text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Beach House là một bộ đôi dream pop đến từ Baltimore, Maryland, Hoa Kỳ. Ban nhạc được thành lập năm 2007, với hai thành viên: Victoria Legrand - giọng ca chính và chơi keyboard - cùng Alex Scally - chơi ghita, bass, keyboard và hát bè. Ban nhạc phát hành album phòng thu cùng tên đầu tay vào năm 2006, và sau đó lần lượt phát hành 3 album khác: "Devotion" (2008), "Teen Dream" (2010), và "Bloom" (2012), tất cả đều nhận được sự đón nhận tích cực của giới phê bình. Cả bốn album đều lọt vào danh sách 50 album xuất sắc nhất năm trên tạp chí "Pitchfork Media", bao gồm: "Beach House" (số 16), "Devotion" (số 46), "Teen Dream" (số 5), và "Bloom" (số 7). Ban nhạc sẽ phát hành "Depression Cherry" năm 2015. Lịch sử. Là một trong những nhóm nhạc dream pop xuất sắc nhất của những năm 2000 và 2010, Beach House là bộ đôi gồm ca sĩ / keyboard Victoria LeGrand và nghệ sĩ guitar Alex Scally. Trong những năm qua, Beach House đã chuyển hướng từ phong cách lo-fi quyến rũ trong những bản phát hành đầu tiên "Carpark" như màn ra mắt cùng tên năm 2006 sang sự hoàn hảo thanh tao cùng sự giúp đỡ của Sub Pop như "Bloom" trong năm 2012, nhưng họ luôn tập trung vào những giai điệu thôi miên của Scally và giọng hát mượt mà của LeGrand. LeGrand và Scally gặp nhau trong sân khấu indie rock của Baltimore và thành lập Beach House vào năm 2004. Họ đã phát hành các bài hát phát hành ngay sau đó, bao gồm cả "Apple Orchar", xuất hiện trên sê-ri "Infinite Mixtape MP3" của Pitchfork vào tháng 8 năm 2006. Tháng 10 năm đó, bộ đôi phát hành album đầu tay mang tên mình, thu hút sự tương phản của Nico và Mazzy Star, ở lễ hội Carpark. Đầu năm 2007, Beach House thu âm album thứ hai trong vòng hai tháng tại "Lord Baltimore Studio"; kết quả là album "Devotion" đầy đủ hơn, nó được ra mắt lần đầu ở lễ hội âm nhạc Carpark vào năm 2008. Sau chuyến lưu diễn dài ngày đó, Scally và LeGrand đã làm việc với nhà sản xuất Chris Coady trong sản phẩm đầu tay "Teen Dream" của họ. Được phát hành vào đầu năm 2010, album tiếp tục được chau chuốt và cải thiện chất lượng âm nhạc của họ và lọt vào Top 50 của Billboard 200. Beach House được xây dựng dựa trên thành công của Teen Dream và Bloom trong năm 2012, một tập hợp những âm thanh và hình ảnh thống nhất nghĩa là được trải nghiệm như album đồng bộ chứ không phải một bộ sưu tập các bài hát đơn điệu. Hợp tác một lần nữa với Coady, album thứ tư của bộ đôi là album được đánh giá cao nhất của họ, nhận được sự hoan nghênh rộng rãi và lọt vào Billboard 200 ở vị trí thứ bảy. Năm 2013, Beach House phát hành "Forever Still", một bộ phim hòa nhạc ngắn được quay quanh Tornillo, Texas, nơi bộ đôi thu âm Bloom. Hai năm sau, họ trở lại với một cặp album có sự đồng sản xuất của Coady và trở lại với nhiệm vụ chính trước đó. Album "Depression Cherry" bị giấu kín đã xuất hiện vào tháng 8 năm 2015, trong khi "Thank Your Lucky Stars" bị loại bỏ đồng xuất hiện vào tháng 10 năm đó. Bộ sưu tập B-Sides và Rarity năm 2017 tập hợp 14 bài hát bao gồm "Chariot" và "Baseball Diamond" chưa từng được phát hành trước đó, cũng như bản cover "Play the Game" của Queen, xuất hiện lần đầu trên bản tổng hợp "Dark Was the Night" trong Red Hot Organization vào năm 2009. Để thực hiện album thứ bảy, Beach House đã thực hiện một cách tiếp cận khác. Làm việc với Sonic Boom và tay trống James Barone, LeGrand và Scally đã vào phòng thu để thu âm các bài hát ngay sau khi buổi ghi âm đó kết thúc. Thành quả của họ được đặt tên là "7" trong năm 2018, trong đó có một số bản nhạc điện tử có sự kết hợp của của bộ đôi Heather Phares và Rovi.
1
null
dịch là Chiến đội Thú điện Kyoryuger, là tên của loạt phim Super Sentai thứ 37 của hãng phim Nhật Bản Toei Company theo sau "Tokumei Sentai Go-Busters". Bộ phim được lồng thuyết minh và phát hành tại Việt Nam bởi hãng phim Phương Nam với tên gọi Chiến đội Điện long Kyoryugers. Phim được công chiếu trên kênh truyền hình thiếu nhi Sao TV.. Loạt phim bắt đầu phát sóng trên TV Asahi vào ngày 17 tháng 2 năm 2013, song song với "Kamen Rider Wizard" và "Kamen Rider Gaim" trong giờ phim Super Hero Time. Bản Mỹ hóa được Saban sản xuất với tên gọi "Power Rangers Dino Charge" và Hàn Quốc hóa được Daewon Media sản xuất với tên gọi "Power Rangers Dino Force Brave. Sản xuất. "Zyuden Sentai Kyoryuger" là series Sentai thứ 3 có motif khủng long (sau "Kyōryū Sentai Zyuranger" và "Bakuryū Sentai Abaranger"); pha trộn với điện tử và âm nhạc sôi động như Samba. Nhân vật. Kyoryuger. , viết tắt của , là các chiến binh đã chiến đấu với thế lực hắc ám từ vũ trụ trong thời kỳ khủng long ngự trị, bên cạnh các chiến hữu là các robot khủng long thông minh tên là . Có tổng cộng 10 Thú Điện Long. Ngoài ra còn có thêm 13 Guardians là những đồng minh giúp các Kyoryuger chiến đấu. Chúng đã bị giết bởi Great Land Devil Gadoma. Linh hồn của các Guardian hoá thành các Secret Stones và được giữ trong Thú Điện Long thứ 10- Bragigas. Vào thời hiện đại, khi thế lực hắc ám thức tỉnh, các Kyoryuger quay trở lại sử dụng các vật phẩm tên là vốn chứa của các Zyudenryu. Kana đầu tiên trong tên của các Kyoryuger có thể ghép lại thành , tức khủng long trong tiếng Anh, trong khi kana đầu tiên trong họ của họ có thể ghép lại thành , tức khủng long trong tiếng Nhật. Kyoryuger biến hình bằng cách kích hoạt Zyudenchi với khẩu lệnh "Brave in", gắn vào khẩu súng , riêng Utsusemimaru gắn vào Gaburi Changer, Torin và Dantetsu gắn vào Giga Gaburi Vovler, và sau khi nói , xoay nòng, nhảy và "Fire" (bắn). Tessai và Ramires vì là linh hồn, khi họ biến hình chỉ cần kích hoạt Zyudenchi, với khẩu lệnh "Brave in" -> "Spirit Ranger", nhảy và "Fire" (bắn). Zyudenchi thường được giữ trong , một thiết bị dạng điện thoại thông minh. Quân Deboth. là kẻ thù của các Kyoryuger. Trong quá khứ, chúng đã bị Zyudenryu đánh bại và phong ấn ở Nam Cực. Chúng được giải phóng ở thời hiện tại và âm mưu thu thập linh hồn của con người để hồi sinh chúa tể của mình và tạo nên một kỉ băng hà mới, do chỉ huy, với sự hỗ trợ của , , , và . Binh lính của chúng tên là . Dụng cụ. Hàm răng giả Súng Phim điện ảnh. Ngoại trừ sự ra mắt trong "Tokumei Sentai Go-Busters VS. Kaizoku Sentai Gokaiger THE MOVIE", các Kyoryuger cũng sẽ làm nhân vật chính trong các phim điện ảnh sau: "Super Hero Taisen Z". là một bộ phim giao chéo ra mắt vào mùa xuân 2013, giữa ba dòng phim tokusatsu, Kamen Rider, Super Sentai, và Uchū Keiji Series. Các nhân vật từ "Kamen Rider Wizard", "Zyuden Sentai Kyoryuger", và ' sẽ tham gia bộ phim. Vũ Trụ Thiết Nhân Kyodain từ ' cũng xuất hiện. Đoạn phim quảng bá được trình chiến sau "". "Zyuden Sentai Kyoryuger: Gaburincho of Music". là bộ phim mùa hè của Kyoryuger được chiếu và ngày 3 tháng 8 năm 2013, song song với "Kamen Rider Wizard in Magic Land The Movie". Đây là bộ phim ca nhạc đầu tiên trong Super Sentai. Zyuden Sentai Kyoryugers: Return 100 YEARS AFTER. Zyuden Sentai Kyoryuger Return: 100 YEARS AFTER (帰ってきた獣電戦隊キョウリュウジャー: 100 YEARS AFTER Kaettekita Jūden Sentai Kyōryūjā: Handoreddo Iyāzu Afutā ?) Đây là movie về đội Kyoryuger thứ 2 năm 2114 (100 năm sau) với vẻ ngoài giống như các chiến binh Kyoryuger trong truyền thuyết; được phát hành ngày 20 tháng 6 năm 2014. 100 năm trong tương lai, các hậu duệ của Daigo, Ian, Nobuharu, Souji, Amy, và Utsusemimaru phải chiến đấu chống lại các Deboth hồi sinh.Trong 2114, 100 năm sau khi người đầu tiên Kyoryugers chiến thắng chống lại Deboth quân đội, một lô Deboth đến từ một lỗ nhỏ trên một hình thức Zorimas dẫn bởi Debo Akidamonne và Debo Harudamonne. Một đội bóng mới của Kyoryuger tiếp tục kế thừa người tiền nhiệm của mình, đã đến và thay đổi cùng với màu sắc khác nhau và dễ dàng đánh bại Zorimas dù vụng về và thiếu kinh nghiệm của họ. Hai Deboth giận dữ thuyết sai lầm Kyoryugers mới 'cho không đúng theo bản thân với người tiền nhiệm của họ. Debo Natsudamonne và Debo Fuyudamonne tham gia và tất cả bốn quái vật Deboth làm của họ đội lên gây ra, sau đó dễ dàng đánh bại Kyoryugers. Các Deboth quân tướng xuất hiện và tự giới thiệu: Ngàn-Faced High Priest Gaos, hối hận Hiệp sĩ Arslevan, thông tin Hiệp sĩ Sneldo (hóa thân của Raging Hiệp sĩ Dogold) và Jealousy Hiệp sĩ Hoshigaron (hóa thân của Thương Khó Hiệp sĩ Aigaron). Sau 100 năm bị mắc kẹt trong không gian con, họ đã tăng trưởng được uỷ quyền và sẵn sàng tấn công vào nhân loại. Trước khi Gaos sẽ nằm trong chấn thương vào chúng, Zyudenryu Bragigas nổi lên và hộ tống họ đến nơi an toàn. Candelilla và Lạc Mật Trinh đã quẫn trí bởi các sự kiện, nghĩ rằng việc sử dụng ngẫu nhiên Zyudenchi sẽ không làm việc và họ đã quên những màu sắc ban đầu từ 100 năm trước đây. Soujiro-kun lá sau khi bày tỏ mong muốn của mình để bỏ thuốc lá, tiếp theo là những người khác trừ Nobuta-chan. Nobuta tiết lộ rằng anh cảm thấy phù hợp với màu sắc của mình như Candelilla bỏ kính ra, nó nhắc nhở cô về Nobuharu và màu sắc của mình, do đó màu xanh bắn lên tinh thần Nobuta của. Dai-kun nhớ thành tổ tiên của ông 'như Kyoryugers, nhưng luôn luôn nhìn vào họ và đạt được sự tự tin khi trở thành một. Ami-neesan cố gắng nhớ lại lời khuyên của cha cô nhưng không thành công. Trong khi Dai-kun mất một dạo, ông tìm thấy một nhỏ màu trắng T-Rex tailing anh, nhưng nó nhanh chóng chạy trốn một lần đốm. Tại cơ sở của họ, Ghaos tiết lộ thuộc cấp của ông một mảnh chứa tế bào Deboss. Làm sống lại của Đức Chúa Trời Deboss, chúng phải thu thập những cảm xúc tiêu cực của con người từ than vãn, hối tiếc và ghen tị. Trong khi Ghaos không thể nhớ nhiều về cách qua quân đội Deboss trông giống như vậy, Arslevan chấp nhận nhiệm vụ cho mình và yêu cầu Sneldo và Hoshigaron để làm việc về kế hoạch khác. Cả hai Uppy và Icchan tiếp tục cuộc sống xa hoa của họ cho đến khi 116 tuổi Souji Rippukan trúng lưng của họ cho việc từ bỏ nhiệm vụ của mình với cháu nội của y, Soujiro tham gia cùng anh muộn. Anh khuyên cả hai để tìm Brave thực sự của họ trong trái tim của họ trong khi hộ tống Soujiro đi từ trung tâm bowling. Lạc Mạt Trinh bỏ qua đơn đặt hàng Candelilla nơi cô chứng kiến ​​sự ra mắt của một phiên bản làm lại thứ bảy của anime yêu thích của cô. Cô phát hiện vé của bộ phim và cố gắng lấy nó nhưng rơi vào bẫy của Hoshigaron. Trong khi Dai-kun đã tìm kiếm cho nhỏ T-Rex, Arslevan phục kích ông và hấp thụ hối tiếc của mình để trở thành một Kyoryuger. Sneldo phục kích một đoàn xe của đau khổ người và bắt họ cho sự hy sinh của mình. Trong khi Cadelilla trong tuyệt vọng, Torin tiết lộ cô nơi ông lưu trữ tất cả các Zyudenchi, cổ vũ cô một lần nữa. Các màu trắng T-Rex lưu lại nhanh chóng Dai-kun và tấn công Arslevan. Torin xuất hiện để Dai-kun và tiết lộ rằng màu trắng T-Rex, Gabutyra đã giận dữ tại Dai cho triển vọng hèn nhát của mình. Chứng kiến ​​màu trắng của mình, Dai-kun nghĩ màu sắc thật sự của mình là màu trắng cho đến khi Torin tiết lộ rằng màu trắng của mình là thiếu tiềm năng Dai-kun và cung cấp cho anh ta một Zyudenchi trước khi biến mất. Ami-neesan và Nobuta truyền bá tin tức xấu cho Dai-kun với Nobuta hiến mình để đi theo họ. Ami-neesan theo anh, nói rằng ngay cả khi cô ấy yếu đuối, cô không thể từ bỏ những rắc rối. Trong khi Icchan đã tập luyện ca hát của mình, anh đã vô tình kết hợp một số từ trong lời bài hát của mình (Parasagun và màu đen) và cuối cùng có màu sắc thật sự của mình. Trong thời gian đào tạo bowling Uppy, anh phát hiện một bowling vàng kim và quản lý để có được một cuộc tấn công hoàn hảo, do đó nhận được màu sắc thật sự của mình. Soujiro cuối cùng đã đánh bại ông cố của mình, nhận được màu sắc thật sự của mình, màu xanh lá cây và kế thừa các Feather cạnh khi được khuyến khích bởi tổ tiên của mình. Ngay sau đó, Soujiro, Icchan và Nobuta tấn công Sneldo và nhận được màu sắc thích hợp của Zyudenchi từ Candelilla, biến mình thành Kyoryu xanh, đen và xanh. Trước khi họ có thể giải phóng các nạn nhân, bốn mùa Debo Monsters giữ chúng cho đến khi Ami-neesan và Uppy xuất hiện như Uppy sử dụng bowling bóng vàng của mình để tấn công. Ông đã nhận được Zyudenchi thích của mình nhưng không tìm thấy một cái gì đó sai. Sau Debo Harudamonne chơi Shamisen, ông nhớ lại chủ đề samurai, do đó nhận được Gabrichanger từ Zyudenryu Pteragordon và chuyển thành Kyoryu Gold. Sau khi giải phóng những người bị bắt, Ami-neesan lưu Candelilla từ Debo Akidamonne, do đó nhận được màu sắc thật sự của mình và Zyudenchi thật của mình khi cô giả Kyoryu Pink. Tất cả trong số họ sử dụng Zyuden Brave Finish trên Debo Akidamonne và Harudamonne, người mà đã được sử dụng làm lá chắn của cấp dưới. Theo dõi các Debo Monsters còn lại, tất cả các thành viên của Deboth quân cuối cùng đã tiết lộ bản thân và trình bày Luckyuro làm con tin của họ. Họ vô hiệu tất cả các Kyoryugers, thậm chí Candelilla và Luckyuro với Gaos ý định sử dụng các cảm xúc tiêu cực thu thập để khôi phục Thiên Chúa Deboth cho đến khi Arslevan back-đâm tất cả các cấp dưới của mình, tiết lộ họ như những con tốt của ông và ông là hiện thân thật sự hối tiếc Thiên Chúa Deboth của. Trước đó, ông đã bị xóa sổ những kỷ niệm của quá khứ Kyoryugers và quân deboth từ tất cả mọi người khi hấp thụ đồng chí của mình. Candelilla cuối cùng nhớ lại những nơi rất họ đứng ở là nơi sinh của Chúa Deboth. Arslevan mất Nhanh Nhanh Jyuro tưới lon Luckyuro và phát triển thành tỷ lệ khổng lồ như ông đã nghỉ của mình trong một cửa chiều. Dai-kun, người mà đã tailing họ tất cả cùng, nhảy vào cổng thông tin cũng như để ngăn chặn anh ta. Sau khi bỏ rơi bởi Arslevan, Gabutyra cứu ông và chuyển sang màu đỏ, để lộ màu sắc thật sự của mình. Gabutyra biến thành De Carnival Gun và sử dụng Zyudenchi Torin, nhờ đó mang ông ấy đến thời tổ tiên mình. Sau khi đến tháng 1 năm 2014, Arslevan gặp sức kháng cự với Zyudenryu và Kyoryu bạc và tím. Dai-kun gặp với sáu chính Kyoryugers qua, cuối cùng anh cũng nhớ đến lời của gia đình về Brave. Các Kyoryugers chuyển đổi sử dụng Gigant Kyoryuzin và bị trục xuất Arslevan trở lại tương lai, cũng đưa Dai-kun trở lại thời điểm thích hợp của mình. Trở lại năm 2114, Dai-kun tập hợp lại với đồng đội của mình và nhận Zyudenchi mình. Họ biến thành Kyoryugers và chiến đấu Arslevan và quân đội của ông như Candelilla hát giai điệu của trái đất. Đương đầu với Debo Yukidamonne và Natsudamonne, Kyoryu Red giả Kyoryu Red Carnival phương Tây và hoàn thành chúng với Zyuden Carnival Finish. Arslevan gặp cuối cùng của mình khi Kyoryugers triệu tập những người tiền nhiệm của họ và sử dụng Twelve Zyuden lớn Brave Finish. Trong năm 2014, các Kyoryugers hiện nay là điên khi biết sự tồn tại Deboth trong năm 2114, nhưng Daigo tâm sự rằng người kế nhiệm của họ sẽ chăm sóc chúng. Như Yayoi cố gắng phân tích cho ai Daigo sẽ kết hôn trong tương lai, Souji đã mắng Rin và bị đuổi ra khỏi quán cà phê người ta treo ra. Trong tương lai, trong khi Kyoryugers xem hoàng hôn, Gaos, Sneldo và Hoshigaron tiết lộ mình được sống, đã sống sót phá hủy Arslevan của. Khi họ từ giã họ, Kyoryugers vẫn không hề sợ hãi trong tầm nhìn của họ và cố gắng để tiếp tục di sản tổ tiên của họ. Sau khi các khoản tín dụng, các Kyoryugers nay cảm ơn khán giả đã ủng hộ trong cuộc chiến chống lại Deboth khi cũng hứa hẹn rằng họ sẽ gặp lại nhau một ngày nào đó. Dai-kun xuất hiện một thời gian ngắn để nói với người xem, ông sẽ thấy chúng trong 100 năm, trước khi Kyoryugers khác muốn khán giả của mình một lời chia tay chính thức. Tập. Các tập của Kyoryuger gọi là Brave (Dũng cảm)
1
null
Ministeria là một chi thuộc Eukaryota, sinh vật đơn bào nhỏ, ăn vi khuẩn. Dù nó là một Opisthokonta, nhưng nó không giống với bất kỳ loài Opisthokonta đã được công bố như Choanoflagellatea hay Animalia. Nó có thể cùng nhóm với "Capsaspora", một loài Opisthokonta khác chưa được xếp chắc chắn. Nó là một loài Opisthokonta duy nhất đã được biết đến không thể hiện các tế bào amip hoặc tế bào lagellatae.
1
null
Hữu Ngu (chữ Hán: 有虞) là một bộ lạc cổ đại trong lịch sử Trung Quốc, được ghi nhận tồn tại từ đời Đường Nghiêu đến hết đời nhà Thương. Địa bàn sinh sống của bộ lạc này ước đoán thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) ngày nay. Dấu ấn trong lịch sử. Theo huyền sử, bộ lạc này lần đầu được ghi nhận là xuất thân của Diêu Trọng Hoa - hậu duệ 7 đời đế Chuyên Húc - ông nổi tiếng là người hiếu thuận đến trời đất còn phải cảm động nên được vua Nghiêu trọng vọng phong thưởng cho đất Ngu, sau này vua Nghiêu già yếu nhường ngôi cho nên sử gọi ông là Ngu Thuấn. Sách Nhị thập tứ hiếu của Quách Cư Nghiệp đời nhà Nguyên có kể lại câu chuyện về vua Thuấn như sau: cha của Thuấn là một người rất hồ đồ nên thiên hạ gọi ông ta là Cổ Tẩu có nghĩa là ông già mù, mẹ đẻ Thuấn là Ốc Đăng chết sớm còn mẹ kế là người rất độc ác. Mẹ kế sinh được 1 người em trai tên là Tượng và 1 gái là Hệ, Tượng tính tình kêu ngạo nhưng lại được Cổ Tẩu cưng chiều và có phần hắt hủi ngược đãi Thuấn. Tuy nhiên Thuấn vẫn đối đãi với cha và mẹ kế cùng em khác mẹ rất tốt nên được ca ngợi là người có đức hạnh, Cổ Tẩu nghe lời dèm của vợ kế muốn trừ khử Thuấn bèn sai Thuấn đi cày ở Lịch Sơn. vùng núi này nổi tiếng có nhiều thú dữ chuyên ăn thịt người, khi Thuấn đến đó thì các loại voi, hổ, sư tử, gấu đều thi nhau cày bừa hộ Thuấn. Ngoài ra còn có các loại chim muông cũng xà xuống nhổ cỏ làm bờ cho Thuấn, Cổ Tẩu lại sai Thuấn đi đánh cá ở hồ Lôi Trạch - nơi này thường có sóng to gió lớn và nhiều loại thủy quái như: cá sấu, thuồng luồng. Khi Thuấn đến nơi thì sóng yên gió lặng, các loại thủy quái còn bắt cá đem đến thả lên tận thuyền cho Thuấn. Bấy giờ vua Nghiêu nghe dân chúng đồn đại muốn thử thách Thuấn nên mang hai con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh đến gả cho rồi xây dựng cho cả kho lương thực và cấp rất nhiều bò dê gia súc gia cầm, mẹ kế và em tham lam tìm cách ám hại Thuấn để chiếm số tài sản trên. Lần đó Cổ Tẩu bảo Thuấn lên sửa chữa mái nhà kho, khi Thuấn vừa leo đến nơi thì Tượng ở dưới lập tức phóng hỏa còn Cổ Tẩu đem thang cất đi. Thuấn bình tĩnh lấy hai chiếc mũ lớn che nắng đang đội trên đầu dùng hai tay cầm mũ vẫy nhảy xuống như chim hạ cánh nên không hề hấn gì, Cổ Tẩu thấy vậy liền sai Thuấn đi đào giếng. Khi Thuấn đã ở sâu dưới lòng đất thì hai cha con trên miệng giếng khuân đất đá hất xuống định đè chết Thuấn, không ngờ Thuấn đã nhanh trí đào sẵn một cái ngách rồi chui vào đó. Tiếp sau Thuấn đào thông lên mặt đất ngoi lên mà đi về nhà, về đến nơi Thuấn thấy cha con Tượng đang đắc ý tưởng đã chiếm được tài sản đang hân hoan phấn khởi. Thấy Thuấn bước vào hai cha con giật mình xin lỗi và từ đó không dám hại Thuấn nữa, sau đó Thuấn vẫn đối đãi với 3 người họ như lúc ban đầu. Tình hình nước Hữu Ngu sau thời đế Thuấn. Sau khi vua Thuấn nối ngôi Thiên tử thì con trai là Thương Quân lên thay cai trị nước Hữu Ngu, vua Thuấn trao lại ngai vàng cho vua Hạ Vũ thì nước Hữu Ngu vẫn tiếp tục tồn tại. Đến đời Ngu Tư làm vua thì nhà Hạ gặp phải loạn Hàn Trác, con trai của Đế Tướng là Thiếu Khang bị truy kích phải chạy trốn từ nước Hữu Nhung quê ngoại sang nước Hữu Ngu. Ngu Tư tạm thời giao cho Thiếu Khang giữ chức bào chính phụ trách việc quản lý lương thực, sau đó Ngu Tư lại gả con gái rồi cấp đất và giao cho 500 nô lệ để gây dựng cơ sở trung hưng nhà Hạ. Bấy giờ nước Hữu Ngu đã có "điền nhất thành chúng nhất lữ" nghĩa là đô thành nước này chu vi 10 dặm vuông, nô lệ nhiều nhất bằng 1 lữ đoàn ngày nay đều cấp cả cho con rể làm vốn liếng. Khi lực lượng đã đông đảo cơ sở vật chất đã đầy đủ Ngu Tư phối hợp cùng con rể đem binh đi đánh Hàn Trác, sau nhiều trận đánh phối hợp với quân của các nước Hữu Cách và Bá Minh cuối cùng liên quân đã đánh bại Hàn Trác và diệt tan các vây cánh là nước Quá và nước Qua thống nhất thiên hạ. Lại truyền đến đời Ngu Yên ở vào giai đoạn Trụ vương nhà Ân, trong khi vua Trụ bạo ngược mà nước Hữu Ngu vẫn chấp pháp theo khuôn mẫu đế Thuấn khiến lòng dân đều theo về nước ấy. Vua Trụ quy cho tội chống đối lại thiên tử nên huy động binh lực chinh phạt, cuộc chiến này khác nào trứng chọi đá chỉ trong mấy trận quân triều đình đã đánh bại và tiêu diệt nước này. Hậu duệ. Khi Chu Vũ Vương sai người đi tìm hậu duệ đế Thuấn để phong chư hầu thì gặp được Quy Mãn - con Ngu Yên, bấy giờ đã đổi họ để lẩn tránh sự truy sát của vua Trụ - bèn phong cho người này làm vua nước Trần để giữ hương hoả nhà Ngu. Đến giữa thời Xuân Thu, con thứ Trần Lệ công là Quy Hoàn chạy sang nước Tề đổi làm họ Điền được phong làm đại phu. Mấy đời sau hậu duệ của Điền Hoàn là Điền Hoà lật đổ Tề Khang công mà tự lập làm vua, đó chính là nước Điền Tề thời Chiến Quốc.
1
null
Likud Yisrael Beiteinu (tiếng Hebrew: הליכוד ישראל ביתנו, các phương tiện truyền thông Israel thường gọi là Likud Beiteinu, tiếng Hebrew: הליכוד ביתנו) là tên một liên minh bầu cử thành lập vào năm 2012 ở Israel giữa đảng trung hữu Likud và đảng cánh hữu Yisrael Beiteinu. Liên minh này đã tham gia cuộc bầu cử lập pháp Israel năm 2013. Ngày 25 tháng 10 năm 2012, vài ngày sau quyết định để giải tán Knesset thứ 18 và sau quyết định tổ chức tổng tuyển cử, thủ tướng Benjamin Netanyahu và bộ trưởng Bộ Ngoại giao Avigdor Lieberman đã triệu tập một cuộc họp báo chung, trong đó lần đầu tiên họ công bố rằng các bên tương ứng đã thành lập một liên minh để chuẩn bị cho cuộc bầu cử Knesset thứ 19 sẽ được tổ chức vào tháng 1 năm 2013. Bốn ngày sau đó, Uỷ ban Trung ương của Likud thông qua quyết định trên. Theo Lieberman, quyết định này đã được ra từ hai tháng trước khi được công bố. Ban đầu động thái này đã vấp phải sự phản đối từ nhiều thành viên Likud nổi bật, dẫn đầu là Michael Eitan, người gọi hành động lập liên minh là "sự phá hủy Likud". Tuy nhiên, sau khi Ủy ban Trung ương của Likud thông qua việc tạo lập liên mình thì Eitan phát biểu rằng ông chấp nhận quyết định của Ủy ban. Sau đó, Eitan cũng đánh mất cơ hội tham gia Knesset thứ 19 sau kết quả tệ hại trong cuộc bỏ phiếu sơ bộ của Likud trước đó khi chỉ xếp thứ 30, và tên ông này cũng không có trong danh sách liên minh tham gia tranh cử Knesset.
1
null
Heinkel He 118 là một loại máy bay ném bom bổ nhào của Đức. He 118 cạnh tranh với Junkers Ju 87 để được sản xuất. Nhưng "Luftwaffe" đã chọn Ju 87. Chỉ có một số lượng nhỏ được chế tạo, nó được Nhật sử dụng làm nguyên mẫu để chế tạo Yokosuka D4Y.
1
null
Junkers J 21 (định danh cho thị trường nước ngoài là T 21 và H 21) là một loại máy bay trinh sát, được thiết kế ở Đức vào đầu thập niên 1920, và được sản xuất ở Liên Xô tại nhà máy của Junkers ở Fili cho Không quân Liên Xô.
1
null
Vũ Phạm Quyết Thắng là một chính khách Việt Nam, nguyên Phó Tổng Thanh tra Chính phủ. Ông sinh ngày 12/12/1946 ông là chắt đích tôn của Tam Nguyên Thám Hoa Vũ Phạm Hàm, người làng Đôn Thư xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, nay là Hà Nội. Ông xuất thân từ gia đình nhân sĩ trí thức, bản thân đã kinh qua các trường học đạt đến học vị Tiến sĩ, trải nghiệm qua nhiều công tác: công nhân ngành cơ khí, giảng dạy ở bậc Đại học, cán bộ nghiên cứu khoa học, chuyên viên cao cấp trong công tác tư vấn, từng đảm đương là vụ trưởng vụ Tổng hợp những vấn đề kinh tế Xã hội của Văn phòng Chủ tịch nước trong 8 năm, chức vụ cuối cùng trước khi nghỉ hưu là Phó tổng Thanh tra Chính phủ.
1
null
Nam Xương Q-5, trong tiếng Anh là Nanchang Q-5 (mã hiệu phồn thể: 強-5, bính âm: Qiang-5, ký hiệu NATO: Fantan), hay còn được biết với tên A-5 của phiên bản xuất khẩu, là một loại máy bay cường kích của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, được nghiên cứu và sản xuất bởi Nhà máy Nam Xương (Trung Quốc). Loại máy bay này được thiết kế nhằm thực hiện các nhiệm vụ chi viện không quân trực tiếp. Thiết kế và phát triển. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từng sử dụng rất nhiều máy bay tiêm kích thế hệ thứ hai Mikoyan-Gurevich MiG-19 của Liên Xô cũ, với phiên bản nội địa của nó là Shenyang J-6 từ năm 1958. Tháng 8 năm 1958, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc yêu cầu phát triển một loại máy bay chiến đấu phản lực mới trong vai trò chi viện hỏa lực không quân. Dự án nghiên cứu máy bay tiêm kích-bom của Không quân Trung Quốc dự định sẽ tiếp tục chọn mẫu máy bay MiG-19 làm mẫu để thiết kế tương tự như chiếc Shenyang J-6 trước đây. Lu Xiaopeng, người thiết kế loại máy bay phản lực J-12, cũng chính là người đứng đầu dự án thiết kế loại máy bay này. Một phiên bản mới ra đời có tên là Qiangjiji-5 (máy bay cường kích thứ 5) có thân máy bay dài, diện tích dưới thân lớn giúp làm giảm lực kéo, cản của không khí; có 1 khoang chứa dài 4 m dưới bụng. Khe hút khí được đưa sang bên thân máy bay (các máy bay đời trước chiếc Q-5 đều có khe hút khí ở mũi) để tạo không gian ở trước mũi nhằm dự định đặt radar mục tiêu (nhưng nó lại không bao giờ được trang bị). Cánh mới có diện tích lớn hơn kết hợp với hình dạng cánh cụp. Q-5 sử dụng 2 động cơ phản lực WP-6 (sao chép động cơ Tumansky RD-9 của Liên Xô) tương tự chiếc Shenyang J-6, cho phép đạt tốc độ tối đa 1.195 km/h, tầm hoạt động 2.000 km. Nếu Q-5 tải 1.000 kg vũ khí trong thân và không mang bên ngoài cánh thì có thể đạt vận tốc siêu âm. Tuy nhiên, nếu có mang thùng nhiên liệu phụ thì nó chỉ đạt tốc độ dưới âm. Phiên bản thiết kế lại nhằm giảm chi phí vẫn có tốc độ cao nhưng chiếc Q-5 vẫn chỉ nhanh bằng MiG-19 và J-6 mà thôi, nhờ phần lớn vào hình dạng thân máy bay. Về vũ khí, Q-5 trang bị 2 khẩu pháo Type-23-2K cỡ 23mm sao chép từ pháo Nudelman-Rikhter NR-23 của Liên Xô, bố trí ở "gốc" cánh (100 viên mỗi khẩu). Q-5 thiết kế 10 giá treo bom, tên lửa, rocket bao gồm 3 giá treo ở dưới mỗi cánh, 2 giá treo kép (gồm 4 thanh treo) song song ở giữa động cơ hay chính là khoang vũ khí dưới bụng, với trọng tải tối đa 2.000 kg vũ khí. Ở nhiều máy bay thì khoang chứa vũ khí được lắp đặt thùng dầu phụ. Ngoài ra, thùng dầu phụ cũng có thể lắp dưới cánh ở phiên bản Q-5I. Nguyên mẫu Q-5 đầu tiên được hoàn thành vào năm 1960, nhưng do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc nên dự án bị hủy bỏ vào năm 1961. Mặc dù vậy, 1 đội trong nhóm thiết kế giữ cho dự án "sống sót" cho đến khi nó tái khởi động lại vào năm 1963, khi việc sản xuất đã được chuyển đến Nam Xương. Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên, cuối cùng cũng được thực hiện vào ngày 4/ tháng 6 năm 1965. Dòng Q-5A chính thức đi vào sản xuất năm 1969 và phi đội đầu tiên được giao hàng vào năm 1970. Nguyên mẫu Q-5 trang bị hệ thống điện tử "khá thô sơ", dự kiến ban đầu mũi máy bay chứa radar nhưng thực tế là không bao giờ được lắp. Trên máy bay có hệ thống liên lạc, la bàn vô tuyến, vô tuyến điện đo cao, kính ngắm quang học để ngắm bắn/ném bom. Hơn 1.000 máy bay đã được sản xuất trong đó có 600 chiếc được nâng cấp từ phiên bản Q-5A. Một số ít, có lẽ là vài chục chiếc Q-5A được thiết kế nâng cấp riêng nhằm có thể mang vũ khí nguyên tử. Chúng được cho rằng có khoang vũ khí riêng để đem bom nguyên tử. Một phiên bản tăng tầm bay mang tên Q-5I, được giới thiệu năm 1983, trang bị thêm thùng dầu phụ thay vì ở khoang chứa vũ khí mà Q-5I có thêm 2 giá treo ở dưới mỗi cánh để lắp đặt 2 thùng nhiên liệu. Một số máy bay này phục vụ với Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, được trang bị radar để dẫn đường các tên lửa chống hạm. Nâng cấp tiếp theo nhỏ bao gồm Q-5IA, với một hệ thống ngắm mục tiêu mới cho súng / bom và hệ thống điện tử hàng không, và Q-5II, với máy thu cảnh báo radar (RWR). Đến cuối thập niên 1980, Q-5 bắt đầu được xuất khẩu cho các nước khác như Pakistan, Bangladesh, Myanmar và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên với cái tên A-5. Kế hoạch nâng cấp tiêm kích-bom Q-5/A-5 dự kiến sử dụng thiết bị của phương Tây bao gồm hệ thống điều khiển máy bay cùng hệ thống tấn công mới nhưng phần lớn bị hủy bỏ sau Sự kiện Thiên An Môn. Mặc dù vậy, những mẫu máy bay này vẫn tiếp tục hoạt động, điển hình là phiên bản cải tiến hợp tác với Pháp Q-5K được trang bị thiết bị laze đo xa ở đầu mũi. Q-5 nâng cấp trở thành một loại máy bay ném bom hạng nhẹ, tuy nhiên hệ thống điều khiển/tấn công cùng với các thiết bị điện tử còn hạn chế so với các máy bay hiện đại. Trong những năm gần đây, PLAAF (Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc) đã bắt đầu chú trọng đến phiên bản mới hơn của Q-5, kết hợp một số công nghệ được phát triển trong Q-5M và Q-5K bị hủy bỏ. Q-5 giới thiệu được gắn ở mũi 1 trắc kính laser, một hệ thống laser dẫn đường cũng có khả năng được trang bị kể từ khi máy bay được cho là có thể mang bom dẫn đường laser. Các biến thể Q-5A được tin là có khả năng mang vũ khí hạt nhân. Q-5D là một nâng cấp với hệ thống điện tử hàng không mới, bao gồm mhệ thống HUD và một hệ thống định vị mới. Q-5E và Q-5F các phiên bản được báo cáo đang được hoạt động, mặc dù ít được biết về chúng tại thời điểm này. Một trong số chúng có thể có khả năng có hai chỗ ngồi đã được nhìn thấy trong một vài hình ảnh, mặc dù phiên bản hai chỗ ngồi có thể được chỉ định là Q-5J. Thông số kỹ thuật (Q-5D). Nguồn từ Một số vụ tai nạn. Nanchang Q-5 là một loại máy bay đã phục vụ hơn 40 năm trong Không quân Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tuy đã nâng cấp và sửa chữa nhiều lần nhưng nó không thể tránh khỏi các sự cố kỹ thuật khó khắc phục. Dự kiến trong tương lai gần thì Q-5 sẽ bị thay thể bởi tiêm kích-bom JH-7/FBC-1 của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
1
null
Trận Bretoncelles là một hoạt động quân sự trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Đức trong các năm 1870 – 1871, đã diễn ra vào ngày 21 tháng 11 năm 1870, tại Bretoncelles, thuộc tỉnh Loire, nước Pháp. Cuộc giao chiến này đã kết thúc với chiến bại của quân đội Pháp, trước một lực lượng thuộc quân đội Phổ dưới quyền chỉ huy của Friedrich Franz II, Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin, buộc người Pháp phải tiến hành một cuộc triệt thoái. Trận chiến tại Bretoncelles là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong cuộc tiến quân của Đại Công tước xứ Mecklenburg vào cuối năm 1870. Trận Bretoncelles đã bùng nổ tại một hẻm núi chật hẹp trong vùng đồi, cả hai bên đều có các sườn đồi dày đặc rừng và hiểm trở. Quân Pháp đã triển khai các khẩu đội pháo nhằm chế ngự cửa của hẻm núi, và họ đã khai pháo vào các đại đội tiên phong của một đội hình hàng dọc của quân Đức khi các đạo quân Đức này tiến vào hẻm núi. Tuy nhiên, người Đức ngay lập tức đã tung lực lượng kỳ binh của họ vào ứng chiến, đồng thời lực lượng pháo binh Đức cũng nhập trận. Không lâu sau đó, các khẩu đội pháo của quân Pháp ở bên phải thung lũng bị câm tịt, và quân Pháp đã bị đánh thiệt hại nặng. Các khẩu đội pháo của Pháp di chuyển sang hướng đối diện, nơi cuộc giao chiến vẫn còn tiếp diễn. Đằng sau các khu rừng che phủ phần thấp hơn của sườn đồi là một khu vực có nhiều cánh đồng và rào cản; và một khi quân Pháp bị đánh đuổi ra khỏi vị trí phòng ngự đầu tiên của mình, họ kéo nhau đến khu vực này. Tai đây, họ dựa vào mọi bụi rậm hoặc là những nơi ẩn nấp khác mà họ có thể tìm thấy, và cứ thế họ bắn thật nhanh vào đối phương, trong khi những người lính Đức đang tiến qua những khoảng đất rộng mở, và sau đó quân Pháp sẽ rút xuống vị trí thuận lợi tiếp theo của mình. Cuộc giao tranh lẻ tẻ này đã tiếp tục diễn ra trong một khoảng thời gian dài, và đôi khi quân Pháp tiến hành các cuộc cầm cự trong vòng 10 phút hoặc là 45 phút. Nhưng cuối cùng, một cuộc tấn công mạnh mẽ của một lực lượng đáng kể của Đức đã tiến xuống ngôi làng từ các sườn đồi ở phía sau, và áp đảo hoàn toàn vị trí của quân Pháp. Nhiều binh sĩ Pháp đã từ bỏ khí giới và hội tụ ở trong các vườn cây ăn quả, để trở thành tù binh một khi quân Đức kéo đến. Quân chủ lực của Pháp đã tiến hành rút chạy theo hướng Nogent-le-Rotrou. Tuy nhiên, trong vòng từ một đến hai tiếng đồng hồ sau đó, những người thắng trận đã tiếp tục nã pháo về phía họ. 250 quân Pháp bị quân đội Đức bắt làm tù binh, và trong vòng ba ngày, quân Đức đã thu được 600 quân Pháp về tay mình. Một số tù binh Pháp tạm thời bị giam cầm trong một nhà thờ cổ kính ở Bretoncelles, và một số người trong đó chỉ là những đứa trẻ. Nhìn chung, tất cả mọi tù binh này đều là những người vốn đã không hề có ý định gia nhập quân ngũ của Pháp. Một số cuộc giao tranh nhỏ khác cũng xảy ra trong các chiến dịch của Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin, và phần thắng thuộc về quân đội Đức.
1
null
My Beautiful Dark Twisted Fantasy là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ hip hop người Mỹ Kanye West, được phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 2010 bởi hãng Roc-A-Fella Records. Sau một thời gian ngừng hoạt động âm nhạc, West đã thực hiện đĩa nhạc nhờ sự đóng góp chung của tập thể gồm có anh cùng nhiều nhạc sĩ và nhà sản xuất khác cho phần âm nhạc của album. Các phiên thu âm diễn ra chủ yếu tại phòng thu Avex Recording ở Honolulu, Hawaii trong thời gian từ 2009 tới 2010. Phần sản xuất được thực hiện bởi West và một số nhà sản xuất khác, trong đó có Jeff Bhasker, RZA, No I.D. và Mike Dean. Được các cây bút âm nhạc ghi nhận bởi sự đa dạng các yếu tố, "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" kết hợp chất liệu âm nhạc từ những tác phẩm trước đây của West, gồm có những nhân tố nhạc soul, baroque, nhạc điện tử, và giao hưởng. Album viết về những chủ đề như sự thừa thãi và nổi tiếng, với những ca từ thể hiện rõ ràng những thái cực về cảm xúc, cái tôi, sự lưỡng lự, và những ám chỉ tới việc sử dụng rượu và chất gây nghiện. Album cũng khai thác chủ đề về văn hóa tiêu thụ, chủng tộc, và chủ nghĩa duy tâm của giấc mơ Mỹ. Album ra mắt ở vị trí đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Hoa Kỳ, với doanh số 496.000 bản trong tuần đầu tiên. Nó nằm trên bảng xếp hạng trong 32 tuần và cũng lọt vào tốp 10 ở bảng xếp hạng nhiều quốc gia khác. "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" được quảng bá nhờ những ca khúc miễn phí được phát hành trên website GOOD Fridays của West, và bốn đĩa đơn, bao gồm "Power", "Monster", và "Runaway" đã giành thứ hạng cao trên "Billboard" Hot 100, cùng bài hit quốc tế "All of the Lights". Album đã nhận được chứng nhận bạch kim bởi RIAA và cho đến tháng 2 năm 2012 đã bán được 1.254.000 bản trên toàn nước Mỹ. Album cũng nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ giới phê bình, một trong số này đã xem đây là tác phẩm xuất sắc nhất từ trước đến nay của West. Các nhà phê bình đã ca ngợi phạm vi âm nhạc đầy tham vọng, phong cách sản xuất phong phú, và những chủ đề được tách làm đôi trong album của West; và nhiều nhà báo đã đồng thuận chọn đây là album xuất sắc nhất năm 2010 trong các danh sách cuối năm ở các tạp chí. Dù vậy, album đã bị bỏ qua tại hạng mục Album của năm ở giải Grammy, một hành động đã nhận sự chỉ trách nặng nề của cộng đồng báo chí âm nhạc. Bối cảnh. Album được thai nghén trong thời gian West tự buộc mình sống lưu vong ở Oahu, Hawaii, sau một thời gian tranh cãi về pháp lý và hình ảnh công chúng khi giữa lúc đang ở trong trại thái căng thẳng tâm lý do làm việc quá sức. West sau đó nói rằng sự mệt mỏi do làm việc quá sức đã dẫn đến sự bùng phát mà đã gây tranh cãi của anh tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2009, cùng sự ghê tởm của anh với phản ánh kéo theo của giới truyền thông, và việc anh tạm nghỉ ngơi khỏi công việc thu âm. Vì những phản ứng tiêu cực sau sự kiện giải MTV Vieo Music Awards, chuyến của anh với Lady Gaga để quảng bá cho album trước, "808s & Heartbreak", cũng bị hủy bỏ vào ngày 1 tháng 10 năm 2009 mà không có lý do. Cái tên ban đầu của album được biết đến là "Good Ass Job" và dự kiến là "Dark Twisted Fantasy". Một nghệ sĩ của nhóm GOOD Music, Big Sean là người thứ hai công bố tựa đề album là "Good Ass Job". Vào 24 tháng 7 năm 2010, trên blog của Kanye West, một biểu ngữ xuất hiện với dòng chữ "My Dark Twisted Fantasy Trailer". Vào ngày 28 tháng 7, West thông báo qua tài khoản Twitter chính thức mới của anh rằng: "Album sẽ không còn gọi là 'Good Ass Job' Tôi đang cân nhắc giữa hai cái tên vào lúc này." Tựa đề chính thức của album, "My Beautiful Dark Twisted Fantasy", được công bố vào 5 tháng 11 năm 2010. Ghi âm. Hợp tác. Những phiên ghi âm chủ yếu diễn ra tại phòng thu Avex Recording Studio ở Honolulu, Hawaii, ngoài ra còn tại Glenwood Place Studios ở Burbank, California, và Electric Lady Studios cùng Platinum Sound Recording ở thành phố New York. Hãng đĩa Def Jam của anh đã thông báo rằng West đã tiêu tốn tầm 3 triệu USD chi phí từ hãng đĩa cho việc thu âm album. Anh về sau đã giải thích về quá trình thu âm ban đầu cho Noah Callahan-Bever, tổng biên tập tờ "Complex" và người bạn tri giao của West vào thời điểm đó, và Callahan-Bever đã lý giải rằng: "anh ấy ẩn náu tại Hawaii và đem những nhà sản xuất và nghệ sĩ ưa thích của anh để làm việc và tạo cảm hứng cho công việc thu âm của anh. Trại [sáng tác] rap!" ("Rap Camp!"). Những nghệ sĩ mà từng được đưa tin là có tham gia trong các phiên thu âm cho "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" bao gồm Raekwon, RZA, Pusha T, Rick Ross, Charlie Wilson, Big Sean, CyHi Da Prynce, Swizz Beatz, Dwele, Nicki Minaj, T.I., Drake, Teyana Taylor, Common, Jay-Z, Eminem, Lil Wayne, John Legend, Fergie, Rihanna, The-Dream, Ryan Leslie, Elton John, M.I.A., Justin Vernon, Seal, Beyoncé Knowles, Kid Cudi, Mos Def, Santigold, Alicia Keys, Elly Jackson, và Tony Williams. Những nhà sản xuất tham gia trong quá trình ghi âm album của West gồm Q-Tip, RZA, DJ Premier, Madlib, và Pete Rock. Trong đó, Madlib nói rằng anh đã sáng tạo ra năm đoạn nhịp ("beat") cho album, nhưng DJ Premier về sau tiết lộ rằng những đoạn beat đó cuối cùng đã bị loại bỏ. Quá trình thu âm. West, người đã từng ghi âm tại phòng thu Avex cho album "808s & Heartbreak", đã đặt trước các phòng của phòng thu vô thời hạn để làm việc với "My Beautiful Dark Twisted Fantasy". Dựa theo Noah Callahan-Bever, người đã thăm West giữa các phiên thu âm, rằng: "khi anh ấy gặp phải khó khăn cho ý tưởng sáng tạo... anh ấy đi tới một căn phòng khác để xúc tiến thực hiện một ca khúc khác". Anh thường làm việc thâu đêm và chợp mắt một ít tại phòng thu, và những kĩ sư ghi âm cũng có mặt sau dàn mix 24 giờ một ngày. Trước khi thu âm vào buổi chiều, West và hầu hết ê-kíp của anh chơi bóng rổ kiểu 21 với những người địa phương của YMCA Honolulu để giải trí. West đặt bữa sáng vào mỗi buổi sáng tại căn nhà của anh ở Diamond Head cho cả ê-kíp của anh. Trong suốt quá trình phát triển album, West khuyến khích các nhà sản xuất và nhạc sĩ khác cân nhắc về âm nhạc của album thông qua các buổi thảo luận và đóng góp của họ tại phòng thu. Khi quan sát những tranh luận của họ trong chuyến thăm của mình, Callahan-Bever nhận xét: "Dù những nhân vật nặng ký tụ tập lại, những cái tôi hiếm khi nào va chạm nhau; các buổi nói chuyện được mở rộng, làm sáng tỏ và năng suất [...] chúng tôi tới đây để đóng góp, thách thức, và tạo cảm hứng". Trong một phỏng vấn với Callahan-Bever, Q-Tip mô tả quá trình này như "âm nhạc bởi hội đồng" và giải thích về tầm quan trọng của nó tới quá trình thu âm và tinh thần làm viêc của West: Pete Rock nói về những trải nghiệm trong phòng thu với West, "Cậu ta hoàn toàn là hip-hop, gốc gác của cậu ta, tôi đã thử cậu ta ở vài chỗ... Cậu ta đem nó lên một đẳng cấp mới điều mà thực tuyệt. Cậu ấy có những nhạc sĩ kia va ca khúc này, họ chơi [nó] quanh phần beat vụng về bé nhỏ của tôi và biến nó thực sự [lớn]. Tôi thích cách cậu ấy làm việc — Cậu ta đi đến một phòng này, viết nên những nhịp điều rồi chuyển sang một đoạn beat khác, và đi sang một phòng khác để làm một thứ khác — Tôi thích thứ mà cậu ấy đã làm". Sáng tác. Phong cách âm nhạc. Phần âm nhạc của album đã được nhiều cây bút ghi nhận là có sự kết hợp những yếu tố từ bốn album trước của West. Simon Vozick-Levinso của "Entertainment Weekly" đã nhận thấy những yêu tố này "tất cả đều tái hiện ở những điểm khác nhau", bao gồm "chất soul sang trọng của "The College Dropout" năm 2004, chất giao hưởng hoành tráng của "Late Registration", sự bóng bẩy của "Graduation" 2007, và âm thanh điện tử cạn kiệt về cảm xúc của "808s & Heartbreak" năm 2008". Sean Fennessey trên trang "The Village Voice" viết rằng West "[đã] hấp thụ tài năng của những cộng sự do anh lựa chọn, và đôi khi nâng tầm họ lên", và ghi nhận rằng "tất cả các nghệ sĩ khách mời đều cảm nhận được thời điểm và đi lên đúng lúc... kể cả Fergie". Ryan Dombal trên tạp chí Pitchfork Media gọi album là một "đỉnh cao" so với những tác phẩm trước đây, nói rằng "về mặt âm nhạc, [album] chủ yếu tiếp diễn nơi mà "Graduation" năm 2007 để lại trong xu hướng hip-hop 'maximalist', với những khoảnh khắc của phần sample gợi nhớ kỉ niệm của "The College Dropout" và sự tiếp diễn liền mạch của phần hòa tấu baroque của "Late Registration"". Trên Allmusic, Andy Kellman cũng coi đây là tác phẩm "đỉnh cao" trong những album của West, khi chỉ ra rằng "nó không chỉ rút ra những đặc điểm của mỗi [album]. 13 nhạc phẩm [...] đôi khi hòa trộn chúng lại với nhau đồng thời. Chính vì lẽ đó, những lớp âm thanh và cảm xúc thường rất khó khắn để có thể bẩy chúng tách ra và liệt kê chúng". Kellman cũng chỉ rõ "các yếu tố tương phản nhau và sự lãng phí điên cuồng" mà tiêu biểu là ở bài "All of the Light". Trong khi đó, nhà bình luận Robert Christgau nhận xét rằng phần âm nhạc đã thoát khỏi sự "giản dị" của "The College Dropout" và "Late Registration" để tới sự "hùng vĩ" và "sự giàu có về mặt âm thành của nhà vô địch trở lại phong độ đỉnh cao". Ca từ. Chủ đề album chủ yếu xoay quanh sự dư thừa và sự nổi tiếng, và đồng thời cũng đề cập tới sự sa ngã, sự hùng vĩ, chủ nghĩa thoát ly, sự giàu có, sự lãng mạn, quan hệ tình dục, tự phóng đại và tự nghi ngờ bản thân. Andrew Martin của tạp chí Prefix nhận thấy điểm đặc biệt của album là "nhiều hơn là tốt hơn" ("more is more") và mô tả nó như "những suy ngẫm về sự nổi tiếng", trong đó West chỉ trích những gánh nặng mà danh tiếng mang lại. "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" cũng có đề cập rõ ràng đến việc sử dụng rượu và chất gây nghiện nhiều hơn các album trước của West. Nathan Rabin của "The A.V. Club" mô tả album là "hài hước một cách u ám, suy xét nội tâm một cách táo bạo, và ám ảnh bởi sự nổi tiếng một cách đặc trưng", nhận thấy sự "hưng cảm dâng cao và trầm cảm xuống thấp" trong những dòng ca từ của West. Nhà phê bình âm nhạc Sean Fennessey so sánh cấu trúc chủ đề của album với một vở bi kịch Hy Lạp, và rằng "mọi thứ đều đi đến sụp đổ, và [...] nó bị sụp đổ bởi một người phụ nữ". Cây bút Ann Powers diễn giải về chủ đề nổi bật trong album của West là "tiếng kêu gào mệt mỏi của một người luôn luôn mới trong thành phố, theo đuổi bất cứ mục tiêu hay cô gái nào mà đang ở trong một căn phòng, được thúc đẩy bởi những tiếng vang không ngừng nghỉ của nền văn hóa tiêu thụ, nhưng cuối cùng vẫn không thỏa mãn". Robert Christgau nhận thấy những chủ đề về sự bất an và sự lưỡng lự trong album chính là "trái tim [của West], thông điệp của anh ta, và lý do mà anh ta vô cùng chính thống", trong đó những ca khúc như "Hell of a Life" hay "Runaway" là những ví dụ tiêu biểu. Đón nhận. Thương mại. Album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" 200, với doanh số trong tuần đầu tiên tại Mỹ là 496.000 bản. Đây chính là album quán quân thứ tư liên tiếp của West tại Hoa Kỳ, và album có doanh số bán trong một tuần cao thứ tư của năm 2010; Trong khi đó, với 224.000 bản kĩ thuật số bán ra, đĩa nhạc cũng được ghi nhận là album tải kĩ thuật số có doanh số tuần cao thứ tư trong lịch sử. Album cũng leo lên vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng Top R&B/Hip-Hop Albums, Rap Albums, và Digital Albums của "Billboard". Vào ngày 11 tháng 1 năm 2011, "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" nhận được chứng nhận bạch kim bởi RIAA, do đã bán được hơn một triệu bản tại Hoa Kỳ. Album đã nằm trên "Billboard" 200 trong tổng cộng 32 tuần, và cho tới tháng 2 năm 2012, đã bán được tổng cộng 1.254.000 bản tại Mỹ, dựa theo thống kê của Nielsen SoundScan. Tại Canada, đĩa nhạc cũng leo lên đứng đầu bảng xếp hạng Canadian Albums Chart, với con số bán ra tuần đầu là 29.000 đĩa. Tại Vương quốc Anh, album ra mắt ở vị trí số 16 trên UK Albums Chart, và nằm tại đây trong 6 tuần. Vào 10 tháng 12 năm 2010, "My Beautiful Dark Twisted Fantasy" nhận được chứng nhận bạc do Hiệp hội Công nghiệp Đĩa hát Anh (BPI) trao tặng. Ở Úc, album lọt vào bảng xếp hạng ARIA Top 50 Albums ở vị trí số 6 và đạt được vị trí số hai trên Top 40 Urban Albums, và cũng nhận được chứng nhận bạch kim trao bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Album cũng lọt vào tốp 10 trên bảng xếp hạng của New Zealand, Đan Mạch, Thụy Sĩ, tốp 20 tại Ai Len, Na Uy, Đức, Thụy Điển, Hà Lan, đồng thời cũng đạt những vị trí khác trên bảng xếp hạng của Bỉ, Hy Lạp, Pháp, México, Phần Lan, và Tây Ban Nha.
1
null
Trận Thermopylae là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử, là một cuộc chạm trán giữa các thành bang Hy Lạp, dưới sự dẫn dắt của Leonidas I xứ Sparta và Đế quốc Ba Tư Cổ đại dưới sự chỉ huy của Xerxes Đại đế kéo dài trong khoảng ba ngày. Trận đánh diễn ra cùng một thời điểm với trận hải chiến Artemisium vào tháng 8 hoặc tháng 9 năm 480 TCN, tại hẻm núi Thermopylae ("Cổng lửa"). Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư là một hành động đáp trả lại cuộc xâm lược lần đầu tiên đã thất bại sau khi bị quân đội Athens đánh tan tác trong Trận Marathon mười năm về trước. Để chuẩn bị tái xâm lược Hy Lạp, Xerxes đã tập hợp được một đội quân và lực lượng khổng lồ. Vị tướng người Athens Themistocles là người đã đề xuất đánh chặn bộ binh và tàu chiến của Ba Tư tại Thermopylae và Artemisium. Khoảng 7000 quân Hy Lạp tiến quân lên phía bắc để chặn đánh tại hẻm núi vào mùa hè năm 480 TCN. Theo các nhà sử học thời cổ đại, số lượng quân Ba Tư là nhiều hơn 1 triệu, nhưng thống kê ngày nay nhỏ hơn nhiều (có nhiều kết quả trong phạm vi 70.000-300.000 được đưa ra từ nhiều học giả khác nhau). Quân đội Ba Tư đến đây vào khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9. Có tới ba trận đánh lớn diễn ra trong bảy ngày, giữa quân Hy Lạp và Ba Tư trước khi tạo nên một cuộc tử chiến tiêu biểu nhất trong lịch sử. Trong vòng hai ngày, một đạo quân nhỏ bé dưới sự chỉ huy của vua Leonidas I của Sparta đã chặn con đường duy nhất mà quân Ba Tư có thể vượt qua để tiến xuống phía Nam. Sau ngày thứ hai, một người tên là Ephialtes đã phản bội lại quân Hy Lạp bằng cách chỉ một lối khác tiến ra phía sau quân Hy Lạp. Sau khi biết mình bị đánh úp, Leonidas điều lại tất cả các quân đội Hy Lạp và chỉ giữ lại 300 quân Sparta, 700 quân Thespiae và 400 quân Thebes hoặc có lẽ là vài trăm người nữa bên cạnh để chống lại cuộc tấn công, phần lớn đều bị giết và chỉ có một số ít chạy thoát được. Sau sự kiện này, hải quân Hy Lạp dưới sử chỉ huy của chính trị gia Themistocles đang chặn hải quân Ba Tư ở Artemisium đã nhận được tin rằng quân đội đã thất thủ tại Thermopylae. Biết rằng phòng tuyến Thermopylae-Artemisium đã vỡ, người Hy Lạp đã quyết định rút lui về Salamis. Quân đội Ba Tư tràn vào Boeotia và cướp phá thành Athens, tuy nhiên cư dân Athens đều đã được di dời đi nơi khác. Hạm đội Hy Lạp đã chuẩn bị cho một chiến thắng quyết định trước hạm đội Ba Tư, và họ đã thực hiện được điểu này trong trận Salamis diễn ra cùng tháng. Sau thất bại, do sợ bị mắc kẹt tại châu Âu, bị đe dọa bởi thiếu lương thực và bệnh tất, Xerxes đã dẫn phần lớn đại quân quay trở lại châu Á, chỉ để Mardonius cùng khoảng 300.000 quân (theo Herodotus) hoặc 70,000–120,000 (thống kê ngày nay) ở lại để chiếm nốt các vùng đất còn lại của Hy Lạp. Tuy nhiên, một năm sau đó, quân đội Ba Tư đã bị đánh bại trong trận Platea (479 TCN), và bắt buộc phải hủy bỏ cuộc xâm lược này. Cả văn học cổ đại và hiện đại đều thường dùng trận Thermopylae làm ví dụ cho sức mạnh của một đội quân yêu nước, chiến đấu vì dân tộc vì quốc gia. Việc thực hiện cuộc phòng thủ tại Thermopylae là cũng là một ví dụ về cách sử dụng nhân lực hiệu quả, cách vận dụng địa hình hiểm làm chiến trường và đã trở thành một biểu tượng của lòng dũng cảm chống lại nghịch cảnh. Sử liệu. Phần lớn các nguồn chủ yếu về cuộc chiến giữa Hy Lạp và Ba Tư đều xuất phát từ các tác phẩm Herodotus. Tuy nhiên, việc ông gọi người Ba Tư là "rợ" đã khiến tác phẩm "Xerxes" của Dennis Abrams xem ông thiên vị quê cha đất tổ Hy Lạp của ông. Nhà sử học Sicilia Diodorus Siculus cũng nhắc đến khá nhiều về cuộc chiến này trong tác phẩm "Bibliotheca Historica" của ông trong thế kỷ 1 TCN. Tuy nhiên ông cũng đã tham khảo các tác phẩm của Ephorus, một sử gia Hy Lạp thời kỳ trước. Các phẩm này đều có nhiều điểm giống với những tác phẩm của Herodotus. Cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư cũng được mô tả ít chi tiết hơn từ các tác phẩm của một số sử gia khác thời cổ đại bao gồm Plutarch, Ctesias của Cnidus, và được nhắc đến trong nhiều vở kịch khác nhau, tiêu biểu là "Persai" (Πέρσαι, "Những người Ba Tư"), một vở kịch của nhà soạn kịch vĩ đại Aeschylus. Nhiều bằng chứng khảo cổ, chẳng hạn như các cột Serpent (nằm trong trường đua Hippodrome, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), cũng đã xác nhận nhiều chi tiết cụ thể mà Herodotus đã từng đưa ra trong các tác phẩm của mình. Bối cảnh. Vào năm 551 TCN, vua xứ Ba Tư là Cyrus Đại Đế đánh đổ "thiên triều" của ông là Đế quốc Media. Ông lên ngôi Hoàng đế của Ba Tư và Media, khởi lập Đế quốc Ba Tư. Với công cuộc bành trướng của mình, ông chinh phạt các Đế quốc giàu có và hùng mạnh như Lydia và Babylon, đưa Đế quốc Ba Tư trở thành đế quốc rộng lớn nhất thế giới thời đó. Sau khi kinh đô Sardis của xứ Lydia thất thủ vào năm 547 TCN, các thành bang Hy Lạp lân cận cũng đầu hàng vị "Vua của các vị vua". "Vua của các vị vua" Cambyses II lên nối ngôi vào năm 530 TCN, ông hoàn tất công cuộc bành trướng của vua cha, tiến hành chinh phạt xứ Ai Cập. Lúc vua Darius I lên ngôi "Vua của các vị vua" vào năm 522 TCN, ông thừa hưởng một Đế quốc vô cùng rộng lớn, trong đó có "toàn bộ châu Á". "Vua của các vị vua" Darius I tích cực củng cố và xây dựng đất nước, tiến hành những cải cách lớn lao. Ông cũng tiếp tục công cuộc mờ mang bờ cõi và gặt hái nhiều chiến công hiển hách, dẹp tan các cuộc nổi dậy ở xứ Media và xứ Babylon. Sau những năm tháng chinh phạt của Đế quốc Ba Tư, đang trong thời kỳ thái bình thịnh trị thì ông hay tin dữ. Nhân dân Ionia nổi dậy chống lại sự thống trị của ông, lúc đó là cuối triều đại lâu dài và thành công của ông. Được sự hỗ trợ của thành bang Athena, tỉnh Lydia. Nhận biết được cuộc nổi dậy này sẽ ảnh hướng đến đế chế của mình, Darius lên kế hoạch trừng phạt những người tham gia hoặc có đóng góp chút ít vào cuộc khởi nghĩa này. Darius cũng nhận thấy cơ hội để bành trướng đế chế của mình vào thế giới Hy Lạp cổ đại ngang bướng. Một chuyến thám hiểm vào sâu đất Hy Lạp dưới sự chỉ huy của Mardonius năm 492 TCN để dò la các ý định của Hy Lạp trong ý đồ tái chinh phục Thrace, và buộc Macedonia để trở thành một vương quốc chư hầu của Ba Tư. Darius đã cho gửi sứ giả đến tất cả các thành bang Hy Lạp vào năm 491 TCN yêu cầu họ dâng một món quà "rất đặc biệt", 'đất và nước'. Đã có một cuộc biểu tình vào cuối năm trước, phần lớn các thành bang Hy Lạp đều phải chấp nhận theo yêu cầu. Tuy nhiên, tại Athena, sứ giả Ba Tư đã bị tra khảo và sau đó bị xử tử bằng cách ném vào một cái giếng ở Sparta. Điều này có nghĩa rằng Sparta cũng phải góp phần trong cuộc chiến tranh với Ba Tư. Phẫn nộ trước hành động khiêu khích này, Darius ra lệnh hai vị tướng Datis và Artaphernes mang theo một đội quân tấn công Naxos trong năm 490 TCN, trước khi nhận được thư đầu hàng của Cycladic. Đại quân sau đó tiến về phía Eretria và bao vây thành phố. Quân đội Ba Tư đã cướp bóc thành Eretria cách tàn nhẫn. Cuối cùng, đại quân hướng đến Athena, hạ trại tại vịnh Marathon, tại nơi nó quân Ba Tư phải đối mặt với một đội quân người Athena đông hơn rất nhiều. Trong trận đánh tại Marathon, người dân Athena đã giành một chiến thắng quyết định, bắt buộc quân Ba Tư phải rút lui về châu Á. Sau đại bại, Darius bắt đầu tập hợp một đội quân mới mà ông dự định dùng họ để chinh phục hoàn toàn đất Hy Lạp. Tuy nhiên sự việc diễn ra không được như mong muốn, năm 486 TCN, nhân dân Ai Cập đứng lên phất cờ khởi nghĩa, điều này khiến Darius phải gạt ý đồ tái xâm lước Hy Lạp sang một bên. Nhưng Darius đã đột ngột qua đời trong khi chuẩn bị tiến vào Ai Cập, và ngai vàng Ba Tư được truyền cho con trai của ông là Xerxes I. Xerxes nghiền nát cuộc nổi dậy tại Ai Cập, và rất nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc xâm lược của Hy Lạp lần thứ hai. Và đây sẽ là một cuộc xâm lược quy mô đầy đủ, nó đòi hỏi kế hoạch lâu dài, và đi song song là chế độ cưỡng bách tòng quân. Xerxes đã quyết định rằng Hellespont sẽ là cầu nối cho phép quân đội của mình tiến đến châu Âu, và một kênh đào được đào qua eo núi Athos (một hạm đội Ba Tư đã bị phá hủy tại đây năm 492 TCN). Những điều này đều thể hiện tham vọng rất lớn của Xerxes I, nó vượt quá bất kỳ các quốc gia đương thời khác. Đầu năm 480 TCN, các chế phẩm đã hoàn tất, và quân đội Xerxes đã tập trung tại Sardis để chuận bị cuộc hành quân hướng tới châu Âu, bằng cách đi trên hai cầu phao tại Hellespont. Dạo đầu. Quân Ba Tư dường như đã vượt qua Thrace và Macedonia. Tin tức về quân Ba Tư được một điệp viên Hy Lạp thông báo trong tháng tám. Ở thời điểm này trong năm tại Sparta, người lãnh đạo "de facto" (trên thực tế) của liên minh đang tham gia vào lễ hội Carneia. Theo phong tục Sparta, trong lễ hội Carneia không ai được phép xuất quân. Cũng vì luật này, mà người Sparta đã không tham gia vào trận đánh tại trận Marathon (490 TCN) vì đến muộn. Và đây cũng là thời điểm Đại hội Olympic diễn ra, và trong thời gian này tất cả các quốc gia kể cả đang giao chiến với nhau cũng phải đình chiến, và nếu phạm luật thì điều này có nghĩa là phạm thánh. Mặc dụ chiến sự cấp bách, nhưng phần lớn các chính trị gia đều ngăn cản không cho đức vua Leonidas I đem đại quân đi. Vì thế Leonidas chỉ cùng 300 cận vệ Hippeis-tất cả những gì ông được phép mang theo bên mình. Cùng với đó là một số lượng lớn hơn quân tiếp viện, bao gồm 1.000 quân Phocea, được lấy từ Lacedaemon (bao gồm khá nhiều "heílotes"). Trong cuộc hành quân này, cố gắng duy nhất là thu thập càng nhiều lính người Hy Lạp khác trên đường đi càng tốt, và điều lớn hơn nữa là sự tham gia của đại quân Sparta. "Leonidas dẫn theo 300 quân đội chính quy tinh nhuệ, để tầm nhìn của họ có thể khuyến khích quân đội miền Nam, giúp chúng dám đấu tranh và ngăn chúng đầu hàng. Ngoài ra, lực lượng tổng cộng trong trận này của Đại Hy Lạp vào khoảng 4 tới 5 ngàn quân. Đội quân này phải chiến đấu với số lượng khổng lồ chiến binh có vũ trang của quân Ba Tư.— Trong truyến thuyết về Thermopylae được Herodotus nhắc đến, vào đầu năm, những người đứng đầu Sparta đã đến gặp những nhà tiên tri ở một ngôi đền tại Delphi. Những nhà tiên tri đã đưa ra một lời sấm rằng:"Tự quyết định số phận mình, tập hợp người dân Sparta ở khắp mọi nơi," "Hoặc thành phố nổi tiếng tuyệt với của các ngươi sẽ bị chôn vùi bởi những người con Perseus" "Hoặc, nếu có được không, toàn bộ đất Lacedaemon" "Phải thương tiếc cái chết của một vị vua của nhà Heracles," "Mặc dù sức mạng của những con sư tử hay bò cũng không giữ được chân ông" "Sức chống sức; chỉ dành cho người có sức mạnh của thần Zeus" "Chẳng ai biết được một trong hai có sức mạnh này." Herodotus đã nhắc về Leoniadas, khi nghe lời sấm, ông đã tin rằng mình sẽ chết vì không đủ lực lượng để giành được một chiến thắng, và ông đã quyết định truyền ngôi cho con trai của mình. Quân đội Sparta được tăng cường trên đường đi bởi các đội quân từ nhiều thành bang khác nhau gia nhập và con số này đạt đến 7000 (xem phía dưới) khi họ đặt chân đến Thermopylae. Leonidas cho quân cắm trại và phòng thủ tại nơi hẹp nhất của hẻm Thermopylae. Trước đây, những người dân trong thành phố Phocis đã cho xây dựng một bức tường phòng thủ tại nơi này. Trong thời gian ở đây, Leonidas nhận được tin từ người dân địa phương rằng, có một lối mòn trên núi dẫn đến phía sau và quân Ba Tư hoàn toàn có thể dùng con đường này để đành úp người Sparta với điều kiện họ có biết đến nó hay không. Leonidas đã cho 1.000 quân trú ở trên núi để đề phòng bất trắc. Cuối cùng giữa tháng tám, người Ba Tư đã tiếp cận đến vịnh Maliac. Việc quân Ba Tư đặt chân đến Thermopylae khiến người Hy Lạp phải tổ chức một cuộc họp hội đồng. Nhiều người Peloponnesus ủng hộ việc rút về eo đất Corinth, lối vào bán đảo Peloponnesus, và chặn đứng quân Ba Tư tại đây. Tuy nhiên những người đến từ Phocis và Locris do ở gần khu vực này đã bất bình và ủng hộ việc phòng thủ tại Thermopylae khiến hai bên xảy ra ẩu đã. Leonidas trấn áp nỗi lo ngại của mọi người bằng cách quyết định phòng thủ tại Thermopylae. Xerxes đã cho gửi sứ giả đến để đàm phàn với Leonidas. Người Hy Lạp sẽ được sống tự do với danh hiệu "Những người bạn của dân chúng Ba Tư", và hơn thế nữa, họ sẽ được tái định cư trên những vùng đất mà tổ tiên họ từng sở hữu. Khi những điều này bị Leonidas từ chối, sứ giả Ba Tư tiếp tục khuyên ông quỳ gối chịu hàng. Và câu trả lời nổi tiếng trước sứ giả Ba Tư là: "Hãy đến đây mà lấy!" (μολὼν λαβέ). Nhưng một câu nói nổi tiếng hơn lại xuất phát từ một vị tướng của ông. Trước phản ứng của Leonidas, người Ba Tư đe dọa: "Những mũi tên của chúng tao sẽ che khuất ánh mặt trời!". Một vị tướng của Leonidas đáp trả: "Vậy chúng tôi sẽ chiến đấu trong bóng tối!". Lúc mà vị sứ giả quay về cũng là lúc cuộc chiến bắt đầu. Xerxes cố đợi bốn ngày để làm nản lòng quân Hy Lạp, trước khi đem quân đánh họ. Lực lượng hai bên. Ba Tư. Số quân mà Xerxes tập hợp để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai vào Hy Lạp là một chủ đề tranh chấp bất tận, bởi vì những con số được đưa ra trong tài liệu cổ thực sự quá lớn. Herodotus ghi chép trong các tác phẩm của mình là đã có 2.600.000 quân lính tham gia vào cuộc chiến, kèm theo số lượng dân phu lao dịch đã tham gia cũng nhiều không kém. Nhà thơ đương thời Simonides, nói rằng có ít nhất 4.000.000 người đã tham chiến; theo nhà sử học Ctesias, 80 vạn là tổng số của binh lính mà Xerxes Đại đế đã mang theo trong cuộc hành quân sang Hy Lạp. Học giả hiện đại có xu hướng tẩy chay những con số được đưa ra bởi Herodotus và các tài liệu cổ khác vì cho nó là không thực tế, và điều này có thể là một kết quả của việc tính toán sai lầm hay thiên vị kẻ chiến thắng. Theo ước tính hiện đại, quân đội của Xerxes có khoảng 70,000-300,000 người. Những ước tính này thường đến từ nghiên cứu các khả năng hậu cần của người Ba Tư trong thời kỳ đó. Mặc dù dân số toàn đế quốc Ba Tư thời kỳ đó là 50.000.000 người, chiếm 44% toàn thể dân số thế giới thời kỳ đó, nhưng việc huy động được một đội quân như thế không phải là điều dễ dàng. Dù Xerxes lo lắng để đảm bảo một cuộc viễn chinh thành công bằng cách dồn một ưu thế áp đảo về quân số trên cả đường bộ và đường biển thì chưa chắc toàn bộ binh lực Ba Tư chuẩn bị cho cuộc chiến đã có mặt tại Thermopylae. Điều này chưa rõ ràng vì Xerxes cần gì phải đem một đội quân lớn đến thế để đánh vào Hy Lạp, khi ông đã có quân đội đồn trú Hy Lạp. ghi chú: Diodorus cho rằng có 1.000 người Lacedemonia và 3.000 người Peloponnesia khác, với tổng số là 4.000. Herodotus đồng ý với con số này trong một đoạn văn, trích dẫn một câu thơ của Simonides nói rằng đã có 4.000 người Peloponnesia. Tuy nhiên, ở những nơi khác, trong đoạn văn tóm tắt trong bảng trên, Herodotus đã kể ra 3.100 người Peloponnesia tại Thermopylae trước khi trận chiến bắt đầu
1
null
Chuyên viên là một người được trả tiền, thuê, mướn, tuyển dụng để thực hiện một công việc, nhiệm vụ theo chuyên ngành. Thuật ngữ. Thuật ngữ này được sử dụng trong các ngành nghề truyền thống như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, kiến trúc sư và hạ sĩ quan quân đội. Ngày nay, thuật ngữ này còn được áp dụng cho cả các công việc, lĩnh vực như y tá, kế toán, giáo dục, nhà khoa học, chuyên gia công nghệ, các nhân viên xã hội, các nghệ sĩ, chuyên gia thông tin, thủ thư và nhiều ngành nghề hơn nữa. Nhiều công ty sử dụng chức danh chuyên viên để ngụ ý chất lượng tay nghề hay dịch vụ của đội ngũ này. Trong tiếng Anh, thuật ngữ này (Professional) cũng được sử dụng trong thể thao để phân biệt các cầu thủ nghiệp dư với những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và vận động viên golf chuyên nghiệp. Trong tiếng Việt, chuyên viên có thể dùng để chỉ về một ngạch công chức trong bộ máy nhà nước. Trong một số nền văn hóa, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một tầng lớp xã hội đặc biệt với đặc trưng là được giáo dục tốt, đào tạo bài bản, chính quy, và chỉ những người lao động làm công ăn lương mà có khả năng độc lập, tự chủ trong công việc hay tham gia vào những công việc sáng tạo và trí tuệ đầy thử thách. Đặc điểm. Các tiêu chí chính cho một người được gọi là chuyên viên bao gồm:
1
null
Chuyên gia là thuật ngữ chỉ về những người người được đào tạo theo hướng chuyên sâu có kinh nghiệm thực hành công việc và có kỹ năng thực tiễn, lý luận chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể hoặc có hiểu biết vượt trội so với mặt bằng kiến thức chung. Các chuyên gia có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua việc cho ý kiến, tham vấn) vào một công việc hay một lĩnh vực cụ thể. Một trong những đặc điểm quan trọng để nhận dạng chuyên gia so với các chuyên viên, đồng nghiệp thông thường là:
1
null
Trận Vendôme là một trận đánh quan trọng trong chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871, đã diễn ra từ ngày 14 cho đến ngày 17 tháng 12 năm 1870 tại thị trấn Vendôme của nước Pháp. Trong cuộc giao tranh quyết liệt này, Quân đoàn X của Vương quốc Phổ dưới quyền chỉ huy của tướng Konstantin Bernhard von Voigts-Rhetz – một phần thuộc "Binh đoàn thức hai" của Phổ - Đức do Hoàng thân Friedrich Karl chỉ huy – đã tấn công "Binh đoàn Loire" của quân đội Pháp do tướng Antoine Chanzy và đô đốc Bernard Jauréguiberry (nguyên là một sĩ quan hải quân của Pháp) chỉ huy, đánh bại người Pháp trong một cuộc pháo chiến vào ngày 16 tháng 12 và cuối cùng đã giành được chiến thắng. Với thắng lợi này, người Đức đã đánh bọc sườn phải của đối phương, và buộc quân lực của Pháp phải triệt thoái khỏi vị trí phòng ngự rắn chắc hơn của họ tại Fréteval – nơi họ đã giao tranh bất phân thắng bại với một đạo quân khác của Phổ. Chiến thắng Vendôme cũng mang lại cho quân đội Phổ - Đức một số tù binh và khí giới của Pháp, trong khi tình thế bất lợi đoàn quân của Chanzy đã khiến cho ông phải vội vã tiến hành cuộc triệt thoái tới Le Mans. Bối cảnh lịch sử. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1870, với thất bại trong nhiều ngày kịch chiến với đoàn quân Phổ do Đại Công tước xứ Mecklenburg trong trận đánh Beaugency, tướng Chanzy của Pháp bắt đầu tiến hành một cuộc triệt binh. Vào ngày 12 tháng 12, khi biết được rằng Chanzy bắt đầu rút quân về hướng tây bắc, người Đức đã tiến hành truy kích. Nhưng, Chanzy đã đánh lừa được quân Đức: họ tưởng rằng ông sẽ chạy đến Tours, nhưng thật ra ông ta kéo quân đến một vị trí vững mạnh hơn vị trí mà ông ta đã bỏ, trên con đường trực tiếp đến Paris. Tại đây, ông có thể nhận quân tiếp viện từ phía tây. Quân của Chanzy đã triệt thoái trong tình cảnh khó khăn, và hứng chịu thiệt hại nặng nề trong các cuộc chặn hậu của mình. Tuy nhiên, do sự cẩn trọng của lực lượng kỵ binh Đức, người Pháp đã đến được các vị trí phòng ngự mới của mình trên sông Loir, cả từ hai bên Vendôme, vào ngày 13 tháng 12 năm 1870. Và, vào ngày 14 tháng 12: quân đội của Friedrich Franz II, Đại Công tước xứ Mecklenburg đã tiếp cận với quân Pháp vốn đang án ngữ tại một vị trí quan trọng nằm ở ngoại ô thành phố nhỏ Fréteval, và giao tranh đã diễn trong vòng hai ngày ở đây mà không bên nào giành được lợi thế. Vị trí phòng ngự của quân Pháp rất vững chãi tại thành phố này, nhưng tình hình đã cho thấy là quân Đức khỏi phải tiến chiếm Fréteval: sau khi Blois thất thủ vào ngày 13 tháng 12 năm 1870, Quân đoàn X của binh đoàn dưới quyền Hoàng thân Friedrich Karl đã hành quân về hướng tây nam, đến thành phố Vendôme – một thành phố nhỏ về hướng nam Fréteval, cũng nằm ở bờ tây sông Loir và là một phần của chiến tuyến của quân đội Pháp. Tại đây, quân đội Đức phát hiện ra kẻ thù của họ đang án ngữ ở phía trước thành phố, dưới sự yểm trợ của 4 khẩu đội pháo được khai triển trên các cao điểm nơi có một lâu đài cổ kính. Diễn biến. Trong các ngày 14 và 15 tháng 12, các cao điểm nêu trên vẫn nằm trong tay quân Pháp. Giao chiến đã bùng nổ vào giữa ngày 16 tháng 12, khi cả tướng Chanzy lẫn đô đốc Jauréguiberry của Pháp đều hiện diện ở trong thành phố. Điều đó có thể tạo điều kiện cho một cuộc phòng ngự dũng mãnh của quân Pháp, do đó, tướng Von Voigts-Rhetz của đạo quân Đức, để bảo toàn binh lực của mình nhiều nhất có thể, đã xuống lệnh cho lực lượng pháo binh đóng vai trò chủ yếu trong cuộc giao tranh. Từ 3 giờ cho đến 4 giờ rưỡi chiều, đạn pháo của người Đức rền vang như sấm. Tuy nhiên, hỏa lực của quân Đức đã không thể gây tác dụng gì, bởi do đất đai ở đây đầy bùn và có sét, nên đầu nổ quán tính của đạn pháo bị bùn làm cho vô hiệu. Mặc dù vậy, một số khẩu đại bác của Pháp đã bị hư hại, và một trong những chiếc xe goòng chở lương thực bị phá hủy, gây ra thiệt hại nặng nề cho những binh lính Pháp đứng ở gần bên. Các khẩu súng máy "mitrailleuse" của Pháp cũng đáp trả dữ dội trước hỏa lực của đại bác Đức, nhưng không có hiệu quả đáng kể, bởi vì các lực lượng tấn công của Đức được yểm trợ trên phạm vi lớn. Cuộc pháo chiến đã kết thúc với chiến thắng của các khẩu đại bác của Đức, và đến 5 giờ chiều, người Pháp đã tổ chức triệt binh dưới sự yểm trợ của các khẩu đội pháo trên các cao điểm. Tiếng gầm của pháo thực sự đã kết thúc khi trời gần tối. Các sĩ quan quân đội Pháp đã bàn đến kết quả của các sự việc trong ngày hôm sau (17 tháng 12) với thái độ hết sức tự tin. Tuy nhiên, quân lực của Hoàng thân Friedrich Karl đã được hội đủ để có thể giáng đòn trí mạng vào Vendôme. Trong đêm ngày 16 tháng 12, các lực lượng của Phổ đã tiến hành một vận động với ý định vây khắp thành phố để phát độg tấn công ngay từ khi trời sáng. Buổi sáng ngày 17 tháng 12, những chuẩn bị này được lộ rõ, và người Pháp hoảng loạn. Họ quyết định phá vỡ ngọn cầu bắc qua sông Loir – điều mà họ đã thực hiện nhanh chóng dù không suôn sẻ lắm – và triệt thoái. Quân Đức tiến vào thành phố, và cây cầu đã không bị hư hại nặng nề. Vào lúc 11 giờ sáng, một khẩu đội pháo của Phổ đã được đưa vào vị trí trên các cao điểm. Họ đã khai pháo vào các đội hình hàng dọc đang rút lui của Pháp. Sau nửa tiếng đồng hồ, cuộc công pháo kết thúc, và một số tù binh và đại bác của Pháp đã được đưa đến. Ý nghĩa. Chiến thắng của quân đội Đức tại Vendôme đã tạo nên ảnh hưởng lớn đối với diễn biến tiếp theo của chiến dịch. Bị bọc sườn phải, người Pháp phải bỏ lại cả Fréteval và Vendôme về tay đối phương. Làm chủ được Vendôme, người Đức đã thu giữ 1 khẩu súng máy và 6 đại bác của đội quân Pháp bại trận. Thế trận đã xoay chuyển sang chiều hướng bất lợi cho Chanzy, và ông ta đã rút quân về Le Mans. Giờ đây, chiến tuyến của quân Đức đã trải dài từ Cloyes đến Morée ở phía bắc, qua Vendôme, tới Blois về phía đông nam. Sư đoàn của Đại Công tước xứ Mecklenburg đã chiếm giữ Cloyes và Morée. Trong khi đó, Quân đoàn X nắm giữ Vendôme và Quân đoàn IX án ngữ tại Blois. Quân Pháp tiến vào Le Mans trong ngày 21 tháng 12 năm 1870, và lực lượng rệu rã của họ đã tập kết trong các doanh trại xung quanh vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu này. Mặc dù quân đội Đức làm chủ được chiến tuyến từ Le Mans tới Tours, phải đến tháng 1 năm 1871, sau nhiều cuộc giao tranh lẻ tẻ, "Binh đoàn Loire" của Pháp mới bị đánh bại hoàn toàn trong trận Le Mans kéo dài 4 ngày.
1
null
Tư vấn viên hay còn gọi là nhân viên tư vấn là những người thực hiện nghề tư vấn. Tổng quan. Về tính chất nghề nghiệp, Tư vấn viên là một nghề mang lại nhiều quyền lợi như có mức thu nhập cao, tính linh hoạt cao trong công việc, sự chủ động trong công việc, luôn tạo ra những cơ hội giao lưu, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong nghề không chỉ với các đồng nghiệp và đây là công việc có thể truyền lại công việc kinh doanh. Tư vấn viên đang được xem là một nghề hợp thời và có tính ổn định cao, có thể phát triển lâu dài cả bản thân lẫn sự nghiệp của mỗi cá nhân. Khi nhu cầu của con người ngày càng gia tăng thì các dịch vụ đi theo cũng không ngừng phát triển. Một trong những nghề phát triển trong thời đại mới chính là nghề tư vấn viên trong mọi lĩnh vực do đó nghề tư vấn viên được coi là một trong những công việc thu hút được sử quan tâm của giới trẻ làm công tác văn phòng cũng như phụ nữ nhờ mức thu nhập hấp dẫn và sự năng động trong công việc nhất là khi ngành kinh doanh bán hàng trực tiếp đang ngày càng phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, tư vấn viên pháp triển một phần do nhu cầu của xã hội và tỷ lệ thất nghiệp đối với các công việc truyền thống tương đối cao do đó một bộ phận chuyển sang thực hiện công việc có tính chất khá mới mẻ này, nó không chỉ mang lại cơ hội việc làm cho những người ở thành thị và có kiến thức sẵn, những người ở mọi vùng miền và kể cả chưa có những kỹ năng nghề nghiệp vẫn có thể trở thành một Tư vấn viên và ở góc độ vĩ mô, đã đem lại cơ hội nghề nghiệp cho nhiều người, giúp giải quyết một lượng việc làm khá lớn cho người dân, chia sẻ bớt gánh nặng thất nghiệp cho xã hội. Một số lĩnh vực tư vấn như tư vấn viên pháp luật hay tư vấn viên pháp lý có thể được cấp thẻ hành nghề. Yêu cầu. Để trở thành tư vấn viên, những người làm công tác này cần có một số phẩm chất sau:
1
null
Jalal Talabani (12 tháng 11 năm 1933 - 3 tháng 10 năm 2017) là một chính khách người Kurd ở Iraq. Từng là là tổng thống thứ sáu của Iraq, từ ngày 7/4/2005 đến 24 tháng 07 năm 2014. Ông là vị tổng thống Iraq đầu tiên không phải là người Ả Rập. Talabani là người sáng lập và tổng thư ký của một trong những đảng phái chính trị của người Kurd, Liên minh Ái quốc người Kurd (PUK). Ông là một thành viên nổi bật của Hội đồng tự quản lâm thời Iraq, được thành lập sau khi chế độ Saddam Hussein sụp đổ vào năm 2003. Talabani đã là một người bênh vực cho quyền và dân chủ của người Kurd ở Iraq trong hơn 50 năm. Ngoài nguồn gốc người Kurd của mình, ông thông thạo tiếng Ả Rập, Ba Tư, và tiếng Anh. Talabani là một thành viên của Quốc tế xã hội chủ nghĩa. Ông tốt nghiệp từ Đại học Baghdad.
1
null
Trinh nữ Phần Lan (tiếng Phần Lan: "Suomi-neito", tiếng Thụy Điển: "Finlands mö") là một cô gái trẻ được xây dựng thành một hình tượng quốc gia (National personification) của Phần Lan, biểu thị sự hiện thân của Phần Lan. Mô tả. Trinh nữ Phần Lan được hư cấu là một người phụ nữ trẻ khoảng tuổi đôi mươi với mái tóc vàng bện lại, mắt xanh, mặc một bộ trang phục màu xanh và trắng của đất nước hoặc một chiếc váy trắng, đi chân trần. Nguyên thủy thì cô được gọi là Aura theo tên gọi của con sông Aura ở Turku. Trinh nữ Phần Lan đã trở thành một biểu tượng và đã được người Phần Lan đã được sử dụng từ thế kỷ 19 khi cô được nhấn cách là một người phụ nữ đội vương miện và sau đó người Phần Lan sử dụng cô là một hình tượng biểu thị một ý thức dân tộc và độc lập quốc gia của họ. Đôi khi, hình ảnh người trinh nữ Phần Lan cũng được dùng để ám chỉ hình dạng của lãnh thổ Phần Lan trên bản đồ thế giới trước năm 1944. Cụ thể hơn, hình dạng của đất nước Phần Lan thời điểm đó có hình giống như một cô gái với cánh tay phải là vùng Enontekiö, cánh tay trái là vùng Petsamo và khu vực miền Nam đất nước là gấu của chiếc váy dài. Sau hòa ước 1944, Phần Lan buộc phải giao chủ quyền phần cánh tay trái (Petsamo) và một phần gấu váy (Kareliya) cho Liên Xô (và nay là Nga).
1
null
Gilgamesh (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, "Gilgameš"; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, "Bilgames") là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần thoại Lưỡng Hà cổ đại, nhân vật chính của "Sử thi Gilgamesh" được viết bằng tiếng Akkad vào cuối thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên. Ông có thể đã trị vì vào k. 2800 - 2500 TCN và được thần thánh hóa sau khi chết. Ông trở thành một hình tượng lớn trong các truyền thuyết của người Sumer xuyên suốt Triều đại thứ ba của Ur ( 2112 - 2004 TCN). Những câu chuyện về các chiến công thần thoại của Gilgamesh được kể lại trong năm bài thơ tiếng Sumer còn sót lại, sớm nhất trong số này có khả năng là bài thơ "Gilgamesh, Enkidu và Thế giới cõi âm." Trong đó, Gilgamesh đến trợ giúp nữ thần Inanna xua đuổi những sinh vật nhiễm bệnh cho cây "huluppu" của bà. Bà thưởng cho ông hai vật gọi là "mikku" và "pikku" mà sau bị ông làm mất. Enkidu xuống Cõi âm để đi tìm chúng, sau khi quay về đã kể với Gilgamesh về nỗi thảm đạm ở Cõi âm. Bài thơ "Gilgamesh và Aga" mô tả cuộc nổi dậy của Gilgamesh chống lại vua Aga của Kish. Một bài thơ Sumer khác nhắc đến đến việc Gilgamesh đánh bại quái vật Huwawa và Thiên ngưu, và bài thơ thứ năm không còn nguyên vẹn mô tả cái chết và tang lễ của Gilgamesh. Vào thời Babylon sau này, những câu chuyện này bắt đầu được chắp nối và liên kết lại. Bản "Sử thi Gilgamesh" tiêu chuẩn tiếng Akkad được biên soạn bởi một kinh sư có tên Sin-lēqi-unninni, có thể trong thời kì Trung Babylon (1600 - 1155 TCN), tổng hợp từ những nguồn cổ hơn. Trong sử thi, Gilgamesh là một vị vua bán thần có sức mạnh siêu phàm. Ông kết bạn với Enkidu và cùng nhau đi phiêu lưu, đánh bại Humbaba (tương đương với Huwawa trong tiếng Đông Semit) và Thiên Ngưu Gugalanna, con bò thần do nữ thần Ishtar (tương đương với Inanna trong tiếng Đông Semit) cử đến để tàn phá Uruk sau khi Gilgamesh từ chối trở thành người tình của bà. Sau khi Enkidu chết vì sự trừng phạt từ các vị thần, Gilgamesh trở nên sợ hãi cái chết, và đến thăm nhà hiền triết Utnapishtim, người sống sót sau trận Đại hồng thủy, với hy vọng tìm kiếm sự bất tử. Sau khi liên tục thất bại trong các thử thách đi tìm sự bất tử, Gilgamesh trở về Uruk và nhận ra rằng sự bất tử nằm ngoài tầm tay của con người. Hầu hết các nhà sử học cổ điển đều đồng ý rằng "Sử thi Gilgamesh" có một ảnh hưởng đáng kể đến cả "Iliad" và "Odyssey", hai thiên sử thi được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại trong thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. "Sử thi" "Gilgamesh" được tìm ra trong tàn tích Thư viện Ashurbanipal vào năm 1849. Sau khi được phiên dịch vào đầu những năm 1870, nó đã gây nên một cuộc tranh cãi lớn do sự tương đồng giữa một số phần của nó và Kinh thánh Hebrew. Gilgamesh vẫn được tương đối ít người biết đến cho đến giữa thế kỷ 20, nhưng từ cuối thế kỷ 20 trở đi, ông bắt đầu trở thành một hình tượng nổi bật trong văn hóa hiện đại. Nhân vật lịch sử. Hầu hết các nhà sử học đồng ý rằng Gilgamesh là một vị vua có thật trong lịch sử thành bang Uruk của Sumer, có thể trị vì vào khoảng đầu Sơ kỳ triều đại ( 2900 - 2350 TCN). Vẫn chưa có phát hiện khảo cổ nào vào khoảng thời gian trên có nhắc đến Gilgamesh, nhưng vào năm 1955, Bản khắc Tummal được tìm thấy, bao gồm một đoạn văn bản ba mươi bốn dòng sử kí viết dưới thời trị vì của Vua Ishbi-Erra ( 1953 - 1920 TCN), đã đưa ra thông tin đáng kể về triều đại của Gilgamesh. Bản khắc gán cho Gilgamesh việc xây dựng các bức tường thành của Uruk. Dòng thứ 11 đến 15 được dịch ra như sau: <poem> Và lần thứ hai, Tummal lại suy tàn đổ nát, Gilgamesh xây dựng Numunburra của Đền Enlil. Ur-lugal, con trai của Gilgamesh, Đưa Tummal trở lại thời huy hoàng, Mang Ninlil về với Tummal. </poem>Gilgamesh cũng được Vua Enmebaragesi của Kish, một nhân vật lịch sử nổi tiếng có thể sống gần thời kỳ của Gilgamesh, nhắc đến với tư cách một vị vua. Hơn nữa, Gilgamesh được liệt kê là một trong những vị vua của Uruk theo "Danh sách Vua Sumer". Những mảnh vỡ của một văn bản sử thi được tìm thấy ở Me-Turan (Tell Haddad hiện đại) có nhắc đến đến việc người dân Uruk đã đổi dòng đoạn sông Euphrates đi qua Uruk để chôn cất Gilgamesh dưới đáy sông. Huyền thoại Lưỡng Hà. Các bài thơ Sumer. Vào cuối thời Sơ kỳ triều đại, Gilgamesh được thờ phụng như một vị thần tại nhiều địa điểm khác nhau trên khắp Sumer. Vào thế kỷ 20 trước Công nguyên, Utu-hengal, vua của Uruk, đã công nhận Gilgamesh là vị thần bảo trợ của mình. Các vị vua của Vương triều Ur thứ ba ( 2112 - 2004 TCN) đặc biệt yêu thích Gilgamesh, gọi ông là "người anh em thần thánh" và "người bạn" của họ. Vua Shulgi của Ur (2029-1982 TCN) tuyên bố mình là con trai của Lugalbanda và Ninsun, và là anh em của Gilgamesh. Trong nhiều thế kỷ, có thể có sự thêm thắt dần dần các câu chuyện về Gilgamesh, một số có thể bắt nguồn từ các nhân vật lịch sử khác như Gudea, người trị vì Triều đại thứ hai của Lagash (2144-2124 TCN). Những lời cầu nguyện đến Gilgamesh ghi trong nhiều phiến đất sét được tìm thấy chỉ ra rằng Gilgamesh được coi như một phán quan của người chết ở Cõi âm. Trong thời kì này, nhiều huyền thoại đã được xây dựng và phát triển xoay quanh Gilgamesh. Hiện nay còn sót lại năm bài thơ kể về những chiến công thần thoại của Gilgamesh. Sớm nhất trong số này có lẽ là bài thơ "Gilgamesh, Enkidu và Thế giới cõi âm. T"rong đó, Gilgamesh đến trợ giúp nữ thần Inanna xua đuổi những sinh vật nhiễm bệnh cho cây "huluppu" của bà. Sau đó Innana tặng cho Gilgamesh hai vật gọi là "mikku" và "pikku" làm phần thưởng,"" nhưng sau đó ông lại làm mất. Enkidu tình nguyện xuống Cõi âm để đi tìm, nhưng vi phạm luật lệ dưới đó và bị kẹt lại. Đoạn tiếp theo nói về việc Enkidu kể cho Gilgamesh về nỗi thảm đạm ở Địa ngục.   Bài thơ "Gilgamesh và Aga" mô tả cuộc nổi dậy của Gilgamesh chống lại vua Aga của Kish. "Gilgamesh và Huwawa" nói về Gilgamesh và người hầu Enkidu, với sự giúp đỡ của năm mươi chiến binh từ Uruk, đánh bại Huwawa, quái vật canh gác Rừng tuyết tùng. Trong "Gilgamesh và Thiên ngưu", Gilgamesh và Enkidu cùng nhau giết chết Thiên ngưu do nữ thần Ishtar/Inanna phái xuống để tấn công họ. Một bài thơ được gọi là "Cái chết của Gilgamesh" không còn lại đầy đủ dường như mô tả một lễ quốc tang, có thể nói về đám tang của Gilgamesh hoặc là Enkidu. "Sử thi Gilgamesh". Theo Kramer, cuối cùng "Gilgamesh đã trở thành anh hùng xuất chúng nhất của thế giới cổ đại. Một nhân vật phiêu lưu, can cảm nhưng bi kịch, tượng trưng cho những khát vọng phù phiếm nhưng vô vọng của con người đối với danh tiếng, vinh quang và sự bất tử". Vào thời kỳ Cổ Babylon ( 1830 - 1531 TCN), những câu chuyện về các chiến công huyền thoại của Gilgamesh đã được ghép nối thành một hoặc một số trường ca. "Sử thi" "Gilgamesh", tuyển tập đầy đủ nhất về những cuộc phiêu lưu của Gilgamesh, được biên soạn bằng tiếng Akkad trong thời kỳ Trung Babylon ( 1600 - 1155 TCN) bởi một kinh sư tên là Sîn-lēqi-uninni. Phiên bản hoàn chỉnh nhất còn tồn tại của "Sử thi" "Gilgamesh" được ghi lại trên một bộ mười hai phiến đất sét có niên đại từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên, được tìm thấy trong tàn tích Thư viện của Ashurbanipal ở thủ đô Nineveh của Assyria. Sử thi chỉ còn lại ở dạng các mảnh vỡ, nhiều mảnh bị thiếu hoặc hư hỏng. Một số học giả và dịch giả chọn bổ sung những phần còn thiếu của sử thi bằng tư liệu từ các bài thơ Sumer trước đó hoặc từ các phiên bản khác của Sử thi Gilgamesh được tìm thấy tại các địa điểm khác trên khắp vùng Cận Đông. Trong sử thi, Gilgamesh được giới thiệu là "hai phần ba thần thánh và một phần ba phàm nhân". Ở đầu bài thơ, Gilgamesh được mô tả là một vị vua bạo ngược. Vì thế, các vị thần tạo ra người hoang dã Enkidu từ bùn và đất sét để trừng phạt Gilgamesh. Enkidu được khai hóa sau khi gặp gỡ một nữ tư tế và tới Uruk để thách đấu Gilgamesh. Gilgamesh đã chiến thắng; tuy nhiên, hai người công nhận tài năng của nhau và trở thành bạn bè. Họ cùng nhau thực hiện một cuộc hành trình kéo dài sáu ngày đến Rừng tuyết tùng huyền bí, nơi họ giết chết Kẻ gác rừng, Humbaba Khủng khiếp và đốn hạ cây tuyết tùng linh thiêng. Nữ thần Ishtar muốn lấy Gilgamesh làm chồng nhưng ông từ chối. Cảm thấy bị sỉ nhục, nữ thần đã cử Thiên ngưu Gugalanna xuống để trừng phạt Gilgamesh. Ông và Enkidu giết chết Thiên ngưu, khiến cho các vị thần quyết định phán Enkidu tội chết. Trong nửa sau của thiên anh hùng ca, đau đớn trước cái chết của người bạn thân, Gilgamesh quyết định thực hiện một hành trình dài và nguy hiểm để khám phá bí mật của cuộc sống vĩnh cửu. Ông lên đường đến thăm nhà hiền triết Utnapishtim, người sống sót sau trận Đại hồng thủy, với hy vọng tìm thấy câu trả lời cho sự bất tử. Sau khi liên tục thất bại trong các thử thách đi tìm sự bất tử, đến cuối cùng, ông nhận ra "Cuộc sống mà ngươi hằng kiếm tìm, ngươi sẽ không bao giờ tìm thấy. Vì khi các vị thần tạo ra con người, họ đã ban tặng cái chết kèm theo, và giữ lại sự sống cho riêng mình". Gilgamesh trở về Uruk trong cay đắng, và chỉ cho người lái đò Urshanabi xem thành phố với những bức tường thành khổng lồ của mình, khiến ông ta phải cất tiếng ca ngợi. Ảnh hưởng sau này. Thời cổ đại. Sử thi "Gilgamesh" có ảnh hưởng đáng kể đến "Iliad" và "Odyssey", hai sử thi tiếng Hy Lạp cổ đại trong thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Theo Barry B. Powell, một học giả cổ điển người Mỹ, những người Hy Lạp buổi đầu có lẽ đã tiếp xúc với các thần thoại truyền miệng của người Lưỡng Hà thông qua các mối liên hệ rộng rãi của họ với các nền văn minh của Cận Đông cổ đại và điều này dẫn đến các nét tương đồng giữa "Sử thi" "Gilgamesh" và sử thi Homer. Trong cuộn kinh Qumran tên là "Sách Người khổng lồ" (k. 100 TCN), tên của Gilgamesh và Humbaba xuất hiện dưới dạng hai trong số những người khổng lồ, được kết xuất (ở dạng phụ âm) là "glgmš" và "wbbyš". Những văn tự tương tự sau đó đã được người Mani giáo ở Trung Đông sử dụng và dạng tiếng Ả Rập "Gilgamish"/"Jiljamish" tồn tại như là tên của một con quỷ, theo giáo sĩ Ai Cập Al-Suyuti ( 1500). Tái phát hiện thời hiện đại. Văn bản tiếng Akkad của "Sử thi" "Gilgamesh" được tái phát hiện lần đầu tiên vào năm 1849 sau Công nguyên bởi nhà khảo cổ học người Anh Austen Henry Layard, tại tàn tích Thư viện Ashurbanipal ở Nineveh. Layard khi đó đang tìm kiếm bằng chứng để xác nhận tính lịch sử của các sự kiện được mô tả trong kinh Cựu Ước của Kitô giáo, vào thời điểm đó vốn được cho là bộ văn bản lâu đời nhất trên thế giới. Tuy nhiên, các cuộc khai quật của ông và những người khác sau đó đã hé lộ sự tồn tại của các văn bản Lưỡng Hà có niên đại sớm hơn nhiều và cho thấy nhiều câu chuyện trong Cựu Ước thực sự có thể bắt nguồn từ những huyền thoại trước đó lưu hành ở Cận Đông cổ đại. Bản dịch đầu tiên của "Sử thi" "Gilgamesh" được thực hiện vào đầu những năm 1870 bởi George Smith, một học giả tại Bảo tàng Anh, người đã xuất bản câu chuyện Đại hồng thủy từ Phiến đất sét XI năm 1880 dưới tựa đề "Phiên bản Chaldea của Sáng thế kí". Tên của Gilgamesh ban đầu được đọc sai thành "Izdubar". Ban đầu sự quan tâm đến "Sử thi" "Gilgamesh" hầu như chỉ tập trung vào câu chuyện về trận lụt từ Phiến đất sét XI. Câu chuyện lũ lụt thu hút sự chú ý lớn của công chúng và các cuộc tranh cãi học thuật, trong khi phần còn lại của sử thi hầu như bị bỏ qua. Sự quan tâm đến "Sử thi" "Gilgamesh" vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 phần lớn đến từ các quốc gia nói tiếng Đức, khi tranh cãi nổ ra về mối quan hệ giữa "Babel und Bibel" ("Babylon và Kinh thánh"). Vào tháng 1 năm 1902, nhà nghiên cứu Assyria học người Đức, Friedrich Delitzsch đã thuyết trình tại Nhạc viện Sing-Akademie zu Berlin trước Kaiser và Hoàng hậu, trong đó ông cho rằng câu chuyện Lũ lụt trong Sách Sáng thế được sao chép trực tiếp từ "Gilgamesh". Bài thuyết trình của Delitzsch gây tranh cãi đến mức, đến tháng 9 năm 1903, ông đã nhận được 1.350 bài báo ngắn từ các tờ báo và tạp chí, hơn 300 bài dài hơn và hai mươi tám cuốn sách nhỏ phản hồi lại bài thuyết trình này, cũng như một bài thuyết trình khác về mối quan hệ giữa Bộ luật Hammurabi và Luật Mô-sê trong kinh Torah. Những bài báo này chỉ trích Delitzsch thậm tệ. Kaiser xa lánh Delitzsch và quan điểm cấp tiến của ông, và vào mùa thu năm 1904, Delitzsch buộc phải trình bày bài giảng thứ ba tại Cologne và Frankfurt am Main thay vì ở Berlin. Mối quan hệ giả định giữa "Sử thi Gilgamesh" và Kinh thánh Hebrew sau này trở thành một phần quan trọng trong lập luận của Delitzsch trong cuốn sách năm 1920-1921 của ông, "Die Grosse Täuschung" "(Sự dối trá to lớn)" , cho rằng Kinh thánh Hebrew bị "ô nhiễm" bởi ảnh hưởng Babylon và chỉ khi nào loại bỏ hoàn toàn Cựu Ước của con người, người Kitô giáo cuối cùng mới có thể tin vào thông điệp Aryan đích thực của Tân Ước. Cái nhìn hiện đại ban đầu. Tác phẩm chuyển thể văn học hiện đại đầu tiên của "Sử thi" "Gilgamesh" là "Ishtar và Izdubar" (1884) của Leonidas Le Cenci Hamilton, một luật sư và doanh nhân người Mỹ. Hamilton có kiến thức sơ sài về tiếng Akkad, học được qua cuốn "Ngữ pháp Assyria cho các mục đích đối chiếu" năm 1872 của Archibald Sayce. Cuốn sách của Hamilton dựa phần nhiều vào bản dịch "Sử thi" "Gilgamesh của" Smith, nhưng cũng có những thay đổi lớn. Chẳng hạn, Hamilton đã bỏ qua câu chuyện lũ lụt nổi tiếng và thay vào đó tập trung vào mối quan hệ lãng mạn giữa Ishtar và Gilgamesh (Izdubar). "Ishtar và Izdubar" đã viết thêm từ khoảng 3.000 dòng gốc của "Gilgamesh" lên khoảng 6.000 dòng khớp nối vần được nhóm lại thành bốn mươi tám khổ. Hamilton đã thay đổi đáng kể hầu hết các nhân vật và thêm thắt vào những chi tiết hoàn toàn mới không có trong sử thi gốc. Chịu ảnh hưởng đáng kể bởi "Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam" của Edward Fitzgerald và "The Light of Asia" của Edwin Arnold, nhân vật của Hamilton ăn mặc giống như người Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 19 hơn là người Babylon cổ đại. Hamilton cũng thay đổi giọng điệu của sử thi từ "chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã" và "bi kịch đầy mỉa mai" của bản gốc thành một "sự lạc quan vui vẻ" chứa đầy "những tình yêu ngọt ngào và hòa hợp". Trong cuốn sách năm 1904 của mình, "Das Alte Testament im Lichte des alten Orients", nhà nghiên cứu Assyria người Đức Alfred Jeremias đã đánh đồng Gilgamesh với vua Nimrod trong Sách Sáng thế và cho rằng sức mạnh của Gilgamesh hẳn là đến từ mái tóc của ông, giống như anh hùng Samson trong Sách Thủ Lãnh, và rằng ông đã phải thực hiện Mười hai kì công giống như anh hùng Heracles trong thần thoại Hy Lạp. Trong cuốn sách năm 1906 của mình, "Das Gilgamesch-Epose in der Weltliteratur", nhà Đông phương học Peter Jensen đã tuyên bố rằng "Sử thi" "Gilgamesh" là nguồn gốc của gần như tất cả các câu chuyện trong Cựu Ước, cho rằng Moses chính là "Gilgamesh của Sách Xuất hành, người cứu những đứa trẻ Israel khỏi chính xác tình trạng tương tự mà cư dân Erech phải đối mặt khi bắt đầu sử thi Babylon." Sau đó, ông tiếp tục tranh luận rằng Abraham, Isaac, Samson, David và nhiều nhân vật trong Kinh thánh khác đều không là gì hơn ngoài bản sao chính xác của Gilgamesh. Cuối cùng, ông tuyên bố rằng ngay cả Giêsu cũng "không gì khác ngoài Gilgamesh của người Do Thái. Không có gì ngoài một sự bổ trợ cho Abraham, Mose và vô số nhân vật khác trong truyện." Hệ tư tưởng này được gọi là "chủ nghĩa Toàn Babylon" và gần như ngay lập tức bị các học giả chính thống bác bỏ. Hermann Gunkel đã loại bỏ hầu hết điểm tương đồng mà Jensen chỉ ra giữa Gilgamesh và các nhân vật trong Kinh thánh, cho rằng Jensen đang gây giật gân vô căn cứ. Ông kết luận rằng Jensen và các nhà Assyria học khác như ông đã không hiểu được sự phức tạp của Cựu Ước và đã khiến các học giả nhầm lẫn với "những sai lầm dễ thấy và lệch lạc đáng kể". Ở các nước nói tiếng Anh, góc nhìn học thuật thịnh hành trong đầu thế kỷ 20 khởi đầu từ giả thuyết của Nam tước Henry Rawlinson cho rằng Gilgamesh là một "anh hùng mặt trời", và 12 phiến đất sét sử thi đại diện cho 12 cung hoàng đạo Babylon. Nhà tâm lý học người Đức Sigmund Freud, dựa trên giả thuyết của James George Frazer và Paul Ehrenreich, đã nhìn nhận Gilgamesh và Eabani (cách đọc sai trước đó của "Enkidu") là hình ảnh đại diện cho "con người" và "nhục cảm thô thiển". Ông so sánh họ với các cặp anh em khác trong thần thoại trên thế giới và kết luận: "Một người luôn yếu hơn người kia và chết sớm hơn. Trong Gilgamesh, mô típ lâu đời về cặp anh em bất bình đẳng này đại diện cho mối quan hệ giữa một người đàn ông và ham muốn tình dục của anh ta." Ông cũng xem Enkidu là đại diện cho nhau thai, "người em sinh đôi yếu hơn" chết yểu sau khi sinh. Bạn và học trò của Freud, Carl Jung, thường xuyên nhắc đến Gilgamesh trong tác phẩm đầu tay "Symbole der Wandlung" ("1911-1912"). Ông đã trích dẫn sự ham muốn của Ishtar đối với Gilgamesh như một ví dụ về ham muốn loạn luân của người mẹ đối với con trai mình, Humbaba là một ví dụ về một người cha áp bức mà Gilgamesh phải vượt qua, và chính Gilgamesh là một ví dụ về một người đàn ông quên đi sự phụ thuộc đối với vô thức và bị trừng phạt bởi các "vị thần", người đại diện cho nó. Trong văn hóa hiện đại. Trong những năm sau Thế chiến II, Gilgamesh, trước đây là một nhân vật mơ hồ chỉ được một số học giả biết đến, dần dần trở nên phổ biến với khán giả hiện đại. Đề tài hiện sinh của sử thi làm cho nó đặc biệt hấp dẫn đối với các tác giả Đức trong những năm sau chiến tranh. Trong cuốn tiểu thuyết hiện sinh năm 1947 của mình, "Die Stadt hinter dem Strom", tác giả người Đức Hermann Kasack đã sử dụng các yếu tố trong sử thi để làm phép ẩn dụ về hậu quả của sự hủy diệt của Thế chiến II ở Đức, miêu tả thành phố bị ném bom Hamburg giống như Địa ngục đáng sợ mà Enkidu nhìn thấy trong giấc mơ của mình. Trong tác phẩm lớn của Hans Henny Jahnn, "Dòng sông không bờ," (1949-1950), phần giữa của bộ ba tiểu thuyết xoay quanh một nhà soạn nhạc có mối quan hệ đồng tính hai mươi năm với một người bạn, phản chiếu hình ảnh của Gilgamesh và Enkidu, và kiệt tác của ông là một bản giao hưởng về Gilgamesh. "The Quest of Gilgamesh" (Tạm dịch": Thử thách Gilgamesh"), một chương trình phát thanh năm 1953 của Douglas Geoffrey Bridson, đã giúp sử thi trở nên phổ biến tại Anh. Tại Hoa Kỳ, Charles Olson đã ca ngợi sử thi trong các bài thơ và bài tiểu luận của mình và tin rằng nó chứa đựng những giá trị đạo đức cổ xưa có khả năng chữa khỏi những gì ông coi là suy đồi đạo đức thời hiện đại. Cuốn tiểu thuyết chuyển thể năm 1966 "Gilgamesch" của Guido Bachmann đã trở thành một tác phẩm kinh điển của "văn học đồng tính luyến ái" Đức và tạo nên một xu hướng văn học quốc tế dài hàng thập kỷ của mô tả Gilgamesh và Enkidu như những người yêu đồng tính. Xu hướng này phổ biến đến nỗi chính "Sử thi" "Gilgamesh" được đưa vào trong "Tuyển tập" v"ăn học đồng tính Columbia" (1998) như là tác phẩm đầu tiên của thể loại này. Trong những năm 1970 và 1980, các nhà phê bình văn học nữ quyền đã phân tích "Sử thi" "Gilgamesh" như cho thấy bằng chứng cho sự chuyển đổi từ chế độ mẫu hệ nguyên thủy sang chế độ phụ hệ hiện đại. Khi Phong trào Xanh lan rộng ở châu Âu, câu chuyện của Gilgamesh bắt đầu được nhìn nhận qua lăng kính bảo vệ môi trường, với cái chết của Enkidu tượng trưng cho sự xa rời của con người với thiên nhiên. Theodore Ziolkowski, một nhà nghiên cứu văn học hiện đại, cho rằng "không giống như hầu hết các nhân vật khác từ thần thoại, văn học và lịch sử, Gilgamesh đã nổi lên như một thực thể tự thân hoặc đơn giản là một cái tên độc lập với bối cảnh sử thi mà ban đầu ông được biết đến. (Các ví dụ khác có thể kể đến như là Minotaur hoặc quái vật của Frankenstein.)" "Sử thi" "Gilgamesh" đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ lớn trên thế giới và trở thành một phần bắt buộc của chương trình văn học thế giới tại Mỹ. Năm 2000, một bức tượng Gilgamesh hiện đại của nhà điêu khắc người Assyria Lewis Batros đã được đặt tại Đại học Sydney ở Úc. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 20, "Sử thi" "Gilgamesh" bắt đầu được đọc trở lại ở Iraq. Saddam Hussein, cựu Tổng thống Iraq, có niềm đam mê mãnh liệt với Gilgamesh. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Hussein, "Zabibah và nhà Vua" (2000), là một câu chuyện ngụ ngôn về Chiến tranh vùng Vịnh lấy bối cảnh Assyria cổ đại pha trộn các yếu tố của "Sử thi" "Gilgamesh" và "Nghìn lẻ một đêm". Giống như Gilgamesh, nhà vua ở phần đầu của cuốn tiểu thuyết là một bạo chúa tàn bạo đàn áp người dân của mình, nhưng, thông qua sự trợ giúp của một người phụ nữ thường dân tên Zabibah, ông đã trở thành một đức vua hiền minh. Khi Hoa Kỳ gây áp lực buộc Hussein phải từ chức vào tháng 2 năm 2003, Hussein đã có một bài phát biểu trước một nhóm các tướng lĩnh dưới quyền, so sánh mình với người anh hùng sử thi. Năm 2004, Gilgamesh xuất hiện trong loạt visual novel của Nhật, Fate/stay night, cùng với các sản phẩm truyện tranh, Anime, light novel, trò chơi điện tử khác sau này thuộc franchise Fate được phát triển bởi Type-Moon. Trong đó, nhân vật được xây dựng dựa trên truyền thuyết về Gilgamesh là một anh linh được triệu hồi để chiến đấu trong cuộc chiến giành Chén Thánh. Nhân vật này có biệt hiệu "Vua của Anh hùng", được cho là vị anh hùng cổ xưa nhất, và sở hữu bảo cụ Gate of Babylon, bảo tàng có chứa tất cả mọi vũ khí và báu vật nguyên bản trên thế giới.
1
null
Diên An (sinh năm 1934) là một nhạc sĩ, nhà quay phim và đạo diễn tại miền Nam Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 với một loạt tác phẩm chủ đề "Người tình". Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Tiểu sử. Ông tên thật là Nguyễn Văn Để, sinh tại Gia Hội, Huế. Thuở nhỏ, ông học trường tiểu học Saint Pierre chung với đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Ông chuyển vào Sài Gòn kể từ sau khi thi đỗ Trường Điện ảnh Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp, ông về làm việc tại Trung tâm Điện ảnh Sài Gòn. Năm 1966, ông chuyển về công tác ở Đài Truyền hình Sài Gòn với vai trò là đạo diễn truyền hình và tiếp tục gắn bó với Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh sau này cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1996. Nguyễn Văn Để từng đóng vai trò quay phim chính trong một số tác phẩm của đạo diễn Lê Hoàng Hoa như "Vết thù trên lưng ngựa hoang", "Người chồng bất đắc dĩ", "Con ma nhà họ Hứa", "Gác chuông nhà thờ", "Hiệp sĩ bất đắc dĩ"... Khi đóng vai trò người nhạc sĩ, Nguyễn Văn Để lấy nghệ danh là Diên An và Phương Kim. Tên gọi "Diên An" lấy cảm hứng từ địa danh Diên An thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc do ông khâm phục hình tượng "du kích quân cách mạng Trung Quốc". Tên gọi "Phương Kim" được ông dùng khi ký bài hát "Hãy quên nhau" và "Người tình". Khi viết hai bài này, ông thử đổi sang nghệ danh khác cho nữ tính và hợp chất nhạc nhưng vì chưa nghĩ ra tên gọi nào nên đã lấy tên người phụ nữ đánh máy bài hát giùm ông để làm nghệ danh. Bàn việc sáng tác nhạc, Diên An tự nhận mình không phải là nhạc sĩ chuyên nghiệp; ông tâm sự: "Lúc đó viết là do mình thích thôi, sau không có nhiều thời gian nữa, tôi bỏ ngang...". Trả lời phỏng vấn báo Thanh niên, Diên An bộc bạch các ca khúc của ông đều "viết cho một người thôi, toàn đau khổ sầu lụy". Hiện tại Diên An đang sống cùng gia đình tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
1
null
Dzũng Chinh (18 tháng 12 năm 1941 - 1 tháng 3 năm 1969) là một sĩ quan Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đồng thời cũng là một nhạc sĩ nhạc vàng với sáng tác nổi tiếng "Những đồi hoa sim" phổ thơ Hữu Loan. Tiểu sử. Ông tên thật là Nguyễn Bá Chính, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1941 trong một gia đình trung lưu tại Bình Cang, Nha Trang, Khánh Hòa. Ông đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhị cấp tại Nha Trang với văn bằng Tú tài toàn phần. Sau đó học lên Đại học Luật khoa ở Sài Gòn. Vào thời điểm năm 1961-1962, ông sáng tác bài hát "Những đồi hoa sim", nổi tiếng với tiếng hát của nữ ca sĩ Phương Dung (được khán giả đương thời ưu ái gọi là "Con nhạn trắng Gò Công"). Đầu năm 1965, ông nhập ngũ vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mặc dù có bằng Tú tài II, nhưng do trình diện nhập ngũ quá hạn tuổi quân dịch, ông bị chế tài không được vào trường Sĩ quan nên phải theo học khóa Hạ sĩ quan Trừ bị tại trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang. Tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, ông được điều động về Trung đoàn 14 đồn trú tại Vĩnh Bình (Trà Vinh) thuộc Sư đoàn 9 Bộ binh do Đại tá Lâm Quang Thi làm Tư lệnh. Nhạc sĩ Trúc Phương viết bài "Để trả lời một câu hỏi" tặng ông: Cuối năm 1966, vì có trình độ học vấn cao, ông được cử đi học khóa Sĩ quan Đặc biệt tại Nha Trang (một lần nữa, ông lại được về học ở Quân trường Đồng Đế). Giữa năm 1967, ông tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy trừ bị. Ra trường, để được gần nguyên quán, ông xin về phục vụ tại Trung đoàn 44 đang trú đóng tại Sông Mao, Hải Ninh, Bình Thuận thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh đặt bản doanh ở Ban Mê Thuột do Đại tá Trương Quang Ân làm Tư lệnh. Ông được cử làm Trung đội trưởng Trung đội tác chiến thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 2 (thời điểm này Đại đội trưởng là Trung úy Nguyễn Văn Chánh và Tiểu đoàn trưởng là Đại úy Ngô Văn Xuân). Giữa năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu úy. Trung đoàn biết ông là một nhạc sĩ, nên bố trí cho ông về phục vụ ở Khối Chiến tranh Chính trị của Bộ chỉ huy Trung đoàn. Sau vì hay "dù" (xuất trại không có phép) về Phan Thiết để chơi với bạn bè, nên Dzũng Chinh bị kỷ luật trả về Trung đội tác chiến. Qua đời. Đêm ngày cuối tháng 2 năm 1969, Trung đội Dzũng Chinh có nhiệm vụ chốt ở chân núi Chà Bang, Ninh Phước, đụng độ với một toán quân Giải phóng . Trong khi giao tranh, ông bị trúng đạn trọng thương. Ngay sau đó, ông được trực thăng tải thương về Quân y viện Phan Thiết, nhưng vì vết thương quá nặng nên đã qua đời vào ngày 1 tháng 3 năm 1969, hưởng dương 28 tuổi. Ông được truy thăng cấp bậc Trung úy và được đưa về quê nhà Nha Trang an táng. Nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tin bạn mình mất có viết bài hát Đọc tin trên báo, thâu vào đĩa nhựa Thiên Thai 45 do Trúc Ly ca. Dzũng Chinh được an táng tại Nghĩa Trang Mả Thánh (Phương Sài, Nha Trang).
1
null
Trương Hoàng Xuân là một nhạc sĩ nhạc vàng trước 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông được biết đến nhiều qua các sáng tác "Bạc trắng lửa hồng", "Hái hoa rừng cho em", "Kẻ đến sau". Tiểu sử. Trương Hoàng Xuân sinh năm 1939 tại Sài Gòn. Ông học nhạc từ nhỏ trong nhà thờ và chơi đàn kiếm sống tại các nhà hàng khi 16 tuổi. Năm 1960, ông tốt nghiệp Sư phạm, về dạy tại Long Khánh, tỉnh Bình Tuy. Đến năm 1968 thì ông đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng. Năm 1972, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10. Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới cho thôi việc, ông xin qua Ngành Bưu điện làm công tác văn nghệ quần chúng cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2000. Sau khi ly hôn, ông sống một mình tại quận Phú Nhuận. Sáng tác. Trương Hoàng Xuân bắt đầu sáng tác vào năm 1966 và có khoảng 20 tác phẩm được thâu vào băng đĩa thời điểm đó. Ông còn có bút danh khác là Thy Linh.
1
null
Trợ giúp viên pháp lý hay còn gọi là Trợ giúp viên là một chức danh tại Việt Nam dùng để chỉ về những người thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý là chức danh được quy định những tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể theo Luật Trợ giúp pháp lý của Việt Nam, họ là viên chức nhà nước và làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Điều kiện. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, để được công nhận là trợ giúp viên pháp lý, thì ứng viên phải là công dân của Việt Nam, thường trú tại Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu, điều kiện sau đây: Công việc. Trợ giúp viên pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý bằng các hình thức đa dạng, phong phú, cụ thể là: Với những quy định này về ví trị pháp lý, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của người trợ giúp viên pháp lý trong chế định luật trợ giúp pháp lý sẽ là hành lang, cơ sở pháp lý quan trọng để khi trợ giúp viên pháp lý thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý phát huy thực hiện nhiệm vụ. Khi tham gia tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Trợ giúp viên pháp lý phải thực hiện các phương pháp nghiên cứu hồ sơ theo nguyên tắc toàn diện và đầy đủ, nắm vững hồ sơ một cách đầy đủ đồng thời luận cứ bào chữa phải dựa trên những căn cứ được phản ảnh trong hồ sơ kết hợp các yếu tố pháp lý và yếu tố tâm lý để có cơ sở đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, ở giai đoạn tham gia tố tụng này người Trợ giúp viên pháp lý còn phải thực hiện rất rất nhiều kỹ năng khác nhau như: Theo dõi luận tội, xét hỏi và tranh luận để phát hiện những vấn đề pháp lý phát sinh mới và có hướng đề xuất kịp thời. Trợ giúp viên pháp lý còn được cử về cơ sở hướng dẫn cho các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tại địa phương để thực hiện các nhiệm vụ như hướng dẫn cách thức, nội dung sinh hoạt câu lạc bộ, giúp thường xuyên cung cấp, cập nhật văn bản pháp luật cùng tài liệu liên quan cho đội ngũ cộng tác viên, trực tiếp tổ chức nhiều hội nghị phổ biến, giáo dục và truyền thông pháp luật. Trong quá trình hoạt động trợ giúp pháp lý, đội ngũ này còn gặp nhiều khó khăn do nhiều người vẫn còn trẻ, có năng lực, trình độ nhưng lại thiếu kinh nghiệm trợ giúp pháp lý và thực tiễn hành nghề, thường xuyên có sự biến động về nhân sự, chế độ chi trả thù lao theo vụ việc cho các trợ giúp viên pháp lý còn thấp, chưa có sức thu hút được nhiều người làm trợ giúp viên. Chế độ. Trợ giúp viên pháp lý được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp việc cấp thẻ được tiến hành theo một thủ tục nghiêm ngặt. Và khi tham gia tố tụng thì Trợ giúp viên pháp lý, cần phải xuất trình giấy chứng nhận tham gia tố tụng và "thẻ trợ giúp viên pháp lý", họ có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng và được sử dụng các biện pháp mà pháp luật tố tụng quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý. Tuy vậy, trong quá trình tác nghiệp trong hoạt động tố tụng còn gặp không ít khó khăn nhất là một số cơ quan gây các thủ tục còn gây phiền hà như cấp giấy chứng nhận người bào chữa, gửi các bản án sau khi xét xử tới người thực hiện trợ giúp pháp lý, bản án có khi không ghi chức danh của người thực hiện trợ giúp pháp lý. Trợ giúp viên pháp luật được nhà nước cho đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ trợ giúp pháp lý. Trang phục riêng. Theo quy định thì trợ giúp viên chưa có trang phục riêng, đã có tranh luận gay gắt về việc có nên trang bị đồng phục cho trợ giúp viên để họ mặc trang phục thống nhất khi tham dự tòa hoặc khi thực hiện nhiệm vụ trợ giúp pháp lý, xây dựng "hình ảnh đẹp" về người trợ giúp viên, khẳng định vai trò, mục đích, ý nghĩa của công tác trợ giúp pháp lý do sự chuyên nghiệp của Trợ giúp viên pháp lý không chỉ thể hiện ở tác phong, thái độ, kỹ năng làm việc mà còn bộc lộ qua trang phục, đặc biệt là khi tác nghiệp ở những nơi trang nghiêm như chốn công đường. Tuy nhiên có quan điểm chưa thống nhất cho rằng Trợ giúp viên pháp lý không đại diện cho cơ quan công quyền thực hiện nhiệm vụ mà chỉ có tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự do đó chưa nhất thiết phải có một trang phục riêng để thể hiện bản sắc riêng của mình, đồng thời nếu trang bị thì sẽ tốn kém thêm kinh phí của nhà nước vốn đã eo hẹp.
1
null
Anh Việt (1927 – 2008) là một nhạc sĩ tiền chiến có sáng tác từ trước năm 1945. Ông cùng với Nguyễn Văn Đông được xem là hai nhạc sĩ có cấp bậc cao nhất trong quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cuộc đời. Ông tên thật là Trần Văn Trọng, sinh năm 1927 tại Rạch Giá, Kiên Giang, xuất thân trong một gia đình công chức, song thân sành cổ nhạc và làm thơ. Ông bắt đầu viết nhạc khá sớm, từ những năm đầu của thập niên 1940. Lúc bấy giờ truyền hình chưa có và hệ thống phát thanh còn thô sơ, giới hạn nơi từng vùng một, tuy nhiên nhạc của Anh Việt cũng đã được phổ biến sâu rộng qua các đĩa 33 vòng (tours), máy hát quay tay, chạy vài lần lại phải thay kim. Năm 1945, ông từng tham gia Kháng chiến chống Pháp. Năm 1950, ông bỏ chiến khu về thành và năm 1951, ông tham gia Quân đội Quốc gia Việt Nam, theo học ngành quân cụ, tham gia binh nghiệp cho đến năm 1975, thăng dần lên cấp bậc Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tị nạn tại California, được nhà thờ Saratoga Federated bảo lãnh, mời dạy ở trường Naval Post Graduate tại Monterey. Sau này ông mở Chợ Mekong cung cấp cho đồng hương những thực phẩm mang hương vị quê nhà. Đây là cửa hàng tạp hóa và hàng ăn đầu tiên của người Việt Nam tại địa phương. Ông qua đời ngày 14 tháng 3 năm 2008, thọ 81 tuổi. Sự nghiệp chính trị. Anh Việt đã theo học và tốt nghiệp tại nhiều trường dân sự, quân sự trong và ngoài nước: Ngoài ra, còn được chính phủ Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử sang nghiên cứu tại Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan và Singapore. Sự nghiệp âm nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của Anh Việt có thể chia làm 3 giai đoạn chính: Bài "Tự do" được chọn làm nhạc hiệu Đài phát thanh Kháng chiến Nam Bộ, đồng thời cũng là bài hát chính của Liên đoàn Thanh niên Liên Việt. Sau 1954, bài "Chiều trong rừng thẫm" được Đài phát thanh Pháp Á chọn làm nhạc hiệu nhưng đổi tên thành "Nhạc thanh bình" với lời ca mới. Ngoài ra từ năm 1993 cho đến 1996, nhạc sĩ Anh Việt đã thực hiện được một cuốn sách Nhạc thiền mang tên "Những giọt không" và hai cuốn CD Nhạc thiền với nhan đề: "Hoa mặt trời" và "Trường ca Avril". Phần lớn đều phổ nhạc từ thơ của Thiền Sư Nhất Hạnh. Đời tư. Vợ ông là Nhà thơ Tố Oanh, cháu 5 đời của cụ Nguyễn Văn Tường cháu 5 đời của cụ Phan Thanh Giản
1
null
Heinkel HD 56 là một loại thủy phi cơ trinh sát được phát triển ở Đức vào năm 1929, nó được Nhật trang bị đi kèm với các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được Nhật định danh là Thủy phi cơ Trinh sát Kiểu 90-1 hay E3A.
1
null
Hiro H1H (hay Hải quân Kiểu 15) là một loại tàu bay trinh sát/ném bom hai tầng cánh của Nhật Bản trong thập niên 1920. Nó được phát triển từ loại Felixstowe F.5, do Quân xưởng Hải quân Hiro thiết kế chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. H1H được chế tạo bởi các hãng Hiro, Xưởng Kĩ thuật Hàng không Yokosuka và Aichi.
1
null
Hiro G2H (hay Máy bay tấn công trên bộ Hai động cơ Hiro Hải quân Kiểu 95) là một loại máy bay ném bom/trinh sát tầm xa của Nhật Bản trong thập niên 1930, do Quân xưởng Hải quân Hiro thiết kế chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
1
null
Herman Webster Mudgett (16 tháng 5 năm 1861 – 8 tháng 5 năm 1896), nổi tiếng với biệt danh Dr. Henry Howard Holmes, là một kẻ giết người hàng loạt. Tại Chicago vào thời điểm tổ chức hội chợ thế giới 1893, Holmes đã mở một khách sạn do y tự thiết kế và xây dựng nhằm mục đích giết người, và cũng là nơi thủ ác của ông ta. Trong khi ông ta thú nhận 27 vụ giết người, và chỉ có 4 vụ được xác nhận, số lượng nạn nhân của ông có thể lên đến 200. Vụ án trở nên nổi tiếng trong thời gian ấy và được công chúng chú ý qua loạt bài trên báo của William Randolph Hearst. Vụ án của Holmes được hồi sinh vào năm 2003 bởi Erik Larson qua "The Devil in the White City: Murder, Magic, and Madness at the Fair That Changed America", một tác phẩm phi giả tưởng ăn khách. Câu chuyện của ông trước đó được ghi chép trong "The Torture Doctor" bởi David Franke (1975), "Depraved: The Shocking True Story of America's First Serial Killer" bởi Harold Schechter (1994), và chương VI "The Monster of Sixty-Third Street" của "Gem of the Prairie: An Informal History of the Chicago Underworld" bởi Herbert Asbury (1940, tái xuất bản 1986).
1
null
Shane C. Drake là một đạo diễn video âm nhạc người Mỹ đến từ Redding, California. Anh đã đạo diễn video âm nhạc của nhiều nghệ sĩ khác nhau trong đó có Trivium, Paramore, Fall Out Boy, Panic! at the Disco, Angels & Airwaves, Flo Rida, Timbaland, Avril Lavigne, Kelly Clarkson, Blindside, The Red Jumpsuit Apparatus, The Almost, Hawthorne Heights, Subseven... Trước khi trở thành một đạo diễn video âm nhạc, Drake đã dành nhiều thời gian để làm công việc chỉnh sửa phim và quay phim với nhiều ban nhạc trong đó có Poison the Well, Deftones, Thursday... Hiện tại, anh dành phần lớn thời gian của mình trong việc làm đạo diễn. Đến năm 2006, anh đã đạo diễn hơn 50 video âm nhạc và đồng sản xuất 3 bộ phim. Anh hiện đang là chủ của Red Van Pictures, một công ty sản xuất đặt trụ sở tại Los Angeles. Giải thưởng. Năm 2006, Drake nhận được Giải thưởng Video Âm nhạc của MTV cho Video của Năm cho video âm nhạc "I Write Sins Not Tragedies" của ban nhạc Panic! at the Disco do anh làm đạo diễn. Năm 2007, nhận được giải thưởng MTV Đĩa đơn của Năm cho video âm nhạc "The Way I Are" của Timbaland. Năm 2008, anh nhận được đề cử ở Giải thưởng Video Âm nhạc của MTV cho Hướng đi Xuất sắc Nhất và Video nhạc Pop xuất sắc Nhất cho video "Nine in the Afternoon" của Panic! at the Disco và Giải thưởng Video Âm nhạc của MTV cho Video nhạc Rock Xuất sắc Nhất cho hai video "Crushcrushcrush" của Paramore và "Beat It" của Fall Out Boy. Đến năm 2009, Drake tiếp tục nhận được đề cử Giải thưởng Video Âm nhạc của MTV cho Video nhạc Rock Xuất sắc Nhất cho video âm nhạc "Decode" của Paramore từ album nhạc phim "Chạng Vạng". Năm 2012, anh nhận được đề cử Giải thưởng Video Âm nhạc của MTV cho Video Âm nhạc với Thông điệp Xuất sắc Nhất cho video "Dark Side" của Kelly Clarkson.
1
null
Trận Nompatelize, hay còn gọi là Trận Etival, là một hoạt động quân sự trong chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ - Đức vào các năm 1870 – 1871, đã diễn ra vào ngày 6 tháng 10 năm 1870, giữa Etival và Nompatelize, tại tỉnh Vosges cách Strasbourg 64 km về hướng tây nam (nước Pháp). Đây là cuộc giao tranh lớn đầu tiên trong chiến dịch truy quét lính bắn tỉa Pháp "franc-tireur" hoạt động tại vùng núi Vosges do Quân đoàn XIV của Phổ - Đức do tướng Karl August von Werder chỉ huy vào đầu tháng 10 năm 1870. Trong trận giao tranh quyết liệt này, Một lực lượng "Binh đoàn Rhône" của quân đội Cộng hòa Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Louis-François Dupré, mà một tài liệu cho là chiếm ưu thế rõ rệt về mặt quân số, đã tiến công 6 tiểu đoàn bộ binh của Đại Công quốc Baden dưới quyền chỉ huy của tướng Alfred von Degenfeld – một phần của Quân đoàn XIV, nhưng bị đánh cho đại bại. So với thương vong của quân đội Đức, thiệt hại của phía Pháp trong trận chiến này lớn hơn nhiều (trong đó có gần 600 sĩ quan và binh lính bị bắt làm tù binh). Sau bảy tiếng đồng hồ giao tranh, quân Pháp bị buộc phải tháo chạy trong tình cảnh náo loạn tới Bruyeres và Rambervillers. Trận chiến Etival đã góp phần khiến cho tướng Werder quét sạch quân Pháp ra khỏi miền Alsace. "Thượng tướng Bộ binh" Werder cùng với Nam tước Kolmar von der Goltz của Đức, sau khi chiếm được Strasbourg vào tháng 9 năm 1870, đã tiến quân về hướng tây. Trọng trách đầu tiên của Werder là quét sạch các du kích quân "franc-tireur" của Pháp khỏi dãy Vosges, và vào ngày 1 tháng 10, một đội hình hàng dọc của Đức – với một số tiểu đoàn, đội kỵ binh và khẩu đội pháo – do Thiếu tướng Degenfeld chỉ huy đã bắt đầu cuộc hành quân qua Vosges. Qua các đèo, các binh sĩ Đức gặp, nhưng chỉ có hai cuộc giao tranh nhỏ diễn ra vào ngày các ngày 4 và 5 tháng 10 năm 1870, trong đó quân Pháp đều bị đánh tan. Trong ngày 5 tháng 10, tướng Degenfeld nhận được thượng lệnh từ Strasbourg rằng đội hình của ông sẽ là lực lượng tiên phong của Quân đoàn XIV mới được thành lập do tướng Werder chỉ huy – vốn đã khởi đầu cuộc hành binh đến Epinal. Vào ngày 6 tháng 10, Degenfeld quyết định phải đánh chiếm Saint-Die và bắt đầu tràn lên sông Meurthe. Tuy nhiên, bên sườn trái của mình, các lực lượng của ông bị quân Pháp tấn công dữ dội từ nhiều phía, và vì thế ông phải từ bỏ ý định tiến chiếm Saint-Die để nghênh chiến với quân đội của đối phương. Phần lớn đội quân Pháp tham gia trận đánh ngày là lính "Garde Mobiles" và thuộc lực lượng tiên phong của quân chủ lực của "Binh đoàn Rhône", đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Dupré. Theo một bản báo cáo cho Đại Công tước xứ Baden sau trận chiến này, trận Nompatelize đã kéo dài từ 9 giờ rưỡi sáng cho đến 4 giờ chiều ngày hôm đó. Tài liệu của Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ Helmuth von Moltke Lớn cho hay rằng quân Pháp có binh lực mạnh hơn nhiều so với đội hình hàng dọc yếu ớt của Đức, mặc dù một số tài liệu khác cho biết quân số của hai bên ngang ngửa nhau. Lực lượng tham chiến trong trận đánh của Đức bao gồm Trung đoàn số 3, Tiểu đoàn Súng hỏa mai số 1 thuộc Trung đoàn Phóng lựu số 1, Tiểu đoàn Phóng lựu thuộc Trung đoàn số 6, 2 đội kỵ binh của Trung đoàn Long kỵ binh Cận vệ, cùng với các khẩu đội pháo Möbel và Kunz. Quân Đức đã tấn công đối phương bằng lưỡi lê, và giành được những ngôi làng nằm trong tay quân Pháp: St. Rémy, Nompatelize và rừng Bois des Jumelles. Cả ba đợt công kích ác liệt của quân Pháp đều bị quân Đức bẻ gãy. Bản thân Dupré cũng bị thương nặng trong trận giao chiến, và lực lượng pháo binh Đức đã chứng tỏ được sức mạnh của mình. Bị đánh tan nát, quân Pháp phải cuống cuồng tháo chạy. Tuy nhiên, khi màn đêm buông xuống, Degenfeld không tiến hành truy kích do quân lực của ông đã bị kiệt quệ. Trong ngày 7 tháng 10, viên tướng Đức này vẫn đóng quân về phía nam Etival, nhằm yểm trợ cho các đội hình hàng dọc của Quân đoàn XIV, vốn đang tiến xuống Thung lũng sông Meurthe. Cùng ngày, một số lực lượng thuộc "Quân đoàn trinh sát của đội Cận vệ" Pháp cũng chiếm được Saint-Die. Cuộc thảm bại của "Binh đoàn Rhône" dưới quyền tướng Albert Cambriels trong trận chiến Nompatelize đã khiến cho tinh thần của họ bị suy nhụt nghiêm trọng. Chỉ trong vòng vài ngày, quân số của họ giảm từ 55.000 xuống 24.000 người, mà nguyên nhân chủ yếu là do đào ngũ. Đến ngày 22 tháng 10, họ lại bị quân đội Đức đập tan trong trận Ognon. Những chiến thắng này đã góp phần chứng tỏ sức mạnh vượt trội của lực lượng trừ bị Đức và hệ thống "Landwehr" trước những đội quân non trẻ được huấn luyện vội vã của nền Đệ tam Cộng hòa Pháp.
1
null
Bùn là sự pha trộn giữa nước và một số dạng vật chất dạng đất như đất á sét, bột và sét. Các trầm tích bùn cổ đại cứng và rắn lại theo dòng thời gian địa chất để hình thành các loại đá trầm tích như đá phiến sét hoặc đá bùn (tên gọi chung là lutit). Khi các trầm tích bùn địa chất hình thành ở cửa sông, các lớp sinh ra được gọi là bùn vịnh. Bùn vịnh có quan hệ gần gũi với bùn sông. Bùn có nhiều công dụng khác nhau trong đời sống như được dùng làm vật liệu xây dựng, đồ gốm, chữa bệnh (tắm bùn), thức ăn hay là các trò chơi thể thao trong bùn.
1
null
FishBase là cơ sở dữ liệu loài toàn cầu về các loài cá. Đây là cơ sở dữ liệu lớn nhất và được truy cập rộng rãi về các loài cá trưởng thành trên web. Theo thời gian, FishBase đã phát triển thành một công cụ sinh thái năng động và linh hoạt, được trích dẫn rộng rãi trong các ấn phẩm học thuật. FishBase mang đến dữ liệu loài hiểu toàn diện, bao gồm thông tin về phân loại, phân bố địa lý, sinh trắc học và hình thái học, hành vi và môi trường sống, hệ sinh thái và tăng trưởng dân số cũng như dữ liệu sinh sản, chuyển hóa và di truyền.
1
null
Tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi (, "Rodina-Mat' zovyot!"), còn gọi là Tượng đài Mẹ Tổ quốc hay Tượng đài Mamayev, là một tượng đài được xây trên đồi Mamayev Kurgan ở Volgograd, Nga nhằm tưởng niệm cuộc kháng cự anh hùng và chiến thắng quyết định của quân đội Liên Xô trong trận Stalingrad. Công tác thiết kế và chủ trì việc xây dựng tượng đài được thực hiện bởi nhà điêu khắc Ye. V. Vuchetich và kỹ sư kiến trúc N. V. Nikitin. Khi tượng đài được khánh thành vào năm 1967, nó là bức tượng cao nhất thế giới và cho đến nay nó vẫn là bức tượng với chủ đề phi tôn giáo lớn nhất thế giới. So với các bức tượng khác lớn hơn về sau này, tượng đài Mẹ Tố quốc kêu gọi có cấu trúc phức tạp hơn cả nếu xét về mặt kỹ thuật và công nghệ xây dựng; nguyên do nằm ở hình dáng đặc trưng của tượng với thanh kiếm giơ cao ở tay phải và tay trái đưa ra sau lưng. Công nghệ áp dụng trong việc dựng tượng dựa trên sự kết hợp của việc sử dụng kết cấu bê tông ứng suất trước với các dây cáp thép, một loại công nghệ mà cũng thường áp dụng trong một số công trình khác của N. V. Nikitin tỉ như tháp truyền hình Ostankino tại Moskva. Hình ảnh của tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi là một phần của kỳ hiệu và huy hiệu của tỉnh Volgorad. Lịch sử. Ý tưởng của một tượng đài kỷ niệm những người dân và quân nhân hy sinh vì cho chiến thắng lẫy lừng ở Stalingrad được manh nha từ ngay sau khi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kết thúc. Ngay từ năm 1945, nhà nước Xô Viết đã mở một cuộc thi thiết kế tượng đài về chủ đề này với quy mô trên toàn quốc. Đông đảo người dân Liên Xô thuộc mọi tầng lớp đã tích cực hưởng ứng và tham gia cuộc thi này, từ những chuyên gia về xây dựng, những kiến trúc sư, kỹ sư công trình cho tới cả những người có ngành nghề không liên quan gì đến xây dựng hay điêu khắc. Một phần những bản vẽ được gởi cho Học viện Nghệ thuật tạo hình, một phần gửi cho Ủy ban Quốc phòng Nhà nước, một phần khác được gửi ngay cho lãnh tụ I. V. Stalin. Cuối cùng, sau một thập niên tổng kết và đánh giá các thiết kế, chính phủ Liên Xô đã quyết định chọn bản vẽ của nhà điêu khắc Ye. V. Vuchetich làm hình mẫu xây dựng tượng đài. Ye. V. Vuchetich là một trong những nhân vật danh tiếng trong ngành điêu khắc và xây dựng của Liên Xô, từng 5 lần đạt Giải thưởng Stalin (1946, 1947, 1948, 1949, 1950) và là tác giả của công trình tượng đài tại công viên Treptow ở Berlin vốn nhận được những đánh giá tích cực của giới phê bình. Công tác chỉ đạo việc xây dựng và kết cấu của tượng đài là kỹ sư công trình N. V. Nikitin, người cũng từng đạt Giải thưởng Stalin vào năm 1951 cho việc thiết kế xây dựng lại các khu nhà máy bằng đá nguyên khối và là tác giả của tháp truyền hình Ostankino tại thủ đô Moskva, công trình cao nhất thế giới trong giai đoạn 1967-76 và là công trình cao nhất châu Âu hiện nay. Ngày 23 tháng 1 năm 1958, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô chính thức ra quyết định khởi công khu phức hợp tượng đài Mamayev và đến tháng 5 năm 1959 việc xây dựng được tiến hành. Quá trình xây dựng bức tượng tương đối kéo dài và gặp rất nhiều khó khăn về cấu trúc, độ bền vững, công nghệ, về chi phí công trình cũng như tham vọng quá lớn của một số cấp lãnh đạo tối cao. Tuy nhiên, vượt qua tất cả những khó khăn đó, ngày 15 tháng 10 năm 1967 khu tượng đài chính thức được khánh thành sau 22 năm ấp ủ và thai nghén, và kết quả của tất cả những công sức đó thật sự là ấn tượng. Tại thời điểm khánh thành, nó là tượng đài lớn nhất trên thế giới và kỷ lục này được giữ cho đến năm 1989 khi tượng Đại Quan Âm ở công viên Kita no Miyako được hoàn tất. Hiện nay tượng đài đứng thứ 11 trong danh sách này. Việc trùng tu tượng đài Mẹ Tổ quốc diễn ra hai lần vào năm 1972 và 1986. Mô tả. Bức tượng khắc họa hình ảnh một người mẹ đang bước lên phía trước, tay phải giương cao thanh kiếm, mặt ngoảnh ra sau kêu gọi những người dân của đất nước Liên Xô hãy tiến lên đánh đuổi giặc thù. Chiều cao tổng cộng của tượng đài là 85 mét với phần thanh kiếm cao 33 mét và phần thân người mẹ cao 52 mét. Tượng Mẹ Tổ quốc được đặt trên một bệ nhỏ cao 2 mét, chiếc bệ nhỏ này lại nằm trên một bệ lớn hơn cao 16 mét được chôn chìm trong lòng đất. Bức tượng không được "dán" vào bệ mà nó đứng vững chỉ nhờ vào trọng lượng lớn cùng ma sát giữa tượng với thân bệ. Khối lượng của bức tượng lên đến khoảng 8.000 tấn. Từ chân đồi lên bức tượng, người tham quan phải đi 200 bậc thang tượng trưng cho 200 ngày chiến đấu bảo vệ và giải phóng thành phố Stalingrad. Để xây dựng bức tượng (không tính phần bệ), người ta đã phải huy động đến 5.500 tấn bê tông cùng 2.400 tấn vật liệu kim loại. Độ dày của lớp bê tông bao ngoài tượng chỉ chừng 25–30 cm. Trong lòng bức tượng là một kết cấu gồm nhiều ô trống, buồng trống và phòng, giống như một tòa nhà. Độ bền của cấu trúc này được duy trì bởi 99 dây thép kéo căng. Thanh kiếm trên tay phải của bức tượng ban đầu có cân nặng 14 tấn và được làm từ thép không rỉ và titan. Tuy nhiên khối lượng quá lớn cùng với tác động mạnh của gió (gây ra bởi kích thước lớn của nó) đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến độ bền vững của toàn bức tượng. Đồng thời, sự biến dạng trong cấu trúc của thanh kiếm gây ra bởi sự dịch chuyển của các tấm titan cũng tạo ra nhiều âm thanh khó nghe cho người xung quanh. Vì vậy, trong lần trùng tu năm 1972, một thanh kiếm mới làm bằng thép flo hóa đã được đặt vào thay thế cho thanh kiếm cũ. Lưỡi của thanh kiếm mới cũng được có nhiều lỗ để làm giảm áp lực của gió. Trong lần trùng tu năm 1986, thành phần bê tông cốt thép của tượng đã được gia cố thêm theo kiến nghị của nhóm chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu khoa học về bê tông và bê tông cốt thép đứng đầu bởi R. L. Serykh. Hình tượng nguyên mẫu của tượng đài. Theo nhiều nguồn tin khác nhau, có nhiều giả thiết về hình tượng nguyên mẫu của tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi. Ba trong số đó là: Anastasi Antonovna Peshkova, một nữ giáo viên tại Barnaul, Valentina Izotova, một nữ nhân viên phục vụ ở nhà hàng, hoặc Yekaterina Grebneva, một nữ vận động viên thể dục nhịp điệu. Theo Izotova, trong thời gian là mẫu cho bức tượng bà đã phải khỏa thân và chồng của bà tỏ ra không hài lòng về việc này, tuy nhiên bản thân Izotova không thấy phiền phức lắm mà trái lại bà còn thấy tự hào vì đã tham gia phục vụ cho công trình vĩ đại này. Một số ý kiến khác cho rằng các bức phù điêu tại Khải hoàn môn Paris và Tượng thần chiến thắng Samothrace cũng là cảm hứng cho tượng đài Mẹ Tổ quốc. Tình trạng sụt lún của tượng đài. Trong thời gian gần đây, mực nước ngầm tại khu vực tượng đài có sự thay đổi, điều đó dẫn đến phần nền đất của tượng đài cũng dịch chuyển theo, gây ra hiện tượng sụt lún nghiêm trọng của tượng. Theo các tính toán, tượng đã di chuyển 20 cm và do tượng không được "dán" vào bệ mà chỉ đứng vững nhờ trọng lượng của nó, việc dịch chuyển thêm nữa sẽ khiến bức tượng đổ sập. Tuy chính quyền địa phương không đồng ý với nhận định rằng tượng đài đang gặp nguy hiểm, các công tác bảo tồn và sửa chữa tượng đã được tiến hành vào năm 2010.
1
null
Chất lượng trong kinh doanh, kỹ thuật và sản xuất là một giải thích mang tính thực dụng như ưu ái một điều gì đó; nó cũng được định nghĩa như là "sự thích hợp cho mục đích nào đó". Chất lượng là một sự cảm nhận, điều kiện và thuộc tính chủ quan và có thể được hiểu khác nhau bởi nhiều người khác nhau. Người tiêu quan tâm đến "đặc tả chất lượng" của sản phẩm/dịch vụ; hay mức độ mà sản phẩm/dịch vụ đó đáp ứng nhu cầu thử nghiệm. Nhân viên hỗ trợ có thể đo lường chất lượng ở mức độ một sản phẩm có độ tin cậy, khả năng duy trì hoặc tính bền vững. Có 5 khía cạnh về chất lượng trong bối cảnh thương mai:
1
null
Nguyễn Thị Hoàn, tên hiệu Ý Tĩnh Khang hoàng hậu (chữ Hán: 懿靜康皇后, 1736 - 30 tháng 10 năm 1811), hay Hiếu Khang hoàng hậu (孝康皇后), là chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân, mẹ đẻ của vua Gia Long. Sau khi lên ngôi, Gia Long tôn bà làm Hoàng thái hậu, trở thành Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Nguyễn. Thái hậu có vai trò quan trọng trong việc động viên vua Gia Long, gây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn thống nhất đất Nam. Tiểu sử. Bà tên thật là Nguyễn Thị Hoàn (阮氏環), người ở làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên, con gái Diễn quốc công Nguyễn Phúc Trung (阮福忠) , mẹ là Phùng phu nhân người ở làng An Du. Chị gái ruột của bà chính là bà Từ Phi của Nguyễn Phúc Luân. Bà vào hầu Nguyễn Phúc Luân ở "nhà để" học các phép tắc trong chốn khuê môn. Sau đó, bà sinh ra ba con trai và một con gái: con trưởng tức Đông Hải quận vương Nguyễn Phúc Đồng (阮福晍), con thứ 2 chính là Nguyễn Ánh, con thứ 3 là Thông Hóa quận vương Nguyễn Phúc Điển (阮福晪). Người con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Tú (阮氏玉琇), sinh vào năm 1760, lớn hơn Nguyễn Ánh khoảng 2 tuổi, có lẽ bà là em của Nguyễn Phúc Đồng. Cuối năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân, bà đến làng An Du ẩn nấp cùng các con gái. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1779), Nguyễn Ánh sai người rước bà đến Gia Định, gặp lúc quân Tây Sơn vào đánh cướp, Nguyễn Ánh phải lẩn đi chỗ khác; bà cùng các con dâu lại đóng ở đảo Phú Quốc. Nguyễn Ánh sau đó cũng chạy ra đảo Phú Quốc. Mùa xuân, Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La cầu viện, bà lại cùng gia quyến của ông đóng ở đảo Thổ Châu; quân cầu viện thất bại, bà lại cùng gia quyến trở lại đảo Phú Quốc. Mùa thu, Mậu Thân (1788), quân Nguyễn lấy lại được Gia Định, liền sai Nguyễn Văn Nhân đón bà về Gia Định; năm Canh Tuất (1790) dựng điện rước bà đến ở. Năm Bính Thìn (1796), mùa đông, tháng 10, Nguyễn Ánh dâng sách vàng tấn tôn bà làm Quốc mẫu Vương thái phi (國母王太妃). Khi hoàng đế lấy lại được đô thành (1801), ông ra ơn cho làng An Du đã cưu mang mẹ ông, mọi dịch thân thuế đều miễn cho cả. Năm 1802, tháng 3, Gia Long tôn bà làm Vương Thái hậu (王太后). Bấy giờ, truy phong cho tổ phụ Nguyễn Phúc Kiên (阮福兼) làm "Dương Vũ công thần Khai phủ phụ quốc Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Thiếu úy", tước "Đôn Hậu Quận công" (敦厚郡公). Thân phụ Phúc Trung là "Tán Nghị công thần Thượng trụ quốc Đô đốc phủ chưởng phủ sự Thái bảo", tước "Diễn quốc công" (演國公). Lập đền thờ ở xã An Du, cho điệt ôn, cháu gọi Phùng phu nhân là cô, làm chức "Cai đội", coi giữ việc thờ tự ở đây. Năm 1804 Gia Long dựng Cung Diên Thọ và rước bà đến ở. Gia Long thân đến làm lễ chúc mừng, các quan và mệnh phụ đều dâng vàng bạc làm lễ phẩm tiến lên. Các con tiến 20 lạng vàng, 100 lạng bạc; mệnh phụ tiến 10 lạng vàng, 50 lạng bạc. Năm 1806, mùa thu, tháng 7, Nguyễn Ánh dâng kim sách tôn bà làm Hoàng thái hậu. Mùa thu năm 1807, lúc đó Thái hậu được 70 tuổi, Gia Long tổ chức Khánh tiết lớn trong ngoài kinh thành. Các quan lại, hoàng tử, cung phi, các công thần ở Tống Sơn, họ Lê, họ Trịnh đều đến chúc mừng và dâng lễ vật. Sai nhạc công múa "Bát dật", hát các khúc "Vạn niên hoan", "Thiên hạ lạc", "Thái bình lạc". Băng thệ và hậu sự. Tháng 9, ngày Bính tuất, Hoàng thái hậu se mình. Trước đây sao chổi xuất hiện, người hầu đem tâu, Hoàng thái hậu buồn rầu không vui, một đêm lẻn ra xem, rồi vào bảo người hầu rằng: “Sao chổi chính ứng điềm vào thân già này”. Đến nay se mình. Vua sớm chiều đến chầu ở cung Trường Thọ, sai hoàng tử hoàng tôn vào hầu. Các quan văn võ đều họp ở công thự bên hữu. Ngày Kỷ sửu, tháng 09 âm lịch, tức ngày 30 tháng 10 năm 1811, Hoàng thái hậu băng, thọ 74 tuổi. Vua thương khóc không thôi. Triệu các quan vào bên để bàn việc tang. Các quan xin từ tam phẩm trở lên đều để tang một năm. Vua dụ rằng: “Nhà vua lấy Tôn Miếu Xã Tắc làm trọng. Nay trẫm đã để tang 3 năm, các ngươi lại để tang 1 năm, nếu trong một năm có việc ở Tôn Miếu Xã Tắc thì làm lễ thế nào? Vậy cho để tang 3 tháng”. Các quan lại ngờ về tang phục của công chúa để tang. Vua nói: “Thánh nhân đặt lễ phân biệt từng ly từng tý. Lòng kính không thể thích hợp cả đôi đường, tang phục không thể trọng cả hai bên. Cho nên một người con gái, khi ở nhà thì lấy nhà cha làm tôn, khi lấy chồng thì lấy nhà chồng làm trọng. Nghĩa đã có phân biệt, tang sao lại như nhau được. Vậy nghị cho hoàng nữ đã đi lấy chồng thì kém hoàng nữ còn ở nhà một bậc”. Bộ Lễ lại xin định hạn cấm việc giá thú. Vua nói: “Thần dân nên theo thứ tự mà tỉnh giảm để lấy vợ lấy chồng được kịp thời”. Thế là sự bàn đã định. Ngày Đinh dậu, làm lễ thành phục (Vua để tang 3 năm; hoàng hậu tang 3 năm; phi tần, hoàng tử và công chúa chưa đi lấy chồng đều tang 1 năm; trưởng công chúa và công chúa đã đi lấy chồng tang 9 tháng. Người tôn thân ở năm bậc tang đều để tang theo như lễ; người thân ở bậc trần cánh tay và bỏ mũ thì dùng khăn vải trắng; quan văn võ từ chánh tam phẩm trở lên, tang mặc áo vén gấu 3 tháng, từ tòng tam phẩm trở xuống, ai dự vào việc tang thì dùng vải trắng; quan ngoài thì miễn áo tang, duy ai về Kinh thì mang áo tang cũng như quan Kinh; quan thuộc cung Trường Thọ thì chánh tam phẩm trở lên mặc áo vén gấu 5 tháng; mệnh phụ đều để tang như chồng; quan viên từ tam phẩm trở lên cấm cưới vợ gả chồng 3 tháng, tứ phẩm trở xuống thì 1 tháng, quân dân 15 ngày; cấm dùng màu hồng màu tía 1 năm; cấm hát xướng 3 tháng. Quan viên vào chầu hầu, trong 3 năm đều không được mặc áo màu đỏ màu tía; phàm gặp việc thờ cúng hay việc quân đều cho mặc áo thường mà làm việc; các thành dinh trấn trong 3 tháng, ngày mồng một và ngày rằm đều được miễn bái chầu). Chiếu dụ trong ngoài rằng: “Giờ tuất ngày 14 tháng này, Hoàng thái hậu thăng hà, trẫm thương xót đau lòng, kính cẩn ở trong cung để tang ba năm, nhất thiết theo lễ chế. Phục chế và hạ cấm đối với quan viên trong ngoài và quân dân đều theo nghị định mà làm”. Trước kia vua thờ Hoàng thái hậu rất kính cẩn, khi muôn việc đã rồi thì xem bữa ăn, thăm sức khỏe, lễ thường không thiếu. Đến khi thái hậu băng, vua cư tang, lòng rất đau thương. Tháng 3, ngày Mậu dần, năm 1812 vua đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn thụy Đại hành hoàng thái hậu là Ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiến Hiếu Khang hoàng hậu(懿靜惠恭安貞慈獻孝康皇后) . Bài sách nói: “Thần nghe Kinh Dịch khen Đất gây nên vật, Kinh Thi khen Trời sinh ra dân. Nghĩ đức dày thể theo đức chí nguyên; nên tiếng tốt lưu truyền đời mãi mãi. Kính nhớ Đại hành hoàng thái hậu: nhân từ giữ được tính trời, rộng lớn sách cùng nết đất. Gian nan bền chí, giúp đỡ cha hiền. Từ khi vận nước gặp tai, giúp thần bao phen khó nhọc. Đem mình làm khuôn mẫu, chăm lo việc cơ mưu. Cho thần dựng lại nước nhà, thống nhất bờ cõi; ví không nhờ ơn dạy dỗ, sao được thế này? Phong hóa tốt đẹp, thơm khắp mọi phương. Tuổi thọ lâu dài, vượt ngoài bảy chục. Vội bỏ lộc thiên hạ phụng dưỡng, mà đi chơi dạo chốn đế hương. Ơn như trời cao, muốn trả không sao được; đức như đất chở, phải tiếp đến vô cùng. Kính cẩn đem bầy tôi, xin mệnh ở Tôn Miếu, phụng sách vàng dâng tôn thụy là ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiến Hiếu Khang hoàng hậu. Cúi xin hồn thiêng sáng suốt, nhận lấy danh hay. Sánh hợp tổ tiên, muôn đời phối hưởng”. Vua tôi bàn định lễ Ninh lăng. Sai Nguyễn Văn Thành, Phạm Văn Nhân,Nguyễn Huỳnh Đức sung chức Tổng hộ sứ, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm sung chức Phù liễn sứ, Nguyễn Đức Xuyên đề đốc quân và voi theo hầu hai bên tả hữu, Trần Công Lại và Trương Phước Đặng coi giữ Kinh thành. Mùa hạ, tháng 04 ngày Quý sửu, năm Nhâm Thân âm lịch, tức ngày 21 tháng 05 năm 1812 an táng Lăng Thoại Thánh. Trước mười ngày là ngày Giáp thìn, đem việc kính cáo các miếu. Ngày Kỷ dậu, tế khải điện. Ngày Canh tuất, thuyền ra đi. Qua các tôn lăng đều sai quan đem việc kính cáo trước. Nhân cách. Động viên con. Bà theo Gia Long lênh đênh chạy tìm cách xoay trở tình hình thế cuộc, là chỗ dựa tinh thần vững chắc của ông. Ngay khi ông đi thuyền đến đảo Côn Lôn, gặp gió lớn, trôi dạt ở ngoài biển 7 ngày, trong thuyền hết nước uống thì bỗng có nước nhạt chảy ra, nhờ thế mới đỡ. Khi thuyền đến đảo Phú Quốc, gặp lại mẹ, ông thuật lại tình trạng cay đắng của mình, bà nói: "Gió lớn ở đảo Côn Lôn, giữa biển có nước ngọt, có thể biết là lòng trời ngầm giúp cho con, con chớ nên lấy sự khó nhọc ấy mà tự nản chí". Gia Long nghe thế lạy tạ và động viên ông rất nhiều trong việc giành lại đất nước sau này. Tình chị em thân thiết. Bà đối với chị mình là Từ phi rất yêu mến, từ khi còn ở Gia Định cho đến khi ở Phú Xuân, bà đều cùng ở chung với chị mình; Khi ở cung Trường Thọ, bà ở phần trước cung, còn Từ phi ở phía sau, muôn phần hòa thuận. Khi Từ phi mất, Gia Long chưa vội tâu, bà biết được, giận không ăn cơm. Khi Gia Long thăm, bà nói: "...Thân già này có một người chị, lúc ốm không được thấy, vì thế ăn không ngon...". Gia Long bèn cúi quỳ ở trước thềm cung, xin lỗi thành khẩn, bà mới ăn cơm. Di sản. Trong số 94 kim sách triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam thì kim sách tấn phong Quốc mẫu Vương Thái phi cho bà Nguyễn Thị Hoàn là có niên đại sớm nhất. Bà được tấn phong vào tháng 10, năm Cảnh Hưng thứ 57 (1796), có nghĩa là lúc đó Nguyễn Ánh chưa lên ngôi vua, và mới chỉ khôi phục được vùng Gia Định. Ngày 30/1/2023, Kim sách tấn phong Quốc mẫu Vương Thái Phi được xếp vào danh sách 27 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia. Theo hồ sơ thì kim sách này có hai tờ bạc mạ vàng, nặng 3,475 kg. Mặt trước và mặt sau của kim sách để trơn, bên trong khắc 254 chữ Hán.
1
null
Dornier N là một loại máy bay ném bom, được thiết kế ở Đức trong thập niên 1920 và sản xuất ở Nhật Bản. Việc sản xuất ở Nhật Bản bắt đầu vào năm 1927, 28 chiếc được định danh là Kawasaki Ka 87 (còn gọi là Máy bay ném bom đêm Kiểu 87).
1
null
Đánh giá chất lượng là một quá trình kiểm tra, đánh giá một hệ thống chất lượng để tìm ra các điểm phù hợp hay không phù hợp của một hệ thống chất lượng trong một tổ chức. Kết quả đánh giá là các thông tin, đầu vào quan trọng cho việc cải tiến chất lượng. Việc đánh giá chất lượng có thể tiến hành bởi một đoàn đánh giá nội bộ hoặc một đoàn đánh giá độc lập. Đây là một phần quan trọng của một hệ thống quản lý chất lượng của tổ chức và là yếu tố then chốt trong tiêu chuẩn hệ thống quản lý ISO, ISO 9001. Các phương pháp đánh giá. Có ba hình thức đánh giá được phân loại dựa trên quan hệ giữa bên đánh giá và bên được đánh giá như sau: Đánh giá của Bên thứ nhất: Còn gọi là đánh giá nội bộ, được chính tổ chức hoặc bên được tổ chức uỷ quyền tự tiến hành đánh giá với các mục đích nội bộ và có thể tạo cơ sở cho việc tự công bố sự phù hợp. Đánh giá của bên thứ hai: Là loại hình đánh giá được tiến hành bởi các bên quan tâm đến tổ chức như khách hàng, hay đại diện của khách hàng…. Đánh giá của bên thứ ba: Do tổ chức độc lập bên ngoài tiến hành. Tổ chức độc lập bên thứ ba được gọi là tổ chức chứng nhận. Tổ chức chứng nhận cấp giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng, hệ thống quản lý môi trường hay sản phẩm của tổ chức phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn áp dụng.
1
null
Phân tích Pareto là một kỹ thuật thống kê trong việc ra quyết định được dùng để lựa chọn trong số nhiệm vụ có giới hạn nhằm sản sinh ra hiệu ứng tổng thể đáng kể. Phân tích này sử dụng nguyên lý Pareto với ý tưởng thực thi 20% công việc thì sẽ có 80% lợi ích của việc thực hiện toàn bộ công việc được sinh ra. Trong phát triển chất lượng, thuật ngữ có thể hiểu như 80% vấn đề lớn nhất xuất phát từ 20% nguyên nhân. Ứng dụng phân tích Pareto trong quản lý rủi ro cho phép quản lý tập trung các rủi ro có thể tác động phần lớn dự án.
1
null
là series manga của nữ tác giả Abiko Miwa, được đăng trên tạp chí nguyệt san LaLa của nhà xuất bản Hakusensha, gồm 14 tập. Manga đã được chuyển thể thành anime phát sóng năm 1992. Bản quyền manga tại Việt Nam thuộc về Nhà xuất bản Kim Đồng. Cốt truyện. Một lần trên đường đi học về, cậu bé Tomu bắt gặp trên đường một con mèo lông màu cam lạ mắt, và nó có ánh mắt nhìn rất kì lạ. Nó đã theo cậu về nhà. Hai mẹ con Tomu đã thuyết phục bố cho nuôi con mèo này, vì nó rất đáng yêu và khá ngoan ngoãn. Tomu đặt tên cho nó là Mikan, và cho nó ngủ cùng trên giường. Chuyện tưởng như chẳng có gì đáng nói, với một gia đình nuôi một chú mèo cưng, cho đến một buổi sáng nọ, Tomu thức dậy và thấy có mùi lạ. Từ phía Mikan nồng nặc bốc ra mùi rượu bạc hà nho (gần giống bạc hà mèo). Thấy lạ khi có mùi rượu bốc ra từ một con mèo, nên đêm đó Tomu quyết định rình xem. Thì ra Mikan không phải một con mèo bình thường: nó biết nói, biết đi bằng hai chân sau và biết uống rượu! Tomu kinh ngạc không nói nên lời khi thấy Mikan lấy hũ rượu bạc hà nho trong bếp ra, vừa uống vừa giả như đang đối ẩm cùng ai đó. Thế là từ vị trí chỉ là chú mèo nuôi, Mikan trở thành một thành viên trong gia đình, một đứa con của nhà Kusanagi. Mikan cho rằng mình đã đúng khi đi theo Tomu, vì gia đình cậu chấp nhận khả năng đặc biệt của nó, chứ không như những người khác, và họ hết lòng yêu quý nó như một người ruột thịt. Và bản thân Mikan cũng chứng tỏ mình là một chú mèo có suy nghĩ "hơn người", sâu sắc, biết chia sẻ bao chuyện buồn vui với gia đình và bạn bè. Những câu chuyện về Mikan là những câu chuyện ấm áp, cảm động về tình yêu thương giữa những con người, con vật với nhau. Gia đình Kusanagi còn phát hiện ra khả năng viết của Mika, và họ đã mua sổ, bút màu và tẩy để chú mèo kể lại nhưng câu chuyện thường ngày trong "nhật ký bằng tranh". Nhân vật. Các nhân vật khác. Cô gái tóc vàng cá tính mạnh mẽ, là y tá của phòng khám Inagaki trong thời gian Yayoi nghỉ để sinh con.
1
null
Tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II được cử hành vào ngày 8 tháng 4 năm 2005, tức là sáu ngày sau khi ông qua đời vào ngày 2 tháng 4. Tang lễ liên tục bằng "tuần cửu nhật" cầu nguyện theo nghi thức Giáo hội Công giáo Rôma. Sau Thánh Lễ An Táng là Thánh Lễ Tưởng niệm trong khoảng thời gian này, công chúng được phép tham dự. Những vị cử hành Thánh Lễ này được luân phiên và thuộc vào trong bảy nhóm: nhà nguyện Giáo hoàng, giáo sĩ cư ngụ trong thành Vatican, Giáo phận Rôma, giáo sĩ thuộc các vương cung thánh đường chính tại Roma, Giáo triều Rôma, Giáo hội Đông Phương và cuối cùng là các dòng tu. Khi "tuần cửu nhật" kết thúc, Giáo hội Công giáo bước sang giai đoạn khác là các nghi thức và phụng vụ cho cuộc Mật nghị Hồng y bầu giáo hoàng mới. Tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II là sự kiện có sự tham dự của nhiều nguyên thủ quốc gia nhất cùng quy tụ trong một thời điểm, vượt qua cả tang lễ của Winston Churchill (1965) và của Josip Broz Tito (1980). Tổng cộng khoảng 200 chính khách và lãnh đạo tôn giáo, cụ thể: bốn vị vua, năm nữ hoàng, ít nhất là 70 tổng thống và thủ tướng, hơn 14 lãnh đạo tôn giáo tham dự cùng với tín hữu. Đây cũng có thể là sự kiện quy tụ Kitô hữu lớn nhất lịch sử, ước tính có hơn bốn triệu người tham dự tại Roma Bên cạnh tang lễ được cử hành tại Vatican, tất cả tổng giám mục và giám mục Công giáo trên khắp thế giới đều cử hành thánh lễ tại nhà thờ chính tòa để giáo dân tưởng niệm và thương tiếc giáo hoàng. Như là một động thái hiếm hoi trong lịch sử, một số vị lãnh đạo giáo hội Tin Lành, Chính Thống giáo Đông phương cũng như Do Thái giáo, Hồi giáo và Phật giáo cũng tổ chức các buổi tưởng niệm và cầu nguyện theo nghi thức riêng để chia sẻ nỗi đau buồn của người Công giáo. Đây là lần đầu tiên mà lãnh đạo Chính Thống giáo Đông phương và Anh giáo đến tham dự tang lễ của một vị giáo hoàng kể từ khi họ cắt đứt liên hệ với Roma trong quá khứ. Thượng phụ Đại kết Bartholomew I và Tổng Giám mục Rowan Williams của tòa Anh giáo Canterbury tham dự ở hàng ghế danh dự dành riêng cho các đoàn khách từ các giáo hội Kitô giáo không hiệp thông đầy đủ với Roma. Các nghi thức ngay khi giáo hoàng qua đời. Các nghi thức được tiến hành ngay sau khi một giáo hoàng qua đời vốn đã tồn tại trong nhiều thế kỷ. Nghi thức này luôn do Hồng y Nhiếp chính chủ trì. Ngày 22 tháng 2 năm 1996, qua Tông hiến "Universi Dominici Gregis" ("Đoàn chiên phổ quát của Chúa"), Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cho chỉnh sửa nhiều chi tiết trong nghi thức này theo chiều hướng tinh giản hơn. Ngay khi Gioan Phaolô II trút hơi thở cuối cùng, Hồng y Nhiếp chính khi đó là Eduardo Martínez Somalo đã tháo chiếc nhẫn Ngư phủ ra khỏi ngón tay của giáo hoàng và thực hiện nghi thức hủy bỏ nó bằng cách dùng búa đập nát trước sự chứng kiến của các thành viên trong Hồng y Đoàn. Hành động này nhằm ngăn chặn việc tạo ra các tài liệu giả mạo trong thời điểm trống tòa giáo hoàng. Sau khi hủy chiếc nhẫn, Hồng y Martínez Somalo đã đóng cửa và niêm phong căn phòng riêng của giáo hoàng. Truyền thống này được thêm vào bắt nguồn từ việc trong quá khứ đã có nhiều hồng y đột nhập vào phòng giáo hoàng để lục soát sau khi ông qua đời. Giấy chứng tử Giáo hoàng Gioan Phaolô II do Tiến sĩ Renato Buzzonetti - Giám đốc Sở Y tế và Môi sinh của thành quốc Vatican ký ngay trong buổi tối hôm đó. Tiếp theo, Hồng y Martínez Somalo ra lệnh Hồng y Joseph Ratzinger - niên trưởng Hồng y Đoàn - triệu tập mọi hồng y trên thế giới về Vatican để họp Mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng mới. Vatican tuyên bố rằng thi hài Giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ không được tẩm ướp và vẫn đang ở trạng thái bình thường mà không cần thêm phương pháp bảo quản. Nhiều người Ba Lan bày tỏ mong muốn đem phần tim của ông về quê hương Ba Lan chôn cất nhưng cũng không được Vatican đáp ứng. Thánh lễ an táng Giáo hoàng Gioan Phaolô II là sự kiện trực tiếp lớn nhất trong lịch sử truyền hình. Kính viếng. Thi hài của Giáo hoàng Gioan Phaolô II được mặc áo Cassock màu trắng quen thuộc, dây Các Phép biểu tượng của thừa tác vụ linh mục được quàng quanh cổ ông. Ngoài cùng là áo lễ màu đỏ vì theo truyền thống Byzantine cổ đại, màu đỏ là màu tang lễ dành cho giáo hoàng hoặc các vị tông đồ tử nạn. Xung quanh cổ áo lễ còn có dây pallium màu trắng. Đầu ông đội mũ Zucchetto màu trắng bên trong và mũ Miter bên ngoài. Hai bàn tay được để trên ngực, ôm lấy cỗ Thánh Giá và tràng chuỗi Kinh Mân Côi. Ban đầu, thi hài của ông được quàn tại Căn hộ Giáo hoàng để các giáo sĩ cao cấp kính viếng, sau đó được đặt trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô do đội cận vệ Thụy Sĩ làm nhiệm vụ canh gác cho tín hữu đến viếng. Thánh lễ cầu cho linh hồn. Thánh lễ đầu tiên trong thời gian tang lễ là "Thánh Lễ Cầu cho Linh hồn" do Hồng y Eduardo Martínez Somalo chủ tế vào ngày 3 tháng 4 năm 2005. Hôm đó là phụng vụ ngày Chúa Nhật trùng với việc cử hành Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót - một ngày lễ cũng do chính Giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. "Thánh Lễ Cầu Hồn" là nghi thức dành cho những người Công giáo vừa qua đời nhằm nguyện xin Thiên Chúa đón nhận linh hồn người đó vào thiên đàng. Cuối buổi là phần nguyện kinh Lạy Nữ Vương. Nghi thức truy điệu. Sau đó, thi hài của Giáo hoàng Gioan Phaolô II được đặt trên một kiệu nhà táng, đầu kê trên ba chiếc gối màu vàng, gần một cây Thánh Giá bằng gỗ và một cây nến phục sinh - biểu tượng Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng của thế gian. Thi hài được di chuyển đến Thính phòng Clementine, nằm ở lầu hai của Điện Tông Tòa. Thời gian này là dành cho các đoàn chính quyền nước Ý đến viếng. Ngày 4 tháng 4, thi hài Giáo hoàng Gioan Phaolô II được chuyển qua một kiệu bằng vải nhung màu đỏ, đầu ông kê trên ba chiếc gối màu đỏ viền vàng. Đội di quan mặc áo vest đen và đeo găng tay trắng, đứng hai bên. Hồng y Martínez Somalo chủ trì nghi thức. Ông làm phép thi hài Giáo hoàng bằng cách rảy nước thánh vào ba lần: bên phải, trên đầu và bên trái. Một thầy giúp lễ đưa cho vị hồng y bình trầm hương và ông xông lên ba lần hương. Một đoàn rước dài bắt đầu di chuyển thi hài Giáo hoàng Gioan Phaolô II từ Thính phòng Clementine đi ngang qua dãy hành lang cột trụ của Điện Tông Tòa để tiến vào Quảng trường Thánh Phêrô, nơi mà nhiều người đang chờ đợi. Theo truyền thống, thi hài của Giáo hoàng phải được đưa đến một trong hai nơi là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô hoặc Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô. Đoàn rước bao gồm các tu sĩ, linh mục, giám mục và cuối cùng là Hồng y Đoàn. Khi nghi lễ bắt đầu tiến hành, ca đoàn các tu sĩ bắt đầu hát xướng bình ca Gregoriano, và những người khác đáp lại mỗi câu bằng cụm từ "Xin Chúa thương xót chúng con" trong Kinh Thương Xót (Kyrie, eleison). Kinh Cầu Các Thánh cũng được hát lên. Sau tên mỗi vị thánh được xướng lên thì cộng đoàn đáp lại "Cầu cho chúng con". Khi thi hài của Giáo hoàng được di chuyển lên các bậc thềm Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, những người di quan nhẹ nâng phần đầu của Gioan Phaolô II đối diện với hàng chục ngàn người đang tràn ngập nơi quảng trường Thánh Phêrô. Hồng y Martínez Somalo lưu ý rằng đây là cái nhìn cuối cùng của Giáo hoàng Gioan Phaolô II trước toàn dân ở quảng trường. Đoàn rước tiến vào bên trong và thi hài Giáo hoàng được đặt trước bàn thờ của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Cây nến phục sinh được thắp sáng, một phó tế đọc lời nguyện và Phúc Âm. Sau khi Hồng y Đoàn đã đến viếng thì họ rời khỏi nơi đó và vương cung thánh đường đóng cửa. Thánh lễ An táng. Lúc 10 giờ sáng (giờ Vatican) ngày 8 tháng 4 năm 2005, với tư cách là Niên trưởng Hồng y Đoàn, Hồng y Joseph Ratzinger đã chủ trì Thánh Lễ An táng Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Hồng y này cũng là một trong những người bạn thân cận nhất của giáo hoàng quá cố, ông đã đảm trách hầu hết các nhiệm vụ giáo hoàng giao trong những ngày cuối đời. Đồng tế trong Thánh Lễ An táng là Hồng y Đoàn (với số lượng hiện diện là 157 và 164 vị hồng y ở các thời điểm khác nhau) và các thượng phụ của các Giáo hội Công giáo Đông phương. Theo quy định, các giáo hoàng phải được án táng bằng cách chôn cất trong khoảng từ ngày thứ bốn đến ngày thứ sáu sau khi ông qua đời. Vì vậy, Vatican đã chọn ngày Thứ Sáu là ngày cuối cùng. Đây là lần đầu tiên mà Thánh Lễ An táng một vị giáo hoàng được truyền hình trực tiếp đến hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ước tính có hơn 2 tỷ người theo dõi nhưng Giáo hội Công giáo tuyên bố chỉ có khoảng 1,3 tỷ người theo dõi dựa theo số lượng thành viên của họ. Có lẽ đây là tang lễ thu hút nhiều người theo dõi nhất trên truyền hình. Tang lễ của Gioan Phaolô II cho đến thời điểm ấy là tang lễ lớn nhất trong lịch sử thế giới. Để dân chúng tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô có thể theo dõi, nhiều màn hình kỹ thuật số khổng lồ đã được lắp đặt để truyền đi diễn tiến Thánh Lễ An táng từ Quảng trường Thánh Phêrô. Nhiều màn hình khác cũng được dựng tại một số địa điểm ở Roma, có cả trường đua Circus Maximus và khu dựng trại cho khách hành hương bên ngoài thành phố. Nhập quan và di quan. Thánh Lễ An táng bắt đầu bằng việc đóng các cửa ra vào Đền thờ Thánh Phêrô. Chỉ có Hồng y Đoàn và các thượng phụ được phép vào bên trong. Trước khi thi hài Giáo hoàng Gioan Phaolô II được đặt vào một quan tài bằng gỗ bách, Tổng giám mục Stanisław Dziwisz - khi đó là thư ký của ông - đã đặt một tấm vải lụa trắng che mặt của Giáo hoàng (đây là một truyền thống bắt đầu từ thời Giáo hoàng Lêô XIII). Một điếu văn chi tiết cuộc đời và tác phẩm của Giáo hoàng Gioan Phaolô II do Tổng Giám mục Marini đọc bằng tiếng Latinh. Ngoài ra còn có ba túi nhỏ chứa các đồng tiền euro kim loại (vàng, bạc, đồng) được đặt bên cạnh thi hài. Mỗi túi này chứa các đồng mệnh giá 1 euro tương ứng cho mỗi năm trong Triều đại Giáo hoàng của ông. Đây là mức lương ông nhận được trên cương vị làm giáo hoàng, tổng cộng là khoảng €100. Sau nghi thức này, các cánh cửa của Đền Thờ Thánh Phêrô được mở ra. Hồng y Ratzinger và các vị hồng y đồng tế chuẩn bị rước quan tài của Giáo hoàng Gioan Phaolô II từ bên trong vương cung thánh đường ra bàn thờ bằng đá cẩm thạch ở giữa quảng trường Thánh Phêrô - nơi cử hành Thánh Lễ An táng. Cuộc rước bắt đầu bằng kinh "Requiem Aeternam" ("Xin cho các linh hồn được nghỉ ngơi đời đời"), trong đó có các câu trích từ Thánh Vịnh 64 (65): "Lạy Thiên Chúa, ca tụng Ngài ở Xion thật là chính đáng". Một thầy giúp lễ cầm một quyển sách Phúc Âm bọc da màu đỏ mở ra và đặt trên quan tài. Phụng vụ Lời Chúa. Phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh Lễ An táng mở đầu bằng bài đọc trích từ sách Sách Công vụ Tông đồ 10:34-43, do bà Chile Alejandra Correa đọc bằng tiếng Tây Ban Nha. Đáp ca là Thánh Vịnh 22 (23). Bài đọc thứ hai do ông John McDonald đọc bằng tiếng Anh trích từ Thư gửi tín hữu Philípphê của Phaolô 3:20-04:01. Người đọc đã kết thúc bằng việc hát lên cụm từ "Verbum Domini" ("Đó là Lời Chúa"). Cộng đoàn hát đáp lại "Deo gratias" ("Tạ ơn Chúa"). Sau khi ca đoàn hát Alleluia, mọi người đứng lên để nghe bài Phúc Âm. Hồng y Ratzinger ban phép lành cho một phó tế người Anh thuộc Tổng giáo phận Birmingham là Paul Moss (hiện nay ông đã được thụ phong linh mục và hiện đang làm Giám đốc Ơn gọi của Tổng giáo phận Birmingham), phó tế này lên bục giảng để đọc Phúc Âm. Ông mở đầu bằng việc hát: "Tin Mừng theo Gioan", cộng đoàn đáp: "Lạy Chúa, ngợi khen Chúa". Sau đó ông đọc đoạn Phúc Âm bằng tiếng Latinh. Đoạn Phúc Âm hôm đó là Gioan chương 6, ở câu 40 nói: "Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết". Sau đó thầy Moss đọc hát đoạn Phúc Âm Gioan chương 21, câu 15 đến 19 kể về một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô. Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần: "Con có yêu mến Thầy không?" và ông trả lời là có. Sau đó, Giêsu nói với người môn đệ của mình rằng "Hãy theo Thầy". Phó tế nâng quyển sách lên và hát ""Verbum Domini" (Đó là Lời Chúa)". Cộng đoàn đáp: ""Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa"." Bài giảng. Sau khi hôn sách Phúc Âm, Hồng y Ratzinger đứng trước toàn thể mọi người diễn giải bài giảng lễ, trong đó ông đã liên hệ đến đời sống và sự phục vụ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ban đầu, ông nói bằng tiếng Ý để ngỏ lời chào đón các quan khách chính trị và tôn giáo đến tham dự Thánh Lễ, và sau đó, hồng y Ratzinger đề cập đến câu chuyện làm thế nào mà chàng trai trẻ Karol đã đáp lại tiếng Chúa gọi "Hãy theo Ta!" để trở thành một linh mục sau khi cảm nghiệm được sự đàn áp của Đức Quốc xã. Hồng y Ratzinger cũng kể về cuộc đời của Gioan Phaolô trong từng giai đoạn khi làm Giám mục, hồng y, và Giáo hoàng. Theo đó, Gioan Phaolô II thường xuyên áp dụng Kinh Thánh vào đời sống và ông có lòng sùng kính Đức Mẹ Maria và Lòng Chúa Thương Xót một cách sâu sắc. Hồng y Ratzinger kết thúc bài giảng bằng những lời này: Với bài giảng này, Hồng y Ratzinger đã chiếm được sự đồng cảm của những người tham dự. Nhiều lần, phần giảng của ông bị gián đoạn vì đám đông lên tiếng vỗ tay. Sau đó, Kinh Tin Kính Nicene được hát bằng tiếng Latinh. Lời nguyện tín hữu được đọc bằng tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Swahili, tiếng Tagalog, tiếng Ba Lan, tiếng Đức và tiếng Bồ Đào Nha. Phụng vụ Thánh Thể. Phần sau của Thánh Lễ An Táng là Phụng vụ Thánh Thể. Hồng y Ratzinger và các hồng y đồng tế đến đứng xung quanh bàn thờ để thánh hiến bánh và rượu. Trong đó, nghi thức quan trọng nhất đối với người Công giáo là truyền phép Thánh Lễ (khi linh mục đọc lại những lời mà Chúa Giêsu nói trong bữa ăn tối cuối cùng), họ tin rằng bánh và rượu sẽ được biến đổi thần tính thành mình và máu Chúa Kitô. Vì tin như vậy nên người Công giáo thờ phượng Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể. Sau kinh nguyện Thánh Thể và các lời nguyện khác là Kinh Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei). Sau đó, Thánh Thể được phát cho người Công giáo tại Quảng trường Thánh Phêrô. Khi cộng đoàn đã nhận được Thánh Thể thì ca đoàn hát Thánh Vịnh 129 (130). Lời bài hát nói rằng: "Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con."'. Sau phần Phụng Vụ Thánh Thể, cả đám đông trên đường phố của Vatican vỗ tay, vẫy cờ và biểu ngữ hô vang "Santo Subito!" (xin phong thánh ngay đi!) và "Giovanni Paolo Santo" (Thánh Gioan Phaolô), có cả tiếng hô vang "Magnus" (vĩ đại). Nghi thức tiễn biệt. Sau khi giáo dân rước lễ, Hồng y Ratzinger chủ sự nghi thức tiễn biệt. Ông yêu cầu các vị hồng y và các thượng phụ nghi lễ Đông phương quy tụ quanh quan tài của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, còn giáo dân được kêu gọi bắt đầu cầu nguyện: "Thưa anh chị em, chúng ta hãy phó thác linh hồn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho lòng thương xót dịu dàng nhất của Thiên Chúa... Xin Maria... cầu bầu với Thiên Chúa để Ngài có thể cho đức giáo hoàng của chúng ta thấy nhan thánh Con Chúa và an ủi Giáo hội với ánh sáng phục sinh." Ca đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, các kinh cầu tương tự đã được đọc lên trong đám rước di quan từ Thính đường Clementine trong Điện Tông Tòa đến Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Sau khi hát Kinh Cầu Các Thánh, các thượng phụ, tổng Giám mục và của Giáo hội Công giáo Đông phương đến gần quan tài Giáo hoàng Gioan Phaolô II để cử hành các nghi lễ tiễn biệt riêng của họ. Sau đó, các thượng phụ cùng với toàn bộ Hồng y đoàn chứng kiến nghi thức rảy nước phép trên quan tài. Hồng y Ratzinger tiến hành xông hương, trong khi một vài giáo sĩ của Giáo hội Đông Phương thực hiện nghi lễ Byzantine trong tiếng Hy Lạp và tiếng Ả Rập. Thánh Lễ An táng chính thức kết thúc với bài hát: "Xin các thiên thần đi cùng ngài vào thiên đường, xin các vị tử đạo chào đón ngài và dẫn ngài đến Thành Thánh Jerusalem." Khi các người khiêng mang quan tài đi về phía lối vào của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô để an táng, cộng đoàn tham dự đã vỗ tay và reo hò như một cử chỉ tiễn biệt cuối cùng. Quan tài sau đó được quay 180 độ để đối mặt với cộng đoàn khiến đáng đông vỗ tay và reo hò sôi nổi hơn trước khi được đưa ra khỏi khu vực công chúng. Hồng y Ratzinger bàn giao quyền thực hiện nghi thức an táng cho Hồng y Martínez Somalo, Hồng y nhiếp chính. Các phái đoàn tham dự. Tang lễ Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quy tụ trên 200 phái đoàn trên thế giới về tham dự và khoảng 5 triệu tín hữu Công giáo. Đây được coi là tang lễ lớn nhất thế giới. Nhiều vua chúa, nữ hoàng và gia đình hoàng gia cũng tham dự Đặc biệt, trong thời gian đám tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II diễn ra, nhiều nước trên thế giới đã cử hành nghi thức quốc tang, cấm mọi hoạt động vui chơi trong vòng 4-5 ngày
1
null
Loligo forbesii là một loài mực trong họ Loliginidae. Loài này có thân dài, mảnh dẻ, dài đến 90 cm. Chúng sinh sống ở quanh British Isles, Địa Trung Hải, kéo dài qua Biển Đỏ đến bờ biển Trung Phi và Đại Tây Dương về phía nam đến vịnh Guinea. Tại Biển Celtic "L. forbesii" là một trong các loài cephalopoda dồi dào nhất. Chúng sinh sống đến độ sâu 10–500 m. Trưởng thành tính dục ở tuổi 11–14 tháng; tuổi thọ trung bình 1,5 năm tuổi. Mỗi con cái mỗi lần đẻ trên đáy biển đến 100.000 quả trứng, con non nở ra dài 5–7 mm. Chúng chủ yếu ăn cá, cá trích cơm, lươn cát và các cephalopoda khác. Người ta không rõ việc chúng ăn thịt đồng loại hay không.
1
null
James Patterson là nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất nước Mỹ sinh ngày 22-3-1947 tại Newburgh, New York. Năm 1971, Patterson vào làm việc cho Công ty Quảng cáo James Walter Thompson và cũng trong thời gian này ông bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình. Năm 1976, tiểu thuyết đầu tay của ông là "The Thomas Berryman Number" được xuất bản và được trao giải thưởng dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Năm 1993, với sự ra đời của tiểu thuyết "Along Came a Spider", Patterson mới chính thức có tên trong danh sách những nhà văn trinh thám nổi danh nhất nước Mỹ. Năm 1996 Patterson đã rời bỏ ngành quảng cáo để dành toàn bộ thời gian cho nghệ thuật. Trong hơn 30 năm cầm bút chuyên nghiệp, "Patterson" đã viết được gần 70 cuốn tiểu thuyết gồm: "Luật sư và bị cáo", "Tuần trăng mật", "Hồng rực đỏ"….Ông đã từng 19 lần đứng ở vị trí đầu tiên của bảng xếp hạng sách bán chạy nhất in trên tờ New York Times. Năm 2016 hiện ông đang đứng thứ 3 thế giới về thu nhập cá nhân của mình Năm 2017 khiêm tốn ở vị trí thứ 9 sau nhiều tên tuổi nổi tiếng trong giới giải trí khác với 87 triệu USD.Tuy nhiên không thể phủ nhận những đóng góp mà ông đã mang lại cho tủ sách của Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung
1
null
Vụ cháy hộp đêm Kiss xảy ra vào ngày lúc 02:00-02:30 (BRST) 27 tháng 1 năm 2013 ở Santa Maria, Rio Grande do Sul, Brasil. Vụ cháy đã khiến ít nhất 233 người chết và khiến ít nhất 130 người khác bị thương.. Ban nhạc Gurizada Fandangueira đang biểu diễn trên sân khấu hộp đêm này khi đám chảy bùng phát. Vụ cháy này được cho là gây chết nhiều người nhất trên thế giới trong hơn một thập niên qua, kể từ sau một vụ hỏa hoạn câu lạc bộ ở Trung Quốc năm 2000. Năm 2004, một vụ cháy hộp đêm hạng bình dân ở Argentina làm chết 194 người. Năm 2009, pháo hoa bên trong hộp đêm ở Nga gây cháy, khiến 152 người thiệt mạng. Đám cháy bùng lên sau khi người ta bắn pháo hoa trên một sân khấu của hộp đêm và lửa bắn lên trần nhà. Hộp đêm chỉ có một lối thoát hiểm duy nhất. Vì thế tình trạng hoảng loạn lan rộng trong lúc mọi người cố gắng thoát ra ngoài. Các nhân chứng kể rằng nhiều người tử vong vì hít quá nhiều khói và bị giẫm đạp. Lính cứu hỏa đã phá một bức tường bằng búa và rìu để cứu những người mắc kẹt bên trong. Sau khi lực lượng cứu hỏa dập tắt đám cháy, các lực lượng cứu hỏa tìm thấy hơn 200 thi thể. Họ đưa hàng trăm người bị thương tới bệnh viện. Ít nhất 200 người bị thương. Lính cứu hỏa vẫn tiếp tục tìm kiếm các nạn nhân. Hộp đêm Kiss có thể chứa tối đa 2.000 người và rất có thể hộp đêm không còn một chỗ trống vào đêm cuối tuần. Diễn biến vụ cháy. Trong những giờ sáng sớm ngày 27 tháng 1 năm 2013, một đám cháy xảy ra tại hộp đêm Kiss ở Santa Maria, một thành phố lớn. Một vụ giẫm đạp xảy ra sau đám cháy, và thiếu các bảng hiệu hướng dẫn lối thoái hiểm và thoát hiểm khẩn cấp được cho là nguyên nhân đến các vụ tử vong. Năm mươi thi thể đã được tìm thấy chỉ trong một phòng tắm. Cảnh sát Brazil cho biết, ngọn lửa bắt đầu khi ban nhạc Gurizada Fandangueira đốt pháo hoa trong khi biểu diễn trên sân khấu. Nhiều người trong số những người thiệt mạng được cho là đã chết vì hít phải khói. Đại tá Guido Pedroso de Melo của Sở cứu hỏa Rio Grande do Sul nói rằng cửa trước của câu lạc bộ đã bị khóa. De Melo nói với CNN: "Việc hộp đêm có quá đông khách đã gây khó khăn cho mọi người chạy thoát khỏi đám cháy, và theo thông tin chúng tôi có, các nhân viên bảo vệ đã chặn các nạn nhân bên trong". Vụ cháy đã gây số lượng người chết nhiều thứ hai cho một sự kiện giải trí ở Brazil, vụ này chỉ đứng thứ hai sau vụ hỏa hoạn rạp xiếc Niterói 1961 làm hơn 500 người chết.
1
null
Người thầy dạy đánh kiếm () là một cuốn tiểu thuyết của Alexandre Dumas. Tác phẩm được xuất bản trong thời gian 1840–1841. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Nga Xuất xứ. "Người thầy dạy đánh kiếm" được viết từ tập ghi chép của người bạn của thầy dạy "Alexandre Dumas". Lịch sử. Cuốn tiểu thuyết được in lần đầu tiên vào năm 1840 tại Pháp và Bỉ. Sau đó nhiều lần được xuất bản bằng tiếng Pháp. Dumas đã sử dụng cuốn tiểu thuyết "Ghi chú" của Grezier, được viết bằng tên của ông trong chuyến thăm Nga. Ông cũng sử dụng các tiểu luận lịch sử khác: Hồi ức (1827) của Bá tước Segier, Tiểu luận về cái chết của Paul I (1825) Shatogirin, Lịch sử của Alexander I (1826) S. Rabbe và Báo cáo của Ủy ban điều tra (1826). Cốt truyện. Cuốn tiểu thuyết kể về chuyến thăm của Greze đến St. Petersburg. Ở đó Grezie bắt đầu dạy các bài học về đấu kiếm. Tất cả các sinh viên của ông đều là những Decembrists tương lai. Một trong số họ là Bá tước Annenkov, chồng của Louise, một trong những người bạn cũ của Greze. Chẳng mấy chốc đã được tạo ra, đó là áp lực, bàn tay của Nikolai I-'s. Tất cả các Decembrists đã bị trục xuất đến Siberia, bao gồm cả Bá tước Annenkov. Tuyệt vọng, Louisa quyết định đi cùng chồng để chia sẻ sự tàn nhẫn của nhà tù với anh ta. Grezie quyết định giúp anh ta. Nội dung. Khi nước Pháp đang chìm đắm trong chiến tranh do cuộc nổi dậy của Napoleon thì nước Nga lại rất thanh bình. Nơi đây chình là một miền đất hứa cho những người muốn có được sự giàu có và danh vọng. "Người Thầy Dạy Đánh Kiếm" - nhân vật chính của câu chuyện cũng là một trong đó. Trong quá trình thực hiện ước mơ của mình, ông dã vô tình biết được những bí mật của nước Nga trong thời kỳ chuyển giao vương quyền. Tiểu thuyết ở Nga. Việc xuất bản cuốn tiểu thuyết đã bị cấm ở Nga bởi Nicholas I. Điều này là do sự gia tăng của Decembrists. Trong hồi ký của mình (được kể cho cô bởi Công chúa Trubetskaya, bạn gái của Hoàng hậu), Dumas nhớ lại: Sự kiểm duyệt Sa hoàng có ảnh hưởng đặc biệt đến tiểu thuyết của Dumas, và nó đã bị cấm xuất bản ở Nga. Tuy nhiên, bất chấp điều này, cuốn sách đã được phân phối ở Nga dưới nhiều hình thức. Và nó được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Nga ở Nga vào năm 1925.
1
null
Santa Maria là một thành phố và khu tự quản ("município") ở vùng trung bộ Rio Grande do Sul, bang cực nam Brazil. Năm 2007, thành phố có dân số 263.403 người, tổng diện tích . Thành phố có Đại học Liên bang Santa Maria và một số trường đại học và cao đẳng dân lập khác. Ngày 27 tháng 1 năm 2013, tại thành phố này xảy ra vụ cháy hộp đêm Kiss.
1
null
Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời (, "Mivtza Za'am Ha'el") cũng được gọi là Chiến dịch Bayonet, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân được cho là có liên quan tới vụ thảm sát Munich năm 1972 trong đó 11 thành viên đội tuyển Olympic Israel đã bị giết hại. Các mục tiêu đều là các thành viên của nhóm chiến binh vũ trang Tháng 9 Đen Palestine và các thành viên của Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Được Thủ tướng Israel Golda Meir cho phép vào mùa thu năm 1972, chiến dịch này được cho là đã kéo dài trong hơn 20 năm sau đó. Chiến dịch này đã được miêu tả lại trong bộ phim truyền hình "Sword of Gideon" (1986), và "Munich" (2005) của Steven Spielberg. Lịch sử. Sau vụ thảm sát Munich tại Olympics mùa hè năm 1972, Thủ tướng Golda Meir đã lập ra Ủy ban X, một nhóm nhỏ các quan chức chính phủ có nhiệm vụ thực hiện hành động trả đũa từ phía Israel, với bà và Bộ trưởng quốc phòng Moshe Dayan làm lãnh đạo. Bà cũng chỉ định Tướng Aharon Yariv làm Cố vấn chống khủng bố của mình; ông này, cùng với Giám đốc Mossad Zvi Zamir, đảm nhiệm vai trò chính trong việc chỉ huy chiến dịch sau đó. Ủy ban đi tới kết luận rằng để ngăn chặn những vụ việc bạo lực nhắm vào Israel trong tương lai, họ cần ám sát những người đã ủng hộ hay tiến hành vụ thảm sát Munich, và thực hiện nó theo cách gây ấn tượng mạnh nhất. Bị áp lực từ phía công chúng Israel và những quan chức tình báo hàng đầu, Meir bất đắc dĩ cho phép chiến dịch ám sát trên diện rộng. Tuy vậy khi ba kẻ tham gia vụ thảm sát Munic được Tây Đức được thả ra chỉ vài tháng sau đó để đáp ứng yêu cầu của những kẻ không tặc một máy bay của Lufthansa, tất cả những do dự của bà đã không còn nữa. Nhiệm vụ đầu tiên của ủy ban cho tình báo Israel là lập ra một danh sách ám sát tất cả những kẻ liên quan tới vụ Munich. Việc này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các thành viên PLO đang làm việc cho Mossad, và với thông tin được cung cấp từ các cơ quan tình báo thân cận ở châu Âu. Tuy danh sách đầy đủ không bao giờ được tiết lộ, các báo cáo cho rằng tổng số mục tiêu trong khoảng 20–35, gồm cả các thành viên Tháng 9 Đen và PLO. Khi danh sách đã có, Mossad có nhiệm vụ định vị các cá nhân này và ám sát họ. Điểm then chốt trong kế hoạch là ý tưởng có thể khước từ, có nghĩa là sẽ không thể chứng minh một mối liên hệ trực tiếp giữa các vụ ám sát và Israel. Ngoài ra, chiến dịch được dự định để gây ra một cảm giác sợ hãi chung trong các chiến binh Palestine. Theo David Kimche, cựu phó giám đốc Mossad, "Mục tiêu không chỉ là trả thù mà chủ yếu khiến chúng [những tên khủng bố Palestine] thấy sợ hãi. Chúng tôi muốn chúng phải nhìn về phía sau và cảm thấy đang bị theo dõi. Và vì thế chúng tôi tìm cách không chỉ thực hiện mọi việc bằng cách bắn giết một tên trên đường phố – điều đó dễ dàng quá... rõ là vậy." Mọi người cũng biết mật vụ Mossad Michael Harari có nhiệm vụ thành lập và chỉ huy các đội, dù một số không phải luôn luôn thuộc trách nhiệm của chính phủ. Tác gia Simon Reeve giải thích rằng đội của Mossad—có tên theo bảng chữ cái Hebrew—gồm: ...mười lăm người được chia thành năm đội: "Aleph", hai sát thủ chuyên nghiệp; "Bet", hai người làm nhiệm vụ bảo vệ các Alephs; "Het", hai người tạo vỏ bọc cho cả đội bằng cách thuê phòng khách sạn, nhà ở, ô tô và các thứ khác; "Ayin", gồm từ sáu tới tám điệp viên làm xương sống của chiến dịch, bảo vệ các mục tiêu và thiết lập đường thoát cho các đội Aleph và Bet; và "Qoph", hai điệp viên chuyên trách thông tin. Cách bố trí này tương tự như "katsa" của Mossad miêu tả của Victor Ostrovsky về các đội ám sát của Mossad, Kidon. Trên thực tế, Ostrovsky nói trong cuốn sách của ông rằng chính các đơn vị Kidon thực hiện các vụ ám sát. Điều này được tác giả Gordon Thomas người đã được tiếp cận một số báo cáo thẩm vấn do tám thành viên đội Kidon và 80 thành viên hỗ trợ tham gia vào các vụ ám sát ủng hộ. Một báo cáo khác của tác giả Aaron Klein nói rằng các đội đó thực ra là thuộc một đơn vị tên là Caesarea, sẽ được đổi tên và tái tổ chức vào Kidon hồi giữa những năm 1970. Harari cuối cùng chỉ huy ba đội Caesarea với khoảng 12 người mỗi đội. Họ tiếp tục được chia thành các đội hậu cầu, trinh sát và ám sát. Một trong các đội bí mật đã bị phát giác sau vụ Lillehammer (xem đoạn Ali Hassan Salameh dưới đây), khi sáu thành viên đội ám sát của Mossad bị chính quyền Na Uy bắt giữ. Harari trốn thoát về Israel, và có lẽ một số người khác cũng trốn thoát được cùng anh ta. Một bài báo trên tạp chí "Time" ngay sau vụ ám sát nói tổng số thành viên Mossad là 15 người, cũng tương tự như các miêu tả ở trên. Một tường thuật khác có từ cuốn sách "Vengeance", trong đó tác giả cho rằng, theo nguồn tin của anh ta, Mossad đã lập ra đội gồm năm đặc vụ đã được huấn luyện mà anh ta [nguồn tin] chỉ huy tại châu Âu. Cuốn sách cũng nói rằng đội hoạt động bên ngoài sự chỉ huy trực tiếp của chính phủ, và chỉ liên hệ với Harari. Nhiều giờ trước mỗi vụ ám sát, mỗi gia đình của mục tiêu sẽ nhận được hoa với thiệp chia buồn viết: "Một sự tưởng nhớ chúng tôi không quên hay tha thứ." Chiến dịch. 1972–1988. Vụ ám sát đầu tiên diễn ra ngày 16 tháng 10 năm 1972, khi Wael Zwaiter người Palestine bị giết tại Roma. Các điệp viên Mossad đã chờ sẵn khi ông quay về sau khi ăn tối và bắn ông mười một phát, mỗi phát cho một người Israel thiệt mạng trong vụ thảm sát Munich. Sau khi bắn, họ nhanh chóng chạy thoát tới một địa điểm an toàn. Vào thời điểm đó Zwaiter là đại diện của PLO tại Italia, và tuy Israel bí mật coi ông là một thành viên của Tháng 9 Đen và có tham gia vào một âm mưu không thành chống lại hãng hàng không El Al, các thành viên của PLO cho rằng ông ta không hề có liên quan. Abu Iyad, phó chủ tịch PLO, tuyên bố rằng Zwaiter là người "hăng hái" chống khủng bố. Mục tiêu thứ hai của Mossad là Dr. Mahmoud Hamshari, đại diện của PLO tại Pháp. Israel tin rằng ông là lãnh đạo của Tháng 9 Đen tại Pháp. Dùng một điệp viên giả làm một nhà báo người Italia, Mossad đã lừa ông ra khỏi căn hộ ở Paris để một đội chất nổ thâm nhập và đặt một quả bom dưới điện thoại bàn. Ngày 8 tháng 12 năm 8, 1972, điệp viên giả làm nhà báo gọi tới căn hộ của Hamshari và hỏi ông có phải là Hamshari không. Sau khi Hamshari xác nhận đúng là mình, điệp viên đó đã ra hiệu cho các đồng đội khác kích hoạt quả bom trong điện thoại. Hamshari bị thương nặng, nhưng vẫn còn đủ tỉnh táo để nói với các điều tra Paris những điều đã xảy ra. Hamshari chết trong bệnh viện vài tuần sau đó. Một vụ ám sát khác diễn ra tại London, nơi một nhà hoạt động người Palestine đã bị đẩy khéo léo xuống dưới gầm xe buýt trong giờ cao điểm. Trong đêm ngày 24 tháng 1 năm 1973, Hussein Al Bashir (người Jordan), đại diện của Fatah tại Cộng hòa Síp, tắt đèn phòng mình tại phòng khách sạn Olympic ở Nicosia. Vài giây sau, một quả bom đặt dưới gậm giường ông được kích hoạt từ xa, làm ông thiệt mạng và gây hư hại cho căn phòng. Israel tin rằng ông là lãnh đạo của Tháng 9 Đen tại Cyprus, dù một lý do khác cho vụ ám sát ông có thể do ông có những quan hệ thân cận với KGB. Ngày 6 tháng 4 năm 1973, Dr. Basil al-Kubaissi, một giáo sư luật tại American University of Beirut bị Israel nghi ngờ cung cấp hậu cần vũ khí cho Tháng 9 Đen cũng như có liên quan tới các âm mưu khác của Palestine, bị bắn hạ tại Paris khi ông đang quay về nhà sau khi ăn tối. Giống những vụ ám sát trước, ông bị các điệp viên Mossad bắn khoảng 12 lần. Ba trong số các mục tiêu trong danh sách của Mossad sống trong những ngôi nhà được canh phòng cẩn mật tại Liban nằm ngoài tầm với của những cách thức ám sát trước đó. Để ám sát họ, Chiến dịch Mùa xuân Tuổi trẻ được tung ra như một phần của chiến dịch lớn Sự phẫn nộ của Chúa trời. Đêm ngày 9 tháng 4 năm 1973, các biệt kích Sayeret Matkal, Shayetet 13, và Sayeret Tzanhanim từ tàu hải quân Israel dùng xuồng đổ bộ lên bờ biển Liban. Các biệt kích được các điệp viên Mossad đón, đưa họ tới các mục tiêu trong những chiếc xe thuê ngày hôm trước, và sau đó đưa họ quay lại bãi biển để rút lui. Các biệt kích mặc giả làm dân thường, và một số người đóng giả phụ nữ. Họ đã tấn công các ngôi nhà được canh giữ cẩn mật tại Beirut và giết Muhammad Youssef al-Najjar (chỉ huy chiến dịch của Tháng 9 Đen), Kamal Adwan (một chỉ huy chiến dịch hàng đầu trong PLO) và Kamal Nasser (thành viên và người phát ngôn của Ủy ban hành pháp PLO). Trong chiến dịch này, hai sĩ quan cảnh sát Liban, một công dân Italia và vợ của Najjar cũng thiệt mạng. Một biệt kích Israel bị thương. Lính dù Sayeret Tzanhanim đột kích một tòa nhà sáu tầng là trụ sở của Mặt trận Nhân dân Giải phóng Palestine. Lính dù gặp sự chống cự mạnh làm hai người thiệt mạng, nhưng họ đã phá hủy được tòa nhà. 13 biệt kích Shayetet và lính dù Sayeret Tzanhanim cũng tấn công vào các cơ sở chế tạo vũ khí và nhà kho xăng của PLO. Khoảng 12–100 thành viên PLO và PFLP bị giết trong những vụ tấn công. Ba vụ tấn công khác diễn ra ngay sau chiến dịch đột kích vào Liban. Zaiad Muchasi, người thay thế Hussein Al Bashir tại Cyprus, bị giết bởi một quả bom trong phòng khách sạn tại Athens ngày 11 tháng 4. Hai thành viên Tháng 9 Đen cấp thấp khác, Abdel Hamid Shibi và Abdel Hadi Nakaa, bị thương trong xe của họ tại Roma. Các điệp viên Mossad cũng bắt đầu theo đuổi Mohammad Boudia, người gốc Algeria, giám đốc chiến dịch của Tháng 9 Đen tại Pháp, người nổi tiếng về khả năng cải trang cũng như có quan hệ lăng nhăng. Ngày 28 tháng 6 năm 1973, Boudia bị giết tại Paris bởi một quả bom kích nổ do áp suất gói kèm rất nhiều đinh ốc bên dưới ghế xe của ông. Ngày 15 tháng 12 năm 1979, hai người Palestine, Ali Salem Ahmed và Ibrahim Abdul Aziz, bị giết tại Cyprus. Theo cảnh sát, cả hai bị bắn bằng súng giảm thanh ở cự ly gần. Ngày 17 tháng 6 năm 1982, hai thành viên cấp cao của PLO tại Italia bị giết trong những cuộc tấn công riêng biệt. Nazeyh Mayer, một lãnh đạo trong văn phòng của PLO tại Roma, bị bắn chết bên ngoài ngôi nhà của ông. Kamal Husain, phó giám đốc văn phòng PLO tại Roma, bị giết bởi một quả bom mảnh đặt dưới ghế sau trong xe ông, chỉ chưa tới 7 tiếng sau khi ông tới thăm nhà của Mayer và giúp cảnh sát trong cuộc điều tra. Ngày 23 tháng 7 năm 1982, Fadl Dani, phó giám đốc văn phòng PLO tại Paris, bị giết bởi một quả bom đặt trong xe. Ngày 21 tháng 8 năm 1983, quan chức của PLO Mamoun Meraish bị giết trong xe tại Athens bởi hai điệp viên Mossad bắn ông từ một xe máy . Ngày 10 tháng 6 năm 1986, Khaled Ahmed Nazal, Tổng thư ký phái DFLP của PLO, bị bắn hạ bên ngoài một khách sạn ở Athens, Hy Lạp. Nazal bị bắn bốn phát vào đầu. Ngày 21 tháng 10 năm 1986, Munzer Abu Ghazala, một quan chức cao cấp của PLO và thành viên của Hội đồng Quốc gia Palestine, bị giết bởi một quả bọm khi ông lái xe qua một khu ngoại ô Athens. Ngày 14 tháng 2 năm 1988, một quả bom xe phát nổ tại Limassol, Cyprus, giết hại hai người Palestine là Abu Al Hassan Qasim và Hamdi Adwan, và làm bị thương Marwan Kanafami. Ali Hassan Salameh. Mossad tiếp tục tìm kiếm Ali Hassan Salameh, biệt hiệu Red Prince, người lãnh đạo Force 17 và đặc vụ của Tháng 9 Đen được Israel cho là kẻ đạo diễn đứng sau vụ thảm sát Munich. Điều này đã bị nghi ngờ do những tường thuật của các quan chức cao cấp Tháng 9 Đen, cho rằng tuy ông ta có dính tới nhiều vụ tấn công tại châu Âu, Salameh hoàn toàn không liên quan tới các sự kiện ở Munich. Gần một năm sau vụ Munich, Mossad tin rằng cuối cùng họ cũng định vị được Salameh tại thị trấn nhỏ Lillehammer ở Na Uy. Ngày 21 tháng 7 năm 1973, trong vụ việc sẽ được gọi là vụ Lillehammer, một đội điệp viên Mossad đã bắn chết Ahmed Bouchiki, một bồi bàn người Maroc không liên quan tới vụ tấn công ở Munich và Tháng 9 Đen, sau khi một người đưa tin nhận diện nhầm Bouchiki là Salameh. Sáu điệp viên Mossad, gồm cả hai phụ nữ, bị cảnh sát địa phương bắt giữ, trong khi những người khác, gồm cả chỉ huy đội, Michael Harari, đào thoát được về Israel. Năm người bị bắt bị kết án giết người và bị tống giam, nhưng đã được thả và quay về Israel năm 1975. Victor Ostrovsky cho rằng Salameh đã đạo diễn để Mossad phạm sai lầm khi cung cấp các thông tin giả về hành tung của mình. Tháng 1 năm 1974, các điệp viên Mossad được bí mật triển khai tới Thụy Sĩ sau khi có thông tin rằng Salameh sẽ gặp các lãnh đạo PLO tại một nhà thờ vào ngày 12 tháng 1. Hai sát thủ đã vào nhà thờ khi cuộc gặp gỡ đang diễn ra, và gặp ba người giống người Ả rập. Một người trong số họ định lấy vũ khí, và lập tức cả ba bị bắn chết. Các điệp viên Mossad tiếp tục đi vào nhà thờ tìm kiếm Salameh, nhưng không thấy ông ta. Trong một thời gian ngắn, họ quyết định hủy bỏ nhiệm vụ và đào thoát. Một thời gian ngắn sau đó, ba điệp viên Mossad đi tới London gặp gỡ với một nguồn tin về Salameh. Khi người này không thể cung cấp tin, các thành viên đội nghi ngờ rằng họ đang bị theo dõi. Một nữ sát thủ giết thuê đã quyến rũ một điệp viên tại Europa Hotel, sau đó bắn chết anh ta trong phòng. Các thành viên đội Mossad định vị được người phụ nữ này tại Amsterdam ba tháng sau đó và cô ta bị giết gần nhà ngày 21 tháng 8. Các nguồn tin địa phương cho biết cô ta là một sát thủ làm thuê tự do. Lãnh đạo đội Kidon sau đó đã bị khiển trách vì hành động ám sát bên ngoài phạm vi nhiệm vụ. Sau vụ việc, chỉ huy chiến dịch Michael Harari được lệnh hủy bỏ âm mưu ám sát Salameh. Tuy nhiên, đội Kidon thống nhất bỏ qua mệnh lệnh và gắng một lần nữa để giết Salameh. Tin tình báo cho rằng Salameh đang ở trong một ngôi nhà tại Tarifa, Tây Ban Nha. Khi ba điệp viên tiếp cận, họ bị một nhân viên an ninh Ả rập áp sát. Người này giơ ra một khẩu AK-47 và lập tức bị bắn. Chiến dịch bị hủy bỏ, và đội thoát về địa điểm an toàn. Sau vụ Lillehammer, sự giận dữ quốc tế về vụ giết hại nhầm buộc Golda Meir ra lệnh ngừng Chiến dịch sự phẫn nộ của Chúa trời. Cuộc điều tra sau đó của Na Uy và những tiết lộ từ các điệp viên bị bắt giữ đã làm ảnh hưởng tới các cơ quan của Mossad trên khắp châu Âu, gồm cả những địa điểm an toàn, các điệp viên, và các phương pháp hành động. Năm năm sau, quyết định tiếp tục chiến dịch được đưa ra dưới thời thủ tướng mới Menachem Begin, và tìm kiếm những người trong danh sách vẫn còn đang tự do. Mossad bắt đầu theo dõi các hành động của Salameh sau khi theo ông về Beirut vào cuối mùa hè năm 1978. Tháng 11 năm1978, một nữ điệp viên Mossad xưng tên là Erika Chambers vào Liban với một hộ chiếu Anh được cấp năm 1975, và thuê một căn hộ tại Rue Verdun, một con phố nơi Salameh thường qua lại. Nhiều điệp viên khác cũng tới, gồm cả hai người có tên giả là Peter Scriver và Roland Kolberg, với hộ chiếu Anh và hộ chiếu Canada. Một thời gian sau khi họ tới, một chiếc Volkswagen chất đầy thuốc nổ dẻo đỗ dọc theo Rue Verdun trong tầm quan sát của căn hộ thuê. Lúc 3:35 chiều ngày 22 tháng 1 năm 1979, khi Salameh và bốn vệ sỹ đi xuôi phố trên một chiếc Chevrolet, khối thuốc nổ trong chiếc Volkswagen được kích hoạt bằng một thiết bị điều khiển từ xa từ căn hộ thuê, giết chết tất cả mọi người trong chiếc Chevrolet. Sau năm lần không thành công, Mossad đã ám sát được Salameh. Tuy nhiên, vụ nổ cũng giết chết bốn người vô tội đi ngang, gồm cả một sinh viên Anh và một bà sơ người Đức, và làm bị thương 18 người khác. Ngay sau chiến dịch, ba sĩ quan Mossad, và 14 người khác được cho là cũng liên quan biến mất không dấu vết. Những kẻ bắt giữ con tin ở Munich. Ba trong tám chiến binh tiến hành vụ thảm sát Munich còn sống sau nỗ lực giải cứu của Đức tại căn cứ không quân Fürstenfeldbruck vào đêm cuối của cuộc khủng hoảng bị đưa ra trước tòa án Đức: Jamal Al-Gashey, Adnan Al-Gashey, và Mohammed Safady. Họ được thả sau khi những kẻ không tặc chuyến bay 615 của Lufthansa yêu cầu chính phủ Tây Đức. Mọi người đều cho rằng Adnan Al-Gashey và Mohammed Safady đã bị ám sát nhiều năm sau vụ thảm sát; Al-Gashey bị tìm thấy sau khi liên hệ với một người anh/em họ tại một quốc gia vùng Vịnh, và Safady bị phát hiện sau khi liên hệ với gia đình tại Liban. Việc này bị tác giả người Israel Aaron Klein nghi ngờ, ông viết rằng Adnan chết vì bệnh tim trong thập niên 1970 và Safady hoặc bị giết bởi Christian Phalangists tại Liban đầu thập niên 1980 hoặc, theo một thành viên PLO thân cận với Safady, vẫn còn sống đến ngày nay. Jamal Al-Gashey trốn tránh ở Bắc Phi; lần cuối ông xuất hiện vào năm 1999, khi có một cuộc phỏng vấn với giám đốc Kevin MacDonald cho bộ phim tài liệu "One Day in September". Các hành động khác. Cùng với các vụ ám sát, Mossad đã sử dụng nhiều biện pháp khác để trả đũa vụ thảm sát Munich và răn đe những hành động khủng bố trong tương lai. Mossad thực hiện một chiến dịch bom thư chống lại các quan chức người Palestine trên khắp châu Âu. Nhà sử học Benny Morris viết rằng những vụ tấn công này gây thương tích không tới mức thiệt mạng cho các mục tiêu, bao gồm những người tại Algeria và Libya, các nhà hoạt động sinh viên Palestine tại Bonn và Copenhagen, và một quan chức Lưỡi liềm Đỏ tại Stockholm. Klein cũng nêu ra một vụ việc tại Cairo nơi một quả bom đã gặp trục trặc, khiến hai mục tiêu người Palestine thoát nạn. Cựu "katsa" Mossad Victor Ostrovsky tuyên bố rằng Mossad cũng sử dụng các chiến thuật chiến tranh tâm lý như đưa ra lời cáo phó cho các chiến binh vẫn còn đang sống và gửi những thông tin cá nhân rất chi tiết cho những người khác. Reeve còn nói thêm rằng Mossad sẽ gọi điện cho các quan chức cấp thấp người Palestine, và sau khi tiết lộ thông tin cá nhân của họ, sẽ cảnh báo họ tránh khỏi bất kỳ hành động nào vì sự nghiệp của người Palestine. Tác gia tình báo người Anh Gordon Thomas đã viết rằng nhiều giờ trước khi mỗi chiến binh bị giết, gia đình anh ta sẽ nhận được hoa và lời chia buồn có dòng chữ "Một sự tưởng nhớ chúng tôi sẽ không quên hay tha thứ". Thomas còn tuyên bố rằng sau mỗi vụ ám sát, ban chiến tranh tâm lý của Mossad sẽ cho rò rỉ các thông tin về người đã chết trên những tờ báo tiếng Ả rập ở khắp Trung Đông. Các vụ ám sát khác. Nhiều vụ ám sát hay nỗ lực ám sát khác đã được gán cho chiến dịch sự phẫn nộ của Chúa trời, dù vẫn có những hoài nghi về việc Mossad có đứng sau chúng hay không, hay các phe nhóm li khai của Palestine thực hiện chúng. Vụ ám sát đầu tiên như thế diễn ra ngày 4 tháng 1 năm 1978, khi Said Hammami, đại diện PLO tại London bị bắn chết. Vụ ám sát được cho là tác phẩm của Mossad hay Tổ chức Abu Nidal. Ngày 3 tháng 8 năm 1978, Ezzedine Kalak, lãnh đạo văn phòng Paris của PLO cùng người phó Hamad Adnan, bị giết tại văn phòng trong tòa nhà của Liên đoàn Ả rập. Ba thành viên khác của Liên đoàn Ả rập và PLO bị thương. Vụ tấn công này hoặc do Mossad hoặc do Tổ chức Abu Nidal. Ngày 27 tháng 7 năm 1979. Zuheir Mohsen, lãnh đạo các chiến dịch quân sự của PLO, bị bắn hạ tại Cannes, Pháp ngay sau khi rời một sòng bạc. Trách nhiệm vụ tấn công này bị nhiều bên gán cho Mossad, các nhóm Palestine khác hay thậm chí là cả Ai Cập. Ngày 1 tháng 6 năm 1981, Naim Khader, đại diện PLO tại Bỉ, bị ám sát tại Brussels. Các quan chức PLO tại văn phòng thông tin và liên lạc tại Brussels đã ra một tuyên bố buộc tội Israel đứng sau vụ giết hại này. Abu Daoud, một chỉ huy Tháng 9 Đen, người công khai tuyên bố đã giúp lên kế hoạch vụ tấn công Munich, bị bắn nhiều lần ngày 1 tháng 8 năm 1981 bởi một tay súng tại quán cà phê trong khách sạn ở Warsaw. Daoud sống sót sau vụ này. Không rõ vụ việc do Mossad hay một phe phái Palestine khác thực hiện. Daoud tuyên bố rằng vụ tấn công do một điệp viên hai mang người Palestine của Mossad, người bị PLO giết 10 năm sau đó tiến hành. Ngày 1 tháng 3 năm 1982, quan chức PLO Nabil Wadi Aranki bị giết tại Madrid. Ngày 8 tháng 6 năm 1992 lãnh đạo tình báo của PLO Atef Bseiso bị bắn chết tại Paris bởi hai tay súng với các vũ khí giảm thanh. Trong khi PLO và một cuốn sách của tác giả người Israel Aaron Klein buộc tội Mossad cho vụ việc này, các báo cáo khác chỉ ra rằng Tổ chức Abu Nidal đứng đằng sau nó. Phản ứng. Phản ứng của Tháng 9 Đen. Tháng 9 Đen đã có nỗ lực và thực hiện một số vụ tấn công và các vụ bắt giữ con tin chống lại Israel. Tương tự như chiến dịch đánh bom thư của Mossad, hàng chục bom thư đã được gửi từ Amsterdam tới các hộp thư ngoại giao của Israel trên thế giới vào tháng 9 và tháng 10 năm 1972. Một vụ tấn công trong số đó đã làm thiệt mạng Ami Shachori, một cố vấn nông nghiệp người Israel tại Anh. Âm mưu ám sát Golda Meir tại Roma. Tháng 9 Đen đã lập một âm mưu khi họ biết thủ tướng Israel Golda Meir sẽ tới Roma để gặp Giáo hoàng Paul VI vào tháng 1 năm 1973. Cuộc viếng thăm theo dự định được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ và bí mật của Israel, và những tin tức về cuộc viếng thăm sắp diễn ra có lẽ đã bị tiết lộ bởi một linh mục ủng hộ Palestine trong Bộ ngoại giao Vatican. Chỉ huy Tháng 9 Đen Ali Hassan Salameh bắt đầu lập một kế hoạch tấn công tên lửa vào máy bay của Meir khi nó tới Roma. Mục tiêu của Salameh không chỉ là thủ tướng Meir, mà cả những bộ trưởng then chốt và các sĩ quan cao cấp của Mossad tháp tùng bà. Ở thời điểm ấy, Salameh đàm phán với Liên Xô, yêu cầu tị nạn, và ông ta hy vọng khi Israel gượng dậy được sau vụ này, ông và người của mình đã an toàn ở Liên Xô, ngoài tầm với của Israel. Tháng 9 Đen đưa lậu nhiều tên lửa vác vai Strela 2 tới Bari, Italia, từ Dubrovnik, Nam Tư, bằng thuyền. Các tên lửa này sau đó được mang tới Roma và được đặt quanh sân bay Fiumicino ngay trước khi Meir tới nơi. Để đánh lừa sự chú ý của Mossad khỏi Roma trước vụ tấn công, Salameh đã lập một kế hoạch tấn công vào đại sứ quán Israel tại Bangkok, Thái Lan. Ngày 28 tháng 12 năm 1972, bốn thành viên Tháng 9 Đen chiếm đại sứ quán Israel tại Bangkok, bắt giữ 12 con tin. Họ treo lá cờ PLO lên tòa nhà, và đe dọa giết các con tin trừ khi 36 tù nhân PLO được thả. Tòa nhà bị quân đội và cảnh sát Thái Lan bao vây. Lựa chọn một chiến dịch giải cứu đã được đưa ra tại Israel nhưng sau đó bị hủy bỏ. Chiến dịch giải cứu bị coi là không khả thi về hậu cần, và mọi người cũng cho rằng vì tòa sứ quán nằm ở trung tâm Bangkok đông đúc, chính phủ Thái Lan sẽ không bao giờ cho phép xảy ra khả năng một vụ bắn nhau. Dù những yêu cầu không được đáp ứng, những cuộc đàm phán đã dẫn tới kết cục tất cả các con tin được tự do và các du kích quân Tháng 9 Đen được đào thoát an toàn tới Cairo. Mossad phát hiện âm mưu ám sát Golda Meir ngày 14 tháng 1 năm 1973, khi một "sayan", hay một tình nguyện viên địa phương, thông báo cho Mossad rằng anh ta đã xử lý hai cuộc gọi từ một số điện thoại trả tiền trong một khu nhà nơi các thành viên PLO thỉnh thoảng trú ngụ. Những cuộc gọi được thực hiện bằng tiếng Ả rập]], là tiếng mà "sayan" sử dụng. Nói bằng mật mã, người gọi nói rằng lúc đó là "thời điểm chuyển các cây nến sinh nhật tới buổi lễ". Tổng giám đốc Mossad Zvi Zamir tin rằng đó là một mệnh lệnh đã được mã hóa liên quan tới một vụ tấn công sắp diễn ra. Zamir đã tin rằng cuộc tấn công vào đại sứ quán ở Bangkok chỉ để đánh lạc hướng cho một vụ lớn hơn, vì những kẻ tham gia đã quá dễ dàng đầu hàng, một điều ông không trông đợi ở một nhóm được huấn luyện, trang bị tốt, xảo quyệt cũng như có động cơ như Tháng 9 Đen. Zamir còn cho rằng "nến sinh nhật" có thể để chỉ vũ khí, và khả năng lớn nhất đó là tên lửa. Zamir liên hệ vụ tấn công tên lửa sắp diễn ra với chuyến đi sắp tới của Meir, và đoán rằng Tháng 9 Đen đang lên kế hoạch bắn hạ máy bay của Meir. Sau đó Zamir đã cử một "katsa" của Mossad, hay sĩ quan tình báo hiện trường, tới Roma, và tới thành phố với một đội sĩ quan Mossad. Zamir gặp gỡ với lãnh đạo DIGOS, đơn vị chống khủng bố của Italia, và trình bày những lo ngại của mình. Các sĩ quan DIGOS đã đột kích tòa nhà nơi các cuộc gọi được thực hiện, và tìm thấy một cuốn sách hướng dẫn phóng tên lửa của Nga. Trong suốt đêm, các đội DIGOS, mỗi đội đều có sự hộ tống của một "katsa" Mossad, đột kích những căn hộ đã được xác định là của PLO, nhưng không tìm thấy bằng chứng về bất kỳ âm mưu ám sát Meir nào. Trong buổi sáng, vài giờ trước khi máy bay của Meir tới nơi, các điệp viên Mossad và cảnh sát Italia đã bao vây sân bay Fiumicino. Một "katsa" của Mossad phát hiện một chiếc xe tải van Fiat đậu trên cánh đồng gần đường băng. Điệp viên này ra lệnh cho tài xế đi ra chỗ khác. Cửa sau xe bất ngờ mở, và hai chiến binh nổ súng. Điệp viên Mossad bắn trả, làm bị thương nặng cả hai người. Chiếc xe tải bị phát hiện có chứa sáu tên lửa. Người lái xe bỏ chạy bộ và bị điệp viên đuổi theo. Anh ta tìm cách cướp một chiếc xe do một điệp viên Mossad khác đang trên đường tuần tra điều khiển. Người lái xe bị tóm vào xe và đưa tới chiếc xe tải đang làm trung tâm chỉ huy di động của Mossad, nơi anh ta khai ra một đội tên lửa khác ở gần sau khi bị đánh dã man. Sau đó chiếc xe tải rời đi về hướng bắc. Một chiếc xe bán cafe khác với ba quả tên lửa thòi ra trên nóc bị phát hiện. Chiếc xe tải lao vào xe bán cafe làm nó lật ngửa, khiến đội phóng tên lửa kẹt ở trong và bị kẹt dưới trọng lượng của những quả tên lửa. Người lái xe bất tỉnh bị lôi khỏi xe và ném sang bên đường, DIGOS được báo động rằng đã có "một vụ tai nạn hay ho cần họ tới xem". Zamir suy nghĩ nhanh về việc có nên giết những chiến binh người Palestine nhưng cho rằng cái chết của họ sẽ làm Golda Meir khó xử khi gặp gỡ Giáo hoàng. Các chiến binh, những người có liên quan tới vụ thảm sát Munich, được đưa tới bệnh viện và sau đó được cho phép bay tới Libya, nhưng chỉ trong vòng vài tháng, tất cả họ đều bị Mossad tiêu diệt. Ám sát người Israel và các quan chức quốc tế khác. Hai người Israel bị tình nghi là các nhân viên tình báo đã bị bắn chết, cũng như một quan chức Israel tại Washington. Baruch Cohen, một điệp viên Mossad tại Madrid, bị giết ngày 23 tháng 1 năm 1973 bởi một đầu mối tiếp xúc là một thanh niên Palestine. Các nhân viên Mossad tham gia chiến dịch sau này được giao nhiệm vụ điều tra và trả thù cho cái chết của Cohen, và ít nhất ba người Palestine liên quan tới việc lập kế hoạch và tiến hành giết Cohen đã bị ám sát. Vittorio Olivares, một nhân viên El Al người Italia bị Tháng 9 Đen nghi ngờ, và bị bắn chết tại Roma tháng 4 năm 1973. Tùy viên quân sự Israel tại Hoa Kỳ, Đại tá Yosef Alon, bị ám sát ngày 1 tháng 7 năm 1973 tại Chevy Chase, Maryland. Tháng 9 Đen đã tiến hành nhiều vụ tấn công khác gián tiếp chống lại Israel, bao gồm việc bắt giữ các nhà ngoại giao phương Tây tại đại sứ quán Ả rập Saudi ở Khartoum (xem: Các vụ ám sát ngoại giao năm 1973 tại Khartoum), nhưng nhóm này đã bị al-Fatah chính thức giải tán tháng 12 năm 1974. Phản ứng của khối Ả rập. Tuy làn sóng những vụ ám sát đầu tiên từ tháng 10 năm 1972 tới đầu năm 1973 gây ra sự kinh hoàng trong thành phần quan chức Palestine, nhưng chính cuộc đột kích vào Liban – Chiến dịch mùa xuân tuổi trẻ tháng 4 năm 1973 – mới thật sự làm thế giới Ả rập kinh ngạc. Sự táo bạo của phi vụ, cộng với sự thực rằng những lãnh đạo cao cấp như Yasser Arafat, Abu Iyad và Ali Hassan Salameh cũng không tránh xa được khỏi cuộc xung đột, khiến tạo ra niềm tin rằng Israel có khả năng tấn công vào bất kỳ đâu, và bất kỳ lúc nào. Cuộc tấn công cũng gây ra không khí tang tóc to lớn. Tại lễ tang cho các nạn nhân cuộc đột kích, nửa triệu người đã đổ xuống các đường phố Beirut. Gần sáu năm sau, 100.000 người, gồm cả Arafat, đã quay lại thành phố này để chôn cất Salameh. Chiến dịch cũng khiến một số chính phủ Ả rập vốn ít có quan điểm cực đoan bắt đầu gây áp lực với người Palestine đòi chấm dứt các cuộc tấn công vào các mục tiêu Israel. Đe dọa rút lui sự hỗ trợ cho người Palestine nếu họ tiếp tục dùng hộ chiếu do nước mình cung cấp khi đi lại trong các vụ tấn công chống lại Israel, một số chiến binh Palestine từ đó bắt đầu dùng các giấy tờ Israel giả. Chỉ trích. Trong cuốn sách xuất bản năm 2005 "Striking Back" của mình, tác giả Aaron Klein (người nói cuốn sách của ông một phần lớn dựa vào những cuộc phỏng vấn hiếm có với các quan chức Mossad có tham gia các phi vụ trả đũa) cho rằng Mossad chỉ có một người có liên hệ trực tiếp với vụ thảm sát. Người này, Atef Bseiso, bị giết tại Paris năm 1992. Klein nói tiếp rằng việc thu thập tin tức về Wael Zwaiter, người Palestine đầu tiên thiệt mạng, là "không được xác nhận và đã được tham khảo không đúng cách. Nhìn lại, vụ ám sát của ông là một sai lầm." Ông nói thêm rằng những kẻ lập kế hoạch và thực hiện vụ Munich thực sự đã chạy trốn từ lâu với các vệ sỹ ở khối Đông Âu và thế giới Ả rập, nơi Israel không thể với tới. Hầu hết những người bị giết đều là những nhân vật Palestine cấp thấp, những người cảm thấy may mắn được đi lại ở Tây Âu khi không được bảo vệ. "Các quan chức an ninh Israel tuyên bố rằng những người chết phải chịu trách nhiệm cho vụ Munich; các tuyên bố của PLO cho rằng họ là những nhân vật quan trọng; và vì thế hình ảnh Mossad như một tổ chức có thể giáng xuống những cái chết ngày càng gia tăng." Tác giả Klein cho rằng hiến dịch không chỉ có mục tiêu trừng phạt những kẻ thực hiện vụ Munich mà còn để phá vỡ và ngăn chặn những hành động khủng bố tương lai. "Với mục tiêu thứ hai, cái chết của một thành viên PLO cũng có giá trị như với một thành viên khác." Klein trích lời một nguồn tin tình báo cao cấp: "Máu chúng tôi đang sôi lên. Khi có thông tin ám chỉ một ai đó, chúng tôi sẽ không kiểm tra lại với một chiếc kính lúp." Abu Daoud, một trong những kẻ lập kế hoạch chính của vụ thảm sát Munich, đã nói trong những cuộc phỏng vấn trước khi bộ phim "Munich" phát hành rằng "Tôi đã quay trở lại Ramallah năm 1995, và Israel biết rằng tôi là người lập kế hoạch vụ Munich." Lãnh đạo tháng 9 Đen, Abu Iyad, cũng không bị Israel giết, dù ông ta bị ám sát năm 1991 tại Tunis bởi Tổ chức Abu Nidal. Cựu lãnh đạo Mossad Zvi Zamir đã phản bác điều này trong một cuộc phỏng vấn năm 2006, khi ông nói rằng Israel quan tâm hơn tới việc tấn công "cơ sở hạ tầng của các tổ chức khủng bố ở châu Âu" hơn là những kẻ trực tiếp chịu trách nhiệm cho vụ Munich. "We had no choice but to start with preventive measures." Khi chiến dịch tiếp diễn, họ hàng của những vận động viên bị thiệt mạng tại Munich được báo thông tin. Simon Reeve viết rằng một số người cảm thấy đó là sự đúng đắn, trong khi những người khác, gồm cả vợ của vận động viên đấu kiếm Andre Spitzer, cảm thấy bối rối. Vợ của điệp viên Mossad bị ám sát Baruch Cohen, gọi chiến dịch này, đặc biệt là những chiến dịch bên ngoài nhằm tới những người đã giết chồng bà, là kinh tởm. Theo Ronen Bergman (phóng viên an ninh cho tờ báo "Yediot Ahronoth" của Israel đồng thời cũng là một chuyên gia về Mossad): "Chiến dịch này đã ngăn chặn hầu hết chủ nghĩa khủng bố của PLO bên ngoài biên giới Israel. Liệu theo bất kỳ cách nào nó có mang lại hòa bình ở Trung Đông không? Không. Về chiến lược, nó là một sự thất bại hoàn toàn." Cựu "katsa" Victor Ostrovsky đã nói rằng việc Meir chỉ đạo Mossad tập trung chủ yếu vào các cá nhân và chiến dịch của PLO đã lấy đi rất nhiều sự chú ý khác của cơ quan tình báo này với những quốc gia láng giềng của Israel. Việc này khiến Mossad đã bỏ qua những dấu hiệu của cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973, khiến lực lượng phòng vệ Israel bị bất ngờ. Văn hóa đại chúng. Cuốn sách năm 1984 "", của nhà báo người Canada George Jonas, kể lại câu chuyện về một đội ám sát của Israel từ quan điểm một cựu điệp viên Mossad và là chỉ huy đội, Avner. Avner từ đó được coi là biệt danh của Yuval Aviv, một người Israel hiện đang điều hành một tổ chức điều tra tư nhân tại New York. Tuy nhiên, Jonas bác bỏ rằng Aviv là nguồn tin của ông cho cuốn "Vengeance", dù cuốn sách đã không được kiểm tra một cách độc lập ngoài những điều Jonas nói anh ta đã kiểm tra. Jonas chỉ ra một cựu Tổng giám đốc RCMP Security Service, John Starnes, người ông nói tin vào nguồn tin cho câu chuyện của mình. Dù vậy, giám đốc Mossad ở thời điểm diễn ra chiến dịch, Zvi Zamir, đã nói rằng ông ta chưa từng biết Aviv. Nhiều cựu sĩ quan Mossad tham gia vào chiến dịch sự phẫn nộ của Chúa trời cũng đã nói với các nhà báo Anh rằng phiên bản sự kiện của Yuval Aviv không chính xác. Sau khi được xuất bản năm 1984 cuốn sách được liệt kê trong danh sách những sách bán chạy nhất thuộc thể loại giả tưởng và phi giả tưởng tại Anh. Từ khi ra đời, hai bộ phim đã được sản xuất dựa trên cuốn "Vengeance". Năm 1986, Michael Anderson đạo diễn bộ phim cho HBO "Sword of Gideon". Steven Spielberg sản xuất một bộ phim thứ hai dựa trên lời kể tháng 12 năm 2005 với tựa đề "Munich". Cả hai bộ phim đều sử dụng bí danh của Yuval Aviv là Avner và có một số bản quyền tác giả theo nội dung cuốn sách.
1
null
Tosan, còn được viết là Towan (có nghĩa là "Ngựa hoang"), là một xe tăng hạng nhẹ của Iran. Được sản xuất vào năm 1997, nhưng chỉ một số lượng nhỏ sản xuất. Tosan được thiết kế hoàn toàn dựa trên tăng hạng nhẹ "Bọ cạp" FV101. Tosan được bọc giáp để chống đạn 12.7 ly và đạn 7.62 ly nó được trang bị một khẩu pháo 90 ly. Một số phiên bản khác đã được chế tạo bao gồm thay tháp pháo bằng hai ống phóng tên lửa. hệ thống ngắm bắn được cãi thiện nâng cao. Là loại tăng cơ động, hiệu quả tác chiến cao, hỏa lực mạnh nhờ có nhiều cải tiến.
1
null
Miloš Zeman (tiếng Séc phát âm: [mɪloʃ zɛman]), sinh ngày 28 tháng 9 năm 1944) là một chính trị gia Cộng hòa Séc và là một người Do Thái. Ông được bầu làm Tổng thống thứ ba của Cộng hòa Séc vào năm 2013. Ông là tổng thống được dân bầu cử trực tiếp đầu tiên trong lịch sử Cộng hòa Séc. Trước đây, ông từng là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Séc từ 1998 đến 2002. Là lãnh đạo của Đảng Dân chủ Xã hội Séc trong những năm 1990, ông đã đưa đảng này thành một trong những chính đảng chính của đất nước. Ông là Chủ tịch Hạ nghị viện Cộng hòa Séc từ 1996 đến 1998. Cuộc bỏ phiếu ngày 25 tháng 1 năm 2013 đánh dấu lần đầu tiên một Tổng thống Cộng hòa Czech được bầu bằng phổ thông đầu phiếu kể từ khi Tiệp Khắc tách ra thành Slovakia và Cộng hòa Czech vào năm 1993. Trước đây Tổng thống Cộng hòa Séc do Quốc hội Cộng hòa Séc bầu. Chiến dịch tranh cử của Miloš Zeman kêu gọi các cử tri có thu nhập thấp và lớn tuổi tại những vùng trong nước bị tổn thương vì kinh tế suy thoái. Tiểu sử và sự nghiệp chính trị. Zeman sinh ra ở Kolín, cha mẹ ly dị khi ông được hai tuổi và ông được mẹ là giáo viên nuôi dưỡng. Ông học tại một trường trung học ở thị trấn quê hương từ năm 1965, ông tiếp tục nghiên cứu của mình tại Đại học Kinh tế ở Praha, tốt nghiệp vào năm 1969. Năm 1968, trong giai đoạn mùa xuân Praha, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, nhưng bị khai trừ năm 1970, do ông không đồng ý với khối Hiệp ước Warsaw tấn công Tiệp Khắc. Ông bị thôi việc và giành hơn một thập kỷ làm nhân viên của tổ chức thể thao "Sportpropag" (1971-84). Từ năm 1984, ông đã làm ở công ty "Agrodat", tuy nhiên ông bị sa thải một lần nữa vào năm 1989, lần này do ông có bài viết phê phát "Prognostika a přestavba" ("Dự báo và Tái xây dựng"). Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2013, vị cựu Thủ tướng khuynh tả chiếm được 55% số phiếu trong cuộc bầu cử vòng hai chống lại Bộ trưởng ngoại giao bảo thủ Karel Schwarzenberg. Ông Zeman sẽ thay thế Tổng thống Václav Klaus vào tháng 3 năm 2013. Tranh cãi. Tại Cộng hòa Séc, chức vụ Tống thống gần như chỉ đóng vai trò nghi thức, nhưng ông Zeman - vị tổng thống đầu tiên được bầu trực tiếp - lại bộc lộ thẳng thắn quan điểm của mình trong cả các vấn đề đối nội và đối ngoại từ khi ông đảm nhiệm chức vụ này hồi năm 2013. Vào tháng 5 năm 2013, Zeman từ chối công nhận bằng giáo sư cho nhà sử gia văn học Martin Putna, chỉ vì ông ta đã xuất hiện một cách khiêu khích tại Praha Diễu hành đồng tính 2011. Trong khi phần lớn các nhà lãnh đạo châu Âu đang tẩy chay lễ kỷ niệm 70 năm kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ được tổ chức tại Moskva vào tháng 5 tới, do vai trò của nước này trong cuộc khủng hoảng Ukraine, Tổng thống Cộng hòa Séc Milos Zeman, người thường xuyên chọn lối đi lệch khỏi đường hướng của Liên minh Châu Âu, đã tuyên bố ông sẽ đến dự lễ kỷ niệm này. Sau khi đại sứ Mỹ tại Cộng hòa Séc Andrew Schapiro đã phát biểu trên truyền hình rằng việc Tổng thống Cộng hòa Séc là lãnh đạo châu Âu duy nhất có mặt tại đó sẽ là “một điều kỳ cục”, Tống thống Cộng hòa Séc đã tuyên bố cấm ông Andrew Schapiro vào lâu đài Prague, dinh thự của Tổng thống Cộng hòa Séc.
1
null
Opisthocomidae là họ chim duy nhất trong bộ Opisthocomiformes chỉ còn có một loài còn sinh tồn là gà móng hoang dã ("Opisthocomus hoazin") sinh sống ở lưu vực sông Amazon và châu thổ Orinoco ở Nam Mỹ. Nhiều loài hóa thạch được cho là có quan hệ họ hàng gần với "Opisthocomus hoazin" đã được miêu tả, bao gồm: Phát sinh chủng loài. Dựa theo Mayr & De Pietri (2014).
1
null
Yên vương Hỉ (chữ Hán: 燕王喜; trị vì: 254 TCN-222 TCN), tên thật là Cơ Hỉ, là vị vua thứ 44 hoặc 45 và là vị vua cuối cùng của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Hiếu vương, vua thứ 43 của nước Yên. Năm 255 TCN, Hiếu vương mất, Cơ Hỉ lên nối ngôi. Chiến tranh với nước Triệu. Yên vương Hỷ dùng Lật Phúc làm tướng quốc. Nước Triệu vừa thất bại trước Tần trong trận Trường Bình, 40 vạn quân Triệu bị giết nên bị suy yếu. Năm 251 TCN, ông sai Lật Phúc đi sứ nước Triệu, tặng Triệu Hiếu Thành vương 500 lạng vàng để kết liên minh cùng chống Tần. Khi trở về, Lật Phúc khuyên ông nên đánh chiếm nước Triệu vì trai tráng nước Triệu đã chết gần hết trong trận Trường Bình, chỉ còn trẻ con và người già yếu. Yên vương Hỷ mang việc đó hỏi Nhạc Gian (con Nhạc Nghị). Nhạc Gian phản đối, vì cho rằng nước Triệu nằm giữa thiên hạ, luôn phải phòng bị nên dân nước này quen việc chiến tranh, không thể đánh được. Yên vương Hỷ không nghe Nhạc Gian, chia quân làm 2 đường, sai Lật Phúc tấn công đất Cao, còn Khánh Tần và Nhạc Gian đánh đất Đại. Nước Triệu sai Liêm Pha và Nhạc Thừa ra chống cự. Liêm Pha đánh tan quân Yên, giết chết Lật Phúc, còn Nhạc Thừa cũng phá Khánh Tần ở đất Đại, bắt sống Khánh Tần và Nhạc Gian. Năm 250 TCN, quân Triệu thừa thắng tiến sang đất Yên. Liêm Pha truy đuổi 500 dặm, tiến vào nước Yên, vây hãm kinh đô Kế thành. Yên vương Hỷ sợ hãi, cử Tương Cừ làm tướng quốc mới, ra điều đình với quân Triệu. Tương Cừ nói với Liêm Pha xin giảng hòa, Liêm Pha mới rút quân. Năm 249 TCN, Triệu Hiếu Thành vương lại sai Nhạc Thừa vây đánh nước Yên. Sang năm 248 TCN, vua Triệu lại sai Nhạc Thừa đánh Yên, và đến năm sau lại hợp binh với nước Ngụy cùng đánh Yên. Yên vương Hỷ phải cắt đất xin giảng hòa, quân Triệu mới rút lui. Năm 247 TCN, Yên vương Hỷ và Triệu Hiếu Thành vương đổi đất cho nhau: Yên giao cho Triệu đất Cát, Vũ Dương và Bình Thư, còn Triệu giao cho Yên đất Long Đoái, Phân Môn, Lân Nhạc. Năm 243 TCN, nước Yên lại bị Triệu tấn công. Tướng Lý Mục của Triệu chiếm đất Vũ Toại và Phương Thành nước Yên. Năm 242 TCN, Yên vương Hỷ dùng người nước Triệu là Kịch Tân làm tướng. Kịch Tân đề nghị ông đánh Triệu, vì Liêm Pha đã bị cách chức, bỏ nước Triệu sang nước Sở. Yên vương Hỷ nghe theo, sai Kịch Tân cầm quân đánh Triệu. Tướng Triệu là Bàng Noãn mang quân ra chống Yên. Quân yên lại bại trận, bị giết 2 vạn người, bản thân tướng Kịch Tân bị bắt và bị giết. Năm 236 TCN, quân Triệu lại sang đánh Yên, chiếm thành Ly Dương. Nước Yên liên tiếp thua trận và mất đất, ngày một suy yếu. Nỗ lực chống Tần. Năm 241 TCN, do sự huy động của Bàng Noãn, Yên vương Hỷ hưởng ứng hợp tung chống nước Tần, sai tướng cùng mang quân hợp binh với các nước Triệu, Ngụy, Sở tấn công đất Loát nước Tần. Nhưng liên quân không thắng được quân Tần, phải rút lui. Nước Tần đã đánh lấn sang phía đông, chiếm được rất nhiều đất đai của các nước liền kề là Hàn, Triệu, Sở, Ngụy. Nước Tề theo đuổi chính sách liên hoành với Tần, không cứu các nước khác. Nước Yên tuy ở xa nhưng qua chiến trận với Triệu nhiều năm bị thua thiệt, thế lực cũng rất yếu. Năm 232 TCN, thái tử Yên Đan phải làm con tin ở nước Tần trốn được về nước, dốc lòng chống Tần. Hai năm sau (230 TCN), Tần vương Chính diệt nước Hàn. Hai năm sau nữa (228 TCN) Tần lại diệt nước Triệu. Anh Triệu U Mục vương là Triệu Gia chạy lên phía bắc giữ đất Đại, tự xưng là Đại vương, liên hợp với nước Yên để cùng chống Tần. Quân Tần đã đến gần Dịch Thủy gần bờ cõi nước Yên. Thái tử Đan lo lắng, tìm cách kết nạp nuôi dưỡng tráng sĩ để mưu giết vua Tần. Trong số các tráng sĩ, nổi tiếng nhất là Kinh Kha người nước Vệ. Tướng Phàn Ư Kỳ nước Tần vì phản lại Tần vương Chính không thành cũng đến nương nhờ thái tử Đan. Kinh Kha nhận lời đi giết Tần vương Chính. Năm 227 TCN, Kinh Kha lên đường sang nước Tần, tự vẫn để Kinh Kha mang đầu nộp Tần vương, nhằm có cớ tiếp cận Tần vương. Thái tử Đan giao cho Kinh Kha một lưỡi chủy thủ giấu vào trong tấm địa đồ Đốc Cương, theo mưu kế bày sẵn, Kinh Kha đến dâng đầu phản tướng Phàn Ư Kỳ và địa đồ Đốc Cương để đến gần vua Tần, thừa cơ hành thích. Tuy nhiên, việc hành thích của Kinh Kha thất bại. Kinh Kha đâm trượt vua Tần, cuối cùng bị giết. Tần vương Chính căm giận nước Yên, dốc quân đánh Yên. Trong năm 227 TCN, các tướng Tần là Vương Tiễn và Tân Thắng tiến quân đến nước Yên. Đại vương Gia ra quân, hợp sức với quân Yên cùng chống Tần. Hai bên đánh nhau 3 trận phía tây sông Dịch không phân thắng bại. Dời đô và mất nước. Năm 226 TCN, Tần vương Chính sai con Vương Tiễn là Vương Bí mang quân tiếp viện cho Vương Tiễn. Có thêm quân, Vương Tiễn đánh bại liên quân Yên – Đại. Quân Tần tiến vào kinh thành Kế. Yên vương Hỉ sợ hãi, phải bỏ Kế đô chạy sang Liêu Đông. Để tạ tội với nước Tần, Yên vương Hỉ phải giết thái tử Đan, chặt đầu sai người mang nộp cho Tần vương Chính. Tần vương tạm hoãn đánh Yên. Năm 225 TCN, Tần vương Chính diệt Ngụy rồi đánh Sở. Năm 223 TCN, Tần diệt Sở. Sang năm 222 TCN, Tần vương sai con Vương Tiễn là Vương Bí mang quân tấn công Liêu Đông – căn cứ cuối cùng của nước Yên. Quân Tần vượt sông Áp Lục đánh vào Bình Nhưỡng. Yên vương Hỉ không chống nổi, bị quân Tần bắt làm tù binh và phế truất làm dân thường. Ông ở ngôi được 33 năm, không rõ sau này mất năm nào. Từ đó nước Yên diệt vong. Tính từ Triệu công Thích thụ phong đất Yên đến Yên vương Hỷ, tổng cộng nước Yên truyền được 46 đời vua, khoảng 900 năm. Nếu không tính Triệu công Thích và Tử Chi, nước Yên gồm có 44 vua, xưng vương được 102 năm.
1
null
Antonín Novotný (10 tháng 12 năm 1904 - 28 tháng 1 năm 1975) là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc giai đoạn 1953-1968, và cũng là Chủ tịch Tiệp Khắc 1957-1968. Ông được sinh ra ở Letnany, nay là một phần của Praha. Antonín Novotný đã trở thành một đảng viên của Đảng Cộng sản vào năm 1921. Sau đó, ông làm đại biểu Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản (1935). Do sự tham gia của ông trong cuộc đấu tranh ngầm của đảng, ông đã bị bắt vào năm 1941 và bị cầm tù trong trại tập trung Mauthausen nơi ông làm Kapo. Ông được giải phóng bởi quân đội Hoa Kỳ vào ngày 05 tháng 5 năm 1945. Sau chiến tranh, Novotný đã trở thành một thành viên quan trọng của đảng cộng sản và được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất vào năm 1951, nhưng một thời gian ngắn sau đó từ chức. Tuy nhiên, khi Rudolf Slánský đã bị loại khỏi chức vụ này vào năm 1953, Novotný kế nhiệm ông và do đó đã trở thành các nhà lãnh đạo trên thực tế của Tiệp Khắc khi Klement Gottwald qua đời một năm sau đó. Ông tái đắc cử vào năm 1958 và 1964.
1
null
Bầu cử Lập pháp Israel năm 2013 là một cuộc bầu cử cấp quốc gia được tiến hành vào ngày 22 tháng 1 năm 2013 tại Israel. Ban đầu, cuộc tranh luận công chúng về Luật Tal gần như dẫn đến một cuộc bầu cử sớm vào năm 2012, nhưng điều này đã bị hủy bỏ vào phút cuối sau khi Đảng Kadima ngay sau đó đã tham gia chính phủ. Các cuộc bầu cử sau đó đã được kêu gọi vào đầu tháng 10 năm 2012 sau khi thất bại trong việc thống nhất về ngân sách cho năm tài chính 2013. Ủy ban bầu cử Israel cho biết tổng cộng có 10.132 điểm bỏ phiếu trên toàn quốc đã mở cửa đón khoảng 5,65 triệu cử tri Israel đủ tư cách tới bỏ phiếu. An ninh được siết chặt với hơn 20.000 cảnh sát và tình nguyện viên đã được triển khai để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử này. Ngày 22 tháng 1 năm 2013, kết quả các cuộc thăm dò cho thấy Liên minh Likud Yisrael Beiteinu dự kiến ​​sẽ nhận được 31 ghế và Yesh Atid được 19 ghế. Đứng thứ hai là Đảng trung dung Yesh Atid giành được 19 ghế và đứng thứ ba là Công Đảng với 15 ghế. Trước đó, ngày 22 tháng 1 năm 2013, các điểm bầu cử trên khắp Israel và các khu định cư Do Thái ở Bờ Tây đã chính thức mở cửa đón cử tri tới bỏ phiếu bầu quốc hội khóa 19 của nước này.
1
null
Dòng Anh Em Giảng Thuyết (hay còn gọi là Dòng Anh Em Thuyết Giáo, Dòng Đa Minh, Dòng Kẻ Giảng; Latinh: Ordo Praedicatorum) là một dòng tu lớn của Giáo hội Công giáo, được thành lập bởi Thánh Đa Minh (còn gọi là Đôminicô) và được Tòa Thánh phê chuẩn Hình thành. Ngày 22 tháng 12 năm 1216, Dòng Anh Em Giảng Thuyết được Tòa Thánh phê chuẩn với mục đích nhằm quy tụ một số linh mục chuyên trách: rao giảng "Lời Chúa", một công việc trước đó thuộc quyền Giám mục. Sau này tinh thần đó được mở rộng và được nhiều thành phần dân Chúa tham gia làm thành đại gia đình Đa Minh. Tầm hoạt động. Hiện nay dòng có mặt trên 62 quốc gia trên thế giới, gồm 5.955 linh mục và tu sĩ, 2.773 nữ đan sĩ, 32.500 nữ tu, 150.000 giáo dân (thuộc Huynh đoàn giáo dân Đaminh). Dòng Anh Em Giảng Thuyết tại Việt Nam. Năm 1550, vì những đòi hỏi rất cấp bách tại Việt Nam: số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, Giám mục Phanxicô Pallu đã gửi lời mời đến Linh mục Giám Tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo Felipe Pardo, O.P. từ Manila. Tỉnh Dòng Rất Thánh Mân Côi, thuộc dòng Đa Minh, đã phái hai Linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đến hoạt động chung với Hội Thừa Sai Paris . Năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII đã ban sắc lệnh thành lập hai Giáo phận đầu tiên: Đàng Trong và Đàng Ngoài Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI chia lại Giáo phận Đàng Ngoài thành hai miền: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng Hà tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa Sai Paris dưới quyền quản nhiệm Giám mục De Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng Hà chạy ra biển): lúc ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội Thừa Sai Paris phụ trách . Năm 1693 Giám mục Deydier qua đời, Giám mục De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Thánh Đa Minh Từ Nhà Tổng Quyền Santa Sabina (tại Roma) linh mục Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh Bộ Truyền giáo đề cử sang giúp đỡ linh mục Juan de Santa Cruz đang ở Trung Linh, sau này Tòa Thánh yêu cầu ông chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông . Ngày 02 tháng 2 năm 1702 tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh tại Đàng Ngoài. Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (1676-1967), Linh mục Bề Trên Tổng Quyền Aniceto Fernandez tuyên bố: đã tới thời gian tách rời Việt Nam ra khỏi Philippines, và thành lập Tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo riêng biệt với danh hiệu Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo .
1
null
Marinens Flyvebaatfabrikk M.F.4 là một loại thủy phi cơ hai tầng cánh, do nhà máy Marinens Flyvebaatfabrikk chế tạo cho Cục Không quân Hải quân Hoàng gia Na Uy từ năm 1918. Nó được sử dụng làm máy bay huấn luyện trong biên chế Na Uy và phục vụ đến năm 1924 thì thải loại.
1
null
Baribatra (, phát âm là Boripatra hoặc Boriphat) hay Máy bay ném bom Kiểu 2 là một loại máy bay ném bom hai chỗ của Xiêm La trong thập niên 1920. Do Công xưởng Hàng không thuộc Không quân Hoàng gia Xiêm La thiết kế chế tạo. Chỉ có một số lượng nhỏ được chế tạo, đây là máy bay đầu tiên do người Thái tự thiết kế.
1
null
Vịnh Kotor (tiếng Serbia/Mongtenegro: Boka Kotorska), một vịnh nhỏ quanh co ở tây nam của biển Adriatic. Vịnh này đã từng được gọi là vịnh hẹp cực nam châu Âu, trên thực tế là một cửa cắt khía của con sông Bokelj đã từng chảy từ các cao nguyên núi cao của núi Orjen. Khu vực xung quanh vịnh đã là nơi định cư của con người từ thời cổ đại và có một số thị trấn thời trung cổ được bảo tồn tốt. Các thị trấn đẹp như tranh Kotor, Risan, Tivat, Perast, Prčanj, Herceg Novi, Budva, cùng với cảnh quan môi trường xung quanh tự nhiên là những điểm du lịch lớn. Di sản tôn giáo của vùng đất xung quanh vịnh - các nhà thờ và tu viện Chính thống giáo và Công giáo - làm cho vịnh này một trong các địa điểm hành hương chính của khu vực. Cùng với gần vách núi đá vôi nhô ra Orjen và Lovćen, Kotor và tạo thành cảnh quan ấn tượng xung quanh khu vực Địa Trung Hải và đẹp như tranh vẽ. Trong những năm gần đây, Kotor đã chứng kiến một sự gia tăng ổn định lượng khách du lịch, nhiều người trong số các du khách đến đây bằng du thuyền. Du khách bị thu hút bởi vẻ đẹp tự nhiên của vịnh Kotor và các thị xã cổ Kotor. Kotor là một phần của di sản thế giới được đặt tên là Vùng Tự nhiên và Văn hóa-Lịch sử của Kotor. Vịnh dài khoảng 28 km (17 mi) với đường bờ biển kéo dài 107,3 ​​km (66,7 mi). Nó được bao quanh bởi hai khối núi của dãy Dinaric Alps : dãy núi Orjen ở phía tây và dãy núi Lovćen ở phía đông. Phần hẹp nhất của vịnh, eo biển Verige dài 2.300 mét (7.500 ft), chỉ rộng 340 mét (1.120 ft) tại điểm hẹp nhất. Vịnh là một đoạn của Sông Bokelj đã biến mất, từng chảy từ cao nguyên núi cao của Núi Orjen .
1
null
Turritopsis nutricula (hay còn được biết đến là Sứa bất tử) là một loại thủy tức giống sứa thuộc ngành "Cnidaria" có khả năng quay ngược vòng đời của chúng từ thời kỳ trưởng thành trở lại thời kỳ sinh vật đơn bào và từ đó lại tiếp tục phát triển. Đây là trường hợp duy nhất từng được phát hiện ra về một loại sinh vật đa bào có khả năng quay ngược vòng đời khi giao phối sau khi đã trưởng thành về mặt tình dục. Điều này được thực hiện thông qua một quá trình phát triển tế bào, mà được gọi là "sự chuyển dịch tế bào", theo đó một dạng tế bào này có thể chuyển đổi thành dạng tế bào khác. Trong quá trình này giống sứa của loài sứa bất tử sẽ được chuyển hóa thành các Polip trong nhóm Polip mới. Về mặt lý thuyết, quá trình này diễn ra vô hạn, và dẫn đến việc loại sứa này bất tử, mặc dù, trên thực tế, các loài "Turritopsis" cũng như các loài khác trong họ sứa sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề, như phải chống chọi với việc bị săn bắt hay mắc bệnh trong giai đoạn là sinh vật phù du, điều này sẽ khiến nó mất khả năng chuyển hóa các Polip. Tuy nhiên, chưa một mẫu vật nào về loại này được thí nghiệm, vì vậy vẫn chưa thể xác định được tuổi trung bình của chúng, và cả khi loài này có khả năng bất tử, thì vẫn chưa có bằng chứng nào chứng minh điều này. Mô tả. Giống sứa "Turritopsis nutricula" có hình dạng giống như một cái chuông, với đường kính tối đa khoảng và chiều dài lớn hơn chiều rộng. Bức màng của loài sứa này khá mỏng, ngoài trừ một ít phần dày ở trên đỉnh. Dạ dày của chúng tương đối lớn, có màu đỏ tươi và có hình chữ thập trong phần chéo. Một cá thể non có đường kính 1 mm và chỉ có 8 xúc tu mọc đều nhau dọc theo mép, trong khi các cá thể trưởng thành có 80-90 xúc tu. Các hình ảnh về loài "Turritopsis nutricula" và một loại khá liên quan là "Turritopsis rubra" được phát hiện tại New Zealand có thể tìm thấy trên mạng Internet. Trong một cuộc nghiên cứu về tính di truyền gần đây, người ta đã cho rằng "Turritopsis rubra" và "Turritopsis nutricula" đều như nhau. Nhưng điều chưa rõ ràng là "T. rubra" cũng có khả năng chuyển dịch trở lại thành Polip. Phân bố. Nguồn gốc của "Turritopsis nutricula" được cho là xuất phát từ vùng Biển Caribe, nhưng nay chúng đã lan rộng ra khắp các đại dương trên thế giới, và đã được xếp vào quần thể động vật đặc biệt có thể dễ dàng phân biệt được qua hình thái. "Turritopsis" có thể được tìm thấy trong các vùng ôn đới tới các vùng nhiệt đới tại tất cả các đại dương trên thế giới. Viêc Turritopsis đang lan rộng ra khắp thế giới được ví như tàu bè đang xả nước thải tại cảng. Điều này khiến các nhà sinh vật học lo ngại chúng có thể thống trị toàn bộ đại dương với khả năng tồn tại miễn là chúng không bị ăn thịt hay vượt qua bệnh tật. Tuy nhiên, vì là bất tử, nên dù có bị ảnh hưởng bên ngoài tác động đến bao nhiêu, thì số lượng của chúng cũng sẽ tăng lên nhanh chóng. "Chúng tôi đang chờ đợi một cuộc xâm lược thầm lặng!", tiến sĩ Maria Pia Miglietta, Viện nghiên cứu nhiệt đới Smithsonian. Vòng đời. Những quả trứng phát triển trong tuyến sinh dục của sứa cái, nằm bên trong lớp màng manubrium (dạ dày). Trứng sau khi phát triển có lẽ được sinh ra và thụ tinh bởi tinh trùng được sản xuất bởi sứa đực ngay trong biển. Mặc dù vậy, nhưng loài liên quan "Turritopsis rubra" lại giữ lại trứng đã được thụ tinh trong cơ thể sứa cái cho đến giai đoạn chúng phát triển thành ấu trùng planula. Trứng đã được thụ tinh phát triển thành các ấu trùng planula, và chúng thường được sinh ra tại đáy biển hay thậm chí tại các cộng đồng vật biển phong phú sống trên những bến cảng nổi, và sau đó phát triển thành các nhóm Polip (hydroid). Các nhóm này sẽ dần dần phát triển thành sứa con, với kích thước chỉ có khoảng 1 mm, và sau đó phát triển bằng cách săn bắt các sinh vật phù du khác. Chúng bắt đầu giao phối sau một vài tuần (thời gian chính xác phụ thuộc vào nhiệt độ nước biển; thì mất khoảng 25 tới 30 ngày, nêu nhiệt độ ở khoảng thì chúng chỉ mất 18 đến 22 ngày). Khả năng bất tử. Hầu hết các loài sứa đều có tuổi thọ tương đối cố định, thay đổi theo loài từ vài giờ đến nhiều tháng (sứa trưởng thành tồn tại lâu dài và đẻ trứng mỗi ngày hay đêm, thời gian cũng khá cố định theo từng loài cụ thể). Loài sứa "Turritopsis nutricula" là loài duy nhất được biết đến với khả năng bằng cách tự mình biến đổi hàng loạt các mô tế bào (trong giai đoạn trưởng thành) cho đến hệ tuần hoàn trở lại trạng thái Polip. Bởi quá trình chuyển đổi cụ thể đòi hỏi phải có sự hiện diện của một số loại tế bào. Các thí nghiệm đã tiết lộ rằng trong các giai đoạn của sứa, đặc biệt là với cá thể đã hoàn toàn trưởng thành, có thể chuyển dịch trở lại vào trong các nhóm Polip. Điều có thể nhận biết dễ dàng là việc các xúc tu cũ sẽ bị suy thoái và phát triển các chồi mới và cuối cùng là bồi dưỡng cho Polip. Polip nhận nhiệm vụ phát triển các chồi mới và từ đó phát triển thêm các nhánh mới và dần dần chúng sẽ phát triển thành các nhóm Hydroid. Khả năng đảo ngược vòng đời này là độc nhất vô nhị trong thế giới động vật, và cho phép loài sứa này thoát khỏi cái chết, khiến "Turritopsis nutricula" có khả năng bất tử. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy 100% các mẫu vật trưởng thành có thể chuyển hóa trở lại thành Polip, nhưng cho đến nay quá trình này đã không được quan sát thấy trong tự nhiên. Thậm chí cả sau này, việc chuyển đổi chỉ có thể diễn ra dưới điều kiện khắc nghiệt. Mặc dù vậy, hầu hết các loại sứa Turritopsis đều có khả năng trở thành nạn nhân về các nguy hiểm chung của cuộc sống tự nhiên như sinh vật phù du, bao gồm cả bị động vật khác ăn thịt, hoặc bị mắc bệnh. Nguồn cảm hứng cho con người. Phương pháp phát triển tế bào trong giai đoạn "chuyển dịch tế bào" của "Turritopsis nutricula" đã truyền cảm hứng cho các nhà khoa học để tìm một cách để làm cho các tế bào gốc của con người trong quá trình đổi mới các mô bị tổn thương hoặc tránh được cái chết. Trong văn hóa. "Nutricula Turritopsis" đóng một vai trò quan trọng trong tiểu thuyết "Jellyfish Dreams" của nhà văn M. Thomas Gammarino.
1
null
Tàu khu trục lớp Atago (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (DDG) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Nhà máy đóng tàu Nagasaki của Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi (MHI) đảm nhiệm việc đóng mới các tàu khu trục lớp Atago. Đây là lớp tàu thế hệ thứ 2 được đặt tên là Atago, thế hệ tàu Atago đầu tiên là những tàu tuần dương hạng nặng thuộc biên chế Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Atago vốn là tên của một ngọn núi tọa lạc tại ngoại ô Kyoto, vùng Kinki, Nhật Bản. Ít có tàu chiến nào trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay so sánh được với sức mạnh của Atago, Atago luôn đóng vai trò trụ cột và là niềm tự hào của JMSDF. Tàu lớp Atago được các chuyên gia quân sự ví như "thanh Katana sắc bén" của thủy binh Nhật Bản hiện đại. Thiết kế. Thân tàu. Sau khi đưa vào sử dụng một thời gian, JMSDF đã nhận ra thiết kế của tàu khu trục lớp Kongo còn tồn tại một số hạn chế nhất định như không có nhà chứa cho trực thăng săn ngầm, hệ thống radar mặc dù rất hiện đại nhưng lại kém hiệu quả khi hoạt động tác chiến tại các khu vực lộn xộn gần bờ. Hơn nữa, việc tập trung quá nhiều vào nhiệm vụ đánh chặn tên lửa đã dẫn đến làm giảm khả năng tác chiến đa dạng của tàu. Vì thế, JMSDF đã quyết định phát triển một thế hệ tàu khu trục mới nhằm bổ sung và khắc phục những hạn chế của tàu khu trục lớp Kongo. Chương trình phát triển tàu khu trục mới đã được Chính phủ Nhật tiến hành phê chuẩn ngân sách tài chính vào năm 2004 và được định danh là lớp Atago. Cơ sở căn bản để phát triển tàu khu trục lớp Atago là khung sườn, vỏ tàu và hệ thống động lực trạm nguồn của tàu khu trục lớp Kongo. Tàu khu trục lớp Atago có hình dáng thon dài đặc trưng vươn xa tới mũi tàu dạng bán trụ, kéo dài đến 85% chiều dài của nó, mũi tàu hình nêm và đuôi tàu có mặt cắt thẳng đứng phía sau. Các đường viền thép dọc vỏ tàu được thiết kế nhằm giảm biên độ va đập của sóng biển vào mạng tàu và lườn tàu, đồng thời giảm ma sát của nước biển khi tàu chuyển động. Thân tàu được kéo dài thêm 10 mét để thiết kế thêm nhà chứa cho máy bay trực thăng vốn không có trên tàu khu trục lớp Kongo  Ngoài ra, để tránh rung lắc và va đập mạnh với sóng biển, thân tàu được trang bị hệ thống ổn định rung lắc và các sống tàu trên mạn tàu. Theo các thông số kỹ thuật thì tàu khu trục lớp Atago có thể duy trì tốc độ hải trình lên đến 20 hải lý/giờ trong một thời gian dài khi biển đang động cấp 7. Cột buồm của tàu được thiết kế lại nghiêng về phía sau, các ống khói tàu được bố trí dọc theo thân tàu và nằm ẩn vào trọng phần thượng tầng nhằm làm phân tán hơi nóng giúp tằng khả năng tàng hình của tàu. Cả lớp Kongo và Atago đều được tối ưu cho nhiệm vụ chỉ huy hạm đội, phần thượng tầng của tàu được làm cao hơn, bên trong bố trí sở chỉ huy 2 tầng tương tư như tàu khu trục lớp Arleigh Burke đời IIA (Flight IIA) của Hải quân Liên bang Mỹ. Trong cấu trúc của tàu được sử dụng các loại vật liệu siêu bền: hợp kim nhôm, nhựa tổng hợp và các lớp phủ có khả năng chống chịu mài mòn. Kho đạn dưới hầm tàu được bao bọc bởi một lớp thép có độ dày 25mm. Phần quan trọng nhất của cấu trúc boong thượng tầng được bảo vệ bằng các tấm thép tổ ong. Tầng trên cùng được bọc bằng một lớp nhựa vinyl chống mòn, gỉ. Tàu khu trục lớp Atago dài 165m, rộng 21m, mớn nước 6,2m. Do kéo dài phần boong tàu phía sau nên lượng giãn nước của tàu khu trục lớp Atago tăng đáng kể. Lượng giãn nước toàn tải của tàu lên đến 10.000 tấn, như vậy theo tiêu chuẩn NATO, Atago thuộc lớp tàu tuần dương mang tên lửa điều khiển. Thủy thủ đoàn có biên chế đầy đủ gồm 300 quân nhân bao gồm cả sĩ quan chỉ huy chia 2 ca hoạt động liên tục 24 tiếng mỗi ngày. Các tàu khu trục lớp Atago có khả năng hoạt động trong khu vực đối phương sử dụng vũ khí hủy diệt lớn. Trên các boong tàu và thân tàu không có cửa sổ. Các khoang làm việc, sinh hoạt được lắp đặt thiết bị lọc không khí độc. Trên tàu được lắp đặt các băng chuyền vận tải và thang máy để vận chuyển hàng hóa từ trên sàn tàu xuống hầm tàu và xếp đặt vào các khoang chứa hàng. Một trong những phương tiện vận chuyển đảm bảo di chuyển hàng trên toàn bộ mặt sàn, từ mũi tàu đến đuôi tàu. Trên phần mũi tàu và phần đuôi tàu được bố trí hai vị trí để tiếp nhận hàng hóa, được vận chuyển đến bằng máy bay trực thăng. Các trang thiết bị được thiết kế theo dạng module cho phép sử dụng giải pháp sửa chữa các bộ phận riêng biệt bằng cách thay thế, nhanh chóng thay đổi các block bị hỏng hóc lực lượng theo biên chế trên tàu hoặc bằng lực lượng bảo dưỡng, sửa chữa của căn cứ hải quân. Có tất cả hai tàu thuộc lớp Atago đã được JMSDF đóng mới và đưa vào sử dụng. Không gian sinh hoạt của thủy thủ đoàn. Do có kích thước lớn hơn nên so sánh cùng với các tàu khu trục khác của JMSDF, Atago được tăng cường diện tích sinh hoạt cho thủy thủ đoàn, các khoang sinh hoạt được bổ trí ở khoảng giữa thân tàu và khoang trên boong thượng. Các gường tầng nhỏ được lắp thành các block có 6 gường, các block được ngăn bằng các vách ngăn mỏng. Các nhà thiết kế cũng lắp đặt trên tàu một thư viện nhỏ với hàng nghìn đầu sách khác nhau, ngoài giờ trực chiến các thủy thủ đoàn và sĩ quan có thể đến đây tham khảo, bổ sung kiến thức cho mình hoặc đơn giản chỉ là thú vui đọc sách giết thời gian vì thực tế cuộc sống trên tàu rất tẻ nhạt, không có nhiều phương tiện giải trí. Rất nhiều thủy thủ JMSDF đã tự học trong quá trình công tác trên biển để thi lên các cấp sĩ quan chỉ huy cao hơn, một vài người lại sử dụng khoảng thời gian này cho việc tìm hiểu những kiến thức thuộc các ngành nghề khác để có kỹ năng xin việc sau khi rời quân ngũ. Không thể thiếu được trên tàu đó là phòng giặt là, thủy thủ đoàn sẽ giặt quần áo theo lịch được xếp trước, tránh tình trạng lộn xộn, gây lẫn lộn quân trang. Ngoài quân phục bao gồm áo ngoài, quần ngoài và đồ lót, các thủy thủ được phép mang theo và sử dụng trên tàu các loại áo phông và quần cộc tối màu. Phòng phơi đồ ngay cạnh phòng giặt, vì không có ánh nắng chiếu vào phòng này nên phòng được lắp đặt hệ thống hút ẩm bằng quạt gió và đèn công suất cao để hong khô quần áo. Các máy bán hàng tự động cũng được lắp đặt với rất nhiều đồ ăn vặt và mì hộp các loại để phục vụ nhu cầu của các thủy thủ. Những đồ ăn vặt và đồ hộp này có hạn sử dụng khá lâu nên được dự trữ với số lượng lớn trên tàu, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu của binh lính trong các cuộc hành quân dài ngày trên biển. Trên tàu còn có hệ thống máy tính để bàn để phục vụ cho việc giải trí của các thủy thủ. Do đa phần đều là thủy thủ trẻ tuổi nên các máy tính ở đây dù không có mạng internet để sử dụng nhưng lúc nào cũng có sẵn khá nhiều game cho thủy thủ giải trí bằng hệ thống mạng nội bộ. Phòng tập đa năng với nhiều loại máy tập hiện đại giúp thủy thủ đỡ "cuồng chân cuồng tay" khi phải sinh hoạt và làm việc trong một không gian chật trội suốt thời gian dài. Các máy chạy bộ luôn hoạt động hết công suất để phục vụ cho nhu cầu giải phóng năng lượng của các thủy thủ. Ngoài ra còn có các máy tập đạp xe, tạ nâng các loại, xà đơn và xà kép,v..v... để các binh lính nâng cao sức khỏe cũng như rèn luyện thể lực cho bản thân. Do là một con tàu hiện đại, sử dụng rất nhiều các công nghệ tự động lại không có không gian chạy nhảy nên nếu không có chế độ tập luyện thường xuyên các thủy thủ sẽ rất dễ rơi vào tình trạng... béo bụng giống với dân văn phòng. Trên tàu còn có một phòng y tế nhỏ với đầy đủ trang thiết bị y tế, thuốc thang cũng như bác sĩ để chữa trị cho những thủy thủ không may bị bệnh giữa biển. Các cán bộ của phòng y tế này cũng kiêm luôn nhiệm vụ kiểm soát vệ sinh trên tàu, công việc này được tiến hành thường xuyên và sát sao do đặc tính ở tập trung trong không gian hẹp nên các bệnh như ghẻ lở, lang ben, kiết lỵ, tả... rất dễ lây lan nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời. Kho thuốc trên tàu có đủ số lượng thuốc cho nhiều loại bệnh khác nhau từ cảm cúm, sốt cho tới các loại kháng sinh liều cao, thuốc giảm đau, thuốc an thần. Đặc biệt các kho thuốc trên các tàu chiến của JMSDF thường có lượng dự trữ thuốc giảm đau dạng gây nghiện như Morphin rất cao, đề phòng trường hợp các thủy thủ bị thương nặng trong khi giao tranh. Phòng thông tin của tàu với nhân viên trực ban có nhiệm vụ đọc các thông tin về tình hình chính trị, xã hội của Nhật Bản cũng như của thế giới hàng ngày cho binh sĩ. Do đặc tính tách biệt hoàn toàn với đất liền để đảm bảo bí mật vị trí tàu nên các bản tin cập nhật thông tin rất được chú trọng để binh lính có thể cập nhật được tin tức từ trong đất liền sớm nhất có thể. Phòng bếp trên tàu có dự trữ khá nhiều đồ ăn đông lạnh, từ thịt cho tới rau củ quả. Nhà bếp hoạt động 24/7 để phục vụ cho 2 ca làm việc kéo dài 12 tiếng mỗi ngày, các thủy thủ sẽ có đồ ăn nóng phục vụ bất cứ lúc nào họ muốn. Phòng ăn cũng như đồ ăn của sĩ quan được chuẩn bị riêng. Khẩu phần ăn của thủy thủ Nhật Bản thường mang đậm chất truyền thống và cá là một trong những thực phẩm không thể thiếu trong các bữa ăn của người Nhật nói chung và binh sĩ JMSDF nói riêng. Vì diện tích các phòng chức năng, khu giải trí trên tàu có hạn nên trong lúc giải lao các thủy thủ trên tàu cũng phải đảm bảo kỷ luật giờ giấc nghiêm ngặt, các thủy thủ cũng phải tránh tuyệt đối việc tụ tập với số lượng lớn người ở một phòng nào đó, gây khó khăn trong trường hợp có báo động khẩn hoặc sẽ bị tổn thất nặng về nhân mạng khi bị tấn công bất ngờ mà không kịp di chuyển vào vị trí trực chiến. Hệ thống điện tử. Tàu khu trục lớp Atago được trang bị hệ thống Chỉ huy, kiểm soát, thông tin, máy tính và tình báo (Command, Control, Computer, Communication & Intelligence - C4I). Hệ thống C4I bao gồm hệ thống thông tin vệ tinh AN/USC-32 (EHF), hệ thống MOF (OYQ-31-6 C2T + NORA-1 / NORQ-1), hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) cải tiến và hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm AN/SQQ-89 (V) 15J ASWCS. Hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) cải tiến. Atago được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis 7 giai đoạn 1, đây là biến thể nâng cấp lần thứ 7 của hệ thống chiến đấu tối tân Aegis. Chương trình Aegis 7 được thực hiện vào năm 1998 và chia làm 2 giai đoạn (giai đoạn 1 được thực hiện từ năm 1998, giai đoạn 2 được thực hiện từ năm 2002). Năm 2012, Lockheed Martin đã tiến hành nâng cấp lớn hệ thống chiến đấu Aegis của các tàu khu trục lớp Atago, toàn bộ chương trình nâng cấp trị giá 421 triệu USD. Cảm biến chính của tàu sau nâng cấp là radar AN/SPY-1D (V), cải tiến quan trọng của radar là có khả năng nhận dạng và phân biệt mục tiêu trong môi trường lộn xộn tại các khu vực ven bờ (tức là các mục tiêu nằm giữa các khu vực vừa có mặt đất, mặt nước, núi đồi…). Đây là điều mà radar trên tàu khu trục lớp Kongo không làm được. Gói nâng cấp này còn tích hợp năng lực phòng thủ tên lửa đạn đạo chiến thuật, trang bị máy tính tiên tiến với khả năng tính toán siêu tốc, hệ thống điện tử tích hợp AIEWS. Hệ thống hỗ trợ chiến thuật tiên tiến, hoàn thiện khả năng tích hợp tác chiến mặt nước, hoàn thiện khả năng tác chiến chống ngầm biển sâu. Điểm nổi bật của hệ thống Aegis 7 là cải thiện độ chính xác trong việc bám, bắt mục tiêu, radar AN/SPY-1D(V) nâng cấp có khả năng bắt mục tiêu ở độ cao thấp hơn so với radar trước đó đã được lắp đặt trên tàu khu trục lớp Kongo. Với khả năng bắt mục tiêu ở độ cao rất thấp cho phép hệ thống Aegis 7 trên tàu khu trục lớp Atago có thể phát hiện và vô hiệu hóa các mục tiêu là tên lửa đạn đạo chiến thuật, tên lửa hành trình chống hạm thường bay ở độ cao thấp ngay khi nó vừa xuất phát từ các căn cứ ven bờ. Cảm biến/radar. Các bộ cảm biến trên tàu bao gồm radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28E, radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20B. Năm 2017, radar OPS-28E đã được thay thế bằng loại AN/SPQ-9B (hoat động trên băng tần X) do Northrop Grumman sản xuất. Sonar. Hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm AN/SQQ-89 (V) 15J ASWCS bao gồm các hệ thống sonar kiểu mảng kéo AN/SQR- 20 MFTA và sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm AN/SQS-53C. AN/SQS-53C có thể phát hiện trên tầm xa đến 150 dặm (278 km). Anten của AN/SQS-53C là loại TR-343J do Tổng công ty NEC sản xuất trong nước. TR-343J được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động. Sonar kiểu mảng kéo AN/SQR- 20 MFTA là loại sonar hoạt động trên tần số thấp LFA (100–500 Hz). AN/SQR- 20 MFTA có thể cho phép phát hiện mục tiêu ở khoảng cách đến 70 km, độ sâu từ 200 m cho đến 2 km dưới mặt nước biển. Mỗi lần phát xung tìm kiếm kéo dài từ 6 đến 100s. Giãn cách thời gian giữa hai lần phát là 6 – 15 phút. Hệ thống kiểm soát hỏa lực (FCS). Hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk-116 dùng cho hệ thống vũ khí chống ngầm, hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk-160 kết hợp hệ thống kính ngắm quang học Mk46 OSS dùng cho pháo hạm 127 mm Mk45 mod 4 (hiện đã được thay thế bằng loại Mk.20 EOS) và hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk-99 mod 8 cung cấp kênh dẫn hướng cho tên lửa đã được radar AN/SPY-1D(V) chiếu xạ. Mk-99 mod 8 gồm 3 hệ thống radar AN/SPG-62A hoạt động trên băng tần J, hệ thống cho phép chiếu xạ mục tiêu dẫn đường pha cuối cho tên lửa đánh chặn SM-2/SM-3. Tàu có 4 anten có thể cùng lúc dẫn tên lửa đánh 4 mục tiêu. Hệ thống chiến tranh điện tử. Phương thức "bảo vệ mềm" (soft-kill) của Atago bao gồm hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2B ESM/ECM và hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC (4 giá x18-ống phóng bố trí ở giữa thân tàu). Hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2 ESM/ECM dùng để dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu làm nhiễu đầu dò radar của tên lửa chống hạm, khiến chúng bám theo các mục tiêu ảo hoặc giảm tầm hiệu quả của đầu dò, cho phép tàu tránh được tên lửa. Hệ thống Mk-137 SRBOC thường kết hợp với hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2B ESM/ECM. Cơ chế hoạt động của nó là phóng ra các rocket thả lá nhôm, tạo ra mục tiêu giả, gây nhầm lẫn cho đầu dò của tên lửa đang hướng đến. Ngoài ra, tàu còn có hệ thống nhử mồi ngư lôi kiểu mảng kéo Type 04 được điều khiển số hóa và thiết kế kiểu module, có khả năng đánh lừa loại ngư lôi tìm bắt mục tiêu nhờ âm thanh. Khi triển khai, Type 04 được phóng ra từ phía đuôi tàu thông qua ống phóng để phóng ra một phao tiêu hình dây, sử dụng một dây cáp điện đồng trục truyền tín hiệu kéo theo phía đuôi tàu. Bên trong phao tiêu là một thiết bị phát âm thanh dưới nước, sử dụng phương thức điện tử hoặc điện cơ để phát ra tín hiệu âm thanh dụ ngư lôi. Do tín hiệu phát ra mạnh hơn cả tín hiệu âm thanh của tàu nên có thể bảo vệ cho tàu không bị tấn công. Hệ thống thông tin liên lạc. Hệ thống thông tin liên lạc của tàu ngoài hoạt động trên tần sóng ngắn thông thường (HF), tần số rất cao (VHF) và tần số cực cao (UHF), còn có thể tham gia vào mạng dữ liệu tích hợp (JDN) và Hệ thống dữ liệu chiến thuật Hải quân (NTDS). Được liên kết thông qua hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Link 11 và Link 16. Đối với liên lạc vệ tinh, tàu đươc trang bị hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C (hoạt động trên băng tần X) dùng để kết nối với vệ tinh SUPERBIRD B2, NORQ-1 (hoạt động trên băng tần Ku) và AN/USC-42 kết nối với UHF-SATCOM của Quân đội Liên bang Mỹ. Các hệ thông này giúp kết nối tất cả các đơn vị thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và đồng minh tới từng thiết bị quân sự. Cho phép tàu lớp Atago có thể trao đổi với các tàu chiến khác cũng như các máy bay chiến đấu và các lực lượng mặt đất của JSDF các dữ liệu dạng hình ảnh, tọa độ mục tiêu và tin nhắn dạng văn bản ở cấp chiến thuật trong thời gian gần với thời gian thực. Ngoài link-16, Atago còn được tích hợp hệ thống phối hợp trong tác chiến (CEC) của Mỹ. CEC trên tàu kết hợp với máy bay cảnh báo sớm trên không AWACS E-2D Hawkeye của Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) cho phép chia sẻ dữ liệu cảm biến để dẫn đường cho tên lửa. E-2D có thể cung cấp dữ liệu mục tiêu cho tên lửa SM-2/SM-3 phóng đi từ tàu để tấn công các mục tiêu bên ngoài tầm của radar trên chiến hạm. Ngoài ra, CEC còn cho phép các tàu lớp Atago phối hợp với các tàu chiến và máy bay của Quân đội liên bang Mỹ. Tên lửa và ngư lôi. Tên lửa phòng không RIM-66M-5 Standard SM-2ER Block IIIB/RIM-161 Standard SM-3 Block IA ABM. Tàu khu trục lớp Atago được lắp đặt hệ thống phóng thẳng đứng VLS Mk-41 mod 20 với 64 hệ thống phóng ở phía trước và 32 ở phía sau. Trong tác chiến phòng không, tàu trang bị tên lửa phòng không tầm xa RIM-66M-5 Standard SM-2ER Block 3B tầm bắn từ 74–170 km, tầm cao 24 km, tốc độ hành trình Mach 3,5, lắp đầu đạn phân mảnh MK-115. RIM-66M-5 Standard SM-2ER Block IIIB do Tập đoàn Raytheon (Mỹ) nghiên cứu phát triển và đưa vào sử dụng trong những năm 1990. RIM-66M-5 được trang bị một động cơ phụ tăng cường lực đẩy Mk-72 ứng dụng hệ thống kiểm soát lực đẩy vector để điều chỉnh đường bay và không có vây ổn định. Tên lửa SM-2ER Block 3B được dẫn đường qua 3 giai đoạn, giai đoạn bằng quán tính, giai đoạn giữa thông qua radar AN/SPY-1D (V), giai đoạn cuối dẫn bằng radar bán chủ động. Mỗi quả tên lửa SM-2ER Block 3B có giá khoảng 3 triệu đô la. Khi thực hiện nhiệm vụ chống tên lửa đạn đạo tầm trung, tàu sẽ sử dụng tên lửa đánh chặn RIM-161 Standard SM-3 Block 1A ABM. Tên lửa đánh chặn SM-3 được phát triển dựa trên SM-2 Block IV (RIM-156), tên lửa nặng 1,5 tấn, dài 6,55m, đường kính thân 0,34m, sải cánh 1,57m. SM-3 được thiết kế với 3 tầng động cơ đẩy nhiên liệu rắn cho phép đạt tốc độ đánh chặn 9.600 km/h (gấp gần 8 lần vận tốc âm thanh), tầm bắn trên 500 km, độ cao bay 160 km. Mỗi quả SM-3 Block 1А có đơn giá 9,5-10 triệu đô la. Ngày 21 tháng 2 năm 2008, sau quá trình chuẩn bị, tàu tuần dương USS Lake Erie của Hải quân Liên bang Mỹ đã sử dụng tên lửa SM-3 Block 1А để đánh chặn và phá hủy vệ tinh mất điều khiển USA-193 trên khoảng cách 275 km. Nguyên lý hoạt động của SM-3 Block 1A là khi hệ thống radar mạng pha AN/SPY-1D (V) phát hiện mục tiêu tên lửa đạn đạo, hệ thống vũ khí Aegis dựa vào các thông số cần thiết (tốc độ mục tiêu, quỹ đạo bay) tính toán một giải pháp đánh chặn. Sau đó, hệ thống sẽ kích hoạt tên lửa đánh chặn SM-3 Block 1A để tiêu diệt mục tiêu. SM-3 Block 1A rời bệ phóng thẳng đứng Mk-41 mod 20 bằng tầng động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn Mk-72 4 loa phụt. Giai đoạn này tên lửa chủ yếu được dẫn đường bằng hệ thống định vị quán tính. Khi cháy hết nhiên liệu, tên lửa sẽ tách tầng khởi tốc Mk-72 và kích hoạt động cơ tăng tốc – hành trình 2 chế độ Mk-104. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng thông qua radar AN/SPY-1D (V) trên tàu phóng với sự hỗ trợ của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Sau khi tách tầng đẩy Mk-104, tầng 3 động cơ đẩy tăng cường Mk-136 (cháy trong 30 giây) sẽ được kích hoạt và đưa tên lửa vượt ra ngoài tầng khí quyển. Мk-136 là động cơ nhiên liệu rắn 2 lần khởi động do Công ty Alliant Techsystems (ATK) chế tạo. Nó được nạp 2 liều phóng rắn ngăn cách bởi hệ thống barier, kết cấu của nó làm bằng các vật liệu composite epoxy grafit và carbon-carbon. Để ổn định và định hướng tầng 3 tên lửa khi bay tự hoạt trong thành phần động cơ có hệ thống điều khiển tích hợp sử dụng gas lạnh làm thể công tác. Khi tên lửa tách tầng đẩy Mk-136, thì kết cấu tầng tự dẫn LEAP (Lightweight Exo-Atmospheric Projectile) nặng 23 kg được kích hoạt. Tầng tự dẫn LEAP sẽ tự động tìm kiếm mục tiêu thông qua các dữ liệu từ hệ thống chiến đấu Aegis trên tàu phóng tên lửa. LEAP dùng một cảm biến hồng ngoại kết hợp radar bán chủ động để xác định mục tiêu. LEAP có thể phân biệt được đâu là đầu đạn tên lửa, đâu là mảnh vụn tách ra từ tầng đẩy tên lửa. Trong module LEAP tích hợp đầu đạn động năng (dùng động lực để phá hủy mục tiêu thay vì thuốc nổ). Theo tính toán, động năng của vụ va chạm có thể đạt 130 Jun (tương đương với 31 kg thuốc nổ TNT) đủ khả năng phá hủy mục tiêu tên lửa đạn đạo. Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL ASROC. Để chống ngầm, Atago mang theo tên lửa chống ngầm RUM-139 VL ASROC.Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC được Tập đoàn Lockheed Martin (Mỹ) phát triển vào năm 1983 và chính thức chấp nhận đưa vào trang bị năm 1993. Cấu tạo của RUM-139 tương tự các họ tên lửa chống ngầm của Liên Xô.  Nó gồm hai tầng động cơ phản lực nhiên liệu rắn, động cơ tầng thứ nhất là động cơ tăng tốc lấy độ cao, động cơ tầng thứ hai là động cơ hành trình nhiên liệu rắn. RUM-139 VL ASROC có chiều dài 4,5m, đường kính thân 0,38m, trọng lượng 820 kg và đạt tầm bắn 28 km. Tên lửa mang một quả ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Mk-46. Khi có thông tin phát hiện tọa độ khu vực hoạt động của tàu ngầm đối phương từ hệ thống radar, các thông tin, dữ liệu về tọa độ mục tiêu, quỹ đạo đường đạn sẽ được truyền tải đến hệ thống máy tính điều khiển của tàu. Từ bàn điều khiển, các binh sĩ sẽ tiến hành triển khai các hoạt động chuẩn bị tên lửa, nạp dữ liệu mục tiêu vào bộ nhớ máy tính tên lửa và phóng tên lửa. Hệ thống dẫn đường quán tính được sử dụng khi bay tiếp cận vị trí của mục tiêu trong cơ sở dữ liệu  Ở một vị trí định sẵn trên quỹ đạo đường bay, ngư lôi sẽ tự tách khỏi tên lửa và rơi xuống biển bằng dù hãm, việc này sẽ giúp giảm thiểu tối đa âm thanh khi rơi xuống nước. Sau khi cắt dù, ngư lôi tự kích hoạt bộ phận tự dẫn để thực hiện hoạt động tìm kiếm và tấn công mục tiêu. Điểm mạnh của tên lửa này là sử dụng tốc độ cao của tên lửa để nhanh chóng tiêu diệt tàu ngầm khi nó bị phát hiện. RUM-139 VL ASROC thường sử dụng cơ chế bắn loạt nhiều tên lửa về phía khu vực có tàu ngầm nên xác suất tiêu diệt mục tiêu rất cao. Ngoài ra, nó cũng có khả năng tự hủy sau một thời gian nếu tìm không thấy mục tiêu. Ngư lôi hạng nhẹ Mk-46. Tàu còn có sự hỗ trợ của 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm HOS-302 sử dụng ngư lôi Mk-46. Hệ thống phóng được thiết kế có khả năng xoay, điều hướng và bắn từ xa (riêng việc bắn có thể thực hiện tại chỗ bằng tay) nhắm tới mục tiêu cần diệt. Các ống phóng được làm từ vật liệu sợi thủy tinh hoặc kim loại, bên trong ống được bọc một lớp sợi thủy tinh để có thể bảo quản ngư lôi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Nhật Bản. Ngoài ra, tàu cũng có thể sử dụng các loại ngư lôi khác như Mk-50, Mk-54 hay loại Type 73 (tương đương Mk-46) do Nhật tự phát triển. Chương trình chế tạo ngư lôi Mk-46 được bắt đầu vào năm 1960 nhằm thay thế cho ngư lôi Mk-44 đã lạc hậu. Ngư lôi Mk-46 chính thức được đưa vào trang bị năm 1967. Ngư lôi Mk-46 có vỏ làm bằng hợp kim nhôm, chiều dài 2,591m, đường kính 0,324m, trọng lượng 230,4 kg, vận tốc hành trình 45 hải lý (83,4 km/h) tầm bắn 11 km, khả năng lặn sâu 455m, hệ thống dẫn đường thủy âm chủ động - thụ động, đầu đạn nổ phá PBXN-103 43,1 kg, đầu nổ tiếp xúc, động cơ phản lực nước chạy điện giúp giảm tối đa độ ồn. Nguồn năng lượng được cung cấp bởi hệ thống ắc quy điện kẽm - bạc (cung cấp năng lượng cho động cơ điện công suất 35 mã lực). Mk-46 được trang bị 2 chân vịt quay ngược nhau. Ngư lôi Mk-46 được phóng không tái nạp bằng cách nén không khí trong 2 bộ chứa thuốc súng phía sau. Sau khi phóng, ngư lôi được thả bằng dù và bắn sau khi lao xuống nước. Sau đó, Mk-46 bắt đầu tìm kiếm mục tiêu và cơ động theo đường ốc xoắn. Hệ thống dẫn đường có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 595m. Sau khi phát hiện mục tiêu, ngư lôi bắt đầu lao đến mục tiêu với vận tốc rất nhanh. Trong trường hợp tấn công không thành công, hệ thống dẫn đường cho phép tiến hành tấn công lại. Tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90. Bên cạnh các vũ khí đối không, để tấn công chiến hạm đối phương, Atago được được trang bị 2 bệ, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản dùng cho tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90. Bệ phóng được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau. Do được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau, hệ thống phóng rất cồng kềnh, tốn nhiều diện tích trên tàu. Khi phóng tên lửa, tàu phải xoay ngang làm tăng độ bộc lộ trước đối phương và mỗi lần chỉ phóng được 50% cơ số tên lửa SSM-1B Type 90 mang theo. SSM-1B Type 90 được MHI phát triển vào năm 1988 và được đưa vào trang bị năm 1992. Type 90 là phiên bản trên hạm của hệ thống phòng thủ bờ biển Type-88. Type 90 có thiết kế khí động học pha trộn giữa tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon của Mỹ và Exocet của Pháp. Tên lửa có 4 vây ổn định lớn hình tam giác ở gần giữa thân hơi xích ra phía sau (sải cánh này lớn hơn so với Harpoon và Exocet) cùng 4 vây lái nhỏ hình tam giác ở đuôi tên lửa. Type 90 có chiều dài 5,1m, đường kính 0,35m, sải cánh 1,19m, trọng lượng phóng 660 kg. Tên lửa có tầm bắn 200 km mang theo đầu đạn nặng 225 kg, tốc độ hành trình của tên lửa khoảng 1.150 km/h. Khi tác chiến, tên lửa được đưa ra khỏi ống phóng bằng một động cơ tăng cường nhiên liệu rắn. Sau khi động cơ tăng cường cháy hết, động cơ phản lực Mitsubishi TJM-2 sẽ được kích hoạt để đưa tên lửa hành trình đến mục tiêu. Để có độ linh hoạt cao và tăng khả năng sống sót cho tên lửa hệ thống đẩy vectơ đã được tích hợp vào. Tên lửa được dẫn hướng kết hợp quán tính ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa, giai đoạn cuối tên lửa sử dụng radar chủ động để tìm và xác định mục tiêu. Nếu không tìm thấy mục tiêu trong một khoảng thời gian tên lửa sẽ tự hủy hay nhận lệnh tự hủy từ bên ngoài. Type-90 có thể bay lướt mặt biển ở độ cao cực thấp và có khả năng bay vòng qua vật cản để đến vị trí mục tiêu. Khi bay ở giai đoạn kiểm tra cảnh giới, nó bay cách mặt biển 15m, ở giai đoạn cuối khi tiếp cận mục tiêu, nó chỉ cách mặt biển 2-3m, việc bay quá thấp như vậy hoàn toàn ‘làm mù" hệ thống radar cảnh giới của đối phương. Đầu nổ của đầu đạn Type 90 là loại "bán xuyên giáp". Trước tiên, dựa vào năng lượng vận động khi bay, đầu đạn có thể xuyên thủng mạn tàu đối phương, ngòi đầu nổ tên lửa có thể xuyên thủng mạn tàu địch, sau mấy giây xuyên vào trong tàu, ngòi đầu nổ tên lửa lại dẫn nổ, từ đó làm nổ tung đầu đạn có chứa lượng thuốc nổ cực mạnh ngay trong thân tàu, cộng với lượng chất đốt vẫn chưa cháy hết của tên lửa cùng tung ra theo tiến nổ, khiến cả khoang tàu bốc cháy, làm tàu địch bị phá hủy nặng nề. Đường kính lỗ đạn phá có thể rộng đến 10m. Loại tên lửa này có thể hoạt động trọng mọi điều kiện thời tiết và có khả năng chống nhiễu cao, nếu nó thấy bị nhiễu thì hệ thống điện tử sẽ thực hiện các bước chống nhiễu và nếu thấy không hiệu quả nó sẽ chuyển chế độ ra đa từ chủ động sang bị động dò nguồn gây nhiễu. Trong chế độ này nó sẽ ưu tiên diệt nguồn gây nhiễu trước để các tên lửa sau có thể dò ra mục tiêu cần diệt. Đầu tự dẫn radar kiểu chủ động có thể tự điều chỉnh đường ngắm trúng vào mục tiêu trong mặt phẳng góc + 30o, dẫn tên lửa vào chỗ tập trung mạnh nhất sóng phản xạ từ vỏ tàu mục tiêu về, thường tạo nên "tâm" bề mặt phản xạ của tàu. Pháo hạm. Pháo hạm 127 mm Mk-45 mod 4. Pháo chính của tàu là pháo hạm 127 mm Mk-45 mod 4 có chiều dài nòng gấp 62 lần đường kính do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Tập đoàn BAE System, Anh. Mk-45 mod 4 là loại pháo hạm tự động nhẹ nhất, nhỏ gọn nhất trên thế giới hiện nay, đồng thời cũng được triển khai rộng rãi nhất với hơn 260 hệ thống cung cấp cho Hải quân Liên bang Mỹ (US Navy) và hải quân hơn 10 nước khác trên toàn thế giới. Pháo có kết cấu góc cạnh giúp giảm đáng kể diện tích phản xạ sóng radar qua đó nâng cao năng lực tàng hình cho tàu. Mk-45 mod 4 có trọng lượng là 28,9 tấn, sử dụng nòng pháo dài 7,87m (tuổi thọ bắn 7.000 phát đạn), tốc độ bắn từ 16 - 20 viên/phút, có tầm bắn hiệu quả trong khoảng từ 45 – 50 km với độ chính cực cao do được trang bị đạn chính xác Excalibur N5 - có khả năng dẫn đường bằng GPS. Theo đó, với đạn tiêu chuẩn thông thường Mk 45 chỉ đạt tầm bắn 15 – 16 km, khiến các tàu chiến JMSDF phải tốn rất nhiều đạn mới có thể tiêu diệt mục tiêu, nhưng khi trang bị Excalibur N5 thì tầm bắn đạt gấp 3 lần, đồng thời giúp tàu chiến tăng diện tích tác chiến từ 370km2 lên thành 3.704km2.  Tốc độ bắn nhanh cùng với khả năng bắn nhiều loại đạn đặc biệt khiến Mk-45 mod 4 thích hợp với nhiều vai trò như tấn công tàu chiến đối phương trên mặt nước, phòng không và pháo kích bờ biển yểm trợ cho chiến dịch đổ bộ, tấn công nhanh. Mk-45 mod 4 có thể bắn được bốn loại đạn khác nhau bao gồm loại xuyên giáp, gây cháy, văng mảnh trực tiếp và thậm chí có thể được dẫn đường để phá hủy các tên lửa chống hạm. Theo đó, MK-45 được trang bị 4 ống tiếp đạn và được điều khiển hoàn toàn tự động bằng hệ thống máy tính tốc độ cao. Mỗi ống tiếp đạn chứa tối đa 14 quả đạn luôn ở chế độ sẵn sàng khai hỏa. Ngoài ra, pháo còn có thể được nạp đạn thêm trong khi nòng pháo vẫn đang bắn, thời gian nạp đạn giữa mỗi lần bắn chưa tới 1 phút. Quá trình ngắm bắn và điều chỉnh góc tà nòng pháo được điều khiển thông qua các hệ thống điện tử tự động, trong khi hệ thống nạp đạn được điều khiển thủy lực. Khoang chứa đạn của pháo có thể mang theo tới 680 đạn pháo cho phép tác chiến trong thời gian dài. Hệ thống phòng không tầm gần (CIWS) Mk-15 Phalanx. Hoả lực phòng không tầm gần (CIWS) của tàu là hệ thống Mk-15 Phalanx Block1B. Mk-15 Phalanx là hệ thống khép kín tích hợp bao gồm pháo, đạn và radar lắp trên 1 bệ duy nhất. Hệ thống được Chi nhánh Pomona thuộc Công ty General Dynamics (nay thuộc Tập đoàn Raytheon) phát triển vào cuối những năm 1960. Hệ thống thử nghiệm lần đầu vào năm 1973, bắt đầu sản xuất hàng loạt năm 1978, đến năm 1980 được đưa vào trang bị. Hệ thống Phalanx gồm pháo 6 nòng bắn nhanh Gatling M61A1 Vulcan cỡ nòng 20mm cùng một radar hoạt động trên băng tầng K. Trong điều kiện chiến đấu, radar sẽ rà soát bầu trời, xác định các mục tiêu và lọc ra mục tiêu nguy hiểm nhất. Sau khi xác định được mục tiêu, radar điều khiển hỏa lực sẽ tính toán chính xác vị trí của địch để pháo 6 nòng Gatling M61A1 Vulcan khai hỏa. Radar của hệ thống Phalanx CIWS được chế tạo theo công nghệ chỉ điểm khép kín, có khả năng phát hiện máy bay từ cự ly 18 km, tên lửa hành trình có diện tích phản xạ radar 0,1 m² từ khoảng cách 12 km và bám bắt trong tầm 5 km. Pháo Gatling M61A1 Vulcan được điều khiển bằng điện, tốc độ bắn rất cao, lên đến 4.500 viên/phút, tầm hiệu quả đạt 1.000 - 1.500 m, trong khi tầm bắn tối đa là 3.000 m. Gatling M61A1 Vulcan bắn rất nhanh nên pháo cũng rất nhanh hết đạn, việc nạp đạn phải làm bằng tay, sẽ cần 2 người để thay đạn, mỗi lần thay mất khoảng 5 phút. Hai hộp tiếp đạn bố trí bên hông pháo có sức chứa 500 viên mỗi hộp, tùy theo mục tiêu đường không hay mặt đất mà pháo sẽ bắn ra đạn nổ mảnh hoặc xuyên giáp (thông thường 1 hộp tiếp đạn chứa đạn nổ mảnh trong khi hộp còn lại mang đạn xuyên giáp). Đạn xuyên giáp vỏ tự huỷ (APDS) 20 mm của Mk-15 sử dụng đầu xuyên 15 mm bằng kim loại nặng (wolfram hoặc uran nghèo) được bao quanh bằng một guốc đạn plastic và một phần đáy kim loại nhẹ. Vỏ đạn sau khi bắn sẽ được đẩy ra từ phần dưới của bệ pháo theo hướng về phía trước. Khi lọt vào tầm bắn của Phalanx CIWS, mọi mục tiêu - từ máy bay, tên lửa, bom hay đạn pháo - đều không thể thoát. Hoạt động hoàn toàn tự động dưới sự giám sát của con người, Phalanx CIWS có thể tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 3,6 km. Trong một số điều kiện tác chiến, hệ thống Phalanx CIWS còn có thể bắn hạ các mục tiêu trên mặt nước, bao gồm các chiến hạm của đối phương. Trực thăng săn ngầm. Trong giai đoạn phát triển, các kỹ sư của JMSDF đã kết hợp kiểu sàn đáp trực thăng của lớp tàu Hatakaze và hệ thống hỗ trợ liên kết dữ liệu trực thăng của lớp Kongo vào thiết kế của lớp tàu khu trục mới. Atago là lớp tàu khu trục tên lửa đầu tiên của JMSDF có nhà chứa trực thăng và có khả năng chở một trực thăng tuần tra SH-60J hoặc SH-60K, đồng thời tàu còn được trang bị hệ thống định vị đường không chiến thuật ORN-6 (TACAN). Trong giai đoạn lập kế hoạch, các tàu Atago dự kiến cho phép mang theo 2 trực thăng như các tàu lớp Arleigh Burke IIA, nhưng ở giai đoạn thiết kế chi tiết, để đảm bảo diện tích cho các khu vực kỹ thuật liên quan như khoang bảo dưỡng, kho đạn và linh kiện dự trữ, nên thực tế thường chỉ có 1 máy bay được mang theo trong các chuyến hải trình. Sàn đáp của tàu có chiều dài 25 m và được tích hợp hệ thống hỗ trợ cất/hạ cánh trực thăng. SH-60K Sea Hawk được Mitsubishi Heavy Industries chế tạo dựa trên cơ sở SH-60J. SH-60K chính thức được đưa vào hoạt động trong biên chế của JMSDF vào tháng 8 năm 2005. Đến năm 2020, đã có 68 chiếc SH-60K được xuất xưởng. SH-60K có thể bay cách tàu mẹ đến 100 dặm và duy trì trên căn cứ trong vài giờ. Việc liên lạc giữa SH-60K và tàu mẹ được thực hiện bởi hệ thống liên kết dữ liệu ORQ-1C-2 (TACLINK). Máy bay có thể thực hiện các nhiệm vụ cảnh giới, tìm kiếm và cứu hộ, chỉ thị mục tiêu cho tên lửa, chiến đấu chống hạm, chống ngầm và tác chiến đột kích trong mọi thời tiết. SH-60K được trang bị sonar nhúng HQS-104, radar mảng pha quét chủ động HPS-104 và hệ thống tác chiến điện tử HLR-108. Bốn mấu cứng của máy bay có thể gắn ngư lôi hạng nhẹ Type 97, bom chống ngầm và tên lửa không đối hải AGM-114M Hellfire II"." Ngoài ra, SH-60K còn được trang bị một súng đại liên 7,62mm Type 74. SH-60K có cánh quạt chính và cánh quạt đuôi bốn lá được chế tạo bằng composite, riêng mép trước và phần đầu của cánh quạt chính sử dụng sợi Kevlar. 2 động cơ dẫn động trục Ishikawa-Harima T700-IHI-402C (sản xuất theo giấy phép của General Electric) công suất 3.400 mã lực được lắp cạnh nhau trên đỉnh cabin với một ống hút không khí ở cạnh bệ quạt và các lỗ thoát khí ở phía sau bệ. Máy bay có tầm bay xa tới hơn 800 km, tốc độ tối đa 240 km/h. Các thùng nhiên liệu bên trong của SH-60K chứa được 2.250 lít. Máy bay có thể dùng được hệ thống tiếp nhiên liệu trên không. SH-60K có thể mang trên 1.800 kg hàng bên trong. Các móc hàng bên ngoài có thể mang lượng hàng lên tới 2.725 kg"." Hệ thống động lực. Tàu khu trục lớp Atago được trang bị hệ thống động lực kết hợp tuabin khí COGAG (tức là kiểu hệ thống động cơ kết hợp 2 tuabin khí để quay một chân vịt) bao gồm: 4 động cơ tuabin khí Ishikawajima Harima LM2500 (sản xuất theo giấy phép của General Electric) 25.000 mã lực và 3 máy phát điện tuabin khí công suất 2.080 kW. Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt 5 lá cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 100.000 mã lực. Sự kết hợp này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng. 4 động cơ tuabin khí của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 30 hải lý/h (56 km/h) phạm vi hoạt động 6.000 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý/h, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển. Hệ thống động lực COGAG có thời gian hoạt động tới 30.000 giờ trước khi cần đại tu. Để đảm bảo cho các động cơ này hoạt động hiệu quả, những binh sĩ kỹ thuật thuộc JMSDF làm việc dưới khoang máy của tàu phải luôn túc trực 24/24 không lúc nào ngơi việc dù toàn bộ hệ thống trên tàu đều được điều khiển, kiểm soát và giám sát một cách hoàn toàn tự động.Làm việc trong môi trường có tiếng ồn lớn yêu cầu những binh sĩ JMSDF làm việc trong phòng máy trên tàu luôn phải mang theo nút bịt tay để tránh thính giác của mình bị ảnh hưởng, tuy nhiên nút bịt tay này cũng chỉ hạn chế được phần nào tiếng ồn, sau một thời gian dài làm việc trong phòng máy trên tàu phần lớn các binh sĩ đểu bị "nghễnh ngãng" dần dần. Hầu hết trang thiết bị trên tàu kể cả trong khoang máy cũng đều được tự động hóa và điều khiển qua máy tính hoàn toàn. Hệ thống giám sát sẽ theo dõi sát sao các thông số của hệ thống động cơ, đưa ra các cảnh báo kịp thời để các binh sĩ khắc phục, trong trường hợp một trong các động cơ gặp sự cố, bộ ly hợp cho phép ngắt hoạt động của động cơ để tiến hành sửa chữa mà không ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của tàu. Dù được tự động hóa khá nhiều, tuy nhiên công việc chính của những binh sĩ kỹ thuật lại là bảo dưỡng các thiết bị trên tàu để đảm bảo chúng hoạt động với hiệu suất cao nhất. Với một hệ thống lớn tới 4 động cơ và 30 tuabin khí, các binh sĩ kỹ thuật phục vụ trong khoang máy trên các tàu khu trục lớp Atago thường ít khi được ngơi tay. Bảo dưỡng các chi tiết nhỏ là công việc khó khăn hơn cả dù không cần phải chui rúc vào những góc nóng nực chật hẹp của khoang máy nhưng các binh bĩ kỹ thuật lại phải đảm bảo được độ chính xác cao và yêu cầu thêm cả sự khéo léo nữa. Các chi tiết nhỏ trên tàu có thể là các hệ thống cảm biến, các hệ thống chíp điều khiển của các thiết bị máy tính.
1
null
Vườn quốc gia biển Abrolhos (tiếng Bồ Đào Nha: "Parque Nacional Marinho dos Abrolhos") là một khu bảo tồn biển nằm ở phía nam của tiểu bang Bahia, đông bắc Brasil. Vườn quốc gia này bao gồm diện tích khu vực thiên nhiên xung quanh 5 hòn đảo của quần đảo Abrolhos với các rạn san hô được thành lập từ năm 1983. Abrolhos bảo vệ khu vực diện tích 50 km ², (nếu bao gồm các vùng biển là 688 km ² và cả vùng đệm là 913 km ²) từ giữa 17 º 25'-18 º 09 'S và 38 º 33'-39 º 05' W. Các rạn san hô cùng các đảo là nơi cư trú của hệ động thực vật vô cùng phong phú bao gồm các loài chim biển, cá voi, rùa biển và nhiều loài động thực vật khác. Đặc biệt, khu vực này mỗi năm có ít nhất một ngàn con cá voi lưng gù di chuyển tới đây từ Nam Cực và chúng sinh sống ở đây trong vài tháng kế tiếp. Vì vậy, nơi đây thu hút nhiều khách du lịch nhờ động vật di cư này, cùng với các điều kiện tuyệt vời cho việc lặn khám phá rạn san hô. Tuy nhiên, quần đảo này không có cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch vì việc nơi đây được bảo vệ như một công viên thiên nhiên cấm (ngoại lệ duy nhất là đảo Santa Barbara (với sự có mặt của hải quân Brasil). Vì vậy, khách du lịch tới Abrolhos sẽ được đưa ra bằng các tàu hải quân. Đoàn thám hiểm khoa học đầu tiên đặt chân đến Abrolhos là tàu HMS Beagle vào năm 1832, với sự có mặt của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin.
1
null
Vườn quốc gia Amazônia () được thành lập năm 1974 là một vườn quốc gia có diện tích 1.070.737 hecta. Nó nằm trong các khu đô thị Itaituba và Trairão thuộc tiểu bang Pará, phía bắc Brasil. Vườn quốc gia nằm ở thượng nguồn của sông Tapajós, khoảng giữa hai đô thị Manaus và Belém. Nó được mở rộng đáng kể từ khi được thành lập và hiện có . Đây là một môi trường sống đa dạng sinh học và là nhà của nhiều loài động thực vật. Mục tiêu cụ thể của nó là bảo tồn các hệ sinh thái khác nhau của rừng Amazon thông qua nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí. Mô tả. Vườn quốc gia có nhiều những thác nước, bãi biển, bãi cát, các con lạch, đá ngầm và núi (có núi Tapajos Rio) tạo ra cảnh quan thiên nhiên đa dạng. Nơi đây bảo vệ khu vực sinh thái rừng nhiệt đới ẩm ướt của Amazon với khí hậu nóng, ẩm ướt quanh năm. Chỉ có 1 - 2 tháng trong năm, vườn quốc gia có khí hậu khô. Hệ thực vật trong vườn quốc gia vô cùng phong phú bao gồm nhiều cây lớn tán cao cùng các loài dây leo, rêu, địa y, và các loài hoa phong lan. Động vật thì bao gồm rái cá, lợn biển và thú ăn kiến khổng lồ, bên cạnh các loài bò sát và nhiều loài cá đặc hữu.
1
null
Quý tôn Cường (chữ Hán: 季孫强, ?-?) tức Quý Chiêu tử (季昭子), là vị tông chủ thứ 8 của Quý tôn thị, một trong Tam Hoàn của nước Lỗ dưới thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là Cơ Cường, con của Quý tôn Phì, thủ lĩnh thứ 7 của họ Quý. Năm 467 TCN, Quý tôn Phì mất, Quý tôn Cường thế tập. Sau không rõ Quý tôn Cường mất năm nào. Sau khi ông mất, con ông là Phí Huệ công thế tập.
1
null
Yên Thành công (chữ Hán: 燕成公; trị vì: 455 TCN-439 TCN), tên là Cơ Tái (姬載), là vị vua thứ 32 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Không rõ thân thế của ông. Năm 455 TCN, vua thứ 31 nước Yên là Yên Hiếu công mất, Cơ Tái lên nối ngôi, tức Yên Thành công. Sử sách không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi. Năm 439 TCN, Yên Thành công mất. Ông ở ngôi 17 năm. Yên Mẫn công nối ngôi. Theo ghi chép trong Trúc thư kỉ niên, ông ở ngôi từ 464 TCN đến 450 TCN.
1
null
Cơ Hòa (chữ Hán: 姬和) có thể là một trong những vua chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc: Yên hầu Hòa là người có họ xa với Chu Văn Vương, còn Vệ Vũ công là con cháu thuộc huyết thống Chu Văn Vương, thuộc thế hệ thứ 10.
1
null
Rừng Tijuca (tiếng Bồ Đào Nha: "Floresta da Tijuca") là một khu rừng mưa nhiệt đới nằm ở vùng núi thành phố Rio de Janeiro, Brasil. Đây là vườn quốc gia có diện tích nhỏ nhất tại Brasil nhưng lại là khu rừng đô thị lớn nhất thế giới với diện tích 32 km ² (12,4 mi ²), mặc dù nhiều nguồn gán danh hiệu này cho khu rừng đô thị của thành phố Johannesburg, Nam Phi, nơi có từ 6 đến 9,5 triệu cây xanh được trồng. Vị trí. Tijuca trong ngôn ngữ Tupi có nghĩa là "đầm lầy", liên quan đến vùng đầm phá Tijuca ở Barra da Tijuca. Các ngọn núi sau đó cũng được gọi là Tijuca, cũng như các khu vực rừng lân cận của nó. Khu rừng là ranh giới tự nhiên phân cách khu phía Tây của thành phố từ miền Nam, miền Trung và miền Bắc, và vùng Bắc Nam. Tijuca đóng một vai trò quan trọng đối với thành phố, vì nó ngăn chặn sự xói mòn của các sườn núi dốc, ngăn chặn lũ lụt, sạt lở đất, làm giảm ô nhiễm không khí, duy trì nguồn nước cung cấp cho thành phố, góp phần tái thiết và chất lượng cuộc sống cho dân cư, ngoài ra là giúp giữ gìn cảnh quan và quảng bá du lịch. Đây cũng là nơi sinh sống của hàng trăm loài thực vật và động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng, chỉ tìm thấy ở vùng rừng mưa nhiệt đới Đại Tây Dương. Sau khi tất cả các cánh rừng nguyên sinh đã bị phá hủy để xây dựng các trang trại cà phê, Tijuca đã được trồng lại trong nửa cuối thế kỷ 19 trong một nỗ lực bảo vệ nguồn cung cấp nước cho thành phố Rio. Năm 1961, rừng Tijuca đã được tuyên bố là một vườn quốc gia và năm 1991, nơi đây được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Nơi đây có nhiều điểm tham quan thú vị, đặc biệt là tác phẩm điêu khắc khổng lồ bức tượng chúa cứu sinh trên đỉnh núi Corcovado. Các điểm tham quan khác bao gồm các thác nước Cascatinha; Chapel Mayrink với những bức tranh tường vẽ bởi Cândido Portinari, chùa Vista Chinesa; và khối đá granite khổng lồ "Mesa do Imperador". Trong số các đỉnh núi trong vườn quốc gia, ấn tượng là đỉnh Pedra da Gávea. Trong vườn quốc gia, có thị trấn Mata Machado được hình thành do những người dân di cư trong những năm 1930. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng hiện nay, thị trấn này chính là một trong những nguyên nhân làm suy giảm cánh rừng tại đây.
1
null
Trận Verdun lần thứ hai là một chiến dịch tấn công của quân đội Pháp trên Mặt trận phía tây thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra từ ngày 20 tháng 8 cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1917, gần Verdun, nước Pháp. Trong trận đánh này, Tập đoàn quân số 2 của Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Louis Guillaumat đã làm nên được những bước tiến quan trọng, giành lại những vị trí quan trọng như Đồi 304 và Mort-Homme từ tay Tập đoàn quân số 5 của Đế quốc Đức dưới quyền chỉ huy của Thái tử Wilhelm. Mặc dù phía Pháp chịu thiệt hại không nhỏ trong chiến dịch này, họ đã thu được một số lượng tù binh và khí giới đáng kể từ tay quân đội Đức. Với các chiến thắng tại Verdun và La Malmaison vào cuối năm 1917, Thống chế Pháp Philippe Pétain đã chứng tỏ hiệu quả của đường lối phát động những cuộc tấn công hạn chế với mục tiêu hạn chế, cũng như thành công của Pétain trong việc chỉnh đốn tình hình quân ngũ Pháp kể từ sau thất bại nặng nề của Chiến dịch tấn công Chemin des Dames. Ngay từ cuối tháng 5 năm 1917, Pétain đã thông báo với Thống chế Douglas Haig của Anh rằng ông ta sẽ phát động một đợt tấn công tại Verdun vào giữa tháng 7 năm 1917, nhằm hỗ trợ cho chiến dịch tấn công của quân đội Anh tại vùng Flanders. Đợt tấn công tại Verdun cũng sẽ giúp cho người Pháp giành lại một khu vực đã bị mất trong Chiến dịch tấn công Verdun của người Đức năm 1916 ở sườn trái của họ, qua đó cải thiện tình hình của quân Pháp. Tuy nhiên, do tinh thần quân lực Pháp đang suy sụp kể từ sau thất bại tại Chemin des Dames, và do một số cuộc phản công thắng lợi của các lực lượng Đức tại Verdun vào giữa năm 1917, cuộc tấn công của Pháp đã bị đình hoãn cho đến khi quân Pháp bắt đầu tiến hành pháo kích từ ngày 11 tháng 8. Hàng triệu quả đạn pháo đã được bắn vào các vị trí phòng ngự của Đức, Guillaumat giao nhiệm vụ tấn công cho 4 quân đoàn của ông. Vào ngày 20 tháng 8, 8 sư đoàn của Pháp đã tiến công từ rừng Avocourt về phía tây tới Bezonvaux về phía đông, trên một mặt trận dài 24 km. Mặc dù Quân đoàn XIII của Pháp thất bại trong cuộc tấn công vào Đồi 304 từ bờ tây sông Meuse, quân Pháp dưới sự yểm trợ của pháo binh đã nhanh chóng đạt được mọi mục tiêu của mình trong ngày đầu. Lực lượng pháo binh Pháp cũng yểm trợ cho bộ binh bẻ gãy một số cuộc phản công của quân Đức. Hôm sau (24 tháng 8), quân đội Pháp cũng chiếm được Samogneux và Regneville. Tuy gặp nhiều khó khăn, quân Pháp đã giành được Đồi 304. Vào ngày 26 tháng 8, quân Pháp lại tiến công từ trận địa pháo Mormont tới rừng Chaume, và tiến đến tận ngoại ô phía nam của Beaumont. Vào đầu tháng 9, quân Pháp tiếp tục phát động những cuộc tấn công hạn chế của mình, với sự tham gia của cả hai quân đoàn ở bờ đông sông Meuse và với sự chấp thuận của Pétain. Vào ngày 7 tháng 9, một đợt tấn công của Quân XV bị đẩy lùi, tuy nhiên vào ngày 8 tháng 9, Quân đoàn XXXII đã tấn công thắng lợi, mặc dù bị đánh thiệt hại nặng. Sau khi được sự tán đồng của tướng Émille Fayolle, Guillaumat tiếp tục tấn công và gặt hái thắng lợi. Mặc dù không chiếm được vị trí quan sát cuối cùng mà người Đức có thể nhìn thấy Verdun, Guillaumat đã thu được một số chiến hào đặc biệt quan trọng đối với hệ thống phòng ngự của Tập đoàn quân số 2. Tuy vậy, những cú thọc tiếp theo đã vấp phải các đợt phản kích mãnh liệt và hỏa lực pháo binh ác liệt của quân Đức. Do đó, Pétain quyết định chấm dứt tấn công, trước khi quân đội Đức có thể tập trung lực lượng trừ bị và pháo binh của mình. Sau chiến dịch tấn công Verdun, quân đội Pháp không mở một đợt tấn công lớn nào khác cho đến tháng 10.
1
null
Lý Chánh Trung (1928 – 13 tháng 3 năm 2016) là một nhân sĩ và chính khách dân tộc chủ nghĩa thuộc thành phần thứ ba. Ông nguyên là Giám đốc Nha Trung học Công Lập dưới thời Việt Nam Cộng hòa, nguyên là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Đại biểu Quốc hội ba khóa VI, VII, VIII. Tiểu sử. Giáo sư Lý Chánh Trung sinh năm 1928 tại Trà Vinh. Ông theo đạo Công giáo vào khoảng năm 1949 Năm 1950, ông sang Bỉ học tại Đại học Louvain, một đại học Công giáo, cách thủ đô Brussells khoảng 30 cây số. Lý Chánh Trung học rất thông minh, tuy nhiên vào năm 1956 khi mới lấy xong Cử nhân Tâm Lý Học và Cử nhân Chính trị Học, chưa đậu Tiến sĩ, ông về nước. Sự nghiệp. Thời Việt Nam Cộng Hòa. Tuy có trình độ kiến thức cao và vững vàng, tính tình hòa nhã, nhưng bước đường sự nghiệp của Lý Chánh Trung rất lận đận. Ông có người anh là Lý Chánh Đức, làm Giám đốc Nha Học Liệu tại Bộ Quốc gia Giáo dục, đã xin cho ông vào làm Công Cán Ủy viên của Bộ này. Về sau, ông được bổ làm Giám đốc Nha Trung học Công Lập rồi Đổng lý văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục. Ngoài ra, Lý Chánh Trung cũng được mời dạy triết học tại các Viện Đại học Huế và Đà Lạt. Tư tưởng. Theo ông Nguyễn Văn Lục, Lý Chánh Trung theo khuynh hướng 'Cách mạng Xã hội chủ nghĩa không cộng sản', lấy dân tộc làm căn bản. Theo Nguyễn Văn Lục, 'không cộng sản' vì theo ông kinh nghiệm quá khứ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa vệ tinh cho thấy chủ nghĩa cộng sản thì tàn bạo và khắc nghiệt. Còn chế độ tư bản chỉ duy trì cơ cấu bóc lột chuyển từ hình thức thực dân cũ sang thực dân mới. Chỉ có cách mạng xã hội mới lấy được lòng dân. Được hậu thuẫn của dân chúng thì mới có được một chính quyền mạnh, để đối phó được với cộng sản cũng như với Mỹ. Trong cuốn Tìm về dân tộc (Trình Bầy 1967, Nhà xuất bản Trẻ in lại năm 1990), Lý Chánh Trung đã viết: "Quốc gia là giai đoạn cuối cùng của sự hình thành dân tộc. Nhưng quốc gia không phải là dân tộc. Chánh trị học hiện tại thường phân biệt cái "xứ sở hợp pháp" (pays légal) hiểu như tất cả những tổ chức có tính cách đại diện cho dân tộc, và cái "xứ sở thực tế"" (pays réel) hiểu như chính dân tộc đó trong những thành phần sống động và với những nguyện vọng trung thực của nó. Trừ một vài trường hợp đặc biệt, nhưng rất hiếm hoi (như sự nhất trí của vua tôi nhà Trần và các bô lão Việt Nam, tại điện Diên Hồng) thường thì có sự phân cách giữa hai xứ sở. Nói một cách nôm na, Nhà nước nào cũng cho mình đại diện xứng đáng và duy nhứt của nhân dân, nhưng nhân dân ít khi nhìn thấy được mình trong Nhà nước, ít khi nguyện vọng của nhân dân trở thành ý muốn của nhà nước dầu là một nhà nước "dân chủ". Chế độ dân chủ là một bước tiến trong sự đồng hóa hai xứ sở, nhưng nếu sự bình đẳng chánh trị không dựa trên bình đẳng kinh tế xã hội thì chế độ dân chủ chỉ là một trò lừa bịp. Ngay tại những nước dân chủ tân tiến, Nhà nước vẫn còn là Nhà nước của thiểu số". Viết báo. Theo Võ Long Triều, thì Lý Chánh Trung và ông đã từng là bạn ngay từ thời ông Trung còn học ở Bỉ và sau này ở Việt Nam trong hội trí thức Công giáo trở thành bạn thân. Triều chính là người đã khuyến khích ông Trung viết bài cho các báo, ban đầu cho báo Tin Sáng của Ngô Công Đức, sau này cho tờ Điện Tín, rồi báo Đại Dân tộc của ông Triều. Các bài viết rất ăn khách. Theo ông Triều, vì Trung có thời gian viết cho Điện Tín mà không viết cho báo cúa ông, nên ông không còn muốn dính líu với ông Trung nữa. Theo Nguyễn Văn Lục, lối viết của ông Trung "dựa trên sự việc và đượm cảm tính gây ấn tượng và tạo được sức lôi cuốn không nhỏ nơi người đọc". Theo báo "Tuổi Trẻ" dẫn lời Nguyễn Đình Đầu, khoảng năm 1962, giới Công giáo tiến bộ chống chiến tranh tại Sài Gòn có tổ chức ra một tờ báo dành cho giáo dân, tên là "Sống Đạo", do Lý Chánh Trung làm chủ bút, Nguyễn Đình Đầu làm giám đốc, quá trình làm báo này họ liên lạc cả với Dương Văn Minh và với Mặt trận Dân tộc giải phóng. Hai ông đều nằm trong sổ đen của chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng chưa bị bắt bớ gì. Đến năm 1975 thì cả hai người đều thuộc Thành phần thứ ba (những người chống chiến tranh). Cũng theo ông Nguyễn Văn Lục, trên tạp chí "Đất nước", trong bài viết "Nói chuyện với người đã khuất", ngày 21-9-1969, nhân dịp Hồ Chí Minh qua đời, ông viết: "Cho nên tôi không tiếc mà cũng không trách cụ Hồ đã lựa chọn con đường cộng sản. Tôi chỉ khâm phục Cụ đã trung thành tuyệt đối với sự lựa chọn của mình. Tôi không thể đi theo con đường của Cụ, nhưng tôi có thể noi gương Cụ để đi tận cùng con đường của tôi, con đường mà tôi đã lựa chọn trước lương tâm tôi, như Cụ đã làm 50 năm trước. 50 năm trước, với sự thành công của Cách mạng tháng 10, với nhân cách và tài năng vô song của Lê Nin, với cái bầu khí huynh đệ, chí tình, hăng say và tin tưởng trong một đệ Tam Quốc tế vừa thành lập với một điểm tựa vững chắc, chủ nghĩa cộng sản đã hiện ra tước mắt Cụ như là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc và giải phóng con người" . Sau 1975. Sau năm 1975, ông là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội ba khóa VI, VII, VIII. Năm 1990 trong một lần về Cửu Long thăm Đền thờ Bác Hồ, ông đã viết một bài báo đến tay một độc giả người Mỹ tên Kent một lính Mỹ từng được lệnh thủ tiêu đền thờ Hồ Chí Minh. Kent lại lấy ảnh Hồ Chí Minh treo ở phòng làm việc của mình, đã viết báo và gửi thư hồi đáp Lý Chánh Trung, được nhắc lại trong bài phát biểu tham luận của Giáo sư Lý Chánh Trung nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức tại tỉnh Cửu Long (4/1990). Trong tác phẩm "Trường hợp Lý Chánh Trung" của Nguyễn Văn Lục khi còn làm đại biểu Quốc hội, Lý Chánh Trung được sự ủng hộ bà Ngô Bá Thành, một thành viên của Mặt trận Tổ Quốc, có đề nghị phải cho báo chí tư nhân hoạt động. Ngoài ra, khi là Phó chủ tịch Hội Trí thức yêu nước đã đồng ý để cho tổ chức một buổi nói chuyện cho nhà văn Dương Thu Hương nói về cuốn tiểu thuyết "Những Thiên đường mù", bị cho là một cuốn sách chống đảng, do đó ông bị cho là có mưu đồ diễn biến hòa bình, nên không được Mặt trận Tổ Quốc đề cử vào danh sách đại biểu Quốc hội nữa. Vốn là một giáo sư triết, Lý Chánh Trung luôn nhìn vấn đề chính trị Việt Nam dưới lăng kính của một triết gia. Điều này thể hiện rất rõ qua các tác phẩm và bài báo của ông. Một bài viết của ông đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, 13-11- 1988 đã gây nhiều sôi nổi ở Việt Nam có tựa là "Về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học". Cũng theo Nguyễn Văn Lục, về già ông bị bệnh lãng trí nặng, đi lang thang quên cả lối về nhà. Ông qua đời lúc 5g 50 phút ngày 13 tháng 3 năm 2016 tại nhà riêng Thủ Đức, TP.HCM sau một tháng nằm bệnh với chứng viêm phổi tái phát
1
null
Adobe Flash Lite là một phiên bản nhẹ của Adobe Flash Player, một phần mềm ứng dụng được sản xuất bởi Adobe Systems. Phiên bản này được thiết kế cho điện thoại di động và các thiết bị điện tử cầm tay khác như Chumby và iRiver, và cho phép người sử dụng các thiết bị này để xem các nội dung đa phương tiện và các ứng dụng được phát triển bằng cách sử dụng công cụ Flash của Adobe, mà trước đó đã được chỉ có sẵn trên các máy tính cá nhân. Flash Lite hoạt động trên các thiết bị không đáp ứng các yêu cầu phần cứng tối thiểu của Flash Player đầy đủ như Wii. Một số tính năng có sẵn trong Flash không có sẵn trong Flash Lite, và Flash Lite có một số tính năng đặc biệt cho các thiết bị di động. Ngoài ra với Flash Lite, nó thường tích hợp hệ thống điều hành của thiết bị điện thoại di động và cung cấp bởi các nhà sản xuất, trong khi đó phiên bản Adobe Flash Player đầy đủ có thể được cài đặt từ cửa hàng ứng dụng các thiết bị di động (hiện chỉ trên thiết bị dùng bộ vi xử lý Cortex ARM -A8). Tổng quan. Flash Lite là một công nghệ phát triển triển khai tại phía máy khách, hoặc lớp giao diện người dùng. Những thay đổi gần đây với ActionScript cho phép Flash Lite tích hợp tốt hơn và thậm chí còn cạnh tranh với các công nghệ như Java ME và BREW. Flash Lite không được coi là Hệ diều hành điện thoại như Symbian OS, Windows Mobile, BlackBerry OS, iOS (iPhone OS), Bada (Samsung) hay Android: đó là một công nghệ để phát triển các ứng dụng chạy trên một hệ điều hành di động. Flash Lite 1.1 hỗ trợ Flash 4 ActionScript. Flash Lite 2.0, dựa trên Flash Player 7, hỗ trợ ActionScript 2.0 của Flash7. Cả Flash Lite 1.1 và 2.0 cũng hỗ trợ chuẩnWorld Wide Web Consortium SVG Tiny,một chuẩn dữ liệu điện thoại Scalable Vector Graphics (SVG). không như SVG, Flash Lite có thể thêm các yếu tố âm thanh và tương tác mà không cần sử dụng các công nghệ khác như JavaScript. Cũng như Flash, Flash Lite có thể đọc hoặc chỉnh sửa các nội dung XML. Flash Lite 3 thì được dựa trên Flash 8, làm giảm đi khoảng cách giữa nội dung trên máy tính và điện thoại bằng việc hỗ trợ chuẩn video H.264, cũng như On2 VP6 và bộ codec video Sorenson. Flash Lite 3 cũng hỗ trợ cca1 nội dung video FLV (được sử dụng bởi YouTube và Google Video). Flash Lite 4.0 hỗ trợ ActionScript 3 và một plugin cho trình duyệt, hơn là một trình đa phương tiện độc lập. Nó mở rộng các tính năng của Flash Lite với việc hỗ trợ cảm ứng đa điểm, một công cụ tái lập văn bản tiên tiến và một giao diện hệ thống định vị. Lịch sử. Năm 2005 Adobe Systems đã hoàn thành việc mua lại của Macromedia, bản gốc phát triển của Flash. Vào thời điểm đó, Flash Lite đã có sẵn cho người sử dụng điện thoại di động ở Nhật Bản và châu Âu trong một thời gian trước khi sẵn có ở Hoa Kỳ. NTT DoCoMo là các tàu sân bay đầu tiên áp dụng Flash Lite tháng 5 năm 2003. Là một chương trình khuyến mãi cho Flash Lite trong tháng 2 năm 2005, Macromedia tiến hành cuộc thi nội dung flash di động đầu tiên. Từ 150 ứng dụng trên được gửi, 9 người chiến thắng đã được lựa chọn trong lĩnh vực kinh doanh tốt nhất và ứng dụng năng suất, sáng tạo nhất sử dụng Flash Lite, Animation, Ứng Dụng CNTT, Nội dung giáo dục, Game hay nhất, nội dung tương tác, năng suất ứng dụng, và tổng thể tốt nhất sử dụng Flash Lite . Tháng 5 năm 2006, iriver U10 (sau này tái thương hiệu là Clix iriver) được phát hành, hỗ trợ Flash Lite nội dung trong một phong cảnh hướng trang. U10 là máy nghe nhạc âm thanh kỹ thuật số để hỗ trợ Flash Lite. Trong năm 2005, gần như 100% thiết bị Flash Lite cho phép đã được tìm thấy ở Nhật Bản . Trong tháng 2 năm 2007, Adobe tuyên bố rằng có hơn 70% thiết bị Flash Lite đã được vận chuyển bên ngoài Nhật Bản. Tháng 10 năm 2006, Verizon Wireless bố hỗ trợ cho Flash Lite, làm cho nó điều hành đầu tiên tại Mỹ để áp dụng công nghệ. Flash Lite ban đầu có sẵn trên bốn mô hình thiết bị cầm tay (Motorola RAZR V3c và V3m, Samsung SCH-a950 và LG V (VX9800)) như là một BREW mở rộng. Điều này cho phép người sử dụng để tải về trình Flash Lite ứng dụng của Verizon "Nhận Nó Bây giờ" dịch vụ, nhưng nó không không cho phép người sử dụng để xem các đối tượng Flash từ [trình duyệt web của họ [] ]. Trong tháng 2 năm 2007, Adobe công bố tại [[Mobile World Congress| 3GSM World Congress ở Barcelona rằng việc phát hành tiếp theo của Flash Lite (phiên bản 3) sẽ hỗ trợ video, bao gồm video streaming Trong tháng 10 năm 2007, Adobe đã công bố việc phát hành Flash Lite 3 Tại Hội nghị 2007 của Adobe phân tích tài chính, Al Ramadan, sau đó phó chủ tịch của các đơn vị điện thoại di động và Voice Adobe Giải pháp kinh doanh, công bố tháng 12 năm 2006, 220.000.000 trình Flash Lite thiết bị đã được vận chuyển. Ông cũng lưu ý của Adobe mua lại của một số [[Vector đồ họa|véc tơ rendering]]. Công nghệ bởi [[Actimagine]], nhằm giảm bớt chơi Flash Lite [[bộ nhớ trong các phiên bản trong tương lai Tính đến tháng 3 năm 2008, cả Adobe cũng không [[Verizon Wireless đã công bố sự sẵn có của [[Adobe Flash Cast]], mỗi phát hành báo chí tháng hai 2007 có vào cuối năm dương lịch năm 2007. Cũng trong tháng đó, [[Steve Jobs]] mô tả Flash Lite như là "không có khả năng được sử dụng với Web." Trong tháng 9 năm 2009, [[Opera Software]] tích hợp Flash Lite 3.1 trong [[Internet Channel]] ứng dụng cho [[Wii]] giao diện điều khiển chơi game. Trong tháng 9 năm 2010, [[John Gruber]] đặc trưng Flash Lite như là một "nỗ lực lớn để thiết lập một nền tảng phần mềm di động" rằng "hoàn toàn không thành công". So sánh với các nền tảng phát triển khác. Flash Lite là một nền tảng phát triển điện thoại di động mà có thể được sử dụng thay cho [[Java Platform, Micro Edition|Java ME]] hoặc chạy trên Java ME trong Flash Player Lite. Các nền tảng khác bao gồm [[Binary Runtime Environment for Wireless|BREW]], [[Symbian]] và [[Windows Mobile]]. Trong năm 2006 [[Qualcomm]] tuyên bố hợp tác với Adobe để đưa Flash Lite chạy trên BREW. Nội dung Flash Lite có thể được xem trên các thiết bị cầm tay được cài đặt với Flash Lite trong cùng một cách mà nội dung Java có thể được xem trên điện thoạichạy Java ME. Cả hai công nghệ này có thể có mặt trên cùng một thiết bị cầm tay và không cạnh tranh trực tiếp. Các ứng dụng, trò chơi và các nội dung khác có thể được phát triển trong công nghệ hoặc. Flash Lite có một số lợi thế và bất lợi khi so sánh với Java ME. " 'Ưu điểm"': " 'Nhược điểm"': Project Capuchin. Ngày 30 tháng tư 2008, [[Sony Truyền thông di động|Sony Ericsson]] công bố dự án Mới của Sony Ericsson dự án Capuchin kết hợp Java ME và Flash Lite <- Bot tạo ra tiêu đề ->]</ref> một cây cầu cho phép Flash Lite để chạy như là một front-end [[Java Platform, Micro Edition|Java ME]] và theo cách này, kết hợp Java [[ứng dụng lập trình giao diện|. API]] và giao tiếp trực tiếp với phần cứng của các điện thoại di động qua ([[bluetooth]], [[Wi-Fi]]...) với giao diện đồ họa flash Liên kết ngoài. [[Thể loại:Animation software]] [[Thể loại:Macromedia software]] [[Thể loại:Adobe software]] [[Thể loại:Adobe Flash]] [[Thể loại:BlackBerry software]] [[Thể loại:Pocket PC software]] [[Thể loại:Symbian software]] [[Thể loại:Windows Mobile Standard software]] [[Thể loại:Phần mềm BlackBerry]] [[Thể loại:Phần mềm hoạt hình]]
1
null
Đây là danh sách những thể loại và phong cách âm nhạc hay đơn giản là danh sách các dòng nhạc. Những tiêu chí được đưa vào để phân loại các thể loại nhạc là: chức năng, đối tượng, xuất xứ, phân bố địa lý, lịch sử, những đặc trưng về kĩ thuật, nhạc cụ và sản xuất, và sự pha trộn giữa những thể loại khác nhau. Danh sách có sử dụng hệ thống thể loại nhạc của Allmusic. Thể loại nhạc theo các tiêu chí. Ba nhánh của âm nhạc. Một số nhà nhạc học như Philip Tagg đã phân chia âm nhạc thành ba nhánh, mà phân biệt rõ ràng với nhau dựa trên một số tiêu chí nhất định: Các trường phái âm nhạc cổ điển. Các phong cách và giai đoạn chính của âm nhạc cổ điển gồm có: Các trào lưu và chủ nghĩa có ảnh hưởng đến âm nhạc cổ điển và đại chúng bao gồm: Các thể loại âm nhạc dân gian. Nhạc dân gian ("folk music") bao gồm cả nhạc truyền thống ("traditional music") và thể loại nhạc xuất phát từ nhạc truyền thống được phát triển trong suốt thế kỷ XX đến nay. Đôi khi nhạc dân gian còn được gọi với tên "world music" (âm nhạc thế giới). Hai nhánh chính của nhạc dân gian là: Đây là danh sách các thể loại âm nhạc dân gian theo khu vực: Các thể loại âm nhạc đại chúng. Được chia làm các nhóm chính: pop, rock, jazz, blues, R&B/soul, hip hop, nhạc đồng quê, folk đương đại, nhạc điện tử, nhạc dance, easy listening và avant-garde. Ngoài ra còn có các thể loại âm nhạc đại chúng của khu vực Mỹ Latinh, vùng Caribe, Brasil, châu Phi và châu Á. Hip hop. Không có thể loại nhạc hiphop
1
null
Stanley Karnow (4 tháng 2 năm 1925 – 27 tháng 1 năm 2013) là một ký giả người Mỹ và cũng là một sử gia sinh tại Brooklyn. Sự nghiệp. Sau khi phục vụ quân đội tại binh chủng không quân ở Á châu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tốt nghiệp bằng cử nhân tại đại học Harvard vào năm 1947; ông đã theo học tại đại học Sorbonne vào năm 1947, 1948, và từ năm 1948 cho tới 1949 tại viện Institut d'Études Politiques de Paris. Sau đó ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong ngành báo chí tại tờ báo "Time" hoạt động tại Paris vào năm 1950. Sau khi đảm nhiệm cả vùng Âu châu,Trung đông, và Phi châu (nơi ông làm trưởng phòng Bắc Phi vào năm 1958 – 1959), ông trở lại Á châu, nơi mà ông đã trải qua một phần lớn sự nghiệp đầy uy thế của mình.Ông đảm nhiệm vùng Á châu từ năm 1959 cho tới 1974 cho tờ "Time", "Life", tờ "Saturday Evening Post", tờ "London Observer", tờ "Washington Post", và đài NBC News. Có mặt ở Việt Nam vào tháng 7 năm 1959 khi những người Mỹ đầu tiên bị giết chết, ông tường thuật về cuộc chiến tranh Việt Nam về đủ phương diện. Điều này làm cho tên ông xuất hiện trong danh sách những đối thủ về chính trị của Nixon. Cũng trong lúc này ông bắt đầu viết về quyển sách Vietnam: A History được xuất bản vào năm 1983. Cuốn sách này được khen ngợi và đã bán rất chạy. Không giống như các cuốn sách, và phim về Việt Nam trong thập niên 60 và 70 mà chủ yếu tập trung tới vai trò của Mỹ và các hậu quả ở quốc nội cũng như ở hải ngoại, Karnow đề cập tới mọi khía cạnh của cuộc xung đột, cũng như truyền đạt về nền văn hóa và lịch sử của Việt Nam. Ông chịu trách nhiệm về nội dung cho một bộ phim 13 phần của đài PBS ', mà đã đoạt được 6 giải thưởng Emmy, một giải thưởng Peabody, George Polk, DuPont-Columbia. Vào năm 1990, Karnow đoạt được giải Pulitzer cho tác phẩm lịch sử cho quyển ' của ông. Những cuốn sách khác ông viết bao gồm "Mao and China: From Revolution to Revolution", mà được đề cử giải National Book Award; và "Paris in the Fifties" (1997), một hồi ký lịch sử về những kinh nghiệm của riêng ông khi đang sống tại Paris trong thập niên 1950. Karnow cũng làm việc cho tờ The New Republic và King Features Syndicate. Gia đình. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông bị đổ vỡ. Năm 1959, ông làm hôn thú lần thứ hai với bà Annette Kline, một nghệ sĩ mà lúc đó làm ngoại giao về văn hóa cho bộ ngoại giao Mỹ tại Algiers. Bà Annette chết vì bị ung thư vào tháng 7 năm 2009. Họ cùng có với nhau 2 người con gái. Karnow nằm trong ủy ban về các vấn đề đối ngoại (Council on Foreign Relations:một trung tâm nghiên cứu tư nhân với cơ sở tại New York và Washington) và thuộc hội các sử gia Mỹ. Karnow mất ngày 27 tháng 1 năm 2013 tại nhà riêng ở Potomac, Maryland lúc 87 tuổi vì suy tim.,
1
null
Giovanni Pierluigi da Palestrina ( 1525 - 2 tháng 2 năm 1594) là nhà soạn nhạc thời Phục hưng người Ý về nhạc thánh và là đại diện nổi tiếng nhất thế kỷ 16 của Trường phái sáng tác âm nhạc La Mã. Ông có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của âm nhạc nhà thờ và âm nhạc thế tục ở châu Âu, đặc biệt là sự phát triển của đối âm, và tác phẩm của ông được coi là đỉnh cao của đa âm thời Phục hưng. Cuộc đời và sự nghiệp. Palestrina sinh ra ở thị trấn Palestrina, gần Rome, sau đó là một phần của các Quốc gia Giáo hoàng cho cha mẹ là người Neapolitan, Santo và Palma Pierluigi, vào năm 1525, có thể vào ngày 3 tháng Hai. Mẹ của ông qua đời vào ngày 16 tháng 1 năm 1536, khi Palestrina mới 10 tuổi. Các tài liệu cho rằng ông đến thăm Rôma lần đầu tiên vào năm 1537, khi ông được xếp vào danh sách người hợp xướng tại Vương cung thánh đường Santa Maria Maggiore, Nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma. Ông đã học với Robin Mallapert và Firmin Lebel và đã dành phần lớn sự nghiệp của mình ở thành phố này. Palestrina đã trưởng thành như một nhạc sĩ dưới ảnh hưởng của phong cách đa âm Bắc Âu, chủ yếu do sự thống trị của nó ở Ý bởi hai nhà soạn nhạc người Hà Lan có ảnh hưởng, Guillaume Dufay và Josquin des Prez, những người đã dành phần quan trọng trong sự nghiệp của họ ở đó. Bản thân nước Ý vẫn chưa tạo ra được bất kỳ ai nổi tiếng hoặc có kỹ năng tương đương về phức điệu. Từ năm 1544 đến năm 1551, Palestrina là người chơi piano của Nhà thờ Thánh Agapito, nhà thờ chính của thành phố quê hương ông. Năm 1551, Giáo hoàng Julius III (trước đây là Giám mục của Palestrina) đã bổ nhiệm Palestrina "maestro di cappella" hoặc giám đốc âm nhạc của Cappella Giulia, (Nhà nguyện Julian, theo nghĩa là ca đoàn), dàn hợp xướng của chương các giáo luật tại Vương cung thánh đường Thánh Peter. Palestrina dành tặng cho Julius III những tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông (1554), một cuốn sách về Thánh lễ. Đây là cuốn sách đầu tiên về Thánh lễ của một nhà soạn nhạc bản xứ, vì ở các bang của Ý vào thời Palestrina, hầu hết các nhà soạn nhạc thánh đều đến từ các nước Vùng thấp, Pháp hoặc Tây Ban Nha. Trên thực tế, cuốn sách được Cristóbal de Morales làm mẫu: bức khắc gỗ ở phía trước gần như là bản sao chính xác của bức tranh trong cuốn sách của nhà soạn nhạc người Tây Ban Nha. Trong thập kỷ tiếp theo, Palestrina giữ các vị trí tương tự như việc bổ nhiệm Nhà nguyện Julian của ông tại các nhà nguyện và nhà thờ khác ở Rome, đặc biệt là Thánh John Lateran (1555–1560, một chức vụ trước đây do Lassus đảm nhiệm) và Santa Maria Maggiore (1561–1566). Năm 1571, ông trở lại Nhà nguyện Julian và ở lại St Peter's cho đến cuối đời. Thập niên của những năm 1570 thật khó khăn đối với cá nhân ông: ông mất anh trai, hai người con trai và vợ của mình trong ba đợt bùng phát bệnh dịch riêng biệt (lần lượt là 1572, 1575 và 1580). Palestrina dường như đã tính đến việc trở thành một linh mục vào thời điểm này, nhưng thay vào đó ông tái hôn, lần này là với một góa phụ giàu có. Điều này cuối cùng đã mang lại cho ông sự độc lập về tài chính (ông không được trả lương cao khi làm nhạc trưởng) và ông có thể sáng tác sung mãn cho đến khi qua đời. Ông mất tại Rome vì bệnh viêm màng phổi vào ngày 2 tháng 2 năm 1594. Người ta nói rằng Palestrina qua đời chỉ một ngày trước sinh nhật lần thứ 69 của mình. Như thường lệ, Palestrina được chôn vào cùng ngày ông qua đời, trong một chiếc quan tài đơn sơ với một tấm chì trên đó có ghi "Libera me Domine". Một bài thánh vịnh năm phần dành cho ba ca đoàn đã được hát trong đám tang. Tang lễ của Palestrina được tổ chức tại nhà thờ St. Peter's, và ông được chôn cất bên dưới sàn nhà thờ. Lăng mộ của ông sau đó được đè lên nhiều lần do việc xây dựng mới và những nỗ lực để xác định vị trí địa điểm này đã không thành công. Âm nhạc. Palestrina sáng tác hàng trăm tác phẩm, trong đó có 105 bản nhạc misa, 68 offertories, ít nhất 140 madrigals và hơn 300 motet. Bên cạnh đó, có ít nhất 72 bài thánh ca, 35 Kinh Ngợi Khen, 11 litany, và bốn hoặc năm bộ lamentation. Giai điệu "Gloria" từ "Magnificat Tertii Toni" (1591) của Palestrina ngày nay được sử dụng rộng rãi trong giai điệu thánh ca phục sinh, "Victory" (The Strife Is O'er). Thái độ của ông đối với madrigal có phần bí ẩn: trong khi trong lời tựa cho tuyển tập ca khúc "Canticum canticorum" (Bài ca) (1584), ông đã từ bỏ việc in sách, chỉ hai năm sau ông đã in lại cuốn II về các bản nhạc madrigals của ông (một số trong số này là một trong những tác phẩm tốt nhất). Ông chỉ xuất bản hai bộ sưu tập các madrigals với các các sách thế tục, một vào năm 1555 và một vào năm 1586. Hai bộ sưu tập khác là những madrigal mang tính tâm linh, một thể loại được những người ủng hộ Cuộc cải cách phản đối yêu thích. Các bản mass (mixa) của Palestrina cho thấy phong cách sáng tác của ông đã phát triển như thế nào theo thời gian. Đề "cử Missa sine" của ông dường như đặc biệt thu hút Johann Sebastian Bach, người đã nghiên cứu và thực hiện nó trong khi viết Thánh lễ giọng Si thứ. Hầu hết các bản nhạc mass của Palestrina xuất hiện trong mười ba tập in từ năm 1554 đến năm 1601, bảy bản nhạc cuối cùng được xuất bản sau khi ông qua đời. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông, "Missa Papae Marcelli" (Thánh lễ Giáo hoàng Marcellus ), đã được lịch sử gắn liền với những thông tin sai lầm liên quan đến Công đồng Trent. Theo câu chuyện này (là nền tảng cho vở opera "Palestrina" của Hans Pfitzner), nó được sáng tác để thuyết phục Hội đồng Trent rằng một lệnh cấm hà khắc đối với việc xử lý đa âm của văn bản trong nhạc thánh (ngược lại, nghĩa là, một cách xử lý từ đồng âm dễ hiểu trực tiếp hơn) là không cần thiết. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây hơn cho thấy rằng thánh lễ này trên thực tế đã được soạn trước khi các vị hồng y được triệu tập để thảo luận về lệnh cấm (có thể nhiều như 10 năm trước). Dữ liệu lịch sử chỉ ra rằng Hội đồng Trent, với tư cách là một cơ quan chính thức, chưa bao giờ thực sự cấm bất kỳ âm nhạc nhà thờ nào và không đưa ra bất kỳ phán quyết hoặc tuyên bố chính thức nào về chủ đề này. Những câu chuyện này bắt nguồn từ quan điểm không chính thức của một số người tham dự Hội đồng, những người đã thảo luận ý tưởng của họ với những người không nắm rõ về các cuộc thảo luận của Hội đồng. Những ý kiến và tin đồn đó, trong nhiều thế kỷ, đã được chuyển hóa thành các tài khoản hư cấu, được in ra và thường được giảng dạy không chính xác như sự thật lịch sử. Trong khi các động cơ sáng tác của Palestrina không được biết đến, có thể ông đã khá ý thức về nhu cầu của văn bản dễ hiểu; tuy nhiên, điều này không phù hợp với bất kỳ học thuyết nào về Phản cải cách, bởi vì không có học thuyết nào như vậy tồn tại. Phong cách đặc trưng của ông vẫn nhất quán từ những năm 1560 cho đến cuối đời. Giả thuyết của Roche cho rằng cách tiếp cận dường như không nhiệt tình của Palestrina đối với các văn bản biểu cảm hoặc giàu cảm xúc có thể là do ông phải tạo ra nhiều thứ theo thứ tự, hoặc từ một quyết định có chủ ý rằng mọi cường độ biểu đạt đều không phù hợp trong âm nhạc nhà thờ, phản ánh kỳ vọng hiện đại về tự do biểu đạt và đánh giá thấp mức độ mà tâm trạng của các thiết lập của Palestrina được điều chỉnh cho phù hợp với các dịp phụng vụ mà các văn bản được thiết lập, hơn là ý nghĩa từng dòng của văn bản, và phụ thuộc vào các ký tự đặc biệt của các chế độ nhà thờ và các biến thể trong giọng hát. phân nhóm để có tác dụng biểu cảm. Thực hiện các ấn bản và bản ghi âm của Palestrina có xu hướng ưu tiên các tác phẩm của ông ở các chế độ quen thuộc hơn và lồng tiếng tiêu chuẩn (SATB), ít thể hiện sự đa dạng biểu cảm trong các thiết lập của ông khi sáng tác. Có hai ấn bản toàn diện về các tác phẩm của Palestrina: ấn bản 33 tập do Breitkopf và Härtel xuất bản ở Leipzig Đức từ năm 1862 đến năm 1894 do Franz Xaver Haberl biên tập, và ấn bản 34 tập được xuất bản vào giữa thế kỷ 20, bởi Fratelli Scalera, ở Rome, Ý do và những người khác biên tập. Phong cách sáng tác. Một trong những điểm nổi bật trong âm nhạc của Palestrina là ông đưa các nốt bất thường nghịch tai vào những nhịp "yếu". Điều này tạo ra một loại phức âm mượt mà hơn và nhiều phụ âm hơn, hiện được coi là đặc trưng của âm nhạc cuối thời Phục hưng, giúp Palestrina trở thành nhà soạn nhạc hàng đầu của châu Âu (cùng với Orlando và Victoria) sau sự đánh giá của Josquin des Prez (mất năm 1521). "Phong cách Palestrina" được dạy trong các khóa học đại học bao gồm Renaissance đối âm thường được dựa trên hệ thống hóa bởi nhà soạn nhạc thế kỷ 18 và nhà lý luận Johann Joseph Fux, xuất bản như "Gradus ad Parnassum" (Bước đến Parnassus, 1725). Lấy Palestrina làm mô hình của mình, Fux chia đối âm thành năm "loài" (do đó có thuật ngữ " đối âm loài "), được thiết kế như các bài tập cho sinh viên, triển khai các kết hợp nhịp điệu dần dần phức tạp hơn của các giọng trong khi tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về hài hòa và giai điệu. Phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi và là cơ sở chính của đào tạo đối âm trong thế kỷ 19, nhưng Fux đã giới thiệu một số đơn giản hóa với phong cách Palestrina, đặc biệt là việc sử dụng bắt buộc của một "firmus cantus" trong semibreves, được điều chỉnh bởi các tác giả sau như Knud Jeppesen và RO Morris. Âm nhạc của Palestrina tuân theo nhiều cách với các quy tắc của Fux, đặc biệt là ở loài thứ năm nhưng không phù hợp với định dạng sư phạm của ông. Sự hiểu biết chính, rằng phong cách đa âm "thuần túy" mà Palestrina đạt được tuân theo một tập hợp bất biến của các yêu cầu về kiểu dáng và tổ hợp, là chính đáng. Sách hướng dẫn của Fux đã được chứng thực bởi JS Bach cùng thời của ông, người đã tự mình hòa âm hai trong số các bản nhạc mixa của Palestrina để biểu diễn. Theo Fux, Palestrina đã thiết lập và tuân theo các hướng dẫn cơ bản sau: Fux bỏ qua việc đề cập đến cách thức mà giai điệu âm nhạc của Palestrina tuân theo cú pháp của các câu mà anh ta đã đặt cho âm nhạc, một điều không phải lúc nào cũng được các nhà soạn nhạc trước đó quan sát thấy. Cũng cần chú ý ở Palestrina là rất nhiều tông màu sơn. Ví dụ tiểu này đang giảm dần chuyển động âm nhạc với các từ tiếng Latin như "descendit" (xuống) hoặc một khoảnh khắc âm nhạc hoặc cadential tĩnh với dòng chữ "de coelis" (từ trời). Danh tiếng. Palestrina cực kỳ nổi tiếng vào thời của ông, và danh tiếng và ảnh hưởng của ông càng tăng sau khi ông qua đời. JS Bach đã nghiên cứu và sao chép thủ công cuốn sách đầu tiên của Palestrina về "Thánh lễ", và vào năm 1742, ông đã viết cuốn sách phỏng theo Kyrie và Gloria của "Missa sine sinome." Felix Mendelssohn đã xếp ông vào danh sách những nhạc sĩ vĩ đại nhất, khi viết, "Tôi luôn bực bội khi một số ca ngợi chỉ Beethoven, những người khác chỉ Palestrina và những người khác chỉ Mozart hoặc Bach. Tôi nói tất cả bốn người trong số họ, hoặc không có ai cả. ". Âm nhạc bảo thủ của trường phái La Mã tiếp tục được viết theo phong cách của Palestrina (vào thế kỷ 17 được gọi là "prima pratica") bởi những học sinh của ông như Giovanni Maria Nanino, Ruggiero Giovanelli, Arcangelo Crivelli, Teofilo Gargari, Francesco Soriano, và Gregorio Allegri. Cho đến cuối những năm 1750, phong cách của Palestrina vẫn là tài liệu tham khảo cho các nhà soạn nhạc làm việc theo hình thức motet, có thể thấy tác phẩm "Sei Antifones" 'của Francesco Barsanti ' theo phong cách của Palestrina '(khoảng năm 1750; được xuất bản bởi [Peter] Welcker, năm 1762). Nhiều nghiên cứu về Palestrina đã được thực hiện vào thế kỷ 19 bởi Giuseppe Baini, người đã xuất bản một chuyên khảo vào năm 1828 đã làm cho Palestrina nổi tiếng trở lại và củng cố truyền thuyết vốn đã tồn tại rằng ông là "Vị cứu tinh của Âm nhạc Nhà thờ" trong quá trình cải cách của Hội đồng Trent. Học thuật thế kỷ 20 và 21 nói chung vẫn giữ quan điểm rằng Palestrina là một nhà soạn nhạc mạnh mẽ và tinh tế, người có âm nhạc đại diện cho đỉnh cao của sự hoàn hảo về kỹ thuật. Phân tích đương đại làm nổi bật những phẩm chất hiện đại trong các sáng tác của Palestrina như nghiên cứu màu sắc và độ âm, sử dụng nhóm âm trong bối cảnh quy mô lớn, quan tâm đến tổ chức dọc cũng như ngang, nghiên cứu sự chú ý đến thiết lập văn bản. Những đặc điểm độc đáo này, cùng với khả năng giao hàng dễ dàng và "sự khác biệt" không thể xác định, đã tạo nên sức hút cho tác phẩm của Palestrina cho đến ngày nay. Phim ảnh. Năm 2009, một bộ phim về nhà soạn nhạc này đã đài truyền hình Đức ZDF / Arte được sản xuất với tên phim là "Palestrina - Prince of Music", do Georg Brintrup đạo diễn.
1
null
Happyland hay Xứ sở hạnh phúc là khu phức hợp giải trí, du lịch có quy mô lớn tại Việt Nam. Dự án Happyland nằm bên bờ sông Vàm Cỏ Đông, thuộc địa phận huyện Bến Lức, tỉnh Long An, nằm ở cửa ngõ phía Nam Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 33 km, có vị trí thuận lợi về giao thông đường thủy lẫn đường bộ, kết nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long với Quốc lộ 1, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ, đường cao tốc trong tương lai nối liền Bến Lức và sân bay Long Thành, cách cửa khẩu biên giới Campuchia chưa đến 30 km. Dự án và Chủ đầu tư. Xứ sở hạnh phúc do Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng Phú An, công ty con của Tập đoàn Khang Thông làm chủ đầu tư cùng các đơn vị tư vấn tên tuổi như Steelman Partners, Meinhardt, Savills, PWC… Happyland là dự án khu vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng phức hợp có diện tích xây dựng giai đoạn đầu là 338 ha và sẽ mở rộng trong tương lai, được Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư vào ngày 9 tháng 9 năm 2009, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào quy hoạch phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long tháng 4 năm 2010. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã cấp giấy chứng nhận đầu tư, phê duyệt quy hoạch 1/2000 và quy hoạch 1/500 cho dự án này vào năm 2010. Tổng vốn đầu tư cho dự án gần 2 tỷ USD với sự góp mặt của nhiều đối tác nước ngoài. Khu giải trí này được thiết kế có thể đón 14 lượt triệu khách đến tham quan hàng năm. Dự án khởi công vào ngày 14 tháng 2 năm 2011. Dự kiến khu giải trí này sẽ hoạt động vào tháng 4 năm 2014. Tuy nhiên, theo thông báo của UBND tỉnh Long An, đến tháng 6-2014, dự án đã triển khai chậm so với tiến độ trong Giấy chứng nhận đầu tư. Các hạng mục đã hoàn thành 100% bao gồm: Khu khinh khí cầu, Khu nhà cổ, Nhà bát giác cổ lầu, Biển hồ Hoàng Sa-Trường Sa. Báo cáo với UBND tỉnh Long An, chủ đầu tư cho biết sẽ triển khai và đưa vào hoạt động dự án Happyland Khang Thông theo hình thức cuốn chiếu vào đầu năm 2015. Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế khó khăn, nguồn vốn đầu tư cho dự án bị hạn chế nên Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Phát triển hạ tầng Phú An đang tìm thêm đối tác để hợp tác đầu tư. Ngày 21/9/2015, ông Lưu Đình Khẩn, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Long An, cho rằng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế cùng với việc thị trường BĐS "đóng băng" đã làm nhiều dự án "khủng" với vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng trên địa bàn tỉnh phải dừng lại. Trong đó, dự án khu du lịch Happy Land còn có một nguyên nhân khác xuất phát từ "tham vọng" lớn của nhà đầu tư trong khi tiềm lực có hạn. Ngày 27/02/2016, trường đua HappyLand đã chính ra mắt và dự kiến sẽ tổ chức nhiều giải đua lớn trong thời gian tới. Trường đua HappyLand được xây dựng lên đến 139.000 m2, có thể đón tiếp khoảng 25.000 khán giả đến theo dõi nhiều hoạt động tại đây như đua mô tô (1,4 km đường nhựa); xe cào cào và xe ATV (1,1 km đường offroad); ôtô rally (7,5 km đường đua); sân tập xe đạp và mô tô cho trẻ em... Được biết, đây là trường đua mô tô hướng theo tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Trường đua HappyLand sẽ dành cho 12 thể loại đua dành cho xe đạp, mô tô, ô tô. Ngoài ra, trường đua sẽ có các khóa huấn luyện về điều khiển, đua xe theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp. Tháng 5-2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An đã thông qua kế hoạch cưỡng chế thi hành án để kê biên tài sản đối với Công ty Phú An. Tài sản phải kê biên gồm quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tổng cộng hơn 74ha và toàn bộ tài sản sẽ hình thành trong tương lai của hơn 86,4ha đất trong khu công nghiệp tại xã Thạnh Đức (Bến Lức, Long An). Tuy nhiên, khi đoàn cưỡng chế đến thực hiện, đại diện Công ty Phú An đã xin tạm dời lại 2 tháng với lý do đang xúc tiến việc chuyển nhượng cổ phần của công ty. Đến đầu tháng 8-2017, đại diện Công ty Phú An lại tiếp tục xin gia hạn đến cuối tháng 8 để giải quyết nợ nần vì công ty đã ký được hợp đồng với một đối tác từ nước ngoài. Ngày 13-8, trao đổi với Tuổi Trẻ qua điện thoại, bà Phương Thảo xác nhận thông tin trên. "Hiện chúng tôi đang tiến hành thủ tục bán cổ phần, chỉ vài ngày nữa là lấy được tiền và sẽ thanh toán mọi khoản nợ ngay". Ông Nguyễn Văn Tài - kiểm sát viên Cục Thi hành án dân sự Long An, người được phân công phụ trách việc thi hành án đối với Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng Phú An thuộc Công ty CP Tập đoàn Khang Thông cho biết "350ha đất trong khu vực dự án Happyland từng được UBND tỉnh Long An cho thuê thu phí trong thời hạn 50 năm đã được chủ đầu tư là Công ty Phú An đem đi thế chấp ở nhiều nơi.". Ông Tài cho biết thêm sau hai lần tạm hoãn, nếu đến ngày 30-8 Công ty Phú An vẫn không trả tiền thì sẽ kiên quyết thực hiện việc kê biên. Cục Thi hành án dân sự Long An đã có hai biện pháp ngăn chặn đối với chủ đầu tư. Theo đó, tạm thời các cổ đông Công ty Phú An không được thực hiện các giao dịch khi chưa có sự đồng ý của cơ quan thi hành án và chủ tịch hội đồng quản trị của công ty là bà Phạm Thị Phương Thảo không được xuất cảnh.
1
null
Họ Chích bụi (danh pháp khoa học: Cettiidae) là một họ chim gồm các loài chim biết hót nhỏ. Họ này gồm "Cettia" và các họ hàng của chúng. Các loài trong họ này chủ yếu có mặt ở châu Á và châu Phi, phân bố đến Wallacea và châu Âu. Các chi. Họ này gồm các chi:
1
null
Pteroclididae là một họ chim duy nhất trong bộ Pteroclidiformes, gồm 2 chi và 16 loài. Thông thường, chúng được xếp trong 2 chi, gồm hai loài ở Trung Á thuộc chi "Syrrhaptes" và 14 loài khác phân bố ở châu Phi và châu Á thuộc chi "Pterocles". Chúng sống ở những vùng đất trống, không có cây cối, chẳng hạn như đồng bằng, thảo nguyên và bán sa mạc. Chúng phân bố khắp miền bắc, nam và đông châu Phi, Madagascar, Trung Đông và từ Ấn Độ đến Trung Á. "Pterocles orientalis" và "Pterocles alchata" thậm chí còn phân bố rộng đến Bán đảo Iberia và Pháp. "Syrrhaptes paradoxus" thỉnh thoảng còn tăng tưởng quần thể với số lượng lớn so với phạm vi phân bố bình thường của loài ở châu Á. Phân loại học. Pteroclididae trước đây thuộc bộ Galliformes do sự tương đồng với họ true grouse. Tuy nhiên, những phát hiện sau đó cho thấy sự tương đồng này là không rõ ràng và nó là kết quả của sự hội tụ tiến hóa. Sandgrouse sau đó được đặt gần với bộ Columbiformes chủ yếu là do khả năng uống bằng cách "hút" hoặc "bơm" của thực quản nhu động. Tuy nhiên, một nhóm duy nhất khác cũng thể hiện hành vi tương tự là Pteroclidae, đã được xếp gần với bồ câu chỉ dựa vào các đặc tính rất cũ không nghi ngờ này. Gần đây, nó được cho là không thể hút nước theo cách này, và chúng hiện được xếp vào một bộ riêng của chính nó là Pteroclidiformes. Chúng được xem là các loài chim gần giống chim sẻ và một vài loài có quan hệ gần với chim bãi biển. Một nghiên cứu DNA do Fain và Houde thực hiện năm 2004 kết luận rằng chúng thuộc nhóm Metaves, cùng với bộ Cu cu (Columbiformes). Trong một nghiên cứu rộng hơn của Hackett (2008) chúng một lần nữa được xếp gần với Columbiformes nhưng cũng gần với Mesite.
1
null
Câu lạc bộ Paris (tiếng Anh: Paris Club, tiếng Pháp: Club de Paris) là một nhóm không chính thức của 22 quốc gia chủ nợ, là những nước có nền kinh tế lớn, giàu có, mức độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính lớn mạnh bậc nhất trên thế giới, chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính như cho vay nợ để tái thiết đất nước, nợ ân hạn hoặc hoãn nợ, xoá nợ cho các nước mắc nợ khó trả. Con nợ của Câu lạc bộ Paris thường là những nước được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chỉ định (gần như bảo lãnh) nếu các thương lượng trước đó không đi đến thoả thuận cho vay nào. Tổ chức này hội họp một lần mỗi tháng (trừ tháng 2 và tháng 8). Mỗi phiên họp kéo dài một ngày gọi là "Tour d'Horizon", trong đó các chủ nợ của Câu lạc bộ Paris thảo luận với nhau về tình hình nợ nước ngoài của các nước vay, hoặc các vấn đề liên quan đến phương pháp giải quyết nợ của các nước đang phát triển. Cuộc họp sẽ diễn ra tại trụ sở đóng tại thủ đô Paris. Đứng đầu luôn là chuyên viên cao cấp thuộc Bộ Tài chính Pháp. Câu lạc bộ Paris ra đời từ một cuộc đàm phán tổ chức tại Paris lần đầu tiên vào năm 1956, giữa quốc gia con nợ lúc bấy giờ là Argentina và hàng loạt các quốc gia chủ nợ lớn của nước này. Những nước thành viên thường trực của Câu lạc bộ Paris hiện nay bao gồm có: Úc, Áo, Bỉ, Brasil, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Ireland, Israel, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Na Uy, Nga, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh và Mỹ. Ngoài ra, Câu lạc bộ Paris còn có một hệ thống quan sát viên, bao gồm các tổ chức quốc tế liên quan mật thiết đến tiền tệ thế giới như IMF, Ngân hàng Thế giới, OECD, Ủy ban Châu Âu...; các đại diện của các nước thành viên thường trực không có nghĩa vụ chủ nợ nhưng tham gia cuộc họp với vai trò quan sát viên và cố vấn; và các đại diện của các nước không phải thành viên thường trực nhưng cùng có vai trò chủ nợ với cùng quốc gia con nợ được đề cập trong cuộc họp của câu lạc bộ (miễn là có sự đồng ý của các thành viên thường trực).
1
null
Sabena Flight 571 là một chuyến bay chở khách theo lịch trình từ Viên tới Tel Aviv do hãng hàng không quốc gia Bỉ, Sabena, điều hành. Ngày 8 tháng 5 năm 1972 một máy bay hành khách Boeing 707 hoạt động trên tuyến này dưới sự điều khiển của cơ trưởng Reginald Levy, DFC, bị bốn kẻ không tặc thuộc tổ chức Tháng 9 Đen bắt hạ cánh xuống Sân bay Lod (sau này là Sân bay Quốc tế Ben Gurion), cũng là điểm đến thực tế theo lịch trình. Vụ bắt cóc do Ali Hassan Salameh lập kế hoạch và được tiến hành bởi một nhóm không tặc gồm hai nam, hai nữ, được trang bị súng ngắn, dưới sự chỉ huy của Ali Taha Hai mươi phút sau khi rời Viên, những kẻ không tặc xông vào khoang lái. "Như các bạn thấy," Cơ trưởng Levy nói với 90 hành khách, "chúng ta có những người bạn ở trên khoang." Trong khi các hành khách và cơ trưởng chờ đợi, hy vọng một điều gì đó sẽ xảy ra giúp họ được an toàn, Reginald Levy nói về đủ thứ "từ hoa tiêu tới sex" với những kẻ không tặc. Những kẻ không tặc không biết rằng vợ của Levy cũng là một hành khách trên máy bay. Ngay sau khi chiếm máy bay, những kẻ không tặc tách những người Do thái ra khỏi nhóm phi Do thái và đưa họ về cuối máy bay. Những tên không tặc yêu cầu thả 315 tên khủng bố người Palestine đã bị kết án và đang phải chịu án tù tại Israel, và đe dọa cho nổ tung máy bay cùng hành khách. Thấy những kẻ khủng bố khóc và ôm nhau chia biệt, Reginald Levy tìm cách gửi một tin nhắn yêu cầu trợ giúp nhanh nhất. Bộ trưởng an ninh Moshe Dayan đã tiến hành đàm phán với những kẻ khủng bố trong khi chuẩn bị cho một chiến dịch giải cứu, với mật danh "Chiến dịch Isotope." Ngày 9 tháng 5 năm 1972 lúc 4:00 sáng, chiến dịch giải cứu bắt đầu: một đội 16 lính biệt kích Sayeret Matkal, dưới sự chỉ huy của Ehud Barak và gồm cả Benjamin Netanyahu, cả hai đều là những thủ tướng tương lai của Israel, tiếp cận chiếc máy bay. Các lính biệt kích cải trang làm các kỹ thuật viên máy bay với bộ đồ màu trắng, và đã thuyết phục được bọn khủng bố rằng chiếc máy bay cần được sửa chữa. Lính biệt kích xông lên máy bay và kiểm soát nó trong mười phút, giết cả hai tên nam khủng bố và bắt sống hai người nữ. Tất cả các hành khách được giải cứu. Ba hành khách bị thương, một trong số đó sau này thiệt mạng do vết thương của mình. Netanyahu bị thương trong khi thực hiện giải cứu, có lẽ do hỏa lực thân thiện. Hai tên khủng bố nữ còn sống sót bị tuyên án tù chung thân, nhưng sau đó đã được thả như một phần của việc trao đổi tù nhân sau chiến tranh Liban năm 1982. Chiếc máy bay bị không tặc tiếp tục được Sabena sử dụng trong năm năm nữa trước khi được Israel Aircraft Industries mua lại và cuối cùng được bán cho Không quân Israel, nơi nó làm nhiệm vụ máy bay trinh sát trong nhiều năm, và tham gia vào hầu hết các chiến dịch tầm xa của không quân. Phi công người Anh, Cơ trưởng Levy, sau khi thực hiện các phi vụ ném bom chiến lược trong Thế chiến II cho không quân hoàng gia trên lãnh thổ Đức và tham gia vào cuộc không vận Berlin, đã gia nhập Sabena năm 1952. Ông nghỉ hưu năm 1982 và chết do một cơn đau tim tại bệnh viện gần nhà ở Dover ngày 1 tháng 8 năm 2010. Vụ không tặc diễn ra vào sinh nhật lần thứ 50 của ông.
1
null
Câu lạc bộ bóng đá Vĩnh Long là một câu lạc bộ bóng đá Việt Nam có trụ sở ở thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Lịch sử. Đội bóng đá Vĩnh Long là đội bóng bán chuyên nghiệp (V-League) trực thuộc sở VHTTDL tỉnh Vĩnh Long. Đội đã từng tham dự giải VĐQG 1995, 1997, 1999-2000.
1
null
Yên Hiếu vương (chữ Hán: 燕孝王; trị vì: 257 TCN-255 TCN), là vị vua thứ 43 hoặc 44 của nước Yên thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Yên Hiếu vương là con của Yên Vũ Thành vương. Năm 258 TCN, Vũ Thành vương qua đời, Hiếu vương lên nối ngôi. Sử sách không nói tới các sự kiện liên quan tới nước Yên trong thời gian Yên Hiếu vương làm vua. Năm 255 TCN, Yên Hiếu vương qua đời. Ông ở ngôi 3 năm. Con ông là thái tử Cơ Hỉ lên nối ngôi, tức là Yên vương Hỉ.
1
null
Nylon 6 hay polycaprolactam là loại polymer được phát triển bởi Paul Schlack và là một dạng polyamit bán kết tinh. Không như những nylon khác, nylon 6 không hình thành từ quá trình ngưng tụ polymer mà từ quá trình polymer hóa mở vòng. Cùng với nylon 6,6; nylon 6 đóng góp một phần quan trọng trong công nghiệp sợi tổng hợp. 1. Tính chất vật lý:. Hình 2: Nylon 6 dạng sợi 2. Tính chất hoá học:. c) Phương pháp tổng hợp Nylon 6: Trùng ngưng axit ε – aminocaproic Phương trình phản ứng: axit ε – aminocaproic + nhiệt độ => polycaproamit Cơ chế phản ứng: Nhóm OH- tấn công vào cacbocation trên: Phản ứng mở vòng tạo thành aminoaxit: ε-aminocaproic. ε – aminocaproic này có chứa N có cặp electron chưa tham gia liên kết sẽ tấn công vào cacbocation Phản ứng tiếp tục xảy ra sẽ tạo ra Nylon-6. Ngoài ra có thể tổng hợp Nylon- 6 bằng cách trùng ngưng amino acid: ε – aminocaproic e) Ứng dụng của Nylon-6:
1
null
Dirty Projectors là một nhóm nhạc alternative rock của Hoa Kỳ, bao gồm các thành viên: David Longstreth (hát, ghita), Amber Coffman (hát, ghita), Haley Dekle (hát), Nat Baldwin (bass), Olga Bell (hát, keyboard), và Michael Johnson (trống). Tính từ năm 2003 cho đến nay, họ đã phát hành tổng cộng 7 album phòng thu, cùng một số EP, trong đó có một EP hợp tác với Björk.
1
null
Trần Ngọc Linh ( sinh ngày 24 tháng 12 năm 1979), cô từng được biết đến với vai trò là một ca sĩ và người dẫn chương trình. Làm quen với âm nhạc từ khi còn rất nhỏ, cô đã sớm được nhận vào sinh hoạt tại Đội ca của Nhà Văn hóa Thiếu nhi thành phố Hồ Chí Minh, thời kỳ này cô được công chúng yêu thích với những bài hát với chủ đề về thiếu nhi. Ở độ tuổi trung học, cô tham gia rất nhiều phong trào ca hát học đường và đoạt nhiều giải thưởng, đáng kể nhất là Huy chương vàng Tiếng hát học sinh - sinh viên năm 1989-1993. Bên cạnh đó, cô cùng với Diễm Quyên là đôi song ca từng rất được mến mộ vào đầu những năm 2000. Năm 2004, cô từ bỏ sự nghiệp âm nhạc để chuyển sang kinh doanh và dẫn chương trình. Hiện tại, cô đang giữ vị trí điều hành nhân sự cho nhãn hiệu thời trang Giordano Việt Nam. Tiểu sử. Ngọc Linh sinh ngày 24 tháng 12 năm 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh, lên 3 tuổi cô đã bắt đầu làm quen với âm nhạc và sau đó được nhận vào tại Đội ca của Nhà Văn hóa Thiếu nhi thành phố, đây là nơi tìm kiếm và bồi dưỡng tài năng âm nhạc dành cho lứa tuổi thiếu niên - nhi đồng khá nổi tiếng, cùng sinh hoạt tại đây còn có các ca sĩ và nhạc sĩ thành danh sau này như: Đức Trí, Quỳnh Hoa, Diễm Quyên, Tam ca áo trắng... Cô nhanh chóng khẳng định được tài năng ca hát với những ca khúc như: "Em đi chơi thuyền", "Những lá thuyền ước mơ", "Ngày đầu tiên đi học", "Mùa xuân yêu thương"... Tất cả đã đưa cô trở thành một trong những gương mặt sao nhí được yêu thích nhất vào thời điểm bấy giờ. Năm 1993, khi Bến Thành Audio - Video thực hiện cuốn băng VHS ca nhạc thiếu nhi "Cả nhà thương nhau", Ngọc Linh được chọn làm vai diễn minh hoạ cho ca khúc "Ngày đầu tiên đi học". Năm 1993, Ngọc Linh cùng với 4 bạn trẻ khác của Việt Nam vượt qua vòng tuyển chọn để tham gia show diễn của ca sĩ Michael Jackson tại Thái Lan. Điều kiện của cuộc tuyển chọn là phải biết hát, múa, biết chơi ít nhất một nhạc cụ, và phải biết nói tiếng Anh. Tham gia chương trình còn có 20 thiếu nhi khác đến từ các quốc gia khác như Myanmar, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines. Cuối cùng, Việt Nam có 2 thiếu nhi được chọn, nhưng vì show diễn thứ 2 bị bãi bỏ nên cô là bạn trẻ duy nhất của Việt Nam được hát chung với ca sĩ Michael Jackson trong ca khúc "Heal the World". Cô cũng là ca sĩ trong nước duy nhất được hát chung với Michael Jackson. Trong thời kỳ còn là sinh viên Khoa Quản trị Kinh doanh - Trường Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, Ngọc Linh tham gia rất nhiều phong trào âm nhạc dành cho sinh viên, và đoạt được khá nhiều giải thưởng, tiêu biểu là Huy chương vàng Tiếng hát học sinh - sinh viên năm 1989-1993, Huy chương bạc Hội diễn liên hoan dân ca các tỉnh phía Nam năm 1995, Giải ba Tiếng hát sinh - viên học sinh toàn quốc năm 1996. Năm 1998, Ngọc Linh được các giáo viên ở Nhà Văn hóa thiếu nhi kết hợp hát chung với Diễm Quyên, cũng là một bạn học rất thân của cô tại đây. Đôi song ca với ngoại hình xinh xắn cùng những ca khúc dễ thương dành riêng cho thiếu nhi và tuổi teen đã tạo được dấu ấn lớn đối với khán giả, đặc biệt là sau thành công của các ca khúc như: "Tình thơ", "Gót ngọc", "Mưa phố"... Đôi song ca này còn góp mặt trong album đầu tay của nhóm Mắt Ngọc mang tên "Khúc hát biển xanh" do Trùng Dương Audio -Video thực hiện. Tuy nhiên vào năm 2001, Diễm Quyên dừng sự nghiệp ca hát để sang nước ngoài du học, còn Ngọc Linh tiếp tục với con đường ca sĩ hát đơn. Năm 2003, cô cho ra mắt album đầu tay mang tên "Lựa chọn một vì sao", phần phối khí và biên tập các ca khúc đều do nhạc sĩ Nguyễn Hà thực hiện, phát hành bởi Trung tâm băng nhạc Vafaco. Album này nhanh chóng thành công với nhiều bài hit được yêu thích như: "Rồi từ đây", "Lựa chọn một vì sao", "Mùa hạ cuối cùng". Tuy nhiên đây lại là album cuối cùng của cô. Năm 2004, cô chính thức chia tay sân khấu ca nhạc, để trở thành MC cho chương trình "Vui cùng Hugo" của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV), một trò chơi truyền hình tương tác dành cho thiếu nhi rất được yêu thích vào thời điểm bấy giờ. Ngoài ra, cô còn tham gia dẫn một số chương trình khác cũng của HTV như "Ngày chủ nhật của em" và "Giai điệu tình yêu". Một thời gian sau, cô thành lập công ty riêng mang tên Ngọc Linh, một công ty chuyên tổ chức biểu diễn, quay phim, thời trang, và bao gồm cả trung tâm ca múa nhạc thiếu nhi mang tên Cánh diều mơ ước. Năm 2006, sau khi kết hôn và có con, cô đã thôi nắm giữ vị trí giám đốc công ty Ngọc Linh. Hiện tại, cô đang đảm nhiệm công việc điều hành nhân sự cho nhãn hiệu thời trang Giordano tại Việt Nam. Tháng 1 năm 2013, sau 10 năm từ giã âm nhạc, Ngọc Linh và Diễm Quyên bất ngờ ra mắt một video clip ca nhạc mang tên "Tình thơ", đây là bản song ca được chú ý nhiều nhất từ trước đây và cũng là cuối cùng của hai người trước khi tan rã. Nhạc phẩm sau đó được trình chiếu trên một kênh truyền hình dành cho giới trẻ, clip nhận được nhiều khen ngợi và bình luận tích cực, đồng thời nhanh chóng lan truyền trên các mạng xã hội. Tuy nhiên cả hai đều khẳng định sẽ không tiếp tục quay trở lại lĩnh vực ca hát. Nhưng cho đến tối ngày 8 tháng 3 năm 2017, Ngọc Linh gây bất ngờ khi cô tái xuất sau 14 năm trong chương trình "Mặt nạ ngôi sao". Năm 2019, cô là người góp giọng cùng nam rapper Đen Vâu trong ca khúc "Mười năm (Lộn xộn 3)"; đồng thời vào tháng 10 cùng năm, Ngọc Linh thể hiện ca khúc chính mang tên "Bỏ lại nơi thương nhớ" cho bộ phim kinh dị "Bắc kim thang". Đời sống riêng. Sau khi giải nghệ, năm 2006 cô lập gia đình với Thanh Tùng, giám đốc một công ty chuyên phân phối các sản phẩm thời trang như Belano, Samuel&Kelvin, Bossini. Trước đây, Ngọc Linh từng có mối tình khá xôn xao dư luận với nhạc sĩ Nguyễn Hà, người hỗ trợ cô rất nhiều trong album đầu tay "Lựa chọn một vì sao". Hiện cô đã có con gái.
1
null
Jean-Baptiste Lully (tiếng Ý: Giovanni Battista Lulli; sinh năm 1632 tại Florence, mất năm 1687 tại Paris là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn violin, nhạc trưởng người Pháp gốc Ý và là một trong những gương mặt quan trọng của thời kỳ Baroque. Ông cũng nổi tiếng về việc sử dụng cây gậy (baton) để chỉ huy dàn nhạc thay vì sử dụng cuộn giấy hay tay không như các nhạc trưởng khác cùng thời kỳ. Cuộc đời và sự nghiệp. Jean-Baptiste Lully vốn sinh ra ở nước Ý - nơi nền âm nhạc thời Baroque rất phát triển - nhưng được đưa sang Pháp từ nhỏ để phục vụ trong hoàng cung. Ông đã bắt đầu học nhạc ở đây và sau đó được tuyển vào dàn nhạc của hoàng cung năm 1652. Lully cũng đồng thời trở thành diễn viên kịch câm, vũ công, kiêm nhà soạn nhạc cho những vở ballet trong cung đình. Năm 1662, ông được phong danh hiệu nhà soạn nhạc của triều đình. Trong năm 1663, ông hợp tác với nhà viết kịch nổi tiếng Molière để chuyển thể các vở hài kịch của Moliére thành các vở ballet hài. Lully bắt đầu lãnh đạo Viện Hàn lâm Âm nhạc hoàng gia (nhà hát opera) năm 1672 khiến ông chuyển sang viết các vở opera cũng như trở thành nhạc trưởng và đạo diễn. Cái chết. Năm 1687, vua Louis XIV bị đau răng. Các bác sĩ chữa trị cho Louis XIV đã vụng về làm hỏng một mảnh hàm răng trên của nhà vua. Họ hàn vết thương lại bằng thanh sắt nóng đỏ. Mọi người đều nghĩ rằng nhà vua sẽ chết nhưng vết thương lại tiến triển tốt. Để chúc mừng Louis XIV may mắn bình phục, Lully đã soạn bản Te Deum và lên kế hoạch trình diễn với 300 nhạc công triều đình. Vào ngày 8 tháng 1 năm 1687, tai nạn xảy ra khi ông đang trình diễn. Như thường lệ, ông sử đụng cây gậy gỗ dài 1.5m để gõ nhịp thật mạnh xuống sàn nhà nhằm tạo ra cảm giác uy lực cho bản nhạc. Ông đã vô tình gõ cây gậy vào đúng bàn chân của mình. Các bác sĩ đã quyết định cắt bỏ bàn chân của ông nhưng ông từ chối vì ông cho rằng nó sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông là một vũ công. Vết thương bị nhiễm trùng và dần hoại tử. Ông qua đời không lâu sau đó vào ngày 22 tháng 3 năm 1687 với biết bao sự thương tiếc và cảm thông. Phong cách sáng tác. Lully là người đặt nền móng cho nghệ thuật opera Pháp, và là người cho ra đời loại bi kịch trữ tình với một kiểu nhạc mở màn (tiếng Anh gọi là overtureư) mới, dựa trên đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật ballet. Sáng tác của Jean-Baptiste Lully ảnh hưởng lâu bền trong sự phát triển của nghệ thuật opera-ballet Pháp và thế giới. Tác phẩm. Lully đã sáng tác 15 vở bi kịch trữ tình, tiêu biểu có: 30 vở opera hài, 11 vở ballet hài, vở opera-ballet Psyché (1678), nhạc nền cho kịch của Pierre Corneille, Molière, những tiểu phẩm khí nhạc, aria và ca khúc.
1
null
Walkman là tên gọi của một dòng máy nghe nhạc nổi tiếng của hãng Sony, ra đời vào năm 1979. Sony đã bán được tới 50 triệu máy Walkman trong vòng 1 thập kỷ, biến nó trở thành biểu tượng nhạc di động trong thời kỳ ấy. Phiên bản thử nghiệm đầu tiên của dòng máy Walkman được chế tạo bởi kỹ sư Kihara Nobutoshi cho đồng chủ tịch hãng Sony Morita Akio. Morita muốn có thể thoải mái nghe nhạc trong các chuyến bay công tác xa thường xuyên của mình. Dòng Walkman đầu tiên ra mắt công chúng ở Nhật Bản vào năm 1979 và sang năm sau nó đã xuất hiện ở các nước khác dưới tên gọi Soundabout ở Hoa Kỳ, Freestyle ở Thụy Điển và Stowaway ở Anh. Sản phẩm này đã thu hút được nhiều người tiêu dùng bất chấp những rào cản trong sự khác biệt về ngôn ngữ. Thật ra Chủ tịch Morita không thích cái tên "Walkman" và từng yêu cầu đổi tên, tuy nhiên sau đó ông rút lại yêu cầu này khi được một nhân viên thông báo rằng kế hoạch quảng cáo đã được tiến hành với cái tên "Walkman" và vì vậy chuyện đổi tên sẽ gây ra nhiều chi phí rất tốn kém. Những cái tên "Walkman", "Pressman", "Watchman", "Scoopman", "Discman", và "Talkman" đều là thương hiệu của Sony trong các loại máy nghe nhạc cầm tay như thế này. Cái tên "Walkman" được đặt ra dựa theo tên một sản phẩm cùng loại trước đó là máy ghi âm dùng băng cassette Pressman. Phiên bản thử nghiệm đầu tiên của Walkman thực tế được chế tạo bằng cách thay thế bộ phận thu âm và phát âm của Pressman với một thiết bị khuếch đại âm thanh nổi. Thương hiệu "Walkman" được Sony tiếp tục sử sụng cho các loại máy thu phát âm cầm tay mà họ chế tạo sau này, nhất là sau khi dòng máy "Discman" (dùng cho đĩa CD) bị loại bỏ vào cuối thập niên 1990. Tháng 3 năm 2007, Sony mở rộng thành phần của dòng máy Walkman khi cho ra lò một sản phẩm Walkman số hóa hoàn toàn là A800, với chữ A là viết tắt của khẩu hiệu "All in one, Advanced, and 'Attractive" (Tất cả trong một, Tối tân và Hấp dẫn). Điện thoại thương hiệu Walkman. Liên doanh giữa Sony và Ericsson là Sony Ericsson cũng đã cho ra đời nhiều dòng điện thoại di động mang thương hiệu Walkman, chú trọng vào khả năng nghe nhạc với sự cho phép của Sony. Trong khoảng thời gian từ 2005-2007, dòng điện thoại Walkman thu được nhiều thành công đáng kể trước khi lép vế bởi sự ra đời của Apple Iphone kèm theo cuộc cách mạng cảm ứng trên điện thoại di động.
1
null
Hủ nữ, gọi đầy đủ là Hủ nữ tử (腐女子, ふじょし, Fujoshi), dùng cho các nhân vật nữ trong truyện tranh Nhật Bản, mà các nhân vật này lại thích BL (Boy's love), và cũng có người lại thích GL (Girl's love) sống trong mơ tưởng tình yêu giữa nam với nam và giữa nữ với nữ. Đây là một từ Nhật gốc Hán, bắt nguồn từ cách dùng của người Nhật (tức từ chữ Hán Nhật - Kanji). Chữ Hủ (腐) trong từ Hủ nữ (腐女) nghĩa gốc chữ Hán là "cổ hủ" (rất cũ, cổ lỗ sĩ, lạc hậu), nhưng do đây là từ Hán Nhật nên nghĩa trong tiếng Nhật lại là "vô phương cứu chữa", "hết cách", "bó tay". Cách gọi này hài hước trào lộng vì trong tiếng Nhật phát âm giống từ Phụ nữ tử (妇女子 - nghĩa là phụ nữ)(ふじょし - Fujoshi).
1
null
Shrek Forever After (trước đó được biết đến với tên Shrek: The Final Chapter) là một phim điện ảnh hoạt hình máy tính hài hước năm 2010 của Mỹ, được hãng DreamWorks Animation sản xuất dưới định dạng 3D. Đây là phần phim thứ tư của thương hiệu điện ảnh "Shrek" và là phần tiếp theo của "Shrek the Third" (2007). "Shrek Forever After" do Mike Mitchell giữ vai trò đạo diễn và Josh Klausner cùng Darren Lemke thực hiện phần kịch bản, với sự tham gia của Mike Myers, Eddie Murphy, Cameron Diaz, Antonio Banderas, Julie Andrews và John Cleese trở lại lồng tiếng cho các nhân vật từ các phần phim trước, và Walt Dohrn lồng tiếng cho nhân vật mới, Rumpelstiltskin. Nội dung phần phim xoay quanh việc Shrek phải đối mặt với việc trở thành một người đàn ông của gia đình và mất đi sự riêng tư, và sau đó bị Rumpelstiltskin lừa ký vào một bản hợp đồng có thể gây ra nhiều hậu quả khôn lường. "Shrek Forever After" được ra mắt tại Liên hoan phim Tribeca vào ngày 21 tháng 10 năm 2010. Phim được hãng Paramount Pictures chính thức công chiếu tại Mỹ vào ngày 21 tháng 5 năm 2010 dưới định dạng 3D và IMAX 3D. Phim dẫn đầu doanh thu phòng vé tuần trong ba tuần liên tiếp tại thị trường Mỹ và Canada, thu về 752 triệu USD và trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao thứ 5 năm 2010. Ngoài ra, "Shrek Forever After" còn là phim có doanh thu ngoại địa cao thứ hai của hãng DreamWorks Animation. Cốt truyện. Trong một cảnh hồi tưởng, Vua Harold và Nữ hoàng Lillian chuẩn bị giao vương quốc Far Far Away cho Rumpelstiltskin để đổi lấy việc dỡ bỏ lời nguyền cho con gái họ, Công chúa Fiona – bị nguyền rủa biến thành yêu tinh hàng đêm và bị nhốt trong tháp cho đến khi được giải cứu bởi "tình yêu đích thực" của cô ấy. Trước khi ký, có tin tức rằng cô ấy đã được cứu, [b] và họ hủy bỏ thỏa thuận. Ở hiện tại, Rumpel đã trở thành một kẻ bị ruồng bỏ và ước rằng người cứu Fiona, Shrek, chưa bao giờ được sinh ra. Trong khi đó, Shrek ngày càng mệt mỏi với việc trở thành một người đàn ông của gia đình và người nổi tiếng, khao khát những ngày mà anh ta sợ hãi và có quyền riêng tư. Trong khi tổ chức sinh nhật đầu tiên cho con mình ở Far Far Away, một loạt rủi ro leo thang khiến Shrek tức giận, khiến anh ta nổi cơn thịnh nộ và tấn công Fiona. Chứng kiến ​​sự bùng nổ, Rumpel đi theo Shrek vào rừng và dựng cảnh gặp nạn, khiến Shrek phải giúp đỡ. Được mời vào trong cỗ xe của Rumpel, Shrek than thở rằng anh ta không còn là "yêu tinh thực sự" nữa. Rumpel đề nghị anh ta một thỏa thuận để nhận được một ngày làm "yêu tinh thực sự" để đổi lấy một ngày từ thời thơ ấu của anh ta. Shrek ký một hợp đồng hoàn thành mong muốn này, và bị cuốn vào một thực tại thay thế. Bây giờ bị dân làng sợ hãi, Shrek gây ra một số trò nghịch ngợm vui vẻ, cho đến khi anh ta phát hiện ra rằng Fiona là một kẻ chạy trốn và đầm lầy của anh ta bị bỏ hoang và hoang vắng. Bị phù thủy bắt giữ, Shrek được đưa đến gặp Rumpel, người hiện là vua của Far Far Away. Rumpel tiết lộ với Shrek rằng anh ta lấy ngày sinh của mình, nghĩa là Shrek chưa bao giờ tồn tại trong dòng thời gian đã thay đổi này. Do đó, Harold và Lillian buộc phải giao vương quốc cho Rumpel, khiến họ biến mất. Khi ngày kết thúc, Shrek sẽ không còn tồn tại. Shrek trốn thoát khỏi lâu đài của Rumpel cùng với Donkey, người ban đầu rất sợ hãi Shrek nhưng đã kết bạn với anh ta sau khi thấy anh ta khóc vì lịch sử bị xóa của mình. Donkey giúp Shrek tìm một điều khoản thoát ẩn; hợp đồng có thể bị vô hiệu bởi "nụ hôn của tình yêu đích thực". Cặp đôi nhanh chóng chạm trán với Fiona vẫn còn bị nguyền rủa dẫn đầu một đội quân yêu tinh trong cuộc kháng chiến chống lại Rumpel, và chú mèo đi ủng lười biếng và thừa cân được nuôi làm thú cưng của Fiona. Shrek cố gắng tán tỉnh Fiona không thành công, người đã mất hy vọng tìm thấy tình yêu đích thực sau khi không được giải cứu, và quá bận chuẩn bị phục kích Rumpel. Puss khuyến khích Shrek tiếp tục theo đuổi Fiona. Trong cuộc phục kích, hầu hết các yêu tinh đều bị bắt bởi Pied Piper, người được Rumpel thuê, nhưng Shrek và Fiona trốn thoát cùng Puss và Donkey. Shrek khăng khăng yêu cầu Fiona hôn anh ta, đảm bảo với cô ấy rằng điều đó sẽ sửa chữa mọi thứ; cô miễn cưỡng bắt buộc, nhưng trước sự ngạc nhiên của Shrek, không có gì xảy ra. Fiona cho rằng "nụ hôn của tình yêu đích thực" chẳng qua là một câu chuyện cổ tích và Donkey cho rằng Shrek đã hôn nhầm cô, sau đó Shrek nói rằng Fiona không yêu anh ta. Sau đó, Rumpel công khai đưa ra một điều ước cho bất kỳ ai mang Shrek đến cho anh ta, và sau khi nghe điều này, Shrek đã tự ra đầu thú. Rumpel buộc phải thực hiện điều ước của Shrek, và anh ta sử dụng nó để giải thoát những yêu tinh khác. Khi Shrek bị nhốt, Rumpel tiết lộ rằng Fiona đã bị bắt và không được thả, vì cô ấy không phải là "tất cả yêu tinh". Lừa, Mèo và yêu tinh được giải thoát xông vào lâu đài; họ bắt được Rumpel và đánh bại đội quân phù thủy của hắn, trong khi Shrek và Fiona hạ gục Dragon. Khi mặt trời mọc, Shrek bắt đầu biến mất khỏi sự tồn tại, nhưng Fiona, đã yêu anh, hôn anh ngay trước khi anh biến mất. Thấy rằng cô ấy vẫn là một yêu tinh dưới ánh sáng mặt trời, Fiona nhận ra rằng lời nguyền của cô ấy đã bị phá vỡ và cô ấy đã mang "hình dạng thật của tình yêu". Thực tế thay thế tan rã, mang theo Rumpelkheokin trong khi mọi người biến mất, và Shrek thấy mình được đưa trở lại dòng thời gian ban đầu vào thời điểm trước khi anh ta mất bình tĩnh trong bữa tiệc. Thay vì đả kích, Shrek ôm lấy gia đình và bạn bè của mình với sự đánh giá cao mới dành cho họ. Ngoại truyện. "Mèo đi hia" là phim điện ảnh hoạt hình máy tính được công chiếu vào ngày 28 tháng 10 năm 2011. Bộ phim được dựa theo nhân vật Mèo đi hia và tập trung vào cuộc phiêu lưu của cậu cùng với Kitty Softpaws và Humpty Dumpty trước khi gặp Shrek trong "Shrek 2".
1
null
Mnemosyne (, /mnɛːmosýːnɛː/) là nữ thần của ký ức trong thần thoại Hy Lạp, là con của Gaia và Uranus, có chín người con với Zeus sau 9 đêm liên tiếp được gọi là Muse. Theo tập thi ca "Theogony" của Hesiod thì các vị vua và thi sĩ có được sức mạnh trong lời nói của mình là vì họ có quan hệ với các Muse để sử dụng được sức mạnh của Mnemosyne. Sức mạnh của Mnemosyne đối trọng với Hades dưới âm ty qua hai con suối "Lethe" và "Mnemosyne". Ai uống nước từ suối Lethe sẽ không thể nhớ được mình là ai trước khi chết.
1
null
Tàu khu trục lớp Kongō (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo trên nền tảng hệ thống chiến đấu Aegis và cũng là lớp tàu Aegis đầu tiên được chế tạo bên ngoài lãnh thổ Liên bang Mỹ. Đây là một trong những tổ hợp tác chiến hiện đại và phức tạp nhất thế giới, biến khu trục hạm lớp Kongo thành một phần quan trọng trong hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo chiến thuật của Nhật Bản. Lịch sử phát triển. Quá trình phát triển của tàu khu trục lớp Arleigh Burke. Đầu năm 1978, Bộ tư lệnh Hải quân Mỹ đau đầu với bài toán tàu khu trục. Trong khi đó ở bên kia đại dương, Hải quân Liên Xô liên tục cho các lớp tàu khu trục mới của họ vào biên chế, đó là các lớp Udaloy, Sovremenny… với các công nghệ tối tân mà các quốc gia đều thèm muốn. Người Mỹ cũng không muốn bị lép vế nên đã có khá nhiều kế hoạch được vạch ra nhưng chỉ 2 kế hoạch được phê duyệt: Một là nâng cấp tiếp lớp Ticonderoga, Hai là chế tạo 1 lớp tàu khu trục mới với những công nghệ mới hơn. Tuy nhiên phương án 2 đã được lựa chọn bởi: +Lớp tàu mới sẽ đỡ tốn kém hơn nâng cấp chiếc Ticonderoga. +Lớp Ticonderoga quá tốn kém tiền bạc bởi cần thay thế nhiều hệ thống máy và radar mới. +Lớp Ticonderoga đã quá cũ, nếu nâng cấp thì họ cũng sẽ phải lên kế hoạch để nâng cấp cho nó tiếp trong những năm tiếp theo mà như vậy thì quá lãng phí. Theo đó, Hải quân Liên bang Mỹ muốn tạo ra một loại tàu chiến kết hợp những kỹ thuật tiên tiến nhất, có khả năng tàng hình trước radar và cảm biến của đối phương, đồng thời cung cấp khả năng phòng thủ chống máy bay, tên lửa hành trình và tàu ngầm tấn công của Liên Xô. Ngoài ra, nó còn có nhiệm vụ hộ tống nhóm tác chiến tàu sân bay trên những vùng đại dương cách xa căn cứ hải quân và không quân Mỹ. Với các nhu cầu đó, Hải quân Liên bang Mỹ năm 1985 ký hợp đồng trị giá 321,9 triệu USD với Nhà máy đóng tàu Bath Iron Work để chế tạo chiếc tàu đầu tiên thuộc lớp này mang tên "USS Arleigh Burke" (DDG-51). Tàu được hạ thủy ngày 16 tháng 9 năm 1989, đi vào biên chế chính thức ngày 4 tháng 7 năm 1991. Lớp tàu khu trục Arleigh Burke được đặt tên theo tên của Đô đốc Arleigh Burke (1901-1996) lừng danh của Mỹ, ông từng là sĩ quan chỉ huy của các "Hải đoàn 43, 44, Squadron 12 và Squadron 23" (*squadron: một đội tàu gồm 2, 3 hải đoàn, có chức năng tương tự như một hạm đội cỡ nhỏ). Arleigh Burke nổi tiếng với những trận đánh tiêu diệt Hải quân Đế quốc Nhật trong thế chiến thứ 2 với các trận như Leyte, Luzon và đặc biệt là trận chiến với chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới "IJNS Yamato" của IJN. Ông từng đảm nhiệm vị trí Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Hải quân Liên bang Mỹ trong suốt thời gian đương nhiệm của Tổng thống Eisenhower và cả Tổng thống Kennedy. Arleigh Burke được thiết kế để trở thành một chiếc khu trục đa nhiệm, nó có thể đảm nhiệm mọi nhiệm vụ bao gồm: + Hệ thống tác chiến chống máy bay: được hỗ trợ từ các radar của hệ thống tác chiến tối tân Aegis, với sự mạnh mẽ của những bệ phóng chống máy bay RAM. + Hệ thống tác chiến chống hạm: nhờ có hệ thống Aegis, nó có thể định vị các tàu địch ở khoảng cách khá xa, cùng đó là các tên lửa hạm đối hạm Harpoon mạnh mẽ. + Hệ thống tác chiến chống ngầm: hệ thống định vị thủy âm và hệ thống sonar tối tân, hiện đại nhất của phía NATO là AN/SQS-53S với khả năng quét sonar pha chủ động, AN/SQR-19 với khả năng truy quét các mục tiêu trong phạm vi của nó và hệ thống AN/SQQ của hệ thống chống ngầm từ các trực thăng SH-60 SeaHawk. Bên cạnh đó là các máy phóng ngư lôi MK-46, MK-50 và MK-54 trên tàu đủ sức quét sạch cả một hạm đội tàu ngầm. + Hệ thống tác chiến tấn công mặt đất: Với các tên lửa hành trình tầm xa Tomahawk, nó có khả năng tấn công ngay từ trên mặt biển nhằm vào các mục tiêu trên đất liền. Là một trong những lớp tàu khu trục tối tân và hiện đại nhất của phía NATO, Arleigh Burke được coi như là một bản nâng cấp tổng thể từ 2 chiếc Spruance và Ticonderoga. Ngay từ khi được biên chế cho cho Hạm đội 3 kiểm soát khu vực tây Đại Tây Dương của Mỹ, nó đã được giới chuyên môn nhận định: "Arleigh Burke là chiếc tàu khu trục mạnh nhất, hiện đại nhất với những khả năng ưu việt nhất từng được chế tạo". Đây là lớp tàu khu trục đa nhiệm với nhiều khả năng tác chiến trong mọi hoàn cảnh. Với thiết kế thừa hưởng từ Spruance, Arleigh Burke có một sức mạnh tuyệt vời nhờ hệ thống máy turbine General Electric LM2500-30 hiện đại và thiết kế rẽ sóng để đạt được vận tốc 54 hải lý/giờ. Mạnh mẽ và bất khả chiến bại đó là khi nói đến vũ khí của Ticonderoga mà Arleigh Burke thừa hưởng. Cộng thêm vào đó là hệ thống tác chiến Aegis đã làm cho nó trở thành một kẻ hủy diệt của Hải quân Mỹ. Để có được những tính năng ưu việt như vậy, đội ngũ kỹ sư đã phải nghiên cứu khá nhiều từ một số lớp tàu khu trục của NATO để có thể kết hợp lại với nhau tạo nên 1 chiếc tàu bất khả chiến bại. Cấu tạo lớp vỏ hợp kim không bị ăn mòn của Arleigh Burke là sự kết hợp của sắt, crom và cả nhôm. Nhôm làm nhẹ thân tàu để có thể tăng tốc độ cho tàu. Cải tiến này là nhờ bài học từ chiếc "USS Belknap" (CG-26) với quá nhiều nhôm trong kết cấu vỏ tàu khiến khả năng chịu nhiệt kém. Bên cạnh đó, Arleigh Burke đã tận dụng được điểm mạnh của chiếc "HMS Sheffield" thuộc Hải quân Hoàng gia Anh là lớp vỏ kiên cố với 2 lớp hợp kim, giữa 2 lớp này là 1 lớp rỗng giúp tăng khả năng sống sót của con tàu khi bị các tên lửa tấn công. Ngoài ra, ở lớp vỏ tàu còn có thêm một lớp giáp bằng thép kevlar nặng tới 70 tấn, loại thép này có độ bền gấp 5 lần thép thường. Tàu được định dạng bằng 31 module chức năng khác nhau, giúp giảm thiểu tối đa thời gian sửa chữa và có thể dễ dàng thay thế các khoang bị phá hủy trong chiến đấu một cách nhanh chóng. Thân tàu được thiết kế đảm bảo khả năng giảm tín hiệu hồng ngoại đồng thời giảm diện tích phản xạ radar. Sàn đáp trực thăng phía sau được kéo dài hơn, điều này dẫn đến tàu có chiều dài hơn so với các tàu khu trục khác. Arleigh Burke là lớp tàu khu trục đầu tiên của Mỹ có khả năng tham chiến trong mọi cuộc xung đột, kể cả là chiến tranh hạt nhân, sinh học thậm chí là hóa học. Bởi Arleigh Burke được trang bị hệ thống lọc không khí tiên tiến, hệ thống tự động tìm kiếm và khoanh vùng khu vực hỏng hóc hoặc tổn thất, tự động đóng cửa và nắp các khoang, khởi động máy bơm nước và hệ thống cứu hỏa tự động, cùng với đó là lớp vỏ có khả năng ngăn chặn các loại tia Alpha và Beta từ các vụ nổ hạt nhân. Ngoài ra, tàu còn có cả thiết bị lọc nước biển và hệ thống xử lý nước cho các thủy thủ trên tàu.   Aegis có thể nói là linh hồn của chiếc Arleigh Burke. Aegis là một hệ thống tác chiến hiện đại nhất thế giới hiện nay. Nó là một trí tuệ nhân tạo có khả năng kiểm soát mọi tình hình trong các cuộc chiến trên biển, có thể đưa ra các giải pháp tấn công và phòng thủ cho Arleigh Burke. Aegis còn hỗ trợ thêm cả hệ thống tên lửa đạn chặn, nhằm hạ gục bất kỳ tên lửa tấn công xuyên lục địa (ICBM) nào trong phạm vi của nó. Hiện nay, chưa có lớp tàu khu trục nào trên thế giới kể cả từ phía Nga có được hệ thống này. Lớp Arleigh Burke được chia thành nhiều phiên bản (Flight). 21 tàu đầu tiên từ DDG-51 tới DDG-71 được xếp vào Flight I, 7 chiếc tiếp theo (DDG-72 tới DDG-78) thuộc Flight II. Bản nâng cấp IIA được chế tạo từ cuối năm 1997, bao gồm 54 chiếc đã được biên chế (DDG-79 đến DDG-123). Flight III gồm các tàu từ DDG-124 trở đi. Lượng giãn nước toàn tải của Flight I là 8.315 tấn, Flight II là 8.400 tấn, Flight IIA tăng tới 9.200 tấn và Flight III là 9.800 tấn. Flight I và II có chung chiều dài 154 m, trong khi Flight IIA kéo dài lên mức 155 m. Chiều rộng tất cả các tàu đều là 20 m. Phiên bản Arleigh Burke của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Từ năm 1981, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành các cuộc thảo luận với Mỹ trong việc chuyển giao cho Nhật Bản công nghệ Aegis. Vào năm 1984, sau nhiều năm đàm phán liên tục, Nhật Bản đã rất khó khăn mới có thể nhận được sự đồng ý của Chính phủ Mỹ, tháng 8 cùng năm "Dự án Aegis" được thành lập. Sự kiện này đánh dấu Nhật Bản trở thành quốc gia đồng minh đầu tiên của Mỹ được tiếp cận công nghệ mật này. Tháng 8 năm 1985, "Dự án thế trận phòng không ngoài khơi" được tổ chức  . Cũng trong năm 1985, JMSDF đã hủy bỏ việc đóng mới tàu thứ ba thuộc lớp Haneda, phần ngân sách được chuyển giao cho kế hoạch đóng mới các tàu Aegis. Từ tháng 5 năm 1986 đấn năm 1987, JMSDF đã tiến hành nghiên cứu, thiết kế lớp tàu khu trục mới cũng như xây dựng các học thuyết, phương pháp tác chiến mới phù hợp với lớp tàu này. Kết quả của các nghiên cứu này đã được Hội đồng An ninh Quốc gia Nhật Bản thông qua vào tháng 12 năm 1987. Tàu khu trục lớp Kongo đã thực sự tạo ra một bước đột phá lớn cho công nghiệp đóng tàu chiến cũng như năng lực tác chiến của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Quá trình nghiên cứu, chế tạo được thực hiện bởi Ishikawajima Harima Heavy Industries và Mitsubishi Heavy Industries. Toàn bộ dự án đóng tàu này có chí phí lên đến 122.300.000.000 Yên. Thân tàu được đóng tại Nhà máy đóng tàu Tokyo số 1 và Nhà máy đóng tàu Nagasaki. Chiếc đầu tiên mang số hiệu "JDS Kongo" DDG-173 đã được Nhật khởi đóng vào tháng 5 năm 1990 và được hạ thủy vào tháng 3 năm 1993. Trong giai đoạn 1992-1998, 3 chiếc tiếp theo cũng đã lần lượt được phía Nhật đóng mới và đưa vào sử dụng ("JDS Kirishima" DDG-174, "JDS Myoko" DDG-175 và "JDS Chokai" DDG-176). Cả bốn tàu của Nhật đều được đặt theo tên các tàu chiến lừng danh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Lớp Kongo nằm trong số các khu trục hạm lớn nhất từng được JMSDF chế tạo, cho tới khi tàu khu trục lớp Atago ra đời. Khác với hàng chục tàu khu trục lớp Arleigh Burke "hàng chợ" của Hải quân Liên bang Mỹ, người Nhật đã trang bị cho 4 tàu khu trục hiện đại nhất của mình những trang thiết bị đa dạng, biến chúng thành các tàu khu trục đa năng, đáp ứng nhiều vai trò tác chiến trong mọi hoàn cảnh: tác chiến phòng không (AAW), chống ngầm (ASW) và chống tàu mặt nước (ASuW). Ngoài ra, tàu còn có thể tham gia thực hiện nhiều nhiệm vụ thông thường khác, như đảm bảo an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu hộ, hộ tống, đổ bộ và vận tải... Tàu khu trục lớp Kongo có một vẻ ngoài khá đặc biệt, phải nói là chẳng giống bất kỳ chiếc khu trục nào từng được trang bị cho JMSDF. Nhưng nhờ với vẻ ngoài khác biệt đó, nó có thể qua mặt được bất kỳ hệ thống radar nào trên thế giới. Tuy dựa trên nền tảng thiết kế chính là tàu khu trục lớp Arleigh Burke, nhưng biến thể của Nhật khác nhiều mẫu cơ sở cả về thiết kế bên trong, lẫn ngoại hình.  Tàu có cột buồm dạng chấn song thẳng đứng thay vì hơi nghiêng ra phía sau như tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ. Cấu trúc thượng tầng của tàu được làm bằng hợp kim nhôm, gia cố thêm nhựa thủy tinh để làm giảm khối lượng, đồng thời có cấu trúc dẹp cao và vát hơn so với nguyên mẫu. Ngoài ra, với việc bổ sung thêm nhiều khoang trên phần thượng tầng, làm Kongo cao hơn so với bản Arleigh Burke Flight I. So với mẫu Arleigh Burke cơ sở, sự bố trí vũ khí trang bị cũng có sự thay đổi, một khẩu pháo hạm 127mm của Công ty OTO Melara, Italia được lắp thay cho pháo hạm Mk-45 của Mỹ.  Điểm khác biệt lớn nhất của các tàu thuộc lớp Kongo và Atago so với các các phiên bản Arleight Burke của Mỹ là tàu khu trục Nhật Bản không được trang bị tên lửa hành trình Tomahawk, đáp ứng chủ trương phòng thủ, không sử dụng vũ khí tấn công của JMSDF. Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản đang xem xét việc mua tên lửa Tomahawk, chính thức hoàn thiện kho vũ khí cho các chiến hạm mạnh nhất của mình. Kongo cũng là một trong những chiếc tàu khu trục có kích thước khổng lồ: dài 161m, rộng 21m, mớn nước 6,2m, chiều dài của tàu chỉ kém tàu khu trục lớp Cơ Long của Đài Loan 16.7m. Tàu có tải trọng đầy tải tới 9.500 tấn, tải trọng của tàu đạt gần bằng tải trọng của tàu tuần dương nếu xét theo tiêu chuẩn NATO. Do tải trọng và kích thước quá lớn nên tàu khu trục này bị hạn chế khả năng hoạt động khi tác chiến tại các khu vực gần bờ. Để vận hành con tàu cần có đội thủy thủ đoàn khoảng 300 người, trên các tàu khu trục lớp Kongo có không dưới 10 sĩ quan chỉ huy cấp cao điều hành các bộ phận. Tuổi đời trung bình của thủy thủ đoàn trên tàu khu trục lớp Kongo là 35 tuổi. Không gian sinh hoạt của thủy thủ đoàn. Các khoang sinh hoạt của tàu được bổ trí ở khoảng giữa thân tàu và khoang trên boong thượng. Các gường tầng nhỏ được lắp thành các block có 6 gường, các block được ngăn bằng các vách ngăn mỏng. Lớp sàn của tàu được thiết kế không gian thân thiện với thủy thủ đoàn, cách sắp xếp ngăn nắp và không gian làm việc rộng mở cho phép việc đi lại dễ dàng từ đầu tàu tới cuối tàu. Lối đi được thiết kế chống trượt, rộng rãi, trang bị các đèn LED chiếu sáng thấp dùng cho các hoạt động về đêm, và bố trí cẩn thận, hợp lý các thanh cầm tay. Thuyền viên có thể đi lại trên tàu một cách an toàn dù là ngày hay đêm, thậm chí trong cả điều kiện thời tiết bất lợi. Các nhà thiết kế cũng lắp đặt trên tàu một thư viện nhỏ với hàng nghìn đầu sách khác nhau, ngoài giờ trực chiến các thủy thủ đoàn và sĩ quan có thể đến đây tham khảo, bổ sung kiến thức cho mình hoặc đơn giản chỉ là thú vui đọc sách giết thời gian vì thực tế cuộc sống trên tàu rất tẻ nhạt, không có nhiều phương tiện giải trí. Rất nhiều thủy thủ JMSDF đã tự học trong quá trình công tác trên biển để thi lên các cấp sĩ quan chỉ huy cao hơn, một vài người lại sử dụng khoảng thời gian này cho việc tìm hiểu những kiến thức thuộc các ngành nghề khác để có kỹ năng xin việc sau khi rời quân ngũ. Không thể thiếu được trên tàu đó là phòng giặt là, thủy thủ đoàn sẽ giặt quần áo theo lịch được xếp trước, tránh tình trạng lộn xộn, gây lẫn lộn quân trang. Ngoài quân phục bao gồm áo ngoài, quần ngoài và đồ lót, các thủy thủ được phép mang theo và sử dụng trên tàu các loại áo phông và quần cộc tối màu. Phòng phơi đồ ngay cạnh phòng giặt, vì không có ánh nắng chiếu vào phòng này nên phòng được lắp đặt hệ thống hút ẩm bằng quạt gió và đèn công suất cao để hong khô quần áo. Các máy bán hàng tự động cũng được lắp đặt với rất nhiều đồ ăn vặt và mì hộp các loại để phục vụ nhu cầu của các thủy thủ. Những đồ ăn vặt và đồ hộp này có hạn sử dụng khá lâu nên được dự trữ với số lượng lớn trên tàu, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu của binh lính trong các cuộc hành quân dài ngày trên biển. Trên tàu còn có hệ thống máy tính để bàn để phục vụ cho việc giải trí của các thủy thủ. Do đa phần đều là thủy thủ trẻ tuổi nên các máy tính ở đây dù không có mạng internet để sử dụng nhưng lúc nào cũng có sẵn khá nhiều game cho thủy thủ giải trí bằng hệ thống mạng nội bộ. Phòng tập đa năng với nhiều loại máy tập hiện đại giúp thủy thủ đỡ "cuồng chân cuồng tay" khi phải sinh hoạt và làm việc trong một không gian chật trội suốt thời gian dài. Các máy chạy bộ luôn hoạt động hết công suất để phục vụ cho nhu cầu giải phóng năng lượng của các thủy thủ. Ngoài ra còn có các máy tập đạp xe, tạ nâng các loại, xà đơn và xà kép,v..v... để các binh lính nâng cao sức khỏe cũng như rèn luyện thể lực cho bản thân. Do là một con tàu hiện đại, sử dụng rất nhiều các công nghệ tự động lại không có không gian chạy nhảy nên nếu không có chế độ tập luyện thường xuyên các thủy thủ sẽ rất dễ rơi vào tình trạng... béo bụng giống với dân văn phòng. Trên tàu còn có một phòng y tế nhỏ với đầy đủ trang thiết bị y tế, thuốc thang cũng như bác sĩ để chữa trị cho những thủy thủ không may bị bệnh giữa biển. Các cán bộ của phòng y tế này cũng kiêm luôn nhiệm vụ kiểm soát vệ sinh trên tàu, công việc này được tiến hành thường xuyên và sát sao do đặc tính ở tập trung trong không gian hẹp nên các bệnh như ghẻ lở, lang ben, kiết lỵ, tả... rất dễ lây lan nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời. Kho thuốc trên tàu có đủ số lượng thuốc cho nhiều loại bệnh khác nhau từ cảm cúm, sốt cho tới các loại kháng sinh liều cao, thuốc giảm đau, thuốc an thần. Đặc biệt các kho thuốc trên các tàu chiến của JMSDF thường có lượng dự trữ thuốc giảm đau dạng gây nghiện như Morphin rất cao, đề phòng trường hợp các thủy thủ bị thương nặng trong khi giao tranh. Phòng thông tin của tàu với nhân viên trực ban có nhiệm vụ đọc các thông tin về tình hình chính trị, xã hội của Nhật Bản cũng như của thế giới hàng ngày cho binh sĩ. Do đặc tính tách biệt hoàn toàn với đất liền để đảm bảo bí mật vị trí tàu nên các bản tin cập nhật thông tin rất được chú trọng để binh lính có thể cập nhật được tin tức từ trong đất liền sớm nhất có thể. Phòng bếp trên tàu có dự trữ khá nhiều đồ ăn đông lạnh, từ thịt cho tới rau củ quả. Nhà bếp hoạt động 24/7 để phục vụ cho 2 ca làm việc kéo dài 12 tiếng mỗi ngày, các thủy thủ sẽ có đồ ăn nóng phục vụ bất cứ lúc nào họ muốn. Phòng ăn cũng như đồ ăn của sĩ quan được chuẩn bị riêng. Khẩu phần ăn của thủy thủ Nhật Bản thường mang đậm chất truyền thống và cá là một trong những thực phẩm không thể thiếu trong các bữa ăn của người Nhật nói chung và binh sĩ JMSDF nói riêng. Vì diện tích các phòng chức năng, khu giải trí trên tàu có hạn nên trong lúc giải lao các thủy thủ trên tàu cũng phải đảm bảo kỷ luật giờ giấc nghiêm ngặt, các thủy thủ cũng phải tránh tuyệt đối việc tụ tập với số lượng lớn người ở một phòng nào đó, gây khó khăn trong trường hợp có báo động khẩn hoặc sẽ bị tổn thất nặng về nhân mạng khi bị tấn công bất ngờ mà không kịp di chuyển vào vị trí trực chiến. Hệ thống điện tử. Tàu khu trục lớp Kongo được trang bị hệ thống Chỉ huy, kiểm soát, thông tin, máy tính và tình báo (Command, Control, Computer, Communication & Intelligence - C4I). Hệ thống C4I bao gồm các hệ thống thông tin vệ tinh AN/USC-32 (EHF), NORA-1, NORQ-1, hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) và hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm OYQ-102 ASWCS. Hệ thống chiến đấu Aegis (AWS). Aegis là viết tắt của cụm từ Airbonne Early-waring Ground Intergration Segment (Bộ phận hợp nhất thông tin cảnh báo sớm đường không trên mặt đất). Hệ thống Aegis được Lockheed Martin thiết kế và đưa vào sử dụng lần đầu đầu tiên từ năm 1987 trên tàu tuần dương lớp Ticonderoga, biến thể sử dụng trên các phiên bản tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ và các nước đồng minh được đưa vào sử dụng năm 1991. Hệ thống Aegis là một hệ thống công nghệ phát hiện, theo dõi, tấn công mục tiêu cực kỳ phức tạp. Đến nay, Aegis vẫn là hệ thống chiến đấu có 1-0-2 trên thế giới. Trong năm 2007, tập đoàn Lockheed Martin đã nhận được hợp đồng trị giá 124 triệu USD để nâng cấp khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo cho 4 tàu khu trục lớp Kongo của JMSDF. Toàn bộ chương trình nâng cấp đã được phía Lockheed Martin hoàn tất vào năm 2010. Bốn tàu khu trục lớp Kongo sẽ kết hợp cùng với các tàu khu trục lớp Arleight Burke của Mỹ trong khu vực châu Á tạo nên thế trận phòng thủ tên lửa đạn đạo chung giữa 2 nước.  Radar AN/SPY-1D: "Trái tim" của hệ thống chiến đấu trên tàu khu trục Aegis Kongo là radar quét mạng pha điện tử thụ động (PESA) AN/SPY-1D được sản xuất bởi Lockheed Martin, hoạt động trên băng tần S (3,1 - 3,5 GHz). Kết cấu của AN/SPY-1D gồm 4 mảng radar kiểu dáng hình lục giác được thiết kế xung quanh tháp chỉ huy bao quát đủ 360 độ quanh tàu giúp cho việc trinh sát được liên tục, không bị ngắt quãng, cung cấp kênh dẫn hướng pha giữa cho tên lửa đánh chặn SM-2/SM-3. Hệ thống này sử dụng 4 máy tính tốc độ cao để khống chế và điều khiển rada; 4 màn hình hiển thị độ phân giải cao; 4 đài chỉ huy điều khiển và 2 đài chỉ huy xuất/nhập tham số. Thông qua hệ thống cung cấp số liệu này, sĩ quan chỉ huy có thể dễ dàng nhận biết tình hình tác chiến xung quanh và có thể ngay lập tức ra lệnh cho các hệ thống chiến đấu. Kết hợp các công nghệ tiên tiến và hệ thống cấu trúc mạnh mẽ, radar AN/SPY-1D sử dụng nhiều chùm tia điện tử và xung Doppler kỹ thuật số khác nhau, cũng như các kỹ thuật đối phó điện tử (ECCM) mạnh mẽ. Với công suất phát 4MW, mỗi mảng có khả năng bắt, bám và dẫn tên lửa đánh hơn 200 mục tiêu cùng lúc, cho phép mỗi tàu Arleigh Burke quản lý tới 800 mục tiêu. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có thể đánh cùng lúc 4 mục tiêu ở cự ly ngoài 74 km do hạn chế về hệ thống điều khiển hoả lực. Radar SPY-1D có khả năng phát hiện mục tiêu kích cỡ bằng quả bóng golf ở cự ly tới 165 km, phát hiện mục tiêu tên lửa đạn đạo ở cự ly tối đa 310 km. Ưu điểm lớn nhất của AN/SPY-1D là đường truyền dữ liệu tới tên lửa được tích hợp thẳng vào radar, thay vì phải dùng bộ phát riêng như các biến thể trước đó, còn nhược điểm là radar sẽ hoạt động kém hiệu quả khi hoạt động tác chiến tại các khu vực lộn xộn gần bờ (tức là các mục tiêu nằm giữa các khu vực vừa có mặt đất, mặt nước, núi đồi…).  Hệ thống chỉ huy và quyết định Mk1 (CSD): Hệ thống chỉ huy và ra quyết định Mk1 là trung tâm điều khiển tác chiến trên các tàu chiến mặt nước với thành phần chính gồm: Máy tính tốc độ cao AN/UYK-7 và hệ thống hiển thị tổng hợp AN/UYK-43. Hệ thống Mk1 có nhiệm vụ tiếp nhận và hiển thị các thông tin được truyền đến từ hệ thống rada trinh sát của các tàu chiến, máy bay, hệ thống sonar, radar trinh sát đường không, hệ thống điện tử và hệ thống trinh sát vệ tinh. Hệ thống Mk1 sử dụng 4 phương thức chỉ huy và ra quyết định đó là: Hoàn toàn tự động; tự động; bán tự động và thao tác ứng cứu. Hệ thống kiểm soát và điều khiển vũ khí Mk1 (WCS): Hệ thống này có chức năng chính là khống chế, điều khiển toàn bộ các loại vũ khí được trang bị trên tàu chiến. Đối với hệ thống chiến đấu Aegis trên tàu chiến mặt nước, ngoài các loại vũ khí đối hải, đối đất và chống ngầm, hệ thống kiểm soát và điều khiển vũ khí Mk1 có thể điều khiển, kiểm soát được tên lửa phòng không SM, hệ thống vũ khí phòng không tầm gần, các loại vũ khí trang bị trên máy bay chiến đấu của JASDF đang tác chiến tại cùng khu vực và hệ thống tác chiến điện tử. Hệ thống này sẽ nhận lệnh từ hệ thống chỉ huy và ra quyết định, sau đó căn cứ vào các tham số đo đạc liên quan tới mục tiêu từ hệ thống rada AN/SPY-1D. Những số liệu này sẽ được máy tính tốc độ cao xử lý để xác định khả năng uy hiếp của mục tiêu. Sau đó, hệ thống sẽ ra lệnh cho hệ thống phóng vũ khí Mk-41 mod 6 để tiêu diệt mục tiêu đồng thời lập tức báo cáo số kiệu ngược trở lại hệ thống chỉ huy và ra quyết định.     Hệ thống hiển thị Aegis ADS: là máy tính điều khiển cung cấp hiển thị các hình ảnh phức tạp khác nhau về môi trường chiến thuật. Hệ thống được hiển thị dưới dạng hình ảnh mô phỏng đồ họa. Với ADS, thuyền trưởng có thể quan sát và kiểm soát tình trạng hệ thống như môi trường xung quanh, hệ thống vũ khí và tình huống chiến tranh cụ thể. Sau khi nhập dữ liệu hệ thống sẽ tự động hiển thị thông tin về vị trí của tàu và các hệ thống liên quan. ADS được cập nhật thông tin từ hệ thống CSD.     Hệ thống hoạt động thử nghiệm ORTS: là hệ thống giám sát và thử nghiệm điều khiển máy tính, có khả năng phát hiện các lỗi, cách ly, theo dõi tình trạng và cấu hình lại hệ thống. ORTS tự động đánh giá và hiển thị mức cao nhất các tác động đến hệ thống. Thông qua bàn phím, các binh sĩ có thể bắt đầu thử nghiệm, đánh giá hiệu năng của hệ thống, tải các chương trình hay ứng dụng mới vào máy tính của Aegis. ORTS được thiết kế nhằm kiểm soát tất cả các lỗi có thể xảy đối với hệ thống đảm bảo cho hệ thống vận hành một cách chính xác nhất. Hệ thống đào tạo Aegis: cho phép các binh sĩ trên tàu khu trục lớp Kongo thực hiện đào tạo thông qua các kịch bản chiến tranh. Hệ thống có khả năng ghi lại các tình huống, các sự kiện cụ thể cho việc tự đánh giá. Cảm biến/radar. Các bộ cảm biến trên tàu bao gồm radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28D (tương tự radar Mk-32 của Mỹ) và radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20. Sonar. Ngoài khả năng phòng không và tấn công mặt đất, những chiếc lớp Kongo còn đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác, đặc biệt là tác chiến chống ngầm. Chúng được trang bị hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm OYQ-102 ASWCS, hệ thống này sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện; xác định vị trí tàu ngầm OQS-102 và sonar kiểu mảng kéo OQR-2 TASS sau tàu. Anten của OQS-102 được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động. Hệ thống kiểm soát hỏa lực (FCS). Hệ thống điều khiển hỏa lực FCS-2-21G do Nhật tự sản xuất dùng để dẫn bắn cho pháo hạm 127 mm Oto Melara và hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk-99. Hệ thống này có nhiệm vụ so sánh đối chiếu và phân loại các loại mục tiêu. Sau khi tiếp nhận tín hiệu từ hệ thống chỉ huy và ra quyết định Mk1, Mk-99 sẽ sử dụng hệ thống radar AN/APG-62A (hoạt động trên băng tần J) để tiến hành phân loại các loại mục tiêu khác nhau đồng thời ngay lập tức truyền tham số tới hệ thống phóng để sẵn sàng ra lệnh cho các tên lửa đánh chặn SM-2/SM-3. Tàu có 4 anten có thể cùng lúc dẫn tên lửa đánh 4 mục tiêu. Hệ thống chiến tranh điện tử. Phương thức "bảo vệ mềm" (soft-kill) của Kongo bao gồm hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2 ESM/ECM và hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC (4 giá x18-ống phóng bố trí ở giữa thân tàu). Hệ thống này được cấu thành bởi hai bộ phận chính là trinh sát điện tử và gây nhiễu điện tử. Hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2 ESM/ECM được điều khiển bởi một máy tính tốc độ cao có khả năng xử lý, quản lý hàng nghìn phép tính/giây và được vận hành bằng phương thức tự động hoặc bán tự động. Trong đó, bộ phận trinh sát điện tử sử dụng băng tần hỗ hợp nên có khả năng mở rộng dải trinh sát với độ chính xác lên tới 1 độ và phạm vi bao phủ 360 độ. Còn bộ phận gây nhiễu điện tử được cấu thành bởi 4 annten, mỗi anten có khả năng tác nghiệp một goc 90 độ với tổng cộng 140 dải tần số khác nhau. Hệ thống này có thể cùng một lúc gây nhiễu đối với 80 bộ radar với thời gian phản ứng trước các tình huống cực ngắn. Hệ thống Mk-137 SRBOC thường kết hợp với hệ thống chiến tranh điện tử NOLQ-2 ESM/ECM. Mk-137 SRBOC được bắt đầu đưa vào trang bị từ năm 1976, với bán kính tác chiến gây nhiễn là 4 km; công suất gây nhiễu từ 7 - 8 kW; công suất gây nhiễu hồng ngoại từ 3 - 5 kW; độ cao tác chiến là 150m, độ trễ là 3,5 - 0,5 giây; thời gian hình thành khu vực gây nhiễu là 8,5 giây; thời gian hình thành tường hồng ngoại gây nhiễu là 6 giây. Cơ chế hoạt động của Mk-137 đó là phóng ra các quả rocket chứa nhiều lá nhôm để tạo các mục tiêu giả qua đó đánh lừa hệ thống đầu dò mục tiêu trên tên lửa của đối phương, từ đó khiến tên lửa đối phương bắn nhầm mục tiêu. Ngoài ra, tàu còn có hệ thống nhử mồi ngư lôi kiểu mảng kéo Type 04 được điều khiển số hóa và thiết kế kiểu module, có khả năng đánh lừa loại ngư lôi tìm bắt mục tiêu nhờ âm thanh. Khi triển khai, Type 04 được phóng ra từ phía đuôi tàu thông qua ống phóng để phóng ra một phao tiêu hình dây, sử dụng một dây cáp điện đồng trục truyền tín hiệu kéo theo phía đuôi tàu. Bên trong phao tiêu là một thiết bị phát âm thanh dưới nước, sử dụng phương thức điện tử hoặc điện cơ để phát ra tín hiệu âm thanh dụ ngư lôi. Do tín hiệu phát ra mạnh hơn cả tín hiệu âm thanh của tàu nên có thể bảo vệ cho tàu không bị tấn công. Hệ thống thông tin liên lạc. Hệ thống thông tin liên lạc của tàu ngoài hoạt động trên tần sóng ngắn thông thường (HF), tần số rất cao (VHF) và tần số cực cao (UHF), còn có thể tham gia vào mạng dữ liệu tích hợp (JDN) và Hệ thống dữ liệu chiến thuật Hải quân (NTDS). Được liên kết thông qua hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Link 11 và Link 16. Đối với liên lạc vệ tinh, tàu đươc trang bị hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1 (hoạt động trên băng tần X) dùng để kết nối với vệ tinh SUPERBIRD B2, NORQ-1 (hoạt động trên băng tần Ku) và AN/USC-42 kết nối với UHF-SATCOM của Quân đội Liên bang Mỹ. Các hệ thông này giúp kết nối tất cả các đơn vị thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và đồng minh tới từng thiết bị quân sự. Cho phép tàu lớp Kongo có thể trao đổi với các tàu chiến khác cũng như các máy bay chiến đấu và các lực lượng mặt đất của JSDF các dữ liệu dạng hình ảnh, tọa độ mục tiêu và tin nhắn dạng văn bản ở cấp chiến thuật trong thời gian gần với thời gian thực. Ngoài link-16, Atago còn được tích hợp hệ thống phối hợp trong tác chiến (CEC) của Mỹ. CEC trên tàu kết hợp với máy bay cảnh báo sớm trên không AWACS E-2D Hawkeye của Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) cho phép chia sẻ dữ liệu cảm biến để dẫn đường cho tên lửa. E-2D có thể cung cấp dữ liệu mục tiêu cho tên lửa SM-2/SM-3 phóng đi từ tàu để tấn công các mục tiêu bên ngoài tầm của radar trên chiến hạm. Ngoài ra, CEC còn cho phép các tàu lớp Atago phối hợp với các tàu chiến và máy bay của Quân đội liên bang Mỹ. Các nhược điểm của Hệ thống chiến đấu Aegis (AWS). Vào khoảng 2h30 sáng ngày 17 tháng 6 năm 2017, tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường "USS Fitzgerald" (DDG-062) của Hải quân Liên bang Mỹ (US Navy) đã va chạm với tàu chở hàng "ACX Crystal" của Philippines. Cú va chạm này làm tàu khu trục của Mỹ bị hư hại nặng khiến nước tràn vào tàu, 7 thủy thủ tử nạn. Sau vụ tai nạn, dư luận Mỹ và các nhà phân tích quân sự đặt câu hỏi, tại sao một tàu chiến hiện đại như vậy lại không thể phát hiện ra mối nguy hiểm đe dọa (dẫu chỉ là mối đe dọa thông thường). Lỗi này do con người hay do các thiết bị trên tàu không kịp thời phát hiện những nguy hiểm để kịp thời phát tín hiệu cảnh báo. Một loạt các cuộc điều tra đã được Bộ Quốc phòng và Hải quân Liên bang Mỹ tiến hành, qua đó các nhà điều tra đã phát hiện ra nhiều điểm yếu chết người trên những con tàu chiến hiện đại được trang bị hệ thống Aegis. Nếu một cuộc chiến thực sự xảy ra, những điểm yếu này có thể sẽ bị phía đối phương triệt để khai thác. Hệ thống chiến đấu Aegis là sự tích hợp của nhiều thành phần khác nhau, dựa trên một số hệ thống cảm biến riêng biệt để theo dõi các mối đe dọa khác nhau. Tất cả các hệ thống được kết hợp chặt chẽ với nhau, cùng thực hiện tấn công các mối đe dọa trên không; tuy nhiên, những hệ thống nhánh này dù ít hay nhiều đều tồn tại những nhược điểm; những nhược điểm này đã tạo kẽ hở cho tên lửa đạn đạo chống hạm đột phá hệ thống phòng thủ Aegis. Các điểm hạn chế của hệ thống radar quét mạng pha điện tử thụ động (PESA) AN/SPY-1: Loại radar này là sensor chủ yếu của hệ thống phòng không biên đội tàu sân bay; trong điều kiện lý tưởng (không bị chế áp điện tử) độ chính xác cự ly đo là 0,2 mét với cự ly dò tìm mục tiêu trong vòng bán kính khoảng 500 km. Chính vì thế, để phá vỡ thế phòng thủ của AN/SPY cần phải có những biện pháp. Một trong những biện pháp đối phó hiệu quả nhất khi không thể né tránh phạm vi dò tìm của hệ thống Aegis đó là sử dụng mồi nhử nhiều nhất có thể; mục đích làm nhiễu loạn việc nhận biết mục tiêu của các radar trong hệ thống Aegis, từ đó vô hiệu hóa hệ thống này. Do bước sóng của bản thân hệ thống Aegis tương đối dài, không có năng lực tạo ảnh, mà phải dựa vào đặc trưng dội sóng (sóng truyền ngược trở lại) của mục tiêu để phán đoán thuộc tính của mục tiêu, do vậy chỉ cần mồi nhử mô phỏng đầu đạn thật trên có đặc trưng dội sóng của radar sóng S là có thể đánh lừa được radar AN/SPY-1. Như vậy, khi đối phó với hệ thống radar này, các tên lửa tiến công có thể mang theo nhiều mồi nhử dạng nhẹ và thả ra trong giai đoạn giữa của quá trình bay, từ đó làm cho các radar của Aegis không thể nào phân biệt được đâu là mục tiêu thật, đâu là mục tiêu giả. Do trọng lượng của loại mồi nhử nhẹ này cực nhỏ, chỉ khoảng 0,5 kg. Tên lửa liên lục địa RT-2PM2 Topol-М của Nga có thể một lần mang theo trên 100 mồi nhử, Dong-Feng 21D của Trung Quốc có thể mang theo ít nhất trên 20 mồi nhử; với số lượng mồi nhử như vậy, thì hoàn toàn có thể qua mặt hệ thống Aegis. Trong điều kiện rađa AN/SPY-1 không phân biệt được mục tiêu, thì cho dù có phóng tên lửa RIM-161 Standard SM-3 Block 1A ABM và phương tiện đánh chặn ở căn cứ trên mặt đất cũng không thể bắn trúng mục tiêu. Nhược điểm Hệ thống chỉ huy và quyết định Mk1 (CSD) và biện pháp đối phó: Tốc độ xử lý và tính năng phần mềm của hệ thống kiểm soát chỉ huy Aegis thuộc loại tài liệu tuyệt mật, tạm thời chưa có các thông số chi tiết. Tuy nhiên từ góc độ xử lý thông tin cho thấy, sau khi phát hiện tên lửa tấn công, hệ thống Aegis phải trải qua quá trình xử lý và gửi tín hiệu.Trong đó chắc chắn bao gồm quá trình truyền tải thông tin và xử lý tín hiệu giữa hệ thống kiểm soát chỉ huy MK1 và tên lửa đánh chặn. Chính điều này đã tạo nên nhược điểm của tàu trang bị hệ thống Aegis.Bởi nếu tín hiệu thông tin gặp sự cố thì không thể điều khiển tên lửa tiến hành đánh chặn, hoặc bản thân phương pháp lọc tín hiệu tồn tại những kẽ hở thì việc đánh chặn cũng sẽ thất bại.Trên thực tế, trong nhiều cuộc thử nghiệm đánh chặn của hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo quốc gia Mỹ, có không ít lần gặp thất bại do tên lửa và hệ thống chỉ huy mặt đất gặp sự cố. Do đó gây nhiễu hệ thống thông tin được coi là một trong những biện pháp hiệu quả để xuyên thủng hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ. Ngoài ra, phương pháp lọc tín hiệu của hệ thống chỉ huy kiểm soát MK1 thông thường là phương pháp lọc Kalman, mà nhược điểm của phương pháp lọc này là quá phụ thuộc vào trạng thái đã qua của mục tiêu. Một khi mục tiêu bị che lấp thời gian dài sẽ dẫn đến đánh mất mục tiêu. Do vậy, có thể thông qua phương pháp chiến thuật tiến hành gây nhiễu. Về phương pháp cũng sử dụng lượng lớn mồi nhử để đánh lừa, làm cho hệ thống khó phân biệt được đâu là mục tiêu thật, đâu là mục tiêu giả, từ đó làm cho phương pháp lọc Kalman mất đi tính chính xác hoặc có thể sử dụng thiết bị gây nhiễu để gây nhiễu thông tin trao đổi giữa Aegis và tên lửa đánh chặn, làm cho tên lửa mất điều khiển. Tên lửa. Tên lửa phòng không RIM-66M-2 Standard SM-2ER Block 3A/RIM-161 Standard SM-3 Block 1A ABM. Tàu khu trục lớp Kongo được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng VLS Mk-41 mod 6 với 29 ống phía sau và 61 ống phía trước.Việc bố trí phân tán vũ khí đảm bảo tàu khu trục có thể duy trì hỏa lực khi một hệ thống bị trục trặc hoặc một khu vực trên tàu bị tấn công. Trong tác chiến phòng không, tàu trang bị tên lửa phòng không tầm xa RIM-66M-2 Standard SM-2ER Block 3A tầm bắn từ 74–170 km, tầm cao 24 km, tốc độ hành trình Mach 3,5. RIM-66M-2 Standard SM-2ER Block IIIA là một phiên bản nâng cấp của dòng tên lửa SM-2MR do Tập đoàn Raytheon (Mỹ) nghiên cứu phát triển và đưa vào sử dụng trong những năm 1990. RIM-66M-2 được trang bị hệ thống dò tìm đôi IR/SARH, hệ thống dò tìm hồng ngoại IR gắn bên cạnh tên lửa và một động cơ phụ tăng cường lực đẩy Mk-72 ứng dụng hệ thống kiểm soát lực đẩy vector để điều chỉnh đường bay và không có vây ổn định. Tên lửa SM-2ER Block 3A được dẫn đường qua 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tên lửa sẽ được đưa ra khỏi ống phóng Mk-41 bằng tầng đẩy phụ Mk-72. Tên lửa thiết lập các thông số liên lạc với tàu Aegis. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng bằng quán tính.Giai đoạn giữa tên lửa tách bỏ tầng đẩy phụ Mk-72 và kích hoạt động cơ tên lửa nhiên liệu rắn lực đẩy kép Mk-104. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng thông qua radar AN/SPY-1D của tàu phóng. Giai đoạn cuối tên lửa được dẫn bằng radar bán chủ động. Mỗi quả tên lửa SM-2ER Block 3A có giá khoảng 3 triệu đô la. Hệ thống phóng thẳng đứng VLS Mk-41 mod 6 có thể mang được từ 42 - 58 quả tên lửa   Chương trình nâng cấp giai đoạn 2007-2010 cho phép lớp tàu Kongo sử dụng tên lửa đánh chặn RIM-161 Standard SM-3 Block 1A ABM cho nhiệm vụ phòng thủ tên lửa đạn đạo. Tên lửa đánh chặn SM-3 nặng 1,5 tấn, dài 6,55m, đường kính thân 0,34m, sải cánh 1,57m. SM-3 được thiết kế với 3 tầng động cơ đẩy nhiên liệu rắn cho phép đạt tốc độ đánh chặn 9.600 km/h (gấp gần 8 lần vận tốc âm thanh), tầm bắn trên 500 km, độ cao bay 160 km. Tháng 2 năm 2008, sau quá trình chuẩn bị, SM-3 Block 1А đã được sử dụng để tiêu diệt vệ tinh mất điều khiển USA-193 ở độ cao 247 km. Nguyên lý hoạt động của SM-3 Block 1A là khi hệ thống radar mạng pha AN/SPY-1D phát hiện mục tiêu tên lửa đạn đạo, hệ thống vũ khí Aegis dựa vào các thông số cần thiết (tốc độ mục tiêu, quỹ đạo bay) tính toán một giải pháp đánh chặn. Sau đó, hệ thống sẽ kích hoạt tên lửa đánh chặn SM-3 Block 1A để tiêu diệt mục tiêu. SM-3 Block 1A rời bệ phóng thẳng đứng Mk-41 mod 20 bằng tầng động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn Mk-72 4 loa phụt. Giai đoạn này tên lửa chủ yếu được dẫn đường bằng hệ thống định vị quán tính. Khi cháy hết nhiên liệu, tên lửa sẽ tách tầng khởi tốc Mk-72 và kích hoạt động cơ tăng tốc – hành trình 2 chế độ Mk-104. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng thông qua radar AN/SPY-1D trên tàu phóng với sự hỗ trợ của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Sau khi tách tầng đẩy Mk-104, tầng 3 động cơ đẩy tăng cường Mk-136 (cháy trong 30 giây) sẽ được kích hoạt và đưa tên lửa vượt ra ngoài tầng khí quyển. Мk-136 là động cơ nhiên liệu rắn 2 lần khởi động do Công ty Alliant Techsystems (ATK) chế tạo. Nó được nạp 2 liều phóng rắn ngăn cách bởi hệ thống barier, kết cấu của nó làm bằng các vật liệu composite epoxy grafit và carbon-carbon. Để ổn định và định hướng tầng 3 tên lửa khi bay tự hoạt trong thành phần động cơ có hệ thống điều khiển tích hợp sử dụng gas lạnh làm thể công tác. Khi tên lửa tách tầng đẩy Mk-136, thì kết cấu tầng tự dẫn LEAP (Lightweight Exo-Atmospheric Projectile) nặng 23 kg được kích hoạt. Tầng tự dẫn LEAP sẽ tự động tìm kiếm mục tiêu thông qua các dữ liệu từ hệ thống chiến đấu Aegis trên tàu phóng tên lửa. LEAP dùng một cảm biến hồng ngoại kết hợp radar bán chủ động để xác định mục tiêu. LEAP có thể phân biệt được đâu là đầu đạn tên lửa, đâu là mảnh vụn tách ra từ tầng đẩy tên lửa. Trong module LEAP tích hợp đầu đạn động năng (dùng động lực để phá hủy mục tiêu thay vì thuốc nổ). Theo tính toán, động năng của vụ va chạm có thể đạt 130 Jun (tương đương với 31 kg thuốc nổ TNT) đủ khả năng phá hủy mục tiêu tên lửa đạn đạo. Phương pháp này bảo đảm không kích nổ đầu đạn hạt nhân mục tiêu, hạn chế thiệt hại cho khu vực bên dưới. Bù lại, hệ thống dẫn đường đòi hỏi độ chính xác rất cao, chỉ một sai sót nhỏ cũng khiến nó lệch mục tiêu và trở nên vô dụng. Đây cũng là lý do khiến các cuộc thử nghiệm SM-3 có tỷ lệ thành công thấp. Một vấn đề khác ảnh hưởng tới khả năng phòng thủ tên lửa của lớp Kongo chính là chi phí của SM-3 Block 1А. Để bảo đảm khả năng đánh chặn hiệu quả, tàu chiến phải phóng nhiều quả đạn cho mỗi mục tiêu MRBM và IRBM. Điều này đòi hỏi mỗi tàu lớp Kongo phải mang cơ số tên lửa SM-3 Block 1А lên tới hàng chục quả. Trong khi đó, mỗi quả tên lửa SM-3 Block 1А có đơn giá 9,5-10 triệu đô la, khiến việc trang bị đại trà cho toàn bộ các tàu khu trục lớp Kongo và Aatgo là gánh nặng lớn với ngân sách quốc phòng của Nhật Bản. Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL ASROC.. Trong tác chiến chống ngầm, tàu được trang bị tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC. Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC được Tập đoàn Lockheed Martin (Mỹ) phát triển vào năm 1983 và chính thức chấp nhận đưa vào trang bị năm 1993. Cấu tạo của RUM-139 tương tự các họ tên lửa chống ngầm của Liên Xô.  Nó gồm hai tầng động cơ phản lực nhiên liệu rắn, động cơ tầng thứ nhất là động cơ tăng tốc lấy độ cao, động cơ tầng thứ hai là động cơ hành trình nhiên liệu rắn. RUM-139 VL ASROC có chiều dài 4,5m, đường kính thân 0,38m, trọng lượng 820 kg và đạt tầm bắn 28 km. Tên lửa mang một quả ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Mk-46. Khi có thông tin phát hiện tọa độ khu vực hoạt động của tàu ngầm đối phương từ hệ thống radar, các thông tin, dữ liệu về tọa độ mục tiêu, quỹ đạo đường đạn sẽ được truyền tải đến hệ thống máy tính điều khiển của tàu. Từ bàn điều khiển, các binh sĩ sẽ tiến hành triển khai các hoạt động chuẩn bị tên lửa, nạp dữ liệu mục tiêu vào bộ nhớ máy tính tên lửa và phóng tên lửa. Hệ thống dẫn đường quán tính được sử dụng khi bay tiếp cận vị trí của mục tiêu trong cơ sở dữ liệu  Ở một vị trí định sẵn trên quỹ đạo đường bay, ngư lôi sẽ tự tách khỏi tên lửa và rơi xuống biển bằng dù hãm, việc này sẽ giúp giảm thiểu tối đa âm thanh khi rơi xuống nước. Sau khi cắt dù, ngư lôi tự kích hoạt bộ phận tự dẫn để thực hiện hoạt động tìm kiếm và tấn công mục tiêu. Điểm mạnh của tên lửa này là sử dụng tốc độ cao của tên lửa để nhanh chóng tiêu diệt tàu ngầm khi nó bị phát hiện. RUM-139 VL ASROC thường sử dụng cơ chế bắn loạt nhiều tên lửa về phía khu vực có tàu ngầm nên xác suất tiêu diệt mục tiêu rất cao. Ngoài ra, nó cũng có khả năng tự hủy sau một thời gian nếu tìm không thấy mục tiêu. Tên lửa chống hạm RGM-84D-4 Harpoon (Block 1C). Trong tác chiến chống hạm, vũ khí chủ lực của tàu khu trục Kongo là tên lửa hành trình chống hạm RGM-84D-4 Harpoon (Block 1C) do Công ty MacDonnell Douglas (hiện nay là thuộc Tập đoàn Boeing, Mỹ) phát triển. Tên lửa được đặt trong 2 bệ phóng, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản. Do được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau, hệ thống phóng rất cồng kềnh, tốn nhiều diện tích trên tàu. Khi phóng tên lửa, tàu phải xoay ngang làm tăng độ bộc lộ trước đối phương và mỗi lần chỉ phóng được 50% cơ số tên lửa Harpoon mang theo. RGM-84D-4 là một tên lửa hành trình có cấu trúc khí động học thông thường. Như bất kỳ tên lửa hành trình hiện đại nào, tên lửa RGM-84D-4 có các bộ phận chính là vỏ lượn gồm thân, cánh, đuôi, động cơ xuất phát thường là động cơ tên lửa, động cơ hành trình thường là động cơ phản lực không khí và hệ thống điều khiển và khối tự hủy. Tên lửa có cánh hình chữ thập, cánh thăng bằng và ống hút khí nửa chìm. Tên lửa có thể được trang bị thêm máy gia tốc. Để khởi động cho tên lửa, người ta sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu rắn có thể tháo rời. Sau khi được phóng đi với một tốc độ nhất định, động cơ tuabin phản lực bắt đầu làm việc. Khi tên lửa bay ở độ cao 10-15 mét, tên lửa được điều khiển bằng hệ thống điều khiển quán tính và ở cuối quỹ đạo tên lửa được dẫn hướng tới mục tiêu bằng đầu dò radar chủ động để bám sát và khóa mục tiêu. Sau đó, hệ thống điều khiến quán tính đưa tên lửa xuống độ cao rất thấp, khoảng 3 – 5 m. Ở độ cao này, tên lửa tiếp tục quá trình điều khiển bằng dữ liệu nạp vào tên lửa và hệ thống điều khiển quán tính tiếp tục điều khiển tên lửa cho đến khi tên lửa trúng mục tiêu. Khối dẫn quán tính được sử dụng để dẫn tên lửa Harpoon theo quỹ đạo hành trình xác định tới nơi có mục tiêu trước khi kích hoạt đầu tự dẫn radar chủ động khóa bám mục tiêu. Khối dẫn quán tính bao gồm 1 máy tính kiểm soát trạng thái hành trình và lập lệnh điều khiển cánh lái, 1 khối cảm biển gia tốc thẳng và gia tốc góc và 1 khối cập nhật dữ liệu máy đo cao vô tuyến. Dựa trên tham số hành trình được nạp trước khi phóng và các tham số gia tốc, độ cao trong hành trình của đạn, máy tính của khối dẫn quán tính tiến hành tính toán và lập lệnh điều khiển cánh lái chỉnh đạn bay theo đúng hành trình dự kiến tới mục tiêu. Máy tính của khối dẫn quán tính cũng là nơi lập lệnh kích hoạt khối tự huỷ nếu sai số dẫn vượt quá tham số khống chế. Tên lửa được dẫn hướng tới mục tiêu bằng một đầu dò radar dẫn đường chủ động. Radar có nhiệm vụ xác định liên tục tọa đọ các tham số chuyển động của tên lửa cung cấp các số liệu cần thiết và dẫn tên lửa chuyển động theo hướng bay xác định tới mục tiêu. Cấu tạo của radar dẫn đường bao gồm khối anten, khối phát, khối thu và khối xử lý tín hiệu. Các khối này được gắn trên khung đế đầu tự dẫn và được nắp chụp bảo vệ. Nắp chụp đầu tự dẫn có hình chóp elíp đảm bảo độ lợi khí động khi tên lửa Harpoon bay trong tốc độ hành trình cận âm. RGM-84D-4 có chiều dài 4,64m, đường kính thân 0,34m, trọng lượng khi phóng 682 kg, được lắp đầu đạn thuốc nổ phân mảnh khối lượng 145 kg có độ xuyên phá cao, được thiết kế để tiêu diệt các tên lửa, ngư lôi, tàu pháo, tàu mặt nước có lượng giãn nước 5.000 tấn và các tàu vận tải. Để có thể bay là là trên mặt biển ở độ cao thấp từ 3 đến 5 m, RGM-84L sử dụng một radar đo cao, bao gồm thiết bị thu phát và hai anten. Radar này có độ chính xác khá cao (1 m) và cho phép xác định độ cao của tên lửa trong phạm vi từ 1 đến 5.000 m ngay cả khi nó thay đổi đổi quỹ đạo bay. Trọng lượng của thiết bị đo độ cao khoảng 4,5 kg, được tích hợp trên bo mạch, tiêu thụ công suất 20 W. Tên lửa được lắp hai động cơ bao gồm động cơ khởi động và động cơ hành trình. Động cơ khởi động tên lửa tạo gia tốc ban đầu cho tên lửa chuyển động, khi đạt độ cao ổn định động cơ tuabin phản lực cánh quạt đẩy chính sẽ khởi động đưa tên lửa tới mục tiêu với vận tốc cận âm 280 m/s (Mach 0,8), tầm bắn 130 km. Động cơ hành trình là động cơ tuabin phản lực, động cơ có lực đẩy tối đa 450 kg, đường kính 330 mm, chiều dài 850mm, nặng 82 kg, sử dụng nhiên liệu dầu. Khối tự huỷ được bố trí phía sau đầu đạn và nhận lệnh kích nổ huỷ tên lửa trong các trường hợp tên lửa bay chệch hành trình dự kiến quá 1 tham số khống chế, hoặc khi tên lửa không gặp mục tiêu theo tham số ngắm bắn do hệ thống điều khiển bắn trên tàu mẹ cung cấp. Pháo hạm. Pháo hạm Oto Melara 127 mm. Pháo chính của tàu là pháo hạm Oto Melara 127 mm có chiều dài nòng gấp 54 lần đường kính do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Công ty OTO Melara, Italia. Tốc độ bắn nhanh cùng với khả năng bắn nhiều loại đạn đặc biệt khiến Oto Melara 127 mm thích hợp với nhiều vai trò như tấn công tàu chiến đối phương trên mặt nước, phòng không và pháo kích bờ biển yểm trợ cho chiến dịch đổ bộ, tấn công nhanh. Pháo có trọng lượng 21,6 tấn, chiều dài nòng 6,85m (tuổi thọ 8.000 phát đạn), tốc độ bắn từ 16 - 20 viên/phút, tầm bắn tối đa 24 km, lên đến 37 km với đạn dẫn đường tầm xa Vulcano. Để vận hành liên tục, Oto Melara 127 mm đòi hỏi cần có 6 binh sĩ trên boong tàu (chỉ huy pháo, người điều khiển và 4 người tiếp đạn) để có thể tác chiến liên tục. Pháo có thể bắn được bốn loại đạn khác nhau bao gồm loại xuyên giáp, gây cháy, văng mảnh trực tiếp và thậm chí có thể được dẫn đường để phá hủy các tên lửa chống hạm. Theo đó, Oto Melara 127 mm được trang bị 4 ống tiếp đạn và được điều khiển hoàn toàn tự động bằng hệ thống máy tính tốc độ cao. Mỗi ống tiếp đạn chứa tối đa 14 quả đạn luôn ở chế độ sẵn sàng khai hỏa. Ngoài ra, pháo còn có thể được nạp đạn thêm trong khi nòng pháo vẫn đang bắn, thời gian nạp đạn giữa mỗi lần bắn chưa tới 1 phút. Quá trình ngắm bắn và điều chỉnh góc tà nòng pháo được điều khiển thông qua các hệ thống điện tử tự động, trong khi hệ thống nạp đạn được điều khiển thủy lực. Khoang chứa đạn của pháo có thể mang theo tới 680 đạn pháo cho phép tác chiến trong thời gian dài.  Hệ thống phòng không tầm gần (CIWS) Mk-15 Phalanx. Hoả lực phòng không tầm gần (CIWS) của tàu là hệ thống Mk-15 Phalanx. Mk-15 Phalanx là hệ thống khép kín tích hợp bao gồm pháo, đạn và radar lắp trên 1 bệ duy nhất. Hệ thống được Chi nhánh Pomona thuộc Công ty General Dynamics phát triển vào những năm 1970 (năm 1992 phân hãng này sáp nhập vào công ty Hughes Missile Systems, hiện nay nhập vào công ty Raytheon Systems). Hệ thống thử nghiệm lần đầu vào năm 1973, MK-15 lần đầu tiên được biên chế trên tàu sân bay "USS Coral Sea" vào năm 1978. Hệ pháo này được đánh giá là có thể chấp nhận được và có thể lắp lên bất kỳ tàu mặt nước nào mà không cần có sự sửa đổi quan trọng trên tàu, Phalanx hiện đang được lắp đặt trên tất cả các tàu chiến mặt nước của Mỹ và trên tàu chiến của hơn 20 nước khác. Hệ thống Phalanx gồm pháo 6 nòng bắn nhanh Gatling M61A1 Vulcan cùng một radar hoạt động trên băng tầng K lắp trên một bệ mang duy nhất thay đổi góc tà bằng pittông. Trong điều kiện chiến đấu, radar sẽ rà soát bầu trời, xác định các mục tiêu và lọc ra mục tiêu nguy hiểm nhất. Sau khi xác định được mục tiêu, radar điều khiển hỏa lực sẽ tính toán chính xác vị trí của địch để pháo 6 nòng Gatling M61A1 Vulcan khai hỏa. Radar của hệ thống Phalanx CIWS được chế tạo theo công nghệ chỉ điểm khép kín, có khả năng phát hiện máy bay từ cự ly 18 km, tên lửa hành trình có diện tích phản xạ radar 0,1 m² từ khoảng cách 12 km và bám bắt trong tầm 5 km. Điểm đặc biệt của Phalanx là ở chỗ nó có hệ thống nạp đạn bằng điện chứ không dùng trích khí khóa nòng. Điều này cho phép nó đạt tốc độ bắn cực nhanh, nhịp bắn 3000 viên/phút hoặc 4500 viên/phút đối với các module thế hệ sau, tầm hiệu quả đạt 1.000 - 1.500 m và gần như không giật. Mk-15 có cự ly tác chiến lên tới 6.000 m, thời gian phản ứng 2 - 4 giây, thời gian chuyển làn là 4 giây. Được trang bị băng đạn 1.550 viên, Gatling M61A1 Vulcan bắn rất nhanh, trong trường hợp bắn hết tốc lực khẩu pháo này chỉ bắn được vỏn vẹn có 15 giây trước khi phải thay đạn. Việc nạp đạn phải làm bằng tay, sẽ cần 2 người để thay đạn, mỗi lần thay mất khoảng 5 phút. Do tốc độ bắn quá cao nên nó phát ra tiếng "zitttt" rất đặc trưng, đây cũng là lý do khẩu pháo này còn có tên gọi "Sea-whiz" có nghĩa là "Tiếng rít của đại dương" Tùy theo mục tiêu đường không hay mặt đất mà pháo sẽ bắn ra đạn nổ mảnh hoặc xuyên giáp (thông thường 1 hộp tiếp đạn chứa đạn nổ mảnh trong khi hộp còn lại mang đạn xuyên giáp). Đạn xuyên giáp vỏ tự huỷ (APDS) 20 mm của Mk-15 sử dụng đầu xuyên 15 mm bằng kim loại nặng (wolfram hoặc uran nghèo) được bao quanh bằng một guốc đạn plastic và một phần đáy kim loại nhẹ. Vỏ đạn sau khi bắn sẽ được đẩy ra từ phần dưới của bệ pháo theo hướng về phía trước. Cấu hình ban đầu của hệ thống Phalanx sử dụng cho các tàu của hải quân Mỹ được gọi là Block 0 để tạo ra lớp phòng thủ tên lửa đối hạm cơ bản chống các loại tên lửa đối hạm siêu âm, không vận động bay thấp hiện nay (ASM). Cấu hình Block A1 kết hợp một máy tính ngôn ngữ lập trình bậc cao (HOLC) nhằm tạo ra năng suất xử lý tốt hơn so với máy tính số đa dụng lạc hậu, các thuật toán điều khiển hoả lực đã được cải thiện để đối phó với các mục tiêu cơ động, tìm kiếm các toạ độ vũ khí để quản lý tác chiến tốt hơn và  chức năng kiểm tra toàn bộ (từ đầu đến cuối) để xác định những sai hỏng hệ thống. Nâng cấp chế độ mặt biển (Surface Mode Upgrade) Block 1B xây dựng trên những khả năng hiện có của cấu hình Block 1A với việc bổ sung các nòng pháo tối ưu (Optimised Gun Barrels - OGB) mới, đem lại tuổi thọ nòng súng cao, độ tản mát đạn được cải thiện và cự ly tác chiến tăng lên. Cả những nâng cấp cấu hình Block 1A và 1B đều tạo ra vùng bao quát góc tà tăng, không gian chứa đạn lớn hơn nhằm đạt dung tích thùng đạn từ 989 viên đến 1550 viên, và tăng tốc độ bắn lên 4500 phát/phút. Hệ Phalanx cũng có thể giao diện với bất kỳ hệ thống chiến đấu nào của tàu để cung cấp khả năng điều khiển khiển hoả lực và cung cấp thêm thông tin sensor, cũng như có thể chỉ điểm mục tiêu cho các vũ khí trên tàu như tên lửa khung khí động tròn xoay (RAM) của Raytheon. Khi lọt vào tầm bắn của Phalanx CIWS, mọi mục tiêu - từ máy bay, tên lửa, bom hay đạn pháo - đều không thể thoát. Hệ thống pháo cao tốc này được điều khiển tự động hoàn toàn tvà chỉ cần 1 người giám sát. Phalanx CIWS có thể tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 3,6 km. Trong một số điều kiện tác chiến, hệ thống Phalanx CIWS còn có thể bắn hạ các mục tiêu trên mặt nước, bao gồm các chiến hạm của đối phương.  Ngư lôi. Tàu khu trục Kongo được trang bị 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm HOS-302 sử dụng ngư lôi Mk-46. HOS-302 là phiên bản do Watanabe Iron Works Co., Ltd. sản xuất trong nước theo giấy phép hệ thống phóng Mk 32 của Mỹ, có khả năng bắn các loại ngư lôi Mk-44/46/50/54 theo chuẩn Mỹ. Hệ thống phóng được thiết kế có khả năng xoay, điều hướng và bắn từ xa (riêng việc bắn có thể thực hiện tại chỗ bằng tay) nhắm tới mục tiêu cần diệt. Các ống phóng được làm từ vật liệu sợi thủy tinh hoặc kim loại, bên trong ống được bọc một lớp sợi thủy tinh để có thể bảo quản ngư lôi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Nhật Bản. Chương trình chế tạo ngư lôi Mk-46 được bắt đầu vào năm 1960 nhằm thay thế cho ngư lôi Mk-44 đã lạc hậu. Ngư lôi Mk-46 chính thức được đưa vào trang bị năm 1967. Ngư lôi Mk-46 có vỏ làm bằng hợp kim nhôm, chiều dài 2,591m, đường kính 0,324m, trọng lượng 230,4 kg, vận tốc hành trình 45 hải lý (83,4 km/h) tầm bắn 11 km, khả năng lặn sâu 455m, hệ thống dẫn đường thủy âm chủ động - thụ động, đầu đạn nổ phá PBXN-103 43,1 kg, đầu nổ tiếp xúc, động cơ phản lực nước chạy điện giúp giảm tối đa độ ồn. Nguồn năng lượng được cung cấp bởi hệ thống ắc quy điện kẽm - bạc (cung cấp năng lượng cho động cơ điện công suất 35 mã lực). Mk-46 được trang bị 2 chân vịt quay ngược nhau. Ngư lôi Mk-46 được phóng không tái nạp bằng cách nén không khí trong 2 bộ chứa thuốc súng phía sau. Sau khi phóng, ngư lôi được thả bằng dù và bắn sau khi lao xuống nước. Sau đó, Mk-46 bắt đầu tìm kiếm mục tiêu và cơ động theo đường ốc xoắn. Hệ thống dẫn đường có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 595m. Sau khi phát hiện mục tiêu, ngư lôi bắt đầu lao đến mục tiêu với vận tốc rất nhanh. Trong trường hợp tấn công không thành công, hệ thống dẫn đường cho phép tiến hành tấn công lại. Ngoài ra, tàu cũng có thể sử dụng các loại ngư lôi khác như Mk-50, Mk-54 hay loại Type 73 (tương đương Mk-46) do Nhật tự phát triển. Trực thăng săn ngầm. Tương tự như các tàu lớp Arleight Burke Flight I, Kongo không có nhà chứa máy bay, nhưng tàu có sàn đáp và hệ thống tiếp nhiên liệu đủ cho 2 trực thăng săn ngầm SH-60K. Ngoài ra, để kết nối với thiết bị xử lý thông tin chiến thuật (HCDS) lắp trong SH-60K , tàu còn được lắp đặt hệ thống liên kết dữ liệu trực thăng ORQ-1. SH-60K Sea Hawk được Mitsubishi Heavy Industries chế tạo dựa trên cơ sở SH-60J. SH-60K chính thức được đưa vào hoạt động trong biên chế của JMSDF vào tháng 8 năm 2005. Đến năm 2020, đã có 68 chiếc SH-60K được xuất xưởng. SH-60K có thể bay cách tàu mẹ đến 100 dặm và duy trì trên căn cứ trong vài giờ. Việc liên lạc giữa SH-60K và tàu mẹ được thực hiện bởi hệ thống liên kết dữ liệu ORQ-1C-2 (TACLINK). Máy bay có thể thực hiện các nhiệm vụ cảnh giới, tìm kiếm và cứu hộ, chỉ thị mục tiêu cho tên lửa, chiến đấu chống hạm, chống ngầm và tác chiến đột kích trong mọi thời tiết. SH-60K được trang bị sonar nhúng HQS-104, radar mảng pha quét chủ động HPS-104 và hệ thống tác chiến điện tử HLR-108. Bốn mấu cứng của máy bay có thể gắn ngư lôi hạng nhẹ Type 97, bom chống ngầm và tên lửa không đối hải AGM-114M Hellfire II"." Ngoài ra, SH-60K còn được trang bị một súng đại liên 7,62mm Type 74. SH-60K có cánh quạt chính và cánh quạt đuôi bốn lá được chế tạo bằng composite, riêng mép trước và phần đầu của cánh quạt chính sử dụng sợi Kevlar. 2 động cơ dẫn động trục Ishikawa-Harima T700-IHI-402C (sản xuất theo giấy phép của General Electric) công suất 3.400 mã lực được lắp cạnh nhau trên đỉnh cabin với một ống hút không khí ở cạnh bệ quạt và các lỗ thoát khí ở phía sau bệ. Máy bay có tầm bay xa tới hơn 800 km, tốc độ tối đa 240 km/h. Các thùng nhiên liệu bên trong của SH-60K chứa được 2.250 lít. Máy bay có thể dùng được hệ thống tiếp nhiên liệu trên không. SH-60K có thể mang trên 1.800 kg hàng bên trong. Các móc hàng bên ngoài có thể mang lượng hàng lên tới 2.725 kg"." Hệ thống động lực. Tàu khu trục lớp Kongo được trang bị hệ thống động lực kết hợp tuabin khí COGAG (tức là kiểu hệ thống động cơ kết hợp 2 tuabin khí để quay một chân vịt) bao gồm: 4 động cơ tuabin khí Ishikawajima Harima LM2500 (sản xuất theo giấy phép của General Electric) 25.000 mã lực và 3 máy phát điện tuabin khí Allison 501 K-34 công suất 2.500 kW. Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt 5 lá cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 100.000 mã lực. Sự kết hợp này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng. 4 động cơ tuabin khí của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 30 hải lý/h (56 km/h) phạm vi hoạt động 6.000 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý/h, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển. Hệ thống động lực COGAG có thời gian hoạt động tới 30.000 giờ trước khi cần đại tu. Để đảm bảo cho các động cơ này hoạt động hiệu quả, những binh sĩ kỹ thuật thuộc JMSDF làm việc dưới khoang máy của tàu phải luôn túc trực 24/24 không lúc nào ngơi việc dù toàn bộ hệ thống trên tàu đều được điều khiển, kiểm soát và giám sát một cách hoàn toàn tự động.Làm việc trong môi trường có tiếng ồn lớn yêu cầu những binh sĩ JMSDF làm việc trong phòng máy trên tàu luôn phải mang theo nút bịt tay để tránh thính giác của mình bị ảnh hưởng, tuy nhiên nút bịt tay này cũng chỉ hạn chế được phần nào tiếng ồn, sau một thời gian dài làm việc trong phòng máy trên tàu phần lớn các binh sĩ đểu bị "nghễnh ngãng" dần dần. Hầu hết trang thiết bị trên tàu kể cả trong khoang máy cũng đều được tự động hóa và điều khiển qua máy tính hoàn toàn. Hệ thống giám sát sẽ theo dõi sát sao các thông số của hệ thống động cơ, đưa ra các cảnh báo kịp thời để các binh sĩ khắc phục, trong trường hợp một trong các động cơ gặp sự cố, bộ ly hợp cho phép ngắt hoạt động của động cơ để tiến hành sửa chữa mà không ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của tàu. Dù được tự động hóa khá nhiều, tuy nhiên công việc chính của những binh sĩ kỹ thuật lại là bảo dưỡng các thiết bị trên tàu để đảm bảo chúng hoạt động với hiệu suất cao nhất. Với một hệ thống lớn tới 4 động cơ và 30 tuabin khí, các binh sĩ kỹ thuật phục vụ trong khoang máy trên các tàu khu trục lớp Kongo thường ít khi được ngơi tay. Bảo dưỡng các chi tiết nhỏ là công việc khó khăn hơn cả dù không cần phải chui rúc vào những góc nóng nực chật hẹp của khoang máy nhưng các binh bĩ kỹ thuật lại phải đảm bảo được độ chính xác cao và yêu cầu thêm cả sự khéo léo nữa. Các chi tiết nhỏ trên tàu có thể là các hệ thống cảm biến, các hệ thống chíp điều khiển của các thiết bị máy tính.
1
null
Hình Loan (, 463 – 514), tên tự là Hồng Tân, người huyện Hương, quận Hà Gian, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Tổ 5 đời của Loan là Hình Hỗ, được vua Hậu Triệu là Thạch Lặc thời Ngũ Hồ thập lục quốc nhiều lần gọi mà không đến. Hỗ không có con, kỵ của Loan là Hình Cái ở ngành thứ được kế tự. Ông của Loan là Hình Dĩnh, tự Tông Kính, nhờ học vấn mà nổi tiếng. Thời Bắc Ngụy Thái Vũ đế, cùng người Phạm Dương là Lư Huyền, người Bột Hải là Cao Doãn đồng thời được triệu. Sau bái làm Trung thư thị lang, Giả thông trực thường thị, Ninh sóc tướng quân, Bình Thành tử, vâng mệnh đi sứ Lưu Tống. Dĩnh có bệnh nên quay về quê nhà. Bẵng đi một thời gian, Thái Vũ đế nhớ đến, hỏi quần thần: "Còn nhớ Hình Dĩnh là bậc trưởng giả, có học thức, nên làm Thị giảng Đông Cung, nay người ấy ở đâu?" Tư đồ Thôi Hạo đáp: "Dĩnh bệnh nằm ở nhà." Thái Vũ đế sai thái y đến chữa trị. Mất, được tặng Quan quân tướng quân, Định Châu thứ sử, thụy là Khang. Cha của Loan là Hình Tu Niên, làm đến Châu chủ bộ. Sự nghiệp. Thời Hiếu Văn đế. Loan từ nhỏ hiếu học, vác túi tìm thầy, nhà nghèo nhưng gắng gỏi, nên đọc khắp các sách vở. Có văn tài và mưu lược, mày râu đẹp đẽ, gương mặt khôi ngô. Châu quận dâng biểu tiến cử, triều đình bái làm Trung thư bác sĩ, thăng làm Viên ngoại tán kỵ thị lang, được Hiếu Văn đế khen ngợi. Kiêm Viên ngoại tán kỵ thường thị, đi sứ Nam Tề. Trở về, bái làm Thông trực lang, chuyển làm Trung thư thị lang, rất được xem trọng, thường tham gia bàn bạc chính sự. Đế trong lúc "hành dược" đi đến phía nam phủ Tư không, thấy nhà của Loan, sai sứ nói với ông rằng: "Buổi sáng hành dược đến đây, gặp nhà của khanh thì dừng lại, nhìn sang phía đông là Đức quán, cảm thấy như xưa!" Loan đáp rằng: "Bệ hạ di dời kinh thành, hòng kiến lập cơ nghiệp muôn đời, ý thần muốn cùng nước Ngụy thăng giáng, sao có thể không làm nhà ở vị trí thật tốt!?" Đế nói với tư không Mục Lượng, bộc xạ Lý Xung: "Lời này của Loan, chí không nhỏ đâu!" Hữu tư tâu việc sách Tú, Hiếu , có chiếu rằng: "Tú, hiếu cần lắm học vấn, qua nhiều vòng sát hạch khác nhau. Hình Loan tài năng lại trong sạch, có thể làm được Sách tú." Sau đó được kiêm Hoàng môn lang. Loan tòng chinh Hán Bắc, được nhận chức Hoàng môn, kiêm Ngự sử trung úy, Doanh Châu đại trung chánh, thăng làm Tán kỵ thường thị, kiêm Thượng thư. Thời Tuyên Vũ đế. Tấn công Hán Trung. Đầu thời Tuyên Vũ đế, thương nghiệp phát triển, Loan dâng sớ can ngăn "trọng thóc lụa khinh vàng bạc", vì "thóc lụa có thể yên nước nuôi dân, còn vàng bạc là vật gây lãng phí tổn đức". Đế nghe theo, cho ông thực thụ Thượng thư, thường thị như cũ. Tháng 12 nhuận năm Chánh Thủy đầu tiên (504), Lương, Tần 2 Châu hành sự Hạ Hầu Đạo Thiên của nhà Lương dâng Hán Trung xin nội phụ, có chiếu gia chức cho Loan làm Sứ trì tiết, Đô đốc chinh Lương Hán chư quân sự, Giả trấn tây tướng quân, được tùy nghi làm việc. Ông đến Hán Trung, Bạch Mã về phía tây vẫn chưa quy thuận, sai bọn Ninh viễn tướng quân Dương Cử, Thống quân Dương Chúng Ái, Phiếm Hồng Nhã lãnh 6000 quân đánh dẹp. Quân Bắc Ngụy đi đến đâu, nơi ấy đều khoản xin phụ thuộc, chỉ có Bổ Cốc thú chủ Hà Pháp Tĩnh giữ thành chống lại. Bọn Cử tiến đánh, Pháp Tĩnh tan chạy, quân Ngụy thừa thắng đuổi đến dưới Quan Thành . Kẻ lưu dân (ngờ là) Long tương tướng quân Lý Thị Thúc dâng thành đầu hàng. Bọn Phụ quốc tướng quân Nhiệm Tăng Ấu hơn 30 tướng của nhà Lương đưa hơn 7000 hộ dân ở Nam An, Quảng Trường, Đông Lạc, Đại Hàn, Vũ Thủy, Trừ Khẩu, Bình Khê, Dũng Cốc đến quy hàng. Bọn Bình tây tướng quân Lý Thiên Tứ, Tấn Thọ thái thú Vương Cảnh Dận của nhà Lương nắm 7000 quân, đóng đồn ở Thạch Đình. Thống quân Hàn Đa Bảo đưa quân đi đánh, phá được tiền quân Triệu Bái của Thiên Tứ, bắt chém 1300 người. Sai Thống quân Lý Nghĩa Trân dẹp Tấn Thọ, Cảnh Dận bỏ trốn. Có chiếu khen ngợi, bái Loan làm Sứ trì tiết, An tây tướng quân, Lương, Tần 2 châu thứ sử. Ba Tây thái thú Bàng Cảnh Dân của nhà Lương cậy xa xôi không hàng, Loan sai Ba Châu thứ sử Nghiêm Huyền Tư đi đánh, chém Cảnh Dân, Ba Tây bình xong. Nhà Lương sai bọn Quan quân tướng quân Khổng Lăng soái 2 vạn quân, đóng đồn ở Thâm Khanh, Quan quân tướng quân Lỗ Phương Đạt giữ chắc Nam An, Quan quân tướng quân Nhiệm Tăng Bao, Phụ quốc tướng quân Lý Quyến đồn thú Thạch Đồng. Thống quân Vương Túc của Loan ở nhiệm sở đánh phá được, bêu đầu Phụ quốc tướng quân Nhạc Bảo Minh, Ninh sóc tướng quân Lý Bá Độ, Long tương tướng quân Lý Tư Hiền, quân Lương lui về giữ Hồi Xa Sách. Túc lại tiến đánh Phụ quốc tướng quân Phạm Tuấn, bắt sống và chém chét đến mấy vạn. Bọn Khổng Lăng thu thập tàn quân, chạy về Bảo Tử Đồng, Túc lại phá được, chém Phụ quốc tướng quân Phù Bá Độ, quân Lương bị giết và chết đuối hơn vạn người. Ông mở mang bờ cõi, ổn định cư dân, từ đông sang tây 700 dặm, từ nam sang bắc ngàn dặm, giành được 14 quận, 2 bộ Hộ quân cùng các huyện thú, rồi uy hiếp Phù Thành. Loạn 2 lần dâng biểu xin đánh Thục, Tuyên Vũ đế đều không đồng ý, lại lệnh cho Vương Túc rút quân khỏi Phù Thành. Loan giành được Ba Tây, sai Quân chủ Lý Trọng Thiên giữ lấy. Trọng Thiên bắt được con gái nuôi của tướng nhà Lương là Trương Pháp, có nhan sắc, đâm ra mê mẩn; bỏ bê công việc, chỉ lo vui chơi. Loan nghiến răng căm giận, Trọng Thiên sợ, mưu phản, người trong thành chém đầu ông ta, dâng thành đầu hàng tướng nhà Lương là Tiếu Hi Viễn, thế là mất Ba Tây. Người Đê ở Vũ Hưng là bọn Dương Tập Khởi làm loạn, Loan sai Thống quân Phó Thụ Nhãn đi dẹp. Ông mới đến Hán Trung, tỏ ra phong nhã, đối với hào tộc có lễ nghĩa, đối với nhân dân có ân huệ. Sau hơn một năm, gặp lúc trăm họ bỏ đi, Loan trị tội mà giết sạch, thân nhân bị bắt làm nô tỳ hơn 200 người; lại thu tóm việc buôn bán, ai cũng khinh bỉ. Ông được triệu về làm Độ chi thượng thư. Bình định Duyện Châu. Năm Chánh Thủy thứ 3 (506), quân nhà Lương xâm phạm Từ, Duyện, các tướng lãnh biên thùy nối nhau thất bại, triều đình lo lắng, bèn lấy Loan làm Sứ trì tiết, Đô đốc Đông thảo chư quân sự, An đông tướng quân, thượng thư như cũ. Tuyên Vũ đế úy lạo ông ở Đông đường. Trước đó, Phụ quốc tướng quân Tiêu Cập Tiên của nhà Lương soái 2 vạn, hạ được Cố Thành; bọn Quan quân tướng quân Lỗ Hiển Văn, Kiêu kỵ tướng quân Tương Văn Ngọc soái 1 vạn, đóng đồn Cô Sơn; bọn Giác Niệm soái 1 vạn quân, nhiễu loạn Quy Mông, thổ dân hưởng ứng, 17 tuổi đã nhập ngũ. Loan sai Thống quân Phàn Lỗ dẹp Văn Ngọc, biệt tướng Nguyên Hằng đánh Cố Thành, Thống quân Tất Tổ Hủ dẹp Giác Niệm. Phàn Lỗ đại phá bọn Văn Ngọc, đuổi theo hơn 80 dặm, chém hơn 4000 thủ cấp. Nguyên Hằng lại phá Cố Thành, Tất Tổ Hủ quay lại phá bọn Niệm, Duyện Châu bình xong. Loan phá tướng nhà Lương là Lam Hoài Cung ở Tuy Khẩu, tiến vây Túc Dự. Bọn Hoài Cung quay lại đắp thành ở bờ nam Thanh Thủy, hòng cắt đứt đường thủy lục. Ông đích thân soái các cánh quân từ bờ nam mà tiến, sai Bình nam tướng quân Dương Đại Nhãn ở mặt bắc ép lại, bọn Thống quân Lưu Tư Tổ đến mép nước làm bè, đốt thuyền, phảng của địch. Các cánh quân Ngụy cùng tiến, nhổ rào lấp hào, trèo lên thành. Quân Ngụy nổi lửa giữa sông, 4 mặt cùng đánh, hạ được thành địch, bắt và giết mấy vạn người. Lam Hoài Cung bị chém tại trận, các chức Liệt hầu, Liệt tướng, Trực cáp, Trực hậu của ông ta hơn 30 người bị bắt, bắt chém vạn tên địch. Bình xong Túc Dự, Tiêu Lệ ở Hoài Dương cũng lui chạy, quân Ngụy lấy được hơn 40 vạn thạch gạo của 2 đồn thú này. Phản đối nam chinh. Tuyên Vũ đế hạ chiếu khen ngợi, lệnh cho ông đưa 2 vạn quân vượt sông Hoài, kết thành thế ỷ giốc với quân đội chinh nam, tiến đánh Lương Thành. Đến khi quân nhà Lương thua chạy khỏi Lương Thành, Trung Sơn vương Nguyên Anh thừa thắng tấn công Chung Li, Đế lại hạ chiếu cho ông đưa quân đến hội họp với Nguyên Anh. Loan dâng biểu can ngăn, cho rằng Chung Li bị sông Hoài cách trở, không dễ mà đánh được, đánh được cũng không giữ được; rồi từ chối tiến quân, còn đề nghị giao quân đội của mình cho Nguyên Anh. Đế lại hạ chiếu trách ông trù trừ làm lỡ quân cơ, còn Loan thì mấy lần dâng biểu xin về, Đế bèn đáp ứng. Quả nhiên Nguyên Anh đại bại bỏ chạy, người đương thời đều khâm phục Loan có kiến thức hơn người. Từ trước, Loan cùng Thị trung Lư Sưởng có mâu thuẫn, Sưởng và Nguyên Huy đều được Đế sủng hạnh. Ngự sử trung úy Thôi Lượng cùng phe với Sưởng, Sưởng và Huy lện cho Lượng đàn hặc Loan, việc thành thì hứa sẽ tâu với Đế cho Lượng làm Thị trung. Vì thế Lượng tấu rằng Loan ở Hán Trung bắt ép bình dân làm nô tỳ. Ông sợ bị hãm hại, bèn đem hơn 20 đứa nữ nô của Ba Tây thái thú Bàng Cảnh Dân cho Huy. Vài trong số ấy có nhan sắc, Huy yêu lắm, nên phản bội Sưởng mà tâu rằng: "Loan mới có công lớn, nên bỏ qua lỗi nhỏ, không cần giam vào ngục làm gì!" Đế đồng ý. Cao Triệu cho rằng ông đánh giặc có công, lại bị bọn Sưởng bài xích, giúp Loan giãi bày, nên không bị bắt tội. Bình định Dự Châu. Tháng 10 năm Vĩnh Bình đầu tiên (508), dân thành Dự Châu là Bạch Tảo Sanh giết thứ sử Tư Mã Duyệt, dâng thành hàng Lương. Nhà Lương phái Quan quân tướng quân Tề Cẩu Nhi đưa quân vào chiếm cứ Huyền Hồ. Có chiếu cho Loan làm Trì tiết soái tinh kỵ Vũ Lâm đi dẹp, phong tước Bình Thư huyện Khai quốc bá, thực ấp 500 hộ, gọi là thưởng công trận Túc Dự vậy. Đế úy lạo ông ở Đông đường. Loan soái 800 kỵ binh, ngày đêm không nghỉ, 5 ngày là đến Vu Bảo khẩu. Tướng Lương là Hồ Hiếu Trí soái 7000 quân, bỏ lại thành 200, đón đánh quân Ngụy. Loan đánh phá Hiếu Trí, thừa thắng tiến đến Huyền Hồ. Quân Lương ra thành chống cứ, ông lại phá được, nhân đó lập tức vượt sông Nhữ. Tiếp đó đại quân Bắc Ngụy kéo đến, bèn đắp lũy dài để vây thành. Có chiếu gia chức cho Loan làm Sứ trì tiết, Giả trấn nam tướng quân, Đô đốc Nam thảo chư quân sự. Chinh nam tướng quân, Trung Sơn vương Nguyên Anh dẹp 3 cửa quan ở phía nam, cũng đến Huyền Hồ, cho rằng hậu quân chưa đến, quân nhà Lương trước mặt lại nhiều, sợ không dám tiến, bèn cùng Loan chia nhau làm thế ỷ giốc mà đánh. Bọn Tề Cẩu Nhi 21 người mở cửa ra hàng, lập tức chém bọn Tảo Sanh vài mươi người. Bình xong Dự Châu, Loan đưa quân về kinh sư. Đế úy lạo ông ở Đông đường. Cái chết. Loan từ sau chiến thắng Túc Dự, đến khi bình định Huyền Hồ, lập chí sửa đức, không còn xem trọng tiền bạc, thanh sắc, cũng không chiếm dụng quân nhu, vật tư. Được thăng làm Điện trung thượng thư, gia thụ Phủ quân tướng quân. Năm Duyên Xương thứ 3 (514), bạo bệnh mà mất, được 51 tuổi. Ông tài kiêm văn võ, trong triều ngoài cõi ngưỡng mộ, trên dưới đều thương tiếc. Có chiếu ban 400 xúc lụa, một bộ triều phục, tặng Xa kỵ đại tướng quân, Doanh Châu thứ sử. Ban đầu, Đế muốn tặng Ký Châu, nhưng Hoàng môn Chân Sâm trước đây từng bị Loan đàn hặc, vì thế nói: "Doanh Châu là quê nhà của Hình Loan, lòng người hướng về." Đế nghe theo. Khi Chân Sâm làm chiếu thư, vì thế nói "nên tặng Xa kỵ tướng quân, Doanh Châu thứ sử", người đời đàm luận đều cười sự hẹp hòi của Chân Sâm. Thụy là Văn Định.
1
null
Ngọa Long Sinh (, 1930–1997) là một tác gia võ hiệp nổi tiếng người Đài Loan. Thân thế và sự nghiệp. Ông tên thật là Ngưu Hạc Đình (), sinh vào ngày tết Đoan Ngọ năm 1930 ở huyện Trấn Bình, tỉnh Hà Nam. Trấn Bình thuộc vùng Nam Dương, nơi Gia Cát Lượng thời Tam Quốc đã từng ẩn cư, người đời sau xây dựng 1 thư viện mang tên Ngọa Long để kỷ niệm nhà chính trị và quân sự lỗi lạc của Trung Quốc cổ đại. Thuở thiếu thời Ngọa Long Sinh (tức Ngưu Hạc Đình) từng học ở thư viện Ngọa Long (chú thích: Ở Trung Quốc thời phong kiến, nhất là thời Đường-Tống, Minh-Thanh, thư viện là một loại trường học, học ở loại trường này chủ yếu là tự nghiên cứu) vì thế mà về sau, khi viết tiểu thuyết võ hiệp, đã lấy Ngọa Long Sinh là bút danh với ý nghĩa là học trò của thư viện Ngọa Long vừa độc đáo khiến người ta khó quên, vừa có tính chất kỷ niệm. Ông đã không phụ cái tên đẹp này. Thiếu thời Ngọa Long Sinh gặp kháng chiến chống Nhật, chỉ học được mấy năm, đến năm 1946, Ngọa Long Sinh mới vào cao trung 9 (Cấp III - tức trung học phổ thông) được 2 tháng, vì nhà nghèo nên phải đi lính để có lương ăn, đến năm sau thì phải ra mặt trận. Vì đã học đến trung học, bấy giờ ở trong binh lính Quốc Dân Đảng có thể coi là trí thức, lại thêm chăm chỉ học tập nên năm 1948 thì được đến Nam Kinh thi vào trường huấn luyện sĩ quan do Tôn Bản Lập phụ trách. Tác phẩm. 1. Chiến Yên Hùng Cái<br> 2. Đàn Chỉ Thần Công<br> 3. Mai Hoa Quái Kiệt<br> 4. Điệu Sáo Mê Hồn<br> 5.Ma Hoàn Lãnh Nhân<br> 6. Ngũ Hành Sinh Khắc<br> 7. Ngưng Sương Kiếm<br> 8. Quỷ Kiếm U Linh<br> 9. Thánh Tâm Ma Ảnh<br> 10. Thiên Hạc Phổ<br> 11. Thiên Nhai Hiệp Lữ<br> 12. Thượng Ngươn Kiếm Pháp<br> 13. Hàn Mai Kim Kiếm<br> 14. Ma Đao Sát Tinh<br> 15. Tố Thủ Kiếp<br> 16. Vô Ảnh Thần Chiêu<br> 17. Xác Chết Loạn Giang Hồ<br> 18. Yên Chi Bảo Đao<br> 19. Hải Nộ Triều Âm<br> 20. Thất Tuyệt Ma Kiếm<br> 21. Âm Dương Tam Thư Sinh<br> 22. Tuý Tâm Kiếm<br> 23. Giáng Tuyết Huyền Sương<br> 24. Hậu Thiên Hạc Phổ (PDF)<br> 25. Hồng Thần Huyết Ấn (PDF)<br> 26. Cuồng Tà Tuyệt Đản (PDF)<br> 27. Tru đao tế kiếm<br> 28. Vô tâm môn.
1
null
Gấu Kodiak (danh pháp ba phần: "Ursus arctos middendorffi"), cũng gọi là gấu nâu Kodiak hoặc gấu xám Alaska hay gấu nâu Mỹ, sinh sống ở các đảo của quần đảo Kodiak ở tây nam Alaska. Tên của phân loài gấu này trong tiếng Alutiiq là "Taquka-aq". Nó là phân loài lớn nhất của gấu nâu. Miêu tả. Nhà phân loại học C.H. Merriam là người đầu tiên công nhận gấu Kodiak là duy nhất và định danh cho nó là loài "Ursus middendorffi" để vinh danh nhà tự nhien học Baltic tiến sĩ. A. Th. von Middendorff. Các phiên bản phân loại sau đó sáp nhập phần lớn các gấu nâu Bắc Mỹ vào một phân loài duy nhất ("Ursus arctos horribilis"), nhưng gấu Kodiak vẫn được xem là một phân loài duy nhất ("Ursus arctos middendorffi"). Các điều tra gần đây về các mẫu gen của những con gấu trên Kodiak cho thấy rằng họ liên quan chặt chẽ đến các gấu nâu trên bán đảo Alaska và Kamchatka, Nga. Dường như gấu Kodiak đã bị cô lập về mặt di truyền kể từ ít nhất là thời kỳ băng hà cuối cùng (10.000 đến 12.000 năm trước đây) và có sự đa dạng về di truyền rất ít trong quần thể. Ít con gấu Kodiak hoang dã đã được cân, do đó một số chỉ số cân nặng là ước tính. Một vài con cái cân nặng từ 225 kg (500 lbs) đến 315 kg (700 lbs) và con đực nặng 360 kg (800 lbs) đến 635 kg (1400 lbs). Con đực trưởng thành nặng trung bình 480–533 kg (1.058–1.175 lb) suốt thời gian trong năm, và có thể cân nặng tới 680 kg (1500 lbs) vào thời gian đỉnh cao. Con cái thường nhỏ hơn khoảng 20% và cân nhẹ hơn khoảng 30% so với con đực và kích thước con trưởng thành đạt được ở 6 năm tuổi. Gấu nặng ít nhất khi chúng chui ra khỏi hang ổ của chúng vào mùa xuân, và có thể tăng trọng lượng của chúng thêm 20–30% vào cuối mùa hè và mùa thu. Gấu trong điều kiện nuôi nhốt đôi khi có thể đạt được trọng lượng khá lớn hơn gấu trong hoang dã. Gấu đực trưởng thành trung bình dài và cao ở vai. Một con gấu đực cân nặng có chiều dài chân sau . Một con gấu Kodiak đực trưởng thành cao đến 1,5 m (5 foot) tại vai khi nó đứng bằng cả bốn chân. Khi nó đứng thẳng hoàn toàn trên hai chân sau, một con gấu đực lớn có thể cao đến 3 m (10 ft). Kích thước lớn nhất đã được kiểm tra của một con gấu Kodiak nuôi nhốt là một con đang sinh sống tại vườn thú Dakota tại Bismarck, North Dakota. Biệt danh là "Clyde", con gấu này cân nặng 966,9 kg khi nó chết tháng 6 năm 1987 ở độ tuổi 22 năm. Theo giám đốc vườn thú Terry Lincoln, Clyde có lẽ đã cân nặng gần mức 1090 kg một năm trước đó. Nó vẫn còn một lớp mỡ dày 9 inch khi nó chết. Một mức trọng lượng đã được xuất bản cho phân loài này nhưng các chi tiết không được ghi rõ. Chúng là các phân loài gấu nâu lớn nhất, và có thể so sánh kích thước gấu Bắc Cực. Điều đó làm cho gấu Kodiak và loài gấu bắc cực là hai thành viên lớn nhất của họ gấu và hai động vật ăn thịt lớn nhất còn tồn tại trên mặt đất.
1
null
Huỳnh Ngọc Tâm Đoan (sinh ngày 5 tháng 5 năm 1977) thường được biết đến với nghệ danh Tâm Đoan, là một nữ ca sĩ người Canada gốc Việt, thành công với dòng nhạc trữ tình. Cuộc đời và sự nghiệp. Nghệ danh Tâm Đoan là một loài hoa màu tím trên Tây Nguyên, trong lúc đi dạy học mẹ Tâm Đoan đã phát hiện được rồi về đặt tên cho Tâm Đoan. Gia đình Tâm Đoan gồm ba, mẹ và em gái Kristine Sa. Từ nhỏ, Tâm Đoan đã sinh hoạt văn nghệ tại Đội Nghệ thuật Nhà Thiếu Nhi Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương) và nhiều bài hát ghi âm và phát trên sóng phát thanh của tỉnh. Khi học lớp 6 Tâm Đoan học thêm về Mandolin và Guitar. Năm 1989, Tâm Đoan cùng mẹ và em rời Việt Nam sang Canada định cư. Tại đây cô học thêm một năm Clarinet trong trường cấp 3. Cuối năm 1997, nhạc sĩ Tích Hà giới thiệu Tâm Đoan với trung tâm Vân Sơn trong lúc trung tâm này cần một giọng ca trẻ. Chỉ trong năm đầu tiên, tên tuổi Tâm Đoan đã được biết đến qua sự xuất hiện trên 4 chương trình video (Vân Sơn 7, 8, 9, 10) cũng như qua 2 CD là "Tấm Ảnh Không Hồn" và "Chuyến Tàu Hoàng Hôn". Trong những năm tiếp theo, cô được trung tâm Vân Sơn phát hành nhiều CD như "Mùa Thu Có Nhớ', "Đếm Giọt Sầu Rơi", "Anh Có Nghe Mưa Rơi"... Vào năm 2001, Tâm Đoan hết hợp đồng với Trung tâm Vân Sơn. Đến năm 2002, Tâm Đoan được Tô Ngọc Thủy (giám đốc trung tâm Thúy Nga) mời ký độc quyền, song song đó cô còn xuất hiện trên DVD của Tình Production. Tâm Đoan bắt đầu xuất hiện trên sân khấu Thúy Nga từ chương trình Paris by Night 63 chủ đề "Dòng Thời Gian". Từ năm 2009 đến 2014, Tâm Đoan cộng tác với trung tâm Asia. Năm 2014, Tâm Đoan trở lại trung tâm Thúy Nga trong chương trình Paris By Night 112. Ngoài ca hát, hiện tại Tâm Đoan còn làm host của chương trình talkshow mang tên cô và làm chủ một hãng mỹ phẩm có tên D-One. Gia đình. Tâm Đoan kết hôn với Tiến Dũng (cũng là một ca sĩ) vào ngày 04 tháng 2 năm 2006 tại Toronto, Canada. Sau khi kết hôn, cô cùng chồng sang Hoa Kỳ sinh sống để phát triển sự nghiệp. Cả hai có với nhau 2 cô con gái.
1
null
Ursus arctos pruinosus (tên tiếng Anh: "Gấu xanh Tây Tạng") là một phân loài của gấu nâu ("Ursus arctos") được tìm thấy ở đông cao nguyên Tây Tạng. Nó cũng có tên gọi gấu xám Himalaya, gấu tuyết Himalaya, gấu nâu Tây Tạng, hoặc gấu ngựa. Trong tiếng Tạng nó được gọi là "Dom gyamuk". Là một trong những phân loài gấu quý hiếm nhất trên thế giới, gấu xanh hiếm khi được nhìn thấy trong tự nhiên. Con xanh được biết đến ở phương tây chỉ thông qua một số lượng nhỏ các mẫu lông và xương. Nó lần đầu tiên được phân loại năm 1854.
1
null
Tử Chi (chữ Hán: 子之; trị vì: 317 TCN-314 TCN), là vị vua thứ 39 hoặc 40 của nước Yên thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Được nhường ngôi. Tử Chi là người nước Yên. Ông được sử sách đề cập từ thời Yên vương Khoái, được phong làm tướng quốc, điều hành việc triều chính. Sau một thời gian, Yên vương Khoái tuổi cao, nhận thấy tài năng của mình không bằng Tử Chi, và nghe theo lời khuyên của Lộc Mao Thọ, quyết định nhường ngôi vua cho Tử Chi. Năm 317 TCN, Yên Khoái trao ấn, làm lễ nhường ngôi vua cho Tử Chi. Tử Chi nhận ngôi vua của Yên Khoái, từ đó cai trị nước Yên. Thất bại và bị giết. Việc Tử Chi lên ngôi khiến người trong nước Yên bất bình. Năm 314 TCN, thái tử Cơ Bình cùng tướng quân Thị Bị không thần phục Tử Chi, tập hợp dân chúng nổi dậy chống lại Tử Chi, kéo đến đánh kinh thành. Hai bên đánh nhau nhiều ngày, hàng vạn người bị chết, trong nước đại loạn. Tử Chi đánh bại và giết chết Thị Bị, thái tử Bình bỏ trốn. Nhân lúc nước Yên có loạn, Tề Mẫn vương sai Khuông Chương mang quân đánh nước Yên, công phá thành trì. Người dân nước Yên vì bất bình với Tử Chi nên không ủng hộ ông, các sĩ tốt không chiến đấu, không đóng cửa thành kháng cự quân Tề. Quân Tề đại thắng, tiến thẳng vào kinh đô. Yên Khoái bị sát hại, Tử Chi bỏ trốn nhưng rồi bị quân Tề bắt và xử lăng trì. Tử Chi ở ngôi được 3 năm thì bị giết. Người nước Yên lập thái tử Bình lên làm vua, tức là Yên Chiêu vương.
1
null
Yên Mẫn công (chữ Hán: 燕閔公; trị vì: 438 TCN-415 TCN hoặc 433 TCN-403 TCN), là vị vua thứ 33 hoặc 34 của nước Yên – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sử sách không ghi rõ quan hệ giữa Yên Mẫn công và vị vua mà ông kế vị là Yên Thành công, và không ghi chép sự kiện xảy ra liên quan tới nước Yên trong thời gian ông làm vua. Khoảng năm 415 TCN hoặc 403 TCN, Yên Mẫn công mất. Yên Hậu Giản công được lập lên ngôi. Sử sách cũng không ghi rõ quan hệ giữa Hậu Giản công và Mẫn công.
1
null
Nguyễn Đặng Đan (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1984) thường được biết đến với nghệ danh Đan Nguyên, là một ca sĩ người Mỹ gốc Việt thành công với dòng nhạc vàng trước năm 1975. Anh từng cộng tác với Trung tâm Asia từ năm 2007 đến năm 2016 và Trung tâm Thúy Nga từ năm 2016 đến nay. Tiểu sử. Đan Nguyên tên thật là Nguyễn Đặng Đan, sinh ngày 9 tháng 7 năm 1984 tại thị trấn Phú Lộc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Năm 1998, anh cùng mẹ và 2 em gái, 1 em trai sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện Rover. Nơi sống đầu tiên của Đan Nguyên là Quận Cam, California. Họ Nguyễn tên Đan, nên anh đã lấy nghệ danh là Đan Nguyên, tên gọi thân mật là “Đan”. Hiện nay, Đan Nguyên thường xuyên góp mặt trong các chương trình ca nhạc của người Việt ở hải ngoại, cũng như lưu diễn ở Anh, Canada và Úc... Năm 2006, Đan Nguyên bắt đầu tham dự các cuộc thi tuyển lựa ca sĩ tại hải ngoại và đã chiếm được tới 4 giải nhất, 1 giải nhì trong tổng cộng 6 cuộc thi từ miền Bắc California tới miền Nam California. Trong lần gặp gỡ ca sĩ Trish Thùy Trang tại một đại nhạc hội ở San Jose, California, Đan Nguyên đã nhờ Trish đưa CD của Đan đến tận tay Trúc Hồ và Thy Vân (giám đốc trung tâm Asia). 2 ngày sau thì Đan Nguyên nhận được điện thoại của Trúc Hồ mời Đan Nguyên đến thử giọng. Đan Nguyên bay xuống ngay ngày sau đó và thâu thử giọng bài "Xin làm người xa lạ". Giọng ca đặc biệt ấy đã khiến Trung tâm Asia chú ý và mời trình diễn trong chương trình "Asia 55 - Hát Với Thần Tượng" thu hình mùa hè năm 2007. Trong lần đầu tiên xuất hiện đó, anh đã gây dấu ấn với khán giả khi song ca thành công cùng ca sĩ thần tượng âm nhạc của anh là Chế Linh, nhạc phẩm nổi tiếng "Thói đời" của nhạc sĩ Trúc Phương. Từ đó, Đan Nguyên bước vào con đường ca hát và mau chóng chiếm được sự ái mộ của rất nhiều người. Đầu năm 2016, Đan Nguyên bắt đầu cộng tác với Trung tâm Thúy Nga từ cuốn "Paris By Night 118: "50 năm âm nhạc Đức Huy"". Đan Nguyên được khán giả trong nước và hải ngoại biết đến nhờ ngoại hình cơ bắp, chất giọng trầm buồn, cách phát âm “TR” đặc trưng - lôi cuốn những người trẻ tuổi và thậm chí những khán giả lớn tuổi đã từng đam mê với dòng nhạc vàng. Người hâm mộ đặt biệt danh cho anh là “Người Hùng Phong Trần” hay “Lãng tử Phong Trần”. Ngoài ca hát, Đan Nguyên cũng sáng tác nhạc. Một số sáng tác của anh là "Một lòng yêu em", "Dòng máu Việt Nam", "Cánh diều mưa". Năm 2018, Đan Nguyên vào vai chính Đan trong bộ phim Cánh Diều Mưa của đạo diễn Cường Ngô. Trong phim này có hai MV là "Cánh Diều Mưa" và "Đắp Mộ Cuộc Tình" cũng do Đan Nguyên thể hiện. Album. Không tính các album tổng hợp. Những album ký hiệu LP là đĩa than. Những album ký hiệu KR là karaoke.
1
null
Gấu nâu Đông Siberia (danh pháp ba phần: "Ursus arctos collaris") là một phân loài của gấu nâu có phạm vi phân bố từ miền đông Siberia Trong đó, bắt đầu từ sông Yenisei, xa tận Trans-Baikaliya, dãy núi Stanovoy, sông Lena, Kolyma và Yakutia và nhìn chung qua các dãy núi Yakutia và Altai. Phân loài này cũng hiện diện ở miền Bắc Mông Cổ [1]. Gấu nâu Đông Siberi có kích thước gần bằng gấu nâu Á-Âu và gấu nâu Kamchatka, mặc dù một số cá thể lớn có thể đạt được kích như hai phân loài gấu kia.
1
null
Gấu nâu Ussuri hay gấu nâu Amur, gấu xám đen hay gấu ngựa ("Ursus arctos lasiotus") là một phân loài gấu nâu. Phân bố tại Nga: miền nam quần đảo Kuril, Sakhalin, vùng Primorsky và khu vực sông Ussuri/Amur ở phía nam rặng núi Stanovoy, Trung Quốc: đông bắc Hắc Long Giang, Nhật Bản: Hokkaidō.
1
null
Trọng Đài (Nguyễn Trọng Đài, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1958) là một nhạc sĩ, nhạc trưởng, giảng viên âm nhạc Việt Nam, từng giữ chức giám đốc Nhà hát Thăng Long và từ 2015 đến nay ông là giám đốc kênh phát thanh VOV3. Tiểu sử. Tên khai sinh của nhạc sĩ Trọng Đài là Nguyễn Trọng Đài, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1958. Quê ông ở phố Bát Đàn, Hà Nội, bố ông là cố nhạc sĩ Nguyễn Trọng Nho. Năm 18 tuổi, ông theo học lớp sáng tác hệ trung cấp Trường Âm nhạc Việt Nam. Sau đó ông được cử đi học nâng cao; ông tốt nghiệp bậc đại học tại Nhạc viện Tchaikovsky (Moskva), và về giảng dạy tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội. Ông từng làm phụ trách chỉ đạo nghệ thuật Đoàn Ca múa Thăng Long Hà Nội. Gia đình. Nhạc sĩ Trọng Đài kết hôn với ca sĩ Mai Hoa (Trần Mai Phương) năm 2007. Hiện nay, họ có một người con gái. Sự nghiệp. Sáng tác âm nhạc. Bên cạnh việc giảng dạy, các hoạt động chủ yếu của ông là sáng tác, vào đầu những năm 1990 ông cùng Đoàn ca múa Thăng Long ra mắt chương trình “Hà Nội 40 mùa xuân”, và nhạc sĩ Vĩnh Cát cho ra “Đêm giao hưởng Hà Nội” kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam (1975 – 1995), sau đó ông sáng tác bản giao hưởng “Ký ức '75”. Ông dành nhiều tâm sức cho lĩnh vực khí nhạc, trong đó có hàng trăm tác phẩm viết cho độc tấu, hoà tấu nhạc cụ dân tộc cổ truyền; Ông được giải Nhì trong cuộc thi quốc gia về sáng tác cho nhạc cụ dân tộc cổ truyền năm 1992 (không có giải Nhất). Một số tác phẩm viết cho nhạc cụ châu Âu, như "Giao hưởng số 1" (1986), "Giao hưởng" (1989), rồi tứ tấu đàn dây, concerto cho dàn nhạc, và một số tác phẩm thính phòng viết những năm 1990. Sáng tác cho phim. Ông ít sáng tác ca khúc, nhưng 2 ca khúc ""Hà Nội đêm trở gió" (lời Chu Lai) cho kịch nói và "Chị tôi" cho phim Người Hà Nội (phổ từ bài thơ "Cho ngày chị sinh" của Đoàn Thị Tảo) của ông rất được yêu thích và đã trở thành những ca khúc phổ biến rộng rãi. Ngoài ra còn có trên 40 ca khúc cùng nhạc nền ông sáng tác riêng cho loạt phim truyền hình, và thường có thói quen đặt tựa đề trùng tên phim như: và soạn nhạc cũng như viết ca khúc cho một số phim như: "Hoa muống biển", "Mùa lá rụng", "Ký ức Điện Biên", "Vua Bãi Rác", "Bí thư Tỉnh ủy", "Làm mẹ"... Các bài hát khác. "***Một số ca khúc không sáng tác cho phim và kịch:" Giải thưởng và Thành tựu. Năm 1992, dành Giải nhì Cuộc thi quốc gia về sáng tác cho nhạc cụ dân tộc cổ truyền. Năm 1993, ca khúc “Hà Nội đêm trở gió” do ông sáng tác, lần đầu tiên được trình diễn trong vở kịch cùng tên của nhà văn Chu Lai do Nhà hát kịch Hà Nội công diễn tại Rạp Công Nhân. Năm 2007, ông được nhận danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Nhà nước cho các ca khúc: "Hà Nội đêm trở gió", "Chị tôi" và các tác phẩm giao hưởng "Hòa tấu Thăng Long", "Tiếng rao". Năm 2015, ông được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, lúc này ông đang là Giám đốc Hệ Âm nhạc - Thông tin - Giải trí VOV3 của Đài Tiếng nói Việt Nam.
1
null
Sở vương Bỉ (chữ Hán: 楚王比, ?-529 TCN), còn gọi là Sở Ti Ngao (楚訾敖) tên thật là Hùng Bỉ (熊比), tự là Tử Can (子干), là vị vua thứ 30 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con thứ ba của Sở Cung vương, vua thứ 26 của nước Sở, em Sở Khang vương, vua thứ 27 của nước Sở và Sở Linh vương, vua thứ 29 của nước Sở. Sự nghiệp. Năm 541 TCN, Sở Linh vương giết vua Sở là Sở Giáp Ngao đoạt ngôi, đuổi công tử Bỉ sang nước Tấn. Năm 529 TCN, Sở Linh vương đánh nước Từ, em ông là Sái công Khí Tật theo ý của cựu thần nước Sái (nước Sái đã bị Sở Linh vương diệt), nổi loạn chống Linh vương rồi đón Hùng Bỉ và một người em khác của ông là Hùng Hắc Quang về nước và tôn ông làm vua, Tử Tích (tức Hắc Quang) được phong làm Lệnh doãn. Các đại phu khuyên ông:"Không giết Khí Tật thì sau sẽ mang họa" nhưng ông không nghe. Năm tháng sau, Khí Tật lại nổi loạn, giả danh Sở Linh vương đem quân về kinh, Hùng Bỉ không chống lại được cùng Tử Tích tự tử. Khí Tật lên ngôi, tức Sở Bình vương, cho an táng thi hài của ông ở Ti Gia, nên ông còn được gọi là Ti Ngao.
1
null
Gấu nâu Á Âu (danh pháp ba phần: "Ursus arctos arctos") là một phân loài gấu nâu, được tìm thấy khắp lục địa Á Âu. Gấu nâu Á Âu còn có tên gọi khác gấu nâu thông thường, gấu nâu châu Âu. Miêu tả. Gấu nâu Á Âu có bộ lông màu nâu, có thể dao động từ màu vàng hơi nâu đến màu nâu sẫm, màu nâu đỏ, và gần như màu đen trong một số trường hợp, bộ lông bạch tạng cũng đã được ghi nhận. Bộ lông dày đặc đến mức độ khác nhau và lông có thể dài đến 10 cm. Hình dạng của đầu thường là khá tròn với đôi tai tương đối nhỏ và tròn, hộp sọ rộng và miệng có 42 chiếc răng, bao gồm cả răng ăn mồi. Nó có một cấu trúc xương mạnh mẽ, bàn chân lớn có móng vuốt lớn, vuốt có thể dài đến 10 cm. Trọng lượng thay đổi tùy thuộc vào môi trường sống và thời gian trong năm. Một con đực phát triển đầy đủ nặng trung bình từ 265–355 kg (583-780 lb). Con gấu nâu Á Âu lớn nhất được ghi nhận có cân nặng 481 kg (1058 lb) và dài gần 2,5 m. Gấu cái có cân nặng trong khoảng giữa 150–250 kg (330-550 lb). Lịch sử. Gấu nâu đã có mặt ở Anh cho đến khi không muộn hơn năm 1000 khi chúng đã bị tuyệt diệt bởi nạn săn bắt quá mức. Gấu nâu Á Âu được sử dụng ở La Mã cổ đại để giao chiến trong các đấu trường. Những con gấu mạnh nhất rõ ràng đến từ Caledonia và Dalmatia. Trong thời cổ, gấu nâu Á-Âu phần lớn là ăn thịt, với 80% khẩu phần ăn của nó là thịt. Tuy nhiên, khi môi trường sống của nó ngày càng biến mất, thịt chỉ chiếm 40% khẩu phần ăn của nó vào cuối những năm Trung cổ, cho đến thời hiện đại, tỷ lệ thịt trong khẩu phần ăn của nó còn ít hơn 10-15% khẩu phần ăncủa chế độ ăn uống của nó. Không giống như ở Mỹ, nơi trung bình mỗi năm có hai người bị gấu giết chết, Scandinavia chỉ ghi nhận có ba vụ tấn công của gấu gây tử vong trong thế kỷ qua. Phân bố. Gấu nâu đã từng hiện diện ở hầu hết miền bắc lục địa Á-Âu. Loài gấu nâu Á Âu đã bị tuyệt chủng ở Anh và Ireland, nhưng nó vẫn tồn tại trong Bắc Âu và ở Nga. Có một quần thể nhỏ trong Pyrenees, trên biên giới giữa Tây Ban Nha và Pháp, nằm bên bờ vực tuyệt chủng, cũng như một nhóm bị đe dọa như nhau ở dãy núi Cantabria tại Tây Ban Nha. Ngoài ra còn có quần thể ở các vùng Abruzzi và Trentino của Ý. Quần thể ở Baltoscandia là ổn định và tăng chậm - bao gồm hơn 2000 cá thể ở Thụy Điển, thêm 1200 cá thể nữa ở Phần Lan, 700 cá thể ở Estonia và khoảng 70 con ở Na Uy. Quần thể lớn có thể được tìm thấy trong Albania, România, Slovakia, Bosnia và Herzegovina, Croatia, Slovenia, Cộng hòa Macedonia và Bulgaria; số lượng nhỏ hơn, nhưng vẫn còn dân số đáng kể cũng có thể được tìm thấy trong Hy Lạp, Serbia và Môn-tê-nê-grô, vào năm 2005, đã có khoảng 200 con ở Ukraina, các quần thể này là một phần của hai metapopulation riêng biệt: Carpathia (hơn 5.000 cá thể), và Dinaric-Pindos (Balkans), với khoảng 3.000 cá thể. Dân số gấu nâu lớn nhất ở châu Âu có thể được tìm thấy tại Nga; số lượng đã hồi phục từ mức thấp nhất do săn bắn nhiều trước cuộc cách mạng Nga năm 1917. Trên toàn cầu, dân số lớn nhất được tìm thấy phía đông của dãy núi Ural, ở các khu rừng lớn Siberia, gấu nâu cũng có mặt với số lượng nhỏ trong các khu vực của trung bộ châu Á (các quốc gia thuộc Liên Xô cũ).
1
null
A Lý Bất Ca (chuyển tự Latinh tiếng Mông Cổ: Ariq Böke, chữ Mông Cổ Kirin: Аригбөх, ; 1219–1266), là con trai út của Đà Lôi, cháu nội Thành Cát Tư Hãn. Sau cái chết của anh trai là Đại hãn Mông Kha, A Lý Bất Kha đã giành lấy quyền lực trong một thời gian ngắn trong khi hai anh là Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột không có mặt ở kinh đô. Khi Hốt Tất Liệt trở về từ phương Nam để tranh giành ngôi vị Đại hãn, các phe cánh kình địch đã không thể đi đến đồng thuận, và đồng thời bầu Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca lên ngôi, dẫn đến một cuộc chiến tranh giành quyền kế vị. A Lý Bất Ca nhận được sự ủng hộ của những người truyền thống chủ nghĩa trong Đế quốc Mông Cổ, trong khi Hốt Tất Liệt nhận được sự ủng hộ từ các vương gia tiền bối ở Hoa Bắc và Mãn Châu. Những năm đầu đời. A Lý Bất Ca là con trai út của Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni (Sorghaghtani Beki) và Đà Lôi (Tolui) - con trai út của Thành Cát Tư Hãn. Khi Thành Cát Tư Hãn băng hà vào năm 1227, ngôi vị lãnh đạo đế quốc được truyền cho Oa Khoát Đài - bác ruột của A Lý Bất Ca. A Lý Bất Ca từng tham dự hội nghị Khố Lý Nhĩ Đài (Kurultai) để bầu Oa Khoát Đài và người kế nhiệm là Quý Do lên ngôi Đại hãn. Sau khi anh cả Mông Kha của A Lý Bất Ca lên ngôi vào năm 1250, gia đình ông có được quyền lực mạnh nhất trong các nhánh hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn. A Lý Bất Ca cũng được biết đến bằng việc đồng cảm với Cơ Đốc giáo, điều này được đề cập trong miêu tả của Phan Sinh Guillaume de Rubrouck- một sứ thần của quốc vương Pháp Louis IX. Chiến đấu giành quyền kế vị. Đại hãn. Khi Oa Khoát Đài Hãn băng hà, một cuộc đấu tranh quyền lực đã nổ ra, với việc quyền lãnh đạo về tay con trai của Oa Khoát Đài là Quý Do vào năm 1246, song Quý Do Hãn lại băng hà năm 1248. Sau cuộc đấu tranh quyền lực khác, các con trai của Đà Lôi - em trai của Oa Khoát Đài, nắm lấy quyền lực. Người con trai cả của Đà Lôi là Mông Kha đã trở thành Đại hãn, cùng với Hốt Tất Liệt chinh phục Nam Tống. Người huynh đệ Húc Liệt Ngột của họ đã dẫn quân Mông Cổ tây tiến, chinh phục Baghdad và tiến đến Syria, hướng về Palestine. Trong thời gian này, tất cả các công việc ở vùng trung tâm của đế quốc nằm dưới quyền kiểm soát của A Lý Bất Ca. Khi Mông Kha băng hà năm 1259, A Lý Bất Ca được bầu làm Đại hãn trong lúc các đại huynh không có mặt, và nhận được sự ủng hộ của hầu hết các đại thần và các gia tộc quyền lực đang có mặt tại đế đô Cáp Lạp Hòa Lâm (Karakorum), như gia đình của Mông Kha, các vương gia khác của hoàng tộc cùng với các lực lượng khác bao gồm các cận vệ hoàng gia Thổ Nhĩ Hỗ Đặc (Torguud) và quý tộc Thanh Trướng hãn quốc, cũng như người Oát Diệc Lạt Dịch (Oirat), tộc người này liên minh với ông vì một trong những thủ lĩnh Oát Diệc Lạt Dịch kết hôn với con gái của ông. Tuy nhiên, khi Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột biết tin về việc Mông Kha băng hà, họ đã phải tìm cách bỏ dở các trận đánh để trở về đế đô phân xử vấn đề kế vị. Tháng 4 năm 1260, Hốt Tất Liệt được những người ủng hộ bầu làm Đại hãn, cạnh tranh với tuyên bố của A Lý Bất Ca. Do đó đã dẫn đến một cuộc nội chiến giữa hai huynh đệ nhằm giành quyền lãnh đạo đế quốc. Khi Sát Hợp Đài hãn quốc cần một hãn mới, Hốt Tất Liệt đã cố gắng gửi A Tất Thất Cáp (Abishqa), một người trung thành với mình, đi làm hãn. Tuy nhiên, A Lý Bất Ca đã bắt giữ A Tất Thất Cáp và cuối cùng sát hại người này, thay và đó lập một đồng minh của mình là A Lỗ Hốt (Alghu) làm hãn của Sát Hợp Đài hãn quốc. A Lý Bất Ca lệnh cho A Lỗ Hốt phải phòng thủ khu vực để chống lại lực lượng của Húc Liệt Ngột và có thể từ Biệt Nhi Ca (Berke) của Kim Trướng hãn quốc. Tuy nhiên, A Lỗ Hốt đã rời bỏ hàng ngũ của A Lý Bất Ca, giết chết các sứ thần, trong khi đó Hải Đô (Kaidu) vẫn trung thành với A Lý Bất Ca. A Lỗ Hốt và A Lý Bất Ca nhanh chóng phát sinh xung đột trực tiếp, A Lỗ Hốt giành chiến thắng trong trận chiến đầu tiên, song trong trận đánh thứ hai sau đó, A Lý Bất Ca đã giành thắng lợi, buộc A Lỗ Hốt phải chạy trốn về phía tây. Đầu hàng. Cuối cùng, do chiến tranh liên tục giữa A Lý Bất Ca và đại huynh Hốt Tất Liệt, lực lượng của A Lý Bất Ca bị suy yếu. Hốt Tất Liệt có các đội kị binh Mông Cổ hùng mạnh, các đội quân người Yểm Thái (Alan) và Đột Quyết cùng nhiều đơn vị bộ binh người Hán và Cao Ly. Cáp Đan (Kadan)- một hoàng tử của Oa Khoát Đài, đã ủng hộ Hốt Tất Liệt, ông ta đã đè bẹp quân của A Lý Bất Ca dưới quyền lãnh đạo của tướng A Lam Đáp Nhi (Alandar), và A Lý Bất Ca đã hai lần mất quyền kiểm soát đế đô Cáp Lạp Hòa Lâm. Hốt Tất Liệt cũng cho phong tỏa tất cả hoạt động giao thương từ Hoa Bắc đến Mông Cổ nhằm cắt tiếp tế lương thực của A Lý Bất Ca. A Lý Bất Ca cuối cùng đã phải quy phục Hốt Tất Liệt tại Thượng Đô vào ngày 21 tháng 8 năm 1264. Hốt Tất Liệt xá miễn tội chết cho A Lý Bất Ca song cho xử trảm hầu hết bộ thuộc của ông. Năm 1266, A Lý Bất Ca mất, có thể là bị Hốt Tất Liệt giết. Di sản. Theo học giả David Morgan, "A Lý Bất Ca có thể nhìn nhận là đại diện cho một trường phái có ảnh hưởng đến tư tưởng của người Mông Cổ, điều mà Hốt Tất Liệt đã làm ngược lại thông qua các hành động và quan điểm của ông ta. Một số người Mông Cổ cảm thấy khuynh hướng mềm dẻo là điều nguy hiểm, trong khi những người như Hốt Tất Liệt thi thoảng nói về việc khai hóa văn minh và về lối sống Hán. Theo quan điểm truyền thống chủ nghĩa Mông Cổ, trung tâm của người Mông Cổ vẫn phải ở Mông Cổ, và lối sống du mục Mông Cổ cần được bảo tồn không bị ảnh hưởng. Trung Quốc chỉ nên là nơi tiến hành khai thác. A Lý Bất Ca được nhìn nhận là một nhân vật bù nhìn trong phe của ông." Di sản này được Hải Đô tiếp nối. Mặc dù A Lý Bất Ca bị mất đi quyền lực, song một số hậu duệ của ông sau này đã trở thành những nhân vật quan trọng tại Y Nhi hãn quốc và triều Nguyên, dòng dõi của cả A Nhi Ba (Arpa Ke'un) và Trác Ly Khắc Đồ (Yesüder) đều có thể truy nguyên tới A Lý Bất Ca.
1
null