình truyền hình tạp kỹ, Hye-soo đã ký hợp đồng với tư cách là người dẫn chương trình thời sự "W" của đài MBC. Hye-soo, một người say mê xem phim tài liệu, được nhóm sản xuất nhận thấy là người phù hợp với chương trình khi chương trình bắt đầu tập trung nhiều hơn vào các vấn đề môi trường và toàn cầu. Chương trình "W with Kim Hye-soo" được công chiếu vào tháng 7 năm 2010, nhưng bị hủy bỏ vào tháng 10 năm 2010 do Hye-soo chỉ trích quyết định của nhà đài. 2012–2015: Tiếp tục chinh phục đỉnh cao mới. Năm 2012, cô tái hợp với đạo diễn Choi Dong-hoon của "Canh bạc nghiệt ngã" trong "Đội quân siêu trộm". Lấy bối cảnh giữa các sòng bạc ở Ma Cao, bộ phim kể về vụ cướp này đã trở thành một trong những bộ phim có doanh thu cao nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc. Hye-soo đã giành giải nữ diễn viên xuất sắc hàng đầu tại Giải thưởng Văn hóa và Giải trí Hàn Quốc lần thứ 20 Kế đó là vai phụ trong bộ phim lịch sử "The Face Reader" của Han Jae-rim. Năm 2013, cô đóng vai chính trong bộ phim hài lãng mạn "Nữ hoàng công sở", chuyển thể từ bộ phim truyền hình Nhật Bản năm 2007 "Haken no Hinkaku" ("Pride of the Temp"). Tiếp theo, Hye-soo đóng vai chính trong "Phố người Hoa" vào năm 2015, một bộ phim noir hiếm hoi do phụ nữ đứng đầu. Cô ấy nói rằng cô ấy không ngại trông kém hấp dẫn cho vai diễn một trùm tội phạm tàn nhẫn, với các nghệ sĩ trang điểm thêm những vết đồi mồi trên khuôn mặt, những hình xâm trên bụng và hông của cô ấy bằng những bộ phận giả. Hye-soo cho biết cô cảm thấy "đau đầu" khi quyết định có nhận vai hay không, nhưng một khi đã nhận vai, cô cảm thấy "hào hứng trào dâng" mỗi khi bước lên trường quay và coi bộ phim là "một thử thách mới khiến (cô) động lòng". cuộc đua và (làm cô ấy sợ hãi) cùng một lúc." 2016–nay: Trở lại và lợi hại hơn xưa. Năm 2016, Hye-soo trở lại màn ảnh nhỏ với "Signal" của đài cáp tvN, thành công cả về mặt phê bình lẫn thương mại. Hye-soo trong vai Cha Soo-hyun, hành động với Lee Je-hoon và Cho Jin-woong để trở thành nữ cảnh sát đầu tiên trong Lực lượng Đặc nhiệm, sau này trở thành thủ lĩnh của đội điều tra án lạnh Seoul. Cô đã giành giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 52" và giải thưởng tvN10 cho màn thể hiện xuất sắc của mì="Template:Quote_box/" / "Đầu tiên, tôi ghi ra tất cả những gì đập vào mắt mình. Với nghệ sĩ, tôi không phải là giám đốc casting nhưng tôi nhớ và giới thiệu khi có tác phẩm hay, nhân vật phù hợp với diễn viên. đã ra mắt Nếu bạn nhìn vào bản ghi nhớ của tôi, có một người đã hơn 70 tuổi. Nói chung, nếu bạn nhớ những ngày mà một diễn viên không được chú ý nhưng lại bị ấn tượng bởi chính bạn, 'Hả? Tôi đã thấy diễn viên đó trước đây. Tôi đã nghĩ là nó thực sự rất tốt.' Bạn không muốn nói điều đó chứ? Đối với tôi cũng vậy. Tốt nhất là khi tôi ở cùng với những diễn viên giỏi."" — Kim Hye-soo trả lời phỏng vấn trong "Familyhood" Hye-soo sau đó đóng vai chính trong bộ phim chính kịch hài "Familyhood," bộ phim của đạo diễn Kim Tae-gon, với sự tham gia của Ma Dong-seok và Kim Hyun-soo Hye-soo được đề cử là nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Điện ảnh Buil" lần thứ 25, "Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh" lần thứ 37 và "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 53 Năm 2017, Hye-soo cũng đóng vai chính trong phim noir, "A Special Lady". Do Lee An-gyu đạo diễn, Hye-soo đóng vai Na Hyun-jung, người phụ nữ trở thành chỉ huy thứ hai của một tổ chức kinh doanh đứng đầu tổ chức xã hội đen, đối diện với Lee Sun-kyun và Lee Hee-joon. Năm 2018, Hye-soo đóng vai chính trong bộ phim khủng hoảng IMF, "Default", cùng với Yoo Ah-in. Cô được đề cử cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 55. Sau đó, cô được chọn tham gia bộ phim khoa học viễn tưởng "Return". Vào tháng 6 năm 2019, Hye-soo được xác nhận sẽ xuất hiện trong "Di nguyện bí ẩn", tác phẩm đầu tay của đạo diễn Park Ji-wan. Phim phát hành vào ngày 12 tháng 11 năm 2020. Hye-soo được đề cử tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 57 ở hạng mục nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim. Năm 2020, Hye-soo đóng vai chính trong bộ phim pháp luật "Hyena". Cô vào vai Luật sư Jung Geum-ja, một con linh cẩu thực thụ luôn theo đuổi tiền bạc và thành công bằng mọi giá. Phim được phát sóng trên SBS TV từ ngày 21 tháng 2 đến ngày 11 tháng 4 năm 2020. Cô được đề cử nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 56. Vào tháng 3 năm 2022, Hye-soo được khán giả quốc tế công nhận nhờ vai chính thẩm phán Shim Eun-seok trong loạt phim Netflix, "Toà án vị thành niên" với tư cách là chương trình không nói tiếng Anh nổi tiếng nhất trong hai tuần liên tiếp. Cô được đề cử nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang" lần thứ 58. Cùng năm, cô đóng vai chính trong bộ phim cổ trang "Dưới bóng trung điện" của tvN với vai Trung cung Im Hwa-ryeong. Đời sống cá nhân. Hình tượng đại chúng. Hye-soo đã trở thành một "biểu tượng sex" nổi tiếng của Hàn Quốc kể từ khi cô ấy mặc một chiếc váy cắt ngắn để dẫn chương trình "Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh" và là người chiến thắng nữ diễn viên chính xuất sắc nhất vào năm 1993, và là biểu tượng của cuộc cách mạng sex của thời đại Hye-soo được biết đến là người biết quan tâm cho các diễn viên trẻ, và được bạn diễn Ma Dong-seok trong "Familyhood" (2016) mô tả là "người ân cần quan tâm đến người khác nhất." Bạn diễn Lee Sang-hee của cô trong phim truyền hình "Toà án vị thành niên" cho biết "Hye-soo sẽ viết ra tên của những diễn viên vô danh khi cô ấy nghĩ diễn xuất của họ tốt, để cô ấy có thể giới thiệu cho họ những kịch bản phù hợp trong tương lai." Nhiều nữ diễn viên, bao gồm Son Ye-jin, Han Ji-min, Kim Nam-joo, và Yum Jung-ah đã bày tỏ lời cảm ơn đặc biệt và lòng biết ơn tới Hye-soo vì sự quan tâm của cô ấy. Hye-soo có bằng cử nhân sân khấu và điện ảnh tại Đại học Dongguk. Năm 2013, Hye-soo thừa nhận đã đạo văn luận văn thạc sĩ "Nghiên cứu về giao tiếp của diễn viên", với các phần sao chép nguyên văn từ ít nhất bốn cuốn sách. Cô ấy xin lỗi về hành động của mình, lí do cô ấy nói là do lịch trình bận rộn của cô ấy và không biết đạo văn là một hành vi phạm tội nghiêm trọng. Kết quả là Kim bị tước bằng thạc sĩ về báo chí và truyền thông đại chúng. Các mối quan hệ. Hye-soo và diễn viên nhân vật Yoo Hae-jin gặp nhau lần đầu tiên vào năm 2001 sau khi quay bộ phim "Kick the Moon" và trở nên thân thiết vào năm 2006 sau khi xuất hiện cùng nhau trong "Canh bạc nghiệt ngã". Tin đồn về việc hai người hẹn hò bắt đầu xuất hiện từ năm 2008 mặc dù cả hai liên tục phủ nhận mọi mối quan hệ lãng mạn cho đến đầu năm 2010 khi những bức ảnh paparazzi của cả hai được tung ra, và cặp đôi chính thức xác nhận mối quan hệ của họ. Cả hai chia tay vào năm 2011. Hoạt động từ thiện. Năm 2008, Hye-soo đã quyên góp toàn bộ số tiền phí tường thuật của bộ phim tài liệu ""Forgiveness, Are You at the End of the Way" " cho quỹ hỗ trợ nạn nhân tội phạm. Vào tháng 4 năm 2009, Hye-soo trưng bày tác phẩm nghệ thuật đại chúng của mình tại Hội chợ Nghệ thuật Mở Seoul. Một trong những bức tranh ghép của cô đã được bán với giá 5 triệu yên, và cô đã quyên góp số tiền này cho tổ chức từ thiện. Ngày 7 tháng 7 năm 2009, Hye-soo tham gia chiến dịch "Phong cách gặp gỡ nghệ thuật" do kênh truyền hình cáp OnStyle và Ủy ban Quốc gia UNESCO Hàn Quốc đồng tổ chức và cô đã quyên góp số tiền thu được từ các tác phẩm quyên góp của mình cho Ủy ban Quốc gia UNESCO Hàn Quốc. Hye-soo đã quyên góp 100 triệu won cho các nạn nhân cháy rừng bị ảnh hưởng bởi vụ cháy Goseong năm 2019. Vào năm 2020, vì tình trạng thiếu khẩu trang do đại dịch COVID-19 gây ra, Hye-soo đã quyên góp 100 triệu won cho Hiệp hội cứu trợ thiên tai Hope Bridge. Vào ngày 7 tháng 3 năm 2022, Hye-soo đã quyên góp 100 triệu yên cho Hiệp hội cứu trợ thiên tai Hope Bridge để giúp đỡ các nạn nhân của trận cháy rừng Uljin và Samcheok năm 2022 làm quỹ cứu trợ khẩn cấp. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2022, Hye-soo đã quyên góp 100 triệu won để giúp đỡ những người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Hàn Quốc năm 2022 thông qua Hiệp hội Cứu trợ Thảm họa Hàn Quốc Hope Bridge. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2023, Hye-soo đã quyên góp 100 triệu won để giúp đỡ trận động đất Thổ Nhĩ Kỳ–Syria năm 2023 bằng cách quyên góp tiền thông qua Hiệp hội Cứu trợ Thảm họa Quốc gia Hope Bridge.và trong cùng tháng đó, Hye-soo đã đăng một bức ảnh về dịch vụ than bánh, đó là những chiếc bánh mà cô ấy đã tặng.
Phạm Ứng Mộng là một quan đại thần dưới triều đại nhà Trần. Ông từng giữ đến chức Hành khiển. Thân thế và sự nghiệp. Phạm Ứng Mộng vốn người huyện Thanh Miện, đất Hồng Châu (Hải Dương ngày nay), thuộc dòng dõi của danh tướng Phạm Tu, người được xem là thủy tổ của dòng họ Phạm. Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn:"Mùa đông, tháng 10, ban tiền cho Phạm Ứng Mộng, bảo tự hoạn để vào hầu." "Trước đó, vua nằm mơ đi chơi thấy thần nhân chỉ một người bảo vua: "Người này có thể làm hànnh khiển". Tỉnh dậy, không biết là người nào." "Một hôm tan buổi chầu, vua ngự ra ngoài thành, thấy một người con trai theo học ở cửa nam thành, hình dáng giống hệt người trong mộng, Vua gọi đến hỏi, người đó ứng đối giống như những lời trong mộng. Vua muốn trao cho chức hành khiển, nhưng thấy khó, mới cho 400 quan tiền bảo tự hoạn, ban tên là Ứng Mộng. Sau này thăng dần đến chức hành khiển. Đó là bằt chước lệ cũ của triều Lý, dùng Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiến vậy."Khi gặp vua Trần Thái Tông, Phạm sinh đang là một học trò theo học ở phía Nam thành Thăng Long. Vì trùng với dáng hình trong mộng của vua mà dần lên ngôi cao Hành khiển. Chọn người mà dựa vào mộng để rồi thăng đến chức cao trong hàng quan viên của vua Trần Thái Tông là một trường hợp hiếm gặp trong lịch sử Việt Nam.
Giải đua ô tô Công thức 1 Canada 2023 Giải đua ô tô Công thức 1 Canada 2023 (tên chính thức là Formula 1 Pirelli Grand Prix du Canada 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 18 tháng 6 năm 2023 tại trường đua Gilles Villeneuve và là chặng đua thứ tám của giải đua xe Công thức 1 2023. Bảng xếp hạng trước cuộc đua. Sau giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 170 điểm, hơn đồng đội Sergio Pérez (117 điểm) 53 điểm ở vị trí thứ hai và hơn 71 điểm so với Fernando Alonso (99 điểm) ở vị trí thứ ba. Red Bull Racing dẫn đầu trong bảng xếp hạng các đội đua trước Mercedes (152 điểm) và Aston Martin (134 điểm) với 287 điểm. Lựa chọn bộ lốp. Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Trong buổi tập đầu tiên, Valtteri Bottas lập thời gian nhanh nhất với 1:18,728 phút trước cả hai tay đua của Aston Martin, Fernando Alonso và Lance Stroll. Buổi tập này chỉ kéo dài hơn vài phút do sự cố camera CCTV tại đường đua. Ban đầu, buổi tập này được dừng lại để thu cất chiếc xe Alpine của Pierre Gasly do chiếc xe này gặp vấn đề kỹ thuật. Sau đó, FIA thông báo rằng buổi tập thứ hai sẽ diễn ra vào lúc 16:30 giờ địa phương (UTC−4) thay vì thời gian dự kiến ban đầu là 17:00 (UTC−4) và đồng thời kéo dài thời gian của buổi tập thứ hai từ 60 phút lên đến 90 phút để tạo cơ hội cho các đội bù đắp thời gian bị mất trong buổi tập đầu tiên. Trong buổi tập thứ hai, Lewis Hamilton lập thời gian nhanh nhất với 1:13,718 phút trước đồng đội George Russell và Carlos Sainz Jr. Trong buổi tập thứ ba, Max Verstappen lập thời gian nhanh nhất với 1:23,106 phút trước Charles Leclerc và Fernando Alonso. Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian chạy 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất trong phần này. Sau khi phần đầu tiên của vòng phân hạng kết thúc, cả hai tay đua của AlphaTauri, Gasly, Logan Sargeant và Chu Quán Vũ bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng. Alexander Albon là tay đua nhanh nhất trong phần này. Sau khi phần thứ hai của vòng phân hạng kết thúc, Leclerc, Pérez, Stroll, Kevin Magnussen và Bottas bị loại. Phần cuối cùng (Q3) kéo dài mười hai phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Với thời gian là 1:25,858, Verstappen giành được vị trí pole thứ 25 trong sự nghiệp Công thức 1 của anh trước Nico Hülkenberg và Fernando Alonso. Sau vòng phân hạng, Nico Hülkenberg bị tụt ba vị trí do không tuân thủ quy luật trong giai đoạn cờ đỏ tại Q3. Giai đoạn này được gây ra bởi vụ tai nạn của Oscar Piastri tại góc cua số 6. Tiếp theo đó, Sainz jr., Stroll và Tsunoda đều bị tụt ba vị trí do cản trở các tay đua khác. Verstappen giành chiến thắng cuộc đua này trước Alonso và Hamilton. Đồng thời đây cũng là chiến thắng thứ 100 của Red Bull Racing trong suốt thời gian tham gia thi đấu của đội ở Công thức 1. Thêm vào đó, Verstappen cũng chính thức cân bằng số chiến thắng của mình với nhà vô địch Công thức 1 ba lần quá cố người Brazil Ayrton Senna sau khi giành chiến thắng thứ 41 trong sự nghiệp Công thức 1 của mình. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Charles Leclerc, Carlos Sainz jr., Sergio Pérez, Alexander Albon, Esteban Ocon, Lance Stroll và Valtteri Bottas. Mặc dù Lando Norris về đích ở vị trí thứ 9, anh nhận một án phạt 5 giây vì giảm tốc độ một cách không cần thiết trong giai đoạn xe an toàn.
Adam Sultanovich Delimkhanov (tiếng Nga: "Адам Султанович Делимханов", sinh ngày 25 tháng 9 năm 1969) là một chính trị gia người Nga là thành viên của Đuma Quốc gia Nga từ năm 2007. Ông là thành viên của Đảng Nước Nga thống nhất. Ông còn là một viên chỉ huy quân sự, người đứng đầu cánh quân Chechnya của Vệ binh Quốc gia Nga ("Rosgvardia"). Delimkhanov là đồng minh của thủ lĩnh Chechnya Ramzan Kadyrov, là cộng sự thân thiết và là người anh em họ với Ramzan Kadyrov. Delimkhanov là người chỉ huy phân đội cảnh sát bảo vệ các cơ sở dầu mỏ Chechnya từ năm 2003 đến năm 2006. Ông được bổ nhiệm làm phó thủ tướng giám sát lực lượng an ninh vào năm 2006. Năm tiếp theo, ông được bầu vào Duma Quốc gia Nga trong đảng Nước Nga Thống nhất do Vladimir Putin lãnh đạo. Kể từ tháng 4 năm 2009, Delimkhanov cùng với sáu công dân Nga khác đã bị Dubai một trong các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất thông qua Interpol truy nã liên quan đến vụ sát hại Sulim Yamadayev. Năm 2020, BBC News đưa tin về Delimkhanov liên quan đến vụ sát hại Imran Aliev. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2022, Delimkhanov đã chia sẻ một video trên Instagram đe dọa luật sư nhân quyền Abubakar Yangulbaev và gia đình ông này sẽ bị trả giá bằng cái chết. Theo Kadyrov, Delimkhanov đã tham gia Cuộc vây hãm Mariupol trong Cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga với tư cách là chỉ huy lực lượng Chechnya trong cuộc giao tranh. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2022, Kadyrov thông báo rằng Delimkhanov đã nhận được giải thưởng danh dự Anh hùng Liên bang Nga theo sắc lệnh của Tổng thống Nga Vladimir Putin và trong cùng ngày đó, ông đã được trao danh hiệu này. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2022, chỉ huy Delimkhanov cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Cộng hòa Nhân dân Luhansk. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2023, Delimkhanov đã có màn đấu khẩu và chỉ trích trùm Yevgeny Prigozhin. Vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, Adam Delimkhanov được báo cáo là đã bị ""mất tích" tại Zaporizhzhia. Các nguồn của Nga sau đó cho rằng ông đã bị thương, trong khi các nguồn của Ukraine báo cáo rằng ông ta đã bị giết sau một cuộc tấn công bằng pháo ở Prymorsk. Kadyrov phản đối những nguồn tin từ Ukraina về các sự kiện, ông cho rằng Delimkhanov còn sống và "thậm chí không bị thương"", và vụ mất tích được cho là của Delimkhanov là một trò lừa bịp, tin giả được dàn dựng từ truyền thông Ukraina.
Ga Anyang (Tiếng Hàn: 안양역, Hanja: 安養驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeongbu ở Anyang-dong, Manan-gu, Anyang-si, Gyeonggi-do phục vụ một số chuyến tàu Mugunghwa và tất cả các chuyến tàu trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1. Nhà ga được kết nối với lối đi trên tầng 2 của Enter Six, và có Đại học Daelim, Đại học Yeonseong, Đại học Anyang, Anyang 1-ga và chi nhánh E-Mart Anyang gần đó. Trong tương lai, khi Tuyến Wolgot–Pangyo (Tuyến Gyeonggang) khai trương, nó sẽ trở thành một ga trung chuyển. Ga Anyang mở cửa như một điểm dừng trên Tuyến Gyeongbu, vẫn còn cho đến ngày nay, vào ngày 1 tháng 1 năm 1905. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1974, các dịch vụ trên Tàu điện ngầm Seoul bắt đầu dừng ở Anyang. Tòa nhà ga hiện tại được hoàn thành vào tháng 12 năm 2001, và ba năm sau, vào ngày 20 tháng 1 năm 2005, dịch vụ tàu điện ngầm tốc hành từ #đổi đến #đổi bắt đầu dừng tại ga Anyang. Chuyến tàu đầu tiên trong ngày vào các ngày trong tuần (không bao gồm các ngày lễ quốc gia) chạy lúc 5h31 sáng hướng bắc và 5h17 sáng chiều đi nam, trong khi chuyến cuối cùng chạy lúc 12h12 chiều hướng bắc và 12h02 chiều chiều hướng nam. Các chuyến tàu đi về hướng Bắc có nhiều điểm đến khác nhau. Một số kết thúc tại Guro, một số tại Dongmyo, số khác tại Cheongnyangni, trong khi một số tiếp tục đến Đại học Kwangwoon. Tuy nhiên, không có con đường nào tiếp tục đi ra ngoài Đại học Kwangwoon, vì vậy nếu bắt buộc phải đi xa hơn thì cần phải đổi tàu. Một số chuyến tàu đi về phía nam kết thúc tại Byeongjeom, trong khi số còn lại tiếp tục đến Cheonan.
Hải quân đánh bộ Nga Hải quân đánh bộ Nga (tiếng Nga: "Морская пехота России", phiên âm: "Morskaya pekhota Rossii", tiếng Anh: "Russian Naval Infantry" hay "Russian Marines") là binh chủng hoạt động như lực lượng lính thủy đánh bộ trong biên chế Hải quân Nga. Hải quân đánh bộ Nga thành lập vào năm 1705, lực lượng này có khả năng tiến hành các hoạt động đổ bộ cũng như hoạt động như bộ binh hạng nhẹ truyền thống hơn. Hải quân đánh bộ Nga cũng trang bị cho đơn vị hoạt động đặc biệt duy nhất của Hải quân Nga, được biết đến với tên gọi "lính biệt kích" thường được chọn lọc từ hàng ngũ của lính thủy đánh bộ và họ có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ tác chiến và nhiệm vụ hoạt động đặc biệt. Người ta biết rất ít về lính bộ binh Hải quân Nga trong thời kỳ Đế quốc Nga vì nhiều đơn vị được thành lập bao gồm các thủy thủ đoàn siêu cấp của các tàu chiến Nga bị phá hủy. Năm 1998, Sư đoàn súng trường cơ giới 22 thuộc Quân khu Viễn Đông tại Petropavlovsk ở Kamchatka được chuyển giao cho Hạm đội Thái Bình Dương. Năm 2000, sư đoàn trở thành Lữ đoàn súng trường cơ giới độc lập số 40 và vào ngày 1 tháng 9 năm 2007 Lữ đoàn bộ binh hải quân số 40. Năm 2013, Trung đoàn này lại trở thành Lữ đoàn 40 Bộ binh Hải quân. Từ năm 2000 trở đi, Chi hạm đội Caspi bao gồm một lữ đoàn bộ binh hải quân mới là Lữ đoàn 77 đóng tại Kaspiysk. Sở chỉ huy và hai tiểu đoàn của lữ đoàn được lên kế hoạch thành lập vào ngày 1 tháng 8 năm 2000, vào tháng 6 năm 2000, lữ đoàn mới này được cho có thể kế thừa truyền thống của Sư đoàn Súng trường Cơ giới số 77. Vào đầu tháng 9 năm 2015, ước tính có khoảng 800 lính thủy đánh bộ Nga đã đảm nhận các vị trí dọc theo miền tây Syria với phần lớn trong số họ đóng quân tại thành phố miền núi Slunfeh ở phía đông Latakia, những quân số còn lại đã được chuyển đến Homs (Wadi Al-Nasara) và Tartous (Masyaf và Safita) để chuẩn bị cho Sự can thiệp quân sự của Nga trong Nội chiến Syria. Vào đêm ngày 19 rạng sáng ngày 20 tháng 9 năm 2015, Lính thủy đánh bộ Nga đã giao chiến với các chiến binh của Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL) gần thành phố Latakia. Các chiến binh Hồi giáo đã cố gắng tiến hành một cuộc tấn công vào Căn cứ không quân Khmeimim ở gần đó, tuy nhiên, họ đã bị lính thủy đánh bộ Nga phục kích và kết quả của cuộc đụng độ, ba chiến binh đã thiệt mạng, hai người bị bắt và những người còn lại rút lui. Trước rạng sáng ngày 24 tháng 9 năm 2015, Lính thủy đánh bộ Nga lần đầu tiên tham chiến kể từ khi được triển khai tới Syria theo các nguồn tin quân sự và tình báo của Debka file tiết lộ. Lữ đoàn Bộ binh Hải quân Cận vệ 810 đã chiến đấu cùng với Quân đội Syria và lực lượng đặc biệt của Hezbollah trong tấn công vào lực lượng ISIL tại căn cứ không quân Kweiris ở phía đông Aleppo. Vào tháng 3 năm 2016, Lữ đoàn bộ binh hải quân 61 đã tiến hành các hoạt động hỗ trợ giải phóng thành phố Palmyra của Syria. Trong cuộc chiến giữa Nga với Ukraina thì lực lượng Lính thủy đánh bộ Nga tham gia sáp nhập Crimea năm 2014. Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, lực lượng lính thủy đánh bộ Nga bắt đầu một cuộc tấn công đổ bộ vào bờ biển Biển Azov và bao vây thành phố Mariupol. Tàu đổ bộ lớp Ropucha và Tàu đổ bộ lớp Ivan Gren có khả năng đổ bộ xe tăng được cho là đã được triển khai trong khu vực. Trong cuộc chiến tranh với Ukraina thì lực lượng Lính thủy đánh bộ Nga sử dụng các đơn vị nòng cốt là Lữ đoàn 155, đây là đơn vị đã tham gia hầu hết các trận đánh của lực lượng lính thủy đánh bộ Nga và cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề do quân số ít, trang bị kém và tinh thần chiến đấu thấp, kỷ luật chiến đấu bị buông lỏng, điều này phản ánh và bọc lộ các nhược điểm của quân đội Nga khi tham gia cuộc chiến này. Lực lượng của Lữ đoàn 155 đã tham gia Cuộc tấn công Kiev, sau đó đã rút lui về Belarus, vào tháng 4 năm 2022 sau đó thì Lữ đoàn 155 đã được tái triển khai đến Yehorivka và Pavlivka ở Donbas. Đến ngày 9 tháng 11 năm 2022, Lữ đoàn bộ binh 155 và Lữ đoàn bộ binh hải quân 40 tham gia một cuộc tấn công vào đơn vị đồn trú của quân đội Ukraine ở Pavlivka. Các thành viên của đơn vị tuyên bố đã chịu khoảng 300 người thương vong, với nhiều lời phàn nàn trong số này được chia sẻ với các nhân vật truyền thông nổi tiếng của Nga và đơn vị đồn trú. Các thành viên còn nói rõ hơn rằng các cuộc tấn công diễn ra do chỉ huy của họ muốn kiếm tiền thưởng và việc chia chác phần thưởng không công bằng. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2022, một chỉ huy của Cộng hòa Nhân dân Donetsk thân Nga chỉ ra rằng các chỉ huy cấp thấp hơn trong Lực lượng lữ đoàn 155 đã coi thường mệnh lệnh trong cuộc tấn công vào Pavlivka. Vào tháng 12 năm 2022, Tờ "Thời báo New York" của Mỹ đưa tin về việc triển khai Lữ đoàn 155 tới Pavlivka. Những người được giao nhiệm vụ trong tình trạng ""thiếu lương thực, bản đồ, vật tư y tế quan trọng hoặc bộ đàm, và họ buộc phải sử dụng súng trường Kalashnikov từ những năm 1970 - với một số thành viên phải sử dụng Wikipedia để tìm hướng dẫn sử dụng một số loại vũ khí". Cũng có tình trạng thiếu đạn dược. Một người lính cho biết rằng: "Đây không phải là chiến tranh. Đó là sự hủy diệt người dân Nga từ chính những người chỉ huy của họ"." Nhiều người đã sử dụng điện thoại di động Nga của họ để gọi về nhà, tạo điều kiện cho Ukraine theo dõi đơn vị và tấn công tiêu diệt. Nhiều binh sĩ là tình nguyện viên nhưng có "ít kinh nghiệm" về việc sử dụng súng. Vào tháng 1 năm 2023, Lữ đoàn 155 đã cố gắng đột phá tấn công ở Vuhledar đụng độ với Lữ đoàn Cơ giới 72 của Ukraine nhưng không thành công. Tuy nhiên, Lữ đoàn 155 đã đạt được thành công ban đầu, nhưng theo cựu đại tá Igor Strelkov FSB thì cuộc tấn công của họ bị đình lại sau tổn thất nặng nề về bộ binh và thiếu đạn dược để hỗ trợ hỏa lực, mặc dù sử dụng Xe tăng T-80 của lực lượng này trong vai trò hỏa lực gián tiếp và trong vai trò hỗ trợ kỹ thuật kém nói chung cho các đơn vị tấn công và số quân ít hơn hẳn đối phương.
Salman Betyrovich Raduyev (tiếng Nga: "Салма́н Бетырович Раду́ев", hay còn gọi là Raduev, với các biệt danh: "Titanic" và "Michael Jackson" sinh ngày 13 tháng 2 năm 1967 - mất ngày 14 tháng 12 năm 2002) là một chỉ huy lực lượng ly khai Chechen từ năm 1994 đến năm 1999, ông ta là người chủ mưu và chịu trách nhiệm cho Cuộc đột kích bắt giữ con tin Kizlyar. Các hoạt động của ông ta với vai trò là một chỉ huy đã khiến ông ta trở thành "Người bị truy nã gắt gao thứ hai ở Nga". Georgi Derluguian cũng gọi ông ta là sự lập dị kinh khiếp của cuộc kháng chiến Chechnya do hành xử lập dị của ông tỷ như việc ông ta mặc một bộ quân phục được trang trí bằng những phù hiệu của Thành Cát Tư Hãn, đội một chiếc mũ nồi quân sự màu đen giống như của Saddam Hussein và quàng một chiếc khăn keffiyeh Ả Rập quanh cổ, đeo kính phi công để che đi khuôn mặt đã được thẩm mỹ rất nhiều sau nhiều lần phẫu thuật do những vết thương ông ấy phải chịu khi còn là một chiến binh. Radyev bị bắt vào năm 2000 và chết tại Nhà tù Thiên Nga Trắng ở Thuộc địa lưu đày của Nga vào năm 2002 khi được chẩn đoán là xuất huyết trong. Chính quyền Nga cho biết ông ta không bị đánh đập gì cả. Raduyev sinh năm 1967 tại Gordaloy ở Novogroznensky gần Gudermes ở phía đông Chechnya. Vào đầu những năm 1980, Raduyev hoạt động tích cực trong đoàn thanh niên cộng sản Komsomol mà cuối cùng ông đã trở thành thủ lĩnh đoàn. Sau khi theo học tại một trường trung học ở Gudermes, Raduyev phục vụ từ năm 1985 đến năm 1987 với tư cách là kỹ sư xây dựng trong đơn vị Lực lượng tên lửa chiến lược Nga đóng quân tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussian, nơi mà ông được kết nạp làm thành thành viên của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau xuất ngũ, anh học kinh tế và làm việc trong ngành xây dựng của Liên Xô. Giống như những người Chechnya khác tìm kiếm nền giáo dục Hồi giáo ở Trung Á vào đầu những năm 90, Raduyev cũng có nền tảng khoa học Hồi giáo đã thọ học tại madrasa ở Namangan, ở Uzbekistan. Trong Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất, Raduyev trở thành chỉ huy chiến trường của lực lượng ly khai Chechnya. Ông ta đã chiến đấu trong trận Grô-z-nưi và bị thương vào tháng 3 năm 1995 khi lực lượng đặc biệt của Nga cố bắt giữ ông. Vào tháng 10 năm 1995, ông chỉ huy Lữ đoàn 6 đóng tại quận Gudermessky có tầm quan trọng chiến lược và chịu trách nhiệm về Gudermessky, một phần của thủ đô Grozny và thị trấn Argun. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1995, Raduyev cùng với Sultan Geliskhanov dẫn đầu một cuộc đột kích vào thành phố Gudermes. Vào ngày 9 tháng 1 năm 1996, Raduyev cùng với Shamil Basayev tấn công vùng lân cận của Nga Dagestan, ông ta đã bắt ít nhất 2.000 thường dân làm con tin. Cuộc đột kích khiến Raduyev trở nên nổi tiếng toàn thế giới, đã leo thang thành một trận chiến tổng lực, kết thúc bằng việc phá hủy hoàn toàn ngôi làng biên giới Pervomayskoye, và khiến các nhà lãnh đạo Chechnya khác chỉ trích cuộc tấn công. Tháng 3 năm 1996, một tay súng bắn tỉa đã bắn vào đầu Raduyev nhưng vẫn sống sót mặc dù được báo cáo là đã chết, các lực lượng đặc biệt của Nga tuyên bố đã giết ông ta để trả thù cho cuộc tấn công Kizlyar trong khi các nguồn tin khác cho biết ông ta bị bắn ở Chechnya vào ngày 7 tháng 3 năm 1996, lúc này có 63 trong số 101 đại biểu của Quốc hội Estonia đã gửi lời chia buồn tới Dudayev-""Đứa con Checnya đau khổ" đồng thời bày tỏ "sự cảm thông sâu sắc với người dân Chechnya về sự ra đi của chỉ huy Raduyev"", việc này đã châm ngòi cho một cuộc tranh cãi với Duma Nga. Sau đó Raduyev ra nước ngoài chữa bệnh. Vào mùa hè năm 1996, Raduyev trở lại nước cộng hòa và từ chối mệnh lệnh của quyền tổng thống Chechnya là Zelimkhan Yandarbiyev và ngừng thực hiện các hoạt động khủng bố (chẳng hạn như ra lệnh đánh bom xe điện ở Moscow). Tháng 9 năm 1998, Raduyev tuyên bố "tạm thời đình chỉ" các hành động khủng bố. Vào tháng 3 năm 2000, Raduyev bị đơn vị hoạt động đặc biệt FSB của Nga "Vympel" bắt tại nhà riêng ở Novogroznensky (nay là Oyskhara, gần Gudermes). Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai, Raduyev bị ốm nặng phải ra nước ngoài điều trị nên đã cạo râu chuyển đến một ngôi nhà gần biên giới để chuẩn bị xuất cảnh. Tuy nhiên, một trong những người của anh ta đã thông báo cho lực lượng Nga về vị trí của ông nên Raduyev đã bị bắt gọn. Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rằng Raduyev đã thú nhận cố gắng ám sát tổng thống Gruzia Eduard Shevardnadze. Raduyev đã bị xét xử với 18 tội danh khác nhau, bao gồm khủng bố, cướp bóc, bắt cóc con tin, tổ chức giết người và tổ chức thành lập vũ trang bất hợp pháp, ông ta không nhận tội và khẳng định rằng ông ta chỉ làm theo mệnh lệnh và cũng tuyên bố không bị rối loạn tâm thần gì và cho rằng hy vọng sẽ được ra tù sau khoảng 10–12 năm. Hàng chục nhân chứng đã được gọi để làm chứng, nhưng nhiều nạn nhân đã từ chối tham gia. Vào tháng 12 năm 2001, ông ta bị kết án tù chung thân.
Rise, O Voices of Rhodesia "Rise, O Voices of Rhodesia" (#đổi "Vùng lên, hỡi những tiếng nói Rhodesia") hay "Voices of Rhodesia" (#đổi "Những tiếng nói Rhodesia") là quốc ca của Rhodesia và Zimbabwe Rhodesia (đổi tên thành Zimbabwe vào tháng 4 năm 1980) từ năm 1974 đến năm 1979. Bài hát sử dụng giai điệu của "Khải hoàn ca", Chương IV từ bản Giao hưởng số 9 của Ludwig van Beethoven, do Hội đồng Châu Âu thông qua làm quốc ca chính thức của Châu Âu vào năm 1972 (ngày nay vẫn là quốc ca của Liên minh Châu Âu). Phiên bản sử dụng ban đầu ở Rhodesia là bản chuyển soạn gồm mười sáu ô nhịp của Đại úy Ken MacDonald, chỉ huy quân nhạc của Súng trường Châu Phi Rhodesia. Một cuộc thi toàn quốc đã được chính phủ tổ chức để tìm ra lời bài hát phù hợp với giai điệu đã chọn. Phần thắng thuộc về Mary Bloom đến từ Gwelo. Với hệ quả từ Tuyên bố Độc lập Đơn phương của Rhodesia khỏi Vương quốc Anh vào ngày 11 tháng 11 năm 1965, nước này vẫn tuyên bố trung thành với Nữ vương Elizabeth II với tư cách nguyên thủ quốc gia, do đó giữ lại "God Save the Queen" làm quốc ca. Tuy nhiên, khi Rhodesia tái lập vào năm 1970 với tư cách một nước cộng hòa, bản hoàng ca đã cùng nhiều thứ khác liên quan đến chế độ quân chủ bị loại bỏ, khiến quốc gia này không có quốc ca cho đến khi thông qua "Rise, O Voices of Rhodesia" vào năm 1974. Bài quốc ca mất đi tư cách pháp nhân vào tháng 12 năm 1979, khi Vương quốc Anh giành lại quyền kiểm soát tạm thời đất nước trong khi chờ nền độc lập được quốc tế công nhận với tên gọi Zimbabwe năm tháng sau đó. Kể từ đó, việc Rhodesia sử dụng giai điệu Beethoven nổi tiếng đã khiến việc chơi "Khải hoàn ca" gây tranh cãi ở Zimbabwe ngày nay. Một tranh chấp về các điều khoản trao tư cách quốc gia đầy đủ cho thuộc địa tự trị Rhodesia đã khiến chính phủ thiểu số chủ yếu là người da trắng – do Thủ tướng Ian Smith đứng đầu – đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh vào ngày 11 tháng 11 năm 1965. Vì Chính phủ Anh Quốc kiên quyết phải dựa trên nguyên tắc đa số mới có thể giành độc lập, tuyên bố này không được công nhận. Điều này khiến Vương quốc Anh và Liên Hợp Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Rhodesia. Nữ vương Elizabeth II tiếp tục là "Nữ vương Rhodesia" trong mắt chính phủ của Smith, do đó "God Save the Queen" vẫn là quốc ca của Rhodesia. Mặc dù điều này nhằm thể hiện lòng trung thành lâu dài của Rhodesia đối với Nữ vương, nhưng việc lưu giữ một bài hát gắn liền với Vương quốc Anh giữa cuộc đấu tranh hiến pháp Anh-Rhodesia đã khiến những nghi lễ nhà nước Rhodesia có "một giai điệu có phần mỉa mai", theo cách nói của tờ "Thời báo" ở Luân Đôn. Chính phủ Rhodesia bắt đầu tìm kiếm một bài quốc ca mới trong khoảng thời gian áp dụng lá cờ xanh trắng mới vào tháng 11 năm 1968, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng "God Save the Queen" cho đến tháng 6 năm 1969, khi cử tri chủ yếu là người da trắng bỏ phiếu ủng hộ hình thức chính phủ cộng hòa. Bài hoàng ca chính thức vẫn giữ nguyên cho đến tuyên bố chính thức về một nước cộng hòa vào tháng 3 năm 1970, khi nó bị bãi bỏ cùng với nhiều thứ khác liên quan đến Hoàng gia. Cộng hòa Rhodesia không có quốc ca trong hơn bốn năm trước khi chính quyền công bố bản nhạc đã chọn vào ngày 28 tháng 8 năm 1974: Chương IV, thường gọi là "Khải hoàn ca", từ bản Giao hưởng số 9 của Ludwig van Beethoven. Việc Hội đồng Châu Âu đã sử dụng giai điệu này làm "Quốc ca châu Âu" vào tháng 1 năm 1972 dường như không làm phiền chính phủ Rhodesia; John Sutherland và Stephen Fender nhận xét rằng sự lựa chọn của Rhodesia khiến chính quyền Công Đảng Anh vô cùng xấu hổ; các nhà lãnh đạo của họ giờ đây phải tôn trọng giai điệu gắn liền với Rhodesia khi tham dự các hoạt động chính thức của châu Âu. Với phần nhạc hiện tại, chính phủ Rhodesia đã tổ chức một cuộc thi toàn quốc để viết lời bài hát phù hợp, người chiến thắng sẽ nhận giải thưởng tiền mặt trị giá 500 đô la Rhodesia (tương đương khoảng 1.000 đô la Mỹ). Dù không hài lòng với sự lựa chọn của Rhodesia, Hội đồng Châu Âu không phản đối điều đó với lý do rằng chừng nào Rhodesia còn sử dụng "Khải hoàn ca" ở dạng nguyên bản, nó không thể bị chê trách vì phần nhạc đã hết bản quyền từ lâu và thuộc phạm vi công cộng. Tuy nhiên, họ đã thông báo rằng nếu Rhodesia dùng phần soạn nhạc tương tự như Hội đồng Châu Âu thì tác giả của bản nhạc đó, Herbert von Karajan, sẽ có cơ sở để khởi kiện đạo văn. Nhằm ngăn chặn sự cố tương tự, Rhodesia sử dụng bản soạn lại mười sáu thanh ban đầu của Đại úy Ken MacDonald, người chỉ huy quân nhạc Súng trường Châu Phi Rhodesia. Buổi biểu diễn nhạc khí đầu tiên của bài quốc ca ở Salisbury đã gây ra nhiều phản ứng trái chiều: một số người nhiệt tình—bao gồm cả một trung sĩ nhạc công da màu, người đã tự hào nói với tờ "Rhodesia Herald" rằng "nó giống như 'Chúa Cứu lấy Nữ vương Nhân hậu'"—nhưng nhiều người khác lại thất vọng vì chính phủ đã không lấy một giai điệu mới. Nhà phê bình âm nhạc của tờ "Herald" Rhys Lewis đã viết rằng ông cảm thấy "kinh ngạc" trước sự lựa chọn của chính phủ, điều mà ông cho rằng không chỉ thiếu nguyên bản mà còn gắn liền với tình anh em siêu quốc gia đến mức nó có nguy cơ khiến Rhodesia, vốn bị quốc tế cô lập, trở thành đối tượng bị chế giễu. Phinias Sithole, người đứng đầu Đại hội Công đoàn Châu Phi (một liên minh công đoàn người da đen của Rhodesia), nhận xét ông không tin rằng hầu hết người da đen của đất nước sẽ đồng cảm với một bài hát được chọn trong khi những người thuộc sắc tộc của họ hầu như vắng mặt trong các cấp cao nhất của chính phủ. Người viết lời thắng cuộc, Mary Bloom, đã được xác nhận vào ngày 24 tháng 9 năm 1974. Bà là giám đốc công ty, nhà phê bình âm nhạc và nhà thơ đến từ Gwelo, chuyển đến Rhodesia từ Nam Phi năm 1947. Bloom đặt tên cho tác phẩm của mình là "Voices of Rhodesia" (#đổi ), song câu đầu "Rise, O Voices of Rhodesia", cuối cùng đã trở thành tiêu đề của bài hát theo cách nói thông thường. Các quan sát viên nước ngoài tỏ ra không mấy ấn tượng; nhà báo người Anh Richard West nhận xét rằng người Rhodesia da trắng "nổi tiếng với sự phản bác nghệ thuật, cái đẹp, tâm linh và trí tuệ", đã hỏi "làm sao người ta có thể khô?" Lời bài hát chính thức được thông qua như sau: Giảm sử dụng và di sản. "Rise, O Voices of Rhodesia" vẫn được sử dụng chính thức trong phần còn lại của lịch sử Rhodesia, cũng như từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1979, khi Rhodesia tái lập với tư cách Zimbabwe Rhodesia, chính quyền do người da đen lãnh đạo của cùng một quốc gia. Nhà nước này cũng không đạt tính hợp pháp trong con mắt Vương quốc Anh và Liên Hợp Quốc. Mặc dù quốc ca vẫn giữ nguyên trong sáu tháng này, chính phủ thông qua một lá quốc kỳ mới đồng thời thay thế các ngày lễ quốc gia – phần lớn dựa trên các nhân vật và cột mốc thuộc địa – bằng các lựa chọn mang tính hòa nhập hơn: Ngày Tổng thống, Ngày Thống nhất và Ngày Tổ tiên. Quốc ca vẫn không thay đổi vào ngày 12 tháng 12 năm 1979, khi Zimbabwe Rhodesia tạm thời nằm dưới sự kiểm soát của Vương quốc Anh một lần nữa với tên gọi Nam Rhodesia, trước khi nền độc lập được quốc tế công nhận vào tháng 4 năm 1980, với tên gọi hiện nay Zimbabwe. "Ishe Komborera Africa", bản dịch tiếng Shona của bài thánh ca tiếng Xhosa do Enoch Sontonga sáng tác "Nkosi Sikelel' iAfrika" (tạm dịch: "Chúa phù hộ Châu Phi"), đã trở thành quốc ca đầu tiên của Zimbabwe. Bài này được dùng làm quốc ca đến năm 1994, cho đến khi bị thay thế bởi bài "Simudzai Mureza wedu WeZimbabwe" (tạm dịch: "Phước lành thay Đất nước Zimbabwe"). Do được sử dụng bởi "Rise, O Voices of Rhodesia", giai điệu "Khải hoàn ca" đang gây tranh cãi ở Zimbabwe. Việc phát nhạc điệu này hàng năm tại các đại sứ quán nước ngoài vào Ngày Châu Âu ban đầu gây sốc cho các quan chức chính phủ Zimbabwe. Theo nhà sử học Josephine Fisher, trước đây họ không biết rằng Hội đồng Châu Âu đã thông qua bài hát này. Trong những năm 1980, Derek Hudson, nhạc trưởng lâu năm của Dàn nhạc giao hưởng Bulawayo, đã gặp nhiều khó khăn trong việc xin phép chính thức để tổ chức bản Giao hưởng số 9 của Beethoven lần đầu tiên tại Zimbabwe. Cuối cùng ông đã thành công, nhưng chỉ sau quá trình đàm phán kéo dài với chính quyền. Khi "Khải hoàn ca" được đưa vào buổi biểu diễn đàn organ gây quỹ do một nhà thờ ở Harare tổ chức trong Giáng sinh năm 1994, nó đã khiến một số người tham dự phản đối trong sự giận dữ. Báo và tạp chí
Tôi yêu thành phố tôi Tôi yêu thành phố tôi là album phát hành năm 2013 của nhóm V.Music, album này chiến thắng hạng mục Album của năm tại giải Làn Sóng Xanh cùng năm. "Tôi yêu thành phố tôi" tập hợp các ca khúc viết về tình yêu dành cho Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, album nằm trong dự án "Sài Gòn trong tôi" của V.Music. Sài Gòn trong tôi. "Sài Gòn trong tôi - Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay" là dự án cộng đồng của nhóm diễn ra trong năm 2013, gồm 5 sự kiện chính: Triển lãm ảnh "Sài Gòn trong tôi" của các thành viên nhóm, phát hành album "Tôi yêu thành phố tôi", phát hành phim ca nhạc "Sài Gòn trong tôi" và live show "Nụ cười Việt Nam" và các cuộc thi viết, chụp ảnh, quay MV về Sài Gòn. Album gồm có 10 ca khúc thuộc nhiều thể loại âm nhạc khác nhau cũng như sự phong phú, đa dạng về đề tài. Phần hòa âm phối khí, dàn dựng bè phối được các nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận, Nguyễn Dân, Huy Trực, Châu Đăng Khoa, Hoàng Anh, Nguyễn Hải P: "Tôi yêu thành phố tôi, Sài Gòn – Sài Gòn, Nhịp đập thành phố, Cuộc sống tôi, Nụ cười Việt N" Album có một số ca khúc mà V.Music kết hợp với nhóm La Thăng và các nữ ca sĩ Ái Phương, Tiêu Châu Như Quỳnh, Miu Lê, Cao Mỹ Kim. Album "Tôi yêu thành phố tôi" chính thức ra mắt  khán giả vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, cùng với đó là live concert của nhóm vào 25 tháng 4. "Tôi yêu thành phố tôi" chiến thắng hạng mục Album của năm tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2013.
Tuyến vàng là một tuyến MRT trên cao tại Băng Cốc và tỉnh Samut Prakan, Thái Lan. Tổng chiều dài tuyến là với 23 nhà ga với kinh phí 55 tỉ baht. Ban đầu tuyến được đề xuất vào năm 2005 bởi Văn phòng Kế hoạch và Sở Giao thông Vận tải xây dựng tuyến đường sắt ngầm dọc theo đường Lat Phrao và đoạn trên cao từ nút giao Lam Sali đến Samrong. Tuy nhiên, vào năm 2012 quyết định xây dựng tuyến monorail trên toàn tuyến để giảm chi phí. Tuyến Vàng cung cấp dịch vụ vận chuyển dọc theo trục đường Lat Phrao đang bị tắc nghẽn nặng và hành lang đường Srinagarindra. Tuyến này liên kết với 6 tuyến khác; Tuyến MRT Xanh Dương, giao với Tuyến MRT Cam (đang xây dựng), dự án Tuyến MRT Xám và Tuyến MRT Nâu, Tuyến đường sắt sân bay (Bangkok) và cuối cùng là BTS Tuyến Sukhumvit. Như vậy, nó liên kết các trục chính của thành vô tại trung tâm Đông Bắc và khu vực phía Đông Băng Cốc. Danh sách nhà ga. Tuyến Vàng có chiều dài 28,7 km với 23 nhà ga.
Vụ tự thiêu tại quảng trường Thiên An Môn Vụ tự thiêu tại quảng trường Thiên An Môn () diễn ra vào đêm giao thừa ngày 23 tháng 1 năm 2001, ngay trước thềm Tết Âm lịch tại trung tâm thủ đô Bắc Kinh. Theo các nguồn tin từ chính phủ Trung Quốc, có năm thành viên của giáo phái Pháp Luân Công (phong trào tôn giáo đang bị cấm tại Trung Quốc đại lục) đã tự thiêu tại quảng trường. Nguồn tin từ Pháp Luân Công đã phản bác những mô tả này và khẳng định rằng giáo lý của họ nghiêm cấm hành vi tự sát và sát sanh. Một số nhà báo khẳng định rằng các vụ tự thiêu đã được sắp đặt từ trước. Theo nguồn tin chính phủ Trung Quốc, một nhóm gồm bảy người đã đến Bắc Kinh từ tỉnh Hà Nam, trong đó có năm người đã tự thiêu tại Quảng trường Thiên An Môn. Sự kiện này được các phương tiện truyền thông Trung Quốc sử dụng để chứng minh rằng Pháp Luân Công là một mối đe dọa, đồng thời là cơ sở để hợp pháp hóa cuộc đàn áp tổ chức này do chính phủ tiến hành. Hai tuần sau vụ tự thiêu, tờ "The Washington Post" đã tiến hành điều tra danh tính của hai nạn nhân và phát hiện rằng "không ai từng thấy [họ] tập Pháp Luân Công". Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW): "sự kiện này là một thách thức lớn cho các phóng viên tại Bắc Kinh vào thời điểm đó khi cố gắng đưa tin" do thiếu nguồn thông tin độc lập. Các cá nhân liên quan đến vụ tự thiêu chỉ được phép tiếp xúc với các phóng viên từ báo chí nhà nước Trung Quốc; trong khi đó báo chí quốc tế và thậm chí cả thành viên trong gia đình nạn nhân đều bị cấm liên lạc với họ. Đã có nhiều quan điểm và giả thuyết về vụ việc này: sự kiện có thể đã được chính phủ dàn dựng để vu khống Pháp Luân Công; sự kiện này (có thể) là một vụ biểu tình đích thực; người tự thiêu có thể là "những người mới gia nhập Pháp Luân Công hoặc chưa được đào tạo bài bản"; và nhiều quan điểm khác. Sự kiện tự thiêu đã mở màn cho chiến dịch tuyên truyền của chính phủ Trung Quốc, làm giảm sự đồng cảm của công chúng đối với Pháp Luân Công. Theo tạp chí "Time", trước đây nhiều người Trung Quốc không cảm thấy Pháp Luân Công phải là mối đe dọa, và cho rằng các cuộc đàn áp của chính quyền đã vượt mức cần thiết. Chiến dịch truyền thông chống Pháp Luân Công đã được đẩy mạnh sau vụ tự thiêu. Các hình ảnh, tờ rơi và video được tạo ra để chi tiết hóa những hậu quả tiêu cực (được cho là) của việc thực hành Pháp Luân Công gây nên. Kênh CNN đã so sánh giữa chiến dịch tuyên truyền chống Pháp Luân Công của chính phủ Trung Quốc với các sự kiện chính trị lớn trong lịch sử đại lục, như Chiến tranh Triều Tiên và Cách mạng Văn hóa. Sau khi quan điểm của công chúng đổi chiều, (theo các nguồn tin) chính quyền Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng 'bạo lực có hệ thống' để đàn áp Pháp Luân Công." Một năm sau sự kiện trên, tổ chức Freedom House cho biết số người theo đạo Pháp Luân Công bị giam giữ, tra tấn và tử vong trong quá trình bị giam giữ đã gia tăng đáng kể. Pháp Luân Công, hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp, là một dạng thực hành khí công được xây dựng dựa theo giáo lý truyền thống của Phật giáo và Đạo giáo do Lý Hồng Chí giới thiệu ở phía Đông Bắc Trung Quốc vào mùa xuân năm 1992. Đến cuối thập niên 1990, giáo phái này đã thu hút hơn chục triệu tín đồ. Trong những năm đầu phát triển, Pháp Luân Công nhận được sự công nhận và hỗ trợ từ chính quyền. Vào giữa thập kỷ 19, nhận ra được sự phát triển nhanh chóng của các phương pháp khí công, chính quyền Trung Quốc đã đặt ra những chế tài chặt chẽ hơn với mục đích kiểm soát sự phát triển của các giáo phái khí công trong nước. Từ năm 1996, cơ quan an ninh quốc gia đã tăng cường việc giám sát và chỉ trích Pháp Luân Công. Ngày 25 tháng 4 năm 1999, hơn mười nghìn tín đồ đã tụ tập trước trụ sở Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Trung Nam Hải để yêu cầu được công nhận hợp pháp. Vào tối cùng ngày, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã ban hành quyết định loại bỏ Pháp Luân Công. Ngày 7 tháng 6 năm 1999, một cơ quan chuyên trách được thành lập trong nội bộ Ủy ban Trung ương Đảng để chịu trách nhiệm việc đàn áp Pháp Luân Công Tổ chức 'Phòng 610' được thành lập, đảm nhận vai trò điều phối việc phủ sóng truyền thông chống Pháp Luân Công trên báo chí nhà nước, đồng thời tác động đến các cơ quan khác của chính phủ như tòa án và các cơ quan an ninh. Ngày 19 tháng 7, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản đã ban hành văn bản nghiêm cấm việc thực hành Pháp Luân Công. Cuộc đàn áp sau đó được gọi là "chiến dịch tuyên truyền quy mô lớn" với mục đích biện minh cho việc đàn áp, bằng cách khắc họa hình ảnh Pháp Luân Công là một học thuyết mê tín, nguy hiểm và không phù hợp với tư tưởng chính thống. Hàng chục nghìn tín đồ Pháp Luân Công đã bị bỏ tù. Đến năm 1999, những báo cáo về việc bị tra tấn trong thời gian bị giam giữ bắt đầu được công bố. Theo Ian Johnson, các cơ quan chính quyền đã được trao rất nhiều quyền lực để triệt hạ Pháp Luân Công và đẩy mạnh việc thay đổi tín ngưỡng, niềm tin của các tín đồ Pháp Luân Công thông qua các biện pháp gây sức ép, áp lực. Tuy nhiên, các phương thức mà các cơ quan này sử dụng lại không bị kiểm duyệt. Điều này đã dẫn tới việc tra tấn trở thành phương pháp thường xuyên được sử dụng, đôi khi gây ra tử vong. Quảng trường Thiên An Môn là một trong những địa điểm chính nơi các tín đồ Pháp Luân Công tụ tập để phản đối cuộc đàn áp.Theo ước tính của Ian Johnson - phóng viên tờ "Wall Street Journal", ngày 25 tháng 4 năm 2000, đã có hơn 30.000 tín đồ Pháp Luân Công bị bắt giữ do tham gia biểu tình tại Bắc Kinh, đa số họ bị bắt giữ tại quảng trường Thiên An Môn hoặc trên đường đến. Ngày 1 tháng 1 năm 2001, 700 tín đồ Pháp Luân Công đã bị bắt giữ trong cuộc biểu tình tại quảng trường. Trong những năm đầu của cuộc đàn áp, chính quyền Trung Quốc đã gặp nhiều khó khăn trong việc cố gắng thay đổi quan điểm của công chúng về Pháp Luân Công. Chiến dịch này đã chịu sự chỉ trích từ nhiều thành phần khác nhau trong xã hội Trung Quốc; thậm chí một số nhà phê bình đã đưa ra so sánh giữa cuộc đàn áp này với Cách mạng Văn hóa và cách mà Đức Quốc xã đã đối xử với người Do Thái. Vào cuối năm 2000, báo chí nhà nước Trung Quốc xác nhận tín đồ Pháp Luân Câm vẫn tổ chức các cuộc biểu tình phản đối lệnh cấm, và tuyên bố rằng 'đại nhân dân' cần phải nhận thức được 'khoảng thời gian, độ phức tạp và tính quyết liệt của cuộc chiến chống lại Pháp Luân Công của chúng ta." Vào tháng 1 năm 2000, chính quyền Trung Quốc đã triển khai một đợt tuyên truyền mới nhằm chỉ trích Pháp Luân Công, trong đó họ đề nghị các tổ chức truyền thông thuộc nhà nước lên án giáo phái này. Ngày 23 tháng 1 năm 2001, đêm giao thừa Tết Nguyên Đán, có năm người đã tự đổ xăng lên quần áo và tự thiêu tại quảng trường Thiên An Môn. Đoàn làm phim của CNN đã ghi nhận được hình ảnh một người đàn ông ngồi trên vỉa hè phía Đông Bắc của Đài Tưởng Niệm Anh Hùng Nhân dân tại trung tâm quảng trường. Người đàn ông này sau đó tự đổ xăng lên mình và tự thiêu. Cảnh sát nhanh chóng tập trung tại hiện trường và dập tắt lửa. Không lâu sau đó, thêm bốn người khác tại quảng trường cùng tự thiêu. Một người đàn ông trong số họ đã bị cảnh sát bắt giữ và đưa đi bằng xe chở phạm nhân. CNN đã báo cáo rằng ít nhất 2 trong số 5 người họ là đàn ông và không có trẻ em. Đội ngũ CNN đã cố gắng ghi lại sự kiện từ xa, nhưng nhanh chóng bị quân cảnh ngăn chặn, bắt giữ và tịch thu trang thiết bị. Các cơ quan chức năng sau đó đã dập tắt lửa đang thiêu rụi quần áo của bốn người còn lại. Một xe cảnh sát đã đến để đưa người đàn ông bị bỏng đi; sau đó tầm 25 phút, hai xe cứu thương đã đến để chở 4 người còn lại. Quảng trường bị phong tỏa hoàn toàn, an ninh được thắt chặt vào ngày hôm sau - ngày lễ quan trọng nhất trong dịp lễ truyền thống của Trung Quốc. Cảnh sát đã giám sát việc công chúng tiếp cận quảng trường trong các hoạt động đón Tết, chuẩn bị sẵn bình cứu hỏa và ngăn những người theo học Pháp Luân Công không được giương biểu ngữ. Tân Hoa Xã xác định có 7 cá nhân tham gia vụ việc: Vương Tiến Đông (王進東), Lưu Xuân Linh (劉春玲), Lưu Tư Ảnh (劉思影), Trần Quả (陳果), Hác Huệ Quân (郝惠君); Lưu Bảo Vinh (劉葆榮) và Lưu Vân Phương (劉雲芳). Theo báo cáo, Lưu Xuân Linh đã tử vong tại hiện trường. Vài tháng sau, truyền thông nhà nước đã thông báo về cái chết của con gái bà - Lưu Tư Ảnh đã được nhập viện với những vết bỏng nặng sau sự cố. Ba người khác được báo cáo đã bị "bị biến dạng nặng nề". Bắc Kinh đã từ chối yêu cầu từ các nhà báo phương Tây để phỏng vấn những người sống sót, và chỉ đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc và Tân Hoa Xã chính thức được phép tiếp xúc với người thân hoặc đồng nghiệp của nạn nhân. Báo cáo của truyền thông Trung Quốc. Hai giờ sau vụ tự thiêu, Tân Hoa Xã đã gửi một bản tin về sự việc cho các phương tiện truyền thông nước ngoài. Bảy ngày sau (thứ Ba, ngày 30 tháng 1) Tân Hoa Xã đã công bố một thông cáo chi tiết hơn để bổ sung thông tin cho các báo cáo về sự cố trên các phương tiện truyền thông. Ngày 31 tháng 1, một tập đặc biệt kéo dài 30 phút của chương trình thời sự "Forum" đã trình bày vụ việc cho công chúng theo quan điểm của nhà nước. Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc đã phát sóng những đoạn phim trích từ các camera giám sát gần đó, ghi lại cảnh tượng năm người đang bốc hỏa. Các cơ quan chức năng Trung Quốc tuyên bố rằng bảy người có ý định tự thiêu tại Quảng trường Thiên An Môn đều đến từ thành phố Khải Phong, tỉnh Hà Nam. Cơ quan thông tấn Tân Hoa Xã tuyên bố những người tự thiêu là những tín đồ Pháp Luân Công từ năm 1994-1997, và họ đã tưởng tượng về "niềm hạnh phúc khi bước chân vào thiên đàng" trong tuần trước. Ngày 16 tháng 1, sáu người trong nhóm đã lên tàu đến Bắc Kinh, nơi họ gặp Trần Quả - con gái của một thành viên trong nhóm. Bảy người đã quyết định tự thiêu ở các địa điểm riêng biệt trên Quảng trường vào lúc 2 giờ 30 chiều vào một ngày định trước, dùng xăng được giấu trong các chai soda nhựa. Mỗi người đều được chuẩn bị hai bật lửa, phòng trường hợp một chiếc không hoạt động. Theo trang web Hội nghiên cứu tôn giáo do chính phủ Trung Quốc quản lý: Vương Tiến Đông đã tiết lộ rằng nhóm của ông đã sử dụng hai chiếc taxi để đến Quảng trường Thiên An Môn, đỗ ở phía nam của Đại lễ đường, sau đó đi bộ đến nơi đã lên kế hoạch tự thiêu. Vương Tiến Đông cho biết, khi anh đang mở chai nước ngọt chứa xăng, cảnh sát đã tiếp cận anh. Trong tình huống đó, anh đã vội vã tự thiêu mình mà không ngồi vào tư thế hoa sen. Trong một thông cáo báo chí, chính phủ Trung Quốc cho biết Lưu Vân Phương cảm thấy anh không thể tự thiêu được vì chưa đạt đủ "trình độ tinh thần cần thiết". Các bài báo trên tờ Dương Thành vãn báo và Nam Phương nhật báo đã đưa tin rằng, cảnh sát đã tìm thấy bằng chứng cho thấy một số phóng viên nước ngoài biết trước về vụ việc. Bài báo chỉ ra rằng những phóng viên này có thể bị buộc tội "kích động và tiếp tay cho hành vi tự tử". Truyền thông nhà nước đã công bố đoạn video giám sát, cho thấy sáu hoặc bảy phóng viên từ CNN, Associated Press và Agence France-Presse xuất hiện tại hiện trường chỉ 10 phút trước khi vụ tự thiêu diễn ra; tuy nhiên cả ba tổ chức đã bác bỏ cáo buộc này — AP và AFP khẳng định không có phóng viên nào của họ ở quảng trường vào thời điểm đó, Trong khi đó, Eason Jordan - trưởng ban tin tức của CNN, khẳng định rằng đội ngũ của CNN đến quảng trường chỉ để cập nhật thông tin định kỳ, không liên quan đến cuộc biểu tình của Pháp Luân Công. Phản hồi từ Pháp Luân Công. Những điểm mâu thuẫn được chỉ ra trong bộ phim tài liệu "False Fire" 'False Fire', một nỗ lực của đài NTDTV để phân tích sự kiện đã chỉ ra nhiều mâu thuẫn trong các thông tin về vụ việc của Chính phủ Trung Quốc, bao gồm: Ngay sau vụ tự thiêu, Trung tâm Thông tin Pháp Luân Đại Pháp đã phủ nhận khả năng những người tự thiêu là tín đồ Pháp Luân Công. Họ nhấn mạnh rằng giáo lý Pháp Luân Công nghiêm cấm hành vi bạo lực nào và xem việc tự tử là một tội lỗi nghiêm trọng. Các nguồn tin Pháp Luân Công ở nước ngoài đã đặt ra nghi vấn về bản tường trình chính thức của chính phủ Trung Quốc về vụ việc Những điểm không nhất quán trong câu chuyện của chính phủ đã tạo ra giả thuyết rằng vụ tự thiêu có thể đã được chính phủ dàn dựng, nhằm biện minh cho việc đàn áp Pháp Luân Công bằng cách khắc họa hình ảnh những người theo giáo phái này là "không bình thường" và có xu hướng tự tử. Theo giả thuyết này, các diễn viên được thuê để tham gia hành động tự thiêu, và (được cho là) lửa sẽ được dập trước khi gây ra thương tích nghiêm trọng. Đài truyền hình Tân Đường Nhân đã sản xuất một chương trình mang tên "Ngụy Hỏa ("偽火 - False Fire), trong đó phân tích những mâu thuẫn trong các thông tin về vụ việc từ phía truyền thông chính phủ Trung Quốc Dựa vào phân tích hình ảnh từ camera an ninh, chương trình Ngụy Hỏa đưa ra giả thuyết rằng những người tham gia tự thiêu đã sử dụng quần áo và mặt nạ chống cháy, và việc tại sao mái tóc và chai đựng chất lỏng giống xăng lại không bị bắt lửa. Nguồn tin của Pháp Luân Công chỉ ra rằng hành vi, khẩu hiệu và tư thế thiền của những người tự thiêu không phù hợp với giáo lý. Thêm vào đó, phân tích từ camera cho thấy Lưu Tư Ảnh có thể đã tử vong sau cú đánh chí mạng từ người đàn ông mặc áo khoác quân đội. Bộ phim tài liệu '"False Fire"' miêu tả cái chết của cô bé Lưu Tư Ảnh 12 tuổi," trong bối cảnh rất mơ hồ". Mặc dù sức khỏe có chuyển biến tốt nhưng cô đã đột ngột qua đời vào ngày 17 tháng 3. Một số nguồn tin từ Pháp Luân Công cho rằng cô bé có thể đã bị chính phủ sát hại nhằm đảm bảo cô không tiết lộ bất kỳ thông tin nào. Chương trình chỉ ra rằng cách phản ứng của đoàn làm phim truyền hình nhà nước và cảnh sát cho thấy họ có thể đã biết trước về vụ việc. Các nhân viên cảnh sát đã ngay lập tức có mặt tại hiện trường với đầy đủ bình dập lửa. Bình dập lửa không phải là trang bị tiêu chuẩn cho cảnh sát tại quảng trường Thiên An Môn; tòa nhà lưu trữ gần nhất lại cách hiện trường vài phút di chuyển. Tổ chức Thế giới Điều tra Việc Bách hại Pháp Luân Công tiếp tục chỉ ra rằng người tự thiêu và người xuất hiện trong các buổi phỏng vấn trên đài CCTV (cùng tên Vương Tiến Đông) không phải là cùng một người. Tổ chức này đã trích dẫn kết quả phân tích do Phòng thí nghiệm Xử lý Giọng nói của Đại học Quốc lập Đài Loan thực hiện, và kết luận rằng giọng nói trong hai đoạn phỏng vấn không trùng khớp, tỷ lệ khuôn mặt và đường kẻ tóc cũng có phần khác biệt. Những phát hiện này đã củng cố giả thuyết những người tự thiêu chỉ là những diễn viên.