vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Cảm nhận bài thơ Ông Đồ – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Vũ Đình Liên (1913 – 1996) là nhà giáo từng viết văn và làm thơ. Ông nổi tiếng trong phong trào “Thơ mới” với bài “Ông đồ” viết theo thể ngũ ngôn trường thiên gồm 20 câu thơ. Đây là bài thơ thuộc loại thi phẩm “từ cạn” mà “tứ sâu” biểu lộ một hồn thơ nhân hậu, giàu tình thương người và mang niềm hoài cổ bâng khuâng.
Ông đồ là những nhà nho không đỗ đạt cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học “chữ nghĩa Thánh hiền”. Ông đồ được nhà thơ nói đến là nhà nho tài hoa. Ông xuất hiện vào độ “hoa đào nở”… “bên phố đông người qua”. Ông có những tháng ngày đẹp, những kỉ niệm đẹp:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Hoa đào nở tươi đẹp. Giấy đỏ đẹp, mực Tàu đen nhánh. Nét chữ bay lượn tài hoa. Còn gì vui sướng hơn:
“Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài”.
Thời thế đã đổi thay. Hán học lụi tàn trong xã hội thực dân nửa phong kiến: “Thôi có ra gì cái chữ Nho – Ông Nghè, ông Cống củng nằm co…” (Tú Xương). Ông đồ già là một khách tài tử sinh bất phùng thời. Xưa “phố đông người qua”, nay “mỗi năm mỗi vắng”. Xưa kia “bao nhiêu người thuê viết”, bây giờ “người thuê viết nay đâu.Một câu hỏi cất lên nhiều ngơ ngác, cảm thương. Nỗi sầu tủi từ ông đồ như làm cho mực khô và đọng lại trong “nghiên sầu”, như làm cho giấy đỏ nhạt nhòa “buồn không thắm”. Giấy đỏ nghiên mực được nhân hóa, thấm bao nỗi buồn tê tái của nhân tình thế sự:
Mực đọng trong nghiên sầu…”.
Cảnh vật buồn, lòng người buồn. Vũ Đình Liên đã xuất thần viết nên hai câu thơ tuyệt bút lay động bao nhiêu thương cảm trong lòng người.
Nỗi buồn từ lòng người thấm sâu, tỏa rộng vào không gian cảnh vật. Dưới trời mưa bụi, “ông đồ vẫn ngồi đấy” như bất động, lẻ loi và cô đơn: “Qua đường không ai hay”. Cái vàng của lá, cái nhạt nhòa của giấy, của mưa bụi đầy trời và cơn mưa trong lòng người. Một nỗi buồn lê thê:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”.
Thơ tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật tàn tạ mênh mang. Lòng người buồn thương thấm thía.
Khép lại bài thơ là một câu hỏi diễn tả nỗi trông vắng, thương tiếc, xót xa. Hoa đào lại nở. Ông đồ già đi đâu về đâu…
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
Thương ông đồ cũng là thương lớp người đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hóa lụi tàn dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã trang trải và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà.
Tags:Văn 8
|
Feelings about the poem Ong Do - Topic and sample essay 8
Instruct
Assignment
Vu Dinh Lien (1913 - 1996) was a teacher who wrote literature and poetry. He is famous in the "New Poetry" movement with the poem "Mrs. Tu" written in a five-word long poem consisting of 20 verses. This is a poem belonging to the "shallow" and "deep four" type of poetry, revealing a kind poetic soul, rich in love for others and filled with wistful nostalgia.
His disciples were Confucian scholars who did not pass high enough to become mandarins, but only taught "the words of the Saints and Sages". The grandfather mentioned by the poet was a talented scholar. He appeared when "the peach blossoms bloomed"... "on a crowded street". He has beautiful days and beautiful memories:
“Hypal flowers have strokes
As phoenix dragon dance"
Peach blossoms bloom beautifully. Beautiful red paper, black Chinese ink. Talented flying handwriting. What could be more joyful than:
"Inside a crowded street over
How many tenants wrote
User praise switch plates".
Times have changed. Sinology faded away in the semi-feudal colonial society: "There is no such thing as the word Confucianism - Ong Nghe and Ong Cong are also there..." (Tu Xuong). The old man is an amateur guest born at the wrong time. In the past, "the street was crowded with people", now "every year it's empty". In the past, "how many people hired writers", now "where are the people who hire writers?" A question that raises a lot of bewilderment and sympathy. The sadness from the grandfather is like making the ink dry and remaining in the "sadness study", like making the red paper fade, "sadness is not deep". Red paper with ink is humanized, imbued with the numbing sadness of human affairs:
Research toner left in grief…".
The scenery is sad, the people are sad. Vu Dinh Lien ecstatically wrote two wonderful poems that moved so much sympathy in people's hearts.
The sadness in people's hearts penetrates deeply and spreads widely into the landscape. Under the dusty rain, "the old man still sat there" as if motionless, alone and lonely: "No one passed by on the street." The yellowness of leaves, the paleness of paper, the dusty rain filling the sky and the rain in people's hearts. A lingering sadness:
"Leaves fall on the paper
Outside, it's raining and dust is flying."
The poetry is less descriptive but more evocative. The landscape is vast and desolate. People's hearts are deeply saddened.
The poem closes with a question expressing the feeling of loneliness, mourning, and sadness. Peach blossoms bloom again. Where does the old man go...
"Peach bloom again this year
Not seeing his old toys
People who live forever
Where soul now
Loving an old man is also loving a class of people who have forever receded into the past. Loving your grandfather is also pitying a culture that perished under foreign domination. Vu Dinh Lien's sympathy and compassion for his grandfather permeated and penetrated deeply into each verse and verse. The contrasting technique, combined with personification and metaphor, has created many sexy images, demonstrating a skillful and bold artistic style.
Tags: Literature 8
|
Cảm nhận bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
Hướng dẫn
1.
Nhà tù Côn Đảo được mệnh danh là địa ngục trần gian, bởi trên hòn đảo trơ trọi, giữa nắng gió biển khơi, trong chế độ nhà tù khắc nghiệt, người đi đày sẽ buộc phải tàm công việc lao dộng khố sai như đập đá cho đến khi kiệt sức và không ít người đã gục ngã.
Bài thơ thế hiện khí phách của một người xem thường mọi thứ thách gian nan, nói về công việc lao động cưỡng bức hết sức nặng nhọc mà như nói về một công việc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách cùa một dũng sĩ thần thoại.
2. Bốn câu thơ đầu có hai lớp nghĩa:
-Tư thế đứng của con người giữa đất trời: Thể hiện quan niệm nhân sinh truyền thống về “chí làm trai” “Đã sinh làm trai cũng phải khác đời” (Phan Bội Châu), “Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông – Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ),… Đó là niềm kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, là khát vọng hành động mãnh liệt. Con người thể hiện chí làm trai cúa mình: đứng giữa đất Côn Lôn, đứng giữa biển rộng, non cao, đội trời đạp đất, tư thế hiên ngang, sừng sững. Từ câu thơ toát lên một vẻ đẹp hùng tráng.
-Miêu tả công việc đập đá: bằng nét bút khoa trương nhằm làm nổi bật sức mạnh to lớn của con người khổng lồ: khí thế hiên ngang “lừng lẫy” như bước vào một trận chiến đấu mãnh liệt; hành động thì quả quyết, mạnh mẽ phi thường: “xách búa”, “ra tay”; sức mạnh thật là ghê gớm, gần như thần kì: “làm cho lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”…
3.Bốn câu thơ cuối tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình. Đây là khẩu khí của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thứ thử thách gian nan, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong đã tạo nên một hình tượng giàu chất sử thi và gây ấn tượng mạnh.
Câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan, những gian khố phải chịu đựng không phải một sớm, một chiều mà dài dằng dặc qua năm tháng với sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ và ý chí chiến đấu sắt son của người chiến sĩ cách mạng.
Câu 7-8 là sự đối lập giữa chí lớn của những người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX, khi đất nước đang lâm vào cảnh tối tăm do bị thực dân Pháp đàn áp, thì không phải ai cũng tin vào sức người có thế làm được. Những thử thách trên bước đường chiến đấu bị Phan Châu Trinh coi như là những “việc cỏn con”, không làm ông nhục chí.
|
Enjoy the poem Breaking Rocks in Kunlun by Phan Chau Trinh
Instruct
first.
Con Dao Prison is known as hell on earth, because on a lonely island, in the middle of the sun and wind at sea, under the harsh prison regime, exiles will be forced to do hard labor like breaking rocks. until exhaustion and many people collapsed.
The poem shows the courage of a person who despises all hardships, talks about extremely hard forced labor, but speaks about the brave and courageous work of conquering nature. legend.
2. The first four verses have two layers of meaning:
-The standing posture of humans between heaven and earth: Represents the traditional human concept of "willing to be a man" "If you are born as a man, you must be different from the world" (Phan Boi Chau), "Willing to be a man of the South, North, and West , East - Wasting energy struggling in four seas" (Nguyen Cong Tru),... That is pride, the will to assert oneself, and a strong desire to act. The man expressed his will to be a man: standing in the middle of Con Lon land, standing in the middle of the wide sea, high mountains, holding the sky and trampling the earth, with a proud and majestic posture. The poem exudes a majestic beauty.
-Description of the rock-breaking work: with an exaggerated brushstroke to highlight the giant's great strength: his "illustrious" heroic spirit, as if entering an intense battle; Actions are decisive and unusually strong: "carry a hammer", "take action"; The power is truly formidable, almost miraculous: "making mountains collapse", "smashing five or seven piles", "smashing hundreds of stones"...
3.In the last four lines of the poem, the author directly expresses his feelings and thoughts. This is the spirit of a hero who refuses to give in to circumstances, despises all difficult challenges, and always maintains faith and the will to fight. This spiritual beauty combined with a majestic, majestic stature has created an image rich in epic qualities and makes a strong impression.
Verses 5-6 are the contrast between the arduous trials and hardships that must be endured not overnight, but over a long period of years with endurance, perseverance and an iron will to fight. son of a revolutionary soldier.
Sentences 7-8 are the contrast between the great will of those who dared to plot the cause of national salvation in the early years of the 20th century, when the country was falling into darkness due to being oppressed by the French colonialists. I also believe in the power that people can do. The challenges on the path of battle were considered by Phan Chau Trinh as "little things" and did not humiliate him.
|
Đề bài: Cảm nhận bài Từ ấy của Tố Hữu
Bài làm
Sức hẫp dẫn của tập thơ Từ ấy (1937 – 1946) trước hết là sự hấp dẫn của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng vẫy gọi thanh niên Tố Hữu lên đường đấu tranh và anh đã hướng theo lí tưởng như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời. Nhà thơ nguyện suốt đời phấn đấu cho lí tưởng.
Tôi vẫn hằng tự nghĩ: Miễn quên thân Dăng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa.
(Trăng trối)
Nhớ lại buổi đầu được giác ngộ Tố Hữu bồi hồi xúc động viết bài thơ Từ ấy (1938). Bài thơ nói lên lí tưởng, nói đến những chuyến biến trong tâm hồn nhà thơ khi được ánh sáng lí tưởng chiếu rọi. Những vấn đề lí tưởng cách mạng được nhà thơ diễn đạt tự nhiên nhuần nhuyễn, bằng tiếng nói của nghệ thuật, bằng hình ảnh âm thanh, bằng tình cảm chân thành nồng thắm.
Nhan đề Từ ấy có ý nghĩa thông báo thời gian. Từ ấy gợi nhớ về thời điểm may mắn thiêng liêng, xúc động khi tâm tư đang Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời thì bắt gặp ánh sáng của Đảng nên tâm hồn nhà thơ bừng lên niềm vui sướng ngất ngây:
Từ ẩy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Nhà thơ dùng hàng loạt biện pháp tu từ để nói lên những cảm xúc động mãnh liệt khi đón nhận ánh sáng chân lí. Lí tưởng cách mạng là nguồn sáng dịu kí chói chang như ánh nắng mặt trời giữa những ngày hè rực rỡ đã tràn ngập tâm hồn, khơi dậy những tình cảm mới mẻ, những rung động thiết tha, tạo bước ngoặt mới trong đời. Ánh sáng soi đường đi tới tương lai rò ràng, rộng mở. Từ bừng vừa diễn tả sức mạnh của lí tương xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản vừa diễn tả sự bừng tỉnh của nhận thức, giác ngộ về chân lí, lẽ sống lớn. Từ chói cũng góp phần thể hiện sức mạnh chinh phục của li tưởng, nhanh chóng chiếm lĩnh mọi trái tim, tâm hồn. Tố Hữu đã ví tâm hồn xao động của mình đang chói chang nắng hạ khác nào như một vườn hoa lá đang đậm hương và rộn tiếng chim. Từ đậm và rộn diễn tả mật độ, mức độ dồi dào của sự sống, thể hiện niềm ngất ngây trong men say hạnh phúc. Tâm hồn thật tắm xanh vì tiếp nhận chân lí là tiếp nhận nguồn sống, nguồn năng lượng mới.Một lí tưởng đẹp nổi bật qua hệ thống hình ảnh đẹp.
Lí tưởng đến với nhà thơ, nhà thơ thắp sáng mình trong lí tưởng tạo nên những chuyển biến về tư tưởng tình cảm mở đầu cho những hoạt động đầy ý nghĩa: Tôi buộc lòng tôi với mọi người /Để tình trang trải với trăm nơi /Để hồn tôi với bao hồn khổ /Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời…
Bước chuyển biến đầu tiên của nhà thơ là hòa mình vào quần chúng lao khổ, thông cảm và chia sẻ với những nỗi khổ đau của họ. Nhà thơ đến với họ không phải từ lòng trắc ẩn mà với tình cảm chan chứa yêu thương. Tình cảm được diễn đạt bằng từ ngừ cô đọng hàm súc. Từ buộc diễn đạt một cách sinh động sự gắn bó khắng khít của nhà thơ quần chúng. Từ trang trải gợi lên tình cảm thương mến bao la. Từ khối cho ta hình dung về sức mạnh đoàn kết. Những từ này vừa có tính hình tượng vừa có giá trị biểu cảm.
Nhịp điệu câu thơ tạo âm hưởng vang vọng, góp phần biểu đạt trạng thái tâm hồn nhà thơ. Lúc này lí tưởng đã mở đôi cánh của tâm hồn. Tâm hồn anh đang lộng gió bốn phương, hướng về trăm ngả. Tâm hồn ấy đang cố gắng vượt ra khỏi cái tói tầm thường nhỏ bé để thực hiện tâm nguyện cao đẹp nơi cuộc đời rộng lớn:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Điệp từ là cái gạch nối bền chặt, một bên là cái tôi, bên kia là cuộc đời vạn kiếp thương đau. Cán cân bị lệch nên cái tôi nghiêng về chan hòa với cái ta rộng lớn. Lời thơ trang trọng như lời khẳng định tự nguyện đến với quần chúng lao khổ. Khổ thơ đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư tường tinh cảm cùa nhà thơ. Gắn bó với quần chúng, nhà thơ nguyện làm một thành viên trong đại gia đình của những người ở bậc thang cuối cùng trong xã hội cũ để thức tỉnh họ cùng đấu tranh và tranh đấu vì họ. Nếu khổ thứ hai chủ yếu hướng nội với cái tôi xuất xứ, thì ở khố thơ này, cái tôi chủ yếu hướng ngoại nhưng cái láng sâu trong tâm hồn người chiến sĩ là tình thương vô hạn dối với thản phận lạc loài, bé nhỏ, bơ vơ: Hai đứa bé, Đi đi em, Một tiếng rao đêm…Hai khổ thơ sau biểu hiện nhân sinh quan cách mạng, tinh thẩn nhân đạo cộng sản cao đẹp của nhà thơ
Nếu tập thơ Từ ấy là chặng đường thơ của tâm hồn người thanh niên tư sản được giác ngộ và trở thành người chiến sì cách mạng thì bài thơ Từ ẩy tóm tắt quá trình chuyến biến ấy. Quá trình chuyển biến tình cảm nhận thức diễn tả cô đọng hàm súc trong một bài thơ ngắn gọn đầy hình ảnh và giàu cảm xúc. Nhà thơ vui sướng ngất ngây khi bắt gặp ánh sáng diệu kì, ánh sáng chân lí của Đảng và nhà thơ nguyện sẽ là chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho quvền lợi cùa quần chúng công nông.Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn về quan điểm nhân sinh với những nhận thức, tình cảm mới của nhà thơ, trên cơ sở đó là quan điểm nghệ thuật của nhà thơ: Văn chương phục vụ sự nghiệp cách mạng.Thanh niên phải biết lựa chọn và xây dựng lí tường sống cao đẹp thì mới có cuộc sông giàu ý nghĩa.
|
Topic: Feelings about the article Tu by To Huu
Assignment
The appeal of the poetry collection Tu That (1937 - 1946) is first of all the appeal of revolutionary ideals. The ideal beckoned young man To Huu to fight and he followed the ideal like a sunflower towards the sun. The poet vowed to strive for his ideals all his life.
I keep thinking to myself: Let's forget about Dang and worship everything.
(Last Moon)
Recalling the first time he was enlightened, To Huu was moved to write the poem Tu That (1938). The poem speaks of ideals, of changes in the poet's soul when illuminated by the ideal light. The issues of revolutionary ideals are expressed naturally and fluently by the poet, with the voice of art, with images and sounds, and with sincere and passionate emotions.
The title The word has the meaning of announcing time. That word reminds of a spiritually fortunate, touching moment when the poet's soul was anxiously searching for reasons to love life when he encountered the light of the Party, so the poet's soul lit up with ecstatic joy:
From then on, the summer sun glowed inside me
The sun of truth shines through my heart
My soul is a flower garden
Very fragrant and full of bird sounds
The poet uses a series of rhetorical devices to express his intense emotions when receiving the light of truth. Revolutionary ideals are a source of gentle light as bright as sunlight in the midst of bright summer days, filling the soul, arousing new emotions, passionate vibrations, creating a new turning point in life. The light illuminates the path to a clear, open future. The word luc both describes the power of reason to dispel the fog of petty bourgeois consciousness and also describes the awakening of awareness and enlightenment about the truth and the great reason for life. The word glare also contributes to expressing the conquering power of thoughts, quickly taking over every heart and soul. To Huu compared his restless soul in the blazing summer sun to a garden of flowers and leaves filled with scent and filled with bird sounds. The words bold and bustling describe the density and abundance of life, expressing the ecstasy of happiness. A true soul is bathed in green because receiving the truth is receiving a new source of life and energy. A beautiful ideal stands out through a system of beautiful images.
The ideal comes to the poet, the poet illuminates himself in the ideal, creating changes in thoughts and feelings that open the door to meaningful activities: I bind my love to everyone / Let my love spread to hundreds of places /Let my soul and so many suffering souls /Be closer to each other and make life stronger...
The poet's first step was to immerse himself in the suffering masses, sympathize and share with their suffering. The poet comes to them not out of compassion but with feelings filled with love. Emotions are expressed in concise, concise words. The word forced vividly expresses the close bond of the poet with the masses. The word cover evokes immense love and affection. The word block gives us an image of the strength of solidarity. These words have both iconic and expressive value.
The rhythm of the verse creates a resonant sound, contributing to expressing the poet's state of mind. At this time, ideals have opened the wings of the soul. His soul is windy in all four directions, heading in hundreds of directions. That soul is trying to go beyond the small and trivial things to realize the noble wishes in the vast life:
I am the child of ten thousand families
You are the child of countless eons
He is the brother of ten thousand children
No clothes, no food, no food...
The refrain is a strong hyphen, on one side is the ego, on the other side is a life of eternal pain. The balance is tilted so the ego leans towards blending with the larger self. The poem's words are solemn as an affirmation of their willingness to reach out to the working masses. The stanza marks a strong shift in the poet's emotional thinking. Sticking with the masses, the poet vows to be a member of the big family of those at the bottom rung of the old society to awaken them to fight and fight for them. If the second stanza is mainly directed inward towards the ego, then in this poem, the ego is mainly directed outward, but what lies deep in the soldier's soul is infinite love for the lost, small life. , helpless: Two children, Go away, A night cry... The following two stanzas express the poet's revolutionary outlook on life and the noble communist humanitarian spirit.
If the poem Tu That is the poetic journey of the soul of a bourgeois young man who is enlightened and becomes a revolutionary fighter, then the poem Tu Nay summarizes that transformation process. The process of emotional and cognitive transformation is concisely described in a short poem full of images and emotions. The poet was ecstatic when he encountered the magical light, the light of truth of the Party, and he vowed to be a revolutionary soldier fighting for the interests of the workers and peasants. The poem has the meaning of a declaration. about the poet's perspective on life and new perceptions and feelings, and on that basis is the poet's artistic perspective: Literature serves the revolutionary cause. Young people must know how to choose and build ideals. Only by living a noble life will there be a meaningful life.
|
Đề bài: Cảm nhận bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo
Bài làm
Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã hòa vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí, để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm cho người hát khi diễn nữa.
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorca cho cảm hứng của thi phẩm: lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được cái câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài: vừa là thơ viếng vừa như một bi ca.
Cảm nhận bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo
Thanh Thảo chọn viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất siêu thực trong thế giới nghệ thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo: đàn ghi- ta, bài ca mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương ( hoa lila )… Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang vốn là những hình ảnh – biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo. Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó.
Trong bài thơ, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi- ta ròng ròng máu chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng… Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã sang cõi siêu sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca… Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và hài hòa để tạo ra cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nước mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới:
“Không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng” cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối “nghệ thuật sắp đặt” không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau: giọt nước mắt – vầng trăng thế thôi? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa: 1) quan hệ đẳng lập: giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song: giọt nước mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so sánh: giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu: giọt nước mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất: giọt nước mắt (là) vầng trăng… Người đọc có một thoáng phân vân: vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào? Nhưng thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất: nó phải là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy.
Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái “cốt” cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp. Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng: những tiếng đàn bọt nước / Tây – ban – nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn. Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết: Tây – ban – nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du. Kế đó, phần cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng: tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát: đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la…
Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao,. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ: té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu: Những tiếng đàn bọt nước / Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt: âm thanh hồn nhiên – sắc màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân – áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường – sự ngạo nghễ, niềm hân hoan – nỗi kinh hoàng, nghệ thuật – bạo lực, thân phận bọt bèo – thực tại tàn khốc… Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị!
Song, về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng: hoa lila – tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân chính trên cõi đời này?
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó. “Với những bài thơ hay – thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước: thể xác hay tâm linh. Đó là cả một quá trình nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu”.
|
Đề bài: Cảm nhận bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo
Bài làm
Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã hòa vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí, để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm cho người hát khi diễn nữa.
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorca cho cảm hứng của thi phẩm: lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được cái câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài: vừa là thơ viếng vừa như một bi ca.
Cảm nhận bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo
Thanh Thảo chọn viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất siêu thực trong thế giới nghệ thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo: đàn ghi- ta, bài ca mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương ( hoa lila )… Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang vốn là những hình ảnh – biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo. Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó.
Trong bài thơ, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi- ta ròng ròng máu chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng… Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã sang cõi siêu sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca… Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và hài hòa để tạo ra cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nước mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới:
“Không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng” cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối “nghệ thuật sắp đặt” không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau: giọt nước mắt – vầng trăng thế thôi? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa: 1) quan hệ đẳng lập: giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song: giọt nước mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so sánh: giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu: giọt nước mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất: giọt nước mắt (là) vầng trăng… Người đọc có một thoáng phân vân: vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào? Nhưng thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất: nó phải là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy.
Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái “cốt” cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp. Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng: những tiếng đàn bọt nước / Tây – ban – nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn. Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết: Tây – ban – nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du. Kế đó, phần cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng: tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát: đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la…
Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao,. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ: té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu: Những tiếng đàn bọt nước / Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt: âm thanh hồn nhiên – sắc màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân – áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường – sự ngạo nghễ, niềm hân hoan – nỗi kinh hoàng, nghệ thuật – bạo lực, thân phận bọt bèo – thực tại tàn khốc… Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị!
Song, về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng: hoa lila – tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân chính trên cõi đời này?
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó. “Với những bài thơ hay – thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước: thể xác hay tâm linh. Đó là cả một quá trình nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu”.
|
Cảm nhận bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Hướng dẫn
Cảm nhận bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, là một trong số những nhà thơ mang hơi hướng của làng quê Việt Nam, nổi tiếng là người học giỏi thông minh. Bên cạnh là một vị quan thanh liêm, Nguyễn KHuyến được biết tới là một nhà thơ với chum thơ thu nổi tiếng. Với giọng thơ giản dị chân chất, Nguyễn Khuyễn đã mang lại cho người đọc người nghe những dư vị chân quê. Đặc biệt là những tình cảm gần gũi thân thuộc với bài thơ “ Bạn tới chơi nhà”
“ Bạn đến chơi nhà “ là một bài thư tiêu biểu kể lại kỉ niệm trong lần gặp gỡ giữa Nguyễn KHuyễn Với người bạn lâu năm của ông trong chốn quan trường. Sau nhiều năm xa cách, hai người gặp lại trong bối cảnh rất đặc biệt. Tình cảm họ dành cho nhau còn vượt qua những hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, những thức quà hay lễ nghĩa khách sáo. Từng câu thơ vang lên cứ văng vẳng trong lòng người đọc nhưu đang trò chuyện trước khung cảnh ấy vậy.
Bìa thơ mở đầu với âm vang vui vẻ khi tình huống trong bà thơ lần lượt mở ra, khơi nguồn cảm xúc trong bài thơ chân chất dân giã, đặc biệt là hình ảnh Nguyễn KHuyễn và người bạn sau bao nhiêu ngày xa cách mới có dịp gặp lại
Sau khi rời chốn quan trường, sau bao vinh hoa chốn kinh thành nhưng vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. và chính trong tình huống này, đã xuất hiện nhiều chi tiết dí dỏm vui vẻ. người bạn của Nguyễn KHuyến được tác giả gọi với cái tên thân mật “ Bác”. Và bác tới chơi nhà thật quý nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh điều kiện và đó là một tình huống khó xử: trẻ thì đi vắng, chợ thị xa, ao sâu khó chài cá …Tình huống trớ trêu nhưng cũng thật dung dị hài hước.
Thơ của Nguyễn Khuyến thật tự nhiên, vui vẻ, trong sáng tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên được sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý, những lời thơ như những lời trò chuyện hàng ngày mà chúng ta vẫn thường nói với nhau.Tất cả thiếu thốn, mọi hoàn cảnh đều như trớ trêu nhưng chính những trớ trêu đó lại tạo nên một thứ tình cảm thiêng liêng gắn kết giữa hai con người đó lại với nhau.
Nhà thơ đã rất khéo léo để diễn tả tình cảm và sự gắn bó sự mến khách của mình trước mọi hoàn cảnh tình huống. Đó là hai tâm hồn đồng điệu, hai tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau.
Bài thơ đã tạo nên những nét nổi bật những cảm xúc chân chất, những thứ tình cảm thân thuộc mà khiến cho con người ta hình dung mường tượng ra một khung cảnh chon làng quê yên bình. Tất cả mọi tình huống như để bồi đắp thêm tình cảm đẹp đẻ giữa hai con người quí mến nhau từ lâu. Thứ tình cảm đó còn vượt lên mọi vật chất và của cải, đủ sưởi ấm cho nhau.
|
Feeling you come to visit Nguyen Khuyen's house
Instruct
Feeling you come to visit Nguyen Khuyen's house
Nguyen Khuyen was born in 1835, died in 1909, and was one of the poets with a sense of Vietnamese countryside, famous for being a well-educated and intelligent person. Besides being an honest mandarin, Nguyen Khuyen is known as a poet with a famous collection of autumn poems. With a simple and sincere poetic voice, Nguyen Khuyen has brought readers and listeners the aftertaste of the countryside. Especially the close and familiar feelings with the poem "Friends come to visit"
"Friends come to visit" is a typical letter recounting the memory of the meeting between Nguyen Khuyen and his long-time friend in officialdom. After many years apart, the two met again in a very special context. The love they have for each other transcends difficult circumstances, gifts, and politeness. Each sentence of the poem resonates in the reader's heart as if they were having a conversation in front of that scene.
The poem's cover opens with a happy echo as the poet's situations unfold one after another, evoking the emotions in the sincere and folk poem, especially the image of Nguyen Khuyen and his friend who only found each other after many days of separation. opportunity to meet again
After leaving the official residence, after all the glory of the capital, they still remembered each other and still visited and talked. and it is in this situation that many humorous and humorous details appear. Nguyen Khuyen's friend is affectionately called "Uncle" by the author. And when you come to visit my house, it's very precious, but the conditions are strict and it's an awkward situation: the children are away, the market is far away, the deep pond is difficult to fish... The situation is ironic but also very simple and humorous.
Nguyen Khuyen's poetry is natural, cheerful, and clear, creating a lively tone, exuding the host's hospitality towards a distinguished guest. The poems are like the daily conversations we often have. talk to each other. All shortages and all situations are ironic, but those ironies create a sacred bond between those two people.
The poet was very skillful in expressing his feelings and attachment to hospitality in every situation. These are two similar souls, two honest, gentle and humorous feelings towards each other.
The poem has created outstanding features of genuine emotions, familiar feelings that make people imagine a peaceful village scene. All situations seem to foster the beautiful feelings between two people who have loved each other for a long time. That kind of love surpasses all material things and possessions, it is enough to warm each other.
|
Cảm nhận bức tranh phố huyện và hình ảnh con người qua cảm nhận của nhân vật Liên
Hướng dẫn
Bức tranh phố huyện u buồn cô tịch và hình ảnh con người hiu hắt, mòn mỏi trong Hai đứa trẻ
Mở bài:
Khác với các nhà văn đương thời cố đi tìm những diều mới mẻ hoặc lớn lao, khác thường, Thạch Lam một mình lặng lẽ tìm về với những giá trị nguyên sơ vốn bị chìm khuất trong cuộc đời tàn lụi. Ông cũng không cố công kết cấu những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi với Thạch Lam, cuộc đời chưa bao giờ là hoàn chỉnh. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Phong cách ấy thể hiện rõ nét trong tác phầm Hai đứa trẻ. Bức tranh phố huyện và hình ảnh những số phận con người lầm lụi trong hiu hắt ngày tàn được gợi lên thật cảm động.
Thân bài:
Thạch Lam thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Ông rất chậm rãi và nhẹ nhàng đi vào thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật như sợ gây ra tiếng đọng làm đổ vỡ thế giới ấy. Ông chắt chiu từng chút một, đúng ngắm nhìn thạt lâu một trạng thái, một chuyển biens cho đến khi nó dứt hẳn mới thôi. Bởi thế, đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện.
Hai đứa trẻ có kết cấu thật đơn giản. Đơn giản ở chi tiết và kết cấu nhưng lại phức tạp ở chiều sâu suy nghĩ. Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Ai có tâm hồn hời hợt hẳn sẽ không thích cái kiểu kể chuyện lòng vòng, nhạt nhẽo ấy. Thế nhưng, tác phẩm đã gây được sự chú ý và làm rung động biết bao tâm hồn. Điểm cốt yếu đó là, Thạch Lam đã khéo léo nắm bắt tâm hồn người đọc ngay khi họ mới chạm bước chân đầu tiên vào thế giới trong truyện.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị. Buổi chiều khong tàn đi mà động lại trong từng chữ, từng câu, bám chặt lấy mặt đấy, dẫn bước con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
Sức dồn nén của một tác phẩm truyện ngắn là ở những chi tiết nghệ thuật đầy sức nặng. Thạch Lam lại làm một cuộc đảo ngược đầy thú vị. Ông lặng lẽ tìm tòi trong ngổn ngang chất liệu mà người ta không màn để tâm đến. Nhà văn ấy đã lặng lẽ mỉm cười khi phát hiện ra những hạt bụi vàng trong ngổn ngang đất đá. Hai đứa trẻ không có những tình tiết ly kỳ, gây cấn nhưng ít có những người dám cam đoan thấy tâm hồn nhẹ tênh, vô hồn, không cảm xúc khi một lần bước qua thế của cái phố huyện nghèo và lặng lẽ ấy.
Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của một ngày từ chiều ta tới đêm khuya. Khung cảnh của câu chuyện chỉ vận động qua ba mảng màu sáng – tối: chiều tàn- chợ tan- đêm tối. Ấy vậy nó vẫn để lại trong lòng độc giả biết bao thế hệ những ám ảnh đến lạ lùng. Như thế, sức hấp dẫn của thiêng truyện này đâu phải được tạo ra từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, lôi cuốn. Cái lực hấp vô cùng trong Hai đứa trẻ hóa ra lại thoát ra từ chính hơi ấm của tình người lan tỏa trong truyện.
Ai có thể cầm lòng không cảm xúc khi đọc những dòng văn như thế: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve.Lliên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn Buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
Hóa ra, tâm trạng của nhân vật Liên trong buôi chiêu tàn nơi phố huyện cũng chính là của chúng ta trước khoảnh khắc sự sống ban ngày bắt đầu tàn lụi, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, chia ly nhường chỗ cho sum họp, tha hương nhường chỗ cho Trở Về… văn chương giúp níu giữ trong ta những xúc cảm của tình người; giúp Đánh thức phần sâu thẳm của tâm hồn mà bấy lâu ta không thể thốt lên. Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện hấp dẫn nhưng vẫn đủ sức thu hút người đọc là bởi nó giúp níu giữ và đánh thức những phần hồn như thế.
Như một vị khách bộ hành bền bỉ kiếm tiềm, gom nhặt và kế nối thành những vần thơ từ cuộc đời bình dị, Thạch Lam đã khẽ khàng nhắn nhủ tới tất cả chúng một thông điệp: Cái đẹp của cuộc sống có thể bắt gặp từ những cảnh vật, những con người rất đỗi bình thường mà chúng ta không hề để ý. Cảnh vật của buổi chiều tàn lụi làm đọng lại trong ta dư vị của nỗi u hoài thường trực. Nhưng quan trọng hơn, nhói lòng ta mãi bâng khuâng thương nhớ một miền quê có “tiếng trống thứ không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một văng ra Để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và các hình rõ rệt trên nền trời”.
Quê hương nước Việt muôn đời nay vẫn đẹp dịu dàng êm ả và yên tĩnh như tâm hồn Liên, một cô gái mới lớn tinh tế và nhạy cảm đầy sự trân trọng và nâng niu một mảnh hồn của làng quê thân thuộc. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu vo ve Như một dàn đồng ca hòa mình vào thinh không, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng và níu giữ tình yêu với quê hương, xứ sở.
Thạch Lam đã làm thức dậy trong mỗi chúng ta về một miền kí ức xa xăm trong tuổi thơ diệu vợi. Ngắm bầu trời đêm, tìm sông Ngân Hà, dõi theo con vịt bước sau ông Thần Nông,… liệu có ai đã không từng có những kỉ niệm tưởi thơ êm đềm và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta ấn tượng về cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh bình thường, nhỏ nhặt. Nó nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy trân trọng và níu giữ hồn quê. Bởi đó cũng chính là hồn người, hồn nước, hồn của những con người mãi chung tình với quê hương, xứ sở.
Kết bài:
Đọc Hai đứa trẻ, những tâm hồn đa sầu, đa cảm, nặng lòng với đất, với người, với quê hương sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi, thổn thức. Một miền quê với bức tranh nhân thế hắt hiu, với những kiếp người mỏi mòn như tiếng mọt kêu thổn thức trong buổi chiều tàn tạ, nhưng in đậm trong lòng người đọc bởi một trái tim nồng ấm yêu thương.
|
Cảm nhận bức tranh phố huyện và hình ảnh con người qua cảm nhận của nhân vật Liên
Hướng dẫn
Bức tranh phố huyện u buồn cô tịch và hình ảnh con người hiu hắt, mòn mỏi trong Hai đứa trẻ
Mở bài:
Khác với các nhà văn đương thời cố đi tìm những diều mới mẻ hoặc lớn lao, khác thường, Thạch Lam một mình lặng lẽ tìm về với những giá trị nguyên sơ vốn bị chìm khuất trong cuộc đời tàn lụi. Ông cũng không cố công kết cấu những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi với Thạch Lam, cuộc đời chưa bao giờ là hoàn chỉnh. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Phong cách ấy thể hiện rõ nét trong tác phầm Hai đứa trẻ. Bức tranh phố huyện và hình ảnh những số phận con người lầm lụi trong hiu hắt ngày tàn được gợi lên thật cảm động.
Thân bài:
Thạch Lam thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Ông rất chậm rãi và nhẹ nhàng đi vào thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật như sợ gây ra tiếng đọng làm đổ vỡ thế giới ấy. Ông chắt chiu từng chút một, đúng ngắm nhìn thạt lâu một trạng thái, một chuyển biens cho đến khi nó dứt hẳn mới thôi. Bởi thế, đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện.
Hai đứa trẻ có kết cấu thật đơn giản. Đơn giản ở chi tiết và kết cấu nhưng lại phức tạp ở chiều sâu suy nghĩ. Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Ai có tâm hồn hời hợt hẳn sẽ không thích cái kiểu kể chuyện lòng vòng, nhạt nhẽo ấy. Thế nhưng, tác phẩm đã gây được sự chú ý và làm rung động biết bao tâm hồn. Điểm cốt yếu đó là, Thạch Lam đã khéo léo nắm bắt tâm hồn người đọc ngay khi họ mới chạm bước chân đầu tiên vào thế giới trong truyện.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị. Buổi chiều khong tàn đi mà động lại trong từng chữ, từng câu, bám chặt lấy mặt đấy, dẫn bước con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
Sức dồn nén của một tác phẩm truyện ngắn là ở những chi tiết nghệ thuật đầy sức nặng. Thạch Lam lại làm một cuộc đảo ngược đầy thú vị. Ông lặng lẽ tìm tòi trong ngổn ngang chất liệu mà người ta không màn để tâm đến. Nhà văn ấy đã lặng lẽ mỉm cười khi phát hiện ra những hạt bụi vàng trong ngổn ngang đất đá. Hai đứa trẻ không có những tình tiết ly kỳ, gây cấn nhưng ít có những người dám cam đoan thấy tâm hồn nhẹ tênh, vô hồn, không cảm xúc khi một lần bước qua thế của cái phố huyện nghèo và lặng lẽ ấy.
Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của một ngày từ chiều ta tới đêm khuya. Khung cảnh của câu chuyện chỉ vận động qua ba mảng màu sáng – tối: chiều tàn- chợ tan- đêm tối. Ấy vậy nó vẫn để lại trong lòng độc giả biết bao thế hệ những ám ảnh đến lạ lùng. Như thế, sức hấp dẫn của thiêng truyện này đâu phải được tạo ra từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, lôi cuốn. Cái lực hấp vô cùng trong Hai đứa trẻ hóa ra lại thoát ra từ chính hơi ấm của tình người lan tỏa trong truyện.
Ai có thể cầm lòng không cảm xúc khi đọc những dòng văn như thế: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve.Lliên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn Buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
Hóa ra, tâm trạng của nhân vật Liên trong buôi chiêu tàn nơi phố huyện cũng chính là của chúng ta trước khoảnh khắc sự sống ban ngày bắt đầu tàn lụi, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, chia ly nhường chỗ cho sum họp, tha hương nhường chỗ cho Trở Về… văn chương giúp níu giữ trong ta những xúc cảm của tình người; giúp Đánh thức phần sâu thẳm của tâm hồn mà bấy lâu ta không thể thốt lên. Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện hấp dẫn nhưng vẫn đủ sức thu hút người đọc là bởi nó giúp níu giữ và đánh thức những phần hồn như thế.
Như một vị khách bộ hành bền bỉ kiếm tiềm, gom nhặt và kế nối thành những vần thơ từ cuộc đời bình dị, Thạch Lam đã khẽ khàng nhắn nhủ tới tất cả chúng một thông điệp: Cái đẹp của cuộc sống có thể bắt gặp từ những cảnh vật, những con người rất đỗi bình thường mà chúng ta không hề để ý. Cảnh vật của buổi chiều tàn lụi làm đọng lại trong ta dư vị của nỗi u hoài thường trực. Nhưng quan trọng hơn, nhói lòng ta mãi bâng khuâng thương nhớ một miền quê có “tiếng trống thứ không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một văng ra Để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và các hình rõ rệt trên nền trời”.
Quê hương nước Việt muôn đời nay vẫn đẹp dịu dàng êm ả và yên tĩnh như tâm hồn Liên, một cô gái mới lớn tinh tế và nhạy cảm đầy sự trân trọng và nâng niu một mảnh hồn của làng quê thân thuộc. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu vo ve Như một dàn đồng ca hòa mình vào thinh không, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng và níu giữ tình yêu với quê hương, xứ sở.
Thạch Lam đã làm thức dậy trong mỗi chúng ta về một miền kí ức xa xăm trong tuổi thơ diệu vợi. Ngắm bầu trời đêm, tìm sông Ngân Hà, dõi theo con vịt bước sau ông Thần Nông,… liệu có ai đã không từng có những kỉ niệm tưởi thơ êm đềm và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta ấn tượng về cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh bình thường, nhỏ nhặt. Nó nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy trân trọng và níu giữ hồn quê. Bởi đó cũng chính là hồn người, hồn nước, hồn của những con người mãi chung tình với quê hương, xứ sở.
Kết bài:
Đọc Hai đứa trẻ, những tâm hồn đa sầu, đa cảm, nặng lòng với đất, với người, với quê hương sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi, thổn thức. Một miền quê với bức tranh nhân thế hắt hiu, với những kiếp người mỏi mòn như tiếng mọt kêu thổn thức trong buổi chiều tàn tạ, nhưng in đậm trong lòng người đọc bởi một trái tim nồng ấm yêu thương.
|
Cảm nhận các nhân vật trong Chiếc lá cuối cùng – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của tác giả O. Hen-ri thấm đượm tình người đã rung lên những sợi dây cảm xúc trong tâm hồn độc giả.
Tình người cao đẹp được thể hiện trước hết ở nhân vật Bơ-men và bức kiệt tác của cụ. Ngay từ đầu đoạn trích, người họa sĩ già khắc khổ này chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết: Xiu và cụ Bơ-men “sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”; “cụ Bơ-men mặc chiếc áo sơ mi cũ màu xanh, ngồi đóng vai một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm tảng đá” và cuối cùng chỉ thấp thoáng qua lời kể của Xiu. Nhưng có lẽ đôi hình ảnh hiếm hoi ấy mãi còn lại trong tâm trí bao người. Giây phút “nhìn cây thường xuân” đầy lo lắng là lúc cụ cảm nhận rõ nhất dáng ngủ yếu ớt cũng như mạng sống mong manh của Giôn-xi. Không ai biết trong ánh nhìn lặng lẽ chẳng nói năng và cái dáng ngồi làm mẫu bất động, cụ đang ấp ủ một điều gì. Đã từ lâu, ông cụ già “nhỏ nhắn dữ tợn” tự coi mình là một con chó xồm lớn chuyên canh gác và bảo vệ cuộc sống của hai nữ họa sĩ trẻ yếu đuối Xiu và Giôn-xi. Với cụ Bơ-men cô độc, có lẽ hai cô gái không khác gì những người ruột thịt, những người thân yêu nhất trong những năm tháng tuổi già hiu quạnh. Thường ngồi làm mẫu cho những bản vẽ của cô chị và hay tâm tình về tác phẩm kiệt xuất của mình, phải chăng đó là những tình cảm ấm áp mà cụ dành cho họ? Cụ hiểu tâm trạng Giôn-xi và nỗi lòng Xiu. Và…O. Hen-ri không kể ông cụ làm gì sau khi về căn hộ cũ tồi tàn của mình. Cách cắt đoạn tạo một khoảng không gian riêng mà trong đó, chẳng ai có thể đoán được cụ Bơ-men sẽ có những hành động cụ thể nào. Nhưng rồi, qua lời kể của cô, chị Xiu, Giôn-xi và người đọc chợt ngỡ ngàng hiểu rõ công việc mà cụ đã âm thầm làm trong im lặng, trong những tiếng gào thét dữ dội của giông bão. Một mình cụ, với ngọn đèn bão, với bảng màu và chiếc thang mà có lẽ phải vất vả lắm cụ mới có thể lôi được nó ra khỏi chỗ cũ…. đã hoàn thành bức kiệt tác của cuộc đời mình. Thân già khổ sở trong đêm tối khủng khiếp đang nhăm nhe quật ngã mọi thứ, phải dũng cảm, chịu khó, bền bỉ như thế nào thì cụ Bơ-men nhỏ nhắn mới có thể gắng sức đương đầu với cơn mưa phũ phàng như vậy? Hơn nữa, vẽ – dẫu chỉ là vật nhỏ nhoi như một chiếc lá – trong hoàn cảnh khắc nghiệt, không ai giúp đỡ lại càng khó khăn gấp bội. Chiếc lá rất thật: “Tuy ở gần cuống lá vẫn còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa” được vẽ nên bằng tất cả tấm lòng, tâm huyết và tài năng của người họa sĩ già Bơ-men. Nhưng điều quan trọng nhất là mục đích cuối cùng của người họa sĩ “thất bại trong nghệ thuật” đã đạt được. Chiếc lá mỏng manh chống chọi, thách thức cùng gió rét đã tiếp thêm sức sống và niềm tin cho Giôn-xi, kéo cô từ vực sâu của chết chóc và bệnh tật lên đỉnh chiến thắng. Nhưng cụ Bơ-men đã vĩnh viễn ra đi. Hóa ra ông cụ già “hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai” lại là một người có thể hi sinh mạng sống của mình vì người khác. Chiếc lá là minh chứng cho tất cả tấm lòng thương yêu và sự quyết tâm cứu cô họa sĩ trẻ đầy tài năng với tương lai phía trước của cụ. Có thể cụ không nghĩ rằng đó là một kiệt tác. Dẫu bức tranh chẳng phải là tác phẩm có thể đưa cụ và hai cô gái trẻ ra khỏi nơi ẩm thấp rẻ tiền mà họ đang trú ngụ, nhưng có lẽ dưới suối vàng cụ vẫn sẽ mỉm cười mãn nguyện. Ngay hành động của cụ cũng đã là một kiệt tác, một kiệt tác vô giá dù không màu sắc, không đường nét, không âm thanh… nhưng chan chứa tình người. Tác giả không trực tiếp miêu tả mà tiết lộ cách “sáng tác” âm thầm, lặng lẽ ấy qua lời nói của Xiu tạo một sự bất ngờ cho người đọc, đồng thời tô đậm thêm tấm lòng cao cả và đức hi sinh như thánh thần của một họa sĩ già nghèo khổ.
Cũng như cụ Bơ-men, khi nhìn cây thường xuân chỉ còn trơ trọi vài chiếc lá, Xiu đã không giấu được nỗi lo sợ của mình. Giôn-xi tuy không ruột rà máu mủ gì với cô, nhưng cô thương Giôn-xi như một người em gái. Khoảnh khắc lặng nhìn cây thường xuân là khoảng lặng nặng nề đè trĩu tâm tư Xiu. Vì thế, sáng hôm sau, khi Giôn-xi yêu cầu kéo rèm cửa lên, cô “làm theo một cách chán nản”. Rõ ràng trong cô vẫn bị ám ảnh bởi tâm trạng bi quan của Giôn-xi. Cô không tin vào điều định mệnh về “chiếc lá cuối cùng” mà Giôn-xi nghĩ đến, nhưng cô sợ, với tình cảnh này, Giôn-xi sẽ thực sự rời xa cô mất. Cụ Bơ-men không nói gì với cô về việc làm của mình, về ý định thay thế chiếc lá thiên nhiên đã rơi rụng bằng một chiếc lá “nhân tạo” nên khi thấy trên cành chỉ còn duy nhất một chiếc lá lay lắt, mỏng manh, yếu ớt, Xiu không khỏi thắt lòng lo sợ. Tiếng thều thào đoán định của Giôn-xi: “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết” như bóp nghẹt trái tim Xiu. Trước mặt Giôn-xi, Xiu tỏ ra mạnh mẽ là thế – một Xiu luôn cứng cỏi gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực của em – nhưng Giôn-xi có biết từ sâu thẳm tâm hồn Xiu cũng yếu đuối và đa cảm lắm? Cô thương Giôn-xi đến nỗi lo sợ không biết rồi mình sẽ ra sao nếu Giôn-xi chết đi “Em thân yêu, thân yêu! Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?” Lời động viên tràn đầy tình thương yêu để Giôn- xi hiểu rằng với Xiu, Giôn-xi như nửa cuộc đời cô. Giôn-xi mất đi rồi, liệu cuộc sống của cô có còn gì gọi là ý nghĩa? “Ngày hôm đó trôi qua, và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn có thể trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc níu vào cái cuống của nó trên tường”, một câu kể ngỡ như bình thường mà chứa đựng bao nỗi niềm. Trong bóng tối đang dần buông xuống, những đôi mắt vẫn không ngừng dõi theo chiếc lá cuối cùng như muốn chứng kiến cảnh chống chọi của nó với thiên thiên khắc nghiệt. Niềm hi vọng vẫn còn đó, nhưng có thể phụt tắt bất cứ lúc nào, khác gì ngọn đèn leo lét trước cơn gió dữ. Nhà văn không dùng một từ ngữ nào để miêu tả tâm trạng Xiu khi sang ngày sau nữa, chiếc lá vẫn dũng cảm bám chặt trên cành, nhưng vẫn có thể hình dung nét mặt tươi tắn của cô. Hẳn Xiu rất mừng khi Giôn-xi muốn ăn cháo. Những cử chỉ chăm sóc tận tình đã được đáp lại. Lời nói của vị thầy thuốc “Được năm phần mười rồi. Chăm sóc chu đáo thì chị sẽ thắng” càng khơi dậy niềm hi vọng vốn có lúc tưởng như tắt lụi. Cùng với sự cổ vũ của “chiếc lá dũng cảm” – kiệt tác của cụ Bơ-men – Xiu đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp Giôn-xi tìm lại được niềm tin và sự sống. Tình bạn và tấm lòng chân thật đã chiến thắng lão già viêm phổi quái ác. Lại một khoảng thời gian nữa trôi qua, khoảng thời gian thể hiện sự tinh tế và chín chắn trong vai trò làm chị của Xiu. Khi Giôn-xi đã lấy lại được sự vui vẻ, Xiu mới nhỏ nhẹ nói cho em sự thật mà có lẽ cô cũng chỉ mới biết không bao lâu. Nếu Xiu biết trước ý định của cụ Bơ-men thì truyện sẽ mất đi nhiều sức hấp dẫn, và chắc chắn cũng sẽ không có đoạn văn thể hiện tâm trạng lo lắng thấm đượm tình người của Xiu. Cô không phải là trung tâm tác phẩm nhưng lại đem đến cho người đọc một tình cảm êm dịu, hiền hòa, góp thêm một phần vào bức tranh với những gam màu sáng của tình người cao đẹp.
Tags:Văn 8
|
Cảm nhận các nhân vật trong Chiếc lá cuối cùng – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của tác giả O. Hen-ri thấm đượm tình người đã rung lên những sợi dây cảm xúc trong tâm hồn độc giả.
Tình người cao đẹp được thể hiện trước hết ở nhân vật Bơ-men và bức kiệt tác của cụ. Ngay từ đầu đoạn trích, người họa sĩ già khắc khổ này chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết: Xiu và cụ Bơ-men “sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”; “cụ Bơ-men mặc chiếc áo sơ mi cũ màu xanh, ngồi đóng vai một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm tảng đá” và cuối cùng chỉ thấp thoáng qua lời kể của Xiu. Nhưng có lẽ đôi hình ảnh hiếm hoi ấy mãi còn lại trong tâm trí bao người. Giây phút “nhìn cây thường xuân” đầy lo lắng là lúc cụ cảm nhận rõ nhất dáng ngủ yếu ớt cũng như mạng sống mong manh của Giôn-xi. Không ai biết trong ánh nhìn lặng lẽ chẳng nói năng và cái dáng ngồi làm mẫu bất động, cụ đang ấp ủ một điều gì. Đã từ lâu, ông cụ già “nhỏ nhắn dữ tợn” tự coi mình là một con chó xồm lớn chuyên canh gác và bảo vệ cuộc sống của hai nữ họa sĩ trẻ yếu đuối Xiu và Giôn-xi. Với cụ Bơ-men cô độc, có lẽ hai cô gái không khác gì những người ruột thịt, những người thân yêu nhất trong những năm tháng tuổi già hiu quạnh. Thường ngồi làm mẫu cho những bản vẽ của cô chị và hay tâm tình về tác phẩm kiệt xuất của mình, phải chăng đó là những tình cảm ấm áp mà cụ dành cho họ? Cụ hiểu tâm trạng Giôn-xi và nỗi lòng Xiu. Và…O. Hen-ri không kể ông cụ làm gì sau khi về căn hộ cũ tồi tàn của mình. Cách cắt đoạn tạo một khoảng không gian riêng mà trong đó, chẳng ai có thể đoán được cụ Bơ-men sẽ có những hành động cụ thể nào. Nhưng rồi, qua lời kể của cô, chị Xiu, Giôn-xi và người đọc chợt ngỡ ngàng hiểu rõ công việc mà cụ đã âm thầm làm trong im lặng, trong những tiếng gào thét dữ dội của giông bão. Một mình cụ, với ngọn đèn bão, với bảng màu và chiếc thang mà có lẽ phải vất vả lắm cụ mới có thể lôi được nó ra khỏi chỗ cũ…. đã hoàn thành bức kiệt tác của cuộc đời mình. Thân già khổ sở trong đêm tối khủng khiếp đang nhăm nhe quật ngã mọi thứ, phải dũng cảm, chịu khó, bền bỉ như thế nào thì cụ Bơ-men nhỏ nhắn mới có thể gắng sức đương đầu với cơn mưa phũ phàng như vậy? Hơn nữa, vẽ – dẫu chỉ là vật nhỏ nhoi như một chiếc lá – trong hoàn cảnh khắc nghiệt, không ai giúp đỡ lại càng khó khăn gấp bội. Chiếc lá rất thật: “Tuy ở gần cuống lá vẫn còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa” được vẽ nên bằng tất cả tấm lòng, tâm huyết và tài năng của người họa sĩ già Bơ-men. Nhưng điều quan trọng nhất là mục đích cuối cùng của người họa sĩ “thất bại trong nghệ thuật” đã đạt được. Chiếc lá mỏng manh chống chọi, thách thức cùng gió rét đã tiếp thêm sức sống và niềm tin cho Giôn-xi, kéo cô từ vực sâu của chết chóc và bệnh tật lên đỉnh chiến thắng. Nhưng cụ Bơ-men đã vĩnh viễn ra đi. Hóa ra ông cụ già “hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai” lại là một người có thể hi sinh mạng sống của mình vì người khác. Chiếc lá là minh chứng cho tất cả tấm lòng thương yêu và sự quyết tâm cứu cô họa sĩ trẻ đầy tài năng với tương lai phía trước của cụ. Có thể cụ không nghĩ rằng đó là một kiệt tác. Dẫu bức tranh chẳng phải là tác phẩm có thể đưa cụ và hai cô gái trẻ ra khỏi nơi ẩm thấp rẻ tiền mà họ đang trú ngụ, nhưng có lẽ dưới suối vàng cụ vẫn sẽ mỉm cười mãn nguyện. Ngay hành động của cụ cũng đã là một kiệt tác, một kiệt tác vô giá dù không màu sắc, không đường nét, không âm thanh… nhưng chan chứa tình người. Tác giả không trực tiếp miêu tả mà tiết lộ cách “sáng tác” âm thầm, lặng lẽ ấy qua lời nói của Xiu tạo một sự bất ngờ cho người đọc, đồng thời tô đậm thêm tấm lòng cao cả và đức hi sinh như thánh thần của một họa sĩ già nghèo khổ.
Cũng như cụ Bơ-men, khi nhìn cây thường xuân chỉ còn trơ trọi vài chiếc lá, Xiu đã không giấu được nỗi lo sợ của mình. Giôn-xi tuy không ruột rà máu mủ gì với cô, nhưng cô thương Giôn-xi như một người em gái. Khoảnh khắc lặng nhìn cây thường xuân là khoảng lặng nặng nề đè trĩu tâm tư Xiu. Vì thế, sáng hôm sau, khi Giôn-xi yêu cầu kéo rèm cửa lên, cô “làm theo một cách chán nản”. Rõ ràng trong cô vẫn bị ám ảnh bởi tâm trạng bi quan của Giôn-xi. Cô không tin vào điều định mệnh về “chiếc lá cuối cùng” mà Giôn-xi nghĩ đến, nhưng cô sợ, với tình cảnh này, Giôn-xi sẽ thực sự rời xa cô mất. Cụ Bơ-men không nói gì với cô về việc làm của mình, về ý định thay thế chiếc lá thiên nhiên đã rơi rụng bằng một chiếc lá “nhân tạo” nên khi thấy trên cành chỉ còn duy nhất một chiếc lá lay lắt, mỏng manh, yếu ớt, Xiu không khỏi thắt lòng lo sợ. Tiếng thều thào đoán định của Giôn-xi: “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết” như bóp nghẹt trái tim Xiu. Trước mặt Giôn-xi, Xiu tỏ ra mạnh mẽ là thế – một Xiu luôn cứng cỏi gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực của em – nhưng Giôn-xi có biết từ sâu thẳm tâm hồn Xiu cũng yếu đuối và đa cảm lắm? Cô thương Giôn-xi đến nỗi lo sợ không biết rồi mình sẽ ra sao nếu Giôn-xi chết đi “Em thân yêu, thân yêu! Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?” Lời động viên tràn đầy tình thương yêu để Giôn- xi hiểu rằng với Xiu, Giôn-xi như nửa cuộc đời cô. Giôn-xi mất đi rồi, liệu cuộc sống của cô có còn gì gọi là ý nghĩa? “Ngày hôm đó trôi qua, và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn có thể trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc níu vào cái cuống của nó trên tường”, một câu kể ngỡ như bình thường mà chứa đựng bao nỗi niềm. Trong bóng tối đang dần buông xuống, những đôi mắt vẫn không ngừng dõi theo chiếc lá cuối cùng như muốn chứng kiến cảnh chống chọi của nó với thiên thiên khắc nghiệt. Niềm hi vọng vẫn còn đó, nhưng có thể phụt tắt bất cứ lúc nào, khác gì ngọn đèn leo lét trước cơn gió dữ. Nhà văn không dùng một từ ngữ nào để miêu tả tâm trạng Xiu khi sang ngày sau nữa, chiếc lá vẫn dũng cảm bám chặt trên cành, nhưng vẫn có thể hình dung nét mặt tươi tắn của cô. Hẳn Xiu rất mừng khi Giôn-xi muốn ăn cháo. Những cử chỉ chăm sóc tận tình đã được đáp lại. Lời nói của vị thầy thuốc “Được năm phần mười rồi. Chăm sóc chu đáo thì chị sẽ thắng” càng khơi dậy niềm hi vọng vốn có lúc tưởng như tắt lụi. Cùng với sự cổ vũ của “chiếc lá dũng cảm” – kiệt tác của cụ Bơ-men – Xiu đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp Giôn-xi tìm lại được niềm tin và sự sống. Tình bạn và tấm lòng chân thật đã chiến thắng lão già viêm phổi quái ác. Lại một khoảng thời gian nữa trôi qua, khoảng thời gian thể hiện sự tinh tế và chín chắn trong vai trò làm chị của Xiu. Khi Giôn-xi đã lấy lại được sự vui vẻ, Xiu mới nhỏ nhẹ nói cho em sự thật mà có lẽ cô cũng chỉ mới biết không bao lâu. Nếu Xiu biết trước ý định của cụ Bơ-men thì truyện sẽ mất đi nhiều sức hấp dẫn, và chắc chắn cũng sẽ không có đoạn văn thể hiện tâm trạng lo lắng thấm đượm tình người của Xiu. Cô không phải là trung tâm tác phẩm nhưng lại đem đến cho người đọc một tình cảm êm dịu, hiền hòa, góp thêm một phần vào bức tranh với những gam màu sáng của tình người cao đẹp.
Tags:Văn 8
|
Cảm nhận cái ngông của Nguyễn Công Trứtrong Bài ca ngất ngưởng
Hướng dẫn
Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Mở bài:
Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi bậc trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ 19. Ông là người có tài, lại là một người của hành động. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mnihf vào thơ ca hết sức điêu luyện, thể hiện cái khí phách ngang tàng, tài hoa của một tài thơ xuất chúng. Bài ca ngất ngưỡng là một thi phẩm nổi bạc của ông viết khi đã về hưu, vui thú an nhàn. Bài thơ thể hiện sâu sắc cái ngông của Nguyễn Công Trứ trước cuộc đời:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong,
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Thân bài:
Ngay tựa đề bài thơ đã nói lên sự ngất ngưởng của tinh thần bậc dũng tướng. Phong thái ấy tiếp tục được triển khai ở khắp bài thơ.
Nguyễn Công Trứ vốn là người kiêu ngạo và tài hoa. Thật hiếm thấy trong nền thơ và lịch sử một người đa tài và mạnh mẽ như thế. Không nhũng ông giỏi trong việc điều binh trị nước mà thi ca cũng vào hạng xuất chúng, kinh tế cũng thu về nhiều thành tựu. Ông lại là người tận trung tận hiếu với đất nước. Cũng là người hết sức mê chơi. Bởi thế mà trong ông luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn khó giải bày. Cuộc đời cũng thăng trầm không ít.
Cho nên mở bài, ông nói lên cái tình cảnh của ông:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.
Trong trời đất này không có chuyện gì không phải là của ta. Nghĩa là trời đất này ở trong tầm tay của ông. Việc của trời đất cũng là việc của ông. Câu thơ thể hiện cái chí kinh bang tế thế của người làm trai của thời đại. Từ đó làm hiện lên hình bóng lẫm liệt, phi thường của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, mắt dõi trong bốn phương tám hướng, thâu tóm cả trời đất.
Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn nhận lấy cái giới hạn của cuộc đời. Ý tứ vừa kín vừa hở như tự giễu cợt mình. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với sở tính của ông. Làm quan là để phục vụ cho dân, cho nước, đem cái tài mà tranh hùng với thiên hạ, thỏa chí tang bồng. Thế nhưng, quan trường nhiễu nhương, đúng sai khó phân. Lại thêm nguyên tắc, điều luật chặt chẽ. Đâu thể tự ý mà làm. Đâu thể thấy điều lợi cho muôn dân mà tự ý thực hành điều lợi ấy được.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.
Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa, đứng đầu cuộc ứng thí đâu phải chuyện thường đâu. Rồi làm quan đến chức Tham tán quân sự. Lại đến khi làm Tổng đốc Hải An, một mình đứng đầu một tổng đâu phải chuyện thường. Rồi khi quân tình loạn lạc, ông lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta). Sau lại về làm Phủ Doãn Thừa Thiên.
Những danh hiệu và chức vị cao quý tột bậc ấy là điều mơ ước của biết bao người. Chỉ cần một trong những vinh vang ấy thôi cũng đủ tự hào lắm rồi. Thế mà, Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ. Tất cả vì dân vì nước. Được tin cẩn thì nhận lấy nghĩa vụ. Công việc đến tay mình thì làm. Cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức.
Với ông, công danh phú quý nào có xá gì. Người tài năng như ông đạt được danh vọng cũng không hề khó. Ông không xem đó là cái cần đạt, không là mục đích đến của khát vọng và hành động. Ông luôn tâm niệm, làm trai là phải vì đất nước mà tận trung tận hiếu. Trọn cuộc đời ông nào giữ lại gì cho riêng ông. Ông chỉ giữ lại cho mình cái tình yêu cuộc đời thắm thiết và tình yêu cái đẹp bình dị mà đắm say
Bằng mấy lời tổng kết cuộc đời, Nguyễn Công Trứ thể hiện sâu sắc cái tài năng phi thường, cái chí khí ngang tàng, cái “ngông” tài hoa của mình. Suốt cuộc đời ông vừa làm việc vừa chơi. Chơi mà không quên nghĩa vụ. Làm mà cũng không quên chơi. Bởi thế, hễ có thời gian là ông đi chơi. Mà ông chơi cũng bạo lắm. Ông thích chơi “ngông” với đời:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Lúc còn ở quan trường, vì giữ lễ mà có chút kín kẽ. Khi đã “giải tổ chi niên” rồi, ông không ngại ngần gì nữa. Ông làm những trò cười mà người khác không dám làm. Người giàu sang thì cưỡi ngựa, áo quần sang trọng. Còn cụ, dù là vị quan về hưu, nhưng lại thích cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa. Người đời bảo cụ khác người. Có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế. Cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Phải đâu cụ muốn khoe mình hy gây sự chú ý bằng cái kì quặc. Cụ muốn thể hiện cái ý của mình và nhắc nhở nhân thế đấy thôi
Xưa Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về núi. Nay Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng là muốn làm theo người xưa đó thôi. Ông cười cho cái sự đời nhiễu nhương, miệng đời gian trá. Lòng người vốn có nhiều u uẩn, chỉ nhìn thấy cái hình mà không nhìn thấy cái ý. Sự ngạc nhiên của người đời khiến cho ông thích thú. Cưỡi ngựa hay cưỡi bò đâu có gì khác biệt. Có khác chăng là bởi từ cái nhìn của con người mà thôi. Đôi mắt trần tục làm sao thấy được tấm lòng của thánh nhân
Chỉ rõ bản chất ấy, ông cảm khái câu thơ ngất ngưỡng:
“Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”.
Nguyễn Công Trứ đã cố tạo ra cái mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Bên ngoài tục mà tiên. Bên trong tiên mà lại tục. Rồi sau đó, ông lại phủ nhận luôn cái ẩn ý của mình
Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau. Cụ cười mình là: “tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. Kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì chính là các cô ả đầu. Hình thức đã không đúng mực, lại còn bất kính. Lên chùa lễ phật tát phải trang nghiêm, kính cẩn. Ở đây, ông dẫn cả cô đầu, vừa nhếch nhác lại vừa ồn ào chẳng ra gì. Thế nhưng, Bụt không giận, không quỏ trách mà còn cười độ lượng theo ông.
“Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Đối với cụ, làm người thì phải tận hiến cho đời. Đã tận dâng, tận hiến rồi thì lời khen chê, cái được mất phỏng có ý nghĩa gì nữa đâu. Cái cốt là tìm thấy niềm vui trong sạch ở cõi đời này. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… Tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng.
Câu thơ ngắt nhịp như tiếng phách tiếng đàn. Tiếng dài thanh thoát, cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần. Âm điệu thênh thang, bay bổng tung lên không trung như gió thổi trời cao. Tiếng ngắn rộn ràng, dìu dặt như nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng. Rồi tất cả dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh trong tiếng tùng mãn cuộc. Chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn. Mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần. Mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc. Niêm luật tự do, đối không bắt buộc. Âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ vừa bi thương vừa hùng tráng lại như cười cợt, trêu đùa với đời
|
Cảm nhận cái ngông của Nguyễn Công Trứtrong Bài ca ngất ngưởng
Hướng dẫn
Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Mở bài:
Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi bậc trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ 19. Ông là người có tài, lại là một người của hành động. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mnihf vào thơ ca hết sức điêu luyện, thể hiện cái khí phách ngang tàng, tài hoa của một tài thơ xuất chúng. Bài ca ngất ngưỡng là một thi phẩm nổi bạc của ông viết khi đã về hưu, vui thú an nhàn. Bài thơ thể hiện sâu sắc cái ngông của Nguyễn Công Trứ trước cuộc đời:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong,
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Thân bài:
Ngay tựa đề bài thơ đã nói lên sự ngất ngưởng của tinh thần bậc dũng tướng. Phong thái ấy tiếp tục được triển khai ở khắp bài thơ.
Nguyễn Công Trứ vốn là người kiêu ngạo và tài hoa. Thật hiếm thấy trong nền thơ và lịch sử một người đa tài và mạnh mẽ như thế. Không nhũng ông giỏi trong việc điều binh trị nước mà thi ca cũng vào hạng xuất chúng, kinh tế cũng thu về nhiều thành tựu. Ông lại là người tận trung tận hiếu với đất nước. Cũng là người hết sức mê chơi. Bởi thế mà trong ông luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn khó giải bày. Cuộc đời cũng thăng trầm không ít.
Cho nên mở bài, ông nói lên cái tình cảnh của ông:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.
Trong trời đất này không có chuyện gì không phải là của ta. Nghĩa là trời đất này ở trong tầm tay của ông. Việc của trời đất cũng là việc của ông. Câu thơ thể hiện cái chí kinh bang tế thế của người làm trai của thời đại. Từ đó làm hiện lên hình bóng lẫm liệt, phi thường của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, mắt dõi trong bốn phương tám hướng, thâu tóm cả trời đất.
Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn nhận lấy cái giới hạn của cuộc đời. Ý tứ vừa kín vừa hở như tự giễu cợt mình. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với sở tính của ông. Làm quan là để phục vụ cho dân, cho nước, đem cái tài mà tranh hùng với thiên hạ, thỏa chí tang bồng. Thế nhưng, quan trường nhiễu nhương, đúng sai khó phân. Lại thêm nguyên tắc, điều luật chặt chẽ. Đâu thể tự ý mà làm. Đâu thể thấy điều lợi cho muôn dân mà tự ý thực hành điều lợi ấy được.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.
Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa, đứng đầu cuộc ứng thí đâu phải chuyện thường đâu. Rồi làm quan đến chức Tham tán quân sự. Lại đến khi làm Tổng đốc Hải An, một mình đứng đầu một tổng đâu phải chuyện thường. Rồi khi quân tình loạn lạc, ông lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta). Sau lại về làm Phủ Doãn Thừa Thiên.
Những danh hiệu và chức vị cao quý tột bậc ấy là điều mơ ước của biết bao người. Chỉ cần một trong những vinh vang ấy thôi cũng đủ tự hào lắm rồi. Thế mà, Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ. Tất cả vì dân vì nước. Được tin cẩn thì nhận lấy nghĩa vụ. Công việc đến tay mình thì làm. Cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức.
Với ông, công danh phú quý nào có xá gì. Người tài năng như ông đạt được danh vọng cũng không hề khó. Ông không xem đó là cái cần đạt, không là mục đích đến của khát vọng và hành động. Ông luôn tâm niệm, làm trai là phải vì đất nước mà tận trung tận hiếu. Trọn cuộc đời ông nào giữ lại gì cho riêng ông. Ông chỉ giữ lại cho mình cái tình yêu cuộc đời thắm thiết và tình yêu cái đẹp bình dị mà đắm say
Bằng mấy lời tổng kết cuộc đời, Nguyễn Công Trứ thể hiện sâu sắc cái tài năng phi thường, cái chí khí ngang tàng, cái “ngông” tài hoa của mình. Suốt cuộc đời ông vừa làm việc vừa chơi. Chơi mà không quên nghĩa vụ. Làm mà cũng không quên chơi. Bởi thế, hễ có thời gian là ông đi chơi. Mà ông chơi cũng bạo lắm. Ông thích chơi “ngông” với đời:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Lúc còn ở quan trường, vì giữ lễ mà có chút kín kẽ. Khi đã “giải tổ chi niên” rồi, ông không ngại ngần gì nữa. Ông làm những trò cười mà người khác không dám làm. Người giàu sang thì cưỡi ngựa, áo quần sang trọng. Còn cụ, dù là vị quan về hưu, nhưng lại thích cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa. Người đời bảo cụ khác người. Có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế. Cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Phải đâu cụ muốn khoe mình hy gây sự chú ý bằng cái kì quặc. Cụ muốn thể hiện cái ý của mình và nhắc nhở nhân thế đấy thôi
Xưa Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về núi. Nay Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng là muốn làm theo người xưa đó thôi. Ông cười cho cái sự đời nhiễu nhương, miệng đời gian trá. Lòng người vốn có nhiều u uẩn, chỉ nhìn thấy cái hình mà không nhìn thấy cái ý. Sự ngạc nhiên của người đời khiến cho ông thích thú. Cưỡi ngựa hay cưỡi bò đâu có gì khác biệt. Có khác chăng là bởi từ cái nhìn của con người mà thôi. Đôi mắt trần tục làm sao thấy được tấm lòng của thánh nhân
Chỉ rõ bản chất ấy, ông cảm khái câu thơ ngất ngưỡng:
“Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”.
Nguyễn Công Trứ đã cố tạo ra cái mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Bên ngoài tục mà tiên. Bên trong tiên mà lại tục. Rồi sau đó, ông lại phủ nhận luôn cái ẩn ý của mình
Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau. Cụ cười mình là: “tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. Kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì chính là các cô ả đầu. Hình thức đã không đúng mực, lại còn bất kính. Lên chùa lễ phật tát phải trang nghiêm, kính cẩn. Ở đây, ông dẫn cả cô đầu, vừa nhếch nhác lại vừa ồn ào chẳng ra gì. Thế nhưng, Bụt không giận, không quỏ trách mà còn cười độ lượng theo ông.
“Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Đối với cụ, làm người thì phải tận hiến cho đời. Đã tận dâng, tận hiến rồi thì lời khen chê, cái được mất phỏng có ý nghĩa gì nữa đâu. Cái cốt là tìm thấy niềm vui trong sạch ở cõi đời này. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… Tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng.
Câu thơ ngắt nhịp như tiếng phách tiếng đàn. Tiếng dài thanh thoát, cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần. Âm điệu thênh thang, bay bổng tung lên không trung như gió thổi trời cao. Tiếng ngắn rộn ràng, dìu dặt như nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng. Rồi tất cả dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh trong tiếng tùng mãn cuộc. Chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn. Mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần. Mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc. Niêm luật tự do, đối không bắt buộc. Âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ vừa bi thương vừa hùng tráng lại như cười cợt, trêu đùa với đời
|
Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hình tượng Lor-ca
Dàn ý
I. Mở bài
– Giới thiệu bài thơ
– Giới thiệu hình ảnh Lor – ca
Cảm nhận của anh chị về hình tượng Lor-ca
II. Thân bài
Lor – ca là người chiến sĩ đấu tranh cho sự tự do, cho những khát vọng chân chính về con người và về nghệ thuật. Hình ảnh Lor – ca được thể hiện qua thi ảnh và ngôn từ mới mẻ trong bài thơ, hình ảnh này được tác giả gợi nhiều hơn tả.
a) Hai khổ thơ đầu:
Cho ta cảm nhận hình ảnh một con người nghĩa khí:
– Chàng chủ xướng, tuyên truyền cho khát vọng, cho lí tưởng sống vì con người. Khiêu chiến với chủ nghĩa độc tài thân phát xít. Tiếng đàn là biểu tượng cho tiếng nói tuyên truyền, tuyên ngôn cho trường phái cách tân nghệ thuật trong khung cảnh chính trị sa sút và nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha
– Chàng đã chết vì khát vọng chân chính của mình “áo choàng bê bết đỏ" Đó là nỗi kinh hoàng mà bọn độc tài phái xít gây ra
– Hình tượng Lor – ca mang một vẻ bi tráng
b) Những khổ thơ sau:
“ Lor-ca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc”.
Lor – ca không thể chêt, chàng vẫn tồn tại vĩnh hằng trong thế giới này, kiêu hãnh và khẳng định lí tưởng sống của mình và mãi mãi toả sáng.
– Lor – ca đã làm một cuộc cách mạng “ném lá bùa cô gái Di – gan vào xoáy nước”. Cuộc đấu tranh ấy vẫn còn đang tiếp diễn, đang có mặt Lor – ca. Chàng chỉ “ném trái tim mình vào lặng yêu bất chợt” mà thôi.
– Cái chết thực sự của nhà cách tân Lor – ca là khi những khát vọng của anh không còn tiếp tục nhưng cái chết đau đớn của một nhà cách tân còn là khi tên tuổi và sáng tạo của anh trở thành một bức thành kiên cố cản sự cách tân văn chương của những người đến sau.
– Các hình ảnh đường chỉ tay, con sông… mang ý nghĩa tượng trưng cho giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những ràng buộc hệ lụy trần gian
III. Kết bài
Nhà thiên tài Lor – ca là một nghệ sĩ vĩ đại, đã chiến đâu, hi sinh lí tưởng nghệ thuật, lí tưởng sống của mình. Tên tuổi Lor – ca trở thành một biểu tượng là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới, chống chủ nghĩa phát xít. bảo vệ văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại.
|
Topic: Your feelings about the image of Lorca
Outline
I. Introduction
– Introduce the poem
– Introducing the image of Lor – ca
Your feelings about the image of Lor-ca
II. Body of the article
Lor - ca is a fighter for freedom, for true human and artistic aspirations. The image of Lor - ca is expressed through poetry and new language in the poem. This image is evoked by the author more than described by the author.
a) The first two stanzas:
Let us feel the image of a virtuous person:
– He initiates and propagates aspirations and ideals of living for people. Protest against pro-fascist dictatorship. The sound of the instrument is a symbol of the propaganda voice, a declaration for the school of artistic innovation in Spain's deteriorating political and aging artistic landscape.
– He died because of his true desire "red cloak" That is the horror that fascist dictators cause
– The image of Lor - ca has a tragic look
b) The following stanzas:
“ Lor-ca swam sideways
On a silver guitar.”
Lor - brother cannot die, he still exists eternally in this world, proud and affirming his ideal of life and forever shining.
– Lor - ca made a revolution "throwing the gypsy girl's talisman into the whirlpool". That struggle is still going on, with Lor - ca. He just "threw his heart into sudden love".
– The true death of an innovator Lor - ca is when his aspirations no longer continue, but the painful death of an innovator is also when his name and creativity become a solid wall hindered the literary innovation of those who came later.
– The images of palm lines, rivers... have symbolic meanings of farewell and liberation, a true farewell to earthly attachments.
III. End
The genius Lor - ca is a great artist who fought and sacrificed his artistic ideals and his ideals of life. The name Lor - ca became a symbol and a flag that gathered Spanish and world cultural workers against fascism. protect national culture and human culture.
|
Cảm nhận của anh chị về hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Hướng dẫn
Cảm nhận của anh chị về hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Tây Nguyên từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu nghệ sĩ sáng tạo cho nghệ thuật. Trong số đó có tác giả Nguyễn Trung Thành đã mang tới cho chúng ta tác phẩm cây xà nu để chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của Tây Nguyên, cụ thể là những nét đẹp về thiên nhiên và con người. Trong tác phẩm này, nổi bật nhất vẫn là phẩm chất của Tnú, tiêu biểu nhất là đôi bàn tay của anh.
Có thể nói, hình ảnh đôi bàn tay Tnú mang tới cho người đọc một ấn tượng rất lớn, không những thế, nó còn mang ý đồ nghệ thuật của tác giả muốn gửi gắm qua đó. Đó là một hình ảnh thực sự đẹp. Đôi bàn tay ấy cũng có một cuộc đời, cuộc đời ấy giống như cả cuộc đời của Tnú vậy. Cũng có những lúc anh hùng nhưng cũng phải chịu nhiều đau thương mất mát. Thế nhưng cho tới cuối cùng thì bàn tay ấy cũng giết chết biết bao nhiêu kẻ thù đê báo thù cho tất cả những đau thương mà nó cũng như chủ nhân của nó phải chịu.
Bàn tay ấy đầu tiên đã cùng Mai học chữ trong rừng, bàn tay ấy nhanh nhẹn cầm những bức thư liên lạc để vượt qua mọi gian nan thử thách với những vòng vay của giặc để mang tới cho những người cán bộ ở trong rừng. Qua đây chúng ta có thể thấy được hình ảnh đôi bàn tay ấy thật đẹp, nhỏ nhắn đáng yêu nhưng cũng không kém phần dũng cảm.
Không những thế, đôi bàn tay ấy còn mang một vẻ đẹp lớn đó là vẻ đẹp của sự gan dạ nữa. Chính đôi bàn tay ấy vạch rừng vượt thời gian để mang thư mật tới cho những người cộng sản và ngay cả khi bị bắt thì đôi bàn tay đó cũng không ngần ngại chỉ thẳng vào bụng mà nói“cộng sản ở đây này”.
Mặc cho những lần chỉ tay ấy lại chằng chịt vết dao chém. Có thể nói vẻ đẹp của Tnú qua đôi bàn tay đó lại được hiện lên rất kiên cường, đó là vẻ đẹp của sự gan góc, quả cảm không hề sợ những tên giặc trước mặt mình.
Và bàn tay đó khi lớn lên còn cầm cả tay Mai để hẹn hò. Đó chính là bàn tay dịu dàng, ấm áp dắt Mai đi tới những hạnh phúc và yêu thương.
Cái đêm mẹ con Mai bị tra tấn cho tới chết thì chính bàn tay ấy cũng là cánh tay đỡ lấy vợ mình, có thể nói đó là một cánh tay vững chải và đầy sự yêu thương.
Bàn tay ấy tuy không còn nguyên vẹn nữa nhưng nó còn đẹp hơn bởi vì bàn tay ấy cho tới sau này vẫn có thể cầm chắc tay súng và giết chết biết bao nhiêu quân giặc và cũng chính bàn tay đó đã giết chết thằng Dục để báo thù cho mẹ con Mai.
Như vậy, qua đây chúng ta có thể thấy được hình ảnh đôi bàn tay của Tnú là một chi tiết nghệ thuật thực sự đặc sắc. Có thể thấy rằng bàn tay ấy cũng có cả một cuộc đời như Tnú vậy: hiền lành, gan dạ, biết yêu thương,, chịu nhiều đau thương và rồi cuối cùng nó vẫn hoạt động như một đôi vàn tay bình thường. Bàn tay ấy không chỉ giết giặc mà còn để đưa cơm cho cán bộ và cũng là bàn tay yêu thương dắt Mai đi tới bến bờ hạnh phúc của tình yêu.
Nguồn: Bài văn hay
|
Your thoughts on the image of Tnú's hands in the Snake Forest by Nguyen Trung Thanh
Instruct
Your thoughts on the image of Tnú's hands in the Snake Forest by Nguyen Trung Thanh
The Central Highlands has long been a source of inspiration for many creative artists. Among them is author Nguyen Trung Thanh who brought us the work of the snake plant so that we can see the beauty of the Central Highlands, specifically the beauty of nature and people. In this work, Tnú's qualities are most prominent, most notably his hands.
It can be said that the image of Tnú's hands gives the reader a great impression, not only that, it also carries the author's artistic intention that he wants to convey through it. It's a really beautiful image. Those hands also have a life, that life is like Tnú's whole life. There were times when he was heroic but also had to endure a lot of pain and loss. But in the end, that hand also killed many enemies to avenge all the pain that it and its owner had suffered.
That hand first learned literacy with Mai in the forest, that hand nimbly held letters of communication to overcome all hardships and challenges with loans from the enemy to bring to the officials in the forest. Through this we can see the image of those hands, so beautiful, small and lovely but equally brave.
Not only that, those hands also carry a great beauty, the beauty of courage. It was those hands that crossed the forest through time to bring secret letters to the communists and even when arrested, those hands did not hesitate to point straight at the stomach and say "communists are here".
Even though those pointing fingers were covered in knife cuts. It can be said that Tnú's beauty through those hands is shown to be very resilient, it is the beauty of bravery and courage, not afraid of the enemies in front of her.
And that hand when he grew up even held Mai's hand on a date. That is the gentle, warm hand that leads Mai to happiness and love.
The night Mai and her mother were tortured to death, that same hand was also the arm that supported his wife, it could be said that it was a strong and loving arm.
Even though that hand was no longer intact, it was even more beautiful because that hand could still hold the gun firmly and kill so many enemy soldiers, and it was also that hand that killed Duc. avenge Mai and her mother.
Thus, here we can see that the image of Tnú's hands is a truly unique artistic detail. It can be seen that that hand also has a whole life like Tnú: gentle, brave, loving, suffering a lot of pain and in the end it still functions like a normal pair of hands. That hand not only kills the enemy but also gives food to the officers and is also the loving hand that leads Mai to the happy shore of love.
Source: Good article
|
Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh ngày hè
Hướng dẫn
Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh ngày hè
Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật lịch sử được nhiều người biết đến. Ông vừa là một vị quan trung thành, yêu nước thương dân, luôn sống liêm khiết, trong sạch và yêu thiên nhiên vô cùng, vừa là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm giàu giá trị. Mỗi một tác phẩm đều thể hiện một nỗi niềm riêng của ông. Trong đó, bài thơ “Cảnh ngày hè” với những cảnh sắc thiên nhiên sống động đã ẩn chứa bao tâm tư, tình cảm của Nguyễn Trãi đối với thiên nhiên, với con người và đất nước.
Bởi quá yêu thiên nhiên, nên ông đã để hồn mình hòa nhập vào vạn vật xung quanh một cách trọn vẹn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”
Hòe lục, thạch lựu và hồng liên trì chỉ là những loài cây hết sức bình thường, nhưng khi hiện hữu dưới ngòi bút của nhà thơ, tất cả đã tạo nên một khung cảnh hết sức sống động và tràn trề nhựa sống: Hòe lục đùn đùn, thạch lựu phun, Hồng liên trì tiễn. Những động từ mà tác giả đã dùng đều thể hiện một sức sống đang tuôn trào mạnh mẽ, như có một lực gì đó đang thúc đẩy ngay bên trong thân cây, khiến chúng phải bung ra khỏi cành cây, nở rộ trước đất trời mùa hạ. Cây cối sinh sôi nảy nở theo quy luật tự nhiên của chúng, nhưng ở đây, lòng yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ giống như một loại chất kích thích mạnh mẹ khiến cây cối trỗi dậy, vươn mình tỏa sắc hương. Xuân Diệu cũng từng yêu thiên nhiên đến mức cuồng si, mãnh liệt:
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si ”
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Cả hai nhà thơ đều hòa mình vào thiên nhiên, biến hóa thiên nhiên với những động từ, tính từ mạnh khiến cảnh vật hiện lên giống như một mâm cỗ cao sang, thịnh vượng với những món ăn nóng hổi đang chờ người thưởng thức. Và nếu như Xuân Diệu muốn ngấu nghiến cảnh sắc của mùa xuân, thì ở đây Nguyễn Trãi lại hào hứng tận hưởng những “món ngon” của mùa hè.
Không những thế, Nguyễn Trãi còn có tấm lòng yêu thương con người rất chân thành và giản dị qua những vần thơ tiếp theo:
“Lao xao chợ cá làng ngủ phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bên cạnh cảnh sắc thiên nhiên đang tràn trề sức sống, một cảnh tượng khác về con người nơi đây cũng đang tấp nập nhộn nhịp. Hai từ “lao xao” cũng đủ để nói lên sự huyên náo của “chợ cá làng ngư phủ” – một ngôi làng sống bằng nghề đánh bắt cá. Phiên chợ mua bán trao đổi cá thật sống động dưới ngòi bút của nhà thơ. Cộng thêm tiếng ve kêu “dắng dỏi” càng làm cho không gian thêm nhộn nhịp và đậm chất mùa hè. Trong khung cảnh ấy, lại khiến cho lòng người chất chứa bao cảm xúc. Nhất là đối với một người giàu lòng yêu thiên nhiên, yêu con người như Nguyễn Trãi. Thế nên, ông đã nhắc đến câu chuyện thần thoại của Trung Quốc về “Ngu cầm”. Thần thoại ấy kể rằng hai triều vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai triều đại lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua Ngu Thuấn có khúc hát Nam phong, trong đó có câu: Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề (Gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của). Ngu cầm là đàn của vua Ngu Thuấn. Ý cả câu: Hãy để cho ta có đàn của vua Thuấn để đàn một khúc Nam phong. Như vậy, trong lòng Nguyễn Trãi vẫn luôn ấp ủ một nỗi niềm, một ước mong rằng đất nước được thái bình, nhân dân được no đủ, hạnh phúc. Ước mơ ấy cũng là điều mong mỏi của rất nhiều bậc chí nhân quân tử, của những vị quan thanh liêm giống như Nguyễn Trãi. Và đương nhiên, nhân dân cũng luôn mong có một cuộc sống bình yên, ấm cúng. Chỉ tiếc rằng, vì quá nhân hậu và trong sạch, Nguyễn Trãi đã bị kẻ xấu hãm hại, khiến ông phải sống một cuộc sống eo le, khổ cực và rồi chết cũng oan ức, tội nghiệp.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” chỉ là một trong số rất nhiều tác phẩm khác thể hiện nhân cách và tấm lòng cao đẹp của Nguyễn Trãi. Trong bài thơ, ông không những dùng hết những giác quan của mình để cảm nhận về thiên nhiên mà còn thể hiện cả tâm tư, tình cảm của bản thân với dân, với nước. Ông mãi mãi là một điểm sáng của dân tộc Việt Nam, và là một nhà thơ lớn của văn học nước nhà.
|
Your feelings about the beauty of nature and Nguyen Trai's soul through the poem Summer Day Scenes
Instruct
Your feelings about the beauty of nature and Nguyen Trai's soul through the poem Summer Day Scenes
Nguyen Trai is one of the famous historical figures. He was both a loyal official, patriotic to the people, always lived an honest, pure life and loved nature immensely, as well as a famous poet with many valuable works. Each work expresses his own feelings. In it, the poem "Summer Day Scene" with its vivid natural scenery contains many of Nguyen Trai's thoughts and feelings towards nature, people and the country.
Because he loved nature so much, he let his soul fully integrate into everything around him:
“Then enjoy the fresh air of school days,
Green flowers spread out and spread out.
Pomegranate jelly still sprays red,
The red lotus tree has sent away the scent.”
Green rose, pomegranate and persimmon are just very ordinary plants, but when they exist under the poet's pen, they all create a very lively scene full of life: Green rose. extrusion extrusion, pomegranate spray, Red lotus chi arrow. The verbs that the author used all express a strong flowing vitality, as if there is a force pushing right inside the tree trunk, causing them to burst out of the branches, blooming before the weather. Summer. Trees proliferate according to their natural laws, but here, the poet's passionate love for nature is like a strong stimulant that causes the trees to rise up and spread their fragrance. Xuan Dieu also loved nature to the point of madness and intensity:
Here are the flowers of the green fields;
Here and there, the leaves of silk branches flutter;
This is my song of love."
(Hurry – Xuan Dieu)
Both poets immerse themselves in nature, transforming it with strong verbs and adjectives, making the scene appear like a luxurious, prosperous feast with hot dishes waiting to be enjoyed. And if Xuan Dieu wants to devour the scenery of spring, here Nguyen Trai is excited to enjoy the "delicious dishes" of summer.
Not only that, Nguyen Trai also has a very sincere and simple heart of love for people through the following poems:
“The bustle of the fish market in the sleepy village
Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor
There might be a fool who plays the guitar for a while
Rich people everywhere demand direction."
Besides the natural scenery that is full of vitality, another scene of people here is also bustling. The two words "noisy" are enough to express the bustle of the "fisherman's village fish market" - a village that lives by fishing. The fish trading market is very lively under the poet's pen. Plus the loud sound of cicadas makes the space even more bustling and summery. In that scene, people's hearts are filled with so many emotions. Especially for a person who loves nature and people like Nguyen Trai. So, he mentioned the Chinese myth of “Yuqin”. That myth tells that the two dynasties of King Duong Nghieu and Ngu Thuan were two ideal dynasties, with a peaceful society and happy people. Particularly, King Ngu Thuan has a song called Nam Phong, which has the sentence: "If the wind is favorable in the south, then it is not possible to spare the people's wealth." The Ngu Cam is the instrument of King Ngu Thuan. The meaning of the whole sentence is: Let me have King Thuan's instrument to play a Nam Phong song. Thus, in Nguyen Trai's heart, he always cherishes a feeling, a wish that the country is peaceful and the people are prosperous and happy. That dream is also the wish of many noble men and honest officials like Nguyen Trai. And of course, people always want a peaceful and cozy life. It's just a pity that, because he was too kind and pure, Nguyen Trai was harmed by bad people, causing him to live a difficult and miserable life and then die unfairly and pitifully.
The poem "Summer Day Scene" is just one of many other works that express Nguyen Trai's noble personality and heart. In the poem, he not only used all his senses to feel about nature but also expressed his thoughts and feelings towards the people and the country. He will forever be a bright spot of the Vietnamese people, and a great poet of the country's literature.
|
Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
Hướng dẫn
Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
Bài làm
Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng lay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán qui chiếu vào văn học 1930 – 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam… Như bị lùa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lí chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.
Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đen”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.
Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện – có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bần của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội. Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhứt trong xã hội lúc đó là những người nghèo.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cải gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội dù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phô huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũg như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ. Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng lọi qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa cửa bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng dàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chim ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Lièn yên tình hẳn, có những cảm giác ma hồ lihônq hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.
Thử đặt một giả định: Phố huyện không có chuyến tàu đi qua hàng đêm, con người sẽ gửi gắm ước mơ khoáng hậu của họ vào đâu? Sẽ là khó trả lời, vì chuyến tàu là sự tương phản cuối cùng, mang ý nghĩa nhất mà Thạch Lam cần biểu đạt. Mọi hình ảnh không gian, thời gian sự vật, con người trong trạng thái chờ đợi mòn mỏi suốt mấy trang giấy chỉ nhằm tới chi tiết cuối cùng: lúc con tàu đi qua. Con tàu hi vọng đồng thời là “thuốc thử” đối với xã hội và kiếp người. Là nhà văn tâm huyết với dân tộc, Thạch Lam nắm bắt được sự ngưng trệ, tù túng của xã hội ông. Ông muốn ánh sáng văn minh chiếu rọi lên đêm đen của dân tộc. Ông không hướng nhân vật của ông tới hành động tự phát của anh Pha, tới sự nhẫn nhục có bản lĩnh của chị Dậu, ông hướng họ tới văn hóa, để vượt thoát khỏi tình trạng ngột ngạt. Truyện ngắn không có bóng dáng một xã trưởng, một thầy lý, một thầy đội nào… nhưng vẫn làm người đọc liên tưởng tới nguyên nhân nỗi thống khổ của những con người trong truyện.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của mọi khoảnh khắc, là một đêm buồn bã giữa những đêm buồn bã, một đêm có “dấu chấm lửng” ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa chọn đúng cả không gian, thời gian, con người và địa điểm rất chung và rất riêng. Phố huyện, nơi cả đời mong được tới một lần của dân quê xưa có dáng dấp của làng xã, văn minh thành thị có ghé qua với đường tàu hỏa và phố xá có đèn dây sáng xanh, có gánh phở đêm, có phu gạo, phu xe… vẫn là nửa quê nửa tĩnh; Hà Nội vẫn là hình ảnh mơ hồ “không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Có lẽ vì xem nhân vật của mình bé nhỏ, đáng thương mà Thạch Lam dùng “Hai đứa trẻ” để chỉ hai chị em Liên trong khi Liên đã là một cô gái.
Thạch Lam dằn vặt trước cuộc sống, ông dùng văn chương thể hiện mối quan tâm với đồng loại. Thạch Lam day dứt vì nhịp điệu mòn mỏi của cuộc sống đồng bào ông, ông muốn đi tìm một giải pháp. Giải pháp của ông có thể không trùng khớp với yêu cầu của chúng ta hôm nay thì vẫn phải ghi nhận ở ông một tấm tình hòa cảm, bao dung. Dù sao chăng nữa, Thạch Lam vẫn là sản phẩm của thời đại ông, không thể đòi hỏi ở ông những gì ông chưa có hoặc không thể có.
|
Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
Hướng dẫn
Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
Bài làm
Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng lay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán qui chiếu vào văn học 1930 – 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam… Như bị lùa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lí chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.
Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đen”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.
Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện – có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bần của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội. Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhứt trong xã hội lúc đó là những người nghèo.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cải gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội dù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phô huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũg như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ. Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng lọi qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa cửa bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng dàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chim ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Lièn yên tình hẳn, có những cảm giác ma hồ lihônq hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.
Thử đặt một giả định: Phố huyện không có chuyến tàu đi qua hàng đêm, con người sẽ gửi gắm ước mơ khoáng hậu của họ vào đâu? Sẽ là khó trả lời, vì chuyến tàu là sự tương phản cuối cùng, mang ý nghĩa nhất mà Thạch Lam cần biểu đạt. Mọi hình ảnh không gian, thời gian sự vật, con người trong trạng thái chờ đợi mòn mỏi suốt mấy trang giấy chỉ nhằm tới chi tiết cuối cùng: lúc con tàu đi qua. Con tàu hi vọng đồng thời là “thuốc thử” đối với xã hội và kiếp người. Là nhà văn tâm huyết với dân tộc, Thạch Lam nắm bắt được sự ngưng trệ, tù túng của xã hội ông. Ông muốn ánh sáng văn minh chiếu rọi lên đêm đen của dân tộc. Ông không hướng nhân vật của ông tới hành động tự phát của anh Pha, tới sự nhẫn nhục có bản lĩnh của chị Dậu, ông hướng họ tới văn hóa, để vượt thoát khỏi tình trạng ngột ngạt. Truyện ngắn không có bóng dáng một xã trưởng, một thầy lý, một thầy đội nào… nhưng vẫn làm người đọc liên tưởng tới nguyên nhân nỗi thống khổ của những con người trong truyện.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của mọi khoảnh khắc, là một đêm buồn bã giữa những đêm buồn bã, một đêm có “dấu chấm lửng” ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa chọn đúng cả không gian, thời gian, con người và địa điểm rất chung và rất riêng. Phố huyện, nơi cả đời mong được tới một lần của dân quê xưa có dáng dấp của làng xã, văn minh thành thị có ghé qua với đường tàu hỏa và phố xá có đèn dây sáng xanh, có gánh phở đêm, có phu gạo, phu xe… vẫn là nửa quê nửa tĩnh; Hà Nội vẫn là hình ảnh mơ hồ “không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Có lẽ vì xem nhân vật của mình bé nhỏ, đáng thương mà Thạch Lam dùng “Hai đứa trẻ” để chỉ hai chị em Liên trong khi Liên đã là một cô gái.
Thạch Lam dằn vặt trước cuộc sống, ông dùng văn chương thể hiện mối quan tâm với đồng loại. Thạch Lam day dứt vì nhịp điệu mòn mỏi của cuộc sống đồng bào ông, ông muốn đi tìm một giải pháp. Giải pháp của ông có thể không trùng khớp với yêu cầu của chúng ta hôm nay thì vẫn phải ghi nhận ở ông một tấm tình hòa cảm, bao dung. Dù sao chăng nữa, Thạch Lam vẫn là sản phẩm của thời đại ông, không thể đòi hỏi ở ông những gì ông chưa có hoặc không thể có.
|
Cảm nhận của em khi đọc phần đầu bài “Bình Ngô đại cáo” (từ “Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân đến Việc xưa xem xét – Chứng cớ còn ghi”) của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Năm 1407, giặc Minh kéo sang xâm lược nước ta. Chúng đã “gây binh kết oán trải hai mươi năm – Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” gây nên bao tội ác, bao thảm họa cho đất nước ta, nhân dân ta:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1814, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo", tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bốĐại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền văn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt.
Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thương dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền vănhiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ” mà rất đáng tự hào.
1. Có nền văn hiến đã lâu.
2. Có lãnh thể, núi sông, bờ cõi.
3. Có thuần phong mĩ tục.
4. Có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng đếmột phương”.
5. Có nhân tài hào kiệt.
Năm yếu tốấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Phần mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản Tuyên ngôn Độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Nguồn:
|
My feeling when reading the first part of the article "Binh Ngo Dai Cao" (from "I've heard: The act of benevolence is to keep the people at peace to Consider the past - Evidence is still recorded") by Nguyen Trai
Instruct
In 1407, the Ming invaders invaded our country. They have "raised war and waged resentment for twenty years - Their inhumanity has ruined heaven and earth" causing so many crimes and disasters for our country and our people:
“How cruel, Nam Son Bamboo did not record all the crimes
It's so dirty, Dong Hai water doesn't wash away the smell."
In 1814, Le Loi raised the flag of rebellion in Lam Son mountain forest - Thanh Hoa. After 10 years of arduous and heroic fighting, our army wiped out the Ming enemy and regained independence and freedom for the country and people.
In the early spring of 1428, Nguyen Trai replaced Le Loi in writing the article "Binh Ngo Dai Cao", summarizing the glorious victories in the 10 years of resistance and declaring that Dai Viet had entered a new era, "Forever, solid peace." ”.
In the first part, "Binh Ngo Dai Cao", Nguyen Trai upholds the ideology of humanity and praises the long-standing brilliant civilization of Dai Viet.
Humanity is the fighting goal of our people:
“The act of kindness consists in keeping the people at peace,
The military accepts punishment first and worries about eliminating violence."
Calming the people, punishing them, and eliminating tyranny are the core of the ideology of humanity, all of which are directed towards people, towards the oppressed and suffering people. Love the people, beat the guilty (punishment), destroy the greedy and tyrants (exterminate tyranny), save the people from death and pain, bring a peaceful and happy life to the people (peaceful people) , that's a humanitarian thing. The humanity that Nguyen Trai talks about is an extremely noble thought: fighting the enemy to save the country, the people, for the country's independence, for the freedom, happiness, and peace of the people. Humanity should be very righteous. Humanity is the invincible power to defeat the "mad Ming" army.
“Use great justice to overcome cruelty
Use kindness to replace violence."
Our people are rich in humanity, so we use humanity to build and develop Vietnam's long-standing and brilliant civilization. If in "Nam Quoc Son Ha", Ly Thuong Kiet only mentioned the rivers and mountains of the South as the place where "the Southern Emperor resides", that sacred territory was "clearly determined in the book of Heaven", then in "Binh Ngo great report", Nguyen Trai, standing at the peak of the "Binh Ngo" era, had a profound and comprehensive new view of the country and people of Dai Viet:
“Like our Dai Viet country from before
It has long been known as a civilization
The mountains and rivers have been divided
North and South customs are also different
From Trieu, Dinh, Ly, and Tran, many generations built independence
Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor.
Although strength and weakness are different at different times, there are heroes in every generation."
Dai Viet is not a "barbarian" but is very proud.
1. Has a long-standing civilization.
2. There are territories, mountains and rivers, and borders.
3. Have good customs and traditions.
4. Having independence through many dynasties "claiming one side as emperor".
5. There are talented people.
These five elements combined created Dai Viet's stature, Dai Viet's strength to defeat all invasion and expansion plots of Thien Trieu, establishing many brilliant victories.
“Liu Cung was greedy for work and failed
Trieu Tiet likes to be great and must perish
Ham Tu door captured Toa Do alive
Bach Dang River killed O Ma.
The tone of the writing is heroic and poised. The sharp, strong arguments and parallel, symmetrical expressions of the parallel sentences affirmed and praised Dai Viet's great historical stature, expressing a high level of national will and self-reliance. .
The opening part contributed to beautifully expressing the ideological and artistic value of "Binh Ngo Dai Cao", the Declaration of Independence, and the "ancient heroic literature" of the nation.
Source:
|
Đề bài: Cảm nhận của em sau khi học xong truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi của Tạ Duy Anh
Bài làm
Bức tranh của em gái tôi là truyện ngắn đoạt giải cao nhất (giải nhì) trong cuộc thi viết Tương lai vẫy gọi của báo Thiếu niên Tiền phong. Tác giả Tạ Duy Anh, một cây bút trẻ xuất hiện trong văn học thời kỳ đổi mới đã có những truyện ngắn gây được sự chú ý của đông đảo người đọc. Tác phẩm kể một câu chuyện khá gần gũi với đời sông bình thường. Câu chuyện xảy ra trong một gia đình có hai anh em: người anh và cô em gái tên Kiều Phương.
Truyện Bức tranh của em gái tôi đã mở ra một tình huống hấp dẫn, có kịch tính và đã miêu tả tinh tế tâm lý nhân vật người anh qua cách kể chuyện từ ngôi thứ nhất. Cả hai nhân vật trong chuyện – người anh và cô em gái – đều được miêu tả rất sống động, rất thật, gần gũi vớt cuộc sống tuổi thơ của các em. Câu chuyện cuốn hút người đọc qua diễn biến tâm trạng và thái độ của người anh qua ba thời điểm.
Mở đầu, Tạ Duy Anh đã để cho người anh tự giới thiệu về em gái mình với cái tên có ý để chê bai: “Mèo” và thể hiện thái độ “khó chịu” với sự lục lọi của.“Mèo”:
Này, em không để chúng nó yên được à?.
Khi phát hiện thấy em gái thích vẽ và mày mò tự chế tạo màu vẽ, người anh chỉ coi đó là những trò nghịch ngợm của trẻ con và nhìn nó bằng cái nhìn kẻ cả với thái độ coi thường, không cần đế ý đến việc “Mèo con” đã vẽ những gì – thì ra nó chế thuốc vẽ. Thảo nào cái đít xoong, chảo bị nó cạo trắng cả.
Qua lời nhận xét của người anh, người đọc thoáng thấy trong suy nghĩ người anh “Mèo thì vẽ vời gì?”.
Câu chuyện tưởng chừng như xảy ra bình thường. Một tình huông bất ngờ đã xảy ra, kịch tính của chuyện bắt đầu từ đây: nhưng mọi bí mật của Mèo cuối cùng cũng bị bại lộ… Tài năng hội họa của cô em được phát hiện thì tâm trạng người anh cũng bị biên đổi. Trong khi cả bố, mẹ, chú Tiến Lê đều ngạc nhiên vui mừng sung sướng thì người anh lại cảm thấy buồn và thất vọng vì không tìm thấy ở mình một tài năng nào và cảm thấy mình bị cả nhà lãng quên. Từ đó mà nảy sinh thái độ khó chịu, hay gắt gỏng với em gái và không thể thân với em gái như trước nữa. Chỉ cần một lỗi nhỏ là tôi gắt um lên. Tâm lí mặc cảm tự ti đã khiến cho người anh đau khổ: những lúc ngồi học bên bàn, tôi chỉ muôn gục xuông khóc. Đến nỗi vẻ mặt đáng yêu của cô em gái Kiều Phương trừ kia, bây giờ cũng làm cho cậu khó chịu, cảm thấy như đang bị “chọc tức”… Dẫu vậy, tâm lí tò mò vẫn xui khiên cậu ta xem trộm những bức tranh của cô em gái, để rồi khi xem xong thì khiến cậu lén trút ra một tiếng thở dài… Phải chăng đó là giây phút đầu tiên mà người anh cảm phục tài năng của Kiều Phương? Đến đây, người đọc chắc có lẽ đã hài lòng hơn với thái độ của người anh. Độ “căng” của truyện dường như được chùng xuống.
Truyện vẫn tiếp tục hấp dẫn người đọc với những bất ngờ liên tiêp mà người anh được chứng kiến khi đứng trước bức tranh được giải nhất của em gái mình. Cậu đã nhận ra mình trong bức tranh. Bất ngờ hơn là: Trong tranh, một chú bẻ đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chủ bé như toả ra một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự suy tư mà còn rất mơ mộng nữa. Vì thế, sau cái “giật sững mình” là một diễn biến tâm trạng đầy phức tạp nhưng lại rất dễ hiểu và đúng với nhân vật lúc đó: thoạt tiên là sự ngỡ ngàng rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Ngỡ ngàng là vì không thể ngờ lại có bức tranh như thế. Hãnh diện là vì thấy mình hiện ra với những nét đẹp đến như vậy trong bức tranh của em gái. Nhưng điều quan trọng hơn là người anh không dừng lại ở sự hãnh diện, thoả mãn mà đã thấy “xấu hổ”. Đây chính là lúc nhân vật đã nhận ra được những yếu kém cùa mình, thấy mình không xứng đáng được như vậy: Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo thế kia ư. Trong giây phút xấu hổ này, người anh đã nhận ra một điều sâu sắc: bức chân dung của mình được vẽ lên bằng “tâm hồn và lòng nhân hậu” của cô em gái. Và đây cũng là lúc nhân vật tự thức tỉnh để hoàn thiện nhân cách của mình.
Kiều Phương với biệt danh là “Mèo” rất hồn nhiên, hiếu động, có tài năng hội hoạ hiếm có. Đặc biệt “Mèo” có tình cảm trong sáng và lòng nhân hậu, đây mới là đáng quí của em. Lòng nhân hậu của em thể hiện rõ trong bức tranh “Anh trai tôi”. Soi vào bức tranh ấy, cũng tức là soi vào tâm hồn trong sáng và nhân hậu của em gái, giúp cho người anh tự nhìn rõ mình hơn để vượt lên được những hạn chế của tính đố kị, lòng tự ái và tự ti.
Truyện đã đem đến cho mỗi người chúng ta bài học ứng xử trong cuộc sống: cần có thái độ thiện chí, có sự trân trọng và niềm vui thực sự chân thành trước thành công hay tài năng của người khác, ngay cả khi người đó là bạn bè trong lớp hay người thân trong gia đình.
Với cách kể chuyện hấp dẫn, nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật tỉnh tế, Tạ Duy Anh đã cuốn hút người đọc vào truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi. Truyện có tác dụng truyền cảm để rồi mỗi người tự rút ra bài học một cách tự nhiên, thấm thía: hãy lấy “nhân hậu” làm tiêu chuẩn để soi sáng cho tâm hồn của chính mình.
|
Topic: My feelings after studying the short story My Sister's Painting by Ta Duy Anh
Assignment
My sister's painting is the short story that won the top prize (second prize) in the writing contest The Future Calls of Tien Phong Tien Phong newspaper. Author Ta Duy Anh, a young writer appearing in the literature of the reform period, has short stories that have attracted the attention of many readers. The work tells a story quite close to ordinary life. The story takes place in a family with two brothers: the older brother and the younger sister named Kieu Phuong.
The story My Sister's Painting opens up an intriguing, dramatic situation and delicately describes the brother's psychology through first-person storytelling. Both characters in the story - the brother and the sister - are described very vividly, very realistically, closely recalling their childhood lives. The story captivates the reader through the evolution of the brother's mood and attitude through three periods of time.
At the beginning, Ta Duy Anh let his brother introduce his sister with a disparaging name: "Cat" and expressed his "unpleasant" attitude towards her rummaging. "Cat":
Hey, can't you just leave them alone?
When he discovered that his younger sister liked to draw and tinker with her own paints, the older brother just considered them naughty children's games and looked at her with a condescending look and a disdainful attitude. What did the “kitten” draw – it turns out she made paint. No wonder the bottoms of pots and pans were scraped white.
Through the older brother's comment, the reader glimpses into the older brother's thoughts, "What do cats draw?".
The story seemed to happen normally. An unexpected situation happened, the drama of the story began from here: but all of Cat's secrets were finally revealed... When the younger sister's painting talent was discovered, the older brother's mood also changed. . While both his father, mother, and uncle Tien Le were surprised and happy, the older brother felt sad and disappointed because he couldn't find any talent in himself and felt like he was forgotten by the whole family. From then on, an unpleasant and grumpy attitude towards my sister arose and I couldn't be as close to my sister as before. Just a small mistake makes me angry. The feeling of inferiority caused my brother to suffer: when I sat at my desk studying, I just wanted to cry. So much so that the lovely face of his younger sister Kieu Phuong now makes him uncomfortable, feeling like he's being "provoked"... Even so, his curiosity still makes him peek at the pictures. his sister's painting, and when he finished watching it, it made him secretly let out a sigh... Was that the first moment the older brother admired Kieu Phuong's talent? At this point, the reader is probably more satisfied with the older brother's attitude. The "tension" of the story seems to be slackening.
The story continues to attract readers with the continuous surprises that the brother witnessed when standing in front of his sister's first prize painting. He recognized himself in the picture. What's more surprising is: In the painting, a turtle is sitting and looking out the window, at the clear blue sky. The owner's face seemed to radiate a very strange light. Exuding from his eyes and sitting posture, not only is he contemplative but also very dreamy. Therefore, after the "startle" is a complex but very understandable and true to the character's mood at that time: first surprise, then pride, then shame. Surprised because I didn't expect there to be such a picture. Proud to see myself appearing with such beautiful features in my sister's painting. But what is more important is that the older brother did not stop at being proud and satisfied but felt "embarrassed". This is when the character realizes his own weaknesses and feels that he does not deserve this: In my sister's eyes, am I that perfect? In this moment of shame, the older brother realized something profound: his portrait was painted with the "soul and kindness" of his younger sister. And this is also the time when the character awakens to perfect his personality.
Kieu Phuong, nicknamed "Cat", is very innocent, hyperactive, and has a rare artistic talent. Especially "Cat" has pure feelings and kindness, this is what is precious to me. His kindness is clearly shown in the painting "My Brother". Looking at that picture also means looking into the pure and kind soul of his sister, helping the brother see himself more clearly to overcome the limitations of jealousy, narcissism and low self-esteem.
The story gives each of us a lesson in how to behave in life: we need to have a good-willed attitude, have sincere appreciation and joy for the success or talent of others, even if that person are friends in class or family members.
With an engaging storytelling style and the art of building sophisticated character personalities, Ta Duy Anh has attracted readers to the short story "My Sister's Painting". The story has an inspirational effect so that each person naturally and deeply draws the lesson: take "kindness" as the standard to enlighten your own soul.
|
Đề bài: Cảm nhận của em sau khi học xong đoạn trích Sông nước Cà Mau trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi
Bài làm
Bài văn Sông nước Cà Mau trích từ chương XVIII truyện Đất rừng phương Nam (1987) của nhà văn Đoản Giỏi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học thiếu nhi nước ta, được nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích. Tác phẩm được in lại nhiều lần, được dựng thành phim khá thành công. Bộ phim Đất Phương Nam ra đời đã chiếm được tình cảm mến mộ của công chúng. Tuy trích từ một tác phẩm truyện nhưng văn bản này có thể xem là miêu tả khá hoàn chỉnh về cảnh quan sông nước vùng Cà Mau ở cực nam của Tổ quốc.
Đoàn Giỏi miêu tả cảnh quan sông nước vùng Cà Mau theo một trình tự: bắt đầu từ những ấn tượng chung về thiên nhiên vùng đất Cà Mau, rồi tập trung miêu tả và thuyết minh về các kênh rạch, sông ngòi với cảnh vật hai bên bờ. Cuối cùng là cảnh chợ Năm Can họp ngay trên sông nước. Với trình tự tự nhiên, hợp lý những hình ảnh trong bài văn được hiện lên như trong khuôn hình của một cuốn phim, lúc lướt nhanh, lúc chậm lại, có đoạn đặc tả cận cảnh, có chỗ lùi xa bao quát toàn cảnh. Điếm nhìn để quan sát và miêu tả của người kể chuyện là “trên con thuyền” xuôi theo các kênh rạch và dừng lại ở chợ Năm Căn.
Mở đầu “cuốn phim” là đoạn văn nêu ấn tượng chung ban đầu về vùng sông nước Cà Mau. Tác giả chưa miêu tả một hình ảnh cụ thể nào mà chỉ là những hình ảnh khái quát được cảm nhận qua thị giác và thính giác của nhà văn. Đó là ấn tượng về một vùng không gian rộng lớn mênh mông với sông ngòi, kênh rạch bủa giăng chi chít như mạng nhện và tất cả được bao trùm trong màu xanh của trời của nước, và tiếng rì rào bất tận của rừng cây, của sóng và gió. “Màu xanh” đã thành một ấn tượng nổi bật: trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, xung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá tạo nên cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu. Và tiếng rì rào cũng thành một thứ âm thanh đơn điệu, triền miên ru ngủ thính giác: đó là tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái lan ngày đêm khậo -ễ ngớt vọng về trong hơi gió muối….
Tiếp theo là cảnh kênh rạch vùng Cà Mau được kể lại qua những cái tên lạ và những lời giải thích thú vị: rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía… Qua cách đặt tên, ta thấy thiên nhiên ở đây còn rất tự nhiên, hoang dã, phong phú và con người sống rất gần với thiên nhiên, nên họ giản dị, chất phác ngay từ cách đặt tên cho kênh rạch, đất đai không phải bằng những danh từ mĩ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên.
Dòng sông Năm Căn hiện lên với một vẻ đẹp riêng: rộng lớn, hùng vĩ mà hoang dã. Cải nét rộng lớn, hùng vĩ được nhà văn tập trung miêu tả trong nhiều chi tiết gây ấn tượng: con sông mênh mông rộng lớn hàng ngàn thước, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên, hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận…. Còn cái vẻ “hoang dã” thì được vẽ lại tài tình trong cái màu xanh rừng đước hai bên sông với những mức độ, sắc thái khác nhau: Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp:rày chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai. Những “bậc” màu xanh ấy đã miêu tả các lớp cầy đước từ non đến già, tiếp nối nhau từ bao đời nay vẫn như thế! Nhà văn không những đã quan sát tinh tế mà còn miêu tả lại một cách tài tình bức tranh phong cảnh thiên nhiên, thể hiện qua cách dùng tính từ chỉ màu sắc. Trong cách dùng động từ cũng vậy: thuyền chúng tôi cheo thoát qua kềnh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Các động từ “thoát qua”, “đổ ra”, “xuôi về” đều chỉ hoạt động của con thuyền nhưng không thể thay đổi trình tự các động từ ấy trong câu: “thoát qua” nói con thuyền vượt qua một nơi khó khăn, nguy hiểm; “đổ ra” diễn tả con thuyền từ kênh nhỏ ra dòng sông lớn; còn “xuôi về” là lúc con thuyền nhẹ nhàng xuôi theo dòng nước êm ả trên sông Năm Căn.
Chỉ nửa trang văn mà tác giả đã làm sống lại như thật trước mắt ta cảnh sắc của cái chợ ở vùng đất cuối cùng của Tổ quốc với vẻ đẹp riêng vừa trù phú, vừa độc đáo. Sự trù phú được thể hiện qua khung cảnh rộng lớn, tấp nập, hàng hoá phong phú, thuyền bè san sát, với các chi tiết tiêu biểu: những đống gỗ cao ngất như núi, những bến vân hà nhộn nhịp dọc dài theo sông, những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng sông chiếu rực trên mặt nước mui những khu phố nổi…. Tác giả đã sử dụng thành công biện pháp liệt kê với điệp từ “những” để gây ấn tượng về sự trù phú của chợ trên sông, “những”…, rồi lại “những”… cả đoạn văn có đến 12 chữ “những”. Tuy nhiên, không chỉ trù phú, chợ Năm Căn còn có vẻ đẹp độc đáo: “một xóm chợ vùng cận biển” có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô trương sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Chợ họp ngay trên sông nước với những nhà bè như những khu phố nối và những con thuyền bán hàng len lỏi mọi nơi, có thể có mọi thứ mà không cần bước ra khỏi thuyền, với sự đa dạng về màu sắc, trang phục, tiếng nói của người bán hàng thuộc nhiều dân tộc: Những người em gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu giang bán vải, những cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sác độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.
“Cuốn phim” được khép lại sau cảnh chợ Cà Mau, nhưng lại gợi ra những suy nghĩ cho người xem. Phải chăng đó là bức tranh Sông nước Cà Mau với những vẻ đẹp riêng độc đáo của nó, tác giả không chỉ đem lại cho độc giả những hiểu biết mới, những phát hiện thú vị về vùng đất này, mà quan trọng hơn, nhà văn đã truyền cho chúng tã tình yêu đất nước để ta càng thêm yêu mảnh đất cực nam của Tồ quốc, bởi một lẽ giản dị rằng: đất nước ta, nơi nào cũng đẹp, cũng đáng yêu!
|
Topic: My feelings after studying the excerpt Ca Mau River in the work Southern Forest Land by writer Doan Gioi
Assignment
The essay Ca Mau River is excerpted from chapter XVIII of the story Southern Forest Land (1987) by writer Doan Gioi. This is one of the best works of children's literature in our country, loved by many generations of young readers. The work was reprinted many times and made into a successful film. The film Dat Phuong Nam was released and captured the admiration of the public. Although taken from a work of fiction, this text can be considered a fairly complete description of the river landscape of the Ca Mau region in the southernmost part of the country.
Doan Gioi describes the river landscape of Ca Mau region in one order: starting from general impressions of the nature of Ca Mau land, then focusing on describing and explaining the canals and rivers with two landscapes. on the shore. Finally, there is the scene of Nam Can market meeting right on the river. With a natural and reasonable sequence, the images in the text appear as if in the frame of a film, sometimes moving quickly, sometimes slowing down, some describing close-ups, others receding to cover the entire scene. Looking to observe and describe the storyteller as "on a boat" sailing along the canals and stopping at Nam Can market.
The beginning of the "film" is a paragraph giving the general first impression of the Ca Mau river area. The author has not described any specific image but only general images perceived through the writer's sight and hearing. It is the impression of a vast, vast space with rivers and canals spread like spider webs and all covered in the blue of the sky, the water, and the endless murmur of the forest. of waves and wind. “Green” has become a striking impression: above, the sky is blue, below is blue water, and all around us are only green leaves, creating a landscape that is just a monotonous blue color. And the murmuring also becomes a monotonous sound, constantly lulling the auditory senses: it is the endless murmuring of the green forests of all four seasons, along with the murmuring waves from the East Sea and the Gulf of Thailand day and night. -Easy to stop echoing in the salt wind...
Next is the scene of the canals in Ca Mau region told through strange names and interesting explanations: Mai Giam canal, Bo Mat canal, Ba Khia canal... Through the naming, we see that the nature here is still very good. natural, wild, rich and people live very close to nature, so they are simple and naive right from the way they name canals and land, not with beautiful nouns, but according to their characteristics. Its separate name is called by name.
Nam Can River appears with its own beauty: vast, majestic and wild. The writer focuses on describing the vast, majestic landscape in many impressive details: the vast river thousands of meters wide, the water roaring into the sea day and night like a waterfall, the fish swimming in flocks of black clouds. rising and falling like a person swimming breaststroke among the white waves, the mangrove forest stands tall like two endless rows of walls... As for the "wild" look, it is skillfully portrayed in the green color of the mangrove forests on both sides of the river with different levels and nuances: Mangrove trees grow along the beach, with batches of fallen fruit, their tops are made of toothpicks, layer: layer on top of the other layer embracing the river, building step by step in cyan green, moss green, bottle green... blurred and hidden in the mist and smoke of the morning waves. Those green "steps" depict layers of mangrove civets from young to old, succeeding each other for generations and still being like that! The writer not only made subtle observations but also skillfully described the natural landscape, expressed through the use of color adjectives. The same goes for the use of verbs: our boat escaped through the Bat Eye channel, poured into the Cua Lon river, downstream to Nam Can. The verbs "pass", "pour out", "come back" all refer to the activity of the boat, but the order of those verbs in the sentence cannot be changed: "pass" says the boat passed a difficult place. difficult, dangerous; “pour out” describes a boat from a small canal to a large river; "Going back" is when the boat gently moves along the calm water on the Nam Can River.
In just half a page, the author has brought to life before our eyes the scenery of the market in the last land of the Fatherland with its own beauty that is both rich and unique. Wealth is shown through a large, bustling scene, abundant goods, boats close together, with typical details: piles of wood towering like mountains, bustling wharves along the river. , the raft houses at night, the river lights shine brightly on the water surface of the floating neighborhoods... The author successfully used the method of listing with the repetition "thes" to create an impression of the richness of the market on the river, "thes"..., then "thes"... the whole paragraph has up to 12 words "thes". ”. However, not only is it rich, Nam Can market also has a unique beauty: "a market village near the sea" has the grandeur of a "green forest" town standing proudly displaying its richness on the sky. the last land of the Fatherland. The market is held right on the river with raft houses like connecting streets and selling boats weaving everywhere, you can get everything without having to step out of the boat, with a variety of colors, costumes, The voices of sellers from many ethnic groups: Overseas Chinese girls selling goods cheerfully, Cha Chau Giang people selling fabrics, old Cambodian people selling wine, with all kinds of chirpy voices and all kinds of clothes. colorful, has adorned Nam Can with a unique color, better than all the market villages in the Ca Mau forest region.
The "film" ends after the Ca Mau market scene, but evokes thoughts for viewers. Is it a painting of the Ca Mau River with its own unique beauty? The author not only gives readers new insights and interesting discoveries about this land, but more importantly, the Literature has passed on to us the love of our country so that we love the southernmost land of the Fatherland even more, for one simple reason: our country, everywhere is beautiful and lovely!
|
Đề bài: Cảm nhận của em sau khi học đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên thuộc chương I tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài
Bài làm
Dế Mèn phiẽu lưu kí là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài. Ngay từ khi mới ra đời, truyện đã thu hút sự chú ý của độc giả và được trẻ thơ Việt Nam rất mến mộ. Trong đó, chương I: Tôi sống độc lập từ thuở bé – Một sự ngộ nghĩnh đáng ân hận suốt đời (Bài học đường đời đầu tiên) là được yêu thích nhất bởi lối kể “tự truyện” và một ngôn ngữ kể phù hợp với ngôn ngữ trẻ thơ. Đoạn trích kể về một chú Dế Mèn sớm có ý thức tự lập, ham muốn làm việc, có bản lĩnh và cá tính mạnh mẽ, sống bên cạnh đó cũng có không ít những sở thích ngông cuồng của tuổi trẻ. Trả giá cho sự “ngỗ nghịch” ấy là nỗi “ân hận” suốt đời của Dế Mèn.
Sau khi sinh ra được ba ngày, tối hôm đó Dế Mèn rời xa mẹ. Chú không sợ cũng không buồn, chú thầm cảm ơn mẹ đã tạo điều kiện cho chú được sống độc lập. Chú khoan khoái vì được sống tự do, tha hồ thoả mãn tính hiếu động của mình. Mới đến hang, chú ta đã sục sạo khắp nơi, xem xét cẩn thận chỗ ở, nhìn ngắm trời đất. Thích thú, chú cao hứng gáy lên mấy tiếng rõ to như để tuyên bô" cuộc sống độc lập của mình bắt đầu và gửi lời chào đến tất cả cư dân vùng đầm nước ấy. Quả là một chú dế rất đáng yêu.
Dế Mèn rất ham làm việc và có ý thức làm việc để chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống độc lập của mình. Chú làm việc suốt ngày đến tận chập tối mới ngơi tay. Mèn hay lam hay làm, cần cù như một người lao động thực thụ, với cả bản tính lo xa như các cụ già trong họ. Thật đáng khâm phục. Tuy còn nhỏ, nhưng Dê Mèn đã tỏ ra là một chàng dế có bản lĩnh. Mèn không ngừng luyện tập và trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng, dáng vẻ oai vệ. Đoạn văn miêu tả hình dáng, cử chĩ của Dế Mèn thật sinh động, cụ thể, phù hợp với cách nhìn của trẻ em về thế giới loài vật.
Cuộc sống ở xóm quanh bờ ruộng diễn ra thật vui vẻ: đêm đến, họ nhà Dế rủ nhau đàn hát, nhảy múa, ăn sương đọng, cỏ ướt. Nhưng những niềm vui chỉ có thể thoả mãn những tâm hồn ưa bình yên, giản dị, ít khát vọng. Còn Dế ta, vốn hiếu dộng, thích cuộc sống – phóng khoáng, mạnh mẽ, luôn luôn mới mẻ, vì thế chú thấy nhàm chán dần. Nỗi chán chường vì cuộc sống cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu đó chính là niềm thôi thúc Dê Mèn sau này tiến hành một cuộc phiêu lưu vô cùng hấp dẫn nhưng đầy mạo hiểm. Những ngày sống quanh quẩn bên đầm nước toàn gặp những khuôn mặt quen thuộc, chưa thấy ai tài giỏi hơn mình, cũng làm cho Dế Mèn nảy sinh những tính cách khác thường.
Dế Mèn tự say sưa ngắm mình trong tư thế đi đứng oai vệ, sợi râu dài một vẻ rất đỗi hùng dũng, tự thoả mãn với tiếng phành phạch giòn giã của đôi cánh. Vậy nên chú càng ngày càng cho mình là giỏi, là tay ghê gớm, là sắp đứng dầu thiên hạ, càng trở nên hung hăng hống hách. Mèn cà khịa, bắt nạt, trêu chọc tất cả bà con trong xóm. Cái tính khí ngỗ ngược, trẻ con ấy khiến Dế Mèn từ một chú dế đáng yêu trở thành một kẻ đáng ghét làm sao! Chẳng ai nói ra, nhưng có lẽ cả cái xóm bờ đầm đều nghĩ thế. Đỉnh điểm của trò ngỗ ngược, nghịch ranh là chuyện đến trêù chị Cốc dẫn đến cái chết thê thảm của Dế Choắt.
Kể về sự việc này, ngòi bút của Tô Hoài thật tinh tế khi miêu tả diễn biến, thái độ và tâm lý nhân vật. Lúc đầu Dế Mèn huênh hoang trước Dế Choắt: Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gi? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa! Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này. Sau đó Dế Mèn chui tọt ngay vào hang yên trí với nơi ẩn nấp kiên cố của mình. Tôi… lèn giường nằm khểnh, bắc chân chữ ngủ…. Nhưng khi Dế Choắt bị Cốc mổ thì núp tận đáy đất mà tôi cũng thiếp, nằm im thin thít, cho đến khi biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên. Đến đây, có lẽ người đọc đều chung một suy nghĩ: “đồ hèn nhát”. Tô Hoài đã thành công trong việc khắc họa tính cách nhân vật và để lại một ấn tượng về nhân vật của mình.
Sự việc đau lòng này đã làm cho Dế Mèn tỉnh ngộ và nhận ra cái xấu, cái tai hại của những cử chỉ ngông cuồng, ngu dại của mình. Dế Mèn thấy mình ích kỷ. Những lời trăng trối của Dế Choắt được coi là bài học sâu sắc, bài học đầu tiên trong đời Dế Mèn: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi củng mang vạ vào mình.
Dể Mèn phiếu lưu kí của Tô Hoài là truyện “đồng thoại” chứ không phải truyện ngụ ngôn. Nhưng tác giả đã thông qua truyện về thế giới loài vật, lồng vào đó những bài học triết lí nhân sinh sâu sắc, không kém gì truyện ngụ ngôn. Thông qua những trò nghịch tinh quái, những tâm tư tình cảm của Dế Mèn, nhà văn đã khéo đưa câu chuyện (đặc biệt ở chương I) những bài học về cách sống của mình: không nên làm những việc ngu dại, ngông cuồng chỉ để thoả mãn tính hiếu thắng, tính ích kỷ của mình; phải tự trọng, biết nghiêm khắc trước những thiếu sót của mình… Những bài học đạo lý ấy vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc, thấm thìa. Vì vậy tác phẩm không chỉ có giá trị đối với thiếu nhi Việt Nam, mà còn được tuổi thơ các nước Nga, Ru- ma-ni, Ba Lan, Ấn Độ, Nam tư, Đức, Pháp… rất yêu chuộng.
|
Topic: My feelings after studying the excerpt The first life lesson in chapter I of the book The Adventure of Cricket by writer To Hoai
Assignment
Cricket Men's Phieu Cuu Kieu is a famous work by writer To Hoai. Right from its inception, the story attracted the attention of readers and was greatly admired by Vietnamese children. Among them, chapter I: I have lived independently since childhood - A funny thing worth regretting for the rest of my life (The first life lesson) is the most popular because of its "autobiographical" narrative style and an appropriate narrative language. with children's language. The excerpt tells the story of a young Cricket who has a sense of independence, a desire to work, has bravery and a strong personality, and also has many extravagant hobbies of youth. Paying the price for that "disobedience" is De Men's lifelong "regret".
Three days after being born, that night Cricket left her mother. He was neither afraid nor sad. He silently thanked his mother for creating conditions for him to live independently. He was happy because he could live freely, freely satisfying his hyperactivity. When he first arrived at the cave, he searched everywhere, carefully examined the place, and looked at the sky and earth. Excited, he excitedly crowed loudly as if to announce the beginning of his independent life and send greetings to all the inhabitants of that lagoon. What a very lovely cricket.
Cricket Men is very hard-working and consciously works to prepare well for his independent life. He worked all day until dusk before resting. Men and women work hard, diligently like a real worker, with a foresighted nature like the elderly among them. It's so admirable. Although still young, De Men has proven to be a capable cricketer. Men constantly practiced and became a strong, majestic young cricketer. The passage describes Cricket's appearance and gestures vividly and specifically, suitable for children's view of the animal world.
Life in the hamlet around the fields is very happy: at night, the Cricket family invites each other to sing, dance, and eat dew and wet grass. But joy can only satisfy souls who love peace, simplicity, and few desires. As for Cricket, he is naturally active and likes life - liberal, strong, always new, so he feels gradually bored. The boredom of a monotonous, repetitive life is what motivates the Goat to later embark on an extremely attractive but risky adventure. The days of living around the lagoon, always meeting familiar faces and never seeing anyone more talented than him, also made Cricket develop unusual personalities.
Cricket admired himself admiringly in his majestic walking posture, his long beard looking very heroic, satisfied with the crisp flapping sound of his wings. So the more and more he considered himself talented, formidable, and about to be at the top of the world, becoming more and more aggressive and overbearing. He teases, bullies, and teases everyone in the neighborhood. That unruly, childish temperament makes Cricket turn from a lovely cricket into a hateful person! No one said it, but perhaps the whole village along the lagoon thought so. The climax of the mischievous and mischievous game was teasing Ms. Coc, leading to Cricket's tragic death.
Talking about this incident, To Hoai's pen is very delicate when describing the developments, attitudes and psychology of the characters. At first, De Men boasted before Cricket: What are you afraid of? What do you say I'm afraid of? You said I know who else to fear more than me! Open your eyes and see how I'm teasing Coc. Cricket then immediately crawled into the cave, secure in his solid hiding place. I... crawled into bed, crossed my legs and slept... But when Cricket was pecked by Coc, she hid at the bottom of the ground and I also fell asleep, lying very still, until I knew Coc was gone, then I slowly crawled up. At this point, perhaps readers all have the same thought: "coward". To Hoai succeeded in portraying the character's personality and left an impression on his character.
This heartbreaking incident made Cricket wake up and realize the evil and harm of his wild and foolish gestures. Cricket feels selfish. Cricket's last words are considered a profound lesson, the first lesson in Cricket's life: in life, if you have the habit of being rude and aggressive, if you have a brain but don't know how to think, sooner or later you will bring trouble to yourself.
De Men's depository ticket by To Hoai is a "fairy tale" story, not a fable. But the author has adopted stories about the animal world, incorporating profound philosophical lessons of life into them, no less than fables. Through Cricket's mischievous antics and emotional thoughts, the writer cleverly gave the story (especially in chapter I) lessons about his way of life: don't do stupid, extravagant things. just to satisfy his aggressiveness and selfishness; You must respect yourself and be strict with your shortcomings... Those moral lessons are both gentle and profound. Therefore, the work is not only valuable to Vietnamese children, but is also loved by children in Russia, Romania, Poland, India, Yugoslavia, Germany, France...
|
Đề bài: Cảm nhận của em sau khi đọc bài "Thái sư Trần Thủ Độ" trích Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên
Bài làm
Bài Thái sư Trần Thủ Độ là một bài bình phẩm nhân vật lịch sử rất đặc sắc của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí toàn thư. Nhân cách cao đẹp của Trần Thủ Độ để lại bao ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của con người Việt Nam hơn 700 năm qua.
Mấy dòng đầu ghi rõ ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện: Giáp Tí (1264), năm thứ 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, thọ 71 tuổi. Ông được vua truy tặng '‘Thượng phụng Thái Sư Trung Vũ đại vương”. Thượng phụ: Cha vua; Thái sư là thầy của vua; Thượng phụ Thái sư là danh hiệu, tước hiệu cao quí tột bậc của thời phong kiến.
Đoạn văn thứ hai đánh giá phẩm chất, công lao, uy quyền của Trần Thủ Độ:
– Không có học vấn nhưng tài lược hơn người.
– Từng làm quan dưới thời Lí và được mọi người suy tôn.
– Nhờ mưu trí của Trần Thủ Độ mà họ Trần giành được ngôi báu từ tay nhà Lí: “Thái Tông lấy được thiên hạ”.
– Uy quyền của ông “hơn cả vua” cho nên nhà nước phải nhờ cậy.
Đoạn văn thể hiện một lối viết tinh chắc, vừa nêu bật sự kiện vừa biểu lộ khen, chê, đánh giá.
Phần thứ hai nêu bốn sự việc rất điển hình để khẳng định và ca ngợi nhân cách trung thực, cương trực và lòng chí còng cua Trần Thủ Độ. Sự kiện nào cũng đầy kịch tính.
Vị quan đàn hặc về việc “Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua”…, ta cứ ngỡ người ấy sẽ bị Trần Thủ Độ báo thù và chém đầu. Nhưng ông ta đã nói rõ:
“Đúng như lời người ấy nói”, rồi ông còn thưởng tiền lụa cho anh ta vì anh ta là người trung trực, dám nói lên một sự thực, dám dũng cảm đàn hặc trước mặt vua về sự “lộng quyền” của vị Thái sư. Câu nói và hành động của vị Thái sư thể hiện một nhân cách lớn: trung thực coi trọng sự thực, đánh giá cao công của người đàn hặc.
– Sự việc thứ hai là người quân hiệu không cho Linh Từ Quốc mẫu (vợ Trần Thủ Độ) ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm. Khi vợ khóc và nói là bị bọn quân kiệu “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giận, sai đi bắt. Anh ta chắc là mình phải chết. Nhưng sau khi nghe anh ta đem sự thực trả lời điều “vặn hỏi”: của mình, Thái sư đã hết lời khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Rồi ông lấy tiền vàng lụa thưởng cho người quân hiệu. Sự việc đó cho thấy Trần Thủ Độ là một người trung thực, cương trực, giữ gìn và tôn trọng các luật lệ chung của phép nước. Cách hành xử ấy rất đáng làm gương cho những người quyền quý trong xã hội, cho quan trong triều.
– Sự việc thứ ba thật bất ngờ và thú vị. Một người xin được làm câu đương được vợ quan thái sư xin cho anh ta chắc mẩm sự chạy chọt của mình chắc ăn trăm phần trăm. Nhưng khi nghe Trần Thủ Độ nói là “chỉ chặt một ngón chân" thì anh ta “kêu van xin thôi”, hồi lâu mới được tha. Tưởng xin là câu đương để có một chút danh phận giữa chốn đình trung mà kiếm chút lộc, ai ngờ chuốc lấy tai họa! Câu chuyện diễn ra như một màn bi hài kịch. Cách chúng ta hơn bảy thế kỉ, Trần Thủ Độ là người kiên quyết nhất chống tiêu cực: chống chạy chức, chạy quyền. Sau vụ xin làm câu đương của người nọ, “từ đấy không ai dám đến nhà (Quốc Mẫu) thăm riêng nữa”.
Có lẽ nhân chuyện này mà dân gian mới có lời vè:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt thì đau vô cùng!”
Hay:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt từ sau xin chừa!”.
Câu đương mà giải nghĩa là: chức quan nhỏ, lo liệu công việc trong thôn xã, là không đúng. Câu đương: người chức dịch trong làng, giữ việc bắt bí giải tông (Chú thích của “Đại Việt sử kí toàn thư” – in lần thứ hai).
– Sự việc thứ tư cho thấy Trần Thủ Độ rất chí công, đặt quyền lợi triều đình, quốc gia lên trên hết. Vua Thái Tông muốn cho An Quốc làm tướng (Tể tướng), nhưng Thái sư đã nói:
– “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc,còn như cho thần là hiền như An quốc thì không nên cửa An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng (Tể tưởng) thì việc trong triều đình sẽ ra sao?”
Tình anh em là trọng, nhưng chuyện đại sự quốc gia còn trọng hơn. Ngu, hiền (có đức độ tài năng hơn người) là tiêu chuẩn được giao phó trọng trách của nhà nước. Câu nói của Trần Thù Độ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Phần thứ ba là lời bình tổng quát về nhân vật lịch sử Trần Thủ Độ. Ý nào cũng đúng đắn và sâu sắc.
Thái sư là một con người tận trung với nước, tận hiếu với dân, với sự nghiệp đế vương của họ Trần “phàm công việc gì là không để ý”.
Công lao của ông vô cùng to lớn“giúp nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cho đến chết’’. Ông đã có tài mưu lược tìm ra mọi cách để giành ngôi báu từ tay nhà Lí qua tay nhà Trần. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên lần thứ nhất, ông là trụ cột của Triều đình và quốc gia Đại Việt. Câu nói nổi tiếng của ông mãi mãi là khí phách của người anh hùng, biểu tượng cho hào khí Đông A: “Đầu thần chưa xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo!” Lòng yêu nước, tính trung thực, cương trực, và đức chí công của ông vằng vặc như ánh sao băng, được hậu thế ngưỡng mộ.
Khi ông còn sông đã lập sinh từ. Vua Trần Thái Tông có làm bài văn về vương triều nhà Trần. Ngô Sĩ Liên đã dành những lời tốt đẹp nhất, nêu những sự kiện lịch sử hùng hồn nhất làm sống dậy công đức vô cùng to lớn của vị Thái sư. Bài bình luận này có giá trị và ý nghĩa như một tượng đài kì vĩ.
|
Topic: My feelings after reading the article "Grand Master Tran Thu Do" excerpted from Dai Viet Complete History by Ngo Si Lien
Assignment
The article Grand Master Tran Thu Do is a comment on a very unique historical figure by Ngo Si Lien in the Complete Annals of Dai Viet. Tran Thu Do's noble personality has left a deep impression in the souls of Vietnamese people over the past 700 years.
The first few lines clearly state the day, month and year of the event: Giap Ti (1264), 7th year of Thien Long reign under King Tran Thanh Tong, spring, January. Tran Thu Do passed away at the age of 71. He was posthumously awarded by the king "Great King, Grand Master Trung Vu". Patriarch: King's father; The Grand Master is the king's teacher; Patriarch Grand Master is the ultimate noble title and title of feudal times.
The second paragraph evaluates the qualities, merits, and authority of Tran Thu Do:
– No education but more talented than others.
– Used to be a mandarin under the Ly dynasty and was respected by everyone.
- Thanks to Tran Thu Do's cunning, the Tran family won the throne from the Ly dynasty: "Thai Tong took over the world."
- His authority is "greater than the king" so the state must rely on him.
The paragraph demonstrates a solid writing style, both highlighting events and expressing praise, criticism, and evaluation.
The second part outlines four very typical incidents to affirm and praise Tran Thu Do's honest, upright and determined personality. Every event is full of drama.
The mandarin complained about "Tran Thu Do being more powerful than the king"..., we thought that person would be avenged by Tran Thu Do and beheaded. But he made it clear:
"It's just like what that person said", then he also rewarded him with silk money because he was an honest person, dared to speak the truth, and dared to bravely complain in front of the king about the "abuse of power" of the Thai king. monk. The words and actions of the Grand Master show a great personality: honesty, valuing the truth, and appreciating the work of the harpist.
– The second incident was that the military commander did not allow Linh Tu Quoc Mau (Tran Thu Do's wife) to sit in a palanquin and pass through the forbidden platform. When his wife cried and said she was "disrespected" by the military men. Tran Thu Do was angry and sent him to arrest him. He was sure he had to die. But after hearing him answer his "question" with the truth, the Grand Master was full of praise: "If you are in a low position and know how to keep the rules like that, what can I blame you for?". Then he used gold and silk to reward him with a military title. That incident showed that Tran Thu Do was an honest and upright person, preserving and respecting the general laws of the country. That behavior is worthy of being an example for noble people in society and for officials in the court.
– The third incident was surprising and interesting. A man who asked to be a concubine was asked by the chief minister's wife to make sure that his scam was a hundred percent successful. But when he heard Tran Thu Do say "just cut off one toe", he "just cried out and begged" and was forgiven for a long time. He thought that asking was an excuse to have a little status in the middle of the world and earn some fortune. , who unexpectedly brought disaster! The story unfolds like a tragic comedy. More than seven centuries ago, Tran Thu Do was the most determined person against negativity: against running for office and running for power That person's saying, "From then on, no one dared to come to (Quoc Mau's) house to visit privately anymore."
Perhaps because of this story, people say:
“There's no such thing as nonsense,
Cutting your toes is extremely painful!”
Or:
“There's no such thing as nonsense,
The toe was cut off from behind, please leave it alone!
The interpretation of the sentence as: minor official, taking care of work in the village and commune, is not correct. Duong duong: the translator in the village, responsible for capturing the mystery of the sect (Notes of "Dai Viet Complete History" - second edition).
– The fourth incident shows that Tran Thu Do was very public-minded, putting the interests of the court and the country first. King Thai Tong wanted to make An Quoc a general (Prime Minister), but the Grand Master said:
– “An Quoc is my brother. If I were a gentle person, I would quit my job, but if I were considered a gentle person like An Quoc, I would not be at An Quoc's door. If you were both generals, what would happen in the royal court?
Brotherly love is important, but national affairs are more important. Stupidity and wisdom (having more virtue and talent than others) are the standards for being entrusted with important responsibilities by the state. Tran Thu Do's words are still valid today.
The third part is a general comment on historical figure Tran Thu Do. Every idea is correct and profound.
The Grand Master is a man devoted to the country, devoted to the people, and to the royal career of the Tran family, he "doesn't care about any work".
His contributions are extremely great, "helping to build a king's career and maintain a good reputation until death". He had the talent to strategize and find ways to win the throne from the Ly dynasty to the Tran dynasty. During the first resistance war against the Mongol-Yuan invaders, he was a pillar of the Royal Court and the Dai Viet nation. His famous quote will forever be the hero's spirit, symbolizing Dong A's spirit: "My head has not yet hit the ground, please don't worry, Your Majesty!" His patriotism, honesty, integrity, and public integrity shine like a shooting star, admired by posterity.
When he was still alive, he founded the word. King Tran Thai Tong wrote an essay about the Tran dynasty. Ngo Si Lien reserved the best words, stating the most eloquent historical events to revive the great merit of the Grand Master. This commentary has the same value and meaning as a magnificent monument.
|
Cảm nhận của em sau khi đọc truyện “Cô bé bán diêm” – An-déc-xen
Hướng dẫn
Cảm nhận của em sau khi đọc truyện “Cô bé bán diêm” – An-déc-xen
Bài làm
Nhà văn học Andecxen là một tác giả nổi tiếng về những câu chuyện cổ tích của thế giới phương Tây. Ông không chỉ sáng tác, mà còn sưu tầm những câu chuyện rất hay, đem đến cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Trong số những tác phẩm của ông, Cô bé bán diêm là một tác phẩm rất nổi tiếng. Đây là một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thời đại mà ở đó con người đã biết sử dụng diêm, biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, đã biết vui chơi, đón giao thừa bằng những chú ngỗng quay và những cây thông Nô En lộng lẫy, nhưng lại vẫn có những số phận vô cùng thương tâm, đó chính là cô bé bán diêm nghèo khổ.
Câu chuyện được bắt đầu bằng bối cảnh rất khắc nghiệt. “ Trời đã tối hẳn” nhưng “ tuyết rơi không ngừng…rét dữ dội…” Trong một thời khắc rất đặc biệt đối với mỗi gia đình và mỗi người vì “ đêm nay là đêm giao thừa”. Đây là thời điểm năm cũ chuyển giao năm mới, ai ai cũng gác lại những bộn bề của cuộc sống, những công việc dự định của năm cũ để chờ đón một năm mới với nhiều điều tốt đẹp hơn. Vậy mà trong cái giá lạnh tuyết phủ trắng xóa đó, lại xuất hiện “một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.” Giữa thời khắc quan trọng với mọi người như vậy, mà em bé đi đâu? Câu trả lời ở đây là em phải đi bán diêm, vì “ nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thì cho một đồng xu nào” thì “ em không thể nào về nhà”, vì nếu về nhà lúc đó “ nhất định là cha em sẽ đánh em.” Hoàn cảnh của cô bé rất đáng thương, bởi từ khi bà mất, gia sản tiêu tan, gia đình em đã phải rời khỏi ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, để chuyển đến ở trong một xó tối tăm, luôn phải nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa. Ở trong cái xó tối tăm đó, “ cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà”. Quả thật, cô bé bán diêm có hoàn cảnh rất nghèo và khó khăn.
Lúc ấy, khi “ đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”, em đã ao ước một điều thật nhỏ nhoi: “ Chà. Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” Em suy nghĩ, không dám quẹt, vì nếu quẹt một que thì bao diêm đó sẽ không thể bán được. Nhưng rồi em cũng “ đánh liều quẹt một que”, để mơ mộng cho một cuộc sống tươi sáng hơn. Giấc mơ của cô bé hiện ra từ khi nhìn thấy ngọn lửa, hình ảnh “ một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng” hiện ra trước mắt. Em ước ao được ngồi hàng giờ trước một lò sưởi, nhưng que diêm vụt tắt, khiến em bần thần cả người khi nhớ đến những lời mắng chửi, nhớ đến cái xó tối tăm đã ám ảnh trong tâm hồn em.
Và que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ cổ tích của tuổi thơ. Có cây thông Nô en,có hàng ngàn ngọn nến sáng rực, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ….Nhưng nghiệt ngã thay cho cô bé, là những hình ảnh đó chỉ như sao trên trời, em chỉ có thể nhìn mà không thể chạm tới. Cô bé bán diêm đang dần kiệt sức trong cái lạnh lẽo buốt giá của thời tiết cũng như tình người. Trong giây phút em sắp ra đi, hình ảnh người bà hiện lên với nụ cười hiền hậu như để trao cho em những giây phút hạnh phúc của một quãng đời đẹp đẽ trước đây.
Khi ngày mới bắt đầu, mặt trời lên trong sáng, chói chang, mọi người nhìn thấy thi thể một cô bé giữa những bao diêm và buông ra những lời thờ ơ, lạnh lẽo. Không ai biết được những điều cô bé đã trải qua, những gì cô bé đã nhìn thấy. Nhưng chỉ có tác giả đã cho ta thấy được giá trị nhân văn sâu sắc, câu chuyện như bức thông điệp gửi đến chúng ta, rằng cần phải biết quan tâm đến những mảnh đời bất hạnh xung quanh, để cuộc sống ngày một tươi đẹp hơn.
|
My feelings after reading the story "The Little Match Girl" - Andersen
Instruct
My feelings after reading the story "The Little Match Girl" - Andersen
Assignment
The writer Andecxen is a famous author of fairy tales of the Western world. He not only composed, but also collected very good stories, giving readers a lot of emotions. Among his works, The Little Match Girl is a very famous work. This is a fairy tale about modern times, an era in which people know how to use matches, travel by two-horse carriages, have fun, and celebrate New Year's Eve with roast geese and sweets. The Christmas tree is gorgeous, but there are still extremely pitiful fates, that is the poor little match seller.
The story begins with a very harsh background. "It's completely dark" but "the snow falls non-stop...the cold is fierce..." In a very special moment for each family and each person because "tonight is New Year's Eve". This is the time when the old year transitions to the new year, everyone puts aside the chaos of life and the planned work of the old year to wait for a new year with many better things. Yet in that cold, white snow, there appeared "a little girl with bare head and bare feet, groping in the dark night." In the midst of such an important moment for everyone, where did the baby go? The answer here is that I have to go sell matches, because "if I can't sell a few matchboxes, or if no one gives me a penny", then "I can't go home", because if I go home at that time" My father will definitely beat me.” The girl's situation was very pitiful, because since her grandmother's death, the fortune had been destroyed, her family had to leave the lovely house surrounded by ivy, to move to a dark corner, always having to hear scolding and cursing. In that dark corner, "it's just as cold." My father and I lived in the attic next to the roof and even though we stuffed rags into the large gaps in the wall, the wind still blew into the house." Indeed, the little match seller had a very poor and difficult situation.
At that time, when "my hands were stiff", I wished for something very small: "Wow. How about lighting a match to warm the cold a bit? I thought about it and didn't dare to strike it, because if I struck one match, that box of matches wouldn't be able to be sold. But then I "risked taking a swipe", to dream of a brighter life. The girl's dream appeared when she saw the fire, the image of "an iron fireplace with shiny bronze embossments" appeared before her eyes. I longed to sit for hours in front of a fireplace, but the match went out, leaving me stunned as I remembered the scoldings and the dark corner that haunted my soul.
And the next match lit up again, letting me live in the fairytale dreams of my childhood. There is a Christmas tree, thousands of bright candles, and many brightly colored pictures... But cruelly for the little girl, those images are just like stars in the sky, she can only look at them. untouchable. The little match seller is gradually exhausted in the cold weather and human love. At the moment I was about to leave, the image of my grandmother appeared with a gentle smile as if to give me the happy moments of a beautiful past life.
When the new day began, the sun rose bright and bright, people saw the body of a little girl among the matchboxes and let out cold, indifferent words. No one knows what she went through, what she saw. But only the author has shown us the profound human values, the story is like a message to us, that we need to know how to care for the unfortunate lives around us, to make life more and more beautiful. than.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về 2 khổ thơ:
“Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thơ vào bao.
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “ thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo”
Bài viết văn của bạn Trung Anh đến từ Hà Nội gửi đến ban biên tập website.
Bài làm
Nhà thơ nổi tiếng người Anh Bysshe Shelly đã từng nói “ Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử ”. Câu nói đó quả thật không hề sai khi nhà thơ Tố Hữu đã làm hình ảnh chú bé liên lạc dũng cảm , vui tươi Lượm sống mãi trong mỗi trái tim việt và là bản hòa ca bất diệt của lòng yêu nước trong tác phẩm cùng tên .Đã ghi dấu trong lòng bạn đọc là hai khổ thơ:
“Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thơ vào bao.
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “ thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo”
Hai khổ thơ trên kể về chuyến đi liên lạc của Lượm thật can đảm trong niềm tự hào của nhà thơ Tố Hữu. Ông là người con của xứ Huế anh hùng. Tố hữu được biết đến là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng. Đời thơ của ông gắn với đường đời cách mạng. Đó là vào năm 1949 ngày Huế đổ máu ngày mà nhân dân Huế đứng lên chống thực dân pháp . Hiện thực đó chính là nguồn cảm hứng cách mạng để viết lên tác phẩm “Lượm”. Đoạn thơ tập trung miên tả hình ảnh chú bé liên lạc Lượm, “cũng như bao hôm nào” chú lại nhận được nhiệm vụ đi đưa thư “thượng khẩn”-có nghĩa là thơ khẩn cấp. Cậu nhanh nhẹn bỏ thư vào bao và đi vào trận chiến khắc nhiệt và đầy rẫy những nguy hiểm đang đón chờ cậu ở phía trước. Hình ảnh đó đã chứng minh Lượm là một cậu bé dũng cảm , kiên cường và yêu nước. Tuy Lượm đã đi đến một phương trời mới nhưng hình ảnh của Lượm vẫn còn sống mãi với non sông đất nước Việt Nam .
|
Topic: My feelings about 2 stanzas:
“Someday
Like any other day
Little comrade
Put the poem in a bag.
Rushing past the front
Bullets fly
Letter titled "Urgent"
Fear no danger"
An article by Trung Anh from Hanoi sent to the website editor.
Assignment
Famous English poet Bysshe Shelly once said, "Poetry makes all the best things in life immortal." That statement is not wrong at all when poet To Huu created the image of the brave and cheerful liaison boy Luom to live forever in every Vietnamese heart and be an eternal song of patriotism in the work of the same name. .Marked in the hearts of readers are two stanzas:
“Someday
Like any other day
Little comrade
Put the poem in a bag.
Rushing past the front
Bullets fly
Letter titled "Urgent"
Fear no danger"
The two stanzas above tell about Luom's courageous contact trip in the pride of poet To Huu. He is a son of heroic Hue. To Huu is known as the flagship of revolutionary poetry. His poetic life is closely linked to the path of revolutionary life. That was in 1949, the day Hue shed blood, the day the people of Hue stood up against French colonialism. That reality was the revolutionary inspiration for writing the work "Gathering". The poem focuses on describing the image of the boy who contacted Luom, "like any other day" he received the mission to deliver "urgent" mail - meaning urgent poetry. He quickly put the letter in the bag and went into the fierce battle and full of dangers that awaited him ahead. That image proves that Luom is a brave, resilient and patriotic boy. Although Luom has gone to a new world, Luom's image still lives forever in the country of Vietnam.
|
Cảm nhận của em về bài ca dao nước non lận đận một mình
Hướng dẫn
“Nước non lận đận một minh,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
Một tiếng than thân đầy lệ và nhiều ai oán. Thân cò và cò con là ẩn dụ nói về thân phận người phụ nữ nông dân và con cái họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người đàn bà nhà quê sống lẻ loi cô đơn “một mình”, làm ăn “lận đận” vất vả giữa cuộc đời. Có khác nào “thân cò”, lúc thì “ăn đêm”, lúc thì “đi đón cơn mưa tối tăm mù mịt”, lúc thì ‘Tên thác xuống ghềnh”. Thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” chỉ sự khó khăn vất vả. Cuộc đời “lận đận một mình”, ‘Tên thác xuống ghềnh” của “thân cò” đâu chi ngày một ngày hai mà đã “bấy nay” trải qua bao năm tháng giữa chốn “nước non” mênh mòng:
“Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”.
Lời ai oán của “thân cò”, của người mẹ đau khổ cất lên như thấm đầy lệ:
“Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
“Bể đầy”, “ao cạn”là hai biểu tượng nói về cảnh ngang trái, loạn lạc. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. “Ai làm” là lời ám chỉ, tố cáo bọn thống trị đã gây ra cảnh ngang trái, loạn lạc, làm cho nhân dân đau khổ điêu linh, “cho gầy cò con”.Đời mẹ đã ‘Tận đận”, đời con càng đói rét, bị bóc lột đau thương.
|
My feelings about the folk song about struggling alone
Instruct
“The mountainous country is troubled alone,
The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time.
Who filled that tank,
Let that pond dry up, let the little stork be thin?
A lament full of tears and much resentment. The bodies of storks and baby storks are metaphors for the fate of farmer women and their children. Two generations, two lives of suffering. The country woman lives a lonely life "alone", doing business "hardly" and struggling in life. Is it any different from "a stork's body", sometimes it "eats at night", sometimes it "goes to catch the dark and misty rain", sometimes it "Heads down the rapids". The idiom "going up waterfalls and down rapids" refers to hardship. The "stork's body"'s life of "troubling alone", "falling down rapids" is not just a day or two, but has "now" gone through many years in the vast "mountain water":
“The mountain country struggles alone,
The stork's body has been going up the waterfall and down the rapids all this time."
The plaintive words of the "stork's body" and the suffering mother's voice were filled with tears:
“Who filled that tank,
Let that pond dry up, let the little stork be thin?
"The tank is full" and "the pond is dry" are two symbols that talk about a scene of chaos and chaos. “Who” is a personal pronoun. "Who did it" is an allusion, denouncing the rulers for causing chaos and chaos, making the people miserable and miserable, "making children skinny". Mother's life has been 'destroyed', my child's life The more hungry and cold, the more exploited and painful.
|
Cảm nhận của em về bài Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh
Hướng dẫn
Ca Huế trên sông Hươnglà một bài tùy bút đặc sắc, giàu chất thơ của Hà Ánh Minh đã đăng trên báo Người Hà Nội. Bài tùy bút đã ngợi ca vẻ đẹp phong phú, đặc sắc, độc đáo của những điệu hò, bài lí, những bài dân ca Huế, những khúc nhạc, những tiếng đàn réo rắt du dương đầy sức quyến rũ, thể hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn con người Huế xưa và nay.
Hà Ánh Minh cho biết “xứ Huế nổi tiếng với các điệu hò” như: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, hò mái nhì, hò mái đẩy, ru em, giã điệp, giã vôi, bài chòi, bài tiệm, nàng vung… Bà con xứ Huế cất tiếng hò trong lao động sản xuất, hay trong mọi sinh hoạt đồng quê, “hò khi đánhcá trên sông ngòi, biền cả, hò lúc cày cấy, gặt hái, trồng cây, chăn tằm”… Hò xứ Huế, ý tình “trọn vẹn”, từ ngữ địa phương được dùng “nhuần nhuyễn”, ngôn ngữ diễn tả “thật tài ba-phong phú”. Giọng điệu cũng muôn màu muôn vẻ: hồ đưa kinh (tông tiễn linh hồn) thì “buồn bã”; chèo cạn, hò giã gạo, hò mái nhì, mái đẩy, bài chòi… thì “náo nức, nồng hậu tình người". Các điệu hò lơ, hò xay lúa, hò nện… “thể hiện lòng khát khao, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế”. Dân ca Huế còn nổi tiếng với các điệu lí rất tình tứ, dịu ngọt như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam…
Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rũ. Ca Huế là sự kết hợp hài hòa giữa dòng ca nhạc dân gian đậm đà, đắm say và ca nhạc cung đình, nhã nhạc “trang trọng uy nghi". Ca Huế rất phong phú, thể hiện theo hai dòng lớn: điệu Bắc và điệu Nam với trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc.
Điệu Nam như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân… thì “buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn”.
Ca Huế rất phong phú, đa dạng, biến hóa về âm hưởng, thể điệu và lời ca. Âm hưởng các bản nhạc điệu Bắc pha phách điệu Nam thì “không vui, không buồn” như “tứ đại cảnh”. Thể hiện ca Huế có “sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán”. Lời ca thì trăm màu trăm vẻ: “thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch”:
Ca Huế rất hấp dẫn đối với du khách vì không gian trình diễn là trên một con thuyền rộng to và dài, đầu rồng như muốn bay lên; sàn gỗ bào nhẵn, mui vòm trang trí lộng lẫy. Đêm xuống, màn sương dày lên. Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông Hương gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Những đêm ca Huế tuyệt vời như vậy.
Dàn nhạc dân tộc trong đêm ca Huế có đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhi, đàn tam, đàn bầu, sáo, cặp sanh để gõ nhịp, có đủ mặt anh tài tham gia.
Các ca công rất trẻ, nam với áo dài the, quần thụng, khăn xếp; nữ rất xinh đẹp, mặc áo dài, khăn dóng, duyên dáng. Nghệ thuật biểu diễn vô cùng điêu luyện, đủ các ngón đàn trau chuốt như: ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi…, nghe rất du dương, trầm bổng, réo rắt, lúc khoan lúc nhặt “làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người”.
Hòa cùng tiếng đàn, nhịp phách là “sóng vỗ ru mạn thuyền”, là tiếng gà gáy bên làng Thọ Xương, tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh… Đêm đã khuya, chùa Thiên Mụ mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên dát vàng… Khung cảnh ấy thật huyền ảo, thơ mộng. Giữa không gian ấy lúc đêm đã về khuya, các ca nhi đẹp như những nàng tiên cất lên những điệu Nam “nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn”.
Đúng như tác giả đã nói: “Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rũ”. Gà gáy đã sang canh mà trong khoang thuyền “vẫn đầy ắp lời ca, tiếng nhạc”.
Hà Ánh Minh, một lữ khách thích giang hồ, lần đầu được thưởng thức một đêm ca Huế trên sông Hương không bao giờ có thể quên. Lúc bước xuống thuyền rồng “với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu”. Lúc nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế “với tâm trạng chờ đợi rộn lòng”. Say đắm trong lời ca tiếng nhạc du dương, tác giả cảm thấy: “Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng trôi”. Ca Huế, chính là nội tâm con gái Huế “thật phong phú và âm thầm, kín đáo và sâu thẳm”. Nhận xét ấy rất xác đáng, rất phong tình và tài hoa. Câu văn như rung động, cảm xúc dồn nén lại, lắng đọng và bâng khuâng.
Trong chúng ta, ai đã được tham dự, được thưởng thức một đêm ca Huế trên sông Hương? Và những ai trong chúng ta đã có ít nhiều hiểu biết về dân ca Huế và tâm hồn Huế?
Huế đẹp và thơ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp. Nhất là sông Hương – bài thơ trữ tình của cô' đô Huế. Những câu hò, những bài ca Huế với tiếng đàn tranh, đàn tam huyền diệu… mãi mãi in sâu vào tâm hồn người gần xa..
Qua bài tùy bút Ca Huế trên sông Hương, Hà Ánh Minh dành những lời đẹp nhất, hay nhất ngợi ca một thú chơitao nhã của con người núi Ngự sông Hương đã bao đời nay. Hò Huế, ca Huế và những tiếng đàn réo rắt du dương trong những đêm trăng ca Huế trên sông Hương là một nét đẹp của miền văn hóa Huế rất đáng trân trọng và tự hào.
Hà Ánh Minh với cảm xúc “hồn thơ lai láng" của một lữ khách đã giới thiệu cho ta biết các điệu hò, bài ca Huế, hình ảnh các nhạc công và các ca nhi tài hoa, điệu nghệ, cách trình diễn những đêm ca Huế trên sông Hương. Câu văn của Hà Ánh Minh rất giàu chất thơ khi viết về thiên nhiên, gió, trăng, sóng, con thuyền, chùa Thiên Mụ, tháp Phước Duyên… cảnh và tình, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Câu hát, lời ca và tiếng đàn du dương hòa quyện, được nói đến với bao cảm xúc dạt dào.
Nguồn:
|
My thoughts on the song Ca Hue on the Perfume River by Ha Anh Minh
Instruct
Ca Hue on the Perfume River is a unique, poetic essay by Ha Anh Minh published in Nguoi Hanoi newspaper. The essay praises the rich, unique, and unique beauty of Hue folk songs, songs, melodies, and melodious guitar sounds full of charm, expressed in a unique way. beautiful soul of Hue people past and present.
Ha Anh Minh said that "Hue is famous for its songs" such as: Cheo dry, Thai song, Dua Linh song, Rice pounding song, Nhi hai song, Doi push song, Lullaby song, Scallop pounding, Lime pounding song, Bai choi song. , song shop, song swing... Hue people sing in production labor, or in all rural activities, "shout when fishing on rivers and seas, sing when plowing, harvesting, planting trees, "herding silkworms"... Hue songs, the sentiment is "complete", local words are used "smoothly", the language is "really talented and rich". The tone is also colorful: the lake giving sutra (the tone of sending off the soul) is "sad"; Shallow rowing, rice pounding songs, hai hai songs, pushing roof songs, hut songs... are "exciting, warm with human love". The luo songs, rice milling songs, pounding songs... "express the desire and expectation The passionate longing of Hue's soul". Hue folk songs are also famous for their very romantic and sweet melodies such as: Ly Con Flute, Ly Hoai Xuan, Ly Hoai Nam...
Enjoy listening to elegant Hue songs, full of charm. Ca Hue is a harmonious combination of rich, passionate folk music and royal music, "formal and majestic" court music. Ca Hue is very rich, expressed in two major streams: Northern tunes and Northern tunes. Southern melodies with over 60 vocal and instrumental works.
Southern tunes such as nam ai, nam Binh, widow, nam spring, similar song, hanh van... are "sad, pitiful, sorrowful, lingering".
Hue Ca is very rich, diverse, and varied in sound, rhythm, and lyrics. The sound of Northern tunes mixed with Southern beats is "not happy, not sad" like the "four great scenes". Ca Hue is expressed as "exciting, cheerful, sad, wistful, and mournful". The lyrics are colorful: "slow, solemn, pure, evoking love for people, love for country, gentle boys, elegant girls":
Ca Hue is very attractive to tourists because the performance space is on a large and long boat, the dragon's head seems to want to fly; Smooth wooden floors, ornately decorated canopy. Night falls, the fog thickens. The moon rises. The wind caresses gently. The Perfume River ripples. The boat floats. Such wonderful nights of Hue singing.
The ethnic orchestra in the Hue folk music night has a zither, a moon lute, a pipa, a zither, a tam, a monochord, a flute, and a pair of musical instruments to tap the rhythm, and there are many talented artists participating.
The workers are very young, male with long dresses, loose pants, and turbans; The woman is very beautiful, wearing ao dai, a scarf, and is graceful. The art of performing is extremely skillful, with all the elaborate fingers such as pressing, pecking, clapping, slapping, fingering, tapping, flashing, flicking, flying fingers, slow fingers..., it sounds very melodious and melodious. melodious, sometimes drilling, sometimes picking up, "creating a rhythm that stirs the depths of one's soul".
Mixed with the sound of the instrument, the rhythm is "waves lapping the boat's side", the sound of a rooster crowing in Tho Xuong village, the bell of Thien Mu Pagoda calling the five o'clock watch... It's late at night, Thien Mu Pagoda is dim, the Phuoc Duyen tower is covered with gold. … That scene is so magical and poetic. In that space, late at night, beautiful children's singers like fairies sing Southern melodies that "sound sad, pitiful, tragic, and lingering".
Just as the author said: "It's fun to listen to elegant Hue songs, full of charm." The rooster has already crowed, but the ship's cabin is "still full of songs and music".
Ha Anh Minh, a wanderer, enjoyed a night of Hue singing on the Perfume River for the first time that he will never forget. When stepping off the dragon boat, "with a poetic soul and warm human love." Lying on the romantic Perfume River listening to Hue songs "with a heart full of anticipation". Captivated by the melodious lyrics and music, the author feels: "The space seems to settle down. Time seemed to have stopped drifting". Ca Hue, is the inner soul of a Hue girl "so rich and silent, secretive and deep". That comment is very accurate, very stylish and talented. The sentences seem to vibrate, the emotions are compressed, stagnant and wistful.
Among us, who has attended and enjoyed a night of Hue singing on the Perfume River? And who among us has some understanding of Hue folk songs and Hue soul?
Hue is beautiful and poetic. Beautiful natural scenery. Especially the Perfume River - a lyrical poem by Miss Hue. The chants and songs of Hue with the magical sounds of zither and zither... are forever imprinted in the souls of people near and far.
Through the essay Ca Hue on the Perfume River, Ha Anh Minh dedicated the most beautiful and beautiful words to praise an elegant hobby of the people of Ngu Mountain and Perfume River for many generations. Hue songs, Hue songs and the melodious sounds of the instrument in the moonlit nights of Hue songs on the Perfume River are a beauty of the Hue cultural region that is worthy of respect and pride.
Ha Anh Minh, with the "poetry soul" of a traveler, introduced us to Hue's melodies and songs, images of talented and skillful musicians and singers, and how to perform the nights. Ca Hue on the Perfume River. Ha Anh Minh's sentences are very poetic when writing about nature, wind, moon, waves, boats, Thien Mu pagoda, Phuoc Duyen tower... scenes and love, artistic space, time Art and artistic mood coexist. The verses, lyrics and melodious guitar sound blend together, spoken with so much emotion.
Source:
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới
Bài làm
Tuỳ bút Cây tre Việt Nam được nhà báo, nhà văn Thép Mới viết vào năm 1956, để thuyết minh cho bộ phim Cây tre Việt Nam của một số nhà điện ảnh Ba Lan. Cảm hứng tự hào dạt dào, bút pháp tài hoa đã tạo nên chất thơ trữ tình của áng văn xuôi này.
Mở bài là một câu văn 18 chữ, Thép Mới giới thiệu cây tre trong tâm hồn nhân dân ta, nó là người bạn thân gần gũi thân thiết yêu thương. Câu văn đầy ấn tượng: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.
Phần thứ hai, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. ý tưởng đẹp, giàu có, cách diễn đạt và giọng văn biến hoá, hấp dẫn, đã tạo cho tre có một vị trí đặc biệt trong mỗi chúng ta.
Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng, cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lả khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: Cây nào củng đẹp, cây nào củng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: đâu đâu ta củng có nứa tre làm bạn.
Họ hàng nhà tre thật đông đúc: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Một phát hiện tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. 15 năm sau, nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ xúc động về sức sống của cây tre:
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu.
(Tre Việt Nam)
Nhìn dáng tre, màu tre, sự sinh sôi nảy nở của tre, nhà văn phát hiện ra bao vẻ đẹp riêng của tre như mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre được nhân hoá trở thành một biểu tượng sáng giá: Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Phẩm chất của tre cũng là phẩm chất của con người Việt Nam xưa nay.
Thép Mới trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: Bóng tre trùm mát rượi để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở: Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh,… được điệp lại, láy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm:
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoảng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.
Cánh tay là hình ảnh hoán dụ ca ngợi cây tre là người bạn cần cù trong lao động của nhà nông, từng chia ngọt sẻ bùi, từng một nắng hai sương với bà con dân cày Việu Nam:
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh răm.
Nói về cối xay tre thủ công Thép Mới gợi nhớ một thời gian khổ. Câu văn xuôi được cắt thành những vế ngắn 3, 4 chữ, có vần, nhằm tạo ra một trường liên tưởng về nền kinh tế lạc hậu, đời sống thiếu thốn của nhân dân ta sau một thế kỷ bị thực dân thống trị: Cối xay tre / nặng nề quay từ, nghìn đời nay / xay nắm thóc.
Tre được nhân hoá: Tre ăn ở với người, tre… giúp người…, tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà,… Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như "khít chặt" những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung. Cách viết của Thép Mới rất tài hoa, cách dẫn thơ đạm đà, lí thú.
Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình què cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng.
Chiếc điếu cày tre làm niềm vui tuổi già, chiếc nôi tre là sự ấm êm hạnh phúc của tuổi thơ, cái giường tre bình dị gắn bó với mọi người mọi nhà sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ. Qua cây tre, tác giả ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung là đạo lí cao đẹp của dân tộc.
Tre là bạn thân, là người nhà là cánh tay của người nông dân, tre là bạn tâm tình của mọi lứa tuổi. Tre còn là "đồng chí chiến đấu của ta" trong kháng chiến. Tre mọc thẳng, trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng là dáng đứng không chịu khuất của con người Việt Nam. Gậy tầm vông, cái chông tre là vũ khí đánh giặc rất lợi hại của ta, làm nên chiến công và truyền thống anh hùng của dân tộc. Thép Mới đã vận dụng phép nối trong văn xuôi cổ rất sáng tạo:
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên Thành đồng Tổ quốc! Và sông Hồng bất khuất có cái chồng tre. Trong đoạn văn sau, tre được nhân hoá mang chí khí người nông dân mặc áo lính, người dũng sĩ anh hùng lẫm liệt hiên ngang. Chữ "tre" được điệp lại 7 lần, câu văn ngắn dồn dập diễn tả không khí chiến đấu và chiến thắng giòn giã của quân và dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động! Tre, anh hùng clúển đấu!.
Đây là một trong những đoạn văn tráng lệ nhất, mang âm điệu anh hùng ca trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Không khí, lịch sử thời đại, chiến thắng Điện Biên Phủ thần kỳ đã đem đến sức tung hoành của ngòi bút của Thép Mới.
Nhạc của tre là khúc nhạc đồng quê. Nhạc của khóm tre làng rung lên man mác trong nồm nam con gió thổi, là diều lá tre là sáo tre sáo trúc giữa lồng lộng trời cao. Đoạn văn xuôi giàu tính nhạc và chất thơ cho ta bao cảm xúc và ấn tượng:
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời..
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng
nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…
Phần thứ ba của bài tuỳ bút nói về cây tre trong tương lai. Như một quy luật của sự sống vĩnh hằng: Tre già măng mọc. Búp măng non sẽ còn mãi trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam. Tre, nứa sẽ còn mãi… còn ựiãi… còn mãi… với dân tộc ta, "chia bùi sẻ ngọt" với nhân dân ta trong hạnh phúc, hoà bình.
Đất nước sẽ được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sẽ có nhiều sắt thép, nhưng cây tre vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bóng mát của tre xanh, khúc nhạc tâm tình của tre, cổng chào thắng lợi, những chiếc đu tre, tiếng sáo diều tre vẫn trường tồn cùng đất nước và nhân dân ta trên dặm đường trường của những ngày mai tươi hát…
Cây tre Việt Nam, cây tre xanh với bao phẩm chất nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm là biểu trưng cao quý của dân tộc Việt Nam". Thép Mới đã dành những lời tốt đẹp nhất ca ngợi cây tre với tất cả tình yêu và niềm tự hào về quê hương xứ sở, về đất nước và con người Việt Nam.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới
Bài làm
Tuỳ bút Cây tre Việt Nam được nhà báo, nhà văn Thép Mới viết vào năm 1956, để thuyết minh cho bộ phim Cây tre Việt Nam của một số nhà điện ảnh Ba Lan. Cảm hứng tự hào dạt dào, bút pháp tài hoa đã tạo nên chất thơ trữ tình của áng văn xuôi này.
Mở bài là một câu văn 18 chữ, Thép Mới giới thiệu cây tre trong tâm hồn nhân dân ta, nó là người bạn thân gần gũi thân thiết yêu thương. Câu văn đầy ấn tượng: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.
Phần thứ hai, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. ý tưởng đẹp, giàu có, cách diễn đạt và giọng văn biến hoá, hấp dẫn, đã tạo cho tre có một vị trí đặc biệt trong mỗi chúng ta.
Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng, cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lả khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: Cây nào củng đẹp, cây nào củng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: đâu đâu ta củng có nứa tre làm bạn.
Họ hàng nhà tre thật đông đúc: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Một phát hiện tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. 15 năm sau, nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ xúc động về sức sống của cây tre:
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu.
(Tre Việt Nam)
Nhìn dáng tre, màu tre, sự sinh sôi nảy nở của tre, nhà văn phát hiện ra bao vẻ đẹp riêng của tre như mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre được nhân hoá trở thành một biểu tượng sáng giá: Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Phẩm chất của tre cũng là phẩm chất của con người Việt Nam xưa nay.
Thép Mới trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: Bóng tre trùm mát rượi để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở: Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh,… được điệp lại, láy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm:
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoảng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.
Cánh tay là hình ảnh hoán dụ ca ngợi cây tre là người bạn cần cù trong lao động của nhà nông, từng chia ngọt sẻ bùi, từng một nắng hai sương với bà con dân cày Việu Nam:
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh răm.
Nói về cối xay tre thủ công Thép Mới gợi nhớ một thời gian khổ. Câu văn xuôi được cắt thành những vế ngắn 3, 4 chữ, có vần, nhằm tạo ra một trường liên tưởng về nền kinh tế lạc hậu, đời sống thiếu thốn của nhân dân ta sau một thế kỷ bị thực dân thống trị: Cối xay tre / nặng nề quay từ, nghìn đời nay / xay nắm thóc.
Tre được nhân hoá: Tre ăn ở với người, tre… giúp người…, tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà,… Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như "khít chặt" những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung. Cách viết của Thép Mới rất tài hoa, cách dẫn thơ đạm đà, lí thú.
Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình què cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng.
Chiếc điếu cày tre làm niềm vui tuổi già, chiếc nôi tre là sự ấm êm hạnh phúc của tuổi thơ, cái giường tre bình dị gắn bó với mọi người mọi nhà sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ. Qua cây tre, tác giả ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung là đạo lí cao đẹp của dân tộc.
Tre là bạn thân, là người nhà là cánh tay của người nông dân, tre là bạn tâm tình của mọi lứa tuổi. Tre còn là "đồng chí chiến đấu của ta" trong kháng chiến. Tre mọc thẳng, trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng là dáng đứng không chịu khuất của con người Việt Nam. Gậy tầm vông, cái chông tre là vũ khí đánh giặc rất lợi hại của ta, làm nên chiến công và truyền thống anh hùng của dân tộc. Thép Mới đã vận dụng phép nối trong văn xuôi cổ rất sáng tạo:
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên Thành đồng Tổ quốc! Và sông Hồng bất khuất có cái chồng tre. Trong đoạn văn sau, tre được nhân hoá mang chí khí người nông dân mặc áo lính, người dũng sĩ anh hùng lẫm liệt hiên ngang. Chữ "tre" được điệp lại 7 lần, câu văn ngắn dồn dập diễn tả không khí chiến đấu và chiến thắng giòn giã của quân và dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động! Tre, anh hùng clúển đấu!.
Đây là một trong những đoạn văn tráng lệ nhất, mang âm điệu anh hùng ca trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Không khí, lịch sử thời đại, chiến thắng Điện Biên Phủ thần kỳ đã đem đến sức tung hoành của ngòi bút của Thép Mới.
Nhạc của tre là khúc nhạc đồng quê. Nhạc của khóm tre làng rung lên man mác trong nồm nam con gió thổi, là diều lá tre là sáo tre sáo trúc giữa lồng lộng trời cao. Đoạn văn xuôi giàu tính nhạc và chất thơ cho ta bao cảm xúc và ấn tượng:
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời..
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng
nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…
Phần thứ ba của bài tuỳ bút nói về cây tre trong tương lai. Như một quy luật của sự sống vĩnh hằng: Tre già măng mọc. Búp măng non sẽ còn mãi trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam. Tre, nứa sẽ còn mãi… còn ựiãi… còn mãi… với dân tộc ta, "chia bùi sẻ ngọt" với nhân dân ta trong hạnh phúc, hoà bình.
Đất nước sẽ được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sẽ có nhiều sắt thép, nhưng cây tre vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bóng mát của tre xanh, khúc nhạc tâm tình của tre, cổng chào thắng lợi, những chiếc đu tre, tiếng sáo diều tre vẫn trường tồn cùng đất nước và nhân dân ta trên dặm đường trường của những ngày mai tươi hát…
Cây tre Việt Nam, cây tre xanh với bao phẩm chất nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm là biểu trưng cao quý của dân tộc Việt Nam". Thép Mới đã dành những lời tốt đẹp nhất ca ngợi cây tre với tất cả tình yêu và niềm tự hào về quê hương xứ sở, về đất nước và con người Việt Nam.
|
Cảm nhận của em về bài Cổng trường mở ra của Lý Lan
Hướng dẫn
“Ngày mai con vào lớp Một”,con đã “lớn lên” nhiều lắm. Mọi thứ đồ chơi như chiếc xe thiết giáp, những chú rô-bốt nhựa, đoàn quân thú,… trước đây con thường bày ra khắp nơi trong nhà, nhưng chiều nay, con đã giúp mẹ, “hăng hái tranh với mẹ dọn dẹp đồ chơi” sau khi nghe mẹ nói: “Ngày mai đi học, con là cậu học sinh cấp Một rồi”. Cậu con trai lên 7 đã “lớn lên” về mặt tâm hồn qua tiếng nói yêu thương và lời khích lệ của mẹ hiền. Đêm nay, tuy con “háo hức” như trước đây “vào đêm trước ngày sắp di chơi xa”, con cũng ý thức được “ngày mai thức dậy cho kịp giờ”, nhưng rồi con đã nằm ngủ một cách ngon lành “dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo”. Mẹ hiền âu yếm nhìn con thơ nằm ngủ với bao xúc động và tràn ngập thương yêu: “Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo”. Có thể nói đó là những giây phút hạnh phúc nhất cùa người mẹ, hạnh phúc của tình mẫu tử.
Trong lúc con nằm ngủ ngon lành thì người mẹ lại “không ngủ được”. Suốt ngày mẹ “không tập trung được vào việc gì cả”. Tối đến, sau khi buông mùng ém góc, đắp mén cho con nằm ngủ, rồi người mẹ “bổng không biết làm gì nữa”. Đó là cảm xúc nôn nao, hồi hộp, xao xuyến. Khi đã lên giường nằm, người mẹ vẫn “trằn trọc”. Trằn trọc không phải vì mẹ lo lắng. “Mẹ tin là con sẽ không bỡ ngỡ trong ngày đầu năm học” vì ba năm về trước, hồi mới lên ba, con đã vào lớp mẫu giáo, giờ đây tuần lễ trước ngày khai giảng, “con đã làm quen với bạn bè và cô giáo mới, đã tập xếp hàng, tập đi, tập dứng để chuẩn bị cho buổi lễ khai trường long trọng này”.
Lý Lan đã rất “sống” với kỷ niệm tuổi thơ về ngày khai trường đầu tiên khi vào lớp Một. Nhớ bà ngoại, tình thương con, nỗi niềm về thời thơ ấu,… những cảm xúc mãnh liệt ấy, thiết tha ấy cứ “rạo rực”, cứ “bâng khuâng”, cứ “xao xuyến” mãi trong lòng. Tâm trạng đẹp ấy về tình mẫu – tử được tác giả diễn tả một cách nhẹ nhàng, tinh tế mà thấm thía.
Phần tiếp theo, Lý Lan lại chuyển qua một nét suy tư của người mẹ về ngày khai trường ở Nhật “là ngày lễ của toàn xã hội”. Người lớn nghỉ việc để đưa con đến trường, các quan chức vào buổi sáng đều chia nhau đi dự lễ khai giảng ở khắp các trường lớn nhỏ; đường phố được dọn quang đãng và trang trí tươi vui. Ở Nhật, giáo dục là quan trọng hàng đầu, các quan chức Nhà nước bằng hành động muốn cam kết rằng “không có ưu tiền nào lớn hơn ưu tiên giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai”. Chính sách về giáo dục được Nhà nước “điều chỉnh kịp thời”, vì ai cũng cảm thấy sâu sắc rằng “mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này”. Ở đây, sự suy nghĩ miên man của người mẹ về ngày khai trường ở Nhật… đã thể hiện ước mơ của người mẹ muốn đứa con yêu của mình được hưởng một nền giáo dục tiến bộ nhất, các trẻ em được chăm sóc giáo dục với tất cả tình thương của xã hội và đất nước.
“Đi đi con, hãy can đảm lên, thếgiới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.Đây là câu văn hay nhất trong bài “cổng trường mở ra”. Mẹ tin tưởng và khích lệ con “can đảm lẽn” đi lẽn phía trước cùng bạn bè lứa tuổi. Như con chim non ra ràng, rời tổ chuyền cành sẽ tung cánh bay vào bầu trời bao la, đứa con của mẹ cũng vậy, “bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Từ mái ấm gia đình, tuổi thơ được cắp sách đi học, đến’ với mái trường thân yêu. Lớp học mới, trường mới, bạn bè mới, thầy giáo mới, cô giáo mới. Tuổi thơ được học hành, được chăm sóc giáo dục sẽ từng ngày “lớn lên”, mở mang trí tuệ, trưởng thành về nhân cách, học vấn, bước dần vào đời. Trường học là thế giới kì diệu tuổi thơ. Mọi nhân tài xưa nay, hầu hết được vun trồng trong thế giới kỳ diệu đó.
Con vào lớp Một, với mẹ, đứa con khác nào một người chiến sĩ can đảm lên đường ra trận. Tình thương con gắn liền với niềm hi vọng bao la của mẹ hiền với đứa con thơ. Vì thế, chúng ta phải phấn đấu trở thành con ngoan trò giỏi…
Học tập là nghĩa vụ cao cả của tuổi trẻ đối với gia đình và Tổ quốc,vì thế chúng ta phải ý thức một cách sâu sắc rằng: “Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.Thế giới kì diệu ấy là cả một chân trời văn hóa, khoa học bao la…
|
My thoughts on the song The school gate opens by Ly Lan
Instruct
"Tomorrow I enter first grade", I have "grown up" a lot. All sorts of toys like armored vehicles, plastic robots, armies of animals, etc. used to be displayed everywhere in the house, but this afternoon, I helped my mother, "enthusiastically fighting with her to clean up." toys" after hearing his mother say: "Tomorrow you go to school, you are a first grader." The 7-year-old son has "grown up" spiritually through the loving voice and encouragement of his mother. Tonight, although I was "excited" like before "the night before the day of going away", I was also aware of "waking up on time tomorrow", but then I slept soundly and "easily". It's as easy as drinking a glass of milk and eating a piece of candy." The gentle mother looked lovingly at her sleeping child with so much emotion and love: "The child's peaceful face rested sideways on the soft pillow, his lips parted and occasionally pursed as if sucking on candy." It can be said that those are the happiest moments of a mother, the happiness of motherhood.
While the child slept soundly, the mother "couldn't sleep". All day long, my mother "couldn't concentrate on anything". At night, after taking down the mosquito net and covering the child's bed to sleep, the mother "suddenly didn't know what to do anymore". It is a feeling of nausea, nervousness, and excitement. When she went to bed, the mother was still "restless". The restlessness is not because the mother is worried. "I believe that you will not be surprised on the first day of school" because three years ago, when you were just three years old, you entered kindergarten, and now the week before the first day of school, "you have made friends." and the new teacher, practiced lining up, walking, and standing to prepare for this solemn school opening ceremony.
Ly Lan was very "alive" with her childhood memories of the first day of school when she entered first grade. Missing my grandmother, love for my children, feelings about childhood,... those intense, passionate emotions keep "burning", keep "wistful", keep "fluttering" in my heart forever. That beautiful mood of mother-child love is expressed by the author in a gentle, delicate and poignant way.
In the next part, Ly Lan turns to a mother's reflection on the opening day of school in Japan, "which is a holiday for the entire society". Adults quit their jobs to take their children to school. In the morning, officials split up to attend opening ceremonies at schools large and small; The streets are cleared and decorated cheerfully. In Japan, education is of utmost importance, State officials want to commit by their actions that "there is no greater priority than educating the young generation for the future". Education policy is "timely adjusted" by the State, because everyone deeply feels that "each mistake in education will affect the entire future generation, and a single mistake can change the world." That system deviated many miles later. Here, the mother's endless thoughts about the opening day of school in Japan... express the mother's dream of wanting her beloved child to enjoy the most progressive education, for the children to be cared for and educated. with all the love of society and country.
"Go, my child, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open". This is the best sentence in the article "The school gate opens". Mom believes in and encourages her child to "courage and be bold" and walk quietly ahead with friends of her own age. Like a baby bird leaving the nest, spreading its wings to fly into the vast sky, so will a mother's child, "step through the school gate and a magical world will open". From a warm family home, from childhood to school, to a beloved school. New classroom, new school, new friends, new teacher, new teacher. Children who are educated and cared for will "grow up" day by day, expanding their intelligence, maturing in personality and education, and gradually entering life. School is the magical world of childhood. Most of the talented people of the past were cultivated in that magical world.
I entered first grade, and to my mother, my child was like a courageous soldier going to war. Love for a child is associated with a mother's immense hope for her child. Therefore, we must strive to become good children...
Studying is the noble duty of youth towards family and the Fatherland, so we must be deeply aware that: "Step through the school gate and a magical world will open".World That miracle is a vast cultural and scientific horizon...
|
Cảm nhận của em về bài Phú sông Bạch Đằng
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài Phú sông Bạch Đằng
Truơng Hán Siêu tên thật là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, phủ Yên Khánh, nay thuộc Phúc Thành, xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan trong suốt bốn đời vua Trần. Vì tính tình ông cuơng trực và học vấn uyên thâm nên đuợc các vua thời Trần rất tin cậy và kính trọng. Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua hậu Trần chỉ lo ăn chơi, huởng thụ mà quên trách nhiệm trấn hung đất nuớc. Trong dịp du ngoạn sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy nơi quân ta hai lần đánh tan quân xâm lược Mông-Nguyên, Truơng Hán Siêu nhớ đến các bậc anh hùng xưa, vừa tự hào vừa viết nên bài phú sông Bạch Đằng. Ở thời trung đại, bài phú này đuợc đánh giá là hay bậc nhất. Chưa có thông tin chính xác Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể nhận định được, bài phú này ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất.
Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Truơng Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là nguời cuơng trực, học vấn uyên thâm nhưng con nguời ông phóng khóang và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn đuợc thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi vơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nuớc, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là nguời đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tuợng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con nguời yêu thiên nhiên, yêu đất nuớc lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trắng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có nguời ở- Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là nguời đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tuợng trưng nói lên tâm hồn nguời thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phuơng là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… đều trên đất Trung Hoa không chỉ đẹp, mà gợi ra một không gian bao la, rộng lớn, chỉ những nguời có tâm hồn phóng khoáng, trí nơi bốn phuơng. Hòa cùng với tâm hồn nguời thi sĩ hình ảnh “bờ lau san sát- bến lách đìu hiu- Sông chìm giáo gãy- Gò đầy xương khô”, sông Bạch Đằng để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử. Đó là những dấu mốc oai hùng của lịch sử chống giặc ngoại xâm mang niềm tự hào hào khí của dân tộc, Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộ, đây cũng chính tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn” đuợc thể hiện qua câu thơ:
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Không những vậy, những năm tháng một thời oanh liệt theo cứ lớp sau xô lớp trước mà trở về. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều này cho thấy thời đó dân tộc ta phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh. Ban đầu, quân ta và quân địch đều tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Đây là sự đối đầu không riêng về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa, quân địch thế cường bạo với bao mưu mô xảo quyệt. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt: “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ- bầu trời đất chừ sắp đổi”
Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta. Tổ quốc bền vững là nhờ hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá. Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú. Kết thúc bài phú, tác giả đã ca ngợi hai vị vua Trần, Sông Bạch Đằng hùng vĩ một dải dài, mồ chôn lũ xâm lăng. Máu giặc như nhuộm đỏ cả dòng sông. Một cách nói hào hùng, giặc bất nghĩa nhất định sẽ bị tiêu vong:
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, hai vị vua này đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2- thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là hai vị vua yêu nước thương dân, họ đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc lòng yêu nuớc đem lại bài học giữ nước cho muôn đời.
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: với ngôn từ đẹp, dễ đọc, bố cục chặt chẽ, câu từ linh họat mang đậm tính triết lý. Chất trữ tình sâu lắng cùng với giọng điệu hùng ca, không khí trang trọng, tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, rung động cùng cảm xúc, sáng suốt khi bình luận là những thành công của Trương Hán Siêu.Từ đó, tác giả bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đây cũng là lời nhắc nhở những thế hệ mai sau tiếp nối truyền thống cha anh để lại.
|
My thoughts on the song Phu Bach Dang River
Instruct
My thoughts on the song Phu Bach Dang River
Truong Han Sieu's real name is Thang Phu, he is from Phuc Am village, Yen Khanh district, now belongs to Phuc Thanh, Ninh Binh commune, Ninh Binh province. He served as a mandarin during the four reigns of King Tran. Because of his upright character and profound education, he was highly trusted and respected by the kings of the Tran dynasty. During the period of the weakened Tran Dynasty, the post-Tran kings only worried about entertainment and enjoyment but forgot their responsibility to protect the country. During a trip to the Bach Dang River, a branch of the Kinh Thay River where our army twice defeated the Mongol-Nguyen invaders, Truong Han Sieu remembered the heroes of the past, was proud and wrote a poem on the Bach Dang River. In the Middle Ages, this poem was considered the best. There is no exact information about what year Truong Han Sieu wrote "Bach Dang Giang Phu", but through the tone of the text "Pitying for heroes is not absent - Unfortunately, traces of the furrow remain", we can determine that the article This billionaire was born after Tran Quoc Tuan passed away.
The poem begins with the three words "There are guests", the guest character appearing in this branch of the river is Truong Han Sieu, this is a lyrical character. Although he is a straightforward person with profound education, he is generous and always devoted to nature. From guests, they bring the pleasure of enjoying, traveling on boats to see and visit the beautiful scenes that blend with heaven and earth. There are so many regions that travelers have visited. That liberality is also expressed more clearly in the poem "Sail to the wind to play with", the guest is a generous person who plays with the sail, makes friends with the wind and moon across all regions of the country, living to the fullest with nature. This guest is a person who has traveled to many places, to many places, but the images here are only symbolic to highlight his personality, highlight the person who loves nature, loves the country for traveling. Do fun things in life, be proud of your wanderlust. At night, I was busy playing with that white light, and early in the day, I was knocking on boats for Nguyen Tuong; In the afternoon, visit Vu Huyet. "Where people live - I don't know where" proves that he is a person who has traveled to many places and knows many places, but here is only a symbolic image that represents the poet's soul, a personality, a lover of nature. Of course, I am passionate and take traveling to the four directions as a joy. Place names: Nguyen Tuong, Five Lakes... all in China are not only beautiful, but suggest a vast, vast space, indicating people with a liberal soul and intelligence in the four directions. Along with the poet's soul, the image of "close banks of reeds - desolate wharves - River sinking with broken spears - Mounds full of dry bones", Bach Dang River leaves many historical traces. These are heroic milestones in the history of fighting against foreign invaders, bringing the pride of the nation. Truong Han Sieu expressed his condolences to the heroes who sacrificed their lives for the country. The sad mood, mourning, and feeling of standing still for a long time of the guests expressed their emotions, regrets, and infinite gratitude to the heroic martyrs who sacrificed their lives to protect the river and the survival of the people. Sin, this is also the faithful love "drinking water, remember the source" expressed through the verse:
Standing silently for a long time
I feel sorry for the heroes who are absent
Unfortunately, traces of the furrow remain
Ships and rafts abound, stars flutter,
Majestic six armies, spears and swords shining brightly,
The battle is won or lost,
The northern and southern barricades oppose.
Not only that, the once glorious years followed each class pushing the previous class back. Battles reappear from the reign of Ngo Quyen to the reign of Tran Hung Dao. This shows that at that time our nation had to confront the Northern invaders and the country's fortunes were always in danger, hanging by a thread. Listen to your predecessors recount the events of each battle. Initially, our army and the enemy both gathered powerful forces for a decisive battle. This is not only a confrontation of force but also a confrontation of will: our army with patriotism and righteous strength, the enemy army with a violent and cunning plan. That's why the battle was fierce: "The sun and moon are about to dim - the sky and earth are about to change."
The poet describes and narrates and then reflects on the triumphs and victories and defeats in our history. The country's sustainability depends on two important factors: dangerous land and talented people. The author has raised invaluable historical lessons. Bach Dang, Chi Lang... are dangerous lands. Ngo Quyen, Le Loi, Quang Trung... are all talented. Dien An is the cause of protecting independence, peace, and joy for the country. The author uses a comparison, mentioning the great role of La Vong and Han Tin, who left behind their illustrious martial arts skills. The author praises the great Hung Dao Vuong, who was heroic during the peaceful Nguyen period. The passage describing the river and recounting the naval battle is the most unique, with magnificent colors and majestic images. The parallelism is used very skillfully to express national pride - the strength of Vietnamese humanity. The author expressed the concept of dangerous land and talented people, of honor and dishonor, of destruction and eternity. That noble thought is expressed magnificently and poetically, creating literary beauty in Bach Dang Giang Phu. At the end of the poem, the author praised the two Tran kings, the majestic Bach Dang River, the grave of the invaders. The enemy's blood seemed to dye the whole river red. In a heroic way, the unjust enemy will definitely perish:
The river here washed the armor several times.
The two "Holy Monarchs" mentioned are Tran Thanh Tong and King Tran Nhan Tong, these two kings led the 2nd - 3rd resistance war to defeat the Nguyen - Mongol invaders. They are two patriotic kings who love their people. They aroused national unity and strength, patriotism, and brought lessons to protect the country for eternity.
Phu Bach Dang River is the pinnacle of poetic art in medieval Vietnamese literature: with beautiful, easy-to-read language, tight layout, flexible sentences imbued with philosophy. Deep lyricism with epic tone, solemn atmosphere, talent in description, eloquence in narrative, vibration with emotion, and clarity in commentary are Truong Han Sieu's successes. From There, the author expressed national pride, this is also a reminder for future generations to continue the tradition left by his father.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan Viên
Bài làm
Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Ông có một phong cách nghệ thuật rõ nét, độc đáo đó là những suy tưởng, triết lý đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ còn có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ: hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, kết hợp giữa thực và ảo. “Con cò” là một bài thơ như thế.
Con cò – hình tượng thơ xuyên suốt bài thơ và cũng là tên tác phẩm được khai thác từ trong ca dao truyền thống. Hình ảnh này xuất hiện rất phổ biến trong ca dao và dùng với nhiều ý nghĩa. Đó là hình ảnh người nông dân chân lấm tay bùn, vất vả cực nhọc; là người phụ nữ cần cù, lam lũ nhưng tất cả đểu giàu đức hi sinh. Trong bài thơ này, nhà thơ vận dụng hình tượng ấy để làm biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru.
Bài thơ có bố cục ba phần ba đoạn với những nội dung được gắn với nhau bằng một lôgic khá mạch lạc: Hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi thơ ấu; Hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con người trên mọi chặng của cuộc đời; từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi người.
Xuyên suốt bài thơ, hình tượng con cò được bổ sung biến đồi trong mối quan hệ với cuộc đời con người, từ thơ bé đến trưởng thành và suốt cả đời người.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh con cò được gợi ra liên tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Ở đây tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi câu ca dao nhằm gợi nhớ những câu ca dao ấy. Những câu ca dao được gợi lại đã thể hiện ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò trong ca dao. Câu "con cò Cổng Phủ con cò Đồng Đăng" gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống ngày xưa từ làng quê đến phố xá.
Hình ảnh con cò gợi vẻ nhịp nhàng, thong thả, bình yên của cuộc sống vốn ít biến động thời xưa. Câu ca dao “con cò mà đi ăn đêm” hình ảnh con cò lại tượng trưng cho những con người cụ thể là người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả, lặn lội kiếm sống…
Qua lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn ấu thơ một cách vô thức. Đây chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế giới tâm hồn của con người qua lời ru, của ca dao, dân ca.
Con trẻ chưa hiểu nội dung, ý nghĩa của bài ca dao nhưng chúng được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru. Chúng được đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự che chở của người mẹ. Và khép lại đoạn thơ là hình ảnh thanh bình của cuộc sống.
Sau những năm tháng nằm nôi, cánh cò trở thành người bạn đồng hành của tuổi thơ:
“Cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nơi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đáp chung đôi”
Đến tuổi tới trường:
“Con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”.
Và khi con trưởng thành:
"Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn…”.
Con cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ trở nên gần gũi, thân thiết và theo con người đi suốt cuộc đời. Từ trong ca dao, cánh cò đã được tiếp tục sự sống của nó trong tâm thức con người. Hình ảnh ấy được xây dựng bằng sự liên tưởng như được bay ra từ trong ca dao để sống trong lòng con người, theo cùng và nâng đỡ con người trong từng chặng đường. Hình ảnh con cò gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ.
Đến phần thứ ba của bài thơ, hình ảnh cánh cò đã được đồng nhất với hình ảnh người mẹ. Tấm lòng của mẹ như cánh cò lúc nào cũng ở gần bên con trong suốt cuộc đời:
“Dù ở gần con
Dù ờ xa con
Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con"
Từ đây, nhà thơ khẳng định một quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn và sâu sắc: tình mẫu tử.
"Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con"
Câu thơ đi từ cảm xúc đến liên tưởng để khái quát thành những triết lý. Dù đi đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay dã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng thương yêu, che chở.
“Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi”
Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ.
Bài thơ sử dụng thể thơ tự do nhưng cũng có câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ. Thể thơ tự do giúp tác giả khả năng thể hiện cảm xúc một cách linh hoạt, dễ dàng biến đổi. Các đoạn thơ được bắt đầu bằng câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu lời ru. Đặc biệt, giọng thơ gợi được âm hưởng của lời ru nhưng không phải là một lời ru thực sự. Đó còn là giọng suy ngẫm triết lý. Nó làm cho bài thơ không cuốn người ta vào hẳn điệu ru êm ái đều đặn mà hướng vào sự suy ngẫm, phát hiện.
Không chỉ vậy, trong bài thơ này, Chế Lan Viên vẫn chứng tỏ được sức sáng tạo trong việc tạo ra những hình ảnh nghệ thuật giàu sức gợi. Đó là việc vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao. Hình ảnh con cò là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng tưởng tượng hình ảnh của tác giả. Chế Lan Viên đã chứng minh rằng hình ảnh biểu tượng dù gần gũi, quen thuộc đến đâu vẫn có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới, có giá trị biểu cảm.
“Con cò” của Chế Lan Viên là một bài thơ độc đáo. Viết về một đề tài không mới: tình mẫu tử; chọn những thi liệu đã thành truyền thống: hình ảnh con cò và âm điệu lời ru. Song, bằng sức sáng tạo và tài năng nghệ thuật, Chế Lan Viên đã để lại cho văn học một tứ thơ lạ và đầy suy tưởng sâu sắc. Đọc “Con cò”, ta như thấy trong mình ăm ắp những yêu thương mà cả cuộc đời của mẹ đã dành trọn cho mình.
|
Topic: My feelings about the poem The Stork by Che Lan Vien
Assignment
Che Lan Vien is a talented poet of Vietnamese literature. He has a clear, unique artistic style that is full of intellectual and modern thoughts and philosophies. In particular, the poet is also very creative in the art of building poetic images: poetic images are diverse and rich, combining real and virtual. “The Stork” is such a poem.
The stork - a poetic image throughout the poem and also the name of the work, is exploited from traditional folk songs. This image appears very commonly in folk songs and is used with many meanings. That is the image of a farmer with muddy feet and toiling; She is an industrious and hard-working woman, but is also rich in the virtue of sacrifice. In this poem, the poet uses that image to symbolize a mother's heart and lullabies.
The poem has a three-part arrangement with the contents linked together by a fairly coherent logic: The image of a stork through lullabies begins to appear in childhood; The image of a stork enters the subconscious of childhood, becomes close and will accompany people in every stage of life; From the image of a stork, ponder and philosophize about the meaning of lullabies and mother's womb for each person's life.
Throughout the poem, the image of the stork is transformed in relation to human life, from childhood to adulthood and throughout life.
At the beginning of the poem, the image of a stork is evoked continuously from folk songs used as lullabies. Here, the author only took a few words from each folk song to recall those folk songs. The folk songs recalled show more or less the richness of the symbolic meaning of the stork image in the folk songs. The sentence "The stork at Phu Gate and the stork at Dong Dang" describes the familiar space and scenery of old life from the countryside to the streets.
The image of a stork evokes the rhythm, leisureliness, and peace of life, which was less volatile in ancient times. In the folk song "a stork goes out to eat at night", the image of a stork symbolizes people, specifically mothers, women who work hard and struggle to make a living...
Through the mother's lullaby, the image of a stork unconsciously came to the child's soul. This is the beginning of the path into the spiritual world of people through lullabies, folk songs, and folk songs.
Children do not yet understand the content and meaning of the folk song, but they are comforted by the sweet, gentle melody of the lullaby. They are intuitively received by the mother's love and protection. And the poem ends with a peaceful image of life.
After years in the cradle, the stork's wing becomes a childhood companion:
“The white stork came to get acquainted
Storks stand around
Then the stork entered the nest
If the child sleeps peacefully, the stork also sleeps
The stork's wings, the two of us landed together."
Reaching school age:
“I followed the stork to school
The stork's white wings fly along the heels of its feet.
And when your child becomes an adult:
"The white stork flies again and again without stopping
Front porch
And in the coolness of the sentence...".
The stork from the lullaby has entered the subconscious of childhood, becoming close, intimate and following people throughout their lives. Since folk songs, the stork's wing has continued its life in human consciousness. That image is built by association as if it flew out from a folk song to live in people's hearts, accompanying and supporting people in every step of their journey. The image of a stork suggests the symbolic meaning of a mother's womb, of her gentle and steadfast guidance and support.
By the third part of the poem, the image of the stork's wings has been identified with the image of the mother. A mother's heart is like a stork's wing, always close to her child throughout her life:
“Even though I'm close to you
Even though I'm far away from you
Go to the forest and go to the lake. The stork will find you
I will always love you"
From here, the poet affirms a rule of affection that has lasting, broad and profound meaning: motherly love.
"Children, big is still the mother
Go lifelong still under the mother's womb"
The poem goes from emotions to associations to generalize into philosophies. No matter where I go, whether with my mother or in another world, whether I am a child or an adult, I will still be loved and protected by my mother.
“Just a stork
The mother stork sings
It's also life
Flapping wings over the cradle"
Lullabies are also love songs. The mother's incarnation into the stork's wing carries many profound meanings, gathering sacrifices, hardships, and hardships to make the words of love even more profound and loving. The last verse is a very beautiful image. The stork's wings flapped over the cradle like a mother leaning down to protect her, speaking to her child the earnest words of her heart.
The poem uses free verse but also has sentences that have the appearance of 8-word verse. Free verse gives the author the ability to express emotions flexibly and easily. The verses begin with short verses, have the same structure, and many repetitions completely suggest the melody of a lullaby. In particular, the poetic voice evokes the sound of a lullaby but is not a real lullaby. It is also a voice of philosophical contemplation. It makes the poem not draw people into a gentle, steady lullaby but rather into contemplation and discovery.
Not only that, in this poem, Che Lan Vien still demonstrates her creativity in creating evocative artistic images. That is the creative use of the stork image in folk songs. The image of the stork is the starting place, the fulcrum for the author's visual associations. Che Lan Vien has proven that symbolic images, no matter how close and familiar, can still contain new meanings and expressive value.
"The Stork" by Che Lan Vien is a unique poem. Writing about a topic that is not new: motherhood; choose traditional poetic materials: the image of a stork and the melody of a lullaby. However, with his creativity and artistic talent, Che Lan Vien left literature with a quartet of strange poems full of deep thoughts. Reading "The Stork", we feel like we are filled with the love that our mother has devoted to us all her life.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè
Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông.Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông.
Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “ thường ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường”-nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phùn thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè.Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…
Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. “Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
“Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Nguồn: Bài văn hay
|
Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè
Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông.Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông.
Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “ thường ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường”-nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phùn thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè.Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…
Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. “Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
“Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Nguồn: Bài văn hay
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Lại bài viếng Vũ Thị của Lê Thánh Tông
Bài làm
Lại bài viếng Vũ Thị là bài thơ Nôm độc đáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Độc đáo vì nó là bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.
Ở đây, tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị, giàu cảm xúc.
Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong Chuyện người con gái Nam Xương. Hình ảnh khói hương tỏa nghi ngút trong miếu thờ đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiêng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.
Nhà vua như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi mình cho “ cung nước". Giá mà Trương Sinh “đừng nghe trẻ ” thì “cung nước chi cho lụy đến nàng". Các chữ: “đừng nghe”, “lụy đến” chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch đau xót trong cuộc đời:
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụỵ đến nàng.
Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng thủy chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho lòng nàng vẫn sáng trong như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu mĩ, cần chi lập đàn tràng để giải oan.
Hai chữ “ chẳng lọ” nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị vừa chỗ trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.
Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ “bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã sau lũy tre, bờ dâu ruộng lúa:
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Các chữ “khá trách” và "khéo phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng, đáng trách đã gây ra cái chết thảm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.
Bài thơ Lại bài viếng Vũ Thị là một nén hương của Lê Thánh Tông trên đường kinh lí đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế cẩn trọng, nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong các tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.
|
Topic: My feelings about the poem A Visit to Vu Thi by Le Thanh Tong
Assignment
The Visit to Vu Thi is a unique Nom poem in Hong Duc Quoc Am Thi Tap. Unique because it is a poem by a king who was good at writing and poetry, founded the Tao Dan Association, and directed his compassion towards an unfortunate common woman.
Here, the poetry is truly the voice of the heart, simple and rich in emotion.
Seeing the incense smoke and the shrine at the top of the rapids, I suddenly remembered Truong's wife, an unjust woman:
The top of the rapids emitted incense smoke
Whose temple is like the temple of Mr. Truong's wife.
The beginning of the rapids that the poet mentioned is the bank of the Hoang Giang River in today's Ha Nam province. Truong's wife was Vu Thi, whom Nguyen Du told in The Story of a Nam Xuong Girl. The image of incense smoke rising from the shrine at the top of the rapids evokes the sacredness and compassion in the hearts of people remembering the unfortunate.
The king seemed to lament the unjust death of Vu Thi. Just because of a light bulb aimlessly passing through a child's mouth, the faithful wife and kind mother had to jump into the Hoang Giang River and commit suicide, sending herself to the "water palace". If only Truong Sinh "didn't listen to children", then "the palace Why does water bother her?" The words: "don't listen" and "fall away" contain so much compassion. The poet has a gentle way of speaking, criticizing Truong's confusion and shallowness as the cause of all the painful tragedies in life:
Don't listen to the children, don't listen to the oil lamps.
The water palace does not care about her.
Four Sino-Vietnamese words are used very selectively in the essay, making the poetic tone more solemn and solemn: witness, sun and moon, clear injustice, and mandarin. Vu Nuong's pure and faithful soul is illuminated by the sun and moon, by heaven and earth, proving that her heart is still as bright and clear as a My Chau jade, her soul is still fragrant like the Ngu My grass, it is necessary to set up an altar to resolve it. unjust.
The two words "no bottle" mean no need. Setting up Truong Sinh's altar is a meaningless task because the sun and moon have already illuminated it, proving the results of her injustice. Le Thanh Tong both praised Vu Thi's good qualities and blamed Truong Sinh for setting up an altar. The king's perspective is very kind and humane:
Evidence of double sun and moon,
Reconciliation is not enough for a mandarin.
No heavy words, lots of words! It's not high-minded but just "discussing and playing". A very simple and simple way of speaking. The emperor's words are like the voice of a commoner in the countryside behind bamboo hedges and rice fields:
Come here to discuss and play,
Quite blame Mr. Truong for being cruel.
The words "reproachable" and "harsh" are very gentle but kind and profound. Mr. Truong is cruel and blameworthy for causing the tragic and unjust death of his dutiful wife.
The poem "Returning to Vu Thi" is an incense stick by Le Thanh Tong. On his way to visit, he stopped by the temple and visited Vu Nuong. The tone of the poem is gentle and sympathetic. The king praised the unlucky woman's virtue. The poem discreetly teaches the world a lesson about treating people carefully, especially in the religion of husband and wife. Permeated in Le Thanh Tong's poetry is an immense love. It is one of the works that inaugurated humanitarianism in classical Vietnamese poetry.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Nam quốc sơn hà
Hướng dẫn
Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Giọng thơ đanh thép hùng hồn. Đây là bài thơ dịch:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ!’
Bài thơ đã khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt, căm thù lên án hành động xâm lược của giặc Tống, thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta.
Hai câu thơ đầu tuyên bố về chủ quyền của Đại Việt:
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư’
Tác giả khẳng định núi sông nước Nam là đất nước ta, bờ cõi của ta, một nước có chủ quyền do Nam đế trị vì. Phương Bắc có Bắc đế thì phương Nam cũng có Nam đế. Hai chữ Nam đế biểu hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nam đế tượng trưng cho quyền lực và quyền lợi của nhàn dân ta, một dân tộc có nền văn hiến rực rỡ lâu đời, một quốc gia có nền độc lập bền vững. Đó là sự thật lịch sử hiển nhiên. Không những thế, cương giới của Đại Việt, lãnh thổ, biên cương của Đại Việt đã được ghi rành rành trên sách trời. Hai chữ ‘thiên thư’ (sách trời) biểu thị một niềm tin thiêng liêng về núi sông nước Nam, về chủ quyền bất khả xâm phạm của Đại Việt:
Vằng vặc sách trời chia xứ sở’
Câu thơ thứ ba căm thù lên án giặc Tống xâm lược:
‘Như hù nghịch lổ lai xâm phạm?’
(Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?)
Hai chữ ‘cớ ¿’ức/Xnhư hà) là tiếng để hỏi, cũng là kết tội Quách Quỳ đem quân sang xâm lược nước ta, giết người, cướp của, âm mưu biến Đại Việt thành quận huyện của Thiên triều. Hành động ăn cướp của lũ giặc dữ man rợ là phi nghĩa, là làm trái ‘sách trời’. Giọng thơ vừa căm thù vừa khinh bỉ. Một lối nói hàm súc đanh thép.
Câu cuối bài thơ sáng ngời một niềm tin. Quân giặc phi nghĩa nhất định thất bại nhục nhã. Quân và dân ta có sức mạnh chính nghĩa, có tinh thần quyết chiến bảo vệ sông núi nước Nam nhất định chiến thắng:
‘Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư’
(Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
Ba chữ ‘thủ bại hư’ (chuốc lấy thất bại) đặt cuối bài thơ đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đanh thép và hùng hồn. Chiến thắng sông Cầu – Như Nguyệt năn 1076 là sự minh chứng hùng hồn câu kết bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’. Quách Quỳ và lũ tướng tá Thiên triều phải tháo chạy, hàng vạn giặc phơi xác trên chiến trường. Sông Cầu – Như Nguyệt đã đi vào lịch sử dân tộc bằng chiến công chói lọi.
|
My feelings about the poem Nam Quoc Son Ha
Instruct
The poem is written in Chinese characters, following the seven-word, four-literate Tang rule. The poetic voice is strong and eloquent. Here is the translated poem:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land.
Why did the evil enemy commit this crime?
You must be broken!'
The poem affirmed the sacred sovereignty of Dai Viet, hatefully condemned the invasion of the Song invaders, and expressed the determined fighting spirit of our army and people.
The first two verses declare Dai Viet's sovereignty:
'Southern country of mountains and rivers, Southern imperial residence,
However the natural pasteurized at a department'
The author affirms that the mountains and rivers of the South are our country, our territory, a sovereign country ruled by the Southern Emperor. If the North has a Northern Emperor, the South also has a Southern Emperor. The two words Nam De represent national pride and self-respect. The Southern Emperor symbolizes the power and rights of our people, a nation with a long-standing brilliant civilization, a nation with sustainable independence. That is an obvious historical truth. Not only that, Dai Viet's boundaries, territory, and borders were clearly written in the book of heaven. The two words 'thien thu' (heavenly book) represent a sacred belief in the mountains and rivers of the South, and in the inviolable sovereignty of Dai Viet:
Confused about the heavenly book dividing the land'
The third verse hatefully condemns the Song invaders:
'Like being hostile and intruding?'
(Why did the evil enemy commit this crime?)
The two words 'excuse ¿'uc/X Nhu ha) are words to ask, and also to accuse Quach Quy of bringing troops to invade our country, killing people, robbing, and plotting to turn Dai Viet into a district of the Thien Trieu. The act of robbery by the barbarous enemies is unjust and violates the 'heaven's book'. The tone of the poem is both hateful and contemptuous. A sharp, concise way of speaking.
The last sentence of the poem shines with faith. The unjust enemy army is bound to suffer a humiliating defeat. Our army and people have the strength of righteousness and the spirit of determination to protect the rivers and mountains of the South and will surely win:
'Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft'
(You must be broken)
The three words 'defeat defeat' (bring defeat) placed at the end of the poem make the poetic voice sound strong, sharp and eloquent. The victory of Cau River - Nhu Nguyet Nhan 1076 is an eloquent demonstration of the conclusion of the poem 'Nam Quoc Son Ha'. Quach Quy and the Thien Trieu generals had to flee, tens of thousands of enemy soldiers died on the battlefield. Song Cau - Nhu Nguyet has entered the nation's history with its brilliant victory.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Qua Đèo Ngang
Hướng dẫn
Bài thơ “Qua Đèo Ngang ” của Bà Huyện Thanh Quan là bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc. Bài thơ mang tậm trạng buồn của người lữ khách trước cảnh thiên nhiên hoang vu.
Khung cảnh Đèo ngang hiện ra với góc nhìn từ trên cao của tác giả. Thời gian làm nảy sinh tâm trạng của nhà thơ lại vào buổi chiều, khung cảnh buồn khiến lòng người cũng buồn theo. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa…
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Lòng người lữ khách đã buồn, buồn vì bản thân, buồn vì thời thế, cảnh vật hiện lên lại càng buồn. Cảnh đó đã hòa hợp với tâm trạng của nhà thơ, tạo nên một khung cảnh đẹp. Nguyễn Du cũng đã từng viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”
Giữa chốn thiên nhiên hoang sơ ấy, cảnh vật không đơn điệu mà cũng vô cùng sinh động, tất cả mọi vật có sự chen chúc vào nhau, có vẻ rất đông đúc, có thể lấn át được tâm hồn đang buồn chán cô đơn của người thi sĩ. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Tâm trạng thì đang cô đơn, buồn chán lại đứng trên một ngọn đèo cao, bao quanh là không gian bao la, hùng vĩ, con người càng trở nên nhỏ bé và trống trải vô cùng. Tâm trạng bồn nhưng nhà thơ vẫn đủ tĩnh tâm để quan sát và cảm nhận mọi việc diễn ra xung quanh mình. Có thể khung cảnh đã làm nhà thơ trào dâng lên một nỗi buồn, cũng có thể tâm trạng nhà thơ vốn đã buồn, nên nhìn cảnh nào cũng thấy thấm đẫm nỗi buồn.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Nhà thơ đã muộn hình ảnh tiếng kêu của con cuốc để thể hiện nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại. Tiếng kêu đó mãi không dứt cũng giống như nỗi lòng của nhà thơ mãi không nguôi.
Tiếng chim cuốc chính là tiếng lòng của nhà thơ. Có thể lúc đó bà đang có tâm trạng tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Bà thuộc gia tộc trung thành với nhà Lê, nhưng nay nhà Lê đã thối nát, yêu nước thương dân mà lại vẫn trung thành với cái thối nát sao? Chính điều đó đã tạo nên nỗi buồn không gì chia sẻ được của nhà thơ. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa, buồn bã. Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Hòa tâm hồn vào cảnh vật nhà thơ đã cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la. Con người thì cô đơn nhỏ bé, thiên nhiên thì rộng lớn bao la. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.
|
My thoughts on the poem Through Ngang Pass
Instruct
The poem "Va Deo Ngang" by Ba Huyen Thanh Quan is a picture of a deep and discreet love scene that the author wants to convey to the reader. The poem conveys the sadness of a traveler facing a desolate natural scene.
The scene of the Horizontal Pass appears from the author's perspective from above. Time awakens the poet's mood in the afternoon, the sad scene makes people's hearts sad too. When the afternoon is late, there are mountain rocks, forest trees, moving silhouettes of woodcutters, and rooftops along the river... but it's so desolate and desolate that it makes my heart ache.
Stepping to the pass across the sunset
Chen stone plants, leaves flowers chen…
Crouching under the mountain to make a few trees
Few sporadic riverside home market.
The traveler's heart was sad, sad for himself, sad for the times, and the scene that appeared was even sadder. That scene was in harmony with the poet's mood, creating a beautiful scene. Nguyen Du also wrote:
“Every scene does not cause sadness
Sad scene where people have fun ever "
In the middle of that pristine natural place, the scenery is not monotonous but also extremely lively, everything is crowded together, it seems very crowded, which can overwhelm the lonely and bored soul of the person. poet. Standing in front of that scene makes people feel even more confused and scared. The mood is lonely, bored and standing on a high pass, surrounded by vast, majestic space, people become increasingly small and extremely empty. Although the poet was in a depressed mood, he was still calm enough to observe and feel everything going on around him. Maybe the scene made the poet feel a surge of sadness, or maybe the poet's mood was already sad, so every scene he saw was filled with sadness.
Remembering the water hurts the hoe
Trade the mouth so adhered fatigue.
Stop and stop at the sky and water
A piece of me with my own situation.
The poet used the image of the cry of a hoe to express the deep longing and pain of a person's heart for his home, his country, and his lonely fate. That cry never stops, just like the poet's heartache never ends.
The sound of the coot is the sound of the poet's heart. Maybe at that time she was in a mood of regret about the past, the golden and prosperous era of the Le Dynasty was no longer there. She belongs to a family loyal to the Le dynasty, but now the Le dynasty is corrupt. If she loves her country and loves her people, is she still loyal to the corrupt? That is what created the poet's unspeakable sadness. Besides, this is probably the first time the poet has been away from home, so the "family" evokes loyalty and longing for home. The scene is quiet, lonely, pitiful, and sad. The poet's sadness and nostalgia increase each time.
Stop and stop at the sky and water
A piece of me with my own situation.
Immersing his soul in the scenery, the poet felt that the natural world here was very spacious and vast. Humans are lonely and small, nature is vast and vast. Nature and humans are completely opposed to each other, highlighting the poet's loneliness and denial of reality.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh
Bài làm
Nhà thơ Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ hay về nông thôn và mùa thu. Những vần thơ về cảnh và tình mùa thu của ông mang nhiều cảm xúc đặc biệt. Và Sang thu là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nói về tình thu, ý thu của ông.
Bài thơ sáng tác năm 1977. Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế và giàu cảm xúc của của nhà thơ, một người có tâm hồn nhạy cảm trước sự biến đổi của thiên nhiên tạo vật lúc giao mùa ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Thông qua những biểu hiện đó, ẩn chứa một tình cảm yêu nước thầm kín mà dung dị. Một tình cảm chân thành mà sâu sắc của một tâm hồn hiểu lẽ đời, hiểu lòng người.
Sang thu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương thức miêu tả và phương thức biểu cảm. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình gắn liền với sự biến chuyển của thiên nhiên, những khoảnh khắc của thời điểm chuyển giao hai mùa tác động trực tiếp đến cảm quan của nhà thơ, khiến ông có, bao nhiêu nỗi niềm thổn thức, bao nhiêu suy tưởng về nhân tình thế thái.
Sự cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa được ông bắt giác từ khứu giác khi ngửi thấy hương ổi, đến xúc giác khi cảm nhận được những cơn gió phảng phất qua lồng ngực đến và cả thị giác khi phát hiện một hình ảnh đặc sắc, nhà thơ thấy làn sương cũng mang màu sắc đặc biệt, sương qua ngõ, sương khá dày và có thể nhìn nhận rõ rệt.
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, không hề có dấu hiệu của sự báo trước. Từ “bỗng” thông báo về sự xuất hiện đột ngột của sự vật trong không gian. Hương ổi trong bài thơ được Hữu Thỉnh thể hiện và trở thành một sự khám phá mới mẻ. Hương ổi mùa thu, rất đặc trưng có được mỗi dịp thu về. Thu về là mùa ổi chín, lẽ thường tưởng chừng rất đỗi quen thuộc ấy nhưng chẳng ai nghĩ đó sẽ làm lên sự biểu trưng, và Hữu Thỉnh đã phát hiện và khẳng định điều đó. Hương ổi phả vào trong gió se, gió heo may một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía một cách sâu sắc. Một sự hiện thân cũng không kém phần đặc biệt khác, đó là “sương chùng chình qua ngõ”, sương giăng khắp nơi, hiện hữu trước mắt một cách rõ rệt, sương trắng như một tấm vải mỏng nhẹ nhàng chum lên cảnh vật.
Từ láy “chùng chình” được tác giả vận vào nghệ thuật nhân hoá, khiến cho hình ảnh thu được hình dung có vẻ mờ ảo, sương khói, nhiều thi vị. Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung động cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ, chút gì đó vẻ hư không, có chút xao xuyến, đó là những phút đầu tiên của mùa thu chợt tới, chợt tạt qua trong cảm xúc của con người. Sau cái bỡ ngỡ ban đầu trước không gian làng quê sang thu là cảm nhận rõ nét về những chuyển biến của thiên nhiên:
Chim bắt đầu vội vã,
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu
Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo nhịp dịch chuyển từ hạ sang thu, cứ thấm tháp dần dần, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Hữu Thỉnh cảm nhận thu sang bằng cả tâm hồn. Dòng sông giờ đây trôi nhẹ nhàng, êm ả đầy tâm trạng như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Hai câu thơ đem lại sự tò mò về những liên tưởng đúng sai. Đây có lẽ là một bài thơ khiến cho trí tưởng tượng của người đọc được thỏa sức mường tượng. Dư âm của những ngày mùa hạ vẫn còn, giờ đây tuy tiết trời đã được nhận định đang ở thời điểm đầu thu nhưng những tia nắng màu hạ còn chưa kịp tắt ngấm, vẫn len lỏi trong từng đám mây khiến mây mùa thu trông vẫn mang những nét trong xanh, có chút gay gắt của mùa hạ. Với ngôn ngữ giàu chất tạo hình, sắc màu mùa thu trong trí nghĩ của Hữu Thỉnh đang có những sự chuyển động nhất định, tiết trời cuối hạ sang đầu thu với những dư vị rất độc đáo.
Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Vẫn là nắng mưa, sấm chớp, bão giông như mùa hạ nhưng mức độ đã giảm dần, đã đi sự ổn định. Ánh nắng nhạt dần không còn chói chang, mưa cũng đã ít dần và thời tiết nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Phép tiểu đối “nắng” và “mưa”, “vẫn còn” và “đã vơi” thể hiện sự phân hoá mong manh giữa hai mùa, đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa. Hạ thu. Hai hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” có thể được hiểu qua hai tầng nghĩa. Một mặt thể hiện hình ảnh tự nhiên hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong mưa cuối hạ. Mặt khác mang tính chất ẩn dụ về ý nghĩa cuộc đời. Cuộc đời con người cũng như ngoại cảnh thiên nhiên cũng có sự bình yên nhưng cũng có những sóng gió bất thường buộc con người phải trưởng thành, nỗ lực hơn nữa để sống tốt và hoàn thiện bản thân.“Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải thương điềm tĩnh hơn trước những sóng gió của cuộc đời. Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng đến những đổi thay của mùa thu đời người
Bài thơ là những cảm xúc về sự chuyển mùa tinh tế. Qua bài thơ, thấy lòng yêu thiên nhiên quê hương và một tâm hồn có những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời và tình người.
Minh Anh
|
Topic: My feelings about the poem Sang Thu by poet Huu Thinh
Assignment
Poet Huu Thinh is one of the poets with many good poems about the countryside and autumn. His poems about autumn scenes and love carry many special emotions. And Sang Thu is one of his most typical poems about autumn love and autumn intentions.
The poem was composed in 1977. The poem expresses the delicate and emotional feelings of the poet, a person with a sensitive soul towards the changes in nature and creation at the change of seasons in the Northern Delta. . Through those expressions, there is hidden a secret yet simple patriotic feeling. A sincere and profound feeling of a soul that understands life and people's hearts.
Sang Thu is a clever combination of descriptive and expressive methods. The emotional flow of the lyrical character is closely linked to the changes of nature. The moments of the transition of the two seasons directly impact the poet's senses, causing him to feel sobbing and sobbing. So many thoughts about humanity and the situation.
Huu Thinh's delicate perception in the moment of changing seasons is from his sense of smell when he smells the scent of guava, to his sense of touch when he feels the wind blowing through his chest, and even his sense of sight when he detects a scent. Unique image, the poet sees that the mist also has a special color, the mist passing through the alley, the mist is quite thick and can be seen clearly.
Blown into the wind
The fog drifted through the alley
Thu seemed to have about".
Autumn comes quite suddenly and suddenly, without any signs of warning. The word "suddenly" announces the sudden appearance of an object in space. The scent of guava in the poem was expressed by Huu Thinh and became a new discovery. The scent of guava in autumn is very unique and comes every fall. Fall is the season when guavas ripen. Common sense seems very familiar, but no one thinks it will be symbolic, and Huu Thinh has discovered and confirmed that. The scent of guava wafts into the astringent, windy breeze gently yet deeply penetrating. Another equally special apparition is the "mist drifting through the alley", the mist spreads everywhere, clearly appearing before the eyes, the white mist is like a thin cloth gently covering the landscape.
The author uses the word "slack" in the art of personification, making the resulting image seem hazy, smoky, and poetic. The whole poem is not only unique in its description of the scene, but also in the thrill of feeling something vague, a bit of nothingness, a bit of a flutter, those are the first minutes of autumn suddenly arriving. suddenly passing through human emotions. After the initial surprise at the autumn village space, there is a clear sense of the changes in nature:
Birds began to rush,
There are summer clouds
Squeeze half of yourself into autumn."
My feelings about the poem Sang Thu
The picture of autumn is felt by the changes of heaven and earth following the rhythm of the shift from summer to autumn, gradually permeating, gently but clearly. The nature of autumn has been concreted with images: "smooth river", "hurried birds", "half-wrapped clouds". Huu Thinh feels autumn with all his soul. The river now flows gently and calmly, filled with moods as if reflecting on life's experiences.
“There are summer clouds
Squeeze half of yourself into autumn."
The two verses bring curiosity about right and wrong associations. This is probably a poem that allows the reader's imagination to freely imagine. The echoes of the summer days still remain. Now, although the weather has been identified as being at the beginning of autumn, the summer rays of sunlight have not yet disappeared, still weaving in each cloud, making the autumn clouds still look like autumn. brings the clear, slightly harsh features of summer. With language rich in visual qualities, the colors of autumn in Huu Thinh's mind are having certain movements, the weather from late summer to early autumn with very unique aftertaste.
If in the first two stanzas of the poem, the signs of autumn are quite clear in space and time, the last stanza still follows that emotional flow, the author reveals his thoughts about people and life. :
The rain has gradually subsided
Thunder is also less surprising
On older trees".
There is still sunshine, rain, lightning, and storms like summer, but the level has gradually decreased and has become more stable. The sunlight gradually faded and was no longer as bright, the rain became less frequent and the weather became gentler and milder. The diminutives "sunshine" and "rain", "still" and "have gone" express the fragile distinction between the two seasons, filled with signs of nature at the changing seasons. Summer and autumn. The two images "thunder" and "row of old trees" can be understood through two levels of meaning. One side shows a natural image of lightning and a row of trees in late summer rain. On the other hand, it is a metaphor for the meaning of life. Human life as well as the natural environment also has peace, but there are also unusual turbulences that force people to grow up and make more efforts to live well and perfect themselves. "A row of old trees" refers to Experienced people are calmer in the face of life's storms. From the changes of natural autumn, think of the changes of autumn in human life
The poem is about emotions about the subtle change of seasons. Through the poem, we see a love for the nature of the homeland and a soul with profound experiences about life and human love.
Minh Anh
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
Bài làm
Từ thuở thơ Đường thơ Tống, từ thuở Nguyễn Du rồi Thế Lữ, Xuân Diệu và đến chúng ta ngày nay…, tình yêu vẫn là cái gì khiến người ta đam mê, khao khát. Xuân Quỳnh- nhà thơ của nổi niềm yêu thương với bài Sóng đã thể hiện được nhiều cung bậc tình yêu. Bìa thơ của Xuân Quỳnh cháy lên tình yêu nông nàn của tuổi trẻ và khát vọng của con người đến với tình yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc gắn với cuộc sống chung.
Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Trong những đoạn đầu của bài thơ, nhà thơ miêu tả sóng với những sắc thái, những cung bậc khác nhau để rồi từ đó nói tới quy luật của tình yêu. Tình yêu là sự dung hoà những sắc thái tình cảm tưởng chừng như đối lập. Tình yêu có qui luật tự nhiên của nó mà lí trí không giải thích được. Người ta tìm đến với tình yêu, soi mìn vào tình yêu để tự nhận ra chính bản thân mình:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bốn câu thơ mỡ đầu tình yêu chẳng câu nào dính dáng đến tình yêu, nhưng đọc khổ thơ lên thì bao trùm tất cả lại là cảm xúc yêu đương. Dường như tình yêu ẩn nấu đằng sau câu chứ ấy.Có gì thật là xôn xao nhiệt thành mà thật là trầm lắng. “Dữ dội”, “ ồn ào” để rồi “dịu êm”, “ lặng lẽ”-tình yêu là ở đấy và tình yêu là như thế. Tưởng như đối lập tưởng như mâu thuẫn mà lại thống nhất trong tâm trạng yêu đương. Đâu chỉ là sóng là nước-hồn người đang yêu đó… và tình yêu thì mãi là cái gì người ta không hiểu nổi:
Sóng không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể
Rõ ràng đó không phải là tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn non nớt, ngọt ngào nữa. Đấy là con đường tất yếu trong thiên nhiên, sóng phải tìm ra bể, nhưng đó cũng là quy luật tất yếu của tình cảm: con người đi tìm “ cái nửa” lớn lao để hoàn thiện mình. Đến khổ thơ sau ý tứ rõ ràng hơn:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế,
Nỗi khát vọng tình yêu,
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Khổ thơ này là sự khai triển tứ thơ trước. Bao nhiêu thế hệ đã qua, những cuộc hành trình đâu khổ, vui sướng, những niềm xót xa cùng hạnh phúc ngập tràn- tất cả đều vì khát vọng tình yêu. Thuở Ađam-Eva, thuở con người mong muội và hiện đại…, tình yêu là điểm sáng vĩnh cửu cho con người hướng tới mà sống, chiến đấu lao động. Có gì trên cõi đời này thay thế được trái tim cũng như tình yêu có bao giờ không còn nữa!
Ta bắt gặp trong bài thơ một tình yêu khoẻ khoắn, hồn nhiên. Tình yêu của tuổi trẻ ngập tràn sức sống vô bờ bến. Không phải là tình yêu nông nổi non nớt của buổi đầu giản đơn hẹn hò, không phải là thứ tình yêu bi luỵ thê lương “ yêu là chết ở trong lòng một ít” như trong thơ Xuân Diệu trước Cách Mạng, mà đây là một tình yêu dám sống dám yêu, tình yêu chan chứa ngọn lửa nhiệt thành. Chẳng phải vô cớ khi Xuân Quỳnh lấy hình tượng “sóng” để tượng trưng cho tình yêu của mình:
Sóng bắt đầu từ gió
…..
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Đây là thơ tình của người đang yêu chứ không phải là thơ tình của người nhìn người khác yêu, bởi chỉ có người đang yêu mới diễn tả những xúc cảm tình yêu đúng như vậy. Nỗi nhớ nhung, rồi nơi tình yêu đến… có ai biết được yêu khi nào và có ai biết được sóng từ đâu đến! Xuân Quỳnh nói họ tâm trạng đang yêu của bao người:
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được
Hình ảnh sóng tượng trưng rất độc đáo mà vô cùng sâu lắng. Chỉ có con sóng mới đêm ngày trào dâng, trái tim yêu đêm ngày cũng vậy. Cái hồn hậu, cái đắm say, cái tình tha thiết nhất được biểu hiện bằng hình tượng thể này. Lấy sóng để nói nỗi nhớ, nói tình yêu thì không hẳn chỉ có Xuân Quỳnh, nhưng quả là đến Xuân Quỳnh thì hình tượng thơ này trở nên mới mẻ bao nhiêu. Con sóng ấy có tình yêu có niềm nhớ nhung nhưng lại mang thêm sự nhân hậu, dịu dàng của người phụ nữ và đấy là bản sắc riêng của thơ Xuân Quỳnh. Nỗi nhớ nhung của con sóng cũng là nỗi nhớ nhung của bao người khác nhớ người mình yêu. Tâm trạng nhớ nhung của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng của bao người đang yêu:
Lòng em đến anh,
Cả trong mơ còn thức
Cuộc sống của Xuân Quỳnh cũng giống cuộc sống cảu bao người khác, hạnh phúc của Xuân Quỳnh cũng là hạnh phúc của bao người khác.
Dẫu xuôi về phương Bắc,
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghỉ
Hướng về anh – một phương
Đọc khổ thơ chốt làm ta nghĩ về những cau thơ khác của Xuân Quỳnh
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Biết ngừng đập lúc cuộc đời không nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
( Tự Hát)
Có gì rất gần gũi giữa những câu thơ ấy vì cả hai khổ thơ tuy không cùng bài- nhưng là tự khẳng định tình yêu. Một tình yêu đẹp thì bao giờ cũng là một tình yêu biết vượt qua những khó khăn thử thách, biết đấu tranh để bảo vệ những ước mơ, nhưng khát vọng chân chính, biết tin tưởng vào tương lai của cuộc sống, tin tưởng vào hạnh phúc của mình và của mọi người. Và một tình yêu thuỷ chung son sắc thì bao giờ nỗi nhớ cũng có một điểm dừng- đó là người mình yêu.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghì con sóng đó,
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
Cuộc đời tuy dài thế,
Năm tháng vẫn đi qua,
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh ý thức được những vất vả nhọc nhằn trong cuộc hành trình đến với hạnh phúc, nhưng là người có trái tim, Xuân Quỳnh lại có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Đấy là sức mạnh tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh, cái sức mạnh mà chẳng phải tình yêu nào cũng có được sức mạnh của niềm tin. Tình yêu rồi không phải hết ước mơ, dẫu tận cùng còn đường kia là hạnh phúc, và Xuân Quỳnh đã đi hết con đường dó thì chị vẫn ước mơ. Niềm tin trong thơ chị lớn lao thì ước mơ cũng lớn lao bấy nhiêu:
Làm sao được tan ra,
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mơ ước tình yêu là vĩnh cửu, đến mơ ước cũng mang hình bóng của người tình nhân đắm say. Ở đây, Xuân Quỳnh có gì rất gần với “Biển” của Xuân Diệu. Chất đam mê mãnh liệt toát ra từ từng câu chữ khi Xuân Diệu viết:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Nhưng Xuân Diệu thì còn có một ngày sẻ “thôi dào dạt” còn Xuân Quỳnh thì “ ngàn năm còn vỗ”. Vân cái chất đam mê mãnh liệt ấy nhưng thêm vào đó là sự lắng đọng suy tư. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh có thêm chiều sâu của sự hoà nhập tuyệt đối. Như vậy, ai dám bảo tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh non nớt, giản đơn, ngọt ngào? Tình yêu trong thơ chỉ là nỗi khát khao, là sự kiếm tìm đến cái thánh thiện cảu mình. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chất chứa chiều sâu tâm hồn, là tình yêu hạnh phúc với cuộc sống chung. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng là tình yêu sâu lắng cảu bao người khác đã yêu, đang yêu và sắp yêu.
Đầy đủ sắc thái tâm trạng của người đang yêu: nỗi khát khao niềm đam mê bất tận nỗi nhớ nhung cùng sự sôi nỗi và suy tư lắng đọng…rồi cả ước mơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả thật tinh tế và tài hoa trong bài thơ “ Sóng”. Sau này, ta sẽ còn bắt gặt một Xuân Quỳnh tha thiết, một Xuân Quỳnh nồng nàn, một Xuân Quỳnh nhân hậu trong nhiều bài thơ tình nữa, nhưng rõ ràng, ở bài “Sóng”, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách thơ của mình. Giữa những năm chiến tranh đầy máu lữa, thơ tình Xuân Quỳnh đã làm người ta tin vào sự sống, tin vào con người hơn nữa. Thơ tình Xuân Quỳnh mang lại khoảng bình yên cho tâm hồn người đọc, mang lại tình yêu cho đôi lứa đang yêu…
|
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
Bài làm
Từ thuở thơ Đường thơ Tống, từ thuở Nguyễn Du rồi Thế Lữ, Xuân Diệu và đến chúng ta ngày nay…, tình yêu vẫn là cái gì khiến người ta đam mê, khao khát. Xuân Quỳnh- nhà thơ của nổi niềm yêu thương với bài Sóng đã thể hiện được nhiều cung bậc tình yêu. Bìa thơ của Xuân Quỳnh cháy lên tình yêu nông nàn của tuổi trẻ và khát vọng của con người đến với tình yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc gắn với cuộc sống chung.
Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Trong những đoạn đầu của bài thơ, nhà thơ miêu tả sóng với những sắc thái, những cung bậc khác nhau để rồi từ đó nói tới quy luật của tình yêu. Tình yêu là sự dung hoà những sắc thái tình cảm tưởng chừng như đối lập. Tình yêu có qui luật tự nhiên của nó mà lí trí không giải thích được. Người ta tìm đến với tình yêu, soi mìn vào tình yêu để tự nhận ra chính bản thân mình:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bốn câu thơ mỡ đầu tình yêu chẳng câu nào dính dáng đến tình yêu, nhưng đọc khổ thơ lên thì bao trùm tất cả lại là cảm xúc yêu đương. Dường như tình yêu ẩn nấu đằng sau câu chứ ấy.Có gì thật là xôn xao nhiệt thành mà thật là trầm lắng. “Dữ dội”, “ ồn ào” để rồi “dịu êm”, “ lặng lẽ”-tình yêu là ở đấy và tình yêu là như thế. Tưởng như đối lập tưởng như mâu thuẫn mà lại thống nhất trong tâm trạng yêu đương. Đâu chỉ là sóng là nước-hồn người đang yêu đó… và tình yêu thì mãi là cái gì người ta không hiểu nổi:
Sóng không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể
Rõ ràng đó không phải là tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn non nớt, ngọt ngào nữa. Đấy là con đường tất yếu trong thiên nhiên, sóng phải tìm ra bể, nhưng đó cũng là quy luật tất yếu của tình cảm: con người đi tìm “ cái nửa” lớn lao để hoàn thiện mình. Đến khổ thơ sau ý tứ rõ ràng hơn:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế,
Nỗi khát vọng tình yêu,
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Khổ thơ này là sự khai triển tứ thơ trước. Bao nhiêu thế hệ đã qua, những cuộc hành trình đâu khổ, vui sướng, những niềm xót xa cùng hạnh phúc ngập tràn- tất cả đều vì khát vọng tình yêu. Thuở Ađam-Eva, thuở con người mong muội và hiện đại…, tình yêu là điểm sáng vĩnh cửu cho con người hướng tới mà sống, chiến đấu lao động. Có gì trên cõi đời này thay thế được trái tim cũng như tình yêu có bao giờ không còn nữa!
Ta bắt gặp trong bài thơ một tình yêu khoẻ khoắn, hồn nhiên. Tình yêu của tuổi trẻ ngập tràn sức sống vô bờ bến. Không phải là tình yêu nông nổi non nớt của buổi đầu giản đơn hẹn hò, không phải là thứ tình yêu bi luỵ thê lương “ yêu là chết ở trong lòng một ít” như trong thơ Xuân Diệu trước Cách Mạng, mà đây là một tình yêu dám sống dám yêu, tình yêu chan chứa ngọn lửa nhiệt thành. Chẳng phải vô cớ khi Xuân Quỳnh lấy hình tượng “sóng” để tượng trưng cho tình yêu của mình:
Sóng bắt đầu từ gió
…..
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Đây là thơ tình của người đang yêu chứ không phải là thơ tình của người nhìn người khác yêu, bởi chỉ có người đang yêu mới diễn tả những xúc cảm tình yêu đúng như vậy. Nỗi nhớ nhung, rồi nơi tình yêu đến… có ai biết được yêu khi nào và có ai biết được sóng từ đâu đến! Xuân Quỳnh nói họ tâm trạng đang yêu của bao người:
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được
Hình ảnh sóng tượng trưng rất độc đáo mà vô cùng sâu lắng. Chỉ có con sóng mới đêm ngày trào dâng, trái tim yêu đêm ngày cũng vậy. Cái hồn hậu, cái đắm say, cái tình tha thiết nhất được biểu hiện bằng hình tượng thể này. Lấy sóng để nói nỗi nhớ, nói tình yêu thì không hẳn chỉ có Xuân Quỳnh, nhưng quả là đến Xuân Quỳnh thì hình tượng thơ này trở nên mới mẻ bao nhiêu. Con sóng ấy có tình yêu có niềm nhớ nhung nhưng lại mang thêm sự nhân hậu, dịu dàng của người phụ nữ và đấy là bản sắc riêng của thơ Xuân Quỳnh. Nỗi nhớ nhung của con sóng cũng là nỗi nhớ nhung của bao người khác nhớ người mình yêu. Tâm trạng nhớ nhung của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng của bao người đang yêu:
Lòng em đến anh,
Cả trong mơ còn thức
Cuộc sống của Xuân Quỳnh cũng giống cuộc sống cảu bao người khác, hạnh phúc của Xuân Quỳnh cũng là hạnh phúc của bao người khác.
Dẫu xuôi về phương Bắc,
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghỉ
Hướng về anh – một phương
Đọc khổ thơ chốt làm ta nghĩ về những cau thơ khác của Xuân Quỳnh
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Biết ngừng đập lúc cuộc đời không nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
( Tự Hát)
Có gì rất gần gũi giữa những câu thơ ấy vì cả hai khổ thơ tuy không cùng bài- nhưng là tự khẳng định tình yêu. Một tình yêu đẹp thì bao giờ cũng là một tình yêu biết vượt qua những khó khăn thử thách, biết đấu tranh để bảo vệ những ước mơ, nhưng khát vọng chân chính, biết tin tưởng vào tương lai của cuộc sống, tin tưởng vào hạnh phúc của mình và của mọi người. Và một tình yêu thuỷ chung son sắc thì bao giờ nỗi nhớ cũng có một điểm dừng- đó là người mình yêu.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghì con sóng đó,
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
Cuộc đời tuy dài thế,
Năm tháng vẫn đi qua,
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh ý thức được những vất vả nhọc nhằn trong cuộc hành trình đến với hạnh phúc, nhưng là người có trái tim, Xuân Quỳnh lại có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Đấy là sức mạnh tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh, cái sức mạnh mà chẳng phải tình yêu nào cũng có được sức mạnh của niềm tin. Tình yêu rồi không phải hết ước mơ, dẫu tận cùng còn đường kia là hạnh phúc, và Xuân Quỳnh đã đi hết con đường dó thì chị vẫn ước mơ. Niềm tin trong thơ chị lớn lao thì ước mơ cũng lớn lao bấy nhiêu:
Làm sao được tan ra,
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mơ ước tình yêu là vĩnh cửu, đến mơ ước cũng mang hình bóng của người tình nhân đắm say. Ở đây, Xuân Quỳnh có gì rất gần với “Biển” của Xuân Diệu. Chất đam mê mãnh liệt toát ra từ từng câu chữ khi Xuân Diệu viết:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Nhưng Xuân Diệu thì còn có một ngày sẻ “thôi dào dạt” còn Xuân Quỳnh thì “ ngàn năm còn vỗ”. Vân cái chất đam mê mãnh liệt ấy nhưng thêm vào đó là sự lắng đọng suy tư. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh có thêm chiều sâu của sự hoà nhập tuyệt đối. Như vậy, ai dám bảo tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh non nớt, giản đơn, ngọt ngào? Tình yêu trong thơ chỉ là nỗi khát khao, là sự kiếm tìm đến cái thánh thiện cảu mình. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chất chứa chiều sâu tâm hồn, là tình yêu hạnh phúc với cuộc sống chung. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng là tình yêu sâu lắng cảu bao người khác đã yêu, đang yêu và sắp yêu.
Đầy đủ sắc thái tâm trạng của người đang yêu: nỗi khát khao niềm đam mê bất tận nỗi nhớ nhung cùng sự sôi nỗi và suy tư lắng đọng…rồi cả ước mơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả thật tinh tế và tài hoa trong bài thơ “ Sóng”. Sau này, ta sẽ còn bắt gặt một Xuân Quỳnh tha thiết, một Xuân Quỳnh nồng nàn, một Xuân Quỳnh nhân hậu trong nhiều bài thơ tình nữa, nhưng rõ ràng, ở bài “Sóng”, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách thơ của mình. Giữa những năm chiến tranh đầy máu lữa, thơ tình Xuân Quỳnh đã làm người ta tin vào sự sống, tin vào con người hơn nữa. Thơ tình Xuân Quỳnh mang lại khoảng bình yên cho tâm hồn người đọc, mang lại tình yêu cho đôi lứa đang yêu…
|
Cảm nhận của em về bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải
Hướng dẫn
Thượng tướng Trần Quang Khải là anh hùng – thi sĩ lỗi lạc cùa đời Trần. Ong lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến lẩn thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288) đánh thắng giặc Nguyên Mông. Ông là tác giả tập thơ ‘Lạc đạo’ bằng chữ Hán, hiện chỉ còn lại 11 bài.
Mùa hè năm 1285, quân ta đánh thắng giòn giã trên phòng tuyến sông Hồng, Thoát Hoan đại bại, thành Thăng Long được giải phóng. Trên đường cùng đại quân rước xa giá vua trở lại Kinh thành, Trần Quang Khải viết bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ này. Đây là bài thơ dịch:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu’.
1. Hai câu thơ đầu cấu trúc bình đối, nhắc lại hai chiến công liên tiếp vang dội của quân ta: trận Hàm Tử quan và trận Chương Dương độ. Hàng vạn giặc bị bắt sống và bị giết. Ô Mã Nhi thoát chết, chạy trốn ra biển. Toa Đô bị chém cụt đầu. Quân ta chiếm được nhiều chiến thuyền, khí giới và lương thảo của giặc. Hai chữ
‘đoạt sáo’và ‘cầm Hồ’ đứng đầu câu thơ gợi tả hai cú đánh sấm sét vô cùng mạnh mẽ và liên tiếp giáng xuống đầu quân xâm lược. Lần đầu tiên trong thơ ca dân tộc, Trần Quang Khải đã đưa địa danh lịch sử vào thơ để ca ngợi ‘hào khó Đông – A’,ca ngợi chí khí anh hùng của Đại Việt. Thượng tướng Trần Quang Khải, tướng quân Trần Nhật Duật đã chỉ huy hai trận đánh lớn này. Câu thơ hàm súc, cảm xúc dồn nén, khí văn hùng tráng mạnh mẽ biểu thị tinh thần ‘Sát Thát’ của tướng sĩ và niềm tự hào vô cùng to lớn của nhân dân ta thời Trần:
Cầm Hồ Hàm Tử quan’ ị Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù)
Trên đà chiến thắng, quân ta quét sạch giặc Nguyên – Mông ra khỏi Kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu, tức là ngày 9 tháng 7 năm 1285, Thượng tướng Trần Quang Khải cùng đoàn quán thắng trận rước xa giá vua Trần trở lại Kinh thành trong cảnh hoang tàn đổ nát.
2. Từ âm điệu anh hùng ca, giọng thơ trở nên tâm tình ở hai câu cuối Trước đống tro tàn của quê hương đất nước, một nhiệm vụ mới rất nặng nề được đặt ra cho mọi người:
‘Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san’ (Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu)
Từ vua đến vương hầu, từ tướng sĩ đến toàn dân, ai cũng phải ‘tu trí lực’, đồng lòng gắng sức đem tài năng, công sức, của cải để tái thiết đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh, làm cho giang san ta, đất nước ta được độc lập, thái bình bền vững đến muôn đời, mãi mãi. Nghĩa vụ công dân được đặt ra một cách nghiêm trang, nhẹ nhàng và thấm thía. Câu thơ không có chủ ngữ (chủ ngữ ẩn), nhưng ai cũng cảm thấy mình đang được nhà thơ nhắc đến. Ngòi bút của tác giả rất thâm hậu. Tư tưởng ‘tu trí lực’mà Trần Quang Khải nêu lên từ thế kỉ 13 thế mà hơn 700 năm sau, mỗi công dân Việt Nam vẫn thấy mới mẻ, lay động.
|
My thoughts on the poem Chanting Gia Hoan Kinh Su by Tran Quang Khai
Instruct
Lieutenant General Tran Quang Khai was an outstanding hero and poet of the Tran dynasty. Ong achieved many glorious victories in the second resistance war (1285) and the third (1288) to defeat the Mongol invaders. He is the author of the collection of poems 'Lac Dao' in Chinese, currently only 11 poems remain.
In the summer of 1285, our army won a decisive victory on the Red River defense line, Thoat Hoan was defeated, and Thang Long citadel was liberated. On the way with the army to process the king's price back to the capital, Tran Quang Khai wrote this five-word poem 'Chanting the king's price'. Here is the translated poem:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive,
That country is thousands of years old'.
1. The first two verses have a parallel structure, recalling two consecutive resounding victories of our army: the battle of Ham Tu Quan and the battle of Chuong Duong Do. Tens of thousands of enemies were captured alive and killed. O Ma Nhi escaped death and fled to the sea. Toa Do's head was amputated. Our troops captured many warships, weapons and food from the enemy. Two words
'winning the flute' and 'holding the lake' at the beginning of the verse describe two extremely powerful and consecutive lightning strikes that fell on the invaders. For the first time in national poetry, Tran Quang Khai included historical places in his poetry to praise the 'tough heroes of the East - A', praising the heroic spirit of Dai Viet. Senior Lieutenant General Tran Quang Khai and General Tran Nhat Duat commanded these two major battles. The poem's conciseness, pent-up emotions, and powerful literary style express the 'Sat That' spirit of the generals and the great pride of our people during the Tran Dynasty:
Cam Ho Ham Tu Quan' Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy)
On the verge of victory, our army wiped out the Yuan-Mongol invaders from Thang Long Citadel. On June 6, At Dau year, that is, July 9, 1285, Lieutenant General Tran Quang Khai and the winning delegation carried King Tran back to the capital in a desolate and ruined state.
2. From the epic tone, the poetic voice becomes sentimental in the last two sentences. Before the ashes of the homeland, a new and very heavy task is set for everyone:
‘Peace cultivates wisdom,
Eternal life tries the river' (Thai Binh should strive,
That country is thousands of autumns)
From kings to princes, from generals to the entire people, everyone must "cultivate intelligence", unanimously strive to use their talents, efforts, and wealth to rebuild the country, heal the wounds of war, and make Our country, our country will be independent and have lasting peace forever and ever. Citizen's obligations are laid out in a serious, gentle and poignant way. The poem has no subject (hidden subject), but everyone feels that they are being mentioned by the poet. The author's pen is very profound. The idea of 'cultivating the mind' that Tran Quang Khai raised in the 13th century, but more than 700 years later, every Vietnamese citizen still finds it new and moving.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Từ Ấy
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài thơ Từ Ấy
Bài làm
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặn đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.
” Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
…
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.
“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.
Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.
Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi”
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu nhà thơ Tố Hữu.
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Từ Ấy
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài thơ Từ Ấy
Bài làm
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặn đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.
” Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
…
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.
“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.
Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.
Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi”
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu nhà thơ Tố Hữu.
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh
Đi đường là bài thơ trong tập Nhật kí trong tù. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Với bao cay đắng thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành thơ lục bát:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng!
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non,
Đây là bài thơ mang hàm nghĩa. Tác giả mượn chuyện đi đường để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán là:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
được dịch nghĩa là:
Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác.
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm song ở đời, đó là chuyên đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: là gươm kề tận cổ, súng kề tai – là thân sống chỉ coi còn một nửa (Trăng trối – Tối Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ trùng san đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất; người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ cao dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới: ý niệm: hành lộ nan đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người ba mươi năm ấy chân không nghỉ (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có Núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:
Người xưa có nhắc: Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy phải biết con người ấy là thế.
Hai câu cuối được cấu trúc trên mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Muôn vượt qua các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học đi đường thật là vô giá đối với bất cứ ai.
– Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao.
– Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thể khó khăn hơn.
Bài thơ Đi đường cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con dường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ Đi đường trở thành hành trang cho mỗi chúng ta có thêm sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.
|
My thoughts on Ho Chi Minh's poem On the Road
Instruct
My thoughts on Ho Chi Minh's poem On the Road
On the Road is a poem in the collection Prison Diary. At that time, Ho Chi Minh was taken by Chiang Kai-shek's government to many prisons in Guangxi province, China. With many bitter and heavy challenges. The poem is written in the form of seven words and four verses and was translated into six-eight verse by Nam Tran:
Only when we travel on the road do we know the hardships,
High mountains and then high, rolling mountains!
The mountains rise to the very end,
Take in the sight of countless mountains and rivers,
This is a poem with meaning. The author borrowed the story of traveling on the road to express the feeling that the road of life is extremely difficult and dangerous; You must have high determination and great energy to overcome challenges and achieve glorious victory.
The first two lines of the Chinese poem are:
If you reveal your talent, you will expose your troubles
The foreign branch is identical to the foreign branch
translated means:
Only when you have traveled the road do you know that the road is difficult.
From one layer of mountain to another layer of mountain.
The first sentence states an experience, a contemplation in life, which is about traveling and the lesson of traveling on a difficult road. For the poet, the path mentioned is also an extremely dangerous revolutionary path: a sword to the neck, a gun to the ear - a life that is only considered half alive (Last Moon - Toi Huu). The image of the road described in overlapping words highlights the piling up of difficulties and challenges; People on the road always face many hardships. The Chinese poem has no high words, the translator has added it, the reader of the poem needs to know:
High mountains and then high, rolling mountains.
The first two verses have nothing new in terms of literature: the concept: the path of nan appeared in ancient literature more than a thousand years ago. However, Ho Chi Minh's poems are beautiful and profound in their experiential nature; It shows the experience of a man who was restless for thirty years (To Huu), to find a way to save the country. The path that that soldier crossed was not only filled with high mountains and then rolling high mountains, but was also full of storms and storms, stretching across all four seas and five continents:
The ancients said: Reading that person's books, reading that person's poetry, you must know that person.
The last two sentences are structured on a condition-consequence relationship. Once you have conquered the highest peak (Cao Phong Hau), thousands of miles of water (Van Li Du Do) come into view:
The mountains rise to the very end,
Collect countless mountains and rivers as far as you can see.
To overcome the mountains to reach the towering peak, one must have great determination and determination. Only then can we achieve glorious victory and obtain good results. Ho Chi Minh's poem contains the lesson of determination to overcome difficulties, enhance will and determination in life to win. Lessons learned on the road are invaluable for anyone.
– High mountains meet tigers but are unharmed
The flat road meets the imprisoned.
– Dealing with situations from the past is not easy,
But now, it's more difficult to handle.
The poem "On the Road" gives us a lesson about life's many difficulties and dangers, a lesson about determination, overcoming difficulties, and rising to victory on the road of life. Every life is a hundred years of travel. There is a path to work to make a living, there is a path to fame and career. Youth also have a path to study. The poem "On the Road" becomes a luggage for each of us to have more strength to rise up and realize our dreams.
|
Cảm nhận của em về bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương
Hướng dẫn
‘Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lố bỏ không!’
…Trong các lễ hội làng quê, đặc biệt trong dịp Tết mừng xuân, trò chơi đánh đu của trai gái diễn ra tưng bừng náo nhiệt nhất. Hai câu đề thể hiện một cái nhìn thú vị trước cột đu và một tiếng khen thầm buột ra, khi nhà thơ đi qua bãi chơi đu đầu làng, cuối xóm:
‘Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông’
Hai chữ ‘khéo khéo’ làm cho lời thơ, tình thơ trở nên đậm đà. Ai đã ‘khéo khéo trồng’ cây đu, ai đã nghĩ ra trò chơi đu mà vui thế: ‘Người thì lên đánh, ke’ ngồi trông’. Tâm hồn nữ sĩ hòa nhập với niềm vui của trai gái đang chơi đu, mà nghĩ về một trò chơi, một mĩ tục dân gian lâu đời rất đáng tự hào. Các động từ ‘lên
đánh’và ‘ngồi trông’ hô ứng nhau, gợi tả không khí chơi đu vừa nhịp nhàng vừa vui nhộn, tập nập.
Đánh đu có cảnh đánh đơn nam, đơn nữ, có cảnh đánh đôi nữ, đôi nam, lại có cảnh nam nữ cùng đánh đôi. Hai câu thực tả cảnh đánh đôi nam, nữ. Hình ảnh ‘trai du’ và ‘gái uốn’ gợi tả động tác rất mềm dẻo, uyển chuyển, Tư thế ‘khom khom cật’ rất mạnh mẽ, hào hứng. Động tác ‘ngửa ngửa lòng’ gợi lên một dáng bay nhẹ nhàng, thích thú. Trong cái tài đã có cái tình của trai gái lúc đánh đu. Cảnh đánh đu rất đẹp như đang diễn ra trước mắt chúng ta một sức xuân phơi phới. Gối hạc và lưng ong là hai ẩn dụ đặc tả vẻ đẹp thanh tân của trai gái làng quê trên cánh đu đang tung bay trong gió xuân:
‘Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng’
Cánh đu mỗi lúc lại tung bay cao hơn, nhịp nhàng hơn, ‘kẻ ngồi trông’ cảm thấy không nhìn rõ khuôn mặt, dáng hình của đôi trai gái đang đánh đu nữa. Chỉ còn nhìn thấy ‘Bốn mảnh quẩn hồng bay phấp phới’. Chỉ còn biết dõi theo và tấm tắc ‘Hai hàng chân ngọc duỗi song song’. Cảnh châm lấm tay bùn, màu quần thâm áo nâu đời thường đã biến mất. Trong hội xuân, trẽn cánh đu chỉ có ‘quần hồng bay phấp phới’ và chỉ còn có ‘chân ngọc duỗi song song’. Đó là sắc xuân, nét xuân và dáng xuân của làng quê trong lễ hội. Và đó cũng là vẻ đẹp trẻ trung, yêu đời của đất nước và con người, của lễ hội mùa xuân và nền văn hóa dân gian Việt Nam giàu đẹp.
Mùa xuân đẹp mãi với dáng xuân, sắc xuân tung bay:
‘Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song’
Xuân tàn, hội tan, biết bao tiếc nuối bàng khuâng trong lòng người. Nhìn bãi đu sau ngày hội tan mà ngẩn ngơ, luyến tiếc:
‘Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!’
Có yêu đời, yêu cái đẹp trong cuộc đời, trong lễ hội mùa xuân, nữ sĩ mới có niềm luyến tiếc, ngẩn ngơ ấy.
Mùa xuân trôi qua. Và bao giờ mùa xuân trở lại?
Bài thơ ‘Đánh đu’âã làm sống lại trong lòng ta một nét đẹp lễ hội dân gian mùa xuân đáng yêu vô cùng.
|
My thoughts on the poem Swinging by Ho Xuan Huong
Instruct
‘The four pillars praise those who plant them skillfully,
Some people fight, others sit and watch.
Boys bend over their knees and stoop down,
The girl arched her back and tilted her head up.
Four pieces of pink pants fluttering,
Two parallel rows stretching pearl pins.
Playing spring already knows if spring is good,
The pile has been pulled out, it's all abandoned!'
…During village festivals, especially during the Spring Festival, swing games between boys and girls take place most joyfully and bustlingly. The two sentences express an interesting look at the swing pole and a whisper of praise when the poet passes the swinging area at the beginning of the village and at the end of the hamlet:
‘The four pillars praise those who plant them skillfully,
Some people fight, others sit and watch'
The two words 'clever' make the poetic words and love poems become rich. Who cleverly planted the swing tree, who came up with such a fun swing game: 'Some people go up to play, while others sit and watch'. The female artist's soul merged with the joy of the boys and girls playing on the swings, thinking about a game, a long-standing folk custom worth being proud of. The verb ‘up
'hit' and 'sit and watch' chant to each other, suggesting an atmosphere of swing play that is both rhythmic and fun, busy.
Swing has scenes of men's singles and women's singles, scenes of women's doubles and men's doubles, and scenes of men and women playing doubles together. These two sentences actually describe the scene of a men's and women's doubles match. The image of 'wandering boy' and 'curling girl' depicts very flexible and flexible movements. The posture of 'curling down' is very strong and exciting. The 'back up and down' movement evokes a gentle, enjoyable flying posture. In talent, there is the love between a boy and a girl while swinging. The swinging scene is very beautiful, as if a spring energy is taking place before our eyes. The crane pillow and the bee's back are two metaphors that describe the youthful beauty of village boys and girls on swings flying in the spring breeze:
'The young man bowed his head and bowed his head,
The girl bends her back and tilts her head back and forth'
Each time the swing wings flew higher and more rhythmically, the 'watcher' felt he could no longer clearly see the faces and figures of the couple swinging. All that remains is to see 'Four pieces of fluttering red feathers'. All I can do is watch and say, 'Two rows of jade legs stretched out parallel'. The usual scenes of muddy hands and dark brown clothes have disappeared. During the spring festival, on the swing's wings there are only 'fluttering pink pants' and only 'jade legs stretched out parallel'. Those are the spring colors, spring features and spring looks of the countryside during the festival. And that is also the youthful, life-loving beauty of the country and its people, of the spring festival and the rich and beautiful Vietnamese folk culture.
Spring is forever beautiful with spring looks and spring colors flying:
'Four pieces of pink pants fluttering,
Two parallel rows stretching pearl pins'
Spring is over, festivals are over, so many regrets flutter in people's hearts. Looking at the swing field after the end of the festival, I was bewildered and nostalgic:
'If you play in the spring, you will know whether it is spring or not,
The pile has been pulled out, the hole is empty!'
Only by loving life, loving the beauty in life, during the spring festival, can a female artist have that nostalgia and bewilderment.
Spring passed. And when will spring return?
The poem 'Swing' revives in our hearts the incredibly lovely beauty of the spring folk festival.
|
Cảm nhận của em về bài Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng
Hướng dẫn
Ngày 19/5/1970, Đảng và Chính phủ đã tổ chức trọng thể Lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc diễn văn với nhan đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh – tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại”. Bài Đức tính giản dị của Bác Hồ trích từ bài diễn văn ấy.
Hai đoạn văn đầu, tác giả khẳng định “sự nhất quán” trong nhân cách vĩ đại của Bác Hồ: “đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn”. Tiếp theo, ông ca ngợi Bác Hồ suốt đời “vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một người chiến sĩ cách mạng”. Người đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao quý: “tất cả vì nước vì dân, vì sự nghiệp lớn”. Đạo đức của Người“trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp”. Phần đầu bài văn cho thấy một giọng văn sôi nổi lôi cuốn, trang trọng, lí lẽ đanh thép hùng hồn, ngôn từ chuẩn mực, đĩnh đạc, biểu cảm: “Điều rất quan trọng”, “đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất”, “vô cùng giản dị và khiêm tốn”, “rất lạ lùng, rất kì diệu”, “một cuộc đời sóng gió”, “vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý”, “tất cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp”.
Đoạn văn thứ ba, Phạm Văn Đồng đã chứng minh một cách sáng tỏ đời sống giản dị của Bác Hồ trên ba phương diện: cách ăn, cách ở, cách làm việc.
– Cách ăn của Bác rất giản dị: “Bữa cơm chỉ có vài ba món rất giản đơn, lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột cơm; ăn xong, cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại được sắp xếp tươm tất”. Tác giả nêu lên bốn chi tiết rất cụ thể để chứng minh cách ăn giản dị của Bác. Phạm Văn Đồng đã từng sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức (1925), đã từng bí mật sang Vân Nam gặp Bác (1940). Và từ những ngày ở chiến khu đến Cách mạng tháng Tám và suốt trong những năm dài kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông đã từng sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ, nên mới có thể nói một cách tỉ mỉ, cụ thể về cách ăn của Bác như vậy. Đây là một câu văn bình luận rất hay, từ cách ăn, tác giả ca ngợi đạo đức của Bác: “Ở việc làm nhỏ đó, chúng ta càng thấy Bác quý trọng biết bao kết quả sản xuất của con người và kính trọng như thế nào người phục vụ”.
– Cách làm việc của Bác càng giản dị: “Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ việc rất lớn: việc cứu nước, cứu dân đến việc rất nhỏ…”. Phong cách làm việc ấy của Bác thể hiện một tinh thần xả thân, bền bỉ, cần mẫn, chu đáo và rất giản dị. Tác giả nêu lên bốn việc rất nhỏ Bác thường làm để ca ngợi cách làm việc giản dị, chu đáo của Bác như: “trồng cây trong vườn, viết một bức thư cho một đồng chí, nói chuyện với các cháu miền Nam, đi thăm nhà tập thể của công nhân, từ nơi làm việc đến phòng ngủ, nhà ăn”. Là Chủ tịch nước nhưng Bác rất giản dị trong sinh hoạt: “Việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp”, số người giúp việc và phục vụ Hồ Chủ tịch có thể đếm trên đầu ngón tay, mỗi người được Bác đặt cho một cái tên mới “gộp lại là ý chí chiến đấu và chiến thắng: Trường, Kì, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi!”.
Đoạn văn thứ tư, Phạm Văn Đồng bình luận về đời sống của Hồ Chủ tịch. Cách sống giản dị của Bác không phải là “sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật”. Đời sống giản dị, thanh bạch của Bác Hồ là một sự hòa hợp tuyệt đẹp, bởi vì Người đã “sống sôi nổi, phong phú đời sống và cuộc sống đấu tranh gian khổ và ác liệt của quần chúng nhân dân”. Hòa hợp giữa “đời sống vật chất giản dị’ với “đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất”. Hai mặt đối lập mà thống nhất ấy, “là nơi sống thực sự văn minh”, “một gương sáng” mà Bác Hồ đã nêu lên trong thế giới ngày nay. Qua đó, ta thấy cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, lời bình luận rất sắc sảo.
Đoạn văn thứ 5, giải thích và bình luận về cách nói và cách viết giản dị của Bác Hồ. Người nói giản dị, viết giản dị vì Người “muốn cho quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được”. Những chân lí lớn mà giản dị là khát vọng về độc lập, tự do, thống nhất, về ấm no hạnh phúc của nhân dân ta nên Bác đã nói lên một cách rất giản dị: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”. Những chân lí giản dị mà sâu sắc đó là “sức mạnh vô địch”, là “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” khi nó đã thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con người. Qua đó, tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy tư tưởng của Hồ Chủ tịch rất sâu sắc, cách nói cách viết của Người lại rất giản dị, thấm thía.
Văn bản nghị luận này thể hiện một lối viết đặc sắc, mẫu mực. Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng cụ thể, chọn lọc, rất tiêu biểu, lờibình luận sâu sắc, đầy thuyết phục, cách sắp xếp, trình bày lí lẽ, dẫn chứng khúc chiết, sáng tỏ. Giọng văn sôi nổi, tâm huyết, trang trọng, tự hào.
Qua văn bản này, tác giả đã nâng cao lòng kính yêu và biết ơn Bác Hồ trong tâm hồn mỗi chúng ta. Hơn bao giờ hết, bài Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài học quý báu đối với tuổi thơ chúng ta cả về tư tưởng, cả về văn chương.
Qua văn bản Đức tính giản dị của Bác Hồ, em hiểu như thế nào về đức tính giản dị. Hãy trình bày suy nghĩ của mình về đức tính ấy?
Bài làm
Làm người như thế nào, sống như thế nào là câu hỏi lớn day dứt bao nhiêu thế hệ xưa nay. Tại sao mọi người lại thường nhắc đến đức tính giản dị khi nhận xét, đánh giá một ai đó? Như vậy, chắc hẳn giản dị là một đức tính quan trọng của con người. Vậy giản dị là gì?
Giản dị là một đức tính về phong cách sống. Người ta thường nói: con người giản dị, tác phong giản dị, ăn mặc giản dị, lời văn giản dị… Đức tính giản dị đối lập với thói xa hoa, thói phô trương, kiểu cách, làm bộ làm tịch, bày vẽ ra nhiều thủ tục rắc rối, rườm rà. Giản dị là sống tự nhiên, tìm một con đường ngắn nhất để đến với mọi người, mọi việc.
Nhưng giản dị không phải là đơn giản, thô sơ. Thơ của Bác Hồ chẳng hạn, rất giản dị, nhưng không đơn giản chút nào. Ví như bài Đi đường, dễ hiểu, gợi cảm, không dùng điển cố nhưng lại rất sâu sắc. Giản dị tức là sống, suy nghĩ một cách chân thật, trung thực.
Không nên hiểu giản dị là không ăn mặc đẹp, không đi giày dép; nói năng cộc lốc, không thưa gửi, uống nước không đun sôi, ăn quả xanh. Có bạn hiểu giản dị là ăn nói tùy tiện, thậm chí nói tục ở trong lớp, trước mặt mọi người. Như thế không phải là giản dị, mà là thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng người khác. Một người học sinh giản dị, theo em, là người sống khiêm nhường, không khoe khoang, phô trương. Một học sinh giản dị làhọc sinh biết ăn mặc đẹp, lịch sự, sạch sẽ, nhưng không lốlăng. Đó là người hòa nhã, gần gũi với mọi người trong học tập và vui chơi. Đó là người hồn nhiên, học hết mình, không có thái độ giả tạo. Chẳng hạn như không hiểu mà không muốn hỏi bạn, sợ mang tiếng là dốt, hoặc khi biết mà bạn hỏi thì không bảo, giữ kẽ, giữ tủ. Che đậy mình hoặc khoe khoang mình tức là giả tạo, không giản dị.
Tóm lại, giản dị là một đức tính quý báu, đồng thời cũng là một phương hướng tu dưỡng, rèn luyện để làm người của chúng em. Đẹp bao khi mọi người sống với nhau giản dị, chân thật, ấm áp, đầy lòng tin cậy đối với nhau.
|
Cảm nhận của em về bài Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng
Hướng dẫn
Ngày 19/5/1970, Đảng và Chính phủ đã tổ chức trọng thể Lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc diễn văn với nhan đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh – tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại”. Bài Đức tính giản dị của Bác Hồ trích từ bài diễn văn ấy.
Hai đoạn văn đầu, tác giả khẳng định “sự nhất quán” trong nhân cách vĩ đại của Bác Hồ: “đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn”. Tiếp theo, ông ca ngợi Bác Hồ suốt đời “vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một người chiến sĩ cách mạng”. Người đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao quý: “tất cả vì nước vì dân, vì sự nghiệp lớn”. Đạo đức của Người“trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp”. Phần đầu bài văn cho thấy một giọng văn sôi nổi lôi cuốn, trang trọng, lí lẽ đanh thép hùng hồn, ngôn từ chuẩn mực, đĩnh đạc, biểu cảm: “Điều rất quan trọng”, “đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất”, “vô cùng giản dị và khiêm tốn”, “rất lạ lùng, rất kì diệu”, “một cuộc đời sóng gió”, “vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý”, “tất cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp”.
Đoạn văn thứ ba, Phạm Văn Đồng đã chứng minh một cách sáng tỏ đời sống giản dị của Bác Hồ trên ba phương diện: cách ăn, cách ở, cách làm việc.
– Cách ăn của Bác rất giản dị: “Bữa cơm chỉ có vài ba món rất giản đơn, lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột cơm; ăn xong, cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại được sắp xếp tươm tất”. Tác giả nêu lên bốn chi tiết rất cụ thể để chứng minh cách ăn giản dị của Bác. Phạm Văn Đồng đã từng sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức (1925), đã từng bí mật sang Vân Nam gặp Bác (1940). Và từ những ngày ở chiến khu đến Cách mạng tháng Tám và suốt trong những năm dài kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông đã từng sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ, nên mới có thể nói một cách tỉ mỉ, cụ thể về cách ăn của Bác như vậy. Đây là một câu văn bình luận rất hay, từ cách ăn, tác giả ca ngợi đạo đức của Bác: “Ở việc làm nhỏ đó, chúng ta càng thấy Bác quý trọng biết bao kết quả sản xuất của con người và kính trọng như thế nào người phục vụ”.
– Cách làm việc của Bác càng giản dị: “Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ việc rất lớn: việc cứu nước, cứu dân đến việc rất nhỏ…”. Phong cách làm việc ấy của Bác thể hiện một tinh thần xả thân, bền bỉ, cần mẫn, chu đáo và rất giản dị. Tác giả nêu lên bốn việc rất nhỏ Bác thường làm để ca ngợi cách làm việc giản dị, chu đáo của Bác như: “trồng cây trong vườn, viết một bức thư cho một đồng chí, nói chuyện với các cháu miền Nam, đi thăm nhà tập thể của công nhân, từ nơi làm việc đến phòng ngủ, nhà ăn”. Là Chủ tịch nước nhưng Bác rất giản dị trong sinh hoạt: “Việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp”, số người giúp việc và phục vụ Hồ Chủ tịch có thể đếm trên đầu ngón tay, mỗi người được Bác đặt cho một cái tên mới “gộp lại là ý chí chiến đấu và chiến thắng: Trường, Kì, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi!”.
Đoạn văn thứ tư, Phạm Văn Đồng bình luận về đời sống của Hồ Chủ tịch. Cách sống giản dị của Bác không phải là “sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật”. Đời sống giản dị, thanh bạch của Bác Hồ là một sự hòa hợp tuyệt đẹp, bởi vì Người đã “sống sôi nổi, phong phú đời sống và cuộc sống đấu tranh gian khổ và ác liệt của quần chúng nhân dân”. Hòa hợp giữa “đời sống vật chất giản dị’ với “đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất”. Hai mặt đối lập mà thống nhất ấy, “là nơi sống thực sự văn minh”, “một gương sáng” mà Bác Hồ đã nêu lên trong thế giới ngày nay. Qua đó, ta thấy cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, lời bình luận rất sắc sảo.
Đoạn văn thứ 5, giải thích và bình luận về cách nói và cách viết giản dị của Bác Hồ. Người nói giản dị, viết giản dị vì Người “muốn cho quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được”. Những chân lí lớn mà giản dị là khát vọng về độc lập, tự do, thống nhất, về ấm no hạnh phúc của nhân dân ta nên Bác đã nói lên một cách rất giản dị: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”. Những chân lí giản dị mà sâu sắc đó là “sức mạnh vô địch”, là “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” khi nó đã thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con người. Qua đó, tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy tư tưởng của Hồ Chủ tịch rất sâu sắc, cách nói cách viết của Người lại rất giản dị, thấm thía.
Văn bản nghị luận này thể hiện một lối viết đặc sắc, mẫu mực. Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng cụ thể, chọn lọc, rất tiêu biểu, lờibình luận sâu sắc, đầy thuyết phục, cách sắp xếp, trình bày lí lẽ, dẫn chứng khúc chiết, sáng tỏ. Giọng văn sôi nổi, tâm huyết, trang trọng, tự hào.
Qua văn bản này, tác giả đã nâng cao lòng kính yêu và biết ơn Bác Hồ trong tâm hồn mỗi chúng ta. Hơn bao giờ hết, bài Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài học quý báu đối với tuổi thơ chúng ta cả về tư tưởng, cả về văn chương.
Qua văn bản Đức tính giản dị của Bác Hồ, em hiểu như thế nào về đức tính giản dị. Hãy trình bày suy nghĩ của mình về đức tính ấy?
Bài làm
Làm người như thế nào, sống như thế nào là câu hỏi lớn day dứt bao nhiêu thế hệ xưa nay. Tại sao mọi người lại thường nhắc đến đức tính giản dị khi nhận xét, đánh giá một ai đó? Như vậy, chắc hẳn giản dị là một đức tính quan trọng của con người. Vậy giản dị là gì?
Giản dị là một đức tính về phong cách sống. Người ta thường nói: con người giản dị, tác phong giản dị, ăn mặc giản dị, lời văn giản dị… Đức tính giản dị đối lập với thói xa hoa, thói phô trương, kiểu cách, làm bộ làm tịch, bày vẽ ra nhiều thủ tục rắc rối, rườm rà. Giản dị là sống tự nhiên, tìm một con đường ngắn nhất để đến với mọi người, mọi việc.
Nhưng giản dị không phải là đơn giản, thô sơ. Thơ của Bác Hồ chẳng hạn, rất giản dị, nhưng không đơn giản chút nào. Ví như bài Đi đường, dễ hiểu, gợi cảm, không dùng điển cố nhưng lại rất sâu sắc. Giản dị tức là sống, suy nghĩ một cách chân thật, trung thực.
Không nên hiểu giản dị là không ăn mặc đẹp, không đi giày dép; nói năng cộc lốc, không thưa gửi, uống nước không đun sôi, ăn quả xanh. Có bạn hiểu giản dị là ăn nói tùy tiện, thậm chí nói tục ở trong lớp, trước mặt mọi người. Như thế không phải là giản dị, mà là thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng người khác. Một người học sinh giản dị, theo em, là người sống khiêm nhường, không khoe khoang, phô trương. Một học sinh giản dị làhọc sinh biết ăn mặc đẹp, lịch sự, sạch sẽ, nhưng không lốlăng. Đó là người hòa nhã, gần gũi với mọi người trong học tập và vui chơi. Đó là người hồn nhiên, học hết mình, không có thái độ giả tạo. Chẳng hạn như không hiểu mà không muốn hỏi bạn, sợ mang tiếng là dốt, hoặc khi biết mà bạn hỏi thì không bảo, giữ kẽ, giữ tủ. Che đậy mình hoặc khoe khoang mình tức là giả tạo, không giản dị.
Tóm lại, giản dị là một đức tính quý báu, đồng thời cũng là một phương hướng tu dưỡng, rèn luyện để làm người của chúng em. Đẹp bao khi mọi người sống với nhau giản dị, chân thật, ấm áp, đầy lòng tin cậy đối với nhau.
|
Cảm nhận của em về Bác Hồ qua bài thơ Ngắm Trăng
Hướng dẫn
Hồ Chí Minh là một người rất mực yêu thiên nhiên, khao khát hòa hợp với thiên nhiên, thích nếp sống thanh nhã. Người thích trăng, yêu hoa, thích nghe tiếng chim hót, suôi chảy. Ngắm trăng là một bài thơ như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đầy băn khoăn. Câu Trong tù không rượu củng không hoa không phải nhằm để nói về hoàn cảnh trong tù thiếu thốn, gian khổ mà là nói về cái cảm giác thiếu thốn rượu hoa, của người tù. Bởi đây là người tù đặc biệt, một nhà thơ, một tâm hồn thanh cao, muôn được hưởng thụ xứng đáng một đêm trăng đẹp. Chỉ riêng niềm băn khoăn ấy cũng đã rất thơ mộng. Hoàn cảnh tù ngục không làm người ta mất đi những ý nghĩa thơ mộng cũng như khát vọng được sống một cách cao đẹp.
Người tù chủ động hướng ra cửa ngục để ngắm trăng sáng. Và lạ chưa, dường như cũng muốn đến với con người, cảm động vì tình người và nhận ra đó là một nhà thơ.
Trăng cũng chí tình, nhòm từ khe cửa để ngắm nhà thơ. Câu thơ như ý nói: vầng trăng sáng đã nhận ra cốt cách thi nhân của người tù, mà phong tặng danh hiệu nhà thơ cho người.
Bài thơ là sự tự khẳng định cốt cách thi nhân, thanh cao của con người trong hoàn cảnh đen tối.
Đề bài: Cảm nhận của em về Bác Hồ qua bài thơ Ngắm Trăng
Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, nhưng khi đến gần thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phương ở đây bắt giữ, giải đi khắp gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đoạ hơn một năm trời. Thời gian này, Người đã viết Nhật kí trong tù bằng thơ chữ Hán, gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Tập thơ thể hiện một tâm hồn cao đẹp, ý chí cách mạng kiên cường và nghệ thuật thi ca đặc sắc. Bài thơ Ngắm trăng được trích trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
Bài thơ được dịch là “Ngắm trăng”:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Trong các các câu thơ dịch, câu thứ hai trong nguyên tác có nghĩa là “Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”. Câu thơ dịch dịch thành: Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ đã làm mất đi cái xốn xang, bối rối của nhân vật trữ tình (cũng là mất đi sự lãng mạn và nhạy cảm trước thiên nhiên trong tàm hồn của Bác). Hai cầu thơ cuối (bản dịch) cũng kém phần đăng đối hơn so với phiên âm. Hơn nữa từ nhòm và ngắm trong câu cuối là hai từ đồng nghĩa, khiến cho lời dịch không bảo đảm được sự cô đúc của ý tứ và thể thơ.
Thường người ta ngắm trăng vào những lúc thảnh thơi, thư thái. Thế nhưng ở đây, Hồ Chí Minh lại ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt: ở trong tù. Khi Bác nói “Trong tù không rượu cũng không hoa” thì không có nghĩa là Bác đang than thở cũng không phải đó là một lời phê phán. Chỉ có thể nghĩ rằng, trước đêm trăng tuyệt đẹp ấy, Bác mong được thưởng trăng một cách trọn vẹn (và đúng là thật tiếc nếu không có rượu, có hoa). Chính việc nhớ đến rượu và hoa trong cảnh ngục tù này đã cho thấy, người tù không hề vướng bận gì về vật chất và những gian nan mà mình đang phải chịu. Người tù vẫn ung dung tự tại, vẫn thả hồn mình cùng với thiên nhiên.
Hai câu cuối của bài thơ chữ Hán đối nhau rất chỉnh:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Các từ chỉ người (nhân, thi gia) và các từ chỉ trăng (nguyệt) đặt ỏ hai đầu, ở giữa là cửa nhà tù (song). Thế nhưng, giữa người và trăng vẫn tìm được sự giao hoà với nhau. Cấu trúc đối này đã làm nổi bật tình cảm mảnh liệt giữa người và trăng, nổi bật sự gắn bó thân thiết của một mối quan hệ từ lâu đã trở thành tri kỉ (Bác với trăng).
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên trong bài thơ nổi bật ở khía cạnh người chiến sĩ không chút bận tâm về gông cùm, đói rét,…Trước khó khăn, Bác vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Bài thơ còn thể hiện nổi bật tâm hồn nghệ sĩ của Bác Hồ, một tâm hồn luôn rộng mở với thiên nhiên.
Cuộc ngắm trăng trong bài Vọng nguyệt có hoàn cảnh không giống như các cuộc ngắm trăng khác: bài thơ được Bác làm khi phải chịu cảnh tù đày. Và có thể nói, mỗi bài thơ Bác viết về trăng lại có những nét riêng: trăng đầy sức sống, đầy sức xuân trong Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu), trăng thi vị và tri kỉ trong Báo tiệp (Tin thắng trận),…Nói chung, ở tất cả những bài này, Bác đều đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ, luôn mở rộng lòng để giao hoà cùng với thiên nhiên.
|
My feelings about Uncle Ho through the poem Watching the Moon
Instruct
Ho Chi Minh is a person who loves nature, desires harmony with nature, and enjoys an elegant lifestyle. People like the moon, love flowers, listen to birds sing, and flow. Watching the moon is such a poem.
The poem begins with two verses full of anxiety. The sentence "In prison, there is no wine or flowers" is not intended to talk about the deprivation and hardship in prison, but rather about the prisoner's feeling of lack of wine and flowers. Because this is a special prisoner, a poet, a noble soul, who wants to enjoy a beautiful moonlit night. That concern alone is very poetic. The prison situation does not make people lose their poetic meanings as well as their desire to live a noble life.
The prisoner proactively faced the prison door to see the bright moon. And strangely enough, it also seems to want to come to humans, be touched by human love and realize that he is a poet.
The moon was also sympathetic, peeping from the crack in the door to see the poet. The poem says: the bright moon recognized the prisoner's poetic personality and bestowed the title of poet on him.
The poem is a self-affirmation of the poet's essence and nobility of man in dark circumstances.
Topic: My feelings about Uncle Ho through the poem Watching the Moon
In August 1942, Ho Chi Minh secretly set out from Pac Bo (Cao Bang) to China to enlist international aid for the Vietnamese revolution, but when he approached the town of Tuc Vinh, he was arrested by local authorities. The local authorities here arrested him and took him to nearly 30 prisons in 13 districts of Guangxi province, where he was exiled for more than a year. During this time, he wrote his Prison Diary in Chinese poetry, including 133 poems, most of which were quatrains. The poetry collection demonstrates a beautiful soul, resilient revolutionary will and unique poetic art. The poem Watching the Moon is excerpted from Ho Chi Minh's Prison Diary.
“In prison, there are no drinks, no herons, no flowers
What is the problem with salary?
People look towards the two fronts to see the bright moon
Nguyet always encourages the audience to listen to poets"
The poem is translated as "Watching the moon":
“In prison there is no alcohol or flowers
The beautiful scene tonight is hard to ignore
People look at the moonlight outside the window
Moon peeked poet watching the door"
In the translated verses, the second sentence in the original means "What should I do in front of this beautiful scene tonight?". The poem translates to: The beautiful scene tonight, it is difficult to be indifferent, it has caused the loss of excitement and confusion of the lyrical character (also the loss of romance and sensitivity to nature in Uncle Ho's soul). The last two verses (translation) are also less consistent than the transcription. Furthermore, the words peek and watch in the last sentence are two synonyms, making the translation unable to ensure the conciseness of the meaning and poetic form.
Usually people look at the moon in leisurely and relaxing times. But here, Ho Chi Minh looked at the moon in a very special situation: in prison. When Uncle Ho said, "In prison, there is no wine or flowers," it did not mean that he was complaining nor was it a criticism. One can only think that, before that beautiful moonlit night, Uncle Ho wished to fully enjoy the moon (and it would be a pity if there was no wine or flowers). The very memory of wine and flowers in this prison scene shows that the prisoner has no concerns about material things and the hardships he is enduring. The prisoner is still leisurely and at ease, still letting his soul be with nature.
The last two lines of the Chinese poem contrast very well:
Looking forward to watching the bright moon,
Nguyet encouraged the poet's audience.
The words referring to people (human, poet) and the words referring to the moon (moon) are placed at both ends, in the middle is the prison door (song). However, people and the moon still find harmony with each other. This parallel structure highlights the strong feelings between man and the moon, highlighting the close bond of a relationship that has long become soulmates (Uncle and the moon).
The image of President Ho Chi Minh appearing in the poem stands out in the aspect of a soldier who does not care at all about shackles, hunger, cold, etc. In the face of difficulties, Uncle Ho still maintains a leisurely and carefree demeanor. The poem also highlights Uncle Ho's artistic soul, a soul always open to nature.
The moon viewing in the poem Vong Nguyet has a different situation than other moon viewing: the poem was written by Uncle Ho when he was in prison. And it can be said that each poem Uncle Ho wrote about the moon has its own unique features: the moon is full of vitality and spring in the Full Moon of the First Month (Nguyen Tieu), the poetic moon and soulmate in Bao Tiep (News of Victory), ...In general, in all of these articles, Uncle Ho showed readers the beauty of a poet's soul, always open to harmony with nature.
|
Cảm nhận của em về bé Hồng qua chương “Trong lòng mẹ” – “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về bé Hồng qua chương “Trong lòng mẹ” – “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng
Bài làm
Nguyên Hồng là nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học hiện đại của Việt Nam ta. Văn của ông thường chú trọng đến yếu tố chân thực và sâu sắc. Và một trong những tác phẩm nổi bật của ông chính là cuốn tự truyện “ Những ngày thơ ấu”, tác phẩm miêu tả chân thực nhất về cuộc đời của ông, Trong đó, chương “ Trong lòng mẹ” là một chương để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc, khi đã khắc họa được rõ nét những ký ức tuổi thơ của tác giả Nguyên Hồng.
Cậu bé Hồng hiện lên trong tác phẩm là cậu bé sinh ra đã rất bất hạnh, nhưng tuổi thơ của cậu lưu giữ rất nhiều những hình ảnh đẹp về người mẹ của mình. Sự bất hạnh của cậu bé từ khi sinh ra, đó là sự mất mát, thiếu thốn tình cảm của những người thân yêu. Cha mất sớm, mẹ của cậu vì không chịu được sự tủi cực, hắt hủi của họ hàng bên nội nên đã phải bỏ xứ mà đi. Cậu bé mồ côi đáng thương đã in sâu hình ảnh của người mẹ trong tâm trí, ngày đêm thương nhớ người mẹ của mình.
Tuổi thơ của cậu bé, dù không được may mắn như những đứa trẻ khác, nhưng cậu vẫn rất thương yêu mẹ của mình. Cậu sinh ra đã thiếu thốn tình cảm, gia đình không êm ấm. Cha thì nghiện ngập rồi chết rục bên bàn đèn thuốc phiện. Mẹ của cậu đau đớn bỏ đi. Rồi cậu bé phải sống với người cô ruột, những mong sẽ được thương yêu nhưng mỗi ngày đều phải sống cùng với những lời nhiếc móc, miệt thị, xúc phạm đến người mẹ của mình. Tâm hồn non nớt của một đứa trẻ ít nhiều cũng sẽ chịu tổn thương, vậy nhưng có một thứ không thay đổi, đó là tình cảm Hồng dành cho mẹ của mình. Tình yêu thương đó vượt qua tất cả những lời dèm pha, những lời nói không tốt của người cô xấu xa hòng chia cắt tình cảm mẹ con cậu. Tình cảm đó có lẽ xuất phát từ trái tim của cậu bé. Cậu bé yêu thương mẹ, cùng nỗi nhớ thương không nguôi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là khi cậu bé không thể kìm nén được cảm xúc mà cất tiếng gọi: Mợ..mợ ơi… khi thấy người mẹ của mình trở về. Cậu bé được mẹ ôm vào lòng, vỗ về, âu yếm như khi còn nhỏ, thật hạnh phúc, thật đẹp biết bao. Tất cả đã khắc sâu vào tâm trí, trở thành những kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong ký ức về tuổi thơ của tác giả.
|
My feelings about baby Hong through the chapter "In mother's womb" - "Childhood days" by Nguyen Hong
Instruct
My feelings about baby Hong through the chapter "In mother's womb" - "Childhood days" by Nguyen Hong
Assignment
Nguyen Hong is a writer who has made many important contributions to modern Vietnamese literature. His writing often focuses on truthful and profound elements. And one of his outstanding works is the autobiography "Childhood Days", the most realistic description of his life. In which, the chapter "In the Mother's Womb" is a chapter that left an impression on him. The deepest impression in the reader's heart, when it clearly depicts the childhood memories of author Nguyen Hong.
The boy Hong appearing in the work is a boy who was born very unhappy, but his childhood kept many beautiful images of his mother. The boy's misfortune from birth is the loss and lack of affection from loved ones. His father passed away early, and his mother, unable to bear the misery and rejection of his paternal relatives, had to leave the country. The poor orphan boy had the image of his mother imprinted in his mind, day and night he missed his mother.
Although the boy's childhood was not as lucky as other children, he still loved his mother very much. He was born lacking affection and his family was not warm. My father was addicted to drugs and died at the opium table. His mother left in pain. Then the boy had to live with his aunt, hoping to be loved but every day he had to live with insults, contempt, and insults towards his mother. A child's immature soul will more or less be hurt, but there is one thing that does not change, which is Hong's love for her mother. That love overcomes all the slander and bad words of the evil aunt trying to separate the relationship between mother and son. That feeling probably comes from the boy's heart. The boy loves his mother, and his endless nostalgia leaves a deep impression on the reader. That's when the boy couldn't hold back his emotions and called out: Auntie... auntie... when he saw his mother return. The boy was hugged, comforted, and caressed by his mother like when he was a child, so happy, so beautiful. All were engraved deeply into the author's mind, becoming the most beautiful memories of his childhood.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
Bài làm
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả không thể hư cấu. Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp. Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả.
Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca – bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc/Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội xe không đèn, không mui xe, … Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “ Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm – trái tim người lính Bác Hồ.
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuọoc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
|
Topic: My feelings about the portrait of a soldier driving in "The poem of a car squad without windows" by Pham Tien Duat
Assignment
The poem is a song praising the soldier drivers who overcame the fierce reality of war during the anti-American era to complete their mission.
The poem has built a unique image of cars, to be exact, a whole squad of cars without windshields or dust shields rushing into battle. It's really unique, because it was only found in Vietnam, with soldiers driving military vehicles during the anti-American era. It can be said that this unique "substance" is fermented from the fierce battlefield:
“There are no glasses, it's not because the car doesn't have glasses
Shock bombs, shock bombs, broken glass."
That's the reason the car has no glass. That is a naked reality that the author cannot fictionalize. Besides that naked reality, the image of a soldier driving a car appears very beautifully. Thinking that with that fierce, cruel, ironic reality, the soldier driving the car would have to give up, but still emerged with the pose:
“I sit comfortably in the cockpit
Looking at the ground, looking at the sky, look directly."
That means the car keeps going. Not only was he leisurely, but the soldier also showed his initiative and bravery to overcome everything.
Talking about the driver means talking about the eyes, talking about the look. Highlighting the driver's look, in just one line of the poem, the author used the word "look" three times (alliteration). Looking at the sky is to detect airplanes or flares at night. A straight look is a professional, proud look. And also from the glassless cabin, the look creates very vivid and specific impressions and feelings for the driver:
“Seeing the wind coming in rubs my eyes bitterly
See the road running straight to the heart
Seeing stars and suddenly bird wings
Like falling, like rushing into the cockpit"
These feelings, whether they have real or symbolic meanings, represent the driver's leisurely spirit of overcoming.
In the next two stanzas, the image of the driver is highlighted. Pham Tien Duat's talent in this poem is that while the first two lines talk about the harsh reality that must be accepted, the next two lines speak about the driver's spirit of overcoming circumstances to overcome the situation during the war. fierce.
The car has no glass, so "dust sprays white hair like an old person" is natural. The car has no glass, so "wet clothes, pouring rain, pouring rain like outside" is natural.
The phrases "yes, there is dust", "yes, their clothes are wet" show that they are not only aware of but also very familiar with those hardships.
Therefore:
“No need for fire, just light a cigarette/Looking at each other with smiling faces haha”
And higher:
"There's no need to change direction for another hundred kilometers/The rain stops, the wind blows and it dries quickly."
These are soldier-like poems, speaking very true to the spirit and life of soldiers. The movements of "lighting a cigarette" are clumsy, but why are they so adorable? Why is the "ha ha" smile that blooms on everyone's dirty faces so radiant? Therefore, reading these verses helps us understand somewhat the life of soldiers on the battlefield during the years fighting against the Americans. It was an arduous life amid fierce bombs and bullets but full of optimism, love for life and a high spirit of completing tasks.
The next two stanzas talk about living scenes and meetings after transport trips on the "onward journey". Still, Pham Tien Duat's verses have their own unique tone and unique prose, expressing the love of comrades and comrades in the resistance war. In these two stanzas, the author still highlights the poetic image of "car without windows", but has a very different way of saying it:
“Met friends along the way
Shaking hand through the broken glass window"
In the last stanza, at the end of the poem, the author wants to tell us something like a prediction: not only will there be a squad of cars without windows, but in the future there will also be a squad of cars without lights, hoods, etc. The reality of the war is still very fierce, the soldier driving the car still has to face many hardships and challenges: "There are no glasses, the car has no lights, no roof, the car body has scratches" but most of all determined that they would complete their mission and win because in front of them was their beloved South and because they already had a revolutionary enthusiasm, a brave heart - the heart of Uncle Ho's soldiers.
“The car is still running because the South is ahead
As long as there's a heart in the car"
The poem is an artistic monument of a soldier driving in the resistance war against America to save our country.
|
Cảm nhận của em về cây tre thân thuộc đáng yêu được Thép Mới nói đến trong bài tuỳ bút “Cây tre Việt Nam”
Hướng dẫn
Những bài văn mẫu hay lớp 6
Văn mẫu lớp 6: Cảm nhận của em về cây tre thân thuộc đáng yêu được Thép Mới nói đến trong bài tuỳ bút “Cây tre Việt Nam” gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Đề bài: Cảm nhận của em về cây tre thân thuộc đáng yêu được Thép Mới nói đến trong bài tuỳ bút “Cây tre Việt Nam”.
Bài làm
Thép Mới là nhà báo, nhà văn trưởng thành từ Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Khái niệm lịch sử “Trận Điện Biên Phủ trên không” do Thép Mới sáng tạo nên để ca ngợi chiến công hiển hách của quân và dân Hà Nội bắn rơi hàng loạt pháo đài bay của giặc Mĩ vào tháng 12 năm 1972. Một vinh dự to lớn của Thép Mới là bài tùy bút “Cây tre” của ông từng hiện diện trên trang văn Trung học, được nhiều thế hệ học sinh đón đọc với tất cả niềm say mê, yêu thích.
Tùy bút “Cây tre” được Thép Mới viết vào năm 1956, để thuyết minh cho bộ phim “Cây tre Việt Nam” của một số nhà điện ảnh Ba Lan. Cảm hứng tự hào dào dạt, bút pháp tài hoa đã tạo nên chất thơ trữ tình của áng văn xuôi này.
Cây tre của làng xóm ta thân thuộc đáng yêu.
Phần thứ hai, tác giả nêu bật cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kì lịch sử. Ý tưởng đẹp, giàu có, cách diễn đạt và giọng văn biến hóa, hấp dẫn, đó là cảm nhận của chúng ta.
Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa chan hòa ánh nắng, cây cỏ tốt tươi “xanh muôn ngàn cây lá khác nhau”. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: “Cây nào cũng dẹp, cây nào cũng quý, nhưngthân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, và “lũy tre thân mật làng tôi”. Tre được nhân hóa, trở nên gần gũi yêu thương: “đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”.
Họ hàng nhà tre thật đông đúc: “tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau”, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là “cùng một mầm non măng mọc thẳng”. Một phát hiện tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ “vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt”. Ý đó, 15 năm sau, nhà thơ Nguyễn Duy xúc động hát lên:
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu”.
(Tre Việt Nam)
Nhìn dáng tre, màu tre, sự sinh sôi nảy nở của tre, nhà văn phát hiện ra bao vẻ đẹp riêng của tre như “mộc mạc”, “nhũn nhặn”, “cứng cáp”, “dẻo dai”, “vững chắc”. Tre được nhân hóa trở thành một biểu tượng sáng giá: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Phẩm chất của tre cũng là phẩm chất của con người Việt Nam xưa nay trên những chặng đường lịch sử vẻ vang.
Thép Mới trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi”để từ đó nói lên vẻ đẹp của lũy tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở: “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn”. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hóa lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: “bóng tre”, “dưới bóng tre của ngàn xưa”, “dưới bóng tre xanh”,… “dưới bóng tre xanh”được điệp lại, láy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm:
“Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hóa lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp”. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hóa, màu tình nghĩa chung thủy.
|
My feelings about the lovely familiar bamboo mentioned by Thep Moi in the essay "Vietnamese bamboo"
Instruct
Good sample essays for grade 6
Sample essay for grade 6: My feelings about the lovely familiar bamboo tree mentioned by Thep Moi in the essay "Vietnamese bamboo" includes good sample essays for students to refer to and reinforce necessary skills. needed for my upcoming written test. Invite students to consult.
Topic: My feelings about the lovely familiar bamboo mentioned by Thep Moi in the essay "Vietnamese bamboo".
Assignment
Thep Moi is a journalist and writer who grew up during the August Revolution and during the resistance war against the French and Americans. The historical concept "Aerial Battle of Dien Bien Phu" was created by Thep Moi to praise the glorious victory of Hanoi's army and people in shooting down a series of flying fortresses of the American enemy in December 1972. An honor. The greatest achievement of Thep Moi is his essay "The Bamboo Tree" that appeared in high school literature and was read with passion and love by many generations of students.
The essay "The Bamboo Tree" was written by Thep Moi in 1956, to explain the film "The Vietnamese Bamboo Tree" by some Polish cinematographers. Abundant inspiration and talented penmanship have created the lyrical poetry of this prose piece.
The bamboo tree in our village is familiar and lovely.
In the second part, the author highlights bamboo in the material and spiritual life, in production, in the soul, and in fighting of Vietnamese farmers and the Vietnamese people through long history. The ideas are beautiful, rich, the expression and tone are varied and attractive, that's how we feel.
Our country is in the tropics, the four seasons are filled with sunlight, and the trees are lush and "green with thousands of different leaves". The author makes a comparison to praise the position of bamboo in people's hearts: "Every tree is flat, every tree is precious, but the most familiar is still bamboo." Bamboo is present in all parts of the country: Dong Nai, Viet Bac, Dien Bien Phu, and "my village's intimate bamboo mound". Bamboo is personified, becoming close and loving: "Everywhere we have bamboo as our friend".
The bamboo family is very crowded: "dozens of different types of bamboo, cane, apricot, apricot", but there is one similarity, that is "the same bamboo shoots grow straight". A subtle, interesting discovery. Bamboo has an extremely strong vitality "wherever it goes, it lives, wherever it grows, it grows green". With that in mind, 15 years later, poet Nguyen Duy emotionally sang:
Even though gravel and lime soil are infertile."
(Vietnamese bamboo)
Looking at the bamboo shape, bamboo color, and bamboo's proliferation, the writer discovered the unique beauty of bamboo such as "rustic", "modest", "sturdy", "flexible", "solid". ”. Bamboo is personified to become a bright symbol: "Bamboo looks noble, simple, and spirited like a person." The qualities of bamboo are also the qualities of Vietnamese people from past and present on glorious historical paths.
Thep Moi quotes To Huu's poem: "Bamboo shadows cover the village coolly" to express the beauty of the village bamboo, a peaceful beauty of the country: "Bamboo shadows cover the villages and hamlets lovingly. village". Bamboo is the beauty of the village landscape, the beauty of the nation's long-standing culture, the hard-working lifestyle and peaceful, peaceful life of our people through thousands of years of history. The words and images: "under the shadow of bamboo", "under the shadow of ancient bamboo", "under the shadow of green bamboo",... "under the shadow of green bamboo" are repeated and repeated to create a gentle and immense tone. emotion:
“Under the bamboo shadow of ancient times, the ancient temple roof looms. Under the shade of green bamboo, we preserve an ancient culture. Under the shade of green bamboo, for a long time, Vietnamese plowmen built houses, built doors, cleared fields, and reclaimed land. Bamboo eats and lives with people, lifetime and lifetime, eternal". The green color of bamboo is also the color of the soul, the color of time, the color of culture, and the color of fidelity.
|
Cảm nhận của em về cảnh đánh nhau với cố xay gió của Đôn-ki-hô-tê
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về cảnh đánh nhau với cố xay gió của Đôn-ki-hô-tê
Tên tuổi của Xéc-van-téc đã trở thành bất tử với nhân loại, với thời gian bởi cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất thời Phục hưng Đôn Ki-hô-tê. Đây là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp. Tác phẩm được viết trong khoảng 10 năm (1605-1615). Ông đã viêt cuốn tiểu thuyết này trong nghèo khổ và nghiệt ngã của cuộc đời. Cuốn tiểu thuyết trọn bộ thì một năm sau nhà văn qua đời. Đổi lại sự mất mát đau thương này, tên tuổi Xéc-van- téc đã xứng đáng đứng ở vị trí vinh quang của những người đặt nền móng cho nền văn học thời đại mới.
Đôn Ki-hô-tê là một lão quí tộc nghèo ở nông thôn. Người lão gầy gò, cao lênh khênh, đang ở độ tuổi năm mươi. Lão say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu, mạo hiểm, đầu óc lão ngày càng trở nên mụ mẫm, chìm đắm trong mộng tưởng hão huyền. Lão mơ ước trở thành một hiệp sĩ giang hồ đi khắp đất nước Tây Ban Nha, phò đời cứu nguy, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập lại trật tự và công lý, để lại bao chiến công oanh liệt cho đời.
Chiến mã Rô-xi-nan-tê nghe rất oai phong chính là cái tên mà lão phong cho con ngựa gầy của lão. Lão tự xưng là hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-tra. Anh nông dân lùn, cục mịch được lão phong tước giám mã Xan-chô Pan-xa. Đã là hiệp sĩ thời thượng thì phải có tình nhân. Lão nhớ ngay một phụ nữ mà lão yêu thầm nhớ trộm thời trai trẻ, lão liền ban cho ả nhà quê một cái tên rất quí tộc, mĩ miều: Công nương Đuyn-xi-nê-a đuy Tô-bô-xô. Lão làm lễ thụ phong trước ngày lên đường chinh chiến. Rất hài hước là lão tìm được binh khí, giáp trụ của tổ tiên đã han gỉ, lão sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình.
Sau trận đánh với bọn lái buôn thất bại, giờ đây lão lại ra đi với mộng chiến công mới. Lần này có quan giám mã Xan-chô theo hầu. Trận đánh nhau với lũ cối xay gió là một trận đánh nảy lửa, là đỉnh cao của màn hài kịch, chế giễu những kẻ ngông cuồng, mê muội, luôn sống trong mộng tưởng, hão huyền.
Trận đánh diễn ra vào lúc ban trưa. Từ xa nhìn thấy ba, bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng, hiệp sĩ xứ Man-tra reo lên vì vận may đã đến, quân địch là mấy chục tên khổng lồ hung tợn mà cánh tay của mỗi đứa dài gần hai dặm. Lão phải kẽt liễu đời lũ khổng lồ yêu quái này, trước là để thu chiến lợi phẩm mà trở nên giàu có, sau nữa là để quét sạch cái giống xấu xa này khỏi trái đất và đế phụng sự Chúa. Phải công bằng mà nói, tuy lão có nhìn gà hóa cáo nhưng mục tiêu của lão không kém phần thiêng liêng! Mặc dù đã được giám mã Xan-chô can ngăn hết lời nhưng hiệp sĩ vẫn bỏ ngoài tai hết.
Nghệ thuật dựng cảnh và kể rất tài tình làm hiện lên một trận đánh thời trung cổ. Có dàn trận, có đấu khẩu trước lúc giao phong, có cảnh đánh nhau dữ dội, quyết tử, có bãi chiến trường sau trận đánh. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê bỗng chốc đã trở thành “người hùng” đích thực sống trong ảo mộng hão huyền, sự mụ mẫm đã lên đến tột độ, Cối xay gió mà lão tưởng là khổng lồ quái vật! Ngôn ngữ khoác lác, trống rỗng, cũng thét vang lúc xung trận. Cử chỉ, điệu bộ và Hành động cũng rất tự tin, đàng hoàng, cực kỳ oai phong, lẫm liệt! Đúng là coi cái chết tựa lông hồng! Người đọc không nhịn được cười khi lão hiệp sĩ cầu cứu tình thương trước lúc giao tranh! Hình ảnh Đôn Ki-hô-tê nằm im không cựa quậy trên mặt đất trước cặp mắt của giám mã là nét vẽ biếm họa đặc sắc nhất có giá trị chế giễu tầng lớp hiệp sĩ thời Trung cổ đã lỗi thời! Đoạn văn thật hài hước và hóm hỉnh.
“Chết nhưng cái nết không chừa!”, bị thảm bại nhục nhã mà vẫn còn khoác lác, trước lời an ủi của giám mã, Đôn Ki-hô-tê đã chỉ cho anh kéo lừa biết rằng cái nghề cung kiếm thường biến hóa khôn lường, nghĩa là sự thắng bại là chuyện bình thường. Nguyên nhân thất bại theo Đôn Ki-hô-tê là rất bất ngờ vì lão pháp sư Phơ-re-xtôn đã đánh cắp sách vở của lão. Hắn đã thâm thù ta, hắn đã tước phần vinh quang chiến thắng của ta! Phải chăng đó là khẩu khí của hiệp sĩ xứ Man-tra lừng danh thiên hạ!
Chủ thì như vậy! Còn chiến mã Rô-xi-nan-tê thì sao? Thương cho con ngựa gầy nhom bị toạc nửa vai vẫn phải cõng chủ. Đôn Ki-hô-tê quyết đi về phía cảng, hy vọng sẽ được gặp nhiều chuyện phiếu lưu khác để thi thố tài năng. Hiệp sĩ tỏ ra rất buồn phiền về cái giáo bị gẫy. Sách vở kiếm hiệp lại ru lão vào giấc mộng hão huyền. Lão nhắc tới hiệp sĩ Tây Ban Nha ngày xưa là Va-gax, giữa trận đánh bị gãy gươm, đã nhổ cây làm vũ khí rồi tiêu diệt quân Mô-rô, nhờ thế mà trở nên bất tử với biệt hiệu Hiệp sĩ diệt địch, làm rạng rỡ muôn đời con cháu mai sau. Kể lại câu chuyện ấy để làm gì? Có phải Đôn Ki-hô-tê muốn nói lên chí hướng của mình, muốn theo gương người xưa, cũng sẽ nhổ cây để diệt địch, sẽ lập lên những chiến công hiển hách chăng? Mà giám mã sẽ là người có diễm phúc được mục kích! Qua đó, ta thấy Đôn Ki-hô-tê vẫn kiêu hùng, tự tin, đầu óc ông ta quá mê muội, khoác lác đến cực độ!
Nét “anh hùng” của Đôn Ki-hô-tê còn được thể hiện khi giám mã “thật thà” nhắc lại sự thất trận vừa qua, cái ngã chắc hẳn làm ngài vẹo sang một bên thì chàng hiệp sĩ hồn nhiên trả lời: Đúng thế! Và ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương thể nào cũng không được rên rỉ, dù xổ cả gan ruột ra ngoài. Khi Xan-chô tâm sự là nếu có bị gai đâm cũng kêu thì ông chủ tài ba đã không nhịn được cười, đĩnh đạc nói với giám mã cứ việc rên la vì cho tới nay chưa thấy sách kiếm hiệp nào ngăn cấm cả.
Xan-chô là nhân vật phụ, một nét vẽ bổ trợ, rất sống động, có giá trị làm nổi bật tính cách ngông cuồng, mụ mẫm, ôm ấp những mộng tưởng hão huyền của nhân vật chính. Mặt khác cũng thể hiện được một quan niệm sống chất phác, hồn nhiên, giản dị… của những người dân quê yêu đời, thiết thực.’
Cảnh đánh nhau với cối xay gió đã ghi lại được “chiến công hiển hách” của Đôn Ki-hô-tê, hiệp sĩ xứ Man-tra. Với thủ pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng cảnh, ta thấy hiện lên trang hiệp sĩ lỗi thời thời Trung cổ Tây Ban Nha. Phải chăng đằng sau “trận đánh” là nụ cười hóm hỉnh của Xéc-van-téc. Và sau nụ cười chế giễu đó, người đọc thầm nhận thấy nhà văn đã đề cao trong một chừng mực tình yêu tự do, bình đẳng, sống thiết thực, yêu đời… mang tính nhân văn.
|
My thoughts on the scene of Don Quixote's fight with the windmill
Instruct
My thoughts on the scene of Don Quixote's fight with the windmill
The name of Zevanter became immortal to humanity and time through the greatest novel of the Renaissance, Don Quixote. This is a shining masterpiece of beautiful humanism. The work was written in about 10 years (1605-1615). He wrote this novel in poverty and harshness of life. After completing the novel, the writer passed away a year later. In exchange for this painful loss, the name of Sevvan-ter deserves to stand in the glorious position of those who laid the foundation for new-age literature.
Don Quixote is a poor nobleman in the countryside. The old man was thin, tall and lanky, in his fifties. He was passionate about adventure and adventure knight stories, his mind became increasingly dull, immersed in vain dreams. He dreamed of becoming a knight-errant traveling throughout Spain, helping save lives, eliminating giant monsters, restoring order and justice, leaving behind many glorious victories for the world.
The steed Rocinante sounded very majestic and was the name the old man gave to his thin horse. He called himself knight Don Quixote of Mantra. The short, clumsy farmer was given the title of warden Sancho Panza by the old man. To be a fashionable knight, one must have a lover. He immediately remembered a woman he secretly loved when he was young, so he immediately gave the country girl a very noble and beautiful name: Princess Duyencinea du Toboso. He held an ordination ceremony before leaving for war. It's very funny that he found rusty weapons and armor of his ancestors, he repaired and polished them to arm himself.
After a failed battle with the merchants, he now left with the dream of a new victory. This time, the equestrian officer Sancho followed him. The fight with the windmills is a fiery battle, the pinnacle of comedy, mocking those who are extravagant, ignorant, and always living in dreams and illusions.
The battle took place at noon. From afar, seeing thirty or forty windmills in the middle of the field, the Mantra knight shouted because his luck had come. The enemy army was dozens of ferocious giants whose arms were each nearly two miles long. He must kill these giant monsters, first to collect spoils and become rich, and second to wipe out this evil race from the earth and serve God. To be fair, although he watched the chicken turn into a fox, his goal was no less sacred! Even though Sancho, the horseman, tried to stop him, the knight still ignored everything.
The art of scene setting and storytelling is very skillful, bringing to life a medieval battle. There is a battle formation, there is a battle of words before the battle, there is a fierce battle scene, there is a battle to the death, and there is a battlefield after the battle. Knight Don Quixote suddenly became a true "hero" living in a false fantasy, his confusion reached its extreme, the windmill he thought was a giant monster! The language is boastful and empty, and it also screams during battle. Gestures, gestures and actions are also very confident, dignified, extremely majestic and majestic! Truly considering death as a feather! Readers couldn't help but laugh when the old knight asked for help before fighting! The image of Don Quixote lying motionless on the ground before the eyes of the horseman is the most unique caricature that has the value of mocking the outdated medieval knight class! The passage is humorous and witty.
"Death but his character is not left behind!", having suffered a humiliating defeat but still boasting, in response to the consolation of the horseman, Don Quixote pointed out to the donkey puller that the profession of archery and swords often changes. unpredictable, meaning victory and defeat are normal. The reason for the failure, according to Don Quixote, was very surprising because the old magician Pierreston had stolen his books. He has a deep hatred for me, he has deprived me of the glory of victory! Could that be the weapon of the world-famous knight of Man-tra!
The owner is like that! What about the war horse Rocinante? I feel sorry for the skinny horse with half its shoulder ripped off and still having to carry its owner. Don Quixote decided to go to the port, hoping to encounter many other events to show off his talent. The knight seemed very sad about the broken spear. The books of swordplay lulled him into an illusory dream. He mentioned the ancient Spanish knight Va-gax, whose sword was broken in the middle of battle, uprooted a tree to use as a weapon and destroyed the Moro army, thus becoming immortal with the title Knight Destroying the Enemy. , making future generations radiant. What's the point of telling that story? Does Don Quixote want to express his ambition, want to follow the example of the ancients, will also uproot trees to destroy the enemy, will he achieve glorious victories? And the horse monitor will be the lucky one to see it! Through that, we see that Don Quixote is still arrogant and confident, his mind is too confused, boasting to the extreme!
Don Quixote's "heroic" features were also shown when the horseman "honestly" recalled the recent defeat, his fall must have caused him to bend to one side, the knight innocently replied: Yes! And I don't cry out in pain because no matter how injured the knight errant is, he is not allowed to moan, even if his guts are spilled out. When Sancho confided that even if he were pricked by a thorn, he would scream, the talented master could not help but laugh, and calmly told the horse supervisor to go ahead and moan because up to now, no swordplay book had ever prohibited it.
Sancho is a supporting character, a supporting, very lively, valuable drawing that highlights the main character's wild, foolish personality, embracing the vain dreams of the main character. On the other hand, it also shows a naive, innocent, simple concept of life... of life-loving, practical country people.'
The scene of the fight with the windmill recorded the "glorious victory" of Don Quixote, the knight of Mantra. With the methods of irony, exaggeration and contrast in storytelling to set the scene, we see the appearance of an outdated knight in medieval Spain. Is it possible that behind the "battle" is the witty smile of Zevanter. And after that mocking smile, the reader silently realizes that the writer has promoted to some extent the love of freedom, equality, practical living, love of life... humanity.
|
Cảm nhận của em về hai câu cuối trong bài Qua Đèo Ngang.
Hướng dẫn
Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện tâm trạng nỗi niềm của nhà thơ khi đứng trước cảnh đẹp. Đặc biệt hai câu cuối của bài thơ gợi cho người đọc một nỗi buỗn, cô đơn đến não nề.
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”.
Bài thơ được ra đời trong một chuyến hành trình của nhà thơ từ Thăng Long vào xứ Huế. Trải qua một cuộc hành trình đầy gian khổ, sau bao vất vả, mệt nhọc, khi tới một nơi có cảnh đẹp, núi non hùng vĩ, nhà thơ đã dừng chân đứng lại chốn đèo Ngang này để nghỉ chân. Lúc này người và cảnh đã hòa làm một, cảnh cũng trở nên buồn theo tâm trạng nhà thơ, nhà thơ cũng nhìn cảnh để thể hiện tâm trạng của mình. Trước mắt nữ sĩ là cảnh đất trời bao la, bất diệt của vũ trụ: “trời, non, nước”. Trời thì xa, non thì cao mà nước thì sâu thăm thẳm. “Dừng chân đứng lại” để một lần nữa bao quát lại cảnh vật quanh mình. Dừng chân đứng lại để hỏi xem đâu người tri âm, tri kỉ. Vậy mà Bà Huyện Thanh Quan chỉ nhận lại được từ thẳm sâu vũ trụ cái rộng lớn, bát ngát của “trời, non, nước”. Vậy thì giờ đây, giữa đất trời chốn đèo Ngang này chỉ còn có “Một mảnh tình riêng, ta với ta”. “Một mảnh tình riêng” ấy là nỗi buồn người xa xứ, là tâm sự về nỗi đau chia cắt đất nước những ngày xưa, là nỗi buồn thương cho cảnh đất nước hiện tại hay chính là cảnh đìu hiu vắng vẻ nghèo khó chốn đèo Ngang này vậy. Cụm từ “ta với ta” ngân lên như đập vào vách núi rồi vọng lại trong niềm xót xa, buồn tủi. “Ta với ta” là chỉ một mình mình với một mình mình. Một tấm tình cô đơn không ai chia sẻ. Còn gì buồn hơn khi đứng trước cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn như vậy, con người trở nên nhỏ bé, khi ấy rất cần có sự chia sẻ, cảm thông để vơi đi sự cô đơn, nhưng tác giả chỉ nhận thấy ta với ta, túc là chỉ có ta với cảnh vật hoang vu này.
|
My thoughts on the last two sentences in the article Qua Deo Ngang.
Instruct
The poem Crossing Deo Ngang by Ba Huyen Thanh Quan expresses the poet's feelings and emotions when standing before the beautiful scene. In particular, the last two lines of the poem remind the reader of sadness and loneliness.
“Stop and stand: sky, mountains, water
A piece of me with my own situation".
The poem was born during the poet's journey from Thang Long to Hue. Going through an arduous journey, after many hardships and fatigue, when arriving at a place with beautiful scenery and majestic mountains, the poet stopped at this Ngang pass to rest. At this time, the people and the scene have become one, the scene also becomes sad according to the poet's mood, the poet also looks at the scene to express his mood. Before the female artist's eyes is the vast, eternal landscape of the universe: "sky, mountains, water". The sky is far away, the mountains are high, and the water is deep. "Stop and stand" to once again take in the scenery around you. Stop and ask where your confidant and confidant are. Yet, Ba Huyen Thanh Quan only received from the depths of the universe the vastness of "heaven, mountains, and water". So now, between heaven and earth in this Ngang Pass, there is only "A separate piece of love, you and I". "A private piece of love" is the sadness of people living far away from home, it is a confession about the pain of dividing the country in the past, it is a sadness for the current country or the desolate and poor scene in the mountain passes. This way. The phrase "me and me" resonates as if hitting a cliff and then echoes in grief and sadness. “I and I” means just me and myself alone. A lonely love with no one to share. What could be more sad than when faced with such a vast natural landscape, people become small? At that time, sharing and sympathy are needed to alleviate loneliness, but the author only sees us with each other. It's just me and this desolate landscape.
|
Cảm nhận của em về hai câu thơ tức cảnh của vua Trần Nhân Tông
Hướng dẫn
‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu’
…Sau chiến thắng Bạch Đằng, giặc Mông cổ bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Trần Nhân Tông và triều đình đã trọng thể tổ chức lễ hiến tiệp (dâng tù binh lên tổ tiên, ăn mừng thắng trận). Trong đám tù binh Mông cổ có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và nhiều tướng lĩnh cao cấp khác, bị trói và giải đến theo đúng nghi lễ và phong tục.
Sử sách cũ cho biết, tại lễ hiến tiệp ở Chiêu Lãng năm ấy, chợt nhìn thấy chân ngựa đá (thạch mã) có vết bùn, vua Trần Nhân Tông đã ứng khẩu hai câu thơ tức cảnh bằng chữ Hán:
‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu’
Hai câu thơ đối nhau. Ngôn từ trang trọng, trang nghiêm. Ý tưởng tráng lệ, sâu xa. Đúng là khẩu khí của một bậc đế vương anh hùng lưu danh sử sách. Câu thơ dịch cũng khá hay:
‘Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng’
Xã tác, sơn hà là những từ Hán Việt cùng nghĩa, gần nghĩa như giang sơn, sông núi, đất nước, Tổ quốc, cách nồi của chúng ta ngày nay. ‘Lao’có nghĩa là gian lao, vất vả. ‘Điện’có nghĩa là vững yên, vững bền. Kim âu là âu vàng có chạm khắc rồng phượng và trang trí bằng ngọc rất đẹp; Kim âu là biểu tượng, vật tượng trưng tôn quý, linh thiêng của Vương triều, của quốc gia và dân tộc. Có vị giáo sư đã dịch thành ‘chậu vàng’,nghĩa đen thì đúng, nhưng rất thô!
Chữ ‘lao’trong câu thơ chữ Hán đã nhân hóa con ngựa đá ở Chiêu Lăng. Lưỡng hồi là hai phen, hai bận; chỉ cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) của Đại Việt đánh thắng quân Mông cổ xâm lược. Để làm nên chiến thắng: ‘Chương Dương cướp giáo giặc – Hàm Tử bắt quân thù’(thơ Trần’Quang Khải), để Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng… mãi mãi sáng ngời sông núi, cả nước
cả dân tộc đã đứng lên với lời thề ‘quyết chiến’với ý chí ‘sát Thát’ngùn ngụt đất trời. Để làm nên chiến thắng là do sức mạnh đại đoàn kết dân tộc không kẻ thù nào lay chuyên nổi: ‘Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức’.Để chiến thắng quân xâm lược, vị thống soái quyết xả thân vì sơn hà, xã tắc, ‘dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng’(Hịch tướng sĩ). Để mãi mãi trong thời gian ‘mà nhục quân thù khôn rửa nổi’(Bạch Đằng Giang phú), có biết bao anh hùng quyết giương cao ngọn cờ ‘Phá cường địch, báo hoàng ân’,có hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ đã ‘Múa giáo non sông trải mấy thu – Ba quản hùng khí át sao Ngưu’(Thuật hoài). Và để làm nên thắng trận, hình như ngựa đá ở Chiêu Lăng cũng xông pha gươm giáo cùng ba quân, nếm trải nhiều gian lao khó nhọc. Câu thơ ‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã’ là một tứ thơ sâu sắc tuyệt hay. Câu thơ còn mang hàm nghĩa: tổ tiên ông cha linh thiêng đã ngầm giúp cháu con làm nên chiến công ‘bình Nguyên’lừng lẫy, bảo toàn núi sông Đại Việt.
‘Sơn hà thiên cổ điện kim âu’.
Có thể nói hai câu thơ của vua Trần Nhân Tông đã góp phần tỏa sáng ‘Hào khi Đông A ’.Hơn 700 năm sau, vần thơ tráng lệ ấy vẫn còn làm xúc động lòng người.
|
My feelings about two scene-setting poems by King Tran Nhan Tong
Instruct
'The two-return village of the stone horse,
Son Ha Thien Ancient Golden Palace'
...After the Bach Dang victory, the Mongol invaders were wiped out. Tran Nhan Tong and the court solemnly held a dedication ceremony (offering prisoners of war to their ancestors, celebrating victory). Among the Mongolian prisoners were O Ma Nhi, Phan Tiep and many other high-ranking generals, who were tied up and brought in according to rituals and customs.
Old history books say that at the donation ceremony in Chieu Lang that year, suddenly seeing mud stains on the stone horse's leg (stone horse), King Tran Nhan Tong improvised two verses of poetry in Chinese characters:
'The two-return village of the stone horse,
Son Ha Thien Ancient Golden Palace'
Two verses contrast each other. The language is formal and dignified. Magnificent, profound idea. Truly the tone of a heroic emperor who will be remembered in history books. The translated poem is also quite good:
'The two sides of the village are often beaten by horses and foxes,
The mountains and rivers are forever strong and stable'
Cooperative, mountains and rivers are Sino-Vietnamese words with the same meaning, close in meaning to rivers, mountains, country, fatherland, and our way of cooking today. ‘Lao’ means hardship and hardship. ‘Electricity’ means steady, stable. The golden bowl is a golden bowl carved with dragons and phoenixes and decorated with beautiful jade; The golden euro is a noble and sacred symbol and symbol of the Dynasty, the country and the people. A professor translated it into 'pot of gold', which is literally correct, but very crude!
The word 'lao' in the Chinese poem personifies the stone horse in Chieu Lang. Two times means two times, two times; Only Dai Viet's second (1285) and third (1288) resistance wars defeated the invading Mongols. To create victory: 'Chuong Duong stole the enemy's spear - Ham Tu captured the enemy' (poem Tran'Quang Khai), so that Tay Ket, Van Kiep, Bach Dang... forever shine on rivers and mountains, the whole country
The entire nation stood up with the oath to 'determinately fight' with the will to 'slay That' across heaven and earth. To achieve victory, it was due to the strength of great national unity that no enemy could shake: 'The king and I are of one mind, brothers are in harmony, the whole country contributes'. To defeat the invaders, the marshal decided to win. Giving up my life for the mountains and rivers and the society, 'Even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be happy' (Hich Tuong Si). Forever in the time 'when the humiliation of the enemy cannot be washed away' (Bach Dang Giang phu), there are countless heroes who are determined to raise the flag 'Destroy enemy strength, repay royal grace', there are thousands and thousands of generals who have 'Dancing spears across the mountains and rivers for several autumns - Three powerful forces dominate the Ox star' (Thuat Hoi). And in order to win the battle, it seems that the fighting horses in Chieu Lang also rushed to the sword and spear with the three armies, experiencing many hardships. The poem 'Sac Tac Bihu Lao Thach Ma' is a beautiful and profound poem. The poem also carries the meaning: the sacred ancestors secretly helped their children and grandchildren to achieve the famous 'Ping Nguyen' victory, preserving Dai Viet's mountains and rivers.
'The ancient golden palace of mountains and rivers'.
It can be said that two verses of King Tran Nhan Tong contributed to shining 'Hao Khi Dong A'. More than 700 years later, that magnificent poem still touches people's hearts.
|
Cảm nhận của em về hình tượng người lính trong bài thơ Đồng Chí
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về hình tượng người lính trong bài thơ Đồng Chí
Bài làm
Hình tượng người lính trong kháng chiến là đề tài thu hút nhiều bút lực. Đó là anh hùng áo vải sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân đất nước, nhiều nhà thơ đã viết về họ… Và trong đó không thể không kể đến một bài thơ ” Đồng Chí” của Chính Hữu. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Nhưng tinh thần đoàn kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.
Chính Hữu viết ” Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường tình đồng chí đồng đội thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng.
Trước hết tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ giới thiệu quê hương của những người lính ” anh”, ” tôi” đều là những người lính xuất thân từ nông dân. Thành ngữ ” nước mặn đồng chua” chỉ vùng ven biển đất khó làm ăn. ” Đất cày sỏi đá” là vùng đồi núi trung du khó canh tác. Nghĩa là họ đều chung cái nghèo khó, là cơ sở đồng cảm về giai cấp của những người lính. Và chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng, rồi trở lên thân quen với nhau, khi họ cùng chung niềm vui đánh giặc.
Hình ảnh thơ sóng đôi, họ không chỉ chung nghĩ vụ trí hướng mà tình đồng chí cùng gắn bó chặt chẽ kề vai sát cánh bên nhau, đối mặt với quân thù. Khi màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại cùng chung một tấm chăn mông nỉ rỉ truyện nhà, truyện cửa, truyện gian nan khó nhọc – Họ thành đôi tri kỉ. Đôi bạn trí cốt hiểu nhau sâu sắc.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu. Lời thơ thứ 7 gồm một từ với hai tính cùng dấu “!” tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha xúc động vừa như một phát hiện, kết luận vừa như bản nề gắn kết hai đoạn thơ làm nổi rõ một tất yếu. Cùng hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp đồng chí còn là như thế nào nữa? Vậy cách lập dàn ý đó tạo lên một kếu cấu đặc sắc cho bài thơ.
Những câu thơ tiếp theo mở ra những biểu hiện cụ thể, cảm động về tình đồng chí, giữa những người lính trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trở thành đồng cảm.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Lời thơ nói về ” anh” – về bạn bởi người lính cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc họ lên đường và trở thành người lính. Hậu phương nhà cửa gửi lại hậu phương. Hình ảnh ” gian nhà… lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Gian nhà không – gian nhà trống không tài sản có phần siêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó tận cùng của người lính nông dân. Song họ vẫn vui vẻ lên đường vi nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát kiên quyết nhưng tâm tư vẫn luôn hướng về hậu phương. Giếng nước gốc đa nhớ người da lính. Nghệ thuật nhân hóa hoán dụ diễn tả quê hương nhớ người đi lính, nhưng thực chất người đi lính nhớ nhà, gốc đa giếng nước nơi chứng kiến cuộc chia li lên đường… Những kỉ niệm ấy luôn leo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau đồng cảm niềm vui nỗi buồn. Tình cảm đồng chí đặc biệt được thể hiện ở sự chia sẻ tâm tư nỗi niềm. Những gian nao thiếu thốn của cuộc đời người lính biết bao gian khổ.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Ảo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết khó khăn gian khổ, thiếu thốn bệnh tật. Những cơn sốt rét rừng hành hạ là có thực, đói rét, chân không giầy, đầu không mũ, áo phong phanh một manh, quần rách vá là thực. Sương muối phủ rừng hoang… Bút pháp hiện thực thể hiện qua những câu thơ sóng đôi góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh ngộ… Song cái đẹp nhất, quý giá nhất ở người lính là tình đồng đội, thương nhau tay nắm… tay. Trong đói rét hiểm nguy người lính đã tìm hơi ấm nơi bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm sức mạnh vượt lên. Cuộc chiến đấu trường kì gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, tình yêu thương giai cấp là nền tảng cơ sở để tồn tại. Tiếp sức cho nhau, tiếp tục chiến đấu thắng lợi cuối cùng.
Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình đồng chí gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Ba câu thơ dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí trong hoàn cảnh khắc nhiệt: Đêm, rừng hoang, sương muối đôi bạn chiến đấu tạo lên tư thế vững trãi, nương tựa vào nhau. Người lính trong cảnh phục kích giặc giữa rừng khuya còn có những người bạn nữa – Vầng trăng, ” đầu súng trăng treo” là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của chính tác giả. Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra liên tưởng phong phú ” súng và trăng là gần và sa”. Thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất chữ tình. Chiến sĩ và thi sĩ. Đó là các mặt bổ sung cho nhau hài hòa với nhau về cuộc sống cách mạng.
|
My feelings about the image of the soldier in the poem Comrade
Instruct
My feelings about the image of the soldier in the poem Comrade
Assignment
The image of soldiers in the resistance war is a topic that attracts a lot of writing. They are heroes in cloth who are willing to sacrifice their lives for the people of the country. Many poets have written about them... And among them, we cannot help but mention a poem "Comrade" by Chinh Huu. The poem was written in early 1948. The first years of the resistance war against the French were extremely difficult and arduous, both physically and mentally, and the life of the resistance war was extremely difficult. But the spirit of solidarity and love of their comrades and comrades overcame them to fight and win.
Chinh Huu wrote "Comrades" focusing his pen on the realism of resistance war life, exploiting the beauty in the simplicity and authenticity, everyday life, the profound love of comrades and comrades of revolutionary soldiers is very natural as usual. exists in real life, true to the qualities of Uncle Ho's soldier, simple yet heroic.
First of all, comradeship is deeply rooted in the similarity of poor backgrounds.
“In your homeland, the water is salty and sour,
My village is poor rocky soil plowed up".
The two verses introduce the homeland of the soldiers "you" and "I" who are both soldiers from farmers. The idiom "salty water is sour" refers to coastal areas where it is difficult to do business. "Stone and gravelly plowed land" is the midland hills and mountains that are difficult to cultivate. That means they all share poverty, which is the basis of the soldiers' class sympathy. And that is what made them from all over the world gather together in the ranks of the revolutionary army, and then become familiar with each other, when they shared the joy of fighting the enemy.
The poetic images are parallel, they not only share the same thoughts and direction, but also have a close bond of comradeship, standing side by side, facing the enemy. When night fell, the soldier couple shared a felt blanket, whispering stories of home, stories of doors, stories of hardship and hardship - They became soulmates. The two friends understand each other deeply.
"On a cold night, sharing a blanket becomes soul mates"
The poem is full of memories and warm friendship. The 7th poem includes a word with two adjectives and the sign "!" creates a pressing note, like an emotional, passionate call, a discovery, a conclusion, and a building block that connects two verses to highlight a necessity. With the same background and ideals, what else would it be like to become each other's comrades and open up to each other? So that way of outlining creates a unique structure for the poem.
The next verses open up specific, touching expressions of comradeship between soldiers in war life, from the same situation they become sympathetic.
“I sent my best friend to plow the fields
The house does not let the wind shake
Most original water well miss out soldiers".
The poem talks about "you" - about you because the soldier shares the same situation, the same feelings, and understands you like he understands himself. When their country was invaded, their national spirit urged them to set out and become soldiers. The rear of the house is sent back to the rear. The image of "the house... shaking" is deeply moving. The house is empty - the house is empty and has no assets, somewhat crooked because of the wind, suggesting the extreme poverty of the peasant soldier. But they still happily set out for a great cause. The attitude is decisive and resolute, but the mind is always focused on the rear. The banyan well remembers the soldier's skin. The art of personification and metonymy describes the homeland missing the soldiers, but in reality the soldiers miss their homes, the roots of the wells where they witnessed the separation and departure... Those memories always linger in their minds and they share them. Share each other's joys and sorrows. Comradeship is especially expressed in the sharing of thoughts and feelings. The hardships and deprivations of a soldier's life are so arduous.
Fever, shivering, sweaty forehead
I think he ripped his shoulder. My pants have a few patches
Cold smile, no shoes
Several injured hand grip".
The verses describe the reality of a soldier's life down to every detail, difficulties, hardships, deprivation and illness. The torment of wild malaria is real, hunger and cold, shoeless feet, hatless head, torn shirt, torn patched pants are real. Hoar frost covers the wild forest... Realistic penmanship expressed through parallel verses contributes to expressing sharing in all situations... But the most beautiful and precious thing in soldiers is the love of comrades, loving each other hand in hand. … hand. In the midst of hunger, cold and danger, the soldiers sought warmth in each other's hands, giving each other love and strength to overcome. Such is the long and arduous war, our soldiers only have comradeship and class love as the foundation for survival. Strengthen each other and continue to fight for ultimate victory.
The main task of a soldier is to fight the enemy, so the most beautiful comradeship is the sacred bond of comradeship on the front lines against the enemy, where life and death are side by side in an instant.
“Tonight, the forest is deserted with hoarfrost
Standing side by side to carry the enemy
The tip of the moon gun hangs.
Three verses build a towering monument of comradeship in harsh circumstances: Night, wild forest, hoarfrost, the two fighting friends create a strong posture, relying on each other. The soldier in the scene of ambushing the enemy in the middle of the forest at night also has friends - The moon, "hanging moon gun tip" is an image recognized from the author's own nights of ambush operations. But that image also has symbolic meaning, evoking rich associations: "guns and moon are near and fall". Reality and dreams, fighting and love. Soldier and poet. These are complementary and harmonious aspects of revolutionary life.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về hình ảnh con người trong bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa
Bài làm
Bài thơ "Mưa" của Trần Đăng Khoa là bài thơ tả cảnh độc đáo. Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh vạn vật đất trời bị biến đổi bởi cơn mưa rào bất chợt. Và nổi bật trên cái phông nền nghiêng ngả vì mưa của hài thơ, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp.
Hình ảnh con người trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh "Bố em đi cày về" xuất hiện ở phía cuối bài thơ:
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa
"Bố em" chỉ là một người nông dân bỗng nhiên trở nên lớn lao khác thường. Ông "Đội sấm", "đội chớp", "đội cả trời mưa". Ba ý thơ được tách riêng thành ba dòng, điệp từ "đội" được lặp lại ba lần, điều đó vừa thể hiện cái dữ dội của trời mưa vừa bộc lộ tư thế hiên ngang của người cha. Ông đi cày về, trên vai còn vác chiếc cày, bàn tay còn dắt con trâu; hình ảnh ấy bước ra từ cái dữ dội, ì ầm đáng sợ của cơn mưa rào. Đó là hình ảnh người nông dân có tầm vóc lớn lao, tư thế vững vàng, hiên ngang như một vị thần đội trời đạp đất có sức mạnh có thể sánh với thiên nhiên. Trong con mắt nhìn của một em bé chín tuổi, người cha đi cày quả là hình ảnh của một tráng sĩ có vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ.
Người bố trong bài thơ "Mưa" còn là đại diện cho hình ảnh con người trước sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên. Cơn mưa ập xuống, tất cả vạn vật biến đổi: mía nghiêng ngả, kiến rời tổ, mối vỡ tổ,… Chỉ duy con người vẫn vững vàng với công việc khai thác, chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ mình (đi cày).
Hình ảnh con người trong bài thơ thật kiêu hãnh!
|
Topic: My feelings about the human image in the poem Rain by Tran Dang Khoa
Assignment
The poem "Rain" by Tran Dang Khoa is a unique poem describing a scene. Throughout the work, there is an image of everything on earth and sky being transformed by a sudden shower. And standing out against the rain-tilted background of the comedy, the human image appears beautifully.
The image of people in the poem is shown through the image "My father comes home from plowing" appearing at the end of the poem:
My father came back from plowing
Thunder team
Lightning team
Even in the rain
"My father" is just a farmer who suddenly became unusually big. He "Teamed the Thunder", "Teamed the Lightning", "Teamed the Rain". The three poetic ideas are separated into three lines, the refrain "team" is repeated three times, which both shows the fierceness of the rain and the proud posture of the father. He returned from plowing, carrying the plow on his shoulder and holding the buffalo in his hand; That image came out of the intense, terrifying roar of the shower. That is the image of a farmer with great stature, steady posture, and standing tall like a god holding heaven and earth with strength comparable to nature. In the eyes of a nine-year-old child, the plowing father is indeed the image of a mighty man with great and majestic beauty.
The father in the poem "Rain" also represents the image of humans facing the fierceness and harshness of nature. The rain fell, everything changed: sugar cane tilted, ants left their nests, termite nests broke,... Only humans remained steadfast in their work of exploiting, conquering nature, forcing nature to serve them. (plow).
The image of people in the poem is so proud!
|
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ đồng chí và bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ đồng chí và bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài làm
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc thực sự quan trọng, hình ảnh về anh bộ đội cụ hồ trong những năm đầu chống thực dân Pháp và chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thời kỳ đánh Mỹ đã được phản ánh khá là rõ net cùng với những vẻ đẹp khác nhau và nó được thể hiện rõ qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào năm 1948, được in trong tập đầu súng trăng treo. Hình ảnh về người nông dân cầm súng đã được miêu tả ở trong bài thơ cùng với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thực sự bay bổng.
Đều là những người nông dân quanh năm lam lũ vơi ruộng đồng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện giã từ quê hương đi chiến đấu, trong họ rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản rằng chiến đấu là bảo vệ cho chính mình và quê hương mái ấm của mình.
Sự gian nan vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định được phẩm chất cao đẹp của những người áo vải. Từ bốn phương trời, không hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đó là hình ảnh đơn sơ mộc mạc nhưng đồng thời là lời ca về tình đồng chí thiêng liêng giữa con người đang kề vai sát cánh cùng nhau bảo vệ tổ quốc, mang lại cuộc sống thanh bình cho toàn dân tộc.
Nếu như bài đồng chí nói về hình ảnh của người lính cụ Hồ ở trong kháng chiến chống Pháp thì bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe ở trên đường Trường sơn vô cùng dung cảm, có sức chịu đựng gian khổ nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan.
Đối đầu với máy bay của giặc Mĩ thì các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động nhưng nhờ vào niềm tin tất thắng đấu tranh giải phóng Miền nam, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Các chiến sĩ lái xe chấp nhận những khó khăn đó với thái độ vui vẻ, phớt lờ, có pha chút cá tính, ngang tàng.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, chất hiện thực cũng nghiệp ngã và bay bổng cùng hòa quyện với nhau:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy đều hướng vào Miền nam thân yêu bởi trong xe luôn có một trái tim đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm. Hình ảnh trái tim ở trong câu thơ là hình ảnh hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa nhằm tôn vinh tầm vóc của những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao lên giá trị về nội dung cả nghệ thuật của bài thơ.
Bài thơ tiểu đội xe không kính là bài thơ mang đậm chất trữ tình cách mạng, tác giả đã khắc họa hình ảnh người lính bằng chính tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc.
Họ là những người tự nguyện dấn thân, vui vẻ trong gian khổ. Với ngôn ngữ giản dị giàu sức gợi cảm sáng tạo, nhịp thơ phong khoáng đã làm nên một cái cái, cái đẹp cho bài thơ.
|
My feelings about the image of soldiers in the poem comrades and the poem about the squad of cars without windows
Instruct
My feelings about the image of soldiers in the poem comrades and the poem about the squad of cars without windows
Assignment
In modern Vietnamese literature, the image of a soldier holding a gun to protect the homeland is really important, the image of the Ho Ho soldier in the early years against the French colonialists and the Southern liberation soldiers during the war. America has been reflected quite clearly online with its different beauties and it is clearly shown in the two poems Comrades by Chinh Huu and the poem about the squad of cars without windows by Pham Tien Duat.
The poem "Comrade" was composed in 1948 and was printed in the first collection "Gun Hanging Moon". The image of a farmer holding a gun is described in the poem with a rustic, simple yet truly uplifting beauty.
They were all farmers who worked hard all year round in the fields. Listening to the call to save the country, they volunteered to leave their homeland to fight. They were very patriotic. They simply understand that fighting is to protect themselves and their homeland.
The hardships and hardships of life and death have affirmed the noble qualities of the cloth-clad people. From all four directions, without appointment, they met each other and became teammates and comrades.
The poem ends with an image with profound symbolic meaning:
“Tonight, the forest is deserted with hoarfrost
Standing side by side waiting for the enemy to come
The tip of the moon gun hangs.
It is a simple and rustic image, but at the same time it is a song about the sacred comradeship between people standing shoulder to shoulder together to protect the homeland, bringing a peaceful life to the entire nation.
If the poem about comrades talks about the image of Uncle Ho's soldier in the resistance war against the French, the poem about the squad of cars without windows is the image of the liberation soldier in the arduous and fierce resistance war against the US.
The soldier driving on Truong Son road was extremely brave, able to endure hardships but also full of optimism.
Confronting the American enemy's planes, our soldiers and drivers were often in a passive position, but thanks to their belief in the inevitable victory in the struggle to liberate the South, the truth was "It is better to sacrifice everything than to lose everything." country, definitely refuse to be slaves" that President Ho Chi Minh boldly declared on behalf of the nation. They understand that the battlefield and their comrades are in need of weapons, food, medicine... to be strong enough to fight back the enemy properly. The independence and sacred freedom of the Fatherland and the nation urge them to act.
The driver soldiers accept those difficulties with a cheerful, indifferent attitude, mixed with a bit of personality and arrogance.
The ending of the poem is beautiful, the realistic qualities of karma and flight blend together:
“There are no glasses, then the car has no lights,
There is no hood, the trunk has scratches.
The car is still running because the South is ahead,
As long as there is a heart in the car."
Military transport vehicle: no windows, no lights, no roof, the trunk is full of scratches from enemy bombs. But the car still runs steadily towards the beloved South because inside the car there is always a heart full of enthusiasm and responsibility. The image of the heart in the poem is a very meaningful artistic metonymy to honor the stature of the heroic soldiers and drivers and enhance the value of the poem's artistic content.
The poem "Squad of Vehicles Without Glass" is a poem imbued with revolutionary lyricism. The author portrays the image of a soldier with deep admiration and love.
They are people who voluntarily commit themselves and are happy in hardship. With simple language rich in creative sensibility, the poetic rhythm has created a beauty for the poem.
|
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí và Tiểu đội xe không kính
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí và Tiểu đội xe không kính
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc thực sự quan trọng, hình ảnh về anh bộ đội cụ hồ trong những năm đầu chống thực dân Pháp và chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thời kỳ đánh Mỹ đã được phản ánh khá là rõ net cùng với những vẻ đẹp khác nhau và nó được thể hiện rõ qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào năm 1948, được in trong tập đầu súng trăng treo. Hình ảnh về người nông dân cầm súng đã được miêu tả ở trong bài thơ cùng với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thực sự bay bổng.
Đều là những người nông dân quanh năm lam lũ vơi ruộng đồng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện giã từ quê hương đi chiến đấu, trong họ rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản rằng chiến đấu là bảo vệ cho chính mình và quê hương mái ấm của mình.
Sự gian nan vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định được phẩm chất cao đẹp của những người áo vải. Từ bốn phương trời, không hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đó là hình ảnh đơn sơ mộc mạc nhưng đồng thời là lời ca về tình đồng chí thiêng liêng giữa con người đang kề vai sát cánh cùng nhau bảo vệ tổ quốc, mang lại cuộc sống thanh bình cho toàn dân tộc.
Nếu như bài đồng chí nói về hình ảnh của người lính cụ Hồ ở trong kháng chiến chống Pháp thì bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe ở trên đường Trường sơn vô cùng dung cảm, có sức chịu đựng gian khổ nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan.
Đối đầu với máy bay của giặc Mĩ thì các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động nhưng nhờ vào niềm tin tất thắng đấu tranh giải phóng Miền nam, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Các chiến sĩ lái xe chấp nhận những khó khăn đó với thái độ vui vẻ, phớt lờ, có pha chút cá tính, ngang tàng.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, chất hiện thực cũng nghiệp ngã và bay bổng cùng hòa quyện với nhau:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy đều hướng vào Miền nam thân yêu bởi trong xe luôn có một trái tim đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm. Hình ảnh trái tim ở trong câu thơ là hình ảnh hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa nhằm tôn vinh tầm vóc của những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao lên giá trị về nội dung cả nghệ thuật của bài thơ.
Bài thơ tiểu đội xe không kính là bài thơ mang đậm chất trữ tình cách mạng, tác giả đã khắc họa hình ảnh người lính bằng chính tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc.
Họ là những người tự nguyện dấn thân, vui vẻ trong gian khổ. Với ngôn ngữ giản dị giàu sức gợi cảm sáng tạo, nhịp thơ phong khoáng đã làm nên một cái cái, cái đẹp cho bài thơ.
|
My feelings about the image of soldiers in the two poems Comrades and Squad of cars without glasses
Instruct
My feelings about the image of soldiers in the two poems Comrades and Squad of cars without glasses
In modern Vietnamese literature, the image of a soldier holding a gun to protect the homeland is really important, the image of the Ho Ho soldier in the early years against the French colonialists and the Southern liberation soldiers during the war. America has been reflected quite clearly online with its different beauties and it is clearly shown in the two poems Comrades by Chinh Huu and the poem about the squad of cars without windows by Pham Tien Duat.
The poem "Comrade" was composed in 1948 and was printed in the first collection "Gun Hanging Moon". The image of a farmer holding a gun is described in the poem with a rustic, simple yet truly uplifting beauty.
They were all farmers who worked hard all year round in the fields. Listening to the call to save the country, they volunteered to leave their homeland to fight. They were very patriotic. They simply understand that fighting is to protect themselves and their homeland.
The hardships and hardships of life and death have affirmed the noble qualities of the cloth-clad people. From all four directions, without appointment, they met each other and became teammates and comrades.
The poem ends with an image with profound symbolic meaning:
“Tonight, the forest is deserted with hoarfrost
Standing side by side waiting for the enemy to come
The tip of the moon gun hangs.
It is a simple and rustic image, but at the same time it is a song about the sacred comradeship between people standing shoulder to shoulder together to protect the homeland, bringing a peaceful life to the entire nation.
If the poem about comrades talks about the image of Uncle Ho's soldier in the resistance war against the French, the poem about the squad of cars without windows is the image of the liberation soldier in the arduous and fierce resistance war against the US.
The soldier driving on Truong Son road was extremely brave, able to endure hardships but also full of optimism.
Confronting the American enemy's planes, our soldiers and drivers were often in a passive position, but thanks to their belief in the inevitable victory in the struggle to liberate the South, the truth was "It is better to sacrifice everything than to lose everything." country, definitely refuse to be slaves" that President Ho Chi Minh boldly declared on behalf of the nation. They understand that the battlefield and their comrades are in need of weapons, food, medicine... to be strong enough to fight back the enemy properly. The independence and sacred freedom of the Fatherland and the nation urge them to act.
The driver soldiers accept those difficulties with a cheerful, indifferent attitude, mixed with a bit of personality and arrogance.
The ending of the poem is beautiful, the realistic qualities of karma and flight blend together:
“There are no glasses, then the car has no lights,
There is no hood, the trunk has scratches.
The car is still running because the South is ahead,
As long as there is a heart in the car."
Military transport vehicle: no windows, no lights, no roof, the trunk is full of scratches from enemy bombs. But the car still runs steadily towards the beloved South because inside the car there is always a heart full of enthusiasm and responsibility. The image of the heart in the poem is a very meaningful artistic metonymy to honor the stature of the heroic soldiers and drivers and enhance the value of the poem's artistic content.
The poem "Squad of Vehicles Without Glass" is a poem imbued with revolutionary lyricism. The author portrays the image of a soldier with deep admiration and love.
They are people who voluntarily commit themselves and are happy in hardship. With simple language rich in creative sensibility, the poetic rhythm has created a beauty for the poem.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài làm
Từ buổi đầu dựng nước đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, Trong đó phải kể đến hai cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vô cùng gian khổ. Cứ mỗi lúc đất nước gặp hiểm nguy, thanh niên Việt Nam lại nô nức lên đường theo tiếng gọi cùa Tổ quốc. Và họ đã trở thành những biểu tượng người lính dũng cảm, kiên cường được khắc hoạ chân thực trong hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Ở hai thời kì khác nhau, dưới hai ngòi bút khác nhau, những người lính cách mạng trong hai bài thơ đều mang trong mình phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, anh dũng, gan dạ và lòng yêu Tổ quốc sâu nặng. Họ là những người cùng chung lí tưởng, cách mạng cao đẹp là nguyện phấn đấu, hi sinh vì Tồ quốc, vì độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, sau hơn hai mươi năm từ khi Đồng chí được ra đời thì lớp đàn con, đàn cháu của nhửng người lính thời chống Pháp từng súng bên súng, đầu sát bên đầu hay thương nhau tay nắm lấy bàn tay vẫn giữ trong mình truyền thống, tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Từ trong mưa bom, bão đạn của chiến tranh, những chiếc xe không kính lại hội tụ về đây họp thành tiểu đội xe không kính:
Những chiếc xe trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi.
Từ những cái bắt tay ấy, họ trao cho nhau cả niềm tin, hi vọng và sức mạnh. Nhưng, điểm khác ở họ là ý thức giác ngộ cách mạng. Những năm đầu chống Pháp, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ nên về nhận thức chiến tranh của những người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời chống Pháp.
Và nếu như trong Đồng chí: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh – Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính những chiến sĩ lái xe phải tắm trong mưa bom, bão đạn, phải chịu sự dày vò của thời tiết trên tuyến đường Trường Sơn hiểm trở: Bụi phun tóc trắng như người già, Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng họ vẫn bất chấp, hiên ngang để vượt qua tất cả, họ vẫn thật lạc quan, yêu đời, và tinh nghịch, vẫn giữ trong mình một phong cách rất lính. Và gia đình của họ là ở nơi chiến hào, với đồng đội thân yêu, chứ không phải là ở hậu phương, nơi có mẹ già, vợ dại, con thơ như những chiến sĩ trong tác phẩm Đồng chí.
Vậy là dù có ở đâu, trong thời điểm nào ta vẫn cảm thấy sự anh dũng đáng khâm phục, bất chấp khó khăn gian khổ của chiến tranh. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã hoá thân vào các chiến sĩ Việt Nam để khắc hoạ thật sinh động hình ảnh của họ. Để lại cho đời những bức chân dung tuyệt đẹp.
|
Topic: My feelings about the image of soldiers in the two poems Comrades and the poem about the squad of cars without windows
Assignment
From the beginning of the nation's founding until now, the Vietnamese people have gone through many battles against foreign invaders, including two extremely arduous battles against the French colonialists and the American imperialists. Every time the country is in danger, Vietnamese youth enthusiastically set out to follow the call of the Fatherland. And they have become symbols of brave, resilient soldiers, realistically portrayed in two works Comrades by Chinh Huu and Poem about a squad of cars without glasses by Pham Tien Duat.
In two different periods, under two different pens, the revolutionary soldiers in the two poems all possess the qualities of Uncle Ho's soldiers, heroism, courage and deep love for the Fatherland. They are people who share the same noble revolutionary ideals and vows to strive and sacrifice for the Fatherland, for the independence and freedom of the nation. In particular, after more than twenty years since Comrade was born, the children and grandchildren of the soldiers during the anti-French era each held gun to gun, head to head, or loved each other, holding the hand that was still kept in them. tradition, sacred and noble camaraderie. From the rain of bombs and bullets of war, glassless cars gathered here to form a squad of glassless cars:
The cars in the bombs fell
Came here to form a squad
Met friends along the way
Shake your hand through broken glass.
From those handshakes, they gave each other trust, hope and strength. But, the difference in them is their sense of revolutionary enlightenment. In the early years of the fight against the French, our newly established government was still young, so the soldiers' awareness of war was still simple and not as profound as during the fight against the French.
And if in Comrade: You and I know every chill - Fever trembling with sweat on the forehead, then in the poem about the car squad without glasses, the soldiers driving have to be bathed in a rain of bombs, a storm of bullets, and have to endure the torment of the weather on the dangerous Truong Son route: Dust sprays white hair like an old person, Rain pours like outside. But they are still defiant and brave to overcome everything, they are still optimistic, love life, and mischievous, still maintaining a very soldier style. And their family is in the trenches, with their beloved comrades, not in the rear, where there are old mothers, foolish wives, and young children like the soldiers in the work Comrades.
So no matter where we are, at any time, we still feel admirable heroism, despite the hardships of war. Huu and Pham Tien Duat themselves transformed into Vietnamese soldiers to vividly portray their images. Leaving behind beautiful portraits for life.
|
Cảm nhận của em về mái trường tiểu học
Bài làm 1
Em rất yêu ngôi trường của em. Đến trường có rất nhiều bạn bè, thầy cô và em còn được đọc nhiều truyện rất hay.Trường em có rất nhiều cây cho bóng mát.Cô giáo dạy cho em những bài học để em hiểu biết hơn. Khi được ra chơi em chơi rất nhiều trò chơi như là Nú tìm, Chơi ô ăn quan, Rồng rắn lên mây khi chơi những trò chơi này em thấy rất vui, thoải mái và khỏe mạnh hơn. Em yêu nhất ngôi trường của em nơi hàng ngày em đang gắn bó.
Bài làm 2
Em rất thích đến trường vì đến trường có nhiều bạn để chơi và học bài cùng em. Ở trường có nhiều cây cối và hoa lá, dưới những gốc cây to có những cây hoa nhỏ li ti và những chiếc ghế đá là nơi tụi em thường ngồi đọc truyện. Trong những tiết học em rất vui vì có nhiều bạn giúp em học bài. Cô giáo em giảng bài rất hay, các bạn trong lớp em rất chú ý nghe giảng. Em yêu quý lớp em và mái trường thân yêu, em hứa sẽ học tập thật tốt.
Bài làm 3
Trường em là ngôi trường đẹp nhất mà em từng thấy. Em rất thích ngồi dưới gốc cây ở trường để dọc sách. Hằng ngày em được đọc sách và tham gia các hoạt động ngoài giờ như: Chơi các trò chơi dân gian, tập thể dục giừa giờ…Các bạn trong lớp em đoàn kết và yêu thương nhau. Tháng trước em còn được vui Trung thu ở trường. Em thích nhất cô giáo chủ nhiệm của em.Em hứa sẽ làm đúng 5 điều Bác hồ dạy. Em yêu tiểu học việt Ấn.
Em thích nhất là được đến trường vì đến trường có rất nhiều bạn bè, thầy cô. Em thấy các bạn rất xinh đẹp, thầy cô giáo lúc nào cũng xinh xắn và em rất thích chơi với các bạn những trò chơi dân gian như là Chơi ô ăn quan, Mèo đuổi chuột, Nú tìm, Trò chơi cô giáo dạy học…Những ngày nghỉ em rất nhớ mái trường và nhớ các bạn. Sau những ngày nghỉ lá cây rụng xuống nhiều em lại cùng các bạn quét lá. Em rất thích cô giáo hiệu trưởng nhà trường. Em hứa với nhà trường và cô hiệu trưởng em sẽ giữ gìn môi trường trong sạch và đối sử thật tốt với các bạn.
|
My feelings about elementary school
Exercise 1
I love my school very much. When I go to school, I have a lot of friends and teachers, and I get to read many great stories. My school has a lot of trees for shade. The teacher teaches me lessons to help me understand better. When I go out to play, I play a lot of games such as Nu Search, O Quan Quan, Dragon and Snake Rising to the Cloud. When I play these games, I feel very happy, comfortable and healthier. I love my school the most where I am attached to every day.
Exercise 2
I really like going to school because I have many friends to play with and study with. At school there are many trees and flowers, under the big trees there are tiny flowers and stone benches where we often sit and read stories. During the lessons, I am very happy because there are many friends helping me study. My teacher teaches very well, my classmates pay attention to the lecture. I love my class and my beloved school, I promise to study well.
Exercise 3
My school is the most beautiful school I have ever seen. I really like sitting under the tree at school with books next to me. Every day, I read books and participate in after-school activities such as: Playing folk games, exercising during breaks... My classmates unite and love each other. Last month, I also enjoyed Mid-Autumn Festival at school. I like my homeroom teacher the most. I promise to do exactly the 5 things Uncle Ho taught. I love Vietnamese and Indian elementary school.
I like going to school the most because I have a lot of friends and teachers when I go to school. I think my friends are very beautiful, the teachers are always pretty and I really like to play with them folk games such as O Quan Quan, Cat and Mouse, Pu Search, Teacher Teaching Game... During the holidays, I really miss school and my friends. After the holidays, many children and their friends went to sweep the leaves while the leaves fell from the trees. I really like the school principal. I promise the school and the principal that I will keep the environment clean and treat my students well.
|
Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa
Bài làm
Lặng Lẽ Sa Pa là một truyện ngắn vô cùng nhẹ nhàng, giàu chất thơ và tác giả đã xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyến ngắn Lặng lẽ Sa Pa được viết vào năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả Nguyễn Thành Long, có thể coi đây là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện ngắn với những nhân vật không tên đặc biệt tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Tác giả muốn giới thiệu với bạn đọc một nhân vật điển hình trong công cuộc lao động và xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này.
Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp con người Sa Pa. Những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích đất nước, vì cuộc sống con người đó là anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu.
Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và công việc, anh thanh niên một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 m. Quanh năm suốt tháng bốn bề cây phủ mây phong cảnh lạnh rét, anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người lần làm quen này anh quen với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống. Công việc của anh ” Đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày nhằm phục vụ sản xuất, chiến đấu công việc đòi hỏi tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nghiệm cao. Hằng ngày anh phải ” ốp về nhà” vào bốn thời điểm khác nhau.
Anh thanh niên tự biết làm cho cuộc sống vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng và ý nghĩa. Anh trồng hoa… Anh đọc sách trò truyện giao tiếp với sách, lấy sách làm tri ân, tri kỉ, anh nuôi gà và thế giới riêng của anh ” một gian nhà ba gian sạch sẽ, một cuộc đời riêng thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách có lẽ chính nối sống đẹp đẽ đó khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc khắc nhiệt để yêu nghề hơn, yêu cuộc sống hơn.
Anh thanh niên còn là người khiêm tốn thành thực đáng quí. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh… Anh nhiệt tình giới thiệu để ông vẽ chân dung họ, những con người làm việc hết mình thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng. Một nét đẹp đáng quí mến nữa ở anh là tấm lòng rộng mở chân thành, gần gũi thân thiết. Với mọi người với bác lái xe anh chu đáo nhớ tới việc gửi củ tam thất về làm quà cho bác gái. Với người bạn mới anh vui mừng đến luống cuống hấp tấp khi thấy họ đến thăm nơi ở và làm việc của mình, anh tặng bó hoa đẹp rực rỡ cho cô gái, anh đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quí hiếm vô cùng anh thèm và khao khát nghe truyện dưới xuôi. Khi chia tay anh xúc động quay mặt đi và đưa vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn, trên đường anh không giám tiến họ, sợ quyến luyến mà không cầm nổi lòng mình.
|
My feelings about the young man character in the short story Quiet Sa Pa
Instruct
My feelings about the young man character in the short story Quiet Sa Pa
Assignment
Quiet Sa Pa is an extremely gentle short story, rich in poetry and the author has built a beautiful character image. The short story Quiet Sa Pa was written in 1970, after a field trip in Lao Cai by author Nguyen Thanh Long. It can be considered one of the short stories that represents his style. Short stories with unnamed characters, especially the character of a young meteorological officer on Yen Son peak. The author wants to introduce to readers a typical character in the work of labor and building the country in the North in this remote highland.
The natural beauty of Sa Pa has been the foundation for the beauty of Sa Pa's people. The people who do scientific research quietly but very urgently for the benefit of the country and for human life are the young meteorologist and geophysicist.
His beauty is shown in his living and working situation, the young man works alone on the 2600 m high Yen Son peak. All year round, in April, surrounded by clouds and cold landscapes, he was so lonely that he craved people and always missed them. This time he met the old painter and the young engineer. That joy gave him even more love. life. His job is "Measuring sun, rain, wind, and clouds" to predict daily weather to serve production and combat, a job that requires meticulousness, accuracy, and a sense of responsibility. High. Every day he has to "go home" at four different times.
The young man knows how to make life happy, warm, poetic and meaningful. He grows flowers... He reads books, chats and communicates with books, taking books as gratitude and confidants, he raises chickens and his own world "a clean three-room house, a private life condensed into one corner." The world with a child's bed, a desk, and a bookshelf is perhaps that beautiful life that makes him forget the lonely situation and harsh work to love his job more and love life more.
The young man is also a humble and honest person. When the artist wanted to paint his portrait... He enthusiastically recommended that he paint their portraits, people who worked hard and quietly, with respectable contributions. Another admirable beauty about him is his open, sincere, and close heart. With everyone and the driver, he thoughtfully remembered to send Panax notoginseng as a gift to his aunt. With his new friend, he was so excited that he was in a hurry when he saw them visiting his place of residence and work. He gave a beautiful bouquet of flowers to the girl. He counted every minute because the time to meet him was extremely rare. craving and longing to listen to the stories below. When saying goodbye, he emotionally turned away and gave the painter eggs as a gift for everyone to eat. On the way, he did not approach them, afraid that he would not be able to hold back his feelings because he would be so attached to them.
|
Đề: Cảm nhận của em về nhân vật chị Dâu qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ ” của Ngô Tất Tố
Bài làm
Hướng dẫn làm bài
a. Mở bài:
Nhắc đến Ngô Tất Tố là ta nhớ đến tiểu thuyết Tắt đèn. Nói đến Tắt đèn ta nghĩ đến nhân vật chị Dậu. Đó là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương chồng thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Nhà văn đã xây dựng nhân vật chị Dậu tiêu biểu cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà nhà quê trước năm 1945. Đoạn trích“Tức nước vỡ bờ” đã để lại bao ấn tượng sâu sắc về nhân vật chị Dậu.
b. Thân bài:
– Giới thiệu sơ lược về đoạn trích“Tức nước vỡ bờ”
– Là người nông dân nghèo khổ, mộc mạc, hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả
+ Trong lúc nước sôi lửa bỏng một mỡnh chị đôn đáo chạy xuôi chạy ngược lo xuất sưu cho chồng, cho chú Hợi- em trai chồng mỡnh. Chị đó phải đứt ruột bán đứa con nhỏ 7 tuổi bán đàn chó chưa mở mắt cùng một gánh khoai vẫn chưa đủ tiền nộp sưu. Chồng chị vẫ bị đánh trói.
– Chị đó phải vựng lờn đánh nhau với người nhà lí trưởng và tên cai lệ để bảo vệ chồng của mỡnh.
+ Ban đầu chị cố van xin tha thiết nhưng chúng không nghe tên cai lệ đã đáp lại chị bằng quả “bịch” vào ngực chị mấy bịch rồi sấn sổ tới trói anh Dậu,chỉ đến khi đó chị mới liều mạng cự lại
+ Lúc đầu chị cự lại bằng lí “chồng tôi đau ốm ông không được phép hành hạ”
Lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô không còn xưng cháu gọi ông nữa mà lúc này là “ ông- tôi”. Bằng sự thay đổi đó chị đã đứng thẳng lên vị thế ngang hàng nhìn thẳng vào mặt tên cai lệ
+ Khi tên cai lệ không thèm trả lời mà còn tát vào mặt chị Dậu một cái đánh bốp rồi nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã vụt đứng dậyvới niềm căm giận ngùn ngụt “ Chị Dậu nghiến hai hàm răng lại: mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem”. Lúc này cách xưng hô đã thay đổi đó là cách xưng hô đanh đá của người đàn bà thể hiện sự căm thù ngùn ngụt khinh bỉ cao độ đồng thời thể hiện tư thế của người đứng trên kẻ thù và sẵn sàng chiến đấu
=> Chị Dậu tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng bị đẩy đến bước đường cùng chị đã vùng lên chống trả quyết liệt thể hiện một thái độ bất khuất
* Là người nông dân mộc mạc hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả, nhưng không hoàn toàn yếu đuối mà tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng.
c. Kết bài:
– Có thể nói Chị Dậu là điển hình về cuộc đời và số phận của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là những người nghèo khổ bị đẩy vào bước đường cùng, bị ức hiếp bị chà đạp vùi dập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới bàn tay của XHPK. Dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn ánh lên phẩm chất cao đẹp của người nông dân hiền lành lương thiện giàu tình yêu thương và giàu lòng tự trọng và luôn tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng.
|
Topic: My feelings about the character of Sister-in-law through the excerpt "When the water breaks its banks" by Ngo Tat To
Assignment
Instructions for homework
a. Opening:
When mentioning Ngo Tat To, we remember the novel Lights Out. When talking about Lights Out, we think of the character Ms. Dau. She was a poor peasant woman, hard-working, rich in love for her husband and children, and courageous in resisting the tyrants. The writer built the character of Ms. Dau to represent the miserable plight and good qualities of country women before 1945. The excerpt "When the water broke its banks" left a deep impression on the character. Ms. Dau.
b. Body of the article:
– Brief introduction to the excerpt "The water broke its banks"
– A poor, rustic, gentle farmer full of altruism and noble sacrifice
+ While the water was boiling and the fire was burning, a woman ran back and forth to take care of her husband and Uncle Hoi - her husband's younger brother. That woman had to lose her heart and sell her 7-year-old child, a pack of dogs that had not yet opened their eyes, and a load of potatoes, still not having enough money to pay the tax. Her husband is still beaten and tied up.
– That woman had to fight with the chief's family and the ruler to protect her husband.
+ At first, she tried to beg earnestly, but they did not listen. The ruler responded by hitting her in the chest a few times and then rushing to tie up Mr. Dau. Only then did she risk her life to resist.
+ At first she resisted by saying "my husband is sick and you are not allowed to torture him"
At this time, she changed the way she addressed herself, no longer calling her grandchild, but now "Mr.-I". With that change, she stood up straight to an equal position and looked straight into the ruler's face
+ When the ruler did not bother to answer but instead slapped Ms. Dau in the face with a pop and jumped next to Mr. Dau, she suddenly stood up with overwhelming anger. "Ms. Dau gritted her teeth: you tie your husband up immediately Come on, I'll show you." At this time, the way of addressing has changed, it is the woman's harsh way of addressing, expressing hatred and high contempt, while also showing the posture of someone standing above the enemy and ready to fight.
=> Ms. Dau had a hidden resistance power and was pushed to the limit. She rose up and fought back fiercely, showing an indomitable attitude.
* He is a gentle, rustic farmer full of altruism and noble sacrifice, but not completely weak but has a hidden strength of resistance.
c. End:
– It can be said that Ms. Dau is a typical example of the life and fate of farmers in the old society. They are poor people who have been pushed into a dead end, bullied and trampled directly or indirectly at the hands of Socialist Republic of Vietnam. No matter the circumstances, they still reflect the noble qualities of a gentle, honest farmer, rich in love and self-esteem, and always have a hidden strength of resistance.
|
Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong truyện Những ngôi sao xa xôi
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong truyện Những ngôi sao xa xôi
Bài làm
Lê Minh Khuê là nhà văn có sở trường về truyện ngắn trong những năm chiến tranh kháng chiến chống Mĩ. Truyện của bà đều viết về cuộc sống chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn năm 1971, trong lúc kháng chiến chống Mĩ dân tộc đang diễn ra ác liệt thì truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi ra đời. Trong truyện có những câu truyện chiến công hàng ngày, về sự dũng cảm hi sinh của những người trẻ tuổi trên đường Trường Sơn. Đó là vẻ đẹp ba cô gái thanh niên xung phong và nôi bật nhất là Phương Định nhân vật kể chuyện.
Phương Định nhân vật xưng tôi người kể truyện lựa chọn cách trần thuật ấy là chủ định của nhà văn, mọi hình ảnh sự kiện nhân vật nơi trọng điểm ác liệt này được tái hiện bởi cái nhìn, thái độ chính người trong cuộc có điều kiện đi vào thế giới nội tâm bộc lộ tâm tư suy nghĩ của nhân vật, một cốt truyện tâm lí. Ngôn ngữ giọng điệu phù hợp với nhân vật. Phương Định là nữ sinh thủ đô vào chiến trường cô mang theo sự vô tư hồn nhiên khi đón nhận trận mưa đá ngắn ngủi rồi những kỉ niệm tuổi thơ, nhớ về mẹ ngôi nhà những ngôi sao lớn trên bầu trời thành phố, nó vừa là niềm khao khát vừa làm dịu mát tâm hồn giữa khoảnh khắc căng thẳng khốc liệt của chiến trường.
Phương Định một cô gái mộng mơ hồn nhiên, trong sáng, yêu đời. Phương Định thích ca hát, cô đem cả lòng say mê vào chiến trường, cô thích hát những hành khúc bộ đội, những bài quan họ, say mê đến nỗi chỉ cần thuộc nhạc thôi là có thể bịa ra lời mà hát. Tiếng hát cất lên sống với phút giây bình yên đó là tinh thần lạc quan yêu đời cao cả của nữ thanh niên xung phong chống Mĩ. Cô gái có hình thức đẹp Phương Định không tự nói nhiều về mình nhưng chỉ qua mấy lời tự kể 2 bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa… Cô có cái nhìn sao mà xa xăm là người được các anh chiến sĩ quan tâm nhiều nhất nhưng Phương Định thường đứng xa nhìn đi nơi khác, nhưng trong lòng luôn yêu quí và thấy những người đẹp nhất, thông minh nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ. Điều đó khẳng định Phương Định là cô gái hồn nhiên trong sáng sống có lí tưởng biết đặt nhiệm vụ chung trên tình cảm riêng tư, sống hòa đồng với đồng đội của mình làm nhiệm vụ phá bom san lấp đảm bảo thông tuyến đường một công việc mà thần chết luôn chờ trực. Xong Phương Định không chịu thua kém, luôn hành động chuẩn xác thành thực, bình tĩnh, dũng cảm mọi ngày phải phá năm quả ít nhất ba quả nổ chậm, mỗi lần phá bom là cảm giác khác nhau, lúc đầu Phương Định thấy căng thẳng, hồi hộp, thần kinh căng như chão, tim đập, chân chạy mà biết khắp xung quanh có những quả bom chưa nổ, có thể bây giờ hoặc chốc nữa. Thần chết có thể đến thăm bất cứ lúc nào… Mỗi lúc căng thẳng Phương Định lại có cảm giác như có ánh mắt của các anh cao xa dõi theo mình Phương Định nói ” tôi sẽ không đi khom…” Cảm giác ấy khiến Phương Định trở lên sắc nhọn. Thế rồi nín thở nắng nghe và chờ thế thôi rất nguy hiểm khi mảnh bom văng tơi.
Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ càng biết ơn các chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta càng ra sức học tập để rèn luyện, tiếp bước các cha anh ta để xây dựng một đất nước ngày càng phồn vinh và tự chủ. Chúng ta biết ơn cô gái Phương Định và đồng đội của cô, học tập tinh thần xung quanh, sự quả cảm không sợ hi sinh của các cô gái ấy vào công cuộc xây dựng đổi mới đất nước hôm nay.
|
My feelings about the character Phuong Dinh in the story Distant Stars
Instruct
My feelings about the character Phuong Dinh in the story Distant Stars
Assignment
Le Minh Khue is a writer with a knack for short stories during the years of the resistance war against America. Her stories are all written about the fighting life of young volunteers and soldiers on the Truong Son route in 1971, while the resistance war against the American people was fierce, the short story Distant Stars was born. In the story, there are stories of everyday victories, about the brave sacrifice of young people on the Truong Son road. That is the beauty of the three young girls who volunteer and the most prominent is Phuong Dinh, the narrator.
Phuong Dinh, the character claiming to be the storyteller, chose that narrative method as the writer's intention. All the images and events of the characters in this fierce focus are recreated by the insider's own perspective and attitude. Events entering the inner world reveal the character's thoughts and feelings, a psychological plot. The language and tone are appropriate to the character. Phuong Dinh is a female student in the capital and goes to the battlefield with her carefree innocence as she welcomes the short hailstorm and her childhood memories, remembering her mother's house of big stars in the city sky, it just happened. is a desire that soothes the soul amidst the fierce tension of the battlefield.
Phuong Dinh is a dreamy girl who is innocent, pure, and loves life. Phuong Dinh likes to sing, she brings all her passion to the battlefield, she likes to sing army marches, mandarin songs, so passionately that just by knowing the music, she can make up the lyrics to sing. The singing voice that lives with those peaceful moments is the noble spirit of optimism and love for life of the young female volunteer against America. The beautiful girl Phuong Dinh doesn't say much about herself, but just through a few words, she has two thick, relatively soft braids, a tall neck as proud as a calyx... She has a look that makes her look like someone from afar. The soldiers paid the most attention, but Phuong Dinh often stood far away and looked away, but in his heart he always loved and saw that the most beautiful and intelligent people were those wearing military uniforms with stars on their hats. This confirms that Phuong Dinh is an innocent and pure girl with ideals, knowing how to put public duties above personal feelings, living in harmony with her teammates, doing the task of clearing bombs and leveling to ensure smooth passage of roads. something that death is always waiting for. After that, Phuong Dinh did not want to be outdone, always acted accurately, honestly, calmly, and bravely. Every day, he had to detonate five or at least three slow-detonating bombs. Each time he detonated a bomb, it felt different. At first, Phuong Dinh felt stressed. tense, nervous, nerves tense, heart pounding, running, knowing there are unexploded bombs all around, maybe now or soon. Death can visit at any time... Whenever she is stressed, Phuong Dinh feels as if the eyes of high-ranking men are watching her. Phuong Dinh says, "I will not stoop..." That feeling makes Phuong Dinh become sharp. Then holding your breath in the sun, listening and waiting, it's very dangerous when the bomb shrapnel scatters.
The younger generation of Vietnam will be more grateful to the Truong Son soldiers, the more we will work hard to study, train, and follow in the footsteps of our ancestors to build an increasingly prosperous and autonomous country. We are grateful to the girl Phuong Dinh and her teammates, learning from the surrounding spirit and the bravery and fearlessness of sacrifice of those girls in the work of building and innovating the country today.
|
Cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong Tấm Cám
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong Tấm Cám
Tấm cám là một câu truyện cổ tích được dân gian truyền từ bao đời nay. Ngay từ thủa còn bé thơ, trong tâm trí hồn nhiên của tôi đã đầy rẫy những hình ảnh của một chàng sọ Dừa hiền lành thông minh nhưng phải đội lốt sọ dừa xấu xí, chàng thạch sanh tài ba nhưng nhân hậu thật thà hết mực nhưng bên cạnh đó còn có hình ảnh hiển hiện của cái ác, đó là mẹ con nhà Lý Thông, là mụ dì ghẻ độc ác…Trong cái thế giới bao la này có thiện có ác nhưng hình ảnh của một cô Tấm vẫn luôn để lại trong tôi nhiều những tình cảm và suy nghĩ hơn bao giờ hết.
Hình ảnh cô tấm lúc nào cũng đẹp trong tâm trí của tôi. Cô Tấm hiền lành được gắn liền với những đồ vật nhỏ bé, giản dị nhưng lại đáng yêu vô cùng. Đó là con cá bống, đó là chiếc hài nhỏ xinh, là quả thị thơm bé nhỏ mỗi ngày Tấm chui ra giúp bà lão hàng nước làm việc nhà và têm miếng trầu cánh phượng. Miệng trầu ấy chính là dấu hiệu để nhà vua có thể tìm ra người vợ của mình. Mỗi sự vật gắn liền với Tấm đều thực sự đáng yêu.
Tấm lòng của cô Tấm thực sự đáng trân trọng, và cô xứng đáng được hưởng những thứ tốt đẹp nhất. Cô đẹp không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn từ tính nết, sự chăm chỉ và tình cảm của Tấm giành cho các sự vật, rồi cả lòng hiếu thảo với cha mẹ, sự thủy chung son sắt đối với nhà vua. Tấm sẵn sàng nhường phần cơm của mình cho cá bống rồi ngày giỗ bố nàng cũng không quên, sẵn sàng trèo lên cây cau lấy quả cúng để tạo cơ hội cho mụ dì ghẻ độc ác hãm hại chết.
Nhưng vì sự yêu quý, trân trọng những phẩm chất cao đẹp của Tấm đó bao nhiêu thì tôi lại càng thấy xót xa, thương cảm cho cuộc đời của cô Tấm bây nhiêu. Số phận bất công với cô, khiến cô phải chịu mồ côi mẹ rồi bố không lâu cũng mất đi, cô đã phải chịu đựng cảnh đày đọa của mẹ ghẻ. Tấm thua thiệt đủ đường, chỉ có mỗi chú cá Bống là làm bạn thì cũng bị dì ghẻ giết thịt ăn. Ngay cả địa vị hoàng hậu và cuộc sống giàu sang sau này cung không thể đủ để cứu tấm ra khỏi âm mưu hãm hại của dì ghẻ.
Phải trải qua biết bao nhiêu kiếp nạn khổ đau nàng mới có được hạnh phúc. Từng ấy đau khổ, bất hạnh, đày đọa đã khiến cho con người ta không thể không thương cảm và xót xa cho cô.
Những lần bị hãm hại thấy tấm không khuất phục mà vươn mình lớn dậy, tự mình đấu tranh từng chút một, kiên quyết chống lại sự độc ác của mẹ con nhà Cám. Với sức sống mãnh liệt của mình, Tấm đã chiến thắng, đã giành lại được hạnh phúc thực sự. Không còn bụt, không còn tiên, giờ đây tấm đã tự vươn lên bằng sức mạnh của chính mình, chiến đấu để giữ hạnh phúc tới cùng. Giờ đây Tấm trở nên mạnh mẽ và quyết đoán hơn.
Hình ảnh của cô Tấm đã giúp cho tôi phần nào hiểu được cuộc trường chinh mà nhân dân lao động đã đi qua trong một phần quá khứ xa xưa của dân tộc. Những kiếp người nhọc nhằm, cơ cực nhưng bao giờ cũng lành mạnh, khỏe khoắn, và dồi dào sức sống.
Cuộc đời nhiều bất hạnh, khổ đau nhưng cuối cùng đạt đến hạnh phúc của Tấm để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Khiến tôi không khỏi nhiều lần có cái mơ ước được gặp mặt con người xinh đẹp, nết na và nhân hậu của cái thế giới cổ tích diệu kì ấy.
Nguồn: Bài văn hay
|
My feelings about the character Tam in Tam Cam
Instruct
My feelings about the character Tam in Tam Cam
Tam bran is a fairy tale that has been passed down by folk for many generations. Ever since I was a child, my innocent mind was filled with images of a gentle and intelligent coconut skull guy who had to disguise himself as an ugly coconut skull guy, a talented but kind and honest stone guy. But besides that, there is also a visible image of evil, that is Ly Thong's mother and daughter, the cruel stepmother... In this vast world there is good and evil, but the image of a Miss Tam always remains. I have more feelings and thoughts than ever before.
Her image is always beautiful in my mind. The gentle Miss Tam is associated with small, simple but extremely lovely objects. That's the goby fish, that's the pretty little slipper, that's the little fragrant fruit that every day Tam comes out to help the old lady in the country do housework and eat betel and phoenix wings. That betel mouth is a sign for the king to find his wife. Every thing associated with Tam is truly lovely.
Ms. Tam's heart is truly admirable, and she deserves the best things. She is beautiful not only in appearance but also in Tam's character, hard work and affection for things, her filial piety to her parents, and her steadfast loyalty to the king. Tam was willing to give up her rice to the goby, and on the anniversary of her father's death, she also did not forget, ready to climb the areca tree to get an offering to create an opportunity for the cruel stepmother to harm him and kill him.
But because of how much I love and appreciate Tam's noble qualities, I feel even more sorry and sympathetic for Ms. Tam's life now. Fate was unfair to her, causing her to lose her mother and father not long ago, and she had to endure the exile of her stepmother. Tam lost all the way, only the Goby fish was his friend, but his stepmother also killed him and ate him. Even her position as queen and her later wealthy life were not enough to save her from her stepmother's plot to harm her.
She had to go through so many lives of suffering before she could be happy. All that suffering, misfortune, and suffering made people unable to help but sympathize and feel sorry for her.
The times she was harmed, she did not give in, but rose up, fought little by little, and resolutely resisted the cruelty of the Cam family. With his strong vitality, Tam won and regained true happiness. No more Buddha, no more fairy, now she has risen up with her own strength, fighting to keep happiness to the end. Now Tam becomes stronger and more determined.
Ms. Tam's image has helped me partly understand the long march that the working people went through in a part of the nation's ancient past. Human lives are hard and miserable but are always healthy, strong, and full of vitality.
Tam's life was full of misfortune and suffering, but she finally achieved happiness, leaving me with many impressions. It made me repeatedly dream of meeting the beautiful, kind and kind people of that magical fairy tale world.
Source: Good article
|
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Bài làm
Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh ở xã hội phong kiến nhưng phải chịu số phận oan khuất. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, đức hạnh vừa thể hiện ước mơ muôn thủa của con người, người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh. Tác giả giới thiệu là người phụ nữ thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Và để làm nổi bật vẻ đẹp này nhà văn đã đặt nhân vật vào các hoàn cảnh tình huống cụ thể. Khi mới lấy chồng Vũ Nương cư xử đúng mực, nhừng nhịn, giữ gìn khuôn phép lên chồng nàng có tính đa nghi đối với vợ, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến bất hòa.
Khi chồng đi lính Vũ Nương giót chén rượu đầy giặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm thiets, nàng không mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chồng được trở về bình yên. Cảm thông với những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng khiến mọi người đều xúc động.
Khi chồng đi vắng nàng sinh con một mình, vừa nuôi con nhỏ vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng khi già yếu ốm đau hết sức thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên bảo. Phẩm hạnh của nàng được ghi nhận trong lời chăn chối của mẹ chồng. Đó là sự đánh khách quan. Khi mẹ chồng mất nàng hết lòng lo việc ma chay, tế lễ lo liệu như cha mẹ đẻ.
Khi chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về lẽ ra nàng được đón nhận một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên vì lời nói vô tình ngây thơ của con, một sự hiểu nhầm bởi tính đa nghi quá mức. Phải kết thúc cuộc đời mình khi quá trẻ.
Vì người chồng thất học lại hay ghen, độc đoán truyền quyền đã không bộc bạch lời nói của con cho mình biết lại còn không chịu nghe lời rãi bầy phân trần, không chịu động lòng trước thái độ khổ đau của vợ. “ Cách biệt 3 năm… cho thiếp”. Lời nói này của Vũ Nương không chỉ nhằm minh oan mà nàng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nhưng điều đó đâu có được Trương Sinh chấp nhận, khi họ hàng làng xóm bênh vực cho nàng nhưng Trương Sinh không tin. Như vậy, ngay cả quyền tự bảo vệ mình và được người khác làm chứng minh oan cũng không có, nàng đau đớn thất vọng mà than: “ Thú vui nghi gia nghi thất… ngay cả ước nguyện cũng không được rãi bày”.
“ Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Qua câu truyện từ nhiều thế kỉ trước bằng năng lực sáng tạo của mình Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa hiện thực tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, đức hạnh vẹn toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong kiến đương thời nêu bật thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
|
My feelings about the character Vu Nuong in the work The Story of a Nam Xuong Girl
Instruct
My feelings about the character Vu Nuong in the work The Story of a Nam Xuong Girl
Assignment
Vu Nuong is a typical character for a virtuous woman in a feudal society but suffers an unjust fate. The story has the meaning of praising the beauty of altruism and virtue while also expressing the eternal dream of humans, that good people will always be rewarded even though it is just a mysterious, illusory world.
Vu Nuong is a woman with virtuous qualities. The author introduces herself as a modest, modest woman with a good personality. And to highlight this beauty, the writer placed the characters in specific situations. When she first got married, Vu Nuong behaved properly, was patient, and maintained discipline, even though her husband was suspicious of his wife and overprotective, but the family never experienced discord.
When her husband went to the army, Vu Nuong filled a cup of wine and asked him loving words of love. She did not wish for glory but only prayed for her husband to return safely. Sympathy for the hardships that her husband will have to endure in battle expresses her longing and longing. Her kind words touched everyone.
When her husband was away, she gave birth alone, raising the children while also taking care of her mother-in-law when she was old and sick, taking medicine, worshiping Buddha, and giving sweet advice. Her virtue is recognized in her mother-in-law's denial. That is an objective assessment. When her mother-in-law passed away, she wholeheartedly took care of the funeral and rites like her own parents.
When the war ended, Truong Sinh returned, she should have received a happy life. However, because of my child's unintentionally innocent words, there was a misunderstanding due to excessive skepticism. Having to end my life at such a young age.
Because the husband was illiterate, jealous, and domineering in his authority, he did not confide his child's words to himself, refused to listen to the gossip, and refused to be moved by his wife's miserable attitude. "3 years difference... for me". Vu Nuong's words not only served to vindicate her, but she also tried to find ways to mend the family's happiness that was in danger of falling apart. But that was not accepted by Truong Sinh, when her neighbors defended her but Truong Sinh did not believe it. Thus, she did not even have the right to defend herself and have someone else testify against her. She was painfully disappointed and lamented: "The pleasures of having a family... even my wishes are not freely expressed."
“Painful is the fate of women
Word that silver is also a common destiny".
Through stories from many centuries ago, with his creative ability, Nguyen Du has built deeper characters, the magical details described are both shimmering and realistic, creating the unique beauty of the work. Vu Nuong is a faithful woman, with perfect virtue but extremely unhappy. The work is a denunciation of contemporary feudal social reality, highlighting the painful fate of women in family tragedy.
|
Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà
Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện đầy sâu sắc và cảm động tình cảm cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu. Đó là một tình cảm đáng trân trọng, nó sáng lên ngay cả trong khói lửa của chiến tranh bạo tàn. Nhân vật ông Sáu là một trong những nhân vật trung tâm của nhân vật, thông qua tìm hiểu nhân vật ta thấy được tình cảm sâu sắc của một người cha hết lòng yêu thương con gái.
Không chỉ là một người cha tốt, ông Sáu còn là một người công dân hết lòng vì đất nước, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, cũng như bao người yêu nước khác, ông Sáu đã tự nguyện tham gia vào đội ngũ những người lính, cầm súng chiến đấu vì sự tự do, độc lập của tổ quốc. Để thực hiện trách nhiệm với đất nước, thực hiện lí tưởng cứu dân, độc lập dân tộc đầy cao đẹp thì ông Sáu đã phải rời xa quê hương, rời xa gia đình và cô con gái nhỏ. Ông chỉ được về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.
Khi về ông Sáu mang tâm trạng bồi hồi, rạo rực bởi sắp tới đây ông sẽ được về thăm những người thân yêu, đặc biệt là Thu- cô con gái bé nhỏ mà ông hết lòng yêu thương. Từ khi bé Thu được sinh ra, ông Sáu chưa từng được gặp con, cũng chưa một lần được nâng niu, cưng nựng. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà. Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng nhảy xuống “ …nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…” đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con.
Nhìn thấy con mình vì sợ hãi mà chạy vào nhà, ông Sáu đã vô cùng đay khổ, ông thẫn thờ, khuôn mặt tối sầm lại, đôi tay thì buông thõng vô cùng đáng thương. Có lẽ, ông Sáu đã không thể ngờ được giây phút mà cha con hội ngộ lại thành ra như vậy, sự thất vọng, bất ngờ xâm chiếm khiến cho ông Sáu trở nên đáng thương.
Tâm trạng của ông Sáu trong những ngày nghỉ phép cũng rất phức tạp, vừa là niềm vui vì được về thăm gia đình, quê hương, người thân nhưng ông cũng buồn bã, đau đớn vì đứa con không chịu nhận cha. Bé Thu không những không chịu nhận cha mà còn đối xử với ông Sáu vô cùng lạnh nhạt. Ông Sáu ở nhà suốt ngày và không muốn đi đâu, ông luôn tìm cách để có thể vỗ về con. Nhưng sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu lại không thể thay đổi được thái độ lạnh nhạt của bé Thu.
Là một người cha,ông Sáu luôn cảm thấy có lỗi với con vì không thể ở bên chăm sóc khi con ra đời, ông khao khát được một lần nghe tiếng gọi “ba” của bé Thu. Trước những hành động chối bỏ, lời nói lạnh nhạt của con, ông Sáu không lỡ giận mà chỉ khe khẽ lắc đầu và cười, nụ cười ấy không phải nụ cười của hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực, cam chịu.
Dù rất yêu thương con nhưng có một lần vì quá nóng giận mà ông Sáu đã lỡ đánh bé Thu, đó là khi bé Thu dùng đũa hẩy miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu gắp cho bé, đây cũng là hành động khiến ông Sáu vô cùng hối hận, ngay cả khi hi sinh trên chiến trường ông cũng không thôi day dứt, đau khổ.
Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con.
Khi về công tác tại đơn vị kháng chiến, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn khiến chúng ta vô cùng cảm động. Ông hối hận vì một chút nóng nảy mà lỡ tay đánh con. Trước khi chia tay, ông đã hứa ngày trở về sẽ tặng bé Thu một chiếc lược ngà, có thể thấy tác giả NGuyễn Quang Sáng rất chú trọng tả những chi tiết đến chiếc lược ngà này.
Khi chiến đấu, ông vô tình kiếm được một mảnh ngà voi, khi ấy ông Sáu vui vẻ, hớn hở như một đứa trẻ vừa được cho quà, niềm vui, sự xúc động này được thể hiện trực tiếp qua chi tiết: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang chiếc lược ra để ngắm nghía, đôi lúc mài lên mái tóc để làm cho cây lược bóng hơn vì ông không muốn khi con chải tóc sẽ bị đau. Chiếc lược trở lên ý nghĩa hơn bao giờ hết, nó không chỉ đơn thuần là món quà của người cha mà đó còn là biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ của một người cha hết lòng yêu thương con.
Khi chưa kịp trao cây lược ngà cho con gái như lời hứa hẹn trước ngày lên đường thì ông Sáu đã hi sinh trên chiến trường, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình ông khôn nguôi nhớ về con. Ông dồn chút lực tàn để lấy ra cây lược mà ông luôn mang theo bên mình để đưa lại cho người bạn chiến đấy của mình. Đây là một lời trăng trối đầy thiêng liêng, đó là ước nguyện cuối cùng của người cha ấy.
Qua hình ảnh của ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng không chỉ cho chúng ta thấy tình cảm cha con thật thiêng liêng, đẹp đẽ mà nó còn cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nó làm cho gia đình li tán, con xa cha, vợ lìa chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về tình cảm gia đình, thứ tình cảm thiêng liêng mà bom đạn của kẻ thù không thể nào phá hủy được.
|
My feelings about the character Mr. Sau in The Ivory Comb
Instruct
My feelings about the character Mr. Sau in The Ivory Comb
The short story The Ivory Comb by Nguyen Quang Sang deeply and touchingly shows the sacred father-son relationship between Mr. Sau and little Thu. It is an honorable sentiment, it shines bright even in the smoke and flames of brutal war. The character of Mr. Sau is one of the central characters. Through studying the character, we can see the deep feelings of a father who wholeheartedly loves his daughter.
Not only is he a good father, Mr. Sau is also a citizen devoted to his country. During the two wars against the French and the Americans, like many other patriots, Mr. Sau voluntarily joined the team. A group of soldiers, holding guns, fighting for the freedom and independence of the country. To fulfill his responsibility to the country and realize the noble ideal of saving the people and national independence, Mr. Sau had to leave his homeland, leave his family and young daughter. He was only allowed to visit his family when he was on leave for a few days.
When he returned, Mr. Sau was in a nervous and excited mood because he would soon be able to visit his loved ones, especially Thu - his little daughter whom he loved with all his heart. Since baby Thu was born, Mr. Sau has never met her child, nor has she been cherished or pampered once. The desire to see his son again made Mr. Sau nervous all the way home. When the boat had not yet reached the dock, Mr. Sau quickly jumped in, "...shrug his feet, pushed the boat aside, walked quickly with long steps..." this was a somewhat hasty, hasty action of a father. Can't wait to meet you.
Seeing his child run into the house out of fear, Mr. Sau was extremely miserable, he was stunned, his face darkened, his hands hung down extremely pitifully. Perhaps, Mr. Sau could not have imagined that the moment when father and son reunited would turn out like that. Disappointment and surprise invaded, making Mr. Sau pitiful.
Mr. Sau's mood during his days off was also very complicated. He was both happy because he could return to visit his family, hometown, and relatives, but he was also sad and painful because his child refused to recognize his father. Baby Thu not only refused to recognize her father, but also treated Mr. Sau extremely coldly. Mr. Sau stays home all day and doesn't want to go anywhere. He always finds ways to comfort his child. But Mr. Sau's care and comfort could not change little Thu's cold attitude.
As a father, Mr. Sau always felt sorry for his child because he could not be there to take care of his child when he was born. He longed to hear baby Thu call "daddy" once. Faced with his son's actions of rejection and cold words, Mr. Sau did not get angry but just gently shook his head and smiled, that smile was not a smile of happiness but a smile of helplessness and resignation.
Although he loved his child very much, one time because he was too angry, Mr. Sau accidentally hit little Thu. That was when little Thu used chopsticks to push a piece of fish roe out of the bowl when Mr. Sau picked it up for her. This was also an action that made him angry. Sau was extremely regretful, even when he died on the battlefield, he did not stop feeling tormented and miserable.
On the day of departure, even though he saw little Thu in the corner of the house, even though he really wanted to come close and hug her and say goodbye, Mr. Sau was afraid of her fear and rejection reactions and just stood there looking at her with full eyes. anguished. When preparing to get on the boat, little Thu suddenly ran to call her father. Mr. Sau was extremely moved and hugged her, used a handkerchief to wipe her tears and lovingly kissed her hair. It can be seen that this is the first time Mr. Sau shed tears, but these are tears of happiness, tears of the love between father and son.
When he returned to work at the resistance unit, Mr. Sau's love for little Thu still touched us deeply. He regretted that he accidentally hit his child because he was a little impatient. Before parting, he promised that on his return he would give little Thu an ivory comb. It can be seen that author Nguyen Quang Sang paid great attention to describing the details of this ivory comb.
While fighting, he accidentally found a piece of ivory. At that time, Mr. Sau was happy and excited like a child who had just been given a gift. This joy and emotion were expressed directly through details: "from The trail ran deep into the forest, he hurriedly ran back, holding the ivory piece in his hand to show it to me. His face was happy like a child receiving a gift."
Every time he misses his child, Mr. Sau takes out the comb to look at it, sometimes grinding it on his hair to make the comb shinier because he doesn't want his child to get hurt when he combs his hair. The comb becomes more meaningful than ever, it is not simply a gift from the father, but it is also a symbol of love and nostalgia of a father who wholeheartedly loves his child.
Before he could give the ivory comb to his daughter as promised before the departure, Mr. Sau died on the battlefield. Until the last moment of his life, he endlessly missed his daughter. He mustered some of his remaining strength to take out the comb he always carried with him to give back to his war buddy. This is a sacred last word, it is the last wish of that father.
Through the image of Mr. Sau, Nguyen Quang Sang not only shows us the sacred and beautiful love between father and son, but it also shows the brutality of war, which separates families, separates children from their father, wife leaves husband. However, the short story is also a strong affirmation of family love, a sacred love that enemy bombs cannot destroy.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật “tôi” trong truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh
Bài làm
Tác phẩm “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh là một lời tâm sự đầy xúc động của tác giả, khi nhớ về mùa thu, nhớ về ngày khai giảng đầu tiên khi được cắp sách tới trường.
Bằng giọng văn chân thành, giản dị, nhưng hết sức hấp dẫn, thu hút người đọc nhà văn Thanh Tịnh đã đưa người đọc đi vào trong trang viết của mình với một không gian dịu dàng, nhẹ nhàng êm dịu của mùa thu. Nhân vật tôi là một nhân vật gây ấn tượng vô cùng xúc động để lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc.
Dòng cảm xúc của tác giả được trải trên từng dòng chữ qua mỗi trang viết nghẹn ngào xúc động khi nhớ về tuổi thơ về ngày đi học thần tiên đó.
Trong tâm trạng của một người trưởng thành hoài niệm về thời trẻ thơ tác giả đã viết “tôi đã lâng lâng với khung cảnh mùa thu… Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Tôi nhìn mọi thứ xung quanh mình, mọi thứ dường như đều có sự thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn, vì hôm nay tôi đi học”.
Nhân vật tôi trong truyện ngắn này cũng vậy. Em cũng như bao em bé khác nép vào sau lưng mẹ, nắm chặt lấy tay mẹ để cùng nhau khám phá thế giới xung quanh muôn màu, muôn vẻ.
Sự rụt rè, bẽn lẽn của học sinh mới ngày đầu tới trường không ai là không nhớ. Rồi trong nhận thức của mình nhân vật tôi cảm thấy hôm nay là một ngày vô cùng đặc biệt em sẽ không đi chơi cùng các bạn nữa, không chơi những trò chơi mà bình thường ngày nào em cũng cùng các bạn nô đùa, bởi hôm nay em đã đi học.
Tác giả Thanh Tịnh đã diễn tả tâm lý nhân vật vô cùng nhẹ nhàng, tinh thế thể hiện qua những lời trao đổi giữa tôi và mẹ của mình trong ngày đầu tới trường. Những ý nghĩa trẻ thơ vừa ngây ngô dễ thương, vừa khiến người đọc phì cười bởi nó rất đáng yêu
Khi nhân vật tôi lần đầu nhìn thấy ngôi trường tiểu học của mình được tác giả diễn tả rất giản dị, sinh động giàu tính biểu cảm. Thêm một sự thay đổi trong suy nghĩ của nhân vật tôi khi nhân vật đã so sánh ngôi trường của mình với một cái đình làng, rồi khi đó nhân vật tôi đã cảm thấy có chút lo lắng nhất định. Một sự lo lắng mơ hồ nhưng rất tự nhiên bình thường như bao đứa trẻ khác ngày đầu tới trường.
Hình ảnh người thầy hiền từ, khiến cho nhân vật tôi và những cậu bé học trò lần đầu đi học khác cảm thấy tự tin hơn phần nào. Rồi tiếng trống trường vang lên đánh dấu một bước ngoặt mới trong cuộc đời của những cô bé cậu bé thơ ngây thơ. Khi được mẹ đẩy lên phía trước khích lệ lòng nhân vật tôi cảm thấy tự tin hơn đôi chút rồi rụt rè bước những bước đi đầu tiên.
Truyện ngắn “Tôi đi học” thể hiện sự tài tình của tác giả Thanh Tịnh trong việc đưa người đọc tới những cảm xúc tuổi thơ vô cùng chân thực, lời văn giản dị, nhưng sâu sắc khiến cho người đọc cảm thấy như mình trở lại ngày đầu tiên đi học của chính mình.
|
Topic: My feelings about the character "I" in the short story "I go to school" by Thanh Tinh
Assignment
The work "I go to school" by writer Thanh Tinh is an emotional confession of the author, remembering the fall, remembering the first day of school when he went to school.
With a sincere, simple, but extremely attractive, reader-attracting voice, writer Thanh Tinh has brought readers into her writing with a gentle, gentle atmosphere of autumn. My character is an extremely emotional character that leaves an indelible mark in the hearts of readers.
The author's emotions are spread across each line and each page, filled with emotion as he remembers his childhood and that magical school day.
In the mood of an adult nostalgic for his childhood, the author wrote, "I was ecstatic with the autumn scenery... My mother lovingly held my hand and led me down the long and narrow village road. This road I I've been used to going there many times, but this time it suddenly felt strange. I look at everything around me, everything seems to be changing, because my heart is having a big change, because today I go to school.
My character in this short story is the same. Like many other babies, I nestled behind my mother's back, holding her hand tightly to explore the colorful and diverse world around us.
No one remembers the timidity and shyness of students on their first day of school. Then in my perception, my character feels that today is a very special day, he will not go out with his friends anymore, he will not play the games that he normally plays with his friends every day, because today is a very special day. Now I go to school.
Author Thanh Tinh has described the character's psychology extremely gently and delicately, expressed through the words exchanged between me and my mother on the first day of school. The childlike meanings are both innocent and cute, and make the reader laugh because they are so adorable
When the character I first saw his elementary school, the author described it very simply, vividly and richly in expression. There was another change in my character's thinking when he compared his school to a village communal house, and then my character felt a certain amount of anxiety. A vague but very natural worry, as normal as any other child's first day of school.
The image of a gentle teacher makes my character and the other first-time school boys feel somewhat more confident. Then the sound of the school drum rang out, marking a new turning point in the lives of the innocent little girls and boys. When my mother pushed me forward to encourage the character, I felt a little more confident and then timidly took my first steps.
The short story "I go to school" demonstrates author Thanh Tinh's ingenuity in bringing readers to extremely realistic childhood emotions. The text is simple, but profound, making the reader feel like he has become a child. Back to my first day of school.
|
Cảm nhận của em về những triết lí nhân sinh mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm qua bài thơ Nhàn
Hướng dẫn
Đề bài: Trình bày cảm nhận của em về những triết lí nhân sinh mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm qua bài thơ Nhàn
I. Dàn ý chi tiết cho đề bài cảm nhận về triết lí nhân sinh trong Nhàn
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ Nhàn: Trong số đó có bài thơ “Nhàn” là bài thơ Nôm nổi tiếng của ông
2. Thân bài
-Cuộc sống an nhàn gắn mình với thiên nhiên, tiêu diêu tự tại: cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” đối lập hẳn so với các thú vui khác
-Thái độ sống đầy bản lĩnh, chủ động với thời thế: Ông tự nhận mình là “dại” nhưng thực chất cái “dại” của ông là cái mà người ta phải ngưỡng mộ
-Cuộc sống thanh nhàn cốt giữ cho nhân cách thanh cao: Cuộc sống ở ẩn an nhàn của ông khác hẳn với lối sống hưởng thụ vinh hoa phú quý
-Thái độ cứng rắn, quyết rũ bỏ vinh hoa phú quý, công danh: Cội rễ triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành mạnh
3. Kết bài
Ý nghĩa của những triết lí nhân sinh mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm qua bài thơ: Bài thơ “Nhàn” đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
II. Bài tham khảo
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ông đã sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của lịch sử Việt Nam (Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh). Ông đã dùng những bài thơ chất triết lí và nhân tình thế thái để vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống của nhân dân vừa bảo vệ và c ngợi cho những triết lí đạo đức tốt đẹp. Trong số đó có bài thơ “Nhàn” là bài thơ Nôm nổi tiếng của ông. Bài thơ đã nêu lên quan niệm sống, triết lí nhân sinh của một bậc sĩ ẩn danh thanh cao, vượt qua tấm màn danh lợi, vinh hoa phú quý.
Đứng trên lập trường đạo đức của một nhà Nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhiều lần bộc lộ quan điểm sống của mình, suy nghĩ của ông gắn liền với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện nhân sinh quan lành mạnh giữa thời thế đảo điên. Sống “nhàn” cũng là cách xử thế quen thuộc của nhà Nho trước thực tại, muốn xa lánh chốn quan trường, tìm vui trong tâm hồn và thiên nhiên, giữ cho cốt cách thanh cao. Và cuộc sống hưởng nhàn của ông đã được hiện lên rất thú vị:
“Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên thật dân giã và bận rộn như một lão nông dân thực thụ, đó là cuộc sống hưởng thụ thanh nhàn mà cao quý của một nhà nho, cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” đối lập hẳn so với các thú vui khác, càng góp phần khẳng định ý nghĩa thanh cao trong cuộc sống đậm chất dân quê. Tác giả “thơ thẩn” là đang ung dung với cuộc sống nhàn tản, cuốc và cần câu chỉ là tô điểm cho cái thơ thẩn của nhà thơ mà thôi. Những dụng cụ lao động đó chính là hiện thân của một cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy, ông đã nhìn thấy từ trong cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, triết lí nhân sinh vững bền. Bên cạnh đó tác giả đã khẳng định được một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Những sự đối lập hay chính là đối cực trong câu thơ: giữa “ta” và “người”, giữa “nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” là những ngụ ý khẳng định thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông tự nhận mình là “dại” nhưng thực chất cái “dại” của ông là cái mà người ta phải ngưỡng mộ, mong ước, cái “dại” ấy thực chất là cái khôn hơn người. Còn khen “người khôn” lại chính là lời mỉa mai, châm biếm những người “khôn” hám công danh chốn quan trường, ông chủ động tìm nơi vắng vẻ không vướng bụi trần.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Cuộc sống ở ẩn an nhàn của ông khác hẳn với lối sống hưởng thụ vinh hoa phú quý, ông đã tận hưởng những ưu ái của thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kì thân” của nhà Nho, có nét gần gũi với triết lí “vô vi”, “thoát tục” của nhà Phật. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hòa hợp với tự nhiên bằng tất cả những tấm lòng trong sạch của mình, hình ảnh “măng, trúc, giá, sen” không chỉ mang ý nghĩa thức ăn dân giã thiên nhiên mà còn tượng trưng cho phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Mùa nào thức ấy, mùa nào sinh hoạt nấy, thuận theo tự nhiên và đắm mình trong thiên nhiên, sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được đúc kết trọn vẹn trong hai câu thơ cuối:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Tác giả mượn điển tích một cách rất tự nhiên, qua đó nói lên thái độ sống dứt khoát, quyết rũ bụi trần, đoạt tuyệt công danh phú quý. Nếu như ở các thời đại trước đó, cách sống như vậy là tiêu cực thì đến thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại rất đúng đắn và tích cực. Cội rễ triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành mạnh, tốt đẹp của nhân dân, sống đạm bạc mà thanh cao, đem lại sự thanh thản cho tâm hồn, giữ cho nhân cách không bị hoen ố, vẩn đục.
Bài thơ “Nhàn” đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ một cách rõ nét nhất nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên. Bài thơ là kinh nghiệm sống và bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.
Theo
|
My feelings about the philosophies of life that Nguyen Binh Khiem conveys through the poem Nhan
Instruct
Topic: Present your feelings about the philosophies of life that Nguyen Binh Khiem conveys through the poem Nhan
I. Detailed outline for the essay on the philosophy of life in Nhan
1. Open the lesson
Introducing author Nguyen Binh Khiem and his poem Nhan: Among them is the poem "Nhan" which is his famous Nom poem
2. Body of the article
-A leisurely life connected to nature, freely spending: the life of "fishing, fishing, farming, farming" is completely opposite to other pleasures
-A brave and proactive attitude towards life: He calls himself "foolish" but in fact his "foolishness" is something that people have to admire.
-A leisurely life maintains a noble personality: His life of leisure and seclusion is completely different from the lifestyle of enjoying wealth and prosperity.
-Tough attitude, determined to abandon glory, wealth, and fame: The roots of Nguyen Binh Khiem's philosophy of life are associated with the concept of healthy living
3. Conclusion
The meaning of the philosophies of life that Nguyen Binh Khiem conveys through the poem: The poem "Nhan" covers the entire philosophy, emotions and wisdom of Nguyen Binh Khiem.
II. Reference article
Nguyen Binh Khiem (1491 - 1585), he lived nearly an entire century of turmoil in Vietnamese history (Le - Mac declared heroes, Trinh - Nguyen divided). He used philosophical and humane poems to both expose the dark forces that upset people's lives while also protecting and praising good moral philosophies. Among them is the poem "Nhan" which is his famous Nom poem. The poem raises the concept of life and philosophy of life of an anonymous noble scholar, overcoming the veil of fame, fortune, and wealth.
Standing on the moral stance of a Confucian, Nguyen Binh Khiem has repeatedly expressed his views on life, his thoughts are closely linked to the moral concepts of the people, demonstrating a healthy outlook on life in the midst of times. crazy. Living "leisurely" is also a familiar way of Confucianism in dealing with reality, wanting to stay away from officialdom, find joy in the soul and nature, and maintain a noble character. And his leisurely life was shown very interestingly:
“One day, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is."
Nguyen Binh Khiem appears very rustic and busy like a real old farmer, that is the leisurely and noble life of a Confucian scholar, the life of "fishing, farming, farming, farming" is completely opposite to that of a Confucian. along with other pleasures, further contributing to affirming the noble meaning of rural life. The "lounging" author is leisurely living a leisurely life, the hoe and fishing rod are just decorations for the poet's lounging. Those working tools are the embodiment of a life free from worldly worries. He saw that the people's lives contained noble beauty and sustainable human philosophy. Besides, the author has affirmed a different and brave attitude to life:
"I am stupid, I am looking for a peaceful place
Nguoi khon nguoi den chon lao xao"
The oppositions or polarities in the poem: between "me" and "you", between "deserted place" and "troubling place" are implications that affirm Nguyen Binh Khiem's attitude to life. He calls himself "foolish" but in fact his "foolishness" is what people must admire and wish for, that "foolishness" is actually what is wiser than others. Also praising "smart people" is an ironic and satirical remark about "smart" people who are greedy for fame and fortune in official positions. He actively sought out a secluded place free from worldly dust.
“In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts
Spring bathing in lotus ponds, summer bathing in ponds.
His life in seclusion and comfort was completely different from the lifestyle of enjoying wealth and prosperity. He enjoyed the blessings of generous nature with a heart in harmony with nature. That life bears the mark of escape from worldly life, typical of the Confucian concept of "nothing good, no body", close to the philosophy of "no action" and "separation from worldliness" of Buddhism. Nguyen Binh Khiem has been in harmony with nature with all his pure heart, the image of "bamboo shoots, bamboo shoots, bean sprouts, lotus" not only means natural folk food but also symbolizes the quality of purity. the dignity of a gentleman, living without shame in his heart. Whatever season you wake up, whatever season you do, follow nature and immerse yourself in nature, living according to your natural conscience. Nguyen Binh Khiem's concept of "Nhan" is completely summarized in the last two verses:
“The wine comes to the tree and I will drink it
Look at wealth like a dream.”
The author borrows from classic stories very naturally, thereby expressing his decisive attitude towards life, determination to shake off the dust, and win great fame and wealth. If in previous eras, this way of life was negative, then in Nguyen Binh Khiem's time it was very correct and positive. The roots of Nguyen Binh Khiem's philosophy of life are associated with the people's concept of living a healthy and good life, living frugally but noblely, bringing peace to the soul, keeping the personality from being tarnished, cloudy.
The poem "Nhan" covers the entire philosophy, emotions and wisdom of Nguyen Binh Khiem, revealing most clearly the personality of the great hermit seeking to return to nature. The poem is the life experience and toughness of a true person.
According to
|
Đề bài: Cảm nhận của em về sự tích Bánh chưng bánh giày
Bài làm
Trong truyện cổ dân gian, sự xuất hiện của Thần, Tiên, Bụt, Phật… đã tạo nên yếu tố hoang đường, kì ảo. Những nhân vật siêu nhiên ấy nhằm giúp đỡ, độ trì người nghèo, bênh vực kẻ yếu, ban phép lạ cho người tốt, và trừng phạt những kẻ xấu xa, gian ác. Truyện cổ Sự tích bánh chưng bánh giày cũng có hai nhân vật Thần. Thần xuất hiện trong giấc mộng, mách bảo Lang Liêu làm bánh đề 1ễ Tiên Vương. Nói rằng: Nhờ có Thần mách bảo mà Lang Liêu mới được nối ngôi vua tuy đúng, nhưng chưa thật đầy đủ. Đó là vì ý kiến ấy chưa đề cập đến yếu tố con người, vai trò con người. Đó là Lang Liêu và nhà vua.
Lang Liêu là một ông hoàng chỉ chăm lo việc đồng áng trồng lúa, trồng khoai…. Đó là một ông hoàng giàu lòng nhân đức, rất cần cù, sống gần dân, biết trọng nghề nông là nghề căn bản của dân tộc. Ỏng mồ côi mẹ, vì thế mà trở thành một ông hoàng bị "lép vế" trong hoàng tộc nên mới được Thần hiến kế và độ trì. Chuyện kể Lang Liêu gặp Thần trong giấc mộng, có nghĩa là Lang Liêu được lòng dân, bởi lẽ: Thần bảo như nhân bảo.
Lang Liêu là một con người rất sáng tạo. Thần chỉ nói về giá trị của gạo, và mách bảo Lang Liêu nên lấy gạo để làm bánh, chứ không chỉ vẽ cách thức cụ thể làm bánh ra sao — Thế nhưng Lang Liêu đã biết lấỵ gạo nếp đem vo sạch, lấy đỗ đãi và thịt lợn làm nhân, lấy lá giong gói thành bánh hình vuông đem nấu chín; biết đồ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Lang Liêu đã sử dụng chất liệu sẵn có của nhà nông, của quê hương xứ sở, sáng tạo thành hai thứ bánh rất ngon. Anh rất xứng đáng nhận mọi phần thưởng cao quý.
Bánh của Lang Liêu sáng tạo nên không chỉ ngon mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa, tốt đẹp. Bánh giày tượng Trời; bánh chưng tượng Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá giong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài. Có thể nói đó là sự hoà hợp giữa con người với đất trời, thiên nhiên tạo vật. Lá giong bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Vua Hùng qua chiếc bánh chưng xanh gói bằng lá giong mà nêu cao bài học thương yêu, đoàn kết. Nhà vua ngầm nhắc các hoàng tử và quần thần bài học giữ nước. Bánh chưng bánh giày với biểu tượng cao quý ấy đã thể hiện cái tâm và cái tài, nhất là lòng trung hiếu của Lang Liêu. Lang Liêu đã làm vừa ý vua cha, biết nối chí vua cha, xứng đáng dược vua Hùng truyền ngôi báu, có Tiên Vương chứng giám.
Truyện cổ tích này đã giải thích nguồn gốc và tính nhân văn của bánh chưng, bánh giầy. Truyện đã biểu lộ niềm tự hào về một nét tuyệt đẹp: hương vị của đất nước ta rất phong phú, hương vị Tết cổ truyền dân tộc rất dậm đà. Đó chính là bản sắc tốt đẹp của nền văn hiến Việt Nam.
Sâu xa hơn nữa, Sự tích bánh chưng, bánh giày còn thể hiện ý thức lấy nước, lấy dân làm gốc, coi trọng nghề nông, quý hạt gạo, biết ơn tổ tiên, kính Trời, Đất với tất cả tấm lòng hồn hậu, chân thành của con người Việt Nam chúng ta.
|
Topic: My feelings about the legend of Banh Chung Banh Giay
Assignment
In folk tales, the appearance of Gods, Fairies, Buddhas, etc. has created mythical and magical elements. These supernatural characters aim to help and save the poor, defend the weak, give miracles to good people, and punish evil and wicked people. The fairy tale The Legend of Banh Chung and Banh Giay also has two God characters. The god appeared in a dream and told Lang Lieu to make banh toi for Tien Vuong. It is true, but not complete, that it was said that Lang Lieu was able to succeed the throne thanks to the gods. That's because that opinion does not mention human factors and human roles. That is Lang Lieu and the king.
Lang Lieu is a prince who only takes care of the rice and potato fields... He was a prince rich in virtue, very industrious, lived close to the people, and knew that farming was the basic profession of the nation. He lost his mother, so he became an "outcast" prince in the royal family, so he was given advice and support by God. The story tells that Lang Lieu met the God in a dream, which means that Lang Lieu is popular with the people, because: God protects like people.
Lang Lieu is a very creative person. God only talked about the value of rice, and told Lang Lieu that he should use rice to make cakes, not just describe the specific way to make cakes - However, Lang Lieu knew how to take sticky rice, wash it clean, and serve it as a treat. and pork as filling, take giong leaves, wrap into square cakes and cook; know how to prepare sticky rice, pound it, and shape it into a round shape. Lang Lieu used available materials from farmers and his homeland to create two delicious cakes. He is very deserving of all noble awards.
The cakes created by Lang Lieu are not only delicious but also have many profound and good meanings. Bread and shoes statue of Heaven; Chung cake of Earth statue. Fatty meat, green beans, and giong leaves represent statues of animals and plants of all kinds. It can be said that it is the harmony between humans, heaven and earth, and nature and creation. The giong leaves wrapped on the outside and the delicious food on the inside mean they care for each other. King Hung through green banh chung wrapped in giong leaves to highlight the lesson of love and solidarity. The king implicitly reminded the princes and courtiers the lesson of protecting the country. Banh chung and banh day with that noble symbol shows Lang Lieu's heart and talent, especially his loyalty. Lang Lieu satisfied his father's wishes, knew how to follow his father's will, and was worthy of being given the throne by King Hung, with the Immortal Vuong as witness.
This fairy tale explains the origin and humanity of Banh Chung and Banh Giay. The story shows pride in a beautiful feature: the flavor of our country is very rich, the flavor of the traditional national Tet is very strong. That is the good identity of Vietnamese civilization.
More deeply, the legend of Banh Chung and Banh Giay also shows the awareness of taking water, taking people as the root, valuing agriculture, cherishing rice grains, being grateful to ancestors, respecting Heaven and Earth with all kind hearts. , the sincerity of our Vietnamese people.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về truyện Cô bé bán diêm của Andécxen
Bài làm
An-đec-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Nô-en lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối hẳn" mà "tuyết rơi" không ngừng, và "rét đữ dội". Khác thường là vì: "Đêm nay là đêm giao thừa" nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó "một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối". Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì "nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào" thì "em không thể nào về nhà", bởi lẽ khi đó "nhất định là cha em sẽ đánh em". Bởi vì từ khi "Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa". Hơn nữa "ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà". Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. "Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả". Vì thế "suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường". Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: "bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý" và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. "Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít", Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay". Mùi ngỗng quay nhắc em "đêm nay là đêm giao thừa". Mùi ngổng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. "Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn". "Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp "đã cứng đờ ra". Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để "hơ ngón tay". Và "em đánh liều một que". Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. "Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang "tỏa ra một hơi nóng dịu dàng". Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ "em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". "Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm". Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai "cháy và sáng rực lên". Que diêm cho em thấỵ: "bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm". Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại "những bức tường dày đặc và lạnh lẽo". Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, "em bé quẹt que diêm thứ ba". "Em thấy hiện ra một cây thông Nôen", "cây này lớn và trang trí lộng lẫy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rõ"… Cây thông Nôen gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nóen cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn dang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nôen cũng "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, "người hiền hậu độc nhất đối với em" thường nói: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. "Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em", "em reo lên" và van xin bà "cho cháu đi với", "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy "chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em". Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em "Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại". Kết quả là "Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa".
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang sống cũng không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm'. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sông ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về truyện Cô bé bán diêm của Andécxen
Bài làm
An-đec-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Nô-en lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối hẳn" mà "tuyết rơi" không ngừng, và "rét đữ dội". Khác thường là vì: "Đêm nay là đêm giao thừa" nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó "một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối". Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì "nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào" thì "em không thể nào về nhà", bởi lẽ khi đó "nhất định là cha em sẽ đánh em". Bởi vì từ khi "Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa". Hơn nữa "ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà". Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. "Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả". Vì thế "suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường". Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: "bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý" và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. "Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít", Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay". Mùi ngỗng quay nhắc em "đêm nay là đêm giao thừa". Mùi ngổng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. "Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn". "Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp "đã cứng đờ ra". Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để "hơ ngón tay". Và "em đánh liều một que". Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. "Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang "tỏa ra một hơi nóng dịu dàng". Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ "em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". "Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm". Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai "cháy và sáng rực lên". Que diêm cho em thấỵ: "bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm". Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại "những bức tường dày đặc và lạnh lẽo". Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, "em bé quẹt que diêm thứ ba". "Em thấy hiện ra một cây thông Nôen", "cây này lớn và trang trí lộng lẫy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rõ"… Cây thông Nôen gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nóen cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn dang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nôen cũng "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, "người hiền hậu độc nhất đối với em" thường nói: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. "Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em", "em reo lên" và van xin bà "cho cháu đi với", "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy "chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em". Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em "Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại". Kết quả là "Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa".
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang sống cũng không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm'. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sông ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen.
|
Cảm nhận của em về truyện Thánh Gióng.
Hướng dẫn
Bằng lòng yêu nước và tâm hồn sáng tạo của mình, nhân dân ta đã sáng tạo lên truyện Thánh Gióng. Câu truyện về lòng dũng cảm, đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù.
Đất nước Văn Lang thân yêu bị giặc Ân xâm lăng. Quân giặc rất mạnh, làng xóm ta bị giặc đột phá, nhân dân ta bị giặc tàn sát dã man. Nhà vua kêu gọi bậc hiền tài ra đánh giặc cứu nước. Mới lên ba tuổi, Gióng đã đứng lên ứng nghĩa, đáp lại lời kêu gọi của non sông. tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói yêu nước, nêu cao khí phách anh hùng, quyết tâm đánh giặc, đền ơn vua, trả nợ nước. Một tiếng nói vang dội núi sông đến muôn đời: “ Nhà ngươi hãy về tâu với Đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt, một áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này” Sau khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, áo mới may mặc đã chật. Nhà mẹ Gióng lại rất nghèo. Cả làng thương Gióng, bà con đêm cơm gạo, lụa vải đến để nuôi Gióng. Tình tiết ấy nói lên rằng, khi Tổ quốc lâm nguy, nhân dân ta đã biết đoàn kết một lòng, đem nhân tài, vật lực ra đánh giặc cứu nước.
Khi đã nhận được ngựa, Gióng cưỡi ngữa lao ra chiến trường, Gióng thúc ngựa sắt xông vào lũ giặc. Ngựa sắt phun lửa. gióng vung roi sắt đánh cho giặc Ân tơi bời, kinh hồn bạt vía.
Nhân dân đã xây dựng lên một hình ảnh người con trai làng Gióng xông pha giữa rừng tên mũi giáo của giặc Ân, lúc thì vung roi sắt đánh giặc, lúc thì nhổ tre quật giặc đã thể hiện tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí vô song và sức mạnh vô địch của người anh hùng dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Sau khi đánh tan giặc quân giặc, đất nước được yên bình, Gióng đã hoàn thành xong sứ mệnh của mình, chàng trai đã không ở lại để hưởng vinh hoa phú quý mà cùng ngựa sắt bay về trời. Để tưởng nhớ công lao của Gióng, Vua đã ra lệnh lập đền thờ, truy phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Gióng được nhân dân gọi với cái tên Thánh Gióng đã trở thành một người anh hùng bất tử, được nhân dân ta đời đời ngưỡng mộ và biết ơn.
Truyện Thánh Gióng mãi mãi là bài ca yêu nước, thể hiện sức mạnh quật khởi của dân tộc ta. Đây là một lời nhắc nhở của cha ông với con cháu về truyền thống đấu tranh chống lại kẻ thù của dân tộc, là lời nhắn nhủ thế hệ đi sau phải làm gì để xứng đáng với những gì cha ông đã hi sinh để dành lại cho chúng ta.
Truyện Thánh Gióng thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh chống lại kẻ thù của dân tộc. Câu truyện còn có ý nghĩa như một lời răn dạy con cháu phải ghi nhớ công ơn của cha ông, xây dựng và bảo vệ tổ quốc tươi đẹp này.
|
My thoughts on the story of Thanh Giong.
Instruct
With their patriotism and creative soul, our people created the story of Saint Giong. A story about courage and solidarity to fight against enemies.
The beloved country of Van Lang was invaded by the An enemy. The enemy army was very strong, our villages were broken through by the enemy, and our people were brutally massacred by the enemy. The king called on talented people to fight the enemy to save the country. At just three years old, Giong stood up and responded to the call of the country. Giong's first voice was the voice of patriotism, upholding heroic spirit, determination to fight the enemy, repay the king's gratitude, and repay the country's debt. A voice echoed throughout the mountains and rivers forever: "Go back and tell the King to cast me an iron horse, an iron whip, an iron armor, and I will defeat these invaders." After meeting the envoy. Giong grew up as fast as he could, no matter how much he ate, he was not satisfied, and his new clothes were already tight. Giong's mother's family is very poor. The whole village loved Giong, people came every night with rice and silk to feed Giong. That episode shows that, when the Fatherland was in danger, our people knew how to unite as one, using their talents and material resources to fight the enemy to save the country.
Once he received the horse, Giong rode the horse to the battlefield. Giong spurred the iron horse to charge at the enemy. Iron horse breathes fire. He waved his iron whip and beat the An enemy to a pulp, leaving them terrified.
The people have built up an image of a boy from Giong village rushing through the forest of arrows and spears of the An enemy, sometimes swinging iron whips to fight the enemy, sometimes pulling up bamboo to fight the enemy, demonstrating his brave and cunning fighting spirit. The unparalleled wisdom and invincible strength of the national hero in the early days of building and defending the country.
After defeating the enemy and the country was at peace, Giong completed his mission. The young man did not stay to enjoy the glory and wealth, but flew with the iron horse to heaven. To commemorate Giong's merits, the King ordered the establishment of a temple and posthumously awarded Giong the title of Phu Dong Thien Vuong. Giong, known by the people as Saint Giong, has become an immortal hero, eternally admired and grateful by our people.
The story of Saint Giong will forever be a patriotic song, expressing the rising strength of our nation. This is a reminder from ancestors to their descendants about the tradition of fighting against the nation's enemies, a message to the next generation on what they must do to deserve what their ancestors sacrificed to regain. for us.
The story of Saint Giong shows the spirit of patriotism and the will to fight against the enemies of the nation. The story also serves as a warning to children and grandchildren to remember the merits of their ancestors, to build and protect this beautiful country.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội
Bài làm
Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng mạn, là người chắp viên gạch nối thơ cổ đại với thơ hiện đại. Trong chất lãng mạn đó ẩn chứa tư tưởng, tình cảm và tấm lòng yêu nước sâu sắc của ông. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội là một ví dụ tiêu biểu. Như ta đã biết, xã hội ông đang sống quá coi trọng đồng tiền và địa vị. Tài năng, sức lao động, tình cảm sâu đậm không đem lại hạnh phúc cho con người. Bao trùm bên trong là nỗi buồn về thực tại. Tản Đà đã bật lên một lời gọi, lời nhắn gửi chị Hằng – người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết. Giọng điệu thân thiết pha chút mỉa mai bởi cuộc đời ngột ngạt, bon chen vì công danh dang dở: Tài cao, phận thấp, chí khí uất. Là thi sĩ nên nỗi buồn đã kết thành nỗi sầu. Đây là thái độ không chấp nhận thực tại, bất hoà thực tại, bất hoà với trần thế.
Ông khát khao một cuộc sống đẹp hơn, vượt lên trên cái thấp hèn:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Đó là thế giới mà ông mơ ưởc, là cõi đời trong sáng, tinh khiết, không vướng bận, không lo lắng, bon chen. Hai câu thơ là câu hỏi, là lời đề nghị, là lời cầu xin được lên cung trăng, nơi thanh cao, không phải chịu cảnh đời trần thế nhố nhăng tù hãm. Nỗi sầu của Tản Đà là nỗi sầu cùa người nô lệ. Bất lực trước thực tại, Tản Đà muôn lẩn trốn vào thiên nhiên bằng mộng tưởng:
Có bầu có bạn, can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nồi buồn – ông đã vui, đã cười – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sông thần tiên thoát tục.
Hai câu thơ cuối thật độc đáo và lãng mạn:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Rằm tháng tám là khi trăng trong nhất, đẹp nhất và cũng là sáng nhất. Vào lúc tuyệt vời nhất của trăng ấy, nhân vật trữ tình ước muốn cùng chị Hằng; ngồi bên chị Hằng tựa vào nhau mà nhìn xuống trần thế để cười.
Câu thơ là đỉnh cao của cái ngông rất phù hợp với tính chất Tản Đà. Ngồi bên cạnh người đẹp, đó đã là một niềm hạnh phúc. Hơn thế nữa thi sĩ còn tự đặt mình lên một địa vị cao để mà cười cợt. Cái ngông này thật hiếm có, đáng yêu, đáng trân trọng ở trong giai đoạn này. Các thi sĩ lãng mạn yêu nước nhưng không đủ dũng khí để chiến đấu – thường tìm đến thiên nhiên hoặc trốn vào mộng tưởng để trốn đời.
Cả bài thơ là giấc mộng kì thú, là niềm khao khát về cuộc đời đẹp, về một cõi mơ trong sáng, không vướng bận sự đời. Tóm lại, tâm trạng bao trùm cả bài thơ là tâm trạng buồn chán thất vọng với cuộc đời. Đó là thái độ không dung hoà với thực tại, là sự phản kháng gián tiếp với cuộc đời. Thi sĩ khát khao một xã hội tự do, tươi đẹp và trong sạch. Hình ảnh chị Hằng với cung quế, cây đa – là những hình ảnh của cõi tiên đầy lãng mạn. Cõi tiên ấy là cả một thế giới mà Tản Đà mong muốn có. Thực ra, sự chán chường và niềm khát khao ấy xuất phát từ lòng yêu nước thầm kín của Tản Đà – nỗi buồn xuất phát từ nỗi nhục của người nô lệ và ước muốn xuất phát từ khát vọng được tự do.
|
Topic: My feelings about Tan Da's mood through the poem Want to be Cuoi
Assignment
People talk about Tan Da with many deep impressions: he is the poet who started romantic poetry, the one who put the brick together between ancient poetry and modern poetry. In that romance lies his thoughts, feelings and deep patriotism. The poem Want to be Cuoi is a typical example. As we know, the society he lives in places too much importance on money and status. Talent, labor, and deep emotions do not bring happiness to people. Covered inside is sadness about reality. Tan Da posted a call and message to Ms. Hang - the eternal friend of lonely people:
The autumn night is so sad, Ms. Hang!
I'm half bored with this world.
The beginning of the poem is a lament, a deep sadness. The friendly tone is mixed with a bit of irony because of the stuffy life, jostling for unfinished fame: High talent, low destiny, frustrated spirit. As a poet, sadness has turned into sadness. This is an attitude of not accepting reality, of discord with reality, of discord with the world.
He longed for a more beautiful life, beyond the lowly:
Who is sitting there in Cung Cinnamon?
Her most exalted spike please play.
That was the world he dreamed of, a pure, clear world without entanglements, worries, or hustle and bustle. The two verses are a question, a request, a prayer to go to the moon, a noble place, not subject to the humiliating imprisonment of earthly life. Tan Da's sadness is the sadness of a slave. Helpless before reality, Tan Da wanted to escape into nature with dreams:
If you're pregnant and have friends, why bother?
Being with the wind and the clouds is fun
The poet went to the royal palace to have friends and friends, so he could forget his boredom and boredom and relieve his sadness - he was happy, he laughed - he laughed at all the struggles and nonsense in the world, he laughed happily when seeing that no one in this world can be like him, enjoying a magical life away from the world.
The last two verses are unique and romantic:
Then every year on the full moon day of August
Leaning against each other, looking down at the smiling world.
The full moon in August is when the moon is the clearest, most beautiful and also the brightest. At the most wonderful moment of that moon, the lyrical character wishes to be with Ms. Hang; Sitting next to Ms. Hang, leaning against each other and looking down at the world to laugh.
The poem is the pinnacle of arrogance, very suitable for Tan Da's nature. Sitting next to a beauty is a happiness. Moreover, the poet also puts himself on a high position to laugh at. This goose is rare, lovely, and worthy of respect in this period. Romantic poets are patriotic but do not have the courage to fight - often looking to nature or hiding in dreams to escape life.
The whole poem is a wonderful dream, a longing for a beautiful life, for a pure dreamland, free from life's troubles. In short, the mood that pervades the entire poem is a mood of boredom and disappointment with life. That is an attitude that is incompatible with reality, an indirect resistance to life. The poet longs for a free, beautiful and clean society. The image of Ms. Hang with her cinnamon bow and banyan tree - are images of a romantic fairyland. That fairyland is the whole world that Tan Da wishes to have. In fact, that boredom and longing come from Tan Da's secret patriotism - sadness comes from the humiliation of being a slave and desire comes from the desire to be free.
|
Cảm nhận của em về tình mẹ.
Bài làm
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”
Có lẽ ai trong số chúng ta cũng dành một tình cảm đặc biệt dành cho mẹ. Người sinh thành và nuôi dưỡng trong suốt cuộc đời. Mẹ đã tần tảo sớm hôm, hi sinh và làm thật vất vả chỉ ước mong cho con có thể được một cuộc sống bình an. Tình mẹ không thể dùng hết ngôn ngữ để diễn tả được. Tình mẹ – một thứ tình thật thiêng liêng và cao đẹp.
Tình mẹ là thứ tình cảm thật gần gũi và giản dị giữa mẹ và con. Đó là tình mẫu tử thật đẹp, bởi lẽ mẹ có thể hi sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta có một cuộc đời bình an.
Ngày chúng ta chào đời, chắc hẳn mẹ sẽ rất hạnh phúc. Mẹ mang nặng con hơn chín tháng, mẹ lo lắng, chăm sóc chúng ta bằng nguồn thức ăn tốt nhất, chỉ mong trong bụng con sẽ không sao. Những ngày đó chắc hẳn mẹ rất mệt và vất vả trong chuyện đi lại. Nhưng mẹ sẽ không bao giờ kể, mà chỉ khi nào lớn lên khi lập gia đình rồi ta mới cảm nhận hết được.Những ngày chào đời, mẹ có thể thức cả đêm để chăm cho ta giấc ngủ bình yên. Những lúc khóc dạ đề, chắc mẹ đã vất vả lắm khi mà chăm sóc cho ta. Rồi cả lúc ốm đau, mẹ khóc và lo lắng không biết chúng ta có vượt qua những cơn đau ốm đó không. Thời gian trôi nhanh, ta bước vào lớp 1 mẹ là người mua sách vở và đưa ta đến trường. Tôi sao có thể quên được hình ảnh người mẹ trong “Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Bởi đó là lúc ta rời ra vòng tay mẹ để bước vào một hành trình mới – Hành trình học tập. Mỗi mùa thi đến, cho tới những mùa chia tay các cấp, mẹ vẫn ở đó chăm sóc và đồng hành cùng ta. Mỗi đêm ta thức khuya học bài mẹ lại lo lắng, hay lúc ta không nghe theo lời mẹ, mẹ buồn phiền và suy nghĩ.
Ngày mà chúng ta rời xa mẹ để bước vào cuộc sống lập nghiệp hoặc đi học xa, mẹ vẫn lại tần tảo kiếm tiền chăm lo cho ta, chờ đợi ta về. Có những người mẹ phải làm nhiều công việc vất vả để có được tiền cho con đi học. Gánh nặng đè lên đôi vai mẹ ngày càng nặng nhưng mẹ vẫn không than phiền. Chị tôi đi học xa, mỗi lần về mẹ rất hạnh phúc. Tôi hiểu rằng chỉ nhìn thấy chị thôi thì bao nhiêu gánh nặng cuộc đời mẹ sẽ tan biến.
Những người mẹ có con gái, chắc mẹ sẽ rất nhớ nhung khi một ngày nào đó ta rời xa vòng tay của mẹ và đi lấy chồng. Mẹ vẫn ở đó – chờ đợi và mong ta hạnh phúc. Cả một hành trình trong cuộc đời, được làm mẹ là một điều hạnh phúc. Tình mẹ thật thiêng liêng và cao quý. Tình mẹ bát ngát biển trời. Ngôn ngữ nhiều đến vậy thế mà sao đong đầy được hai chữ “mẹ yêu”. Chính vì vậy, những ai còn mẹ, thì xin đừng làm mẹ khóc. Vì đơn giản, cuộc đời này ngắn lắm, đi hết trọn kiếp người, thời gian được ở bên mẹ đâu là nhiều.
Tình mẹ – ấm áp và bình an. Điều cuối cùng mà tôi muốn nhắn nhủ đến tất cả chúng ta – những ai còn mẹ rằng: “Có mẹ là điều tuyệt vời nhất trên đời của con”
|
My feelings about mother's love.
Assignment
"Go into all the world no one as good as her
No one suffers the burden of life more than my father."
Perhaps all of us have a special affection for our mothers. People are born and nurtured throughout life. Mom worked hard every day, sacrificed and worked hard just hoping for her child to have a peaceful life. Mother's love cannot be expressed in words. Mother's love - a truly sacred and beautiful love.
Mother's love is a very close and simple feeling between mother and child. That is a beautiful motherly love, because a mother can sacrifice everything, including her life, so that we can have a peaceful life.
The day we were born, mom would certainly be very happy. Mom carried the baby for more than nine months, she worried, took care of us with the best food, and only hoped that the baby in her belly would be okay. During those days, my mother must have been very tired and had difficulty walking. But my mother will never tell me, but only when I grow up and get married will I fully feel it. The days I was born, my mother could stay up all night to take care of my peaceful sleep. During those crying moments, my mother must have had a hard time taking care of me. And when we get sick, our mothers cry and worry about whether we will get through those illnesses. Time passes quickly, I enter first grade, my mother is the one who buys books and takes me to school. How can I forget the image of the mother in "I go to school" by Thanh Tinh. Because that's when we leave our mother's arms to enter a new journey - the journey of learning. Every exam season comes, until the seasons of farewell at all levels, my mother is still there to take care of me and accompany me. Every night we stay up late studying, my mother worries, or when we don't listen to her, she gets sad and thinks.
The day we leave our mother to start a career or go to school far away, she still works hard to earn money to take care of us, waiting for us to return. There are mothers who have to work hard to get money to send their children to school. The burden on her mother's shoulders is getting heavier but she still doesn't complain. My sister goes away to school, and every time she comes home, her mother is very happy. I understand that just seeing you will make many of the burdens of my mother's life disappear.
Mothers who have daughters, surely they will miss them very much when one day they leave their mother's arms and get married. Mom is still there - waiting and wishing us happiness. Throughout life's journey, being a mother is a happy thing. Mother's love is sacred and noble. A mother's love spans the ocean and sky. There are so many languages, but how can they contain the words "my dear mother?" That's why, those who still have mothers, please don't make them cry. Because simply, this life is very short, after a lifetime has passed, there is not much time spent with your mother.
Mother's love - warm and peaceful. The last thing I want to say to all of us - those who still have mothers is: "Having a mother is the most wonderful thing in my life."
|
Cảm nhận của em về tình yêu của cậu bé Hồng dành cho mẹ trong đoạn trích Trong lòng mẹ
Bài làm
Tình cảm mẹ con luôn là tình cảm thiêng liêng và cao đẹp mà ở đó, người mẹ dành sự quan tâm, hi sinh vì con cái và ngược lại, những đứa con cũng dành cho mẹ mình tình cảm yêu thương và tôn trọng. Đoạn trích “Trong lòng mẹ” của tác giả Nguyên Hồng đã thể hiện rõ tình yêu thương cháy bỏng của cậu bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh qua nhiều cung bậc cảm xúc hết sức tinh tế.
Hồng là một cậu bé có số phận bất hạnh. Là kết quả của một cuộc hôn nhân không tình yêu, Hồng sớm trải qua những cay đắng, bất hạnh thời thơ ấu. Người bố qua đời vì nghiệp ngập, người mẹ phải rời bỏ quê hương, gia đình, con cái để tha hương cầu thực. Từ đó Hồng sống trong cảnh ghẻ lạnh, khinh miệt của họ hàng.
Tuy luôn sống trong khổ đau, nhưng trái tim của cậu bé vẫn dành tình yêu thương cho mẹ mình một cách đằm thắm trọn vẹn. Trước những lời nói cay nghiệt của cô ruột, Hồng vẫn không hề lung lay mà vẫn luôn lưu lại những kí ức tốt đẹp nhất và luôn bảo vệ mẹ mình từ trong suy nghĩ. Mặc dù gần một năm, cậu bé không hề nhận được bức thư nào từ mẹ và những gì mà cậu biết chỉ là sự mơ hồ do người ta đồn đại, thậm chí bà cô còn không ngừng gieo vào tâm hồn thơ ngây của em “những hoài nghi” để “khinh miệt và ruồng rẫy mẹ” nhưng cậu bé vẫn một lòng thương yêu và bảo vệ mẹ: “Nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm bẩn xâm phạm đến”.
Trong cuộc nói chuyện với bà cô, những vết thương lầm thầm kín trong lòng cậu bé lại thêm trở nên đau đớn hơn. Những lời nói đó khiến cậu bé đau khổ vì cậu bé nhận ra những “ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch” của người cô, đó là những lời nói thiếu tôn trọng và xúc phạm đến mẹ cậu. Sau mỗi lời nói cay nghiệt, lòng cậu bé càng “thắt lại”, khóe mắt “cay cay”, rồi nước mắt “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa và ở cổ. Cậu bé buồn không phải vì mẹ mình chưa đoạn tang mà có con với người khác, mà bởi vì cậu bé sợ điều này sẽ làm tổn thương mẹ mình, sợ những thành kiến tàn ác làm tổn thương mẹ. Tình yêu thương mẹ còn hóa thành những suy nghĩ mạnh mẽ và dứt khoát, muốn hết lòng bảo vệ mẹ: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Sự phản kháng trong suy nghĩ của một cậu bé vốn ngây thơ cho thấy tình yêu đối với người mẹ đã giúp cậu vượt qua mọi đắng cay của tuổi thơ bất hạnh.
Tình yêu thương của cậu bé còn được thể hiện qua cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con. Sau khi tan học, cậu bé đã nhận ra bóng hình quen thuộc của người mẹ từ xa. Nỗi niềm khao khát gặp lại mẹ của cậu bé hệt như mong muốn bắt gặp một dòng suối của người bộ hành giữa sa mạc khô cằn. Tác giả đã miêu tả cụ thể từng chi tiết lúc hai mẹ con gặp lại nhau sau một năm ròng xa cách với từng cử chỉ, hành động ấm áp tình mẹ con. Cậu bé òa lên khóc nức nở, còn người mẹ “lấy vạt áo nâu thấm nước mắt” cho con rồi bế lên xe. Với tầm hồn ngây thơ và giàu tình yêu thương đối với mẹ, Hồng đã không giấu nổi niềm hạnh phúc tột cùng khi được mẹ ôm ấp, chở che: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Niềm vui, niềm hạnh phúc đó không những xóa tan mọi tủi hờn và còn đập tan mọi lời nói cay nghiệt từng làm tổn thương cậu bé của người cô. Câu chuyện đầy xúc động đã thể hiện rõ tấm lòng thương yêu mẹ của cậu bé Hồng.
|
My feelings about little Hong's love for his mother in the excerpt In Mother's Heart
Assignment
The mother-child relationship is always a sacred and beautiful feeling in which the mother cares and sacrifices for her children and vice versa, the children also give their mother love and respect. The excerpt "In my mother's womb" by author Nguyen Hong clearly shows the burning love of the boy Hong for his unfortunate mother through many very subtle emotional levels.
Hong is a boy with an unfortunate fate. As a result of a loveless marriage, Hong soon experienced bitterness and unhappiness in her childhood. The father passed away due to poverty, the mother had to leave her homeland, family, and children to go abroad to seek food. Since then, Hong has lived in estrangement and contempt from relatives.
Even though he always lived in suffering, the boy's heart still loved his mother completely. Faced with her aunt's harsh words, Hong remained unfazed but always kept the best memories and always protected her mother in her thoughts. Even though for nearly a year, the boy had not received any letters from his mother and what he knew was only vagueness due to rumors, even his aunt constantly instilled in his innocent soul. doubts" to "scorn and abandon his mother" but the boy still loves and protects his mother: "But there is no way that my love and respect for my mother will be violated by dirty thoughts."
During the conversation with his aunt, the secret wounds in the boy's heart became more painful. Those words made the boy suffer because he recognized the aunt's "harsh thoughts in her voice and on her face when she laughed dramatically", which were disrespectful and insulting words to his mother. . After each harsh word, the boy's heart "tightened", the corners of his eyes "stinged", then tears "dropped down the sides of his mouth and then mixed profusely on his neck. The boy was sad not because his mother had not broken up yet and had a child with someone else, but because he was afraid this would hurt his mother, afraid of cruel prejudices that would hurt her. Love for my mother also turned into strong and decisive thoughts, wanting to wholeheartedly protect my mother: "If only the ancient customs that had tormented my mother were an object like a stone or a piece of glass, a piece of wood, I would Grab it right away, bite, chew, and grind until it's broken into pieces." The resistance in the thoughts of an innocent boy shows that the love for his mother helped him overcome all the bitterness of an unhappy childhood.
The boy's love is also shown through the meeting between mother and son. After school, the boy recognized the familiar figure of his mother from afar. The boy's desire to see his mother again is like a pedestrian's desire to encounter a stream in the middle of a dry desert. The author described in detail every detail when mother and daughter met again after a long year of separation with every warm gesture and action of mother-daughter love. The boy burst into tears, and the mother "soaked her tears with her brown shirt" and carried her into the car. With an innocent soul and rich love for her mother, Hong could not hide her extreme happiness when she was hugged and protected by her mother: "Had to become a baby and roll into a mother's lap, pressing my face into the breast of milk." The mother's heat, let the mother's hand caress from the forehead to the chin, and scratch the rash on the spine, only to see that the mother has an extremely gentle feeling. That joy and happiness not only erased all sadness but also destroyed all the harsh words that had hurt the aunt's boy. The emotional story clearly shows little Hong's love for his mother.
|
Cảm nhận của em về tùy bút “Mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về tùy bút “Mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng
Bài làm
Có lẽ mùa xuân là đề tài gợi nhắc nhiều xúc cảm đối với văn nghệ sĩ. Vũ Bằng là một trong số cây bút viết hay, viết sâu sắc về mùa xuân bằng giọng thơ tinh tế và đầy chất thơ. Với sở trường tùy bút và bút kí ông đã vẽ nên bức tranh mùa xuân đất bắc tuyệt vời qua “Mùa xuân của tôi”.
“Mùa xuân của tôi” là dòng tản mạn ghi chép lại những xúc cảm sâu lắng và ngọt ngào nhất của Vũ Bằng về mùa xuân, về những giao thoa của đất trời khi bước sang một năm mới, một mùa mới ấm áp. Với giọng văn nhẹ nhàng, dìu dặt, tác giả đã kéo người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng tràn sức sống. Bởi rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất, thi vị và duyên dáng nhất trong một năm.
Trải dọc bài thơ chính là tấm chân tình của tác giả dành cho mùa xuân đất bắc. Sự hòa quyện với thiên nhiên, với đất trời, với con người.
Từ những câu văn đầu tiên, tác giả đã vẽ nên đặc trưng của thời tiết và khí xuân miền Bắc với “mưa rêu rêu gió lành lạnh” không nơi nào có được. Chính đặc trưng này làm nền tảng để tác giả có thể vẽ thêm nhiều vẻ đẹp khác nhau nữa. Những thanh âm như tiếng nhạn kêu, câu hát huê tình quyện với sự ấm áp của nhang trầm, của không khí đoàn tụ gia đình khiến tác giả thổn thức nhớ thương. Có lẽ chính những điều ấm áp và bình dị đó khiến tác giả không nguôi khi nhớ về.
Mùa xuân đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên nhưng chính từ lòng người cũng toát lên vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn đó. Tác giả đã viết “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Mùa xuân khiến cho trái tim con người muốn cựa quậy, muốn thổn thức và muốn bùng cháy. Xuân đến “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”. Cái rét của mùa xuân là cái rét ngọt ngào từ không “căm căm” như mùa đông xứ Bắc nữa.
Vũ Bằng ới những cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ và nhiều hình ảnh so sánh mới lạ đã khiến người đọc hồi tưởng về những mùa xuân đã qua, mùa xuân của quê hương, của lòng người mênh mang.
Và xuân đến, tháng giêng chính là biểu tượng tươi đẹp nhất, cũng là nơi hội tụ của những vẻ đẹp ngọt ngào. Như Xuân Diệu từng nói “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong văn Vũ bằng không ngọt ngào, hối hả như Xuân Diệu nhưng lại đằm thắm và da diết nhất khiến cho người đọc lâng lâng, mê đắm. Khi tháng giêng về cũng là lúc đất trời bắt đầu có sự chuyển giao kì diệu và đầy tinh tế. Nét đẹp tháng giêng đất bắc là nét đẹp dịu dàng mà đằm thắm, có sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên đất trời. Và có lẽ lòng người cũng đồng điệu theo những nhịp điệu của mùa xuân.
|
My thoughts on the essay "My Spring" by Vu Bang
Instruct
My thoughts on the essay "My Spring" by Vu Bang
Assignment
Perhaps spring is a topic that evokes many emotions for writers and artists. Vu Bang is one of the best writers, writing deeply about spring in a delicate and poetic voice. With his knack for writing and writing, he painted a wonderful picture of spring in the North through "My Spring".
"My Spring" is a scattered line that records Vu Bang's deepest and sweetest emotions about spring, about the interactions between heaven and earth when entering a new year, a warm new season. With a gentle, thoughtful voice, the author draws readers back to peaceful, beautiful, and full of vitality springs. Because spring is the most beautiful, poetic and charming season of the year.
Stretched throughout the poem is the author's sincere feelings for the spring of the North. Harmony with nature, with heaven and earth, with people.
From the first sentences, the author has drawn the characteristics of the weather and spring in the North with "moss rain and cool wind" that cannot be found anywhere else. This characteristic is the foundation for the author to draw many different beauties. Sounds like the call of swallows and love songs mixed with the warmth of incense and the atmosphere of family reunion make the author sob and miss him. Perhaps it's those warm and simple things that the author can't stop remembering.
Spring is beautiful in its natural scenery, but it is from the human heart that it also exudes that charming, passionate beauty. The author wrote, “Sitting still is unbearable. The life sap in the body swells like blood." Spring makes people's hearts want to stir, sob and burn. When spring comes, "people's hearts seem to become younger, and beat stronger than on cold winter days". The cold of spring is a sweet cold that is no longer "hateful" like the winter in the North.
Vu Bang, with his delicate feelings, poetic language and many new comparative images, makes readers reminisce about past springs, the spring of the homeland, of the vast hearts of people.
And spring comes, January is the most beautiful symbol, also the convergence of sweet beauty. As Xuan Dieu once said, "January is as delicious as a pair of close lips." In Vu's literature, it is not as sweet and bustling as Xuan Dieu, but it is the most loving and passionate, making readers feel lightheaded and infatuated. When January comes, it is also the time when heaven and earth begin to have a magical and subtle transition. The beauty of January in the North is a gentle and loving beauty, a blend of people and nature. And perhaps people's hearts are also in tune with the rhythms of spring.
|
Cảm nhận của em về đoạn 1 trong bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh
Hướng dẫn
Bảy câu trong phần đầu bài thơ mở ra trong lòng em bao cảm xúc man mác. Tiếng gà nhảy ổ: ‘Cục… cục tác cục ta’ của nhà ai bên xóm nhỏ, cất lên; cái âm thanh bình dị ấy trở nên thân thiết, yêu thương đối với người lính trẻ trên đường hành quân ra trận:
‘Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà ai nhảy ổ:
‘Cục… cục tác cục ta’.
Một giọng thơ nhẹ nhàng, bâng khuâng. Tiếng gà nhảy ổ đã trở thành tiếng quê hương, tiếng hậu phương như chào đón, như vẫy gọi.
Ba câu thơ tiếp theo đều bắt đầu bằng chữ ‘nghe’ đã gợi tả niềm xúc động sâu xa của người chiến sĩ. Có một sự chuyển đổi cảm giác tài tình, thú vị:
‘Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ’
Nghe tiếng gà nhảy ổ, người lính trẻ cảm thấy nắng trưa đang ‘xao động’, đang nhảy múa xôn xao trước mắt mình, trông thật vui. Tưởng như có làn gió mát thổi qua tâm hồn mình. Tiếng gà nhảy ổ như có một phép lạ thần kì, đã truyền cho người chiến sĩ bao niềm vui, bao tinh thần và nghị lực mới, như làm dịu bớt cái nắng trưa, như xua tan mọi mệt mỏi, có thêm sức mạnh mới, vượt qua mọi chặng đường chông gai, sẵn sàng dấn thân vào khói lửa. Nghe tiếng gà nhảy ổ: ‘Cục… cục tác cục ta’ người lính trẻ thêm xao xuyến trong lòng, mọi kỉ niệm thân thương một thời thơ ấu được khơi dậy, được đánh thức. Tình hậu phương êm đềm, sâu nặng như dâng lên dào dạt trong lòng người chiến sĩ trên đường ra trận.
|
My thoughts on paragraph 1 of the poem Chicken Noon by Xuan Quynh
Instruct
The seven lines in the first part of the poem open up many emotions in my heart. The sound of a chicken jumping into the nest: 'Cluck...cluck cluck cluck' from someone's house in the small hamlet, rang out; That simple sound became intimate and loving to the young soldier on his way to war:
'On a long march, stopping by a small hamlet, the sound of a rooster jumping into the nest:
‘Cluck… cluck cluck cluck me’.
A gentle, wistful poetic voice. The sound of chickens jumping into the nest has become the language of the homeland, the sound of the rear is welcoming and beckoning.
The next three verses all begin with the word 'listen', describing the soldier's deep emotions. There's an ingenious, interesting transition of feeling:
'Listen to the stirrings of the afternoon sun, Hear your tired feet, Hear the call of childhood'
Hearing the sound of chickens jumping into their nests, the young soldier felt that the noon sun was 'stirring', dancing before his eyes, looking so happy. It felt like a cool breeze was blowing through my soul. The sound of chickens jumping into the nest was like a miracle, infusing the soldiers with so much joy, so much new spirit and energy, as if soothing the noon sun, dispelling all fatigue, and gaining new strength. , overcome all thorny paths, ready to engage in fire and smoke. Hearing the sound of the chicken jumping into the nest: 'Cluck... cluck cluck', the young soldier's heart became more fluttering, all the dear memories of his childhood were evoked and awakened. The peaceful, deep love of the rear seems to well up in the hearts of soldiers on the way to battle.
|
Cảm nhận của em về đoạn kịch thề nguyền Trích Rô-mê-ô và Giu-li-ét của Sếch-xpia.
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về đoạn kịch thề nguyền Trích Rô-mê-ô và Giu-li-ét của Sếch-xpia.
Sếch-xpia sinh năm 1564 mất năm 1616,là một nhà soạn kịch nổi tiếng cuối thời đại phục hưng Châu Âu. Ông đã để lại cho đời sau 37 vở bịch bao gồm hài kịch,bi kịch và kịch lịch sử. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở kịch nổi tiếng đã gắn liền với tên tuổi của Sếch-xpia, chuyện kể về tình yêu giữa rô mê ô và giu-li-ét không được chấp nhận bởi giữa hai dòng họ có mối thù truyền kiếp với nhau. Tác phẩm kết thúc bằng cái chết của hai nhân vật và qua đó thì mối thù của dòng họ cũng được hóa giả. Vở kịch đã thể hiện được tư tưởng nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm.
Tình yêu giữa rô-mê-ô và giu-li-ét là một tình yêu bất diệt đươc nảy nở sau khi gặp nhau ở buổi dạ hội. Bắt đầu tù buổi gặp gỡ này đánh dấu một chuỗi bi kịch trong chính tình yêu của họ khi họ biết được rằng mình thuộc hai dòng họ khác nhau và có mối thù hận từ rất lâu. Nhưng họ vẫn quyết định đến với nhau cho dù ai có ngăn cản đi chăng nữa.
Trước hết là đoạn đầu tiên khi chàng rô-mi-ô đã lẻn vào vườn của ca-piu-lét, và khi người con gái mà chàng mong đợi xuất hiện thì chàng choáng ngợp trước sự xuất hiện đó bởi sự xinh đẹp của nàng. Lúc này đây thì dưới con mắt của chàng không gì có thể so sánh bằng và vẻ đẹp của nàng được rô-mê-ô so sánh với mặt trời mọc lúc rạng đông khiến cho mặt trăng lúc này héo hon,nhợt nhạt hơn
Không chỉ vậy, qua tâm trạng say đắm của rô-mê-ô thì chẳng có một ngôi sao nào có thể so sánh được với đôi mắt của nàng cả, rồi chàng tiếp tục đưa ra những giả định ảo đó là: “Sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia ư?”, “Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư?”.
Tiếp đến rô-mê-ô còn ca ngợi cả đôi gò má rực rỡ của nàng rồi thốt lên bất ngờ: “Kìa, nàng tì má lên bàn tay!”.
Qua những lời thoại trên thì chúng ta đã nhận thấy được lúc này đây chàng trai này đang say đắm trước nhan sắc của giu-li-ét và sự so sánh của chàng trước vẻ đẹp này thực sự là rấy phù hợp với khung cảnh lúc bấy giờ.
Còn về iu-li-et thì từ khi gặp chàng trai đó ở bữa tiệc thì khi trở về phòng đứng bên khung cửa sổ trong một đêm trăng tuyệt đẹp, sáng cho nên nàng đã thốt ra những nỗi niềm của riêng mình, qua đó có thể cho chúng ta thấy được tình yêu bắt đầu nảy nở một cách mãnh liệt, và cách thổ lộ này không hề có một chút che dấu. Nàng tuy là người ít tuổi nhưng lại cảm nhận ra được những khó khăn và thử thách khi biết được mối thù truyền kiếp của hai dòng họ.
Câu nói của Giu-li-ét “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh ở nơi đây”.đây là một câu nói tuy không nói thẳng ra nhưng đó là một minh chứng cho thấy nàng yêu rô-mê-ô say đắm và thật lòng.
Qua đoạn trích chúng ta thấy được cả hai còn không biết có vượt qua được rào cản hay không bởi mối thù truyền kiếp là nguyên nhân cản trở tình yêu của họ, nhưng đây là xung đột toàn bộ tác phẩm, còn trong đoạn này chúng ta lại không thấy có một sự xung đột nào cả. Cả hai vẫn không hề có sự đắn đo trong nội tâm, chàng có thể sẵn sàng vượt qua được mỗi thù giữa hai dòng họ này, còn giu li ét thì nàng cũng giành tình yêu cho rô-mê-ô nhưng vẫn còn một chút do dự nhưng đó không phải là suy nghĩa mà là nàng đắn đo không biết tình yêu người đó giành cho nàng có thật sự hay không, chàng có vượt qua được rào cản của cả hai gia đình để tới với nhau hay không. Nhưng qua đoạn này chúng ta có thể khẳng định được rằng không có một sự xung đột nào có thể chia rời hai người họ, mối thù hận giữa hai dòng họ thì tình yêu của họ vẫn diễn ra thật trong sáng, đây là một tình yêu dũng cảm, họ có thể bỏ qua, bất chấp mọi hận thù để giành tình yêu cho nhau.
Nguồn: Bài văn hay
|
My thoughts on the vow play Excerpt from Shakespeare's Romeo and Juliet.
Instruct
My thoughts on the vow play Excerpt from Shakespeare's Romeo and Juliet.
Shakespeare, born in 1564 and died in 1616, was a famous playwright at the end of the European Renaissance. He left behind 37 plays including comedies, tragedies and historical plays. Romeo and Juliet is a famous play that is closely associated with Shakespeare's name. It tells the story of the love between Romeo and Juliet that was not accepted by both of them. The families have a long-standing feud with each other. The work ends with the death of the two characters and through that, the family feud is also resolved. The play expressed the humanistic ideology that the author wanted to convey.
The love between Romeo and Juliet is an eternal love that blossomed after meeting each other at the ball. The beginning of this meeting marks a series of tragedies in their love when they learn that they belong to two different families and have had a long-standing hatred. But they still decided to come together no matter who stopped them.
First of all, the first part is when Romio sneaked into Capulet's garden, and when the girl he was waiting for appeared, he was overwhelmed by her appearance because of her beauty. . At this moment, in his eyes, nothing could be compared and her beauty was compared by Romeo to the rising sun at dawn, making the moon now wither and paler.
Not only that, through Romeo's passionate mood, there is no star that can compare to her eyes, then he continues to make false assumptions: "The stars are falling." under those eyebrows?", "Are your eyes replaced by stars?".
Next, Romeo also praised her brilliant cheeks and suddenly exclaimed: "Look, she rested her cheek on her hand!".
Through the above dialogues, we can see that at this moment this guy is infatuated with Juliet's beauty and his comparison to this beauty is really suitable for the scene at this time. then.
As for love, since she met that guy at the party, when she returned to her room and stood by the window on a beautiful, bright moonlit night, she blurted out her own feelings, through which can show us how love begins to bloom strongly, and this way of confessing doesn't have the slightest hint of concealment. Although she is young, she feels the difficulties and challenges when she learns about the long-standing feud between the two families.
Juliet's statement "I never want them to see you here". This is a statement that, although not said directly, is a proof that she is passionately in love with Romeo. and honestly.
Through the excerpt, we can see that both of them do not know whether they can overcome the barrier or not because their long-standing hatred is the cause that hinders their love, but this is the conflict of the entire work, and in this paragraph we We don't see any conflict at all. Both of them still have no hesitation in their hearts, he is ready to overcome the hatred between these two families, and for Juliet, she also has love for Romeo, but there is still a little bit left. hesitant, but that was not a reason, but rather she was hesitant about whether that person's love for her was real or not, whether he could overcome the barriers of both families to be together or not. But through this passage we can confirm that there is no conflict that can separate the two of them, despite the hatred between the two families, their love is still pure, this is a true love. Love bravely, they can ignore all hatred to win love for each other.
Source: Good article
|
Cảm nhận của em về đoạn trích Chị Em Thúy Kiều
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về đoạn trích Chị Em Thúy Kiều
Bài làm
Nguyễn Du là một trong những ngôi sao sáng trong nền văn học Việt Nam, ông là tác giả của các tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích bao gồm 24 câu nằm ở phần một của Truyện Kiều, đoạn trích mô tả bức chân dung tuyệt đẹp của chị em Thúy Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp lí tưởng hóa để xây dựng nhân vật chính diện, tiêu biểu là đoạn trích Chị Em Thúy Kiều.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Tác giả sử dụng nghệ thuật tiểu đối, hình ảnh ước lệ để miêu tả hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Câu thơ cổ điển, điển tích Hằng Nga diễn tả dáng vóc thanh cao, tao nhã như mai tâm hồn trong trắng như tuyết đạt đến độ hoàn mĩ – Mười phân vẹn mười của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngóc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Chân dung Thúy Vân được khắc họa qua những câu thơ trên, một nét đẹp cao sang quí phái hiếm thấy ở người khác. Tác giả đã lựa chọn những cái đẹp nhất của tự nhiên để so sánh với vẻ đẹp của nàng. Bút pháp tượng trưng ước lệ mà cụ thể tới từng chi tiết: Khuôn mặt, nét ngài… Tất cả toát lên vẻ đẹp đoan trang thùy mị, phúc hậu toàn vẹn. Vẻ đẹp đó ngầm thông báo số phận an lành êm đềm, may mắn.
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thủy tinh, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân
Những câu thơ trên đã gợi tả vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều, tác giả lấy vẻ đẹp tự nhiên để miêu tả so sánh vẻ đẹp Thúy Kiều đặc biệt tả đôi mắt, đôi mắt đẹp long lanh như làn nước mùa thu. Nét mày cong thanh thoát như nét núi mùa xuân, gương mặt toát lên vẻ đẹp kia xa thanh tú, tài hoa. Kiều tài hoa thông minh vốn sẵn tính trời – Đạt tới mức lí tưởng của xã hội phong kiến. Kiều linh cảm được tài mệnh của mình lên tự soạn cho mình “ Một thiên bạc mệnh” ai nghe cũng thấy sầu đau não nề. Vậy vẻ đẹp của kiều kết tinh của ba phẩm chất sắc, tài và tình.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê,
Em đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Bốn câu cuối Nguyễn Du đã dùng những ngôn từ đẹp về cuộc sống hai chị em, họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh.
|
My thoughts on the excerpt Thuy Kieu Sisters
Instruct
My thoughts on the excerpt Thuy Kieu Sisters
Assignment
Nguyen Du is one of the bright stars in Vietnamese literature, he is the author of the works The Tale of Kieu. The excerpt includes 24 sentences located in part one of The Tale of Kieu, the excerpt describes the beautiful portrait of Thuy Kieu sisters. Nguyen Du used an idealized style to build a positive character, typically the excerpt from Sisters Thuy Kieu.
At first, the two girls denounced each other,
Thuy Kieu is the older sister, the younger is Thuy Van.
Mai bone way, spirit snow,
Each person looks completely different.
The author uses the art of small parallelism and conventional images to describe the two sisters Thuy Kieu and Thuy Van. The classic poem, the legend of Hang Nga, describes the tall, elegant figure like a plum, the soul as pure as snow, reaching perfection - Ten parts and ten of the two sisters Thuy Van and Thuy Kieu.
Van looks at the different pages,
Mold plump moon bouncing his strokes.
Hoa smiled solemnly,
Cloudy lose hair color snow ceded skin color
Thuy Van's portrait is portrayed through the above verses, a noble and noble beauty rarely seen in others. The author chose the most beautiful things in nature to compare with her beauty. The penmanship is conventionally symbolic but specific to every detail: His face, his features... Everything exudes the beauty of dignity, modesty, and complete kindness. That beauty implicitly announces a peaceful, peaceful and lucky fate.
Compared surface is the more talented back
Glassy lines, spring paint
United jealous loser poor petal blue willow hon
One day, the water tilted into the city
Beauty has to ask for one, but it's the other
Intelligence is inherent in nature
Mixing the craft of painting is full of the scent of singing
Palace of Commerce, five-tone level
Your own job will cost you a whole lot of money
Hand-picked songs should be played
An ill-fated man is even an old man
The above verses describe the beauty of the character Thuy Kieu. The author uses natural beauty to describe and compare Thuy Kieu's beauty, especially her eyes, which are beautiful and sparkling like autumn water. Her eyebrows are elegantly curved like the features of a spring mountain, her face exudes beauty that is far from delicate and talented. Kieu is inherently talented and intelligent - reaching the ideal level of feudal society. Kieu had a premonition of her destiny and composed for herself "An Unlucky Heaven" and everyone who heard it felt sad and sad. So the beauty of Kieu crystallizes the three qualities of beauty, talent and love.
The style is very rosy,
Green spring is approximately until the millet week,
I bowed my head and lowered my curtain.
The wall is crowded with butterflies and bees, no matter who goes home
In the last four sentences, Nguyen Du used beautiful words about the lives of the two sisters. They lived a prosperous, disciplined, and virtuous life.
|
Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn trích Cô Tô trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân
Bài làm
Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách – độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô. Đoạn trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.
Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm, toàn cảnh đảo Cô Tô… mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng để ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân.
Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao! Cảnh được “vẽ” lên bằng ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mủi đảo để ngồi rình mặt trời lên. Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Màu sắc hài hoà rực đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường tho. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô.
Có thể nói, đây thực sự là một đoạn văn kiểu mẫu về bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy có sự hoà hợp giữa cảnh và tình, thiên nhiên kì ảo như lộng lẫy, mĩ lệ hơn trong cái nhìn của nhà văn.
Cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn […] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ diêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô.
|
Topic: My thoughts on the excerpt Co To in the work of the same name by Nguyen Tuan
Assignment
Nguyen Tuan is a famous writer, with a knack for writing and writing. Nguyen Tuan's works always demonstrate unique style, talent, rich multi-faceted understanding and rich and skillful language. The Co To essay is the last part of the Co To essay. The excerpt partly captures the impressions of nature and working people on Co To island that the writer received during his visit to the island.
The opening paragraph describes the beauty of Co To island after the storm. Co To appears so pure and pristine in this beautiful morning: The sky is clear, the trees are greener, the sea water is bluer and richer than ever, and the sand is even more golden and crispy. It seemed as if the land, sky, and sea of Co To were washed clean and recreated to turn into a wonderful pure landscape. To "paint" a panorama of Co To Island after the storm, the author had to be very meticulous in choosing typical images: Sky, sea water, trees on the island, sandy beach, and go with these images. That photo is a series of adjectives indicating color and light: the sky is clear and bright, the trees on the sea are green, the sea water is blue, the sand is crispy yellow. Such a beautiful scene is possible because the writer chose an observation position from a high point on the roof of the fort to look out at the vast Pacific Ocean in all four directions. He turned his heel 180 degrees to see the entire panorama of Co To island. ... but I love the island even more like any fisherman who has ever left and grew up following the wave season here. After the storm, nature on Co To Island appeared truly beautiful. Is the painting of Co To Island beautiful because of Nguyen Tuan's humanity?
It would be a mistake if we did not mention the sunrise over the sea in the natural picture of Co To island. What a majestic, brilliant and magnificent scene! The scene was "painted" with the talented pen of Nguyen Tuan.
Co To has the blue color of the sea in the afternoon, and the brilliant red color of the morning sun rising over the sea at dawn. Nguyen Tuan woke up from the fourth watch and went all the way to the tip of the island to sit and wait for the sun to rise. In this passage, Nguyen Tuan has truly brought readers talented lines about a very unique scene. After the storm, the horizon and the ocean are as clean as a glass sheet wiped of dust and clouds. The sun rose gradually, then rose until it was gone. Round and good-natured like the yolk of a natural egg. The rosy, deep egg stood on a pedestal on a silver tray, the diameter of the tray was as wide as the entire horizon, the color of pearly pink ocean water. The comparisons are surprising, the associations are interesting. But the next association is truly talented, bold in Nguyen Tuan's style: Just like a tray of offerings coming out from dawn to celebrate the longevity of all fishermen on the eternal sea. Winter. Harmonious colors of bright red, pink, silver, and pearls, very unique shaping details of a deep and majestic pink egg placed on a giant silver tray; images of luxury words: Offering tray, pressed silver, long tho. All create a beauty that is both majestic and majestic, prosperous and immortal, and brilliant and magnificent, creating a unique impression of Co To sky and sea.
It can be said that this is truly a model paragraph of Nguyen Tuan's descriptive writing style. There, people see the harmony between scene and love, the magical nature seems more splendid and beautiful in the writer's view.
The life of people on the sea makes the picture of Co To island more vivid. The author focuses on the scene of daily life and labor on the island in one morning, which is a freshwater well at the edge of the island. Here, fishermen carry fresh water from wells to boats. The scene is so peaceful, the rhythm of working life is urgent, busy, and crowded: The fresh water well of Thanh Luan Island had countless people coming to carry and draw from it earlier this morning. Scooping well water into wooden barrels, into pots, eel-colored ceramic pots [...] From the fleet of boats about to set sail to the sweet well, barrels and barrels and burdens continue to go back and forth, the peacefulness of life remains. is shown in an image that has Co To's own characteristics, but also contains the meaning. Looking at Chau Hoa Mau carrying her baby, seeing it gentle and reassuring like the image of the sea as a gentle mother feeding the healthy children. Witnessing that scene, Nguyen Tuan had a subtle sense of his own nuances, when he compared the freshwater well at the edge of an island in the middle of the lake, its life was as fun as a wharf and bold. The coolness is lighter than any market on the mainland. Fun like a wharf can be found anywhere, but it's cooler and lighter than any market on the mainland is the unique nuance of the fresh air and rich human love on Co To beach.
The natural scenery and human activities of Co To island appear so pure and beautiful through Nguyen Tuan's skillful language and delicate, accurate descriptions, rich in images and emotions. The article helps us understand and love a land of the Fatherland - the Co To archipelago.
|
Đề bài: Bình luận đoạn trích Hai cây phong (trích truyện Người thầy đầu tiên) của Ai-ma-tốp
Bài làm
Chúng ta được biết truyện vừa Nỵười thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà vãn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan Ai-ma-tốp. Tác phẩm viết về tình thầy trò cao đẹp, từ đó ca ngợi sức sống dẻo dai, sự vươn lên mạnh mẽ của một lớp người tuổi trẻ trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan những năm hai mươi của thế kỉ trước. Tiêu biểu cho lớp người ấy là thầy giáo Đuy-sen và cô học trò An-tư-nai. Trong truyện có chi tiết đặc sắc: Một hôm thầy Đuy-sen mang về trường hai cây phong và nói với An-tư-nai: “Hai cây phong này, thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt…”. Qua thời gian học tập, rèn luyện và đấu tranh, cô bé An-tư-nai nghèo khổ đã trở thành một Viện sĩ khoa học tài giỏi. Cũng qua thời gian và mưa nắng, hai cây phong cũng lớn dần lên thành hai cây cổ thụ đứng sừng sững ở đầu làng, đem lại cho dân làng, nhất là cho các em nhỏ, thế hộ sau của thầy trò Đuy-sen biết bao niềm vui trong sáng. Đoạn trích Hai cây phong, thuộc phần đầu tiên của thiên truyện Người thầy đầu tiên đưa người đọc vào thời gian hiện tại sau rất nhiều năm thầy Đuy-sen dạy và cô bé An-tư-nai học tập. Tuy không được biết những nội dung, ý nghĩa cụ thể của tác phẩm, nhưng đọc đoạn trích mà sách Ngữ vân 8 giới thiệu, chúng ta vẫn cảm nhận được một phần tài năng sáng tạo của nhà văn, vẻ đẹp đặc sắc của hình ảnh hai cây phong, nhất là vẻ đẹp tâm hồn của lớp trẻ, sự gắn bó giữa cãy và người thuộc thế hộ nối tiếp bước đi của Người thầy đầu tiên. “Ngọn cây và tầm nhìn”, phải chăng đấy là ý nghĩa bao trùm mà người đọc có thể cảm nhận được từ đoạn trích này.
Cảm nhận của em về đoạn trích Hai cây phong của Ai-ma-tốp
Đoạn văn được viết bàng ngòi bút miêu tả xen lẫn tự sự, thời gian hiện tại xen lẫn hồi tưởng quá khứ, nhân vật “chúng tôi” song song, đổng hiện với nhân vật “tôi” cùng tâm sự, chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc với người đọc. Do đó, ngổn từ, hình ảnh cứ chấp chới bay lượn, lúc ẩn, lúc hiện, lúc thực, lúc mờ rất thú vị. Hình ảnh hai cây phong hiện lên, những trò vui tuổi trẻ được kể lại, những cảm xúc dạt dào, những suy nghĩ lắng sâu,… từng dòng, từng dòng ngân lên.
Những vẻ đẹp của hai cây phong:
Từ mở đầu đến “… mọi làn gió nhẹ thoảng qua”. Hoá thân vào nhân vật “tôi”, người hoạ sĩ, nhà văn vẽ lại hình ảnh hai cây phong bằng từ ngữ, câu vãn đầy chất tạo hình và giàu chất nhạc. Mở đầu là hình ảnh hai cây phong lớn, hiên ngang đứng giữa ngọn đồi đầu làng, từ xa nhìn lại ngỡ như thấy “những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Ngọn hải đăng đứng bên bờ biển toả ánh sáng soi đường, dẫn dắt những con tàu cập bến. Còn hai cây phong kia cũng đã từng làm nhiệm vụ chi lối dẫn đường cho biết bao nhiêu người con của làng Kur-ku-rêu hướng về, tìm về quê hương. Nghệ thuật so sánh của nhà văn thật có ý nghĩa. Vì thế cứ mỗi lần về quê, tôi – người hoạ sĩ, người kể chuyện – xác định “bổn phạn đầu tiên là từ xa dưa mát tìm hai cây phong thân thuộc”. Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại mong sao chóng về tới làng, chóng được lên đồi đến với cây, “dứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Vậy là, bên cạnh hình ánh hai cây phong đứng sừng sững, hiên ngang trên đồi cao như một biểu tượng của hồn vía quê hương là hình ảnh một con người yêu quê hương da diết. Nhờ tình yêu ấy mà tôi, nhún vật kể chuyện nghe được “tiếng nói riêng”, “những lời ca êm dịu” của hai cây phong, hai sinh thể sống động như con người. Tác giả đã hoá thân vào nhân vật để kể chuyện, để miêu tả với hàng loạt những liên tưởng, so sánh, nhân hoá âm thanh, tiếng nói của cây phong. Dù ban ngày hay ban đêm, “chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào…”, có lúc “như một làn sóng thuỷ triều dâng lên vồ vào bãi cát…, có lúc “thì thầm… nồng thắm như một đốm lửa vô hình”, có lúc “khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào…”. Và khi mây đen kéo đến thì hai cây phong “nghiêng ngả tấm thàn dẻo dai và reó vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Phải mang một tâm hồn nghệ sĩ hài hoà hai tố chất – tố chất hội hoạ và tố chất âm nhạc, nhân vật tôi * mới có thể vẽ lại được những đường nét, sắc màu, nghe lại được những âm thanh trầm bổng, thấm đượm hơi lửa nồng ấm, đắm say của những vẻ đẹp mà hai cây phong đã phô ra, đã truyền tới. Rõ ràng, qua cảm nhận cùa người nghệ sĩ, hai cây phong đã hiện lên với hình hài cao lớn, hiên ngang, với đường nét lá cành uyển chuyển, nhất là với tiếng reo đa thanh… đẹp kì diệu. Đó là hình ảnh của quê hương, cũng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ mà dẻo dai, kiêu hùng bất khuất mà dịu dàng thân thương của những con người nơi đây. Khi người hoạ sĩ đứng dưới gốc cây “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngày ngất”, tình yêu quệ hương trong tâm hồn anh – nhà vãn Ai-ma-tốp, ngất ngây hoà quyện cùng đất trời, cây lá, con người quê hương. Đoạn văn xuôi có nhiều hình ảnh, từ ngữ tượng hình, tượng thanh sinh động, truyền cảm hấp dẫn như một bài thơ, một khúc hát vậy.
Vẻ đẹp tâm hồn tuổi trẻ:
Chuyển xuống đoạn sau (từ câu “Những việc khám phá…” đến hết bài), ngôn ngữ lời văn cũng chuyển đổi, từ hiện tại tới cách cảm nhận của một người dã trưởng thành trở lại với những kỉ niệm tuổi thơ đầy mơ mộng. Ngỡ như chính Ai-ma-tốp đang bé lại để sống lại một kỉ niêm tuyệt vời. Vào một ngày nào dó của nãm học cuối cùng trước khi nghỉ hè, “tôi” -người kể chuyện – lên cao, cao nữa, cao mãi, có lẽ cao tới gần ngọn cây. “Và chúng tồi, lũ nhóc con đi chân đất… trèo lên cao làm chấn động vương quốc loài chim”. Một lời kể, một nhận xét thật ngây thơ mà thú vị! Các cậu bé giống những chú chim non đã chiếm lĩnh vương quốc này, vòm cây xanh, bầu trời rộng. Nhờ đó, từ độ cao “ngang tầm cánh chim bay”, các cậu bé đã nhìn thấy cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Đến những dòng này, nhân vật “tôi” mờ đi, để “chúng tôi” hiện lên choán lấy tất cả. Tại sao như thế? Phải chăng nhà văn muốn thay đổi điểm nhìn, hoá thân thực sự vào thế giới tuổi thơ để cảm nhận những vẻ đẹp thơ mộng của quê hương mình. Làng Ku-ku-rêu trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan đã hiện lên dưới những đôi mắt trẻ thơ như thế nào? Này dây, “đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt”. Này đây, “chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế gian… chỉ như căn nhà xép bình thường”. Phía xa là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Và xa hơn nữa là những con sông, “những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh…”. Thú vị biết bao, nhờ vị trí trên caọ của hai cây phong, các chú bé đã “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” đúng như ý thơ của Hồ Chí Minh trong một bài thơ nhiều người biết đến. Và cũng từ vị trí ngọn cây như thế, các cậu bé được sống trong những phút giây ngây ngất, hạnh phúc. “Chúng tôi nép minh ngồi trên các cành cây suy nghĩ… Chúng tôi ngồi nép trên các cành cây, lắng nghe…”. Quả thật, trong những phút giây ấy, ở những đỉnh cao ấy, tầm nhìn của tuổi thơ được mở rộng, chiều suy nghĩ được khơi sâu, cả tâm hồn và trí tuệ như đang cùng cất cánh đê cảm nhận biết bao vẻ đẹp rộng dài, lắng nghe biết bao âm thanh huyền ảo, suy nghĩ và mộng mơ, khát vọng biết bao điều thiêng liêng, kì thú. Nói khác đi, nhờ hai cây phong lớn cao, vững vàng nâng đỡ, dìu dắt lên tận đỉnh ngọn, những chú bé làng Ku-ku-rêu ấy mới được mở rộng tầm nhìn, vươn tới bao nhiêu điều bổ ích. Trong dó, có lẽ điều bổ ích nhất là giàu có thêm tâm hồn và trí tuệ. Chí bằng một kí niệm tuổi thơ cụ thể của một nhân vật cụ thể, nhà văn đã đánh thức trong người đọc chúng ta biết bao kỉ niệm êm đềm, thân thương về quc hương, về đất nước, khi còn ấu thơ cũng như lúc đã về già. Đến phần cuối đoạn văn, nhân vật kể chuyện lại thêm một lần chuyển giọng. Từ “chúng tôi”, nhân vật xưng “tôi”. ”Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt… hình dung ra những miền đất xa lạ kia… Chỉ có một điều tôi chưa hổ nghĩ đến: ai là người đã trổng hai cây phong trên đồi này… Ọuả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là Trường Đuy-sen…”. Đây chính là những dòng văn dẫn vào câu chuyện kê về những con người kì diệu của quê hương mình. Đật ở vị trí kết thúc vãn bản Hai cây phong này, đây lại là những tâm niệm của người hoạ sĩ khi được gặp lại hai cây phong, được sống lại tuổi thơ mộng mơ, lãng mạn đe rồi luôn nhớ tới và biết ơn lớp người đi trước, mở đường và gieo trồng những hạt giống, vun xới cho cây cối, giáo dục, thức tỉnh con người lớn lên. Đó là điều tâm niệm của một tấm lòng nhân hậu, biết “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đáng yêu quý, trân trọng. Vậy là, từ sự cảm nhận những vẻ dẹp của hai cây phong, người hoạ sĩ đã kê về một kỉ niệm tuổi thơ không kém phần tươi đẹp mà giàu ý nghĩa: ngọn cây và tầm nhìn. Cây càng vươn cao bao nhiêu, càng đón được nhiều gió bấy nhiêu. Con người càng vươn cao, trướng thành bao nhiêu, tầm mắt càng mở rộng bấy nhiêu, nhưng đừng bao giờ quên cội nguồn, gốc rẻ…
|
Đề bài: Bình luận đoạn trích Hai cây phong (trích truyện Người thầy đầu tiên) của Ai-ma-tốp
Bài làm
Chúng ta được biết truyện vừa Nỵười thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà vãn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan Ai-ma-tốp. Tác phẩm viết về tình thầy trò cao đẹp, từ đó ca ngợi sức sống dẻo dai, sự vươn lên mạnh mẽ của một lớp người tuổi trẻ trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan những năm hai mươi của thế kỉ trước. Tiêu biểu cho lớp người ấy là thầy giáo Đuy-sen và cô học trò An-tư-nai. Trong truyện có chi tiết đặc sắc: Một hôm thầy Đuy-sen mang về trường hai cây phong và nói với An-tư-nai: “Hai cây phong này, thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt…”. Qua thời gian học tập, rèn luyện và đấu tranh, cô bé An-tư-nai nghèo khổ đã trở thành một Viện sĩ khoa học tài giỏi. Cũng qua thời gian và mưa nắng, hai cây phong cũng lớn dần lên thành hai cây cổ thụ đứng sừng sững ở đầu làng, đem lại cho dân làng, nhất là cho các em nhỏ, thế hộ sau của thầy trò Đuy-sen biết bao niềm vui trong sáng. Đoạn trích Hai cây phong, thuộc phần đầu tiên của thiên truyện Người thầy đầu tiên đưa người đọc vào thời gian hiện tại sau rất nhiều năm thầy Đuy-sen dạy và cô bé An-tư-nai học tập. Tuy không được biết những nội dung, ý nghĩa cụ thể của tác phẩm, nhưng đọc đoạn trích mà sách Ngữ vân 8 giới thiệu, chúng ta vẫn cảm nhận được một phần tài năng sáng tạo của nhà văn, vẻ đẹp đặc sắc của hình ảnh hai cây phong, nhất là vẻ đẹp tâm hồn của lớp trẻ, sự gắn bó giữa cãy và người thuộc thế hộ nối tiếp bước đi của Người thầy đầu tiên. “Ngọn cây và tầm nhìn”, phải chăng đấy là ý nghĩa bao trùm mà người đọc có thể cảm nhận được từ đoạn trích này.
Cảm nhận của em về đoạn trích Hai cây phong của Ai-ma-tốp
Đoạn văn được viết bàng ngòi bút miêu tả xen lẫn tự sự, thời gian hiện tại xen lẫn hồi tưởng quá khứ, nhân vật “chúng tôi” song song, đổng hiện với nhân vật “tôi” cùng tâm sự, chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc với người đọc. Do đó, ngổn từ, hình ảnh cứ chấp chới bay lượn, lúc ẩn, lúc hiện, lúc thực, lúc mờ rất thú vị. Hình ảnh hai cây phong hiện lên, những trò vui tuổi trẻ được kể lại, những cảm xúc dạt dào, những suy nghĩ lắng sâu,… từng dòng, từng dòng ngân lên.
Những vẻ đẹp của hai cây phong:
Từ mở đầu đến “… mọi làn gió nhẹ thoảng qua”. Hoá thân vào nhân vật “tôi”, người hoạ sĩ, nhà văn vẽ lại hình ảnh hai cây phong bằng từ ngữ, câu vãn đầy chất tạo hình và giàu chất nhạc. Mở đầu là hình ảnh hai cây phong lớn, hiên ngang đứng giữa ngọn đồi đầu làng, từ xa nhìn lại ngỡ như thấy “những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Ngọn hải đăng đứng bên bờ biển toả ánh sáng soi đường, dẫn dắt những con tàu cập bến. Còn hai cây phong kia cũng đã từng làm nhiệm vụ chi lối dẫn đường cho biết bao nhiêu người con của làng Kur-ku-rêu hướng về, tìm về quê hương. Nghệ thuật so sánh của nhà văn thật có ý nghĩa. Vì thế cứ mỗi lần về quê, tôi – người hoạ sĩ, người kể chuyện – xác định “bổn phạn đầu tiên là từ xa dưa mát tìm hai cây phong thân thuộc”. Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại mong sao chóng về tới làng, chóng được lên đồi đến với cây, “dứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Vậy là, bên cạnh hình ánh hai cây phong đứng sừng sững, hiên ngang trên đồi cao như một biểu tượng của hồn vía quê hương là hình ảnh một con người yêu quê hương da diết. Nhờ tình yêu ấy mà tôi, nhún vật kể chuyện nghe được “tiếng nói riêng”, “những lời ca êm dịu” của hai cây phong, hai sinh thể sống động như con người. Tác giả đã hoá thân vào nhân vật để kể chuyện, để miêu tả với hàng loạt những liên tưởng, so sánh, nhân hoá âm thanh, tiếng nói của cây phong. Dù ban ngày hay ban đêm, “chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào…”, có lúc “như một làn sóng thuỷ triều dâng lên vồ vào bãi cát…, có lúc “thì thầm… nồng thắm như một đốm lửa vô hình”, có lúc “khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào…”. Và khi mây đen kéo đến thì hai cây phong “nghiêng ngả tấm thàn dẻo dai và reó vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Phải mang một tâm hồn nghệ sĩ hài hoà hai tố chất – tố chất hội hoạ và tố chất âm nhạc, nhân vật tôi * mới có thể vẽ lại được những đường nét, sắc màu, nghe lại được những âm thanh trầm bổng, thấm đượm hơi lửa nồng ấm, đắm say của những vẻ đẹp mà hai cây phong đã phô ra, đã truyền tới. Rõ ràng, qua cảm nhận cùa người nghệ sĩ, hai cây phong đã hiện lên với hình hài cao lớn, hiên ngang, với đường nét lá cành uyển chuyển, nhất là với tiếng reo đa thanh… đẹp kì diệu. Đó là hình ảnh của quê hương, cũng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ mà dẻo dai, kiêu hùng bất khuất mà dịu dàng thân thương của những con người nơi đây. Khi người hoạ sĩ đứng dưới gốc cây “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngày ngất”, tình yêu quệ hương trong tâm hồn anh – nhà vãn Ai-ma-tốp, ngất ngây hoà quyện cùng đất trời, cây lá, con người quê hương. Đoạn văn xuôi có nhiều hình ảnh, từ ngữ tượng hình, tượng thanh sinh động, truyền cảm hấp dẫn như một bài thơ, một khúc hát vậy.
Vẻ đẹp tâm hồn tuổi trẻ:
Chuyển xuống đoạn sau (từ câu “Những việc khám phá…” đến hết bài), ngôn ngữ lời văn cũng chuyển đổi, từ hiện tại tới cách cảm nhận của một người dã trưởng thành trở lại với những kỉ niệm tuổi thơ đầy mơ mộng. Ngỡ như chính Ai-ma-tốp đang bé lại để sống lại một kỉ niêm tuyệt vời. Vào một ngày nào dó của nãm học cuối cùng trước khi nghỉ hè, “tôi” -người kể chuyện – lên cao, cao nữa, cao mãi, có lẽ cao tới gần ngọn cây. “Và chúng tồi, lũ nhóc con đi chân đất… trèo lên cao làm chấn động vương quốc loài chim”. Một lời kể, một nhận xét thật ngây thơ mà thú vị! Các cậu bé giống những chú chim non đã chiếm lĩnh vương quốc này, vòm cây xanh, bầu trời rộng. Nhờ đó, từ độ cao “ngang tầm cánh chim bay”, các cậu bé đã nhìn thấy cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Đến những dòng này, nhân vật “tôi” mờ đi, để “chúng tôi” hiện lên choán lấy tất cả. Tại sao như thế? Phải chăng nhà văn muốn thay đổi điểm nhìn, hoá thân thực sự vào thế giới tuổi thơ để cảm nhận những vẻ đẹp thơ mộng của quê hương mình. Làng Ku-ku-rêu trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan đã hiện lên dưới những đôi mắt trẻ thơ như thế nào? Này dây, “đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt”. Này đây, “chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế gian… chỉ như căn nhà xép bình thường”. Phía xa là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Và xa hơn nữa là những con sông, “những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh…”. Thú vị biết bao, nhờ vị trí trên caọ của hai cây phong, các chú bé đã “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” đúng như ý thơ của Hồ Chí Minh trong một bài thơ nhiều người biết đến. Và cũng từ vị trí ngọn cây như thế, các cậu bé được sống trong những phút giây ngây ngất, hạnh phúc. “Chúng tôi nép minh ngồi trên các cành cây suy nghĩ… Chúng tôi ngồi nép trên các cành cây, lắng nghe…”. Quả thật, trong những phút giây ấy, ở những đỉnh cao ấy, tầm nhìn của tuổi thơ được mở rộng, chiều suy nghĩ được khơi sâu, cả tâm hồn và trí tuệ như đang cùng cất cánh đê cảm nhận biết bao vẻ đẹp rộng dài, lắng nghe biết bao âm thanh huyền ảo, suy nghĩ và mộng mơ, khát vọng biết bao điều thiêng liêng, kì thú. Nói khác đi, nhờ hai cây phong lớn cao, vững vàng nâng đỡ, dìu dắt lên tận đỉnh ngọn, những chú bé làng Ku-ku-rêu ấy mới được mở rộng tầm nhìn, vươn tới bao nhiêu điều bổ ích. Trong dó, có lẽ điều bổ ích nhất là giàu có thêm tâm hồn và trí tuệ. Chí bằng một kí niệm tuổi thơ cụ thể của một nhân vật cụ thể, nhà văn đã đánh thức trong người đọc chúng ta biết bao kỉ niệm êm đềm, thân thương về quc hương, về đất nước, khi còn ấu thơ cũng như lúc đã về già. Đến phần cuối đoạn văn, nhân vật kể chuyện lại thêm một lần chuyển giọng. Từ “chúng tôi”, nhân vật xưng “tôi”. ”Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt… hình dung ra những miền đất xa lạ kia… Chỉ có một điều tôi chưa hổ nghĩ đến: ai là người đã trổng hai cây phong trên đồi này… Ọuả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là Trường Đuy-sen…”. Đây chính là những dòng văn dẫn vào câu chuyện kê về những con người kì diệu của quê hương mình. Đật ở vị trí kết thúc vãn bản Hai cây phong này, đây lại là những tâm niệm của người hoạ sĩ khi được gặp lại hai cây phong, được sống lại tuổi thơ mộng mơ, lãng mạn đe rồi luôn nhớ tới và biết ơn lớp người đi trước, mở đường và gieo trồng những hạt giống, vun xới cho cây cối, giáo dục, thức tỉnh con người lớn lên. Đó là điều tâm niệm của một tấm lòng nhân hậu, biết “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đáng yêu quý, trân trọng. Vậy là, từ sự cảm nhận những vẻ dẹp của hai cây phong, người hoạ sĩ đã kê về một kỉ niệm tuổi thơ không kém phần tươi đẹp mà giàu ý nghĩa: ngọn cây và tầm nhìn. Cây càng vươn cao bao nhiêu, càng đón được nhiều gió bấy nhiêu. Con người càng vươn cao, trướng thành bao nhiêu, tầm mắt càng mở rộng bấy nhiêu, nhưng đừng bao giờ quên cội nguồn, gốc rẻ…
|
Cảm nhận của em về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Bài làm
Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều. Đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy xúc động.
Hơn 22 câu thơ lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, man mát, mênh mang lỗi buồn. Hầu như không dòng nào thậm trí từ, hình ảnh, âm thanh trong đoạn thơ không ít nhiều thể hiện tâm trạng của nhân vật chữ tình. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ lo lắng khi một mình trước lầu Ngưng Bích nhìn xa.
Bốn câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên quanh lầu cũng là bức tranh tâm trạng.
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.
Hoàn cảnh của Kiều lúc này mông lung bi thảm. Kiều được Tú Bà cho ra ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất bị giam lỏng. Nàng trơ chọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao, nàng ngắm vọng ra bốn phía bát ngát, dãy núi mờ xa, những cồn cát vàng trải dài vô tận… Nhìn lên chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ. Để gợi sự mênh mông hoang vắng rợn nghộp không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng bẽ bàng tội nghiệp của Kiều.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ngọn đèn cảnh người cung thao thức sẻ chia. Một mình với tấm trăng – người bạn gần gũi thân thiết nhất.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai”.
Kiều sót xa hình dung Kim Trọng vẫn chưa biết tin mình bị bán mình chuộc cha, bị đưa đẩy vào góc bể chân trời mà vẫn ngày đêm mong ngóng, chờ đợi mỏi mòn. Nàng thấy mình có lỗi, dằn vặt.
” Tấm son… cho giai”. Nàng cho mình bội bạc tình với Kim Trọng, bội ước lời nguyện ước với chàng Kim. Bao nỗi dằn vặt vò sẻ biết khi nào, bao giờ mới nguôi ngoai.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Kiều thương cho cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, chông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu, mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người chông nom.
Thành ngữ ” Quạt lồng ấp lạnh”, điển cố ” săn lại”, ” gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều, nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Mà sự đổi thay lớn nhất là gốc tử đã vừa người ôm – cha mẹ ngày càng già yếu, cụm từ ” cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian cách xa vừa nói sức mạnh tàn phá của tự nhiên, nắng mưa với cảnh vật con người khi nhớ về cha mẹ. Kiều luôn ân hận đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Trong cảnh ngộ ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” Kiều là người tình thủy chung, hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha. Nỗi nhớ người thân của Kiều được diễn tả qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm lên càng chân thực cảm động.
Tám câu cuối là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh, mỗi cảnh khơi gợi ở Kiều nỗi buồn khác nhau, những lí do buồn khác nhau, mỗi cặp lục bát tạo thành một cảnh.
” Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Đây là bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Cảnh chiều hôm muôn thỏa buồn nhớ, lại giữa không gian mênh mông cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc lỗi cô đơn buồn nhớ da diết về cha mẹ quê nhà. Đại từ ai sang âm điệu sầu thương. Câu thơ là một câu hỏi tu từ nhân lên như một niềm khao khát hoài vọng chông ngóng.
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn, nhìn cánh hoa trôi giữa dòng nước, Kiều lại buồn cho thân phận trôi nổi, vô định, lại sót xa cho số phận của mình. Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ gợi nỗi thương da diết. Câu hỏi tu từ ở đây như một lỗi băn khoăn tự thương cho bản thân.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Cảnh vật khá ấn tượng, không phải cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống nhưng mà là nộ cỏ rầu rầu, héo úa buồn bã cùng mành xanh trải dài từ mặt đất đến chân mây, càng khiến Kiều thêm vô vọng về cuộc sống tẻ nhạt, khô quạnh ở nơi này, cảnh mờ mịt như tương lai cũng cờ mịt của Kiều.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Chiều đã muộn, màu sắc như tối hơn, cảnh hiện lên mờ nhạt, âm thanh rộn lên mạnh hơn tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dằn của đời Kiều hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vong với thiên nhiên, Kiều không chỉ buồn mà lo sợ với sóng gió cuộc đời. Sóng gió ở đây là những ẩn dụ chỉ những tai hooaj đang rình dập đổ xuống cuộc đời Kiều. Như vậy cảnh của đoạn thơ cuối được nhìn từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tỉnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông nung đến âu lo kinh sợ. Bốn cặp câu lục bát sử dụng điệp ngữ ” Buồn trông – nghĩa là buồn mà nhìn xa ” mà không ngóng một cái gì mơ hồ, vô vọng. Điệp ngữ này kết hợp với những hình ảnh các từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo lên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng, điệp ngữ ” Buồn trông” tạo âm hưởng trầm buồn là điệp khúc đoạn thơ, điệp khúc tâm trạng.
Đoạn trích với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú sinh động giữa tả ngoại cảnh, tâm cảnh, tâm trạng Kiều. Bẽ bàng, sót xa, thẫn thờ khi lâm vào cảnh ngộ bơ vơ, bế tắc. Qua đoạn trích người đọc thấy được tấm lòng thương cảm, sẻ chia sót xa của tác giả đối với người phụ nữ tài sắc đức hạnh. Đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
|
My thoughts on the excerpt from Kieu at Ngung Bich floor
Instruct
My thoughts on the excerpt from Kieu at Ngung Bich floor
Assignment
One of the unique artistic features in "The Tale of Kieu" by great poet Nguyen Du is the penmanship in describing love scenes. The excerpt "Kieu at Ngung Bich Floor" is a picture of Thuy Kieu's mood when she was at Ngung Bich Floor. The poem describes the character's innermost feelings most successfully in The Tale of Kieu. Especially the art of depicting emotional love scenes.
More than 22 six-eight verses have a gentle, cool tone, filled with sadness. Almost no line, even words, images, or sounds in the poem more or less express the mood of the love character. Feeling humiliated, sad and worried when alone in front of Ngung Bich building, looking into the distance.
The first four verses are a picture of the nature around the building and also a picture of mood.
“In front of Ngung Bich building for spring class
The distant mountains and the near moon are together
The four surfaces are vast and far away
Golden sand dunes there, pink bushes there."
Kieu's situation at this time is vague and tragic. Kieu was released to Ngung Bich tower by Tu Ba but was actually placed under house arrest. She stood alone in the vast, desolate space. From the high floor, she looked out to all four directions, the distant mountains, the golden sand dunes stretching endlessly... Looking up, there was only a sliver of moon nearby. The images of distant mountains, a near moon, golden sand, and rose bushes can be real scenes or they can also be conventional images. To evoke the immensity and desolation of space. Thereby expressing Kieu's humiliated and pitiful mood.
“Embarrassed by the morning clouds and the late night lights,
Half a love, half a scene is like dividing a heart.
Looking at the clouds early in the morning, facing the lamp at night, people are awake to share. Alone with the moon - your closest friend.
“Thinking of people under the bronze bowl.
Hopeful news, but waiting for tomorrow.
In a lonely corner of the sky,
The body will never be washed until it fades."
Kieu could not help but imagine that Kim Trong still did not know that he had been sold to ransom his father, was pushed into the corner of the horizon and still waited day and night, waiting tirelessly. She felt guilty and tormented.
"The lipstick... for the stage". She thought she had betrayed her love for Kim Trong and her vow to Kim. So many torments, I don't know when or when they will subside.
Pity people lean on tomorrow's door
The fan is warm and cold while someone waits
San Lai is a few miles away from sun and rain
Sometimes sitting on the four legs is enough for a person to hug
Kieu feels sorry for her parents who lean on the door in the morning and afternoon, waiting for news of their child, hoping for help. She felt sorry for her parents when they were old and weak, but she was not able to take care of them herself and now there was no one to take care of them.
The idioms "Fan the cold incubator", the idiom "Hunt again", "The root of the child" all express the mood of missing Kieu's filial heart, she imagines the scene in her hometown has all changed. The biggest change is that the child's roots have become more huggable - the parents are getting older and weaker, the phrase "a few days of sun and rain" both speaks of the distance of time and the destructive power of nature, sun, rain and landscape. human beings when remembering their parents. Kieu always regretted giving birth and raising her parents. In the situation of "Kieu in Ngung Bich building", Kieu is a loyal lover, filial, and a person with an altruistic heart. Kieu's nostalgia for her loved ones is expressed through her inner monologue, making it even more touching and realistic.
The last eight lines are a poem describing a unique love scene that is both a real scene and a mental scene. Each scene evokes different sadness in Kieu, different reasons for sadness, each pair of hexagrams creates a scene.
"Sadly looking at the broken door this afternoon,
One boat sails looming in the distance?"
This is a picture of a homesick afternoon. The scene of that afternoon was filled with sadness and nostalgia, but in the vast space of the seaport there was only a sail looming in the distance. That scene evoked in the hearts of lonely wanderers the sadness and longing for their parents back home. The pronoun who has a sad tone. The poem is a rhetorical question that multiplies like an uncertain longing.
“Sad to see the new water fall,
Where is the flowers drifted?"
Kieu's gaze turned to the closer space, looking at the flower petals floating in the water, Kieu felt sad for her floating, uncertain fate, leaving her far behind in her fate. The image has a metaphorical meaning that evokes deep sadness. The rhetorical question here is like an error of self-pity.
“Sad to look at the sad grass,
Foot blue clouds green earth".
The scene is quite impressive, not green grass reaching the horizon full of life, but rather sad, withered grass and green curtains stretching from the ground to the clouds, making Kieu even more hopeless about life. It's boring and dry in this place, the scene is as unclear as Kieu's future is also uncertain.
The sound of waves crashing around the seats."
It was late in the afternoon, the colors seemed darker, the scene appeared blurred, the sound was stronger than the sound of waves, as if foreshadowing the fierce storms of Kieu's life or also the painful cry of Kieu perishing with nature. Kieu is not only sad but afraid of life's ups and downs. The waves here are metaphors for the disasters that are lurking in Kieu's life. Thus the scene of the last poem is seen from far to near. Colors range from light to dark, sounds range from calm to dynamic to express sadness, anger, anxiety, and fear. The four pairs of six-eight verses use the alliteration "Sadly looking - meaning sad but looking far away" without looking forward to anything vague or hopeless. This alliteration combined with images of repeated words: looming, far away, gloomy, sad, green, roaring creates a rhythm that describes increasing sadness, the alliteration "Sad looks" creates the sound. Feeling sad and sad is the chorus of the poem, the chorus of the mood.
In the excerpt with the unique art of depicting love scenes, Nguyen Du has portrayed a rich and vivid picture between describing the external scene, the mood, and Kieu's mood. Embarrassed, left out, absent-minded when falling into a helpless, deadlocked situation. Through the excerpt, the reader can see the author's compassion and sharing for the talented, beautiful and virtuous woman. The excerpt shows profound humanitarian values.
|
Cảm nhận của em về đồ chơi búp bê thủa nhỏ lớp 7
Hướng dẫn
Cảm nhận của em về đồ chơi búp bê thủa nhỏ lớp 7
Tuổi thơ của đứa trẻ nào có lẽ cũng có một món đồ chơi yêu thích. Có đứa thích bộ đồ chơi cá ngựa; có đứa thích con búp bê. Nhưng đối với tôi, món quà của bố tôi tặng trước khi đi nước ngoài – con gấu bông – là tôi thích nhất.
Cũng như trong văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê, hai em bé trong đó cũng có món đồ chơi yêu thích là hai con búp bê được đặt tên là vệ sĩ và em nhỏ. Cuối cùng, hai anh em tuy đã xa nhau nhưng vẫn yêu quí hai con búp bê này.
Còn tôi, con gấu bông của tôi như một người bạn theo tôi suốt bao năm học. Những món đồ chơi mà người lớn vẫn nghĩ chỉ là thứ vô tri vô giác nhưng đối với trẻ con chúng tôi thì không gì quý bằng. Nếu ai đó có tâm sự buồn, không thể nói ra cho người khác biết thì có thể tâm sự với những món đồ chơi. Chúng sẽ không trách mắng ta mà nó sẽ giúp ta giãi bày tâm trạng cho nhẹ bớt nỗi buồn.
Khi nhận được con gấu bông, lòng tôi bỗng xao xuyến lạ thường. Chỉ là một con gấu bông, một con gấu bông thôi mà sau tôi lại vui sướng đến vậy? Bây giờ tôi mới hiểu là vì nó còn chứa đựng tình cảm bố tôi dành cho tôi và tôi dành cho bố. Món quà của người thân trao tặng, ai mà chẳng yêu chẳng quý. Món quà đó được tôi giữ gìn có lệ là cẩn thận nhất.
Nhưng điều quan trọng là mặc dù con gấu bông đã hỏng nhưng tôi vẫn nhớ mãi kỷ niệm về nó – một kỷ niệm đẹp thời thơ ấu.
|
My feelings about the doll toys of my 7th grade childhood
Instruct
My feelings about the doll toys of my 7th grade childhood
Every child probably has a favorite toy in their childhood. Some kids like seahorse toys; Some people like dolls. But for me, the gift my father gave me before going abroad - the teddy bear - is my favorite.
Just like in the text "The Dolls' Farewell", the two babies in it also have their favorite toys, two dolls named bodyguard and little one. In the end, although the two brothers were far apart, they still loved these two dolls.
As for me, my teddy bear is like a friend who has followed me throughout my years of school. Toys that adults still think are just inanimate things, but for us children, there is nothing more precious than them. If someone has sad feelings and cannot tell others, they can confide in toys. They will not scold us, but they will help us express our feelings to ease our sadness.
When I received the teddy bear, my heart suddenly felt strangely excited. It's just a teddy bear, just a teddy bear, why am I so happy? Now I understand that it is because it also contains the feelings my father has for me and I have for my father. Who doesn't love or cherish a gift given by a loved one? I kept that gift with the utmost care.
But the important thing is that even though the teddy bear is broken, I still remember the memory of it forever - a beautiful memory of my childhood.
|
Cảm nhận hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
Hướng dẫn
Cảm nhận hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
Cuộc chiến tranh nào cũng có sự hi sinh, đổ máu, nước mắt và đi vào lòng của người dân. Những anh hùng, người lính vô danh đã hi sinh, nhưng văn học với sứ mệnh cao cả đã khắc họa rõ nét người chiến sĩ cách mạng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ở trong thơ Quang Dũng cũng tôn lên một bức tranh bất tử của người chiến sĩ yêu nước ngã xuống vì dân tộc.
Tây Tiến của Quang Dũng là chuỗi hồi ức về nổi nhớ đồng đội của nhà thơ. Người lính với tay cầm sung chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc, đã được khắc nét bằng bút pháp khác thường làm nổi bật lên một vẻ đẹp hào hùng của người lính đã mang lại nhiều cảm xúc nghẹn ngào cho người đọc. Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trong thơ, hình ảnh người lính xuất hiện giữa núi rừng hoang sơ, kì vĩ với vực thẳm, dốc đá, thác gầm,…cồn mây heo hút, sương lấp, cọp trêu người.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, cả câu văn đã giúp ta thấy được một hình ảnh đầy khó khăn gian khổ đang ở phía trước,Quang Dũng đã sử dụng các động từ rất mạnh “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của núi rừng nhưng các chiến sĩ vẫn mãi không lùi bước. “Súng ngủi trời” chỉ một độ cao vời vợi cùng với sự “lên cao, xuống thấp”của địa hình, sự nguy hiểm được tăng lên gấp bội đang vây quanh cuộc đấu tranh. Nhưng xa xa ở trên kia, ngôi nhà đang dần hiện ra trong cơn mưa xa “Nhà ai Pha Luông”” một địa danh vô cùng xa lạ, mờ mịt với người chiến sĩ, làm tăng thêm vẻ xa lạ, hoang sơ, mịt mù, bí ẩn của núi rừng, nhưng đó sẽ là điểm đến, là chỗ dừng chân, là khát vọng của các chiến sĩ. Trên khung cảnh thiên nhiên, dáng vẻ người lính xuất hiện thật oai liệt, luôn xung phong đương đầu mọi thử thách. Nhưng vẫn luôn yêu đời và lạc quan.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ trên gợi sự bi thảm, người lính đó đã chiến đấu hết mình, bỏ mặc tuổi thanh xuân, bỏ mặc nổi sợ hãi cái chết, bỏ mặc mọi thứ, chỉ quyết một điều, phải chiến đấu để quyết giữ hòa bình, độc lập cho dân tộc. Và họ đã hi sinh, ra đi ở nơi biên cương, không ai biết danh tính, không ai biết mặt, họ ra đi mà không để lại lời trăn trối gì, chỉ mong rằng anh em chiến sĩ đang ở lại, hãy viết nên bài hùng ca chiến trường, bài ca của người lính. Ôi sao thấy sót xa!
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Rừng núi hiểm trở, đâu đâu cũng có nguy hiểm đang rình rập, không ai chiều lòng người lính trẻ đang thiếu thốn mọi mặ từ thức ăn, đến mền, chiếu, thuốc thang,…đều không có đủ. Khí hậu lạnh, dịch sốt rét hoành hành, các chiến sĩ của chúng ta không có đủ phương tiện gì để chống lại, làm tóc tai rụng, biến thành những đội quân không mọc tóc. Nhìn làn da xanh ngắt vì thiếu ăn, vì ốm, họ trở thành những quân xanh oai hùm nhưng không khiến ta cảm thấy sợ hãi, mà trong lòng luôn thấy xót thương làm sao.
Và nhiều người đã hi sinh, không một mảnh chiếu để chôn cất, tấm áo mỏng manh thay thế cho tấm chiếu, họ được chôn cất tuy sơ sài, nhưng sâu trong lòng những người ở lại, họ vẫn mãi sống.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “Sông Mã” như một điệp khúc tiễn đưa người chiến sĩ về với đất mẹ vĩnh hằng, giống như đang ru ngủ, chở che các chiến sĩ, đây là một tình cảm thiêng liêng dành cho các chiến sĩ.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Ngoài vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ, xung quanh đó còn vẽ lên một nét đáng yêu, mơ mộng, lãng mạng nhưng không kém tinh nghịch, đậm chất những chiến sĩ trẻ trung.
Ánh lửa doanh trại phấp phới những hội đuốc hoa, những cô em với xiêm áo, tiếng kèn, tiếng nhạc hòa vào, làm tan chảy bao chàng chiến sĩ, bao cô gái. Một bức tranh thơ mộng, vừa thực vừa hư, tô vẽ lên bao ước mơ tươi đẹp.
Những con người sống và làm việc tại rừng núi hiểm trở, luôn chịu sự rình rập của nguy hiểm, có thể đổ máu và hi sinh bất kì lúc nào. Nhưng với họ, những người lính cách mạng luôn mang trong mình trọng trách bảo vệ đất nước. Họ không hề run sợ trước sự hung bạo của kẻ thù, sẵn sàng hi sinh vì dân vì nước, không tiếc thân mình.
|
Feel the image of the soldier in the poem Westward
Instruct
Feel the image of the soldier in the poem Westward
Every war has sacrifices, bloodshed, tears and goes into the hearts of the people. Anonymous heroes and soldiers sacrificed their lives, but literature with a noble mission clearly portrayed the revolutionary soldiers fighting against foreign invaders. In Quang Dung's poetry, he also portrays an immortal picture of a patriotic soldier who died for the nation.
Tay Tien by Quang Dung is a series of memories about the poet's longing for his comrades. The soldier with a gun in hand, fighting on the western border of the Fatherland, has been engraved with unusual penmanship, highlighting the heroic beauty of the soldier, bringing many choking emotions to the reader. The poem was published in 1948, two years after the outbreak of the resistance war against the French. In the poem, the image of a soldier appears in the midst of wild, majestic mountains and forests with abysses, rocky slopes, roaring waterfalls, ... desolate clouds, dense fog, and taunting tigers.
Uphill, winding and steep
Pigs smell the clouds, guns smell the sky
A thousand meters up, a thousand meters down
Whose house is Pha Luong, the rain is far away from the sea
"The slope is winding, the slope is deep", the whole sentence helps us see an image full of difficulties and hardships that lie ahead. Quang Dung used very strong verbs "tortuous", "deep". ” to exude the heroic beauty of the mountains and forests, but the soldiers still do not retreat. "Guns are shooting in the sky" refers to a great height and with the "up and down" of the terrain, the danger is doubled surrounding the struggle. But far away up there, the house is gradually appearing in the distant rain "Pha Luong's house" a place that is extremely strange and obscure to the soldiers, adding to the strange, wild, and obscure look. blind and mysterious in the mountains and forests, but that will be the destination, the stopping place, and the aspiration of the soldiers. In the natural landscape, the soldier's appearance appears majestic, always volunteering to face all challenges. But always love life and be optimistic.
Going to the battlefield does not regret the green life
The two verses above evoke tragedy, that soldier fought with all his might, abandoned his youth, abandoned the fear of death, abandoned everything, determined only one thing, to fight to keep peace. , independence for the nation. And they sacrificed, left on the border, no one knew their identities, no one knew their faces, they left without leaving any last words, only hoping that the soldiers who were staying behind, would write. battlefield epic, soldier's song. Oh how I missed it!
The army marching to the West did not grow any hair
The green army has a fierce green color
The mountains and forests are dangerous, there are dangers lurking everywhere, no one pleases the young soldier who lacks everything from food, to blankets, mats, medicine,... all of which are not enough. The cold climate and malaria epidemic raged, our soldiers did not have enough means to fight back, causing their hair to fall out, turning into armies that did not grow hair. Looking at their pale skin due to lack of food and illness, they become majestic green soldiers but it does not make us feel afraid, but in our hearts we always feel pity.
And many people sacrificed, without a mat to bury, a thin shirt replaced the mat, they were buried poorly, but deep in the hearts of those who stayed, they still live forever.
Ma River roars its solo song
The image of "Ma River" is like a chorus sending the soldiers back to their eternal motherland, as if lulling and protecting the soldiers. This is a sacred sentiment for the soldiers.
The barracks lit up with a festival of torches and flowers
Look how long I've been wearing clothes
He sang her shy melody
Music about Vientiane builds poetic soul
People go to Chau Moc on that foggy afternoon
I can see the soul wiping away the shore
Do you remember the figure on the dugout?
Flowing in a flood of swaying flowers
In addition to the heroic beauty of the soldiers, there is also a lovely, dreamy, romantic yet mischievous character surrounding it, imbued with youthful soldiers.
The firelight of the barracks fluttered with torches and flowers, the girls with their clothes, the sounds of trumpets, and music mixed in, melting many soldiers and girls. A poetic picture, both real and unreal, painting many beautiful dreams.
People who live and work in the rugged mountains and forests are always exposed to danger, and can shed blood and sacrifice at any time. But for them, revolutionary soldiers always carry the responsibility of protecting the country. They were not afraid of the enemy's violence, ready to sacrifice for the people and country, without sparing themselves.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi
Bài làm
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng – Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát…, vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
(Thuật hứng – Bài 24)
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập – Bài 160)
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào.
|
Topic: Feelings when reading Song of Con Son by Nguyen Trai
Assignment
Song of Con Son (Con Son ca) is a famous Chinese poem. Perhaps Nguyen Trai wrote this poem during the period when he told his mandarins to go into hiding in Con Son to keep his soul noble and pure.
For Nguyen Trai, Con Son is a land with strange attraction. That's why the two times he told the mandarin to go into hiding, he returned to Con Son. And the quiet Con Son mountains and forests have become a private world full of love and attachment to the poet. In Con Son, Nguyen Trai can live with himself. It seems that nature has become the salvation for his soul - a soul in pain because of the world's human situation. At Con Son, everything became sentimental and meaningful to him, like a companion, like a friend:
Neighboring mountains, companion birds
Cloud guests, moon brother tam
(Inspiration – Lesson 19)
The landscape of Con Son is quiet and open, allowing Nguyen Trai's soul to return to it, rushing into it and forgetting all its worries:
Con Son stream murmurs
I hear the sound of a harp in my ears
Con Son has moss-dried rocks
I sit on the rock like sitting on a soft mat
In the rapids, pine trees grow like wedges,
Find a shady place to go up and lie down.
In the forest there is shade of bamboo,
In the cool green we recite leisurely poetry.
(Excerpt from Con Son Ca).
The opening paragraph of the song Con Son Ca gives readers many new feelings about Uc Trai's poet's soul. In his feelings, the landscape of Con Son appeared poetic and romantic: there was the sound of a murmuring stream, there were rocks with soft moss drying, there was a thick, dense pine forest, there was a cool green bamboo forest..., and there was The wildness of nature, but also the warmth of life full of human love. Furthermore, in the poet's eyes, nature is not just a scene, but has become a home. That natural house is very special: the stream is the instrument, the moss is the mat, the pine shade is the bed, and the bamboo shade is the place to recite poetry. What a delight! And in that natural house, he let his soul harmonize with the scene and redraw it with a talented pen.
The natural picture is punctuated by the murmuring sound of the stream, which is felt like the sound of a guitar:
Con Son stream murmurs,
I hear the sound of a harp in my ears.
A truly unique and sexy comparison image. Is the stream flowing or has the poet let his soul into the sound of the stream, making the lute vibrate to express his desire to love life?
Five hundred years later, poet Ho Chi Minh also had the same feeling:
The sound of the stream is as clear as singing in the distance
Have the artistic souls found each other?
After moments of relaxing his soul with the sound of the stream, the poet quietly sat next to the rocks that time had covered with moss. Do you sit and admire the scenery, or play chess alone? Probably both. In this world, many people have sat on rocks, but how can they feel like poets?
Con Son has moss-dried rocks,
I sit on the rock like sitting on a soft mat.
An interesting comparison image that makes us surprised. Nguyen Trai returned to Con Son not to live in seclusion in the true sense of seclusion, but he returned to Con Son with the joy and freedom of a person returning to his home (Hoang Phu Ngoc Tuong). And in that house, he could not only freely listen to forest music, sit on rocks and play chess, but also lie under the shade of pine trees and recite leisurely poetry under the shade of green bamboo. A life where people and scenes are intertwined and integrated into each other. Uc Trai's heart was strangely peaceful.
Never has Uc Trai's poet's soul been revealed so fully, so deeply and so passionately!
Also here in Con Son, Uc Trai's poetic soul continues to open up to receive nature, bringing nature back to fill the warehouse:
The warehouse is full of wind and moon through the roof
The boat carrying bird's nest is very heavy
(Inspiration – Lesson 24)
His love for nature is so deep that the poet is afraid of the fading flowers and does not dare to sweep the house:
Open the door, wait for the scent of cinnamon to enter at night,
Sweeping the porch, waiting for the flowers to fade all day
(Quoc Am exam practice – Lesson 160)
Nguyen Trai's noble personality and poet's soul are truly a shining example for us to look up to.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài Cốm – một thứ quà của lúa non
Bài làm
Trong những năm 30 của thế kỉ XX, trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một hiện tượng mới lạ của văn học: Thạch Lam. Là thành viên của Tự sự văn đoàn nhưng khác với những người anh của mình, Thạch Lam không khai thác đề tài từ những tình yêu trai gái lãng mạn, mà hướng ngòi bút của mình vào thế giới của những điều bình dị, mộc mạc, gần gũi với cuộc sống con người. Là một cây bút tinh tế, nhạy cảm, văn Thạch Lam đem đến cho người đọc những rung cảm đẹp về cuộc sống và con người.
Từ một cây bút sở trường về truyện ngắn, vốn đã nổi tiếng trên văn đàn bởi những truyện ngắn giàu chất thơ, Thạch Lam đặt chân lên một miền đất mới của văn chương và gặt hái được nhiều thành công vang dội bằng tập tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường.
Tập tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường viết về những nét sinh hoạt, những thứ quà bình dị, những phố phường, cửa hiệu., ở Hà Nội trước năm 1945. Đây là một sáng tác có giá trị rất lớn về văn hoá, phong tục và chứa đựng cả tấm lòng yêu mến quê hương đất nước, những quan niệm cần trân trọng. “Một thứ quà của lúa non: Cốm” là một sáng tác trong tập tuỳ bút ấy.
Cốm là một thứ quà bình thường và phổ biến trong dân dã. Nhưng đã mấy ai như Thạch Lam, lại có con mắt tinh tường và sự cảm nhận sâu sắc đến thế.
Mạch cảm xúc của bài văn bắt đầu từ hương thơm của lá sen, trong làn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên mặt hồ. Hương thơm ấy gợi nhắc đến hương vị của cốm, thứ quà đặc biệt của lúa non. Một cảm giác thật tinh tế. Cảm giác ấy càng tinh tế hơn khi nhà văn mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả hương vị nồng nàn và thanh khiết của cánh đồng lúa, của lúa non:
Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên mặt hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, nhủ báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc đầu tiên làm trĩu thân lúa non tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không. Trong cái vỏ xanh kín, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của trời.
Một đoạn văn thật hay và thấm đượm cảm xúc trữ tình, gợi lên cho người đọc cái tình quê bâng khuâng, man mác.
Cốm là một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Nhưng để có thứ quà ấy, còn nhờ đến bàn tay khéo léo của con người. Ngòi bút Thạch Lam đã khéo dẫn dắt người đọc đến chiêm ngưỡng tài hoa của những người làm cốm. Nhà văn không đi sâu miêu tả công việc làm cốm, mà chỉ lưu ý rằng đó là một nghệ thuật với một loạt cách chế biến, những cách thức làm truyền từ đời này sang đời khác, một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn. Trong cảm xúc của Thạch Lam, hình ảnh những cô gái hàng cốm làng Vòng hiện ra xiết bao thân thương, trìu mến.
Từ cái cảm nhận về hương cốm và sự hình thành hạt cốm từ những gì tinh tuý của thiên nhiên và sự khéo léo của con người, mạch cảm xúc của Thạch Lam chuyển sang ca ngợi giá trị của Cốm:
Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dăng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.
Một giá trị đặc sắc chứa đựng trong những hạt cốm bình dị, khiêm nhường mà không phải ai cũng nhận thấy. Phải yêu quê hương đất nước, yêu những sản vật của quê hương đất nước nhiều như Thạch Lam mới có thể phát hiện ra cái chân giá trị ấy của cốm.
Những dòng bình luận của Thạch Lam về giá trị của việc dùng cốm làm lễ vật sêu tết đem đến cho người đọc một cảm nhận mới mẻ, giúp ta hiểu ra được cái ý nghĩa sâu xa ẩn chứa trong tục lệ giản dị này. Một nét đẹp văn hoá cần phải giữ gìn. Chỉ tiếc cho những kẻ không có học, học đòi bắt chước người ngoài. Một sự phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía.
Ở đoạn cuối cùng của bài tuỳ bút, Thạch Lam chuyển sang bàn luận về sự thưởng thức cốm. Trong chúng ta mấy ai đã nghĩ tới việc phải ăn món quà bình dị đó như thế nào? Với Thạch Lam, ăn Cốm vốn là thưởng thức những giá trị kết tinh ở đó, vì thế: Ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu cả lại trong hương vị ấy, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc.
Chao ôi, cảm quan nghệ thuật của Thạch Lam mới tinh nhạy làm sao, khiến ta không thể không ngẫm suy.
Bài tuỳ bút kết thúc bằng một lời đề nghị hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chắt chiu mà vuốt ve. Phải, nên trân trọng cái lộc của Trời, cái khéo của người và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa. Sự thưởng thức… sẽ được trang nhã và đẹp đẽ hơn, và cái vui cũng sẽ được tươi sáng hơn nhiều lắm.
Một lời đề nghị thật đẹp, thật thiết tha của một ân tình sâu nặng với thứ quà của lúa non.
Để biểu đạt ý tưởng và cảm xúc, Thạch Lam rất chú ý tới việc sử dụng những từ ngữ chọn lọc tinh tế, những câu văn giàu nhịp điệu, những hình ảnh giàu chất thơ. Vì thế bài tuỳ bút trở thành một sáng tác nghệ thuật khá đặc sắc, thấm đượm chất trữ tình.
Văn Thạch Lam quả là làm cho tâm hồn người ta phong phú và thanh sạch hơn.
|
Topic: Feelings when reading the article Com - a gift of young rice
Assignment
In the 30s of the twentieth century, a new literary phenomenon appeared on the Vietnamese literary scene: Thach Lam. As a member of the Narrative Van Group, but unlike his brothers, Thach Lam does not explore the topic of romantic love between boys and girls, but directs his pen to the world of simple, rustic things. , close to human life. As a delicate and sensitive writer, Thach Lam's writing brings readers beautiful vibes about life and people.
From a writer with a knack for short stories, already famous in the literary world for his poetic short stories, Thach Lam set foot on a new land of literature and achieved many resounding successes with his essay collection. Hanoi has divided six streets.
Hanoi's essay on six streets writes about daily life, simple gifts, streets, shops, etc., in Hanoi before 1945. This is a work of great cultural value. , customs and contains the love for the homeland and the concepts that need to be cherished. "A kind of gift from young rice: Com" is a composition in that essay.
Com is a normal and popular gift in the countryside. But there are few people like Thach Lam, who have such sharp eyes and deep perception.
The emotional flow of the essay begins with the scent of lotus leaves, in the summer breeze passing through the lotus sesame seeds on the surface of the lake. That fragrance reminds of the flavor of green rice, a special gift of young rice. A truly delicate feeling. That feeling becomes even more subtle when the writer opens his heart to receive all the passionate and pure flavors of the rice fields and young rice:
The summer breeze passes through the lotus flowers on the surface of the lake, permeating the scent of the leaves, heralding the coming season of an elegant and pure gift. Have you smelled the fresh, fragrant scent of young rice as you walked through the green fields, the first grain of rice weighing down the fresh young rice stalks? In the closed green shell, there is a drop of fragrant white milk, with a subtle scent of thousands of flowers and grass. Under the sunlight, the milk drops gradually coagulate, the rice ears become more and more bent, heavy because of the pure precious quality of heaven.
A beautiful passage imbued with lyrical emotions, evoking to the reader a wistful, romantic love for the countryside.
Com is an elegant and pure gift. But to have that kind of gift, it also depends on the skillful hands of humans. Thach Lam's pen skillfully leads readers to admire the talents of those who make green rice. The writer does not go into detail describing the work of making green rice, but only notes that it is an art with a series of processing methods, passed down from generation to generation, a secret that is cherished and rigorous. keeping. In Thach Lam's feelings, the image of the girls at the nuggets shop in Vong village appeared so loving and affectionate.
From the feeling of the scent of green rice and the formation of rice grains from the essence of nature and human ingenuity, Thach Lam's emotions turned to praising the value of green rice:
Com is a unique gift of the country, a dish of the vast green rice fields, carrying in its flavor all the simplicity, simplicity and purity of the An Nam countryside.
A unique value is contained in simple, humble grains that not everyone notices. You have to love your homeland and its products as much as Thach Lam to be able to discover the true value of green rice.
Thach Lam's comments on the value of using green rice as a Tet offering give readers a new feeling, helping us understand the profound meaning hidden in this simple custom. A cultural beauty that needs to be preserved. I only pity those who are uneducated and want to imitate outsiders. A gentle yet poignant criticism.
In the final paragraph of the essay, Thach Lam turns to discuss the enjoyment of green rice. How many of us have thought about how to eat that simple gift? For Thach Lam, eating Com means enjoying the crystallized values there, so: Eating Com must be eaten little by little, leisurely and thoughtfully. Only then can we see the whole harvest in that flavor, the fragrant smell of new rice, of the wild flowers along the shore: in the green color of green rice, the freshness of young leaves, and in the sweetness of green rice, the gentle and frugal of herbs.
Oh my, Thach Lam's artistic sense is so sharp that I can't help but ponder.
The essay ends with a suggestion to gently support and caress carefully. Yes, we should appreciate God's blessings, people's ingenuity and the potential effort and patience of the Rice God. The enjoyment... will be more elegant and beautiful, and the joy will also be much brighter.
Such a beautiful, passionate proposal of a deep love for the gift of young rice.
To express ideas and emotions, Thach Lam pays great attention to using delicately selected words, rhythmic sentences, and poetic images. Therefore, the essay becomes a quite unique artistic composition, imbued with lyricism.
Van Thach Lam truly makes people's souls richer and purer.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch
Bài làm
Có ai đi xa mà chẳng nhớ về quê hương làng xóm. Nơi đã gắn bó máu thịt trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Với Lý Bạch, thi nhân suốt đời chống kiếm lãng du luôn nặng tình với quê hương. Tình cảm ấy thể hiện da diết mãnh liệt, dâng trào, nó được nâng cánh bằng cảm hứng lãng mạn, bay bổng diệu kỳ qua bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh.
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Từ xưa đến nay các thi nhân bao giờ cũng mượn cảnh để bày tỏ nỗi niềm tâm sự. Một bức tranh đẹp ập vào mắt ta trước tiên cũng là cảnh và sau đó là tình, tả tâm trạng ẩn chứa bên trong Lý Bạch – “thi tiên” của đời Đường Trung Quốc ngay từ những dòng thơ đầu đã dẫn ta vào một thế giới tràn đầy ảo diệu.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Ấn tưọng đầu tiên là trăng, trăng ở khắp mọi nơi không chỉ giới tận nơi đầu giường lữ khách. Đêm khuya thanh tĩnh, bốn bề vắng lặng ta nghe những bước trăng nhẹ nhàng len lỏi phủ khắp không gian. Trăng như dòng suối miên man chảy trong đêm sâu. Trăng dịu mát vuốt ve cảnh vật trong cái tĩnh lặng đến khôn cùng. Trong đêm thâu, không gian bốn bề vắng lặng, không một tiếng gió thổi, một tiếng côn trùng kêu, cũng chẳng có một tiếng chuông chùa ngân buông… chỉ có trăng sáng trải khắp không gian. Ánh trăng gợi cảm giác lâng lâng lạ thường, ánh trăng giờ đây là chủ thể. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp trong sáng nhất. Cuộc sống trở về những nhịp thâm trầm, trút bỏ cái náo động, xô bồ của ban ngày. Trăng đẹp hiền dịu biết bao, trăng tìm đến với con người. Bác Hồ của chúng ta cũng là một lãnh tụ rất yêu trăng:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Bác Hồ đành từ chối người bạn tri âm tri kỷ bởi còn bận việc nước. Còn với Lý Bạch người lãng tử trong phút dừng chân nơi quán trọ để trọn lòng mình đến với trăng. Trăng đẹp và thơ mộng quá. Đêm đã sang canh êm đềm thanh tĩnh lúc này chỉ có trăng và nhà thơ. Và rồi không thể hững hờ với vầng trăng đã từng làm bạn từ ngày còn hẹn hò trên núi Nga Mi. Lý Bạch ngẩng đầu ngắm trăng, trăng gặp thi nhân như hai kẻ tri âm tri kỷ, cảm động không nói nên lời.
Trong phút đối diện bất ngờ ấy, sự liên tưởng lãng mạn kèm theo sự hoài nghi diệu kỳ. Trăng hay là sương mặt đất? Ánh trăng hắt qua song cửa hay là sương khói mông lung? Trăng thực đấy mà sao mờ mờ, ảo ảo khó nắm bắt đến kỳ lạ. Cái sương khói của ánh trăng làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực, trăng sáng mà sáng bàng bạc huyền ảo. Trăng ở quanh thi nhân như tầng tầng lớp lớp. Trăng làm cho căn phòng hẹp của thi nhân và mặt đất bao la hoà làm một, và cũng rất tự nhiên:
Cửu đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cô hương)
Đêm nay nhìn trăng sáng nơi quê người, nỗi lòng mãnh liệt, tha thiết trong lòng đứa con xa quê trỗi dậy, day dứt khôn nguôi. Ánh trăng thời trai trẻ năm nào trên núi Nga Mi hiện về. Quá khứ, hiện tại, quê nhà, quê người, thành công, thất bại, hy vọng.. đan xen trĩu nặng trong lòng tác giả, ánh trăng đêm nay sáng quá và nó gợi bao kỷ niệm. Ngẩng đầu nhìn trăng là tư thế hướng ngoại, cúi đầu là nhớ về cố hương (hướng nội). Hai tư thế ngẩng đầu, và cúi đầu, hai tâm trạng nhìn và nhớ, hai đối tượng làm trĩu lòng kẻ xa quê. Hai hình ảnh trăng sáng và cố hương đi sóng đôi nhau biểu hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết. Nhớ cố hương là nhớ tới gia đình, người thân, nhớ tới thời thơ ấu với bao mộng tưởng đẹp đẽ. Thế mới biết quê hương là những gì thiêng liêng nhất, một ngôi nhà, một góc phố, một cánh đồng, một dòng sông…
Nhà thơ Chế Lan Viên có câu:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn
(Tiếng hát con tàu)
Tình yêu quê hương đã thành máu, thành hồn. Nó được thể hiện qua những cung bậc của tình cảm. Nỗi nhớ quê hương qua sự khơi gợi của ánh trăng dội về mãnh liệt. Tình yêu quê hương với cả một bức tranh chan chứa ánh trăng làm nền bay cao mãi, xa mãi, ngân vang mãi khúc nhạc lòng của chàng trai trẻ ngày nào trên núi Nga Mi. Câu thơ cuối khép lại nhưng tình nhưng ý còn chưa dứt. Dù chỉ trong hai mươi chữ, nhưng cuối cùng ấn tượng đậm nét trong ta về Lý Bạch là một con người luôn gắn bó với cố hương.
Quả thật Lý Bạch với tình yêu quê hương đất nước tha thiết, mãnh liệt được nâng cánh bằng những cảm hứng lãng mạn tuyệt vời. Tĩnh dạ tứ đã hâm nóng những mạch cảm xúc trong ta, ta yêu quý trân trọng và hoà cùng những dòng thơ Lý Bạch chính là làm cho giá trị đích thực của thi ca chuyển tải thế giới nội tâm con người sống mãi với thời gian. Lý Bạch đã góp phần làm cho diện mạo thơ Đường thêm phong phú.
|
Topic: Feelings when reading the poem Feelings in a Quiet Night by Ly Bach
Assignment
There is no one who goes far away and doesn't remember his hometown or village. The place that has bonded flesh and blood in the souls of each of us. For Ly Bach, the poet who spent his life fighting the sword and wandering around always had a strong love for his homeland. That feeling is expressed intensely and surging, it is lifted by romantic inspiration, soaring magically through the song "Thoughts in a Quiet Night".
The head of the bed is illuminated by moonlight
I thought the ground was covered in frost
Raise your head and look at the bright moon
Bow your head and remember your homeland
From ancient times until now, poets have always borrowed scenes to express their feelings. A beautiful painting that strikes our eyes is first of all a scene and then a love, depicting the mood hidden inside Ly Bach - the "poetic fairy" of China's Tang Dynasty. Right from the first lines of the poem, it leads us into a world. The world is full of magic.
Sieve the moonlight
Nghi Thi Thi upper land dew
The first impression is the moon, the moon is everywhere, not just at the traveler's bedside. Late at night, it's quiet, all around is quiet, we hear the gentle steps of the moon creeping across the space. The moon is like an endless stream flowing in the deep night. The cool moon caresses the landscape in utter silence. In the deep night, the space was quiet on all sides, there was not a sound of wind blowing, a sound of insects chirping, nor a temple bell ringing... only the bright moon spread throughout the space. The moonlight evokes a strange feeling of euphoria, the moonlight is now the subject. Nature appears with its purest beauty. Life returns to its deep rhythms, letting go of the chaos and hustle and bustle of the day. The moon is so beautiful and gentle, it reaches out to humans. Our Uncle Ho is also a leader who loves the moon very much:
The moon came into the window asking for poetry
The army is busy, please wait until the next day
Uncle Ho had to refuse his close friend because he was busy with state affairs. As for Ly Bach, the romantic one stopped at the inn to devote his whole heart to the moon. The moon is so beautiful and poetic. The night has come, it's peaceful and quiet, now there's only the moon and the poet. And then you can't be indifferent to the moon that has been your friend since your date on Mount Nga Mi. Ly Bach raised his head to look at the moon. The moon met the poet like two confidants, moved beyond words.
In that moment of unexpected confrontation, the romantic association was accompanied by wonderful doubt. Moon or dew on the ground? Moonlight shining through the window or is it mist? The moon is real but the stars are dim, illusory and strangely difficult to grasp. The mist of moonlight makes the poem filled with a dreamy atmosphere, unreal and real, the moon is bright and silvery and magical. The moon surrounds the poet like layers. The moon makes the poet's narrow room and the vast ground become one, and also very naturally:
Nine heads of bright moon,
To invest in the homeland
(Raise your head and look at the bright moon
I bow my head and miss you.)
Tonight, looking at the bright moon in my hometown, the intense, passionate feeling in the heart of a child far from home arose, tormenting me endlessly. The moonlight of my youth on Mount Nga Mi appears. The past, present, home, hometown, success, failure, hope... weigh heavily in the author's heart. The moonlight tonight is so bright and it evokes so many memories. Raising your head to look at the moon is an extrovert posture, bowing your head is remembering the homeland (introversion). The two postures of raising and bowing the head, two moods of looking and remembering, two objects that weigh down the hearts of those far from home. The two images of the bright moon and the homeland going side by side represent a soul that loves nature and loves the homeland passionately. Missing the homeland means remembering family, relatives, remembering childhood with many beautiful dreams. Only then do we know that homeland is the most sacred thing, a house, a street corner, a field, a river...
Poet Che Lan Vien has a sentence:
where we stay that lead a stay
When we leave, the land suddenly turns into a soul
(Ship singing)
Love for the homeland has turned into blood and soul. It is expressed through levels of emotions. The nostalgia for homeland through the evocation of moonlight comes back strongly. The love of the homeland with a picture filled with moonlight as the background flies high and far away, forever echoing the heart song of the young man on Nga Mi mountain. The last verse ends, but the love and meaning are not over yet. Even though it's only twenty words, in the end the strong impression we have of Ly Bach is a person who is always attached to his homeland.
Indeed, Ly Bach's passionate and intense love for his homeland was boosted by wonderful romantic inspiration. The calm mind has warmed up the emotions within us, we love, cherish and blend with the lines of Ly Bach's poetry to make the true value of poetry convey the inner world of people who live forever over time. . Ly Bach contributed to enriching the appearance of Tang poetry.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt
Bài làm
Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí- Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.
Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tác như sau:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thành:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch)
Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.
Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà – Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe doạ bởi tư tưởng ngông cuồng kia.
Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!
Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.
Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí – Trần, khiến người đọc rưng rưng! Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.
|
Topic: Feelings when reading the poem Nam Quoc Son Ha by Ly Thuong Kiet
Assignment
Nam Quoc Son Ha is one of the literary masterpieces of the literature of the Ly and Tran dynasties. It is a work that crystallizes the enthusiasm of the times and the emotions of all hearts. Therefore, it represents the independent spirit, heroic spirit and great aspirations of the nation in the early days of building a nation. independent feudalism.
Rivers and Mountains of the South is a Chinese poem, following the seven-word, four-literate Tang rule form. The original work is as follows:
Southern country of mountains and rivers
Southern country, mountains and rivers, Southern empire
However the natural pasteurized at a department
Like the breach of the hole invasion
Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft.
Translates to:
Southern rivers and mountains
Southern rivers and mountains where the Southern king lives
The heavenly book divides the land
Why did the evil enemy commit this crime?
They fly and must fall apart.
(According to Le Thuoc - Translated by Nam Tran)
Legend has it that, during the resistance war against Song under the Ly Dynasty, one dark night on the Nhu Nguyet line, from the temple of the two gods Truong Hong and Truong Hat (two good generals of Trieu Quang Phuc, revered as Nhu River gods). Nguyet), the poem resonated (That's why people call this poem divine poetry). But whether read by gods or humans, the poem is still the aspiration and spirit of Dai Viet.
The idea of protecting independence and resolutely fighting against foreign invaders is expressed directly through a quite strict and dialectical line of argument. The poem begins with a strong declaration of national sovereignty:
Southern country, mountains and rivers, Southern empire
The 7-hour poem creates two rhythmically symmetrical clauses: Nam Quoc Son Ha - Nam De Residence. In particular, the author's use of words expresses the poetic ideas and emotions very well. The two words Nam Quoc and Nam De can be considered the eyes of the verse and the whole poem. In the thinking of the ancient Chinese feudal rulers - there is only the Northern Emperor, not the Southern Emperor. The Chinese emperor is the only emperor of the world, ruling the world on behalf of heaven. Therefore, when they invaded the South and imposed domination, they blatantly turned our country into a district of China. The independence we have regained today is soaked in a lot of the blood our ancestors shed for more than a thousand years. And now that independence is still threatened by that extravagant ideology.
Return to the ideological content contained in the language of the verse. Nam Quoc not only means the South, but Nam Quoc is also the position of our Southern country. Although small, that country exists independently, standing shoulder to shoulder with a great power in the North like China. Furthermore, that country has sovereignty and has an emperor (Nam Emperor). The emperor of the Southern country has no less authority than the Chinese emperors, he is also an emperor, given the title by the supreme being, given the right to govern a separate land to establish his country and society. :
However the natural pasteurized at a department
The rivers and mountains of the South belong to the Southern people. That is the obvious. No one has the right to deny? Because the delimitation of mountains, rivers, and borders is not the subjective will of one person or a few people, but is determined by "Heaven". The territorial boundary map of countries has been imprinted in the book of heaven: Who can change it?!
The author of the poem gave very valid arguments. Through reasoning, a concept and a sacred and noble truth emerged: the truth of the independent and sovereign existence of the Dai Viet people.
Still with those strong arguments, the author continues to affirm:
Like the breach of the hole invasion
Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft.
What a resilient spirit! On behalf of the whole nation, the poet loudly warned the invaders: If you violate this land, you have violated the book of heaven; But breaking the law of heaven means doing something against morality and becoming a great disobedient person. How can Heaven and Earth forgive him? On the other hand, if they violate this boundary, they violate the sacred sovereignty of a nation, especially that nation is a nation with resilient character and strong independent will. Failure will be inevitable, even being beaten to the point of defeat.
Never before in Vietnamese literature has there been such a heroic spirit! The poetic emotions are so intense, creating political lyricism - a characteristic of the poetry of the Ly - Tran dynasties, making readers cry! And thousands of years later, the poem is still the sacred soul of the mountains and rivers echoing back.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) của Trần Quang Khải
Bài làm
Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải (1241-1294), con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tuớng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc.
Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) cũng đủ để thành một tên tuổi.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải: 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹp:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức.
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch)
Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch.
Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng ca:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi.
Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó.
Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khác:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi (chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công), đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục!
Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết (tu trí lực) của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông.
Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời.
|
Topic: Feelings when reading the poem "Pho Gia about Kinh Su" (Chanting Gia Hoan Kinh Su) by Tran Quang Khai
Assignment
Grand Master Tran Quang Khai (1241-1294), the third son of King Tran Thanh Tong, was not only an outstanding general but also a poet who left his mark in national literature.
Tran Quang Khai doesn't write much poetry, but just one poem like Pho Gia on Kinh Su (Chanting Gia Hoan Kinh Su) is enough to become a name.
The poem was born in a special situation, amidst the heroic and ecstatic atmosphere of the glory of victory. And its author, a brilliant general, whose name once had: 10 times made the enemy terrified, who had just made great achievements in battle, now proudly held the responsibility of supporting the return of the two kings. capital in the triumphant song of the nation. That is the scene of lovemaking. In the aura of victory, our general-poet's soul suddenly overflowed with poetic inspiration, crystallizing into beautiful poems:
Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive.
That country is thousands of years old.
(Translated by Tran Trong Kim)
It seemed that the poet was so overwhelmed by the joy of victory that he couldn't say much. So many emotions and thoughts are packed into four strong, muscular lines of five words.
The two opening sentences are hot with the breath of battle and full of epic character:
Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Chuong Duong and Ham Tu were two famous victories of Dai Viet in the great resistance war against the Mongol invaders in 1285. For the army and people of the Tran Dynasty at that time, just mentioning the names Chuong Duong-Ham Tu was enough to Enough to feel excited. In particular, for Lieutenant General Tran Quang Khai, who directly commanded and achieved victory in the battle of Chuong Duong, and also contributed to effectively supporting Tran Nhat Duat in the battle of Ham Tu, he was even more disturbed. nervous.
The author does not describe the scene of fire and smoke, nor does he describe the decisive battle of our troops, but only recounts it in a way that lists events, but still brings to life a heroic battle atmosphere by the sound of swords. , the neighing of horses, the sound of weapons, and the resounding screams of attack. The seductive power of the simple but resolute, solid way of speaking is there.
So just as the emotional flow of the first two sentences is directed towards the battle and the aura of victory, in the following two sentences, the emotional thread opens in a different direction:
Peace should strive,
That country is thousands of years old.
Still with two short, firm verses but filled with emotions, moods and many thoughts. The newly victorious general was on his way back to the capital. He had not yet had time to rest (let alone enjoy his victory), but he was already worried about his country, hoping for eternal peace for thousands of generations to come. after. How touching and admirable!
However, Tran Quang Khai deeply feels that peace is not what he expected. To have it, it is necessary to have the whole heart and joint efforts, with much enthusiasm (cultivation of wisdom) of the court and hundreds of families, including his own efforts.
The poet's wish is the wish of an entire nation, of millions of hearts of Dai Viet past and present. Therefore, the two concluding lines with the humanistic inspiration of peace have given the poem a new, sparkling beauty that will last forever.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài thơ Thiên trường vãn vọng của Trần Nhân Tông
Bài làm
Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc – thời đại Đông A. Nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta cũng nghĩ ngay tới vị tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhà hiền triết của Đạo Phật. Trần Nhân Tông không chỉ là người – anh hùng cứu nước, vị vua sáng, nhà hiền triết, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao, phóng thoáng và một cái nhìn tinh tế, tao nhã.
Trần Nhân Tông đã từng nổi tiếng với những câu thơ rất đỗi hào hùng:
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
(Tức sự)
Và nhà vua còn làm người đời ngạc nhiên hơn bởi một hồn thơ mang nặng tình quê thắm thiết. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) là một hồn thơ như thế.
Từ Thăng Long về thăm quê cũ Thiên Trường (Nam Định ngày nay), từ trên cung điện ở phủ Thiên Trường, nhà vua phóng tầm mắt ra xa. Một cảnh tượng mở ra trước mắt ông xiết bao trìu mến:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh của một vùng quê trầm lặng, yên bình (Cái yên bình của một cuộc sống thái bình). Trời đã về lúc chiều tối, thôn xóm chìm dần vào làn khói sương lãng đãng, mờ ảo. Có lẽ, đó là vào dịp thu đông. Có bóng chiều, sắc chiều đấy nhưng chỉ man mác, chập chờn, nửa như có, nửa như không.
Cái thời điểm giao thời giữa ngày và đêm ở chốn thôn quê gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Nó bâng khuâng, xao xuyến thật khó tả:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không.
Và vì thế, cuộc sống càng trở nên thân thương. Chỉ một hình ảnh rất bình thường: những đứa trẻ đang dắt trâu về làng, vừa đi, vừa thổi sáo, cũng khiến nhà vua chú ý và đưa vào trong thơ:
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết.
Phải chăng tiếng sáo của bọn trẻ đã đưa nhà vua trở lại cái thời thơ ấu ngây thơ, thoả sức vui đùa? Hay tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo quá khiến lòng ông thư thái lại sau bao nhiêu lo toan trăn trở việc triều chính? Trong lòng vị hoàng đế mang một niềm vui tràn ngập, nó cũng bình dị và trong trẻo như chính cuộc sống nơi đây.
Tâm trạng ấy khiến ông thấy cảnh vật càng nên thơ:
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Trên nền xanh của đồng nội, trong cái mờ ảo của khói sương, điểm xuyết vài cánh cò trắng đang là là hạ xuống. Chao ôi, cánh đồng quê sao mà đẹp thế!
Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc cả một vùng quê yên bình và thơ mộng. Con người và cuộc sống ở đây bình dị quá, hồn hậu quá! Bức tranh cảnh vật với những nét chấm phá tài hoa của thi nhân trở nên thật có hồn: có âm thanh ngọt ngào, sâu lắng; có sắc màu tao nhã, sáng trong, có hoạt động nhẹ nhàng êm ả… Một bức tranh thôn dã được cảm nhận bằng một tâm hồn thi nhân tinh tế và nhạy cảm; hơn nữa, bằng tâm hồn của một con người thiết tha yêu làng quê, yêu cuộc sống.
Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.
Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, thật xứng đáng là một áng thơ hay, tiêu biểu cho bản sắc và tâm hồn Việt Nam.
|
Topic: Feelings when reading the poem Thien Truong Vows by Tran Nhan Tong
Assignment
When mentioning Tran Nhan Tong, people immediately think of the hero who saved the country, the brilliant and intelligent king who together with the Tran Dynasty's army and people defeated the Mongol invaders, creating a heroic era in the nation's history - Dong A era. When mentioning Tran Nhan Tong, people immediately think of the founder of the Truc Lam Yen Tu Zen lineage, the sage of Buddhism. Tran Nhan Tong was not only a man - a hero who saved the country, a bright king, a sage, Tran Nhan Tong was also a poet with a noble, open-minded soul and a delicate, elegant outlook.
Tran Nhan Tong was once famous for his heroic poems:
The commune had to fight twice
The mountains and rivers are steadfast and steady for thousands of years.
(Indeed)
And the king surprised people even more with his poetic soul filled with a deep love for the countryside. In the afternoon, standing at the Thien Truong palace, looking out (Thien Truong's echo) is such a poetic soul.
From Thang Long to visit his old hometown Thien Truong (present-day Nam Dinh), from the palace in Thien Truong palace, the king looked out into the distance. A scene opened before his eyes, so affectionate:
The front and back of the village are like smoke from a cage
The darkness of the afternoon seems so strange
The shepherds and buffaloes all returned home
White storks flew into the fields in pairs.
(Translated by Ngo Tat To)
The afternoon scene in Thien Truong palace is the scene of a quiet, peaceful countryside (The peace of a peaceful life). It was late afternoon, the village gradually sank into a hazy, hazy fog. Perhaps, it was during the fall and winter season. There is afternoon shadow, afternoon color, but it is only vague, flickering, half as if it is there, half as if it is not.
The transition between day and night in the countryside evokes many emotions in people's hearts. It's so wistful and disturbing that it's hard to describe:
The front and back of the village are like smoke from a cage
The darkness of the afternoon seems so strange.
And so, life becomes even more dear. Just a very ordinary image: children leading buffaloes to the village, walking and playing the flute, also caught the king's attention and included it in his poem:
The shepherds and buffaloes all returned home.
Did the sound of the children's flute bring the king back to his innocent, playful childhood? Or did the flute sound so innocent and clear that it made his heart relax after so many worries and concerns about court affairs? In the emperor's heart there was an overwhelming joy, it was as simple and clear as life here.
That mood made him find the scene even more poetic:
White storks flew into the fields in pairs.
On the green background of the field, in the dimness of the smoke and mist, a few white stork wings are flying down. Oh my, the countryside is so beautiful!
The last two verses, with their descriptive style of dotted lines, paint before the reader's eyes a peaceful and poetic countryside. The people and life here are so simple, so soulful! The landscape painting with the poet's talented touches becomes truly soulful: there is a sweet, deep sound; has elegant, bright colors, gentle and quiet activities... A rural painting is perceived by a delicate and sensitive poet's soul; Moreover, with the soul of a person who passionately loves the village and loves life.
Few people would have thought that a king living in the middle of nowhere would be so closely tied to his rural homeland. Therefore, the more carefully we read the poem, the more we understand the love for the countryside and the rich humanity in the soul of a great man, and the more we respect and admire him.
In the afternoon, standing at Thien Truong palace looking out, it truly deserves to be a beautiful poem, representing the identity and soul of Vietnam.
|
Cảm nhận khi đọc bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu
Hướng dẫn
Đề bài: Em hãy nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu.
Tham khảo bài làm của bạn Nguyễn Thị Vân Anh lớp 8A trường THCS Nguyễn Trãi – Đông Hà
Bài thơ vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác tỏ chí, khẳng định chí hướng, lí tưởng của mình. Câu vào bài rất tự nhiên, pha chất tự trào, đùa tếu, biểu hiện ngay thái độ coi thường hiểm nguy, tinh thần không nao núng của tác giả:
“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.
Hào kiệt là kẻ tài trí hơn người. Sách Hoài Nam tử xưa nói trí hơn vạn người gọi là anh, trí hơn nghìn người gọi là tuấn, trí hơn trăm người gọi là hào, trí hơn mười người gọi là kiệt. Phong lưu vừa có nghĩa là anh hùng, tuấn kiệt. Câu đầu tiên có nghĩa là hoàn cảnh có thay đổi, nhưng phong độ anh hùng, tư thái phong lưu vẫn không thay đổi.
“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu”
Không phải là Phan Bội Châu đã thấy mọi chân, mà là giả định như một cuộc dừng chân sau chặng đường dài mọi mệt, coi như một việc bình thường trong cuộc sống.
Đó là cách biến việc nghiêm trọng thành việc bình thường của nhà cách mạng để tự động viên, an ủi.
“Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu”.
Người Trung Quốc có câu thành ngữ “Tứ hải vi giai”, nghĩa là xem bốn biển là nhà. Tình cảnh của Phan Bội Châu còn bi đát hơn: Ông đa bỏ nhà xuất dương hoạt động, làm khách không nhà trong bốn biển – nơi nào cũng xa lạ, không có chỗ dựa, cực tả nỗi phiêu bạt, lênh đênh. Người có tội là người bị theo dõi, truy nã ráo riết, nơi nào cũng có nguy cơ bắt bớ, không nói nào được yên ổn.
Đem câu này đối chiếu với hai câu trước mới thấy hết cái khí phách anh hùng của tác giả: dù hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt vẫn giữ vững chí khí, tác phong hào kiệt.
“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”
Hai câu luận đã bày tỏ được khát vọng mãnh liệt mà cụ Phan từng ôm ấp: Khát vọng kinh bang tế thế (lo nước cứu đời). Hình ảnh thơ có tính chất lãng mạn kiểu anh hùng ca khiến nhân vật trữ tình dường như không còn là con người thật, con người nhỏ bé bình thường trong vũ trụ nữa mà vụt lớn lên, từ tầm vóc đến năng lực đều trở nên hết sức lớn lao, thần thánh.
Nếu trước đây người đời đã từng ngưỡng mộ hoài bão và khí phách của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, thì lúc này đây, họ càng thêm cảm phục bản lĩnh của cụ Người anh hùng ấy, dù trong cảnh tù đầy vẫn Dang tay ôm chặt bồ kinh tế và Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
“Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”
Một lần nữa ta cảm nhận được tư thế hiên ngang của con người đứng cao hơn cái chết. Lời thơ dõng dạc, dứt khoát như chính ý chí gang thép của người tù cách mạng. Kẻ thù có thể giam cầm, đầy đọa, thậm chí sát hại những người yêu nước, những người cách mạng, nhưng niềm tin sắt son của họ, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của họ thì chúng làm sao có thể khuất phục. Đối với những người cách mạng như Phan Bội Châu, còn sống là còn chiến đấu.
Bài thơ khép lại mà âm hưởng hào hùng của nó như còn ngân vang mãi trong lòng độc giả. Càng đọc bài thơ, ta càng xúc động bởi nguồn cảm xúc trữ tình mãnh liệt của tác giả đã truyền sang ta. Chính nguồn cảm xúc này đã tạo nên vẻ đẹp kì diệu cho hình tượng thơ và tạo nên phong cách trữ tình cách mạng Phan Bội Châu. Và cũng chính nguồn cảm xúc này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn không gì cưỡng lại được của thơ ca Phan Bội Châu
|
Feelings when reading the poem Into Guangdong Prison by Phan Boi Chau
Instruct
Topic: Please state your feelings after reading the article Into Guangdong Prison by Phan Boi Chau.
Refer to the work of Nguyen Thi Van Anh, class 8A, Nguyen Trai Secondary School - Dong Ha
The poem "Entering a Guangdong Prison" expresses one's will and affirms one's direction and ideals. The sentence in the article is very natural, mixed with self-deprecation and humor, immediately expressing the author's disregard for danger and unwavering spirit:
“Still heroic, still stylish
If your legs get tired of running, then you should go to jail."
A magnanimous person is someone who is more intelligent than others. The ancient book Hoai Nam Tu says that one who is wiser than ten thousand people is called a brother, one who is wiser than a thousand people is called handsome, wiser than a hundred people is called proud, and wiser than ten people is called masterpiece. Phong means both heroic and heroic. The first sentence means that the circumstances have changed, but the heroic style and elegant attitude remain unchanged.
“Still heroic, still stylish”
It is not that Phan Boi Chau saw everything, but it was assumed that it was a stopover after a long and tiring journey, considered a normal thing in life.
That is a revolutionary's way of turning serious things into normal things to encourage and comfort themselves.
“A homeless guest in four seas
Another guilty person in five continents."
The Chinese have an idiom "Tu Hai Vi Giai", which means considering the four seas as home. Phan Boi Chau's situation was even more tragic: He left home to work abroad, became a homeless guest in the four seas - everywhere was strange, had no support, and was extremely drifting and adrift. A guilty person is a person who is closely watched and wanted, there is a risk of arrest everywhere, and there is no peace of mind.
Comparing this sentence with the previous two sentences, we can fully see the author's heroic spirit: despite difficult and harsh circumstances, he still maintains his spirit and heroic style.
“Hugging the economy tightly,
Open your mouth and laugh to end the hatred."
Two essays express the strong desire that Mr. Phan once cherished: Desire for world-class economy (worrying about the country to save life). The poetic image has an epic romantic nature that makes the lyrical character seem to no longer be a real person, an ordinary small person in the universe, but suddenly grow up, from stature to ability, everything becomes extremely great and divine.
If before, people had admired the ambition and courage of the revolutionary scholar Phan Boi Chau, then now, they admire the bravery of that hero even more, even in prison. He hugged his girlfriend tightly and opened his mouth to laugh to end the hatred.
“The body is still there, the career is still there
How many dangers are there to fear?
Once again we feel the heroic posture of man standing higher than death. The poem's lyrics are as clear and decisive as the iron will of a revolutionary prisoner. The enemy can imprison, torture, and even kill patriots and revolutionaries, but how can they hide their unwavering faith, their resilient and indomitable will to fight? dress. For revolutionaries like Phan Boi Chau, as long as they are alive, they are still fighting.
The poem ends but its heroic resonance seems to echo forever in the hearts of readers. The more we read the poem, the more we are moved by the intense lyrical emotions the author has transmitted to us. It is this emotional source that creates magical beauty for poetic images and creates Phan Boi Chau's revolutionary lyrical style. And it is this emotional source that creates the irresistible appeal and appeal of Phan Boi Chau's poetry.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh
Bài làm
Xuân Quỳnh (1942-1988) nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ như Thuyền và biển; Sóng; Tiếng gà trưa… biểu lộ một hồn thơ nồng nàn, đằm thắm dào dạt thương yêu. Bài thơ tiếng gà trưa được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tiếng gà trưa là âm thanh, tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ.
Tiếng gà nhà ai nhảy ổ cục…cục tác cục ta cất lên nơi xóm nhỏ. Tiếng gà là âm thanh rất bình dị, quen thuộc của làng quê bao đời nay. Với người lính, âm thanh quen thuộc ấy gây cho anh bao xúc động. Nó làm xao động cái nắng trưa trên đường hành quân. Âm thanh ấy làm cho anh như đang sống lại thời thơ ấu đẹp đẽ của mình, nó như tiếp thêm sức mạnh cho đôi chân anh bớt mỏi, cho lòng anh xúc động dạt dào:
Cục…cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Đến đoạn thơ thứ hai, trong hai mươi sáu câu thơ, câu thơ Tiếng gà trưa được nhắc lại ba lần, âm thanh ấy gọi về bao kỷ niệm thân yêu. Xa xa tiếng gà trưa vọng lại, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu chắt chiu từng quả trứng hồng. Những quá trứng hồng, đàn gà chi chít đông đúc. Ta như thấy rất nhiều gà, rất nhiều màu sắc và lứa gà:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng.
Trong bức tranh gà mà Xuân Quỳnh miêu tả rất đặc biệt, ê rơm vàng óng lăn lóc những quá trứng hồng, con gà mái mơ có bộ lông đan sen các màu trắng, đen, hồng… trứng nó giống hình hoa văn mà người nghệ sĩ tạo hình chấm phá. Ánh vàng rực rỡ của con gà mái vàng, lông óng lên như màu nắng, bà cùng cháu vừa tung những hạt cơm, hạt gạo cho lũ gà ăn, quan sát những chú gà xinh đẹp đang nhặt thóc quanh sân. Cháu cùng bà đếm từng chú gà trong vườn nhà.
Tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người chiến sĩ nhớ về người bà thần yêu. Tuổi thơ sống bên bà có biết bao kỷ niệm đáng nhớ, tính hiếu kỳ, tò mò của trẻ thơ quan sát con gà đẻ trứng. Rồi bị bà mắng, sợ mặt bị lang, trong lòng cháu hiện lên lo lắng:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng
Cháu còn làm sao quên được hình ảnh Tay bà khom, soi trứng… bà "tần tảo" "chắt chiu" từng quả trứng hồng cho con gà mái ấp là cháu lại nhớ đến bao nỗi lo của bà khi mùa đông tới:
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới.
Đoạn thơ nghe giản dị mà thật gần gũi nhường nào, những chi tiết tác giả miêu tả gắn bó thân thuộc với quê hương làng xóm, hơn thế nó là những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt trong tâm trí trẻ thơ. Nỗi lo của bà thật cảm động xiết bao, đàn gà kia sẽ bị chết nếu như sương muối giá lạnh và cháu bà lại chẳng được may áo mới.
Ôi cái quần chéo go,
Ống rộng dài quết đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt
Cháu nhớ mãi sau mỗi lần gà được bán, bà lại ra chợ chọn mua cho cháu yêu bộ quần áo thật đẹp. Tình cảm yêu thương nồng hậu bà luôn dành trọn cho cháu, cho con. Tuổi thơ sống bên bà đây là quãng đời đầy ắp những kỷ niệm khó quên.
Lần thứ tư Tiếng gà trưa lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ của người lính trẻ.
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiều hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Âm thanh xao động của tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó gợi tình cảm đẹp trong lòng người chiến sĩ hành quân ra trận. Âm thanh ấy như tiếng của quê hương, đất mẹ thân yêu.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
Trong bài thơ có ba câu thơ rất hay ổ rơm hồng những trứng; giấc ngủ hồng sắc trứng; ổ trứng hồng tuổi thơ cả ba câu thơ đều nói về hạnh phúc tuổi thơ, hạnh phúc gia đình làng xóm. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí người chiến sĩ hành quân ra trận thật đẹp. Lưu Trọng Lư khi nghe “Xao xác gà trưa gáy não nùng” đã nhớ về nét cười đen nhánh, màu áo đỏ của mẹ hiền đã đi xa. Bằng Việt khi xa quê đã nhớ về quê qua hình ảnh người bà kính yêu. Tiếng tu hú kêu gọi hè về, nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm bà nhen nhóm sớm hôm. Và bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh gợi nhớ về bà qua tiếng gà xao xác ban trưa.
Bài thơ Tiếng gà trưa là bài thơ hay tha thiết ngọt ngào. Tiếng gà cũng là tiếng gọi thân yêu của bà, của mẹ, của quê hương. Tiếng gọi thân yêu ấy như là niềm tin cho người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương yêu dấu.
|
Topic: Feelings when reading the article Chicken Noon by Xuan Quynh
Assignment
Xuan Quynh (1942-1988) famous poet with poems such as Boat and sea; Wave; The sound of the noon cock...reveals a passionate, loving and poetic soul. The poem Noon Chicken Sound was written in the early years of the resistance war against America. The sound of the noon chicken is the sound, the call of the homeland, family, and village that is still deeply imprinted in the hearts of soldiers going to war, becoming the young soldier's luggage.
The sound of someone's chickens clucking their nests... clucking clucks, we heard in the small hamlet. The sound of chickens is a very simple and familiar sound of villages for many generations. For the soldier, that familiar sound caused him many emotions. It disturbed the midday sun on the march. That sound made him feel like he was reliving his beautiful childhood, it seemed to give strength to his tired legs, and filled his heart with emotion:
Cluck… cluck cluck us
Listen to the stirrings of the noon sun
Feeling less tired feet
Calling back to childhood
In the second stanza, in the twenty-six lines of the poem, the verse "The sound of chickens at noon" is repeated three times, that sound brings back many dear memories. In the distance, the sound of the chicken at noon echoed, the soldier remembered his beloved grandmother carefully picking each pink egg. There are pink eggs and crowded flocks of chickens. It seems like I see so many chickens, so many colors and broods of chickens:
Noon chicken sound
Pink straw nest with eggs
Hey dreamy hen
The flowers have white spots all over
Hey golden hen
The fur is as shiny as the sun.
In the chicken painting that Xuan Quynh describes very specifically, the golden straw is covered with pink eggs, the dreaming hen has lotus feathers of white, black, pink... its eggs resemble the pattern that the artist Dot shape artist. The bright yellow light of the golden hen, her feathers shining like the color of the sun, she and her grandchildren tossed rice grains to the chickens to eat, observing the beautiful chickens picking up grain around the yard. Grandma and I counted each chicken in the garden.
The sound of the noon cock rang out in the small hamlet, the soldier remembered his beloved grandmother. My childhood spent with my grandmother had so many memorable memories, the curiosity and curiosity of a child observing a chicken laying eggs. Then, when she scolded me, fearing that my face would turn pale, worry appeared in my heart:
Noon chicken sound
There was a sound of her still scolding
You look at the laying hens
Then later on, he disappeared
I'll go get a mirror
The foolish heart is worried
How can I forget the image of her hands bent over, looking at the eggs... her "painstakingly" "careful" for each pink egg for the hen to incubate, and I remember her many worries when winter comes:
When the winter wind comes
She takes care of my chickens
I hope there is no frost
To sell chickens at the end of the year
I got new clothes.
The poem sounds so simple yet so close, the details the author describes are closely related to his hometown and village, moreover, they are memories that will never fade in the minds of children. Her concern was so touching that the chickens would die if there was a cold frost and her grandchildren would not be able to sew new clothes.
Oh those skinny pants,
The tube is wide and long, sweeping the ground
Bamboo blouse
As I passed by, I heard rustling
I always remember that after every time the chickens were sold, she would go to the market to buy beautiful clothes for my beloved child. She always gave her warm love and affection to her grandchildren and children. This childhood spent with her is a life full of unforgettable memories.
For the fourth time, the noon cock sounded again. The sound of the rooster calls back to the dreams of the young soldier.
Noon chicken sound
Bring so much happiness
That night I dreamed
Pink egg sleep.
The stirring sound of the noon cock is simple yet sacred, it evokes beautiful feelings in the hearts of soldiers marching to battle. That sound is like the sound of the homeland, the beloved motherland.
I fight today
For love of country
Because the village is familiar
Grandma, it's also because of you
Because of the clucking sound of chickens
The pink nest of childhood
In the poem there are three very beautiful lines: pink straw and eggs; rosy egg sleep; All three verses of the poem talk about childhood happiness and family happiness in the village. The image of a grandmother appearing in the mind of a soldier marching to battle is beautiful. When Luu Trong Lu heard "The rooster carcass crows at noon", he remembered the black smile and red dress of his mother who had gone far away. Bang Viet, when away from home, remembered his hometown through the image of his beloved grandmother. The howling sound calls for summer to return. I remember the warm, warm fire burning in the early morning. And the poem Chicken Noon by Xuan Quynh reminds her of her through the sound of chickens rustling at noon.
The poem The Sound of Chickens at Lunch is a beautiful and sweet poem. The sound of the chicken is also the beloved call of grandmother, mother, and homeland. That beloved call is like faith for soldiers in the fight to protect their beloved homeland.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Bức thư của thủ lĩnh da đỏ
Bài làm
Bức thư cuả thủ lĩnh da đỏ là một văn bản để lại khá nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đây là bức thư của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn trả lời tống thống Mĩ Phreng-klin pi-ơ- xơ về việc ông này có ý định mua đất của người da đỏ. Một bức thư được viết bằng một văn phong khá độc đáo, trong đó người viết trình bày quan điểm và bộc lộ tình cảm của mình một cách đầy hàm ý, rất sâu xa, thâm thuý. Bao trùm lên toàn bộ bức thư là tình cảm yêu mến quê hương, đất nước thiết tha, sâu sắc, mạnh mẽ. Chính tình cảm ấy đã chi phối mạch cảm xúc của bức thư và quan điểm của thủ lĩnh da đỏ.
Đối với thủ lĩnh Xi-át-tơn và đồng bào của ông, không có gì thiêng liêng hơn mảnh đất của họ bởi “Đất là mẹ”, nó gắn bó máu thịt với họ từ bao đời nay:
… Mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là những người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều chung một gia đình.
Hơn nữa, mảnh đất mảnh đất này còn thấm đẫm mồ hôi và xương máu của cha ông họ
Dòng nước óng ánh, êm ả trôi, dưới những dòng sông con suối đâu chỉ là những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi.
Mảnh đất dưới chân chúng (người da trắng) là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi… đất đai giàu có được là do nhiều mạng sông của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên.
Hình ảnh quê hương đất nước trở thành hình ảnh thân thương nhất, hằn sâu trong trái tim và kí ức họ:
Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm cùa côn trùng là những điểu thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang kí ức của người da đỏ.
Trong cảm xúc của thủ lĩnh Xi-át-tơn, quê hương đất nước họ là mảnh đất thật êm đềm và thơ mộng có tiếng lá cây lay động vào mùa xuân, tiếng vỗ cánh của côn trùng vào mùa hè, có tiếng ếch kêu ban đêm trên hồ, có-âm thanh êm ái của những cơn gió thoảng qua trển mặt hồ, có hương thơm của phấn thông.
Tâm hồn tinh tế nhạy cảm và sự gắn bó tha thiết với quê hương đất nước đã khiến thủ lĩnh Xi-át–tơn cảm nhận được tất cả những nét bình dị nên thơ của thiên nhiên, của cuộc sống và viết về nó với một niềm tự hào cao độ.
Để trình bày được một cách rõ ràng, sâu sắc quan điểm đất đai của tổ tiên là thiêng liêng, không thể đem ra để mua bán, đổi chác! và bộc lộ được tình yêu Đất Mẹ, yêu quê hương đất nước sâu nặng của mình, tác giả của bức thư đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá; đồng thời đối lập quan điểm, tình cám của người da đỏ với quan điểm, tình cảm của người da trắng: Nếu như người da đỏ coi mảnh đất này là “Mẹ”,
coi mọi vật xung quanh mình là “anh em”, thì người da trắng coi chúng là “kẻ thù”, là “vật mua được”, “tước đoạt dược”…
Chính tình cảm sâu đậm đối với quê hương đất nước đã tạo nên chất trữ tình và sức lay động rất lớn của áng văn chương độc đáo này.
Xuât phát điểm của bức thư là lòng yêu quê hương đất nước, nhưng thời gian trôi đi, bức thư có thêm một giá trị mới; nó trở thành một trong những văn bản hay nhất về thiên nhiên và môi trường.
Trong bức thư của mình, thủ lĩnh da đỏ không chỉ đề cập đến “đất” mà còn đề cập đến cả các hiện tượng có liên quan đến “đất” như: sông, hồ, rừng, núi, động thực vật, không khí, ánh nắng…Tức là những hiện tượng làm cho đất có giá trị, có ý nghĩa, những hiện tượng lạo nên cái mà ngày nay ta gọi là tự nhiên và môi trường sinh thái.
Ngay từ giữa thế kỉ XIX, khi tự nhiên và môi trường sinh thái mới bắt đầu bị đe dọa bởi sự phát triển của nền công nghiệp cơ khí và ý thức vô trách nhiệm của con người, thủ lĩnh Xi-át-tơn đã nhìn thấy nguy cơ của việc vắt kiệt đất đai, biến nó thành những bãi hoang mạc; nguy cơ của những tiếng ồn ào lăng mạ trong tai; nguy cơ của cuộc sống không nghe được âm thanh lẻ loi của chú chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của chú ếch ban đêm bên hồ; nguy cơ của bầu không khí bị vấy bẩn bởi khói của các nhà máy; nguy cơ cạn kiệt nguồn động vật quý hiếm…
Theo thủ lĩnh Xi-át-tơn: không khí quả là quý giá, vô cùng quý giá bởi không khi này là của chung muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Và ông đề nghị người da trắng phải cùng người da đỏ giữ gìn bầu không khí trong lành: Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng củng có thể thưởng thức được những làn gió thẩm đượm hương hoa đồng nội.
Cũng theo thủ lĩnh Xi-át-tơn, sự cân bằng sinh thái là điều cần thiết của cuộc sống, ông đề nghị tiếp người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh em.
Cuối cùng, ông cảnh báo: Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần, chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi vị điều gì sẽ xảy ra đối với con thứ thù cũng sẽ xáy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc, Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra đối với đất đai, tức là xảy ra với những dứa con của Đất.
Ngày nay, nguồn tài nguyên đã bị khai thác tới mức cạn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô nhiễm, bị tàn phá cực kì nghiêm trọng, quan điểm của thủ lĩnh da đỏ về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trở thành vấn đề mang tính thời sự nóng hổi.
Từ những giá trị trên, Bức thư của thủ lĩnh da đỏ mãi mãi chiếm một vị trí xứng đáng trong văn chương và cuộc sống của con người.
|
Topic: Feelings when reading the Indian leader's letter
Assignment
The letter from the Indian leader is a text that leaves quite an impression on the reader. This is a letter from the Indian leader Siaton responding to US President Franklin Pius X about his intention to buy land from the Indians. A letter is written in a quite unique style, in which the writer presents his views and expresses his feelings in a meaningful, profound and profound way. Covering the entire letter is a passionate, deep, and strong love for one's homeland. It was that sentiment that dominated the emotional flow of the letter and the Indian leader's perspective.
For leader Siaton and his compatriots, there is nothing more sacred than their land because "Land is mother", it has been attached to them by blood and flesh for many generations:
… This land is the mother of the Indians. We are a part of our mother and she is also a part of us. The fragrant flowers are our sisters and brothers. The rocky outcrops, the puddles in the meadow, the warmth of the pony and the people, all belong to the same family.
Moreover, this land is also soaked in the sweat and blood of their ancestors
The water is sparkling and flowing smoothly. Below the rivers and streams are not just drops of water, but also the blood of our ancestors.
The land under their (white people's) feet is the ashes of our ancestors... the rich land is built up by the many rivers of our race.
The image of their homeland becomes the most beloved image, deeply engraved in their hearts and memories:
For my people, every inch of land is sacred, every sparkling pine needle, every sandy shore, every glittering dew in the dense forests, every wasteland and the whisper of insects are sacred birds. sacred in the memories and experiences of my people. The streams of sap flowing in the trees also carry the memories of the Indians.
In the feelings of leader Siaton, their homeland is a peaceful and poetic land with the sound of leaves shaking in the spring, the sound of insect wings flapping in the summer, and the croaking of frogs. At night on the lake, there is the soft sound of the wind blowing across the surface of the lake, and the scent of pine pollen.
His delicate and sensitive soul and his passionate attachment to his homeland made leader Siatton feel all the poetic simplicity of nature and life and write about it with a passion. high pride.
To clearly and deeply present the view that ancestral land is sacred and cannot be bought, sold or bartered! and expressing his deep love for Mother Earth and his homeland, the author of the letter widely used the artistic techniques of comparison and personification; At the same time, contrast the views and feelings of the Indians with the views and feelings of the white people: If the Indians consider this land "Mother",
Seeing everything around them as "brothers", white people consider them "enemies", "purchased objects", "deprivation of medicine"...
It is the deep affection for the homeland that creates the great lyricism and moving power of this unique piece of literature.
The starting point of the letter is love for the homeland, but as time passes, the letter gains a new value; it became one of the best texts on nature and the environment.
In his letter, the Indian leader not only mentioned "land" but also mentioned phenomena related to "land" such as: rivers, lakes, forests, mountains, flora and fauna, air. , sunlight... That is, the phenomena that make the land valuable and meaningful, the phenomena that create what we today call nature and the ecological environment.
Right from the middle of the 19th century, when nature and the ecological environment were just beginning to be threatened by the development of mechanical industry and people's irresponsible consciousness, leader Siaton looked at see the danger of exhausting the land, turning it into deserts; danger of insulting noises in the ears; the danger of life not being able to hear the lonely sound of a bird catching its prey or the argument of a frog at night by the lake; the danger of the atmosphere being tainted by the smoke of factories; the risk of depleting rare animal resources...
According to leader Siaton: air is indeed precious, extremely precious because this air is the common property that animals, trees and humans breathe together. And he suggested that white people must work with Indians to preserve clean air: If you sell Him this land, You must preserve it and make it a sacred place for even white people to have. You can enjoy the breeze filled with the scent of field flowers.
Also according to leader Siaton, ecological balance is necessary for life, he suggested that white people must treat the animals living on this land as brothers.
Finally, he warns: What is man, if life is without animals? And if they leave, people will gradually die, dying of mental sadness and loneliness, because what happens to the enemy will also happen to humans. Everything in life is bound, Earth is Mother. What happens to the land, happens to the Earth's children.
Today, natural resources have been exploited to the point of exhaustion, the natural environment is being polluted and severely damaged, and the Indian leader's views on the relationship between humans and nature have become more serious. become a hot topical issue.
From the above values, The Indian Chief's Letter will forever occupy a worthy position in literature and human life.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Cây bút thần
Bài làm
Cây bút thần là một truyện cố tích đặc sắc của kho tàng cổ tích Trung Quốc và nhân loại. Truyện kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, với cây bút thần trong tay đã giúp ích rất lớn cho cuộc đời.
Mã Lương – tên cậu bé đó – thuộc kiểu nhân vật có tài năng kì lạ. Đây là kiểu nhân vật phổ biến trong truyện cổ tích.
Tài năng của Mã Lương không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là kết quả của một quá trình- say mê, cần cù luyện tập, cộng với trí thông minh và tài năng bẩm sinh. Tuy nhiên tài nãng ấy chỉ có thể trở thành kì lạ khi có sự trợ giúp của lực lượng thần kì: Thần trao cho cây bút bằng vàng có thể vẽ được những vật thật.
Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao thần lại ban cho Mã Lương cây bút thần mà không ban cho một ai khác. Phải chăng, đầy là sự ban thưởng xứng đáng cho những người có tâm, có tài, có trí, khổ công học tập và rèn luyện? Và phải chăng, đặt cây bút thần vào trong tay Mã Lương, thần còn đặt vào đó một niềm tin và sự kì vọng nào đó? Và Mã Lương đã không phụ lòng kì vọng của thần linh. Với cây bút thần trong tay, Mã Lương đã giúp đỡ những người nghèo khổ trong làng. Điều đáng nói ở đây là Mã Lương không vẽ cho họ thóc lúa, trâu bò, dê lợn, vàng bạc…, cậu chỉ vẽ cho hộ cày, cuốc, đèn, thuổng… Tại sao vậy? Có thể nói, chỉ một chi tiết nhỏ thôi nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc. Mã Lương không vẽ cho họ những của cải sẵn có để họ chỉ việc hưởng thụ. Cậu bé vẽ cho họ những phương tiện cần thiết cho cuộc sống đế’ họ sản xuất, tạo ra của cải. Từ việc làm của Mã Lương, tác giả dân gian muốn nêu ra một quan niệm sống đẹp: của cải do con người hưởng thụ phải do chính con người làm ra. Quan niệm sống ấy chứa đựng cả một tinh thần nhân bản, tạo ra cho truyện cổ tích này một lớp ánh sáng nhân văn chiếu rọi vào tầm hồn bạn đọc.
Mã Lương tưởng như có thể sống bình vên với cây bút thần, với dân làng. Nhưng cái ác còn lộng hành trong cuộc sống đã không chấp nhận việc làm của Mã Lương. Đại diện cho cái ác là tên địa chủ và tên vua tham lam độc ác. Với thái độ căm ghét sâu sắc, Mã Lương đã vung cây bút thần lên, như một tráng sĩ vung lưỡi gươm công lí lên quét sạch mọi rác rưởi trong xã hội, lập lại công băng và công lí, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Trong cuộc đấu tranh chống cái ác, tác giả dân gian đã đặt Mã Lương vào những tình huống thử thách từ thấp đến cao, càng ngày càng khó khăn phức tạp. Và kì lạ thay, trong những tình huống cam go nhất, phẩm chất của Mã Lương được khẳng định: Từ chỗ không vẽ gì cho tên địa chủ trong làng đến chỗ vẽ ngược hẳn ý muốn của tên vua (vua bảo vẽ rồng, cậu vẽ cóc ghẻ; vua bảo vẽ phượng, cậu vẽ gà trụi lông…); từ chỗ trừng trị tên địa chủ để thoát thân (hắn đuổi theo Mã Lương để bắt giết cậu, cướp bút thần), đến chỗ chủ động diệt kẻ ác để trừ hoạ cho mọi người (vẽ sóng biển để nhấn chìm vua và triều thần độc ác.
Cuộc đấu tranh giữa Mã Lương với cái ác là cuộc đấu tranh không cân sức: Mã Lương đơn độc mọt mình, còn kẻ ác có trong tay lực lượng hùng mạnh, lại có quyền thế. Vì thế, muốn tiêu diệt chúng, chỉ có lòng khẳng khái, dũng cảm với cây bút thần không thôi thì chưa đủ, cần phải có thêm sự mưu trí và thông minh. Phẩm chất này của Mã Lương bộc lộ rất rõ trong cuộc đọ sức giữa cậu với tên vua độc ác.
Khi tên vua thả Mã Lương ra, hứa ban thưởng vàng bạc và gả công chúa cho. Mã Lương đã vờ đồng ýề Điều này khiến tên vua và bọn triều thần chủ quan mất hết cảnh giác.
Khi tên vua bảo Mã Lương vẽ biển, cậu đã vẽ một cái biển thật đẹp rộng mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng, trong suốt như mặt gương soi, rồi bao nliieu là cá, đủ các màu sắc uốn đuôi mềm mại bơi lội tung tăng. Điều này khiến tên vua vô cùng thích thú.
Rồi Mã Lương lại cho đàn cá bơi xa dần, xa dần, đế' nhử tên vua ra giữa biển khơi. Khi vua đòi thuyền, Mã Lương vẽ một cái thuyền lớn để có thế’ chở hết cả bọn hoàng hậu, công chúa, hoàng tử, các quan đại thần gian tham.
Cuối cùng, cậu dùng gió to, sóng lớn để chôn vùi chúng giữa biển khơi.
Tác giả dân gian đã có dụng ý đắc biệt khi kể lại rất tỉ mỉ việc Mã Lương dùng mưu kế để tiêu diệt tên vua cùng triều thần tham lam, độc ác. Việc Mã Lương thẳng tay trừng trị tên địa chủ và tên vua tham lam, độc ác thế hiện quan niệm của nhân dân về cóng lí xã hội. Mặt khác, cũng qua hành động này, tác giả dân gian muốn khẳng định tài năng chỉ thực sự có giá trị khi nó được đem ra để phục vụ nhân dân, phục Vụ chính nghĩa, chống lại cái ác; đồng thời cũng khẳng định nghệ thuật chân chính phải thuộc về nhân dân, về những người tốt bụng, có tài và khổ công luyện tập.
Sự kì diệu của cây bút thần khiến ta liên tưỏng đến sự kĩ diệu của cây bút của hoạ sĩ Bơ-men trong Chiếc lá cuối cùng (tác phẩm của nhà văn Mĩ Ô Hen-ri) đã tạo ra kiệt tác bất hủ, cứu sống được một con rigười đã ở ngưỡng cửa của tử thần.
Cầy bút thần không chỉ có giá trị lớn về nội dung tư tưởng, mà còn là một truyện cổ tích rất đặc sắc về mặt nghệ thuật. Truyện được xây dựng theo trí tưởng tượng độc đáo và phong phú của nhân dân. Với một loạt các tình tiết lý thú, gợi cảm đặc biệt là việc xây dựng hình ảnh cây bút thần và khả năng kì diệu của nó, truyện đã thể hiện ước mơ của con người và giúp họ thực hiện ước mơ đó.
Truyện cổ tích Cây bút thần là mơ ước về niềm tin của con người, về chính con người. Đó là mơ ước và niềm tin về sức mạnh kì diệu của con người. Ước mơ và niềm tin ấy đã giúp cho con người không ngừng sáng tạo và vươn lên.
Năm tháng qua đi, con người không cần nhờ tới cây bút thần để thực hiện ước mơ của mình. Nhưng giấc mơ đẹp ấy thì vẫn còn mãi đến muôn đời.
|
Topic: Feelings when reading The Magic Pen
Assignment
The magic pen is a unique fairy tale in the treasury of Chinese and human fairy tales. The story is about a smart and talented boy, with a magic pen in his hand that has greatly helped his life.
Ma Luong - that boy's name - belongs to the type of character with strange talents. This is a common character type in fairy tales.
Ma Luong's talent did not come by chance. It is the result of a process - passion, diligent practice, plus intelligence and innate talent. However, that talent can only become strange with the help of a magical force: God gives him a golden pen that can draw real objects.
But the question is why did the god give Ma Luong the magic pen and not someone else? Is this a worthy reward for those who have heart, talent, wisdom, and work hard to study and practice? And is it true that, putting the magic pen in Ma Luong's hand, I still put some trust and expectation in it? And Ma Luong did not disappoint the gods' expectations. With the magic pen in hand, Ma Luong helped the poor people in the village. What is worth mentioning here is that Ma Luong did not draw for them rice, cattle, goats, pigs, gold and silver..., he only drew for them plows, hoes, lamps, spades... Why is that? It can be said that it's just a small detail but the meaning is very profound. Ma Luong did not present them with available wealth for them to simply enjoy. The boy drew for them the necessary means for life so that they could produce and create wealth. From Ma Luong's work, the folk author wants to point out a beautiful concept of life: wealth enjoyed by people must be produced by people themselves. That concept of life contains a humanistic spirit, giving this fairy tale a layer of humane light that shines into the readers' souls.
Ma Luong thought he could live peacefully with his magic pen and with the villagers. But the evil that still prevails in life did not accept Ma Luong's work. Representing evil are the landlord and the cruel, greedy king. With a deep hatred, Ma Luong waved his magic pen, like a warrior brandishing the sword of justice to wipe out all trash in society, restore justice and fairness, and bring happiness to the people. people.
In the struggle against evil, the folk author placed Ma Luong in challenging situations from low to high, becoming increasingly difficult and complex. And strangely, in the most difficult situations, Ma Luong's qualities were affirmed: From not drawing anything for the village landlord to drawing completely against the king's wishes (the king told him to draw a dragon, he draw a toad with scabies; the king told him to draw a phoenix, he drew a featherless chicken...); From punishing the landlord to escape (he chased after Ma Luong to capture and kill him, stealing the magic pen), to proactively killing evil people to eliminate everyone's misfortune (drawing ocean waves to drown the king and his court). sinister.
The struggle between Ma Luong and evil is an unequal struggle: Ma Luong is alone, while the evil person has powerful forces and power. Therefore, if you want to destroy them, just having courage and courage with a magic pen is not enough, you need to have more cunning and intelligence. This quality of Ma Luong is clearly revealed in the duel between him and the evil king.
When the king released Ma Luong, he promised to reward him with gold and silver and marry the princess. Ma Luong pretended to agree. This caught the king and his courtiers off guard.
When the king asked Ma Luong to draw the sea, he drew a beautiful sea that was vast, blue, without a ripple, as transparent as a mirror, and then there were fish in all colors with soft tails. swimming freely. This made the king extremely excited.
Then Ma Luong let the fish swim farther and farther away, to lure the king out to the middle of the sea. When the king asked for a boat, Ma Luong drew a large boat to be able to carry all the queens, princesses, princes, and corrupt mandarins.
Finally, he used strong winds and big waves to bury them in the middle of the sea.
The folk author had a special intention when recounting in detail how Ma Luong used cunning to destroy the greedy and cruel king and his court. Ma Luong's harsh punishment of the greedy and cruel landlord and king demonstrated the people's concept of social justice. On the other hand, also through this action, the folk author wants to affirm that talent is only truly valuable when it is used to serve the people, serve justice, and fight evil; At the same time, it also affirms that true art must belong to the people, to those who are kind, talented and practice hard.
The magic of the magic pen reminds us of the magic of the artist Behrman's pen in The Last Leaf (a work by American writer O Henri), which created an immortal masterpiece, saving lives. To live a human being is at the threshold of death.
The Magic Pen Civet not only has great value in terms of ideological content, but is also a very unique fairy tale in terms of art. The story is built according to the unique and rich imagination of the people. With a series of interesting and sexy details, especially the construction of the image of the magic pen and its magical abilities, the story shows people's dreams and helps them realize those dreams.
The fairy tale The Magic Pen is a dream about people's beliefs, about people themselves. It is a dream and belief in the magical power of humans. That dream and belief has helped people constantly create and rise.
As the years pass, people no longer need to rely on a magic pen to realize their dreams. But that beautiful dream remains forever.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan
Bài làm
Cầu Long Biên- chứng nhăn lịch sử là một bài bút kí khá đặc sắc. Từ góc nhìn nhà báo và chất văn bút kí, Thuý Lan đã tạo ra một mạch cảm xúc độc đáo về cây cầu lịch sử.
Lần theo các dòng bút là pha nhiều chất hồi kí của Thuý Lan, chúng ta gặp lại chiếc cầu Long Biên như gặp lại một chứng nhân lịch sử.
Từ một cây cầu sắt nối đôi bờ sông Hồng, cầu Long Biên đã được nhân hoá thành con người có lí lịch, có lịch sử, có cảm xúc buồn vui… như bao con người khác. Dường như tác giả thổi hồn mình vào vật, để vật cũng thấm đẫm tình người.
Cầu Long Biên ra đời là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, là thành tựu quan trọng của thời văn. minh cầu sắt. Nhưng sự thai nghén chào đời của cây cầu lịch sử này đã gắn liền với bao mồ hôi, nước mắt và cả bao xương máu của những người dân phu Việt Nam. Người ta còn ghi lại những cảnh ăn ở khổ cực của dân phu và cảnh đối xử tàn nhẫn của những ông chủ người Pháp đã khiến cho hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu. Thật là khủng khiếp! Chỉ một vài dòng ngắn ngủi, bài viết đã gợi ra được số phận bi thảm của một dân tộc nô lệ trong một thời kì lịch sử đen tối. Gần nửa thế kỉ tuổi đời ban đầu của mình, cầu Long Biên đã trở thành nhân chứng sống chứng kiến bao đau thương của một dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng chiến tranh chưa kết thúc. Cầu Long Biên lại một lần nữa chứng kiến những đêm
Hà Nội “đất trời bốc lửa” kiên cường chống Pháp. Những thời khắc lịch sử hào hùng ấy được tác giả gợi lại bằng nỗi nhớ những ngày đầu năm 1947, cái ngày người dân Thủ đô cùng Trung đoàn yêu dấu của mình bí mật ra đi – những ngày vừa bi thương vừa hùng tráng:
Những đèm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
Hoà bình vừa lập lại chưa bao lâu thì một trang sử mới đầy đau thương, oanh liệt, bi hùng lại đến, cầu Long Biên đã chứng kiến những năm tháng cả dân tộc chống Mĩ cứu nước đầy cam go, ác liệt. Ngay một vật vô tri vô giác như cầu Long Biên mà cũng trở thành mục tiêu bắn phá, hứng chịu biết bao nhiêu tấn bom đạn của không lực Hoa Kì. Chiếc cầu rách nát, tả tơi như ứa máu. Đau thương nhưng không gục ngã, cái bản tính ấy của con người Việt Nam đã truyền sang cây cầu, khiến nó cứ sừng sững giữa mênh mông trời nước, bất chấp, bom đạn tàn bạo, khốc liệt của kẻ thù. Đây chính là thời kì bi thương và hào hùng nhất trong lịch sử cầu Long Biên và trong lịch sử dân tộc! Cầu Long Biên đứng đỏ như một chứng nhân sống động, đau thương và anh dũng..
Chiến tranh đã kết thúc. Hoà bình đã lập lại. Một cuộc sống êm đềm, bình dị và đầy ắp niềm vui. Cầu Long Biên vẫn như một chứng nhân lịch sử chứng kiến những thay da đổi thịt của quê hương với bao màu xanh thân thương, Làng mạc trù phú.
Thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có thêm những cây cầu hiện đại hơn sừng sững vượt sông Hồng. Cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng giá trị của nó đã từng là nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Hà Nội, của đất nước và của con người Việt Nam thì mãi mãi tồn tại.
Từ việc giới thiệu, khắc hoạ cầu Long Biên với tư cách một chứng nhân lịch sử, Thúy Lan bày tỏ những cảm xúc, tình cảm yêu mến, tự hào và gắn bó với cây cầu lịch sử. Tình cảm ấy thật tha thiết và mãnh liệt.
Người đọc thật sự xúc động bởi những cảm xúc sôi nổi trào dâng trong câu văn thấm đậm chất trữ tình.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách với bài thơ… Những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi…
Mỗi lần có dịp đứng lên cầu Long Biên, tôi lại say mê ngắm nhìn màu xanh bãi mía, nương dâu, bãi ngô, vườn chuối phía Gia Lâm không bao giờ chán mắt. Cái màu xanh cần lao ấy gợi bao yêu thương và yên tĩnh trong tâm hồn. Khi chiều xuống, nhìn về phía Hà Nội, thấy những ánh đèn mọc lèn như sao sa, gợi lên bao quyến rủ và khát khao.
Tôi nhớ những ngày đầu năm 1947…
“Tôi nhớ những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và hào hùng…
Sự gắn bó với cây cầu sâu sắc đến mức, dường như tác giả cảm nhận được nỗi đau thương của cây cầu, thấy được nó rách nát, tả tơi như ứa máu đau đớn, xót xa khi thấy câu cầu bị đánh hỏng. Tôi chạy ngay lên cầu khi tiếng bom vừa dứt. Những cảnh vệ dầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như minh đứt từng khúc ruột.
Và tình cảm ấy mãi mãi thuỷ chung để đến hôm nay tác giả vẫn cố gắng truyền tình yêu cây cầu vào trái tim du khách nước ngoài đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.
Bài văn khép lại, nhưng cảm xúc của Thuý Lan với cây cầu lịch sử và tình yêu đất nước thiết tha của nhà văn vẫn còn đọng lại mãi nơi người đọc, để lại trong họ nhiều dư vị ngọt ngào,
|
Topic: Feelings when reading Long Bien Bridge - historical witness of Thuy Lan
Assignment
Long Bien Bridge - historical wrinkle is a quite unique memoir. From a journalist's perspective and the quality of her writing, Thuy Lan has created a unique emotional circuit about the historic bridge.
Following the lines of Thuy Lan's memoir mixed with memoirs, we meet the Long Bien bridge again as if meeting a historical witness.
From an iron bridge connecting the two banks of the Red River, Long Bien Bridge has been humanized into a person with a background, history, sad and happy emotions... like many other people. It seems that the author breathes his soul into the object, so that the object is also imbued with human love.
Long Bien Bridge was born as a result of the first colonial exploitation of the French colonialists, an important achievement of the literary era. iron bridge. But the birth of this historic bridge was associated with much sweat, tears and blood of the Vietnamese people. People also recorded the miserable living conditions of the peasants and the cruel treatment of the French bosses, which caused thousands of Vietnamese people to die during the bridge construction process. It's terrible! In just a few short lines, the article evokes the tragic fate of a slave nation in a dark period of history. Nearly half a century old in its original life, Long Bien Bridge has become a living witness to the suffering of a nation.
The August Revolution was successful, but the war was not over. Long Bien Bridge once again witnessed the nights
Hanoi was "on fire" and stubbornly resisted the French. Those heroic historical moments are evoked by the author with nostalgia for the early days of 1947, the day the people of the Capital and their beloved Regiment secretly left - days that were both tragic and majestic:
The departures left the earth and sky on fire
The whole city is burning behind them. The boys who are not yet white owe their debt to the hero. Their souls are waving crimson flags in ten directions. Their shoes are torn to tatters and thousands of miles away.
The dust of the long march fades away the proud clothes...
Not long after peace was restored, a new page of history full of pain, glory, and tragedy came. Long Bien Bridge witnessed the difficult and fierce years of the whole nation fighting against America to save the country. Even an inanimate object like Long Bien Bridge became a target for bombardment, suffering countless tons of bombs and bullets from the US Air Force. The bridge was torn and tattered as if bleeding. Painful but not defeated, that nature of the Vietnamese people has been transferred to the bridge, making it stand tall in the vastness of sky and water, regardless of the enemy's brutal and fierce bombs and bullets. This is the most tragic and heroic period in the history of Long Bien Bridge and in the history of the nation! Long Bien Bridge stands red as a living, painful and heroic witness.
The war has ended. Peace has been restored. A peaceful, simple and full of joy life. Long Bien Bridge is still a historical witness witnessing the changes of the homeland with its beloved green colors and rich villages.
During the period of industrialization and modernization, more modern bridges towered over the Red River. Long Bien Bridge has retreated to a humble position, but its value as a living, painful and heroic witness of Hanoi, the country and the people of Vietnam will forever exist.
From introducing and portraying Long Bien Bridge as a historical witness, Thuy Lan expressed her emotions, love, pride and attachment to the historical bridge. That love is so passionate and intense.
Readers are truly touched by the vibrant emotions surging in the lyrical sentences.
I still vividly remember the image of the bridge solemnly drawn between the page of the book and the poem... Those verses are deeply embedded in my mind...
Every time I have the opportunity to stand on Long Bien bridge, I am fascinated to look at the green sugarcane fields, mulberry fields, corn fields, and banana gardens on the Gia Lam side and never tire of my eyes. That working green color evokes so much love and tranquility in the soul. When dusk falls, looking towards Hanoi, you see lights growing like falling stars, evoking so much charm and desire.
I remember the early days of 1947...
“I remember the glorious and heroic years of fighting against American imperialism…
The attachment to the bridge is so deep that the author seems to feel the pain of the bridge, seeing it torn and tattered as if bleeding painful blood, and saddened to see the bridge broken. I immediately ran to the bridge as soon as the bomb sound stopped. The bridge guards prevented me from going up. Tears welled up in my eyes, I felt like my intestines were torn apart.
And that feeling is forever faithful so that to this day the author still tries to transmit the love of bridges into the hearts of foreign tourists to build an invisible bridge among tourists so that they can get closer and closer to the country. Vietnam.
The essay ends, but Thuy Lan's feelings towards the historical bridge and the writer's passionate love for the country still linger forever in the reader, leaving them with many sweet aftertaste.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Lòng yêu nước của l-li-a Ê-ren-bua
Bài làm
I-li-a Ê-ren-bua là một nhà văn – nhà báo nổi tiếng của Liên Xô trước đây. Cuộc đời cầm bút của ông đã gắn bó với một giai đoạn thử thách đầy ác liệt và cam go của đất nước Xô Viết: cuộc đụng đầu quyết liệt giữa nhà nước Xô Viết chân chính với bọn phát xít Hít-le trong cuộc chiến tranh vệ quốc vỉ dại (1941- 1945). Lửa thử vàng, chính trong lúc cam go nhất của lịch sử, lòng yêu nước của công dân Xô Viết được thử thách. Là một nhà báo, I-li-a Ê-ren-bua đã ghi lại được những thời khắc lịch sử vô cùng quý báu và thiêng liêng của dân tộc. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã ra đời trong thời kì này mà Thử lửa là một sáng tác đặc sắc.
Thử lửa là một bài báo rất độc đáo. Chính chất văn và chất báo trong con người ĩ-li-a Ê-ren-bua đã kết tinh nên thiên tuỳ bút – chính luận này.
Bài văn Lòng yêu nước (Ngữ văn 6, tập II) là một phần của thiên tuỳ bút chính luận Thử lửa. Chỉ mấy chục dòng nhưng bài văn cũng đủ đem đến cho người đọc những cảm xúc, ấn tượng khó quên. Bài văn đã hội tụ được trong nó chất chính luận sắc sảo với chất trữ tình đằm thắm, vì thế, việc khẳng đinh chân lí. Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yèu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc trở nên có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Bài văn được bố cục thành hai phần với hai ý lớn. Ở phần đầu của bài viết, tác giả đề cập tới ngọn nguồn của lòng yêu nước. Để thể hiện nội dụng này, tác giả sử dụng một trình tự lập luận khá chặt chẽ.
Mở đầu đoạn văn, tác giả nêu lên một nhận định được đúc kêt từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, cụ thể là yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phô nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lè mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.
Tiếp đó, tác giả mở rộng chứng minh nhận định, đề cập đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể: Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương.
Cuối cùng, tác giả khái quát thành một chân lí. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn- ga, con sông Vôn- ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yếu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.
Tuy nhiên, sức thuyết phục của bài văn chủ yếu không phải bằng lí lẽ, mà bằng tình cảm thiết tha, sâu đậm và sự hiểu biết sâu sắc về Tổ quốc Liên bang Xô viết của nhà văn. Chính tình cảm và sự hiểu biết ấy đã khiến tác giả cảm nhận được những “nét thanh tú”, những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo của mỗi miền đất nước.
Ngòi bút của tinh tế I—li—a Ê-rẽ -ri-bua đưa người đọc đến những vùng miền khác nhau của đất nước Liên Xô rộng lớn, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp thiên nhiên, thưởng thức những đặc sản, cảm nhận những tình cảm bình dị, ngọt ngào. Đây miền Bắc của Liên Xô với những cánh rừng bên dòng sông, có nhừng thản cây mọc là là mặt nước, những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Đây xứ U-crai-na êm đềm với bóng thuỳ dương tư lự bèn đường, trưa hè vàng ánh. Đây sứ Gru-di-a với những triền núi cao có khí trời trong lành, những tảng đá sáng rực, dòng suối óng ảnh bạc, có vị mát của nước đóng băng, rượu vang cay, những lời thân ái giản dị Thật thú vị biết bao! Và đây, thành Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng, với những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè, những phố phường mà mỗi căn phòng là một trang lịch sử. Và đây nữa thành Mát-Xcơ-va cổ kính với những phố cũ ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, với diện Krem-li, nhừng tháp cổ có ánh sao đỏ.
Ngòi bút miêu tả cùa I-li-a Ê-ren-bua mang đậm sác thái trữ tình, thể hiện tình cảm yêu mến và tự hào sâu sắc của ông về quê hương đất nước của mình.
Có thể nói, chưa bao giờ khái niệm về lòng yêu nước lại được diễn tả chính xác và gợi cảm đến thế.
Ngay chân lí về lòng yêu nước cũng được thể hiện bằng một hình ảnh so sánh rất ấn tượng. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Sau khi nêu ra ngọn nguồn của lòng yêu nước, I-li-a Ê – ren- bua chuyển sang khắng định: Lòng yêu nước chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ nhất, cao đẹp nhất khi được thử thách trong lửa đạn chiến tranh: Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yèu /mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách. Chính trong cuộc chiến tranh vệ quốc một mất một còn này, mỗi người dân Xô Viết hiểu cuộc sống và số phận của họ và gắn liền với vận mệnh Tổ quốc. Và vì thế, họ sẵn sàng rời xa quê hương tươi đẹp, thơ mộng xiết bao trìu mến để lên đường chiến đấu vì Tổ quốc.
Bài văn kết thúc bằng một câu nói đã trở thành phương châm sống của công dân Xô Viết lúc bấy giờ: Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa.
Phương châm ấy đã trở thành lí tưởng sống của mọi dân tộc.
|
Topic: Feelings when reading Patriotism by Li-lia Erenbua
Assignment
Ilia Erenburg is a famous writer and journalist from the former Soviet Union. His life as a writer was associated with a period of fierce and arduous trials for the Soviet nation: the fierce confrontation between the genuine Soviet state and the Hitlerite fascists in the war. National Guard (1941- 1945). Fire tests gold. It was during the most difficult times of history that the patriotism of Soviet citizens was tested. As a journalist, Ilia Erenbua has recorded extremely precious and sacred historical moments of the nation. Many of his famous works were born during this period, of which Test by Fire is a unique composition.
Trial by Fire is a very unique article. It is the literary and journalistic qualities in the person Ilya Eren-bua that crystallized this essay - political essay.
The essay Patriotism (Literature 6, volume II) is part of the essay Essay Trial by Fire. Only a few dozen lines but the essay is enough to give the reader unforgettable emotions and impressions. The essay combines sharp political commentary with loving lyricism, thus affirming the truth. Patriotism is initially the love for the most ordinary things... Love for home, love for neighbors, love for the countryside becomes love for the Fatherland and becomes strongly convincing.
The essay is arranged into two parts with two big ideas. At the beginning of the article, the author mentions the source of patriotism. To express this content, the author uses a fairly strict sequence of arguments.
At the beginning of the passage, the author makes an observation drawn from practice: The initial patriotism is the love of the most ordinary things, specifically the love of the tree planted in front of the house, the love of the small street that pours out. riverbank, love the cool and sour taste of autumn leaves or steppe grass season with a hint of strong alcohol.
Next, the author expands and proves his statement, mentioning love for the homeland in a specific situation: The war made every Soviet citizen realize the elegance of the homeland.
Finally, the author generalizes into a truth. The stream flows into the river, the river flows into the Volga long river, and the Volga river flows into the lake. Love for home, love for the village, love for the countryside becomes love for the country.
However, the persuasiveness of the essay is not mainly due to arguments, but to the writer's passionate, deep feelings and profound understanding of the Soviet Union. It is that affection and understanding that has made the author feel the "delicate features", the unique beauty of each region of the country.
The delicate pen of I-li-a Er-ri-bua takes readers to different regions of the vast Soviet Union, admiring the natural beauty, enjoying specialties, and feeling simple, sweet feelings. This is the North of the Soviet Union with forests next to the river, trees growing on the water surface, bright pink June nights and the sound of a girl jokingly calling her lover. This is the peaceful land of Ukraine, with the shadow of a sunflower, thoughtful roads, and a golden summer noon. This is Georgia with high mountain slopes with fresh air, bright rocks, silvery streams, the cool taste of frozen water, spicy wine, simple words of kindness. It's so interesting. How delicious! And here, the majestic and dreamy city of Leningrad, with its bronze statues of mounted war horses, the colorful flowers of the summer park, the streets where each room is a page of history. And here too is the ancient city of Moscow with winding old streets rambling like a nostalgia, with the Kremlin, ancient towers with red starlight.
Ilia Erenbua's descriptive pen is filled with lyrical nuance, expressing his deep love and pride for his homeland.
It can be said that never before has the concept of patriotism been expressed so accurately and sensibly.
Even the truth about patriotism is expressed by a very impressive comparison image. The stream flows into the river, the river flows into the Volga long river, the Volga river flows into the lake. Love for home, love for the village, love for the countryside becomes love for the Fatherland.
After stating the source of patriotism, Iliad E-ren-bua affirmed: Patriotism can only be fully and most beautifully revealed when tested in the fire of war. debate: Is it possible to conceive the strength of love without subjecting it to the fierce test of fire? It was in this one-or-one defense war that every Soviet person understood that their life and destiny were tied to the destiny of the Fatherland. And so, they are willing to leave their beautiful, poetic and affectionate homeland to go fight for the Fatherland.
The essay ends with a saying that became the life motto of Soviet citizens at that time: If we lose Russia, why will we still be alive?
That motto has become the living ideal of all nations.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Mùa xuân của tôi trích Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọn của Vũ Bằng
Bài làm
Vũ Bằng là một cây bút sở trường về truyện ngắn, tuỳ bút và bút kí. Văn của ông vừa có nét tinh tế, đặc sắc của một cây bút am hiểu tường tận về cuộc sống, vừa có cái đằm thắm, mặn mà của một tâm hồn yêu thương quê hương đất nước tha thiết, nồng nàn. Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt là một sáng tác tiêu biểu cho văn phong Vũ Băng.
Thiên tuỳ bút Tháng riêng mơ về trăng non rét ngọt mở đầu bằng những cảm xúc rạo rực, ngất ngây của nhà văn trước mùa xuân Bắc Việt.
Trong dòng cảm xúc của Vũ Bằng, không khí và cảnh sắc mùa xuân đất Bắc trong những ngày đầu tháng giêng hiện lên thật đẹp- một vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo khó quên. Đó là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có cầu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng…
Chao ôi, cái mùa xuân Bắc Việt, có lẽ là cái không khí và cảnh sắc mùa xuân trước năm 1945 được gợi nhớ lại trong lòng một người con xa quê như Vũ Bằng. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính:
Bữa ấy mưa xuân lất phất bay
Hoa xoan lớp lớp rụng
Vơi đầy hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay
(Mưa xuân)
Mùa xuân về đem đến bao sự đổi thay kì diệu, làm bừng lên bao sắc xuân, và nhất là trỗi dậy bao sức sống trong lòng người. Nó làm cho người ta muốn phát điên lên, muốn mở cửa đi ra ngoài, muốn có cái thú giang hồ đó đây mà thưởng ngoạn mùa
xuân, cảm thấy không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa. Mùa xuân làm cho nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải chồi ra thành những cái lá nhỏ li ti. Đặc biệt, mùa xuân về làm cho người ta “sống” lại và “thèm khát yêu thương.
Mùa xuân về khiến cho không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, lòng người ấm lạ, ấm lùng, và trong lòng thì cảm thấy như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
Đó là cảm xúc say mê, rạo rực đến ngất ngây của một con người luôn khát khao mong chờ mùa xuân, đón nhận mùa xuân với tất cả tình yêu nồng nhiệt của mình. Giọng văn sôi nổi, tha thiết của Vũ Bằng đã truyền sang người đọc khiến ta hình như cũng thấy rạo rực và ngất ngây.
Một mùa xuân thật đẹp (mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến) được cảm nhận bằng một tâm hồn rất tinh tế và nhạy cảm của Vũ Bằng. Dường như tác giả đã hoà nhập lòng mình vào cảnh, để thấy được cái mưa riêu riêu, gió lành lạnh, cả tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa và cả âm điệu trữ tình sâu lắng, ngọt ngào của câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng.
Không chỉ cảm nhận mùa xuân bằng những giác quan quen thuộc, nhà văn còn cảm nhận mùa xuân bằng tất cả những giác quan, những cảm xúc đặc biệt nhất của tâm hồn. Sự cảm nhận ấy được diễn tả bằng những câu văn rất giàu hình ảnh và gợi cảm với một loạt các hình ảnh so sánh liên tưởng đầy ấn tượng: “Thú giang hồ” được cảm nhận êm ái nhớ nhung; nhựa sống trong lòng người căng lên được ví như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nầm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh; tình cảm gia đình đầm ấm khiến lòng người vui sướng được nhà văn liên tưởng với cảnh không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
Ngòi bút của nhà văn đặc biệt tinh tế khi miêu tả cảnh sắc và không khí mùa xuân từ sau ngày rằm tháng giêng. Con mắt tinh tường của ông đã phát hiện ra những chuyển biến (dù rất là nhỏ) của màu sắc và không khí bầu trời, mặt đất, cây cỏ trong một thời gian ngắn ngủi từ đầu tháng qua rằm: Đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh nhưng lại nức một mùi hương man mát; bầu trời không còn đừng đục như màu pha lê mờ, sáng dậy thấy những vệt xanh tươi hiện ra ở chân trời chuyển sang trong trong có những làn sóng hồng rung động như cánh con ve mới lột; trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa.
Cảnh sắc mùa xuân vốn đã đẹp vì mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng trống chèo, câu hát huê tình, đến đây càng đẹp hơn. Đến mức chính tác giả cũng phải thốt lên: Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – Mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến.
Mùa xuân ấy lắng động mãi, ngân nga mãi trong lòng người, để hôm nay, xa quê hương, một nỗi niềm như thương quê hương đến cồn cào, da diết cứ dâng lên hoá thành dòng cảm xúc ngọt ngào tươi mát, đằm thấm, dệt nên thiên tuỳ bút kiệt tác này.
|
Topic: Feelings when reading My Spring excerpt from January Dreaming of the Cold New Moon by Vu Bang
Assignment
Vu Bang is a writer who specializes in short stories, essays and memoirs. His writing has both the sophistication and uniqueness of a writer who thoroughly understands life, as well as the love and saltiness of a soul who loves his homeland earnestly and passionately. Dreaming of a cold and sweet new moon in January is a typical composition of Vu Bang's writing style.
The essay The Private Month Dreams of the Cold and Sweet New Moon opens with the writer's fiery and ecstatic emotions before the North Vietnamese spring.
In Vu Bang's emotions, the atmosphere and scenery of spring in the North in the first days of January appear beautifully - a unique, unique beauty that is unforgettable. It is the spring with pouring rain, cold wind, the sound of swallows calling in the blue night, the sound of rowing drums echoing from far away villages, and the love song of a beautiful, poetic girl...
Alas, the spring of North Vietnam, perhaps the atmosphere and scenery of spring before 1945, is recalled in the heart of a person far from home like Vu Bang. It reminds us of Nguyen Binh's famous verses:
That day, the spring rain was drizzling
Oval flowers fall layer by layer
Full of Dang village rowing festival passing through the alley
Mom told Doai village to sing tonight
(Spring rain)
Spring brings many magical changes, brightens up many spring colors, and especially awakens so much vitality in people's hearts. It makes people want to go crazy, want to open the door and go out, want to have that wanderer here and there to enjoy the season.
Spring, I feel no need to drink strong alcohol as my heart is drunk. Spring makes the sap of life in the body swell like the blood in the deer's buds, like the buds of trees that can't stand to lie still and have to sprout into tiny leaves. In particular, spring makes people "alive" again and "craving for love.
Spring brings a peaceful atmosphere of family reunion, people's hearts are strangely warm, and in their hearts they feel as if there are countless new flowers blooming and butterflies coming out to celebrate.
It is the passionate, ecstatic feeling of a person who is always longing for spring, welcoming spring with all his passionate love. Vu Bang's passionate and passionate writing voice is transmitted to the reader, making us feel excited and ecstatic.
A beautiful spring (the spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam) is felt by a very delicate and sensitive soul of Vu Bang. It seems that the author has integrated himself into the scene, to see the pouring rain, the cold wind, the sound of swallows calling in the blue night, the sound of rowing boats echoing from distant villages and the deep lyrical tone. , the sweetness of the love song of a beautiful girl is like a dream.
Not only does the writer feel spring with the familiar senses, the writer also feels spring with all the senses, the most special emotions of the soul. That feeling is expressed in very rich and evocative sentences with a series of impressive comparative images: "Gypsy beast" is felt softly and nostalgically; The swelling of life in a person's heart can be compared to the swelling of blood in a deer's buds, like the buds of a tree, unable to bear the pressure of remaining dormant, having to emerge into tiny leaves and raise their hands to wave at the lovebirds. stand beside; The writer associates the warm family love that makes people feel happy with the scene of countless new flowers blooming and butterflies coming out to celebrate.
The writer's pen is especially delicate when describing the scenery and spring atmosphere after the full moon day of the first lunar month. His keen eye discovered the changes (albeit very small) in the color and atmosphere of the sky, ground, and trees in a short period of time from the beginning of the month to the full moon: Peaches slightly faded but the pistils It's still windy, the grass isn't green, but it smells of a cool scent; The sky was no longer cloudy like the color of translucent crystal. In the morning, bright green streaks appeared on the horizon, turning clear, with pink waves vibrating like freshly shed cicada wings; On the flower trellis, a few diligent bees flew to look for flower stamens.
The spring scenery is already beautiful because of the pouring rain, the cold wind, the sound of drums, and love songs, coming here is even more beautiful. So much so that the author himself had to exclaim: So beautiful, spring - The spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam.
That spring is forever stirring, forever humming in people's hearts, so that today, far from home, a feeling of love for the homeland that is so painful and intense keeps rising and turns into a stream of sweet, fresh, and penetrating emotions. , woven into this essay masterpiece.
|
Cảm nhận khi đọc phần đầu bài Bình Ngô Đại Cáo – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
(từ “Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân đến Việc xưa xem xét – Chứng cớ còn ghi”) của Nguyễn Trãi.
Bài làm
Năm 1407, giặc Minh kéo sang xâm lược nước ta. Chúng đã “gây binh kết oán trải hai mươi năm – Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” gây nên bao tội ác, bao thảm họa cho đất nước ta, nhân dân ta:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1814, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền văn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt.
Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thương dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ” mà rất đáng tự hào.
1. Có nền văn hiến đã lâu.
2. Có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi.
3. Có thuần phong mĩ tục.
4. Có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng đế một phương”
5. Có nhân tài hào kiệt.
Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Phần mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản Tuyên ngôn Độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Tags:Văn 8
|
Feelings when reading the first part of the article Binh Ngo Dai Cao - Topics and sample essays 8
Instruct
(from "I have heard: The act of benevolence consists in keeping the people at peace until the past is considered - The evidence is still recorded") by Nguyen Trai.
Assignment
In 1407, the Ming invaders invaded our country. They have "raised war and waged resentment for twenty years - Their inhumanity has ruined heaven and earth" causing so many crimes and disasters for our country and our people:
“How cruel, Nam Son Bamboo did not record all the crimes
It's so dirty, Dong Hai water doesn't wash away the smell."
In 1814, Le Loi raised the flag of rebellion in Lam Son mountain forest - Thanh Hoa. After 10 years of arduous and heroic fighting, our army wiped out the Ming enemy and regained independence and freedom for the country and people.
In the early spring of 1428, Nguyen Trai replaced Le Loi in writing the article "Binh Ngo Dai Cau", summarizing the glorious victories in the 10 years of resistance and declaring that Dai Viet had entered a new era, "Forever lasting peace." sure".
In the first part, "Binh Ngo Dai Cao", Nguyen Trai upholds the ideology of humanity and praises the long-standing brilliant civilization of Dai Viet.
Humanity is the fighting goal of our people:
“The act of kindness consists in keeping the people at peace,
The military accepts punishment first and worries about eliminating violence."
Calming the people, punishing them, and eliminating tyranny are the core of the ideology of humanity, all of which are directed towards people, towards the oppressed and suffering people. Love the people, beat the guilty (punishment), destroy the greedy and tyrants (exterminate tyranny), save the people from death and pain, bring a peaceful and happy life to the people (peaceful people) , that's a humanitarian thing. The humanity that Nguyen Trai talks about is an extremely noble thought: fighting the enemy to save the country, the people, for the country's independence, for the freedom, happiness, and peace of the people. Humanity should be very righteous. Humanity is the invincible power to defeat the "mad Ming" army.
Use kindness to replace violence."
Our people are rich in humanity, so we use humanity to build and develop Vietnam's long-standing and brilliant civilization. If in "Nam Quoc Son Ha", Ly Thuong Kiet only mentioned the rivers and mountains of the Southern country as the place where "the Southern Emperor resided, that sacred territory was "clearly determined in the book of Heaven", then in "Binh Ngo Dai Dai". report", Nguyen Trai, standing at the peak of the "Binh Ngo" era, had a profound and comprehensive new view of the country and people of Dai Viet:
“Like our Dai Viet country from before
Capital claims to be a long-standing civilization
The mountains and rivers have been divided
North and South customs are also different
From Trieu, Dinh, Ly, and Tran, many generations built independence
Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor.
Although strength and weakness are different at different times
There are always heroes in every generation."
Dai Viet is not a "barbarian" but is very proud.
1. Has a long-standing civilization.
2. Has territory, mountains, rivers, and borders.
3. Have good customs and traditions.
4. Having independence through many dynasties "claiming one side as emperor"
5. There are talented people.
These five elements combined created Dai Viet's stature and Dai Viet's strength to defeat all invasion and expansion plots of Thien Trieu, establishing many brilliant victories.
Trieu Tiet likes to be great and must perish
Ham Tu door captured Toa Do alive
Bach Dang River killed O Ma.
The tone of the writing is heroic and poised. The sharp, strong arguments and parallel, symmetrical expressions of the parallel sentences affirmed and praised Dai Viet's great historical stature, expressing a high level of national will and self-reliance. .
The opening part contributed to beautifully expressing the ideological and artistic value of "Binh Ngo Dai Cao", the Declaration of Independence, and the "ancient heroic literature" of the nation.
Tags: Literature 8
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc Sài Gòn tôi yêu của Minh Hương'
Bài làm
Sài Gòn tôi yêu là một bài tuỳ bút nằm trong tập tuỳ bút – bút kí Nhớ… Sài Gòn tập I của Minh Hương. Sài Gòn tôi yêu là một cảm nhận sâu sắc và một mối tình đằm thắm chân tình của nhà văn với con người và mảnh đất mà ông gắn bó suốt mấy chục năm.
Bài tuỳ bút mở đầu bằng những ấn tượng chung về Sài Gòn: Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu, chăm bón, trận trọng giữ gìn cái đô thị ngọc ngà này. Một sự cảm nhận thật độc đáo, với hình ảnh so sánh liên tưởng đầy bất ngờ, thú vị.
Từ ấn tượng chung, tác giả đột ngột chuyển sang bày tỏ trực tiếp tình yêu Sài Gòn của mình:
Tôi yêu Sài Gòn da diết… Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang âm u buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh. Tôi yêu cả những đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng vào buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số dường còn những cây xanh che chở.
Ngay trong phần đầu của bài tuỳ bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha của mình với thành phố Sài Gòn. Điệp từ tôi yêu được điệp lại ở đầu các câu văn như ngân đi ngân lại điệp khúc tình yêu, như nhấn thêm vào bản đàn tâm trạng rộn rã yêu thương của nhà văn.
Minh Hương yêu Sài Gòn với tất cả những cái đáng yêu, cả những điều không mấy dễ chịu của nó. Dường như hình ảnh Sài Gòn đã ăn sâu vào trong tiềm thức, trở thành một phần máu thịt không thể thiếu trong cuộc sống của ông.
Tình yêu Sài Gòn sâu nặng khiến nhà văn có được cảm nhận thật chính xác và tinh nhạy về thành phố. Con mắt tinh tường của nhà văn nhận ra cả cái sắc nắng “ngọt ngào” buổi sớm mai, cái “nhớ thương” của cơn gió lộng buổi chiều, cái ào ào đột ngột của những cơn mưa nhiệt đới; cả sự “trái chứng” của thời tiết đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh; cả cái nhịp sống đa dạng của phố phường; thưa thớt về đêm khuya, náo động, dập dìu vào giờ cao điểm; cả cái không khí mát dịu, thanh sạch ở những con đường rợp bóng cây xanh… Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp và những nét riêng biệt cho thành phố phương Nam này.
Có thể nói, đây là đoạn văn kết hợp cảm xúc với quan sát tinh tế, đậm chất trữ tình.
Sau những dòng cảm xúc trữ tình, nhà văn chuyển sang những cảm nhận và bình luận về người Sài Gòn. Phải chăng, ông muốn lí giải kĩ hơn căn nguyên sâu xa tình yêu Sài Gòn của mình: không chỉ yêu nhịp sống, thời tiết, phong cảnh mà còn yêu hơn người Sài Gòn.
Người từ bốn phương hội về đây, rồi nhanh chóng hoà hợp thành người Sài Gòn. Thành phố bao dung và nhân hậu này bao giờ cũng dang hai cánh tay rộng mở mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến. Một thành phố như vậy, lẽ nào lại không yêu? Và có lẽ tình yêu Sài Gòn không chỉ là của riêng nhà văn.
Yêu Sài Gòn, tác giả yêu tất cả những con người Sài Gòn và nhận ra ở họ bao nét đẹp tâm hồn, làm nên một phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng:
Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán, người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh đều rất chân thành, bộc trực.
Theo tác giả, phong cách ấy đã được kết tinh, trải nghiệm trong một thời gian dài của cuộc sống, được thử thách trong cam go của lịch sử.
Giới thiệu về phong cách người Sài Gòn, tác giả đi sâu vào giới thiệu phong cách của cô gái Sài Gòn – những bông hoa của thành phố làm cho thành phố thêm rực rỡ hơn hương thơm và sắc màu.
Cách viết xen lẫn những dòng cảm nhận và những lời bình luận của Minh Hương làm cho đoạn văn vừa đậm đà cảm xúc trữ tình, vừa giàu chất suy ngẫm.
Bài tuỳ bút kết thúc bằng việc khẳng định lại tình yêu son sắt thuỷ chung và mong ước tha thiết của nhà văn:
Vậy đó, tôi yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây. Một mối tình dai dẳng, bền chặt. Thương mến bao nhiêu cũng không uổng công, hoài của. Tôi mong ước mọi người, nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi.
Cách kết thúc như vậy khiến cho chủ đề được xoáy sâu, nổi bật lên mà để lại những dư âm trong người đọc.
|
Topic: Feelings when reading "Saigon I Love" by Minh Huong'
Assignment
The Saigon I Love is an essay in Minh Huong's memoir - Memoirs Remembering... Saigon, volume I. The Saigon I Love is a deep feeling and a sincere love affair of the writer with the people and land he has been attached to for decades.
The essay opens with general impressions of Saigon: Saigon remains forever young like a tender silk tree, on the verge of changing skin and flesh, as long as the residents of today and tomorrow know how to irrigate. , fertilize and carefully preserve this pearly city. A truly unique feeling, with surprising and interesting comparison images.
From the general impression, the author suddenly switched to directly expressing his love for Saigon:
I love Saigon so much... I love it in the early morning sunshine, a sweet sunshine, in the windy and nostalgic afternoon, under the unexpected tropical rain trees. I love the weather in contrast to the gloomy and sad sky, suddenly clear as glass. I love even late nights with sparse noise. I love the bustling streets and traffic jams during rush hours. Love the stillness in the foggy morning with the cool, clean air on some roads covered by green trees.
Right in the first part of the essay, the author expressed his passionate and passionate love for the city of Saigon. The refrain "I love" is repeated at the beginning of the sentences, echoing over and over again the chorus of love, as if adding to the symphony of the writer's bustling love mood.
Minh Huong loves Saigon with all its lovely things, even its unpleasant things. It seems that the image of Saigon has been deeply ingrained in his subconscious, becoming an indispensable part of his life.
His deep love for Saigon gave the writer a very accurate and sensitive feeling about the city. The writer's sharp eyes recognize the "sweet" sunlight of the morning, the "longing" of the afternoon breeze, the sudden rush of tropical rains; even the "contrast" of the weather, which was gloomy and sad, suddenly as clear as glass; the diverse life of the streets; sparse late at night, noisy, bustling at rush hour; The cool, clean air in the tree-lined streets... All have created the beauty and unique features of this Southern city.
It can be said that this is a passage that combines emotions with subtle, lyrical observations.
After the lyrical emotions, the writer turns to feelings and comments about Saigon people. Perhaps, he wanted to explain more thoroughly the deep root of his love for Saigon: not only loving the pace of life, weather, and landscape, but also loving the people of Saigon more.
People from all over the world came here and quickly merged to become Saigon people. This tolerant and kind city always opens its arms to welcome many people from all over the country. How can you not love a city like that? And perhaps the love of Saigon is not just the writer's.
Loving Saigon, the author loves all Saigon people and recognizes in them many spiritual beauties, creating a native style with many characteristics:
They speak naturally, sometimes jokingly and easily. Most of the people in Saigon, as well as most people in Luc province, are very sincere and straightforward.
According to the author, that style has been crystallized, experienced over a long period of life, and tested in the hardships of history.
Introducing the style of Saigon people, the author goes deeper into introducing the style of Saigon girls - the flowers of the city make the city more vibrant with fragrance and color.
Minh Huong's writing style mixed with feelings and comments makes the passage both rich in lyrical emotion and rich in contemplation.
The essay ends by reaffirming the writer's faithful love and earnest wishes:
That's it, I love Saigon and love the people here. A persistent, lasting love. No matter how much you love, it's not in vain. I hope everyone, especially young people, love Saigon like I do.
Such an ending makes the topic deepen and stand out, leaving an echo in the reader.
|
Đề bài: Cảm nhận khi đọc đoạn trích Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm khúc
Bài làm
Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao cảnh chia li bi thương sâu thiết:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiều Dương thiếp hãy trông sang
Khói Tiên Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Sau phút chia li – Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Chàng thì đi- Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian:
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh
Ngàn núi xanh đã chia cách họ mà tâm lòng nhớ thương vẫn cứ đau đáu dõi về nhau:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Từ Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương đến khói Tiêu Tương- Cây Hàm Dương thì sự xa cách đã lên đến mấy trùng, cũng như nỗi sầu đã dâng lên trùng trùng lớp lớp trong lòng người chinh phụ:
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Càng dõi trông theo chồng, ước mong gặp mặt càng trở nên vô vọng. Còn đâu bóng dáng cua người chồng thân yêu? Chỉ còn những ngàn dâu xanh xanh trải dài tít tắp đến tận chân trời như nỗi bi thương vô vọng không biết đến tận bao giờ:
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Câu nghi vấn như một nốt nhấn làm hằn sâu nỗi sầu chất chứa trong lòng người chinh phụ một khối sầu càng lắc càng đầy. Cả một khối sầu nặng trĩu trong lòng người vợ trẻ tội nghiệp và đè nặng tâm can người đọc. Trong câu thơ dường như có cả tiếng nấc nghẹn ngào uất ức của người vợ. Vì đâu mà dẫn đến nỗi sầu nghịch chướng, oái oăm này? Vì đâu mà người chinh phụ phải đi vào cõi xa mưa gió, còn người chinh phụ trở về buồng cũ chiếu chăn vò võ một mình? Chiến tranh thật là tàn nhẫn.
Nhà thơ không chỉ nhận thấy, mà còn nghe thấy cả tiếng lòng sâu thẳm của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua những sáng tạo nghệ thuật tài hoa và điêu luyện. Chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li và tiếng lòng của người phụ nữ lại được thể hiện một cách sâu đậm đến thế.
Mười hai câu song thất lục bát trở thành tiếng nói chung cho cảnh biệt li của tất cả những cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn) và in dấu ấn trong tiềm thức của tất cả những ai yêu văn chương cổ điển Việt Nam.
|
Topic: Feelings when reading the excerpt After the moment of separation, excerpt from Chinh Phu Soaking Song
Assignment
In Vietnamese literature from Khuc Khuc, Chinh Phu Ngam Khuc emerges like a colorful diamond. Both the original Chinese version by Dang Tran Con and the Vietnamese version by Doan Thi Diem are immortal artistic masterpieces.
Chinh Phu Ngu Khuc was born in the early 18th century, a time when prolonged war and chaos led to many scenes of deep and tragic separation:
He went to a far away place in the rain and wind
I went back to my old room to get blankets
Looking forward to stopping
Flowing with blue clouds, thousands of green mountains.
At Ham Duong, he still looked back
Please look forward to Tieu Duong wharf
Tien Tuong Smoke is far from Ham Duong
Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong.
Looking back but not seeing it
Seeing thousands of strawberries green and green
Thousands of green strawberries are one color
Whose heart is sadder than the other?
(After the moment of separation – Trich Chinh's father recites the song)
Twelve sentences of seven and eight verses with a mournful tone, both sad and sorry for oneself, and filled with sadness and longing. After reading it, it will haunt me forever. The conqueror and the concubine were still young, in a loving relationship as husband and wife, and suddenly something happened to them:
He went to a far away place in the rain and wind
I went back to my old room to get blankets.
He leaves - I return, two contrasting images like a cruel separation. It seems that the wife also feels that deeply. And sadness has colored the whole space:
Flowing with blue clouds, thousands of green mountains
Thousands of green mountains have separated them, but our hearts still ache for each other:
At Ham Duong, he still looked back
Ben Tieu Tuong, please look forward
From the Ham Duong Place - Tieu Tuong Wharf to the Tieu Tuong Smoke - Ham Duong Tree, the separation has reached many levels, as well as the sadness has risen in layers in the heart of the conqueror:
The smoke of Tieu Tuong is far from Ham Duong
Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong
The more I look at my husband, the more hopeless my wish to meet him becomes. Where is the shadow of my beloved husband? There are only thousands of green mulberries stretching out to the horizon like a hopeless sadness that doesn't know how long it will last:
We both look but we don't see
Seeing thousands of strawberries green and green
Thousands of green strawberries are one color
Whose heart is sadder than the other?
Whose heart is sadder than the other? The question is like an accent note that deepens the sadness contained in the heart of the conqueror, a mass of sadness that becomes fuller the more you shake it. A mass of sadness weighs heavily in the poor young wife's heart and weighs heavily on the reader's heart. The poem seems to include the wife's frustrated sobs. Why does this sadness and sadness lead to this? Why did the conqueror's wife have to go into a faraway world of rain and wind, while the conqueror's wife returned to her old room alone, under the covers and blankets? War is cruel.
The poet not only noticed, but also heard the deep voice of the young wife and expressed it truthfully through talented and skillful artistic creations. Never before in Vietnamese literature has the sadness of separation and the voice of a woman's heart been expressed so deeply.
The twelve verses "song-seven-six-eight" became the common voice for the separation of all married couples (Hoang Xuan Han) and left an imprint on the subconscious of all those who love classical Vietnamese literature.
|
Cảm nhận khí phách anh hùng người chiến sĩ Phan Châu Trinh – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
BÀI LÀM
“Đập đá ở Côn Lôn” là khẩu khí của một người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Khẩu khí ấy rắn rỏi như chính khí phách của tác giả – một nhà chí sĩ yêu nước trên bước đường bôn ba cách mạng đang bị giam cầm, đày ải. Có thể nói rằng, với “Đập đá ở Côn Lôn” nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã khẳng định rằng, có một dòng thơ ca yêu nước chống ngoại xâm toát lên khí phách kiên cường bất khuất.
Trước hết tác giả đã dựng lên một tượng đài hiên ngang, lẫm liệt về người anh hùng cứu nước. Dẫu đó là một người tù nhưng hình ảnh thơ lại khiến ta liên tưởng đến tư thế của người đang làm chủ mình, làm chủ cuộc sống, muốn dùng sức mạnh và nghị lực của bản thân để hoán cải càn khôn, vũ trụ: Làm trai đứng giữa đất Côn Lòn Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Thật hào hùng, thật lẫm liệt ở cái tư thế “đứng giữa đất Côn Lôn”. Ở đây, vị trí của kẻ làm trai là vị trí trung tâm. Đất Côn Lôn như là toàn bộ hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống đầy cam go khủng khiếp. Với tư thế ấy, kẻ làm trai như muốn khẳng định sức mạnh dời non lấp biển của mình, sức mạnh ấy sánh ngang cùng trời đất, ở chính giữa trời đất. Họ tin rằng với vị trí ấy, sức mạnh đó sẽ làm cho “lở núi non”.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Hai câu thơ vận dụng nhiều động từ chỉ hành động mạnh, hay nói cách khác động từ chi phối toàn bộ ý tưởng của câu thơ: “xách”, “đánh tan”, “ra tay”, “đập bể”… Hình ảnh và ý thơ đối nhau chan chát vừa tạo lớp nghĩa tả thực người tù đang cầm búa để đập đá trong những buổi lao động khổ sai, vừa tạo nghĩa bóng thể hiện khí phách hào hùng của người có chí lớn.
Cùng với dụng ý sử dụng động từ, cách ngắt nhịp của hai câu thơ khiến hình ảnh thơ trở nên cứng cỏi, mãnh liệt:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Nhịp thơ 2/2/3 tạo nên hành động mạnh mẽ, ý chí quyết tâm của kẻ có chí vá trời lấp biển.
Và tiếp theo, hai câu luận (5 – 6) thể hiện nghị lực phi thường của kẻ làm trai trong một hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
“Tháng ngày”, “mưa nắng”, những thử thách của thời gian và hoàn cảnh không làm cho người chiến sĩ sờn lòng, nản chí, trái lại, lời thơ khẳng định một quyết tâm vượt qua mọi gian lao, khổ hận để giữ tấm lòng son sắt.
Hai câu thơ kết, tác giả bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm của “những kẻ vá trời khi lỡ bước”. Nếu nói rằng âm hưởng chủ đạo của bài thơ là khẩu khí anh hùng của một người tuy thất thế nhưng vẫn nuôi mộng lớn dời non lấp bể thì ở hai câu kết ý tưởng đó được thể hiện nổi bật nhất:
Gian nan chi kể việc con con!
Hình tượng kì vĩ “những kẻ vá trời” làm ta liên tưởng đến bà Nữ Oa trong câu chuyện thần thoại, sức mạnh của Nữ Oa là sức mạnh biến cải cả trời đất, vũ trụ.c
Đọc xong bài thơ, có hai hình ảnh đậm nét đọng lại trong tâm trí em. Đó là hình ảnh một người bị kẻ thù đày đọa nhưng vẫn coi thường gian khổ, chết chóc, dáng vẻ vẫn hiên ngang anh hùng. Người chí sĩ xem thực tế khổ ải của lao tù thực dân như một hoàn cảnh để tôi rèn khí phách. Một hình ảnh khác vượt lên hoàn cảnh tù đày, không gian, thời gian, một kẻ “làm trai” nguyện đem tâm huyết và nghị lực để cải tạo thế giới, biến cải cuộc sống thực tại hướng tới một chân trời sáng tươi của đất nước, dân tộc. Hai hình ảnh đó liên kết, đan xen, bổ sung cho nhau để dựng nên một tượng đài anh hùng rực rỡ trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm.
Cuộc đời và thơ văn của Phan Châu Trinh sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam anh hùng.
Tags:Văn 8
|
Feel the heroic spirit of soldier Phan Chau Trinh - Topics and sample essays 8
Instruct
ASSIGNMENT
“Smashing rocks in Kunlun” is the motto of a defeated hero who still stands tall. That tone is as strong as the spirit of the author - a patriotic scholar on the revolutionary path who is imprisoned and exiled. It can be said that, with "Smashing in Kun Lon", the scholar Phan Chau Trinh affirmed that there is a line of patriotic poetry against foreign invaders that exudes an indomitable spirit of resilience.
First of all, the author built a proud and majestic monument to the hero who saved the country. Even though it is a prisoner, the poetic image reminds us of the posture of a person who is in control of himself, in control of his life, who wants to use his own strength and energy to transform the universe: Doing The boy stood in the middle of the glorious land of Con Lon, causing the mountains to collapse.
So heroic, so majestic in the posture of "standing in the middle of Kunlun land". Here, the position of the malefactor is the central position. Kunlun land is like the entire epitome of a life full of terrible hardships. With that posture, the man seems to want to affirm his power to move mountains and fill the sea, that power is comparable to heaven and earth, in the middle of heaven and earth. They believe that with that position, that power will cause "mountains to collapse".
Carry a hammer and smash five or seven piles
He broke several hundred stones.
The two verses use many verbs indicating strong actions, or in other words, the verbs govern the entire idea of the verse: "carry", "smash", "take action", "smash"... Image and the contrasting poetic meanings both create a layer of meaning that describes the prisoner holding a hammer to break rocks during hard labor sessions, and also create a figurative meaning that shows the heroic spirit of a person with great ambition.
Along with the intentional use of verbs, the rhythm of the two verses makes the poetic image become tough and intense:
Carry a hammer and smash five or seven piles
He broke several hundred stones.
The 2/2/3 poetic rhythm creates strong action and determination of someone who has the will to patch up the sky and fill the sea.
And next, two sentences (5 - 6) show the extraordinary strength of a man in an extremely harsh situation:
Every day, you will be surrounded by sophisticated people
The rain and the sun only frayed the iron skin.
"Days and months", "rain and sun", the challenges of time and circumstances do not make the soldier feel discouraged or discouraged. On the contrary, the poem affirms a determination to overcome all hardships and suffering to keep your heart strong.
In the two concluding verses, the author directly reveals the thoughts and feelings of "those who patch the sky when they miss a step". If it is said that the main sound of the poem is the heroic voice of a person who, despite being defeated, still harbors big dreams of moving mountains, then in the two concluding sentences that idea is expressed most prominently:
How difficult is it to talk about children!
The majestic image of "those who patch the sky" reminds us of Nu Wa in the myth, Nu Wa's power is the power to transform heaven, earth, and the universe.c
After reading the poem, two bold images remained in my mind. That is the image of a person who was tormented by his enemies but still despised hardship and death, still looking heroic. The wise man saw the harsh reality of colonial prisons as a situation in which to hone his mettle. Another image that transcends the circumstances of imprisonment, space, and time, a "boy" who vows to devote his heart and energy to improving the world, transforming real life towards a bright horizon of country, nation. Those two images are linked, intertwined, and complement each other to create a brilliant heroic monument in the patriotic literature against foreign invaders.
Phan Chau Trinh's life and poetry live forever in the hearts of the heroic Vietnamese people.
Tags: Literature 8
|
Cảm nhận khổ cuối bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Cảm nhận khổ cuối bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
Đến với Xuân Diệu-nhà thơ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự cần cù của xứ Nghệ.
“Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong
Ông đồ nghề lấy cô hàng nước mắm”.
Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ cần cù, kiên nhẫn, lao động và sang tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả.Tiêu biểu là 10 câu cuối của đoạn thơ. Chính là lời giục giã mọi người và cũng chính là lời giục giã cho chính mình.Vì vậy mà tác giả đã nói:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám.Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, xuân chưa già:
Đoạn thơ mở đầu bằng ba chữ “Ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế: Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái tôi ấy đã hòa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời. Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”,
Và đằng sau khao khát “ôm cả sự sống mơn mởn” ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”
Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được lặp đi, lặp lại như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống” – “riết – mây đưa, gió lượn” – “say – cánh bướm, tình yêu” – “thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nỗi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có. Đến với “Vội Vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân của tình yêu, của tuổi trẻ. Nỗi khát thèm ấy là xuất phát từ một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực của Xuân Diệu trước cuộc đời: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ – Em, em ơi, tình non đã già rồi”. Đoạn thơ đã giúp ta hình dung được tâm hồn Xuân Diệu, một cái tôi yêu đời, giàu xúc cảm, một nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời. Với những gì thể hiện ở trên, Xuân Diệu rất xứng đáng với danh hiệu: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
|
Feel the last stanza of Xuan Dieu's poem Rush
Instruct
Feel the last stanza of Xuan Dieu's poem Rush
Coming to Xuan Dieu - the poet whose roots are in harmony between the windy region of Laos and white sand with the diligence of Nghe An.
“Father is outside, mother is inside
The tool man married the fish sauce shopkeeper."
Xuan Dieu's entire life was a lifetime of artistic work and never stopped writing. For him, life is never boring. He is a diligent, patient, hard-working and artistically creative person from Nghe An. Xuan Dieu is the newest poet in both content and art in current literature. “Hurry” is one of his outstanding poetic works. The poem is also an urging to live intensely and to the fullest. Cherish every second of your life, expressing the author's desire to live. Typical are the last 10 lines of the poem. It is an urging for everyone and also an urging for oneself. That is why the author said:
“Let's go quickly! The season has not yet turned to evening,
I want to hug
All new life begins to bloom;
I want to sway the clouds and the wind,
I want to make butterflies drunk with love,
I want to capture many things in one kiss
And the mountains, and the trees, and the grass,
Filled with fragrance, filled with light
Fill yourself with the beauty and beauty of fresh times;
- O red spring, I want to bite you!"
Hastily" published in the collection "Poetry", is one of Xuan Dieu's most typical poems before the August Revolution. In the upper part of the poem, the poet explains to the reader that creation has life. Human beings are not allowed to enjoy pleasures in this world forever. Life is short, youth is limited, and time passes forever and never comes back. Therefore, the poet "urges" us to "hurry up", "hurry up" to enjoy the feast of the world when "the season has not yet turned to dusk", when spring is young, spring is not yet old:
The poem opens with the three words "I want to hug" as if revealing Xuan Dieu's greed and enthusiasm for earthly life: Before that, the poet addresses "I" with the bold desire to "turn off the sun, force wind" but in this last verse that self has merged into a common self to enjoy all the flavors of life. Immediately there is a verse expressing the freshness of "All life has just begun to bloom". “Delicate” is a very sexy and expressive word. It evokes things, the trees are in their prime, lush and full of vitality. "January is as delicious as a pair of close lips",
And behind that desire to "embrace all tender life" are bold, urgent, urging verses filled with love:
“I want to move the clouds and the wind,
I want to make butterflies drunk with love,
I want to capture many things in one kiss
And the mountains, and the trees, and the grass,
Filled with fragrance, filled with light,
Fill yourself with the beauty and beauty of fresh times;”
A short poem with four or five words "I want" repeated over and over like a hurried rhythm, like the poet's rapid breathing. It proves that Xuan Dieu is passionate about confusion and confusion, as if wanting to at the same time open his arms to embrace the whole universe, the whole life, and spring into his heart. Living like that with Xuan Dieu is truly living, reaching the end of the happiness of living. The alliteration "I want" as its meaning expresses the poet's eager, passionate desire. The poet seems to want to embrace all the "moving clouds and flying winds", wants to be infatuated with the "butterflies of love", wants to gather them all into that youthful chest with "one many kisses". Wanting to absorb into his soul the abundant sap of life, "And the mountains and water, and the trees, and the radiant grass." Then, like a bee, he flew away to suck the pistil of life until he was "drunk" and sucked until he was filled with light, "For "full of the beauty and beauty of the bright times" then staggered away.
Fill yourself with the beauty and beauty of fresh times;”
The refrain "give" with increasing tempo emphasizes the levels of desire for enjoyment to reach satisfaction, fullness, and completeness. Xuan Dieu wants to enjoy life until he is "full", "drunk", "full". In the highest inspiration, Xuan Dieu realized life, spring as the most precious thing, as complete as a red fruit, ripe, fragrant, sweet, pink spring, for the poet. enjoy in high desire.
Xuan Dieu's poetry is characterized by eagerness, enthusiasm, and violence. Each time the desire "I want" is accompanied by a verb indicating a state of love that becomes stronger and more passionate "embrace - life" - "hold - the clouds move, the wind glides" - "drunk" - butterfly wings, love" - "take - many kisses", and finally a cry of passion, passion expressing a love of life, a thirst for life unprecedented in Vietnamese poetry: "O spring pink, I want to bite you!”. This is the culmination of the poet's burning desire.
Under Xuan Dieu's pen and in the poet's "green" and "blue" eyes, spring appears clearly and vividly as if it had a shape, a shape, a soul, and a "pink spring" color. Spring is like the lips and cheeks of a young woman, full of vitality and beauty, a virgin in love, or like a sweet, fragrant ripe fruit in the garden. "January is as delicious as a pair of close lips." . Faced with the charm of spring and life, the poet seemed unable to suppress his love and came up with a lovely gesture:
Perhaps among Xuan Dieu's poems before the Revolution, these are Xuan Dieu's most poetic verses. Because every sentence, every word carries the passionate breath, passion, and desire for life of "the newest poet among new poets".
The poem is a new and bold concept of life that has never existed before. Coming to "Voi Vang", Xuan Dieu calls on everyone to love and enjoy what life has to offer. Xuan Dieu has revealed an ego filled with the desire to live, to passionately enjoy the colors and colors of life. The poet seemed to want to open both his arms and his chest to receive the spring of love and youth. That desire comes from Xuan Dieu's progressive and positive outlook on life: "Hurry up, hurry up - Baby, baby, young love is already old." The poem helps us visualize Xuan Dieu's soul, an ego that loves life, is rich in emotions, and a progressive outlook on life. With what is shown above, Xuan Dieu deserves the title: "The newest poet among the new poets".
|
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Sang Thu của Hữu Thỉnh
Hướng dẫn
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Sang Thu của Hữu Thỉnh
Bài làm
Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. ” Sang Thu” là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên Sang Thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo ” Hương ổi” nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa ( “bỗng”, “hình như”)
Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận được bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế
” Hương ổi ” lan vào không gian phả vào gió se, động từ “Phả” là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng.
“Sương đầu thu” giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ “chùng chình”.
“Dòng sông” trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; Những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.
Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ ” vắt nửa mình sang thu” đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần.
Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ ” vẫn còn bao nhiêu”, “vơi dần”, “cũng bớt”
Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.
Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nửa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình. Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.
Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ Hạ sang Thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.
|
Feeling the first stanza of Sang Thu by Huu Thinh
Instruct
Feeling the first stanza of Sang Thu by Huu Thinh
Assignment
Huu Thinh is a poet who writes a lot and writes a lot about people and natural life. "Sang Autumn" is a typical work written about his autumn. The poem not only has the image of nature, Sang Thu, but also the silhouette of people before the autumn of life.
“Suddenly I noticed the scent of guava
Blown into the wind
The fog drifted through the alley
Thu seemed to have about".
The change of heaven and earth in autumn or the signal of autumn (the wind) brings with it "Guava scent", the poet is surprised and flutters before the beauty of nature in the moment of changing seasons ("suddenly", "image". like")
The changes in space during dawn are felt by the poet with many senses and subtle vibrations
"Guava scent" spreads into space and blows into the wind, the verb "Pha" is a unique feature of guava scent, guava scent spreads into the wind in a large space.
"Early autumn mist" gently hangs and moves slowly in the alley. The author has used a very unique art of personification through the verb "slack".
The serene flowing "river" evokes the gentleness of a natural painting; The birds began to rush, the author used the art of personification combined with the art of parallelism and alliteration to open up a high, wide and airy space.
The feeling of changing seasons is expressed interestingly through the summer clouds "half-way into autumn", this is a creative, unique image and creates a unique character for the work. Perhaps autumn is coming to the neighborhood, signaling that autumn is very near.
The late summer sun is still strong and bright but fading. The rain also subsided, and the sound of thunder was no longer surprising. The author uses words extremely delicately through the words "how much is still left", "is gradually decreasing", "is also decreasing".
The image of autumn mist hanging in the alleys evokes the image of people feeling anxious and anxious before the autumn of life.
When autumn comes, there is less sudden thunder. We can also understand the image of a row of old trees not being surprised or startled by the sound of thunder. With this image that has realistic descriptive value of nature, the poet wants to convey his thoughts. When people have experience, they are more steadfast in the face of life's upheavals.
With unique use of words, profound and delicate feeling, beautiful poetic images, delicate language and peaceful poetic voice. Coming to autumn represents the delicate feeling of the gentle changes of the season transition from Summer to Autumn in the North. Thereby expressing the author's love of nature and attachment to his homeland and his philosophy about people and life.
|
Cảm nhận khổ đầu tác phẩm Từ ấy mẫu 1
Câu thơ đầu tiên được bắt đầu bằng cụm từ “từ ấy” thể hiện sự đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của nhà thơ. Đây là thời điểm tác giả giác ngộ lý tưởng cách mạng, bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được giác ngộ vào năm 1938 ông vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi tròn 18 tuổi, Đảng là tập thể bao gồm những thanh niên ưu tú nhất của cả nước, nguyện hy sinh và phấn đấu vì sự nghiệp của đất nước và nhân dân.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Bài thơ “từ ấy” thuộc phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên, phần thơ ra đời trong không khí đầy sục sôi, đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lúc này nhà thơ cũng không hoạt động phong trào học sinh, sinh viên ở Huế. Bài thơ ra đời vào tháng 7 năm 1938 ghi lại những tâm tư, tình cảm của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đây là việc vô cùng thiêng liêng, sự kiện trọng đại của nhà thơ, đã mang đến cho Tố Hữu niềm xúc động mạnh mẽ.
Khổ thơ mở ra là những cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc lý tưởng của cách mạng và tác giả đón nhận nó bằng một tâm hồn tươi trẻ, “từ ấy” ở nhan đề và được nhắc lại ngay câu mở đầu để tô đậm giây phút thiêng liêng, sự kiện trang trọng trong đời của Tố Hữu, là bước ngoặt lớn lao cho thanh niên tiểu tư sản trở thành một chiến sĩ cộng sản thay đổi về nhận thức, về lẽ sống. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ khi đất nước đang còn trong cảnh chiến tranh, nhân dân lầm than, bị đô hộ, trước tình hình ấy nhiều thanh niên muốn giải cứu đất nước nhưng hầu như đều rơi vào cảnh bế tắc, bơ vơ, một cái tôi mặc cảm, đầu thai nhầm thời đại, dù rất uất hận, đau xót nhưng chưa đủ dũng khí để cầm súng, cầm gươm và rồi khi may mắn tìm được lẽ sống cho mình, cho quê hương ta thấy được sự hào hứng và niềm vui sướng vô bờ bến của nhà thơ, hòa vào cuộc đấu tranh sinh tử, nhiều gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi vinh quang. “Từ ấy” đã cho nhà thơ thấy cuộc sống ý nghĩa và giây phút thiêng liêng sự nghiệp một hồn thơ.
Trong niềm xúc động lớn lao, nhà thơ đã có nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của lý tưởng Đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chỉ cho dân tộc con đường sống, đã có bao lời ca tiếng hát ca ngợi Đảng vinh quang, nhưng cách ca ngợi Đảng của Tố Hữu thật đặc sắc.
Qua cách thể hiện sáng tạo, hai câu thơ còn mang hàm ý: với dân tộc Việt Nam, với tầng lớp trí thức, thanh niên trẻ những năm 30, 45. Lý tưởng cần thiết như mặt trời, tất yếu như chân lý. Hai câu thơ còn diễn tả sự phục sinh mạnh mẽ của một tâm hồn tươi trẻ khi được mặt trời lý tưởng soi rọi, chỉ lối, niềm vui tràn ngập trong lòng, người thanh niên yêu nước đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Với phép so sánh độc đáo, đầy thi vị nhà thơ đã làm cho thế giới tinh thần, hồn thơ tươi trẻ tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu cuộc sống “hồn tôi là một vườn hoa lá” từ hình tượng vô hình thành hữu hình. Ánh sáng chói lọi của lý tưởng, nguồn sống mãnh liệt của mặt trời cách mạng tác động vào tâm hồn nhà thơ, tạo ra sự biến đổi sâu sắc. Trước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng, người thanh niên trí thức trẻ này sống một cách buồn bã, ảm đạm, lụi tàn như mảnh vườn trong mùa đông giá lạnh nhưng sau khi được gặp và giác ngộ được lý tưởng cách mạng cuộc sống lẫn tâm hồn của nhà thơ như một mảnh hồn thơ đầy hương sắc giữa mùa xuân, mang đến nguồn sinh lực dồi dào cho biết bao tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết. Cuộc sống của họ có lý tưởng thật âm sắc, đượm hương. Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ “đậm”, “rộn” được dùng thật thẩm mỹ, đặc biệt với lối vắt dòng đặc sắc, hai câu thơ của Tố Hữu diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm vui, niềm hạnh phúc vô hạn trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng. Có thể nói mặt trời chân lý đã xua tan những bóng đêm u ám, mở ra một tương lai tươi sáng, vẫy gọi bao tâm hồn hăm hở bước vào đời với tất cả niềm tin yêu, hy vong. Với nhà thơ đâu phải chuyện của nhận thức, của lý trí mà còn là chuyện của tình cảm, trái tim nên có sức sống cuốn hút khiến cho những thanh niên trí thức trẻ như Tố Hữu khiến cho tất cả dân tộc Việt Nam nguyện suốt đời theo Đảng.
Khổ thơ vừa hay về nội dung và đẹp về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo đẹp đẽ, cảm xúc thơ chân thành mãnh liệt là sự ngợi ca lý tưởng cách mạng, ngợi ca Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Qua đoạn thơ nhà thơ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống, con đường sống đúng đắn của cả dân tộc tộc, khổ thơ như khúc hát của một trái tim mà cũng là khúc hát say mê của triệu triệu trái tim hướng về Đảng, hướng về cách mạng
Cảm nhận khổ đầu tác phẩm Từ ấy mẫu 2
Người con của xứ Huế mộng mơ, người chiến sĩ cách mạng, và cũng là cây bút thơ ca Cách Mạng tiêu biểu – Tố Hữu. Từ khi còn trẻ- 18 tuổi, ông đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trong nhiệt huyết tuổi trẻ, hạnh phúc trào dâng, niềm tin mãnh liệt vào Đảng, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Từ ấy” để thể hiện cảm xúc của mình. Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” là khúc dạo đầu của dòng mạch cảm xúc ấy.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và đậm tiếng chim“
Trước hết cảm nhận về hai chữ “Từ ấy”. “Từ ấy” ở đầu đoạn thơ được lặp lại từ tên bài thơ. “Từ ấy” mà tác giả nhắc tới là một mốc thời gian vô cùng quan trọng. Đó là những ngày của năm 1938, tháng ngày đất nước ta đang gồng mình chống giặc ngoại xâm, khi đó Đảng được thành lập 18 tuổi-mốc thời gian đáng nhớ của tác giả, khi ấy tác giả được vinh dự đứng trong hàng ngũ Cách Mạng Đảng. “Từ ấy” của tác giả là cột mốc thời gian tự hào của chàng thanh niên trẻ tuổi hạnh phúc, vinh dự khi được gia nhập Đảng Cộng Sản.
“Bừng nắng hạ”, ba chữ vang lên mà làm sáng bừng cả câu thơ. Với Tố Hữu được tham gia vào đội ngũ Đảng là một niềm hạnh phúc, một điều tự hào trân trọng. Tác giả nói “bừng nắng hạ”, không phải nắng xuân nhàn nhạt, không phải nắng đông lạnh lẽo cũng chẳng phải nắng thu dịu dàng mà là cái nắng hè chói chang rực rỡ nhất. “Bừng nắng hạ” vì nắng mùa hè đẹp nhất, sáng nhất làm tỏ rực một trái tim nhiệt huyết.
Hai câu thơ đầu với lối nói ẩn dụ, hình ảnh đã nhấn mạnh tình yêu cách mạng, niềm tin vào Đảng của chàng thanh niên. Chàng trai ấy nhận ra bóng tối của những đêm đen thực dân đàn áp nhờ ánh sáng Cách Mạng, nhờ ánh sáng của Đảng đã được xoá tan. Đọc hai câu thơ mà lòng ta cũng hừng hực một tinh thần, niềm tin vào Đảng Cộng sản với những đường lối Cách Mạng đúng đắn.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục diễn tả cảm xúc dào dạt của người thanh niên khi được ánh sáng Đảng giác ngộ:
“Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Câu thơ giàu hình ảnh và thật bay bổng lãng mạn. Tố Hữu ví hồn mình với “vườn hoa lá” Cách so sánh đậm lãng mạn, yêu đời. Ánh sáng của Đảng đã khiến tâm hồn người chiến sĩ ngập sắc hương thơm và rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Đảng đã đem đến cho người thanh niên trẻ tuổi tình yêu với cuộc sống, yêu Cách Mạng và tin tưởng vào Cách Mạng. Không còn là những xúc buồn bã như thơ ca xưa, thơ ca Cách Mạng tiêu biểu là thơ của Tố Hữu mang cái tình vui vẻ, mang cái hồn nhiệt huyết sục sôi ý chí.
Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” vang lên tiếng cảm xúc dạt dào, hạnh phúc tột cùng của chàng thanh niên trẻ khi lần đầu tiên được ánh sáng Đảng soi chiếu, chỉ đường vạch lối. Chỉ một khổ đầu mà tác động sâu sắc đến tâm trí người đọc về ý chí Cách Mạng, về tình yêu nước, về tinh thần chống giặc của thanh niên trẻ Việt Nam.
|
Cảm nhận khổ đầu tác phẩm Từ ấy mẫu 1
Câu thơ đầu tiên được bắt đầu bằng cụm từ “từ ấy” thể hiện sự đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của nhà thơ. Đây là thời điểm tác giả giác ngộ lý tưởng cách mạng, bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được giác ngộ vào năm 1938 ông vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi tròn 18 tuổi, Đảng là tập thể bao gồm những thanh niên ưu tú nhất của cả nước, nguyện hy sinh và phấn đấu vì sự nghiệp của đất nước và nhân dân.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Bài thơ “từ ấy” thuộc phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên, phần thơ ra đời trong không khí đầy sục sôi, đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lúc này nhà thơ cũng không hoạt động phong trào học sinh, sinh viên ở Huế. Bài thơ ra đời vào tháng 7 năm 1938 ghi lại những tâm tư, tình cảm của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đây là việc vô cùng thiêng liêng, sự kiện trọng đại của nhà thơ, đã mang đến cho Tố Hữu niềm xúc động mạnh mẽ.
Khổ thơ mở ra là những cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc lý tưởng của cách mạng và tác giả đón nhận nó bằng một tâm hồn tươi trẻ, “từ ấy” ở nhan đề và được nhắc lại ngay câu mở đầu để tô đậm giây phút thiêng liêng, sự kiện trang trọng trong đời của Tố Hữu, là bước ngoặt lớn lao cho thanh niên tiểu tư sản trở thành một chiến sĩ cộng sản thay đổi về nhận thức, về lẽ sống. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ khi đất nước đang còn trong cảnh chiến tranh, nhân dân lầm than, bị đô hộ, trước tình hình ấy nhiều thanh niên muốn giải cứu đất nước nhưng hầu như đều rơi vào cảnh bế tắc, bơ vơ, một cái tôi mặc cảm, đầu thai nhầm thời đại, dù rất uất hận, đau xót nhưng chưa đủ dũng khí để cầm súng, cầm gươm và rồi khi may mắn tìm được lẽ sống cho mình, cho quê hương ta thấy được sự hào hứng và niềm vui sướng vô bờ bến của nhà thơ, hòa vào cuộc đấu tranh sinh tử, nhiều gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi vinh quang. “Từ ấy” đã cho nhà thơ thấy cuộc sống ý nghĩa và giây phút thiêng liêng sự nghiệp một hồn thơ.
Trong niềm xúc động lớn lao, nhà thơ đã có nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của lý tưởng Đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chỉ cho dân tộc con đường sống, đã có bao lời ca tiếng hát ca ngợi Đảng vinh quang, nhưng cách ca ngợi Đảng của Tố Hữu thật đặc sắc.
Qua cách thể hiện sáng tạo, hai câu thơ còn mang hàm ý: với dân tộc Việt Nam, với tầng lớp trí thức, thanh niên trẻ những năm 30, 45. Lý tưởng cần thiết như mặt trời, tất yếu như chân lý. Hai câu thơ còn diễn tả sự phục sinh mạnh mẽ của một tâm hồn tươi trẻ khi được mặt trời lý tưởng soi rọi, chỉ lối, niềm vui tràn ngập trong lòng, người thanh niên yêu nước đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Với phép so sánh độc đáo, đầy thi vị nhà thơ đã làm cho thế giới tinh thần, hồn thơ tươi trẻ tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu cuộc sống “hồn tôi là một vườn hoa lá” từ hình tượng vô hình thành hữu hình. Ánh sáng chói lọi của lý tưởng, nguồn sống mãnh liệt của mặt trời cách mạng tác động vào tâm hồn nhà thơ, tạo ra sự biến đổi sâu sắc. Trước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng, người thanh niên trí thức trẻ này sống một cách buồn bã, ảm đạm, lụi tàn như mảnh vườn trong mùa đông giá lạnh nhưng sau khi được gặp và giác ngộ được lý tưởng cách mạng cuộc sống lẫn tâm hồn của nhà thơ như một mảnh hồn thơ đầy hương sắc giữa mùa xuân, mang đến nguồn sinh lực dồi dào cho biết bao tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết. Cuộc sống của họ có lý tưởng thật âm sắc, đượm hương. Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ “đậm”, “rộn” được dùng thật thẩm mỹ, đặc biệt với lối vắt dòng đặc sắc, hai câu thơ của Tố Hữu diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm vui, niềm hạnh phúc vô hạn trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng. Có thể nói mặt trời chân lý đã xua tan những bóng đêm u ám, mở ra một tương lai tươi sáng, vẫy gọi bao tâm hồn hăm hở bước vào đời với tất cả niềm tin yêu, hy vong. Với nhà thơ đâu phải chuyện của nhận thức, của lý trí mà còn là chuyện của tình cảm, trái tim nên có sức sống cuốn hút khiến cho những thanh niên trí thức trẻ như Tố Hữu khiến cho tất cả dân tộc Việt Nam nguyện suốt đời theo Đảng.
Khổ thơ vừa hay về nội dung và đẹp về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo đẹp đẽ, cảm xúc thơ chân thành mãnh liệt là sự ngợi ca lý tưởng cách mạng, ngợi ca Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Qua đoạn thơ nhà thơ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống, con đường sống đúng đắn của cả dân tộc tộc, khổ thơ như khúc hát của một trái tim mà cũng là khúc hát say mê của triệu triệu trái tim hướng về Đảng, hướng về cách mạng
Cảm nhận khổ đầu tác phẩm Từ ấy mẫu 2
Người con của xứ Huế mộng mơ, người chiến sĩ cách mạng, và cũng là cây bút thơ ca Cách Mạng tiêu biểu – Tố Hữu. Từ khi còn trẻ- 18 tuổi, ông đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trong nhiệt huyết tuổi trẻ, hạnh phúc trào dâng, niềm tin mãnh liệt vào Đảng, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Từ ấy” để thể hiện cảm xúc của mình. Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” là khúc dạo đầu của dòng mạch cảm xúc ấy.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và đậm tiếng chim“
Trước hết cảm nhận về hai chữ “Từ ấy”. “Từ ấy” ở đầu đoạn thơ được lặp lại từ tên bài thơ. “Từ ấy” mà tác giả nhắc tới là một mốc thời gian vô cùng quan trọng. Đó là những ngày của năm 1938, tháng ngày đất nước ta đang gồng mình chống giặc ngoại xâm, khi đó Đảng được thành lập 18 tuổi-mốc thời gian đáng nhớ của tác giả, khi ấy tác giả được vinh dự đứng trong hàng ngũ Cách Mạng Đảng. “Từ ấy” của tác giả là cột mốc thời gian tự hào của chàng thanh niên trẻ tuổi hạnh phúc, vinh dự khi được gia nhập Đảng Cộng Sản.
“Bừng nắng hạ”, ba chữ vang lên mà làm sáng bừng cả câu thơ. Với Tố Hữu được tham gia vào đội ngũ Đảng là một niềm hạnh phúc, một điều tự hào trân trọng. Tác giả nói “bừng nắng hạ”, không phải nắng xuân nhàn nhạt, không phải nắng đông lạnh lẽo cũng chẳng phải nắng thu dịu dàng mà là cái nắng hè chói chang rực rỡ nhất. “Bừng nắng hạ” vì nắng mùa hè đẹp nhất, sáng nhất làm tỏ rực một trái tim nhiệt huyết.
Hai câu thơ đầu với lối nói ẩn dụ, hình ảnh đã nhấn mạnh tình yêu cách mạng, niềm tin vào Đảng của chàng thanh niên. Chàng trai ấy nhận ra bóng tối của những đêm đen thực dân đàn áp nhờ ánh sáng Cách Mạng, nhờ ánh sáng của Đảng đã được xoá tan. Đọc hai câu thơ mà lòng ta cũng hừng hực một tinh thần, niềm tin vào Đảng Cộng sản với những đường lối Cách Mạng đúng đắn.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục diễn tả cảm xúc dào dạt của người thanh niên khi được ánh sáng Đảng giác ngộ:
“Hồn tôi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim“
Câu thơ giàu hình ảnh và thật bay bổng lãng mạn. Tố Hữu ví hồn mình với “vườn hoa lá” Cách so sánh đậm lãng mạn, yêu đời. Ánh sáng của Đảng đã khiến tâm hồn người chiến sĩ ngập sắc hương thơm và rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Đảng đã đem đến cho người thanh niên trẻ tuổi tình yêu với cuộc sống, yêu Cách Mạng và tin tưởng vào Cách Mạng. Không còn là những xúc buồn bã như thơ ca xưa, thơ ca Cách Mạng tiêu biểu là thơ của Tố Hữu mang cái tình vui vẻ, mang cái hồn nhiệt huyết sục sôi ý chí.
Khổ thơ đầu bài “Từ ấy” vang lên tiếng cảm xúc dạt dào, hạnh phúc tột cùng của chàng thanh niên trẻ khi lần đầu tiên được ánh sáng Đảng soi chiếu, chỉ đường vạch lối. Chỉ một khổ đầu mà tác động sâu sắc đến tâm trí người đọc về ý chí Cách Mạng, về tình yêu nước, về tinh thần chống giặc của thanh niên trẻ Việt Nam.
|
Đề bài: Cảm nhận ngày đầu vào trường Trung học phổ thông
Bài làm
Cũng ngày này cách đây 8 năm, ta giống như các em học sinh đang học lớp 10 trường cấp 3 bây giờ, ngơ ngác bước vào cánh cổng trường. Lần đầu tiên ấy, ta thấy trường của ta thật đẹp, thật hoành tráng. Ta vui lắm. Mọi thứ đều rất mới lạ, đầy bí ẩn đối với ta, ta thích thú khám phá dần dần. Từ những bộ bàn ghế chắc chắn tới chiếc bảng màu xanh lần đầu tiên ta thấy. Cả những bạn cùng lớp xinh xắn, hay các anh chị khóa trên chững chạc. Tất cả đều lung linh lắm.
Ngày tựu trường đầu tiên của phổ thông cũng là ngày đầu tiên ta mặc áo dài. Chiếc áo dài trắng tinh khôi! Ta như con quạ hóa công khi mặc chiếc áo ấy bởi lẽ ta thấy mình lớn hơn, duyên dáng hơn, xinh xắn hơn. Chiếc áo dài ấy theo ta suốt 3 năm phổ thông và được treo ngay ngắn trong tủ quần áo của ta suốt 4 năm đại học. Ta không một lần mặc lại chiếc áo ấy khi vào đại học không phải vì ta đã có thêm 2, 3 chiếc áo dài mới với nhiều màu sắc đẹp hơn. Ta không mặc vì ta đã không còn có được vẻ vô tư, hồn nhiên, không còn có được tâm hồn trong sáng như khi còn học phổ thông nữa. Cuộc sống sinh viên với những bon chen, những khó khăn, va vấp với nhiều con người khác nhau khiến tâm hồn ta chai sạn, ta bị vương bụi bẩn. Ta thấy xấu hổ khi khoác lên mình chiếc áo dài trắng ấy.
Cảm nhận ngày đầu vào trường Trung học phổ thông
Ta nghe các em đang học ở trường nói không thích mặc áo dài, khó chịu khi năm nay tựu trường lại phải mặc áo dài. Dường như đối với các em, mặc áo dài là một cực hình.Các em đâu biết rằng, sau này các em sẽ nuối tiếc vì khi đang học phổ thông không được mặc áo dài mỗi tuần đấy. Nó cũng là một nét văn hóa của trường Lam để tự hào với bạn bè khắp nơi đó.
Có lẽ, đối với các em mặc áo dài là mất tự do, mặc áo dài không thời trang bằng những bộ đồ đầy kiểu cách. Áo dài quá đơn điệu so với những chiếc áo khác. Hay vì các em là thế hệ 9x, các em hiện đại hơn, các em chối bỏ vẻ đẹp đơn giản, bình dị do chiếc áo dài mang lại.Nhưng dù hiện đại tới đâu thì hồn dân tộc vẫn không thể mất đi được đâu!
Giờ ta đã không còn là học sinh phổ thông, đã chuẩn bị đi làm, nhưng ta luôn nhớ về ngày ta vào trường phổ thông. Đó là ngày đầu tiên ta đến trường được mẹ đưa đến và chờ ở cổng trường. Nghe khó tin quá, nhưng đó là sự thật. Suốt 9 năm đi học, ta không 1 lần dc mẹ hay bố, hoặc ông bà đưa đi học. Bố mẹ ta còn bận đón những khóa học trò vào trường như thầy ta đã đón ta khi ấy. Ta vui lắm. Vui vì cảm thấy có mẹ kề bên trong ngày đầu bỡ ngỡ ấy, vui vì dù có muộn nhưng ta vẫn cảm nhận được hạnh phúc khi có mẹ đưa đi học như bao bạn bè khác.
Ba năm trung học đi qua thật nhanh, như cơn gió thoảng rồi đọng lại trong giây phút này là ta và một giọt thời gian rất khẽ. Có phải là “ta đi qua những năm tháng không ngờ. Vô tư quá để bây giờ xao xuyến”. Giờ cũng vẫn là ngôi trường Lam ấy, cũng vẫn là khung cảnh học trò ấy, cũng vãn là những thế hệ thầy cô và bao bạn bè năm xưa nhưng tất cả giờ chỉ còn là hoài niệm!!!
Chưa một lần trở về trường xưa, chỉ nghe tin về trường qua bạn bè và các em khóa sau. Ta nhớ trường, nhớ bạn cũ, nhớ thầy cô lắm. Ngồi ngẩn ngơ đọc lại đôi vần thơ cũ của Hoàng Nhuận Cầm:
“Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế.
Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi?”
Thèm lắm một tiếng trống trường xưa vọng lại!
Bài làm 2
Thời gian qua chẳng nói với hàng me
Ta cũng vô tình lật từng trang vở
Khi hoa gạo hết thời rực rỡ
Ta chợt hiểu mình đánh mất thời gian
Không biết hai khổ thơ trên đã đi vào tâm trí tôi tự lúc nào mà mỗi lần chứng kiến
học sinh lớp 10 nhập học tôi lại bâng khuâng nhớ về mình của 2 năm trước đây. Cảm xúc của ai cũng vậy, khi đứng trước cánh cổng trường, ai cũng cảm thấy trăn trở, lo lắng cho những gì sắp đến.
Chắc hẳn trong mỗi chúng ta, ai cũng sẽ có riêng cho mình những khoảnh khắc khó quên của cuộc đời. Và đối với tôi cũng vậy, những ngày tháng chia tay với mái trường cũ để bước vào ngôi trường mới – một cánh cửa mới của cuộc đời thật sự là giây phút khó quên.
Chia tay với chiếc khăn quàng đỏ, với ngôi trường THCS, ngưỡng cửa trường THPT đã đến, một cảm giác bồi hồi, mới lạ tràn về trong tôi: Tôi ngỡ như mình được trở về với những ngày đầu bước vào lớp 1, ngỡ như những ngày đầu bước vào cánh cổng trường THCS. Cái cảm giác ấy vẫn khó tả như ngày nào!
Tháng 8 – tháng giao mùa từ cuối hạ đến đầu thu – tháng mà những chùm phượng vĩ chỉ còn thưa thớt vài nhánh nở muộn và cũng là tháng đầu tiên tôi bước vào trường THPT với những bài học đầu tiên.
Cánh cửa THPT đã mở ra sau ba tháng hè ôn luyện. Nơi đây với tôi xa lạ hoàn toàn. Mọi thứ quả thật đều rất mới từ quang cảnh, ngôi trường và cả những con người: trường mới, bạn mới, thày cô mới, cách học mới và cả một môi trường mới, thế nhưng tất cả lại lưu lại cho tôi những kí ức đẹp về buổi đầu. Tôi sẽ phải thích nghi dần, làm quen dần vì ba năm ở đây gần như sẽ quyết định cuộc đời tôi. Đây sẽ là quãng đường thật sự gian nan thử thách.
Ngày đầu tiên đến trường đó là một ngày nắng ấm, khí trời dìu dịu êm ái, theo sự thông báo của nhà trường tôi đã chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Nhưng trong lòng tôi vẫn cứ xôn xao một cảm xúc khó tả. Bởi trước mắt tôi lúc này là một khung trời mới.Trong những năm học trước, sau ba tháng hè nghỉ học, chúng tôi lại trở về mái trường thân quen với những hàng cây, ghế đá,… in đậm bao kỉ niệm của những lần nô đùa cùng bè bạn. Còn năm nay, tôi đã bước chân vào ngưỡng cửa trường THPT- một chân trời hoàn toàn mới lạ. Ngôi trường tôi học năm nay rất khang trang với không gian thoáng đãng. Từ cổng trường dẫn vào các dãy nhà ba tầng uy nghi là con đường trải bê tông nhẵn nhụi. Nào là hàng cây, cột cờ, phòng học,… thu vào tầm mắt tôi khiến lòng tôi dấy lên bao cảm xúc ngỡ ngàng và vui sướng.
Sau đó, chúng tôi được phân công về các lớp. Tôi thầm ước sao mình có thể học cùng với các bạn cũ. Nhưng trong lớp tôi hoàn toàn là những người bạn xa lạ. “Nhưng dần dần mình cũng sẽ quen với các bạn ấy thôi”- tôi tự an ủi mình như thế. Sau mấy phút bỡ ngỡ, tôi thấy cô giáo chủ nhiệm bước vào lớp. Hình ảnh của cô làm tôi nhớ về cô giáo chủ nhiệm hồi lớp 9. Vẫn dàng người thon thả, đôi mắt hiền từ. Chính hình ảnh đó của cô đã làm cho tôi phần nào bớt đi sự lo lắng. Những lời đầu tiên cô nói là những lời dạy bảo ân cần về ý thức trách nhiềm đối với bản thân, với trường, với lớp trong học tập cũng như rèn luyện trong những năm học THPT. Đó là bài học đầu tiên tôi nhận được ở ngôi trường mới này.
Ấn tượng nhất trong lòng tôi là ngày khai giảng. Trong trang phục áo trắng quần sẫm màu, tôi ra dáng là một nữ sinh THPT thực sự. Tôi cảm thấy mình như người lớn hẳn lên. Tiếng trống trường do thày hiệu trưởng gióng lên như vội vã thúc giục chúng tôi học thật tốt. Tôi biết từ lúc đó tôi đã chính thức hòa nhập vào môi trường mới.
Trước đây khi còn nhỏ, tôi đã từng mơ ước được trở thành học sinh THPT, giờ đây ước mơ ấy đã thành hiện thực. Được mặc đồng phục mới mà trước đây tôi chưa từng mặc, ngồi gần những người bạn mới mà trướcđây tôi chưa từng quen và học những thày cô giáo mà bây giờ tôi mới biết đến. Khi giấc mơ bé nhỏ đã thành hiện thực thì trong tôi lại nhen nhóm, ấp ủ những ước mơ hoài bão lớn hơn( tốt nghiệp THPT, thi đỗ đại học …). Những cảm xúc khó tả lại trào dâng xen lẫn niềm vui nhưng hòa vào đó là nỗi nhớ. Vui vì tôi đã như trưởng thành hơn và biết thêm được nhiều điều mới mẻ từ những bài học mới, thày cô mới, những người bạn mới…. Những hình ảnh thày cũ, trường xưa cứ dâng trào trong tôi, và cả những lời khuyên, những lời chúc chân thành của mọi người dành cho tôi vào ngày thi THPT.
Nhưng thời gian có bao giờ dừng lại, nó sẽ lặng lẽ trôi, trôi mãi không bao giờ ngừng. Và tôi sẽ phải cố gắng để nắm giữ từng giây từng phút ấy. Phải biết tận dụng quãng thời gian 3 năm tuy ít ỏi nhưng vô cùng quan trọng để phấn đấu. Được học trong một ngôi trường THPT có bề dày truyền thống và thành tích, bản thân tôi có biết bao niềm vui sướng và tự hào xen lẫn cả nỗi lo lắng. Nhưng điều quan trọng đối với tôi lúc này là tôi hứa sẽ quyết tâm học tập và rèn luyện tốt sao cho xứng đáng với truyền thống của nhà trường.
Ngôi trường này- Trường THPT Trần Hưng Đạo- là nơi tôi chỉ “dừng chân” lại ba năm học- ba năm tuy không phải là quãng thời gian dài nhưng cũng đủ để chúng tôi lưu giữ những kỉ niệm đẹp về ngôi trường này, về những người bạn và thày cô nơi đây. Và có lẽ sẽ không bao giờ tôi quên được những ngày này- những ngày đầu tiên tôi bước vào trường THPT – những ngày giữa tháng 8 êm dịu.
|
Đề bài: Cảm nhận ngày đầu vào trường Trung học phổ thông
Bài làm
Cũng ngày này cách đây 8 năm, ta giống như các em học sinh đang học lớp 10 trường cấp 3 bây giờ, ngơ ngác bước vào cánh cổng trường. Lần đầu tiên ấy, ta thấy trường của ta thật đẹp, thật hoành tráng. Ta vui lắm. Mọi thứ đều rất mới lạ, đầy bí ẩn đối với ta, ta thích thú khám phá dần dần. Từ những bộ bàn ghế chắc chắn tới chiếc bảng màu xanh lần đầu tiên ta thấy. Cả những bạn cùng lớp xinh xắn, hay các anh chị khóa trên chững chạc. Tất cả đều lung linh lắm.
Ngày tựu trường đầu tiên của phổ thông cũng là ngày đầu tiên ta mặc áo dài. Chiếc áo dài trắng tinh khôi! Ta như con quạ hóa công khi mặc chiếc áo ấy bởi lẽ ta thấy mình lớn hơn, duyên dáng hơn, xinh xắn hơn. Chiếc áo dài ấy theo ta suốt 3 năm phổ thông và được treo ngay ngắn trong tủ quần áo của ta suốt 4 năm đại học. Ta không một lần mặc lại chiếc áo ấy khi vào đại học không phải vì ta đã có thêm 2, 3 chiếc áo dài mới với nhiều màu sắc đẹp hơn. Ta không mặc vì ta đã không còn có được vẻ vô tư, hồn nhiên, không còn có được tâm hồn trong sáng như khi còn học phổ thông nữa. Cuộc sống sinh viên với những bon chen, những khó khăn, va vấp với nhiều con người khác nhau khiến tâm hồn ta chai sạn, ta bị vương bụi bẩn. Ta thấy xấu hổ khi khoác lên mình chiếc áo dài trắng ấy.
Cảm nhận ngày đầu vào trường Trung học phổ thông
Ta nghe các em đang học ở trường nói không thích mặc áo dài, khó chịu khi năm nay tựu trường lại phải mặc áo dài. Dường như đối với các em, mặc áo dài là một cực hình.Các em đâu biết rằng, sau này các em sẽ nuối tiếc vì khi đang học phổ thông không được mặc áo dài mỗi tuần đấy. Nó cũng là một nét văn hóa của trường Lam để tự hào với bạn bè khắp nơi đó.
Có lẽ, đối với các em mặc áo dài là mất tự do, mặc áo dài không thời trang bằng những bộ đồ đầy kiểu cách. Áo dài quá đơn điệu so với những chiếc áo khác. Hay vì các em là thế hệ 9x, các em hiện đại hơn, các em chối bỏ vẻ đẹp đơn giản, bình dị do chiếc áo dài mang lại.Nhưng dù hiện đại tới đâu thì hồn dân tộc vẫn không thể mất đi được đâu!
Giờ ta đã không còn là học sinh phổ thông, đã chuẩn bị đi làm, nhưng ta luôn nhớ về ngày ta vào trường phổ thông. Đó là ngày đầu tiên ta đến trường được mẹ đưa đến và chờ ở cổng trường. Nghe khó tin quá, nhưng đó là sự thật. Suốt 9 năm đi học, ta không 1 lần dc mẹ hay bố, hoặc ông bà đưa đi học. Bố mẹ ta còn bận đón những khóa học trò vào trường như thầy ta đã đón ta khi ấy. Ta vui lắm. Vui vì cảm thấy có mẹ kề bên trong ngày đầu bỡ ngỡ ấy, vui vì dù có muộn nhưng ta vẫn cảm nhận được hạnh phúc khi có mẹ đưa đi học như bao bạn bè khác.
Ba năm trung học đi qua thật nhanh, như cơn gió thoảng rồi đọng lại trong giây phút này là ta và một giọt thời gian rất khẽ. Có phải là “ta đi qua những năm tháng không ngờ. Vô tư quá để bây giờ xao xuyến”. Giờ cũng vẫn là ngôi trường Lam ấy, cũng vẫn là khung cảnh học trò ấy, cũng vãn là những thế hệ thầy cô và bao bạn bè năm xưa nhưng tất cả giờ chỉ còn là hoài niệm!!!
Chưa một lần trở về trường xưa, chỉ nghe tin về trường qua bạn bè và các em khóa sau. Ta nhớ trường, nhớ bạn cũ, nhớ thầy cô lắm. Ngồi ngẩn ngơ đọc lại đôi vần thơ cũ của Hoàng Nhuận Cầm:
“Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế.
Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi?”
Thèm lắm một tiếng trống trường xưa vọng lại!
Bài làm 2
Thời gian qua chẳng nói với hàng me
Ta cũng vô tình lật từng trang vở
Khi hoa gạo hết thời rực rỡ
Ta chợt hiểu mình đánh mất thời gian
Không biết hai khổ thơ trên đã đi vào tâm trí tôi tự lúc nào mà mỗi lần chứng kiến
học sinh lớp 10 nhập học tôi lại bâng khuâng nhớ về mình của 2 năm trước đây. Cảm xúc của ai cũng vậy, khi đứng trước cánh cổng trường, ai cũng cảm thấy trăn trở, lo lắng cho những gì sắp đến.
Chắc hẳn trong mỗi chúng ta, ai cũng sẽ có riêng cho mình những khoảnh khắc khó quên của cuộc đời. Và đối với tôi cũng vậy, những ngày tháng chia tay với mái trường cũ để bước vào ngôi trường mới – một cánh cửa mới của cuộc đời thật sự là giây phút khó quên.
Chia tay với chiếc khăn quàng đỏ, với ngôi trường THCS, ngưỡng cửa trường THPT đã đến, một cảm giác bồi hồi, mới lạ tràn về trong tôi: Tôi ngỡ như mình được trở về với những ngày đầu bước vào lớp 1, ngỡ như những ngày đầu bước vào cánh cổng trường THCS. Cái cảm giác ấy vẫn khó tả như ngày nào!
Tháng 8 – tháng giao mùa từ cuối hạ đến đầu thu – tháng mà những chùm phượng vĩ chỉ còn thưa thớt vài nhánh nở muộn và cũng là tháng đầu tiên tôi bước vào trường THPT với những bài học đầu tiên.
Cánh cửa THPT đã mở ra sau ba tháng hè ôn luyện. Nơi đây với tôi xa lạ hoàn toàn. Mọi thứ quả thật đều rất mới từ quang cảnh, ngôi trường và cả những con người: trường mới, bạn mới, thày cô mới, cách học mới và cả một môi trường mới, thế nhưng tất cả lại lưu lại cho tôi những kí ức đẹp về buổi đầu. Tôi sẽ phải thích nghi dần, làm quen dần vì ba năm ở đây gần như sẽ quyết định cuộc đời tôi. Đây sẽ là quãng đường thật sự gian nan thử thách.
Ngày đầu tiên đến trường đó là một ngày nắng ấm, khí trời dìu dịu êm ái, theo sự thông báo của nhà trường tôi đã chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Nhưng trong lòng tôi vẫn cứ xôn xao một cảm xúc khó tả. Bởi trước mắt tôi lúc này là một khung trời mới.Trong những năm học trước, sau ba tháng hè nghỉ học, chúng tôi lại trở về mái trường thân quen với những hàng cây, ghế đá,… in đậm bao kỉ niệm của những lần nô đùa cùng bè bạn. Còn năm nay, tôi đã bước chân vào ngưỡng cửa trường THPT- một chân trời hoàn toàn mới lạ. Ngôi trường tôi học năm nay rất khang trang với không gian thoáng đãng. Từ cổng trường dẫn vào các dãy nhà ba tầng uy nghi là con đường trải bê tông nhẵn nhụi. Nào là hàng cây, cột cờ, phòng học,… thu vào tầm mắt tôi khiến lòng tôi dấy lên bao cảm xúc ngỡ ngàng và vui sướng.
Sau đó, chúng tôi được phân công về các lớp. Tôi thầm ước sao mình có thể học cùng với các bạn cũ. Nhưng trong lớp tôi hoàn toàn là những người bạn xa lạ. “Nhưng dần dần mình cũng sẽ quen với các bạn ấy thôi”- tôi tự an ủi mình như thế. Sau mấy phút bỡ ngỡ, tôi thấy cô giáo chủ nhiệm bước vào lớp. Hình ảnh của cô làm tôi nhớ về cô giáo chủ nhiệm hồi lớp 9. Vẫn dàng người thon thả, đôi mắt hiền từ. Chính hình ảnh đó của cô đã làm cho tôi phần nào bớt đi sự lo lắng. Những lời đầu tiên cô nói là những lời dạy bảo ân cần về ý thức trách nhiềm đối với bản thân, với trường, với lớp trong học tập cũng như rèn luyện trong những năm học THPT. Đó là bài học đầu tiên tôi nhận được ở ngôi trường mới này.
Ấn tượng nhất trong lòng tôi là ngày khai giảng. Trong trang phục áo trắng quần sẫm màu, tôi ra dáng là một nữ sinh THPT thực sự. Tôi cảm thấy mình như người lớn hẳn lên. Tiếng trống trường do thày hiệu trưởng gióng lên như vội vã thúc giục chúng tôi học thật tốt. Tôi biết từ lúc đó tôi đã chính thức hòa nhập vào môi trường mới.
Trước đây khi còn nhỏ, tôi đã từng mơ ước được trở thành học sinh THPT, giờ đây ước mơ ấy đã thành hiện thực. Được mặc đồng phục mới mà trước đây tôi chưa từng mặc, ngồi gần những người bạn mới mà trướcđây tôi chưa từng quen và học những thày cô giáo mà bây giờ tôi mới biết đến. Khi giấc mơ bé nhỏ đã thành hiện thực thì trong tôi lại nhen nhóm, ấp ủ những ước mơ hoài bão lớn hơn( tốt nghiệp THPT, thi đỗ đại học …). Những cảm xúc khó tả lại trào dâng xen lẫn niềm vui nhưng hòa vào đó là nỗi nhớ. Vui vì tôi đã như trưởng thành hơn và biết thêm được nhiều điều mới mẻ từ những bài học mới, thày cô mới, những người bạn mới…. Những hình ảnh thày cũ, trường xưa cứ dâng trào trong tôi, và cả những lời khuyên, những lời chúc chân thành của mọi người dành cho tôi vào ngày thi THPT.
Nhưng thời gian có bao giờ dừng lại, nó sẽ lặng lẽ trôi, trôi mãi không bao giờ ngừng. Và tôi sẽ phải cố gắng để nắm giữ từng giây từng phút ấy. Phải biết tận dụng quãng thời gian 3 năm tuy ít ỏi nhưng vô cùng quan trọng để phấn đấu. Được học trong một ngôi trường THPT có bề dày truyền thống và thành tích, bản thân tôi có biết bao niềm vui sướng và tự hào xen lẫn cả nỗi lo lắng. Nhưng điều quan trọng đối với tôi lúc này là tôi hứa sẽ quyết tâm học tập và rèn luyện tốt sao cho xứng đáng với truyền thống của nhà trường.
Ngôi trường này- Trường THPT Trần Hưng Đạo- là nơi tôi chỉ “dừng chân” lại ba năm học- ba năm tuy không phải là quãng thời gian dài nhưng cũng đủ để chúng tôi lưu giữ những kỉ niệm đẹp về ngôi trường này, về những người bạn và thày cô nơi đây. Và có lẽ sẽ không bao giờ tôi quên được những ngày này- những ngày đầu tiên tôi bước vào trường THPT – những ngày giữa tháng 8 êm dịu.
|
Cảm nhận Người cầm quyền khôi phục uy quyền trong đoạn trích Những người khốn khổ
Hướng dẫn
Cảm nhận Người cầm quyền khôi phục uy quyền trong đoạn trích Những người khốn khổ
Nhừn người khốn khổ của V. Huy – gô là một trong những cuốn sách cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại. Cái hay của nó không chỉ biến tấu hài hòa giữa tình người với người mà còn mang tới một cái nhìn sâu xa. Đoạn trích người cầm quyền khôi phục uy quyền là một trong những đoạn trích hay nhất mà khai thác nổi bật lên hình tượng tính cách và tình huống độc đáo.
Có thể thấy đoạn trích nổi bật lên hai hình tượng mà tính cách của ho dường như hoàn toàn đối lập nhay. Hia người trong đoạn trích người cầm quyền khôi phục uy quyền chính là Giăng Van Giăng và Gia Ve
Dưới ngòi bút của Huy Gô thì Gia ve hiện ra với những nét vô cùng độc ác tàn bạo và có phần nham hiểm. Có thể thấy được một điều ở Gia Ve đó là tuy hăn là một kẻ cầm quyền đại diện cho công lí nhưng hắn quá cứng rắn và thiếu tình người
Theo lời miêu tả của V. Huy gô thì hắn có một giọng nói rất man rợ và điên cuồng khiến cho người khác cảm nhận như là tiếng thú gầm.chúng ta như mường tượng ra hình ảnh một con thú đang đội lốt người sống giữa xã hội loài nguwoif mà không một ai dám lột trần bộ mặt đó.
Không những đối với giăng van giăng mà đối với cả Phăng tin hắn cũng thể hiện ra là một con người có thú tính. TRước sự bất hạnh của người đàn bà ấy mà hắn lại có thể quát mắng không động một chút thương người. cho tới khi niềm tin duy nhất cũng vụn vỡ nên phăng tin cũng đã ra đi mãi mãi trước sự mất mát đó hắn không hề tỏ ra một chút đau buồn mà ngược lại lại vô cùng bình thản, dường như trong con người hắn đang chảy dòng máu lạnh và độc đoán khủng khiếp
Ngược lại với hắn dưới ngòi bút của nhà văn thì Giăng Van Giăng lại hiền ra với một con người với những nét tính cách nổi trội đặc biệt là lòng thương người và vô cùng phúc hậu. đó cũng là con người đại diễn cho uy quyền nhưng con người đó không lấy uy quyền của mình để đàn áp người khác đặc biệt là những người thuộc thế yếu. Ngay trước khi chưa làm thị trưởng thì Giăng Van giăng đã dám đập vỡ kính để ăn trộm bánh cho cậu bé. Với Phăng tin ông luôn giữ một mối đồng cảm với cô khi mà chịu cảnh khốn khó bất hạnh. Lòng thương người của ông chính là nền tảng để thu phục người khác. CHính vì thế ông luộn là người được người khác tôn trọng và yêu mến.
Một đoạn trích ngắn mà nhiều yếu tố kịch tính và thu hút sự chú ý từ người đọc. một đoạn trích ngắn nhưng ý nghĩa mà nó mang lại không hề nông một chút nào. Với tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, V.Huy-Gô đã khiến cho người đọc lần lượt lắng chìm trong nhiều cảm xúc.
Nguồn: Bài văn hay
|
Feel the Ruler restores authority in the Les Miserables excerpt
Instruct
Feel the Ruler restores authority in the Les Miserables excerpt
Les Misérables by V. Huy - go is one of the best novels of all time. Its beauty is not only the harmonious variation between human relationships but also brings a profound insight. The excerpt of the ruler restoring authority is one of the best excerpts that prominently exploits unique character images and situations.
It can be seen that the excerpt highlights two images whose personalities seem to be completely opposite. The two people in the excerpt who restore authority are John Van Giang and Gia Ve
Under Huy Go's pen, Gia Ve appears with extremely cruel and somewhat sinister features. One thing that can be seen in Gia Ve is that although he is a ruler who represents justice, he is too tough and lacks humanity.
According to V. Huy Go's description, he has a very wild and crazy voice that makes others feel like the sound of an animal roaring. We can imagine the image of an animal in human form living in the middle of the forest. In a society of stupid people, no one dares to reveal that face.
Not only to Gian Van Gian, but also to Phang Tin, he also appeared to be a man with animalistic nature. Faced with that woman's misfortune, he could scold her without showing any compassion. Until his only belief was broken, so his belief was gone forever. In the face of that loss, he did not show the slightest sadness, but on the contrary, he was extremely calm, as if his whole being was flowing. cold-blooded and terribly domineering
In contrast to him under the writer's pen, Giang Van Giang is a gentle person with outstanding personality traits, especially compassion and extreme kindness. That is also a person who represents authority, but that person does not use his or her authority to oppress others, especially those in a weak position. Even before he became mayor, Jean Van Giang dared to break a glass to steal a cake for the boy. As for Phang, he always had sympathy for her when she suffered hardship and misfortune. His compassion for others is the foundation to conquer others. That's why he is always respected and loved by others.
A short excerpt that has many dramatic elements and attracts the reader's attention. A short excerpt but the meaning it brings is not shallow at all. With his talent in describing character psychology, V. Huy-Go has made readers immersed in many emotions.
Source: Good article
|
Cảm nhận sau khi đọc “Chiến thắng Mtao Mxay” trong sử thi Đam San
Hướng dẫn
Cảm nhận sau khi đọc “Chiến thắng Mtao Mxay” trong sử thi Đam San
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều chất sử thi hay và độc đáo ví dụ như: sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, “Xinh nhã”, “Đam San”,… và rất nhiều các sử thi khác. Trong đó tác phẩm tiêu biểu và được biết đến rộng rãi hơn cả đó chính là sử thi “Đam San” của người Êđê ở Tây Nguyên.
Trong sử thi Đam San chúng ta được học đoạn trích “Chiến thắng mtao mxay”, đoạn trích nói về cuộc chiến thắng của Đam San đã cứu vợ của mình trở về đó là niềm vui sướng, hạnh phúc của dân tộc miền núi, những người sử thi anh hùng như Đam San đã chiến thắng được hết các tù trưởng khác và đem lại vẻ vang, tự hào cho dân tộc mình. Chỉ trong một đoạn trích đã miêu tả thành công được hình tượng người anh hùng Đam San dũng mãnh, vẻ đẹp ngoại hình hoàn mỹ theo quan niệm của người Êđê. Vẻ đẹp của người anh hùng này được miêu tả bằng những từ trang trọng, kết hợp với giọng điệu sùng bái, tôn thờ, với thái độ tự hào. Đam San có giọng nói hào sảng, vang động ngay cả khi ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị vật để cúng thần, mời tất cả buôn làng, ra lệnh đánh chiêng vang khắp buôn. Người anh hùng có hình dáng phi thường, vạm vỡ nói chung là tuyệt mĩ, đẹp đậm chất là một người con của Tây Nguyên. Nhưng chàng đã bị Mtao Mxay (tù trưởng Sắt) cướp Hơ- Nhị chính là vợ của Đam Sam. Cuộc chiến cũng từ đó mà bắt đầu, người Êđê theo chế độ mẫu hệ nên họ rất coi trọng vợ của mình, việc bị kẻ thù cướp mất vợ chính là nỗi sỉ nhục lớn nhất của cả cộng đồng. Cũng chính vì thế mà Đam San cần phải đánh thắng tù trưởng Sắt lấy lại sự uy nghi và chứng tỏ sức mạnh của mình. Dù Đam San có mạnh đến đâu thì chàng cũng vẫn không thể phủ nhận rằng, tù trưởng Sắt cũng hung bạo và có sức mạnh phi thường không kém.
Vẻ đẹp của người anh hùng Đam San được thể hiện rõ ngay khi chàng bước chân vào lãnh địa của tù trưởng Sắt. Tù trưởng Sắt dù có hung bạo và kiêu căng đến bao nhiêu, ngạo mạn như thế nào nhưng khi thấy Đam San cũng phải dè chừng một phần. Hình ảnh Đam San cùng những bạn bè của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù dũng mãnh, khí thế hừng hực: “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi, gấp ba mắt thường”. Với biện pháp nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật lên những nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre làm ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng, khi giáp chiến cùng Đam San, ngôn ngữ sử thi dù là miêu tả tù trưởng Sắt cũng rất đẹp và dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước người anh hùng Đam San. Lời nói của Mtao Mxay nói với Đam San thể hiện hắn là một con người hèn nhát: “Đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Đáp lại lời của Mtao Mxay đã thể hiện rõ sự khinh bỉ kẻ thù: “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống được nhỉ? Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi ta cũng không thèm đâm nữa là.”
Dù là chàng đang chiến đấu một mình đánh nhau với Mtao Mxay, nhưng chàng không đơn độc trong cuộc chiến danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi mà các tù trưởng bạn hùng mạnh khác giúp đỡ chàng giành lại người vợ của mình. Không chỉ có vậy, vì chàng là người tốt, một anh hùng chính nghĩa lên chàng còn được sự trợ giúp của ông trời. Trong sử thi thì hầu như những người anh hùng nào cũng sẽ có mỗi liên hệ với lực lượng siêu nhiên. Ông trời đã giúp chàng đánh bay áo giáp của tù trưởng Sắt. Khi đã không có áo giáp bảo vệ nữa hắn trở lên thật thảm bại và hèn nhát, hắn không cần biết nhục nhã thế nào chỉ cần biết cần phải giữ được mạng sống, hắn chui hết từ chuồng heo sang cả chuồng trâu, khi sắp chết lại tiếp tục buông những lời hèn nhát. Hắn thật là một con người ham sống, sợ chết nhưng cuối cùng kết thúc của hắn vẫn chính là cái chết. Ông trời chỉ là một phần giúp anh hùng Đam San, còn người kết liễu tù trưởng Mtao Mxay chính là chàng, chàng đã kết liễu kẻ thù trong sự vinh quang.
Để mà xứng đáng với chiến công thì đã có một lễ ăn mừng chiến thẵng kì vĩ diễn ra. Đam San đã kêu gọi mọi người, trong lời kêu gọi cũng có sức mạnh thật kì vĩ hiệu triệu muôn người như một. Lễ cúng mừng chiến thắng hào phóng cũng là để tôn vinh người anh hùng xứng đáng: “Hãy lấy bảy chum rượu, bảy con trâu đực, bảy con heo thiến để cúng cho Đam San này đã chiến thắng Mtao Mxay, để ta được như cây cổ thụ cao vút.” Hội diễn ra với không khí tưng bừng náo nức, nhưng trong giữa đám đông ấy nổi bật lên vẫn là người anh hùng Đam San. Hình ảnh Đam San sau chiến công này đã được mô phỏng, phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tin và niềm tự hào dân tộc về người anh nhùng vĩ đại này: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đam San quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trỗ sắc bén… Đăm San hùng cường ngay từ khi trong lòng me.” Vẻ đẹp đó chỉ xuất hiện ở trong thể loại sử thi anh hùng, với ngôn ngữ sử thi thì mới có thể sáng tạo như vậy.
|
Feelings after reading "Victory of Mtao Mxay" in the Dam San epic
Instruct
Feelings after reading "Victory of Mtao Mxay" in the Dam San epic
In the treasury of Vietnamese folk literature, there are many good and unique epics, such as: the epic "Give birth to the land", "Nhanh nha", "Dam San",... and many other epics. . Among the most typical and widely known works is the epic "Dam San" of the Ede people in the Central Highlands.
In the Dam San epic, we learn the excerpt "Victory over mtao mxay", the excerpt talks about the victory of Dam San saving his wife and returning it was the joy and happiness of the mountain people, the An epic hero like Dam San defeated all the other chiefs and brought glory and pride to his people. In just one excerpt, it successfully describes the image of the mighty hero Dam San, his perfect physical beauty according to the concept of the Ede people. The beauty of this hero is described in solemn words, combined with a tone of worship, adoration, with a proud attitude. Dam San has a loud, resonant voice even when ordering servants to prepare offerings to the gods, inviting all villagers, and ordering gongs to be played throughout the village. The hero has an extraordinary figure, is muscular and overall is beautiful, and is uniquely beautiful as a child of the Central Highlands. But he was robbed by Mtao Mxay (Iron chief), Ho- Nhi was Dam Sam's wife. The war also started from there. The Ede people follow matriarchy, so they value their wives very much. Having their wives taken away by the enemy is the biggest humiliation of the whole community. That's why Dam San needed to defeat the Iron chief to regain his majesty and prove his strength. No matter how strong Dam San is, he cannot deny that Chief Iron is equally violent and has extraordinary strength.
The beauty of the hero Dam San was clearly evident as soon as he stepped into the territory of the Iron Chief. No matter how violent and arrogant Iron Chief is, when he sees Dam San, he still has to be somewhat cautious. The image of Dam San and his friends appeared before the eyes of the mighty enemy, with a fiery spirit: "The sword is as bright as the sun. My body is naked like a melon, waiting like a squirrel. The eyes are twice or three times brighter than normal eyes." Using comparative artistic methods, the hero's extraordinary features have been highlighted. That pose is associated with the act of defiantly cutting the bamboo pipe into three pieces and knocking down the fence, implying his absolute strength. When fighting with Dam San, the epic language, even when describing the Iron chief, is very Beautiful and brave, but still showing weakness before the hero Dam San. Mtao Mxay's words to Dam San show that he is a coward: "Don't stab me while I'm down." Mtao Mxay's response clearly showed his contempt for the enemy: “How could I stab you while you were going down? You see, I don't even want to stab your sow anymore."
Even though he was fighting alone against Mtao Mxay, he was not alone in this honorable fight. Justice belongs to him when other powerful chiefs help him regain his wife. Not only that, because he is a good person and a righteous hero, he also receives help from God. In epics, almost every hero will have contact with supernatural forces. God helped him defeat Iron Chief's armor. When he no longer had the protective armor, he became truly miserable and cowardly. He did not need to know how humiliated he was, he only knew that he needed to save his life. He crawled from the pig pen to the buffalo pen, when he was about to die. died and continued to utter cowardly words. He is truly a person who loves to live and is afraid of death, but in the end his end is still death. God was only a part of helping hero Dam San, but the one who finished off Chief Mtao Mxay was him, he finished off the enemy with glory.
To be worthy of the victory, a magnificent victory celebration took place. Dam San called everyone, and in the call there was also a truly great power to summon many people as one. The generous victory celebration ceremony is also to honor a worthy hero: "Take seven jars of wine, seven male buffaloes, and seven castrated pigs to offer to this Dam San who defeated Mtao Mxay, so that I can be like towering old tree.” The festival took place with a jubilant atmosphere, but among the crowd, the hero Dam San stood out. The image of Dam San after this victory has been imitated, exaggerated and like a chorus echoing the national belief and pride in this great hero: "And people talk endlessly that Dam San Truly a brave chief, never backing down. He carried a blanket over his shoulders, a bracelet on his hands, and a sharp carved sword... Dam San was strong right from his heart." That beauty only appears in the heroic epic genre, only with epic language can such creativity be possible.
|
Đề bài: Cảm nhận thiên nhiên trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh
Bài làm
Những bài thơ tả cảnh thể hiện rất rõ cảm hứng dạt dào của Bác trước thiên nhiên. Có bài chỉ vài nét phác họa đơn sơ, song cũng có bài như một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là vẻ đẹp phong phú, đa dạng của thiên nhiên.
Mặc dù thân thể bị giam cầm trong ngục tối nhưng trái tim nhạy cảm của Bác vẫn dễ dàng rung động trước một ánh nắng mai rọi chiếu nơi cửa ngục âm u:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
(“Buổi sớm”).
Hoặc giao cảm chan hòa với đêm trăng đẹp:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
(“Ngắm trăng”).
Bác đã quên đi trong phút chốc cái hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã chố lao tù để thảnh thơi mà “thưởng nguyệt” như cái thú thanh cao của thi sĩ muôn đời. Vẻ đẹp thiên nhiên ở đây giản dị mà độc đáo: ánh trăng soi qua khung cửa sổ nhà lao và trở thành tri âm, tri kỉ của người tù.
Cách ngắm trăng độc đáo có một không hai ấy thể hiện tâm hồn nghệ sĩ đa cảm và tinh tế. Trăng làm đẹp người, người làm đẹp trăng. Cái nhìn thi vị hóa của Bác khiến trăng thêm đẹp và vẻ đẹp của trăng làm cho tâm hồn Bác rung động sâu xa như tâm hồn thi sĩ. Giữa trăng với người có mối giao hòa đặc biệt.
Mặt trời, trăng sao, tiếng chim hót sớm mai, hương hoa hồng thoảng vào trong ngục…tượng trưng cho mơ ước, niềm vui, khát vọng tự do của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Đặc biệt là hình tượng mặt trời xuất hiện nhiều lần trong thơ Bác đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của niềm tin vào tương lai tươi sáng của Cách mạng, của cuộc đời. Trên đường chuyển lao, đi trong đêm khuya giá lạnh nhưng Bác vẫn vượt lên gian khổ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên:
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt đêm thu, trận gió hàn.
Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
(“Giải đi sớm”)
Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” đẹp đẽ và ấm áp tình người. Nó thực sự trở thành nguồn động viên, an ủi to lớn đối với người tù đặc biệt Hồ Chí Minh:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng.
Vui say ai cấm ta đừng,
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
(“Trên đường đi”).
Có lúc, thiên nhiên hiện lên như những thử thách nghiệt ngã tưởng chừng khó có thể vượt qua: “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” (“Đi đường”). Hoặc đêm thu giá lạnh, gió quất ràn rạt từng trận, từng trận vào mặt “Người đi cất bước trên đường thẳm” (“Chiều tối”). Chiều tàn, Bác vẫn phải dẫn bước trên con đường núi quanh co, hiu quạnh, giữa thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt: “Gió sắc tựa gươm mài đá núi. Rét như dùi nhọn chích cành cây” (“Hoàng hôn”). Vượt qua tất cả những gian nan thử thách ấy, Bác trở nên con người vĩ đại.
Thiên nhiên muôn màu muôn vẻ luôn là người bạn song hành với Bác trong suốt cuộc đời. Bác đã dành cho thiên nhiên một vị trí xứng đáng trong tâm hồn và trong thơ mình. Đó cũng là biểu hiện của tình cảm phong phú cùng tấm lòng nhân ái mênh mông của người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh.
|
Topic: Feeling nature in Ho Chi Minh's Prison Diary
Assignment
The poems describing scenes clearly show Uncle Ho's abundant inspiration for nature. Some articles have just a few simple sketches, but there are also articles that look like a splendid lacquer painting. But covering it all is still the rich and diverse beauty of nature.
Even though his body was imprisoned in a dungeon, Uncle Ho's sensitive heart was still easily moved by the morning sunlight shining through the dark prison door:
It's still dark in the prison now,
The pink light in front of me was shining brightly.
("Morning").
Or a harmonious communion with a beautiful moonlit night:
In prison there is neither wine nor flowers,
The beautiful scene tonight is hard to ignore.
People look at the moon shining outside the window,
Moon peeked poet watching the door.
(“Watching the Moon”).
He forgot for a moment the harsh, cruel reality of prison to freely "enjoy the moon" like the noble hobby of an eternal poet. The natural beauty here is simple but unique: the moonlight shines through the prison window and becomes the prisoner's confidant.
That unique way of looking at the moon shows the artist's sentimental and delicate soul. The moon beautifies people, people beautify the moon. Uncle Ho's poetic look made the moon more beautiful and the beauty of the moon made Uncle Ho's soul as deeply moved as the soul of a poet. There is a special harmony between the moon and people.
The sun, moon and stars, the sound of birds singing in the morning, the scent of roses wafting into the prison... symbolize the dreams, joy, and desire for freedom of communist prisoner Ho Chi Minh. In particular, the image of the sun that appears many times in Uncle Ho's poetry has become a sacred symbol of faith in the bright future of the Revolution and of life. On the way to work, walking in the cold night, Uncle Ho still overcame hardships to enjoy the beauty of nature:
The rooster crows once until the night is over,
The constellation carries the moon beyond the thousand;
People walk on the deep road,
Burning autumn night, cold wind.
The white orient turns pink,
The darkness of the night ends, sweeping away the void;
Immense warmth covers the universe,
As people walked, the excitement of the competition suddenly became more intense.
(“Go away early”)
Nature in "Prison Diary" is beautiful and warm with humanity. It truly became a source of great encouragement and comfort for special prisoner Ho Chi Minh:
Even though his hands and feet were tied,
Birds sing loudly in the mountains, fragrance wafts through the forest.
Having fun, who forbids me?
Far away roads are less lonely.
("On the road").
At times, nature appears as harsh challenges that seem difficult to overcome: "On the road, we know the hardships. High mountains and then high, rolling mountains again” (“On the road”). Or the cold autumn night, the wind whipping each and every blow into the face of "The person walking on the deep road" ("Evening"). In the late afternoon, Uncle Ho still had to lead the winding, lonely mountain path, amidst the fierce and harsh nature: "The wind is as sharp as a sword sharpening mountain stones. Cold like a sharp awl pricking a tree branch” (“Sunset”). Overcoming all those hardships and challenges, Uncle Ho became a great man.
The colorful nature has always been Uncle Ho's companion throughout his life. He gave nature a worthy place in his soul and in his poetry. It is also an expression of the rich feelings and immense compassion of the soldier and poet Ho Chi Minh.
|
Đề bài: Cảm nhận thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch
Bài làm
Lí Bạch là nhà thơ trữ tình thời Đường, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều Qua thơ ông, chúng ta có thể dựng lại hình ảnh của một trí thức có hoài bão. có tài năng, sống trong chế độ chuyên chế đang bước vào thời kì suy thoái Thơ ông phóng khoáng, tự do, có những hình tượng độc đáo. Ông viết về tình yêu, tình bạn về chiến tranh và đặc biệt là nói về tình yêu thiên nhiên. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là một trong những bài thể hiện rõ đặc trưng thơ ông.
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu’’.
Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu cố nhàn là người tri âm tri kỉ. Người bạn ấy từ phía Tây đi đến điểm hẹn chia li là lầu Hoàng Hạc. Như vậy bại. đã từ giã, lí tưởng ẩn cư xuất thế của mình để ra đi. Điểm gặp hẹn ước là một nơi người trần đã thoát lên tiên. Vậy mà, con người tiên cốt của Mạnh Hạo Nhiên lại từ bỏ giấc mơ tiên để về với đời trần. Để rồi sau đó bạn xuôi xuống vùng đô hội của thành Dương Châu vào tiết cuối xuân có những bông hoa khói tụ trên những lớp sóng của Trường Giang. Câu thơ tả cảnh rất đẹp. Với một người có cốt cách tiên ông như Mạnh Hạo Nhiên thì con thuyền của Mạnh đi giữa sự êm dịu của sóng nước tràn lan. Đi tới đâu hoa khói cứ nở búp trên đầu ngọn sóng sao mà đẹp thế. Hiểu bạn mình như vậy quả là tri ki bởi Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ có khí vị tiên phong đạo cốt. Tuy nhiên xuống “Dương Châu” là nguyên nhân để cho cuộc đời ý nghĩa nhất của mình di vào những ngày tàn cuộc, đi xuống Dương Châu giấc mộng phồn hoa sẽ như những búp sóng có đấy rồi sẽ tan đấy.
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận”.
Đã nói về hình ảnh chiếc thuyền chở bạn mình đi xa dần xa dần chi còn thấy cánh buồm và cánh buồm ấy như một chấm nhỏ cứ nhích dần nhích dần vào khoảng không gian vô tận của màu xanh ngọc bích. Câu thơ đã gợi về thời gian rất dài, từ khi con thuyền xuôi bến, đôi mắt cùa nhà thơ đã dán vào nó, rồi con thuyền đã xuôi mãi về phía chân trời xanh. Bạn đã ra đi để lại một mình nhà thơ cô đơn nhưng chính Lí Bạch lại thấy điều ngược lại. Thấy bạn mình ra đi trong cô đơn và cuộc phiêu lưu phia trước chưa hứa hẹn điều gì tốt đẹp. “Cô phàm” đâu phải chỉ là cánh buồm cô đơn? Như vậy kèm theo đôi mắt đăm dăm, Lí Bạch đã gửi vào cánh buồm lẻ loi cô đơn của bạn một niềm ái ngại không biết chuyến đi này của bạn lành dữ ra sao. Có lẽ chính vì những nỗi lo âu ấy mà họ Lí không tin bạn mình xuống Dương Châu. Kì lạ thay con thuyền xuôi dòng sông nước lại được nhìn như cánh thuyền nâng mình bay vào vũ trụ của màu xanh mênh mông. Vậy là trong ý thức, Lí Bạch biết bạn mình xuống Dương Châu nhưng trong mơ ước, trong mong mỏi, ông muốn bạn mình là con người của cõi tiên tìm ý nghĩa của cuộc sống không phải ờ nơi bụi bậm mà ở nơi của cái cao siêu thanh sạch – nơi “bích không tận”.
Câu cuối cùng của bài thơ có một cách chiếm lĩnh hiện thực rất riêng biệt của Lí Bạch như cánh buồm đã hòa tan vào không gian xanh. Trước mắt Lí Bạch chỉ còn một dòng sông tràn lan mênh mông chạy mãi phía bên trời. Bạn đi tất cả đều trống vắng. Đây là tâm cảnh chứ không phải là thực cảnh. Bởi không ai có thể tin được dòng Trường Giang phía thành Dương Châu đô hội đầy những thuyền bè tấp nập buôn bán mà chỉ cần thiếu cánh buồm của họ Mạnh thì trở nên trống không.Trường Giang này là con sông ờ trong lòng và dòng chảy vẫn cố gắng theo bạn mình đến chốn xa xôi. Cuộc đưa tiễn dườag như đã kết thúc nhưng con mắt nhìn của nhà thơ vẫn cứ đăm đăm và nỗi lòng của Lí Bạch vẫn theo dòng nước Trường Giang về phía bạn mình.
Lí Bạch là một nhà thơ lớn của đời Đường, tâm hồn cũng như thơ của ông thật phóng khoáng. Bài thơ không hề có từ nào là buồn, thương, nhớ, cũng chẳng có giọt lệ nào trong buổi tiễn đưa mà vẫn gợi nên cái buồn mênh mông sâu lắng. Với một nghệ thuật thật độc đáo, Lí Bạch đã thể hiện tình bạn da diết. Đó chính là chủ đề tư tưởng của tác phẩm mà tác giả đã gửi gắm vào nó bằng chính cả tấm lòng của mình.
|
Topic: Comments on the poem Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang by Li Bach
Assignment
Li Bai was a lyric poet of the Tang Dynasty. He was famous for his extensive knowledge. Through his poetry, we can reconstruct the image of an ambitious intellectual. talented, living in an authoritarian regime that is entering a period of decline. His poetry is liberal, free, and has unique images. He wrote about love, friendship, war and especially about the love of nature. The poem "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang" is one of the poems that clearly shows the characteristics of his poetry.
“An old westerner from Yellow Crane Tower
Yen Hoa Tam Nguyet Ha Duong Chau
Her vision is endless
Duy saw Truong Giang Thien Te Luu''.
At the beginning of the poem, the author introduced Nhan as a confidant and confidant. That friend came from the West to the meeting place, the Hoang Hac building. That's defeat. said goodbye to his ideal of seclusion and leaving the world. The promised meeting point is a place where mortals have escaped to heaven. Yet, Manh Hao Nhien's fairy body gave up his fairy dream to return to earthly life. Then, when you go down to the urban area of Yangzhou city in late spring, there are smoky flowers gathering on the waves of Truong Giang. The poem describes the scene very beautifully. For a person with an ancient personality like Manh Hao Nhien, Manh's boat sails amidst the gentleness of the waves. Wherever you go, smoke flowers keep blooming on the top of the waves, so beautiful. Understanding your friend like that is truly wise because Manh Hao Nhien is a poet with a pioneering spirit. However, going to "Duong Chau" is the reason for your most meaningful life to pass into the end days. Going to Duong Chau, the dream of prosperity will be like waves that appear and then disappear.
"You have an endless vision."
Having talked about the image of the boat carrying my friend going farther and farther away, I can still see the sail and that sail is like a small dot, gradually inching into the endless space of jade green. The poem evokes a very long time, since the boat sailed to the dock, the poet's eyes were glued to it, and then the boat sailed forever toward the blue horizon. You left, leaving the poet alone, but Ly Bach himself saw the opposite. Seeing his friend leave alone and the adventure ahead did not promise anything good. "Miss mortal" is not just a lonely sail? Thus, with his staring eyes, Ly Bach sent into your lonely sail a concern about how good or bad your trip will be. Perhaps it was because of these worries that the Ly family did not believe that their friend was going to Duong Chau. Strangely enough, the boat going down the river is seen as a boat wing lifting itself up into the vast blue universe. So in his consciousness, Ly Bach knew his friend was going to Duong Chau, but in his dream, in his longing, he wanted his friend to be a human being of the fairyland to find the meaning of life not in the dust but in the place of truth. sublime and pure - a place of "no end of bliss".
The last sentence of the poem has a very unique way of occupying reality of Li Bach like a sail that has dissolved into green space. Before Ly Bach's eyes, there was only a vast river running forever into the sky. You go, everything is empty. This is a mental situation, not a real situation. Because no one can believe that the Truong Giang river towards Duong Chau city is full of busy trading boats, but without the sail of the Manh family, it becomes empty. This Truong Giang is a river in the heart and current. Luong still tried to follow his friend to a distant place. The farewell seemed to have ended, but the poet's eyes were still fixed and Ly Bach's heart still followed the Truong Giang river towards his friend.
Li Bai was a great poet of the Tang Dynasty, his soul and poetry were very liberal. The poem does not contain any words of sadness, love, or nostalgia, nor does it contain any tears during the farewell, but it still evokes immense and profound sadness. With a truly unique art, Li Bach showed his deep friendship. That is the ideological theme of the work that the author has put into it with all his heart.
|
Cảm nhận truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy
Hướng dẫn
Cảm nhận truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy
Với cốt truyện khá ấn tượng và đặc sắc, An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một truyền thuyết có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố lịch sử có thật và yếu tố tưởng tượng phong phú. Qua đây, cũng phần nào thể hiện thái độ cũng như tình cảm của nhân dân ta với các yếu tố lịch sử và nhân vật lịch sử.
An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy là truyền thuyết mang đậm yếu tố lịch sử, là câu chuyện cảm động về tình cha con, tình cảm vợ chồng giữa Mị Châu- Trọng Thủy, cũng qua đây, khi câu chuyện đã đi vào trong trí nhớ của độc giả, câu chuyện đã nhắn nhủ nhiều điều đối với hậu thế sau này. Đặc biệt là tinh thần phải luôn luôn đề cao cảnh giác đối với kẻ thù của mình. Câu chuyện kể về rùa Vàng sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, rùa Vàng tặng cho An Dương Vương một chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi bọn chúng sang xâm lược nước ta. Sau đó Triệu Đà ngỏ ý giảng hòa và muốn xin An dương Vương cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy, vua vô tình đồng ý. Trọng Thủy sau khi xin An Dương Vương về nước nhưng trước đó đã xin Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà nhờ có nỏ thần đánh cập trong tay, đã kéo quân sang đánh Âu Lạc.Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên nói rằng “ Kẻ thù đàng sau lưng ngươi đó”, ông kết tội Mị Châu, vua chém chết con rồi đi xuống biển. Mị Châu sau khi chết, máu chảy xuống biển, trai biển ăn vào hóa thành ngọc trai. Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng vàng, tìm được xác vợ và mang về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.
Câu chuyện bắt đầu khi vua của nước Âu Lạc- An Dương Vương được thần Kim Qui cho mượn nỏ thần. Ông được thần Kim Qui giúp đỡ bởi vì ông luôn có ý thức đề cao cảnh giác, một lòng bảo vệ quê hương,vậy nên cho xây thành đắp lũy để bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm. Không những vậy,An Dương Vương còn cho quân sĩ rèn luyện để chuẩn bị mỗi khi có quân ngoại xâm có mưu đồ xâm lược đất nước. Với tinh thần quyết tâm và sự chuẩn bị kĩ lưỡng cũng như có sự giúp sức của thần, nên An Dương Vương đã dẫn dắt đất nước ngày càng thịnh vượng, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Chính vì sự tài trí và một lòng vì dân vì nước nên ông được cả nhân dân giúp sức và cả thần linh giúp sức. Chính vì sự tôn kính của nhân dân mà hình ảnh Rùa Vàng và nỏ thân được sáng tạo ra sự kì diệu thấn thánh bất tử hóa sự nghiệp trong buổi đầu dựng nước và giữ nước cùng với tinh thần chung sức hợp sức của nhân dân trong công cuộc đó.
Sự nghiệp dựng nước và giữ nước chưa được bao lâu thì xảy ra chuyện. Thực chất từ bản thân của An Dương Vương cũng mất cảnh giác ngay từ ban đầu. Đó là khi chấp nhận cho con gái mình kết hôn với Trọng Thủy – con trai của kẻ thù. Với mưu đồ xâm lược nước ta một lần nữa, Trọng Thủy đã tráo đổi nỏ thần và quay lại đánh chiếm Âu Lạc. Bên cạnh đó, ông đã mất cảnh giác khi cứ tin rằng chỉ có nỏ thần trong tay thì không lo sợ gì cả, tới khi xảy ra chuyện thì trở tay không kịp. Cuối cùng nhà vua rơi vào bi kịch nước mất nhà tan,lại chính ông đâm kiếm giết chết đứa con gái của mình rồi gieo mình xuống sông. Mọi thứ mất chỉ vì thiếu cảnh giác và thiếu sáng suốt trong gang tấc đã gây ra hậu quả khôn lường.
Truyện An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy kết thúc mà vẫn để lại nhiều dư vị trong lòng người đọc, không những thế câu chuyện lịch sử dễ dàng đi tâm trí, đặc biệt là các thế hệ sau này. Những bài học, sự khéo léo trong hóa giải ân oán được nhân dân xưa ngấm ngầm lồng ghép bằng những hình ảnh mang tính ẩn dụ cao, ngày càng mang lại sức hút cho tác phẩm.
Nguồn: Bài văn hay
|
Feelings about the story of An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy
Instruct
Feelings about the story of An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy
With a quite impressive and unique plot, An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy is a legend with a smooth combination of real historical elements and rich imaginative elements. Through this, it also partly shows the attitudes and feelings of our people towards historical elements and historical figures.
An Duong Vuong My Chau Trong Thuy is a legend with strong historical elements, a touching story about the father-son love and husband-wife love between Mi Chau and Trong Thuy, also here, when the story has entered the mind. Readers' memories, the story has many messages for future generations. In particular, the spirit must always be alert to one's enemies. The story is about the Golden Turtle, after helping An Duong Vuong finish building Loa Thanh. Before leaving, the Golden Turtle gave An Duong Vuong a claw to use as a magic crossbow bolt. Thanks to the magic crossbow, An Duong Vuong defeated Trieu Da's army when they invaded our country. After that, Trieu Da offered to make peace and wanted to ask An Duong Vuong to propose marriage to My Chau to Trong Thuy. The king accidentally agreed. Trong Thuy, after asking An Duong Vuong to return home, first asked Mi Chau to let him steal the magic crossbow and then secretly changed the magic crossbow and brought it to the North. After that, Trieu Da, thanks to the magic crossbow in his hand, led his army to attack Au Lac. Without the magic crossbow, An Duong Vuong lost the battle and fled to the South with Mi Chau. The god Kim Quy appeared and said, "The enemy is behind you." He accused Mi Chau, the king killed her son and then went into the sea. After Mi Chau died, her blood flowed into the sea, and the sea clams she ate turned into pearls. Trong Thuy followed the trail of golden goose feathers, found his wife's body and brought it back to bury it in Loa Thanh, the body immediately turned into jade. Because he felt so sorry for Mi Chau, Trong Thuy plunged into the well and died. People in later generations found pearls and washed them with water from that well, and the pearls became clearer.
The story begins when the king of Au Lac - An Duong Vuong was lent his magical crossbow by the god Kim Qui. He was helped by the god Kim Qui because he was always conscious of being vigilant and dedicated to protecting his homeland, so he built ramparts to protect the country from foreign invaders. Not only that, An Duong Vuong also trained his soldiers to prepare whenever foreign invaders plotted to invade the country. With a spirit of determination and careful preparation, as well as with the help of God, An Duong Vuong led the country to greater prosperity and repelled foreign invaders. Because of his intelligence and devotion to the people and the country, he received help from both the people and the gods. It is because of the people's reverence that the image of the Golden Turtle and the crossbow body was created, creating a divine miracle that immortalizes the career in the early days of building and defending the country along with the spirit of joint efforts of the people in that work.
Not long into the career of building and defending the country, something happened. In fact, An Duong Vuong himself was caught off guard from the beginning. That was when he agreed to let his daughter marry Trong Thuy - the enemy's son. With the plot to invade our country again, Trong Thuy swapped the magic crossbow and returned to attack Au Lac. Besides, he let down his guard when he believed that if he only had a magic crossbow in his hand, he wouldn't be afraid of anything, and when something happened, he wouldn't be able to react in time. In the end, the king fell into the tragedy of losing his country and his family. He stabbed his daughter with a sword and threw himself into the river. Everything that was lost just because of a lack of vigilance and lack of insight caused unpredictable consequences.
The story of An Duong Vuong My Chau Trong Thuy ends but still leaves many aftertaste in the hearts of readers. Not only that, the historical story easily enters the mind, especially later generations. The lessons and ingenuity in resolving grievances were secretly incorporated by ancient people into highly metaphorical images, increasingly bringing attraction to the work.
Source: Good article
|
Cảm nhận truyện ngắn Tôi đi học – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
“Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường…”, những câu văn ấy của Thanh Tịnh đã xuất hiện trên văn đàn Việt Nam hơn sáu mươi năm rồi! Thế nhưng “Tôi đi học” vẫn là một trong những áng văn gợi cảm, trong trẻo đầy chất thơ của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Không những thế, tác phẩm còn in đậm dấu ấn của Thanh Tịnh – một phong cách trữ tình nhẹ nhàng, nhiều mơ mộng và trong sáng. Dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện vẫn đầy ắp trong tâm trí ta những nét thơ dại đáng yêu của trẻ thơ trong buổi đầu đến lớp. Trong chúng ta ai cũng đã từng trải qua ngày tháng đầu tiên của tuổi học trò. Với Thanh Tịnh, trường làng Mĩ Lí là một mảng kí ức nhiều lần từng trở đi trở lại trong những trang viết của ông. Câu chuyện “tôi đi học” rất đơn giản, nhưng làm xúc động tất cả những ai từng cắp sách đến trường. Giọng kể chuyện bằng lối xưng hô trực tiếp “tôi” của nhà văn tạo cảm giác gần gũi chân thực, như một bản tự thuật tâm trạng mà dường như mỗi người chúng ta đều nhận ra mình trong đó. Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta vào không gian êm đềm của mùa thu, trong khung cảnh một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, để trở về trên con đường làng dài và hẹp, để được sống lại cảm giác của một cậu bé ngây thơ nép mình bên mẹ, chập chững những bước chân đầu tiên đến trường. Cảm nhận về sự thay đổi không gian đã khắc ghi đậm nét, bởi chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Chắc chắn, đó cũng là cảm giác của tất cả những ai đã, đang và từng đi học. Hình ảnh ấy thật gần gũi với chúng ta, giông như lời một câu hát ta đã từng quen thuộc “hôm nay em đến trường, mẹ dắt tay từng bước” (lời bài hát Đi học của Minh Chính – Bùi Đình Thảo). Cảm giác của cậu bé như một con chim non vừa rời tổ, đang ngập ngừng những sải cánh đầu tiên, có chút chơi vơi nhưng thích thú. Thật thú yị biết bao khi ta cùng chia sẻ khoảnh khắc được cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn của cậu bé. Cảm giác ấy thực ra đã bắt đầu từ sự thay đổi đầu tiên mà cậu bé rất hãnh diện vì đi học “oai” hơn nhiều với những trò thả diều hay ra đồng nô đùa, dù rằng cậu vẫn có thể rất thèm được như thằng Quý, thằng Sơn để được tự do bay nhảy. Bởi lẽ đi học là được tiếp xúc với cả một thế giới những điều mới lạ: quần áo mới, sách vở mới, thậm chí oai hơn là được cầm… bút thước mà không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Bởi chưa là người thạo nên cậu bé phải ganh tị và thèm muốn được như chúng bạn. Trường học quả là một thế giới tôn nghiêm khiến cho cậu bé phải lo sợ vẩn vơ khi ngắm nhìn và bước chân vào cái nơi vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ap. Cái đình làng là nơi chỉ dành cho quan viên chức sắc, những người lớn mới được vào. Trường Mĩ Lí có lẽ chỉ dành cho người thạo, còn một cậu bé bước vào sẽ bị choáng ngợp trước vẻ oai nghiêm của nó, nên cảm giác hồi hộp là điều không tránh khỏi. Cảm giác được thấy mình trở nên quan trọng hơn cũng khiến cậu trở nên lúng túng. Không phải chỉ có cậu, mà đó cũng là tâm trạng chung của các cậu trò nhỏ: “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.”. Thật thú vị khi ta được biết cảm giác thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ. Có lẽ khi nhớ lại ngày đầu đi học ấy, nhà văn vẫn chưa hề quên những bước chân run run buổi đầu đời, như lần đầu tiên khám phá ra một thế giới lạ: cái gì cũng to, đẹp và trang trọng. Có lẽ trong đời cậu bé, chưa có lúc nào được tiếp xúc với nhiều người lạ đến thế. Nhất là lại có một ông Đốc trang nghiêm nhận học sinh vào lớp. Trong tâm trí của cậu cũng như bạn bè đồng trang lứa, đó là thời khắc hết sức trịnh trọng, khiến tim như ngừng đập, quên cả sự hiện diện của người thân và “tự nhiên giật mình và lúng túng” khi được gọi đến tên. Dẫu cho ông Đốc trường Mĩ Lí đã đón các cậu bằng cặp mắt hiền từ và cảm động thì cũng không đủ giúp các cậu vượt qua phút hồi hộp và căng thẳng. Đoạn văn tái hiện không khí ấy của Thanh Tịnh cũng không giấu được nụ cười hóm hỉnh với kỉ niệm đầu đời đáng nhớ, sau lời dặn của thầy Đốc “các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại”. Những dòng cảm xúc khó diễn tả đã được nhà văn thuật lại một cách sinh động khiến cho mỗi một ai khi đã lớn khôn hơn đọc lại không khỏi bật cười trước những tiếng khóc của các cậu bé lần đầu tiên chính thức không còn được ở bên cạnh người thân, bước vào một nơi lạ lùng mới mẻ như trường học. Nhưng cũng rất nhanh chóng, nỗi sợ hãi ban đầu qua đi khi cậu bé được chính thức bước vào trong lớp học. Cặp mắt tò mò cảm nhận một thế giới mới mà cậu bé bây giờ thấy lạ lạ và hay hay, để rồi sau đó tự nhận là vật của riêng mình. Hóa ra đi học cũng không đáng sợ, cảm giác này khiến cho cậu bé nhanh chóng nguôi ngoai cảm giác “chưa bao giờ tôi thấy xa mẹ tôi như lần này”. Trường làng Mĩ Lí cũng giống như đồng làng Lê Xá mà thôi, cũng có những người bạn tí hon. Cảm giác rất tự nhiên ấy chính là vì cậu bé lại được hòa vào thế giới của riêng những cậu học trò, vẫn được có những phút ước ao riêng tư với niềm vui thơ bé. Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng: “Một con chim con liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”. Cánh chim của đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỉ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm. Con chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể hiện tư cách cậu học trò ngoan: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”. Một trang vở mới sẽ in những nét chữ đầu tiên đầy hứa hẹn cho một tương lai đang mở ra với những bé thơ. Ta nhận ra trong mỗi lời văn của Thanh Tịnh một sự trìu mến đặc biệt dành cho những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật “tôi”. Bởi lẽ, đó chính là kỉ niệm đầu đời của nhà văn gắn với thế giới học trò mở ra bao ước vọng. Giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh khắc họa còn tươi rói bao nhiêu kí ức đầu đời đã làm nên chất thơ lan tỏa trong toàn bộ truyện ngắn. Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh còn đọng mãi trong ta kỉ niệm đầu đời trong sáng hồn nhiên, ghi lại khoảnh khắc thật đẹp trong tâm hồn tuổi thơ. Những trang văn tinh tế, giàu sức biểu cảm sẽ còn làm biết bao thế hệ học sinh xúc động.
|
Cảm nhận truyện ngắn Tôi đi học – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
“Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường…”, những câu văn ấy của Thanh Tịnh đã xuất hiện trên văn đàn Việt Nam hơn sáu mươi năm rồi! Thế nhưng “Tôi đi học” vẫn là một trong những áng văn gợi cảm, trong trẻo đầy chất thơ của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Không những thế, tác phẩm còn in đậm dấu ấn của Thanh Tịnh – một phong cách trữ tình nhẹ nhàng, nhiều mơ mộng và trong sáng. Dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện vẫn đầy ắp trong tâm trí ta những nét thơ dại đáng yêu của trẻ thơ trong buổi đầu đến lớp. Trong chúng ta ai cũng đã từng trải qua ngày tháng đầu tiên của tuổi học trò. Với Thanh Tịnh, trường làng Mĩ Lí là một mảng kí ức nhiều lần từng trở đi trở lại trong những trang viết của ông. Câu chuyện “tôi đi học” rất đơn giản, nhưng làm xúc động tất cả những ai từng cắp sách đến trường. Giọng kể chuyện bằng lối xưng hô trực tiếp “tôi” của nhà văn tạo cảm giác gần gũi chân thực, như một bản tự thuật tâm trạng mà dường như mỗi người chúng ta đều nhận ra mình trong đó. Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta vào không gian êm đềm của mùa thu, trong khung cảnh một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, để trở về trên con đường làng dài và hẹp, để được sống lại cảm giác của một cậu bé ngây thơ nép mình bên mẹ, chập chững những bước chân đầu tiên đến trường. Cảm nhận về sự thay đổi không gian đã khắc ghi đậm nét, bởi chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Chắc chắn, đó cũng là cảm giác của tất cả những ai đã, đang và từng đi học. Hình ảnh ấy thật gần gũi với chúng ta, giông như lời một câu hát ta đã từng quen thuộc “hôm nay em đến trường, mẹ dắt tay từng bước” (lời bài hát Đi học của Minh Chính – Bùi Đình Thảo). Cảm giác của cậu bé như một con chim non vừa rời tổ, đang ngập ngừng những sải cánh đầu tiên, có chút chơi vơi nhưng thích thú. Thật thú yị biết bao khi ta cùng chia sẻ khoảnh khắc được cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn của cậu bé. Cảm giác ấy thực ra đã bắt đầu từ sự thay đổi đầu tiên mà cậu bé rất hãnh diện vì đi học “oai” hơn nhiều với những trò thả diều hay ra đồng nô đùa, dù rằng cậu vẫn có thể rất thèm được như thằng Quý, thằng Sơn để được tự do bay nhảy. Bởi lẽ đi học là được tiếp xúc với cả một thế giới những điều mới lạ: quần áo mới, sách vở mới, thậm chí oai hơn là được cầm… bút thước mà không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Bởi chưa là người thạo nên cậu bé phải ganh tị và thèm muốn được như chúng bạn. Trường học quả là một thế giới tôn nghiêm khiến cho cậu bé phải lo sợ vẩn vơ khi ngắm nhìn và bước chân vào cái nơi vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ap. Cái đình làng là nơi chỉ dành cho quan viên chức sắc, những người lớn mới được vào. Trường Mĩ Lí có lẽ chỉ dành cho người thạo, còn một cậu bé bước vào sẽ bị choáng ngợp trước vẻ oai nghiêm của nó, nên cảm giác hồi hộp là điều không tránh khỏi. Cảm giác được thấy mình trở nên quan trọng hơn cũng khiến cậu trở nên lúng túng. Không phải chỉ có cậu, mà đó cũng là tâm trạng chung của các cậu trò nhỏ: “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.”. Thật thú vị khi ta được biết cảm giác thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ. Có lẽ khi nhớ lại ngày đầu đi học ấy, nhà văn vẫn chưa hề quên những bước chân run run buổi đầu đời, như lần đầu tiên khám phá ra một thế giới lạ: cái gì cũng to, đẹp và trang trọng. Có lẽ trong đời cậu bé, chưa có lúc nào được tiếp xúc với nhiều người lạ đến thế. Nhất là lại có một ông Đốc trang nghiêm nhận học sinh vào lớp. Trong tâm trí của cậu cũng như bạn bè đồng trang lứa, đó là thời khắc hết sức trịnh trọng, khiến tim như ngừng đập, quên cả sự hiện diện của người thân và “tự nhiên giật mình và lúng túng” khi được gọi đến tên. Dẫu cho ông Đốc trường Mĩ Lí đã đón các cậu bằng cặp mắt hiền từ và cảm động thì cũng không đủ giúp các cậu vượt qua phút hồi hộp và căng thẳng. Đoạn văn tái hiện không khí ấy của Thanh Tịnh cũng không giấu được nụ cười hóm hỉnh với kỉ niệm đầu đời đáng nhớ, sau lời dặn của thầy Đốc “các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại”. Những dòng cảm xúc khó diễn tả đã được nhà văn thuật lại một cách sinh động khiến cho mỗi một ai khi đã lớn khôn hơn đọc lại không khỏi bật cười trước những tiếng khóc của các cậu bé lần đầu tiên chính thức không còn được ở bên cạnh người thân, bước vào một nơi lạ lùng mới mẻ như trường học. Nhưng cũng rất nhanh chóng, nỗi sợ hãi ban đầu qua đi khi cậu bé được chính thức bước vào trong lớp học. Cặp mắt tò mò cảm nhận một thế giới mới mà cậu bé bây giờ thấy lạ lạ và hay hay, để rồi sau đó tự nhận là vật của riêng mình. Hóa ra đi học cũng không đáng sợ, cảm giác này khiến cho cậu bé nhanh chóng nguôi ngoai cảm giác “chưa bao giờ tôi thấy xa mẹ tôi như lần này”. Trường làng Mĩ Lí cũng giống như đồng làng Lê Xá mà thôi, cũng có những người bạn tí hon. Cảm giác rất tự nhiên ấy chính là vì cậu bé lại được hòa vào thế giới của riêng những cậu học trò, vẫn được có những phút ước ao riêng tư với niềm vui thơ bé. Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng: “Một con chim con liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”. Cánh chim của đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỉ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm. Con chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể hiện tư cách cậu học trò ngoan: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”. Một trang vở mới sẽ in những nét chữ đầu tiên đầy hứa hẹn cho một tương lai đang mở ra với những bé thơ. Ta nhận ra trong mỗi lời văn của Thanh Tịnh một sự trìu mến đặc biệt dành cho những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật “tôi”. Bởi lẽ, đó chính là kỉ niệm đầu đời của nhà văn gắn với thế giới học trò mở ra bao ước vọng. Giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh khắc họa còn tươi rói bao nhiêu kí ức đầu đời đã làm nên chất thơ lan tỏa trong toàn bộ truyện ngắn. Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh còn đọng mãi trong ta kỉ niệm đầu đời trong sáng hồn nhiên, ghi lại khoảnh khắc thật đẹp trong tâm hồn tuổi thơ. Những trang văn tinh tế, giàu sức biểu cảm sẽ còn làm biết bao thế hệ học sinh xúc động.
|
Cảm nhận tác phẩm hồn trương ba da hàng thịt
Hướng dẫn
Cảm nhận tác phẩm hồn trương ba da hàng thịt
Như chúng ta đã biết, Lưu Quang Vũ là một người vô cùng tài năng, những sáng tác của ông đã để lại cho hậu thế những bài học về cuộc sống về con người về mối quan hệ giữa người với người. Trong đó, Hồn Trương Ba da hàng thịt là tác phẩm kịch nổi tiếng. Chính nhan đề của kịch cũng tạo ra những hấp dẫn không tưởng cho độc giả. Ngoài ra nó còn gợi mở những ý nghĩa ẩn ý trong đó.Một nhan đề không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi lên được sự tò mò nơi độc giả.
Hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hồn và thể xác vốn dĩ gắn liền với nhau, hòa hợp với nhau nhưng khi hồn một nơi xác một nơi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là một trong những điểm thắt nút mà chính ngay tại kịch, Lưu Quang Vũ đã giải quyết một cách thỏa đáng.Có thể thấy rằng da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Sự mâu mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Thông qua kịch thì nó còn nhằm thể hiện một ý nghĩa sâu xa,hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người. Một con người không thể sống trong vỏ bọc của một người khác.hơn nữa một tâm hồn thanh cao không thể sống không thể ẩn náu trong một thể xác dung tục. Sống như thế thì còn khổ hơn chết, thế thì thà chết còn thỏa.
Vở kịch không chỉ có ý nghĩa triết lý về nhân sinh, về hạnh phúc con người mà còn góp phần phê phán một số biểu hiện tích cực trong lối sống lúc bây giờ.
Điều đầu tiên, con người đang có nguy cơ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu,dung tục. Nó được thể hiện ở phần trích đoạn giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái “chết” của hồn Trương Ba.
Như vậy qua những lười lẽ của xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế. vai trò quan trọng của mình.
Giữa hông Trương Ba và da Hàng thịt có một cuộc đối thoại và cũng là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thề xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ,gắn bó với nhau đế cùng sống, cùng tồn tại. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.
Mối quan hệ này cũng được thể hiện qua câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn” làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.
Một điều chúng ta có thể thấy rằng khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi.Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, đã “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, đã “làm gãy cả nan. rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị.Chính cũng từ lúc ấy bi kịch hồn xác khác nhau đã khiễn cho hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để “ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh “tan hoang” của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn “thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.
Sau đó cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba “đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lẩy một nén hương châm lửa. thắp lên”. Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt nữa, không thể được!… Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là “mình toàn vẹn”, mà “phải khuôn ép mình”… Vả lại, ông đã bị Nam Tào “gạch tên khỏi sổ”, thân thể của ông “đã tan rữa trong bùn đất” rồi. Sau khi phân trần Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được ‘‘nhập vào cu Tị” bởi lẽ nhiều điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ “bơ vơ lạc lõng”, “đáng ghét như kẻ tham lam”. Thật vô lí, cực kì vô lí, bởi lẽ “một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!”. Xưa nay. như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những ké tham quyền cỏ vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!.
Như vậy vở kịch còn đề cập đến một số vấn đề không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám, cũng không được sống với thực chất bản thân mình, đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cho độc giả, khán giá nhiều bâng khuâng. Hồn Trường Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cứa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao., của vợ con thương yêu. Như vậy hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
Nguồn: Bài văn hay
|
Feel the soulful work of the butcher's skin
Instruct
Feel the soulful work of the butcher's skin
As we know, Luu Quang Vu is an extremely talented person. His compositions have left behind many lessons about life, about people, about relationships between people. Among them, Truong Ba's Soul as a Butcher is a famous play. The very title of the play also creates unbelievable appeal for readers. In addition, it also suggests hidden meanings. A title not only creates appeal when it arouses curiosity in readers.
Truong Ba's soul and the butcher's skin are images with profound symbolic meaning. Soul and body are inherently attached to each other, in harmony with each other, but when the soul is in the same body, what happens? This is one of the knotted points that Luu Quang Vu satisfactorily resolved in the play. It can be seen that while the butcher's skin is a symbol of the physical appearance of a human being, Truong Ba's soul is a symbol. for the soul, for the inner world deep within. The contradiction between form and essence in a person. Through drama, it also aims to express a profound meaning. Truong Ba's soul is also a symbol of pure and noble beauty, while the butcher's skin is a symbol of ugliness, vulgarity, and cruelty. inferior nature in a human being. A person cannot live in the shell of another person. Furthermore, a noble soul cannot live and cannot hide in a vulgar body. Living like that is more miserable than dying, so it's better to die than be satisfied.
The play not only has philosophical meaning about human life and human happiness, but also contributes to criticizing some positive manifestations in today's lifestyle.
First of all, people are in danger of chasing trivial material desires, only enjoying enjoyment to the point of becoming ordinary and vulgar. It is shown in the excerpt between soul and body, between Truong Ba's soul and family members, between Truong Ba's soul and De Thich; Finally, there is the "death" of Truong Ba's soul.
Thus, through the laziness of the butcher's body, he showed contempt for Truong Ba's soul, arrogantly asserting his position. its important role.
Between Truong Ba's hips and Hang Butcher's skin, there is a dialogue and also a struggle between body and soul coexisting in one person. The body and soul have an organic relationship, attached to each other to live and coexist. When the soul "flies away", the body also returns to dust. The soul struggles and dominates with the desires and trivial desires of the body so that the personality is perfected and the soul is pure.
This relationship is also expressed through the saying of the butcher's body: "I am a vessel to contain the soul" making the metaphorical meaning of the dialogue between Truong Ba's soul and the butcher's body more specific and profound. sharp.
One thing we can see is that while living on the butcher's body, Truong Ba's soul was corrupted a lot: slapping his son made his mouth and nose bleed. Truong Ba's soul is different from before, gardening is rough: it has "broken" destroyed the young buds" of the orange tree, "trampled on the newly planted precious ginseng tree", and "broke the spokes." The paper was torn, and Ti's beautiful kite was destroyed. From that moment on, different tragedies of soul and body caused Truong Ba's soul to live in tragedy, experiencing much torment and suffering: his wife wanted to leave. so that "he can relax... with the butcher's wife"; The girl, her grandson, despised and chased away: "You are very ugly, very evil! Get out! Old butcher, go away!”. The daughter-in-law, who sympathized and pitied Truong Ba's soul the most, now faced with the "destroyed" situation of her family, was extremely scared and painful, "seeing... every day the teacher gradually changed, lost gradually, everything Everything seems so distorted, so blurred that sometimes I don't even recognize you anymore..."
Then the meeting and dialogue between the souls of Truong Ba and De Thich pushed the dramatic conflict to its climax. Having to find De Thich immediately, Truong Ba's soul "stood up, hesitantly but resolutely, went to the pillar of the house, took out a stick of incense and lit a fire. light up". Meeting his chess playing friend again in heaven, Truong Ba's soul confessed his tormented feelings: "Mr. De Thich, I can't continue to carry the body of a butcher anymore, I can't!... I can't be on the same side." , outside one way is okay. I want to be completely me.”
Even though De Thich had told him the truth of heaven and the truth of life, from the Jade Emperor to the mortals, no one can be "complete", but "must mold and force himself"... Furthermore, he was deceived by Nam Tao. "crossed his name off the book", his body "has already rotted in the mud". After the explanation, Truong Ba's soul does not want to live in the butcher's body anymore, nor does he want to "enter into Cu Ti" because many troublesome and ironic things will happen, and even more deeply, he will be "ignorant". helpless", "hateful like a greedy person". It's unreasonable, extremely unreasonable, because "a person who should have died a long time ago is still alive, still young and healthy, and blatantly enjoying all the blessings of heaven!". Ever since. As we know, those who are greedy for life and those who are greedy for power are despised and laughed at by their peers!
Thus, the play also addresses a number of equally pressing issues, which is the situation where people have to live fake lives, not daring to, nor living with their true nature, pushing people to the point of corruption. for fame and profit.
The play Truong Ba's soul, butcher's skin evokes a lot of sadness in readers and audiences. Truong Ba's soul did not follow De Thich back to heaven to play chess, but instead turned into the green color of garden trees, the delicious taste of custard apples, still entwined with his relatives, close to the steps, in the firelight, and at the pond. , in the betel, knife., of his beloved wife and children. Thus, Truong Ba's pure soul remains immortal in this world. That poetic ending makes humanistic thoughts shine through the work.
Source: Good article
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.