text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Pristimantis boconoensis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Rivero & Mayorga mô tả khoa học đầu tiên năm 1973.
Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis bogotensis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Peters mô tả khoa học đầu tiên năm 1863.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng đồng cỏ, vườn nông thôn, và các vùng đô thị. | 1 | null |
Pristimantis boulengeri là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1981.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đất canh tác, vùng đồng cỏ, các đồn điền, vườn nông thôn, các vùng đô thị, các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề, đất có tưới tiêu, và đất nông nghiệp có lụt theo mùa. | 1 | null |
Pristimantis brevifrons là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1981.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông, vùng đồng cỏ, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis briceni là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Boulenger mô tả khoa học đầu tiên năm 1903.
Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis bromeliaceus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1979.
Nó được tìm thấy ở Ecuador và Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis buccinator là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Rodriguez miêu tả khoa học đầu tiên năm 1994.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Peru, và có thể cả Bolivia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis buckleyi là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Boulenger mô tả khoa học đầu tiên năm 1882.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đất canh tác, vùng đồng cỏ, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis cabrerai là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Cochran & Goin mô tả khoa học đầu tiên năm 1970.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis cacao là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1992.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis cajamarcensis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Barbour & Noble mô tả khoa học đầu tiên năm 1920.
Nó được tìm thấy ở Ecuador và Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng đồng cỏ, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis calcaratus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Boulenger mô tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis calcarulatus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1976.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis caliginosus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Chúng là loài đặc hữu của Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao. | 1 | null |
Pristimantis cantitans là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Myers & Donnelly miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis capitonis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis caprifer là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1977.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis carmelitae là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Ruthven mô tả khoa học đầu tiên năm 1922.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis carranguerorum là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1994.
húng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis carvalhoi là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lutz mô tả khoa học đầu tiên năm 1952.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Colombia, Ecuador, Peru, và có thể cả Bolivia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis caryophyllaceus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Barbour mô tả khoa học đầu tiên năm 1928.
Loài này có ở Colombia, Costa Rica, và Panama. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis celator là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1976.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis ceuthospilus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman & Wild miêu tả khoa học đầu tiên năm 1993.
Chúng là loài đặc hữu của Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis chalceus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Peters mô tả khoa học đầu tiên năm 1873.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis charlottevillensis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Kaiser, Dwyer, Feichtinger, & Schmid miêu tả khoa học đầu tiên năm 1995.
Chúng là loài đặc hữu của Trinidad và Tobago. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Eleutherodactylus chiastonotus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Hoogmoed mô tả khoa học đầu tiên năm 1977.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Guyane thuộc Pháp, Suriname, và có thể cả Guyana. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis chloronotus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1969.
Nó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, và đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis chrysops là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Ruiz-Carranza miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Eleutherodactylus citriogaster là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman miêu tả khoa học đầu tiên năm 1992.
Chúng là loài đặc hữu của Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis colodactylus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1979.
Nó được tìm thấy ở Ecuador và Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis colomai là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Loài này được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis colostichos là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được La Marca & Smith mô tả khoa học đầu tiên năm 1982.
Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis condor là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman mô tả khoa học đầu tiên năm 1980.
Nó được tìm thấy ở Ecuador và Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis conspicillatus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Günther mô tả khoa học đầu tiên năm 1858.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Colombia, Ecuador, và Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis corniger là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Suárez-Mayorga mô tả khoa học đầu tiên năm 2003.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis cosnipatae là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman mô tả khoa học đầu tiên năm 1978. Chúng là loài đặc hữu của Peru.
Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Nó có thể là loài ếch nhỏ nhất thế giới. | 1 | null |
Eleutherodactylus cremnobates là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman mô tả khoa học đầu tiên năm 1980. Chúng là loài đặc hữu của Ecuador.
Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Eleutherodactylus dissimulatus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Chúng là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Strabomantidae là một họ ếch bản địa của Nam Mỹ. Các con ếch này không trải qua giai đoạn nòng nọc (ấu trùng) sống tự do và nở trực tiếp thành "ếch nhỏ".
Phát sinh chủng loài.
Hedges và ctv (2008) đưa ra một thảo luận hệ thống hóa rộng lớn về đơn vị phân loại này và mối quan hệ của nó với đơn vị phân loại con cũ của Brachycephalidae "sensu lato" (= Terrarana, một đơn vị phân loại không phân hạng trên cấp họ trong danh pháp do họ đưa ra), với việc lần đầu tiên đưa ra danh pháp Strabomantidae như một họ riêng biệt.
Pyron và Wiens (2011) trong nghiên cứu về các trình tự Genbank của họ đã đưa ra một phân tích lớn hơn khi xét theo số lượng loài, nhưng sử dụng hơi ít hơn lượng dữ liệu về một loài khi so với phân tích của Hedges và ctv (2008) để làm cột trụ cho phân tích của họ. Các kết quả thu được là hơi khác so với của Hedges và ctv (2008), trong đó Pyron và Wiens (2011) thấy rằng Strabomantidae là không đơn ngành và Craugastoridae nghĩa hẹp lồng sâu vào trong họ đó. Vì lý do này, họ đã đặt toàn bộ các yếu tố tạo thành họ Strabomantidae vào trong họ Craugastoridae nghĩa rộng.
Blackburn và Wake (2011) đã xem xét vắn tắt lịch sử danh pháp của đơn vị phân loại cấp họ này và duy trì giới hạn cũ của 2 họ Craugastoridae và Strabomantidae. Tuy nhiên, Fouquet và ctv (2012) lại gợi ý rằng Craugastoridae theo nghĩa Hedges và ctv (2008) là không đơn ngành, mặc dù dựa trên việc lấy mẫu ít hơn so với Pyron và Wiens (2011).
Phân loại học.
Khi được cộng nhận, họ này bao gồm các phân họ/chi sau:
Khi chỉ được coi là một phần trong họ Craugastoridae nghĩa rộng thì họ này chia tách ra như sau: | 1 | null |
Eleutherodactylus eugeniae là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997. Chúng là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis euphronides là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Schwartz mô tả khoa học đầu tiên năm 1967. Chúng là loài đặc hữu của Grenada, một hòn đảo ở vùng Caribe Tiểu Antilles. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.
Loài này phân bố hạn chế ở trung và đông nam Grenada, ở độ cao khoảng 300 – 840 m. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng đồng cỏ. | 1 | null |
Pristimantis gutturalis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Hoogmoed, Lynch, & Lescure mô tả khoa học đầu tiên năm 1977.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Guyane thuộc Pháp, và Suriname. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis infraguttatus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman & Pramuk miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999. Chúng là loài đặc hữu của Peru.
Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis kelephus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis lancinii là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Donoso-Barros mô tả khoa học đầu tiên năm 1965. Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis melanogaster là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman & Pramuk miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Đây là loài đặc hữu của Peru. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao. | 1 | null |
Pristimantis museosus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Ibáñez, Jaramillo, & Arosemena miêu tả khoa học đầu tiên năm 1994. Chúng là loài đặc hữu của Panama. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis paulodutrai là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Bokermann mô tả khoa học đầu tiên năm 1975. Chúng là loài đặc hữu của Brasil. Môi trường sống tự nhiên của chúng là subtropical or tropical moist lowland (up to 130m above sea level) forests. Chúng được tìm thấy ở two Atlantic forest localities in miền nam Bahia and Alagoas. | 1 | null |
Pristimantis petersi là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Duellman mô tả khoa học đầu tiên năm 1980. Loài này được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis ramagii là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Boulenger mô tả khoa học đầu tiên năm 1888. Chúng là loài đặc hữu của Brasil. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng nhiều đá. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis shrevei là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Schwartz mô tả khoa học đầu tiên năm 1967. Chúng là loài đặc hữu của Saint Vincent, an island ở vùng Caribe Tiểu Antilles that is part của Saint Vincent và Grenadines. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới and vùng đồng cỏ. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis skydmainos là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Flores & Rodriguez miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis terraebolivaris là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Rivero mô tả khoa học đầu tiên năm 1961. Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis unistrigatus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Günther mô tả khoa học đầu tiên năm 1859.
Loài này được tìm thấy ở Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đất canh tác, vùng đồng cỏ, các đồn điền, vườn nông thôn, các vùng đô thị, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. | 1 | null |
Pristimantis vinhai là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Bokermann mô tả khoa học đầu tiên năm 1975. Chúng là loài đặc hữu của Brasil. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Eleutherodactylus viridicans là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1977.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Eleutherodactylus viridis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Ruiz-Carranza, Lynch, & Ardila-Robayo miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Eleutherodactylus walkeri là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 1974.
Chúng là loài đặc hữu của Ecuador. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các đồn điền, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Eleutherodactylus wiensi là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Duellman & Wild miêu tả khoa học đầu tiên năm 1993.
Chúng là loài đặc hữu của Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. | 1 | null |
Pristimantis xeniolum là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 2001.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ ở cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis yaviensis là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Myers & Donnelly miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pristimantis yustizi là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Barrio-Amorós & Chacón-Ortiz mô tả khoa học đầu tiên năm 2004. Chúng là loài đặc hữu của Venezuela.
Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis zeuctotylus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Hoogmoed mô tả khoa học đầu tiên năm 1977.
Nó được tìm thấy ở Brasil, Colombia, Guyane thuộc Pháp, Guyana, Suriname, và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Eleutherodactylus zimmermanae là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Heyer & Hardy mô tả khoa học đầu tiên năm 1991.
Chúng là loài đặc hữu của Brasil. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các đồn điền, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Pristimantis zophus là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch & Ardila-Robayo miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Chúng là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Peter ở vùng đất phép thuật (tựa gốc tiếng Đức: "Peterchens Mondfahrt") là một bộ phim hoạt hình năm 1990 của Đức, dựa theo tiểu thuyết của nhà văn Gerdt von Bassewitz, phim thuộc thể loại phiêu lưu, viễn tưởng. Phim được phát hành ngày 29 tháng 11 năm 1990 tại nước Đức.
Nội dung.
Một đêm nọ ở một thị trấn của nước Đức, hai anh em Peter và Annabelle gặp một ông bọ cánh cứng trong phòng ngủ. Ông bọ tên là Buzzworthy, hậu duệ thứ 50 trong gia tộc Buzzworthy. Ông kể rằng hai trăm năm trước, ông sơ của ông đang nghỉ trên một cây Bulô thì một tên ác quỷ khổng lồ được gọi là Quỷ Mặt trăng đã đốn cái cây và mang nó đi, cái chân thứ sáu của ông sơ bị kẹt lại trên cây. Từ đó về sau, bọ cánh cứng trong gia tộc Buzzworthy đều chỉ có năm chân. Nữ thần Bóng đêm đã đày tên ác quỷ lên Mặt trăng để trừng phạt hắn vì tội chặt cây rừng. Nữ thần từng nói rằng nếu ông sơ muốn tìm lại cái chân thứ sáu thì cần có hai đứa trẻ tốt bụng và đủ dũng cảm cho chuyến hành trình nguy hiểm đến Mặt trăng.
Nghe xong câu chuyện, Peter và Annabelle đồng ý giúp Buzzworthy đi lấy cái chân. Sau khi Buzzworthy dạy hai đứa trẻ cách bay, ba người bay lên bầu trời. Họ gặp được Thần cát, vị thần có nhiệm vụ giúp trẻ em dưới trần gian ngủ ngon. Thần cát đồng ý đưa ba người đến lâu đài của Nữ thần Bóng đêm bằng cỗ xe được kéo bởi sáu con bướm. Sau khi đi ngang qua dải Ngân Hà, cả nhóm đến được lâu đài, nơi có những vị thần thời tiết đang dự yến tiệc. Nữ thần Bóng đêm tặng cho cả nhóm một chú gấu trắng Bắc Cực khổng lồ để làm phương tiện di chuyển mới, bà nói rằng những vị thần thời tiết sẽ giúp đỡ họ trên đường đi.
Khi cả nhóm đến Mặt trăng, họ đi qua vương quốc Giáng sinh và Phục sinh để tìm thức ăn cho chú gấu. Sau khi thoát khỏi bầy chó sói hung ác, họ đến chỗ súng đại bác. Thần cát đã bắn Peter, Annabelle và Buzzworthy lên đỉnh núi, nơi có cây Bulô với cái chân của Buzzworthy. Ba người chạm trán Quỷ Mặt trăng, lúc này những vị thần thời tiết xuất hiện và chiến đấu với tên ác quỷ, cuối cùng họ khiến hắn bị đóng băng. Peter lấy cái chân trên cây và gắn nó vào người Buzzworthy, nhiệm vụ của họ đã được hoàn tất. Bình minh lên, khối băng tan chảy nên Quỷ Mặt trăng có thể thoát ra, hắn lao đến tấn công ba người. Ba người bay lên cao kịp lúc, họ cứ bay mãi đến khi vào một ống khói. Peter và Annabelle thức dậy, nhận ra chuyến phiêu lưu vừa rồi của chúng chỉ là giấc mơ. Mẹ của hai đứa trẻ bảo chúng xuống ăn sáng, sau đó chúng thấy có một chú bọ cánh cứng rất giống Buzzworthy bên cửa sổ. | 1 | null |
The Venetian Macao là một khách sạn, khu nghỉ dưỡng, sòng bạc ở Ma Cao, Trung Quốc thuộc sở hữu của tập đoàn Las Vegas Sands và tỷ phú Mỹ Sheldon Adelson. Tổ hợp này bao gồm 7 khách sạn trị giá 2,4 tỷ đôla (USD) được xây dựng trên khu đất Cotai Strip với tổng diện tích lên tới 980.000 m 2. Venetian Macao được xây dựng dựa trên mô phỏng của khu nghỉ mát, casino The Venetian ở Las Vegas và là cấu trúc khách sạn lớn nhất ở châu Á, tòa nhà lớn thứ sáu trên thế giới và là sòng bạc lớn nhất trên thế giới.
Tòa tháp chính của khách sạn được hoàn thành vào tháng 7 năm 2007 còn các khu du lịch chính thức khai trương vào ngày 28 tháng 8 năm 2007. Khu nghỉ mát này có 3000 phòng với không gian tới 1.200.000 sq ft (110.000 m 2), trung tâm mua sắm có diện tích 1.600.000 sq ft (150.000 m 2), và không gian của sòng bạc là 550.000 feet vuông (51.000 m 2) - 3400 máy đánh bạc và 870 bàn đánh bạc và đấu trường thể thao trong nhà Cotai Arena có 15.000 chỗ ngồi phục vụ cho các sự kiện giải trí, thể thao.
Các bức tường và trần nhà ở Venetian được trang trí bằng các bức bích họa kiểu Ý và bản sao với kích cỡ y như thật của một cây cầu ở Venice để chào đón du khách. Bên trong khu nghỉ dưỡng và sòng bạc còn có một con kênh chảy qua những dãy phòng có trần nhà được mô phỏng là bầu trời xanh rất giống thật. Việc đi lại trên con kênh này người ta bố trí những chiếc thuyền đáy bằng sử dụng ở Venice và thuyền tam bản của Trung Quốc.
Venetian Macao chính là "thủ đô" giải trí ở châu Á, với tổ hợp sòng bạc Venetian Macao, đã góp phần đưa vùng đất ven biển phía nam Trung Quốc vượt qua Las Vegas của Mỹ, trở thành trung tâm đỏ đen và sinh lời có quy mô nhất trên thế giới.
Casino.
Casino có diện tích 550.000 sq ft (51.000 m 2) được chia thành 4 khu vực chơi là Golden Fish, Imperial House, Red Dragon và Phoenix bao gồm hơn 3400 máy và 870 bàn đánh bạc.
Tại đây có câu lạc bộ Paiza Club chuyên phục vụ cho khách chơi cao cấp. Câu lạc bộ có lỗi đi riêng vào sảnh chính và hệ thống thang máy đưa khách lên các phòng. Khu vực chơi được chia thành các phòng đánh bạc nhỏ được đặt tên theo các địa danh nổi tiếng ở châu Á như Vân Nam, Quảng Châu, Hồng Kông, Singapore và Kuala Lumpur. Tại đây cũng có khu ăn uống phục vụ riêng 24h mỗi ngày cho khách chơi.
Khu ở.
Tòa tháp khách sạn bao gồm 3.000 phòng cao cấp từ cấp 7 đến tầng 38 với hệ thống thang máy phục vụ đi lại. Tại đây bao gồm các phòng dành cho khách cao cấp, trong đó lớn nhất là phòng "Presidente" với không gian bao gồm 12 phòng với 4 phòng ngủ.
Khu vui chơi.
Cotai Arena hay Venetian Arena là một đấu trường trong nhà khai trương năm 2007 với sức chứa khoảng 15.000. Nơi đây tổ chức các sự kiện thể thao như quần vợt, bóng rổ và quyền Anh, cũng như các buổi hòa nhạc và chương trình truyền hình quốc tế. Tại đây có khu giải trí trình diễn xiếc Zaia Coliseum của công ty giải trí Cirque du Soleil với 1.800 chỗ ngồi là nơi diễn ra những chương trình trình diễn đặc sắc với nhiều nghệ sĩ có tên tuổi. | 1 | null |
Đinh Huy Đạo (1738 – 1799) là một nho sĩ yêu nước thời Tây Sơn. Công lao của ông đối với cuộc chiến chống quân Thanh là rất lớn và được chính Quang Trung, Cảnh Thịnh …ghi nhận. Ông còn để lại cho đời nhiều bài văn, tác phẩm văn học có giá trị.
Tiểu sử.
Ông tên là Đinh Huy Hoản sinh ngày 23 tháng 12 năm Đinh Tỵ (1738) trong gia đình nhà nho nghèo tại làng Ngọc Động, tổng Lê Xá nay là làng Ngọc Động, xã Gia Phong, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Sự nghiệp.
Đinh Huy Đạo con trai thứ ba trong gia đình nhà Nho. Từ nhỏ, Huy Đạo đã được mọi người yêu mến vì thông minh, thật thà, lễ độ.
Lên 16 tuổi (Quý Dậu – 1753) ông thi đỗ sinh đồ. Ba năm sau, (Bính Tý – 1756) ông thi Hương và đỗ Hương Cống. Đến năm 30 tuổi (Cảnh Hưng thứ 28 – 1767) dự thi Hội, ông đỗ Tam Trường và được triều Lê bổ làm Huấn đạo phủ Hà Trung – Thanh Hóa. Sáu năm làm quan ở đây, ông được nhân dân rất kính trọng bởi tính ngay thẳng, thanh liêm và thương yêu dân.
Năm 1771, ông được triều Lê bổ làm tri huyện Thuận Khê (nay thuộc Thái Bình). Về Thuận Khê ông nghiêm khắc trừng trị bọn quan lại hà hiếp dân vì vậy mà tiếng tăm của ông ngày càng vang xa hơn. Nhiều nhà khoa bảng bấy giờ như Bảng nhãn Hà Tôn Huân, Nguyễn Công Trấn, Lê Quý Đôn … thường đến cùng bàn việc nước, ngâm thơ phú cùng ông.
Thấy ông là viên quan có tài lại thanh liêm chính trực, vua Lê Hiển Tông mời ông về triều phong làm "Hữu công bộ thị lang" dạy dỗ các tiểu thư, công chúa của hoàng tộc. Tại đây, ông kết duyên cùng người con gái hoàng tộc, bà Lê Thị Diễm Thục. Đứng trước cảnh suy đồi của giai cấp thống trị Lê – Trịnh, ông đã không chịu nổi, bèn treo ấn từ quan về quê mở trường dạy học.
Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt họ Trịnh lộng quyền, đưa những người trung nghĩa lên làm quan, củng cố lại nhà Lê. Đinh Huy Đạo lại được mời về kinh, được vua phong "trung tín bá tước" và giữ lại làm quan trong triều, nhưng ông nhất mực xin về Hà Trung và ông trở lại giữ chức Huấn đạo ở Hà Trung.
Năm 1788, nhà Thanh đưa quân ào ạt tiến sang Việt Nam, nhà Lê đầu hàng. Ngô Thời Nhậm, Ngô Văn Sở … đã rút quân về phòng tuyến Tam Điệp nơi giáp ranh với phủ Hà Trung. Vốn là bạn thân trước kia, Ngô Thời Nhậm đến tận nhà Đinh Huy Đạo bàn kế chống giặc và mời ông ra giúp Nguyễn Huệ trừ giặc Thanh. Đinh Huy Đạo đưa cả hai cháu ruột (Đinh Lê, Đinh Toại) ra cùng Ngô Thời Nhậm lo việc xây phòng tuyến Tam Điệp, tuyển binh chống quân Thanh.
Cuối năm 1788, Quang Trung ra Tam Điệp ban thưởng cho các tướng sĩ có công xây dựng phòng tuyến. Đinh Huy Đạo được Quang Trung hết lời khen ngợi và thăng chức tri phủ Hà Trung và bổ sung vào trung quân tham mưu cùng bàn kế hoạch thần tốc tiến đánh Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị, Lê Chiêu Thống thấy Quang Trung đóng ở Tam Điệp thì sai Lê Duy Vĩ đem quân ra đóng chặn ở Bái Ấp (nay là xã Sơn Thành, huyện Nho Quan, Ninh Bình) hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hòa Bình. Nhận thấy sự nguy hiểm của cánh quân Lê Duy Vĩ, Đinh Huy Đạo đã sang bàn bạc với Ngô Thời Nhậm và hai người cùng vào tâu với Quang Trung.
Quang Trung được tin này rất lo lắng nói rằng: "Ta muốn thần tốc bí mật xuất quân mới có thể thắng, nếu cơ mưu này bị tiết lộ việc lớn tất không thành. Các ông có phương thuốc nào trói chân giặc lại, giữ kín được mưu mới khá thắng được".
Nhận trọng trách, Đinh Huy Đạo cầm quân từ bắc huyện Thạch Thành đi theo đường hẻm Cúc Phương ra chặn đường về Thăng Long. Đinh Huy Đạo viết thư cho Lê Duy Vĩ rồi sai hai cháu cầm thư đi. Đinh Lê, Đinh Toại cầm thư đến Sầy (thôn miền núi thuộc huyện Gia Viễn – Ninh Bình) thì bị quân của Lê Duy Vĩ giết chết. Nhưng khi quân của Lê Duy Vĩ khám người thấy thư, nên cầm về cho Duy Vĩ. Đọc thư Duy Vĩ như tỉnh ngộ ra liền đem quân đến hàng (ngày 30 tháng 12 – Mậu Thân). Huy Đạo đem toàn bộ số quân ấy đến báo với Quang Trung. Quang Trung rất vui mừng cho gọi Huy Đạo vào dinh thưởng rất hậu và cho cùng tham dự bàn bạc phương sách tiến quân.
Trong suốt quá trình tiến đánh quân Thanh, Huy Đạo đã có nhiều đóng góp lớn, đặc biệt ông được Quang Trung giao nhiệm vụ dẫn đường tiến đánh Ngọc Hồi và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau chiến thắng quân Thanh, Đinh Huy Đạo được phong "Bí thư thự điển trực học sĩ viễn mưu hầu" và "Quốc tử trợ giáo" chuyên dạy bảo các hoàng tử Quang Toản, Quang Thùy … song đó chỉ là những công việc thường nhật, còn chủ yếu là Quang Trung đưa Huy Đạo về gần mình để hỏi ý kiến, soạn thảo các chỉ dụ … của triều đình. Ông được giao cho soạn ra tập sách về các chuẩn mực đạo đức, phong hóa, tiết lễ … Đọc sách này, các sĩ phu Bắc Hà càng theo về giúp Quang Trung nhiều hơn. Khi nhà Tây Sơn đổ, Gia Long lên ngôi tận diệt triều Tây Sơn nhưng vẫn giữ lại tập sách này để thu phục lòng người. Đinh Huy Đạo và dòng họ Đinh Huy không bị truy giết cũng vì thế.
Được Quang Trung trọng dụng, phấn khởi trước vị minh quân, Huy Đạo đã dốc hết tâm trí vào phò vua giúp nước. Đến khi già ốm trở về gia đình dưỡng bệnh, ông được vua cử cả danh y giỏi về chăm sóc và tặng viên ngọc quý (nay lưu tại bảo tàng Ninh Bình).
Năm 1792, Quang Trung mất, Đinh Huy Đạo vội vào kinh chịu tang và được triều đình giao cho viết văn tế vua .
Tôn vinh.
Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799), Đinh Huy Đạo qua đời, thái tử Quang Toản nay là vua Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thùy và nhiều quan lại khác đã về tận nhà tế lễ .
Đinh Huy Đạo, một nho sĩ yêu nước thức thời. Công lao to lớn của ông đối với triều đại Tây Sơn ngay từ lần đại phá quân Thanh là rất lớn và được chính Quang Trung, Cảnh Thịnh … ghi nhận. Công lao của ông đối với dân tộc. Bộ Văn hóa Thông tin trong quyết định ngày 2 – 8 – 1999 đã công nhận nhà thờ Đinh Huy Đạo ở xã Gia Phong – Gia Viễn – Ninh Bình là di tích lịch sử, chính là sự ghi nhận tài đức, công lao to lớn đó của Đinh Huy Đạo. | 1 | null |
Bàng Tịch (龐籍) hay Bàng Cát (龐吉) (988-1063), tự Thuần Chi (醇之), quê Thành Vũ, Đan Châu (nay là huyện Thành Vũ, tỉnh Sơn Đông), là một viên quan trong triều đại Bắc Tống của Trung Quốc. Ông là đồng trung thư môn hạ bình chương sự kiêm chiêu văn quán đại học sĩ, giám tu quốc sử từ 1051 đến 1053 thời Tống Nhân Tông và chức Khu mật viện phó sứ triều vua Tống Chân Tông.
Theo chính sử thì ông là một vị quan có tài năng và sự thật là ông đã thi đỗ tiến sĩ năm 1015 để ra làm quan. Bàng Tịch còn là thầy của các danh thần nhà Tống như Địch Thanh, Tư Mã Quang, ông cũng là bạn thân của Phạm Trọng Yêm và Hàn Kỳ, những người giữ chức vụ cao dưới thời Nhân Tông và có tiếng là hiền thần.
Bàng Tịch mất ngày 7 tháng 4 năm 1063, tức ngày 6 tháng 3 theo âm lịch năm Gia Hựu thứ 8. Con trai là Bàng Nguyên Anh. Cháu nội là Bàng Cung Tôn cũng được phụ chép vào phần liệt truyện 70 của Tống sử.
Trong dã sử.
Bàng Tịch trong văn học và phim ảnh được biết đến với cái tên Bàng Hồng, ông thường có vai trò của một nhân vật phản diện, một viên quan tham ô và gây ra nhiều tai hại cho nhà Tống. Trong tác phẩm Vạn Hoa lầu diễn nghĩa, ông và con rể của ông là Binh bộ thượng thư Tôn Tú nhiều lần âm mưu hãm hại Địch Thanh (vì cha của Địch Thanh là nguyên soái Địch Nguyên, cha của Tôn Tú chỉ là quan vận lương, vì đi trễ ngày giờ nên bị xử trảm). Trong Dương gia tướng diễn nghĩa, Dương Tông Bảo và cha là Dương Diên Chiêu đã bị Bàng thái sư và thuộc hạ là Trương Hữu dùng gian kế thâm độc khiến cho cả hai người đều bị quân lính do tướng Tây Hạ là Lý Hán Kiệt chỉ huy vây hãm và giết chết tại thành Khai Châu. Trong Bao Công kỳ án, Bàng Hồng luôn luôn tìm đủ mọi cách để hãm hại Bao Chửng, nhưng mọi âm mưu đều thất bại. Trong tác phẩm "Ngũ Thử đại náo Đông Kinh", Bàng Hồng nổi lên là một con người mưu mô, thủ đoạn, luôn dựa vào thế con gái là Bàng Quý phi cùng con rể Tôn Vinh và con trai Bàng Dục để hãm hại Bao Chửng. Nhưng Bao Công luôn được các huynh đệ ở phủ Khai Phong cứu giúp.
Thực ra, Bàng Tịch trong sử sách là một vị quan tốt, có nhiều đóng góp cho triều đình. Những hành vi xấu trong các câu chuyện nêu trên thường là hư cấu, hoặc của một gian thần có thật là Trương Nghiêu Tá (bác sủng phi Trương quý phi của Tống Nhân Tông) nhưng lại đem gán cho Bàng Tịch. | 1 | null |
Hypsizygus tessellatus hoặc "shimeji" là một loài nấm ăn bản địa của ku vực Đông Á, có giá trị dinh dưỡng cao và được xếp vào nhóm nấm dược liệu. Buna shimeji được trồng một vài nơi ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc, và cũng được bán ở dạng nấm tươi trên ở các chợ.
Phân bố.
Nấm ngọc châm được tìm thấy chủ yếu vào mùa thu và mùa đông vùng ôn đới ở phía bắc bán cầu; được trồng đầu tiên ở Trung Quốc, sau đó phát triển sang Nhật Bản (năm 1972), các nước Bắc mỹ và Châu âu.
Tên gọi.
Ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau có tên gọi khác nhau:
Phân loại.
Có hai dạng thuộc loài này gồm:
"Hypsizygus marmoreus" là tên đồng nghĩa của "Hypsizigus tessellatus". | 1 | null |
Đại học Sư phạm Bắc Kinh (BNU; chữ Hán giản thể: 北京师范大学; chữ Hán phồn thể: 北京師範大學; Pinyin: Běijīng Shīfàn Dàxué; thông dụng 北师大, Pinyin: Běishīdà) là một trường đại học ở Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là một trường đại học trực thuộc quản lý của Bộ Giáo dục Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trường này nằm ở Bắc Kinh, thủ đô của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lịch sử.
Trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh là một trong những trường đại học tổng hợp trọng điểm của chính phủ. Thành lập năm 1902.
Các ngành đào tạo.
Trường có 25 trường cao đẳng và rất nhiều các chuyên ngành học, bao gồm tất cả các ngành khoa học, Kỹ thuật, Nông nghiệp, Dược, Văn học, Lịch sử, Triết học, Luật, Kinh tế, Quản lý giáo dục, 85 chuyên ngành đaị học, 189 các chuyên ngành đào taọ Thạc sĩ, 99 chuyên ngành đào tạo Tiến sĩ, 11 chương trình nghiên cứu sau Tiến sĩ, các phòng thí nghiệm, thực hành thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu kỹ thuật công nghệ...
Trường có hơn 3.049 giáo viên, trong đó hơn 287 các giáo sư và liên kết với hiệp hội các giáo sư, họ là thành viên trong Viện nghiên cứu Khoa học Trung Quốc, Viện Kỹ thuật Trung Quốc, và Viện nghiên cứu Âu Á. Trường có khoảng 8.800 học sinh theo học các chương trình cao đẳng và đại học. Trường có hơn 22.000 sinh viên đang theo học các khoá học đại học, trong đó có 11.000 sinh viên tốt nghiệp và hơn 1.800 sinh viên quốc tế và hơn 5.000 sinh viên đã tốt nghiệp và tiếp tục theo học các khoá học Thạc sĩ và Tiến sĩ.
Nhà trường cũng mở một trung tâm học tiếng Trung và có các kỳ thi lấy chứng chỉ HSK dành cho sinh viên quốc tế học tập tại đây. Trường có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, chất lượng dạy rất cao và có tính khoa học, 26 giáo viên dạy Tiếng Trung dành cho người nước ngoài trong đó có 18 giáo sư và liên kết với hiệp hội các giáo sư, Hội Ngôn ngữ tiếng Trung Quốc tế dành cho người nước ngoài, và 19 thành viên của Hội ngôn ngữ tiếng Trung Trung Quốc dành cho người nước ngoài. | 1 | null |
Đại học Sư phạm Quảng Tây (, viết tắt là GXNU; ; thông dụng , "Guǎngxīshīdà") là một trường đại học ở Quế Lâm, Trung Quốc. Đây là một trường đại học trực thuộc quản lý của Bộ Giáo dục Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lịch sử.
Đại học Sư phạm Quảng Tây được thành lập tại Quế Lâm tháng 10 năm 1932 với tên gọi ban đầu là Trường sư phạm Quảng Tây. Năm 1943, trường được đổi tên thành Quốc lập Cao đẳng Sư phạm Quế Lâm (國立桂林師範學院). Năm 1949, trường được đổi tên thành Quốc lập Cao Sư phạm Nam Ninh (國立南寧師範學院), và phát triển thành một trường đại học quốc gia với 7 học viện và 28 bộ môn. Năm 1950, trường được sáp nhập vào Đại học Quảng Tây.
Năm 1952, chính phủ sắp xếp lại các cơ sở đào tạo đại học trong một nỗ lực xây dựng một hệ thống theo kiểu Xô viết. Đại học Quảng Tây bị mất các, đã trở thành một Học viện Sư phạm Quảng Tây(广西师范学院). Tên hiện nay của trường được đặt năm 1983.
Các ngành đào tạo.
Trường có 27 trường cao đẳng và rất nhiều các chuyên ngành học, bao gồm tất cả các ngành khoa học, Kỹ thuật, Văn học, Lịch sử, Triết học, Luật, Kinh tế, Quản lý giáo dục, 62 chuyên ngành đaị học, 160 các chuyên ngành đào taọ Thạc sĩ, 12 chuyên ngành đào tạo Tiến sĩ, các phòng thí nghiệm, thực hành thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu kỹ thuật công nghệ...
Hiện nay.
Trường có hơn 1.272 giáo viên, trong đó hơn 253 các giáo sư và liên kết với hiệp hội các giáo sư. Trường có khoảng 8.800 học sinh theo học các chương trình cao đẳng và đại học. Trường có hơn 18.539 sinh viên đang theo học các khoá học đại học, trong đó có 18.060 sinh viên tốt nghiệp và hơn 1.200 sinh viên quốc tế và hơn 539 sinh viên đã tốt nghiệp và tiếp tục theo học các khoá học Thạc sĩ và Tiến sĩ. | 1 | null |
Bắc hoàng hoa thái (tên khoa học: Hemerocallis lilioasphodelus, đồng nghĩa: Hemerocallis flava) là một loài thực vật trong chi "Hemerocallis". Loài này được tìm thấy khắp Trung Quốc, châu Âu và Đông Bắc Ý và Slovenia.
Bắc hoàng hoa thái phát triển trong các bụi lớn lan rộng và lá của nó dài đến 75 cm (30 in) dài. Nó có hoa vàng chanh với mùi hương thơm dịu trong một cụm 3 đến 9 hoa.
Loài hoa này ăn được và được sử dụng trong ẩm thực Trung Quốc và ẩm thực Nhật Bản. | 1 | null |
FV 101 "Scorpion" là xe bọc thép chạy xích sử dụng trong mục đích trinh sát. Được bọc thép bằng hợp kim nhôm. Và còn có thể được vận chuyển bằng đường không trên các hệ thống treo của máy bay trực thăng hạng nặng hoặc trong bụng các máy bay vận tải.
Lịch sử.
Năm 1964, hãng "Elvis" nhận đơn đặt hàng thiết kế loại xe này. Bản thử nghiệm đầu tiên được đưa ra chạy thử năm 1968 và 4 năm sau nó được tiếp nhận vào lực lượng vũ trang dưới tên gọi FV 101 "Scorpion" (bọ cạp FV 101).
Cấu tạo thân xe.
Bản vẽ thiết kế tổng thể của xe tăng mang nhiều tính chất của một xe chiến đấu bộ binh (BMP). Buồng động cơ – động lực được bố trí phía trước thân xe, còn buồng chiến đấu chiếm vị trí giữa và bộ phận đuôi "Scorpion". Với kết cấu này, bánh dẫn động sẽ nằm phía trước, còn bánh dẫn hướng – phía sau. xe này sử dụng động cơ xe hơi "Jaguar", trong trường hợp cần thiết, có thể thay thế bằng động cơ diezen "Perkins" làm mát bằng chất lỏng 250 sức ngựa. Hệ thống treo xoắn của xe tăng với hệ thống giảm sóc thủy lực phía trước và phía sau bánh đỡ. Băng xích có bản lề cao xu pha thép quanh bánh xe và mắt xích bằng thép. Các chướng ngại vật dưới nước ngập sâu, "Scorpion" không thể tự vượt qua được. Trong trường hợp này, phải sử dụng đến tổ hợp phương tiện vượt sông đặc biệt, có thể mang riêng xe tăng. Xe hoạt động trên mặt nước sau khi băng xích đã được cuộn lại.
Vũ khí và bọc giáp.
Được lắp pháo rãnh xoắn L23 76mm và súng máy đồng trục 7,62mm. Tháp pháo hai chỗ ngồi cho chỉ huy và pháo thủ. Trong cơ số đạn 40 viên của "Scorpion" gồm đạn nổ, đạn phá xuyên giáp với chất dẻo. Đầu xe và tháp pháp được bọc hợp kim nhôm và trang có thể chống lại được súng máy 14,5mm bắn thẳng từ cự ly 200m. Thành bên và đuôi xe đem lại sự bảo vệ cho kíp xe khỏi đạn súng bộ binh, đạn nổ mảnh và mìn. "Scorpion" được trang bị các hệ thống bảo vệ khỏi vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Tổng cộng 1241 FV 101 "Scorpion" đã được sản xuất. Trên gầm "Scorpion", ngoài các loại xe bọc thép khác nhau và các xe cứu kéo, xe trang bị hệ thống "Swingfire" – tên lửa chống tăng có điều khiển dưới tên gọi "Striker", xe bọc thép vận chuyển "Spartan", xe cứu thương "Samaritan", xe chỉ huy "Sultan", xe sửa chữa "Samson", đồng thời xe trinh sát chiến đấu "Simiter". Tất cả các loại xe phục vu, chiến đấu này cho đến thời điểm hiện tại vẫn phục vụ trong Lực lượng vũ trang Anh. | 1 | null |
Họ Cú muỗi mỏ quặp (danh pháp khoa học: Podargidae) là một họ chim thuộc bộ Caprimulgiformes. Chúng có miệng khi há ra giống miệng ếch. Họ này gồm các loài chim săn mồi hoạt động về đêm. Chúng được tìm thấy ở Ấn Độ và trên khắp miền nam châu Á tới Úc.
Các loài chim trong họ ngụy trang bằng bộ lông của nó. Các loài trong họ này làm tổ trên nhánh cây và thường đẻ từ ba quả trứng màu trắng, chim mái ấp vào ban đêm và chim trống ấp ban ngày.
Ba loài thuộc chi "Podargus" là những con cú lớn giới hạn ở Úc và New Guinea, và có mỏ quặp dẹt lớn. nó có thể bắt con mồi lớn hơn như vật có xương sống nhỏ (ếch, chuột), đôi khi nó đập con mồi vào đá trước khi nuốt. Mười hai loài thuộc chi "Batrachostomus" được tìm thấy ở vùng châu Á nhiệt đới. Những loài này nhỏ hơn, mỏ của nó tròn hơn và chủ yếu là ăn côn trùng.
Vào tháng 4 năm 2007, một loài mới được mô tả từ quần đảo Solomon và đặt trong chi "Rigidipenna" mới thiết lập.
Phân loại.
Các nghiên cứu lai ghép DNA-DNA gợi ý rằng 2 nhóm cú muỗi mỏ quặp có thể không có quan hệ họ hàng gần tới mức như người ta nghĩ trước đây, và các loài châu Á có thể tách ra thành họ riêng gọi là Batrachostomidae.
Mặc dù theo truyền thống thì cú muỗi mỏ quặp được xếp trong bộ Caprimulgiformes, nhưng một số nghiên cứu sau này nghi vấn về điều này, và chúng có thể đủ khác biệt để xếp trong bộ của chính chúng là Podargiformes, như Gregory Mathews đề xuất năm 1918.
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Prum R.O. "et al." (2015). Các họ có liên quan theo truyền thống là Caprimulgidae, Nyctibiidae, Podargidae, Steatornithidae và Aegothelidae. Nếu cây phát sinh chủng loài này là phù hợp thì bộ Cú muỗi như định nghĩa truyền thống là cận ngành trong tương quan với bộ Apodiformes. | 1 | null |
Acrocephalus rufescens là một loài chim trong họ Acrocephalidae. Nó sinh sống ở Angola, Botswana, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Tchad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Kenya, Mali, Mauritanie, Namibia, Nigeria, Rwanda, Senegal, Nam Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia, và Zimbabwe.
Môi trường sống tự nhiên của nó là đầm lầy. | 1 | null |
Arnold Schoenberg ("Arnold Schönberg", ; 1874–1951) là nhà soạn nhạc, nhà lý thuyết âm nhạc, nhạc trưởng, nhà sư phạm người Mỹ gốc Áo.
Thân thế sự nghiệp.
Schoenberg sinh năm 1874 tại thủ đô Viên của nước Áo. Ông tự học âm nhạc và có học phức điệu vài tháng với thầy Zemlinsky. Từ năm 1901, Schoenberg công tác chỉ huy dàn nhạc và giảng dạy tại Berrlin và Viên. Những năm 1901-1905, ông sống ở Berlin, lưu diễn với tư cách nhạc trưởng, một phần là để giới thiệu tác phẩm của mình. Từ 1915 đến 1917, ông tham gia quân đội. Năm 1918, về Viên, dạy học và nghiên cứu âm nhạc. Từ năm 1925, ông phụ trách lớp sáng tác nâng cao cua Viện Hàn lâm nghệ thuật Berlin. Sau, năm 1933, ông phải di tản từ Đức (Đảng Quốc xã nắm quyền lúc ấy)để sang Paris rồi sang sang nước Mỹ. Một năm sau, Shoenberg định cư ở Los Angeles. Trong khoảng 1936-1944, ông trở thành giáo sư của Đại học Tổng hợp California. Trong thời gian giảng dạy, ông đã đào tạo nên các nhà soạn nhạc có tên tuồi cua thế kỷ XX như Webern, Berg, Wellesz, Erwin Stein... Ông mất năm 1951 tại Los Angeles, Hoa Kỳ.
Phong cách sáng tác.
Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên trong cuộc đời(1897-1907), Schoenberg là một trong những nhạc sĩ lãng mạn cuối thế kỷ XIX(cuối thời kỳ Lãng Mạn). Từ 1908-1921, ông chuyển sang thứ âm nhạc vô điệu tính, hoàn thiện cơ sở lý thuyết cho âm nhạc 12 cung;Schoenberg thuộc trường phái biểu hiện. Từ năm 1922 đến 1951, ông đưa ra hệ thống 12 cung thay cho hệ thống điệu tính. Đó là cơ sở đê rất nhiều nhà soạn nhạc thế kỷ XX có những tìm tòi mới mẻ. Như vậy, ông đã ảnh hưởng tới âm nhạc thế kỷ XX.
Các tác phẩm.
Schoenberg đã sáng tác vở opera "Moses và Aron" và một số vở opera khác, rất nhiều tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng, trong đó có Giao hưởng thính phòng số 2 Op.38a(1939), "Chủ đề và biến tấu"Op.43a (1943).Những tác phẩm cho các giọng hát và dàn nhạc phải kể đến "Pierrot Lunaire" Op.21cho xướng ngôn viên,dàn hòa tấu thính phòng, "Thánh thi hiện đại" Op.50c cho hợp xướng và dàn nhạc(1950).Còn về nhạc thính phòng Schoenberg có tác phẩm "Fantasy" cho violin và piano cùng với các tác phẩm khác dành cho piano. Ngoài ra, ông còn có các ca khúc. Về nghiên cứu âm nhạc, Shoenberg có viết "Luận về hòa thanh"(1922), "Những chức năng cấu trúc của hòa thanh"(1954), "Phong cách và ý tưởng"(1972). | 1 | null |
Xe tăng trinh sát lội nước T-40 là một xe tăng hạng nhẹ lội nước được Hồng quân sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Tầm quan trọng.
Khả năng lội nước rất quan trọng với Hồng quân. Nhằm thay thế hai loại xe tăng lội nước là T-37 và T-38, T-40 đã được thiết kế một cách đơn giản để trang bị cho Hồng quân nhưng chỉ có một số lượng ít hơn 200 chiếc được sản xuất.
Thiết kế.
Cấu tạo của xe cho phép sử dụng rộng rãi động cơ và các tổ hợp dành cho ô tô. Động cơ và hệ thống truyền động nằm bên phải xe. Thân xe hình thành từ những tấm thép cán, kết nối với nhau bằng phương pháp hàn và tán đinh. Bộ phận truyền động có 4 bánh đỡ mỗi bên và hệ thống treo xoắn riêng. Dành cho khả năng hoạt động dưới nước phần dưới đuôi xe được lắp một chân vịt 4 cánh và 2 tay lái nước.
Vũ khí.
Xe được trang bị tháp pháo với súng máy hạng nặng DShK 12.7 mm và súng máy DT 7.62 mm được bố trí phía bên trái xe.
Hoạt động.
Gần tháng 6 năm 1941, Hồng quân có 220 chiếc xe tăng hạng nhẹ lội nước T-40. Tuy nhiên, những trận đánh đầu tiên đã chỉ ra những điểm yếu của loại xe tăng này, vì nhiệm vụ cơ bản của nó không phải là trinh sát mà dành cho sự hỗ trợ bộ binh. T-40 chưa khi nào được sử dụng với nhiệm vụ như một xe lội nước. Vì thế, mùa hè năm 1941, công xưởng số 37 (Moskva) đã chuyển sang biến thể khác T-40S (S-lục quân, đất liền, trên bộ). Ngoại trừ phiên bản đó với vũ khí của dòng xe tăng cũ, loại xe tăng với pháo ShVAK 20mm cũng được sản xuất với cơ số đạn 154 viên. Chân vịt dành cho khả năng lội nước không được lắp trên loại xe tăng đó.
Trên phiên bản sau, với tên gọi T-30, cũng thiếu hốc dành cho chân vịt – đuôi xe phía sau trở nên thẳng. Giáp bảo vệ được tăng lên đến 15mm, và cơ số đạn súng máy cũng được tăng lên đến 750 viên. Những chiếc xe cuối cùng thuộc kiểu này được sản xuất vào tháng 9 năm 1941 và được đưa vào các nhà máy phục vụ cho dây chuyền sản xuất loại xe tăng hạng nhẹ T-60.
Trong các quân đoàn, 3 biến thể này được biết dưới một tên gọi T-40. Và nếu không phân chia theo từng biến thể, tổng cộng, các công xưởng đã sản xuất được 709 chiếc xe tăng T-40. Tất cả các xe tăng này được sử dụng cho các lữ đoàn xe tăng hỗn hợp, nơi tối thiểu một tiểu đoàn được trang bị T-40 hay T-60. Giáp và trang bị yếu của loại xe tăng này làm chúng nhanh chóng bị loại khỏi vòng chiến. Sự sản xuất T-40 kết thúc giữa năm 1942. | 1 | null |
Bộ Không chân hay ếch giun (danh pháp khoa học: Gymnophiona) là một bộ động vật lưỡng cư trông bề ngoài rất giống như giun đất hoặc rắn. Chúng sống chủ yếu trong đất nên ít giống các loài trong các bộ lưỡng cư khác. Tất cả các loài còn sinh tồn và các họ hàng hóa thạch của chúng được gộp vào nhánh Apoda. Chúng phân bố chủ yếu ở những vùng nhiệt đới của Nam và Trung Mỹ, châu Phi và Nam Á. Thức ăn của chúng chưa được biết rõ.
Phân loại.
Phân loại học gần đây nhất của Gymnophiona, theo Wilkinson et al. (2011), đã chia Gymnophiona thành khoảng 200 loài được xếp vào 9 họ. Kể từ đó, họ thứ 10 cũng đã được công nhận là Chikilidae. Việc phân loại này dựa trên định nghĩa rõ ràng về tính đơn ngành theo các chứng cứ phân tử và hình thái học gần đây nhất, và nó cũng đã giải quyết những tồn tại kéo dài về tính cận ngành của Caeciliidae trong các phân loại trước mà không có sự phụ thuộc vào đồng nghĩa.
Phát sinh chủng loài.
Phát sinh chủng loài hiện được chấp nhận dựa trên chứng cứ phân tử được Wilkinson et al., San Mauro et al. (2012), San Mauro et al. (2014). kiểm chứng và với sự bổ sung họ Chiklidae theo các mối quan hệ của họ này được những người miêu tả nó xác định. | 1 | null |
Rắn râu (danh pháp hai phần: Erpeton tentaculatum) là một loài rắn bản địa Đông Nam Á, theo truyền thống được xếp trong phân họ Homalopsinae của họ Colubridae, nhưng gần đây được coi là thuộc họ Rắn ri (Homalopsidae). Nó là loài duy nhất trong chi này. Chúng là loài nổi bật với bộ phận trước miệng như hai sợi râu.
Đặc điểm.
Nó là loài khá nhỏ, dài trung bình khoảng 50 đến 90 cm. Loài rắn này ở từ đầu mũi chúng mọc ra hai xúc tu trông như hai sợ râu. Chúng sử dụng cặp xúc tu này như một loại mồi nhử thu hút các loài cá đến gần. Giống như một người câu cá, chúng chỉ việc bất động một chỗ, chờ những con cá tự bơi đến trước mặt để bắt. Chúng là loài rắn độc, nhưng lượng nọc và độc tố không đủ để gây nguy hiểm cho con người. Một số người bị loài rắn này cắn đã rơi vào trạng thái buồn ngủ trong nhiều giờ sau khi bị cắn nhưng không có triệu chứng đáng ngại nào.
Phân bố.
Đây là loài bản địa của Đông Nam Á, loài rắn này có thể được tìm thấy ở Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Tại Việt Nam, loài rắn này sinh sống ở Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An (Tân Thạnh, Long An), Kiên Giang. Chúng sinh sống trong khu vực nước đục ở hồ, đồng lúa, và các dòng di chuyển chậm, và có thể được tìm thấy trong nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Một ví dụ điển hình của môi trường sống của nó là hồ Tonlé Sap ở trung bộ Campuchia, nó sinh sống trong nước có chứa phù sa nhiều và có một số lượng cá lớn.
Chúng có thể ở dưới nước trong khoảng 30 phút mà không cần ngoi lên lấy không khí. Chúng chỉ có thể di chuyển vụng về trên đất. Trong thời kỳ khô vào ban đêm, chúng có thể đào hang trong bùn. Con non phát triển noãn thai sinh và được sinh ra dưới nước. Việc săn mồi được chúng thực hiện thông qua một phương pháp phục kích độc đáo. Rắn xúc tua dành nhiều thời gian của chúng trong một tư thế không cử động. Đuôi được sử dụng để giữ chặt nó dưới nước trong khi cơ thể của nó giữ một hình dáng lôn ngược hình chữ "J". Phạm vi tấn công là một khu vực hẹp xuống từ đầu của nó, một phần về phíai cơ thể của nó. Khi một con cá bơi trong vùng đó con rắn sẽ tấn công bằng cách kéo bản thân nó xuống trong một chuyển động nhanh về phía con mồi. | 1 | null |
T-70 là loại xe tăng hạng nhẹ được Hồng quân sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai để thay thế hai xe tăng hạng nhẹ khác là T-50 và T-60.
Lịch sử.
Đầu năm 1942, tập thể công trình sư dưới sự lãnh đạo của Tổng công trình sư Nicholas Astrov đã nghiên cứu một loại xe tăng, là bước phát triển, cải tiến tiếp sau T-60. So với T-60, xe tăng mới T-70 được trang bị vũ khí và giáp bảo vệ tốt hơn. Khả năng chống đạn phá mảnh cho thân xe và tháp pháo được tăng lên đáng kể nhờ sự gia tăng độ dày giáp bảo vệ và lắp các tấm giáp có góc nghiêng hợp lý. Điểm đặc biệt nhất trên T-70 là sức mạnh động cơ. Nó hình thành từ hai cặp động cơ GAZ-203, được thiết kế dựa trên nền công nghiệp vững chắc. Điều đó có ý nghĩa rất lớn, làm cho việc sản xuất xe tăng trở nên rẻ và nhanh, cần thiết cho chiến trường.
Tính năng kỹ thuật và cấu tạo.
Trên T-70, trong các thời kỳ khác nhau được lắp giáp hàn hoặc giáp đúc. Từ mùa thu năm 1942, xe tăng được sản xuất với sự gia tăng hệ thống truyền động, tăng đường kính vành và răng cưa cho bánh dẫn động. Chiều rộng bản xích tăng lên đến 300mm. Xe tăng này mang tên T-70M. Tổng cộng đã có 8226 tăng T-70 với mọi biến thể đã được sản xuất. Tính theo số lượng trên các loại xe tăng của Liên Xô, T-70 chiếm vị trí thứ 2 sau T-34.
Sự đồng nhất trong các quân đoàn tăng Đức bằng việc hiện đại hóa Panzer III và Panzer IV là nguyên nhân dẫn đến việc ngừng sản xuất T-70 đầu năm 1943. Yêu cầu cơ bản của lính tăng Liên Xô khi đó với xe tăng – tăng thêm góc bắn cho pháo và kíp xe quá ít người. Không tính lái xe chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là điều khiển phương tiện, trưởng xe ngoài nhiệm vụ chỉ huy, liên lạc còn phải kiêm nhiệm cả chức năng pháo thủ và nạp đạn.
Phiên bản T-80.
T-80 được thiết kế năm 1943 trên cơ sở T-70. Mỗi động cơ được tăng cường thành 80 sức ngựa, giáp bảo vệ bên hông tăng lên 25mm, cơ số đạn tăng lên 94 viên, và quan trọng nhất là xe tăng được trang bị tháp pháo với kíp xe tăng lên 3 người. Điều này góp phần giảm nhẹ đi công việc cho chỉ huy, và cho phép trưởng xe tập trung thực hiện công việc của mình trên chiến trường – quan sát và chỉ định mục tiêu.
Vũ khí cũng được thay đổi với việc gắn thêm một súng máy đồng trục, đồng thời trang bị hệ thống kính ngắm chuẩn trực mới, cho phép tăng góc bắn lên 60 độ. Cải tiến này làm pháo của xe tăng hạng nhẹ T-80 có khả năng phòng không và hoạt động trong điều kiện chiến tranh đường phố. Tuy nhiên, không tính đến chất lượng chiến đấu tốt của nó, sau khi sản xuất được 75 chiếc T-80 hạng nhẹ, sự sản xuất đã bị đình chỉ - để dành cho việc sản xuất loại xe tăng T-34, mạnh và tin cậy hơn. | 1 | null |
Trương Như Thị Tịnh (chữ Hán: 張如氏靜; 7 tháng 4, năm 1889 - 20 tháng 6, năm 1968), còn gọi là Giác Huệ ni sư (覺惠尼師), là người vợ đầu tiên và chính thức của Hoằng Tông Khải Định hoàng đế thuộc triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Danh hiệu Hoàng quý phi của bà cho đến nay vẫn là vấn đề mơ hồ, vì trong chỉ dụ tôn phong của Khải Định Đế chép trong Đồng Khánh - Khải Định chính yếu, chỉ đề cập bà là nguyên phối và đã xuất gia đi tu, chưa từng có nhắc đến việc phong tặng bà làm Hoàng quý phi như lời đồn đãi.
Tiểu sử.
Trương Như Thị Tịnh là con gái quan Phụ chính đại thần Thượng thư bộ Lại, tước Hiền Lương tử Trương Như Cương (張如岡), người làng Hiền Lương, Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1904, khi được 15 tuổi, tiểu thư Trương Như thị được cưới làm phủ thiếp (府妾) khi Hoằng Tông hoàng đế còn là Phụng Hóa công ở cung An Định.
Sự tích trước khi bà đi tu vẫn còn rất mơ hồ. Theo truyền thuyết được lưu truyền rất nhiều, Phụng Hóa công lúc đó mê cờ bạc, ăn chơi, gia đình họ Trương lại khá giả, bèn cậy đó buộc bà phải đi xin tiền cha mẹ để có tiền đi đánh bạc. Thương con, ông bà Trương cũng đành chiều ý. Thấy thế Phụng Hóa công đương nghĩ của cải nhà nhạc gia là vô tận nên càng cờ bạc ăn chơi đã đời. Tuy gia đình họ Trương đại thần giàu có nhưng chưa phải là muốn mấy cũng có. Ông Trương xuất thân từ làng thợ rèn Hiền Lương, một làng lao động có nề nếp, sau này dù làm quan đến tột đỉnh danh vọng, ông vẫn giữ phong cách giản dị, cần kiệm của người cha là người lao động. Nhiều lần bà Tịnh bị cha mẹ quở trách nặng nề. Một hôm, Phụng Hóa công nảy ý định mở một chén bạc lớn để thử thời vận nhưng trắng tay, ông liền bảo vợ về nhà xin tiền. Bà Tịnh đau đớn vì thấy đức ông chồng đã chẳng còn biết liêm sỉ, bà dùng dằng không muốn đi. Công nổi nóng la lối om sòm, doạ sẽ có thái độ với bà. Cuối cùng bà đã đi và đó cũng là lần cuối cùng bà về nhà xin tiền cha mẹ cho chồng cờ bạc. Bà quyết định ra đi, lên chùa tu bỏ mặc sự đời.
Tuy vậy, truyền thuyết trên rất có thể chỉ là được hư cấu nhằm bôi đen địa vị của Khải Định Đế mà thôi. Theo lý lịch về bà khi đã là sư bà Giác Huệ, sau một thời gian thì bà xin Khải Định Đế cho bà xuất gia đầu Phật và được chấp thuận.
Xuất gia.
Năm 1913, bà lên chùa Tây Thiên trình bày nguyện vọng muốn xuất gia, lấy pháp hiệu là Giác Huệ (覺惠), biệt hiệu Đạm Thanh (淡清) và Tuyết Nhan (雪顏). Đến năm 1916, bà về xã Thủy Dương, lập một cảnh chùa tại Độn Sầm, làng Thanh Thủy, huyện Hương Thủy (cách kinh thành Huế chừng 3 km về phía Nam) để tu thiền, đó là Hoa Nghiêm Các. Trong thời gian này, bà hay cùng bầu bạn với nữ sĩ Đạm Phương.
Năm 1916, Phế đế Duy Tân khởi nghĩa chống thực dân Pháp thất bại, bị đầy sang đảo Réunion thuộc châu Phi, người Pháp quyết định chọn Phụng Hóa công lên kế vị, niên hiệu là Khải Định. Theo truyền thuyết, nhà vua đã từng muốn lập bà làm Hoàng quý phi vợ cả, song bà đã từ chối. Vì vậy, ông không đặt ai làm chính thất, dù người có tước vị cao nhất khi ấy Ân phi Hồ Thị Chỉ thường tham dự triều chính với tư cách Hoàng hậu.
Năm 1962, vì đã lớn tuổi, Ni sư Trương Như thị xin lên tu tập với Ni chúng chùa Diệu Viên (lúc đó bà đã 74 tuổi) và được sư cụ chùa Diệu Viên chấp thuận, đồng thời đã cho 2 vị ni là Ni trưởng Thích Nữ Chơn Viên và Ni trưởng Thích Nữ Chơn Tịnh về kế thế chăm sóc Hoa Nghiêm Các để khỏi bị mai một.
Năm 1968, 20 tháng 6, Ni sư Giác Huệ viên tịch, thọ 80 tuổi. Bà được nhập táng ngay trong khuôn viên chùa, ngôi chùa có tên là chùa Hoa Nghiêm. | 1 | null |
Bộ Ngoại giao Malaysia () là một bộ thuộc Nội các với chức năng quản lý các quan hệ đối ngoại của Malaysia. Datuk Seri Anifah Aman là bộ trưởng đương nhiệm, còn A. Kohilan Pillay Appu và Datuk Richard Riot Jaem là hai thứ trưởng.
Sứ mạng, tầm nhìn và mục tiêu.
Sứ mạng.
"Duy trì chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Malaysia, thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của quốc gia và mở rộng các dịch vụ đạt hiệu suất và hiệu quả cho các bên liên quan và khách hàng của Bộ thông qua ngoại giao năng động và chủ động."
Tầm nhìn.
"Một dịch vụ liên quan đến nước ngoài có hiệu quả, góp phần hướng tới việc đạt được khát vọng của Malaysia."
Mục tiêu.
Bộ Ngoại giao hướng đến làm tròn các vai trò và chức năng như sau:
Lịch sử.
Lịch sử hình thành Bộ Ngoại giao có từ trước khi Malaysia giành độc lập vào năm 1957. Một nhóm tiên phong gồm mười một nhà ngoại giao đã được đào tạo ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Úc để nhận nhiệm vụ lãnh đạo các phái đoàn ngoại giao ở nước ngoài. Từ nền móng này, Bộ Các vấn đề đối ngoại (MEA) - dựa trên mô hình Văn phòng Đối ngoại Anh ("British Foreign Office") - đã ra đời vào năm 1956.
Lúc đầu, Malaysia có các phái đoàn ngoại giao ở Luân Đôn, Washington D.C., Canberra, New York, New Delhi, Jakarta và Bangkok. Năm 1963, Malaysia có mười bốn phái đoàn ngoại giao Malaysia ở nước ngoài.
Năm 1965, bộ máy ngoại giao của Malaysia trải qua lần cải tổ lớn đầu tiên. Năm 1966, Bộ Các vấn đề đối ngoại đổi tên thành Bộ Ngoại giao Malaysia và chuyển trụ sở từ Tòa nhà Sultan Abdul Samad Building đến Wisma Putra. Ngày nay, Malaysia có một trăm lẻ năm phái đoàn ngoại giao ở khắp nơi trên thế giới. | 1 | null |
Tre lồ ô hay lồ ô Trung Bộ (danh pháp khoa học: Bambusa balcooa) là loài tre có nguồn gốc từ Ấn Độ. Loài này phổ biến ở Việt Nam, được dùng làm thực phẩm và dùng cho các công trình xây dựng tạm thời. Cây có thể cao đến 25 m, đường kính 15 cm. Mọc thành từng bụi.
Tre lồ ô cũng như các loại tre thường thấy. Chúng có độ đàn hồi cao, mềm dẻo nhất định.
Hình thái.
Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm thành bụi thưa, thường không thẳng, chiều cao cây 14- 18m, ngọn cong rủ, đường kính phổ biến 5–6 cm, to hơn là 7–8 cm; chiều dài trung bình của lóng 40–60 cm, các lóng giữa thân dài đến 80–90 cm, các lóng gốc chỉ dài 30–50 cm; vách thân dầy 1,1 cm. Thân tròn đều, nhẵn, vòng mo nổi rõ, được phủ bằng một lớp lông màu nâu xám bạc. Lúc non thân tre màu xanh bạc do được phủ bằng một lớp lông trắng; khi già thân màu lục và có địa y trắng mọc loang lổ từng đốm. Cành chính 1, to, dài 2-3m, đường kính 2–3 cm; gốc cành phát triển và ít cành nhỏ. Phiến lá thuôn dài, dài 20–30 cm, rộng 2–4 cm, đầu nhọn, đuôi hơi thuôn, có 1 gân chính và nhiều gân bên song song, nổi rõ. Bẹ mo hình thang cân, đáy rộng 20–30 cm, đầu bẹ mo rộng 5–8 cm hơi lõm, cao 28 cm; mặt ngoài bẹ mo được phủ một lớp lông màu nâu, mặt trong nhẵn bóng; lá mo hình mũi giáo dài 20 cm rộng 4 cm, có gân sọc cả hai mặt; tai mo không phát triển, có dạng lông cứng; lưỡi mo xẻ sâu. Cụm hoa phân nhánh nhiều, ở mỗi nhánh, trên các đốt có 3-5 bông nhỏ, xếp thành hình đầu. Bông nhỏ nhọn đầu, hơi dẹt, màu vàng xanh hay tím, dài 1,5-2,5 cm, rộng 5-8mm, mang khoảng 5-7 hoa. Các hoa lưỡng tính ở giữa, các hoa trên ngọn và dưới gốc phát triển không đầy đủ. Gốc bông nhỏ mang 2 lá bắc lớn màu vàng nhạt. Mày nhỏ ngoài màu cỏ úa, mày nhỏ trong 8–10 mm. Hoa lưỡng tính. Nhị rời; nhuỵ có 2 vòi.
Các thông tin khác về thực vật: Loài tre này trước đây được định nhầm tên khoa học là "Schizostachyum zollingeri" Steud. Thực ra tên khoa học này là của một loài nứa mo tím phân bố ở Đà Nẵng. Nay đã định lại tên khoa học của loài lồ ô là "Bambusa procera" A.Chev & A.Camus vì hoa lồ ô có các đặc điểm của chi Tre (Bambusa), chứ không mang đặc điểm của chi Nứa (Schizostachyum). Cần chú ý là tên lồ ô thường được dùng để chỉ rất nhiều loài tre khác nhau của nhiều địa phương ở các tỉnh phía Nam, giống như tên nứa dùng để chỉ nhiều loài tre của miền Bắc. Vì vậy một số loài tre của Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng... có tên địa phương là lồ ô nhưng không phải là loài lồ ô chính thức - "Bambusa procera".
Nhân giống.
Lồ ô là loài tre phổ biến khắp nơi, lại thường mọc thành rừng, nên tới nay vẫn chưa có công trình nào về việc nghiên cứu trồng lồ ô. Thực tế thì lồ ô cũng dễ trồng bằng gốc như các loài tre mọc cụm khác. Để phát triển lồ ô trên quy mô lớn có thể nghiên cứu trồng bằng cành, vì quan sát thấy, trong điều kiện rừng ẩm thường xuyên, đôi khi dưới gốc cành chính cũng xuất hiện rễ.
Ứng dụng.
Thân lồ ô có tỉ lệ cellulose trên 50%, lignin 22,37%, chiều dài sợi đạt 1,9-2,2mm; vì vậy được dùng làm nguyên liệu tốt cho sản xuất giấy trắng cao cấp, có độ dai cao. Lồ ô có tỷ trọng (khô kiệt) là 785 kg/m³, độ bền nén dọc thớ 598,7 kg/cm², độ bền uốn xuyên tâm là 3448 kg/cm². Độ bền uốn tiếp tuyến 2499 kg/cm², đáp ứng yêu cầu trong xây dựng. Cây có lóng dài thích hợp để chế biến ván ép. Trong cuộc sống hàng ngày lồ ô được dùng phổ biến từ việc làm đồ dùng đến măng ăn.
Khai thác.
Nghiên cứu cấu trúc rừng lồ ô của Lâm Xuân Sanh (1981), cho biết: trong 1ha rừng lồ ô thuần loại cây non (1 năm tuổi) chiếm 20%; cây trung niên (2-4 tuổi) chiếm 38,7% và cây già (trên 5 tuổi) chiếm 23,7%. Cũng trong 1ha rừng trên có 4.438 cây sống (83,3%) và 887 cây lồ ô chết, do quá già (16,7%). Vì vậy nếu để rừng lồ ô quá già, không khai thác sẽ gây lãng phí. Khi khai thác cần theo phương thức sau: Tuổi chặt: Tốt nhất là chặt các cây trên 3 năm tuổi. Chu kỳ và lượng chặt: chu kỳ chặt 1-3 năm tuỳ điều kiện và yêu cầu. Nếu chu kỳ 1 năm, nên chặt hết các cây trên 4 tuổi và một phần các cây trên 3 tuổi.Tỷ lệ chặt trung bình 25-35%. Chu kỳ này chỉ áp dụng trong điều kiện rừng vườn. Chu kỳ 2 năm thích hợp nhất để khai thác rừng lồ ô, chặt cây 3-4 tuổi và chừa lại cây 1-2 tuổi để sinh và nuôi măng.Tỷ lệ chặt trên 50% trữ lượng ở những khu rừng ổn định và 40-50% ở các khu rừng đang trong quá trình phục hồi. Khai thác cũng là biện pháp đẩy nhanh tốc độ phục hồi cho các khu rừng này. Chu kỳ 3 năm: chặt các cây trên 3 tuổi (3-5năm) với tỷ lệ sản phẩm khoảng 55-65% trữ lượng rừng. Phương thức này tốt về kinh tế, nhưng ảnh hưởng đến chất lượng rừng vì rừng bị mở tán quá mạnh, tạo nhiều khoảng trống.
Năng suất rừng lồ ô.
Sản lượng rừng thay đổi tuỳ theo điều kiện đất đai và trạng thái của rừng. Ở trạng thái phục hồi, rừng đạt sản lượng 2-2,5 tấn/ha/2năm; rừng hỗn giao lồ ô + gỗ 5-5,5 tấn/ha/2năm. Đây là mức năng suất phổ biến của rừng tre trên thế giới. Do rừng lồ lô thường là đối tượng kinh doanh nguyên liệu giấy hay làm nguyên liệu chế biến thủ công mỹ nghệ, nên việc khai thác măng cần rất hạn chế; đồng thời sau khai thác phải tiến hành dọn vệ sinh, phòng trừ sâu hại cho rừng.
Thường rất khó để phân biệt tre lồ ô với tre thường. | 1 | null |
K-3 là loại súng trường tấn công có thiết kế bullpup được chế tạo tại Armenia. Có rất ít thông tin về loại súng này như việc chế tạo hay các biến thể của nó vì chúng được giữ bí mật. Súng được tin là đang được sử dụng bởi các lực lượng đặc nhiệm tại Armenia, súng được giới thiệu ra công chúng lần đầu vào tháng 10 năm 1996 khi đó khoảng 40 khẩu dùng để thử nghiệm đã được chế tạo.
Thiết kế.
K-3 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén cùng khóa nòng xoay với cách hoạt động giống như các khẩu thuộc dòng Kalashnikov nhưng sử dụng thiết kế bullpup. Súng được giới thiệu là có tất cả những ưu điểm mà khẩu AK-74 có nhưng nhỏ và nhẹ hơn dù vậy chỉ có thể bắn bằng tay phải vì khe nhả vỏ đạn không thuận lợi cho người thuận tay trái.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi nhưng có thể gắm các loại ống nhắm PSO-1. Hộp đạn rời của súng giống như của AK-74 và chứa được 30 đến 45 viên. Nòng súng có một bộ phận chống giật kiêm chức năng là bộ phận phóng lựu đạn đầu nòng. Hầu hết cấu trúc của súng được làm bằng nhựa tổng hợp. | 1 | null |
Từ cuối năm 2009, tạp chí Forbes bắt đầu lập Danh sách những người quyền lực nhất thế giới sau được lập hàng năm từ 2004. Tiếp tục truyền thống này, hàng năm (2010, 2011 và 2012) tạp chí lại lập danh sách những người này dựa trên tiêu chí nguồn nhân lực và tài chính mà họ ảnh hưởng, cũng như các sự kiện quốc tế chịu ảnh hưởng bởi họ.
Kết quả năm 2009 có 67 người, 2010 có 68, 2011 có 70 và 2012 có 71 người lọt vào danh sách. Những người đứng đầu danh sách theo thứ tự thời gian gồm có Barack Obama (2009), Hồ Cẩm Đào (2010), Barack Obama năm 2011 và 2012.
Có x1 người (y1 phụ nữ) xuất hiện trong cả bốn danh sách, x2 người (y2 phụ nữ) xuất hiện 3 lần, x3 người (y3 phụ nữ) xuất hiện 2 lần. Có tất cả x4 người (y4 phụ nữ) đã từng có mặt ít nhất 1 lần trong danh sách.
Danh sách 2018.
Danh sách tháng 4/2018
Danh sách 2016.
Danh sách năm 2016 được công bố ngày 5 tháng 12 năm 2016 gồm 10 người trên tổng số dân 7,1 tỷ toàn thế giới | 1 | null |
Chu Tiểu Xuyên (tiếng Trung: 周小川 bính âm: Zhou Xiǎochuān) (sinh ngày 29 tháng 1 năm 1948) là một nhà kinh tế, chuyên gia ngân hàng, nhà cải cách và quan chức Trung Quốc. Ông từng là Phó chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc từ năm 2013 đến năm 2018 và Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc từ tháng 12 năm 2002 đến tháng 3 năm 2018, phụ trách chính sách tiền tệ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trước đó ông đảm nhận một số chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức thương mại và tài chính như Phó Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Giám đốc Cơ quan Quản lý Ngoại hối Nhà nước, Thống đốc Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Chủ tịch của Ủy ban Giám sát Chứng khoán Trung Quốc. Chu là đồng minh với Chu Dung Cơ và nhóm các chính trị gia Thượng Hải.
Chu Tiểu Xuyên là một trong những nhân vật kinh tế có ảnh hưởng nhất trên thế giới và được "Foreign Policy "xếp hạng thứ 4 trong báo cáo Top 100 Nhà tư tưởng toàn cầu ("Top 100 Global Thinkers") tháng 12 năm 2010. Trong cả hai năm 2011 và 2012, ông đã được đưa vào danh sách 50 nhân vật ảnh hưởng nhất trong bảng xếp hạng của Tạp chí Bloomberg Markets. | 1 | null |
Rakim Mayers (sinh ngày 3 tháng 10 năm 1988), được biết với nghệ danh ASAP Rocky (cách điệu là A$AP Rocky), là một rapper và đạo diễn video âm nhạc người Mỹ. Được sinh ra và lớn lên ở Harlem lân cận thành phố New York, anh là thành viên của nhóm hiphop A$AP Mob, mà từ đó anh đã lấy làm nghệ danh của mình.
Rocky phát hành mixtape đầu tay "LiveLoveA$AP" năm 2011 và nhận được sự khen ngợi của giới phê bình. Album đầu tay "LongLiveASAP" ra mắt ngày 15 tháng 1 năm 2013.
Năm 2021, anh và nữ ca sĩ Rihanna công khai hẹn hò.
Tuổi thơ.
Sinh năm 1988, Mayers được đặt theo tên của huyền thoại hip-hop Rakim, một nửa của bộ đôi Eric B. & Rakim. Khi anh 12 tuổi, cha anh phải vào tù vì liên quan tới việc buôn bán ma túy. Một năm sau anh trai anh bị giết gần căn hộ của anh, điều này đã ảnh hưởng khiến anh quyết tâm theo đuổi rap một cách nghiêm túc.
Mayers, người đã bắt đầu rap khi mới 8 tuổi,
khi lớn lên đã ngưỡng mộ nhóm rap tới từ Harlem The Diplomats, và đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ Three 6 Mafia, Mobb Deep, Wu-Tang Clan, UGK, Run DMC và Bone Thugs-n-Harmony. Anh sống trong một nơi tạm trú với mẹ, và ở những nơi khác xung quanh khu Manhattan, và về sau đã chuyển tới Elmwood Park, New Jersey.
Sự nghiệp.
2007–11: Khởi đầu sự nghiệp và mixtape.
Năm 2007, Rocky tập hợp nhóm hip-hop A$AP Mob, một nhóm những nhà sản xuất, rapper, và đạo diễn video âm nhạc. Anh đã sử dụng nghệ danh A$AP của nhóm, một từ viết tắt đa nghĩa, bao gồm "Always Strive and Prosper" (Luôn luôn Nỗ lực và Thành công), "Assassinating Snitches and Police" (Ám sát Chỉ điểm và Cảnh sát), và nghĩa yêu thích của Rocky, "Acronym Symbolizing Any Purpose" (Từ viết tắt Tượng trưng cho Bất kỳ Mục đích nào).
Vào 8 tháng 7 năm 2011, một tuyển tập không chính thức mang tên "Deep Purple" được ra mắt, mà theo Rocky, đây là một hợp tuyển những bài hit trên YouTube được tuyển chọn bởi một người hâm mộ ở Paris. Vào tháng 8, đĩa dơn đầu tay "Peso" bị rò rỉ trên Internet và trong những tuần tiếp đã được phát sóng trên đài phát thanh có tiếng Hot 97 của New York. Video âm nhạc cho "Peso" và "Purple Swag", bài thứ hai cũng từ "Deep Purple", đã tạo thêm tiếng vang và dẫn tới việc ASAP Rocky ký được một bản hợp đồng trị giá 3 triệu USD với Sony, RCA Records và Polo Grounds Music. ASAP Rocky phát hành mixtape "LiveLoveA$AP", có chứa cả hai bài trên, vào tháng 10 và nhận được sự đón nhận của các nhà phê bình. Vào 5 tháng 12, anh được đề cử cho cuộc bình chọn Sound of 2012 của BBC.
2012–nay: Lưu diễn và album đầu tay.
Vào tháng 2 năm 2012, Rocky cùng Kendrick Lamar là nghệ sĩ mở màn cho chuyến lưu diễn Club Paradise Tour của Drake. Vào tháng 6, SpaceGhostPurrp, người sáng lập nhóm nhạc gốc Miami Raider Klan và đồng sự cũ của Rocky, đã cáo buộc A$AP Twelvyy rằng đã tấn công bất ngờ Matt Stoops của Raider Klan; anh sau đó đã tuyên bố ngừng hợp tác với A$AP Mob và Rocky trên một video ở YouTube. Anh và Raider Klan cũng buộc tội A$AP Mob đã sao chép phong cách của họ, và Rocky vì đã sử dụng ca từ trong ca khúc "My Enemy" của SpaceGhostPurrp vào trong "Goldie". Rocky phản ứng lại trong một bài phỏng vấn cho MTV vào tháng 7, nói rằng SpaceGhostPurrp đang "cố dựng chuyện để quảng cáo" và bảo SpaceGhostPurrp nên "gắn bó với việc tạo beat [thay thế]".
Vào tháng 7, Rocky biểu diễn tại Lễ hội âm nhạc Pitchfork. Anh cũng lên kế hoạch xuất hiện trên truyền hình lần đầu trên "Late Night with Jimmy Fallon" vào 20 tháng 7, nhưng đã bị bắt vào đêm trước đó sau khi bị cáo buộc là có tham gia vào một vụ ẩu đả với nghệ sĩ 21 tuổi iRome ở vùng trung tâm Manhattan, và màn trình diễn bị hủy bỏ. Nó sau đó đã được lên lịch lại vào 21 tháng 8, và Rocky đã biểu diễn "Goldie" trong chương trình. Vào 6 tháng 9, anh là rapper khách mời cho phần trình diễn "Cockiness (Love It)" của Rihanna ở Giải Video Âm nhạc MTV 2012.
Album phòng thu đầu tay của Rocky, "LongLiveA$AP", được phát hành vào ngày 15 tháng 1 năm 2013. Anh sản xuất album cùng với Clams Casino, Hit-Boy, A$AP Ty Beats, Soufein3000, và Joey Fat Beats. "Goldie" được ra mắt làm đĩa đơn chính vào 27 tháng 4 năm 2012. Anh cũng thực hiện "Lords Never Worry", một mixtape của A$AP Mob được phát hành dưới dạng tải xuống miễn phí vào 27 tháng 8. Từ tháng 9 đến tháng 11 năm đó, Rocky quảng bá album đầu tay qua chuyến lưu diễn dài 40 ngày trên toàn nước Mỹ có tên gọi "LongLiveA$AP Tour", với các nghệ sĩ mở màn là Schoolboy Q, Danny Brown, và A$AP Mob. Rocky và Schoolboy Q cũng hợp tác với nhau trong "LiveLoveA$AP" và ca khúc năm 2012 của SchoolBoy Q, "Hands on the Wheel".
Anh cũng là bạn thân của rapper Tyler, the Creator, vào cuối tháng 7 năm 2018 cả hai đã ra mắt video "Potato Salad" ám chỉ một album hợp tác giữa hai người.
Vấn đề pháp lý.
ASAP Rocky đã từng bị bắt vào tháng 7 năm 2012 vì đánh một người đàn ông tại cửa hàng quần áo ở New York, cùng hai nhiếp ảnh gia người đã quay phim cuộc ẩu đả ở bên ngoài cửa hàng. Anh sau đó đã bị kiện vì tội hành hung do người đàn ông đầu tiên. Cuộc chạm trán bắt đầu khi Shenick Alcine chứng kiến A$AP Rocky đang sử dụng chất gây nghiện bất hợp pháp bên trong cửa hàng, làm dấy lên vụ hành hung. Rocky sau đó tấn công hai nhiếp ảnh gia nghiệp dư đã quay phim sự việc. A$AP Rocky cuối cùng bị buộc tội hành hung và cướp vì đánh các tay nhiếp ảnh và cố gắng lấy đi máy ảnh của họ. Vào tháng 12 cũng năm đó, Rocky đạt được một thỏa thuận giúp bào chữa vụ phạm tội; anh thừa nhận tội danh ăn cắp giá trị lớn, và xóa bỏ những cáo buộc về tội cướp và hành hung. | 1 | null |
Đại học Trung Sơn (SYSU; ; thông dụng: ) là một trường đại học ở Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là một trường đại học trực thuộc quản lý của Bộ Giáo dục Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trường này nằm ở Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông. Thành lập năm 1924, Trường Đại học Trung Sơn là một trong những trường đại học tổng hợp trọng điểm của chính phủ.
Lịch sử.
Đại học Trung Sơn được thành lập năm 1924 bởi Tôn Trung Sơn, trước đây được biết đến như Trường sư phạm Quảng Đông. Năm 1926, trường được đổi tên thành Đại học Trung Sơn.
Cơ cấu.
Đại học Trung Sơn là một trường đại học trọng điểm cũng như đại học trọng điểm quốc gia. Trường có 45 viện và 8 bộ môn với 116 chuyên ngành đại học, hai chuyên ngành văn bằng 4, 52 chuyên ngành cho các ứng viên thạc sĩ và 4783 chuyên ngành cho ứng viên tiến sĩ. Trong khi vẫn đặt trọng tâm vào khoa học cơ bản, trường cũng đã đặc biệt chú ý đế việc phát triển khoa học ứng dụng.
Trường cũng tham gia nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và các viện nghiên cứu của trường gồm: Viện Nghiên cứu Phát triển Nguồn nhân lực và Khoa học Hành chính, Viện Nghiên cứu Giáo dục Kinh tế và Hành chính và Viện Nghiên cứu Khoa học Sâu bọ. | 1 | null |
Trịnh Thanh (sinh năm 1973) là một Luật sư người Việt Nam. Trong quá trình hành nghề của mình, ông được nhiều người đặt cho biệt danh ông luật sư của người nghèo. Atikur Rahman Mahi
Sự nghiệp.
Sinh năm 1973 tại Hải Dương, Trịnh Thanh theo gia đình vào Vũng Tàu rồi lên Thành phố Hồ Chí Minh trọ học đại học
Ông tốt nghiệp Khoa Luật, Trường Đại học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Luật sư đảm nhận công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Hội Luật gia Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2004, Luật sư Trịnh Thanh thành lập Văn phòng luật sư Người nghèo, thuộc đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhằm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo. Nhiệm vụ Văn phòng là giúp đỡ về pháp lý cho người nghèo, ít hiểu biết về pháp luật (dưới các hình thức tư vấn, bào chữa, soạn thảo đơn từ) hoàn toàn miễn phí. Các đối tượng chỉ cần có giấy xác nhận của chính quyền địa phương thuộc diện nghèo là có thể tới Văn phòng nhờ hỗ trợ.
Trong quá trình hành nghề của mình, ông đã xử lý nhiều các vụ án oan. Người ta vẫn quen gọi Trịnh Thanh là ông luật sư của người nghèo. | 1 | null |
Trong thiên văn học, những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể là ba định luật khoa học miêu tả chuyển động trên quỹ đạo của các vật thể, ban đầu dùng để miêu tả chuyển động của các hành tinh trên quỹ đạo quay quanh Mặt Trời.
Các định luật Kepler là:
Lịch sử.
Johannes Kepler công bố hai định luật đầu tiên của ông vào năm 1609, sau khi phân tích các dữ liệu từ những quan sát lâu năm của Tycho Brahe. Một vài năm sau Kepler mới phát hiện ra định luật thứ ba và công bố nó vào năm 1619. Các định luật Kepler là những khám phá căn bản ở thời của ông, vì từ lâu các nhà thiên văn vẫn tin rằng quỹ đạo của các hành tinh có hình tròn hoàn hảo. Đa số các hành tinh được biết đến trong Hệ Mặt Trời ở thời đó có quỹ đạo xấp xỉ hình tròn, do đó nếu chỉ quan sát sơ lược thì sẽ khó phát hiện ra quỹ đạo hành tinh là hình elíp. Những tính toán chi tiết từ dữ liệu quan sát của quỹ đạo Sao Hỏa lần đầu tiên cho Kepler thấy quỹ đạo của nó phải là hình elíp thì mới phù hợp với dữ liệu quan sát, và từ đây ông suy luận tương tự cho các hành tinh khác quay quanh Mặt Trời cũng phải có quỹ đạo elip. Ba định luật Kepler và kết quả phân tích dữ liệu quan sát của ông là một thách thức lớn cho mô hình địa tâm của Aristotle và Ptolemy đã được chấp thuận từ rất lâu, và ủng hộ cho mô hình nhật tâm của Nicolaus Copernicus (mặc dù quỹ đạo elip theo Kepler khác với các quỹ đạo tròn theo Copernicus), bằng chứng tỏ Trái Đất quay quanh Mặt Trời, vận tốc của các hành tinh trên quỹ đạo là biến đổi, và quỹ đạo có hình elip hơn là hình tròn.
Khoảng tám thập kỷ sau, Isaac Newton chứng minh rằng các định luật Kepler có thể được áp dụng trong những điều kiện lý tưởng và là dạng xấp xỉ tốt cho quỹ đạo của các hành tinh trong hệ Mặt Trời, hay những định luật này là hệ quả của các định luật về chuyển động và định luật vạn vật hấp dẫn của ông. Bởi vì khối lượng của hành tinh khác không và sự ảnh hưởng nhiễu loạn của các hành tinh khác, ba định luật Kepler chỉ áp dụng một cách xấp xỉ và không miêu tả độ chính xác cao chuyển động của vật thể trong hệ Mặt Trời. Cuốn sách "Eléments de la philosophie de Newton" ("Những nguyên lý của triết học Newton") của Voltaire xuất bản năm 1738 là cuốn đầu tiên gọi các định luật Kepler là "các định luật". Cùng với các lý thuyết của Newton, các định luật Kepler có vai trò quan trọng trong thiên văn học và vật lý học cũng như ứng dụng cho các vệ tinh nhân tạo.
Định luật thứ nhất.
Xem thêm: Elíp, Độ lệch tâm quỹ đạo
Elip là cung phẳng kín thu được từ kéo giãn hình tròn theo 1 hướng (xem hình). Chú ý rằng Mặt Trời không nằm tại tâm của elip mà tại một trong hai tiêu điểm của nó. Tiêu điểm kia, đánh dấu bằng dấu chấm nhạt, không hề có ý nghĩa đối quỹ đạo hành tinh. Tâm elip là trung điểm của đoạn nối hai tiêu điểm. Đường tròn là trường hợp đặc biệt của elip khi hai tiêu điểm của nó trùng nhau.
Độ lệch tâm là tham số có giá trị từ 0 (đường tròn) đến nhỏ hơn 1 (khi độ lệch tâm tiến tới 1, elip tiến tới dạng parabol). Độ lệch tâm quỹ đạo mà Kepler tính được cho các hành tinh là từ 0,007 (Sao Kim) tới 0,2 (Sao Thủy). (Xem thêm Danh sách hành tinh hệ Mặt Trời).
Sau khi Kepler qua đời, nhiều vật thể với tâm sai quỹ đạo lớn đã được phát hiện, bao gồm các sao chổi và tiểu hành tinh. Hành tinh lùn Pluto, phát hiện vào năm 1929 - sự phát hiện chậm trễ này do kích cỡ nhỏ, khoảng cách lớn và sự mờ nhạt của nó, có độ lệch tâm 0,248. Các nhà thiên văn dần khám phá ra nhiều vật thể như sao chổi có quỹ đạo parabol hay thậm chí hypebol và chúng tuân theo các định luật của Newton.
Về mặt toán học, phương trình elip biểu diễn trong hệ tọa độ cực là:
trong đó ("r", "θ") là hai tọa độ cực (từ gốc tọa độ) cho elip, "p" là bán trục chuẩn, và "ε" là độ lệch tâm của elip. Đối với hành tinh quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, "r" là khoảng cách từ Mặt Trời đến hành tinh và "θ" là góc giữa đường nối hành tinh với Mặt Trời và đường nối hành tinh với Mặt Trời khi nó ở cận điểm quỹ đạo.
Tại "θ" = 0°, cận điểm quỹ đạo, khoảng cách là nhỏ nhất
Tại "θ" = 90° hoặc "θ" = 270°, khoảng cách bằng formula_3
Tại "θ" = 180°, viễn điểm quỹ đạo, khoảng cách là lớn nhất
Bán trục lớn "a" là giá trị trung bình cộng giữa "r"min và "r"max:
Bán trục nhỏ "b" là giá trị trung bình nhân giữa "r"min và "r"max:
Bán trục chuẩn "p" là giá trị trung bình điều hòa giữa "r"min và "r"max:
Độ lệch tâm (hay tâm sai) "ε" là hệ số biến thiên giữa "r"min và "r"max:
Diện tích của elip bằng:
Trường hợp đặc biệt cho đường tròn "ε" = 0, khi đó "r" = "p" = "r"min = "r"max = "a" = "b" and "A" = π "r"2.
Định luật thứ hai.
Trong một thời gian nhỏ formula_13 hành tinh quét một tam giác nhỏ có cạnh đáy là formula_14 và chiều cao xấp xỉ bằng formula_15.<br> Diện tích của tam giác này bằng <br>
và do vậy tỉ số (vận tốc quét) <br>
Theo định luật thứ nhất quỹ đạo của hành tinh là elip, do vậy hành tinh chuyển động nhanh hơn khi tiến đến gần Mặt Trời và chuyển động chậm dần khi đi xa Mặt Trời. Hay nó quét những khoảng diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau.
Diện tích elip là
Do vậy nếu
sẽ thỏa mãn
hay
với
là vận tốc góc, và
là chuyển động trung bình của hành tinh quanh Mặt Trời.
Định luật thứ ba.
Kepler công bố định luật thứ ba vào năm 1619 thể hiện mối liên hệ giữa khoảng cách từ hành tinh đến Mặt Trời và chu kỳ quỹ đạo của nó. Bằng ký hiệu
với formula_25 là chu kỳ quỹ đạo của hành tinh và formula_26 là bán trục lớn của quỹ đạo elip.
Hằng số tỷ lệ là
cho năm thiên văn (yr), và đơn vị thiên văn (AU).
Kepler tìm ra định luật thứ ba trong nỗ lực lớn với quan điểm về một vũ trụ điều hòa tuân theo các định luật chính xác. Định luật này được công bố trong cuốn "Harmonices Mundi" (1619) và biểu diễn bằng các ký hiệu âm nhạc.
Và các nhà thiên văn thường gọi nó là "định luật điều hòa".
Bảng dữ liệu so sánh chu kỳ quỹ đạo và bán trục lớn của các hành tinh, và từ đó Kepler rút ra định luật thứ ba
formula_25 = chu kỳ quỹ đạo và
formula_26 = bán kính quỹ đạo trung bình của hành tinh (so với Trái Đất)
Mở rộng.
Năm 1643, Godefroy Wendelin nhận thấy định luật thứ ba của Kepler cũng áp dụng được cho bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc (chú ý rằng ở thời điểm này chưa hề có các định luật Newton).
Trên thực tế, các định luật này miêu tả xấp xỉ chuyển động của hai vật thể bất kỳ quay quanh nhau trên quỹ đạo. (Khối tâm của hệ hai vật thể sẽ tiến dần tới tiêu điểm của quỹ đạo elip khi khối lượng của một vật thể được coi là rất nhỏ so với vật kia. Khi hệ có nhiều hơn hai vật, những phát biểu của ba định luật chỉ đúng khi tất cả khối lượng hành tinh được xem là rất nhỏ so với khối lượng ngôi sao và các giá trị nhiễu loạn tiến tới giá trị không). Khối lượng của hai vật thể có thể xấp xỉ nhau như hệ Charon—Pluto (~1:10), hoặc theo tỷ lệ nhỏ như Mặt Trăng—Trái Đất (~1:100), hoặc theo tỷ lệ rất lớn như Sao Thủy—Mặt Trời (~1:10,000,000) (bỏ qua những ảnh hưởng của thuyết tương đối tổng quát).
Trong mọi trường hợp của chuyển động hai vật thể, hai vật sẽ quay quanh khối tâm của hệ, và tâm của mỗi vật thể sẽ không trùng với tiêu điểm của quỹ đạo elip. Tuy thế cả hai quỹ đạo đều là elip và một tiêu điểm nằm tại khối tâm. Khi tỷ số khối lượng là lớn, khối tâm có thể nằm sâu trong vật thể lớn hơn. Trong những trường hợp này cần phải đòi hỏi những phép đo phức tạp và chính xác nhằm xác định độ lệch từ khối tâm so với tâm vật thể lớn hơn. Trong hệ Mặt Trời, tỉ số lớn nhất bằng 1/1047,3486 (Sao Mộc: Mặt Trời) và 1/3497,898 (Sao Thổ: Mặt Trời), và từ lâu các nhà thiên văn đã biết khối tâm của cả hệ Mặt Trời có lúc nằm bên ngoài bề mặt Mặt Trời, với độ lớn tới cả đường kính Mặt Trời tính từ tâm. Do vậy, các định luật Kepler không miêu tả một cách chính xác cao quỹ đạo các hành tinh hay vật thể quay quanh Mặt Trời trong vật lý cổ điển.
Không lệch tâm.
Định luật Kepler củng cố thêm mô hình của Copernicus, trong đó giả thiết quỹ đạo các hành tinh là hình tròn. Nếu độ lệch tâm quỹ đạo bằng 0, các định luật Kepler phát biểu thành:
Thực sự, độ lệch tâm quỹ đạo của sáu hành tinh biết tới ở thời Copernicus và Kepler là khá nhỏ, do vậy 4 quy luật trên miêu tả khá tốt chuyển động các hành tinh, nhưng các định luật Kepler miêu tả thậm chí còn tốt hơn.
Hiệu chỉnh của Kepler cho mô hình Copernicus là khá nhỏ:
Độ lệch tâm của quỹ đạo Trái Đất gần bằng 0 khiến cho khoảng thời gian từ điểm phân tháng Ba tới điểm phân tháng Chín, vào khoảng 186 ngày, không bằng khoảng thời gian từ điểm phân tháng Chín tới điểm phân tháng Ba, vào khoảng 179 ngày. Đường kính quỹ đạo chia quỹ đạo Trái Đất thành hai phần bằng nhau, nhưng xích đạo của nó chia quỹ đạo thành hai phần diện tích có tỷ lệ 186: 179, nên độ lệch tâm quỹ đạo Trái Đất có thể xấp xỉ theo công thức
mà rất gần với giá trị đo được (0,016710219). (Xem Quỹ đạo Trái Đất).
Việc tính toán là đúng khi khoảng cách là ở cận điểm quỹ đạo, khi Trái Đất nằm gần với Mặt Trời nhất, trong ngày chí điểm.
Liên hệ với định luật Newton.
Isaac Newton tính gia tốc chuyển động của hành tinh trong cuốn Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica tuân theo định luật thứ nhất và thứ hai của Kepler.
Điều này gợi ra rằng Mặt Trời là nguyên nhân gây ra gia tốc của hành tinh.
Newton định nghĩa lực tác dụng lên hành tinh bằng tích khối lượng của nó với gia tốc. (xem các định luật về chuyển động của Newton). Do vậy:
Không chỉ đối với Mặt Trời, ông cũng nêu ra định luật hấp dẫn cho các vật thể khác:
Khi hành tinh có khối lượng rất nhỏ và bỏ qua so với khối lượng Mặt Trời, quỹ đạo của chúng xấp xỉ với quỹ đạo Kepler. Mô hình của Newton tốt hơn mô hình của Kepler và gần sát với quan sát thực tế hơn khi đòi hỏi độ chính xác cao. (xem bài toán hai vật thể).
Tính toán hiệu chỉnh các tham số quỹ đạo từ các định luật Kepler do ảnh hưởng hấp dẫn của các hành tinh khác được nghiên cứu trong lý thuyết nhiễu loạn. | 1 | null |
Vườn quốc gia Chapada dos Veadeiros () là một phần của cao nguyên Chapada dos Veadeiros, một cao nguyên cổ ở miền Trung Brasil, với điểm cao nhất là đỉnh Serra da Santana. Khu vực này là mang vẻ đẹp nổi bật với địa chất của một cao nguyên rộng lớn hình thành cách đây 1,8 tỷ năm, bao gồm nhiều thác nước, suối tinh thể, hẻm núi sâu và thung lũng đá. Con sông chính chảy qua vườn quốc gia là sông Preto, chảy về hướng giữa Bắc và Tây tây nam. Phía Bắc của vườn quốc gia được giới hạn bởi hai con sông Santana và Bartolomeu.
Vườn quốc gia này thuộc bang Goias, được thành lập vào ngày 11 tháng 1 năm 1961 theo quyết định của chủ tịch nước của Brazil bấy giờ là Juscelino Kubitscheck. Đây là một phần của di sản thế giới của UNESCO vào năm 2001 với diện tích 655 km2 và chịu sự quản lý của IBAMA ("Viện Môi trường và Tài nguyên tái tạo Brazil").
Vị trí địa lý.
Vườn quốc gia Chapada dos Veadeiros là một phần của cao nguyên Chapada dos Veadeiros, là cao nguyên cao nhất ở miền Trung Brazil. Điểm cao nhất của vườn quốc gia là Serra da Santana, với độ cao 1691 mét so với mực nước biển.
Địa chất.
Trong khu vực của vườn quốc gia được chia thành ba khu vực cảnh quan chính là: vùng thung lũng Rio Claro là một khu vực đất thấp, tương đối bằng phẳng, khu vực Ridge nằm ở giữa phía bắc của vườn quốc gia, bao gồm cả các con sông Rio Preto, Santana, Capim Branco và khu vực miền núi ở phía nam.
Đây là một trong những nơi có kiến tạo địa chất lâu đời nhất trên thế giới. Vườn quốc gia có nền địa chất chủ yếu là đá thạch anh trồi lên trên các tinh thể, trước đây đã từng được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Anh, Nhật Bản để phục vụ cho các ngành công nghiệp. Ngày nay, tinh thể đá này có tác dụng như là để chữa bệnh như là tại thị trấn Alto Paraiso. Tinh thể đá có mặt ở khu vực Cerrado. Dòng sông chính trong vườn quốc gia là sông Rio Preto, một nhánh của sông Tocantins. Con sông tạo ra rất nhiều thác nước, như thác Rio Preto (cao 120 mét) hay thác Cariocas cùng với đó là những hẻm núi tuyệt đẹp, có nơi sâu tới 300 mét.
Khí hậu.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là từ 24-26 độ C, với mức thấp nhất là 4-8 độ C và cao nhất là 40-42 độ C.
Động thực vật.
Tại đây, những cánh rừng già vẫn còn tồn tại, là nơi sinh trưởng của hơn 25 loài hoa lan, bên cạnh các loài khác như Pau, cây nhựa thơm, Aroeira (tiêu California), Tamanqueira (cây li e Brasil), Jerivá, Buritis, Babaçu (các loài cọ)
Quần thể động vật tại vườn quốc gia này vô cùng phong phú, bao gồm các loài bị đe dọa tuyệt chủng như Nai đồng cỏ Nam Mỹ (địa phương gọi là "veado campeiro"), hươu đầm lầy ("cervo do Pantanal"), sói bờm ("lobo guará"), báo đốm Mỹ, và một số loài khác như Đà điểu Nam Mỹ (EMA), thỏ Brasil ("Sylvilagus brasiliensis"), tê tê khổng lồ ("tatu canastra"), thú ăn kiến ("tamanduá"), Chim mào bắt rắn chân đỏ, Chuột lang nước ("capivara"), heo vòi ("Anta"), chim Toucan mỏ xanh ("Tucano de bico verde"), kền kền đen ("urubu"), kền kền vua ("urubu rei"). | 1 | null |
Hệ thống các vườn quốc gia ở Brazil được thành lập bắt đầu từ năm 1937 với việc thành lập vườn quốc gia Itatiaia. Đến 1939, mới chỉ có hai vườn quốc gia và sau thời gian 20 năm, số lượng công viên tăng lên đều đặn đến 33 địa danh vào năm 1990 và 67 vào năm 2010.
Vườn quốc gia Tijuca là vườn quốc gia nhỏ nhất chỉ với 3.300 ha và lớn nhất là vườn quốc gia Tumucumaque có diện tích tới 3.800.000 ha. Trong số 67 công viên quốc gia, 19 vườn quốc gia bảo vệ một khu vực chiếm 5% rừng mưa nhiệt đới Amazon, và 22 địa điểm bảo vệ 1% rừng Đại Tây Dương. Phần còn lại bao gồm lần lượt 7 và 12 vườn quốc gia bảo vệ vùng sinh thái Cerrado và Caatinga. Chỉ có 6 vườn quốc gia biển và ven biển, đặc biệt là vườn quốc gia Pantanal bảo vệ vùng đất ngập nước và không có vườn quốc gia nào ở vùng đồng bằng Pampa rộng lớn.
Hiện nay, các vườn quốc gia đều được bảo vệ nghiêm ngặt. Đến năm 2010, chỉ có 30 địa điểm là mở cửa cho du khách tham quan. Trong đó, hai vườn quốc gia được viếng thăm nhiều nhất là vườn quốc gia Tijuca với 1,7 triệu du khách và vườn quốc gia Iguaçu với 1 triệu du khách, chiếm 71% lượng du khách tham quan đến các vườn quốc gia ở Brazil trong năm 2009. | 1 | null |
"Buffalo buffalo Buffalo buffalo buffalo buffalo Buffalo buffalo" là một câu có ngữ pháp hợp lệ trong tiếng Anh. Câu này là một ví dụ về cách thức mà các từ đồng âm nhưng khác nghĩa (homonym) và các từ đồng âm nhưng khác chữ viết (homophone) có thể được sử dụng để tạo ra các cấu trúc ngôn ngữ phức tạp. Câu này đã được bàn luận trong văn học kể từ khi nó được giáo sư William J. Rapaport tại Đại học tại Buffalo sử dụng vào năm 1972. Giáo sư Rapaport đã đăng câu này trên "Linguist List" vào năm 1992. Câu này cũng xuất hiện trong một cuốn sách năm 1994 có tựa đề "The Language Instinct" của Steven Pinker với vai trò như một thí dụ về một câu mà "trông có vẻ như vô nghĩa" nhưng thực ra lại đúng ngữ pháp. Pinker nêu đích danh học trò của ông, Annie Senghas, chính là người đã chế tác ra câu này.
Ý nghĩa của câu này dần trở nên rõ ràng hơn khi nó được hiểu là thành phố Buffalo, New York và động từ ít phổ biến là "to buffalo" (có nghĩa là "ăn hiếp hay bắt nạt"), và khi phép chấm câu và ngữ pháp được mở rộng thì câu này được đọc như sau: "Buffalo buffalo that Buffalo buffalo buffalo, buffalo Buffalo buffalo". Nghĩa của nó càng rõ ràng hơn khi các từ đồng nghĩa được dùng để giải thích nó như sau: "Buffalo-origin bison that other Buffalo bison intimidate, themselves bully Buffalo bison" (tạm dịch: "Chính mấy con bò bison tại Buffalo mà bị mấy con bò bison tại Buffalo khác ăn hiếp, lại ăn hiếp mấy con bò bison tại Buffalo").
Giải thích.
Câu này không có chấm phẩy và sử dụng ba cách đọc khác nhau của từ "buffalo". Theo thứ tự sử dụng ba từ "buffalo" đầu tiên là như sau:
Đánh dấu mỗi từ "buffalo" với cách sử dụng của nó như được mô tả ở phía trên sẽ cho ra:
Câu này vận dụng các mệnh đề liên kết giản lược được phép sử dụng trong tiếng Anh – nghĩa là các mệnh đề này không có các đại từ liên kết hay các dấu liên kết khác. Như thế đại từ liên kết "that" hay "which" đáng lẽ ra xuất hiện giữa chữ thứ hai và chữ thứ ba của câu có thể được loại bỏ.
Như thế, khi được phân tích thì câu này được đọc như là một lời quả quyết rằng mấy con bò rừng bison mà "bị ăn hiếp bởi mấy con bò bison khác" chính ra cũng "đang ăn hiếp mấy con bò rừng bison" (ít ra tại thành phố Buffalo – ám chỉ thành phố Buffalo của tiểu bang New York):
Câu này có thể được làm cho dễ hiểu hơn bằng cách thay thế các từ đồng nghĩa như "bison" cho con vật "buffalo", "bully" cho động từ "buffalo", và "New York" để chỉ tiểu bang của thành phố Buffalo:
Hay cách thay thế khác vẫn giữ nguyên tên thành phố Buffalo:
Nhận xét.
Thomas Tymoczko chỉ ra rằng không có gì đặc biệt đối với tám chữ "buffalo"; bất cứ câu nào có đơn độc mỗi từ "buffalo" được lặp đi lặp lại với bất cứ số lần đọc nào cũng đều đúng ngữ pháp. Câu ngắn nhất là "Buffalo!", được dùng như một câu mệnh lệnh cách để bắt nạt người nào đó ("You, buffalo!") mà trong câu đó chủ ngữ được hiểu là "you" đã bị loại bỏ. Tymoczko sử dụng câu này như một thí dụ để minh họa luật rewrite trong các ngôn ngữ.
Các trường hợp khác.
Các từ tiếng Anh khác cũng có thể sử dụng để tạo những câu mang tính chất "chơi" ngữ pháp tương tự (dù không nhất thiết phải có nghĩa), tạo ra một chuỗi lặp liên tục. Bất cứ từ nào vừa là danh từ số nhiều vừa là ngoại động từ không biến đổi (khi chia động từ) đều có thể làm được; như, "police" (cảnh sát/khống chế) hay "dice" (xúc xắc/đổ xúc xắc).
Một câu khá tượng tự khác và không có dấu chấm câu có thể kể đến là "James while John had had had had had had had had had had had a better effect on the teacher". Câu nói nhắc đến một tình huống trong lớp học tiếng Anh có liên quan tới từ "had", và có thể viết lại với các dấu chấm câu như sau: "James, while John had had 'had', had had 'had had'; 'had had' had had a better effect on the teacher." | 1 | null |
Vườn quốc gia Emas (tiếng Bồ Đào Nha: "Parque Nacional das Emas", có nghĩa là " Vườn quốc gia chim Rhea ") là một vườn quốc gia và đồng thời là di sản thế giới của UNESCO nằm tại các bang Goiás và Mato Grosso do Sul, Brazil.
Vườn quốc gia nằm giữa bang Goiás và Mato Grosso do Sul, trong khu vực Trung tâm phía Tây của Brazil, từ 17 º 50'-18 º 15 và 52 º 39'-53 º 10'W'S. Vườn quốc gia này có diện tích 1320 km2 là một phần của cao nguyên Serra dos Caiapós trên vùng sinh thái thảo nguyên Cerrado bao gồm nhiều đồn điền trồng đậu tương. Khu vực cao nguyên này là một đồng bằng tương đối thấp, thoải dần xuống lưu vực sông Araguaia ở phía bắc, hệ thống sông Jacub-Correntes về phía đông và sông Taquarí, đồng bằng ngập nước Pantanal về phía tây. Các sông chính trong vườn quốc gia là sông Jacuba và Formosa, cả hai đều là nhánh sông đổ vào Paranaíba.
Emas có một hệ sinh thái điển hình của vùng sinh thái Cerrado, với nhiều loài động vật hoang dã thảo nguyên bao gồm: thú ăn kiến khổng lồ, sói bờm, tê tê khổng lồ, và số lượng lớn loài đà điểu Nam Mỹ. Đây cũng là nơi trú ngụ của số ít loài báo đốm Mỹ. động vật có vú khác lớn hơn bao gồm gấm, heo vòi Brazil, lợn lòi môi trắng, hươu đầm lầy, hươu đỏ nhỏ, hươu xám nhỏ, khỉ rú đen và Capybara. | 1 | null |
Đảo nhân tạo là một phần đất bồi do con người tạo lập thông qua việc đổ đất và/hoặc đá xuống biển hay nói chung là một vùng nước. Từ lâu con người đã xây dựng đảo nhân tạo vì những mục đích khác nhau thông qua việc kiến thiết đảo mới, mở rộng đảo tự nhiên hiện hữu hoặc hợp nhất các đảo nhỏ thành đảo lớn hơn.
Lịch sử và mục đích xây dựng.
Người La Mã đã có những ghi chép đầu tiên về đảo nhân tạo từ gần 2.000 năm trước. Năm 47, Plinius đề cập đến những "gò đất nhân tạo" do cư dân sống tại khu vực mà ngày nay thuộc đông bắc Hà Lan xây dựng để tránh triều cường và sóng bão. Thời Trung cổ, dân cư Scotland và Ireland xây nên các crannóg tại nhiều vùng hồ để làm nơi trú ngụ an toàn khỏi kẻ thù. Năm 1634, trong quá trình thi hành chính sách Toả Quốc ngăn người nước ngoài vào Nhật Bản, người Nhật đã xây nên đảo nhân tạo Dejima ngoài khơi Nagasaki để làm nơi giao thương cho người Bồ Đào Nha và sau này là người Hà Lan., Việt Nam cũng sắp có một đảo nhân tạo hình bông hoa sen tại Phú Quốc.
Về sau, nhiều đảo nhân tạo được tạo lập để làm nơi xây dựng sân bay. Nhật Bản là nước tiên phong kiến thiết một đảo trong vịnh Osaka với diện tích 10 km² để tạo đất cho sân bay quốc tế Kansai (hoàn thành năm 1994). Tại Hồng Kông, người ta lấn biển để mở rộng diện tích đảo Xích Liệp Giác lên gấp bốn lần, sau đó tiến hành xây dựng sân bay quốc tế Hồng Kông trên đảo (1997). Tại Hàn Quốc, phần biển nông giữa hai đảo Yeongjong và Yongyu được bồi lấp để làm nơi xây dựng sân bay quốc tế Incheon (2001).
Đảo nhân tạo còn được sử dụng để hỗ trợ các công trình lớn. Đảo nhân tạo trong vịnh Chesapeake, Mỹ chính là chỗ nối giữa cầu vịnh và đường hầm. Ở châu Âu, đảo Peberholm đóng vai trò quan trọng trong tổng thể công trình Øresundsbron nối Đan Mạch và Thụy Điển. Bên cạnh đó, con người xây dựng đảo nhân tạo để hỗ trợ hoạt động khoan và khai thác dầu khí. Đảo Rincon (1958) ngoài khơi quận Ventura, California, Mỹ là một ví dụ cho đảo nhân tạo vì mục đích này.
Tại Dubai thuộc Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, hàng loạt đảo nhân tạo được xây dựng để đẩy mạnh du lịch, phát triển kinh tế như quần đảo Cây Cọ, quần đảo Thế giới và khách sạn Burj al-Arab. Chỉ riêng quần đảo Thế giới đã bao gồm đến ba trăm hòn đảo nhân tạo.
Ngoài ra, một số quốc gia xây đảo nhân tạo vì mục đích củng cố tuyên bố chủ quyền hay tạo lập căn cứ quân sự. Năm 1972, trước việc một tổ chức tư nhân tuyên bố thành lập một vi quốc gia mang tên "Cộng hòa Minerva" tại Các rạn san hô Minerva thuộc Thái Bình Dương, nhà nước Tonga đã lên tiếng đòi hỏi các rạn san hô vòng ngầm này, đồng thời nhà vua Tonga đích thân giám sát việc xây dựng các đảo nhân tạo và đèn hiệu tại đây. Tại quần đảo Trường Sa trong Biển Đông, các quốc gia tham gia tranh chấp cũng xây dựng đảo nhân tạo để làm căn cứ đồn trú cho binh lính.
Luật pháp quốc tế.
Điều 56 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển quy định rằng trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, quốc gia ven biển có quyền tài phán trong việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo. Công ước cũng quy định các quốc gia được tự do xây dựng các đảo nhân tạo được pháp luật quốc tế cho phép trong biển cả ("high sea"), với điều kiện tuân thủ phần VI - Thềm lục địa của Công ước (Điều 87). Tuy nhiên, Khoản 8 của Điều 60 khẳng định đảo nhân tạo không được hưởng quy chế của đảo:
Cũng theo Điều 60, các đảo nhân tạo chỉ được hưởng phạm vi an toàn tối đa là 500 mét xung quanh đảo tính từ mép ngoài cùng. | 1 | null |
Bài thơ của một người yêu nước mình là một bài thơ được sáng tác vào ngày 19 tháng 12 năm 1967 bởi tác giả Trần Vàng Sao , một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ được xem là một trong 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20 trong một cuộc thi bình chọn được phát động vào năm 2005.
Phân tích.
Bài thơ dài 155 câu được tác giả trình bày theo lối tự do được thể hiện một cách chân thành và xúc động qua phương thức điệp từ với sự khai thác chi tiết về các hình ảnh có thật của ký ức. Nét đặc trưng của bài thơ là sự hoà quyện giữa cảm xúc trữ tình của tác giả với hình tượng đất nước, được đặt trong liên hệ với người mẹ, người thân trong gia đình, người yêu và quê hương khốn khó cùng khát vọng độc lập, tự do và khát vọng làm người chân chính. | 1 | null |
Tiếng Tráng (Chữ Tráng Chuẩn: Vahcuengh/Vaƅcueŋƅ; Chữ Nôm Tráng: 話僮; ) là ngôn ngữ bản địa của người Tráng được nói chủ yếu tại tỉnh Quảng Tây và vùng giáp ranh với Quảng Tây thuộc tỉnh Vân Nam và Quảng Đông. Tiếng Tráng không phải là một ngôn ngữ thống nhất: các phương ngữ Tráng Bắc liên hệ gần gũi với tiếng Bố Y tại tỉnh Quý Châu, trong khi các phương ngữ Tráng Nam gần với tiếng Nùng, Tày và Cao Lan tại Việt Nam.
Theo Omniglot, tiếng Tráng có 16 phương ngữ chính. Từ điển Anh-Trung-Tráng liệt kê tổng cộng 12 phương ngữ tại Quảng Tây và Vân Nam. Một vài trong số các phương ngữ Tráng khác nhau nhiều đến mức người nói không thể thông hiểu lẫn nhau, do đó một số nhà ngôn ngữ học coi tiếng Tráng là một tập hợp các ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với nhau chứ không phải là một ngôn ngữ thống nhất gồm nhiều phương ngữ..Tiếng Tráng có một dạng chuẩn hóa được gọi là Tráng Ung Bắc (邕北壮语) dựa trên phương ngữ Tráng Bắc tại huyện Vũ Minh (武鸣) tỉnh Quảng Tây.
Dân số người Tráng là 18 triệu người, chiếm gần 1/3 dân số toàn Quảng Tây, tuy nhiên số lượng người nói tiếng Tráng có thể thấp hơn nhiều con số này. Tại các vùng đô thị người Tráng bị Hán hóa mạnh mẽ, không còn nói và sử dụng tiếng trong mọi khía cạnh đời sống.
Trích dẫn bài báo của Phạm Hồng Quý (1989) nói rằng người Tráng và các dân tộc Thái có cùng một từ chỉ người Việt Nam (Kinh) là Keo ("kɛɛuA1"), Jerold A. Edmondson thuộc Đại Học Texas, Arlington cho rằng sự phân tách giữa các ngôn ngữ Tráng và các ngôn ngữ Tai tây nam diễn ra không sớm hơn sự thành lập của Giao Chỉ (Jiaozhi 交址) tại Việt Nam năm 112 TCN, nhưng không muộn hơn khoảng thời gian từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VI SCN.
Chữ Tráng Latinh hóa.
Bảng chữ cái Tráng dạng chuẩn hóa bắt đầu được sử dụng vào năm 1955 gồm các ký tự Latinh, Kirin và IPA. Năm 1986, bảng chữ cái này được cải tiến, các ký tự Kirin và IPA được thay thế bằng một hoặc một tổ hợp các ký tự Latinh. Dạng chuẩn hóa này dựa trên phát âm của Tráng Ung Bắc được nói tại huyện Vũ Minh. Vì thuộc nhánh Tráng Bắc nên nó không phù hợp trong việc ghi chép các phương ngữ Tráng Nam do tồn tại các khác biệt về âm vị. Một ví dụ là trong dạng chuẩn hóa cũng như các phương ngữ Tráng Bắc không hề tồn tại các phụ âm bật hơi (/pʰ/, /tʰ/, kʰ/). Ngược lại, các phương ngữ Tráng Nam thường có cả các phụ âm bật hơi (/pʰ/, /tʰ/, kʰ/) lẫn không bật (/p/, /t/, /k/).
Ví Dụ.
Các ví dụ sau thuộc các phương ngữ Tráng Bắc.
Gij raemx neix raemx haij, mbouj ndaej gw<br>
Cái nước này nước biển, không được ăn
Baezgonq, miz goenglaux he ciengx song boux lwk...<br>
Ngày trước, có một ông lão nuôi hai người con
Aeu fawz swix gaem gij fwed de<br>
Lấy tay trái cầm cái cánh nó
Hawj gij lwed ndik roengz ndaw vanj bae<br>
Cho cái máu chảy xuống vào bát đi | 1 | null |
Lưu đồ Nassi–Shneiderman (NSD) trong lập trình máy tính là một biểu diễn hình ảnh thể hiện một lập trình cấu trúc. Lưu đồ này được phát triển vào năm 1972 bởi Isaac Nassi và học trò của ông, Ben Shneiderman. Lưu đồ này còn được gọi là lưu đồ cấu trúc, bởi vì nó thể hiện cấu trúc của chương trình.
Tổng quan.
Theo thiết kế từ trên xuống dưới, vấn đề được chia ra thành nhiều vấn đề nhỏ hơn, cho đến khi chỉ còn những câu lệnh đơn giản và những kiến trúc dòng điều khiển tồn tại. Lưu đồ Nassi–Shneiderman phản ánh kiểu phân tách từ trên xuống dưới này một cách trực tiếp, bằng cách dùng những hình hộp lồng nhau để thể hiện những vấn đề nhỏ hơn. Nhất quán với lý thuyết của lập trình cấu trúc, Lưu đồ Nassi–Shneiderman không có cách nào để thể hiện câu lệnh GOTO.
Lưu đồ Nassi–Shneiderman rất ít khi được dùng cho lập trình chính thức. Độ trừu tượng của nó rất gần với mã lệnh của một chương trình cấu trúc và sẽ phải vẽ lại toàn bộ lưu đồ nếu muốn chỉnh sửa. Tuy nhiên, lưu đồ Nassi–Shneiderman có thể hữu ích khi dùng trong giai đoạn phác thảo và những thiết kế cấp cao.
Lưu đồ Nassi–Shneiderman rất tương đồng (gần như hoàn toàn) với lưu đồ truyền thống. Tất cả những gì có thể thể hiện trên lưu đồ Nassi–Shneiderman đều có thể thể hiện trên lưu đồ truyền thống và ngược lại. Một số ngoại lệ có thể kể đến câu lệnh goto và hai câu lệnh "break", "continue" trong vòng lặp của ngôn ngữ lập trình C.
Lưu đồ.
Khối xử lý: khối xử lý thể hiện những bước đơn giản nhất và không yêu cầu phân tích. Khi gặp một khối xử lý, hành động bên trong khối đó được thực hiện và ta chuyển đến khối tiếp theo.
Khối rẽ nhánh: có hai lọaị khối rẽ nhánh. Loại một là loại đúng/sai hoặc có/không đơn giản, cung cấp cho chương trình hai hướng lựa chọn trên cơ sở điều kiện có được thỏa mãn hay không. Những khối này có thể sử dụng như những vòng lặp, bắt chương trình thực hiện một công việc cho đến khi điều kiện được thỏa mãn.
Loại khối rẽ nhánh thứ hai là loại khối rẽ nhánh nhiều lựa chọn. Loại này được dùng khi chương trình cần đến trường hợp lựa chọn. Khối này thường chứa một câu hỏi hoặc lựa chọn. Sau đó nó cung cấp cho chương trình một chuỗi những lựa chọn, thường đi kèm với những khối xử lý con để tiết kiệm diện tích.
Vòng lặp thử: khối này cho phép chương trình lặp lại một hoặc nhiều công việc cho đến khi điều kiện liên quan được thỏa mãn. Những khối xử lý bao quanh bởi mỗi vòng lặp là các khối con với thanh bên chạy từ điều kiện ra ngoài.
Có hai loại vòng lặp thử chính, vòng thử trước và vòng thử sau. Sự khác biệt duy nhất giữa hai loại này là thứ tự các bước được thực hiện trong vòng lặp.
Trong vòng lặp thử trước, khi chương trình bắt gặp vòng lặp thử, nó sẽ kiểm tra xem điều kiện đã được thỏa mãn chưa. Nếu điều kiện chưa thỏa mãn thì thực hiện các công việc trong vòng lặp sau đó quay lại, kiểm tra lại điều kiện. Nếu điều kiện chưa thỏa mãn thì thực hiện lại các công việc. Cứ như vậy cho đến khi điều kiện được thỏa mãn, chương trình sẽ bỏ qua các bước xử lý và chuyển đến khối tiếp theo.
Vòng lặp thử sau đảo lôn thứ tự lại, các công việc được thực hiện trước khi điều kiện được kiểm tra. Vòng lặp thử sau cho phép các công việc được thực hiện ít nhất một lần trước khi điều kiện được kiểm tra lần đầu tiên. | 1 | null |
Hổ phù truyền kỳ (chữ Hán:虎符传奇) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc được sản xuất năm 2010, công chiếu vào đầu năm 2012. Bộ phim kể về điển tích Tín Lăng quân trộm binh phù cứu Triệu nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Nội dung.
Thời Chiến Quốc, bảy nước lớn Tần, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu và Ngụy cùng chia nhau ảnh hưởng. Tại nước Ngụy, Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ là một trong tứ đại công tử nổi tiếng lúc bấy giờ, tài năng đức độ, ưu đãi hiền tài, rất được trọng vọng; cùng con gái độc nhất của Trường Đình Hầu là Như Cơ đôi bên có tình cảm, nhưng không thành. Như Cơ phải tiến cung, làm thiếp Ngụy Vương. Trận Trường Bình, quân Triệu đại bại, nước Triệu tình thế nguy khốn. Sợ thế quân Tần, Ngụy Vương án binh bất động, không ứng cứu. Trừ phi có hổ phù trong tay, mới có thể xuất binh. Nhờ sự giúp đỡ của Như Cơ, kế hoạch thành công nhưng hai người không tránh khỏi mang trọng tội. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.